Khối u ngân hàng b bưng bít vì...
Luật
Quy định hiện nay không cho phép có ngoại tr trong báo cáo kiểm toán của các
t chức tín dụng. Đâylý do khiếnnhững khoản mục, công ty kiểm toán và
các ngân hàng không th thống nhất được cách hạch toán, nhưng kiểm toán vẫn
phải chấp nhận và không để ngoại trừ. Đây cũng là lý do khiến NĐT bên ngoài
vẫn ch thấy một bức tranh đẹp, bất chấp những nguy thâm hụt tài chính đang
hiện hữu của nhiều ngân hàng.
Khúc mắc người hành ngh
Phó tổng giám đốc một công ty kiểm toán cho biết, người hành ngh lâu m
trong lĩnh vc kiểm toán, ông rất bức xúc khi có những điểm trong báo cáo tài
chính của ngân hàng đã không được làm rõ, không được phản ánh đúng bản chất
cuối cùng của nó, nhưng kiểm toán vẫn phải cho qua. Theo ông, không phải kiểm
toán viên không biết s trước những rủi ro mà hth gặp phải khi ký vào
những báo cáo tài chính ấy, mà h buộc phải hoàn tất một hợp đồng kim toán để
gi chân khách hàng khi quy định không cho phép có khoản ngoại tr trong báo
cáo kiểm toán t chức tín dụng.
khía cạnh tích cực, quy định này s buộc các t chức tín dụng chấp hành nghiêm
chỉnh quy định chế độ hạch toán, kế toán để khi kiểm toán vào cuộc, báo cáo tài
chính sau kiểm toán phải thực s “sạch”. Nhưng trên thực tế thì không phải t
chức tín dụng nào cũng sạch như vậy. Các công ty kiểm toán chđơn v cung
cấp dịch v và nếu không thích, ngân hàng có th thay thế bằng một đơn v kiểm
toán khác. Trong không ít trường hợp, báo cáo tài chính lập ra với các khoản mục
tài sản, kết qu kinh doanh… th hiện rõ ý chí, mong muốn của các ông chủ,
người điều hành t chức tín dụng. Nhiệm v của kiểm toán trong các trường hợp
này là h tr t chức tín dụng làm báo cáo tài chính chuẩn trong phạm vi chấp
nhận được của các ông chủ, ch không phải là tuân th tuyệt đối các quy định
kiểm toán. Điều này có nghĩa, nếu chẳng may báo cáo tài chính của t chức tín
dụng phát sinh những khoản mà kiểm toán không th truy đến cùng thực trạng tài
sản đó ra sao, nhưng cũng không th đàm phán với t chức tín dụng v cách hạch
toán nào khác phù hợp n, thì cuối cùng vẫn phải chấp nhận cho qua.
“Đây là quy chế vô lý nhất mà chúng tôi gặp phải trong kiểm toán cho nhóm ngân
hàng, công ty tài chính… Không đượcngoại trừ, nhưng đâu phải vấn đề nào
kiểm toán và ngân hàng, công ty tài chính cũng thống nhất được với nhau. góc
độ chuyên môn, tôi xin nói thẳng là, có những khoản, thm chí chúng tôi tin
ngân hàng đã mất rồi nhưng h vẫn c tính l đi. Kiểm toán vào cuộc, hạch toán
cách nào cho phù hợp. Trong khi đó, nếu c tình để ngoại trừ, thì báo cáo kiểm
toán s lại bm lại, còn chúng tôi b mất khách hàng”, một kiểm toán viên trần
tình.
Những h lụy
Phó tổng giám đốc công ty kiểm toán nói trên cho biết, ông đã tham gia kiểm toán
nhiều ngân hàng và thực tế, không ít ngân hàng có bản chất tài sản xấu rất nhiều,
vốn ch đã b hao hụt ln…, nhưng vẫn báo lãi trong kết qu kinh doanh các năm
gần đây, báo cáo tài chính vẫn đẹp. Theo v này, vì không được có ngoại trừ, nên
không ít ngân hàng đã tìm cách thỏa hiệp với kiểm toán đ đưa ra li nhậnt
“sạch” trong báo cáo kiểm toán.
Để c th hơn những điểm “đen” mà ngân hàng thường hay “lách”, v này đưa ra
mt s ví dụ. Công ty X là đơn v có liên quan (gián tiếp) đến c đông A của Ngân
hàng B. Khi B tăng vốn, X phát hành trái phiếu để B mua, rồi s tiền thu được t
trái phiếu này được chuyển đến A để mua c phiếu phát hành thêm. A s dụng s
c phiếu sau phát hành đem cầm c tại chính Ngân hàng B, lấy tiền đi làm việc
khác. Cuối cùng, v bản chất, c đông A không góp thêm đồng tiền nào vào Ngân
hàng B, nhưng lại được tăng t l s hữu c phiếu, có tiền để đi đầu lĩnh vực
khác.
“Đây là tình trạng rất ph biến tại khối ngân hàng. Nhiều trường hp, kiểm toán
biết nhưng đành phải thỏa hiệp cho qua”, v phó giám đốc trên nói.
Trường hợp khác, ngân hàng chuyển tiền cho một CTCK, công ty quản lý qu trực
thuộc (s hữu 11% vốn điều lệ, nhưng chi phối v mặt quản tr) vay thông qua
hình thức mua trái phiếu phát hành thêm của công ty thành viên trên. S tiền này
sau đó lại được CTCK, công ty quản lý qu đem cho vay, đầu theo ch định của
ngân hàng, trong đó không ít trường hợp là cho chính các đối tượng có liên quan
đến ngân hàng vay. Nếu truy đến cùng dòng tiền thì s thấy, bản chất các khoản
tín dụng này là các khoản đầu vượt hạn mức hay cho vay các đối tượng có liên
quan, nhưng cuối cùng vẫn được ngân hàng “lách” thành công.
Một hiện tượng ph biến hơn trong thời gian gần đâyhạch toán sai các khoản
nợ, khoản đầu tư. Báo cáo tài chính một s DN niêm yết cho thấy, có những khoản
n mà DN không có kh ng hoàn trả, tài sản đảm bảo có th giá thấp n rất
nhiều so với giá tr lúc vay (nhấttrong các DN ngành hàng hải), nhưng ngân
hàng vẫn cho phép kéo dài thi gian tr n, hạch toán dưới dạng n đạt chuẩn,
trong khi v bản chất, DN thậm chí ch ch ngày b tuyên phá sản. Hay có những
khoản đầu mà ngân hàng tham gia góp vốn, mua c phần,DN được đầu
làm ăn thua lỗ, giá c phiếu giảm, nhưng do hạch toán vào các khoản đầu dài
hạn, nên ngân hàng cũng không trích lập d phòng đầy đủ.