Khởi nghĩa Yên Thế - Hà thành đầu độc
Kng biết nhân loại đã bao giờ có được những vị đu bếp xả thân cho cái tráng chí
xoay chuyển bánh xe lịch sử như thế chưa? - một nhà sử học danh tiếng rưng rưng
vừa như chất vấn tôi - kẻ ngoại đạo - vừa như tự hỏi sự tôn kính của mình, của
nhiều người dành cho các t sĩ không đầu trong vụ "Hà thành đầu độc"...
Lịch sử tiễu trừ giặc Pháp của dân tộc ta, có thể bớt đổ máu nếu như vụ đầu độc binh lính
Pháp và nổ súng hiệu cho nghĩa quân Yên Thế ập vào, giải phóng Hà Nim 1908
thànhng. Nhưng, ngôi mtạm mang tên "Hà thành đầu độc" kia từng được đối xử ra
sao?
Bức ảnh "Bêu đầu" chụp t 100 năm trước - Đầu 3 vị cầm đầu bị hành quyết ngày
8/7/1908
Trong cun lịch sử "Từ Đà Nẵng đến Điện Biên Phủ" ghi rõ: ny 27/6/1908, anh em bi
bếp và binh lính người Việt thuộc Trung độing nhân pháo thủ Hà Nội đã tổ chức đầu
độc binh nh Pháp đóng trong thành để phối hợp với nghĩa quân Yên Thế được bố trí
bên ngoài nhằm giải phóng thành Hà Nội.
Trong bữa ăn tối định mệnh ấy, toàn b 250 binh lính Pháp thuộc Trung đoàn pháo binh
Trung đoàn bộ binh đóng trong Thành b anh em bồi bếp và binh lính người Việt dùng
cà độc dược đầu đc. Song, sự việc bị bại lộ do mt trong nhng người biết vic đi nhà
thờ, “xưng tộivới cha đạo (có tài liu cho rằng, có người đã làm phản), khi anh em chưa
kp bắn súng hiệu. Thực dân Pháp đã tương kế tựu kế, tước hết vũ khí, tống giam nhiều
chí sĩ yêu nước.
Một s chí trong vụ này bxử chém, bêu đầu tại nhiều địa đim ở thủ đô. Tuy cuộc
mưu chiếm lại thành Hà Ni không thành, nhưng vụ “Hà thành đầu độc” đã làm chấn
động dư luận.
Đứng đầu nhóm này là bếp Hiên, còn gi là Hai Hiên, cùng với bếp Xuân, bếp Nhiếp, tức
Nguyễn Trí Bình, đội Cốc tức Dương Bê... Ngày hôm sau, Pháp đem ra xử và khép ti
(chém đầu) đối với 13 (có sách nói 12) binh lính và bi bếp người Việt.
Buồn thay, bánh xe lịch sử vệ quốc của dân tộc đã không chiều lòng 13 v đầu bếp và
binh sĩ trượng phu kia. Sau khi “thoát chết trong gang tấc”, giặc Pháp đã điên cuồng dốc
tới 15.000 quân lên núi rừng Yên Thế hòng vây bắt bằng được "hùm xám" Hoàng Hoa
Thám (Đề Thám) và nghĩa binh của ông. Nhưng phải mất tới 4 năm hao binh tn tướng,
b “giời đày” giữa rừng thiêng nước độc, quân Pháp mới khống chế được "Hùm xám"
Yên Thế (Đề Thám).
Cuộc khi nghĩa kết thúc sau 30 năm làm cho kthù bạt a kinh hồn.
Trong cm nhận của cá nhâni (người viết bài y), một trong những bức ảnh ám ảnh
nht, bi tráng nhất và cũng mang tính báo chí nhất của lịch sử vệ quốc của chúng ta,
chính là bức ảnh chụp thủ cấp các vị đầu bếp bị hành quyết sau khi mưu lớn bất thành.
Từ lâu lắm, i đã cắt và giữ bức ảnh đó, ảnh chụp ba đầu đặt trong ba cái r tre đan
loằng ngoằng quặn thớ. Quặn đau tê tái! Thcấp được bêu trên vài cửa ô”, tuyến phố
đông đúc nhất của Hà Ni lúc bấy giờ.
Hai thủ cấp nhắm mắt, đầy máu me, mt thủ cấp mở mắt, thanh thản, không hvương sợ
hãi. Dưới mỗi cái rọ u đầu là những tấm giấy bản chi chít chữ Nho, chắc là giặc nó kể
tội người yêu nước Việt Nam rằng h dám “làm loạn”...
Không biết có giải thưởng báo chí nào đã trao cho bức ảnh thảm thương và đầy tráng chí
nam nhi “thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời” đó chưa?
Lời chú tch bức ảnh, ghi như sau: Các ông đội Bình (Nguyễn Chí Bình), đội Nhân
(Đặng Đình Nhân), đội Cốc (Dương Bê) cầm đầu vụ Hà thành đầu độc, bị hành quyết
ngày 8/7/1908 và người Pháp đã bêu đầu các ông ở Ô Cầu Dền, Ô Cầu Giấy và Ch
(trang 176, cun Từ Đà Nẵng đến Đin Biên Ph”, NXB Quân đội, năm 2004). Bên
cạnh, là bức ảnh chính các vị đầu bếp trong vụ “Hà thành đầu độc” khi bị giam trong Hỏa
Lò, Nội, gông cùm lnh lẽo giết chóc, hơn chục vị ngồi bình thản nhìn vào... người
chụp ảnh. Đôi mắt của các vị nhìn vào hàng triệu triệu lượt người xem ảnh suốt 100 năm
qua và mãi mãi sau này.
Ch mt vài ngày sau, họ đều lần lượt bị hành quyết, treo thủ cấp gia đô thành; nhưng:
ánh mắt của họ còn quá trẻ, ai cũng tuấn tú, aing có cái an nhiên t tại của nời đã
đắc đạo.
Những người tham gia bị giam trong Hoả Lò Hà NộiVới người yêu nước Việt Nam, họ là
những “Kinh Kha qua sông Dch” hành thích bạo chúa Tần, kiểu: gió hiu hiu sông Dịch
lạnh ghê/ tráng sĩ ra đi không trở về. Với bà con lúc y và mãi mãi sau này, họ đã là
những người yêu nước bất tử.
Những người ngã xuống không thể ngờ được rằng: gần một thế kỷ sau, con cháu máu m
của các v đã vất vả bao năm tìm kiếm phần mộ họ.
Không ngoi trừ cả việc mang đậm màu sắc hoang đường, như vợ chồng ông Khi (con
cháu cbếp Hiên) gặp những giấc mơ lvề những cụ ông không đầu về báo mng. Khi
tìm thấy nơi mai táng rồi, việc vinh danh các tử sĩ, chăm chút phần m và dựng mấy d
òng
chữ k niệm các anh hùng v quốc ấy lại cùng lận đận.
Đến năm 2008 y, nơi tưởng niệm hơn 10 vị đầu bếp độc nhất vô nhị, các bậc nghĩa sĩ
quên nh cho non sông gm vóc nọ, vẫn rất là bun bã. Mun thắp nhang cho họ, chúng
i phải vạch cây cối, đi qua nhà người ta rồi đến cái xó tường nhếch nhácvùng Nghĩa
Đô (Hà Ni), nơi từng là trại nuôi dê, thấp hơn mặt đường những 50cm, ở đó có duy nhất
mt ngôi mmới được ông Khải quy tập vi vã cùng vài dòng chữ nhỏ, có phần hơi ti
nghĩa: “Nơi yên nghỉ của 9 nghĩa sĩ yêu nước trong vụ Hà thành đầu độc thực dân Pháp
ngày 27 tháng 6 năm 1908 (13 tng 9 Mậu Thân)".
Nhiều sử gia đã thống thiết kêu cứu cho di tích “Hà thành đầu độc”, nhưng sự việc vẫn
đâu đóng đấy. Không lẽ, chúng ta đã tri ân những người anh hùng v quốc của mình mt
cách như thế ư? Chúng ta đã bước vào năm 2008, thế là tròn tra mt thế kỷ từ ngày
những người đầu bếp ngã xuống hy vọng góp phần cứu mn dân khỏii họa “sơn hà
nguy biến”, nhân dp này, chúng ta sẽ làm gì...?
Chuyện kể của con cháu vị đầu bếp lẫy lừng
Ông Nguyễn Văn Khải đã ngót 80 tuổi, vẫn tinh tường đến ngỡ ngàng. Đúng phoóc
người làng Cao Xá Trung (huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây), nơi làng nghề làm nhiếp
ảnh danh bất hư truyền, con cháu lanh lẹ, mở mày mmặt đi làm ăn hiển đạt khắp “t
phương ngũ hành” trong cả nước.
Ngồi chống tay trước cằm, ông Khải nhìn tôi xét theo cái li mới của người đời. Lại
thêm, ngôi nhà ông ở ven Quốc l 2, thuộc vào địa phận th trấn Đoan Hùng, tỉnh P
Thọ, xe cộ lúc nào cũng gào rú đinh tai, nhả bụi hỗn hào.
Hình như ông Khải không thể ngờ được, đến một ngày, lại có gã nhà báo lặn li lên vùng
rừng núi này tìm ông. Ông cũng chẳng quan tâm lắm đến cái việc nhiều nời ghi nhận
ông là ngườing tìm i, ri b tin xây cất nấm mchung cho 8-9 v đầu bếp có
công với đất nước, sau gần tròn một thế kỷc phần mộ bị "thất lạc".
Câu chuyện ông Khải và gia đình kvới i, nó mang nhiều màu sắc mê tín, hoang
đường, lẽ ra không nên kli. Nhưng sự thật là ông Khải đi theo giấc mơ lạ của mình, đã
đăm đắm tin vào nhng điều đó, để rồi ông đã tìm được nơi mai ng 13 vị nghĩa sĩ trong
vụ "Hà thành đầu độc". Vậy nên, chúng tôi cmạnh dạn kể ra đây để độc giả tham khảo:
Làm nghề chụp ảnh từ nh, từng mhiệu ảnh “Sơn Vượng” ở Hà Đông. Từ năm 1946
đến khi hòa nh lập lại, năm 1954, ông Khi đi b đội quân giới, làm trong các công
binh xưởng, đi khắp vùng Bắc Trung Bộ, ông thuộc lòng từng thôn bản đìu hiu nhất
miền Tây Thanha. Sau này, mang nghtổ, lang bạt lên vùng cao lập nghiệp, ông Khải
từng giàu ni tiếng trong vùng Đoan Hùng, Phú Thọ - bởii thương hiệu “Khải
photo”.
Cửa hiệu nhà ông treo biển: “Hiệu ảnh Sông Lô”, nm dưới gốc mt cây gạo cổ thụ, cành
tán đẹp đến mức, ai đi dọc Quốc l 2, cũng phải dõi mắt ngắm nghía. Gicon cháu ông
vẫn phát huy nghlàm ảnh của ông.
Từ cái ngày vùng thượng du sông Lô nàyn coi chụp hình là mt cái gì xa lvà
cùng... xa x, ông Khải đã thống trị thị trường chụp ảnh và bán vật tư ảnh trên toàn khu
vực, nên ông đã có những giai đoạn rất giàu có. Khách đông đến mức, mi lần ngồi hạch
toán, ông lại phải giở mt chng hóa đơn cao ngất nng, kèm theo cchng tờ năm
trăm (500) đỏ (bấy giờ là loại tiền to).
Ông rất phong lưu. Tiền gi ngân hàng chán, lại đem ra mua vàng chôn cất trong nhà.
Đang rủng rnh thì v khách thương hồ đi qua r tai ông Khi, bảo: "Bác đang hồi thịnh
phát, nhưng sợ chẳng được bao lăm. Bởi người linh hiển phù hcho bác bấy u, song
c để người ta nằm lạnh lẽo, chả nhang khói gì. Người này có máu tcổ chảy xuống
ng ròng".
Ông Khải lúc đầu chẳng tin, sau hai lần đổi tin, bao công tích cóp của ông hầu như đi
tong. Khi ấy, ông Khải vẫn duy vật” lm, chưa nhớ tới lời ông khách vãng lai kia. Lúc
bấy giờ bà vợ ông Khải mới ththọt: hay là ta đi hỏi xem, có thờ có thiêng, có kiêng có
lành. Sao cái lão đi qua nhà năm tớc, nói như... ma thế nhỉ.
Đúng thời gian đó, theo ông nói thì ông Khải và cả bà vợ ông liên tục ngủ mê, i t bảo
“mê tín d đoan”, nhưng đúng là như có người báo mng thật. Ông kể: "Tôi mơ thấy mt
người đàn ông còn trẻ, về tận đầu giường tôi nói chuyn, ông mặc áo dạ, quần dạ. Tôi cố
nhìn để nhận mặt, rồi phát hiện ra là ông không có đầu, máu cứ chảy dm dề từ c ra.
lần tôi thấy mt bộ quần áo đến gần tôi và nói chuyện (không có phn đầu), cứ nói
chuyn bình thường nhưng không biết tiếng nói vng ra từ đâu nữa. Trước khi ra đi, ông
còn vẫy tay chào “đi nhé, đi nhé!".
Sau này, bà nhà tôi đi hỏi, người ta bảo, nhà người chết trẻ, chết chém, phải tng
nom. Vợ ông ấy cũng bị chết trong tù, không ai biết chôn ở đâu cả (ý i vợ của bếp
Hiên)”.
Thế là, nhân dịp về quê Cao Xá Trung, ông Khải đem chuyện hi người già. “Thì ra, anh
ruột ông nội tôi chính là cụ Hai Hiên, thường gọi là bếp Hiên, một trong những đầu bếp
tham gia “lãnh đạo” vụ "Hà thành đầu độc". Và đã b chết chém.
Cái ông máu tcổ đổ xuống ròng ròng vẫn phù hchoi là cụ Hai Hiên ư? i tìm đọc
lại lịch sử thì đúng như thế thật. Tưởng nhớ cụ bếp Hiên, xã tôin giữ gìn i nhà th
của các cụ nhà ông Hiên, rim bên cạnh cũng mang tên là m Hai Hiên cơ mà. Vả
lại, bà nii từng là người bán rau quanh khu vực trại lính. Bà là người trong cuộc,
người biết rất rõ toàn b “tiến trình” của vụ "Hà thành đầu độc". Bà tên là Nguyn Thị
Chuyên, người làng Mọc Quan Nhân, là con người vợ lẽ của mt ông quan huyện có tài
đức, bà nii mất năm 1952”.
“Bà nội tôi còn kể với mi người rằng: các ông bếp bị hành quyết đúng vào cái dp... mới
lĩnh lương, bà nhớ rõ. Nguyên nhân là do một anh bếp, trước khi vào cuc dùng quả cà
độc dược bỏ vào thức ăn, giết chết my trăm người, anh này đã “cn rứt lương tâm” đi
thú ti với cha đạo trong nhà th.
Chuyện tai vách mạch rừng, dù vn đầu độc được kẻ thù, nhưng chưa kp n súng lệnh,
o cho quân ông Đề Thám tràn vào cướp Hà Nội, thì tất cả đã b bắt, bị giết. Ông ni tôi
ít liên lụy nhưng cũng phải bỏ trốn, vì sợ sự truy đuổi, bà ni i bán rau, lân la làm quen
bọn lính Pháp trong thành Hà Ni, nên đã nh mai mi đút tiền vào để cứu mng.
Cụ Hai Hiên và mt số đầu bếp bị hành quyết ngay sau đó, bà i biết, là vì bọn lính nó
kháo như vậy. Đến tận bây giờ, bác Ngọ (bằng vai ông Khải) vẫn đều đặn hàng năm làm
giỗ, tưởng nhớ cụ Hai Hiên. Ông Ng đang sống ở Hà Nội,mn Chủ, phố Ngô S
Liên (trước là phố Sinh Từ)”.