VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ HƢƠNG
KHÔNG GIAN SÁNG TẠO
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA ĐÔ THỊ (QUA NGHIÊN CỨU
MỘT SỐ KHÔNG GIAN SÁNG TẠO TẠI HÀ NỘI)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2022
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ HƢƠNG
KHÔNG GIAN SÁNG TẠO
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA ĐÔ THỊ (QUA NGHIÊN CỨU
MỘT SỐ KHÔNG GIAN SÁNG TẠO TẠI HÀ NỘI)
Ngành: Văn hóa học
Mã số: 9.22.90.40
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS. BÙI HOÀI SƠN
2. TS. ĐÀO THẾ ĐỨC
HÀ NỘI - 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận án này là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của PGS.TS. Bùi Hoài Sơn và TS. Đào
Thế Đức. Các kết quả nghiên cứu trình bày trong luận án là trung thực và
chƣa đƣợc công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu của ai khác. Luận
án cũng đƣợc thực hiện một cách nghiêm túc, cầu thị, đảm bảo các nguyên
tắc đạo đức trong trích dẫn tài liệu.
Tác giả luận án
PHẠM THỊ HƢƠNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................... 3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 4
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................ 5
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ............................................... 10
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án .............................................. 11
7. Cơ cấu của luận án ................................................................................ 12
CHƢƠNG 1 ................................................................................................ 13
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN .......... 13
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ......................................................... 13
1.1.1. Nghiên cứu về không gian đô thị ............................................. 13
1.1.2. Nghiên cứu về không gian sáng tạo ........................................... 21
1.2. Cơ sở lí luận ....................................................................................... 31
1.2.1. Một số khái niệm ........................................................................ 31
1.2.2. Lý thuyết khu vực công của Habermas ...................................... 41
Tiểu kết chƣơng 1 ..................................................................................... 44
CHƢƠNG 2 ................................................................................................ 46
BỐI CẢNH XÃ HỘI TẠI ĐÔ THỊ VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA CÁC .......... 46
KHÔNG GIAN SÁNG TẠO ..................................................................... 46
2.1. Đô thị Hà Nội - môi trƣờng dung dƣỡng các không gian sáng
tạo ............................................................................................................. 46
2.2. Những thay đổi của xã hội Việt Nam sau Đổi Mới ........................... 55
2.3. Những ấn phẩm của ngành công nghiệp xuất bản tại Việt Nam
và tiến trình dân chủ hóa........................................................................... 59
2.4. Vai trò của các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam ............ 62
2.5. Sự xuất hiện của internet, mạng xã hội và bối cảnh toàn cầu hóa .... 66
Tiểu kết chƣơng 2 ..................................................................................... 69
CHƢƠNG 3 ................................................................................................ 70
THỰC HÀNH VĂN HÓA TẠI CÁC KHÔNG GIAN SÁNG TẠO ..... 70
3.1. Ngƣời trẻ và những thực hành văn hóa đa dạng trong KGST
Giấc mơ nhỏ ............................................................................................. 70
3.1.1. Không gian kết nối những ngƣời đọc độc lập ............................ 71
3.1.2. Thảo luận tự do về các chủ đề .................................................... 78
3.1.3. Chiếu phim, xem phim và thảo luận .......................................... 83
3.1.4. Thảo luận về các vấn đề của môi trƣờng và trách nhiệm xã
hội ......................................................................................................... 88
3.2. Trí thức trong không gian sáng tạo Cà phê Văn................................ 96
3.2.1. Không gian của những thực hành nghệ thuật ............................. 96
3.2.2. Không gian gặp gỡ, kết nối và đối thoại .................................. 104
3.2.3. Không gian chất vấn và phản biện xã hội ................................ 107
Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................... 117
CHƢƠNG 4 .............................................................................................. 120
KHÔNG GIAN SÁNG TẠO: TỰ DO BIỂU ĐẠT VÀ KIẾN TẠO
BẢN SẮC .................................................................................................. 120
4.1. Không gian sáng tạo: không gian nới rộng biên độ tự do ............... 120
4.1.1. Không gian mở ngỏ và đa dạng ................................................ 120
4.1.2. Không gian sáng tạo: những không gian độc lập ..................... 125
4.1.3. Không gian sáng tạo: những không gian công đặc thù ............ 129
4.2. Không gian kiến tạo bản sắc nhóm, bản sắc cá nhân ...................... 133
4.2.1. Không gian sáng tạo kết nối cảm xúc ...................................... 133
4.2.2. Không gian sáng tạo và nhu cầu định vị cá nhân ..................... 135
4.3. Không gian sáng tạo và những tác động trong đời sống văn hóa
đô thị ……………………………………………………………… 140
Tiểu kết chƣơng 4 ................................................................................... 145
KẾT LUẬN ............................................................................................... 147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 151
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
KGST Không gian sáng tạo
KGCC Không gian công cộng
KGC Không gian công
NCS Nghiên cứu sinh
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Một tối cuối tuần, căn gác nhỏ tầng hai nằm trên con phố lớn trung
tâm Hà Nội chật kín ngƣời đến tham dự buổi sinh hoạt học thuật của một
nhóm bạn trẻ. Chỉ số ít ngồi trên hàng ghế phía cuối phòng, khá đông còn lại
thoải mái ngồi bệt xuống sàn nhà, xoay quanh ngƣời thuyết trình. Tiếng nói
không có micro trong này đôi lúc bị át đi bởi những âm thanh ngoài kia, cách
đó không xa, tại rạp Công Nhân - từng một thời đƣợc mệnh danh là rạp chiếu
bóng hoàng kim - đang biểu diễn các trích đoạn hài kịch ngắn phục vụ công
chúng trên phố đi bộ. Cùng lúc đó, chỉ cách khoảng vài trăm mét, tại không
gian khác đang diễn ra buổi gặp gỡ, đối thoại của những ngƣời trẻ về chủ đề
môi trƣờng. Xa trung tâm hơn, không gian do một nữ đạo diễn trẻ tạo nên
cũng đang đƣợc lấp đầy bởi tình yêu của công chúng trong chuỗi những hoạt
động tƣởng nhớ cặp nghệ sĩ tài hoa Lƣu Quang Vũ - Xuân Quỳnh… Cũng đã
từ lâu khi theo đuổi đề tài này, ngƣời viết thƣờng khá bối rối những lúc phải
quyết định chọn một sự kiện để tham dự khi mà còn có nhiều sinh hoạt văn
hóa khác, tại nơi này hay nơi kia, đƣợc diễn ra trong các không gian sáng tạo
(KGST).
Những năm gần đây, đời sống văn hóa tại Việt Nam nói chung, thủ đô
Hà Nội nói riêng chứng kiến sự “bùng nổ”, không khí hứng khởi, sôi động
của các KGST. Không chỉ ngày càng nhiều về mặt số lƣợng mà các KGST
còn đa dạng trong cách thức tổ chức, phong phú về mô hình hoạt động. Từ
Zone 9 (phố Trần Thánh Tông) năm 2015 - một trong những KGST ban đầu,
ra đời một cách ngẫu hứng, tự phát và tự do, nhƣ “một giấc mơ bùng nổ”, dù
tồn tại ngắn ngủi nhƣng đã là một sân chơi nghệ thuật đầy thăng hoa và tạo
cảm hứng cho nhiều không gian khác về sau nhƣ Hanoi Creative City (phố
Lƣơng Yên), Heritage Space (phố Trần Bình), Manzi (phố Phan Huy Ích),
Bar 98 (phố Ngô Văn Sở), Ơ kìa Hà Nội (phố Hoàng Hoa Thám), Cà phê thứ
Bảy (phố Ngô Quyền), Tổ chim xanh (phố Đặng Dung)… Các KGST vẫn
1
đang hình thành, duy trì và phát triển nhƣ những không gian dành cho nghệ
thuật, nơi của tự do sáng tạo, tự do học thuật, nơi kết nối những suy nghĩ, trao
đổi xoay quanh các câu chuyện trong xã hội, về giáo dục, văn hóa, nghệ thuật,
tôn giáo… qua đó hình thành nên những cộng đồng chia sẻ với nhau nhiều
điểm chung trong sở thích, cá tính, quan điểm, lối sống. Nhiều không gian mở
ra nhƣng cũng nhanh chóng khép lại trong lặng lẽ sau nhiều chật vật, khó
khăn xoay xở để tồn tại. Nhiều không gian vẫn đang nỗ lực tìm cách duy trì,
nhiều KGST đƣợc kiến tạo mới đáp ứng nhu cầu của nhiều nhóm ngƣời trong
đô thị. Các KGST có nhiều biến động, thay đổi về số lƣợng, cách thức hoạt
động và chính thực hành văn hóa tại các KGST cũng đang tạo nên nhƣng tác
động lớn trong đời sống xã hội. Sự xuất hiện, duy trì tồn tại và phát triển của
các KGST gợi lên nhiều câu hỏi: KGST đƣợc kiến tạo nên nhƣ thế nào và có
ý nghĩa gì với các nhóm chủ thể? Điều gì làm nên sức hấp dẫn, sự lôi cuốn
của các KGST? Tại sao nó lại thu hút đƣợc nhiều tầng lớp trong xã hội?
Trong bối cảnh nào các KGST xuất hiện và đƣợc nói đến nhiều nhƣ vậy, nó
phản ánh những động thái nào trong xã hội đƣơng đại?
1.2. Những thảo luận gần đây tại Việt Nam cũng nhƣ trên thế giới đã
coi KGST nhƣ là một mô hình kinh doanh mới nhằm hƣớng tới mục tiêu phát
triển công nghiệp sáng tạo, thành phố sáng tạo, nơi cung cấp không gian trƣng
bày và kinh doanh nhằm hỗ trợ cho những ngƣời trẻ khởi nghiệp trong lĩnh
vực sáng tạo, nơi đáp ứng nhu cầu về không gian giải trí, tạo dựng bản sắc đô
thị từ việc cải tạo các không gian cũ trở thành KGST… Đây là những luận
điểm đƣợc đƣa ra để lý giải về sự phát triển mạnh mẽ của các KGST. Tuy
nhiên, các lí do này dƣờng nhƣ chƣa thể giải thích hết đƣợc nét riêng biệt của
các thực hành trong KGST cũng nhƣ chủ đích của ngƣời kiến tạo nên KGST.
Từ một khái niệm đƣợc Hội đồng Anh tiên phong đƣa vào Việt Nam nhằm hỗ
trợ và thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo nhƣng khi đƣợc
“nhúng” trong bối cảnh đô thị Việt Nam hiện đại, nó đã đƣợc cấp thêm những
lớp nghĩa mới. Nếu xem KGST nhƣ một mô hình kinh doanh với mục tiêu
2
chính là tạo ra lợi nhuận, thúc đẩy sự sáng tạo để phát triển công nghiệp văn
hóa thì dƣờng nhƣ mới chỉ phản ánh một phần những chiều cạnh ý nghĩa của
các KGST. Vậy ngoài những ý nghĩa đã đƣợc đề cập trên đây, KGST còn có
những ý nghĩa nào khác? Thực hành văn hóa tại các không gian đó tại sao lại
quan trọng với các nhóm chủ thể? Thông qua những thực hành văn hóa tại các
không gian đó các nhóm chủ thể mong muốn thể hiện điều gì và mở rộng ra,
nó biểu trƣng cho nhu cầu gì của xã hội? Trong luận án này, từ góc nhìn văn
hóa, đặt KGST trong bối cảnh đô thị đƣơng đại, tôi muốn tìm hiểu các thực
hành văn hóa trong các KGST cũng nhƣ nhìn nhận rõ hơn những động lực sâu
xa và chủ đích của việc kiến tạo nên các KGST trong bối cảnh đƣơng đại.
Với những lí do đã trình bày ở trên, nghiên cứu sinh (NCS) chọn
“Không gian sáng tạo trong đời sống văn hóa đô thị (qua nghiên cứu một số
không gian sáng tạo tại Hà Nội)” làm đề tài nghiên cứu cho luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án tập trung vào sự phát triển của KGST tại Hà Nội, khám phá
các thực hành văn hóa và các chiều kích nghĩa đa dạng của KGST trong bối
cảnh đô thị đƣơng đại.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên
cứu cơ bản sau:
- Hệ thống các khía cạnh lý thuyết quan trọng trong nghiên cứu về
không gian đô thị, KGST.
- Phân tích, lý giải các yếu tố tác động đến sự hình thành, tồn tại và
phát triển của các KGST gắn với bối cảnh đô thị đƣơng đại.
- Phân tích các thực hành văn hóa trong hai KGST tại Hà Nội: Giấc mơ
nhỏ và Cà phê Văn1.
- Phân tích ý nghĩa của các thực hành văn hóa trong KGST.
1 Tên 2 không gian sáng tạo cũng nhƣ tên các nhân vật trong luận án đã đƣợc thay đổi để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh.
3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: các thực hành văn hóa tạo nghĩa cho các không
gian để trở thành KGST, nói cách khác là cách thức kiến tạo KGST của các
nhóm chủ thể. Luận án lựa chọn nghiên cứu trƣờng hợp hai KGST Giấc mơ
nhỏ và Cà phê Văn, đều là những KGST độc lập ở Hà Nội - một đô thị lớn
của Việt Nam, nơi chứng kiến nhiều thay đổi về kinh tế, văn hóa xã hội trong
những năm qua, là không gian quy tụ của nhiều tầng lớp xã hội, nơi tính cách
đô thị gắn với tầng lớp thị dân đƣợc bộc lộ một cách rõ rệt và hơn nữa cũng là
môi trƣờng dung dƣỡng, tạo tiền đề cho sự xuất hiện của nhiều KGST.
- Khách thể nghiên cứu: Mỗi KGST đƣợc kiến tạo nên bởi những cá
nhân, những nhóm khác biệt gắn với mong muốn, nhu cầu và mối quan tâm
riêng. Trong trƣờng hợp hai không gian đƣợc nói đến trong luận án này là
những ngƣời trẻ tại KGST Giấc mơ nhỏ và các trí thức tại KGST Cà phê Văn.
Sự phân tách này chỉ mang tính tƣơng đối bởi thực tế trong mỗi KGST có sự
tham gia đa dạng của nhiều cá nhân thuộc về nhiều nhóm xã hội, nhiều nhóm
tuổi khác khác nhau. Tuy nhiên, luận án chủ yếu sẽ đề cập đến những ngƣời
trẻ tuổi ở KGST Giấc mơ nhỏ và những trí thức lớn tuổi tại KGST Cà phê
Văn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án không đặt ra mong muốn nghiên cứu bao quát mọi vấn đề về
KGST (sự hình thành và phát triển của các KGST tại Việt Nam, các mô hình
KGST, những thuận lợi, khó khăn mà các KGST đang phải đối mặt, vai trò
của KGST đối với việc phát triển thành phố sáng tạo và rộng hơn là đối với
công nghiệp văn hóa tại Việt Nam...) mà tập trung vào những thực hành văn
hóa của các nhóm chủ thể kiến tạo. Luận án chú ý tới ý nghĩa của các thực
hành trong KGST, đặt các thực hành đó trong mối tƣơng tác với bối cảnh văn
hóa, chính trị, kinh tế của đô thị đƣơng đại, xem KGST nhƣ là nơi phản ánh
4
những mối bận tâm, trăn trở của con ngƣời đối với những vấn đề đang xảy ra
trong xã hội.
Về thời gian nghiên cứu: luận án đƣợc thực hiện từ giữa năm 2017 đến
cuối năm 2020.
Về không gian nghiên cứu: Các KGST đƣợc nói đến trong luận án đều
ở Hà Nội - trung tâm chính trị quốc gia, một trong những đầu mối phát triển
kinh tế xã hội lớn, giữ vai trò quan trọng trong bối cảnh chuyển đổi của Việt
Nam. Đây là thành phố vốn có bề dày văn hóa, lại cũng là nơi đón nhận nhiều
tƣ tƣởng, trào lƣu văn hóa mới, tồn tại nhiều điều kiện khả thể dung dƣỡng
cho sự ra đời và phát triển của các KGST. Sự đa dạng, sống động của các
KGST tại Hà Nội có thể đƣợc xem nhƣ là kết quả của quá trình đô thị hóa
năng động với những thay đổi mạnh mẽ và sâu sắc về văn hóa, xã hội và kinh
tế. Từ Hà Nội, về sau các KGST bắt đầu đƣợc lan tỏa và nhen nhóm hình
thành ở nhiều thành phố khác.
Ngoài phạm vi nghiên cứu là không gian thực tế, NCS cũng tiến hành
nghiên cứu KGST qua các không gian trực tuyến (mạng xã hội Facebook,
website riêng của các KGST...), xem đây nhƣ là sự nối dài và mở rộng các
KGST vốn hạn hữu cả về không gian lẫn thời gian. Các KGST đã xây dựng
nên trang cá nhân trên facebook nhằm kết nối và thông tin rộng rãi tới đông
đảo ngƣời quan tâm. Đó cũng là nơi họ nhận đƣợc những chia sẻ, bình luận và
phản hồi về các hoạt động. Các website, tƣơng tự nhƣ vậy, cũng là nơi cung
cấp, mở rộng vốn kiến thức nền hoặc chuyên sâu cho các cuộc thảo luận đã
hoặc sẽ diễn ra. Ngoài chức năng thông tin về sự kiện thì những bài báo, tin
tức nào đƣợc chọn để đăng tải, chia sẻ và bình luận cũng là những tín hiệu
cho biết về mối quan tâm, sự chú ý của các nhóm chủ thể kiến tạo nên các
KGST này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
NCS xác định đây là một nghiên cứu định tính. Những phƣơng pháp
chính đƣợc sử dụng trong luận án bao gồm:
5
- Tổng hợp, phân tích các tài liệu thứ cấp: phƣơng pháp này đƣợc sử
dụng để cung cấp cái nhìn khái quát về không gian đô thị cũng nhƣ KGST tại
Hà Nội. Việc thu thập, phân tích các bài viết trên báo, tạp chí, các tài liệu đã
xuất bản liên quan đến KGST nói riêng, các tài liệu về không gian đô thị nói
chung phục vụ cho việc viết chƣơng 1. Phƣơng pháp này cũng đƣợc sử dụng
ở chƣơng viết cuối, hỗ trợ trong việc diễn giải, phân tích, bình luận về ý nghĩa
của các KGST trong đời sống văn hóa đô thị đƣơng đại.
- Quan sát tham dự:
+ Giai đoạn đầu (từ giữa năm 2017 đến giữa năm 2018): Dù chính thức
thực hiện luận án từ giữa năm 2017 nhƣng trƣớc đó, từ đầu năm 2016, NCS
đã quan tâm và bắt đầu tìm hiểu về các KGST tại Hà Nội. NCS tham dự sự
kiện, chƣơng trình tại nhiều KGST để có thông tin về sự hình thành, cách
thức kiến tạo không gian, ý nghĩa của KGST với các nhóm chủ thể. Danh mục
40 KGST đƣợc liệt kê trong khảo sát ban đầu của Hội đồng Anh năm 2014
chính là manh mối, là gợi ý để NCS bắt đầu quá trình nghiên cứu. NCS đã tìm
đọc lại những tƣ liệu, bài viết trên báo chí, xem phim tài liệu về tổ hợp KGST Zone 92 - một trong những KGST ra đời sớm, từ năm 2013. Zone 9 từng đƣợc
xem nhƣ một hiện tƣợng lạ nhất trong lịch sử phát triển đô thị Hà Nội sau Đổi
Mới - nơi lui tới của nhiều cá tính độc đáo, phóng khoáng, tự do biểu đạt suy
nghĩ, quan điểm, yêu nghệ thuật và yêu Hà Nội theo những cách riêng -
nhƣng lại cũng là nơi có số phận ngắn ngủi, chỉ tồn tại trong vòng tám tháng.
Zone 9 nhƣ một điểm sáng mà sau đó, khi không còn tồn tại nữa thì những dƣ
âm của nó tiếp tục đƣợc lan tỏa bằng việc xuất hiện hàng loạt những KGST
khác trong thành phố mà lần lƣợt NCS cũng đã tìm đến nhƣ: Hanoi Creative
City (phố Lƣơng Yên), Heritage Space (phố Trần Bình), Manzi (phố Phan
Huy Ích), Doclab (phố Nguyễn Thái Học, sau chuyển về Thụy Khuê), Tổ
chim xanh (phố Đặng Dung), Trung tâm hỗ trợ và phát triển tài năng điện
liệu Zone 9
tài
- đạo diễn Nguyễn Anh Thƣ, xem
thêm
tại
2 Phim http://zone9documentary.com/
6
ảnh TPD (phố Trần Hƣng Đạo), Cà phê thứ bảy (phố Ngô Quyền, sau chuyển
về Trần Xuân Soạn), Kinergie Studio (phố Nguyễn Khuyến)… Quan sát tham
dự và những tìm hiểu ban đầu giúp NCS có cái nhìn khái quát về sự đa dạng
trong cách thức kiến tạo cũng nhƣ ý nghĩa của các không gian đối với từng
nhóm ngƣời cụ thể. Một số KGST là những ví dụ minh chứng rõ nét và thuyết
phục về vai trò của KGST đã đƣợc nói đến trong các nghiên cứu, các hội thảo
do Hội đồng Anh tổ chức mà NCS nhiều lần tham dự, dƣới góc nhìn quản lý
văn hóa: hƣớng tới mục tiêu phát triển công nghiệp sáng tạo, là mô hình kinh
doanh nhỏ và siêu nhỏ, là không gian kết nối và hỗ trợ ngƣời trẻ làm công
việc sáng tạo, nơi trƣng bày và bán sản phẩm hay không gian làm việc chung
(co-working)… Từ việc “lê la” nhiều hơn, ngồi lâu hơn để tham dự và lắng
nghe nội dung trao đổi, chia sẻ tại các sự kiện của các KGST, NCS dần dần
nhận thấy, ngoài những chức năng trên, KGST còn có những ý nghĩa khác
nữa, không chỉ để kinh doanh, không chỉ để sáng tạo nghệ thuật mà còn là
không gian của sự tham gia, nơi bàn thảo, trao đổi về những chủ đề chung của
xã hội, phản biện chính sách, thúc đẩy tự do tƣ duy, tự do biểu đạt, tạo ra
những tác động quan trọng trong xã hội. Cũng từ giai đoạn này, NCS đã xác
định đƣợc đối tƣợng khảo sát chính là KGST Cà phê Văn và Giấc mơ nhỏ.
+ Giai đoạn thứ hai (từ giữa năm 2018 đến năm 2020): NCS tiếp tục có
mặt thƣờng xuyên trong nhiều sự kiện tại hai KGST đƣợc lựa chọn để nghiên
cứu. Bối cảnh và thực tế của các KGST tại Hà Nội thời gian này có nhiều biến
động: có KGST di chuyển địa điểm hoặc đóng cửa (60s Thổ Quan - phố
Khâm Thiên), có KGST mới đƣợc thành lập, thu hút sự quan tâm của ngƣời
dân thủ đô nhƣ Ơ kìa Hà Nội (phố Hoàng Hoa Thám, sau chuyển địa điểm ra
Đê La Thành), nhiều KGST điều chỉnh, thay đổi cách thức vận hành để phù
hợp hơn với bối cảnh và cũng để dễ dàng tiếp cận ngƣời tham dự. Các sự kiện
mà NCS tham dự tại hai KGST đƣợc chọn là Cà phê Văn và Giấc mơ nhỏ đa
phần đƣợc tổ chức vào các ngày cuối tuần, cả ban ngày và buổi tối. Có
khoảng thời gian khi các KGST duy trì sinh hoạt đều đặn, thì nhƣ là một thói
7
quen, cứ cuối tuần NCS lại có mặt tại các không gian đó, dõi theo câu chuyện
cùng với nhiều ngƣời tham dự khác. NCS thƣờng đến sớm hơn so với thời
gian bắt đầu cũng nhƣ nán lại lúc sự kiện kết thúc để có thể quan sát và tranh
thủ hỏi han thêm. Ở đó, NCS gặp nhiều gƣơng mặt quen thuộc vẫn thƣờng
xuất hiện, tham dự trong nhiều sự kiện đƣợc tổ chức tại hai KGST này. Họ
đến đây nhƣ một nhu cầu thiết yếu của đời sống, để đƣợc nghe thêm những
câu chuyện, đƣợc gặp gỡ một nhân vật, một vài ngƣời bạn, để đƣợc cất tiếng
nói, thể hiện ý kiến cá nhân của mình, cùng với nhiều những giọng nói khác.
- Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: phƣơng pháp phỏng vấn sâu nhằm tìm
hiểu rõ hơn về nguyện vọng, tình cảm, động lực ngƣời đến tham dự, nói cách
khác là tập trung vào ý nghĩa của các KGST đối với những ngƣời đã kiến tạo
nên nó. Việc tiếp cận, liên hệ và làm quen với đối tƣợng phỏng vấn đƣợc thực
hiện theo hình thức “quả bóng tuyết” (snowball): ngƣời đƣợc phỏng vấn trƣớc
sẽ giới thiệu những ngƣời khác - là bạn hoặc là ngƣời quen của họ - cũng
thƣờng xuyên tham dự sự kiện tại các KGST. Một số trƣờng hợp khác do
NCS chủ động bắt chuyện, làm quen và gặp gỡ trong các KGST. NCS đã tiến
hành phỏng vấn sâu 2 nhóm đối tƣợng: 1. Ngƣời sáng lập, ngƣời đồng sáng
lập ra KGST, những ngƣời chủ trì tổ chức các sự kiện (7 ngƣời); 2. Ngƣời đến
tham dự, ngƣời tham gia thực hành nghệ thuật tại các KGST (15 ngƣời).
Những ngƣời đƣợc chọn để phỏng vấn ở nhiều độ tuổi, nghề nghiệp, giữ vai
trò khác nhau trong KGST. Các cuộc phỏng vấn đƣợc tiến hành theo hình
thức phỏng vấn bán cấu trúc, thƣờng kéo dài từ 1-3 tiếng, diễn ra tại chính hai
KGST đƣợc khảo sát, ở một KGST khác, tại nhà riêng hoặc các quán cà phê.
Một số cuộc phỏng vấn đƣợc ghi âm với sự cho phép của ngƣời đƣợc phỏng
vấn. Còn lại, để việc chia sẻ của ngƣời cung cấp thông tin đƣợc tự nhiên và
thoải mái, NCS không thực hiện việc ghi âm mà sử dụng cách thức ghi chép
nhanh. Phƣơng pháp này cũng là một thách thức với chính cá nhân NCS bởi
ngay cả khi việc tranh thủ hồi cố nội dung diễn ra sau cuộc nói chuyện thì vẫn
có một số chi tiết hay thông tin bị bỏ lỡ (có thể đƣợc nhớ lại, bổ sung sau đó
8
vài hôm) hoặc không thể diễn đạt lại một cách toàn vẹn, chính xác các từ ngữ
mà ngƣời đƣợc phỏng vấn đã sử dụng.
Hầu hết các KGST đều sử dụng mạng xã hội (facebook) nhƣ một hình
thức kết nối, phổ biến thông tin cũng nhƣ nhận chia sẻ, đánh giá của mọi
ngƣời về các chƣơng trình đƣợc tổ chức. Vì vậy, việc “lê la” không chỉ diễn
ra tại các không gian vật lý mà còn cả trên không gian mạng xã hội, nơi NCS
vẫn có thể quan sát, nói chuyện, phỏng vấn. NCS đã tham gia vào trang cá
nhân của các KGST, trở thành thành viên của một số nhóm trên facebook,
nhóm trò chuyện qua messenger, một mặt để theo dõi các hoạt động của các
KGST, mặt khác cũng để tƣơng tác, kết nối, làm quen và hỏi chuyện. Nhiều
cuộc phỏng vấn, đúng hơn là trò chuyện qua messenger kéo dài 2-3 giờ. Vài
bạn trẻ có phần ngại ngần khi giao tiếp trực tiếp nhƣng lại dễ dàng bộc bạch,
trải lòng bằng hình thức viết trên cửa sổ nói chuyện online. Một số KGST còn
có website riêng để đăng tải nhiều bài viết của các thành viên hay của các nhà
nghiên cứu khác về chủ đề liên quan đến sự kiện nhƣ một cách cung cấp hiểu
biết nền, khơi mở ý tƣởng cho cuộc đối thoại sắp diễn ra. Cũng có khi các bài
viết đƣợc tải lên sau sự kiện nhằm mở rộng thêm các chiều cạnh khác của vấn
đề mà do hạn hữu về thời gian của chƣơng trình, chƣa thể nói hết, chƣa đƣợc
đề cập đến. Ở đây, NCS xem các trang facebook hay các website nhƣ một
hình thức để nới rộng biên giới của không gian thực, phần nào xóa đi kích
thƣớc thực tế nhỏ hẹp của KGST, giúp thành viên của nhóm có thể tƣơng tác,
kết nối xa và rộng hơn.
Nghiên cứu văn hóa đô thị, không tiến hành điền dã theo theo lối truyền
thống là về ở tại cộng đồng, tham gia sinh hoạt cùng với cộng đồng trong một
thời gian dài, liên tục, lặp đi lặp lại mà bằng việc thƣờng xuyên có mặt trong
các sự kiện tại các KGST, NCS dần dần có thêm thông tin, làm quen và nói
chuyện đƣợc với những ngƣời cùng đến tham dự. Ban đầu việc tiếp cận có
nhiều khó khăn vì NCS giống nhƣ rơi vào tình trạng “lỡ cỡ” giữa hai nhóm
tuổi ở hai không gian khác nhau: Giấc mơ nhỏ thƣờng dành cho những ngƣời
9
trẻ, độ tuổi từ 16 đến dƣới 30 trong khi Cà phê Văn thƣờng có sự góp mặt của
những trí thức từ độ tuổi trung niên. Nhƣng về sau sự khác biệt tuổi tác không
còn bất lợi nữa khi ở không gian của những trí thức lớn tuổi, bằng sự cầu thị
và muốn lắng nghe, NCS luôn đƣợc giảng giải tận tình, kĩ lƣỡng. Cũng nhƣ
vậy ở không gian dành cho giới trẻ, sau một thời gian ngại ngần, dè chừng
ban đầu, các bạn, các em đã chia sẻ, kể những câu chuyện về họ, nhất là trong
những buổi gặp gỡ bàn tròn mà NCS tham gia nhƣ là một thành viên của
nhóm.
- Tƣ liệu của luận án còn từ những ghi chép về suy nghĩ, cảm nhận của
cá nhân NCS sau mỗi sự kiện với vai trò ngƣời tham dự. NCS xem đó chính
là việc “trải nghiệm các sự kiện và ý nghĩa bằng cách thức tương tự như trải
nghiệm của các thành viên” (Robert M. Emerson và các cộng sự, 2014) [14].
Có nhiều khi vai “ngƣời nghiên cứu” bị mờ nhòe đi, tham dự nhiều hơn quan
sát khi chính NCS cũng bị cuốn vào mạch suy nghĩ và thảo luận của nhóm.
Thời gian đầu, việc tham dự tại các KGST là để phục vụ cho mục đích nghiên
cứu, về sau trở thành một thói quen, một nhu cầu cá nhân với mong muốn
đƣợc nghe, đƣợc thảo luận, đƣợc cập nhật những thông tin của đời sống xã
hội. Những phân tích và diễn giải trong luận án, do đó, phản ánh quá trình cố
gắng hòa nhập sâu hơn vào thế giới của “ngƣời khác”, nỗ lực để biết, để hiểu
về ý nghĩa thực hành văn hóa của các nhóm chủ thể trong các KGST từ góc
nhìn những ngƣời trong cuộc.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án là công trình đầu tiên tìm hiểu những chiều kích văn hóa của
các KGST.
- Luận án khám phá các thực hành văn hóa và ý nghĩa của các thực
hành văn hóa đó với các nhóm chủ thể trong xã hội, những ngƣời bằng cách
này hay cách khác tham gia kiến tạo nên các KGST.
10
- Luận án cung cấp những luận giải về căn nguyên và động lực của các
thực hành văn hóa tại các KGST, từ đó chỉ ra tác động xã hội của các KGST
cũng nhƣ những thay đổi trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận: Ý nghĩa lý luận của luận án đƣợc thể hiện trên hai
phƣơng diện. Thứ nhất, từ việc phân tích thực hành văn hóa tại các KGST,
luận án mở rộng những chiều kích ý nghĩa của KGST, nhìn nhận KGST nhƣ
là những nơi chốn quan trọng đối với các nhóm chủ thể trong thành phố, góp
phần kiến tạo bản sắc nhóm, bản sắc cá nhân, nơi trí thức bày tỏ mối quan tâm
với nhiều vấn đề quan trọng của đời sống xã hội, nơi thể hiện những nỗ lực
nới rộng biên độ của tự do biểu đạt trong bối cảnh hạn hẹp của các không gian
công trong đô thị. Thứ hai, luận án đóng góp một quan điểm học thuật về một
loại hình không gian đặt trong bối cảnh không gian đô thị đƣơng đại: không
gian sáng tạo, bổ sung thêm vào bức tranh nghiên cứu về không gian đô thị
vốn đã rất bề bộn và đa dạng tại Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Qua việc nghiên cứu các thực hành văn hóa, ý
nghĩa của các thực hành văn hóa trong các KGST đối với các nhóm chủ thể,
luận án chỉ ra rằng KGST ngày càng giữ vai trò quan trọng trong đời sống đô
thị, phản ánh mong muốn nới rộng biên độ của sự tự do, nhƣ một diễn đàn
cho các thảo luận mở, là nơi thể hiện nguyện vọng của công dân, nơi thực
hiện quyền tham gia của ngƣời dân với xã hội. KGST nhƣ là những không
gian xã hội, không gian văn hóa, nơi cùng lúc đảm nhiệm nhiều vai trò đối với
đời sống hàng ngày: cung cấp thông tin, nâng cao vốn hiểu biết, mang lại cơ
hội thƣởng thức và sáng tạo nghệ thuật, nơi gặp gỡ, trò chuyện kết nối và hơn
hết là môi trƣờng lý tƣởng cho phép ngƣời dân thể hiện những mong muốn,
nhu cầu của mình về nhiều vấn đề đang diễn ra trong xã hội. Với ý nghĩa đó,
luận án là tƣ liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu văn hóa, những ngƣời
làm chính sách liên quan đến KGST, các cơ quan quản lý về văn hóa cũng
nhƣ chính quyền đô thị.
11
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận án đƣợc kết cấu
thành 4 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý luận
Chƣơng 2: Bối cảnh xã hội tại các đô thị và sự ra đời của các không
gian sáng tạo
Chƣơng 3: Thực hành văn hóa tại các không gian sáng tạo
Chƣơng 4: Không gian sáng tạo: tự do biểu đạt và kiến tạo bản sắc
12
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu về không gian đô thị
Không gian đô thị từ lâu là một chủ đề hấp dẫn, thu hút nhiều nghiên
cứu của các ngành khoa học khác nhau. Các nghiên cứu đa phần thƣờng tập
trung vào hai chiều cạnh cơ bản của không gian đô thị: không gian chức năng
và không gian xã hội. Khi xem xét không gian đô thị nhƣ một không gian
chức năng, các nghiên cứu thuộc ngành kiến trúc, quy hoạch và quản lý đô thị
thƣờng đề cập đến cấu trúc không gian đô thị, coi không gian đô thị là một
vùng lãnh thổ, một khu vực mà ở đó xây dựng, kiến thiết nên cơ sở vật chất
phục vụ, đáp ứng nhu cầu về làm việc, nghỉ ngơi, giải trí, giao tiếp của cƣ dân
đô thị, hƣớng đến việc tạo lập đô thị sinh thái, nhân văn và phát triển bền
vững. Theo đó, không gian đô thị thƣờng bao gồm khu vực xây dựng nhà ở,
công trình dịch vụ đô thị, hệ thống phục vụ giáo dục (trƣờng học), thƣơng mại
(trung tâm thƣơng mại, chợ, siêu thị…), sản xuất (nhà máy, công xƣởng, văn
phòng…). Trong khi đó, các nghiên cứu của ngành xã hội học, văn hóa học,
nhân học… thƣờng xem không gian đô thị nhƣ một không gian xã hội, nơi
quy tụ, tập trung của nhiều nhóm xã hội với những đặc điểm riêng về giới
tính, lứa tuổi, trình độ, mối quan tâm, nhu cầu, thị hiếu… Trong luận án này,
để xây dựng cơ sở lý luận cho những phân tích sau về KGST, NCS chỉ lựa
chọn tổng quan một số nghiên cứu dƣới góc độ tiếp cận thứ hai, coi không
gian đô thị nhƣ một không gian xã hội.
Với lý thuyết kiến tạo không gian xã hội (the social production of
space), công trình kinh điển The production of space (Sự sản xuất không gian)
của Henri Lefebvre (1901-1991) - nhà xã hội học và triết gia ngƣời Pháp -
đƣợc viết năm 1974, bản dịch tiếng Anh năm 1991, đã đóng góp quan trọng
cho lý thuyết không gian đô thị, tạo nên một “bƣớc ngoặt về không gian” (the
13
spatial turn), mở ra một mối quan tâm mới về không gian. Theo Lefebvre,
không gian không phải là một cấu trúc tĩnh mà là sản phẩm mang tính xã hội
do con ngƣời tạo ra, đƣợc kiến tạo và tái kiến tạo bởi con ngƣời, đƣợc định
hình bởi ý tƣởng, niềm tin, giá trị và nguyên tắc, từ sở thích và những mối bận
tâm của con ngƣời:
“Không gian (xã hội) là một sản phẩm xã hội… không gian
sản xuất như vậy đảm nhiệm như một công cụ suy nghĩ và hành
động; bên cạnh việc là một tư liệu sản xuất, nó còn là tư liệu kiểm
soát, và như vậy là tư liệu cai trị, quyền lực.” [107].
Trong nghiên cứu này, Lefebvre đã thách thức các khái niệm truyền thống về
không gian nhƣ một bối cảnh thụ động, cố định và đề xuất khái niệm không
gian là sự thống nhất của ba phƣơng diện: phƣơng diện vật lí (physical space),
phƣơng diện xã hội (social space) và phƣơng diện tinh thần (mental space).
Mục tiêu của Lefebvre trong việc xây dựng bộ ba không gian này là để chứng
minh không gian không phải là một đối tƣợng mà là kết quả của một tập hợp
các mối quan hệ. Không gian định hình và đƣợc định hình bởi các mối quan
hệ xã hội. Lefebvre cũng cho rằng mọi xã hội đều tạo nên những không gian
xã hội khác biệt để đáp ứng cho nhu cầu của con ngƣời.
Tác phẩm của Lefebvre có ảnh hƣởng sâu sắc, tạo ra cả một giai
đoạn không gian - những năm đầu thập niên 1990 - khi khiến cho các nhà lí
thuyết nhân học hay cả các nhà địa lí hậu hiện đại nỗ lực nghĩ và hiểu về
không gian theo một cách khác. Không gian là năng động, là sự đan xen giữa
biểu hiện và kinh nghiệm sống, chạm vào tất cả các lĩnh vực của đời sống,
văn hóa, tôn giáo… Không gian dần trở thành đối tƣợng nghiên cứu trung
tâm. Những nghiên cứu về không gian ngày càng nhiều. Các chiều kích ý
nghĩa của không gian dần đƣợc mở ra trong mối quan hệ với con ngƣời, góp
phần giải thích ý nghĩa của nhiều thực hành văn hóa. Các loại không gian theo
đó cũng khá đa dạng, có nhiều loại không gian cùng tồn tại (Nguyễn Văn
Sửu, 2011) [68]. Setha Low và Denise Lawrence-Zuniga (2007) trong nghiên
14
cứu “Locating Culture” đã phân thành 6 loại không gian bao gồm: không
gian hiện thân, gắn với những trải nghiệm của cơ thể (embodied space),
không gian của giới và các mối quan hệ (gendered spaces), không gian ký ức
(inscribed spaces), không gian tranh chấp (contested space), không gian
xuyên biên giới (trannational spaces), các chiến thuật không gian (spatial
tactics) [111]. Victor H. Matthews (2003) lại chia thành ba loại không gian:
không gian vật thể (physical space), không gian tƣởng tƣợng (imagined
space) và không gian sống (lived space) [114]. Hay không gian công (public
space) và không gian tƣ (private space) trong nghiên cứu của Lisa Drummond
(2000) [87] và Sandra Kurfürst (2008) [105]; không gian thiêng trong nghiên
cứu của Phạm Quỳnh Phƣơng (2010) [49] … Rất nhiều các phân tích đa dạng
về không gian đô thị sau này đều dựa trên quan niệm không gian là một kiến
tạo xã hội.
Trong bối cảnh đô thị tại Việt Nam, sự kiến tạo của các cộng đồng, các
nhóm chủ thể văn hóa khác nhau cũng tạo ra những chiều kích không gian
khác nhau, phản ánh những động năng của xã hội cũng nhƣ nhu cầu, mong
muốn và mối quan tâm của con ngƣời. Nhiều nhất trong số đó là những
nghiên cứu về không gian công cộng (KGCC). Có thể nói, bối cảnh nghiên
cứu về KGCC khá đa dạng, bề bộn, nhƣ chính thực tiễn của các KGCC trong
không gian đô thị. Khái niệm KGCC đƣợc đề cập và nghiên cứu dƣới nhiều
góc độ khác nhau: kiến trúc, quy hoạch và quản lý đô thị; xã hội học; văn hóa
học; nhân học… Các nghiên cứu đều thừa nhận những đóng góp tích cực của
các KGCC cho đời sống thành phố, sự đa dạng của các loại hình KGCC cũng
nhƣ ý nghĩa của nó đối với từng nhóm ngƣời cụ thể, quan tâm đến kích thƣớc
KGCC qua việc tìm hiểu sự “co giãn”, nới rộng hay thu hẹp các không gian,
chiến lƣợc riêng hóa KGCC phục vụ cho mục đích cá nhân…
Các nhà kiến trúc, quy hoạch và quản lý đô thị quan tâm tới việc quy
hoạch, tổ chức không gian và phát triển đô thị, nhìn nhận KGCC nhƣ là
những không gian mở, dễ tiếp cận, là nơi giao tiếp và nghỉ ngơi, thƣ giãn, là
15
môi trƣờng văn hóa xã hội - nơi diễn ra những tƣơng tác xã hội, đáp ứng và
thỏa mãn nhiều nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của ngƣời dân đô thị. Theo đó
KGCC có thể bao gồm đƣờng sá, quảng trƣờng, công viên, những khoảng
không gian giữa các công trình kiến trúc... Nhiều nghiên cứu quan tâm đến
KGCC nhƣ một trong nhiều các yếu tố để tạo nên “thành phố đáng sống”,
mang lại nhiều ý nghĩa cho cấu trúc, môi trƣờng và cuộc sống đô thị, là nơi
thể hiện sống động nhất phần hồn của đô thị hay tạo ra bản sắc riêng cho đô
thị, có thể kể đến nhƣ các bài viết trong kỷ yếu hội thảo chuyên đề Chuyển
hóa đô thị và tương lai của cuộc sống đô thị tại Việt Nam năm 2005 do Trung
tâm nghiên cứu toàn cầu hóa và Giải pháp đô thị - nông thôn đồng tổ chức
[74], Không gian công cộng trong đô thị, từ lý luận đến thiết kế của Phạm
Thúy Loan (2016) [37], Không gian công cộng - những vấn đề chính và biện
pháp kiểm soát của Nguyễn Thanh Bình (2017) [5], Sức hấp dẫn của không
gian công cộng (Doãn Minh Khôi, 2018) [33], Không gian công cộng trong
quy hoạch và phát triển bền vững (Nguyễn Quang, 2018) [56]… KGCC trong
những trƣờng hợp này để chỉ những không gian ngoài trời, không gian tự
nhiên, không gian mở (nhƣ công viên, đƣờng phố, vỉa hè, quảng trƣờng…)
hay các khoảng không gian trong nhà nhƣng đƣợc phép tiếp cận tự do (nhà
ga, sân bay, trung tâm thƣơng mại…), nơi diễn ra các hoạt động mang tính
công cộng nhƣ nghỉ ngơi, giao tiếp, mua bán, đi lại… KGCC đƣợc xem là
“khoảng thở”, “những phần không gian trống” của cảnh quan đô thị nơi mà
ngƣời dân bƣớc ra khỏi những “chiếc hộp” cá nhân để tham gia vào đời sống
chung. Các nghiên cứu cũng lo lắng cho sự biến mất của các KGCC khi mà
dƣờng nhƣ KGCC đang không đƣợc sử dụng nhƣ mục đích ban đầu, bị lấn
chiếm và sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, hay sự xung đột giữa các
nhóm ngƣời sử dụng KGCC giữa các thế hệ, các tầng lớp xã hội, từ đó bàn
đến trách nhiệm quản lý hay những khuyến nghị về việc duy trì và cung cấp
KGCC cho các nhóm đối tƣợng. Thách thức đó đƣợc nhìn nhận, lý giải và
phân tích nhƣ là kết quả của quá trình chuyển dịch đô thị, quá trình đô thị hóa
16
diễn ra mạnh mẽ, sức ép về nhu cầu sử dụng KGCC ngày càng tăng, hạ tầng
kĩ thuật công cộng chƣa theo kịp để đáp ứng nhu cầu của ngƣời dân… và từ
đó đặt ra trách nhiệm cho các nhà quản lý trong việc xây dựng khung pháp lý
để quản lý, kiểm soát, tạo dựng và đáp ứng KGCC cho ngƣời dân. Nhìn
chung, phần lớn các nghiên cứu này đều đƣợc tiếp cận với góc nhìn từ trên
xuống, mong muốn thiết kế và tạo dựng nên những KGCC phục vụ cho ngƣời
dân đô thị, bằng việc dựng nên hoặc mô phỏng một mô hình KGCC nào đó và
áp dụng cho các KGCC trong thành phố. Trong những nghiên cứu này, ngƣời
ta khó lòng có thể tìm thấy những gƣơng mặt con ngƣời và đời sống đa dạng,
muôn màu, mà thƣờng chỉ thấy con ngƣời dƣới dạng thức những con số, tỉ số
bình quân bao nhiêu ngƣời trên một mét vuông diện tích KGCC. Hơn nữa,
các nghiên cứu từ góc nhìn kiến trúc, thiết kế đô thị thƣờng có xu hƣớng mô
hình hóa, tạo ra những KGCC gọn ghẽ, văn minh, hiện đại. Nhƣng thực tế,
KGCC tồn tại trong thế sinh động, bề bộn hơn rất nhiều.
Bổ khuyết cho những hạn chế của cách tiếp cận từ trên xuống, từ góc
nhìn của ngành văn hóa học, xã hội học, nhân học… với cách tiếp cận từ dƣới
lên lại cho thấy nhiều ý nghĩa khác của KGCC. Trong những thảo luận về đời
sống đô thị hàng ngày và những chuyển đổi chính trị - kinh tế - xã hội đƣợc
phản ánh lên các không gian đô thị, có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những cách
thức tạo dựng không gian của các nhóm chủ thể đa dạng.
Các công trình nhƣ Youth-friendly public spaces in Hanoi (Không gian
công cộng cho giới trẻ ở Hà Nội) năm 2015 [99], Youth-Driven Tactics of
Public Space Appropriation in Hanoi: The Case of Skateboarding and
Parkour (Chiến thuật chiếm đoạt không gian công cộng của thanh niên tại Hà
Nội: trường hợp trượt ván và parkour) của Stephanie Geertman, Danielle
Labbé, Julie-Anne Boudreau và Olivier Jacques [91] đã tập trung vào giới trẻ -
một bộ phận dân số đông đảo, giữ vai trò là thế hệ định hình tƣơng lai của quá
trình chuyển đổi đô thị. Các nghiên cứu này làm sáng tỏ cách thức mà ngƣời trẻ
gắn bó với thành phố, tìm cách tiếp cận không gian cho các hoạt động giải trí, thể
17
thao, gặp gỡ bạn bè hay cho những thực hành mới nhƣ trƣợt ván, parkour… Để
có thể “chiếm đoạt” các KGCC, thanh niên đô thị đã áp dụng các chiến thuật quy
mô nhỏ, phi ý thức hệ và không đối đầu, đối diện với rất nhiều nguyên tắc của
các bên khác nhau, từ chính sách quản lý không gian của nhà nƣớc, các tổ chức
doanh nghiệp và cả ngƣời dân… Bằng các chiến thuật mềm dẻo, linh hoạt đó, họ
dần đƣợc chấp nhận trong các KGCC, tạo ra đƣợc không gian cho chính mình để
theo đuổi sở thích, đam mê, từ đó kiếm tìm và định hình bản sắc.
Nghiên cứu Vỉa hè Hà Nội - không gian đa chiều tương tác của Nguyễn
Thị Phƣơng Châm - Hoàng Cầm (2021) tập trung vào không gian vỉa hè, đặt
trong bối cảnh văn hóa vỉa hè nơi “tất cả các khía cạnh của đời sống văn hóa
diễn ra và liên quan đến không gian vỉa hè” [7] để khám phá những những
lớp nghĩa bề bộn mà không gian vỉa hè chuyên chở. Sự “bề bộn” của không
gian vỉa hè trong xã hội phức tạp đa tầng, đa nghĩa gắn với thói quen, lối sống
của ngƣời dân. Không gian vỉa hè trở nên sống động, bề bộn công năng và các
chiều kích nghĩa khác nhau: vừa là không gian kinh tế, không gian sinh hoạt,
không gian nghệ thuật, không gian xã hội, không gian của ký ức. Nó cũng
phản ánh sự thƣơng thỏa, co kéo, thích nghi linh hoạt và tài tình của con
ngƣời trong không gian đô thị chật hẹp.
Không gian vỉa hè tại đô thị nói chung, tại Hà Nội nói riêng hiện lên
qua rất nhiều nghiên cứu của các tác giả nƣớc ngoài, dƣới lăng kính của các
khái niệm “không gian công” (public space), “không gian tƣ” (private spacce)
là một biến thể KGCC thú vị, sinh động, chồng chất những tầng lớp ý nghĩa
mà đời sống của ngƣời dân đô thị đã tạo nên. Có thể kể đến các nghiên cứu
tiêu biểu nhƣ: Street scences: practices of public and private in urban
Vietnam (Cảnh quan đƣờng phố: những thực hành trong không gian công và
không gian tƣ tại đô thị Việt Nam) của Lisa Drummond (2000) [87], Wards of
Hanoi (Phố phƣờng Hà Nội) của David Koh (2006) [102], The pavement as
civic space: history and dynamics in the city of Hanoi (Vỉa hè nhƣ là không
gian công: lịch sử và sự năng động ở thành phố Hà Nội) của David Koh
18
(2007) [103]… Các thảo luận này tập trung vào việc làm mờ đi sự khác biệt
giữa “không gian công” và “không gian tƣ” trong bối cảnh đô thị Việt Nam
nơi mà thƣờng xuyên diễn ra hiện tƣợng các hoạt động mang tính riêng tƣ thì
đƣợc diễn ra nơi công cộng, tràn ra nơi công cộng (inside out) trong khi các
không gian riêng tƣ lại chịu sự can thiệp từ bên ngoài, từ nhà nƣớc (outside
in) (Lisa Drummond, 2000) [87]. Theo các tác giả, tại Việt Nam, không có sự
phân biệt rạch ròi giữa “không gian công” và “không gian tƣ” nhƣ truyền
thống xã hội phƣơng Tây. Các khái niệm mang tính học thuật của phƣơng
Tây, khi áp dụng vào Việt Nam cần đƣợc tính đến bối cảnh xã hội đặc thù, và
do vậy cũng cần đƣợc hiểu một cách linh hoạt.
Nghiên cứu Redefiding public space in Hanoi: places, practices and
meaning (Định nghĩa lại không gian công cộng ở Hà Nội: địa điểm, thực hành
và ý nghĩa) của Sandra Kurfürst (2011) [106] tập trung vào những thay đổi
trong mối quan hệ quyền lực giữa nhà nƣớc và xã hội đƣợc phản ánh qua sự
phát triển của các KGCC ở Hà Nội. Các chiều cạnh khác nhau của KGCC
cũng đƣợc phân tích, thể hiện qua mô hình 3 chiều: tính linh thiêng (các hoạt
động tôn giáo là một phần trong các thực hành hàng ngày tại các KGCC, tính
chính thức (các KGCC đƣợc thiết kế, xây dựng và quản lý bởi nhà nƣớc,
nhằm duy trì quyền lực của nhà nƣớc, tuy nhiên sự thống trị của chính quyền
cũng đang bị thách thức bởi việc tạo ra những ý nghĩa mới thông qua các thực
hành hàng ngày của ngƣời dân trong KGCC) và tính riêng tƣ (KGCC đƣợc sử
dụng để tạo ra sự riêng tƣ và thực hiện các hoạt động riêng tƣ, thể hiện quá
trình tƣ nhân hóa các KGCC). Nghiên cứu cho thấy nhiều KGCC đang đƣợc
hình thành trong lòng Hà Nội ở những mức độ công khai khác nhau, trở thành
khu vực chính trị nơi diễn ra các cuộc đàm phán giữa công dân và nhà nƣớc.
Vì vậy KGCC ở Hà Nội vừa là một đấu trƣờng cho lĩnh vực công (hay khu
vực công) (public sphere), vừa là một biểu hiện của lĩnh vực công.
Từ góc tiếp cận xã hội học, Lâm Thị Ánh Quyên (2011) coi KGCC là
đặc điểm chính của không gian đô thị, nơi biểu lộ bộ mặt đô thị cũng nhƣ bản
19
sắc đô thị, làm nên những “thành phố sống tốt” (chữ dùng của Douglas,
2008). KGCC đƣợc định nghĩa qua khả năng tiếp cận và sử dụng của ngƣời
dân. Tác giả cho rằng KGCC có mối quan hệ với “công cộng” (pulic sphere)
theo nghĩa là “công cộng đòi hỏi phải có một không gian vật lý. Không gian
này được gọi là không gian công cộng” [61]. Nghiên cứu của Trần Thị Ngọc
Nhờ (2019) [47] lại xem xét KGCC trong việc kết nối con ngƣời, thiết lập
mạng lƣới cá nhân và nhờ đó có vai trò quan trọng đối với việc hình thành và
phát triển các tiểu văn hóa trong lòng đô thị.
Các nghiên cứu Không gian bán công cộng và sự hình thành dư luận
xã hội của Nguyễn Quý Thanh, Trịnh Ngọc Hà (2009) [70]; luận án Tin đồn
và sự hình thành tin đồn trong không gian bán công cộng (nghiên cứu trường
hợp quán cà phê trên địa bàn Hà Nội) của Lữ Thị Mai Oanh (2019) [48] lại
xem xét một dạng đặc thù của KGCC là các không gian bán công cộng, xem
đó nhƣ là một nơi để hình thành dƣ luận xã hội. Các nghiên cứu đã chọn bối
cảnh nghiên cứu là các quán cà phê, địa điểm lí tƣởng cho các cá nhân trao
đổi, thảo luận về nhiều vấn đề khác nhau. Các nghiên cứu đã định danh các
không gian này là không gian bán công cộng, nơi kết hợp, pha trộn giữa hai
yếu tố công và tƣ, nơi ngƣời đến tham dự đƣợc tự do thể hiện bày tỏ ý kiến
nhƣng đồng thời cũng có nghĩa vụ phải tuân thủ những quy định do chủ sở
hữu không gian đặt ra nhƣ về trang phục, hành vi…). Đây cũng là không gian
thuận lợi cho việc tiếp nhận thông tin, tin đồn - những thông tin chƣa đƣợc
kiểm chứng - từ đó hình thành, lan tỏa, khuyếch trƣơng các tin đồn qua quá
trình tƣơng tác xã hội của các cá nhân, các nhóm khác nhau.
Qua điểm luận một số công trình, có thể thấy các nghiên cứu đã chỉ ra
sự quan trọng theo những cách khác nhau của KGCC đối với các nhóm chủ
thể trong không gian đô thị. Các chiều kích nghĩa cũng nhƣ các dạng thức của
KGCC ngày càng đƣợc mở rộng. KGCC tự biến hóa mình trong nhiều hình
thức, từ công viên, quảng trƣờng, vỉa hè đến chợ, trung tâm mua sắm, các
quán cà phê… và giữ những vai trò khác nhau gắn với mục đích kiến tạo: khi
20
là không gian cho các hoạt động giải trí hay tƣơng tác xã hội, khi là không
gian duy trì tính hợp pháp của quyền lực chính trị, khi là không gian tranh
chấp và thƣơng thỏa, khi là không gian để hình thành nên dƣ luận xã hội…
Nội hàm của khái niệm KGCC ngày càng trở nên phong phú và phức tạp hơn.
Trong đô thị hiện đại ngày nay, ngoài các hình thức KGCC nhƣ trên, có
những loại hình không gian khác vẫn đang đƣợc tạo ra, phản ánh nhu cầu của
ngƣời dân. Những phân tích ở các phần viết sau sẽ cho thấy KGST là một
dạng thức không gian khác trong không gian đô thị, đƣợc hình thành nên
trong bối cảnh đô thị hiện đại, một mặt gắn với sự phát triển của các ngành
công nghiệp sáng tạo, công nghiệp văn hóa tại Việt Nam, mặt khác thể hiện
nhu cầu thƣởng thức văn hóa nghệ thuật, trao đổi, tƣơng tác, tự do biểu đạt và
mong muốn đƣợc tham gia giải quyết những vấn đề chung của xã hội.
1.1.2. Nghiên cứu về không gian sáng tạo
Không gian sáng tạo từ góc nhìn của ngành công nghiệp sáng tạo
Ngành công nghiệp sáng tạo trong nhiều năm qua đã trở thành một
phần quan trọng của nền kinh tế trên toàn thế giới. Công nghiệp sáng tạo phát
triển khá nhanh chóng với sự gắn kết và giao thoa giữa các “trụ cột” nhƣ văn
hóa, kinh doanh và công nghệ, mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia. Đƣợc
xem là quốc gia tiên phong trong nền công nghiệp sáng tạo, từ cuối những
năm 90 của thế kỉ XX, Vƣơng quốc Anh đã nhìn thấy rõ vai trò của các ngành
công nghiệp sáng tạo đối với tăng trƣởng kinh tế, gắn kết cộng đồng và an
sinh xã hội. Các KGST là một phần của nền kinh tế sáng tạo, có vai trò nhƣ là
động lực, đòn bẩy hay thậm chí còn đƣợc nhấn mạnh nhƣ “ngọn hải đăng”
của nền kinh tế mới ở các đô thị. Trong bối cảnh toàn cầu, KGST dần trở
thành tâm điểm trong nền kinh tế của Vƣơng quốc Anh, của nhiều nƣớc châu
Âu và cả ở châu Á. Rất nhiều báo cáo cho thấy sự quan tâm nghiên cứu, tổng
kết của các quốc gia về KGST, có thể kể đến báo cáo: Needs analysis on
culture and creative hubs in Asia and Europe (Phân tích nhu cầu về tổ hợp
không gian văn hóa và sáng tạo ở châu Á và châu Âu) năm 2005 [84],
21
Cultural and creative hubs network Asia-Europe: a project for kick - starting
a new network between Asia and Europe (Mạng lƣới không gian văn hóa sáng
tạo Á - Âu: một dự án để khởi động một mạng lƣới mới giữa châu Á và châu
Âu) năm 2015 của Cultural and creative hubs network Asia - Europe (Mạng
lƣới không gian văn hóa sáng tạo Á - Âu) [85], Creative hubs: understanding
the new economy (Không gian sáng tạo: hiểu biết về nền kinh tế mới) của
British Council [83],… và hàng loạt các nghiên cứu vẽ bản đồ KGST tại nhiều
quốc gia trên thế giới. KGST trở thành mối quan tâm có tính toàn cầu, kết nối
các nền kinh tế sáng tạo, công nghiệp sáng tạo, công nghiệp văn hóa.
Trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về KGST tại Việt Nam, Hội đồng Anh
- tổ chức văn hóa và giáo dục quốc tế của Vƣơng quốc Anh đã có nhiều đóng
góp quan trọng, mang tính tiên phong nhằm hƣớng tới mục tiêu hỗ trợ Việt
Nam phát triển nền kinh tế sáng tạo cũng nhƣ tối ƣu hóa tác động của ngành
này đến tăng trƣởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Từ dự án Kinh tế sáng tạo năm 20083 cho đến nay, Hội đồng Anh đã có nhiều hoạt động trên nhiều phƣơng
diện: từ việc vận động chính sách trong những năm 2014-2016 thông qua hỗ
trợ tƣ vấn cho công tác soạn thảo Chiến lược phát triển các ngành công
nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đến tổ chức thực hiện
và công bố những nghiên cứu độc lập về KGST, tập huấn nhằm nâng cao
năng lực cho các KGST hay tổ chức các cuộc hội thảo nhằm kết nối, mở rộng
sự hiểu biết về các KGST.
Hàng loạt hội thảo về KGST đã đƣợc tổ chức. Hội thảo quốc tế “Các không gian sáng tạo trong thành phố”4 đƣợc tổ chức vào ngày 1/10/2014 bởi
Hội đồng Anh, Viện Goethe Hà Nội, Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch Việt
Nam và UNESCO hƣớng tới việc nâng cao hiểu biết về vai trò quan trọng của
các KGST trong việc thƣơng mại hóa đô thị, góp phần tạo ra hình ảnh đô thị
hiện đại và cởi mở đồng thời cũng chỉ ra những cơ hội, thách thức và những 3 https://www.britishcouncil.vn/cac-chuong-trinh/nghe-thuat/du-an-kinh-te-sang-tao 4 https://www.britishcouncil.vn/cac-chuong-trinh/nghe-thuat/du-an-kinh-te-sang-tao/hoi- thao-sang-tao-va-phat-trien-do-thi
22
việc cần làm để khuyến khích phát triển các KGST. Năm 2015, Hội đồng Anh tổ chức đào tạo chuyên gia về khởi nghiệp trong lĩnh vực sáng tạo5. Các hoạt
động kết nối đã đƣợc thúc đẩy, có thể kể đến nhƣ: Hội thảo Kiến tạo không gian sáng tạo6 đƣợc tổ chức trong hai ngày 7,8/3/2016 tại thành phố Hồ Chí
Minh, ở đó đại diện đến từ các KGST khác nhau đã thảo luận về các vấn đề
nhƣ đầu tƣ và nguồn thu bền vững cho KGST; hoạt động hợp tác giữa các
không gian sáng tạo, lập bản đồ cũng nhƣ quản lý KGST. Ngày 24/11/2016,
Hội thảo Đối thoại về vai trò của các không gian sáng tạo trong nền kinh tế sáng tạo tại Việt Nam7 đƣợc tổ chức tại thành phố Huế do sự hợp tác giữa Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội đồng Anh tại Việt Nam và Văn phòng
UNESCO tại Hà Nội. Giữa những ngƣời làm công tác quản lý nhà nƣớc về
văn hóa và đại diện đến từ các KGST đã có những thảo luận về những vấn đề
và thách thức của các KGST trong thực tế để từ đó cùng nhau đề xuất những
chính sách hợp lý nhằm nhìn nhận thỏa đáng về vai trò, khả năng đóng góp
của các KGST đối với từng địa phƣơng nói riêng và nền kinh tế cả nƣớc nói
chung.
Trong chuỗi hoạt động thuộc lĩnh vực nghệ thuật và công nghiệp sáng
tạo, năm 2014, Hội đồng Anh tại Việt Nam cho ra mắt Báo cáo về các không
gian sáng tạo tại Việt Nam đƣợc thực hiện bởi nhà báo Trƣơng Uyên Ly [21].
Thuật ngữ KGST sử dụng trong báo cáo đƣợc dịch từ “creative hub” (không
gian sáng tạo/ tổ hợp không gian sáng tạo) với nghĩa là sự liên kết các nhà
doanh nghiệp năng động tại một không gian cụ thể để cùng thử nghiệm những
dự án hay ý tƣởng kinh doanh mới, cùng kết nối để tìm cơ hội đầu tƣ và hỗ
trợ. KGST thƣờng thu hút nhiều ngƣời xuất phát điểm từ các nền tảng khác
https://www.britishcouncil.vn/cac-chuong-trinh/nghe-thuat/du-an-kinh-te-sang-tao/hoi-
http://tapchisonghuong.com.vn/hue/p1/c13/n24804/Hoi-thao-Doi-thoai-ve-vai-tro-cua-
5 https://www.britishcouncil.vn/cac-chuong-trinh/nghe-thuat/du-an-kinh-te-sang-tao/dao- tao-chuyen-gia-ve-khoi-nghiep-trong-linh-vuc-sang-tao 6 thao-kien-tao-khong-gian-sang-tao 7 cac-khong-gian-sang-tao-trong-nen-kinh-te-sang-tao-tai-Viet-Nam.html
23
nhau nhƣng hƣớng tới mục tiêu chung là phát triển nền công nghệ số, kinh
doanh, tạo dựng giá trị mới mẻ về đổi mới xã hội. Thực tế, Hội đồng Anh đã
có nhiều nỗ lực tập hợp, kết nối các KGST để thiết lập nên một mạng lƣới
toàn cầu những ngƣời sáng lập và cộng đồng của họ, hƣớng tới chia sẻ kiến
thức, công cụ và nguồn lực nhằm phát triển các KGST.
Về sau, các KGST đƣợc nói đến nhiều, nhất là sau những quan tâm của Nhà nƣớc (sự ra đời của một KGST từ khối nhà nƣớc nhƣ Vicas Art Studio8
có lẽ cũng chính là sự hiện thực hóa quan niệm về KGST nhƣ cách các nghiên
cứu của Hội đồng Anh định nghĩa, hội thảo của ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội về KGST9). KGST đƣợc đề cập đến trong sách10, trên báo chí và các
phƣơng tiện truyền thông. Các buổi hội thảo do Hội đồng Anh tổ chức về dự
án KGST thƣờng có sự tham gia của các nhà báo do vậy phần lớn thông tin về
KGST trên báo chí đều từ nguồn của Hội đồng Anh, phản ánh cách hiểu về
KGST trong các nghiên cứu của Hội đồng Anh.
Năm 2019, khi chính thức trở thành thành viên của Mạng lƣới các
thành phố sáng tạo của UNESCO trên toàn cầu, Hà Nội cam kết xây dựng
thành phố sáng tạo trong lĩnh vực thiết kế. Nhiều chƣơng trình và kế hoạch
hành động dài hạn sau đó đã đƣợc đặt ra, thể hiện tầm nhìn và mong đợi kiến
tạo Hà Nội với biểu tƣợng truyền thống “thành phố vì hòa bình” trở thành
“thành phố sáng tạo”. Trọng tâm trong các kế hoạch đó là việc khuyến khích,
tạo điều kiện phát triển KGST bằng rất nhiều các dự án, hoạt động thiết thực
nhƣ tổ chức cuộc thi Thiết kế không gian sáng tạo Hà Nội do Ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội, Hội Kiến trúc sƣ Việt Nam chỉ đạo; tổ chức các tọa
8 http://artstudio.vicas.org.vn/ 9 Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, hội thảo Phát huy tiềm năng, thế mạnh của các không gian sáng tạo trong phát triển công nghiệp văn hóa trên địa bàn thủ đô trong thời kì hội nhập và phát triển, tháng 10/2018. 10 Lƣơng Hồng Quang (2018), Các ngành công nghiệp sáng tạo ở Việt Nam: môi trường thể chế, thị trường và sự tham gia, Nxb Thế giới, Hà Nội.
24
đàm về thành phố sáng tạo, thiết kế không gian sáng tạo, chuyển đổi di sản công nghiệp thành không gian sáng tạo11…
Những nghiên cứu của Hội đồng Anh tại Việt Nam, bắt đầu từ năm
2014, dƣới góc nhìn của ngành công nghiệp sáng tạo, đã định danh, liệt kê
nhiều KGST của Việt Nam. Về sau, cũng giống nhƣ không khí hứng khởi của
chính các KGST, những nghiên cứu ban đầu về KGST của Hội đồng Anh đã
tạo ra cuộc thảo luận sôi nổi xoay quanh KGST, xem đây nhƣ là yếu tố then
chốt hƣớng tới đô thị sáng tạo, xây dựng các ngành công nghiệp sáng tạo,
công nghiệp văn hóa, có thể kể đến các nghiên cứu Không gian sáng tạo với
vai trò hỗ trợ khởi nghiệp của Phạm Thị Hƣơng (2016) [26], Kiến tạo không
gian sáng tạo trên địa bàn thủ đô - bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt
ra của Bùi Hoài Sơn (2018) [67], Phát triển các không gian sáng tạo ở Hà
Nội của Bùi Hoài Sơn (2019) [66], Factories as studios – Một cách tiếp cận
về không gian sáng tạo của Phạm Lan Hƣơng (2018) [28], Không gian sáng
tạo - mũi nhọn tiềm năng trong phát triển công nghiệp văn hóa Hà Nội của
Phạm Thị Mỹ Hoa (2021) [20] …
Bên cạnh những nghiên cứu tìm hiểu về KGST tại Việt Nam, Hội đồng
Anh tại Việt Nam còn nỗ lực giới thiệu những ví dụ thực tế, những kinh
nghiệm hữu ích đã đƣợc thử nghiệm bởi một số KGST thành công tại Anh và
châu Âu. Đƣợc thực hiện bởi các KGST dành cho những KGST mới, bộ công cụ Sổ tay không gian sáng tạo12 hƣớng tới đối tƣợng là các cá nhân hay tổ
chức sẽ thành lập và quản lý các KGST. Bộ công cụ đƣa ra định nghĩa về
KGST qua mục đích của KGST, mô hình các KGST và hƣớng dẫn khá cụ thể,
chi tiết về cách thức thành lập KGST nhƣ cách cấu trúc, duy trì và phát triển
bền vững qua việc kết nối với mạng lƣới KGST, phát triển các mối liên hệ lâu
dài với cộng đồng nhằm xây dựng sự thấu hiểu, niềm tin và mối quan hệ
tƣơng trợ. Trong bộ công cụ này, KGST đƣợc định nghĩa là “một địa điểm, có
11 https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Van-hoa/1012339/gop-suc-kien-tao-thanh-pho-sang-tao 12 https://www.britishcouncil.vn/sites/default/files/so-tay-khong-gian-sang-tao-hubkit.pdf
25
thể là địa điểm thực hoặc địa điểm trực tuyến, là nơi đem những con người
sáng tạo đến với nhau. Đó là nơi tụ họp, chia sẻ không gian và hỗ trợ cho các
hoạt động kết nối, phát triển kinh doanh và thu hút cộng đồng trong các lĩnh
vực sáng tạo, văn hóa và công nghệ”.
Các nghiên cứu độc lập của Hội đồng Anh tại Việt Nam cũng đã làm rõ
nhiều vấn đề khác nhau về KGST, có thể kể đến nhƣ Nghiên cứu ban đầu về
các không gian sáng tạo tại Việt Nam [21], Nghiên cứu về chính sách và các
không gian sáng tạo Việt Nam [22], Báo cáo về các không gian sáng tạo tại
Việt Nam [23]. Các nghiên cứu cho thấy sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng hơn
về lĩnh vực và lan rộng về địa lý của các KGST (từ 40 KGST trong báo cáo
năm 2014 đến 140 KGST - báo cáo năm 2018) nhƣ dấu hiệu chỉ báo sự phát
triển nhanh chóng của nền kinh tế sáng tạo tại Việt Nam. Định nghĩa về
KGST trong các nghiên cứu độc lập này dựa trên các từ khóa nhƣ “kết nối”,
“sáng tạo”, “định hƣớng kinh doanh” [21]. Tuy nhiên từ thực tế đa dạng của
các KGST tại Việt Nam, nghiên cứu cũng cho thấy khó có thể có một định
nghĩa bao quát đƣợc hết các KGST hay bản thân mỗi KGST là một định nghĩa
về KGST. Các KGST có thể có địa điểm cụ thể hay không có địa điểm cố
định, có thể là không gian trực tuyến, là một quán cà phê, một phòng tranh,
một không gian làm việc chung, studio, một trang web…
Các nghiên cứu đề cập đến tác động xã hội của các KGST trên nhiều
phƣơng diện. KGST có thể là nơi cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công
nghiệp sáng tạo có thể kết nối, tƣơng trợ lẫn nhau tạo thành một thể thống
nhất thông qua hỗ trợ cho thuê mặt bằng, hỗ trợ không gian cho nghệ sĩ trẻ
trong việc trƣng bày, truyền thông và kinh doanh các tác phẩm nghệ thuật của
mình hay là không gian giải trí, đƣa nghệ thuật đến gần hơn với cộng đồng.
Các nghiên cứu đều coi khung pháp lí là vấn đề then chốt cho tƣơng lai của
các KGST. Trong sự so sánh với sự phát triển của các KGST trên thế giới, các
nghiên cứu cũng cho thấy nếu nhƣ các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các
nƣớc châu Âu thƣờng có chính sách hỗ trợ cho các KGST ngay từ ban đầu
26
hình thành, còn riêng tại Việt Nam, KGST là một hiện tƣợng còn khá mới,
các hỗ trợ của nhà nƣớc gần nhƣ là chƣa có. Sự hỗ trợ nếu có thƣờng đến từ
một số tổ chức nƣớc ngoài tại Việt Nam nhƣ Hội đồng Anh, Trung tâm văn
hóa Pháp, Viện Goethe… Hơn nữa, các KGST tại Việt Nam gặp phải nhiều
rào cản từ việc cấp phép, kiểm duyệt hay sự thiếu tin tƣởng của chính quyền.
Không gian sáng tạo - từ góc nhìn nghệ thuật
Trong danh mục các KGST đƣợc tổng hợp bởi các báo cáo từ Hội đồng
Anh, có nhiều KGST đƣợc xuất hiện trong những nghiên cứu về nghệ thuật.
Từ góc nhìn của những ngƣời nghiên cứu nghệ thuật, nhiều tác giả trong,
ngoài nƣớc đã đề cập đến một số KGST tại Việt Nam và xem đây là không
gian của nghệ thuật, dành cho nghệ thuật. Có thể kể đến những nghiên cứu
quan trọng tiếp cận từ góc nhìn này nhƣ: Vietnamese Anti-Art and Anti-
Vietnamese Artists: Experimental Performance Culture in Hanoi’s
Alternative Exhibition Spaces (Phản - nghệ thuật của Việt Nam và các nghệ sĩ
phản - Việt Nam: văn hóa trình diễn thể nghiệm tại các không gian triển lãm
phá cách của Hà Nội) của Nora Taylor (2007) [119], Vietnam comes of age, a
new arts complex in Hanoi reveals a generational shift của Elisabeth Rosen
(2013) [128], Nguyễn Nhƣ Huy (2013) với chuỗi bài viết và phỏng vấn trên
báo Thể thao và Văn hóa [123], [124].
Từng viết rất nhiều về hội họa và nghệ thuật Việt Nam đƣơng đại, Nora
A. Taylor - giáo sƣ về nghệ thuật Nam Á và Đông Nam Á của Trƣờng Mĩ
thuật, Viện Mỹ thuật Chicago trong khi lập luận rằng một số nghệ sĩ Việt
Nam đang cố gắng sáng tạo ra một dạng “nghệ thuật phản dòng chính của
Việt Nam” [119] thì đồng thời họ cũng đang cố gắng thử nghiệm với các
không gian mới cho nghệ thuật. Các tác phẩm thuộc dòng này một mặt vừa
thể hiện nội tâm của ngƣời nghệ sĩ, mặt khác diễn tả những quan điểm thẳng
thắn, trực diện về những vấn đề đƣợc xem là nhạy cảm, thậm chí còn gây ra
sự xung đột với giới chức chính quyền vì những nội dung mang đậm tính
chính trị. Khi nói đến các tác phẩm có tính khiêu khích, đối nghịch, phá vỡ
27
mọi định nghĩa về nghệ thuật (nhƣ nghệ thuật sắp đặt của Trƣơng Tân tại
Viện Goethe, trình diễn nghệ thuật tại nhà sàn Đào Anh Khánh, Nhà sàn
Đức…), theo Nora A. Taylor, những không gian cho nghệ thuật trình diễn
cũng nhƣ một sự khiêu khích, thách thức các quy định chuẩn mực trƣng bày
thông thƣờng tại các gallery và bảo tàng. Các địa điểm trƣng bày nghệ thuật
theo đó không chỉ là bối cảnh đơn thuần cho tác phẩm mà cũng trở thành một
yếu tố hình thức. Nora A. Taylor cũng nhận ra rằng tác giả có các tác phẩm
nghệ thuật đƣơng đại ở những thập niên cuối thế kỉ XX tại Việt Nam đƣợc
xem là “thể nghiệm”, “tiền phong”, “phản dòng chính” thì họ cũng có xu
hƣớng lựa chọn những nơi chốn “bên lề”, “phá cách”, “khu vực ngoại vi” làm
địa điểm trƣng bày hay không gian cho nghệ thuật trình diễn.
Vẫn tiếp cận từ góc độ nghệ thuật, Nguyễn Nhƣ Huy (2013) [123],
[124] trong “Một báo cáo vắn tắt về không gian phá cách” chỉ rõ những đặc
trƣng nổi bật của các không gian phá cách (alternative space). Theo tác giả, sự
hình thành các không gian phá cách trên thế giới, nhìn từ khu Soho - cách nói
tắt của South of Houston - phía nam phố Houston, New York ở những thập kỉ
70 của thế kỉ XX chính là chiếc nôi đầu tiên của dạng không gian phá cách,
đƣợc cho là xuất phát từ sự phản kháng của giới nghệ sĩ đối với “tính chất
phân cấp nặng nề của hệ thống gallery, bảo tàng nghệ thuật” và “tính thương
mại của thế giới nghệ thuật New York”. Động cơ phản kháng này dẫn đến một
mô hình thực hành nghệ thuật kiểu mới nhấn mạnh “sự sáng tạo, sự bất ngờ,
tính tiền phong” đồng thời mở đầu cho một sự thay đổi lớn trong mối quan hệ
giữa nghệ thuật và đời sống, giữa tác phẩm và công chúng mà ở đó công
chúng thay vì thƣởng thức thụ động thì đƣợc mời gọi tham gia tích cực hơn
vào quá trình tạo ra tác phẩm. Mối quan hệ giữa nghệ sĩ, tác phẩm và công
chúng vì vậy có tính động, đa chiều, có sự tƣơng tác mạnh mẽ để cùng tạo
nghĩa cho tác phẩm.
Cũng bởi tính phản kháng nên “đặc trưng quan trọng nhất về mặt khái
niệm của mọi không gian phá cách luôn nằm ở sự đối nghịch với mọi dạng
28
không gian truyền thống” [123]. Nguyễn Nhƣ Huy đã tóm tắt sự đối nghịch
đó qua 4 đặc tính: tính trực tiếp, phi thƣơng mại, sự tƣơng tác với các vấn đề
địa phƣơng bằng các tƣ duy và hành động tầm toàn cầu, là một cầu nối và có
các chƣơng trình trao đổi với các không gian phá cách khác trong khu vực. Sự
ra đời của các không gian phá cách ở Việt Nam, theo Nguyễn Nhƣ Huy, cũng
giống nhƣ sự hình thành các không gian phá cách trên thế giới. Ngoài lí do
bối cảnh mở cửa và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ thì còn xuất phát từ
việc “một số ít nghệ sĩ muốn có một không gian để thực hiện dạng nghệ thuật
“khác” với dạng nghệ thuật cũ”. Salon Natasha, Nhà sàn Đức, Không gian
Ryllega (Hà Nội); Bảo tàng văn hóa Mường (Hòa Bình); New Space Gallary
(Huế); Sàn Art, Ga 0, Nhóm Ba hoa Chích chòe (thành phố Hồ Chí Minh) là
những ví dụ đƣợc kể đến để chứng minh cho “một làn sóng mới các không
gian phá cách tại Việt Nam” (các không gian này đều nằm trong danh mục
các KGST trong báo cáo của Hội đồng Anh). Nét khác biệt của không gian
phá cách Việt Nam là “tính chất du kích”, hàm ý các hoạt động của các không
gian này phần lớn đƣợc diễn ra ở các địa điểm không cố định, tạm thời nhƣ
quán cà phê, các địa điểm cộng cộng nhằm giảm chi phí, để dễ gần hơn với
công chúng và đặc biệt là tránh đƣợc các nhiêu khê từ việc xin cấp phép cho
các loại hình nghệ thuật còn quá mới mẻ vào thời kì đó. Nguyễn Nhƣ Huy
cho rằng “Ở Việt Nam, theo nghĩa rộng, về mặt hình thức, tất cả các không
gian nghệ thuật phi chính thống, và không có mục tiêu lợi nhuận, đều có thể
coi là các không gian phá cách” [123], [124].
Qua việc nhìn nhận sự hình thành, lớn mạnh của Zone 9 và trò chuyện
với một số ngƣời là chủ của KGST nằm trong Zone 9 (hay còn đƣợc gọi là “tổ
hợp không gian sáng tạo Zone 9” hay “hợp tác xã Zone 9” - một khu đất bỏ
hoang sau khi một công ty dƣợc phẩm dời đi để lại những đổ nát, cũ kĩ, hoang
tàn, nhiều nghệ sĩ đã tới đây, tập hợp nhau lại dựng thành một tổ hợp KGST
phong cách, mang dấu ấn cá nhân mạnh mẽ), Rosen Elisabeth (2013) cho thấy
sức hấp dẫn của tổ hợp không gian này không chỉ giới hạn trong phạm vi
29
cộng đồng nghệ thuật mà còn mở rộng kết nối nhiều cá nhân khác trong thành
phố. Những cuộc phỏng vấn, trò chuyện với chủ các KGST, với ngƣời đến
tham dự cho thấy “khác biệt”, “cảm giác tự do”, “sáng tạo”, “không có ranh
giới” là cách họ nói về các không gian nhƣ vậy. Đặt câu chuyện về sức hấp
dẫn của một khu tổ hợp nghệ thuật sáng tạo nhỏ bé nhƣng có ảnh hƣởng rộng
lớn trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của xã hội Việt Nam, tác giả tìm
kiếm và lí giải những động lực cho hiện tƣợng này. Theo đó, nó phản ánh “sự
chuyển đổi mang tính thế hệ”, ở đó con ngƣời đô thị, đặc biệt là giới trẻ
dƣờng nhƣ đang vô cùng hứng thú với việc tìm kiếm một phong cách sống
mới sau thời kì hậu chiến khao khát tiêu dùng. Họ bộc lộ một lối tƣ duy khác
trƣớc, độc lập và thực tế hơn. Tác giả cho rằng Việt Nam dƣờng nhƣ đang
“chạm đến ngưỡng tiếp theo của sự phát triển” [128]. Bài viết này đã phát
hiện, lí giải những động thái khác của xã hội Việt Nam và xem đó là căn
nguyên, nội lực cho sự ra đời của hàng loạt các KGST, chứ không chỉ là
những câu chuyện về nghệ thuật.
Có thể thấy, những nghiên cứu trên đây không sử dụng thuật ngữ
“không gian sáng tạo” mà thay vào đó là “không gian phá cách” (alternative
space), nhấn mạnh tính phá cách nhƣ một đặc trƣng tiêu biểu nhất cho các
loại không gian này. Điểm chung của tất cả các nghiên cứu từ góc nhìn nghệ
thuật là đều xem các không gian nhƣ một địa điểm dành cho nghệ thuật, trên
đó diễn ra các thực hành nghệ thuật mới mẻ, độc đáo, thể hiện những suy tƣ
hay cả sự phản kháng của các nghệ sĩ đối với nhiều vấn đề trong đời sống.
Các nghiên cứu cũng cho thấy vai trò của các không gian này trong việc kết
nối các chủ thể sáng tạo, đƣa nghệ thuật tới gần hơn với cuộc sống.
Nhƣ vậy, KGST đã đƣợc nghiên cứu từ những góc nhìn khác nhau ở cả
các nghiên cứu trong nƣớc và trên thế giới, trong đó chủ yếu tập trung vào vai
trò của KGST với công nghiệp sáng tạo, công nghiệp văn hóa, với sự phát
triển của nghệ thuật đƣơng đại. Tuy nhiên, các lý do này dƣờng nhƣ chƣa thể
giải thích hết những nét riêng biệt của các thực hành tại các KGST cũng nhƣ
30
lý do của ngƣời kiến tạo và ngƣời sử dụng KGST trong bối cảnh đô thị Việt
Nam đƣơng đại. Và nếu chỉ coi KGST nhƣ là thành tố cốt lõi để phát triển
công nghiệp sáng tạo, từ góc nhìn văn hóa có lẽ ý nghĩa của các KGST đã bị
đơn giản hóa, lƣợc bỏ đi nhiều lớp nghĩa khác. KGST là khái niệm đƣợc
chuyển ngữ từ một thuật ngữ nƣớc ngoài (creative hub) nhƣng khi đƣợc sử
dụng, đƣợc nói đến ở đây lại mở ra nhiều chiều kích ý nghĩa khác nhau gắn
với những động năng riêng có của đô thị Việt Nam.
Đặt trong bối cảnh không gian đô thị, nghiên cứu về KGST - nơi diễn
ra những trao đổi, thảo luận tự do, cởi mở, nơi thực hành các giá trị dân chủ,
vì vậy sẽ góp phần nhìn nhận một dạng thức không gian của đô thị, qua đó
phản ánh những thay đổi năng động của bối cảnh đô thị Việt Nam.
1.2. Cơ sở lý luận
Luận án tập trung khám phá các thực hành văn hóa và ý nghĩa của các
thực hành văn hóa đó trong KGST. Câu hỏi nghiên cứu chính đƣợc đặt ra
trong toàn bộ luận án là KGST có ý nghĩa nhƣ thế nào với đời sống văn hóa
đô thị Hà Nội trong bối cảnh đƣơng đại? Xoay quanh câu hỏi nghiên cứu
chính, một số câu hỏi nhỏ đƣợc đƣa ra trong luận án: 1. Những điều kiện kinh
tế, chính trị, văn hóa xã hội nào của đô thị Hà Nội đã góp phần hình thành và
dung dƣỡng các KGST? 2. Các thực hành văn hóa nào đang diễn ra tại các
KGST? Nói cách khác, những thực hành văn hóa nào đã và đang tạo nghĩa
cho các KGST? 3. Các thực hành văn hóa trong các KGST có ý nghĩa nhƣ thế
nào với các nhóm chủ thể kiến tạo. Những điều kiện kinh tế, chính trị, văn
hóa xã hội nào của đô thị đƣơng đại góp phần hình thành nên các KGST?
Để trả lời cho những câu hỏi trên, luận án sử dụng một số khái niệm và
lý thuyết liên quan:
1.2.1. Một số khái niệm
Không gian sáng tạo
Ở Việt Nam, không gian sáng tạo (creative hub) là khái niệm khá mới,
đƣợc nói đến nhiều trong khoảng gần 10 năm trở lại đây. Khái niệm này đƣợc
31
xuất hiện kể từ năm 2014 trong một nghiên cứu đầu tiên về KGST của Hội
đồng Anh [21]. Có thể nói chính Hội đồng Anh là tổ chức tiên phong đƣa khái
niệm KGST - vốn là một mô hình phát triển quan trọng và quen thuộc trong
nền kinh tế sáng tạo phát triển mạnh mẽ ở Vƣơng quốc Anh - vào Việt Nam
với mong muốn thúc đẩy công nghiệp sáng tạo. Đặt trong bối cảnh sự phát
triển với tốc độ nhanh chóng của nền kinh tế sáng tạo, sự gia tăng các sản
phẩm sáng tạo của tầng lớp sáng tạo có thể mang lại doanh thu lớn cho các
quốc gia, giải quyết vấn đề việc làm, thay đổi cảnh quan đô thị cũng nhƣ góp
phần giữ gìn bản sắc văn hóa. Từ kinh nghiệm và thực tiễn của Vƣơng quốc
Anh, KGST - với tƣ cách là các tổ chức và doanh nghiệp trong lĩnh vực văn
hóa nghệ thuật - đƣợc coi là yếu tố chủ chốt của nền công nghiệp sáng tạo,
góp phần định hình nền kinh tế sáng tạo trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự
phát triển vƣợt bậc của khoa học kĩ thuật. Theo đó, KGST tồn tại dƣới nhiều
mô hình khác nhau nhƣ studio (nơi một tập thể các cá nhân hoặc các doanh
nghiệp nhỏ cùng là việc trong một không gian), tổ hợp hay trung tâm (bao
gồm sự kết hợp của nhiều hình thức khác nhau nhƣ quán cà phê, quán bar, rạp
chiếu phim, cửa hàng, không gian triển lãm…), lab (phòng thí nghiệm), co-
working (các không gian làm việc chung), các không gian trực tuyến (hoạt
động theo hình thức online nhƣ các trang web hay sử dụng mạng xã hội để kết
nối công chúng)... Họ xem KGST là nơi kết nối, tụ hội của mạng lƣới các
doanh nghiệp năng động, những ngƣời trẻ sáng tạo và đổi mới, họ kết nối,
cùng hỗ trợ và tìm những cơ hội đầu tƣ, cam kết hƣớng tới những viễn cảnh
tốt đẹp hơn. Với tính pha trộn, cởi mở, thích ứng, KGST đƣợc coi là những
mô hình kinh doanh mới, hỗ trợ, kết nối cộng đồng kinh doanh, thực hành
nghệ thuật và sáng tạo. Nhận thấy hiệu quả lớn lao từ mô hình năng động này,
Hội đồng Anh đã có nhiều nỗ lực để nới rộng mạng lƣới các KGST bằng việc
tham gia thiết lập nên Diễn đàn Không gian sáng tạo châu Âu để cùng chia sẻ
kiến thức, công cụ và nguồn lực nhằm phát triển các KGST trên thế giới. Tại
Việt Nam, Hội đồng Anh đã thực hiện hàng loạt dự án trong lĩnh vực công
32
nghiệp sáng tạo nhằm hỗ trợ việc triển khai Chiến lược phát triển công nghiệp
văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó có dự án nghiên cứu
và phát triển KGST.
Những nghiên cứu ban đầu của Hội đồng Anh và sau đó là nhiều
nghiên cứu của các tác giả trong nƣớc đã chỉ ra chức năng của các KGST nhƣ
là nơi để sáng tạo, sản xuất và bán các sản phẩm, dịch vụ sáng tạo; nơi tổ
chức các lớp học, tọa đàm, chia sẻ kiến thức và kĩ năng cho cộng đồng sáng
tạo; tổ chức các sự kiện nghệ thuật phục vụ cho công chúng… Họ cũng lý giải
sự hứng khởi của các KGST nhƣ là kết quả của những tác động bên ngoài (xu
hƣớng toàn cầu hóa và sự thâm nhập của những hiện tƣợng văn hóa trên thế
giới vào Việt Nam, sự thúc đẩy của bối cảnh phát triển của công nghiệp sáng
tạo trên thế giới) và cả những lý do nội tại (nhƣ ngƣời trẻ tiếp thu cái mới trên
thế giới, nhu cầu sáng tạo và kinh doanh…). Điều này hoàn toàn đúng cho các
mô hình KGST theo định nghĩa của Hội đồng Anh, xem KGST là nơi “kết
nối”, “sáng tạo” và “có định hƣớng kinh doanh”.
Những nghiên cứu của Hội đồng Anh tại Việt Nam cho thấy KGST là
một khái niệm mở và dƣờng nhƣ khó có một định nghĩa nào bao quát hết sự
đa dạng của các loại hình không gian hay thậm chí “mỗi không gian là một ví
dụ độc đáo cho khái niệm KGST” [21]. Từ chỗ đƣợc nhận diện qua ba tiêu chí
“kết nối”, “sáng tạo” và “có định hướng kinh doanh”, đến năm 2018, KGST
đƣợc định nghĩa rõ ràng, cụ thể hơn: “KGST là một địa điểm, có thể là địa
điểm thực hoặc địa điểm trực tuyến, là nơi đem con người sáng tạo đến với
nhau. Đó là nơi tụ họp, chia sẻ không gian và hỗ trợ cho các hoạt động kết
nối, phát triển kinh doanh và thu hút cộng đồng trong các lĩnh vực sáng tạo,
văn hóa và công nghệ” [23]. Theo đó phạm vi khái niệm KGST thực sự mở
rộng. Xét theo địa điểm, KGST có thể có địa điểm cố định hoặc thƣờng xuyên
di chuyển, thuê mƣợn không gian để tổ chức sự kiện, có thể là địa điểm thực
hay không gian trực tuyến. Xét về hình thức thì còn đa dạng hơn, có thể là
một quán bar, quán cà phê, một không gian làm việc chung (co-working), một
33
studio hay một website… Xét về chức năng, các KGST thƣờng sản xuất, kinh
doanh các sản phẩm hay dịch vụ sáng tạo, thực hiện dự án, sự kiện thúc đẩy
sự sáng tạo và phát triển cộng đồng thông qua việc chia sẻ kiến thức tại các
hội thảo, tọa đàm…
Có thể thấy, những nỗ lực để khái quát hóa thực tiễn đa dạng của các
KGST thành một định nghĩa ngắn gọn, cô đọng thực sự khó khăn bởi mỗi
KGST đƣợc kiến tạo nên bởi một hay một nhóm ngƣời với cá tính, chủ đích
riêng, với hoạt động đa dạng trên nhiều lĩnh vực. Cũng vì thế đƣa ra một định
nghĩa về KGST hoặc khó có thể bao quát đƣợc hết các loại hình KGST hoặc
có thể sẽ đồng nghĩa với việc giản lƣợc đi tính phong phú, đan xen phức tạp
mà diện mạo đời sống văn hóa đô thị đƣợc hình dung từ các KGST nên đƣợc
phô bày ra một cách tự nhiên trong tính đa dạng, bề bộn.
Ở đây khi nói về KGST, điều cần làm rõ chính là tính “sáng tạo” của
không gian - đặc điểm khiến cho KGST khác với các loại hình không gian
khác. Tính sáng tạo của không gian tất nhiên không phải là một đặc điểm sẵn
có, tồn tại trƣớc khi con ngƣời hiện diện ở đó cùng với các thực hành văn hóa
mà là một sản phẩm kiến tạo xã hội. Khi nghiên cứu về không gian công
cộng, Mitchell (2003) đã cho rằng: “Cái làm cho một không gian trở thành
công cộng thường không nằm ở tính công cộng được xác định trước của nó.
Tính công cộng của không gian được tạo ra khi nó đáp ứng những nhu cầu
nhất định, khi một số nhóm này hay nhóm khác sử dụng không gian và hoạt
động ở đó làm cho nó trở thành công cộng” (dẫn theo Phạm Quỳnh Phƣơng)
[51]. Khi bàn về không gian công, David Koh cho rằng không gian công
không chỉ là một không gian vật chất cố định với các chức năng sẵn có, cụ thể
mà là không gian do ngƣời sử dụng tạo ra [102]. Cũng nhƣ vậy trong một
nghiên cứu khác về không gian thiêng, Phạm Quỳnh Phƣơng (2010) lập luận
rằng không gian thiêng là những không gian đƣợc kiến tạo mà ở đó con ngƣời
đặt cái thiêng vào không gian, định vị nó trong mối tƣơng quan với sự trải
nghiệm của cá nhân hay của cộng đồng. Không gian gắn với những lớp ý
34
nghĩa đƣợc con ngƣời gán cho và đƣợc quy chiếu bởi những mối quan hệ xã
hội [49]. Nhƣ vậy, tính thiêng, tính công cộng hay tính sáng tạo không phải là
những ý nghĩa tiên nghiệm của các vị trí địa lí cụ thể mà là kết quả của quá
trình kiến tạo bởi con ngƣời.
Trên cơ sở kế thừa những quan điểm trên, trong luận án này, KGST
đƣợc hiểu là những kiến tạo xã hội thông qua các thực hành văn hóa, kết nối
các cá nhân cùng mối quan tâm, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các nhóm xã
hội, tác động lên đời sống văn hóa đô thị theo nhiều cách khác nhau. KGST là
những không gian đa dạng, linh hoạt, thay đổi và thích ứng. KGST có thể là
một địa điểm cụ thể cho hoạt động sáng tác, biểu diễn nghệ thuật, là không
gian trƣng bày, triển lãm các tác phẩm, là nơi cho thƣởng thức nghệ thuật với
nhiều loại hình đa dạng nhƣ âm nhạc, phim ảnh, hội họa, văn chƣơng…
KGST cũng có thể trở thành nơi diễn ra các workshop, các buổi tọa đàm, chia
sẻ, thảo luận về nhiều vấn đề của đời sống xã hội. Nhƣng không chỉ là những
địa điểm, đƣợc đánh dấu bởi một vị trí địa lý cụ thể trên bản đồ, KGST còn là
những nơi chốn có sức hấp dẫn riêng bởi nó đáp ứng đƣợc nhu cầu riêng của
các nhóm xã hội mà các nơi khác không đáp ứng đƣợc. KGST đƣợc tạo nên
nhằm khơi dậy sự sáng tạo, mang đến không khí cởi mở, thúc đẩy tự do biểu
đạt. Cách định danh một không gian nào đó là KGST còn bởi tinh thần “sáng
tạo” mà không gian đó gợi lên, nhƣ một yếu tố cốt lõi, chứ không chỉ đơn
thuần xem đây nhƣ một nơi để tạo ra tác phẩm. Sáng tạo còn hàm nghĩa là tự
do, cần tự do, xem tự do là điều kiện tất yếu để sáng tạo: tự do bày tỏ quan
điểm, chính kiến, tự do với tƣ cách một công dân. Sáng tạo có khi còn hứa
hẹn những thay đổi, những chuyển biến khi từ các cuộc thảo luận, trò chuyện
mà làm thay đổi cách suy nghĩ, nhận thức, dẫn tới hành động.
Đô thị
Theo Luật Quy hoạch đô thị thì đô thị đƣợc định nghĩa là: “khu vực tập
trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực
kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa
35
hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của quốc
gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã, thị trấn”13.
Một số nghiên cứu về điện ảnh nói nhiều về mối quan hệ giữa điện ảnh
và đô thị, coi điện ảnh là bộ nhớ, là nơi lƣu trữ cảnh quan thành phố, nơi phản
ánh những thay đổi của đời sống trong thành phố. Điện ảnh xem đô thị không
chỉ là nơi nuôi dƣỡng nghệ thuật với nghĩa là nơi cung cấp những bối cảnh
phong phú, những chủ đề đa dạng mà còn coi đô thị nhƣ một thực thể sống
phức tạp, đa dạng, sinh động, hiện lên trong tác phẩm điện ảnh nhƣ một
gƣơng mặt sống động (các nghiên cứu của: Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2017)
[10]; Nguyễn Hoàng Quý Hà (2018) [15].
Dƣới góc nhìn của nhà xã hội học Louis Wirth (1938) trong bài viết
Urbanism as a way of life (Đô thị nhƣ một lối sống) đã định nghĩa đô thị nhƣ
một vùng định cƣ tƣơng đối lớn, đông đúc, lâu dài của những cá nhân khác
biệt, dị biệt về mặt xã hội (socially heterogeneous individuals). Đặc trƣng của
đô thị đƣợc miêu tả nhƣ là nơi hội tụ của nhiều chủng tộc, dân tộc, nhiều nền
văn hóa, vì thế đô thị mang tính “khoan dung” và tôn trọng những khác biệt
cá nhân. Đối với Louis Wirth, đô thị là một hình thái tổ chức xã hội đặc thù
khác hẳn so với các cộng đồng khác ở các vùng nông thôn, là một “lối sống
đặc thù” (as a way of life) [109].
Trong luận án này, đô thị không chỉ đƣợc hiểu là một đơn vị hành
chính đƣợc đặc trƣng bởi những yếu tố về dân cƣ, vị trí địa lí… mà còn là một
thực thể văn hóa đƣợc tạo nên bởi các thực hành văn hóa. Đó là không gian
đa dạng quy tụ nhiều nhóm xã hội với mối bận tâm khác nhau, nơi tạo ra
không gian rộng rãi cho trải nghiệm riêng tƣ của cá nhân, nơi các nhóm xã hội
tự tạo nên nơi chốn mới cho những sinh hoạt văn hóa đa dạng. Đô thị là
không gian nới lỏng nhiều ràng buộc hơn so với không gian làng xã truyền
thống, nơi dung chứa sự đa dạng. Đô thị vừa là nơi sạch sẽ quy củ nhƣng
13 Luật Quy hoạch đô thị số 30/2009/QH12, ngày 17/6/2009
36
cũng còn nhiều bề bộn, nhếch nhác, vừa là không gian công cộng rộng rãi vừa
là nơi chốn riêng tƣ, vừa là nơi cho quan điểm chính thống nhƣng cũng là nơi
có nhiều ngóc ngách cho những thành phần bên lề, ngoại biên đƣợc thể hiện
các quan điểm cá nhân. Tính chất đa dạng, bề bộn của đô thị phần nào cũng sẽ
đƣợc bộc lộ trong phần phân tích ở các chƣơng viết sau.
Đời sống văn hóa đô thị
Khi tồn tại trong xã hội, con ngƣời cùng lúc duy trì thực hiện hoạt động
sinh học và hoạt động xã hội để vừa đảm bảo sự sống vừa nâng cao chất
lƣợng sống. Đời sống sinh học và đời sống văn hóa vì thế là hai bộ phận song
song tồn tại trong đời sống con ngƣời. Khi phân tích khái niệm và cấu trúc đời
sống văn hóa, Trần Đức Ngôn (2017) đã cho rằng “Đời sống văn hóa, nếu
quan niệm theo nghĩa rộng thì đó là toàn bộ những yếu tố văn hóa hiện hữu
trong đời sống con người” [43]. Ở đây diễn ra sự tác động hai chiều: con
ngƣời tác động vào văn hóa, tạo ra văn hóa và biến đổi văn hóa. Ở chiều
ngƣợc lại, văn hóa cũng tác động lên con ngƣời, hình thành nên quan điểm,
suy nghĩ, nhân cách con ngƣời. Tác giả cũng làm rõ cấu trúc đời sống văn hóa
gồm hai phƣơng diện: cấu trúc bề mặt và cấu trúc bề sâu. Cấu trúc bề mặt hay
diện mạo của đời sống văn hóa đƣợc thể hiện qua ba nhóm hoạt động: hoạt
động tiếp nhận – hƣởng thụ văn hóa, hoạt động thực hành truyền bá văn hóa
và hoạt động sáng tạo văn hóa. Cấu trúc bề sâu gồm các giá trị nhận thức, giá
trị tƣ tƣởng, giá trị tình cảm. Các yếu tố thuộc cấu trúc bề sâu đƣợc phản ánh,
thể hiện thông qua các hoạt động thuộc cấu trúc bề mặt và ngƣợc lại cấu trúc
bề mặt cũng tác động và làm hình thành các yếu tố thuộc cấu trúc bề sâu. Một
cách khái quát, đời sống văn hóa đƣợc định nghĩa là “kết quả của hoạt động
tương tác giữa con người với môi trường văn hóa, tạo nên diện mạo cũng như
chiều sâu tinh thần con người, thể hiện chất lượng sống và góp phần hình
thành nhân cách” [43].
Cũng xem đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, bên
cạnh đời sống kinh tế, đời sống chính trị, phản ánh nhu cầu văn hóa của xã
37
hội, biểu hiện chất lƣợng sống của con ngƣời, Nguyễn Thị Đức (2017) cho
rằng “đời sống văn hóa là toàn thể các hoạt động sống của con người nhằm
thỏa mãn nhu cầu văn hóa, hướng con người đến các giá trị chân, thiện, mỹ,
hình thành con người nhân văn” [12]. Đời sống văn hóa theo đó bao gồm các
sản phẩm văn hóa, các hoạt động văn hóa đa dạng đáp ứng nhu cầu hƣởng thụ
và sáng tạo của con ngƣời. Đời sống văn hóa tồn tại, hiện hữu ngay trong đời
sống thƣờng ngày, dƣới nhiều dạng thức biểu hiện khác nhau, từ lối sống, ứng
xử, đến thực hành tín ngƣỡng, lễ hội hay ngay trong lao động sản xuất. Từ
cách hiểu về “đời sống văn hóa” của các tác giả trên, có thể xem khái niệm
“đời sống văn hóa đô thị” gắn với các hoạt động tƣơng tác giữa con ngƣời với
môi trƣờng văn hóa tại các đô thị, gắn với ngƣời dân đô thị.
Nhƣ vậy, có thể hiểu đời sống văn hóa đô thị đƣợc hình thành, phát
triển trong quá trình hoạt động và tƣơng tác xã hội của ngƣời dân đô thị trong
bối cảnh đô thị. Nó bao gồm toàn bộ các thực hành văn hóa của con ngƣời
trong không gian đô thị, thỏa mãn nhu cầu văn hóa cho ngƣời dân, và các thực
hành văn hóa đó, trong chiều ngƣợc lại, có tác động mạnh mẽ đến chính các
chủ thể thực hành, góp phần hình thành suy nghĩ, quan điểm, tính cách của
con ngƣời và rộng ra là tác động đến xã hội.
Khu vực công
Trong những năm 1960, nhiều nhà tƣ tƣởng lớn của châu Âu đã nhấn
mạnh tầm quan trọng của khu vực công hay lĩnh vực công (public sphere) đối
với sự tồn tại của một xã hội tự do và dân chủ. Khi nghiên cứu về khu vực
công, 2 nhà tƣ tƣởng đã có ảnh hƣởng đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực thảo
luận này, đó là Hannah Arendt và Habermas. Theo Hannah Arendt (1906 -
1975), khu vực công là điều rất quan trọng đối với một xã hội dân chủ thực
sự. Trong tác phẩm Human condition (Điều kiện của con ngƣời) (1958) [80],
bà nhìn nhận khu vực công là không gian mà kể từ thời Hy Lạp cổ đại trở đi,
cuộc sống tự do và không bị chi phối bởi những sự ràng buộc, nó khác với
cuộc sống cá nhân. Khu vực công là nơi con ngƣời có thể gặp gỡ, trao đổi
38
quan điểm khác nhau, nơi của tự do và bình đẳng, đem đến cơ hội tiếp cận
cho mọi công dân, nơi mà họ có thể thể hiện quan điểm, ý kiến của cá nhân.
Với Arendt, khu vực công cộng có 3 đặc điểm: tính nhân tạo, tính không gian
và sự phân biệt giữa những quan tâm cộng đồng và những quan tâm riêng tƣ;
trong đó tính không gian của đời sống công cộng đƣợc hiểu là các hoạt động
chính trị đƣợc định vị trong một không gian công cộng, nơi mọi công dân đều
có thể đến để gặp gỡ, trao đổi ý kiến, thảo luận, tranh cãi và tìm kiếm giải
pháp cho các vấn đề chung. Các cá nhân cùng nhau trò chuyện trong không
gian công cộng (thay vì tập hợp các cá nhân biểu quyết ý kiến của mình một
cách tách biệt và khuyết danh) để cho những tƣơng đồng hay khác biệt trong
quan điểm của họ có thể đƣợc bộc lộ và trở thành vấn đề của cuộc tranh luận.
Arendt cũng phân biệt giữa mối quan tâm cộng đồng và quan tâm riêng
tƣ, sự khác biệt giữa đời sống của một ngƣời trong tƣ cách một cá nhân và
trong tƣ cách công dân. Theo bà, đối với mỗi con ngƣời, quan tâm về cộng
đồng với tƣ cách một công dân sẽ khác hoàn toàn so với các mối quan tâm
riêng tƣ với tƣ cách cá nhân. Những quan tâm cộng đồng, trong thực tế sẽ
không liên quan gì nhiều đến các lợi ích riêng tƣ, nó liên quan đến một thế
giới bên ngoài cái tôi, hƣớng đến lợi ích của một thế giới cộng đồng, những
vấn đề chung mà mọi ngƣời cùng chia sẻ, cùng theo đuổi, cùng thụ hƣởng.
Nếu nhƣ Arendt nhấn mạnh sự hiện diện của con ngƣời trong các khu
vực công thì với Habermas, khu vực công với đặc trƣng là các thảo luận có
thể diễn ra trực tiếp hoặc thông qua trung gian nhƣ báo, tạp chí hay các hình
thức giao tiếp điện tử khác. Habermas là một trong những nhà xã hội học và
triết học đƣơng đại của Đức. Khu vực công, không gian công là chủ đề nghiên
cứu quan trọng với ông. Quan niệm về khu vực công đƣợc trình bày trong tác
phẩm The Structural Transformation of the Public Sphere (Sự chuyển đổi cấu
trúc của khu vực công) năm 1960. Ông đã xem xét một cách có phê phán lịch
sử lĩnh vực công tƣ sản. Khu vực công, theo ông là những nơi tạo cơ hội cho
những thảo luận cởi mở giữa các công dân, mang tính lý tính để hình thành
39
nên dƣ luận xã hội. Khu vực công mang tính mở, là nơi những nhóm ngƣời
tự nguyện tập hợp lại cùng nhau để cùng thực hiện những thảo luận tự do.
Habermas quan tâm đến khu vực công vì ông xem đó là nền tảng, nguồn gốc
nuôi dƣỡng, duy trì dân chủ, tính bình đẳng. Khu vực công là điều kiện cần
thiết cho nền dân chủ, nơi thông qua những cuộc thảo luận để hình thành nên
quan điểm, nơi thể hiện nguyện vọng, mong muốn của công dân [97].
Không gian công cộng
Mối tƣơng quan giữa khu vực công và thực tiễn của các không gian
công cộng đã đƣợc chỉ ra trong một số nghiên cứu. Sandra Kurfürst (2011)
[106] khi phân tích 3 chiều kích của KGCC (tính linh thiêng, tính chính thức
và tính riêng tƣ) đã cho thấy có rất nhiều KGCC đang hình thành ở Hà Nội
với các mức độ công khai khác nhau. KGCC theo đó vừa là một đấu trƣờng
cho khu vực công, vừa là một biểu hiện của khu vực công. Lâm Thị Ánh
Quyên cho rằng “công cộng đòi hỏi phải có một không gian vật lý. Không
gian này được gọi là không gian công cộng” [61]. Tuy nhiên mối quan hệ này
không phải lúc nào cũng song hành bởi lý giải của Lisa Drummond cho rằng
KGCC (public space) là khái niệm phức tạp, không phải lúc nào nó cũng
tƣơng ứng với khu vực công (public sphere) và khu vực công có thể không
nhất thiết phải đƣợc diễn ra trong các KGCC [87].
KGCC là khái niệm đa nghĩa (Phạm Quỳnh Phƣơng) [51], trong đó nội
hàm nghĩa của nó cần đƣợc gắn với bối cảnh xã hội cụ thể. KGCC từ thời Hy
Lạp đã giữ vai trò quan trọng trong xã hội dân chủ khi mà KGCC là địa điểm
nơi diễn ra các tƣơng tác xã hội và các hoạt động chính trị của tất cả công
chúng (Mitchell, 1995) [115]. Mitchell cũng cho rằng “tính công cộng” đƣợc
tạo ra khi không gian đáp ứng những nhu cầu nhất định của ngƣời sử dụng.
Trong luận án này, KGCC đƣợc hiểu là các địa điểm cụ thể, nơi công chúng
tự tổ chức nhiều hoạt động thảo luận, trao đổi, bàn bạc về nhiều vấn đề trong
xã hội, nơi mở ngỏ cơ hội tiếp cận cho tất cả mọi ngƣời, nơi cho các biểu đạt
dân chủ và tự do.
40
1.2.2. Lý thuyết khu vực công của Habermas
Trong luận án này, NCS sử dụng khái niệm lý thuyết “public sphere”
(khu vực công hay lĩnh vực công) của Jurgen Habermas để tìm hiểu sự tạo
tác, hình thành của các KGST cũng nhƣ xem xét, nhìn nhận ý nghĩa của
KGST nhƣ một sự biểu hiện đặc thù của “khu vực công” trong bối cảnh đô thị
Việt Nam.
Với Habermas, một trong những nhà xã hội học và triết học đƣơng đại
của Đức, khu vực công là một chủ đề nghiên cứu quan trọng. Quan niệm về
khu vực công đƣợc trình bày trong tác phẩm The structural transformation of
the public sphere (Sự chuyển đổi cấu trúc của khu vực công) năm 1960. Ông
đã xem xét một cách có phê phán lịch sử lĩnh vực công tƣ sản. Khu vực công
hay lĩnh vực công, theo ông là những nơi tạo cơ hội cho những thảo luận cởi
mở giữa các công dân, mang tính lý tính để hình thành nên dƣ luận xã hội.
Các thảo luận có thể diễn ra trực tiếp hoặc thông qua trung gian nhƣ báo, tạp
chí hay các hình thức giao tiếp điện tử khác. Khu vực công có tính mở, là nơi
nhiều nhóm ngƣời tự nguyện tập hợp lại cùng nhau để cùng thực hiện những
thảo luận tự do. Habermas quan tâm đến khu vực công vì ông xem đó là nền
tảng, nguồn gốc nuôi dƣỡng, duy trì dân chủ, tính bình đẳng. Khu vực công là
điều kiện cần thiết cho nền dân chủ, nơi thông qua các cuộc thảo luận để hình
thành nên quan điểm, nơi thể hiện nguyện vọng, mong muốn của công dân.
Tác phẩm The structural transformation of public sphere (Sự chuyển
đổi cấu trúc của khu vực công) của Jurgen Habermas về sau đã có sức ảnh
hƣởng và tác động lớn đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Tác phẩm cũng tạo ra và
thúc đẩy các thảo luận về tự do dân chủ, khu vực công, xã hội dân sự và
những thay đổi xã hội trong thế kỉ XX cùng với nhiều vấn đề khác. Khu vực
công cũng nhƣ những điều kiện cần thiết để xây dựng một nền dân chủ thực
sự đã trở thành mối quan tâm chính, chủ đề xuyên suốt trong nhiều tác phẩm
của Habermas. Các tác phẩm xuất bản sau này của Habermas cũng phần lớn
tập trung vào các chủ đề chính đã nêu ở các nghiên cứu trƣớc đó.
41
Hai chủ đề chính mà tác phẩm The structural transformation of public
sphere (Sự chuyển đổi cấu trúc của khu vực công) nói đến bao gồm: phân tích
nguồn gốc, lịch sử của khu vực công tƣ sản và giải thích về sự thay đổi cơ cấu
của khu vực công trong lúc chủ nghĩa tƣ bản đang ngày càng phát triển mạnh
mẽ, sự trỗi dậy của công nghiệp văn hóa, sự lớn mạnh cũng nhƣ vị trí của các
tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp lớn trong đời sống công cộng - lúc đó các
tổ chức kinh tế lớn sẽ tiếp quản lĩnh vực công trong khi công dân chủ yếu lại
trở thành ngƣời tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ… Theo ông, khu vực công tƣ sản
bắt đầu xuất hiện vào khoảng thế kỉ 18. Nó có nguồn gốc sâu xa trong truyền
thống triết học phƣơng tây và bắt nguồn từ khái niệm “agora” của ngƣời Hy
Lạp. Không có dấu hiệu nào cho thấy xã hội châu Âu thời trung cổ sở hữu
khu vực công nhƣ một lĩnh vực khác biệt với khu vực tƣ nhân. Khu vực công,
không gian công chỉ phát triển từ một giai đoạn cụ thể của xã hội tƣ sản, nói
cách khác nó đƣợc tạo ra và có ý nghĩa trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đó
là thời điểm bắt đầu sự hình thành sự phân biệt giữa “ý kiến” và “dƣ luận”
[97].
Khu vực công (public sphere) là trung gian giữa các mối quan tâm
riêng tƣ của cá nhân với mối quan tâm chung về đời sống xã hội, nơi họ vƣợt
qua lợi ích và quan điểm riêng để khám phá lợi ích chung cũng nhƣ đạt đƣợc
sự đồng thuận trong xã hội. Các nhu cầu, lợi ích của họ vì vậy có thể ảnh
hƣởng đến thực tiễn chính trị khi mà các cá nhân, các nhóm nhƣ vậy có thể
định hình dƣ luận, thể hiện ý kiến đồng tình hoặc phản đối quyền lực nhà
nƣớc và các hình thức quyền lực khác đang hình thành trong xã hội tƣ sản.
Khu vực công, theo giải thích của Habermas bao gồm các cơ quan thông tin
và tranh luận về chính trị nhƣ báo chí, các tổ chức thảo luận chính trị, các câu
lạc bộ chính trị, câu lạc bộ văn học, quán rƣợu, quán cà phê, hội trƣờng hay
các không gian công cộng khác, nơi các thảo luận chính trị, xã hội đƣợc diễn
ra.
42
Khu vực công, theo Habermas gắn với quyền tự do hội họp, tự do tham
gia vào các cuộc tranh luận và ra quyết định chính trị. Tại đây các cá nhân có
thể tự do chia sẻ quan điểm của mình. Khu vực công có những đặc điểm nhƣ:
1. Mang tính công cộng, mở ngỏ khả năng tiếp cận, nơi mọi công dân đƣợc
quyền tiếp cận, đƣợc tham gia bày tỏ ý kiến, tranh luận về các vấn đề mà
mình quan tâm. Nhƣng khu vực công không chỉ đƣợc mô tả nhƣ là một đám
đông hay là tập hợp của nhiều cá nhân, mà nhấn mạnh đến sự tham gia của tất
cả mọi ngƣời. 2. Nội dung thảo luận là những vấn đề thuộc lĩnh vực công với
phạm vi không giới hạn. 3. Mang tính phê phán, nơi họ có thể phản biện và
kiểm soát, nơi diễn ra sự đồng thuận hoặc xung đột, có thể hình thành nên các
quan điểm chung, các ý kiến chung. Habermas coi khu vực công nhƣ là lĩnh
vực trung gian giữa xã hội và nhà nƣớc, do công chúng tự tổ chức và tuân thủ
theo nguyên tắc của lĩnh vực công [95].
Khi lý tƣởng hóa chức năng và tầm quan trọng của khu vực công, quan
điểm của Habermas cũng còn những hạn chế nhất định. Trƣớc tiên, ông sớm
coi khu vực công tƣ sản nhƣ một lãnh địa của công luận nhƣng không phải
toàn bộ ngƣời dân mà chỉ có một bộ phận nhỏ có thể tham gia vào quá trình
thảo luận. Dù là nơi tập trung nhiều ngƣời, có mối quan hệ đa dạng nhƣng chỉ
một bộ phận đại chúng tham gia vào quá trình thảo luận. Thứ nữa, phụ nữ
cũng bị từ chối tham gia bình đẳng và tích cực vào việc hình thành ý kiến, và
nhƣ vậy là hàm chứa giả định về sự thống trị của nam giới nhƣ những phê
bình từ góc nhìn nữ quyền đã chỉ ra.
Tuy nhiên, trong trƣờng hợp này, khái niệm lý thuyết của Habermas về
khu vực công cung cấp một lăng kính phân tích hữu ích để lý giải những
chiều cạnh ý nghĩa của KGST. Nếu nhƣ nghiên cứu của (Lisa Drummond,
2000) [87] từng chỉ ra rằng ở Việt Nam đƣợc cho là có rất ít bằng chứng về
truyền thống của một khu vực công cũng nhƣ không gian công - nơi biểu hiện
của khu vực công, thiếu truyền thống về một lĩnh vực thảo luận công khai do
những can thiệp từ phía nhà nƣớc thì trong luận án này, sự vận dụng lý thuyết
43
khu vực công của Habermas để phân tích các thực hành văn hóa trong KGST
lại cho thấy sự mở rộng các thực hành dân chủ, tạo ra những không gian tự do
biểu đạt, tự do thảo luận, trao đổi về nhiều vấn đề trong xã hội. Có thể những
thực hành trong các KGST chƣa hoàn toàn phản ánh đƣợc những đặc trƣng
của “khu vực công” nhƣ Habermas đã đề cập nhƣng đó chính là những nỗ lực
để nới rộng biên độ của sự tự do, tạo ra không gian cho những biểu đạt đa
dạng trong bối cảnh đô thị đƣơng đại. KGST trong các trƣờng hợp này trở
thành địa điểm của các khu vực công, phản ánh nhu cầu trao đổi, bàn luận,
nhu cầu đƣợc tham gia giải quyết nhiều vấn đề quan trọng của xã hội.
Tiểu kết chƣơng 1
Từ việc tổng quan tài liệu nghiên cứu, phần viết chƣơng 1 cung cấp
một cái nhìn tổng thể về cách thức mà các nghiên cứu đã nói về không gian
đô thị, KGCC cũng nhƣ KGST. Bối cảnh nghiên cứu khá bề bộn về không
gian đô thị, KGCC cho thấy đây là một chủ đề thú vị và liên tục tiếp diễn, bởi
ở những điều kiện hoàn cảnh khác nhau, KGCC liên tục đƣợc tạo ra và tái tạo
lại bởi nhiều nhóm chủ thể, gắn với mong muốn, nhu cầu của con ngƣời.
Tiếp cận từ góc nhìn quản lý và quy hoạch đô thị, KGCC nhƣ những
khoảng thở của thành phố, đƣợc thiết kế để mang lại những không gian sinh
hoạt chung, thỏa mãn nhu cầu gặp gỡ, tƣơng tác hay giải trí… Từ góc nhìn xã
hội học, KGCC đặc thù nhƣ chợ, các quán cà phê là nơi hình thành dƣ luận.
Từ góc nhìn văn hóa, KGCC trong diện mạo là các không gian vỉa hè, đƣờng
phố lại là những không gian văn hóa, không gian xã hội nơi phô bày các mối
quan hệ tƣơng tác, thƣơng thỏa, nƣơng tựa, nơi của các chiến lƣợc “chiếm
đoạt” không gian để định vị cuộc sống trong thành phố và cũng là cách để gắn
bó với thành phố. Không gian, nhƣ đã nói đến trong nghiên cứu của Lefebvre,
đó là những “kiến tạo xã hội”, nó liên tục đƣợc định hình và tái định hình,
đƣợc kiến tạo và tái kiến tạo chứ không phải một thực thể sẵn có. KGCC vốn
đã đa dạng, phức tạp về nghĩa, theo thời gian lại đƣợc khoác thêm, cấp cho
những lớp nghĩa mới.
44
Qua việc tập hợp và hệ thống những tƣ liệu phong phú, đa dạng về
KGST cũng cho thấy đây là một chủ đề đã đƣợc nói đến nhiều trên thế giới,
và khoảng gần mƣời năm trở lại đây tại Việt Nam. Xuất phát từ những tổ
hợp/cụm KGST trên thế giới, đặc biệt là ở Vƣơng quốc Anh – KGST đƣợc
xem nhƣ là những mô hình kinh doanh quan trọng, nơi kết nối, hỗ trợ cho
cộng đồng ngƣời làm sáng tạo, hƣớng đến phát triển công nghiệp sáng tạo.
Các mạng lƣới KGST đƣợc hình thành nhằm lan tỏa, chia sẻ cách làm hiệu
quả, thúc đẩy sự liên kết ở phạm vi các quốc gia, các châu lục. Hội đồng Anh
tại Việt Nam đã có vai trò tiên phong khi giới thiệu khái niệm này tại Việt
Nam, đánh dấu và mở ra thời kì các KGST đƣợc nói đến trong nhiều nghiên
cứu cũng nhƣ sự nở rộ của các KGST trong thực tiễn. Tiếp nối mạch thảo
luận trên thế giới, các nghiên cứu về KGST ở Việt Nam cũng cho thấy bối
cảnh năng động, tiềm năng phát triển cũng nhƣ lợi ích của KGST trong chiến
lƣợc phát triển công nghiệp văn hóa, hội nhập cùng nền kinh tế sáng tạo vốn
đang là xu thế quan trọng và nổi bật. Dƣới góc nhìn của những ngƣời nghiên
cứu nghệ thuật, KGST hay không gian phá cách là nơi dung chứa cho các thể
nghiệm nghệ thuật mới mẻ, tôn trọng tự do và bao dung với những phản ánh
trực diện về đời sống xã hội. KGST vì vậy, cho thấy nhiều ý nghĩa khác nhau,
gắn với những nhóm chủ thể khác nhau. Tuy vậy, chƣa có nghiên cứu nào
nhìn nhận KGST nhƣ là diễn đàn cho những thảo luận mở về các chủ đề của
xã hội, nơi diễn ra những tƣơng tác đa chiều giữa các cá nhân, nơi các cá nhân
đƣợc tự do bày tỏ quan điểm, chính kiến. Vì thế, sự nhấn mạnh công trình
nghiên cứu của Habermas về “khu vực công” có ý nghĩa quan trọng đối với
những lập luận trong những chƣơng viết sau về KGST. Các KGST có thể
chƣa phản ánh đƣợc hoàn toàn đặc trƣng của khu vực công trong lý thuyết của
Habermas nhƣng đó là những nỗ lực nới rộng không gian biểu đạt, tự do thảo
luận, kết nối trong bối cảnh đô thị có nhiều chuyển đổi.
45
CHƢƠNG 2
BỐI CẢNH XÃ HỘI TẠI ĐÔ THỊ VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA CÁC
KHÔNG GIAN SÁNG TẠO
Chƣơng viết này sẽ phân tích, diễn giải những tƣơng tác của bối cảnh
kinh tế xã hội năng động trong việc kiến tạo nên các KGST, xem những điều
kiện nào đã dung dƣỡng, nhen nhóm, thúc đẩy các KGST xuất hiện ngày càng
nhiều. Và tại sao lại là Hà Nội hay mở rộng ra, đô thị có vai trò nhƣ thế nào
với việc hình thành nên nhiều không gian ý nghĩa nhƣ vậy. Để trả lời câu hỏi
trên, NCS cho rằng phải kể đến những nhân tố nhƣ quá trình đô thị hóa và
những biến động của xã hội thời kì mở cửa và hội nhập, sự xuất hiện nhiều ấn
phẩm quan trọng của các nhà xuất bản, tác động mạnh mẽ của internet và vai
trò của các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam. Chƣơng viết cũng sẽ
tập trung vào Hà Nội, một đô thị có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa,
nơi tính chất đô thị đƣợc bộc lộ rõ rệt nhất gắn với tầng lớp thị dân và đời
sống văn hóa dồi dào, đa dạng.
2.1. Đô thị Hà Nội - môi trƣờng dung dƣỡng các không gian sáng tạo
Sau nghiên cứu đầu tiên của Hội đồng Anh tại Việt Nam về KGST năm
2014 [21], KGST bắt đầu đƣợc nói đến nhiều hơn, trên báo chí hay trong
nhiều hội thảo về KGST đƣợc tổ chức liên tiếp ngay sau đó. Tuy nhiên, từ
quan sát về Giấc mơ nhỏ và Cà phê Văn, sau này là một số KGST khác nữa
trong thành phố, thì dƣờng nhƣ KGST không hẳn là hiện tƣợng hoàn toàn mới
mẻ mà đã có những kết nối nhất định với quá khứ, từng tồn tại kiểu không
gian nhƣ vậy trong đời sống văn hóa của ngƣời dân đô thị trƣớc đây, tất nhiên
có những khác biệt nhất định do bị chi phối bởi hoàn cảnh. Trong các buổi
quan sát tham dự từ đầu năm 2017, khi hỏi chuyện những ngƣời cùng tham
dự thì hầu nhƣ nhiều ngƣời không nghĩ và không nói rằng mình đang hay vừa
hiện diện trong các “không gian sáng tạo”. Họ gọi những địa điểm này bằng
tên đƣợc ghi trên biển hiệu nhƣ “quán cà phê Giấc mơ nhỏ”, “quán cà phê
46
Văn”. Những lời mời hay hẹn nhau trên facebook để cùng tới một buổi trò
chuyện nào đó thƣờng khá ngắn gọn, chỉ bằng địa chỉ của quán nhƣ thể mọi
ngƣời đã quen và đều biết đến. Đa phần chƣa biết tới thuật ngữ “không gian
sáng tạo”, không nói về những địa điểm này - nơi họ thƣờng xuyên lui tới nhƣ
là một KGST. Khi đƣợc hỏi về KGST, có ngƣời còn nghĩ ngay đến “chỗ của
mấy ông nghệ sĩ”, hay nơi “đám ăn chơi hay đến”. Điều đó cho thấy trong đời
sống hàng ngày, lúc bấy giờ, việc biết đến cụm từ “không gian sáng tạo”
dƣờng nhƣ khá mơ hồ, nhiều ngƣời còn “chƣa nghe đến từ này bao giờ”.
Ngay cả Minh - ngƣời sáng lập KGST Giấc mơ nhỏ vào năm 2015, dự định
ban đầu là mong muốn tạo dựng một quán cà phê để hiện thực hóa mong ƣớc
của mình, sau đó vì biết đến khái niệm KGST lúc bấy giờ đang đƣợc nhắc đến
nhiều - trong phạm vi hẹp những ngƣời làm văn hóa nghệ thuật - nên nhân thể
mƣợn nó để “quảng cáo” cho quán luôn. Về sau, trong các bài viết giới thiệu
trên facebook, Minh sử dụng thuật ngữ “không gian sáng tạo” để nói về Giấc
mơ nhỏ. Hay ở các buổi hội thảo, sự kiện về KGST, Minh thƣờng đƣợc mời
đến với tƣ cách là một ngƣời sáng lập, chủ của một KGST. Sau báo cáo về
KGST năm 2014 của Hội đồng Anh đƣợc công bố rộng rãi trên báo chí, nhiều
nơi đã tự giới thiệu về mình là KGST hay sử dụng video nói về các KGST
của Hội đồng Anh để giới thiệu không gian của mình cho ngƣời tham dự
trong mỗi lần bắt đầu các sự kiện.
Không ít lần, trong phút mở lòng với khán giả tại các buổi gặp gỡ và
đối thoại, chia sẻ về lý do tạo dựng nên KGST Cà phê Văn, ông Phƣơng - một
thành viên sáng lập vẫn thƣờng gợi nhắc lại kí ức thời trẻ “theo chân” các
“bậc đàn anh”, các nghệ sĩ tiền bối, rong ruổi qua quán xá ở đô thị cùng với
những câu chuyện về văn học, nghệ thuật, sáng tác:
“Cái địa điểm thường là cái chỗ kí ức về văn hóa. Ở Hà
Nội có những biệt thự lớn thời Pháp, nó có cái không khí chung.
Ngoài cà phê thì còn có sinh hoạt văn hóa. Tôi vẫn nhớ thường
lẽo đẽo theo các đàn anh cà phê cà pháo. Đường Nguyễn Hữu
47
Huân có cà phê Lâm, quán cà phê nhỏ, nơi văn nghệ sĩ ra đó
uống cà phê. Câu chuyện văn nghệ của họ không phải như bây
giờ, không thấy chuyện tiền tỉ, chuyện bán đất. Từ anh Bùi Xuân
Phái, Nguyễn Sáng hay Văn Cao, những câu chuyện rất tuyệt
vời. Các ông có thể tranh luận, cãi nhau những vấn đề rất hay.
Nó có những cái chúng ta quan tâm. Đây (KGST Cà phê Văn) là
nơi như thế, tôi mơ đây là kí ức của Hà Nội, nơi những trí thức
hàng đầu trong nước và nước ngoài về nói chuyện. Chúng ta
không thể nói chuyện riêng với các anh ấy được nhưng có thể
đến chỗ này được. Vì thế nên khi có không gian, tôi quét vôi, treo
tranh lại, làm thêm cái phòng bên cạnh thành ra một nơi như thế
này” (Ông Phƣơng - thành viên sáng lập KGST Cà phê Văn).
Nếp sinh hoạt tri thức từ thời trẻ đó đã ghi dấu đậm nét trong tâm thức và thôi
thúc ông Phƣơng tạo ra không gian cho mình, cho cả thế hệ sau mình. Và nhƣ
vậy, Cà phê Văn dƣờng nhƣ là một sự nối dài của các không gian văn hóa đã
từng tồn tại trong bối cảnh đô thị nhiều năm trƣớc, lƣu giữ và duy trì những
thói quen sinh hoạt của trí thức, văn nghệ sĩ. Nó gợi lại không khí của “những
quán cà phê tụ điểm trí thức” (Nguyễn Vĩnh Nguyên, 2018) [44] hay những
“hội quán nghệ sĩ” của Hà Nội giai đoạn trƣớc, nơi gặp gỡ giao du theo lối
salon văn hóa, gắn với nhu cầu chia sẻ, trao đổi, bàn bạc, thảo luận, khơi mở
những ý tƣởng sáng tạo. Nếp sinh hoạt văn hóa sau này hay thói quen của
ngƣời đến tham dự trong các KGST dƣờng nhƣ cũng có bắt nối nhất định với
lối sống, tính cách đô thị và tâm thức thị dân vốn đã đƣợc hình thành qua thời
gian dài, nói cách khác chính bối cảnh đời sống văn hóa dồi dào của đô thị Hà
Nội đã là nơi nhen nhóm, nuôi dƣỡng và khơi nguồn cho những sinh hoạt văn
hóa tại các KGST.
Phải đến thời kì thuộc địa, Việt Nam mới xuất hiện những thành phố
mang dáng dấp hiện đại nhƣ Hà Nội. Cùng với thời kì hình thành nên các đô
thị, tầng lớp thị dân cũng ra đời, sinh sống không dựa trên phƣơng thức canh
48
tác nông nghiệp mà dựa vào buôn bán và các ngành nghề phi nông nghiệp. Kể
từ đó đô thị hình thành nên tầng lớp dân cƣ mới, xuất hiện tầng lớp trung lƣu,
những ngƣời tƣ sản, trí thức, doanh nhân, những ngƣời xuất sắc có nhiều
đóng góp cho xã hội, trở thành tinh hoa của xã hội. Đô thị cũng bắt đầu chứng
kiến nhiều nề nếp sinh hoạt mới, những đặc trƣng về lối sống, hình thành nên
tính cách thị dân. Diện mạo không gian đô thị có phần khác biệt nhiều so với
không gian làng xã nông nghiệp. Tính chất đô thị thời hiện đại cũng khác với
cả các kinh đô trƣớc đây của các triều đại phong kiến. Một trong những nét
khác biệt đó là sự xuất hiện nhiều địa điểm, nơi chốn mới mang đặc trƣng của
lối sống đô thị nhƣ đƣờng phố, công viên, nhà ga, rạp hát, rạp chiếu phim,
hiệu sách, quán cà phê âm nhạc... Đời sống văn hóa đô thị cuốn hút, hấp dẫn
với các hoạt động giải trí. Con ngƣời với những trải nghiệm riêng tƣ, với đời
sống cá nhân nằm trong đời sống chung của đô thị. Không gian đô thị rộng
rãi, dung nạp sự đa dạng, khác biệt từ nhiều thành phần xã hội khác nhau. Môi
trƣờng thị dân vốn ít ràng buộc hơn so với môi trƣờng làng xã nên đã cho
phép con ngƣời cá nhân đƣợc thể hiện cái riêng, cái khác, thể hiện quan điểm
cá nhân. Đô thị cũng là nơi dung chứa cả những thành phần đƣợc xem là bên
lề, ngoại biên bên cạnh những ngƣời nằm trong dòng chính, phổ thông, đại
chúng. Khi gợi lại lịch sử của những quán cà phê trong lòng Hà Nội ngay từ
khi ngƣời Pháp đến và bắt đầu vào việc xây dựng một thành phố hiện đại,
Nguyễn Trƣơng Quý đã xem quán cà phê - nơi hội tụ của các quý ông thƣơng
gia, các sĩ quan, trí thức… - nhƣ là những “thiết chế của Hà Nội”, và theo đó:
“Cà phê đã tham gia vào việc ấn định những điểm hẹn cho khung cảnh đô thị
Hà Nội, rồi ngay cả thời bao cấp khi cà phê là của hiếm, có lúc còn bị cấm
bán, vẫn có những “Quán cà phê ngoại ngoại ô” của Lưu Quang Vũ, điểm
hẹn của tuổi trẻ mộng mơ và cao ngạo” [60]. Trong một tiểu luận về mĩ thuật,
nhà nghiên cứu Nora A. Taylor đã nhắc đến quán cà phê Lâm tại số 69
Nguyễn Hữu Huân, Hà Nội nhƣ một địa chỉ văn hóa mà bà thấy ở đó bóng
dáng của các quán cà phê văn nghệ Paris, nơi có các nghệ sĩ tự nhận mình là
49
“bên lề của dòng chính trong xã hội” lui tới. Và chính những không gian nhƣ
quán cà phê Lâm đó đã “tạo ra một giới tinh hoa tri thức ngầm những năm
1960, 1970” [119]. Tính chất đô thị, đƣợc hiểu với nghĩa là không gian rộng
rãi cho những biểu đạt đa dạng, qua các thời kì, qua thăng trầm lịch sử cũng
có những thay đổi, khác biệt. Cũng có lúc tính chất đô thị bị mờ nhòa đi khi
toàn bộ đô thị là một không gian quy tụ, không gian đậm đặc chất sử thi, hào
hùng, cùng hƣớng tới những mục tiêu chung của đất nƣớc mà ít đi những yếu
tố cá nhân.
Trong khảo cứu công phu Một thời Hà Nội hát - Tim cũng không ngờ
làm nên lời ca, tác giả Nguyễn Trƣơng Quý đã gợi lại một Hà Nội dồi dào
những “mảnh vi lịch sử” [59, tr. 15], một Hà Nội quyến rũ, hào hoa xƣa cũ.
Hà Nội những năm 1947-1954 vẫn mang tính chất là một đô thị thuộc địa,
tầng lớp thị dân Hà Nội có lối sống phong lƣu, đời sống giải trí rộn ràng với
hệ thống sân khấu đại chúng và sự xuất hiện của nhiều nghệ sĩ, nhiều tác
phẩm nghệ thuật. Đô thị gắn với nhiều địa điểm quan trọng nhƣ “Hội quán
Trí Tri ở 47 Hàng Buồm năm 1938, được xem như cột mốc khởi điểm, tân
nhạc có mặt trong các buổi gặp gỡ đông người của thanh thiếu niên” [59,
tr.15] và cũng từ trong lòng đô thị, loại hình nghệ thuật mới này đƣợc sinh
thành, đƣợc nuôi dƣỡng và phát triển; hay “Quán Nghệ sĩ, một trong ba
phòng trà đầu tiên của Hà Nội từ năm 1946” [59, tr. 51] và hàng loạt các rạp
chiếu bóng, rạp hát nhƣ rạp Olympia, rạp Đại Nam… [59, tr. 74].
Lùi xa hơn về giai đoạn Hà Nội những năm đầu thế kỉ XX, cũng đã có
nhiều hội quán đƣợc lập ra nhƣ là không gian cho các sinh hoạt văn hóa.
Tháng 2/1919, Hội Khai trí tiến đức đƣợc thành lập trong bối cảnh xã hội có
nhiều biến động. Hội chủ trƣơng cổ vũ mở rộng học tập kiến thức, văn minh
phƣơng Tây đồng thời kết hợp với những giá trị tinh hoa của truyền thống văn
hóa Việt Nam. Đặt trong bối cảnh xã hội Việt Nam hai thập niên đầu thế kỉ
XX với những chuyển biến mạnh mẽ nhƣ sự tăng lên cả về số lƣợng của tầng
lớp trí thức, chính sách giáo dục của nhà nƣớc bảo hộ đáp ứng nhu cầu học
50
hành của của tầng lớp thị dân đô thị, tạo ra nhiều ngƣời có trình độ để tham
gia vào các ngành nghề khác nhau; hàng loạt các tờ báo, tạp chí ra đời, phản
ánh nhiều mặt của đời sống, là nơi thuận lợi để giới thiệu và tuyên truyền các
tƣ tƣởng mới, sự mở rộng của các đô thị, sự tăng lên nhanh chóng của tầng
lớp thị dân, tạo ra những lối sống mới vừa kế thừa truyền thống vừa tiếp thu
những giá trị văn hóa của phƣơng Tây…
Hội Khai trí tiến đức là một tổ chức văn hóa do chính quyền thực dân
Pháp thành lập, do vậy có những lý do chính trị đằng sau đó. Các hoạt động
văn hóa diễn ra tại đây đƣợc bảo trợ, từng đƣợc xem là “bình phong” cho các
ý đồ chính trị nhƣ tuyên truyền, hỗ trợ thực hiện cho các chính sách của Pháp,
nơi tập hợp nhiều tầng lớp trên của xã hội, lôi kéo thành phần trí thức, giới
thƣợng lƣu, nhằm tạo ra những ảnh hƣởng quan trọng trong đời sống, để tạo
điều kiện thuận lợi cho sự thống trị của Pháp. Nhiều trí thức, nhiều ngƣời yêu
nƣớc lúc bấy giờ cũng ý thức đƣợc động cơ, mục tiêu đằng sau các hoạt động
đƣợc coi là vì sự nghiệp khai hóa nên đã tranh thủ “mƣợn” hay coi đây nhƣ
một diễn đàn văn hóa hợp pháp nhất lúc bấy giờ để thể hiện tinh thần dân tộc,
bày tỏ nguyện vọng thầm kín của cá nhân đối với vận mệnh dân tộc.
Hội Khai trí tiến đức ra đời, dƣới hình thức hội quán với những sinh hoạt
văn hóa gần giống với kiểu các câu lạc bộ thời nay nhƣ tổ chức diễn thuyết về
văn hóa, lịch sử, nơi bình văn, nói chuyện… trong đó có nhiều sinh hoạt văn
hóa gây tiếng vang, hình thành nhiều ban chuyên môn nhƣ ban Văn học, ban
Diễn thuyết, ban Mỹ nghệ (Nguyễn Lan Dung (2008) [13] biên soạn cuốn từ
điển cho “một thứ tiếng nói hơn 20 triệu ngƣời” một cách công phu có tên là
Việt Nam tự điển (Phan Khôi, Tập Việt Nam tự điển của hội Khai trí tiến đức,
Phụ nữ Tân Văn, số 123, 17/3/1932) mà đến nay vẫn đƣợc xem là mẫu mực
về chính tả và từ mục. Nơi đây, năm 1924 cũng đã diễn ra buổi diễn thuyết về
Truyện Kiều của học giả Phạm Quỳnh nhân dịp ngày mất của đại thi hào
Nguyễn Du, khẳng định địa vị, vai trò của Truyện Kiều đối với đất nƣớc qua
51
câu nói nổi tiếng “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nƣớc ta còn”
(Dẫn theo Phạm Xuân Nguyên (2020)) [127].
Hội quán có tôn chỉ là mở mang tri thức (khai trí), bồi đắp đạo đức (tiến
đức). Hội Khai trí tiến đức ở Hà Nội đã quy tụ đƣợc “một số ít thị dân với một
nhóm trí thức, công chức tạo cơ sở xã hội quan trọng để tiếp nhận ảnh hƣởng
phƣơng Tây đang tràn tới” (Đinh Xuân Lâm - Phạm Xanh, 2004) [35]. Cũng
từ diễn đàn này, nhiều vấn đề về văn hóa, giáo dục đƣợc khơi dậy góp phần
mở mang tri thức cho ngƣời dân. Sau 26 năm hoạt động, ngày 24/9/1945 Hội
này bị giải tán sau khi Việt Minh giành chính quyền theo Nghị định của Bộ
trƣởng bộ nội - vụ giải tán hội Khai - trí tiến - đức (theo Việt Nam Dân quốc
công báo (ra ngày thứ bẩy), số 2, 6/10/1945).
Một vài mảnh ghép nhỏ trong chiều dài lịch sử đô thị Hà Nội đầy biến
động đã cho thấy sự quyến rũ cũng nhƣ sự khác biệt của Hà Nội so với nhiều
đô thị khác. Đây là môi trƣờng giàu có về văn hóa, nghệ thuật, một nơi chốn
sinh động với đời sống giải trí rộn ràng, nơi đón nhận nhiều luồng tƣ tƣởng,
nhiều trào lƣu văn hóa mới. Trên nền bối cảnh đó là những thói quen văn hóa
của ngƣời dân đô thị, là thị hiếu, mĩ cảm riêng góp phần hình thành nên tâm
thức thị dân. Trong bối cảnh đƣơng đại, Hà Nội vẫn là đô thị hấp dẫn và mời
gọi, là nơi quy tụ của nhiều ngƣời từ nhiều vùng miền khác nhau, nơi kết nối
và hình thành nên các nhóm xã hội với những mối quan tâm đa dạng. Hà Nội
- thành phố vì hòa bình - vừa là trung tâm văn hóa chính trị của cả nƣớc,
không gian biểu tƣợng của quốc gia nhƣng cũng là không gian thâu nhận, mở
ngỏ cho con ngƣời cá nhân. Hà Nội vừa là không gian công cộng nhƣng cũng
lại là nơi tạo nên nhiều không gian riêng tƣ nhất, nơi cho các cá nhân đƣợc
bộc lộ, đƣợc cất tiếng nói, dù những tiếng nói ấy là khác biệt, trái chiều, so
với những tiếng nói chủ đạo, đi ngƣợc lại với dòng chính. Có lẽ vì thế, các
KGST thƣờng tập trung tại các đô thị lớn nhƣ Hà Nội.
Cà phê Văn hay Giấc mơ nhỏ trƣớc khi đƣợc gọi hay tự gọi mình là
không gian sáng tạo, dƣờng nhƣ đều là những quán cà phê, những điểm hẹn
52
trong thành phố, nơi ngƣời ta đến để nói chuyện, chia sẻ và cập nhật thông
tin, nói những câu chuyện của đời sống đang diễn ra. Ở Hà Nội, ngƣời ta có
thể sà xuống vỉa hè, nhâm nhi trà đá sau bữa sáng vội, lần theo trang tin từ tờ
báo mới ra và nghe ngóng, góp thêm cho những câu chuyện thƣờng ngày
đang diễn ra hay cũng có thể chọn những quán cà phê, nơi có vẻ mang tính
chất bán công cộng, riêng tƣ và kín đáo hơn để trò chuyện, thủ thỉ. Cà phê
Văn và Giấc mơ nhỏ trƣớc hết là những lựa chọn trong đô thị khi cần một nơi
để kết nối, trò chuyện, nói cách khác KGST nhƣ là điểm hẹn trong thành phố,
mang lại cho thành phố những không gian sinh hoạt, không gian văn hóa ý
nghĩa. Còn với ngƣời trẻ lớn lên trong bối cảnh hội nhập, công cuộc toàn cầu
hóa diễn ra mạnh mẽ, việc “lê la” quán xá dƣờng nhƣ là một thói quen, một
phần của tuổi trẻ. Đó là nơi chốn hẹn hò, tán gẫu, tƣơng tác. Kỉ niệm gắn với
hình dung về các không gian cụ thể trong từng con ngõ hay ngóc ngách trong
lòng phố xá, nơi của những băn khoăn, trăn trở, nỗ lực tìm cách trƣởng thành,
nơi nuôi dƣỡng và đánh thức sự tò mò muốn biết, muốn tìm hiểu, nơi định
hình lối sống trong tƣơng lai. Những KGST và đặc biệt là không khí mà nó
tạo dựng nên đƣợc khiến nó trở thành những “nơi chốn”, nơi ngƣời trẻ có cảm
giác mình thuộc về.
Sức hấp dẫn của đô thị từ nhiều lý do khác nhau khiến quy mô dân cƣ
tại đô thị ngày càng tăng, quá trình di cƣ từ nông thôn ra thành thị diễn ra
mạnh mẽ, cũng vì thế nhu cầu về không gian ngày càng lớn đối với các nhóm
đối tƣợng khác nhau. Các nhóm chủ thể liên tục định hình lại cảnh quan thành
phố với những chủ đích khác nhau, làm thay đổi môi trƣờng vật lý của đô thị
và gắn thêm ý nghĩa mới cho các không gian hiện có, hay nhƣ Kurfrurst nhận
xét vô số các “nhà sản xuất không gian” bƣớc vào giai đoạn bùng nổ, để lại
dấu ấn riêng của họ trong cảnh quan của thành phố [106]. Cùng lúc đã tồn tại
rất nhiều các chủ thể kiến tạo không gian với những dụng ý, mục đích khác
nhau. Nhà nƣớc thì tạo ra các không gian thể hiện quyền lực, thể hiện vai trò
trung tâm chính trị của quốc gia thông qua việc tạo dựng nên biểu tƣợng của
53
đô thị nhƣ đài tƣởng niệm, toàn nhà của chính quyền, quảng trƣờng… tại Hà
Nội. Nhiều doanh nghiệp trong nƣớc và liên doanh thiết kế, xây dựng không
gian phục vụ cho tham vọng kinh tế của họ, từ đó tạo ra các không gian bán
công cộng nhƣ trung tâm mua sắm, công viên giải trí. Ngƣời dân cũng cải tạo
không gian sống theo hƣớng hiện đại, tiện nghi hay lấn chiếm không gian
công cộng cho mục đích cá nhân (Nguyễn Thị Phƣơng Châm – Hoàng Cầm,
2021) [7], sử dụng không gian công cộng cho hoạt động giải trí, tƣơng tác xã
hội. Sự chuyển đổi không gian không chỉ là kết quả của quá trình chuyển đổi
kinh tế mà còn bao hàm trong đó những lý do về các yếu tố xã hội và văn hóa.
Trong khi không gian ngày càng bị thu hẹp lại bởi sự tăng lên nhanh chóng
của dân số tại đô thị, để sinh sống, ngƣời dân đã có nhiều những chiến lƣợng
đàm phán, thƣơng lƣợng và xác định lại không gian công cộng. Các nghiên
cứu cũng cho thấy sự mở rộng, lấn chiếm, riêng hóa không gian tƣ, đời sống
riêng tƣ tràn sang cả không gian công, nói cách khác không gian công cộng đã
liên tục đƣợc xây dựng lại bởi ngƣời dân với những nhu cầu và giá trị khác
nhau (Goheen, 1998) [93].
Mỗi loại không gian có những đặc điểm riêng biệt, biểu hiện nhu cầu,
nguyện vọng, tính cách và mối quan tâm của các nhóm chủ thể khác nhau,
phản ánh những động thái mới của văn hóa truyền thống đô thị trong xã hội
đƣơng đại (Nguyễn Thị Phƣơng Châm - Hoàng Cầm, 2021) [7]. Cùng với
nhiều loại hình không gian khác, KGST đƣợc hình thành ngày càng nhiều
trong đô thị nhƣ một minh chứng cho thấy những nỗ lực nới rộng biên giới
của các không gian công trong đời sống, nó phản ánh nhu cầu đƣợc tham gia,
đƣợc cất tiếng nói của ngƣời dân, đặc biệt là nhóm trí thức. Nói là “nỗ lực”
bởi thực sự để tồn tại, các KGST thƣờng phải đối mặt với khá nhiều chật vật.
Có thể nói, sự xuất hiện của những KGST nhƣ thế này là do nhu cầu tự
thân của đời sống. Nhu cầu về nơi chốn nhƣ thế cho chia sẻ, thảo luận, hƣớng
tới giải quyết, bày tỏ quan điểm của mình về các vấn đề trong xã hội thì
dƣờng nhƣ con ngƣời thời nào, nơi nào cũng có. Không chỉ là địa điểm, đây
54
còn là những nơi chốn, nơi ghi dấu, lƣu giữ kí ức của con ngƣời. Nó đảm
nhiệm cùng lúc nhiều vai trò trong đời sống sống đô thị nhƣ là trƣờng học -
nơi tƣơng tác, trao đổi, chia sẻ kiến thức, là thƣ viện - với hàng trăm, hàng
nghìn đầu sách, với không gian nhỏ hẹp nhƣng cởi mở, là những câu lạc bộ
văn hóa nghệ thuật nơi hội tụ những ngƣời yêu phim ảnh, văn chƣơng, hay là
rạp chiếu phim thu nhỏ… Nó là những địa chỉ văn hóa làm nên phần hồn cho
đời sống đô thị, vốn đang bị cạnh tranh khốc liệt trong việc giằng giữ khi mà
đời sống vật chất và hoạt động thƣơng mại đang dần trở nên chiếm ƣu thế.
KGST cũng đã thực hiện vai trò kết nối và duy trì các thực hành văn hóa của
các nhóm, các cộng đồng, tạo ra không gian văn hóa nhỏ hơn trong không
gian đô thị rộng lớn. Và nhƣ vậy, KGST vừa là không gian quán xá thân
thuộc với nếp sinh hoạt của ngƣời dân đô thị nhƣng cũng là những không gian
văn hóa, không gian xã hội, góp phần làm nên sự hấp dẫn của một đô thị từng
cất giữ nhiều truyền thống và nay vẫn đang tạo dựng nên những giá trị mới,
thích ứng và phù hợp với sự vận động của xã hội đƣơng thời. KGST có mối
liên hệ với những sinh hoạt văn hóa trong quá khứ, hiện hữu sinh động trong
hiện tại và còn góp phần kiến tạo nên tƣơng lai.
2.2. Những thay đổi của xã hội Việt Nam sau Đổi Mới
Từ sau chính sách Đổi Mới năm 1986 với quá trình chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trƣờng, tốc độ hội nhập của Việt Nam
với thế giới bên ngoài diễn ra nhanh chóng, sâu rộng. Việt Nam dần trở thành
một điểm đến hấp dẫn với các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc. Tâm điểm của
sự chú ý này chính là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh - hai đô thị lớn của
cả nƣớc. Cũng từ mốc khởi điểm này, cho đến nay, Việt Nam nói chung và
Hà Nội nói riêng đã chứng kiến nhiều biến đổi sâu sắc trong đời sống văn hóa
xã hội.
Trƣớc tiên, quá trình tự do hóa kinh tế với việc giảm bớt các quy định,
hạn chế của chính phủ và đổi lấy sự tham gia nhiều hơn của các thành phần tƣ
nhân đã góp phần đƣa đất nƣớc hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, mang lại
55
sự thịnh vƣợng kinh tế trong ba mƣơi lăm năm qua. Ngƣời ta đã thấy có sự
tƣơng quan chặt chẽ giữa mức độ tự do kinh tế và sự gia tăng GDP (Lê Đăng
Doanh, 2017) [45]. Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng đã đem đến những
tác động tích cực nhƣ xóa đói giảm nghèo, tạo ra công ăn việc làm, ổn định xã
hội và nhờ vậy sức ép về các vấn đề xã hội cũng đƣợc giảm thiểu đáng kể.
Quá trình này cũng đặt ra những yêu cầu về hệ thống luật pháp cũng nhƣ sự
vận hành của các cơ quan nhà nƣớc khi đòi hỏi trách nhiệm giải trình, tính
trách nhiệm, sự hoàn thiện hệ thống luật phát cùng với cải cách cơ chế, thủ
tục hành chính… Tuy nhiên, nhiều bất cập và tồn tại cũng đã lộ ra nhƣ lợi ích
nhóm trong hệ thống chính trị, tham nhũng, lãng phí, thiếu công khai minh
bạch, lạm dụng quyền lực để thu lợi… (Lê Đăng Doanh, 2017) [45]. Đây
cũng chính là những chủ đề đƣợc ngƣời dân nói đến nhiều trong các câu
chuyện ở vỉa hè, các không gian công cộng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đƣợc đánh dấu là Đại hội
của đổi mới đã tạo nên bƣớc ngoặt quan trọng trong tiến trình dân chủ hóa.
Những Đại hội sau đó đặt ra nhiều vấn đề khác xoay quanh vấn đề dân chủ
nhƣ: làm cách nào để đảm bảo dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền
(Đại hội VII - 1991), các phƣơng thức làm chủ của nhân dân (Đại hội VIII -
1996), khẳng định dân chủ là một mục tiêu trong hệ mục tiêu chung của cách
mạng (Đại hội IX - 2001, Đại hội X, Đại hội XI), hƣớng tới xây dựng một
nƣớc Việt Nam “dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đến
nay, sau hơn ba mƣơi lăm năm đổi mới, vai trò của dân chủ cũng nhƣ sự cần
thiết phải hoàn thiện thể chế, đổi mới cơ chế chính sách để đảm bảo quyền
làm chủ của ngƣời dân càng đƣợc nhận thức rõ ràng hơn (Trần Thị Minh
Tuyết, 2019) [75]. Và thực tế, quá trình dân chủ hóa này đã diễn ra một cách
sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống đất nƣớc, từ kinh tế, chính trị tới văn
hóa xã hội.
Quá trình dân chủ hóa này đã có những thay đổi sâu sắc nhất là dƣới
tác động của quá trình toàn cầu hóa. Trong bối cảnh internet và mạng xã hội
56
là công cụ đầy quyền năng để phổ biến, lan truyền thông tin, mọi ngƣời dân
có thể dễ dàng tiếp cận đƣợc với các chính sách, quy định cũng nhƣ việc thực
thi chính sách của nhà nƣớc, của cơ quan công quyền. Cộng với những hiểu
biết và kiến thức nền tảng đƣợc thu nhận từ nhiều nguồn khác nhau, nhiều
ngƣời đã cất tiếng bình luận, phản biện, đóng góp cho việc thực hiện các
chính sách đó. Nhiều không gian trở thành những diễn đàn cho chia sẻ, đối
thoại, nơi ngƣời dân đƣợc tham gia, bày tỏ, thể hiện quan điểm của mình đối
với các chính sách và thực thi chính sách xoay quanh các vấn đề nhƣ môi
trƣờng, giáo dục, kinh tế, tự do ngôn luận, nghệ thuật … Quá trình dân chủ
hóa vì vậy đƣợc diễn ra đa chiều, ở phạm vi rộng rãi, trên nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Thêm vào đó, cũng sau chính sách Đổi Mới, các không gian công
dân đã đƣợc hình thành, mở rộng, xuất hiện nhiều hội nhóm trong xã hội nhất
là từ sau những năm 1990, trong bối cảnh Việt Nam gia nhập cộng đồng quốc
tế. Nhiều tổ chức phát triển quốc tế vào Việt Nam, đánh dấu sự xuất hiện của
nhiều tổ chức phi chính phủ, các tổ chức từ thiện. Sau đó các tổ chức phi
chính phủ Việt Nam cũng bắt đầu đƣợc thành lập bên cạnh nhiều tổ chức của
nhà nƣớc. Các tổ chức này thực hiện nhiều hoạt động khác nhau và thƣờng
chú ý đến việc phản biện chính sách, bảo vệ các quyền của con ngƣời, cung
cấp thông tin và phát triển cá nhân thông qua các chƣơng trình tập huấn... Các
tổ chức này phong phú về thành phần, đa dạng về hoạt động, tự mở rộng kích
thƣớc không gian bằng nhiều hoạt động độc lập và phản biện xã hội, đề cập
đến nhiều vấn đề quan trọng trong sự phát triển của đất nƣớc, bảo vệ quyền
con ngƣời, truyền tải những tiếng nói của các cộng đồng ngƣời yếu thế (Lê
Quang Bình và cộng sự, 2016) [3]. Chính các chủ thể trong các nhóm xã hội
này đã nêu lên nhiều vấn đề quan trọng trong xã hội cần đƣợc tranh luận, bàn
bạc, điều chỉnh.
Quá trình toàn cầu hóa nhƣ là xu hƣớng tất yếu mà không một quốc gia
nào có thể cƣỡng lại đƣợc cũng tác động đến nhiều phƣơng diện, đặc biệt là
57
đời sống văn hóa. Nhiều giá trị văn hóa mới mẻ nhờ toàn cầu hóa mà du nhập
mạnh mẽ vào Việt Nam, làm thay đổi các thực hành văn hóa, thay đổi các mối
quan hệ giữa nhà nƣớc và xã hội (Phạm Quỳnh Phƣơng, 2020) [50], làm xuất
hiện nhiều hiện tƣợng văn hóa mới mẻ nhƣ truyền thông đại chúng, giải trí,
hâm mộ thần tƣợng... Ngƣời trẻ lớn lên, đƣợc trải nghiệm và sống trong bầu
không khí của đổi mới và tự do, có nhiều cơ hội giao lƣu, học tập để tiếp thu
và mang theo về những giá trị mới mẻ. Họ dám chia sẻ thẳng thắn, trực diện
quan điểm, suy nghĩ của cá nhân, dám thể hiện chính kiến, quan tâm đến
những giá trị tự do, dân chủ, công bằng, quan tâm và ý thức đến quyền công
dân. Nhu cầu, mong muốn, khát vọng về đời sống vật chất và tinh thần của
con ngƣời đô thị cũng có những thay đổi sâu sắc.
Trong bối cảnh chung này, không thể không nói đến sự hình thành của
các phong trào xã hội nhƣ phong trào của những ngƣời thiểu số tính dục (Vũ
Hoàng Hiếu, 2018) [19], phong trào bảo vệ cây xanh (Lê Quang Bình và cộng
sự, 2016) [3] … Bằng nhiều hành động cụ thể nhƣ kêu gọi, bày tỏ thái độ,
chia sẻ thông tin, thể hiện ý kiến, các nhóm xã hội mong muốn đƣợc đối thoại
với chính quyền. Đặc biệt, họ đã sử dụng mạng xã hội để kết nối, lan tỏa và
truyền đi nhiều thông điệp về sự minh bạch, về khoảng cách giữa chính quyền
và ngƣời dân. Các phong trào này mang lại những tác động tích cực trên khắp
cả nƣớc, làm gia tăng số ngƣời tự tin và trải nghiệm tự do hội họp, đặc biệt
trong sinh viên và thanh niên, tăng năng lực hoạt động của xã hội dân sự trên
mạng xã hội, thúc đẩy sự tham gia của ngƣời dân vào quản trị xã hội, thúc đẩy
hoạt động đối thoại giữa ngƣời dân với chính quyền (Lê Quang Bình và cộng
sự, 2016) [3].
Bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội bề bộn của đô thị đƣợc xem chính là
những điều kiện vô cùng quan trọng cho sự ra đời của các KGST, đồng thời
cũng là “chất liệu” cho nhiều cuộc thảo luận tại các KGST sau này.
58
2.3. Những ấn phẩm của ngành công nghiệp xuất bản tại Việt Nam và
tiến trình dân chủ hóa
Khi cho rằng không gian công đã đƣợc hình thành khá rõ nét trong giai
đoạn 1919-1945, nhất là ở hai đô thị Sài Gòn và Hà Nội, Nguyễn Thị Thúy
Hằng và Vũ Thị Minh Thắng (2015) [18] đã lý giải vì “Hai thành phố này tập
trung các hoạt động in ấn, đóng vai trò trung tâm của những cuộc tranh cãi
liên quan đến các vấn đề văn học, tôn giáo và chính trị”. Điều đó cho thấy
việc sản xuất sách báo, tạp chí cũng nhƣ quá trình tiếp nhận và chuyển hóa
các ấn phẩm của độc giả có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành
nên các không gian công. Điều này cũng hoàn toàn đúng với các KGST khi
có thể tìm thấy mối liên hệ khá gần gũi giữa không khí trao đổi, tranh luận tại
các KGST với sự phát triển mạnh mẽ của ngành xuất bản tại Việt Nam sau
Đổi Mới, đặc biệt là một số ấn phẩm quan trọng góp phần tạo dựng và nuôi
dƣỡng suy nghĩ cởi mở, những phản biện xã hội tích cực, hình thành nên tâm
thức mới cho con ngƣời tại đô thị.
Tại các KGST đƣợc khảo sát là Cà phê Văn và Giấc mơ nhỏ, sách vở
nhƣ là phƣơng tiện để khai trí, cung cấp và mở rộng kiến thức nền tảng, xây
dựng vốn văn hóa cho mỗi cá nhân. Nhiều buổi gặp gỡ, trao đổi tại Giấc mơ
nhỏ hay Cà phê Văn, sách luôn là tâm điểm, là chủ đề chính hay ít nhất là gợi
ra những ý tứ cho nội dung thảo luận. Sách là sợi dây kết nối các cá thể có
chung mối quan tâm tại Giấc mơ nhỏ, hình thành nên nhiều nhóm đọc khác
nhau: nhóm theo đuổi nghề viết, thƣờng xuyên đọc và cập nhật các tác phẩm
văn chƣơng trong và ngoài nƣớc; nhóm say mê triết học, xây dựng tủ sách
triết học, tổ chức các chuỗi sự kiện triết học, cùng đọc nhiều tác phẩm của các
nhà triết học trên thế giới, đặc biệt là triết học phƣơng Tây, lấy đó làm nền
tảng để mở rộng về những hƣớng đọc khác. Cũng có khi khó xếp ai đó vào
một nhóm nào cụ thể bởi họ tự nhận mình là ngƣời đọc đa dạng, không khuôn
vào một chủ đề hay thể loại nào để có cái nhìn rộng mở về cuộc sống đang
diễn ra xung quanh.
59
Từ đầu những năm thập niên 2000 đánh dấu một bƣớc phát triển mới
của ngành công nghiệp xuất bản Việt Nam. Kể từ đây, ngành xuất bản có sự
khởi sắc mạnh mẽ với sự ra đời của nhiều nhà xuất bản mới. Nhà xuất bản
Nhã Nam (Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam) gia nhập thị
trƣờng sách tháng 2/2005 với phƣơng châm “mỗi cuốn sách nhƣ một con thuyền mang tới niềm vui, tri thức, ngạc nhiên và đồng cảm”14. Nhiều dòng
sách đáp ứng đƣợc nhu cầu đa dạng của ngƣời đọc nhƣ tác phẩm hƣ cấu, phi
hƣ cấu, lịch sử, triết học, văn hóa đƣơng đại, sách triết lý sống, sách khai
trí,… Nhiều tác phẩm có ảnh hƣởng mạnh mẽ đến giới trẻ, đánh thức niềm
say mê đọc văn chƣơng ở độc giả trẻ tuổi, trở thành sách gối đầu giƣờng, mở
ra những cách nhìn mới về lối sống, làm thay đổi những quan niệm cũ nhƣ:
Rừng Na Uy của Haruki Murakami, Bắt trẻ đồng xanh của J.D.Salinger, Giết con chim nhại (Harper Lee)15… Tháng 9/2005, nhà xuất bản Tri thức, trực
thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và Kĩ thuật Việt Nam đƣợc thành lập, góp
thêm một mảng màu quan trọng trong bức tranh ngành xuất bản cũng nhƣ
trong đời sống tinh thần của ngƣời dân đô thị. Từ các cuốn sách đầu tiên
thuộc Tủ sách Tinh hoa tri thức thế giới, hoạt động dịch thuật đƣợc đẩy mạnh
và xuất bản những tác phẩm kinh điển nhƣ Bàn về tự do – J.S.Mill (Nguyễn
Văn Trọng dịch), Tâm lí học đám đông – G.le Bon (Nguyễn Xuân Khánh
dịch)… về sau mở rộng ra với nhiều tủ sách khác nhƣ: Tủ sách Dẫn nhập giới
thiệu tổng quát kiến thức nền tảng trên nhiều lĩnh vực; Tủ sách Tri thức mới
đề cập đến nhiều vấn đề có tính nhân loại; Tủ sách Tiểu sử cung cấp thông tin
về bối cảnh, quá trình hình thành những tƣ tƣởng lớn trên thế giới; Tủ sách
Việt Nam đƣơng đại mang đến thông tin đa chiều về Việt Nam hay Tủ sách Tri thức phổ thông đem đến nhiều chủ đề rộng lớn khác nhau16. Ngoài ra, phải
kể đến sự nở rộ các hoạt động xuất bản của nhiều nhà xuất bản khác nhƣ: nhà
xuất bản Trẻ, nhà xuất bản Kim Đồng, nhà xuất bản Phụ nữ, nhà xuất bản Thế 14 http://nhanam.com.vn/tin-tuc/5/gioi-thieu 15 http://nhanam.com.vn/tin-tuc/5/gioi-thieu 16 http://www.nxbtrithuc.com.vn/Gioi-thieu/Chang-duong-phat-trien.html
60
giới… mang đến nhiều loại tác phẩm trên nhiều lĩnh vực khác nhau, góp phần
làm phong phú đời sống tinh thần, tăng vốn hiểu biết cho ngƣời dân đô thị
cũng nhƣ thu hẹp dần khoảng cách tri thức với thế giới khi mà trong một thời
gian dài cơ hội tiếp cận bị hạn chế bởi những điều kiện lịch sử.
Song hành và thúc đẩy hoạt động của các nhà xuất bản, nhiều quỹ hỗ
trợ hoạt động dịch thuật cũng đã đƣợc thành lập với nhiều đóng góp quan
trọng. Có thể kể đến Quỹ Dịch thuật Phan Châu Trinh đƣợc thành lập năm
2006 (năm 2008 đƣợc mở rộng thành Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh) nhằm
phổ biến những tác phẩm kinh điển, có tính chất nền tảng trong kho tàng trí
tuệ thế giới, trong những chuỗi hoạt động nhằm “du nhập, phục hưng, khởi
phát, giữ gìn và lan tỏa những giá trị tinh hoa văn hóa nhằm góp phần canh tân văn hóa Việt Nam trong thế kỉ 21”17. Hoạt động dịch thuật cũng đƣợc hỗ
trợ bởi các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam nhƣ Trung tâm Văn
hóa Pháp, Viện Goethe,… Những nỗ lực dịch, chú giải, hiệu đính, thẩm định,
xây dựng đội ngũ dịch giả đối với loại sách kinh điển đã mang đến cho độc
giả Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị của nhân loại, có thể kể đến nhƣ Phê
phán lý tính thuần túy của triết gia Immanuel Kant (dịch giả Bùi Văn Nam
Sơn); Dân chủ và Giáo dục của John Dewey (dịch giả Phạm Anh Tuấn);
Émile hay là về giáo dục của Jean – Jacques Rousseau (dịch giải Lê Hồng
Sâm và Trần Quốc Dƣơng), Siêu lý tình yêu – V.Soloviev (dịch giả Phạm Vĩnh
Cƣ), Minh triết thiêng liêng của Hamvas Béla (dịch giả Phạm Văn Thiều, dịch
giả Nguyễn Hồng Nhung),…
Những ấn phẩm này có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thu hẹp
dần khoảng trống học thuật khi giới thiệu hệ thống tƣ tƣởng quan trọng của
thế giới, phổ biến những quan niệm mới về nhân quyền, dân quyền, dân chủ,
lan tỏa những giá trị nhân văn. Có thể nói nỗ lực của các nhà xuất bản đã tạo
ra bầu không khí học thuật cởi mở khi giới thiệu nhiều trào lƣu tƣ tƣởng. Bấy
lâu ở Việt Nam, tiếp cận với các tƣ tƣởng, học thuyết từ phƣơng Đông,
17 http://www.quyphanchautrinh.org/tu-sach-tinh-hoa/Index/0
61
thƣờng khá dễ dàng và đƣợc lí giải là do những nét tƣơng đồng về văn hóa,
gắn với yếu tố lịch sử giao thƣơng trong khi việc tiếp cận các tƣ tƣởng tinh
hoa của phƣơng Tây có phần hạn chế hơn. Những tƣ tƣởng triết học thời cổ
đại của Socrat, Platon, Aristot… hay ngay cả những tƣ tƣởng cận đại của
phong trào Khai sáng, những học thuyết quan trọng của phƣơng tây trƣớc đó
chƣa đƣợc giới thiệu một cách hệ thống và nghiêm túc về Việt Nam. Việc phổ
thông hóa những tri thức này tạo ra bầu không khí học thuật thực sự cởi mở.
Sự góp mặt của các giá trị văn hóa tinh hoa trên thế giới mở rộng tầm nhìn
cho ngƣời trẻ, đƣa đến những so sánh, đối chiếu, liên tƣởng với những giá trị
văn hóa của dân tộc và cũng là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ quá trình dân chủ
hóa ở Việt Nam. Việc tiếp nhận những ảnh hƣởng văn hóa bên ngoài vì thế có
tác động mạnh, biến đổi và mở rộng tâm thức của con ngƣời trong bối cảnh
đô thị đƣơng đại.
Chính nhu cầu đọc, hiểu và khỏa lấp những khoảng trống học thuật
cũng nhƣ liên hệ với thực tế cuộc sống thôi thúc việc tìm đến nhau để đọc
cùng, nghĩ cùng và cũng là lý do thúc đẩy sự hình thành và phát triển của
nhiều KGST trong thành phố. Sau mô hình của Giấc mơ nhỏ và Cà phê Văn,
khá nhiều không gian khác vẫn đang đƣợc hình thành, rải rác khắp các ngóc
ngách của đô thị, trở thành những nơi chốn sinh hoạt văn hóa cho giới trẻ, cho
trí thức và nhiều nhóm xã hội khác. Có thể nói, ngành xuất bản đƣơng thời
với nỗ lực giới thiệu những tinh hoa thế giới về Việt Nam đã tạo môi trƣờng
dung dƣỡng sự sáng tạo, khơi lên những tƣ tƣởng nhân văn, ý thức về tự do,
dân chủ, nhân quyền. Nói cách khác, những cuốn sách quan trọng đó đã là
những nhân tố nhen nhóm và mở rộng tâm thức con ngƣời, nâng cao nền tảng
tri thức, giúp ngƣời dân hòa nhập đƣợc vào dòng chảy văn minh trên thế giới.
2.4. Vai trò của các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam
Vai trò của các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam đƣợc nhắc
đến khá nhiều trong những nghiên cứu về mĩ thuật đƣơng đại (Nora A.
Taylor, 2007) [119], Đào Mai Trang (2006) [130] trên các phƣơng diện nhƣ
62
hỗ trợ kinh phí cho một số dự án nghệ thuật đặc biệt là những loại hình nghệ
thuật mới, hỗ trợ không gian khi tạo điều kiện cho các nghệ sĩ tổ chức triển
lãm ngay trong khuôn viên của các trung tâm văn hóa, kết nối, thiết lập mạng
lƣới nghệ thuật đƣơng đại mới tại Việt Nam để cổ vũ các nghệ sĩ. Các trung
tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam đƣợc xem là “bà đỡ” cho sự sáng tạo,
sự phá cách khi mà các cơ quan quản lý văn hóa trong nƣớc còn khá e dè với
những loại hình nghệ thuật mới. Tuy nhiên, đó chỉ là một góc nhìn về những
tác động của các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam từ lĩnh vực mĩ
thuật đƣơng đại. Thực tế, tác động của nó còn mở rộng trên nhiều lĩnh vực
khác nhau.
Những năm đầu thập niên 90, thông tin về văn hóa nghệ thuật về thế
giới vẫn hết sức hạn chế, hầu nhƣ chỉ thông qua một vài kênh cá nhân. Trong
bối cảnh đó, trung tâm văn hóa nƣớc ngoài giống nhƣ cửa ngõ để ngƣời dân
thủ đô tiếp xúc với văn hóa thế giới và văn hóa thế giới theo đó cũng đƣợc
giới thiệu ngày một nhiều hơn ở Việt Nam. Trung tâm Văn hóa Pháp
L‟Espace đƣợc thành lập từ năm 1991 (tiền thân là Trung tâm Ngôn ngữ và
văn minh Pháp tại 42 Yết Kiêu), đến tháng 9/2003 chuyển địa điểm về 24
Tràng Tiền. Tiếp sau là sự ra đời của Hội đồng Anh tại Việt Nam (1993) và
Viện Goethe Hà Nội (1997). Ngoài việc đƣợc biết đến nhƣ là trung tâm
truyền bá ngôn ngữ thông qua việc dạy và học tiếng, tƣ vấn du học cho học
sinh sinh viên, các trung tâm văn hóa còn hợp tác với Việt Nam trên hầu hết
các lĩnh vực: điện ảnh, mĩ thuật, âm nhạc cũng nhƣ hỗ trợ các hoạt động văn
hóa cho nƣớc sở tại.
Trƣớc tiên, các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Hà Nội cho thấy một
mô hình về không gian văn hóa đa dạng với tham vọng trở thành “một trong những nhân tố chính của đời sống văn hóa nghệ thuật Hà Nội”18. Đây cũng là
những không gian tích hợp đa chức năng, vừa là thƣ viện, vừa là trƣờng học,
là nơi tổ chức các buổi hội thảo, giới thiệu sách, các chƣơng trình nghệ thuật,
18 https://ifv.vn/cac-van-phong-cua-vien-phap/trung-tam-van-hoa-phap-tai-ha-noi-lespace/
63
không gian dành cho triển lãm. Tại đây, các xu hƣớng mới, tri thức mới đƣợc
cập nhật, giới thiệu tới công chúng thủ đô. Trong một thời gian dài, trong con
mắt của ngƣời dân thủ đô, đó là những trung tâm văn hóa cập nhật, mới mẻ và
đặc biệt là tiên phong trong bối cảnh văn hóa xã hội đƣơng đại Việt Nam.
Bên cạnh các tác nhân nhƣ hoạt động thƣơng mại, hoạt động triển lãm,
thì các cơ quan văn hóa của các Đại sứ quán nƣớc ngoài tại Việt Nam (Viện
Goethe của Đức, L‟space của Pháp, Hội đồng Anh…) thƣờng xuyên bảo trợ
cho các nghệ sĩ đƣơng đại thực hiện các dự án nghệ thuật bằng việc “cung cấp
các không gian “ngoại giao” nơi nghệ sĩ có thể trưng bày tác phẩm của
mình” [119]. Nhiều thực hành nghệ thuật mang tính phá cách, chạm vào nhiều
vấn đề của hiện thực, bị xem là có yếu tố chính trị, đầy tính “khiêu khích” đã
đƣợc diễn ra dƣới sự bảo trợ của các không gian này trong tinh thần trao đổi
văn hóa. Từ những năm 1995, bên cạnh các hình thức nghệ thuật truyền thống
nhƣ hội họa, điêu khắc, một số nghệ sĩ thị giác ở Việt Nam có những thực
hành nghệ thuật mới nhƣ: nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật trình diễn, video art.
Các loại hình này đƣợc xem nhƣ là những phƣơng tiện cho những tiếng nói
mới gắn với mong muốn phản ánh trực diện nhiều vấn đề của xã hội nhƣ
những bất an của con ngƣời trong xã hội hiện đại, ô nhiễm môi trƣờng, tham
nhũng, ngƣời dân mất đất, những vi phạm dân chủ... Ban đầu, các thực hành
nghệ thuật này phần lớn bị phản đối, không đƣợc coi đó là nghệ thuật [119],
[130]. Những thực hành này cũng gây nhiều lúng túng, bối rối cho các nhà
quản lý văn hóa khi không biết xếp những tác phẩm kiểu này vào đâu và xét
duyệt nhƣ thế nào. Nhiều triển lãm bị cấm hay không đƣợc cấp phép biểu
diễn. Các nghệ sĩ lúc đó đã tìm đến các cơ quan văn hóa nƣớc ngoài tại Việt
Nam nhƣ L‟Espace, Viện Goethe… xem đây nhƣ là đơn vị bảo trợ cho các
thực hành nghệ thuật mới.
Những thay đổi lớn nhỏ trong xã hội, trong tâm thức con ngƣời xảy ra
nhờ quá trình giao lƣu với bên ngoài, ở đây hiện thân là các trung tâm văn hóa
nƣớc ngoài. Không khí dân chủ, cởi mở của các buổi thảo luận, cũng nhƣ tự
64
do nghệ thuật, tự do thể hiện mối quan tâm với các vấn đề xã hội, đã có tác
động không nhỏ đến sự nhận thức cũng nhƣ cảm xúc của ngƣời dân đô thị,
đặc biệt là giới trí thức và những ngƣời trẻ, nhƣ nhận xét của Đào Mai Trang:
“sự đa dạng của nghệ thuật đương đại Việt Nam về cách thức tiếp cận, về các
luồng ý tưởng và khát vọng được can dự trực tiếp vào đời sống thường nhật”
[130]. Sự phá cách, tự do về nghệ thuật đồng thời cũng mở ra những tự do
trong tƣ tƣởng, tạo cơ hội cho những suy nghĩ cởi mở hay trực diện phản ánh
nhiều vấn đề nóng bỏng của đời sống xã hội.
Có thể nói, những trung tâm văn hóa nƣớc ngoài cũng chính là những
KGST đầu tiên khơi mở cho hàng loạt sự xuất hiện của các KGST. Mô hình
của nhiều KGST về sau rõ ràng đƣợc gợi cảm hứng từ cách thức hoạt động
của các trung tâm văn hóa này. Đó là những không gian khuyến khích tính đa
dạng cả về nghệ thuật lẫn tri thức (thể hiện ngay ở tên của Trung tâm văn hóa
Pháp: “L‟Espace” nghĩa là không gian - nơi luôn rộng mở và chào đón tất cả),
cập nhật những dòng chảy văn hóa trong và ngoài nƣớc, tự do, tƣơng tác, kết
nối và cũng là những diễn đàn đối thoại cởi mở. Đa dạng và cởi mở vì thế
cũng đồng nghĩa với tiến bộ, phát triển.
Từ phía công chúng, khán giả Hà Nội, trong bối cảnh những năm đầu
thập niên 2000, khi mà các cơ hội du lịch nƣớc ngoài hay du học chƣa nhiều,
việc tiếp xúc với các nền văn hóa khác ít nhiều còn hạn chế, thì những mô
hình của các trung tâm văn hóa này rõ ràng đã mang lại những sự mới mẻ,
háo hức, đón đợi. Những luồng tƣ tƣởng mới, những giá trị mới đƣợc đón
nhận một cách hào hứng, mang lại những thay đổi lớn cho từng cá nhân, mở
rộng cách nghĩ, cách nhìn, vốn hiểu biết và tăng thêm khả năng phản biện của
cá nhân, từ đó tác động đến xã hội. Về sau, trong tâm thức của những ngƣời
trẻ, các trung tâm văn hóa nƣớc ngoài tại Việt Nam luôn là những không gian
đậm đặc tinh thần tri thức, là những địa điểm hào phóng với những sự kiện
văn hóa nghệ thuật thƣờng xuyên đƣợc tổ chức miễn phí hoặc ngƣời tham dự
chỉ phải trả một mức phí rất nhỏ nhƣ chiếu phim tài liệu, giới thiệu các tác
65
phẩm điện ảnh, giới thiệu sách, triển lãm nghệ thuật… Không khí ở những
trung tâm văn hóa này thƣờng mang đến những cảm thức mới mẻ, vừa xa lạ
vừa thân thuộc.
2.5. Sự xuất hiện của internet, mạng xã hội và bối cảnh toàn cầu hóa
Thông tin đóng vai trò quan trọng của lĩnh vực công cộng và các cuộc
thảo luận. Internet mang lại cho mọi ngƣời cơ hội tiếp cận các sự kiện, thông
tin, từ đó họ có thể suy nghĩ, phân tích và bình luận về chúng, từ đó đƣa ra
những quyết định hợp lý phải làm, cần làm. Thông tin, nhờ intetnet đƣợc cung
cấp tới tất cả mọi ngƣời truy cập mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào, đảm
bảo tính cởi mở và khả năng tiếp cận cho tất cả mọi ngƣời.
Theo Báo cáo Việt Nam Digital 2021 do We are social và Hootsuite
thống kê, tính đến thời điểm tháng 1 năm 2021, Việt Nam đã có 68,72 triệu ngƣời dùng internet trên tổng số 97,8 triệu ngƣời19. Với tỉ lệ sử dụng internet
là 70,3%, Việt Nam là một trong những quốc gia có lƣợng ngƣời dùng
Internet cao trên toàn thế giới. Tại trung tâm đô thị, số lƣợng các quán cà phê
internet tăng theo cấp số nhân. Những năm gần đây, việc sở hữu các thiết bị
công nghệ nhỏ gọn, có kết nối internet nhƣ điện thoại thông minh, máy tính
bảng… của nhiều ngƣời khiến “thế giới trong tầm tay” - câu khẩu hiệu nổi
tiếng của Vietel, nhà mạng giữ thị phần lớn nhất trên thị trƣờng dịch vụ viễn
thông Việt Nam - trở nên dễ dàng hơn bao giờ. Có tới 154,4 triệu kết nối di
động tại Việt Nam vào tháng 1/2021. Có 72 triệu ngƣời dùng mạng xã hội
trên toàn quốc, tƣơng đƣơng với 73,7% tổng dân số. Những con số thống kê
này là minh chứng rõ nhất cho việc internet và đặc biệt là mạng xã hội đang
trở thành phƣơng tiện thông tin và truyền thông phổ biến tại Việt Nam.
Cùng với việc tạo ra những bƣớc tiến mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực
của đời sống, internet đã trở thành công cụ để kết nối, chia sẻ, hình thành nên
những cộng đồng trên mạng (Nguyễn Thị Phƣơng Châm, 2013) [6] và sau đó
là gặp gỡ thực trong các KGST. Những “cộng đồng tƣởng tƣợng” chia sẻ
19 http://digitalvn.vn/vi/viet-nam-digital-2021/
66
cùng nhau những mối bận tâm, tƣơng tác, tìm kiếm sự đồng cảm, đồng quan
điểm, đồng ý hƣớng. Internet cũng cung cấp các hình thức tổ chức mới khi
các nhóm (group) đƣợc thành lập, nối dài những thảo luận còn dang dở tại
không gian thực. Với mạng xã hội, sự hữu hạn cả về không gian lẫn thời gian
đƣợc phá vỡ, tạo ra những liên kết và tƣơng tác bất tận.
Internet và mạng xã hội làm gia tăng về lƣợng và đa dạng về nguồn tiếp
cận thông tin cho ngƣời dân đô thị, mang lại cơ hội đƣợc tiếp cận một cách
đầy đủ, đa chiều và cập nhật về những vấn đề quan trọng của xã hội. Những
vấn đề bức xúc, nóng bỏng của xã hội lan nhanh nhƣ cơ chế truyền tin ở các
không gian đời thực tại các quán cóc ở vỉa hè, các quán cà phê, nhƣng với
không gian mạng thì tốc độ và phạm vi lớn hơn nhiều lần. Bên cạnh nguồn tin
đƣợc coi là “chính thống” từ nhà nƣớc, internet và mạng xã hội tạo ra những
không gian rộng lớn cho những tiếng nói từ bên dƣới, đặc biệt là những tiếng
nói bên lề, thiểu số, ngoại biên mà trƣớc đó dƣờng nhƣ những tiếng nói này bị
ẩn đi, chìm xuống đâu đó. Internet đƣợc sử dụng nhƣ một nền tảng công cộng
để các cá nhân nêu rõ ý kiến riêng tƣ của họ về nhiều vấn đề đang xảy ra
trong đời sống xã hội nhƣ vấn đề giáo dục, tham nhũng, tự do tôn giáo, chủ
quyền biển đảo…. Mạng xã hội cũng là nơi cho việc xuất bản nội dung nhƣ
viết bài, điểm luận, thể hiện ý kiến, tóm tắt, giới thiệu sách, hình thành nên
các trào lƣu viết blog, facebook và các diễn đàn trực tuyến. Và nhƣ vậy chính
internet và mạng xã hội đã tạo nên “không gian chính trị đa thanh với những
tiếng nói trái chiều – một không gian chưa từng tồn tại ở thời kì trước khi
xuất hiện truyền thông xã hội” (Phạm Quỳnh Phƣơng, 2020) [50].
Sự gia tăng của không gian mạng liệu có thu hẹp hay làm giảm đi sự
tồn tại của các KGST? Không gian mạng xã hội cho phép giao tiếp và tƣơng
tác xã hội từ đó tạo nên những hình thức công khai và riêng tƣ mới. Tuy
nhiên, không gian ảo những tƣởng không nắm bắt đƣợc, không gắn kết với
bất kì vị trí địa lý nào thì thực ra vẫn duy trì sự gắn kết, ràng buộc với không
gian vật lý, nhất là trong trƣờng hợp của các KGST. Các thông tin về sự kiện
67
nhƣ thời gian, địa điểm, nội dung của các buổi chia sẻ, thảo luận có thể đƣợc
biết đến hay lan truyền nhờ mạng xã hội. Tuy nhiên, các buổi thảo luận nếu
đƣợc xem nhƣ là những cơ hội để cất lên những tiếng nói phản biện vẫn cần
đƣợc diễn ra trong các KGST - các không gian vật lý nơi khuyến khích sự
tham gia, tôn trọng sự khác biệt, nơi tự do thể hiện quan điểm, chính kiến.
Mạng xã hội phát triển không ngừng, có thêm nhiều trang cá nhân, nhiều
nhóm đƣợc hình thành nhƣ là những phƣơng tiện để thể hiện cảm xúc, bày tỏ
chính kiến… nhƣng số lƣợng các KGST xuất hiện mới cũng ngày một nhiều
hơn, thỏa mãn, đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhiều ngƣời, nhóm ngƣời trong
thành phố. Điều đó có nghĩa là không gian mạng và không gian vật lý đều giữ
vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần mỗi con ngƣời, chúng cùng tồn tại
nhƣng không hạn chế, thu hẹp nhau mà ngƣợc lại bổ sung, nối dài và mở rộng
cho nhau. Có thể xem mạng xã hội nhƣ là sự mở rộng KGST, cơi nới những
hạn hẹp về thời gian cũng nhƣ không gian. Tƣơng tác trực tiếp sau đó đƣợc
nối dài bằng những tƣơng tác trên mạng xã hội nhƣ facebook, zalo hoặc theo
chiều ngƣợc lại, những trò chuyện trên các nhóm khi đã đƣợc nhiều ngƣời
quan tâm thì nhóm bắt đầu nghĩ đến những buổi gặp gỡ trực tiếp. Mạng xã hội
góp phần làm mờ đi, rút ngắn lại sự xa cách về mặt địa lý, mở rộng khung
thời gian cũng nhƣ phạm vi cho trao đổi, chia sẻ. Trang mạng xã hội của Giấc
mơ nhỏ kết nối hơn 600 thành viên, nhiều cá nhân tích cực tƣơng tác cả ở
không gian thực bằng việc tham dự và cả trên không gian mạng qua theo dõi
trang facebook của nhóm.
Facebook đã trở thành một phƣơng tiện quan trọng, hữu hiệu để giới
thiệu, quảng bá cho các sự kiện. Nhờ facebook mà các bạn trẻ biết đến các
KGST, theo dõi và biết đƣợc lịch các sự kiện. Do vậy thông tin về sự kiện sẽ
diễn ra tại các KGST thƣờng nhanh chóng nhận đƣợc khá nhiều tƣơng tác trên
facebook, thể hiện qua số lƣợt thích (like), chia sẻ (share), bình luận
(comment), nhấn biểu tƣợng quan tâm, xác nhận sẽ tham gia, giới thiệu (tag)
thêm ai đó để rủ đi cùng. Có thể nói mạng xã hội khiến cho các KGST đƣợc
68
hình thành và mở rộng nhanh hơn. Chính sự kết nối, tƣơng tác này cũng khiến
các KGST có sức ảnh hƣởng lớn đối với đời sống văn hóa tại các đô thị.
Tiểu kết chƣơng 2
Chƣơng viết đã đề cập đến những sinh hoạt văn hóa trong lòng đô thị
Hà Nội qua các thời kì khác nhau cũng nhƣ những tiền đề cho sự hình thành
của các KGST. Trƣớc khi xuất hiện mô hình các KGST thì Hà Nội đã từng
tồn tại những hội quán, những không gian thƣởng lãm nghệ thuật và sinh hoạt
tri thức gắn với tầng lớp thị dân. Dù hình thức và cả mục đích có thể khác
nhau nhƣng đều đã tạo nên không khí sinh hoạt văn hóa sôi động, giàu có cho
đô thị mà sau này sự ra đời của những KGST có thể đƣợc xem nhƣ một hình
thức nối dài khác của truyền thống đó.
Tuy nhiên, trong bối cảnh đƣơng đại, còn có nhiều lý do khác tạo tiền
đề cho sự ra đời của các KGST. Đó là (1) sự thay đổi, chuyển mình trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội sau Đổi Mới, (2) sự phát triển
mạnh mẽ của ngành công nghiệp xuất bản mang đến nhiều ấn phẩm quan
trọng, giới thiệu những giá trị, tinh thần mới vào Việt Nam, (3) vai trò của các
trung tâm văn hóa và (4) sự lan tỏa của internet và mạng xã hội. Quá trình Đổi
Mới để lại dấu ấn trong mọi lĩnh vực của đời sống. Thêm nữa, nhờ quá trình
toàn cầu hóa, nhiều giá trị mới mẻ đã đƣợc giới thiệu ở Việt Nam nhƣ nhân
quyền, dân quyền, xã hội dân sự…, tác động và làm thay đổi đến cách nghĩ
của ngƣời dân, làm thay đổi mối quan hệ giữa nhà nƣớc và xã hội, tác động
đến tính chất của các quan hệ xã hội. Có thể nói đây là những tác nhân quan
trọng dẫn lối cho sự ra đời của các KGST trong thành phố.
69
CHƢƠNG 3
THỰC HÀNH VĂN HÓA TẠI CÁC KHÔNG GIAN SÁNG TẠO
Trong quá trình tìm kiếm tƣ liệu cho luận án, một câu hỏi trở đi trở lại
trong suy nghĩ của tôi là: Những thực hành văn hóa nào đã và đang kiến tạo
nên các KGST, biến những không gian vật lý thông thƣờng trở thành KGST?
KGST đƣợc lựa chọn để nói đến trong luận án là Giấc mơ nhỏ, Cà phê Văn,
đều là những KGST độc lập ở Hà Nội. Cả hai, nếu nhìn từ bên ngoài có vẻ
giống nhƣ nhiều quán cà phê khác trong thành phố. Tuy nhiên khi tham dự
các thực hành văn hóa tại đây và tìm hiểu kĩ hơn, thì rõ ràng cả hai không đơn
thuần là đơn vị kinh doanh đồ uống chỉ với mục tiêu là doanh thu, lợi nhuận
dù họ cũng phải chật vật với bài toán kinh tế để duy trì hoạt động. Những
ngƣời tạo nên các KGST này (bao gồm ngƣời sáng lập và cả ngƣời tham dự)
đã cùng tạo nên nhiều hoạt động văn hóa nhƣ cùng thƣởng thức nghệ thuật,
chia sẻ quan điểm và thảo luận, tìm kiếm cách giải quyết các vấn đề trong xã
hội… Họ dƣờng nhƣ còn hƣớng tới mục tiêu, viễn cảnh khác thuộc về đời
sống tinh thần, xem KGST nhƣ là nơi hiện thực hóa ƣớc mơ cá nhân, kết nối
với mong ƣớc của các cá nhân khác, tạo nên những cộng đồng cùng chia sẻ
nhiều giá trị chung. Trong chƣơng viết này, từ tƣ liệu điền dã tôi muốn lập
luận rằng mỗi KGST bằng các thực hành văn hóa đa dạng của các nhóm chủ
thể đã tự kiến tạo mình trở thành những nơi chốn sinh hoạt văn hóa thiết yếu
của đô thị.
3.1. Ngƣời trẻ và những thực hành văn hóa đa dạng trong KGST Giấc mơ
nhỏ
Trong các nghiên cứu của Hội đồng Anh, “kết nối” chính là một từ
khóa quan trọng để định hình nên KGST (Hội đồng Anh, 2014) [21]. KGST
Heritage Space, Manzi thành điểm hẹn cho cộng đồng nghệ sĩ thực hành nghệ
thuật đƣơng đại trong các dự án, các chƣơng trình sáng tạo, các sự kiện mở
xƣởng, workshop, trò chuyện với công chúng của nghệ sĩ lƣu trú. KGST Ơ
70
kìa Hà Nội mới thành lập sau này nhƣng có sức hút mạnh mẽ với công chúng
thủ đô yêu điện ảnh, cùng hoài niệm về những câu chuyện cũ mà đẹp, làm
sống dậy những kí ức tập thể về một thời bao cấp khốn khó mà thân thƣơng.
Ago hubs (12 Hòa Mã) kết nối những ngƣời làm nghề kiến trúc cùng chia sẻ
kiến thức và đam mê nghề nghiệp. Mỗi không gian, ngay trong ý tƣởng ban
đầu của ngƣời sáng lập đã hƣớng tới một hay nhiều nhóm đối tƣợng xác định
với những mục tiêu cụ thể. KGST Giấc mơ nhỏ chia sẻ điểm chung này với
nhiều KGST khác trong thành phố khi mà trong nhiều năm qua các KGST đã
trở thành nơi gắn kết những ngƣời có chung mối quan tâm, nơi họ đƣợc bộc
lộ và cùng chia sẻ suy nghĩ về nghề nghiệp, lối sống hay cả niềm yêu thích
nghệ thuật. KGST Giấc mơ nhỏ cũng thực hiện chức năng kết nối, từ đó hình
thành nên các nhóm, các cộng đồng nhỏ, cùng nhau duy trì sở thích, chia sẻ
quan niệm về giá trị sống, thƣởng thức nghệ thuật hay bày tỏ quan điểm với
các vấn đề đang diễn ra trong xã hội. Phân tích các thực hành văn hóa tại
KGST Giấc mơ nhỏ dƣới đây sẽ cho thấy điều đó.
3.1.1. Không gian kết nối những người đọc độc lập
Nằm sâu trong một ngõ phố gần trung tâm Hà Nội, Giấc mơ nhỏ là nơi
lui tới, là điểm hẹn quen thuộc của nhiều ngƣời trẻ tuổi, ngƣời yêu thích đọc
sách, tìm kiếm sự tĩnh lặng. Không gian khá nhỏ, chỉ khoảng gần 100m2 nằm
giữa khu dân cƣ đông đúc. Một góc khoảng sân chung của mấy hộ gia đình
dành làm chỗ dựng xe. Ngay ngoài cổng vào có tấm biển nhỏ yêu cầu khách
đến tắt máy và dắt bộ xe để giữ yên lặng cho không gian xung quanh. Quán
có hai tầng: tầng một là không gian đóng với góc pha chế, góc bán sản phẩm
thân thiện với môi trƣờng, bàn ghế dành cho khách và một góc nhỏ có màn
hình máy chiếu dành cho diễn giả đứng trình bày; tầng hai là khoảng không
gian mở với nhiều cây xanh, ngồi trên đây có thể quan sát đƣợc khung cảnh
xung quanh. Ngay lối vào cửa là một chiếc tủ nhỏ có mái chóp, giống hình tổ
chim bồ câu, dành cho chƣơng trình đổi sách, nơi mọi ngƣời có thể mang sách
đã đọc đến để đổi lấy những cuốn khác. Không gian quán nhƣ chia thành hai
71
phần, phía trong là sàn gỗ cao hơn so với nền khoảng hơn nửa mét, kê những
bàn gỗ rời nhỏ và thấp, tiện cho việc sắp xếp, tách ra hay nhập vào thành dãy
bàn dài khi có sự kiện đông ngƣời. Ngƣời đến tham dự có thể ngồi dựa vào
giá sách bằng những chiếc gối tựa êm nhỏ và co duỗi chân một cách thoải
mái. Phía dƣới là nền xi măng, ngoài tủ kính lạnh để bánh ngọt và hoa quả
theo mùa thì còn đủ chỗ kê ba bộ bàn ghế cao chạy dọc đến cuối phòng. Các
mảng tƣờng xây thô, không trát, để lộ hình viên gạch đƣợc sơn trắng, tạo cảm
giác tối giản, tự nhiên. Không gian bên trong quán đƣợc thiết kế khá thân
thiện, cảm giác ấm cúng với ánh đèn vàng, những chùm bóng nhỏ nhấp nháy
treo phía trên cửa sổ kính trong suốt, những bình cây, bình hoa nhỏ xinh đặt
khéo léo trên bậu cửa sổ, trên kệ sách. Nếu không có sự kiện đòi hỏi phải
chuẩn bị âm thanh từ loa mic thì quán luôn mở các đĩa nhạc với âm lƣợng nhỏ
tạo không khí nhẹ nhàng, lãng mạn. Chạy dọc men theo tƣờng là những kệ
sách to, cao quá đầu ngƣời với nhiều đầu sách đƣợc cất giữ cẩn thận, có ghi
chú để độc giả dễ tìm kiếm. Chủ đề và thể loại sách khá đa dạng, đƣợc cập
nhật và bổ sung thƣờng xuyên: tác phẩm văn học trong và ngoài nƣớc, sách
triết học, sách lịch sử, truyện tranh dành cho thiếu nhi…
Từ năm 2015 đến nay, Minh - ngƣời sáng lập ra KGST này cũng kiêm
luôn gần nhƣ mọi việc, từ lên ý tƣởng sự kiện, sắp xếp, kết nối, điều phối các
hoạt động. Minh vẫn thƣờng ngại ngùng khi ai đó gọi mình là founder (ngƣời
sáng lập) của Giấc mơ nhỏ. Tốt nghiệp tại một trƣờng đại học lớn trong hệ
thống đại học công lập Việt Nam, đƣợc đào tạo bài bản, đã đi làm 4 năm
trong một công ty lớn lớn mức lƣơng mơ ƣớc, hứa hẹn nhiều cơ hội thăng tiến
nhƣng Minh có cảm giác bó buộc, lạc lõng, khó hòa nhập, khó tán thƣởng
những câu chuyện công sở hàng ngày. Minh không tìm thấy nhiều ý nghĩa từ
chuỗi việc lặp đi lặp lại ngày này qua ngày khác của đời sống công sở: họp
hành, báo cáo, email… dù tất cả những công việc đó không quá khó khăn và
đều trong tầm xử lí. Với Minh, cái guồng máy công việc đều đặn, bền bỉ một
cách đáng sợ đó in dập và định hình nên những con ngƣời, nhƣ nhiều ngƣời
72
khác. Những thứ Minh vẫn thƣờng nghĩ và mơ mộng đến nhƣ văn chƣơng,
phim ảnh nghệ thuật, lối sống giản đơn gần gũi với tự nhiên… lại có phần xa
lạ với thực tế xung quanh. Sau này, khi đã lập ra Giấc mơ nhỏ, Minh thử quay
lại lĩnh vực cũ, chỉ là làm công việc bán thời gian nhƣng vẫn không thấy ổn,
tự rút lui và xác tín một cách rõ ràng mình mong muốn gì và mình sẽ làm gì.
Chính cảm giác không thích nghi đƣợc với đám đông thôi thúc Minh quyết
định từ bỏ vị trí ổn định cùng cơ hội có thu nhập tốt, rẽ sang một hƣớng khác
mà lúc đó còn chƣa tƣởng tƣợng đƣợc rõ ràng, chỉ mới có ý nghĩ rằng dù là
làm gì thì công việc tiếp theo nhất định phải liên quan đến sách và việc đọc.
Minh bắt tay vào việc lập nên Giấc mơ nhỏ mà ban đầu mọi thứ thực sự còn
mơ hồ, chƣa có gì là mạch lạc, rõ ràng, ngoại trừ mong muốn đọc sách, đƣợc
làm việc với sách vở vốn đã theo đuổi bấy lâu. Ý tƣởng nhen nhóm về một
KGST độc lập dƣới hình thức quán cà phê sách dần dần thành hình hài, bắt
đầu với việc huy động vốn, vay mƣợn và góp chung cùng với một ngƣời bạn
từ tháng 8/2015 để lập nên Giấc mơ nhỏ. Về sau, trong một thời gian dài còn
lại Minh một mình xoay xở trƣớc khi kết hợp cùng với những ngƣời bạn cũng
làm về cà phê sách vào đầu năm 2020.
KGST Giấc mơ nhỏ có những ƣu tiên nhất định cho việc đọc và các sự
kiện liên quan đến việc đọc nhƣ tổ chức các sự kiện của các câu lạc bộ đọc
sách, thảo luận, trò chuyện xoay quanh một cuốn sách, một chủ đề, chia sẻ về
trải nghiệm đọc, trao đổi sách, gặp gỡ những ngƣời có cùng sở thích đọc và
viết... Cũng vì thế, trong KGST này, sách vở giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Sách vở tích lũy qua năm tháng đƣợc phân loại, sắp xếp ngăn nắp trên giá và
chia về từng góc: góc truyện cho thiếu nhi, tác phẩm văn học cổ điển, tác
phẩm văn học hiện đại, sách triết học, lịch sử, văn hóa… Những mẩu giấy
nhỏ, gọn ghẽ, ghi tên thể loại sách, đƣợc dán cẩn thận ở thành kệ để thuận tiện
cho việc tra tìm, cả những lƣu ý yêu cầu ngƣời đọc giữ sách cẩn thận hay
nhắc nhở để sách đúng vị trí sau khi đọc… cho thấy ngƣời tạo ra không gian
đọc này là ngƣời đọc nghiêm cẩn, chăm chút, nâng niu sách.
73
Lập ra Giấc mơ nhỏ, ngoài việc để thỏa mãn nhu cầu đọc và viết của cá
nhân, Minh còn muốn tạo ra một ngôi nhà chung cho những ngƣời có cùng sở
thích nhƣ mình. Sau khi thành lập vào cuối năm 2015, KGST này dần đƣợc
nhiều bạn trẻ biết đến và lui tới. Ban đầu chỉ là tò mò hay bị hấp dẫn bởi một
không gian nhỏ bé nhƣng gần gũi, thân thiện, về sau, điều khiến họ quay lại
thƣờng xuyên và xem đây nhƣ là “điểm hẹn” chính vì cảm mến những nỗ lực
không ngừng của Minh để duy trì các sinh hoạt văn hóa ở quán cũng nhƣ
quan niệm, giá trị mà Minh theo đuổi. Quá trình Minh xây dựng nội dung, ý
tƣởng hoạt động cho Giấc mơ nhỏ cũng là khi Minh tìm thấy, kết nối với
nhiều ngƣời có chung ƣớc muốn và cũng đƣợc tìm đến nhƣ một nơi có thể hỗ
trợ hay chia sẻ. Mong muốn tạo ra một không gian đọc nhỏ của Minh đã gặp
gỡ với nhiều bạn trẻ với những công việc khác nhau nhƣng cũng cùng mục
đích phát triển văn hóa đọc: đƣợc gặp Vân - ngƣời có ƣớc mơ nhân rộng mô
hình trao đổi sách khắp Việt Nam, tạo không gian cho những ngƣời yêu sách;
đƣợc gắn kết với Linh, ngƣời yêu triết học và cũng là ngƣời sáng lập tủ sách
triết học tại chính Giấc mơ nhỏ với hy vọng những trang sách triết học đến tay
ngƣời đọc, để kéo gần hơn kho báu tri thức của nhân loại đến với ngƣời Việt;
đƣợc chia sẻ với Hoàng, ngƣời phụ trách một trang mạng lớn - một diễn đàn
của giới trẻ thích viết lách, phản biện, tự vấn,…và với rất nhiều những ngƣời
làm dự án sách khác. Họ có thể là những ngƣời viết trẻ đang dần khẳng định
đƣợc giọng nói, cá tính riêng của mình ở một vài giải thƣởng nhỏ, là nhân
viên kinh doanh, ngƣời làm việc tự do… nhƣng đều thích đọc sách, yêu tri
thức và luôn trăn trở xây dựng văn hóa đọc, vì một cộng đồng giàu có về tri
thức, hƣớng tới những giá trị nhân văn.
KGST Giấc mơ nhỏ cũng làm nhiệm vụ kết nối những bạn trẻ có niềm
say mê với việc đọc sách và viết lách. Ngay trong ý tƣởng ban đầu về KGST
này, Minh đã hình dung sẽ tạo ra một góc đọc cá nhân nhỏ, cùng nhau chia sẻ
tủ sách với bạn bè chung sở thích. Dần dần một câu lạc bộ đọc và viết đƣợc
hình thành, thu hút sự quan tâm của nhiều bạn trẻ. Minh đã lập ra một nhóm
74
mở (group) trên facebook để các thành viên trao đổi, chia sẻ và cập nhật
thông tin. Hiện trang của nhóm đã có hơn mƣời bảy nghìn lƣợt thích với hơn tám trăm thành viên20 trong đó nhiều thành viên thƣờng xuyên tƣơng tác. Các
bài viết trên nhóm khá đa dạng về nội dung, có thể kể đến nhƣ: giới thiệu về
sách hay đã đọc, đăng tải các bài nghiên cứu văn học từ tạp chí có uy tín trong
và ngoài nƣớc, tranh luận về một tác phẩm cụ thể, chia sẻ kinh nghiệm viết
hay cung cấp thông tin liên quan đến việc đọc và viết (nhƣ thông tin về thời
gian, địa điểm của hội sách nào sắp đƣợc diễn ra; thƣ mời cộng tác, mời viết
bài của các đơn vị đến bạn đọc, bạn viết; các chƣơng trình, sự kiện về sách
đƣợc tổ chức tại các KGST khác; cuộc thi viết luận nghiên cứu văn học; các
khóa học trực tiếp truyền thống hay học trực tuyến cả trong nƣớc lẫn nƣớc
ngoài về văn hóa nghệ thuật…). Ban đầu, Minh thƣờng là ngƣời cập nhật nội
dung cho trang để tạo dựng và mở rộng sự tƣơng tác. Về sau, chính các thành
viên của cộng đồng đã chủ động tham gia tích cực, số lƣợng các bài viết, tin
tức, chia sẻ ngày càng nhiều thu hút nhiều lƣợt bình luận, lƣợt thích, lƣợt chia
sẻ.
Ngoài tƣơng tác trên mạng xã hội, nhiều buổi gặp mặt các thành viên
trong nhóm (thƣờng đƣợc gọi là các buổi offline) cũng đƣợc Minh với tƣ cách
là quản trị viên trang facebook của nhóm tổ chức để các thành viên có dịp
ngồi lại cùng nhau, làm quen thành viên mới, cùng trò chuyện về sách vở. Khi
tham dự mỗi ngƣời đƣợc khuyến khích mang theo ít nhất một cuốn sách bất kì
để tham gia phần giới thiệu và trao đổi sách, tặng sách của mình và nhận lại
một cuốn từ ngƣời khác. Các buổi offline thƣờng bắt đầu bằng việc giới thiệu
theo vòng tròn các thành viên tham gia, giới thiệu về mình kèm theo
nickname (tên) trên facebook để mọi ngƣời dễ nhận ra. Trong buổi gặp gỡ mà
tôi đƣợc tham dự vào một buổi chiều cuối tuần của tháng 10/2018, có khoảng
14-15 bạn trẻ, độ tuổi từ 20 đến 30. Đó là Linh, 32 tuổi, học về quản trị kinh
doanh nhƣng lại có niềm đam mê đặc biệt với triết học, vừa ra mắt một tập
20 Cập nhật số liệu tháng 6/2020
75
thơ và là ngƣời kết nối, chủ trì một câu lạc bộ gồm một số bạn trẻ cùng yêu
thích triết học, tự nói về mình là “đọc tạp nham và thập cẩm” và “đọc đến độ
nào đó thì thấy mình cần phải viết ra”. Đó là Dung, 19 tuổi, đã tốt nghiệp phổ
thông, chƣa đi làm và cũng chƣa muốn đi học tiếp, thấy mình chƣa có định
hƣớng cụ thể, đã có một số bài viết trên một số diễn đàn dành cho ngƣời trẻ,
đang nghĩ về việc viết nhƣng cũng chƣa xác định rõ ràng, thích triết học và
xem triết học nhƣ là nền tảng để có thể nghĩ và khám phá về nhiều lĩnh vực
khác. Buổi gặp mặt còn có sự tham gia của ba ngƣời viết trẻ. Đó là Vân Anh,
23 tuổi, ngƣời cũng thích viết, quan tâm đến nhiều thể loại khác nhau, thích
nghiên cứu về con ngƣời, xã hội, văn hóa, tự thấy để trau dồi thêm kĩ năng
viết thì cần phải coi trọng việc đọc. Vân Anh từng nói đến với sách vở và việc
đọc với mong muốn để hiểu mình hơn:
“Em trước kia không đọc sách mấy đâu dù đã từng được
làm việc và tiếp xúc nhiều với sách, có sách mang về nhưng chưa
đọc. Cách đây mấy năm em sống khá là vội, có những cái trong
cuộc sống em cảm thấy luẩn quẩn bí bách. Cách đây 2 năm em
gặp một sự cố, thấy công việc của mình ngoài tầm kiểm soát,
mình không hiểu được bản thân mình. Lúc đó em thấy mình nên
sống chậm hơn và tìm đến sách, đến audio book. Sau đó em cảm
thấy em hiểu về con người em hơn. Em tò mò hơn về những thứ
mọi người nghĩ, mọi người làm. Tại sao mọi người nghĩ như thế,
làm như thế”.
Đó là Huy hay Quỳnh, hiện đang làm việc tự do, công việc chính là viết và
dịch sách, từng có tác phẩm tham gia và đạt giải cuộc thi dành cho những cây
viết trẻ. Một số bạn trẻ khác không liên quan đến nghề viết nhƣng quan tâm
và thích đọc sách, là thành viên của nhóm mở trên facebook, bấy lâu cũng
“âm thầm” theo dõi hay tích cực tƣơng tác.
Buổi trò chuyện diễn ra trong không khí thoải mái, mọi ngƣời tự nhiên
chia sẻ về cuốn sách mình đã đọc gần đây, thấy hay và muốn giới thiệu cho
76
nhau. Mối quan tâm khá đa dạng nên sách đƣợc giới thiệu cũng thuộc nhiều
lĩnh vực khác nhau: sách văn học (Những người bóng dài của nhà văn Thụy
Sĩ Hans Ruesch - câu chuyện về cuộc sống của ngƣời dân Eskimo vùng cực
Bắc và những va chạm giữa hai nền văn hóa khác nhau, tiểu thuyết Tuổi 20
yêu dấu của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, một cuốn tiểu do Quỳnh viết và mới
đƣợc xuất bản); sách lịch sử (cuốn Súng, vi trùng và thép do Vân Anh giới
thiệu, của tác giả Jared Diamond với câu hỏi tại sao lịch sử đã diễn ra khác
nhau trên mỗi châu lục), sách triết học… Ngoài việc giới thiệu các cuốn sách
hay đã đọc, các thành viên cùng chia sẻ về trải nghiệm đọc (những bất ngờ
thú vị và những khám phá sau khi đọc), kinh nghiệm với việc đọc (thói quen
đọc vào khung giờ nào thì phù hợp với cá nhân, hình thức đọc nào là thuận lợi
cho mỗi hoàn cảnh, so sánh trải nghiệm đọc sách giấy và nghe sách nói, chia
sẻ thông tin về các nền tảng sách nói…). Từ sách vở, câu chuyện tràn sang
những chia sẻ cá nhân khác về công việc, về sở thích, về lý do dẫn dắt đến với
sách để từ đó mong muốn đƣợc đọc, đƣợc viết. Cuối buổi trò chuyện, mọi
ngƣời cùng chơi đố vui, phần thƣởng cho những ngƣời giải đƣợc câu đố là
một cuốn sách tự chọn do Minh chuẩn bị để tặng các thành viên. Trƣớc khi ra
về, những cuốn sách mà mỗi ngƣời mang theo ban đầu đƣợc đem ra để tặng
nhau một cách ngẫu nhiên cùng với lời hẹn về lần gặp nhau tới đây.
Buổi gặp gỡ và thảo luận đƣợc nói đến trên đây là một ví dụ trong số
rất nhiều các sự kiện đã đƣợc diễn ra tại KGST Giấc mơ nhỏ - nơi đƣợc xem
nhƣ là diễn đàn thực kết nối ngƣời trẻ đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau nhƣng
có cùng chung một mối quan tâm, một sở thích. Với Linh, Dung hay một số
bạn trẻ đến đây, nhu cầu kết nối dƣờng nhƣ là một nhu cầu thƣờng trực để mở
rộng mối quan hệ bạn bè, gặp gỡ, duy trì các mối quan hệ cũ cũng nhƣ làm
quen với các bạn mới có cùng chung sở thích là đọc và viết, để biết thêm
những suy nghĩ, cá tính mới trong việc đọc cũng nhƣ trong đời sống. Khi say
sƣa kể về những trải nghiệm cá nhân với việc đọc, họ đồng thời bộc lộ con
ngƣời, cá tính, cảm xúc của mình với ngƣời khác, đƣợc ngƣời khác lắng nghe.
77
Hay đến để trở thành một thành viên trong cộng đồng đọc nhỏ bé này và phần
nào để bớt cô đơn trên hành trình đọc nhƣ Dung đã từng chia sẻ:
“Khi xem phim hay nấu một món ăn ngon, mình dễ dàng
chia sẻ với người khác. Nhưng khi đọc một cuốn sách hay thì
không biết chia sẻ cho ai, cùng ai. Mình cảm thấy cô đơn trong
hành trình đọc, và vì thế muốn được chia sẻ để hành trình đọc
bớt cô đơn”.
3.1.2. Thảo luận tự do về các chủ đề
Cũng vẫn liên quan đến việc đọc và kết nối, Giấc mơ nhỏ còn là nơi
nhiều nhóm bạn trẻ tổ chức các buổi sinh hoạt tri thức, thảo luận, chia sẻ về
một chủ đề đã bàn trƣớc. Những phân tích dƣới đây về một sự kiện đƣợc tổ
chức bởi một nhóm bạn trẻ yêu thích đọc sách triết học, “mƣợn” không gian
Giấc mơ nhỏ để trở thành nơi gặp gỡ, diễn đàn cho các thảo luận cởi mở và tự
do.
Buổi thảo luận Bàn về chủ nghĩa Hậu hiện đại diễn ra vào một tối cuối
tuần của tháng 10 năm 2019, xoay quanh cuốn sách đƣợc báo trƣớc là khá
khó hiểu ngay cả với ngƣời nghiên cứu hay sinh viên chuyên ngành khoa học xã hội: Hoàn cảnh Hậu hiện đại của tác giả Lyotad21. Toàn bộ nội dung và cách thức tiến hành sự kiện là do các thành viên của nhóm Triết học và tôi22,
một nhóm bạn trẻ say mê với việc đọc, đặc biệt là sách triết học. Thành viên
chính của nhóm đã gắn bó với nhau lâu bao gồm Linh (33 tuổi) - ngƣời sáng
lập và duy trì hoạt động của nhóm Triết học và tôi, Vũ (27 tuổi), Vinh (21
tuổi), Mai (24 tuổi). Họ đều mong muốn tạo lập môi trƣờng, không gian cho
những diễn giả độc lập thể hiện các quan điểm riêng, khơi dậy tinh thần tranh
biện văn minh: tự do, thẳng thắn và tử tế. Chủ đề mà các thành viên của nhóm
đƣa ra bàn luận khá đa dạng, phần lớn xoay quanh những vấn đề triết học,
21 Jean-Francois Lyotard (2007), Hoàn cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính và giới thiệu, Nxb Tri thức, Hà Nội. 22 Tên nhóm đã đƣợc thay đổi để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh.
78
những câu hỏi về nhân sinh quan, thế giới quan, có thể kể đến những chuỗi sự
kiện nhƣ Triết học về tình yêu, Thế giới bắt nguồn từ đâu, Tư tưởng triết học
Kant… Các sự kiện này về sau cũng tạo ra những lan tỏa nhất định, thu hút
đƣợc sự tham dự của nhiều ngƣời trẻ khác, đến từ nhiều lĩnh vực cùng những
mối quan tâm khác nhau.
Buổi thảo luận bắt đầu với phần tự giới thiệu và làm quen, do Mai làm
điều phối. Đây chính là cách mà các buổi trò chuyện thƣờng đƣợc bắt đầu,
nhƣ một cách khởi động “phá băng”, xóa đi sự xa lạ và khoảng cách giữa mọi
ngƣời, thiết lập sự hiểu biết, cởi mở và chia sẻ. Lần lƣợt, các thành viên tham
dự chia sẻ nhanh một vài thông tin cá nhân nhƣ tên, tuổi, công việc hiện tại,
sở thích, các mối quan tâm hay nói những điều đã biết về chủ đề thảo luận,
đƣa ra câu hỏi mong muốn đƣợc giải đáp, thể hiện sự kì vọng hay mong muốn
nào khi đến tham dự… Với chừng khoảng 25-30 ngƣời tham dự, nhƣ vậy
đƣợc xem là khá đông với một buổi nói chuyện về triết học vốn kén ngƣời
tham gia, thƣờng chỉ thu hút một nhóm nhỏ bởi đây dƣờng nhƣ không phải là
chủ đề phổ thông với đa số ngƣời trẻ. Một số sự kiện về triết học của nhóm
từng tổ chức trƣớc đó tại Giấc mơ nhỏ hay ở những không gian khác, có khi
chƣa đến 10 ngƣời tham gia, kể cả các thành viên chủ chốt của nhóm.
Khi đến đây, mỗi ngƣời có những tâm thế khác nhau. Với những ngƣời
chủ trì buổi thảo luận nhƣ Linh thì đây trƣớc tiên nhƣ là cái cớ để đƣợc gặp
gỡ, trò chuyện với các thành viên trong nhóm hay “mình đến chủ yếu là để
chơi với mọi người, lâu lắm cũng ko sống trong không khí agora, đến để xem
mọi người nói cái gì”. Với Mai - một cựu sinh viên đại học ngoại ngữ, làm
dịch thuật và du lịch nhƣng vài năm trở lại đây lại muốn tìm hiểu về triết học
và tâm lý, thì đây là sự kiện để Mai đọc và đƣợc nói về chủ đề hậu hiện đại
mà mình quan tâm bấy lâu. Có ngƣời lại đến với sự tò mò, nhƣ Dƣơng (25
tuổi) khi chia sẻ “Hồi đi học cao đẳng mình có học triết học nhưng mình chả
biết một tí gì, đi thi toàn đi chép. Hôm nay mình đến đây để muốn biết triết
học nó là cái gì, ứng dụng của nó, tìm hiểu thêm về hậu hiện đại”. Hiếu (22
79
tuổi) - cũng đọc nhiều về triết học, và đến để hiểu hơn về chủ đề hậu hiện đại
khi mà “Mình đã nghe nhiều về hậu hiện đại nhưng không ai đưa ra giải đáp
khiến mình thỏa mãn. Mỗi người diễn giải một khác, vì thế mình muốn hiểu
hơn”. Có bạn chuẩn bị trạng thái thoải mái “Khi nghe về Hậu hiện đại, mình
ko nghĩ về bất kì điều gì, không tham vọng về bất kì điều gì, để mindset rất mở
để tiếp thu những ý tưởng mới về hậu hiện đại mà Mai sẽ giới thiệu ngày hôm
nay” hay tò mò nhƣ Dung (20 tuổi):
“Đây là lần đầu tiên mình đến với nhóm Triết học và tôi.
Mình có quan tâm rất nhiều đến triết học hay như là những thứ
xung quanh mình. Mình nhìn thấy tên chủ đề là hậu hiện đại, mà
mình đang sống ở thế kỉ 21, nên có một phần mình nghĩ là mình
nên biết về điều này. Mình băn khoăn, mình đang sống ở thời
hiện đại, tại sao sách lại là hậu hiện đại?”.
Buổi thảo luận đã diễn ra trong không khí khá sôi nổi, với những háo
hức, tò mò, đón đợi, giống nhƣ nhiều buổi thảo luận khác tại đây. Mai - ngƣời
điều phối buổi thảo luận - giới thiệu nội dung của sự kiện và bắt đầu buổi
trao đổi bằng việc “đọc tƣơng tác”. Màn hình máy chiếu hiện lên nội dung
trang sách, phóng to đủ rõ để những ngƣời ngồi phía cuối có thể nhìn đƣợc.
Một bạn đọc to cho cả nhóm cùng nghe, chừng 2-3 trang. Kết thúc phần đọc,
ngƣời điều phối, thay vì trình bày nội dung đã chuẩn bị nhƣ nhiều cuộc thảo
luận khác thì lại đƣa ra một câu hỏi gợi mở: “bạn hiểu gì về đoạn vừa rồi”.
Không ngại ngần, nhiều bạn giơ tay muốn nói ý kiến của mình. Mọi ngƣời
“nhập cuộc” rất nhanh khiến không khí thảo luận dần trở nên sôi nổi. Ngƣời
điều phối là Mai lúc này giữ vai trò kết nối, tóm lƣợc lại ý kiến của ngƣời
thảo luận, so sánh ý hiểu của ngƣời này với ngƣời khác, đƣa ra những bình
luận, dẫn dắt và mở rộng ra những câu hỏi khác. Micro đƣợc truyền tay nhau
liên tục, cứ nhƣ vậy, các ý kiến và sự tƣơng tác đan xen nhau. Càng về sau
càng sôi nổi, nhiều bạn muốn nói, muốn hỏi hay quay sang ngƣời bên cạnh để
cùng tranh luận. Chủ đề của buổi nói chuyện về Hậu hiện đại đƣợc soi chiếu
80
bằng những câu chuyện, trải nghiệm từ những cách nhìn, cách nghĩ khác nhau
gắn với từng lĩnh vực của từng ngƣời. Chừng đến hơn 22h00‟, Mai nói lời kết
thúc để khép lại chƣơng trình vì quán sẽ đóng cửa lúc 22h30‟. Và dù kết thúc
nhƣng mọi ngƣời vẫn nán lại trao đổi cùng nhau những ý còn dở dang, hỏi
han về công việc, hứa hẹn kết nối và những buổi gặp gỡ khác nữa, tại chính
đây hay tại các điểm hẹn khác.
Chủ đề thảo luận về cuốn sách Hoàn cảnh hậu hiện đại trong buổi này
và rất nhiều chủ đề của các buổi talk khác vừa là vấn đề mà ngƣời trẻ quan
tâm nhƣng vừa nhƣ là cái cớ hay một lý do cho những cuộc gặp gỡ mà ở đó
ngƣời trẻ đƣợc tự do chia sẻ về điều mình nghĩ, cách mình nhìn nhận. Nó vừa
có vẻ giống nhƣ một buổi sinh hoạt học thuật (ở vấn đề thảo luận) nhƣng lại
hoàn toàn khác với các buổi sinh hoạt học thuật tại các nơi đƣợc xem là chính
thức nhƣ trƣờng học, cơ quan nghiên cứu, các buổi hội thảo, tọa đàm... Tính
không chính thức thể hiện ở nhiều điểm: tổ chức sinh hoạt tri thức một cách
khá thoải mái, thay vì đi đến các trƣờng đại học, viện nghiên cứu hay các buổi
thuyết trình khoa học ở các cơ sở đào tạo thì nhóm bạn trẻ này gặp nhau ở các
quán cà phê và chia sẻ với nhau. Các buổi nói chuyện đƣợc tổ chức có thể
không thƣờng xuyên, không định kì, bị ngắt quãng xa bởi ngƣời nọ ngƣời kia
bận công việc cá nhân, đôi khi đƣợc lên kế hoạch một cách ngẫu hứng, đến
nhƣ một cuộc chơi. Không gian đƣợc lựa chọn thƣờng khá cởi mở nhƣ các
KGST, các quán cà phê quen của các thành viên trong nhóm để mọi ngƣời
thoải mái nói lên ý kiến, không bị bó mình nghiêm ngặt trong các quy tắc ứng
xử nhƣ ở các môi trƣờng học thuật khác. Lời mở đầu có thể ngắn gọn và thân
thuộc “chào mọi ngƣời” thay vì phải thƣa gửi hay giới thiệu chức vụ, học
hàm, học vị. Không khí suốt cuộc trò chuyện khá tự do, thân thiện, tôn trọng
cá tính và sự khác biệt đủ để mọi ngƣời thẳng thắn chia sẻ cách hiểu, cách
nghĩ của mình.
Với những ngƣời không nghiên cứu chuyên sâu về khoa học xã hội nói
chung và triết học nói riêng thì vấn đề đƣợc nói đến có phần xa lạ. Dù đƣợc
81
đề cập đến trong giáo trình, đƣợc giảng dạy trong trƣờng học nhƣng còn vắn
tắt, sơ lƣợc. Hơn nữa tinh thần của triết học là trao đổi, thảo luận, đặt ra câu
hỏi và trả lời, từ nhiều góc nhìn, nhiều khía cạnh nhằm làm sáng tỏ vấn đề,
nhƣng điều đó dƣờng nhƣ chƣa có, chƣa đƣợc thỏa mãn trong chƣơng trình
học chính thống, nhƣ Linh từng nhận xét:
“Triết học luôn chồng chất lên nhau, những chồng chất đó
là những tranh luận, cho nên ngay từ đầu mà muốn hiểu ngay
trong vòng bài nói của diễn giả thì sẽ là rất khó trừ khi mọi
người đã có một cái nền sẵn rồi. Cái việc để hiểu được triết học
trong vòng một tiết học thì nói thực sự là chỉ có các bác viết giáo
trình của Việt Nam làm được thôi”.
Do vậy, ý tƣởng thảo luận chính là cách để nhóm bạn trẻ và những ngƣời
cùng mối quan tâm có cơ hội đƣợc tiếp cận, đƣợc hiểu và nghĩ sâu hơn trong
những liên hệ, so sánh đối chiếu, đƣợc tự mình lấp dần những khoảng trống
về tri thức và có thêm những thuật ngữ, khái niệm làm công cụ cho tƣ duy.
Sau buổi thảo luận, mỗi ngƣời đều có thể thu nhận đƣợc những ý hiểu
khác nhau xoay quanh chủ đề: “Sau khi đọc và được nghe, có các ý chính mà
em nhận ra được: khái niệm hậu hiện đại liên quan đến văn hóa, sự ngoại
hóa tri thức dẫn đến chủ nghĩa tiêu dùng” hay lƣu ý tới một số thuật ngữ nhƣ
“sự phân mảnh”, “bất tín đại tự sự”, “siêu tự sự”, “đại tự sự”. Nhƣng cũng có
khi sau cả buổi tranh luận, Linh và những ngƣời tham dự cùng thừa nhận với
nhau “triết học vẫn là một môn khó nhằn”, thấy đƣợc giới hạn của sự hiểu,
vui vẻ nghĩ về nó để tiếp tục hành trình hiểu “các nhà nghiên cứu họ dành
toàn thời gian để tìm hiểu mà còn tranh cãi nhau nhiều luận điểm, nên việc
chúng ta không hiểu là… điều dễ hiểu. Chấp nhận sự chưa hiểu của mình để
tiếp tục hiểu thôi”.
Trong suy nghĩ của những ngƣời tạo ra những không gian này thƣờng
xem đây nhƣ là một diễn đàn xây dựng trên tinh thần “đến để nói, đến là phải
nói”. Nội dung không phải là chủ đề phổ biến của đời sống thƣờng ngày mà là
82
một vấn đề mang tính học thuật, có phần khó hiểu nhƣng đƣợc soi chiếu, liên
tƣởng dƣới lăng kính kiến thức nền tảng cũng nhƣ kinh nghiệm của nhiều lĩnh
vực khác nhau. Những ý kiến phản biện, kể cả là trái chiều, không lo sợ bị
phán xét và đều đƣợc ghi nhận. Câu chuyện có khi “lan man” sang rất nhiều
thứ khác, gợi nhớ đến tác giả này, luận điểm của tác giả khác hay nghĩ đến cả
những lĩnh vực tƣởng chừng không mấy liên quan. Mạch thảo luận cứ mở
rộng ra, dẫn dắt ngƣời tham dự từ ý tƣởng này sang đến suy nghĩ khác, từ
quan điểm này sang nhiều quan điểm khác. Việc nhóm ngƣời trẻ chọn KGST
Giấc mơ nhỏ cho những trao đổi, thảo luận này là bởi tinh thần cởi mở, tự do
mà không gian này tạo ra đƣợc, khác với nhiều địa điểm khác, đáp ứng đƣợc
mong muốn có một diễn đàn cho những ý kiến, quan điểm, suy nghĩ của
ngƣời trẻ về những vấn đề khác nhau. Đến đó, họ không bị phán xét, đánh giá
hay phải câu nệ trong những lễ nghi hành chính vốn là điều mà giới trẻ cảm
thấy bị bó buộc.
3.1.3. Chiếu phim, xem phim và thảo luận
Bên cạnh việc tạo ra không gian cho những ngƣời đọc độc lập, âm
nhạc, phim ảnh cũng là những hình thức kết nối hiệu quả để nuôi dƣỡng
những “tâm hồn Mozart” nhƣ cách Minh từng nghĩ. Cố định tối thứ ba hàng
tuần là không gian cho phim ảnh. Các buổi chiếu phim tại Giấc mơ nhỏ có
cách thức tổ chức khá giống với Cà phê Văn và nhiều KGST khác khi cùng
chia sẻ với nhau công thức: chiếu phim - xem phim - thảo luận. Các buổi
chiếu hoàn toàn miễn phí, ngƣời đến tham dự ủng hộ chi phí hoạt động bằng
cách trả phí đồ uống. Do không gian nhỏ hẹp và để cuộc thảo luận có chất
lƣợng cũng nhƣ phục vụ chu đáo, các buổi chiếu thƣờng giới hạn trong
khoảng 20-30 ngƣời. Tùy thuộc vào độ dài của phim, sau khoảng 1-3 tiếng
xem phim, ngƣời tham dự sẽ cùng nhau chia sẻ cảm nhận, thông tin liên quan
nhƣ về tác giả, diễn viên, bối cảnh ra đời, các giải thƣởng mà bộ phim nhận
đƣợc… Nhiều buổi thảo luận còn đi sâu tìm hiểu và phân tích nội dung, nghệ
thuật phim, đề cập đến nhiều thuật ngữ chuyên sâu của điện ảnh.
83
Cách thức tiến hành một buổi chiếu (trƣớc và trong buổi chiếu) thƣờng
đƣợc tổ chức qua bốn bƣớc: 1. Giới thiệu về sự kiện trên facebook – việc này
sẽ diễn ra trƣớc đó ít nhất một tuần để nhƣ một “lời hẹn”, lời mời gọi ngƣời
quan tâm sắp xếp đến tham dự. Tên phim, năm sản xuất, đạo diễn, biên kịch,
diễn viên, thời lƣợng phim, ngôn ngữ… là những thông tin cơ bản tối thiểu
đƣợc cung cấp để khán giả có thể bƣớc đầu hình dung cơ bản về bộ phim.
Ngoài ra, phần giới thiệu ngắn nhƣ trích dẫn một câu thoại của nhân vật, một
câu danh ngôn có liên quan đến nội dung phim, thông tin về giải thƣởng của
phim, một bình luận của ai đó từng xem… kèm theo một bức ảnh thật bắt mắt
về phim đều là cách để thu hút và khơi gợi sự tò mò và hứng thú với phim. 2.
Giới thiệu trƣớc khi chiếu phim (chia sẻ thông tin về những ngƣời có vai trò
quan trọng trong quá trình sản xuất phim nhƣ đạo diễn, biên kịch, diễn viên
và những căn cớ, nguyên do thôi thúc họ làm ra bộ phim; hoàn cảnh xã hội
gắn với phim hay các thông tin liên quan khác); 3. Khán giả xem phim trƣớc
màn hình máy chiếu nhỏ; 4. Thảo luận sau khi xem phim dƣới sự điều phối
của một ngƣời dẫn dắt. Thƣờng thì để đảm nhiệm vai trò này, ngƣời dẫn dắt
đã phải tìm hiểu rất nhiều thông tin liên quan đến phim, đọc các bài viết, bài
phê bình phim, hiểu những sự kiện lịch sử hay những tri thức khoa học nào đó
đƣợc nói đến... Trong quá trình thảo luận, ngƣời dẫn dắt có thể sẽ tóm tắt lại
phim, lƣu ý những chi tiết quan trọng, đặc biệt chú ý đến những chi tiết có thể
gây tranh cãi để tạo không khí tranh luận sôi nổi hay khơi gợi các ý kiến bằng
việc đặt ra những câu hỏi nhƣ phim nói điều gì với mỗi chúng ta, phim có ý
nghĩa gì với cá nhân mỗi ngƣời, điểm nào trong phim mà bạn thích nhất, điều
gì khiến bộ phim hấp dẫn, còn chi tiết nào chƣa thực sự nhƣ mong muốn, cảm
nhận cá nhân về phim… Có những buổi thảo luận khi có ít ngƣời muốn chia
sẻ thì chính ngƣời dẫn dắt là ngƣời sẽ nói chính để phá vỡ không khí trầm
lặng. Nhìn chung, khung lịch trình để tổ chức một buổi chiếu thƣờng là nhƣ
vậy nhƣng luôn có nhiều điều ngẫu hứng và bất ngờ trong quá trình trải
nghiệm xem phim cũng nhƣ thảo luận.
84
Phim đƣợc chọn chiếu tại Giấc mơ nhỏ thƣờng đã đƣợc Minh lên ý
tƣởng và kế hoạch trƣớc, theo những chủ đề mà Minh biên tập nội dung. Có
thể kể đến chuỗi phim về thảm họa (bệnh truyền nhiễm trong phim
Contagion, thảm họa băng hà trong The day after tomorrow, thảm họa sóng
thần The Impossible), phim ma trong những ngày tháng bảy âm lịch, phim
giáng sinh (Thư gửi ông già Noel…), chuỗi phim chủ đề định mệnh hay tháng
phim dành cho các đạo diễn đến từ một nền điện ảnh nào đó trên thế
giới…Việc chọn phim nhiều khi cũng khá ngẫu hứng, bằng cách dành cho
khán giả bình chọn phim mình thích và muốn xem, hay chính khán giả sẽ đề
cử những phim mình đã xem, thấy ấn tƣợng và muốn chia sẻ cùng với mọi
ngƣời. Trong trƣờng hợp này, chính khán giả - ngƣời đề xuất phim chiếu trở
thành ngƣời điều phối thảo luận sau xem, tìm hiểu thêm các thông tin, câu
chuyện bên lề của phim để có thể làm sống động buổi thảo luận. Và nhƣ vậy,
chính những việc tham gia tự nguyện, không vị lợi, hoàn toàn xuất phát từ sở
thích, niềm vui này cũng chính là việc tham gia kiến tạo nên không gian Giấc
mơ nhỏ. Các bạn trẻ đến đây, cũng vì thế có thể coi là những “chủ thể đồng
kiến tạo”, cùng với Minh để tạo nên một không gian sinh hoạt văn hóa sống
động, đa màu sắc, đa tính cách.
Vào một buổi chiều tháng 10 năm 2020, tại Giấc mơ nhỏ có buổi chiếu
phim ngắn Cá dọn bể của nữ đạo diễn trẻ Chu Ánh Nguyệt dài gần 13 phút do
Mai - 24 tuổi, sinh viên năm cuối ngành ngữ văn - và nhóm bạn cùng tổ chức.
Nhƣ phần lớn những ngƣời đến đây xem phim hay tham gia tổ chức chiếu và
thảo luận về phim, Mai cũng tự nhận mình là “ngoại đạo”, chƣa từng trải qua
trƣờng lớp đƣợc đào tạo chuyên ngành điện ảnh, không có quá nhiều hiểu biết
chuyên môn sâu nhƣng yêu thích và mong muốn tìm hiểu về điện ảnh. Trong
quá trình xem phim, có một vài trải nghiệm âm thanh không thực sự tốt, thi
thoảng tiếng rè rè, khẹt khẹt phát ra từ loa míc nhƣng ấn tƣợng về con ngƣời
trong phim và sự liên kết với cá nhân thì dƣờng nhƣ đọng lại khá sâu sắc
trong mỗi cá nhân. Câu chuyện diễn ra trong bối cảnh chật hẹp của một phòng
85
tắm nhỏ, một cô gái trẻ trở về nhà sau một ngày dài, trút bỏ hết những mệt
mỏi từ thế giới ngoài kia và cố gắng lau dọn căn phòng nhỏ của mình. Nhƣng
dù cố gắng ra sao đi chăng nữa, cũng không cách nào để mọi thứ đƣợc gọn
gàng, ngăn nắp và trật tự cũng nhƣ những xoay xở của con ngƣời để thu xếp
đời mình trƣớc muôn vàn những bất ngờ, biến cố vốn dĩ chẳng bao giờ có thể
kiểm soát và sắp xếp đƣợc. Càng cố gắng lau dọn lại cô gái cảm thấy trống
rỗng, không biết thật sự mình đang làm gì, mình muốn điều gì và rồi sẽ phải
làm gì với chính mình.
Sau khi xem phim, rất nhiều ý kiến bày tỏ sự chia sẻ với nhân vật trong
phim, đồng cảm với ý nghĩ, cảm nhận của ngƣời khác hay thấy mình trong
chính nhân vật của phim. Hình ảnh con ngƣời chấn thƣơng và vong thân,
những nỗi đau của con ngƣời trong bộ phim xuất hiện khá nhiều khiến hàng
loạt các câu hỏi đƣợc gợi ra: Con ngƣời tại sao lại có nỗi buồn? Nó mang tính
bản thể nhƣ thế nào? Có phải khi không có chỗ nào để bấu víu ngƣời ta dễ rơi
vào tình trạng vong thân? Con ngƣời có nhiều mối liên kết với xã hội bên
ngoài, vậy có khi nào họ bỏ quên bản ngã bên trong mình? Thực chất đây là
những câu hỏi nhỏ nằm trong một câu hỏi lớn: hình ảnh bản ngã của nỗi buồn
phƣơng Đông là nhƣ thế nào hay liệu có mẫu số chung cho nỗi buồn phƣơng
Đông hay không mà Mai và nhóm bạn đã băn khoăn trong thời gian dài.
Phƣơng thức tiếp cận để tìm kiếm những câu trả lời là thông qua văn học
nghệ thuật. Trƣớc đó, Mai cùng nhóm bạn từng tổ chức các sự kiện khác liên
quan đến văn học nhƣ khám phá hình ảnh con ngƣời chấn thƣơng trong văn
học, những hoang mang của con ngƣời đƣợc thể hiện nhƣ thế nào trong văn
học… Khi tiếp cận đƣợc với bộ phim này, Mai đã thấy những hình ảnh con
ngƣời vong thân xuất hiện một cách đậm đặc trong phim ngắn này, vì thế nhƣ
Mai nói:
“Sự kiện này bọn mình chọn điện ảnh như một phương
thức để nhìn ngắm sự diễn đạt bản thân thông qua điện ảnh - cái
86
kênh khá là phổ biến và được yêu thích. Từ một ngữ liệu chung
là tác phẩm điện ảnh để mọi người có dịp soi mình vào”.
Nhóm bạn trẻ cũng mong muốn “tìm thấy sự liên kết cá nhân với ngữ liệu
phim, thì như vậy phim mới gần gũi và có ý nghĩa”. Và buổi chiếu đó, với gần
hai mƣơi con ngƣời trong một diện tích nhỏ hẹp nhƣng đã tạo ra đƣợc không
gian để chia sẻ, để lắng nghe, để cùng ngồi xuống chữa lành vết thƣơng, đƣợc
gọi tên nhƣ là không gian để chia sẻ và chữa lành.
Điều gì của phim ảnh đã gắn kết những ngƣời trẻ đến đây trở thành
những ngƣời thân quen, trở thành một nhóm, một cộng đồng? Với nhiều bạn
trẻ tham dự chiếu phim và thảo luận tại Giấc mơ nhỏ, các bộ phim đƣợc chiếu
đa phần đều đã cũ, nhiều phim hoàn toàn không phải dạng phim bom tấn xét
về quy mô lẫn kĩ xảo sử dụng hay đạt thành công vang dội về doanh thu. Các
phim đƣợc chọn chiếu đều là những phim giàu tính nghệ thuật với nghĩa là có
sức khơi gợi lên những cuộc sống khác trong ngƣời thƣởng thức. Mỗi bộ
phim đƣợc quan niệm nhƣ là một thế giới mới đƣợc dựng nên, qua đó chất
vấn về tính nhân bản, nhân văn tồn tại trong mỗi con ngƣời. Và phim hay,
phim giàu giá trị nghệ thuật là phim mang lại những rung động, cảm xúc về
cuộc sống, nhắc nhớ con ngƣời nhìn sâu hơn vào trong cá nhân mình, nhìn
rộng ra đời sống xung quanh để hiểu đƣợc mình và hiểu đƣợc thế giới, từ đó
mà vị tha, khoan dung và nhân bản hơn. Những phân tích mổ xẻ từ nhiều góc
nhìn về con ngƣời nào, xã hội nào đƣợc phản ánh trong phim, những phân
tích mang tính học thuật, hàn lâm hay đơn thuần là cảm nhận thô phác nhất,
đều chỉ hƣớng tới việc hiểu. Sự hiện diện của phim ảnh vì thế có thể xem nhƣ
một phƣơng tiện giúp các cá nhân trở nên sâu sắc hơn trong những nỗ lực
hiểu mình, hiểu ngƣời và hiểu thế giới.
Văn chƣơng, phim ảnh trong trƣờng hợp này có thể đƣợc xem nhƣ là
những hình thức để tự ý thức và định hình nên cá nhân và cũng là phƣơng tiện
để kết nối các cá nhân trở thành những nhóm, những cộng đồng nhỏ. Chiếu
phim và xem phim vừa nhƣ một hình thức giải trí, vừa thỏa mãn nhu cầu tìm
87
biết về đời sống xung quanh, mở rộng tầm nhìn về cuộc sống không chỉ trong
nƣớc mà còn hƣớng ra thế giới và cũng là cơ hội để nhìn sâu vào bản thể mỗi
cá nhân. Mai nói về việc thích văn chƣơng, phim ảnh nhƣ là “đam mê đã ăn
vào máu”, tự nhận mình và những ngƣời cùng tham gia trong các buổi sinh
hoạt là những ngƣời mộng mơ, lãng mạn, hay “những kẻ điên rồ” với những ý
tƣởng sáng tạo, từng ví von Giấc mơ nhỏ nhƣ một cái tổ - nơi gặp gỡ, chốn đi
về của những ƣớc mơ, khát vọng về mình, về thế giới.
3.1.4. Thảo luận về các vấn đề của môi trường và trách nhiệm xã hội
Ở Giấc mơ nhỏ còn kết nối và hình thành một cộng đồng nhỏ quan tâm
nhiều đến môi trƣờng và trách nhiệm với xã hội. Tại đây có góc tiêu dùng bền
vững bày những sản phẩm thân thiện với môi trƣờng nhƣ ống hút tre, ống hút
inox, thìa, dĩa gỗ, túi vải, bình đựng nƣớc, xà phòng handmade từ nguyên liệu
tự nhiên, xơ mƣớp để cọ rửa… Khi phục vụ khách tham dự, từ lâu Minh đã
không dùng cốc nhựa, cốc giấy, sử dụng ống hút inox thay vì ống hút nhựa
dùng một lần. Minh cũng tạo ra Góc tiêu dùng bền vững với mong muốn tạo
ra không gian đối thoại và chia sẻ về lựa chọn hƣớng tới lối sống bền vững
trong cộng đồng. Nhiều sự kiện có nội dung liên quan đến môi trƣờng đã chọn
không gian này là nơi để kết nối. Trong chủ đề Nhựa dùng một lần (single use
plastic), nhóm bạn trẻ làm sự kiện đã có nhiều hoạt động nhƣ: đổi rác lấy cây,
lấy túi vải hay ống hút inox; trồng cây trong những cốc nhựa dùng một lần
nhặt từ các thùng rác; chia sẻ của bạn đến từ trung tâm cứu hộ sinh vật biển
từng cứu nhiều loài vật quý hiếm trong bụng đầy rác thải nhựa… Sự kiện Câu
chuyện tiêu dùng của một nhóm khác lại chất vấn về hành vi tiêu dùng và
những tác động của nó với môi trƣờng, xã hội. Bằng việc hỗ trợ kết nối này,
Giấc mơ nhỏ trở thành không gian đối thoại, chia sẻ về những thực hành hàng
ngày qua đó bày tỏ quan niệm và giá trị sống của những ngƣời trẻ. Từ những
sự gần gũi và tƣơng đồng về quan điểm sống cũng nhƣ những giấc mơ đang
theo đuổi, nhiều ngƣời có thêm bạn, liên kết với nhau trở thành các nhóm,
cùng nhau mở rộng và lan tỏa những giá trị họ theo đuổi.
88
Nhiều buổi trò chuyện xoay quanh chủ đề này đã đƣợc diễn ra tại đây,
có sự kiện do chính Minh thiết kế, nhƣng cũng nhiều sự kiện các nhóm khác
mƣợn không gian để tổ chức, có thể kể đến một vài sự kiện nhƣ: Câu chuyện
tiêu dùng (11/2018), Single use plastic (Nhựa dùng một lần) (9/2019), Đằng
sau cái mác (10/2019)… Lý giải việc tại sao lại chọn Giấc mơ nhỏ chứ không
phải rất nhiều các không gian khác trong thành phố vốn có thừa các điều kiện
để tổ chức sự kiện, An đã lý giải vì đây là nơi “từng tổ chức nhiều sự kiện như
thế”, “là nơi đã thực hành như thế chứ không chỉ là nói đến”. Các sự kiện
thu hút sự quan tâm của nhiều bạn trẻ, thể hiện qua việc tƣơng tác trên trang
facebook (lƣợt quan tâm, lƣợt thích, xác nhận tham dự hay giới thiệu cho
ngƣời khác), qua việc có mặt tại sự kiện. Các buổi nói chuyện về chủ đề môi
trƣờng thƣờng bao giờ cũng kín chỗ với khoảng 30-40 ngƣời. Ngƣời tham dự
cũng đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau nhƣng ít nhiều đều chung một mối bận
tâm là nghĩ đến trách nhiệm cá nhân đối với xã hội, thấy mình ít nhiều liên
quan trong những vấn nạn về môi trƣờng đang đƣợc nói đến nhiều trên truyền
thông. Có ngƣời thì đã chuyển hẳn sang làm về môi trƣờng nhƣ An - 26 tuổi,
sống tại Hà Nội. Tốt nghiệp loại giỏi tại một trƣờng đại học có tiếng ở Việt
Nam về kinh tế nhƣng An thƣờng trực chất vấn ý nghĩa của công việc mà
mình đƣợc đào tạo để rồi quyết định rẽ sang một hƣớng khác:
“Ngày xưa mình học đại học, cái trường mà nghe thì chỉ
nói đến làm giàu, làm cho mấy cái tập đoàn Unilever, Coca,
Pepsi các kiểu… Học đến năm ba thì mình thấy thế này là không
được, vì trường đó dạy làm giàu. Trường chỉ dạy kiếm tiền, thế
còn đằng sau đó là cái gì. Hết năm ba mình có làm cho một tổ
chức phi chính phủ. Bây giờ mình vẫn làm về môi trường và biến
đổi khí hậu”.
Hay với Phƣơng, 27 tuổi, hiện đang quản lý một cửa hàng nhỏ liên quan đến
những sản phẩm may mặc từ vải lanh đƣợc trồng, dệt và nhuộm hoàn toàn thủ
công, đã tự mình tách ra khỏi ý nghĩ về đời sống công sở với vòng lặp: kiếm
89
tiền - thụ hƣởng - kiếm tiền, với nhu cầu của đời sống vật chất nhƣ nhiều
ngƣời trẻ khác: “Học đại học xong, mình ở nhà một năm để xem thực sự mình
muốn gì. Mình thấy mình quan tâm đến môi trường... và thế là mình theo
đuổi”.
Các buổi trò chuyện về môi trƣờng hay trách nhiệm xã hội của cá nhân
thƣờng bắt đầu với việc đặt ra những câu hỏi để kết nối chủ đề với cuộc sống
của từng ngƣời: có món đồ nào mình mua mà không thực sự cần thiết? Vì sao
mình quyết định mua một món đồ? Động cơ mua hàng là gì? Những gì xuất
hiện trên quảng cáo có ảnh hƣởng đến quyết định mua sắm của mình không?
Đến đây, những ngƣời trẻ, nhỏ bé nhƣng với những mối bận tâm khác ngoài
mình, lo lắng đến hàng loạt những khủng hoảng mà thế hệ tới đây sẽ phải đối
mặt: biến đổi khí hậu toàn cầu, thời tiết cực đoan, siêu bão, lũ lụt, hạn hán,
mất mùa, thiếu lƣơng thực, ô nhiễm không khí, bệnh dịch, khủng hoảng di
cƣ,… Việc tìm và chiếu các video, các bộ phim xen kẽ trong các phân tích
nhƣ The story of stuff (Câu chuyện đồ đạc – Annie Leonard), phim tài liệu
The true cost (Chi phí thực tế), Tôi tiêu thụ vậy tôi tồn tại: hãy sống, làm
giàu, mua sắm,… vừa nhƣ một cách để thay đổi không khí buổi thảo luận
nhƣng đồng thời cũng phơi bày nhiều “sự thật” về hành vi của con ngƣời có
tác động mạnh thế nào đến sự tồn vong của môi trƣờng. Những phân tích,
diễn giải sau đó chỉ ra nhiều chiều cạnh nhƣ: quảng cáo đang tác động đến
con ngƣời một cách vô thức bằng những chiêu thức khác nhau (khung thời
gian quảng cáo, vị trí thuận lợi, dễ thấy trên các trang web…); quảng cáo
đánh trúng vào tâm lí của con ngƣời khi biết chiều tâm lí của ngƣời tiêu dùng
để khiến họ mua hàng nhiều hơn,… Nhiều chất vấn về trách nhiệm xã hội
đƣợc đặt ra khi cho rằng những quyết định mua sắm có tác động gián tiếp hay
trực tiếp tới những khủng hoảng của xã hội nhƣ: việc cái áo đang mặc có thể
có liên quan đến sự kiện sập tòa nhà chết hàng nghìn công nhân giá rẻ khi áp
lực giảm chi phí sản xuất khiến chủ bắt buộc công nhân phải làm việc trong
điều kiện nghèo nàn, nguy hiểm; những công ty đẩy ngƣời dân vào hoàn cảnh
90
mắc nợ khiến họ phải uống thuốc sâu tự tử; dệt vải cho hóa chất chống tĩnh
điện, hồ vải công nghiệp, sau khi giặt những chất này sẽ trôi hết xuống đƣờng
ống, ngƣời dân sử dụng nguồn nƣớc này sẽ bị bệnh về gan, thiểu năng trí
tuệ… Đó chính là câu chuyện xảy ra trƣớc khi sản phẩm đến tay ngƣời tiêu
dùng và dƣờng nhƣ không ai nhìn thấy. Nhiều câu hỏi về công bằng thƣơng
mại đƣợc đặt ra: chi phí làm ra sản phẩm thấp nhƣng lại đƣợc bán với giá rất
cao, nhƣng ngƣời trực tiếp làm ra sản phẩm chỉ đƣợc hƣởng khoảng 5% còn
chi phí cho các khâu khác nhƣ phân phối, thiết kế, quảng cáo… lên đến 50%,
đó là một điều không công bằng khi trị giá lao động chân tay thì rất rẻ mạt
còn quảng cáo thì lại đƣợc trả lƣơng rất cao.
Những câu hỏi trong các buổi thảo luận thƣờng đƣợc hƣởng ứng và hồi
đáp khá sôi nổi, từ nhiều trải nghiệm và góc nhìn khác nhau. Có những băn
khoăn đƣợc giải đáp, có những “vỡ lẽ”, ngạc nhiên vì đƣợc sáng tỏ và có cả
những câu hỏi còn đeo bám mãi nhƣ câu hỏi lớn về trách nhiệm của cá nhân,
nhƣ những chia sẻ dƣới đây:
“Em có một vấn đề rất nghiêm trọng với việc mua giày.
Em tốn rất nhiều tiền cho mua giày, một thứ mà có rất nhiều. Em
là một đứa chạy theo mốt. Em không biết sẽ có ai thật sự xem
xong mà hoàn toàn thay đổi. Clip này rất tốt, nhưng tại sao nó
lại không được đưa vào trường học. Em đang đi học, em gặp vấn
đề rất lớn là em không được nhìn thấy, nếu em nhìn thấy em sẽ
thay đổi sớm hơn. Bên cung cấp đồ cũng nên cho mình biết sự
thật đằng sau nó trước. Mình là con người mình phải có tinh
thần nhân văn (nghe đến đây mọi ngƣời đều cƣời vì cách em nói
rất hồn nhiên). Em không nghĩ là ai lại đối xử với đồng loại của
mình như thế ạ. Em thấy cái việc tòa nhà bị sập rất tàn nhẫn. Họ
là người, họ là đồng loại của mình, em không nghĩ là có một ai
lại đối xử với đồng loại như thế. Rõ ràng tất cả mọi thứ, con
người đang lớn lên, máy bay bay cao hơn hơn, con người đi xa
91
hơn, nhìn thấy nhiều thứ hơn. Lần đầu tiên em đi một buổi như
thế này. Em ko biết mọi người như thế nào, nhưng em thì thấy
hơi bị …choáng. Mình nên biết những cái mình cần biết.” (Lê,
học sinh, 17 tuổi).
“Vai trò của truyền thông rất quan trọng, nhưng quan
trọng là họ có phản ánh đúng không. Thực tế mình chỉ nhìn thấy
những hình ảnh lóng lánh của nó, hoàn toàn không biết về những
câu chuyện đằng sau. Em cảm thấy câu chuyện quảng cáo đóng
mình trong một cái khung, nó che mắt mình. Khi người thiết kế
quảng cáo họ cũng không biết, họ chỉ có mỗi việc làm quảng cáo
để bán được nhiều hàng thôi. Họ cũng ko biết trước đó có những
vấn đề gì. Em nghĩ truyền thông thì vẫn cần nhưng mà bản thân
người truyền thông cần biết mình đang làm gì. Truyền thông vẫn
cần nhưng phải là truyền thông có trách nhiệm. Sự chi trả cho
các lao động trí óc và chân tay cũng cần có những sự cân bằng”
(Châu, 24 tuổi).
Và khi đã hiểu, họ không thể nhƣ xƣa. Họ thay đổi cách nghĩ cũng
đồng thời với thay đổi những thực hành trong đời sống hàng ngày. Có những
ngƣời trƣớc đó đã quan tâm tới môi trƣờng, hƣớng tới lối sống vì môi trƣờng
thì sau khi đến đây cũng đƣợc củng cố thêm niềm tin về con đƣờng mình
đang theo đuổi. An vẫn dành thời gian, tiền bạc và tuổi trẻ cho những dự án
về môi trƣờng, về biến đổi khí hậu. Phƣơng vẫn gắn bó với thiên nhiên,
chuyển tới gần nơi trồng nguyên liệu để tự mình trải nghiệm tất cả các công
đoạn làm ra một sản phẩm may mặc thân thiện với tự nhiên, tự cung tự cấp
cho nhu cầu tối giản của mình nhƣ tự trồng rau, tự nhuộm vải. Tối giản vì thế
trở thành một triết lý sống, trong sự ý thức sâu sắc về mối quan hệ con ngƣời
với thiên nhiên nhƣ chia sẻ của Phƣơng: “Mình đã sống tối giản nhất có thể”.
Và tại KGST Giấc mơ nhỏ, Minh vẫn ƣu tiên góc dành cho lối sống hài hòa
giữa con ngƣời với thiên nhiên, tổ chức thêm nhiều các phiên chợ xanh, cho,
92
tặng, bán hạt giống hay những sản phẩm có nguyên liệu từ tự nhiên, tổ chức
thêm nhiều workshop về lối sống gần gũi với tự nhiên nhƣ nhuộm vải từ
nguyên liệu tự nhiên, hƣớng dẫn gội đầu bồ kết cho các bạn nữ…
Đối với nhóm bạn trẻ theo đuổi những hoạt động vì môi trƣờng, khi tạo
dựng những giá trị sống mới, cảm giác lạc lõng cũng thƣờng trực xuất hiện.
Trong lúc xã hội chạy theo tiêu dùng thậm chí là tiêu dùng ồ ạt thì một số đã
nghĩ và thực hành những lối sống mới: tối giản, tôn trọng tự nhiên, tiết giảm
và hoàn trả lại tự nhiên thay vì suy nghĩ tận thu, tận khai thác từ tự nhiên.
Hình ảnh họ xuất hiện khác nhiều so với những ngƣời cùng thế hệ: vẻ nhỏ bé,
khiêm nhƣờng, giản dị, quần áo chất liệu tự nhiên nhƣ vải lanh, nhuộm bằng
phƣơng pháp nhuộm tự nhiên, sử dụng túi vải, thực hành ăn chay, giảm thiểu
tiêu dùng. Trong khi nhiều ngƣời trẻ khác cùng độ tuổi với họ đang theo đuổi
và cập nhật những xu thế thời trang mới, những hàng quán thời thƣợng và
sang chảnh thì họ ở đây, đặt ra những câu hỏi về câu chuyện tiêu dùng, giá trị
của đồ vật, trách nhiệm xã hội trong tiêu dùng. Một bạn trẻ là cô giáo, từ lâu
không sử dụng chai nƣớc nhựa dùng một lần, thay vào đó mang theo bình
nƣớc cá nhân và đi xe đạp đến trƣờng… cũng bị chất vấn bởi chính học sinh
của mình rằng liệu làm nhƣ vậy có thấy mình lạc lõng không hay có để làm gì
không, có ý nghĩa gì không khi xung quanh đồ nhựa dùng một lần luôn đƣợc
ƣu tiên lựa chọn bởi tính tiện lợi. Nhƣng họ chấp nhận sự lạc lõng, cảm giác
khác biệt, cô đơn bởi sâu trong ý thức, trân trọng những giá trị nội tại, biết đủ
và biết ơn, biết tiết giảm và hoàn trả đã trở thành triết lý sống. Và việc tìm đến
nhau, kết nối thành những cộng đồng cũng chính là để chia sẻ đƣợc với nhau,
cùng nhau củng cố và tin tƣởng hơn cách sống mình đã lựa chọn.
Bên cạnh những hoạt động do Minh tự lên chƣơng trình, KGST này
còn thƣờng xuyên hỗ trợ kết nối các nhóm ngƣời trẻ bằng cách cho mƣợn
không gian để tổ chức sự kiện mà không thu phí địa điểm, chỉ tính phí đồ
uống của ngƣời đến tham dự. Nhiều nhóm bạn trẻ mƣợn không gian để tổ
chức sự kiện với nhiều nội dung, chủ đề khác nhau. Có thể kể đến nhƣ nhóm
93
Giếng làng với sự kiện liên quan đến tín ngƣỡng thờ Mẫu, thể hiện cách
ngƣời trẻ tiếp cận với những giá trị truyền thống và làm mới nó trong bối
cảnh đƣơng đại thông qua những vật dụng hàng ngày (nhƣ ốp điện thoại) có
in hình các nhân vật trong tín ngƣỡng thờ Mẫu; nhóm tổ chức các hoạt động
gắn với môi trƣờng; nhóm Thế giới mới nói về việc đi tình nguyện ở nƣớc
ngoài, những khó khăn và cách thức để hòa nhập, thích nghi với môi trƣờng
mới trong thời gian ngắn, cách ngƣời trẻ vƣợt qua những giới hạn của bản
thân để thể hiện và tự khẳng định mình. Có những cuối tuần không gian này
lại trở nên bề bộn với giấy, bút, màu vẽ, kim chỉ, vải, kéo… trong các lớp học
sáng tạo, các workshop trải nghiệm nhƣ: vẽ tranh phong cảnh theo từng chủ
đề; cắt giấy kigirami - một loại hình nghệ thuật có nguồn gốc tại Nhật Bản và
đang trở nên phổ biến tại nhiều quốc gia, có nhiều ứng dụng trong đời sống;
xếp giấy origami để tạo hình thành con thú hay đồ vật xinh xắn, ngộ nghĩnh
do một nhóm bạn trẻ tổ chức với mong muốn bảo tồn và phát triển nghề làm
giấy dó ở Việt Nam; lớp học thêu cơ bản hƣớng dẫn thực hiện những mũi
thêu đơn giản, dễ làm, có thể ứng dụng vào các vật dụng hàng ngày nhƣ áo,
khăn, gối; dạy vẽ sáp ong lên vải trắng với những họa tiết thổ cẩm truyền
thống của ngƣời Mông hay tùy ý sáng tạo ra những họa tiết mới trong một dự
án với mục tiêu hỗ trợ phụ nữ vùng cao; dạy làm đồ thủ công handmade nhƣ
làm xà phòng; dạy vẽ trên túi vải tạo ra những sản phẩm độc đáo, thân thiện
với môi trƣờng; workshop hƣớng dẫn nhuộm vải tự nhiên,… Ngƣời tổ chức
lẫn ngƣời tham dự, đa phần là các bạn trẻ, đôi khi có cả các em nhỏ đến tham
dự cùng mẹ, đều khá thích thú với những trải nghiệm bởi với họ hoạt động
đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên nhẫn mang đến sự thƣ giãn hay cảm giác bình an, nhẹ
nhõm. Hơn nữa, họ vui vì kinh phí tham dự mà mình đóng góp sẽ phần nào có
ích cho các nhóm, các dự án đang hoạt động vì cộng đồng.
Nhƣ vậy, có thể thấy KGST Giấc mơ nhỏ là một không gian đa dạng,
linh hoạt với nhiều thực hành văn hóa khác nhau gắn với những nhóm ngƣời
trẻ khác nhau. Một cách thƣờng xuyên, đây là điểm đến quen thuộc để cà phê,
94
gặp gỡ và trò chuyện của những ngƣời trẻ. Nhƣ nhiều quán cà phê trong thành
phố, đây có thể chỉ là nơi chốn mà ngƣời trẻ ƣa thích sự mới lạ tìm đến để trải
nghiệm một không gian, trò chuyện, thƣ giãn, cà phê cùng bạn bè, rồi lại tìm
kiếm những địa điểm hấp dẫn khác. Nhƣng cũng có nhiều ngƣời trẻ đến đây
nhiều lần và đến nhƣ một thói quen, một nhu cầu không thể thiếu. Đây là nơi
ngƣời trẻ thiết lập sự riêng tƣ cho chính mình, điều mà có khi họ không có
đƣợc ở những nơi khác, ngay cả ở nhà. Hiếu, 20 tuổi, sinh viên năm hai ngành
triết học vẫn thƣờng dành cả buổi ở đây nếu không phải đến trƣờng, lúc thì
tìm tƣ liệu cho bài thuyết trình ở lớp, lúc thì vừa nghe nhạc vừa làm bài tập,
đọc một cuốn sách mới, xem phim trên máy tính cá nhân hay dựa vào một góc
kệ sách và tranh thủ chợp mắt những lúc thấy mệt. Với Vũ Anh, 26 tuổi,
ngƣời thƣờng nói về mình là “có đọc ít sách, đọc tạp nham, hay hóng hớt các
sự kiện, hơi nhiều mối quan tâm, chơi hơi nhiều” thì đó là không gian thƣ
giãn, không gian đọc và suy ngẫm, nơi dành cho những ƣu tƣ cá nhân. Còn
với Dung, ngƣời tự nói về mình là “thích viết lách, từng có một vài bài đăng
trên một diễn đàn lớn dành cho người trẻ, đã tốt nghiệp phổ thông nhưng
chưa có định hướng rõ ràng sắp tới” – đây là nơi cho em ngồi đối thoại với
nhân vật hay sắp xếp lại những ý tƣởng cho những bài viết mới. Từng đƣợc
giới thiệu trên báo chí nhƣ là một trong những quán cà phê đƣợc giới trẻ yêu
thích trong thành phố, Giấc mơ nhỏ đƣợc nhiều bạn trẻ nƣớc ngoài ghé qua để
khám phá. Do công việc Minh vẫn thƣờng làm bên ngoài nhƣ hỗ trợ dịch
thuật cho các liên hoan phim nƣớc ngoài tại Việt Nam nên nơi này còn trở
thành nơi gặp gỡ, trò chuyện của Minh và những ngƣời bạn đến từ nhiều quốc
gia khác cũng làm công việc liên quan đến xuất bản, phim ảnh, văn chƣơng…
Những thực hành văn hóa tại Giấc mơ nhỏ nhƣ đã trình bày ở trên là
một cách tạo nghĩa cho các không gian, biến các không gian thông thƣờng trở
nên sáng tạo, trở thành KGST. Tính sáng tạo trƣớc hết thể hiện ở việc chỉ
trong một không gian vật lí nhỏ hẹp nhƣng lại đa chức năng, linh hoạt, biến
hóa với nhiều hoạt động ý nghĩa. Không chỉ là quán cà phê đơn thuần, đó còn
95
là nơi ngƣời trẻ tự tổ chức nhiều sự kiện văn hóa cho mình: chiếu phim và
thảo luận, trò chuyện và trao đổi về các chủ đề đa dạng của đời sống, hội chợ
nhỏ cho sản phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên, tổ chức các workshop về thủ
công… Đây cũng là không gian của văn học, âm nhạc, điện ảnh, hội họa…
những loại hình đƣợc xếp vào lĩnh vực sáng tạo. Cả ngƣời kiến tạo nên không
gian lẫn ngƣời đến tham dự, đa phần đều còn rất trẻ, từ 18 - 35 tuổi, giữ vai
trò chủ động trong việc tạo nên các sinh hoạt văn hóa, hƣớng tới làm giàu đời
sống tinh thần cho mình. KGST là những không gian đa dạng, linh hoạt, nơi
diễn ra các cuộc gặp gỡ, trò chuyện, kết nối của ngƣời trẻ, thúc đẩy văn hóa
đọc, là không gian của phim ảnh, hội họa, âm nhạc… Nhìn từ Giấc mơ nhỏ có
thể thấy KGST là nơi thiết lập sự riêng tƣ của những ngƣời trẻ có chung mối
quan tâm hƣớng tới nuôi dƣỡng thế giới tinh thần, kiến tạo những giá trị và lối
sống mới.
Qua những diễn giải về các thực hành văn hóa của các nhóm ngƣời trẻ
trong KGST Giấc mơ nhỏ: nhóm tổ chức các sự kiện liên quan đến sách và
việc đọc, nhóm sinh hoạt tri thức, nhóm tổ chức chiếu phim và thảo luận về
phim và nhóm quan tâm đến các vấn đề của môi trƣờng, có thể thấy chỉ trong
không gian nhỏ hẹp nhƣng đã kết nối và tạo dựng đƣợc nhiều nhóm xã hội
khác nhau. Mỗi nhóm đều đƣợc hình thành dựa trên mối quan tâm chung,
cùng chia sẻ những băn khoăn, thắc mắc về con ngƣời, cuộc sống, cùng gắn
kết thông qua chia sẻ về mặt cảm xúc. Các nhóm ở đây thƣờng khá mở bởi sự
liên quan của các lĩnh vực, thành viên của nhóm này có thể tham dự vào hoạt
động của nhóm kia hoặc tham gia các hoạt động tƣơng tự tại nhiều KGST
khác trong thành phố. Nói cách khác có thể xem các KGST nhƣ điểm khớp
nối các mối quan tâm chung.
3.2. Trí thức trong không gian sáng tạo Cà phê Văn
3.2.1. Không gian của những thực hành nghệ thuật
Cùng đƣợc thành lập năm 2015 nhƣng nếu nhƣ Giấc mơ nhỏ đƣợc chọn
là nơi thƣờng xuyên lui tới của các bạn trẻ nhƣ học sinh, sinh viên, thanh niên
96
thì KGST Cà phê Văn từ lâu đã trở thành điểm hẹn của giới văn nghệ sĩ, trí
thức trung tuổi và lớn tuổi. Đây là kết quả sự cộng tác giữa những ngƣời có
tình yêu với Hà Nội, muốn tạo ra cái gì đó cho Hà Nội, chung suy nghĩ hƣớng
đến phát triển tầng lớp tinh hoa trong xã hội. Không gian của Cà phê Văn có
dáng vẻ thâm trầm toát ra từ mái ngói nâu rêu phong của căn biệt thự Pháp cổ
trên một con phố trung tâm Hà Nội. Bƣớc qua khoảng vỉa hè rộng, những
phiến đá lớn dẫn vào bên trong ngôi nhà. Hai bên lối đi là khoảng sân nhỏ đủ
để kê một vài bộ bàn ghế cho khách thích ngồi bên ngoài, vừa thƣởng thức đồ
uống vừa quan sát nhịp sống phố phƣờng. Bƣớc vào bên trong, phía bên tay
phải là khu pha chế với nhiều dụng cụ máy móc. Trên tƣờng, phía sau góc pha
chế gắn một vài tranh, ảnh giới thiệu những món đồ uống hay những trích dẫn
về ý nghĩa của cà phê với cuộc sống, đặc biệt với ngƣời làm sáng tạo. Cầu
thang gỗ cũ dẫn lối lên tầng hai, nơi có không gian nhỏ, ấm cúng, dành cho
ngƣời thích sự yên tĩnh để làm việc, đọc sách. Đây cũng là không gian diễn ra
các sự kiện. Ánh sáng đèn đƣợc điều chỉnh vừa đủ tạo cảm giác ấm cúng. Một
kệ sách nhỏ chạy dọc theo bức tƣờng, nơi ngƣời đến tham dự có thể chọn cho
mình một vài đầu sách về văn học, triết học hay kinh tế để xem trong lúc chờ
sự kiện bắt đầu. Nhìn chung, cách sắp xếp, cắt đặt, trang trí khá đơn giản,
ngay ngắn, gọn gàng và lịch thiệp nhƣng cũng đủ thân mật để ngƣời đến tham
dự có cảm giác đƣợc tự nhiên, thoải mái.
Dù là không gian mở ngỏ cho nhiều nhóm trong xã hội nhƣng từ lâu Cà
phê Văn đƣợc biết đến nhƣ là không gian của trí thức ở nhiều độ tuổi khác
nhau. Nhiều ngƣời trong số họ có uy tín, có trình độ học vấn cao, đang hoặc
từng giữ nhiều vị trí trong các cơ quan của nhà nƣớc, các tổ chức của chính
phủ, phi chính phủ hoặc làm những công việc “tự do”, độc lập theo năng lực
của mình. Nhiều ngƣời trong số đó là trí thức lớn tuổi, đang làm việc hoặc đã
nghỉ hƣu, từng đảm nhiệm vị trí quan trọng trong các cơ quan nhà nƣớc và
đƣợc biết đến nhƣ là trí thức đầu ngành, có nhiều đóng góp cho công việc
trong lĩnh vực chuyên môn. Có ngƣời từng nghiên cứu về bệnh lí học, đã
97
tham gia quản lý và giảng dạy ở một trƣờng đại học hàng đầu tại Việt Nam về
y khoa, đã nghỉ hƣu lâu năm nhƣng vẫn thƣờng đến để gặp gỡ và chia sẻ. Có
ngƣời là đạo diễn phim tên tuổi, nổi tiếng với nhiều tác phẩm đƣợc giải trong
và ngoài nƣớc, từng một thời bị điêu đứng vì tác phẩm đụng chạm đến nhiều
vấn đề nhạy cảm trong bối cảnh lúc bấy giờ. Ngƣời tham dự còn là các nhà
nghiên cứu, các nhà văn, dịch giả với nhiều đầu sách có tiếng; ngƣời tham gia
phong trào xã hội; nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, tôn giáo; các doanh
nhân… Cả những trí thức đang sống và làm việc ở nƣớc ngoài, mỗi dịp về
nƣớc cũng nhận lời mời đến chia sẻ thông tin về tình hình thế giới cũng nhƣ
Việt Nam hay đơn giản là để gặp gỡ bạn bè thân thiết. Vì tính liên ngành và
giao thoa của các lĩnh vực, các loại hình nghệ thuật cũng nhƣ mối quan tâm
đa dạng của ngƣời đến tham dự nên ngay cả trong những chƣơng trình mang
tính chuyên sâu về một chủ đề thì cũng có sự góp mặt của nhiều ngƣời đến từ
nhiều ngành nghề khác nhau.
Nhiều ngƣời tham dự rất ý thức về vị thế khi tham dự các sinh hoạt văn
hóa tại KGST này. Trong suy nghĩ, họ cho rằng để hiểu, cảm đƣợc những nội
dung trao đổi, cũng cần có tầm hiểu biết nhất định. Hay bản thân việc đến
tham dự tại đây cũng đã thể hiện họ thuộc tầng lớp trí thức. Một diễn giả làm
trong ngành xuất bản, là dịch giả của nhiều đầu sách, đã rất xúc động khi buổi
nói chuyện kéo dài hơn 3 tiếng, đến tận 12 giờ trƣa mà nhiều ngƣời vẫn ngồi
lại chăm chú lắng nghe và chia sẻ, trong đó có nhiều ngƣời trẻ:
“Tôi đi dạy, có một số em băn khoăn rằng em cảm thấy
thua thiệt vì trong lớp những bạn con nhà giàu, con những người
có quyền chức giàu có về vật chất, thì chơi với nhau. Đấy là một
thực tế mà tôi được biết. Các em nên nhớ, xã hội Việt Nam kiểu
gì thì kiểu rồi sẽ phát triển. Mà ngay cả việc các em, các bác
hôm nay ngồi đây đã chứng tỏ rằng tồn tại một tầng lớp elite.
Bản thân việc chúng ta ngồi đây, thay vì mọi người đi xem chọi
chim, ra ngoài đường phố đi shopping. Chúng ta ngồi đây để
98
nghe câu chuyện về sách. Cho nên phải chăng xã hội đang có xu
hướng như thế. Nhưng cũng đừng nên bi quan. Em hãy chứng
minh bằng năng lực, học thức của mình. Em hãy chứng minh em
là con người mang giá trị cho cộng đồng. Em hãy chứng minh
em là con người mang giá trị nhân văn, nhân văn là con người
đẹp. Em là con người thuộc tầng lớp ưu tú” (Tƣ liệu điền dã,
9/2019).
Không khí ân tình, thân mật là điều dễ nhận ra trong các buổi gặp gỡ,
trò chuyện của những trí thức lớn tuổi. Dù đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau
nhƣng đa phần đã trở thành quen biết, hiểu công việc và cuộc đời nhau, trân
quý nhau, có nhiều mối quan hệ trở thành thân tình. Các sự kiện tại đây có khi
trở thành cái cớ cho những cuộc gặp gỡ hàn huyên không dứt về nghề nghiệp,
những lo lắng, băn khoăn về thời cuộc hay cả những “day dứt đè nặng vì
không đƣợc thỏa chí”. Mỗi lần gặp gỡ họ đều bắt tay, vỗ vai thân mật, hỏi
thăm về sức khỏe, bệnh tật, những thói quen hay gợi nhắc lại những kỉ niệm
cũ. Ngôn từ dành cho nhau vì vậy cũng ấm áp, gần gũi, trân trọng và thân
tình. Trong nhiều sự kiện khác, những ngƣời sáng lập nên không gian này
luôn mong muốn tạo ra đƣợc không khí tự do, tôn trọng mà ở đó từng cá nhân
có thể cởi mở bộc lộ suy nghĩ, quan điểm của mình.
Bắt đầu hoạt động từ những năm 2015, ngoài việc là nơi thƣởng thức
một món đồ uống, nơi tranh thủ làm việc cho mỗi cá nhân, chỗ gặp gỡ, chốn
hàn huyên, chia sẻ tin tức, Cà phê Văn còn có chuỗi sự kiện diễn ra liên tục
vào cuối tuần, từ tối thứ sáu đến tối chủ nhật. Giống nhƣ Giấc mơ nhỏ, đây
cũng là không gian linh hoạt, không gian của các thực hành văn hóa đa dạng.
Từ không gian dành cho sáng tạo và thƣởng thức âm nhạc lúc ban đầu, về sau
đƣợc mở rộng ra, câu chuyện xoay quanh nhiều loại hình nghệ thuật khác nhƣ
kiến trúc, mĩ thuật, điện ảnh, văn học. Góc điện ảnh, vừa nhƣ một kênh giải
trí, thƣ giãn vào tối cuối tuần vừa là không gian mang lại nhiều kiến thức về
các danh nhân văn hóa trên thế giới, những ngƣời có đóng góp lớn và làm
99
thay đổi quốc gia. Các sự kiện âm nhạc hàng tuần hoặc cách tuần đƣợc tổ
chức hƣớng tới nhóm công chúng yêu mến nhạc cổ điển. Nhiều chƣơng trình
về hội họa không chỉ là nơi trao đổi, gặp gỡ của các họa sĩ, nghệ sĩ mà còn là
nơi mở rộng hiểu biết cho công chúng quan tâm và muốn tìm hiểu. KGST
những lúc này trở thành không gian của nghệ sĩ sáng tạo và của công chúng
thƣởng thức nghệ thuật. Khi xây dựng chuỗi các chƣơng trình này, chủ của
không gian đã quan niệm rằng nghệ thuật cần phải đƣợc thƣởng thức, đƣợc
trải nghiệm, nghệ thuật là “những thứ mà chúng ta cần phải sống với nó:
nhạc là phải nghe qua lỗ tai, hội họa là phải nhìn qua con mắt, văn chương là
phải đọc, phim ảnh là phải xem”.
Nếu ở KGST Giấc mơ nhỏ, tối thứ ba hàng tuần là thời gian dành cho
chiếu phim và thảo luận thì góc điện ảnh ở Cà phê Văn định kì diễn ra vào tối
chủ nhật. Phim đƣợc chọn đa dạng nhƣng cũng đƣợc thiết kế theo các chủ đề
khác nhau và theo “gu” mà những ngƣời sáng lập ra KGST này đã chọn. Đó
là chuỗi phim về danh nhân thuộc các lĩnh vực văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật,
họa sĩ, nhạc sĩ thiên tài, thiên tài quân sự, các nhà khoa học… mà cuộc đời và
sự nghiệp của họ gây ảnh hƣởng lớn trong lịch sử. Có thể kể đến loạt phim
danh nhân trong lĩnh vực khoa học nhƣ: phim The theory of everything (thuyết
vạn vật) về cuộc đời, tình yêu và sự nghiệp của nhà vật lí học và vũ trụ học vĩ
đại của thế kỉ 20, 21 Stephen Hawking; phim A beautiful mind về nhà toán
học John Nash - ngƣời bị tâm thần phân liệt nhƣng đoạt giải Nobel về kinh tế
và có tầm ảnh hƣởng lớn ở thế kỉ 20; chuỗi phim The men who build America
về những nhà đại tƣ bản nổi tiếng trên thế giới ở thế kỉ 19, đƣợc mệnh danh
nhƣ những “ông vua” làm nên nƣớc Mĩ hùng mạnh: “vua dầu lửa” John D
Rockefeller, “vua sắt thép” Andrew Carnegie, “vua đƣờng sắt” Cornelius
Vanderbilt hay Henry Ford - cha đẻ dây chuyền lắp ráp xe ô tô; phim danh
nhân trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật nhƣ về danh họa ngƣời Ý Leonardo
da Vinci trong phim The life of Leonardo da Vinci, về nhà soạn kịch ngƣời
Anh William Shakerpeare ở phim Shakerpeare in love, hay về vua hề Charlie
100
Chaplin trong phim Chaplin; phim danh nhân về đề tài tôn giáo nhƣ Litte
Buddha (Vị tiểu Phật) kể về hành trình đến nƣớc Mĩ của Lạt Ma Norbu để tìm
kiếm hóa thân của sƣ phụ mình sau khi tái sinh… Các phim về danh nhân
thƣờng không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tƣ liệu về tiểu sử mà còn giúp
khán giả hình dung về cuộc đời, phần nào giải mã những bí ẩn về khát vọng,
sức mạnh trong con ngƣời họ. Hơn nữa những đóng góp của họ cho quốc gia
dân tộc, trong một hay nhiều thế kỉ, cho một hay nhiều thế hệ luôn là niềm tự
hào của nhân loại, cổ vũ con ngƣời khát khao vƣơn tới những thành công mới.
Các chủ đề phim khác cũng lôi cuốn nhiều khán giả đến xem nhƣ chuỗi phim
Từ tiểu thuyết đến phim bắt đầu bằng chiếu phim và thảo luận phim Love in
Time of Cholera (Tình yêu thời thổ tả) dựa trên nguyên tác văn học của nhà
văn Mỹ Latinh Gabriel García Márquez; chuỗi phim của đạo diễn Đặng Nhật
Minh về những con ngƣời Việt Nam hy sinh, chịu đựng, giàu tình nhân ái nhƣ
Thị xã trong tầm tay, Trở về…
Các buổi chiếu phim ở đây thƣờng có 2 phần chính: xem phim và thảo
luận cùng với khách mời. Ở Giấc mơ nhỏ, ban đầu Minh kiêm luôn tất cả các
công việc cho một buổi chiếu: lên chƣơng trình (nhƣ chiếu phim gì, vào thời
điểm nào) và chủ trì phần giới thiệu, thảo luận, về sau góc điện ảnh lôi cuốn
đƣợc nhiều bạn chủ động chọn phim để chiếu và giới thiệu, những lúc đó
Minh lùi lại phía sau, giữ vai trò hỗ trợ (nhƣ tìm nguồn phim chiếu, chuẩn bị
các điều kiện về âm thanh, ánh sáng), nhƣờng lại không gian cho ngƣời tham
dự. Còn ở Cà phê Văn luôn có một khách mời, thƣờng là các nhà văn, nhà
phê bình văn học, nhà khoa học, nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, chính trị -
ngƣời giữ vai trò giới thiệu và chủ trì thảo luận.
Trƣớc khi chiếu phim, ngƣời chủ trì thƣờng có phần giới thiệu “đôi lời”
về bộ phim, đƣa ra một vài thông tin, giai thoại hay những câu chuyện ngắn
về hậu trƣờng làm phim. Những chia sẻ ngắn gọn, có tính gợi mở đó có thể
xem nhƣ là lời dẫn chuẩn bị tâm thế cho khán giả bƣớc vào thế giới của nhân
vật trong phim. Thời lƣợng của các bộ phim kéo dài thƣờng từ hai, ba tiếng
101
nên đến khoảng mƣời giờ hoặc mƣời rƣỡi tối phim mới kết thúc. Dù đã muộn
nhƣng phần thảo luận sau khi xem luôn đƣợc mọi ngƣời chờ đợi. Đây cũng là
điểm khác biệt của việc xem phim tại các KGST so với việc xem tại các rạp
chiếu. Những cảm nhận về ý nghĩa bộ phim, phân tích về nội dung, nghệ thuật
hay đơn giản là chia sẻ về một chi tiết nhỏ cũng đƣợc mọi ngƣời hào hứng
bàn luận. Nhiều câu chuyện đƣợc mở ra nhƣ bối cảnh ra đời, tham chiếu đến
những điều kiện văn hóa, lịch sử, thực tế xã hội, về đất nƣớc, con ngƣời, tiểu
sử ngƣời làm phim, cảm hứng của phim, giai thoại liên quan đến diễn viên
trong phim hay có khi đi sâu phân tích một tình tiết nhỏ, một biểu cảm của
nhân vật… Có những lần khi sự tham gia thảo luận của ngƣời xem không
nhiều, khách mời hay ngƣời dẫn phải huy động vốn liếng hiểu biết của mình
để phá vỡ không khí trầm lắng. Nhƣng cũng có khi những thảo luận không
dứt khiến cho thời lƣợng ba mƣơi phút sau buổi chiếu là quá ngắn ngủi.
Những ngƣời tạo nên không gian điện ảnh ở đây quan niệm, cũng giống
nhƣ những cuốn sách, mỗi bộ phim là một thế giới đƣợc dựng lên và quá trình
làm phim chính là quá trình tạo tác nên một thế giới mới. Xem phim là đặt
mình vào trong một thế giới khác, có thể gần gũi hoặc xa lạ với thế giới mình
đang sống. Những câu hỏi đƣợc gợi mở, đƣợc đặt ra từ bộ phim cũng là
những chất vấn về chính con ngƣời, về những giới hạn tồn tại của con ngƣời,
về những giá trị nhân văn, nhân bản và cả cái ác tồn tại trong mỗi ngƣời, là
con ngƣời trong mối quan hệ với tự nhiên, với cá thể khác…
Cuối 2016, khi Hanoi Cinematheque23 từng đƣợc gọi là “rạp chiếu bóng
thiên đƣờng” đóng cửa, nhiều khán giả ở Hà Nội đã rất tiếc nuối một nơi để
đƣợc đến xem những bộ phim hay, giàu giá trị nghệ thuật. Về sau, nhƣ nhận
ra đó là sự mất mát lớn lao và để nỗ lực bù đắp, trong thành phố đã nổi lên
nhiều “rạp chiếu bóng” nhỏ nhƣ thế, trở thành những địa chỉ văn hóa, những
nơi chốn qua lại thƣờng xuyên cho ngƣời yêu nghệ thuật thứ bảy. Ngoài Giấc
mơ nhỏ, Cà phê Văn còn có nhiều nơi khác nhƣ Trung tâm hỗ trợ điện ảnh
23 https://tuoitre.vn/vinh-biet-cay-hoang-lan-va-rap-chieu-bong-thien-duong-1222354.htm
102
TPD (51 Trần Hƣng Đạo), Ơ kìa Hà Nội (tại phố Hoàng Hoa Thám, về sau
chuyển ra Đê La Thành),… Mỗi không gian, tất nhiên hƣớng đến những mục
tiêu riêng nhƣ phục vụ nhu cầu giải trí của khán giả, phổ biến kiến thức về
phim ảnh, chia sẻ để công chúng biết về công việc của ngƣời làm phim hay
đơn giản mƣợn phim là cầu nối để những ngƣời đồng điệu gặp nhau... Nhiều
ngƣời chia sẻ sự hứng thú sau khi xem không chỉ bởi vì phim hay, xúc động
trƣớc cuộc đời nhân vật mà “xem phim, phim hay đã đành, xem với ai, ở đâu
cũng quan trọng”. Những buổi chiếu phim nhƣ vậy dần thành nếp tại các
KGST này, tạo nên một không khí, một sinh hoạt văn hóa ý nghĩa, mà theo
một khán giả “điều ấy rất hay, điều ấy không thể làm được trong các rạp
cine”.
Ngoài điện ảnh, không gian của Cà phê Văn còn là không gian của âm
nhạc. Theo “gu” của ngƣời sáng lập nên không gian này, các chƣơng trình âm
nhạc ở đây thƣờng là âm nhạc cổ điển - vốn kén ngƣời nghe và không dành
cho số đông. Có những buổi, số lƣợng ngƣời biểu diễn còn nhiều hơn cả số
khán giả. Nhƣng đều đặn, các buổi biểu diễn luôn đƣợc tổ chức hàng tháng.
Âm nhạc có khi lại đƣợc sử dụng một cách khéo léo, đầy dụng ý. Trong buổi
nói chuyện về cuộc đời của triết gia Trần Đức Thảo, bản nhạc Bèo dạt mây
trôi và Trở về đất mẹ với giai điệu tha thiết gợi liên tƣởng đến cuộc đời nhiều
trắc trở, gian truân của chính ông. Những câu chuyện về sự nghiệp và cuộc
sống của ông lần lƣợt đƣợc tái hiện: từ Việt Nam sang Pháp học, vì yêu nƣớc
nên trở về Việt Nam, cuối đời lại chết trên đất Pháp, di hài sau đó đƣợc đƣa
về Việt Nam an táng. Ngoài việc biết đến và hiểu thêm những đóng góp của
ông với triết học, khán giả còn hình dung đƣợc phần nào bối cảnh chính trị
thời bấy giờ bởi “mỗi bƣớc đi của ông đều bị đồng hành bởi chính trị”. Sự
đƣa đẩy của số phận khiến khán giả không khỏi ngậm ngùi khi nhớ lại giai
điệu tha thiết của bản nhạc Trở về đất mẹ và Bèo dạt mây trôi mà ngay từ lúc
đầu đã đƣợc cất lên nhƣ một lời đề dẫn đầy sức gợi và ám ảnh.
103
Ngoài các buổi biểu diễn âm nhạc, KGST này còn tổ chức nhiều sự
kiện thảo luận về các vấn đề của văn học nghệ thuật. Trong các sự kiện đƣợc
tổ chức tại đây, họ cùng nhau đặt ra những câu hỏi và đi tìm câu trả lời cho
những băn khoăn nhƣ: vì sao nghệ thuật Việt Nam không đƣợc quốc tế chú ý
và quan tâm đến (tháng 5/2017); vai trò của nghệ thuật với việc phát triển
cộng đồng (tháng 5/2017), văn hóa nghệ thuật nhƣ là phƣơng tiện để phản ánh
và góp phần giải quyết các vấn đề lớn của xã hội nhƣ thế nào, nghệ thuật bấy
lâu có phải dƣờng nhƣ đã quá xa cách đối với con ngƣời đặc biệt là cộng đồng
yếu thế, những ngƣời bị gạt ra bên lề xã hội,… Câu chuyện về nghệ thuật
đƣợc đối sánh dƣới các chiều kích thời gian: quá khứ - hiện tại - tƣơng lai và
không gian: thế giới - Việt Nam, từ góc nhìn của nghệ sĩ, công chúng, ngƣời
thực hành nghệ thuật, nhà đầu tƣ cho nghệ thuật…
Có thể nói, nghệ thuật đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo tác
nên các KGST. Nghệ thuật là nguồn cảm hứng lớn, là chủ đề chính của nhiều
sự kiện tại các KGST, là đời sống đƣợc nhìn qua các lăng kính và bằng các
phƣơng tiện khác nhau. Âm nhạc, hội họa, văn học và các vấn đề khác của
đời sống vì thế mà không tách rời, gắn bó, hòa quyện tạo nên một không khí
đặc trƣng cho không gian với những sinh hoạt văn hóa thƣờng ngày. Vì thế,
nghệ thuật ở đây cũng chính là những hình thức biểu đạt, những ngôn ngữ
biểu đạt khác nhau mà ngƣời kiến tạo nên không gian đã khéo léo kết hợp
đƣợc.
3.2.2. Không gian gặp gỡ, kết nối và đối thoại
Quan niệm về kết nối ở Cà phê Văn chịu ảnh hƣởng sâu sắc từ nhu cầu
cần có bạn của ông Phƣơng - ngƣời sáng lập nên không gian - vốn là một
ngƣời làm nghệ thuật. Tác phẩm viết ra xuất phát từ nhu cầu nội tại, thôi thúc
từ bên trong nhƣng đồng thời ngƣời nghệ sĩ luôn có xu hƣớng tìm kiếm sự
đồng cảm từ khán giả hoặc những ngƣời cùng làm nghề, nhƣ ông có lần từng
nói:
104
“Các bạn viết (nhạc) vì các bạn thích, và tất nhiên các bạn
muốn mọi người nghe, tức là rất muốn có bạn, cho nên Cà phê
Văn muốn biến nơi này vào một tối cuối tuần trong tháng sẽ trở
thành nơi mà chúng ta có một cộng đồng. Nghệ thuật chỉ sống
được khi chúng ta có một cộng đồng”.
Chính vì thế mà Cà phê Văn muốn tạo ra một cộng đồng thực gắn kết những
ngƣời viết nhạc, ca sĩ, nhạc công và công chúng; giữa họa sĩ với nhà phê bình,
nhà nghiên cứu và ngƣời thƣởng thức; giữa đạo diễn với biên kịch, diễn viên
và ngƣời xem... Dù những ngƣời nghệ sĩ trong thời công nghệ phát triển
thƣờng có nhiều cách tiếp cận với công chúng, nhất là sử dụng mạng xã hội,
nhƣng ngoài nền tảng ảo đó thì những kết nối, tƣơng tác thực vẫn luôn đƣợc
lựa chọn bởi ở đó họ đƣợc cùng sống trong bầu không khí nghệ thuật với cảm
xúc chân thực nhất.
Ngoài nghệ thuật, những ngƣời kiến tạo nên không gian này còn quan
tâm đến nhiều vấn đề khác trong xã hội, theo sát nhiều sự kiện hay tình hình
đang diễn ra trong đời sống, vì thế Gặp gỡ và đối thoại là một phần quan
trọng làm nên KGST Cà phê Văn. Đây không chỉ là tên gọi của một trong số
nhiều chƣơng trình đƣợc tổ chức tại Cà phê Văn mà đó còn là tinh thần của
KGST này: nơi gặp gỡ, kết nối, chia sẻ và trao đổi. Các chƣơng trình gặp gỡ
và đối thoại đƣợc tổ chức thƣờng xuyên vào chiều thứ bảy cuối tuần, kéo dài
từ 2-3 tiếng. Đôi khi vì phụ thuộc vào khách mời, sự kiện có thể đƣợc linh
hoạt điều chỉnh trƣớc hoặc sau chiều thứ bảy. Mỗi sự kiện xoay quanh một
chủ đề, nhƣng cũng có những chủ đề sẽ đƣợc trở đi trở lại nhiều lần, tất nhiên
ở các góc nhìn khác. Câu chuyện của các trí thức xoay quanh các vấn đề của
đời sống văn hóa văn nghệ, mở rộng trên nhiều lĩnh vực: triết học, giáo dục,
văn hóa, văn học nghệ thuật. Ngay cả các sự kiện bàn về nghệ thuật, xoay
quanh các loại hình nghệ thuật thì cuối cùng những ngƣời tham dự vẫn quay
trở về với câu hỏi cuộc sống nào đang đƣợc thể hiện trong nghệ thuật. Các
vấn đề “nóng” của xã hội cũng trở thành chủ đề chính của nhiều buổi gặp gỡ,
105
đối thoại nhƣ tham nhũng, bất bình đẳng, sự tàn phá môi trƣờng của con
ngƣời, những tồn tại của nền giáo dục nƣớc nhà. Nhiều sự kiện đã diễn ra
đƣợc xem nhƣ là những buổi chất vấn về công cuộc đổi mới toàn diện và triệt
để nền giáo dục đang đƣợc thực hiện nhƣ thế nào, với những ồn ào, bất cập ra
sao; những vấn đề căn cốt của giáo dục nhƣ triết lý giáo dục, nội dung giáo
dục, phƣơng pháp giáo dục, cơ cấu môn học, hệ thống trƣờng học, vai trò của
giáo viên, liên hệ với các nền giáo dục trên thế giới trong thế đối sánh. Nhiều
chƣơng trình nói đến giáo dục khai sáng nhƣ một trong nhiều lựa chọn mà ở
đó thay vì đào tạo con ngƣời công cụ, nền giáo dục nên chuyển hƣớng sang
đào tạo con ngƣời tự do. Tinh thần của các buổi trao đổi là coi trọng việc đặt
ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi một cách cởi mở, tự do. Tinh thần
tự do học thuật nhiều lần đƣợc ngƣời sáng lập không gian chia sẻ ngay từ đầu
buổi thảo luận:
“Đây không phải hội thảo khoa học, không có kết luận
đúng sai. Đây là chỗ cà phê để chúng ta nói những ý kiến khác
nhau và có thể các anh chị không tán thành nhưng không thành
kiến với những ý kiến khác mình. Tôn trọng, chính sự tôn trọng
ấy là chúng ta lưu giữ sự khác trong đầu và chính sự khác ấy
làm chúng ta phải suy nghĩ: sao họ lại nghĩ thế” (Ông Phƣơng –
thành viên sáng lập KGST Cà phê Văn).
Các vấn đề đƣợc khơi lên, đào sâu và mở rộng từ những góc nhìn khác nhau,
cùng với những liên tƣởng và kinh nghiệm cá nhân ở nhiều lĩnh vực và vì thế
nhờ những tƣơng tác này mà làm giàu vốn hiểu biết cho ngƣời tham dự.
Khi điều phối các hoạt động, lên ý tƣởng nội dung sự kiện, những
ngƣời sáng lập nên đã định hình rằng ngoài việc là một không gian nghệ
thuật, đây sẽ là nơi để cập nhật, phổ biến và trao đổi tri thức. Những buổi giới
thiệu sách hay đúng hơn là trò chuyện xoay quanh cuốn sách không giống
nhƣ buổi ra mắt sách của các nhà xuất bản, các công ty phát hành sách với
mục đích tiếp cận với độc giả để tối đa hóa lƣợng sách bán ra trên thị trƣờng.
106
Câu chuyện giữa ngƣời dẫn, khách mời với khán giả xoay quanh cuốn sách,
từ việc đƣa ra một cách hiểu, tƣơng tác với những cách hiểu khác, đặt ra thêm
những câu hỏi, liên tƣởng trong nhiều chiều cạnh khác… nhƣ thúc đẩy những
suy tƣ về cuộc sống, khai mở những chân trời tri thức mới. Các tƣ tƣởng triết
học, các cuốn sách về triết học đƣợc giới thiệu và mang ra bàn thảo nhƣ về
triết gia Hamvas Bela, sự nghiệp của triết gia Trần Đức Thảo, đối thoại với
Socrat qua cuộc đời của Alexandre Jollien, bàn về triết học và giới trẻ qua
cuốn sách Tôi là ai và thế thì bao nhiêu…
Không gian sáng tạo Cà phê Văn theo thời gian cũng đang làm mới
mình bằng việc thiết kế thêm nhiều chƣơng trình mới, đa dạng hóa không
gian, mở rộng phạm vi tiếp cận với khán giả, hƣớng tới nhiều đối tƣợng hơn.
Việc phổ biến tri thức trong chuỗi sự kiện hoạt động trên xuất phát từ quan
niệm “chia sẻ tri thức là nền tảng thay đổi vận mệnh quốc gia dân tộc”. Tinh
thần này có lẽ đƣợc ảnh hƣởng từ tinh thần “khai dân trí” của Phan Châu
Trinh, một trong những tác giả đƣợc đề cập nhiều nhất trong các chƣơng trình
tại Cà phê Văn. Sự đa dạng này còn bắt nguồn từ việc muốn hình thành nền
tảng văn hóa cho trí thức. Có thể thấy, dù nhỏ hẹp về diện tích thực nhƣng Cà
phê Văn luôn mở ra những không gian không biên giới cho sự sáng tạo, đƣợc
lấp đầy bởi nhiều thực hành văn hóa giàu ý nghĩa, phản ánh một đời sống văn
hóa bộn bề và phong phú của đô thị.
3.2.3. Không gian chất vấn và phản biện xã hội
Bên cạnh mối quan tâm về văn học nghệ thuật, những ngƣời trí thức
trong các KGST còn phản ánh về những bức xúc trong xã hội, bày tỏ, thể hiện
những quan điểm độc lập của mình về nhiều vấn đề đang diễn ra, trong số đó
có cả những chủ đề đƣợc xem là “nhạy cảm”. Những ý kiến phản biện đôi khi
chỉ là thêm vào theo kiểu chuyện bên lề, những liên tƣởng tạt ngang tạt dọc
ngoài mạch nội dung sự kiện đang diễn ra. Nhƣng có những vấn đề đƣợc đề
cập đến một cách trực diện, là chủ đề chính của cả buổi hoặc đƣợc trở đi trở
lại trong nhiều sự kiện sau đó, phần vì nội dung khá rộng, đa chiều, không thể
107
nói hết đƣợc trong một buổi, phần vì là chủ đề “nóng”, đƣợc bàn thảo nhiều
trong xã hội lúc bấy giờ. Chủ đề giáo dục là một ví dụ nhƣ vậy.
Trong bối cảnh những chính sách về giáo dục có nhiều bất cập, những
ồn ào xoay quanh bằng cấp hay quá trình đào tạo đƣợc phản ánh thƣờng
xuyên trên báo chí, nhân vấn đề “trƣờng ma” đang dậy sóng trên các phƣơng
tiện thông tin truyền thông (một trƣờng của Mĩ, không có trụ sở, không có
giáo viên, không đƣợc công nhận nhƣng lại liên kết đào tạo tại Việt Nam tại 14 tỉnh thành)24,… câu chuyện giáo dục lại trở thành tâm điểm và trở thành
chủ đề cho gặp gỡ và đối thoại ở Cà phê Văn. Đa phần ngƣời tham dự buổi
gặp gỡ và đối thoại trong buổi hôm đó đều ở tầm tuổi trung niên, công tác tại
nhiều lĩnh vực khác nhau. Chỉ sau phần dẫn dắt, gợi mở của ngƣời chủ trì,
không khí thảo luận đã thực sự sôi nổi, dƣờng nhƣ ai cũng sẵn có những ý
kiến cần bày tỏ, chia sẻ hay thể hiện thái độ. Lúc ngồi tham dự, một bác bên
cạnh, vừa đùa nhƣng cũng vừa thật, quay sang phía tôi và nói rằng đƣa ra chủ
đề này đúng là “gãi đúng chỗ ngứa”. Một nhà giáo từng là hiệu trƣởng của
một trƣờng đại học theo hƣớng phi lợi nhuận đề cập đến các tác nhân tác động
đến giáo dục nhƣ chính sách, cán bộ quản lý, ngƣời học, nhà giáo… Với bà
những đổi mới trong giáo dục cần dựa vào khoa học giáo dục để giúp ngƣời
học tự tổ chức việc học theo cách chủ động. Một nhà giáo đã nghỉ hƣu đề cập
đến vấn đề tị nạn giáo dục qua câu chuyện về chính các con, các cháu của
mình hiện đang theo học phổ thông ở nƣớc ngoài bởi với ông “giáo dục ở ta
đang triệt tiêu sự sáng tạo do có sự định hướng cứng nhắc”. Một ngƣời là
nghệ sĩ thì thấy:
“Chương trình giáo dục của ta chủ yếu dạy kiến thức,
chính trị và đạo đức, nhưng nền tảng thì không có, nghệ thuật
cũng không. Hay nếu có thì nghệ thuật cũng chỉ vì tuyên truyền,
sử dụng nó để làm tuyên truyền chứ không phải bản thân nó, nên
thành ra đôi khi ta hiểu lầm về nghệ thuật”.
24 https://thanhnien.vn/giao-duc/truong-ma-lien-ket-day-o-vn-949943.html
108
Một ngƣời là nhà báo đề cập đến việc độc quyền xuất bản sách giáo khoa hay
những điều chỉnh của luật giáo dục hiện nay đã phản biện rằng những sửa đổi
về luật giáo dục đang sai về nguyên tắc khi ƣu tiên cho giáo dục đại học
trƣớc, sau đó mới đến giáo dục phổ thông, trong khi giáo dục mầm non lẽ ra
phải đƣợc coi trọng đầu tiên, vì gắn với giai đoạn khởi đầu của con ngƣời, thì
lại bị đặt thứ tự ƣu tiên sau cùng. Cứ nhƣ vậy, các ý kiến nối tiếp nhau, bổ
sung, làm rõ, cung cấp những góc nhìn đa chiều cùng những ví dụ cụ thể, sinh
động gắn với những trải nghiệm và quan sát cá nhân. Phần thảo luận lôi cuốn
đƣợc sự theo dõi một phần vì giọng điệu phản biện: có ngƣời rốt ráo, thẳng
thắn, đề cập trực diện, ngƣời thì điềm đạm, ngƣời giữ giọng hài hƣớc có phần
châm biếm… Các ví dụ từ thực tiễn công việc hay câu chuyện bản thân ngƣời
tham dự chứng kiến cũng đa dạng, sinh động. Các phản biện đƣa ra thƣờng
gắn với những lí lẽ, phân tích, lập luận rõ ràng. Buổi trò chuyện kết thúc vào
lúc hơn năm giờ chiều nhƣng mọi ngƣời còn nán lại, thành từng cặp hay từng
nhóm nhỏ tiếp nối câu chuyện còn dang dở. Nhiều ngƣời còn hẹn nhau ở một
sự kiện khác tại Trung tâm Văn hóa Pháp sau đó, rất ngẫu nhiên cũng bàn về
chủ đề giáo dục.
Với nhiều trí thức, họ còn có những không gian khác, những diễn đàn
khác để tham gia ý kiến: các buổi hội thảo do các cơ quan, các trƣờng đại học
tổ chức, các kênh truyền thông… nhƣng không gian này vẫn có ý nghĩa đặc
biệt với họ. Trƣớc hết là đƣợc nói thẳng, nói hết những suy nghĩ của mình,
bày tỏ quan điểm đối với nhiều vấn đề liên quan đến đời sống cá nhân, cộng
đồng và xã hội. Ông T, một giảng viên đại học, từng chủ trì nhiều buổi thảo
luận tại Cà phê Văn từng cho rằng:
“Ở ta đang lạc hậu so với các nền văn minh khác đến mấy
nghìn năm. Thế giới có những agora, là nơi đối thoại, public, tự
do, ai muốn hỏi gì thì hỏi, truy nguyên đến cùng. Còn ta bây giờ,
nói cũng chưa được nói”.
109
Việc nói ra quan điểm cũng là một cách để nghe ngóng và tìm kiếm sự
đồng tình, ủng hộ từ ngƣời khác, để xác tín quan điểm mình cho là đúng đắn
mà ở không gian khác dƣờng nhƣ bị lờ đi: “tôi nói nhƣng họ có nghe đâu”
hoặc thậm chí không có cơ hội để đƣợc nói những phản biện trái chiều đó.
Việc tìm đến một không gian cởi mở, tự do nhƣ thế này là để những tiếng nói
riêng lẻ kia trở nên có sức mạnh hơn khi đƣợc chia sẻ. Hơn nữa, trong nhiều
sự kiện, vì lý do “ở đây có các anh nhà báo”, họ mong muốn tiếng nói của họ
rất có thể sẽ đƣợc lắng nghe ở phạm vi rộng rãi hơn.
Tuy nhiên, nhiều chƣơng trình tại Cà phê Văn bị hủy trƣớc ngày tổ
chức, đƣợc thông báo trên facebook là “vì lý do khách quan không thể khắc
phục”. Ngƣời đăng kí tham dự ban đầu hơi bất ngờ với những lần dừng “đột
ngột” nhƣ vậy nhƣng về sau đều lờ mờ nhận ra và suy đoán lý do khi nghĩ đến
thành phần là khách mời từng bị xem là có vấn đề, nhƣ một ngƣời đã từng
chia sẻ: “các chương trình ở đây bị an ninh theo dõi chặt vì có thành phần
phản động - theo tiêu chí đánh giá của họ”. Nhiều can thiệp khác nhau nhƣ
cắt điện, cắt nƣớc cũng đƣợc sử dụng nhằm không cho sự kiện đƣợc diễn ra:
“… Tôi mời anh V. nói về giáo dục. Nhưng hôm đó tôi lại
để ông P.M chủ trì. Cả hai ông cộng với Cà phê Văn nên an ninh
họ không bằng lòng, nên họ bảo tôi phải dừng. Tôi bảo buổi này
có gì đâu, chỉ là nói về giáo dục. Mấy chú đó bảo đây là lệnh từ
cấp trên. Họ cứ nói cấp trên và không giải thích lý do. Tôi bắt
buộc phải cho ngừng. Mà rồi an ninh họ vẫn cứ đến, tôi đã cho
đăng lên facebook là buổi này ngừng, nhưng họ vẫn không tin,
họ vẫn cắt điện cái hôm đó”.
Các buổi thảo luận ở đây có thể xem nhƣ một kênh để trí thức và những
đối tƣợng tham dự khác đƣợc thể hiện quyền công dân của mình, cất lên
những tiếng nói đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Những tranh luận
không có hồi kết về giáo dục cho thấy đây là chủ đề đƣợc quan tâm đặc biệt
đối với nhiều ngƣời, đặc biệt là tầng lớp trí thức trong xã hội.
110
Là những ngƣời đã từng hay vẫn đang làm việc trong môi trƣờng học
thuật, có liên quan chặt chẽ với giáo dục hoặc trong lĩnh vực khác có vẻ ít liên
quan hơn nhƣng họ đều biết giáo dục quan trọng nhƣ thế nào đối với sự phát
triển xã hội. Họ ý thức một cách sâu sắc rằng cái gốc của một xã hội phát
triển nằm ở con ngƣời, mà con ngƣời có văn hóa là do giáo dục chứ không do
cái gì khác. Bày tỏ ý kiến, thể hiện quan điểm cá nhân không ngoài việc thể
hiện mối quan tâm của họ đối với xã hội, thấy mình có trách nhiệm với việc
đó và muốn tham gia giải quyết vấn đề thông qua tranh luận. Nhƣ vậy, có thể
thấy, trong những trƣờng hợp này, KGST này là không gian cho sự tham gia,
đƣợc thiết lập nên bởi mong muốn kết nối, nhu cầu thể hiện, bày tỏ quan
điểm, chính kiến cá nhân với các vấn đề của đất nƣớc. Không gian mở cửa tự
do cho tất cả ngƣời dân đô thị, nơi họ có thể tự do gặp gỡ, tụ họp và thể hiện
quyền công dân của mình bằng việc tham gia ý kiến. Không gian khuyến
khích những tiếng nói đa dạng, vì thế nó là nơi thực sự cần thiết cho những
phản biện mà trí thức mong muốn truyền tải đến chính quyền, tới những
ngƣời có trách nhiệm.
Với đặc thù là hoạt động trong lĩnh vực trí tuệ, ngƣời trí thức không thể
phát huy cái “thẩm quyền phát biểu” của mình nếu không có một không gian
công cộng trong xã hội (Trần Hữu Quang, 2020) [57]. Các KGST nhƣ đã nói
đến luôn tạo cơ hội cho ngƣời dân có quyền tham gia, quyền tự do phát biểu ý
kiến, quyền đƣợc tôn trọng sự khác biệt. Dám đề cập một cách trực diện tới
những sự thực mà ít đƣợc nói đến trên các phƣơng tiện truyền thông chính
thống hoặc bị né tránh ở nhiều không gian khác, những mặt trái của xã hội,
những trải nghiệm tiêu cực, những hiện thực thƣờng bị lấn át bởi dòng chính,
có lẽ đây là một trong nhiều lí do khiến các KGST nhƣ Cà phê Văn, Giấc mơ
nhỏ đƣợc nhiều ngƣời quan tâm và tham dự… Nó phản ánh mong muốn đƣợc
đóng góp cho xã hội, bằng những phƣơng cách khác nhau:
“Chúng ta dần bắt đầu có cái nghĩ, dần bắt đầu lo đến cái
vận mệnh của đất nước và thấy mình có quyền đóng góp và nếu
111
nhà nước không chấp nhận thì có những nơi để phát biểu, để bàn
bạc, nhưng không phải chống đối” (Tư liệu điền dã, tháng
10/2019).
Nó đem tới cơ hội cho ngƣời tham dự có đƣợc cái nhìn đa chiều về xã hội,
giúp hình dung về đô thị Việt Nam một cách đa dạng, sống động và phức tạp.
Và nhƣ vậy, sự bình đẳng trong tiếp cận, quyền tự do biểu đạt cho thấy KGST
nhƣ một hình thức biểu hiện của “khu vực công” mà Habermas đã nói đến.
Một phân tích khác, từ KGST Cà phê Văn cũng cho thấy trong những
thảo luận tại đây, từ việc nhận diện, mổ xẻ, chỉ ra thực trạng của vấn đề, nêu
lên điểm tốt hay phê phán những cái xấu, ngƣời tham dự dƣờng nhƣ luôn có
nỗ lực tìm kiếm những giải pháp, những cách thức để điều chỉnh, cải thiện
hay thay đổi tình huống. Trong chuỗi chƣơng trình gặp gỡ và đối thoại về chủ
đề giáo dục, ngoài việc nhận diện và bày tỏ thẳng thắn quan điểm về những
bất cập của ngành giáo dục, còn dành nhiều thời lƣợng bàn về giáo dục khai
sáng, đƣa ra một góc nhìn mới, một hƣớng đi mới. Diễn giả đƣợc giới thiệu là
một trí thức đƣợc đào tạo ở phƣơng Tây, từng học và dạy học ở nƣớc ngoài -
nơi có điều kiện sống và nghiên cứu khoa học rất tốt, đƣợc tiếp xúc với nhiều
học giả lớn nhƣng đã quyết định về Việt Nam để hiện thực hóa quan điểm của
mình về giáo dục. Khi nói về giáo dục khai sáng, “cái gốc” của nó, nhƣ những
diễn giải về sau đều sẽ xoay quanh câu hỏi “tôi là ai”:
“Thực ra chúng ta tổ chức đời sống xoay xung quanh câu
trả lời tôi là ai, một cách có ý thức hay là vô thức. Anh nghĩ rằng
anh là ai thì anh sẽ tổ chức cuộc sống như thế. Nếu anh là luật
sư, anh sẽ tổ chức cuộc sống như một luật sư. Nếu anh nghĩ anh
là doanh nhân, anh sẽ tổ chức cuộc sống như một doanh nhân.
Nếu anh là nhà giáo anh sẽ tổ chức cuộc sống như một nhà giáo.
Anh là nhạc sĩ, cuộc sống cũng sẽ xoay quanh bản nhạc. Một xã
hội cũng như thế. Một xã hội cũng được tổ chức xoay quanh câu
trả lời tôi là ai của xã hội. Xã hội phong kiến coi tôi là một thần
112
dân. Nhưng xã hội phương tây coi tôi là một cá thể, cá nhân độc
lập và bình đẳng với các cá nhân khác, và họ tổ chức đời sống
tương ứng như thế. Cho nên ở cấp độ cá nhân hay cấp độ xã hội
thì cũng tổ chức xã hội xoay quanh câu hỏi tôi là ai” (Ông T,
nhà giáo dục, 45 tuổi).
Giáo dục khai sáng sau đó đƣợc phân tích nhƣ là hƣớng vào ngƣời học,
để quá trình học trở thành quá trình nỗ lực tự nhận thức, tự khai sáng của
chính ngƣời học, giáo viên đóng vai trò nhƣ ngƣời hỗ trợ cho quá trình đó.
Khi nói về giáo dục khai sáng, trong tƣơng quan so sánh, diễn giả đã chỉ ra
những điều mà với anh, đó chính là “lỗ hổng” lớn của nền giáo dục:
“Khi đó tôi nhìn lại chương trình giáo dục của ta, hóa ra
trong chương trình, chúng ta được học đủ mọi thứ trên đời
nhưng cái quan trọng nhất thì chúng ta lại không được học: tôi
là ai, làm cho người trẻ vô cùng hoang mang, ngay cả những
người có tuổi cũng hoang mang không biết ta làm gì với cuộc đời
mình. Có khi đến cuối cuộc đời vẫn không trả lời được, vẫn bế
tắc. Tôi muốn dùng chương trình của mình để bù đắp cho sự
thiếu hụt đó trong giáo dục” (Ông T, nhà giáo dục, 45 tuổi).
Các câu chuyện về đời sống, văn hóa nghệ thuật tại KGST Cà phê Văn luôn
đƣợc sôi chiếu từ nhiều góc nhìn và những liên tƣởng khác nhau. Vấn đề của
thực tại có khi lại đƣợc tìm trong câu chuyện của quá khứ. Không chỉ bởi
nhiều ngƣời đến tham dự là trí thức lớn tuổi nên nơi đây thƣờng có không khí
hoài niệm mà bởi nhiều câu chuyện quá khứ nhƣng lại là gƣơng soi cho
những vấn đề hiện tại. Những phân tích dƣới đây về một chuỗi chƣơng trình
đƣợc diễn ra tại Cà phê Văn sẽ cho thấy điều đó.
Giữa năm 2019, Cà phê Văn tổ chức chuỗi sự kiện mang chủ đề “Ăn
quả nhớ kẻ trồng cây” để hồi nhớ lại một chặng đƣờng quan trọng trong lịch
sử đất nƣớc: thời kì Pháp thuộc 1884-1954. Từ góc nhìn văn hóa, văn học
nghệ thuật, chuỗi chƣơng trình muốn hình dung lại bối cảnh xã hội một thời
113
với những biến động mạnh mẽ và có ảnh hƣởng sâu sắc đến sau này. Qua các
buổi thảo luận nối tiếp nhau, chủ đề về âm nhạc, văn học, mĩ thuật cho đến
giáo dục của giai đoạn này đƣợc tái hiện một cách sống động từ phần trình
bày của khách mời là những nhà nghiên cứu am hiểu và có tên tuổi cùng với
những ý kiến đa chiều đến từ ngƣời tham dự.
Trong suy nghĩ, những ngƣời lên ý tƣởng cho chuỗi chƣơng trình này
hƣớng tới mong muốn ghi nhận và tri ân lại những đóng góp của nhiều ngƣời
Việt và cả ngƣời Pháp đối với văn hóa Việt Nam. Khác với xu hƣớng phủ
định sạch trơn vì chúng ta từng chống Pháp, với họ, bên cạnh thực dân xâm
lƣợc thì còn có những trí thức ngƣời Pháp, những ngƣời sang Việt Nam đã
dành tình yêu cho Việt Nam, mong muốn Việt Nam đƣợc nhƣ nƣớc Pháp. Và
cũng nhờ ngƣời Pháp, Việt Nam mới có thơ mới, có tân nhạc, có mĩ thuật,
giáo dục, khoa học, có nền văn minh. Chuỗi chƣơng trình thu hút đƣợc sự
quan tâm của nhiều trí thức ở các độ tuổi khác nhau. Các buổi trò chuyện
thƣờng chật kín ngƣời, ngƣời trẻ lui ra phía sau, nhƣờng lại phần ghế gần sân
khấu nhỏ cho những ngƣời tham dự cao tuổi. Nhiều ngƣời là nhà nghiên cứu,
nhà giáo, họa sĩ từng đƣợc thụ hƣởng nền giáo dục của Pháp một thời.
Khi nói về sự ra đời của chữ quốc ngữ - một sự kiện thu hút đƣợc sự
quan tâm của khá nhiều trí thức, trong quan niệm của ngƣời thiết kế và xây
dựng nội dung cho buổi thảo luận này, việc latin hóa một tiếng nói, chữ viết
trƣớc hết là phục vụ cho công việc của ngƣời Pháp: để giảng đạo, để phục vụ
cho các công việc thƣờng ngày của họ,… nhƣng công lao của họ đối với
ngƣời Việt chính là việc chính quyền Pháp đã đƣa chữ quốc ngữ vào bậc tiểu
học (từ năm 1902), chƣơng trình dạy học đƣợc thiết kế theo chƣơng trình của
Pháp. Sau đó ngƣời Pháp cho phép ra báo bằng tiếng Việt, các công văn nhà
nƣớc vừa cả tiếng Pháp và tiếng Việt. Ngƣời Pháp bãi bỏ trƣờng thi và sau đó
coi nhƣ tất cả những gì dính đến Hán học lùi về quá khứ. Xã hội hiện tại sử
dụng tiếng Việt, điều đó cho thấy công lao của ngƣời Pháp và nhƣ chia sẻ của
ông Phƣơng:“bỏ cái chuyện bóc lột đi, chúng ta thấy công lao của họ, đó
114
thực sự là khai hóa”, “Và như vậy, nếu như người Pháp là người gieo hạt:
gieo cái trường mĩ thuật Đông Dương, gieo cái nhạc viện, gieo cái nền tảng
về chữ nghĩa ở bậc tiểu học”. Mặt khác, hàng loạt các trí thức ngƣời Việt ở
đầu thế kỉ XX cũng đƣợc nhắc đến nhƣ Nguyễn Văn Vĩnh, Huỳnh Tịnh Của,
Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Phan Khôi, là những ngƣời đã chăm chút,
nuôi dƣỡng cho chữ quốc ngữ đƣợc bén rễ, ăn sâu và lan tỏa trong đời sống:
“… người Việt ở đây không phải là người bình dân được, phải là các trí thức,
thời đó gọi là các chí sĩ. Họ thích cái đó (chữ quốc ngữ), họ thấy nó là cái
phương tiện để thoát Trung, họ mới từ bỏ cái cũ và sử dụng cái đó”.
Cũng đề cập đến vai trò của giáo dục, nhƣng ở một chiều cạnh khác,
nhà chí sĩ yêu nƣớc Phan Chu Trinh với quan điểm “chi bằng học” là một chủ
đề đƣợc trở đi trở lại trong nhiều sự kiện sau đó. Các buổi nói chuyện, trình
bày về tƣ tƣởng của Phan Châu Trinh qua các tƣ liệu mà Phan Châu Trinh để
lại hay qua các tài liệu nghiên cứu về Phan Châu Trinh, một mặt là các hoạt
động tƣởng nhớ, tri ân và vinh danh những danh nhân văn hóa tiêu biểu, mặt
khác cũng nhằm để gìn giữ, phục hƣng và lan tỏa những giá trị tinh hoa văn
hóa. Nhiều sự kiện đƣợc tổ chức xoay quanh triết lí của Phan Chu Trinh, Phan
Chu Trinh - nhà cách mạng khai sáng, viện nghiên cứu về Phan Chu Trinh...
Qua việc điểm luận lại những nghiên cứu về Phan Chu Trinh của nhiều học
giả khác, trình bày bối cảnh lịch sử xã hội của tƣ tƣởng triết học của ông, quá
trình hình thành tƣ tƣởng và những con đƣờng phát triển mà Phan Chu Trinh
đặt ra, nội dung các thảo luận giúp ngƣời tham dự nhớ lại và hiểu thêm về
cuộc đời cũng nhƣ đóng góp của ông. Nội dung đƣợc đề cập đến là giá trị tƣ
tƣởng của ông - nhà cách mạng phi bạo lực khi muốn thay đổi xã hội, thay đổi
số phận của dân tộc từ gốc rễ là văn hóa, giáo dục dù trƣớc đây ông không
đƣợc đánh giá cao trong quá khứ vì đƣờng lối bị cho là “cải lƣơng” khi chủ
trƣơng thân Pháp, “ỷ Pháp cầu tiến bộ”.
Trong các buổi thảo luận, những nan đề mà Phan Châu Trinh đặt ra nhƣ
tƣ tƣởng canh tân, sự khai sáng, khai minh, tinh thần dân chủ đƣợc chú ý
115
nhiều hơn cả. Đặt trong bối cảnh lịch sử, tƣ tƣởng Phan Chu Trinh đặt ra lúc
bấy giờ là “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” có phần cơ bản và phức
tạp hơn khi ông chỉ ra nguyên nhân lớn nhất của việc mất nƣớc, trở thành nô
lệ nằm ở nền tảng văn hóa lạc hậu, giáo dục lạc hậu. Vấn đề cấp bách là khai
hóa dân tộc, hiện đại hóa đất nƣớc và cũng chính là vấn đề thoát Trung. Chủ
đề đƣợc đề cập tới là một nhân vật lịch sử nhƣng câu chuyện không chỉ đƣa
ngƣời tham dự về thời quá khứ mà còn tham chiếu đến thời hiện tại. Rất nhiều
ý kiến đã khẳng định “những vấn đề Phan Chu Trinh đặt ra còn nguyên giá
trị”, đặt ra câu hỏi “con đƣờng phía trƣớc là gì?”, “ta phải làm gì?”.
Ngoài việc thêm một cơ hội để hiểu về những tƣ tƣởng lớn lao mà
ngƣời xƣa đã khơi lên thì những buổi bàn thảo nhƣ vậy cũng là để tỏ thái độ
về sự đồng lòng với những đƣờng hƣớng canh tân, những tƣ tƣởng nền tảng
căn cốt mà những trí thức có mặt tại đây đang theo đuổi. Do vậy, đó không
chỉ là “nhớ về” theo chiều hƣớng dịch chuyển thời gian trở lại quá khứ mà
thực chất là di chuyển giữa hai chiều kích quá khứ và hiện tại. Câu chuyện
của quá khứ soi chiếu hiện tại hay từ hiện tại liên tƣởng về quá khứ, từ đó
dựng nên những hình dung, viễn kiến về tƣơng lai.
Nhƣ nhận xét của ngƣời đến tham dự “tôi có cảm giác chúng ta đang
quay trở lại thời kì Duy Tân, thời kì chúng ta tiếp cận với xã hội dân chủ”.
Những ngƣời đƣợc nói về, đƣợc nhớ đến cũng từng là những “thiểu số” trong
xã hội, cũng từng bị “khƣớc từ” bởi quan điểm, tƣ tƣởng của họ là khác biệt,
khác với số đông và thuộc về số ít. Chọn nhớ về quá khứ theo một cách khác:
hoài niệm về những ngƣời từng bị gạt ra ngoài lề, không nằm trong dòng
chính, làm nhƣ vậy dƣờng nhƣ họ đã tạo ra tuyên ngôn chính trị của mình về
vị thế của trí thức/nghệ sĩ trong xã hội.
Đằng sau những câu chuyện, trao đổi, bàn thảo, có lẽ không phải chỉ để
“nói cho vui” mà còn ẩn chứa những mong muốn đổi thay hƣớng đến những
điều tốt đẹp và tích cực cho xã hội, cho đời sống con ngƣời. Từ câu chuyện
của quá khứ, đối sánh với hiện tại để hình dung nên những viễn cảnh của
116
tƣơng lai. Nhƣ trong một sự kiện, có vị khách đã ví von KGST mà họ đang
tham dự nhƣ nhiều KGCC khác trên thế giới:
“Cà phê, câu chuyện hấp dẫn nhất về cà phê là câu
chuyện về đồ uống thay đổi thế giới. Quán cà phê đầu tiên ở
nước Anh, đó cũng là không gian công cộng. Nó cũng giống như
nơi này (Cà phê Văn), các nhà triết học, các chính trị gia sẽ đến
đó trao đổi và hệ quả là vua Anh lên máy chém. Sức mạnh của
nó nằm ở đó. Những Vontaire, Didoro, Banzac… họ đến những
không gian như thế, tư tưởng của họ làm thay đổi thế giới. Đó là
các không gian, nơi người ta bàn bạc câu chuyện làm thay đổi xã
hội” (Tƣ liệu điền dã, tháng 5/2020).
Sự tự do, dân chủ thể hiện ngay trong cách nhóm ngƣời này chọn nhớ
về, thảo luận về, nhận thức về vấn đề gì. Họ dƣờng nhƣ không chấp nhận một
lịch sử có tính tất yếu, áp đặt mà chất vấn lại những gì dƣờng nhƣ đã đƣợc
xem là tất yếu, là “sự thật” của quá khứ, của lịch sử. Ở đây họ đƣợc tự do khai
quật những “sự thật khác”, những lịch sử khác, cho mình cơ hội nhìn thấy
những góc, những chiều cạnh phức tạp của quá khứ.
Tiểu kết chƣơng 3
Trong luận án này, tôi luôn ý thức rằng những nỗ lực để khái quát thực
tiễn đa dạng của các KGST thành một định nghĩa ngắn gọn, cô đọng, có khả
năng bao quát là không hề dễ dàng. Thực tế, mỗi KGST đƣợc kiến tạo nên bởi
những cá nhân/nhóm cá nhân với cá tính và mong muốn riêng, với nhiều hoạt
động đa dạng và khác biệt, nói cách khác KGST là kết quả của quá trình tạo
nghĩa thông qua các thực hành văn hóa.
Chủ thể kiến tạo nên không gian đƣợc hiểu là có 2 nhóm: nhóm ngƣời
sáng lập và nhóm ngƣời tham gia thực hành văn hóa trong các không gian.
Mỗi không gian gắn với những nhóm chủ thể khác nhau, vì thế cũng sẽ có
những ý nghĩa khác nhau. Mặc dù là không gian mở, dành cho mọi đối tƣợng
nhƣng có thể thấy nổi bật lên hai nhóm đối tƣợng chính: Giấc mơ nhỏ - nơi
117
lui tới của phần lớn là những ngƣời trẻ nhƣ học sinh, sinh viên, thanh niên và
Cà phê Văn đƣợc xem nhƣ là điểm gặp gỡ của những ngƣời trí thức ở nhiều
độ tuổi khác nhau nhƣng phần lớn là tầm trung tuổi. Đó nhìn chung là không
gian của sách vở, báo chí, văn học nghệ thuật, nơi thúc đẩy, bồi đắp đời sống
tinh thần và những suy tƣ về cuộc sống. Đó cũng là nơi trao đổi, truyền bá,
kết nối và lan tỏa tri thức, nơi các ý tƣởng, quan điểm đƣợc va đập, giúp mở
rộng tầm nhìn, trƣờng nghĩ cho mỗi cá nhân. Nó giống nhƣ một thế giới thu
nhỏ nhƣng bao chứa nhiều luồng tƣ tƣởng khác nhau, qua cọ xát mà kích
thích sự tƣởng tƣợng cũng nhƣ sáng tạo.
Nếu KGST là không gian kết nối nhƣ đã phân tích ở trên thì nghệ thuật
có thể đƣợc xem nhƣ một phƣơng tiện để kết nối. Khi nói về KGST, nhiều ý
nghĩ lập tức liên tƣởng đến những nơi chốn cho nghệ sĩ làm công việc sáng
tác nghệ thuật, nơi hữu hình hóa ý tƣởng và cảm hứng thành tác phẩm. Có thể
hiểu về KGST theo nghĩa thực nhƣ vậy khi bản thân các KGST trƣớc hết là
những địa điểm cho các hoạt động sáng tạo, nơi diễn ra các hoạt động sáng
tạo. Nhiều KGST trong thành phố chính là các studio, các xƣởng sáng tác, nơi
lƣu trú và làm việc của nghệ sĩ. Nhƣng hàm nghĩa của KGST rộng hơn so với
ý nghĩ đơn thuần xem đây là một địa điểm. Nó còn là không gian dành cho
sáng tạo, khơi lên tinh thần sáng tạo. Âm nhạc, văn chƣơng, mĩ thuật, phim
ảnh là một phần quan trọng làm nên các KGST, nếu nhƣ không nói rằng đây
chính là một trong những đặc điểm để phân biệt KGST với các loại không
gian khác. Nhiều buổi gặp gỡ hay các sự kiện đƣợc tổ chức xoay quanh các
loại hình nghệ thuật trên.
Nhƣ vậy, có thể thấy, các không gian không có ý nghĩa tự thân, chính
các hoạt động, các thực hành tạo nghĩa cho không gian. Cà phê Văn hay Giấc
mơ nhỏ tự định nghĩa về mình nhƣ là những KGST trƣớc hết là bởi các không
gian tổ chức nhiều hoạt động liên quan đến văn học nghệ thuật - các loại hình
đƣợc xếp vào lĩnh vực sáng tạo. Sau nữa, bởi sự biến hóa linh hoạt, luôn tự
làm mới mình để phù hợp với công chúng và cập nhật với những thay đổi của
118
xã hội. Các KGST tự kiến tạo nên mình bằng nhiều hoạt động khác nhau, góp
phần làm phong phú đời sống tinh thần cho một bộ phận ngƣời dân đô thị.
Nhƣ vậy nó đƣợc hình dung trong thế “động” chứ không tĩnh, thay đổi chứ
không cố định, đƣợc tạo ra chứ không phải ở đó, sẵn có.
119
CHƢƠNG 4
KHÔNG GIAN SÁNG TẠO: TỰ DO BIỂU ĐẠT VÀ KIẾN TẠO BẢN SẮC
Chƣơng viết trên đã mô tả, phân tích thực hành văn hóa đa dạng trong
KGST, xoay quanh thƣởng thức, sáng tạo nghệ thuật, thảo luận, trao đổi về
nhiều vấn đề trong đời sống. Đó là không gian của nhiều loại hình nghệ thuật,
nơi các nhóm chủ thể tạo ra những sinh hoạt văn hóa, mở rộng hiểu biết về
nghệ thuật cũng nhƣ kiến thức văn hóa xã hội. Cùng với đó, KGST cũng đƣợc
xem nhƣ là diễn đàn mở cho thảo luận, phản biện các vấn đề đang diễn ra
trong đời sống. Vậy tại sao giữa bộn bề đời sống với nhiều lo toan cho cá
nhân, họ vẫn tìm đến những không gian này để gặp gỡ, kết nối, kiên nhẫn
trong nhiều giờ thƣởng thức âm nhạc, dõi theo số phận của nhân vật trong
phim hay thảo luận về nhiều vấn đề của xã hội? Liệu đó có phải đơn thuần
xuất phát từ nhu cầu giải trí, thƣ giãn hay còn nguyên do, mong muốn nào
khác? Đằng sau mỗi thực hành văn hóa đó phản ánh mối bận tâm, sự trăn trở
cũng nhƣ quan niệm, suy nghĩ nào của con ngƣời?
Chƣơng viết này hƣớng đến trả lời câu hỏi KGST có ý nghĩa nhƣ thế
nào trong đời sống văn hóa đô thị từ đó đƣa ra bàn luận về sự thay đổi và mở
rộng ý nghĩa của các KGST trong bối cảnh đô thị Việt Nam. KGST dù là một
khái niệm đƣợc Hội đồng Anh tiên phong giới thiệu tại Việt Nam, nhƣng khi
tồn tại ở Việt Nam, nó nhanh chóng bắt nối với kí ức văn hóa cũng nhƣ những
bề bộn của đời sống hiện tại, tạo ra nhiều lớp ý nghĩa mới, phản ánh sự thay
đổi của xã hội đô thị trong bối cảnh đƣơng đại.
4.1. Không gian sáng tạo: không gian nới rộng biên độ tự do
4.1.1. Không gian mở ngỏ và đa dạng
Một đặc điểm của khu vực công mà Habermas [97] đã chỉ ra là tính
mở, không ai bị loại trừ bất luận họ thuộc về giai cấp, giới tính, địa vị nhƣ thế
nào. Đó là nơi cá nhân bình đẳng với nhau, tự nguyện, tập hợp lại với nhau để
120
dấn thân vào những cuộc thảo luận tự do. Ở các KGST, tính mở này cũng
đƣợc thể hiện khá rõ.
Khởi đầu là ý tƣởng để thỏa nguyện mong ƣớc của các cá nhân (khát
vọng không gian đọc cho riêng mình ở Giấc mơ nhỏ, mong muốn đóng góp
cho Hà Nội của ngƣời sáng lập Cà phê Văn bằng việc tạo dựng nên các không
gian dành cho nghệ thuật) nhƣng các KGST không chỉ là không gian riêng mà
đã trở thành không gian chung, nơi nhiều ngƣời có thể tiếp cận. Đƣợc nói đến,
đƣợc biết đến nhƣ là không gian dành cho giới trẻ nhƣng Giấc mơ nhỏ đón
tiếp nhiều ngƣời ở các độ tuổi khác nhau. Cả KGST Cà phê Văn dù đƣợc xem
nhƣ không gian dành cho văn nghệ sĩ, trí thức nhƣng trong nhiều sự kiện, nơi
đây nhƣ một xã hội thu nhỏ với sự tham gia của nhiều thành phần khác nhau.
Các sự kiện đều đƣợc truyền thông rộng rãi trên facebook hoặc gửi thƣ mời
qua email đối với những ngƣời bạn, những khách quen hoặc những ngƣời đã
để lại địa chỉ email mong muốn nhận thông tin. Việc các sự kiện đƣợc tổ chức
đều miễn phí, ngƣời đến tham dự không phải chi trả phí/vé vào cửa mà chỉ trả
tiền đồ uống nhƣ một hình thức đóng góp, hỗ trợ cho không gian duy trì hoạt
động, cũng là để tạo cơ hội cho công chúng dễ dàng tiếp cận với văn hóa nghệ
thuật kể cả những loại hình nghệ thuật mang tính hàn lâm nhƣ các buổi biểu
diễn nhạc cổ điển, chiếu phim, gặp gỡ với những trí thức, nghệ sĩ nổi tiếng,
những chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực… Nội dung sự kiện do ngƣời
điều hành các KGST xây dựng, nhƣng chính ngƣời tham dự cũng góp phần đề
xuất hay khơi mở vấn đề cho thảo luận tiếp theo. Có thể thấy, từ trong ý thức
của những ngƣời sáng lập, KGST là không gian do cá nhân lập nên dành cho
cộng đồng, hƣớng đến cộng đồng. Trong một chừng mực nào đó có thể nói,
chính những ngƣời tham dự là chủ thể đồng sáng tạo, duy trì và nuôi dƣỡng
các KGST.
Một chiều kích khác của “tính mở” trong các KGST nằm ở sự tự do, nó
đồng thời làm nên tính sáng tạo cho không gian, vì suy đến cùng tự do là gốc
của sáng tạo, có tự do mới có thể sáng tạo đƣợc. Dù nhỏ hẹp về diện tích thực
121
nhƣng nơi đây đã tạo nên không gian rộng mở cho suy nghĩ, trải nghiệm cá
nhân, để các cá nhân đƣợc đi đến cùng với những ý tƣởng, quan điểm. Họ
chia sẻ, thảo luận, không ngừng đặt ra câu hỏi để chất vấn mình và nhiều
ngƣời xung quanh, không ngại và cũng không né tránh ngay cả những chủ đề
đƣợc gọi là nhạy cảm ở Việt Nam. Việc đi đến cùng những chất vấn đó cũng
là một biểu hiện của tự do, tự do về ý thức, tự do viết và nói. Hơn nữa, ngƣời
trẻ đến với Giấc mơ nhỏ dƣờng nhƣ luôn muốn thoát ra khỏi sự mặc định hay
khuôn mẫu đƣợc xem nhƣ là hiển nhiên để thách thức tƣ duy của mình cũng
nhƣ mong muốn đƣợc hiểu, đƣợc truy tìm đến ngọn ngành những tƣ tƣởng
nhân sinh, những thắc mắc, những câu hỏi mang tính triết học nhƣ tôi là ai,
thế giới này là gì, con ngƣời ở đâu trong sự vận hành của thế giới… Ở Cà phê
Văn, mọi ngƣời tự do biểu đạt chính kiến của mình, tham gia phản biện xã
hội, cùng lên tiếng về các bất cập trong xã hội, từ chính sách từ trên xuống
của nhà nƣớc, chính quyền đến việc thực thi của ngƣời dân. Sáng tạo còn
mang hàm ý thay đổi. Những thay đổi về sau, trong chính con ngƣời họ, cũng
rất tự nhiên, là kết quả của quá trình nhận thức chứ không phải là kết quả của
sự định hƣớng, áp đặt. Và vì thế, có thể coi chính các KGST, một cách tự
nhiên, là môi trƣờng dung dƣỡng, tạo điều kiện và khơi dậy trong họ ý thức
rằng mình là một cá thể tự do. Hay nói cách khác chính những sự tự do mà
con ngƣời mang đến đây đã làm cho các KGST này trở thành một không gian
của tự do, cởi mở.
KGST là nơi cho tự do biểu đạt bản thân, tự do học thuật, tự do trao
đổi, chia sẻ bàn bạc. Tinh thần các cuộc thảo luận là không phán xét, không
nhất thiết phải phân định rạch ròi ý kiến này là đúng, ý kiến khác là sai, không
có kết luận cuối cùng, chỉ có những câu hỏi và câu trả lời mới đƣợc xem là
quan trọng. Nhiều buổi trao đổi, thảo luận nhƣng không có “kết luận” hay
“quyết nghị” nhƣ hình thức thƣờng thấy của các cuộc họp mà luôn để ngỏ
những khả năng để mọi ngƣời tiếp tục suy nghĩ. Một phần có lẽ bởi chủ đề đặt
ra thƣờng khá rộng nên ý kiến cá nhân nào thì cũng chỉ từ một góc nhìn và
122
thấy đƣợc một phần nhỏ của vấn đề vốn đa diện. Lắng nghe ngƣời khác cũng
có nghĩa là tiếp tục suy nghĩ ở một chiều cạnh khác, khác với góc nhìn của
mình. Và cũng vì thế thật khó để có một câu trả lời cuối cùng, “chốt lại” cho
một câu hỏi lớn. Các buổi thảo luận giống nhƣ cuộc đối thoại không ngừng,
các câu trả lời luôn bị tra vấn bởi những câu hỏi khác. Vì cũng coi trọng sự
tƣơng tác, kết nối nên đây là nơi không phải để “cãi nhau”, phân biệt rành rẽ
đúng sai bởi nhƣ vậy sẽ làm hỏng không khí sinh hoạt văn hóa mà nơi này
muốn tạo dựng. KGST cũng là nơi chốn khơi dậy tinh thần tranh luận, chia sẻ
thẳng thắn, nơi mọi ngƣời thoát ra khỏi những áp đặt, định kiến, phán xét,
đƣợc tự do là mình, tự do để học cách sống và trƣởng thành. Và chính sự va
chạm sau tranh luận lại mở ra những hƣớng suy nghĩ khác nữa.
Không gian sáng tạo cũng là những thực thể đa dạng khi kết nối nhiều
ngƣời ở nhiều độ tuổi, nghề nghiệp, lĩnh vực khác nhau. Ở Giấc mơ nhỏ có
ngƣời trẻ làm kinh doanh, hoạt động xã hội, nghiên cứu triết học, nghiên cứu
môi trƣờng, học sinh, sinh viên... Ở Cà phê Văn, phần lớn ngƣời tham dự là
trí thức trong nƣớc nhƣng cũng là điểm gặp gỡ và trở về của trí thức nƣớc
ngoài, có trí thức đƣợc đào tạo từ phƣơng Tây nhƣng cũng nhiều trí thức đƣợc
đào tạo tại các nƣớc xã hội chủ nghĩa, có nhiều trí thức lớn tuổi, trung tuổi và
cả trẻ tuổi.
Các KGST cũng là không gian đa dạng khi là nơi thu nhận và tạo cơ
hội cho tất cả mọi ngƣời, kể cả những thành phần đƣợc xem là “bên lề”.
Thành phần bên lề là từ để chỉ những ngƣời bị xem là bất đồng chính kiến với
chính quyền, bị coi là nằm trong dòng chảy ngầm (underground). Có ngƣời
luôn bị các cơ quan an ninh để mắt, bị xếp vào “hiện tƣợng nhạy cảm về
chính trị”. Nhiều ngƣời trong số đó có nhiều đóng góp trong công việc, từng
giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy chính quyền nhà nƣớc, có tên tuổi
nhƣng vì quan điểm khác biệt hay những phản biện thẳng thắn, trực diện mà
bị ngoại biên hóa tại các diễn đàn chính thống do cơ quan nhà nƣớc tổ chức.
Trong khi lĩnh vực công, theo Habermas là nơi mà mọi ngƣời đều có quyền
123
tiếp cận, quyền đƣợc tham gia mà không bị loại trừ thì chính cách gọi “bên
lề” cho thấy phần nào có sự hạn chế trong việc tiếp nhận những luồng ý kiến
khác mang tính phản biện, đối chất hay những quan điểm trái chiều, đi ngƣợc
lại so với các quan điểm chính thống của nhà nƣớc tại các không gian khác.
Một mặt khác sự xuất hiện của thành phần “bên lề” cho thấy sự cởi mở của
các KGST, nơi thâu nhận, tôn trọng những tiếng nói đa dạng, khác biệt.
KGST là những không gian đa dạng không chỉ bởi nhiều thành phần
tham dự mà quan trọng hơn, nơi đây chấp nhận những khác biệt về tƣ tƣởng.
Mọi ý kiến, quan điểm, góc nhìn đều đƣợc khuyến khích, tôn trọng. Trong
những buổi thảo luận về các vấn đề của xã hội nhƣ về giáo dục, các chính
sách phát triển kinh tế, thực tiễn quản lý các lĩnh vực của đời sống… họ đƣợc
tự do trình bày quan điểm cá nhân, thẳng thắn nói cái mình nghĩ, dù có thể nó
khác biệt với cách nghĩ của đại đa số. Nếu ở trong các không gian khác, rất có
thể những tiếng nói này sẽ không đƣợc cất lên do cấm kị hoặc sẽ mang đến
những rắc rối, phiền hà cho chính ngƣời nói. Với nhiều ngƣời, mối bận tâm
lớn của họ là đƣợc tự do bày tỏ, tự do biểu đạt. Có lần khi tôi hỏi một bạn trẻ
đến tham dự sự kiện tại Giấc mơ nhỏ về việc có đi du học nhƣ nhiều ngƣời trẻ
vẫn thƣờng lựa chọn và xem đó nhƣ là một cơ hội để rộng cửa cho tƣơng lai –
thì câu trả lời của em là không nhƣng trừ khi “là ở Việt Nam sự tự do bị ảnh
hưởng, không còn sự tự do cho cá nhân, cho việc viết và nói nữa”.
KGST chính là nơi những ngƣời trí thức cùng nhau nghĩ và hiểu thêm
về nhiều vấn đề đang diễn ra trong đời sống: tình trạng tham nhũng, yếu kém
trong quản lý ở các lĩnh vực, đời sống đề cao vật chất, sự suy giảm của các
giá trị văn hóa… từ đó ý thức về bổn phận của mình trong việc tìm kiếm các
giải pháp cho các vấn đề xã hội. Đó là không gian mà những tiếng nói đa
dạng đƣợc cất giọng, những cá tính khác biệt đƣợc bộc lộ, những bản sắc cá
nhân đƣợc kiến tạo và tái kiến tạo, những vị thế mới đƣợc xác lập, đƣợc thay
đổi và tái xác lập.
124
Habermas (1989) [97] đã coi KGCC nhƣ nhƣ một nền tảng cho một chế
độ dân chủ tiêu biểu và một chính phủ tin cậy và có trách nhiệm. KGST ngày
càng đƣợc mở rộng trong thành phố cũng cho thấy sự cần thiết của các không
gian công cộng trong một xã hội dân chủ ngày càng phát triển. KGST có thể
đƣợc xem nhƣ là những không gian thúc đẩy tự do hóa và dân chủ hóa khi
những ngƣời tham gia tự ý thức có trách nhiệm với những công việc của đất
nƣớc, dần bắt đầu “lo”, “nghĩ” đến vận mệnh đất nƣớc và thấy mình có
quyền, có trách nhiệm đóng góp với nhà nƣớc.
4.1.2. Không gian sáng tạo: những không gian độc lập
Nghiên cứu của Hội đồng Anh [21] chỉ ra rằng hiện nay, phần lớn các
KGST do cá nhân hoặc nhóm cá nhân tự sáng lập, hoạt động độc lập, tự chủ,
không do nhà nƣớc bảo trợ, không nhận kinh phí của nhà nƣớc, không phụ
thuộc vào tổ chức nào. Bản thân các KGST cũng tự giới thiệu về mình là các
KGST độc lập. Sự độc lập này có thể đƣợc cắt nghĩa trên hai phƣơng diện: tự
duy trì về kinh phí để hoạt động và độc lập trong quan điểm để duy trì các
thực hành văn hóa, để không bị hay không chịu sự chi phối tác động từ yếu tố
bên ngoài (trƣờng hợp này là sự chi phối của nhà nƣớc).
Sự độc lập về kinh phí khiến các KGST dù đã linh hoạt, năng động và
đa dạng cách làm nhƣng vẫn khá khó khăn, chật vật xoay xở giữa nguồn thu
và chi phí duy trì không gian. Ở Giấc mơ nhỏ, lúc đầu có sự hỗ trợ phần nào
về tài chính từ bạn bè nhƣng về sau, vì nhiều lý do khác nhau, chỉ còn lại
Minh tự điều hành mọi hoạt động, cả về tài chính. Nhiều mối lo cùng lúc phải
tính toán, nhiều khoản chi phí cùng lúc cần đƣợc thanh toán nhƣ phí thuê mặt
bằng vốn vô cùng đắt đỏ lại không ổn định, trả lƣơng cho nhân viên phục vụ,
chi phí điện nƣớc hàng tháng, chi phí sửa chữa, cải tạo không gian, chi phí
mua dụng cụ pha chế, đồ nội thất... Nhiều tháng quán luôn trong tình trạng lỗ
và phải bù lỗ. Bản thân Minh cũng thƣờng làm thêm những công việc khác
bên ngoài nhƣ dịch thuật, biên tập cho các liên hoan phim nƣớc ngoài tại Việt
Nam…, vừa là để thỏa mãn nhu cầu đọc - xem - viết của cá nhân nhƣng nhiều
125
khi là để có thêm kinh phí trang trải cho các hoạt động của quán. Dù chật vật
để duy trì nhƣng Minh luôn hỗ trợ cho các sự kiện văn hóa vì cộng đồng bằng
việc không thu phí địa điểm. Bán đồ uống và các món ăn nhẹ là nguồn thu
duy nhất từ quán nhƣng ngay cả việc tăng giá đồ uống Minh cũng phải cân
nhắc rất kĩ. Thƣờng thì quán có lƣợng khách đều đều, ổn định nhƣng nhiều
tháng, có những lý do khách quan khiến nguồn thu của quán bị giảm hẳn.
Ngoài chi phí, còn vô vàn những khó khăn mà Minh gặp phải khi điều
hành Giấc mơ nhỏ. Lo lắng lớn nhất là chủ nhà đột ngột cắt hợp đồng thuê,
yêu cầu trả lại mặt bằng. Tình trạng bấp bênh này cũng khiến đối khi việc duy
trì quán trong trạng thái cầm chừng, đến đâu hay đó, khó có những tính toán
dài rộng cho tƣơng lai: “Định hướng của Giấc mơ nhỏ những năm tới, em
chưa biết sẽ thế nào. Giờ vẫn đang bám trụ vì trách nhiệm, vì lí trí, vì không
thể dừng. Một trong những lí do các không gian khác được một số quỹ nước
ngoài tài trợ là do họ có định hướng hoạt động lâu dài. Còn em chưa biết thế
nào. Giờ theo kiểu đến đâu hay đó”. Ngay cả với Cà phê Văn, ban đầu cũng
đƣợc hỗ trợ bởi doanh nghiệp với mong muốn là làm văn hóa nhƣng sau đó
cũng gặp không ít những khó khăn. Cuối năm 2019, KGST này cũng buộc
phải di dời địa điểm từ một chỗ quen thuộc, gắn bó, đi tìm địa điểm mới để
hoạt động nhƣ chia sẻ của một trong những ngƣời sáng lập nên không gian:
“Tháng 10/2019 là hết hợp đồng với chủ nhà, không thể kí tiếp hợp đồng
được vì giá ở đây quá cao. Tôi không kinh doanh để lấy lãi mà chỉ là làm thế
nào để không lỗ” (Ông Phƣơng – thành viên sáng lập Cà phê Văn). Đây
không phải chỉ là vấn đề của 2 KGST này mà còn là tình trạng chung của
nhiều KGST khác trong thành phố nhƣ nghiên cứu của Hội đồng Anh từng
chỉ ra là tính “không bền vững”. Nhiều KGST liên tục xuất hiện nhƣng cùng
lúc đó, nhiều không gian khác buộc phải đóng cửa vì không thể duy trì sự tồn
tại trƣớc rất nhiều thách thức về tài chính.
Tuy nhiên, các KGST thu hút đƣợc nhiều ngƣời đến tham dự một phần
bởi họ duy trì đƣợc tính đa dạng và những nỗ lực trong việc duy trì quan điểm
126
và thế đứng độc lập để duy trì tính tự do, cởi mở và tôn trọng sự khác biệt.
Trong một số sự kiện, việc tham dự của những thành phần “bên lề” luôn bị
theo dõi của cơ quan an ninh. Bản thân tôi trong những ngày đầu đến tham dự
tại Cà phê Văn hay cả ở Giấc mơ nhỏ cũng bắt gặp ánh mắt dè chừng, thái độ
ngờ vực liệu tôi có phải là “ngƣời của bên an ninh”. Ở Giấc mơ nhỏ các hoạt
động có phần “tự do” hơn vì không nhiều sự kiện có sự tham dự của thành
phần “bên lề” nhƣng vẫn bị để ý bởi có liên quan đến ngƣời nƣớc ngoài (một
phần vì Minh thƣờng xuyên tham gia nhiều sự kiện văn hóa của các tổ chức
nƣớc ngoài nên có nhiều bạn đến từ các quốc gia khác nhau). Trong một số sự
kiện tại Giấc mơ nhỏ, khi có sự tham dự của một thành viên “đáng ngờ” nào
đó hoặc sự xuất hiện của những ngƣời đƣợc họ gọi là “an ninh văn hóa” hay
“an ninh ngầm”, thông tin về sự xuất hiện đó thƣờng đƣợc cập nhật khá nhanh
trong các nhóm kín để mọi ngƣời chú ý, phần để dè chừng, phần để cẩn trọng
hơn với những phát ngôn trong sự kiện. Minh nói với tôi là mình có thể biết ai
trong số những ngƣời tham dự là ngƣời của bên an ninh. Họ thƣờng trong vai
ngƣời tham dự, ngồi dƣới quan sát tất cả các hoạt động diễn ra, ghi nhớ, nhận
diện những gƣơng mặt trong tầm theo dõi. Tuy nhiên không phải sự kiện nào
cũng bị giám sát, thƣờng thì chỉ những chủ đề có tính nhạy cảm hay khách
mời là thành phần “bên lề” thì mới bị chú ý.
Ngoài việc có sự tham gia của những thành phần “bên lề”, một số sự
kiện sẽ bị chính quyền “để mắt” đến khi có những yếu tố đƣợc xem là “nhạy
cảm” nhƣ chủ đề chạm đến những vấn đề “nóng” nhƣ tham nhũng, chủ quyền
đất nƣớc, phản biện chính sách… mà ở đó thƣờng xuất hiện những quan điểm
trái chiều, ý kiến phê phán, đôi khi là chỉ trích cách làm, cách quản trị của nhà
nƣớc… Khi thấy ở đó những nguy cơ tổn hại, ảnh hƣởng đến uy tín của chính
quyền, cho thể chế, an ninh quốc gia, từ phía chính quyền, nhà nƣớc cũng có
những động thái để áp chế, trong một số tình huống cụ thể, bằng những chiến
lƣợc cụ thể để ngăn cản. Sự can thiệp có thể dƣới nhiều hình thức, tác động
trực tiếp tới việc các thực hành của các KGST có đƣợc phép diễn ra hay
127
không hay thậm chí KGST đó có đƣợc phép tồn tại hay không. Việc theo dõi,
can thiệp, hạn chế hay cấm các sự kiện mà họ đánh giá là “nhạy cảm” dƣờng
nhƣ là thể hiện thái độ của chính quyền đối với cách nhìn nhận xã hội trực
diện, đa chiều của các nhóm chủ thể tại KGST này.
Vì thế, cũng để đối thoại và thuyết phục đƣợc chính quyền, các KGST
cũng có những “chiến lƣợc” khá cụ thể nhƣ: truyền thông và thuyết phục cho
chính quyền hiểu tất cả những sự kiện đƣợc tổ chức trong không gian của
mình là mở rộng tri thức, tầm hiểu biết, hƣớng tới phát triển cộng đồng, thúc
đẩy sinh hoạt văn hóa trong đô thị, những phản biện đều mang tính xây dựng;
tích cực hiện diện và tham dự trong những chƣơng trình do nhà nƣớc hay Hội
đồng Anh tổ chức về các KGST. Và cũng có khi, kể cả việc luôn bị để mắt
hay kiểm duyệt thì các KGST vẫn xác định là cùng chung sống trên cơ sở tôn
trọng “tôi có việc của tôi, anh có việc của anh (ông Phƣơng), nghĩa là vẫn nỗ
lực duy trì quan điểm và đƣờng hƣớng đã lựa chọn, chấp nhận việc bị theo dõi
nhƣ là một việc bình thƣờng mà các cơ quan công quyền phải làm.
Những phân tích ở trên, dƣới sự dẫn dắt của khái niệm “khu vực công”
đã cho thấy KGST nhƣ là một hình thức của không gian công mà giới trí thức
ở đô thị đã tạo ra, xác lập nên. KGST nhƣ những diễn đàn mở và tự do cho
những quan điểm đa dạng, tôn trọng sự khác biệt. Những câu chuyện, của
khách mời, của ngƣời tham dự lẫn câu chuyện của nhân vật đƣợc nói đến, đều
đƣợc kể bằng trải nghiệm do vậy mang lại nhiều ý nghĩa. Đó là không gian
mà ở đó trí thức đƣợc thể hiện vai trò của mình với xã hội thông qua những
phản biện mạnh mẽ và xác đáng, nơi họ dám nói những điều mình nghĩ và
theo đuổi đến cùng những suy nghĩ đó. Đó cũng là không gian của những
tiếng nói bị ngoại biên hóa, những “hiện diện vắng mặt”, nơi mà từ đó ngƣời
ta có thể nhìn thấy những bề bộn của đô thị, sự đa dạng, phức tạp và sinh
động của xã hội. Và nhƣ vậy, KGST là những không gian tự do, dân chủ,
những không gian nhân văn, cho con ngƣời và vì con ngƣời. Nó khơi dậy tinh
thần tự do khi nhìn nhận vấn đề, nó mở rộng tầm nhìn, sự nhận thức của con
128
ngƣời, giúp con ngƣời cởi mở hơn trong tƣ duy để tiếp nhận sự đa dạng.
KGST dù nhỏ hẹp trên thực tế nhƣng lại bao chứa nhiều khát vọng, nhiều tƣ
tƣởng mới mẻ, lớn lao.
4.1.3. Không gian sáng tạo: những không gian công đặc thù
Khái niệm khu vực công (hay lĩnh vực công) (public sphere) của
Habermas mô tả một không gian ở giữa một bên là các thực hành gắn với lợi
ích cá nhân của cuộc sống hàng ngày và một bên là lĩnh vực của quyền lực
nhà nƣớc. Khu vực công là trung gian giữa gia đình (nơi lợi ích tƣ nhân chiếm
ƣu thế) và nhà nƣớc (nơi thƣờng áp dụng các hình thức quyền lực và sự thống
trị). Khái niệm “khu vực công tƣ sản” (bourgeois public sphere) của
Habermas theo đó bao gồm các không gian xã hội nơi các cá nhân tụ họp để
thảo luận, đối thoại về các công việc chung, nơi phản biện và phản kháng lại
các hình thức quyền lực độc đoán và áp bức. Theo Habermas, lĩnh vực công
“là một địa hạt và là nơi chốn thoải mái để các công dân tranh luận, cân
nhắc thiệt hơn, thống nhất và hành động” [96]. Cũng theo quan niệm của
Habermas, các phƣơng tiện truyền thông đƣợc xem là những diễn đàn, những
địa điểm cho thảo luận.
Khái niệm “khu vực công tƣ sản” đƣợc ra đời trong bối cảnh lịch sử cụ
thể ở châu Âu, nơi có nhiều quốc gia đƣợc coi là có truyền thống và tinh thần
tự do, nơi công dân đƣợc quyền nói về những vấn đề trong xã hội. Trong tác
phẩm này, ông đã theo dõi lịch sử phát triển của lĩnh vực công từ thời Hy Lạp
cổ đại và lập luận rằng chính bối cảnh châu Âu thế kỉ 17 và 18, nhất là sự mở
rộng mô hình chính trị từ Anh (nơi đƣợc xem là có tinh thần tự do nhất) sang
các nƣớc khác, cùng với sự lan rộng của chủ nghĩa tƣ bản đã cho phép sự xuất
hiện của một loại hình khu vực công đặc biệt: khu vực công tƣ sản (bourgeois
public sphere). Sự lớn mạnh của giai cấp tƣ sản lúc bấy giờ làm nảy sinh nhu
cầu cần có đại diện chính trị, tạo sự độc lập với quyền lực của nhà nƣớc và
giáo hội lúc bấy giờ. Ngoài ra một số điều kiện khác cũng tạo điều kiện thuận
lợi cho sự ra đời của “khu vực công tƣ sản” nhƣ sự ra đời của nhiều không
129
gian dành cho thảo luận nhƣ các câu lạc bộ, các quán cà phê… và đặc biệt là
sự lớn mạnh của báo chí. Đặc trƣng nổi trội của khu vực công tƣ sản là tính
chất phê phán, phản biện, đối thoại. Về sau, khu vực công tƣ sản ngày càng
trở thành một bộ phận quan trọng trong đời sống xã hội, nơi của những cá
nhân tụ tập lại ở những nơi công cộng để thảo luận các vấn đề chính yếu, đƣa
ra quan điểm ý kiến về các vấn đề quan trọng đối với lợi ích chung.
Những khái niệm nhƣ “khu vực công”, “không gian công” đều là những
khái niệm khá cơ bản trong xã hội phƣơng Tây, đƣợc sử dụng phổ biến trong
kinh nghiệm và truyền thống của phƣơng Tây [87]. Tuy nhiên khi áp dụng
khái niệm “khu vực công” (public sphere) của Habermas vào bối cảnh Việt
Nam lại có những khác biệt đáng kể. Ở Việt Nam, theo Lisa Drummond [87]
có rất ít bằng chứng về truyền thống của một khu vực công (public sphere)
cũng nhƣ là không gian công cộng (public space) cho dù là ở thời tiền thuộc
địa, thời thuộc địa hay hậu thuộc địa, ít có chỗ cho các cuộc thảo luận hoặc
biểu đạt công khai nhƣ kiểu của phƣơng tây, nơi những không gian chính trị
(potentially politicised spaces) hầu nhƣ không tồn tại. Sandra Kurfürst (2011)
[106] thì cho rằng khái niệm của Habermas về khu vực công rất khó có thể áp
dụng cho bối cảnh Việt Nam nơi mà ba lĩnh vực nhà nƣớc, kinh tế và xã hội
dân sự thƣờng xuyên có sự trùng lặp. Tuy nhiên, đây đó trong một số nghiên
cứu đã bắt đầu chỉ ra rằng có những biểu hiện của sự tồn tại một “lĩnh vực
công” tại Việt Nam. Từ góc nhìn báo chí học, chính trị học và lịch sử, nghiên
cứu của Nguyễn Thị Thúy Hằng – Vũ Thị Minh Thắng đã khẳng định rằng “ở
Việt Nam giai đoạn 1925-1945 đã thực sự có một “không gian công” theo lý
thuyết của Habermas”, đƣợc hình thành ở các đô thị lớn nhƣ Sài Gòn và Hà
Nội nơi có nhiều tiền đề cho sự hình thành, nhất là tập trung các hoạt đông in
ấn. Không gian công theo đó đƣợc hiểu là “khoảng trống ở dưới chính quyền
và ở trên làng xã, trong đó các cá nhân và tập thể cùng tham gia vào các hoạt
động trao đổi và những cuộc đấu tranh mang tính biểu tượng” [18].
130
Tác giả Phan Văn Kiền (2015) [34] trong bài viết Tính đặc thù của
không gian công trên báo điện tử qua một nghiên cứu trƣờng hợp trên báo
điện tử đã nhìn ra một dạng đặc thù khác của không gian công ở báo điện tử,
với rất nhiều nét đặc trƣng phản ánh những đặc trƣng của báo chí. Đây là sự
tiếp nối nghiên cứu The virtual sphere: The internet as a public sphere (Lĩnh
vực ảo: internet nhƣ một không gian công cộng) của Zizi Papacharissi (2002)
[122] coi internet trở thành một lĩnh vực công đặc thù: lĩnh vực ảo (virtual
sphere), ở đó mọi ngƣời tham gia vào thảo luận những vấn đề của xã hội dƣới
sự dẫn dắt của một “thủ lĩnh ý kiến” (leader opinion) từ đó hình thành nên dƣ
luận xã hội. Đối chiếu với các dấu hiệu nhận biết của một không gian công
trong lý thuyết của Habermas (mang tính công cộng, tập trung đông ngƣời với
mối quan hệ đa dạng, chủ đề thảo luận là lĩnh vực công với phạm vi không
giới hạn, mang tính duy lý và phê phán, việc tìm đến không gian công là để
thỏa mãn nhu cầu của mình), Phan Văn Kiền cho rằng báo điện tử chính là
một dạng không gian công. Nét đặc thù mà tác giả chỉ ra bao gồm: không gian
ảo, mỗi ngƣời tham dự ẩn mình trong một nickname, khiến cho việc xác thực
cũng nhƣ tính chịu trách nhiệm cho ý kiến cá nhân là khó đảm bảo; dù thảo
luận về các vấn đề chung nhƣng không gian thảo luận là không gian cá nhân
nên tính xã hội của các cuộc thảo luận giảm xuống so với thảo luận tại các
không gian thực; tính tập trung ý kiến cao hơn các không gian khác do bị giới
hạn bởi chủ đề đề xuất từ ban đầu; và do vậy dẫn tới đặc trƣng thứ 4 đó là
không gian công trên báo điện tử là không gian mở trong định hƣớng bởi luôn
có sự dẫn dắt của “thủ lĩnh ý kiến” (leader opinion).
Nhƣ vậy, một số nghiên cứu trên đây đã lập luận và đƣa ra nhận định
rằng đã có sự tồn tại của “không gian công” trong bối cảnh Việt Nam theo
nhƣ lý thuyết của Habermas. Còn với những thực hành trong các KGST nhƣ
đã phân tích và đề cập đến, có thể chƣa hẳn là đã tồn tại một “khu vực công”
đúng nghĩa nhƣ khái niệm của Habermas nhƣng cũng có thể coi các thực hành
đó nhƣ là nỗ lực nới rộng biên độ của tự do, tạo ra những không gian cho thảo
131
luận, trao đổi, chia sẻ về nhiều vấn đề trong xã hội, cho tự do biểu đạt. Và
trong chừng mực nhất định có thể hiểu đó là một biểu hiện của khu vực công
trong bối cảnh Việt Nam.
Sự áp dụng khái niệm “khu vực công” - một khái niệm đƣợc ra đời
trong bối cảnh các nƣớc phƣơng Tây - trong bối cảnh Việt Nam vì vậy cần
tính đến những điều kiện về văn hóa, kinh tế, chính trị riêng biệt. Khái niệm
“khu vực công” trong xã hội phƣơng Tây nơi mà tất cả mọi ngƣời đƣợc quyền
thảo luận, trao đổi, nói về các chủ đề đa dạng trong đời sống thì ở Việt Nam,
có những chủ đề là “nhạy cảm”, ít đƣợc phổ biến rộng rãi hay đƣợc xếp vào
diện “cấm kị”. Bản thân khái niệm “bên lề” để chỉ những ngƣời có quan điểm
khác, hoặc bất đồng ý kiến với chính quyền cũng đã cho thấy có sự loại trừ, lề
hóa đối với ai đó, với cá nhân nào đó chứ ko phải là không gian “đƣợc thiết
kế, tạo ra, dành cho tất cả mọi ngƣời (điều này khác với quan niệm về khu
vực công của Habermas). Khái niệm “xã hội dân sự” tại Việt Nam vẫn bị coi
là nguy hiểm, ít đƣợc đề cập đến, hay xem là “vùng cấm”, “cấm kị”. Khác với
truyền thống phƣơng Tây, nơi ngƣời dân đƣợc tự tiến hành các hoạt động ở
nơi công cộng để thảo luận bất cứ vấn đề nào, đối thoại với chính quyền về
bất cứ chủ đề nào họ quan tâm thì trong bối cảnh Việt Nam ít có chỗ cho các
cuộc thảo luận hoặc biểu đạt công khai nhƣ ở phƣơng Tây, thêm nữa lại tồn
tại quy định về việc hạn chế tụ tập đông ngƣời nơi công cộng (theo Nghị định
số 38/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 quy định một số biện pháp bảo đảm trật
tự công cộng). Khái niệm “khu vực công” của xã hội phƣơng tây đã ngầm
hiểu có sự tách bạch rạch ròi giữa “công” và “tƣ”, trong khi hai khái niệm này
ở Việt Nam, nhƣ Lisa Drummond đã chỉ ra là không có sự phân biệt một cách
rõ ràng bởi luôn có sự can thiệp của nhà nƣớc. Các thực hành văn hóa trong
các KGST, ngoài mối quan tâm về nghệ thuật thì rõ ràng còn là nơi thể hiện
mong muốn nới rộng những biên độ của tự do, tạo ra những không gian rộng
rãi cho thảo luận, trao đổi, nơi thể hiện quyền tham gia của trí thức đối với
các vấn đề của xã hội, nơi thể hiện những thực hành dân chủ. Và do vậy, có
132
thể coi KGST trong trƣờng hợp này chính là những địa điểm của “khu vực
công”, là những không gian công đặc thù.
4.2. Không gian kiến tạo bản sắc nhóm, bản sắc cá nhân
4.2.1. Không gian sáng tạo kết nối cảm xúc
Không chỉ đơn thuần là đánh dấu sự tồn tại về mặt địa lí, không gian
còn đƣợc tạo dựng nên bởi những thực hành, cảm xúc của chính con ngƣời, là
sự tạo dựng và gán nghĩa của con ngƣời. Đô thị với nhiều không gian rộng rãi
cho các nhóm chủ thể, vậy tại sao họ lại chọn để có mặt một cách thƣờng
xuyên trong các KGST này? Những nỗ lực để tạo dựng nên các KGST cũng
nhƣ sự hiện diện, trải nghiệm trong các KGST này liệu có phải là quá trình
lựa chọn để trở thành, để tạo dựng nét khác biệt và là để kiến tạo bản sắc
nhóm, bản sắc cá nhân?
Ở đây, từ góc nhìn về Giấc mơ nhỏ, KGST nhƣ vẽ nên chân dung cũng
nhƣ thế giới tinh thần của một bộ phận giới trẻ ở Hà Nội với những chuyển
dịch về suy nghĩ, cảm thức, lối sống. Đó là nhóm bạn trẻ đến từ nhiều lĩnh
vực khác nhau nhƣng giống nhau ở điểm đều coi trọng và hƣớng tới những
giá trị tinh thần, luôn chất vấn mình và những ngƣời khác về thế giới và con
ngƣời. Họ quan sát thế giới qua phim ảnh, văn chƣơng, liên tƣởng đến thực
tại, nghiền ngẫm, tự vấn, để nhìn nhận về bản thân mình và tự do cất tiếng nói
thể hiện suy nghĩ, quan điểm. Thế giới mà họ đang hƣớng tới, dự cảm thấy
dẫu còn nhiều hoang mang nhƣng họ vẫn cùng nhau trên hành trình tìm kiếm.
Trong hành trình tìm kiếm đó, họ đã tạo dựng nên những không gian để
kết nối nhau, hình thành nên những nhóm nhỏ, chia sẻ quan điểm, cách nghĩ,
cách cảm của mình về cuộc sống. Họ định danh và gọi là những KGST dành
cho mình. Đó là những nơi chốn mộng mơ, nơi dung dƣỡng những giá trị tinh
thần, nơi định hình cho những giá trị sống mới, nơi trú ẩn, nƣơng náu, bao
dung cho những loay hoay để trƣởng thành. Giấc mơ nhỏ nhƣ một bảo tàng
dành riêng cho sự tồn tại của ngƣời trẻ, những ngƣời thực sự mong cầu tri
thức, mơ mộng và tìm kiếm viễn cảnh đáng có mà có thể nó chƣa nhƣ hay
133
không nhƣ cái thực tại đang diễn ra. Không gian của Giấc mơ nhỏ nhƣ là nơi
cho những tâm hồn đang tìm cách trƣởng thành, nơi cuộc sống chậm lại, nơi
nghệ thuật, văn học, âm nhạc, phim ảnh là thứ kết nối những gì đang hiện
hữu. Tạo dựng không gian, sử dụng không gian để nuôi dƣỡng những giá trị
tinh thần, hƣớng tới những giá trị mới, đây chính là cách mà những ngƣời trẻ
trong Giấc mơ nhỏ tạo ra những không gian cho chính họ trong bối cảnh
chuyển đổi, khi họ đứng giữa những lý tƣởng xã hội cũ và khát vọng mới.
Sự kết nối về cảm xúc giữ vai trò quan trọng trong việc kiến tạo bản sắc
nhóm và nhƣ một phƣơng tiện để kiến tạo bản sắc nhóm (Phạm Quỳnh
Phƣơng, 2017) [52]. Thông qua kiến tạo và trải nghiệm không gian của từng
nhóm chủ thể, KGST trở thành những nơi chốn cụ thể, ghi dấu tình cảm, nơi
con ngƣời có cảm giác mình thuộc về (belong to). Cảm giác thuộc về nhấn
mạnh khía cạnh tình cảm, nó không chỉ là trạng thái “ở đó” mà còn thể hiện
sự mong muốn, khao khát gắn bó. Từ một câu chuyện hay một vấn đề chung,
các cá nhân tham gia trò chuyện, trình bày ý kiến của mình, thảo luận, bàn
bạc với ngƣời khác nhƣ một cách định vị sự tồn tại xã hội của mình và cũng
bằng cách đó, bằng những mối quan hệ trực tiếp tƣơng giao, con ngƣời biết
mình thuộc về một cộng đồng.
KGST Giấc mơ nhỏ trở thành “nhà” của Minh và những bạn trẻ khác,
thành nơi chốn dung dƣỡng và hiện thực hóa những ƣớc mơ, là nơi họ gắn bó
và có cảm giác mình thuộc về. Giấc mơ nhỏ đã là một phần cuộc sống của
Minh, đƣợc làm nên từ những năm tháng tuổi trẻ, cũng là nơi tuổi trẻ của
nhiều cá nhân khác đã trải qua. Đây là nơi Minh đƣợc làm mọi thứ mình
thích: đƣợc tổ chức không gian để trở thành một không gian đọc, đƣợc kết nối
và tạo cơ hội kết nối cho những ngƣời đọc khác, đƣợc thiết kế các sinh hoạt
văn hóa đa dạng khác cho những ngƣời trẻ nhƣ mình, đƣợc tự do theo đuổi
những ý nghĩ mơ mộng… Khi nói về việc lập ra Giấc mơ nhỏ, có lúc Minh đã
nói “đó là sự điên rồ”, “một cuộc rơi”, là kết quả của sự “lãng mạn”, “ngông
cuồng tự do”, hay “vào sinh ra tử” cho một lí tƣởng của thời trẻ mà qua đi
134
ngƣỡng đó, khi đã bắt đầu với những toan tính hàng ngày, sẽ không bao giờ
có đƣợc. Đó là thời thanh xuân đƣợc tự do theo đuổi đam mê. Nhiều ngƣời trẻ
đến đây cũng để lại những cảm nhận của mình về nơi đã chứng kiến tháng
ngày tuổi trẻ của họ, nhƣ: “Đến đây dù mới chỉ một lần hay đã lê la qua ngày
tháng rộng dài, nơi này đã là một phần tuổi trẻ của mình” hay “dù buồn hay
vui, mình luôn tìm tới Giấc mơ nhỏ vì nó cho mình một sự tĩnh lặng và cảm
giác bình yên” hay “Nó gần giống nhƣ là một thành phố thu nhỏ, một xã hội
thu nhỏ, là những niềm vui và kỉ niệm ở đấy”. Ở đây, những cảm xúc, những
bí mật, khao khát, ƣớc mơ… của từng cá nhân đƣợc gắn trong một không
gian cụ thể. KGST Giấc mơ nhỏ chứng kiến những băn khoăn về đời sống, về
con ngƣời, nơi của mộng mơ, hy vọng, nơi xây nên những viễn tƣởng về đời
sống và cũng là nơi chứng kiến những hoang mang, đổ vỡ, tuyệt vọng của
ngƣời trẻ đang tìm cách trƣởng thành và định vị mình trong xã hội. Trong
trƣờng hợp này, tại KGST Giấc mơ nhỏ, nghệ thuật (cụ thể ở đây là văn
chƣơng, phim ảnh), các hoạt động phát triển cộng đồng, nâng cao tri thức cho
cộng đồng chính là thứ đƣợc chia sẻ và lƣu hành nhƣ một ngôn ngữ chung, là
phƣơng tiện để kết nối, hình thành nên các nhóm. Nhƣ vậy quá trình kiến tạo
bản sắc gắn liền với một địa điểm mà con ngƣời cảm thấy mình đƣợc thuộc về
nơi đó (belonging).
4.2.2. Không gian sáng tạo và nhu cầu định vị cá nhân
Cũng nhƣ Minh, nhiều ngƣời trẻ khi đến Giấc mơ nhỏ đã cùng nhau
chia sẻ về những loay hoay xác định hƣớng đi cho bản thân, trả lời câu hỏi
mình là ai, mình muốn gì, giá trị mình muốn theo đuổi là gì. Quan niệm về
nghề nghiệp hay lí tƣởng công việc của họ có phần khác biệt với đại đa số
những lựa chọn của ngƣời trẻ khác sau khi tốt nghiệp: tìm công việc ổn định,
lƣơng cao, quan tâm đến cơ hội thăng tiến và sau đó là lập gia đình. Câu hỏi
từ bên trong, tự mình đặt ra để căn vặn và thôi thúc khiến lời hứa hẹn cho một
tƣơng lai ổn định hay kế hoạch cuộc đời đƣợc lập trình sẵn với sự đảm bảo
chắc chắn của cha mẹ dƣờng nhƣ không thuyết phục đƣợc họ.
135
Từ những câu hỏi cá nhân trong hành trình trở thành ai, nhƣ thế nào đã
gắn kết những cá nhân vốn xa lạ trong một không gian chung, nơi họ chia sẻ
đƣợc với nhau những câu chuyện của riêng mình, hình dung về cách tổ chức
đời sống hay những viễn kiến về tƣơng lai. Trong những xoay xở để định vị
lại mong muốn cũng nhƣ giá trị mình theo đuổi, Minh đã thử và tìm ra câu trả
lời cho riêng mình, đó là tạo ra những không gian đọc cho mình và cho cộng
đồng, thúc đẩy văn hóa đọc, hỗ trợ những ngƣời trẻ nhƣ mình, đề cao những
giá trị tinh thần và đƣa nó về đúng với vị trí cần có trong cuộc sống. Công
việc của Minh sau đó đƣợc chia sẻ và biết đến, nhiều ngƣời trẻ khác cũng đã
tìm đến khi họ cũng trong hành trình tìm những lối đi cho riêng mình.
Với những ngƣời trẻ đến đây, có nhiều lý do khiến họ đến với việc đọc,
coi đọc là một công việc nghiêm cẩn và nhiều ý nghĩa. Việc đọc không phải
do bị câu thúc bởi yêu cầu đọc để viết trả bài, không vì “chạy deadline”, áp
lực hoàn thành dự án này, công việc kia. Minh xem việc đọc giống nhƣ một
phƣơng thức tu tập, tự rèn giũa mình mà thông qua đó để mở rộng tầm nhìn ra
thế giới, để hiểu về ngƣời khác và hiểu chính bản thân mình. Minh và nhiều
bạn trẻ khác đến đây đều tự nhận mình là ngƣời đọc độc lập. Chữ “độc lập”
hàm chứa ý nghĩa đọc nhƣ một hành trình mà chính bản thân cá nhân phải trải
qua, kiểm nghiệm, để tự mình hiểu và trƣởng thành. Phạm vi đọc, vì vậy,
ngoài mạch quan tâm theo chiều sâu, thì còn hƣớng đến đọc rộng, tìm kiếm
sách vở thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, để mở rộng nhận thức về đời sống.
Mối quan tâm của nhóm bạn trẻ này dƣờng nhƣ không phải là mối quan
tâm của đại đa số những ngƣời tầm tuổi họ. Trong những câu chuyện cùng
nhau tại Giấc mơ nhỏ, họ vẫn nói về âm nhạc Kpop, về những hiện tƣợng giải
trí đại chúng trong nƣớc và thế giới, những MV ca nhạc này hay bộ phim kia
đang là thời thƣợng, những xu hƣớng thời trang đang chi phối và khuynh đảo
giới trẻ, trở thành “hot trend” … Nhƣng đó không phải là thứ quán xuyến tâm
trí, tiêu tốn nhiều thời gian của họ. Mối bận tâm của họ không dành cho
những hiện tƣợng nổi lên đình đám nhƣ vậy mà là những thứ ít ồn ào, có phần
136
lặng lẽ và thậm chí có khi còn bị bỏ quên. Giữa lúc đa phần ngƣời trẻ không
thể thoát ra đƣợc dòng chảy tin tức mạng xô bồ, tới tấp cùng lúc với những
thủ pháp “giật tít”, “câu view, câu like” nhằm hấp dẫn, lôi cuốn ngƣời đọc thì
đang có nhiều nhóm ngƣời trẻ nhƣ nhóm của Minh, Linh, Dung… vẫn lặng
lẽ, kiên trì, bền bỉ theo đuổi những tác phẩm kinh điển, những cuốn sách khai
minh, tri thức tinh hoa. Linh đã tạo ra một tủ sách tri thức nhỏ tại Giấc mơ
nhỏ bổ sung thêm nhiều sách triết học với mong muốn có thêm những trang
sách khoa học, sách triết học đƣợc mở ra để ngƣời trẻ đến gần hơn với kho
báu tri thức của nhân loại. Linh cũng thƣờng xuyên kêu gọi bạn bè trong cùng
nhóm tổ chức các buổi nói chuyện, thảo luận, chia sẻ liên quan đến triết học
tại chính không gian của Giấc mơ nhỏ hay ở những không gian khác. Bằng
những buổi talk về sách hay với ngƣời làm sách, trao đổi sách, lập ra tủ sách,
từ sách đến màn ảnh, xây dựng các nhóm đọc sách kết nối với nhau bằng
phƣơng thức trực tiếp (offline) và cả gián tiếp (online), lập nhóm, mở những
trang web cho việc giới thiệu, bình điểm, dịch thuật, sáng tác… Minh và các
bạn trẻ ở đây mong muốn xây dựng văn hóa đọc cho cộng đồng. Tất cả những
việc đó đƣợc làm một cách tự nguyện, hầu nhƣ không có sự tài trợ từ bất kì tổ
chức nào. Đó cũng không phải là công việc họ theo đuổi vì mục đích kiếm
sống, thậm chí để duy trì sở thích và đam mê này mà họ phải làm nhiều việc
khác để có thêm thu nhập và có thể chi trả cho sở thích của mình. Minh vẫn
nhận thêm những dự án dịch phim, viết các chủ đề khác nhau… Còn Linh,
cũng đã có những quãng thời gian đấu tranh giữa những lựa chọn: sự sắp đặt
chắc chắn, đảm bảo của bố mẹ với một công việc yên ổn hay thực hiện những
mong muốn của cá nhân. Và vì những lý do khác nhau, Linh nói hiện vẫn
đang di chuyển giữa hai thế giới: công việc văn phòng của một nhân viên kinh
doanh với mức lƣơng dao động từ 12 -15 triệu mỗi tháng để đảm bảo đời sống
và những đam mê với văn hóa đọc nói chung, triết học nói riêng, mong muốn
khơi dậy tinh thần tự do thảo luận, tranh biện.
137
Còn với Minh, nhen lên giấc mơ về không gian của tri thức, văn
chƣơng, phim ảnh chính là từ kí ức đã đƣợc ghim lại trong đầu về những cuốn
sách Minh đã đọc thuở bé. Đó là câu chuyện về ngôi trƣờng trong Totto chan bên cửa sổ25 với lớp học làm bằng những toa tàu cũ vẻn vẹn gần 50 học sinh.
Ở đó mỗi đứa trẻ là một cá thể đặc biệt và ông thầy hiệu trƣởng luôn tôn trọng
chúng, để chúng đƣợc tự do phát huy cá tính, khả năng thiên bẩm của mình.
Ngôi trƣờng tuyệt diệu đã neo lại trong tâm trí Minh, khơi gợi nên giấc mơ về
một toa tàu, một không gian của riêng mình để đƣợc tự do trong thế giới đó cùng với những ngƣời chung sở thích. Trong Xứ con người26 - tác phẩm thôi
thúc Minh thực hiện mong muốn của mình - tác giả Antoine de Saint -
Exupéry khi nhìn khuôn mặt một đứa trẻ đã nghĩ “đấy là một khuôn mặt nhạc
sĩ, đây là Mozart khi còn là trẻ con, đây là một lời hứa hẹn tốt đẹp của cuộc
đời” và lo lắng, giày vò khi những bon chen vất vả của đời sống sẽ khiến
“Mozart trẻ thơ này cũng sẽ bị cái máy rập đánh dấu như mọi người khác”.
Nỗi giày vò và lo sợ “Ấy là trong mỗi con người đó, có một phần Mozart bị
ám hại” đã dẫn Minh đến quyết định phải làm gì đó để che chở, vun xới
những mầm sáng tạo tốt đẹp, những thiên bẩm, những “phần Mozart” trong
mỗi con ngƣời.
Đặt trong xu thế chung, nhóm bạn trẻ này ở KGST Giấc mơ nhỏ tự
thấy mình có phần lạc lõng với đám đông. Có những lúc chán nản Minh đã
từng nghĩ rằng “văn chƣơng, nghệ thuật, từ lâu dƣờng nhƣ đã không còn là
mối quan tâm của nhiều ngƣời”. Khi cùng nhau ngồi nghĩ lại công việc mình
đang theo đuổi, Minh xem đó nhƣ là sự “dấn thân trên con đƣờng mạo hiểm
thực hiện ƣớc mơ và lí tƣởng”, “hành trình dài dằng dặc và cô đơn”, “con
đƣờng dài”. Dù tự nhận mình không đủ lòng yêu thƣơng con ngƣời đến vậy,
không có “khát vọng cứu thế giới” nhƣng vẫn luôn nỗ lực. Có những lúc
Minh tự gọi đó là những nỗ lực tuyệt vọng hay thay đổi một thứ không thể
25 Tetsuko Kuroyanagi, Totto chan: cô bé bên cửa sổ, 26 Antoine de Saint – Exupéry, Xứ con người
138
thay đổi khi nhận ra cố gắng của mình chỉ nhƣ một chút xao động nhỏ trên bề
mặt, rồi nhanh chóng tan biến. Cảm giác cô đơn, mệt mỏi, bất lực khi phải đối
diện với những khó khăn trong việc duy trì ƣớc mơ, nuôi dƣỡng cộng đồng
nhỏ say mê với sách vở, văn chƣơng, khiến đôi khi thế giới bị chia tách trong
cái nhìn nhị phân. Ngoài kia là “thế giới vật chất lạnh lùng ích kỉ”, trong này
“ngọn lửa ƣớc mơ và niềm tin vào những điều tốt đẹp”, là “ngôi nhà chung
cho những kẻ yêu tri thức”. Minh tự nói về mình là những kẻ “mơ mộng”
nhƣng lại thấy “ở nơi tôi sinh ra và lớn lên, mơ mộng bị coi là một đặc tính
yếu đuối, thiếu thực tế”, thấy mình đang đi trên con đƣờng đầy bấp bênh
trong khi đa phần chỉ cần ngoan ngoãn theo những chỉ dẫn của ngƣời khác là
có đƣợc cuộc sống yên bình. Văn học nghệ thuật là một phần không thể thiếu
làm nên họ thì dƣờng nhƣ ngoài kia nó chỉ đƣợc xem là một thứ phù du và
nằm ngoài tiêu chí đánh giá về sự thành công của mỗi ngƣời.
Ngƣời trẻ đƣợc biết đến nhƣ một nhóm xã hội đa dạng với nhiều mối
quan tâm, sở thích, cá tính và lối sống khác nhau. Ở đây, KGST Giấc mơ nhỏ
đã kết nối những ngƣời trẻ có niềm say mê với việc đọc và viết, mong muốn
mở rộng vốn hiểu biết, để hiểu về thế giới, về xã hội, về con ngƣời và để hiểu
chính mình. Giữa lúc những ngƣời trẻ bị thu hút bởi nhiều trào lƣu văn hóa
thịnh hành khác nhau, thì những ngƣời trẻ đến đây có phần thầm lặng nhƣng
bền bỉ với những câu chuyện trong sách vở, với những liên tƣởng, đối chiếu
và đặt ra những câu hỏi để chất vấn những ngƣời khác và tự chất vấn mình.
Những tƣơng tác mặt đối mặt trong các buổi thảo luận cũng khiến các ý nghĩ,
quan niệm, các cách hiểu có dịp đƣợc gặp gỡ, cọ xát, va đập, giúp họ nhận ra
và nhìn rõ cách nghĩ, quan điểm của mình trong thế đối sánh, liên hệ với
những cách nghĩ khác. Nhờ đó mà vốn kiến thức cũng đƣợc mở rộng và hơn
hết là nhìn thấy và hiểu hơn về ngƣời khác, về chính mình, về những khác
biệt giữa mình với ngƣời khác, chấp nhận và tôn trọng những khác biệt đó. Từ
những cuộc gặp này mà cộng đồng nhóm càng đƣợc mở rộng không chỉ về số
139
lƣợng thành viên trong vòng tròn kết nối đó mà còn là nới rộng biên giới nhận
thức, mở rộng lòng để khoan dung với những khác biệt, tôn trọng sự đa dạng.
Ở Cà phê Văn, khi tạo dựng không gian này, chủ của không gian đã rất
ý thức về vị thế, hƣớng đến tầng lớp tinh hoa trong xã hội. Điều này thể hiện
ngay trong cách bài trí không gian, cách lựa chọn bàn ghế, các bức tranh đƣợc
treo trên tƣờng để trang trí. Giá báo cũng chỉ lƣu trữ những tạp chí nhƣ Người
đô thị hay Tia sáng, vốn đƣợc biết đến nhƣ những trang báo “kén độc giả” với
những phân tích đa chiều về nhiều vấn đề trong xã hội nhƣ văn hóa, giáo dục,
thƣờng dành cho giới trí thức. Những sự kiện âm nhạc tại không gian này
thƣờng là nhạc thính phòng, nhạc cổ điển, nhất quán theo “gu” đã chọn ngay
từ ban đầu chứ không chọn những ca khúc thị trƣờng, chạy theo thị hiếu số
đông khán giả nhằm mục đích thƣơng mại. Ngay cả những bộ phim đƣợc
chọn để chiếu trong góc điện ảnh mỗi tối chủ nhật cũng hoàn toàn không phải
dòng phim ăn khách, phim bom tấn gây tiếng vang trên thị trƣờng mà thƣờng
có những chủ đề riêng, hƣớng tới giá trị riêng nhƣ chuỗi phim về danh nhân,
phim tình yêu, phim khơi gợi những khát vọng lớn, giấc mơ lớn và công việc
lớn.
Với KGST Café Văn, bản sắc nhóm lại đƣợc kiến tạo theo một cách
khác. Bằng việc kiến tạo, tham dự các hoạt động trong không gian này, họ đã
tự định vị mình thuộc về một nhóm trí thức trong xã hội với những mối quan
tâm riêng. Nhiều ngƣời coi đây là một không gian học thuật, ngƣời tham dự
đều có nền tảng văn hóa nhất định, có trình độ học vấn, có hiểu biết sâu rộng.
Trong những liên tƣởng, đối sánh với thế giới, nhiều ngƣời đã ý thức về vị thế
của không gian này, xem nó giống nhƣ những “agora” của phƣơng tây, gọi nó
là “chiêu anh các” của Việt Nam. Những liên tƣởng trong buổi nói chuyện,
nhiều lần diễn giả nhắc đến những từ ngữ nhƣ tinh hoa, tài tử, tinh thần quý
tộc, tầng lớp “elite”… Ngay cả các câu chuyện bên lề diễn ra trƣớc hay sau sự
kiện cũng thƣờng xoay quanh một cuốn sách mới xuất bản, câu chuyện giáo
dục tại một quốc gia trên thế giới trong mối liên hệ, đối sánh với Việt Nam,
140
việc đánh thuế tài sản, câu hỏi có hay không cái gọi là cách mạng 4.0 ở Việt
Nam, con của ai đó đã học chơi piano thế nào hay phong tục, tập quán của
một quốc gia nào đó mà họ từng đặt chân tới…
Trí thức hay những ngƣời thuộc về tầng lớp tinh hoa, tầng lớp “elite”
đƣợc những ngƣời tham dự tự nói về mình không có nghĩa là những ngƣời
cầm quyền, có chức vụ trong xã hội, có nhiều tiền mà là những ngƣời có trình
độ tri thức, những ngƣời hiểu biết, cam kết và sống theo những giá trị của
tầng lớp ƣu tú. Trong quan niệm của những ngƣời kiến tạo KGST, trí thức
không chỉ là những ngƣời giỏi chuyên môn mà còn là những ngƣời có nền
tảng văn hóa sâu rộng, có hiểu biết về nhiều lĩnh vực khác nhau. Và để tạo
dựng và bồi đắp đƣợc “cái nền”, “cái phông” văn hóa đó, để trí thức có bầu
không khí, có môi trƣờng văn hóa nên các KGST đã luôn đa dạng hóa các
lĩnh vực, chủ đề sinh hoạt. Từ âm nhạc, điện ảnh, văn học còn mở rộng ra các
loại hình nghệ thuật khác nhƣ hội họa, sân khấu, kiến trúc… Các buổi trò
chuyện, thảo luận về một chủ đề cụ thể của một loại hình nghệ thuật cụ thể,
thông thƣờng sẽ thu hút cộng đồng những ngƣời có chuyên môn liên quan
nhiều hơn, nhƣng mặt khác vẫn có đông ngƣời tham dự đến từ những lĩnh vực
khác, với mong muốn đƣợc tìm hiểu và mở rộng thêm vốn kiến thức. Tất
nhiên, ngay trong suy nghĩ, những ngƣời sáng lập và xây dựng nội dung sự
kiện cũng ý thức sâu sắc giữa mong muốn đó với sự hạn chế về nguồn lực, về
thời gian, không gian, và liệu những chƣơng trình nhƣ vậy, kéo dài đôi ba
tiếng, trong những không gian nhỏ hẹp, cho phạm vi đôi ba chục ngƣời liệu
có là “muối bỏ biển”. Nhƣng họ cũng xem những sinh hoạt văn hóa nhƣ vậy
sẽ khơi gợi, mở đƣờng cho những sự tự tìm biết về sau của mỗi ngƣời.
Hình ảnh ngƣời trí thức đƣợc hình dung lên từ đây dƣờng nhƣ luôn gắn
với những khát vọng, hoài bão, về một sự nghiệp hay sự đóng góp cụ thể nào
đó cho xã hội. Nhiều sự kiện đề cập đến những chữ nhƣ “giấc mơ”, “khát
vọng”, “cống hiến” nhƣ là một trong những bổn phận, trách nhiệm của ngƣời
trí thức. Phim đƣợc chọn chiếu trong các sự kiện chiếu phim và thảo luận
141
cũng từng là những bộ phim về các nhân vật truyền cảm hứng, những ngƣời
có cống hiến lớn, làm thay đổi xã hội và lịch sử.
Dù thể hiện rõ ràng hay ngầm ẩn ý, dù nói ra bằng lời hay biểu hiện qua
hành động, các cá nhân, các nhóm kiến tạo những KGST này đều ý thức và
định vị mình khá rõ ràng trong tƣơng quan so sánh với ngƣời khác, nhóm
khác. Với ông Phƣơng, một thành viên sáng lập ra Cà phê Văn, vốn là ngƣời
làm nghệ thuật nên ý thức về cái tôi, về nét riêng biệt, độc đáo của con ngƣời
càng mạnh mẽ. Ông nhiều lần nói về tƣ duy “noi gƣơng”, tƣ duy “đồng phục”
hay “trở thành đám đông” sẽ khiến ngƣời ta mất đi con ngƣời cá nhân, mất đi
sự khác biệt.
4.3. Không gian sáng tạo và những tác động trong đời sống văn hóa đô
thị
Những nghiên cứu về KGST ban đầu đã chỉ ra những đặc trƣng của
KGST nhƣ tính kết nối, sự sáng tạo, tính phá cách cũng nhƣ tác động của
KGST chủ yếu trên phƣơng diện hỗ trợ cho công nghiệp sáng tạo Việt Nam.
Tuy nhiên cách quan niệm trên thế giới về KGST nhƣ một mô hình kinh
doanh với mục tiêu chính là tạo ra lợi nhuận chỉ phản ánh một trong những
mối quan tâm của các KGST trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam hiện nay.
KGST còn có vai trò khác, dƣờng nhƣ quan trọng hơn, đó là việc tạo nên
những không gian có ý nghĩa, trở thành những diễn đàn, những nơi chốn dành
cho thảo luận, không gian cho sự tham gia, thay đổi và kiến tạo xã hội. KGST
còn là những không gian độc lập, tự do, không gian của dân chủ, gợi mở cho
những giá trị mới, mở ra những suy nghĩ mới, hƣớng tới sự đổi mới, làm cho
xã hội thay đổi, không gian cho những khả thể mới. Chính ý nghĩa của các
không gian đối với các nhóm chủ thể khác nhau là lý do quan trọng giải thích
cho sự xuất hiện ngày càng nhiều các KGST trong đô thị. Hơn nữa, mặc dù
thuật ngữ KGST mới chỉ đƣợc nói đến nhiều trong những năm gần đây, và là
một thuật ngữ đƣợc “du nhập” từ nƣớc ngoài nhƣng nó lại đã đƣợc định hình,
bắt rễ từ trong truyền thống văn hóa của ngƣời dân đô thị, là những không
142
gian văn hóa, không gian xã hội – một phần quan trọng trong đời sống văn
hóa đô thị.
Cũng cần phải nói thêm về vai trò của đô thị với sự tồn tại của các
KGST. Các KGST xuất hiện nhiều tại Hà Nội, nơi có không khí sinh hoạt văn
hóa, đậm đặc tinh thần tri thức. Trần Mai Ƣớc (2010) khi coi “văn hóa đô thị
là một thực thể phức hợp có tính biến đổi cao” đã nhìn thấy ở Hà Nội, một đô
thị lớn, có lịch sử lâu đời là nơi tụ hội của ngƣời dân ở nhiều vùng miền khác
nhau, “họ sống và hoạt động trong môi trường đô thị với những đặc trưng
văn hóa đa quan hệ, đa phương tri thức, đa ngành nghề, đa phong cách văn
hóa địa phương và chịu sự ảnh hưởng của nhiều dòng văn hóa khác nhau”
[76]. Hà Nội khác biệt với những đô thị khác không phải bởi Hà Nội những
biểu tƣợng văn hóa lâu đời mà còn có những cung đƣờng nghệ thuật dày đặc
sự hiện diện của các công trình văn hóa, có không khí nghệ thuật, tinh thần tri
thức mà ở các nơi khác chƣa có đƣợc. Hà Nội có hệ thống các thƣ viện lớn
nhỏ tập trung trong thành phố, các thƣ viện công, thƣ viện của các trƣờng đại
học với những kho sách chuyên môn sâu, và nhiều thƣ viện tƣ nhân dƣới các
hình thức nhƣ tủ sách gia đình, quán cà phê sách, cà phê thƣ viện… Chính
nguồn tƣ liệu từ sách báo phong phú này tạo cơ hội rộng rãi cho ngƣời dân đô
thị đƣợc tiếp cận với tri thức. Đô thị chính vì vậy cũng trở thành điểm đến cho
trí thức, nơi tập trung những ngƣời say mê tri thức, cùng làm việc, duy trì,
truyền bá và kiến tạo tinh thần tri thức. Khi sống trong những không gian
nghệ thuật, không gian văn hóa này, ngƣời ta có thể tạm quên đi những toan
tính đời thƣờng, gác lại những nỗi lo vụn vặt của đời sống. Không gian đô thị
rộng mở, hấp dẫn và thu hút hơn so với không gian ở nhiều tỉnh thành khác
nhƣ Mai từng nói: “Hà Nội có môi trường thảo luận mạnh, điều mà nhiều
tỉnh thành khác, hay chính quê của em không có được. Quê em buồn lắm,
chẳng có gì hay hết, không có hoạt động văn hóa tri thức, không có ai nói
chuyện - (không có các buổi thảo luận, buổi talk), không có không gian sinh
hoạt văn hóa cho cộng đồng”. Mai từng nói về những “cung đƣờng nghệ
143
thuật”, những “phố nghệ thuật” mà khi “sa” vào cái không gian ấy đều có cảm
giác nhƣ khoác lên mình một điều gì đó mới mẻ, mang đến cho mình một
diện mạo mới. Các thành phố lớn nhƣ Hà Nội không chỉ là nơi đem đến nhiều
cơ hội kiếm sống, nơi tạo ra nhiều cơ hội sinh kế cho các nhóm ngƣời khác
nhau, nơi tập trung dân số với mật độ cao khiến các nhà quản lý và quy hoạch
không gian phải tính toán khi đô thị đứng trƣớc tình trạng quá tải, chật chội,
đông đúc, nơi có nhiều cơ hội học tập, vui chơi, giải trí mà đô thị còn là nơi
nhiều ngƣời tìm đến để tìm kiếm tri thức, nơi có nhiều cơ hội để tiếp cận với
những tƣ tƣởng mới, định hình các trào lƣu, khuynh hƣớng. Đô thị đáp ứng
đƣợc khao khát thông tin, mong muốn đƣợc tham gia, hòa vào không khí sinh
hoạt văn hóa. Đô thị cũng rộng mở cho những thảo luận đa chiều, cho những
tiếng nói bên lề, ngoại biên.
Hoạt động của các KGST dù gặp nhiều khó khăn nhƣng rõ ràng các
KGST có nhiều lý do để tồn tại. Với nhiều ngƣời dân trong đô thị, đặc biệt là
với trí thức, KGST là nơi mang tới nguồn thông tin dồi dào, đa chiều. Từng
có lần Minh đã tự thấy “mô hình KGST kiểu này thực sự phát triển trong
những năm qua, khi ngƣời ta còn “khát” thông tin và sự hiểu biết”. Đây cũng
là không gian nuôi dƣỡng năng lực tham gia, năng lực phản biện, nuôi dƣỡng
những giá trị nhƣ dân chủ, công bằng, tự do. Sự tham gia ở đây có thể đƣợc
hiểu đó là đƣợc can dự vào những vấn đề quan trọng của đời sống, quyền
đƣợc biết, đƣợc thảo luận, đƣợc chia sẻ quyền ra quyết định. Mặc dù tinh thần
dân chủ ở Việt Nam đƣợc thể hiện khá rõ ràng: “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”, tuy nhiên hệ thống pháp lý hiện hành dƣờng nhƣ chƣa tạo ra
đƣợc một “hành lang rộng” cho sự tham gia một cách thực chất và hiệu quả
giữa các bên, chƣa có nhiều diễn đàn để ngƣời dân đƣợc bộc lộ quan điểm
một cách tự do, thẳng thắn, những phản biện thƣờng dễ bị quy chụp. Do vậy,
việc các nhóm chủ thể tự kiến tạo nên các không gian riêng cho mình, dƣờng
nhƣ là để bù đắp những hạn chế và thiếu hụt đó, để họ có cơ hội đƣợc đóng
góp tiếng nói của cá nhân cho việc xây dựng đất nƣớc. Điều này cũng cho
144
thấy việc định hình cảnh quan trong thành phố là những ví dụ phản ánh mối
quan hệ quyền lực (LiLy Kong và Lisa, 2002) [104], nói cách khác thành phố
đƣợc xây dựng dƣới những tác động của kinh tế, các nhân tố xã hội và văn
hóa, do đó cũng hàm chứa các mối quan hệ chính trị.
Không gian không đơn thuần là nơi con ngƣời sinh sống, ngƣợc lại nó
sống trong mỗi ngƣời, định hình nên mỗi ngƣời. Nó đại diện cho cả hiện thực
và khả năng thay đổi xã hội. Dành nhiều thời gian tại các KGST nhƣ vậy, các
nhóm chủ thể dƣờng nhƣ đang đi tìm những lí tƣởng mới, hình dung nên một
tƣơng lai với nhiều ý nghĩa nhân bản, nhân văn, hƣớng tới những giá trị dân
chủ, bình đẳng, tự do, khuyến khích sự đa dạng, tôn trọng những tiếng nói đa
chiều về đời sống.
Tiểu kết chƣơng 4
Từ những phân tích về sự kiến tạo bản sắc trong các KGST cũng nhƣ
những nỗ lực mở rộng biên độ tự do, tạo không gian cho các thực hành dân
chủ, ý nghĩa của KGST rõ ràng đã đƣợc mở rộng, đi xa hơn so với nội hàm
ban đầu khi đƣợc Hội đồng Anh giới thiệu và nói đến ở Việt Nam. Đó không
chỉ là một mô hình kinh doanh lấy lợi nhuận làm mục tiêu cốt lõi hay không
gian hỗ trợ, kết nối cho những ngƣời làm sáng tạo để phát triển công nghiệp
văn hóa, công nghiệp sáng tạo mà còn là nơi sinh hoạt văn hóa của các nhóm
trí thức, nơi tạo lập các diễn đàn để thông tin, chia sẻ, phản biện về nhiều vấn
đề trong đời sống, nơi của những ý kiến đa dạng, dù đồng thuận hay phản bác
cũng đều đƣợc chấp nhận, tạo ra không khí cởi mở, tự do, tôn trọng tri thức và
sự khác biệt. Thực hành văn hóa trong các KGST này là sự tiếp nối truyền
thống sinh hoạt văn hóa đã tồn tại trong đô thị nhiều năm về trƣớc với những
hội quán, những salon văn hóa, những quán cà phê nghệ sĩ… Thực hành văn
hóa trong các KGST, những chủ đề các nhóm chủ thể đang nói đến, đề cập
tới, những bộ phim họ đang xem, những câu chuyện họ đang tranh cãi… đều
phản ánh hiện thực đƣơng đại của đời sống đô thị: sự chuyển mình của đô thị
dƣới tác động của các chính sách về kinh tế, chính trị, bối cảnh đô thị hóa;
145
quá trình toàn cầu hóa khiến đô thị nói riêng và xã hội nói chung đối diện với
nhiều vấn đề về phát triển: môi trƣờng ô nhiễm, giáo dục bất cập, hiện tƣợng
tham nhũng, những lỗi thời và chậm trễ của chính sách… Một số những trí
thức và những ngƣời có mối quan tâm đến các vấn đề chung của đất nƣớc đã
cùng nhau tạo dựng nên những không gian để thể hiện quyền đƣợc tham gia,
đƣợc cất tiếng nói đóng góp cho những vấn đề chung đó. Để duy trì đƣợc
không gian sinh hoạt văn hóa cũng nhƣ giữ đƣợc tinh thần tự do, độc lập, các
KGST cũng đã có những động thái để linh hoạt, thích ứng.
Ở một phƣơng diện khác, các thực hành văn hóa trong các KGST cũng
đang góp phần tạo dựng nên bản sắc nhóm, bản sắc cá nhân của các nhóm chủ
thể. Ở Cà phê Văn, đó là những trí thức lớn tuổi có vốn hiểu biết sâu rộng, thể
hiện sự độc lập, có ý thức trách nhiệm và mong muốn đóng góp cho các công
việc chung của xã hội. Ở Giấc mơ nhỏ, đó là những ngƣời trẻ yêu thích tri
thức, luôn chất vấn về nhiều vấn đề của xã hội. Những mối quan tâm của họ
có thể không phải là mối bận tâm của đại đa số, khác biệt với đại đa số, nhƣng
đó là cách họ lựa chọn để trở thành mình, định vị mình.
Nhƣ vậy, có thể thấy các thực hành văn hóa đa dạng của các nhóm chủ
thể trong các KGST góp phần làm giàu thêm đời sống văn hóa của đô thị.
146
KẾT LUẬN
1. Không gian sáng tạo là một hiện tƣợng quan trọng, từng đƣợc ví nhƣ
“ngọn hải đăng” của nền kinh tế mới trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới
tập trung phát triển công nghiệp sáng tạo, công nghiệp văn hóa. Các nghiên
cứu trƣớc đây về KGST đã đề cập đến nhiều tác động khác nhau của KGST.
Đó có thể là nơi kết nối các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa,
nơi hỗ trợ và thúc đẩy cộng đồng nghệ sĩ sáng tạo, nơi cung cấp không gian
trƣng bày, triển lãm, truyền thông và kinh doanh các sản phẩm nghệ thuật, nơi
kết nối và kéo gần khoảng cách giữa nghệ sĩ và khán giả… Mô hình các
KGST đƣợc nói đến khá linh hoạt, có thể tồn tại ở một địa điểm cụ thể hay
chỉ là một không gian trực tuyến, một trang web, là một quán cà phê, một
phòng tranh hay một studio, một không gian làm việc chung... Thậm chí có
thể xem mỗi KGST với các hoạt động của mình đã tự trình ra một cách hiểu
về KGST. Tuy nhiên, trong bối cảnh đô thị tại Việt Nam, ngoài những đóng
góp quan trọng cho sự hình thành và phát triển của ngành công nghiệp văn
hóa, KGST còn có nhiều những ý nghĩa và tác động khác, phản ánh những
thay đổi năng động của xã hội trong bối cảnh chuyển đổi.
2. Việc ngày càng nhiều các KGST hình thành và phát triển trong lòng
đô thị Hà Nội, bất kể những khó khăn để duy trì tồn tại, là một minh chứng rõ
ràng cho thấy ý nghĩa của KGST đối với đời sống đô thị. Từ 40 KGST trong
báo cáo về KGST năm 2014 đến con số gần 140 KGST năm 2018 hay khi
một KGST nào đó đóng cửa thì cùng lúc đó có những KGST khác đƣợc ra đời
đã cho thấy sức ảnh hƣởng, sự cần thiết của KGST trƣớc nhu cầu của ngƣời
dân đô thị. Sức hấp dẫn của các KGST đến từ việc KGST đáp ứng nhu cầu
khác nhau cho nhiều nhóm xã hội đa dạng: là không gian thƣởng thức và sáng
tạo nghệ thuật để bồi đắp vốn hiểu biết về nghệ thuật; nơi gặp gỡ, trao đổi,
thảo luận những vấn đề đang diễn ra trong xã hội; là thƣ viện mở với nhiều
đầu sách khơi mở những suy tƣ, trăn trở; là nơi kết nối những ngƣời có cùng
mối quan tâm, cùng chí hƣớng; là nơi cho tự do biểu đạt… Từ góc nhìn của
147
Cà phê Văn và Giấc mơ nhỏ, có thể thấy KGST là những thực thể sinh động
đƣợc kiến tạo bởi các nhóm chủ thể khác nhau, đặc biệt là nhóm trí thức trong
đô thị, phản ánh những mối bận tâm đa dạng của con ngƣời. Sau Cà phê Văn
và Giấc mơ nhỏ, còn nhiều KGST khác vẫn đang đƣợc duy trì, đƣợc tạo mới
hoặc đang đƣợc ấp ủ, đƣợc truyền cảm hứng bởi những KGST đi trƣớc.
3. Từ lăng kính lý thuyết về khái niệm “khu vực công” của Habermas
có thể coi KGST là những không gian công đặc thù. Dù là không gian mở
ngỏ, đa dạng nhƣng đối tƣợng chủ yếu tham dự là trí thức ở nhiều độ tuổi
khác nhau, gắn với nhu cầu biểu hiện và cất tiếng nói tham góp vào giải quyết
những vấn đề chung của xã hội. Đó là những không gian linh hoạt, chuyển đổi
nhiều công năng trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, khi là không gian cho văn
học nghệ thuật, các thực hành sáng tạo, khi là không gian cho gặp gỡ đối
thoại, kết nối. Đó cũng là những không gian độc lập, không chỉ là tự chủ về
tài chính và kinh phí hoạt động mà còn duy trì độc lập về quan điểm, thái độ,
nơi của những phản biện độc lập, thẳng thắn về những vấn đề của xã hội.
Nếu nhƣ một số nghiên cứu trƣớc đây đã chỉ ra rằng Việt Nam không
có nhiều bằng chứng cho thấy sự tồn tại của một khu vực công cũng nhƣ
không gian công – nơi khu vực công đƣợc thể hiện. Hoặc nếu nói về không
gian công thì khái niệm “công” đó cũng khác so với cách hiểu và ý nghĩa
trong các xã hội phƣơng tây khi mà ở Việt Nam ít có những không gian cho
các cuộc thảo luận hoặc các biểu đạt công khai kiểu phƣơng Tây hoặc các
không gian kiểu nhƣ thế này luôn bị chi phối bởi quyền lực của nhà nƣớc.
Những phân tích về các thực hành trong các KGST cho thấy có thể không hẳn
đã tồn tại một “khu vực công” đúng nghĩa nhƣ khái niệm của Habermas do
các KGST cũng luôn phải đối diện với sự can thiệp từ nhà nƣớc trong những
nhận định chủ đề nào là “nhạy cảm”, “cấm kị”, thành phần nào là đáng bị để
mắt và cũng đã phải có những chiến lƣợc thích ứng, linh hoạt để tồn tại. Tuy
nhiên, dƣờng nhƣ các KGST cũng cho thấy sự nỗ lực mở rộng biên độ tự do,
tạo ra nhiều không gian cởi mở cho những thảo luận đa dạng. Nói cách khác,
148
khái niệm “khu vực công” của Habermas khi áp dụng để phân tích ở đây đã
làm bộc lộ những nét riêng về bối cảnh xã hội tại Việt Nam. Từ nhiều hoạt
động trong các lĩnh vực nghệ thuật, văn hóa và xã hội, các KGST đang góp
phần quan trọng cho sự thay đổi. Có thể thấy ở đó sự nổi lên của một xã hội
dân chủ khi đề cao các giá trị dân chủ, tinh thần khai minh, khai sáng, khai
hóa hay có thể nói KGST là một trong nhiều phƣơng cách đa dạng mà Việt
Nam đang thƣơng thảo, đàm phán về văn hóa và xã hội trong tƣơng lai.
4. Rõ ràng, KGST không chỉ là một sự đánh dấu về vị trí địa lí, nó
không nằm ở đó, hiện diện ở đó, sẵn có trong tự nhiên mà là sản phẩm của sự
kiến tạo. Nó đƣợc tạo nên từ những mối quan hệ xã hội và những thực hành
văn hóa. Chính những sinh hoạt văn hóa trong các không gian nhỏ hẹp này lại
góp phần gìn giữ và duy trì đời sống tinh thần hay chính là “phần hồn” cho đô
thị trong bối cảnh hiện đại hóa đô thị khi mà các trung tâm thƣơng mại sầm
uất, những tòa nhà chen vai nhau đƣợc dựng lên cao mãi. KGST mang lại bầu
khí quyển văn hóa, nhen lên, lan tỏa, tác động tới lối sống của một phần cƣ
dân đô thị tạo ra không khí trí thức, hƣớng tới những giá trị tinh thần, coi
trọng những giá trị nhƣ tự do, dân chủ, sáng tạo. KGST nhƣ vậy có thể coi là
sự bảo lƣu, tiếp nối những thực hành văn hóa trƣớc đây, nhƣng sống động,
đậm dấu ấn của bối cảnh đô thị đƣơng đại với những chuyển biến, thay đổi,
đứt gãy. Nhƣ vậy, mỗi KGST là một câu chuyện, một tự sự lẩn khuất đâu đó
trong bộn bề tấp nập đô thị nhƣng cũng trở nên sống động vì nó nhƣ một thế
giới thu nhỏ, thâu nạp, dung chứa cho nhiều tƣ tƣởng khác nhau. Và chính
những câu chuyện, những thực hành văn hóa đã định nghĩa về KGST, kiến
tạo nên hiện tại và tham gia xây dựng những viễn cảnh về tƣơng lai. Đó
không chỉ là KGST, nó còn là không gian văn hóa, không gian xã hội. Và nếu
hình dung đô thị nhƣ một không gian rộng lớn thì các KGST chính là những
mảnh ghép nhỏ nhƣng là những mảnh ghép quan trọng, tiến bộ, thúc đẩy sự
phát triển của đô thị.
149
150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội (2019), Kiến tạo không gian văn hóa sáng tạo Hà Nội (sách ảnh, song ngữ Việt – Anh). Peter L. Berger và Thomas Luckmann (2017), Sự kiến tạo xã hội về thực tại – Khảo luận về xã hội học nhận thức, Nxb. Tri thức, Hà Nội. Lê Quang Bình và cộng sự (2016), Đánh dấu không gian xã hội dân sự Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội. Lê Quang Bình và cộng sự (2016), Báo cáo phong trào bảo vệ 6700 cây xanh ở Hà Nội, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội. Nguyễn Thanh Bình (2017), “Không gian công cộng – những vấn đề chính và biện pháp kiểm soát”, Tạp chí Kiến trúc. Nguyễn Thị Phƣơng Châm (2013), Internet: mạng lưới xã hội và sự thể hiện bản sắc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Thị Phƣơng Châm – Hoàng Cầm (2021), Vỉa hè Hà Nội không gian đa chiều tương tác, Nxb. Khoa học xã hội. Nguyễn Văn Chính (2011), “Cấu trúc và giải cấu trúc bản sắc văn hóa Hà Nội” in trong Khoa Lịch sử: Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2006-2011), Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, tr. 163-192 Chris Barker (2011), Nghiên cứu văn hóa lý thuyết và thực hành, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2017), Sự thể hiện không gian đô thị trong dòng phim độc lập Việt Nam (từ góc nhìn Văn hóa học), Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
11. Mike Douglas (2008), “Thành phố sống tốt – Quá trình toàn cầu hóa cuộc sống thành thị và không gian công cộng ở Châu Á Thái Bình Dƣơng”, Tạp chí Xã hội học, số 1 (101).
12. Nguyễn Thị Đức (2017), “Xây dựng đời sống văn hóa đô thị trong quá trình hội nhập quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số 22. 13. Nguyễn Lan Dung (2008), Sự ra đời và hoạt động của hội Khai trí
151
tiến đức giai đoạn 1919-1925, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội
14. Robert M. Emerson – Rachel I. Fretz – Linda L. Shaw (2014), Viết
các ghi chép điền dã dân tộc học, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
15. Nguyễn Hoàng Quý Hà (2018), “Điện ảnh hàng ngày, không gian đô thị và sự tái hiện những ngƣời trẻ tuổi trong phim của Thái Minh Lƣợng và một số phim nghệ thuật Việt Nam đƣơng đại”, Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn, số 3.
16. Mai Văn Hai, Mai Kiệm (2009), Xã hội học văn hóa, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
17. Đặng Thị Thúy Hằng (2015), Đời sống văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Trƣờng Đại học Văn hóa Hà Nội.
18. Nguyễn Thị Thúy Hằng, Vũ Thị Minh Thắng (2015), “Sự hình thành không gian công ở Việt Nam trƣớc 1945: nghiên cứu dƣới góc độ báo chí học, chính trị học và lịch sử”, Kỷ yếu Hội nghị khoa học cán bộ trẻ và học viên sau đại học năm học 2014-2015: Nghiên cứu liên ngành trong khoa học xã hội và nhân văn tiếp cận từ góc độ lý thuyết và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr. 298-309. 19. Vũ Hoàng Hiếu (2018), Người đồng tính trong xã hội Việt Nam đương đại: từ ẩn ức đến tự sự, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.
20. Phạm Thị Mỹ Hoa (2021), “Không gian sáng tạo – mũi nhọn tiềm năng trong phát triển công nghiệp văn hóa Hà Nội”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 476, tháng 10-2021
21. Hội đồng Anh (2014), Nghiên cứu ban đầu về các không gian sáng
tạo tại Việt Nam.
22. Hội đồng Anh (2016), Nghiên cứu về chính sách và các không gian
sáng tạo tại Việt Nam.
23. Hội đồng Anh (2018), Báo cáo về các không gian sáng tạo ở Việt
Nam.
152
24. Hội đồng Anh (2018), Vai trò của các không gian văn hóa sáng tạo
trong nền kinh tế sáng tạo Việt Nam.
25. Hội đồng Anh (2021), Kỉ yếu Không gian Văn hóa sáng tạo Việt
Nam 2018 -2021
26. Phạm Thị Hƣơng (2016), “Không gian sáng tạo với vai trò hỗ trợ
khởi nghiệp”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, tháng 8-2016
27. Phạm Thị Hƣơng (2017), “Hoạt động của hệ thống nhà văn hóa tại Hà Nội nhìn từ các không gian sáng tạo”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, tháng 4-2017.
28. Phạm Lan Hƣơng, “Factories as studios – Một cách tiếp cận về không gian sáng tạo”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 405, tháng 3- 2018.
29. Nguyễn Thị Quế Hƣơng – Nguyễn Thị Hòa, “Không gian công với vấn đề đối thoại liên tôn giáo ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, tháng 3-2021.
30. Nguyễn Thừa Hỷ (2010), Kinh tế - xã hội đô thị Thăng Long – Hà
Nội thế kỉ XVII-XVIII-XIV, Nxb Hà Nội.
31. Nguyễn Thừa Hỷ (2015), Về chất lượng thị dân Thăng Long: những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển thủ đô, Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Phát triển bền vững thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình.
32. Trần Ngọc Khánh (2012) (2019), Văn hóa đô thị, Nxb. Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh.
33. Doãn Minh Khôi (2018), “Sức hấp dẫn của không gian công cộng”,
Tạp chí Kiến trúc, số 5 (2018).
34. Phan Văn Kiền (2015), “Tính đặc thù của không gian công trên báo điện tử”, Kỷ yếu Hội nghị khoa học cán bộ trẻ và học viên sau đại học năm học 2014-2015: Nghiên cứu liên ngành trong khoa học xã hội và nhân văn, tiếp cận từ góc độ lý thuyết và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, trang 14-27.
35. Đinh Xuân Lâm – Phạm Xanh (2004), “Đào Duy Anh với cuộc vận
153
động tiến tới Tân Việt Cách mạng Đảng”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa học Xã hội và Nhân văn, số 3, trang 32-38.
36. Nguyễn Thị Phƣơng Lan (2004), Về khái niệm đời sống văn hóa,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (số 12/2004).
37. Phạm Thúy Loan (2016), “Không gian công cộng trong đô thị, từ lý
luận đến thiết kế”, Tạp chí Kiến trúc Việt Nam.
38. Nguyễn Đức Lộc (chủ biên), Đời sống xã hội Việt Nam đương đại
(tập 2), Nxb. Tri thức, Hà Nội.
39. William Logan (2010), Ha Noi - Biography of a city - Hà Nội - Tiểu
sử một đô thị, Nguyễn Thừa Hỷ dịch, Nxb. Hà Nội, Hà Nội.
40. Phan Đăng Long (2011), Biến đổi của văn hóa đô thị Hà Nội từ năm 1986 đến nay - thực trạng và xu hướng, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam.
41. Trƣơng Uyên Ly (2018), Không gian sáng tạo – cơ hội cho Hà Nội hƣớng tới một thủ đô sáng tạo, thanh lịch, thịnh vƣợng, Kỉ yếu hội thảo Phát huy tiềm năng, thế mạnh của các không gian sáng tạo trong phát triển công nghiệp văn hóa trên địa bàn thủ đô thời kì hội nhập và phát triển, Ban Tuyên giáo thành ủy Hà Nội, trang 1-9. 42. Nguyễn Xuân Nghĩa (2014), “Không gian công và tôn giáo”, Tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 09 (135), trang 20-38.
43. Trần Đức Ngôn (2017), “Khái niệm và cấu trúc đời sống văn hóa”,
Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số 21, trang 5-12.
44. Nguyễn Vĩnh Nguyên (2018), Đà Lạt một thời hương xa, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
45. Nhiều tác giả (2017), Việt Nam sau 30 năm đổi mới – Thành tựu và
triển vọng, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
46. Nhiều tác giả (2014), Toàn cầu hóa, văn hóa địa phương, và phát triển: cách tiếp cận nhân học, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
47. Trần Thị Ngọc Nhờ (2019), Từ vai trò không gian công cộng trong xây dựng tiểu văn hóa hướng đến một thành phố sống tốt, In trong
154
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Tiểu văn hóa đô thị và quá trình hội nhập tại Việt Nam, Trƣờng Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh.
48. Lữ Thị Mai Oanh (2019), Tin đồn và sự hình thành tin đồn trong không gian bán công cộng (nghiên cứu trường hợp quán cà phê trên địa bàn Hà Nội), Luận án tiến sĩ, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn
49. Phạm Quỳnh Phƣơng (2010), “Những không gian thiêng: Một nghiên cứu thực địa về các di tích thờ Trần Hƣng Đạo ở Việt Nam”, trong Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: những cách tiếp cận nhân học, Nxb. Đại học Quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 86-102.
50. Phạm Quỳnh Phƣơng (2020), “Vai trò của truyền thông xã hội đối với mối quan hệ nhà nƣớc – xã hội ở Việt Nam”, in trong Văn hóa Việt Nam đương đại: đa dạng biểu đạt và tương tác, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, trang 34-53.
51. Phạm Quỳnh Phƣơng (2019), “Không gian công cộng ở Hà Nội và sự tham gia của ngƣời dân”, bài trình bày tại Hội thảo Không gian công cộng ở Hà Nội và sự tham gia của người dân, ngày 4/9/2019.
52. Phạm Quỳnh Phƣơng (2017), “Phong trào LGBT Việt Nam từ góc nhìn kiến tạo bản sắc”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6, tr. 3-10. 53. Phạm Quỳnh Phƣơng (2019), "Từ khám phá quy luật đến kiếm tìm nghĩa: Một hƣớng tiếp cận mới trong nghiên cứu văn hóa Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam, số 4, tr.92-104. 54. Phạm Quỳnh Phƣơng (2013), “Ngành nghiên cứu văn hóa (Cultural Studies) lƣợc sử hình thành và cách tiếp cận”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số 6, tr. 85-91.
55. Nguyễn Thị Thu Phƣơng, Phát triển công nghiệp văn hóa tại Hà Nội - tài nguyên tiềm năng và lựa chọn đổi mới, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 479, tháng 11-2021.
56. Nguyễn Quang (2018), “Không gian công cộng trong quy hoạch và
phát triển bền vững”, Tạp chí Kiến trúc, số 5 (2018).
155
57. Trần Hữu Quang (2020), Xã hội học những viễn tượng lý thuyết,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
58. Trần Hữu Quang (2009), Một số quan niệm đƣơng đại về xã hội dân
sự, Tạp chí Khoa học xã hội, số 12 (136), tr.13-23.
59. Nguyễn Trƣơng Quý (2018), Một thời Hà Nội hát – Tim cũng không
ngờ làm nên lời ca, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
60. Nguyễn Trƣơng Quý (2015), Mỗi góc phố một người đang sống,
Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
61. Lâm Thị Ánh Quyên (2011), “Không gian đô thị - Không gian công cộng”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh, số 6 (1).
62. Lâm Thị Ánh Quyên (2020), “Tiểu văn hóa đô thị: khái niệm và lý thuyết”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh, số 15 (1), tr36-47.
63. Edward Wadie Said (2014), Đông Phương luận, Nxb. Tri thức, Hà
Nội.
64. Bùi Hoài Sơn (2006), Ảnh hưởng của Internet đối với thanh niên Hà
Nội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
65. Bùi Hoài Sơn (2008), Phương tiện truyền thông mới và những thay đổi văn hóa - xã hội ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 66. Bùi Hoài Sơn (2019), “Phát triển các không gian sáng tạo ở Hà
Nội”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 416.
67. Bùi Hoài Sơn (2018), Kiến tạo không gian sáng tạo trên địa bàn thủ đô – bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra, Kỉ yếu hội thảo Phát huy tiềm năng, thế mạnh của các không gian sáng tạo trong phát triển công nghiệp văn hóa trên địa bàn thủ đô thời kì hội nhập và phát triển, Ban Tuyên giáo thành ủy Hà Nội, tr.1-9.
68. Nguyễn Văn Sửu (2011), “Tiếp cận không gian: vấn đề khái niệm và
sự phân loại”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr 58-64.
69. Nguyễn Văn Sửu – Chu Thu Hƣờng (2015), “Hƣớng tiếp cận không gian trong nghiên cứu làng Việt: Nghiên cứu trƣờng hợp làng Đồng
156
Kỵ, Bắc Ninh”, Tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn, tập 1, số 2 (2015).
70. Nguyễn Quý Thanh, Trịnh Ngọc Hà (2009), “Không gian bán công cộng và sự hình thành dƣ luận xã hội”, Tạp chí Xã hội học số 2, tr.72-81.
71. Nguyễn Quý Thanh – Nguyễn Bích Thủy (2015), “Sự hình thành dƣ luận xã hội ở chợ nông thôn”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (94), trang 64-73.
72. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
73. Phạm Thanh Thôi (2013), “Bối cảnh đô thị hóa: vấn đề nghiên cứu nhân học ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 4 (176), tr. 57- 63.
74. Trung tâm nghiên cứu toàn cầu hóa – Giải pháp đô thị - nông thôn (2005), Kỉ yếu hội thảo chuyên đề Chuyển hóa đô thị và tương lai của cuộc sống đô thị ở Việt Nam – Khía cạnh không gian công cộng và không gian dân sự.
75. Trần Thị Minh Tuyết (2019), “Nhận thức về dân chủ và quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam trong thời kì đổi mới: thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11.
76. Trần Mai Ƣớc (2010), “Văn hóa đô thị với việc phát triển thủ đô Hà Nội trong thời hội nhập”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa, số 3, tr.8-10.
Tiếng Anh
77. Antoaneta Tileva (2019), A seat at the table: immigrant businesses and placemaking, PhD. Dissertation, Faculty of the college of Arts and Sciences of American university.
78. Anna Katharina Hornidge – Sandra Kurfurt, Envisioning the future: negotiating public space in Hanoi and Singapore, Internationales Asienforum,Vol.42 (2011), No 3-4, pp 345-369.
79. A. Appadurai (1988), “Introduction: Place and voice in
157
anthropological theory”, Cultural Anthropology, Vol. 3, pp.16-20.
80. Hannah Arendt (1958), The Human Condition, Chicago: University
of Chicago Press.
81. Bourdieu, P. (1984), Distiction: A Social Critique of the Judgment
of Taste, USA: Havard.
82. Brigid Mahoney (2001), Jurgen Habermas and the public sphere: critical engagements, PhD. Dissertation, University of Adelaide. 83. British Council (2016), Creative hubs: understanding the new
economy
84. Cultural and creative hubs network Asia - Europe (2005), Needs
analysis on culture and creative hubs in Asia and Europe
85. Cultural and creative hubs network Asia - Europe (2015), Cultural and creative hubs network Asia-Europe: a project for kick – starting a new network between Asia and Europe
86. Douglas Kellner (2006), “Habermas, the Public Sphere, and
Democracy: A Critical Intervention.”
87. Lisa B. W. Drummond (2000), “Street Scenes: Practices of Public and Private Space in Urban Vietnam”, Urban Studies, 37 (12), 2377- 2391.
88. Drummond L. and Nguyen Thi Lien
(2009), Uses and understandings of public space among young people in Hanoi, Vietnam. In: Daniere, A. and Douglass, M., eds. The Politics of Civic Space in Asia. London: Routledge, 175-196.
89. Noelani Eidse, Sarah Turner & Natalie Oswin (2016), Contesting Street Spaces in a Socialist City: Itinerant Vending-Scapes and the Everyday Politics of Mobility in Hanoi, Vietnam, Annals of the American Association of Geographers, 106:2, 340-349.
90. Michel Foucault and Jay Miskowiec Source (1986), Of Other
Spaces, Diacritics, Vol. 16, No. 1 (Spring, 1986), pp. 22-27.
91. Stephanie Geertman, Danielle Labbé, Julie-Anne Boudreau and Olivier Jacques (2016), Youth-Driven Tactics of Public Space Appropriation
158
in Hanoi: The Case of Skateboarding and Parkour, Pacific Affairs, Vol. 89, No. 3, pp. 591-611.
92. Anthorny Giddens (1991), Modernity and Self-Identity, Cambridge:
Polity Press.
93. Goheen, Peter, G. (1998), “Public space and the geography of the modern city”, Progress in Human Geography, 22 (1998) 4, pp. 479- 496.
94. Akhil Gupta and James Ferguson (1997), Culture, power, place: in critical anthropology, Durham, N.C.: Duke
explorations University Press.
95. Akhil Gupta and James Ferguson (1992), “Beyon “culture”: space, identity anh the politics of difference”, Cutural Anthropology, Vol.7, pp. 6-23.
96. Jürgen Habermas (1974), The Public Sphere: An Encyclopedia Article (1964); New German Critique, No. 3. (Autumn, 1974), pp. 49-55.
97. Jürgen Habermas (1989), The Structural Transformation of the
Public Sphere, The MIT Press, Cambridge, Massachusetts.
98. Hall, S. (1994). "Cultural Identity and Diaspora". In Williams, Patrick and Laura Chrisman, Colonial dicourse and post - colonial theory: a reader (pp. pp 227-237). London: Harvester Wheatsheaf.
99. Institut national de la recherche scientifique (INRS, Canada), the Institute of Sociology of the Vietnamese Academy of Social Sciences (IoS-VASS, Vietnam), and HealthBridge (Vietnam and Canada) (2015), Youth-friendly public spaces in Hanoi
100. Civic Space Production and Local Government Capacity: Lessons from Muang Klang, Thailand, Journal of Social Issues in Southeast Asia, Vol. 26, No. 1 (April 2011), pp. 58-79
101. Knott Kim (2005), The Location of Religion: A Spatial Analysis.
London: Equinox Publishing Ltd.
102. David Wee Hock Koh (2006), Wards of Hanoi, Institute of
159
Southeast Asian Studies.
103. David Wee Hock Koh (2007), The pavement as civic space: History and dynamics in the city of Hanoi in Globalization, the City and Civil Society in Pacific Asia, Routledge.
104. Kong, Lily, & Law, Lisa (2010), Introduction: Contested
Landscapes, Asian Cities. Urban Studies, 39(9), 1503-1512. 105. Sandra Kurfürst (2008), The Transformation of Public Space in
Hanoi, Asien 108 (Juli 2008), S. 67-79
106. Sandra Kurfürst (2011), Redefiding public space in Hanoi: places, practices and meaning, Unpublished, PhD. Dissertation, Department of Urban Sociology, University of Passau.
107. Henri Lefebvre (1991), The production of space, Translated by Donald Nicholson-Smith. Maiden, MA,USA: Blackwell Publishing. 108. Logan, William S. (2009), Hanoi, Vietnam representing power in
and of the nation, City, Vol.13, no.1, 87- 94.
109. Louis Wirth (1938), Urbanism as a way of life, The American
Journal of Sociology, Vol. 44, No. 1 (Jul., 1938), pp. 1-24
110. Setha M. Low (2009), Toward an Anthropological Theory of Space
and Place, Semiotica 175–1/4 (2009), 21–37
111. Setha M. Low and Lawrence-Zuniga, Denise (2007), “Locating Culture”, in: The anthropology of space and place: Locating culture, edited by Setha M. Low and Denise Lawrence-Zuniga, Blackwell Publishing, Oxford.
112. Mandy Thomas (2003), Spatiality and political change in urban Vietnam. In: Lisa.B.W.Drummond and Mandy Thomas, Consuming urban culture in contemporary Vietnam, London: Routledge, 170- 188.
113. Doreen Massey (1994), Space, Place, and Gender, Oxford: Polity
Press.
114. Victor H. Matthews (2003), “Physical Space, Imagined Sapce, and Lived Space in Ancient Israel”, Biblical Theology Bulletin: A
160
Journal of Bible and Theology, Vol. 33, Issue 12, tr. 12-20.
115. Don Michel (2003), The Right to the City: Social Justice and the
Fight for Public Space. New York:The Guilford Press
116. Mike Douglass - K.C.Ho - Giok Ling Ooi (2007), Globalization, the City and Civil Society in Pacific Asia: The Social Production of Civic Spaces, Routledge.
117. Mike Douglass and Amrita Daniere (2009), Urbanization and civic space in Asia, In: Daniere, A. and Douglass, M., eds. The Politics of Civic Space in Asia. London: Routledge, 1-18.
118. Peter J.M. Nas (2011), Cities full of symbols – a theory of urban
space and culture, Leiden University Press.
119. Nora. A Taylor (2007), “Vietnamese anti-art and anti-Vietnamese artists: experimental performance culture in Hanoi‟s alternative exhibition spaces”, Journal of Vietnamese Studies, Vol.2(2), pp. 108-128.
120. Nora. A Taylor (2001), “Framing the National Spirit: Viewing and Reviewing Painting under the Revolution” in “The Country of memory: remaking the past in late socialist Vietnam” (Hue – Tam Ho Tai), University of California Press, pp 109-134.
121. Wells-Dang, A. (2010). Political space in Vietnam: a view from the „rice-roots'. The Pacific Review, Vol. 23, No. 1, pp. 93-112. 122. Zizi Papacharissi (2002), The virtual sphere: The internet as a public sphere, SAGE publications, London, Thousand Oak, CA and New Delhi, Vol 4, 9-27.
Bài viết từ các website 123. Nguyễn Nhƣ Huy (2013), Soho – cái nôi của không gian phá cách,
Thể thao và Văn hóa cuối tuần https://thethaovanhoa.vn/van-hoa/soho-cai-noi-cua-khong-gian-pha- cach-n20130509134636305.htm
124. Nguyễn Nhƣ Huy (2013), Nhận diện những không gian phá cách,
161
Thể thao và Văn hóa cuối tuần https://thethaovanhoa.vn/van-hoa/nhan-dien-nhung-khong-gian-pha- cach-n20130516132803532.htm
125. Phạm Thúy Loan (2016), Không gian công cộng trong đô thị - Từ lý
luận đến thiết kế https://kientrucvietnam.org.vn/khong-gian-cong-cong-trong-do-thi- tu-ly-luan-den-thiet-ke/
126. Nguyễn Sỹ Nguyên (2020), Quan niệm của Jurgen Habermas về
không gian công cộng, truy cập ngày 3/7/2021 http://www.vanhoanghean.com.vn/component/k2/30-nhung-goc- nhin-van-hoa/14514-quan-niem-cua-j-rgen-habermas-ve-khu-vuc- cong-cong
127. Phạm Xuân Nguyên (2020), Lịch sử một câu nói, đăng trên Tạp chí
Ngƣời đô thị) https://www.nguoidothi.net.vn/lich-su-mot-cau-noi-25168.html 128. Rosen Elisabeth, (2013, 11 12). Vietnam Comes of Age. The
Diplomat. https://thediplomat.com/2013/11/vietnam-comes-of-age/
129. Trí thức cần có không gian sáng tạo riêng, trong website
https://tiasang.com.vn/, truy cập ngày 9/10/2020
130. Đào Mai Trang (2006), Mĩ thuật đương đại Việt Nam liên ứng với thế giới – nhìn từ Hà Nội, trong website: http://www.talawas.org
PHỤ LỤC
162
Ảnh một số hoạt động của các không gian sáng tạo tại Hà Nội
Không gian sáng tạo Cà phê thứ 7 - phố Ngô Quyền
Ảnh do NCS chụp
Không gian sáng tạo Cà phê thứ 7 – phố Ngô Quyền
Ảnh do NCS chụp
163
Không gian sáng tạo Tổ chim xanh – phố Đặng Dung
Ảnh do NCS chụp
Không gian sáng tạo Tổ chim xanh – phố Đặng Dung
Ảnh do NCS chụp
164
Không gian sáng tạo Tổ chim xanh – phố Đặng Dung
Ảnh do NCS chụp
Không gian sáng tạo 60s Thổ Quan – phố Khâm Thiên
Ảnh do NCS chụp
165
Không gian sáng tạo 60s Thổ Quan – phố Khâm Thiên
Ảnh do NCS chụp
Không gian sáng tạo Heritage space – phố Trần Bình
Ảnh do NCS chụp
166
Không gian sáng tạo Hanoi DocLab – phố Thụy Khuê
Ảnh: https://www.facebook.com/HanoiDOCLAB
Không gian sáng tạo Ơ kìa Hà Nội – Đê La Thành
Ảnh: https://www.facebook.com/okiahanoi
167
Không gian sáng tạo Ơ kìa Hà Nội – phố Hoàng Hoa Thám
Ảnh: https://www.facebook.com/okiahanoi
168