
ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
70
LỄ CƢỚI CỦA NGƢỜI MÔNG ĐEN Ở XÃ TÀ XÙA, HUYỆN BẮC YÊN,
TỈNH SƠN LA: TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI
Nguyễn Thị Huyền
Trường Đại học Tây Bắc
THÔNG TIN BÀI BÁO
TÓM TẮT
Ngày nhận bài: 16/3/2024
Ngày nhận đăng: 17/7/2024
Từ khoá: Người Mông Đen; Lễ
cưới; Sự biến đổi; Tà Xùa;
Bắc Yên
Lễ cưới của người Mông Đen là một nghi lễ quan trọng, thể hiện
được nét đẹp mang tính đặc trưng trong văn hóa tộc người. Bài
viết này căn cứ trên các tư liệu điền dã sẽ trình bày về chu trình
tiến hành lễ cưới truyền thống; trên cơ sở đó làm rõ một số biến
đổi trong đám cưới hiện nay của người Mông Đen ở xã Tà Xùa,
huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Từ đó cho thấy sự khác biệt trong
phong tục cưới xin của nhóm Mông Đen so với các nhóm Mông
khác trên cùng địa bàn.
1. Đặt vấn đề
Tà Xùa là một xã vùng cao nằm ở phía bắc
huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Phía bắc, đông
bắc, tây bắc giáp xã Háng Đồng; phía nam giáp
xã Phiêng Ban; phía tây giáp xã Làng Chếu;
phía tây bắc giáp xã Xím Vàng; phía đông và
đông nam giáp xã Suối Tọ (huyện Phù Yên).
Từ huyện lỵ đến Uỷ ban nhân dân xã đi theo
tỉnh lộ 112 dài 14,5 km. Tổng diện tích tự nhiên
là 4.496,6 ha, trong đó đất nông nghiệp là
2.437,87 ha. Đất đai phù hợp với sản xuất nông
- lâm nghiệp, như khai hoang ruộng bậc thang,
trồng cây lương thực (lúa, ngô, sắn), rừng sinh
thái, trồng cỏ chăn nuôi đại gia súc, gia cầm,
nuôi ong lấy mật[1]. Đến cuối năm 2023, toàn
xã có 560 hộ với 3.341 nhân khẩu, thành phần
dân tộc chủ yếu là dân tộc Mông chiếm 98%,
còn lại số ít là các dân tộc khác như Kinh, Thái,
Dao, Mường...[3]. Hiện nay xã Tà Xùa gồm 4
bản: Bản Tà Xùa A, Bản Bẹ, Bản Chung Trinh
và Bản Trò A.
Người Mông ở xã Tà Xùa gồm 2 nhóm
chính là Mông Hoa và Mông Đen, trong đó
người Mông Đen với các dòng họ Mùa, Lù,
Phàng, Giàng... chiếm gần 50%, cư trú chủ yếu
tại các địa bàn gần trung tâm xã hoặc giáp tỉnh
lộ 112 là bản Tà Xùa A và bản Chung Trinh.
Do tập quán sống khép kín, kinh tế mang nặng
tính tự cấp tự túc, ít giao lưu, trao đổi với các
tộc người khác nên người Mông nói chung và
người Mông Đen nói riêng vẫn còn gìn giữ
được nhiều nét văn hóa truyền thống phong phú
và đặc sắc. Tuy nhiên, cùng với nhịp độ phát
triển kinh tế - xã hội địa phương, đặc biệt là sự
bùng nổ của hoạt động du lịch trong những năm
gần đây đã tác động trực tiếp dẫn tới nhiều thay
đổi sâu rộng trong đời sống kinh tế - xã hội và
nhận thức của đồng bào, nhiều phong tục tập
quán đang chuyển biến để thích nghi với tình
hình mới, trong đó có những thay đổi trong lễ
cưới truyền thống của người Mông Đen[2].
2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp điền dã dân tộc học được xác
định là phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Tác
giả đã thực hiện nhiều đợt điền dã ngắn từ 3
đến 5 ngày trong khoảng thời gian từ tháng
5/2017 đến tháng 10/2019. Trong quá trình điền
dã, tác giả đã cùng ăn, cùng ở và tham gia vào
một số hoạt động lao động với người dân từ đó
hòa nhập và có những hiểu biết sâu sắc hơn về
đời sống kinh tế, văn hóa và phong tục tập quán
của đồng bào nơi đây. Các thao tác cơ bản
trong phương pháp này bao gồm:
- Thao tác quan sát tham dự được tác giả sử
dụng trong suốt quá trình điền dã tại địa
phương và đã tham dự tham dự một số đám
cưới của người Mông Đen vào dịp tháng
12/2018 và tháng 7/2019.
- 30 cuộc phỏng vấn sâu được thực hiện với
nhiều đối tượng khác nhau. Trong đó, tác giả
tập trung phỏng vấn các đối tượng là người cao
tuổi, người am hiểu phong tục tập quán, các
ông mối, cô dâu chú rể và bố mẹ chồng của cô
dâu... nhằm tái hiện hoàn chỉnh các nghi lễ
trong lễ cưới truyền thống của người Mông Đen
tại địa phương từ đó làm cơ sở để so sánh, làm
rõ những biến đổi trong lễ cưới hiện nay. Ngoài
ra, để biết được ý kiến của họ về những biến
Nguyễn Thị Huyền (2024) - (36): 69 - 76