
ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
70
LỄ CƢỚI CỦA NGƢỜI MÔNG ĐEN Ở XÃ TÀ XÙA, HUYỆN BẮC YÊN,
TỈNH SƠN LA: TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI
Nguyễn Thị Huyền
Trường Đại học Tây Bắc
THÔNG TIN BÀI BÁO
TÓM TẮT
Ngày nhận bài: 16/3/2024
Ngày nhận đăng: 17/7/2024
Từ khoá: Người Mông Đen; Lễ
cưới; Sự biến đổi; Tà Xùa;
Bắc Yên
Lễ cưới của người Mông Đen là một nghi lễ quan trọng, thể hiện
được nét đẹp mang tính đặc trưng trong văn hóa tộc người. Bài
viết này căn cứ trên các tư liệu điền dã sẽ trình bày về chu trình
tiến hành lễ cưới truyền thống; trên cơ sở đó làm rõ một số biến
đổi trong đám cưới hiện nay của người Mông Đen ở xã Tà Xùa,
huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Từ đó cho thấy sự khác biệt trong
phong tục cưới xin của nhóm Mông Đen so với các nhóm Mông
khác trên cùng địa bàn.
1. Đặt vấn đề
Tà Xùa là một xã vùng cao nằm ở phía bắc
huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Phía bắc, đông
bắc, tây bắc giáp xã Háng Đồng; phía nam giáp
xã Phiêng Ban; phía tây giáp xã Làng Chếu;
phía tây bắc giáp xã Xím Vàng; phía đông và
đông nam giáp xã Suối Tọ (huyện Phù Yên).
Từ huyện lỵ đến Uỷ ban nhân dân xã đi theo
tỉnh lộ 112 dài 14,5 km. Tổng diện tích tự nhiên
là 4.496,6 ha, trong đó đất nông nghiệp là
2.437,87 ha. Đất đai phù hợp với sản xuất nông
- lâm nghiệp, như khai hoang ruộng bậc thang,
trồng cây lương thực (lúa, ngô, sắn), rừng sinh
thái, trồng cỏ chăn nuôi đại gia súc, gia cầm,
nuôi ong lấy mật[1]. Đến cuối năm 2023, toàn
xã có 560 hộ với 3.341 nhân khẩu, thành phần
dân tộc chủ yếu là dân tộc Mông chiếm 98%,
còn lại số ít là các dân tộc khác như Kinh, Thái,
Dao, Mường...[3]. Hiện nay xã Tà Xùa gồm 4
bản: Bản Tà Xùa A, Bản Bẹ, Bản Chung Trinh
và Bản Trò A.
Người Mông ở xã Tà Xùa gồm 2 nhóm
chính là Mông Hoa và Mông Đen, trong đó
người Mông Đen với các dòng họ Mùa, Lù,
Phàng, Giàng... chiếm gần 50%, cư trú chủ yếu
tại các địa bàn gần trung tâm xã hoặc giáp tỉnh
lộ 112 là bản Tà Xùa A và bản Chung Trinh.
Do tập quán sống khép kín, kinh tế mang nặng
tính tự cấp tự túc, ít giao lưu, trao đổi với các
tộc người khác nên người Mông nói chung và
người Mông Đen nói riêng vẫn còn gìn giữ
được nhiều nét văn hóa truyền thống phong phú
và đặc sắc. Tuy nhiên, cùng với nhịp độ phát
triển kinh tế - xã hội địa phương, đặc biệt là sự
bùng nổ của hoạt động du lịch trong những năm
gần đây đã tác động trực tiếp dẫn tới nhiều thay
đổi sâu rộng trong đời sống kinh tế - xã hội và
nhận thức của đồng bào, nhiều phong tục tập
quán đang chuyển biến để thích nghi với tình
hình mới, trong đó có những thay đổi trong lễ
cưới truyền thống của người Mông Đen[2].
2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp điền dã dân tộc học được xác
định là phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Tác
giả đã thực hiện nhiều đợt điền dã ngắn từ 3
đến 5 ngày trong khoảng thời gian từ tháng
5/2017 đến tháng 10/2019. Trong quá trình điền
dã, tác giả đã cùng ăn, cùng ở và tham gia vào
một số hoạt động lao động với người dân từ đó
hòa nhập và có những hiểu biết sâu sắc hơn về
đời sống kinh tế, văn hóa và phong tục tập quán
của đồng bào nơi đây. Các thao tác cơ bản
trong phương pháp này bao gồm:
- Thao tác quan sát tham dự được tác giả sử
dụng trong suốt quá trình điền dã tại địa
phương và đã tham dự tham dự một số đám
cưới của người Mông Đen vào dịp tháng
12/2018 và tháng 7/2019.
- 30 cuộc phỏng vấn sâu được thực hiện với
nhiều đối tượng khác nhau. Trong đó, tác giả
tập trung phỏng vấn các đối tượng là người cao
tuổi, người am hiểu phong tục tập quán, các
ông mối, cô dâu chú rể và bố mẹ chồng của cô
dâu... nhằm tái hiện hoàn chỉnh các nghi lễ
trong lễ cưới truyền thống của người Mông Đen
tại địa phương từ đó làm cơ sở để so sánh, làm
rõ những biến đổi trong lễ cưới hiện nay. Ngoài
ra, để biết được ý kiến của họ về những biến
Nguyễn Thị Huyền (2024) - (36): 69 - 76

ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
71
đổi trong hôn nhân và cưới xin hiện nay, tác giả
còn tiến hành một số buổi thảo luận nhóm nhỏ
với các bạn trẻ gồm những người được học
hành và những người ở nhà lao động sản xuất.
- Trong quá trình thu thập tư liệu và tham
dự, tác giả cũng sử dụng công cụ bổ trợ chủ yếu
là chụp ảnh và quay video clip nhằm ghi lại
những tư liệu thực tế sinh động về đám cưới
của nhóm Mông Đen tại địa bàn nghiên cứu.
Phương pháp hồi cố là phương pháp rất cần
thiết và hết sức quan trọng đối với tác giả, bởi
kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế. Theo đó,
tác giả đã gặp gỡ, trao đổi, lắng nghe và ghi
chép lời kể từ những người lớn tuổi, trưởng họ
người Mông Đen... căn cứ vào tư liệu hồi cố để
thiết lập lại các nghi lễ trong đám cưới truyền
thống, từ đó so sánh, đánh giá làm rõ các biến
đổi trong lễ cưới hiện nay.
Ngoài ra, tác giả còn thực hiện phương pháp
thống kê, phân tích, so sánh đối chiếu các
nguồn thông tin, tư liệu, các số liệu thu thập
được... nhằm đưa ra kết quả chính xác nhất
trong quá trình nghiên cứu.
3. Kết quả và bàn luận
3.1. Chu trình lễ cưới truyền thống của
người Mông Đen ở xã Tà Xùa
3.1.1. Kéo vợ
“Kéo vợ” - (hay pù) là một tập tục đặc biệt
của người Mông, là cách thức thể hiện giá trị
của người con gái khi gả về nhà chồng. Người
Mông Đen ở xã Tà Xùa quan niệm, một cô gái
không được “kéo” về nhà chồng thì cô gái đó sẽ
không được cộng đồng và gia đình chàng trai
coi trọng. Vì vậy, hiện nay “kéo vợ” vẫn là nghi
lễ bắt buộc và không cặp vợ chồng nào có thể
bỏ qua.
Theo quan niệm của người Mông, ngày tốt
sẽ là các ngày chẵn trong tháng, đặc biệt là các
ngày lợn, ngày rồng, ngày chó. Vì vậy họ sẽ
chọn những ngày này để tổ chức kéo vợ và thực
hiện các thủ tục đám cưới khác. Đoàn kéo vợ
thường sẽ có từ 4 đến 5 người, trong đó có 1-2
người lớn tuổi giỏi ăn nói và am hiểu phong tục
tập quán đi cùng bạn bè của chàng trai.
Trước ngày kéo vợ, chàng trai và cô gái đã
bàn bạc, thống nhất với nhau về thời gian và địa
điểm kéo. Chàng trai cũng nhân dịp cô gái lên
nương hay xuống chợ một mình... để giới thiệu
một số bạn bè của mình cho cô gái quen biết
trước tránh khi tổ chức kéo vợ cô gái sẽ bị bất
ngờ. Người Mông thường tổ chức kéo vợ vào
ban đêm. Người ta kiêng kéo ban ngày bởi cho
rằng ban ngày đang là thời gian đi làm, nếu kéo
vợ vào ban ngày thì chứng tỏ cô gái đó lười
biếng và sẽ bị phạt vạ. Đến thời gian hẹn, đợi
bố mẹ cô gái ngủ say, chàng trai sẽ di chuyển
đến gần vách phòng ngủ của cô gái và gõ nhẹ
vào vách báo hiệu rằng chàng trai đã đến để cô
gái chuẩn bị. Ngay khi cô gái bước chân ra khỏi
cửa, chàng trai nhanh chóng nắm lấy tay cô gái
dắt ra xa nhà khoảng 20 - 30m sau đó sẽ bật
đèn pin làm ám hiệu, gọi các bạn bè đi cùng ra
giúp kéo cô gái chạy nhanh về phía trước. Quá
trình này phải được thực hiện một cách nhanh
chóng, cẩn thận, nhẹ nhàng để không làm kinh
động đến bố mẹ cô gái. Trường hợp nếu bị gia
đình nhà gái phát hiện, chàng trai và bạn của
mình vẫn tiếp tục kéo cô gái đi. Trong khi đó,
1-2 người lớn tuổi sẽ ở lại nói chuyện, thuyết
phục gia đình nhà gái để họ đồng ý không đuổi
theo nữa. Đồng thời, đoàn nhà trai sẽ phải đưa
cho bố mẹ và những người họ hàng nhà gái
đuổi theo, mỗi người số tiền tầm 20 - 30 nghìn
gọi là tiền lễ.
Đoàn kéo dâu phải gấp rút kéo cô gái ra khỏi
bản một cách nhanh nhất và đi bộ suốt đêm để
trở về. Lúc cô dâu bước chân qua ngưỡng cửa
nhà chàng trai cũng là lúc thủ tục kéo vợ
hoàn thành.
3.1.2. Lễ thông báo và lễ thách cưới
Lễ thông báo được thực hiện vào ngay buổi
sáng ngày hôm sau. Thông thường, để đi làm
thủ tục, người Mông Đen sẽ phải nhờ đến hai
ông mối (mềnh công) trong đó có một ông mối
chính (chứ mềnh công) và một ông mối phụ (lử
mềnh công).
Sáng sớm, nhà trai mổ lợn, gà làm cơm thết
đãi hai ông mối và những người đã giúp kéo
dâu hôm qua cùng anh em dòng họ. Trong bữa
cơm chủ nhà thông báo rằng từ hôm nay gia
đình đã có thêm con dâu mới. Đồng thời, một
lần nữa nhờ vả hai ông mối cố gắng giúp đỡ khi
sang nhà gái làm thủ tục để mọi việc của đôi trẻ
được suôn sẻ thuận lợi.
Trong bữa cơm này, hai ông mối hỏi lại
chàng trai và cô gái “có thống nhất để cưới
không, nếu yêu nhau đã cưới nhau thì phải

ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
72
đồng ý trước để hai ông đi hỏi thì nó dễ hỏi hơn
nhiều, để mà biết xử lí” (Lù A Danh, 1996, bản
Tà Xùa C). Sau khi xác nhận cả hai đều đồng ý
thì hai ông mối lên đường. Lúc đi, trên tay ông
mối chính sẽ cầm theo một cái ô đen (phía trên
buộc một cái khăn) và tiền hỏi cưới do ông chủ
nhà trao. Ông mối phụ đeo trên lưng một cái lù
cở, trong lù cở đựng thuốc lào, can 5 lít rượu, 2
cái chén nứa úp lên miệng 2 ống nứa đựng đầy
rượu và 1 cái chăn nhỏ. Ngoài ra, gia đình nhà
trai còn phải chuẩn bị 2 con gà luộc và một ít
cơm để ông mối đưa đi ăn trên đường. Theo
phong tục, không kể nhà gần hay xa khi đã đi
được nửa quãng đường, hai ông mối dừng lại
lấy gà, cơm và rượu bày trên lá rừng để cúng
mời thần linh trên trời dưới đất, thổ công thổ
địa, thần núi, thần rừng... về nhận lễ của gia
chủ, đi theo giúp hai ông mối nói chuyện được
thuận lợi, mọi việc suôn sẻ... Sau đó, hai ông
mối ăn hết phần cơm gà này rồi tiếp tục
lên đường.
Đến nhà gái, hai ông mối bắt buộc phải đi
vào bằng cửa chính. Trước hết ông mối chính
đi thẳng về phía bàn thờ ma và treo ô lên vách
tường phía đầu nhà. Ông mối phụ từ từ hạ lù cở
xuống lấy thuốc lào ra chuẩn bị mời bố mẹ cô
gái để xin được làm thủ tục. Thuốc lào nhà trai
dùng để dâng lên mời bố mẹ nhà gái là loại đã
được phơi khô để nguyên lá. Lá thuốc lào phải
còn dính trên một đoạn thân cây. Người Mông
ở đây giải thích rằng, sở dĩ phải dùng loại thuốc
lào như vậy là để thể hiện sự tôn trọng, có đầu
có cuối của nhà trai đối với gia đình nhà gái.
Việc trao nhận thuốc lào đồng nghĩa với việc
chấp nhận cho nhà trai làm thủ tục hỏi cưới nên
nhà gái để ông mối năn nỉ vài lần mới đồng ý.
Sau thủ tục trao và nhận thuốc lào, gia đình
nhà gái sẽ chỉ định ông mối đại diện cho phía
nhà gái để ông mối nhà trai đi mời về. Sau đó
thủ tục hỏi cưới mới bắt đầu được thực hiện.
Quá trình này, chỉ có ông mối hai bên gia đình
ngồi nói chuyện, bàn bạc với nhau, nhà gái ngồi
bên bếp lửa và không tham gia. Khi cần sự
quyết định thì ông mối đại diện nhà gái sẽ đến
hỏi ý kiến bố mẹ cô gái sau đó về truyền lời cho
hai ông mối nhà trai được biết, nhất là khi thảo
luận về tiền thách cưới. Trước đây, họ thách
cưới bằng bạc trắng, khoảng 30 năm trở lại đây
thay bằng tiền mặt, dao động từ 25 đến 30 triệu
đồng. Việc trao - nhận tiền thách cưới được
thực hiện qua thủ tục “lùa trâu vào chuồng”(lớ
nhù) do ông mối phụ nhà trai và một người đại
diện nhà gái tiến hành. Một người đi trước bê
theo sàng tiền tượng trưng cho con trâu - cơ
nghiệp, sức lao động của gia đình, một người đi
sau giả vờ cầm roi đuổi trâu, cả hai cùng đưa
sàng tiền vào trong căn buồng của bố mẹ cô gái
và được mời uống 2 chén rượu hoặc 2 bát rượu
đã được chuẩn bị sẵn. Sau khi người đại diện
nhà gái nhận tiền thì hai ông ra ngoài. Đến đây,
việc thông báo và hỏi cưới kết thúc. Gia đình
nhà gái sẽ mổ lợn, gà thết đãi, cảm ơn hai ông
mối nhà trai, đồng thời chủ nhà cũng chính thức
thông báo với anh em họ hàng rằng con gái đã
đi lấy chồng, nay có hai ông mối nhà trai đến
làm thủ tục để mọi người được biết.
Sau bữa cơm, hai ông mối nhà trai cáo từ ra
về. Trường hợp nhà gái thông báo sẽ tổ chức lễ
cưới thì ô và lù cở sẽ được để lại nhà gái, khi
nào cưới nhà gái sẽ có thủ tục trao nhận để nhà
trai đưa về. Trường hợp nhà gái không tổ chức
cưới thì thủ tục phía bên nhà gái coi như đã
hoàn thành. Chiếc ô được ông mối chính dỡ
xuống để đưa về nhà trai. Phía nhà gái cũng
chuẩn bị 2 con gà luộc và một ít cơm đặt trong
lù cở để hai ông mang theo. Khi về hai ông
dừng nghỉ đúng chỗ nghỉ lúc đi, lấy gà, cơm,
rượu ra làm lễ cúng cảm tạ các vị thần linh, thổ
công thổ địa, thần núi, thần rừng đã giúp đỡ để
các ông có thể hoàn thành công việc. Sau đó,
hai ông ăn hết rồi tiếp tục lên đường trở về báo
tin mừng cho nhà trai. Về đến nơi ông mối
chính đặt chiếc ô lên vị trí vách phía đầu nhà
bên cạnh bàn thờ ma và treo ở đó cho đến khi
nào nhà trai tổ chức đám cưới xong mới được
phép mở ra. Đến đây nhiệm vụ thông báo
của hai ông mối đã hoàn thành.
3.1.3. Lễ nhập ma
Lễ nhập ma (chài ùa đăng) được thực hiện
vào ngày thứ 3 sau khi kéo vợ. Lễ cúng thường
do một người am hiểu phong tục tập quán hoặc
thầy mo trong bản thực hiện. Ðể nhập ma người
ta cần phải chuẩn bị hai con gà, một trống và
một mái. Ðầu tiên, người hành lễ sẽ mở rộng
cửa ma, tiến hành thắp hương vào các vị trí
quan trọng trong ngôi nhà gồm hai bên cửa
chính, hai cột ma ở gian giữa nhà và hai bếp
chính, phụ. Sau khi thắp hương xong, người
cúng đứng trước cửa mặt hướng ra bên ngoài,

ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
73
tay giữ đôi gà và bắt đầu lẩm nhẩm khấn, nội
dung trước để gọi hồn cô gái về, sau là thông
báo để ma nhà trai nhập hồn cô gái về cùng ma
tổ tiên. Người Mông Đen ở đây quan niệm
rằng: “Trong quá trình kéo dâu có thể hồn cô
gái đã bị rơi mất ở ngoài đường, vì thế phải gọi
hồn cô dâu về, đừng ở ngoài đường sẽ bị nắng
bị mưa, trâu đi trâu húc, người đi người đè lên
nên gọi về ở cùng ma nhà trai” (Lù A Sê, 1982,
bản Tà Xùa A). Người con gái sau lễ nhập ma
sẽ chính thức được công nhận làm con dâu mới
trong gia đình, sống là người nhà trai, chết là
ma nhà trai. Trong lễ nhập ma, nếu gia đình nhà
trai không thích tên cũ của cô dâu hoặc trước
đây cô dâu có vấn đề về sức khỏe... thì người
hành lễ sẽ đặt tên mới cho cô dâu. Ngụ ý rằng
cô con dâu mới đã được sinh ra một lần nữa ở
nhà chồng, từ nay cầu mong sẽ luôn được khỏe
mạnh, hạnh phúc. Mặt khác, nếu người Mông
Hoa cùng sống trên địa bàn sẽ tiến hành làm lễ
nhập ma ngay khi kéo dâu về, thì với người
Mông Đen, chỉ sau khi đã làm xong thủ tục
thông báo và trao tiền thách cưới thì sáng ngày
thứ 3 người ta mới làm lễ nhập ma cho cô dâu.
Điều này có thể hiểu rằng, trong quan niệm về
hôn nhân của người Mông Đen, phía nhà trai
vẫn luôn thể hiện sự tôn trọng đối với nhà gái,
chỉ khi nhà gái biết và chấp nhận cuộc hôn
nhân này thì gia đình nhà trai mới làm lễ nhập
ma cô dâu về cùng ma nhà mình.
3.1.4. Thăm bố mẹ vợ lần đầu
Ba ngày sau khi bắt dâu, nhà trai đưa con
dâu về thăm bố mẹ vợ lần đầu (mông say nạ
tày). Đoàn đi, ngoài đôi vợ chồng trẻ còn có bố
của chú rể (nếu bố không đi được thì có thể nhờ
anh trai, hoặc chú, bác) và một cô em gái chưa
chồng. Thứ lễ vật duy nhất và không thể thiếu
để đưa sang nhà gái là bánh dày, không quan
trọng số lượng bánh dày ít hay nhiều nhưng
phải là số chẵn. Giải thích cho điều này, có
người cho rằng số chẵn là thể hiện cho sự đủ
đầy, có đôi có cặp, cuộc sống lứa đôi hạnh
phúc. Cũng có người lí giải, số chẵn tượng
trưng cho con trai, số lẻ tượng trưng cho con
gái. Vì thế người ta sử dụng số chẵn với hi
vọng sẽ sinh được con trai đầu lòng...
Khi đoàn nhà trai đến, nhà gái mổ lợn mời
anh em, hàng xóm đến chung vui, giới thiệu
con rể để mọi người nhận thức, nếu gia đình
không đủ tiềm lực thì mổ gà làm một bữa cơm
nhỏ tiếp đón đoàn nhà trai. Đoàn nhà trai sẽ ở
lại thêm một vài ngày để giúp bố mẹ vợ làm
những công việc hàng ngày như lấy củi, lên
nương, chăn thả gia súc... Sau đó, đoàn nhà trai
lên đường trở về. Lần này cô dâu sẽ mang theo
tất cả đồ dùng, quần áo, tư trang của mình về ở
hẳn bên nhà chồng và chỉ thi thoảng sang thăm
nom, giúp đỡ bố mẹ đẻ những lúc cần thiết.
3.1.5. Đám cưới nhà gái
Trước đây do đời sống khó khăn, phần lớn
người Mông Đen ở xã Tà Xùa không tổ chức
đám cưới bên nhà gái (hầu chéo to sai). Do đó,
sau bữa cơm đón tiếp đoàn nhà trai đưa con gái
về thăm thì thông thường thủ tục bên nhà gái đã
xong. Chỉ một số gia đình có điều kiện mới tổ
chức lễ cưới. Số người nhà trai sang dự gồm hai
ông mối nhà trai, cô dâu, chú rể, một phù rể,
một phù dâu, hai người một nam một nữ đại
diện bố mẹ chú rể. Đáng chú ý nhất trong lễ
cưới nhà gái là thủ tục trả ô và lù cở cho ông
mối bên nhà trai. Thủ tục này do ông mối hai
nhà thực hiện. Trước hết, người ta kê một cái
bàn nhỏ ngay trước cửa ma, ông mối bên nhà
trai rót 2 chén rượu đầy mời ông mối nhà gái và
xin phép được làm thủ tục. Sau đó ông mối nhà
gái sẽ rót lại cho 2 ông mối nhà trai mỗi người
2 chén rượu đầy. Sau khi cả 3 ông đã uống cạn,
ông mối nhà gái gỡ chiếc ô xuống đặt lên mặt
bàn, lù cở để dưới chân bàn. Thủ tục này được
thực hiện bằng những bài hát đối đáp giữa hai
bên ông mối. Bắt đầu ông mối nhà gái sẽ thưa
rằng: “Bây giờ con trâu sẽ giao cho bố mẹ nhà
trai, lên đồi thì phải chăn, xuống suối thì phải
xem. Bây giờ con trâu không ở với nhà gái nữa
mà con trâu lại xỏ mũi, cho dây cho 2 ông mối
dắt về giao cho bố mẹ nhà trai...”. Sau đó ông
mối chính nhà trai sẽ đáp: “thế thì bố mẹ nhà
trai xin cảm ơn, có cái sự đồng tình thì đảm
bảo với bố mẹ là không bao giờ phải sợ lo là bố
mẹ nhà trai không xem, không đảm bảo an
toàn, để cho con trâu nó phải đảm bảo phát
triển...” (Lù A Sê, 1982, bản Tà Xùa A). Sau
khi nhận được lời cam kết từ ông mối nhà trai,
cả 3 ông mối uống hết một lượt rượu nữa, sau
đó ông mối nhà gái cầm ô trao cho ông mối
chính nhà trai, cù lở sẽ được ông mối phụ nhà
trai đeo trên lưng. Đoàn nhà trai xin phép ra về
để kịp thời gian làm lễ cưới bên nhà trai. Đến

ISSN: 2354 -1091 Journal of Science Tay Bac University (JTBU) https://sj.utb.edu.vn
74
đây các thủ tục đám cưới bên nhà gái đã
hoàn thành.
3.1.6. Đám cưới nhà trai
Theo phong tục của người Mông Đen ở xã
Tà Xùa, sau đám cưới nhà gái thì hôm sau sẽ tổ
chức đám cưới nhà trai. Trường hợp nhà gái
không tổ chức đám cưới thì nhà trai có thể tổ
chức đám cưới ở mức độ to, nhỏ tùy vào điều
kiện và sự chuẩn bị của gia đình. Để tổ chức
đám cưới nhà trai (hầu chéo to tu), nhà trai sẽ
nhờ đến sự giúp đỡ của anh em trong dòng họ
và hàng xóm xung quanh. Theo đó sẽ có một
ban quản sự từ 8 đến 10 người đứng ra lo việc
tổ chức đám cưới, thết đãi khách khứa giúp chủ
nhà. Người có vai trò quan trọng nhất, chỉ đạo
mọi việc trong đám cưới được gọi là “cang xử”.
Trước đây, đám cưới thường được tổ chức
vào buổi tối. Bởi vậy, từ sáng sớm, nhà trai sẽ
mổ lợn, bò để làm cỗ cưới, trong đó một phần
thịt ngon nhất sẽ được cắt thành từng miếng
nhỏ treo gác bếp dành để chia cho những người
đã góp công sức vào đám cưới.
Đám cưới bên nhà trai mời đại diện nhà gái
gồm bố mẹ cô dâu, chú bác, anh chị em sang
dự. Tuy nhiên, nếu đám cưới được tổ chức sớm,
chỉ sau lễ kéo dâu từ 1 đến 2 tháng thì bố mẹ cô
dâu không được sang dự mà sẽ do chú, bác đi
đại diện vì người ta quan niệm: cô dâu đi lấy
chồng, bố mẹ mất con gái đang buồn nếu sang
dự đám cưới sẽ làm giảm bớt không khí vui
mừng từ phía nhà trai. Nhưng nếu đám cưới tổ
chức sau đó từ 1 năm trở lên thì bố mẹ cô gái
bắt buộc phải tham dự.
Người Mông Đen quan niệm, số chẵn là số
may mắn nên thông thường một mâm cỗ cưới
sẽ có 12 người ngồi. Trước mặt mỗi người bầy
2 chén nứa, một chén cao một chén thấp bởi
người ta quan niệm chén cao là chồng, chén
thấp là vợ, phải có đôi có cặp thì cuộc sống mới
hạnh phúc. Trên mâm bày 4 bát thịt luộc. Bắt
đầu thủ tục, người đại diện trên tay cầm một cái
sàng và một gói thuốc lào, khi muốn mời ai vào
ngồi mâm thì sẽ mời người đó 1 ít thuốc lào
tượng trưng cho lời mời của chủ nhà và dắt
người đó đi vòng quanh mâm cỗ đến ngồi đúng
vị trí mà người đại diện sắp xếp. Thông thường,
đầu mâm sẽ là vị trí của 2 ông mối, tiếp theo là
ông cậu và các anh em trong dòng họ. Sau khi
mời đủ số người, người đại diện bắt đầu làm
thủ tục.
Thông thường đám cưới của người Mông
khi làm thủ tục sẽ phải mời 3, 6 hoặc 9 lượt
rượu, mỗi lượt sẽ uống 3 lần. Mỗi lượt mời
rượu chủ yếu là hát đối đáp giữa người đại diện
và 2 ông mối. Lượt mời rượu thứ nhất người
đại diện thay mặt chủ nhà cảm ơn 2 ông mối đã
giúp đỡ gia đình đi làm thủ tục thông báo bên
nhà gái. Lượt mời rượu thứ hai sẽ là chén rượu
thông báo và cảm ơn anh em họ hàng và khách
khứa đã đến dự đám cưới... cứ lần lượt mỗi lần
mời rượu là mỗi lần hát đối đáp. Chính vì thế
cả người đại diện và ông mối đều phải là người
am hiểu về văn hóa và tập quán của người
Mông để có thể đối đáp trôi chảy, nếu một
trong hai bên không thể đối đáp lại được thì sẽ
bị phạt 2 chén rượu. Sau khi kết thúc các lượt
mời rượu, một người đứng ở đầu bàn phía bếp
chính cầm một cái lù cở giơ lên cao, mọi người
trong mâm sau khi đã uống cạn chén rượu sẽ
đứng lên ném chén vào lù cở, ai ném trật sẽ bị
phạt rượu cho đến khi ném trúng thì sẽ được ăn
cơm. Lần lượt cứ như vậy đám cưới sẽ được tổ
chức cho đến khi tất cả mọi người đều đã được
mời vào mâm rượu.
Sau khi ăn uống xong, cuối buổi lễ, thủ tục
quan trọng nhất sẽ được thực hiện. Đó là lễ quỳ
lạy tạ và lễ mở ô. Chiếc ô đen xuất hiện trong
đám cưới của người Mông Đen từ khi ông mối
nhà trai đi làm thủ tục thông báo cho đến khi tổ
chức đám cưới. Theo phong tục, chỉ khi nào
đám cưới nhà trai diễn ra thì chiếc ô này mới
được mở ra và cất đi. Theo ông mối Mùa A Lồ
ở bản Tà Xùa A, chiếc ô tượng trưng cho việc
giữ hồn của cô gái ở trong đó, do vậy chỉ khi
nhà trai tổ chức đám cưới (tức mọi thủ tục cưới
hỏi đã xong xuôi) thì khi đó mới được phép mở
ô ra. Thủ tục này do hai ông mối thực hiện. Hai
ông mối đứng trên 1 cái ghế, mặt hướng ra cửa
ma, ông mối chính tay cầm ô, đối diện là chú rể
và phù rể (có thể là em ruột hoặc em trai trong
họ chưa vợ). Hai ông mối lần lượt đọc tên
khách mời tham dự đám cưới và những người
có công giúp đỡ cho đám cưới được diễn ra tốt
đẹp, thuận buồm xuôi gió theo vai trò quan
trọng của từng người trong đám cưới. Sau mỗi
lần đọc tên, chú rể và phù rể phải quỳ lạy 2 lần
để cảm ơn mọi người. Sau khi thủ tục này được
làm xong, ông mối chính mở khăn buộc và giũ