
66
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Kiệt quệ tài chính và quản trị lợi nhuận: Bằng chứng
thực nghiệm từ các doanh nghiệp niêm yết ngành
Thực phẩm - Đồ uống Việt Nam
Ngày nhận: 02/05/2024 Ngày nhận bản sửa: 06/01/2025 Ngày duyệt đăng: 07/01/2025
Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu về mối quan hệ giữa kiệt quệ tài chính và quản trị
lợi nhuận của các doanh nghiệp thực phẩm- đồ uống niêm yết trên sàn chứng
khoán Việt Nam. Quản trị lợi nhuận dồn tích và quản trị lợi nhuận thực được
xem xét trên 27 doanh nghiệp giai đoạn 2014- 2022. Kết quả hồi quy sử dụng
phương pháp ước lượng tối thiểu tổng quát khả thi FGLS cho thấy kiệt quệ tài
chính thúc đẩy hành vi quản trị lợi nhuận dồn tích trong khi hạn chế hành vi
quản trị lợi nhuận thực. Các doanh nghiệp kiệt quệ tài chính có khuynh hướng
thực hiện quản trị lợi nhuận nhằm cung cấp thông tin theo mong muốn chủ
quan của doanh nghiệp, cung cấp hình ảnh tích cực về hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng tới quyết định của các bên liên quan. Kết quả
bài viết một mặt cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa
Financial distress and earning management: Evidence from Vietnamese listed companies in
Food and Beverage industry
Abstract: The study examines the relationship between financial distress and earnings management
using data from food and beverage companies listed in Vietnam stock exchange. Both types of earnings
management, including accrual-based earnings management and real earnings management, were utilized
in 27 companies during 2014- 2022 period. By employing feasible generalized least squares methods, the
study finds that financial distress increases accrual-based earnings management in the following year while
it decreases real earnings management. Firms in the financial distress tend to apply earning management
to obscure their financial health and provide a more positive picture to stakeholders influencing their
decisions. The findings provide empirical evidence on the relationship between financial distress and
earning management in Vietnam. Additionally, it offers practical implications for corporate managers,
investors and regulatory authorities to better evaluate financial information of businesses.
Keywords: Financial distress, Earning management, Earning quality
Doi: 10.59276/JELB.2025.03.2728
Tran, Ngoc Mai1, Do, Thi Thu Giang2
Email: ngocmai@hvnh.edu.vn1, dttgiang18@gmail.com2
Organization of all: Falcuty of Finance, Banking Academy of Vietnam
Trần Ngọc Mai1, Đỗ Thị Thu Giang2
Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng, Việt Nam

TRẦN NGỌC MAI - ĐỖ THỊ THU GIANG
67
Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
kiệt quệ tài chính và quản trị lợi nhuận tại Việt Nam, mặt khác đưa ra những
gợi ý cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư và cơ quan quản lý nhằm đánh giá
đúng thực trạng tài chính doanh nghiệp.
Từ khóa: Kiệt quệ tài chính, Quản trị lợi nhuận, Điều chỉnh lợi nhuận
vực và trên thế giới (VIR, 2024). Điều
này có thể giải thích một phần bởi hành vi
QTLN của các DN thông qua việc tác động
đến các khoản dồn tích hay hoạt động thực
của DN nhằm đánh lừa các bên liên quan
về thực trạng HĐKD của mình.
Đã có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ
giữa KQTC và QTLN, hầu hết kết luận
KQTC làm gia tăng hành vi QTLN (Campa
& Camacho-Minano, 2014; Habid và cộng
sự, 2013; Bisogno & De Luca, 2015;
Charitou và cộng sự, 2007; Da Silva Flores
và cộng sự, 2023). Mỗi nghiên cứu được
thực hiện tại thị trường khác nhau, xem xét
QTLN thông qua phương pháp kế toán dồn
tích, phương pháp quản trị lợi nhuận thực
hoặc cả hai. Tại Việt Nam, nghiên cứu về
các nhân tố tác động tới QTLN tuy nhiều
nhưng chủ yếu sử dụng các thước đo lợi
nhuận kế toán điều chỉnh. Nghiên cứu về
tác động của KQTC đến QTLN theo cả hai
cách thức đo lường chất lượng dồn tích và
quản trị thông qua các giao dịch thực sẽ
góp phần đưa ra một cái nhìn toàn diện và
sâu sắc hơn về vấn đề này.
Chính vì vậy, bài viết này nhằm mục đích
làm rõ mối quan hệ giữa KQTC và QTLN
của các doanh nghiệp tại Việt Nam giai
đoạn 2014- 2022. Để tìm ra mối quan hệ
giữa KQTC và hành vi QTLN (dựa trên
QTLN dồn tích và quản trị lợi nhuận thông
qua các giao dịch thực), bài nghiên cứu đã
sử dụng dữ liệu từ nhóm 27 DN thực phẩm-
đồ uống (F&B) niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam, đồng thời bài viết
cũng xem xét về mối quan hệ giữa các biến
1. Đặt vấn đề
Lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu quan
trọng nhất trên báo cáo tài chính (BCTC) và
được đông đảo nhà đầu tư, ngân hàng và các
cơ quan quản lý quan tâm. Lợi nhuận cho
biết tình hình hoạt động kinh doanh (HĐKD)
của doanh nghiệp (DN) trong năm, hiệu quả
kinh doanh ghi nhận dựa trên sự chênh lệch
giữa doanh thu và chi phí. Các nhà đầu tư
thường tập trung sự chú ý vào các DN có
lợi nhuận cao và ổn định, có triển vọng tăng
trưởng trong tương lai. Chính vì vậy, các
nhà quản lý DN có xu hướng điều chỉnh lợi
nhuận công bố nhằm làm đẹp hiệu quả điều
hành của mình. Đặc biệt trong các giai đoạn
HĐKD của DN bị suy giảm do chiến lược
kinh doanh chưa phù hợp, hiệu quả quản lý
tài chính chưa cao hoặc do các yếu tố khách
quan như khủng hoảng kinh tế, dịch bệnh
COVID-19, các nhà quản lý càng gia tăng
hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN) (Campa
& Camacho-Minano, 2014; Rosner, 2003;
Da Silva Flores và cộng sự, 2023) nhằm che
đi hiệu quả hoạt động thực của DN và tình
trạng kiệt quệ tài chính (KQTC) của mình.
Tại Việt Nam, những năm qua, đã xảy ra
nhiều vụ gian lận khi lập BCTC của các
DN, điển hình phải kể đến như: Công ty
Dược Viễn Đông (2011), Công ty Cổ phần
Đầu tư khoáng sản Tây Bắc (2012), Tập
đoàn Kỹ nghệ gỗ Trường Thành (2016)...
Điểm số đánh giá và xếp hạng của World
Bank về chỉ số quản trị công ty và chất
lượng kiểm toán ở Việt Nam đều ở mức
tương đối thấp so với các nước trong khu

Kiệt quệ tài chính và quản trị lợi nhuận: Bằng chứng thực nghiệm
từ các doanh nghiệp niêm yết ngành Thực phẩm - Đồ uống Việt Nam
68 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
như quy mô DN, đòn bẩy tài chính, tỷ suất
sinh lợi, chất lượng kiểm toán… đối với
cả hai phương pháp QTLN để làm rõ hơn
về khía cạnh nghiên cứu mà nhóm tác giả
hướng tới. Các DN thực phẩm và đồ uống
được lựa chọn bởi đây là ngành chịu áp
lực cạnh tranh cao, các quy định nghiêm
ngặt về an toàn thực phẩm cũng như nhạy
cảm với sự thay đổi trong xu hướng tiêu
dùng. Việc quản trị tài chính nói chung và
quản trị lợi nhuận nói riêng vì vậy trở nên
phổ biến hơn ở những ngành có nhiều biến
động mang tính chu kỳ (Roychowdhury,
2006; Dechow và cộng sự, 2010). Bài viết
được chia làm 05 phần, sau đặt vấn đề là
tổng quan nghiên cứu, dữ liệu và phương
pháp nghiên cứu. Các phần tiếp theo tập
trung vào phân tích kết quả nghiên cứu, kết
luận và một số đề xuất.
2. Tổng quan nghiên cứu
Về mặt lý thuyết, mối quan hệ giữa kiệt
quệ tài chính và quản trị lợi nhuận có thể
được giải thích bởi các lý thuyết: lý thuyết
đại diện (agency theory), lý thuyết tín hiệu
(signalling theory) và lý thuyết hợp đồng
(contracting theory). Theo lý thuyết đại
diện, nhà quản trị có xu hướng điều chỉnh
lợi nhuận khi doanh nghiệp gặp khó khăn
tài chính để giảm thiểu sự giám sát của chủ
DN (Meckling & Jensen, 1976). Lý thuyết
tín hiệu gắn việc điều chỉnh lợi nhuận với
động cơ lan truyền tín hiệu tích cực về tình
hình tài chính từ đó tác động trở lại tới hoạt
động của DN (Ross, 1977). Lý thuyết hợp
đồng cho rằng hoạt động của doanh nghiệp
là các mối quan hệ kinh tế diễn ra giữa
doanh nghiệp và các bên liên quan, thể
hiện bằng các hợp đồng. Khi DN gặp khó
khăn tài chính, khả năng vi phạm hợp đồng
tăng lên gây ảnh hưởng tiêu cực tới doanh
nghiệp do đó làm gia tăng hành vi quản trị
lợi nhuận.
Có hai cách phổ biến để QTLN trong DN:
QTLN dồn tích và QTLN thực. QTLN dồn
tích là cách DN vận dụng các chính sách
kế toán, lựa chọn kế toán để tác động lên
phần dồn tích trong doanh nghiệp. Tuy
nhiên trong tổng dồn tích của DN, tồn
tại một phần dồn tích căn cứ theo HĐKD
thông thường của DN. Do đó chỉ phần còn
lại là các khoản dồn tích có thể điều chỉnh
được coi là đại lượng đại diện mức độ quản
trị lợi nhuận dồn tích của DN. Trong khi
đó, quản trị lợi nhuận thực là cách thức DN
điều chỉnh HĐKD thực tế của DN, chẳng
hạn như điều chỉnh chính sách bán hàng,
nới lỏng thời hạn thanh toán hay cắt giảm
chi phí đào tạo và nghiên cứu nhằm tăng
lợi nhuận trong kỳ (Roychowdhury, 2006).
Về mặt thực tiễn, hầu hết các nghiên cứu
đều chỉ ra mối quan hệ cùng chiều giữa kiệt
quệ tài chính và quản trị lợi nhuận (Graham
và cộng sự, 2005; Zang, 2012; Li và cộng
sự, 2020; Habib và cộng sự, 2016). Gunny
(2010) so sánh QTLN thực với dồn tích và
cho rằng các DN ưa thích QTLN thực hơn
là QTLN dồn tích bởi hình thức này không
chịu rủi ro phát hiện từ phía kiểm toán.
QTLN thực là một cách thức hiệu quả để
điều chỉnh lợi nhuận (Garcia Lara và cộng
sự, 2005; Kothari và cộng sự, 2015). Trái
lại, Zang (2012) nêu bật tính linh hoạt của
QTLN dồn tích ở chỗ có thể điều chỉnh sau
khi kết thúc năm tài chính, sau khi biết tình
hình HĐKD, sự cần thiết và mức độ điều
chỉnh lợi nhuận. Yang và cộng sự (2015)
cho rằng việc lựa chọn hành vi QTLN dồn
tích hay QTLN thực phụ thuộc vào từng
bối cảnh cụ thể của DN và mức độ tốn kém
về mặt chi phí của hai phương pháp này.
Nghiên cứu về tác động của KQTC lên
hành vi QTLN của các DN tại Tây Ban
Nha, Campa và Camacho-Minano (2014)
cho rằng với các DN có tình hình KQTC
cao thì sẽ có xu hướng QTLN dựa trên hoạt
động thực hơn so với việc thông qua các

TRẦN NGỌC MAI - ĐỖ THỊ THU GIANG
69
Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
khoản dồn tích. Tại các DN này, QTLN
thực được vận dụng để hoàn thành các mục
tiêu ngắn hạn mặc dù đây là loại hình tốn
kém chi phí (Kim & Sohn, 2013). Graham
và cộng sự (2005) giải thích tính phổ biến
của QTLN thực là do hành vi QTLN dồn
tích đối mặt với những vi phạm trong việc
lập và trình bày báo cáo tài chính. Bisognlo
và De Luca (2015) lại cho rằng các DN gia
tăng hành vi QTLN dồn tích nhằm duy trì
các khoản vay ngân hàng hơn là để đáp
ứng kỳ vọng của các nhà phân tích hay nhà
đầu tư. Mẫu dữ liệu Bisognlo và De Luca
(2015) sử dụng là các công ty tư nhân nhỏ
và vừa ở Ý. Charitou và cộng sự (2007) tìm
thấy mối liên hệ giữa hành vi quản trị lợi
nhuận dồn tích ở các DN gặp khủng hoảng
tài chính và đệ đơn phá sản tại Mỹ giai
đoạn 1986-2001. Nhóm tác giả cho rằng
các DN gia tăng QTLN dồn tích trong thời
kỳ khó khăn là để tránh vi phạm các hợp
đồng nợ, tránh việc xảy ra tình trạng phá
sản hay tăng mức bồi thường cho các nhà
quản lý (Charitou và cộng sự, 2007; Habib
và cộng sự, 2013).
Ở Việt Nam, các nghiên cứu liên quan đến
QTLN tuy không mới nhưng hầu hết triển
khai theo hướng tìm ra các nhân tố ảnh
hưởng đến hành vi QTLN và sử dụng đơn
lẻ phương pháp đo lường quản trị lợi nhuận
dựa trên kế toán các khoản dồn tích. Chỉ một
số ít nghiên cứu làm rõ ảnh hưởng của kiệt
quệ tài chính lên QTLN của doanh nghiệp.
Tran và Dang (2021) làm rõ tác động của
cấu trúc quản trị đến hành vi QTLN dồn
tích của các DN gặp khó khăn về tài chính
và cho rằng các ràng buộc về tài chính
là nguyên nhân thúc đẩy hành vi QTLN
trong DN. Lê Thị Phương Vy (2020) tìm
thấy mối quan hệ cùng chiều giữa KQTC
và QTLN thông qua phương pháp dồn tích
ở các DN niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam 2009- 2017. Các công ty
trong tình trạng KQTC có xu hướng điều
chỉnh lợi nhuận để đối phó với căng thẳng
tài chính, đáp ứng yêu cầu của các khoản
vay, từ đó giảm bất lợi cho nhà đầu tư và
doanh nghiệp (Lê Thị Phương Vy, 2020;
Moreira & Pope, 2007). Hồ Thủy Tiên và
Hồ Thu Hoài (2023) so sánh hành vi quản
trị lợi nhuận giữa hai nhóm DN niêm yết
và chưa niêm yết tại Việt Nam. Quản trị lợi
nhuận được tìm thấy ở cả hai nhóm doanh
nghiệp, tuy nhiên các công ty niêm yết điều
chỉnh lợi nhuận nhiều hơn, nhất là các công
ty tài trợ phần lớn vốn từ nợ vay và có khả
năng kiệt quệ tài chính ở mức cao.
Bên cạnh đó, các nhân tố thể hiện đặc điểm
của doanh nghiệp như quy mô, khả năng
sinh lời, đòn bẩy tài chính, dòng tiền từ
HĐKD và chất lượng kiểm toán đại diện
bởi BIG4 có tác động tới hành vi QTLN
của DN. DN có mức sinh lời cao, có đòn
bẩy tài chính lớn có động cơ gia tăng hành
vi QTLN để giảm thuế hay áp lực từ việc
vi phạm hợp đồng từ đó gia tăng lợi ích tài
chính (Healy & Wahlen, 1999; Dechow
và cộng sự, 1995). QTLN giúp các DN có
được nhiều khoản vay, lãi suất ưu đãi hơn
từ đó giảm thiểu tình trạng KQTC. Các DN
có quy mô lớn được cho là kém linh hoạt
hơn các DN nhỏ trong việc thực hiện QTLN
(Bisogno & De Luca, 2015; Zamri & cộng
sự, 2013). Các DN có dòng tiền từ HĐKD
dồi dào, có kiểm toán BIG4 với chất lượng
kiểm toán ở mức cao hạn chế thực hiện
QTLN (Ajekwe & Ibiamke, 2017; Campa
& Camacho-Minano, 2014).Có thể thấy, tác
động của KQTC lên QTLN là không đồng
nhất ở các nghiên cứu. Dựa trên các căn cứ
lý luận và thực tiễn ở trên, nhóm tác giả đề
xuất giả thuyết nghiên cứu sau:
H1: Kiệt quệ tài chính làm gia tăng hành
vi quản trị lợi nhuận dồn tích
H2: Kiệt quệ tài chính làm giảm hành vi
quản trị lợi nhuận thực
Các giả thuyết được đề xuất xuất phát từ
thực trạng vẫn còn tồn tại nhiều vi phạm

Kiệt quệ tài chính và quản trị lợi nhuận: Bằng chứng thực nghiệm
từ các doanh nghiệp niêm yết ngành Thực phẩm - Đồ uống Việt Nam
70 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
liên quan đến công bố thông tin và chất
lượng báo cáo tài chính tại Việt Nam giai
đoạn vừa qua (Thư Tú, 2024). Thêm vào
đó, theo Zang (2012) các DN trong hoàn
cảnh KQTC sẽ nhận thấy hành vi QTLN
thực là tốn kém chi phí, do đó có khuynh
hướng thay thế các tác động thực này bằng
phương pháp quản trị lợi nhuận dồn tích.
Haga và cộng sự (2018) ủng hộ quan điểm
trên khi xem xét các DN niêm yết và chưa
niêm yết ở Anh. Việc quản lý các khoản lợi
nhuận dựa trên dồn tích sẽ có chi phí thấp
hơn vì nó không làm thay đổi dòng tiền của
doanh nghiệp, mà chỉ làm thay đổi phương
pháp kế toán, các ước tính kế toán cũng
như là các tác động làm giảm giá trị tài sản
của doanh nghiệp (Zang, 2012).
3. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu
3.1. Mô hình nghiên cứu
Dựa trên các nghiên cứu của Campa (2015)
và Li và cộng sự (2020), tác giả đã đề xuất
mô hình đo lường tác động của KQTC
đối với QTLN dựa trên cả khoản dồn tích
và các hành vi điều chỉnh thực như sau
(phương trình 1 và 2):
REMit = αit + β1FDit-1 + β2ROAit + β3LEVit
+ β4SIZEit + β5CFOit + β6BIG4it + β7MSit +
εit (1)
AEMit = αit + β1FDit-1 + β2ROAit + β3LEVit +
β4SIZEit + β5CFOit + β6BIG4it + β7CYCLEit
+ εit (2)
Trong đó: REMit và AEMit lần lượt là đại
lượng thể hiện QTLN thực và QTLN dồn
tích của DN. FDit-1 thể hiện tình trạng kiệt
quệ tài chính của doanh nghiệp, là biến giả
có giá trị bằng 1 nếu DN trong tình trạng
KQTC và 0 nếu không gặp phải vấn đề
kiệt quệ tài chính dựa theo nghiên cứu của
Campa (2015). Biến FD được đưa vào mô
hình với độ trễ 1 năm dựa theo nghiên cứu
của Molina và Preve (2009) và Asquith và
cộng sự (1994) để chắc chắn DN trong tình
trạng KQTC thời điểm đo lường hành vi
QTLN và được ký hiệu L.FD. ROAit, LEVit,
SIZEit, CFOit, BIG4it, MSit, CYCLEit lần
lượt là biến tỷ suất sinh lợi, đòn bẩy tài
chính, quy mô công ty, dòng tiền HĐKD,
chất lượng kiểm toán, thị phần, chu kỳ
tiền mặt. ROA được sử dụng thay vì hệ số
Tobin’s Q vì đây là thước đo thể hiện hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp một cách
trực tiếp thay vì chịu tác động của yếu tố
thị trường.
Đo lường quản trị lợi nhuận
Nghiên cứu này dựa theo Roychowdhury
(2006), Kothari và cộng sự (2005) để đo
lường QTLN thực và QTLN dồn tích. Đối
với phần QTLN theo phương pháp dồn tích,
Kothari và cộng sự (2005) được vận dụng
với biến ROA được thêm vào mô hình của
Dechow và cộng sự (1995). Phần dồn tích
không thể điều chỉnh (NDA) gắn với hoạt
động bình thường của doanh nghiệp. Phần
có thể điều chỉnh (DA) được xác định là
phần dư của phương trình hồi quy (3).
TAt/Ait-1 = α1(1/Ait-1) + α2(ΔREVit - ΔRECit)/
Ait-1) + α3(PPEit/Ait-1) + α4 ROAit-1 (3)
Đối với quản trị lợi nhuận thực, bài viết sử
dụng cách đo lường của Roychowdhury
(2006) tính toán tổng phần dư của 3 phương
trình hồi quy (4), (5) và (6). Các phần dư
này lần lượt đại diện cho những phát sinh
bất thường trong dòng tiền hoạt động, chi
phí sản xuất và chi phí tuỳ ý.
CFOit/Ait-1 = α0 + α1(1/Ait-1) + β1(REVit/Ait-
1) + β2(ΔREVit/Ait-1) + εit (4)
PRODit/Ait-1 = α0 + α1(1/Ait-1) + β1(REVit/
Ait-1) + β2(ΔREVit/Ait-1) + β3(ΔREVit/Ait-1)
+ εit (5)
DISEXPit/Ait-1 = α0 + α1(1/Ait-1) + β(REVit/
Ait-1) + εit (6)
REMit= abnormalCFOit (-1) + abnormal
PRODit + abnormal DISEXPit (-1) (7)
Trong đó: CFOit, PRODit và DISEXPit lần