VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ HƢƠNG

KHÔNG GIAN SÁNG TẠO

TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA ĐÔ THỊ (QUA NGHIÊN CỨU

MỘT SỐ KHÔNG GIAN SÁNG TẠO TẠI HÀ NỘI)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2022

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ HƢƠNG

KHÔNG GIAN SÁNG TẠO

TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA ĐÔ THỊ (QUA NGHIÊN CỨU

MỘT SỐ KHÔNG GIAN SÁNG TẠO TẠI HÀ NỘI)

Ngành: Văn hóa học

Mã số: 9.22.90.40

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

1. PGS.TS. BÙI HOÀI SƠN

2. TS. ĐÀO THẾ ĐỨC

HÀ NỘI - 2022

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận án này là công trình nghiên cứu của cá nhân

tôi dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của PGS.TS. Bùi Hoài Sơn và TS. Đào

Thế Đức. Các kết quả nghiên cứu trình bày trong luận án là trung thực và

chƣa đƣợc công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu của ai khác. Luận

án cũng đƣợc thực hiện một cách nghiêm túc, cầu thị, đảm bảo các nguyên

tắc đạo đức trong trích dẫn tài liệu.

Tác giả luận án

PHẠM THỊ HƢƠNG

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................... 3

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 4

4. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 5

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ............................................... 10

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án .............................................. 11

7. Cơ cấu của luận án ................................................................................ 12

CHƢƠNG 1 ................................................................................................ 13

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN .......... 13

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ......................................................... 13

1.1.1. Nghiên cứu về không gian đô thị ............................................. 13

1.1.2. Nghiên cứu về không gian sáng tạo ........................................... 21

1.2. Cơ sở lí luận ....................................................................................... 31

1.2.1. Một số khái niệm ........................................................................ 31

1.2.2. Lý thuyết khu vực công của Habermas ...................................... 41

Tiểu kết chƣơng 1 ..................................................................................... 44

CHƢƠNG 2 ................................................................................................ 46

BỐI CẢNH XÃ HỘI TẠI ĐÔ THỊ VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA CÁC .......... 46

KHÔNG GIAN SÁNG TẠO ..................................................................... 46

2.1. Đô thị Hà Nội - môi trƣờng dung dƣỡng các không gian sáng

tạo ............................................................................................................. 46

2.2. Những thay đổi của xã hội Việt Nam sau Đổi Mới ........................... 55

2.3. Những ấn phẩm của ngành công nghiệp xuất bản tại Việt Nam

và tiến trình dân chủ hóa........................................................................... 59

2.4. Vai trò của các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam ............ 62

2.5. Sự xuất hiện của internet, mạng xã hội và bối cảnh toàn cầu hóa .... 66

Tiểu kết chƣơng 2 ..................................................................................... 69

CHƢƠNG 3 ................................................................................................ 70

THỰC HÀNH VĂN HÓA TẠI CÁC KHÔNG GIAN SÁNG TẠO ..... 70

3.1. Ngƣời trẻ và những thực hành văn hóa đa dạng trong KGST

Giấc mơ nhỏ ............................................................................................. 70

3.1.1. Không gian kết nối những ngƣời đọc độc lập ............................ 71

3.1.2. Thảo luận tự do về các chủ đề .................................................... 78

3.1.3. Chiếu phim, xem phim và thảo luận .......................................... 83

3.1.4. Thảo luận về các vấn đề của môi trƣờng và trách nhiệm xã

hội ......................................................................................................... 88

3.2. Trí thức trong không gian sáng tạo Cà phê Văn................................ 96

3.2.1. Không gian của những thực hành nghệ thuật ............................. 96

3.2.2. Không gian gặp gỡ, kết nối và đối thoại .................................. 104

3.2.3. Không gian chất vấn và phản biện xã hội ................................ 107

Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................... 117

CHƢƠNG 4 .............................................................................................. 120

KHÔNG GIAN SÁNG TẠO: TỰ DO BIỂU ĐẠT VÀ KIẾN TẠO

BẢN SẮC .................................................................................................. 120

4.1. Không gian sáng tạo: không gian nới rộng biên độ tự do ............... 120

4.1.1. Không gian mở ngỏ và đa dạng ................................................ 120

4.1.2. Không gian sáng tạo: những không gian độc lập ..................... 125

4.1.3. Không gian sáng tạo: những không gian công đặc thù ............ 129

4.2. Không gian kiến tạo bản sắc nhóm, bản sắc cá nhân ...................... 133

4.2.1. Không gian sáng tạo kết nối cảm xúc ...................................... 133

4.2.2. Không gian sáng tạo và nhu cầu định vị cá nhân ..................... 135

4.3. Không gian sáng tạo và những tác động trong đời sống văn hóa

đô thị ……………………………………………………………… 140

Tiểu kết chƣơng 4 ................................................................................... 145

KẾT LUẬN ............................................................................................... 147

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 151

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

KGST Không gian sáng tạo

KGCC Không gian công cộng

KGC Không gian công

NCS Nghiên cứu sinh

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Một tối cuối tuần, căn gác nhỏ tầng hai nằm trên con phố lớn trung

tâm Hà Nội chật kín ngƣời đến tham dự buổi sinh hoạt học thuật của một

nhóm bạn trẻ. Chỉ số ít ngồi trên hàng ghế phía cuối phòng, khá đông còn lại

thoải mái ngồi bệt xuống sàn nhà, xoay quanh ngƣời thuyết trình. Tiếng nói

không có micro trong này đôi lúc bị át đi bởi những âm thanh ngoài kia, cách

đó không xa, tại rạp Công Nhân - từng một thời đƣợc mệnh danh là rạp chiếu

bóng hoàng kim - đang biểu diễn các trích đoạn hài kịch ngắn phục vụ công

chúng trên phố đi bộ. Cùng lúc đó, chỉ cách khoảng vài trăm mét, tại không

gian khác đang diễn ra buổi gặp gỡ, đối thoại của những ngƣời trẻ về chủ đề

môi trƣờng. Xa trung tâm hơn, không gian do một nữ đạo diễn trẻ tạo nên

cũng đang đƣợc lấp đầy bởi tình yêu của công chúng trong chuỗi những hoạt

động tƣởng nhớ cặp nghệ sĩ tài hoa Lƣu Quang Vũ - Xuân Quỳnh… Cũng đã

từ lâu khi theo đuổi đề tài này, ngƣời viết thƣờng khá bối rối những lúc phải

quyết định chọn một sự kiện để tham dự khi mà còn có nhiều sinh hoạt văn

hóa khác, tại nơi này hay nơi kia, đƣợc diễn ra trong các không gian sáng tạo

(KGST).

Những năm gần đây, đời sống văn hóa tại Việt Nam nói chung, thủ đô

Hà Nội nói riêng chứng kiến sự “bùng nổ”, không khí hứng khởi, sôi động

của các KGST. Không chỉ ngày càng nhiều về mặt số lƣợng mà các KGST

còn đa dạng trong cách thức tổ chức, phong phú về mô hình hoạt động. Từ

Zone 9 (phố Trần Thánh Tông) năm 2015 - một trong những KGST ban đầu,

ra đời một cách ngẫu hứng, tự phát và tự do, nhƣ “một giấc mơ bùng nổ”, dù

tồn tại ngắn ngủi nhƣng đã là một sân chơi nghệ thuật đầy thăng hoa và tạo

cảm hứng cho nhiều không gian khác về sau nhƣ Hanoi Creative City (phố

Lƣơng Yên), Heritage Space (phố Trần Bình), Manzi (phố Phan Huy Ích),

Bar 98 (phố Ngô Văn Sở), Ơ kìa Hà Nội (phố Hoàng Hoa Thám), Cà phê thứ

Bảy (phố Ngô Quyền), Tổ chim xanh (phố Đặng Dung)… Các KGST vẫn

1

đang hình thành, duy trì và phát triển nhƣ những không gian dành cho nghệ

thuật, nơi của tự do sáng tạo, tự do học thuật, nơi kết nối những suy nghĩ, trao

đổi xoay quanh các câu chuyện trong xã hội, về giáo dục, văn hóa, nghệ thuật,

tôn giáo… qua đó hình thành nên những cộng đồng chia sẻ với nhau nhiều

điểm chung trong sở thích, cá tính, quan điểm, lối sống. Nhiều không gian mở

ra nhƣng cũng nhanh chóng khép lại trong lặng lẽ sau nhiều chật vật, khó

khăn xoay xở để tồn tại. Nhiều không gian vẫn đang nỗ lực tìm cách duy trì,

nhiều KGST đƣợc kiến tạo mới đáp ứng nhu cầu của nhiều nhóm ngƣời trong

đô thị. Các KGST có nhiều biến động, thay đổi về số lƣợng, cách thức hoạt

động và chính thực hành văn hóa tại các KGST cũng đang tạo nên nhƣng tác

động lớn trong đời sống xã hội. Sự xuất hiện, duy trì tồn tại và phát triển của

các KGST gợi lên nhiều câu hỏi: KGST đƣợc kiến tạo nên nhƣ thế nào và có

ý nghĩa gì với các nhóm chủ thể? Điều gì làm nên sức hấp dẫn, sự lôi cuốn

của các KGST? Tại sao nó lại thu hút đƣợc nhiều tầng lớp trong xã hội?

Trong bối cảnh nào các KGST xuất hiện và đƣợc nói đến nhiều nhƣ vậy, nó

phản ánh những động thái nào trong xã hội đƣơng đại?

1.2. Những thảo luận gần đây tại Việt Nam cũng nhƣ trên thế giới đã

coi KGST nhƣ là một mô hình kinh doanh mới nhằm hƣớng tới mục tiêu phát

triển công nghiệp sáng tạo, thành phố sáng tạo, nơi cung cấp không gian trƣng

bày và kinh doanh nhằm hỗ trợ cho những ngƣời trẻ khởi nghiệp trong lĩnh

vực sáng tạo, nơi đáp ứng nhu cầu về không gian giải trí, tạo dựng bản sắc đô

thị từ việc cải tạo các không gian cũ trở thành KGST… Đây là những luận

điểm đƣợc đƣa ra để lý giải về sự phát triển mạnh mẽ của các KGST. Tuy

nhiên, các lí do này dƣờng nhƣ chƣa thể giải thích hết đƣợc nét riêng biệt của

các thực hành trong KGST cũng nhƣ chủ đích của ngƣời kiến tạo nên KGST.

Từ một khái niệm đƣợc Hội đồng Anh tiên phong đƣa vào Việt Nam nhằm hỗ

trợ và thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo nhƣng khi đƣợc

“nhúng” trong bối cảnh đô thị Việt Nam hiện đại, nó đã đƣợc cấp thêm những

lớp nghĩa mới. Nếu xem KGST nhƣ một mô hình kinh doanh với mục tiêu

2

chính là tạo ra lợi nhuận, thúc đẩy sự sáng tạo để phát triển công nghiệp văn

hóa thì dƣờng nhƣ mới chỉ phản ánh một phần những chiều cạnh ý nghĩa của

các KGST. Vậy ngoài những ý nghĩa đã đƣợc đề cập trên đây, KGST còn có

những ý nghĩa nào khác? Thực hành văn hóa tại các không gian đó tại sao lại

quan trọng với các nhóm chủ thể? Thông qua những thực hành văn hóa tại các

không gian đó các nhóm chủ thể mong muốn thể hiện điều gì và mở rộng ra,

nó biểu trƣng cho nhu cầu gì của xã hội? Trong luận án này, từ góc nhìn văn

hóa, đặt KGST trong bối cảnh đô thị đƣơng đại, tôi muốn tìm hiểu các thực

hành văn hóa trong các KGST cũng nhƣ nhìn nhận rõ hơn những động lực sâu

xa và chủ đích của việc kiến tạo nên các KGST trong bối cảnh đƣơng đại.

Với những lí do đã trình bày ở trên, nghiên cứu sinh (NCS) chọn

“Không gian sáng tạo trong đời sống văn hóa đô thị (qua nghiên cứu một số

không gian sáng tạo tại Hà Nội)” làm đề tài nghiên cứu cho luận án.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án tập trung vào sự phát triển của KGST tại Hà Nội, khám phá

các thực hành văn hóa và các chiều kích nghĩa đa dạng của KGST trong bối

cảnh đô thị đƣơng đại.

Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên

cứu cơ bản sau:

- Hệ thống các khía cạnh lý thuyết quan trọng trong nghiên cứu về

không gian đô thị, KGST.

- Phân tích, lý giải các yếu tố tác động đến sự hình thành, tồn tại và

phát triển của các KGST gắn với bối cảnh đô thị đƣơng đại.

- Phân tích các thực hành văn hóa trong hai KGST tại Hà Nội: Giấc mơ

nhỏ và Cà phê Văn1.

- Phân tích ý nghĩa của các thực hành văn hóa trong KGST.

1 Tên 2 không gian sáng tạo cũng nhƣ tên các nhân vật trong luận án đã đƣợc thay đổi để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh.

3

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

- Đối tƣợng nghiên cứu: các thực hành văn hóa tạo nghĩa cho các không

gian để trở thành KGST, nói cách khác là cách thức kiến tạo KGST của các

nhóm chủ thể. Luận án lựa chọn nghiên cứu trƣờng hợp hai KGST Giấc mơ

nhỏ và Cà phê Văn, đều là những KGST độc lập ở Hà Nội - một đô thị lớn

của Việt Nam, nơi chứng kiến nhiều thay đổi về kinh tế, văn hóa xã hội trong

những năm qua, là không gian quy tụ của nhiều tầng lớp xã hội, nơi tính cách

đô thị gắn với tầng lớp thị dân đƣợc bộc lộ một cách rõ rệt và hơn nữa cũng là

môi trƣờng dung dƣỡng, tạo tiền đề cho sự xuất hiện của nhiều KGST.

- Khách thể nghiên cứu: Mỗi KGST đƣợc kiến tạo nên bởi những cá

nhân, những nhóm khác biệt gắn với mong muốn, nhu cầu và mối quan tâm

riêng. Trong trƣờng hợp hai không gian đƣợc nói đến trong luận án này là

những ngƣời trẻ tại KGST Giấc mơ nhỏ và các trí thức tại KGST Cà phê Văn.

Sự phân tách này chỉ mang tính tƣơng đối bởi thực tế trong mỗi KGST có sự

tham gia đa dạng của nhiều cá nhân thuộc về nhiều nhóm xã hội, nhiều nhóm

tuổi khác khác nhau. Tuy nhiên, luận án chủ yếu sẽ đề cập đến những ngƣời

trẻ tuổi ở KGST Giấc mơ nhỏ và những trí thức lớn tuổi tại KGST Cà phê

Văn.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án không đặt ra mong muốn nghiên cứu bao quát mọi vấn đề về

KGST (sự hình thành và phát triển của các KGST tại Việt Nam, các mô hình

KGST, những thuận lợi, khó khăn mà các KGST đang phải đối mặt, vai trò

của KGST đối với việc phát triển thành phố sáng tạo và rộng hơn là đối với

công nghiệp văn hóa tại Việt Nam...) mà tập trung vào những thực hành văn

hóa của các nhóm chủ thể kiến tạo. Luận án chú ý tới ý nghĩa của các thực

hành trong KGST, đặt các thực hành đó trong mối tƣơng tác với bối cảnh văn

hóa, chính trị, kinh tế của đô thị đƣơng đại, xem KGST nhƣ là nơi phản ánh

4

những mối bận tâm, trăn trở của con ngƣời đối với những vấn đề đang xảy ra

trong xã hội.

Về thời gian nghiên cứu: luận án đƣợc thực hiện từ giữa năm 2017 đến

cuối năm 2020.

Về không gian nghiên cứu: Các KGST đƣợc nói đến trong luận án đều

ở Hà Nội - trung tâm chính trị quốc gia, một trong những đầu mối phát triển

kinh tế xã hội lớn, giữ vai trò quan trọng trong bối cảnh chuyển đổi của Việt

Nam. Đây là thành phố vốn có bề dày văn hóa, lại cũng là nơi đón nhận nhiều

tƣ tƣởng, trào lƣu văn hóa mới, tồn tại nhiều điều kiện khả thể dung dƣỡng

cho sự ra đời và phát triển của các KGST. Sự đa dạng, sống động của các

KGST tại Hà Nội có thể đƣợc xem nhƣ là kết quả của quá trình đô thị hóa

năng động với những thay đổi mạnh mẽ và sâu sắc về văn hóa, xã hội và kinh

tế. Từ Hà Nội, về sau các KGST bắt đầu đƣợc lan tỏa và nhen nhóm hình

thành ở nhiều thành phố khác.

Ngoài phạm vi nghiên cứu là không gian thực tế, NCS cũng tiến hành

nghiên cứu KGST qua các không gian trực tuyến (mạng xã hội Facebook,

website riêng của các KGST...), xem đây nhƣ là sự nối dài và mở rộng các

KGST vốn hạn hữu cả về không gian lẫn thời gian. Các KGST đã xây dựng

nên trang cá nhân trên facebook nhằm kết nối và thông tin rộng rãi tới đông

đảo ngƣời quan tâm. Đó cũng là nơi họ nhận đƣợc những chia sẻ, bình luận và

phản hồi về các hoạt động. Các website, tƣơng tự nhƣ vậy, cũng là nơi cung

cấp, mở rộng vốn kiến thức nền hoặc chuyên sâu cho các cuộc thảo luận đã

hoặc sẽ diễn ra. Ngoài chức năng thông tin về sự kiện thì những bài báo, tin

tức nào đƣợc chọn để đăng tải, chia sẻ và bình luận cũng là những tín hiệu

cho biết về mối quan tâm, sự chú ý của các nhóm chủ thể kiến tạo nên các

KGST này.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

NCS xác định đây là một nghiên cứu định tính. Những phƣơng pháp

chính đƣợc sử dụng trong luận án bao gồm:

5

- Tổng hợp, phân tích các tài liệu thứ cấp: phƣơng pháp này đƣợc sử

dụng để cung cấp cái nhìn khái quát về không gian đô thị cũng nhƣ KGST tại

Hà Nội. Việc thu thập, phân tích các bài viết trên báo, tạp chí, các tài liệu đã

xuất bản liên quan đến KGST nói riêng, các tài liệu về không gian đô thị nói

chung phục vụ cho việc viết chƣơng 1. Phƣơng pháp này cũng đƣợc sử dụng

ở chƣơng viết cuối, hỗ trợ trong việc diễn giải, phân tích, bình luận về ý nghĩa

của các KGST trong đời sống văn hóa đô thị đƣơng đại.

- Quan sát tham dự:

+ Giai đoạn đầu (từ giữa năm 2017 đến giữa năm 2018): Dù chính thức

thực hiện luận án từ giữa năm 2017 nhƣng trƣớc đó, từ đầu năm 2016, NCS

đã quan tâm và bắt đầu tìm hiểu về các KGST tại Hà Nội. NCS tham dự sự

kiện, chƣơng trình tại nhiều KGST để có thông tin về sự hình thành, cách

thức kiến tạo không gian, ý nghĩa của KGST với các nhóm chủ thể. Danh mục

40 KGST đƣợc liệt kê trong khảo sát ban đầu của Hội đồng Anh năm 2014

chính là manh mối, là gợi ý để NCS bắt đầu quá trình nghiên cứu. NCS đã tìm

đọc lại những tƣ liệu, bài viết trên báo chí, xem phim tài liệu về tổ hợp KGST Zone 92 - một trong những KGST ra đời sớm, từ năm 2013. Zone 9 từng đƣợc

xem nhƣ một hiện tƣợng lạ nhất trong lịch sử phát triển đô thị Hà Nội sau Đổi

Mới - nơi lui tới của nhiều cá tính độc đáo, phóng khoáng, tự do biểu đạt suy

nghĩ, quan điểm, yêu nghệ thuật và yêu Hà Nội theo những cách riêng -

nhƣng lại cũng là nơi có số phận ngắn ngủi, chỉ tồn tại trong vòng tám tháng.

Zone 9 nhƣ một điểm sáng mà sau đó, khi không còn tồn tại nữa thì những dƣ

âm của nó tiếp tục đƣợc lan tỏa bằng việc xuất hiện hàng loạt những KGST

khác trong thành phố mà lần lƣợt NCS cũng đã tìm đến nhƣ: Hanoi Creative

City (phố Lƣơng Yên), Heritage Space (phố Trần Bình), Manzi (phố Phan

Huy Ích), Doclab (phố Nguyễn Thái Học, sau chuyển về Thụy Khuê), Tổ

chim xanh (phố Đặng Dung), Trung tâm hỗ trợ và phát triển tài năng điện

liệu Zone 9

tài

- đạo diễn Nguyễn Anh Thƣ, xem

thêm

tại

2 Phim http://zone9documentary.com/

6

ảnh TPD (phố Trần Hƣng Đạo), Cà phê thứ bảy (phố Ngô Quyền, sau chuyển

về Trần Xuân Soạn), Kinergie Studio (phố Nguyễn Khuyến)… Quan sát tham

dự và những tìm hiểu ban đầu giúp NCS có cái nhìn khái quát về sự đa dạng

trong cách thức kiến tạo cũng nhƣ ý nghĩa của các không gian đối với từng

nhóm ngƣời cụ thể. Một số KGST là những ví dụ minh chứng rõ nét và thuyết

phục về vai trò của KGST đã đƣợc nói đến trong các nghiên cứu, các hội thảo

do Hội đồng Anh tổ chức mà NCS nhiều lần tham dự, dƣới góc nhìn quản lý

văn hóa: hƣớng tới mục tiêu phát triển công nghiệp sáng tạo, là mô hình kinh

doanh nhỏ và siêu nhỏ, là không gian kết nối và hỗ trợ ngƣời trẻ làm công

việc sáng tạo, nơi trƣng bày và bán sản phẩm hay không gian làm việc chung

(co-working)… Từ việc “lê la” nhiều hơn, ngồi lâu hơn để tham dự và lắng

nghe nội dung trao đổi, chia sẻ tại các sự kiện của các KGST, NCS dần dần

nhận thấy, ngoài những chức năng trên, KGST còn có những ý nghĩa khác

nữa, không chỉ để kinh doanh, không chỉ để sáng tạo nghệ thuật mà còn là

không gian của sự tham gia, nơi bàn thảo, trao đổi về những chủ đề chung của

xã hội, phản biện chính sách, thúc đẩy tự do tƣ duy, tự do biểu đạt, tạo ra

những tác động quan trọng trong xã hội. Cũng từ giai đoạn này, NCS đã xác

định đƣợc đối tƣợng khảo sát chính là KGST Cà phê Văn và Giấc mơ nhỏ.

+ Giai đoạn thứ hai (từ giữa năm 2018 đến năm 2020): NCS tiếp tục có

mặt thƣờng xuyên trong nhiều sự kiện tại hai KGST đƣợc lựa chọn để nghiên

cứu. Bối cảnh và thực tế của các KGST tại Hà Nội thời gian này có nhiều biến

động: có KGST di chuyển địa điểm hoặc đóng cửa (60s Thổ Quan - phố

Khâm Thiên), có KGST mới đƣợc thành lập, thu hút sự quan tâm của ngƣời

dân thủ đô nhƣ Ơ kìa Hà Nội (phố Hoàng Hoa Thám, sau chuyển địa điểm ra

Đê La Thành), nhiều KGST điều chỉnh, thay đổi cách thức vận hành để phù

hợp hơn với bối cảnh và cũng để dễ dàng tiếp cận ngƣời tham dự. Các sự kiện

mà NCS tham dự tại hai KGST đƣợc chọn là Cà phê Văn và Giấc mơ nhỏ đa

phần đƣợc tổ chức vào các ngày cuối tuần, cả ban ngày và buổi tối. Có

khoảng thời gian khi các KGST duy trì sinh hoạt đều đặn, thì nhƣ là một thói

7

quen, cứ cuối tuần NCS lại có mặt tại các không gian đó, dõi theo câu chuyện

cùng với nhiều ngƣời tham dự khác. NCS thƣờng đến sớm hơn so với thời

gian bắt đầu cũng nhƣ nán lại lúc sự kiện kết thúc để có thể quan sát và tranh

thủ hỏi han thêm. Ở đó, NCS gặp nhiều gƣơng mặt quen thuộc vẫn thƣờng

xuất hiện, tham dự trong nhiều sự kiện đƣợc tổ chức tại hai KGST này. Họ

đến đây nhƣ một nhu cầu thiết yếu của đời sống, để đƣợc nghe thêm những

câu chuyện, đƣợc gặp gỡ một nhân vật, một vài ngƣời bạn, để đƣợc cất tiếng

nói, thể hiện ý kiến cá nhân của mình, cùng với nhiều những giọng nói khác.

- Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: phƣơng pháp phỏng vấn sâu nhằm tìm

hiểu rõ hơn về nguyện vọng, tình cảm, động lực ngƣời đến tham dự, nói cách

khác là tập trung vào ý nghĩa của các KGST đối với những ngƣời đã kiến tạo

nên nó. Việc tiếp cận, liên hệ và làm quen với đối tƣợng phỏng vấn đƣợc thực

hiện theo hình thức “quả bóng tuyết” (snowball): ngƣời đƣợc phỏng vấn trƣớc

sẽ giới thiệu những ngƣời khác - là bạn hoặc là ngƣời quen của họ - cũng

thƣờng xuyên tham dự sự kiện tại các KGST. Một số trƣờng hợp khác do

NCS chủ động bắt chuyện, làm quen và gặp gỡ trong các KGST. NCS đã tiến

hành phỏng vấn sâu 2 nhóm đối tƣợng: 1. Ngƣời sáng lập, ngƣời đồng sáng

lập ra KGST, những ngƣời chủ trì tổ chức các sự kiện (7 ngƣời); 2. Ngƣời đến

tham dự, ngƣời tham gia thực hành nghệ thuật tại các KGST (15 ngƣời).

Những ngƣời đƣợc chọn để phỏng vấn ở nhiều độ tuổi, nghề nghiệp, giữ vai

trò khác nhau trong KGST. Các cuộc phỏng vấn đƣợc tiến hành theo hình

thức phỏng vấn bán cấu trúc, thƣờng kéo dài từ 1-3 tiếng, diễn ra tại chính hai

KGST đƣợc khảo sát, ở một KGST khác, tại nhà riêng hoặc các quán cà phê.

Một số cuộc phỏng vấn đƣợc ghi âm với sự cho phép của ngƣời đƣợc phỏng

vấn. Còn lại, để việc chia sẻ của ngƣời cung cấp thông tin đƣợc tự nhiên và

thoải mái, NCS không thực hiện việc ghi âm mà sử dụng cách thức ghi chép

nhanh. Phƣơng pháp này cũng là một thách thức với chính cá nhân NCS bởi

ngay cả khi việc tranh thủ hồi cố nội dung diễn ra sau cuộc nói chuyện thì vẫn

có một số chi tiết hay thông tin bị bỏ lỡ (có thể đƣợc nhớ lại, bổ sung sau đó

8

vài hôm) hoặc không thể diễn đạt lại một cách toàn vẹn, chính xác các từ ngữ

mà ngƣời đƣợc phỏng vấn đã sử dụng.

Hầu hết các KGST đều sử dụng mạng xã hội (facebook) nhƣ một hình

thức kết nối, phổ biến thông tin cũng nhƣ nhận chia sẻ, đánh giá của mọi

ngƣời về các chƣơng trình đƣợc tổ chức. Vì vậy, việc “lê la” không chỉ diễn

ra tại các không gian vật lý mà còn cả trên không gian mạng xã hội, nơi NCS

vẫn có thể quan sát, nói chuyện, phỏng vấn. NCS đã tham gia vào trang cá

nhân của các KGST, trở thành thành viên của một số nhóm trên facebook,

nhóm trò chuyện qua messenger, một mặt để theo dõi các hoạt động của các

KGST, mặt khác cũng để tƣơng tác, kết nối, làm quen và hỏi chuyện. Nhiều

cuộc phỏng vấn, đúng hơn là trò chuyện qua messenger kéo dài 2-3 giờ. Vài

bạn trẻ có phần ngại ngần khi giao tiếp trực tiếp nhƣng lại dễ dàng bộc bạch,

trải lòng bằng hình thức viết trên cửa sổ nói chuyện online. Một số KGST còn

có website riêng để đăng tải nhiều bài viết của các thành viên hay của các nhà

nghiên cứu khác về chủ đề liên quan đến sự kiện nhƣ một cách cung cấp hiểu

biết nền, khơi mở ý tƣởng cho cuộc đối thoại sắp diễn ra. Cũng có khi các bài

viết đƣợc tải lên sau sự kiện nhằm mở rộng thêm các chiều cạnh khác của vấn

đề mà do hạn hữu về thời gian của chƣơng trình, chƣa thể nói hết, chƣa đƣợc

đề cập đến. Ở đây, NCS xem các trang facebook hay các website nhƣ một

hình thức để nới rộng biên giới của không gian thực, phần nào xóa đi kích

thƣớc thực tế nhỏ hẹp của KGST, giúp thành viên của nhóm có thể tƣơng tác,

kết nối xa và rộng hơn.

Nghiên cứu văn hóa đô thị, không tiến hành điền dã theo theo lối truyền

thống là về ở tại cộng đồng, tham gia sinh hoạt cùng với cộng đồng trong một

thời gian dài, liên tục, lặp đi lặp lại mà bằng việc thƣờng xuyên có mặt trong

các sự kiện tại các KGST, NCS dần dần có thêm thông tin, làm quen và nói

chuyện đƣợc với những ngƣời cùng đến tham dự. Ban đầu việc tiếp cận có

nhiều khó khăn vì NCS giống nhƣ rơi vào tình trạng “lỡ cỡ” giữa hai nhóm

tuổi ở hai không gian khác nhau: Giấc mơ nhỏ thƣờng dành cho những ngƣời

9

trẻ, độ tuổi từ 16 đến dƣới 30 trong khi Cà phê Văn thƣờng có sự góp mặt của

những trí thức từ độ tuổi trung niên. Nhƣng về sau sự khác biệt tuổi tác không

còn bất lợi nữa khi ở không gian của những trí thức lớn tuổi, bằng sự cầu thị

và muốn lắng nghe, NCS luôn đƣợc giảng giải tận tình, kĩ lƣỡng. Cũng nhƣ

vậy ở không gian dành cho giới trẻ, sau một thời gian ngại ngần, dè chừng

ban đầu, các bạn, các em đã chia sẻ, kể những câu chuyện về họ, nhất là trong

những buổi gặp gỡ bàn tròn mà NCS tham gia nhƣ là một thành viên của

nhóm.

- Tƣ liệu của luận án còn từ những ghi chép về suy nghĩ, cảm nhận của

cá nhân NCS sau mỗi sự kiện với vai trò ngƣời tham dự. NCS xem đó chính

là việc “trải nghiệm các sự kiện và ý nghĩa bằng cách thức tương tự như trải

nghiệm của các thành viên” (Robert M. Emerson và các cộng sự, 2014) [14].

Có nhiều khi vai “ngƣời nghiên cứu” bị mờ nhòe đi, tham dự nhiều hơn quan

sát khi chính NCS cũng bị cuốn vào mạch suy nghĩ và thảo luận của nhóm.

Thời gian đầu, việc tham dự tại các KGST là để phục vụ cho mục đích nghiên

cứu, về sau trở thành một thói quen, một nhu cầu cá nhân với mong muốn

đƣợc nghe, đƣợc thảo luận, đƣợc cập nhật những thông tin của đời sống xã

hội. Những phân tích và diễn giải trong luận án, do đó, phản ánh quá trình cố

gắng hòa nhập sâu hơn vào thế giới của “ngƣời khác”, nỗ lực để biết, để hiểu

về ý nghĩa thực hành văn hóa của các nhóm chủ thể trong các KGST từ góc

nhìn những ngƣời trong cuộc.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

- Luận án là công trình đầu tiên tìm hiểu những chiều kích văn hóa của

các KGST.

- Luận án khám phá các thực hành văn hóa và ý nghĩa của các thực

hành văn hóa đó với các nhóm chủ thể trong xã hội, những ngƣời bằng cách

này hay cách khác tham gia kiến tạo nên các KGST.

10

- Luận án cung cấp những luận giải về căn nguyên và động lực của các

thực hành văn hóa tại các KGST, từ đó chỉ ra tác động xã hội của các KGST

cũng nhƣ những thay đổi trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Ý nghĩa lý luận: Ý nghĩa lý luận của luận án đƣợc thể hiện trên hai

phƣơng diện. Thứ nhất, từ việc phân tích thực hành văn hóa tại các KGST,

luận án mở rộng những chiều kích ý nghĩa của KGST, nhìn nhận KGST nhƣ

là những nơi chốn quan trọng đối với các nhóm chủ thể trong thành phố, góp

phần kiến tạo bản sắc nhóm, bản sắc cá nhân, nơi trí thức bày tỏ mối quan tâm

với nhiều vấn đề quan trọng của đời sống xã hội, nơi thể hiện những nỗ lực

nới rộng biên độ của tự do biểu đạt trong bối cảnh hạn hẹp của các không gian

công trong đô thị. Thứ hai, luận án đóng góp một quan điểm học thuật về một

loại hình không gian đặt trong bối cảnh không gian đô thị đƣơng đại: không

gian sáng tạo, bổ sung thêm vào bức tranh nghiên cứu về không gian đô thị

vốn đã rất bề bộn và đa dạng tại Việt Nam.

- Ý nghĩa thực tiễn: Qua việc nghiên cứu các thực hành văn hóa, ý

nghĩa của các thực hành văn hóa trong các KGST đối với các nhóm chủ thể,

luận án chỉ ra rằng KGST ngày càng giữ vai trò quan trọng trong đời sống đô

thị, phản ánh mong muốn nới rộng biên độ của sự tự do, nhƣ một diễn đàn

cho các thảo luận mở, là nơi thể hiện nguyện vọng của công dân, nơi thực

hiện quyền tham gia của ngƣời dân với xã hội. KGST nhƣ là những không

gian xã hội, không gian văn hóa, nơi cùng lúc đảm nhiệm nhiều vai trò đối với

đời sống hàng ngày: cung cấp thông tin, nâng cao vốn hiểu biết, mang lại cơ

hội thƣởng thức và sáng tạo nghệ thuật, nơi gặp gỡ, trò chuyện kết nối và hơn

hết là môi trƣờng lý tƣởng cho phép ngƣời dân thể hiện những mong muốn,

nhu cầu của mình về nhiều vấn đề đang diễn ra trong xã hội. Với ý nghĩa đó,

luận án là tƣ liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu văn hóa, những ngƣời

làm chính sách liên quan đến KGST, các cơ quan quản lý về văn hóa cũng

nhƣ chính quyền đô thị.

11

7. Cơ cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận án đƣợc kết cấu

thành 4 chƣơng:

Chƣơng 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý luận

Chƣơng 2: Bối cảnh xã hội tại các đô thị và sự ra đời của các không

gian sáng tạo

Chƣơng 3: Thực hành văn hóa tại các không gian sáng tạo

Chƣơng 4: Không gian sáng tạo: tự do biểu đạt và kiến tạo bản sắc

12

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

1.1.1. Nghiên cứu về không gian đô thị

Không gian đô thị từ lâu là một chủ đề hấp dẫn, thu hút nhiều nghiên

cứu của các ngành khoa học khác nhau. Các nghiên cứu đa phần thƣờng tập

trung vào hai chiều cạnh cơ bản của không gian đô thị: không gian chức năng

và không gian xã hội. Khi xem xét không gian đô thị nhƣ một không gian

chức năng, các nghiên cứu thuộc ngành kiến trúc, quy hoạch và quản lý đô thị

thƣờng đề cập đến cấu trúc không gian đô thị, coi không gian đô thị là một

vùng lãnh thổ, một khu vực mà ở đó xây dựng, kiến thiết nên cơ sở vật chất

phục vụ, đáp ứng nhu cầu về làm việc, nghỉ ngơi, giải trí, giao tiếp của cƣ dân

đô thị, hƣớng đến việc tạo lập đô thị sinh thái, nhân văn và phát triển bền

vững. Theo đó, không gian đô thị thƣờng bao gồm khu vực xây dựng nhà ở,

công trình dịch vụ đô thị, hệ thống phục vụ giáo dục (trƣờng học), thƣơng mại

(trung tâm thƣơng mại, chợ, siêu thị…), sản xuất (nhà máy, công xƣởng, văn

phòng…). Trong khi đó, các nghiên cứu của ngành xã hội học, văn hóa học,

nhân học… thƣờng xem không gian đô thị nhƣ một không gian xã hội, nơi

quy tụ, tập trung của nhiều nhóm xã hội với những đặc điểm riêng về giới

tính, lứa tuổi, trình độ, mối quan tâm, nhu cầu, thị hiếu… Trong luận án này,

để xây dựng cơ sở lý luận cho những phân tích sau về KGST, NCS chỉ lựa

chọn tổng quan một số nghiên cứu dƣới góc độ tiếp cận thứ hai, coi không

gian đô thị nhƣ một không gian xã hội.

Với lý thuyết kiến tạo không gian xã hội (the social production of

space), công trình kinh điển The production of space (Sự sản xuất không gian)

của Henri Lefebvre (1901-1991) - nhà xã hội học và triết gia ngƣời Pháp -

đƣợc viết năm 1974, bản dịch tiếng Anh năm 1991, đã đóng góp quan trọng

cho lý thuyết không gian đô thị, tạo nên một “bƣớc ngoặt về không gian” (the

13

spatial turn), mở ra một mối quan tâm mới về không gian. Theo Lefebvre,

không gian không phải là một cấu trúc tĩnh mà là sản phẩm mang tính xã hội

do con ngƣời tạo ra, đƣợc kiến tạo và tái kiến tạo bởi con ngƣời, đƣợc định

hình bởi ý tƣởng, niềm tin, giá trị và nguyên tắc, từ sở thích và những mối bận

tâm của con ngƣời:

“Không gian (xã hội) là một sản phẩm xã hội… không gian

sản xuất như vậy đảm nhiệm như một công cụ suy nghĩ và hành

động; bên cạnh việc là một tư liệu sản xuất, nó còn là tư liệu kiểm

soát, và như vậy là tư liệu cai trị, quyền lực.” [107].

Trong nghiên cứu này, Lefebvre đã thách thức các khái niệm truyền thống về

không gian nhƣ một bối cảnh thụ động, cố định và đề xuất khái niệm không

gian là sự thống nhất của ba phƣơng diện: phƣơng diện vật lí (physical space),

phƣơng diện xã hội (social space) và phƣơng diện tinh thần (mental space).

Mục tiêu của Lefebvre trong việc xây dựng bộ ba không gian này là để chứng

minh không gian không phải là một đối tƣợng mà là kết quả của một tập hợp

các mối quan hệ. Không gian định hình và đƣợc định hình bởi các mối quan

hệ xã hội. Lefebvre cũng cho rằng mọi xã hội đều tạo nên những không gian

xã hội khác biệt để đáp ứng cho nhu cầu của con ngƣời.

Tác phẩm của Lefebvre có ảnh hƣởng sâu sắc, tạo ra cả một giai

đoạn không gian - những năm đầu thập niên 1990 - khi khiến cho các nhà lí

thuyết nhân học hay cả các nhà địa lí hậu hiện đại nỗ lực nghĩ và hiểu về

không gian theo một cách khác. Không gian là năng động, là sự đan xen giữa

biểu hiện và kinh nghiệm sống, chạm vào tất cả các lĩnh vực của đời sống,

văn hóa, tôn giáo… Không gian dần trở thành đối tƣợng nghiên cứu trung

tâm. Những nghiên cứu về không gian ngày càng nhiều. Các chiều kích ý

nghĩa của không gian dần đƣợc mở ra trong mối quan hệ với con ngƣời, góp

phần giải thích ý nghĩa của nhiều thực hành văn hóa. Các loại không gian theo

đó cũng khá đa dạng, có nhiều loại không gian cùng tồn tại (Nguyễn Văn

Sửu, 2011) [68]. Setha Low và Denise Lawrence-Zuniga (2007) trong nghiên

14

cứu “Locating Culture” đã phân thành 6 loại không gian bao gồm: không

gian hiện thân, gắn với những trải nghiệm của cơ thể (embodied space),

không gian của giới và các mối quan hệ (gendered spaces), không gian ký ức

(inscribed spaces), không gian tranh chấp (contested space), không gian

xuyên biên giới (trannational spaces), các chiến thuật không gian (spatial

tactics) [111]. Victor H. Matthews (2003) lại chia thành ba loại không gian:

không gian vật thể (physical space), không gian tƣởng tƣợng (imagined

space) và không gian sống (lived space) [114]. Hay không gian công (public

space) và không gian tƣ (private space) trong nghiên cứu của Lisa Drummond

(2000) [87] và Sandra Kurfürst (2008) [105]; không gian thiêng trong nghiên

cứu của Phạm Quỳnh Phƣơng (2010) [49] … Rất nhiều các phân tích đa dạng

về không gian đô thị sau này đều dựa trên quan niệm không gian là một kiến

tạo xã hội.

Trong bối cảnh đô thị tại Việt Nam, sự kiến tạo của các cộng đồng, các

nhóm chủ thể văn hóa khác nhau cũng tạo ra những chiều kích không gian

khác nhau, phản ánh những động năng của xã hội cũng nhƣ nhu cầu, mong

muốn và mối quan tâm của con ngƣời. Nhiều nhất trong số đó là những

nghiên cứu về không gian công cộng (KGCC). Có thể nói, bối cảnh nghiên

cứu về KGCC khá đa dạng, bề bộn, nhƣ chính thực tiễn của các KGCC trong

không gian đô thị. Khái niệm KGCC đƣợc đề cập và nghiên cứu dƣới nhiều

góc độ khác nhau: kiến trúc, quy hoạch và quản lý đô thị; xã hội học; văn hóa

học; nhân học… Các nghiên cứu đều thừa nhận những đóng góp tích cực của

các KGCC cho đời sống thành phố, sự đa dạng của các loại hình KGCC cũng

nhƣ ý nghĩa của nó đối với từng nhóm ngƣời cụ thể, quan tâm đến kích thƣớc

KGCC qua việc tìm hiểu sự “co giãn”, nới rộng hay thu hẹp các không gian,

chiến lƣợc riêng hóa KGCC phục vụ cho mục đích cá nhân…

Các nhà kiến trúc, quy hoạch và quản lý đô thị quan tâm tới việc quy

hoạch, tổ chức không gian và phát triển đô thị, nhìn nhận KGCC nhƣ là

những không gian mở, dễ tiếp cận, là nơi giao tiếp và nghỉ ngơi, thƣ giãn, là

15

môi trƣờng văn hóa xã hội - nơi diễn ra những tƣơng tác xã hội, đáp ứng và

thỏa mãn nhiều nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của ngƣời dân đô thị. Theo đó

KGCC có thể bao gồm đƣờng sá, quảng trƣờng, công viên, những khoảng

không gian giữa các công trình kiến trúc... Nhiều nghiên cứu quan tâm đến

KGCC nhƣ một trong nhiều các yếu tố để tạo nên “thành phố đáng sống”,

mang lại nhiều ý nghĩa cho cấu trúc, môi trƣờng và cuộc sống đô thị, là nơi

thể hiện sống động nhất phần hồn của đô thị hay tạo ra bản sắc riêng cho đô

thị, có thể kể đến nhƣ các bài viết trong kỷ yếu hội thảo chuyên đề Chuyển

hóa đô thị và tương lai của cuộc sống đô thị tại Việt Nam năm 2005 do Trung

tâm nghiên cứu toàn cầu hóa và Giải pháp đô thị - nông thôn đồng tổ chức

[74], Không gian công cộng trong đô thị, từ lý luận đến thiết kế của Phạm

Thúy Loan (2016) [37], Không gian công cộng - những vấn đề chính và biện

pháp kiểm soát của Nguyễn Thanh Bình (2017) [5], Sức hấp dẫn của không

gian công cộng (Doãn Minh Khôi, 2018) [33], Không gian công cộng trong

quy hoạch và phát triển bền vững (Nguyễn Quang, 2018) [56]… KGCC trong

những trƣờng hợp này để chỉ những không gian ngoài trời, không gian tự

nhiên, không gian mở (nhƣ công viên, đƣờng phố, vỉa hè, quảng trƣờng…)

hay các khoảng không gian trong nhà nhƣng đƣợc phép tiếp cận tự do (nhà

ga, sân bay, trung tâm thƣơng mại…), nơi diễn ra các hoạt động mang tính

công cộng nhƣ nghỉ ngơi, giao tiếp, mua bán, đi lại… KGCC đƣợc xem là

“khoảng thở”, “những phần không gian trống” của cảnh quan đô thị nơi mà

ngƣời dân bƣớc ra khỏi những “chiếc hộp” cá nhân để tham gia vào đời sống

chung. Các nghiên cứu cũng lo lắng cho sự biến mất của các KGCC khi mà

dƣờng nhƣ KGCC đang không đƣợc sử dụng nhƣ mục đích ban đầu, bị lấn

chiếm và sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, hay sự xung đột giữa các

nhóm ngƣời sử dụng KGCC giữa các thế hệ, các tầng lớp xã hội, từ đó bàn

đến trách nhiệm quản lý hay những khuyến nghị về việc duy trì và cung cấp

KGCC cho các nhóm đối tƣợng. Thách thức đó đƣợc nhìn nhận, lý giải và

phân tích nhƣ là kết quả của quá trình chuyển dịch đô thị, quá trình đô thị hóa

16

diễn ra mạnh mẽ, sức ép về nhu cầu sử dụng KGCC ngày càng tăng, hạ tầng

kĩ thuật công cộng chƣa theo kịp để đáp ứng nhu cầu của ngƣời dân… và từ

đó đặt ra trách nhiệm cho các nhà quản lý trong việc xây dựng khung pháp lý

để quản lý, kiểm soát, tạo dựng và đáp ứng KGCC cho ngƣời dân. Nhìn

chung, phần lớn các nghiên cứu này đều đƣợc tiếp cận với góc nhìn từ trên

xuống, mong muốn thiết kế và tạo dựng nên những KGCC phục vụ cho ngƣời

dân đô thị, bằng việc dựng nên hoặc mô phỏng một mô hình KGCC nào đó và

áp dụng cho các KGCC trong thành phố. Trong những nghiên cứu này, ngƣời

ta khó lòng có thể tìm thấy những gƣơng mặt con ngƣời và đời sống đa dạng,

muôn màu, mà thƣờng chỉ thấy con ngƣời dƣới dạng thức những con số, tỉ số

bình quân bao nhiêu ngƣời trên một mét vuông diện tích KGCC. Hơn nữa,

các nghiên cứu từ góc nhìn kiến trúc, thiết kế đô thị thƣờng có xu hƣớng mô

hình hóa, tạo ra những KGCC gọn ghẽ, văn minh, hiện đại. Nhƣng thực tế,

KGCC tồn tại trong thế sinh động, bề bộn hơn rất nhiều.

Bổ khuyết cho những hạn chế của cách tiếp cận từ trên xuống, từ góc

nhìn của ngành văn hóa học, xã hội học, nhân học… với cách tiếp cận từ dƣới

lên lại cho thấy nhiều ý nghĩa khác của KGCC. Trong những thảo luận về đời

sống đô thị hàng ngày và những chuyển đổi chính trị - kinh tế - xã hội đƣợc

phản ánh lên các không gian đô thị, có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những cách

thức tạo dựng không gian của các nhóm chủ thể đa dạng.

Các công trình nhƣ Youth-friendly public spaces in Hanoi (Không gian

công cộng cho giới trẻ ở Hà Nội) năm 2015 [99], Youth-Driven Tactics of

Public Space Appropriation in Hanoi: The Case of Skateboarding and

Parkour (Chiến thuật chiếm đoạt không gian công cộng của thanh niên tại Hà

Nội: trường hợp trượt ván và parkour) của Stephanie Geertman, Danielle

Labbé, Julie-Anne Boudreau và Olivier Jacques [91] đã tập trung vào giới trẻ -

một bộ phận dân số đông đảo, giữ vai trò là thế hệ định hình tƣơng lai của quá

trình chuyển đổi đô thị. Các nghiên cứu này làm sáng tỏ cách thức mà ngƣời trẻ

gắn bó với thành phố, tìm cách tiếp cận không gian cho các hoạt động giải trí, thể

17

thao, gặp gỡ bạn bè hay cho những thực hành mới nhƣ trƣợt ván, parkour… Để

có thể “chiếm đoạt” các KGCC, thanh niên đô thị đã áp dụng các chiến thuật quy

mô nhỏ, phi ý thức hệ và không đối đầu, đối diện với rất nhiều nguyên tắc của

các bên khác nhau, từ chính sách quản lý không gian của nhà nƣớc, các tổ chức

doanh nghiệp và cả ngƣời dân… Bằng các chiến thuật mềm dẻo, linh hoạt đó, họ

dần đƣợc chấp nhận trong các KGCC, tạo ra đƣợc không gian cho chính mình để

theo đuổi sở thích, đam mê, từ đó kiếm tìm và định hình bản sắc.

Nghiên cứu Vỉa hè Hà Nội - không gian đa chiều tương tác của Nguyễn

Thị Phƣơng Châm - Hoàng Cầm (2021) tập trung vào không gian vỉa hè, đặt

trong bối cảnh văn hóa vỉa hè nơi “tất cả các khía cạnh của đời sống văn hóa

diễn ra và liên quan đến không gian vỉa hè” [7] để khám phá những những

lớp nghĩa bề bộn mà không gian vỉa hè chuyên chở. Sự “bề bộn” của không

gian vỉa hè trong xã hội phức tạp đa tầng, đa nghĩa gắn với thói quen, lối sống

của ngƣời dân. Không gian vỉa hè trở nên sống động, bề bộn công năng và các

chiều kích nghĩa khác nhau: vừa là không gian kinh tế, không gian sinh hoạt,

không gian nghệ thuật, không gian xã hội, không gian của ký ức. Nó cũng

phản ánh sự thƣơng thỏa, co kéo, thích nghi linh hoạt và tài tình của con

ngƣời trong không gian đô thị chật hẹp.

Không gian vỉa hè tại đô thị nói chung, tại Hà Nội nói riêng hiện lên

qua rất nhiều nghiên cứu của các tác giả nƣớc ngoài, dƣới lăng kính của các

khái niệm “không gian công” (public space), “không gian tƣ” (private spacce)

là một biến thể KGCC thú vị, sinh động, chồng chất những tầng lớp ý nghĩa

mà đời sống của ngƣời dân đô thị đã tạo nên. Có thể kể đến các nghiên cứu

tiêu biểu nhƣ: Street scences: practices of public and private in urban

Vietnam (Cảnh quan đƣờng phố: những thực hành trong không gian công và

không gian tƣ tại đô thị Việt Nam) của Lisa Drummond (2000) [87], Wards of

Hanoi (Phố phƣờng Hà Nội) của David Koh (2006) [102], The pavement as

civic space: history and dynamics in the city of Hanoi (Vỉa hè nhƣ là không

gian công: lịch sử và sự năng động ở thành phố Hà Nội) của David Koh

18

(2007) [103]… Các thảo luận này tập trung vào việc làm mờ đi sự khác biệt

giữa “không gian công” và “không gian tƣ” trong bối cảnh đô thị Việt Nam

nơi mà thƣờng xuyên diễn ra hiện tƣợng các hoạt động mang tính riêng tƣ thì

đƣợc diễn ra nơi công cộng, tràn ra nơi công cộng (inside out) trong khi các

không gian riêng tƣ lại chịu sự can thiệp từ bên ngoài, từ nhà nƣớc (outside

in) (Lisa Drummond, 2000) [87]. Theo các tác giả, tại Việt Nam, không có sự

phân biệt rạch ròi giữa “không gian công” và “không gian tƣ” nhƣ truyền

thống xã hội phƣơng Tây. Các khái niệm mang tính học thuật của phƣơng

Tây, khi áp dụng vào Việt Nam cần đƣợc tính đến bối cảnh xã hội đặc thù, và

do vậy cũng cần đƣợc hiểu một cách linh hoạt.

Nghiên cứu Redefiding public space in Hanoi: places, practices and

meaning (Định nghĩa lại không gian công cộng ở Hà Nội: địa điểm, thực hành

và ý nghĩa) của Sandra Kurfürst (2011) [106] tập trung vào những thay đổi

trong mối quan hệ quyền lực giữa nhà nƣớc và xã hội đƣợc phản ánh qua sự

phát triển của các KGCC ở Hà Nội. Các chiều cạnh khác nhau của KGCC

cũng đƣợc phân tích, thể hiện qua mô hình 3 chiều: tính linh thiêng (các hoạt

động tôn giáo là một phần trong các thực hành hàng ngày tại các KGCC, tính

chính thức (các KGCC đƣợc thiết kế, xây dựng và quản lý bởi nhà nƣớc,

nhằm duy trì quyền lực của nhà nƣớc, tuy nhiên sự thống trị của chính quyền

cũng đang bị thách thức bởi việc tạo ra những ý nghĩa mới thông qua các thực

hành hàng ngày của ngƣời dân trong KGCC) và tính riêng tƣ (KGCC đƣợc sử

dụng để tạo ra sự riêng tƣ và thực hiện các hoạt động riêng tƣ, thể hiện quá

trình tƣ nhân hóa các KGCC). Nghiên cứu cho thấy nhiều KGCC đang đƣợc

hình thành trong lòng Hà Nội ở những mức độ công khai khác nhau, trở thành

khu vực chính trị nơi diễn ra các cuộc đàm phán giữa công dân và nhà nƣớc.

Vì vậy KGCC ở Hà Nội vừa là một đấu trƣờng cho lĩnh vực công (hay khu

vực công) (public sphere), vừa là một biểu hiện của lĩnh vực công.

Từ góc tiếp cận xã hội học, Lâm Thị Ánh Quyên (2011) coi KGCC là

đặc điểm chính của không gian đô thị, nơi biểu lộ bộ mặt đô thị cũng nhƣ bản

19

sắc đô thị, làm nên những “thành phố sống tốt” (chữ dùng của Douglas,

2008). KGCC đƣợc định nghĩa qua khả năng tiếp cận và sử dụng của ngƣời

dân. Tác giả cho rằng KGCC có mối quan hệ với “công cộng” (pulic sphere)

theo nghĩa là “công cộng đòi hỏi phải có một không gian vật lý. Không gian

này được gọi là không gian công cộng” [61]. Nghiên cứu của Trần Thị Ngọc

Nhờ (2019) [47] lại xem xét KGCC trong việc kết nối con ngƣời, thiết lập

mạng lƣới cá nhân và nhờ đó có vai trò quan trọng đối với việc hình thành và

phát triển các tiểu văn hóa trong lòng đô thị.

Các nghiên cứu Không gian bán công cộng và sự hình thành dư luận

xã hội của Nguyễn Quý Thanh, Trịnh Ngọc Hà (2009) [70]; luận án Tin đồn

và sự hình thành tin đồn trong không gian bán công cộng (nghiên cứu trường

hợp quán cà phê trên địa bàn Hà Nội) của Lữ Thị Mai Oanh (2019) [48] lại

xem xét một dạng đặc thù của KGCC là các không gian bán công cộng, xem

đó nhƣ là một nơi để hình thành dƣ luận xã hội. Các nghiên cứu đã chọn bối

cảnh nghiên cứu là các quán cà phê, địa điểm lí tƣởng cho các cá nhân trao

đổi, thảo luận về nhiều vấn đề khác nhau. Các nghiên cứu đã định danh các

không gian này là không gian bán công cộng, nơi kết hợp, pha trộn giữa hai

yếu tố công và tƣ, nơi ngƣời đến tham dự đƣợc tự do thể hiện bày tỏ ý kiến

nhƣng đồng thời cũng có nghĩa vụ phải tuân thủ những quy định do chủ sở

hữu không gian đặt ra nhƣ về trang phục, hành vi…). Đây cũng là không gian

thuận lợi cho việc tiếp nhận thông tin, tin đồn - những thông tin chƣa đƣợc

kiểm chứng - từ đó hình thành, lan tỏa, khuyếch trƣơng các tin đồn qua quá

trình tƣơng tác xã hội của các cá nhân, các nhóm khác nhau.

Qua điểm luận một số công trình, có thể thấy các nghiên cứu đã chỉ ra

sự quan trọng theo những cách khác nhau của KGCC đối với các nhóm chủ

thể trong không gian đô thị. Các chiều kích nghĩa cũng nhƣ các dạng thức của

KGCC ngày càng đƣợc mở rộng. KGCC tự biến hóa mình trong nhiều hình

thức, từ công viên, quảng trƣờng, vỉa hè đến chợ, trung tâm mua sắm, các

quán cà phê… và giữ những vai trò khác nhau gắn với mục đích kiến tạo: khi

20

là không gian cho các hoạt động giải trí hay tƣơng tác xã hội, khi là không

gian duy trì tính hợp pháp của quyền lực chính trị, khi là không gian tranh

chấp và thƣơng thỏa, khi là không gian để hình thành nên dƣ luận xã hội…

Nội hàm của khái niệm KGCC ngày càng trở nên phong phú và phức tạp hơn.

Trong đô thị hiện đại ngày nay, ngoài các hình thức KGCC nhƣ trên, có

những loại hình không gian khác vẫn đang đƣợc tạo ra, phản ánh nhu cầu của

ngƣời dân. Những phân tích ở các phần viết sau sẽ cho thấy KGST là một

dạng thức không gian khác trong không gian đô thị, đƣợc hình thành nên

trong bối cảnh đô thị hiện đại, một mặt gắn với sự phát triển của các ngành

công nghiệp sáng tạo, công nghiệp văn hóa tại Việt Nam, mặt khác thể hiện

nhu cầu thƣởng thức văn hóa nghệ thuật, trao đổi, tƣơng tác, tự do biểu đạt và

mong muốn đƣợc tham gia giải quyết những vấn đề chung của xã hội.

1.1.2. Nghiên cứu về không gian sáng tạo

Không gian sáng tạo từ góc nhìn của ngành công nghiệp sáng tạo

Ngành công nghiệp sáng tạo trong nhiều năm qua đã trở thành một

phần quan trọng của nền kinh tế trên toàn thế giới. Công nghiệp sáng tạo phát

triển khá nhanh chóng với sự gắn kết và giao thoa giữa các “trụ cột” nhƣ văn

hóa, kinh doanh và công nghệ, mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia. Đƣợc

xem là quốc gia tiên phong trong nền công nghiệp sáng tạo, từ cuối những

năm 90 của thế kỉ XX, Vƣơng quốc Anh đã nhìn thấy rõ vai trò của các ngành

công nghiệp sáng tạo đối với tăng trƣởng kinh tế, gắn kết cộng đồng và an

sinh xã hội. Các KGST là một phần của nền kinh tế sáng tạo, có vai trò nhƣ là

động lực, đòn bẩy hay thậm chí còn đƣợc nhấn mạnh nhƣ “ngọn hải đăng”

của nền kinh tế mới ở các đô thị. Trong bối cảnh toàn cầu, KGST dần trở

thành tâm điểm trong nền kinh tế của Vƣơng quốc Anh, của nhiều nƣớc châu

Âu và cả ở châu Á. Rất nhiều báo cáo cho thấy sự quan tâm nghiên cứu, tổng

kết của các quốc gia về KGST, có thể kể đến báo cáo: Needs analysis on

culture and creative hubs in Asia and Europe (Phân tích nhu cầu về tổ hợp

không gian văn hóa và sáng tạo ở châu Á và châu Âu) năm 2005 [84],

21

Cultural and creative hubs network Asia-Europe: a project for kick - starting

a new network between Asia and Europe (Mạng lƣới không gian văn hóa sáng

tạo Á - Âu: một dự án để khởi động một mạng lƣới mới giữa châu Á và châu

Âu) năm 2015 của Cultural and creative hubs network Asia - Europe (Mạng

lƣới không gian văn hóa sáng tạo Á - Âu) [85], Creative hubs: understanding

the new economy (Không gian sáng tạo: hiểu biết về nền kinh tế mới) của

British Council [83],… và hàng loạt các nghiên cứu vẽ bản đồ KGST tại nhiều

quốc gia trên thế giới. KGST trở thành mối quan tâm có tính toàn cầu, kết nối

các nền kinh tế sáng tạo, công nghiệp sáng tạo, công nghiệp văn hóa.

Trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về KGST tại Việt Nam, Hội đồng Anh

- tổ chức văn hóa và giáo dục quốc tế của Vƣơng quốc Anh đã có nhiều đóng

góp quan trọng, mang tính tiên phong nhằm hƣớng tới mục tiêu hỗ trợ Việt

Nam phát triển nền kinh tế sáng tạo cũng nhƣ tối ƣu hóa tác động của ngành

này đến tăng trƣởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Từ dự án Kinh tế sáng tạo năm 20083 cho đến nay, Hội đồng Anh đã có nhiều hoạt động trên nhiều phƣơng

diện: từ việc vận động chính sách trong những năm 2014-2016 thông qua hỗ

trợ tƣ vấn cho công tác soạn thảo Chiến lược phát triển các ngành công

nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đến tổ chức thực hiện

và công bố những nghiên cứu độc lập về KGST, tập huấn nhằm nâng cao

năng lực cho các KGST hay tổ chức các cuộc hội thảo nhằm kết nối, mở rộng

sự hiểu biết về các KGST.

Hàng loạt hội thảo về KGST đã đƣợc tổ chức. Hội thảo quốc tế “Các không gian sáng tạo trong thành phố”4 đƣợc tổ chức vào ngày 1/10/2014 bởi

Hội đồng Anh, Viện Goethe Hà Nội, Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch Việt

Nam và UNESCO hƣớng tới việc nâng cao hiểu biết về vai trò quan trọng của

các KGST trong việc thƣơng mại hóa đô thị, góp phần tạo ra hình ảnh đô thị

hiện đại và cởi mở đồng thời cũng chỉ ra những cơ hội, thách thức và những 3 https://www.britishcouncil.vn/cac-chuong-trinh/nghe-thuat/du-an-kinh-te-sang-tao 4 https://www.britishcouncil.vn/cac-chuong-trinh/nghe-thuat/du-an-kinh-te-sang-tao/hoi- thao-sang-tao-va-phat-trien-do-thi

22

việc cần làm để khuyến khích phát triển các KGST. Năm 2015, Hội đồng Anh tổ chức đào tạo chuyên gia về khởi nghiệp trong lĩnh vực sáng tạo5. Các hoạt

động kết nối đã đƣợc thúc đẩy, có thể kể đến nhƣ: Hội thảo Kiến tạo không gian sáng tạo6 đƣợc tổ chức trong hai ngày 7,8/3/2016 tại thành phố Hồ Chí

Minh, ở đó đại diện đến từ các KGST khác nhau đã thảo luận về các vấn đề

nhƣ đầu tƣ và nguồn thu bền vững cho KGST; hoạt động hợp tác giữa các

không gian sáng tạo, lập bản đồ cũng nhƣ quản lý KGST. Ngày 24/11/2016,

Hội thảo Đối thoại về vai trò của các không gian sáng tạo trong nền kinh tế sáng tạo tại Việt Nam7 đƣợc tổ chức tại thành phố Huế do sự hợp tác giữa Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội đồng Anh tại Việt Nam và Văn phòng

UNESCO tại Hà Nội. Giữa những ngƣời làm công tác quản lý nhà nƣớc về

văn hóa và đại diện đến từ các KGST đã có những thảo luận về những vấn đề

và thách thức của các KGST trong thực tế để từ đó cùng nhau đề xuất những

chính sách hợp lý nhằm nhìn nhận thỏa đáng về vai trò, khả năng đóng góp

của các KGST đối với từng địa phƣơng nói riêng và nền kinh tế cả nƣớc nói

chung.

Trong chuỗi hoạt động thuộc lĩnh vực nghệ thuật và công nghiệp sáng

tạo, năm 2014, Hội đồng Anh tại Việt Nam cho ra mắt Báo cáo về các không

gian sáng tạo tại Việt Nam đƣợc thực hiện bởi nhà báo Trƣơng Uyên Ly [21].

Thuật ngữ KGST sử dụng trong báo cáo đƣợc dịch từ “creative hub” (không

gian sáng tạo/ tổ hợp không gian sáng tạo) với nghĩa là sự liên kết các nhà

doanh nghiệp năng động tại một không gian cụ thể để cùng thử nghiệm những

dự án hay ý tƣởng kinh doanh mới, cùng kết nối để tìm cơ hội đầu tƣ và hỗ

trợ. KGST thƣờng thu hút nhiều ngƣời xuất phát điểm từ các nền tảng khác

https://www.britishcouncil.vn/cac-chuong-trinh/nghe-thuat/du-an-kinh-te-sang-tao/hoi-

http://tapchisonghuong.com.vn/hue/p1/c13/n24804/Hoi-thao-Doi-thoai-ve-vai-tro-cua-

5 https://www.britishcouncil.vn/cac-chuong-trinh/nghe-thuat/du-an-kinh-te-sang-tao/dao- tao-chuyen-gia-ve-khoi-nghiep-trong-linh-vuc-sang-tao 6 thao-kien-tao-khong-gian-sang-tao 7 cac-khong-gian-sang-tao-trong-nen-kinh-te-sang-tao-tai-Viet-Nam.html

23

nhau nhƣng hƣớng tới mục tiêu chung là phát triển nền công nghệ số, kinh

doanh, tạo dựng giá trị mới mẻ về đổi mới xã hội. Thực tế, Hội đồng Anh đã

có nhiều nỗ lực tập hợp, kết nối các KGST để thiết lập nên một mạng lƣới

toàn cầu những ngƣời sáng lập và cộng đồng của họ, hƣớng tới chia sẻ kiến

thức, công cụ và nguồn lực nhằm phát triển các KGST.

Về sau, các KGST đƣợc nói đến nhiều, nhất là sau những quan tâm của Nhà nƣớc (sự ra đời của một KGST từ khối nhà nƣớc nhƣ Vicas Art Studio8

có lẽ cũng chính là sự hiện thực hóa quan niệm về KGST nhƣ cách các nghiên

cứu của Hội đồng Anh định nghĩa, hội thảo của ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội về KGST9). KGST đƣợc đề cập đến trong sách10, trên báo chí và các

phƣơng tiện truyền thông. Các buổi hội thảo do Hội đồng Anh tổ chức về dự

án KGST thƣờng có sự tham gia của các nhà báo do vậy phần lớn thông tin về

KGST trên báo chí đều từ nguồn của Hội đồng Anh, phản ánh cách hiểu về

KGST trong các nghiên cứu của Hội đồng Anh.

Năm 2019, khi chính thức trở thành thành viên của Mạng lƣới các

thành phố sáng tạo của UNESCO trên toàn cầu, Hà Nội cam kết xây dựng

thành phố sáng tạo trong lĩnh vực thiết kế. Nhiều chƣơng trình và kế hoạch

hành động dài hạn sau đó đã đƣợc đặt ra, thể hiện tầm nhìn và mong đợi kiến

tạo Hà Nội với biểu tƣợng truyền thống “thành phố vì hòa bình” trở thành

“thành phố sáng tạo”. Trọng tâm trong các kế hoạch đó là việc khuyến khích,

tạo điều kiện phát triển KGST bằng rất nhiều các dự án, hoạt động thiết thực

nhƣ tổ chức cuộc thi Thiết kế không gian sáng tạo Hà Nội do Ủy ban nhân

dân thành phố Hà Nội, Hội Kiến trúc sƣ Việt Nam chỉ đạo; tổ chức các tọa

8 http://artstudio.vicas.org.vn/ 9 Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, hội thảo Phát huy tiềm năng, thế mạnh của các không gian sáng tạo trong phát triển công nghiệp văn hóa trên địa bàn thủ đô trong thời kì hội nhập và phát triển, tháng 10/2018. 10 Lƣơng Hồng Quang (2018), Các ngành công nghiệp sáng tạo ở Việt Nam: môi trường thể chế, thị trường và sự tham gia, Nxb Thế giới, Hà Nội.

24

đàm về thành phố sáng tạo, thiết kế không gian sáng tạo, chuyển đổi di sản công nghiệp thành không gian sáng tạo11…

Những nghiên cứu của Hội đồng Anh tại Việt Nam, bắt đầu từ năm

2014, dƣới góc nhìn của ngành công nghiệp sáng tạo, đã định danh, liệt kê

nhiều KGST của Việt Nam. Về sau, cũng giống nhƣ không khí hứng khởi của

chính các KGST, những nghiên cứu ban đầu về KGST của Hội đồng Anh đã

tạo ra cuộc thảo luận sôi nổi xoay quanh KGST, xem đây nhƣ là yếu tố then

chốt hƣớng tới đô thị sáng tạo, xây dựng các ngành công nghiệp sáng tạo,

công nghiệp văn hóa, có thể kể đến các nghiên cứu Không gian sáng tạo với

vai trò hỗ trợ khởi nghiệp của Phạm Thị Hƣơng (2016) [26], Kiến tạo không

gian sáng tạo trên địa bàn thủ đô - bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt

ra của Bùi Hoài Sơn (2018) [67], Phát triển các không gian sáng tạo ở Hà

Nội của Bùi Hoài Sơn (2019) [66], Factories as studios – Một cách tiếp cận

về không gian sáng tạo của Phạm Lan Hƣơng (2018) [28], Không gian sáng

tạo - mũi nhọn tiềm năng trong phát triển công nghiệp văn hóa Hà Nội của

Phạm Thị Mỹ Hoa (2021) [20] …

Bên cạnh những nghiên cứu tìm hiểu về KGST tại Việt Nam, Hội đồng

Anh tại Việt Nam còn nỗ lực giới thiệu những ví dụ thực tế, những kinh

nghiệm hữu ích đã đƣợc thử nghiệm bởi một số KGST thành công tại Anh và

châu Âu. Đƣợc thực hiện bởi các KGST dành cho những KGST mới, bộ công cụ Sổ tay không gian sáng tạo12 hƣớng tới đối tƣợng là các cá nhân hay tổ

chức sẽ thành lập và quản lý các KGST. Bộ công cụ đƣa ra định nghĩa về

KGST qua mục đích của KGST, mô hình các KGST và hƣớng dẫn khá cụ thể,

chi tiết về cách thức thành lập KGST nhƣ cách cấu trúc, duy trì và phát triển

bền vững qua việc kết nối với mạng lƣới KGST, phát triển các mối liên hệ lâu

dài với cộng đồng nhằm xây dựng sự thấu hiểu, niềm tin và mối quan hệ

tƣơng trợ. Trong bộ công cụ này, KGST đƣợc định nghĩa là “một địa điểm, có

11 https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Van-hoa/1012339/gop-suc-kien-tao-thanh-pho-sang-tao 12 https://www.britishcouncil.vn/sites/default/files/so-tay-khong-gian-sang-tao-hubkit.pdf

25

thể là địa điểm thực hoặc địa điểm trực tuyến, là nơi đem những con người

sáng tạo đến với nhau. Đó là nơi tụ họp, chia sẻ không gian và hỗ trợ cho các

hoạt động kết nối, phát triển kinh doanh và thu hút cộng đồng trong các lĩnh

vực sáng tạo, văn hóa và công nghệ”.

Các nghiên cứu độc lập của Hội đồng Anh tại Việt Nam cũng đã làm rõ

nhiều vấn đề khác nhau về KGST, có thể kể đến nhƣ Nghiên cứu ban đầu về

các không gian sáng tạo tại Việt Nam [21], Nghiên cứu về chính sách và các

không gian sáng tạo Việt Nam [22], Báo cáo về các không gian sáng tạo tại

Việt Nam [23]. Các nghiên cứu cho thấy sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng hơn

về lĩnh vực và lan rộng về địa lý của các KGST (từ 40 KGST trong báo cáo

năm 2014 đến 140 KGST - báo cáo năm 2018) nhƣ dấu hiệu chỉ báo sự phát

triển nhanh chóng của nền kinh tế sáng tạo tại Việt Nam. Định nghĩa về

KGST trong các nghiên cứu độc lập này dựa trên các từ khóa nhƣ “kết nối”,

“sáng tạo”, “định hƣớng kinh doanh” [21]. Tuy nhiên từ thực tế đa dạng của

các KGST tại Việt Nam, nghiên cứu cũng cho thấy khó có thể có một định

nghĩa bao quát đƣợc hết các KGST hay bản thân mỗi KGST là một định nghĩa

về KGST. Các KGST có thể có địa điểm cụ thể hay không có địa điểm cố

định, có thể là không gian trực tuyến, là một quán cà phê, một phòng tranh,

một không gian làm việc chung, studio, một trang web…

Các nghiên cứu đề cập đến tác động xã hội của các KGST trên nhiều

phƣơng diện. KGST có thể là nơi cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công

nghiệp sáng tạo có thể kết nối, tƣơng trợ lẫn nhau tạo thành một thể thống

nhất thông qua hỗ trợ cho thuê mặt bằng, hỗ trợ không gian cho nghệ sĩ trẻ

trong việc trƣng bày, truyền thông và kinh doanh các tác phẩm nghệ thuật của

mình hay là không gian giải trí, đƣa nghệ thuật đến gần hơn với cộng đồng.

Các nghiên cứu đều coi khung pháp lí là vấn đề then chốt cho tƣơng lai của

các KGST. Trong sự so sánh với sự phát triển của các KGST trên thế giới, các

nghiên cứu cũng cho thấy nếu nhƣ các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các

nƣớc châu Âu thƣờng có chính sách hỗ trợ cho các KGST ngay từ ban đầu

26

hình thành, còn riêng tại Việt Nam, KGST là một hiện tƣợng còn khá mới,

các hỗ trợ của nhà nƣớc gần nhƣ là chƣa có. Sự hỗ trợ nếu có thƣờng đến từ

một số tổ chức nƣớc ngoài tại Việt Nam nhƣ Hội đồng Anh, Trung tâm văn

hóa Pháp, Viện Goethe… Hơn nữa, các KGST tại Việt Nam gặp phải nhiều

rào cản từ việc cấp phép, kiểm duyệt hay sự thiếu tin tƣởng của chính quyền.

Không gian sáng tạo - từ góc nhìn nghệ thuật

Trong danh mục các KGST đƣợc tổng hợp bởi các báo cáo từ Hội đồng

Anh, có nhiều KGST đƣợc xuất hiện trong những nghiên cứu về nghệ thuật.

Từ góc nhìn của những ngƣời nghiên cứu nghệ thuật, nhiều tác giả trong,

ngoài nƣớc đã đề cập đến một số KGST tại Việt Nam và xem đây là không

gian của nghệ thuật, dành cho nghệ thuật. Có thể kể đến những nghiên cứu

quan trọng tiếp cận từ góc nhìn này nhƣ: Vietnamese Anti-Art and Anti-

Vietnamese Artists: Experimental Performance Culture in Hanoi’s

Alternative Exhibition Spaces (Phản - nghệ thuật của Việt Nam và các nghệ sĩ

phản - Việt Nam: văn hóa trình diễn thể nghiệm tại các không gian triển lãm

phá cách của Hà Nội) của Nora Taylor (2007) [119], Vietnam comes of age, a

new arts complex in Hanoi reveals a generational shift của Elisabeth Rosen

(2013) [128], Nguyễn Nhƣ Huy (2013) với chuỗi bài viết và phỏng vấn trên

báo Thể thao và Văn hóa [123], [124].

Từng viết rất nhiều về hội họa và nghệ thuật Việt Nam đƣơng đại, Nora

A. Taylor - giáo sƣ về nghệ thuật Nam Á và Đông Nam Á của Trƣờng Mĩ

thuật, Viện Mỹ thuật Chicago trong khi lập luận rằng một số nghệ sĩ Việt

Nam đang cố gắng sáng tạo ra một dạng “nghệ thuật phản dòng chính của

Việt Nam” [119] thì đồng thời họ cũng đang cố gắng thử nghiệm với các

không gian mới cho nghệ thuật. Các tác phẩm thuộc dòng này một mặt vừa

thể hiện nội tâm của ngƣời nghệ sĩ, mặt khác diễn tả những quan điểm thẳng

thắn, trực diện về những vấn đề đƣợc xem là nhạy cảm, thậm chí còn gây ra

sự xung đột với giới chức chính quyền vì những nội dung mang đậm tính

chính trị. Khi nói đến các tác phẩm có tính khiêu khích, đối nghịch, phá vỡ

27

mọi định nghĩa về nghệ thuật (nhƣ nghệ thuật sắp đặt của Trƣơng Tân tại

Viện Goethe, trình diễn nghệ thuật tại nhà sàn Đào Anh Khánh, Nhà sàn

Đức…), theo Nora A. Taylor, những không gian cho nghệ thuật trình diễn

cũng nhƣ một sự khiêu khích, thách thức các quy định chuẩn mực trƣng bày

thông thƣờng tại các gallery và bảo tàng. Các địa điểm trƣng bày nghệ thuật

theo đó không chỉ là bối cảnh đơn thuần cho tác phẩm mà cũng trở thành một

yếu tố hình thức. Nora A. Taylor cũng nhận ra rằng tác giả có các tác phẩm

nghệ thuật đƣơng đại ở những thập niên cuối thế kỉ XX tại Việt Nam đƣợc

xem là “thể nghiệm”, “tiền phong”, “phản dòng chính” thì họ cũng có xu

hƣớng lựa chọn những nơi chốn “bên lề”, “phá cách”, “khu vực ngoại vi” làm

địa điểm trƣng bày hay không gian cho nghệ thuật trình diễn.

Vẫn tiếp cận từ góc độ nghệ thuật, Nguyễn Nhƣ Huy (2013) [123],

[124] trong “Một báo cáo vắn tắt về không gian phá cách” chỉ rõ những đặc

trƣng nổi bật của các không gian phá cách (alternative space). Theo tác giả, sự

hình thành các không gian phá cách trên thế giới, nhìn từ khu Soho - cách nói

tắt của South of Houston - phía nam phố Houston, New York ở những thập kỉ

70 của thế kỉ XX chính là chiếc nôi đầu tiên của dạng không gian phá cách,

đƣợc cho là xuất phát từ sự phản kháng của giới nghệ sĩ đối với “tính chất

phân cấp nặng nề của hệ thống gallery, bảo tàng nghệ thuật” và “tính thương

mại của thế giới nghệ thuật New York”. Động cơ phản kháng này dẫn đến một

mô hình thực hành nghệ thuật kiểu mới nhấn mạnh “sự sáng tạo, sự bất ngờ,

tính tiền phong” đồng thời mở đầu cho một sự thay đổi lớn trong mối quan hệ

giữa nghệ thuật và đời sống, giữa tác phẩm và công chúng mà ở đó công

chúng thay vì thƣởng thức thụ động thì đƣợc mời gọi tham gia tích cực hơn

vào quá trình tạo ra tác phẩm. Mối quan hệ giữa nghệ sĩ, tác phẩm và công

chúng vì vậy có tính động, đa chiều, có sự tƣơng tác mạnh mẽ để cùng tạo

nghĩa cho tác phẩm.

Cũng bởi tính phản kháng nên “đặc trưng quan trọng nhất về mặt khái

niệm của mọi không gian phá cách luôn nằm ở sự đối nghịch với mọi dạng

28

không gian truyền thống” [123]. Nguyễn Nhƣ Huy đã tóm tắt sự đối nghịch

đó qua 4 đặc tính: tính trực tiếp, phi thƣơng mại, sự tƣơng tác với các vấn đề

địa phƣơng bằng các tƣ duy và hành động tầm toàn cầu, là một cầu nối và có

các chƣơng trình trao đổi với các không gian phá cách khác trong khu vực. Sự

ra đời của các không gian phá cách ở Việt Nam, theo Nguyễn Nhƣ Huy, cũng

giống nhƣ sự hình thành các không gian phá cách trên thế giới. Ngoài lí do

bối cảnh mở cửa và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ thì còn xuất phát từ

việc “một số ít nghệ sĩ muốn có một không gian để thực hiện dạng nghệ thuật

“khác” với dạng nghệ thuật cũ”. Salon Natasha, Nhà sàn Đức, Không gian

Ryllega (Hà Nội); Bảo tàng văn hóa Mường (Hòa Bình); New Space Gallary

(Huế); Sàn Art, Ga 0, Nhóm Ba hoa Chích chòe (thành phố Hồ Chí Minh) là

những ví dụ đƣợc kể đến để chứng minh cho “một làn sóng mới các không

gian phá cách tại Việt Nam” (các không gian này đều nằm trong danh mục

các KGST trong báo cáo của Hội đồng Anh). Nét khác biệt của không gian

phá cách Việt Nam là “tính chất du kích”, hàm ý các hoạt động của các không

gian này phần lớn đƣợc diễn ra ở các địa điểm không cố định, tạm thời nhƣ

quán cà phê, các địa điểm cộng cộng nhằm giảm chi phí, để dễ gần hơn với

công chúng và đặc biệt là tránh đƣợc các nhiêu khê từ việc xin cấp phép cho

các loại hình nghệ thuật còn quá mới mẻ vào thời kì đó. Nguyễn Nhƣ Huy

cho rằng “Ở Việt Nam, theo nghĩa rộng, về mặt hình thức, tất cả các không

gian nghệ thuật phi chính thống, và không có mục tiêu lợi nhuận, đều có thể

coi là các không gian phá cách” [123], [124].

Qua việc nhìn nhận sự hình thành, lớn mạnh của Zone 9 và trò chuyện

với một số ngƣời là chủ của KGST nằm trong Zone 9 (hay còn đƣợc gọi là “tổ

hợp không gian sáng tạo Zone 9” hay “hợp tác xã Zone 9” - một khu đất bỏ

hoang sau khi một công ty dƣợc phẩm dời đi để lại những đổ nát, cũ kĩ, hoang

tàn, nhiều nghệ sĩ đã tới đây, tập hợp nhau lại dựng thành một tổ hợp KGST

phong cách, mang dấu ấn cá nhân mạnh mẽ), Rosen Elisabeth (2013) cho thấy

sức hấp dẫn của tổ hợp không gian này không chỉ giới hạn trong phạm vi

29

cộng đồng nghệ thuật mà còn mở rộng kết nối nhiều cá nhân khác trong thành

phố. Những cuộc phỏng vấn, trò chuyện với chủ các KGST, với ngƣời đến

tham dự cho thấy “khác biệt”, “cảm giác tự do”, “sáng tạo”, “không có ranh

giới” là cách họ nói về các không gian nhƣ vậy. Đặt câu chuyện về sức hấp

dẫn của một khu tổ hợp nghệ thuật sáng tạo nhỏ bé nhƣng có ảnh hƣởng rộng

lớn trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của xã hội Việt Nam, tác giả tìm

kiếm và lí giải những động lực cho hiện tƣợng này. Theo đó, nó phản ánh “sự

chuyển đổi mang tính thế hệ”, ở đó con ngƣời đô thị, đặc biệt là giới trẻ

dƣờng nhƣ đang vô cùng hứng thú với việc tìm kiếm một phong cách sống

mới sau thời kì hậu chiến khao khát tiêu dùng. Họ bộc lộ một lối tƣ duy khác

trƣớc, độc lập và thực tế hơn. Tác giả cho rằng Việt Nam dƣờng nhƣ đang

“chạm đến ngưỡng tiếp theo của sự phát triển” [128]. Bài viết này đã phát

hiện, lí giải những động thái khác của xã hội Việt Nam và xem đó là căn

nguyên, nội lực cho sự ra đời của hàng loạt các KGST, chứ không chỉ là

những câu chuyện về nghệ thuật.

Có thể thấy, những nghiên cứu trên đây không sử dụng thuật ngữ

“không gian sáng tạo” mà thay vào đó là “không gian phá cách” (alternative

space), nhấn mạnh tính phá cách nhƣ một đặc trƣng tiêu biểu nhất cho các

loại không gian này. Điểm chung của tất cả các nghiên cứu từ góc nhìn nghệ

thuật là đều xem các không gian nhƣ một địa điểm dành cho nghệ thuật, trên

đó diễn ra các thực hành nghệ thuật mới mẻ, độc đáo, thể hiện những suy tƣ

hay cả sự phản kháng của các nghệ sĩ đối với nhiều vấn đề trong đời sống.

Các nghiên cứu cũng cho thấy vai trò của các không gian này trong việc kết

nối các chủ thể sáng tạo, đƣa nghệ thuật tới gần hơn với cuộc sống.

Nhƣ vậy, KGST đã đƣợc nghiên cứu từ những góc nhìn khác nhau ở cả

các nghiên cứu trong nƣớc và trên thế giới, trong đó chủ yếu tập trung vào vai

trò của KGST với công nghiệp sáng tạo, công nghiệp văn hóa, với sự phát

triển của nghệ thuật đƣơng đại. Tuy nhiên, các lý do này dƣờng nhƣ chƣa thể

giải thích hết những nét riêng biệt của các thực hành tại các KGST cũng nhƣ

30

lý do của ngƣời kiến tạo và ngƣời sử dụng KGST trong bối cảnh đô thị Việt

Nam đƣơng đại. Và nếu chỉ coi KGST nhƣ là thành tố cốt lõi để phát triển

công nghiệp sáng tạo, từ góc nhìn văn hóa có lẽ ý nghĩa của các KGST đã bị

đơn giản hóa, lƣợc bỏ đi nhiều lớp nghĩa khác. KGST là khái niệm đƣợc

chuyển ngữ từ một thuật ngữ nƣớc ngoài (creative hub) nhƣng khi đƣợc sử

dụng, đƣợc nói đến ở đây lại mở ra nhiều chiều kích ý nghĩa khác nhau gắn

với những động năng riêng có của đô thị Việt Nam.

Đặt trong bối cảnh không gian đô thị, nghiên cứu về KGST - nơi diễn

ra những trao đổi, thảo luận tự do, cởi mở, nơi thực hành các giá trị dân chủ,

vì vậy sẽ góp phần nhìn nhận một dạng thức không gian của đô thị, qua đó

phản ánh những thay đổi năng động của bối cảnh đô thị Việt Nam.

1.2. Cơ sở lý luận

Luận án tập trung khám phá các thực hành văn hóa và ý nghĩa của các

thực hành văn hóa đó trong KGST. Câu hỏi nghiên cứu chính đƣợc đặt ra

trong toàn bộ luận án là KGST có ý nghĩa nhƣ thế nào với đời sống văn hóa

đô thị Hà Nội trong bối cảnh đƣơng đại? Xoay quanh câu hỏi nghiên cứu

chính, một số câu hỏi nhỏ đƣợc đƣa ra trong luận án: 1. Những điều kiện kinh

tế, chính trị, văn hóa xã hội nào của đô thị Hà Nội đã góp phần hình thành và

dung dƣỡng các KGST? 2. Các thực hành văn hóa nào đang diễn ra tại các

KGST? Nói cách khác, những thực hành văn hóa nào đã và đang tạo nghĩa

cho các KGST? 3. Các thực hành văn hóa trong các KGST có ý nghĩa nhƣ thế

nào với các nhóm chủ thể kiến tạo. Những điều kiện kinh tế, chính trị, văn

hóa xã hội nào của đô thị đƣơng đại góp phần hình thành nên các KGST?

Để trả lời cho những câu hỏi trên, luận án sử dụng một số khái niệm và

lý thuyết liên quan:

1.2.1. Một số khái niệm

Không gian sáng tạo

Ở Việt Nam, không gian sáng tạo (creative hub) là khái niệm khá mới,

đƣợc nói đến nhiều trong khoảng gần 10 năm trở lại đây. Khái niệm này đƣợc

31

xuất hiện kể từ năm 2014 trong một nghiên cứu đầu tiên về KGST của Hội

đồng Anh [21]. Có thể nói chính Hội đồng Anh là tổ chức tiên phong đƣa khái

niệm KGST - vốn là một mô hình phát triển quan trọng và quen thuộc trong

nền kinh tế sáng tạo phát triển mạnh mẽ ở Vƣơng quốc Anh - vào Việt Nam

với mong muốn thúc đẩy công nghiệp sáng tạo. Đặt trong bối cảnh sự phát

triển với tốc độ nhanh chóng của nền kinh tế sáng tạo, sự gia tăng các sản

phẩm sáng tạo của tầng lớp sáng tạo có thể mang lại doanh thu lớn cho các

quốc gia, giải quyết vấn đề việc làm, thay đổi cảnh quan đô thị cũng nhƣ góp

phần giữ gìn bản sắc văn hóa. Từ kinh nghiệm và thực tiễn của Vƣơng quốc

Anh, KGST - với tƣ cách là các tổ chức và doanh nghiệp trong lĩnh vực văn

hóa nghệ thuật - đƣợc coi là yếu tố chủ chốt của nền công nghiệp sáng tạo,

góp phần định hình nền kinh tế sáng tạo trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự

phát triển vƣợt bậc của khoa học kĩ thuật. Theo đó, KGST tồn tại dƣới nhiều

mô hình khác nhau nhƣ studio (nơi một tập thể các cá nhân hoặc các doanh

nghiệp nhỏ cùng là việc trong một không gian), tổ hợp hay trung tâm (bao

gồm sự kết hợp của nhiều hình thức khác nhau nhƣ quán cà phê, quán bar, rạp

chiếu phim, cửa hàng, không gian triển lãm…), lab (phòng thí nghiệm), co-

working (các không gian làm việc chung), các không gian trực tuyến (hoạt

động theo hình thức online nhƣ các trang web hay sử dụng mạng xã hội để kết

nối công chúng)... Họ xem KGST là nơi kết nối, tụ hội của mạng lƣới các

doanh nghiệp năng động, những ngƣời trẻ sáng tạo và đổi mới, họ kết nối,

cùng hỗ trợ và tìm những cơ hội đầu tƣ, cam kết hƣớng tới những viễn cảnh

tốt đẹp hơn. Với tính pha trộn, cởi mở, thích ứng, KGST đƣợc coi là những

mô hình kinh doanh mới, hỗ trợ, kết nối cộng đồng kinh doanh, thực hành

nghệ thuật và sáng tạo. Nhận thấy hiệu quả lớn lao từ mô hình năng động này,

Hội đồng Anh đã có nhiều nỗ lực để nới rộng mạng lƣới các KGST bằng việc

tham gia thiết lập nên Diễn đàn Không gian sáng tạo châu Âu để cùng chia sẻ

kiến thức, công cụ và nguồn lực nhằm phát triển các KGST trên thế giới. Tại

Việt Nam, Hội đồng Anh đã thực hiện hàng loạt dự án trong lĩnh vực công

32

nghiệp sáng tạo nhằm hỗ trợ việc triển khai Chiến lược phát triển công nghiệp

văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó có dự án nghiên cứu

và phát triển KGST.

Những nghiên cứu ban đầu của Hội đồng Anh và sau đó là nhiều

nghiên cứu của các tác giả trong nƣớc đã chỉ ra chức năng của các KGST nhƣ

là nơi để sáng tạo, sản xuất và bán các sản phẩm, dịch vụ sáng tạo; nơi tổ

chức các lớp học, tọa đàm, chia sẻ kiến thức và kĩ năng cho cộng đồng sáng

tạo; tổ chức các sự kiện nghệ thuật phục vụ cho công chúng… Họ cũng lý giải

sự hứng khởi của các KGST nhƣ là kết quả của những tác động bên ngoài (xu

hƣớng toàn cầu hóa và sự thâm nhập của những hiện tƣợng văn hóa trên thế

giới vào Việt Nam, sự thúc đẩy của bối cảnh phát triển của công nghiệp sáng

tạo trên thế giới) và cả những lý do nội tại (nhƣ ngƣời trẻ tiếp thu cái mới trên

thế giới, nhu cầu sáng tạo và kinh doanh…). Điều này hoàn toàn đúng cho các

mô hình KGST theo định nghĩa của Hội đồng Anh, xem KGST là nơi “kết

nối”, “sáng tạo” và “có định hƣớng kinh doanh”.

Những nghiên cứu của Hội đồng Anh tại Việt Nam cho thấy KGST là

một khái niệm mở và dƣờng nhƣ khó có một định nghĩa nào bao quát hết sự

đa dạng của các loại hình không gian hay thậm chí “mỗi không gian là một ví

dụ độc đáo cho khái niệm KGST” [21]. Từ chỗ đƣợc nhận diện qua ba tiêu chí

“kết nối”, “sáng tạo” và “có định hướng kinh doanh”, đến năm 2018, KGST

đƣợc định nghĩa rõ ràng, cụ thể hơn: “KGST là một địa điểm, có thể là địa

điểm thực hoặc địa điểm trực tuyến, là nơi đem con người sáng tạo đến với

nhau. Đó là nơi tụ họp, chia sẻ không gian và hỗ trợ cho các hoạt động kết

nối, phát triển kinh doanh và thu hút cộng đồng trong các lĩnh vực sáng tạo,

văn hóa và công nghệ” [23]. Theo đó phạm vi khái niệm KGST thực sự mở

rộng. Xét theo địa điểm, KGST có thể có địa điểm cố định hoặc thƣờng xuyên

di chuyển, thuê mƣợn không gian để tổ chức sự kiện, có thể là địa điểm thực

hay không gian trực tuyến. Xét về hình thức thì còn đa dạng hơn, có thể là

một quán bar, quán cà phê, một không gian làm việc chung (co-working), một

33

studio hay một website… Xét về chức năng, các KGST thƣờng sản xuất, kinh

doanh các sản phẩm hay dịch vụ sáng tạo, thực hiện dự án, sự kiện thúc đẩy

sự sáng tạo và phát triển cộng đồng thông qua việc chia sẻ kiến thức tại các

hội thảo, tọa đàm…

Có thể thấy, những nỗ lực để khái quát hóa thực tiễn đa dạng của các

KGST thành một định nghĩa ngắn gọn, cô đọng thực sự khó khăn bởi mỗi

KGST đƣợc kiến tạo nên bởi một hay một nhóm ngƣời với cá tính, chủ đích

riêng, với hoạt động đa dạng trên nhiều lĩnh vực. Cũng vì thế đƣa ra một định

nghĩa về KGST hoặc khó có thể bao quát đƣợc hết các loại hình KGST hoặc

có thể sẽ đồng nghĩa với việc giản lƣợc đi tính phong phú, đan xen phức tạp

mà diện mạo đời sống văn hóa đô thị đƣợc hình dung từ các KGST nên đƣợc

phô bày ra một cách tự nhiên trong tính đa dạng, bề bộn.

Ở đây khi nói về KGST, điều cần làm rõ chính là tính “sáng tạo” của

không gian - đặc điểm khiến cho KGST khác với các loại hình không gian

khác. Tính sáng tạo của không gian tất nhiên không phải là một đặc điểm sẵn

có, tồn tại trƣớc khi con ngƣời hiện diện ở đó cùng với các thực hành văn hóa

mà là một sản phẩm kiến tạo xã hội. Khi nghiên cứu về không gian công

cộng, Mitchell (2003) đã cho rằng: “Cái làm cho một không gian trở thành

công cộng thường không nằm ở tính công cộng được xác định trước của nó.

Tính công cộng của không gian được tạo ra khi nó đáp ứng những nhu cầu

nhất định, khi một số nhóm này hay nhóm khác sử dụng không gian và hoạt

động ở đó làm cho nó trở thành công cộng” (dẫn theo Phạm Quỳnh Phƣơng)

[51]. Khi bàn về không gian công, David Koh cho rằng không gian công

không chỉ là một không gian vật chất cố định với các chức năng sẵn có, cụ thể

mà là không gian do ngƣời sử dụng tạo ra [102]. Cũng nhƣ vậy trong một

nghiên cứu khác về không gian thiêng, Phạm Quỳnh Phƣơng (2010) lập luận

rằng không gian thiêng là những không gian đƣợc kiến tạo mà ở đó con ngƣời

đặt cái thiêng vào không gian, định vị nó trong mối tƣơng quan với sự trải

nghiệm của cá nhân hay của cộng đồng. Không gian gắn với những lớp ý

34

nghĩa đƣợc con ngƣời gán cho và đƣợc quy chiếu bởi những mối quan hệ xã

hội [49]. Nhƣ vậy, tính thiêng, tính công cộng hay tính sáng tạo không phải là

những ý nghĩa tiên nghiệm của các vị trí địa lí cụ thể mà là kết quả của quá

trình kiến tạo bởi con ngƣời.

Trên cơ sở kế thừa những quan điểm trên, trong luận án này, KGST

đƣợc hiểu là những kiến tạo xã hội thông qua các thực hành văn hóa, kết nối

các cá nhân cùng mối quan tâm, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các nhóm xã

hội, tác động lên đời sống văn hóa đô thị theo nhiều cách khác nhau. KGST là

những không gian đa dạng, linh hoạt, thay đổi và thích ứng. KGST có thể là

một địa điểm cụ thể cho hoạt động sáng tác, biểu diễn nghệ thuật, là không

gian trƣng bày, triển lãm các tác phẩm, là nơi cho thƣởng thức nghệ thuật với

nhiều loại hình đa dạng nhƣ âm nhạc, phim ảnh, hội họa, văn chƣơng…

KGST cũng có thể trở thành nơi diễn ra các workshop, các buổi tọa đàm, chia

sẻ, thảo luận về nhiều vấn đề của đời sống xã hội. Nhƣng không chỉ là những

địa điểm, đƣợc đánh dấu bởi một vị trí địa lý cụ thể trên bản đồ, KGST còn là

những nơi chốn có sức hấp dẫn riêng bởi nó đáp ứng đƣợc nhu cầu riêng của

các nhóm xã hội mà các nơi khác không đáp ứng đƣợc. KGST đƣợc tạo nên

nhằm khơi dậy sự sáng tạo, mang đến không khí cởi mở, thúc đẩy tự do biểu

đạt. Cách định danh một không gian nào đó là KGST còn bởi tinh thần “sáng

tạo” mà không gian đó gợi lên, nhƣ một yếu tố cốt lõi, chứ không chỉ đơn

thuần xem đây nhƣ một nơi để tạo ra tác phẩm. Sáng tạo còn hàm nghĩa là tự

do, cần tự do, xem tự do là điều kiện tất yếu để sáng tạo: tự do bày tỏ quan

điểm, chính kiến, tự do với tƣ cách một công dân. Sáng tạo có khi còn hứa

hẹn những thay đổi, những chuyển biến khi từ các cuộc thảo luận, trò chuyện

mà làm thay đổi cách suy nghĩ, nhận thức, dẫn tới hành động.

Đô thị

Theo Luật Quy hoạch đô thị thì đô thị đƣợc định nghĩa là: “khu vực tập

trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực

kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa

35

hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của quốc

gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã, thị trấn”13.

Một số nghiên cứu về điện ảnh nói nhiều về mối quan hệ giữa điện ảnh

và đô thị, coi điện ảnh là bộ nhớ, là nơi lƣu trữ cảnh quan thành phố, nơi phản

ánh những thay đổi của đời sống trong thành phố. Điện ảnh xem đô thị không

chỉ là nơi nuôi dƣỡng nghệ thuật với nghĩa là nơi cung cấp những bối cảnh

phong phú, những chủ đề đa dạng mà còn coi đô thị nhƣ một thực thể sống

phức tạp, đa dạng, sinh động, hiện lên trong tác phẩm điện ảnh nhƣ một

gƣơng mặt sống động (các nghiên cứu của: Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2017)

[10]; Nguyễn Hoàng Quý Hà (2018) [15].

Dƣới góc nhìn của nhà xã hội học Louis Wirth (1938) trong bài viết

Urbanism as a way of life (Đô thị nhƣ một lối sống) đã định nghĩa đô thị nhƣ

một vùng định cƣ tƣơng đối lớn, đông đúc, lâu dài của những cá nhân khác

biệt, dị biệt về mặt xã hội (socially heterogeneous individuals). Đặc trƣng của

đô thị đƣợc miêu tả nhƣ là nơi hội tụ của nhiều chủng tộc, dân tộc, nhiều nền

văn hóa, vì thế đô thị mang tính “khoan dung” và tôn trọng những khác biệt

cá nhân. Đối với Louis Wirth, đô thị là một hình thái tổ chức xã hội đặc thù

khác hẳn so với các cộng đồng khác ở các vùng nông thôn, là một “lối sống

đặc thù” (as a way of life) [109].

Trong luận án này, đô thị không chỉ đƣợc hiểu là một đơn vị hành

chính đƣợc đặc trƣng bởi những yếu tố về dân cƣ, vị trí địa lí… mà còn là một

thực thể văn hóa đƣợc tạo nên bởi các thực hành văn hóa. Đó là không gian

đa dạng quy tụ nhiều nhóm xã hội với mối bận tâm khác nhau, nơi tạo ra

không gian rộng rãi cho trải nghiệm riêng tƣ của cá nhân, nơi các nhóm xã hội

tự tạo nên nơi chốn mới cho những sinh hoạt văn hóa đa dạng. Đô thị là

không gian nới lỏng nhiều ràng buộc hơn so với không gian làng xã truyền

thống, nơi dung chứa sự đa dạng. Đô thị vừa là nơi sạch sẽ quy củ nhƣng

13 Luật Quy hoạch đô thị số 30/2009/QH12, ngày 17/6/2009

36

cũng còn nhiều bề bộn, nhếch nhác, vừa là không gian công cộng rộng rãi vừa

là nơi chốn riêng tƣ, vừa là nơi cho quan điểm chính thống nhƣng cũng là nơi

có nhiều ngóc ngách cho những thành phần bên lề, ngoại biên đƣợc thể hiện

các quan điểm cá nhân. Tính chất đa dạng, bề bộn của đô thị phần nào cũng sẽ

đƣợc bộc lộ trong phần phân tích ở các chƣơng viết sau.

Đời sống văn hóa đô thị

Khi tồn tại trong xã hội, con ngƣời cùng lúc duy trì thực hiện hoạt động

sinh học và hoạt động xã hội để vừa đảm bảo sự sống vừa nâng cao chất

lƣợng sống. Đời sống sinh học và đời sống văn hóa vì thế là hai bộ phận song

song tồn tại trong đời sống con ngƣời. Khi phân tích khái niệm và cấu trúc đời

sống văn hóa, Trần Đức Ngôn (2017) đã cho rằng “Đời sống văn hóa, nếu

quan niệm theo nghĩa rộng thì đó là toàn bộ những yếu tố văn hóa hiện hữu

trong đời sống con người” [43]. Ở đây diễn ra sự tác động hai chiều: con

ngƣời tác động vào văn hóa, tạo ra văn hóa và biến đổi văn hóa. Ở chiều

ngƣợc lại, văn hóa cũng tác động lên con ngƣời, hình thành nên quan điểm,

suy nghĩ, nhân cách con ngƣời. Tác giả cũng làm rõ cấu trúc đời sống văn hóa

gồm hai phƣơng diện: cấu trúc bề mặt và cấu trúc bề sâu. Cấu trúc bề mặt hay

diện mạo của đời sống văn hóa đƣợc thể hiện qua ba nhóm hoạt động: hoạt

động tiếp nhận – hƣởng thụ văn hóa, hoạt động thực hành truyền bá văn hóa

và hoạt động sáng tạo văn hóa. Cấu trúc bề sâu gồm các giá trị nhận thức, giá

trị tƣ tƣởng, giá trị tình cảm. Các yếu tố thuộc cấu trúc bề sâu đƣợc phản ánh,

thể hiện thông qua các hoạt động thuộc cấu trúc bề mặt và ngƣợc lại cấu trúc

bề mặt cũng tác động và làm hình thành các yếu tố thuộc cấu trúc bề sâu. Một

cách khái quát, đời sống văn hóa đƣợc định nghĩa là “kết quả của hoạt động

tương tác giữa con người với môi trường văn hóa, tạo nên diện mạo cũng như

chiều sâu tinh thần con người, thể hiện chất lượng sống và góp phần hình

thành nhân cách” [43].

Cũng xem đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, bên

cạnh đời sống kinh tế, đời sống chính trị, phản ánh nhu cầu văn hóa của xã

37

hội, biểu hiện chất lƣợng sống của con ngƣời, Nguyễn Thị Đức (2017) cho

rằng “đời sống văn hóa là toàn thể các hoạt động sống của con người nhằm

thỏa mãn nhu cầu văn hóa, hướng con người đến các giá trị chân, thiện, mỹ,

hình thành con người nhân văn” [12]. Đời sống văn hóa theo đó bao gồm các

sản phẩm văn hóa, các hoạt động văn hóa đa dạng đáp ứng nhu cầu hƣởng thụ

và sáng tạo của con ngƣời. Đời sống văn hóa tồn tại, hiện hữu ngay trong đời

sống thƣờng ngày, dƣới nhiều dạng thức biểu hiện khác nhau, từ lối sống, ứng

xử, đến thực hành tín ngƣỡng, lễ hội hay ngay trong lao động sản xuất. Từ

cách hiểu về “đời sống văn hóa” của các tác giả trên, có thể xem khái niệm

“đời sống văn hóa đô thị” gắn với các hoạt động tƣơng tác giữa con ngƣời với

môi trƣờng văn hóa tại các đô thị, gắn với ngƣời dân đô thị.

Nhƣ vậy, có thể hiểu đời sống văn hóa đô thị đƣợc hình thành, phát

triển trong quá trình hoạt động và tƣơng tác xã hội của ngƣời dân đô thị trong

bối cảnh đô thị. Nó bao gồm toàn bộ các thực hành văn hóa của con ngƣời

trong không gian đô thị, thỏa mãn nhu cầu văn hóa cho ngƣời dân, và các thực

hành văn hóa đó, trong chiều ngƣợc lại, có tác động mạnh mẽ đến chính các

chủ thể thực hành, góp phần hình thành suy nghĩ, quan điểm, tính cách của

con ngƣời và rộng ra là tác động đến xã hội.

Khu vực công

Trong những năm 1960, nhiều nhà tƣ tƣởng lớn của châu Âu đã nhấn

mạnh tầm quan trọng của khu vực công hay lĩnh vực công (public sphere) đối

với sự tồn tại của một xã hội tự do và dân chủ. Khi nghiên cứu về khu vực

công, 2 nhà tƣ tƣởng đã có ảnh hƣởng đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực thảo

luận này, đó là Hannah Arendt và Habermas. Theo Hannah Arendt (1906 -

1975), khu vực công là điều rất quan trọng đối với một xã hội dân chủ thực

sự. Trong tác phẩm Human condition (Điều kiện của con ngƣời) (1958) [80],

bà nhìn nhận khu vực công là không gian mà kể từ thời Hy Lạp cổ đại trở đi,

cuộc sống tự do và không bị chi phối bởi những sự ràng buộc, nó khác với

cuộc sống cá nhân. Khu vực công là nơi con ngƣời có thể gặp gỡ, trao đổi

38

quan điểm khác nhau, nơi của tự do và bình đẳng, đem đến cơ hội tiếp cận

cho mọi công dân, nơi mà họ có thể thể hiện quan điểm, ý kiến của cá nhân.

Với Arendt, khu vực công cộng có 3 đặc điểm: tính nhân tạo, tính không gian

và sự phân biệt giữa những quan tâm cộng đồng và những quan tâm riêng tƣ;

trong đó tính không gian của đời sống công cộng đƣợc hiểu là các hoạt động

chính trị đƣợc định vị trong một không gian công cộng, nơi mọi công dân đều

có thể đến để gặp gỡ, trao đổi ý kiến, thảo luận, tranh cãi và tìm kiếm giải

pháp cho các vấn đề chung. Các cá nhân cùng nhau trò chuyện trong không

gian công cộng (thay vì tập hợp các cá nhân biểu quyết ý kiến của mình một

cách tách biệt và khuyết danh) để cho những tƣơng đồng hay khác biệt trong

quan điểm của họ có thể đƣợc bộc lộ và trở thành vấn đề của cuộc tranh luận.

Arendt cũng phân biệt giữa mối quan tâm cộng đồng và quan tâm riêng

tƣ, sự khác biệt giữa đời sống của một ngƣời trong tƣ cách một cá nhân và

trong tƣ cách công dân. Theo bà, đối với mỗi con ngƣời, quan tâm về cộng

đồng với tƣ cách một công dân sẽ khác hoàn toàn so với các mối quan tâm

riêng tƣ với tƣ cách cá nhân. Những quan tâm cộng đồng, trong thực tế sẽ

không liên quan gì nhiều đến các lợi ích riêng tƣ, nó liên quan đến một thế

giới bên ngoài cái tôi, hƣớng đến lợi ích của một thế giới cộng đồng, những

vấn đề chung mà mọi ngƣời cùng chia sẻ, cùng theo đuổi, cùng thụ hƣởng.

Nếu nhƣ Arendt nhấn mạnh sự hiện diện của con ngƣời trong các khu

vực công thì với Habermas, khu vực công với đặc trƣng là các thảo luận có

thể diễn ra trực tiếp hoặc thông qua trung gian nhƣ báo, tạp chí hay các hình

thức giao tiếp điện tử khác. Habermas là một trong những nhà xã hội học và

triết học đƣơng đại của Đức. Khu vực công, không gian công là chủ đề nghiên

cứu quan trọng với ông. Quan niệm về khu vực công đƣợc trình bày trong tác

phẩm The Structural Transformation of the Public Sphere (Sự chuyển đổi cấu

trúc của khu vực công) năm 1960. Ông đã xem xét một cách có phê phán lịch

sử lĩnh vực công tƣ sản. Khu vực công, theo ông là những nơi tạo cơ hội cho

những thảo luận cởi mở giữa các công dân, mang tính lý tính để hình thành

39

nên dƣ luận xã hội. Khu vực công mang tính mở, là nơi những nhóm ngƣời

tự nguyện tập hợp lại cùng nhau để cùng thực hiện những thảo luận tự do.

Habermas quan tâm đến khu vực công vì ông xem đó là nền tảng, nguồn gốc

nuôi dƣỡng, duy trì dân chủ, tính bình đẳng. Khu vực công là điều kiện cần

thiết cho nền dân chủ, nơi thông qua những cuộc thảo luận để hình thành nên

quan điểm, nơi thể hiện nguyện vọng, mong muốn của công dân [97].

Không gian công cộng

Mối tƣơng quan giữa khu vực công và thực tiễn của các không gian

công cộng đã đƣợc chỉ ra trong một số nghiên cứu. Sandra Kurfürst (2011)

[106] khi phân tích 3 chiều kích của KGCC (tính linh thiêng, tính chính thức

và tính riêng tƣ) đã cho thấy có rất nhiều KGCC đang hình thành ở Hà Nội

với các mức độ công khai khác nhau. KGCC theo đó vừa là một đấu trƣờng

cho khu vực công, vừa là một biểu hiện của khu vực công. Lâm Thị Ánh

Quyên cho rằng “công cộng đòi hỏi phải có một không gian vật lý. Không

gian này được gọi là không gian công cộng” [61]. Tuy nhiên mối quan hệ này

không phải lúc nào cũng song hành bởi lý giải của Lisa Drummond cho rằng

KGCC (public space) là khái niệm phức tạp, không phải lúc nào nó cũng

tƣơng ứng với khu vực công (public sphere) và khu vực công có thể không

nhất thiết phải đƣợc diễn ra trong các KGCC [87].

KGCC là khái niệm đa nghĩa (Phạm Quỳnh Phƣơng) [51], trong đó nội

hàm nghĩa của nó cần đƣợc gắn với bối cảnh xã hội cụ thể. KGCC từ thời Hy

Lạp đã giữ vai trò quan trọng trong xã hội dân chủ khi mà KGCC là địa điểm

nơi diễn ra các tƣơng tác xã hội và các hoạt động chính trị của tất cả công

chúng (Mitchell, 1995) [115]. Mitchell cũng cho rằng “tính công cộng” đƣợc

tạo ra khi không gian đáp ứng những nhu cầu nhất định của ngƣời sử dụng.

Trong luận án này, KGCC đƣợc hiểu là các địa điểm cụ thể, nơi công chúng

tự tổ chức nhiều hoạt động thảo luận, trao đổi, bàn bạc về nhiều vấn đề trong

xã hội, nơi mở ngỏ cơ hội tiếp cận cho tất cả mọi ngƣời, nơi cho các biểu đạt

dân chủ và tự do.

40

1.2.2. Lý thuyết khu vực công của Habermas

Trong luận án này, NCS sử dụng khái niệm lý thuyết “public sphere”

(khu vực công hay lĩnh vực công) của Jurgen Habermas để tìm hiểu sự tạo

tác, hình thành của các KGST cũng nhƣ xem xét, nhìn nhận ý nghĩa của

KGST nhƣ một sự biểu hiện đặc thù của “khu vực công” trong bối cảnh đô thị

Việt Nam.

Với Habermas, một trong những nhà xã hội học và triết học đƣơng đại

của Đức, khu vực công là một chủ đề nghiên cứu quan trọng. Quan niệm về

khu vực công đƣợc trình bày trong tác phẩm The structural transformation of

the public sphere (Sự chuyển đổi cấu trúc của khu vực công) năm 1960. Ông

đã xem xét một cách có phê phán lịch sử lĩnh vực công tƣ sản. Khu vực công

hay lĩnh vực công, theo ông là những nơi tạo cơ hội cho những thảo luận cởi

mở giữa các công dân, mang tính lý tính để hình thành nên dƣ luận xã hội.

Các thảo luận có thể diễn ra trực tiếp hoặc thông qua trung gian nhƣ báo, tạp

chí hay các hình thức giao tiếp điện tử khác. Khu vực công có tính mở, là nơi

nhiều nhóm ngƣời tự nguyện tập hợp lại cùng nhau để cùng thực hiện những

thảo luận tự do. Habermas quan tâm đến khu vực công vì ông xem đó là nền

tảng, nguồn gốc nuôi dƣỡng, duy trì dân chủ, tính bình đẳng. Khu vực công là

điều kiện cần thiết cho nền dân chủ, nơi thông qua các cuộc thảo luận để hình

thành nên quan điểm, nơi thể hiện nguyện vọng, mong muốn của công dân.

Tác phẩm The structural transformation of public sphere (Sự chuyển

đổi cấu trúc của khu vực công) của Jurgen Habermas về sau đã có sức ảnh

hƣởng và tác động lớn đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Tác phẩm cũng tạo ra và

thúc đẩy các thảo luận về tự do dân chủ, khu vực công, xã hội dân sự và

những thay đổi xã hội trong thế kỉ XX cùng với nhiều vấn đề khác. Khu vực

công cũng nhƣ những điều kiện cần thiết để xây dựng một nền dân chủ thực

sự đã trở thành mối quan tâm chính, chủ đề xuyên suốt trong nhiều tác phẩm

của Habermas. Các tác phẩm xuất bản sau này của Habermas cũng phần lớn

tập trung vào các chủ đề chính đã nêu ở các nghiên cứu trƣớc đó.

41

Hai chủ đề chính mà tác phẩm The structural transformation of public

sphere (Sự chuyển đổi cấu trúc của khu vực công) nói đến bao gồm: phân tích

nguồn gốc, lịch sử của khu vực công tƣ sản và giải thích về sự thay đổi cơ cấu

của khu vực công trong lúc chủ nghĩa tƣ bản đang ngày càng phát triển mạnh

mẽ, sự trỗi dậy của công nghiệp văn hóa, sự lớn mạnh cũng nhƣ vị trí của các

tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp lớn trong đời sống công cộng - lúc đó các

tổ chức kinh tế lớn sẽ tiếp quản lĩnh vực công trong khi công dân chủ yếu lại

trở thành ngƣời tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ… Theo ông, khu vực công tƣ sản

bắt đầu xuất hiện vào khoảng thế kỉ 18. Nó có nguồn gốc sâu xa trong truyền

thống triết học phƣơng tây và bắt nguồn từ khái niệm “agora” của ngƣời Hy

Lạp. Không có dấu hiệu nào cho thấy xã hội châu Âu thời trung cổ sở hữu

khu vực công nhƣ một lĩnh vực khác biệt với khu vực tƣ nhân. Khu vực công,

không gian công chỉ phát triển từ một giai đoạn cụ thể của xã hội tƣ sản, nói

cách khác nó đƣợc tạo ra và có ý nghĩa trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đó

là thời điểm bắt đầu sự hình thành sự phân biệt giữa “ý kiến” và “dƣ luận”

[97].

Khu vực công (public sphere) là trung gian giữa các mối quan tâm

riêng tƣ của cá nhân với mối quan tâm chung về đời sống xã hội, nơi họ vƣợt

qua lợi ích và quan điểm riêng để khám phá lợi ích chung cũng nhƣ đạt đƣợc

sự đồng thuận trong xã hội. Các nhu cầu, lợi ích của họ vì vậy có thể ảnh

hƣởng đến thực tiễn chính trị khi mà các cá nhân, các nhóm nhƣ vậy có thể

định hình dƣ luận, thể hiện ý kiến đồng tình hoặc phản đối quyền lực nhà

nƣớc và các hình thức quyền lực khác đang hình thành trong xã hội tƣ sản.

Khu vực công, theo giải thích của Habermas bao gồm các cơ quan thông tin

và tranh luận về chính trị nhƣ báo chí, các tổ chức thảo luận chính trị, các câu

lạc bộ chính trị, câu lạc bộ văn học, quán rƣợu, quán cà phê, hội trƣờng hay

các không gian công cộng khác, nơi các thảo luận chính trị, xã hội đƣợc diễn

ra.

42

Khu vực công, theo Habermas gắn với quyền tự do hội họp, tự do tham

gia vào các cuộc tranh luận và ra quyết định chính trị. Tại đây các cá nhân có

thể tự do chia sẻ quan điểm của mình. Khu vực công có những đặc điểm nhƣ:

1. Mang tính công cộng, mở ngỏ khả năng tiếp cận, nơi mọi công dân đƣợc

quyền tiếp cận, đƣợc tham gia bày tỏ ý kiến, tranh luận về các vấn đề mà

mình quan tâm. Nhƣng khu vực công không chỉ đƣợc mô tả nhƣ là một đám

đông hay là tập hợp của nhiều cá nhân, mà nhấn mạnh đến sự tham gia của tất

cả mọi ngƣời. 2. Nội dung thảo luận là những vấn đề thuộc lĩnh vực công với

phạm vi không giới hạn. 3. Mang tính phê phán, nơi họ có thể phản biện và

kiểm soát, nơi diễn ra sự đồng thuận hoặc xung đột, có thể hình thành nên các

quan điểm chung, các ý kiến chung. Habermas coi khu vực công nhƣ là lĩnh

vực trung gian giữa xã hội và nhà nƣớc, do công chúng tự tổ chức và tuân thủ

theo nguyên tắc của lĩnh vực công [95].

Khi lý tƣởng hóa chức năng và tầm quan trọng của khu vực công, quan

điểm của Habermas cũng còn những hạn chế nhất định. Trƣớc tiên, ông sớm

coi khu vực công tƣ sản nhƣ một lãnh địa của công luận nhƣng không phải

toàn bộ ngƣời dân mà chỉ có một bộ phận nhỏ có thể tham gia vào quá trình

thảo luận. Dù là nơi tập trung nhiều ngƣời, có mối quan hệ đa dạng nhƣng chỉ

một bộ phận đại chúng tham gia vào quá trình thảo luận. Thứ nữa, phụ nữ

cũng bị từ chối tham gia bình đẳng và tích cực vào việc hình thành ý kiến, và

nhƣ vậy là hàm chứa giả định về sự thống trị của nam giới nhƣ những phê

bình từ góc nhìn nữ quyền đã chỉ ra.

Tuy nhiên, trong trƣờng hợp này, khái niệm lý thuyết của Habermas về

khu vực công cung cấp một lăng kính phân tích hữu ích để lý giải những

chiều cạnh ý nghĩa của KGST. Nếu nhƣ nghiên cứu của (Lisa Drummond,

2000) [87] từng chỉ ra rằng ở Việt Nam đƣợc cho là có rất ít bằng chứng về

truyền thống của một khu vực công cũng nhƣ không gian công - nơi biểu hiện

của khu vực công, thiếu truyền thống về một lĩnh vực thảo luận công khai do

những can thiệp từ phía nhà nƣớc thì trong luận án này, sự vận dụng lý thuyết

43

khu vực công của Habermas để phân tích các thực hành văn hóa trong KGST

lại cho thấy sự mở rộng các thực hành dân chủ, tạo ra những không gian tự do

biểu đạt, tự do thảo luận, trao đổi về nhiều vấn đề trong xã hội. Có thể những

thực hành trong các KGST chƣa hoàn toàn phản ánh đƣợc những đặc trƣng

của “khu vực công” nhƣ Habermas đã đề cập nhƣng đó chính là những nỗ lực

để nới rộng biên độ của sự tự do, tạo ra không gian cho những biểu đạt đa

dạng trong bối cảnh đô thị đƣơng đại. KGST trong các trƣờng hợp này trở

thành địa điểm của các khu vực công, phản ánh nhu cầu trao đổi, bàn luận,

nhu cầu đƣợc tham gia giải quyết nhiều vấn đề quan trọng của xã hội.

Tiểu kết chƣơng 1

Từ việc tổng quan tài liệu nghiên cứu, phần viết chƣơng 1 cung cấp

một cái nhìn tổng thể về cách thức mà các nghiên cứu đã nói về không gian

đô thị, KGCC cũng nhƣ KGST. Bối cảnh nghiên cứu khá bề bộn về không

gian đô thị, KGCC cho thấy đây là một chủ đề thú vị và liên tục tiếp diễn, bởi

ở những điều kiện hoàn cảnh khác nhau, KGCC liên tục đƣợc tạo ra và tái tạo

lại bởi nhiều nhóm chủ thể, gắn với mong muốn, nhu cầu của con ngƣời.

Tiếp cận từ góc nhìn quản lý và quy hoạch đô thị, KGCC nhƣ những

khoảng thở của thành phố, đƣợc thiết kế để mang lại những không gian sinh

hoạt chung, thỏa mãn nhu cầu gặp gỡ, tƣơng tác hay giải trí… Từ góc nhìn xã

hội học, KGCC đặc thù nhƣ chợ, các quán cà phê là nơi hình thành dƣ luận.

Từ góc nhìn văn hóa, KGCC trong diện mạo là các không gian vỉa hè, đƣờng

phố lại là những không gian văn hóa, không gian xã hội nơi phô bày các mối

quan hệ tƣơng tác, thƣơng thỏa, nƣơng tựa, nơi của các chiến lƣợc “chiếm

đoạt” không gian để định vị cuộc sống trong thành phố và cũng là cách để gắn

bó với thành phố. Không gian, nhƣ đã nói đến trong nghiên cứu của Lefebvre,

đó là những “kiến tạo xã hội”, nó liên tục đƣợc định hình và tái định hình,

đƣợc kiến tạo và tái kiến tạo chứ không phải một thực thể sẵn có. KGCC vốn

đã đa dạng, phức tạp về nghĩa, theo thời gian lại đƣợc khoác thêm, cấp cho

những lớp nghĩa mới.

44

Qua việc tập hợp và hệ thống những tƣ liệu phong phú, đa dạng về

KGST cũng cho thấy đây là một chủ đề đã đƣợc nói đến nhiều trên thế giới,

và khoảng gần mƣời năm trở lại đây tại Việt Nam. Xuất phát từ những tổ

hợp/cụm KGST trên thế giới, đặc biệt là ở Vƣơng quốc Anh – KGST đƣợc

xem nhƣ là những mô hình kinh doanh quan trọng, nơi kết nối, hỗ trợ cho

cộng đồng ngƣời làm sáng tạo, hƣớng đến phát triển công nghiệp sáng tạo.

Các mạng lƣới KGST đƣợc hình thành nhằm lan tỏa, chia sẻ cách làm hiệu

quả, thúc đẩy sự liên kết ở phạm vi các quốc gia, các châu lục. Hội đồng Anh

tại Việt Nam đã có vai trò tiên phong khi giới thiệu khái niệm này tại Việt

Nam, đánh dấu và mở ra thời kì các KGST đƣợc nói đến trong nhiều nghiên

cứu cũng nhƣ sự nở rộ của các KGST trong thực tiễn. Tiếp nối mạch thảo

luận trên thế giới, các nghiên cứu về KGST ở Việt Nam cũng cho thấy bối

cảnh năng động, tiềm năng phát triển cũng nhƣ lợi ích của KGST trong chiến

lƣợc phát triển công nghiệp văn hóa, hội nhập cùng nền kinh tế sáng tạo vốn

đang là xu thế quan trọng và nổi bật. Dƣới góc nhìn của những ngƣời nghiên

cứu nghệ thuật, KGST hay không gian phá cách là nơi dung chứa cho các thể

nghiệm nghệ thuật mới mẻ, tôn trọng tự do và bao dung với những phản ánh

trực diện về đời sống xã hội. KGST vì vậy, cho thấy nhiều ý nghĩa khác nhau,

gắn với những nhóm chủ thể khác nhau. Tuy vậy, chƣa có nghiên cứu nào

nhìn nhận KGST nhƣ là diễn đàn cho những thảo luận mở về các chủ đề của

xã hội, nơi diễn ra những tƣơng tác đa chiều giữa các cá nhân, nơi các cá nhân

đƣợc tự do bày tỏ quan điểm, chính kiến. Vì thế, sự nhấn mạnh công trình

nghiên cứu của Habermas về “khu vực công” có ý nghĩa quan trọng đối với

những lập luận trong những chƣơng viết sau về KGST. Các KGST có thể

chƣa phản ánh đƣợc hoàn toàn đặc trƣng của khu vực công trong lý thuyết của

Habermas nhƣng đó là những nỗ lực nới rộng không gian biểu đạt, tự do thảo

luận, kết nối trong bối cảnh đô thị có nhiều chuyển đổi.

45

CHƢƠNG 2

BỐI CẢNH XÃ HỘI TẠI ĐÔ THỊ VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA CÁC

KHÔNG GIAN SÁNG TẠO

Chƣơng viết này sẽ phân tích, diễn giải những tƣơng tác của bối cảnh

kinh tế xã hội năng động trong việc kiến tạo nên các KGST, xem những điều

kiện nào đã dung dƣỡng, nhen nhóm, thúc đẩy các KGST xuất hiện ngày càng

nhiều. Và tại sao lại là Hà Nội hay mở rộng ra, đô thị có vai trò nhƣ thế nào

với việc hình thành nên nhiều không gian ý nghĩa nhƣ vậy. Để trả lời câu hỏi

trên, NCS cho rằng phải kể đến những nhân tố nhƣ quá trình đô thị hóa và

những biến động của xã hội thời kì mở cửa và hội nhập, sự xuất hiện nhiều ấn

phẩm quan trọng của các nhà xuất bản, tác động mạnh mẽ của internet và vai

trò của các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam. Chƣơng viết cũng sẽ

tập trung vào Hà Nội, một đô thị có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa,

nơi tính chất đô thị đƣợc bộc lộ rõ rệt nhất gắn với tầng lớp thị dân và đời

sống văn hóa dồi dào, đa dạng.

2.1. Đô thị Hà Nội - môi trƣờng dung dƣỡng các không gian sáng tạo

Sau nghiên cứu đầu tiên của Hội đồng Anh tại Việt Nam về KGST năm

2014 [21], KGST bắt đầu đƣợc nói đến nhiều hơn, trên báo chí hay trong

nhiều hội thảo về KGST đƣợc tổ chức liên tiếp ngay sau đó. Tuy nhiên, từ

quan sát về Giấc mơ nhỏ và Cà phê Văn, sau này là một số KGST khác nữa

trong thành phố, thì dƣờng nhƣ KGST không hẳn là hiện tƣợng hoàn toàn mới

mẻ mà đã có những kết nối nhất định với quá khứ, từng tồn tại kiểu không

gian nhƣ vậy trong đời sống văn hóa của ngƣời dân đô thị trƣớc đây, tất nhiên

có những khác biệt nhất định do bị chi phối bởi hoàn cảnh. Trong các buổi

quan sát tham dự từ đầu năm 2017, khi hỏi chuyện những ngƣời cùng tham

dự thì hầu nhƣ nhiều ngƣời không nghĩ và không nói rằng mình đang hay vừa

hiện diện trong các “không gian sáng tạo”. Họ gọi những địa điểm này bằng

tên đƣợc ghi trên biển hiệu nhƣ “quán cà phê Giấc mơ nhỏ”, “quán cà phê

46

Văn”. Những lời mời hay hẹn nhau trên facebook để cùng tới một buổi trò

chuyện nào đó thƣờng khá ngắn gọn, chỉ bằng địa chỉ của quán nhƣ thể mọi

ngƣời đã quen và đều biết đến. Đa phần chƣa biết tới thuật ngữ “không gian

sáng tạo”, không nói về những địa điểm này - nơi họ thƣờng xuyên lui tới nhƣ

là một KGST. Khi đƣợc hỏi về KGST, có ngƣời còn nghĩ ngay đến “chỗ của

mấy ông nghệ sĩ”, hay nơi “đám ăn chơi hay đến”. Điều đó cho thấy trong đời

sống hàng ngày, lúc bấy giờ, việc biết đến cụm từ “không gian sáng tạo”

dƣờng nhƣ khá mơ hồ, nhiều ngƣời còn “chƣa nghe đến từ này bao giờ”.

Ngay cả Minh - ngƣời sáng lập KGST Giấc mơ nhỏ vào năm 2015, dự định

ban đầu là mong muốn tạo dựng một quán cà phê để hiện thực hóa mong ƣớc

của mình, sau đó vì biết đến khái niệm KGST lúc bấy giờ đang đƣợc nhắc đến

nhiều - trong phạm vi hẹp những ngƣời làm văn hóa nghệ thuật - nên nhân thể

mƣợn nó để “quảng cáo” cho quán luôn. Về sau, trong các bài viết giới thiệu

trên facebook, Minh sử dụng thuật ngữ “không gian sáng tạo” để nói về Giấc

mơ nhỏ. Hay ở các buổi hội thảo, sự kiện về KGST, Minh thƣờng đƣợc mời

đến với tƣ cách là một ngƣời sáng lập, chủ của một KGST. Sau báo cáo về

KGST năm 2014 của Hội đồng Anh đƣợc công bố rộng rãi trên báo chí, nhiều

nơi đã tự giới thiệu về mình là KGST hay sử dụng video nói về các KGST

của Hội đồng Anh để giới thiệu không gian của mình cho ngƣời tham dự

trong mỗi lần bắt đầu các sự kiện.

Không ít lần, trong phút mở lòng với khán giả tại các buổi gặp gỡ và

đối thoại, chia sẻ về lý do tạo dựng nên KGST Cà phê Văn, ông Phƣơng - một

thành viên sáng lập vẫn thƣờng gợi nhắc lại kí ức thời trẻ “theo chân” các

“bậc đàn anh”, các nghệ sĩ tiền bối, rong ruổi qua quán xá ở đô thị cùng với

những câu chuyện về văn học, nghệ thuật, sáng tác:

“Cái địa điểm thường là cái chỗ kí ức về văn hóa. Ở Hà

Nội có những biệt thự lớn thời Pháp, nó có cái không khí chung.

Ngoài cà phê thì còn có sinh hoạt văn hóa. Tôi vẫn nhớ thường

lẽo đẽo theo các đàn anh cà phê cà pháo. Đường Nguyễn Hữu

47

Huân có cà phê Lâm, quán cà phê nhỏ, nơi văn nghệ sĩ ra đó

uống cà phê. Câu chuyện văn nghệ của họ không phải như bây

giờ, không thấy chuyện tiền tỉ, chuyện bán đất. Từ anh Bùi Xuân

Phái, Nguyễn Sáng hay Văn Cao, những câu chuyện rất tuyệt

vời. Các ông có thể tranh luận, cãi nhau những vấn đề rất hay.

Nó có những cái chúng ta quan tâm. Đây (KGST Cà phê Văn) là

nơi như thế, tôi mơ đây là kí ức của Hà Nội, nơi những trí thức

hàng đầu trong nước và nước ngoài về nói chuyện. Chúng ta

không thể nói chuyện riêng với các anh ấy được nhưng có thể

đến chỗ này được. Vì thế nên khi có không gian, tôi quét vôi, treo

tranh lại, làm thêm cái phòng bên cạnh thành ra một nơi như thế

này” (Ông Phƣơng - thành viên sáng lập KGST Cà phê Văn).

Nếp sinh hoạt tri thức từ thời trẻ đó đã ghi dấu đậm nét trong tâm thức và thôi

thúc ông Phƣơng tạo ra không gian cho mình, cho cả thế hệ sau mình. Và nhƣ

vậy, Cà phê Văn dƣờng nhƣ là một sự nối dài của các không gian văn hóa đã

từng tồn tại trong bối cảnh đô thị nhiều năm trƣớc, lƣu giữ và duy trì những

thói quen sinh hoạt của trí thức, văn nghệ sĩ. Nó gợi lại không khí của “những

quán cà phê tụ điểm trí thức” (Nguyễn Vĩnh Nguyên, 2018) [44] hay những

“hội quán nghệ sĩ” của Hà Nội giai đoạn trƣớc, nơi gặp gỡ giao du theo lối

salon văn hóa, gắn với nhu cầu chia sẻ, trao đổi, bàn bạc, thảo luận, khơi mở

những ý tƣởng sáng tạo. Nếp sinh hoạt văn hóa sau này hay thói quen của

ngƣời đến tham dự trong các KGST dƣờng nhƣ cũng có bắt nối nhất định với

lối sống, tính cách đô thị và tâm thức thị dân vốn đã đƣợc hình thành qua thời

gian dài, nói cách khác chính bối cảnh đời sống văn hóa dồi dào của đô thị Hà

Nội đã là nơi nhen nhóm, nuôi dƣỡng và khơi nguồn cho những sinh hoạt văn

hóa tại các KGST.

Phải đến thời kì thuộc địa, Việt Nam mới xuất hiện những thành phố

mang dáng dấp hiện đại nhƣ Hà Nội. Cùng với thời kì hình thành nên các đô

thị, tầng lớp thị dân cũng ra đời, sinh sống không dựa trên phƣơng thức canh

48

tác nông nghiệp mà dựa vào buôn bán và các ngành nghề phi nông nghiệp. Kể

từ đó đô thị hình thành nên tầng lớp dân cƣ mới, xuất hiện tầng lớp trung lƣu,

những ngƣời tƣ sản, trí thức, doanh nhân, những ngƣời xuất sắc có nhiều

đóng góp cho xã hội, trở thành tinh hoa của xã hội. Đô thị cũng bắt đầu chứng

kiến nhiều nề nếp sinh hoạt mới, những đặc trƣng về lối sống, hình thành nên

tính cách thị dân. Diện mạo không gian đô thị có phần khác biệt nhiều so với

không gian làng xã nông nghiệp. Tính chất đô thị thời hiện đại cũng khác với

cả các kinh đô trƣớc đây của các triều đại phong kiến. Một trong những nét

khác biệt đó là sự xuất hiện nhiều địa điểm, nơi chốn mới mang đặc trƣng của

lối sống đô thị nhƣ đƣờng phố, công viên, nhà ga, rạp hát, rạp chiếu phim,

hiệu sách, quán cà phê âm nhạc... Đời sống văn hóa đô thị cuốn hút, hấp dẫn

với các hoạt động giải trí. Con ngƣời với những trải nghiệm riêng tƣ, với đời

sống cá nhân nằm trong đời sống chung của đô thị. Không gian đô thị rộng

rãi, dung nạp sự đa dạng, khác biệt từ nhiều thành phần xã hội khác nhau. Môi

trƣờng thị dân vốn ít ràng buộc hơn so với môi trƣờng làng xã nên đã cho

phép con ngƣời cá nhân đƣợc thể hiện cái riêng, cái khác, thể hiện quan điểm

cá nhân. Đô thị cũng là nơi dung chứa cả những thành phần đƣợc xem là bên

lề, ngoại biên bên cạnh những ngƣời nằm trong dòng chính, phổ thông, đại

chúng. Khi gợi lại lịch sử của những quán cà phê trong lòng Hà Nội ngay từ

khi ngƣời Pháp đến và bắt đầu vào việc xây dựng một thành phố hiện đại,

Nguyễn Trƣơng Quý đã xem quán cà phê - nơi hội tụ của các quý ông thƣơng

gia, các sĩ quan, trí thức… - nhƣ là những “thiết chế của Hà Nội”, và theo đó:

“Cà phê đã tham gia vào việc ấn định những điểm hẹn cho khung cảnh đô thị

Hà Nội, rồi ngay cả thời bao cấp khi cà phê là của hiếm, có lúc còn bị cấm

bán, vẫn có những “Quán cà phê ngoại ngoại ô” của Lưu Quang Vũ, điểm

hẹn của tuổi trẻ mộng mơ và cao ngạo” [60]. Trong một tiểu luận về mĩ thuật,

nhà nghiên cứu Nora A. Taylor đã nhắc đến quán cà phê Lâm tại số 69

Nguyễn Hữu Huân, Hà Nội nhƣ một địa chỉ văn hóa mà bà thấy ở đó bóng

dáng của các quán cà phê văn nghệ Paris, nơi có các nghệ sĩ tự nhận mình là

49

“bên lề của dòng chính trong xã hội” lui tới. Và chính những không gian nhƣ

quán cà phê Lâm đó đã “tạo ra một giới tinh hoa tri thức ngầm những năm

1960, 1970” [119]. Tính chất đô thị, đƣợc hiểu với nghĩa là không gian rộng

rãi cho những biểu đạt đa dạng, qua các thời kì, qua thăng trầm lịch sử cũng

có những thay đổi, khác biệt. Cũng có lúc tính chất đô thị bị mờ nhòa đi khi

toàn bộ đô thị là một không gian quy tụ, không gian đậm đặc chất sử thi, hào

hùng, cùng hƣớng tới những mục tiêu chung của đất nƣớc mà ít đi những yếu

tố cá nhân.

Trong khảo cứu công phu Một thời Hà Nội hát - Tim cũng không ngờ

làm nên lời ca, tác giả Nguyễn Trƣơng Quý đã gợi lại một Hà Nội dồi dào

những “mảnh vi lịch sử” [59, tr. 15], một Hà Nội quyến rũ, hào hoa xƣa cũ.

Hà Nội những năm 1947-1954 vẫn mang tính chất là một đô thị thuộc địa,

tầng lớp thị dân Hà Nội có lối sống phong lƣu, đời sống giải trí rộn ràng với

hệ thống sân khấu đại chúng và sự xuất hiện của nhiều nghệ sĩ, nhiều tác

phẩm nghệ thuật. Đô thị gắn với nhiều địa điểm quan trọng nhƣ “Hội quán

Trí Tri ở 47 Hàng Buồm năm 1938, được xem như cột mốc khởi điểm, tân

nhạc có mặt trong các buổi gặp gỡ đông người của thanh thiếu niên” [59,

tr.15] và cũng từ trong lòng đô thị, loại hình nghệ thuật mới này đƣợc sinh

thành, đƣợc nuôi dƣỡng và phát triển; hay “Quán Nghệ sĩ, một trong ba

phòng trà đầu tiên của Hà Nội từ năm 1946” [59, tr. 51] và hàng loạt các rạp

chiếu bóng, rạp hát nhƣ rạp Olympia, rạp Đại Nam… [59, tr. 74].

Lùi xa hơn về giai đoạn Hà Nội những năm đầu thế kỉ XX, cũng đã có

nhiều hội quán đƣợc lập ra nhƣ là không gian cho các sinh hoạt văn hóa.

Tháng 2/1919, Hội Khai trí tiến đức đƣợc thành lập trong bối cảnh xã hội có

nhiều biến động. Hội chủ trƣơng cổ vũ mở rộng học tập kiến thức, văn minh

phƣơng Tây đồng thời kết hợp với những giá trị tinh hoa của truyền thống văn

hóa Việt Nam. Đặt trong bối cảnh xã hội Việt Nam hai thập niên đầu thế kỉ

XX với những chuyển biến mạnh mẽ nhƣ sự tăng lên cả về số lƣợng của tầng

lớp trí thức, chính sách giáo dục của nhà nƣớc bảo hộ đáp ứng nhu cầu học

50

hành của của tầng lớp thị dân đô thị, tạo ra nhiều ngƣời có trình độ để tham

gia vào các ngành nghề khác nhau; hàng loạt các tờ báo, tạp chí ra đời, phản

ánh nhiều mặt của đời sống, là nơi thuận lợi để giới thiệu và tuyên truyền các

tƣ tƣởng mới, sự mở rộng của các đô thị, sự tăng lên nhanh chóng của tầng

lớp thị dân, tạo ra những lối sống mới vừa kế thừa truyền thống vừa tiếp thu

những giá trị văn hóa của phƣơng Tây…

Hội Khai trí tiến đức là một tổ chức văn hóa do chính quyền thực dân

Pháp thành lập, do vậy có những lý do chính trị đằng sau đó. Các hoạt động

văn hóa diễn ra tại đây đƣợc bảo trợ, từng đƣợc xem là “bình phong” cho các

ý đồ chính trị nhƣ tuyên truyền, hỗ trợ thực hiện cho các chính sách của Pháp,

nơi tập hợp nhiều tầng lớp trên của xã hội, lôi kéo thành phần trí thức, giới

thƣợng lƣu, nhằm tạo ra những ảnh hƣởng quan trọng trong đời sống, để tạo

điều kiện thuận lợi cho sự thống trị của Pháp. Nhiều trí thức, nhiều ngƣời yêu

nƣớc lúc bấy giờ cũng ý thức đƣợc động cơ, mục tiêu đằng sau các hoạt động

đƣợc coi là vì sự nghiệp khai hóa nên đã tranh thủ “mƣợn” hay coi đây nhƣ

một diễn đàn văn hóa hợp pháp nhất lúc bấy giờ để thể hiện tinh thần dân tộc,

bày tỏ nguyện vọng thầm kín của cá nhân đối với vận mệnh dân tộc.

Hội Khai trí tiến đức ra đời, dƣới hình thức hội quán với những sinh hoạt

văn hóa gần giống với kiểu các câu lạc bộ thời nay nhƣ tổ chức diễn thuyết về

văn hóa, lịch sử, nơi bình văn, nói chuyện… trong đó có nhiều sinh hoạt văn

hóa gây tiếng vang, hình thành nhiều ban chuyên môn nhƣ ban Văn học, ban

Diễn thuyết, ban Mỹ nghệ (Nguyễn Lan Dung (2008) [13] biên soạn cuốn từ

điển cho “một thứ tiếng nói hơn 20 triệu ngƣời” một cách công phu có tên là

Việt Nam tự điển (Phan Khôi, Tập Việt Nam tự điển của hội Khai trí tiến đức,

Phụ nữ Tân Văn, số 123, 17/3/1932) mà đến nay vẫn đƣợc xem là mẫu mực

về chính tả và từ mục. Nơi đây, năm 1924 cũng đã diễn ra buổi diễn thuyết về

Truyện Kiều của học giả Phạm Quỳnh nhân dịp ngày mất của đại thi hào

Nguyễn Du, khẳng định địa vị, vai trò của Truyện Kiều đối với đất nƣớc qua

51

câu nói nổi tiếng “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nƣớc ta còn”

(Dẫn theo Phạm Xuân Nguyên (2020)) [127].

Hội quán có tôn chỉ là mở mang tri thức (khai trí), bồi đắp đạo đức (tiến

đức). Hội Khai trí tiến đức ở Hà Nội đã quy tụ đƣợc “một số ít thị dân với một

nhóm trí thức, công chức tạo cơ sở xã hội quan trọng để tiếp nhận ảnh hƣởng

phƣơng Tây đang tràn tới” (Đinh Xuân Lâm - Phạm Xanh, 2004) [35]. Cũng

từ diễn đàn này, nhiều vấn đề về văn hóa, giáo dục đƣợc khơi dậy góp phần

mở mang tri thức cho ngƣời dân. Sau 26 năm hoạt động, ngày 24/9/1945 Hội

này bị giải tán sau khi Việt Minh giành chính quyền theo Nghị định của Bộ

trƣởng bộ nội - vụ giải tán hội Khai - trí tiến - đức (theo Việt Nam Dân quốc

công báo (ra ngày thứ bẩy), số 2, 6/10/1945).

Một vài mảnh ghép nhỏ trong chiều dài lịch sử đô thị Hà Nội đầy biến

động đã cho thấy sự quyến rũ cũng nhƣ sự khác biệt của Hà Nội so với nhiều

đô thị khác. Đây là môi trƣờng giàu có về văn hóa, nghệ thuật, một nơi chốn

sinh động với đời sống giải trí rộn ràng, nơi đón nhận nhiều luồng tƣ tƣởng,

nhiều trào lƣu văn hóa mới. Trên nền bối cảnh đó là những thói quen văn hóa

của ngƣời dân đô thị, là thị hiếu, mĩ cảm riêng góp phần hình thành nên tâm

thức thị dân. Trong bối cảnh đƣơng đại, Hà Nội vẫn là đô thị hấp dẫn và mời

gọi, là nơi quy tụ của nhiều ngƣời từ nhiều vùng miền khác nhau, nơi kết nối

và hình thành nên các nhóm xã hội với những mối quan tâm đa dạng. Hà Nội

- thành phố vì hòa bình - vừa là trung tâm văn hóa chính trị của cả nƣớc,

không gian biểu tƣợng của quốc gia nhƣng cũng là không gian thâu nhận, mở

ngỏ cho con ngƣời cá nhân. Hà Nội vừa là không gian công cộng nhƣng cũng

lại là nơi tạo nên nhiều không gian riêng tƣ nhất, nơi cho các cá nhân đƣợc

bộc lộ, đƣợc cất tiếng nói, dù những tiếng nói ấy là khác biệt, trái chiều, so

với những tiếng nói chủ đạo, đi ngƣợc lại với dòng chính. Có lẽ vì thế, các

KGST thƣờng tập trung tại các đô thị lớn nhƣ Hà Nội.

Cà phê Văn hay Giấc mơ nhỏ trƣớc khi đƣợc gọi hay tự gọi mình là

không gian sáng tạo, dƣờng nhƣ đều là những quán cà phê, những điểm hẹn

52

trong thành phố, nơi ngƣời ta đến để nói chuyện, chia sẻ và cập nhật thông

tin, nói những câu chuyện của đời sống đang diễn ra. Ở Hà Nội, ngƣời ta có

thể sà xuống vỉa hè, nhâm nhi trà đá sau bữa sáng vội, lần theo trang tin từ tờ

báo mới ra và nghe ngóng, góp thêm cho những câu chuyện thƣờng ngày

đang diễn ra hay cũng có thể chọn những quán cà phê, nơi có vẻ mang tính

chất bán công cộng, riêng tƣ và kín đáo hơn để trò chuyện, thủ thỉ. Cà phê

Văn và Giấc mơ nhỏ trƣớc hết là những lựa chọn trong đô thị khi cần một nơi

để kết nối, trò chuyện, nói cách khác KGST nhƣ là điểm hẹn trong thành phố,

mang lại cho thành phố những không gian sinh hoạt, không gian văn hóa ý

nghĩa. Còn với ngƣời trẻ lớn lên trong bối cảnh hội nhập, công cuộc toàn cầu

hóa diễn ra mạnh mẽ, việc “lê la” quán xá dƣờng nhƣ là một thói quen, một

phần của tuổi trẻ. Đó là nơi chốn hẹn hò, tán gẫu, tƣơng tác. Kỉ niệm gắn với

hình dung về các không gian cụ thể trong từng con ngõ hay ngóc ngách trong

lòng phố xá, nơi của những băn khoăn, trăn trở, nỗ lực tìm cách trƣởng thành,

nơi nuôi dƣỡng và đánh thức sự tò mò muốn biết, muốn tìm hiểu, nơi định

hình lối sống trong tƣơng lai. Những KGST và đặc biệt là không khí mà nó

tạo dựng nên đƣợc khiến nó trở thành những “nơi chốn”, nơi ngƣời trẻ có cảm

giác mình thuộc về.

Sức hấp dẫn của đô thị từ nhiều lý do khác nhau khiến quy mô dân cƣ

tại đô thị ngày càng tăng, quá trình di cƣ từ nông thôn ra thành thị diễn ra

mạnh mẽ, cũng vì thế nhu cầu về không gian ngày càng lớn đối với các nhóm

đối tƣợng khác nhau. Các nhóm chủ thể liên tục định hình lại cảnh quan thành

phố với những chủ đích khác nhau, làm thay đổi môi trƣờng vật lý của đô thị

và gắn thêm ý nghĩa mới cho các không gian hiện có, hay nhƣ Kurfrurst nhận

xét vô số các “nhà sản xuất không gian” bƣớc vào giai đoạn bùng nổ, để lại

dấu ấn riêng của họ trong cảnh quan của thành phố [106]. Cùng lúc đã tồn tại

rất nhiều các chủ thể kiến tạo không gian với những dụng ý, mục đích khác

nhau. Nhà nƣớc thì tạo ra các không gian thể hiện quyền lực, thể hiện vai trò

trung tâm chính trị của quốc gia thông qua việc tạo dựng nên biểu tƣợng của

53

đô thị nhƣ đài tƣởng niệm, toàn nhà của chính quyền, quảng trƣờng… tại Hà

Nội. Nhiều doanh nghiệp trong nƣớc và liên doanh thiết kế, xây dựng không

gian phục vụ cho tham vọng kinh tế của họ, từ đó tạo ra các không gian bán

công cộng nhƣ trung tâm mua sắm, công viên giải trí. Ngƣời dân cũng cải tạo

không gian sống theo hƣớng hiện đại, tiện nghi hay lấn chiếm không gian

công cộng cho mục đích cá nhân (Nguyễn Thị Phƣơng Châm – Hoàng Cầm,

2021) [7], sử dụng không gian công cộng cho hoạt động giải trí, tƣơng tác xã

hội. Sự chuyển đổi không gian không chỉ là kết quả của quá trình chuyển đổi

kinh tế mà còn bao hàm trong đó những lý do về các yếu tố xã hội và văn hóa.

Trong khi không gian ngày càng bị thu hẹp lại bởi sự tăng lên nhanh chóng

của dân số tại đô thị, để sinh sống, ngƣời dân đã có nhiều những chiến lƣợng

đàm phán, thƣơng lƣợng và xác định lại không gian công cộng. Các nghiên

cứu cũng cho thấy sự mở rộng, lấn chiếm, riêng hóa không gian tƣ, đời sống

riêng tƣ tràn sang cả không gian công, nói cách khác không gian công cộng đã

liên tục đƣợc xây dựng lại bởi ngƣời dân với những nhu cầu và giá trị khác

nhau (Goheen, 1998) [93].

Mỗi loại không gian có những đặc điểm riêng biệt, biểu hiện nhu cầu,

nguyện vọng, tính cách và mối quan tâm của các nhóm chủ thể khác nhau,

phản ánh những động thái mới của văn hóa truyền thống đô thị trong xã hội

đƣơng đại (Nguyễn Thị Phƣơng Châm - Hoàng Cầm, 2021) [7]. Cùng với

nhiều loại hình không gian khác, KGST đƣợc hình thành ngày càng nhiều

trong đô thị nhƣ một minh chứng cho thấy những nỗ lực nới rộng biên giới

của các không gian công trong đời sống, nó phản ánh nhu cầu đƣợc tham gia,

đƣợc cất tiếng nói của ngƣời dân, đặc biệt là nhóm trí thức. Nói là “nỗ lực”

bởi thực sự để tồn tại, các KGST thƣờng phải đối mặt với khá nhiều chật vật.

Có thể nói, sự xuất hiện của những KGST nhƣ thế này là do nhu cầu tự

thân của đời sống. Nhu cầu về nơi chốn nhƣ thế cho chia sẻ, thảo luận, hƣớng

tới giải quyết, bày tỏ quan điểm của mình về các vấn đề trong xã hội thì

dƣờng nhƣ con ngƣời thời nào, nơi nào cũng có. Không chỉ là địa điểm, đây

54

còn là những nơi chốn, nơi ghi dấu, lƣu giữ kí ức của con ngƣời. Nó đảm

nhiệm cùng lúc nhiều vai trò trong đời sống sống đô thị nhƣ là trƣờng học -

nơi tƣơng tác, trao đổi, chia sẻ kiến thức, là thƣ viện - với hàng trăm, hàng

nghìn đầu sách, với không gian nhỏ hẹp nhƣng cởi mở, là những câu lạc bộ

văn hóa nghệ thuật nơi hội tụ những ngƣời yêu phim ảnh, văn chƣơng, hay là

rạp chiếu phim thu nhỏ… Nó là những địa chỉ văn hóa làm nên phần hồn cho

đời sống đô thị, vốn đang bị cạnh tranh khốc liệt trong việc giằng giữ khi mà

đời sống vật chất và hoạt động thƣơng mại đang dần trở nên chiếm ƣu thế.

KGST cũng đã thực hiện vai trò kết nối và duy trì các thực hành văn hóa của

các nhóm, các cộng đồng, tạo ra không gian văn hóa nhỏ hơn trong không

gian đô thị rộng lớn. Và nhƣ vậy, KGST vừa là không gian quán xá thân

thuộc với nếp sinh hoạt của ngƣời dân đô thị nhƣng cũng là những không gian

văn hóa, không gian xã hội, góp phần làm nên sự hấp dẫn của một đô thị từng

cất giữ nhiều truyền thống và nay vẫn đang tạo dựng nên những giá trị mới,

thích ứng và phù hợp với sự vận động của xã hội đƣơng thời. KGST có mối

liên hệ với những sinh hoạt văn hóa trong quá khứ, hiện hữu sinh động trong

hiện tại và còn góp phần kiến tạo nên tƣơng lai.

2.2. Những thay đổi của xã hội Việt Nam sau Đổi Mới

Từ sau chính sách Đổi Mới năm 1986 với quá trình chuyển đổi từ nền

kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trƣờng, tốc độ hội nhập của Việt Nam

với thế giới bên ngoài diễn ra nhanh chóng, sâu rộng. Việt Nam dần trở thành

một điểm đến hấp dẫn với các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc. Tâm điểm của

sự chú ý này chính là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh - hai đô thị lớn của

cả nƣớc. Cũng từ mốc khởi điểm này, cho đến nay, Việt Nam nói chung và

Hà Nội nói riêng đã chứng kiến nhiều biến đổi sâu sắc trong đời sống văn hóa

xã hội.

Trƣớc tiên, quá trình tự do hóa kinh tế với việc giảm bớt các quy định,

hạn chế của chính phủ và đổi lấy sự tham gia nhiều hơn của các thành phần tƣ

nhân đã góp phần đƣa đất nƣớc hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, mang lại

55

sự thịnh vƣợng kinh tế trong ba mƣơi lăm năm qua. Ngƣời ta đã thấy có sự

tƣơng quan chặt chẽ giữa mức độ tự do kinh tế và sự gia tăng GDP (Lê Đăng

Doanh, 2017) [45]. Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng đã đem đến những

tác động tích cực nhƣ xóa đói giảm nghèo, tạo ra công ăn việc làm, ổn định xã

hội và nhờ vậy sức ép về các vấn đề xã hội cũng đƣợc giảm thiểu đáng kể.

Quá trình này cũng đặt ra những yêu cầu về hệ thống luật pháp cũng nhƣ sự

vận hành của các cơ quan nhà nƣớc khi đòi hỏi trách nhiệm giải trình, tính

trách nhiệm, sự hoàn thiện hệ thống luật phát cùng với cải cách cơ chế, thủ

tục hành chính… Tuy nhiên, nhiều bất cập và tồn tại cũng đã lộ ra nhƣ lợi ích

nhóm trong hệ thống chính trị, tham nhũng, lãng phí, thiếu công khai minh

bạch, lạm dụng quyền lực để thu lợi… (Lê Đăng Doanh, 2017) [45]. Đây

cũng chính là những chủ đề đƣợc ngƣời dân nói đến nhiều trong các câu

chuyện ở vỉa hè, các không gian công cộng.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đƣợc đánh dấu là Đại hội

của đổi mới đã tạo nên bƣớc ngoặt quan trọng trong tiến trình dân chủ hóa.

Những Đại hội sau đó đặt ra nhiều vấn đề khác xoay quanh vấn đề dân chủ

nhƣ: làm cách nào để đảm bảo dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền

(Đại hội VII - 1991), các phƣơng thức làm chủ của nhân dân (Đại hội VIII -

1996), khẳng định dân chủ là một mục tiêu trong hệ mục tiêu chung của cách

mạng (Đại hội IX - 2001, Đại hội X, Đại hội XI), hƣớng tới xây dựng một

nƣớc Việt Nam “dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đến

nay, sau hơn ba mƣơi lăm năm đổi mới, vai trò của dân chủ cũng nhƣ sự cần

thiết phải hoàn thiện thể chế, đổi mới cơ chế chính sách để đảm bảo quyền

làm chủ của ngƣời dân càng đƣợc nhận thức rõ ràng hơn (Trần Thị Minh

Tuyết, 2019) [75]. Và thực tế, quá trình dân chủ hóa này đã diễn ra một cách

sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống đất nƣớc, từ kinh tế, chính trị tới văn

hóa xã hội.

Quá trình dân chủ hóa này đã có những thay đổi sâu sắc nhất là dƣới

tác động của quá trình toàn cầu hóa. Trong bối cảnh internet và mạng xã hội

56

là công cụ đầy quyền năng để phổ biến, lan truyền thông tin, mọi ngƣời dân

có thể dễ dàng tiếp cận đƣợc với các chính sách, quy định cũng nhƣ việc thực

thi chính sách của nhà nƣớc, của cơ quan công quyền. Cộng với những hiểu

biết và kiến thức nền tảng đƣợc thu nhận từ nhiều nguồn khác nhau, nhiều

ngƣời đã cất tiếng bình luận, phản biện, đóng góp cho việc thực hiện các

chính sách đó. Nhiều không gian trở thành những diễn đàn cho chia sẻ, đối

thoại, nơi ngƣời dân đƣợc tham gia, bày tỏ, thể hiện quan điểm của mình đối

với các chính sách và thực thi chính sách xoay quanh các vấn đề nhƣ môi

trƣờng, giáo dục, kinh tế, tự do ngôn luận, nghệ thuật … Quá trình dân chủ

hóa vì vậy đƣợc diễn ra đa chiều, ở phạm vi rộng rãi, trên nhiều lĩnh vực của

đời sống xã hội.

Thêm vào đó, cũng sau chính sách Đổi Mới, các không gian công

dân đã đƣợc hình thành, mở rộng, xuất hiện nhiều hội nhóm trong xã hội nhất

là từ sau những năm 1990, trong bối cảnh Việt Nam gia nhập cộng đồng quốc

tế. Nhiều tổ chức phát triển quốc tế vào Việt Nam, đánh dấu sự xuất hiện của

nhiều tổ chức phi chính phủ, các tổ chức từ thiện. Sau đó các tổ chức phi

chính phủ Việt Nam cũng bắt đầu đƣợc thành lập bên cạnh nhiều tổ chức của

nhà nƣớc. Các tổ chức này thực hiện nhiều hoạt động khác nhau và thƣờng

chú ý đến việc phản biện chính sách, bảo vệ các quyền của con ngƣời, cung

cấp thông tin và phát triển cá nhân thông qua các chƣơng trình tập huấn... Các

tổ chức này phong phú về thành phần, đa dạng về hoạt động, tự mở rộng kích

thƣớc không gian bằng nhiều hoạt động độc lập và phản biện xã hội, đề cập

đến nhiều vấn đề quan trọng trong sự phát triển của đất nƣớc, bảo vệ quyền

con ngƣời, truyền tải những tiếng nói của các cộng đồng ngƣời yếu thế (Lê

Quang Bình và cộng sự, 2016) [3]. Chính các chủ thể trong các nhóm xã hội

này đã nêu lên nhiều vấn đề quan trọng trong xã hội cần đƣợc tranh luận, bàn

bạc, điều chỉnh.

Quá trình toàn cầu hóa nhƣ là xu hƣớng tất yếu mà không một quốc gia

nào có thể cƣỡng lại đƣợc cũng tác động đến nhiều phƣơng diện, đặc biệt là

57

đời sống văn hóa. Nhiều giá trị văn hóa mới mẻ nhờ toàn cầu hóa mà du nhập

mạnh mẽ vào Việt Nam, làm thay đổi các thực hành văn hóa, thay đổi các mối

quan hệ giữa nhà nƣớc và xã hội (Phạm Quỳnh Phƣơng, 2020) [50], làm xuất

hiện nhiều hiện tƣợng văn hóa mới mẻ nhƣ truyền thông đại chúng, giải trí,

hâm mộ thần tƣợng... Ngƣời trẻ lớn lên, đƣợc trải nghiệm và sống trong bầu

không khí của đổi mới và tự do, có nhiều cơ hội giao lƣu, học tập để tiếp thu

và mang theo về những giá trị mới mẻ. Họ dám chia sẻ thẳng thắn, trực diện

quan điểm, suy nghĩ của cá nhân, dám thể hiện chính kiến, quan tâm đến

những giá trị tự do, dân chủ, công bằng, quan tâm và ý thức đến quyền công

dân. Nhu cầu, mong muốn, khát vọng về đời sống vật chất và tinh thần của

con ngƣời đô thị cũng có những thay đổi sâu sắc.

Trong bối cảnh chung này, không thể không nói đến sự hình thành của

các phong trào xã hội nhƣ phong trào của những ngƣời thiểu số tính dục (Vũ

Hoàng Hiếu, 2018) [19], phong trào bảo vệ cây xanh (Lê Quang Bình và cộng

sự, 2016) [3] … Bằng nhiều hành động cụ thể nhƣ kêu gọi, bày tỏ thái độ,

chia sẻ thông tin, thể hiện ý kiến, các nhóm xã hội mong muốn đƣợc đối thoại

với chính quyền. Đặc biệt, họ đã sử dụng mạng xã hội để kết nối, lan tỏa và

truyền đi nhiều thông điệp về sự minh bạch, về khoảng cách giữa chính quyền

và ngƣời dân. Các phong trào này mang lại những tác động tích cực trên khắp

cả nƣớc, làm gia tăng số ngƣời tự tin và trải nghiệm tự do hội họp, đặc biệt

trong sinh viên và thanh niên, tăng năng lực hoạt động của xã hội dân sự trên

mạng xã hội, thúc đẩy sự tham gia của ngƣời dân vào quản trị xã hội, thúc đẩy

hoạt động đối thoại giữa ngƣời dân với chính quyền (Lê Quang Bình và cộng

sự, 2016) [3].

Bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội bề bộn của đô thị đƣợc xem chính là

những điều kiện vô cùng quan trọng cho sự ra đời của các KGST, đồng thời

cũng là “chất liệu” cho nhiều cuộc thảo luận tại các KGST sau này.

58

2.3. Những ấn phẩm của ngành công nghiệp xuất bản tại Việt Nam và

tiến trình dân chủ hóa

Khi cho rằng không gian công đã đƣợc hình thành khá rõ nét trong giai

đoạn 1919-1945, nhất là ở hai đô thị Sài Gòn và Hà Nội, Nguyễn Thị Thúy

Hằng và Vũ Thị Minh Thắng (2015) [18] đã lý giải vì “Hai thành phố này tập

trung các hoạt động in ấn, đóng vai trò trung tâm của những cuộc tranh cãi

liên quan đến các vấn đề văn học, tôn giáo và chính trị”. Điều đó cho thấy

việc sản xuất sách báo, tạp chí cũng nhƣ quá trình tiếp nhận và chuyển hóa

các ấn phẩm của độc giả có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành

nên các không gian công. Điều này cũng hoàn toàn đúng với các KGST khi

có thể tìm thấy mối liên hệ khá gần gũi giữa không khí trao đổi, tranh luận tại

các KGST với sự phát triển mạnh mẽ của ngành xuất bản tại Việt Nam sau

Đổi Mới, đặc biệt là một số ấn phẩm quan trọng góp phần tạo dựng và nuôi

dƣỡng suy nghĩ cởi mở, những phản biện xã hội tích cực, hình thành nên tâm

thức mới cho con ngƣời tại đô thị.

Tại các KGST đƣợc khảo sát là Cà phê Văn và Giấc mơ nhỏ, sách vở

nhƣ là phƣơng tiện để khai trí, cung cấp và mở rộng kiến thức nền tảng, xây

dựng vốn văn hóa cho mỗi cá nhân. Nhiều buổi gặp gỡ, trao đổi tại Giấc mơ

nhỏ hay Cà phê Văn, sách luôn là tâm điểm, là chủ đề chính hay ít nhất là gợi

ra những ý tứ cho nội dung thảo luận. Sách là sợi dây kết nối các cá thể có

chung mối quan tâm tại Giấc mơ nhỏ, hình thành nên nhiều nhóm đọc khác

nhau: nhóm theo đuổi nghề viết, thƣờng xuyên đọc và cập nhật các tác phẩm

văn chƣơng trong và ngoài nƣớc; nhóm say mê triết học, xây dựng tủ sách

triết học, tổ chức các chuỗi sự kiện triết học, cùng đọc nhiều tác phẩm của các

nhà triết học trên thế giới, đặc biệt là triết học phƣơng Tây, lấy đó làm nền

tảng để mở rộng về những hƣớng đọc khác. Cũng có khi khó xếp ai đó vào

một nhóm nào cụ thể bởi họ tự nhận mình là ngƣời đọc đa dạng, không khuôn

vào một chủ đề hay thể loại nào để có cái nhìn rộng mở về cuộc sống đang

diễn ra xung quanh.

59

Từ đầu những năm thập niên 2000 đánh dấu một bƣớc phát triển mới

của ngành công nghiệp xuất bản Việt Nam. Kể từ đây, ngành xuất bản có sự

khởi sắc mạnh mẽ với sự ra đời của nhiều nhà xuất bản mới. Nhà xuất bản

Nhã Nam (Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam) gia nhập thị

trƣờng sách tháng 2/2005 với phƣơng châm “mỗi cuốn sách nhƣ một con thuyền mang tới niềm vui, tri thức, ngạc nhiên và đồng cảm”14. Nhiều dòng

sách đáp ứng đƣợc nhu cầu đa dạng của ngƣời đọc nhƣ tác phẩm hƣ cấu, phi

hƣ cấu, lịch sử, triết học, văn hóa đƣơng đại, sách triết lý sống, sách khai

trí,… Nhiều tác phẩm có ảnh hƣởng mạnh mẽ đến giới trẻ, đánh thức niềm

say mê đọc văn chƣơng ở độc giả trẻ tuổi, trở thành sách gối đầu giƣờng, mở

ra những cách nhìn mới về lối sống, làm thay đổi những quan niệm cũ nhƣ:

Rừng Na Uy của Haruki Murakami, Bắt trẻ đồng xanh của J.D.Salinger, Giết con chim nhại (Harper Lee)15… Tháng 9/2005, nhà xuất bản Tri thức, trực

thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và Kĩ thuật Việt Nam đƣợc thành lập, góp

thêm một mảng màu quan trọng trong bức tranh ngành xuất bản cũng nhƣ

trong đời sống tinh thần của ngƣời dân đô thị. Từ các cuốn sách đầu tiên

thuộc Tủ sách Tinh hoa tri thức thế giới, hoạt động dịch thuật đƣợc đẩy mạnh

và xuất bản những tác phẩm kinh điển nhƣ Bàn về tự do – J.S.Mill (Nguyễn

Văn Trọng dịch), Tâm lí học đám đông – G.le Bon (Nguyễn Xuân Khánh

dịch)… về sau mở rộng ra với nhiều tủ sách khác nhƣ: Tủ sách Dẫn nhập giới

thiệu tổng quát kiến thức nền tảng trên nhiều lĩnh vực; Tủ sách Tri thức mới

đề cập đến nhiều vấn đề có tính nhân loại; Tủ sách Tiểu sử cung cấp thông tin

về bối cảnh, quá trình hình thành những tƣ tƣởng lớn trên thế giới; Tủ sách

Việt Nam đƣơng đại mang đến thông tin đa chiều về Việt Nam hay Tủ sách Tri thức phổ thông đem đến nhiều chủ đề rộng lớn khác nhau16. Ngoài ra, phải

kể đến sự nở rộ các hoạt động xuất bản của nhiều nhà xuất bản khác nhƣ: nhà

xuất bản Trẻ, nhà xuất bản Kim Đồng, nhà xuất bản Phụ nữ, nhà xuất bản Thế 14 http://nhanam.com.vn/tin-tuc/5/gioi-thieu 15 http://nhanam.com.vn/tin-tuc/5/gioi-thieu 16 http://www.nxbtrithuc.com.vn/Gioi-thieu/Chang-duong-phat-trien.html

60

giới… mang đến nhiều loại tác phẩm trên nhiều lĩnh vực khác nhau, góp phần

làm phong phú đời sống tinh thần, tăng vốn hiểu biết cho ngƣời dân đô thị

cũng nhƣ thu hẹp dần khoảng cách tri thức với thế giới khi mà trong một thời

gian dài cơ hội tiếp cận bị hạn chế bởi những điều kiện lịch sử.

Song hành và thúc đẩy hoạt động của các nhà xuất bản, nhiều quỹ hỗ

trợ hoạt động dịch thuật cũng đã đƣợc thành lập với nhiều đóng góp quan

trọng. Có thể kể đến Quỹ Dịch thuật Phan Châu Trinh đƣợc thành lập năm

2006 (năm 2008 đƣợc mở rộng thành Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh) nhằm

phổ biến những tác phẩm kinh điển, có tính chất nền tảng trong kho tàng trí

tuệ thế giới, trong những chuỗi hoạt động nhằm “du nhập, phục hưng, khởi

phát, giữ gìn và lan tỏa những giá trị tinh hoa văn hóa nhằm góp phần canh tân văn hóa Việt Nam trong thế kỉ 21”17. Hoạt động dịch thuật cũng đƣợc hỗ

trợ bởi các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam nhƣ Trung tâm Văn

hóa Pháp, Viện Goethe,… Những nỗ lực dịch, chú giải, hiệu đính, thẩm định,

xây dựng đội ngũ dịch giả đối với loại sách kinh điển đã mang đến cho độc

giả Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị của nhân loại, có thể kể đến nhƣ Phê

phán lý tính thuần túy của triết gia Immanuel Kant (dịch giả Bùi Văn Nam

Sơn); Dân chủ và Giáo dục của John Dewey (dịch giả Phạm Anh Tuấn);

Émile hay là về giáo dục của Jean – Jacques Rousseau (dịch giải Lê Hồng

Sâm và Trần Quốc Dƣơng), Siêu lý tình yêu – V.Soloviev (dịch giả Phạm Vĩnh

Cƣ), Minh triết thiêng liêng của Hamvas Béla (dịch giả Phạm Văn Thiều, dịch

giả Nguyễn Hồng Nhung),…

Những ấn phẩm này có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thu hẹp

dần khoảng trống học thuật khi giới thiệu hệ thống tƣ tƣởng quan trọng của

thế giới, phổ biến những quan niệm mới về nhân quyền, dân quyền, dân chủ,

lan tỏa những giá trị nhân văn. Có thể nói nỗ lực của các nhà xuất bản đã tạo

ra bầu không khí học thuật cởi mở khi giới thiệu nhiều trào lƣu tƣ tƣởng. Bấy

lâu ở Việt Nam, tiếp cận với các tƣ tƣởng, học thuyết từ phƣơng Đông,

17 http://www.quyphanchautrinh.org/tu-sach-tinh-hoa/Index/0

61

thƣờng khá dễ dàng và đƣợc lí giải là do những nét tƣơng đồng về văn hóa,

gắn với yếu tố lịch sử giao thƣơng trong khi việc tiếp cận các tƣ tƣởng tinh

hoa của phƣơng Tây có phần hạn chế hơn. Những tƣ tƣởng triết học thời cổ

đại của Socrat, Platon, Aristot… hay ngay cả những tƣ tƣởng cận đại của

phong trào Khai sáng, những học thuyết quan trọng của phƣơng tây trƣớc đó

chƣa đƣợc giới thiệu một cách hệ thống và nghiêm túc về Việt Nam. Việc phổ

thông hóa những tri thức này tạo ra bầu không khí học thuật thực sự cởi mở.

Sự góp mặt của các giá trị văn hóa tinh hoa trên thế giới mở rộng tầm nhìn

cho ngƣời trẻ, đƣa đến những so sánh, đối chiếu, liên tƣởng với những giá trị

văn hóa của dân tộc và cũng là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ quá trình dân chủ

hóa ở Việt Nam. Việc tiếp nhận những ảnh hƣởng văn hóa bên ngoài vì thế có

tác động mạnh, biến đổi và mở rộng tâm thức của con ngƣời trong bối cảnh

đô thị đƣơng đại.

Chính nhu cầu đọc, hiểu và khỏa lấp những khoảng trống học thuật

cũng nhƣ liên hệ với thực tế cuộc sống thôi thúc việc tìm đến nhau để đọc

cùng, nghĩ cùng và cũng là lý do thúc đẩy sự hình thành và phát triển của

nhiều KGST trong thành phố. Sau mô hình của Giấc mơ nhỏ và Cà phê Văn,

khá nhiều không gian khác vẫn đang đƣợc hình thành, rải rác khắp các ngóc

ngách của đô thị, trở thành những nơi chốn sinh hoạt văn hóa cho giới trẻ, cho

trí thức và nhiều nhóm xã hội khác. Có thể nói, ngành xuất bản đƣơng thời

với nỗ lực giới thiệu những tinh hoa thế giới về Việt Nam đã tạo môi trƣờng

dung dƣỡng sự sáng tạo, khơi lên những tƣ tƣởng nhân văn, ý thức về tự do,

dân chủ, nhân quyền. Nói cách khác, những cuốn sách quan trọng đó đã là

những nhân tố nhen nhóm và mở rộng tâm thức con ngƣời, nâng cao nền tảng

tri thức, giúp ngƣời dân hòa nhập đƣợc vào dòng chảy văn minh trên thế giới.

2.4. Vai trò của các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam

Vai trò của các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam đƣợc nhắc

đến khá nhiều trong những nghiên cứu về mĩ thuật đƣơng đại (Nora A.

Taylor, 2007) [119], Đào Mai Trang (2006) [130] trên các phƣơng diện nhƣ

62

hỗ trợ kinh phí cho một số dự án nghệ thuật đặc biệt là những loại hình nghệ

thuật mới, hỗ trợ không gian khi tạo điều kiện cho các nghệ sĩ tổ chức triển

lãm ngay trong khuôn viên của các trung tâm văn hóa, kết nối, thiết lập mạng

lƣới nghệ thuật đƣơng đại mới tại Việt Nam để cổ vũ các nghệ sĩ. Các trung

tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam đƣợc xem là “bà đỡ” cho sự sáng tạo,

sự phá cách khi mà các cơ quan quản lý văn hóa trong nƣớc còn khá e dè với

những loại hình nghệ thuật mới. Tuy nhiên, đó chỉ là một góc nhìn về những

tác động của các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam từ lĩnh vực mĩ

thuật đƣơng đại. Thực tế, tác động của nó còn mở rộng trên nhiều lĩnh vực

khác nhau.

Những năm đầu thập niên 90, thông tin về văn hóa nghệ thuật về thế

giới vẫn hết sức hạn chế, hầu nhƣ chỉ thông qua một vài kênh cá nhân. Trong

bối cảnh đó, trung tâm văn hóa nƣớc ngoài giống nhƣ cửa ngõ để ngƣời dân

thủ đô tiếp xúc với văn hóa thế giới và văn hóa thế giới theo đó cũng đƣợc

giới thiệu ngày một nhiều hơn ở Việt Nam. Trung tâm Văn hóa Pháp

L‟Espace đƣợc thành lập từ năm 1991 (tiền thân là Trung tâm Ngôn ngữ và

văn minh Pháp tại 42 Yết Kiêu), đến tháng 9/2003 chuyển địa điểm về 24

Tràng Tiền. Tiếp sau là sự ra đời của Hội đồng Anh tại Việt Nam (1993) và

Viện Goethe Hà Nội (1997). Ngoài việc đƣợc biết đến nhƣ là trung tâm

truyền bá ngôn ngữ thông qua việc dạy và học tiếng, tƣ vấn du học cho học

sinh sinh viên, các trung tâm văn hóa còn hợp tác với Việt Nam trên hầu hết

các lĩnh vực: điện ảnh, mĩ thuật, âm nhạc cũng nhƣ hỗ trợ các hoạt động văn

hóa cho nƣớc sở tại.

Trƣớc tiên, các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Hà Nội cho thấy một

mô hình về không gian văn hóa đa dạng với tham vọng trở thành “một trong những nhân tố chính của đời sống văn hóa nghệ thuật Hà Nội”18. Đây cũng là

những không gian tích hợp đa chức năng, vừa là thƣ viện, vừa là trƣờng học,

là nơi tổ chức các buổi hội thảo, giới thiệu sách, các chƣơng trình nghệ thuật,

18 https://ifv.vn/cac-van-phong-cua-vien-phap/trung-tam-van-hoa-phap-tai-ha-noi-lespace/

63

không gian dành cho triển lãm. Tại đây, các xu hƣớng mới, tri thức mới đƣợc

cập nhật, giới thiệu tới công chúng thủ đô. Trong một thời gian dài, trong con

mắt của ngƣời dân thủ đô, đó là những trung tâm văn hóa cập nhật, mới mẻ và

đặc biệt là tiên phong trong bối cảnh văn hóa xã hội đƣơng đại Việt Nam.

Bên cạnh các tác nhân nhƣ hoạt động thƣơng mại, hoạt động triển lãm,

thì các cơ quan văn hóa của các Đại sứ quán nƣớc ngoài tại Việt Nam (Viện

Goethe của Đức, L‟space của Pháp, Hội đồng Anh…) thƣờng xuyên bảo trợ

cho các nghệ sĩ đƣơng đại thực hiện các dự án nghệ thuật bằng việc “cung cấp

các không gian “ngoại giao” nơi nghệ sĩ có thể trưng bày tác phẩm của

mình” [119]. Nhiều thực hành nghệ thuật mang tính phá cách, chạm vào nhiều

vấn đề của hiện thực, bị xem là có yếu tố chính trị, đầy tính “khiêu khích” đã

đƣợc diễn ra dƣới sự bảo trợ của các không gian này trong tinh thần trao đổi

văn hóa. Từ những năm 1995, bên cạnh các hình thức nghệ thuật truyền thống

nhƣ hội họa, điêu khắc, một số nghệ sĩ thị giác ở Việt Nam có những thực

hành nghệ thuật mới nhƣ: nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật trình diễn, video art.

Các loại hình này đƣợc xem nhƣ là những phƣơng tiện cho những tiếng nói

mới gắn với mong muốn phản ánh trực diện nhiều vấn đề của xã hội nhƣ

những bất an của con ngƣời trong xã hội hiện đại, ô nhiễm môi trƣờng, tham

nhũng, ngƣời dân mất đất, những vi phạm dân chủ... Ban đầu, các thực hành

nghệ thuật này phần lớn bị phản đối, không đƣợc coi đó là nghệ thuật [119],

[130]. Những thực hành này cũng gây nhiều lúng túng, bối rối cho các nhà

quản lý văn hóa khi không biết xếp những tác phẩm kiểu này vào đâu và xét

duyệt nhƣ thế nào. Nhiều triển lãm bị cấm hay không đƣợc cấp phép biểu

diễn. Các nghệ sĩ lúc đó đã tìm đến các cơ quan văn hóa nƣớc ngoài tại Việt

Nam nhƣ L‟Espace, Viện Goethe… xem đây nhƣ là đơn vị bảo trợ cho các

thực hành nghệ thuật mới.

Những thay đổi lớn nhỏ trong xã hội, trong tâm thức con ngƣời xảy ra

nhờ quá trình giao lƣu với bên ngoài, ở đây hiện thân là các trung tâm văn hóa

nƣớc ngoài. Không khí dân chủ, cởi mở của các buổi thảo luận, cũng nhƣ tự

64

do nghệ thuật, tự do thể hiện mối quan tâm với các vấn đề xã hội, đã có tác

động không nhỏ đến sự nhận thức cũng nhƣ cảm xúc của ngƣời dân đô thị,

đặc biệt là giới trí thức và những ngƣời trẻ, nhƣ nhận xét của Đào Mai Trang:

“sự đa dạng của nghệ thuật đương đại Việt Nam về cách thức tiếp cận, về các

luồng ý tưởng và khát vọng được can dự trực tiếp vào đời sống thường nhật”

[130]. Sự phá cách, tự do về nghệ thuật đồng thời cũng mở ra những tự do

trong tƣ tƣởng, tạo cơ hội cho những suy nghĩ cởi mở hay trực diện phản ánh

nhiều vấn đề nóng bỏng của đời sống xã hội.

Có thể nói, những trung tâm văn hóa nƣớc ngoài cũng chính là những

KGST đầu tiên khơi mở cho hàng loạt sự xuất hiện của các KGST. Mô hình

của nhiều KGST về sau rõ ràng đƣợc gợi cảm hứng từ cách thức hoạt động

của các trung tâm văn hóa này. Đó là những không gian khuyến khích tính đa

dạng cả về nghệ thuật lẫn tri thức (thể hiện ngay ở tên của Trung tâm văn hóa

Pháp: “L‟Espace” nghĩa là không gian - nơi luôn rộng mở và chào đón tất cả),

cập nhật những dòng chảy văn hóa trong và ngoài nƣớc, tự do, tƣơng tác, kết

nối và cũng là những diễn đàn đối thoại cởi mở. Đa dạng và cởi mở vì thế

cũng đồng nghĩa với tiến bộ, phát triển.

Từ phía công chúng, khán giả Hà Nội, trong bối cảnh những năm đầu

thập niên 2000, khi mà các cơ hội du lịch nƣớc ngoài hay du học chƣa nhiều,

việc tiếp xúc với các nền văn hóa khác ít nhiều còn hạn chế, thì những mô

hình của các trung tâm văn hóa này rõ ràng đã mang lại những sự mới mẻ,

háo hức, đón đợi. Những luồng tƣ tƣởng mới, những giá trị mới đƣợc đón

nhận một cách hào hứng, mang lại những thay đổi lớn cho từng cá nhân, mở

rộng cách nghĩ, cách nhìn, vốn hiểu biết và tăng thêm khả năng phản biện của

cá nhân, từ đó tác động đến xã hội. Về sau, trong tâm thức của những ngƣời

trẻ, các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam luôn là những không gian

đậm đặc tinh thần tri thức, là những địa điểm hào phóng với những sự kiện

văn hóa nghệ thuật thƣờng xuyên đƣợc tổ chức miễn phí hoặc ngƣời tham dự

chỉ phải trả một mức phí rất nhỏ nhƣ chiếu phim tài liệu, giới thiệu các tác

65

phẩm điện ảnh, giới thiệu sách, triển lãm nghệ thuật… Không khí ở những

trung tâm văn hóa này thƣờng mang đến những cảm thức mới mẻ, vừa xa lạ

vừa thân thuộc.

2.5. Sự xuất hiện của internet, mạng xã hội và bối cảnh toàn cầu hóa

Thông tin đóng vai trò quan trọng của lĩnh vực công cộng và các cuộc

thảo luận. Internet mang lại cho mọi ngƣời cơ hội tiếp cận các sự kiện, thông

tin, từ đó họ có thể suy nghĩ, phân tích và bình luận về chúng, từ đó đƣa ra

những quyết định hợp lý phải làm, cần làm. Thông tin, nhờ intetnet đƣợc cung

cấp tới tất cả mọi ngƣời truy cập mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào, đảm

bảo tính cởi mở và khả năng tiếp cận cho tất cả mọi ngƣời.

Theo Báo cáo Việt Nam Digital 2021 do We are social và Hootsuite

thống kê, tính đến thời điểm tháng 1 năm 2021, Việt Nam đã có 68,72 triệu ngƣời dùng internet trên tổng số 97,8 triệu ngƣời19. Với tỉ lệ sử dụng internet

là 70,3%, Việt Nam là một trong những quốc gia có lƣợng ngƣời dùng

Internet cao trên toàn thế giới. Tại trung tâm đô thị, số lƣợng các quán cà phê

internet tăng theo cấp số nhân. Những năm gần đây, việc sở hữu các thiết bị

công nghệ nhỏ gọn, có kết nối internet nhƣ điện thoại thông minh, máy tính

bảng… của nhiều ngƣời khiến “thế giới trong tầm tay” - câu khẩu hiệu nổi

tiếng của Vietel, nhà mạng giữ thị phần lớn nhất trên thị trƣờng dịch vụ viễn

thông Việt Nam - trở nên dễ dàng hơn bao giờ. Có tới 154,4 triệu kết nối di

động tại Việt Nam vào tháng 1/2021. Có 72 triệu ngƣời dùng mạng xã hội

trên toàn quốc, tƣơng đƣơng với 73,7% tổng dân số. Những con số thống kê

này là minh chứng rõ nhất cho việc internet và đặc biệt là mạng xã hội đang

trở thành phƣơng tiện thông tin và truyền thông phổ biến tại Việt Nam.

Cùng với việc tạo ra những bƣớc tiến mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực

của đời sống, internet đã trở thành công cụ để kết nối, chia sẻ, hình thành nên

những cộng đồng trên mạng (Nguyễn Thị Phƣơng Châm, 2013) [6] và sau đó

là gặp gỡ thực trong các KGST. Những “cộng đồng tƣởng tƣợng” chia sẻ

19 http://digitalvn.vn/vi/viet-nam-digital-2021/

66

cùng nhau những mối bận tâm, tƣơng tác, tìm kiếm sự đồng cảm, đồng quan

điểm, đồng ý hƣớng. Internet cũng cung cấp các hình thức tổ chức mới khi

các nhóm (group) đƣợc thành lập, nối dài những thảo luận còn dang dở tại

không gian thực. Với mạng xã hội, sự hữu hạn cả về không gian lẫn thời gian

đƣợc phá vỡ, tạo ra những liên kết và tƣơng tác bất tận.

Internet và mạng xã hội làm gia tăng về lƣợng và đa dạng về nguồn tiếp

cận thông tin cho ngƣời dân đô thị, mang lại cơ hội đƣợc tiếp cận một cách

đầy đủ, đa chiều và cập nhật về những vấn đề quan trọng của xã hội. Những

vấn đề bức xúc, nóng bỏng của xã hội lan nhanh nhƣ cơ chế truyền tin ở các

không gian đời thực tại các quán cóc ở vỉa hè, các quán cà phê, nhƣng với

không gian mạng thì tốc độ và phạm vi lớn hơn nhiều lần. Bên cạnh nguồn tin

đƣợc coi là “chính thống” từ nhà nƣớc, internet và mạng xã hội tạo ra những

không gian rộng lớn cho những tiếng nói từ bên dƣới, đặc biệt là những tiếng

nói bên lề, thiểu số, ngoại biên mà trƣớc đó dƣờng nhƣ những tiếng nói này bị

ẩn đi, chìm xuống đâu đó. Internet đƣợc sử dụng nhƣ một nền tảng công cộng

để các cá nhân nêu rõ ý kiến riêng tƣ của họ về nhiều vấn đề đang xảy ra

trong đời sống xã hội nhƣ vấn đề giáo dục, tham nhũng, tự do tôn giáo, chủ

quyền biển đảo…. Mạng xã hội cũng là nơi cho việc xuất bản nội dung nhƣ

viết bài, điểm luận, thể hiện ý kiến, tóm tắt, giới thiệu sách, hình thành nên

các trào lƣu viết blog, facebook và các diễn đàn trực tuyến. Và nhƣ vậy chính

internet và mạng xã hội đã tạo nên “không gian chính trị đa thanh với những

tiếng nói trái chiều – một không gian chưa từng tồn tại ở thời kì trước khi

xuất hiện truyền thông xã hội” (Phạm Quỳnh Phƣơng, 2020) [50].

Sự gia tăng của không gian mạng liệu có thu hẹp hay làm giảm đi sự

tồn tại của các KGST? Không gian mạng xã hội cho phép giao tiếp và tƣơng

tác xã hội từ đó tạo nên những hình thức công khai và riêng tƣ mới. Tuy

nhiên, không gian ảo những tƣởng không nắm bắt đƣợc, không gắn kết với

bất kì vị trí địa lý nào thì thực ra vẫn duy trì sự gắn kết, ràng buộc với không

gian vật lý, nhất là trong trƣờng hợp của các KGST. Các thông tin về sự kiện

67

nhƣ thời gian, địa điểm, nội dung của các buổi chia sẻ, thảo luận có thể đƣợc

biết đến hay lan truyền nhờ mạng xã hội. Tuy nhiên, các buổi thảo luận nếu

đƣợc xem nhƣ là những cơ hội để cất lên những tiếng nói phản biện vẫn cần

đƣợc diễn ra trong các KGST - các không gian vật lý nơi khuyến khích sự

tham gia, tôn trọng sự khác biệt, nơi tự do thể hiện quan điểm, chính kiến.

Mạng xã hội phát triển không ngừng, có thêm nhiều trang cá nhân, nhiều

nhóm đƣợc hình thành nhƣ là những phƣơng tiện để thể hiện cảm xúc, bày tỏ

chính kiến… nhƣng số lƣợng các KGST xuất hiện mới cũng ngày một nhiều

hơn, thỏa mãn, đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhiều ngƣời, nhóm ngƣời trong

thành phố. Điều đó có nghĩa là không gian mạng và không gian vật lý đều giữ

vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần mỗi con ngƣời, chúng cùng tồn tại

nhƣng không hạn chế, thu hẹp nhau mà ngƣợc lại bổ sung, nối dài và mở rộng

cho nhau. Có thể xem mạng xã hội nhƣ là sự mở rộng KGST, cơi nới những

hạn hẹp về thời gian cũng nhƣ không gian. Tƣơng tác trực tiếp sau đó đƣợc

nối dài bằng những tƣơng tác trên mạng xã hội nhƣ facebook, zalo hoặc theo

chiều ngƣợc lại, những trò chuyện trên các nhóm khi đã đƣợc nhiều ngƣời

quan tâm thì nhóm bắt đầu nghĩ đến những buổi gặp gỡ trực tiếp. Mạng xã hội

góp phần làm mờ đi, rút ngắn lại sự xa cách về mặt địa lý, mở rộng khung

thời gian cũng nhƣ phạm vi cho trao đổi, chia sẻ. Trang mạng xã hội của Giấc

mơ nhỏ kết nối hơn 600 thành viên, nhiều cá nhân tích cực tƣơng tác cả ở

không gian thực bằng việc tham dự và cả trên không gian mạng qua theo dõi

trang facebook của nhóm.

Facebook đã trở thành một phƣơng tiện quan trọng, hữu hiệu để giới

thiệu, quảng bá cho các sự kiện. Nhờ facebook mà các bạn trẻ biết đến các

KGST, theo dõi và biết đƣợc lịch các sự kiện. Do vậy thông tin về sự kiện sẽ

diễn ra tại các KGST thƣờng nhanh chóng nhận đƣợc khá nhiều tƣơng tác trên

facebook, thể hiện qua số lƣợt thích (like), chia sẻ (share), bình luận

(comment), nhấn biểu tƣợng quan tâm, xác nhận sẽ tham gia, giới thiệu (tag)

thêm ai đó để rủ đi cùng. Có thể nói mạng xã hội khiến cho các KGST đƣợc

68

hình thành và mở rộng nhanh hơn. Chính sự kết nối, tƣơng tác này cũng khiến

các KGST có sức ảnh hƣởng lớn đối với đời sống văn hóa tại các đô thị.

Tiểu kết chƣơng 2

Chƣơng viết đã đề cập đến những sinh hoạt văn hóa trong lòng đô thị

Hà Nội qua các thời kì khác nhau cũng nhƣ những tiền đề cho sự hình thành

của các KGST. Trƣớc khi xuất hiện mô hình các KGST thì Hà Nội đã từng

tồn tại những hội quán, những không gian thƣởng lãm nghệ thuật và sinh hoạt

tri thức gắn với tầng lớp thị dân. Dù hình thức và cả mục đích có thể khác

nhau nhƣng đều đã tạo nên không khí sinh hoạt văn hóa sôi động, giàu có cho

đô thị mà sau này sự ra đời của những KGST có thể đƣợc xem nhƣ một hình

thức nối dài khác của truyền thống đó.

Tuy nhiên, trong bối cảnh đƣơng đại, còn có nhiều lý do khác tạo tiền

đề cho sự ra đời của các KGST. Đó là (1) sự thay đổi, chuyển mình trên tất cả

các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội sau Đổi Mới, (2) sự phát triển

mạnh mẽ của ngành công nghiệp xuất bản mang đến nhiều ấn phẩm quan

trọng, giới thiệu những giá trị, tinh thần mới vào Việt Nam, (3) vai trò của các

trung tâm văn hóa và (4) sự lan tỏa của internet và mạng xã hội. Quá trình Đổi

Mới để lại dấu ấn trong mọi lĩnh vực của đời sống. Thêm nữa, nhờ quá trình

toàn cầu hóa, nhiều giá trị mới mẻ đã đƣợc giới thiệu ở Việt Nam nhƣ nhân

quyền, dân quyền, xã hội dân sự…, tác động và làm thay đổi đến cách nghĩ

của ngƣời dân, làm thay đổi mối quan hệ giữa nhà nƣớc và xã hội, tác động

đến tính chất của các quan hệ xã hội. Có thể nói đây là những tác nhân quan

trọng dẫn lối cho sự ra đời của các KGST trong thành phố.

69

CHƢƠNG 3

THỰC HÀNH VĂN HÓA TẠI CÁC KHÔNG GIAN SÁNG TẠO

Trong quá trình tìm kiếm tƣ liệu cho luận án, một câu hỏi trở đi trở lại

trong suy nghĩ của tôi là: Những thực hành văn hóa nào đã và đang kiến tạo

nên các KGST, biến những không gian vật lý thông thƣờng trở thành KGST?

KGST đƣợc lựa chọn để nói đến trong luận án là Giấc mơ nhỏ, Cà phê Văn,

đều là những KGST độc lập ở Hà Nội. Cả hai, nếu nhìn từ bên ngoài có vẻ

giống nhƣ nhiều quán cà phê khác trong thành phố. Tuy nhiên khi tham dự

các thực hành văn hóa tại đây và tìm hiểu kĩ hơn, thì rõ ràng cả hai không đơn

thuần là đơn vị kinh doanh đồ uống chỉ với mục tiêu là doanh thu, lợi nhuận

dù họ cũng phải chật vật với bài toán kinh tế để duy trì hoạt động. Những

ngƣời tạo nên các KGST này (bao gồm ngƣời sáng lập và cả ngƣời tham dự)

đã cùng tạo nên nhiều hoạt động văn hóa nhƣ cùng thƣởng thức nghệ thuật,

chia sẻ quan điểm và thảo luận, tìm kiếm cách giải quyết các vấn đề trong xã

hội… Họ dƣờng nhƣ còn hƣớng tới mục tiêu, viễn cảnh khác thuộc về đời

sống tinh thần, xem KGST nhƣ là nơi hiện thực hóa ƣớc mơ cá nhân, kết nối

với mong ƣớc của các cá nhân khác, tạo nên những cộng đồng cùng chia sẻ

nhiều giá trị chung. Trong chƣơng viết này, từ tƣ liệu điền dã tôi muốn lập

luận rằng mỗi KGST bằng các thực hành văn hóa đa dạng của các nhóm chủ

thể đã tự kiến tạo mình trở thành những nơi chốn sinh hoạt văn hóa thiết yếu

của đô thị.

3.1. Ngƣời trẻ và những thực hành văn hóa đa dạng trong KGST Giấc mơ

nhỏ

Trong các nghiên cứu của Hội đồng Anh, “kết nối” chính là một từ

khóa quan trọng để định hình nên KGST (Hội đồng Anh, 2014) [21]. KGST

Heritage Space, Manzi thành điểm hẹn cho cộng đồng nghệ sĩ thực hành nghệ

thuật đƣơng đại trong các dự án, các chƣơng trình sáng tạo, các sự kiện mở

xƣởng, workshop, trò chuyện với công chúng của nghệ sĩ lƣu trú. KGST Ơ

70

kìa Hà Nội mới thành lập sau này nhƣng có sức hút mạnh mẽ với công chúng

thủ đô yêu điện ảnh, cùng hoài niệm về những câu chuyện cũ mà đẹp, làm

sống dậy những kí ức tập thể về một thời bao cấp khốn khó mà thân thƣơng.

Ago hubs (12 Hòa Mã) kết nối những ngƣời làm nghề kiến trúc cùng chia sẻ

kiến thức và đam mê nghề nghiệp. Mỗi không gian, ngay trong ý tƣởng ban

đầu của ngƣời sáng lập đã hƣớng tới một hay nhiều nhóm đối tƣợng xác định

với những mục tiêu cụ thể. KGST Giấc mơ nhỏ chia sẻ điểm chung này với

nhiều KGST khác trong thành phố khi mà trong nhiều năm qua các KGST đã

trở thành nơi gắn kết những ngƣời có chung mối quan tâm, nơi họ đƣợc bộc

lộ và cùng chia sẻ suy nghĩ về nghề nghiệp, lối sống hay cả niềm yêu thích

nghệ thuật. KGST Giấc mơ nhỏ cũng thực hiện chức năng kết nối, từ đó hình

thành nên các nhóm, các cộng đồng nhỏ, cùng nhau duy trì sở thích, chia sẻ

quan niệm về giá trị sống, thƣởng thức nghệ thuật hay bày tỏ quan điểm với

các vấn đề đang diễn ra trong xã hội. Phân tích các thực hành văn hóa tại

KGST Giấc mơ nhỏ dƣới đây sẽ cho thấy điều đó.

3.1.1. Không gian kết nối những người đọc độc lập

Nằm sâu trong một ngõ phố gần trung tâm Hà Nội, Giấc mơ nhỏ là nơi

lui tới, là điểm hẹn quen thuộc của nhiều ngƣời trẻ tuổi, ngƣời yêu thích đọc

sách, tìm kiếm sự tĩnh lặng. Không gian khá nhỏ, chỉ khoảng gần 100m2 nằm

giữa khu dân cƣ đông đúc. Một góc khoảng sân chung của mấy hộ gia đình

dành làm chỗ dựng xe. Ngay ngoài cổng vào có tấm biển nhỏ yêu cầu khách

đến tắt máy và dắt bộ xe để giữ yên lặng cho không gian xung quanh. Quán

có hai tầng: tầng một là không gian đóng với góc pha chế, góc bán sản phẩm

thân thiện với môi trƣờng, bàn ghế dành cho khách và một góc nhỏ có màn

hình máy chiếu dành cho diễn giả đứng trình bày; tầng hai là khoảng không

gian mở với nhiều cây xanh, ngồi trên đây có thể quan sát đƣợc khung cảnh

xung quanh. Ngay lối vào cửa là một chiếc tủ nhỏ có mái chóp, giống hình tổ

chim bồ câu, dành cho chƣơng trình đổi sách, nơi mọi ngƣời có thể mang sách

đã đọc đến để đổi lấy những cuốn khác. Không gian quán nhƣ chia thành hai

71

phần, phía trong là sàn gỗ cao hơn so với nền khoảng hơn nửa mét, kê những

bàn gỗ rời nhỏ và thấp, tiện cho việc sắp xếp, tách ra hay nhập vào thành dãy

bàn dài khi có sự kiện đông ngƣời. Ngƣời đến tham dự có thể ngồi dựa vào

giá sách bằng những chiếc gối tựa êm nhỏ và co duỗi chân một cách thoải

mái. Phía dƣới là nền xi măng, ngoài tủ kính lạnh để bánh ngọt và hoa quả

theo mùa thì còn đủ chỗ kê ba bộ bàn ghế cao chạy dọc đến cuối phòng. Các

mảng tƣờng xây thô, không trát, để lộ hình viên gạch đƣợc sơn trắng, tạo cảm

giác tối giản, tự nhiên. Không gian bên trong quán đƣợc thiết kế khá thân

thiện, cảm giác ấm cúng với ánh đèn vàng, những chùm bóng nhỏ nhấp nháy

treo phía trên cửa sổ kính trong suốt, những bình cây, bình hoa nhỏ xinh đặt

khéo léo trên bậu cửa sổ, trên kệ sách. Nếu không có sự kiện đòi hỏi phải

chuẩn bị âm thanh từ loa mic thì quán luôn mở các đĩa nhạc với âm lƣợng nhỏ

tạo không khí nhẹ nhàng, lãng mạn. Chạy dọc men theo tƣờng là những kệ

sách to, cao quá đầu ngƣời với nhiều đầu sách đƣợc cất giữ cẩn thận, có ghi

chú để độc giả dễ tìm kiếm. Chủ đề và thể loại sách khá đa dạng, đƣợc cập

nhật và bổ sung thƣờng xuyên: tác phẩm văn học trong và ngoài nƣớc, sách

triết học, sách lịch sử, truyện tranh dành cho thiếu nhi…

Từ năm 2015 đến nay, Minh - ngƣời sáng lập ra KGST này cũng kiêm

luôn gần nhƣ mọi việc, từ lên ý tƣởng sự kiện, sắp xếp, kết nối, điều phối các

hoạt động. Minh vẫn thƣờng ngại ngùng khi ai đó gọi mình là founder (ngƣời

sáng lập) của Giấc mơ nhỏ. Tốt nghiệp tại một trƣờng đại học lớn trong hệ

thống đại học công lập Việt Nam, đƣợc đào tạo bài bản, đã đi làm 4 năm

trong một công ty lớn lớn mức lƣơng mơ ƣớc, hứa hẹn nhiều cơ hội thăng tiến

nhƣng Minh có cảm giác bó buộc, lạc lõng, khó hòa nhập, khó tán thƣởng

những câu chuyện công sở hàng ngày. Minh không tìm thấy nhiều ý nghĩa từ

chuỗi việc lặp đi lặp lại ngày này qua ngày khác của đời sống công sở: họp

hành, báo cáo, email… dù tất cả những công việc đó không quá khó khăn và

đều trong tầm xử lí. Với Minh, cái guồng máy công việc đều đặn, bền bỉ một

cách đáng sợ đó in dập và định hình nên những con ngƣời, nhƣ nhiều ngƣời

72

khác. Những thứ Minh vẫn thƣờng nghĩ và mơ mộng đến nhƣ văn chƣơng,

phim ảnh nghệ thuật, lối sống giản đơn gần gũi với tự nhiên… lại có phần xa

lạ với thực tế xung quanh. Sau này, khi đã lập ra Giấc mơ nhỏ, Minh thử quay

lại lĩnh vực cũ, chỉ là làm công việc bán thời gian nhƣng vẫn không thấy ổn,

tự rút lui và xác tín một cách rõ ràng mình mong muốn gì và mình sẽ làm gì.

Chính cảm giác không thích nghi đƣợc với đám đông thôi thúc Minh quyết

định từ bỏ vị trí ổn định cùng cơ hội có thu nhập tốt, rẽ sang một hƣớng khác

mà lúc đó còn chƣa tƣởng tƣợng đƣợc rõ ràng, chỉ mới có ý nghĩ rằng dù là

làm gì thì công việc tiếp theo nhất định phải liên quan đến sách và việc đọc.

Minh bắt tay vào việc lập nên Giấc mơ nhỏ mà ban đầu mọi thứ thực sự còn

mơ hồ, chƣa có gì là mạch lạc, rõ ràng, ngoại trừ mong muốn đọc sách, đƣợc

làm việc với sách vở vốn đã theo đuổi bấy lâu. Ý tƣởng nhen nhóm về một

KGST độc lập dƣới hình thức quán cà phê sách dần dần thành hình hài, bắt

đầu với việc huy động vốn, vay mƣợn và góp chung cùng với một ngƣời bạn

từ tháng 8/2015 để lập nên Giấc mơ nhỏ. Về sau, trong một thời gian dài còn

lại Minh một mình xoay xở trƣớc khi kết hợp cùng với những ngƣời bạn cũng

làm về cà phê sách vào đầu năm 2020.

KGST Giấc mơ nhỏ có những ƣu tiên nhất định cho việc đọc và các sự

kiện liên quan đến việc đọc nhƣ tổ chức các sự kiện của các câu lạc bộ đọc

sách, thảo luận, trò chuyện xoay quanh một cuốn sách, một chủ đề, chia sẻ về

trải nghiệm đọc, trao đổi sách, gặp gỡ những ngƣời có cùng sở thích đọc và

viết... Cũng vì thế, trong KGST này, sách vở giữ vai trò đặc biệt quan trọng.

Sách vở tích lũy qua năm tháng đƣợc phân loại, sắp xếp ngăn nắp trên giá và

chia về từng góc: góc truyện cho thiếu nhi, tác phẩm văn học cổ điển, tác

phẩm văn học hiện đại, sách triết học, lịch sử, văn hóa… Những mẩu giấy

nhỏ, gọn ghẽ, ghi tên thể loại sách, đƣợc dán cẩn thận ở thành kệ để thuận tiện

cho việc tra tìm, cả những lƣu ý yêu cầu ngƣời đọc giữ sách cẩn thận hay

nhắc nhở để sách đúng vị trí sau khi đọc… cho thấy ngƣời tạo ra không gian

đọc này là ngƣời đọc nghiêm cẩn, chăm chút, nâng niu sách.

73

Lập ra Giấc mơ nhỏ, ngoài việc để thỏa mãn nhu cầu đọc và viết của cá

nhân, Minh còn muốn tạo ra một ngôi nhà chung cho những ngƣời có cùng sở

thích nhƣ mình. Sau khi thành lập vào cuối năm 2015, KGST này dần đƣợc

nhiều bạn trẻ biết đến và lui tới. Ban đầu chỉ là tò mò hay bị hấp dẫn bởi một

không gian nhỏ bé nhƣng gần gũi, thân thiện, về sau, điều khiến họ quay lại

thƣờng xuyên và xem đây nhƣ là “điểm hẹn” chính vì cảm mến những nỗ lực

không ngừng của Minh để duy trì các sinh hoạt văn hóa ở quán cũng nhƣ

quan niệm, giá trị mà Minh theo đuổi. Quá trình Minh xây dựng nội dung, ý

tƣởng hoạt động cho Giấc mơ nhỏ cũng là khi Minh tìm thấy, kết nối với

nhiều ngƣời có chung ƣớc muốn và cũng đƣợc tìm đến nhƣ một nơi có thể hỗ

trợ hay chia sẻ. Mong muốn tạo ra một không gian đọc nhỏ của Minh đã gặp

gỡ với nhiều bạn trẻ với những công việc khác nhau nhƣng cũng cùng mục

đích phát triển văn hóa đọc: đƣợc gặp Vân - ngƣời có ƣớc mơ nhân rộng mô

hình trao đổi sách khắp Việt Nam, tạo không gian cho những ngƣời yêu sách;

đƣợc gắn kết với Linh, ngƣời yêu triết học và cũng là ngƣời sáng lập tủ sách

triết học tại chính Giấc mơ nhỏ với hy vọng những trang sách triết học đến tay

ngƣời đọc, để kéo gần hơn kho báu tri thức của nhân loại đến với ngƣời Việt;

đƣợc chia sẻ với Hoàng, ngƣời phụ trách một trang mạng lớn - một diễn đàn

của giới trẻ thích viết lách, phản biện, tự vấn,…và với rất nhiều những ngƣời

làm dự án sách khác. Họ có thể là những ngƣời viết trẻ đang dần khẳng định

đƣợc giọng nói, cá tính riêng của mình ở một vài giải thƣởng nhỏ, là nhân

viên kinh doanh, ngƣời làm việc tự do… nhƣng đều thích đọc sách, yêu tri

thức và luôn trăn trở xây dựng văn hóa đọc, vì một cộng đồng giàu có về tri

thức, hƣớng tới những giá trị nhân văn.

KGST Giấc mơ nhỏ cũng làm nhiệm vụ kết nối những bạn trẻ có niềm

say mê với việc đọc sách và viết lách. Ngay trong ý tƣởng ban đầu về KGST

này, Minh đã hình dung sẽ tạo ra một góc đọc cá nhân nhỏ, cùng nhau chia sẻ

tủ sách với bạn bè chung sở thích. Dần dần một câu lạc bộ đọc và viết đƣợc

hình thành, thu hút sự quan tâm của nhiều bạn trẻ. Minh đã lập ra một nhóm

74

mở (group) trên facebook để các thành viên trao đổi, chia sẻ và cập nhật

thông tin. Hiện trang của nhóm đã có hơn mƣời bảy nghìn lƣợt thích với hơn tám trăm thành viên20 trong đó nhiều thành viên thƣờng xuyên tƣơng tác. Các

bài viết trên nhóm khá đa dạng về nội dung, có thể kể đến nhƣ: giới thiệu về

sách hay đã đọc, đăng tải các bài nghiên cứu văn học từ tạp chí có uy tín trong

và ngoài nƣớc, tranh luận về một tác phẩm cụ thể, chia sẻ kinh nghiệm viết

hay cung cấp thông tin liên quan đến việc đọc và viết (nhƣ thông tin về thời

gian, địa điểm của hội sách nào sắp đƣợc diễn ra; thƣ mời cộng tác, mời viết

bài của các đơn vị đến bạn đọc, bạn viết; các chƣơng trình, sự kiện về sách

đƣợc tổ chức tại các KGST khác; cuộc thi viết luận nghiên cứu văn học; các

khóa học trực tiếp truyền thống hay học trực tuyến cả trong nƣớc lẫn nƣớc

ngoài về văn hóa nghệ thuật…). Ban đầu, Minh thƣờng là ngƣời cập nhật nội

dung cho trang để tạo dựng và mở rộng sự tƣơng tác. Về sau, chính các thành

viên của cộng đồng đã chủ động tham gia tích cực, số lƣợng các bài viết, tin

tức, chia sẻ ngày càng nhiều thu hút nhiều lƣợt bình luận, lƣợt thích, lƣợt chia

sẻ.

Ngoài tƣơng tác trên mạng xã hội, nhiều buổi gặp mặt các thành viên

trong nhóm (thƣờng đƣợc gọi là các buổi offline) cũng đƣợc Minh với tƣ cách

là quản trị viên trang facebook của nhóm tổ chức để các thành viên có dịp

ngồi lại cùng nhau, làm quen thành viên mới, cùng trò chuyện về sách vở. Khi

tham dự mỗi ngƣời đƣợc khuyến khích mang theo ít nhất một cuốn sách bất kì

để tham gia phần giới thiệu và trao đổi sách, tặng sách của mình và nhận lại

một cuốn từ ngƣời khác. Các buổi offline thƣờng bắt đầu bằng việc giới thiệu

theo vòng tròn các thành viên tham gia, giới thiệu về mình kèm theo

nickname (tên) trên facebook để mọi ngƣời dễ nhận ra. Trong buổi gặp gỡ mà

tôi đƣợc tham dự vào một buổi chiều cuối tuần của tháng 10/2018, có khoảng

14-15 bạn trẻ, độ tuổi từ 20 đến 30. Đó là Linh, 32 tuổi, học về quản trị kinh

doanh nhƣng lại có niềm đam mê đặc biệt với triết học, vừa ra mắt một tập

20 Cập nhật số liệu tháng 6/2020

75

thơ và là ngƣời kết nối, chủ trì một câu lạc bộ gồm một số bạn trẻ cùng yêu

thích triết học, tự nói về mình là “đọc tạp nham và thập cẩm” và “đọc đến độ

nào đó thì thấy mình cần phải viết ra”. Đó là Dung, 19 tuổi, đã tốt nghiệp phổ

thông, chƣa đi làm và cũng chƣa muốn đi học tiếp, thấy mình chƣa có định

hƣớng cụ thể, đã có một số bài viết trên một số diễn đàn dành cho ngƣời trẻ,

đang nghĩ về việc viết nhƣng cũng chƣa xác định rõ ràng, thích triết học và

xem triết học nhƣ là nền tảng để có thể nghĩ và khám phá về nhiều lĩnh vực

khác. Buổi gặp mặt còn có sự tham gia của ba ngƣời viết trẻ. Đó là Vân Anh,

23 tuổi, ngƣời cũng thích viết, quan tâm đến nhiều thể loại khác nhau, thích

nghiên cứu về con ngƣời, xã hội, văn hóa, tự thấy để trau dồi thêm kĩ năng

viết thì cần phải coi trọng việc đọc. Vân Anh từng nói đến với sách vở và việc

đọc với mong muốn để hiểu mình hơn:

“Em trước kia không đọc sách mấy đâu dù đã từng được

làm việc và tiếp xúc nhiều với sách, có sách mang về nhưng chưa

đọc. Cách đây mấy năm em sống khá là vội, có những cái trong

cuộc sống em cảm thấy luẩn quẩn bí bách. Cách đây 2 năm em

gặp một sự cố, thấy công việc của mình ngoài tầm kiểm soát,

mình không hiểu được bản thân mình. Lúc đó em thấy mình nên

sống chậm hơn và tìm đến sách, đến audio book. Sau đó em cảm

thấy em hiểu về con người em hơn. Em tò mò hơn về những thứ

mọi người nghĩ, mọi người làm. Tại sao mọi người nghĩ như thế,

làm như thế”.

Đó là Huy hay Quỳnh, hiện đang làm việc tự do, công việc chính là viết và

dịch sách, từng có tác phẩm tham gia và đạt giải cuộc thi dành cho những cây

viết trẻ. Một số bạn trẻ khác không liên quan đến nghề viết nhƣng quan tâm

và thích đọc sách, là thành viên của nhóm mở trên facebook, bấy lâu cũng

“âm thầm” theo dõi hay tích cực tƣơng tác.

Buổi trò chuyện diễn ra trong không khí thoải mái, mọi ngƣời tự nhiên

chia sẻ về cuốn sách mình đã đọc gần đây, thấy hay và muốn giới thiệu cho

76

nhau. Mối quan tâm khá đa dạng nên sách đƣợc giới thiệu cũng thuộc nhiều

lĩnh vực khác nhau: sách văn học (Những người bóng dài của nhà văn Thụy

Sĩ Hans Ruesch - câu chuyện về cuộc sống của ngƣời dân Eskimo vùng cực

Bắc và những va chạm giữa hai nền văn hóa khác nhau, tiểu thuyết Tuổi 20

yêu dấu của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, một cuốn tiểu do Quỳnh viết và mới

đƣợc xuất bản); sách lịch sử (cuốn Súng, vi trùng và thép do Vân Anh giới

thiệu, của tác giả Jared Diamond với câu hỏi tại sao lịch sử đã diễn ra khác

nhau trên mỗi châu lục), sách triết học… Ngoài việc giới thiệu các cuốn sách

hay đã đọc, các thành viên cùng chia sẻ về trải nghiệm đọc (những bất ngờ

thú vị và những khám phá sau khi đọc), kinh nghiệm với việc đọc (thói quen

đọc vào khung giờ nào thì phù hợp với cá nhân, hình thức đọc nào là thuận lợi

cho mỗi hoàn cảnh, so sánh trải nghiệm đọc sách giấy và nghe sách nói, chia

sẻ thông tin về các nền tảng sách nói…). Từ sách vở, câu chuyện tràn sang

những chia sẻ cá nhân khác về công việc, về sở thích, về lý do dẫn dắt đến với

sách để từ đó mong muốn đƣợc đọc, đƣợc viết. Cuối buổi trò chuyện, mọi

ngƣời cùng chơi đố vui, phần thƣởng cho những ngƣời giải đƣợc câu đố là

một cuốn sách tự chọn do Minh chuẩn bị để tặng các thành viên. Trƣớc khi ra

về, những cuốn sách mà mỗi ngƣời mang theo ban đầu đƣợc đem ra để tặng

nhau một cách ngẫu nhiên cùng với lời hẹn về lần gặp nhau tới đây.

Buổi gặp gỡ và thảo luận đƣợc nói đến trên đây là một ví dụ trong số

rất nhiều các sự kiện đã đƣợc diễn ra tại KGST Giấc mơ nhỏ - nơi đƣợc xem

nhƣ là diễn đàn thực kết nối ngƣời trẻ đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau nhƣng

có cùng chung một mối quan tâm, một sở thích. Với Linh, Dung hay một số

bạn trẻ đến đây, nhu cầu kết nối dƣờng nhƣ là một nhu cầu thƣờng trực để mở

rộng mối quan hệ bạn bè, gặp gỡ, duy trì các mối quan hệ cũ cũng nhƣ làm

quen với các bạn mới có cùng chung sở thích là đọc và viết, để biết thêm

những suy nghĩ, cá tính mới trong việc đọc cũng nhƣ trong đời sống. Khi say

sƣa kể về những trải nghiệm cá nhân với việc đọc, họ đồng thời bộc lộ con

ngƣời, cá tính, cảm xúc của mình với ngƣời khác, đƣợc ngƣời khác lắng nghe.

77

Hay đến để trở thành một thành viên trong cộng đồng đọc nhỏ bé này và phần

nào để bớt cô đơn trên hành trình đọc nhƣ Dung đã từng chia sẻ:

“Khi xem phim hay nấu một món ăn ngon, mình dễ dàng

chia sẻ với người khác. Nhưng khi đọc một cuốn sách hay thì

không biết chia sẻ cho ai, cùng ai. Mình cảm thấy cô đơn trong

hành trình đọc, và vì thế muốn được chia sẻ để hành trình đọc

bớt cô đơn”.

3.1.2. Thảo luận tự do về các chủ đề

Cũng vẫn liên quan đến việc đọc và kết nối, Giấc mơ nhỏ còn là nơi

nhiều nhóm bạn trẻ tổ chức các buổi sinh hoạt tri thức, thảo luận, chia sẻ về

một chủ đề đã bàn trƣớc. Những phân tích dƣới đây về một sự kiện đƣợc tổ

chức bởi một nhóm bạn trẻ yêu thích đọc sách triết học, “mƣợn” không gian

Giấc mơ nhỏ để trở thành nơi gặp gỡ, diễn đàn cho các thảo luận cởi mở và tự

do.

Buổi thảo luận Bàn về chủ nghĩa Hậu hiện đại diễn ra vào một tối cuối

tuần của tháng 10 năm 2019, xoay quanh cuốn sách đƣợc báo trƣớc là khá

khó hiểu ngay cả với ngƣời nghiên cứu hay sinh viên chuyên ngành khoa học xã hội: Hoàn cảnh Hậu hiện đại của tác giả Lyotad21. Toàn bộ nội dung và cách thức tiến hành sự kiện là do các thành viên của nhóm Triết học và tôi22,

một nhóm bạn trẻ say mê với việc đọc, đặc biệt là sách triết học. Thành viên

chính của nhóm đã gắn bó với nhau lâu bao gồm Linh (33 tuổi) - ngƣời sáng

lập và duy trì hoạt động của nhóm Triết học và tôi, Vũ (27 tuổi), Vinh (21

tuổi), Mai (24 tuổi). Họ đều mong muốn tạo lập môi trƣờng, không gian cho

những diễn giả độc lập thể hiện các quan điểm riêng, khơi dậy tinh thần tranh

biện văn minh: tự do, thẳng thắn và tử tế. Chủ đề mà các thành viên của nhóm

đƣa ra bàn luận khá đa dạng, phần lớn xoay quanh những vấn đề triết học,

21 Jean-Francois Lyotard (2007), Hoàn cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính và giới thiệu, Nxb Tri thức, Hà Nội. 22 Tên nhóm đã đƣợc thay đổi để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh.

78

những câu hỏi về nhân sinh quan, thế giới quan, có thể kể đến những chuỗi sự

kiện nhƣ Triết học về tình yêu, Thế giới bắt nguồn từ đâu, Tư tưởng triết học

Kant… Các sự kiện này về sau cũng tạo ra những lan tỏa nhất định, thu hút

đƣợc sự tham dự của nhiều ngƣời trẻ khác, đến từ nhiều lĩnh vực cùng những

mối quan tâm khác nhau.

Buổi thảo luận bắt đầu với phần tự giới thiệu và làm quen, do Mai làm

điều phối. Đây chính là cách mà các buổi trò chuyện thƣờng đƣợc bắt đầu,

nhƣ một cách khởi động “phá băng”, xóa đi sự xa lạ và khoảng cách giữa mọi

ngƣời, thiết lập sự hiểu biết, cởi mở và chia sẻ. Lần lƣợt, các thành viên tham

dự chia sẻ nhanh một vài thông tin cá nhân nhƣ tên, tuổi, công việc hiện tại,

sở thích, các mối quan tâm hay nói những điều đã biết về chủ đề thảo luận,

đƣa ra câu hỏi mong muốn đƣợc giải đáp, thể hiện sự kì vọng hay mong muốn

nào khi đến tham dự… Với chừng khoảng 25-30 ngƣời tham dự, nhƣ vậy

đƣợc xem là khá đông với một buổi nói chuyện về triết học vốn kén ngƣời

tham gia, thƣờng chỉ thu hút một nhóm nhỏ bởi đây dƣờng nhƣ không phải là

chủ đề phổ thông với đa số ngƣời trẻ. Một số sự kiện về triết học của nhóm

từng tổ chức trƣớc đó tại Giấc mơ nhỏ hay ở những không gian khác, có khi

chƣa đến 10 ngƣời tham gia, kể cả các thành viên chủ chốt của nhóm.

Khi đến đây, mỗi ngƣời có những tâm thế khác nhau. Với những ngƣời

chủ trì buổi thảo luận nhƣ Linh thì đây trƣớc tiên nhƣ là cái cớ để đƣợc gặp

gỡ, trò chuyện với các thành viên trong nhóm hay “mình đến chủ yếu là để

chơi với mọi người, lâu lắm cũng ko sống trong không khí agora, đến để xem

mọi người nói cái gì”. Với Mai - một cựu sinh viên đại học ngoại ngữ, làm

dịch thuật và du lịch nhƣng vài năm trở lại đây lại muốn tìm hiểu về triết học

và tâm lý, thì đây là sự kiện để Mai đọc và đƣợc nói về chủ đề hậu hiện đại

mà mình quan tâm bấy lâu. Có ngƣời lại đến với sự tò mò, nhƣ Dƣơng (25

tuổi) khi chia sẻ “Hồi đi học cao đẳng mình có học triết học nhưng mình chả

biết một tí gì, đi thi toàn đi chép. Hôm nay mình đến đây để muốn biết triết

học nó là cái gì, ứng dụng của nó, tìm hiểu thêm về hậu hiện đại”. Hiếu (22

79

tuổi) - cũng đọc nhiều về triết học, và đến để hiểu hơn về chủ đề hậu hiện đại

khi mà “Mình đã nghe nhiều về hậu hiện đại nhưng không ai đưa ra giải đáp

khiến mình thỏa mãn. Mỗi người diễn giải một khác, vì thế mình muốn hiểu

hơn”. Có bạn chuẩn bị trạng thái thoải mái “Khi nghe về Hậu hiện đại, mình

ko nghĩ về bất kì điều gì, không tham vọng về bất kì điều gì, để mindset rất mở

để tiếp thu những ý tưởng mới về hậu hiện đại mà Mai sẽ giới thiệu ngày hôm

nay” hay tò mò nhƣ Dung (20 tuổi):

“Đây là lần đầu tiên mình đến với nhóm Triết học và tôi.

Mình có quan tâm rất nhiều đến triết học hay như là những thứ

xung quanh mình. Mình nhìn thấy tên chủ đề là hậu hiện đại, mà

mình đang sống ở thế kỉ 21, nên có một phần mình nghĩ là mình

nên biết về điều này. Mình băn khoăn, mình đang sống ở thời

hiện đại, tại sao sách lại là hậu hiện đại?”.

Buổi thảo luận đã diễn ra trong không khí khá sôi nổi, với những háo

hức, tò mò, đón đợi, giống nhƣ nhiều buổi thảo luận khác tại đây. Mai - ngƣời

điều phối buổi thảo luận - giới thiệu nội dung của sự kiện và bắt đầu buổi

trao đổi bằng việc “đọc tƣơng tác”. Màn hình máy chiếu hiện lên nội dung

trang sách, phóng to đủ rõ để những ngƣời ngồi phía cuối có thể nhìn đƣợc.

Một bạn đọc to cho cả nhóm cùng nghe, chừng 2-3 trang. Kết thúc phần đọc,

ngƣời điều phối, thay vì trình bày nội dung đã chuẩn bị nhƣ nhiều cuộc thảo

luận khác thì lại đƣa ra một câu hỏi gợi mở: “bạn hiểu gì về đoạn vừa rồi”.

Không ngại ngần, nhiều bạn giơ tay muốn nói ý kiến của mình. Mọi ngƣời

“nhập cuộc” rất nhanh khiến không khí thảo luận dần trở nên sôi nổi. Ngƣời

điều phối là Mai lúc này giữ vai trò kết nối, tóm lƣợc lại ý kiến của ngƣời

thảo luận, so sánh ý hiểu của ngƣời này với ngƣời khác, đƣa ra những bình

luận, dẫn dắt và mở rộng ra những câu hỏi khác. Micro đƣợc truyền tay nhau

liên tục, cứ nhƣ vậy, các ý kiến và sự tƣơng tác đan xen nhau. Càng về sau

càng sôi nổi, nhiều bạn muốn nói, muốn hỏi hay quay sang ngƣời bên cạnh để

cùng tranh luận. Chủ đề của buổi nói chuyện về Hậu hiện đại đƣợc soi chiếu

80

bằng những câu chuyện, trải nghiệm từ những cách nhìn, cách nghĩ khác nhau

gắn với từng lĩnh vực của từng ngƣời. Chừng đến hơn 22h00‟, Mai nói lời kết

thúc để khép lại chƣơng trình vì quán sẽ đóng cửa lúc 22h30‟. Và dù kết thúc

nhƣng mọi ngƣời vẫn nán lại trao đổi cùng nhau những ý còn dở dang, hỏi

han về công việc, hứa hẹn kết nối và những buổi gặp gỡ khác nữa, tại chính

đây hay tại các điểm hẹn khác.

Chủ đề thảo luận về cuốn sách Hoàn cảnh hậu hiện đại trong buổi này

và rất nhiều chủ đề của các buổi talk khác vừa là vấn đề mà ngƣời trẻ quan

tâm nhƣng vừa nhƣ là cái cớ hay một lý do cho những cuộc gặp gỡ mà ở đó

ngƣời trẻ đƣợc tự do chia sẻ về điều mình nghĩ, cách mình nhìn nhận. Nó vừa

có vẻ giống nhƣ một buổi sinh hoạt học thuật (ở vấn đề thảo luận) nhƣng lại

hoàn toàn khác với các buổi sinh hoạt học thuật tại các nơi đƣợc xem là chính

thức nhƣ trƣờng học, cơ quan nghiên cứu, các buổi hội thảo, tọa đàm... Tính

không chính thức thể hiện ở nhiều điểm: tổ chức sinh hoạt tri thức một cách

khá thoải mái, thay vì đi đến các trƣờng đại học, viện nghiên cứu hay các buổi

thuyết trình khoa học ở các cơ sở đào tạo thì nhóm bạn trẻ này gặp nhau ở các

quán cà phê và chia sẻ với nhau. Các buổi nói chuyện đƣợc tổ chức có thể

không thƣờng xuyên, không định kì, bị ngắt quãng xa bởi ngƣời nọ ngƣời kia

bận công việc cá nhân, đôi khi đƣợc lên kế hoạch một cách ngẫu hứng, đến

nhƣ một cuộc chơi. Không gian đƣợc lựa chọn thƣờng khá cởi mở nhƣ các

KGST, các quán cà phê quen của các thành viên trong nhóm để mọi ngƣời

thoải mái nói lên ý kiến, không bị bó mình nghiêm ngặt trong các quy tắc ứng

xử nhƣ ở các môi trƣờng học thuật khác. Lời mở đầu có thể ngắn gọn và thân

thuộc “chào mọi ngƣời” thay vì phải thƣa gửi hay giới thiệu chức vụ, học

hàm, học vị. Không khí suốt cuộc trò chuyện khá tự do, thân thiện, tôn trọng

cá tính và sự khác biệt đủ để mọi ngƣời thẳng thắn chia sẻ cách hiểu, cách

nghĩ của mình.

Với những ngƣời không nghiên cứu chuyên sâu về khoa học xã hội nói

chung và triết học nói riêng thì vấn đề đƣợc nói đến có phần xa lạ. Dù đƣợc

81

đề cập đến trong giáo trình, đƣợc giảng dạy trong trƣờng học nhƣng còn vắn

tắt, sơ lƣợc. Hơn nữa tinh thần của triết học là trao đổi, thảo luận, đặt ra câu

hỏi và trả lời, từ nhiều góc nhìn, nhiều khía cạnh nhằm làm sáng tỏ vấn đề,

nhƣng điều đó dƣờng nhƣ chƣa có, chƣa đƣợc thỏa mãn trong chƣơng trình

học chính thống, nhƣ Linh từng nhận xét:

“Triết học luôn chồng chất lên nhau, những chồng chất đó

là những tranh luận, cho nên ngay từ đầu mà muốn hiểu ngay

trong vòng bài nói của diễn giả thì sẽ là rất khó trừ khi mọi

người đã có một cái nền sẵn rồi. Cái việc để hiểu được triết học

trong vòng một tiết học thì nói thực sự là chỉ có các bác viết giáo

trình của Việt Nam làm được thôi”.

Do vậy, ý tƣởng thảo luận chính là cách để nhóm bạn trẻ và những ngƣời

cùng mối quan tâm có cơ hội đƣợc tiếp cận, đƣợc hiểu và nghĩ sâu hơn trong

những liên hệ, so sánh đối chiếu, đƣợc tự mình lấp dần những khoảng trống

về tri thức và có thêm những thuật ngữ, khái niệm làm công cụ cho tƣ duy.

Sau buổi thảo luận, mỗi ngƣời đều có thể thu nhận đƣợc những ý hiểu

khác nhau xoay quanh chủ đề: “Sau khi đọc và được nghe, có các ý chính mà

em nhận ra được: khái niệm hậu hiện đại liên quan đến văn hóa, sự ngoại

hóa tri thức dẫn đến chủ nghĩa tiêu dùng” hay lƣu ý tới một số thuật ngữ nhƣ

“sự phân mảnh”, “bất tín đại tự sự”, “siêu tự sự”, “đại tự sự”. Nhƣng cũng có

khi sau cả buổi tranh luận, Linh và những ngƣời tham dự cùng thừa nhận với

nhau “triết học vẫn là một môn khó nhằn”, thấy đƣợc giới hạn của sự hiểu,

vui vẻ nghĩ về nó để tiếp tục hành trình hiểu “các nhà nghiên cứu họ dành

toàn thời gian để tìm hiểu mà còn tranh cãi nhau nhiều luận điểm, nên việc

chúng ta không hiểu là… điều dễ hiểu. Chấp nhận sự chưa hiểu của mình để

tiếp tục hiểu thôi”.

Trong suy nghĩ của những ngƣời tạo ra những không gian này thƣờng

xem đây nhƣ là một diễn đàn xây dựng trên tinh thần “đến để nói, đến là phải

nói”. Nội dung không phải là chủ đề phổ biến của đời sống thƣờng ngày mà là

82

một vấn đề mang tính học thuật, có phần khó hiểu nhƣng đƣợc soi chiếu, liên

tƣởng dƣới lăng kính kiến thức nền tảng cũng nhƣ kinh nghiệm của nhiều lĩnh

vực khác nhau. Những ý kiến phản biện, kể cả là trái chiều, không lo sợ bị

phán xét và đều đƣợc ghi nhận. Câu chuyện có khi “lan man” sang rất nhiều

thứ khác, gợi nhớ đến tác giả này, luận điểm của tác giả khác hay nghĩ đến cả

những lĩnh vực tƣởng chừng không mấy liên quan. Mạch thảo luận cứ mở

rộng ra, dẫn dắt ngƣời tham dự từ ý tƣởng này sang đến suy nghĩ khác, từ

quan điểm này sang nhiều quan điểm khác. Việc nhóm ngƣời trẻ chọn KGST

Giấc mơ nhỏ cho những trao đổi, thảo luận này là bởi tinh thần cởi mở, tự do

mà không gian này tạo ra đƣợc, khác với nhiều địa điểm khác, đáp ứng đƣợc

mong muốn có một diễn đàn cho những ý kiến, quan điểm, suy nghĩ của

ngƣời trẻ về những vấn đề khác nhau. Đến đó, họ không bị phán xét, đánh giá

hay phải câu nệ trong những lễ nghi hành chính vốn là điều mà giới trẻ cảm

thấy bị bó buộc.

3.1.3. Chiếu phim, xem phim và thảo luận

Bên cạnh việc tạo ra không gian cho những ngƣời đọc độc lập, âm

nhạc, phim ảnh cũng là những hình thức kết nối hiệu quả để nuôi dƣỡng

những “tâm hồn Mozart” nhƣ cách Minh từng nghĩ. Cố định tối thứ ba hàng

tuần là không gian cho phim ảnh. Các buổi chiếu phim tại Giấc mơ nhỏ có

cách thức tổ chức khá giống với Cà phê Văn và nhiều KGST khác khi cùng

chia sẻ với nhau công thức: chiếu phim - xem phim - thảo luận. Các buổi

chiếu hoàn toàn miễn phí, ngƣời đến tham dự ủng hộ chi phí hoạt động bằng

cách trả phí đồ uống. Do không gian nhỏ hẹp và để cuộc thảo luận có chất

lƣợng cũng nhƣ phục vụ chu đáo, các buổi chiếu thƣờng giới hạn trong

khoảng 20-30 ngƣời. Tùy thuộc vào độ dài của phim, sau khoảng 1-3 tiếng

xem phim, ngƣời tham dự sẽ cùng nhau chia sẻ cảm nhận, thông tin liên quan

nhƣ về tác giả, diễn viên, bối cảnh ra đời, các giải thƣởng mà bộ phim nhận

đƣợc… Nhiều buổi thảo luận còn đi sâu tìm hiểu và phân tích nội dung, nghệ

thuật phim, đề cập đến nhiều thuật ngữ chuyên sâu của điện ảnh.

83

Cách thức tiến hành một buổi chiếu (trƣớc và trong buổi chiếu) thƣờng

đƣợc tổ chức qua bốn bƣớc: 1. Giới thiệu về sự kiện trên facebook – việc này

sẽ diễn ra trƣớc đó ít nhất một tuần để nhƣ một “lời hẹn”, lời mời gọi ngƣời

quan tâm sắp xếp đến tham dự. Tên phim, năm sản xuất, đạo diễn, biên kịch,

diễn viên, thời lƣợng phim, ngôn ngữ… là những thông tin cơ bản tối thiểu

đƣợc cung cấp để khán giả có thể bƣớc đầu hình dung cơ bản về bộ phim.

Ngoài ra, phần giới thiệu ngắn nhƣ trích dẫn một câu thoại của nhân vật, một

câu danh ngôn có liên quan đến nội dung phim, thông tin về giải thƣởng của

phim, một bình luận của ai đó từng xem… kèm theo một bức ảnh thật bắt mắt

về phim đều là cách để thu hút và khơi gợi sự tò mò và hứng thú với phim. 2.

Giới thiệu trƣớc khi chiếu phim (chia sẻ thông tin về những ngƣời có vai trò

quan trọng trong quá trình sản xuất phim nhƣ đạo diễn, biên kịch, diễn viên

và những căn cớ, nguyên do thôi thúc họ làm ra bộ phim; hoàn cảnh xã hội

gắn với phim hay các thông tin liên quan khác); 3. Khán giả xem phim trƣớc

màn hình máy chiếu nhỏ; 4. Thảo luận sau khi xem phim dƣới sự điều phối

của một ngƣời dẫn dắt. Thƣờng thì để đảm nhiệm vai trò này, ngƣời dẫn dắt

đã phải tìm hiểu rất nhiều thông tin liên quan đến phim, đọc các bài viết, bài

phê bình phim, hiểu những sự kiện lịch sử hay những tri thức khoa học nào đó

đƣợc nói đến... Trong quá trình thảo luận, ngƣời dẫn dắt có thể sẽ tóm tắt lại

phim, lƣu ý những chi tiết quan trọng, đặc biệt chú ý đến những chi tiết có thể

gây tranh cãi để tạo không khí tranh luận sôi nổi hay khơi gợi các ý kiến bằng

việc đặt ra những câu hỏi nhƣ phim nói điều gì với mỗi chúng ta, phim có ý

nghĩa gì với cá nhân mỗi ngƣời, điểm nào trong phim mà bạn thích nhất, điều

gì khiến bộ phim hấp dẫn, còn chi tiết nào chƣa thực sự nhƣ mong muốn, cảm

nhận cá nhân về phim… Có những buổi thảo luận khi có ít ngƣời muốn chia

sẻ thì chính ngƣời dẫn dắt là ngƣời sẽ nói chính để phá vỡ không khí trầm

lặng. Nhìn chung, khung lịch trình để tổ chức một buổi chiếu thƣờng là nhƣ

vậy nhƣng luôn có nhiều điều ngẫu hứng và bất ngờ trong quá trình trải

nghiệm xem phim cũng nhƣ thảo luận.

84

Phim đƣợc chọn chiếu tại Giấc mơ nhỏ thƣờng đã đƣợc Minh lên ý

tƣởng và kế hoạch trƣớc, theo những chủ đề mà Minh biên tập nội dung. Có

thể kể đến chuỗi phim về thảm họa (bệnh truyền nhiễm trong phim

Contagion, thảm họa băng hà trong The day after tomorrow, thảm họa sóng

thần The Impossible), phim ma trong những ngày tháng bảy âm lịch, phim

giáng sinh (Thư gửi ông già Noel…), chuỗi phim chủ đề định mệnh hay tháng

phim dành cho các đạo diễn đến từ một nền điện ảnh nào đó trên thế

giới…Việc chọn phim nhiều khi cũng khá ngẫu hứng, bằng cách dành cho

khán giả bình chọn phim mình thích và muốn xem, hay chính khán giả sẽ đề

cử những phim mình đã xem, thấy ấn tƣợng và muốn chia sẻ cùng với mọi

ngƣời. Trong trƣờng hợp này, chính khán giả - ngƣời đề xuất phim chiếu trở

thành ngƣời điều phối thảo luận sau xem, tìm hiểu thêm các thông tin, câu

chuyện bên lề của phim để có thể làm sống động buổi thảo luận. Và nhƣ vậy,

chính những việc tham gia tự nguyện, không vị lợi, hoàn toàn xuất phát từ sở

thích, niềm vui này cũng chính là việc tham gia kiến tạo nên không gian Giấc

mơ nhỏ. Các bạn trẻ đến đây, cũng vì thế có thể coi là những “chủ thể đồng

kiến tạo”, cùng với Minh để tạo nên một không gian sinh hoạt văn hóa sống

động, đa màu sắc, đa tính cách.

Vào một buổi chiều tháng 10 năm 2020, tại Giấc mơ nhỏ có buổi chiếu

phim ngắn Cá dọn bể của nữ đạo diễn trẻ Chu Ánh Nguyệt dài gần 13 phút do

Mai - 24 tuổi, sinh viên năm cuối ngành ngữ văn - và nhóm bạn cùng tổ chức.

Nhƣ phần lớn những ngƣời đến đây xem phim hay tham gia tổ chức chiếu và

thảo luận về phim, Mai cũng tự nhận mình là “ngoại đạo”, chƣa từng trải qua

trƣờng lớp đƣợc đào tạo chuyên ngành điện ảnh, không có quá nhiều hiểu biết

chuyên môn sâu nhƣng yêu thích và mong muốn tìm hiểu về điện ảnh. Trong

quá trình xem phim, có một vài trải nghiệm âm thanh không thực sự tốt, thi

thoảng tiếng rè rè, khẹt khẹt phát ra từ loa míc nhƣng ấn tƣợng về con ngƣời

trong phim và sự liên kết với cá nhân thì dƣờng nhƣ đọng lại khá sâu sắc

trong mỗi cá nhân. Câu chuyện diễn ra trong bối cảnh chật hẹp của một phòng

85

tắm nhỏ, một cô gái trẻ trở về nhà sau một ngày dài, trút bỏ hết những mệt

mỏi từ thế giới ngoài kia và cố gắng lau dọn căn phòng nhỏ của mình. Nhƣng

dù cố gắng ra sao đi chăng nữa, cũng không cách nào để mọi thứ đƣợc gọn

gàng, ngăn nắp và trật tự cũng nhƣ những xoay xở của con ngƣời để thu xếp

đời mình trƣớc muôn vàn những bất ngờ, biến cố vốn dĩ chẳng bao giờ có thể

kiểm soát và sắp xếp đƣợc. Càng cố gắng lau dọn lại cô gái cảm thấy trống

rỗng, không biết thật sự mình đang làm gì, mình muốn điều gì và rồi sẽ phải

làm gì với chính mình.

Sau khi xem phim, rất nhiều ý kiến bày tỏ sự chia sẻ với nhân vật trong

phim, đồng cảm với ý nghĩ, cảm nhận của ngƣời khác hay thấy mình trong

chính nhân vật của phim. Hình ảnh con ngƣời chấn thƣơng và vong thân,

những nỗi đau của con ngƣời trong bộ phim xuất hiện khá nhiều khiến hàng

loạt các câu hỏi đƣợc gợi ra: Con ngƣời tại sao lại có nỗi buồn? Nó mang tính

bản thể nhƣ thế nào? Có phải khi không có chỗ nào để bấu víu ngƣời ta dễ rơi

vào tình trạng vong thân? Con ngƣời có nhiều mối liên kết với xã hội bên

ngoài, vậy có khi nào họ bỏ quên bản ngã bên trong mình? Thực chất đây là

những câu hỏi nhỏ nằm trong một câu hỏi lớn: hình ảnh bản ngã của nỗi buồn

phƣơng Đông là nhƣ thế nào hay liệu có mẫu số chung cho nỗi buồn phƣơng

Đông hay không mà Mai và nhóm bạn đã băn khoăn trong thời gian dài.

Phƣơng thức tiếp cận để tìm kiếm những câu trả lời là thông qua văn học

nghệ thuật. Trƣớc đó, Mai cùng nhóm bạn từng tổ chức các sự kiện khác liên

quan đến văn học nhƣ khám phá hình ảnh con ngƣời chấn thƣơng trong văn

học, những hoang mang của con ngƣời đƣợc thể hiện nhƣ thế nào trong văn

học… Khi tiếp cận đƣợc với bộ phim này, Mai đã thấy những hình ảnh con

ngƣời vong thân xuất hiện một cách đậm đặc trong phim ngắn này, vì thế nhƣ

Mai nói:

“Sự kiện này bọn mình chọn điện ảnh như một phương

thức để nhìn ngắm sự diễn đạt bản thân thông qua điện ảnh - cái

86

kênh khá là phổ biến và được yêu thích. Từ một ngữ liệu chung

là tác phẩm điện ảnh để mọi người có dịp soi mình vào”.

Nhóm bạn trẻ cũng mong muốn “tìm thấy sự liên kết cá nhân với ngữ liệu

phim, thì như vậy phim mới gần gũi và có ý nghĩa”. Và buổi chiếu đó, với gần

hai mƣơi con ngƣời trong một diện tích nhỏ hẹp nhƣng đã tạo ra đƣợc không

gian để chia sẻ, để lắng nghe, để cùng ngồi xuống chữa lành vết thƣơng, đƣợc

gọi tên nhƣ là không gian để chia sẻ và chữa lành.

Điều gì của phim ảnh đã gắn kết những ngƣời trẻ đến đây trở thành

những ngƣời thân quen, trở thành một nhóm, một cộng đồng? Với nhiều bạn

trẻ tham dự chiếu phim và thảo luận tại Giấc mơ nhỏ, các bộ phim đƣợc chiếu

đa phần đều đã cũ, nhiều phim hoàn toàn không phải dạng phim bom tấn xét

về quy mô lẫn kĩ xảo sử dụng hay đạt thành công vang dội về doanh thu. Các

phim đƣợc chọn chiếu đều là những phim giàu tính nghệ thuật với nghĩa là có

sức khơi gợi lên những cuộc sống khác trong ngƣời thƣởng thức. Mỗi bộ

phim đƣợc quan niệm nhƣ là một thế giới mới đƣợc dựng nên, qua đó chất

vấn về tính nhân bản, nhân văn tồn tại trong mỗi con ngƣời. Và phim hay,

phim giàu giá trị nghệ thuật là phim mang lại những rung động, cảm xúc về

cuộc sống, nhắc nhớ con ngƣời nhìn sâu hơn vào trong cá nhân mình, nhìn

rộng ra đời sống xung quanh để hiểu đƣợc mình và hiểu đƣợc thế giới, từ đó

mà vị tha, khoan dung và nhân bản hơn. Những phân tích mổ xẻ từ nhiều góc

nhìn về con ngƣời nào, xã hội nào đƣợc phản ánh trong phim, những phân

tích mang tính học thuật, hàn lâm hay đơn thuần là cảm nhận thô phác nhất,

đều chỉ hƣớng tới việc hiểu. Sự hiện diện của phim ảnh vì thế có thể xem nhƣ

một phƣơng tiện giúp các cá nhân trở nên sâu sắc hơn trong những nỗ lực

hiểu mình, hiểu ngƣời và hiểu thế giới.

Văn chƣơng, phim ảnh trong trƣờng hợp này có thể đƣợc xem nhƣ là

những hình thức để tự ý thức và định hình nên cá nhân và cũng là phƣơng tiện

để kết nối các cá nhân trở thành những nhóm, những cộng đồng nhỏ. Chiếu

phim và xem phim vừa nhƣ một hình thức giải trí, vừa thỏa mãn nhu cầu tìm

87

biết về đời sống xung quanh, mở rộng tầm nhìn về cuộc sống không chỉ trong

nƣớc mà còn hƣớng ra thế giới và cũng là cơ hội để nhìn sâu vào bản thể mỗi

cá nhân. Mai nói về việc thích văn chƣơng, phim ảnh nhƣ là “đam mê đã ăn

vào máu”, tự nhận mình và những ngƣời cùng tham gia trong các buổi sinh

hoạt là những ngƣời mộng mơ, lãng mạn, hay “những kẻ điên rồ” với những ý

tƣởng sáng tạo, từng ví von Giấc mơ nhỏ nhƣ một cái tổ - nơi gặp gỡ, chốn đi

về của những ƣớc mơ, khát vọng về mình, về thế giới.

3.1.4. Thảo luận về các vấn đề của môi trường và trách nhiệm xã hội

Ở Giấc mơ nhỏ còn kết nối và hình thành một cộng đồng nhỏ quan tâm

nhiều đến môi trƣờng và trách nhiệm với xã hội. Tại đây có góc tiêu dùng bền

vững bày những sản phẩm thân thiện với môi trƣờng nhƣ ống hút tre, ống hút

inox, thìa, dĩa gỗ, túi vải, bình đựng nƣớc, xà phòng handmade từ nguyên liệu

tự nhiên, xơ mƣớp để cọ rửa… Khi phục vụ khách tham dự, từ lâu Minh đã

không dùng cốc nhựa, cốc giấy, sử dụng ống hút inox thay vì ống hút nhựa

dùng một lần. Minh cũng tạo ra Góc tiêu dùng bền vững với mong muốn tạo

ra không gian đối thoại và chia sẻ về lựa chọn hƣớng tới lối sống bền vững

trong cộng đồng. Nhiều sự kiện có nội dung liên quan đến môi trƣờng đã chọn

không gian này là nơi để kết nối. Trong chủ đề Nhựa dùng một lần (single use

plastic), nhóm bạn trẻ làm sự kiện đã có nhiều hoạt động nhƣ: đổi rác lấy cây,

lấy túi vải hay ống hút inox; trồng cây trong những cốc nhựa dùng một lần

nhặt từ các thùng rác; chia sẻ của bạn đến từ trung tâm cứu hộ sinh vật biển

từng cứu nhiều loài vật quý hiếm trong bụng đầy rác thải nhựa… Sự kiện Câu

chuyện tiêu dùng của một nhóm khác lại chất vấn về hành vi tiêu dùng và

những tác động của nó với môi trƣờng, xã hội. Bằng việc hỗ trợ kết nối này,

Giấc mơ nhỏ trở thành không gian đối thoại, chia sẻ về những thực hành hàng

ngày qua đó bày tỏ quan niệm và giá trị sống của những ngƣời trẻ. Từ những

sự gần gũi và tƣơng đồng về quan điểm sống cũng nhƣ những giấc mơ đang

theo đuổi, nhiều ngƣời có thêm bạn, liên kết với nhau trở thành các nhóm,

cùng nhau mở rộng và lan tỏa những giá trị họ theo đuổi.

88

Nhiều buổi trò chuyện xoay quanh chủ đề này đã đƣợc diễn ra tại đây,

có sự kiện do chính Minh thiết kế, nhƣng cũng nhiều sự kiện các nhóm khác

mƣợn không gian để tổ chức, có thể kể đến một vài sự kiện nhƣ: Câu chuyện

tiêu dùng (11/2018), Single use plastic (Nhựa dùng một lần) (9/2019), Đằng

sau cái mác (10/2019)… Lý giải việc tại sao lại chọn Giấc mơ nhỏ chứ không

phải rất nhiều các không gian khác trong thành phố vốn có thừa các điều kiện

để tổ chức sự kiện, An đã lý giải vì đây là nơi “từng tổ chức nhiều sự kiện như

thế”, “là nơi đã thực hành như thế chứ không chỉ là nói đến”. Các sự kiện

thu hút sự quan tâm của nhiều bạn trẻ, thể hiện qua việc tƣơng tác trên trang

facebook (lƣợt quan tâm, lƣợt thích, xác nhận tham dự hay giới thiệu cho

ngƣời khác), qua việc có mặt tại sự kiện. Các buổi nói chuyện về chủ đề môi

trƣờng thƣờng bao giờ cũng kín chỗ với khoảng 30-40 ngƣời. Ngƣời tham dự

cũng đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau nhƣng ít nhiều đều chung một mối bận

tâm là nghĩ đến trách nhiệm cá nhân đối với xã hội, thấy mình ít nhiều liên

quan trong những vấn nạn về môi trƣờng đang đƣợc nói đến nhiều trên truyền

thông. Có ngƣời thì đã chuyển hẳn sang làm về môi trƣờng nhƣ An - 26 tuổi,

sống tại Hà Nội. Tốt nghiệp loại giỏi tại một trƣờng đại học có tiếng ở Việt

Nam về kinh tế nhƣng An thƣờng trực chất vấn ý nghĩa của công việc mà

mình đƣợc đào tạo để rồi quyết định rẽ sang một hƣớng khác:

“Ngày xưa mình học đại học, cái trường mà nghe thì chỉ

nói đến làm giàu, làm cho mấy cái tập đoàn Unilever, Coca,

Pepsi các kiểu… Học đến năm ba thì mình thấy thế này là không

được, vì trường đó dạy làm giàu. Trường chỉ dạy kiếm tiền, thế

còn đằng sau đó là cái gì. Hết năm ba mình có làm cho một tổ

chức phi chính phủ. Bây giờ mình vẫn làm về môi trường và biến

đổi khí hậu”.

Hay với Phƣơng, 27 tuổi, hiện đang quản lý một cửa hàng nhỏ liên quan đến

những sản phẩm may mặc từ vải lanh đƣợc trồng, dệt và nhuộm hoàn toàn thủ

công, đã tự mình tách ra khỏi ý nghĩ về đời sống công sở với vòng lặp: kiếm

89

tiền - thụ hƣởng - kiếm tiền, với nhu cầu của đời sống vật chất nhƣ nhiều

ngƣời trẻ khác: “Học đại học xong, mình ở nhà một năm để xem thực sự mình

muốn gì. Mình thấy mình quan tâm đến môi trường... và thế là mình theo

đuổi”.

Các buổi trò chuyện về môi trƣờng hay trách nhiệm xã hội của cá nhân

thƣờng bắt đầu với việc đặt ra những câu hỏi để kết nối chủ đề với cuộc sống

của từng ngƣời: có món đồ nào mình mua mà không thực sự cần thiết? Vì sao

mình quyết định mua một món đồ? Động cơ mua hàng là gì? Những gì xuất

hiện trên quảng cáo có ảnh hƣởng đến quyết định mua sắm của mình không?

Đến đây, những ngƣời trẻ, nhỏ bé nhƣng với những mối bận tâm khác ngoài

mình, lo lắng đến hàng loạt những khủng hoảng mà thế hệ tới đây sẽ phải đối

mặt: biến đổi khí hậu toàn cầu, thời tiết cực đoan, siêu bão, lũ lụt, hạn hán,

mất mùa, thiếu lƣơng thực, ô nhiễm không khí, bệnh dịch, khủng hoảng di

cƣ,… Việc tìm và chiếu các video, các bộ phim xen kẽ trong các phân tích

nhƣ The story of stuff (Câu chuyện đồ đạc – Annie Leonard), phim tài liệu

The true cost (Chi phí thực tế), Tôi tiêu thụ vậy tôi tồn tại: hãy sống, làm

giàu, mua sắm,… vừa nhƣ một cách để thay đổi không khí buổi thảo luận

nhƣng đồng thời cũng phơi bày nhiều “sự thật” về hành vi của con ngƣời có

tác động mạnh thế nào đến sự tồn vong của môi trƣờng. Những phân tích,

diễn giải sau đó chỉ ra nhiều chiều cạnh nhƣ: quảng cáo đang tác động đến

con ngƣời một cách vô thức bằng những chiêu thức khác nhau (khung thời

gian quảng cáo, vị trí thuận lợi, dễ thấy trên các trang web…); quảng cáo

đánh trúng vào tâm lí của con ngƣời khi biết chiều tâm lí của ngƣời tiêu dùng

để khiến họ mua hàng nhiều hơn,… Nhiều chất vấn về trách nhiệm xã hội

đƣợc đặt ra khi cho rằng những quyết định mua sắm có tác động gián tiếp hay

trực tiếp tới những khủng hoảng của xã hội nhƣ: việc cái áo đang mặc có thể

có liên quan đến sự kiện sập tòa nhà chết hàng nghìn công nhân giá rẻ khi áp

lực giảm chi phí sản xuất khiến chủ bắt buộc công nhân phải làm việc trong

điều kiện nghèo nàn, nguy hiểm; những công ty đẩy ngƣời dân vào hoàn cảnh

90

mắc nợ khiến họ phải uống thuốc sâu tự tử; dệt vải cho hóa chất chống tĩnh

điện, hồ vải công nghiệp, sau khi giặt những chất này sẽ trôi hết xuống đƣờng

ống, ngƣời dân sử dụng nguồn nƣớc này sẽ bị bệnh về gan, thiểu năng trí

tuệ… Đó chính là câu chuyện xảy ra trƣớc khi sản phẩm đến tay ngƣời tiêu

dùng và dƣờng nhƣ không ai nhìn thấy. Nhiều câu hỏi về công bằng thƣơng

mại đƣợc đặt ra: chi phí làm ra sản phẩm thấp nhƣng lại đƣợc bán với giá rất

cao, nhƣng ngƣời trực tiếp làm ra sản phẩm chỉ đƣợc hƣởng khoảng 5% còn

chi phí cho các khâu khác nhƣ phân phối, thiết kế, quảng cáo… lên đến 50%,

đó là một điều không công bằng khi trị giá lao động chân tay thì rất rẻ mạt

còn quảng cáo thì lại đƣợc trả lƣơng rất cao.

Những câu hỏi trong các buổi thảo luận thƣờng đƣợc hƣởng ứng và hồi

đáp khá sôi nổi, từ nhiều trải nghiệm và góc nhìn khác nhau. Có những băn

khoăn đƣợc giải đáp, có những “vỡ lẽ”, ngạc nhiên vì đƣợc sáng tỏ và có cả

những câu hỏi còn đeo bám mãi nhƣ câu hỏi lớn về trách nhiệm của cá nhân,

nhƣ những chia sẻ dƣới đây:

“Em có một vấn đề rất nghiêm trọng với việc mua giày.

Em tốn rất nhiều tiền cho mua giày, một thứ mà có rất nhiều. Em

là một đứa chạy theo mốt. Em không biết sẽ có ai thật sự xem

xong mà hoàn toàn thay đổi. Clip này rất tốt, nhưng tại sao nó

lại không được đưa vào trường học. Em đang đi học, em gặp vấn

đề rất lớn là em không được nhìn thấy, nếu em nhìn thấy em sẽ

thay đổi sớm hơn. Bên cung cấp đồ cũng nên cho mình biết sự

thật đằng sau nó trước. Mình là con người mình phải có tinh

thần nhân văn (nghe đến đây mọi ngƣời đều cƣời vì cách em nói

rất hồn nhiên). Em không nghĩ là ai lại đối xử với đồng loại của

mình như thế ạ. Em thấy cái việc tòa nhà bị sập rất tàn nhẫn. Họ

là người, họ là đồng loại của mình, em không nghĩ là có một ai

lại đối xử với đồng loại như thế. Rõ ràng tất cả mọi thứ, con

người đang lớn lên, máy bay bay cao hơn hơn, con người đi xa

91

hơn, nhìn thấy nhiều thứ hơn. Lần đầu tiên em đi một buổi như

thế này. Em ko biết mọi người như thế nào, nhưng em thì thấy

hơi bị …choáng. Mình nên biết những cái mình cần biết.” (Lê,

học sinh, 17 tuổi).

“Vai trò của truyền thông rất quan trọng, nhưng quan

trọng là họ có phản ánh đúng không. Thực tế mình chỉ nhìn thấy

những hình ảnh lóng lánh của nó, hoàn toàn không biết về những

câu chuyện đằng sau. Em cảm thấy câu chuyện quảng cáo đóng

mình trong một cái khung, nó che mắt mình. Khi người thiết kế

quảng cáo họ cũng không biết, họ chỉ có mỗi việc làm quảng cáo

để bán được nhiều hàng thôi. Họ cũng ko biết trước đó có những

vấn đề gì. Em nghĩ truyền thông thì vẫn cần nhưng mà bản thân

người truyền thông cần biết mình đang làm gì. Truyền thông vẫn

cần nhưng phải là truyền thông có trách nhiệm. Sự chi trả cho

các lao động trí óc và chân tay cũng cần có những sự cân bằng”

(Châu, 24 tuổi).

Và khi đã hiểu, họ không thể nhƣ xƣa. Họ thay đổi cách nghĩ cũng

đồng thời với thay đổi những thực hành trong đời sống hàng ngày. Có những

ngƣời trƣớc đó đã quan tâm tới môi trƣờng, hƣớng tới lối sống vì môi trƣờng

thì sau khi đến đây cũng đƣợc củng cố thêm niềm tin về con đƣờng mình

đang theo đuổi. An vẫn dành thời gian, tiền bạc và tuổi trẻ cho những dự án

về môi trƣờng, về biến đổi khí hậu. Phƣơng vẫn gắn bó với thiên nhiên,

chuyển tới gần nơi trồng nguyên liệu để tự mình trải nghiệm tất cả các công

đoạn làm ra một sản phẩm may mặc thân thiện với tự nhiên, tự cung tự cấp

cho nhu cầu tối giản của mình nhƣ tự trồng rau, tự nhuộm vải. Tối giản vì thế

trở thành một triết lý sống, trong sự ý thức sâu sắc về mối quan hệ con ngƣời

với thiên nhiên nhƣ chia sẻ của Phƣơng: “Mình đã sống tối giản nhất có thể”.

Và tại KGST Giấc mơ nhỏ, Minh vẫn ƣu tiên góc dành cho lối sống hài hòa

giữa con ngƣời với thiên nhiên, tổ chức thêm nhiều các phiên chợ xanh, cho,

92

tặng, bán hạt giống hay những sản phẩm có nguyên liệu từ tự nhiên, tổ chức

thêm nhiều workshop về lối sống gần gũi với tự nhiên nhƣ nhuộm vải từ

nguyên liệu tự nhiên, hƣớng dẫn gội đầu bồ kết cho các bạn nữ…

Đối với nhóm bạn trẻ theo đuổi những hoạt động vì môi trƣờng, khi tạo

dựng những giá trị sống mới, cảm giác lạc lõng cũng thƣờng trực xuất hiện.

Trong lúc xã hội chạy theo tiêu dùng thậm chí là tiêu dùng ồ ạt thì một số đã

nghĩ và thực hành những lối sống mới: tối giản, tôn trọng tự nhiên, tiết giảm

và hoàn trả lại tự nhiên thay vì suy nghĩ tận thu, tận khai thác từ tự nhiên.

Hình ảnh họ xuất hiện khác nhiều so với những ngƣời cùng thế hệ: vẻ nhỏ bé,

khiêm nhƣờng, giản dị, quần áo chất liệu tự nhiên nhƣ vải lanh, nhuộm bằng

phƣơng pháp nhuộm tự nhiên, sử dụng túi vải, thực hành ăn chay, giảm thiểu

tiêu dùng. Trong khi nhiều ngƣời trẻ khác cùng độ tuổi với họ đang theo đuổi

và cập nhật những xu thế thời trang mới, những hàng quán thời thƣợng và

sang chảnh thì họ ở đây, đặt ra những câu hỏi về câu chuyện tiêu dùng, giá trị

của đồ vật, trách nhiệm xã hội trong tiêu dùng. Một bạn trẻ là cô giáo, từ lâu

không sử dụng chai nƣớc nhựa dùng một lần, thay vào đó mang theo bình

nƣớc cá nhân và đi xe đạp đến trƣờng… cũng bị chất vấn bởi chính học sinh

của mình rằng liệu làm nhƣ vậy có thấy mình lạc lõng không hay có để làm gì

không, có ý nghĩa gì không khi xung quanh đồ nhựa dùng một lần luôn đƣợc

ƣu tiên lựa chọn bởi tính tiện lợi. Nhƣng họ chấp nhận sự lạc lõng, cảm giác

khác biệt, cô đơn bởi sâu trong ý thức, trân trọng những giá trị nội tại, biết đủ

và biết ơn, biết tiết giảm và hoàn trả đã trở thành triết lý sống. Và việc tìm đến

nhau, kết nối thành những cộng đồng cũng chính là để chia sẻ đƣợc với nhau,

cùng nhau củng cố và tin tƣởng hơn cách sống mình đã lựa chọn.

Bên cạnh những hoạt động do Minh tự lên chƣơng trình, KGST này

còn thƣờng xuyên hỗ trợ kết nối các nhóm ngƣời trẻ bằng cách cho mƣợn

không gian để tổ chức sự kiện mà không thu phí địa điểm, chỉ tính phí đồ

uống của ngƣời đến tham dự. Nhiều nhóm bạn trẻ mƣợn không gian để tổ

chức sự kiện với nhiều nội dung, chủ đề khác nhau. Có thể kể đến nhƣ nhóm

93

Giếng làng với sự kiện liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu, thể hiện cách

ngƣời trẻ tiếp cận với những giá trị truyền thống và làm mới nó trong bối

cảnh đƣơng đại thông qua những vật dụng hàng ngày (nhƣ ốp điện thoại) có

in hình các nhân vật trong tín ngƣỡng thờ Mẫu; nhóm tổ chức các hoạt động

gắn với môi trƣờng; nhóm Thế giới mới nói về việc đi tình nguyện ở nƣớc

ngoài, những khó khăn và cách thức để hòa nhập, thích nghi với môi trƣờng

mới trong thời gian ngắn, cách ngƣời trẻ vƣợt qua những giới hạn của bản

thân để thể hiện và tự khẳng định mình. Có những cuối tuần không gian này

lại trở nên bề bộn với giấy, bút, màu vẽ, kim chỉ, vải, kéo… trong các lớp học

sáng tạo, các workshop trải nghiệm nhƣ: vẽ tranh phong cảnh theo từng chủ

đề; cắt giấy kigirami - một loại hình nghệ thuật có nguồn gốc tại Nhật Bản và

đang trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia, có nhiều ứng dụng trong đời sống;

xếp giấy origami để tạo hình thành con thú hay đồ vật xinh xắn, ngộ nghĩnh

do một nhóm bạn trẻ tổ chức với mong muốn bảo tồn và phát triển nghề làm

giấy dó ở Việt Nam; lớp học thêu cơ bản hƣớng dẫn thực hiện những mũi

thêu đơn giản, dễ làm, có thể ứng dụng vào các vật dụng hàng ngày nhƣ áo,

khăn, gối; dạy vẽ sáp ong lên vải trắng với những họa tiết thổ cẩm truyền

thống của ngƣời Mông hay tùy ý sáng tạo ra những họa tiết mới trong một dự

án với mục tiêu hỗ trợ phụ nữ vùng cao; dạy làm đồ thủ công handmade nhƣ

làm xà phòng; dạy vẽ trên túi vải tạo ra những sản phẩm độc đáo, thân thiện

với môi trƣờng; workshop hƣớng dẫn nhuộm vải tự nhiên,… Ngƣời tổ chức

lẫn ngƣời tham dự, đa phần là các bạn trẻ, đôi khi có cả các em nhỏ đến tham

dự cùng mẹ, đều khá thích thú với những trải nghiệm bởi với họ hoạt động

đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên nhẫn mang đến sự thƣ giãn hay cảm giác bình an, nhẹ

nhõm. Hơn nữa, họ vui vì kinh phí tham dự mà mình đóng góp sẽ phần nào có

ích cho các nhóm, các dự án đang hoạt động vì cộng đồng.

Nhƣ vậy, có thể thấy KGST Giấc mơ nhỏ là một không gian đa dạng,

linh hoạt với nhiều thực hành văn hóa khác nhau gắn với những nhóm ngƣời

trẻ khác nhau. Một cách thƣờng xuyên, đây là điểm đến quen thuộc để cà phê,

94

gặp gỡ và trò chuyện của những ngƣời trẻ. Nhƣ nhiều quán cà phê trong thành

phố, đây có thể chỉ là nơi chốn mà ngƣời trẻ ƣa thích sự mới lạ tìm đến để trải

nghiệm một không gian, trò chuyện, thƣ giãn, cà phê cùng bạn bè, rồi lại tìm

kiếm những địa điểm hấp dẫn khác. Nhƣng cũng có nhiều ngƣời trẻ đến đây

nhiều lần và đến nhƣ một thói quen, một nhu cầu không thể thiếu. Đây là nơi

ngƣời trẻ thiết lập sự riêng tƣ cho chính mình, điều mà có khi họ không có

đƣợc ở những nơi khác, ngay cả ở nhà. Hiếu, 20 tuổi, sinh viên năm hai ngành

triết học vẫn thƣờng dành cả buổi ở đây nếu không phải đến trƣờng, lúc thì

tìm tƣ liệu cho bài thuyết trình ở lớp, lúc thì vừa nghe nhạc vừa làm bài tập,

đọc một cuốn sách mới, xem phim trên máy tính cá nhân hay dựa vào một góc

kệ sách và tranh thủ chợp mắt những lúc thấy mệt. Với Vũ Anh, 26 tuổi,

ngƣời thƣờng nói về mình là “có đọc ít sách, đọc tạp nham, hay hóng hớt các

sự kiện, hơi nhiều mối quan tâm, chơi hơi nhiều” thì đó là không gian thƣ

giãn, không gian đọc và suy ngẫm, nơi dành cho những ƣu tƣ cá nhân. Còn

với Dung, ngƣời tự nói về mình là “thích viết lách, từng có một vài bài đăng

trên một diễn đàn lớn dành cho người trẻ, đã tốt nghiệp phổ thông nhưng

chưa có định hướng rõ ràng sắp tới” – đây là nơi cho em ngồi đối thoại với

nhân vật hay sắp xếp lại những ý tƣởng cho những bài viết mới. Từng đƣợc

giới thiệu trên báo chí nhƣ là một trong những quán cà phê đƣợc giới trẻ yêu

thích trong thành phố, Giấc mơ nhỏ đƣợc nhiều bạn trẻ nƣớc ngoài ghé qua để

khám phá. Do công việc Minh vẫn thƣờng làm bên ngoài nhƣ hỗ trợ dịch

thuật cho các liên hoan phim nƣớc ngoài tại Việt Nam nên nơi này còn trở

thành nơi gặp gỡ, trò chuyện của Minh và những ngƣời bạn đến từ nhiều quốc

gia khác cũng làm công việc liên quan đến xuất bản, phim ảnh, văn chƣơng…

Những thực hành văn hóa tại Giấc mơ nhỏ nhƣ đã trình bày ở trên là

một cách tạo nghĩa cho các không gian, biến các không gian thông thƣờng trở

nên sáng tạo, trở thành KGST. Tính sáng tạo trƣớc hết thể hiện ở việc chỉ

trong một không gian vật lí nhỏ hẹp nhƣng lại đa chức năng, linh hoạt, biến

hóa với nhiều hoạt động ý nghĩa. Không chỉ là quán cà phê đơn thuần, đó còn

95

là nơi ngƣời trẻ tự tổ chức nhiều sự kiện văn hóa cho mình: chiếu phim và

thảo luận, trò chuyện và trao đổi về các chủ đề đa dạng của đời sống, hội chợ

nhỏ cho sản phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên, tổ chức các workshop về thủ

công… Đây cũng là không gian của văn học, âm nhạc, điện ảnh, hội họa…

những loại hình đƣợc xếp vào lĩnh vực sáng tạo. Cả ngƣời kiến tạo nên không

gian lẫn ngƣời đến tham dự, đa phần đều còn rất trẻ, từ 18 - 35 tuổi, giữ vai

trò chủ động trong việc tạo nên các sinh hoạt văn hóa, hƣớng tới làm giàu đời

sống tinh thần cho mình. KGST là những không gian đa dạng, linh hoạt, nơi

diễn ra các cuộc gặp gỡ, trò chuyện, kết nối của ngƣời trẻ, thúc đẩy văn hóa

đọc, là không gian của phim ảnh, hội họa, âm nhạc… Nhìn từ Giấc mơ nhỏ có

thể thấy KGST là nơi thiết lập sự riêng tƣ của những ngƣời trẻ có chung mối

quan tâm hƣớng tới nuôi dƣỡng thế giới tinh thần, kiến tạo những giá trị và lối

sống mới.

Qua những diễn giải về các thực hành văn hóa của các nhóm ngƣời trẻ

trong KGST Giấc mơ nhỏ: nhóm tổ chức các sự kiện liên quan đến sách và

việc đọc, nhóm sinh hoạt tri thức, nhóm tổ chức chiếu phim và thảo luận về

phim và nhóm quan tâm đến các vấn đề của môi trƣờng, có thể thấy chỉ trong

không gian nhỏ hẹp nhƣng đã kết nối và tạo dựng đƣợc nhiều nhóm xã hội

khác nhau. Mỗi nhóm đều đƣợc hình thành dựa trên mối quan tâm chung,

cùng chia sẻ những băn khoăn, thắc mắc về con ngƣời, cuộc sống, cùng gắn

kết thông qua chia sẻ về mặt cảm xúc. Các nhóm ở đây thƣờng khá mở bởi sự

liên quan của các lĩnh vực, thành viên của nhóm này có thể tham dự vào hoạt

động của nhóm kia hoặc tham gia các hoạt động tƣơng tự tại nhiều KGST

khác trong thành phố. Nói cách khác có thể xem các KGST nhƣ điểm khớp

nối các mối quan tâm chung.

3.2. Trí thức trong không gian sáng tạo Cà phê Văn

3.2.1. Không gian của những thực hành nghệ thuật

Cùng đƣợc thành lập năm 2015 nhƣng nếu nhƣ Giấc mơ nhỏ đƣợc chọn

là nơi thƣờng xuyên lui tới của các bạn trẻ nhƣ học sinh, sinh viên, thanh niên

96

thì KGST Cà phê Văn từ lâu đã trở thành điểm hẹn của giới văn nghệ sĩ, trí

thức trung tuổi và lớn tuổi. Đây là kết quả sự cộng tác giữa những ngƣời có

tình yêu với Hà Nội, muốn tạo ra cái gì đó cho Hà Nội, chung suy nghĩ hƣớng

đến phát triển tầng lớp tinh hoa trong xã hội. Không gian của Cà phê Văn có

dáng vẻ thâm trầm toát ra từ mái ngói nâu rêu phong của căn biệt thự Pháp cổ

trên một con phố trung tâm Hà Nội. Bƣớc qua khoảng vỉa hè rộng, những

phiến đá lớn dẫn vào bên trong ngôi nhà. Hai bên lối đi là khoảng sân nhỏ đủ

để kê một vài bộ bàn ghế cho khách thích ngồi bên ngoài, vừa thƣởng thức đồ

uống vừa quan sát nhịp sống phố phƣờng. Bƣớc vào bên trong, phía bên tay

phải là khu pha chế với nhiều dụng cụ máy móc. Trên tƣờng, phía sau góc pha

chế gắn một vài tranh, ảnh giới thiệu những món đồ uống hay những trích dẫn

về ý nghĩa của cà phê với cuộc sống, đặc biệt với ngƣời làm sáng tạo. Cầu

thang gỗ cũ dẫn lối lên tầng hai, nơi có không gian nhỏ, ấm cúng, dành cho

ngƣời thích sự yên tĩnh để làm việc, đọc sách. Đây cũng là không gian diễn ra

các sự kiện. Ánh sáng đèn đƣợc điều chỉnh vừa đủ tạo cảm giác ấm cúng. Một

kệ sách nhỏ chạy dọc theo bức tƣờng, nơi ngƣời đến tham dự có thể chọn cho

mình một vài đầu sách về văn học, triết học hay kinh tế để xem trong lúc chờ

sự kiện bắt đầu. Nhìn chung, cách sắp xếp, cắt đặt, trang trí khá đơn giản,

ngay ngắn, gọn gàng và lịch thiệp nhƣng cũng đủ thân mật để ngƣời đến tham

dự có cảm giác đƣợc tự nhiên, thoải mái.

Dù là không gian mở ngỏ cho nhiều nhóm trong xã hội nhƣng từ lâu Cà

phê Văn đƣợc biết đến nhƣ là không gian của trí thức ở nhiều độ tuổi khác

nhau. Nhiều ngƣời trong số họ có uy tín, có trình độ học vấn cao, đang hoặc

từng giữ nhiều vị trí trong các cơ quan của nhà nƣớc, các tổ chức của chính

phủ, phi chính phủ hoặc làm những công việc “tự do”, độc lập theo năng lực

của mình. Nhiều ngƣời trong số đó là trí thức lớn tuổi, đang làm việc hoặc đã

nghỉ hƣu, từng đảm nhiệm vị trí quan trọng trong các cơ quan nhà nƣớc và

đƣợc biết đến nhƣ là trí thức đầu ngành, có nhiều đóng góp cho công việc

trong lĩnh vực chuyên môn. Có ngƣời từng nghiên cứu về bệnh lí học, đã

97

tham gia quản lý và giảng dạy ở một trƣờng đại học hàng đầu tại Việt Nam về

y khoa, đã nghỉ hƣu lâu năm nhƣng vẫn thƣờng đến để gặp gỡ và chia sẻ. Có

ngƣời là đạo diễn phim tên tuổi, nổi tiếng với nhiều tác phẩm đƣợc giải trong

và ngoài nƣớc, từng một thời bị điêu đứng vì tác phẩm đụng chạm đến nhiều

vấn đề nhạy cảm trong bối cảnh lúc bấy giờ. Ngƣời tham dự còn là các nhà

nghiên cứu, các nhà văn, dịch giả với nhiều đầu sách có tiếng; ngƣời tham gia

phong trào xã hội; nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, tôn giáo; các doanh

nhân… Cả những trí thức đang sống và làm việc ở nƣớc ngoài, mỗi dịp về

nƣớc cũng nhận lời mời đến chia sẻ thông tin về tình hình thế giới cũng nhƣ

Việt Nam hay đơn giản là để gặp gỡ bạn bè thân thiết. Vì tính liên ngành và

giao thoa của các lĩnh vực, các loại hình nghệ thuật cũng nhƣ mối quan tâm

đa dạng của ngƣời đến tham dự nên ngay cả trong những chƣơng trình mang

tính chuyên sâu về một chủ đề thì cũng có sự góp mặt của nhiều ngƣời đến từ

nhiều ngành nghề khác nhau.

Nhiều ngƣời tham dự rất ý thức về vị thế khi tham dự các sinh hoạt văn

hóa tại KGST này. Trong suy nghĩ, họ cho rằng để hiểu, cảm đƣợc những nội

dung trao đổi, cũng cần có tầm hiểu biết nhất định. Hay bản thân việc đến

tham dự tại đây cũng đã thể hiện họ thuộc tầng lớp trí thức. Một diễn giả làm

trong ngành xuất bản, là dịch giả của nhiều đầu sách, đã rất xúc động khi buổi

nói chuyện kéo dài hơn 3 tiếng, đến tận 12 giờ trƣa mà nhiều ngƣời vẫn ngồi

lại chăm chú lắng nghe và chia sẻ, trong đó có nhiều ngƣời trẻ:

“Tôi đi dạy, có một số em băn khoăn rằng em cảm thấy

thua thiệt vì trong lớp những bạn con nhà giàu, con những người

có quyền chức giàu có về vật chất, thì chơi với nhau. Đấy là một

thực tế mà tôi được biết. Các em nên nhớ, xã hội Việt Nam kiểu

gì thì kiểu rồi sẽ phát triển. Mà ngay cả việc các em, các bác

hôm nay ngồi đây đã chứng tỏ rằng tồn tại một tầng lớp elite.

Bản thân việc chúng ta ngồi đây, thay vì mọi người đi xem chọi

chim, ra ngoài đường phố đi shopping. Chúng ta ngồi đây để

98

nghe câu chuyện về sách. Cho nên phải chăng xã hội đang có xu

hướng như thế. Nhưng cũng đừng nên bi quan. Em hãy chứng

minh bằng năng lực, học thức của mình. Em hãy chứng minh em

là con người mang giá trị cho cộng đồng. Em hãy chứng minh

em là con người mang giá trị nhân văn, nhân văn là con người

đẹp. Em là con người thuộc tầng lớp ưu tú” (Tƣ liệu điền dã,

9/2019).

Không khí ân tình, thân mật là điều dễ nhận ra trong các buổi gặp gỡ,

trò chuyện của những trí thức lớn tuổi. Dù đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau

nhƣng đa phần đã trở thành quen biết, hiểu công việc và cuộc đời nhau, trân

quý nhau, có nhiều mối quan hệ trở thành thân tình. Các sự kiện tại đây có khi

trở thành cái cớ cho những cuộc gặp gỡ hàn huyên không dứt về nghề nghiệp,

những lo lắng, băn khoăn về thời cuộc hay cả những “day dứt đè nặng vì

không đƣợc thỏa chí”. Mỗi lần gặp gỡ họ đều bắt tay, vỗ vai thân mật, hỏi

thăm về sức khỏe, bệnh tật, những thói quen hay gợi nhắc lại những kỉ niệm

cũ. Ngôn từ dành cho nhau vì vậy cũng ấm áp, gần gũi, trân trọng và thân

tình. Trong nhiều sự kiện khác, những ngƣời sáng lập nên không gian này

luôn mong muốn tạo ra đƣợc không khí tự do, tôn trọng mà ở đó từng cá nhân

có thể cởi mở bộc lộ suy nghĩ, quan điểm của mình.

Bắt đầu hoạt động từ những năm 2015, ngoài việc là nơi thƣởng thức

một món đồ uống, nơi tranh thủ làm việc cho mỗi cá nhân, chỗ gặp gỡ, chốn

hàn huyên, chia sẻ tin tức, Cà phê Văn còn có chuỗi sự kiện diễn ra liên tục

vào cuối tuần, từ tối thứ sáu đến tối chủ nhật. Giống nhƣ Giấc mơ nhỏ, đây

cũng là không gian linh hoạt, không gian của các thực hành văn hóa đa dạng.

Từ không gian dành cho sáng tạo và thƣởng thức âm nhạc lúc ban đầu, về sau

đƣợc mở rộng ra, câu chuyện xoay quanh nhiều loại hình nghệ thuật khác nhƣ

kiến trúc, mĩ thuật, điện ảnh, văn học. Góc điện ảnh, vừa nhƣ một kênh giải

trí, thƣ giãn vào tối cuối tuần vừa là không gian mang lại nhiều kiến thức về

các danh nhân văn hóa trên thế giới, những ngƣời có đóng góp lớn và làm

99

thay đổi quốc gia. Các sự kiện âm nhạc hàng tuần hoặc cách tuần đƣợc tổ

chức hƣớng tới nhóm công chúng yêu mến nhạc cổ điển. Nhiều chƣơng trình

về hội họa không chỉ là nơi trao đổi, gặp gỡ của các họa sĩ, nghệ sĩ mà còn là

nơi mở rộng hiểu biết cho công chúng quan tâm và muốn tìm hiểu. KGST

những lúc này trở thành không gian của nghệ sĩ sáng tạo và của công chúng

thƣởng thức nghệ thuật. Khi xây dựng chuỗi các chƣơng trình này, chủ của

không gian đã quan niệm rằng nghệ thuật cần phải đƣợc thƣởng thức, đƣợc

trải nghiệm, nghệ thuật là “những thứ mà chúng ta cần phải sống với nó:

nhạc là phải nghe qua lỗ tai, hội họa là phải nhìn qua con mắt, văn chương là

phải đọc, phim ảnh là phải xem”.

Nếu ở KGST Giấc mơ nhỏ, tối thứ ba hàng tuần là thời gian dành cho

chiếu phim và thảo luận thì góc điện ảnh ở Cà phê Văn định kì diễn ra vào tối

chủ nhật. Phim đƣợc chọn đa dạng nhƣng cũng đƣợc thiết kế theo các chủ đề

khác nhau và theo “gu” mà những ngƣời sáng lập ra KGST này đã chọn. Đó

là chuỗi phim về danh nhân thuộc các lĩnh vực văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật,

họa sĩ, nhạc sĩ thiên tài, thiên tài quân sự, các nhà khoa học… mà cuộc đời và

sự nghiệp của họ gây ảnh hƣởng lớn trong lịch sử. Có thể kể đến loạt phim

danh nhân trong lĩnh vực khoa học nhƣ: phim The theory of everything (thuyết

vạn vật) về cuộc đời, tình yêu và sự nghiệp của nhà vật lí học và vũ trụ học vĩ

đại của thế kỉ 20, 21 Stephen Hawking; phim A beautiful mind về nhà toán

học John Nash - ngƣời bị tâm thần phân liệt nhƣng đoạt giải Nobel về kinh tế

và có tầm ảnh hƣởng lớn ở thế kỉ 20; chuỗi phim The men who build America

về những nhà đại tƣ bản nổi tiếng trên thế giới ở thế kỉ 19, đƣợc mệnh danh

nhƣ những “ông vua” làm nên nƣớc Mĩ hùng mạnh: “vua dầu lửa” John D

Rockefeller, “vua sắt thép” Andrew Carnegie, “vua đƣờng sắt” Cornelius

Vanderbilt hay Henry Ford - cha đẻ dây chuyền lắp ráp xe ô tô; phim danh

nhân trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật nhƣ về danh họa ngƣời Ý Leonardo

da Vinci trong phim The life of Leonardo da Vinci, về nhà soạn kịch ngƣời

Anh William Shakerpeare ở phim Shakerpeare in love, hay về vua hề Charlie

100

Chaplin trong phim Chaplin; phim danh nhân về đề tài tôn giáo nhƣ Litte

Buddha (Vị tiểu Phật) kể về hành trình đến nƣớc Mĩ của Lạt Ma Norbu để tìm

kiếm hóa thân của sƣ phụ mình sau khi tái sinh… Các phim về danh nhân

thƣờng không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tƣ liệu về tiểu sử mà còn giúp

khán giả hình dung về cuộc đời, phần nào giải mã những bí ẩn về khát vọng,

sức mạnh trong con ngƣời họ. Hơn nữa những đóng góp của họ cho quốc gia

dân tộc, trong một hay nhiều thế kỉ, cho một hay nhiều thế hệ luôn là niềm tự

hào của nhân loại, cổ vũ con ngƣời khát khao vƣơn tới những thành công mới.

Các chủ đề phim khác cũng lôi cuốn nhiều khán giả đến xem nhƣ chuỗi phim

Từ tiểu thuyết đến phim bắt đầu bằng chiếu phim và thảo luận phim Love in

Time of Cholera (Tình yêu thời thổ tả) dựa trên nguyên tác văn học của nhà

văn Mỹ Latinh Gabriel García Márquez; chuỗi phim của đạo diễn Đặng Nhật

Minh về những con ngƣời Việt Nam hy sinh, chịu đựng, giàu tình nhân ái nhƣ

Thị xã trong tầm tay, Trở về…

Các buổi chiếu phim ở đây thƣờng có 2 phần chính: xem phim và thảo

luận cùng với khách mời. Ở Giấc mơ nhỏ, ban đầu Minh kiêm luôn tất cả các

công việc cho một buổi chiếu: lên chƣơng trình (nhƣ chiếu phim gì, vào thời

điểm nào) và chủ trì phần giới thiệu, thảo luận, về sau góc điện ảnh lôi cuốn

đƣợc nhiều bạn chủ động chọn phim để chiếu và giới thiệu, những lúc đó

Minh lùi lại phía sau, giữ vai trò hỗ trợ (nhƣ tìm nguồn phim chiếu, chuẩn bị

các điều kiện về âm thanh, ánh sáng), nhƣờng lại không gian cho ngƣời tham

dự. Còn ở Cà phê Văn luôn có một khách mời, thƣờng là các nhà văn, nhà

phê bình văn học, nhà khoa học, nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, chính trị -

ngƣời giữ vai trò giới thiệu và chủ trì thảo luận.

Trƣớc khi chiếu phim, ngƣời chủ trì thƣờng có phần giới thiệu “đôi lời”

về bộ phim, đƣa ra một vài thông tin, giai thoại hay những câu chuyện ngắn

về hậu trƣờng làm phim. Những chia sẻ ngắn gọn, có tính gợi mở đó có thể

xem nhƣ là lời dẫn chuẩn bị tâm thế cho khán giả bƣớc vào thế giới của nhân

vật trong phim. Thời lƣợng của các bộ phim kéo dài thƣờng từ hai, ba tiếng

101

nên đến khoảng mƣời giờ hoặc mƣời rƣỡi tối phim mới kết thúc. Dù đã muộn

nhƣng phần thảo luận sau khi xem luôn đƣợc mọi ngƣời chờ đợi. Đây cũng là

điểm khác biệt của việc xem phim tại các KGST so với việc xem tại các rạp

chiếu. Những cảm nhận về ý nghĩa bộ phim, phân tích về nội dung, nghệ thuật

hay đơn giản là chia sẻ về một chi tiết nhỏ cũng đƣợc mọi ngƣời hào hứng

bàn luận. Nhiều câu chuyện đƣợc mở ra nhƣ bối cảnh ra đời, tham chiếu đến

những điều kiện văn hóa, lịch sử, thực tế xã hội, về đất nƣớc, con ngƣời, tiểu

sử ngƣời làm phim, cảm hứng của phim, giai thoại liên quan đến diễn viên

trong phim hay có khi đi sâu phân tích một tình tiết nhỏ, một biểu cảm của

nhân vật… Có những lần khi sự tham gia thảo luận của ngƣời xem không

nhiều, khách mời hay ngƣời dẫn phải huy động vốn liếng hiểu biết của mình

để phá vỡ không khí trầm lắng. Nhƣng cũng có khi những thảo luận không

dứt khiến cho thời lƣợng ba mƣơi phút sau buổi chiếu là quá ngắn ngủi.

Những ngƣời tạo nên không gian điện ảnh ở đây quan niệm, cũng giống

nhƣ những cuốn sách, mỗi bộ phim là một thế giới đƣợc dựng lên và quá trình

làm phim chính là quá trình tạo tác nên một thế giới mới. Xem phim là đặt

mình vào trong một thế giới khác, có thể gần gũi hoặc xa lạ với thế giới mình

đang sống. Những câu hỏi đƣợc gợi mở, đƣợc đặt ra từ bộ phim cũng là

những chất vấn về chính con ngƣời, về những giới hạn tồn tại của con ngƣời,

về những giá trị nhân văn, nhân bản và cả cái ác tồn tại trong mỗi ngƣời, là

con ngƣời trong mối quan hệ với tự nhiên, với cá thể khác…

Cuối 2016, khi Hanoi Cinematheque23 từng đƣợc gọi là “rạp chiếu bóng

thiên đƣờng” đóng cửa, nhiều khán giả ở Hà Nội đã rất tiếc nuối một nơi để

đƣợc đến xem những bộ phim hay, giàu giá trị nghệ thuật. Về sau, nhƣ nhận

ra đó là sự mất mát lớn lao và để nỗ lực bù đắp, trong thành phố đã nổi lên

nhiều “rạp chiếu bóng” nhỏ nhƣ thế, trở thành những địa chỉ văn hóa, những

nơi chốn qua lại thƣờng xuyên cho ngƣời yêu nghệ thuật thứ bảy. Ngoài Giấc

mơ nhỏ, Cà phê Văn còn có nhiều nơi khác nhƣ Trung tâm hỗ trợ điện ảnh

23 https://tuoitre.vn/vinh-biet-cay-hoang-lan-va-rap-chieu-bong-thien-duong-1222354.htm

102

TPD (51 Trần Hƣng Đạo), Ơ kìa Hà Nội (tại phố Hoàng Hoa Thám, về sau

chuyển ra Đê La Thành),… Mỗi không gian, tất nhiên hƣớng đến những mục

tiêu riêng nhƣ phục vụ nhu cầu giải trí của khán giả, phổ biến kiến thức về

phim ảnh, chia sẻ để công chúng biết về công việc của ngƣời làm phim hay

đơn giản mƣợn phim là cầu nối để những ngƣời đồng điệu gặp nhau... Nhiều

ngƣời chia sẻ sự hứng thú sau khi xem không chỉ bởi vì phim hay, xúc động

trƣớc cuộc đời nhân vật mà “xem phim, phim hay đã đành, xem với ai, ở đâu

cũng quan trọng”. Những buổi chiếu phim nhƣ vậy dần thành nếp tại các

KGST này, tạo nên một không khí, một sinh hoạt văn hóa ý nghĩa, mà theo

một khán giả “điều ấy rất hay, điều ấy không thể làm được trong các rạp

cine”.

Ngoài điện ảnh, không gian của Cà phê Văn còn là không gian của âm

nhạc. Theo “gu” của ngƣời sáng lập nên không gian này, các chƣơng trình âm

nhạc ở đây thƣờng là âm nhạc cổ điển - vốn kén ngƣời nghe và không dành

cho số đông. Có những buổi, số lƣợng ngƣời biểu diễn còn nhiều hơn cả số

khán giả. Nhƣng đều đặn, các buổi biểu diễn luôn đƣợc tổ chức hàng tháng.

Âm nhạc có khi lại đƣợc sử dụng một cách khéo léo, đầy dụng ý. Trong buổi

nói chuyện về cuộc đời của triết gia Trần Đức Thảo, bản nhạc Bèo dạt mây

trôi và Trở về đất mẹ với giai điệu tha thiết gợi liên tƣởng đến cuộc đời nhiều

trắc trở, gian truân của chính ông. Những câu chuyện về sự nghiệp và cuộc

sống của ông lần lƣợt đƣợc tái hiện: từ Việt Nam sang Pháp học, vì yêu nƣớc

nên trở về Việt Nam, cuối đời lại chết trên đất Pháp, di hài sau đó đƣợc đƣa

về Việt Nam an táng. Ngoài việc biết đến và hiểu thêm những đóng góp của

ông với triết học, khán giả còn hình dung đƣợc phần nào bối cảnh chính trị

thời bấy giờ bởi “mỗi bƣớc đi của ông đều bị đồng hành bởi chính trị”. Sự

đƣa đẩy của số phận khiến khán giả không khỏi ngậm ngùi khi nhớ lại giai

điệu tha thiết của bản nhạc Trở về đất mẹ và Bèo dạt mây trôi mà ngay từ lúc

đầu đã đƣợc cất lên nhƣ một lời đề dẫn đầy sức gợi và ám ảnh.

103

Ngoài các buổi biểu diễn âm nhạc, KGST này còn tổ chức nhiều sự

kiện thảo luận về các vấn đề của văn học nghệ thuật. Trong các sự kiện đƣợc

tổ chức tại đây, họ cùng nhau đặt ra những câu hỏi và đi tìm câu trả lời cho

những băn khoăn nhƣ: vì sao nghệ thuật Việt Nam không đƣợc quốc tế chú ý

và quan tâm đến (tháng 5/2017); vai trò của nghệ thuật với việc phát triển

cộng đồng (tháng 5/2017), văn hóa nghệ thuật nhƣ là phƣơng tiện để phản ánh

và góp phần giải quyết các vấn đề lớn của xã hội nhƣ thế nào, nghệ thuật bấy

lâu có phải dƣờng nhƣ đã quá xa cách đối với con ngƣời đặc biệt là cộng đồng

yếu thế, những ngƣời bị gạt ra bên lề xã hội,… Câu chuyện về nghệ thuật

đƣợc đối sánh dƣới các chiều kích thời gian: quá khứ - hiện tại - tƣơng lai và

không gian: thế giới - Việt Nam, từ góc nhìn của nghệ sĩ, công chúng, ngƣời

thực hành nghệ thuật, nhà đầu tƣ cho nghệ thuật…

Có thể nói, nghệ thuật đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo tác

nên các KGST. Nghệ thuật là nguồn cảm hứng lớn, là chủ đề chính của nhiều

sự kiện tại các KGST, là đời sống đƣợc nhìn qua các lăng kính và bằng các

phƣơng tiện khác nhau. Âm nhạc, hội họa, văn học và các vấn đề khác của

đời sống vì thế mà không tách rời, gắn bó, hòa quyện tạo nên một không khí

đặc trƣng cho không gian với những sinh hoạt văn hóa thƣờng ngày. Vì thế,

nghệ thuật ở đây cũng chính là những hình thức biểu đạt, những ngôn ngữ

biểu đạt khác nhau mà ngƣời kiến tạo nên không gian đã khéo léo kết hợp

đƣợc.

3.2.2. Không gian gặp gỡ, kết nối và đối thoại

Quan niệm về kết nối ở Cà phê Văn chịu ảnh hƣởng sâu sắc từ nhu cầu

cần có bạn của ông Phƣơng - ngƣời sáng lập nên không gian - vốn là một

ngƣời làm nghệ thuật. Tác phẩm viết ra xuất phát từ nhu cầu nội tại, thôi thúc

từ bên trong nhƣng đồng thời ngƣời nghệ sĩ luôn có xu hƣớng tìm kiếm sự

đồng cảm từ khán giả hoặc những ngƣời cùng làm nghề, nhƣ ông có lần từng

nói:

104

“Các bạn viết (nhạc) vì các bạn thích, và tất nhiên các bạn

muốn mọi người nghe, tức là rất muốn có bạn, cho nên Cà phê

Văn muốn biến nơi này vào một tối cuối tuần trong tháng sẽ trở

thành nơi mà chúng ta có một cộng đồng. Nghệ thuật chỉ sống

được khi chúng ta có một cộng đồng”.

Chính vì thế mà Cà phê Văn muốn tạo ra một cộng đồng thực gắn kết những

ngƣời viết nhạc, ca sĩ, nhạc công và công chúng; giữa họa sĩ với nhà phê bình,

nhà nghiên cứu và ngƣời thƣởng thức; giữa đạo diễn với biên kịch, diễn viên

và ngƣời xem... Dù những ngƣời nghệ sĩ trong thời công nghệ phát triển

thƣờng có nhiều cách tiếp cận với công chúng, nhất là sử dụng mạng xã hội,

nhƣng ngoài nền tảng ảo đó thì những kết nối, tƣơng tác thực vẫn luôn đƣợc

lựa chọn bởi ở đó họ đƣợc cùng sống trong bầu không khí nghệ thuật với cảm

xúc chân thực nhất.

Ngoài nghệ thuật, những ngƣời kiến tạo nên không gian này còn quan

tâm đến nhiều vấn đề khác trong xã hội, theo sát nhiều sự kiện hay tình hình

đang diễn ra trong đời sống, vì thế Gặp gỡ và đối thoại là một phần quan

trọng làm nên KGST Cà phê Văn. Đây không chỉ là tên gọi của một trong số

nhiều chƣơng trình đƣợc tổ chức tại Cà phê Văn mà đó còn là tinh thần của

KGST này: nơi gặp gỡ, kết nối, chia sẻ và trao đổi. Các chƣơng trình gặp gỡ

và đối thoại đƣợc tổ chức thƣờng xuyên vào chiều thứ bảy cuối tuần, kéo dài

từ 2-3 tiếng. Đôi khi vì phụ thuộc vào khách mời, sự kiện có thể đƣợc linh

hoạt điều chỉnh trƣớc hoặc sau chiều thứ bảy. Mỗi sự kiện xoay quanh một

chủ đề, nhƣng cũng có những chủ đề sẽ đƣợc trở đi trở lại nhiều lần, tất nhiên

ở các góc nhìn khác. Câu chuyện của các trí thức xoay quanh các vấn đề của

đời sống văn hóa văn nghệ, mở rộng trên nhiều lĩnh vực: triết học, giáo dục,

văn hóa, văn học nghệ thuật. Ngay cả các sự kiện bàn về nghệ thuật, xoay

quanh các loại hình nghệ thuật thì cuối cùng những ngƣời tham dự vẫn quay

trở về với câu hỏi cuộc sống nào đang đƣợc thể hiện trong nghệ thuật. Các

vấn đề “nóng” của xã hội cũng trở thành chủ đề chính của nhiều buổi gặp gỡ,

105

đối thoại nhƣ tham nhũng, bất bình đẳng, sự tàn phá môi trƣờng của con

ngƣời, những tồn tại của nền giáo dục nƣớc nhà. Nhiều sự kiện đã diễn ra

đƣợc xem nhƣ là những buổi chất vấn về công cuộc đổi mới toàn diện và triệt

để nền giáo dục đang đƣợc thực hiện nhƣ thế nào, với những ồn ào, bất cập ra

sao; những vấn đề căn cốt của giáo dục nhƣ triết lý giáo dục, nội dung giáo

dục, phƣơng pháp giáo dục, cơ cấu môn học, hệ thống trƣờng học, vai trò của

giáo viên, liên hệ với các nền giáo dục trên thế giới trong thế đối sánh. Nhiều

chƣơng trình nói đến giáo dục khai sáng nhƣ một trong nhiều lựa chọn mà ở

đó thay vì đào tạo con ngƣời công cụ, nền giáo dục nên chuyển hƣớng sang

đào tạo con ngƣời tự do. Tinh thần của các buổi trao đổi là coi trọng việc đặt

ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi một cách cởi mở, tự do. Tinh thần

tự do học thuật nhiều lần đƣợc ngƣời sáng lập không gian chia sẻ ngay từ đầu

buổi thảo luận:

“Đây không phải hội thảo khoa học, không có kết luận

đúng sai. Đây là chỗ cà phê để chúng ta nói những ý kiến khác

nhau và có thể các anh chị không tán thành nhưng không thành

kiến với những ý kiến khác mình. Tôn trọng, chính sự tôn trọng

ấy là chúng ta lưu giữ sự khác trong đầu và chính sự khác ấy

làm chúng ta phải suy nghĩ: sao họ lại nghĩ thế” (Ông Phƣơng –

thành viên sáng lập KGST Cà phê Văn).

Các vấn đề đƣợc khơi lên, đào sâu và mở rộng từ những góc nhìn khác nhau,

cùng với những liên tƣởng và kinh nghiệm cá nhân ở nhiều lĩnh vực và vì thế

nhờ những tƣơng tác này mà làm giàu vốn hiểu biết cho ngƣời tham dự.

Khi điều phối các hoạt động, lên ý tƣởng nội dung sự kiện, những

ngƣời sáng lập nên đã định hình rằng ngoài việc là một không gian nghệ

thuật, đây sẽ là nơi để cập nhật, phổ biến và trao đổi tri thức. Những buổi giới

thiệu sách hay đúng hơn là trò chuyện xoay quanh cuốn sách không giống

nhƣ buổi ra mắt sách của các nhà xuất bản, các công ty phát hành sách với

mục đích tiếp cận với độc giả để tối đa hóa lƣợng sách bán ra trên thị trƣờng.

106

Câu chuyện giữa ngƣời dẫn, khách mời với khán giả xoay quanh cuốn sách,

từ việc đƣa ra một cách hiểu, tƣơng tác với những cách hiểu khác, đặt ra thêm

những câu hỏi, liên tƣởng trong nhiều chiều cạnh khác… nhƣ thúc đẩy những

suy tƣ về cuộc sống, khai mở những chân trời tri thức mới. Các tƣ tƣởng triết

học, các cuốn sách về triết học đƣợc giới thiệu và mang ra bàn thảo nhƣ về

triết gia Hamvas Bela, sự nghiệp của triết gia Trần Đức Thảo, đối thoại với

Socrat qua cuộc đời của Alexandre Jollien, bàn về triết học và giới trẻ qua

cuốn sách Tôi là ai và thế thì bao nhiêu…

Không gian sáng tạo Cà phê Văn theo thời gian cũng đang làm mới

mình bằng việc thiết kế thêm nhiều chƣơng trình mới, đa dạng hóa không

gian, mở rộng phạm vi tiếp cận với khán giả, hƣớng tới nhiều đối tƣợng hơn.

Việc phổ biến tri thức trong chuỗi sự kiện hoạt động trên xuất phát từ quan

niệm “chia sẻ tri thức là nền tảng thay đổi vận mệnh quốc gia dân tộc”. Tinh

thần này có lẽ đƣợc ảnh hƣởng từ tinh thần “khai dân trí” của Phan Châu

Trinh, một trong những tác giả đƣợc đề cập nhiều nhất trong các chƣơng trình

tại Cà phê Văn. Sự đa dạng này còn bắt nguồn từ việc muốn hình thành nền

tảng văn hóa cho trí thức. Có thể thấy, dù nhỏ hẹp về diện tích thực nhƣng Cà

phê Văn luôn mở ra những không gian không biên giới cho sự sáng tạo, đƣợc

lấp đầy bởi nhiều thực hành văn hóa giàu ý nghĩa, phản ánh một đời sống văn

hóa bộn bề và phong phú của đô thị.

3.2.3. Không gian chất vấn và phản biện xã hội

Bên cạnh mối quan tâm về văn học nghệ thuật, những ngƣời trí thức

trong các KGST còn phản ánh về những bức xúc trong xã hội, bày tỏ, thể hiện

những quan điểm độc lập của mình về nhiều vấn đề đang diễn ra, trong số đó

có cả những chủ đề đƣợc xem là “nhạy cảm”. Những ý kiến phản biện đôi khi

chỉ là thêm vào theo kiểu chuyện bên lề, những liên tƣởng tạt ngang tạt dọc

ngoài mạch nội dung sự kiện đang diễn ra. Nhƣng có những vấn đề đƣợc đề

cập đến một cách trực diện, là chủ đề chính của cả buổi hoặc đƣợc trở đi trở

lại trong nhiều sự kiện sau đó, phần vì nội dung khá rộng, đa chiều, không thể

107

nói hết đƣợc trong một buổi, phần vì là chủ đề “nóng”, đƣợc bàn thảo nhiều

trong xã hội lúc bấy giờ. Chủ đề giáo dục là một ví dụ nhƣ vậy.

Trong bối cảnh những chính sách về giáo dục có nhiều bất cập, những

ồn ào xoay quanh bằng cấp hay quá trình đào tạo đƣợc phản ánh thƣờng

xuyên trên báo chí, nhân vấn đề “trƣờng ma” đang dậy sóng trên các phƣơng

tiện thông tin truyền thông (một trƣờng của Mĩ, không có trụ sở, không có

giáo viên, không đƣợc công nhận nhƣng lại liên kết đào tạo tại Việt Nam tại 14 tỉnh thành)24,… câu chuyện giáo dục lại trở thành tâm điểm và trở thành

chủ đề cho gặp gỡ và đối thoại ở Cà phê Văn. Đa phần ngƣời tham dự buổi

gặp gỡ và đối thoại trong buổi hôm đó đều ở tầm tuổi trung niên, công tác tại

nhiều lĩnh vực khác nhau. Chỉ sau phần dẫn dắt, gợi mở của ngƣời chủ trì,

không khí thảo luận đã thực sự sôi nổi, dƣờng nhƣ ai cũng sẵn có những ý

kiến cần bày tỏ, chia sẻ hay thể hiện thái độ. Lúc ngồi tham dự, một bác bên

cạnh, vừa đùa nhƣng cũng vừa thật, quay sang phía tôi và nói rằng đƣa ra chủ

đề này đúng là “gãi đúng chỗ ngứa”. Một nhà giáo từng là hiệu trƣởng của

một trƣờng đại học theo hƣớng phi lợi nhuận đề cập đến các tác nhân tác động

đến giáo dục nhƣ chính sách, cán bộ quản lý, ngƣời học, nhà giáo… Với bà

những đổi mới trong giáo dục cần dựa vào khoa học giáo dục để giúp ngƣời

học tự tổ chức việc học theo cách chủ động. Một nhà giáo đã nghỉ hƣu đề cập

đến vấn đề tị nạn giáo dục qua câu chuyện về chính các con, các cháu của

mình hiện đang theo học phổ thông ở nƣớc ngoài bởi với ông “giáo dục ở ta

đang triệt tiêu sự sáng tạo do có sự định hướng cứng nhắc”. Một ngƣời là

nghệ sĩ thì thấy:

“Chương trình giáo dục của ta chủ yếu dạy kiến thức,

chính trị và đạo đức, nhưng nền tảng thì không có, nghệ thuật

cũng không. Hay nếu có thì nghệ thuật cũng chỉ vì tuyên truyền,

sử dụng nó để làm tuyên truyền chứ không phải bản thân nó, nên

thành ra đôi khi ta hiểu lầm về nghệ thuật”.

24 https://thanhnien.vn/giao-duc/truong-ma-lien-ket-day-o-vn-949943.html

108

Một ngƣời là nhà báo đề cập đến việc độc quyền xuất bản sách giáo khoa hay

những điều chỉnh của luật giáo dục hiện nay đã phản biện rằng những sửa đổi

về luật giáo dục đang sai về nguyên tắc khi ƣu tiên cho giáo dục đại học

trƣớc, sau đó mới đến giáo dục phổ thông, trong khi giáo dục mầm non lẽ ra

phải đƣợc coi trọng đầu tiên, vì gắn với giai đoạn khởi đầu của con ngƣời, thì

lại bị đặt thứ tự ƣu tiên sau cùng. Cứ nhƣ vậy, các ý kiến nối tiếp nhau, bổ

sung, làm rõ, cung cấp những góc nhìn đa chiều cùng những ví dụ cụ thể, sinh

động gắn với những trải nghiệm và quan sát cá nhân. Phần thảo luận lôi cuốn

đƣợc sự theo dõi một phần vì giọng điệu phản biện: có ngƣời rốt ráo, thẳng

thắn, đề cập trực diện, ngƣời thì điềm đạm, ngƣời giữ giọng hài hƣớc có phần

châm biếm… Các ví dụ từ thực tiễn công việc hay câu chuyện bản thân ngƣời

tham dự chứng kiến cũng đa dạng, sinh động. Các phản biện đƣa ra thƣờng

gắn với những lí lẽ, phân tích, lập luận rõ ràng. Buổi trò chuyện kết thúc vào

lúc hơn năm giờ chiều nhƣng mọi ngƣời còn nán lại, thành từng cặp hay từng

nhóm nhỏ tiếp nối câu chuyện còn dang dở. Nhiều ngƣời còn hẹn nhau ở một

sự kiện khác tại Trung tâm Văn hóa Pháp sau đó, rất ngẫu nhiên cũng bàn về

chủ đề giáo dục.

Với nhiều trí thức, họ còn có những không gian khác, những diễn đàn

khác để tham gia ý kiến: các buổi hội thảo do các cơ quan, các trƣờng đại học

tổ chức, các kênh truyền thông… nhƣng không gian này vẫn có ý nghĩa đặc

biệt với họ. Trƣớc hết là đƣợc nói thẳng, nói hết những suy nghĩ của mình,

bày tỏ quan điểm đối với nhiều vấn đề liên quan đến đời sống cá nhân, cộng

đồng và xã hội. Ông T, một giảng viên đại học, từng chủ trì nhiều buổi thảo

luận tại Cà phê Văn từng cho rằng:

“Ở ta đang lạc hậu so với các nền văn minh khác đến mấy

nghìn năm. Thế giới có những agora, là nơi đối thoại, public, tự

do, ai muốn hỏi gì thì hỏi, truy nguyên đến cùng. Còn ta bây giờ,

nói cũng chưa được nói”.

109

Việc nói ra quan điểm cũng là một cách để nghe ngóng và tìm kiếm sự

đồng tình, ủng hộ từ ngƣời khác, để xác tín quan điểm mình cho là đúng đắn

mà ở không gian khác dƣờng nhƣ bị lờ đi: “tôi nói nhƣng họ có nghe đâu”

hoặc thậm chí không có cơ hội để đƣợc nói những phản biện trái chiều đó.

Việc tìm đến một không gian cởi mở, tự do nhƣ thế này là để những tiếng nói

riêng lẻ kia trở nên có sức mạnh hơn khi đƣợc chia sẻ. Hơn nữa, trong nhiều

sự kiện, vì lý do “ở đây có các anh nhà báo”, họ mong muốn tiếng nói của họ

rất có thể sẽ đƣợc lắng nghe ở phạm vi rộng rãi hơn.

Tuy nhiên, nhiều chƣơng trình tại Cà phê Văn bị hủy trƣớc ngày tổ

chức, đƣợc thông báo trên facebook là “vì lý do khách quan không thể khắc

phục”. Ngƣời đăng kí tham dự ban đầu hơi bất ngờ với những lần dừng “đột

ngột” nhƣ vậy nhƣng về sau đều lờ mờ nhận ra và suy đoán lý do khi nghĩ đến

thành phần là khách mời từng bị xem là có vấn đề, nhƣ một ngƣời đã từng

chia sẻ: “các chương trình ở đây bị an ninh theo dõi chặt vì có thành phần

phản động - theo tiêu chí đánh giá của họ”. Nhiều can thiệp khác nhau nhƣ

cắt điện, cắt nƣớc cũng đƣợc sử dụng nhằm không cho sự kiện đƣợc diễn ra:

“… Tôi mời anh V. nói về giáo dục. Nhưng hôm đó tôi lại

để ông P.M chủ trì. Cả hai ông cộng với Cà phê Văn nên an ninh

họ không bằng lòng, nên họ bảo tôi phải dừng. Tôi bảo buổi này

có gì đâu, chỉ là nói về giáo dục. Mấy chú đó bảo đây là lệnh từ

cấp trên. Họ cứ nói cấp trên và không giải thích lý do. Tôi bắt

buộc phải cho ngừng. Mà rồi an ninh họ vẫn cứ đến, tôi đã cho

đăng lên facebook là buổi này ngừng, nhưng họ vẫn không tin,

họ vẫn cắt điện cái hôm đó”.

Các buổi thảo luận ở đây có thể xem nhƣ một kênh để trí thức và những

đối tƣợng tham dự khác đƣợc thể hiện quyền công dân của mình, cất lên

những tiếng nói đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Những tranh luận

không có hồi kết về giáo dục cho thấy đây là chủ đề đƣợc quan tâm đặc biệt

đối với nhiều ngƣời, đặc biệt là tầng lớp trí thức trong xã hội.

110

Là những ngƣời đã từng hay vẫn đang làm việc trong môi trƣờng học

thuật, có liên quan chặt chẽ với giáo dục hoặc trong lĩnh vực khác có vẻ ít liên

quan hơn nhƣng họ đều biết giáo dục quan trọng nhƣ thế nào đối với sự phát

triển xã hội. Họ ý thức một cách sâu sắc rằng cái gốc của một xã hội phát

triển nằm ở con ngƣời, mà con ngƣời có văn hóa là do giáo dục chứ không do

cái gì khác. Bày tỏ ý kiến, thể hiện quan điểm cá nhân không ngoài việc thể

hiện mối quan tâm của họ đối với xã hội, thấy mình có trách nhiệm với việc

đó và muốn tham gia giải quyết vấn đề thông qua tranh luận. Nhƣ vậy, có thể

thấy, trong những trƣờng hợp này, KGST này là không gian cho sự tham gia,

đƣợc thiết lập nên bởi mong muốn kết nối, nhu cầu thể hiện, bày tỏ quan

điểm, chính kiến cá nhân với các vấn đề của đất nƣớc. Không gian mở cửa tự

do cho tất cả ngƣời dân đô thị, nơi họ có thể tự do gặp gỡ, tụ họp và thể hiện

quyền công dân của mình bằng việc tham gia ý kiến. Không gian khuyến

khích những tiếng nói đa dạng, vì thế nó là nơi thực sự cần thiết cho những

phản biện mà trí thức mong muốn truyền tải đến chính quyền, tới những

ngƣời có trách nhiệm.

Với đặc thù là hoạt động trong lĩnh vực trí tuệ, ngƣời trí thức không thể

phát huy cái “thẩm quyền phát biểu” của mình nếu không có một không gian

công cộng trong xã hội (Trần Hữu Quang, 2020) [57]. Các KGST nhƣ đã nói

đến luôn tạo cơ hội cho ngƣời dân có quyền tham gia, quyền tự do phát biểu ý

kiến, quyền đƣợc tôn trọng sự khác biệt. Dám đề cập một cách trực diện tới

những sự thực mà ít đƣợc nói đến trên các phƣơng tiện truyền thông chính

thống hoặc bị né tránh ở nhiều không gian khác, những mặt trái của xã hội,

những trải nghiệm tiêu cực, những hiện thực thƣờng bị lấn át bởi dòng chính,

có lẽ đây là một trong nhiều lí do khiến các KGST nhƣ Cà phê Văn, Giấc mơ

nhỏ đƣợc nhiều ngƣời quan tâm và tham dự… Nó phản ánh mong muốn đƣợc

đóng góp cho xã hội, bằng những phƣơng cách khác nhau:

“Chúng ta dần bắt đầu có cái nghĩ, dần bắt đầu lo đến cái

vận mệnh của đất nước và thấy mình có quyền đóng góp và nếu

111

nhà nước không chấp nhận thì có những nơi để phát biểu, để bàn

bạc, nhưng không phải chống đối” (Tư liệu điền dã, tháng

10/2019).

Nó đem tới cơ hội cho ngƣời tham dự có đƣợc cái nhìn đa chiều về xã hội,

giúp hình dung về đô thị Việt Nam một cách đa dạng, sống động và phức tạp.

Và nhƣ vậy, sự bình đẳng trong tiếp cận, quyền tự do biểu đạt cho thấy KGST

nhƣ một hình thức biểu hiện của “khu vực công” mà Habermas đã nói đến.

Một phân tích khác, từ KGST Cà phê Văn cũng cho thấy trong những

thảo luận tại đây, từ việc nhận diện, mổ xẻ, chỉ ra thực trạng của vấn đề, nêu

lên điểm tốt hay phê phán những cái xấu, ngƣời tham dự dƣờng nhƣ luôn có

nỗ lực tìm kiếm những giải pháp, những cách thức để điều chỉnh, cải thiện

hay thay đổi tình huống. Trong chuỗi chƣơng trình gặp gỡ và đối thoại về chủ

đề giáo dục, ngoài việc nhận diện và bày tỏ thẳng thắn quan điểm về những

bất cập của ngành giáo dục, còn dành nhiều thời lƣợng bàn về giáo dục khai

sáng, đƣa ra một góc nhìn mới, một hƣớng đi mới. Diễn giả đƣợc giới thiệu là

một trí thức đƣợc đào tạo ở phƣơng Tây, từng học và dạy học ở nƣớc ngoài -

nơi có điều kiện sống và nghiên cứu khoa học rất tốt, đƣợc tiếp xúc với nhiều

học giả lớn nhƣng đã quyết định về Việt Nam để hiện thực hóa quan điểm của

mình về giáo dục. Khi nói về giáo dục khai sáng, “cái gốc” của nó, nhƣ những

diễn giải về sau đều sẽ xoay quanh câu hỏi “tôi là ai”:

“Thực ra chúng ta tổ chức đời sống xoay xung quanh câu

trả lời tôi là ai, một cách có ý thức hay là vô thức. Anh nghĩ rằng

anh là ai thì anh sẽ tổ chức cuộc sống như thế. Nếu anh là luật

sư, anh sẽ tổ chức cuộc sống như một luật sư. Nếu anh nghĩ anh

là doanh nhân, anh sẽ tổ chức cuộc sống như một doanh nhân.

Nếu anh là nhà giáo anh sẽ tổ chức cuộc sống như một nhà giáo.

Anh là nhạc sĩ, cuộc sống cũng sẽ xoay quanh bản nhạc. Một xã

hội cũng như thế. Một xã hội cũng được tổ chức xoay quanh câu

trả lời tôi là ai của xã hội. Xã hội phong kiến coi tôi là một thần

112

dân. Nhưng xã hội phương tây coi tôi là một cá thể, cá nhân độc

lập và bình đẳng với các cá nhân khác, và họ tổ chức đời sống

tương ứng như thế. Cho nên ở cấp độ cá nhân hay cấp độ xã hội

thì cũng tổ chức xã hội xoay quanh câu hỏi tôi là ai” (Ông T,

nhà giáo dục, 45 tuổi).

Giáo dục khai sáng sau đó đƣợc phân tích nhƣ là hƣớng vào ngƣời học,

để quá trình học trở thành quá trình nỗ lực tự nhận thức, tự khai sáng của

chính ngƣời học, giáo viên đóng vai trò nhƣ ngƣời hỗ trợ cho quá trình đó.

Khi nói về giáo dục khai sáng, trong tƣơng quan so sánh, diễn giả đã chỉ ra

những điều mà với anh, đó chính là “lỗ hổng” lớn của nền giáo dục:

“Khi đó tôi nhìn lại chương trình giáo dục của ta, hóa ra

trong chương trình, chúng ta được học đủ mọi thứ trên đời

nhưng cái quan trọng nhất thì chúng ta lại không được học: tôi

là ai, làm cho người trẻ vô cùng hoang mang, ngay cả những

người có tuổi cũng hoang mang không biết ta làm gì với cuộc đời

mình. Có khi đến cuối cuộc đời vẫn không trả lời được, vẫn bế

tắc. Tôi muốn dùng chương trình của mình để bù đắp cho sự

thiếu hụt đó trong giáo dục” (Ông T, nhà giáo dục, 45 tuổi).

Các câu chuyện về đời sống, văn hóa nghệ thuật tại KGST Cà phê Văn luôn

đƣợc sôi chiếu từ nhiều góc nhìn và những liên tƣởng khác nhau. Vấn đề của

thực tại có khi lại đƣợc tìm trong câu chuyện của quá khứ. Không chỉ bởi

nhiều ngƣời đến tham dự là trí thức lớn tuổi nên nơi đây thƣờng có không khí

hoài niệm mà bởi nhiều câu chuyện quá khứ nhƣng lại là gƣơng soi cho

những vấn đề hiện tại. Những phân tích dƣới đây về một chuỗi chƣơng trình

đƣợc diễn ra tại Cà phê Văn sẽ cho thấy điều đó.

Giữa năm 2019, Cà phê Văn tổ chức chuỗi sự kiện mang chủ đề “Ăn

quả nhớ kẻ trồng cây” để hồi nhớ lại một chặng đƣờng quan trọng trong lịch

sử đất nƣớc: thời kì Pháp thuộc 1884-1954. Từ góc nhìn văn hóa, văn học

nghệ thuật, chuỗi chƣơng trình muốn hình dung lại bối cảnh xã hội một thời

113

với những biến động mạnh mẽ và có ảnh hƣởng sâu sắc đến sau này. Qua các

buổi thảo luận nối tiếp nhau, chủ đề về âm nhạc, văn học, mĩ thuật cho đến

giáo dục của giai đoạn này đƣợc tái hiện một cách sống động từ phần trình

bày của khách mời là những nhà nghiên cứu am hiểu và có tên tuổi cùng với

những ý kiến đa chiều đến từ ngƣời tham dự.

Trong suy nghĩ, những ngƣời lên ý tƣởng cho chuỗi chƣơng trình này

hƣớng tới mong muốn ghi nhận và tri ân lại những đóng góp của nhiều ngƣời

Việt và cả ngƣời Pháp đối với văn hóa Việt Nam. Khác với xu hƣớng phủ

định sạch trơn vì chúng ta từng chống Pháp, với họ, bên cạnh thực dân xâm

lƣợc thì còn có những trí thức ngƣời Pháp, những ngƣời sang Việt Nam đã

dành tình yêu cho Việt Nam, mong muốn Việt Nam đƣợc nhƣ nƣớc Pháp. Và

cũng nhờ ngƣời Pháp, Việt Nam mới có thơ mới, có tân nhạc, có mĩ thuật,

giáo dục, khoa học, có nền văn minh. Chuỗi chƣơng trình thu hút đƣợc sự

quan tâm của nhiều trí thức ở các độ tuổi khác nhau. Các buổi trò chuyện

thƣờng chật kín ngƣời, ngƣời trẻ lui ra phía sau, nhƣờng lại phần ghế gần sân

khấu nhỏ cho những ngƣời tham dự cao tuổi. Nhiều ngƣời là nhà nghiên cứu,

nhà giáo, họa sĩ từng đƣợc thụ hƣởng nền giáo dục của Pháp một thời.

Khi nói về sự ra đời của chữ quốc ngữ - một sự kiện thu hút đƣợc sự

quan tâm của khá nhiều trí thức, trong quan niệm của ngƣời thiết kế và xây

dựng nội dung cho buổi thảo luận này, việc latin hóa một tiếng nói, chữ viết

trƣớc hết là phục vụ cho công việc của ngƣời Pháp: để giảng đạo, để phục vụ

cho các công việc thƣờng ngày của họ,… nhƣng công lao của họ đối với

ngƣời Việt chính là việc chính quyền Pháp đã đƣa chữ quốc ngữ vào bậc tiểu

học (từ năm 1902), chƣơng trình dạy học đƣợc thiết kế theo chƣơng trình của

Pháp. Sau đó ngƣời Pháp cho phép ra báo bằng tiếng Việt, các công văn nhà

nƣớc vừa cả tiếng Pháp và tiếng Việt. Ngƣời Pháp bãi bỏ trƣờng thi và sau đó

coi nhƣ tất cả những gì dính đến Hán học lùi về quá khứ. Xã hội hiện tại sử

dụng tiếng Việt, điều đó cho thấy công lao của ngƣời Pháp và nhƣ chia sẻ của

ông Phƣơng:“bỏ cái chuyện bóc lột đi, chúng ta thấy công lao của họ, đó

114

thực sự là khai hóa”, “Và như vậy, nếu như người Pháp là người gieo hạt:

gieo cái trường mĩ thuật Đông Dương, gieo cái nhạc viện, gieo cái nền tảng

về chữ nghĩa ở bậc tiểu học”. Mặt khác, hàng loạt các trí thức ngƣời Việt ở

đầu thế kỉ XX cũng đƣợc nhắc đến nhƣ Nguyễn Văn Vĩnh, Huỳnh Tịnh Của,

Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Phan Khôi, là những ngƣời đã chăm chút,

nuôi dƣỡng cho chữ quốc ngữ đƣợc bén rễ, ăn sâu và lan tỏa trong đời sống:

“… người Việt ở đây không phải là người bình dân được, phải là các trí thức,

thời đó gọi là các chí sĩ. Họ thích cái đó (chữ quốc ngữ), họ thấy nó là cái

phương tiện để thoát Trung, họ mới từ bỏ cái cũ và sử dụng cái đó”.

Cũng đề cập đến vai trò của giáo dục, nhƣng ở một chiều cạnh khác,

nhà chí sĩ yêu nƣớc Phan Chu Trinh với quan điểm “chi bằng học” là một chủ

đề đƣợc trở đi trở lại trong nhiều sự kiện sau đó. Các buổi nói chuyện, trình

bày về tƣ tƣởng của Phan Châu Trinh qua các tƣ liệu mà Phan Châu Trinh để

lại hay qua các tài liệu nghiên cứu về Phan Châu Trinh, một mặt là các hoạt

động tƣởng nhớ, tri ân và vinh danh những danh nhân văn hóa tiêu biểu, mặt

khác cũng nhằm để gìn giữ, phục hƣng và lan tỏa những giá trị tinh hoa văn

hóa. Nhiều sự kiện đƣợc tổ chức xoay quanh triết lí của Phan Chu Trinh, Phan

Chu Trinh - nhà cách mạng khai sáng, viện nghiên cứu về Phan Chu Trinh...

Qua việc điểm luận lại những nghiên cứu về Phan Chu Trinh của nhiều học

giả khác, trình bày bối cảnh lịch sử xã hội của tƣ tƣởng triết học của ông, quá

trình hình thành tƣ tƣởng và những con đƣờng phát triển mà Phan Chu Trinh

đặt ra, nội dung các thảo luận giúp ngƣời tham dự nhớ lại và hiểu thêm về

cuộc đời cũng nhƣ đóng góp của ông. Nội dung đƣợc đề cập đến là giá trị tƣ

tƣởng của ông - nhà cách mạng phi bạo lực khi muốn thay đổi xã hội, thay đổi

số phận của dân tộc từ gốc rễ là văn hóa, giáo dục dù trƣớc đây ông không

đƣợc đánh giá cao trong quá khứ vì đƣờng lối bị cho là “cải lƣơng” khi chủ

trƣơng thân Pháp, “ỷ Pháp cầu tiến bộ”.

Trong các buổi thảo luận, những nan đề mà Phan Châu Trinh đặt ra nhƣ

tƣ tƣởng canh tân, sự khai sáng, khai minh, tinh thần dân chủ đƣợc chú ý

115

nhiều hơn cả. Đặt trong bối cảnh lịch sử, tƣ tƣởng Phan Chu Trinh đặt ra lúc

bấy giờ là “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” có phần cơ bản và phức

tạp hơn khi ông chỉ ra nguyên nhân lớn nhất của việc mất nƣớc, trở thành nô

lệ nằm ở nền tảng văn hóa lạc hậu, giáo dục lạc hậu. Vấn đề cấp bách là khai

hóa dân tộc, hiện đại hóa đất nƣớc và cũng chính là vấn đề thoát Trung. Chủ

đề đƣợc đề cập tới là một nhân vật lịch sử nhƣng câu chuyện không chỉ đƣa

ngƣời tham dự về thời quá khứ mà còn tham chiếu đến thời hiện tại. Rất nhiều

ý kiến đã khẳng định “những vấn đề Phan Chu Trinh đặt ra còn nguyên giá

trị”, đặt ra câu hỏi “con đƣờng phía trƣớc là gì?”, “ta phải làm gì?”.

Ngoài việc thêm một cơ hội để hiểu về những tƣ tƣởng lớn lao mà

ngƣời xƣa đã khơi lên thì những buổi bàn thảo nhƣ vậy cũng là để tỏ thái độ

về sự đồng lòng với những đƣờng hƣớng canh tân, những tƣ tƣởng nền tảng

căn cốt mà những trí thức có mặt tại đây đang theo đuổi. Do vậy, đó không

chỉ là “nhớ về” theo chiều hƣớng dịch chuyển thời gian trở lại quá khứ mà

thực chất là di chuyển giữa hai chiều kích quá khứ và hiện tại. Câu chuyện

của quá khứ soi chiếu hiện tại hay từ hiện tại liên tƣởng về quá khứ, từ đó

dựng nên những hình dung, viễn kiến về tƣơng lai.

Nhƣ nhận xét của ngƣời đến tham dự “tôi có cảm giác chúng ta đang

quay trở lại thời kì Duy Tân, thời kì chúng ta tiếp cận với xã hội dân chủ”.

Những ngƣời đƣợc nói về, đƣợc nhớ đến cũng từng là những “thiểu số” trong

xã hội, cũng từng bị “khƣớc từ” bởi quan điểm, tƣ tƣởng của họ là khác biệt,

khác với số đông và thuộc về số ít. Chọn nhớ về quá khứ theo một cách khác:

hoài niệm về những ngƣời từng bị gạt ra ngoài lề, không nằm trong dòng

chính, làm nhƣ vậy dƣờng nhƣ họ đã tạo ra tuyên ngôn chính trị của mình về

vị thế của trí thức/nghệ sĩ trong xã hội.

Đằng sau những câu chuyện, trao đổi, bàn thảo, có lẽ không phải chỉ để

“nói cho vui” mà còn ẩn chứa những mong muốn đổi thay hƣớng đến những

điều tốt đẹp và tích cực cho xã hội, cho đời sống con ngƣời. Từ câu chuyện

của quá khứ, đối sánh với hiện tại để hình dung nên những viễn cảnh của

116

tƣơng lai. Nhƣ trong một sự kiện, có vị khách đã ví von KGST mà họ đang

tham dự nhƣ nhiều KGCC khác trên thế giới:

“Cà phê, câu chuyện hấp dẫn nhất về cà phê là câu

chuyện về đồ uống thay đổi thế giới. Quán cà phê đầu tiên ở

nước Anh, đó cũng là không gian công cộng. Nó cũng giống như

nơi này (Cà phê Văn), các nhà triết học, các chính trị gia sẽ đến

đó trao đổi và hệ quả là vua Anh lên máy chém. Sức mạnh của

nó nằm ở đó. Những Vontaire, Didoro, Banzac… họ đến những

không gian như thế, tư tưởng của họ làm thay đổi thế giới. Đó là

các không gian, nơi người ta bàn bạc câu chuyện làm thay đổi xã

hội” (Tƣ liệu điền dã, tháng 5/2020).

Sự tự do, dân chủ thể hiện ngay trong cách nhóm ngƣời này chọn nhớ

về, thảo luận về, nhận thức về vấn đề gì. Họ dƣờng nhƣ không chấp nhận một

lịch sử có tính tất yếu, áp đặt mà chất vấn lại những gì dƣờng nhƣ đã đƣợc

xem là tất yếu, là “sự thật” của quá khứ, của lịch sử. Ở đây họ đƣợc tự do khai

quật những “sự thật khác”, những lịch sử khác, cho mình cơ hội nhìn thấy

những góc, những chiều cạnh phức tạp của quá khứ.

Tiểu kết chƣơng 3

Trong luận án này, tôi luôn ý thức rằng những nỗ lực để khái quát thực

tiễn đa dạng của các KGST thành một định nghĩa ngắn gọn, cô đọng, có khả

năng bao quát là không hề dễ dàng. Thực tế, mỗi KGST đƣợc kiến tạo nên bởi

những cá nhân/nhóm cá nhân với cá tính và mong muốn riêng, với nhiều hoạt

động đa dạng và khác biệt, nói cách khác KGST là kết quả của quá trình tạo

nghĩa thông qua các thực hành văn hóa.

Chủ thể kiến tạo nên không gian đƣợc hiểu là có 2 nhóm: nhóm ngƣời

sáng lập và nhóm ngƣời tham gia thực hành văn hóa trong các không gian.

Mỗi không gian gắn với những nhóm chủ thể khác nhau, vì thế cũng sẽ có

những ý nghĩa khác nhau. Mặc dù là không gian mở, dành cho mọi đối tƣợng

nhƣng có thể thấy nổi bật lên hai nhóm đối tƣợng chính: Giấc mơ nhỏ - nơi

117

lui tới của phần lớn là những ngƣời trẻ nhƣ học sinh, sinh viên, thanh niên và

Cà phê Văn đƣợc xem nhƣ là điểm gặp gỡ của những ngƣời trí thức ở nhiều

độ tuổi khác nhau nhƣng phần lớn là tầm trung tuổi. Đó nhìn chung là không

gian của sách vở, báo chí, văn học nghệ thuật, nơi thúc đẩy, bồi đắp đời sống

tinh thần và những suy tƣ về cuộc sống. Đó cũng là nơi trao đổi, truyền bá,

kết nối và lan tỏa tri thức, nơi các ý tƣởng, quan điểm đƣợc va đập, giúp mở

rộng tầm nhìn, trƣờng nghĩ cho mỗi cá nhân. Nó giống nhƣ một thế giới thu

nhỏ nhƣng bao chứa nhiều luồng tƣ tƣởng khác nhau, qua cọ xát mà kích

thích sự tƣởng tƣợng cũng nhƣ sáng tạo.

Nếu KGST là không gian kết nối nhƣ đã phân tích ở trên thì nghệ thuật

có thể đƣợc xem nhƣ một phƣơng tiện để kết nối. Khi nói về KGST, nhiều ý

nghĩ lập tức liên tƣởng đến những nơi chốn cho nghệ sĩ làm công việc sáng

tác nghệ thuật, nơi hữu hình hóa ý tƣởng và cảm hứng thành tác phẩm. Có thể

hiểu về KGST theo nghĩa thực nhƣ vậy khi bản thân các KGST trƣớc hết là

những địa điểm cho các hoạt động sáng tạo, nơi diễn ra các hoạt động sáng

tạo. Nhiều KGST trong thành phố chính là các studio, các xƣởng sáng tác, nơi

lƣu trú và làm việc của nghệ sĩ. Nhƣng hàm nghĩa của KGST rộng hơn so với

ý nghĩ đơn thuần xem đây là một địa điểm. Nó còn là không gian dành cho

sáng tạo, khơi lên tinh thần sáng tạo. Âm nhạc, văn chƣơng, mĩ thuật, phim

ảnh là một phần quan trọng làm nên các KGST, nếu nhƣ không nói rằng đây

chính là một trong những đặc điểm để phân biệt KGST với các loại không

gian khác. Nhiều buổi gặp gỡ hay các sự kiện đƣợc tổ chức xoay quanh các

loại hình nghệ thuật trên.

Nhƣ vậy, có thể thấy, các không gian không có ý nghĩa tự thân, chính

các hoạt động, các thực hành tạo nghĩa cho không gian. Cà phê Văn hay Giấc

mơ nhỏ tự định nghĩa về mình nhƣ là những KGST trƣớc hết là bởi các không

gian tổ chức nhiều hoạt động liên quan đến văn học nghệ thuật - các loại hình

đƣợc xếp vào lĩnh vực sáng tạo. Sau nữa, bởi sự biến hóa linh hoạt, luôn tự

làm mới mình để phù hợp với công chúng và cập nhật với những thay đổi của

118

xã hội. Các KGST tự kiến tạo nên mình bằng nhiều hoạt động khác nhau, góp

phần làm phong phú đời sống tinh thần cho một bộ phận ngƣời dân đô thị.

Nhƣ vậy nó đƣợc hình dung trong thế “động” chứ không tĩnh, thay đổi chứ

không cố định, đƣợc tạo ra chứ không phải ở đó, sẵn có.

119

CHƢƠNG 4

KHÔNG GIAN SÁNG TẠO: TỰ DO BIỂU ĐẠT VÀ KIẾN TẠO BẢN SẮC

Chƣơng viết trên đã mô tả, phân tích thực hành văn hóa đa dạng trong

KGST, xoay quanh thƣởng thức, sáng tạo nghệ thuật, thảo luận, trao đổi về

nhiều vấn đề trong đời sống. Đó là không gian của nhiều loại hình nghệ thuật,

nơi các nhóm chủ thể tạo ra những sinh hoạt văn hóa, mở rộng hiểu biết về

nghệ thuật cũng nhƣ kiến thức văn hóa xã hội. Cùng với đó, KGST cũng đƣợc

xem nhƣ là diễn đàn mở cho thảo luận, phản biện các vấn đề đang diễn ra

trong đời sống. Vậy tại sao giữa bộn bề đời sống với nhiều lo toan cho cá

nhân, họ vẫn tìm đến những không gian này để gặp gỡ, kết nối, kiên nhẫn

trong nhiều giờ thƣởng thức âm nhạc, dõi theo số phận của nhân vật trong

phim hay thảo luận về nhiều vấn đề của xã hội? Liệu đó có phải đơn thuần

xuất phát từ nhu cầu giải trí, thƣ giãn hay còn nguyên do, mong muốn nào

khác? Đằng sau mỗi thực hành văn hóa đó phản ánh mối bận tâm, sự trăn trở

cũng nhƣ quan niệm, suy nghĩ nào của con ngƣời?

Chƣơng viết này hƣớng đến trả lời câu hỏi KGST có ý nghĩa nhƣ thế

nào trong đời sống văn hóa đô thị từ đó đƣa ra bàn luận về sự thay đổi và mở

rộng ý nghĩa của các KGST trong bối cảnh đô thị Việt Nam. KGST dù là một

khái niệm đƣợc Hội đồng Anh tiên phong giới thiệu tại Việt Nam, nhƣng khi

tồn tại ở Việt Nam, nó nhanh chóng bắt nối với kí ức văn hóa cũng nhƣ những

bề bộn của đời sống hiện tại, tạo ra nhiều lớp ý nghĩa mới, phản ánh sự thay

đổi của xã hội đô thị trong bối cảnh đƣơng đại.

4.1. Không gian sáng tạo: không gian nới rộng biên độ tự do

4.1.1. Không gian mở ngỏ và đa dạng

Một đặc điểm của khu vực công mà Habermas [97] đã chỉ ra là tính

mở, không ai bị loại trừ bất luận họ thuộc về giai cấp, giới tính, địa vị nhƣ thế

nào. Đó là nơi cá nhân bình đẳng với nhau, tự nguyện, tập hợp lại với nhau để

120

dấn thân vào những cuộc thảo luận tự do. Ở các KGST, tính mở này cũng

đƣợc thể hiện khá rõ.

Khởi đầu là ý tƣởng để thỏa nguyện mong ƣớc của các cá nhân (khát

vọng không gian đọc cho riêng mình ở Giấc mơ nhỏ, mong muốn đóng góp

cho Hà Nội của ngƣời sáng lập Cà phê Văn bằng việc tạo dựng nên các không

gian dành cho nghệ thuật) nhƣng các KGST không chỉ là không gian riêng mà

đã trở thành không gian chung, nơi nhiều ngƣời có thể tiếp cận. Đƣợc nói đến,

đƣợc biết đến nhƣ là không gian dành cho giới trẻ nhƣng Giấc mơ nhỏ đón

tiếp nhiều ngƣời ở các độ tuổi khác nhau. Cả KGST Cà phê Văn dù đƣợc xem

nhƣ không gian dành cho văn nghệ sĩ, trí thức nhƣng trong nhiều sự kiện, nơi

đây nhƣ một xã hội thu nhỏ với sự tham gia của nhiều thành phần khác nhau.

Các sự kiện đều đƣợc truyền thông rộng rãi trên facebook hoặc gửi thƣ mời

qua email đối với những ngƣời bạn, những khách quen hoặc những ngƣời đã

để lại địa chỉ email mong muốn nhận thông tin. Việc các sự kiện đƣợc tổ chức

đều miễn phí, ngƣời đến tham dự không phải chi trả phí/vé vào cửa mà chỉ trả

tiền đồ uống nhƣ một hình thức đóng góp, hỗ trợ cho không gian duy trì hoạt

động, cũng là để tạo cơ hội cho công chúng dễ dàng tiếp cận với văn hóa nghệ

thuật kể cả những loại hình nghệ thuật mang tính hàn lâm nhƣ các buổi biểu

diễn nhạc cổ điển, chiếu phim, gặp gỡ với những trí thức, nghệ sĩ nổi tiếng,

những chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực… Nội dung sự kiện do ngƣời

điều hành các KGST xây dựng, nhƣng chính ngƣời tham dự cũng góp phần đề

xuất hay khơi mở vấn đề cho thảo luận tiếp theo. Có thể thấy, từ trong ý thức

của những ngƣời sáng lập, KGST là không gian do cá nhân lập nên dành cho

cộng đồng, hƣớng đến cộng đồng. Trong một chừng mực nào đó có thể nói,

chính những ngƣời tham dự là chủ thể đồng sáng tạo, duy trì và nuôi dƣỡng

các KGST.

Một chiều kích khác của “tính mở” trong các KGST nằm ở sự tự do, nó

đồng thời làm nên tính sáng tạo cho không gian, vì suy đến cùng tự do là gốc

của sáng tạo, có tự do mới có thể sáng tạo đƣợc. Dù nhỏ hẹp về diện tích thực

121

nhƣng nơi đây đã tạo nên không gian rộng mở cho suy nghĩ, trải nghiệm cá

nhân, để các cá nhân đƣợc đi đến cùng với những ý tƣởng, quan điểm. Họ

chia sẻ, thảo luận, không ngừng đặt ra câu hỏi để chất vấn mình và nhiều

ngƣời xung quanh, không ngại và cũng không né tránh ngay cả những chủ đề

đƣợc gọi là nhạy cảm ở Việt Nam. Việc đi đến cùng những chất vấn đó cũng

là một biểu hiện của tự do, tự do về ý thức, tự do viết và nói. Hơn nữa, ngƣời

trẻ đến với Giấc mơ nhỏ dƣờng nhƣ luôn muốn thoát ra khỏi sự mặc định hay

khuôn mẫu đƣợc xem nhƣ là hiển nhiên để thách thức tƣ duy của mình cũng

nhƣ mong muốn đƣợc hiểu, đƣợc truy tìm đến ngọn ngành những tƣ tƣởng

nhân sinh, những thắc mắc, những câu hỏi mang tính triết học nhƣ tôi là ai,

thế giới này là gì, con ngƣời ở đâu trong sự vận hành của thế giới… Ở Cà phê

Văn, mọi ngƣời tự do biểu đạt chính kiến của mình, tham gia phản biện xã

hội, cùng lên tiếng về các bất cập trong xã hội, từ chính sách từ trên xuống

của nhà nƣớc, chính quyền đến việc thực thi của ngƣời dân. Sáng tạo còn

mang hàm ý thay đổi. Những thay đổi về sau, trong chính con ngƣời họ, cũng

rất tự nhiên, là kết quả của quá trình nhận thức chứ không phải là kết quả của

sự định hƣớng, áp đặt. Và vì thế, có thể coi chính các KGST, một cách tự

nhiên, là môi trƣờng dung dƣỡng, tạo điều kiện và khơi dậy trong họ ý thức

rằng mình là một cá thể tự do. Hay nói cách khác chính những sự tự do mà

con ngƣời mang đến đây đã làm cho các KGST này trở thành một không gian

của tự do, cởi mở.

KGST là nơi cho tự do biểu đạt bản thân, tự do học thuật, tự do trao

đổi, chia sẻ bàn bạc. Tinh thần các cuộc thảo luận là không phán xét, không

nhất thiết phải phân định rạch ròi ý kiến này là đúng, ý kiến khác là sai, không

có kết luận cuối cùng, chỉ có những câu hỏi và câu trả lời mới đƣợc xem là

quan trọng. Nhiều buổi trao đổi, thảo luận nhƣng không có “kết luận” hay

“quyết nghị” nhƣ hình thức thƣờng thấy của các cuộc họp mà luôn để ngỏ

những khả năng để mọi ngƣời tiếp tục suy nghĩ. Một phần có lẽ bởi chủ đề đặt

ra thƣờng khá rộng nên ý kiến cá nhân nào thì cũng chỉ từ một góc nhìn và

122

thấy đƣợc một phần nhỏ của vấn đề vốn đa diện. Lắng nghe ngƣời khác cũng

có nghĩa là tiếp tục suy nghĩ ở một chiều cạnh khác, khác với góc nhìn của

mình. Và cũng vì thế thật khó để có một câu trả lời cuối cùng, “chốt lại” cho

một câu hỏi lớn. Các buổi thảo luận giống nhƣ cuộc đối thoại không ngừng,

các câu trả lời luôn bị tra vấn bởi những câu hỏi khác. Vì cũng coi trọng sự

tƣơng tác, kết nối nên đây là nơi không phải để “cãi nhau”, phân biệt rành rẽ

đúng sai bởi nhƣ vậy sẽ làm hỏng không khí sinh hoạt văn hóa mà nơi này

muốn tạo dựng. KGST cũng là nơi chốn khơi dậy tinh thần tranh luận, chia sẻ

thẳng thắn, nơi mọi ngƣời thoát ra khỏi những áp đặt, định kiến, phán xét,

đƣợc tự do là mình, tự do để học cách sống và trƣởng thành. Và chính sự va

chạm sau tranh luận lại mở ra những hƣớng suy nghĩ khác nữa.

Không gian sáng tạo cũng là những thực thể đa dạng khi kết nối nhiều

ngƣời ở nhiều độ tuổi, nghề nghiệp, lĩnh vực khác nhau. Ở Giấc mơ nhỏ có

ngƣời trẻ làm kinh doanh, hoạt động xã hội, nghiên cứu triết học, nghiên cứu

môi trƣờng, học sinh, sinh viên... Ở Cà phê Văn, phần lớn ngƣời tham dự là

trí thức trong nƣớc nhƣng cũng là điểm gặp gỡ và trở về của trí thức nƣớc

ngoài, có trí thức đƣợc đào tạo từ phƣơng Tây nhƣng cũng nhiều trí thức đƣợc

đào tạo tại các nƣớc xã hội chủ nghĩa, có nhiều trí thức lớn tuổi, trung tuổi và

cả trẻ tuổi.

Các KGST cũng là không gian đa dạng khi là nơi thu nhận và tạo cơ

hội cho tất cả mọi ngƣời, kể cả những thành phần đƣợc xem là “bên lề”.

Thành phần bên lề là từ để chỉ những ngƣời bị xem là bất đồng chính kiến với

chính quyền, bị coi là nằm trong dòng chảy ngầm (underground). Có ngƣời

luôn bị các cơ quan an ninh để mắt, bị xếp vào “hiện tƣợng nhạy cảm về

chính trị”. Nhiều ngƣời trong số đó có nhiều đóng góp trong công việc, từng

giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy chính quyền nhà nƣớc, có tên tuổi

nhƣng vì quan điểm khác biệt hay những phản biện thẳng thắn, trực diện mà

bị ngoại biên hóa tại các diễn đàn chính thống do cơ quan nhà nƣớc tổ chức.

Trong khi lĩnh vực công, theo Habermas là nơi mà mọi ngƣời đều có quyền

123

tiếp cận, quyền đƣợc tham gia mà không bị loại trừ thì chính cách gọi “bên

lề” cho thấy phần nào có sự hạn chế trong việc tiếp nhận những luồng ý kiến

khác mang tính phản biện, đối chất hay những quan điểm trái chiều, đi ngƣợc

lại so với các quan điểm chính thống của nhà nƣớc tại các không gian khác.

Một mặt khác sự xuất hiện của thành phần “bên lề” cho thấy sự cởi mở của

các KGST, nơi thâu nhận, tôn trọng những tiếng nói đa dạng, khác biệt.

KGST là những không gian đa dạng không chỉ bởi nhiều thành phần

tham dự mà quan trọng hơn, nơi đây chấp nhận những khác biệt về tƣ tƣởng.

Mọi ý kiến, quan điểm, góc nhìn đều đƣợc khuyến khích, tôn trọng. Trong

những buổi thảo luận về các vấn đề của xã hội nhƣ về giáo dục, các chính

sách phát triển kinh tế, thực tiễn quản lý các lĩnh vực của đời sống… họ đƣợc

tự do trình bày quan điểm cá nhân, thẳng thắn nói cái mình nghĩ, dù có thể nó

khác biệt với cách nghĩ của đại đa số. Nếu ở trong các không gian khác, rất có

thể những tiếng nói này sẽ không đƣợc cất lên do cấm kị hoặc sẽ mang đến

những rắc rối, phiền hà cho chính ngƣời nói. Với nhiều ngƣời, mối bận tâm

lớn của họ là đƣợc tự do bày tỏ, tự do biểu đạt. Có lần khi tôi hỏi một bạn trẻ

đến tham dự sự kiện tại Giấc mơ nhỏ về việc có đi du học nhƣ nhiều ngƣời trẻ

vẫn thƣờng lựa chọn và xem đó nhƣ là một cơ hội để rộng cửa cho tƣơng lai –

thì câu trả lời của em là không nhƣng trừ khi “là ở Việt Nam sự tự do bị ảnh

hưởng, không còn sự tự do cho cá nhân, cho việc viết và nói nữa”.

KGST chính là nơi những ngƣời trí thức cùng nhau nghĩ và hiểu thêm

về nhiều vấn đề đang diễn ra trong đời sống: tình trạng tham nhũng, yếu kém

trong quản lý ở các lĩnh vực, đời sống đề cao vật chất, sự suy giảm của các

giá trị văn hóa… từ đó ý thức về bổn phận của mình trong việc tìm kiếm các

giải pháp cho các vấn đề xã hội. Đó là không gian mà những tiếng nói đa

dạng đƣợc cất giọng, những cá tính khác biệt đƣợc bộc lộ, những bản sắc cá

nhân đƣợc kiến tạo và tái kiến tạo, những vị thế mới đƣợc xác lập, đƣợc thay

đổi và tái xác lập.

124

Habermas (1989) [97] đã coi KGCC nhƣ nhƣ một nền tảng cho một chế

độ dân chủ tiêu biểu và một chính phủ tin cậy và có trách nhiệm. KGST ngày

càng đƣợc mở rộng trong thành phố cũng cho thấy sự cần thiết của các không

gian công cộng trong một xã hội dân chủ ngày càng phát triển. KGST có thể

đƣợc xem nhƣ là những không gian thúc đẩy tự do hóa và dân chủ hóa khi

những ngƣời tham gia tự ý thức có trách nhiệm với những công việc của đất

nƣớc, dần bắt đầu “lo”, “nghĩ” đến vận mệnh đất nƣớc và thấy mình có

quyền, có trách nhiệm đóng góp với nhà nƣớc.

4.1.2. Không gian sáng tạo: những không gian độc lập

Nghiên cứu của Hội đồng Anh [21] chỉ ra rằng hiện nay, phần lớn các

KGST do cá nhân hoặc nhóm cá nhân tự sáng lập, hoạt động độc lập, tự chủ,

không do nhà nƣớc bảo trợ, không nhận kinh phí của nhà nƣớc, không phụ

thuộc vào tổ chức nào. Bản thân các KGST cũng tự giới thiệu về mình là các

KGST độc lập. Sự độc lập này có thể đƣợc cắt nghĩa trên hai phƣơng diện: tự

duy trì về kinh phí để hoạt động và độc lập trong quan điểm để duy trì các

thực hành văn hóa, để không bị hay không chịu sự chi phối tác động từ yếu tố

bên ngoài (trƣờng hợp này là sự chi phối của nhà nƣớc).

Sự độc lập về kinh phí khiến các KGST dù đã linh hoạt, năng động và

đa dạng cách làm nhƣng vẫn khá khó khăn, chật vật xoay xở giữa nguồn thu

và chi phí duy trì không gian. Ở Giấc mơ nhỏ, lúc đầu có sự hỗ trợ phần nào

về tài chính từ bạn bè nhƣng về sau, vì nhiều lý do khác nhau, chỉ còn lại

Minh tự điều hành mọi hoạt động, cả về tài chính. Nhiều mối lo cùng lúc phải

tính toán, nhiều khoản chi phí cùng lúc cần đƣợc thanh toán nhƣ phí thuê mặt

bằng vốn vô cùng đắt đỏ lại không ổn định, trả lƣơng cho nhân viên phục vụ,

chi phí điện nƣớc hàng tháng, chi phí sửa chữa, cải tạo không gian, chi phí

mua dụng cụ pha chế, đồ nội thất... Nhiều tháng quán luôn trong tình trạng lỗ

và phải bù lỗ. Bản thân Minh cũng thƣờng làm thêm những công việc khác

bên ngoài nhƣ dịch thuật, biên tập cho các liên hoan phim nƣớc ngoài tại Việt

Nam…, vừa là để thỏa mãn nhu cầu đọc - xem - viết của cá nhân nhƣng nhiều

125

khi là để có thêm kinh phí trang trải cho các hoạt động của quán. Dù chật vật

để duy trì nhƣng Minh luôn hỗ trợ cho các sự kiện văn hóa vì cộng đồng bằng

việc không thu phí địa điểm. Bán đồ uống và các món ăn nhẹ là nguồn thu

duy nhất từ quán nhƣng ngay cả việc tăng giá đồ uống Minh cũng phải cân

nhắc rất kĩ. Thƣờng thì quán có lƣợng khách đều đều, ổn định nhƣng nhiều

tháng, có những lý do khách quan khiến nguồn thu của quán bị giảm hẳn.

Ngoài chi phí, còn vô vàn những khó khăn mà Minh gặp phải khi điều

hành Giấc mơ nhỏ. Lo lắng lớn nhất là chủ nhà đột ngột cắt hợp đồng thuê,

yêu cầu trả lại mặt bằng. Tình trạng bấp bênh này cũng khiến đối khi việc duy

trì quán trong trạng thái cầm chừng, đến đâu hay đó, khó có những tính toán

dài rộng cho tƣơng lai: “Định hướng của Giấc mơ nhỏ những năm tới, em

chưa biết sẽ thế nào. Giờ vẫn đang bám trụ vì trách nhiệm, vì lí trí, vì không

thể dừng. Một trong những lí do các không gian khác được một số quỹ nước

ngoài tài trợ là do họ có định hướng hoạt động lâu dài. Còn em chưa biết thế

nào. Giờ theo kiểu đến đâu hay đó”. Ngay cả với Cà phê Văn, ban đầu cũng

đƣợc hỗ trợ bởi doanh nghiệp với mong muốn là làm văn hóa nhƣng sau đó

cũng gặp không ít những khó khăn. Cuối năm 2019, KGST này cũng buộc

phải di dời địa điểm từ một chỗ quen thuộc, gắn bó, đi tìm địa điểm mới để

hoạt động nhƣ chia sẻ của một trong những ngƣời sáng lập nên không gian:

“Tháng 10/2019 là hết hợp đồng với chủ nhà, không thể kí tiếp hợp đồng

được vì giá ở đây quá cao. Tôi không kinh doanh để lấy lãi mà chỉ là làm thế

nào để không lỗ” (Ông Phƣơng – thành viên sáng lập Cà phê Văn). Đây

không phải chỉ là vấn đề của 2 KGST này mà còn là tình trạng chung của

nhiều KGST khác trong thành phố nhƣ nghiên cứu của Hội đồng Anh từng

chỉ ra là tính “không bền vững”. Nhiều KGST liên tục xuất hiện nhƣng cùng

lúc đó, nhiều không gian khác buộc phải đóng cửa vì không thể duy trì sự tồn

tại trƣớc rất nhiều thách thức về tài chính.

Tuy nhiên, các KGST thu hút đƣợc nhiều ngƣời đến tham dự một phần

bởi họ duy trì đƣợc tính đa dạng và những nỗ lực trong việc duy trì quan điểm

126

và thế đứng độc lập để duy trì tính tự do, cởi mở và tôn trọng sự khác biệt.

Trong một số sự kiện, việc tham dự của những thành phần “bên lề” luôn bị

theo dõi của cơ quan an ninh. Bản thân tôi trong những ngày đầu đến tham dự

tại Cà phê Văn hay cả ở Giấc mơ nhỏ cũng bắt gặp ánh mắt dè chừng, thái độ

ngờ vực liệu tôi có phải là “ngƣời của bên an ninh”. Ở Giấc mơ nhỏ các hoạt

động có phần “tự do” hơn vì không nhiều sự kiện có sự tham dự của thành

phần “bên lề” nhƣng vẫn bị để ý bởi có liên quan đến ngƣời nƣớc ngoài (một

phần vì Minh thƣờng xuyên tham gia nhiều sự kiện văn hóa của các tổ chức

nƣớc ngoài nên có nhiều bạn đến từ các quốc gia khác nhau). Trong một số sự

kiện tại Giấc mơ nhỏ, khi có sự tham dự của một thành viên “đáng ngờ” nào

đó hoặc sự xuất hiện của những ngƣời đƣợc họ gọi là “an ninh văn hóa” hay

“an ninh ngầm”, thông tin về sự xuất hiện đó thƣờng đƣợc cập nhật khá nhanh

trong các nhóm kín để mọi ngƣời chú ý, phần để dè chừng, phần để cẩn trọng

hơn với những phát ngôn trong sự kiện. Minh nói với tôi là mình có thể biết ai

trong số những ngƣời tham dự là ngƣời của bên an ninh. Họ thƣờng trong vai

ngƣời tham dự, ngồi dƣới quan sát tất cả các hoạt động diễn ra, ghi nhớ, nhận

diện những gƣơng mặt trong tầm theo dõi. Tuy nhiên không phải sự kiện nào

cũng bị giám sát, thƣờng thì chỉ những chủ đề có tính nhạy cảm hay khách

mời là thành phần “bên lề” thì mới bị chú ý.

Ngoài việc có sự tham gia của những thành phần “bên lề”, một số sự

kiện sẽ bị chính quyền “để mắt” đến khi có những yếu tố đƣợc xem là “nhạy

cảm” nhƣ chủ đề chạm đến những vấn đề “nóng” nhƣ tham nhũng, chủ quyền

đất nƣớc, phản biện chính sách… mà ở đó thƣờng xuất hiện những quan điểm

trái chiều, ý kiến phê phán, đôi khi là chỉ trích cách làm, cách quản trị của nhà

nƣớc… Khi thấy ở đó những nguy cơ tổn hại, ảnh hƣởng đến uy tín của chính

quyền, cho thể chế, an ninh quốc gia, từ phía chính quyền, nhà nƣớc cũng có

những động thái để áp chế, trong một số tình huống cụ thể, bằng những chiến

lƣợc cụ thể để ngăn cản. Sự can thiệp có thể dƣới nhiều hình thức, tác động

trực tiếp tới việc các thực hành của các KGST có đƣợc phép diễn ra hay

127

không hay thậm chí KGST đó có đƣợc phép tồn tại hay không. Việc theo dõi,

can thiệp, hạn chế hay cấm các sự kiện mà họ đánh giá là “nhạy cảm” dƣờng

nhƣ là thể hiện thái độ của chính quyền đối với cách nhìn nhận xã hội trực

diện, đa chiều của các nhóm chủ thể tại KGST này.

Vì thế, cũng để đối thoại và thuyết phục đƣợc chính quyền, các KGST

cũng có những “chiến lƣợc” khá cụ thể nhƣ: truyền thông và thuyết phục cho

chính quyền hiểu tất cả những sự kiện đƣợc tổ chức trong không gian của

mình là mở rộng tri thức, tầm hiểu biết, hƣớng tới phát triển cộng đồng, thúc

đẩy sinh hoạt văn hóa trong đô thị, những phản biện đều mang tính xây dựng;

tích cực hiện diện và tham dự trong những chƣơng trình do nhà nƣớc hay Hội

đồng Anh tổ chức về các KGST. Và cũng có khi, kể cả việc luôn bị để mắt

hay kiểm duyệt thì các KGST vẫn xác định là cùng chung sống trên cơ sở tôn

trọng “tôi có việc của tôi, anh có việc của anh (ông Phƣơng), nghĩa là vẫn nỗ

lực duy trì quan điểm và đƣờng hƣớng đã lựa chọn, chấp nhận việc bị theo dõi

nhƣ là một việc bình thƣờng mà các cơ quan công quyền phải làm.

Những phân tích ở trên, dƣới sự dẫn dắt của khái niệm “khu vực công”

đã cho thấy KGST nhƣ là một hình thức của không gian công mà giới trí thức

ở đô thị đã tạo ra, xác lập nên. KGST nhƣ những diễn đàn mở và tự do cho

những quan điểm đa dạng, tôn trọng sự khác biệt. Những câu chuyện, của

khách mời, của ngƣời tham dự lẫn câu chuyện của nhân vật đƣợc nói đến, đều

đƣợc kể bằng trải nghiệm do vậy mang lại nhiều ý nghĩa. Đó là không gian

mà ở đó trí thức đƣợc thể hiện vai trò của mình với xã hội thông qua những

phản biện mạnh mẽ và xác đáng, nơi họ dám nói những điều mình nghĩ và

theo đuổi đến cùng những suy nghĩ đó. Đó cũng là không gian của những

tiếng nói bị ngoại biên hóa, những “hiện diện vắng mặt”, nơi mà từ đó ngƣời

ta có thể nhìn thấy những bề bộn của đô thị, sự đa dạng, phức tạp và sinh

động của xã hội. Và nhƣ vậy, KGST là những không gian tự do, dân chủ,

những không gian nhân văn, cho con ngƣời và vì con ngƣời. Nó khơi dậy tinh

thần tự do khi nhìn nhận vấn đề, nó mở rộng tầm nhìn, sự nhận thức của con

128

ngƣời, giúp con ngƣời cởi mở hơn trong tƣ duy để tiếp nhận sự đa dạng.

KGST dù nhỏ hẹp trên thực tế nhƣng lại bao chứa nhiều khát vọng, nhiều tƣ

tƣởng mới mẻ, lớn lao.

4.1.3. Không gian sáng tạo: những không gian công đặc thù

Khái niệm khu vực công (hay lĩnh vực công) (public sphere) của

Habermas mô tả một không gian ở giữa một bên là các thực hành gắn với lợi

ích cá nhân của cuộc sống hàng ngày và một bên là lĩnh vực của quyền lực

nhà nƣớc. Khu vực công là trung gian giữa gia đình (nơi lợi ích tƣ nhân chiếm

ƣu thế) và nhà nƣớc (nơi thƣờng áp dụng các hình thức quyền lực và sự thống

trị). Khái niệm “khu vực công tƣ sản” (bourgeois public sphere) của

Habermas theo đó bao gồm các không gian xã hội nơi các cá nhân tụ họp để

thảo luận, đối thoại về các công việc chung, nơi phản biện và phản kháng lại

các hình thức quyền lực độc đoán và áp bức. Theo Habermas, lĩnh vực công

“là một địa hạt và là nơi chốn thoải mái để các công dân tranh luận, cân

nhắc thiệt hơn, thống nhất và hành động” [96]. Cũng theo quan niệm của

Habermas, các phƣơng tiện truyền thông đƣợc xem là những diễn đàn, những

địa điểm cho thảo luận.

Khái niệm “khu vực công tƣ sản” đƣợc ra đời trong bối cảnh lịch sử cụ

thể ở châu Âu, nơi có nhiều quốc gia đƣợc coi là có truyền thống và tinh thần

tự do, nơi công dân đƣợc quyền nói về những vấn đề trong xã hội. Trong tác

phẩm này, ông đã theo dõi lịch sử phát triển của lĩnh vực công từ thời Hy Lạp

cổ đại và lập luận rằng chính bối cảnh châu Âu thế kỉ 17 và 18, nhất là sự mở

rộng mô hình chính trị từ Anh (nơi đƣợc xem là có tinh thần tự do nhất) sang

các nƣớc khác, cùng với sự lan rộng của chủ nghĩa tƣ bản đã cho phép sự xuất

hiện của một loại hình khu vực công đặc biệt: khu vực công tƣ sản (bourgeois

public sphere). Sự lớn mạnh của giai cấp tƣ sản lúc bấy giờ làm nảy sinh nhu

cầu cần có đại diện chính trị, tạo sự độc lập với quyền lực của nhà nƣớc và

giáo hội lúc bấy giờ. Ngoài ra một số điều kiện khác cũng tạo điều kiện thuận

lợi cho sự ra đời của “khu vực công tƣ sản” nhƣ sự ra đời của nhiều không

129

gian dành cho thảo luận nhƣ các câu lạc bộ, các quán cà phê… và đặc biệt là

sự lớn mạnh của báo chí. Đặc trƣng nổi trội của khu vực công tƣ sản là tính

chất phê phán, phản biện, đối thoại. Về sau, khu vực công tƣ sản ngày càng

trở thành một bộ phận quan trọng trong đời sống xã hội, nơi của những cá

nhân tụ tập lại ở những nơi công cộng để thảo luận các vấn đề chính yếu, đƣa

ra quan điểm ý kiến về các vấn đề quan trọng đối với lợi ích chung.

Những khái niệm nhƣ “khu vực công”, “không gian công” đều là những

khái niệm khá cơ bản trong xã hội phƣơng Tây, đƣợc sử dụng phổ biến trong

kinh nghiệm và truyền thống của phƣơng Tây [87]. Tuy nhiên khi áp dụng

khái niệm “khu vực công” (public sphere) của Habermas vào bối cảnh Việt

Nam lại có những khác biệt đáng kể. Ở Việt Nam, theo Lisa Drummond [87]

có rất ít bằng chứng về truyền thống của một khu vực công (public sphere)

cũng nhƣ là không gian công cộng (public space) cho dù là ở thời tiền thuộc

địa, thời thuộc địa hay hậu thuộc địa, ít có chỗ cho các cuộc thảo luận hoặc

biểu đạt công khai nhƣ kiểu của phƣơng tây, nơi những không gian chính trị

(potentially politicised spaces) hầu nhƣ không tồn tại. Sandra Kurfürst (2011)

[106] thì cho rằng khái niệm của Habermas về khu vực công rất khó có thể áp

dụng cho bối cảnh Việt Nam nơi mà ba lĩnh vực nhà nƣớc, kinh tế và xã hội

dân sự thƣờng xuyên có sự trùng lặp. Tuy nhiên, đây đó trong một số nghiên

cứu đã bắt đầu chỉ ra rằng có những biểu hiện của sự tồn tại một “lĩnh vực

công” tại Việt Nam. Từ góc nhìn báo chí học, chính trị học và lịch sử, nghiên

cứu của Nguyễn Thị Thúy Hằng – Vũ Thị Minh Thắng đã khẳng định rằng “ở

Việt Nam giai đoạn 1925-1945 đã thực sự có một “không gian công” theo lý

thuyết của Habermas”, đƣợc hình thành ở các đô thị lớn nhƣ Sài Gòn và Hà

Nội nơi có nhiều tiền đề cho sự hình thành, nhất là tập trung các hoạt đông in

ấn. Không gian công theo đó đƣợc hiểu là “khoảng trống ở dưới chính quyền

và ở trên làng xã, trong đó các cá nhân và tập thể cùng tham gia vào các hoạt

động trao đổi và những cuộc đấu tranh mang tính biểu tượng” [18].

130

Tác giả Phan Văn Kiền (2015) [34] trong bài viết Tính đặc thù của

không gian công trên báo điện tử qua một nghiên cứu trƣờng hợp trên báo

điện tử đã nhìn ra một dạng đặc thù khác của không gian công ở báo điện tử,

với rất nhiều nét đặc trƣng phản ánh những đặc trƣng của báo chí. Đây là sự

tiếp nối nghiên cứu The virtual sphere: The internet as a public sphere (Lĩnh

vực ảo: internet nhƣ một không gian công cộng) của Zizi Papacharissi (2002)

[122] coi internet trở thành một lĩnh vực công đặc thù: lĩnh vực ảo (virtual

sphere), ở đó mọi ngƣời tham gia vào thảo luận những vấn đề của xã hội dƣới

sự dẫn dắt của một “thủ lĩnh ý kiến” (leader opinion) từ đó hình thành nên dƣ

luận xã hội. Đối chiếu với các dấu hiệu nhận biết của một không gian công

trong lý thuyết của Habermas (mang tính công cộng, tập trung đông ngƣời với

mối quan hệ đa dạng, chủ đề thảo luận là lĩnh vực công với phạm vi không

giới hạn, mang tính duy lý và phê phán, việc tìm đến không gian công là để

thỏa mãn nhu cầu của mình), Phan Văn Kiền cho rằng báo điện tử chính là

một dạng không gian công. Nét đặc thù mà tác giả chỉ ra bao gồm: không gian

ảo, mỗi ngƣời tham dự ẩn mình trong một nickname, khiến cho việc xác thực

cũng nhƣ tính chịu trách nhiệm cho ý kiến cá nhân là khó đảm bảo; dù thảo

luận về các vấn đề chung nhƣng không gian thảo luận là không gian cá nhân

nên tính xã hội của các cuộc thảo luận giảm xuống so với thảo luận tại các

không gian thực; tính tập trung ý kiến cao hơn các không gian khác do bị giới

hạn bởi chủ đề đề xuất từ ban đầu; và do vậy dẫn tới đặc trƣng thứ 4 đó là

không gian công trên báo điện tử là không gian mở trong định hƣớng bởi luôn

có sự dẫn dắt của “thủ lĩnh ý kiến” (leader opinion).

Nhƣ vậy, một số nghiên cứu trên đây đã lập luận và đƣa ra nhận định

rằng đã có sự tồn tại của “không gian công” trong bối cảnh Việt Nam theo

nhƣ lý thuyết của Habermas. Còn với những thực hành trong các KGST nhƣ

đã phân tích và đề cập đến, có thể chƣa hẳn là đã tồn tại một “khu vực công”

đúng nghĩa nhƣ khái niệm của Habermas nhƣng cũng có thể coi các thực hành

đó nhƣ là nỗ lực nới rộng biên độ của tự do, tạo ra những không gian cho thảo

131

luận, trao đổi, chia sẻ về nhiều vấn đề trong xã hội, cho tự do biểu đạt. Và

trong chừng mực nhất định có thể hiểu đó là một biểu hiện của khu vực công

trong bối cảnh Việt Nam.

Sự áp dụng khái niệm “khu vực công” - một khái niệm đƣợc ra đời

trong bối cảnh các nƣớc phƣơng Tây - trong bối cảnh Việt Nam vì vậy cần

tính đến những điều kiện về văn hóa, kinh tế, chính trị riêng biệt. Khái niệm

“khu vực công” trong xã hội phƣơng Tây nơi mà tất cả mọi ngƣời đƣợc quyền

thảo luận, trao đổi, nói về các chủ đề đa dạng trong đời sống thì ở Việt Nam,

có những chủ đề là “nhạy cảm”, ít đƣợc phổ biến rộng rãi hay đƣợc xếp vào

diện “cấm kị”. Bản thân khái niệm “bên lề” để chỉ những ngƣời có quan điểm

khác, hoặc bất đồng ý kiến với chính quyền cũng đã cho thấy có sự loại trừ, lề

hóa đối với ai đó, với cá nhân nào đó chứ ko phải là không gian “đƣợc thiết

kế, tạo ra, dành cho tất cả mọi ngƣời (điều này khác với quan niệm về khu

vực công của Habermas). Khái niệm “xã hội dân sự” tại Việt Nam vẫn bị coi

là nguy hiểm, ít đƣợc đề cập đến, hay xem là “vùng cấm”, “cấm kị”. Khác với

truyền thống phƣơng Tây, nơi ngƣời dân đƣợc tự tiến hành các hoạt động ở

nơi công cộng để thảo luận bất cứ vấn đề nào, đối thoại với chính quyền về

bất cứ chủ đề nào họ quan tâm thì trong bối cảnh Việt Nam ít có chỗ cho các

cuộc thảo luận hoặc biểu đạt công khai nhƣ ở phƣơng Tây, thêm nữa lại tồn

tại quy định về việc hạn chế tụ tập đông ngƣời nơi công cộng (theo Nghị định

số 38/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 quy định một số biện pháp bảo đảm trật

tự công cộng). Khái niệm “khu vực công” của xã hội phƣơng tây đã ngầm

hiểu có sự tách bạch rạch ròi giữa “công” và “tƣ”, trong khi hai khái niệm này

ở Việt Nam, nhƣ Lisa Drummond đã chỉ ra là không có sự phân biệt một cách

rõ ràng bởi luôn có sự can thiệp của nhà nƣớc. Các thực hành văn hóa trong

các KGST, ngoài mối quan tâm về nghệ thuật thì rõ ràng còn là nơi thể hiện

mong muốn nới rộng những biên độ của tự do, tạo ra những không gian rộng

rãi cho thảo luận, trao đổi, nơi thể hiện quyền tham gia của trí thức đối với

các vấn đề của xã hội, nơi thể hiện những thực hành dân chủ. Và do vậy, có

132

thể coi KGST trong trƣờng hợp này chính là những địa điểm của “khu vực

công”, là những không gian công đặc thù.

4.2. Không gian kiến tạo bản sắc nhóm, bản sắc cá nhân

4.2.1. Không gian sáng tạo kết nối cảm xúc

Không chỉ đơn thuần là đánh dấu sự tồn tại về mặt địa lí, không gian

còn đƣợc tạo dựng nên bởi những thực hành, cảm xúc của chính con ngƣời, là

sự tạo dựng và gán nghĩa của con ngƣời. Đô thị với nhiều không gian rộng rãi

cho các nhóm chủ thể, vậy tại sao họ lại chọn để có mặt một cách thƣờng

xuyên trong các KGST này? Những nỗ lực để tạo dựng nên các KGST cũng

nhƣ sự hiện diện, trải nghiệm trong các KGST này liệu có phải là quá trình

lựa chọn để trở thành, để tạo dựng nét khác biệt và là để kiến tạo bản sắc

nhóm, bản sắc cá nhân?

Ở đây, từ góc nhìn về Giấc mơ nhỏ, KGST nhƣ vẽ nên chân dung cũng

nhƣ thế giới tinh thần của một bộ phận giới trẻ ở Hà Nội với những chuyển

dịch về suy nghĩ, cảm thức, lối sống. Đó là nhóm bạn trẻ đến từ nhiều lĩnh

vực khác nhau nhƣng giống nhau ở điểm đều coi trọng và hƣớng tới những

giá trị tinh thần, luôn chất vấn mình và những ngƣời khác về thế giới và con

ngƣời. Họ quan sát thế giới qua phim ảnh, văn chƣơng, liên tƣởng đến thực

tại, nghiền ngẫm, tự vấn, để nhìn nhận về bản thân mình và tự do cất tiếng nói

thể hiện suy nghĩ, quan điểm. Thế giới mà họ đang hƣớng tới, dự cảm thấy

dẫu còn nhiều hoang mang nhƣng họ vẫn cùng nhau trên hành trình tìm kiếm.

Trong hành trình tìm kiếm đó, họ đã tạo dựng nên những không gian để

kết nối nhau, hình thành nên những nhóm nhỏ, chia sẻ quan điểm, cách nghĩ,

cách cảm của mình về cuộc sống. Họ định danh và gọi là những KGST dành

cho mình. Đó là những nơi chốn mộng mơ, nơi dung dƣỡng những giá trị tinh

thần, nơi định hình cho những giá trị sống mới, nơi trú ẩn, nƣơng náu, bao

dung cho những loay hoay để trƣởng thành. Giấc mơ nhỏ nhƣ một bảo tàng

dành riêng cho sự tồn tại của ngƣời trẻ, những ngƣời thực sự mong cầu tri

thức, mơ mộng và tìm kiếm viễn cảnh đáng có mà có thể nó chƣa nhƣ hay

133

không nhƣ cái thực tại đang diễn ra. Không gian của Giấc mơ nhỏ nhƣ là nơi

cho những tâm hồn đang tìm cách trƣởng thành, nơi cuộc sống chậm lại, nơi

nghệ thuật, văn học, âm nhạc, phim ảnh là thứ kết nối những gì đang hiện

hữu. Tạo dựng không gian, sử dụng không gian để nuôi dƣỡng những giá trị

tinh thần, hƣớng tới những giá trị mới, đây chính là cách mà những ngƣời trẻ

trong Giấc mơ nhỏ tạo ra những không gian cho chính họ trong bối cảnh

chuyển đổi, khi họ đứng giữa những lý tƣởng xã hội cũ và khát vọng mới.

Sự kết nối về cảm xúc giữ vai trò quan trọng trong việc kiến tạo bản sắc

nhóm và nhƣ một phƣơng tiện để kiến tạo bản sắc nhóm (Phạm Quỳnh

Phƣơng, 2017) [52]. Thông qua kiến tạo và trải nghiệm không gian của từng

nhóm chủ thể, KGST trở thành những nơi chốn cụ thể, ghi dấu tình cảm, nơi

con ngƣời có cảm giác mình thuộc về (belong to). Cảm giác thuộc về nhấn

mạnh khía cạnh tình cảm, nó không chỉ là trạng thái “ở đó” mà còn thể hiện

sự mong muốn, khao khát gắn bó. Từ một câu chuyện hay một vấn đề chung,

các cá nhân tham gia trò chuyện, trình bày ý kiến của mình, thảo luận, bàn

bạc với ngƣời khác nhƣ một cách định vị sự tồn tại xã hội của mình và cũng

bằng cách đó, bằng những mối quan hệ trực tiếp tƣơng giao, con ngƣời biết

mình thuộc về một cộng đồng.

KGST Giấc mơ nhỏ trở thành “nhà” của Minh và những bạn trẻ khác,

thành nơi chốn dung dƣỡng và hiện thực hóa những ƣớc mơ, là nơi họ gắn bó

và có cảm giác mình thuộc về. Giấc mơ nhỏ đã là một phần cuộc sống của

Minh, đƣợc làm nên từ những năm tháng tuổi trẻ, cũng là nơi tuổi trẻ của

nhiều cá nhân khác đã trải qua. Đây là nơi Minh đƣợc làm mọi thứ mình

thích: đƣợc tổ chức không gian để trở thành một không gian đọc, đƣợc kết nối

và tạo cơ hội kết nối cho những ngƣời đọc khác, đƣợc thiết kế các sinh hoạt

văn hóa đa dạng khác cho những ngƣời trẻ nhƣ mình, đƣợc tự do theo đuổi

những ý nghĩ mơ mộng… Khi nói về việc lập ra Giấc mơ nhỏ, có lúc Minh đã

nói “đó là sự điên rồ”, “một cuộc rơi”, là kết quả của sự “lãng mạn”, “ngông

cuồng tự do”, hay “vào sinh ra tử” cho một lí tƣởng của thời trẻ mà qua đi

134

ngƣỡng đó, khi đã bắt đầu với những toan tính hàng ngày, sẽ không bao giờ

có đƣợc. Đó là thời thanh xuân đƣợc tự do theo đuổi đam mê. Nhiều ngƣời trẻ

đến đây cũng để lại những cảm nhận của mình về nơi đã chứng kiến tháng

ngày tuổi trẻ của họ, nhƣ: “Đến đây dù mới chỉ một lần hay đã lê la qua ngày

tháng rộng dài, nơi này đã là một phần tuổi trẻ của mình” hay “dù buồn hay

vui, mình luôn tìm tới Giấc mơ nhỏ vì nó cho mình một sự tĩnh lặng và cảm

giác bình yên” hay “Nó gần giống nhƣ là một thành phố thu nhỏ, một xã hội

thu nhỏ, là những niềm vui và kỉ niệm ở đấy”. Ở đây, những cảm xúc, những

bí mật, khao khát, ƣớc mơ… của từng cá nhân đƣợc gắn trong một không

gian cụ thể. KGST Giấc mơ nhỏ chứng kiến những băn khoăn về đời sống, về

con ngƣời, nơi của mộng mơ, hy vọng, nơi xây nên những viễn tƣởng về đời

sống và cũng là nơi chứng kiến những hoang mang, đổ vỡ, tuyệt vọng của

ngƣời trẻ đang tìm cách trƣởng thành và định vị mình trong xã hội. Trong

trƣờng hợp này, tại KGST Giấc mơ nhỏ, nghệ thuật (cụ thể ở đây là văn

chƣơng, phim ảnh), các hoạt động phát triển cộng đồng, nâng cao tri thức cho

cộng đồng chính là thứ đƣợc chia sẻ và lƣu hành nhƣ một ngôn ngữ chung, là

phƣơng tiện để kết nối, hình thành nên các nhóm. Nhƣ vậy quá trình kiến tạo

bản sắc gắn liền với một địa điểm mà con ngƣời cảm thấy mình đƣợc thuộc về

nơi đó (belonging).

4.2.2. Không gian sáng tạo và nhu cầu định vị cá nhân

Cũng nhƣ Minh, nhiều ngƣời trẻ khi đến Giấc mơ nhỏ đã cùng nhau

chia sẻ về những loay hoay xác định hƣớng đi cho bản thân, trả lời câu hỏi

mình là ai, mình muốn gì, giá trị mình muốn theo đuổi là gì. Quan niệm về

nghề nghiệp hay lí tƣởng công việc của họ có phần khác biệt với đại đa số

những lựa chọn của ngƣời trẻ khác sau khi tốt nghiệp: tìm công việc ổn định,

lƣơng cao, quan tâm đến cơ hội thăng tiến và sau đó là lập gia đình. Câu hỏi

từ bên trong, tự mình đặt ra để căn vặn và thôi thúc khiến lời hứa hẹn cho một

tƣơng lai ổn định hay kế hoạch cuộc đời đƣợc lập trình sẵn với sự đảm bảo

chắc chắn của cha mẹ dƣờng nhƣ không thuyết phục đƣợc họ.

135

Từ những câu hỏi cá nhân trong hành trình trở thành ai, nhƣ thế nào đã

gắn kết những cá nhân vốn xa lạ trong một không gian chung, nơi họ chia sẻ

đƣợc với nhau những câu chuyện của riêng mình, hình dung về cách tổ chức

đời sống hay những viễn kiến về tƣơng lai. Trong những xoay xở để định vị

lại mong muốn cũng nhƣ giá trị mình theo đuổi, Minh đã thử và tìm ra câu trả

lời cho riêng mình, đó là tạo ra những không gian đọc cho mình và cho cộng

đồng, thúc đẩy văn hóa đọc, hỗ trợ những ngƣời trẻ nhƣ mình, đề cao những

giá trị tinh thần và đƣa nó về đúng với vị trí cần có trong cuộc sống. Công

việc của Minh sau đó đƣợc chia sẻ và biết đến, nhiều ngƣời trẻ khác cũng đã

tìm đến khi họ cũng trong hành trình tìm những lối đi cho riêng mình.

Với những ngƣời trẻ đến đây, có nhiều lý do khiến họ đến với việc đọc,

coi đọc là một công việc nghiêm cẩn và nhiều ý nghĩa. Việc đọc không phải

do bị câu thúc bởi yêu cầu đọc để viết trả bài, không vì “chạy deadline”, áp

lực hoàn thành dự án này, công việc kia. Minh xem việc đọc giống nhƣ một

phƣơng thức tu tập, tự rèn giũa mình mà thông qua đó để mở rộng tầm nhìn ra

thế giới, để hiểu về ngƣời khác và hiểu chính bản thân mình. Minh và nhiều

bạn trẻ khác đến đây đều tự nhận mình là ngƣời đọc độc lập. Chữ “độc lập”

hàm chứa ý nghĩa đọc nhƣ một hành trình mà chính bản thân cá nhân phải trải

qua, kiểm nghiệm, để tự mình hiểu và trƣởng thành. Phạm vi đọc, vì vậy,

ngoài mạch quan tâm theo chiều sâu, thì còn hƣớng đến đọc rộng, tìm kiếm

sách vở thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, để mở rộng nhận thức về đời sống.

Mối quan tâm của nhóm bạn trẻ này dƣờng nhƣ không phải là mối quan

tâm của đại đa số những ngƣời tầm tuổi họ. Trong những câu chuyện cùng

nhau tại Giấc mơ nhỏ, họ vẫn nói về âm nhạc Kpop, về những hiện tƣợng giải

trí đại chúng trong nƣớc và thế giới, những MV ca nhạc này hay bộ phim kia

đang là thời thƣợng, những xu hƣớng thời trang đang chi phối và khuynh đảo

giới trẻ, trở thành “hot trend” … Nhƣng đó không phải là thứ quán xuyến tâm

trí, tiêu tốn nhiều thời gian của họ. Mối bận tâm của họ không dành cho

những hiện tƣợng nổi lên đình đám nhƣ vậy mà là những thứ ít ồn ào, có phần

136

lặng lẽ và thậm chí có khi còn bị bỏ quên. Giữa lúc đa phần ngƣời trẻ không

thể thoát ra đƣợc dòng chảy tin tức mạng xô bồ, tới tấp cùng lúc với những

thủ pháp “giật tít”, “câu view, câu like” nhằm hấp dẫn, lôi cuốn ngƣời đọc thì

đang có nhiều nhóm ngƣời trẻ nhƣ nhóm của Minh, Linh, Dung… vẫn lặng

lẽ, kiên trì, bền bỉ theo đuổi những tác phẩm kinh điển, những cuốn sách khai

minh, tri thức tinh hoa. Linh đã tạo ra một tủ sách tri thức nhỏ tại Giấc mơ

nhỏ bổ sung thêm nhiều sách triết học với mong muốn có thêm những trang

sách khoa học, sách triết học đƣợc mở ra để ngƣời trẻ đến gần hơn với kho

báu tri thức của nhân loại. Linh cũng thƣờng xuyên kêu gọi bạn bè trong cùng

nhóm tổ chức các buổi nói chuyện, thảo luận, chia sẻ liên quan đến triết học

tại chính không gian của Giấc mơ nhỏ hay ở những không gian khác. Bằng

những buổi talk về sách hay với ngƣời làm sách, trao đổi sách, lập ra tủ sách,

từ sách đến màn ảnh, xây dựng các nhóm đọc sách kết nối với nhau bằng

phƣơng thức trực tiếp (offline) và cả gián tiếp (online), lập nhóm, mở những

trang web cho việc giới thiệu, bình điểm, dịch thuật, sáng tác… Minh và các

bạn trẻ ở đây mong muốn xây dựng văn hóa đọc cho cộng đồng. Tất cả những

việc đó đƣợc làm một cách tự nguyện, hầu nhƣ không có sự tài trợ từ bất kì tổ

chức nào. Đó cũng không phải là công việc họ theo đuổi vì mục đích kiếm

sống, thậm chí để duy trì sở thích và đam mê này mà họ phải làm nhiều việc

khác để có thêm thu nhập và có thể chi trả cho sở thích của mình. Minh vẫn

nhận thêm những dự án dịch phim, viết các chủ đề khác nhau… Còn Linh,

cũng đã có những quãng thời gian đấu tranh giữa những lựa chọn: sự sắp đặt

chắc chắn, đảm bảo của bố mẹ với một công việc yên ổn hay thực hiện những

mong muốn của cá nhân. Và vì những lý do khác nhau, Linh nói hiện vẫn

đang di chuyển giữa hai thế giới: công việc văn phòng của một nhân viên kinh

doanh với mức lƣơng dao động từ 12 -15 triệu mỗi tháng để đảm bảo đời sống

và những đam mê với văn hóa đọc nói chung, triết học nói riêng, mong muốn

khơi dậy tinh thần tự do thảo luận, tranh biện.

137

Còn với Minh, nhen lên giấc mơ về không gian của tri thức, văn

chƣơng, phim ảnh chính là từ kí ức đã đƣợc ghim lại trong đầu về những cuốn

sách Minh đã đọc thuở bé. Đó là câu chuyện về ngôi trƣờng trong Totto chan bên cửa sổ25 với lớp học làm bằng những toa tàu cũ vẻn vẹn gần 50 học sinh.

Ở đó mỗi đứa trẻ là một cá thể đặc biệt và ông thầy hiệu trƣởng luôn tôn trọng

chúng, để chúng đƣợc tự do phát huy cá tính, khả năng thiên bẩm của mình.

Ngôi trƣờng tuyệt diệu đã neo lại trong tâm trí Minh, khơi gợi nên giấc mơ về

một toa tàu, một không gian của riêng mình để đƣợc tự do trong thế giới đó cùng với những ngƣời chung sở thích. Trong Xứ con người26 - tác phẩm thôi

thúc Minh thực hiện mong muốn của mình - tác giả Antoine de Saint -

Exupéry khi nhìn khuôn mặt một đứa trẻ đã nghĩ “đấy là một khuôn mặt nhạc

sĩ, đây là Mozart khi còn là trẻ con, đây là một lời hứa hẹn tốt đẹp của cuộc

đời” và lo lắng, giày vò khi những bon chen vất vả của đời sống sẽ khiến

“Mozart trẻ thơ này cũng sẽ bị cái máy rập đánh dấu như mọi người khác”.

Nỗi giày vò và lo sợ “Ấy là trong mỗi con người đó, có một phần Mozart bị

ám hại” đã dẫn Minh đến quyết định phải làm gì đó để che chở, vun xới

những mầm sáng tạo tốt đẹp, những thiên bẩm, những “phần Mozart” trong

mỗi con ngƣời.

Đặt trong xu thế chung, nhóm bạn trẻ này ở KGST Giấc mơ nhỏ tự

thấy mình có phần lạc lõng với đám đông. Có những lúc chán nản Minh đã

từng nghĩ rằng “văn chƣơng, nghệ thuật, từ lâu dƣờng nhƣ đã không còn là

mối quan tâm của nhiều ngƣời”. Khi cùng nhau ngồi nghĩ lại công việc mình

đang theo đuổi, Minh xem đó nhƣ là sự “dấn thân trên con đƣờng mạo hiểm

thực hiện ƣớc mơ và lí tƣởng”, “hành trình dài dằng dặc và cô đơn”, “con

đƣờng dài”. Dù tự nhận mình không đủ lòng yêu thƣơng con ngƣời đến vậy,

không có “khát vọng cứu thế giới” nhƣng vẫn luôn nỗ lực. Có những lúc

Minh tự gọi đó là những nỗ lực tuyệt vọng hay thay đổi một thứ không thể

25 Tetsuko Kuroyanagi, Totto chan: cô bé bên cửa sổ, 26 Antoine de Saint – Exupéry, Xứ con người

138

thay đổi khi nhận ra cố gắng của mình chỉ nhƣ một chút xao động nhỏ trên bề

mặt, rồi nhanh chóng tan biến. Cảm giác cô đơn, mệt mỏi, bất lực khi phải đối

diện với những khó khăn trong việc duy trì ƣớc mơ, nuôi dƣỡng cộng đồng

nhỏ say mê với sách vở, văn chƣơng, khiến đôi khi thế giới bị chia tách trong

cái nhìn nhị phân. Ngoài kia là “thế giới vật chất lạnh lùng ích kỉ”, trong này

“ngọn lửa ƣớc mơ và niềm tin vào những điều tốt đẹp”, là “ngôi nhà chung

cho những kẻ yêu tri thức”. Minh tự nói về mình là những kẻ “mơ mộng”

nhƣng lại thấy “ở nơi tôi sinh ra và lớn lên, mơ mộng bị coi là một đặc tính

yếu đuối, thiếu thực tế”, thấy mình đang đi trên con đƣờng đầy bấp bênh

trong khi đa phần chỉ cần ngoan ngoãn theo những chỉ dẫn của ngƣời khác là

có đƣợc cuộc sống yên bình. Văn học nghệ thuật là một phần không thể thiếu

làm nên họ thì dƣờng nhƣ ngoài kia nó chỉ đƣợc xem là một thứ phù du và

nằm ngoài tiêu chí đánh giá về sự thành công của mỗi ngƣời.

Ngƣời trẻ đƣợc biết đến nhƣ một nhóm xã hội đa dạng với nhiều mối

quan tâm, sở thích, cá tính và lối sống khác nhau. Ở đây, KGST Giấc mơ nhỏ

đã kết nối những ngƣời trẻ có niềm say mê với việc đọc và viết, mong muốn

mở rộng vốn hiểu biết, để hiểu về thế giới, về xã hội, về con ngƣời và để hiểu

chính mình. Giữa lúc những ngƣời trẻ bị thu hút bởi nhiều trào lƣu văn hóa

thịnh hành khác nhau, thì những ngƣời trẻ đến đây có phần thầm lặng nhƣng

bền bỉ với những câu chuyện trong sách vở, với những liên tƣởng, đối chiếu

và đặt ra những câu hỏi để chất vấn những ngƣời khác và tự chất vấn mình.

Những tƣơng tác mặt đối mặt trong các buổi thảo luận cũng khiến các ý nghĩ,

quan niệm, các cách hiểu có dịp đƣợc gặp gỡ, cọ xát, va đập, giúp họ nhận ra

và nhìn rõ cách nghĩ, quan điểm của mình trong thế đối sánh, liên hệ với

những cách nghĩ khác. Nhờ đó mà vốn kiến thức cũng đƣợc mở rộng và hơn

hết là nhìn thấy và hiểu hơn về ngƣời khác, về chính mình, về những khác

biệt giữa mình với ngƣời khác, chấp nhận và tôn trọng những khác biệt đó. Từ

những cuộc gặp này mà cộng đồng nhóm càng đƣợc mở rộng không chỉ về số

139

lƣợng thành viên trong vòng tròn kết nối đó mà còn là nới rộng biên giới nhận

thức, mở rộng lòng để khoan dung với những khác biệt, tôn trọng sự đa dạng.

Ở Cà phê Văn, khi tạo dựng không gian này, chủ của không gian đã rất

ý thức về vị thế, hƣớng đến tầng lớp tinh hoa trong xã hội. Điều này thể hiện

ngay trong cách bài trí không gian, cách lựa chọn bàn ghế, các bức tranh đƣợc

treo trên tƣờng để trang trí. Giá báo cũng chỉ lƣu trữ những tạp chí nhƣ Người

đô thị hay Tia sáng, vốn đƣợc biết đến nhƣ những trang báo “kén độc giả” với

những phân tích đa chiều về nhiều vấn đề trong xã hội nhƣ văn hóa, giáo dục,

thƣờng dành cho giới trí thức. Những sự kiện âm nhạc tại không gian này

thƣờng là nhạc thính phòng, nhạc cổ điển, nhất quán theo “gu” đã chọn ngay

từ ban đầu chứ không chọn những ca khúc thị trƣờng, chạy theo thị hiếu số

đông khán giả nhằm mục đích thƣơng mại. Ngay cả những bộ phim đƣợc

chọn để chiếu trong góc điện ảnh mỗi tối chủ nhật cũng hoàn toàn không phải

dòng phim ăn khách, phim bom tấn gây tiếng vang trên thị trƣờng mà thƣờng

có những chủ đề riêng, hƣớng tới giá trị riêng nhƣ chuỗi phim về danh nhân,

phim tình yêu, phim khơi gợi những khát vọng lớn, giấc mơ lớn và công việc

lớn.

Với KGST Café Văn, bản sắc nhóm lại đƣợc kiến tạo theo một cách

khác. Bằng việc kiến tạo, tham dự các hoạt động trong không gian này, họ đã

tự định vị mình thuộc về một nhóm trí thức trong xã hội với những mối quan

tâm riêng. Nhiều ngƣời coi đây là một không gian học thuật, ngƣời tham dự

đều có nền tảng văn hóa nhất định, có trình độ học vấn, có hiểu biết sâu rộng.

Trong những liên tƣởng, đối sánh với thế giới, nhiều ngƣời đã ý thức về vị thế

của không gian này, xem nó giống nhƣ những “agora” của phƣơng tây, gọi nó

là “chiêu anh các” của Việt Nam. Những liên tƣởng trong buổi nói chuyện,

nhiều lần diễn giả nhắc đến những từ ngữ nhƣ tinh hoa, tài tử, tinh thần quý

tộc, tầng lớp “elite”… Ngay cả các câu chuyện bên lề diễn ra trƣớc hay sau sự

kiện cũng thƣờng xoay quanh một cuốn sách mới xuất bản, câu chuyện giáo

dục tại một quốc gia trên thế giới trong mối liên hệ, đối sánh với Việt Nam,

140

việc đánh thuế tài sản, câu hỏi có hay không cái gọi là cách mạng 4.0 ở Việt

Nam, con của ai đó đã học chơi piano thế nào hay phong tục, tập quán của

một quốc gia nào đó mà họ từng đặt chân tới…

Trí thức hay những ngƣời thuộc về tầng lớp tinh hoa, tầng lớp “elite”

đƣợc những ngƣời tham dự tự nói về mình không có nghĩa là những ngƣời

cầm quyền, có chức vụ trong xã hội, có nhiều tiền mà là những ngƣời có trình

độ tri thức, những ngƣời hiểu biết, cam kết và sống theo những giá trị của

tầng lớp ƣu tú. Trong quan niệm của những ngƣời kiến tạo KGST, trí thức

không chỉ là những ngƣời giỏi chuyên môn mà còn là những ngƣời có nền

tảng văn hóa sâu rộng, có hiểu biết về nhiều lĩnh vực khác nhau. Và để tạo

dựng và bồi đắp đƣợc “cái nền”, “cái phông” văn hóa đó, để trí thức có bầu

không khí, có môi trƣờng văn hóa nên các KGST đã luôn đa dạng hóa các

lĩnh vực, chủ đề sinh hoạt. Từ âm nhạc, điện ảnh, văn học còn mở rộng ra các

loại hình nghệ thuật khác nhƣ hội họa, sân khấu, kiến trúc… Các buổi trò

chuyện, thảo luận về một chủ đề cụ thể của một loại hình nghệ thuật cụ thể,

thông thƣờng sẽ thu hút cộng đồng những ngƣời có chuyên môn liên quan

nhiều hơn, nhƣng mặt khác vẫn có đông ngƣời tham dự đến từ những lĩnh vực

khác, với mong muốn đƣợc tìm hiểu và mở rộng thêm vốn kiến thức. Tất

nhiên, ngay trong suy nghĩ, những ngƣời sáng lập và xây dựng nội dung sự

kiện cũng ý thức sâu sắc giữa mong muốn đó với sự hạn chế về nguồn lực, về

thời gian, không gian, và liệu những chƣơng trình nhƣ vậy, kéo dài đôi ba

tiếng, trong những không gian nhỏ hẹp, cho phạm vi đôi ba chục ngƣời liệu

có là “muối bỏ biển”. Nhƣng họ cũng xem những sinh hoạt văn hóa nhƣ vậy

sẽ khơi gợi, mở đƣờng cho những sự tự tìm biết về sau của mỗi ngƣời.

Hình ảnh ngƣời trí thức đƣợc hình dung lên từ đây dƣờng nhƣ luôn gắn

với những khát vọng, hoài bão, về một sự nghiệp hay sự đóng góp cụ thể nào

đó cho xã hội. Nhiều sự kiện đề cập đến những chữ nhƣ “giấc mơ”, “khát

vọng”, “cống hiến” nhƣ là một trong những bổn phận, trách nhiệm của ngƣời

trí thức. Phim đƣợc chọn chiếu trong các sự kiện chiếu phim và thảo luận

141

cũng từng là những bộ phim về các nhân vật truyền cảm hứng, những ngƣời

có cống hiến lớn, làm thay đổi xã hội và lịch sử.

Dù thể hiện rõ ràng hay ngầm ẩn ý, dù nói ra bằng lời hay biểu hiện qua

hành động, các cá nhân, các nhóm kiến tạo những KGST này đều ý thức và

định vị mình khá rõ ràng trong tƣơng quan so sánh với ngƣời khác, nhóm

khác. Với ông Phƣơng, một thành viên sáng lập ra Cà phê Văn, vốn là ngƣời

làm nghệ thuật nên ý thức về cái tôi, về nét riêng biệt, độc đáo của con ngƣời

càng mạnh mẽ. Ông nhiều lần nói về tƣ duy “noi gƣơng”, tƣ duy “đồng phục”

hay “trở thành đám đông” sẽ khiến ngƣời ta mất đi con ngƣời cá nhân, mất đi

sự khác biệt.

4.3. Không gian sáng tạo và những tác động trong đời sống văn hóa đô

thị

Những nghiên cứu về KGST ban đầu đã chỉ ra những đặc trƣng của

KGST nhƣ tính kết nối, sự sáng tạo, tính phá cách cũng nhƣ tác động của

KGST chủ yếu trên phƣơng diện hỗ trợ cho công nghiệp sáng tạo Việt Nam.

Tuy nhiên cách quan niệm trên thế giới về KGST nhƣ một mô hình kinh

doanh với mục tiêu chính là tạo ra lợi nhuận chỉ phản ánh một trong những

mối quan tâm của các KGST trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam hiện nay.

KGST còn có vai trò khác, dƣờng nhƣ quan trọng hơn, đó là việc tạo nên

những không gian có ý nghĩa, trở thành những diễn đàn, những nơi chốn dành

cho thảo luận, không gian cho sự tham gia, thay đổi và kiến tạo xã hội. KGST

còn là những không gian độc lập, tự do, không gian của dân chủ, gợi mở cho

những giá trị mới, mở ra những suy nghĩ mới, hƣớng tới sự đổi mới, làm cho

xã hội thay đổi, không gian cho những khả thể mới. Chính ý nghĩa của các

không gian đối với các nhóm chủ thể khác nhau là lý do quan trọng giải thích

cho sự xuất hiện ngày càng nhiều các KGST trong đô thị. Hơn nữa, mặc dù

thuật ngữ KGST mới chỉ đƣợc nói đến nhiều trong những năm gần đây, và là

một thuật ngữ đƣợc “du nhập” từ nƣớc ngoài nhƣng nó lại đã đƣợc định hình,

bắt rễ từ trong truyền thống văn hóa của ngƣời dân đô thị, là những không

142

gian văn hóa, không gian xã hội – một phần quan trọng trong đời sống văn

hóa đô thị.

Cũng cần phải nói thêm về vai trò của đô thị với sự tồn tại của các

KGST. Các KGST xuất hiện nhiều tại Hà Nội, nơi có không khí sinh hoạt văn

hóa, đậm đặc tinh thần tri thức. Trần Mai Ƣớc (2010) khi coi “văn hóa đô thị

là một thực thể phức hợp có tính biến đổi cao” đã nhìn thấy ở Hà Nội, một đô

thị lớn, có lịch sử lâu đời là nơi tụ hội của ngƣời dân ở nhiều vùng miền khác

nhau, “họ sống và hoạt động trong môi trường đô thị với những đặc trưng

văn hóa đa quan hệ, đa phương tri thức, đa ngành nghề, đa phong cách văn

hóa địa phương và chịu sự ảnh hưởng của nhiều dòng văn hóa khác nhau”

[76]. Hà Nội khác biệt với những đô thị khác không phải bởi Hà Nội những

biểu tƣợng văn hóa lâu đời mà còn có những cung đƣờng nghệ thuật dày đặc

sự hiện diện của các công trình văn hóa, có không khí nghệ thuật, tinh thần tri

thức mà ở các nơi khác chƣa có đƣợc. Hà Nội có hệ thống các thƣ viện lớn

nhỏ tập trung trong thành phố, các thƣ viện công, thƣ viện của các trƣờng đại

học với những kho sách chuyên môn sâu, và nhiều thƣ viện tƣ nhân dƣới các

hình thức nhƣ tủ sách gia đình, quán cà phê sách, cà phê thƣ viện… Chính

nguồn tƣ liệu từ sách báo phong phú này tạo cơ hội rộng rãi cho ngƣời dân đô

thị đƣợc tiếp cận với tri thức. Đô thị chính vì vậy cũng trở thành điểm đến cho

trí thức, nơi tập trung những ngƣời say mê tri thức, cùng làm việc, duy trì,

truyền bá và kiến tạo tinh thần tri thức. Khi sống trong những không gian

nghệ thuật, không gian văn hóa này, ngƣời ta có thể tạm quên đi những toan

tính đời thƣờng, gác lại những nỗi lo vụn vặt của đời sống. Không gian đô thị

rộng mở, hấp dẫn và thu hút hơn so với không gian ở nhiều tỉnh thành khác

nhƣ Mai từng nói: “Hà Nội có môi trường thảo luận mạnh, điều mà nhiều

tỉnh thành khác, hay chính quê của em không có được. Quê em buồn lắm,

chẳng có gì hay hết, không có hoạt động văn hóa tri thức, không có ai nói

chuyện - (không có các buổi thảo luận, buổi talk), không có không gian sinh

hoạt văn hóa cho cộng đồng”. Mai từng nói về những “cung đƣờng nghệ

143

thuật”, những “phố nghệ thuật” mà khi “sa” vào cái không gian ấy đều có cảm

giác nhƣ khoác lên mình một điều gì đó mới mẻ, mang đến cho mình một

diện mạo mới. Các thành phố lớn nhƣ Hà Nội không chỉ là nơi đem đến nhiều

cơ hội kiếm sống, nơi tạo ra nhiều cơ hội sinh kế cho các nhóm ngƣời khác

nhau, nơi tập trung dân số với mật độ cao khiến các nhà quản lý và quy hoạch

không gian phải tính toán khi đô thị đứng trƣớc tình trạng quá tải, chật chội,

đông đúc, nơi có nhiều cơ hội học tập, vui chơi, giải trí mà đô thị còn là nơi

nhiều ngƣời tìm đến để tìm kiếm tri thức, nơi có nhiều cơ hội để tiếp cận với

những tƣ tƣởng mới, định hình các trào lƣu, khuynh hƣớng. Đô thị đáp ứng

đƣợc khao khát thông tin, mong muốn đƣợc tham gia, hòa vào không khí sinh

hoạt văn hóa. Đô thị cũng rộng mở cho những thảo luận đa chiều, cho những

tiếng nói bên lề, ngoại biên.

Hoạt động của các KGST dù gặp nhiều khó khăn nhƣng rõ ràng các

KGST có nhiều lý do để tồn tại. Với nhiều ngƣời dân trong đô thị, đặc biệt là

với trí thức, KGST là nơi mang tới nguồn thông tin dồi dào, đa chiều. Từng

có lần Minh đã tự thấy “mô hình KGST kiểu này thực sự phát triển trong

những năm qua, khi ngƣời ta còn “khát” thông tin và sự hiểu biết”. Đây cũng

là không gian nuôi dƣỡng năng lực tham gia, năng lực phản biện, nuôi dƣỡng

những giá trị nhƣ dân chủ, công bằng, tự do. Sự tham gia ở đây có thể đƣợc

hiểu đó là đƣợc can dự vào những vấn đề quan trọng của đời sống, quyền

đƣợc biết, đƣợc thảo luận, đƣợc chia sẻ quyền ra quyết định. Mặc dù tinh thần

dân chủ ở Việt Nam đƣợc thể hiện khá rõ ràng: “dân biết, dân bàn, dân làm,

dân kiểm tra”, tuy nhiên hệ thống pháp lý hiện hành dƣờng nhƣ chƣa tạo ra

đƣợc một “hành lang rộng” cho sự tham gia một cách thực chất và hiệu quả

giữa các bên, chƣa có nhiều diễn đàn để ngƣời dân đƣợc bộc lộ quan điểm

một cách tự do, thẳng thắn, những phản biện thƣờng dễ bị quy chụp. Do vậy,

việc các nhóm chủ thể tự kiến tạo nên các không gian riêng cho mình, dƣờng

nhƣ là để bù đắp những hạn chế và thiếu hụt đó, để họ có cơ hội đƣợc đóng

góp tiếng nói của cá nhân cho việc xây dựng đất nƣớc. Điều này cũng cho

144

thấy việc định hình cảnh quan trong thành phố là những ví dụ phản ánh mối

quan hệ quyền lực (LiLy Kong và Lisa, 2002) [104], nói cách khác thành phố

đƣợc xây dựng dƣới những tác động của kinh tế, các nhân tố xã hội và văn

hóa, do đó cũng hàm chứa các mối quan hệ chính trị.

Không gian không đơn thuần là nơi con ngƣời sinh sống, ngƣợc lại nó

sống trong mỗi ngƣời, định hình nên mỗi ngƣời. Nó đại diện cho cả hiện thực

và khả năng thay đổi xã hội. Dành nhiều thời gian tại các KGST nhƣ vậy, các

nhóm chủ thể dƣờng nhƣ đang đi tìm những lí tƣởng mới, hình dung nên một

tƣơng lai với nhiều ý nghĩa nhân bản, nhân văn, hƣớng tới những giá trị dân

chủ, bình đẳng, tự do, khuyến khích sự đa dạng, tôn trọng những tiếng nói đa

chiều về đời sống.

Tiểu kết chƣơng 4

Từ những phân tích về sự kiến tạo bản sắc trong các KGST cũng nhƣ

những nỗ lực mở rộng biên độ tự do, tạo không gian cho các thực hành dân

chủ, ý nghĩa của KGST rõ ràng đã đƣợc mở rộng, đi xa hơn so với nội hàm

ban đầu khi đƣợc Hội đồng Anh giới thiệu và nói đến ở Việt Nam. Đó không

chỉ là một mô hình kinh doanh lấy lợi nhuận làm mục tiêu cốt lõi hay không

gian hỗ trợ, kết nối cho những ngƣời làm sáng tạo để phát triển công nghiệp

văn hóa, công nghiệp sáng tạo mà còn là nơi sinh hoạt văn hóa của các nhóm

trí thức, nơi tạo lập các diễn đàn để thông tin, chia sẻ, phản biện về nhiều vấn

đề trong đời sống, nơi của những ý kiến đa dạng, dù đồng thuận hay phản bác

cũng đều đƣợc chấp nhận, tạo ra không khí cởi mở, tự do, tôn trọng tri thức và

sự khác biệt. Thực hành văn hóa trong các KGST này là sự tiếp nối truyền

thống sinh hoạt văn hóa đã tồn tại trong đô thị nhiều năm về trƣớc với những

hội quán, những salon văn hóa, những quán cà phê nghệ sĩ… Thực hành văn

hóa trong các KGST, những chủ đề các nhóm chủ thể đang nói đến, đề cập

tới, những bộ phim họ đang xem, những câu chuyện họ đang tranh cãi… đều

phản ánh hiện thực đƣơng đại của đời sống đô thị: sự chuyển mình của đô thị

dƣới tác động của các chính sách về kinh tế, chính trị, bối cảnh đô thị hóa;

145

quá trình toàn cầu hóa khiến đô thị nói riêng và xã hội nói chung đối diện với

nhiều vấn đề về phát triển: môi trƣờng ô nhiễm, giáo dục bất cập, hiện tƣợng

tham nhũng, những lỗi thời và chậm trễ của chính sách… Một số những trí

thức và những ngƣời có mối quan tâm đến các vấn đề chung của đất nƣớc đã

cùng nhau tạo dựng nên những không gian để thể hiện quyền đƣợc tham gia,

đƣợc cất tiếng nói đóng góp cho những vấn đề chung đó. Để duy trì đƣợc

không gian sinh hoạt văn hóa cũng nhƣ giữ đƣợc tinh thần tự do, độc lập, các

KGST cũng đã có những động thái để linh hoạt, thích ứng.

Ở một phƣơng diện khác, các thực hành văn hóa trong các KGST cũng

đang góp phần tạo dựng nên bản sắc nhóm, bản sắc cá nhân của các nhóm chủ

thể. Ở Cà phê Văn, đó là những trí thức lớn tuổi có vốn hiểu biết sâu rộng, thể

hiện sự độc lập, có ý thức trách nhiệm và mong muốn đóng góp cho các công

việc chung của xã hội. Ở Giấc mơ nhỏ, đó là những ngƣời trẻ yêu thích tri

thức, luôn chất vấn về nhiều vấn đề của xã hội. Những mối quan tâm của họ

có thể không phải là mối bận tâm của đại đa số, khác biệt với đại đa số, nhƣng

đó là cách họ lựa chọn để trở thành mình, định vị mình.

Nhƣ vậy, có thể thấy các thực hành văn hóa đa dạng của các nhóm chủ

thể trong các KGST góp phần làm giàu thêm đời sống văn hóa của đô thị.

146

KẾT LUẬN

1. Không gian sáng tạo là một hiện tƣợng quan trọng, từng đƣợc ví nhƣ

“ngọn hải đăng” của nền kinh tế mới trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới

tập trung phát triển công nghiệp sáng tạo, công nghiệp văn hóa. Các nghiên

cứu trƣớc đây về KGST đã đề cập đến nhiều tác động khác nhau của KGST.

Đó có thể là nơi kết nối các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa,

nơi hỗ trợ và thúc đẩy cộng đồng nghệ sĩ sáng tạo, nơi cung cấp không gian

trƣng bày, triển lãm, truyền thông và kinh doanh các sản phẩm nghệ thuật, nơi

kết nối và kéo gần khoảng cách giữa nghệ sĩ và khán giả… Mô hình các

KGST đƣợc nói đến khá linh hoạt, có thể tồn tại ở một địa điểm cụ thể hay

chỉ là một không gian trực tuyến, một trang web, là một quán cà phê, một

phòng tranh hay một studio, một không gian làm việc chung... Thậm chí có

thể xem mỗi KGST với các hoạt động của mình đã tự trình ra một cách hiểu

về KGST. Tuy nhiên, trong bối cảnh đô thị tại Việt Nam, ngoài những đóng

góp quan trọng cho sự hình thành và phát triển của ngành công nghiệp văn

hóa, KGST còn có nhiều những ý nghĩa và tác động khác, phản ánh những

thay đổi năng động của xã hội trong bối cảnh chuyển đổi.

2. Việc ngày càng nhiều các KGST hình thành và phát triển trong lòng

đô thị Hà Nội, bất kể những khó khăn để duy trì tồn tại, là một minh chứng rõ

ràng cho thấy ý nghĩa của KGST đối với đời sống đô thị. Từ 40 KGST trong

báo cáo về KGST năm 2014 đến con số gần 140 KGST năm 2018 hay khi

một KGST nào đó đóng cửa thì cùng lúc đó có những KGST khác đƣợc ra đời

đã cho thấy sức ảnh hƣởng, sự cần thiết của KGST trƣớc nhu cầu của ngƣời

dân đô thị. Sức hấp dẫn của các KGST đến từ việc KGST đáp ứng nhu cầu

khác nhau cho nhiều nhóm xã hội đa dạng: là không gian thƣởng thức và sáng

tạo nghệ thuật để bồi đắp vốn hiểu biết về nghệ thuật; nơi gặp gỡ, trao đổi,

thảo luận những vấn đề đang diễn ra trong xã hội; là thƣ viện mở với nhiều

đầu sách khơi mở những suy tƣ, trăn trở; là nơi kết nối những ngƣời có cùng

mối quan tâm, cùng chí hƣớng; là nơi cho tự do biểu đạt… Từ góc nhìn của

147

Cà phê Văn và Giấc mơ nhỏ, có thể thấy KGST là những thực thể sinh động

đƣợc kiến tạo bởi các nhóm chủ thể khác nhau, đặc biệt là nhóm trí thức trong

đô thị, phản ánh những mối bận tâm đa dạng của con ngƣời. Sau Cà phê Văn

và Giấc mơ nhỏ, còn nhiều KGST khác vẫn đang đƣợc duy trì, đƣợc tạo mới

hoặc đang đƣợc ấp ủ, đƣợc truyền cảm hứng bởi những KGST đi trƣớc.

3. Từ lăng kính lý thuyết về khái niệm “khu vực công” của Habermas

có thể coi KGST là những không gian công đặc thù. Dù là không gian mở

ngỏ, đa dạng nhƣng đối tƣợng chủ yếu tham dự là trí thức ở nhiều độ tuổi

khác nhau, gắn với nhu cầu biểu hiện và cất tiếng nói tham góp vào giải quyết

những vấn đề chung của xã hội. Đó là những không gian linh hoạt, chuyển đổi

nhiều công năng trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, khi là không gian cho văn

học nghệ thuật, các thực hành sáng tạo, khi là không gian cho gặp gỡ đối

thoại, kết nối. Đó cũng là những không gian độc lập, không chỉ là tự chủ về

tài chính và kinh phí hoạt động mà còn duy trì độc lập về quan điểm, thái độ,

nơi của những phản biện độc lập, thẳng thắn về những vấn đề của xã hội.

Nếu nhƣ một số nghiên cứu trƣớc đây đã chỉ ra rằng Việt Nam không

có nhiều bằng chứng cho thấy sự tồn tại của một khu vực công cũng nhƣ

không gian công – nơi khu vực công đƣợc thể hiện. Hoặc nếu nói về không

gian công thì khái niệm “công” đó cũng khác so với cách hiểu và ý nghĩa

trong các xã hội phƣơng tây khi mà ở Việt Nam ít có những không gian cho

các cuộc thảo luận hoặc các biểu đạt công khai kiểu phƣơng Tây hoặc các

không gian kiểu nhƣ thế này luôn bị chi phối bởi quyền lực của nhà nƣớc.

Những phân tích về các thực hành trong các KGST cho thấy có thể không hẳn

đã tồn tại một “khu vực công” đúng nghĩa nhƣ khái niệm của Habermas do

các KGST cũng luôn phải đối diện với sự can thiệp từ nhà nƣớc trong những

nhận định chủ đề nào là “nhạy cảm”, “cấm kị”, thành phần nào là đáng bị để

mắt và cũng đã phải có những chiến lƣợc thích ứng, linh hoạt để tồn tại. Tuy

nhiên, dƣờng nhƣ các KGST cũng cho thấy sự nỗ lực mở rộng biên độ tự do,

tạo ra nhiều không gian cởi mở cho những thảo luận đa dạng. Nói cách khác,

148

khái niệm “khu vực công” của Habermas khi áp dụng để phân tích ở đây đã

làm bộc lộ những nét riêng về bối cảnh xã hội tại Việt Nam. Từ nhiều hoạt

động trong các lĩnh vực nghệ thuật, văn hóa và xã hội, các KGST đang góp

phần quan trọng cho sự thay đổi. Có thể thấy ở đó sự nổi lên của một xã hội

dân chủ khi đề cao các giá trị dân chủ, tinh thần khai minh, khai sáng, khai

hóa hay có thể nói KGST là một trong nhiều phƣơng cách đa dạng mà Việt

Nam đang thƣơng thảo, đàm phán về văn hóa và xã hội trong tƣơng lai.

4. Rõ ràng, KGST không chỉ là một sự đánh dấu về vị trí địa lí, nó

không nằm ở đó, hiện diện ở đó, sẵn có trong tự nhiên mà là sản phẩm của sự

kiến tạo. Nó đƣợc tạo nên từ những mối quan hệ xã hội và những thực hành

văn hóa. Chính những sinh hoạt văn hóa trong các không gian nhỏ hẹp này lại

góp phần gìn giữ và duy trì đời sống tinh thần hay chính là “phần hồn” cho đô

thị trong bối cảnh hiện đại hóa đô thị khi mà các trung tâm thƣơng mại sầm

uất, những tòa nhà chen vai nhau đƣợc dựng lên cao mãi. KGST mang lại bầu

khí quyển văn hóa, nhen lên, lan tỏa, tác động tới lối sống của một phần cƣ

dân đô thị tạo ra không khí trí thức, hƣớng tới những giá trị tinh thần, coi

trọng những giá trị nhƣ tự do, dân chủ, sáng tạo. KGST nhƣ vậy có thể coi là

sự bảo lƣu, tiếp nối những thực hành văn hóa trƣớc đây, nhƣng sống động,

đậm dấu ấn của bối cảnh đô thị đƣơng đại với những chuyển biến, thay đổi,

đứt gãy. Nhƣ vậy, mỗi KGST là một câu chuyện, một tự sự lẩn khuất đâu đó

trong bộn bề tấp nập đô thị nhƣng cũng trở nên sống động vì nó nhƣ một thế

giới thu nhỏ, thâu nạp, dung chứa cho nhiều tƣ tƣởng khác nhau. Và chính

những câu chuyện, những thực hành văn hóa đã định nghĩa về KGST, kiến

tạo nên hiện tại và tham gia xây dựng những viễn cảnh về tƣơng lai. Đó

không chỉ là KGST, nó còn là không gian văn hóa, không gian xã hội. Và nếu

hình dung đô thị nhƣ một không gian rộng lớn thì các KGST chính là những

mảnh ghép nhỏ nhƣng là những mảnh ghép quan trọng, tiến bộ, thúc đẩy sự

phát triển của đô thị.

149

150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.

9.

Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội (2019), Kiến tạo không gian văn hóa sáng tạo Hà Nội (sách ảnh, song ngữ Việt – Anh). Peter L. Berger và Thomas Luckmann (2017), Sự kiến tạo xã hội về thực tại – Khảo luận về xã hội học nhận thức, Nxb. Tri thức, Hà Nội. Lê Quang Bình và cộng sự (2016), Đánh dấu không gian xã hội dân sự Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội. Lê Quang Bình và cộng sự (2016), Báo cáo phong trào bảo vệ 6700 cây xanh ở Hà Nội, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội. Nguyễn Thanh Bình (2017), “Không gian công cộng – những vấn đề chính và biện pháp kiểm soát”, Tạp chí Kiến trúc. Nguyễn Thị Phƣơng Châm (2013), Internet: mạng lưới xã hội và sự thể hiện bản sắc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Thị Phƣơng Châm – Hoàng Cầm (2021), Vỉa hè Hà Nội không gian đa chiều tương tác, Nxb. Khoa học xã hội. Nguyễn Văn Chính (2011), “Cấu trúc và giải cấu trúc bản sắc văn hóa Hà Nội” in trong Khoa Lịch sử: Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2006-2011), Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, tr. 163-192 Chris Barker (2011), Nghiên cứu văn hóa lý thuyết và thực hành, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

10. Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2017), Sự thể hiện không gian đô thị trong dòng phim độc lập Việt Nam (từ góc nhìn Văn hóa học), Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

11. Mike Douglas (2008), “Thành phố sống tốt – Quá trình toàn cầu hóa cuộc sống thành thị và không gian công cộng ở Châu Á Thái Bình Dƣơng”, Tạp chí Xã hội học, số 1 (101).

12. Nguyễn Thị Đức (2017), “Xây dựng đời sống văn hóa đô thị trong quá trình hội nhập quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số 22. 13. Nguyễn Lan Dung (2008), Sự ra đời và hoạt động của hội Khai trí

151

tiến đức giai đoạn 1919-1925, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội

14. Robert M. Emerson – Rachel I. Fretz – Linda L. Shaw (2014), Viết

các ghi chép điền dã dân tộc học, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

15. Nguyễn Hoàng Quý Hà (2018), “Điện ảnh hàng ngày, không gian đô thị và sự tái hiện những ngƣời trẻ tuổi trong phim của Thái Minh Lƣợng và một số phim nghệ thuật Việt Nam đƣơng đại”, Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn, số 3.

16. Mai Văn Hai, Mai Kiệm (2009), Xã hội học văn hóa, Nxb. Khoa học

xã hội, Hà Nội.

17. Đặng Thị Thúy Hằng (2015), Đời sống văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Trƣờng Đại học Văn hóa Hà Nội.

18. Nguyễn Thị Thúy Hằng, Vũ Thị Minh Thắng (2015), “Sự hình thành không gian công ở Việt Nam trƣớc 1945: nghiên cứu dƣới góc độ báo chí học, chính trị học và lịch sử”, Kỷ yếu Hội nghị khoa học cán bộ trẻ và học viên sau đại học năm học 2014-2015: Nghiên cứu liên ngành trong khoa học xã hội và nhân văn tiếp cận từ góc độ lý thuyết và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr. 298-309. 19. Vũ Hoàng Hiếu (2018), Người đồng tính trong xã hội Việt Nam đương đại: từ ẩn ức đến tự sự, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.

20. Phạm Thị Mỹ Hoa (2021), “Không gian sáng tạo – mũi nhọn tiềm năng trong phát triển công nghiệp văn hóa Hà Nội”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 476, tháng 10-2021

21. Hội đồng Anh (2014), Nghiên cứu ban đầu về các không gian sáng

tạo tại Việt Nam.

22. Hội đồng Anh (2016), Nghiên cứu về chính sách và các không gian

sáng tạo tại Việt Nam.

23. Hội đồng Anh (2018), Báo cáo về các không gian sáng tạo ở Việt

Nam.

152

24. Hội đồng Anh (2018), Vai trò của các không gian văn hóa sáng tạo

trong nền kinh tế sáng tạo Việt Nam.

25. Hội đồng Anh (2021), Kỉ yếu Không gian Văn hóa sáng tạo Việt

Nam 2018 -2021

26. Phạm Thị Hƣơng (2016), “Không gian sáng tạo với vai trò hỗ trợ

khởi nghiệp”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, tháng 8-2016

27. Phạm Thị Hƣơng (2017), “Hoạt động của hệ thống nhà văn hóa tại Hà Nội nhìn từ các không gian sáng tạo”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, tháng 4-2017.

28. Phạm Lan Hƣơng, “Factories as studios – Một cách tiếp cận về không gian sáng tạo”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 405, tháng 3- 2018.

29. Nguyễn Thị Quế Hƣơng – Nguyễn Thị Hòa, “Không gian công với vấn đề đối thoại liên tôn giáo ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, tháng 3-2021.

30. Nguyễn Thừa Hỷ (2010), Kinh tế - xã hội đô thị Thăng Long – Hà

Nội thế kỉ XVII-XVIII-XIV, Nxb Hà Nội.

31. Nguyễn Thừa Hỷ (2015), Về chất lượng thị dân Thăng Long: những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển thủ đô, Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Phát triển bền vững thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình.

32. Trần Ngọc Khánh (2012) (2019), Văn hóa đô thị, Nxb. Tổng hợp

Thành phố Hồ Chí Minh.

33. Doãn Minh Khôi (2018), “Sức hấp dẫn của không gian công cộng”,

Tạp chí Kiến trúc, số 5 (2018).

34. Phan Văn Kiền (2015), “Tính đặc thù của không gian công trên báo điện tử”, Kỷ yếu Hội nghị khoa học cán bộ trẻ và học viên sau đại học năm học 2014-2015: Nghiên cứu liên ngành trong khoa học xã hội và nhân văn, tiếp cận từ góc độ lý thuyết và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, trang 14-27.

35. Đinh Xuân Lâm – Phạm Xanh (2004), “Đào Duy Anh với cuộc vận

153

động tiến tới Tân Việt Cách mạng Đảng”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa học Xã hội và Nhân văn, số 3, trang 32-38.

36. Nguyễn Thị Phƣơng Lan (2004), Về khái niệm đời sống văn hóa,

Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (số 12/2004).

37. Phạm Thúy Loan (2016), “Không gian công cộng trong đô thị, từ lý

luận đến thiết kế”, Tạp chí Kiến trúc Việt Nam.

38. Nguyễn Đức Lộc (chủ biên), Đời sống xã hội Việt Nam đương đại

(tập 2), Nxb. Tri thức, Hà Nội.

39. William Logan (2010), Ha Noi - Biography of a city - Hà Nội - Tiểu

sử một đô thị, Nguyễn Thừa Hỷ dịch, Nxb. Hà Nội, Hà Nội.

40. Phan Đăng Long (2011), Biến đổi của văn hóa đô thị Hà Nội từ năm 1986 đến nay - thực trạng và xu hướng, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam.

41. Trƣơng Uyên Ly (2018), Không gian sáng tạo – cơ hội cho Hà Nội hƣớng tới một thủ đô sáng tạo, thanh lịch, thịnh vƣợng, Kỉ yếu hội thảo Phát huy tiềm năng, thế mạnh của các không gian sáng tạo trong phát triển công nghiệp văn hóa trên địa bàn thủ đô thời kì hội nhập và phát triển, Ban Tuyên giáo thành ủy Hà Nội, trang 1-9. 42. Nguyễn Xuân Nghĩa (2014), “Không gian công và tôn giáo”, Tạp

chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 09 (135), trang 20-38.

43. Trần Đức Ngôn (2017), “Khái niệm và cấu trúc đời sống văn hóa”,

Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số 21, trang 5-12.

44. Nguyễn Vĩnh Nguyên (2018), Đà Lạt một thời hương xa, Nxb Trẻ,

Thành phố Hồ Chí Minh.

45. Nhiều tác giả (2017), Việt Nam sau 30 năm đổi mới – Thành tựu và

triển vọng, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.

46. Nhiều tác giả (2014), Toàn cầu hóa, văn hóa địa phương, và phát triển: cách tiếp cận nhân học, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.

47. Trần Thị Ngọc Nhờ (2019), Từ vai trò không gian công cộng trong xây dựng tiểu văn hóa hướng đến một thành phố sống tốt, In trong

154

Kỷ yếu Hội thảo khoa học Tiểu văn hóa đô thị và quá trình hội nhập tại Việt Nam, Trƣờng Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh.

48. Lữ Thị Mai Oanh (2019), Tin đồn và sự hình thành tin đồn trong không gian bán công cộng (nghiên cứu trường hợp quán cà phê trên địa bàn Hà Nội), Luận án tiến sĩ, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn

49. Phạm Quỳnh Phƣơng (2010), “Những không gian thiêng: Một nghiên cứu thực địa về các di tích thờ Trần Hƣng Đạo ở Việt Nam”, trong Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: những cách tiếp cận nhân học, Nxb. Đại học Quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 86-102.

50. Phạm Quỳnh Phƣơng (2020), “Vai trò của truyền thông xã hội đối với mối quan hệ nhà nƣớc – xã hội ở Việt Nam”, in trong Văn hóa Việt Nam đương đại: đa dạng biểu đạt và tương tác, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 34-53.

51. Phạm Quỳnh Phƣơng (2019), “Không gian công cộng ở Hà Nội và sự tham gia của ngƣời dân”, bài trình bày tại Hội thảo Không gian công cộng ở Hà Nội và sự tham gia của người dân, ngày 4/9/2019.

52. Phạm Quỳnh Phƣơng (2017), “Phong trào LGBT Việt Nam từ góc nhìn kiến tạo bản sắc”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6, tr. 3-10. 53. Phạm Quỳnh Phƣơng (2019), "Từ khám phá quy luật đến kiếm tìm nghĩa: Một hƣớng tiếp cận mới trong nghiên cứu văn hóa Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam, số 4, tr.92-104. 54. Phạm Quỳnh Phƣơng (2013), “Ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) lƣợc sử hình thành và cách tiếp cận”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số 6, tr. 85-91.

55. Nguyễn Thị Thu Phƣơng, Phát triển công nghiệp văn hóa tại Hà Nội - tài nguyên tiềm năng và lựa chọn đổi mới, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 479, tháng 11-2021.

56. Nguyễn Quang (2018), “Không gian công cộng trong quy hoạch và

phát triển bền vững”, Tạp chí Kiến trúc, số 5 (2018).

155

57. Trần Hữu Quang (2020), Xã hội học những viễn tượng lý thuyết,

Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

58. Trần Hữu Quang (2009), Một số quan niệm đƣơng đại về xã hội dân

sự, Tạp chí Khoa học xã hội, số 12 (136), tr.13-23.

59. Nguyễn Trƣơng Quý (2018), Một thời Hà Nội hát – Tim cũng không

ngờ làm nên lời ca, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

60. Nguyễn Trƣơng Quý (2015), Mỗi góc phố một người đang sống,

Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

61. Lâm Thị Ánh Quyên (2011), “Không gian đô thị - Không gian công cộng”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh, số 6 (1).

62. Lâm Thị Ánh Quyên (2020), “Tiểu văn hóa đô thị: khái niệm và lý thuyết”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh, số 15 (1), tr36-47.

63. Edward Wadie Said (2014), Đông Phương luận, Nxb. Tri thức, Hà

Nội.

64. Bùi Hoài Sơn (2006), Ảnh hưởng của Internet đối với thanh niên Hà

Nội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

65. Bùi Hoài Sơn (2008), Phương tiện truyền thông mới và những thay đổi văn hóa - xã hội ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 66. Bùi Hoài Sơn (2019), “Phát triển các không gian sáng tạo ở Hà

Nội”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 416.

67. Bùi Hoài Sơn (2018), Kiến tạo không gian sáng tạo trên địa bàn thủ đô – bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra, Kỉ yếu hội thảo Phát huy tiềm năng, thế mạnh của các không gian sáng tạo trong phát triển công nghiệp văn hóa trên địa bàn thủ đô thời kì hội nhập và phát triển, Ban Tuyên giáo thành ủy Hà Nội, tr.1-9.

68. Nguyễn Văn Sửu (2011), “Tiếp cận không gian: vấn đề khái niệm và

sự phân loại”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr 58-64.

69. Nguyễn Văn Sửu – Chu Thu Hƣờng (2015), “Hƣớng tiếp cận không gian trong nghiên cứu làng Việt: Nghiên cứu trƣờng hợp làng Đồng

156

Kỵ, Bắc Ninh”, Tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn, tập 1, số 2 (2015).

70. Nguyễn Quý Thanh, Trịnh Ngọc Hà (2009), “Không gian bán công cộng và sự hình thành dƣ luận xã hội”, Tạp chí Xã hội học số 2, tr.72-81.

71. Nguyễn Quý Thanh – Nguyễn Bích Thủy (2015), “Sự hình thành dƣ luận xã hội ở chợ nông thôn”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (94), trang 64-73.

72. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb.

Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

73. Phạm Thanh Thôi (2013), “Bối cảnh đô thị hóa: vấn đề nghiên cứu nhân học ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 4 (176), tr. 57- 63.

74. Trung tâm nghiên cứu toàn cầu hóa – Giải pháp đô thị - nông thôn (2005), Kỉ yếu hội thảo chuyên đề Chuyển hóa đô thị và tương lai của cuộc sống đô thị ở Việt Nam – Khía cạnh không gian công cộng và không gian dân sự.

75. Trần Thị Minh Tuyết (2019), “Nhận thức về dân chủ và quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam trong thời kì đổi mới: thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11.

76. Trần Mai Ƣớc (2010), “Văn hóa đô thị với việc phát triển thủ đô Hà Nội trong thời hội nhập”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa, số 3, tr.8-10.

Tiếng Anh

77. Antoaneta Tileva (2019), A seat at the table: immigrant businesses and placemaking, PhD. Dissertation, Faculty of the college of Arts and Sciences of American university.

78. Anna Katharina Hornidge – Sandra Kurfurt, Envisioning the future: negotiating public space in Hanoi and Singapore, Internationales Asienforum,Vol.42 (2011), No 3-4, pp 345-369.

79. A. Appadurai (1988), “Introduction: Place and voice in

157

anthropological theory”, Cultural Anthropology, Vol. 3, pp.16-20.

80. Hannah Arendt (1958), The Human Condition, Chicago: University

of Chicago Press.

81. Bourdieu, P. (1984), Distiction: A Social Critique of the Judgment

of Taste, USA: Havard.

82. Brigid Mahoney (2001), Jurgen Habermas and the public sphere: critical engagements, PhD. Dissertation, University of Adelaide. 83. British Council (2016), Creative hubs: understanding the new

economy

84. Cultural and creative hubs network Asia - Europe (2005), Needs

analysis on culture and creative hubs in Asia and Europe

85. Cultural and creative hubs network Asia - Europe (2015), Cultural and creative hubs network Asia-Europe: a project for kick – starting a new network between Asia and Europe

86. Douglas Kellner (2006), “Habermas, the Public Sphere, and

Democracy: A Critical Intervention.”

87. Lisa B. W. Drummond (2000), “Street Scenes: Practices of Public and Private Space in Urban Vietnam”, Urban Studies, 37 (12), 2377- 2391.

88. Drummond L. and Nguyen Thi Lien

(2009), Uses and understandings of public space among young people in Hanoi, Vietnam. In: Daniere, A. and Douglass, M., eds. The Politics of Civic Space in Asia. London: Routledge, 175-196.

89. Noelani Eidse, Sarah Turner & Natalie Oswin (2016), Contesting Street Spaces in a Socialist City: Itinerant Vending-Scapes and the Everyday Politics of Mobility in Hanoi, Vietnam, Annals of the American Association of Geographers, 106:2, 340-349.

90. Michel Foucault and Jay Miskowiec Source (1986), Of Other

Spaces, Diacritics, Vol. 16, No. 1 (Spring, 1986), pp. 22-27.

91. Stephanie Geertman, Danielle Labbé, Julie-Anne Boudreau and Olivier Jacques (2016), Youth-Driven Tactics of Public Space Appropriation

158

in Hanoi: The Case of Skateboarding and Parkour, Pacific Affairs, Vol. 89, No. 3, pp. 591-611.

92. Anthorny Giddens (1991), Modernity and Self-Identity, Cambridge:

Polity Press.

93. Goheen, Peter, G. (1998), “Public space and the geography of the modern city”, Progress in Human Geography, 22 (1998) 4, pp. 479- 496.

94. Akhil Gupta and James Ferguson (1997), Culture, power, place: in critical anthropology, Durham, N.C.: Duke

explorations University Press.

95. Akhil Gupta and James Ferguson (1992), “Beyon “culture”: space, identity anh the politics of difference”, Cutural Anthropology, Vol.7, pp. 6-23.

96. Jürgen Habermas (1974), The Public Sphere: An Encyclopedia Article (1964); New German Critique, No. 3. (Autumn, 1974), pp. 49-55.

97. Jürgen Habermas (1989), The Structural Transformation of the

Public Sphere, The MIT Press, Cambridge, Massachusetts.

98. Hall, S. (1994). "Cultural Identity and Diaspora". In Williams, Patrick and Laura Chrisman, Colonial dicourse and post - colonial theory: a reader (pp. pp 227-237). London: Harvester Wheatsheaf.

99. Institut national de la recherche scientifique (INRS, Canada), the Institute of Sociology of the Vietnamese Academy of Social Sciences (IoS-VASS, Vietnam), and HealthBridge (Vietnam and Canada) (2015), Youth-friendly public spaces in Hanoi

100. Civic Space Production and Local Government Capacity: Lessons from Muang Klang, Thailand, Journal of Social Issues in Southeast Asia, Vol. 26, No. 1 (April 2011), pp. 58-79

101. Knott Kim (2005), The Location of Religion: A Spatial Analysis.

London: Equinox Publishing Ltd.

102. David Wee Hock Koh (2006), Wards of Hanoi, Institute of

159

Southeast Asian Studies.

103. David Wee Hock Koh (2007), The pavement as civic space: History and dynamics in the city of Hanoi in Globalization, the City and Civil Society in Pacific Asia, Routledge.

104. Kong, Lily, & Law, Lisa (2010), Introduction: Contested

Landscapes, Asian Cities. Urban Studies, 39(9), 1503-1512. 105. Sandra Kurfürst (2008), The Transformation of Public Space in

Hanoi, Asien 108 (Juli 2008), S. 67-79

106. Sandra Kurfürst (2011), Redefiding public space in Hanoi: places, practices and meaning, Unpublished, PhD. Dissertation, Department of Urban Sociology, University of Passau.

107. Henri Lefebvre (1991), The production of space, Translated by Donald Nicholson-Smith. Maiden, MA,USA: Blackwell Publishing. 108. Logan, William S. (2009), Hanoi, Vietnam representing power in

and of the nation, City, Vol.13, no.1, 87- 94.

109. Louis Wirth (1938), Urbanism as a way of life, The American

Journal of Sociology, Vol. 44, No. 1 (Jul., 1938), pp. 1-24

110. Setha M. Low (2009), Toward an Anthropological Theory of Space

and Place, Semiotica 175–1/4 (2009), 21–37

111. Setha M. Low and Lawrence-Zuniga, Denise (2007), “Locating Culture”, in: The anthropology of space and place: Locating culture, edited by Setha M. Low and Denise Lawrence-Zuniga, Blackwell Publishing, Oxford.

112. Mandy Thomas (2003), Spatiality and political change in urban Vietnam. In: Lisa.B.W.Drummond and Mandy Thomas, Consuming urban culture in contemporary Vietnam, London: Routledge, 170- 188.

113. Doreen Massey (1994), Space, Place, and Gender, Oxford: Polity

Press.

114. Victor H. Matthews (2003), “Physical Space, Imagined Sapce, and Lived Space in Ancient Israel”, Biblical Theology Bulletin: A

160

Journal of Bible and Theology, Vol. 33, Issue 12, tr. 12-20.

115. Don Michel (2003), The Right to the City: Social Justice and the

Fight for Public Space. New York:The Guilford Press

116. Mike Douglass - K.C.Ho - Giok Ling Ooi (2007), Globalization, the City and Civil Society in Pacific Asia: The Social Production of Civic Spaces, Routledge.

117. Mike Douglass and Amrita Daniere (2009), Urbanization and civic space in Asia, In: Daniere, A. and Douglass, M., eds. The Politics of Civic Space in Asia. London: Routledge, 1-18.

118. Peter J.M. Nas (2011), Cities full of symbols – a theory of urban

space and culture, Leiden University Press.

119. Nora. A Taylor (2007), “Vietnamese anti-art and anti-Vietnamese artists: experimental performance culture in Hanoi‟s alternative exhibition spaces”, Journal of Vietnamese Studies, Vol.2(2), pp. 108-128.

120. Nora. A Taylor (2001), “Framing the National Spirit: Viewing and Reviewing Painting under the Revolution” in “The Country of memory: remaking the past in late socialist Vietnam” (Hue – Tam Ho Tai), University of California Press, pp 109-134.

121. Wells-Dang, A. (2010). Political space in Vietnam: a view from the „rice-roots'. The Pacific Review, Vol. 23, No. 1, pp. 93-112. 122. Zizi Papacharissi (2002), The virtual sphere: The internet as a public sphere, SAGE publications, London, Thousand Oak, CA and New Delhi, Vol 4, 9-27.

Bài viết từ các website 123. Nguyễn Nhƣ Huy (2013), Soho – cái nôi của không gian phá cách,

Thể thao và Văn hóa cuối tuần https://thethaovanhoa.vn/van-hoa/soho-cai-noi-cua-khong-gian-pha- cach-n20130509134636305.htm

124. Nguyễn Nhƣ Huy (2013), Nhận diện những không gian phá cách,

161

Thể thao và Văn hóa cuối tuần https://thethaovanhoa.vn/van-hoa/nhan-dien-nhung-khong-gian-pha- cach-n20130516132803532.htm

125. Phạm Thúy Loan (2016), Không gian công cộng trong đô thị - Từ lý

luận đến thiết kế https://kientrucvietnam.org.vn/khong-gian-cong-cong-trong-do-thi- tu-ly-luan-den-thiet-ke/

126. Nguyễn Sỹ Nguyên (2020), Quan niệm của Jurgen Habermas về

không gian công cộng, truy cập ngày 3/7/2021 http://www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc- nhin-van-hoa/14514-quan-niem-cua-j-rgen-habermas-ve-khu-vuc- cong-cong

127. Phạm Xuân Nguyên (2020), Lịch sử một câu nói, đăng trên Tạp chí

Ngƣời đô thị) https://www.nguoidothi.net.vn/lich-su-mot-cau-noi-25168.html 128. Rosen Elisabeth, (2013, 11 12). Vietnam Comes of Age. The

Diplomat. https://thediplomat.com/2013/11/vietnam-comes-of-age/

129. Trí thức cần có không gian sáng tạo riêng, trong website

https://tiasang.com.vn/, truy cập ngày 9/10/2020

130. Đào Mai Trang (2006), Mĩ thuật đương đại Việt Nam liên ứng với thế giới – nhìn từ Hà Nội, trong website: http://www.talawas.org

PHỤ LỤC

162

Ảnh một số hoạt động của các không gian sáng tạo tại Hà Nội

Không gian sáng tạo Cà phê thứ 7 - phố Ngô Quyền

Ảnh do NCS chụp

Không gian sáng tạo Cà phê thứ 7 – phố Ngô Quyền

Ảnh do NCS chụp

163

Không gian sáng tạo Tổ chim xanh – phố Đặng Dung

Ảnh do NCS chụp

Không gian sáng tạo Tổ chim xanh – phố Đặng Dung

Ảnh do NCS chụp

164

Không gian sáng tạo Tổ chim xanh – phố Đặng Dung

Ảnh do NCS chụp

Không gian sáng tạo 60s Thổ Quan – phố Khâm Thiên

Ảnh do NCS chụp

165

Không gian sáng tạo 60s Thổ Quan – phố Khâm Thiên

Ảnh do NCS chụp

Không gian sáng tạo Heritage space – phố Trần Bình

Ảnh do NCS chụp

166

Không gian sáng tạo Hanoi DocLab – phố Thụy Khuê

Ảnh: https://www.facebook.com/HanoiDOCLAB

Không gian sáng tạo Ơ kìa Hà Nội – Đê La Thành

Ảnh: https://www.facebook.com/okiahanoi

167

Không gian sáng tạo Ơ kìa Hà Nội – phố Hoàng Hoa Thám

Ảnh: https://www.facebook.com/okiahanoi

168