TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
THÂN PHẬN NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC
TRỊNH THỊ KIỀU PHI
Hậu Giang, tháng 05 năm 2014
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
THÂN PHẬN NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC
Giáo viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
TRỊNH THỊ KIỀU PHI Th.s. LÊ VĂN PHƯƠNG
MSSV: 1056010078
Lớp: Đại học Ngữ văn
Khóa: 3
Hậu Giang, tháng 05 năm 2014
LỜI CẢM TẠ
Trong suốt thời gian học tập, rèn luyện tại Trường Đại học Võ Trường Toản
cùng với sự chỉ dạy tận tình của quý Thầy, Cô. Sự giúp đỡ của bạn bè và sự nỗ
lực của bản thân, tôi đã trang bị được đầy đủ vốn kiến thức cơ bản để hoàn thành
tốt luận văn tốt nghiệp này. Tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô đã giảng
dạy tôi trong suốt quá trình ngồi trên ghế nhà trường.
Để hoàn thành tốt luận văn, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhận
được sự quan tâm giúp đỡ của giảng viên hướng dẫn: Cảm ơn Thầy Nguyễn Hoa
Bằng. Thầy đã tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình làm luận văn. Tôi chân thành gởi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy và
chúc Thầy nhiều sức khỏe và thành công hơn nữa trong sự nghiệp giáo dục.
Đồng thời tôi xin gởi lời cảm ơn đến các cán bộ Thư viện Trường Đại học
Võ Trường Toản, cán bộ Thư Viện Thành phố Cần Thơ, cán bộ Trung tâm học
liệu Đại học Cần Thơ đã nhiệt tình cung cấp nhiều tài liệu quý thích hợp. Và tôi
cũng chân thành cám ơn đến tất cả bạn bè, người thân trong gia đình luôn luôn
giúp đỡ, động viên trong quá trình học tập và làm luận văn.
Vì thời gian và năng lực nghiên cứu còn hạn chế nên luận văn không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong quý Thầy, Cô thông cảm và cho ý kiến
đóng góp để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Chân thành cám ơn!
Hậu Giang, tháng 05 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Hồ Thị Kim Tho
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu
thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ
đề tài nghiên cứu khoa học nào.
Sinh viên thực hiện
LỜI CẢM TẠ
Trong suốt thời gian học học tại Trường Đại học Võ Trường Toản cùng với
sự dạy dỗ tận tình của quý Thầy, Cô và sự giúp đỡ của bạn bè và với sự nỗ lực của
chính bản thân tôi, tôi đã trang bị được đầy đủ kiến thức cơ bản để hoàn thành tốt
luận văn tốt nghiệp này. Tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô Trường Đại học
Võ Trường Toản.
Để hoàn thành được khóa luận, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhận
được sự quan tâm giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn: Cám ơn Thầy Lê Văn Phương.
Thầy đã tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá
trình làm luận văn. Tôi chân thành gởi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy và chúc thầy
nhiều sức khỏe và thành công hơn nữa trong sự nghiệp giáo dục.
Đồng thời tôi xin gởi lời cảm ơn đến các cán bộ Thư viện Trường Đại học
Võ Trường Toản, cán bộ Thư viện Thành phố Cần Thơ, cán bộ Trung tâm Học liệu
Đại học Cần Thơ đã nhiệt tình cung cấp nhiều tài liệu quý thích hợp. Và tôi cũng
chân thành cám ơn đến tất cả bạn bè, người thân trong gia đình luôn luôn giúp đỡ,
động viên trong quá trình học tập và làm luận văn.
Vì thời gian và năng lực nghiên cứu còn hạn chế nên luận văn không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong quý Thầy, Cô thông cảm và cho ý kiến đóng
góp để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Chân thành cám ơn!
Hậu Giang, tháng 05 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Trịnh Thị Kiều Phi
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu
thập và kết quả nghiên cứu phân tích trong luận văn là trung thực, đề tài không
trùng với đề tài nghiên cứu khoa học nào.
Sinh viên thực hiện
Trịnh Thị Kiều Phi
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................................... 4
4. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................................... 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................................... 4
Chương 1: HỒ XUÂN HƢƠNG VÀ SỰ NGHIỆP THƠ CA ..................... 5
1.1. Cuộc đời ................................................................................................................. 5
1.2. Sự nghiệp ................................................................................................................ 6
1.3Quan điểm của Hồ Xuân Hương về người phụ nữ ............................................ 14
Chương 2: CẢM QUAN CỦA HỒ XUÂN HƢƠNG
VỀ NGƢỜI PHỤ NỮ .............................................................................. 17
2.1. Vẻ đẹp hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương ........................ 17
2.1.1. Vẻ đẹp tâm hồn ................................................................................................ 17
2.1.2. Vẻ đẹp thân thể ................................................................................................ 22
2.1.3. Vẻ đẹp trí tuệ ................................................................................................... 26
2.2. Nỗi đau thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương ........................ 28
2.2.1. Nỗi đau không làm chủ đƣợc cuộc đời ........................................................... 30
2.2.2. Nỗi đau thân phận làm lẽ ................................................................................. 35
2.2.3. Nỗi đau duyên tình không trọn vẹn ................................................................. 40
TIỂU KẾT ....................................................................................................................... 52
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG
THƠ HỒ XUÂN HƢƠNG....................................................................... 53
3.1. Thể thơ ................................................................................................................. 53
3.2. Hình ảnh ............................................................................................................... 53
3.2.1. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hƣơng............................................ 53
3.2.2. Hình ảnh ngƣời phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng ........................................ 54
3.3. Ngôn từ ................................................................................................................. 55
3.4. Các biện pháp tu từ ............................................................................................. 59
3.4.1. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng ................................. 59
3.4.2. Sử dụng từ láy trong thơ Hồ Xuân Hƣơng ...................................................... 60
T LU N ................................................................................................................. 63
TÀI LIỆU THAM HẢO ..................................................................... 64
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nhƣ chúng ta đã biết, ngƣời phụ nữ Việt Nam sống trong xã hội phong kiến
bất công, một xã hội trọng nam khinh nữ, đàn ông đƣợc xem trọng còn phụ nữ thì bị
áp chế nặng nề. Xã hội thời đó, một ngƣời đàn ông cần phải “trung quân ái quốc”,
“tu nhân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, “có danh với núi sông”. Còn phụ nữ thì
phải gánh vác nhiều trọng trách nặng nề nhƣ (sinh đẻ, nội trợ,..). Bên cạnh đó,
ngƣời phụ nữ phải “tiết hạnh khả phong”, “tam tòng tứ đức”, “phu sƣớng phụ tùy”
có quá nhiều áp chế cho ngƣời phụ nữ thời bấy giờ, thực chất đó là một xã hội bất
công vô nhân đạo, trai có quyền “tam thê tứ thiếp” còn gái chính chuyên chỉ có một
chồng. Phụ nữ sống trong xã hội nhƣ một món đồ mặc cho ngƣời khác xoay
chuyển, họ không có quyền định đoạt đƣợc số phận, hạnh phúc của riêng mình.
Nhìn lại lịch sử nền văn học trung đại nƣớc nhà, ngƣời phụ nữ hầu nhƣ
không đƣợc chú ý, rất hiếm khi xuất hiện và nếu có xuất thì rất hạn chế, hình tƣợng
ngƣời phụ nữ không đƣợc đề cao mà trình bày một cách mếu mó xuyên tạc, coi phụ
nữ nhƣ một thứ rẻ rúng không có gì là tốt đẹp. Mãi cho đến giai đoạn cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX, Hồ Xuân Hƣơng xuất hiện với những trang viết đanh thép về
ngƣời phụ nữ, bà không chấp nhận một xã hội “nam quyền” với suy nghĩ “nhất nam
viết hữu, thập nữ viết vô”, có thể nói bà là ngƣời phụ nữ đầu tiên trong nền Văn học
Trung đại dám viết và viết nhiều về ngƣời phụ nữ. Cũng nhƣ chính bản thân mình,
Hồ Xuân Hƣơng là ngƣời phụ nữ của dân gian nên những trang viết cũng rất dân
gian và rất thực, bà lên tiếng đòi lại những gì phụ nữ vốn có, đó là quyền tự do khát
khao hạnh phúc, quyền làm chủ cuộc đời riêng của mình... khẳng định quyền sống
còn của mình với xã hội. Qua ngòi bút của Hồ Xuân Hƣơng, những nỗi đau khổ mà
ngƣời phụ nữ phải gánh chịu đã biến thành một thứ vũ khí để tố cáo xã hội nam
quyền, một xã hội đã tƣớc đoạt mọi quyền sống của ngƣời phụ nữ coi phụ nữ là kẻ
“phục vụ” chứ không có quyền “tận hƣởng”. Và vấn đề “ngƣời phụ nữ” trong giai
đoạn này trở thành một đề tài thu hút nhiều nhà văn, nhà thơ quen thuộc tìm đến.
Đặc biệt, khi xuất hiện Hồ Xuân Hƣơng ngƣời phụ nữ đã là mấu chốt quan trọng
trong xã hội để có một cái nhìn đồng cảm với họ, thì ta nên nhìn từ góc độ thân
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 1
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
phận để có thể cảm thông sâu sắc về hình ảnh ngƣời phụ nữ trong nền văn học trung
đại. Đây chính là lý do quan trọng thu hút ngƣời viết luận văn khi nghiên cứu đề tài
này.
Cho đến hôm nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm, tác giả
Hồ Xuân Hƣơng. Bà cũng là tác giả có tác phẩm đƣợc đƣa vào giảng dạy ở các cấp
Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. Đặc biệt một số bài thơ của Hồ Xuân
Hƣơng đã đem lại cho giáo viên và học sinh sự cảm nhận sâu sắc về thân phận của
ngƣời phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Tuy nhiên khi nói đến nữ sĩ ngƣời
ta hầu nhƣ chỉ đi vào tìm hiểu các tập thơ có tính chất tổng quan mà ít đề cập đến
thân phận ngƣời phụ nữ trong thơ. Xuất phát từ lý do trên tôi đã chọn đề tài này làm
khóa luận nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc tìm hiểu và nghiên cứu về ngƣời phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng đã
có nhiều thế hệ đi trƣớc nghiên cứu, tuy nhiên từng ngƣời, từng giai đoạn lại có một
cách nhìn nhìn khác nhau tùy vào thực tế. Trong xã hội phong kiến nƣớc ta, thân
phận ngƣời phụ nữ đƣợc nhìn một cách phiến diện, ít đƣợc trân trọng và cảm thông.
Về lịch sử nghiên cứu vấn đề ngƣời phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng có thể
chia thành ba giai đoạn:
Trƣớc năm 1945: có kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hữu Sơn và Vũ Thanh
trong cuốn “Hồ Xuân Hương tác gia và tác phẩm”. Việc nghiên cứu một cách có hệ
thống về thơ Hồ Xuân Hƣơng bắt đầu từ các loại sách khảo cứu nhƣ “Việt Nam hợp
tuyển giảng nghĩa” của Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Thành Ý, “Nam thi hợp
tuyển” của Nguyễn Văn Ngọc, “Nữ lưu văn học sử” của Lê Dƣ.
Ngoài ra cũng có nhiều nhà nghiên cứu đánh giá về Hồ Xuân Hƣơng nhƣ:
Tản Đà nhận xét thơ Hồ Xuân Hƣơng là “thi trung hữu qủi”, song mà nhận
ra thời tục. Dƣơng Quảng Hàm cho rằng thơ bà có ý lẳng lơ. Nhìn chung kết quả
nghiên cứu giai đoạn này còn hạn chế, song phần nào đó cũng đƣa vị trí của Hồ
Xuân Hƣơng lên tầm cao mới.
Từ 1945 đến 1975: Lúc này nƣớc ta đang tiến hành hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, nhƣng việc nghiên cứu về thơ Hồ Xuân Hƣơng vẫn phát
triển. Vào giai đoạn này ít nhiều các công trình phụ thuộc vào không khí cách
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 2
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
mạng, không khí đấu tranh chống giai cấp giành quyền lợi trong xã hội. Với công
trình biên khảo thân thế và thơ ca Hồ Xuân Hƣơng - Bà chúa thơ Nôm của Lê Tâm
1950. Trong đặc sắc thơ Hồ Xuân Hƣơng in lại trong Hồ Xuân Hƣơng tác gia và tác
phẩm, Phạm Thế Ngũ đồng ý với nhận xét của Tản Đà “Thật vậy, trong hầu hết nếu
không phải là toàn thể các bài thơ của Hồ Xuân Hương, người đọc có thể tìm ra
một cảnh tượng dâm tục gây ra sự ma quái” [11; tr.112]. Nói về Hồ Xuân Hƣơng,
Hà Nhƣ Chi cho rằng “Tả những vật tầm thường hoặc tả thắng cảnh, hoặc tự vịnh
bao giờ củng có ý lẳng lơ với những hình ảnh tục ẩn hiện sau những lời thơ và chữ
dùng mập mờ láu lỉnh” [1; tr.141]. Nhìn chung những bài viết trong giai đoạn này
chủ yếu nghiên về mặt xã hội làm cho cái nhìn về Hồ Xuân Hƣơng bị miễn cƣỡng,
nhƣng họ vẫn thấy đƣợc giá trị quan trọng của Hồ Xuân Hƣơng ở mọi thời đại.
Sau 1975: Việc nghiên cứu thơ về Hồ Xuân Hƣơng đƣợc đẩy mạnh. Không
khí dân chủ tràn khắp đã kích thích sự đổi mới trong cách cảm nhận của các nhà
nghiên cứu. Nguyễn Lộc đã nhận xét “Viết về đề tài phụ nữ, nhà thơ thường xoáy
sâu vào các ngóc ngách éo le của cuộc đời để nêu lên những bi kịch không kém
phần chua chát, song bình thường nó bị xóa nhòa trong một cuộc sống vốn dĩ đã
rập theo những chỉ ước nặng nề của lễ giáo” [9; tr.276]. Hoặc “... đặc biệt hơn nữa
là nhà thơ còn hết sức đề cao và ca ngợi họ. Xuân Hương tìm thấy vẻ đẹp thật sự
chân chính ở họ” [9; tr.279]. Còn nghĩ về thơ Hồ Xuân Hƣơng, Lê Trí Viễn đã viết
“Xuân Hương nhân danh một sự sống theo lẽ phải của tự nhiên, Xuân Hương xuất
phát từ sự sống gốc nguồn, sự sống là phối hợp âm dương, là sinh sôi nảy nở nên
Xuân Hương mới trở lại với hình ảnh cụ thể của sự giao hợp ấy” [17; tr.346].
Khảo sát lịch sử nghiên cứu vấn đề ngƣời phụ nữ trong thơ Nôm Hồ Xuân
Hƣơng, ta nhận thấy nhiều vấn đề về ngƣời phụ nữ đã đƣợc đề cập đến nhƣ: so sánh
giữa thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng và Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần
Côn để tập trung quyền sống và quyền hạnh phúc của ngƣời phụ nữ hoặc nói về cái
“thanh” và cái “tục” trong thơ Hồ Xuân Hƣơng... Song chƣa có công trình nào đi
sâu nghiên cứu về thân phận ngƣời phụ nữ. Từ những nghiên cứu trƣớc, tôi chọn đề
tài này mong sẽ có đóng góp đƣợc cái nhìn thỏa đáng về ngƣời phụ nữ trong thơ Hồ
Xuân Hƣơng.
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 3
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài “Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương” mục đích
của tôi chủ yếu là:
Chỉ ra sự cống hiến của Hồ Xuân Hƣơng đối với nền văn học trung đại để có
cái nhìn khách quan và đúng đắn về thơ của Hồ Xuân Hƣơng.
Thấy đƣợc Hồ Xuân Hƣơng là ngƣời phụ nữ mạnh mẽ dám đứng lên chống
xã hội phong kiến, đồng thời thấy đƣợc nỗi đau khổ mà ngƣời phụ nữ phải gánh
chịu trong xã hội nam quyền.
4. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận khảo sát toàn bộ các sáng tác thơ của Hồ Xuân Hƣơng có nội
dung viết về thân phận ngƣời phụ nữ trong tập thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân
Hƣơng trong xã hội phong kiến. Những thể loại khác của Hồ Xuân Hƣơng viết,
chúng tôi sử dụng với tƣ cách tham chiếu để góp phần làm rõ nội dung thơ của nữ sĩ
cũng nhƣ có cái nhìn tổng quan và sâu sắc về thân phận ngƣời phụ nữ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp nhƣ:
Phương pháp phân tích: chúng tôi dựa vào những tác phẩm cụ thể của Hồ
Xuân Hƣơng để chỉ rõ những chịu đựng, nhịn nhục mà xã hội nam quyền đã ban
tặng họ.
Phương pháp so sánh: chúng tôi so sánh với Chinh phụ ngâm khúc của Đặng
Trần Côn để thấy sự tƣơng đồng và khác biệt về thân phận ngƣời phụ nữ trong xã
hội thời bấy giờ.
Phương pháp tổng hợp: chúng tôi tổng hợp lại những bài thơ viết về ngƣời
phụ nữ trong thơ của Hồ Xuân Hƣơng cũng nhƣ những bài viết liên quan đến ngƣời
phụ nữ trong Văn học Trung đại để thấu hiểu và đồng cảm với số phận chua chát
mà xã hội vô nhân đạo đã tƣớc đoạt mọi quyền sống và quyền hạnh phúc của họ.
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 4
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Chƣơng 1
HỒ XUÂN HƢƠNG VÀ SỰ NGHIỆP THƠ CA
1.1. CUỘC ĐỜI
Hồ Xuân Hƣơng là một nhà thơ lớn của nền văn học dân tộc, con ngƣời của
nữ sĩ thật hấp dẫn nhƣng cũng thật hóc búa. Hồ Xuân Hƣơng là nữ sĩ tài ba của nền
văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XVIII đến nửa cuối thế kỷ XIX (bà
đƣợc mệnh danh là bà chúa thơ Nôm). Tuy nhiên đến nay, chúng ta vẫn chƣa có
nguồn thông tin chính xác nào về thân thế cũng nhƣ cuộc đời đầy trắc trở của nhà
thơ này. Đây còn là vấn đề gây nhiều tranh luận trong giới nghiên cứu hiện nay.
Dựa vào một số tài liệu đƣợc lƣu giữ lại, và những tác phẩm đƣợc khẳng định là do
Hồ Xuân Hƣơng sáng tác mà các nhà nghiên cứu tạm chấp nhận, một số kết luận
ban đầu về tiểu sử của Hồ Xuân Hƣơng:
Hồ Xuân Hƣơng là con ông Hồ Phi Diễn, sinh năm 1704, đậu sinh đồ (sau
này gọi là tú tài) năm hai mƣơi bốn tuổi, thuộc dòng dõi họ Hồ, đây là một dòng họ
lớn có nhiều ngƣời đỗ đạt và làm quan. Quê bà ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh
Lƣu, tỉnh Nghệ An. Mẹ Hồ Xuân Hƣơng là ngƣời con gái họ Hà, quê ở Hải Dƣơng
lấy ông Hồ Phi Diễn nhƣng làm lẽ. Trong ngƣời Hồ Xuân Hƣơng chảy song song
hai dòng máu Bắc – Trung, bà là ngƣời con gái duy nhất của ông Hồ Phi Diễn và
ngƣời làm lẽ họ Hà. Nhƣng không may cha Hồ Xuân Hƣơng mất sớm bà về sống
với mẹ cuộc sống nhiều vất vả nên bà cũng không đƣợc học hành nhiều. Nhƣng vốn
dĩ bà là một ngƣời phụ nữ thông minh, bà thích đi đây đó nhiều nơi nên bà giao du
rộng rãi với rất nhiều bạn bè nhất là các bạn bè thơ văn.
Xuân Hƣơng đã đi thăm những nơi nhƣ:
Chơi chợ Trời (chùa Thầy, Sơn Tây); gần đó có hang Thánh Hóa
Chơi Động Hƣơng Tích (Mỹ Đức, Hà Đông)
Chơi núi Ông Chồng, Bà Chồng (trên đƣờng lên Tuyên Quang)
Kẽm Trống Ninh Bình giáp Hà Nam
Chơi chùa Địch Lộng (Ninh Bình)
Chơi đèo Ba Dội (núi Tam Điệp, nơi giáp với Ninh Bình và Thanh Hóa)
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 5
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Chơi Quán Khánh (Thanh Hóa)
Ôn lại Xuân Hƣơng đã đi hoặc ở những nơi nhƣ:
Ngoài Bắc: Vĩnh Yên (ông phủ Vĩnh Tƣờng), Tuyên Quang, Sơn Tây, Hà
Đông, Hà Nội, Hải Dƣơng (Quê mẹ có thể Hồ Xuân Hƣơng đã về đó)
Vào Trung: Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An (quê cha của Hồ Xuân Hƣơng)
Khi chúng ta đã làm cuộc kháng chiến trƣờng chinh rồi, thì ta coi những chỗ
Xuân Hƣơng đã từng đi qua là thƣờng, nhƣng đặt trong hoàn cảnh vài ba trăm năm
trƣớc, giao thông bất tiện, rừng rú còn nhiều, lại “thân gái dặm trƣờng”, thì đi nhiều
nhƣ Xuân Hƣơng là một việc khác phàm, một sự kỳ lạ.
Hồ Xuân Hƣơng xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, chính cuộc
sống đó đã ảnh hƣởng trực tiếp đến Hồ Xuân Hƣơng, cuộc sống đã đƣa nữ sĩ sớm
va chạm với thực tế, bà là ngƣời của quần chúng nên bà đã tiếp xúc trực tiếp với
quần chúng lao động nghèo, bà rất am hiểu về cuộc sống và cảnh trí ở thôn quê.
Hồ Xuân Hƣơng lúc đƣơng thời bà là một phụ nữ tài hoa có cá tính rất mạnh
mẽ, bản lĩnh nhƣng ngƣợc lại đời tƣ lại có nhiều bất hạnh, đƣờng tình duyên của bà
rất lận đận trông gai cuộc đời bà đầy hẩm hiu, trắc trở. Hồ Xuân Hƣơng lấy chồng
muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai cuộc tình đều ngắn
ngủi và không trọn vẹn, lần thứ nhất là ông Tổng Cóc, lần thứ hai là ông phủ Vĩnh
Tƣờng. Không vì vậy mà bà đầu hàng số phận mà trong bà luôn có khát vọng sống
mãnh liệt, tự tin và hi vọng ở tƣơng lai. Bà là ngƣời thấu hiểu đƣợc thân phận ngƣời
phụ nữ trong xã hội phong kiến chính vì thế bà luôn đứng ra bênh vực lên tiếng đấu
tranh giành quyền lợi và quyền hạnh phúc cho họ cũng nhƣ cho chính bản thân
mình.
Sinh ra và lớn lên Hồ Xuân Hƣơng đã nhào lộn với cuộc sống đầy phong ba,
để sống và vƣơn lên chế độ trọng nam khinh nữ bà phải ƣởn mình để đƣơng đầu với
cuộc sống đó, bà khác với bao ngƣời đàn bà trong xã hội cũ, bao ngƣời đàn bà khác
đã sống một cuộc sống âm thầm và chịu đựng nhƣng với bà bà đã đứng dậy đấu
1.2. SỰ NGHIỆP
tranh để giành lại mọi quyền sống và quyền hạnh phúc mà ngƣời phụ nữ vốn có.
Hồ Xuân Hƣơng là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam giai đoạn
SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi nửa đầu thế kỷ XVIII nửa cuối thế kỷ XIX. Thơ Hồ Xuân Hƣơng cũng rắc rối nhƣ GVHD: Th.S. Lê Văn Phương 6
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
chính cuộc đời nhà thơ vậy. Số thơ bà còn lại đến nay chủ yếu dựa vào sự lƣu
truyền, sự bảo vệ của nhân dân nên có nhiều dị bản, số thơ đƣợc xem là nổi tiếng và
đi liền với bút danh của bà là tập thơ “Xuân Hƣơng thi tập”. Đây là tập thơ Nôm
đƣờng luật xuất sắc. Ngoài ra, năm 1964 ông Trần Thanh Mại còn phát hiện tập thơ
“Lƣu Hƣơng ký” mang bút danh của bà gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ chữ
Nôm, tập thơ này là những giãi bày tâm sự của chính bản thân mình nói về những
mối tình của nhà thơ với các ngƣời bạn trai của bà.
Xuân Hƣơng có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng đi sâu trong lòng ngƣời đọc, tác
phẩm bà để lại cho đời cũng khá phong phú nhƣ:
Tập thơ Nôm truyền tụng trên dƣới năm mƣơi bài, đây là tập thơ nổi tiếng
ghi danh tên tuổi Hồ Xuân Hƣơng trong lòng độc giả.
Ngoài ra Hồ Xuân Hƣơng còn khá nhiều câu đối lƣu truyền nổi tiếng chứng
tỏ bà là một ngƣời thông minh nhạy bén:
Mặc áo giáp, dải cài chữ đinh; mậu, kỷ, canh, khoe mình rằng quý.
Làm đĩ càn, tay đeo hạt khảm; tốn, ly, đoài khéo nói rằng khôn.
Tập thơ “Lƣu Hƣơng ký” đƣợc Hồ Xuân Hƣơng sáng tác bằng cả chữ Hán
và chữ Nôm.
Và Hồ Xuân Hƣơng còn có năm bài thơ đề Vịnh Hạ Long.
Trong hai tập thơ do Hồ Xuân Hƣơng sáng tác nhƣng lại có rất nhiều sự khác
biệt. Trong “Lƣu Hƣơng ký”, Hồ Xuân Hƣơng sáng tác có cả chữ Hán và chữ Nôm,
thơ chữ Nôm trong Lƣu Hƣơng ký có rất nhiều từ Hán Việt, giọng thơ thì hiền lành
chứ không góc cạnh, gân guốc, đâm thọc nhƣ ở “Xuân Hƣơng thi tập”. Vì có nhiều
điểm khác biệt nên các nhà nghiên cứu chỉ chủ yếu dừng lại ở “Xuân Hƣơng thi
tập”. Xuân Hƣơng đã để lại ấn tƣợng khá mạnh trong lòng ngƣời đọc, hƣơng vị
trong thơ vẫn còn đọng mãi.
“Lƣu Hƣơng ký” mới đƣợc phát hiện từ năm 1964, bao gồm thơ chữ Hán và
chữ Nôm, đều đề ghi là của Xuân Hƣơng, ngƣời Nghệ An, sáng tác ở Cổ Nguyệt
Đƣờng. Tập thơ ghi lại tâm sự và tình cảm của tác giả với các bạn trai của mình,
nhƣ Tốn Phong Thị, Hiệp trấn Sơn Nam Thƣợng họ Trần; Mai Sơn Phủ; Chí Hiên;
đặc biệt còn có cố nhân của nữ sĩ họ Hồ là đại thi hào Nguyễn Du. Tình cảm thắm
SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi thiết, táo bạo, nghệ thuật già dặn. Phong cách thơ trong Lƣu Hƣơng ký có gì không GVHD: Th.S. Lê Văn Phương 7
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
thật ăn khớp với phong cách những bài thơ Nôm vốn đã đƣợc truyền tụng lâu nay
của bà.
“Xuân Hƣơng thi tập” là tập thơ thành công nhất của Hồ Xuân Hƣơng, nét
nổi bật tạo nên sức hấp dẫn đầu tiên của tập thơ là thơ của ngƣời phụ nữ viết về giới
phụ nữ Việt Nam dƣới thời phong kiến. Sống gần đồng thời với nữ sĩ họ Hồ là nhà
thơ kiêm nhà giáo Nguyễn Thị Hinh thƣờng gọi là Bà Huyện Thanh Quan rất nổi
tiếng về một chùm thơ luật Đƣờng chải chuốt, mẫu mực, không có một cảm xúc
nào, không một bài nào thể hiện thân phận ngƣời phụ nữ cả! Cũng trong giai đoạn
văn học này, nhiều khúc ngâm ra đời nhƣ Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm đề
cập đến hạnh phúc ái ân, hạnh phúc của gia đình và thân phận hẩm hiu, cô đơn, lẻ
bóng... của ngƣời thiếu phụ đang tuổi hoa niên có chồng ra chiến trận, Cung oán
ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều là một nỗi bi ca về nỗi bất hạnh của ngƣời cung
nữ tài sắc bị bỏ rơi giữa lứa tuổi thanh xuân. Ai tư vãn của Lê Ngọc Hân cất lên
tiếng than thân góa bụa xen nỗi luyến tiếc đối với một ngƣời chồng, một đống anh
quân vừa tạ thế. Đây là những khúc ca trữ tình dạt dào tinh thần nhân đạo mà nhân
vật trung tâm là những ngƣời phụ nữ xấu số. Thơ ca dân gian thời kỳ này, nhất là ca
dao trữ tình đã dành một phần quan trọng để nói lên tình yêu, hôn nhân và gia đình
và về ngƣời phụ nữ bình dân rất đỗi yêu đời mà cuộc đời cứ lắm nỗi truân chuyên.
“Thân em như tấm lụa đào, phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”...
Hòa vào tiếng nói chung ấy, chùm thơ tự tình trong tập thơ của nữ sĩ họ Hồ
réo rắt, xúc động bởi vì thân phận ngƣời đàn bà đƣợc đề cập đến tƣơng đối toàn
diện và sâu sắc. Khúc hát tự tình đầu tiên, có lẽ đƣợc viết ra lúc nhà thơ còn trẻ, còn
tha thiết với tình yêu, nhà thơ luôn tự tin với khát vọng thắm thiết lành mạnh của
mình:
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi.”
(Mời trầu)
Lời thơ hết sức chân tình, dịu dàng, tha thiết nhƣng đâu đó nhƣ có lời oán
trách, bộc lộ linh cảm về một ngày mai không tốt đẹp, không lấy gì đảm bảo cho
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 8
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
hạnh phúc lứa đôi.
Nhƣng xã hội phong kiến đâu chừa bất cứ ngƣời phụ nữ nào, thế rồi nhƣ một
định mệnh cuộc đời “mƣời hai bến nƣớc” không biết trong đục ra sao. Số phận
ngƣời đàn bà phủ phàng, chua chát, cứ không hẹn mà lại đến:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”
(Bánh trôi nước)
Đây là tấm lòng trong trắng, kiên trinh, bất chấp sự thử thách. Tình cảm thủy
chung duy nhất đáng quý biết bao.
Tiếp theo tâm trạng cay đắng của nhà thơ là ba bài thơ thất ngôn bát cú hay
còn gọi là “bộ ba tự tình” viết ra trong những khoảng thời gian và tâm trạng khác
nhau, thốt ra từ sâu tận đáy lòng, lắng động bao nỗi niềm tâm sự của một ngƣời phụ
nữ thời phong kiến.
Bài thứ nhất lâm li diễn tả nỗi buồn oán trách nhƣng đâu đó ngƣời phụ nữ
vẫn còn hy vọng ở bản thân mình, nhà thơ còn chút sức lực vƣơn dậy vẫn còn khát
khao: “Thân này đâu đã chịu già tom!”
Bài thứ hai nỗi buồn ngày càng dâng lên, một nỗi buồn cô đơn hiu quạnh
“Trơ cái hồng nhan với nước non”, không sao khuây khỏa đƣợc. Cảnh tình buồn hiu
quạnh làm cho tâm trạng nhà thơ uẩn ức thêm.
Đến bài thứ ba thì cuộc đời hiện lên nhƣ một chiếc thuyền con giữa trùng
dƣơng bao la mênh mông đầy sóng gió. Hiện tại và tƣơng lai nhƣ tuột khỏi tay
mình, tha hồ trôi dạt.
Thơ Hồ Xuân Hƣơng bên cạnh nét hiện thực truyền thống còn có nét đậm đà
sôi nổi trong dòng văn học dân gian. Bên cạnh những vần thơ than thân còn có
chùm thơ phản kháng chế độ phong kiến, bày tỏ niềm kiêu hãnh về vai trò vị trí của
ngƣời phụ nữ. Phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng không đàn bà và cũng rất đàn bà,
không đàn bà ở đây là muốn thoát khỏi cái nếp “nữ nhi thƣờng tình”, họ không chịu
an phận, lép vế trƣớc bất cứ đàn ông nào và thật sự họ đã vƣợt lên cả những ngƣời
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 9
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
đàn ông, những ngƣời có chữ nghĩa (Mắng học trò dốt I và II), bà dám nhìn thẳng
vào sự thật không sợ bất cứ một ai trong bài Đề Đền sầm Nghi Đống dƣới con mắt
khinh bỉ của nữ sĩ, có thể nói tên bại tƣớng lại bị chôn vùi xuống dƣới đất đen một
lần nữa, mà lại chôn sâu chôn chặt hơn. Ngƣời phụ nữ tỏ ra can trƣờng, mạnh mẽ,
trƣớc một xã hội phong kiến ác nghiệt. Bài thơ Không chồng mà chửa thật là bạo
gan: nhà thơ dõng dạt nói lên những điều không ai dám nghĩ trong chế độ xƣa, nhƣ
vậy chẳng khác gì nhà thơ chính thức tuyên chiến với giai cấp thống trị. Trong cuộc
sống bình thƣờng thời đại nào cũng xảy ra chuyện nhƣ thế “khôn ba năm, dại một
giờ”. Thời đại nào cũng không một ai dung túng lối sống tự do nhƣ thế vì nó không
hợp với đạo đức bình thƣờng. Nhƣng đối với xã hội phong kiến xƣa coi chuyện lỡ
làng này là một tội tày đình giáng xuống đầu nạn nhân những sự trừng phạt hết sức
vô nhân đạo. Nhƣng tức nƣớc sẽ vỡ bờ, quần chúng nhân dân đã từng phản kháng
lại mạnh mẽ:
“Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian sự thường!”
(Ca dao)
Ca dao phóng khoáng trên đã tạo nên cảm hứng cho Hồ Xuân Hƣơng. Nội
dung bài thơ là tiếng lòng thông cảm với những ngƣời con gái lỡ duyên “Cả nể cho
nên hóa dở dang” đồng thời là lời phản kháng không kém phần quyết liệt “Không
có, nhưng mà có, mới ngoan”. Bài thơ lên tiếng trƣớc thái độ khắc nghiệt của xã hôi
cũ, đồng thời phẫn nộ trƣớc một hủ tục đƣợc xã hội đƣơng thời thừa nhận là chế độ
đa thê, một tấn bi kịch cho những ngƣời làm lẽ: “Chém cha cái kiếp lấy chồng
chung” lời nguyền rủa ấy là tiếng nói uất ức, khổ đau của bao kiếp ngƣời lẻ mọn
phải chịu đựng trong xã hội xƣa.
Tập thơ Hồ Xuân Hƣơng hầu nhƣ không nói đến bản chất sâu mọt nhƣng chủ
yếu nói đến bọn hiền nhân quân tử. Khi thấy bọn công tử vô công rỗi nghề đi lang
thang, nữ sĩ giật giọng gọi to:
“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ,
Lại đây cho chị dạy làm thơ...”
Xuân Hƣơng cƣời liên tục không cho bọn hiền nhân, quân tử kịp trở tay. Với
bài Quạt giấy nữ sĩ “đem phất vào mặt anh hùng, đem đội lên đầu quân tử”, bà
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 10
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
chẳng xem bọn quân tử ra gì cả:
“Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.”
Bọn quân tử đang lúng túng, thì lại bị truy đuổi nữa:
“Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này!”
Và tiếp tục những lần khác bọn quân tử đƣợc bêu lên trong các bài Đèo Ba
Dội, Thiếu nữ ngủ ngày..., dƣới ngòi bút của nữ sĩ Hồ Xuân Hƣơng đã góp phần hạ
bệ những thần tƣợng đƣợc coi là con cƣng của chế độ và phần nào đó góp phần làm
tan rã hệ ý thức phong kiến.
Đối tƣợng thứ hai mà bà hƣớng đến là bọn sƣ tăng, có thể nói cái xã hội nhà
chùa với đông đảo thầy tu đã tha hóa đạt đến sự tối cao. Hãy đọc bài Sư hổ mang:
“Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta,
Đầu thì trọc lốc, áo không tà...
...Tu lâu có lẽ lên sư cụ,
Ngất nghểu, tòa sen lọ đó mà.”
Ông sƣ, ở đây nhƣ những kẻ lạc loài, không có gốc tích, cũng không ai thừa
nhận. Những nhà trụ trì nhƣ thế thì sinh hoạt trong nhà chùa sao tránh khỏi bê tha,
dù đó là những ngôi chùa lớn ở đất Thăng Long. Và chùa Quán sứ bấy giờ là:
“Quán sứ sao mà khách vắng teo,
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?...
Cha kiếp đường tu sao lắt léo,
Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo.”
Tập thơ “Xuân Hƣơng thi tập” từ khi xuất hiện cho đến nay nó trở thành
điểm nóng trong giới nghiên cứu, chƣa dễ gì tạo ra sự thống nhất từ đầu đến cuối.
Mọi ngƣời đều thừa nhận Hồ Xuân Hƣơng là một hiện tƣợng văn học, là một tài
năng nghệ thuật hiếm có nhƣng cũng không ít băn khoăn về cái gọi là dâm và tục
trong suốt tập thơ của bà.
Không ai chối cãi là trong tập thơ của nữ sĩ có sử dụng rộng rãi yếu tố dâm
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 11
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
và tục. Theo một bản thống kê sơ bộ, trong số bốn mƣơi bài đƣợc Nguyễn Lộc trích
tuyển có gần đến ¾ số bài có chứa đựng yếu tố tục. Nhƣng những yếu tố tục mà
nhà thơ sử dụng chỉ là một phƣơng tiện nghệ thuật để làm bật nổi nội dung mà nhà
thơ muốn thể hiện, chứ không phải lấy tục để khiêu dâm. Có không ít ngƣời ngại
khi tiếp xúc với sự đòi hỏi lạc thú trong Xuân Hƣơng thi tập. Thật ra, khát vọng về
một cuộc sống nhƣ vậy là một lẽ tự nhiên, là chuyện thƣờng tình mà đời ngƣời ắt ai
cũng phải trãi qua chỉ là kiêng kị không nói đến mà thôi. Thơ Hồ Xuân Hƣơng có
yếu tố tục nhƣng không hề có chút khiêu dâm. Hồ Xuân Hƣơng chỉ nêu lên cái quan
niệm cơ bản của cuộc sống bình thƣờng, chuyện ái ân trong cuộc sống là tự nhiên,
là một nhu cầu, là một quyền lợi của tuổi trẻ, của tất cả mọi ngƣời mọi tầng lớp
trong xã hội.
Trong văn chƣơng yếu tố tục nhƣ con dao hai lƣỡi, nó sẽ gây phản cảm nếu
ta sử dụng không đúng lúc. Trong thơ Hồ Xuân Hƣơng yếu tố tục đã phát huy tác
dụng, nó trở thành vũ khí để chửi vào mặt bọn hiền nhân, quân tử. Một số bài nhƣ
Đánh đu, Dệt cửi, Giếng nước,... cũng không thể coi đó là thơ khiêu dâm, vì cái
nghĩa đen, nghĩa bóng cứ lấp lửng trong bài:
“Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.”
(Đánh đu)
Và không ở đâu động tác dệt cửi đƣợc miêu tả sinh động nhƣ vậy, thật thú vị:
“Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau.”
(Dệt cửi)
Và nhà thơ đƣa chúng ta đến tận một giếng thơi với cảnh vật không chết dí,
mà đang sinh sôi nảy nở từng giây phút.
“Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông!
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá giếc le te lách giữa dòng.”
(Giếng nước)
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 12
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Đọc thơ Hồ Xuân Hƣơng ta không tránh khỏi nghĩa đen và nghĩa bóng của
nó, cũng giống nhƣ trong dân gian họ đã từng đố tục giản thanh, gây nên những
tiếng cƣời sảng khoái, nụ cƣời hồn nhiên rất con ngƣời, thì tại sao ta có thể coi thơ
Hồ Xuân Hƣơng là thơ dâm, thơ tục đƣợc.
Xuân Hƣơng chƣa dừng lại ở đó, trong quá khứ Hồ Xuân Hƣơng đã để lại
một bức tranh khỏa thân của một thiếu nữ đang tuổi dậy thì tuyệt đẹp, một bức tranh
làm bằng thơ đặc sắc với mở đầu bằng sự vô ý, rất tự nhiên:
“Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.”
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Nhà thơ đã khắc họa cái đẹp của cơ thể ngƣời phụ nữ một cách sinh động và
hấp dẫn, không cần phải dấu diếm bất cứ điều gì cả. Hai hình tƣợng là “gò Bồng
đảo, lạch đào Nguyên” là những nét đẹp trời cho làm tăng thêm vẻ thanh nhã của
ngƣời phụ nữ, trƣớc vẻ đẹp trời cho ấy thì tất cả các chàng quân tử sẽ không nỡ rời
xa “Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt”. Tất cả mọi ngƣời yêu cái đẹp thì sẽ không ai
bảo đó là thơ khiêu dâm, mà phải tự hào vì cái đẹp ngƣời phụ nữ. Hồ Xuân Hƣơng
vẻ tranh khỏa thân chủ yếu bà chỉ muốn ca ngợi ngƣời phụ nữ, họ không chỉ đẹp về
mặt tinh thần mà còn đẹp về mặt cơ thể nữa.
Tóm lại, nội dung trong tập thơ Xuân Hƣơng thi tập là lời giải bày tâm sự,
nỗi đau duyên tình không trọn vẹn, là cảnh làm lẻ, cảnh chồng chung. Với tính cách
và số phận hẩm hiu của cuộc đời bà nhà thơ đã lên tiếng bên vực ngƣời phụ nữ, mà
ngƣời phụ nữ Hồ Xuân Hƣơng nhắc đến không phải là ngƣời phụ nữ lầu son gác tía
mà chỉ là ngƣời phụ nữ bình thƣờng, ngƣời phụ nữ lao động nghèo khổ, gặp nhiều
bất hạnh trong cuộc đời. Có thể nói Hồ Xuân Hƣơng là nhà thơ đầu tiên trong lịch
sử văn học Việt Nam đã đem tiếng nói của ngƣời phụ nữ bình dân vào văn học đó là
“những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn và những tiếng châm
biếm sâu cay”. Bà viết về ngƣời phụ nữ một cách trực tiếp, bà mạnh dạn đứng về
phía phụ nữ đã phá chế độ phong kiến, họ đã ngang nhiên dẫm đạp lên mọi thứ phụ
nữ có, họ dành riêng trăm nghìn đau khổ cho phụ nữ từ tinh thần đến vật chất mà
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 13
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
đôi khi nỗi đau về tinh thần còn đau khổ gấp bội phần đau khổ về vật chất, họ đã
giết lần giết mòn ngƣời phụ nữ xƣa đến mức không còn đƣờng để thoát. Bất bình
trƣớc xã hội nam quyền Hồ Xuân Hƣơng đã dùng sức mạnh thơ văn của mình để đã
kích, mỉa mai bọn hiền nhân, quân tử bọn Nho nhã tự cho là đúng đắn khôn ngoan
hay rộng hơn là tố cáo, đã phá chế độ nam quyền, xã hội đã dùng các qui chế nặng
nề của đạo đức, của lễ giáo, của tập tục xã hội. Cho nên khi tiếp cận thơ Hồ Xuân
Hƣơng, Xuân Diệu đã cảm bằng tất cả tấm lòng yêu thơ, nhiệt tình, tha thiết và ông
đã ca ngợi “một tâm hồn thành khẩn, sâu sắc, có dũng khí, táo gan, một tâm hồn hết
sức độc đáo có những dụng ý rất tốt là chống lại sự bóp nghẹt con người của cái xã
hội phong kiến tàn tạ, bênh vực phụ nữ yêu đất nước và bình dân...” [2; tr.145].
Bên cạnh đó Hồ Xuân Hƣơng còn nói về nỗi đau dở dang, duyên tình không trọn
vẹn mà chế độ nam quyền đã ban tặng, trai có quyền tam thê tứ thiếp gái chính
chuyên chỉ có một chồng nên đã đẩy cuộc đời bà tới cảnh làm lẻ, cảnh chồng chung
thật cay đắng chua xót biết bao nhƣng trong bà luôn có một khát khao cháy bỏng về
một tình yêu mảnh liệt về cả tâm hồn lẫn thể xác, một cuộc sống rất đỗi bình thƣờng
và trần tục, nên Nguyễn Lộc trong thơ Hồ Xuân Hƣơng và đời đã cho rằng “nhu
cầu về cuộc sống bản năng cũng là một nhu cầu chính đáng của con người... Hồ
Xuân Hương nói nhiều đến dục vọng thể xác, nhưng bà thể hiện những dục vọng ấy
trong sáng một cách lành mạnh, khỏe khoắn” [9; tr.125].
Đọc thơ Hồ Xuân Hƣơng ta thấy ngôn ngữ rất giản dị, dân gian bởi chính bà
là ngƣời phụ nữ dân gian, lời lẽ bà dùng thật bình dị, mộc mạc. Đặc biệt Hồ Xuân
Hƣơng dùng cách nói ỡm ờ, lấp lửng thật thông minh; cách nói thẳng, bộc trực thậm
chí bóp chát chua ngoa. Và trong thơ bà sử dụng ca dao tục ngữ một cách rất tài tình
nhƣ “làm mƣớn không công”, “cố đấm ăn xôi” tất cả nhƣ để xoáy sâu bi kịch ngƣời
1.3. QUAN NIỆM CỦA HỒ XUÂN HƢƠNG VỀ NGƢỜI PHỤ NỮ
phụ nữ sống trong xã hội nghiệt ngã đầy rẫy những bất công ngang trái.
Hồ Xuân Hƣơng là nữ thi sĩ độc đáo độc nhất vô nhị trong lịch sử văn học
Việt Nam. Bà có một suy nghĩ phóng khoáng đi trƣớc thời đại, cho nên trong ấn
tƣợng của ngƣời đọc về Hồ Xuân Hƣơng là bà là một ngƣời phụ nữ thông minh,tự
tin, tài hoa, tràn đầy sức sống với một tƣ chất hiên ngang chống chọi lại cả một thế
lực phong kiến, đọc thơ bà ta sẽ thấy ngay tƣ chất hiên ngang đó với các động từ
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 14
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
nhƣ “xiêng ngang”, “đâm toạc”... Đến với cuộc đời và thơ bà ta luôn bắt gặp một
khát vọng về một tình yêu cháy bỏng, mãnh liệt. Bà luôn có cái nhìn phóng khoáng
về tình yêu, tình yêu trọn vẹn về cả tâm hồn lẫn thể xác luôn là niềm khát vọng vĩnh
cửu của mọi ngƣời phụ nữ trong mọi thời đại, một bản năng đặc sắc của con ngƣời.
Trong “Xuân Hương – kỳ nữ kỳ tài” Trần Thị Trâm đã có lời nhận xét “là
một người khát thèm yêu, nàng đã cảm nhận thế giới bằng toàn bộ giác quan, bằng
đôi mắt xanh non mới lạ, bằng đôi tay thính nhạy, bằng xúc giác mạnh mẽ, bằng tất
cả sức sống của tuổi trẻ, chứ không phải bằng cái tâm, cái chí như các nhà Nho
hành đạo” [15; tr.421]. Và quan niệm của Hồ Xuân Hƣơng có nhiều điều mới lạ,
Trần Thị Trâm cho rằng “con người xuất hiện mang màu sắc cá nhân, con người
với những đặc điểm về giới tính, với hạnh phúc trần tục về tình yêu và khát vọng tự
nhiên. Dưới con mắt của kẻ khát sống, thèm yêu, vạn vật dường như ở trạng thái
gợi tình, nhún nhảy, mời gọi và gợi dục. Tất cả như được lạ hóa, trở nên cựa quậy
sống động rõ ràng, trẻ trung, tinh nghịch, đáng yêu” [15; tr.421].
Con ngƣời Hồ Xuân Hƣơng rất phóng khoáng và tự do bà nói lên những điều
mình nghĩ, những điều rất bình thƣờng và trần tục, bà không né tránh bất cứ điều gì
vì với bà đó là hạnh phúc trần tục mà tất cả mọi ngƣời trên thế giới đều mong muốn.
Ngô Gia Võ trong bài “Góp phần lý giải hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương” cũng
nhận định “có một điều đáng chú ý ở nội dung trào phúng trong thơ Hồ Xuân
Hương là dù phủ định hay khẳng định, thơ bà thường xoay quanh và hướng đến
khát vọng hạnh phúc đời thường, tự nhiên và trần tục của con người” [18; tr.45].
Vấn đề này, Lê Đình Kỵ cũng khẳng định “tình yêu là sự hòa nhập của hai tâm hồn
và thể xác… nếu khác đi thì chỉ còn là mông lung sương khói mà thực tế sớm muộn
sẽ chống xua tan” [8; tr.132].
Nhƣ vậy, dƣới con mắt của Hồ Xuân Hƣơng đã là con ngƣời tồn tại trên thế
gian thì bất cứ ngƣời nào, dù họ là ai thì họ cũng mong muốn, cũng khát khao tìm
cho mình một tình yêu lứa đôi trọn vẹn về tâm hồn lẫn thể xác. Chính vì thế ái ân
cũng là nhu cầu tự nhiên không có gì là quá đáng, đó là quyền lợi chính đáng không
ai có thể tƣớc đoạt. Trong những bài thơ trữ tình nổi bật lên con ngƣời đầy sức
sống, xúc cảm dạt dào tha thiết, cảm xúc đó đã chi phối Hồ Xuân Hƣơng nên ở đâu
cũng thấy những ái ân nam nữ trong thơ bà. Bà có quan điểm mạnh mẽ vƣợt xa mọi
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 15
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
thời đại.
Cuộc đời Hồ Xuân Hƣơng là nhân vật điển hình của ngƣời phụ nữ trong xã
hội phong kiến, bà đại diện cho những đau khổ riêng về ngƣời phụ nữ: tình duyên
trắc trở, cảnh chồng chung, số phận hẩm hiu... Vì thế khi Xuân Hƣơng viết về bản
thân mình thì lập tức nó trở thành tiếng lòng chung của tất cả ngƣời phụ nữ. Cho
nên khát vọng về tình yêu hạnh phúc, cháy bỏng chính là khát khao mãnh liệt nhất
của ngƣời phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Trong thơ Hồ Xuân Hƣơng bà rất thực tế, khát vọng về tình yêu luôn đi kèm
với cuộc sống bản năng. Thơ bà không ngần ngại khi đề cập đến chuyện riêng tƣ
chăn gối vợ chồng. Trong xã hội nam quyền, ngƣời nam có quyền tam thê tứ thiếp
là một vấn đề phi lý nhất mà nó vẫn tồn tại biết bao thế kỷ trên đất Việt. Khi Hồ
Xuân Hƣơng xuất hiện, bà là ngƣời đầu tiên phản ứng quan điểm lỗi thời này, bởi
bà là ngƣời chịu cảnh chồng chung, làm thiếp... Xuân Hƣơng là ngƣời luôn tôn
trọng lẽ tự nhiên bà quan niệm con ngƣời sống phải đúng chất ngƣời, những gì
thuộc về con ngƣời phải biết nâng niu và trân trọng: trân trọng về vẻ đẹp thân xác,
trí tuệ, tài năng cũng nhƣ tình yêu hạnh phúc của ngƣời phụ nữ. Đồng thời khẳng
định vị trí của ngƣời phụ nữ, đấu tranh cho quyền sống, quyền bình đẳng nam nữ.
Với tất cả tấm chân tình Hồ Xuân Hƣơng cầu xin với đời một duyên tình trọn vẹn
nhƣng thực tế phủ phàng, niềm mơ ƣớc đó sẽ mãi không trở thành hiện thực vì thực
cả hai lần đi lấy chồng thì cả hai lần đều làm lẻ và duyên tình thì ngắn ngủi không
trọn vẹn. Bà phải đối diện với thực tế với chính mình để rồi bà nhận ra sự bạc bẽo
chua chát ở đời.
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 16
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Chƣơng 2
CẢM QUAN CỦA HỒ XUÂN HƢƠNG
VỀ NGƢỜI PHỤ NỮ
2.1. VẺ ĐẸP HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ
TRONG THƠ HỒ XUÂN HƢƠNG
Trong kho tàng văn học Việt Nam, có rất nhiều bài thơ nói lên thân phận của
ngƣời phụ nữ phong kiến xƣa. Đó là những phụ nữ chịu sự ràng buộc của lể giáo
phong kiến “Tam tòng, tứ đức” (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử
và công dung ngôn hạnh). Họ hầu nhƣ không có quyền quyết định cuộc đời mình,
chỉ biết sống cam chịu và phục tùng. Nhà thơ Hồ Xuân Hƣơng không những cảm
thông sâu sắc cho số phận hẩm hiu của ngƣời phụ nữ mà bà còn hết lòng ca ngợi, bà
chia sẽ những hình ảnh đẹp của ngƣời phụ nữ bởi ngƣời phụ nữ luôn là biểu tƣợng,
là hiện thân của cái đẹp. Đề cập đến hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học Việt
Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Đăng Na đã nhận định: “Đọc lại
văn học trung đại Việt Nam, từ Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đến Truyện Kiều
của Nguyễn Du, từ Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm đến thơ Hồ Xuân Hương,
từ Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều đến Kiến văn lục của Vũ Trinh,... ta
thấy hình tượng người phụ nữ nổi bật lên hai nét lớn: phụ nữ - hiện thân của cái
đẹp và phụ nữ - hiện thân của những số phận bi thương” [3; tr.53] Đúng với thơ
của Hồ Xuân Hƣơng, điều nổi bật nhất ở hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ Nôm
truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng là vẻ đẹp trần thế, bao gồm vẻ đẹp thân thể, vẻ đẹp
tâm hồn, vẻ đẹp tình cảm.
2.1.1. Vẻ đẹp tâm hồn
Ngƣời phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng luôn đẹp, đẹp về cả tâm hồn lẫn
thân thể. Cái đẹp luôn là mối quan tâm hàng đầu của Hồ Xuân Hƣơng khi sáng tác
về ngƣời phụ nữ, ngƣời phụ nữ của Xuân Hƣơng luôn yêu đời, tâm hồn luôn trong
sáng. Không gì có thể sánh bằng cái xuân xanh của ngƣời phụ nữ, tuổi xuân của
ngƣời phụ nữ là đẹp nhất nó vẫn còn mãi với thời gian, cho dù thời gian có là nghìn
năm cũng không thể phai mờ, tác giả rất trân trọng vẻ đẹp đó. Trong bài Đề tranh tố
nữ là vẻ đẹp của một tuổi xuân, một vẻ đẹp của sự bất diệt, một vẻ đẹp trắng trong
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 17
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
thuần khiết, sự trinh trắng của tâm hồn. Họ đẹp cả về tâm hồn lẫn ngoại hình:
“Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng.
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh”
(Tranh tố nữ)
Đó là cái đẹp tinh khiết, có thể nói là cái đẹp vĩnh cửu. Ta còn bắt gặp cái
đẹp thanh tân, đẹp lạ lùng trong thơ bà.
Không chỉ vậy, không những đẹp về tuổi xuân mà ngƣời phụ nữ còn đẹp bởi
nhiều thứ khác, đẹp bởi tấm lòng, tâm hồn, đức hy sinh cao cả... bởi từ trƣớc đến
nay phụ nữ là đại diện của phái đẹp, là hiện thân của cái đẹp. Họ hiện lên giữa một
thế giới bao la rộng lớn, thế giới nhiều cạm bẫy và bất công, nhƣng họ vô cùng sắc
son, vô cùng chung thủy bởi đó là phẩm chất tốt đẹp của ngƣời phụ nữ, chỉ có ngƣời
phụ nữ mới có thể vƣợt qua chìm nổi để giữ vững lòng mình. Chẳng hạn, thông qua
hình tƣợng xinh xắn, trắng tròn của chiếc bánh trôi nƣớc, Hồ Xuân Hƣơng đã thể
hiện nổi bật những dáng vẻ yêu kiều trên thể hình hoàn hảo, tuyệt mỹ của ngƣời phụ
nữ, nó đẹp đẹp một cách tròn trịa mà không kém phần cứng cỏi kiểu Xuân Hƣơng:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”
(Bánh trôi nước)
Một thân phận chìm nổi, số phận mặc cho ngƣời khác định đoạt, ấy vậy mà
ngƣời phụ nữ vẫn một tấm lòng trong trắng kiên trinh, chấp nhận sự thử thách của
xã hội, là một ngƣời phụ nữ tƣ dung tốt đẹp, chăm chỉ siêng năng, tâm hồn trong
trắng thanh cao, đáng quý biết bao những ngƣời phụ nữ xinh đẹp là thế, vậy mà tiếc
thay họ lại bị vùi dập dƣới một chế độ phong kiến thối nát mục rửa, chế độ nam
quyền đã đẩy lùi họ vào một ngóc ngách éo le, chịu nhiều thiệt thòi bị lễ giáo phong
kiến trói buộc nhƣng tấm lòng họ vẫn son sắc cho dù cảnh ngộ xô đẩy vùi dập.
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 18
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”
(Bánh trôi nước)
Hai câu trên thể hiện một ý thức đành phận, cam chịu. Cái duy nhất họ làm
chủ đƣợc là tấm lòng mình “mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Ngƣời phụ nữ vẫn giữ
niềm thủy chung, son sắc, bất biến với mối tình. Một lời nói thể hiện niềm tự hào
kín đáo về phẩm chất, thủy chung của ngƣời phụ nữ. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, vẻ
đẹp đôn hậu, cao cả,vị tha... tất cả điều hiện lên đại diện cho ngƣời phụ nữ Việt
Nam. Dù sóng gió cuộc đời có phủ phàng vùi lấp, thân phận chìm nổi hay số phận
bị ngƣời khác tiêu khiển thì cũng không thể tàn phá nỗi vẻ đẹp tâm hồn, một tấm
lòng kiên trinh sâu sắc. Điều đáng quý nhất ở đây là ngƣời phụ nữ vƣợt lên số phận,
vƣợt lên những bi kịch của cuộc đời, những tâm hồn trong sáng ấy càng cao đẹp
hơn khi đặt trong xã hội trọng nam khinh nữ, không chịu đầu hàng số phận mà
ngƣợc lại nhân cách còn cứng cỏi hơn, biết chấp nhận số phận vững tin vào “tấm
lòng son” của mình.
Không thể dựa vào vẻ bề ngoài mà đánh giá ngƣời phụ nữ đẹp hay xấu, có
thể họ đƣợc cái này mất cái kia, đôi khi vẻ đẹp tâm hồn còn đáng quý hơn vẻ đẹp bề
ngoài, nhìn vào thì xấu xí nhƣng thật ra tấm lòng họ thật cao cả biết bao nhƣ vậy thì
không có gì là đáng chê trách. Quả mít của Hồ Xuân Hƣơng tuy bề ngoài sần sùi
xấu xí nhƣng bên trong múi nó dày, tấm lòng ngƣời phụ nữ rất chân thành tha thiết
muốn một tình yêu thật sự chứ không phải sự đùa giỡn mân mó của các chàng quân
tử.
“Thân em như quả mít trên cây,
Vỏ nó sù sì, múi nó dày
Quân tử có yêu thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.”
(Quả mít)
Tâm hồn ngƣời phụ nữ tuy hồn nhiên trong sáng kiên định nhƣng ẩn trong họ
là một sức chịu đựng mãnh liệt và rất có ý thức cá nhân, vị tha, hy sinh, chịu đựng
là một trong những phẩm chất tốt đẹp về ngƣời phụ nữ Việt Nam, bên cạnh đó phụ
nữ cũng có sức phản kháng mạnh mẽ quyết liệt, phản kháng để giành lại tình yêu và
hạnh phúc. Cuộc đời Hồ Xuân Hƣơng cả hai lần đi lấy chồng cả hai lần đều làm lẻ,
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 19
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
thân phận lẻ mọn đã bắt bà phải chịu đựng, cho nên qua bài thơ Làm lẽ bà đã cho
thấy đƣợc sự uất ức, tức giận:
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
Mở đầu bài thơ đã gợi lên sự chịu đựng, chịu đựng sự bất công giữa vợ lẻ và
vợ cả, ngƣời thì chăn gối ấm êm kẻ thì lạnh lùng nơi góc xó “nằm suông ngoài
nhà”, mà cái lạnh thể xác chƣa thấm vào đâu so với cái lạnh tê tái về tinh thần “lạnh
lùng”, ta thấy đƣợc vẻ đẹp của sức chịu đựng thật ghê gớm. Xuân Hƣơng đã huỵch
toẹt sức chịu đựng của mình trong phòng the:
“Năm thì mười họa chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không”
Sự ái ân của đôi vợ chồng trẻ này thật thƣa thớt “năm thì mười họa”, “có
cũng không”, Xuân Hƣơng phải chịu đựng cảnh chồng chung, chịu đựng sự thiếu
hụt của ái ân tuổi trẻ. Xuân Hƣơng là ngƣời có ý thức rất sâu sắc về ý thức cá nhân,
là một ngƣời rất bản lĩnh nhƣng vẫn không thoát khỏi bi kịch này:
“Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công”
Bà chịu đấm ăn xôi vì hạnh phúc lứa đôi, vì một chút khát vọng tình yêu tuổi
trẻ ngƣời đàn bà phải chịu đựng phải hạ mình “cố đấm ăn xôi” để mong giành lại
chút hạnh phúc nhƣng rồi bà lại nhận ra “cầm bằng làm mướn, mướn không công”.
Thật hẩm hiu và tủi nhục tất cả nhƣ vô tình gợi lên một vẻ đẹp thầm lặng ở con
ngƣời Xuân Hƣơng nói riêng và ngƣời phụ nữ nói chung, một vẻ đẹp của sự chịu
đựng, chịu đựng đến mức cuối cùng.
Tâm hồn Xuân Hƣơng luôn mơ mộng, khát khao, khát vọng sống luôn cháy
bỏng và mãnh liệt trong bà. Bài Mời trầu là cái nhìn về vẻ đẹp của khát vọng sống:
“Quả cao nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi”
(Mời trầu)
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 20
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Trong dân gian miếng trầu là đầu câu chuyện, nó bắt đầu cho một tình duyên.
Nhƣng bà biết thân phận mình nên Xuân Hƣơng còn nhúng nhƣờng, nhƣng không
vì vậy bà không chú ý đến tình duyên của mình, bà vẫn khát khao và mời gọi:
“Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi”
Ta thấy ngƣời kêu gọi đang rất đơn côi, đang khát khao một tình yêu mãnh
liệt không thể tự mình tạo ra kết quả đƣợc. Lời mời tình duyên của Xuân Hƣơng
cho thấy tình yêu trong bà luôn sống, luôn cựa quậy. Xuân Hƣơng có nhắc đến lá và
vôi là bà nhắc đến sự nguyên vẹn, đẹp đẽ, thủy chung, tuy tình yêu không trọn vẹn
nhƣng tâm hồn bà luôn hƣớng đến vẻ đẹp của khát vọng sống.
Ngƣời phụ nữ Việt nam từ xƣa đến nay luôn là ngƣời phụ nữ mẫu mực
“công, ngôn, dung, đức, hạnh”, ngƣời phụ nữ luôn gồng gánh, hy sinh và chịu đựng,
hình ảnh ngƣời phụ nữ, ngƣời mẹ là hình ảnh cảm động nhất không có gì có thể so
sánh đƣợc bằng sự hy sinh của ngƣời vợ ngƣời mẹ. Nhƣng bọn hiền nhân quân tử
đã lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin của ngƣời phụ nữ, nhẹ dạ tin tƣởng vào tình yêu để rồi
bị sở khanh lừa gạt bụng mang dạ chửa trƣớc một xã hội khắc nghiệt miệt thị ngƣời
phụ nữ. “Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng.
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.
Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
Không có, nhưng mà có, mới ngoan!”
(Không chồng mà chửa)
“Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa”, ngƣời phụ nữ này có lẻ là vì tình
yêu thật sự chứ không vì một thứ gì khác. Ngƣời phụ nữ lầm tin đã trao thân gởi
phận cho một ngƣời phụ bạc, ngƣời phụ nữ cầm lòng chẳng đậu trƣớc tình yêu,
nàng vì tình vì nghĩa nên đã trót mang tội tày đình “khôn ba năm, dại một giờ”, cái
xã hội cũ đã giành sẵn cho họ một tội danh và một hình phạt. Dù là vậy, dù là bị phụ
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 21
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
bạc, dù mang tội tày đình, nhƣng mang trong mình là một sự sống, một hình hài dần
hình thành bắt đầu một cuộc đời mới trong cơ thể mình, là giọt máu yêu thƣơng
nên:
“Mảnh tình một khối thiếp xin mang”
Với tấm lòng hy sinh và bao dung, mạnh mẽ họ vẫn là ngƣời mẹ của cuộc
đời. Oán hận nhƣng tha thứ, tuy vô vàng tủi nhục nhƣng vẫn hy vọng, hy vọng một
thế hệ mới lại ra đời. “Thiếp xin mang”, mang một khối giày xéo, một sự chà đạp
và lăng nhục, xin mang tất cả để một thế hệ mới ra đời. Đây là vẻ đẹp lớn nhất của
ngƣời phụ nữ, hy sinh đánh đổi tất cả để làm mẹ. Xuân Hƣơng đã khẳng định vẻ
đẹp trong một hiện tƣợng quan hệ nam nữ mà xã hội cho là không đẹp ở ngƣời phụ
nữ. Xuân Hƣơng đã thể hiện một cách nhìn đầy tinh tế và một thái độ đầy nhân ái,
gần gủi với cách nhìn và thái độ của quần chúng nhân dân đối với ngƣời phụ nữ
không may bị chửa hoang đã đƣợc phản ánh trong thơ ca dân gian Việt Nam:
“Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian sự thường”
Và rồi cuối cùng ngƣời phụ nữ đã phản kháng, ngẩng mặt lên chửi xã hội
phong kiến “không có, nhưng mà có, mới ngoan”, sức phản kháng mạnh mẽ, giẫm
đạp lên mọi định kiến khắc nghiệt, đấu tranh với cả một thế lực phong kiến hùng
hậu để không chồng mà vẫn đƣợc làm mẹ.
2.1.2. Vẻ đẹp thân thể
Ngƣời phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng lúc nào cũng đẹp, đẹp về mọi mặt
tuy tất cả vẻ đẹp đó rất giản dị, rất bình thƣờng. Trong thế giới nhân vật trong thơ
Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng, bên cạnh những nhân vật nữ sống hồn nhiên,
bản năng, là những nhân vật nam sống khỏe mạnh và đầy ham muốn khám phá,
chiếm lĩnh cái đẹp của nữ giới. Tiếp cận vẻ đẹp trần thế, vẻ đẹp thân thể của ngƣời
phụ nữ, bất cứ ngƣời đàn ông nào ở trong thơ Hồ Xuân Hƣơng, dù xuất hiện trong
hoàn cảnh khác nhau, cũng đều có những ham muốn rất ngƣời. Miêu tả vẻ đẹp thân
thể của ngƣời phụ nữ và những ham muốn rất nhân bản ở ngƣời đàn ông. Hồ Xuân
Hƣơng đã tập trung đi sâu, khám phá một mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời vừa có
tính chất xã hội vừa có tính chất cá nhân. Đó là quan hệ tình yêu lứa đôi, quan hệ
hôn nhân vợ chồng. Miêu tả vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ, Hồ Xuân Hƣơng đã thể hiện
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 22
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
một vẻ đẹp đặc trƣng của ngƣời phụ nữ đó là vẻ đẹp của đôi má hồng đáng yêu và
tràn đầy sinh lực sống:
“Mười bảy hay là mười tám đây
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay...”
(Vịnh quạt II)
“...Càng nóng bao nhiêu thời càng mát
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu, vua yêu một cái này.”
(Vịnh quạt II)
Ở một bài thơ khác, từ những nét sinh động của những khối đá tự nhiên, Hồ
Xuân Hƣơng đã khám phá và gợi tả cái đẹp của đôi má hồng đầy xuân sắc trên chân
dung ngƣời phụ nữ:
“Thớt dưới sương pha đượm má hồng”
(Đá Ông Chồng Bà Chồng)
Ngoài vẻ đẹp trên gƣơng mặt ngƣời phụ nữ còn đẹp về làn da, mái tóc, một
vẻ đẹp thanh tân thu hút ngƣời nhìn:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn...”
(Bánh trôi nước)
“Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau.”
(Dệt cửi)
“Đôi lứa như in tờ giấy trắng.”
(Tranh tố nữ)
“Giếng ấy thanh tân ai chẳng biết”
(Giếng nước)
Chẳng hạn, thông qua hình tƣợng xinh xắn trắng tròn của chiếc bánh trôi
nƣớc, Xuân Hƣơng đã thể hiện nổi bật dáng vẻ tròn trịa đáng yêu của ngƣời phụ nữ.
Qua bài thơ Bánh trôi nước đã gợi lên một vẻ đẹp thuần khiết, đầy đặn, trắng lại
tròn không gì hoàn hảo bằng. Bài thơ thể hiện niềm tự hào đối với vẻ đẹp bề ngoài
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 23
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
của ngƣời phụ nữ Việt Nam. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh thân em để gợi lên chất
dân gian bình dị “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” trắng, tròn đã gợi lên vẻ đẹp về
ngƣời phụ nữ đầy đặn, đọc câu thơ thấy ngƣời phụ nữ thật hấp dẫn, lôi cuốn, họ là
những đóa hoa xinh đẹp, lộng lẫy và tƣơi thắm nhất của thế giới này, chính phụ nữ
đã làm cho cuộc đời này thêm tƣơi đẹp.
Hồ Xuân Hƣơng khác hẳn với các nhà thơ xƣa, bà luôn sống với con ngƣời
thật của bà sống với bản năng vốn có với những gì thuộc về bản năng của con ngƣời
không nhƣ những nhà Nho luôn né tránh với vẻ đẹp vốn có của ngƣời phụ nữ. Cách
miêu tả của Xuân Hƣơng thuộc loại độc đáo nhất của thời đại, bà công khai và
khẳng định vẻ đẹp thân thể của ngƣời phụ nữ, bởi bà là ngƣời phụ nữ nên cách miêu
tả của bà rất trần tục, rất thật. Bà chú ý đến đƣờng cong của cơ thể ngƣời, đó là
những bộ phận thƣờng đƣợc giấu kín của con ngƣời, mà đó là những điều tối kỵ mà
Văn học Trung đại né tránh và cho đó là dâm tục. Chỉ riêng duy nhất có Hồ Xuân
Hƣơng lại thấy đó là những vẻ đẹp hấp dẫn huyền bí nhất của ngƣời phụ nữ, đó là
một vẻ đẹp tự nhiên mà tạo hóa đã giành riêng cho ngƣời phụ nữ.
Hồ Xuân Hƣơng miêu tả một cách trực tiếp và cụ thể mà không hề chung
chung mờ nhạt. Xuân Hƣơng đã sáng tác nhiều câu thơ hay, nhiều đọan thơ đẹp
nhằm miêu tả tế nhị, gợi sự liên tƣởng đến bộ phận kín đáo trên cơ thể ngƣời phụ
nữ:
“Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa...”
(Vịnh quạt I)
“Mỏng dày chừng ấy, chành ba góc
Rộng hẹp dường nào, cắm một cay.”
(Vịnh quạt II)
“Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau”
(Dệt cửi)
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 24
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
“Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu”
(Đèo Ba Dội)
“Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
Nước trong leo lẻo một dòng thông
Cỏ gà lún phún leo quanh mép
Cá diếc le te lách giữa dòng”
(Giếng nước)
“Của em bưng bít vẫn bùi ngùi
Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi.”
(Trống thủng)
Hồ Xuân Hƣơng miêu tả một cách tập trung cái bộ phận ấy bằng nhiều hình
tƣợng nghệ thuật vừa hiện thực vừa ƣớc lệ nhằm nhấn mạnh một đặc điểm quan
trọng nó là một đối tƣợng thẩm mỹ đầy hấp dẫn, đã thu hút sự chú ý của thế giới
đàn ông.
Không dừng lại ở đó, Hồ Xuân Hƣơng đã thực sự thành công trong việc vẽ
một “Bức tranh khỏa thân truyền thần sinh động”, vẻ đẹp thân thể đầy sự khiêu
gợi, hấp dẫn giới tính ở phái đẹp đó là ngƣời phụ nữ đẹp trong bài Thiếu nữ ngủ
ngày. Hồ Xuân Hƣơng bổ sung hai điểm nhấn hết sức quan trọng trên cơ thể ngƣời
phụ nữ, hai điểm nhấn ấy càng tôn vinh vẻ đẹp tuyệt hảo và hoàn mỹ của ngƣời phụ
nữ:
“Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông”
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Đọc câu thơ ta cảm nhận đƣợc đúng là một vẻ đẹp thần tiên, nhƣ đang du
ngoạn trên tiên cảnh tuyệt vời, vì chỉ có trên tiên cảnh mới có Bồng Đảo, mới có
Đào Nguyên. Đôi gò Bồng Đảo là một hiện tƣợng tuyệt vời của ngƣời phụ nữ một
cái đẹp trời ban làm nên điểm đặc trƣng của ngƣời phụ nữ, đã đẹp rồi mà bây giờ
“sương còn ngậm” thì lại càng đẹp hơn nửa không cái đẹp nào có thể sánh bằng.
Lạch Đào Nguyên đã đủ hấp dẫn rồi lại còn “suối chửa thông” thì lại càng hấp dẫn
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 25
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
hơn. Tất cả nhƣ vẫn còn trong trắng, trinh nguyên! Không gì có thể thay thế đƣợc
vẻ đẹp thần tiên và trong trắng đó, không ai có thể phủ nhận đƣợc. Và chỉ dƣới ngòi
bút của Hồ Xuân Hƣơng mới có thể bạo dạn tả cái “lạch Đào Nguyên và đôi gò
Bồng Đảo” hết sức ấn tƣợng và tuyệt vời nhƣ vậy, mà trong đó bà vẫn giữ đƣợc cái
gì đó kín đáo và vô tình, vì thiếu nữ nằm giữa trƣa và gió mát nên nằm chơi quá
giấc nồng mới vô tình để lộ “đôi gò Bồng Đảo và một lạch Đào Nguyên” mà nàng
chẳng hề hay biết. Chính những cái vô tình đã thu hút bọn hiền nhân, quân tử cố
tình chiêm ngƣỡng để rồi:
“Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở, ở không xong”
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Và bọn hiền nhân quân tử hằng ngày tự cho mình là đạo cao, đức trọng vẫn
khát khao, thèm thuồng:
“Hiền nhân, quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muôn trèo”
(Đèo Ba Dội)
Vẻ đẹp trời cho ấy không tha cho bất cứ ai, ngay cả đấng chí tôn, vua chúa
cũng không ngoại lệ:
“...Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu, vua yêu một cái này”
(Vịnh quạt II)
Một vẻ đẹp mà bất cứ ai cũng không thể cƣỡng lại đƣợc thì tại sao chúng ta
lại né tránh và cứ cho rằng nó là dâm tục. Đúng là cái xã hội nam quyền họ bất chấp
cái đẹp tự nhiên của ngƣời phụ nữ để cho rằng đó là dâm tục mà chính mình cũng
yêu cái dâm tục đó. Chỉ có Hồ Xuân Hƣơng, chỉ có bà mới đƣa ngƣời phụ nữ vào
trong thơ ca của nền Văn học Trung đại và chỉ có bà mới tôn vinh đƣợc vẻ đẹp trời
cho cái đẹp vốn có của ngƣời phụ nữ.
2.1.3. Vẻ đẹp trí tuệ
Hồ Xuân Hƣơng là một phụ nữ đầu đội trời chân đạp đất, nàng là một ngƣời
bản lĩnh, Xuân Hƣơng không sợ ai, không ngán ai ngay cả bọn hiền nhân, quân tử
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 26
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
có học. Thơ Hồ Xuân Hƣơng là một hiện tƣợng khá đặc biệt đƣợc nhiều ngƣời quan
tâm. Xuân Hƣơng không may sớm mất cha, nàng đƣợc mẹ nuôi nấng và cho ăn học.
Đi học, lứa tuổi tinh nghịch ngây thơ nhất của đời ngƣời và cũng không thể tránh
khỏi những chuyện không hay giữa những đứa học trò, giữa hai thứ học trò con trai
và con gái. Một hôm đi học gặp phải trời mƣa, đến sân trƣờng, đất trơn, cô nữ sinh
lỡ trƣợt chân ngã, các bạn thấy thế cƣời ầm lên và Xuân Hƣơng đã đứng dậy, ung
dung đọc hay câu thơ rằng:
“Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài.”
Rồi bình thản đứng dậy đi vào, các chàng trai thấy thế cũng phục tài. Bản
lĩnh của Hồ Xuân Hƣơng ngang ngạnh, trí tuệ thì thông minh nhạy bén luôn có thể
ứng phó tình huống mọi lúc mọi nơi. Có thể nói trong cái xã hội trọng nam khinh
nữ nhƣ thế mà Xuân Hƣơng vẫn dám khẳng định tài năng và trí tuệ mình thì duy
nhất chỉ có Xuân Hƣơng mà thôi.
Lại có chuyện, có một bọn học trò mới lớn, ngốc nghếch, rủ nhau kéo đàn
kéo lũ đi ghẹo gái, ngu mà lại tập đua đòi vần ve tí von nên Hồ Xuân Hƣơng thấy
làm khó chịu và viết bài thơ Lũ ngẩn ngơ:
“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ”
(Lũ ngẩn ngơ)
Chỉ có Xuân Hƣơng mới làm bọn con trai mất mặt đến nhƣ vậy, học đòi làm
khôn trong khi bản thân chỉ là những đứa ngẩn ngơ.
Hồ Xuân Hƣơng là một thi sĩ phóng khoáng, thông minh trí tuệ hơn ngƣời,
thích du ngoạn, và trên đƣờng đi cũng vung bút đề thơ. Đây là một trƣờng hợp hiếm
có trong xã hội phong kiến. Bài Đề Đền Sầm Nghi Đống là một bài nói về tên tƣớng
bại trận. Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hƣơng đã biểu thị một cái nhìn khinh rẻ, thiếu
tôn trọng đối với ngôi đền:
“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền thái thú đứng cheo leo.”
(Đền Sầm Nghi Đống)
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 27
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Những ngƣời đƣợc lập đền, thì đều đƣợc coi là thần dù là giặc hay cả những
tên tƣớng bại trận, để ngƣời đời thắp hƣơng cúng bái. Còn Hồ Xuân Hƣơng khi đi
ngang đã không chịu cất nón, cúi đầu chào kính cẩn ngƣợc lại còn cƣời mỉa mai,
chê bai, tỏ thái độ xem thƣờng, Xuân Hƣơng chỉ “ghé mắt trông ngang”, chỉ nhìn
bằng nửa con mắt, thái độ thì miệt thị tỏa hàm ý không kính trọng đối với một “vị
thần” xâm lƣợc thất bại. “Kìa Đền thái thú đứng cheo leo” kìa là chỉ trỏ, không
đáng quan trọng chút nào vậy mà còn cheo leo, thế đứng một mình, buồn tẻ, không
có gì gọi là vững chải, anh hùng, mạnh mẽ, Xuân Hƣơng đã trút hết tính chất thiêng
liêng của một ngôi đền.
Hồ Xuân Hƣơng không chỉ nhìn ngang, chỉ trỏ mà bà còn đem phận nữ nhi
của mình ra đem so sánh với vị nam thần đó nửa:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!”
Xuân Hƣơng muốn đổi phận, bà không chịu an phận của bà, bà rất coi
thƣờng bọn nam nhi không chút danh tiếng. Nếu Hồ Xuân Hƣơng làm trai đƣợc thì
sự nghiệp anh hùng của bà sẽ vững chải, oanh liệt chứ không tầm thƣờng nhƣ vậy,
2.2. NỖI ĐAU THÂN PHẬN NGƢỜI PHỤ NỮ
TRONG THƠ HỒ XUÂN HƢƠNG
không tồi tệ nhƣ sự nghiệp anh hùng của vị tƣớng này đâu.
Trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX, Hồ
Xuân Hƣơng đƣợc coi là một trong số các nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà
trƣớc hết là tiếng nói tâm tình của ngƣời phụ nữ. Không phải là ngƣời phụ nữ lầu
son gác tía, chinh phụ hay cung tần, mà là ngƣời phụ nữ bình thƣờng, ngƣời phụ nữ
lao động có nhiều bất hạnh trong cuộc sống. Có thể nói Hồ Xuân Hƣơng là nhà thơ
đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của ngƣời
phụ nữ ấy, những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn, và những
tiếng châm biếm sâu cay.
Thời phong kiến xƣa không có vị trí nào cho ngƣời phụ nữ cả, phụ nữ bị đè
bẹp, dồn nén, thậm chí trong văn học cũng vậy phụ nữ rất hiếm khi xuất hiện mà
một khi họ xuất hiện thì là hiện thân của sự chua chát đau thƣơng. Đề cập đến hình
tƣợng ngƣời phụ nữ trong văn học Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX,
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 28
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Nguyễn Đăng Na đã nhận định: “Đọc lại văn học trung đại Việt Nam, từ Truyền kỳ
mạn lục của Nguyễn Dữ đến Truyện Kiều của Nguyễn Du, từ Truyền kỳ tân phả của
Đoàn Thị Điểm đến thơ Hồ Xuân Hương, từ Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia
Thiều đến Kiến văn lục Vũ Trinh,... ta thấy hình tượng người phụ nữ nổi bật lên hai
nét lớn: phụ nữ - hiện thân của cái đẹp và phụ nữ - hiện thân của những số phận bi
thương” [3; tr.53]. Ai cũng biết cuộc đời cũ, đau khổ là cái dành riêng cho ngƣời
phụ nữ, cái đau khổ của phụ nữ bao giờ cũng chua xót, tái tê. Phụ nữ là ngƣời làm
lụng vất vả đầu tắt mặt tối, họ là những ngƣời đói cơm rách áo, bị trăm nghìn thứ
chà đạp nhƣ bất cứ một ngƣời bị áp bức nào khác. Nhƣng xã hội phong kiến còn
dành cho họ nhiều sự bạc đãi: qui chế nặng nề của đạo đức lễ giáo phong kiến, tập
tục xã hội... mà cái đau khổ về tinh thần còn đau khổ gấp trăm nghìn lần cái đau khổ
về vật chất. Quả đúng nhƣ vậy, thân phận ngƣời phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng
là ngƣời phụ nữ bi thƣơng chịu nhiều thiệt thòi, duyên tình không trọn vẹn, làm lẽ,
góa chồng... thân phận ngƣời phụ nữ là đối tƣợng trung tâm trong thơ Hồ Xuân
Hƣơng. Trong thơ Hồ Xuân Hƣơng ngƣời phụ nữ là những con ngƣời thuộc tầng
lớp thấp nằm dƣới đáy xã hội luôn mang trong lòng một nỗi khổ đau, bất hạnh trƣớc
cuộc đời hoặc sống bạc bẽo trong cảnh chồng chung hoặc lâm vào cảnh ngộ duyên
tình muộn màng hoặc rơi vào hoàn cảnh chết chồng tội nghiệp.
Xã hội phong kiến luôn dành cho họ những bất công ngang trái, chính quyền
phong kiến coi nhẹ ngƣời phụ nữ bắt ngƣời phụ nữ phải chịu tất cả mọi thiệt thòi
đau khổ trên thế gian hễ ngƣời phụ nữ có tội thì giáng xuống đầu họ những sự trừng
phạt hết sức vô nhân đạo nhƣng “tức nước vỡ bờ” ngƣời phụ nữ đã phản kháng một
cách quyết liệt giành lại quyền làm ngƣời của mình và rồi dƣờng nhƣ họ thất bại
trƣớc một thế lực phong kiến hùng hậu, ác độc, dã man. Cuộc đời này có quá nhiều
bất công không kể hết đƣợc, dƣờng nhƣ tạo hóa đã giành tặng riêng những bất công
cho ngƣời phụ nữ hết nỗi đau này đến nỗi đau khác, nó ray rứt khôn nguôi đáng lẽ
tình yêu và hạnh phúc là chuyện thƣờng tình mọi ngƣời đáng phải có nhƣng ngƣời
phụ nữ lại vì tình yêu và hạnh phúc của mình mà khổ đau.
Viết về đề tài ngƣời phụ nữ, nhà thơ xoáy xâu vào nỗi đau của cuộc đời
ngƣời phụ nữ nêu lên những bi kịch không kém phần chua chát đớn đau xong bình
thƣờng nó đã trở nên vô vị trong một xã hội phong kiến không có chổ đứng cho đàn
SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi bà. Trong thơ Hồ Xuân Hƣơng có vô số bài thơ nói lên thân phận ngƣời phụ nữ GVHD: Th.S. Lê Văn Phương 29
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
trong xã hội xƣa. Đó là những ngƣời phụ nữ chịu ràng buộc của lễ giáo phong kiến
(tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), hầu nhƣ họ không có quyền
quyết định cuộc đời mình, ở nhà thì nhờ cha khi lớn lên lấy chồng thì phải phụ
thuộc vào chồng suốt cuộc đời chỉ biết sống cam chịu và phục tùng. Thời xƣa, dƣới
chế độ phong kiến mục nát và suy tàn số phận ngƣời phụ nữ luôn bị vùi dập vào
những vùng lầy đau khổ, luôn bị trói buộc với một xã hội bất công, nam quyền, độc
đoán, họ phải sống trong một xã hội trọng nam khinh nữ, một chế độ đa thê đầy rẫy
những bất công ngang trái. Họ gặp phải nhiều đau khổ, lận đận, tình duyên trắc trở,
chịu cuộc đời làm lẽ, số phận hẩm hiu, éo le.
Với bản lĩnh của mình và cũng là nạn nhân trong xã hội đó, bằng kinh
nghiệm của cuộc đời chung và kinh nghiệm của cuộc đời riêng của Hồ Xuân Hƣơng
nhà thơ đứng về phía những ngƣời phụ nữ bị áp bức, Hồ Xuân Hƣơng đã mạnh dạn
nói lên nỗi lòng của ngƣời phụ nữ xƣa. Họ là những ngƣời phụ nữ duyên dáng, xinh
tƣơi đẹp về cả tâm hồn lẫn thể xác nhƣng họ luôn bị đối xử thậm tệ không có quyền
lựa chọn hạnh phúc của đời mình. Cảm thông với số phận của ngƣời phụ nữ xƣa,
Hồ Xuân Hƣơng đã thay họ nói lên tiếng lòng của mình qua các bài thơ: Tự Tình,
Làm lẽ, Bánh trôi nước, Không chồng mà chữa... cuộc đời họ thật bất hạnh, số phận
lận đận gian truân.
2.2.1. Nỗi đau không làm chủ đƣợc cuộc đời
Xã hội nam quyền làm gì có chỗ đứng cho ngƣời phụ nữ, chỗ đứng còn
không có thì làm sao mà có quyền làm chủ cuộc đời mình. Ông trời thật trớ trêu và
bất công cuộc sống là của mình con ngƣời là của mình mà không tự mình định đoạt
đƣợc mà phải trông chờ ngƣời này nhờ ngƣời kia, long đong, bấp bênh, hẩm hiu
không một ai biết trƣớc đƣợc. Trong xã hội cũ thơ của họ thực chất là máu và nƣớc
mắt đó thôi. Trong chế độ phong kiến Á Đông hàng mấy nghìn năm đã có biết bao
lớp ngƣời đau khổ, nhƣng đau khổ nhất là ngƣời đàn bà, đàn bà gắn liền với sự đau
đớn và long đong. Không phải vô cớ mà Nguyễn Du đã nấc lên một lần trong Văn
chiêu hồn:
“Đau đớn thay phận đàn bà!
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?”
Và lại ba lần kêu lên nhƣ thế trong Truyện Kiều:
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 30
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
“Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
Kiều nói với Tú bà:
“Rằng tôi chút phận đàn bà,
Nước non lìa cửa lìa nhà đến đây.”
Hoạn Thƣ nói với Kiều:
“Rằng tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.”
Nỗi đau đó trong thời của Nguyễn Du hình nhƣ ông chƣa giải thích đƣợc:
“Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu”
Không ai giải thích đƣợc nên đành đổ lỗi cho số kiếp và từ đó hình nhƣ dần
hình thành một số phận chung là những ngƣời hồng nhan sẽ bạc mệnh, những ngƣời
phụ nữ định sẵn là sẽ có một số kiếp long đong, chìm nổi.
Bằng sự cảm thông của mình đối với ngƣời phụ nữ, cũng nhƣ chính Hồ Xuân
Hƣơng cũng đã trải qua số phận long đong chìm nổi đầy đau khổ. Hồ Xuân Hƣơng
đã mƣợn hình ảnh chiếc bánh trôi nƣớc thứ bánh dân dã bình dị để nói lên nỗi đau
thân phận của cuộc đời và ngƣời phụ nữ cũng bình thƣờng và dân dã nhƣ chính
chiếc bánh trôi nƣớc vậy:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”
(Bánh trôi nước)
Đây là lời giới thiệu về chiếc bánh, giới thiệu về hình dáng cũng nhƣ cấu tạo
chiếc bánh nhƣng bên cạnh đó ta còn liên tƣởng đến một ngƣời phụ nữ đang dần
hiện ra với vẻ bề ngoài hoàn hảo. Không chỉ vậy bài thơ này thật sự có ý nghĩa khi
ta hiểu đƣợc sự gửi gắm về tình cảm của nhà thơ. Bài thơ Bánh trôi nước ngoài việc
tả một chiếc bánh ra còn là lời bộc bạch tâm tình của ngƣời phụ nữ. Ta có thể nói
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 31
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
nhà thơ đã mƣợn hình ảnh trôi nổi của chiếc bánh trôi nƣớc để nói lên tấm lòng của
ngƣời phụ nữ cũng nhƣ nỗi đau không làm chủ đƣợc cuộc đời riêng của họ.
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”
Qua hai từ thân em ngƣời phụ nữ có thể hóa thân vào chiếc bánh trôi nƣớc,
chiếc bánh dân dã ấy. Hồ Xuân Hƣơng đã dùng hình tƣợng “trắng, tròn” để liên
tƣởng đến một vẻ đẹp hoàn mỹ, mạnh mẽ và xinh xắn. Bà còn dùng điệp từ “vừa”
càng làm tăng thêm vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ Việt Nam. Ngƣời phụ nữ Việt Nam rất
lấy làm tự hào vì chính vẻ xinh xắn, đáng yêu mạnh mẽ nhƣ thế nhƣng còn về cuộc
đời riêng của họ thì sao, cuộc đời có tỉ lệ thuận với vẻ đẹp kêu sa của họ không?
Cuộc đời họ phải sống thì hoàn toàn ngƣợc lại với vẻ đẹp bên ngoài họ có đƣợc,
cuộc đời họ lắm đau khổ, nhiều gian truân sầu não không thể nào đong đếm đƣợc
hết. Xã hội phong kiến đã dành riêng số phận đó cho ngƣời phụ nữ, số phận lênh
đênh chìm nổi nhƣ chính chiếc bánh trôi nƣớc trong nồi:
“Bảy nổi ba chìm với nước non”
Hồ Xuân Hƣơng đã sử dụng thành ngữ “bảy nổi ba chìm” để nói lên số phận
lênh đênh của cuộc đời. Cuộc đời không lúc nào đƣợc yên luôn chuyển động biến
đổi, lặng hụp. Họ sống với một số phận long đong, gian truân đầy sóng gió dƣờng
nhƣ tất cả đã định sẵn trong xã hội Việt Nam mà ngƣời phụ nữ chỉ có trách nhiệm là
phải sống, phải thƣởng thức cho hết tất cả các mùi đau khổ ấy, nghe nhƣ tiếng than
âm thầm não nuột, cam chịu. Họ phó mặc cho cuộc đời bởi lẽ trong cái xã hội ác
nghiệt này và với một thân phận nhỏ bé nhƣ vậy họ không thể làm gì đƣợc, họ
không bao giờ làm chủ đƣợc sự chìm nổi, cũng nhƣ số phận của cuộc đời mình.
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”
Đọc câu thơ nghe có vẻ rất nặng nề, đau khổ, ngƣời phụ nữ buông tay cam
chịu, dù cuộc đời mình có long đong hay hạnh phúc họ cũng “mặc dầu”. Rắn nát
mặc dầu tay kẻ nặn là hình ảnh may rủi mà đời ngƣời phụ nữ rơi vào. Trong xã hội
cũ trọng nam khinh nữ, số phận ngƣời phụ nữ đều do ngƣời đàn ông định đoạt, là do
chính tay kẻ nặn đã ban cho họ số phận nhƣ vậy. Cho nên hình ảnh ngƣời con gái
trong ca dao xƣa đã cảm nhận đƣợc thân phận của mình:
- “Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?”
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 32
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
- “Thân em như hạt mưa sa
Hạt rơi xuống giếng hạt ra ruộng cày.”
Những câu ca dao đã thể hiện số phận cam chịu, xuôi theo dòng nƣớc, họ ý
thức đƣợc cuộc đời mình đã nhƣ vậy không thể nào khác hơn nên họ đành cam
phận. Họ là vậy, là những ngƣời không có vai trò gì trong xã hội, họ không tự quyết
đƣợc số phận của mình. Cuộc đời họ từ lúc chào đời cho đến khi đi vào cõi chết là
một cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc, chƣa một lần đƣợc làm chủ. Khi còn nhỏ thì
sống nƣơng nhờ phụ thuộc vào cha mẹ, lấy chồng thì phụ thuộc vào chồng, chồng
mất thì phụ thuộc vào con cái. Họ không có cuộc sống riêng của họ, cuộc sống
ngƣời phụ nữ trong xã hội lúc bây giờ rất tẻ nhạt, buồn bã, không biết chia sẽ cùng
ai, cuộc sống không hề có màu sắc, họ sống chỉ để tô điểm thêm cho cuộc sống của
ngƣời khác. Sống nhƣ vậy thì cuộc đời chẳng có chút ý nghĩa gì, cứ phải trông chờ
sự ban phát của ngƣời khác, không một chút tự do thoải mái. Đúng là một xã hội vô
nhân đạo.
Dù cuộc đời có bạc bẽo bất công đến đâu, gian khổ long đong đến thế nào
ngƣời phụ nữ vẫn giữ sự son sắc thủy chung một lòng:
“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Niềm tự hào về phẩm chất thủy chung của ngƣời phụ nữ Việt Nam. Cái đẹp
đi liền với cái khổ toàn bài Bánh trôi nước vẫn thấm đƣợm nỗi cảm thƣơng thân
phận, ngƣời phụ nữ đẹp mà phải chịu cảnh ba chìm bảy nổi, không làm chủ đƣợc
cuộc đời mình, tất cả đều phó mặc cho tay kẻ nặn thì chẳng phải rất đáng thƣơng
sao? Sống không bằng chết, sống dày vò trong một bể khổ không một nỗi đau nào
có thể so sánh bằng nỗi khổ cha mẹ cho mình một hình hài con ngƣời nhƣng phải
do ngƣời khác vẽ đƣờng dẫn lối, mặc cho ngƣời khác làm chủ cuộc đời mình nhƣ
vậy.
Trong bài Tự tình III của Hồ Xuân Hƣơng cũng nói lên số phận cam chịu,
không làm chủ đƣợc cuộc đời của ngƣời phụ nữ:
“Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh,
Giữa dòng ngao ngán nổi lênh đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 33
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,
Dong lèo thấy kẻ rấp xuôi ghềnh.
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.”
(Tự tình III)
Trong xã hội xƣa thân phận ngƣời phụ nữ nhƣ chiếc thuyền ngoài đại dƣơng
bao la mênh mông, Hồ Xuân Hƣơng đã mƣợn hình ảnh chiếc bách trôi nổi giữa
dòng đại dƣơng không biết đi về đâu để nói lên sự trôi nổi không ngày kết thúc của
ngƣời phụ nữ. Liên tƣởng hình ảnh chiếc bách giữa dòng đại dƣơng bao la mênh
mông để nói lên thân phận bấp bênh, bèo nổi của mình, hình ảnh nhỏ bé đó làm cho
chúng ta cảm thấy xúc động và thƣơng ngƣời phụ nữ nhiều hơn, xót xa cho số kiếp
ngƣời phụ nữ nhiều hơn, thƣơng cho số kiếp lênh đênh, không tự mình quyết định
đƣợc mặc cho ngƣời khác điều khiển. Dƣờng nhƣ số phận ngƣời phụ nữ cứ phải trôi
dạt lênh đênh, đã định sẵn là không có bến đỗ, không có ngày mai dù cho yên bình
hay bão tố vẫn không có một nơi trú ngụ cứ phải dang mình ra đối diện với đời, với
kiếp ngƣời vô tình. Sao mà chìm nổi đến thế, nhỏ bé và bất lực trƣớc một thế lực to
lớn của dòng sông và xã hội.
Hồ Xuân Hƣơng đã sử dụng vần “ênh” trong các từ “nổi nênh, lênh đênh,
bập bềnh...” nó nói lên một nỗi buồn sao mà thấm thía thảm thƣơng:
“Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh,
Giữa dòng ngao ngán nổi lênh đênh.”
Một chiếc thuyền nhỏ bé nhƣng lại trở đầy tâm trạng của một ngƣời phụ nữ,
chiếc bách tự buồn cho thân phận ngƣời phụ nữ, xót xa cho số phận ngƣời phụ nữ
sao mà nó nhỏ nhoi. Trƣớc một thế lực phong kiến hùng hậu với những uy lực mà
không ai có thể phá vỡ đƣợc rào cản ấy, sống một cuộc đời rẻ lạnh, tàn ác, Xuân
Hƣơng cảm thấy thƣơng mình, xót xa cho mình khát khao hạnh phúc chân chính trở
nên xa vời tan tác.
Giữa dòng đời ngao ngán thân phận nổi lênh đênh nơi to lớn, chiếc thuyền
kia, thân phận kia không tìm đƣợc nơi bến đỗ nào. Nếu chiếc thuyền kia trôi dạt có
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 34
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
mục đích có điểm dừng thì ít ra vẫn còn có một tia hy vọng dù nó là nhỏ nhoi.
Nhƣng tiếc thay:
“Giữa dòng ngao nán nổi lênh đênh”.
Giống nhƣ nhà thơ Huy Cận trƣớc cuộc đời mất nƣớc ngày xƣa có viết:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
(Tràng giang)
Nhƣng vốn dĩ Hồ Xuân Hƣơng là ngƣời mạnh mẽ, kiên cƣờng luôn khát
khao tình yêu cháy bỏng, là một ngƣời tình cảm mặn nồng tha thiết với cuộc sống,
với đời. Con ngƣời Xuân Hƣơng luôn sống trong tình nghĩa lai láng, lai láng ngay
khi trƣớc mặt mình là cuộc đời chua chát, chƣa tìm đƣợc lối thoát. Thật tội cho
Xuân Hƣơng, một con ngƣời không bao giờ nhạt nhẽo, lạnh nhạt, dửng dƣng với
đời:
“Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.”
Con ngƣời thì luôn chan chứa tình cảm, đong đầy cảm xúc yêu thƣơng “tình
nghĩa dường lai láng” mà lại đi đôi với cuộc đời phong ba thật là chua xót!
Thời đại phong kiến là thời đại đến rồi đi, chỉ đến lúc cần và ra đi khi đã thỏa
mãn. Bất lực trƣớc thời đại Hồ Xuân Hƣơng thôi đành bỏ mặc... buôn trôi:
“Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến
Dong lèo thấy kẻ rấp xuôi ghềnh”
Xuân Hƣơng không tự làm chủ đƣợc sự ghé điểm cuối cùng của mình nên
cuối cùng phải mặc cho ai muốn đỗ bến nào thì đỗ.
Nhƣng nghĩ lại nỗi đau, lại dày vò thêm cõi lòng, Xuân Hƣơng vẫn muốn
trọn tình, vẹn nghĩa nhƣng rồi không thoát khỏi cảnh ngán ngẫm của cuộc đời.
“Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.”
Một ngƣời con gái yêu đời, tự tin, luôn khát khao nóng bỏng, mãnh liệt với
đời nhƣ Xuân Hƣơng mà có những lúc lại chán ngán, ngán ngẫm cuộc đời đến nhƣ
vậy, nỗi đau về không làm chủ đƣợc cuộc đời cứ loay hoay mãi trong lòng ta.
2.2.2. Nỗi đau về thân phận làm lẽ
Có thể nói Hồ Xuân Hƣơng là tiếng nói tâm tình của ngƣời phụ nữ không
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 35
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
phải là những cung tầng trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều hay
những ngƣời chinh phụ trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn mà là những
ngƣời phụ nữ bình dân, lam lũ, sống với những số kiếp bất hạnh. Ngoài những câu
ca dao và văn học dân gian ra, Hồ Xuân Hƣơng là ngƣời phụ nữ đầu tiên trong nền
văn học dân tộc đã đem đến tiếng nói cho ngƣời phụ nữ ấy.
Hồ Xuân Hƣơng là ngƣời phụ nữ tài cao, sắc bén và có lẽ vì vậy nên trắc trở
về đƣờng tình duyên: chính Xuân Hƣơng là con của một ngƣời vợ lẽ, Hồ Xuân
Hƣơng đã từng hai lần đi lấy chồng và cả hai lần đều làm lẽ (Xuân Hƣơng đã làm lẽ
cho ông Tổng Cóc và ông phủ Vĩnh Tƣờng). Số phận Hồ Xuân Hƣơng trớ trêu
nghịch cảnh. Xã hội phong kiến xƣa thật là quyền lực, quyền lực đến nổi trai có
quyền tam thê tứ thiếp gái chính chuyên chỉ có một chồng, họ bạc đãi ngƣời phụ nữ
đến nhƣ vậy, thông thƣờng xã hội phong kiến lấy lẽ là để thỏa mãn cuộc sống dâm
dật của bọn địa chủ đồng thời là có thêm sức lao động. Chính vì xã hội phong kiến
tự đƣa ra cho mình cái quyền đó nên họ đã đẩy ngƣời phụ nữ vào đáy xã hội, rơi
vào tấm bi kịch đau lòng nhất của ngƣời phụ nữ. Tất cả thảm cảnh làm lẽ của mẹ bà,
của bà và bao ngƣời đàn bà khác bất hạnh trong chế độ đa thê đã dồn nén trong bài
thơ Làm lẽ. Bài thơ là một nỗi đau khổ bất hạnh truyền kiếp của ngƣời phụ nữ, thật
xót xa:
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không.
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong.”
(Làm lẽ)
Hồ Xuân Hƣơng đã bị dồn nén ấm ức của cuộc đời làm lẽ, Xuân Hƣơng đặt
vấn đề ra là kiếp lấy chồng chung. Một khi đã chấp nhận lấy chồng chung thì tất cả
hai ngƣời đều đau khổ, bất kể chị là ngƣời vợ cả hay tôi là ngƣời vợ cả thì nhất định
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 36
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
một trong hai ngƣời phải chịu cảnh lạnh lùng. Đó là nỗi khổ chung của những ngƣời
đàn bà dƣới chế độ đa thê. Hồ Xuân Hƣơng đã từng làm lẽ cho Tổng Cóc và ông
phủ Vĩnh Tƣờng. Bà rất thấm thía nỗi khổ làm lẽ. Trong dân gian thƣờng là ngƣời
vợ cả có quyền hơn, ngƣời vợ cả có thể đay nghiến hung dữ giành giật với ngƣời vợ
lẽ, nhƣ trong ca dao ngƣời vợ cả đã đay nghiến:
“Tối tối chị giữ lấy chồng”
Câu ca dao trên đã xảy ra mâu thuẫn giữa hai ngƣời đàn bà mà đối tƣợng phê
phán ở đây là chị - ngƣời vợ cả. Ở đây chỉ nhắc đến hai ngƣời phụ nữ thật ra hai
ngƣời phụ nữ đều là nạn nhân của chế độ đa thê, còn ngƣời chồng thì không nhắc
đến nhƣ một ngƣời vô can không hề tội lỗi gì vậy. Thật ra đều là nạn nhân của chế
độ nhƣng trong ghen tuông những ngƣời phụ nữ đã gây ra bi kịch cho mình chỉ để
mong giành lại đƣợc chút yêu thƣơng, thật xót xa cho ngƣời phụ nữ, đã là nạn nhân
với nhau mà lại tranh giành lẫn nhau...
Hồ Xuân Hƣơng bị dồn nén ấm ức của cuộc đời làm lẽ. Hồ Xuân Hƣơng đã
chém vào cái số kiếp ấy một sự căm phẫn đến tột độ. Mở đầu bài thơ Hồ Xuân
Hƣơng đã chửi thẳng vào sự bất công trong hôn nhân trong tình cảm:
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”
Ngƣời thì ấm êm kẻ thì lạnh lùng đối lập nhau sâu sắc, nghe mà tê tái tâm
can, làm lẽ là vậy hạnh phúc không bao giờ mình có trƣớc. Ngƣời thì êm ấm gối
chăn đâu hay ngƣời vợ lẽ phải chịu cảnh thiệt thòi, nằm ở góc xó mà cũng chẳng có
chồng.
Hồ Xuân Hƣơng không né tránh mà bà trực tiếp nói đến chuyện buồng the,
chăn gối hạnh phúc lứa đôi vợ chồng. Sự bất công giữa ngƣời vợ lẽ và ngƣời vợ cả
hiện ra nhƣ núi đôi và vực thẳm. “Kẻ đắp chăn bông” ấm áp bao nhiêu thì kẻ nằm
suông ngoài nhà lạnh bấy nhiêu mà cái lạnh về thể xác chƣa thấm vào đâu so với cái
lạnh của tâm hồn, tê tái trong lòng “lạnh lùng”
Hồ Xuân Hƣơng chẳng ngán cái xã hội nam quyền đó, bà chửi thẳng vào cái
chế độ đó, chửi vào kiếp làm chung, lẽ mọn.
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”
Chém, chém vào cái kiếp ngƣời ấy một cách sâu sắc, chém một nhát cho thật
đau. Chửi rồi nhƣng nỗi đau vẫn còn nguyên đấy, số kiếp ấy không bao giờ thay đổi
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 37
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
đƣợc mà phải gánh chịu. “Kiếp chồng chung” cái gì chung còn có thể đƣợc còn
chồng mà chung, có chung đƣợc không? Cái xã hội thật đáng nguyền rủa.
Trong ca dao Việt Nam cũng đã cự tuyệt cảnh chồng chung ấy một cách
quyết liệt :
“Đói lòng nằm gốc cây sung
Chồng một thì lấy chồng chung thì đừng.”
Ngay cả Xuân Hƣơng là một ngƣời phụ nữ thông minh cũng không tránh
khỏi số kiếp ấy, số kiếp làm lẽ cho ngƣời, Hồ Xuân Hƣơng đã từng hai lần đều lâm
vào cảnh chồng chung (làm lẽ). Đó là chỗ đáng thƣơng nhất của ngƣời phụ nữ, sinh
ra làm phụ nữ đã khổ rồi mà còn chọn nhầm ngƣời đàn ông cho mình còn khổ hơn,
mức đau khổ tột cùng của ngƣời phụ nữ.
Hồ Xuân Hƣơng, bà chúa thơ Nôm là một trong những nạn nhân của chế độ
đa thê phải chịu cảnh làm bé, chịu mọi thiệt thòi đau khổ. Bà cũng chẳng còn gì để
sợ nữa bà đã nói huỵch toẹt những cảnh bi thảm trong buồn the của những ngƣời có
số kiếp chung chồng, đọc câu thơ nhƣ nhà thơ có sự đòi hỏi về ái ân thể xác hơn là
đòi hỏi hạnh phúc về tình yêu:
“Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không.”
Hai thành ngữ đƣợc bà sử dụng trong hai câu thơ trên là “năm thì mười họa”
và “gặp hay chăng chớ”, câu thơ diễn tả sự ái ân chốn buồn the, sự thƣa thớt lạnh
lẽo hờ hững có cũng nhƣ không dƣờng nhƣ sự ái ân không xuất hiện trong đôi bạn
trẻ này. Niềm vui chăng gối của đôi vợ chồng trẻ này hầu nhƣ khuyết sâu lắm. Khi
con ngƣời có đôi có cặp với nhau, khi đã gọi một ngƣời là chồng thì chuyện ái ân là
chuyện thƣờng tình, rất đỗi bình thƣờng, mọi ngƣời đều có quyền hƣởng cái hạnh
phúc đó, hạnh phúc trần tục của con ngƣời. Nhƣng không đƣợc nhƣ vậy, ngƣời phụ
nữ này phải cắn răng chịu đựng thiệt thòi. Thật xót xa tội nghiệp cho ngƣời phụ nữ.
Hồ Xuân Hƣơng dùng hai thành ngữ trên để làm nổi bật nổi khổ của cảnh chồng
chung, một chịu hai chịu, thiếu thốn cả vật chất lẫn tình cảm.
Hồ Xuân Hƣơng là ngƣời đàn bà có ý thức cá nhân rất sâu sắc, có bản lĩnh
mà vẫn không thoát khỏi tấn bi kịch này bởi lẽ số phận của bà chƣa một lần đƣợc bà
định đoạt đều phụ thuộc vào ngƣời khác. Mà Hồ Xuân Hƣơng là một ngƣời rất đàn
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 38
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
bà, đàn bà hơn bất kỳ ngƣời phụ nữ nào trên cõi đời này, bà gánh chịu không thiếu
một mùi vị nào mà ngƣời phụ nữ phải trãi qua. Thật đau đớn, thật tủi nhục, bà là
một ngƣời phụ nữ đáng thƣơng đáng kính. Thật xót xa cho ngƣời phụ nữ phải gồng
mình chịu đựng thật ghê gớm:
“Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.”
Sự chịu đựng thật ghê gớm, “cố đấm” nghe nhƣ nặng nề xót xa, đó là một
trong những bi kịch hôn nhân của gia đình thời xƣa, hay nói cách khác đó là bi kịch
của một kẻ lẽ mọn. Cái mùi hẩm của xôi, một thứ không còn ăn đƣợc nữa qua đó
nhà thơ gợi lên sự hẩm hiu, thứ vứt bỏ của cảnh chồng chung. Vì một chút khát
vọng hạnh phúc lứa đôi nhỏ nhoi mà ngƣời đàn bà phải hạ mình “cố đấm” nhƣng
rồi họ có thừa hƣởng đƣợc chút gì gọi là hạnh phúc lứa đôi hay không hay là thứ xôi
đã hẩm. Rõ ràng sự nhịn nhục đó cuối cùng cũng đổi lại đƣợc gì? Họ đổi lại đƣợc
nguyên một bản chất xấu xa của chế độ đa thê.
Còn một sự thật không thể chối cãi lại đƣợc là sự gian xảo của chế độ nam
quyền, vợ lẽ đối với chế độ đó chẳng qua chỉ là một ngƣời làm mƣớn, một ngƣời ở
mà thậm chí còn tệ hơn ngƣời làm mƣớn là “mướn không công”, làm không đƣợc
trả công mà ngƣợc lại còn phải nhịn nhục đôi khi còn phải đáp ứng những đòi hỏi
dục vọng thể xác cho chế độ đa thê. Thật hẩm hiu, tủi nhục, sự day dứt, đay nghiến,
uất hận của kiếp ngƣời làm vợ lẽ. Xã hội xƣa thật biết cách bóc lột sức lao động của
con ngƣời, thay vì đi mƣớn thì họ phải trả tiền họ lại đi cƣới năm thê bảy thiếp, vừa
là vợ vừa là kẻ làm thuê, bóc lột thật dã man, ghê gớm. Không còn đau khổ nào đau
khổ hơn, đau khổ đến mức tột cùng. Nhà thơ kết thúc bằng sự bế tắc không lối
thoát, bà tự nhủ mình bằng lời tự nhủ chua chát :
“Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong.”
Chính Hồ Xuân Hƣơng cũng không thể tƣởng tƣợng hay hình dung hết
những cay đắng nghiệt ngã của kiếp chồng chung, vợ lẽ. Bà ngậm ngùi tiếc nuối mà
nghĩ rằng “Thà trước thôi đành ở vậy xong”. Sinh ra số kiếp làm ngƣời đàn bà đã
khổ mà trao lầm tình cảm cho ngƣời đàn ông lại còn khổ hơn, khổ với thiên chức là
vợ làm mẹ nay phải tiếp tục chịu khổ với cảnh làm lẽ chung chạ, bị ngƣời vợ lớn
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 39
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
tƣớc đoạt mọi quyền lợi thuộc về hạnh phúc, số phận làm lẽ thật bi thảm. Tất cả đều
gom dồn về ngƣời phụ nữ và hơn hết là ngƣời phụ nữ làm lẽ. Thật sự “kiếp chồng
chung” nó cay nghiệt tới mức nào nếu ai chƣa từng trải qua thì chƣa thật sự hiểu nó
cay nghiệt đến mức nào đâu.
2.2.3. Nỗi đau duyên tình không trọn vẹn
Do sống trong xã hội phong kiến, một xã hội luôn coi thƣờng phụ nữ và luôn
bị lễ giáo phong kiến trói buộc, không đƣợc học hành thi cử còn về hoạt động xã
hội thì càng không thể họ phải chịu nhiều thiệt thòi cả trong gia đình lẫn ngoài xã
hội. Chính vì vậy, ngƣời phụ nữ không chỉ chịu nhiều thiệt thòi bất hạnh trong cuộc
sống mà còn đau khổ lận đận trong đƣờng tình duyên. Hồ Xuân Hƣơng là minh
chứng cho số phận lận đận về đƣờng tình duyên đó, rất lận đận và gian truân, hai
lần đi lấy chồng cả hai làn đều làm lẽ và cả hai lần đó tình duyên của bà rất ngắn
ngủi nên bà rất hiểu và đồng cảm với số phận của ngƣời phụ nữ kém may mắn trong
đƣờng tình duyên. Đó là nỗi khổ của ngƣời phụ nữ có duyên tình ngắn ngủi hoặc
đến muộn lỡ thì quá lứa hoặc ngƣời phụ nữ bị dở dang, và đau khổ hơn nữa là ngƣời
phụ nữ chết chồng...
Ai cũng biết trong xã hội cũ đau khổ phải chăng là giành sẵn cho ngƣời phụ
nữ hay sao, tất cả những nỗi đau khổ dày vò đều do ngƣời phụ nữ gánh chịu và hơn
nữa những nỗi đau đó luôn là những nỗi đau tột cùng, tái tê, chua xót. Hồ Xuân
Hƣơng là nhà thơ phụ nữ, bằng kinh nghiệm cuộc đời mình bà hoàn tòan thấu hiểu
nỗi đau mà ngƣời phụ nữ phải gánh chịu. Vì vậy, bài Không chồng mà chửa là tiếng
kêu xé lòng của những ngƣời con gái nhẹ dạ, thông qua đó Hồ Xuân Hƣơng đã nói
lên cái thân phận hẩm hiu, ƣớc mơ về một duyên tình mặn nồng thủy chung, nói lên
tiếng nói đầy đau thƣơng của ngƣời phụ nữ trong tình yêu và hôn nhân của mình.
Trong tình yêu, ngƣời phụ nữ phải gánh chịu những định kiến ngặt nghèo
của xã hội. Nhƣ bài Không chồng mà chửa nhà thơ nói về cảnh ngộ những cô gái
nhẹ dạ không may có mang với ngƣời yêu của mình và đó là một tội tày đình không
đƣợc xã hội chấp nhận:
“Cả nể cho nên hóa dở dang
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 40
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Phận liễu sau đà nảy nét ngang.
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.
Quản bao miệng thế đời chênh lệch
Không có, nhưng mà có mới ngoan.”
(Không chồng mà chửa)
Trong bài thơ này Hồ Xuân Hƣơng cho thấy sự vô trách nhiệm của một
ngƣời đàn ông đối với ngƣời phụ nữ của mình ngƣời đàn ông thật vô tâm, tàn nhẫn
để một mình ngƣời phụ nữ phải gánh chịu với những búa rìu của xã hội .
Thật ra ngƣời phụ nữ không có tội mà đó là do sự nhẹ dạ cả tin, tin vào một
tình yêu không bến bờ. Đó là một sai lầm: cả nể vào ngƣời đàn ông mà thôi. Cả nể
không phải là tính xấu càng không phải là một cái tội. Có rất nhiều nỗi khổ nhƣng
sự dở dang là hành hạ ngƣời con gái nhất. Có lẽ tình yêu cô dành cho anh chàng này
rất mặn nồng, chân thành đầm thắm bởi nên tất cả những gì quý giá nhất của ngƣời
phụ nữ cô đều dành tặng hết cho ngƣời yêu. Vì quá yêu say đắm nên đã dâng hiến
hết, và rồi vì cả nể quá cho nên mới dở dang. Để rồi bao nhiêu tủi nhục dồn hết vào
con ngƣời bà, bà là một ngƣời vì tình vì nghĩa nên mới cả nể chứ không phải là một
ngƣời con gái hƣ, vì quá yêu, quá tin cho nên nàng cả nể:
“Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng.”
Nàng muốn cho chàng biết sự thật về nỗi niềm của nàng, muốn cho chàng
biết tình cảm mà nàng đã dành cho chàng là sự thật và cho chàng biết kết quả của sự
cả nể của nàng. Và rồi sự thật lúc nào cũng phũ phàng chua chát bà tự hỏi lòng
rằng:
“Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận liễu sao đà nảy nhét ngang.”
Chƣa thấy nhƣng đã sao đà cô gái sao vội vàng vậy? Cuối cùng thì mọi
chuyện đâu cũng vào đấy mọi việc đã rồi, nàng đã cam chịu mang tội lỗi của mình,
cam phận liễu mà lại nhô dọc nhƣ vậy. Thế mà xã hội phong kiến đã không cảm
thông cho số phận ngƣời phụ nữ mà còn lấy cớ để chỉ trích hành hạ đọa đầy ngƣời
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 41
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
phụ nữ thật đáng khinh. Còn Hồ Xuân Hƣơng đã đứng thẳng về phía các cô gái lầm
đƣờng cả nể, bà đã dùng ca dao để nói lên sự bên vực đó:
“Không chồng mà chửa mới ngoan,
Có chồng có chửa thế gian sự thường.”
Duyên ngƣời do trời định và có lẽ ngƣời con gái trong bài thơ này cũng
không ngoại lệ, trời đã định nàng và chàng là một đôi. Nàng đã lỡ và xem nhƣ một
lần nàng đã có chồng, nàng không trách bất kỳ ai, càng không đổ lỗi cho ngƣời đàn
ông đó. Chỉ mong cho chàng nhớ cái nghĩa trăm năm mà thôi. Còn bao nhiêu đàm
tếu chê cƣời của thiên hạ cũng nhƣ kết quả của sự cả nể đó “thiếp xin mang” thật
đáng thƣơng cho ngƣời con gái đó duyên tình đã lỡ mà còn phải chịu đựng sự chê
cƣời của thiên hạ thật đáng thƣơng. Nàng đã che đậy nỗi đau đó, tự mình chịu,
không cầu cứu van xin bất kỳ ai, chịu để gánh lấy phần trách nhiệm của mình về
cuộc đời mới:
“Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.”
Đó là những gì còn sót lại sau sự cả nể, đặt hết sự tin tƣởng vào ngƣời mình
yêu. Nếu không muốn gọi là sự cố thì đó là kết quả là niềm vui niềm an ủi cuối
cùng còn sót lại của cuộc tình không trọn vẹn đó. Cho nên vì niềm vui đó vì sinh
mạng mới nàng đã mặc cho sự mỉa mai của thiên hạ, mặc tất cả để không có chồng
mà vẫn đƣợc làm mẹ:
“Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà có mơi ngoan.”
Không có nỗi đau nào hành hạ ngƣời con gái bằng sự hành hạ của duyên tình
không trọn vẹn. Trong thời phong kiến không có nỗi đau, nỗi nhục nào bằng cảnh
ngƣời con gái không chồng mà chửa, xã hội phong kiến đã kết tội ấy vào tội làm trái
luân thƣờng đạo lý. Nếu không có sự góp mặt của ngƣời đàn ông thì ngƣời phụ nữ
liệu có một mình làm nên cái tội tày đình ấy không, thật đau khổ cho kiếp ngƣời
con gái. Mọi ngƣời khi sinh ra đều có quyền sống và quyền hạnh phúc, đặc biệt là
đƣợc hạnh phúc với ngƣời mình yêu, nhƣng một khi họ quyết tâm với tình yêu đó,
họ hết lòng vì tình yêu đó thì xã hội lại phê phán cái quyền ấy. Nếu nhìn theo một
chiều hƣớng tích cực khác thì nếu họ đã ăn cơm trƣớc kẻng thì tại sao không cho họ
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 42
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
tiếp tục sống với ngƣời mình yêu mà cứ phải tách họ ra rồi lăng mạ ngƣời phụ nữ
đúng là một xã hội nam quyền độc đoán ích kỷ, cứ thích lấy nỗi đau xé lòng của
ngƣời phụ nữ rồi tiếp tục chà xát vào vết thƣơng đó khiến cho nỗi đau đó vĩnh viễn
không bao giờ lành.
Hôn nhân và hạnh phúc là hai thứ quan trọng nhất của cuộc đời ngƣời phụ nữ
nhƣng nếu hôn nhân không trọn vẹn thì hạnh phúc làm gì có chổ mà tồn tại. Hai thứ
đó gắn bó mật thiết với nhau. Trong thời đại phong kiến họ đành chôn vùi hạnh
phúc của mình, khi duyên tình không có, không có ngƣời bầu bạn giữa lúc đêm
khuya thì tâm trạng của ngƣời phụ nữ hỡi ôi, sầu thảm. Tự mình buồn thảm trƣớc
duyên tình hẩm hiu không trọn vẹn của mình, cuộc đời nhiều mất mát sống trong
nghịch cảnh éo le. Mặc dù đau khổ vì duyên tình không trọn vẹn nhƣng không vì
vậy mà buôn xuôi ngƣời phụ nữ còn chút sức lực để vùng dậy, không chịu đầu hàng
số phận. Giữa không gian vắng lặng bao la mênh mông, cô liêu của một đêm sắp tàn
những nỗi thảm sầu không ngừng xuất hiện trong lòng ngƣời phụ nữ nghe sao mà
nó tái tê da diết, không gì thảm bằng duyên tình ngƣời phụ nữ không trọn vẹn, thật
đau xót làm sao:
“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mỏ thảm không khua mà cũng cốc.
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom!”
(Tự tình I)
Không gian hiện lên thật buồn tẻ và u ám, trong một không gian yên tĩnh đâu
đó có tiếng gà văng vẳng vọng lại nghe nó du dƣơng tha thiết làm cho nỗi đau
ngƣời phụ nữ nhân lên gấp bội. Thời gian về đêm là lúc ngƣời ta suy nghĩ về cuộc
đời nhiều nhất đặc biệt là trong đêm khuya thanh vắng lúc tàn canh và tự mình đối
diện với chính mình thì không làm sao cân đong đo đếm đƣợc hết nỗi buồn đó.
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 43
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã từng viết:
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
(Truyện Kiều)
Duyên tình không trọn vẹn đâu phải do ngƣời con gái, ngƣời con gái đâu có
tội nhƣng bao nỗi đau vẫn bắt ngƣời con gái gánh lấy, không chịu đƣợc thói đời bạc
bẽo đó cho nên ngƣời phụ nữ đâm ra oán hận (oán hận khắp mọi chòm). Nỗi oán
hận đó gƣờng nhƣ bao trùm tất cả, nỗi đau đó chất chứa, sâu sắc, mãnh liệt. Với lẽ
thƣờng mõ có khua mới cốc, chuông có đánh mới om nhƣng trong bài thơ này:
“Mõ thảm không khua mà cũng cốc.
Chuông sầu không đánh cớ sao om?”
Cái thảm cái sầu trong lòng ngƣời phụ nữ ngày một dâng lên nó cứ cốc cứ
om lên trong lòng, nghe âm thanh nó vu dƣơng ảm đạm đến não lòng. Tại sao hạnh
phúc là thứ ngƣời phụ nữ cần nhƣng vì hạnh phúc mà ngƣời phụ nữ lại đau khổ đến
mức tột cùng đến nhƣ vậy, nỗi buồn bủa vây ngƣời phụ nữ. Dƣới xã hội phong kiến
ngƣời phụ nữ không chỉ buồn về tình duyên đứt đoạn của mình mà còn buồn về
miệng lƣỡi của ngƣời đời:
“Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ”
Đã không hạnh phúc mà còn bị ngƣời đời đàm tếu, chẳng đâu vào đâu mà
nỗi buồn vẫn cứ ập đến. Xong ngƣời phụ nữ giận vì nỗi đau đến từ trƣớc:
“Sau giận vì duyên để mõm mòm”
Ngƣời phụ nữ đã lỡ duyên, hết tuổi xuân xanh đã lỡ thì quá lứa, duyên ngƣời
phụ nữ đã “mõm mòm” rồi, số phận thật éo le, cay đắng. Lúc trẻ thì tình duyên vỡ
lỡ không bến bờ còn khi về già thì duyên đã hẩm đã ôi, cuộc đời chƣa một lần đƣợc
hƣởng hạnh phúc chỉ toàn đau và khổ đôi lúc còn đâm ra oán hận. Duyên tình đến
muộn vậy mà không kéo dài đƣợc bao lâu, khi lớn tuổi mới lấy chồng vậy mà cả hai
lần đều làm lẽ và cả hai lần đều trở thành góa bụa, nỗi niềm ngƣời phụ nữ thật chua
chát, đắng cay.
Nhƣng Hồ Xuân Hƣơng vẫn còn chút gắn gƣợng, bởi trong tính cách của bà
bà là một ngƣời phụ nữ mạnh mẽ, cứng cõi không dễ gì đầu hàng số phận. Mạnh mẽ
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 44
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
quyết liệt để thách thức với số phận, cứng cõi để không dễ dàng buông xuôi chịu
thua trƣớc số phận của mình:
“Thân này đâu đã chịu già tom!”
Không nằm lại ở số phận đó, ngƣời phụ nữ đã vƣợt lên trên số phận đó, một
số phận nghiệt ngã. Bà thật là một ngƣời mạnh mẽ quyết liệt dù đau khổ dù duyên
tình không đi đến đâu nhƣng bà vẫn dứt khoát đâu đã chịu già tom.
Trong cuộc sống con ngƣời có hàng vạn hàng nghìn nỗi đau nhƣng nỗi đau
sự dở dang là hành hạ ngƣời con gái nhiều nhất. Đã vậy xã hội còn chƣa tha, xã hội
ấy không ngừng phang những búa rìu phũ phàng, ngƣời phụ nữ đành dang tay hứng
chịu.
Trong văn học Việt Nam có hàng trăm ngôi sao lấp lánh và tỏa sáng trong đó
có Hồ Xuân Hƣơng, bà là ngƣời phải hứng lấy nhiều nỗi đau khổ và bất hạnh, chính
vì vậy bà đã thay tất cả ngƣời phụ nữ nói lên tiếng lòng chung của ngƣời phụ nữ, bà
bộc bạch những nỗi đau của mình nhất là nỗi đau về đƣờng tình duyên không trọn
vẹn qua đó để nói lên cái thân phận hẩm hiu, phũ phàng, lỡ thì quá lứa của mình. Bà
luôn hy vọng, ƣớc mơ về tƣơng lai có một duyên tình mặn nồng thủy chung, ao ƣớc
thèm khát đƣợc một lần sống trong hạnh phúc. Đó là một ƣớc mơ đúng nghĩa, chân
thành, cháy bỏng nhƣng rồi bà lại thất vọng ƣớc mơ đó không thành hiện thực mà
đầy đau thƣơng ngƣời phụ nữ trong xã hội phong kiến xƣa không bao giờ cho giây
phút nào để ngƣời phụ nữ đƣợc một lần hạnh phúc.
Ngƣời phụ nữ nào mà không mong mình hạnh phúc trọn vẹn, ngƣời phụ nữ
hôm nay cũng vậy. Tất cả mọi phụ nữ đều khao khát cháy bỏng rạo rực trong tình
yêu cũng nhƣ hôn nhân của mình. Đây là ƣớc mơ chân chính và hiện thực nhất của
tất cả mọi phụ nữ ở mọi thời đại, thời nay thì phụ nữ còn hạnh phúc còn trong xã
hội phong kiến thì đối với ngƣời phụ nữ không tồn tại hai từ hạnh phúc thật bất
công cho ngƣời phụ nữ xƣa.
Trong bài Tự tình II của Hồ Xuân Hƣơng là tiếp theo nỗi đau của ngƣời phụ
nữ đau khổ vì duyên tình không trọn vẹn, nỗi đau đó không nguôi ngoai mà cứ theo
thời gian mà tăng dần lên. Tự tình II là tiếng nói đầy thƣơng cảm đối với số phận
hẩm hiu của ngƣời phụ nữ Việt Nam thời phong kiến. Nữ sĩ đã cảm nhận cuộc sống
qua những âm thanh, quan cảnh lạnh buồn, vắng lặng và tự cảm nhận thân phận
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 45
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
hẩm hiu của bà, đó cũng là số phận chung của ngƣời phụ nữ trong xã hội phong
kiến xƣa. Cuộc sống con ngƣời luôn thay đổi thuận theo chiều của tạo hóa, sinh,
lão, bệnh, tử một quy luật tự nhiên không thể tránh khỏi, cuộc sống quay cuồn rồi
đến khi họ lại đối diện với cuộc sống của chính mình đặc biệt giữa lúc đêm khuya
thì thật sầu thảm, tâm trạng. Và Tự tình II chính là tâm trạng giữa đêm khuya của
ngƣời cô phụ, sự ngao ngán cảnh đời và nỗi đau duyên tình mình:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xiêng ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con.”
(Tự tình II)
Thời gian luôn đi ngƣợc chiều với đời sống con ngƣời, đặc biệt là đối với
tình yêu tuổi trẻ thời gian luôn khắc nghiệt, thời gian làm cho những chờ đợi và hy
vọng bị chai sạn lạnh lùng và cũng chính thời gian làm nguội lạnh tình yêu cháy
bỏng trong con ngƣời “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại, mảnh tình san sẻ tí con con”
hy vọng càng nhiều thì lại càng thất vọng bấy nhiêu dần dần con ngƣời trở nên ngao
ngán và mất niềm tin với cuộc đời:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Thời gian lúc ngƣời phụ nữ nhìn nhận mọi việc là lúc giữa đêm khuya, đêm
khuya là lúc con ngƣời suy nghĩ nhiều nhất và là lúc tự đối diện với cuộc sống của
chính mình và cũng là lúc nhận ra tình cảnh đáng thƣơng nhất của mình, giữa đêm
khuya tuy có âm thanh có tiếng trống dồn nhƣng duy nhất chỉ có tiếng trống mà thôi
nó làm cho chúng ta cảm nhận đƣợc sự tỉnh lặng của không gian, sự trống vắng
trong đêm, sự lo sợ lại ùa về trong lòng ngƣời phụ nữ. Thời khắc nửa đêm, đối với
cuộc sống vợ chồng là thời điểm ân ái và hạnh phúc nhất nhƣng đối với một ngƣời
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 46
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
cô độc thì thời khắc ấy chính là sự cô đơn, lạnh lẽo, nỗi buồn nặng trĩu. Tiếng trống
từ xa thúc giục lại nhƣ thúc giục thời gian trôi nhanh qua, đêm sắp tàn là một điều
vô cùng đáng sợ đối với ngƣời đàn bà đơn chiếc. Mà thời gian cứ trôi mãi nó không
dừng lại đợi chờ bất cứ một ai có nghĩa là thời gian cứ trôi và tuổi già vẫn cứ phải
đến và đồng nghĩa với hy vọng về tình yêu và tuổi trẻ càng tuột ra xa tầm tay với,
mọi mong mỏi đợi chờ khao khát đều trở nên vô vọng. Tiếng trống cứ dồn dập âm ỉ
bên tai ngƣời phụ nữ, nó cứ quanh quẩn trong tiềm thức con ngƣời. Tiếng trống nhƣ
một bi kịch đối với cuộc đời ngƣời phụ nữ.
Khi thời gian lƣớt qua càng lúc càng dồn dập, thì con ngƣời ngày càng già,
nhan sắc càng tàn phai “cái hồng nhan” nó đã “trơ” ra với đời rồi. Hồng nhan để chỉ
nhan sắc của ngƣời phụ nữ mà nhan sắc chính là thứ quan trọng nhất đối với ngƣời
phụ nữ ấy vậy mà nhan sắc không kịp chạy đua với thời gian cái hồng nhan đã trơ
đã lì ra, đến nhƣ vậy mà chƣa có một tình yêu chƣa một lần đƣợc hạnh phúc. Ngƣời
phụ nữ đã ý thức đƣợc nhan sắc của mình cũng đồng thời ý thức đƣợc những nỗi
đau, nỗi bất hạnh chua xót của mình đã và đang từng ngày trải qua. Khi nỗi đau đạt
đỉnh, ngƣời phụ nữ trở nên trơ lì ra với nƣớc non, với cuộc đời. Đã trơ ra rồi nghĩa
là không còn cảm giác, một sự vô cảm, lạnh lùng, thờ ơ trƣớc những đau đớn của
cuộc đời bà, không gì đau xót bằng ngƣời phụ nữ không còn cảm giác với đời ắt
nguyên nhân rất dữ dội kết quả ngƣời phụ nữ mới trơ lì đến vậy, bất hạnh và đau
khổ trở nên rất thƣờng tình đới với ngƣời phụ nữ nó cứ đeo đẳng bám lấy con ngƣời
một cách dai dẳng đến vậy khiến cho con ngƣời ta mất hết cảm xúc trơ lì nhƣ tƣợng
đá. Khi con ngƣời cô đơn trơ trọi thì cảm giác đau khổ không sao diễn tả đƣợc hết
bằng lời ngoài trơ với cuộc đời ra ở đây còn hiểu theo nghĩa khác nhìn từ góc độ
khác “trơ trọi” còn đau khổ hơn, ngƣời phụ nữ cảm thấy mình cô đơn trơ trọi giữa
cuộc đời không có gì cả không một tình yêu cũng không hạnh phúc, chỉ tồn tại giữa
mình và sự cô đơn thật lẽ loi giữa cuộc đời này, một tâm trạng cay đắng bẽ bàng của
cuộc đời ngƣời phụ nữ. Thật tội cho ngƣời có chút hồng nhan có hồng nhan mà
không có đƣợc chút gì đƣợc gọi là hạnh phúc ngƣời phụ nữ vẫn phải sống cô đơn
tủi nhục, thật đáng thƣơng cho ngƣời phụ nữ có sắc nhƣng cuộc đời thì bất hạnh, và
đó cũng chính là số phận chung của ngƣời phụ nữ trong xã hội đƣơng thời, bị đè
nén, áp bức làm xơ xác héo mòn phận hồng nhan.
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh 47
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Khung cảnh buồn ẩn chứa bao nỗi niềm của ngƣời phụ nữ cô đơn, có trăng
có rƣợu nhƣng say rồi tỉnh khuyết lại tròn không định dạng đƣợc. Một ngƣời phụ nữ
mà uống rƣợu một mình trong đêm thì tâm sự trong lòng nặng trĩu, nỗi sầu không
sao tả đƣợc, có một sự bất hạnh trong cuộc đời. Ngƣời phụ nữ tìm quên trong men
rƣợu, mƣợn rƣợu giải sầu muốn trút bỏ u tƣ phiền muộn nhƣng càng uống lại càng
tỉnh, càng nhận ra những nghịch cảnh trớ trêu của cuộc đời, rƣợu không thể làm
nguôi ngoai đi tất cả mà cứ say rồi tỉnh, rƣợu không làm quên đi đƣợc sự chán ngán
của cuộc đời mà ngƣợc lại nó làm cho nỗi đau con ngƣời lên đến đỉnh điểm. Chén
rƣợu không làm tan đi bao nỗi cô đơn tủi nhục trong lòng, ngƣời phụ nữ nếm từng
giọt rƣợu đắng cay nhƣ nuốt ngƣợc vào trong những giọt buồn sầu tủi, nuốt vào
những giọt đắng cay giống nhƣ nuốt từng chén sầu vào trong không chia sẽ cùng ai
đƣợc. Rƣợu uống có thể say nhƣng lúc nào đó sẽ tỉnh lại. Tỉnh rồi ngƣời ta mới
nhận ra hƣơng vị còn để lại vị đắng chát trên đầu lƣỡi. Và những đau khổ chua chát
sau cơn say càng đƣợc nhân lên hàng vạn lần, cuộc đời nhƣ một vòng luẩn quẩn đầy
bế tắc, rất đỗi xót xa cho ngƣời phụ nữ say rồi tỉnh nó cứ nhƣ một vòng tuần hoàn
nghiệt ngã của số phận.
Hạnh phúc của ngƣời phụ nữ tựa vầng trăng khuyết họ không biết đƣợc
tƣơng lai của ngày mai, trăng khuyết và cũng sắp xế tàn rồi, ẩn trong ánh sáng của
vầng trăng là một nỗi cô đơn trống trãi “bóng xế”, trăng xế là đồng nghĩa với tuổi
thanh xuân của ngƣời phụ nữ sắp tàn phai rồi. Trăng đã bóng xế mà vẫn khuyết
chƣa tròn tựa nhƣ tuổi thanh xuân của ngƣời phụ nữ sắp trôi xa mà tình duyên và
hạnh phúc vẫn không trọn vẹn. Dù là vậy, dù trong lòng đau xót đau đến xé lòng,
chán chƣờng cuộc sống này đến chừng nào, Xuân Hƣơng vẫn là một ngƣời phụ nữ
đầy bản lĩnh. Tận sâu trong trái tim yếu ớt vỡ vụng của ngƣời phụ nữ ở đâu đó vẫn
còn một tia hy vọng, không khuất phục, không chịu thua mà luôn muốn vùng lên
thay đổi cuộc sống này. Hai câu thơ tiếp theo nhƣ nói lên sự mạnh mẽ, ngang ngạnh
của ngƣời phụ nữ đã từng chìm nổi trong tình yêu:
“Xiêng ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.”
Thiên nhiên cũng mang nỗi niềm phẫn uất của con ngƣời, tất cả nhƣ luôn cử
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 48
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
động luôn sống. Trong suy nghĩ của ngƣời phụ nữ này không buôn xuôi, không đầu
hàng số phận mà trong tƣ tƣởng họ luôn tìm cách thay đổi. Chỉ là những cảnh vật
bình thƣờng chỉ là rêu là đá qua cặp mắt nhìn đời đầy ấm ức, bất mãn của ngƣời phụ
nữ chúng đã trở nên mạnh mẽ và dữ dội, muốn xiêng ngang muốn đâm toạc muốn
đập tan những gì gò bó để đƣợc tự do vùng vẫy giữa đất trời tự nhiên để đƣợc sống
hòa hợp chung vui giữa tình yêu và hạnh phúc. Một tâm trạng phẫn uất của Hồ
Xuân Hƣơng đối với tuổi già và những luật lệ hà khắc của lễ giáo phong kiến, cũng
nhƣ số phận duyên tình hẩm hiu đang tàn nhẫn từng ngày bóp chết hạnh phúc của
bà. Bà muốn xiêng ngang muốn đâm toạc để giành lại tình yêu và hạnh phúc.
Nhƣng đó là lời thơ là những suy nghĩ trong bà bà không thể làm nhƣ mình suy nghĩ
bởi thực tại bà là một ngƣời phụ nữ của xã hội phong kiến, một ngƣời phụ nữ bình
thƣờng cô độc là một tầng lớp thấp hèn trong xã hội, ngƣời phụ nữ đành cam chịu
không thể làm gì hơn đƣợc nữa. Đến cuối cùng về với thực tại bà cũng ngao ngán
cảnh đời:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẽ tí con con.”
Bao mạnh mẽ, khao khát vùng vẫy cuối cùng cũng bị dập tắt trong sự chán
chƣờng, ngƣời phụ nữ không thể thoát khỏi đƣợc định mệnh của số phận. Cuối cùng
ngƣời phụ nữ phải cam chịu, thốt lên trong từng tiếng thở dài ngao ngán. Ngƣời phụ
nữ chán ngán cái vòng luẫn quẩn của số phận. Thiên nhiên thì cứ tuần hoàn cứ lặp
đi lặp lại xuân đi rồi xuân sẽ đến nhƣng tuổi xuân con ngƣời thì chỉ có một, chỉ một
lần đến rồi đi mãi mãi, mỗi một mùa xuân trôi qua là tuổi già ngƣời phụ nữ đang
tuột mất từng ngày. Xuân đi tuổi già đến là khi nỗi đau trong lòng bà ngày cứ một
dâng lên ngƣời phụ nữ đã già mà vẫn chƣa có một tình yêu nỗi đau đó không sao kể
xiết nổi, ngƣời phụ nữ chán ghét số phận hẩm hiu của mình, chán cái đƣờng tình
duyên ngang trái không ra gì của mình, hạnh phúc trong cuộc đời ngƣời phụ nữ này
nhƣ chƣa một lần đƣợc hiện diện.
Hạnh phúc thật sự là nếu nhƣ sở hữu một tình yêu trọn vẹn, nhƣng đối với
Xuân Hƣơng tình yêu nhƣ một món đồ nó đƣợc sang từ ngƣời này sang ngƣời khác,
tình yêu mà bà có đƣợc nhƣ một mảnh vỡ nhỏ bé đƣợc nhặt từ ngƣời khác nó giống
nhƣ một sự bố thí hơn một tình yêu đúng nghĩa. Thật đau xót khi “mảnh tình”
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 49
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
không trọn vẹn mà nó đƣợc chia năm sẽ bảy mà ngƣời phụ nữ này chỉ nhận đƣợc
một mảnh “tí con con” đã tí lại còn con con không thể hình dung ra nó nhỏ bé đến
chừng nào nếu không muốn nói là gần nhƣ không có. Thà không có còn hơn có chi
mà chút tí con con thì có để làm gì, có chỉ cho con ngƣời thêm đau đớn tủi nhục mà
thôi.
Nhìn về mặt tình yêu của phụ nữ trong xã hội xƣa, hạnh phúc của ngƣời phụ
nữ trong thơ Xuân Hƣơng hoàn toàn bị tƣớc đoạt, những gì mà tạo hóa ban cho đều
bị mất hết chỉ còn lại trong họ nỗi đáng thƣơng, hẩm hiu cho số phận mình. Chính
xã hội xƣa đã gây ra cho họ, đã chà đạp, cƣớp đoạt đi bao quyền lợi và ƣớc mơ chân
chính của họ. Ngƣời phụ nữ trong xã hội xƣa chỉ còn biết nhịn nhục cam chịu chấp
nhận số phận mà thôi. Nỗi đau đƣờng tình duyên dƣờng nhƣ ám ảnh họ suốt cuộc
đời vì nỗi đau trong tim không bao giờ lành hẳn đƣợc đâu đó vẫn còn một vết sẹo
không bao giờ lành.
Trong xã hội xƣa ngƣời phụ nữ lúc nào cũng phải đau khổ, không phân biệt
giai cấp dù là ngƣời phụ nữ bình dân hay cung tầng mỹ nữ đều phải nếm mùi đau
khổ đắng cay. Nhất là về đƣờng tình duyên ngƣời phụ nữ lúc nào cũng phải chịu
cảnh lận đận, thiệt thòi, nhƣ ngƣời phụ nữ trong Chinh phụ ngâm là nỗi đau về
đƣờng tình duyên không trọn vẹn. Đoạn trích đã diễn tả nỗi nhớ nhung sầu muộn
của ngƣời chinh phụ, nhƣng nỗi đau này khác với nỗi đau với ngƣời phụ nữ trong
thơ Hồ Xuân Hƣơng. Trong thơ Hồ Xuân Hƣơng là ngƣời phụ nữ khát khao tình
yêu nhƣng tình yêu chƣa một lần đến chính xã hội phong kiến đã tƣớc đoạt mọi
quyền lợi và hạnh phúc của ngƣời phụ nữ. Hồ Xuân Hƣơng chỉ là một ngƣời phụ nữ
bình dân, tầng lớp thấp trong xã hội xƣa khác với ngƣời phụ nữ trong Chinh phụ
ngâm, là một ngƣời phụ nữ quí tộc. Ngƣời chinh phụ có tình yêu và hạnh phúc
nhƣng buộc phải xa rời chồng vì chồng phải ra đi vì chinh chiến, ngƣời phụ nữ cũng
đau khổ trông ngóng héo mòn khi chờ đợi. Giống ở đây là cả hai ngƣời phụ nữ
trong Chinh phụ ngâm và trong tập thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng là đều
khao khát hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn, muốn hạnh phúc chăn gối đƣợc mỹ mãn. Nỗi
đau chia cách đã làm cho ngƣời phụ nữ oán trách chính chiến tranh phong kiến đã
giày xéo lên hạnh phúc lứa đôi, chiến tranh đã xô đẩy ngƣời chinh phu ra ngoài
chiến địa để ngƣời chinh phụ trông ngóng nhớ thƣơng. Trong Chinh phụ ngâm là
SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi nỗi nhớ da diết về một tình yêu mà mình đang tận hƣởng, một nỗi buồn vì phải xa GVHD: Th.S. Lê Văn Phương 50
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
cách chồng còn ngƣời phụ nữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng là nỗi đau vì không
có hạnh phúc lúc nào cũng trông chờ ngƣời khác ban phát hạnh phúc cho mình.
Duyên tình thật hẩm hiu, khi thì muộn màng chờ đợi mãi không đến có khi
thì đƣợc một mảnh tình, một tấm chồng nhƣng số phận ngƣời phụ nữ trong xã hội
phong kiến mãi mãi họ cũng không đƣợc hạnh phúc trọn vẹn, duyên tình họ lúc nào
cũng tan đàn sẽ nghé. Khi thì van xin tình yêu, khi lấy chồng thì phải chịu cảnh làm
lẽ hoặc có chồng thì đến nửa chừng lại chết chồng. Thà không tình yêu không hạnh
phúc còn hơn khi có chồng có chút hạnh phúc rồi chồng lại chết, trong muôn vàn
bất hạnh và khổ đau của ngƣơi phụ nữ có một nỗi đau và bất hạnh lớn nhất là rơi
vào cảnh chết chồng. Xuân Hƣơng đã gánh chịu cảnh chịu tang chồng nên bà rất
thấu hiểu nỗi đau nỗi mất mát của một ngƣời phụ nữ mất chồng. Hồ Xuân Hƣơng
đã từng Khóc Tổng Cóc, khóc để vĩnh biệt ngƣời chồng của mình:
“Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi!”
(Khóc Tổng Cóc)
Xuân Hƣơng rất đau xót, không còn đủ bình tỉnh trƣớc sự ra đi của ngƣời
chồng của mình, cất tiếng khóc sầu thảm, ai oán của ngƣời phụ nữ trƣớc cảnh chồng
chết chẳng biết làm gì chỉ cất tiếng gọi tên trong vô vọng “Chàng Cóc ơi! Chàng
Cóc ơi”. Số kiếp ngƣời phụ nữ trong xã hội phong kiến hình nhƣ đã đƣợc định sẵn
là nhƣ vậy, tình yêu và hạnh phúc đến muộn và nếu có đến thì cũng giữa đƣờng gãy
gánh.
Chƣa dừng lại ở đó, tiếp theo lần thứ hai lấy chồng cũng là lần thứ hai chịu
tang chồng. Số phận quá khắc nghiệt và éo le. Duyên nợ của bà và ông Phủ Vĩnh
Tƣờng quá ngắn ngủi chỉ hăm bảy tháng trời chỉ ngắn nhƣ vậy mà ngƣời phụ nữ
phải đau một nỗi đau trăm năm. Đau cho cảnh chồng chết, đau cho nỗi đau duyên
tình không trọn vẹn của mình.
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 51
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
TIỂU KẾT
Hồ Xuân Hƣơng là ngƣời phụ nữ dân gian nên những cái đẹp trong thơ bà rất
giản dị và rất bình thƣờng rất thực. Đẹp ngƣời phụ nữ là hiện thân của cái đẹp, tất cả
đều hội tụ về ngƣời phụ nữ đẹp ngƣời đẹp nết. Dẫu cuộc đời có đầy rẫy những khổ
đau nhƣng ngƣời phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng luôn ngẩn cao đầu ở tƣ thế hiên
ngang đầy bản lĩnh, Hồ Xuân Hƣơng không rơi giọt nƣớc mắt nào cả bà cũng không
muốn tốn nƣớc mắt cho một xã hội không có đạo lý không có tình nghĩa. Bà muốn
thể hiện mình, muốn nói lên tiếng nói đầy mạnh mẽ để ngƣời phụ nữ chống chọi với
cuộc sống này.
Thơ Hồ Xuân Hƣơng có nhiều giá trị trong mọi thời đại. Ngƣời phụ nữ cũng
là một tế bào trong nhân loại, là ngƣời sản sinh ra nhân loại vậy nên phụ nữ cần
đƣợc hƣởng mọi giá trị và mọi quyền lợi thuộc về con ngƣời, họ cần phải đƣợc sống
hạnh phúc, công bằng và tự do. Thơ Hồ Xuân Hƣơng đã nói lên đƣợc tiếng nói khát
khao về quyền đƣợc yêu và quyền đƣợc hạnh phúc.
Tóm lại, viết về ngƣời phụ nữ Hồ Xuân Hƣơng đã viết đƣợc nhiều điều mà
không mấy ai viết đƣợc. Bà đã cho thấy hết những vẻ đẹp cũng nhƣ nỗi đau khổ và
bất hạnh mà ngƣời phụ nữ phải chịu. Những bài thơ của Hồ Xuân Hƣơng đã thay
lời nói lên tiếng nói về cuộc đời đầy bất hạnh của ngƣời phụ nữ.
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 52
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Chƣơng 3
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG
THƠ HỒ XUÂN HƢƠNG
3.1. THỂ THƠ
Hồ Xuân Hƣơng là một gƣơng mặt nổi tiếng trong Văn học Trung đại Việt
Nam, bà đã đẩy thơ Nôm đƣờng luật phát triễn mạnh mẽ hơn. Thơ Nôm đƣờng luật
là tiếng nói dân chủ đã đƣợc dân tộc hóa, bình dân hóa. Thơ Nôm đƣờng luật có
nhiều giá trị trƣớc hết là nêu lên đƣợc những bất công và bất hạnh mà ngƣời phụ nữ
thời đó phải chịu đựng.
Chùm thơ Tự tình là thành tựu xuất sắc nhất của Hồ Xuân Hƣơng. Nó là
tiếng thơ thốt ra từ đáy lòng của ngƣời phụ nữ tài hoa nhƣng cuộc đời lại nhiều bất
hạnh, truân chiên. Đó là cả một tiếng lòng trong xã hội cũ.
Trong ba bài thơ Tự tình có rất ít từ Hán Việt, lớp từ Việt trong chùm thơ Tự
tình đƣợc sử dụng rất nhiều nhƣ: trống canh, chén rƣợu, rêu, đá, mõ, khoang...
Ngoài ra Hồ Xuân Hƣơng còn dùng thể thơ bảy chữ trong Xuân Hƣơng thi
tập. Bánh trôi nước là một điển hình nói lên sự lênh đênh trôi dạt không bến bờ của
3.2. HÌNH ẢNH
ngƣời phụ nữ.
3.2.1. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hƣơng
Hồ Xuân Hƣơng là một ngƣời phụ nữ bình dân và giản dị, bà yêu cuộc sống
xung quanh mình, thiết tha với thiên nhiên.
Tâm hồn bà lúc nào cũng yêu thiên nhiên vì vậy thơ Hồ Xuân Hƣơng lúc nào
cũng ẩn chứa nhiều hình ảnh thiên nhiên tƣơi đẹp. Bà đã nói lên lòng yêu mến thắm
thía đối với cảnh vật bên ngoài, qua phong cảnh thiên nhiên tác giả đã gửi tâm tƣ,
tình cảm của mình vào cảnh vật ấy. Cảnh vật trong thơ Hồ Xuân Hƣơng tƣơi tắn
đầy màu sắc tràng trề nhựa sống:
“Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông
Cỏ gà lún phún leo quanh mép
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 53
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Cá diếc le te lách giữa dòng”
(Giếng thơi)
Những cảnh vật vốn dĩ rất bình thƣờng nhƣng đến với thơ Hồ Xuân Hƣơng
thì nó trở nên sinh sôi, nảy nở.
Cảnh vật cũng biết thay đổi cũng biết giận giữ biết buồn bực:
“Xiêng ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
(Tự tình I)
Thiên nhiên cũng biết buồn biết vui, Hồ Xuân Hƣơng đón nhận nó bằng tất
cả các cảm giác vui buồn của con ngƣời.
Hình ảnh thiên nhiên còn đƣợc Hồ Xuân Hƣơng liên tƣởng đến bộ phận trên
cơ thể ngƣời phụ nữ, những cảnh vật hết sức bình thƣờng bao giờ cũng đƣợc bà
phát hiện một vẻ riêng biệt đầy thú vị:
“Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn chèo”
(Đèo Ba Dội)
Nói cái đèo nhƣng ngụ ý lại muốn nói cái bộ phận trên cơ thể ngƣời phụ nữ,
bà muốn trêu trọc bọn hiền nhân quân tử đạo đức giả đồng thời cũng nói lên lòng
yêu thiên nhiên đất nƣớc.
Lời tỏ tình bà cũng liên tƣởng đến hình ảnh thiên nhiên, lá trầu đƣợc bà đƣa
vào với lời mời gọi tình duyên tha thiết:
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quyệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi.”
(Mời trầu)
3.2.2. Hình ảnh ngƣời phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng
Tiếng thơ Hồ Xuân Hƣơng là tiếng lòng của ngƣời phụ nữ nên trong những
vần thơ của bà lúc nào cũng có hình ảnh ngƣời phụ nữ hiện hữu. Hình ảnh ngƣời
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 54
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
phụ nữ lúc nào cũng đẹp cũng tần tảo, chịu đựng và hy sinh.
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”
(Bánh trôi nước)
Hình ảnh ngƣời phụ nữ hiện ra với thân hình tuyệt mỹ không chê vào đâu
đƣợc vừa trắng lại vừa tròn. Và ẩn sau hình ảnh là cả một tấm lòng kiên trinh sâu
sắc mặc cho ngƣời đời bạc bẽo.
Trong Thiếu nữ ngủ ngày cũng có hình ảnh ngƣời phụ nữ, mà hình ảnh ngƣời
phụ nữ thật sinh động truyền thần và hấp dẫn. Hình ảnh ngƣời phụ nữ gắn liền với
đôi gò Bồng Đảo và lạch Đào Nguyên để nói lên vẻ đẹp tự nhiên, tuyệt mỹ của
3.3. NGÔN TỪ
ngƣời phụ nữ.
Hồ Xuân Hƣơng là ngƣời phụ nữ giản dị với cách nói dân gian nên ngôn từ
bà sử dụng trong thơ cũng rất giản dị và đời thƣờng không cầu kì trau chuốt. Bà
đƣợc Xuân Diệu mệnh danh là bà chúa thơ Nôm nên cách sử dụng ngôn từ rất nôm
na; gần gũi. Bà sống cuộc sống rất đời thƣờng cách nói của bà cũng rất trần tục, bởi
vậy khi nhắc đến Hồ Xuân Hƣơng là ngƣời ta nghĩ ngay đến cái “dâm” và cái “tục”
trong thơ bà. Không hẳn viết tục thì đã tục cho nên từ khi thơ bà xuất hiện đến nay
đã gây ra nhiều tranh luận và bàn cãi cho các nhà nghiên cứu khi nhắc đến yếu tố
“dâm” và “tục” trong thơ bà.
Thơ của bà là nói tục để giảng thanh. Thơ Hồ Xuân Hƣơng không hoàn toàn
dâm tục mà ý thơ cứ lấp lửng làm cho ngƣời đọc phải hiểu theo hai nghĩa. Có rất
nhiều ý nghĩa khác nhau khi bà đề cập đến yếu tố dâm và tục trong thơ chẳng hạn:
nói dâm và tục để chửi thẳng vào mặt bọn hiền nhân quân tử, chẳng qua chỉ là một
con ngƣời tầm thƣờng với những ham muốn trần tục nhƣng lại ra vẻ đạo đức của
một bậc thánh nhân, hoặc để nói lên vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ với những khát vọng
cá nhân chính đáng mà mọi ngƣời đều có quyền đƣợc hƣởng.
Đọc những câu thơ của Hồ Xuân Hƣơng ta có liên tƣởng ngay đến yếu tố
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 55
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
dâm và tục trong thơ bà nhƣ:
“Chành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.”
(Cái Quạt I)
“Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa”
(Cái Quạt I)
Hoặc:
“Khi giang thẳng cánh bù khi cúi,
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi”
(Trống thủng)
Thơ Hồ Xuân Hƣơng có chứa đựng yếu tố dâm và tục, nhƣng không hoàn
toàn là dâm tục, ý nghĩa dâm và tục không làm mất giá trị tác phẩm của bà. Chẳng
qua bà dùng nó chỉ để làm một phƣơng tiện nghệ thuật một thứ vũ khí để tát vào
mặt một cái tát thật đau thật thấm vào mặt bọn hiền nhân quân tử, những bọn đã bị
tha hóa tồi tệ về mặt đạo đức và nhân phẩm:
“Chành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.”
Cái ấy mà làm mát mặt anh hùng, che đầu quân tử thì chẳng có cái tát nào
mạnh và đau hơn. Dù cho bị tát vào mặt nhƣng không thể nói ra đƣợc. Bởi vì “cái
ấy” lại chính là “cái quạt”. Câu thơ bà luôn có ý lấp lửng, cái quạt nhƣng có thịt có
da đã phần nào nói lên dụng ý của bà. Rõ ràng câu thơ có yếu tố dâm và tục nhƣng
đó là một phƣơng tiện để chửi thẳng vào mặt bọn hiền nhân quân tử.
Là một ngƣời phụ nữ mà duyên tình bà chƣa một lần đƣợc trọn vẹn do bà
sống trong một xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, xã hội không chấp nhận cho
ngƣời phụ nữ có quyền tự do yêu đƣơng, xã hội phong kiến không cho họ bất cứ
quyền lợi tự do nào, họ luôn bị tƣớc đoạt mọi hạnh phúc thậm chí tệ hơn nữa là
ngƣời phụ nữ nhƣ một món đồ chơi rẻ rúng. Hồ Xuân Hƣơng đã đồng cảm với số
phận ngƣời phụ nữ, những câu thơ của bà có chút ít cảnh sinh hoạt vợ chồng chốn
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 56
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
phòng the, bên cạnh những yếu tố dâm và tục bà đã ngợi ca cảnh sinh hoạt vợ chồng
và bày tỏ sự khao khát về một hạnh phúc trần tục đời thƣờng:
“Bốn cột khen ai khéo khéo chồng,
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uống lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân có biết chăng xuân tá.
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!”
(Đánh đu)
Qua cảnh sinh hoạt vợ chồng, bà đã ngợi ca những hình ảnh bay bổng. Từ
ngữ bài thơ có pha chút dâm tục vì miêu tả rõ cảnh sinh hoạt gối chăng vợ chồng
nhƣng ẩn sâu trong ý nghĩa của nó không ẩn chứa một chút dâm tục nào. Bà ca ngợi
nó bằng tất cả những khao khát đƣợc ái ân, đƣợc thỏa mãn những hạnh phúc trần
tục. Những khát vọng yêu đƣơng đƣợc thể hiện rõ trong câu:
“ Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng”
Đó là những khát khao hạnh phúc ái ân tuổi trẻ. Nhƣng xã hội phong kiến đã
khƣớc từ mọi ƣớc ao và khát vọng, một tiếng thở dài ngao ngán đƣợc thốt ra “Cọc
nhổ đi rồi, bỏ lỗ không”, thật xót xa cho số phận ngƣời đàn bà trong chế độ cũ.
Một ngƣời đàn bà bất chấp tất cả để chống lại một xã hội nam quyền vô nhân
đạo, muốn đứng lên giành lại quyền lợi thuộc về ngƣời phụ nữ. Giành lại quyền
đƣợc yêu đƣơng và tự do khát khao hạnh phúc ái ân tuổi trẻ. Bà đã dùng đến cái
dâm và cái tục để tháo bỏ cái đạo đức giả trong xã hội cũ. Dâm và tục trở thành một
thứ vũ khí lợi hại để chiến đấu giành lại mọi quyền lợi chính đáng, để đánh vào mặt
bọn giả hiền nhân quân tử, chứ không phải cái dâm và cái tục đƣợc phô diễn trên
từng câu chữ.
Trong nền Văn học Trung đại thƣờng tránh đi những chuyện phòng the chăn
gối, càng tránh né hai từ nhạy cảm là tình dục. Nhƣng với Hồ Xuân Hƣơng bà đã tát
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 57
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
vào mặt bọn hiền nhân, quân tử, vua, chúa bà đã dùng đến “cái này” để vạch trần bộ
mặt đạo đức giả của bọn vua, chúa giả làm hiền nhân quân tử: “Chúa dấu vua yêu
một cái này” hoặc “Hiền nhân quân tử ai là chẳng _ mỏi gối chồn chân vẫn muốn
trèo”.
Bọn hiền nhân đạo đức giả cứ trốn tránh chuyện tình dục nhƣng đó chỉ là bề
ngoài của một con ngƣời, tận sâu trong những con ngƣời ấy hơn ai hết họ có những
thèm muốn dục vọng lên cao nhất ấy vậy mà cứ tránh né cho mình là bậc thánh
nhân. Với ngòi bút của Hồ Xuân Hƣơng bà đã phô diễn đƣợc bản chất thực của con
ngƣời ấy.
Không phải nói dâm tục là nhất định phải hiểu theo nghĩa dâm tục trên câu
chữ đôi khi nói dâm tục để diễn tả cái đẹp trên thân thể ngƣời phụ nữ vì không thể
có những từ ngữ khác để diễn tả đƣợc vẽ đẹp trời cho đó. Hồ Xuân Hƣơng đã vẻ
một bức tranh khỏa thân vô cùng sinh động trong bài Thiếu nữ ngủ ngày. Quá giấc
nồng để ngƣời thiếu nữ vô tình lộ rõ những đƣờng cong quyến rũ trên cơ thể mình:
“Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm,
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông”
Chỉ một đƣờng cong trên cơ thể ngƣời phụ nữ mà đã làm chao lòng quân tử,
với hình thể đẹp nhƣ vậy đã làm cho quân tử dùng dằng không nỡ rời đi hình ảnh
đẹp đó “Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt - đi thì cũng dở ở không xong”. Thật ra
bản chất thực của bọn hiền nhân, quân tử là họ cũng chỉ mãi mê với cái đẹp của
ngƣời phụ nữ không thể chối cãi là “đôi gò Bồng Đảo và một lạch Đào Nguyên” đã
quyến rũ con ngƣời họ để cho họ đi không đƣợc mà ở cũng không xong.
Trong thơ Hồ Xuân Hƣơng, có chứa đựng yếu tố tục mà không tục dâm mà
không dâm, trong thanh có tục và trong tục có thanh. Chẳng qua dâm và tục chỉ là
một phƣơng tiện nghệ thuật để bày tỏ thái độ của mình, để đánh đòn vào bọn hiền
nhân, quân tử, để ca ngợi và giành lại những gì thuộc về ngƣời phụ nữ. Bà là ngƣời
duy nhất trong nền Văn học Trung đại Việt Nam dám đƣa yếu tố dâm tục vào trong
thơ và đó là điều nổi bậc khi nhắc đến thơ Hồ Xuân Hƣơng. Dâm và tục chỉ là một
phần nhỏ trong thơ bà cái cốt lõi ở đây là dâm và tục chỉ là cái vỏ để chở bao nhiêu
đạo lý bên trong mà thôi.
Tóm lại Hồ Xuân Hƣơng có vốn từ ngữ rất phong phú, đầy màu sắc dân tộc.
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 58
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hƣơng là nhà thơ dòng Việt – bà chúa thơ Nôm nên những từ ngữ bà sử
dụng rất gần gũi rất Việt Nam, dân dã nhƣ: Cái quạt, quả mít, con ốc... Trong thơ bà
ít sử dụng từ Hán Việt qua đó khẳng định bà là ngƣời yêu ngôn ngữ dân tộc, có ý
3.4. CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ
thức dân tộc có bản lĩnh, mạnh mẽ và thông minh.
3.4.1. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong thơ Hồ Xuân Hƣơng
Xuân Hƣơng thi tập là một thành tựu suất xắc nhất của Hồ Xuân Hƣơng. Có
nhiều yếu tố để góp phần tạo nên sự độc đáo trong thơ bà, nữ sĩ đã vận dụng tài tình
nhiều thành ngữ, tục ngữ, ca dao và câu đố vào thơ mình.
Hồ Xuân Hƣơng sử dụng thành ngữ một cách rất tài tình và linh hoạt, bà đã
lấy lại nguyên vẹn các thành ngữ để đƣa vào trong những câu thơ của mình. Ví dụ
nhƣ:
“Bảy nổi ba chìm” trong câu “Bảy nổi ba chìm với nước non” (Bánh trôi
nước)
“Bạc nhƣ vôi” trong câu “Đừng xanh như lá bạc như vôi” (Mời trầu)
“Cố đấm ăn xôi” trong câu “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm” (Làm lẽ)
“Năm thì mƣời họa” trong câu “Năm thì mười họa hay chăng chớ” (Làm lẽ)
Rất nhiều thành ngữ đƣợc bà đƣa trực tiếp vào trong thơ. Nhờ vận dụng
thành thạo và linh hoạt các thành ngữ nên những nội dung cần biểu đạt đƣợc thể
hiện rất rõ. Trong bài Bánh trôi nước đã dùng thành ngữ “Bảy nổi ba chìm” để thể
hiện thân phận ngƣời phụ nữ, cuộc sống long đong chìm nổi không tự quyết đƣợc
số phận của mình.
Trong bài Mời trầu còn sử dụng một số thành ngữ chỉ màu sắc nhƣ “Bạc nhƣ
vôi” và “Xanh nhƣ lá” để nói lên sự thành thật của nàng về lời mời gọi trong tình
yêu nhƣng cuộc đời thật bạc bẽo “Bạc nhƣ vôi” không đáp trả cho nàng một tình
yêu nhỏ bé nào. Đằng sau lời mời gọi là một lời tỏ tình duyên dáng của một ngƣời
con gái. Hồ Xuân Hƣơng đang sống rất cô đơn trong cuộc đời nhƣng tận sâu trong
lòng đang khát vọng mãnh liệt về một tình yêu đôi lứa.
Đặc biệt trong bài Làm lẽ, Hồ Xuân Hƣơng sử dụng rất nhiều thành ngữ, mỗi
một thành ngữ là một nỗi đau, một sự chịu đựng của ngƣời phụ nữ. “Năm thì mƣời
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 59
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
họa”, “Có tiếng không có miếng”, “Cố đấm ăn xôi”, “Làm mƣớn không công” và
“Gặp chăng hay chớ”. Hồ Xuân Hƣơng đã cho thấy hết thảy những thiệt thòi bất
hạnh, khổ đau, chua chát của cuộc đời làm lẽ đặc biệt một sự chịu đựng hết sức
mạnh mẽ trong một ngƣời phụ nữ yếu mềm. Bên cạnh đó bà tỏ một sự phản kháng
mạnh mẽ đối với một chế độ đa thê kéo dài suốt một thế kỷ và khắc nghiệt trong xã
hội phong kiến.
Bên cạnh vận dụng nhiều thành ngữ Hồ Xuân Hƣơng đã tiếp thu và vận dụng
thành công nhiều tục ngữ nhƣng đối với tục ngữ Hồ Xuân Hƣơng không sử dụng
hết một câu tục ngữ mà chủ yếu bà chỉ lấy ý của câu tục ngữ để bộc lộ rõ thái độ
của mình.
Câu tục ngữ “Con có cha nhƣ nhà có nóc, con không cha nhƣ nòng nọc đứt
đuôi” đƣợc đƣa vào câu “Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé” trong bài (Khóc Tổng
Cóc). Hồ Xuân Hƣơng đã thể hiện nỗi đau đớn và xúc động của ngƣời vợ phải chịu
cảnh chịu tang chồng, ngƣời vợ không làm chủ đƣợc lý trí của mình nửa.
Ý câu tục ngữ “Tham ván bán thuyền” trong câu “Ấy ai tham ván cam lòng
vậy” (Tự tình III), để nói lên sự trao đổi, vội đến rồi vội đi. Duyên tình hẩm hiu,
long đong trôi dạt không bến bờ.
Hoặc ý câu tục ngữ “không chồng có chửa mới ngoan, có chồng mà chửa thế
gian sự thƣờng” đƣợc đƣa vào câu “Không có nhưng mà có mới ngoan” trong bài
(Không chồng mà chửa). Cả bà và những câu tục ngữ xƣa đều bên vực ngƣời phụ
nữ.
Hoặc câu tục ngữ “Con vua vua dấu, con chúa chúa yêu” đƣợc đƣa vào câu
“Chúa dấu vua yêu một cái này” (Vịnh quạt I). Để châm biếm và chế giểu bọn hiền
nhân, quân tử, chẳng phải là bậc thánh nhân gì chẳng qua chỉ là một con ngƣời với
những khát vọng trần tục hết sức bình thƣờng của con ngƣời.
3.4.2. Sử dụng từ láy trong thơ Hồ Xuân Hƣơng
Ngôn ngữ Hồ Xuân Hƣơng rất bình dị nhƣ chính cuộc sống đời thƣờng của
bà vậy. Ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong thơ nôm na, bình dân, giản dị không có nhiều
từ Hán Việt.
Từ láy là loại từ đƣợc sử dụng nhiều trong thơ Hồ Xuân Hƣơng. Hồ Xuân
Hƣơng sử dụng từ láy với nhiều mục đích khác nhau nhƣ: thể hiện tâm trạng con
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 60
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
ngƣời, miêu tả cảnh vật, bày tỏ thái độ tình cảm của mình.
Có rất nhiều từ láy đƣợc Hồ Xuân Hƣơng sử dụng trong thơ nhƣ:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn” (Tự tình I), từ láy “văng vẳng” đƣợc
sử dụng trong câu thơ này để ngƣời ta liên tƣởng đến hình ảnh đêm khuya, một
không gian vô cùng vắng lặng nghe nhƣ ai oán gợi lên trong lòng ngƣời đọc một nỗi
cô đơn, buồn tủi và hiu quạnh, không gian nhƣ bao trùm nỗi đắng cay, cô độc.
Ngoài ra tác giả còn sử dụng từ láy “mõm mòm” “Sau giận vì duyên để mõm mòm”
kết hợp với các vần “om” nhƣ “bom, chòm, om, tom” để thể hiện một sự chờ đợi
hắt hiu, một không gian thật im lặng buồn bã giống nhƣ thân phận lỡ làng sống
trong chờ đợi của bà, một thân phận đầy đau khổ.
Các từ “nho nhỏ” (Mời trầu), “xù xì”, “mân mó” (Quả mít), “phì phạch”
(Cái quạt I), những từ láy mang phong cách rất riêng của Hồ Xuân Hƣơng, nghe
nhƣ mọi vật đang chuyển động, nảy nở, sinh sôi.
Từ láy có vần “eo” nhƣ “leo lẻo” (Giếng thơi), “khéo khéo” (Đánh đu), “tẻo
tèo teo” (Cái kiếp tu hành), “cheo leo” (Đền Sầm Nghi Đống). Chỉ một vần “eo” mà
tác giả đã gợi lên một khung cảnh nghe nhƣ chật hẹp và ngột ngạc vô cùng. Tác giả
đã miêu tả một tâm trạng buồn rầu, hiu quạnh, mọi việc đều trở nên khó khăn chật
vật. Trong bài Quán Khánh một loạt vần “eo” đƣợc sử dụng “hắt heo, leo teo, cheo
leo, lộn lèo”, cảnh tƣợng và không gian trong bài thơ nghe thật buồn, heo hắt và
vắng lặng. Con đƣờng, nhà cửa, con ngƣời nghe sau tiêu điều xơ xác... không gian
thật im đềm, hiu hắt. Một làng quê nghèo nàng, xơ xác hiện lên khi tác giả sử dụng
vần “eo”.
Ngoài ra các từ có các từ láy nhƣ: “lún phún” (Giếng thơi), “tùm hum” (Đèo
Ba Dội), những từ láy đó Hồ Xuân Hƣơng sử dụng có hai nghĩa khác nhau. Nghĩa
đen để miêu tả cảnh vật bên ngoài, nghĩa bóng cái đèo, cái giếng chính là những
hình ảnh trên cơ thể ngƣời phụ nữ. Những từ láy đƣợc Hồ Xuân Hƣơng sử dụng với
mục đích rất lớn, nhờ những từ láy mà làm tăng thêm sức hấp dẫn của bài thơ, nhờ
sử dụng các từ láy mà làm nên cảnh vật và tâm trạng con ngƣời.
Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của Hồ Xuân Hƣơng rất độc đáo, bà đã làm
đƣợc những điều mà ta tƣởng chừng nhƣ không thể, cái không thể dƣới bàn tay điêu
luyện và bộ óc thông minh của Hồ Xuân Hƣơng cũng thành có thể. Bà đƣa tất cả
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 61
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
những gì bình thƣờng và trần tục vào hết trong thơ, tất cả chỉ để thông cảm cho nỗi
đau của ngƣời phụ nữ và vạch trần bản chất xấu xa của chế độ nam quyền. Nội dung
và hình thức đƣợc bà kết hợp chặt chẽ với nhau, bà kết hợp tất cả các phƣơng tiện
nghệ thuật để làm nội dung thêm phong phú và hấp dẫn hơn. Bà đã góp phần làm
phong phú vốn từ ngữ tiếng Việt hơn. Xuân Hƣơng xứng đáng mệnh danh bà chúa
thơ Nôm của dân tộc.
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 62
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
KẾT LUẬN
Hồ Xuân Hƣơng là một hiện tƣợng nổi bật của nền văn học trung đại Việt
Nam. Sự nghiệp thơ ca của Hồ Xuân Hƣơng hết sức phong phú, cuộc đời thì còn
quá nhiều điều chƣa rõ. “Có thể khẳng định lịch sử nghiên cứu Hồ Xuân Hương là
lịch sử nỗi ám ảnh chưa bao giờ đứt đoạn của vấn đề tiểu sử văn bản thơ Hồ Xuân
Hương” [19; tr.21]. Tiếng thơ của Hồ Xuân Hƣơng là tiếng thơ của một nữ sĩ tài
hoa, cá tính. Bao khao khát, bao nguồn sống mãnh liệt đƣợc bà gửi gắm vào trong
thơ, mà không chỉ là nỗi niềm là khao khát của riêng bà mà là nỗi niềm chung của
tất cả những phụ nữ bất hạnh trong xã hội phong kiến.
Trong xã hội xƣa, những ngƣời phải gánh chịu đau khổ nhiều hơn ai hết vẫn
là ngƣời phụ nữ, tồn tại trong họ bao giờ cũng là những nỗi đau, những khía cạnh
chua xót và tái tê. Hồ Xuân Hƣơng cũng là một trong những ngƣời phải gánh chịu
đầy đủ tất cả những nỗi đau mà ngƣời phụ nữ phải trải qua, bà thấu hiểu hơn ai hết
nên trong thơ bà đã chia sẽ những nỗi đau đó với ngƣời phụ nữ một cách chân thành
nhất.
Có thể nói trong lịch sử văn học dân tộc Hồ Xuân Hƣơng là ngƣời đầu tiên
cất lên tiếng nói cho ngƣời phụ nữ, bà ca ngợi vẻ đẹp thân xác, tài năng trí tuệ cũng
nhƣ đạo đức và tình yêu của ngƣời phụ nữ. Đồng thời khẳng định giá trị của ngƣời
phụ nữ đấu tranh giành quyền sống, quyền đƣợc tự do trong tình yêu nam nữ. Bà là
ngƣời phụ nữ đi trƣớc thời đại dám lên tiếng nói thẳng, nói thật những đòi hỏi chân
chính của ngƣời phụ nữ và hơn thế nữa là một đòi hỏi về hạnh phúc xác thịt. Ẩn sau
những tiếng than, tiếng căm hờn là khát vọng của cả một tình yêu, hạnh phúc mãnh
liệt nhƣng mãi mãi đó chỉ là khát vọng bà không đủ sức đề ra lối thoát nào để làm
thay đổi cuộc sống hiện tại vì một xã hội phi lý, bất công tồn tại bấy lâu nhƣ vậy.
Hồ Xuân Hƣơng rất thành công trong việc sáng tạo ngôn từ. Bà đã sáng tạo
lại ca dao, thành ngữ, tục ngữ để tạo nên nghĩa đôi, ỡm ờ, lấp lửng thanh mà tục, tục
mà thanh. Thơ Hồ Xuân Hƣơng là một phong cách ngôn ngữ rất đặc biệt rất dân
gian, dân gian mà rất thâm thúy và sâu cay, bà đã thoát khỏi sự ảnh hƣởng của Hán
văn mà đi theo lối dân tộc và bình dân. Ngày nay chúng ta càng trân trọng Xuân
Hƣơng hơn bởi con ngƣời ấy luôn biết nhìn thẳng vào đời, biết khát vọng hạnh
phúc, biết đau, biết khổ, biết xót xa và cảm thông cho số phận con ngƣời.
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 63
Thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Nhƣ Chi (1951), Văn học thi văn giản luận. Nxb Tân Việt.
2. Xuân Diệu (1987), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam. Nxb Văn học.
3. Nhiều tác giả (1996), Chuyên đề văn 9. Nxb Giáo dục.
4. Nhiều tác giả (2007), Hồ Xuân Hương về tác gia và tác phẩm. Nxb Giáo dục.
5. Dƣơng Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu. Nxb Trung tâm học
liệu Sài Gòn.
6. Hoàng Xuân Hãn (1995), Thiên tình sử Hồ Xuân Hương. Nxb Văn học.
7. Nguyễn Xuân Kính (Chủ biên) (1995), Kho tàng ca dao người Việt, 4 tập.
Nxb Văn hóa, Hà Nội.
8. Lê Đình Kỵ (1995), Khối tình cọ mãi với non sông trong Hồ Xuân Hương
thơ và đời. Nxb Văn học.
9. Nguyễn Lộc (1997), Văn học Việt Nam (nữa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ
XIX). Nxb Giáo dục.
10. Nguyễn Lộc (2001), Văn học Việt Nam (nữa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ
XIX). Nxb Giáo dục.
11. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước bản biên. Nxb Đồng
Tháp.
12. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học. Nxb Giáo dục.
13. Lã Nhâm Thìn (1977), Thơ Nôm đường luật. Nxb Giáo dục.
14. Đỗ Lai Thúy (1996), Đi tìm phong cách thơ Hồ Xuân Hương. Nxb Văn Nghệ
Thành phố Hồ Chí Minh.
15. Trần Thị Trâm (1998), Xuân Hương kỳ nữ - kỳ tài. Nxb Văn học.
16. Đoàn Thị Thu Vân (Chủ biên) (2008), Văn học trung đại Việt Nam (thế kỷ X
đến thế kỷ XIX). Nxb Giáo dục.
17. Lê Trí Viễn (1998), Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương. Nxb Giáo dục.
18. Ngô Gia Võ (2001), Góp phần lý giải hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương. Tạp
chí văn học.
19. Phạm Du Yên (Tuyển chọn) (2004), Thơ Hồ Xuân Hương. Nxb Đồng Nai.
GVHD: Th.S. Lê Văn Phương SVTH: Trịnh Thị Kiều Phi 64