
12
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Khung pháp lý hoạt động công nghệ tài chính:
Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
Nguyễn Văn Tâm1, Bùi Thị Thủy2, Trần Thị Xuân Anh3
Học viện Ngân hàng, Việt Nam1,2,3
Ngày nhận: 21/05/2024 Ngày nhận bản sửa: 14/06/2024 Ngày duyệt đăng: 19/06/2024
Tóm tắt: Công nghệ tài chính (Fintech) phát triển nhanh chóng trong thời gian
qua đã đem đến những lợi ích nền kinh tế và đời sống xã hội. Tuy nhiên, Fintech
cũng làm nảy sinh các rủi ro mới, tác động đến sự ổn định của hệ thống tài
chính. Theo đó, khung pháp lý được các quốc gia nhận thức và xây dựng nhằm
hướng tới việc quản lý hiệu quả Fintech, đảm bảo sự cân bằng cho việc đổi
mới, phát triển của Fintech, đồng thời đảm bảo cho sự ổn định của hệ thống
tài chính. Bài nghiên cứu dựa trên tổng quan kinh nghiệm của Trung Quốc,
Singapore, Thái Lan và một số quốc gia ASEAN khác về xây dựng khung pháp
lý cho hoạt động Fintech trên 2 khía cạnh chính là Cơ chế thử nghiệm có kiểm
soát và Cải cách pháp lý. Theo đó, các bài học rút ra là rà soát, ban hành các
quy định pháp luật về doanh nghiệp Fintech, thanh toán điện tử, gọi vốn cộng
đồng, cho vay ngang hàng và sớm ban hành quy định về Sandbox nhằm hoàn
thiện khung pháp lý cho hoạt động Fintech tại Việt Nam.
Từ khóa: Công nghệ tài chính, Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, Khung pháp lý
Fintech legal framework: International experiences and lessons for Vietnam
Abstract: Financial technology (Fintech) has developed rapidly over the years, bringing benefits to the
economy. However, Fintech also provides exposures that impact on the stability of the financial system.
Accordingly, the legal framework is recognized and constructed by countries towards effective management
of Fintech, ensuring fairness for innovation and development of Fintech, the stability of the Fintech system
as well. The research reviwed the experiences of building a legal framework for Fintech activities in China,
Singapore, Thailand and some other ASEAN countries, which focusing on two main aspects: Controlled
Testing Mechanism and Legal Reform. Therefore, the lessons learned are to review and promulgate legal
regulations on Fintech businesses, E-payment, crowdfunding, peer-to-peer (P2P) lending and soon issue
regulations on Sandbox the relevant legal lessons will be discussed to complete the legal framework for
Fintech activities in Vietnam.
Keywords: Financial technology (Fintech), Sandbox controlled testing mechanism, Legal framework.
Doi: 10.59276/JELB.2024.06.2742
Nguyen, Van Tam1, Bui, Thi Thuy2, Tran, Thi Xuan Anh3
Email: tamnv@hvnh.edu.vn1, thuybt@hvnh.edu.vn2, anhttx@hvnh.edu.vn3
Organization of all: Banking Academy of Vietnam

NGUYỄN VĂN TÂM - BÙI THỊ THỦY - TRẦN THỊ XUÂN ANH
13
Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
1. Đặt vấn đề
Fintech-Công nghệ tài chính là từ viết tắt
của Financial Technologies (Bettinger,
1972). Theo cách đơn giản, Fintech là ứng
dụng Khoa học- Công nghệ vào ngành Tài
chính- Ngân hàng. Theo đó, Fintech, bằng
công nghệ tạo ra các mô hình kinh doanh,
ứng dụng, quy trình hoặc sản phẩm mới
ảnh hưởng quan trọng đến thị trường tài
chính, tổ chức, cung ứng dịch vụ tài chính
(Financial Stability Board, 2017). Từ đó,
có thể hiểu Fintech dùng để mô tả việc sử
dụng công nghệ trong cung cấp các dịch vụ
tài chính nhằm phát triển các mô hình kinh
doanh và những sản phẩm mới cạnh tranh
trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm hoặc
thanh toán (ASIC, 2016).
Fintech được sử dụng bởi các khách hàng
là các tổ chức như ngân hàng, công ty tài
chính, bảo hiểm, doanh nghiệp và người tiêu
dùng thông thường. Như vậy, theo đối tượng
sử dụng, Fintech được chia thành 2 nhóm
theo sản phẩm: (1) Giải pháp mang các dịch
vụ tài chính đến tận tay người tiêu dùng và
(2) Giải pháp hỗ trợ hoạt động hệ thống của
các định chế tài chính. Các dịch vụ Fintech
hiện nay cung ứng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau như thanh toán, quản lý tài chính, công
nghệ ngân hàng, cho vay, tiền kỹ thuật số…
với những sản phẩm đa dạng.
Tại Việt Nam, có sự gia tăng nhanh
chóng số lượng các công ty Fintech. Theo
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam
(2022a), số lượng công ty Fintech trong
nước đã tăng gấp 4 lần trong vài năm qua,
từ khoảng 40 công ty vào cuối năm 2016
lên hơn 200 công ty vào năm 2022. Thống
kê của Acclime (2023) cũng cho thấy số
lượng các công ty Fintech gia tăng qua các
năm, hoạt động trong nhiều lĩnh vực, phân
khúc thị trường khác nhau (Hình 1).
Sự gia tăng của tầng lớp người dân trung
lưu, dân số am hiểu công nghệ và hệ sinh
thái thương mại điện tử năng động đang
thúc đẩy lĩnh vực Fintech đang phát triển
ở Việt Nam, đồng hành cùng các khu vực
địa lý trưởng thành ở Châu Á Thái Bình
Dương (APAC) như Trung Quốc, Úc và
Singapore. Theo báo cáo của Solidiance
(2021), quy mô giá trị giao dịch của thị
trường Fintech Việt Nam đạt 4,4 tỷ USD
năm 2017 và khoảng 7,8 tỷ USD năm 2020.
Như vậy, quy mô đã tăng 77% trong vòng
03 năm. Theo nghiên cứu của Robocash
(2022), Fintech của Việt Nam đang chứng
kiến tốc độ tăng trưởng cao nhất ASEAN
sau Singapore và được dự đoán sẽ đạt mức
18 tỷ USD vào năm 2024. Hiện nay các
dịch vụ tài chính mà các công ty Fintech ở
Việt Nam tập trung cung cấp là thanh toán,
chiếm 33% các công ty Fintech (Hình 2).
Nguồn: Acclime (2023)
Hình 1. Số lượng công ty Fintech tại Việt Nam giai đoạn 2015- 2022

Khung pháp lý hoạt động công nghệ tài chính:
Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
14 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024
Tính đến cuối tháng 3/2024, NHNN Việt
Nam đã cấp giấy phép hoạt động cung ứng
dịch vụ trung gian thanh toán cho 51 tổ
chức không phải là ngân hàng, trong đó có
hơn 49 tổ chức, dịch vụ hỗ trợ chuyển tiền
điện tử; 14 tổ chức và dịch vụ ví điện tử
(Ngân hàng nhà nước, 2024).
Fintech phát triển nhanh chóng trong thời
gian qua đã đem đến những lợi ích nền
kinh tế và đời sống xã hội, tuy nhiên, cũng
làm nảy sinh các rủi ro mới, tác động đến
sự ổn định của hệ thống tài chính. Theo đó,
yêu cầu của khung pháp lý về Fintech phải
vừa phải đảm bảo môi trường pháp lý phù
hợp, tạo điều kiện cho sự phát triển của
hoạt động Fintech, đổi mới sáng tạo, nhưng
đồng thời phải tương xứng với rủi ro nhằm
quản lý, kiểm soát, giám sát được các hoạt
động đó, đảm bảo cạnh tranh bình đẳng,
bảo vệ người tiêu dùng và sự ổn định của
hệ thống tài chính- ngân hàng.
Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề, bài
nghiên cứu này dựa trên các văn bản quy
định pháp lý của một số quốc gia, Báo
cáo kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và
triển khai Fintech Regulatory Sandbox
của NHNN (2022b), các báo cáo của các
tổ chức về thực trạng phát triển hoạt dộng
Fintech tại các nước và các nghiên cứu
trước đó đã công bố trên các tạp chí, báo
cáo chuyên đề nhằm tìm hiểu kinh nghiệm
quốc tế về xây dựng khung pháp lý hoạt
động Fintech, từ đó chỉ ra bài học để xây
dựng khung pháp lý cho hoạt động Fintech
ở Việt Nam thời gian tới. Nội dung tiếp
theo sẽ (1) đánh giá thực trạng khung pháp
lý hoạt động Fintech tại Việt Nam; (2) tìm
hiểu kinh nghiệm quốc tế về khung pháp lý
hoạt động Fintech; (3) từ đó chỉ ra một số
bài học cho Việt Nam.
2. Thực trạng khung pháp lý hoạt động
Fintech tại Việt Nam
Thời gian qua, đã có những chỉ đạo, định
hướng cho việc thiết lập khung pháp lý, hệ
Nguồn: Fintech News (2022)
Hình 2. Tỷ trọng cơ cấu các công ty Fintech tại Việt Nam theo loại dịch vụ cung
cấp, 2021

NGUYỄN VĂN TÂM - BÙI THỊ THỦY - TRẦN THỊ XUÂN ANH
15
Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
thống các quy định cho hoạt động Fintech
tại Việt Nam. Nghị quyết số 52-NQ/TW
ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về chủ
động tham gia cách mạng công nghiệp lần
thứ 4, đã đề ra yêu cầu sớm ban hành khung
pháp lý về cơ chế thử nghiệp có kiểm soát
đối với công nghệ, sản phẩm, dịch vụ và
mô hình kinh doanh mới. Từ đó, Chính
phủ đã thực hiện chủ trương, được thể hiện
thông qua: Quyết định số 999/QĐ-NHNN
ngày 12/8/2019 phê duyệt Đề án về kinh tế
chia sẻ; Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày
22/01/2020 phê duyệt Chiến lược tài chính
toàn diện quốc gia đến 2025 và định hướng
đến năm 2030, Nghị quyết số 50/NQ-CP
ngày 17/04/2020 ban hành Chương trình
hành động của Chính phủ, Quyết định số
749/QĐ-TTg ngày 03/06/2020 phê duyệt
Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến
năm 2025, định hướng đến năm 2030, với
nhiệm vụ xây dựng khung pháp lý, kiến tạo
thể chế, môi trường để thử nghiệp và áp
dụng các công nghệ, sản phẩm, dịch vụ và
mô hình kinh doanh số ở Việt Nam… Theo
định hướng ở trên và thực tiễn hiện nay,
Việt Nam đang đồng thời triển khai hai
phương thức thiết lập khung pháp lý đối
với hoạt động Fintech: Một là, cải cách quy
định pháp lý cụ thể đối với một số lĩnh vực
hoạt động Fintech; và hai là, xây dựng cơ
chế thử nghiệm có kiểm soát đối với hoạt
động Fintech (Sandbox).
Đối với phương thức tiếp cận về cải cách
quy định pháp lý đối với một số lĩnh vực
hoạt động của Fintech, thời gian qua các
cơ quan quản lý đã ban hành các quy định
pháp lý về nhóm lĩnh vực thanh toán và
cho vay bằng phương thức điện tử. Cụ thể,
đối với lĩnh vực thanh toán là Nghị định
số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của
Chính phủ về thanh toán không dùng tiền
mặt và được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị
định số 80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016
sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị
định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012
của Chính phủ về thanh toán không dùng
tiền mặt; Nghị định số 16/2019/NĐ-CP
ngày 01/02/2019 sửa đổi, bổ sung một số
điều của các Nghị định quy định về điều
kiện kinh doanh thuộc phạm vi quản lý
nhà nước của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam; Thông tư số 39/2014/TT-NHNN
ngày 11/12/2014 của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam (NHNN) và được sửa đổi bổ
sung bởi Thông tư 23/2019/TT-NHNN
ngày 22/11/2019 hướng dẫn về dịch vụ
trung gian thanh toán, với những quy định
chi tiết về hoạt động thanh toán, trung gian
thanh toán và cung ứng ví điện tử.
Các cơ quan quản lý đang dần chuyển sang
sử dụng cách tiếp cận “thử nghiệm và học
hỏi” trong xây dựng các quy định pháp lý
đối với các lĩnh vực Fintech. Cụ thể, Chính
phủ ban hành Quyết định số 316/QĐ-TTg
ngày 09/3/2021 phê duyệt thí điểm thanh
toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị
nhỏ bằng tài khoản viễn thông (dưới 10
triệu đồng/tháng); NHNN ban hành Thông
tư số 16/2020/TT-NHNN ngày 4/12/2020
sửa đổi Thông tư số 23/2014/TT-NHNN
ngày 19/8/2014, thử nghiệm mở tài khoản
thanh toán có lượng giao dịch nhỏ (dưới
100 triệu/tháng) bằng công nghệ định danh
điện tử (e-KYC). Đối với lĩnh vực cho
vay bằng phương tiện điện tử, NHNN đã
ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN
ngày 28/6/2023 sửa đổi, bổ sung Thông tư
số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016,
trong đó bổ sung các quy định về hoạt
động cho vay những khoản vay giá trị nhỏ
(dưới 100 triệu đồng) bằng phương tiện
điện tử; nhận biết, xác minh thông tin nhận
biết khách hàng bằng phương tiện điện tử
(eKYC).
Ngoại trừ khung pháp lý cho lĩnh vực
thanh toán trong hoạt động Fintech và
cấp tín dụng trên nền tảng công nghệ đã
có những quy định pháp lý cụ thể, thì đối

Khung pháp lý hoạt động công nghệ tài chính:
Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
16 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 265- Năm thứ 26 (6)- Tháng 6. 2024
với các lĩnh vực khác hiện tại các cơ quan
quản lý nhà nước vẫn tiếp cận trên góc độ
“chờ đợi và quan sát” dẫn đến hầu hết hiện
chưa có khung pháp lý toàn diện hoặc quy
định pháp lý cụ thể để điều chỉnh, các hoạt
động này dựa trên các quy định về pháp
luật chung và rải rác trong các quy định của
pháp luật chuyên ngành các ngành nghề,
lĩnh vực liên quan và còn nhiều thiếu sót.
Đối với phương thức thứ hai về cơ chế
thử nghiệm có kiểm soát (Regulatory
Sandbox), vấn đề này đã được đề cập về
chủ trương ở các Nghị quyết, Quyết định
về phát triển kinh tế- xã hội gắn với cách
mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số và
các chiến lược phát triển ngành. Để thực
hiện phương thức này, Nghị quyết số 100/
NQ-CP ngày 6/9/2021 của Chính phủ thông
qua đề nghị xây dựng cơ chế thử nghiệm có
kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính
trong lĩnh vực ngân hàng dưới hình thức
Nghị định của Chính phủ. Hiện tại, NHNN
đang dự thảo xây dựng Nghị định quy định
về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong
lĩnh vực ngân hàng đối với các hoạt động:
Chấm điểm tín dụng; Giải pháp chia sẻ dữ
liệu qua giao diện lập trình mở (open API);
Cho vay ngang hàng. Cơ chế thử nghiệm
này được NHNN xây dựng với quan điểm
phòng ngừa, hạn chế tối đa rủi ro trong quá
trình thử nghiệm, trên cơ sở đó để đúc kết
các kinh nghiệm, bài học nhằm quản lý
hiệu quả, từ đó xây dựng khung pháp lý
cho hoạt động Fintech, thúc đẩy đổi mới
sáng tạo, bảo vệ người tiêu dùng, an ninh
mạng và ổn định hệ thống tài chính. Bản
chất của cơ chế thử nghiệm là nhằm tạo lập
môi trường để các tổ chức triển khai giải
pháp thử nghiệm, thông qua việc thiết lập
Cơ chế thử nghiệm, các cơ quan quản lý có
thể theo dõi và đẩy nhanh quá trình hoàn
thiện khuôn khổ pháp lý chính thức, tạo
điều kiện, cơ sở pháp lý cho các giải pháp
hoạt động trên thực tế.
Như vậy, hiện tại khung pháp lý hoạt động
Fintech của Việt Nam hiện nay còn nhiều
khoảng trống về các quy định cụ thể đối
với các lĩnh vực Fintech, trong khi Cơ chế
thử nghiệm có kiểm soát vẫn chưa được
ban hành chính thức. Vấn đề này tiềm ẩn
các nguy cơ rủi ro về sự ổn định hệ thống
tài chính- ngân hàng, cũng như những hệ
lụy tiêu cực cho các tổ chức và người tiêu
dùng, như cạnh tranh công bằng, bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, an toàn hệ thống
và an ninh mạng. Mặt khác, xu hướng phát
triển của Fintech nói riêng, công nghệ và
đổi mới sáng tạo nói chung là tất yếu, do
đó, việc xây dựng khung pháp lý ở Việt
Nam hiện cũng gắn với hai mục tiêu: một
là, thúc đẩy việc phát triển công nghệ, đổi
mới sáng tạo; và hai là, đảm bảo môi trường
hoạt động thuận lợi, bình đẳng, cạnh tranh
cho các chủ thể tham gia, bảo vệ người tiêu
dùng và ổn định của hệ thống tài chính-
ngân hàng.
3. Kinh nghiệm quốc tế về khung pháp
lý hoạt động Fintech
Theo Ngân hàng Thế giới (2020) có 7 cách
tiếp cận trong xây dựng khung pháp lý hoạt
động Fintech của các nước trên thế giới:
(1) Chờ đợi và quan sát (Wait and See); (2)
Thử nghiệm và học hỏi (Test and Learn);
(3) Cơ chế quản lý thử nghiệm có kiểm
soát (Regulatory Sandbox); (4) Miễn/ngoại
lệ (Waiver/exemption); (5) Thư không
phản đối (Letters of No Objection); (6) Các
quy định pháp lý khác biệt (Differentiated
Regulation): tương tự như cách tiệp cận;
(7) Cải cách pháp lý/luật pháp. Các cơ quan
quản lý các nước có những phản ứng pháp
lý khác nhau giữa các hoạt động Fintech.
Thực tế, mặc dù có 7 cách tiếp cận được
áp dụng khi xây dựng các quy định pháp lý
cho hoạt động Fintech được các nước trên
thế giới áp dụng. Tuy nhiên, phổ biến nhất