SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH SÓC TRĂNG
KỶ YẾU
HỘI NGHỊ
CHUYÊN ĐỀ “DẠY VÀ HỌC MÔN
GIÁO DỤC CÔNG DÂN THEO ĐỊNH HƯỚNG
THI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN”
Thạnh Trị, ngày 22 tháng 12 năm 2016
MỤC LỤC
Phần I. Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá môn GDCD theo định hướng phát triển năng lực học sinh 1
1 Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá môn GDCD theo định hướng phát triển năng lực học sinh - Huỳnh Văn Nghệ - Trường THPT Nguyễn Khuyến 1
2 Dạy và học bộ môn Giáo dục công dân lớp 12 theo hình thức chuyên đề nhằm cải thiện ý thức học tập cho học sinh - Ngô Thị Thúy Diễm - Trường THPT chuyên Nguyễn Thị Minh Khai 5
3 Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá môn GDCD theo định hướng phát triển năng lực học sinh - Trần Thị Hồng Đào - Trường THPT Thuận Hòa 8
4 Đổi mới phương pháp kiểm tra miệng trong môn Giáo dục công dân theo định hướng phát triển năng lực của học sinh - Phan Thị Mỹ Duyên - Trường THPT Phú Tâm 11
Phần II. Cách thức ôn tập, xây dựng câu hỏi, đề thi môn GDCD theo các mức độ của ma trận theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan 14
5 Một số giải pháp ôn tập cho học sinh lớp 12 môn GDCD theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở trường THPT Kế Sách - Nguyễn Thị Minh Tâm - Trường THPT Kế Sách 14
6
Phương pháp ôn thi tốt nghiệp THPT và kĩ thuật viết câu hỏi trắc nghiệm khách quan môn Giáo dục công dân - Trần Thị Kim Nhẫn - Trường THPT Trần Văn Bảy 19
7 Cách thức ôn tập, xây dựng câu hỏi, đề thi môn GDCD theo định hướng phát triển năng lực học sinh - Lê Thị Bé Liên - Trường THPT Mai Thanh Thế 25
8 Cách thức ôn tập, xây dựng câu hỏi, đề trắc nghiệm khách quan môn GDCD theo định hướng thi tốt nghiệp THPT năm 2017 - Trường THPT Hoàng Diệu 31
Phần III. Dạy học môn GDCD theo chủ đề tích hợp liên môn 38
9 Dạy học môn GDCD theo chủ đề tích hợp liên môn - Trần Thị Ngọc Huệ -
i
Trường THPT An Ninh 38
10 Dạy học môn GDCD theo chủ đề tích hợp liên môn - Trần Quốc Trung Tín
- Trường THPT Lịch Hội Thượng 42
11 Dạy học môn Giáo dục công dân theo chủ đề tích hợp liên môn - Nguyễn
46 Thị Hường - Trường THPT Vĩnh Hải
12 Dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn - Dương Hồng Cúc - Trường THPT
Văn Ngọc Chính 51
13 Bài tích hợp liên môn GDCD lớp 10 - Chủ đề: Môi trường và sự phát triển
bền vững - Đoàn Minh Thương - Trường THCS&THPT Mỹ Thuận 54
14 Dạy học môn GDCD theo chủ đề tích hợp liên môn - Ngô Thị Lệ Nghi -
Trường THPT Ngã Năm 68
Phần IV. Một số giải pháp giúp học sinh làm bài thi trắc nghiệm đạt hiệu quả cao 71
15 Một số điều cần lưu ý khi làm bài thi trắc nghiệm GDCD- Đặng Thị Thủy
Tiên - Trường THCS&THPT Tân Thạnh 71
16 Đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá giúp học sinh làm bài trắc nghiệm GDCD đạt hiệu quả cao - Huỳnh Hoàng Phong - Trường THPT Thiều Văn Chỏi 76
17 Cần thay đổi cách dạy và cách học để làm bài thi trắc nghiệm môn GDCD
đạt hiệu quả cao - Lý Thường Kiệt - Trường THPT Hòa Tú 79
18 Cập nhật kiến thức dạy học và rèn luyện kỹ thuật làm bài thi trắc nghiệm khách quan môn GDCD - Thái Dương Hồng Diễm - Trường THPT Huỳnh Hữu Nghĩa 83
19 Một số giải pháp giúp học sinh làm bài trắc nghiệm đạt hiệu quả cao môn
ii
GDCD - Nguyễn Thị Cẩm Loan - Trường THPT Lương Định Của 86
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
PHẦN I ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ MÔN GDCD THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ MÔN GDCD THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
Huỳnh Văn Nghệ Trường THPT Nguyễn Khuyến
A. Lời mở đầu
Để nâng cao chất lượng dạy học và kiểm tra, đánh giá môn GDCD theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở trường THPT là một việc làm thiết thực và có ý nghĩa lớn trong giai đoạn hiện nay. Do đó giáo viên phải nắm được đặc điểm, khả năng của học sinh, để đưa ra phương pháp giáo dục phù hợp đối với học sinh về các vấn đề thực tế cuộc sống hàng ngày.
Để giúp học sinh hiểu, nắm vững các kiến thức và kĩ năng một cách chủ động tích cực để ứng xử trong cuộc sống hàng ngày, giáo viên cần có phương pháp dạy học phù hợp.
B. Nội dung
I. Thuận lợi và khó khăn
1. Khó khăn
Môn giáo dục công dân là một môn học tương đối khó hiểu, khó nhớ, một số nội dung cũng khá lạc hậu. Vì vậy tâm lí của người học không thích học thuộc lòng, ghi nhớ được nội dung kiến thức. Hơn nữa người học không hiểu một cách sâu sắc thì việc ghi nhớ nội dung kiến thức cũng không phải là một điều dễ dàng gì. Mặt khác một số nội dung kiến thức pháp luật lớp 12 là những vấn đề chung nhất cơ bản nhất. Cho nên từ việc tiếp nhận kiến thức để lí giải, vận dụng để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn là tương đối khó cho học sinh.
2. Thuận lợi
Đối với giáo viên
Khi dạy pháp luật thì việc tìm ra những dẫn chứng, ví dụ sinh động không
phải là vấn đề khó.
1
Đối với học sinh
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
Từ những kiến thức học được, học sinh có nhiều cơ hội liên hệ thực tiễn cuộc sống để thấy được những vấn đề còn bất cập, có kiến thức để lí giải những vấn đề trong cuộc sống.
Chính từ những thuận lợi và khó khăn nêu trên, việc đổi mới phương pháp giúp mang lại hiệu quả cao trong hoạt động giảng dạy để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh là điều không thể thiếu. Nhưng thực tiễn đặt ra là làm thế nào giúp người học tiếp thu kiến thức một cách tích cực, chủ động, phát huy được một số sở trường của mình. Theo tôi để thực hiện yêu cầu trên thì cần phải thực hiện một trong số phương pháp sau.
II. Giải pháp thực hiện nâng cao chất lượng dạy và học
Trong giảng dạy không có phương pháp nào là hiệu quả cao nhất hay ngược lại. Mà phải tùy vào nội dung và người học mà có phương pháp phù hợp, hoài hòa, không quá thừa hay quá thiếu. Vì vậy trong quá trình giảng dạy cần có sự kết hợp một số phương pháp cụ thể sau.
1. Đổi mới về soạn giảng
Để giờ học có chất lượng thì soạn giảng phải đổi mới các hoạt động của giáo viên và học sinh. Bài soạn có các câu hỏi dành cho từng đối tượng học sinh yếu, trung bình, khá, giỏi và lấy ví dụ thực tế phải được minh chứng bằng các thông tin mang tính thời sự, hình ảnh, video để giúp học sinh hiểu được nội dung thông qua ví dụ và điều cuối cùng là xây dựng cho học sinh một tiết học nhẹ nhàng, sinh động, có tính mới mẻ.
2. Đổi mới cách tổ chức học sinh
Giáo viên quan tâm đến mọi đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh yếu, học sinh thụ động bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập như: hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm, hoạt động tranh luận ... giáo viên cho học sinh chuẩn bị một số hình ảnh, video, nghiên cứu trước nội dung cần tranh luận, sự kiện liên quan đến nội dung bài học. Khuyến khích kịp thời các em có sự cố gắng.
3. Dạy học thông qua các hoạt động
Hoạt động và giao tiếp là những đặc trung cơ bản của con người: Nhân cách của con người chỉ hình thành và phát triển thông qua các hoạt động giao tiếp. Chính vì vậy để hình thành và phát triển nhân cách học sinh, giáo viên phải thông qua các hoạt động giao tiếp bằng cách cho các em giao tiếp với thầy, với bạn thông qua thảo luận nhóm, xử lí tình huống, tranh luận… để các em có thể phát hiện và chiếm lĩnh nội dung bài học. Các hoạt động này do giáo viên thiết kế, dựa trên mục tiêu, nội dung của bài học, điều kiện thực tế của lớp học.
4. Dạy học hợp tác
2
Dạy học hợp tác là cách dạy học trong đó giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động hợp tác với nhau trong các nhóm nhỏ để giải quyết nhiệm vụ học tập, nhằm đạt được mục tiêu học tập. Giáo viên cần tạo cơ hội cho học sinh được bày
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân về vấn đề đang học, được nêu những khó khăn, vướng mắc, đặt câu hỏi cho thầy cho ban, được trao đổi tranh luận. Chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm, được cùng bạn bè xây dựng kế hoạch chuẩn bị thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Giaos viên uốn nắn học sinh không tích cực tham gia vào hoạt động. Khi dạy học hợp tác giáo viên cần phải có một số lưu ý sau:
Thứ nhất: Nội dung thảo luận phải mang tính vừa sức.
- Nếu quá đơn giản thì học sinh không cần phải thảo luận cũng thấy được.
- Nếu quá khó thì thời gian không cho phép.
- Vấn đề đưa ra cho cả lớp thảo luận không quá nhiều. Vì quá nhiều sẽ khiến cho học sinh không thể nào nắm được nội dung thảo luận của các nhóm khác, sẽ làm cho học sinh chỉ hiểu được nội dung mà mình thảo luận.
Thứ hai: Thời gian cho thảo luận phải phù hợp.
- Phải quy định thời gian.
- Thời gian thảo luận không quá dài. (khoảng 5 đến 7 phút)
- Thời gian thảo luận không quá ngắn (ít nhất là 4 phút) ngắn quá học sinh không đủ thời gian giao tiếp, bàn bạc, tư duy, học sinh sẽ làm mang tính đối phó.
- Trong một tiết học không nên thảo luận quá một lần (quá nhiều sẽ tạo áp lực cho học sinh, mất thời gian, nhàm chán). Chỉ chọn nội dung phù hợp nhất để thảo luận.
5. Dạy học cách tiếp cận kĩ năng sống
Căn cứ vào từng bài học cụ thể giáo viên đưa ra các tình huống cụ thể gần gũi với đời sống học sinh để giáo dục kĩ năng sống như: ứng xử, giải quyết vấn đề, biết từ chối, tìm kiếm sự giúp đỡ đáng tin cậy. Đó là những vấn đề rất cần thiết để giúp các em trở thành những công dân tốt của đất nước, có ý thức, hành vi phù hợp với các chuẩn mực đáo đức và pháp luật.
6. Dạy học gắn với thực tiễn cuộc sống học sinh
Để dạy học môn Giáo dục công dân có hiệu quả cần gắn với nội dung bài học với thực tiễn cuộc sống của học sinh. Cụ thể giáo viên cần tăng cường sử dụng các tình huống, các trường hợp điểm hình, các trường hợp thực tế, các vấn đề bứt xúc trong thực tế xảy ra xung quanh các em để phân tích, đối chiếu, minh họa cho bài giảng. Đồng thời cũng khuyến khích cho học sinh liên hệ thực tế, tiến hành điều tra tìm hiểu phân tích đánh giá các sự kiện trong đời sống thực tiễn của lớp học, nhà trường, địa phương trong quá trình học tập từ đó giúp các em góp phần vào việc cải thiện môi trường tự nhiên và xã hội của lớp học, trường học, địa phương.
III. Đổi mới kiểm tra đánh giá
3
Để nâng cao chất lượng trong kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” triển năng lực học sinh và đáp ứng được nhu cầu thực tiễn giáo dục đặt ra. Cùng với kinh nghiệm của bản thân và tham khảo, nghiên cứu một số tài liệu, theo quan điểm của tôi để đảm bảo chất lượng trong kiểm tra, đánh giá theo hình thức bốn phương án thì chúng ta cần phải tuân theo một số nguyên tắc sau.
1. Mỗi câu hỏi chỉ liên quan đến một mục tiêu nhất định. Bởi vì kiểm tra là nhằm đánh giá, đánh giá bao giờ cũng có mục tiêu xác định. Khi soạn một câu hỏi, chúng ta nên tự hỏi vì sao phải viết câu hỏi ấy, tránh trường hợp viết cho đủ số câu.
2. Câu dẫn nên được trình bày dưới dạng một câu hỏi hay một câu bỏ lửng
(chưa hoàn tất).
3. Câu dẫn phải hàm chứa vấn đề mà ta muốn hỏi một cách rõ ràng để người làm trắc nghiệm có thể biết ta muốn hỏi họ điều gì trước khi đọc phần trả lời.
4. Các câu nhiễu, đều phải có vẻ hợp lý và hấp dẫn. Nếu một trong các
câu nhiễu ấy không hấp dẫn thì có thêm câu nhiễu ấy cũng vô ích mà thôi.
5. Các phương án trả lời phải độc lập với nhau về mặt ngữ pháp.
6. Các giải pháp đưa ra phải độc lập với nhau về mặt ngữ nghĩa.
7. Không được đưa ra những phương án không có nghĩa phù hợp với nội
dung câu hỏi để đánh lạc hướng người trả lời.
8. Tránh dùng chung từ cho phần câu hỏi và phần giải pháp trả lời.
9. Không được biên soạn câu trả lời đúng một cách chi tiết và đầy đủ nhất còn các phương án khác lại quá qua loa, sơ sài. Các giải pháp trả lời phải có độ phức tạp như nhau.
10. Các dữ kiện trong phần câu hỏi phải có cùng mức độ tổng quát.
11. Các câu nhiễu không được quá giống nhau về tính chất. Tính chất giống nhau làm cho câu trả lời đúng trở nên nổi bật, dễ nhận thấy.
12. Không được xây dựng các câu hỏi có câu trả lời có thể nhờ vào thông
tin ở một câu khác.
C. Lời kết
4
Hiện nay qua rất nhiều năm đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh, đặc biệt là đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan đáp ứng nhu cầu thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Vì thế bản thân mạnh dạn đưa ra vấn đề này hy vọng đóng góp một phần công sức trong việc tìm ra phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá mang lại hiệu quả tốt hơn.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
DẠY VÀ HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12 THEO HÌNH THỨC CHUYÊN ĐỀ NHẰM CẢI THIỆN Ý THỨC HỌC TẬP CHO HỌC SINH
Ngô Thị Thúy Diễm Trường THPT chuyên Nguyễn Thị Minh Khai
1. Đặt vấn đề
Nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục theo Nghị quyết 29, từng đơn vị trường học sẽ có những cách thức thực hiện riêng theo kiểu của mình. Dựa trên nền tảng phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực và dạy học theo nguyên tắc “Người học là trung tâm”, môn Giáo dục công dân lớp 12 tại trường THPT chuyên Nguyễn Thị Minh Khai đã tiến hành áp dụng dạy học theo hình thức chuyên đề trong nhiều năm qua. Cách thức này đã mang lại nhiều lợi ích không chỉ cho người thầy trong quá trình nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn mà còn cho học trò trong việc tiếp theo kiến thức và hình thành năng lực.
2. Cách thức thực hiện
2.1. Quan niệm về chuyên đề
Chuyên đề là sự tích hợp nhiều nội dung mà giáo viên nghiên cứu, lựa chọn để đưa thành một đơn vị dạy học cụ thể cho một đối tượng cụ thể. Những đơn vị kiến thức, những nội dung bài học được lựa chọn thường có sự giao thoa, tương đồng hay trùng lắp trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn của bộ môn. Những sự trùng lắp hay gần nhau đó được thiết kế thành nội dung bài học trong một chuyên đề có mức độ lớn hơn và thực tế hơn. Nội dung chuyên đề thường có tính vấn đề rất cao, đặt ra những tình huống nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình tiếp cận kiến thức và vận dụng kiến thức vào thực tiễn để giải quyết các tình huống ấy cũng như sẽ vận dụng vào trong cuộc sống sau này.
Dạy học theo chuyên đề khác với việc dạy theo bài học thông thường nhưng vẫn phải đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình sách giáo khoa hiện hành cũng như tính vừa sức của chuyên đề (cân đối giữa khối lượng và mức độ kiến thức trong chuyên đề). Mục tiêu của việc dạy học theo chuyên đề là giúp học sinh có những hiểu biết về kiến thức cơ bản của chương trình, từ đó học sinh có thể tổng kết, hệ thống hoá kiến thức, củng cố, thực hành, vận dụng, … và tự nghiên cứu, đào sâu kiến thức đã học.
2.2. Một số nguyên tắc khi thực hiện
- Tài liệu học tập: giáo viên biên soạn và cung cấp cho học sinh nội dung
5
đầy đủ và chi tiết về từng chuyên đề.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
- Tài liệu tham khảo: chủ yếu là sách giáo khoa, thông tin trên mạng. - Cách thức thực hiện: dạy và học theo hình thức ghép lớp. - Thời gian thực hiện: thời gian dạy rút ngắn (38 tiết/17 tuần bao gồm cả
tiết kiểm tra cuối kì và chấm chữa bài kiểm tra). 3. Một vài khó khăn khi thực hiện: 3.1. Giáo viên:
- Phải dạy theo hình thức ghép lớp với số lượng học sinh đông. - Tự sắp xếp thời khóa biểu giảng dạy theo hình thức tăng tiết với thời gian
rút ngắn.
- Chưa được tham gia bất kì lớp đào tạo về kĩ năng soạn thảo nội dung
chuyên đề, phương pháp giảng dạy chuyên đề.
- Tài liệu tham khảo hạn chế, chủ yếu là sách giáo khoa; sách giáo viên; một số sách pháp luật sửa đổi, bổ sung; tài liệu thông tin trên mạng có liên quan bộ môn chưa được thẩm định nên khó khăn trong việc sử dụng. 3.2. Học sinh:
- Đa số học sinh có tư tưởng học lệch, ý thức học tập đối với các môn xã hội không cao, chủ yếu học theo hình thức đối phó (học sinh chuyên các môn khoa học tự nhiên ít quan tâm đến bộ môn → ý thức học tập chưa cao; học sinh chuyên các môn khoa học xã hội có quan tâm đến bộ môn nhưng chưa đúng mức → ý thức học tập chưa cao).
- Hình thức học ghép lớp với số lượng học sinh đông nên các em hay làm ồn, không tập trung lắng nghe, không tham gia hoạt động, thậm chí học môn khác trong giờ học chuyên đề (vì các em được phát sẵn nội dung chuyên đề). 4. Giải pháp khắc phục:
- Hiểu đúng tâm lý học sinh để tổ chức ghép lớp, xây dựng nội dung chuyên đề, lựa chọn phương pháp dạy phù hợp. Cụ thể, hình thức ghép lớp gồm hai loại hình nhóm lớp học chuyên đề (nhóm lớp khoa học tự nhiên và nhóm lớp khoa học xã hội).
- Thiết kế thang điểm kiểm tra, đánh giá ý thức học tập và rèn luyện của
học sinh:
Biểu điểm
Ý thức học tập Thuyết trình và phản biện Bài luận Bài tập trắc nghiệm M 15’ V, HK
Ý thức rèn luyện Biểu điểm
Tham gia đầy đủ các buổi học Học tập nghiêm túc, có chất lượng Hoạt động tương tác + 2 + 2 + 2
- Giúp học sinh tiếp cận khung nội dung chuyên đề → học sinh lựa chọn
nội dung “tâm đắc nhất” làm chủ đề thuyết trình và phản biện.
6
- Thiết kế nội dung chuyên đề cung cấp cho học sinh bằng từ khóa, ý chính, xác định hoạt động của học sinh đối với từng đơn vị kiến thức trong
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
chuyên đề → học sinh tự ghi chú, tự phân tích, tham gia hoạt động … - Thiết kế nội dung câu hỏi với mức độ vận dụng cho hoạt động tương tác
với học sinh sau khi kết thúc một đơn vị kiến thức trong chuyên đề.
- Yêu cầu học sinh viết bài luận về chuyên đề vừa học đảm bảo các mức độ
giải thích, vận dụng thực tế, trình bày quan điểm. 5. Mô hình thiết kế bài dạy một chuyên đề
Chuyên đề 1: PHÁP LUẬT VÀ ĐỜI SỐNG
Nội dung tiết 1: Khái niệm pháp luật và các đặc trưng của pháp luật
Thiết kế bài giảng Nội dung: Khái niệm pháp luật Hoạt động của học sinh Giáo viên định hướng
- Phân tích nội dung ; lĩnh vực điều chỉnh; biện pháp cưỡng chế; …)
- Xác định: việc được làm, việc phải làm, việc không được làm được nêu trong nội dung luật. - Phân tích ví dụ trang 5 – SGK
Ví dụ nội dung luật cụ thể. Giải thích từ khóa trong khái niệm (quy tắc xử sự chung, bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước, …)
Giáo viên định hướng
với các yêu cầu như trên. → Hiểu khái niệm pháp luật, nêu được ví dụ minh họa. Bài tập thực hành 1 Nội dung: Các đặc trưng của pháp luật Hoạt động của học sinh
7
Trên đây là tham luận của trường THPT chuyên Nguyễn Thị Minh Khai.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ MÔN GDCD THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
Trần Thị Hồng Đào Trường THPT Thuận Hòa
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh là một khâu quan trọng trong quá trình dạy học. Nhưng việc kiểm tra đánh giá phải được thực hiện trong suốt quá trình dạy học với mục đích phát hiện kịp thời những ưu nhược điểm của học sinh trong quá trình nhận thức rèn luyện kĩ năng, thái độ, phát triển tình cảm niềm tin của học sinh để kịp thời có những biện pháp uốn nắn cho phù hợp từng học sinh. Kiểm tra đánh giá không chỉ nhằm mục đích đánh giá kết quả cuối cùng của việc lĩnh hội kiến thức mà còn là hoạt động kích thích hoạt động nhận thức của học sinh. Đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động dạy học. Vì vậy chúng ta nên xem kiểm tra, đánh giá như một phương pháp dạy học.
Ngay sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố phương án thi THPT quốc gia năm 2017 trong đó môn GDCD là một cấu phần trong tổ hợp môn thi khoa học xã hội thì nhà trường đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo giáo viên giảng dạy bộ môn GDCD thực hiện các yêu cầu cũng như việc đổi mới, kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh để nâng cao kết quả học tập của học sinh, học sinh tích cực chủ động hơn trong học tập.
Trong nhiều năm giảng dạy ở trường, thông qua việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá, khắc phục tình trạng dạy học chủ yếu theo lối đọc - chép. Bản thân tôi rút ra những kinh nghiệm như sau:
- Khi tổ chức dạy học phải phân hóa theo năng lực học sinh dựa trên các
tài liệu chuẩn kiến thức, kĩ năng.
+ Bám chương trình bộ môn, chuẩn kiến thức kĩ năng để thiết kế bài
giảng với mục tiêu là đạt các yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến thức, kĩ năng.
+ Giúp cho học sinh trung bình trở lên hiểu và thực hiện tốt các chuẩn kiến thức kĩ năng. Đối với học sinh khá, giỏi khai thác sâu kiến thức, kiểm tra để phù hợp với khả năng tiếp thu và vận dụng của học sinh.
+ Giáo viên cần thiết kế, tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập như hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm, hoạt động tập thể đa dạng các hình thức để lôi cuốn sự tập trung chú ý và sự yêu thích môn học.
VD: Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản (tiết 2) yêu cầu học sinh
dựa vào ví dụ SGK xây dựng tiểu phẩm liên quan đến kiến thức môn học.
8
- Dạy học gắn với thực tiễn cuộc sống của học sinh.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
Để dạy học môn GDCD có hiệu quả cần gắn nội dung bài học với thực tiễn cuộc sống của học sinh, cần tăng cường sử dụng các tình huống, các trường hợp điển hình, các trường hợp thực tế, các vấn đề bức xúc trong thực tế xảy ra xung quanh các em để phân tích, đối chiếu, minh họa cho bài giảng. Đồng thời cũng khuyến khích cho học sinh liên hệ thực tế, tiến hành điều tra, tìm hiểu phân tích, đánh giá các sự kiện trong đời sống thực tiễn của lớp học, nhà trường từ đó hình thành nên các kĩ năng và thái độ trong cuộc sống.
- Việc sử dụng SGK hợp lí khi giảng bài lên lớp khắc phục dạy học theo
lối đọc chép.
+ Sử dụng SGK hợp lí nhằm phát triển tư duy cho học sinh, SGK là tài liệu giúp học sinh học tập, nó cũng là cơ sở để giáo viên chuẩn bị bài giảng, xác định kiến thức để dạy học sinh.
+ Dặn dò học sinh chuẩn bị bài ở nhà theo hệ thống câu hỏi, bài tập, khi
đó học sinh sẽ học tốt, khai thác tốt SGK.
+ GV cần nghiên cứu kĩ hình ảnh SGK để hướng dẫn HS học cho tốt. Sử dụng hợp lí công nghệ thông tin trong bài giảng: Ứng dụng công nghệ thông tin để dạy học là một trong những hướng thay đổi về phương pháp dạy học trong nhà trường hiện nay. Tuy nhiên việc ứng dụng công nghệ thông tin không có nghĩa là ứng dụng toàn bài mà có thể là một phần nào đó. Mỗi giáo viên cần chọn tiết học sao cho phù họp nếu đưa lên trang trình chiếu thì sẽ vận dụng được tối đa ưu việt của máy tính để cung cấp thông tin cho học sinh, có hiệu quả hơn bài giảng viết thông thường. Khai thác tối đa thiết bị dạy học nhà trường đã gắn máy chiếu cho toàn khối 12 nên tận dụng sử dụng triệt để. GV muốn sử dụng công nghệ thông tin có hiệu quả thì không những phải có kiến thức tin học, không chỉ đơn thuần là viết chữ lên các trang trình chiếu mà phải có ý thức sư phạm, phương pháp dạy học sao cho phù hợp tập trung sự chú ý của học sinh.
- Sử dụng tài liệu kiểm tra đánh giá thường xuyên và định kì của Bộ GDĐT. GV cần thay đổi quan niệm trong kiểm tra đánh giá, những câu hỏi hay bài tập mang tính tái hiện kiến thức thay vào những câu hỏi, bài tập trắc nghiệm nhằm kích thích tư duy, sáng tạo, vận dụng liên hệ thực tiễn.
- Các hình thức kiểm tra thường xuyên và định kì. Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng của quá trình dạy học. Để việc kiểm tra đánh giá mang tính khách quan toàn diện, hệ thống và công khai, công bằng thì quá trình ra đề kiểm tra đòi hỏi phải có sự công phu, nghiên cứu kĩ nội dung bài học.
+ Trước khi biên soạn đề cần xác đinh mục đích, hệ thống câu hỏi sao cho phù hợp nhằm đánh giá được cả ba mặt kiến thức, kĩ năng, thái độ của học sinh.
+ Xác định cấu trúc hệ thống câu hỏi để làm bài tốt.
9
+ Nội dung kiểm tra phải thể hiện qua các cấp độ tư duy từ thấp đến cao, từ nhận biết đến thông hiểu và vận dụng, không chỉ kiểm tra việc học sinh học thuộc bài mà học sinh cần phải biết lí giải, phân tích, biết liên hệ với thực tiễn,
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” biết vận dụng kiến thức để giải quyết những vấn đề, tình huống, đạo đức, pháp luật.
10
Trên đây là những kinh nghiệm tôi đút kết được trong quá trình giảng dạy hy vọng sẽ góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá môn GDCD theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Tuy nhiên có nhiều cố gắng nhưng không tránh khỏi những hạn chế rất mong sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để cho việc đổi mới phương pháp dạy học cũng tra đánh giá mang hiệu quả thiết thực nhất.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA MIỆNG TRONG MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH
Phan Thị Mỹ Duyên Trường THPT Phú Tâm
I. Đặt vấn đề
Như chúng ta đã biết, mục tiêu của giáo dục ngày nay là phải đào tạo ra một thế hệ con người có kiến thức, năng động, sáng tạo, có khả năng thích ứng với đời sống xã hội, hòa nhập và phát triển cộng đồng. Để làm được điều đó thì việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh là điều hết sức cần thiết. Hai hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, hoạt động kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực là một trong những khâu then chốt trong quá trình đổi mới giáo dục.
Đánh giá theo định hướng phát triển năng lực là đánh giá theo chuẩn và những sản phẩm đầu ra những sản phẩm đó không chỉ là kiến thức, kỹ năng mà chủ yếu là khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ cần có để thực hiện nhiệm vụ học tập đạt tới một chuẩn nào đó.
Trong các khâu kiểm tra, đánh giá học sinh theo hướng phát triển năng lực thì kiểm tra miệng là một mắc xích quan trọng không thể thiếu. Vì thế trong bài tham luận này tôi xin được phép giới thiệu một vài kinh nghiệm trong việc đổi mới phương pháp kiểm tra miệng trong môn Giáo dục công dân theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh.
II. Thực trạng
Trước đây, nói đến kiểm tra miệng thì hình như tất cả mọi người đều hình dung đến việc đầu mỗi tiết học, giáo viên gọi một vài học sinh ngẫu nhiên trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra. Thông thường, các câu hỏi đó chỉ ở cấp độ nhận biết. Học sinh chỉ cần đọc thuộc lòng bài ngày hôm trước, hôm sau đọc vanh vách khi thầy cô kiểm tra miệng, như thế là có điểm số 9,10 tuyệt đối.
Tuy nhiên hình thức kiểm tra miệng như thế vấp phải một số trở ngại sau:
- Số lượng học sinh được kiểm tra miệng rất ít trong khi số tiết giáo dục công dân dân chỉ là 1 tiết/tuần. Thực hiện như vậy khó lòng đảm bảo đủ cột kiểm tra miệng cho các em.
- Những câu hỏi kiểm tra miệng dạng “học vẹt” như thế chỉ là các em thuộc làu trong một thời gian ngắn, chưa phát triển được năng lực cho học sinh theo yêu cầu mới.
11
III. Giải pháp khắc phục
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
1. Đa dạng các hình thức đánh giá để lấy điểm kiểm tra miệng cho học
sinh
1.1 Kiểm tra miệng ngay đầu tiết học
Biện pháp đánh giá này suy cho cùng vẫn không thể xem nhẹ. Nếu ở đầu các tiết học, giáo viên đều gọi học sinh lên kiểm tra bài cũ thì nó sẽ trở thành “nếp”. Các em phải chuẩn bị tâm thế bất cứ khi nào cũng có thể đến lượt mình. Do đó bài vở ở nhà sẽ được chăm chút kỹ càng hơn. Thông qua giờ kiểm tra miệng này sẽ hình thành năng lực tự học ở nhà cho học sinh và quá trình các em trình bày trước lớp cũng sẽ bồi dưỡng được năng lực giao tiếp một cách tốt hơn.
1.2 Đặt những câu hỏi buộc học sinh tư duy trong quá trình tìm tòi kiến
thức mới
Quá trình xây dựng bài học theo phương pháp mới thì giáo viên đóng vai trò chủ đạo, học sinh mới là người chủ động, tích cực. Vì thế, trong quá trình lên lớp, thầy cô phải luôn đặt ra nhiều câu hỏi để các em động não, tìm ra đáp án .
Căn cứ vào kết quả trả lời của cá nhân học sinh, ở một số câu hỏi khó, giáo viên có thể cho điểm các em vào cột kiểm tra miệng. Điều này tạo ra một sự khích lệ không nhỏ đối với học sinh, tạo ra tâm thế nhiệt tình hơn cho việc đầu tư xây dựng các mảng kiến thức tiếp theo. Như thế các năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực giao tiếp…dần dần phát triển hơn.
1.3 Ghi điểm kiểm tra miệng cho một người đại diện nhóm trong quá trình
thảo luận
Trong quá trình dạy học, chắc chắn giáo viên sẽ dùng đến phương pháp thảo luận nhóm. Ở phương pháp này, học sinh buộc phải có năng lực hợp tác tốt với nhau để cùng giải quyết vấn đề/tình huống mà thầy, cô đưa ra. Sau khi thống nhất được đáp án chung, các em sẽ cử một đại diện trình bày ý kiến của nhóm mình cũng như phản biện lại những ý kiến của các nhóm khác (nếu có). Căn cứ vào mức độ trình bày, phản biện mà đại diện nhóm đã làm được, nếu tốt, giáo viên sẽ ghi điểm cho em đó vào cột kiểm tra miệng. Và, những lần sau, khi có hoạt động nhóm, sẽ luân phiên tạo điều kiện cho các thành viên khác có điểm.
1.4 Ghi nhận kết quả làm bài tập cuối giờ
Thông thường, đến hết tiết học, giáo viên thường có phần kiểm tra mức độ tiếp thu của học sinh thông qua các bài tập cuối giờ. Đó có thể là các câu trắc nghiệm, bài tập tình huống…
Ví dụ sau khi tìm hiểu các quyền học tập, sáng tạo, phát triển của công dân ở bài 8 Lớp 12. Giáo viên cho học sinh làm bài tập tình huống vận dụng: “Tuấn vừa tốt nghiệp THPT, anh rất muốn học lên nhưng vì gia đình khó khăn nên anh phải kiếm việc làm để sống và giúp cha mẹ nuôi hai em còn học phổ thông. Tuấn rất buồn vì cho rằng cánh cửa nhà trường đã đóng lại với anh”.
12
Hỏi: - Em có đồng ý với ý kiến của Tuấn không ? Vì sao ?
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
- Nếu trong hoàn cảnh tương tự em sẽ làm gì ?
Giáo viên trong trường hợp này (có thể) cho điểm cột kiểm tra miệng đối với những học sinh thực hành bài tập tốt. Thông qua các bài tập củng cố, học sinh sẽ thể hiện rõ thái độ hành vi phù hợp đối với pháp luật, đạo đức xã hội, có năng lực giải quyết một số vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị, xã hội,…
2. Xây dựng nội dung các câu hỏi phải đảm bảo các mức độ: biết, hiểu,
vận dụng.
Đối với các câu hỏi kiểm tra miệng, giáo viên cần chú ý bên cạnh những câu hỏi mang tính lý thuyết cần bổ sung thêm câu hỏi mang tính thông hiểu và vận dụng. Bởi lẽ, cái căn bản đầu tiên là học sinh phải nắm chắc lý thuyết, những khái niệm, các nội dung pháp luật, các chính sách của Đảng, Nhà nước…Tuy nhiên, mục đích cuối cùng không phải là các em học được bao nhiêu bài mà thông qua các bài học đó, học sinh sẽ hiểu và vận dụng được kiến thức trong đời sống ra sao..
Ví dụ trước khi vào bài 8: Pháp luật với sự phát triển của công dân. Giáo
viên sẽ kiểm tra bài cũ học sinh bằng cách nêu câu hỏi:
- Cho tình huống sau: "Gia đình Lan nhận được giấy thông báo mức đền bù đất giải phóng mặt bằng thấp hơn những gia đình cùng diện đền bù". Theo em, để bảo vệ quyền lợi của mình, gia đình Lan cần phải làm gì? (Câu vận dụng)
Sau đó giáo viên có thể nêu thêm một câu hỏi:
- Trình bày ý nghĩa quyền khiếu nại, tố cáo của công dân.(câu nhận biết)
Với cách kiểm tra bài như thế, học sinh sẽ được rèn luyện thêm năng lực
giải quyết vấn đề, năng lực sử dụng ngôn ngữ,…
IV. Một số kết quả đạt được
- Vẫn với thời lượng rất ít 1 tiết/ tuần, môn giáo dục công dân vẫn đảm
bảo số lượng cột kiểm tra miệng cho tất cả học sinh của lớp.
- Thông qua các hình thức ghi điểm cho cột kiểm tra miệng nêu trên, các
em sẽ phát huy được rất nhiều năng lực cá nhân cần thiết (như đã nêu)
- Điểm số tuy không phải nói lên tất cả, nhưng dĩ nhiên, khi thành quả lao động trí óc của học sinh được thầy cô ghi nhận thông qua các con điểm lúc ấy học sinh sẽ vui hơn rất nhiều, và vì thế cũng tạo được không khí sôi nổi hăng say cho tiết học.
13
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã thực hiện trong thời gian qua. Rất mong quý thầy cô nhiệt tình đóng góp ý kiến để ngày càng hoàn thiện và đạt hiệu quả cao trong công tác giảng dạy.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
PHẦN II CÁCH THỨC ÔN TẬP, XÂY DỰNG CÂU HỎI, ĐỀ THI MÔN GDCD THEO CÁC MỨC ĐỘ CỦA MA TRẬN THEO ĐỊNH HƯỚNG THI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN MỘT SỐ GIẢI PHÁP ÔN TẬP CHO HỌC SINH LỚP 12 MÔN GDCD THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT KẾ SÁCH
Nguyễn Thị Minh Tâm Trường THPT Kế Sách
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hưởng ứng tốt phương án thi Trung học phổ thông quốc gia (THPT QG) 2017 tương thích tốt với định hướng đổi mới chương trình giáo dục trung học phổ thông theo hương phát triển năng lực cho học sinh. Việc đưa môn Giáo dục công dân vào danh sách bài thi tổ hợp môn Khoa học xã hội đã khiến cho toàn xã hội có một chuyển biến rõ rệt không chỉ trong nhận thức dạy và học mà còn có sự tác động lớn đối với toàn xã hội về vị trí của môn Giáo dục công dân.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn dạy học, từ việc thực hiện tốt Nghị quyết 29- NQ/TW, để thực hiện tốt với phương án thi THPT QG, Lãnh đạo trường Trung học phổ thông Kế sách đã chỉ đạo sâu sát tổ Sử - Giáo dục công dân phải điều chỉnh phương pháp dạy học, ôn tập, xây dựng câu hỏi kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm khách quan phù hợp với định hướng phát triển năng lực của học sinh. Tổ Sử- Giáo dục công dân của trường đã thống nhất việc ôn tập, biên soạn câu hỏi với mục tiêu chuẩn bị tốt nhất cho học sinh tham gia vào kỳ thi quan trọng trong năm 2017. Các giáo viên dạy Giáo dục công dân của tổ đã nỗ lực rất nhiều trong quá trình thực hiện phương án thi 2017 theo phương pháp đổi mới với hướng phát triển năng lực cho học sinh.
II. THỰC TRẠNG VIỆC GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG
DÂN HIỆN NAY
14
Trong hệ thống môn học của chương trình Giáo dục trung học, môn Giáo dục công dân là môn học giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Đặc biệt là đối với học sinh lớp 12, môn học giúp các em hình thành những kỹ năng sống cơ bản để vững vàng bước vào đời vơi ý thức tổ chức kỹ luật, có thái độ đúng đắn và chấp hành pháp luật một cách tự giác, sống tốt, sống và làm việc theo Hiến pháp và Luật. Nhiều năm qua, nhận thức được tầm quan trọng đó, các giáo viên môn Giáo dục công dân đã có nhiều
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” tâm huyết để đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh, nhưng thực tế môn học lại không giúp được cho các em trong các kỳ thi Trung học phổ thông và xét Đại học, Cao đẳng nên các em chưa được các em quan tâm chú trọng nhiều như các môn thi tốt nghiệp.
Việc môn Giáo dục công dân có trong tổ hợp bài thi môn Khoa học xã hôi là một trong những điều chỉnh thích hợp của Phương án thi THPT QG 2017, nhưng lần đầu tiên tham gia vào một kỳ thi lớn có tư cách quyết định quan trọng của học sinh nên nhiều giáo viên vừa mừng vừa lo. Mừng vì vị trí của môn Giáo dục công dân đã được đặt đúng chỗ. Lo vì các môn khác chỉ thay đổi về hình thức bài thi thì riêng môn Giáo dục công dân quá mới nên giáo viên môn Giáo dục công dân còn khá lúng túng trong quá trình ôn tập, biên soạn câu hỏi cho học sinh.
Phần lớn hình thức kiểm tra của giáo viên ở hình thức tự luận nên với hình thức thi mới, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc biên soạn câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
Với học sinh, việc môn Giáo dục công dân lần đầu tiên là một cấu phần trong tổ hợp môn thi THPT QG làm cho các em lo lắng vì các em chưa biết ôn tập từ đâu, ôn tập như thế nào.
Sau khi có cấu trúc đề thi minh họa của Bộ Giáo dục và Đào tạo cơ bản giải tỏa tâm lý hoang mang của học sinh, giúp cho giáo viên có định hướng trong việc ôn tập và biên soạn câu hỏi trắc nghiệm giúp cho học sinh vững vàng bước vào kỳ thi quan trọng trước mắt.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Theo khảo sát sơ bộ, có khoảng 30% học sinh khối lớp 12 của nhà trường chọn bài thi tổ hợp môn Khoa học xã hội để xét Tốt nghiệp, nên Lãnh đạo trường Trung học phổ thông Kế sách rất chú trọng đến việc ôn tập sao cho các em thi có kết quả tốt nhất.
Sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo chốt phương án thi THPT QG 2017, Lãnh đạo trường đã phân công các môn trong các tổ hợp bài thi phải thống nhất biên soạn câu hỏi kiểm tra trắc nghiệm cho môn học của mình. Từng bước điều chỉnh phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với phương án thi THPTQG với định hướng phát triển năng lực học sinh.
Tổ Sử- Giáo dục công dân thực hiện theo quy định của Lãnh đạo trường đã họp, hội ý, bàn bạc đưa ra kế hoạch giảng dạy, ôn tập bám sát chương trình và sách giáo khoa.
1. Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy:
15
Khi môn Giáo dục công dân chưa nằm trong danh sách các môn thi THPT QG, để học sinh không “ngán” tiết học Giáo dục công dân, các giáo viên thường mở rộng kiến thức ngoài sách giáo khoa đề lôi cuốn học sinh vào bài dạy. Thì hiện nay, giáo viên chú trọng nhiều đến chương trình và sách giáo khoa, đảm
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” bảo không bỏ sót kiến thức nào. Giáo viên hướng dẫn học sinh không nhất thiết phải học thuộc lòng từng khái niệm, định nghĩa trong sách giáo khoa mà điều quan trọng là biết phân tích, tổng hợp, lý giải, nhận xét các hiện tượng pháp luật trong thực tiễn đời sống xã hội. Hướng dẫn cho các em sử dụng các tư liệu thông tin trên internet làm giàu cho kiến thức, vận dụng được các kiến thức đó vào bài học của mình. Dạy bảo đảm chuẩn kiến thức kỹ năng, giúp các em biết xử lý những vấn đề thực tiễn dựa trên kiến thức đã học. Giảng dạy luôn đáp ứng tính hệ thống giúp các em luôn làm chủ được kiến thức. Học mảng kiến thức nào làm chủ mảng kiến thức đó theo hình thức: “học đến đâu- củng cố đến đó”. Để đáp ứng yêu cầu dạy học theo hướng phát triển năng lực của học sinh, giáo viên luôn phải tự đổi mới mình. Dạy pháp luật, giáo viên cần có những kiến thức về bài dạy của mình, do đó việc không ngừng tự học là trách nhiệm bắt buộc của người thầy.
2. Có kế hoạch ôn tập chu đáo
Với hình thức thi trắc nghiệm khách quan cũng gây một ít khó khăn trong việc ôn tập. Vì trước đây ôn tập theo hình thức tự luận là ôn tập theo chủ đề, theo bài học, thì việc ôn tập thi trắc nghiệm khách quan đòi hỏi kiến thức phải rộng, bao quát. Thay vì tập trung tìm hiểu sâu về các chủ đề lớn thì phải rà soát toàn bộ kiến thức đã học nằm trong sách giáo khoa.
Để học sinh làm quen với hình thức thi trắc nghiệm khách quan, từng bước tập dượt cho các em cách làm bài thi trắc nghiệm, yêu cầu đặt ra cho giáo viên dạy Giáo dục công dân của trường THPT Kế sách là phải xây dựng được ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
Tập thể giáo viên môn Giáo dục công dân trong tổ Sử-Giáo dục công dân cùng bàn bạc, thống nhất việc lên kế hoạch nghiên cứu xây dựng ngân hàng câu hỏi kiểm tra trắc nghiệm sao cho vừa sức học sinh, đảm bảo tính chính xác, khoa học dựa trên cấu trúc đề minh họa của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Việc xây dựng các bộ câu hỏi kiểm tra trắc nghiệm sẽ giúp cho việc ôn tập trở nên cụ thể hơn. Học sinh được đón nhận kiến thức theo mức độ từ dễ đến khó, phù hợp với năng lực, mức độ nhận thức của học sinh.
Các nội dung của bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan phải bám sát chương trình và sách giáo khoa đầy đủ chuẩn kiến thức, kỹ năng và thái độ. Để kích thích được việc tự nghiên cứu và phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh, trong quá trình ôn tập, giáo viên nên xây dựng các loại câu hỏi buộc học sinh phải động não. Bộ câu hỏi kiểm tra trắc nghiệm phải đáp ứng đầy đủ bốn mức độ: Nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao. Trong quá trình ôn tập, thầy cô giáo là người hỗ trợ giúp học sinh bù đắp về kiến thức, kỹ năng làm bài thi trắc nghiệm khách quan một cách tốt nhất.
16
Nội dung chương trình Giáo dục công dân lớp 12 chủ yếu học về kiến thức pháp luật, phạm vi đề cập kiến thức rất rộng. Vì thế, nếu mức độ nhận biết của các câu hỏi trắc nghiệm khách quan có thể chỉ là nhớ lại các khái niệm, các
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa. Thì với loại câu hỏi thông hiểu đòi hỏi học sinh phải nhớ từng chi tiết phân tích kiến thức để nhận xét trả lời các câu hỏi. Loại câu hỏi vận dụng buộc học sinh phải làm chủ được kiến thức mới có thể xử lý các tình huống trong yêu cầu câu hỏi đặt ra.
Xét đến cùng, nếu có được một chương trình ôn tập tốt, giúp học sinh nắm vững cơ bản, có đủ năng lực kỹ năng phân tích, lý giải để nắm được nội dung câu hỏi thì dù có thi với hình thức tự luận hay trắc nghiệm cũng đều không phải là quá khó đối với học sinh.
Ngoài ra, nhằm giúp cho học sinh lớp 12 nhuần nhuyễn và thành thạo hơn với hình thức thi mới đối với môn Giáo dục công dân, Lãnh đạo trường còn đôn đốc nhắc nhở các giáo viên môn Giáo dục công dân tăng cường kiểm tra dạng câu hỏi bài tập, tham gia xây dựng ngân hàng câu hỏi, hướng dẫn học sinh các học và cách làm bài theo hình thức thi trắc nghiệm khách quan theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh.
Quy trình biên soạn bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan ở trường THPT
Kế sách được tiến hành như sau
Trước hết việc xây dựng bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan phải đảm bảo những yêu cầu, quy trình và kỹ thuật soạn thảo một cách khoa học phải đảm bảo:
- Tính chính xác: câu hỏi phải đúng nguyên tắc đầy đủ nội dung trong
chuẩn kiến thức và sách giáo khoa
- Tính vừa sức đối với học sinh
- Tính khả thi: Bộ câu hỏi trắc nghiệm khi đưa vào thực hiên phải đảm bảo được tính hiệu quả, học sinh nắm được nội dung và làm được câu hỏi. Đồng thời giúp cho giáo viên làm tài liệu ôn tập các kiến thức cơ bản cho học sinh.
17
Dựa vào các yêu cầu trên, trong việc xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan, tổ Sử - Giáo dục công dân đã phân công giáo viên dạy môn Giáo dục công dân xây dựng hệ thống câu hỏi. Các nội dung trong chuẩn kiến thức và sách giáo khoa được lựa chọn cẩn thận với các mức độ: Nhận biết, thông hiểu, vận dụng cấp độ thấp, vận dụng cấp độ cao. Bộ câu hỏi trắc nghiệm được đưa ra phản biện trong các buổi họp tổ chuyên môn để thống nhất về nội dung, hình thức từng câu. Sau đó được tiến hành áp dụng khảo sát trên các đối tượng học sinh qua các bài kiểm tra 15 phút, 1 tiết và khảo sát chất lượng đầu năm. Giáo viên tiến hành chấm bài, thống kê kết quả của từng loại mức độ của từng câu hỏi xem đã phù hợp với từng đối từng ở các cấp độ tư duy chưa. Câu nào chưa phù hợp, hoặc học sinh chưa hiểu rõ sẽ hội ý lại trong tổ, thống nhất chỉnh sửa. Những câu được xem là đã chuẩn, tổ sẽ rút ra phân loại và đưa vào lưu trong ngân hàng đề và trở thành nội dung ôn tập. Việc làm này mất rất nhiều thời gian cần có sự đóng góp tích cực và khoa học của từng thành viên trong tổ chuyên môn.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
III. KẾT LUẬN
Dưới sự chỉ đạo sâu sát của Lãnh đạo trường, và tinh thần tự học tự mày mò nghiên cứu khoa học của tập thể giáo viên tổ Sử-Giáo dục công dân đặc biệt là giáo viên dạy môn Giáo dục công dân đã có sự cố gắng và nỗ lực rất nhiều trong việc ôn tập, biên soạn câu hỏi trắc nghiệm và xây dựng ngân hàng bộ câu hỏi phục vụ cho ôn tập thi THPT QG 2017. Tuy còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng giáo viên trong tổ đã có nhiều cải tiến chuyển biến rõ rệt trong quá trình giảng dạy, có nhiều điều chỉnh cho phù hợp với phương án thi mới. Học sinh từ từ tiếp cận hình thức học với việc kiểm tra trắc nghiệm khách quan ban đầu còn bỡ ngỡ nhưng dần dần đang theo kịp với sự điều chỉnh phương pháp giảng dạy của giáo viên.
18
Tuy nhiên, việc thực hiện đang trong quá trình vừa khai thác vừa thực hiện nên còn gặp rất nhiều trở ngại. Thiếu tài liệu tham khảo, thiếu kinh nghiệm cho ôn thi THPT QG, và còn rất nhiều khó khăn khác trong lộ trình vừa dạy, vừa ôn tập, vừa rèn kỹ năng thi của học sinh là điều các giáo viên dạy Giáo dục công dân quan tâm nhất hiện nay.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
PHƯƠNG PHÁP ÔN THI TỐT NGHIỆP THPT VÀ KĨ THUẬT VIẾT CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
Trần Thị Kim Nhẫn Trường THPT Trần Văn Bảy
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm học 2016-2017, môn GDCD được Bộ Giáo dục và đào tạo quyết định trở thành một trong các môn thi tốt nghiệp THPT quốc gia với hình thức trắc nghiệm khách quan. Để đáp ứng với tình hình trên, đòi hỏi giáo viên giảng dạy môn GDCD phải có phương pháp ôn thi tốt nghiệp thật hợp lí và đòi hỏi phải xây dựng ngân hàng câu hỏi để học sinh ôn luyện nhằm đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT quốc gia.
II. THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi
- Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Lãnh đạo trường, Sở Giáo dục và
Đào tạo
- Tất cả giáo viên dạy môn GDCD có tinh thần cầu tiến và lòng quyết tâm
trong việc giảng dạy, ôn thi tốt nghiệp năm 2017
- Nội dung chương trình GDCD khối 12 không nhiều so với những môn xã
hội khác
- Môn GDCD ở trường THPT Trần Văn Bảy đã được thực hiện kiểm tra, đánh giá bằng hình thức trắc nghiệm 100% hoặc 7 điểm trắc nghiệm + 3 điểm tự luận
2. Khó khăn
- Là năm đầu tiên môn GDCD được chọn thi tốt nghiệp trong tổ hợp KHXH, nên tất cả giáo viên dạy môn GDCD chưa có kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy và ôn thi tốt nghiệp
- Tài liệu hướng dẫn phục vụ cho quá trình ôn luyện môn GDCD chưa có
- Đa số học sinh không quan tâm nhiều đến môn GDCD chủ yếu học để
chống liệt
- Nội dung chương trình khối 12 toàn bộ là vấn đề pháp luật nên học sinh
khó nắm bắt kiến thức cũng như vận dụng vào thực tiễn
19
- Thời gian giảng dạy không nhiều chỉ 1tiết/tuần
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
III. GIẢI PHÁP ÔN TỐT NGHIỆP VÀ KĨ THUẬT VIẾT CÂU HỎI
TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN
1. Trong giảng dạy, ôn thi tốt nghiệp THPT
a) Lập kế hoạch giảng dạy và ôn tập
Căn cứ vào nội dung phân phối chương trình GDCD lớp 12 của Bộ
GDĐT, thì giáo viên cần:
- Lập kế hoạch giảng dạy cụ thể theo đúng phân phối chương trình của bộ
môn
- Lập kế hoạch ôn tập phù hợp với thời gian ôn tập thực tế của trường
b) Quá trình thực hiện
Tùy vào điều kiện thuận lợi và khó khăn của trường, của mỗi giáo viên mà quá trình thực hiện kế hoạch có thể khác nhau. Nhưng trước hết tôi thiết nghĩ giáo viên cần phải thực hiện những vấn đề cơ bản sau đây:
* Trong thời gian giảng dạy:
- Bám sát nội dung chương trình SGK GDCD lớp 12
- Cung cấp đầy đủ lượng kiến thức cơ bản của từng tiết, từng bài, từng
chuyên đề, chủ đề
- Nhấn mạnh nội dung trọng tâm của từng bài, từng đơn vị kiến thức
- Liên hệ thực tế từ gần đến xa hơn, rộng hơn
- Vận dụng tình huống, xử lí tình huống có liên quan đến nội dung bài học
- Kiểm tra đánh giá thường xuyên, định kì bằng hình thức trắc nghiệm
khách quan
- Theo dõi, quan sát những học sinh yếu kém, những học sinh có dấu hiệu
lười biếng trong học tập để kịp thời điều chỉnh và động viên khích lệ
* Trong thời gian ôn tập:
- Hệ thống lại kiến thức cơ bản từ cấp độ dễ đến khó, từ cơ bản đến bao
quát
- Đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin cho phù
hợp với từng nội dung
- Soạn đề cương ôn tập theo chương trình chuẩn
- Vận dụng kiến thức pháp luật bằng tình huống để học sinh xử lí thông
qua câu hỏi trắc nghiệm
- Xây dựng ngân hàng câu hỏi theo nội dung cơ bản của từng bài để ôn
tập
- Cho học sinh làm bài kiểm tra đánh giá mức độ nắm bắt kiến thức của
20
học sinh để kịp thời khắc phục và điều chỉnh
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
- Cho học sinh làm thử đề minh họa của bộ, của tổ
- Động viên, khích lệ học sinh thường xuyên (khen thưởng nếu được)
- Hướng dẫn học sinh kĩ năng làm bài trắc nghiệm khách quan
2. Kĩ thuật viết câu hỏi trắc nghiệm khách quan
a. Giới thiệu chung về trắc nghiệm khách quan
- TNKQ là phương pháp kiểm tra, đánh giá bằng hệ thống câu hỏi trắc
nghiệm khách quan
- Cách cho điểm TNKQ hoàn toàn không phụ thuộc vào người chấm
- Mô tả các cấp độ của câu hỏi
+ Cấp độ nhận biết: Học sinh nhớ các khái niệm cơ bản, có thể nêu lên hoặc
nhận ra chúng khi được yêu cầu
VD: Hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành và đảm bảo
thực hiện bằng quyền lực của Nhà nước gọi là
A. phong tục
B. tập quán
C. pháp luật
D. đạo đức
+ Cấp độ thông hiểu: Học sinh hiểu các khái niệm cơ bản và có thể vận dụng chúng, khi chúng đượcthể hiện theo cách tương tự như cách giáo viên đã giảng hoặc như các ví dụ tiêu biểu về chúng trên lớp học
VD: Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói của dân tộc mình, điều này thể hiện
các dân tộc đều bình đẳng về
A. kinh tế
B. chính trị
C. văn hóa
D. xã hội
+ Vận dụng (ở cấp độ thấp): Học sinh có thể hiểu được khái niệm ở một cấp độ cao hơn “thông hiểu”, tạo ra được sự liên kết logic giữa các khái niệm cơ bản và có thể vận dụng chúng để tổ chức lại các thông tin đã được trình bày giống với bài giảng của giáo viên hoặc trong sách giáo khoa
VD1: Công an giao thông xử phạt hành vi chạy xe gắn máy không đội mũ
bảo hiểm của P. Vậy công an đã thực hiện hình thức nào sau đây ?
A. Sử dụng pháp luật
B. Thi hành pháp luật
21
C. Tuân thủ pháp luật
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
D. Áp dụng pháp luật
VD 2: Anh B góp ý sửa đổi Hiến pháp. Anh B đã thực hiện quyền nào sau
đây của công dân?
A. Quyền bầu cử, ứng cử
B. Quyền khiếu nại, tố cáo
C. Tham gia quản lí nhà nước và xã hội
D. Quyền bất khả xâm phạm thân thể
VD3: Anh Q tự ý bắt giữ H trong nhiều ngày. Hành vi của Q đã vi phạm
quyền nào sau đây của công dân?
A. Bất khả xâm phạm thân thể
B. Bất khả xâm phạm chỗ ở
C. Được bảo hộ tính mạng, sức khỏe
D. Tự do ngôn luận
+ Vận dụng (cấp độ cao): Học sinh có thể sử dụng các kiến thức về môn học - chủ đề để giải quyết các vấn đề mới, không giống với những điều đã được học, hoặc trình bày trong SGK, nhưng ở mức độ phù hợp nhiệm vụ, với kỹ năng và kiến thức được giảng dạy phù hợp với mức độ nhận thức này. Đây là những vấn đề, nhiệm vụ giống với các tình huống mà học sinh sẽ gặp phải ngoài xã hội
VD 1: Anh H tự ý xông vào nhà anh T và đánh anh T gây thương tích. Anh H
đã vi phạm quyền gì của công dân?
A. Quyền bất khả xâm phạm chỗ ở và quyền đảm bảo tính mạng, sức khỏe
B. Quyền bất khả xâm phạm thân thể và quyền đảm bảo danh dự
C. Quyền bất khả xâm phạm chỗ ở và quyền bất khả xâm phạm thân thể
D. Quyền bất khả xâm phạm thân thể và quyền đảm bảo an toàn thư tín
VD2: H thường bị nhóm bạn cùng trường chặng đánh. Giúp H chọn cách
ứng xử phù hợp nào sau đây ?
A. Bỏ học
B. Mặc cho sự việc tiếp diễn
C. Tập hợp bạn bè đánh trả
D. Báo với thầy cô hoặc cơ quan có thẩm quyền
VD3: H bày cho T đến cửa hàng ông B trộm điện thoại. Ông B cùng hàng xóm
tóm được T và giao cho công an địa phương xử lí. Những ai trong tình huống trên đã vi phạm pháp luật ?
A. H và T
22
B. Ông B và T
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” C. Ông B và hàng xóm
D. H và công an
b. Một số nguyên tắc khi viết câu hỏi trắc nghiệm khách quan
- Câu hỏi không được sai sót về nội dung chuyên môn
- Câu hỏi có nội dung phù hợp thuần phong mỹ tục Việt Nam; không vi phạm về đường lối chủ trương, quan điểm chính trị của Đảng CSVN, của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam;
- Tránh viết câu KHÔNG phù hợp với thực tế
- Tránh viết câu phần dẫn của câu hỏi dạng điền khuyết ở đầu câu
Câu gốc Câu sửa
...................là phương tiện chủ yếu để Nhà nước quản lí xã hội Phương tiện chủ yếu để Nhà nước quản lí xã hội là
A. Kế hoạch A. kế hoạch
B. Đạo đức B. đạo đức
C. Pháp luật C. pháp luật
D. Giáo dục tư tưởng D. giáo dục tư tưởng
- Tránh sự dài dòng trong phần dẫn và phần trả lời
- Nên trình bày phần dẫn ở thể khẳng định (khi dạng phủ định được sử dụng, từ phủ định cần phải được nhấn mạnh bằng cách in đậm, hoặc gạch chân)
- Các phương án lựa chọn nên đồng nhất về mặt hình thức (độ dài, từ ngữ,…)
- Tránh lặp lại một từ ngữ/thuật ngữ nhiều lần trong câu hỏi
Câu gốc Câu sửa
Câu 1. Bình đẳng trong kinh doanh được hiểu là
Câu 1. Bình đẳng trong kinh doanh được hiểu là mọi doanh nghiệp đều A. mọi doanh nghiệp đều được miễn thuế
A. miễn thuế
B. mọi doanh nghiệp đều ưu tiên lựa chọn mặt hàng B. ưu tiên vay vốn
D. ưu tiên lựa chọn địa điểm
C. mọi doanh nghiệp đều bình đẳng về quyền và nghiã vụ
D. mọi doanh nghiệp được ưu tiên vay vốn C. bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
Câu 2. Chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta xây Câu 2. Chủ nghĩa xã hội mà Đảng
dựng là một xã hội có và nhân dân ta xây dựng là một
A. nền văn hóa tiên tiến xã hội có nền văn hóa
23
A. tiên tiến B. nền văn hóa hiện đại
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
C. nền văn hóa truyền thống, hiện đại B. hiện đại
D. nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc C. truyền thống, hiện đại
D. tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
- Viết các phương án nhiễu ở thể khẳng định (cần tránh các phủ định dạng KHÔNG và TRỪ, tránh sử dụng cụm từ “tất cả những phương án trên”)
- Phương án nhiễu không nên “sai” một cách quá lộ liễu;
VD: Câu nói: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” là của ai?
A. Obama B. Niw tơn
C. Acximet D. Hồ Chí Minh
- Nội dung phần dẫn phải tường minh, rõ ràng
Câu gốc Câu sửa
Cha mẹ cản trở hôn nhân tự nguyện, đúng pháp luật của anh A và chị B. Hãy giúp anh A và chị B chọn cách ứng xử phù hợp nào sau đây? Anh A và chị B kết hôn đúng pháp luật nhưng bị cha mẹ cản trở. Hãy giúp anh A và chị B chọn cách ứng xử phù hợp nào sau đây?
A. Nghe theo lời của gia đình A. Nghe theo lời của gia đình
B. Buồn, tâm sự với bạn bè B. Buồn, tâm sự với bạn bè
C. Tìm cách thuyết phục cha mẹ C. Tìm cách thuyết phục cha mẹ
D. Bỏ nhà đi để chung sống như vợ
chồng D. Bỏ nhà đi để chung sống như vợ chồng
IV. KẾT LUẬN
24
Thời gian vừa qua vai trò, vị trí, cách nhìn của học sinh và sự phấn đấu, nỗ lực từ phía giáo viên giảng dạy môn GDCD được nâng lên rõ nét. Do đó, trong thời gian sắp tới để môn GDCD đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT quốc gia đòi hỏi phải có sự tương tác tốt từ phía giáo viên với học sinh, sự chỉ đạo sâu sát kịp thời của các ngành các cấp.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
CÁCH THỨC ÔN TẬP, XÂY DỰNG CÂU HỎI, ĐỀ THI MÔN GDCD THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
Lê Thị Bé Liên Trường THPT Mai Thanh Thế
1. Mục tiêu của dạy học định hướng năng lực
Dạy học định hướng năng lực(NL) nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người NL giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp.
2. Dấu hiệu và đặc trưng cơ bản của dạy học theo năng lực
- Tổ chức các hoạt động đa dạng và phong phú
- Tổ chức các hoạt động phát triển khả năng tự học của học sinh
- Tổ chức các hoạt động khám phá bằng cách đưa ra hệ thống câu hỏi kích
thích học sinh tìm ra kết quả
GV: Linh hoạt trong PP và ứng xử sư phạm, luôn kiểm tra đánh giá kiến thức và kỹ năng đạt được ở học sinh
3. Kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển trong môn GDCD
* Phương pháp kiểm tra đánh giá theo định hướng năng lực môn GDCD
+ Nghiên cứu sản phẩm học tập của HS
+ Quan sát trên lớp
25
+ Hỏi vấn đáp
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” + Tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng
* Hình thức kiểm tra đánh giá theo định hướng năng lực môn GDCD
+ Đánh giá chẩn đoán
+ Đánh giá quá trình
+ Đánh giá tổng kết
Hướng dẫn biên soạn một câu hỏi/ bài tập theo định hướng phát triển
năng lực trong môn GDCD
Tiêu chí định hướng nội dung của câu hỏi/ bài tập theo định hướng
phát triển năng lực
* NỘI DUNG CÂU HỎI CẦN:
- Phù hợp mục tiêu dạy học của môn học, bài học
- Phải có nguồn gốc thực hướng tới một năng lực nào đó
- Phải có tính gợi mở nhiều hướng hơn là áp đặt
- Phần bối cảnh và câu hỏi phải tương thích
- Phù hợp với nhận thức của học sinh
* MỘT SỐ LOẠI CÂU HỎI, BÀI TẬP THEO ĐỊNH HƯỚNG NĂNG LỰC TRONG MÔN GDCD
- Câu hỏi, bài tập nhận biết gắn với thực tiễn
- Câu hỏi, bài tập thông hiểu gắn với thực tiễn
- Câu hỏi, bài tập thực hành, vận dụng
- Câu hỏi/BT nhận biết gắn với thực tiễn
+ Mô tả: nhìn /nghe để nhận ra KT, KN đã học qua 1 bối cảnh, tình tiết, hoặc hoàn cảnh, điều kiện,... Thông qua đó, HS có thể nhận ra, mô tả, trình bày lại,... kiến thức, kĩ năng có liên quan các em đã được học.
+ Câu hỏi/BT có thể được diễn đạt bằng các động từ: nhận dạng, liệt kê, thống kê, kể tên, sắp xếp lại, nhớ lại, ghi nhớ, trình bày, mô tả lại,…
+ Có thể ĐG các NL: NL nhận thức các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị - xã hội, NL giải quyết vấn đề, NL sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông
VD1: Hãy trình bày 4 hình thức thực hiện pháp luật? (chủ đề 1)
→ Câu hỏi này yêu cầu HS nhớ lại kiến thức đã học.
26
VD2: Chủ đề 3
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
- Câu hỏi/ BT thông hiểu gắn với thực tiễn có đặc điểm gì?
+ Mô tả: Những câu hỏi/bài tập này, có khả năng kiểm tra đánh giá được mức độ hiểu ý nghĩa và giải thích, chứng minh được ý nghĩa của các nội dung đã học.
+ Câu hỏi/ bài tập có thể diễn đạt bằng các động từ: Chứng minh; giải thích; làm sáng tỏ; vì sao; tóm tắt lại...
+ Hướng ĐG các NL: NL nhận thức các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị - xã hội, NL đánh giá (tư duy phê phán), NL quản lí, NL trách nhiệm, NL sử dụng ngôn ngữ, NL sáng tạo,...
VD1: Theo em bố con bạn A có biết đi vào đường ngược chiều là vi phạm pháp luật không? Hành động của bố con bạn A sẽ dẫn đến hậu quả như thế nào? Hành động đó cố ý hay không cố ý? (Chủ đề 1)
→ Câu hỏi này yêu cầu HS hiểu được hành vi vi phạm của bố con A và giải thích.
27
VD2: Chủ đề 3: CNH, HĐH đất nước
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
- Câu hỏi/BT vận dụng, thực hành có đặc điểm gì?
+ Mô tả: Loại câu hỏi/bài tập này, kiểm tra đánh giá khả năng vận dụng những gì đã học vào thực tế; hoặc định hướng HS vận dụng/thực hành kiến thức, kĩ năng, thái độ đã học để giải quyết một nhiệm vụ thực tiễn.
+ Câu hỏi/bài tập có thể được diễn đạt bằng các từ như: thực hiện, làm gì, vận dụng, áp dụng, rèn luyện, lập kế hoạch, điều tra, đề xuất, có cách làm/phương án nào khác, dự báo, điều gì sẽ xảy ra tiếp, có thể dẫn tới hậu quả gì,... v.v....
+ Những câu hỏi/bài tập này hướng tới ĐG năng lực: NL giải quyết vấn đề, NL tư duy phê phán, NL quản lí, NL trách nhiệm, NL sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực sáng tạo, năng lực ngôn ngữ,...
VD: Anh Thành kí kết HĐLĐ với giám đốc công ty vận tải A. Nhưng trong HĐLĐ lại không ghi rõ Anh Thành phải làm công việc gì. Nếu là Anh Thành em sẽ xử lý như thế nào? (Câu hỏi y/c HS vận dụng và thực hành KT đã học (bài 4 lớp 12).
28
* HƯỚNG DẪN BIÊN SOẠN CÂU HỎI/BÀI TẬP KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ THEO NĂNG LỰC CÁC CHỦ ĐỀ TRONG MÔN GDCD.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” - Mục đích của biên soạn câu hỏi/ bài tập kiểm tra đánh giá theo định hướng năng lực
+ Nhanh chóng lựa chọn các chuẩn cần kiểm tra, những câu hỏi, bài tập đã có từ mỗi chủ đề để xây dựng các đề kiểm tra kết quả học tập của HS theo chuẩn và định hướng đầu ra.
+ Xây dựng ngân hàng câu hỏi bài tập, phục vụ biên soạn nhiều đề kiểm tra đánh giá.
+ Sử dụng cho công việc tổ chức hoạt động dạy học từng chủ đề.
+ Sử dụng cho việc HS thực hành kiến thức, kĩ năng đã học sau mỗi chủ đề học tập.
- Quy trình biên soạn câu hỏi, bài tập kiểm tra, đánh giá theo định hướng năng lực của một chủ đề
+ Xác định chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành
+ Xác định những năng lực có thể đánh giá và hướng tới trong quá trình dạy học chủ đề
+ Xây dựng bảng mô tả các mức yêu cầu cần đạt cho một cụm chủ đề
+ Biên soạn hệ thống câu hỏi, bài tập đánh giá theo các mức đã mô tả (bao gồm cả đáp án).
+ Kiểm tra lại hệ thống câu hỏi, bài tập đánh giá theo các mức đã mô tả
+ Chỉnh sửa lại hệ thống câu hỏi, bài tập đánh giá theo các mức đã mô tả
+ Nêu phương pháp và kĩ thuật để dạy học chủ đề
- Yêu cầu xây dựng đề kiểm tra theo định hướng phát triển năng lực
+ Đề kiểm tra phải hướng tới những năng lực nào đó, bộc lộ trong chuẩn KT- KN- TĐ của chủ đề kiểm tra
+ Đề kiểm tra phải đánh giá được các chuẩn về kiến thức, kĩ năng, thái độ.
+ Câu hỏi, bài tập kiểm tra gắn với thực tế cuộc sống và phù hợp với đối tượng học sinh
- Biên soạn đề kiểm tra
Bước 1. Xác định mục đích của đề kiểm tra
Bước 2. Xác định chuẩn KT-KN-TĐ chương trình hiện hành
Bước 3. Xác định những năng lực có thể đánh giá và hướng tới
Bước 4. Xác định hình thức đề kiểm tra
Bước 5. Thiết lập ma trận đề kiểm tra (bảng mô tả tiêu chí của đề kiểm tra)
29
Bước 6. Biên soạn câu hỏi, bài tập định hướng phát triển năng lực theo ma trận
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
Bước 7. Xây dựng hướng dẫn chấm (đáp án), thang điểm
Bước 8. Xem xét lại việc biên soạn đề kiểm tra
Vận dụng
Cộng Chuẩn cần KT Nhận biết Thông hiểu Cấp độ thấp Cấp độ cao Tên Chủ đề (nội dung, chương…)
Chủ đề 1 Mô tả năng lực Mô tả năng lực Mô tả năng lực Mô tả năng lực
Chuẩn KT, KN cần kiểm tra
Số câu Số điểm Số câu Số điểm Số câu Số điểm Số câu Số điểm Số câu Số điểm Tỉ lệ % Số câu ... điểm =...%
Chủ đề n Mô tả năng lực Mô tả năng lực Mô tả năng lực Mô tả năng lực cần ĐG
Chuẩn KT, KN cần kiểm tra
Số câu Số điểm Số câu Số điểm Số câu Số điểm Số câu Số điểm
Số câu Số điểm Số câu Số điểm % Số câu Số điểm % Số câu Số điểm %
30
Số câu Số điểm Tỉ lệ % Tổng số câu Tổng số điểm Tỉ lệ % Số câu ... điểm =...% Tổng số câu Tổng số điểm Tỉ lệ %
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
CÁCH THỨC ÔN TẬP, XÂY DỰNG CÂU HỎI, ĐỀ TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN MÔN GDCD THEO ĐỊNH HƯỚNG THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2017
Trường THPT Hoàng Diệu
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì thế, từ năm học 2016-2017, bộ môn GDCD đã được Bộ Giaos dục và Đào tạo đưa vào quy định bắt buộc thi trong kỳ thi THPT QG, đồng thời phải thực hiện bài thi dưới hình thức trắc nghiệm khách quan. Để có được những câu hỏi hay, bám sát các kiến thức đơn vị bài học phục vụ tốt cho công tác ôn tập cho học sinh, đòi hỏi người giáo viên không ngừng nghiên cứu, trau dồi kỹ năng ra đề, kỹ năng xây dựng ma trận kiến thức một cách khoa học là một yêu cầu rất cần thiết. Sau đây, là một vài kinh nghiệm về công tác xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan bước đầu đã thực hiện ở đơn vị.
I. NHẬN ĐỊNH TỪ BỘ ĐỀ MINH HỌA MÔN GDCD
1. Nhận định chung
Qua quá trình tiếp cận, tìm hiểu đề minh họa môn GDCD của Bộ Giáo
dục và Đào tạo chúng tôi có một vài nhận định như sau:
- Đề minh họa thể hiện kiến thức cơ bản, trọng tâm trong các chủ đề của
chương trình môn GDCD lớp12.
- Kiến thức trong đề không mang tính hàng lâm vì thế học sinh muốn làm
bài tốt phải hiểu bài (không học thuộc lòng).
- Các cấp độ kiến thức nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao
được đảm bảo thông qua tỉ lệ:
+ Tổng số câu nhận biết, thông hiểu chiếm 50%, tổng số câu vận dụng
thấp, vận dụng cao chiếm 50%.
+ Tỉ lệ % giữa nhận biết và thông hiểu cũng như vận dụng và vận dụng cao chỉ mang tính tương đối, vì ranh giới giữa các cấp độ kiến thức rất mong manh. Tùy theo kiến thức của từng chủ đề có thể dao động ở tỉ lệ như sau:
. Nếu tổng số câu nhận biết từ: 30% đến 35% thì tổng số câu thông hiểu từ:
15% đến 20%
. Nếu tổng số câu vận dụng từ: 30% đến 35% thì tổng số câu vận dụng cao
từ: 15% đến 20%
31
2. Nhận dạng cấp độ kiến thức trong đề
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
- Nhận biết: Nhận ra các khái niệm, kiến thức cơ bản của đơn vị kiến thức hoặc của bài. Đa số câu dẫn thường là câu mệnh đề, độ chênh lệch giữa phương án đúng với phương án nhiễu là rất cao (phương án dài nhất chưa hẳn là phương án đúng ở trường hợp câu 1 chỉ là sự ngẫu nhiên)
Câu 1. Một trong các đặc trưng cơ bản của pháp luật thể hiện ở
A. tính quyền lực, bắt buộc chung.
B. tính hiện đại.
C. tính cơ bản.
D. tính truyền thống.
- Thông hiểu: Hiểu được các khái niệm, kiến thức cơ bản. Đa số câu dẫn thường là câu có dấu chấm hỏi ở cuối câu, độ chênh lệch giữa phương án đúng và các phương án nhiễu không cao.
Câu 19. Trong trường hợp nào dưới đây thì bất kì ai cũng có quyền được
bắt người?
A. Đang chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội.
B. Đang phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
C. Có dấu hiệu thực hiện hành vi phạm tội.
D. Bị nghi ngờ phạm tội.
- Vận dụng thấp: Học sinh sử dụng kiến thức giải quyết một vấn đề, một tình huống nào đó. Đa số câu dẫn thường là câu có dấu chấm hỏi cuối câu. Phương án đúng thường thể hiện một vấn đề.
Câu 30. Khi nhìn thấy kẻ gian đột nhập vào nhà hàng xóm, T đã báo ngay
cho cơ quan công an. T đã thực hiện quyền nào của công dân?
A. Quyền khiếu nại.
B. Quyền tố cáo.
C. Quyền tự do ngôn luận.
D. Quyền nhân thân.
- Vận dụng cao: Đa số câu dẫn thường là câu có dấu chấm hỏi ở cuối câu, là câu phân tích, tổng hợp, đánh giá, sáng tạo ….. học sinh tham gia giải quyết các vấn đề, tình huống …trong thực tế cuộc sống. Đặc tính của câu hỏi khó là khoảng 30% trong tổng số học sinh làm được. Phương án đúng thường thể hiện hai vấn đề.
32
Câu 25. B và T là bạn thân, học cùng lớp với nhau. Khi giữa hai người nảy sinh mâu thuẫn, T đã tung tin xấu, bịa đặt về B trên facebook. Nếu là bạn học cùng lớp của T và B, em sẽ lựa chọn cách ứng xử nào sau đây cho phù hợp với quy định của pháp luật?
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
A. Coi như không biết vì đây là việc riêng của T.
B. Khuyên T gỡ bỏ tin vì đã xâm phạm nhân phẩm, danh dự của người
khác.
C. Khuyên B nói xấu lại T trên facebook.
D. Chia sẻ thông tin đó trên facebook
II. MỘT VÀI KINH NGHIỆM TRONG CÔNG TÁC CHUẨN BỊ ÔN
TẬP THI TỐT NGHIỆP MÔN GDCD NĂM 2017
Trước tình hình mới, mỗi giáo viên cũng như tổ bộ môn trong nhà trường đã chủ động tiến hành xây dựng kế hoạch ôn tập, xây dựng câu hỏi, đề trắc nghiệm thể hiện đầy đủ các cấp độ kiến thức của ma trận theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan của năm 2017.
1. Cách thức ôn tập
- Căn cứ vào sách giáo khoa GDCD lớp 12, thống nhất nội dung giảng dạy thông qua hệ thống sơ đồ tư duy; đảm bảo đầy đủ kiến thức cơ bản, trọng tâm của từng đơn vị kiến thức, chuyên đề, chủ đề; hướng dẫn học sinh tự thiết lập sơ đồ tư duy, phát phiếu học tập ở dạng sơ đồ tư duy (nếu có điều kiện).
- Vận dụng, giải quyết các vấn đề, tình huống trong thực tiễn đời sống xã
hội gắn liền với nội dung kiến thức của chương trình.
- Thực hành giải bài tập trắc nghiệm sau mỗi tiết học bằng nhiều hình
thức khác nhau.
+ Ứng dụng công nghệ thông tin trình chiếu câu hỏi, học sinh trả lời trực
tiếp.
+ Cho học sinh làm bài tập trắc nghiệm trên giấy (để tiết kiệm giáo viên cung cấp ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm của cả chủ đề, học kỳ, năm học; dạy đến nội dung nào thì cho học sinh giải bài tập trắc nghiệm có liên quan đến nội dung đó).
- Sau mỗi chủ đề giáo viên cho học sinh giải đề trắc nghiệm ở dạng tổng hợp; có chấm, sửa, nhận xét, đánh giá; tìm hiểu nguyên nhân và biện pháp khắc phục đối với các học sinh có kết quả giải bài tập trắc nghiệm còn thấp.
2. Giới thiệu một số khung ma trận câu hỏi trắc nghiệm theo chủ đề
2.1. Khung ma trận 1 (theo một đơn vị bài học)
33
(Bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội)
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
Vận dụng (mô tả chuẩn)
Chủ đề Tổng cộng Cấp độ thấp Cấp độ cao
Chủ đề 1: Bình đẳng trong hôn nhân và gia đình.
Nhận biết (mô tả chuẩn) - Nhận biết tài sản chung của vợ, chồng. - Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra.
Thông hiểu (mô tả chuẩn) - Hiểu, nhận định về quan hệ nhân thân của vợ, chồng. - Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra. - Vận dụng, nhận định vi phạm trong quan hệ nhân thân. - Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra. - Vận dụng, xác định vi phạm nội dung bình đẳng giữa vợ, chồng. - Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra.
8 5 8 4
25 42%
Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra. Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra. Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra. Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra.
7 3 7 3
20 33 %
Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra. Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra. Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra. Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra.
5 2 5 3 Số câu: Tỉ lệ %: Chủ đề 2: Bình đẳng trong lao động. Số câu: Tỉ lệ % Chủ đề 3: Bình đẳng trong kinh doanh. Số câu Tỉ lệ %
Số câu: 20 Tỉ lệ: 33% Số câu: 10 Tỉ lệ: 17% Số câu: 20 Tỉ lệ: 33% Số câu: 10 Tỉ lệ: 17% TS câu Tỉ lệ: %
15 25 % TS câu: 60 Tỉ lệ: 100%
* Các câu hỏi minh họa cho chủ đề 1 “bình đẳng trong hôn nhân và
gia đình”
Chủ đề này có nhiều đơn vị kiến thức với tổng số câu hỏi là 25 câu. Chẳng hạn chọn một đơn vị kiến thức “Bình đẳng giữa vợ chồng” xây dựng 4 câu hỏi ở 4 cấp độ kiến thức khác nhau.
- Nhận biết
34
Câu 1: Tài sản chung của vợ chồng có trong thời kỳ
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
A. hôn nhân. B. yêu nhau. C. hẹn hò. D. tìm hiểu.
- Thông hiểu
Câu 2: Vợ chồng giúp đỡ cùng nhau phát triển về mọi mặt. Yếu tố trên
thể hiện sự bình đẳng trong quan hệ nào sau đây?
A. Nhân thân. B. Tài sản. C. Vật chất. D. Thông tin.
- Vận dụng
Câu 3: Mỗi khi say rượu là H đánh vợ, mắng con. Tình trạng trên được
gọi là gì?
A. Bạo lực gia đình. B. Bạo lực học đường.
C. Bạo hành đường phố. D. Bạo lực tinh thần.
- Vận dụng cao
Câu 4: Là người đàn ông gia trưởng nên T không bao giờ phụ vợ công việc gia đình và cũng không thích vợ mình can thiệp vào chuyện mua xe, mua nhà. T đã xâm phạm quan hệ nào trong gia đình?
A. Nhân thân, tài sản. B. Nhân thân, định đoạt.
C. Tài sản, tình thân. D. Chiếm hữu, sử dụng.
2.2. Khung ma trận 2 (theo một đề kiểm tra)
(Bài 1: Pháp luật và đời sống, bài 2: Thực hiện pháp luật, bài 3: Công dân
bình đẳng trước pháp luật)
Vận dụng (mô tả chuẩn) Chủ đề Nhận biết (mô tả chuẩn) Tổng cộng Thông hiểu (mô tả chuẩn)
Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra. Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra.
Chủ đề 1: Pháp luật và đời sống Cấp độ thấp Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra.
Số câu Số điểm Tỉ lệ %
16 4.0 40%
6 1.5 15% Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra. 2 0.5 5% Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra.
Chủ đề 2: Thực hiện pháp luật 6 1.5 15% Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra.
35
Cấp độ cao Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra. 2 0.5 5% Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần kiểm tra.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
Số câu Số điểm Tỉ lệ %
18 4.5 45 %
3 0.75 7.5% Vận dụng mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ.
Chủ đề 3: Công dân bình đẳng trước pháp luật 3 0.75 7.5% Hiểu và nhận định mức độ sử dụng quyền và nghĩa vụ của công dân.
Số câu Số điểm Tỉ lệ % 6 1.5 15% - Nhận biết quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của nhà nước về bình đẳng trước pháp luật. 2 0.5 5% 1 0.25 2.5% 6 1.5 15% Vận dụng xác định việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý. 2 0.5 5% 1 0.25 2.5%
TS câu TS điểm Tỉ lệ: % Số câu: 14 Số điểm: 3.5 Tỉ lệ: 35% Số câu: 6 Số điểm: 1.5 Tỉ lệ: 15% Số câu: 14 Số điểm: 3.5 Tỉ lệ: 35% Số câu: 6 Số điểm: 1.5 Tỉ lệ: 15%
6 1.5 15 % TS câu: 40 TS điểm: 10.0 Tỉ lệ: 100%
* Các câu hỏi minh họa cho chủ đề 3 “công dân bình đẳng trước pháp
luật”
- Nhận biết gồm có 2 câu
Câu 1: Bình đẳng trước pháp luật có nghĩa là quyền và nghĩa vụ của
công dân
A. Không tách rời nhau. B. Không có mối quan hệ với nhau.
C. Không liên quan với nhau. D. Luôn tách rời nhau.
Câu 2: Tạo điều kiện vật chất, tinh thần để mọi công dân bình đẳng trong
thực hiện quyền và nghĩa vụ. Nội dung trên đã đề cập đến trách nhiệm của
A. Nhà nước. B. Nhân dân.
C. Xã hội. D. Dân tộc.
- Thông hiểu có 1 câu
Câu 3: Mức độ sử dụng quyền và nghĩa vụ của công dân phụ thuộc vào
những yếu tố nào?
A. Khả năng, điều kiện, hoàn cảnh.
B. Điều kiện, nghề nghiệp, địa vị xã hội.
C. Hoàn cảnh, năng khiếu, năng lực.
D. Khả năng, độ tuổi, giới tính.
36
- Vận dụng gồm có 2 câu
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
Câu 4: Mọi công dân Việt Nam được quyền hưởng độc lập dân tộc. Vậy
mỗi người chúng ta phải thực hiện nghĩa vụ gì?
A. Bảo vệ Tổ quốc. B. Nghĩa vụ quân sự.
C. Nộp thuế. D. Lao động.
Câu 5: Tuy là Chủ tịch xã nhưng vi phạm pháp luật, H vẫn bị xử lí như mọi công dân khác. Trường hợp trên thể hiện sự bình đẳng về vấn đề gì sau đây?
A. Trách nhiệm pháp lý. B. Trách nhiệm công dân.
C. Nghĩa vụ. D. Nhiệm vụ.
- Vận dụng cao có 1 câu
Câu 6: Anh X tham gia kinh doanh và nộp thuế đúng quy định. Vậy X đã
được đảm bảo bình đẳng về vấn đề gì?
A. Quyền và nghĩa vụ. B. Quyền và lợi ích.
C. Trách nhiệm và nghĩa vụ. D. Trách nhiệm pháp lý.
III. KẾT LUẬN
Thiết lập ma trận khung chúng ta sẽ hạn chế bỏ sót nội dung kiến thức của môn học. Tuy nhiên, đối với một câu hỏi được đưa ra, đánh giá câu hỏi đó ở cấp độ kiến thức nào, còn tùy thuộc vào quan điểm của người dạy, đối tượng tiếp thu kiến thức của người học, thời điểm đặt câu hỏi,…. Người này cho câu hỏi đó là câu nhận biết nhưng người khác cho nó là câu thông hiểu là chuyện bình thường. Vì vậy, khi xây dựng khung ma trận cần bám sát mục tiêu của việc biên soạn câu hỏi, đề kiểm tra.
37
Trên đây là một vài ý kiến tham luận của trường THPT Hoàng Diệu chắc rằng trong công tác chuẩn bị, xây dựng câu hỏi, đề trắc nghiệm khách quan theo các cấp độ kiến thức của ma trận còn có nhiều thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự trao đổi, đóng góp ý kiến của cấp lãnh đạo, quý đồng nghiệp.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
PHẦN III DẠY HỌC MÔN GDCD THEO CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP LIÊN MÔN
DẠY HỌC MÔN GDCD THEO CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP LIÊN MÔN
Trần Thị Ngọc Huệ Trường THPT An Ninh
I. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học là nhiệm vụ cấp thiết đang đặt ra cho ngành giáo dục hiện nay. Trên cơ sở đã thực hiện tích hợp kiến thức liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học, nhất là đối với môn Giáo dục công dân. Vận dụng nguyên tắc này không chỉ phát huy tính tích cực học tập, mà còn hình thành cho học sinh kĩ năng sống và giải quyết các vấn đề của cuộc sống; đồng thời không chỉ giúp giáo viên dạy môn Giáo dục công dân khẳng định được vị trí quan trọng của môn học, mà còn thay đổi được cách nhìn nhận chưa đúng của xã hội về môn học này. Đồng thời, dạy học liên môn là sự vận dụng những nội dung và phương pháp các lĩnh vực, các môn học có liên quan để nhằm tăng hiệu quả dạy học GDCD và làm sáng tỏ những kiến thức mà học sinh được học trong mỗi bộ môn. Việc dạy học liên môn làm cho các em nhận thức sự phát triển của xã hội một cách liên tục, thống nhất, mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, hiểu được tính toàn diện của xã hội. Tôi xin trao đổi một số kinh nghiệm và đề xuất các nội dung đề cập đến thực trạng dạy và học của chúng tôi hiện nay như sau:
38
Đã từ lâu bộ môn GDCD theo quy định của Bộ GDĐT, của Chính phủ, của Sở GDĐT đã yêu cầu lồng ghép, tích hợp nhiều nội dụng quan trọng để nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của xã hội như: tích hợp, lồng ghép các vấn đề giáo dục pháp luật an toàn giao thông trong trường học thông qua việc thực hiện công văn liên bộ giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Giao thông vận tải... Kế tiếp là tích hợp, lồng ghép các môn học về giáo dục quốc phòng; giáo dục dân số và sức khỏe sinh sản vị thành niên; giáo dục bảo vệ môi trường; giáo dục giá trị, kỹ năng sống; học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh... Và gần đây là việc tích hợp, lồng ghép giáo dục chương trình phòng chống tham nhũng; phòng chống tác hại game online có nội dung bạo lực, không lành mạnh cũng đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo “gửi gắm” vào bộ môn Giáo dục công dân. Do vậy giáo viên dạy Giáo dục công dân đã được làm quen và vận dụng nguyên tắc dạy học tích hợp từ khá sớm. Thế nhưng, trong thực tế giảng dạy, phần lớn giáo viên đã vận dụng nguyên tắc này một cách sơ sài, qua loa, dạy cho có, hầu hết mới chỉ dừng lại ở mức độ liên hệ thông thường, thậm chí có giáo viên còn bỏ qua...và cho rằng do học sinh lười học bộ môn vì không thi cử và kiến thức
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” trong SGK dạy không hết, không có thời gian đâu để tích hợp…Do đó, chưa phát huy được tính tích cực trong học tập của học sinh, chưa đạt được hiệu quả trong giảng dạy của giáo viên.
Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này vào trong dạy học còn gặp nhiều khó khăn do sách báo, tài liệu tham khảo, cơ sở vật chất, trang thiết bị... phục vụ cho quá trình dạy học bộ môn còn thiếu. Hơn nữa, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, sưu tầm các tư liệu điện tử, tranh ảnh, phim liên quan đến nội dung bài học của một số GV còn hạn chế; việc chuẩn bị giáo án điện tử đòi hỏi rất công phu nên nhiều khi giáo viên còn ngại thực hiện. Nhưng nếu tất cả các GV có tâm huyết, có quyết tâm, cố gắng khắc phục những khó khăn trên thì tôi tin chắc chắn nguyên tắc dạy học tích hợp kiến thức liên môn có thể áp dụng một cách thành công, thiết thực, hiệu quả.
II. GIẢI PHÁP
Trên cơ sở tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đã trở thành xu thế trong việc xác định nội dung dạy học ở nhà trường phổ thông và trong xây dựng chương trình môn học ở nhiều nước trên thế giới. Tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục nhằm nâng cao năng lực của người học, giúp đào tạo ra những con người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện đại.
Tích hợp liên môn không phải là phép cộng các môn học. Kiến thức phải tổ hợp lại thành một thể thống nhất để giúp học sinh giải quyết các tình huống. Đó sẽ là nội dung chương trình SGK cũng là hướng triển khai Kì thi THPT quốc gia trong những năm sắp tới.
Để giải quyết thực trạng trên cũng là nhằm đẩy mạnh chất lượng dạy và
học, theo tôi chúng ta cần tập trung các giải pháp sau:
Về khó khăn
- Đối với giáo viên
+ Giáo viên phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học
khác.
+ Vấn đề tâm lý, chủ yếu GV vẫn quen dạy theo chủ đề đơn môn nên khi dạy theo chủ đề tích hợp, liên môn, các GV sẽ loay hoay, lúng túng, ngại thay đổi.
- Đối với học sinh
+ Dạy tích hợp là cả một quá trình từ tiểu học đến THPT nên giai đoạn đầu này, đặc biệt là thế hệ HS hiện tại đang quen với lối mòn cũ nên khi đổi mới học sinh thấy lạ lẫm và khó bắt kịp.
Thuận lợi
39
- Đối với giáo viên
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
+ Trong những năm qua giáo viên cũng đã được trang bị thêm nhiều kiến
thức mới về phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực.
+ Nhà trường đã đầu tư nhiều phương tiện dạy học có thể đáp ứng một phần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Tổ chuyên môn triển khai, thảo luận.
+ Sự phát triển của CNTT, sự hiểu biết của đội ngũ giáo viên của nhà
trường là cơ hội để chúng ta triển khai tốt dạy học tích hợp, liên môn.
- Đối với học sinh:
Đối với những tiết học thế này, học sinh có hứng thú hơn.
Rõ ràng Dạy học tích hợp liên môn bao gồm tích hợp và liên môn không phải là vấn đề mới, có điều ngày nay nó được tiếp cận theo hướng mới mà thôi. Cho nên cũng phải là không rõ định hướng.
III. RÚT RA BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Tuy nhiên, cũng không thể áp dụng cứng nhắc bài học nào cũng dạy học
tích hợp và kết quả của dạy học tích hợp còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác.
+ Nên đa dạng hóa các hình thức dạy học tích hợp: tổ chức các giờ ngoại khóa, hoạt động ngoài giờ lên lớp, tổ chức đi thực địa,…Với mỗi hình thức tổ chức dạy học tích hợp khác nhau, cần phải xây dựng kế hoạch dạy học thích hợp. Không nên quá lạm dụng việc dạy học tích hợp dễ dẫn đến tính hình thức, không đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình bộ môn Địa lí.
+ Khi xây dựng phương án kiểm tra, đánh giá, đối với phần kiến thức, kỹ năng đã tiến hành dạy học tích hợp, dạy học liên môn nên ra dạng đề mở, đề có tình huống thực tiễn để giúp học sinh có cơ hội phát triển năng lực vận dụng kiến thức tổng hợp, kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống, gắn việc học ở nhà trường với nhu cầu phát triển của học sinh ở địa phương và cộng đồng.
* Đối với học sinh:
- Cần cập nhật các bài viết, các thông tin trên các trang mạng liên quan đến việc tổ chức dạy học tích hợp và vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn, từ đó nắm vững cơ sở lí luận và có nhận thức đúng đắn về sự cần thiết dạy – học theo chủ đề trên đây.
- Khi đưa ra một tình huống thực tiễn thường phải có thời gian và không gian cụ thể, tình huống đưa ra là có thực, không phải là tình huống giả định. Các tình huống phải xuất phát từ nhu cầu phát triển năng lực học tập của học sinh và đảm bảo tính vừa sức, khả thi khi giải quyết
* Đối với giáo viên
40
Giáo viên cần chủ động trong việc tiếp cận chủ đề dạy học tích hợp liên môn. Nhà trường cần tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên được giao lưu với các đơn vị trên địa bàn thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
Với vai trò chủ đạo, giáo viên phải biết cách gây hứng thú cho học sinh, hướng dẫn các em thực hiện chủ động vai trò của mình bằng nhiều biện pháp: nắm vững nội dung SGK, chuẩn bị tốt bài giảng, xác định mục tiêu bài học. GV phải đặt HS trước tình huống có vấn đề và tìm cách giải quyết vấn đề. Không chỉ giải quyết đơn lẻ mà biết kết hợp nhiều phương pháp, biện pháp. Ngoài SGK, tài liệu tham khảo và đồ dùng dạy học cũng rất quan trọng và không thể thiếu nên GV phải chuẩn bị sẵn các tài liệu trực quan trong SGK, bổ sung thêm những đồ dùng tự mình sưu tầm được. Ngoài ra GV có thể cho các em đọc phần tư liệu đặt vấn đề trong SGK, đồng thời quan sát và nhận xét tập làm các câu hỏi bài tập. GV xây dựng câu hỏi phải hợp lý, vừa sức với trình độ và yêu cầu của HS. Do câu hỏi trong SGK hướng tới các yêu cầu khác nhau như biết và hiểu, vận dụng tính sáng tạo, hình thành kỹ năng rèn luyện phương pháp nên nội dung các câu hỏi đó phải đặt đúng với nội dung bài học. Ngoài ra giáo viên có thể sử dụng một số phương pháp để dạy học tích hợp như sau:
+ Dạy học theo dự án.
+ Phương pháp trực quan.
+ Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề.
+ Phương pháp . . . . .
Trên đây là một số việc làm bản thân thực hiện trong những năm qua, tôi tin rằng các bạn cũng có rất nhiều phương pháp mới hay và sáng tạo nhiều hơn nữa.
41
Do đó, tôi rất mong các bạn góp ý cho bài tham luận của tôi, đồng thời gửi nhiều bài tham luận để chúng ta cùng học hỏi rút kinh nghiệm nhằm góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong việc trồng người.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
DẠY HỌC MÔN GDCD THEO CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP LIÊN MÔN
Trần Quốc Trung Tín Trường THPT Lịch Hội Thượng
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tích hợp kiến thức liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học, nhất là đối với môn Giáo dục công dân. Vận dụng nguyên tắc này không chỉ phát huy tính tích cực học tập, mà còn hình thành cho học sinh kĩ năng sống và giải quyết các vấn đề của cuộc sống; đồng thời không chỉ giúp giáo viên dạy môn Giáo dục công dân khẳng định được vị trí quan trọng của môn học, mà còn thay đổi được cách nhìn nhận chưa đúng của xã hội về môn học này.
Hiện nay, khi tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học đang được các nước phát triển sử dụng phổ biến thì ở nước ta nguyên tắc này còn khá xa lạ và mới mẻ, thậm chí nhiều giáo viên còn không biết đến khái niệm, bản chất của dạy học tích hợp là gì? Đã từ lâu bộ môn GDCD theo quy định của Chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của Sở Giáo dục và Đào tạo đã yêu cầu lồng ghép, tích hợp nhiều nội dụng quan trọng để nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của xã hội như: tích hợp, lồng ghép các vấn đề giáo dục pháp luật an toàn giao thông trong trường học. Kế tiếp là tích hợp, lồng ghép các nội dung về giáo dục quốc phòng; giáo dục dân số và sức khỏe sinh sản vị thành niên; giáo dục bảo vệ môi trường; giáo dục giá trị, kỹ năng sống; học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh... Và gần đây là việc tích hợp, lồng ghép giáo dục chương trình phòng chống tham nhũng. Do vậy giáo viên dạy Giáo dục công dân đã được làm quen và vận dụng nguyên tắc dạy học tích hợp từ khá sớm. Thế nhưng, trong thực tế giảng dạy, phần lớn giáo viên đã vận dụng nguyên tắc này một cách sơ sài, qua loa, dạy cho có, hầu hết mới chỉ dừng lại ở mức độ liên hệ thông thường, thậm chí có giáo viên còn bỏ qua...và cho rằng do học sinh lười học bộ môn vì không thi cử và kiến thức trong SGK dạy không hết, không có thời gian đâu để tích hợp. Do đó, chưa phát huy được tính tích cực trong học tập của học sinh, chưa đạt được hiệu quả trong giảng dạy của giáo viên.
II THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi
- Đối với giáo viên
+ Trong những năm qua giáo viên cũng đã được trang bị thêm nhiều kiến
42
thức mới về phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
+ Nhà trường đã đầu tư nhiều phương tiện dạy học có thể đáp ứng một phần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Tổ chuyên môn triển khai, thảo luận.
+ Sự phát triển của CNTT, sự hiểu biết của đội ngũ giáo viên của nhà
trường là cơ hội để chúng ta triển khai tốt dạy học tích hợp, liên môn.
+ Trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó hay nói cách khác đội ngũ giáo viên chúng ta đã dạy tích hợp liên môn từ lâu rồi nhưng chúng ta chưa đi sâu và chưa có khái niệm tên gọi cụ thể mà thôi.
- Đối với học sinh:
Đối với những tiết học thế này, học sinh có hứng thú hơn.
Rõ ràng dạy học tích hợp liên môn bao gồm tích hợp và liên môn không phải là vấn đề mới, có điều ngày nay nó được tiếp cận theo hướng mới mà thôi. Cho nên giáo viên cũng tiếp cận được vấn đề này.
2. Khó khăn
- Đối với giáo viên
+ Giáo viên phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học
khác.
+ Vấn đề tâm lý, chủ yếu giáo viên vẫn quen dạy theo chủ đề đơn môn nên khi dạy theo chủ đề tích hợp, liên môn, giáo viên sẽ loay hoay, lúng túng, ngại thay đổi.
+ Khi tôi tiến hành dạy có tích hợp, tôi thường phải lựa chọn học sinh lớp ở lớp học có nhiều học sinh khá, giỏi. Tôi băn khoăn việc áp dụng tiết học như thế này đối với các lớp mà đa số là học sinh TB và yếu sẽ ra sao?
+ Giáo viên phải xây dựng lại phân phối chương trình có lồng ghép nội
dung tích hợp.
+ Giáo viên phải làm quen với việc đổi mới kiểm tra đánh giá có lồng
ghép nội dung tích hợp.
+ Vấn đề về cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy còn hạn chế.
Tôi hình dung khó có thể duy trì kiểu lồng ghép đó suốt học kỳ, năm học vì thầy trò chịu nhiều áp lực, trong đó có áp lực thi cử. Vì thế lồng ghép hầu như chỉ làm tốt ở những tiết dạy trình diễn, còn bình thường cả thầy và trò đều khó thực hiện.
- Đối với học sinh: Dạy tích hợp là cả một quá trình từ tiểu học đến THPT nên giai đoạn đầu này, đặc biệt là thế hệ học sinh hiện tại đang quen với lối mòn cũ nên khi đổi mới học sinh thấy lạ lẫm và khó bắt kịp.
43
III. GIẢI PHÁP
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
- Thứ nhất, SGK mới phải phù hợp với nội dung tích hợp, giảm tải. (70 ngàn tỉ đồng cho đề án đổi mới căn bản, toàn diện, đổi mới sgk hi vọng sẽ mang lại hiệu quả thực chất. Chúng ta trông chờ ngành giáo dục sẽ thực hiện việc đổi mới đối với giáo dục.)
- Thứ hai, xây dựng phân phối chương trình chung phải linh hoạt, phù hợp (chẳng hạn chỉ đưa ra nội dung chính, không phân phối cụ thể, giáo viên tổ chức hoạt động miễn sao đảm bảo nội dung).
- Thứ ba, Giáo viên cần chủ động trong việc tiếp cận chủ đề dạy học tích
hợp liên môn, áp dụng các phương pháp dạy học tích cực:
+ Dạy học theo dự án
+ Phương pháp trực quan
+ Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề …
- Thứ tư, giáo viên chủ động đổi mới kiểm tra đánh giá có lồng ghép nội
dung tích hợp.
- Thứ năm, Các tổ bộ môn cần phối hợp chặt chẽ trong khi soạn giảng, thảo luận bàn bạc giữa các môn có nội dung tích hợp một cách cụ thể rõ ràng để tránh tình trạng trùng lắp kiến thức.
- Thứ sáu, các đơn vị trường tổ chức thêm các cuộc hội thảo chuyên đề
để giáo viên có thể trao đổi, học hỏi về chuyên môn.
- Thứ bảy, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị để phục vụ
cho việc đổi mới.
IV. KẾT LUẬN
Trong năm học 2015 - 2016, 2016 - 2017 tôi đã áp dụng nguyên tắc dạy học tích hợp kiến thức liên môn và luôn xem đây là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học, nhất là đối với môn Giáo dục công dân. Với phương pháp tích hợp kiến thức liên môn vào dạy bộ môn GDCD hiệu quả nhất đó là học sinh đã hứng thú với môn học, điều mà các giáo viên dạy GDCD mong muốn nhất. Đồng thời phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh trong việc khám phá, lĩnh hội các tri thức mới. Qua đó cũng giúp hình thành và rèn luyện cho học sinh các kỹ năng sống như: Tự nhận thức, tìm kiếm và xử lí thông tin, tìm kiếm sự hỗ trợ, giao tiếp có hiệu quả, hợp tác...đáp ứng được mục tiêu của giáo dục hiện nay.
44
Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này vào trong dạy học còn gặp nhiều khó khăn do sách báo, tài liệu tham khảo, cơ sở vật chất, trang thiết bị... phục vụ cho quá trình dạy học bộ môn còn thiếu; đời sống của giáo viên Giáo dục công dân cũng còn nhiều khó khăn nên khó tự trang bị. Hơn nữa, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, sưu tầm các tư liệu điện tử, tranh ảnh, phim liên quan đến nội dung bài học của một số giáo viên còn hạn chế; việc chuẩn bị giáo án điện tử đòi hỏi rất công phu nên nhiều khi giáo viên còn ngại thực hiện.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
45
Nhưng tôi nghĩ rằng: nếu tất cả giáo viên đều có tâm huyết, có quyết tâm, cố gắng khắc phục những khó khăn trên thì tôi tin chắc chắn nguyên tắc dạy học tích hợp kiến thức liên môn có thể áp dụng một cách thành công, thiết thực, hiệu quả.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN THEO CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP LIÊN MÔN
Nguyễn Thị Hường Trường THPT Vĩnh Hải
I. Đặt vấn đề
Dạy học tích hợp liên môn thuộc về nội dung dạy học chứ không phải là phương pháp dạy học. Chúng ta nên thực hiên dạy học tích hợp liên môn vì đó là do yêu cầu của mục tiêu dạy học phát triển năng lực học sinh, đòi hỏi phải tăng cường yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Khi giải quyết một vấn đề trong thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên và xã hội, đòi hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp, liên quan đến nhiều môn học, nhất là đối với môn GDCD thì dạy học tích hợp liên môn là hết sức cần thiết. Vì vậy, dạy học cần phải tăng cường theo hướng tích hợp, liên môn .
Dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học các môn học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông...
Còn dạy học liên môn là xác định các nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học để dạy học, tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau.
Đối với môn GDCD, một môn học có đặc thù là tổng hợp kiến thức của nhiều môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, nên việc “dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn” càng làm tăng hiệu quả dạy và học, và đây là một yêu cầu khách quan hiện nay.
Vì vậy việc áp dụng “Dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn” đối với tất cả các môn học nói chung và đối với môn GDCD nói riêng là một biện pháp nâng cao hiệu quả cao trong công tác dạy và học.
II. Thực trạng dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn ở Sóc Trăng
hiện nay.
2.1. Thuận lợi.
- Đối với giáo viên:
46
+ Trong quá trình dạy học môn học của mình, giáo viên vẫn thường xuyên phải dạy những kiến thức có liên quan đến các môn học khác và vì vậy đã có sự am hiểu về những kiến thức liên môn đó hay nói cách khác đội ngũ giáo viên chúng ta đã dạy tích hợp liên môn từ lâu rồi nhưng chúng ta chưa đi sâu và chưa có khái niệm tên gọi cụ thể mà thôi.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
+ Với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, vai trò của giáo viên không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động học của học sinh cả ở trong và ngoài lớp học; vì vậy, giáo viên các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự phối hợp, hỗ trợ nhau trong dạy học.
+ Trong những năm qua giáo viên cũng đã được trang bị thêm nhiều kiến thức mới về phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực: như phương pháp bàn tay nặn bột hoặc kĩ thuật khăn trải bàn, dạy học theo dự án …
+ Môi trường “Trường học kết nối” rất thuận lợi để giáo viên đổi mới
trong dạy tích hợp, liên môn.
+ Nhà trường đã đầu tư nhiều phương tiện dạy học có thể đáp ứng một
phần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
+ Sự phát triển của CNTT, sự hiểu biết của đội ngũ giáo viên của nhà
trường là cơ hội để triển khai tốt dạy học tích hợp, liên môn.
- Đối với học sinh:
+ Học sinh có hứng thú tìm hiểu kiến thức các bộ môn nhất là các bộ môn tự nhiên ngày càng nhiều hơn, sách giáo khoa được trình bày theo hướng “ mở ” nên cũng tạo điều kiện, cơ hội cũng như môi trường thuận lợi cho học sinh phát huy tư duy sáng tạo.
2.2. Khó khăn
- Đối với giáo viên:
+ Giáo viên phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học
khác.
+ Vấn đề tâm lý chủ yếu vẫn quen dạy theo chủ đề đơn môn nên khi dạy theo chủ đề tích hợp, liên môn, các giáo viên sẽ vất vả hơn, phải xem xét, rà soát nội dung chương trình, sách giáo khoa (SGK) hiện hành để loại bỏ những thông tin cũ, lạc hậu, đồng thời bổ sung, cập nhật những thông tin mới, phù hợp. Nội dung của phương pháp dạy tích hợp, liên môn cũng yêu cầu GV cấu trúc, sắp xếp lại nội dung dạy học trong chương trình hiện hành theo định hướng phát triển năng lực học sinh nên không tránh khỏi làm cho giáo viên có cảm giác ngại thay đổi.
+ Điều kiện cơ sở vật chất (thiết bị thông tin ,truyền thông) phục vụ cho việc dạy học trong nhà trường còn nhiều hạn chế nhất là các trường ở nông thôn.
- Đối với học sinh:
+ Dạy tích hợp là cả một quá trình dài, nên giai đoạn đầu này, đặc biệt là thế hệ HS hiện tại đang quen với lối mòn cũ nên khi đổi mới học sinh thấy lạ lẫm và khó bắt kịp.
47
+ Do xu thế chọn ngành nghề theo thực tế xã hội nước ta hiện nay và việc quy định các môn thi trong các kì thi tuyển sinh nên đa số các học sinh và phụ
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” huynh kém mặn mà (coi nhẹ) với môn không xét điểm thi đại học như môn GDCD.
III. Giải pháp khắc phục
- Dạy cho học sinh sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể
Thay vì tham nhồi nhét cho học sinh nhiều kiến thức lí thuyết đủ loại, dạy học tích hợp chú trọng tập dượt cho học sinh vận dụng các kiến thức kĩ năng học được vào các tình huống thực tế, có ích cho cuộc sống sau này làm công dân, làm người lao động, làm cha mẹ, có năng lực sống tự lập.
- Xác lập mối quan hệ giữa các khái niệm đã học
Trong quá trình học tập, học sinh có thể lần lượt học những môn học khác nhau, những phần khác nhau trong mỗi môn học nhưng học sinh phải biết đặt các khái niệm đã học trong những mối quan hệ hệ thống trong phạm vi từng môn học cũng như giữa các môn học khác nhau. Thông tin càng đa dạng, phong phú thì tính hệ thống phải càng cao, có như vậy thì các em mới thực sự làm chủ được kiến thức và mới vận dụng được kiến thức đã học khi phải đương đầu với một tình huống thách thức, bất ngờ, chưa từng gặp.
- Phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn: Cái cốt yếu là những năng lực cơ bản cần cho học sinh vận dụng vào xử lí những tình huống có ý nghĩa trong cuộc sống, hoặc đặt cơ sở không thể thiếu cho quá trình học tập tiếp theo.
- Phương pháp dạy học theo hướng tích hợp là lồng ghép nội dung tích hợp vào các bài dạy, tùy theo từng môn học mà lồng ghép tích hợp ở các mức độ như liên hệ, lồng ghép bộ phận hay là toàn phần (Phần nội dung bài học, phần bài tập hay là tổng kết toàn bài...) Khi tích hợp giáo viên cần sử dụng ngôn từ kết nối sao cho lôgic và hài hòa....từ đó giáo dục và rèn kĩ năng sống, giá trị sống cho học sinh.
- Để nâng cao hiệu quả của môn học tích hợp, giáo viên có thể sử dụng
một số phương pháp để dạy học tích hợp như sau:
+ Dạy học theo dự án.
+ Phương pháp trực quan.
+ Phương pháp thực địa.
+ Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề.
+ Phương pháp khăn trải bàn . . . . . .
48
Trong các phương pháp trên, chúng ta thường sử dụng phương pháp thứ tư đó là: Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề. Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học trong đó GV tạo ra những tình huống có vấn đề, điều khiển HS phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ bản của
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn là “tình huống gợi vấn đề” vì “Tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề”.
IV. Kiến nghị cá nhân đối với việc “Dạy học môn GDCD theo chủ đề
tích hợp liên môn” hiện nay.
- Nhà trường cần tăng cường đưa chủ đề dạy học vào các dịp hội giảng
- Đưa hoạt động trên trường học kết nối vào hoạt động bắt buộc với các tổ
bộ môn và giáo viên hằng năm.
- Giáo viên cần chủ động trong việc tiếp cận chủ đề dạy học tích hợp liên
môn.
- Tích cực cho học sinh tham gia các cuộc thi liên quan đến chủ đề tích
hợp, liên môn mà Bộ GDĐT đã phát động.
- Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên được giao lưu với các đơn vị trên
địa bàn thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề.
- Trong thời gian đầu, tổ/nhóm chuyên môn thảo luận, phân công giáo viên phối hợp thực hiện hoặc có thể tham mưu để hiệu trưởng lựa chọn phân công giáo viên có điều kiện thuận lợi nhất thực hiện. Thông qua việc triển khai dạy học các chủ đề tích hợp liên môn và qua sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn, giáo viên giúp nhau tự bồi dưỡng để những năm học sau mỗi giáo viên có thể đảm nhận nhiều phân môn trong một môn học tích hợp.
- Việc quản lý dạy học các chủ đề tích hợp liên môn cần thực hiện theo hướng bảo đảm quyền tự chủ của nhà trường, tổ chuyên môn và giáo viên; nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý về công tác kiểm tra, giám sát và hỗ trợ các nhà trường thực hiện kế hoạch giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh.
- Chú trọng các biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, thời gian, kinh phí…; khuyến khích, tạo động lực cho giáo viên tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện kế hoạch, đề xuất điều chỉnh, báo cáo kết quả và kinh nghiệm tổ chức dạy học các chủ đề tích hợp liên môn.
49
- Tập trung đổi mới sinh hoạt của tổ/nhóm chuyên môn thông qua hoạt động nghiên cứu bài học. Tăng cường các hoạt động dự giờ, rút kinh nghiệm để điều chỉnh và góp ý điều chỉnh nội dung dạy học các chủ đề tích hợp liên môn; hoàn thiện từng bước nội dung các chủ đề và kế hoạch môn học, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Nên ghi hình các tiết dạy và các cuộc họp, thảo luận/rút kinh nghiệm để làm tư liệu chia sẻ cho giáo viên tham khảo. Tổ chức tốt hoạt động sinh hoạt chuyên môn theo cụm trường; cử người phụ trách tổ chức và quản lý các hoạt động chuyên môn trên "Trường học kết nối" và chỉ đạo các trường tích cực tham gia các hoạt động chuyên môn trên mạng; tăng cường tổ chức các hội thảo, đánh giá tổng kết, rút kinh nghiệm trong việc thực hiện dạy học các chủ đề tích hợp liên môn.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” - Tăng cường các hoạt động trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về kế hoạch giáo dục theo định hướng phát triển năng lực học sinh thông qua các hình thức tổ chức hội nghị, hội thảo, học tập, giao lưu giữa nhà trường với các cơ sở giáo dục.
V. Kết luận
5.1 Đối với học sinh
Trước hết, các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn đối với học sinh, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn.
5.2 Đối với giáo viên
50
Dạy học theo các chủ đề liên môn không những giảm tải cho giáo viên trong việc dạy các kiến thức liên môn trong môn học của mình mà còn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo viên, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên bộ môn hiện nay thành đội ngũ giáo viên có đủ năng lực dạy học kiến thức liên môn, tích hợp. Thế hệ giáo viên tương lai sẽ được đào tạo về dạy học tích hợp, liên môn ngay trong quá trình đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP LIÊN MÔN
Dương Hồng Cúc Trường THPT Văn Ngọc Chính
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chủ đề tích hợp liên môn là những chủ đề có nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học, thể hiện ở sự ứng dụng của chúng trong cùng một hiện tượng, quá trình trong tự nhiên hay xã hội. Rà soát chương trình các môn học có liên quan với nhau trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, tìm ra những kiến thức chung để xây dựng thành các chủ đề dạy học tích hợp liên môn.
Sau khi được tập huấn dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn giữa môn Giáo dục công dân và môn Địa lí, tôi thấy được tầm quan trọng và hiệu quả của dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn. Học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, gây quá tải, nhàm chán, không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn. Giảm tải cho giáo viên trong việc dạy các kiến thức liên môn trong môn học của mình. Vì thế, việc vận dụng dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn là rất cần thiết và cần được thực hiện từng bước theo từng khối lớp để mang lại hiệu quả cao.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Dựa trên tình hình thực tế của trường, cùng với sự bàn bạc trong tổ bộ môn Địa- GDCD đã thống nhất thực hiện dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn ở khối 10 với sự liên kết kiến thức của môn GDCD với môn Địa lí, một phần kiến thức của bài ở môn Địa lí sẽ chuyển sang cho môn GDCD dạy. Nhằm mục đích là tránh lặp lại kiến thức ở cả hai môn học và đảm bảo về thời lượng của tiết dạy môn Địa lí.
Sau đây xin giới thiệu minh họa nội dung kiến thức dạy học theo chủ đề
tích hợp liên môn mà tổ chuyên môn đã thống nhất:
Chủ đề: MÔI TRƯỜNG
- Thời lượng: 1 tiết
- Thời điểm: học kì II
1. Nội dung chương trình các môn học được tích hợp trong chủ đề
- Môn Địa lí: Bài 41: MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN
51
NHIÊN (ĐL 10 HKII)
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
- Môn Giáo dục Công dân: Bài 15: CÔNG DÂN VỚI MỘT SỐ VẤN ĐỀ
CẤP THIẾT CỦA NHÂN LOẠI (GDCD 10) (tiết 1)
* Nội dung cụ thể
- Hiểu và trình bày được các khái niệm:
+ Môi trường
+ Môi trường sống và phân loại môi trường sống.
+ Ô nhiễm môi trường
+ Bảo vệ môi trường
- Sự khác nhau căn bản giữa môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo.
- Thực trạng, nguyên nhân về môi trường hiện nay.
- Trách nhiệm của CD trong việc bảo vệ môi trường:
* Phương án nội dung:
Chủ đề này được thực hiện vào học kì II của lớp 10. Thời lượng dạy học chủ đề này 01 tiết, được lấy từ 01 tiết dạy của môn GDCD và môn Địa lí sẽ không dạy lại kiến thức này ở bài 41 nữa.
* Ý nghĩa của việc tích hợp:
Môi trường là không gian sinh sống của con người và các loài sinh vật. Nhưng cùng với sự phát triển nhanh về dân số, khoa học kỹ thuật đặc biệt là sự phát triển tăng tốc của nền kinh tế, con người đã tác động đến chính môi trường sống của mình và làm cho nó bị suy thoái và ô nhiễm. Phần lớn các vấn đề môi trường là do tác động không hợp lý của con người lên môi trường trong các hoạt động kinh tế, do sự chạy đua vũ trang, chiến tranh và xung đột quân sự... Vì vậy, trong khi đưa ra các giải pháp về môi trường, cần phải tìm thấy căn nguyên của các vấn đề này có tính chất kinh tế - xã hội. Giáo dục có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giải quyết vấn đề môi trường và phát triển bền vững, vì nó tác động đến từng thành viên trong xã hội, làm thay đổi từ kiến thức, ý thức đến hành vi của họ trong mọi hoạt động. Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên là hai nội dung của cùng một vấn đề, là mục tiêu của phát triển bền vững, chúng có mối quan hệ nhân quả với nhau, việc xây dựng thành chủ đề học tập giúp cho vận dụng các phương pháp dạy học tích cực thuận lợi hơn, HS có thời gian để nghiên cứu sâu về các nội dung học tập. Đồng thời giúp học sinh biết vận dụng kiến thức nền của các môn học khác nhau ở phổ thông để nhận biết được các tác nhân gây ô nhiễm môi trường, các vấn đề của môi trường toàn cầu, liên hệ được trách nhiệm của công dân với vấn đề này...
2. Tiến trình dạy học trên lớp (dự kiến)
- Hoạt động 1: GV sẽ dành thời gian 10 phút để dạy phần kiến thức của
môn Địa lí bao gồm:
52
+ Khái niệm môi trường địa lí.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
+ Khái niệm môi trường sống và phân loại môi trường sống.
+ Sự khác nhau căn bản giữa môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo.
Đây là phần kiến thức có trong SGK Địa lí lớp 10 trang 158, 159, GV có
thể yêu cầu HS sử dụng SGK Địa lí lớp 10 để tìm hiểu kiến thức này.
- Hoạt động 2: GV sẽ dành thời gian 25 phút để dạy phần kiến thức của
môn GDCD bao gồm:
+ Khái niệm ô nhiễm môi trường.
+ Thực trang môi trường hiện nay và nguyên nhân.
+ Khái niệm bảo vệ môi trường.
+ Trách nhiệm của CD trong việc bảo vệ môi trường.
Đây là phần kiến thức có trong SGK GDCD lớp 10, GV có thể yêu cầu
HS sử dụng SGK GDCD lớp 10 để tìm hiểu kiến thức này.
III. KẾT LUẬN
53
Như vậy, để dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn đạt hiệu quả đòi hỏi người dạy phải có bước chuẩn bị thật tốt, nắm vững kiến thức liên môn, sáng tạo và linh hoạt trong các phương pháp dạy học. Việc tích hợp kiến thức liên môn không phải là cách làm mới nhưng khi vận dụng việc dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn như cách làm trên thì đây là lần đầu tiên bộ môn GDCD ở trường thực hiện. Với ít ỏi kinh nghiệm và còn nhiều hạn chế rất mong nhận được sự góp ý từ quí đồng nghiệp.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
BÀI TÍCH HỢP LIÊN MÔN GDCD LỚP 10
CHỦ ĐỀ: MÔI TRƯỜNG VÀ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Đoàn Minh Thương Trường THCS&THPT Mỹ Thuận
I. GIỚI THIỆU CHUNG
1. Chủ đề: MÔI TRƯỜNG VÀ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG.
- Đối tượng: Dành cho học sinh khối 10.
- Thời lượng: 3 tiết
- Thời điểm: Cuối học kì II.
2. Nội dung chương trình các môn học được tích hợp trong chủ đề
- Môn Địa lí: Bài 41: Môi trường và tài nguyên thiên nhiên
Bài 42: Môi trường và sư phát triển bền vững.
- Môn Giáo dục Công dân: Bài 15: Công dân với một số vấn đề cấp thiết
của nhân loại.
- Các môn khác (nếu có): Không
A. Nội dung:
1. Môi trường và tài nguyên thiên nhiên
- Khái niệm và cách phân loại
- Vai trò và chức năng
- Hiện trạng, nguyên nhân và giải pháp
- Liên hệ thực tế địa phương.
2. Những vấn đề về ô nhiễm môi trường.
- Quan niệm
- Hiện trạng, nguyên nhân, giải pháp.
- Liên hệ thực tế địa phương.
3. Những vấn đề môi trường và phát triển bền vững ở nhóm nước
phát triển và đang phát triển.
- Quan niệm về phát triển bền vững
- Giải pháp phát triển bền vững.
4. Trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ môi trường và tài
54
nguyên thiên nhiên.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
B. Phương án nội dung: Bộ môn Địa lý giảng dạy. Môn GDCD không dạy nội dung phần 1 bài 15 (Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại) này nữa .
Chủ đề được thực hiện ở HKII của lớp 10. Thời lượng 3 tiết, đối tượng
học sinh lớp 10.
C. Ý nghĩa của việc tích hợp:
Môi trường là không gian sinh sống của con người và các loài sinh vật. Nhưng cùng với sự phát triển nhanh về dân số, khoa học kỹ thuật đặc biệt là sự phát triển tăng tốc của nền kinh tế, con người đã tác động đến chính môi trường sống của mình và làm cho nó bị suy thoái và ô nhiễm. Phần lớn các vấn đề môi trường là do tác động không hợp lý của con người lên môi trường trong các hoạt động kinh tế, do sự chạy đua vũ trang, chiến tranh và xung đột quân sự... Vì vậy, trong khi đưa ra các giải pháp về môi trường, cần phải tìm thấy căn nguyên của các vấn đề này có tính chất kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, vấn đề môi trường không tách rời với vấn đề phát triển. Vấn đề này, vừa có tính toàn cầu, vừa có tính khu vực và vừa có những nét riêng của từng nước, từng khối nước... Giáo dục có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giải quyết vấn đề môi trường và phát triển bền vững, vì nó tác động đến từng thành viên trong xã hội, làm thay đổi từ kiến thức, ý thức đến hành vi của họ trong mọi hoạt động.
Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên là hai nội dung của cùng một vấn đề, là mục tiêu của phát triển bền vững, chúng có mối quan hệ nhân quả với nhau, việc xây dựng thành chủ đề học tập giúp cho vận dụng các phương pháp dạy học tích cực thuận lợi hơn, HS có thời gian để nghiên cứu sâu về các nội dung học tập. Đồng thời giúp học sinh biết vận dụng kiến thức nền của các môn học khác nhau ở phổ thông để nhận biết được các tác nhân gây ô nhiếm môi trường, các vấn đề của môi trường toàn cầu, vấn đề khai thác tài nguyên thiên nhiên, vấn đề phát triển bền vững, liên hệ được trách nhiệm của công dân với vấn đề này...
- Chương trình Địa lí 10 và GDCD 10 đều có nội dung liên quan đến vấn đề tài nguyên và môi trường, tuy cùng dạy về một chủ đề nhưng mỗi môn học lại đề cập đến những khía cạnh khác nhau có thể bổ sung cho nhau, giúp học sinh hiểu rõ vấn đề hơn.
- Việc dạy học tích hợp, liên môn cũng góp phần đổi mới phương pháp, giảm tải chương trình, phát huy tính tích cực của học sinh, thông qua các hoạt động học hình thành phẩm chất, năng lực cho học sinh.
3. Mục tiêu:
Sau khi học xong chủ đề học sinh đạt được:
a) Về kiến thức
- Hiểu và trình bày được quan niệm, cách phân loại, vai trò, chức năng
55
của môi trường; khái niệm, cách phân loại tài nguyên thiên nhiên.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
- Trình bày được một số vấn đề về môi trường và phát triển bền vững trên
phạm vi toàn cầu và ở các nhóm nước.
- Phân tích được nguyên nhân của một số vấn đề về môi trường trên phạm
vi toàn cầu và ở các nhóm nước. Giải pháp.
- Trình bày được các ảnh hưởng xấu của thuốc hóa học bảo vệ thực vật đến quần thể sinh vật và môi trường. Đưa ra được các biện pháp để hạn chế ảnh hưởng xấu của thuốc hóa học bảo vệ thực vật.
b) Về kĩ năng
- Phân tích bảng số liệu, tranh ảnh về các vấn đề môi trường và sử dụng
tài nguyên thiên nhiên.
- Biết cách tìm hiểu một vấn đề môi trường ở địa phương, thu thập, xử lí
và phân tích số liệu thống kê về tài nguyên, môi trường.
- Kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin như công cụ học tập và nghiên cứu.
c) Về thái độ
- Tích cực ủng hộ những chủ trương của Đảng, nhà nước trong việc giải
quyết vấn đề ô nhiễm môi trường.
- Tích cực tham gia các hoạt động góp phần giải giải quyết vấn đề môi
trường do trường và địa phương tổ chức.
- Hình thành ý thức bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm các nguồn tài
nguyên.
- Thấy được trách nhiệm của công dân và học sinh trong việc tham gia giải quyết những vấn đề của nhân loại như ô nhiễm môi trường, sự suy thái của tài nguyên thiên nhiên.
- Tham gia vào việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ môi
trường cho người dân tại địa phương mình sinh sống.
- Có thái độ phê phán đối với các hành vi làm ảnh hưởng không tốt đến môi trường, phát hiện tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
d) Các năng lực chính:
- Năng lực sử dụng công nghệ thông tin trong học tập
- Năng lực giao tiếp
- Năng lực hợp tác trong học tập và làm việc
- Năng lực giải quyết vấn đề
- Năng lực tự học
- Năng lực sử dụng số liệu thống kê
56
- Năng lực sử dụng bản đồ, biểu đồ, tranh ảnh
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
- Năng lực khảo sát thực tế.
II. BẢNG MÔ TẢ CÁC MỨC ĐỘ NHẬN THỨC VÀ NĂNG LỰC
ĐƯỢC HÌNH THÀNH
Nhận biết Thông hiểu Vận dụng Vận dụng cao
Hiểu được vai trò, chức năng của môi trường. Nội dung/ chủ đề 1. Môi trường
- Trình bày được môi trường, cách phân loại của môi trường.
- Vận dụng được kiến thức đã học để tìm hiểu vấn đề môi trường ở địa phương và môi trường hiện nay.
- Phân tích được tranh ảnh về các vấn đề của môi trường. - Nêu được sự khác nhau giữa môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo. - Nhận xét số liệu thống kê về tài nguyên thiên nhiên.
- Liên hệ với vấn đề khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ở địa phương.
- Trình bày được tài nguyên thiên nhiên cách phân loại tài nguyên thiên nhiên. 2. Tài nguyên thiên nhiên
- Hiểu và có hành động về trách nhiệm của công dân (thanh niên và học sinh) trong vấn đề bảo vệ
- Hiểu được các giải pháp để phát triển bền vững. - Liên hệ các biện pháp để góp phần phát triển biền vững kinh tế-xã hội ở địa phương - Phân tích được hiện trạng sử dụng tài nguyên thiên nhiên trên thế giới. Giải pháp sử dụng hợp lí. - Phân tích được nguyên nhân của một số vấn đề về môi trường trên phạm vi toàn cầu và ở các nhóm nước. Giải pháp
- Trình bày được quan niệm về phát triển bền vững. - Trình bày được những vấn đề về môi trường và phát triển trên toàn cầu, ở các nước phát triển và đang phát triển.
3. Sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường là điều kiện phát triển bền vững
Câu hỏi và đáp án: Một số câu hỏi và gợi ý trả lời
57
1. Câu hỏi nhận biết
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
Câu 1. Hãy nối các ý ở cột A với các ý ở cột B sao cho phù hợp nhất:
Cột B. Thành phần Cột A. Các loại môi trường sống của con người
1. Môi trường tự nhiên
2. Môi trường xã hội
3. Môi trường nhân tạo
a. Bao gồm các quan hệ xã hội: trong sản xuất, trong phân phối, trong giao tiếp b. Bao gồm các đối tượng lao động do con người sản xuất ra và chịu sự chi phối của con người (nhà ở, nhà máy, thành phố…) c. Bao gồm các thành phần của tự nhiên: địa hình, địa chất, đất trồng, khí hậu, nước, sinh vật.
Đáp án: 1 – c; 2 – a; 3 – b.
Câu 2. Chọn từ trong các từ sau: khôi phục được; không khôi phục được;
không bị hao kiệt để điền vào dấu chấm sao cho đúng.
- Tài nguyên thiên nhiên có thể bị hao kiệt, ........(1).........: Than, dầu, khí,
quặng sắt…
- Tài nguyên thiên nhiên có thể bị hao kiệt, ......(2).........: động vật, thực vật,
đất đai…
- Tài nguyên thiên nhiên ...........(3)............: năng lượng mặt trời, sức gió,
địa nhiệt, không khí, nước,...
Đáp án: 1: không khôi phục được; 2: khôi phục được; 3: không bị hao kiệt
Câu 3. Thế nào là môi trường, môi trường sống của con người?
Đáp án:
- Có nhiều khái niệm môi trường, theo Địa lí học: con người sống trên Trái Đất môi trường của loài người chính là không gian bao quanh Trái Đất, có quan hệ trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. (môi trường địa lí).
- Môi trường sống của con người, tức là tất cả hoàn cảnh bao quanh con người, có ảnh hưởng đến sự sống và phát triển của con người (như là một sinh vật và như là một thực thể xã hội), đến chất lượng cuộc sống của con người.
Câu 4. Thế nào là tài nguyên thiên nhiên? Trình bày cách phân loại tài
nguyên.
Đáp án:
58
- Tài nguyên thiên nhiên là các thành phần của tự nhiên (các vật thể và các lực tự nhiên) mà ở trình độ nhất định của sự phát triển lực lượng sản xuất chúng được sử dụng hoặc có thể được sử dụng làm phương tiện sản xuất và làm đối tượng tiêu dùng.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
- Cách phân loại tài nguyên:
+ Theo thuộc tính tự nhiên: tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khí
hậu, tài nguyên sinh vật, tài nguyên khoáng sản.
+ Theo công dụng kinh tế: tài nguyên nông nghiệp, tài nguyên công nghiệp,
tài nguyên du lịch...
+ Theo khả năng có thể bị hao kiệt trong quá trình sử dụng của con người: tài nguyên có thể bị hao kiệt (tài nguyên không khôi phục được, tài nguyên khôi phục được), tài nguyên không bị hao kiệt.
Câu 5. Thế nào là sự phát triển bền vững? Trình bày những vấn đề môi
trường và phát triển bền vững ở các nước đang phát triển.
Đáp án:
a. Phát triển bền vững sự phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không làm thiệt hại đến khả năng của các thế hệ tương lai được thoả mãn nhu cầu của chính họ.
b. Những vấn đề môi trường và phát triển bền vững ở các nước đang phát
triển
- Môi trường ở các nước đang phát triển bị huỷ hoại nghiêm trọng do trình độ chậm phát triển, thiếu vốn, thiếu công nghệ, gánh nặng nợ nước ngoài, hậu quả của chiến tranh và một số quốc gia xung đột triền miên, sức ép dân số, nạn đói...
- Các nước đang phát triển chiếm hơn 1/2 diện tích lục địa, đây là khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng, đất trồng.
- Những vấn đề môi trường ở khu vực này là sự suy giảm tài nguyên khoáng sản, thu hẹp tài nguyên rừng, tình trạng khan hiếm nước và tranh chấp nguồn nước.
Câu 6. Trình bày những vấn đề môi trường và phát triển bền vững ở các
nước phát triển.
Đáp án: Những vấn đề môi trường và phát triển bền vững ở các nước phát
triển:
- Vấn đề môi trường và phát triển bền vững ở các nước phát triển chủ yếu gắn với những tác động môi trường của sự phát triển công nghiệp và những vấn đề đô thị.
59
- Các nước công nghiệp phát triển chính là những nước phát thải các chất khí (CO2, SO2...) nhiều nhất thế giới do việc sử dụng nhiều năng lượng, do sản xuất công nghiệp...
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
- Sự phát thải nhiều chất khí dẫn tới hiện tượng thủng tầng ôdôn, hiệu ứng nhà kính, mưa axit... Các trung tâm phát thải khí lớn của thế giới là các nước EU, Nhật Bản, Hoa Kì.
- Ở các nước phát triển, vấn đề ô nhiễm nguồn nước vẫn còn tồn tại, chủ
yếu do hoạt động công nghiệp và khai thác mỏ.
2. Câu hỏi thông hiểu
Câu 1. Hãy nêu sự khác nhau giữa môi trường tự nhiên và môi trường
nhân tạo.
Đáp án: Sự khác nhau giữa môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo:
- Môi trường tự nhiên xuất hiện trên bề mặt Trái Đất không phụ thuộc vào con người. Con người tác động vào tự nhiên, làm cho nó bị thay đổi, nhưng các thành phần tự nhiên vẫn phát triển theo quy luật riêng của nó.
- Môi trường nhân tạo là kết quả của lao động của con người, nó tồn tại hoàn toàn phụ thuộc vào con người. Nếu không có bàn tay chăm sóc của con người, thì các thành phần của môi trường nhân tạo sẽ bị hủy hoại.
Câu 2. Dựa vào khả năng có thể bị hao kiệt trong quá trình sử dụng,
nước được xếp vào loại tài nguyên nào? Tại sao?
Đáp án:
- Nước được xếp vào loại tài nguyên không bị hao kiệt, vì nước có lượng
rất lớn đến mức con người không thể sử dụng làm cho chúng cạn kiệt được.
- Tuy nhiên, tài nguyên nước không phân bố đều giữa các vùng trên Trái Đất : có nhiều vùng đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước ngọt, đặc biệt là thiếu nước sạch. Điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của con người.
Câu 3. Việc khai thác, chế biến khoáng sản và khai thác tài nguyên nông lâm nghiệp ảnh hưởng như thế nào đến môi trường ở các nước đang phát triển?
Đáp án:
Những ảnh hưởng của việc khai thác, chế biến khoáng sản và khai thác tài
nguyên nông lâm nghiệp đến môi trường ở các nước đang phát triển:
- Khai thác và chế biến khoáng sản là nguồn chủ yếu để xuất khẩu thu ngoại tệ nhưng không chú trọng đến biện pháp bảo vệ môi trường nên môi trường bị ô nhiễm.
- Việc khai thác rừng ở qui mô lớn vì mục đích kinh tế, đặc biệt là khai thác lấy củi nhưng không có kế hoạch làm cho diện tích đất trống đồi trọc tăng, suy thoai môi trường, suy giảm đa dạng sinh học.
60
- Nền nông nghiệp quảng canh, năng suất thấp, đốt rừng làm nương rẫy, lấy đất canh tác, chăn thả gia súc... thúc đẩy quá trình hoang mạc hoá (nhất là vùng khí hậu nhiệt đới).
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
Câu 4. Tại sao nói việc sử dụng các loại năng lượng không bị hao kiệt không chỉ nhằm mục đích thay thế các nhiên liệu hóa thạch mà còn có ý nghĩa bảo vệ môi trường.
Đáp án:
Các nhiên liệu hóa thạch khi bị đốt cháy sẽ thải ra lượng khí CO2 lớn là tác nhân gây hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu. Sử dụng các năng lượng không bị hao kiệt sẽ hạn chế được điều này.
3. Câu hỏi vận dụng.
Câu 1. Dựa vào các hình sau và kiến thức đã học, hãy cho biết: Những hình ảnh phản ánh những vấn đề chủ yếu nào về môi trường toàn cầu? Nguyên nhân của những vấn đề đó. Liên hệ với Việt Nam.
Hình 1 Hình 2
61
Hình 3 Hình 4
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
Hình 5 Hình 6 Đáp án
Vấn đề môi trường Nguyên nhân
Mưa a xít
Khí thải NO, SO… do hoạt động sản xuất công nghiệp, giao thông,...
Thủng tầng ôdôn
Hoạt động công nghiệp và sinh hoạt thải khí CFCs,...
Vấn đề môi trường toàn cầu Hiệu ứng nhà kính
Lượng các chất khí thải nhà kính như CO2… ngày càng tăng,...
Ô nhiễm nguồn nước
Do chất thải từ sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp,...
Ô nhiễm môi trường đất
Do chất thải từ sinh hoạt, công nghiệp, Sử dụng quá mức các chất hóa học, thuốc bảo vệ thực vật...
Ô nhiễm không khí Do chất thải từ công nghiệp,...
Tình trạng mất cân bằng sinh thái và nguy cơ cạn kiệt tài nguyên Khai thác và sử dụng tài nguyên không hợp lí (đặc biệt là chặt phá rừng bừa bãi),... Liên hệ với Việt Nam
Tình trạng ô nhiễm môi trường
Chất thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt, công nghiệp, rác thải sinh hoạt, sử dụng quá mức các chất hóa học trong nông nghiệp,...
4. Câu hỏi vận dụng cao
62
Câu 1. Liên hệ trách nhiệm của công dân (thanh niên và học sinh) trong việc bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên để góp phần phát triển bền vững.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
Đáp án:
Đây là câu hỏi mở, HD liên hệ được trách nhiệm của thanh niên nói chung và học sinh nói riêng trong vấn đề bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lí tài nguyên sao cho đảm bảo: tính khoa học, tính đúng đắn và phù hợp với đặc điểm vùng miền, đặc điểm lứa tuổi và trình độ học vấn.
III. KẾ HOẠCH DẠY HỌC
1. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh.
A. Chuẩn bị của giáo viên
PHIẾU ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG NHÓM 1, 2
Yêu cầu về nội dung 1. Môi trường - Thế nào là môi trường, môi trường sống ? - Phân biệt được các loại môi trường: tự nhiên , nhân tạo - Chức năng của môi trường - Vai trò của môi trường đối với sự phát triển của xã hội loài người 2. Tài nguyên thiên nhiên - Khái niệm tài nguyên thiên nhiên - Cách phân loại tài nguyên - Hiểu được vì sao tài nguyên đất lại có khả năng phục hồi được và các biện
pháp nhằm làm tăng độ phì cho đất
PHIẾU ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG NHÓM 3, 4
Yêu cầu về nội dung Bài trình bày phải thể hiện được các nội dung sau 1. Quan niệm về ô nhiễm môi trường 2. Biểu hiện của ô nhiễm môi trường: - Ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí, - Suy giảm tầng ozon ( Khái niệm ozon, tính chất vật lí, hóa học, ứng dụng
52 của ozon, sự hình thành tầng ozon, các chất gây thủng tầng ozon...)
- Hiệu ứng nhà kính 3. Nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường: nước tải sinh hoạt, khí thải, sử
dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật không đúng quy định,...
4. Hậu quả 5. Tình trạng ô nhiễm môi trường ở địa phương em sinh sống 6. Trách nhiệm của công dân trong việc giải quyết vấn đề ô nhiễm môi
63
trường.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
PHIẾU ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG NHÓM 5, 6
Yêu cầu về nội dung
Bài trình bày phải thể hiện được các nội dung sau
1. Các nước phát triển đang gặp những vấn đề gì về môi trường?
2. Vì sao nói các nước phát triển phải chịu trách nhiệm chính về tình trạng biến đổi khí hậu và suy giảm tầng ozon trên toàn cầu (Minh họa bằng số liệu, biểu đồ...) và tình trạng ô nhiễm ở các nước đang phát triển.
3. Các nước phát triển đã, đang và sẽ phải làm gì để khắc phục vấn đề môi
trường.
PHIẾU ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG NHÓM 7, 8
Yêu cầu về nội dung
Bài trình bày phải thể hiện được các nội dung sau
1. Những vấn đề môi trường mà các nước đang phát triển phải đối mặt
(Khai thác khoáng sản, khai thác tài nguyên nông lâm nghiệp,
2. Nguyên nhân: tình trạng chậm phát triển, thiếu vốn, hậu quả của chiến tranh, sức ép dân số, nạn đói.... sử dụng tràn lan thuốc hóa học bảo vệ thực vật (tác động thuốc hóa học bảo vệ thực vật đến môi trường...)....
3. Biện pháp khắc phục.
4. Các nước đang phát triển đang gặp những khó khăn gì về mặt kinh tế xã
hội khi giải quyết các vấn đề môi trường.
5. Liên hệ với Việt Nam.
PHIẾU ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG NHÓM 9, 10
Yêu cầu về nội dung
Bài trình bày phải thể hiện được các nội dung sau
1. Thế nào là phát triển bền vững?
2. Nêu mục tiêu, cơ sở và phương hướng của phát triển bền vững
3. Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển
4. Các giải pháp nhằm hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Liên hệ
với Việt Nam.
B. Chuẩn bị của học sinh
- Giấy A0, bút màu, giấy màu, compa, thước kẻ....
- Sưu tầm tài liệu về các vấn đề có liên quan đến bài học, clip, tranh ảnh
64
minh họa họa về ô nhiễm môi trường.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
- Các ấn phẩm do học sinh tự thiết kế.
2. Dự án tiết dạy.
Sau đây là bảng tiến trình tổ chức các hoạt động học tâp. Tiến trình cụ thể
của các hoạt động được trình bày dưới bảng sau.
Tiến trình dạy học Hoạt động của học sinh Hỗ trợ của giáo viên Kết quả/sản phẩm dự kiến Thời gian ( Dự kiến)
lập
- Thành được nhóm.
- HS tiếp nhận bộ câu hỏi định hướng. - GV nêu một số câu hỏi định hướng.
Tiết 1 - Bản kế hoạch hoạt động. Hoạt động 1: Giao nhiệm vụ
- GV hướng thảo dẫn HS hoàn luận, phiếu thành điều tra thành lập nhóm.
- HS cùng thảo luận để xác định các nội dung của dự án. Điền nội dung vào phiếu điều tra để thành lập nhóm.
- Hợp đồng được kí kết.
- GV hướng dẫn và cùng HS hợp kí đồng.
- HS thành lập được nhóm và kí kết hợp đồng với GV.
- GV trợ giúp HS xây dựng kế hoạch hoạt động của nhóm.
- Sau khi thành lập nhóm các nhóm xây dựng kế hoạch việc làm.
65
hoàn - HS thành các công việc GV giao, GV và HS có thể hỏi đáp thêm một số vấn đề để làm rõ nội dung chủ đề và các công việc cần thực hiện
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
- GV trợ giúp HS trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
- Kết quả thực hiện nhiệm vụ của các nhóm có thể là bảng viết trên giấy A0 Hoạt động 2: Thực hiện các nhiệm vụ học tập.
- Trên cơ sở các nhiệm vụ được giao, HS thực hiện các nhiệm vụ theo nhóm và công việc này thực hiện được ngoài lớp học.
Học -
Sản phẩm của các nhóm HS.
-
sinh báo cáo kết quả làm việc của các nhóm: trình bày thông báo cáo qua thuyết trình, thảo luận. Tiết 2 & 3
- GV Địa lí, GDCD nghe HS báo cáo, đánh giá sản phẩm, trợ giúp và giải đáp các vấn đề HS còn vướng mắc. Chốt các vấn đề HS chưa rõ. Hoạt động 3: Tiếp tục thảo luận, báo cáo và đánh giá kết quả thực hiện
Phiếu đánh giá sản phẩm của người dự và GV thu lại các phiếu của HS để đánh giá kết quả học tập của các nhóm.
Các hoạt động của GV và HS
1. Tuần 1, tiết 1
Hoạt động 1: Khởi động và giao nhiệm vụ
- Bước 1: Giáo viên và học sinh cùng thảo luận để xác định các nội dung
của dự án
+ Nội dung 1: Môi trường và tài nguyên thiên nhiên
+ Nội dung 2: Ô nhiễm môi trường, vấn đề cấp thiết mang tính toàn cầu.
+ Nội dung 3: Tìm hiểu vấn đề môi trường, phát triển ở các nước phát triển.
+ Nội dung 4: Tìm hiểu vấn đề môi trường, phát triển ở các nước đang phát
triển.
+ Nội dung 5: Phát triển bền vững
- Bước 2: Thành lập nhóm
- Bước 3: Giao nhiệm vụ cho từng nhóm
PHIẾU ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG NHÓM 5, 6
66
Yêu cầu về nội dung Bài trình bày phải thể hiện được các nội dung sau
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
1. Các nước phát triển đang gặp những vấn đề gì về môi trường? 2. Vì sao nói các nước phát triển phải chịu trách nhiệm chính về tình trạng biến đổi khí hậu và suy giảm tầng ozon trên toàn cầu (Minh họa bằng số liệu, biểu đồ...) và tình trạng ô nhiễm ở các nước đang phát triển.
3. Các nước phát triển đã, đang và sẽ phải làm gì để khắc phục vấn đề môi
trường.
PHIẾU ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG NHÓM 7, 8
Yêu cầu về nội dung Bài trình bày phải thể hiện được các nội dung sau 1. Những vấn đề môi trường mà các nước đang phát triển phải đối mặt
(Khai thác khoáng sản, khai thác tài nguyên nông lâm nghiệp,
2. Nguyên nhân: tình trạng chậm phát triển, thiếu vốn, hậu quả của chiến tranh, sức ép dân số, nạn đói.... sử dụng tràn lan thuốc hóa học bảo vệ thực vật (tác động thuốc hóa học bảo vệ thực vật đến môi trường...)....
3. Biện pháp khắc phục. 4. Các nước đang phát triển đang gặp những khó khăn gì về mặt kinh tế xã
hội khi giải quyết các vấn đề môi trường.
5. Liên hệ với Việt Nam.
PHIẾU ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG NHÓM 9, 10
Yêu cầu về nội dung Bài trình bày phải thể hiện được các nội dung sau 1. Thế nào là phát triển bền vững? 2. Nêu mục tiêu, cơ sở và phương hướng của phát triển bền vững 3. Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển 4. Các giải pháp nhằm hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Liên hệ
với Việt Nam.
HOẠT ĐỘNG 2: XÂY DỰNG KẾ HOẠCH LÀM VIỆC
- Bước 1: Hs các nhóm thảo luận theo chủ đề được giao dưới sự hướng dẫn
của Gv
- Bước 2: Gv giải đáp thắc mắc cho Hs
- Bước 3: Hs hoàn thành sản phẩm theo chủ đề được giao.
HOẠT ĐỘNG 3: BÁO CÁO
- Bước 1: Các nhóm báo cáo nội dung chủ đề theo sự phân công
- Bước 2: Thảo luận và chuẩn bị các câu hỏi cho các nhóm khác
67
- Bước 3: Giáo viên nhận xét, đánh giá và chốt lại kiến thức.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
DẠY HỌC MÔN GDCD THEO CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP LIÊN MÔN
Ngô Thị Lệ Nghi Trường THPT Ngã Năm
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 29 - NQ/TW ngày 04/11/2013 hội nghị TW 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, sau khi Quốc hội thông qua Đề án đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông, Bộ GDĐT tiếp tục chỉ đạo các cơ sở giáo dục tăng cường bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên sẵn sàng đáp ứng mục tiêu đổi mới, trong đó tăng cường năng lực dạy học theo hướng “tích hợp, liên môn” là một trong những vấn đề cần ưu tiên.
Dạy học tích hợp, liên môn xuất phát từ yêu cầu của mục tiêu dạy học phát triển năng lực học sinh, đòi hỏi phải tăng cường yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Khi giải quyết một vấn đề trong thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên và xã hội, đòi hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp, liên quan đến nhiều môn học .
Tích hợp liên môn không phải là phép cộng các môn học. Kiến thức phải tổ hợp lại thành một thể thống nhất để giúp học sinh giải quyết các tình huống. Đó sẽ là nội dung chương trình SGK cũng là hướng triển khai kì thi THPT quốc gia trong những năm sắp tới.
II. THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi
Môn GDCD có nội dụng học là vô cùng bao quát và phổ biến. Nội dung môn học trang bị bao gồm thế giới quan và nhân sinh quan, cũng như các vấn đề cơ bản của đời sống xã hội trên rất nhiều lĩnh vực có tính thực tiễn, gần gũi. Do đó, nội dung đề cập đến một lượng kiến thức dồi dào, thực tiễn, sinh động
Môn GDCD cũng là bộ môn có nội dung liên hệ nhiều với các bộ môn như Sử, Địa, Văn, Sinh học, GDQP, NGLL… Do đó, khi dạy theo chủ đề, học sinh dễ dàng tiếp cận hơn, dễ dàng nhận nhiệm vụ học tập nhờ vào sức tự tin về kiến thức sẵn có khi yêu cầu giải quyết nhiệm vụ thực tiễn. Vì thế, học sinh có thái độ tích cực, hứng thú và chủ động hơn trong việc tiếp nhận kiến thức.
2. Khó khăn
Tuy nhiên để dạy môn GDCD theo hướng tích hợp, liên môn vẫn nhiều
khó khăn:
68
Thứ nhất, giáo viên chưa được tập huấn cụ thể về cách dạy tích hợp hoặc
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” liên kết các môn học trong một bài dạy. Vì thế, khi áp dụng giáo viên phải tự mày mò cách làm.
Thứ hai, học sinh chưa từng được học qua một tiết học tích hợp, liên môn
nên dẫn đến trò cũng phải tự xoay sở.
Thứ ba, lượng kiến thức truyền tải nhiều nhưng thời lượng tiết học hạn
chế.
III. GIẢI PHÁP
Khi đi vào thực hiện giảng dạy, GV đã sử dụng vài phương pháp sử dụng trong dạy học theo chủ đề tích hợp liên môn như: thảo luận nhóm, thuyết trình, trực quan, đặt và giải quyết vấn đề, ….
Khi thiết kế giáo án tích hợp liên môn cần đạt một số vấn đề như: chọn tên chủ đề phù hợp, kết hợp những nội dung giống nhau thành một hệ thống câu hỏi và giao nhiệm vụ phù hợp với năng lực của học sinh, không tạo áp lực nặng nề ,…
Tổ chức giờ học trong đó giáo viên giữ vai trò, chức năng tổ chức, hướng dẫn, định hướng chứ không phải truyền thụ áp đặt một chiều. Học sinh được đặt vào vị trí trung tâm của quá trình tiếp nhận, đóng vai trò chủ thể cảm thụ, nhận thức thẩm mĩ, trực tiếp tiến hành hoạt động tiếp cận, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức. Cụ thể học sinh chuẩn bị từng nội dung trong bài dạy, thuyết trình và cũng chính học sinh đặt vấn đề và các em cùng nhau thảo luận giải quyết vấn đề đó. Cụ thể như:
Ví dụ 1: Ở cấp độ đơn môn, môn GDCD bậc THPT, các đơn vị bài, bài 8
-Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, (GDCD 11); bài 7 – Công dân với các quyền dân chủ (GDCD 12 ), nội dung có sự liên hệ. Hoặc: bài 12 – Công dân với tình yêu hôn nhân và gia đình (GDCD 10); mục 1 bài 4 – Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội (GDCD 12 ), nội dung có sự liên hệ gần nhau và phát triển cao hơn ở tầm nhận thức lũy tiến từ khối 10 lên khối 12, từ giáo dục ý thức đạo đức lên ý thức pháp luật.
Ví dụ 2: Ở cấp độ liên môn như: bài 14 – Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc (GDCD 10 ); bài 14 – Chính sách quốc phòng an ninh (GDCD 11); và bài 5 – Chính sách quốc phòng an ninh và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa (GDQP) có nội dung tương đối gần và có sự lặp lại ở một số khái niệm.
Ở GDCD 10, có thể xây dựng chủ đề: Dân số - môi trường và sự phát triển bền vững. Chủ đề này được dựng từ các môn học: Địa lí 10 (Bài 4: Môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Bài 42: Môi trường và sự phát triển bền vững. GDCD 10 (Bài 15: một số vấn đề cấp thiết của nhân loại ), Công nghệ 10….
69
Ý nghĩa tích hợp :
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
Chương trình Địa lí, Sử, Văn, GDCD, CN, GDQP,… đều có nội dung liên quan với nhau, tuy cùng dạy về một chủ đề nhưng mỗi môn học lại đề cập đến những khía cạnh khác nhau có thể bổ sung cho nhau, giúp học sinh hiểu rõ vấn đề hơn.
Việc dạy học tích hợp, liên môn cũng góp phần đổi mới phương pháp, giảm tải chương trình, phát huy tính tích cực của học sinh, thông qua các hoạt động học hình thành phẩm chất, năng lực cho học sinh.
III . KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trước hết, các chủ đề tích hợp liên môn có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn đối với học sinh, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp liên môn, học sinh sẽ tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc. Điều quan trọng hơn, các chủ đề tích hợp liên môn giúp cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn.
Dạy học theo các chủ đề liên môn sẽ giảm tải cho giáo viên trong việc dạy các kiến thức liên môn trong môn học của mình mà còn có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo viên, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên bộ môn hiện nay thành đội ngũ giáo viên có đủ năng lực dạy học kiến thức liên môn, tích hợp. Thế hệ giáo viên tương lai sẽ được đào tạo về dạy học tích hợp, liên môn ngay trong quá trình đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm.
2. Kiến nghị
Để giảng dạy theo hướng tích hợp và liên môn có hiệu quả, nhà trường cần tăng cường đưa chủ đề dạy học vào các dịp hội giảng; đưa hoạt động trên trường học kết nối vào hoạt động bắt buộc với các tổ bộ môn và giáo viên hằng năm; tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên được giao lưu với các đơn vị trên địa bàn thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề. Khi kiểm tra chuyên môn, trường cần chú trọng kiểm tra chuỗi bài học hơn kiểm tra chỉ một tiết dạy.
Ngoài ra giáo viên cần chủ động trong việc tiếp cận chủ đề dạy học tích hợp liên môn; tích cực cho học sinh tham gia các cuộc thi liên quan đến chủ đề tích hợp, liên môn mà bộ đã phát động; phân phối chương trình chung phải linh hoạt
70
Giáo viên cần được tập huấn kĩ lưỡng. Các tổ bộ môn cần phối hợp chặt chẽ trong khi soạn giảng. Từ đó cần đổi mới cách sinh hoạt tổ bộ môn, mở các buổi sinh hoạt liên môn các tổ.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
PHẦN IV MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LÀM BÀI THI TRẮC NGHIỆM ĐẠT HIỆU QUẢ CAO
MỘT SỐ ĐIỀU CẦN LƯU Ý KHI LÀM BÀI THI TRẮC NGHIỆM MÔN GDCD
Đặng Thị Thủy Tiên Trường THCS&THPT Tân Thạnh
1. Đặt vấn đề
Theo như phương án tổ chức kì thi THPT Quốc Gia năm 2017 mà Bộ GDĐT đã công bố thì trừ môn Ngữ văn, các môn còn lại đều thi dưới hình thức trắc nghiệm khách quan. Đặc biệt hơn là môn Giáo dục công dân (GDCD) là một thành phần trong tổ hợp của môn thi Khoa học xã hội. Điều này được xem là một thay đổi rất lớn và cũng gây lo lắng nhiều cho học sinh vì đây cũng là lần đầu tiên môn học này được đưa vào thi tốt nghiệp THPT Quốc gia và dưới hình thức mới là trắc nghiệm khách quan.
Trước đây, môn GDCD không thuộc danh sách các môn thi tốt nghiệp và thi đại học, cao đẳng, nên ở lớp 12 học sinh thường coi nhẹ. Cũng như một số nơi, nhà trường thường đẩy nhanh việc dạy học nhằm kết thúc sớm môn này để dành thời gian cho các môn khác cần thiết cho thi đại học, cao đẳng. Việc đưa môn GDCD vào danh sách các môn thi của kỳ thi THPT Quốc gia 2017 và dưới hình thức mới là trắc nghiệm khách quan đã làm cho giáo viên và cả học sinh phải thay đổi tinh thần, phương pháp dạy và học môn GDCD. Việc dạy và học sẽ được thực hiện theo hướng tích cực hơn và sẽ hạn chế tình trạng học sinh coi nhẹ môn học hay việc dạy học qua loa như ở một số nơi trước đây.
Nội dung đề thi trắc nghiệm nằm trong tất cả các bài học (trừ các bài và những nội dung giảm tải) ở lớp 12, giáo viên và học sinh sẽ phải dạy và học đầy đủ tất cả các bài, các nội dung trong chương trình GDCD lớp 12. Nếu học sinh học tủ, học lệch, coi trọng bài này và coi nhẹ bài khác thì có thể sẽ dẫn đến kết quả không tốt.
Tôi nghĩ, đây là điểm mới, tích cực của môn GDCD trong xu thế đổi mới
giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay.
2. Thực trạng
71
Qua phân tích, đánh giá sơ bộ về đề thi minh họa môn GDCD THPT Quốc gia năm 2017 do Bộ GD&ĐT chính thức công bố 5/10/ 2016, tôi nhận thấy với
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” hình thức thi trắc nghiệm khách quan thì học sinh sẽ có những thuận lợi và khó khăn sau:
- Thuận lợi
+ Học sinh sẽ tiết kiệm được thời gian học bài vì không nhất thiết phải học thuộc từng khái niệm, định nghĩa, nội dung như trong sách giáo khoa, mà điều quan trọng là phải biết phân tích, tổng hợp, lý giải, nhận xét đánh giá các hiện tượng pháp luật trong thực tiễn đời sống xã hội. Đây là điểm mới mang tính lợi thế nổi bật của đề thi môn GDCD theo hình thức trắc nghiệm, phù hợp với xu thế đổi mới giáo dục hiện nay.
+ Với 40 câu hỏi trắc nghiệm khách quan, mỗi câu có 4 phương án trả lời và có duy nhất 1 phương án trả lời đúng. Trong đề thi có các câu hỏi ở các cấp độ cơ bản, (nhận biết: 40%, thông hiểu: 20%) và các câu hỏi phân hóa (vận dụng bậc thấp: 30%, vận dụng bậc cao: 10%). Với cấu trúc này, đề thi đáp ứng được yêu cầu đánh giá kết quả học tập, đảm bảo tính phân hóa rõ rệt, tạo thuận lợi cho học sinh làm bài theo lực học thực tế của mình.
+ Trong đề thi sẽ có 40% câu hỏi vận dụng bậc thấp và vận dụng bậc cao. Để làm được những câu hỏi này, giáo viên và học sinh phải đổi mới phương pháp dạy - học theo hướng tích cực hơn, hình thành ở học sinh các năng lực tư duy phê phán, năng lực phân tích – tổng hợp, năng lực nhận xét đánh giá, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực thực hiện trách nhiệm công dân,… phù hợp với yêu cầu dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
+ Đề thi trắc nghiệm môn GDCD cũng rất thuận lợi cho việc tổ chức học tập của học sinh. Học sinh chỉ cần học đầy đủ, học kỹ kiến thức ở trên lớp và làm bài tập củng cố, vận dụng thì có thể làm được và làm tốt bài thi.
- Khó khăn
+ Mặc dù học sinh cũng đã được làm quen với hình thức thi trắc nghiệm thông qua các kì thi học kì hay các bài kiểm tra ở trường, tuy nhiên trước sự thay đổi của một kì thi quan trọng như vậy thực sự cũng sẽ gây ra không ít khó khăn cho học sinh vì hình thức thi thay đổi bắt buộc cách học cũng phải thay đổi theo sao cho phù hợp nhất.
+ Môn GDCD trở thành một thành phần trong tổ hợp môn thi Khoa học xã hội khiến cho các học sinh rất lo lắng, khi các em không biết nên ôn tập từ đâu và bắt đầu như thế nào.
+ Đề thi minh họa có nhiều câu hỏi trắc nghiệm khách quan mang tính tổng hợp nên học sinh cần vận dụng tổng hợp kiến thức và kỹ năng bộ môn một cách tích cực mới có thể có câu trả lời đúng được.
3. Giải pháp
72
Từ những điểm mới của kỳ thi, giáo viên ở các trường cũng đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp dạy học và ôn thi phù hợp góp phần nâng cao chất lượng thi THPT quốc gia năm 2017. Những giải pháp được đưa ra khá tập trung và
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” thống nhất như: Cần khai thác tốt kiến thức sách giáo khoa, sau mỗi bài học giáo viên cần xây dựng được hệ thống câu hỏi trắc nghiệm, các tổ bộ môn cần xây dựng được ngân hàng đề trắc nghiệm, khai thác thêm kiến thức và các dạng đề trên mạng…Đây thực sự là những giải pháp có hiệu quả mang tính khả thi cao.
Bản thân tôi trong quá trình giảng dạy cũng đã rút ra được một số giải pháp nhằm giúp học sinh làm bài thi trắc nghiệm môn GDCD đạt hiệu quả cao như sau:
+ Một là, phải nắm kiến thức và biết vận dụng
Nếu như trước đây học sinh cần nắm thật chắc kiến thức (phải học thuộc lòng từng khái niệm, định nghĩa, nội dung như trong sách giáo khoa) và trình bày theo các bước cho đúng trình tự thì bây giờ yêu cầu đặt ra là phải học kiến thức rộng hơn, bao quát hơn và yêu cầu ghi nhớ nhiều hơn. Học sinh nên chú trọng phần liên hệ thực tế, vận dụng nội dung kiến thức bài học vào việc giải quyết những vấn đề phù hợp với lứa tuổi, vì đặc thù của môn GDCD là có nội dung gắn bó mật thiết với thực tiễn đời sống xã hội và đó cũng là xu hướng học cũng như ra đề hiện nay.
+ Hai là, phải tìm được từ "chìa khóa" trong câu hỏi
Từ chìa khóa trong mỗi câu hỏi chính là mấu chốt để học sinh giải quyết vấn đề. Đọc kỹ câu hỏi và điều đầu tiên là phải tìm được, gạch chân hay đánh dấu những từ quan trọng. Điều đó giúp học sinh định hướng được rằng câu hỏi liên quan đến vấn đề gì và đáp án sẽ gắn liền với những từ ấy. Đó được xem là cách để học sinh giải quyết câu hỏi một cách nhanh nhất và tránh nhầm dữ liệu đáp án.
+ Ba là, tự trả lời trước… đọc đáp án sau và đọc hết tất cả các đáp án
Cách này được áp dụng đối với những câu khi mà các đáp án thường "na ná" nhau khiến học sinh dễ bị rối. Sau khi đọc xong câu hỏi, học sinh nên tự trả lời rồi đọc tiếp phần đáp án xem có đáp án nào giống với câu trả lời mình đưa ra hay không. Ngay khi học sinh nghĩ rằng đã biết câu trả lời, cũng cần đọc hết tất cả các đáp án trước khi quyết định. Chớ vội đọc ngay đáp án trước vì như thế học sinh rất dễ bị phân tâm nếu như kiến thức của mình không thực sự chắc chắn.
+ Bốn là, dùng phương pháp loại trừ
Một khi học sinh không chọn cho mình được một đáp án thực sự chính xác thì phương pháp loại trừ cũng là một cách hữu hiệu giúp tìm ra câu trả lời đúng.
73
Mỗi câu hỏi thường có 4 đáp án, các đáp án cũng thường không khác nhau nhiều lắm về nội dung, tuy nhiên vẫn có cơ sở để học sinh dùng phương án loại trừ bằng "mẹo" của mình cộng thêm chút may mắn nữa. Thay vì đì tìm đáp án đúng, hãy thử tìm đáp án sai… đó cũng là một cách hay và loại trừ càng nhiều đáp án càng tốt.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
Khi trong 4 đáp án trả lời, có 2 đáp án là phủ định của nhau, thì câu trả lời
đúng chắc chắn phải là một trong hai đáp án này.
Điều này rất dễ hiểu bởi vì không thể có chuyện hai đáp án này cùng đúng hoặc sai. Chính vì vậy khi gặp câu hỏi mà cho đáp án như vậy thì học sinh đã được trợ giúp 50/50. Khi học sinh không còn đủ cơ sở để loại trừ nữa thì hãy dùng cách phỏng đoán, nhận thấy đáp án nào khả thi hơn và đủ tin cậy hơn thì chọn… vì bất kì một bài thi nào cũng liên quan đến những kiến thức hết sức cơ bản. Nếu tinh ý một chút là hoàn toàn có thể chọn được những đáp án khả thi đồng thời cũng loại được những đáp án không có tính khả thi.
+ Năm là, phân bổ thời gian và không được bỏ trống đáp án
Do thời gian đối với môn thi trắc nghiệm rất hạn chế nên công việc đầu tiên là đọc qua một lượt tất cả các câu hỏi, xem những câu nào mình biết rồi thì nên khoanh ngay đáp án vào phiếu trả lời (nhớ dùng bút chì để có thể sửa đáp án nếu cần thiết). Sau khi làm hết những câu hỏi "trúng tủ" của mình thì chọn những câu hỏi đơn giản làm trước, vì bài thi trắc nghiệm các câu hỏi đều có thang điểm như nhau. Chính vì vậy câu hỏi khó hay dễ cũng đều có chung phổ điểm, nên học sinh hãy làm câu dễ trước để đảm bảo đạt tối đa số điểm, đồng thời sẽ tránh được áp lực tâm lí khi không thể giải quyết câu khó trong một thời gian ngắn hoặc tình trạng không còn kịp thời gian để làm các câu dễ.
Chú ý phân bổ thời gian để không bỏ sót câu hỏi nào, nếu không biết đáp án thì hãy dùng phỏng đoán hay kể cả may mắn cũng được, điều học sinh cần là không được để trống đáp án, đó cũng là một cơ hội dành cho học sinh.
+ Sáu là, làm quen với với các dạng câu hỏi trắc nghiệm, đề thi trắc
nghiệm
Trước sự mọi sự thay đổi, hay nói cách khác là một cách thức thi mới, thì điều tất yếu là học sinh buộc phải tập làm quen với nó. Không ai tài giỏi gì để có thể thích ứng ngay với cái mới, điều này cần thời gian để tích lũy kinh nghiệm, các bài thi cũng vậy, cho nên ngay từ bây giờ học sinh nên tập dần với các dạng câu hỏi trắc nghiệm, đề thi trắc nghiệm hơn. Học sinh sẽ tìm được những lỗi mà mình thường gặp phải cũng như tìm được một phương pháp tối ưu cho bài thi trắc nghiệm.
+ Bảy là, lựa chọn đầu tiên và quen thuộc
Lựa chọn đầu tiên của học sinh thường là đáp án đúng. Đừng thay đổi quyết định nếu như không chắc chắn về một lựa chọn khác. Tìm những câu trả lời có sử dụng ngôn ngữ mà học sinh đã học ở lớp hay đã nghiên cứu trong giáo trình.
4. Kết luận
74
Trắc nghiệm khách quan ngày càng được áp dụng rộng rãi do tính ưu việt của nó và trong giai đoạn hiện nay là sự lựa chọn cần thiết và đang được khuyến khích trong các kỳ thi, kiểm tra đánh giá. Tuy nhiên, để phát huy có hiệu quả
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” hình thức này cũng như giúp cho học sinh có thể làm bài thi dưới hình thức trắc nghiệm khách quan có hiệu quả cao nhất cần có sự quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất của các cấp, sự chỉ đạo sâu sát của ngành, sự vào cuộc thực sự của mỗi nhà trường và đặc biệt là sự nhiệt tình, nỗ lực học hỏi, rút kinh nghiệm của bản thân mỗi giáo viên.
75
Trên đây là báo cáo tham luận về “Một số điều cần lưu ý khi làm bài thi trắc nghiệm GDCD”. Do thời gian có hạn nên báo cáo không tránh khỏi có phần thiếu sót, phiến diện rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của các đơn vị bạn, sự chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo, để bản thân tôi có thể phát huy ưu điểm, khắc phục những tồn tại, hạn chế, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học 2016 - 2017.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ GIÚP HỌC SINH LÀM BÀI TRẮC NGHIỆM MÔN GDCD ĐẠT HIỆU QUẢ CAO
Huỳnh Hoàng Phong Trường THPT Thiều Văn Chỏi
I. Đặt vấn đề
Môn Giáo dục công dân (GDCD) giữ vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc giáo dục học sinh ý thức và hình thành phát triển nhân cách con người toàn diện. Tuy nhiên thực trạng hiện nay đa số học sinh ngại học môn GDCD vì coi đây là môn phụ, không phục vụ cho việc thi tốt nghiệp và Đại học, Cao đẳng. Từ quan niệm đó nên các em chỉ học một cách đối phó, qua loa, xem nhẹ bộ môn đang diễn ra phổ biến và trở thành thực trạng chung. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó.
Thứ nhất: Nội dung, chương trình môn GDCD khô khan, nhiều kiến thức trừu tượng dẫn đến học sinh khó hiểu, khó tiếp thu vì vậy không gây được sự hứng thú đối với người học.
Thứ hai: Tư tưởng “thi gì học ấy” đã len lỏi vào trong nhận thức của các em học sinh và gia đình, vì vậy các em chỉ tập trung đầu tư vào các môn thi Đại học. Các em xem nhẹ môn GDCD, đến lớp chỉ học qua loa, học một cách đối phó.
Bên cạnh đấy bản thân một số giáo viên dạy môn GDCD còn xem nhẹ môn của mình, coi là môn phụ, không có hứng thú trong giảng dạy, ít đầu tư vào chuyên môn. Đến lớp chỉ truyền thụ những kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa, nặng về phương pháp dạy học truyền thống, ít đổi mới phương pháp dạy học dẫn đến tiết học khô khan, học sinh dễ nhàm chán và ngại học.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó là cách kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với bộ môn.
Trong kỳ thi THPT Quốc gia năm 2017, môn Giáo dục công dân (GDCD) là một phần trong tổ hợp môn thi (Khoa học xã hội). Đây cũng là lần đầu tiên môn học này được đưa vào thi dưới hình thức trắc nghiệm khách quan.
Làm bài tập và kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm khách quan đối với môn GDCD thì không có gì là mới. Nhưng môn GDCD được đưa vào trong tổ hợp môn thi ( khoa học xã hội ) thì là một vấn đề mới. Khi đó cả Thầy và Trò đều vừa mừng và vừa lo lắng.
76
Đối với Giáo Viên day môn GDCD thì môn GDCD chưa từng thi THPT Quốc gia nên khi ôn tập cho Học Sinh sẽ ôn như thế nào để đạt kết quả cao,
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” trong khi kinh nghiệm ôn tập không có, giáo viên phải bắt đầu từ con số không, lại phải ôn theo hình thức thi trắc nghiệm khách quan….
Đối với Học Sinh khi thi THPT Quốc gia môn GDCD thì càng bỡ ngỡ hơn vì từ trước tới nay đều xem nhẹ bộ môn này, không tập trung học tập, chỉ học qua loa, hình thức, đối phó. ….
Để giải quyết thực trạng trên thì mỗi giáo viên cần nghiên cứu và tìm ra
các giải pháp thích hợp. Bản thân tôi đã rút ra được các giải pháp sau :
II. Giải pháp
Nhằm giúp học sinh làm bài trắc nghiệm đạt hiệu quả cao, đòi hỏi mỗi giáo viên dạy môn GDCD cần phải đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới công tác kiểm tra đánh giá. Xuất phát từ những yêu cầu trên, trong quá trình giảng dạy tôi rút ra được một số giải pháp trong dạy và kiểm tra như sau:
1. Dạy học
- Trên thực tế muốn giúp học sinh làm bài trắc nghiệm đạt hiệu quả cao thì Giáo Viên cần phải có phương pháp dạy trong từng tiết, từng bài, từng nội dung phù hợp giúp học sinh nắm chắc kiến thức.
- Giáo viên cần cập nhật thông tin thường xuyên vào từng nội dung của bài nếu có thể, vì các bài lớp 12 chủ yếu là liên quan đến pháp luật, mà pháp luật thì sửa đổi, bổ sung thường xuyên.
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh soạn bài và học bài một cách có hệ
thống ( Tựa bài, các phần, các nội dung chính của từng phần …)
- Giáo viên cần đưa ra nhiều tình huống liên quan từng nội dung của bài
học (nếu có) để học sinh giải quyết và nhận xét cụ thể.
- Sau từng bài học giáo viên có thể ra những câu hỏi trắc nghiệm 4 lựa
chọn cho học sinh làm để củng cố bài học.
2. Về kiểm tra:
- Trong quá trình dạy học ở các trường THPT trước đây chúng ta thường kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh bằng hình thức tự luận hay trắc nghiệm khách quan, cả hài hình thức này đều có những ưu điểm của nó:
* Ưu điểm của hình tự luận:
+ Đánh giá được trình độ tổng hợp và cách thức diễn đạt của học sinh.
+ Nội dung kiểm tra thường xoáy vào những kiến thức trọng tâm của bài.
+ Học sinh có thể phân tích, so sánh kiến thức, từ đó vận dụng kiến thức
trong sách giáo khoa để giải thích hiện tượng thực tế.
77
+ Học sinh có thể trả lời theo ý mình, diễn đạt theo suy nghĩ của mình. Bên cạnh phương pháp truyền thống, chúng ta đã tiến hành kiểm tra đánh giá học sinh bằng hình thức trắc nghiệm khách quan.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
* Ưu điểm của hình thức trắc nghiệm khách quan:
+ Có thể kiểm tra được một phạm vi kiến thức rộng của chương trình.
+ Mức tin cậy của bài trắc nghiệm khách quan cao hơn tự luận.
+ Khuyến khích học sinh tích luỹ được nhiều kiến thức.
+ Kết quả kiểm tra khách quan hơn, không phụ thuộc vào ý muôn chủ
quan của người chấm.
+ Trắc nghiệm khách quan có thể đánh giá khả năng ghi nhớ các số liệu,
sự kiện, các đặc trưng, ... khả năng phán đoán và suy luận của học sinh.
+ Khâu chấm bài, chữa bài diễn ra nhanh hơn.
- Từ những ưu điểm của kiểm tra tự luận và trắc nghiệm nêu trên, thì giáo viên không nên bỏ phương pháp kiểm tra tự luận, mà nên dùng phương pháp kiểm tra tự luận để hổ trợ và củng cố phương pháp kiểm tra trắc nghiệm. Cách tôi đã thực hiện:
+ Đối với hình thức kiểm tra miệng: Tôi đã sử dụng các dạng câu hỏi khác nhau để kiểm tra học sinh vào đầu bài dạy, giữa hoặc cuối bài dạy hoặc kiểm tra trong quá trình giảng dạy. Nội dung câu hỏi ngoài việc kiểm tra kiến thức đã học còn phải có sự liên hệ thực tế để rút ra bài học cho bản thân (để học sinh học bài và chuẩn bị bài)
+ Đối với bài kiểm tra 15 phút: Nên ra đề trong phạm vi bài học trước đó hay bài đang học và nên dùng phương pháp kiểm tra tự luận (để học sinh học bài và chuẩn bị bài)
+ Đối với bài kiểm tra 1 tiết và kiểm tra học kỳ thì dùng phương pháp
kiểm tra trắc nghiệm 4 lựa chọn có sự phân hóa và cấp độ khác nhau.
III. PHẦN KẾT LUẬN
78
Xuất phát từ vai trò, vị trí của môn GDCD trong việc hình thành nhân cách con người....Thế nhưng cho đến nay nôm GDCD vẫn còn bị coi nhẹ, nhiều nơi thậm chí không có giáo viên được đào tạo đúng chuyên môn. Từ thực tế đó đòi hỏi cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá để nâng cao hiệu quả làm bài trắc nghiệm môn GDCD, kích thích sự say mê học tập của học sinh. Làm được việc này đòi hỏi người giáo viên cần phải tốn nhiều công sức, thời gian để suy nghĩ và thực hiện sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, nhằm giúp các em làm việc tích cực để nâng cao hiệu quả dạy học môn GDCD, góp phần đưa đến thành công trong đổi mới chương trình giáo dục nói chung và đổi mới phương pháp giảng dạy nói riêng. Xuất phát từ thực tiễn, tôi xin nêu ra một số biện pháp của bản thân đã thực hiện khi giảng dạy môn GDCD ở trường THPT Thiều Văn Chỏi. Do hạn chế về thời gian, năng lực bản thân và điều kiện thực hiện nên bài kinh nghiệm khó tránh khỏi những hạn chế, rất mong được sự đóng góp ý kiến xây dựng của các bạn đồng nghiệp để bản thân được hoàn thiện hơn.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
CẦN THAY ĐỔI CÁCH DẠY VÀ CÁCH HỌC ĐỂ LÀM BÀI THI TRẮC NGHIỆM MÔN GDCD ĐẠT KẾT QUẢ CAO
Lý Thường Kiệt Trường THPT Hòa Tú
I. Đặt vấn đề
Năm 2017 có thể nói rằng đây là năm thay đổi rất nhiều của Bộ Giáo dục và Đào tạo liên quan đến vấn đề thi tốt nghiệp. Theo như phương án tổ chức kỳ thi THPT quốc gia năm 2017 ngoài môn Ngữ văn, tất cả các môn còn lại đều thi theo hình thức trắc nghiệm. Như vậy, môn Toán, môn Ngoại ngữ và bài thi Khoa học xã hội, Khoa học tự nhiên sẽ thi bài thi trắc nghiệm. Điều này được xem là thay đổi lớn nhất và cũng gây lo lắng nhiều nhất cho thí sinh, đặc biệt đối với các môn như: Toán, Giáo dục công dân,… từ trước đến nay học sinh quen với hình thức thi tự luận.
Mặc dù bản thân các em học sinh đã được làm quen với hình thức thi trắc nghiệm khách quan thông qua các bài kiểm tra học kỳ hay các bài kiểm tra thường xuyên, định kỳ ở trường, tuy nhiên trước sự thay đổi của một kỳ thi quan trọng như vậy thực sự cũng sẽ gây ra không ít khó khăn cho thí sinh. Hình thức thi thay đổi bắt buộc cách dạy, cách học cũng phải thay đổi theo sao cho phù hợp nhất. Chính vì vậy, cả thầy và trò cần phải tìm ra những giải pháp tối ưu giúp cho học sinh làm bài thi theo hình thức trắc nghiệm khách quan đạt hiệu quả cao nhất.
II. Thực trạng vấn đề
Trong lĩnh vực giáo dục, trắc nghiệm khách quan đã được sử dụng rất phổ biến tại nhiều nước trên thế giới trong các kỳ thi để đánh giá tổng quát, năng lực và kiến thức của người học. Ở nước ta, trắc nghiệm khách quan được sử dụng nhiều trong các kỳ thi tuyển sinh cao đẳng, đại học, và kỳ thi THPT quốc gia…Đến năm 2017, hình thức này đã được áp dụng gần như đối với tất cả các môn (trừ môn Ngữ văn) trong kỳ thi THPT quốc gia.
79
Với hình thức trắc nghiệm, có nhiều ý kiến khác nhau về tính dễ - khó của nó đối với cả giáo viên học sinh. Một số ý kiến nói về tính ưu điểm cho rằng: Đối với hình thức thi trắc nghiệm người học có nhiều thời gian để đọc và suy nghĩ để lựa chọn câu trả lời đúng nhất trong số những câu trả lời gợi ý; số lượng câu hỏi nhiều, bao quát được kiến thức của chương trình; người học trả lời ngắn gọn, còn người soạn có điều kiện tự do bộc lộ kiến thức và các giá trị của mình thông qua việc đặt câu hỏi; người chấm ít tốn công và kết quả chấm là khách quan vì không bị ảnh hưởng tâm lý khi chấm. Bên cạnh đó, cũng có một số ý kiến nói về hạn chế của hình thức trắc nghiệm như: chất lượng của bài trắc
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” nghiệm được xác định phần lớn dựa vào kỹ năng của người soạn thảo; người ra đề tốn nhiều công sức và thời gian; nhiều trường hợp người học ý thức học tập chưa tốt nên dẫn đến tình trạng phỏng đoán đáp án. Vì vậy, kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm cũng có những thuận lợi, khó khăn nhất định đối với người dạy và người học.
Ở trường THPT Hòa Tú, cả giáo viên và học sinh đều đặc biệt quan tâm đối với các môn thi theo hình thức trắc nghiệm. Cụ thể là môn Giáo dục công dân. Từ khi Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức đưa môn GDCD vào trong kỳ thi tốt nghiệp năm 2017 thì học sinh đã có sự nhận thức và thái độ học tập nghiêm túc hơn. Trước đây, các em vốn quen với việc làm bài kiểm tra hay bài thi theo hình thức tự luận thì bây giờ các em phải làm bài theo hình thức trắc nghiệm nên các em cũng gặp những khó khăn nhất định như: các em phải học bài kỹ hơn; phải nắm được các nội dung trọng tâm từng tiết học, bài học; phải biết vận dụng và liên hệ thực tế,…bởi các em không làm theo từng ý, giáo viên không chấm theo từng nội dung như tự luận mà là các em phải đưa ra đáp án phù hợp và chính xác nhất. Thực tế khi khảo sát qua bài kiểm tra một tiết, tôi thấy rằng vẫn còn khá nhiều học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc chọn cách học và làm bài theo hình thức trắc nghiệm. Vì thế, chúng ta thấy rằng việc thi và kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm khách quan cũng có những ưu điểm và hạn chế nhất định đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận và tìm ra những giải pháp một cách nghiêm túc để công tác giáo dục đạt hiệu quả cao nhất.
III. Giải pháp
Để giúp học sinh làm bài thi trắc nghiệm khách quan đạt hiệu quả cao, tôi
mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và đã áp dụng tại trường THPT Hòa Tú:
1. Điều chỉnh cách dạy của giáo viên và cách học của học sinh để các
em nắm vững các dạng câu trắc nghiệm.
80
Nếu như trước đây, người dạy tập trung truyền đạt kiến thức còn người học chỉ cần nắm thật chắc kiến thức và học cách trình bày theo các bước cho đúng trình tự thì bây giờ cách dạy và học đã có sự thay đổi. Hiện nay, phương pháp giảng dạy mới lấy học sinh phải là trung tâm, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, hỗ trợ và tìm ra những khó khăn để giúp đỡ học sinh. Giáo viên phải tìm cách giúp học sinh tiếp thu kiến thức rộng hơn, trên cơ sở là phải nắm vững kiến thức và phải biết vận dụng vào thực tiễn. Ở bài thi trắc nghiệm thường sẽ là những bài yêu cầu giải nhanh và không quá rườm rà, yêu cầu kiến thức rộng và bao quát hơn. Ngoài ra trong trắc nghiệm khách quan có thể xuất hiện các kiểu câu hỏi: a. Câu ghép đôi: Cho 2 cột nhóm từ, đòi hỏi thí sinh phải ghép đúng từng cặp nhóm từ ở hai cột với nhau sao cho phù hợp về nội dung. b. Câu điền khuyết: Nêu một mệnh đề có khuyết một bộ phận, thí sinh phải nghĩ ra nội dung thích hợp để điền vào ô trống. c. Câu trả lời ngắn: Là câu trắc nghiệm đòi hỏi chỉ trả lời bằng câu rất ngắn. đ. Câu đúng sai: Đưa ra một nhận định, thí sinh phải lựa chọn một trong hai phương án trả lời để khẳng định nhận định đó là đúng hay sai. e. Câu nhiều lựa chọn: Đưa ra một nhận định và 4-5 phương án trả lời,
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” thí sinh phải chọn để đánh dấu vào một phương án đúng hoặc phương án tốt nhất.
2. Giải pháp tiếp theo là một trong các giải pháp quan trọng nhất đó là
đọc kỹ câu hỏi/ câu dẫn trước khi chọn đáp án.
Mặc dù cần phải đọc nhanh câu hỏi để làm bài nhưng không có nghĩa các thí sinh được phép đọc lướt một cách cẩu thả. Nhiều bẫy rất nhỏ trong đề thi, chỉ khi đọc kĩ các thí sinh mới tìm ra được. Chẳng hạn câu hỏi “Hãy tìm câu trả lời không đúng hoặc câu sai trong những câu dưới đây”. Như vậy, nếu người học chỉ đọc lướt qua mà không chú ý sẽ có thể bỏ sót chữ “không”, “không đúng” hoặc “sai”, nhưng nếu chỉ chú ý tới chữ “đúng” cộng với kiến thức không chắc thì rất có thể người học sẽ mất điểm câu đó một cách dễ dàng và đáng tiếc.
3. Phải tìm được từ "chìa khóa" trong câu hỏi hay câu dẫn để nhận
diện nhanh câu dễ – câu khó.
Từ chìa khóa trong mỗi câu hỏi chính là mấu chốt để người học giải quyết vấn đề. Khi đọc câu hỏi xong, điều đầu tiên là thí sinh phải tìm được từ khóa nằm ở đâu. Lúc đó, chúng ta sẽ xác định được câu dễ, câu khó. Do đó, trước khi đặt viết làm bài các thí sinh nên xác định từ khóa và xem câu nào dễ hơn, câu nào khó hơn. Ưu tiên những câu dễ làm trước, câu khó sẽ giải quyết sau. Ngoài có kiến thức vững vàng ra thì các thí sinh cần phải nhanh nhạy nắm bắt các câu để có thể phân bổ thời gian làm bài một cách hợp lý.
4. Tự trả lời trước và đọc đáp án sau.
Cho dù bài thi môn Khoa học tự nhiên hay bài thi Khoa học xã hội thì thí sinh đều nên áp dụng cách thức tự đưa ra câu trả lời trước khi đọc đáp án ở đề thi. Điều này đặc biệt xảy ra ở các bài thi liên quan đến môn Khoa học xã hội, khi mà các đáp án thường gần giống nhau khiến thí sinh dễ bị nhầm lẫn. Sau khi đọc xong câu hỏi/ câu dẫn, người học nên tự trả lời rồi đọc tiếp phần đáp án xem có phương án nào giống với câu trả lời mình đưa ra hay không. Không nên vội đọc ngay đáp án vì như thế thí sinh rất dễ bị phân tâm nếu như kiến thức của mình không thực sự chắc chắn.
5. Dùng phương pháp loại trừ.
Nếu thí sinh còn phân vân không chọn được một đáp án thực sự chính xác thì phương pháp loại trừ cũng là một cách hữu hiệu giúp thí sinh tìm ra câu trả lời đúng. Mỗi câu hỏi thường có 4 đáp án, các đáp án cũng thường không khác nhau nhiều về nội dung. Vì thế, thay vì đi tìm đáp án đúng, bạn hãy thử tìm phương án sai, đây cũng là một cách hay và loại trừ càng nhiều phương án càng tốt.
6. Giải pháp cuối cùng là phải phân bổ thời gian hợp lý và không được
bỏ trống đáp án.
81
Việc đầu tiên là đọc qua một lượt tất cả các câu hỏi/ câu dẫn, xem những câu nào mình biết rồi thì nên tô ngay đáp án vào phiếu trả lời. Theo phương án
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” thi năm nay, thì một bài thi trắc nghiệm có 40 câu và thời gian làm bài là 50 phút. Như vậy, thí sinh có khoảng hơn một phút để trả lời một câu hỏi. Vì thế, người học nên bắt đầu làm bài từ câu số 1, lần lượt lướt nhanh, quyết định làm những câu dễ và chắc chắn, đồng thời đánh dấu trong đề thi những câu chưa làm được. Lần lượt thực hiện đến câu trắc nghiệm cuối cùng trong đề. Sau đó, quay trở lại giải tiếp những câu đã đánh dấu bỏ qua. Nên làm tiếp những câu vận dụng kiến thức, để lại những câu khó (mức độ vận dụng cao) để giải quyết lượt thứ ba, tuyệt đối không được bỏ trống đáp án.
Trên đây là sáu giải pháp nhằm giúp học sinh làm bài thi trắc nghiệm đạt hiệu quả cao. Hy vọng rằng với những giải pháp này sẽ giúp các em học tốt hơn và đạt hiệu quả cao trong kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia sắp tới.
IV. Kết luận
Trắc nghiệm khách quan ngày càng được áp dụng rộng rãi và là sự lựa chọn cần thiết đang được khuyến khích áp dụng trong các kỳ thi, kiểm tra đánh giá do tính ưu việt của nó. Với hình thức này, đòi hỏi người học cần phải nắm được kiến thức rộng rãi, có sự đổi mới trong cách học, có những giải pháp tích cực và cần phải biết liên hệ thực tế trong khi làm bài.
82
Thực tế hiện nay cho thấy, một bộ phận học sinh còn xem nhẹ việc thi và kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm khách quan. Các em còn lơ là trong việc học bài, thiếu liên hệ thực tế, làm bài cho có làm…dẫn đến kết quả học tập chưa cao. Do đó, với trách nhiệm là người trực tiếp giảng dạy, mỗi giáo viên chúng ta cần thay đổi cách dạy, tìm ra biện pháp hữu hiệu nhất để giúp các em hiểu và định hướng đúng đắn việc học tập cho bản thân. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn mà ngành giáo dục có nhiều sự thay đổi. Có như thế chúng ta mới đào tạo được những người công dân có ích, đủ đức và tài để chung tay góp sức xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
CẬP NHẬT KIẾN THỨC TRONG DẠY HỌC VÀ RÈN LUYỆN KỸ THUẬT LÀM BÀI THI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN MÔN GDCD
Thái Dương Hồng Diễm Trường THPT Huỳnh Hữu Nghĩa
Môn Giáo dục công dân trước đây với quan niệm là môn phụ, không thi tốt nghiệp THPT, đối với khối 12 thì nhà trường thường cho học sinh học trước đến thời điểm các môn khác thi học kì I thì môn Giáo dục công dân đã hoàn thành chương trình học kì II. Với cách làm này, nhiều học sinh, thậm chí giáo viên cũng xem thường môn Giáo dục công dân là môn phụ, không đánh giá đúng tầm quan trọng của bộ môn trong việc giáo dục đạo đức, nhân cách của học sinh. Năm học 2016 - 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề ra phương án thi TNPT năm 2017, kèm theo Công văn số 4818/BGDĐT-KTKĐCLDG ngày 28 tháng 9 năm 2016. Phương án thi năm nay có nhiều điểm mới, nổi bậc là thi TNTHPT có môn Giáo dục công dân nằm trong tổ hợp bài thi Khoa học Xã hội (gồm môn Lịch sử, Địa lý và Giáo dục công dân) với hình thức là thi trắc nghiệm 100%. Đề thi môn Giáo dục công dân gồm 40 câu hỏi trắc nghiệm khách quan và thời gian làm bài 50 phút.
Với phương án thi này, trong tư cách là một giáo viên dạy giáo dục công dân - tôi vừa mừng, vừa lo. Mừng vì bộ môn Giáo dục công dân đã được xem trọng, mọi người đã đánh giá đúng vị trí, vai trò của bộ môn; còn lo là vì năm nay là năm đầu tiên bộ môn được thi THPT – kỳ thi Quốc gia. Cái lo thứ nhất là, không biết đề thi sẽ xoáy vào phần nào? Có rơi vào các điểm, khoản, điều của các Bộ Luật hay không? Hay các tình huống bên ngoài ?... cái lo thứ hai là, sẽ ôn tập như thế nào để thi đạt kết quả cao? Tôi nghĩ đây chính là nổi lo chung của tất cả giáo viên dạy môn Giáo dục công dân.
Nói về hình thức thi trắc nghiệm thì không phải là quá mới với bộ môn, trong những năm giảng dạy vừa qua tôi đều thực hiện kiểm tra, thi học kỳ theo hình thức trắc nghiệm, thường là 70 đến 80 % trắc nghiệm còn lại là tự luận. Nên năm nay thi THPT với hình thức trắc nghiệm cũng không quá bất ngờ đối với tôi. Để giúp học sinh làm bài thi trắc nghiệm đạt hiệu quả cao, tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:
Một là, đối với giáo viên.
83
- Khi bắt đầu năm học mới, việc đầu tiên chúng ta cần làm là kiểm tra sách của học sinh, nếu học sinh nào sử dụng sách giáo khoa cũ thì phải yêu cầu học sinh mua sách giáo khoa mới. Vì sách giáo khoa mới cập nhật những nội dung mới như: Hiến pháp 2013 thay cho Hiến pháp 1992, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thay thế cho Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000,… và các
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” Điều, khoản trong luật cũng khác. Cho nên không thể nào sử dụng sách giáo khoa cũ được. Cần nhắc nhở học sinh Hiến pháp hiện hành của nước ta là Hiến pháp 2013 và các Bộ Luật hiện hành để học sinh nhớ và khắc sâu kiến thức.
- Nội dung chương trình Giáo dục công dân chủ yếu là Luật và các quyền cơ bản của công dân. Nói về Luật cần phải đúng từng câu, từng chữ. Ví dụ như: “Hiến pháp quy định, công dân Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân” giáo viên cần hướng dẫn học sinh chú ý từ “đủ 18 tuổi trở lên” và “đủ 21 tuổi trở lên” vì phần này rất dễ rơi vào câu trắc nghiệm, bỏ từ “đủ” thì nó làm mang nghĩa khác. Hoặc về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng vậy “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên” đến phần này phải nhắc nhở học sinh chú ý.
- Khi dạy các khái niệm, giáo viên cần nhắc nhở các em học thuộc. Vì phần này rất dễ cho câu trắc nghiệm bằng cách điền từ và giáo viên cũng nên ra đề có vài câu theo dạng điền từ để học sinh chú ý học bài, đôi khi học sinh chủ quan vì thi trắc nghiệm nên không xem bài kỹ.
- Đối với câu hỏi trắc nghiệm thì chúng ta cũng đừng quên những con số, những phần nào có số là dễ ra trắc nghiệm nhất, ví dụ: “Có mấy trường hợp được bắt, giam, giữ người?”; “Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân được ghi nhận tại điều mấy Hiến pháp 2013?”. Khi dạy đến những phần đấy chúng ta phải lưu ý cho học sinh.
- Đừng quên phần tư liệu tham khảo trong sách giáo khoa. Với hình thức thi trắc nghiệm thì kiến thức phải rộng, nếu giáo viên không đủ thời gian dạy phần tư liệu tham khảo thì khi ôn chúng ta phải đề cập tới và hướng dẫn học sinh phần nào có khả năng để trở thành câu hỏi trắc nghiệm để học sinh chú ý.
- Cuối cùng là phải cập nhật kiến thức xã hội trong một hai năm gần nhất cho học sinh. Giáo viên nên thường xuyên xem thời sự, báo mạng,… để bổ sung vào giảng dạy thêm phong phú và đôi khi những kiến thức quan trọng được đề cập trong bài thi. Ví dụ như năm 2016, đề thi TNPT môn địa lý có đề cập đến ngập mặn ở Đồng bằng Sông Cửu Long, hay môn Lịch sử có đề cập đến vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo tôi, năm nay cũng vậy, những vấn đề xã hội sẽ được đề cập trong các bài thi khoa học xã hội.
Hai là, đối với học sinh:
Để giúp cho học sinh thi tốt hơn, bên cạnh việc giáo viên thường xuyên nhắc nhở các em học bài kỹ trước khi đi thi, thì giáo viên nên hướng dẫn học sinh một số kỹ thuật làm bài trắc nghiệm sau:
- Đọc kỹ câu hỏi
84
Khi tiếp cận bài thi dù với hình thức trắc nghiệm hay tự luận thì yêu cầu đầu tiên là thí sinh phải đọc kỹ câu hỏi xem câu hỏi về vấn đề gì hoặc tình huống gì,… nhất là những câu trắc nghiệm hay có câu: Nhận định nào sau đây không đúng? Nếu đọc không kỹ “không đúng” sẽ thành “đúng” như thế là ta đã
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” sai câu đó. Việc đọc kỹ câu hỏi sẽ giúp chúng ta nhớ lại những kiến thức có liên quan đến câu hỏi, vì khoa học đã chứng minh được việc lặp đi lặp lại một hành động có thể giúp chúng ta khơi dạy một chút ký ức đã qua.
- Câu dễ làm trước, câu khó làm sau
Một kinh nghiệm không bao giờ cũ trong làm bài thi, kể cả tự luận và trắc nghiệm đó là: Câu dễ làm trước, câu khó làm sau và nên tận dụng tối đa thời gian làm bài.
Trong đề thi sẽ có câu dễ, câu khó, do đó, trước khi đặt bút làm các thí sinh nên dành vài phút để xác định xem câu nào dễ hơn, câu nào khó hơn. Ưu tiên những câu dễ làm trước, câu khó sẽ giải quyết sau. Vì làm câu khó trước sẽ mất rất nhiều thời gian, đến khi làm những câu còn lại thì gần hết giờ, có thể làm không kịp hoặc do áp lực thời gian nên không tập trung suy nghĩ được.
- Áp dụng phương pháp loại trừ
Cấu trúc của một câu hỏi trắc nghiệm thường có 4 đáp án, tức là tỷ lệ
đoán trúng của thí sinh là 25%.
Tuy nhiên, hãy để ý rằng trong số này sẽ có một đáp án chắc chắn sai.
Hãy dựa vào kiến thức của mình để loại ra đáp án này.
Đó thường là những đáp án có nội dung khác biệt hoàn toàn so với 3 đáp án còn lại, thậm chí đôi lúc chúng ta có thể bỏ qua tới 2 đáp án, tức là cơ hội đã thành 50:50.
- Chọn đáp án dài nhất
Khi đã đọc kỹ câu hỏi mà vẫn chẳng nhớ ra gì, lại còn chẳng loại được
đáp án nào hết, thì hãy chọn đáp án dài nhất.
Cách này có thể được áp dụng với những câu hỏi lý thuyết. Nguyên do là bởi người ra đề thường phải chọn nhiều từ ngữ để đáp án trở thành đúng nhất. Ví dụ với những câu hỏi về khái niệm, người ra đề thường bỏ bớt một phần của khái niệm làm các đáp án nhiễu, khi thấy đáp án nào dài nhất và có thể có nhiều ý của các đáp án khác gộp lại thì có thể đó là đáp án đúng.
- Tô nhầm còn hơn bỏ sót
Đối với một bài thi trắc nghiệm, thí sinh không nên để trống một câu nào, phải trả lời tất cả các câu. Mỗi câu đều có điểm và không bị trừ điểm nếu thí sinh trả lời sai nên bạn cần nhớ: Bỏ câu nào là mất điểm câu đó. Để có cơ hội giành điểm cao nhất, các bạn phải tô các phương án trả lời hợp lý nhất cho những câu chưa trả lời theo phương châm thà tô nhầm còn hơn bỏ sót.
85
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi trong những năm giảng dạy và học tập đã rút ra được, xin được nêu lên để giúp cho giáo viên chuẩn bị tốt hơn cho kỳ thi và giúp cho học sinh đạt hiệu quả cao hơn trong kỳ thi TNPT 2017. Hy vọng những kinh nghiệm này sẽ giúp ít cho mọi người. Xin cám ơn! Xin chúc quý thầy cô và các em học sinh đạt nhiều kết quả tốt.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LÀM BÀI TRẮC NGHIỆM ĐẠT HIỆU QUẢ CAO MÔN GDCD
Nguyễn Thị Cẩm Loan Trường THPT Lương Định Của
Theo như phương án tổ chức kì thi THPT Quốc Gia năm 2017 mà bộ GD&ĐT đã công bố thì trừ môn Ngữ Văn, tất cả các môn còn lại đều thi theo hình thức trắc nghiệm. Như vậy, môn Toán, môn Ngoại ngữ và bài thi Khoa học xã hội, Khoa học tự nhiên sẽ thi bài thi trắc nghiệm. Điều này được xem là thay đổi lớn nhất và cũng gây lo lắng nhiều nhất cho thí sinh, đặc biệt đối với môn giáo dục công dân (GDCD) đây là năm học đầu tiên đưa vào thi THPTQG.
Mặc dù cũng đã được làm quen với hình thức thi trắc nghiệm thông qua các đợt kiểm tra học kì hay các bài kiểm tra .... ở trường, tuy nhiên trước một kì thi quan trọng như vậy thực sự cũng sẽ gây ra không ít khó khăn, lo lắng cho giáo viên và học sinh. Hình thức thi thay đổi bắt buộc cách học cũng như cách dạy phải thay đổi theo sao cho phù hợp nhất và đạt hiệu quả cao nhất.
I. Đặc điểm tình hình
1. Thuận lợi
Trường THPT Lương Định Của luôn được sự quan tâm của Sở giáo dục, lãnh đạo địa phương của Ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình công tác. Các giáo viên giảng dạy đều đạt chuẩn và nhiệt tình trong giảng dạy. Đa số học sinh có ý thức và hứng thú trong học tập.
2. Khó khăn
- Do học sinh đa phần ở vùng sâu điều kiện tiếp cận thông tin còn hạn chế, cộng với việc do môn GDCD từ trước đến giờ chưa thi tốt nghiệp nên học sinh còn chưa chú ý nhiều.
Do là năm đầu tiên thi TNTHPTQG nên cả giáo viên và học sinh đều lúng túng trong định hướng thi TN. Một số ít học sinh còn chủ quan do thi trắc nghiệm nên không chủ động trong học tập.
II. Một số giải pháp giúp học sinh làm bài trắc nghiệm đạt hiệu quả
1. Đối với giáo viên
1.1 Giáo viên cần phải thông tin thật chi tiết về những thay đổi của kì thi
THPTQG
- Tổ chức cụm thi
- Để được xét công nhận tốt nghiệp THPT:
86
- Hình thức thi
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
- Quy định các môn thi: số câu, thời gian thi
- Lịch thi THPT Quốc gia 2017
- Cách tính điểm xét tốt nghiệp (dành cho hệ THPT)
- Nhiều hình thức tuyển sinh Đại học…
1.2. Kịp thời định hướng nội dung dạy học chính khóa
Các tổ chuyên môn phân tích đề thi minh họa để xác định chính xác mức độ yêu cầu (nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao) của từng câu hỏi, xác định tỉ lệ các mức độ yêu cầu của đề. Trên cơ sở phân tích đề minh họa môn Giáo dục công dân cần xây dựng các câu hỏi, bài tập trong phạm vi chương trình lớp 12 dưới hình thức trắc nghiệm với các mức độ yêu cầu khác nhau. Kịp thời định hướng nội dung dạy học chính khóa theo hướng: Đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình hiện hành; tăng cường dạy học phân hóa phù hợp với đối tượng học sinh; giảm lượng kiến thức hàn lâm; chú trọng hướng dẫn học sinh nắm được vấn đề cốt lõi của bài học, hiểu rõ bản chất của nội dung được học; chú trọng việc vận dụng kiến thức vào cuộc sống thực tiễn nhất là những tình huống, câu chuyện pháp luật… đồng thời định hướng được tư tưởng, thái độ, hành vi cho học sinh.
1.3. Giáo viên cần xác định rõ hệ thống câu hỏi với mỗi bài học
Đối với mỗi bài học, giáo viên cần xác định rõ hệ thống câu hỏi sau mỗi bài học tốt nhất là theo hình trắc nghiệm củng cố và kiểm tra việc nhớ kiến thức, mức độ hiểu bài của học sinh và kịp thời điều chỉnh việc dạy học cho phù hợp với khả năng của học sinh.
1.4. Tránh tình trạng để dồn kiến thức đến cuối năm
Giáo viên kịp thời có định hướng giúp học sinh ôn tập những nội dung kiến thức từ đầu năm học, tránh tình trạng để dồn kiến thức đến cuối học kì, cuối năm, gây hiện tượng quá tải, cần xây dựng kế hoạch tổ chức ôn tập cho học sinh để chuẩn bị cho kỳ thi THPT quốc gia 2017.
1.5. Giáo viên hướng dẫn học sinh kĩ thuật làm bài thi trắc nghiệm
Sau khi giáo viên đã trang bị cho học sinh đầy đủ những kiến thức cần thiết cho một kì thi quan trọng, thì cũng phải nhớ rằng cần hướng dẫn các kĩ thuật quan trọng khi làm bài để các em không bỏ sót bất cứ câu hỏi nào trong đề thi.
2. Đối với học sinh
2.1. Thay đổi một chút về cách học
87
Nếu như trước đây HS cần nắm thật chắc kiến thức và học cách trình bày theo các bước cho đúng trình tự thì bây giờ yêu cầu thêm nữa đó là phải học kiến thức rộng hơn. Tùy mỗi môn sẽ có những đặc thù khác nhau, nhưng trên cơ sở phải nắm kiến thức và biết vận dụng.
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan”
Ở bài thi trắc nghiệm thường sẽ là những bài yêu cầu giải nhanh và không quá rườm rà, yêu cầu kiến thức rộng và bao quát hơn. Nếu như HS đang theo phương pháp "chậm và chắc" thì bạn phải đổi ngay từ "chậm" thành "nhanh". Giải nhanh chính là chìa khóa để HS có được điểm cao ở môn trắc nghiệm. Với các bài thi nặng về lí thuyết thì sẽ yêu cầu ghi nhớ nhiều hơn, HS nên chú trọng phần liên hệ vì đó là xu hướng học cũng như ra đề của Bộ.
2.2 Phải tìm được từ "chìa khóa" trong câu hỏi
Từ chìa khóa trong mỗi câu hỏi chính là mấu chốt để HS giải quyết vấn đề. Mỗi khi HS đọc câu hỏi xong, điều đầu tiên là phải tìm được từ chìa khóa nằm ở đâu. Điều đó giúp bạn định hướng được rằng câu hỏi liên quan đến vấn đề gì và đáp án sẽ gắn liền với từ chìa khóa ấy. Đó được xem là cách để HS giải quyết câu hỏi một cách nhanh nhất và tránh bị lạc đề hay nhầm dữ liệu đáp án.
2.3. Tự trả lời trước… đọc đáp án sau
Cho dù bài thi của bất cứ môn nào thì HS đều nên áp dụng cách thức tự đưa ra câu trả lời trước khi đọc đáp án ở đề thi, khi mà các đáp án thường "na ná" nhau khiến HS dễ bị rối. Sau khi đọc xong câu hỏi, HS nên tự trả lời rồi đọc tiếp phần đáp án xem có phương án nào giống với câu trả lời mình đưa ra hay không. Chớ vội đọc ngay đáp án vì như thế rất dễ bị phân tâm nếu như kiến thức của mình không thực sự chắc chắn.
2.4. Dùng phương pháp loại trừ
Một khi HS không có cho mình một đáp án thực sự chính xác thì phương pháp loại trừ cũng là một cách hữu hiệu giúp HS tìm ra câu trả lời đúng. Mỗi câu hỏi thường có 4 đáp án, các đáp án cũng thường không khác nhau nhiều lắm về nội dung, tuy nhiên vẫn có cơ sở để dùng phương án loại trừ bằng "mẹo" của mình cộng thêm chút may mắn nữa. Thay vì đì tìm đáp án đúng, HS hãy thử tìm phương án sai… đó cũng là một cách hay và loại trừ càng nhiều phương án càng tốt.
Khi không còn đủ cơ sở để loại trừ nữa thì hãy dùng cách phỏng đoán, nhận thấy phương án nào khả thi hơn và đủ tin cậy hơn thì khoanh vào phiếu trả lời… đó là cách cuối cùng dành cho HS.
2.5. Phân bổ thời gian và nhớ không được bỏ trống đáp án
Việc đầu tiên là đọc qua một lượt tất cả các câu hỏi, xem những câu nào mình biết là đúng thì nên khoanh ngay đáp án vào phiếu trả lời (nhớ dùng bút chì để có thể sửa đáp án nếu cần thiết). Sau khi làm hết những câu hỏi đã biết của mình thì chọn những câu hỏi đơn giản làm trước, vì bài thi trắc nghiệm các câu hỏi đều có thang điểm như nhau chứ không giống như bài thi tự luận.
88
Chính vì vậy câu hỏi khó hay dễ cũng đều có chung phổ điểm, nên bạn hãy làm câu dễ trước để đảm bảo đạt tối đa số điểm. Chú ý phân bổ thời gian để không bỏ sót câu hỏi nào, nếu không biết đáp án thì hãy dùng phỏng đoán hay
Hội nghị chuyên đề “Dạy và học môn GDCD theo định hướng thi trắc nghiệm khách quan” kể cả may mắn cũng được, điều HS cần là không được để trống đáp án, đó cũng là một cơ hội dành cho HS.
2.6. "Trăm hay không bằng tay quen"
Trước sự mọi sự thay đổi, hay nói cách khác là một cách thức thi mới, thì điều tất yếu là phải tập làm quen với nó. Không ai tài giỏi gì để có thể thích ứng ngay với cái mới, điều này cần thời gian để tích lũy kinh nghiệm, các bài thi cũng vậy, thiết nghĩ ngay từ bây giờ giáo viên nên cho HS giải nhiều đề thi trắc nghiệm hơn, tập dần với các câu hỏi trắc nghiệm như thế. HS sẽ tìm được những lỗi mà mình thường gặp phải cũng như tìm được một phương pháp giải tối ưu cho bài trắc nghiệm.
III. Kết luận
89
Tôi nghĩ rằng đứng trước một kì thi quan trọng và có nhiều thay đổi như hiện nay thì cả giáo viên và học sinh phải cố gắng hết sức để đạt được kết quả cao. Trên đây là một vài giải pháp giúp học sinh làm bài trắc nghiệm mà tôi đã áp dụng trong quá trình giảng dạy của mình, bước đầu còn hơi lúng túng nhưng cũng tạo niềm tin và sự hứng thú cho học sinh khi làm bài. Đây là cơ sở, tiền đề quan trọng để học sinh có thể tự tin bước vào kì thi và hy vọng đạt được hiệu quả mà cả thầy và trò mong đợi.