
KỸ THUẬT NUÔI CẦY VÒI HƯƠNG
I. GIỚI THIỆU:
- Hiện nay nghề nuôi Cầy vòi hương đang bước đầu phát triển rộng, trên nhiều trang web,
diễn đàn thường rao mua bán Cầy hương, Cầy vòi hương nhưng thực ra đa phần là Cầy
vòi hương. Cầy vòi hương và Cầy hương có thân mình khá giống nhau nhưng đặc điểm
dễ phân biệt nhất của hai loài này là Cầy hương có đuôi gồm nhiều khoang trắng và đen
xen kẽ nhau, thường mỗi thứ 7 khoang, còn Cầy vòi hương đuôi có các đốm đen và đen
dần về phía cuối đuôi. Ngoài ra gương mặt cũng khác nhau và đối với Cầy hương có
tuyến xạ nằm ngay trước tinh hoàn còn Cầy vòi hương có tuyến xạ nằm sâu phía trong
mông phân bố hai bên hậu môn mà không lộ ra ngoài như Cầy hương. Cầy vòi hương có
tên khoa học là Paradoxurus hermaphroditus còn Cầy hương có tên khoa học là
Viverricula indica, hiện nay nhiều nơi còn nhầm lẫn nuôi Cầy vòi hương nhưng lại đăng

ký và làm giấy phép chăn nuôi với tên khoa học của Cầy hương, bà con chăn nuôi khi
mua giống cần chú ý điều này. Một điều quan trọng là Cầy vòi hương đang được xếp vào
nhóm động vật hoang dã thông thường, khi mua bán trao đổi chỉ cần đăng ký tại Hạt
kiểm lâm huyện còn đối với Cầy hương được xếp vào nhóm IIB nên việc trao đổi, mua
bán phải đăng ký thủ tục tại chi cục kiểm lâm tỉnh, thành phố.
II. TRIỂN VỌNG NGHỀ CHĂN NUÔI CẦY VÒI HƯƠNG:
- Hiện nay số lượng Cầy vòi hương trong tự nhiên suy giảm với mức độ khá nghiêm
trọng, trong vài năm gần đây lượng Cầy vòi săn bắt ngoài tự nhiên giảm hẳn và rất hiếm
gặp, một phần do môi trường sống bị thu hẹp, một phần do loài này đang có giá trị khá
cao trên thị trường nên bị săn bắt khá ráo riết. Theo sự theo dõi giá cả tôi nhận thấy trong
vài năm trở lại đây giá Cầy vòi hương tăng khoảng 10% - 20% hàng năm và ngày càng
cao hơn. Có lẽ trong vài năm tới lượng Cầy vòi hương nói riêng và các loài động vật
hoang dã có giá trị cao trong tự nhiên sẽ bắt đầu cạn kiệt. Hiện nay giá Cầy vòi tại những
trung tâm tiêu thụ lớn như: Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh và một lượng lớn xuất đi Trung
Quốc với giá khoảng 1 triệu đồng/kg, cho nên việc nuôi Cầy vòi hương vừa có tác dụng
bảo tồn loài này vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn nuôi.
- Thịt Cầy vòi hương thơm ngon và có giá trị dinh dưỡng cao, ít mỡ, cùng với điều kiện
kinh tế ngày càng phát triển, một bộ phận người dân có thu nhập khá cao với thị hiếu
thưởng thức những món ngon, làm dược liệụ và một thị trường xuất khẩu sang Trung
Quốc rộng lớn nên đầu ra của Cầy vòi hương, rắn, rùa có lẽ không bao giờ cung đủ cầu,
không những thế giá ngày càng cao nên người chăn nuôi không phải lo lắng đến đầu ra và
đây là một trong những ưu thế lớn đối với việc chăn nuôi những loài động vật hoang d
khác như nhím, lợn rừng... vì những loài này chưa xuất khẩu được sang thị trường Trung
Quốc.
- Cầy vòi hương có đặc tính là loài ăn đêm, ban ngày ngủ cho nên việc chăm sóc khá đơn
giản và khẩu phần ăn hàng ngày ít và là loài ăn tạp nên rất dễ kiếm nguồn thức ăn trong
chăn nuôi.

- Ngoài ra, hiện nay cà phê chồn một số nơi đã bắt đầu có nguồn tiêu thụ,tuy chưa mạnh,
nhưng nếu thời gian tới sản phẩm này có đầu ra ổn định thì ngoài giá trị thịt đây còn là
một nguồn thu khá lớn đối với bà con chăn nuôi.
- Tuy nhiên, nuôi Cầy vòi hương cũng không hề quá đơn giản như các bài viết trên các
diễn đàn và báo chí. Cầy vòi hương mỗi tháng có thể tăng trọng từ 0,3 – 0,5kg tuỳ theo
điều kiện chăm sóc, trong điều kiện nuôi nhốt cũng có khá nhiều bệnh như những con vật
nuôi khác như: tụ huyết trùng, cầu trùng, thương hàn... nhưng nếu người nuôi nắm vững
được kỹ thuật chăm sóc và xử lý đối với dịch bệnh thì nuôi Cầy vòi hương là một trong
những nghề phát triển bền vững và mang lại giá trị kinh tế cao hiện tại và trong tương lai.
Là một trong số ít những nghề mang lại thu nhập cao từ việc cung cấp thịt thương phẩm
ra thị trường mà không cần chú trọng đến việc cung cấp giống. Muốn đạt được kết quả đó
trước hết chúng ta phải nắm vững kỹ thuật nuôi Cầy vòi hương trong thực tế chăn nuôi để
giảm tỉ lệ hao hụt, tránh thất thoát góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình chăn nuôi.
Sau đây là một số kinh nghiệm trong quá trình chăn nuôi nhằm giúp bà con khắc phục
một phần những khó khăn gặp phải trong quá trình chăn nuôi, từng bước nâng cao hiệu
quả trong chăn nuôi và đưa việc nuôi Cầy vòi hương phát triển thành một nghề mang lại
hiệu quả kinh tế cao cho bà con chăn nuôi góp phần nâng cao thu nhập cho bà con nông
dân. Tuy nhiên đây cũng chỉ là những kinh nghiệm thực tế của riêng tôi, việc chăn nuôi
còn tuỳ thuộc vào điều kiện khí hậu từng vùng nên không tránh khỏi những điều chưa
hợp lý và hạn chế, mong những ai có kinh nghiệm xin cùng đóng góp ý kiến để bà con
cùng học tập rút kinh nghiệm phục vụ cho việc chăn nuôi hiệu quả hơn.
III. CHUỒNG TRẠI:
- Về kỹ thuật làm chuồng trại hiện nay có khá nhiều mô hình như mô hình nuôi nhốt
trong cũi, mô hình nuôi bán hoang dã tức là tạo môi trường càng giống tự nhiên càng tốt
nhưng phải thuận tiện cho việc chăm sóc, dọn vệ sinh, theo dõi vật nuôi. Mỗi mô hình có
ưu, nhược điểm riêng. Nói chung dù mô hình nào thì chuồng trại bắt buộc phải chắc chắn,
tránh gió lùa trực tiếp vào chuồng vì Cầy vòi hương có đặc tính chịu nóng khá giỏi nhưng
chịu gió lạnh khá kém, tốt nhất chuồng nên tránh quay mặt hướng tây và hướng bắc. Nếu

đóng chuồng cũi thường dùng gỗ và lưới mắt nhỏ nhưng sợi lưới phải lớn nếu sợi lưới
nhỏ (đường kính dưới 2mm) Cầy có thể cắn đứt, thường bên dưới nên đóng bằng lưới để
phân lọt xuống thuận tiện cho việc dọn vệ sinh, chuồng có thể đóng dài x rộng x cao =
0,5 x 0,6 x 0,5 (m), đối với làm chuồng kiểu bán tự nhiên thì bắt buột phải kín từ dưới lên
trên, cửa phải chắc chắn, mái phải lợp kín bằng tôn ximăng hoăc tôn kẽm, nếu lợp ngói
buộc phải có trần nếu không có thể sẩy mất vì Cầy vòi leo trèo rất giỏi. Trong chuồng
chúng ta bố trí nơi ăn, ngủ, leo trèo riêng với nguyên tắc tự nhiên, thông thoáng, thuận
tiện cho việc vệ sinh chuồng trại, dễ quan sát theo dõi. Cầy vòi hương thích ngủ trên cao,
thông thường chỗ ngủ chúng ta có thể dùng gạch và ván xếp tạo thành các ô cho chúng
chuôi vào ngủ nhưng phải ngay ngắn để dẽ dọn vệ sinh, nên xếp tập trung một khu trong
chuồng và xếp chồng lên cao. Nền chuồng cũng là một vấn đề hết sức quan trọng liên
quan nhiều đến khả năng gây dịch bệnh, chúng ta có thể phả láng để rửa hằng ngày hoặc
có thể cho vào 1 lớp cát dày khoảng 20 cm loại hạt lớn, trước khi đổ cát chúng ta nên rải
lớp vôi bột ở dưới, khoảng năm, bảy ngày chúng ta dọn phân 1 lần, một năm thay cát 1
lần, điều này cũng tùy vào lượng phân thải ra, nếu thấy quá ẩm ướt, hôi thì thay sớm hơn,
nhưng nếu vẫn khô ráo chúng ta chỉ cần phun sát trùng trên mặt nền là được . Mô hình
nuôi trong lồng, cũi có ưu điểm dễ kiểm soát dịch bệnh, dễ theo dõi vật nuôi nhưng tốn
công chăm sóc và có phần mất tự nhiên nên dễ phát sinh dịch bệnh và khó khăn trong
việc phối giống, động dục... còn mô hình nuôi bán hoang dã thì ngược lại, ít tốn công
chăm sóc, ít dịch bệnh nhưng khi đã có dịch bệnh thì khó phát hiện, không kiểm soát
được để cách ly nên dễ lây lan thành dịch và thường hay cắn nhau vào ban đêm gây
thương tích và có thể gây chết.
IV. CON GIỐNG:
- Bà con mới bắt đầu nuôi chưa trải qua kinh nghiệm nên mua con giống có trọng lượng
1,5kg trở lên để thuận tiện trong việc chăm sóc và điều trị bệnh dễ dàng khi xảy ra dịch
bệnh. Vì nếu mua con nhỏ sức đề kháng yếu, dễ bị bệnh và khi bị bệnh khó điều trị hơn
những con lớn. Cầy vòi hương tương đối chậm lớn, nếu ta cho ăn quá nhiều thì chất
lượng thịt không ngon, nhiều mỡ và nếu dùng để làm Cầy giống sinh sản thì không tốt và

Cầy không linh hoạt do quá béo. Tuy nhiên nếu nuôi lấy thịt ta kiểm soát được dịch bệnh,
hạn chế được hao hụt trong chăn nuôi nó sẽ mang lại giá trị khá cao.
- Một điều cần chú ý trong lúc chọn mua con giống, ngoài phải chọn những con khỏe
mạnh, lanh lợi còn phải chọn những con hiền, có khả năng gần người, không cắn nhau
khi nuôi thả chung nhiều con trong cùng một chuồng. Điều này rất quan trọng sau này, vì
nếu con giống quá dữ đến khi động dục chúng ta ghép đực cái khó, chúng có thể cắn
nhau đến chết, hoặc lúc đẻ chúng rất dữ tợn gây khó khăn cho việc chăm sóc, làm vệ
sinh, điều trị bệnh... đặc biệt nếu chúng ta mua con đực lạ quá lớn so với những con đực
khác trong chuồng khi đã thành thục nếu thả chung hoặc cho giao phối cần phải theo dõi
cẩn thận nếu có vấn đề phải tách ra ngay, nếu không chúng sẽ cắn nhau đến chết, vì
chúng là loài ăn đêm, tối chúng mới thức dậy hoạt động nên chúng ta phải quan sát kỹ
vào ban đêm, ban ngày tất cả đều ngủ nên không có vấn đề gì. Đặc tính của Cầy vòi
hương là có sự phân chia lãnh thổ, sống đơn lẻ trong tự nhiên, chỉ gặp nhau trong mùa
giao phối nên có sự tranh giành, đánh dấu lãnh thổ. Do đó, nếu chúng ta nuôi nhiều con
đực trưởng thành trong cùng 1 chuồng mà chưa thuần, những con lớn sẽ cắn chết những
con nhỏ. Vào mùa động dục tất cả những con trưởng thành cả đực lẫn cái đều hung dữ
hơn bình thường. Tuy có thể sống hòa thuận từ trước nhưng đến mùa động dục có thể cắn
lẫn nhau nhưng không đáng kể so với những con lạ. Trong quá trình chăn nuôi chúng ta
phải dựa vào một số các đặc tính tự nhiên mà có cách nuôi dưỡng thích hợp.
V. THỨC ĂN:
- Cầy vòi hương là loài ăn tạp nên chúng có thể ăn được rất nhiều thứ như: trái cây
(chuối, mít, quả sung, quả lêkima, xoài...), thịt, cơm, cháo, cua, rắn, chuột, ếch, nhái...
- Thông thường chúng ta nên tập cho Cầy vòi ăn cháo nấu với tạng động vật (lòng lợn,
lòng gà...), nếu có điều kiện gần đồng ruộng, sông suối có thể kiếm các thức ăn phụ thêm:
giun đất, cua đồng, rắn nước, chuột, ếch nhái. Ngoài ra trong khẩu phần cũng đảm bảo
một lượng rau, chuối chín, các loại trái cây khác một cách tương đối nhằm cung cấp đủ
chất, điều hoà dinh dưỡng. Chuối có tác dụng nhuận trường và phân bớt hôi, đặc biệt giun
đất rất giàu đạm, dùng cho những con bị bệnh ăn ít hoặc bỏ ăn sẽ giúp mau khỏi bệnh.