BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

PHAN THANH VIỆT NGHIÊN CỨU VĂN BẢN NGỰ CHẾ CỔ KIM THỂ CÁCH THI PHÁP TẬP LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Hà Nội – 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

PHAN THANH VIỆT NGHIÊN CỨU VĂN BẢN NGỰ CHẾ CỔ KIM THỂ CÁCH THI PHÁP TẬP Chuyên ngành: HÁN NÔM Mã số: 9.22.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

1: PGS.TS Hà Văn Minh 2: PGS.TS Nguyễn Thanh Tùng

Hà Nội - 2022

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận án này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Các

số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận án này là trung thực. Kết quả nghiên

cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố trước đó.

Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.

Tác giả

Phan Thanh Việt

LỜI CẢM ƠN 

Nghiên cứu sinh xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư

phạm Hà Nội, Phòng Sau Đại học, Khoa Ngữ Văn, Tổ Bộ môn Hán Nôm cùng quý

thầy cô Giảng viên Bộ môn Hán Nôm và Văn học.

Chân thành tri ân PGS.TS Hà Văn Minh, PGS.TS Nguyễn Thanh Tùng - hai

người thầy đã tận tình chỉ dẫn cho Nghiên cứu sinh hoàn thành tốt luận án này. Đặc

biệt thầy Hà Văn Minh là người thầy mà Nghiên cứu sinh có cơ duyên được học tập

và làm việc từ buổi đầu học Cao học Hán Nôm tại Hà Nội.

Nghiên cứu sinh chân thành cảm ơn quý thầy cô, nhà khoa học là thành viên

hội đồng trong các Hội đồng khoa học của luận án từ cấp Tổng quan, Chuyên đề,

Xemina, Bộ môn, Phản biện độc lập và Hội đồng cấp Trường chính thức đã giành

thời gian đọc, sửa và góp ý cho luận án ngày càng hoàn thiện.



Con xin thành kính niệm công ơn của Thầy Tổ, Gia đình - Cha mẹ, các bậc

Thiện hữu tri thức đã luôn hỗ trợ, động viên trong suốt thời gian học tập nghiên cứu.

Luận án là công trình mở đầu cho con đường nghiên cứu khoa học của tác giả

nên sẽ còn rất nhiều khiếm khuyết. Kính mong các bậc thức giả cao minh chỉ giáo.

Kính chúc vô lượng cát tường!

Thăng Long - Phú Xuân, Tân Sửu niên Trọng Xuân

Phan Thanh Việt

MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................................... 1 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 3 3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 3 4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................... 4 5. Đóng góp mới của luận án ................................................................................................. 5 6. Cấu trúc của luận án ........................................................................................................... 5 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TÁC PHẨM ...................................................................................................................................................... 7 1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu ...................................................................................... 7 1.1.1 Tư liệu cổ ghi chép thơ Ngự chế và tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập của Thiệu Trị .......................................................................................................................... 7 1.1.2. Công trình thư mục học, số hoá về thơ văn Ngự chế của Thiệu Trị ............................ 9 1.1.3. Nghiên cứu về tiểu sử, sự nghiệp văn chương của Thiệu Trị .................................... 10 1.1.4 Nghiên cứu về tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập ................................. 14 1.2 Tác giả Thiệu Trị ........................................................................................................... 16 1.2.1 Thân thế cuộc đời và sự nghiệp chính trị .................................................................... 16 1.2.2 Khái quát sự nghiệp văn chương của Thiệu Trị .......................................................... 25 1.2.3 Giới thiệu tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập ........................................ 32 1.3 Định hướng nghiên cứu của đề tài ................................................................................. 33 Tiểu kết chương 1 .................................................................................................................................. 35 CHƯƠNG 2: KHẢO CỨU VĂN BẢN NGỰ CHẾ CỔ KIM THỂ CÁCH THI PHÁP TẬP ..... 36 2.1 Tên gọi, niên đại và quá trình biên định tác phẩm ......................................................... 36 2.2 Phân loại và hiện trạng văn bản ..................................................................................... 40 2.2.1 Tư liệu lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội .............................................. 40 2.2.2 Tư liệu lưu trữ tại Thư viện Quốc gia, Hà Nội ........................................................... 42 2.2.3 Tư liệu mộc bản lưu trữ lại Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV, Đà Lạt .......................... 44 2.3 Khảo dị, xác định và bổ khuyết thiện bản ...................................................................... 46 2.3.1 Khảo dị và xác định thiện bản .................................................................................... 46 2.3.2 Bổ khuyết thiện bản .................................................................................................... 50 2.4 Khảo cứu cấu trúc nội dung văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập . 56 2.4.1. Khảo cứu bài Biểu ..................................................................................................... 57 2.4.2. Khảo cứu tựa dẫn của các sáng tác ............................................................................ 58 2.4.3 Khảo cứu nội dung văn bản tác phẩm ......................................................................... 60 Tiểu kết chương 2 .................................................................................................................................. 69

MỤC LỤC

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TÁC PHẨM NGỰ CHẾ CỔ KIM THỂ CÁCH THI PHÁP TẬP ........................................................................................................................ 70 3.1 Quan niệm về thể cách thi pháp của Thiệu Trị .............................................................. 70 3.2 Thể cách thi pháp cổ kim ............................................................................................... 75 3.2.1 Khái quát thể cách thi pháp cổ kim ............................................................................. 75 3.2.2 Luận giải thể cách thi pháp cổ kim ............................................................................. 80 3.3 Thể cách thi pháp tân sáng ........................................................................................... 118 3.3.1 Khái quát thống kê thể cách thi pháp tân sáng ......................................................... 118 3.3.2 Luận giải thể cách thi pháp tân sáng ......................................................................... 119 3.4 Giá trị thi học của tác phẩm ......................................................................................... 129 Tiểu kết chương 3 ................................................................................................................................ 132 CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM NGỰ CHẾ CỔ KIM THỂ CÁCH THI PHÁP TẬP ................................................................................................................................... 133 4.1 Quan niệm về nội dung thơ ca và mối quan hệ của nó với thể cách thi pháp .............. 133 4.1.1 Quan niệm về nội dung thơ ca thời trung đại Việt Nam ........................................... 133 4.1.2 Quan niệm về nội dung thơ ca của Thiệu Trị ........................................................... 135 4.1.3 Mối quan hệ giữa nội dung thơ ca và thể cách thi pháp ........................................... 136 4.2 Nội dung thơ ca trong cương vị một Hoàng đế ........................................................... 138 4.2.1 Vận dụng tư tưởng Nho giáo trong trị quốc an dân .................................................. 138 4.2.2 Chấn hưng văn trị ..................................................................................................... 144 4.2.3 Thương dân, chăm lo nông nghiệp ........................................................................... 147 4.3 Nội dung văn chương trong tư cách một thi nhân ....................................................... 150 4.3.1 Tình cảm với vua cha ................................................................................................ 150 4.3.2 Hình tượng con người, thiên nhiên trong thơ Thiệu Trị ........................................... 152 Tiểu kết chương 4 ................................................................................................................................ 163 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................................. 169 PHỤ LỤC ........................................................................................................................................... PL1

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Thống kê tác phẩm văn chương của Thiệu Trị .........................................30

Bảng 2.1: Thống kê hiện trạng lưu trữ văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách

thi pháp tập ..............................................................................................45

Bảng 2.2: Bảng đối hiệu các dị bản của tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp với Thiệu Trị Ngự chế thi ........................................................................47

Bảng 2.3: Bổ khuyết nội dung cho thiện bản ............................................................51 Bảng 2.4: Thống kê số lượng bài thơ và tựa của tác phẩm .......................................68

Bảng 3.1: Thống kê sáng tác theo đặc trưng thể cách cổ kim ...................................76

Bảng 3.2: Thống kê sáng tác theo đặc trưng thể cách tân sáng ............................. 118

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Triều Nguyễn - triều đại cuối cùng của nền phong kiến Việt Nam, đã để lại

nhiều giá trị văn hóa, lịch sử cho dân tộc. Thời đại này, còn lưu lại nhiều bộ sách có

giá trị lớn: Đại Nam thực lục (tiền biên, chính biên), Khâm định Việt sử thông giám

cương mục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam nhất thống chí, Đồng

Khánh dư địa chí… đây là những nguồn sử liệu quý giá cho việc nghiên cứu từng

giai đoạn lịch sử của đất nước. Bên cạnh những giá trị đó, thời đại nhà Nguyễn còn

để lại một kho tàng văn chương đồ sộ. Văn học thời kì này phát triển rất hưng thịnh,

là một giai đoạn lớn của nền văn học trung đại Việt Nam, với chính sách “chấn hưng

văn trị” đã hình thành nên đội ngũ sáng tác đông đảo với nhiều tác gia lớn mà trong

đó nhiều vị xuất thân từ Hoàng tộc như: vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức có tài

văn hay chữ tốt, với số lượng các tập thơ văn ngự chế hàng nghìn bài; các bậc vương

công, hoàng tử, công chúa như: Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Mai Am Công

chúa và tầng lớp Nho sĩ quan lại như: Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Nguyễn

Du, Vũ Phạm Khải, Phạm Phú Thứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu… là những tác

gia lớn với khối lượng thơ văn hàng nghìn bài. Văn học thời kỳ này đa dạng về thể

loại, phong phú về nội dung, là một kho tàng có giá trị của nền văn học trung đại

Việt Nam. Tuy nhiên văn học giai đoạn này, đặc biệt là văn chương trong Hoàng tộc

triều Nguyễn chưa được nghiên cứu đầy đủ, xứng tầm với giá trị vốn có của nó.

Hoàng đế Thiệu Trị là vị vua thứ 3 triều Nguyễn, trị vì trong 7 năm (1841-

1847), tuy thời gian tại vị không lâu nhưng số lượng tác phẩm mà ông để lại khá lớn

với thể loại và nội dung rất phong phú gồm: 4 tập Ngự chế thi, 2 tập Ngự chế văn và

các tập Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, Ngự chế Bắc tuần thi tập, Ngự chế vũ

công thi tập, Ngự đề đồ hội thi tập… tổng số lên đến hàng nghìn bài. Thơ của Thiệu

Trị chú trọng về nghệ thuật chơi chữ, đã đạt đến những giá trị tiêu biểu trong nền

Thi pháp học, với nội dung mang âm hưởng thanh tao, chân thành, viết cho non

sông đất nước, nhân dân, vua cha và quê hương xứ sở thần kinh.

Vua Thiệu Trị sáng tác thơ văn không những là đam mê, thể hiện chí khí mà

còn mang tính giáo hóa, chấn hưng văn trị và đặc biệt là nghệ thuật chơi thơ. Điều

1

đó minh chứng qua các sáng tác độc đáo, được thể hiện một cách tài hoa trong tác

phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập 御製古今體格詩法集 gồm 157 bài

(chương) và khoảng 72 thể cách. Đây là tác phẩm bao gồm những thể cách thi pháp

cổ kim được Thiệu Trị sử dụng và đặc biệt là những thể cách do chính vua tự sáng

tạo ra. Trong đó, nổi tiếng hơn cả là bài thơ chữ Hán Vũ trung sơn thủy (Non nước

trong mưa) được làm theo thể Hồi văn thể kiêm Liên hoàn, được xem là một kiệt tác

văn chương. Tập thơ là một hệ thống nghệ thuật chơi chữ rất trí tuệ, không những

thể hiện một tâm hồn thi sĩ của Thiệu Trị mà còn mang giá trị thi học to lớn. Tác

phẩm thể hiện tính chất đặc trưng của nghệ thuật sử dụng thể cách thi pháp và cách

luật âm vận, là ý thức về tinh thần độc lập trong việc sáng tác văn chương của Thiệu

Trị. Bên cạnh đó, văn bản tác phẩm này hiện vẫn còn nguồn tư liệu gốc mộc bản tại

TTLTQGIV-Đà Lạt, một tư liệu di sản vật thể giá trị của tiền nhân.

Một vấn đề cấp thiết được đặt ra là, với số lượng tác phẩm phong phú như vậy

nhưng đến nay thơ văn của ông vẫn chưa được chú trọng nghiên cứu đúng mức.

Thiệu Trị cần phải được hậu thế biết đến không chỉ với tư cách một vị Hoàng đế mà

còn là một tác gia văn học, một nhà nghiên cứu thi học của văn học thời Nguyễn nói

riêng và văn học thời kỳ trung đại Việt Nam nói chung. Thơ văn của ông cần được

nghiên cứu một cách bài bản quy mô, đặc biệt là cần nghiên cứu nghệ thuật thể cách

thi pháp trong thơ văn Ngự chế mà tiêu biểu là tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi

pháp tập, đây là điểm nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của ông. Qua đó, dần khẳng

định vị thế và làm sáng tỏ đóng góp của ông đối với nền thi pháp học trung đại Việt

Nam. Tên tuổi và sự nghiệp sáng tác của ông xứng đáng được nhắc đến trong các tác

phẩm văn học, từ điển văn học để cho các thế hệ mai sau biết rõ về sự nghiệp và

đóng góp của ông cho nền văn học trung đại Việt Nam.

Với những lí do cấp thiết đó, sau một quá trình tìm hiểu tư liệu, chúng tôi

nhận thấy chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu về văn bản tác

phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập của Thiệu Trị. Chúng tôi quyết định

chọn thơ văn Ngự chế của Thiệu Trị để làm đề tài cho luận án Tiến sĩ của mình là:

Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.

2

2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận án là văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể

cách thi pháp tập. Ngoài ra, luận án còn mở rộng đối tượng là các văn bản, tư liệu,

tác phẩm chữ Hán có ghi chép thơ văn của Thiệu Trị để tham khảo đối chiếu.

2.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nội dung:

- Nghiên cứu tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập: Tác giả, văn bản,

giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Phạm vi tư liệu:

- Tư liệu khảo sát chỉ giới hạn trong phạm vi tra cứu ở các thư viện và trung

tâm lưu trữ: Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội; Thư viện Quốc gia, Thư viện

Khoa học Xã hội, Hà Nội; Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV tại Đà Lạt; Quần thể di

tích Cung đình Huế có liên quan đến tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.

- Các công trình sử học: Đại Nam thực lục (tiền biên, chính biên); Đại Nam

nhất thống chí; Đại Nam liệt truyện (tiền biên, chính biên); Khâm định Việt sử

thông giám cương mục; Châu bản triều Nguyễn… được sử dụng làm công cụ tra

cứu làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

- Các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố có nội dung liên quan đến đề

tài bao gồm: sách chuyên khảo, sách tham khảo, các bài nghiên cứu, thông tin đăng

trên các báo, tạp chí chuyên ngành, khóa luận, luận văn… là nguồn tư liệu có giá trị

sử dụng khác nhau tùy theo từng thể loại: cung cấp thông tin khái quát hoặc cụ thể

về vấn đề nghiên cứu, giúp người viết có cái nhìn tổng thể trong việc phác họa sự

nghiệp thơ văn và đóng góp của vua Thiệu Trị.

3. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây để khai thác các nội

dung nghiên cứu:

- Phương pháp văn bản học: Đây là phương pháp đặc thù của chuyên ngành

Hán Nôm để tiếp cận tác phẩm trên góc độ cấu trúc hình thành nên một tác phẩm

Hán Nôm. Phương pháp nhằm xác định lại tính chính xác của văn bản, niên đại

3

hình thành, truyền bản, lưu trữ, khảo dị đối sánh và lựa chọn một văn bản tối ưu

nhất để phục vụ cho quá trình nghiên cứu.

- Phương pháp thi pháp học: Đây là phương pháp thi pháp học kiểu phương

Đông, được ứng dụng rộng rãi trong nghiêu cứu thể thức văn học cổ, tìm hiểu

nghiên cứu về thể cách thi pháp từ cổ đại đến thời kỳ trung đại của Việt Nam và

Trung Quốc, để nhằm tìm hiểu, đánh giá, so sánh giá trị những thể cách của Thiệu

Trị đã sử dụng và các thể cách do vua tự sáng tạo trong tập thơ.

- Phương pháp nghiên cứu văn học sử: Tìm hiểu lịch sử văn học qua các thời

kỳ, khái quát cuộc đời và sự nghiệp văn chương của tác gia văn học và khai thác

đặc điểm giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.

- Phương pháp điền dã: Là phương pháp khảo cứu thực địa, chúng tôi đi đến

trực tiếp những địa điểm gắn liền với vua Thiệu Trị như: Điện Long An nơi lưu trữ

thơ Ngự chế của nhà vua, đặc biệt hiện còn tồn tại đồ bản khảm xà cừ hai bài thơ

Hồi văn kiêm liên hoàn; Xương Lăng - nơi an táng vua Thiệu Trị; Khiêm Lăng -

lăng vua Tự Đức nơi có những bức tranh gương ghi chép thơ của vua Thiệu Trị;

chùa Diệu Đế nơi nhà vua được sinh ra, tháp Phước Duyên - chùa Thiên Mụ… để

có một cái nhìn toàn cảnh và bổ sung những tư liệu hình ảnh cho nghiên cứu.

- Phương pháp tiếp cận liên ngành: Vận dụng mối liên hệ giữa Hán Nôm với

Văn học, Lý luận Văn học, Thi pháp học, Lịch sử, Địa lí… vận dụng tri thức giữa

các ngành đó để tiếp cận, tìm hiểu văn bản tác phẩm một cách chính xác và đầy đủ.

Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng rộng rãi các thao tác nghiên cứu như: thống

kê, phân loại, so sánh, v.v…

4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục tiêu:

- Làm rõ quá trình hình thành văn bản, xác định và bổ khuyết thiện bản của tác

phẩm; Tìm hiểu, luận giải vấn đề thể cách thi pháp và đặc điểm, giá trị nội dung của

tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập; Làm rõ vai trò của Thiệu Trị trên

cương vị một Hoàng đế với những dữ kiện lịch sử trong giai đoạn trị vì và vị trí một

tác gia văn học, nhà nghiên cứu thi học.

* Nhiệm vụ:

Tương ứng với mục tiêu trên, luận án có nhiệm vụ sau:

4

- Khái quát tổng quan những nghiên cứu liên quan đến văn bản tác phẩm

Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập; giới thiệu tác giả Thiệu Trị và sự nghiệp

của ông.

- Tiến hành khảo cứu văn bản tác phẩm, nhận định về hình thức của văn bản,

xác định thiện bản, hiệu điểm, bổ khuyết thiện bản để nhằm phục vụ cho nghiên cứu

luận án và những nghiên cứu sau này.

- Tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật thể cách thi pháp của tác phẩm. Thông qua

tác phẩm, bước đầu đánh giá đóng góp của Thiệu Trị đối với nền thi học trung đại

Việt Nam.

- Tìm hiểu những đặc điểm nội dung nổi bật của tập thơ dựa trên quan niệm

sáng tác văn chương chủ đạo của Thiệu Trị. Và làm rõ tính liên kết giữa đặc điểm

thể cách thi pháp và nội dung trong tác phẩm.

5. Đóng góp mới của luận án

Khi tiến hành nghiên cứu, người viết dự kiến những đóng góp của luận án sẽ

đạt được như sau:

- Đưa ra đánh giá một cách tổng quan tình hình nghiên cứu về tác phẩm Ngự

chế cổ kim thể cách thi pháp tập của Thiệu Trị.

- Nêu rõ hiện trạng lưu trữ của văn bản tác phẩm. Xác định thiện bản, đối

hiệu văn bản và bổ khuyết nội dung cho thiện bản để phục vụ cho luận án và các

nghiên cứu chuyên sâu về sau.

- Làm sáng tỏ những đóng góp về mặt nghệ thuật thể cách thi pháp của Thiệu

Trị cho nền thi học trung đại Việt Nam. Luận giải đặc điểm giá trị thể cách và tìm

hiểu đặc điểm nội dung của tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.

- Từ việc phân tích bối cảnh lịch sử thời kỳ này đi đến những nhận xét đánh

giá về cống hiến trong văn học cũng như chính trị của vua Thiệu Trị với xã hội

đương thời, nêu được vị trí của tác giả trong lịch sử văn học trung đại nước nhà.

6. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, luận án trình bày theo nội dung bốn chương như sau:

5

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ GIỚI

THIỆU TÁC GIẢ TÁC PHẨM

Chương này, bước đầu thống kê tất cả những công trình nghiên cứu liên

quan đến đề tài và bước đầu giới thiệu văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách

thi pháp tập. Khái quát giới thiệu về thân thế, sự nghiệp chính trị và văn chương

của Thiệu Trị. Từ đó, đưa ra những đánh giá và định hướng nghiên cứu cho luận án.

Chương 2: KHẢO CỨU VĂN BẢN NGỰ CHẾ CỔ KIM THỂ CÁCH THI

PHÁP TẬP

Chương này đặt trọng tâm việc nghiên cứu văn bản học, khảo dị đối hiệu

giữa các dị bản, xác định thiện bản, bổ khuyết nội dung cho thiện bản nhằm làm căn

cứ cho việc nghiên cứu chuyên sâu tác phẩm và phiên dịch. Tiến hành khảo cứu

phân tích cấu trúc nội dung từng quyển của tác phẩm và đối chiếu với Thiệu Trị

Ngự chế thi.

Chương 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TÁC PHẨM NGỰ CHẾ

CỔ KIM THỂ CÁCH THI PHÁP TẬP

Chương này tìm hiểu quan niệm về thể cách thi pháp của Thiệu Trị. Nghiên

cứu luận giải đặc điểm nghệ thuật của các thể cách cổ kim và tân sáng được Thiệu

Trị sử dụng trong tập thơ. Qua đó, luận án làm rõ giá trị thi học của tác phẩm và

mục đích chủ đạo của Thiệu Trị khi cho biên soạn tập thơ này.

Chương 4: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM NGỰ CHẾ CỔ

KIM THỂ CÁCH THI PHÁP TẬP

Với khuôn khổ của luận án, chúng tôi tiến hành tìm hiểu những đặc điểm nội

dung để làm rõ quan điểm sáng tác của Thiệu Trị trong tư cách một vị Hoàng đế

dùng văn chương bình trị thiên hạ và tư cách là một thi sĩ yêu văn chương, thiên

nhiên non nước. Và làm rõ mối quan hệ giữa nội dung với thể cách thi pháp.

6

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TÁC PHẨM

Chương này, bước đầu thống kê tất cả những công trình nghiên cứu liên

quan đến đề tài và bước đầu giới thiệu văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách

thi pháp tập. Khái quát giới thiệu về thân thế, sự nghiệp chính trị và văn chương

của Thiệu Trị. Từ đó, đưa ra những đánh giá và định hướng nghiên cứu cho luận án.

1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1 Tư liệu cổ ghi chép thơ Ngự chế và tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi

pháp tập của Thiệu Trị

a. Ghi chép trong chính sử: Trong mục này, chúng tôi bước đầu khảo cứu ở

hai bộ chính sử quan trọng là: Đại Nam thực lục và Đại Nam nhất thống chí.

Sách ĐNTL ghi chép về việc Thiệu Trị hạ lệnh Nội các lựa chọn các bài thơ

trong Thiệu Trị Ngự chế thi để biên soạn thành tác phẩm và đặt tên là Ngự chế cổ

kim thể cách thi pháp tập, sau đó đưa tác phẩm đi san khắc, lưu hành. Điểm này

chúng tôi trình bày rõ ở chương 2.

Sách ĐNTL và ĐNNTC, mục cung Bảo Định, có giới thiệu về thơ ngự chế

của Thiệu Trị như sau: “Kính xét: đời Thiệu Trị có thơ thánh chế vịnh 12 cảnh cung

Bảo Định: 1. Cung khai phiên yến (Cung mở tiệc đãi phiên vương); 2. Điện hội từ

thần (Điện họp bầy tôi văn học); 3. Các thưởng hồ sơn (Trên gác ngắm cảnh hồ và

núi); 4. Tạ lâm thiên thủy (Thủy tạ nhìn trời nước); 5. Hiên đàm kinh sử (Trước hiên

bàn kinh sử); 6. Lang nạp yên hà (Hành lang chứa mây ráng); 7. Nam y cung khuyết

(Phía Nam tựa vào cung khuyết); 8. Bắc tiếp viên trì (Phía Bắc liền với vườn hồ); 9.

Đông quan vạn tỉnh (Phía Đông xem muôn cái giếng); 10. Tây lãm thiên phong

(Phía Tây xem ngàn ngọn núi); 11. Hạm tĩnh khán hoa (Dựa lan can lặng xem hoa);

12. Song thanh tọa nguyệt (Ngồi ở cửa sổ thưởng trăng sáng)” [64, tr.977; 68, tr.38].

Sách ĐNNTC, mục chép về Doanh Châu: “Khoảng niên hiệu Thiệu Trị có

thơ thánh chế tả 22 cảnh Doanh Châu, đầu đề là: 1. Gác Hải Tĩnh niên phong; 2.

Lầu Vô hạn ý; 3. Lầu Nhật thành; 4. Đường Cát vân; 5. Hiên Tự ấm; 6. Tạ Tứ

phương bình định; 7. Tạ trừng tâm; 8. Tạ truyền tâm; 9. Đình Hồ tâm; 10. Đình

Quang đức; 11. Đình Bát phong tùng luật; 12. Đình Bộ nguyệt; 13. Đình Thất

7

hạm; 14. (khuyết); 15. Hiên Ấm lục; 16. Thanh khả cư; 17. Tiên sa; 18. An

phường; 19. Đảo Thiêu hô; 20. Đảo Trấn bắc; 21. Cầu Kim thủy; 22. Đê Phượng

anh” [68, tr. 51-52].

Sách ĐNTL và ĐNNTC, mục chép về vườn Cơ Hạ: “Đầu đời Thiệu Trị dựng

dinh điện, tôn gọi là viên. Thơ thánh chế tả 14 cảnh Cơ Hạ viên, đầu đề là: 1. Điện

khai văn yến; 2. Lâu thưởng bồng doanh; 3. Các minh tứ chiếu; 4. Lang tập quân

phương; 5. Hiên sinh thi tứ; 6. Trai tả thi hoài; 7. Trị lưu liên phưởng; 8. Sơn tủng

tùng đình; 9. Nghê kiều tễ nguyệt; 10. Thủy tạ quang phong; 11. Vũ giang thắng

tích; 12. Tiên động phương tung; 13. Hồ tâu liễu lãng; 14. Đảo thụ oanh thanh”.

[64, tr.542; 68 , tr. 53;].

Sách ĐNNTC, mục chép về hồ Tĩnh Tâm: “Niên hiệu Thiệu Trị thơ thánh

chế vịnh 20 cảnh thần kinh, nơi đây là một cảnh, gọi là Tĩnh hồ hạ hứng có chạm

vào bảng đồng” [68, tr.55] và mục chép vườn Thư Quang: “Năm Thiệu Trị thứ 3

(1843), thánh chế thi vịnh 20 cảnh thần kinh, đây là một cảnh gọi là Thư uyển xuân

quang, có chạm vào bảng đồng” [68, tr.56].

Sách ĐNTL và ĐNNTC, mục chép về vườn Thường Mậu do vua Minh Mạng

xây và ban cho Hoàng tử Miên Tông khi còn tiềm để, dùng làm chỗ nghiên cứu kinh

sử sau khi thị vấn được rảnh rỗi. Đầu niên hiệu Thiệu Trị nơi này từng được dùng

làm chỗ tư tất cày ruộng Tịch điền. “Có thơ Ngự chế vịnh 10 cảnh trong vườn

Thường Mậu: 1. Cao lâu thắng thưởng; 2. Quảng hạ đàm văn; 3. Hiên lan hoa lộ; 4.

Trai dũ tịch hà; 5. Sơn đình mai vũ; 6. Thủy các hoa phong; 7. Thanh trì hương

luyện; 8. Lương tạ tình ba; 9. Song kiều giá nguyệt; 10. Tam phong sáp vân” [64,

tr.502; 68, tr.57]. Vườn Thường Mậu và Quốc Tử Giám là những thắng cảnh trong

Thần kinh nhị thập cảnh với các bài thơ Thường Mậu quan canh chạm vào biển đồng

và Hoàng vũ thư thanh, chạm vào bia dựng ở đình trước Quốc Tử Giám.

b. Ghi chép trên miếu điện: Thơ văn trên kiến trúc cung điện, lăng tẩm chính

là hồn cốt của người xưa để lại. Về thơ văn Ngự chế của Thiệu Trị ghi chép trên

miếu điện, chúng tôi tập trung khảo sát tại điện Long An mà nay là Bảo tàng cổ vật

cung đình Huế trực thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế.

8

Theo sách ĐNNTC, điện Long An (隆安殿) là điện chính thuộc cung Bảo

Định trong Tử Cấm Thành, được xây dựng năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), là thời kỳ

thịnh vượng của mỹ thuật cung đình Nguyễn. Điện Long An là hành cung được

dùng làm chỗ thư giãn ngâm thơ của Thiệu Trị những lúc nhàn rỗi, dùng làm chỗ

nghỉ chân của nhà vua sau lễ Tịch điền hàng năm. Nơi này được mệnh danh là một

bảo tàng thơ, vì mục đích xây dựng dùng để thưởng ngoạn ngâm nga thơ phú, nên

khi xây dựng Thiệu Trị đã cho trang trí khắc chạm thơ của mình lên đây bằng nhiều

hình thức phong phú, tạo cho ngôi điện mang một nét tao nhã đúng với đúng ý

nghĩa vườn thơ. Thơ ca được chạm khắc chìm nổi trên các ô hộc, liên ba, đố bản

bằng gỗ với lối thể hiện đặc trưng ‘nhất thi nhất họa’ (一詩一畫, một bài thơ một bức

tranh) của nghệ thuật cung đình thời kì này, thơ được sơn son thếp vàng, khảm xà

cừ, khảm ngà voi… hai gian chính ngôi điện Long An nổi bật trang trọng với nghệ

thuật khảm xà cừ hai bài thơ Vũ trung sơn thủy 雨中山水 (Non nước trong mưa) và

Phước Viên văn hội lương dạ mạn ngâm 福園文會良夜漫吟 (Đêm thơ ở Phước

Viên) được trình bày theo thể Hồi văn thể kiêm liên hoàn độc đáo là một bí ẩn thơ

trong nghệ thuật dùng chữ, chơi chữ của Thiệu Trị. Mặt sau đố bản của hai bài thơ

này đều chạm bài minh Ngự diên văn bảo minh 御筵文寶銘, đây là bài minh Thiệu

Trị sáng tác phỏng theo bài Cổ nghiễn minh 古硯銘 của Lương Vũ Đế, được trình

bày theo dạng hình tròn vơi ý nghĩa răn mình. Ngoài ra, trong điện Long An còn

hàng trăm bài thơ, câu thơ được trích dẫn trang trí, khiến cho ngôi điện mang dáng

vẻ thanh tao và đậm chất thi tứ.

Thơ văn Ngự chế của vua được ghi chép trong các nguồn tư liệu cổ là các bộ

chính sử và trên các công trình cung điện, lăng tẩm, đền gác có niên đại từ thời nhà

Nguyễn, điều này thể hiện tính chính thống của nó, thể hiện tính chất giáo hóa và

chức năng mô phạm của thơ văn.

1.1.2. Công trình thư mục học, số hoá về thơ văn Ngự chế của Thiệu Trị

a. Về Thiệu Trị Ngự chế thi 紹治御製詩, theo Di sản Hán Nôm Việt Nam

thư mục đề yếu, Trần Nghĩa và Francois Gros, thơ ngự chế của Thiệu Trị hiện đang

được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Hà Nội gồm có 3 bản in có mục lục, 1

tựa, 1 biểu, 1 bạt, 1 chí, gồm: Thiệu Trị Ngự chế thi 紹治御製詩, kí hiệu: A.135/1-

9

13; Thiệu Trị Ngự chế thi 紹治御製詩, kí hiệu: VHv.71/1-7 và VHv.72/1-11; Thiệu

Trị Ngự chế thi 紹治御製詩, kí hiệu: VHv.124/1,4,5.

b. Về tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, được ghi chép trong

các bộ sách sau:

- A.3052: Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, bản in quyển nhất, lưu trữ

tại VNCHN, Hà Nội.

- A.1960: Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, bản chép tay gồm 4 quyển,

lưu trữ tại VNCHN, Hà Nội.

- VHv.123: Thiệu Trị Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, 150 trang, khổ

29 x 17, lưu trữ tại VNCHN, Hà Nội.

- VHv.1165: Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp, 62 trang, khổ 27 x 15,5, lưu

trữ tại VNCHN, Hà Nội.

- A.1877: Ngự chế cổ kim thi thể tập sao, 54 trang, khổ 29,5 x 19, lưu trữ tại

VNCHN, Hà Nội.

- R.1597: Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, bản in quyển mục lục, lưu

trữ tại TVQG, Hà Nội.

- R.1598: Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, bản in quyển tam, lưu trữ tại

TVQG, Hà Nội.

- Tư liệu mộc bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, 4 quyển

đang bảo quản tại TTLTQG IV - Đà Lạt.

Trong nghiên cứu Mộc bản triều Nguyễn - Đề mục tổng quan, đã thống kê số

lượng và kí hiệu các văn bản thơ Ngự chế của Thiệu Trị hiện đang lưu trữ ở

TTLTQG IV - Đà Lạt. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc giới thiệu sơ lược

về các văn bản tác phẩm Ngự chế thi mà chưa có khảo cứu cụ thể về văn bản học

cũng như giá trị của văn bản.

1.1.3. Nghiên cứu về tiểu sử, sự nghiệp văn chương của Thiệu Trị

a. Về tác giả

Thiệu Trị - vị Hoàng đế thứ 3 của triều Nguyễn nên phần nhiều các tiểu sử

đều được ghi chép rất rõ ràng đầy đủ trong chính sử, cụ thể là bộ Đại Nam thực lục,

chính biên đệ tam kỷ 大南實錄, 正編第三紀 của Quốc Sử quán triều Nguyễn, đã ghi

10

chép chi tiết cuộc đời, quá trình trị vì và sự nghiệp sáng tác của ông. Các nghiên

cứu về thân thế sự nghiệp của ông đều dựa theo tài liệu chính thống này. Bộ sử này

đã được Viện Sử học phiên dịch vào những năm 60 của thế kỷ XX và xuất bản.

Sách Nguyễn Phúc tộc thế phả của Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc, phần

Đế phả, Thiệu Trị - Nguyễn Phúc Tuyền thuộc đời thứ 13 tính từ Triệu Tổ Tĩnh

Hoàng đế - Nguyễn Kim. Nghiên cứu này, ghi chép khái quát về thân thế sự nghiệp

chính trị và thơ văn của Thiệu Trị, ghi chép đầy đủ về gia đình, hậu phi, hậu duệ

của ông theo hình thức của một cuốn tộc phả.

Ngoài ra, các nghiên cứu trong sách, luận văn, khoá luận, bài báo khoa học

đều có đề cập sơ lược tiểu sử Thiệu Trị. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chỉ đề cập

một cách tổng quan về cuộc đời và sự nghiệp của ông mà chưa có phân tích chi tiết

từng khía cạnh cuộc đời và đóng góp của ông với đất nước trên lĩnh vực trị quốc và

văn chương.

b. Về sự nghiệp văn chương

Những giá trị văn học, văn hóa và lịch sử thời Nguyễn vốn đã được nghiên

cứu từ những thời kỳ trước nhưng phải đến cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 của

thế kỷ XX mới được nghiên cứu chuyên sâu. Vì vậy văn học giai đoạn này, đặc biệt

là văn chương hoàng tộc thì hầu như vắng bóng trong diễn đàn nghiên cứu học thuật.

Đó cũng là điều dễ hiểu khi những nghiên cứu về văn chương hoàng tộc chỉ được

tìm thấy trong những thời gian gần đây1.

Sách Thần kinh nhị thập cảnh, thơ vua Thiệu Trị, do nhóm tác giả Phan

Thuận An, Phạm Đức Thành Dũng, Phan Thanh Hải, Nguyễn Phước Hải Trung -

Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế (1998). Tác phẩm này, dịch chú và giới thiệu

chùm thơ Thần kinh nhị thập cảnh gồm hai mươi bài thơ vịnh hai mươi cảnh đẹp tại

kinh đô Phú Xuân đã được Thiệu Trị phân loại và đề vịnh thơ ca, đây chỉ là một

chùm thơ nhỏ trong toàn bộ phần thơ Ngự đề danh thắng đồ hội thi tập nói riêng và

tập thơ Ngự đề đồ hội thi tập nói chung.

Vĩnh Cao và Phan Thanh Hải với bài viết Vườn Thiệu Phương qua thơ Ngự

chế, đăng ở Tạp chí Sông Hương năm 2003. Bài viết trình bày những kiến trúc của 1 Ngoại trừ hai bài thơ Vũ trung sơn thủy và Phước Viên văn hội lương dạ mạn ngâm của Thiệu Trị được Việt Nam khảo cổ tập san đưa ra vấn đề nghiên cứu vào năm 1960 tại Sài Gòn được xem là sớm nhất.

11

vườn Thiệu Phương thông qua các bài thơ Ngự chế của Minh Mạng và Thiệu Trị,

nhằm mục đích tìm hiểu kiến trúc để tiến hành phục dựng khu vườn này. Bài viết

trích dẫn và dịch chú những bài thơ Ngự chế của Thiệu Trị như: Phương viên xuân

sắc, Vĩnh Thiệu Phương văn, Vĩnh Phương hiên, Dạ nguyệt Trừng Quang tạ…

Trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học - Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống thơ

văn trên kiến trúc cung đình Huế, do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế tổ chức

năm 2015 tại Huế, với những tham luận có đề cập đến giá trị thơ văn Ngự chế của

Thiệu Trị được khắc chạm trên cung điện, di tích:

Ngô Thời Đôn với bài viết Thơ ký ức sắc màu đất nước kinh đô trên cung

điện Huế, đã nêu lên một quan điểm cảm nhận sâu sắc về thơ văn trên cung đình

Huế qua khía cạnh Ký ức sắc màu đất nước - kinh đô. Tác giả có đề dẫn nhiều bài

thơ của Thiệu Trị tại điện Long An như: Vũ trung sơn thủy, Phước Viên văn hội

lương dạ mạn ngâm và tác phẩm Thần kinh nhị thập cảnh là sắc màu lý tưởng của

kinh đô Phú Xuân, tượng trưng cho sự lớn mạnh của một vương triều.

Phạm Đức Thành Dũng với bài viết Khảo sát văn tự chữ Hán trên kiến trúc

cung đình Huế - Khái quát lịch sử hình thành và đặc điểm nội dung, đã trình bày một

cách khái quát về hệ thống thơ văn chữ Hán được khắc chạm trên các di tích cung

đình, lăng tẩm. Nội dung có nhắc đến thơ văn trên điện Long An, Minh Trưng các và

đình Hương Nguyện ở chùa Thiên Mụ đều là mang đậm dấu ấn kiến trúc thời Thiệu

Trị và thơ văn được chạm khắc ở đây đều là thơ Ngự chế của nhà vua. Bài viết có

trích dẫn bài thơ Nhu viễn 柔遠 (Chính sách phủ dụ phương xa) của Thiệu Trị.

Trần Đại Vinh với bài viết Thơ khắc trang trí tại điện Long An, đã cung cấp

số liệu thống kê sơ bộ số lượng và nêu giá trị các bài thơ ở điện Long An được chạm

khắc trên các ô hộc trang trí do chính Thiệu Trị chọn lựa.

Nguyễn Thị Hồng Hạnh, với bài viết Thơ trên di tích kiến trúc điện Long An;

Lê Thị Mỹ Châu, với bài viết Thơ văn của vua Thiệu Trị trên điện Biểu Đức, đã

trình bày sơ lược về tiểu sử Thiệu Trị, trích dịch một số bài thơ tiêu biểu được chạm

khắc trên ô hộc của ông.

Phan Đăng với bài viết Thơ ngự chế của Hoàng đế Thiệu Trị trang trí bên

trong đình Hương Nguyện chùa Thiên Mụ, trong tập san Liễu Quán (Huế, 2019), đã

12

giới thiệu, phiên dịch các bài thơ của Thiệu Trị được chạm khắc ở dãy liên ba trong

đình Hương Nguyện: Linh Quán khánh vận, Vân sơn thắng tích, Đề Diệu Đế tự,

Diệu Đế tự, Đạo Nguyên các, Đại Giác điện, Cát Tường từ thất, Đề Hoằng Phúc tự.

Nguyễn Phố với bài viết Thơ ngự chế của Hoàng đế Thiệu Trị trang trí trên

bao lam phái ngoài đình Hương Nguyện, trong tập san Liễu Quán (Huế, 2019), đã

giới thiệu, phiên dịch các bài thơ ngự chế của Thiệu Trị được chạm khắc ở bao lam

bên ngoài đình Hương Nguyện: Đề Đại Từ các, Đăng Điều Ngự tháp, Tiến Sảng

đình, Huân phong lâu nguyệt tịch đắc cú, Quán Âm trúc, La Hán tùng.

Nguyễn Huy Khuyến với bài viết Làm rõ tác giả của văn bản Ngự chế Bắc

tuần thi tập và tìm hiểu giá trị của tập thơ, đã làm rõ Thiệu Trị là tác giả thực sự

của tập thơ này. Điều này góp phần khẳng định gia tài thơ văn của Thiệu Trị và

thuận tiện cho việc nghiên cứu sau này.

Luận án Tiến sĩ, Nghiên cứu văn bản khắc in thơ ngự chế của Minh Mạng

của Nguyễn Huy Khuyến, đã khảo sát sự nhầm lẫn khi sắp xếp thơ văn ngự chế

giữa Minh Mạng và Thiệu Trị tại TTLTQG IV - Đà Lạt và tiến hành cung cấp

phương pháp sắp xếp đúng vị trí, góp phần cho việc nghiên cứu thơ văn Ngự chế

của hai tác gia này.

Luận án Tiến sĩ, Thế giới nghệ thuật trong thơ trên kiến trúc cung đình Huế

của Nguyễn Phước Hải Trung, đã liệt kê những tư liệu thơ văn của Thiệu Trị được

chạm khắc trên điện Long An và điện Biểu Đức, đề cập đến bài thơ Vũ trung sơn

thủy tại chính điện Long An cùng những nghiên cứu của Nguyễn Tài Cẩn về kỹ xảo

Hồi văn liên hoàn của bài thơ này.

Ngoài ra, các luận văn Thạc sĩ và khóa luận của các tác giả Nguyễn Văn

Phương (luận văn Khảo cứu tác phẩm Ngự đề đồ hội thi tập); Nguyễn Thị Huyền

Trang (luận văn Chân dung Thiệu Trị với tư cách là một tác gia văn học qua Đại

Nam thực lục); Phạm Thị Lê (khóa luận Tìm hiểu Hoàng Huấn cửu thiên của vua

Thiệu Trị); Lưu Thị Nhận (khóa luận Tìm hiểu tác phẩm Ngự chế lịch đại sử tổng

luận), đã bước đầu giới thiệu tiểu sử, khảo cứu văn bản và tìm hiểu giá trị nội dung,

nghệ thuật của các tác phẩm.

13

Qua những nghiên cứu về sự nghiệp văn chương của Thiệu Trị, chúng tôi

nhận thấy phạm vi, quy mô cũng như mục đích chỉ mới đề cập đến các trước tác của

ông ở một chừng mực nhất định, một số công trình chỉ đi vào khai thác những chùm

thơ, bài thơ cụ thể chưa xứng tầm với gia tài văn chương của ông. Các tác giả đi

trước cũng đã có những nhận xét về giá trị văn chương và đánh giá Thiệu Trị với

vai trò một tác gia văn học. Đó là những tiền đề hữu ích cho nghiên cứu của chúng

tôi.

1.1.4 Nghiên cứu về tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập

Về tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập từ trước đến nay chưa

được nghiên cứu đầy đủ về mặt văn bản và giá trị tác phẩm. Các học giả, nhà

nghiên cứu đều tập trung quan tâm đến hai bài thơ chơi chữ độc đáo của Thiệu Trị

sáng tác theo Hồi văn thể kiêm liên hoàn được khảm xà cừ tại gian chính của điện

Long An là Vũ trung sơn thuỷ (Non nước trong mưa), bài này được biên tập san

khắc ở quyển nhất của tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp và bài Phước

Viên văn hội lương dạ mạn ngâm (Đêm thơ ở Phước Viên, bài này không biên tập

trong tập thơ), có hình dạng như một đồ hình bát quái.

Trải qua một thời gian dài, từ thời điểm tác phẩm ra đời trong thời gian trị vì

của Thiệu Trị (1841-1847) đến năm 1960, tức sau gần 120 năm tác phẩm mới được

quan tâm nghiên cứu. Trong Việt Nam khảo cổ tập san số 1 (Bộ Quốc gia Giáo dục,

Sài Gòn, xuất bản năm 1960) đã mời gọi giải mã hai bài thơ này, trong lời dẫn có

đoạn: “Trong những bài thơ chữ Hán khắc hoặc khảm cẩn tại điện Long An, có hai

bức được khảm cẩn xà cừ sắp theo thể Hồi văn kiêm liên hoàn, dùng bằng trắc, 4 vận,

đọc thành 64 bài thơ mỗi bức. Viện Bảo tàng Huế đã nhờ mấy vị túc Nho đọc những

bài thơ ấy. Nhờ các nhà cựu Nho sớm vén màn bí mật, nếu không hai bài thơ ấy sẽ

trở thành những ẩn ngữ vùi chôn vĩnh viễn với thời gian. Mong các bậc cao minh sẽ

khám phá những điều kỳ bí trong đó và đưa ra ánh sáng để cống hiến cho công

chúng” [8, tr.170]. Bài viết kèm theo hình ảnh của hai bài Vũ trung sơn thủy và

Phước Viên văn hội lương dạ mạn ngâm. Một trong những nghiên cứu sớm nhất về

hai tác phẩm này là Pierre Daudin với bài viết Poèmes anacycliques de I’empereur

Thiệu Trị, xuất bản tại Sài Gòn, 1972. Bài viết đã giới thiệu một trong hai bài thơ này

14

và đăng kèm 12 bài thơ đã giải mã. Tuy nhiên, theo Nguyễn Tân Phong thì 6 trong

12 bài đã giải mã chưa đúng quy cách. Vì vậy, cho đến thời điểm đó thì hai bài thơ

vẫn là một ẩn số.

Đến năm 1994, hai bài thơ này mới được Nguyễn Tân Phong giải mã lần đầu

tiên đầy đủ 64 bài thơ gồm 32 bài thất ngôn tứ tuyệt, 32 bài ngũ ngôn tứ tuyệt. Đây

là có thể nói là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính chất đầy đủ về hai bài thơ của

Thiệu Trị. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này không tìm thấy cách đọc để có được bài

thơ thất ngôn luật, trong khi văn bản tác phẩm được xếp theo hình tròn bát quái đủ

56 chữ (số chữ tương ứng một bài thất ngôn luật). Cuối sách có phụ lục sơ đồ cách

giải mã mỗi bài thơ và lời bạt của Tri Lễ.

Đến năm 1998, công trình nghiên cứu Tìm hiểu kỹ xảo Hồi văn liên hoàn trong

bài Vũ trung sơn thủy của Thiệu Trị của Nguyễn Tài Cẩn đã giải mã đầy đủ các bài

thơ thất ngôn, ngũ ngôn đọc theo luật bốn vận Canh - Chấn - San - Dạng. Ngoài ra,

Nguyễn Tài Cẩn còn phát triển thêm được 64 bài thơ nữa. Như vậy, tổng cộng từ một

bài thơ gốc của Thiệu Trị đến nay chúng ta đã có được 128 bài thơ, đây là minh

chứng cho sự biến hoá kỳ diệu của thể cách thi pháp Hồi văn kiêm Liên hoàn và tính

chất đơn âm tiết của văn tự Hán mà hệ thống văn tự của các ngôn ngữ khác không thể

làm được.

Bài viết Vũ trung sơn thủy - Bài thơ bí hiểm của vua Thiệu Trị (2002) trong

sách Chơi chữ Hán Nôm - Những bài thơ độc đáo của Nguyễn Phước Hải Trung, đã

giới thiệu một số cách chơi chữ đặc trưng được sử dụng trong bài thơ Vũ trung sơn

thủy dựa trên nghiên cứu của Nguyễn Tài Cẩn và Nguyễn Tân Phong.

Bài viết Non nước trong mưa - Một bài thơ của thi sĩ Miên Tông (2007) của

Bùi Văn Chất, đã trình bày một số cách đọc và từ những cách đọc ấy rút ra nhận xét

về nét độc đáo kỳ bí của bài thơ. Qua đó càng hiểu thêm về tài năng của Thiệu Trị

và thú chơi thơ độc đáo của người xưa trong dòng chảy văn hóa Việt.

Nguyễn Huy Khuyến với bài viết, Về 10 bài minh khắc trên biển đồng ở Trai

cung của vua Thiệu Trị (2014), đã bước đầu giới thiệu nội dung của 10 bài minh,

được biên tập trong quyển nhất của tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp, do

15

vua ngự chế khắc trên biển đồng và treo trên các cây tùng (cây thông) ở Trai cung

thuộc đàn Nam Giao.

Nguyễn Tuấn Cường với bài viết, Phác họa một số đặc trưng của hệ thống

di văn trên kiến trúc cung đình Huế, trong Kỷ yếu Hội thảo - Bảo tồn và phát huy

giá trị hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, (2015), đã phác họa 7 đặc

trưng của loại hình nghệ thuật kiến trúc này; ở tính nghệ thuật tác giả đã đề cập đến

nghệ thuật chơi chữ trong trường hợp của hai bài Vũ trung sơn thủy và Phước Viên

văn hội lương dạ mạn ngâm, khẳng định đây là một hiện tượng vô tiền khoáng hậu

trong lịch sử sử dụng thể Hồi văn kiêm liên hoàn ở các nước Đông Á, là điều đặc

biệt duy nhất của loại hình đơn lập âm tiết chữ Hán và trí tuệ tài hoa của nhà vua.

Nguyễn Thanh Tùng trong nghiên cứu, Thơ lục ngôn chữ Hán Việt Nam thời

trung đại thế kỷ X-XIX, đã có khảo cứu và trích dịch hai bài thơ lục ngôn: Cổ độ cô

chu và Vãn thiếu trong tác phẩm này của Thiệu Trị.

Nhìn chung đối với văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập,

về mặt văn bản chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên sâu, chủ yếu chỉ khảo sát

thực địa tại các di tích; các nghiên cứu về mặt nội dung, nghệ thuật chỉ mới dừng lại

ở một số bài thơ nhất định.

1.2 Tác giả Thiệu Trị

1.2.1 Thân thế cuộc đời và sự nghiệp chính trị

Hoàng đế Thiệu Trị (紹治皇帝, 1807-1847), tên húy Nguyễn Phúc Miên

Tông 阮福綿宗2, thủa nhỏ có tên là Dung 曧3, khi lên ngôi Hoàng đế mở kim sách

lấy tên thứ nhất trong Đế hệ thi là Nguyễn Phúc Tuyền 阮福暶. Theo Nguyễn Phúc

tộc thế phả thì Thiệu Trị thuộc đời thứ 13 tính từ Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế - Nguyễn

Kim là vị thủy tổ của dòng họ Nguyễn Phúc4, nguyên quán tại tổng Gia Miêu ngoại

2 Vì kiêng húy tên của ông là Tông 宗 nên các chữ có cùng âm và chữ đều thay đổi: âm Tông đọc thành Tôn; chữ Tông thì viết bỏ nét hoặc thay bằng chữ Tôn 尊; Tông Nhân phủ đổi thành Tôn Nhân phủ. Tại Huế, chùa Ấn Tông đổi thành chùa Từ Đàm (năm 1841); chùa Thiền Tông đọc thành Thiền Tôn. 3 Lúc ông mới sinh ra, vua Gia Long đến thăm, vui mừng mà phán cho lấy chữ về bộ ‘Nhật 日’ để đặt tên và tự tay vua viết tên là Dung 曧. 4 Mặc dù đến đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (con trai chúa Nguyễn Hoàng, cháu nội Nguyễn Kim) mới dùng chữ Phúc 福 làm tên đệm cho dòng họ Nguyễn Phúc nhưng Nguyễn Kim vẫn được xem là vị tổ thứ nhất của dòng họ Nguyễn Phúc.

trang, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông sinh ngày Nhâm Tý - 11 tháng 5 năm

16

Đinh Mão (tức ngày 16/6/1807), Gia Long năm thứ 6 (Thanh, Gia Khánh thứ 12) tại

ấp Xuân Lộc5, phía đông kinh thành trong phủ của Phúc Quốc Công Hồ Văn Bôi6.

Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và Thuận Đức Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa,

vừa sinh ra được mười ba ngày thì thân mẫu qua đời, được bà nội là Thuận Thiên

Cao Hoàng hậu mang về chăm sóc và nuôi dưỡng ở trong cung. “Thế tổ Cao Hoàng

đế đến thăm, mừng nói: Trẻ con mới sinh ra mà biết khóc thương là tính trời sinh,

ngày sau thế nào cũng giữ trọn đạo hiếu” [64, tr.20]. Ông được vua cha Minh Mạng

định hướng sắp đặt rõ con đường chính trị. “Đầu niên hiệu Minh Mạng, đến nhà học

đọc sách. Thánh Tổ Nhân Hoàng đế dụ bảo cho biết đạo trị nước, bình thiên hạ cốt

ở điều ‘Chỉ ư chí thiện’ của sách Đại học. Nhân đó, ông đặt tên cho nơi này là Chỉ

Thiện Đường 止善堂” [64, tr.20]. Năm Minh Mạng thứ 11 (1830), Hoàng tử Miên

Tông được vua cha sắc phong là Trường Khánh Công. Năm Minh Mạng thứ 17

(1836), tháng 8 vâng tỷ thư kiêm nhiếp chức Tôn Nhân phủ Tả Tôn chánh giữ sổ họ

nhà vua, thời thường tu sửa Ngọc điệp, định chương trình, chính phả hệ, ban giáo

lệnh, xếp đặt tước lộc, nêu ra những người liêm khiết tài năng.

Hoàng tử Trường Khánh Công là người nhân hiếu, được vua cha yêu quý.

Từ nhỏ, ông đã được sống trong thời đại thịnh trị của vương triều, 14 năm dưới

triều Gia Long và 21 năm dưới triều Minh Mạng. Ông lớn lên trong sự bảo ban của

vua Gia Long và Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, được vua cha Minh Mạng sắp đặt

mọi việc nhằm chuẩn bị cho sự kế thừa cơ nghiệp của hoàng tộc. “Mỗi khi vua

Minh Mạng đăng đàn làm tế lễ Nam Giao, đem tên Thái tử mật báo với trời để xin

trời trao mệnh lớn, thế mới biết vua Minh Mạng đã sớm có ý định truyền ngôi báu

cho vua rồi, thiên mệnh được truyền trao, việc xã tắc đã được yên định” [64, tr.21].

Ngày 19 tháng 12 Minh Mạng năm thứ 21 (1840), trước khi băng hà, vua Minh

5 Sau khi lên ngôi, ngay tại nơi sinh của mình, vua Thiệu Trị cho xây dựng chùa Diệu Đế trên đất ấy (nay thuộc đường Bạch Đằng, phường Phú Cát, TP Huế). Chùa được sắc chỉ kiến lập vào mùa xuân tháng ba, năm Giáp Thìn, Thiệu Trị thứ tư (1844), phía trước chánh điện chùa còn bức hoành đề bốn chữ lớn sơn son thếp vàng: “妙諦國寺 Diệu Đế quốc tự” với phần lạc khoản bên tả đề: “紹治甲辰四年春三月 - 御建, Thiệu Trị Giáp Thìn tứ niên xuân tam nguyệt - Ngự kiến”. Phía bên tả chánh điện chùa Diệu Đế, còn án thờ vua Thiệu Trị, với thần vị mạ vàng, chạm lưỡng long chầu nguyệt đề: “當今紹治佛爺無量壽 Đương kim Thiệu Trị Phật gia vô lượng thọ”, hàng năm Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc kết hợp với chùa Diệu Đế tổ chức lễ húy kỵ nhà vua long trọng vào ngày 27 tháng 9 âm lịch. Vua Thiệu Trị là vị Khai sáng ngôi chùa Diệu Đế. 6 Trong sách Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Ngô Đức Thọ phiên âm là Hồ Văn Vui.

Mạng đã cho triệu Hoàng tử Miên Tông cùng các đại thần và truyền di mệnh cho

17

Miên Tông nối ngôi vua. Sách ĐNTL chính biên, đệ tam kỷ chép sự kiện này như

sau: “Hoàng tử Trường Khánh Công, kể về tuổi và đức đáng lên nối ngôi báu. Lũ

các khanh nên hết lòng giúp đỡ để cho phúc của nước nhà được bền lâu” [64, tr.21].

Ông lên ngôi lấy niên hiệu Thiệu Trị 紹治 là vị vua thứ 3 của triều Nguyễn, tôn chỉ

khi nối ngôi của ông là Kính thiên (kính trời), Pháp tổ (noi theo tiên vương), Cần

chính (chăm lo chính sự) và Ái dân (yêu thương dân), chính ngay niên hiệu Thiệu

Trị là với ý nghĩa tiếp nối thời thịnh trị, hoạch định rõ con đường cai trị đất nước

đều theo dấu các bậc tiên vương. Sách ĐNTL chép sự kiện lên ngôi của vua Thiệu

Trị như sau: “Ngày Canh Dần, buổi chiều, vua mặc áo thường mở hòm Kim Đằng,

xem kim sách về đế hệ của Thánh Tổ làm ra, lấy chữ thứ nhất là chữ Tuyền 暶,

dùng làm tên của vua, lúc này vua vừa đúng 34 tuổi. Ngày Bính Ngọ, 20 tháng

giêng năm Tân Sửu (11/02/1841) lên ngôi Hoàng đế ở điện Thái Hòa, đại xá, đổi

niên hiệu, ban chiếu thư cho thiên hạ. Ta một lòng kính sợ, để giữ mãi mệnh trời đã

ban cho, mọi việc chăm lo, để nối tỏ tự công của Hoàng khảo. Lấy năm Tân Sửu

(1841) làm năm Thiệu Trị thứ nhất, để chính huy xưng, để tỏ đại thống” [64, tr.33].

Thiệu Trị lên ngôi trong thời kỳ thịnh trị của triều Nguyễn. Phần nhiều sử sách nhận

định vua là một người hiền hoà, thương dân, siêng năng nhưng không có tính năng

động như vua cha, mọi định chế pháp luật, hành chính, học hiệu, điền địa và binh bị

đều được sắp đặt quy củ từ thời Gia Long và Minh Mạng. Thiệu Trị chỉ áp dụng

theo các định lệ của vua cha, ít có sự cải cách, thay đổi gì mới, ông chỉ mong gìn

giữ phát huy những di sản ấy, quan lại lúc bấy giờ có Trương Đăng Quế, Vũ Văn

Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Thiếp ra sức phò tá.

Vua tập trung vào việc vận hành bộ máy cai trị đất nước, lấy đức trị nước,

chú trọng dùng kẻ có tài đức ra sức cho đất nước, lấy dân làm gốc. Ông quan niệm

chính trị cốt ở chỗ nuôi dân, không xa xỉ ham xây cất cung điện để vui chơi, nuôi

đức tiết kiệm, đó cũng là một lòng kính ngưỡng giữ gìn quy chế có sẵn, để tập trung

chăm lo việc chính sự trong nước. Thiệu Trị đặc biệt thận trọng, ghét thói xu nịnh

của quần thần, luôn đặt phép nước lên trên tình cảm cá nhân. Năm 1844, vua hạ

lệnh không cho ngoại thích tham gia vào chính sự. Lời dụ này đã được khắc trên

văn bia dựng ở Văn Miếu tại kinh đô Phú Xuân, nay vẫn còn. Trong những năm

mất mùa do thiên tai, vua gia ân cho dân, hạ lệnh tha thuế, người dân tử nạn thì ban

18

cấp tiền tuất, khiến cho nhân dân được lợi lạc, chu đáo.

Một sự kiện quan trọng trong thời gian trị vì, vào năm Thiệu Trị thứ 2 (1842),

vua ngự giá Bắc tuần đến thành Hà Nội, bang giao nhận sắc phong với triều Thanh,

có Sứ thần là Bảo Thanh sang tặng lễ vật và làm lễ Dụ tế (đọc tờ Dụ của vua nhà

Thanh điếu vua Minh Mạng). Đây có thể là lần duy nhất vua Thiệu Trị thân hành đi

xa khỏi Hoàng cung, nhân để thăm nom tình hình các địa phương, xem xét phong tục

các nơi, khuyến lợi trừ hại. Ngày 20 tháng giêng năm 1842, loan giá rời cung bằng cả

hai đường thủy và bộ. Vua sắc Hoàng tử Hồng Nhậm (vua Tự Đức sau này) theo ngự

giá và sai Hoàng tử trưởng Hồng Bảo lưu lại Kinh7, để đổng lý việc quân, việc nước

dưới sự phò tá giúp sức của các đại thần. Vua đi qua các địa phương, đều thăm hỏi

ban thưởng các kỳ lão, đi đến đâu có đền miếu tiên hiền đều sai người mang lễ đến

cáo yết. Vua ngự đến vùng Gia Miêu ngoại trang, Tống Sơn, Thanh Hóa, thân đến yết

lễ Nguyên miếu, rồi đến núi Triệu Tường vọng bái lăng Trường Nguyên (lăng Triệu

Tổ Nguyễn Kim), ghi nhớ về công ơn của tổ tiên. Đến thành Hà Nội, điển lễ thành

tựu, loan giá trở về kinh đô Phú Xuân vào tháng tư cùng năm.

Năm Giáp Thìn (1844), vua cho đúc ấn 大南皇帝 Đại Nam Hoàng đế và ấn

紹治宸翰 Thiệu Trị thần hàn làm bằng thứ ngọc biếc. Chuẩn định từ nay, phàm đi

tuần thú các địa phương, ban sắc thư ra nước ngoài, cùng các việc lớn của triều đình

thì đóng ấn 大南皇帝 Đại Nam Hoàng đế và ấn 大南天子 Đại Nam thiên tử để tỏ

7 Vốn dĩ ban đầu vua Thiệu Trị muốn Hoàng tử Hồng Nhậm lưu lại kinh đô để coi sóc việc nước. Sách ĐNTL chép: “Việc này vua Thiệu Trị có bảo với Đại học sĩ Trương Đăng Quế: ‘Kinh sư là chỗ căn bản trong thiên hạ, trách nhiệm coi việc nước không phải là nhẹ, Hồng Bảo tuy tuổi đã lớn nhưng không có học, kiến văn hẹp hòi, e khó làm xong công việc. Hoàng tử thứ hai vốn sẵn thông minh, trẫm muốn giao việc lưu kinh, được không?’ Trương Đăng Quế tâu: ‘Biết con thì không ai bằng cha, việc này chỉ tự bề trên quyết định, thần không dám biết. Vua nhân vào hầu Tây cung, đem việc ấy tâu bày, Thái hoàng Thái hậu dụ trước mặt rằng: ‘Hoàng trưởng tử lưu kinh vốn là việc cũ. Hồng Bảo tuy ít học nhưng tuổi đã trưởng thành, để lại một vài vị đại thần giúp việc, có gì là không nên. Hà tất phải thay đổi việc cũ’. Vua sợ trái ý Thái hoàng Thái hậu, bèn sai Hồng Bảo lưu kinh mà cho Hoàng tử thứ hai theo vua ra Bắc” [64, tr.289]. Sau đó, vua Thiệu Trị lệnh cho các đại thần cùng lưu lại kinh để phò tá Hoàng tử Hồng Bảo, còn Hoàng tử Hồng Nhậm thì theo ngự giá Bắc tuần. Việc làm này đã nêu rõ chủ ý truyền ngôi của ông cho Hoàng tử Hồng Nhậm sau này tức là vua Tự Đức. Vậy, có thể thấy việc vua Thiệu Trị di chiếu truyền ngôi cho Hoàng tử Hồng Nhậm người con thứ hai mà không phải người con trưởng Hồng Bảo là đúng sự thật và đúng chủ ý của nhà vua. “Một điểm son rất lớn của định chế quân chủ nhà Nguyễn là việc chọn người tài đức lên nối ngôi vua. Vị vua đương nhiệm, cũng như thời các chúa, chọn người xứng đáng nhất trong số con trai mình để nối ngôi chớ không theo nguyên tắc trọng trưởng nam hay dòng đích” [85, tr.984]. Từ đó, cho thấy các vị vua chúa nhà Nguyễn đã đặt lợi ích quốc gia dân tộc và sự vững mạnh của hoàng tộc lên hàng đầu mà chọn người đủ tài đức lên nối ngôi vua.

rõ đại thống và uy nghiêm của nước Đại Nam hùng mạnh.

19

Năm Bính Ngọ, Thiệu Trị thứ 6 (1846), nhà vua tổ chức lễ tứ tuần đại khánh.

Ban ân điển rộng khắp trong muôn dân, giảm tội hình phạt, tha bổng tù nhân, nơi

nơi đều thấm nhuần ân trạch. Cùng năm này, trong nước có người dâng ngọc quý,

vua cho là điềm lành sai khắc ấn, đến năm 1847 thì hoàn thành và cáo trời đất, tông

miếu, ấn đề: 大南受天永命傳國璽 Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ.

Ấn hiện nay được lưu trữ ở Bảo tàng lịch sử quốc gia, Hà Nội.

Sau thời gian lâm bệnh, giờ Sửu, ngày Quý Mão - 27 tháng 9 năm Đinh Mùi,

Thiệu Trị thứ 7 (1847), vua băng hà ở chính điện cung Càn Thành, thọ 41 tuổi.

Truyền di chiếu cho Hoàng tử thứ hai Phúc Tuy Công Nguyễn Phúc Hồng Nhậm lên

nối ngôi báu, tức là vua Tự Đức. Vua có trên 30 người vợ, sinh được 64 người con,

gồm 29 Hoàng tử và 35 Hoàng nữ. Trong số các Hoàng tử của mình, ngoài Hoàng tử

thứ hai được di chiếu nối ngôi, thì Hoàng tử cuối cùng là Nguyễn Phúc Hồng Dật về

sau cũng được lên ngôi, tức vua Hiệp Hòa.

Sinh thời vua Thiệu Trị chưa xây dựng lăng tẩm cho mình, trước khi băng hà

ông căn dặn Hoàng tử Hồng Nhậm về việc tiết kiệm ngân khố quốc gia trong việc

xây lăng. Sau đó, Tự Đức mới cho người tìm đất xây lăng ở vùng đồi thuộc thôn Cư

Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên và đặt tên núi Thuận

Đạo, lăng tên Xương Lăng. Trong thời gian chờ đợi, Kim quan vua được quàn tại

điện Long An 8 tháng mới an táng. Vua Tự Đức tôn xưng miếu hiệu là Hiến Tổ

Thiệu Thiên Long Vận Chí Thiện Thuần Hiếu Khoan Minh Duệ Đoán Văn Trị Vũ

Công Thánh Triết Chương Hoàng đế. Ông là vị vua thứ 3 của triều Nguyễn, được

phụng thờ tại án hữu thứ nhất trong Thế Miếu; điện Phụng Tiên trong Hoàng thành;

điện Biểu Đức thuộc Xương Lăng và chánh điện Diệu Đế quốc tự.

* Những dấu ấn trong sự nghiệp chính trị của Hoàng đế Thiệu Trị

Chính sách Nông nghiệp: Việc phát triển kinh tế đất nước đứng đầu là nông

nghiệp, chú trọng đê điều là việc quan trọng thiết yếu hàng đầu trong chính sách trị

nước của bậc quân vương. Điển lễ cày ruộng Tịch điền là thể hiện tâm nguyện

muôn dân được ấm no, mùa màng thuận lợi. Tịch điền thường diễn ra vào tháng

mùa xuân đầu năm mới hoặc đầu một vụ mùa chính của năm, ngày đó vua đích thân

xuống ruộng cầm cày, những luống đất mới mang theo những ước nguyện về một

20

mùa bội thu. Vua Thiệu Trị cũng noi theo các bậc tiên vương thi hành điển lễ Tịch

điền, nhà vua dụ rằng: “Vua cày ruộng Tịch điền để khuyên bề tôi chú trọng việc

làm ruộng, dẫn đầu cả thiên hạ trọng việc làm ruộng. Chức phận các quan địa

phương là biết thể theo ý ấy, chăm lo cho dân ta. Các quan nên càng chăm khuyên

bảo, phải làm xong ngay việc canh nông, lấy lòng trẫm làm lòng mình, lấy việc dân

làm việc mình, cốt để đất không bỏ sót địa lợi, thôn dã không có dân chơi không.

Các ngươi mà chăm lo đến công việc, làm cỏ lúa thì lời ngâm vịnh của ta cầu cho

thóc lúa đầy kho cũng được thực hiện. Lòng ta thực mừng lắm” [64, tr.846]. Trong

thời kỳ trị vì của mình, vua Thiệu Trị đã ban hành những chính sách nhằm thúc đẩy

nông nghiệp như: chăm lo đê điều, đào sông, cho dân quân khai khẩn đất hoang ở

các vùng biên cương, để khi có việc thì nghiêm cẩn phòng bị, lúc nhàn việc quân thì

ra sức cày cấy, sao cho ruộng nương ngày được mở mang, kho thóc chứa hàng năm

một tăng lên, cốt yếu cũng để cho các địa phương vùng biên cương được vững bền,

giữ cho toàn vẹn lãnh thổ. Vào những năm dân chúng bị mất mùa thì ban lệnh miễn

thuế cho dân. Trong những trước tác thơ văn của mình, nhà vua có nhiều tác phẩm

thể hiện sự quan tâm đến mùa màng, mong cho muôn dân ấm no, yên ổn.

Chính sách về giáo dục: Từ xưa chính sách trị nước của bậc quân vương là

khi có giặc dã, phiến loạn thì dùng đến võ trị để bình định giang sơn, đến khi thái

bình thì chú trọng đến văn trị để xây dựng đất nước. Vì vậy, vua cho tổ chức các kỳ

thi Hương, thi Hội, thi Đình để tuyển dụng nhân tài; Biên soạn các bộ chính sử để

định chế triều đại; soạn các bộ sách để răn dạy học trò. Ví như sách Thiệu Trị văn

quy, là bộ sách về âm vận của văn chương, soạn ra để ban phát cho các trường lớp

giúp học trò hiểu được âm vận, nhằm phát huy nền văn trị của đất nước. Vua bảo Bộ

Lễ rằng: “Từ khi ta lên ngôi đến nay, chấn hưng văn trị, mở rộng khoa thi, trong

khoảng 7 năm mở luôn 11 khoa thi Hội, thi Hương” [64, tr.1055]. Các kỳ thi võ ở

kinh cũng được tổ chức, do Bộ Binh chủ trì để tuyển chọn nhân tài võ học trong việc

dụng binh.

Biên định chính sử: Trong thời gian trị vì của mình, Thiệu Trị tiếp tục công

trình biên soạn và khắc in các bộ thực lục tiền biên và chính biên. Bộ Đại Nam thực

lục tiền biên ghi chép về các bậc tiên thánh (9 vị chúa Nguyễn) được biên soạn từ

21

năm Minh Mạng thứ 2 (1821) đến năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) trải qua 25 năm mới

làm xong và đem đi khắc in. Bộ sách Đại Nam liệt truyện tiền biên, năm 1841 cũng

được Thiệu Trị sắc lệnh cho triều thần biên soạn cùng với bộ thực lục tiền biên. Bộ

Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ (kỷ vua Gia Long), được biên soạn từ năm

Minh Mạng thứ 2 (1821) đến năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) trải qua 27 năm mới soạn

xong và được khắc in. Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ (kỷ vua Minh Mạng)

được biên soạn từ năm Thiệu Trị thứ nhất (1841) trải qua 20 năm mới biên soạn

xong dưới triều Tự Đức (1861). Bộ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ được Thiệu

Trị ban chỉ dụ cho biên soạn từ năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), là bộ sách ghi chép các

chiếu chỉ, tấu sớ, phiến dụ của triều đình nhà Nguyễn về các việc đem ra thi hành,

hoặc sửa đổi các lệ cũ, thuộc cả sáu bộ và các ty kể từ năm Gia Long thứ nhất (1802)

đến năm Tự Đức thứ 4 (1851), sách được biên soạn theo thể thức của sách Đại

Thanh hội điển sự lệ. Tất cả những bộ chính sử này được biên soạn từ trước và

trong thời gian trị vì của Thiệu Trị, ông đã trực tiếp xem xét, thẩm định nội dung

cùng với triều thần, đốc thúc việc khắc in để ban hành xiển hóa điển chương của

hoàng triều. Ngoài ra, ông còn cho tu bổ các bộ Ngọc điệp của hoàng tộc.

Chính sách đối với ngoại bang: Đối với các nước lân bang, Đại Nam là một

nước hùng mạnh. Noi theo các bậc tiên thánh, Thiệu Trị dùng chính sách “Nhu viễn”

để phủ dụ các nước phương xa thần phục, tạo nên một thời kỳ đất nước thanh bình.

Trong thời gian trị vì của Thiệu Trị, nước ta bắt đầu manh nha sự đối kháng với

người Tây phương, việc cấm đạo Gia-tô có phần nới lỏng hơn trước nhưng các

Giám mục vẫn còn bị giam giữ tại Phú Xuân. Tuy nhiên, Thiệu Trị luôn có chính

sách và thái độ cương quyết với đạo Gia-tô vì cho rằng đây là tà giáo, mê hoặc lòng

người, không những cám dỗ làm cho dân chúng u mê mà đến cả quan lại cũng tin

theo rồi làm càn, chấp mê bất ngộ, đến nỗi cả việc cư tang cho cha mẹ cũng luống

bỏ, điều này trái với quy tắc trung hiếu của Nho giáo mà các bậc sĩ phu cho đến thứ

dân đều thi hành. Đối với thực trạng này, Thiệu Trị lên án, quở trách và nghiêm trị

mạnh mẽ, quyết ngăn không cho mối nguy hại lớn mạnh, ông hạ lệnh cho các

thượng ty ở trong kinh và ngoài tỉnh phải tăng cường kiểm soát những thân biền

dưới quyền, nếu có người không gột bỏ được thì hoạch tội để đoạn tuyệt hoạ căn.

22

Chính sách về quân sự: Triều đại nhà Nguyễn đến thời Thiệu Trị là đời thứ 3,

xã tắc đã được yên định bốn phương. Tuy nhiên, những cuộc chiến tranh, nổi dậy

thời Thiệu Trị đa phần là do hậu quả từ thời Minh Mạng để lại. Thiệu Trị quan niệm

việc binh là một chính sách lớn của Nhà nước để nghiêm chỉnh vũ bị mà bảo vệ dân

sinh, đặc biệt ông cũng chú trọng thao luyện thủy binh, đóng chiến thuyền để bảo vệ

lãnh hải. Vua luôn thấu rõ được tình hình đất nước mà răn dạy tướng sĩ rằng: “Việc

binh có thể trăm năm không dùng đến, nhưng không thể một ngày không giảng tập;

voi, ngựa, thuyền tàu đều quan hệ về binh chính, nên gồm duyệt cả, trẫm sẽ thân tới

xem” [64, tr.308]. Ông ở ngôi trong thời thịnh thế nhưng biên ải vẫn còn phiến loạn,

miền Tây giặc dã còn quấy nhiễu. Một sự kiện quân sự trong thời giai trị vì của

Thiệu Trị là bình định loạn giặc Xiêm và Cao Miên ở trấn Tây thành. Cuối đời Minh

Mạng, đất Cao Miên thường nổi phản loạn do cấu kết với quân Xiêm, quân ta dẹp

mãi chẳng yên. Khi vừa nối ngôi, nghe lời tâu của Tạ Quang Cự bỏ đất Cao Miên về

trấn giữ đất An Giang. Lợi dụng điều đó, quân Xiêm xua quân đánh phá phía Nam,

vua sai tướng sĩ dẹp loạn. Đến khi giặc Xiêm và Cao Miên làm loạn ở miền Tây

được bình định, Sứ thần Cao Miên về triều cống, thụ nhận sắc lệnh nhà vua. Sau đó,

vua sai sứ sắc phong Sá Ong Giun làm quốc vương Cao Miên.

Với Phật giáo: Triều Nguyễn lấy Nho giáo làm quốc giáo, từ chính trị cho

đến giáo dục, lễ nghi đều lấy Nho giáo làm gốc. Tuy nhiên, vua chúa, hoàng tộc và

quan lại qua các thời kỳ đều rất chú trọng đến Phật giáo và vua Thiệu Trị cũng để

lại những dấu ấn sâu sắc đối với Phật giáo ở kinh đô mà ngày nay đã trở thành

những biểu tượng của Huế. Thiền sư Mật Thể trong Việt Nam Phật giáo sử lược

(năm 1943), có nhận định rằng: “Trải các triều vua, nhất là triều vua Thiệu Trị,

Ngài là một ông vua hết lòng sùng phụng và rất sốt sắng với Đạo Phật. Những sự

nghiệp xây dựng cho Phật giáo về thời này, Ngài là người đáng cho ta chép vào lịch

sử hơn hết” [79, tr.222]. Tuy Thiệu Trị không phải là một Phật tử nhưng nhận định

này chính xác với các dữ kiện lịch sử, dưới thời của ông có rất nhiều công trình

Phật giáo đã được xây dựng. Nhà vua với tinh thần “cư Nho mộ Thích”, tuy sống và

được giáo dưỡng hoàn toàn trong tinh thần Nho học nhưng vua rất mến mộ giáo lý

nhà Phật, điều này được thể hiện qua những dấu ấn đặc biệt của nhà vua với Phật

23

giáo mà cụ thể là đối với Phật giáo tại kinh đô Phú Xuân - Huế và qua các bài thơ

mang đậm triết lý nhà Phật.

Tháng 3 năm Tân Sửu (1841), Thiệu Trị ban sắc chỉ đổi tên chùa Ấn Tông

印宗寺 thành chùa Từ Đàm. Hiện tại chùa còn lưu giữ bức hoành đề: 慈曇寺 Từ

Đàm Tự, lạc khoản đề: 紹治元年三月 Thiệu Trị nguyên niên tam nguyệt. Tuy việc

đổi tên chùa bởi lý do kỵ húy tên của vua (綿宗 Miên Tông) nhưng từ đó Từ Đàm

trở thành ngôi chùa gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng của Phật giáo

Việt Nam.

Năm 1844, Thiệu Trị sắc kiến lập chùa Diệu Đế đánh dấu nơi sinh ra của

mình. Sự kiện vua cho kiến lập chùa Diệu Đế trên nền đất nơi mình sinh ra là để

phát tích điềm lành, phát khởi điều thiện lấy đó làm điều răn dạy muôn dân. Đạo

Phật hướng con người làm điều thiện, cũng như Nho giáo dạy người lấy Chí thiện

làm mục tiêu, tất cả đều không phương hại gì đến đạo làm vua. Đây là điểm gặp

nhau giữa Nho giáo và Phật giáo mà Thiệu Trị nhận chân được. Nhà vua nói mình

chẳng phải người sùng mộ mà xiển dương giáo pháp, nhưng tâm nguyện của ông là

dựng chùa cầu nguyện phúc lớn cho quần sinh. Vào tháng 3 năm 1844, nhân dịp

mừng lễ bát thọ của Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa

Thiên Mụ một cách quy mô hơn: xây thêm một ngôi tháp bát giác gọi là Từ Nhân

(sau đổi là Phước Duyên), cho xây đình Hương Nguyện phía trước ngôi tháp, trên

nóc đặt Pháp luân xoay chuyển theo gió, nhà vua thường đến đây dâng hương cầu

nguyện và cho đặt 2 tấm bia ghi chép quá trình xây dựng tháp, đình; đồng thời cho

khắc trên đó thơ văn của chính mình. Tháp Phước Duyên là một biểu tượng nổi

tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ và cả Cố đô Huế cho đến ngày nay.

Suốt trong thời gian 7 năm trị vì (1841-1847), vua cai trị đất nước cốt lấy

dân làm gốc, việc xã tắc làm trọng, luôn luôn kính cẩn giữ gìn khuôn phép của các

bậc tiên vương, lắng nghe triều thần, một lòng chí hiếu thờ Hoàng tổ tỷ (Thuận

Thiên Cao Hoàng hậu). Sự nghiệp chính trị của Thiệu Trị được thể hiện qua nhiều

mặt: dùng người tài, mưu trị, tính việc biên cương, xét địa phương, đặt giáo hóa,

chăm lo chính sự với những chính sách hài hòa nhưng đầy quyết đoán đã tạo ra một

24

xã hội nước Đại Nam dưới triều đại Thiệu Trị về bản chất là thái bình, văn phong

rực rỡ, quy củ gia pháp khéo giữ gìn, giang sơn được giữ vững.

1.2.2 Khái quát sự nghiệp văn chương của Thiệu Trị

Sự nghiệp văn chương của Thiệu Trị đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Với

thiên tính văn chương nhạy bén, xuất khẩu thành thơ, ông đã để lại một kho tàng

thơ văn đồ sộ. Ông là một trong những đại diện tiêu biểu của lực lượng sáng tác

Hoàng tộc thời Nguyễn. Với những tác phẩm thi ca đã được nâng tầm về nghệ thuật

dùng chữ, chơi chữ; đó cũng là thú vui tao nhã những lúc nhàn sự triều chính. Sáng

tác của ông thể hiện nhiều nội dung phong phú: viết về tình yêu thiên nhiên đất

nước, phong cảnh hữu tình của chốn kinh đô; viết về vua cha, yêu nước thương dân,

chăm lo chính sự, chấn hưng văn trị. Toàn bộ sự nghiệp văn chương của Thiệu Trị

với số lượng hàng nghìn bài nhưng phần lớn chưa được nghiên cứu và phiên dịch ra

Việt văn, chỉ một số công trình nghiên cứu ở một vài bài thơ nổi tiếng. Trong khuôn

khổ luận án, chúng tôi bước đầu thống kê toàn bộ những tác phẩm thơ văn Ngự chế

của Thiệu Trị, để có cái nhìn tổng thể về sự nghiệp văn chương của ông.

a. Thi tập:

Thiệu Trị Ngự chế thi 紹治御製詩 là tổng tập thơ của Hoàng đế Thiệu Trị

với đa dạng nội dung: giáo hóa, tức sự, cảm hoài, ngâm vịnh các danh thắng, nhân

vật lịch sử, yêu nước, thương dân, thời tiết, mùa màng… tất cả được chia làm 4 tập

thơ chính. Theo bài Chí của Nội các trong Ngự chế thi tứ tập, biết rõ được số lượng

bài thơ chính xác của 4 tập Ngự chế thi, cụ thể: 3 tập đầu Ngự chế thi gồm 2.620 bài

thơ là được sáng tác trong thời gian từ năm Tân Sửu (1841) đến năm Bính Ngọ

(1846) và tập 4 được sáng tác trong thời gian từ tháng giêng năm Đinh Mùi (1847)

đến tháng 8 cùng năm (27 tháng 9 vua băng hà), là 326 bài. Tổng cộng 4 tập thơ

ngự chế là 55 quyển; mục lục 16 quyển, gồm 2.946 bài thơ:

1. Thiệu Trị Ngự chế thi sơ tập 紹治御製詩初集: Tập thơ được biên soạn

xong tháng 2 năm Thiệu Trị thứ 3 (1843). Mở đầu tập thơ với lời tự 序 của Thiệu

Trị đề tháng 4 năm Quý Mão, Thiệu Trị thứ 3 (1843); hai bài tấu 奏 của Nội các,

một bài về việc khẩn thỉnh khắc in, một bài tấu việc hoàn thành khắc in. Tập thơ

25

gồm 650 bài thơ ngự chế của Thiệu Trị được biên soạn thành 13 quyển chính và

mục lục 3 quyển, tổng cộng 16 quyển. Các bài thơ này được sáng tác trong hai năm

Tân Sửu (1841) và Nhâm Dần (1842).

2. Thiệu Trị Ngự chế thi nhị tập 紹治御製詩二集: Được biên soạn xong,

khắc in vào tháng 3 năm Thiệu Trị thứ 5 (1845). Tập thơ với lời tấu 奏 của Nội các

về việc đã hoàn thành khắc in gồm: thơ 15 quyển, mục lục 5 quyển, tổng cộng là 20

quyển. Tập hợp những bài thơ ngự chế của Thiệu Trị.

3. Thiệu Trị Ngự chế thi tam tập 紹治御製詩三集, tập thơ biên soạn, hoàn

thành khắc in vào tháng 2 năm Tự Đức nguyên niên (1848), gồm thơ 20 quyển, mục

lục 5 quyển, tổng cộng là 25 quyển. Cuối tập thơ có lời Chí 識 của đại thần trong

Cơ mật viện và Nội các; lời Bạt 跋 của vua Tự Đức.

4. Thiệu Trị Ngự chế thi tứ tập 紹治御製詩四集, có 10 quyển gồm 7 quyển

chính và mục lục 3 quyển, 326 bài thơ được hoàn thành khắc in vào tháng 2 năm Tự

Đức nguyên niên (1848), cuối tập thơ có lời Bạt 跋 của vua Tự Đức và lời Chí 識

của các đại thần Nội các.

Ngoài bộ 4 tập Ngự chế thi gồm 2.946 bài, trong gia tài văn chương của

Thiệu Trị còn các tập thơ được biên tập riêng với nội dung phong phú. Một điểm

lưu ý, là các tập thơ riêng biệt dưới đây đều được tìm thấy trong Ngự chế thi. Với

khuôn khổ luận án, chúng tôi chỉ tra cứu đối chiếu số lượng 157 bài thơ trong tác

phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp với tổng tập và cho ra kết quả tương thích

hoàn toàn. Ngoài ra, có 683 bài thơ trong tập Chỉ Thiện đường hội tập được sáng

tác khi chưa lên ngôi nên sẽ không có trong tổng tập. Vì vậy toàn bộ số lượng bài

thơ trong sự nghiệp văn chương của Thiệu Trị có khoảng 3.647 bài.

5. Tác phẩm Minh lương hỷ khởi tập 明良喜起集: Vào mùa thu tháng 8,

năm 1843, Thiệu Trị ngự điện Văn Minh với cận thần trong Nội các, cùng bàn luận

về các tác giả thời nhà Đường là Đường Minh Hoàng và Đường Văn Hoàng, vua

cho rằng thơ của họ: “Lời lẽ tuy đẹp nhưng ý chưa trang trọng, ý thơ dường như

lãnh đạm. Thân làm thiên tử sao lại nói năng như người nhàn tản vậy? Vua lại nói:

Ta xem tập thơ của Bắc triều, có chỗ khen là Nhã Tụng về triều thịnh trị. Văn vật

26

nước ta không kém gì Trung Quốc. Ta thường sai các quan văn ứng chế, bài nào lấy

được thì lần lượt cho chép lại, đề tên sách là Minh lương hỷ khởi tập, há chẳng là

việc hay ư”. [64, tr.528-529].

6. Tác phẩm Hoàng Huấn cửu thiên 皇訓九篇 gồm 9 thiên: Cao minh 高明,

Bác hậu 博厚, Sủng tuy 寵綏, Trung lương 忠良, Từ ái 慈愛, Hiếu đễ 孝悌, Tạo

đoan 造端, Hữu vu 友于, Chỉ tín 止信, mỗi thiên có 3 chương với nội dung giáo

huấn lấy từ tư tưởng Nho giáo: đạo trời đất, vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bè

bạn, trau dồi đạo đức, hành động cho hợp đạo trời và lòng người về đạo trời và đạo

đức nhân luân trong các mối quan hệ tam cương ngũ thường, giữ tính thường muốn

đức. Tác phẩm này nhà vua ban cho các giảng đường để Nho sĩ làm tài liệu tu tiến.

7. Tác phẩm Ngự chế Bắc tuần thi tập 御製北巡詩集, hiện còn tư liệu mộc

bản được lưu trữ tại TTLTQGIV - Đà Lạt, kí hiệu H77/1-6, gồm 5 quyển, tổng cộng

190 tờ. Tập thơ do vua Thiệu Trị sáng tác năm 1842, trong thời gian nhà vua vi hành

Bắc tuần gồm 173 bài. Bộ sách này khắc in năm 1844, được ghi chép trong ĐNTL,

tam kỷ: “Tập thơ Ngự chế Bắc tuần khắc xong, ban cấp cho hoàng tử, hoàng thân,

các quan văn võ và các quan ở các tỉnh về chầu, cùng phủ Thừa Thiên, trường Quốc

tử giám, học chính các tỉnh đều 1 tập” [64, tr.608]. Vấn đề văn bản có sự nhầm lẫn

về tác giả, trong sách Mộc bản triều Nguyễn - Đề mục tổng quan, cho rằng tác phẩm

này là của Minh Mạng sáng tác khi ngự giá Bắc tuần. Tuy nhiên, Nguyễn Huy

Khuyến đã khảo cứu văn bản và khẳng định tác giả tập thơ là của Thiệu Trị. Một số

bài thơ được lựa chọn để khắc vào bia đá ở các nơi hành tại đi qua, để cho áng văn

chương của thánh nhân sẽ cùng với núi cao sông chảy lưu giữ đến vô cùng.

8. Tác phẩm Ngự đề đồ hội thi tập 御題圖繪詩集, được cho khắc in năm

1844, đến tháng 6 năm 1845 mới hoàn tất. Theo ĐNTL, bộ sách Ngự đề đồ hội thi

tập có 16 quyển, gồm 2 quyển mục lục và 14 quyển chính, ghi lời dẫn, lời thơ và

tranh minh họa. Qua khảo sát tại VNCHN, văn bản Ngự đề đồ hội thi tập chỉ gồm

có 12 quyển, văn bản bị thiếu quyển 11, quyển 12 và 2 quyển mục lục, được chia

thành 4 tập, nội dung gồm 3 chủ đề chính là:

27

Thứ nhất, Ngự đề danh thắng đồ hội thi tập 御題名勝圖繪詩集, từ quyển 1 đến

quyển 8, gồm những bài thơ đề vịnh các cảnh đẹp trong hoàng cung và danh lam

thắng cảnh của kinh đô Phú Xuân. Có Thần kinh nhị thập cảnh, Thiệu Trị đã sắp

xếp, đề vịnh 20 cảnh đẹp của kinh đô và cho khắc thơ vào bia đá dựng ở những

danh thắng này. Ngoài ra, ông còn cho khắc chùm thơ này lên bảng đồng; vẽ tranh

gương treo tại các cung điện; vẽ trên một số đồ sứ kiểu từ Trung Hoa.

Thứ hai, Ngự đề cổ tích đồ hội thi tập 御題古跡圖繪詩集, từ quyển 9 đến quyển

10, vịnh các tích trong Đế giám đồ thuyết, mỗi tích được vịnh một bài thơ.

Thứ ba, Ngự đề nhân vật đồ hội thi tập 御題人物圖繪詩集, từ quyển 13 đến

quyển 14 gồm những bài thơ vịnh người và phong cảnh, hoa cỏ, muông thú. Riêng

hai quyển 11 và 12 hiện bị thất lạc, nên không rõ nội dung thuộc phần nào.

Tác phẩm Ngự đề đồ hội thi tập 御題圖繪詩集, giá trị thực tiễn tác phẩm có ý

nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bảo tồn và kiến thiết xây dựng lại những công

trình thuộc kinh thành Huế được đề cập đến trong tác phẩm, thông qua những bức

hoạ khá chi tiết để tạo nên một thiết kế tổng quan cho công trình tái tạo, để góp

phần gìn giữ di sản của dân tộc.

9. Chỉ Thiện đường thi văn hội tập 止善堂詩文會集 hay Chỉ Thiện đường

hội tập. Tập thơ là tổng hợp những sáng tác của Thiệu Trị khi còn tiềm để (chưa

lên ngôi), gồm 13 quyển; trong đó 42 bài văn hợp thành 3 quyển văn; 683 bài thơ

hợp thành 10 quyển thơ. Đến tháng 5, năm 1845 Nội các biên soạn hoàn thành,

dâng lên vua ngự lãm và khắc in. Tập thơ do Đại thần Trương Đăng Quế soạn lời

tựa, hiện còn lưu giữ trong Quảng Khê văn tập của ông.

10. Ngự chế Tài thành Phụ tướng tiên thiên hậu thiên thi tập 御製裁成輔

相先篇後篇詩集, còn 1 bản viết tại VNCHN, có lời tựa của Thiệu Trị, bài bạt của

Vũ Phạm Khải, Nguyễn Bá Nghi đều viết vào năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Tập thơ

của Thiệu Trị dựa vào thuyết Ngũ phương và Kinh Dịch, dịch ra các quẻ và đặt

thành lời thơ để bói việc lành, việc dữ. Nhân việc thấy người xem bói xóc ống thẻ

vua cho rằng như vậy là đã có sức người tức là không thiêng liêng nữa, không thông

suốt được lẽ mầu nhiệm. Vua bèn chế ra 2 quả thiên cầu chữ đỏ và chữ trắng, trên

28

quả cầu khắc 10 can, ngũ thường (Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín) và ngũ phương để yên

trong cái hộp. Vua lại làm được 200 bài thơ, sai quan Nội các Nguyễn Cửu Trường

và Vũ Phạm Khải biên tập chia làm 2 quyển gọi là Tiên thiên và Hậu thiên định làm

phép xem bói. Sau khi Nội các biên soạn thơ ấy xong, đặt nhan đề sách là Ngự chế

Tài thành Phụ tướng Tiên thiên Hậu thiên thi tập, đem phổ quát rộng rãi.

11. Ngự chế vũ công thi tập 御製武功詩集, kí hiệu H98/1-9, tư liệu mộc bản

lưu trữ tại TTLTQG IV hiện còn 8 quyển, 352 tờ. Tháng 8 năm 1847, tập thơ được

được viện Cơ mật, Nội các biên tập xong và dâng biểu xin khắc in. Thơ khắc chưa

xong thì vua băng hà, đến Tự Đức nguyên niên (1848) mới khắc in xong và đem ban

hành. Tập thơ này, trong Mộc bản triều Nguyễn đề mục tổng quan đã nhầm lẫn cho

rằng đây là tập thơ của Minh Mạng. Tuy nhiên, Minh Mạng mất năm 1841 và theo

lời tâu của Nội các như trên thì đây là tập thơ của Thiệu Trị về việc bình định các

cuộc phản loạn Xiêm La, Chân Lạp ở trấn Tây Thành trong thời gian từ năm 1841

đến 1847, tức là thời gian trị vì của Thiệu Trị. Vì vậy, đây là tập thơ của Thiệu Trị.

12. Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập 御製古今體格詩法集: Nội các biên

soạn hoàn thành vào tháng 9 năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) và dâng biểu xin khắc in.

Tập thơ gồm 157 chương/ bài của Thiệu Trị, được sáng tác theo các thể cách thi

pháp cổ kim và những bài được làm theo thể cách do chính vua sáng tạo ra.

b. Văn tập và thể loại khác

1. Thiệu Trị Ngự chế văn tập 紹治御制文集: Hai tập văn của Thiệu Trị hiện

còn lưu trữ tại VNCHN, Hà Nội gồm 3 bản in:

- A.119/1-3: Thiệu Trị Ngự chế văn tập 紹治御制文集, 1846 tr., 27 x 17, 1

tựa, 2 mục lục, in năm Thiệu Trị 6 (1846).

- VHv.137/1-9: Thiệu Trị Ngự chế văn tập 紹治御制文集, 748 tr., 27 x 17, 2

bạt, 2 mục lục (thiếu C 2, 3).

- VHv.1138: Thiệu Trị Ngự chế văn tập 紹治御制文集, 146 tr., 26 x 17 (chỉ

còn C 2).

Nội dung của hai tập Ngự chế văn gồm: 200 bài chiếu, chế, dụ, biểu, châm,

kí, minh, tựa, bạt, bi kí, câu đối… của Thiệu Trị tấn phong chức tước, xây dựng

29

lăng tẩm, sửa chữa đê điều cầu cống, khuyên răn dân chăm chỉ làm ruộng, giữ thuần

phong mỹ tục, thi tuyển chọn người tài… Ngự chế văn tập đầu được soạn xong vào

tháng 2 năm 1846, các quan đại thần dâng sớ xin khắc, đến tháng 5 thì khắc xong.

2. Tác phẩm Thiệu Trị văn quy 紹治文規: Được vua hạ lệnh biên soạn vào

tháng giêng năm 1845, do Trần Xuân Thực và Vũ Duy Quang đứng đầu công việc.

Vua nhân cảnh đất nước thái bình thịnh trị, nhàn rỗi, văn phong rất thịnh và muốn

cho nước Nam có bộ sách về âm vận đầy đủ giúp hậu học có căn cứ để tra cứu, bèn

giao cho Nội các và viện Hàn lâm đem sách Vận thư các đời, tham khảo với Tự điển

rồi những chỗ thiếu sót thêm vào cốt cho từng chữ, từng nghĩa, từng âm, từng vần

đều được hội tụ rõ ràng, giúp cho văn nhân, sĩ phu tầm thường được dễ hiểu. Đến

đầu niên hiệu Tự Đức mới biên soạn hoàn thành nhưng điều đáng tiếc hiện nay bộ

sách đã bị thất lạc.

3. Tác phẩm Ngự chế lịch đại sử tổng luận 御製歷代史總論, biên tập năm

Thiệu Trị 6 (1846), đến tháng giêng năm thứ 7 (1847) khắc in xong. Sách do vua

trước tác trong những lúc nhàn rỗi công việc, mở sách tìm tòi những trị đạo của các

đời, trích lấy những đại cương, viết thành các bài luận. Sách in xong, vua chuẩn ban

cho các hoàng tử, hoàng tôn, hoàng thân, học trò trường Quốc tử giám và học

đường các phủ, huyện ở trực tỉnh mỗi nơi mỗi bộ, để giúp ích cho việc dạy học.

Ghi chú

TT

1

Tự/ bạt/ tấu/ biểu 1 tựa; 2 tấu;

Bảng 1.1: Thống kê tác phẩm văn chương của Thiệu Trị Tổng số quyển Tác phẩm Văn chương Thiệu Trị Ngự chế thi sơ tập 紹 治御製詩初集

1 tấu;

2

Thiệu Trị Ngự chế thi nhị tập 紹治御製詩二集

3

1 bạt; 1 thức;

Thiệu Trị Ngự chế thi tam tập 紹治御製詩三集

4

1 bạt; 1 thức;

Thiệu Trị Ngự chế thi tứ tập 紹 治御製詩四集

16 quyển; (13 quyển chính; 3 quyển mục lục) 20 quyển; (15 quyển chính; 5 quyển mục lục) 25 quyển; (20 quyển chính; 5 quyển mục lục) 10 quyển; (7 quyển chính; 3 quyển mục lục) 1 quyển

Khuyết

5 Minh Lương hỷ khởi tập 明良

喜起集

6 Hoàng Huấn cửu thiên

1 quyển

1 tấu

Soạn và in xong năm 1843. Lưu trữ tại VNCHN Soạn và in xong năm 1845. Lưu trữ tại VNCHN Soạn và in xong năm 1848. Lưu trữ tại VNCHN Soạn và in xong năm 1848. Lưu trữ tại VNCHN Năm 1843 vua Thiệu Trị sắc lệnh biên soạn. Soạn năm 1847. Lưu trữ tại VNCHN

皇訓九篇

30

5 quyển

1 biểu

7 Ngự chế Bắc tuần thi tập 御製

北巡詩集

1 tựa;

8 Ngự đề đồ hội thi tập 御題圖繪

詩集

16 quyển; (2 quyển mục lục; 14 quyển chính)

Khắc in năm 1844. Hiện còn Mộc bản lưu trữ tại TTLTQG IV Khắc in năm 1844. Hoàn thành năm 1845. Lưu trữ tại VNCHN

1 tựa;

Năm 1845 biên soạn hoàn thành.

9 Chỉ Thiện Đường thi văn hội tập 止善堂詩文會集

1 tựa; 1 bạt

10 Ngự chế Tài thành Phụ tướng tiên thiên hậu thiên thi tập 御 製裁成輔相先篇後篇詩集

Khuyết

11 Ngự chế vũ công thi tập 御製

武功詩集

13 quyển; (3 quyển văn; 10 quyển thơ) 2 quyển; Tiên thiên và Hậu thiên 10 quyển; (8 quyển chính; 2 quyển mục lục)

12 Ngự chế cổ kim thể cách thi

pháp tập 御製古今體格詩法集

4 quyển; (1 quyển mục lục; 3 quyển chính)

1 biểu; 1 bạt; 2 tựa thơ;

13

Biên soạn năm 1847. Lưu trữ tại VNCHN. Biên soạn hoàn thành năm 1847. Hiện còn 8 quyển. Mộc bản lưu trữ tại TTLTQGIV Biên soạn hoàn thành năm 1847. Lưu trữ tại VNCHN; TVQG; TTLTQG- IV. Lưu trữ tại VNCHN.

14

Lưu trữ tại VNCHN.

15

Khuyết

Khuyết

Thiệu Trị ngự chế văn sơ tập 紹治御制文初集 Thiệu Trị Ngự chế văn nhị tập 紹治御制文二集 Thiệu Trị văn quy 紹治文規

16 Ngự chế lịch đại sử tổng luận

1 tựa;

御製歷代史總論

Biên soạn năm 1845; Năm 1848 hoàn thành. Thất lạc. Biên soạn năm 1846; Năm 1847 khắc in xong.

Toàn bộ sự nghiệp văn chương của Thiệu Trị phần lớn được sáng tác trong

vòng 7 năm trị vì, gồm có: 4 tập Ngự chế thi; 8 tập thơ Ngự chế được biên tập riêng

biệt; 2 tập Ngự chế văn tập; còn có 2 bộ Thiệu Trị văn quy và Ngự chế lịch đại sử

8 Ngoài ra, còn một tác phẩm Đỗ thi toát yếu 杜詩撮要: - Về ai là tác giả của tác phẩm này thì chưa có tư liệu chính xác. Tuy nhiên, bước đầu khảo cứu thì có thể cho là của vua Thiệu Trị. Tác phẩm này được Trương Đăng Quế soạn lời tựa theo lệnh của vua. Vấn đề đặt ra, Trương Đăng Quế làm quan dưới 3 triều: Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Vậy thì đây là tác phẩm của vị vua nào? Vì lời tựa trích trong Quảng Khê văn tập thì không thấy đề niên hiệu soạn bài tựa. Căn cứ vào lời tựa có câu “… khúc ca ‘Minh lương hỷ khởi’, câu vịnh ‘củ mạn quang hoa’ sẽ lại được nhìn thấy” và chính Thiệu Trị cũng có tập thơ “Minh lương hỷ khởi tập” và Thiệu Trị cũng có bài thơ vịnh về thơ của Đỗ Tử Mỹ nên bước đầu phỏng đoán Đỗ thi toát yếu là do

tổng luận, tổng cộng 16 tập thi văn8, có khoảng 3.647 bài thơ, cùng văn các loại.

31

Nhà vua chú trọng thi hành phát triển văn trị để cùng song hành võ trị khiến cho văn

phong nơi nơi được hòa nhã, cho đất nước được thái bình, thịnh trị. Thiệu Trị là một

tác gia lớn của văn học thời Nguyễn nhưng tên tuổi và trước tác của ông chưa được

đề cập trong các bộ Từ điển văn học, sách giáo khoa, tổng tập Văn học Việt Nam.

Đây là sự khiếm khuyết lớn của Văn học thời kỳ nhà Nguyễn.

1.2.3 Giới thiệu tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập

Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập là một trong những tác phẩm tiêu biểu

trong sự nghiệp sáng tác văn chương của Thiệu Trị. Tác phẩm này được Thiệu Trị

sắc lệnh cho Nội các chọn trích tuyển từ Thiệu Trị Ngự chế thi, gồm những bài thơ

được sáng tác theo các thể cách thi pháp cổ kim, đặc biệt trong đó có những thể cách

do chính vua tự sáng tạo, là một sự đóng góp cho nền thi pháp học trung đại. Tác

phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập được Nội các biên tập hoàn thành vào

tháng 9 năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) và dâng biểu xin khắc in. Theo bài Biểu của Nội

các thì Thiệu Trị đã sử dụng khoảng 72 thể cách thi pháp cổ kim và tân sáng để sáng

tác tập thơ với số lượng 157 bài (chương). Đây là tập thơ đặc biệt, thể hiện tài năng

nghệ thuật thể cách thi pháp của thi sĩ Miên Tông. Những thể cách cổ kim được tác

giả sử dụng phong phú như: Hồi văn thể kiêm liên hoàn, Minh, Thủ vỹ ngâm, Thiền

liên thể, Lục ngôn, Tạp số thể, Cung điện thể, Cô nhạn xuất quần cách... Đặc biệt với

thể Hồi văn kiêm liên hoàn, Thiệu Trị đã tạo nên một kiệt tác văn chương với tác

phẩm Vũ trung sơn thủy và Phước Viên văn hội lương dạ mạn ngâm.

Ngoài các thể cách cổ kim được Thiệu Trị sử dụng trong tập thơ, ông còn

dành thời gian nghiên cứu thi pháp để sáng tạo ra những thể cách mới mà ông gọi là

các thể cách ‘tân sáng 新創’, hoặc ‘tự sáng 自創’ gồm 15 thể cách, trong đó nổi bật

hơn cả là thể Toàn chuyển chu hoàn thể được ông sử dụng để sáng tác bài thơ Trì Thiệu Trị biên soạn. Cũng chính vì vậy, trước khi có dữ liệu chính xác về tác giả, người viết đã trích dẫn tác phẩm này để tiện tra cứu cho các nghiên cứu sau này. - Về nội dung tác phẩm Đỗ thi toát yếu: Sách viết về thi hào Đỗ Phủ thời Đường, nhà vua căn cứ theo các sách xưa biên soạn để tham khảo. Vua khi rảnh rỗi việc triều chính, thường lưu tâm đến thơ văn, nhân thấy sách Đỗ thi ngẫu bình do nhà Nho đời Thanh là Thẩm Đức Tiềm soạn, gồm hơn 300 bài. Bèn lệnh cho lấy sách Đỗ thi tường chú của Thù Triệu Ngao đời Thanh, lại chọ lấy ý kiến của Vương Thế Trinh, Vương Thận Trung, Vương Sĩ Trinh, Thiệu Trường Hành, Tông Doanh viết thêm vào tham khảo, còn có cả lời phê của vua Càn Long. Soạn xong đóng thành 14 quyển, lấy tên là Đỗ thi toát yếu, đặt ở Hữu vu cho nhà vua ngự lãm. Tập thơ do Đại thần Trương Đăng Quế soạn lời tựa nhưng hiện nay tập sách thất lạc và chỉ còn bài tựa lưu giữ trong Quảng Khê văn tập 廣溪文集 của ông.

32

đường sơ hạ lâm hứng thủy tạ phóng ngâm 池塘初夏臨興水榭放吟 để từ một bài

thơ gốc có thể đọc thành 96 bài thơ.

Trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác, tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi

pháp tập là một trong những đại diện tiêu biểu khẳng định tài năng vận dụng nghệ

thuật thể cách thi pháp, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp sáng tác

văn chương của ông. Ông mong rằng đây là sẽ nguồn tư liệu để cho quần thần Nho

sĩ và các thế hệ mai sau lấy đó làm tư liệu vận dụng trong các sáng tác văn chương

theo nhiều thể cách thi pháp khác nhau khiến phong trào sáng tác ngày càng sôi nổi.

Vua rất chú trọng chính sách chấn hưng văn trị, khuyến khích sáng tác thơ văn, mở

nhiều khoa thi trong thời gian tại vị để tuyển chọn nhân tài giúp nước, mong muốn

nền văn trị của đất nước được hưng thịnh như chính câu thơ của ông: Tinh tú văn

chương trứ/ Sơn hà cẩm tú phô 星宿文章著/ 山河錦繡鋪/ Văn chương sáng rỡ

như các vì tinh tú/ Trải bày gấm vóc khắp non sông. Câu thơ hàm ý một chốn kinh

đô phồn hoa, văn phong rực rỡ, vương triều thịnh vượng.

1.3 Định hướng nghiên cứu của đề tài

Trước hiện trạng truyền bản và lưu trữ của văn bản tác phẩm còn nhiều khiếm

khuyết, với đề tài “Nghiên cứu văn bản Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập”,

chúng tôi mong muốn nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện vấn đề văn bản học của

tác phẩm này. Cụ thể, chúng tôi sử dụng các phương pháp khảo sát tư liệu, khảo dị,

đối hiệu, xác định thiện bản, đưa ra một bản hoàn chỉnh về nội dung và đánh giá giá

trị tác phẩm trên góc độ của nhà nghiên cứu Ngữ văn - Hán Nôm.

Đề tài mong muốn đi sâu nghiên cứu những đóng góp về mặt thi học thông

qua phương pháp vận dụng và phát triển nghệ thuật thể cách thi pháp khi sáng tác

thơ ca của Thiệu Trị trong tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập. Nêu

được quan niệm về thi học, thể cách thi pháp của ông, phân định rạch ròi đâu là thể

cách ông sử dụng của cổ nhân, đâu là thể cách do chính ông sáng tạo. Từ đó, khẳng

định tài năng và vai trò của Thiệu Trị trong nền văn học trung đại Việt Nam đồng

thời khẳng định những cống hiến của ông đối với nền thi học dân tộc.

Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập tuy là tác phẩm được trích lục từ tổng

tập Ngự chế thi của Thiệu Trị nhưng nó hiện hữu giữa cuộc đời vẫn là một tác phẩm

33

độc lập. Vì vậy, luận án tiến hành khảo cứu quan niệm của Thiệu Trị về nội dung

thơ ca và chỉ ra mối quan hệ giữa nội hàm tác phẩm và thể cách thi pháp. Tìm hiểu

đặc điểm giá trị nội dung mà tác giả muốn truyền tải qua tập thơ trong hai vai trò:

Hoàng đế và thi sĩ; từ đó cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của Thiệu Trị và những

đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm.

34

Tiểu kết chương 1

Chương 1 đã tiến hành khảo sát thống kê các nghiên cứu liên quan đến đề tài

mà trong đó chính yếu là văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập. Về

tác phẩm này, các nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở việc giới thiệu ở các tư liệu thư

mục hay chỉ nghiên cứu một vài sáng tác nhất định mà chưa có các nghiên cứu

chuyên sâu về văn bản học và cả nội dung, nghệ thuật của tập thơ. Tác phẩm này

hiện được lưu trữ ở 3 nguồn lưu trữ là: VNCHN; TVQG và TTLTQG IV với những

hiện trạng khác nhau. Trong đó, tại Đà Lạt còn lưu trữ nguồn tư liệu mộc bản quý giá

của tác phẩm, đây sẽ là tư liệu gốc có giá trị cao trong công tác nghiên cứu văn bản.

Trong chương 1 chúng tôi cũng khái quát giới thiệu về thân thế cuộc đời, sự

nghiệp chính trị và văn chương của Hoàng đế Thiệu Trị. Ông lên ngôi năm 34 tuổi

(1841), là người thông minh nhân đức và hiếu thuận, sinh ra trong thời kỳ thịnh

vượng nhất của vương triều, những thành tựu về chính trị, binh bị, kinh tế, hành

chính... đã được vẹn toàn từ 2 vị tiên vương là vua Gia Long và Minh Mạng. Kế

thừa những thành tựu đó, vua Thiệu Trị tiếp tục phát huy giá trị truyền thống mà ít

có sự thay đổi. Trong 7 năm trị vì đất nước, ông vẫn để lại những thành tựu về

chính trị tích cực, từ việc đánh dẹp các cuộc phiến loạn biên cương cho đến dẹp

giặc Xiêm La, Cao Miên, bình định trấn Tây Thành. Trong nước thì phát triển chấn

hưng văn trị, tổ chức nhiều khoa thi, cầu người có tài giúp nước, chú trọng biên

định các bộ chính sử, văn chương, chăm lo mùa màng, mưu cầu cho dân cuộc sống

ấm no, hạnh phúc. Tình hình xã hội nước Đại Nam dưới thời Thiệu Trị là tương đối

ổn định, giang sơn được giữ vững.

Thiệu Trị đã để lại một gia tài văn chương đồ sộ, gồm 16 tập thơ văn ngự chế,

khoảng 3.647 bài thơ cùng nhiều bài văn, là minh chứng cho niềm say mê sáng tác

của ông. Trong sự nghiệp văn chương của Thiệu Trị, nổi bật hơn hết là những thành

tựu về thể cách thi pháp mà tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập là một

điển hình. Việc nghiên cứu về mặt văn bản học, đặc điểm nghệ thuật thể cách thi

pháp và nội dung của tác phẩm đã góp phần trong việc đánh giá lại thành tựu của

văn học Hoàng tộc triều Nguyễn nói chung và sự nghiệp văn chương của Thiệu Trị

nói riêng.

35

CHƯƠNG 2: KHẢO CỨU VĂN BẢN

NGỰ CHẾ CỔ KIM THỂ CÁCH THI PHÁP TẬP

Chương này đặt trọng tâm ở việc nghiên cứu văn bản học, khảo dị đối

hiệu giữa các dị bản, xác định thiện bản, bổ khuyết nội dung cho thiện bản để

làm căn cứ cho việc nghiên cứu chuyên sâu tác phẩm và phiên dịch. Tiến hành

khảo cứu phân tích cấu trúc nội dung từng quyển của tác phẩm và đối chiếu với

Thiệu Trị Ngự chế thi.

2.1 Tên gọi, niên đại và quá trình biên định tác phẩm

Việc xác định được nhân duyên hình thành, tên gọi, niên đại và quá trình

biên định của tác phẩm là điều cốt yếu có tính chất căn bản trong công tác khảo cứu

văn bản học của một tác phẩm Hán Nôm. Về tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi

pháp tập được ghi chép rõ ràng trong chính sử và trong chính tự thân tác phẩm.

Nhân duyên hình thành tác phẩm: Vào dịp tiết Thanh Minh, niên hiệu Thiệu

Trị thứ 7 (1847), sau khi tảo lăng mộ các vị tiên đế, vua Thiệu Trị trong khi bàn

luận về thể cách văn chương của xưa nay với các đại thần Trương Đăng Quế, Phan

Thanh Giản, Vũ Phạm Khải… rồi nhân đó vua bảo với quần thần rằng: “Các ngươi

nên xét rõ ngay trong các tập thơ Ngự chế, phàm những chỗ có quan hệ đến thể

cách đời xưa và đời nay, đều nên theo trước sau mà lần lượt biên vào, ta sẽ gia ân

ban vào chỗ văn thư của sĩ phu, cũng để giúp cho việc muốn xem cho rộng” [64,

tr.980]. Sau khi Nội các biên soạn hoàn thành, lấy nhan đề tập thơ là Ngự chế cổ

kim thể cách thi pháp tập và dâng biểu xin khắc in. Nhà vua ngự lãm và đồng ý

bằng việc châu phê chữ 可 Khả. Sau đó, vua hạ lệnh Nội các đưa đi khắc in và

Nguyễn Đăng Giai phụ trách giám sát công việc này.

Trong quá trình hình thành nên tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp

tập, có một chi tiết quan trọng đó là Thiệu Trị hạ lệnh quần thần tuyển chọn trong

Thiệu Trị Ngự chế thi để biên tập thành một tác phẩm đặc trưng về thể cách thi pháp.

Thời điểm này (tháng 2 năm Đinh Mùi-1847), Ngự chế thi mới chỉ khắc in được 2

tập là sơ tập (1843) và nhị tập (1845); Ngự chế thi tam tập và tứ tập khắc in xong

dưới thời Tự Đức (1848). Qua đó, việc quần thần lựa chọn thơ trong Thiệu Trị Ngự

chế thi lúc này để biên soạn tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập là lựa

chọn trong các bản khắc in sơ tập, nhị tập và bản cảo chung của Ngự chế thi (gồm

36

tam tập/ tứ tập chưa được khắc in). Như vậy, xét về mặt văn bản học, tác phẩm này

là bản trích lục của Thiệu Trị Ngự chế thi. Qua quá trình khảo cứu và kiểm định,

toàn bộ 157 sáng tác đều được tìm thấy trong 4 tập của Thiệu Trị Ngự chế thi với

nội dung tương thích hoàn toàn, đảm bảo tính nhất thống của tác phẩm. Chúng tôi

đã trích dẫn bảng tựa đề và đối chiếu với Thiệu Trị Ngự chế thi trong phần Phụ lục.

Niên đại tác phẩm: Căn cứ vào nội dung bài Biểu của Nội các dâng lên vua

ngự lãm, xác định được niên đại hình thành của tác phẩm là: 紹治七年九月初九日

Thiệu Trị thất niên cửu nguyệt sơ cửu nhật, ngày mồng 9 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ

7 - 1847. Sau 7 tháng, từ dịp tiết Thanh Minh tháng 2 đến ngày 9 tháng 9 năm Đinh

Mùi (1847) thì hoàn thành việc biên soạn tác phẩm. Như đã biết, vua Thiệu Trị mất

vào 27 tháng 9 năm Đinh Mùi, tức chỉ sau đó 18 ngày. Điều này cho thấy, tác phẩm

được khắc in hoàn chỉnh sau khi vua Thiệu Trị đã băng hà.

Tên gọi: Chúng tôi tiến hành phân tích nhan đề tác phẩm Ngự chế cổ kim thể

cách thi pháp tập 御製古今體格詩法集, còn vấn đề khái niệm thể và cách sẽ trình bày

chi tiết ở chương 3. Ý nghĩa nhan đề: Ngự chế 御製 - vua sáng tác; cổ kim 古今 - xưa

nay; thể cách 體格 - thể loại, thể tài, cách thức; thi pháp 詩法 - phương pháp, quy luật

làm thơ. Tổng hợp, tên sách có nghĩa là Tập thơ do nhà vua sáng tác theo các

phương pháp thể cách xưa nay.

Người biên soạn: Một tác phẩm văn chương của Hoàng đế khác với thi nhân

bình thường là được Nội các triều đình chủ trì biên soạn, khảo hiệu, san khắc. Tuy

họ không phải là tác giả chính của tác phẩm nhưng đóng vai trò rất lớn. Thông qua

việc khảo cứu tác phẩm, cần thiết phải đề cập đến những đại thần đã biên định nên

tác phẩm này, chính là để ca ngợi công lao của họ. Trong công tác nghiên cứu văn

bản học Hán Nôm, “sự khảo cứu về tác giả cần được mở rộng khái niệm theo truyền

thống ngành Ngữ văn học cổ điển thế giới. Bao gồm người biên soạn - biên định,

người hiệu duyệt, người sao chép, người khắc in, người giới thiệu, lưu giữ và truyền

bá… vì tất cả họ đều tham gia vào quá trình sản sinh - tạo tác văn bản ở dạng thức

khác nhau, nên cần thiết phải đặt vấn đề nghiên cứu toàn diện về điều này” [41,

tr.235]. Theo bài Biểu, sách Đại Nam liệt truyện chính biên và các tư liệu liên quan,

có thể xác định được danh sách Nội các đại thần tham gia quá trình biên định:

37

* Phụng chỉ vị tập:

+ Nguyễn Bá Nghi 阮伯儀 (1807-1870) - Lễ Bộ Tả thị lang, sung Biện Nội

các sự vụ, gia nhất cấp kỷ lục nhất thứ: tên tự là Sư Phần 師汾, người xã Thời Phổ

(Lạc Phổ), huyện Mộ Hoa (nay thộc huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi). Ông thi đỗ Cử

nhân năm Tân Mão, Minh Mạng thứ 12 (1831), thi đỗ Phó bảng năm Nhâm Thìn

(1832). Ông giữ các chức quan: Tri huyện, Thự Án sát tỉnh Vĩnh Long, Thự Thị

lang bộ Lại, Thị độc Học sĩ, Bố chính An Giang, Tham tri Bộ Lại, Đại thần Cơ mật,

Thượng thư bộ Hộ, điều làm Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên, hàm Thự Hiệp biện

Đại học sĩ. Tác phẩm: Sư Phần thi văn.

+ Tôn Thất Cáp 尊室鉿 (1814-1862) - Công Bộ Hữu Thị lang, sung Biện

Nội các sự vụ: Ông còn có tên là Tôn Thất Hiệp, sinh tại Phú Xuân, là cháu nội của

Lạng Giang Quận Công Tôn Thất Hội và cháu ngoại của Tổng trấn Nguyễn Văn

Thành. Ông là một võ tướng, thống lãnh quân binh đánh Pháp tại thành Gia Định

miền Nam. Chức vụ: Thự lang trung bộ Lại, Thự Án sát Khánh Hòa, Hữu Thị lang

Bộ Hộ, Tuần phủ Ninh Bình, Tổng đốc An Tịnh, Thượng thư bộ Hộ.

+ Nguyễn Cửu Trường 阮久長 (?-1853) - Hộ Bộ Hữu Thị lang sung Biện

Nội các sự vụ gia nhất cấp. Tiên tổ người huyện Quý Hương, Thanh Hóa, sau dời

về ở huyện Lệ Thủy, Quảng Bình. Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), ông thi đỗ Tiến

sĩ. Ông giữ chức vụ: Tu soạn, Tri phủ Kiến Xương, Viên ngoại lang sung Cơ mật

viện Hành tẩu, Thị độc Học sĩ, Thái bộc tự khanh, Thị giảng Học sĩ, Bố chính sứ Hà

Nội, Hữu Thị lang Bộ Lại, Kinh diên nhật giảng quan, Tuần phủ Biên Hòa. Nguyễn

Cửu Trường có văn học, theo hầu trước sau ở Nội các, được liệt triều quyến luyến

tri ngộ, đặc biệt được vua Tự Đức yêu mến ban cho bài thơ Ngự chế. Năm Tự Đức

thứ 6 (1853) vì đau mắt, vua chuẩn cho về nhà nghỉ rồi mất ở nhà.

+ Vũ Phạm Khải 武范啟, (1807-1872) - Thự Hàn Lâm viện Trực Học sĩ

sung Biện Nội các sự vụ gia nhất cấp: hiệu Phượng Trì 鳳池, tự Đông Dương 東暘,

người xã Thiên Trì, huyện Yên Mỗ, trấn Thanh Hoa Ngoại (nay thuộc Yên Mạc,

Yên Mô, Ninh Bình). Vũ Phạm Khải thi đỗ Cử nhân năm Tân Mão, Minh Mạng thứ

12 (1831). Ông giữ các chức quan: Tri huyện Thanh Chương, Lễ khoa Cấp sự trung,

Lang trung Bộ Hình, Hàn lâm Trực Học sĩ, Sử quán Toản tu, Bố chính Thái Nguyên,

Thị độc Học sĩ. Tác phẩm: Đông Dương văn, Đông Dương văn tập, Lịch đại chính

38

hình thông khảo, Ngu sơn thi văn toàn tập, Ngu sơn văn tuyển, Ngu sơn toàn tập,

Phượng Trì văn tập, Tiến lãm văn thảo, Vũ Đông Dương văn tập.

* Phụng chỉ khảo hiệu:

+ Mai Anh Tuấn 枚英俊 (1815-1855) - Hàn Lâm viện Thị giảng Học sĩ

sung Nội các bí thư Sở hành tẩu: hiệu Lương Phu 良夫, quê quán Thạch Giản, tổng

Thạch Giản, huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung (nay Nga Sơn, Thanh Hóa). Năm Thiệu

Trị thứ 3 (1843), thi đỗ Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh. Ông trước tên là Thế Tuấn đến

khi thi đỗ vua mừng ban cho tên Anh Tuấn. Giữ chức quan: Hàn Lâm viện trước tác,

Hành tẩu, Thị độc Học sĩ, Án sát Lạng Sơn. Tác phẩm: Tri Chỉ thôn học điền bi.

+ Nguyễn Xuân Thọ 阮春壽: Thự Hàn Lâm viện Thị giảng Học sĩ sung Nội

các Bản chương Sở hành tẩu.

+ Nguyễn Đăng Tuyển 阮登選 (1795-1880) - Hàn Lâm viện Thừa chỉ, sung

Nội các Thượng bảo Sở hành tẩu: hiệu Tiên Phong 仙峰 và Mộng Liên Đình9

夢蓮亭, quê gốc ở làng Hoài Thượng, Tiên Sơn, Bắc Ninh. Ông thi đỗ Tú tài năm

1836, Minh Mạng thứ 17, được bổ làm Giám sinh ở Quốc Tử Giám. Chức vụ đảm

nhận: Hậu bổ tỉnh Tuyên Quang, Tri huyện Vị Xuyên, Chủ sự bộ Hộ, Thừa chỉ, Thị

độc, sung Hành tẩu ở Sở Ty luân thuộc Nội các, Biên tu Sử quán, Tri phủ Thuận

Thành rồi sau đó xin nghỉ hưu. Mặc dù về hưu những vẫn thường được vua sai

trung sứ tới hỏi thăm và ban cấp rất hậu, lại sai soạn sử ca. Nguyễn Đăng Tuyển vì

văn học được vua biết đến, chứng tỏ tài năng văn chương của ông rất giỏi. Một

trong những áng văn bất hủ mà ông để lại đó là bài tựa Đoạn trường tân thanh

(Truyện Kiều) soạn vào thời Minh Mạng. Tác phẩm: Sử ca, Quốc phong thi diễn ca,

Yên đài loại ngữ, Đào hoa mộng ký, Đào hoa mộng… Ông mất năm 86 tuổi.

+ Nguyễn Phiên 阮藩: Hàn Lâm viện trước tác, sung Nội các Ty luân Sở

hành tẩu.

+ Phan Văn Khả 潘文可: Hàn Lâm viện Kiểm kê, sung Nội các Ty luân Sở

hành tẩu.

* Phụng chỉ đằng lục (sao chép):

9 Sách 10 Thế kỷ bàn luận về văn chương trang 223 trong bài “Đoạn trường tân thanh tự”, dẫn tên hiệu của Nguyễn Đăng Tuyển là Tiên Phong, Mộng Liên Đường.

+ Dương Văn Du 楊文榆: Hàn Lâm viện cúng phụng.

39

* Phụng chỉ giám tạo san khắc:

+ Nguyễn Đăng Giai 阮登楷 (?-1854) - Binh Bộ Thượng thư kiêm Đô sát

viện Hữu đô Ngự sử Tổng đốc Sơn Tây Hưng Hóa Tuyên Quang đẳng xứ địa

phương Đề đốc quân vụ kiêm Lý lang gia nhị cấp: tự Toản Phu 纂夫, người xã Phù

Chánh, Lệ Thủy, Quảng Bình, là con trai đại thần Nguyễn Đăng Tuân - Thầy dạy

học của vua Thiệu Trị. Năm 1820 thi đỗ Hương tiến. Ông xuất thân Nho sĩ nhưng

đặc biệt mến mộ Đạo Phật, đã cho xây dựng chùa Báo Ân tại Hà Nội vào năm 1846.

Ông từng giữ các chức vụ: Lang trung Bộ Hộ, Thự Tham hiệp trấn Nam Định, Bố

chính sứ Thanh Hóa, Thự Tổng đốc Ninh Thái, Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, Tổng

đốc Hà Ninh, Thự Hiệp biện Đại học sĩ, Thượng thư Bộ Hình kiêm sung Tổng tài

Quốc Sử quán, Hữu kỳ Kinh lược Đại sứ lĩnh Tổng đốc An Tĩnh, kiêm đạo Thanh

Hóa. Ông mất tại Hà Nội, vua Tự Đức truy tặng hàm Thiếu Bảo, thụy Văn Ý. Năm

Tự Đức thứ 11 (1858), liệt vào thờ đền Hiền Lương.

Tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập được cơ quan chính thống

của triều đình là Quốc Sử quán biên định, mọi công tác từ người biên soạn, khảo

hiệu, chép “tinh tả”, giám sát khắc in đều y theo sắc lệnh mà thi hành một cách

nghiêm túc. Tác phẩm sau khi khắc xong thì in lên giấy dó, đóng thành sách với

một số lượng nhất định. Bản khắc sẽ được tàng bản tại Quốc Sử quán, do đó vấn đề

thất tán, dị bản không rõ nguồn gốc đều không thể xảy ra. Vì vậy, có thể đảm bảo

độ tin cậy tuyệt đối với tính chính thống của văn bản tác phẩm.

2.2 Phân loại và hiện trạng văn bản

Văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập hiện được truyền

bản lưu trữ ở 3 nguồn chính sau:

2.2.1 Tư liệu lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội

a. Bản in

Tại VNCHN chỉ có bản in quyển nhất, ký hiệu: A.3052, khổ 27 x 16cm; tổng

cộng 47 tờ, mỗi tờ hai trang a và b là 94 trang. Tình trạng sách còn tốt, bị thiếu các

tờ 7b; 8a; 10b; 11a.

b. Bản chép tay

Tại VNCHN, hiện còn lưu trữ các bản chép tay với các mã kí hiệu sau:

A.1960; VHv.123; VHv.1165; A.1877.

40

1). Bản A.1960: Bản này có đóng dấu của Viện Viễn Đông bác cổ, văn bản chỉ có

một trang bìa đề tên sách Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập. Sách khổ 27 x 16,

tình trạng sách còn nguyên vẹn, có khung viền, chữ chép rõ nét, dễ đọc, mỗi trang

được chia làm 7 dòng, mỗi dòng trung bình 24 chữ, dòng ít nhất 4 chữ. Sách gồm 4

quyển, tổng cộng gồm 97 tờ, mỗi tờ hai trang a và b là 194 trang, cụ thể như sau:

+ Quyển mục lục: gồm 15 tờ, được đánh số trang theo kiểu sách khắc in, mỗi

tờ hai trang a, b là 30 trang. Nội dung có bài Biểu và tổng mục. Tuy nhiên, sách

chép sai sót và bị khuyết thiếu các nội dung sau: tờ 2b và 3b trùng lặp nội dung;

“Tùng yến thưởng”; Dụng thiền liên thể; “Trì đường sơ hạ lâm hứng thủy tạ phóng

ngâm” - Tự sáng vi toàn chuyển chu hoàn thể; “Đề Nghiêm Tử lăng đồ”; “Đề Lý Bí

đồ” - Hữu nhị chương phỏng chiết tự thi tăng sáng vi giản ước thể; “Vân thủy đình”

- Phỏng Bạch Lạc Thiên chiết tự thể. Phụ lục nguyên thể; “Phú đắc ký vũ tình diệc

giai” - Phỏng Bào Minh Viễn tạp số thể nguyên tự nhất chí thập tự kim cải dụng

thất ngôn luật hựu gia tổng số. Phụ lục nguyên thể; “Quý thu” - Thủ vỹ ngâm; “Ngự

viên ngẫu đề mỗi cú các dụng viên trung danh thắng”; “Thiên cao địa hậu”.

+ Quyển nhất: gồm 27 tờ, được đánh số trang theo kiểu sách khắc in, mỗi tờ

hai trang a, b là 54 trang.

+ Quyển nhị: gồm 21 tờ, được đánh số trang theo kiểu sách khắc in, mỗi tờ

hai trang a, b là 42 trang. Nội dung chép thiếu: Phụ lục nguyên thể bài “Tịch giao

mục địch”; Bài “Sơn tự thiền chung”; Bài “Nham hác tiều nhàn” và phụ lục nguyên

thể; Đầu đề bài “Giang thôn ngư lạc”.

+ Quyển tam: gồm 34 tờ, được đánh số trang theo kiểu sách khắc in, mỗi tờ

hai trang a, b là 68 trang. Trang 34b để trống. Nội dung chép thiếu: Bài “An biên”

(từ chữ nguy 危 đến hết bài); Phụ lục nguyên thể Kiến trừ thể; Bài “Trị công”; Tờ

15a5 chép thiếu dòng: Phụ lục nguyên thể Điệp vận trường ca.

2). Bản VHv.123: Thiệu Trị Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, 150 trang, khổ

29 x 17.

3). Bản VHv.1165: Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp, 62 trang, khổ 27 x 15,5.

4). Bản A.1877: Ngự chế cổ kim thi thể tập sao, 54 trang, khổ 29,5 x 19.

41

Trái: Bản in quyển nhất A.3052 tại VNCHN; phải: Bản chép tay A.1960 tại VNCHN

2.2.2 Tư liệu lưu trữ tại Thư viện Quốc gia, Hà Nội

Theo thông tin số hoá ảnh ấn của TVQG, trích dẫn về tác phẩm Ngự chế cổ

kim thể cách thi pháp tập, như sau:

1). Kí hiệu R.1600, 御製古今體格詩法集, Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập

(q.01).

2). Kí hiệu R.1598, 御製古今體格詩法集, Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập

(q.03).

3). Kí hiệu R.1597, 御製古今體格詩法集, Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập

(q.05-06).

Theo đó, tên đề mục giới thiệu và nội dung tác phẩm có những điểm lưu ý sau:

- Bản R.1600, Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, quyển nhất nhưng thực

tế nội dung là thuộc quyển mục lục và kí hiệu bên trong tác phẩm là R.1597. Như

vậy, TVQG đã nhầm quyển mục lục thành quyển nhất và nhầm cả kí hiệu.

- Bản R.1597, Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, quyển 5, quyển 6.

Chính xác nội dung bản này là q.05-06 thuộc Thiệu Trị Ngự chế thi tứ tập, được kí

hiệu R.1600. Một điểm quan trọng, tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp chỉ

có 4 quyển gồm 1 quyển mục lục (mục lục) và 3 quyển nội dung chính (quyển nhất;

quyển nhị; quyển tam) nhưng ở đây ghi có quyển 5 và quyển 6 là sai. Điều lưu ý,

bản này là nội dung các bài thơ được trích chọn trong tác phẩm Ngự chế cổ kim thể

cách thi pháp tập. Đây là lí do tại sao có sự nhầm lẫn này.

- Bản R.1598, 御製古今體格詩法集, Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, quyển

tam: là đúng nội dung quyển tam của tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập.

42

Qua đó, chúng tôi cho rằng TVQG đã nhầm lẫn giữa tên gọi và nội dung của

hai bản R.1597 và bản R.1600. Cụ thể, tại TVQG không có bản in quyển nhất -

R.1600; còn quyển được gọi R.1597, q.05-06 thực tế là q.05-06 thuộc Thiệu Trị

Ngự chế thi, được TVQG kí hiệu R.1600. Vậy, tại TVQG chỉ có quyển mục lục, ký

hiệu R.1597 và quyển tam, ký hiệu R.1598. Chúng tôi lược giới thiệu như sau:

+ Quyển mục lục: Ký hiệu R.1597, ghi chép bài Biểu 表 và tổng mục, sách

khổ 25 x 16, đầy đủ nội dung, tình trạng sách còn nguyên vẹn, sách còn trang bìa in

mực son đề tên sách 御製古今體格詩法集 và ấn triện của vua Thiệu Trị, tổng

cộng 45 tờ, mỗi tờ hai trang a và b là 90 trang.

+ Quyển tam: Ký hiệu R.1598, khổ 25 x 16, tình trạng sách có bị mối mọt

một số trang nhưng nội dung không bị ảnh hưởng. Tổng số tờ của sách là 44 tờ, mỗi

Trái: Trang bìa bản in Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập tại TVQG; Phải: Bản in quyển mục lục R.1597 tại TVQG.

Bản in quyển tam R.1598 tại TVQG.

tờ hai trang a và b là 88 trang; sách hiện thiếu tờ 30.

43

2.2.3 Tư liệu mộc bản lưu trữ lại Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV, Đà Lạt

Mộc bản triều Nguyễn (阮朝木版) là nguồn tư liệu lịch sử liệu giá trị và

chính xác nhất còn được lưu lại của triều Nguyễn, hiện được lưu trữ tại TTLTQG

IV, Đà Lạt. Theo nguồn thông tin của TTLTQG IV, Đà Lạt hiện tại đây lưu trữ

34.619 tấm, tương đương với 55.320 mặt khắc mộc bản với 9 chủ đề: Lịch sử; Địa

lý; Chính trị xã hội; Quân sự; Pháp chế; Tư tưởng Triết học Tôn giáo; Thơ văn;

Ngôn ngữ văn tự; Quan hệ quốc tế, tổng cộng 152 đầu sách với 1.953 quyển được

chế tác, san khắc chủ yếu trong thời kỳ trị vì của triều Nguyễn (1802-1945) và một

phần có trước nhà Nguyễn được chuyển từ Văn miếu Quốc Tử Giám Thăng Long -

Hà Nội về lưu trữ tại Quốc Tử Giám Phú Xuân sau khi vua Gia Long thống nhất

giang sơn. Đây là nguồn tư liệu vô cùng quý giá, việc còn bảo lưu được nguồn tư

liệu gốc mộc bản triều Nguyễn là cơ sở khoa học trong việc nghiên cứu, khai thác,

đối chiếu với các bộ chính sử và tài liệu thư tịch Hán Nôm, đặc biệt là các bộ thơ

văn ngự chế của các vị Hoàng đế thời Nguyễn để cung cấp bổ sung cho các nghiên

cứu về văn chương học thuật thuộc thời kỳ này.

Một điều quý giá là tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập của

Thiệu Trị hiện vẫn còn bảo lưu được nguồn tư liệu mộc bản. Qua sự giúp đỡ của

Phân viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam tại Huế, chúng tôi đã in được bản

sao tác phẩm này từ mộc bản lưu trữ tại TTLTQG IV, sách khổ 28 x 15cm, gồm 4

quyển: 1 quyển mục lục và 3 quyển nội dung chính, với tổng cộng nội dung hiện

còn 148 tờ, tương đương với 148 mặt khắc; mỗi tờ 2 trang tức hiện còn 296 trang,

cụ thể như sau:

+ Quyển mục lục: Sách tình trạng rõ nét, có trang bìa in mực son đề tên sách

御製古今體格詩法集, khắc ấn triện của vua Thiệu Trị. Tổng số 45 tờ, hiện còn 30 tờ;

thiếu 11 tờ chứa nội dung bài Biểu; và các tờ 13; 14; 15; 16 do số mộc bản bị thất

lạc, tổng cộng thiếu 15 tờ.

+ Quyển nhất: Sách tình trạng rõ nét; tổng số tờ hiện còn là 46 tờ; sách thiếu

tờ 47 do mộc bản bị thất lạc.

+ Quyển nhị: Sách tình trạng rõ nét, thiếu tờ 11; 12; 25; 26; 35; 36 do số mộc

bản bị thất lạc. Quyển này có sự trùng lặp về số tờ, cụ thể số tờ 27 được đánh hai

44

lần, điều này cần khảo dị và chỉnh lý. Như vậy, tổng số tờ hiện còn của quyển nhị là

33 tờ kể cả tờ 27 trùng lặp.

+ Quyển tam: Sách tình trạng rõ nét, tổng số tờ đầy đủ nội dung của quyển

tam là 44 tờ, hiện còn lưu trữ 39 tờ, thiếu tờ các tờ: 7; 8; 27 (tờ 27 này xếp nhầm ở

Trái: Trang bìa bản in mộc bản; phải: Bản in quyển nhất mộc bản tại TTLTQG IV

Q.2); 37; 38 do số mộc bản bị thất lạc.

Bảng 2.1: Thống kê hiện trạng lưu trữ văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập

Quyển

Bản lưu trữ tại VNCHN

Bản lưu trữ tại TVQG - Bản in R.1597.

Quyển mục lục

Quyển nhất

Bản lưu trữ tại TTLTQG IV - Bản in mộc bản: quyển mục lục - Bản in mộc bản: quyển nhất

- Không có

Quyển nhị

- Không có

- Bản in mộc bản: quyển nhị

- Không có bản in - Bản chép tay A.1960: Có quyển mục lục - Bản in A.3052: - Bản chép tay A.1960: có nội dung quyển nhất - Không có bản in. - Bản chép tay A.1960: có nội dung quyển nhị

Quyển tam

- Bản in R.1598.

- Bản in mộc bản: quyển tam

- Không có bản in. - Bản chép tay A.1960: có nội dung quyển tam.

* Nhận xét tình hình văn bản: Văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi

pháp có các bản hiện lưu trữ ở 3 nguồn: 1) tại VNCHN: 1 bản in quyển nhất A.3052;

4 bản chép tay A.1960; VHv.123; VHv.1165; A.1877; 2) TVQG: bản in quyển mục

lục R.1597 và quyển tam R.1598; 3) TTLTQG IV-Đà Lạt: bản in mộc bản gồm 4

quyển, trong đó bị khuyết mất một số trang do thất lạc các tấm mộc bản. Qua thực

45

trạng tư liệu hiện có, chúng tôi phân loại thành các loại hình cụ thể để thuận tiện

(1). Bản in mộc bản: Bản in tư liệu mộc bản tại TTLTQG IV, Đà Lạt.

(2). Bản chép tay: chỉ chọn bản A.1960 để khảo cứu.

(3). Bản in: Các bản in hiện lưu trữ tại VNCHN và TVQG gồm: quyển mục

trong vấn đề khảo cứu, như sau:

lục, quyển nhất và quyển tam; (bản in tại các thư viện bị thiếu quyển nhị).

Việc phân loại bản in thành bản in mộc bản và bản in tại VNCHN, TVQG

riêng biệt là bởi có một số điểm dị biệt giữa các nguồn này nên chúng tôi phân biệt

để thuận tiện khảo cứu và xác định thiện bản. Đối với các bản chép tay, chúng tôi

chỉ chọn bản A.1960 để khảo dị và 3 bản còn lại chỉ giới thiệu chung. Lý do vì bản

A.1960 có nội dung tương đối đầy đủ và chính việc sưu tập được bản in mộc bản là

tư liệu gốc nên các bản chép tay chỉ mang tính chất tham khảo. Ngoài ra, còn có

tổng nguồn bản in Thiệu Trị Ngự chế thi nên nội dung luôn được đảm bảo chính xác.

2.3 Khảo dị, xác định và bổ khuyết thiện bản

2.3.1 Khảo dị và xác định thiện bản

Trong các dị bản của văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp

hiện có thì bản in mộc bản là nguồn tư liệu gốc vì có niên đại cùng thời với tác giả,

được xem là bản cơ sở cho công tác đối hiệu. Từ đó, chúng tôi lấy bản này làm cứ

liệu nòng cốt đối hiệu với các dị bản khác nhằm khôi phục hoàn chỉnh diện mạo tác

phẩm để phục vụ cho cho việc khảo cứu và phiên dịch. Việc khảo dị đối hiệu sẽ

được tiến hành trên nền tảng so sánh giữa các dị bản: bản in mộc bản; bản in

(A.3052; R.1597; R.1598); bản chép tay A.1960. Tất cả nội dung đều được kiểm

định đối hiệu với Thiệu Trị Ngự chế thi - nguồn tư liệu gốc của thơ Thiệu Trị.

Quy ước ghi chú: Vì số tờ giữa bản in, bản chép tay và Thiệu Trị Ngự chế

thi sẽ không tương thích nên khi đối hiệu chúng tôi ghi chú rõ quyển, số tờ, số dòng

ngay bên dưới nội dung cần khảo hiệu. Cuối cùng sẽ đưa ra kết luận về bản được

chọn một cách rõ ràng ở mục nội dung chuẩn xác. Ngoài ra, tác phẩm này là bản

trích lục của Thiệu Trị Ngự chế thi cho nên nội dung bài Biểu ở quyển mục lục sẽ

không được tìm thấy ở đây.

46

Bảng 2.2: Bảng đối hiệu các dị bản của tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp với Thiệu Trị Ngự chế thi

Bản chép tay (A.1960)

Thiệu Trị Ngự chế thi

Nội dung chuẩn xác

Quyển

Bản in (R.1597; A.3052; R.1598)

季春觸景偶作 季春觸景偶作

Tờ 2a2: Nb Nb

Mục lục

sót

Tờ 1b1: 季 冬 觸 景偶作 - Tờ 2b và 3b trùng lặp nội dung; - Trong đó tờ 2b chép nhầm nội dung của tờ 3b. Vì vậy, bản này bỏ không chép nội dung của tờ b2 vốn có, tương đương với nội dung của bản in bên cạnh.

- 從宴賞(用蟬 聯體); 池塘初 夏臨興水榭放 吟 (自創爲旋 轉周環體); 題 嚴子陵圖, 題 李泌圖 (右二 章倣折字詩增 創爲簡約體); - 雲 水 亭 ( 倣 白樂天折字體- 附錄原體); 賦 得旣雨晴亦佳 (倣鮑明遠雜數 體自一至十字 今改用七言律 又加總數). -附錄原體; 季 秋 ( 首 尾 吟 ); 御園偶題每句 各用園中名勝; 天高地厚.

- 從宴賞(用蟬 聯體); 池塘初 夏臨興水榭放 吟 (自創爲旋 轉周環體); 題 嚴子陵圖, 題 李泌圖 (右二 章倣折字詩增 創爲簡約體); - 雲 水 亭 ( 倣 白樂天折字體- 附錄原體); 賦 得旣雨晴亦佳 (倣鮑明遠雜數 體自一至十字 今改用七言律 又加總數). -附錄原體; 季 秋 ( 首 尾 吟 ); 御園偶題每句 各用園中名勝; 天高地厚.

Bản in mộc bản Tờ 2a2: 季冬觸 景偶作 - Tờ 4b: 從宴 賞 (用 蟬 聯 體 ); 池 塘初夏臨興水榭 放吟 (自創爲旋 轉周環體); 題嚴 子陵圖, 題李泌 圖 (右二章倣折 字詩增創爲簡約 體); - Tờ 5a: 雲水亭 ( 倣 白 樂 天 折 字 體 - 附 錄 原 體 ); 賦得旣雨晴亦佳 ( 倣 鮑 明 遠 雜 數 體自一至十字今 改用七言律又加 總數). - Tờ 5b1-5b4: 附 錄 原 體 ; 季 秋 (首 尾 吟 ); 御 園 偶題每句各用園 中名勝; 天高地 厚. Tờ 12b4: 曉色奇峯 Tờ 10a2: 覽天地文章 Tờ 30a5: 連環玉形 Tờ 30a4: 皆全本韻 Tờ 30a5: 押韻 Không dị biệt

Tờ 12b4: 晚色奇峯 Tờ 10a2: Nb Tờ 30a5: Nb Tờ 30a4: Nb Tờ 30a5: Nb Nb

Tờ 6a2: 晚色奇峯 Tờ 5a4: 覽天地文物 Tờ 13a1: 連環玉刑 Tờ 13a4: 皆全本体 Tờ 13a5: 押体 Nb

曉色奇峯 覽天地文章 連環玉形 皆全本韻 押韻 Nb

曉色奇峯 覽天地文章 連環玉形 皆全本韻 押韻 Không dị biệt

Không có

Tờ 13b4: 台

Q.1 Q.2

Tờ 8a6: Chép thiếu Tờ 8a6: 朝 Tờ 12a1: 右 Từ tờ 12a7:

Tờ 13b5: 庭 Tờ 19b2: 附 Tờ 20b:

Nt Nt

庭 附

庭 附

47

Không có Phụ lục nguyên thể

Chép thiếu: toàn văn Phụ lục nguyên thể bài Tịch giao mục địch 夕郊牧笛.

Toàn văn Phụ lục nguyên thể bài Tịch giao mục địch 夕郊 牧笛.

Nt

Nt

Toàn văn Phụ lục nguyên thể bài Tịch giao mục địch 夕郊牧笛 (Tàng tự hồi văn 附錄原體藏字迴 文). - Tờ 20b: Toàn văn bài Sơn tự thiền chung 山 寺禪鐘; - Tờ 21a – 21b2: Lời chú thích cho bài Sơn tự thiền chung Tờ 21b3-22a3: Toàn văn bài Nham hác tiều nhàn 巖壑樵閒 và Phụ lục nguyên thể

Toàn văn bài Sơn tự thiền chung 山寺禪 鐘; Lời chú thích cho bài Sơn tự thiền chung Toàn văn bài Nham hác tiều nhàn 巖壑樵閒 và Phụ lục nguyên thể

Từ tờ 12a7: Chép thiếu: toàn văn bài Sơn tự thiền chung 山寺 禪鐘; Lời chú thích cho bài Sơn tự thiền chung Từ tờ 12a7: Chép thiếu: toàn văn bài Nham hác tiều nhàn 巖 壑樵閒 và Phụ lục nguyên thể

Nt

Toàn văn bài Sơn tự thiền chung 山寺禪 鐘; Lời chú thích cho bài Sơn tự thiền chung Toàn văn bài Nham hác tiều nhàn 巖壑樵閒 và Không có Phụ lục nguyên thể Giang thôn ngư lạc 江村漁樂

Giang thôn ngư lạc 江村漁樂

Nt Tờ 6a3: Nb

Q.3

Chép thiếu: Đầu đề bài Giang thôn ngư lạc 江 村漁樂. Tờ 13b7: 倣 Tờ 3a7: Chép thiếu: Nội dung bài An biên 安邊: từ chữ nguy 危 đến hết bài kết thúc ở chữ cao 皐. Từ tờ 3a7 trở đi chép thiếu.

Tờ 6b1 đến 7a4: Nb

Tờ 22a4: Đầu đề bài Giang thôn ngư lạc 江村漁樂. Tờ 24b2: 附 Tờ 6a3 đến 6a6: Nội dung bài An biên 安邊: từ chữ nguy 危 đến hết bài kết thúc ở chữ cao 皐 Tờ 6b1 đến 7a4: Hữu phỏng Lương Tuyên Đế Kiến trừ thể 右 倣梁宣帝建除體 và toàn văn Phụ lục nguyên thể Kiến trừ thể.

附 Nội dung bài An biên 安邊: từ chữ nguy 危 đến hết bài kết thúc ở chữ cao 皐 Hữu phỏng Lương Tuyên Đế Kiến trừ thể 右倣梁宣帝建 除體 và Không có Phụ lục nguyên thể

Từ tờ 3a7 trở đi chép thiếu.

Tờ 7a5 đến 7b4: Nb Tờ 26b3: Nb

Nội dung bài Trị công 治功 Không có Phụ lục nguyên thể

Tờ 7a5 đến 7b4: Nội dung bài Trị công 治功 Tờ 26b3: Phụ lục nguyên thể Điệp vận trường ca 附錄 原體曡韻長歌

附 Nội dung bài An biên 安邊: từ chữ nguy 危 đến hết bài kết thúc ở chữ cao 皐 Hữu phỏng Lương Tuyên Đế Kiến trừ thể 右倣梁宣帝建 除體 và toàn văn Phụ lục nguyên thể Kiến trừ thể. Nội dung bài Trị công 治功 Phụ lục nguyên thể Điệp vận trường ca 附錄 原體曡韻長歌

Tờ 15a: Chép thiếu: Phụ lục nguyên thể Điệp vận trường ca 附錄原體曡韻 長歌

48

Tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, gồm các dị bản được lưu trữ

ở nhiều nguồn với hiện trạng khác nhau, cho nên việc xác định được thiện bản là

công việc cần thiết trong công tác khảo sát văn bản học Hán Nôm. Qua công tác khảo

dị đối hiệu, đã chỉ ra rằng bản in mộc bản là bản tốt nhất trong số các bản hiện có.

Tuy có một số tờ khuyết thiếu do các tấm mộc bản thất lạc nhưng với giá trị của

nguồn tư liệu gốc và việc hiện còn 4 quyển đã có thể kết luận là bản đầy đủ nhất.

Chúng tôi xác định lựa chọn bản in mộc bản làm thiện bản, vì những lý do sau:

Thứ nhất, mộc bản là nguồn tư liệu độc bản của Quốc Sử quán triều Nguyễn, là

tư liệu gốc từ thời đại của tác giả được khắc in mộc bản năm Thiệu Trị thứ 7 (1847),

đến nay (năm 2020) đã được 173 năm nên nghiễm nhiên bản in mộc bản là bản tốt

nhất. Mộc bản khắc thơ ngự chế của vua chỉ có Quốc Sử quán mới đủ thẩm quyền

thừa lệnh nhà vua biên tập, trải qua các bước khảo hiệu thẩm định nội dung, dâng lên

vua ngự lãm mới được phê chuẩn cho khắc in. Tác phẩm được chép “tinh tả” và giao

cho bộ phận san khắc để khắc ván, rồi in thành sách và đem phổ quát trong các

trường học, ban cho vương công quần thần. Tư liệu mộc bản sau khi khắc in sẽ được

lưu tàng bản ở Quốc Sử quán. Như vậy, nguồn tư liệu này là nguồn tư liệu gốc, chính

thống được lưu trữ tại Quốc Sử quán triều Nguyễn, trải qua thời gian và biến thiên của

thời cuộc, ngày nay được lưu trữ tại TTLTQG IV - Đà Lạt. Một sự thật là “hầu hết các

bộ thi tuyển của nước ta phần nhiều đều không còn giữ được bản gốc (thủ cảo, nguyên

cảo, nguyên bản) của tác giả, quá trình truyền bản phức tạp và để lại nhiều dị bản” [54,

tr.236], việc tìm thấy một tư liệu gốc thuộc thời đại của tác giả là vô cùng quý giá và

có giá trị quan trọng hàng đầu trong công tác nghiên cứu văn bản học Hán Nôm. Vì

vậy, bản in mộc bản là nguồn tư liệu gốc và chính xác.

Thứ hai, bản in mộc bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tại

TTLTQG IV - Đà Lạt là bản có nội dung gồm 4 quyển, trong khi đó hệ thống các bản

in hiện còn tại các thư viện chỉ rải rác không đủ số quyển; bản chép tay tuy có 4

quyển nhưng đây là tư liệu được Viện Viễn Đông Bác Cổ cho tiến hành sao chép từ

một bản in chưa xác định, có thể có khoảng cách niên đại khá lớn với thời kỳ xuất

bản tác phẩm và cũng xảy ra hiện tượng sao chép thiếu sót, nhầm lẫn nội dung so với

bản in.

49

Qua những lý do trên cho thấy bản in mộc bản đáp ứng đầy đủ yêu cầu khách

quan của một văn bản chuẩn mực, ngoài ra có thể đảm bảo được tính chính xác và

độ tin cậy để phục vụ cho công tác nghiên cứu. Vì vậy, chúng tôi quyết định chọn

bản in mộc bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập là thiện bản phục vụ

cho quá trình nghiên cứu của luận án.

2.3.2 Bổ khuyết thiện bản

Việc xác định được bản in mộc bản là thiện bản nhưng hiện trạng bị thất lạc

một số tấm mộc bản thì việc bổ khuyết nội dung cho văn bản là việc làm cần thiết để

đảm bảo quá trình nghiên cứu không bị gián đoạn hoặc thiếu sót dữ liệu. Công tác bổ

khuyết văn bản chính là kiểm định và hiệu đối nội dung bị khuyết của bản in mộc

bản với các bản - bản in; bản chép tay và Thiệu Trị Ngự chế thi, để nhằm có được

nội dung hoàn bị nhất, cụ thể như sau:

- Quyển mục lục: Bổ sung11 tờ nội dung bài Biểu; tờ 13; 14; 15; 16, lấy

nguồn từ bản in ảnh ấn tại TVQG, ký hiệu R.1597.

- Quyển nhất: Thiếu tờ 47, lấy nguồn từ bản in tại VNCHN, ký hiệu A.3052.

- Quyển nhị: Thiếu tờ 11; 12; 25; 26; 35; 36; lấy nguồn từ quyển nhị thuộc

bản chép tay tại VNCHN, ký hiệu A.1960, đã qua kiểm định đối hiệu với Thiệu Trị

Ngự chế thi, chi tiết như sau:

+ Tờ 11; 12 (gồm tr.11a - 11b; tr.12a - 12b): Chọn nội dung ở bản A.1960 từ

chữ thứ 8 (論 luận) thuộc tờ 6b6; đến chữ thứ 15 (飲 ẩm) thuộc tờ 7b6.

+ Tờ 25; 26 (tr.25a - 25b; tr.26a - 26b): Chọn nội dung ở bản A.1960 từ chữ thứ

8 (碎 toái) thuộc tờ 14a3 đến chữ thứ 15 (律 luật) thuộc tờ 15a4.

+ Tờ 35; 36 (tr.35a - 35b; tr.36a - 36b): Chọn nội dung ở bản A.1960 từ chữ

thứ 12 (此 thử) thuộc tờ 20a2; đến chữ thứ 3 (翼 dực) thuộc tờ 21a6.

+ Nội dung quyển nhị tồn tại 2 tờ đánh số thứ tự là 27. Qua khảo sát, tờ số 27

thứ nhất chứa nội dung Phụ lục nguyên thể bài thơ Điệp vận trường ca là thuộc

quyển tam, khi so sánh nội dung tờ này với bản chép tay và Ngự chế thi thì nội dung

hoàn toàn trùng khớp. Như vậy, chứng minh một điều bản gốc tư liệu mộc bản

không hề có lỗi nhầm lẫn trùng lặp này mà đây là lỗi do phân loại về sau.

50

- Quyển tam: Thiếu tờ 7; 8; 27 (tờ này xếp nhầm ở q.2); 37; 38, lấy nội dung

từ bản in ảnh ấn tại TVQG, ký hiệu R.1598:

+ Tờ 7, 8: Bổ sung nội dung tờ 7, 8 của bản in R.1598.

+ Tờ 27: Bổ sung tờ 27 xếp nhầm ở quyển nhị sang đúng vị trí tại quyển tam.

+ Tờ 37, 38: Bổ sung nội dung lấy tờ 37, 38 của bản in R.1598.

Quy ước bảng bổ khuyết: Với nội dung cần bổ khuyết cho bản in mộc bản,

chúng tôi chỉ trích dẫn chữ Hán mà không phiên âm, dịch nghĩa. Trích dẫn từ nguồn

nào chúng tôi ghi rõ ở cột sau cùng. Trong đó, các tờ được trích từ bản chép tay,

chúng tôi ghi cụ thể vị trí của chữ thuộc tờ nào và dòng bao nhiêu; Song song với

đó, chúng tôi sẽ đối chiếu và ghi chú số tờ thuộc Thiệu Trị Ngự chế thi nhằm tăng

thêm độ chính xác và tin cậy cho nội dung. Tuy nhiên trong Ngự chế chi, nội dung

các bài Phụ lục nguyên thể chỉ được dẫn tựa đề mà không chép toàn văn. Vì vậy,

các đoạn chữ Hán thuộc nội dung của Phụ lục nguyên thể, chỉ căn cứ vào bản chép

tay và đã qua kiểm định nội dung điểm đầu cuối của câu chữ với bản in mộc bản,

cho nội dung hoàn toàn tương thích và chính xác. Bên cạnh đó, nội dung bài Biểu sẽ

không có trong Ngự chế thi vì đây là Biểu cho tập Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp.

Bảng 2.3: Bổ khuyết nội dung cho thiện bản

Quyển

Nguồn trích dẫn

Nội dung bổ khuyết cho thiện bản

Bản in R.1597

Quyển mục lục 卷目錄

1). Nội dung bài Biểu 表: 内閣臣等稽首頓首謹奏,爲恭將御製古今體格詩法集,懇請鐫刻頒行以 闡化源用光文治事. 臣等竊惟詩教其來遠矣,根於情而發於聲.詩學豈易言哉.大其規必要 其正,自三百五篇之删定,鏗金振玉至矣無加,歷數千百載之謳歌,掞藻 敷英又復不少.一代有一代之制作.一家有一家之文章.本四詩之四聲, 經三正而三變,緣機觸興,別體殊名,爲騷體爲詩餘,徙步律音之外,有 器銘有琴操,濫觴風雅之先,或似歌似行而綺合羣異,或限字限句而輳 集百難.詩歸古選之所傳,仍多脫簡,玉海度針之見採未免漏巵,紛然萬 籟之皆可爲聲.散之羣書而不一其致,蓋必有筆參造化,渾成法語之方 圓.始能坐策古今,盡作詩城之部典者也. 欽惟皇帝陛下心源鏡宙,理蘊澄天,參兩大而成能,乾坤同其體用,統六 經而出治,日月炳其文章,清暇書樓樂幾餘之講畫.淡如詩舍,廑乙夜之 品題,歐歌雅頌之徽.日新謂盛,敦厚温柔之化.時出不窮,歲每二週詩 成一部,二三四部比初而加富,千萬億年,積數而彌隆,集其大成度越皇 虞而上,示之別趣,兼羅周漢以來. 謂爲詩雖本於性情,而學詩必明夫體格.作者不一,兼之最難,若不會其

51

變通,七步宏才何以施其意匠,倘未備諸音律.八義妙手,仍亦囿於恒 蹊,蓋觀於水者必觀其瀾,而進於技者方進於道. 于是蒐羅章法,明示體裁.聖製姓氏一章.宸翰新創諸體,先其大者,推 而廣之,遂沿古近之源流,悉發風騷之淵藪其新創也.天文地輿,文德武 功,以至七政羣芳新之又新,發所未發.漁樵耕讀,既集題以成詩.花樹 禽魚, 復因詩而作對,有縱横之體,有簡約之名,周環則順讀倒讀,分爲 九十六章,如星宿之運行,而錯置迴文則五言七言,合成六十四首,猶錦 綺之經緯而成文.其倣古也,有如堯戒虞歌,商銘禹繇,以至葫蘆雜數謎 字蟬聯,或古篇之可採,點以靈丹,或古調之未圓,加之斧藻.別裁書法, 活潑有自動之機,改從律詩,變化有天然之致,長短歌則叚叚皆完本.韻 較之源體爲尤佳.離合體則句句皆用藥,名比之原題爲更妙,總約七十 餘體.會詩學之金針,摛成百有餘篇,揭藝林之明鏡,協衆音而共成節 奏,豈惟樂府之二十四聲,統萬卷而萃厥菁英.何止詩源之三十八則,馳 今驟古,法度行體格之中,抑雅揚風神理出語言之表.吟壇壁壘,合千家 之正正竒竒,詩海律粱,悉百代之源源委委. 况又總以御案,括其指歸,辦渭澄涇,惟折哀于至理,提綱挈要,深有補 於經言.臣等忝預禁垣仰窺册府恭照是集諸作,節奉豋之御詩各集廼者 欽蒙訓示另行輯編得詩一百五十七章釐爲三卷目錄一卷進呈御覽奉顏 曰:御製古今體格詩法集兹請壽之梨棗欽奉. 頒行俾海内絃誦之家獲,覩崑山良玉之璞奉爲圭臬永作球圖非特臣等 之願誠士林之大願望也.輙敢合辭籲懇伏冀允行臣等不勝踴躍翹企之 至謹奏. 紹治七年九月初九日題. 奉旨彙輯考校謄錄. 彙輯: 禮部左侍郎充辦内閣事務加一級紀錄一次臣阮伯儀 工部右侍郎充辦内閣事務臣尊室鉿 户部右侍郎充辦内閣事務加一級臣阮久長 署翰林院直學士充辦内閣事務加一級臣武范啟. 考校: 翰林院侍講學士充内閣秘書所行走臣枚英俊 署翰林院侍講學士充内閣本章所行走臣阮春夀 翰林院承旨充内閣尚寶所行走臣阮豋選 翰林院著作充内閣絲綸所行走臣阮藩 翰林院檢討充内閣絲綸所行走臣潘文可. 謄錄:翰林院供奉臣楊文榆. 奉旨監造刊刻頒行:兵部尚書兼都察院右都御史總督山西興化宣光等 處地方提督軍務兼理稂加二級臣阮豋楷.

Bản in R.1597: Tờ 13.

Tờ 13: 晴輝秀水.倣唐皮日休曡韻體 附錄原體山中吟. 韞玉山輝.倣唐陸龜蒙全平體

52

Bản in R.1597 Tờ 14.

附錄原體苦雨 懷珠川媚.倣宋梅堯臣全仄體 附錄原體舟中卽事 重樓雅望.倣宋王十朋曡字體 附錄原體:貢院垂成雙蓮呈瑞因成鄙語勉諸士子 Tờ 14: 曲榭遣閒.倣宋趙吉士重曡字體 附錄原體林卧集 池塘玩月.倣梁元帝句句用字體 附錄原體春日 亭院納凉.倣齊王生迴文體仍改從律詩平仄加爲四韻讀得四首更妙于 原作也. 附錄原體春遊 平橋閒步

Bản in R.1597 Tờ 15.

Tờ 15: 倣唐張籍藥名離合體,頗讀則分隨文義而接章句則合成藥名故云離合 體乃原題第一句云江皋歲暮將逢地第四句云心中萬事喜君知則知與江 不成何藥名今則句句上下用神砂地黄人參景天尤得連環離合之義也. 附錄原體答鄱陽客 高閣清居.倣唐白樂天折字體 附錄原體遊紫霄宮

Bản in R.1597 Tờ 16.

Quyển nhất 卷一

Tờ 16: 日長講誦.倣殷仲堪酒盤銘 附錄原體酒盤銘 風爽吟哦.倣宋蘇東坡扇對格 附錄原體和鬱孤臺 夕郊牧笛.倣宋秦觀藏字迴文體 附錄原體藏字迴文 山寺禪鐘.新創七政格.凡每句七字要藏日月土金水木火不抅次第務 在. Tờ 47: 款率俾来庭不屑復摘而已勝於初年矣總皆仰憑祖考餘威遺烈厚澤深仁 邊境敉寧户口蕃盛滋培蘇息涵養安恬是皆聖功久道化成之所致也. 本固邦寧謐延洪億載基. 右以全詩爲題體. 御製古今體格詩法集卷之一止.

Quyển nhị 卷二

+ Bản in A.3052: Tờ 47a-47b; + TTNCT: Tập 4, quyển 5, tờ 19b4 - 19b6. + Bản chép tay A.1960: Từ chữ thứ 8, tờ 6b6 – chữ 24 tờ 7a5; + TTNCT:

Tờ 11: 論英達算鴟夷高興固無邊. 晴輝秀水:涓涓連前川泚泚彼止水升恒仍澂凝似此擬美綺. 右倣唐皮日休曡韻體. 附錄原體山中吟:穿烟泉潺漫觸竹犢觳觫荒篁香墻匡熟鹿伏屋曲. 韞玉山輝:岩岩虬龍形粼粼山林頭胚胎瓊瑶藏儲精珪璋浮嶙峋光芒生

53

岑嶔晶瑩流連城當其中惟賢何須求.

Tờ 12: 右倣唐陸龜蒙全平體. 附錄原體苦雨:幽樓眼疎牕豪居憑高樓浮漚鶩跳凡寒聲思重裘牀前垂 丈竿巢邊登輕舟雖無東皐田還生魚乎憂. 懷珠川媚:湛湛澈底水涖涖細浪止兔正晧潔鏡蚌吐貴美玼艶藹度九折 燦爛被十里朗淨派演演照乘本在此. 右倣宋梅堯臣全仄體 附錄原體舟中即事:日出斷岸口影照別舸背且獨與婦飮.

Tờ 25: 碎影揺撙石上園棋輕陰覆弓屈大夫逐去徒悅椒蘭陶先生歸來但尋松菊 若論檀欒之操無敵於君欲圖瀟灑之姿莫賢於僕. 隴畝耘耡:雨乍歇土潤滋刈草莽培禾蕤雙犁駕千塍馳勤劬温飽資. 右倣魯連子三言體原二韻加足四韻 附錄原體三言體:心誠憐白髮玄情不怡艶色媸. 泛海歸帆:茫茫滄海浩浩長天風帆一葦雲葉八埏仍

Tờ 26: 勞弱木無礙幽淵擰將忠信克塞山川. 右倣黄帝兵法四言體. 附錄原體兵法:日中不彗是詔失時操刀不割失利之期執斧不伐賊人將 來涓涓不塞將為洱河熒熒不救炎炎李何两葉不去將用斧柯為虺弗摧行 將為蛇. 濟川擊楫:舟楫欣將則煙波到處平扣舷千覺應皷櫂一揮成山響滄浪韻 風傳欸乃聲交孚殷主意感慕越人情. 右倣漢蘇武五言古體.仍改從律. Tờ 35: 此是叶韻如詩經誠可誌驗乃仇兆鰲以爲孤鴈出羣格不過彊觧耳以余意 覓之杜投幕府詩首句七虞餘皆六魚稱爲孤鴈八羣格則前三聯一韻後一 聯末句用別韻可稱爲孤鴈出羣格而對與八羣格誠爲首尾相應可有証也 余之作諸詩集凡有此韻皆爲是格似此所論詩人識者以爲何如哉. 曠埜螢燈:漁火江村漸漸紅平原夕幌暮煙濃景天

Tờ 36: 雲集青郊朗暉夜星陳綠徑烘雨過千林難滅息風來萬點愈光衝暴隨可鄙 勞人事貧士堪憐好學功. 右倣宋李師中進退格. 附錄原體送唐介.

Tập 4, quyển 5, tờ 28a6- 29a1. + Bản chép tay A.1960: Từ chữ thứ 1, tờ 7a6 – chữ 15 tờ 7b6; + TTNCT: Tập 4, quyển 5, tờ 29a3- 29a6. + Bản chép tay A.1960: Từ chữ thứ 8, tờ 14a3 – chữ 17 tờ 14b3; + TTNCT: Tập 4, quyển 5, tờ 37a. + Bản chép tay A.1960: Từ chữ thứ 18, tờ 14b3 – chữ thứ 15 tờ 15a4; + TTNCT: Tập 4, quyển 5, tờ 37b. + Bản chép tay A.1960: Từ chữ thứ 12, tờ 20a2 – chữ thứ 3, tờ 20b4; + TTNCT: Tập 4, quyển 5, tờ 43a5- 44a4. + Bản chép tay A.1960: Từ chữ thứ 4, tờ 20b4 – chữ thứ 3, tờ 21a6;

54

孤忠自許衆不與獨立敢言人所難去國一身輕姒葉高名千古重於山並遊 英俊顏何厚未死奸諛骨已寒天爲吾皇抶社稷肯敎夫子不生還. 清宵蝉韻:八名五德古來今仍事催聞斷續音飲露鳴楡臨月下聆風噪柳 徹更深翩翩薄翼.

+ TTNCT: Tập 4, quyển 5, tờ 44a5- 44b5. + Bản in R.1598 Tờ 7.

Quyển tam 卷三

+ Bản in R.1598 Tờ 8.

Bản in mộc bản + Bản in R.1598 Tờ 37.

+ Bản in R.1598 Tờ 38.

Tờ 7: 破敵動庸盛佩紫且懷黄危苗旣已竄妖沴亦去亡成功勒雲社治定禮要荒 收戟歸農器牧馬恣芻場開山接梯路架海擬山梁閉慾同彭老延壽等東 皇. 治功: 乾成宮齊萬物坤泰宮載羣生保定宮邦家治長寧宮品彙亨太和殿 咸順序勤政殿凜持盈武顯殿增開拓文明殿致太平隆安殿諸海宇止善堂 撫寰瀛皇福殿洪基永天申殿景貺呈. 右倣梁元帝宮殿體仍用本朝宮. Tờ 8: 殿名.附錄原體宮殿名: 林間花欲然竹徑露初圓鬬鷄東道上走馬北場 邊合歡依瞑卷葡萄向日鮮旗亭覔張放香車迎董賢定隔天淵水相思夜不 眠. 政化: 承天弘治化每句各藏二郡縣名其京師之承天府又永隆省弘治府. 廣地永綏成清化省廣化府廣地縣又宣光省安平府永綏縣.良政民安樂 清化省壽春府良政州又山西省永祥府安樂縣.興仁國太平興安省先興 府興仁縣又南定省太平府.河清香水浄河靜. Tờ 27: Tờ này xếp nhầm ở quyển nhị (bản in mộc bản), đưa trở lại đúng vị trí của quyển tam đã qua thẩm định nội dung chính xác. Tờ 37: 盥盤銘伯牙水僊操越人歌魯連子三言體漢高帝大風哥武帝栢梁體昭帝 淋河哥蘇武五言古體晉殷仲堪酒盤銘宋鮑明遠雜數體謎字體王微四氣 體北周廋信商調曲九言體齊王生迴文體四色體梁簡文帝卦名體元帝句 句用字體宮殿名體樹名體鳥名體宣帝建除體范雲郡縣名體陳沈炯口字 體八音體六府體唐李白三五七言體葫蘆韻體杜甫孤鴈八羣格體孤鴈出 羣格體白樂天折字體長短句體顧况六言體皮日休疊韻體陸龜蒙全平體 張籍. Tờ 38: 藥名離合體章碣雙韻體宋邵堯夫首尾吟蘇東坡扇對格秦觀藏字迴文體 梅堯臣全仄體王十朋疊字體李師中進退格趙吉士重疊字體文同一字至 十字體火焰體飛鴈體佛印疊韻長歌體明陳繼漁父詞倒句體蟬聯體又撿 出尚有四十六體格荆軻二句歌體漢書一句歌體曹子建後章字接前章體 北周廋信增字體梁簡文帝顚倒韻體元帝將軍名體車名體船名體草名體 獸名體范雲州名體陳沈炯六甲體唐王維減字體李白斷句體杜甫首尾 對.

Sau khi hiệu đối bổ khuyết nội dung cho thiện bản, chúng tôi đã tiến hành

phục dựng những trang văn bản bị khuyết mất do thất lạc tư liệu mộc bản, mục đích

là để có cái nhìn tổng quát về nội dung của những trang khiếm khuyết. Hình thức

55

phục dựng là dựa trên kết cấu của một tấm mộc bản, như vậy một tờ phục dựng sẽ

tương đương với một tấm mộc bản gồm 2 mặt tức là 2 trang sách, có gáy sách. Mỗi

trang gồm 6 dòng chính, mỗi dòng nhiều nhất có 16 chữ, tên bài thơ được lùi xuống

một hàng chữ, phụ lục nguyên thể hay các chú thích đều được lùi xuống 2 hoặc 3

hàng chữ. Căn cứ vào hiện trạng khuyết thì chỉ cần phục dựng cho những trang

thuộc quyển nhị, vì các quyển mục lục, quyển nhất, quyển tam hiện đều còn bản in,

riêng quyển nhị chỉ còn căn cứ được vào bản chép tay A.1960 và Thiệu Trị Ngự chế

thi. Vậy, số tờ cần phục dựng cho quyển nhị là: 11; 12; 25; 26; 35; 36. Sau đây,

此 擬 美 綺

晴 輝 秀 水

韞 玉 山 輝

熟 鹿 伏 屋 曲

當 其 中 惟 賢 何 須 求

附 錄 原 體 山 中 吟

右 倣 唐 皮 日 休 曡 韻 體

論 英 達 算 鴟 夷 高 興 固 無 邊

精 珪 璋 浮 嶙 峋 光 芒 生 岑 嶔 晶 瑩 流 連 城

岩 岩 虬 龍 形 粼 粼 山 林 頭 胚 胎 瓊 瑶 藏 儲

穿 烟 泉 潺 漫 觸 竹 犢 觳 觫 荒 篁 香 墻 匡

御 製 古 今 體 格 詩 法 集 卷 二 十 一

涓 涓 連 前 川 泚 泚 彼 止 水 升 恒 仍 澂 凝 似

Phục dựng mộc bản: Nội dung tờ 11 - quyển nhị

chúng tôi chỉ xin trích dẫn một bảng phục dựng còn lại đưa vào phụ lục:

Qua công tác khảo cứu và bổ khuyết cho thiện bản đã đưa ra một nội dung

tác phẩm hoàn bị. Đây là kết quả thu được sau khi trải qua công tác đối hiệu giữa

các dị bản hiện có và tổng nguồn Thiệu Trị Ngự chế thi nên đảm bảo độ tin cậy,

chính xác và sẽ là tư liệu đầy đủ phục vụ các nghiên cứu chuyên sâu về tác phẩm

cho luận án này.

2.4 Khảo cứu cấu trúc nội dung văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi

pháp tập

Sau khi phục dựng diện mạo hoàn chỉnh cho thiện bản, chúng tôi tiến hành

khảo cứu phân tích cấu trúc từng quyển, từng trang nội dung văn bản tác phẩm Ngự

chế cổ kim thể cách thi pháp tập.

56

2.4.1. Khảo cứu bài Biểu

Bài Biểu thuộc quyển mục lục từ tờ 1a đến tờ 8a. Hình thức gáy đuôi cá,

chính giữa khắc chữ 表 Biểu và số tờ, mỗi tờ 2 trang, mỗi trang gồm 7 dòng, mỗi

dòng gồm nhiều nhất 16 chữ, các dòng khắc tựa đề hay chú thích thì lùi xuống 2 ô

chữ, khắc chữ Khải, rõ nét. Mở đầu nội dung bài biểu, tờ 1a khắc:

内閣臣等稽首頓首謹奏,爲恭將御製古今體格詩法集,懇請鐫刻頒行,以闡化源用

光文治事 Nội các thần đẳng khể thủ đốn thủ cẩn tấu, vi cung tương Ngự chế cổ

kim thể cách thi pháp tập, khẩn thỉnh tuyên khắc ban hành, dĩ xiển hóa nguyên dụng

quang văn trị sự, Nội các trình bày việc đã biên soạn xong tập sách, nay trình lên

vua ngự lãm, xin lệnh cho được khắc in để phổ quát rộng rãi nhằm xiển hóa sáng tỏ

cái thể dụng của nền văn trị.

Trong bài Biểu có hiện tượng viết đài cụm từ để tôn xưng, cụ thể các chữ

như: lưỡng đại 兩大 (tờ 2b4); càn khôn 乾坤 (tờ 2b5); Thánh chế tính thị

聖製姓氏 (tờ 4a3) với hình thức được khắc cao lên hẳn so với khung viền sách

khoảng cách một ô chữ Hán. Bài biểu không tìm thấy trường hợp chữ kiêng húy.

Nội dung bài Biểu là lời giải thích rõ ràng về ý nghĩa của tác phẩm, chỉ ra lý

do đặc biệt quan trọng của việc biên soạn và ban hành tác phẩm là để xiển hóa sáng

tỏ cái thể dụng của nền văn trị, dùng văn chương cai trị đất nước (văn trị 文治). Đây

là yếu tố quan trọng, xuyên suốt nội hàm những sáng tác văn chương của một vị

Hoàng đế, không đơn thuần chỉ là phô diễn tài năng thi phú hay để lưu danh với đời,

một vị Hoàng đế sáng tác văn chương là để cai trị thiên hạ. Việc dùng thơ văn để

giáo hóa là phép xưa, cũng là đạo quân vương, chung quy gốc rễ là ở tình cảm mà

phát thành lời thơ. Bài Biểu ca ngợi văn chương nhà vua sáng như vầng nhật nguyệt,

nguồn tâm sáng rực, luôn kính cẩn noi theo hai bậc tiên đế (tức vua Gia Long và

Minh Mạng) để thành tựu năng lực. Vua đặc biệt lưu tâm đến việc sưu tầm chương

pháp để sáng tỏ lối văn, sáng tạo ra một chương Tính thị, tiếp tục phát triển các phép

xưa. Bài Biểu đề cập đến việc nhà vua quan tâm đến các thể cách của văn chương,

nhà vua có thể phỏng theo một cách thành thạo các thể cách nổi tiếng của cổ nhân,

đặc biệt vua còn tự sáng tạo ra những thể cách mới, đây là đóng góp có giá trị lớn đối

57

với nền thi học nước nhà thời bấy giờ. Tập thơ là kết quả từ việc quần thần vâng lời

huấn thị của vua tuyển chọn trong tổng tập Thiệu Trị Ngự chế thi, tổng cộng gồm

157 chương/ bài, có thể ước lượng vua đã sử dụng hơn bảy mươi thể thơ cổ kim và

tân sáng (總約七十餘體 tổng ước thất thập dư thể), biên tập thành 3 quyển chính và

1 quyển mục lục, trình lên nhà vua ngự lãm với nhan đề: 御製古今體格詩法集.

Kính cẩn dâng lên lời tấu thỉnh xin san khắc tác phẩm để ban hành trong quốc độ

xưng tụng, lấy đó làm khuôn ngọc để mãi noi theo.

Tờ 7b4 khắc niên đại tác phẩm: 紹治七年九月初九日題 Thiệu Trị thất niên

cửu nguyệt sơ cửu nhật đề, ngày Mùng 9 tháng 9, niên hiệu Thiệu Trị năm thứ 7

(1847). Tờ 7b6 khắc một chữ 可 Khả, đây là châu phê của vua Thiệu Trị về việc

đồng ý cho phép mang đi khắc in.

Tờ 8a khắc tên 4 vị đại thần dâng Biểu là: Nguyễn Bá Nghi, Tôn Thất Cáp,

Nguyễn Cửu Trường, Vũ Phạm Khải; trang 8b để trống. Nội dung tiếp theo là khắc tên

người biên soạn, được đánh số tờ lại từ đầu: từ tờ 1a1 đến tờ 3a3 khắc tên và chức vụ

của đại thần Nội các biên soạn, khảo hiệu, viết chữ, giám sát khắc in mà chúng tôi đã

trình bày ở nội dung trên. Tờ 2b và 3b để trống. Toàn văn bài Biểu đến đây là kết thúc.

2.4.2. Khảo cứu tựa dẫn của các sáng tác

Ngoài lời Biểu dâng của Nội các đại thần, trong toàn bộ tập thơ chúng tôi ghi

nhận thêm 3 bài văn tựa của các sáng tác hoặc từng quyển. Trong đó, có nhiều thông

tin đề cập đến căn nguyên sáng tác, giúp cho người đọc hiểu rõ hoàn cảnh ra đời của

tác phẩm. Chúng tôi, tiến hành khảo cứu nội dung của các lời tựa theo tuần tự 3 quyển:

a). Quyển nhất: Lời tựa từ tờ 37b4 - 39a2 cho bài thơ Trọng thu hòa thục thời

hậu dư khủng trị lạo tấn chi kỳ mỗi vi nông ưu thường hữu mặc đảo hà hạnh

仲秋禾熟時候余恐値潦汛之期每爲農憂常有默禱何幸. Trong nội dung bài tựa,

Thiệu Trị thể hiện sự lo lắng về việc thu hoạch lúa vào mùa thu, sợ mưa lớn nước lũ về

dâng cao ảnh hưởng đến việc thu hoạch và phơi sấy của người nông dân. Sau khi nghe

quần thần tâu rõ công việc thu hoạch đã được hoàn thành trước kỳ mưa lũ, Thiệu Trị đã

10 Hán: 仲秋禾熟時候余恐値潦汛之期每爲農憂常有默禱何幸.

vui mừng ghi lại lời tựa và sáng tác bài thơ theo điệu Thủ vĩ ngâm. Bài tựa như sau10:

58

“Giữa thu lúa bắt đầu chín, ta lo sợ nước lụt tới kỳ dâng cao, mỗi lúc vậy vì

lo âu cho mùa màng mà thường mật đảo cầu nguyện cho được may mắn. Trời

xanh chiếu giám, lòng ta thương nghĩ đến dân, lo lắng cho mùa màng. Thời

tiết thuận lợi có thể thấy năm nay thịnh vượng, dự đoán từ đầu tháng tám đến

nay, trời tạnh nhiều mà mưa thì ít, vậy có thể lường xét việc nước lũ ắt đến

chậm. Lúa ngoài ruộng vừa chín. Ngày trước hỏi han các quan ở phủ Thừa

Thiên tình trạng thu hoạch lúa chín. Căn cứ vào lời tấu của bọn: Thự Kinh

thành Đề đốc kiêm Lý Thừa Thiên phủ sự vụ Nguyễn Doãn; Thự Phủ doãn

Trần Chương; Phủ thừa Nguyễn Trung Nghĩa vừa dâng lên. Theo dõi các

huyện thuộc phần cai quản trong phủ, tất cả nhà nông đều khen mùa thu năm

nay, cây lúa gặp thời tiết thuận lợi có mưa nhẹ, ruộng đồng cao thấp khắp nơi

như một, đều được trổ đòng tốt tươi. Những nơi gieo mạ sớm đã dần thu

hoạch xong tất cả, những nơi gieo mạ muộn cũng đã kế nhau đến thời chín,

cũng đã thu hoạch rồi. Ngày 20 tháng tám này, các nơi có thể hoàn tất công

việc thu hoạch lúa. Năm nay được mùa to là điều chân thật. Nếu cuối tháng

giả sử nước lũ bắt đầu dâng thì cũng an toàn không lo ngại gì nữa, tất cả các

quan đều tâu như vậy. Nay đã đến ngày 20 tháng tám thời tiết chuyển lạnh

cùng sương móc mà ngày vẫn tạnh ráo, mưa lũ năm nay cũng ôn hòa không

gặp cảnh nước dâng mênh mông. Nhận được tin tốt như muôn vật quý báu

hợp thành, vui vẻ mà làm bài thơ theo điệu thủ vỹ ngâm”.

b). Quyển nhị: Lời tựa đầu quyển nằm ở tờ 1a. Vua Thiệu Trị có một ngôi

nhà đặt tên Đạm Như thi xá 淡如詩舍, là nơi ông thường đến để thưởng cảnh, tĩnh

tâm, hứng thú và say mê nghiên tầm sách vở cổ của người xưa, có lúc cao hứng

trước khung cảnh tao nhã mà đề vịnh thi ca, nhiều bài thơ trong tập Ngự chế cổ kim

上蒼照鑒,憂民憫農之心.時若堪徵年豐,可卜自八月來兹,睛多雨少,諒必潦遲,田禾正熟.日前詢之承 天府臣,收穫田禾事狀.據署京城提督兼理承天府事務阮尹,署府尹陳章,府丞阮忠義等.具片奏敘照據 屬轄各縣,農家咸稱本年秋禾節蒙時雨,高低之田均得一律秀好.其早稼者,收穫漸已悉功,其晚稼者次 第就熟亦已收穫.本月二十日左右方畢功.誠爲大稔.若下旬縱使潦汛,亦保無別礙等語.今已至八月二 十日節交寒露而連日晴和,免遭潦漲.信爲萬寶收成,喜而有作,首尾吟. 11 Hán: 幾餘賞勝,莫如墳典之娛.長夏寓閒,曷若品題之雅,清暇書樓,披卷聖賢可會於心.淡如詩舍,揮毫風景,發 生於思.覽天地文章,雲物無限,襟懷集古今體格詩歌,偶然賦咏.

thể cách thi pháp được ông sáng tác tại đây. Nội dung bài tựa như sau11:

59

“Những lúc nhàn rỗi thưởng ngoạn thắng cảnh hoặc lấy việc đọc sách vở cổ

làm vui. Suốt mùa hạ ở với cảnh an nhàn, lấy sự thanh nhã mà phẩm đề, thư

thái đọc sách một cách cặn kẽ tại lầu sách, đến nỗi thánh hiền có thể thấy

được cả trong tâm. Thi xá Đạm Như vung bút thành văn, phong cảnh sinh

khởi ở suy nghĩ. Xem văn chương trong trời đất hết thảy như muôn vật mây

bay, tấm lòng ôm ấp hoài bão chẳng giới hạn, tập cổ kim thể cách thi ca, cứ

như vậy ngẫu nhiên mà đề vịnh”.

c). Quyển tam: Lời tựa đầu quyển nằm tờ 1a. Vua những lúc muôn sự đất

nước được thanh thản thì chủ yếu giành thời gian với thú vui tiêu khiển thi ca,

nghiên cứu những thể cách cổ kim mà sáng tác đề vịnh. Một điều quan trọng đó là

thơ vua làm được đem đi các giảng đường để học trò lấy làm căn cứ tu tiến nghiệp học. Đó cũng là nét tiêu biểu trong nền văn trị của thời đại này. Nội dung như sau12:

“Nhiều lúc thanh thản nhàn hạ, ngày dài thư thái tiêu khiển tập thơ cổ kim

thể cách của thi gia. Sáng tác đề vịnh cảnh mùa hạ được bốn mươi chương.

Xem hết thảy phẩm loại văn chương trong thiên hạ, cùng ở trong cung thần

là hơn ba mươi thể. Lại dùng để ngâm vịnh quảng bá lời văn đến các trường

học, mà tăng sự tu tiến lợi ích cho học trò vậy”.

2.4.3 Khảo cứu nội dung văn bản tác phẩm

2.4.3.1 Quyển mục lục

Sách khổ 28 x 15cm, gồm 45 tờ, mỗi tờ hai trang a và b là 90 trang, không kể

trang bìa. Sách có 2 trang bìa màu mực son, trang bìa thứ nhất in tựa đề:

御製古今體格詩法集 Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, chạm khắc hình hai

rồng chầu mặt trời theo dáng thẳng đứng; trang tiếp theo khắc ấn “Thể Thiên Hành

Kiện 體天行健 và Thiệu Trị Thần Hàn 紹治宸翰” cũng được chạm hình hai rồng

theo dạng hình thoi tròn, tất cả xung quanh đều được chạm diềm, lọng và thêm một

trang bìa đệm chỉ in tựa đề tập thơ. Toàn bộ nội dung quyển mục lục được chia

thành 3 phần và đánh số tờ riêng biệt, gồm: nội dung bài Biểu; nội dung khắc danh

12 Hán: 萬幾清暇長日,遣閒集古今體格詩家,冩夏景四十章已咏觀天地文章品類侑宸筵三十體復吟次 用廣於詞場而進益於多士也.

sách Nội các và nội dung chính mục lục.

60

Nội dung bài Biểu và danh sách Nội các gồm 11 tờ, mỗi tờ 2 trang, mỗi trang

gồm 7 cột. Nội dung chính của quyển mục lục gồm 34 tờ, mỗi tờ 2 trang là 68 trang,

mỗi trang chia làm 6 cột, số chữ trong một cột nhiều nhất là 16 chữ, ít nhất 1 chữ,

chữ Khải khắc in rõ nét, khung viền rõ nét, gáy hình đuôi cá, phía trên khắc dòng

chữ: 御製古今體格詩法集, ở chính giữa ngay dưới đuôi cá khắc hai chữ 目錄 và

tiếp bên dưới là số tờ được khắc đánh số lại từ đầu. Tờ 1a, hàng đầu tiên khắc: Ngự

chế cổ kim thể cách thi pháp tập tổng mục. Tiếp đến là nội dung tựa đề các bài thơ

của từng quyển riêng biệt, tên phụ lục nguyên thể được khắc thấp hơn.

Khảo cứu chi tiết bản in mộc bản, tờ 12b4 khắc đề bài thơ là 曉色竒峯 Hiểu

sắc kỳ phong; tuy nhiên ở bản in R.1597 khắc là 晚色竒峯 Vãn sắc kỳ phong (bài

thơ này thuộc quyển nhị), với ý nghĩa trái ngược nhau 曉 hiểu chỉ cho buổi sớm

mai và 晚 vãn chỉ cho buổi chiều muộn. Bên cạnh đó, bản chép tay A.1960 giống

với bản R.1597, mục lục cũng khắc là 晚色竒峯 nhưng chính trong nội dung quyển

nhị của bản chép tay thì đầu đề lại là 曉色竒峯. Như vậy, ở đây chỉ có sự sai sót ở

quyển mục lục trong bản in R.1597 và bản chép tay mà thôi. Điều này đặt ra giả

thiết bản in R.1597 phải chăng được in từ một truyền bản khác với mộc bản tại Đà

Lạt nhưng giả thiết này rất khó xảy ra vì thơ của vua chỉ có Quốc Sử quán mới được

khắc in ngoài ra các cơ quan khác không được phép. Một giả thiết khác có tính khả

thi hơn, đó là bản khắc ban đầu có sự sai sót giữa chữ 曉 hiểu và 晚 vãn nhưng đã

in thành sách phổ biến ra bên ngoài (có thể bản in R.1597 là bản này và bản chép

tay chép từ R.1597). Sau khi phát hiện sai sót thì Quốc Sử quán mới cho khắc chữa

lại tấm mộc bản đó rồi thay thế tấm mộc bản trước và đưa vào tàng bản. Điều này lý

giải cho việc bản in mộc bản hiện tại có nội dung đúng. Sau khi, tra cứu bài thơ này

trong quyển nhị thì thấy tựa đề 曉色竒峯 phù hợp với nội dung và trong Thiệu Trị

Ngự chế thi cũng có cùng tựa đề này. Vì vậy, tựa đề bài thơ là 曉色竒峯 Hiểu sắc

kỳ phong mới chính xác.

Trong quyển mục lục, các lời tựa sáng tác và chú thích của các thể cách đều

được khắc kèm theo với tựa đề bài thơ và khắc thấp hơn với khoảng cách một ô chữ

61

Hán. Nội dung quyển mục lục kết thúc ở tờ 34b với dòng cuối cùng khắc

御製古今體格詩法集總目止 Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập tổng mục chỉ.

2.4.3.2 Quyển nhất

Quyển nhất khổ 28 x 15cm, tổng cộng 47 tờ, mỗi tờ 2 trang là 94 trang. Tờ

1a1 đề tên sách: Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập quyển chi nhất

御製古今體格詩法集卷之一. Hình thức trình bày, chữ khắc rõ nét theo dạng chữ

Khải, khung và đường viền rõ nét, gáy sách trang trí hình đuôi cá, trong đó đề tên

tập thơ, số quyển và số tờ. Mỗi trang gồm 6 cột khắc nội dung tập thơ, mỗi cột

trung bình là 16 chữ, các cột khắc tựa đề thì được khắc lùi thấp xuống so với nội

dung bài thơ; ở các chú thích cho nội dung bài thơ thì được khắc nhỏ hơn chia làm

hai dòng trên một cột; các bài thơ được phỏng tác thì có khắc đính kèm phụ lục

nguyên thể, nội dung các bài phụ lục này được khắc thấp hơn so với bài thơ chính.

Nội dung quyển nhất, tập trung những sáng tác của Thiệu Trị có tính chất

giáo hóa, tình cảm, phong cảnh thiên nhiên qua những thể thơ đặc biệt.

Mở đầu quyển nhất, từ tờ 1a2 đến tờ 3a3 là nội dung 10 bài minh: Nghênh

tuân Thánh chế ư Trai cung tài tùng thập chu các minh đồng bài huyền thị lai hứa,

10 bài minh này được vua cho khắc vào biển đồng treo ở các cây tùng (cây thông)

tại Trai cung thuộc đàn Nam Giao với ý nghĩa noi theo tiên vương, thực hành tế

Giao, cầu cho Hoàng triều xương minh dài lâu, cho muôn dân ấm no và nói lên khí

chất quân tử của cây tùng, hiện nay thì các biển đồng đã không còn.

Tờ 5b5, có sự sai khác về tựa đề bài thơ so với tổng mục, cụ thể như sau:

Trong tổng mục khắc là: 季冬觸景偶作 Quý đông xúc cảnh ngẫu tác nhưng trong

nội dung quyển nhất được khắc là: 季春觸景偶作 Quý xuân xúc cảnh ngẫu tác.

Tựa đề với ý nghĩa là cuối xuân (hoặc đông) ngắm cảnh ngẫu hứng sáng tác. Căn cứ

vào nội dung bài thơ thì có câu thơ: Oanh chuyển thanh thanh ám não xuân, có

nghĩa là nghe tiếng chim vàng anh kêu làm xuân thêm buồn. Như vậy, thì ý thơ là tả

cảnh cuối xuân nhà thơ nghe tiếng chim oanh kêu biết mùa xuân sắp qua nên chạnh

lòng sầu muộn. Bài thơ này, được tìm thấy trong tổng tập Ngự chế thi nhị tập,

quyển 2, tờ 31b với tựa đề là Quý xuân xúc cảnh ngẫu tác, trùng khớp với nội dung

62

ở quyển nhất. Vậy tựa đề khắc tại tổng mục có sự nhầm lẫn nên đính chính tựa đề

bài thơ là Quý xuân độc cảnh ngẫu tác là chính xác.

Nội dung quyển nhất có những điểm đặc biệt, vì quyển này khắc in những bài

thơ độc đáo của Thiệu Trị, nên lưu lượng số trang cho một bài thơ rất lớn. Tờ 16a2

khắc tựa đề bài: Vũ trung sơn thủy và chìa khóa chỉ dẫn để giải mã bài thơ: Dụng hồi

văn thể kiêm liên hoàn, để trống 4 cột. Sang tờ 16b khắc nội dung bài thơ theo đồ

dạng hình bát quái đọc theo vần bằng - bằng vận thất ngôn ngũ ngôn thể; tờ 17a,

khắc nội dung bài thơ theo đồ dạng hình bát quái đọc theo vần trắc - trắc vận thất

ngôn ngũ ngôn thể. Bắt đầu từ tờ 17b cho đến tờ 21a5 là khắc toàn bộ nội dung 16

cách đọc bài thơ để đạt được 64 bài thơ thất ngôn, ngũ ngôn, nói lên sự kỳ diệu của

thể thơ Hồi văn kiêm liên hoàn. Các câu dẫn về cách thức đọc bài thơ được khắc chữ

lớn bình thường; các nội dung chỉ dẫn cách đọc một bài thơ cụ thể bắt đầu và kết

thúc chữ nào thì được khắc mỗi cột gồm hai dòng, chữ nhỏ. Bài thơ này cùng với bài

Phước Viên văn hội lương dạ mạn ngâm được khắc in trang trọng tại đố bản gian

chính của điện Long An thuộc cung Bảo Định trong quần thể di tích Cố đô Huế, nay

là Bảo tàng cổ vật Cung đình Huế.

Tờ 21a6 và 21b, khắc nội dung bài Ngự diên văn bảo minh 御筵文寶銘,

gồm 8 chữ Hán được xếp theo dạng hình tròn đồng tâm, bên trong hình tròn khắc

dòng chữ Phỏng Lương Vũ đế Cổ nghiễn minh. Đây cũng là một bài thơ được sáng

tác và trình bày theo dạng hình tròn. Qua quá trình khảo cứu, chúng tôi đã bước đầu

tìm lời giải cho cách đọc bài minh này, cụ thể đây là bài minh gồm hai câu, với ý

nghĩa là khuyên răn bản thân theo tư tưởng sách Đại học của Thiệu Trị, được khắc

trên Ngự diên văn bảo và tại hai đố bản ở điện Long An.

Tờ 23b - 24a, khắc nội dung bài thơ Trì đường sơ hạ lâm hứng thủy tạ phóng

ngâm 池塘初夏臨興水榭放吟 được sáng tác theo thể Toàn chuyển chu hoàn thể

do chính Thiệu Trị tự sáng tạo, gồm 56 chữ được sắp xếp theo lối tả toàn hữu

chuyển (xoay trái xoay phải), với hai vần bằng trắc và 8 vận Tiên - Diêm - Hữu -

Hãm - Tống - Đông - Chưng - Trí để đọc được thành 96 bài thơ. Tờ 24a5 đến tờ

29b4 khắc toàn bộ nội dung 24 cách chỉ dẫn với hình thức khắc mỗi cột hai hàng

chữ nhỏ. Đây cũng là thể cách tân sáng duy nhất của quyển nhất.

63

Từ tờ 33b3 - 37a4 là nội dung các bài thơ được vua sáng tác phỏng theo

Kinh Thi cổ thể với chủ đề: 天高地厚覆載羣生三綱五常秉彝恒性因倣詩經古

體創製九篇分賜講堂用加修進/ Thiên cao địa hậu phúc tải quần sinh tam cương

ngũ thường bỉnh di hằng tính nhân phỏng Thi kinh cổ thể sáng chế cửu thiên bân tứ

giảng đường dụng gia tu tiến. Trời cao, đất dày che chở muôn loài, tam cương, ngũ

thường, luân thường đạo lí, nhân phỏng Kinh Thi cổ thể sáng chế chín thiên Cao

minh, Bác hậu, Sủng tuy, Trung lương, Từ ái, Hiếu đễ, Tạo đoan, Hữu vu, Chỉ tín

phân phát đi các giảng đường để tu tiến.

Phần cuối của quyển nhất, từ tờ 39b4 đến tờ 47a3 là nội dung10 bài thơ Phú

đắc được Thiệu Trị sáng tác từ một bài thơ chủ: Thiên hưu tư chí quốc khánh tăng

long ngọc tỉ ứng thập thành thọ đán khải dao đồ trưng vạn thế giai niên hân vạn sự

chi nghi tín khả cung thức thắng nhất chương phục phú đắc mỹ thành thập vịnh

天庥滋至國慶增隆玉璽應十成壽旦啟十全之美瑶圖徵萬世佳年欣萬事之宜信

可供識勝一章復賦得美成十咏, với ý nghĩa ca ngợi ngọc tỉ, ơn đức cao dày của

thiên địa, mưa hòa gió thuận, chấn hưng văn trị, muôn dân hương thôn no đủ dài

lâu… Những chùm thơ này mang ý nghĩa loại hình văn học chức năng, là những

sáng tác có giá trị như tài liệu học tập của sĩ tử tại các trường do triều đình cai quản.

Các thể cách được sử dụng phong phú: Thất ngôn, Ngũ ngôn, Thủ vỹ ngâm,

Phú đắc, Tạp số thể… đặc biệt là thể Hồi văn kiêm liên hoàn độc đáo; thể Toàn

chuyển chu hoàn do Thiệu Trị sáng tạo, được nhà vua sử dụng một cách thành thạo,

thể hiện sự đam mê sáng tác văn chương và tài năng dụng thể, dụng chữ. Tổng

quyển nhất gồm 83 bài thơ, đã tính các bài nhị thủ, tam thủ, tam chương; 1 tựa thơ.

Trong đó, có 35 bài là nguyên tác; 17 bài phỏng tác nguyên thể; 21 thể cách được

sử dụng.

2.4.3.3 Quyển nhị

Quyển nhị tổng cộng 38 tờ, mỗi tờ 2 trang là 76 trang. Sách có khung viền rõ

nét, chữ Hán Khải rõ ràng dễ đọc, gáy hình đuôi cá đề tên tập thơ, số quyển và số

trang. Mỗi trang gồm 6 dòng, mỗi dòng trung bình khắc 16 chữ, dòng khắc tựa đề

bài thơ thì ít chữ hơn hoặc dòng kết thúc bài thơ thì chỉ có một chữ; chú thích cho

64

câu chữ được khắc chữ nhỏ hơn, mỗi cột chia làm hai hàng chữ nhỏ. Mở đầu quyển

nhị tờ 1a1 khắc tựa đề: 御製古今體格詩法集卷之二, kế đến là lời tựa cho nội

dung tập thơ. Quyển nhị tập trung ký lục các bài thơ phỏng theo các vua quan, danh

sĩ đời xưa như: Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương, Chu, Bá Nha, Hán Cao Đế, Hán Vũ

Đế, Lý Bạch, Đỗ Phủ… sau mỗi sáng tác đều có ghi chép phụ lục nguyên thể. Đây

là một tư liệu để người đời sau có thể tiếp cận được những tác phẩm thi văn cổ.

Quyển này ghi nhận ba thể cách được Thiệu Trị sáng tạo mới, đó là: Tân sáng Thất

chính cách; Tân sáng Bát ngôn thể; Tân sáng Thập ngôn thể.

Từ tờ 1b1 - 4a5 là các bài thơ Tĩnh lý quán thiên và Hàm phù mộc nhật

phỏng theo hai bài Nghiêu giới của vua Nghiêu và Khanh vân ca của vua Thuấn.

Tiếp đến là ba bài: Vãn chuyết vân dung phỏng bài Chú đĩnh diêu của vua Hạ Vũ;

bài Tịch chưng hà thái phỏng theo Thương minh của vua nhà Thương; bài Không

giá hồng nghê phỏng theo Quán bàn minh của Chu Vũ Vương. Đây là các thời đại

mà sử gọi là “Nhị đế tam vương” với hình mẫu lí tưởng cho thời kì thịnh vượng

triều đại mà về sau trở thành mẫu mực được các Nho sĩ tôn sùng.

Tờ 6b2 là bài thơ Hán phù ngọc kính gồm 30 câu được làm theo Bách lương

thể của vua quan thời Hán Vũ đế. Sau bài thơ là chép phụ lục nguyên thể bài thơ

gốc, sau mỗi câu thơ đều có chú thích bằng hai dòng chữ Hán nhỏ đề tên tác giả từ

Hán Vũ đế cho đến các quan, lần lượt thay nhau đề một câu thơ, 26 câu là 26 người.

Tờ 19a-19b, khắc nội dung bài minh Nhật trường giảng tụng 日長講誦

được sắp xếp theo thể thức hình tròn gồm 8 chữ, cùng phụ lục nguyên thể bài Tửu

bàn minh 酒盤銘 của Ân Trọng Kham (殷仲堪, ?-399) một đại thần, tướng lĩnh

dưới triều nhà Tấn trong lịch sử Trung Hoa. Đây cũng là một bài minh được sử

dụng thể minh như bài Ngự diên văn bảo, với mục đích răn mình hằng ngày siêng

năng đọc Thi Thư để thi hành điều lợi cho đất nước.

Trải dài trong toàn bộ nội dung quyển nhị là những lời chú thích rõ về các

thể cách đã được vua sử dụng trong sáng tác của mỗi bài thơ như: phần chú thích

thể cách dược danh ly hợp thể (tờ 17a5 - 17b); chú thích thể cách tân sáng Thất

65

chính cách do Thiệu Trị sáng tạo (tờ 21a1 - 21b2); chú thích thể cách Cô nhạn xuất

quần cách và Cô nhạn nhập quần cách (tờ 34b1 - 35b4)…

Nội dung quyển nhị kết thúc ở tờ 37b2. Tờ 38a, 5 dòng đầu để trống; 38a6 đề

dòng chữ 御製古今體格詩法集卷之二止. Trang 38b để trống. Toàn bộ quyển nhị

gồm 40 bài thơ, 1 lời tựa, gồm có 4 bài nguyên tác, 36 bài phỏng tác nguyên thể và

34 thể cách được sử dụng.

2.4.3.4 Quyển tam

Quyển tam tổng cộng 44 tờ, mỗi tờ 2 trang là 88 trang. Sách có khung viền

rõ nét, chữ Hán Khải rõ ràng dễ đọc, gáy hình đuôi cá đề tên tập thơ, số quyển và số

tờ. Mỗi trang gồm 6 dòng, mỗi dòng trung bình khắc 16 chữ, dòng khắc tựa đề bài

thơ thì ít chữ hơn hoặc cột kết thúc bài thơ thì chỉ có một chữ; chú thích cho câu

chữ thì được khắc chữ nhỏ hơn, mỗi dòng chia làm hai hàng chữ nhỏ.

Mở đầu quyển tam tờ 1a khắc tựa đề: 御製古今體格詩法集卷之三, kế đến

là lời tựa mở đầu cho nội dung tập thơ. Từ tờ 1a6-5a2 là nội dung các bài thơ được

sáng tác theo các thể cách do Thiệu Trị sáng tạo: Thiên văn, Địa dư, Văn Phong, Vũ

liệt với thể dụng thể cách là cấm tự; riêng đối với bài Tính thị thì bên dưới mỗi họ

là chú dẫn thời đại và tên người mang họ đó, được khắc chữ nhỏ thành hai dòng.

Nội dung quyển tam với những bài thơ được phỏng tác theo các thể cách của

các vị danh sĩ xưa. Tờ 18b5-19a6 là hai thể cách tân sáng mà Thiệu Trị gọi tên Tập

đề thể và Đối thi thể với những bài thơ có ý nghĩa đối xứng nhau: “ngư, tiều, canh,

độc” và “hoa, thụ, cầm, ngư”, là những hình tượng thường được các danh sĩ ngày

xưa dùng trong văn chương tả về muôn mặt đời sống. Cùng các bài thơ được sáng

tác với hình thức đặc biệt: bài Xuân đài theo thể Hỏa diệm (tờ 21a) với hình tượng

như ngọn lửa cháy; bài Thọ vực theo thể Phi nhạn (tờ 22a) như hình con chim nhạn

bay; bài Nhã trí theo thể Liên hoàn (tờ 23a) với hai hình tròn đan vào nhau… mỗi

bài thơ Thiệu Trị đều có sự chú dẫn cách đọc theo thể cách nhất định. Tuy nhiên,

nhìn vào hình thức của các bài thơ này quả thật là sự một thách đố cho người đời

sau khi muốn giải mã và tìm hiểu giá trị của nó.

Từ tờ 34b3 - 44a6 là nội dung một bài văn của Thiệu Trị có chức năng tổng

kết nội dung của tập thơ tương đương như lời bạt cuối sách: Mở đầu bài văn nói về

66

ý nghĩa của việc sáng tác thơ ca: Kính cẩn bàn đến thơ ca, tại tâm là chí, phát ra

thành lời là thơ. Các bậc thánh nhân đều dạy không học Kinh Thi thì chẳng nói

được, không học Kinh Lễ thì chẳng lập thân được. Cho nên thơ là con đường để

phô bày ý chí, thơ ca là chính giáo hóa, là lòng của trời đất vậy (謹按詩者,

在心爲志, 發言爲詩. 聖人曰: 不學詩無以言, 不學禮無以立. 故云: 詩以導性情,

以正教化, 詩者天地之心也 Cẩn án thi giả, tại tâm vi chí, phát ngôn vi thi. Thánh

nhân viết: Bất học Thi vô dĩ ngôn, bất học Lễ vô dĩ lập. Cố vân: Thi dĩ đạo tính tình,

dĩ chính giáo hóa, thi giả thiên địa tâm dã). Tất cả những sáng tác mang cảm hứng

ngâm vịnh của vua đều được tổng tập thành sách, gia huệ cho học trò tại các trường

học hàn lâm và cũng để mở rộng thưởng lãm. Một điểm đáng lưu ý, bài văn này

không hẳn giành riêng cho tập thơ Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp mà chính là

những nhận định chung của ông về các thể cách cổ kim và tân sáng ông đã sử dụng

trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình. Nội dung bài văn là quan niệm của ông về

việc nghiên cứu nguồn gốc các thể cách cổ kim, đồng thời cũng liệt kê những thể

cách thi pháp được nhà vua sử dụng trong tập thơ. Chính vì bài văn bàn về thể cách

cổ kim nên Nội các đã biên tập vào trong tập thơ này. Trong bài văn có liệt kê các

thể cách tương đối khác lạ, không tìm thấy ở tập thơ này như: Cẩm hoàn thể, Trắc

khởi thể, Phong yêu thể, Đoạn huyền thể, Thê bàn trung thể, Điên đảo vận thể…

Bài văn có thể xem là một sự đúc kết kinh nghiệm từ quá trình nghiên cứu thể cách

thi pháp của Thiệu Trị.

Trong quyển tam, các tờ 13b4; 20b1 và 31b2 có hiện tượng kiêng húy chữ

cùng âm đọc với tên vua Thiệu Trị là Tuyền 暶: chữ tuyền 泉 được viết bỏ bớt nét

ngang , là tên chính thức lúc mới lên ngôi của vua trong Đế hệ thi, tuy nhiên hiện

tượng kiêng huý này không nhất quán trong toàn bộ tác phẩm. Quyển này, ghi nhận

được 10 thể cách tân sáng, gồm: Thiên văn thể, Địa dư thể, Văn đức thể, Vũ công

thể, Quần phương thể, Ngư danh thể, Tập đề thể, Đối thi thể, Liên hoàn thể, Tung

hoành thể. Nội dung quyển tam gồm 30 bài thơ trong đó là 13 nguyên tác, 17 phỏng

nguyên thể; 1 tựa; 1 văn, 30 thể cách được sử dụng. Tờ 44b6 khắc dòng chữ báo

67

hiệu kết thúc nội dung cho toàn bộ tập thơ: 御製古今體格詩法集卷之三止 Ngự

chế cổ kim thể cách thi pháp tập quyển chi tam chỉ.

Qua công tác khảo cứu nội dung văn bản từng quyển, chúng tôi đã so sánh

đối chiếu 157 sáng tác trong tập thơ này với tổng tập Thiệu Trị Ngự chế thi, cho ra

kết quả tương thích hoàn toàn. Qua đó, một lần nữa khẳng định tính nhất quán về

nguồn gốc của tập thơ, đảm bảo tính xác thực cao trong công tác văn bản học của

văn bản này. Việc đối chiếu đã cho ra các kết quả như sau:

+ Quyển nhất: 83 bài thơ và 1 bài tựa thơ. Toàn bộ sáng tác trong quyển này

được phân bổ đều ở trong 4 tập Thiệu Trị Ngự chế thi, cụ thể: 15 bài thuộc Sơ tập;

16 bài thuộc Nhị tập; 42 bài thuộc Tam tập; 11 bài thuộc Tứ tập.

+ Quyển nhị: 40 bài thơ và 1 bài tựa. Toàn bộ số bài thơ của quyển này đều

thuộc quyển 5, tập 4 của Thiệu Trị Ngự chế thi.

+ Quyển tam: gồm 30 bài thơ và 1 bài tựa, 1 bài bạt. Toàn bộ số bài thơ của

quyển này đều thuộc quyển 6, tập 4 của Thiệu Trị Ngự chế thi.

Bảng 2.4: Thống kê số lượng bài thơ và tựa của tác phẩm

Tên

Quyển nhất

Quyển nhị

Quyển tam

Tổng

Bài thơ

83

40

30

153

Tựa, bạt

1

1

2

4

157

Số bài thuộc Ngự chế thi

- 41 bài đều thuộc quyển 5, Tứ tập.

- 32 bài đều thuộc quyển 6, Tứ tập.

- Sơ tập: 15 bài - Nhị tập: 16 bài - Tam tập: 42 bài - Tứ tập: 11 bài

Tổng toàn bộ tác phẩm 157 chương/bài

Tổng cộng nội dung của tập thơ là 157 chương, đúng với ghi chép của Nội

các trong bài Biểu: 輯編得詩一百五十七章 Tập biên đắc thi nhất bách ngũ thập

thất chương, gồm 153 bài thơ và 4 bài tự bạt. Nội dung tác phẩm Ngự chế cổ kim

thể cách thi pháp tập đến đây là kết thúc đầy đủ.

68

Tiểu kết chương 2

Văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập được Nội các vâng

mệnh Thiệu Trị biên soạn hoàn chỉnh vào tháng 9 năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), tác

phẩm gồm 157 chương được trích lục từ Thiệu Trị Ngự chế thi, chọn lọc các sáng

tác theo thể cách cổ kim và thể cách do vua sáng tạo.

Trải qua thời gian, tác phẩm đến nay được lưu trữ ở các nguồn với hiện trạng

văn bản khác nhau. Tại VNCHN lưu trữ bản in quyển nhất A.3052 và bản chép tay

A.1960; VHv.123; VHv.1165; A.1877; tại TVQG lưu trữ bản in ảnh ấn quyển mục

lục R.1597 và quyển tam R.1598; đặc biệt hiện còn bản in mộc bản gồm 4 quyển tại

TTLTQG IV - Đà Lạt. Mộc bản là một tư liệu gốc quý hiếm cùng thời với tác giả, tư

liệu này được tàng bản tại cơ quan Quốc Sử quán triều Nguyễn, trải qua biến thiên

thời cuộc và hiện được lưu trữ tại đây. Trong các dị bản hiện có này, chúng tôi đã

khảo dị đối hiệu và chọn bản in mộc bản là thiện bản để phục vụ quá trình nghiên

cứu của luận án.

Sau khi xác định được thiện bản, chúng tôi tiến hành đối chiếu với Thiệu Trị

Ngự chế thi để khẳng định tính nhất quán về nguồn gốc tác phẩm và bổ khuyết nội

dung khiếm khuyết do thất lạc các tấm mộc bản, đồng thời phục dựng những trang

nội dung theo kết cấu của một tấm mộc bản nhằm bổ sung để hoàn chỉnh nội dung

cho tác phẩm. Qua công tác này, đề xuất vấn đề cần thiết phục dựng những tư liệu

mộc bản đã mất thông qua các truyền bản là bản in, bản chép tay được lưu trữ tại các

thư viện trong và ngoài nước. Điều này sẽ làm phong phú thêm nguồn tư liệu mộc

bản đã thất lạc, cũng là một hình thức bảo tồn và phát huy nguồn tư liệu vô giá này.

Qua quá trình khảo cứu đối hiệu văn bản học và bổ khuyết cho thiện bản đã tổng

hợp nên một tư liệu với nội dung hoàn chỉnh nhất phục vụ cho công tác nghiên cứu

của luận án này.

Chúng tôi khảo cứu cấu trúc nội dung, thống kê tổng số bài thơ và thể cách

được dùng trong từng quyển của tác phẩm, cho ra kết quả cụ thể: quyển nhất 83 bài

thơ, 1 tựa; quyển nhị 40 bài thơ và 1 bài tựa; quyển tam 30 bài thơ, 1 tựa và 1 văn.

Tổng cộng toàn bộ tập thơ là 157 chương/ bài. Tất cả nội dung đều được đối chiếu

đầy đủ chính xác với tổng tập Thiệu Trị Ngự chế thi đảm bảo tính nhất thống.

69

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TÁC PHẨM

NGỰ CHẾ CỔ KIM THỂ CÁCH THI PHÁP TẬP

Chương này tìm hiểu quan niệm về thể cách thi pháp của Thiệu Trị, nghiên

cứu luận giải đặc điểm nghệ thuật của các thể cách cổ kim và tân sáng được Thiệu

Trị sử dụng trong tập thơ. Qua đó, luận án làm rõ giá trị thi học của tác phẩm và

mục đích chủ đạo của Thiệu Trị khi cho biên soạn tập thơ này.

3.1 Quan niệm về thể cách thi pháp của Thiệu Trị

Trước tiên, chúng tôi đề cập đến khái niệm về thi học và thi pháp được định

nghĩa trong Hán ngữ đại từ điển: “Thi học là khoa học về làm thơ và bàn về thơ,

trước tác bàn về quy luật của thơ ca; còn thi pháp thì chỉ cách thức làm thơ” [71,

tr.13]. Như vậy, thi học 詩學, là khoa học về thơ, lĩnh vực khoa học đem thơ ca làm

đối tượng nghiên cứu, hàm ý của thơ có nhiều tầng nghĩa, tương ứng với mỗi tầng

nghĩa sẽ có những phạm vi nghiên cứu khác nhau. Theo Ngô Kiến Dân, thi học có 6

lĩnh vực nghiên cứu13 mà trong đó thể cách thi pháp thuộc lĩnh vực Nghiên cứu kỹ

thuật sáng tác và hình thức thơ ca.

Thi pháp 詩法, chính là dựa vào các yếu tố cấu thành nên thi ca như: thi thể,

thi cách, từ pháp, cú pháp, dụng vận, dụng điển mà tổng kết thành quy luật nghệ

13 Theo sách Trung Quốc cổ đại thi học nguyên lí của Ngô Kiến Dân, Thi học gồm có 6 lĩnh vực nghiên cứu: 1). “Nghiên cứu lí luận cơ bản về thi ca” gồm: tính chất, nguồn gốc, công năng, giá trị, tác dụng, địa vị, phong cách thơ ca, trào lưu trường phái, mối quan hệ giữa thơ ca và các môn nghệ thuật khác; và “nghiên cứu phạm trù cơ bản thi học” gồm: lục nghĩa, tứ thủy, tỉ, hứng, ngôn chí, duyên tình, tài tính, tải đạo, hư thực, hình thần, phục cổ, thông biến, cảnh giới, ý tượng, khí điệu, phong cốt, phong cách sáng tác thơ ca, thuật ngữ chuyên môn của thi cảnh (lĩnh vực của thơ). 2). “Nghiên cứu kỹ thuật sáng tác và hình thức thơ ca”: Biện luận và phân tích về thể chế thi ca. Nghiên cứu nguồn gốc sự biến đổi của các thi thể (thể cách thơ ca); khảo sát về các nhân tố ảnh hưởng đến sự kế thừa và phát triển của thi thể; nghiên cứu khái niệm thi pháp. 3). “Nghiên cứu về các trào lưu sáng tác thơ ca”. Ở đây bao gồm khởi nguyên, phân kỳ, tình hình thịnh suy của các trào lưu, sự thay đổi của các dòng chảy (mạch nguồn) lý luận, tác giả và tác phẩm tiêu biểu cho đến sự phát triển của các dòng tư tưởng khác nhau thông qua sự so sánh giữa các tác giả, tác phẩm. 4). “Nghiên cứu về các bộ tổng tập, tuyển tập, biệt tập thi ca hoặc nghiên cứu một tác phẩm cụ thể”: Phương thức nghiên cứu bao gồm sưu tập chỉnh lý, xác định chân nguỵ, chú thích, phê bình cho đến việc dựa vào một phương pháp cố định để phân tích, bình giám tác phẩm. 5). “Nghiên cứu về tác giả cho đến việc hình thành một nhóm tác giả có cùng quan điểm sáng tác”: Bao gồm việc tìm hiểu hoàn cảnh xuất thân của tác giả, quan niệm sống lúc sinh thời, các mối quan hệ xã hội, phân tích sự ảnh hưởng của truyền thừa trong khuynh hướng sáng tác, vai trò và địa vị của các thành tựu sáng tác trong thi tầng, cho đến việc khảo sát tình hình hoạt động, phong cách và sự đánh giá của giới phê bình văn học trong lịch sử đối với các quần thể của mỗi trào lưu sáng tác. 6). “Lý luận thi ca”: Nghiên cứu và chỉnh lý về lịch sử lý luận thi ca.

thuật, tạo dựng tiêu chuẩn mỹ học, truyền thụ kinh nghiệm sáng tác, đề ra các

70

nguyên tắc cấm kỵ trong sáng tác thơ ca. Tựu chung, thi pháp là các phương pháp

và quy luật để sáng tác thơ ca. Mở rộng phạm vi thi pháp, tức thi pháp học 詩法學 là

phạm trù chỉ ngành khoa học nghiên cứu về nghệ thuật phương pháp, quy luật sáng

tác thơ ca.

Thể cách 體格, được hiểu là chỉ các thể thơ, cách thức, cách luật, phương

pháp sáng tác thơ ca. Tại Trung Quốc, yếu tố thể cách có khi được gọi là 詩體 thi

thể (thể thơ), 詩格 thi cách (cách thơ), về cơ bản hai phạm trù này được tách riêng,

tức là chúng độc lập về mặt cấu trúc. Ngoài yếu tố cá tính, tâm ý, cảm xúc… thì thể

cách là yếu tố rường cột để xây dựng nên một tác phẩm thơ ca mà bất cứ tác giả nào

cũng cần phải nắm vững. Như vậy, thể cách đóng vai trò vô cùng quan trọng trong

quá trình sáng tác văn chương. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần hiểu rõ phạm trù thể và

cách là gì? Có phân biệt được thể và cách không? Hay chúng chỉ là phạm trù chung

khi chỉ về các phương pháp làm thơ, phải chăng người xưa cũng tùy vào phương

thức sáng tác mà gọi tên thể cách. Trong toàn bộ tập thơ Ngự chế cổ kim thể cách

thi pháp, có những dạng thức Thiệu Trị gọi tên là thể, có dạng thức gọi tên là cách,

cụ thể số lần gọi tên thể: 59; số lần gọi tên cách: 7; số lần các thể không định danh

là thể hoặc cách: 6; tổng cộng cả ba yếu tố là 72. Vậy theo quan niệm của Thiệu Trị

thế nào là thể? thế nào là cách? Hay giữa chúng không được phân định rõ ràng mà

có giá trị tương đương, đều cùng chỉ về những cách thức làm thơ. Trong nghiên cứu

này, chúng tôi dựa vào chính tự thân tác phẩm của Thiệu Trị và các cứ liệu liên

quan để bước đầu nhận định về thể cách và quan niệm về thể cách của Thiệu Trị.

Như trên đã trình bày, thi pháp là phương pháp và quy luật làm thơ. Trong đó,

quy luật sáng tác chính là các quy tắc về âm vận được áp dụng trong một bài thơ.

Phương pháp làm thơ gồm những phương pháp nào? Trong phạm vi tác phẩm này,

thể và cách là hai phạm trù, phương pháp trọng tâm, cấu trúc hình thành nên một bài

thơ. có nhiều phương pháp, cách thức với những tên gọi riêng biệt, mỗi thể cách đều

có các hình thức cấu trúc và quy luật của riêng nó. Cá nhân chúng tôi bước đầu hiểu

về khái niệm thể và cách như sau:

71

Khái niệm về thể 體: còn gọi là thi thể, chỉ thể loại, thể tài, hình thể của một

bài thơ. Thể có những tính chất đặc thù, có quy luật riêng và tùy theo nội hàm, quy

luật, hình dạng của từng thể mà gọi tên riêng biệt như: Liên hoàn thể là thể thơ chỉ

sự liên tục xoay vòng của các câu chữ; Hỏa diệm thể là chỉ quy luật sắp xếp Hán tự

của thơ có hình dạng như ngọn lửa; Ngư danh thể là dùng tên các loài cá để làm thơ;

Cung điện thể là dùng tên cung điện để làm thơ... Vậy, thể là thể loại, thể tài và căn

cứ vào hình thể hay từ nghĩa của thơ mà xác định tính danh riêng biệt.

Khái niệm về cách 格: còn gọi là thi cách, quy cách, cách thức sáng tác, các

cách luật âm vận tiêu chuẩn để vận dụng khi sáng tác thơ. Triệu Dực thời nhà

Thanh, trong sách Âu Bắc thi thoại - Bạch Hương sơn thi nói rằng: “古来诗未有以

‘格’称者, 大歷以后始有.‘齐梁格’、‘元和格’,则以诗之宗派而言;‘轆轤格’、

‘进退格’,则律诗中又增限制” [123, tr.58]/ Thời cổ trong thơ vốn chưa có

khái niệm gọi là ‘cách’, từ sau thời vua Đại Lịch nhà Đường mới bắt đầu xuất hiện,

‘Tề Lương cách’, ‘Nguyên Hòa cách’, tức là lấy tông phái của bài thơ mà đặt tên;

‘Lộc lô cách’, ‘Tiến thoái cách’, tức là theo việc gia tăng hạn chế trong luật thi mà

gọi tên. Như vậy, cách không phải là thể thơ nhất định mà chính là cách luật âm vận

được sử dụng trong một thể nhưng tồn tại độc lập về mặt cấu trúc. Cách là một tiểu

loại của thể, là một biệt thể và song hành tồn tại với thể trong cùng một bài thơ.

Ví dụ, bài thơ được làm theo cách Phú đắc, theo chúng tôi, Phú đắc không

phải là thể thơ mà chính là một cách thức, phương pháp khi làm thơ, có thể xem

như một biệt thể. Phú đắc là dạng bài thơ lấy ý trong điển tích, điển cố của một câu

thơ hay một bài thơ để sáng tác một bài thơ/phú/văn mới. Trong đó, bài thơ này

phải thể hiện rõ ý nghĩa điển tích, điển cố và có thể sử dụng một thể thơ bất kỳ. Vậy

thì Phú đắc không phải là thể thơ mà chính là một phương thức biệt thể, cách thức

sử dụng để sáng tác thơ.

Chúng tôi trình bày thêm một ví dụ để thấy được sự bổ túc hòa lẫn của thể và

cách, đó là trường hợp của bài thơ “Sơn tự thiền chung” theo Thất chính cách. Bài

thơ này được sáng tác theo Thể thất ngôn tuyệt với niêm luật chặt chẽ nhưng được

bổ sung Thất chính cách. Cụ thể Thất chính cách theo Thiệu Trị đó là 7 yếu tố nhật

72

- nguyệt - kim - mộc - thủy - hỏa - thổ, có các từ/ bộ chữ trong bài thơ phải đảm bảo

ý nghĩa về 7 hình tượng này. Như thế Thất chính cách tức là cách thức sử dụng khi

làm thơ, chứ nó không phải là một thể thơ riêng biệt.

Vậy, về cơ bản Thiệu Trị đã có sự phân định giữa thể và cách, cùng vận

dụng chúng vào quá trình sáng tác và sáng tạo văn chương của mình. Có thể nói, tên

gọi thể cách là một phạm trù chung để chỉ về các phương pháp, cách luật khi sáng

tác thơ ca. Giữa chúng có sự độc lập về mặt cấu trúc, riêng biệt về quy luật nhưng

đôi lúc chúng tồn tại song hành trong một bài thơ với quan hệ tương hỗ. Bên cạnh

đó, đôi lúc chúng vẫn có sự mập mờ khó phân định ranh giới. Điều này phụ thuộc

vào thực tế khi luận giải cách luật âm vận và dạng thức của bài thơ.

Quan niệm về thể cách của Thiệu Trị: Vào thế kỷ XVIII, khi bàn về văn

chương trong Lệ ngôn, Lê Quý Đôn đã nói về thể cách như sau: “Văn chương mỗi

nhà vốn đều có thể cách riêng” [42, tr.207]. Thiệu Trị là một tác giả say mê nghiên

cứu văn chương, ông từng nói với quần thần: “Ta lúc rỗi việc, đọc sách xong lại làm

thơ kỷ sự, không ngờ ngày tháng kế tiếp mãi, tích thành một pho sách, những nghĩa

nhiệm mầu của thơ ngày hiểu được càng sâu, suy nguyên đến chỗ gốc nguồn” [64,

tr.980]. Ông đặc biệt chú trọng đến nghệ thuật thể cách thi pháp, xem đây là thước

đo để đạt được sự toàn mỹ của sáng tác văn chương, ông cho rằng: “Thi ở trong thi,

tuy gốc ở tính tình, mà thể cách thi cũng không thể không biết rõ” [64, tr.979]. Mỗi

thể cách đều có phép tắc và quy luật riêng biệt, người làm thơ ắt phải nghiên cứu,

hiểu rõ thông suốt thì mới có thể sáng tác, dù một người có năng khiếu thiên bẩm về

thơ ca nhưng cũng cần phải tìm hiểu sâu về thể cách mới làm được. Ông nhấn mạnh

tầm quan trọng của việc thông suốt thể cách: “Nếu thể cách không biết rõ, thì giỏi

đến 8 lần xoa tay làm thành bài phú14, tài rộng đến 7 bước làm ra được bài thơ15,

cũng khó thố trí được. Từ đời xưa các bậc đế vương, các bài thơ to tác không phải

là không nhiều, các nhà thi hào làm ra thơ cũng không ít. Một đời có thể cách một

đời, một nhà có thể cách một nhà” [64, tr. 979]. Qua đó, thể cách ở mỗi thời đại,

14 Ôn Đình Quân: Mỗi khi vào thi cứ 8 lần xoa tay thì làm xong một bài phú (theo Vận phủ, bộ Xoa). 15 Tào Thực: Con của Tào Tháo, đời Tam quốc, có tài mẫn tiệp, đi bảy bước làm xong một bài thơ.

mỗi tác gia đều có những nét riêng, nó không ngừng được cải biên hợp với trình độ,

73

quan điểm sáng tác và thích hợp với xu hướng thời đại. Thiệu Trị cho rằng, xem

văn chương là một ngôi nhà thì thể cách chính là bậc thềm để bước vào nhà, “hãy

mong bước lên được thềm nhà mới vào trong nhà được” [64, tr. 980], một hình ảnh

rất cụ thể cho thấy mối liên hệ mật thiết trong việc hiểu rõ thể cách và sáng tác văn

chương. Theo ông nhà làm thơ cũng như nhà dụng binh, nắm vững hiểu rõ thể cách

như nắm rõ trận đồ, trận pháp thì mới mong thành tựu và chiến thắng được.

Một vấn đề được đặt ra, đó là Thiệu Trị đã từng đọc những tư liệu nào về thi

học, thể cách thi pháp và thi tuyển nào của cả Đại Việt/ Đại Nam và Trung Quốc.

Đây là một vấn đề, chúng tôi chỉ căn cứ vào quá trình đọc hiểu các tác phẩm của ông

để bước đầu đưa ra nhận định. Vua Thiệu Trị (1807-1841) sống vào nửa đầu thế kỷ

XIX, đây là giai đoạn mà những trào lưu nghiên cứu học thuật của nước nhà và

Trung Quốc đã đạt những thành tựu đỉnh cao, đó là tiền đề thuận lợi cho việc nghiên

cứu của ông. Thứ nữa trong vai trò của một vị Hoàng đế nên việc tiếp cận tư liệu của

ông tương đối rất thuận lợi, bao gồm sách của người Việt để lại, hay sách được mang

về từ Trung Quốc, mà gần nhất là hai thời Minh - Thanh. Ở nước ta thời điểm này

(đầu thế kỷ XIX), các bộ thi tuyển hầu hết đã biên soạn xong từ các tiền triều, như:

Việt âm thi tập (Phan Phu Tiên và Chu Xa); Trích diễm thi tập (Hoàng Đức Lương);

Toàn Việt thi lục (Lê Quý Đôn)… Về sách thi học, lí luận văn chương của Trung

Quốc mà Thiệu Trị tiếp cận có thể kể đến: Văn tâm điêu long (Lưu Hiệp); Tề thư;

Hậu Hán thư; Cổ tuyển (Chiêu Minh thái tử); Ngọc hải (Tống, Vương Ứng Lân); Thi

cách (Vương Xương Linh); Tùy viên thi thoại (Viên Mai); Bội văn vận phủ, Khang

Hy tự điển (Thanh, Khang Hy); Nguyên thi (Thanh, Diệp Nhiếp)… các bộ thi tập, thi

tuyển của các thi nhân, danh sĩ như: Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha,

Thẩm Quýnh, Tần Quán…

Khi nghiên cứu về thể cách, cần thiết phải mở rộng đến cả âm vận vì đây là

hai yếu tố trọng yếu của việc sáng tác thơ ca. Người làm thơ cần hiểu rõ thể cách và

nắm vững âm vận mới có thể đặt chân lên thi đàn. Để tạo tiền đề vững chắc nhằm

thoả mãn đam mê sáng tác thơ ca, Thiệu Trị đã dành nhiều thời gian cho việc nghiên

cứu thể cách và âm vận. Về thể cách thì tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp

này là một minh chứng. Về âm vận, ông hạ lệnh biên tập cuốn sách Thiệu Trị văn

74

quy. Thiệu Trị nhân khi đọc sử sách nghiên cứu, tra cứu Tự điển, Vận phủ làm thơ thì

thấy còn có chỗ thiếu sót bèn giao cho Nội các và Viện Hàn lâm đem sách Vận thư

các đời, tham khảo với Tự điển bổ sung những chỗ thiếu sót cốt cho từng chữ, từng

nghĩa, từng âm, từng vần đều được tổng hợp đầy đủ rõ ràng, với hy vọng giúp ích

cho việc sáng tác thơ ca được thuận lợi mà không phải tra cứu các sách Tự điển và

Vận phủ của Trung Quốc. Ông trực tiếp kiểm tra, khảo hiệu, đốc thúc quá trình biên

soạn sách, vua bảo với Nội các rằng: “Âm vận là quản hạt của bài thơ, tập vận là văn

sức của bài thơ. Bộ sách Văn quy sẽ để bổ sung những chỗ khuyết lược của bộ Vận

phủ. Sách Văn quy được làm xong thì học giả có chỗ bằng cứ mà tra xét, bất tất tìm ở

sách Tự điển và Vận phủ mà âm vận chữ nghĩa cũng biết được rõ ràng, là bờ bến cho

hậu học, giúp ích được nhiều lắm” [64, tr.980]. Tuy nhiên, bộ sách hiện nay đã bị

thất lạc, đây là một tổn thất lớn đối với việc nghiên cứu âm vận văn chương thời kỳ

trung đại Việt Nam.

Thiệu Trị với hai sách lược trong việc chấn hưng văn trị là biên soạn sách về

thể cách thi pháp và về âm vận, nhằm mục đích cho các danh sĩ đương thời và hậu

thế không cần phải tra cứu các bộ sách Tự điển và Vận phủ của Trung Hoa mà chính

nước Đại Nam cũng đã có đầu sách phù hợp với ngôn ngữ và tư tưởng của người

Việt. Điều này cho thấy Thiệu Trị đặc biệt quan tâm đến sự phát triển văn chương

nước nhà, phát huy chính sách văn trị của triều đại. Trong vị thế vai trò của một vị

Hoàng đế, ông muốn khẳng định sự độc lập về thể cách thi pháp và âm vận trong

sáng tác văn chương của nước Đại Nam.

3.2 Thể cách thi pháp cổ kim

3.2.1 Khái quát thể cách thi pháp cổ kim

Thể cách thi pháp cổ kim chính là nói đến các phương pháp, quy tắc làm thơ

cụ thể là thể và cách của đời xưa, đời nay mà theo Thiệu Trị thì “có đến khoảng 120

thể cách” (64, tr.980), mỗi đời có thể cách riêng, mỗi nhà có thể cách riêng. Buổi

bình minh của tất các thể loại văn chương đều xuất phát từ thơ ca dân gian, trải qua

những biến thiên của thời gian và xu hướng thời đại, chúng được phát triển và ngày

càng hoàn thiện về nghệ thuật thể cách đến năng lực truyền tải nội dung; đồng thời

thị hiếu thưởng thơ, chơi thơ của thi nhân và độc giả cũng từng bước nâng cao. Từ

75

đó, xuất hiện nhiều cách thức sáng tạo mới, nhiều thể cách mới làm phong phú kho

tàng văn chương. Tuy Thiệu Trị cho rằng có đến khoảng 120 thể cách nhưng trong

toàn bộ tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp có khoảng 57 thể cách cổ kim

được ông lựa chọn sử dụng, vì theo ông, “từ bài Hoàng nga ca của mẹ

Thiếu Hiệu đến bài Ngư phủ từ của Trần Kế nhà Minh thì thơ gồm 57 thể cách”

[64,tr.978]. Ngoài ra, Thiệu Trị giới thiệu đến quần thần Nội các thêm 46 thể cách

chỉ giành cho thơ 4 chữ, 5 chữ và 7 chữ như: Nhị cú ca, Nhất cú ca, Tăng tự,

Thuyền danh, Thảo danh, Tràng xuân, Nhất tự chí thất tự… Theo ông, 46 thể này

“trùng phức khiên cưỡng, không đủ lấy được, chưa có nhưng không thể thiếu, cứ

ghi chép để đó cũng được” [64, tr.979]. Sau đây là 57 thể cách trong tập Ngự chế cổ

kim thể cách thi pháp: Thể minh; Ly hợp thể; Cận thể (Đường luật); Thủ vỹ ngâm;

Lộc lô cách; Tiến thối cách; Cổ thể; Tam ngôn thể; Tứ ngôn thể; Ngũ ngôn thể;

Tam ngũ thất ngôn thể; Nhất tự chí thập tự thể; Phú đắc; Hồi văn thể kiêm liên

hoàn; Hồi văn thể; Tàng tự hồi văn thể (Tần Quán cách); Thiền liên thể; Tạp số thể;

Lục ngôn thể; Cửu ngôn thể; Chiết tự thể; Tính thị thể; Bài luật; Đường Nghiêu

giới; Ca; Vũ Chú đỉnh diêu; Thủy tiên tháo; Bách lương thể; Song vận thể; Điệp

vận thể; Toàn bằng thể; Toàn trắc thể; Điệp tự thể; Trùng điệp tự thể; Cú cú dụng

tự thể; Phiến đối cách; Sở từ; Cô nhạn nhập quần cách; Cô nhạn xuất quần cách;

Khẩu tự thể; Kiến trừ thể; Cung điện thể; Quận huyện danh thể; Tứ khí thể; Bát âm

thể; Lục phủ thể; Quái danh thể; Các sắc thể (Tứ sắc thể); Trường đoản cú thể; Hồ

lô vận thể (Hồ lô cách); Thụ danh thể; Điểu danh thể; Mê tự thể; Hỏa diệm thể; Phi

nhạn thể; Điệp vận trường ca thể; Đảo cú thể. Với số lượng lớn các thể cách được

sử dụng, việc tiếp cận và tiến hành phân tích giải mã sự vận hành trong các bài thơ,

có thể giúp hậu thế phần nào thấu hiểu tiền nhân và sáng tỏ thể dụng văn chương.

Bảng 3.1: Thống kê sáng tác theo đặc trưng thể cách cổ kim

Tên thể thơ

TT 1 銘 Thể minh

Q. Q.1

Q.1

Tên bài thơ 1.迎遵聖製於齋宮栽松十株各銘銅牌懸示來許 Nghênh tuân Thánh chế ư Trai cung tài tùng thập chu các minh đồng bài huyền thị lai hứa 2.御筵文寶銘 Ngự diên Văn bảo minh

Q.2

3.夕蒸霞彩 Tịch chưng hà thái (Thương minh)

Q.2

4.空架虹霓 Không giá hồng nghê

76

Q.2

5.日長講誦 Nhật trường giảng tụng

Q.1

2 離合體 Ly hợp thể

1.雨聲,其一 Vũ thanh, kỳ nhất

Q.1

2.雨聲,其二 Vũ thanh, kỳ nhị

Q.1

3.賦得飛空作雨聲 Phú đắc Phi không tác vũ thanh

[Dược phương ly hợp thể; Dược danh ly hợp thể]

Q.2

4.平橋閒步 Bằng kiều nhàn bộ

Q.1

3 近體 Cận thể

1.御園偶題每句各用園中名勝 Ngự viên ngẫu đề mỗi cú các dụng viên trung danh thắng

Q.1

4 首尾吟 Thủ vỹ ngâm

1.季春觸景偶作 Quý Xuân xúc cảnh ngẫu tác

Q.1

Q.1

Q.1

2.據刑部將諸地方春季寧帖彙册呈覽堪慰于懷卽援筆紀事 Cứ Hình bộ tương chư địa phương xuân quý ninh thiếp vị sách trình lãm kham úy vu hoài tức viên bút kỷ sự 3.季秋 Quý thu 4.晴林鳥語 Tình lâm điểu ngữ

Q.1

Q.2

5.仲秋禾熟時候余恐値潦汛之期每爲農憂常有默禱何幸 Trọng Thu hòa thục thời hậu dư khủng trị liêu tấn chi kỳ mỗi vi nông ưu thường hữu mặc đảo hà hạnh. 6.清宵蟬韻 Thanh tiêu thiền vận

Q.1

Q.1

5 轆轤 Lộc lô cách 1.憶昔,其一 Ức tích, kỳ nhất (điệu Thủ vỹ ngâm) 6 進退格 Tiến thoái cách 1.憶昔,其二 Ức tích, kỳ nhị (điệu Thủ vỹ ngâm)

Q.2

2.曠埜螢燈 Khoáng dã huỳnh đăng

Q.1

7 古體 Cổ thể

Q.1

1.偶憶杜詩一二摘句摛成古體一篇 Ngẫu ức Đỗ thi nhất nhị trích cú si thành cổ thể nhất thiên 2.高明三章章四句 Cao minh tam chương chương tứ cú

Q.1

3.博厚三章章四句 Bác hậu tam chương chương tứ cú

Q.1

Q.1

4.寵綏三章二章章四句一章六句 Sủng tuy tam chương nhị chương chương tứ cú nhất chương nhị cú 5.忠良三章章四句 Trung lương tam chương chương tứ cú

Q.1

6.慈愛三章章四句 Từ ái tam chương chương tứ cú

Q.1

7.孝悌三章章四句 Hiếu đễ tam chương chương tứ cú

Q.1

Q.1

8.造端三章章四句 Tạo đoan tam chương chương tứ cú 9.友于三章章四句 Hữu vu tam chương chương tứ cú

Q.1

10.止信三章章四句 Chỉ tín tam chương chương tứ cú

Q.1

11.臨池有會 Lâm trì hữu hội

Q.1

12.南風來行 Nam phong lai hành

Q.2

1.隴畝耘耡 Lũng mẫu vân sừ

Q.2

Q.2

1.泛海歸帆 Phiếm hải quy phàm 1.濟川擊楫 Tế Xuyên kích tiếp

Q.1

8 三言體 Tam ngôn thể 9 四言體 Tứ ngôn thể 10 五言體 Ngũ ngôn thể 11 三五七言詩 Tam ngũ

thất ngôn thi

Q.2

1.步元鄭允端,秋夜,三五七言詩原韻 Bộ Nguyên Trịnh Doãn Đoan, Thu dạ, Tam ngũ thất ngôn thi nguyên vận 2.巖壑樵閒 Nham hác tiều nhàn

Q.1

12 一字至十字體 Nhất tự

chí thập tự thể

Q.2

1.開卷自勗 Khai quyển tự úc 1.林泑校獵 Lâm ửu giáo liệp

77

Q.1

13 賦得 Phú đắc

1.賦得燕燕于飛 Phú đắc Yến yến vu phi

Q.1

Q.1

Q.1

Q.1

2.天庥滋至國慶增隆玉璽應十成壽旦啟十全之美瑶圖徵萬世 佳年欣萬事之宜信可供識勝一章復賦得美成十咏 Thiên hưu tư chí quốc khánh tăng long ngọc tỉ ứng thập thành thọ đán khải dao đồ trưng vạn thế giai niên hân vạn sự chi nghi tín khả cung thức thắng nhất chương phục phú đắc mỹ thành thập vịnh. 3.賦得玉璽十成徵吉瑞瑶圖萬世應嘉祥 Phú đắc Ngọc tỉ thập thành trưng cát thụy dao đồ vạn thế ứng gia tường 4.賦得天和時若繁榮遂 Phú đắc Thiên hòa thời nhược phồn vinh toại 5.賦得地利年豐富庶彰 Phú đắc Địa lợi niên phong phú thứ chương 6.賦得河順鄉村欣案堵 Phú đắc Hà thuận hương thôn hân án đổ Q.1

(Phú đắc không phải là một thể nhất định; nó được hiểu là một cách sử dụng khi sáng tác thơ, có thể kết hợp với một thể bất kì; vì tính chất hợp thể như vậy nên rất khó phân loại một bài thơ theo cách Phú đắc sẽ xếp vào đâu. Vì vậy chúng tôi căn cứ vào tự thân bài thơ mà phân ra để tiện tra cứu).

Q.1

Q.1

7.賦得海恬舟楫樂徜徉 Phú đắc Hải điềm chu tiếp lạc thảng dương 8.賦得任才考績森賢輔 Phú đắc Nhâm tài khảo tích sâm hiền phụ 9.賦得感化來賓撫臘羗 Phú đắc Cảm hóa lai tân phủ lạp khương Q.1

Q.1

Q.1

Q.1

Q.1

10.賦得保定武功清遠裔 Phú đắc Bảo định vũ công thanh viễn duệ 11.賦得振興文治御羣方 Phú đắc Chấn hưng văn trị ngự quần phương 12.賦得民康户籍增蕃盛國泰邦基永久長 Phú đắc Dân khang hộ tịch tăng phiên thịnh quốc thái bang cơ vĩnh cửu trường. 1.雨中山水 Vũ trung sơn thủy

14 迴文體兼連環 Hồi văn thể kiêm liên hoàn

Q.2

1.亭院納凉 Đình viện nạp lương

Q.2

1.夕郊牧笛 Tịch giao mục địch

Q.1

2.月 Nguyệt

Q.1

15 迴文體 Hồi văn thể 16 藏 字 迴 文 體 Tàng tự hồi văn thể/ 秦 觀 格 Tần Quán cách 17 蟬聯體 Thiền liên thể

Q.1

1.春雨初晴値芳朝節幸機暇園賜侍從宴賞 Xuân vũ sơ tình trực phương triều tiết hạnh Cơ Hạ viên tứ thị tùng yến thưởng 2.賦得飛空作雨聲 Phú đắc Phi không tác vũ thanh.

Q.1

Q.3

3.賦得飛潛動植皆春意三首 Phú đắc Phi tiềm động thực giai xuân ý, tam thủ 4.覽勝 Lãm thắng

Q.1

18 雜數體 Tạp số thể

1.冬晴 Đông tình

Q.1

2. 賦得旣雨晴亦佳 Phú đắc Ký vũ tình diệc giai

Q.2

3.蘋洲宿鷺 Tần châu túc lộ

Q.1

19 六言體 Lục ngôn thể

Q.2

1.晚眺 Vãn thiếu 2.古渡孤舟 Cổ độ cô chu

Q.1

20 九言體 Cửu ngôn thể

1.將雨 Tương vũ

78

Q.2

2.垂堂竹蔭 Thùy đường trúc ấm

Q.1

21 折字體 Chiết tự thể

1.雲水亭 Vân thủy đình

Q.2

Q.3

2.高閣清居 Cao các thanh cư 1. 人姓 Nhân tính

Q.1

22 姓氏體 Tính thị thể 23 排律 Thể bài luật

Q.1

1.秋蘭盛開置之座右走筆成咏 Thu lan thịnh khai trí chi tọa hữu tẩu bút thành vịnh 2. 冬晴八韻 Đông tình bát vận

Q.2

24 唐堯戒 Đường Nghiêu

1.靜裡觀天 Tĩnh lý quán thiên

giới

Q.2

1.咸孚沐日 Hàm phu mộc nhật (phỏng Khanh vân ca)

25 歌 Ca

Q.2 Q.2

2.星朗三垣 Tinh lãng tam viên (phỏng Việt nhân ca) 3.霽光萬宇 Tễ quang vạn vũ (phỏng Đại phong ca)

Q.2

4.夜靜銀河 Dạ tĩnh ngân hà (phỏng Lâm hà ca)

Q.2

5.空山疲馬 Không sơn bì mã (phỏng Hoàng Nga ca)

Q.2

26 禹鑄鼎繇 Vũ Chú đỉnh

1. 晚綴雲容 Vãn xuyết vân dung

diêu

Q.2

1.陣來煙雨 Trận lai yên vũ

Q.2

1.漢浮玉鏡 Hán phù ngọc kính

Q.2

Q.2

1.曉色竒峯 Hiểu sắc kỳ phong 1.晴輝秀水 Tình huy tú thủy

Q.2

1.韞玉山輝 Uẩn ngọc sơn huy

Q.2

1.懷珠川媚 Hoài châu xuyên mị

Q.2

27 水僊操 Thủy tiên tháo 28 栢梁體 Bách lương thể 29 雙韻體 Song vận thể 30 曡韻體 Điệp vận thể 31 全平韻 Toàn bằng vận 32 全仄體 Toàn trắc thể 33 疊字體 Điệp tự thể

Q.2

34 重疊 字體 Trùng điệp

1.重樓雅望 Trùng lâu nhã vọng 1.曲榭遣閒 Khúc tạ khiển nhàn

tự thể

Q.2

35 句 句 用 字 體 Cú cú

1.池塘玩月 Trì đường ngoạn nguyệt

dụng tự thể

Q.2

Q.2

1.風爽吟哦 Phong sảng ngâm nga 1.江村漁樂 Giang thôn ngư lạc

Q.2

1.松陂鹿伏 Tùng bì lộc phục

Q.2

1.萍道魚游 Bình đạo ngư du

Q.3

1.談論 Đàm luận

Q.3

1.安邊 An biên

Q.3

1.治功 Trị công

Q.3

36 扇對格 Phiến đối cách 37 楚辭 Sở từ 38 孤鴈入羣格 Cô nhạn nhập quần cách 39 孤鴈出羣格 Cô nhạn xuất quần cách 40 口字體 Khẩu tự thể 41 建除體 Kiến trừ thể 42 宮殿體 Cung điện thể 43 郡縣名體 Quận huyện

1.政化 Chính hóa

danh thể

Q.3

1.賞景 Thưởng cảnh

Q.3

1.煙鎖池塘柳 Yên tỏa trì đường liễu

Q.3

44 四氣體 Tứ khí thể 45 八音體 Bát âm thể 46 六府體 Lục phủ thể

1.霜濡錦堞蕉 Sương nhu cẩm điệp tiêu

79

Q.3

1.漁艇江天樂 Ngư đĩnh giang thiên lạc

Q.3

47 卦名體 Quái danh thể 48 各色體 Các sắc thể (tứ

1.樵柯水石閒 Tiều kha thủy thạch nhàn

sắc thể)

Q.3

49 長短句體 Trường đoản

1.耕犁隴畝適 Canh lê lũng mẫu thích

cú thể

Q.3

50 葫 蘆 韻 體 Hồ lô vận

1.讀卷聖贒歡 Độc quyển thánh hiền hoan

thể

Q.3

1.樹標歷歲榮 Thụ tiêu lịch tuế vinh

Q.3

1.禽飛來往遂 Cầm phi lai vãng toại

Q.3

1.謎語 Mê ngữ

Q.3

1.春臺 Xuân đài

Q.3

1.夀域 Thọ vực

Q.3

51 樹名體 Thụ danh thể 52 鳥名體 Điểu danh thể 53 謎字體 Mê tự thể 54 火焰體 Hỏa diệm thể 55 飛鴈體 Phi nhạn thể 56 疊韻長歌體 Điệp vận

1.風光 Phong quang

Q.3

trường ca thể 57 倒句體 Đảo cú thể

1.品類 Phẩm loại

3.2.2 Luận giải thể cách thi pháp cổ kim

Luận giải tức là phân tích, bàn luận và giải mã, bởi các thể và cách vô cùng

phong phú về mặt hình thể, đa dạng về mặt cách luật âm vận. Mỗi thể cách đều có

những quy tắc đặc thù nhưng tựu chung đều được vận hành xoay quanh sự biến

chuyển về cách luật âm vận. Có những thể cách là sự thách đố giải mã của thi nhân,

là hình thức chơi chữ, chơi thơ của các danh sĩ thông hiểu cách luật âm vận và tài

năng văn chương đạt đến một ngưỡng nhất định.

Tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp với khoảng 57 thể cách cổ kim

được Thiệu Trị vận dụng sáng tác hoặc có khi ông cải chế thư pháp càng làm cho

các thể cách thêm đa dạng, khó lường. Trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi tập

trung nghiên cứu trình bày những khái niệm về cách luật của từng thể, cách rồi đem

áp dụng để tìm ra phương pháp giải mã cách luật từng bài thơ của Thiệu Trị, nhằm

tiếp cận được đặc điểm giá trị nghệ thuật của thể cách. Vì số lượng thể cách nhiều

và mỗi thể cách đều có quy luật riêng nên chúng tôi tiến hành giải mã phân tích

riêng lẻ, đối với những thể cách có cấu trúc tương tự thì kết hợp để luận giải.

Cựu thể phi cách luật 舊體非格律 và Cựu thể cách luật 舊體格律:

Cựu thể hay còn gọi là Cổ thể hoặc Cổ phong như Kinh Thi, Sở từ, Hán

Ngụy Nhạc phủ… thể thơ này không quy định về cách luật, gieo vần tự do nên

thường được gọi tên là Cựu thể phi cách luật.

80

Trải qua quá trình phát triển của thơ ca, dần dần thơ Cựu thể phi cách luật

được danh sĩ, thi nhân các đời bổ sung những quy định, quy tắc về cách luật âm vận

cho việc sáng tác nên phát triển trở thành một thể thơ mới với tên gọi là Cựu thể

cách luật hoặc gọi là thơ Cận thể. Vì thể thơ này được phát triển và đạt đỉnh cao về

số lượng tác giả, tác phẩm vào thời Đường nên thường gọi là thơ Đường luật. Một

bài thơ Cựu thể cách luật này có 4 hoặc 8 câu, mỗi câu có 5 chữ hoặc 7 chữ, tùy

theo mà gọi tên là Thất ngôn bát cú luật, Ngũ ngôn bát cú luật, Thất ngôn tứ tuyệt

và Ngũ ngôn tứ tuyệt. Trong mỗi bài thơ, sử dụng quy luật vần bằng trắc và vận

cước chặt chẽ, còn có quy định về đối, niêm, toàn bài được gieo độc vận thể hiện

các câu 1 - 2 - 4 - 6 - 8 đối với thơ thất ngôn luật và 1 - 2 - 4 với thất ngôn tuyệt,

trong đó câu 1 không bắt buộc.

Xuyên suốt tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp, hai thể thơ này được vận

dụng trong hầu hết các bài thơ, được sử dụng hòa lẫn với các cách luật, các thể thơ riêng

biệt, việc phân chia rạch ròi hai thể trên trong tác phẩm này chỉ mang tính chất tương đối.

Ví như bài Vũ trung sơn thủy tuy được sử dụng thể Hồi văn và Liên hoàn để sáng tác

nhưng sau khi giải mã được bài thơ thì nó được gieo độc vận, gồm có 4 câu hoặc 8 câu

thì tương đương giống một bài thơ Cựu thể cách luật. Hay như các bài minh đồng được

Thiệu Trị sáng tác treo ở Trai cung - Nam Giao cũng mang dáng dấp của thơ Cổ thể.

Riêng đối với thể thơ Cựu thể cách luật, Thiệu Trị đã thực sự đạt đến một tầm cao mới

với lối chơi thơ độc đáo, thể hiện qua hai bài: Vũ trung sơn thủy sử dụng thể Hồi văn

kiêm Liên hoàn và bài Trì đường sơ hạ lâm hứng thủy tạ phóng ngâm sử dụng thể Toàn

chuyển chu hoàn (tân sáng), với hình thức mỗi bài gồm 56 chữ, tương đương số chữ của

bài thất ngôn luật. Ông sử dụng các kỹ xảo dựa trên yếu tố đơn âm tiết, cấu trúc ngữ

pháp đặc biệt và sự linh động của từ pháp để thay đổi phương pháp sắp xếp trật tự

từ, kết hợp đọc thuận nghịch, xoay trái xoay phải, một cách liên hoàn để được những bài

thơ thất ngôn, ngũ ngôn luật hay thất ngôn, ngũ ngôn tuyệt với cách luật, niêm đối và âm

vận hoàn chỉnh. Có thể xem Cổ thể và Cận thể là hai nội hàm chính trong xuyên suốt

toàn bộ tác phẩm này.

81

Nhóm các thể mang màu sắc dân gian:

Các thể ca Đường Nghiêu giới của vua Nghiêu, Khanh vân ca của vua Thuấn,

Đại phong ca của Hán Cao đế, Vũ chú đỉnh diêu, Thương minh, Việt nhân ca, về

bản thể cấu trúc là những lời ca/ hát trong dân gian có kết hợp với nhạc điệu, được

lưu truyền rộng rãi qua nhiều thế hệ bằng con đường truyền khẩu, có thể xem đây là

hình thức sơ khai của thơ. Nghiêu, Thuấn, Vũ ca có niên đại hàng nghìn năm với

âm hưởng văn học dân gian đã dùng lời ca để diễn xướng, ca tụng chế độ, ca ngợi

người tài... ở những không gian sinh hoạt cộng đồng như lễ hội, ruộng đồng, đình

làng... Và chính sự kết hợp giữa hình thức diễn xướng có tiết tấu và không gian diễn

xướng cộng đồng đã giúp những bài ca này nhanh chóng phổ biến rộng rãi trong đời

sống xã hội; chính vì phổ biến nên việc xuất hiện ngày càng nhiều những sáng tác

mới mô phỏng hình thức trên ra đời. Nguyên nhân trên đã biến hình thức “Ca” từ

chỗ chỉ phô diễn màu sắc cá nhân trở thành một thể loại được định danh và sử dụng

rộng rãi trong sáng tác thơ ca. Xã hội thời cổ Nghiêu Thuấn là lý tưởng hoài bão

của tất cả triều đại phong kiến hướng đến trong tiến trình cai trị đất nước, Thiệu Trị

phỏng tác các bài ca/ thơ này với ngụ ý mong cho vương triều được hưng thịnh. Ví

như bài Khanh vân ca của vua Thuấn, tương truyền vua Thuấn khi muốn thoái vị đã

truyền ngôi cho Đại Vũ, bách quan và vua Thuấn đã cùng nhau hát Khanh vân ca:

‘Mây lành xán lạn chừ/ Mặt trời mặt trăng sáng mãi’. Bài thơ khắc họa rõ nét hình

ảnh chính trị hòa hiếu, thể hiện chủ trương nhân đức của người xưa, ngôi vua truyền cho người hiền mà không truyền tử. Nguyên văn bài Khanh vân ca16 gồm 20 câu và

bài Hàm phu mộc nhật của Thiệu Trị chỉ phỏng tác 4 câu đầu, như sau: Diệu trường

thiên hề/ Chiếu bát duyên hề/ Hú dục huân đào/ Niên phục niên hề - Ánh sáng chiếu

trời cao chừ/ Chiếu rộng khắp bờ cõi chừ/ Ân huệ nuôi dưỡng đầm ấm/ Năm lại

năm chừ. Cùng các bài ca/ thơ Tĩnh lí quán thiên (phỏng tác bài Đường Nghiêu

giới): Du du huyền huyền/ Thiên sở vi thiên/ Chiêm ngưỡng tri kỳ tượng/ Bất tri kỳ

niên. Bài Vãn xuyết vân dung (phỏng tác bài Vũ Chú đỉnh diêu): Phiên phiên luân

khuân/ Lịch xuân lịch hạ/ Lịch thu lịch đông/ Kim đa kì phong/ Tịch dương ảnh

16 Bài Khanh vân ca 卿雲歌: 卿雲爛兮,糺縵縵兮。日月光華,旦復旦兮。明明上天,爛然星陳。日月光華,弘 於一人。日月有常,星辰有行。四時從經,萬姓允誠。於予論樂,配天之靈。遷於賢聖,莫不咸聽。鼚乎鼓之, 軒乎舞之。卿雲歌 卿雲歌 菁華已竭,褰裳去之。

xạ/... Tất cả cùng một ước nguyện cho thời thế thanh bình, ấm no.

82

Thủy tiên tháo 水僊操:

Đây là khúc ca gắn liền với điển tích về Bá Nha. Bá Nha đến học đàn với

Thành Liên, sau ba năm thì thành tựu về âm luật nhưng tinh thần tĩnh mịch và tình

cảm hòa vào trong khúc nhạc vẫn chưa đạt được. Sau đó, thầy của Bá Nha đi đến

núi Bồng Lai ở Đông Hải, trải qua nhiều ngày không thấy về, Bá Nha buồn thương,

trông ngóng nhưng chỉ nghe bốn bề sóng vỗ, rừng núi tịch mịch, chim muông hót

lời bi thương, Bá Nha ngước nhìn trời xanh mà khóc rằng ‘Tiên sinh đã thay đổi được tình cảm của ta’, khi đó cảm tác khúc nhạc Thủy tiên tháo17 này. Từ đó, khúc

ca này trở thành quy chuẩn cho một thể thơ/ca để người đời sau mô phỏng sáng tác.

Thiệu Trị từ đây phỏng tác nên bài thơ Trận lai yên vũ 陣來湮雨 (Mưa gió từng trận

kéo về), gồm 4 câu, mỗi câu 7 chữ. Nhà vua thấy trời mưa gió mịt mù, nhân cái tình

của Bá Nha mà cảm thương muôn dân của mình mùa màng không thuận lợi, thóc

油然雲兮沛然雨18 Ùn ùn mây nổi chừ, mưa xuống xầm xập

篩萬線兮普四維 Muôn ngàn tia nhỏ chừ khắp bốn phía

天溟漠兮山迷離 Trời mưa mịt mù chừ núi giăng kín

米畫難形彼王維. Thóc gạo khó thành hình, nơi cung vương xót thương.

lúa khó sinh trưởng, cảm tác bài thơ:

Thể Minh 銘:

Minh có hai loại, thể minh có tính chất tán dương, ca tụng và thể minh có

tính chất tự răn mình. Mỗi bài minh ít nhất là 2 câu và không quy định độ dài; mỗi

câu thông thường có 4 chữ. Trong tác phẩm này, Thiệu Trị sử dụng cả hai thể loại,

thể minh ca tụng với các bài minh tán dương triều đại, cai trị đất nước được treo ở

Trai cung thuộc đàn Nam Giao; và có 2 bài được sáng tác theo thể minh răn mình là:

Ngự diên văn bảo phỏng bài Cổ nghiễn minh của Lương Vũ Đế và Nhật trường

giảng tụng phỏng bài Tửu bàn minh của Ân Trọng Kham. Điều đặc biệt, Thiệu Trị

17 Bài Thủy tiên tháo: “繄洞渭兮流澌濩/舟楫逝兮僊不還/移形素兮蓬萊山/歍欽傷宮僊不還/ Ê động vị hề lưu tư hoạch/ Chu tiếp thệ hề tiên bất hoàn/ Di hình tố hề Bồng Lai sơ/ Ô khâm thương cung tiên bất hoàn”. 18 Tích trong sách Mạnh tử: 天油然作雲,沛然下雨/ Thiên du nhiên tác hạ vân, bái nhiên hạ vũ/ Trời đột ngột nổi mây, xầm xập đổ mưa.

sắp xếp hai bài minh theo dạng hình tròn, như sau:

83

Phải: Bài Nhật trường giảng tụng trong tập Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp

Trái: Bài Ngự diên văn bảo minh tại điện Long An, Huế;

Giải mã: Việc đọc bài minh được bắt đầu từ chữ ở giữa trên cùng và đọc từ

phải sang trái như quy tắc đọc chữ Hán sẽ cho ra hai câu, mỗi câu 4 chữ với ý nghĩa

răn mình học theo tiên vương rèn luyện kinh điển Nho gia, chăm lo trị nước, an dân.

明理正心

Minh lý Chính tâm Rõ lý Chính tâm

行止敬欽.

Hành Chỉ kính khâm. Kính vâng Chỉ thiện.

Bài Ngự diên văn bảo:

Nhật lạc Thi Thư

Ngày vui Thi Thư

日樂詩書 述作時餘.

Thuật tác thời dư.

Thực hành siêng năng.

Bài Nhật trường giảng tụng:

Thể Thiền liên 蟬聯體 và Thể Đảo cú 倒句體:

Theo Thiệu Trị thể thơ này tương truyền đã xuất hiện từ rất lâu nhưng nguồn gốc

thì chưa rõ. Sau khi, tìm đọc Truyện Chủ nhạ trong Tề thư; Truyện Dương Hùng và

các nghiên cứu của các danh sĩ đời trước như: Thẩm Đông Mỹ, Dư Phục Chi, Thiệu

Trị cho rằng: “Thể Thiền liên có nghĩa là cùng nối tiếp” [64, tr.977]. Thể này lấy

một số chữ cùng một bộ vận trong Bội văn vận phủ, án chiếu đúng thứ tự các vần

trong sách Bộ vận để làm thơ, không được thay đổi trật tự các vần, chẳng hạn theo

đúng trật tự: 陽、楊、揚、香、鄉、光、昌、堂、章、張、王、房… “Như vậy,

thì tìm đến cái nghĩa thiền liên có lẽ gần đúng” [64, tr.977]. Thiệu Trị nói với

quần thần rằng: “Lại như thể thơ đảo ngược câu dưới lên trên, câu trên xuống dưới,

cũng chưa rõ xuất hiện từ bao giờ. Đời gần đây, tập thơ triều Càn Long nhà Thanh,

có bài ‘Ngọc Lan đường’, dùng thể thơ vần ‘thiền liên’; tập thơ triều Gia Khánh có

hai bài thơ ‘Thiên trì’, dùng theo đảo ngược cả vần cả câu. Nay xem thơ của hai vua

ấy làm ra, dùng vần thì cùng một phép, mà về thể cách lại không giống

84

nhau, hoặc giả đều có sở kiến ở chỗ nào, rất chưa thể hiểu được” [64, tr. 978]. Theo

như nhận định của Thiệu Trị thì thể cách thiền liên và đảo cú về cơ bản có lối dụng

vần giống nhau, nhưng cách luật thì khác vì thế nên tên gọi khác nhau.

Thể Tam ngôn三言, Tứ ngôn 四言, Ngũ ngôn 五言, Lục ngôn六言, Thất

ngôn 七言, Bát ngôn 八言 và Cửu ngôn九言:

Vua Thiệu Trị bảo quan Nội các rằng: “Những thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ,

7 chữ, 8 chữ, 9 chữ và thể cách của các nhà thơ, các ngươi đã từng xét rõ chưa?

Nguyễn Bá Nghi và Vũ Phạm Khải thưa rằng: Chúng tôi chưa học thơ. Trước đây

sai chúng tôi xét rõ thể cách của các nhà thơ ở các đời trước, chúng tôi hơi biết

được một, hai điều, chứ chưa biết hết được” [64, tr.978]. Nhà vua liền giảng rõ về

nguồn gốc của các thể thơ này, theo ông thơ không hẳn là bắt đầu từ 300 thiên trong

Kinh Thi. Nhưng căn cứ vào 300 thiên mà nói thì thơ 3 chữ bắt đầu từ câu ‘Chân

chân lộ’; thơ 4 chữ từ câu ‘Quan quan thư cưu’; thơ 5 chữ từ câu ‘Thùy vị tước vô

giác’; thơ 6 chữ từ câu ‘Ngư lệ vu lựu phường lý’; thơ 7 chữ từ câu ‘Giao giao

hoàng điểu chỉ vu khúc’; thơ 8 chữ từ câu ‘Ngã bất cảm hiệu ngã hữu tự dật’; thơ 9

chữ từ câu ‘Quýnh chức bỉ hành lạo ấp bỉ chú tư’. Chúng tôi dẫn các bài thơ trong

tác phẩm này được Thiệu Trị sáng tác theo các thể trên: Lũng mẫu vân sừ 隴畝耘耡

(Tam ngôn); Phiếm hải quy phàm 泛海歸帆 (Tứ ngôn); Tế Xuyên kích tiếp

濟川擊楫 (Ngũ ngôn); Vãn thiếu 晚眺 (Lục ngôn); Tương vũ 將雨 (Cửu ngôn).

Thể Tam ngũ thất ngôn 三五七言體:

Tam ngũ thất ngôn là thể thơ gồm 30 chữ, được chia làm 6 câu theo cấu trúc

tương ứng số chữ: 3 - 3 - 5 - 5 - 7 - 7. Các câu 2, 4, 6 được gieo cùng một bộ vận.

Thiệu Trị sáng tác hai bài theo thể này, bài Nham hác tiều nhàn phỏng bài Thu

phong từ của Lý Bạch; bài Thu dạ phỏng thơ của Trịnh Doãn Đoan thời Nguyên.

Ngưng nguyệt sắc Chiếu hoa âm Ngọc vũ tam canh tĩnh Kim phong vạn lại ngâm Viễn tái bất vô thôi thú địch

凝月色 照花陰 玉宇三更静 金風萬籟吟 遠塞不無催戍笛 孤村更有動寒碪. Cô thôn cánh hữu động hàn châm.

(三) (三) (五) (五) (七) (七)

Ví dụ bài Thu dạ 秋夜:

85

Bài Thu dạ: gieo vần Hạ bình thập nhị Xâm 下平十二侵 thể hiện ở chữ cuối

các câu 2 (âm 陰); câu 4 (ngâm 吟); câu 6 (châm 碪).

Nhất tự chí thập tự thể 一字至十字體:

Nhất tự chí thập tự thể là thể thơ từ một chữ cho đến mười chữ và đi theo

từng cặp. Đây là thể phát triển của thể nhất tự chí thất tự, thuộc vào tạp thể thi, có

thể tăng đến mức thập ngũ tự. Cách luật tuần tự các cặp liên: 1 - 1; 2 - 2; 3 - 3; 4 - 4;

5 - 5; 6 - 6; 7 - 7; 8 - 8; 9 - 9; 10 - 10, chủ đề bài thơ thường là thể hiện ở liên “nhất

tự” và cũng chính là cặp câu quy định bộ vận của bài thơ. Toàn bài được gieo độc

vận ở câu thứ 2 của mỗi liên. Bài thơ Lâm ửu giáo liệp 林泑校獵 của Thiệu Trị

(phỏng tác bài Vịnh trúc của Văn Đồng thời Tống), toàn bài dùng vần Hạ bình thập

nhị Xâm 下平十二侵, thể hiện ở các câu chẵn: 林 lâm/ 森 sâm/ 潯 tầm/ 深

thâm/ 音 âm/ 臨 lâm/ 禽 cầm/ 心 tâm/ 擒 cầm/ 忱 thầm, và Thiệu Trị cải

thành vần bằng so với nguyên thể.

Toàn bằng thể 全平體 và Toàn trắc thể 全仄體:

Toàn bằng và Toàn trắc là thể mà các chữ trong toàn bài thơ đều được gieo

toàn vần bằng hoặc gieo toàn vần trắc. Bài thơ Uẩn ngọc sơn huy 韞玉山輝, Thiệu

Trị phỏng tác bài thơ Khổ vũ thể Toàn bằng của Lục Quy Mông thời Đường; bài

Hoài châu xuyên mị 懷珠川媚, phỏng tác bài thơ Chu trung tức sự, thể Toàn trắc

của Mai Nghiêu Thần thời Tống.

Thể Bách lương 栢梁體:

“Bách lương thể là một biệt thể của thể Hành cổ phong, thể này ra đời từ thời

Hán Vũ đế năm Nguyên Phong thứ 3, vua cho xây đài Bách Lương (bằng gỗ bách),

khi hoàn thành, vời các đại thần vịnh thơ thất ngôn, mỗi người mỗi câu, câu nào

cũng có vần, do đó đời sau gọi là thể Bách Lương đài” [47, tr.271], thể này có thể

gồm từ hai câu độc lập trở lên, không quy định số lượng câu nhưng phải độc vận,

tức là một vần duy nhất từ đầu đến cuối.

Trong tác phẩm, Thiệu Trị sử dụng thể này để sáng tác bài thơ Hán phù ngọc

kính 漢浮玉鏡, gieo vần bằng, bài này Thiệu Trị gia thêm 4 vận thành 30 vận tương

đương với 30 câu thơ và do mình ông sáng tác mà không xướng hoạ với quần thần.

Vốn bài thơ Bách lương thể của vua Hán Vũ đế là 26 vận với 26 câu, câu mở đầu là

86

của vua Hán Vũ Đế và 25 câu sau là của các đại thần, trong phụ lục nguyên thể đều

có chú thích tên tác giả dưới mỗi câu thơ.

Thể Khẩu tự 口字體:

Khẩu tự là thể mà các chữ được sử dụng trong bài thơ đều có bộ khẩu口

hoặc chữ khẩu 口. Yêu cầu của thể này là đảm bảo việc lựa chọn tất cả các chữ đều

có bộ khẩu 口 phù hợp với đề tài, gieo vần tự do. Bài thơ Đàm luận của Thiệu Trị

được phỏng tác theo bài Hòa sái hoàng môn của Thẩm Quýnh, thời Trần - Nam Bắc

囁囁誇竒話

Nhiếp nhiếp khoa kì thoại

嘈嘈哄俗喧

Tào tào hống tục huyên

Tụng thi đàm cổ ngữ

誦詩談古語 論史合名言.

Luận sử hợp danh ngôn.

triều, bài thơ như sau:

Thể Trường đoản cú 長短句體:

Thời Đường, Trường đoản cú vẫn là một danh từ chỉ một thể thơ, lại có từ

điển chú thích Trường đoản cú là một tên gọi khác của thể Từ. Đây là thể có cấu

trúc gồm câu dài câu ngắn, nhưng không có sự quy định chặt chẽ là gồm bao nhiêu

câu dài, bao nhiêu câu ngắn, số chữ trong câu là 3, 5, 7 chữ. Thể loại này, thông

thường gồm 6 câu và có thể gieo cùng bộ vận hoặc lân vận.

Trong tác phẩm, Thiệu Trị sử dụng thể này để sáng tác bài Canh lê lũng mẫu

thích (Cày ruộng trên cánh đồng), được phỏng theo bài Phiếm tiểu luân của Bạch

Cư Dị thời Đường. Tra cứu các tác phẩm của Bạch Cư Dị thì thấy ông thường sử

dụng thể Trường đoản cú theo trật tự số từ mỗi câu là: hai câu 3 chữ, một câu 7 chữ,

một câu 5 chữ để sáng tác thơ; nhưng với bài Phiếm tiểu luân ông lại dùng trật tự:

hai câu 3 chữ và bốn câu 7 chữ. Căn cứ vào ý tứ nội dung và gieo vần thì bài thơ

Canh nhất lê Điền nhất mẫu Điền gian trích trích tài vũ hậu Điền thượng y y ứng tác ngẫu Giá sắc gian nan thâm niệm chi Cần cù chung tuế lân nông tẩu.

耕一犁 田一畝 田間滴滴纔雨後 田上依依應作耦 稼穡艱難深念之 勤劬終歲憐農叟. Bài thơ gieo độc vận Thượng thanh nhị thập ngũ Hữu 上聲二十五有: câu 2

Canh lê lũng mẫu thích sẽ được giải mã theo cấu trúc các câu là: 3 - 3 - 7 - 7 - 7 - 7:

(mẫu 畝); câu 4 (ngẫu 耦); câu 6 (tẩu 叟).

87

Thể Quái danh 卦名體:

Quái danh là thể thơ dùng các quẻ trong 64 quẻ của Chu Dịch để làm thơ.

Trong đó, tác giả sẽ lựa chọn những quẻ phù hợp với nội dung và tư tưởng của bài

thơ. Thể thơ Quái danh này được Giản Văn Đế đời Lương - Nam Bắc triều làm, bài

thơ do ông sáng tác được xem là bài cổ nhất hiện còn. Trong bài Ngư đĩnh giang

thiên lạc, Thiệu Trị phỏng tác theo bài thơ này. Tuy nhiên, bài thơ gốc của Giản

Văn Đế là dùng các quẻ “Tỉ 比”; “ Phục 復”; “Vị tế 未濟”; “Đồng nhân 同人” theo

cổ phong, gồm 10 câu, mỗi câu 5 chữ; Thiệu Trị dùng bát quái là Càn - Khảm - Cấn

- Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài và cải thành thất ngôn luật. Tám quẻ này được xem

là các ‘nhãn tự’ của mỗi câu thơ và thứ tự được sắp xếp một cách ngẫu nhiên, tùy

thuộc vào nội dung ý tứ các câu thơ, như sau:

Đoài sơn tịch chiếu trám minh ba Tốn nhị khinh thôi phiếm đĩnh quá Chấn nhiếp ngư hà kinh điếu võng Cấn tri âu lộ bạn giang hà Nhàn khán thiên ngoại vân Li hợp Bất lụy trần trung lộ Khảm kha Vạn hác Khôn dư tùy sở ngộ

兌山夕照蘸明波 巽二輕催泛艇過 振懾魚鰕驚釣網 艮知鷗鷺伴江河 閒看天外雲離合 不累塵中路坎軻 萬壑坤輿隨所遇 一鐘乾竺助清歌. Nhất chung Càn trúc trợ thanh ca.

Thể Tứ khí 四氣體:

Tứ khí là thể chỉ bốn kiểu khí hậu thời tiết, tức là tương ứng với bốn mùa

xuân - hạ - thu - đông, bốn yếu tố này được đặt vào bài thơ như những ‘nhãn tự’.

Bài thơ Thưởng cảnh được Thiệu Trị phỏng tác theo một bài thơ của Vương Vy đời

Tống. Tuy nhiên bài gốc vốn được làm theo Ngũ ngôn tuyệt, Thiệu Trị đã có cải

dùng thành Thất ngôn tuyệt để sáng tác. Qua đó, ta thấy về cấu trúc thì bài thơ làm

theo thể Tứ khí có thể sáng tác theo ngũ ngôn hay thất ngôn, chỉ cần đảm bảo yêu

cầu bài thơ phải gồm 4 câu để tương ứng với 4 mùa:

Xuân triêm hiếu vũ hân phong tuế

春霑孝雨欣豐歲 夏興薰風樂阜財 Hạ hưng huân phong lạc phụ tài 秋賞月明清景物 冬祈曙煖遍寰垓

Thu thưởng nguyệt minh thanh cảnh vật Đông kỳ thự noãn biến hoàn cai.

Thể Bát âm 八音體:

88

Vào thời cổ đại, kim 金, thạch 石, ti 絲, trúc 竹, bào 匏, thổ 土, cách 革, mộc

木 được gọi là bát âm八音19, tượng trưng cho tám loại nhạc cụ. Bát âm thi chính là

dùng tên của bát âm (8 loại nhạc cụ) ở đầu mỗi câu hoặc đầu mỗi liên. Bát âm thi

thuộc vào Tạp thể thi, cũng gọi là “bát âm thể”; “bát âm ca”; một bài gồm 16 câu

thơ ngũ ngôn. Bài thơ của Thẩm Quýnh thời Trần - Nam Bắc triều được xem là bài

thơ Ngũ cổ “bát âm thi” sớm nhất hiện còn. Bài thơ Yên tỏa trì đường liễu được

Thiệu Trị phỏng tác theo bài thơ này nhưng được cải thành thể Thất ngôn luật, chỉ

gồm 8 câu tương ứng với 8 âm: kim 金, thạch 石, ti 絲, trúc 竹, bào 匏, thổ 土, cách

革, mộc 木 với mỗi âm đứng đầu mỗi câu.

* Nhóm Điệp tự thể, Trùng điệp tự thể và Điệp vận trường ca thể: Về mặt

hình thức 3 thể này là sự điệp (lặp) một từ hoặc hai từ trong câu thơ, tùy theo cấu

trúc âm vận mà tên gọi có sự khác nhau:

Điệp tự thể 疊字體:

Điệp tự là thể thơ với hình thức lặp chữ, một kỹ thuật viết cổ khúc, thường

thấy ở những tác phẩm cổ thể thi từ xuất sắc. Hình thức Điệp tự sớm nhất có thể kể

đến Thi kinh20 nhưng chỉ ở giai đoạn sơ khai, đến thời Đường đạt đến độ chín muồi,

có hệ thống gọn gàng và tiêu chuẩn. Đến thời Tống Nguyên đã mở rộng đến cả từ

khúc. Đến thời Minh Thanh trải qua nhiều lần thay đổi đã xuất hiện những tác gia

lớn có sở trường về điệp tự thi. Về cơ bản có 4 loại Điệp tự thi: Đơn điệp thức

單疊式, trong một câu chỉ có hình thức điệp của một từ, các câu đều như vậy; Đa

điệp thức 多疊式, trong một câu có hai từ trở lên được trùng lặp; Hỗn hợp thức

混合式, trong bài sử dụng hỗn hợp cả đơn điệp và đa điệp; Đồ án thức 圖案式, tác giả

sắp xếp các cụm điệp tự theo một khuôn mẫu nhất định, sau đó quy định quy tắc

đọc hoặc hướng dẫn cách đọc để độc giả có thể đọc thành một hoặc một vài bài thơ.

Về mặt hình thể cấu trúc cơ bản, trong mỗi câu sẽ có 1 hoặc 2 chữ lặp lại và đi liền

19 Về bát âm: kim là chung 鐘; thạch là khánh 磬; ti là cầm 琴, sắt 瑟; trúc là tiêu 箫, sáo (quản 管); bào là sanh 笙 (sênh), vu 竽; thổ là huân 塤, phữu 缶; cách là trống cơm (đào 鼗), trống (cổ 鼓); mộc là chúc 柷, ngữ 敔. 20 Cát đàm (Kinh Thi): Cát chi đàm hề/ Dị vu trung cốc/ Duy diệp thê thê/ Hoàng điểu vu phi/ Tập vu quán mộc/ Kỳ minh giai giai.

nhau. Bài thơ Trùng lâu nhã vọng của Thiệu Trị (vốn phỏng tác theo bài Điệp tự thi

89

của Vương Thập Bằng thời Tống), được ông sử dụng hình thức Đơn điệp thức của

畫棟層層架 錭樑疊疊懸 閒閒臨賞景 浩浩靜觀天 人物家家好 煙霞色色鮮 怡怡堪賦咏 楚楚入詩篇.

thể Điệp tự:

Họa đống tằng tằng giá Điêu lương điệp điệp huyền Nhàn nhàn lâm thưởng cảnh Hạo hạo tĩnh quán thiên Nhân vật gia gia hảo Yên hà sắc sắc tiên Di di kham phú vịnh Sở sở nhập thi thiên.

Hình thức Điệp tự (đơn điệp thức) thể hiện các chữ ở mỗi câu: tằng tằng 層層;

điệp điệp 疊疊; Nhàn nhàn 閒閒; Hạo hạo 浩浩; gia gia 家家; sắc sắc 色色; Di di 怡怡; Sở sở

楚楚. Bài thơ đươc gieo độc vận Hạ bình nhất Tiên 下平一先 thể hiện các chữ cuối, câu

2 huyền 懸 (thông huyền 縣); câu 4, thiên天; câu 6, tiên 鮮; câu 8, thiên 篇.

Trùng điệp tự thể 重疊字體:

Căn cứ theo bài thơ của Thiệu Trị có thể luận giải Trùng điệp tự là thể thơ

theo dạng điệp của Điệp tự, nghĩa là lặp thêm một lần Điệp tự. Nếu Điệp tự vốn lặp

một chữ thì Trùng điệp tự sẽ lặp lại gấp đôi của Điệp tự. Như vậy trong câu thơ,

một chữ sẽ được nhân gấp bốn (tức có 4 chữ giống nhau) và phần nhiều đi liền nhau

theo từng cặp. Có thể xem Trùng điệp tự là sự biến thể theo chiều gấp đôi của Điệp

tự dạng Đơn điệp thức.

Phân tích bài Khúc tạ khiển nhàn của Thiệu Trị (phỏng tác bài Lâm ngọa tập

堂堂堂宇坐堂前 Đường đường đường vũ tọa đường tiền 好好臨池好好筵 Hảo hảo lâm trì hảo hảo diên 拂拂檐頭風拂拂 Phất phất diêm đầu phong phất phất 濺濺檻外水濺濺 Tiên tiên hạm ngoại thủy tiên tiên 涓涓月桂涓涓溜 Quyên quyên nguyệt quế quyên quyên lưu 艶艶湖蓮艶艶鮮 Diễm diễm hồ liên diễm diễm tiên 馥馥可供香馥馥 Phức phức khả cung hương phức phức 乾乾在念日乾乾. Can can tại niệm nhật can can.

của Triệu Cát Sĩ thời Tống), với các Trùng điệp tự trong một câu:

Bài thơ gieo độc vận vần Hạ bình nhất Tiên下平一先, thể hiện ở các chữ

cuối của câu 2 diên 筵; câu 4 tiên 濺; câu 6 tiên 鮮; câu 8 can 乾 (thông can 幹).

Điệp vận trường ca thể 疊韻長歌體:

90

Điệp vận thể là loại thi thể đặc thù, một cách chơi chữ của thi nhân ngày xưa.

Điệp vận là tất cả chữ trong mỗi câu của toàn bài đều sử dụng một bộ vận (vần)

giống nhau. Xét theo góc độ này, thì Điệp vận trường ca có nghĩa là một bài thơ dài

mà các câu/ tự cùng một vận hoặc cưỡng áp vận xuyên suốt.

Trước hết, chúng tôi bàn rõ về “vận 韻” và “tự 字”. Đây là hai chính thể khác

nhau rõ rệt, “tự” là chữ; “vận” là vần của chữ. Như thế tuy chúng là hai chính thể

khác nhau nhưng lại thông nhau ở điểm: một “tự” nó sẽ thuộc “vận” nào và một

“vận” nó sẽ gồm những “tự” nào, vì mỗi “vận” đều có nhiều “tự”. Về điểm này, đã

được quy định rõ trong các bộ Vận phủ mà hoàn thiện nhất là bộ Bội văn vận phủ

thời Khang Hy. Cho nên khi nhắc một “tự” bất kì, nếu xét góc độ “tự” thì nó thuộc

bộ gì, ý nghĩa ra sao; nhưng cũng “tự” đó mà đề cập đến “vận” thì nó sẽ thuộc “vận”

nào trong Vận phủ. Tức có nghĩa “tự” và “vận” là hai mặt của một vấn đề, tách biệt

nhưng lại liên quan mật thiết. Một điểm cần lưu ý, khi gọi là điệp tự thì chắc chắn

sẽ cùng một bộ “vận”; nhưng điệp vận, thì có hai trường hợp: cùng chữ và khác chữ.

Ví dụ: chữ thanh 清: xét về “tự” nó có nghĩa là trong, sạch, liêm khiết; chữ

tình 情, là tình cảm, tình ái; vốn là hai “tự” khác nhau nhưng xét về “vận” nó đều

thuộc Hạ bình bát Canh vận. Khi điệp tự sẽ là thanh thanh 清清; tình tình 情情 thì

hiển nhiên chúng sẽ cùng điệp vận. Vì thế một bài thơ theo thể Điệp vận trường ca,

có nghĩa là bài thơ dài được sáng tác theo hình thức các “tự” có cùng một bộ “vận”

Trái: bài Phong quang của Thiệu Trị; phải: bài Xuân quang hảo ký Đông Pha của Phật Ấn (tờ 26b3).

hoặc theo lối “cưỡng áp vận” (gieo ép vần) khi sáng tác.

Bài thơ Phong quang của Thiệu Trị được phỏng tác bài Xuân quang hảo ký

Đông Pha của Phật Ấn Thiền sư. Nhìn về tổng thể của hai bài Điệp vận trường ca

91

này thì các cặp điệp tự được xếp nối dài mà thành trường ca. Bài gốc của Phật Ấn

gồm 81 cặp điệp tự, là 162 chữ; bài Phong quang gồm 129 cặp điệp tự, là 258 chữ.

Vấn đề giải mã sẽ khó khăn hơn ở đoạn cuối bài thơ, đó là về mặt hình thức nhưng

khi giải mã bài thơ phải đảm bảo yêu cầu phải điệp vận (cùng vần) cho toàn bài thơ

hoặc trong đó có sử dụng cưỡng vận, áp vận. Về cách giải mã bài thơ Xuân quang

hảo ký Đông Pha, vốn có một giai thoại: Khi Thiền sư Phật Ấn sáng tác và gửi tặng

Tô Đông Pha bài thơ này nhưng ngay chính Đông Pha - Một danh sĩ lừng danh

cũng không thể đọc được và chỉ có cô em gái của ông là Tô Tiểu Muội đã giải mã thành công, trước sự kính phục của ông21. Vì vậy, chúng tôi chỉ dựa trên bài thơ do

Tô Tiệu Muội giải mã để áp dụng giải mã bài thơ của Thiệu Trị. Với khuôn khổ

(下平八庚)

(去聲十八嘯)

Chiếu diệu thiên Thiên khoáng lãng

Ngọc kính minh 01玉鏡明, 02玉鏡明輝輝八瀛。Ngọc kính minh huy huy bát doanh 03八瀛瞻仰清光好, Bát doanh chiêm ngưỡng thanh quang hảo 04瞻仰清光好興成。Chiêm ngưỡng thanh quang hảo hứng thành (下平八庚) 05 興成佳景天然妙 Hứng thành giai cảnh thiên nhiên diệu 06 佳景天然妙無少。Giai cảnh thiên nhiên diệu vô thiếu 07無少黄花門月光 Vô thiếu hoàng hoa môn nguyệt quang 08黄花門月光照耀。Hoàng hoa môn nguyệt quang chiếu diệu (去聲十八嘯) 09照耀天, 10天曠朗, 11曠朗煙霞風籟響。 Khoáng lãng yên hà phong lại hưởng (上聲二十二養) 12煙霞風籟響催聞, Yên hà phong lại hưởng thôi văn, 13催聞何處從天上。Thôi văn hà xứ tùng thiên thượng. (上聲二十二養)

(...)

luận án, chúng tôi chỉ giải và trích dẫn một đoạn bài thơ, như sau:

Trên đây là chúng tôi trích đoạn giải mã bài thơ Phong quang. Trước hết, sự

Điệp vận trường ca thể hiện ở hình thức trình bày các cặp Điệp tự trường ca (các

chữ giống nhau được lặp lại kéo dài) trong nguyên thể bài thơ khi chưa được giải

mã, đây là yếu tố chính. Và tiếp theo sự Điệp vận trường ca còn thể hiện khi được

giải mã ở các cặp liên có cùng một bộ vận: liên (2) và (4) cùng điệp vận Hạ bình

21 Về bài thơ được Tô Tiểu Muội giải mã này, có được Phật Ấn chứng thực là đúng cách đọc hay không thì không thấy đề cập, cho nên xem đây như là một cách giải mã duy nhất cho đến thời điểm đó.

bát Canh 下平八庚; liên (6) và (8) cùng điệp vận Khứ thanh thập bát Khiếu

92

去聲十八嘯; liên (11) và (13) cùng điệp vận Thượng thanh nhị thập nhị Dưỡng

上聲二十二養; ... Tuy nhiên, nếu xét hết cả bài thơ thì sự điệp vận giữa các cặp

liên sẽ xảy ra hiện tượng cưỡng áp vận như Thiệu Trị đã mô tả.

* Nhóm các thể có hình thức cấu tạo tương đương nhau, gồm các thể: Cung

điện danh thể; Quận huyện danh thể; Thụ danh thể; Điểu danh thể, về cấu trúc

chung thì các dạng thể này từ tên gọi đã hình dung được cấu trúc của nó, đó là dùng

chính những danh từ, hoặc động từ liên quan trực tiếp đến chủ đề để làm thơ.

Thể Cung điện danh 宮殿名體:

Cung điện danh là thể thơ lấy tên các cung điện để làm thơ. Việc lựa chọn

tên các cung điện cần phù hợp với nội dung và mang ý nghĩa thơ ca. Thiệu Trị sáng

tác bài Trị công phỏng theo Thể Cung điện danh của Lương Vũ đế và cải dùng tên

các cung điện trong Tử cấm thành của Nguyễn triều: cung Càn Thành; cung Khôn

Thái; cung Bảo Định; cung Trường Ninh; điện Thái Hòa; điện Cần Chính; điện Vũ

Hiển; điện Văn Minh; điện Long An; Chỉ Thiện đường; điện Hoàng Phúc; điện

Thiên Thân. Bài thơ này gồm 60 chữ, chia làm 12 câu ngũ ngôn. Tuy nhiên, tên

cung điện được đưa vào bài thơ chỉ xét khi bài thơ ở hình thức nguyên văn Hán tự,

trường hợp dịch nghĩa thơ cần phải dựa vào ngữ nghĩa và nội dung nên không thể

đảm bảo việc giữ nguyên âm tên gọi.

Thể Quận huyện danh 郡縣名體:

Quận huyện danh là thể thơ lấy tên quận huyện trong nước để đưa vào bài

thơ với nội dung phù hợp với chủ ý của tác giả. Bài thơ Chính hóa được Thiệu Trị

phỏng tác theo bài thơ Quận huyện danh của Phạm Vân thời nhà Lương nhưng

được cải dùng tên các quận huyện của nước Đại Nam, gồm 8 câu ngũ ngôn với mỗi

câu thơ có hai quận huyện. Tại mỗi dòng câu thơ chính đều có hai dòng nhỏ chú

thích tên các quận huyện được sử dụng: phủ Thừa Thiên (Kinh sư); phủ Hoằng Trị

(Vĩnh Long); huyện Quảng Địa (Thanh Hóa); huyện Vĩnh Tuy (Tuyên Quang);

châu Lương Chính (Thanh Hóa); huyện An Lạc (Sơn Tây); huyện Hưng Nhơn

(Hưng Yên); phủ Thái Bình (Nam Định); phủ Hà Thanh (Hà Tĩnh); huyện Hương

Thủy (Thừa Thiên); phủ Sơn Định (Quảng Yên); phủ Lượng Giang (Bắc Ninh);

huyện Phúc Thọ (Sơn Tây); phủ Trùng Khánh (Cao Bằng); huyện Phong Đăng

93

(Quảng Bình); huyện Thụy Anh (Nam Định). Tuy nhiên, tên quận huyện cũng như

trường hợp của thể Cung điện danh, chỉ xét khi bài thơ ở hình thức nguyên văn Hán

tự, khi tiến hành dịch nghĩa không thể đảm bảo việc giữ nguyên âm tên gọi.

Thể Thụ danh 樹名體:

Thụ danh là thể dùng tên các loài cây để làm thơ. Bài thơ Thụ tiêu lịch tuế

vinh được Thiệu Trị phỏng tác theo bài thơ Thụ danh thể của Lương Nguyên đế.

Bài thơ gồm 8 câu thơ ngũ ngôn, trong mỗi câu chứa một loài cây và ý câu thơ là

chỉ về những điểm nổi bật của loài cây ấy: cây đào; cây hạnh; cây hòe; cây việt; cây

du; cây Ngô đồng; cây bách; cây tùng.

Thể Điểu danh 鳥名體:

Điểu danh là thể dùng tên các loài chim để làm thơ. Bài thơ Cầm phi lai

vãng toại của Thiệu Trị phỏng tác theo bài Điểu danh thể của Lương Nguyên đế,

gồm 8 câu thơ ngũ ngôn. Các câu thơ với tên một loài chim hoặc động từ liên hệ

đến loài chim: chim anh vũ; chim phượng hoàng; chim ê (con cò); chim hồng nhạn;

chim trạch tước (chim sẻ); chim yến; đề (kêu, hót); canh (suốt đêm).

Kiến trừ thể 建 除體:

Kiến trừ thuộc tạp thể thi, là cách gọi giản lược của Thập nhị sinh thần thi22.

Thi nhân Bào Chiếu thời Tống có bài Kiến trừ thi23 được xem là bài đầu tiên, gồm

12 liên 24 câu, chữ đầu của câu đầu mỗi liên đặt các chữ Kiến, Trừ, Mãn, Bình,

Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thâu, Khai, Bế, với ý nghĩa của chữ được hòa vào

ý nghĩa của câu. Vì hai chữ đầu của 12 sanh thần là Kiến và Trừ nên người đời sau

gọi hình thức thơ này là Kiến trừ thể. Kiến trừ là một thú vui chơi chữ của thi nhân

ngày xưa.

Trong tác phẩm, Thiệu Trị sử dụng thể Kiến trừ để sáng tác bài An biên安邊

(vốn phỏng tác bài Kiến trừ thể của Lương Tuyên Đế), sử dụng đúng quy tắc của

thi của Bào Chiếu: 建除詩, 宋, 鮑照: 建旗出燉煌,西討屬國羌。除去徒與騎,戰車

trừ

22 Thập nhị sinh thần gồm: Dần vi kiến, Mão vi trừ, Thìn vi mãn, Tỵ vi bình - chủ sanh; Ngọ vi định, Mùi vi chấp, chủ hãm; Thân vi phá, chủ hành; Dậu vi nguy, chủ chước; Tuất vi thành, chủ thiếu đức; Hợi vi thâu, chủ đại đức; Tí vi khai, chủ thái tuế; Sửu vi bế, chủ thái dương. 23 Bài Kiến 羅萬箱。滿山又填谷,投鞍合營牆。平原亘千里,旗鼓轉相望。定舍后未休,候騎敕前裝。執戈無暫頓,彎弧 不解張。破滅西零國,生虜郅支王。危亂悉平盪,萬里置關梁。成軍入玉門,士女獻壺漿。 收功在一時,歷 世荷餘光。開壤襲朱紱,左右佩金章。閉帷草太玄,茲事殆愚狂。

thể Kiến trừ, bài thơ gồm 24 câu, chia làm 12 liên, ứng với chữ đứng đầu mỗi liên

94

thứ tự lần lượt là Kiến, Trừ, Mãn, Bình, Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thâu, Khai,

Bế. Bài thơ mang ý nghĩa bình định, dẹp yên chốn biên ải của quốc gia Đại Nam.

Thể Tàng tự hồi văn 藏字迴文體 và Tần Quán cách 秦觀格:

Tần Quán là một tác gia thời Tống, ông nổi tiếng về thể Từ, tên tuổi ông gắn

liền với một Từ phái gọi là Uyển ước phái 婉約派, với khuynh hướng nội dung

sáng tác chủ đạo là tình cảm nam nữ, có phần ướt át, bi thương, ưu sầu, dùng từ

khéo léo, âm luật đẹp.

Hai thể Tàng tự hồi văn và Tần Quán cách vốn chỉ là một. Trong tác phẩm,

Thiệu Trị đã phỏng theo thể này để sáng tác hai bài khác nhau, nhưng mỗi bài ông

lại chú thích khác biệt: Thứ nhất, với bài Nguyệt, hình thức cấu trúc bài thơ chỉ gồm

14 chữ Hán được khắc trên 1 dòng, với phần cước chú “Hý dụng Tần Quán cách,

độc thành thất ngôn tuyệt 戲用秦觀格, 讀成七言絕”/ dùng Tần Quán cách, đọc

thành thất ngôn tứ tuyệt. Thứ hai, bài Tịch giao mục địch, cũng với hình thức như

trên thì ông chú thích “Phỏng Tống, Tần Quán, Tàng tự hồi văn thể”. Cả hai bài

đều chép phụ lục nguyên thể bài Tương tư của Tần Quán.

Bài Nguyệt: 一輪明。 月照寰瀛。 景色清。 閒雲靜夜。 (1) (2) (3) (4)

飯牛歸。 野正斜暉。 幾曲吹。 殘雲夢竹。 (1) (2) (3) (4)

Bài Tịch giao mục địch:

Giải mã bài thơ: Toàn bài chỉ 14 chữ, đọc thành thất ngôn tuyệt là 28 chữ.

Căn cứ các chấm khuyên phân chia bài thơ thành 4 đoạn như trên, dùng cách kết

hợp từng cặp theo thứ tự lặp lại một đoạn chữ trước đó tức là tàng tự; và hồi văn ở

điểm đoạn (4) sẽ quay về kết hợp với đoạn (1), với sơ đồ cho 4 câu thơ như sau:

1 - 2; 2 - 3; 3 - 4; 4 -1. Như vậy, ta sẽ đọc được thành một bài thơ thất ngôn tuyệt

一輪明月照寰瀛 Nhất luân minh nguyệt chiếu hoàn doanh 月照寰瀛景色清 Nguyệt chiếu hoàn doanh cảnh sắc thanh 景色清閒雲靜夜 Cảnh sắc thanh nhàn vân tĩnh dạ 閒雲靜夜一輪明. Nhàn vân tĩnh dạ nhất luân minh.

với trường hợp bài Nguyệt 月:

Lục phủ thể 六府體:

95

Lục phủ là thể thơ chứa 6 yếu tố mà người xưa gọi là Lục phủ gồm: Thủy 水, Hỏa 火, Kim 金, Mộc 木, Thổ 土, Cốc 榖. Sáu yếu tố này theo quan niệm của người

xưa là những thứ của cải do trời đất sinh ra, là thứ vốn có trong tự nhiên nên gọi là Lục phủ24. Về hình thức cấu trúc thể thơ: Toàn bài là một bài thơ ngũ ngôn gồm 6

liên, 12 câu, Lục phủ theo thứ tự là: Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ, Cốc, lần lượt đặt

vào đầu mỗi câu lẻ, câu chẵn thì áp vận, dùng độc vận đến cuối bài. Câu đầu tiên có

thể lạc vận. Bài Lục phủ thi sớm nhất hiện còn là của Thẩm Quýnh thời Trần - Nam Bắc triều25. Thiệu Trị sử dụng thể Lục phủ để sáng tác bài Sương nhu cẩm điệp tiêu

霜濡錦堞蕉, bảo đảm đúng quy tắc gồm 12 câu thơ ngũ ngôn, chia làm 6 liên và

thứ tự Lục phủ được sắp xếp thay đổi là: Kim, Thủy, Thổ, Mộc, Hỏa, Cốc; sự sai

khác về thứ tự Lục phủ là do quan niệm thay đổi về thuận tự của thuyết Ngũ hành

qua các thời kỳ. Bài thơ được gieo độc vận Hạ bình nhị Tiêu 下平二萧 thể hiện

chữ cuối các câu 2, tiêu 蕉; câu 4, diêu 揺; câu 6, tiêu 宵; câu 8, phiêu 飄; câu 10,

điêu 凋; câu 12, kiều 嬌.

Các sắc thể 各色體:

Các sắc là thể thơ dùng nhiều tính từ chỉ màu sắc để sáng tác thơ. Thể thơ

này được Thiệu Trị cải biên từ bài thơ theo thể Tứ sắc, vốn gốc chỉ gồm bốn màu

của Tề Vương Sinh. Trong khi bài gốc chỉ gồm 2 liên ngắn, tức là 4 câu ngũ ngôn,

Thiệu Trị đã gia thêm nhiều màu sắc khác và cải thành bài thất ngôn luật. Theo ông,

chính vì căn cứ vào việc bài thơ dùng nhiều màu sắc để sáng tác nên gọi tên là Các

sắc thể. Bài thơ Tiều kha thủy thạch nhàn 樵柯水石閒, được Thiệu Trị sử dụng 8

màu sắc, hoàng 黄 (màu vàng); hồng 紅 (màu đỏ); thương 蒼 (màu xanh lá cây);

bích 碧 (màu xanh ngọc); bạch 白 (màu trắng); hắc 黑 (màu đen); lam 藍 (màu

24 《左传·文公七年》:“夏书曰:六府三事谓之九功。水、火、金、木、土、谷谓之六府,正德、利用、 厚生谓之三事。”杜预注:“六者,天之所生,如府藏然。所以谓之六府。”[125]/ Sách Tả truyện, Thiên Văn công thất niên, chép rằng: Hạ thư nói: “Lục phủ và Tam sự gọi chung là Cửu công. Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ, Cốc gọi là Lục phủ; Chánh đức, Lợi dụng, Hậu sinh gọi là Tam sự”. Đỗ Dư giải thích như sau: “Sở dĩ gọi là Lục phủ vì đó là 6 thứ do trời sinh, là những thứ vốn có trong tự nhiên. 25

六府詩,沈炯:水廣南山暗,杖策出蓬門.火炬村前發,林煙樹下昏.金花散黃蕊,蕙草雜芳蓀.

木蘭露漸落,山芝風屢翻. 土高行已冒,抱瓮憶中園. 榖城定若近,當終黃石言。

lam); lục 綠 (màu xanh lục) tương đương với 8 câu thơ thất luật.

96

Mê tự thể 謎字體:

Mê tự là một loại tạp thi giải đố chữ, còn gọi là Sấu ngữ thi, Ẩn ngữ thi. Đây

là hình thức đem đáp án giấu trong câu chữ, chủ yếu phân giải tự hình mà thành.

Các câu thơ thường dùng phương thức ly hợp, đa phần miêu tả hình ảnh tương thích,

có lúc giải thích chữ nghĩa. Toàn bài chỉ có một đáp án hoặc mỗi câu thơ có một

đáp án riêng, toàn bài tạo thành một ẩn ngữ. Đây là một dạng chơi chữ, thách đố

câu chữ của người xưa, đòi hỏi người đọc phải có trí tưởng tượng và liên hệ nhanh

nhạy, phong phú mới mong giải được mật ngữ ẩn chữ trong bài thơ. Thiệu Trị

phỏng theo bài Mê tự của Bào Chiếu thời Tống để sáng tác bài Mê ngữ 謎語, hiện

chúng tôi chỉ trình bày khái niệm của thể này mà chưa thể giải mã được mật ngữ

trong bài Mê ngữ của Thiệu Trị.

Chiết tự thể 折字體:

Chiết tự thể hay Chiết tự tàng đầu thể, là một thể thơ chơi chữ theo hình thức

cắt chữ. Trong đó, chữ cuối của câu trên cắt ra một bộ phận để làm thành chữ đầu

của câu dưới, tức có nghĩa chữ đầu của các câu đã được ẩn giấu nên gọi là tàng đầu

thi. Về hình thức của bài thơ thất ngôn bát cú được làm theo thể chiết tự tàng đầu:

Vốn số chữ đầy đủ một bài thất ngôn bát cú sẽ có 56 chữ, nhưng khi sáng tác theo

thể này thì chỉ viết thành 48 chữ, vậy sẽ thiếu 8 chữ tương ứng với chữ đầu 8 câu; 8

chữ này sẽ được ẩn tàng trong câu, buộc người đọc phải tìm cách giải mã. Tương tự

với thể thất ngôn tuyệt thì chỉ viết 24 và cần giải mã tìm thêm 4 chữ.

Cách giải mã, ở mỗi chữ thứ 7 trong câu (thứ tự tính trong lúc bài thơ vẫn 48

chữ), thì cắt tách ra một bộ chữ để làm cho chữ đầu câu dưới; cứ theo tuần tự như

vậy cho đến câu cuối cùng. Ví dụ giải mã bài Vân thủy đình, được Thiệu Trị sáng

tác phỏng theo một bài thơ chiết tự của Bạch Lạc Thiên: Ban đầu, bài thơ gồm 48

chữ, căn cứ vào quy tắc để xác định 8 chữ “tàng đầu” (chữ bôi đen) và chữ được

“chiết tự” (chữ gạch chân): minh 盟: chọn chữ minh 明; thanh 清: chọn chữ thanh 青;

sinh 生: chọn chữ thổ 土; mỹ 美: chọn chữ đại 大; trình 呈: chọn chữ vương 王; cảnh

景: chọn chữ kinh 京; tình 情: chọn chữ thanh 青; úc 勗: chọn chữ trợ 助. Giải mã

được thành bài thơ như sau:

97

明約如何勝致清 Minh ước như hà thắng chí thanh 青光雲態萬般生 Thanh quang vân thái vạn bàn sinh 土泓色相輪囷美 Thổ hoằng sắc tướng luân khuân mỹ 大塊文章宕漾呈 Đại khối văn chương đãng dạng trình 王氏竒才難畫景 Vương thị kì tài nan họa cảnh 京家巧思莫描情 Kinh gia xảo tứ mạc miêu tình 青天有意催相勗 Thanh thiên hữu ý thôi tương úc 助興湖亭月照盟. Trợ hứng hồ đình nguyệt chiếu minh.

Ly hợp thể 離合體, Dược danh Ly hợp thể 藥名離合體 và Dược phương

Ly hợp thể 藥方離合體.

Ly hợp 離合 là loại thi thể đặc thù, một phương pháp chơi chữ độc đáo của

người xưa. Ly 離 chính là phân ly, thí dụ như “minh 明” có thể phân thành “nhật 日”

và “nguyệt 月”; Hợp 合 chính là tổ hợp, thí dụ “kim 金” và “đồng 童” có thể tạo

thành “chung 鐘”. Kiểu thức Ly hợp này là xét trên phương diện phân hợp “tự 字”,

nhằm giải mã được số chữ ẩn giấu trong câu thơ. Khổng Dung thời Ngụy Tấn với

tác phẩm Ly hợp quận tính danh tự thi được xem là bài thơ Ly hợp sớm nhất.

- Dược danh Ly hợp thể 藥名離合體: Dược danh là tên các vị thuốc Đông y,

dùng cách thức ly hợp để tạo ra tên vị thuốc được thể hiện trong các câu thơ. Hình

thức của thể thơ này chính là kết hợp chữ cuối câu trên với chữ đầu câu dưới để tạo

thành tên thuốc. Ly trong trường hợp này được hiểu là hai chữ khi được tách ra vốn

nằm ở hai câu khác biệt; hợp chính là khi chúng được ghép lại với nhau sẽ thành tên

vị thuốc. Tương tự Dược phương Ly hợp thể 藥方離合體 cũng chính là dùng ly

hợp để tạo ra tên các phương thuốc.

Giải mã bài thơ Bình kiều nhàn bộ của Thiệu Trị sáng tác theo thể Dược

砂岸金樑通禁地 黄楊拂檻護閒人 參差花木迎鞋景 天水澄涵妙入神.

Sa ngạn kim lương thông cấm địa Hoàng dương phất hạm hộ nhàn nhân Sâm sai hoa mộc nghênh hài cảnh Thiên thủy trừng hám diệu nhập thần.

danh Ly hợp, phỏng bài Đáp Bà Dương khách của Trương Tịch thời Đường:

Căn cứ theo chú thích của Thiệu Trị, các chữ “dược danh” khi đọc theo quy

tắc câu sẽ được phân ra nhưng tùy vào ý nghĩa mà nối tiếp để hợp thành tên thuốc,

cho nên gọi là Ly hợp thể. Quy tắc các câu trên dưới hợp đọc được Dược danh và

Ly hợp liên hoàn như sau: Thần sa 神砂; Địa hoàng 地黄; Nhân sâm 人參; Cảnh

98

thiên 景天. Sự liên hoàn thể hiện ở điểm, chữ cuối câu 4 kết hợp với chữ đầu câu 1

thành Thần sa 神砂 nên gọi là Liên hoàn ly hợp, là sự khác biệt so với nguyên thể.

Cú cú dụng tự thể 句句用字體:

Cú cú dụng tự là thể thơ mà các câu trong bài đều có sử dụng “một chữ chủ

đề”, số câu và gieo vận tùy ý, cho nên gọi là cú cú dụng tự. Giải mã bài Trì đường

ngoạn nguyệt 池塘玩月 của Thiệu Trị, vốn phỏng tác bài Xuân nhật của Lương

Nguyên đế. Bài thơ với chữ chủ đề là chữ “nguyệt 月”, xuyên suốt bài thơ gồm 18

câu ngũ ngôn với mỗi câu đều có xuất hiện 1 đến 2 chữ nguyệt, khiến cho nội dung

月逢月夕好 月正月輪明 月照家家朗 月光色色清 色色月天閒 家家月景雅 月妙月豈秋 月凉月長夏.

Nguyệt phùng nguyệt tịch hảo Nguyệt chính nguyệt luân minh. Nguyệt chiếu gia gia lãng Nguyệt quang sắc sắc thanh. Sắc sắc nguyệt thiên nhàn Gia gia nguyệt cảnh nhã. Nguyệt diệu nguyệt khởi thu Nguyệt lương nguyệt trường hạ. (...)

bài thơ như là một ánh trăng tỏa chiếu rộng khắp:

Tạp số thể 雜數體:

Tạp số là thể thơ dùng thứ tự các số đếm từ nhất cho đến thập hoặc đến ức

triệu để sáng tác thơ. Hình thức cấu trúc là các số đếm đứng đầu câu, số lượng trong

câu tùy thuộc vào số đếm và gieo vần tự do. Trong các sáng tác của Thiệu Trị, thông thường gồm 16 câu tương ứng với các số từ: nhất 一; nhị 二; tam 三; tứ 四;

ngũ 五; lục 六; thất 七; bát 八; cửu 九; thập 十; bách 百; thiên 千; vạn 萬; ức 億; triệu 兆 và hằng hà 恒河26 hoặc một câu kết. Ví dụ bài thơ Ký vũ tình diệc giai27

của Thiệu Trị, phỏng tác theo bài Tạp số thể của Bào Minh Viễn thời Tống. Trong nguyên thể chỉ từ nhất đến thập, Thiệu Trị đã cải dụng thành thất ngôn và gia tăng

26 Thuật ngữ Phật giáo “Hằng hà sa số”, Đức Phật thường dùng trong Kinh điển để chỉ số lượng nhiều như cát Sông Hằng tại Ấn Độ. 27 一人胞與惟民物, 二字憂勤順雨暘. 三伏已過消酷暑, 四時漸見迓新涼. 五更昨得霑膏潤, 六合 今開靄曙光. 七月豳風存念慮, 八紘兌澤慰瞻望. 九衢霽柳渾生色, 十畝秋荷尚播芳. 百卉南疆霜 不怕, 千塍北里麥還穰. 萬家可卜豐年樂, 億載深期庶事康. 兆姓鄉村欣案堵, 京都宮闕集禎祥.

tổng số đến số triệu: Nhất nhân bào dữ duy dân vật/ Nhị tự ưu cần thuận vũ dương/ Tam phục dĩ quá tiêu khốc thử/ Tứ thời tiệm kiến nhạ tân lương/ Ngũ canh tạc đắc triêm cao nhuận/ Lục hợp kim khai ái thự quang/ Thất nguyệt bân phong tồn niệm

99

lự/ Bát hoành đoái trạch ủy chiêm vọng/ Cửu cù tễ liễu hồn sinh sắc/ Thập mẫu thu

hạ thượng bá phương/ Bách hủy Nam cương sương bất phạ/ Thiên thăng Bắc lý

mạch hoàn nhương/ Vạn gia khả bốc phong niên lạc/ Ức tải thâm kỳ thứ sự khang/ Triệu tính hương thôn hân án đổ/ Kinh đô cung khuyết tập trinh tường.

Song vận thể 雙韻體:

Song vận là trong một bài thơ có hai vần, được dùng song hành. Trong đó,

câu lẻ thường kết thúc bằng thanh trắc nên bắt buộc phải dùng vần thuộc thanh trắc

(thượng, khứ, nhập); câu chẵn thường kết thúc bằng thanh bằng nên bắt buộc phải

dùng vần thuộc thanh bằng (thượng bình, hạ bình). Có hai loại Song vận: Thứ nhất, Gián vận thi 間韻詩: còn gọi là Bằng trắc lưỡng vận thi, Bằng trắc thông vận thi,

tức là chỉ bài thơ gián cách gieo hai vần, câu lẻ gieo vần trắc, câu chẵn gieo vần bằng, vận mẫu tương đồng; thứ hai, Giao tỏa vận thi 交鎖韻詩: còn gọi là Giao vận

thể, cũng gieo hai vần bằng trắc nhưng dị vận, đây là thể thức thường gặp.

Giải mã bài thơ Hiểu sắc kỳ phong 曉色竒峯 của Thiệu Trị, vốn phỏng theo

凌晨傑閣憑欄望,

[仄] (去聲二十三漾)

撥霧岑峰對檻看. [平] (上平十四寒)

青黛澄凝粧遠嶂, [仄] (去聲二十三漾)

翠微點染綴層巒. [平] (上平十四寒)

蛾眉隱約多佳狀, [仄] (去聲二十三漾)

鳳髻參差太雅觀. [平] (上平十四寒)

百二山河嚴保障, [仄] (去聲二十三漾)

億千歲月矗巑岏. [平] (上平十四寒)

bài thơ Song vận thể của Chương Kiệt thời Đường.

Bài thơ này, Thiệu Trị dùng kiểu thức Song vận - Giao tỏa vận thi với bằng trắc hai vần khác nhau. Các câu lẻ 1 (vọng 望) - 3 (chướng 嶂) - 5 (trạng 狀) - 7

(chướng 障) gieo vần trắc thuộc Khứ thanh nhị thập tam Dạng 去聲二十三漾; các câu chẵn 2 (khan 看) - 4 (loan巒) - 6 (quan 觀) - 8 (hoàn 岏) gieo vần bằng thuộc Thượng bình thập tứ Hàn 上平十四寒.

Tính thị thể 姓氏體:

Tính thị là thể thơ dùng họ người để sáng tác. Về thể thơ này, có nhiều hình thức khác nhau: có khi lựa chọn các họ, giữ nguyên tự dạng và ghép chúng thành một bài thơ, loại này phổ thông và đơn giản nhất; có khi là sử dụng cách chiết tự

100

軒轅肇始分苗裔

Hiên Viên Triệu Thủy Phân Miêu Duệ

族黨由斯世代隆

Tộc Đảng Do Tư Thế Đại Long

(一東)

日月星雲天象合

Nhật Nguyệt Tinh Vân Thiên Tượng Hợp

山川河海地輿同

Sơn Xuyên Hà Hải Địa Dư Đồng

(一東)

單雙人氏都隨系

Đơn Song Nhân Thị Đô Tùy Hệ

三四元清最異風

Tam Tứ Nguyên Thanh Tối Dị Phong

(一東)

水火二邦今賜姓

Thủy Hỏa Nhị Bang Kim Tứ Tính

大南户口愈繁豐.

Đại Nam Hộ Khẩu Dũ Phồn Phong.

(一東)

hoặc ly hợp các “tính thị”, rồi sắp đặt ẩn giấu vào trong câu thơ để người đọc giải mã. Sau đây, giải mã bài thơ Nhân tính 人姓 của Thiệu Trị:

Thiệu Trị sáng tác bài thơ Nhân tính với hình thức dùng nguyên tự “tính thị” với nghĩa được hòa lẫn vào ý thơ. Đây là một bài thất ngôn luật, gieo độc vận Thượng bình nhất Đông 上平一東/ Long 隆; Đồng 同; Phong 風; Phong 豐. Toàn

bài có 56 chữ tương đương 56 họ, dưới mỗi họ đều có chú thích thời đại và tên họ nhân vật tiêu biểu. Ví dụ, Hiên 軒 cước chú là Hán nhân Hiên Hòa 漢人軒和/ họ

Hiên, người tên Hiên Hòa, thời Hán. Bài thơ được chú thích là Khâm tuân thánh chế Tính thị thể 欽遵聖製姓氏體/ Nhà vua kính cẩn noi theo [tiên vương], thánh

chế bài thơ theo thể Tính thị. Ý nghĩa của việc sáng tác bài thơ này là Thiệu Trị

muốn lựa chọn các họ để ban cho hai nước chư hầu của Đại Nam là Thủy Xá và

Hỏa Xá, làm cho hộ khẩu nước Đại Nam được đông đúc, hưng thịnh. Qua đó, thấy

rõ được chủ ý của vua Thiệu Trị khi lựa chọn kiểu thức dùng nguyên “Tính thị” để

làm thơ mà không dùng ly hợp hay chiết tự.

Thể Từ 辭:

Từ còn gọi là Sở từ 楚辭, là một thể loại văn học kết hợp giữa tản văn và thơ

ca, bắt đầu xuất hiện ở nước Sở thời Chiến Quốc nên gọi là Sở từ. Thể loại Từ 辭

này khác với thể Từ khúc 詞曲 có giai điệu tiết tấu, đậm chất dân gian. Vào thời

Hán, từ được kết hợp với phú nên gọi là từ phú. Tuy nhiên giữa từ và phú có sự khác biệt, từ trọng về ngôn tình, hình tượng phong phú, lãng mạn, giàu tình cảm;

phú chú trọng về bộc bạch. Một bài từ, thường rất dài, với câu thức linh hoạt dài ngắn, hình thức đa dạng là sự giải phóng phát triển so với Kinh Thi. Bài từ Giang thôn ngư lạc được Thiệu Trị phỏng tác theo bài Ngư phủ từ (漁父辭) của Trần Kế

thời Minh. Bài thơ gồm 14 câu, 7 liên; liên đầu và liên cuối trùng nhau; hai liên này thì câu đầu 6 chữ, câu sau 7 chữ như sau:

101

天宇明, 天水清,

Thiên vũ minh, thiên thủy thanh,

江湖樂趣天之生. Giang hồ lạc thú thiên chi sinh.

Vòm trời sáng, dòng nước trong/ Cuộc sống sông hồ vui thú giữa trời cao.

Toàn bài với ý thơ phóng khoáng, tiêu sái của một lão ngư tự tại trên sông nước,

đậm chất Sở từ.

Hỏa diệm thể 火焰體:

Hỏa diệm là dạng thi thể có cách luật tương đồng với thể thất tuyệt. Về hình

thức, các tự được sắp xêp thành 7 tầng với như một bảo tháp, điều này đem đến một

tổng thể trực quan tựa như ngọn lửa nên gọi tên là Hỏa diệm. Toàn bài thơ có 17

chữ, trong đó có “nhãn tự” được lặp lại 12 lần. Mỗi câu thơ sẽ có 3 “nhãn tự”. Về vị trí sắp xếp “nhãn tự” trong đồ hình gốc Hỏa diệm như sau: tầng một, không có; tầng

hai, vị trí chữ thứ 1; tầng ba, vị trí chữ thứ 2; tầng bốn, vị trí chữ 1 và 4; tầng năm,

vị trí chữ 2 và 5; tầng sáu, vị trí chữ 2, 4 và 6; tầng bảy, vị trí chữ 1, 3 và 6.

Ngoài ra, vị trí “nhãn tự” trong câu thơ sau khi giải mã: câu một, vị trí 1, 3, 6;

câu hai, vị trí 1, 3, 5; câu ba, vị trí 1, 4, 5; câu bốn, vị trí 1, 3, 6.

開 山滿 桃山杏 山好景山 來山客看山 里山僧山客山 山中山路轉山崖

Phép đọc, đọc từ dưới lên trên, từ trái sang phải và nối tiếp một cách uyển chuyển, để được bài thất ngôn tuyệt. Nguyên thể Hỏa diệm là bài thơ Sơn tự 山寺 tại Trung Quốc:

山杏山桃滿山開.

- Giải mã: 山中山路轉山崖, 山客山僧山里來. 山客看山山景好,

Thiệu Trị, tiếp nhận thể Hỏa diệm và phỏng tác bài thơ Sơn tự này để sáng

tác bài Xuân đài nhưng ông đã cải chế thư pháp, hình dạng không phải hình bảo

tháp như nguyên bản, thay vào đó là hình hai ngọn lửa nhỏ có dạng hình thoi đứng:

(2 câu đầu)

遞 花 開 春 山 來 鳥

- Bài thơ Xuân đài 春臺 của Thiệu Trị: gồm 17 chữ, tính cả “nhãn tự”.

102

宇 興 臺 春 賞

(2 câu cuối)

宙 好

- Giải mã: Căn cứ vào đầu đề bài thơ là Xuân đài và vị trí chữ xuân 春 nằm ở trung tâm hình thể nên biết được “nhãn tự” là chữ xuân 春. Dựa trên quy tắc vị trí

“nhãn tự” trong mỗi câu thơ và cách luật của thể thất ngôn tuyệt, chúng tôi bước

春花春景遞春開,

Xuân hoa xuân cảnh đãi xuân khai

春水春山春鳥來.

Xuân thủy xuân sơn xuân điểu lai

春興賞春春宇宙,

Xuân hứng thưởng xuân xuân vũ trụ

春人春好樂春臺.

Xuân nhân xuân hảo nhạc xuân đài.

đầu giải mã được một cách đọc bài thơ, với luật trắc vần bằng, gieo độc vận Thượng bình thập Khôi上平十灰, 開 (khai); 來 (lai); 臺 (đài), như sau:

Ngắm cảnh xuân trên đài

Hoa xuân cảnh xuân đưa mùa xuân đến

Nước xuân núi xuân chim xuân bay về

Cảm hứng thưởng xuân, xuân khắp đất trời

Trên đài cao người ngắm cảnh xuân tươi.

Sau khi giải mã bài thơ, chúng tôi tiến hành truy ngược nội dung hình thể bài

春樂

好春人

春宙宇春

來春興賞春

鳥春山春水春

春花春景遞春開

thơ về với bản nguyên thể Hỏa diệm hình bảo tháp để có cách nhìn tổng quan:

Thể Phi nhạn 飛鴈體:

Phi nhạn là một hình thức chơi chữ, xếp chữ, tạo hình đẹp, cấu tứ tinh tế, có

cách đọc độc đáo, xưa nay hiếm thấy. Một bài thơ sáng tác theo thể Phi nhạn tức là được xắp xếp theo đồ hình “Nhạn trận 鴈陣” và đọc theo đường chéo, từ chữ trên

bên phải xuống chữ dưới bên trái, và từ chữ trên bên trái xuống chữ dưới bên phải,

103

xen kẻ nhau cho đến khi loại trừ hết các con chữ, tựa như chim Nhạn bay thành hình chữ “nhân 人” nên gọi là Phi nhạn thể. Ngoài ra, còn được gọi là Phi nhạn thể

thi ca hoặc Tinh không triển sí phi nhạn văn thi.

Cấu trúc nội tại một bài thơ theo thể Phi nhạn là ngũ ngôn luật (hoặc ngũ

ngôn bát cú cổ phong), với các quy ước mặc định: có 8 chữ giống nhau đặt ở đầu 8 câu thơ, chúng tôi gọi là “Nhạn thủ 鴈首”; chữ thứ 4 của hai câu 7 - 8 cũng là chữ

“Nhạn thủ”, như vậy trong một bài sẽ có 10 chữ “Nhạn thủ” (giống nhau). Đối với

ngũ ngôn luật phải đảm bảo đúng cách luật gieo vần. Sau đây là đồ hình “Nhạn trận”

nguyên thể của bài thơ theo thể Phi nhạn tại Trung Quốc (khuyết danh) được Thiệu

山山 山遠花山 山路草雲接山 山又猿飛綠鳥樹山 深客片抱偸澄僧林 片繞僧樹請澄 飯山山吟 客尋

Sơn hoa tiếp thụ lâm

Sơn thảo lục trừng trừng

Sơn viên bão thụ ngâm

山遠路又深, 山花接樹林. Sơn viễn lộ hựu thâm, 山雲飛片片, 山草綠澄澄. Sơn vân phi phiến phiến, 山鳥偸僧飯, 山猿抱樹吟. Sơn điểu du Tăng phạn, 山僧請山客, 山客繞山尋. Sơn Tăng thỉnh sơn khách, Sơn khách nhiễu sơn tầm.

Trị phỏng tác:

Thiệu Trị tiếp nhận thể Phi nhạn và cải chế thư pháp thành một đồ hình

Bài thơ Thọ vực theo thể Phi nhạn với đồ hình “Nhạn trận” mới của Thiệu Trị (tờ 22a);

“Nhạn trận” mới để sáng tác bài Thọ vực 夀域 với hình thức cấu trúc sau:

104

và bài thơ Phụ lục nguyên thể Phi nhạn của Trung Quốc (tờ 22b).

Giải mã bài thơ Thọ vực của Thiệu Trị: Bài thơ này đã được Thiệu Trị cải

chế thư pháp, nghĩa là sửa cách viết của đồ hình “Nhạn trận” so với nguyên thể Phi

nhạn. Về cách đọc bài thơ này, chúng tôi trước hết căn cứ vào quy ước mặc định là

8 chữ “Nhạn thủ” sẽ đứng đầu 8 câu ngũ ngôn; chữ thứ 4 của hai câu 7 - 8 cũng sẽ

là chữ “Nhạn thủ”; và đảm bảo đúng cách luật gieo vần của thể ngũ ngôn luật. Nhìn

vào đồ hình mới, gồm có 4 hình tròn trình bày theo từng cặp, với chữ “Thọ 夀” làm

trung tâm, hai vòng tròn bên phải là 4 câu đầu; hai vòng tròn bên trái là 4 câu sau.

Đọc từ chữ “Thọ” chính giữa bên trên, theo chiều phải vòng sang trái, tuần tự liên

tiếp theo vòng cho đến hết cả hai vòng; rồi tương tự với hai vòng bên trái, chúng tôi

giải mã được bài ngũ ngôn luật với cách luật gieo độc vận Hạ bình nhất Tiên

夀祥徵善美, Thọ tường trưng thiện mỹ

夀域慶純全. Thọ vực khánh thuần toàn

(下平一先)

夀寶豐登歲, Thọ bảo phong đăng tuế

夀星照耀懸. Thọ tinh chiếu diệu huyền

(下平一先)

夀民欣舜日, Thọ dân hân Thuấn nhật

夀世樂堯天. Thọ thế lạc Nghiêu thiên

(下平一先)

夀筵康壽祝, Thọ diên khang thọ chúc

夀年萬壽年. Thọ niên vạn thọ niên.

(下平一先)

下平一先, sau đây:

Bờ cõi bền lâu

Điềm tốt lành dài lâu

Cõi nước toàn an vui

Cầu chúc năm được mùa

Tinh tú thường soi sáng

Chúc dân vui ngày Thuấn

Chúc an bình trời Nghiêu

Cầu yên định dài lâu

Bền chắc muôn nghìn năm.

Với vị trí chữ thọ làm trung tâm, theo chúng tôi có thể phát triển thêm một số cách

đọc khác theo đồ dạng hình chéo số 8. Sau khi giải mã được bài thơ, chúng tôi tiến

105

hành truy ngược về đồ hình “Nhạn trận” nguyên thể của thể Phi nhạn nhằm có cách

夀夀

夀祥域夀

夀徵星寶慶夀

夀善世豐照民純夀

美年登樂欣耀筵全

歲萬舜堯康懸

日壽壽天

祝年

nhìn tổng quan cho bài thơ:

Thể Bài luật 排律:

Bài luật còn gọi là trường luật, là một thể loại kéo dài của luật thi, (tức là thơ

Cận thể). Có hai loại bài luật, ngũ ngôn bài luật và thất ngôn bài luật, thể thất ngôn

bài luật thì thường khó hơn. Trong bài thơ, các liên sẽ được gieo cùng một bộ vận.

Liên đầu và liên cuối thì không tính, tất cả các liên còn lại phải tuân thủ về đối

trượng, cú pháp, vận luật, gieo vần một cách nghiêm ngặt. Thể loại thơ này, các thi

nhân thường ít dùng, được xem là một thể khó. Thiệu Trị sáng tác hai bài theo thể

thất ngôn và ngũ ngôn bài luật với cách luật âm vận chuẩn chỉnh:

Bài Thu lan thịnh khai trí chi tọa hữu tẩu bút thành vịnh

秋蘭盛開置之座右走筆成咏, dùng thể thất ngôn bài luật, gồm 16 câu chi làm 8

liên được gieo độc vận Thượng thanh thất Ngu 上聲七麌/ câu 2, ngũ 伍; câu 4, đỗ

杜; câu 6, thổ 吐; câu 8, phố 圃; câu 10, thủ 取; câu 12, phố 普; câu 14, đổ 覩; câu 16,

vũ 宇.

Bài Đông tình bát vận 冬晴八韻dùng thể ngũ ngôn bài luật, gồm 16 câu, 8

liên, gieo độc vận Thượng bình tứ Chi 上平四支/ câu 2, chi 枝; câu 4, tư 姿; câu 6,

nhi 而; câu 8, trì 池; câu 10, thùy 垂; câu 12, trì 馳; câu 14, tùy 隨; câu 16, nhi 兒.

Hồi văn thể kiêm Liên hoàn 迴文體兼連環:

Thiệu Trị vận dụng kết hợp hai thể Hồi văn và Liên hoàn, để sáng tác bài Vũ

trung sơn thủy. Về hình thể, bài thơ gồm 56 chữ Hán được xếp theo đồ hình bát

quái với 5 hình tròn đồng tâm như sau:

106

Bài thơ Vũ trung sơn thủy của Thiệu Trị trong tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập Bài thơ được biên tập trong tập Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp - quyển nhất

từ tờ 16a2 đến tờ 21a5, với hai dạng đồ hình theo hai vần bằng trắc: “Thất ngôn ngũ

ngôn thể/ Án thử thi nhất chương bằng trắc tứ vận độc đắc lục thập tứ thủ/ Ngũ thập

lục hiền nhi toàn chuyển độc thành lục thập tứ chương giai hiệp thể luật âm vận chi

diệu”; tiếp đến là 16 cách chỉ dẫn giải mã để đọc được 64 bài. Ngoài ra bài thơ này

cùng với bài Phước Viên văn hội lương dạ mạn ngâm (cùng thể cách), được khảm xà

cừ tại đố bản gian chính giữa của điện Long An thuộc Cung đình Huế. Tại đây, bài

thơ được khắc dạng vần bằng với chú thích: Vũ trung sơn thủy - Dụng Hồi văn thể

kiêm Liên hoàn - Bằng trắc tứ vận độc thành thất ngôn ngũ ngôn lục thập tứ chương.

Cả hai cách chú thích này tuy có khác nhau nhưng đều cùng một ý nghĩa là bài thơ Vũ

trung sơn thủy (Non nước trong mưa), dùng hai thể Hồi văn kiêm Liên hoàn, hai vần

bằng trắc, bốn vận, trái phải đọc thành 64 bài thất ngôn ngũ ngôn. Về bài thơ Vũ

trung sơn thủy, đã được Nguyễn Tài Cẩn phân tích công phu trong cuốn Tìm hiểu kỹ

xảo Hồi văn Liên hoàn trong bài Vũ trung sơn thủy của Thiệu Trị, công trình với 450

trang. Nguyễn Tài Cẩn giải mã kỹ xảo bài thơ này với tư cách của một nhà ngôn ngữ

học và nghiên cứu về tính đơn âm tiết của loại hình văn tự chữ Hán. Nếu cần đọc

được 64 bài thì chỉ cần dựa vào chú thích hướng dẫn cụ thể của Thiệu Trị. Muốn giải

mã được bài thơ, cần thiết tìm hiểu những yếu tố được xem là mật mã sau:

- Về Hồi văn thể kiêm Liên hoàn, là sự kết hợp của hai thể Hồi văn và Liên

hoàn trong cùng một bài thơ. Hồi văn thể là một phương pháp tu từ đặc biệt của chữ

107

Hán sử dụng hình thức sắp xếp trật tự từ thuận nghịch, lặp đi lặp lại, xoay vòng trên

phương diện văn tự đều có thể thỏa mãn yêu cầu cách luật âm vận của một câu thơ.

Hình thức sắp đặt chữ này dựa trên hai yếu tố đặc thù chỉ duy nhất có ở loại hình chữ

Hán là: “回文诗充分展示并利用了汉语以单音节语素为主和以语序为重要语法

手段这两大特点” [126]/ Hồi văn thi lợi dụng hai đặc điểm của chữ Hán là tính đơn

âm tiết của từ tố và phương pháp ngữ pháp sắp xếp trật tự từ. Chính vì tính đơn âm

tiết của chữ Hán, mỗi chữ đều có ý nghĩa, thậm chí rất nhiều nghĩa, độc lập có thể kết

hợp bất kỳ cho nên khi chúng được lựa chọn và sắp xếp trong câu thì sẽ thuận lợi cho

việc đọc ngược đọc xuôi đều có nghĩa mà các loại chữ đa âm tiết không thể làm được.

Hồi văn thể được phân loại nhiều hình thức sau: Thông thể hồi văn, là những

bài thơ đọc xuôi hay đọc ngược từ chữ cuối lên chữ đầu vẫn có thể tạo thành một

bài hoàn chỉnh; Hoàn phục hồi văn, đọc liên tục từ chữ đầu đến chữ cuối, sau đó lại

đọc ngược từ chữ cuối lên chữ đầu tạo thành một bài hoàn chỉnh; Tựu cú hồi văn,

trong mỗi câu của bài thơ đều tự bản thân nó hoàn thành một quá trình lặp lại, nửa

trước và nửa sau của câu tạo thành một hồi văn; Song cú hồi văn, câu thơ dưới

chính là cách đọc ngược lại của câu thơ trên, 2 câu trong một liên tạo thành một cặp

hồi văn.

- Về Liên hoàn có nghĩa là các câu, các chữ trong bài thơ được nối tiếp liên

tục và xoay vòng tròn, “trong hai hay nhiều bài thơ mà câu cuối cùng của bài trên

được nhắc lại thành câu đầu bài dưới hoặc có khi bài dưới ‘láy’ một chữ cuối của

bài trên” [47, tr.306]. Vì vậy, khi kết hợp hai thể Hồi văn và Liên hoàn thì sẽ đảm

bảo sự tiếp nối xoay chuyển liên tục thành chu kỳ hình tròn khép kín, tạo cho bài

thơ thành một thể thống nhất.

- Về “bằng trắc, tứ vận”, tức là hai vần bằng - trắc bao gồm cả bốn thanh

Bình (thượng bình, hạ bình thuộc bằng vận); Thượng, Khứ, Nhập (thuộc trắc vận);

bốn vận trong bài thơ là Canh - Chấn - San - Dạng, các bộ vận này được quy định

28 Ngoài ra, bộ sách Khâm định tập vận trích yếu (欽定輯韻摘要), biên tập năm Kỷ Hợi thời Minh Mạng (1839), gồm các chữ trích tuyển từ Bội văn vận phủ để tiện tra cứu khi sáng tác văn chương ở nước ta.

trong sách Bội văn vận phủ28 (Thanh - Khang Hy) dùng làm phương tiện tra cứu

108

cho người viết văn, thơ đều có chú thích âm nghĩa, thành ngữ, câu thơ liên quan và

được xếp thành từng loại theo bộ vận.

- Cách xếp đặt bài thơ có 5 vòng tròn đồng tâm theo dạng hình bát quái, mục

đích để đọc được bài thơ thuận nghịch, liên tiếp, xoay vòng một cách chặt chẽ

không đứt đoạn và ý nghĩa bài thơ không bị thay đổi. Nhìn vào đồ dạng thì có 2 chữ

được viết cao lên hướng ra ngoài; 2 chữ được viết lùi vào bên trong, là để nhằm khi

tách chữ chuyển đọc xuôi từ ngoài hay đọc nghịch từ trong ra đều thuận lợi và có

thể cắt từ thất ngôn thành ngũ ngôn.

Kỹ xảo Hồi văn: Hồi văn thể hiện ở điểm mỗi câu hay mỗi bài thơ đều có thể

đọc xuôi hay đọc ngược từ chữ cuối lên chữ đầu và có nghĩa. Theo Nguyễn Tài Cẩn

nhận định: “Bài Vũ trung sơn thủy là một trường hợp hồi văn khá phức tạp, với 56

chữ nhưng do cách kết cấu nên có cách tổ chức thành những cặp hồi văn đạt đến

mức lý tưởng, với số lượng tối đa, không thể nào vượt hơn thế nữa” [10, tr.160]. Về

vần “có quan hệ hồi văn thuận nghịch độc giữa 8 bài thất ngôn bát cú Canh và vần

San và 8 bài thất ngôn bát cú vần Chấn và vần Dạng” [10, tr.161].

Sau đây, chúng tôi dẫn chứng ví dụ một kiểu thông thể hồi văn trong trường

hợp hai bài đọc theo vần Canh và vần San:

+ Đọc thuận vần bát Canh 八庚: bắt đầu từ câu chính giữa, đọc từ phải sang

Sơn toả ám vân thôi trận trận

Sàn sàn thuỷ giản đài tư nhuận

Nhàn điếu nhất chu ngư dật tấn

灣環雨下江潮汛 Loan hoàn vũ hạ giang triều tấn 漲溢風前岸汴清/ (八庚) Trướng dật phong tiền ngạn biện thanh 山鎖暗雲催陣陣 浪生跳玉滴聲聲/ (八庚) Lãng sinh khiêu ngọc trích thanh thanh 潺潺水澗苔滋潤 漾漾波洲蓼茂榮/ (八庚) Dạng dạng ba châu liễu mậu vinh 閒釣一舟漁逸迅 向林雙剪燕飛輕/ (八庚) Hướng lâm song tiễn yến phi khinh. Khúc khuỷu sông mưa xuống nước dâng cao Nước mênh mông gió mát tận bến bờ Phủ kín núi mây mờ kéo từng trận Sóng nước vỗ giọt nhảy như tiếng ngọc Rì rì dòng nước chảy rêu thêm đượm Nước gợn sóng cù lao cỏ tươi tốt Nhẹ buông câu một thuyền ngư đang tới Hướng về rừng đôi én nhẹ nhàng bay.

trái lần lượt cho đến hết vòng tròn.

109

Các chữ, thanh 清 (câu 2); thanh 聲 (câu 4); vinh 榮 (câu 6); khinh 輕

(câu 8) thuộc vần Hạ bình bát Canh 下平八庚.

+ Đọc nghịch vần Thập ngũ San 十五删: Bài này bắt đầu đọc ngược từ chữ

Khinh phi yến tiễn song lâm hướng

Vinh mậu liễu châu ba dạng dạng

Thanh thanh trích ngọc khiêu sinh lãng

輕飛燕剪雙林向 迅逸漁舟一釣閒/(十五删) Tấn dật ngư chu nhất điếu nhàn 榮茂蓼洲波漾漾 潤滋苔澗水潺潺/(十五删) Nhuận tư đài giản thuỷ sàn sàn 聲聲滴玉跳生浪 陣陣催雲暗鎖山/(十五删) Trận trận thôi vân ám toả sơn 清汴岸前風溢漲 Thanh biện ngạn tiền phong dật trướng 汛潮江下雨環灣/(十五删) Tấn triều giang hạ vũ hoàn loan. Nhẹ nhàng bay đôi yến hướng về rừng Đang tiến tới thuyền ngư nhẹ buông câu Cỏ tươi tốt cù lao nước gợn sóng Rêu đượm màu khe nước chảy rì rì Tiếng giọt ngọc nhảy múa trên sóng nước Từng trận mây mờ che phủ đỉnh núi Tận bến bờ gió mát nước mênh mông Nước dâng cao mưa xuống khúc khuỷu sông.

cuối câu cuối của bài vần Canh ở trên:

Các chữ, nhàn 閒 (câu 2); sàn 潺 (câu 4); San 山 (câu 6); loan 灣 (câu 8)

thuộc vần Thượng bình thập ngũ San 上平十五删.

Kỹ xảo Liên hoàn: Về biện pháp kiêm liên hoàn: “Khi đã xếp các cặp hồi văn

kế tiếp thành dãy thì nhất định phải kiêm liên hoàn” [10, tr.198]. Bài Vũ trung sơn

thủy có đến 3 biện pháp liên hoàn: Thứ nhất, liên hoàn bằng cách láy lại một chữ

khi nối hai bài hồi văn thuận nghịch độc, giữa các cặp Canh - San và Dạng - Chấn;

Thứ hai, liên hoàn bằng cách láy lại một câu khi nối hai vần Canh với Chấn hoặc

San với Dạng; Thứ ba, cách láy lại một đoạn 2 câu, đoạn đó vừa là kết thúc bài trên

vừa là mở đầu bài dưới, xảy ra giữa các bài cùng vần.

Ví dụ: Chính ngay hai cách đọc ở trên, thì sự liên hoàn thể hiện ở điểm câu

đầu bài dưới vần San “láy” lại chữ “khinh 輕” của bài trên vần Canh:

Câu cuối bài vần Canh: 向林雙剪燕飛輕 Hướng lâm song tiễn yến phi khinh Câu đầu bài vần San: 輕飛燕剪雙林向 Khinh phi yến tiễn song lâm hướng

Qua hai dẫn chứng, chúng ta thấy rõ được kỹ xảo cách luật của hai thể Hồi

văn và Liên hoàn cùng được thể hiện trong cách vận hành khi giải mã bài thơ Vũ

trung sơn thủy. Sau đây, liệt kê các cách đọc 64 bài theo chỉ dẫn của Thiệu Trị:

110

(1). 初轉句順讀七言八庚韻四首 Sơ chuyển cú thuận độc thất ngôn bát

(2). 又摘句順讀七言八庚韻四首 Hựu trích cú thuận độc thất ngôn bát Canh

Canh vận tứ thủ.

(3). 又按句倒讀七言十五删韻四首 Hựu án cú đảo độc thất ngôn thập ngũ

vận tứ thủ.

(4). 又間句倒讀七言十五删韻四首 Hựu gian cú đảo độc thất ngôn thập ngũ

San vận tứ thủ.

(5). 又隔句順讀七言十二震韻四首 Hựu cách cú thuận độc thất ngôn thập

San vận tứ thủ.

(6). 又換句順讀七言十二震韻四首 Hựu hoán cú thuận độc thất ngôn thập

nhị Chấn vận tứ thủ.

(7). 又翻句倒讀七言二十三漾韻四首 Hựu phiên cú đảo độc thất ngôn nhị

nhị Chấn vận tứ thủ.

(8). 又折句倒讀七言二十三漾韻四首 Hựu chiết cú đảo độc thất ngôn nhị

thập tam Dạng vận tứ thủ.

(9). 又轉句順讀五言八庚韻四首 Hựu chuyển cú thuận độc ngũ ngôn bát

thập tam Dạng vận tứ thủ.

(10). 又摘句順讀五言八庚韻四首 Hựu trích cú thuận độc ngũ ngôn bát

Canh vận tứ thủ.

(11). 又按句倒讀五言十五删韻四首 Hựu án cú đảo độc ngũ ngôn thập ngũ

Canh vận tứ thủ.

(12). 又間句倒讀五言十五删韻四首 Hựu gian cú đảo độc ngũ ngôn thập

San vận tứ thủ.

(13). 又隔句順讀五言十二震韻四首 Hựu cách cú thuận độc ngũ ngôn thập

ngũ San vận tứ thủ.

(14). 又換句順讀五言十二震韻四首 Hựu hoán cú thuận độc ngũ ngôn thập

nhị Chấn vận tứ thủ.

(15). 又翻句倒讀五言二十三漾韻四首 Hựu phiên cú đảo độc ngũ ngôn nhị

nhị Chấn vận tứ thủ.

(16). 又折句倒讀五言二十三漾韻四首 Hựu chiết cú đảo độc ngũ ngôn nhị

thập tam Dạng vận tứ thủ.

thập tam Dạng vận tứ thủ.

Theo chú thích của Thiệu Trị, bài Vũ trung sơn thuỷ đọc thành 64 bài thất

ngôn, ngũ ngôn. Vấn đề trong 64 bài này, số lượng bài thất ngôn, ngũ ngôn sẽ bao

nhiêu. Qua khảo cứu các cách đọc của Thiệu Trị, chúng tôi bước đầu xác định được

111

16 bài thất ngôn luật; 16 bài ngũ ngôn luật; 16 bài thất ngôn tuyệt; 16 bài ngũ ngôn

tuyệt, đây là chủ ý của Thiệu Trị. Điều đó thể hiện sự kỳ diệu của thể thơ Hồi văn

kiêm Liên hoàn và tính chất đơn âm tiết đặc biệt của chữ Hán.

* Nhóm các phương pháp làm thơ được gọi là cách 格 hoặc tương đương:

Thủ vĩ ngâm 首尾吟:

Thủ vĩ ngâm là một thể thơ trong đó câu đầu và câu cuối bài thơ tương đồng.

Cấu trúc một bài thơ Thủ vĩ ngâm gồm 8 câu tương đương như một bài thơ thất ngôn luật. Bắt đầu từ bài Thủ vĩ ngâm của Thiệu Ung thời Tống29, về sau gọi hình

thức thơ như vậy là Thủ vĩ ngâm. Tại nước ta, các danh sĩ vẫn dùng cách này để

sáng tác thơ, như bài Thủ vĩ ngâm của Nguyễn Trãi câu 1 và câu 8 giống nhau:

“Góc thành Nam lều một gian”. Trong tác phẩm này, Thiệu Trị sáng tác 8 bài theo

thể cách Thủ vĩ ngâm, với 6 bài được y nguyên cấu trúc Thủ vĩ ngâm tức là toàn bài

thơ chỉ gieo một vần như: Quý xuân xúc cảnh ngẫu tác; Quý thu;... và 2 bài có sự

kết hợp giữa Thủ vĩ ngâm với Tiến thoái cách và Lộc lô cách, tức là có sự chuyển

biến phá cách về âm vận, mỗi bài tùy theo cách được sử dụng mà biến đổi âm vận

“song nhập song xuất” (Lộc lô - Ức tích kỳ nhất), “nhất tiến nhất xuất” (Tiến thoái -

Ức tích kỳ nhị), chúng tôi sẽ phân tích phần kế tiếp. Một ví dụ về Thủ vĩ ngâm của

Oanh chuyển thanh thanh ám não xuân Liễu bài thanh tỏa ấm hồ bút Liên phùng linh di hồng chưng ỷ Thảo luyến vương tôn lục chuyết nhân Giải uẩn huân phong kham vận sự Thưởng nhàn mỹ cảnh diệp lương thần Thiền minh tiệm tiệm thư trường hạ Oanh chuyển thanh thanh ám não xuân.

Thiệu Trị trong bài Quý xuân xúc cảnh ngẫu tác:

Tiến thoái cách 進退格 và Lộc lô cách 轆轤格:

Hai thi cách này là sự biến thể phá cách của thơ cách luật (cận thể), vốn dĩ

một bài thơ cận thể chỉ được phép gieo một vần gọi là độc vận. Tuy nhiên, trong

quá trình phát triển của thi ca, các thi nhân thường mạnh dạn phá luật, trước nhất đã

29 Bài Thủ vĩ ngâm của Thiệu Ung: 堯夫非是愛吟詩,詩是堯夫春出時。一點兩點小雨過,三聲五聲流 鶯啼。盃深似錦花間醉,車穩如茵草上歸。更在太平無事日,堯夫非是愛吟詩.

thể hiện tính sáng tạo và tư duy đột phá muốn tìm kiếm cái mới; mặt khác cũng là

112

cách mà thi nhân đánh dấu cá tính thơ của mình; từ đó dẫn đến sự ra đời của các

cách gieo cưỡng vận. Lộc lô cách (hay Lộc lô vận) và Tiến thoái cách (hay Tiến

thoái vận), là hai kiểu vận pháp dùng các lân vận không giống nhau vào trong luật

thi. Cách giải thích này bắt đầu xuất hiện trong quyển Thương Lãng thi thoại của

Nghiêm Vũ thời Đường, phần Thi thể có nói rằng: “有轆轤韵者双入双

出)。有進退韵者(一进一出)” [127]/ Có Lộc lô vận (song nhập song xuất),

có Tiến thoái vận (nhất tiến nhất xuất). Khái niệm trở thành chuẩn mực cho các thế

hệ sau khi nói về cách gieo vần của hai cách này.

- Về Tiến thoái cách 進退格: là “nhất tiến nhất xuất” - Một tiến một thoái.

Đối với thể tứ cú chính là vần câu 1 - 3 dùng một bộ vận; vần câu 2 - 4 lại dùng một

bộ vận khác tương cận; với thể bát cú thì câu 2 - 6 dùng một bộ vận, câu 4 - 8 dùng

một bộ vận gần nhau. Sách Thơ ca Việt Nam hình thức thể loại viết: “Thể thơ này

đã xuất hiện từ thời Tống, vượt ra ngoài khuôn khổ lối hiệp vần gò bó theo các bộ

trong Đường vận tập thành. Thể này có tiến có thoái, nếu vần câu trên gieo theo bộ

này thì vần câu dưới gieo theo bộ khác có tính chất xen kẽ lẫn nhau” [47, tr.310].

寒夜鐘沈雨又風, 愁暌色養歷三冬. 傳心遺訓良規在, 繞膝承歡往事空. 腸斷夢驚疎侍問, 人生悲極隔音容. 悠悠濛密蒼天外, 寒夜鐘沈雨又風.

(上平二冬) (上平一東) (上平二冬) (上平一東)

Giải mã bài thơ của Thiệu Trị, Ức tích, kỳ nhị dùng Tiến thoái cách:

Nhìn vào bài thơ trên, thấy được cách luật tiến thoái “nhất tiến nhất xuất”

được thể hiện rõ ở câu 2 - 6 gieo vần Thượng bình nhị Đông 上平二冬; hai câu 4 –

8 gieo vần Thượng bình nhất Đông 上平一東, là hai bộ vần tương tự gần nhau,

đúng cách luật Tiến thoái.

- Về Lộc lô cách 轆轤格: tức Lộc lô vận, nguyên nghĩa là con lăn, cái ròng

rọc. “元 李冶 《敬斋古今黈》卷八:“邻韵而协者,诗家閒用之,谓之轆轤

格,又谓之出入格。” [128]/ Lý Trị thời Nguyên trong quyển tám bộ Kính Trai

113

cổ kim thâu nói rằng: lân vận mà bổ trợ cho nhau, các vần ấy thi nhân thường dùng

xen lẫn nên gọi là Lộc lô cách, hay còn gọi là xuất nhập cách. Lộc lô cách chính là

“song nhập song xuất”; đối với thơ tứ cú, hai câu đầu sử dụng một bộ vận, hai câu

sau dùng một bộ vận gần nhau. Hình thức bát cú thì câu 2 - 4 dùng một bộ vận, câu

6 - 8 dùng một bộ vận gần nhau.

難堪憶昔日承恩 止孝思忠奉聖人 息木乘舟方訓政 稱觴舞綵正娛親 天長地久心懷舊 暑往寒來眼界新 霜露感時增戀慕 難堪憶昔日承恩.

(上平十一真) (上平十一真) (上平十一真) (上平十三元)

Giải mã bài Ức tích, kỳ nhất của Thiệu Trị theo Lộc lô cách:

Nếu xét cách luật của Lộc lô là “song nhập song xuất” thì bài thơ trên ở câu 6

- 8 đã không cùng một bộ vận, nhưng xét theo quy tắc cách luật lân vận bổ trợ thì

hai vần 6 - 8 là cùng thượng bình thanh thì vẫn hợp cách.

- Hồ lô vận/ cách 葫蘆韻/格: Sự ra đời của Hồ lô vận thể vẫn còn là một ẩn

số, ngoài Lộc lô vận và Tiến thoái vận còn có xuất hiện cách thứ ba dùng lân vận để

gieo vần gọi là Hồ lô vận. Cấu trúc vận pháp này có đặc điểm như sau: liên 1 - 2 và

liên 3 - 4 được dùng hai lân vận phân biệt để gieo vận.

Đối với các nhà nghiên cứu Trung Quốc hiện nay, sự phân định cách luật

giữa Tiến thoái, Lộc lô và Hồ lô là rất khó rạch ròi. Với Tiến thoái là “nhất tiến nhất

xuất” thì có thể chuẩn mực, nhưng sự “song nhập song xuất” hay “lân vận” của Lộc

lô và Hồ lô thì có khi sử dụng như nhau, khó phân biệt. Vì vậy, theo chúng tôi cách

gieo vần giữa các cách luật này, tựu chung chỉ là sự phá luật, phá cách khi sáng tác

thơ Cận thể, nhằm tạo ra một sự mới mẻ trong thể cách văn chương.

Phú đắc 賦得:

Phú đắc là cách thức lấy ý, điển cố, điển tích của một câu thơ, bài thơ, ca dao,

tục ngữ… làm chủ đề nội dung cho bài thơ/văn/phú mới. Triển khai ý nghĩa đó

đúng với nội dung đề bài nhưng không được phạm đề, được sử dụng theo lối ngũ

ngôn, thất ngôn luật hoặc một thể bất kỳ. Thể thơ này thường được dùng trong văn

114

chương khoa cử của thời phong kiến xưa. Bản thân Phú đắc không phải là một thể

thơ nhất định, Phú đắc được hiểu là một thi cách, có quy định và cách luật nên về

mặt chính thể nó có thể được đứng riêng và gọi tên theo một dạng thi cách độc lập.

Trong tập thơ Thiệu Trị đã sử dụng thi cách này để sáng tác nhiều bài thơ:

Phú đắc Yến yến vu phi; Thắng nhất chương phục phú đắc mỹ thành thập vịnh; Phú

đắc Ngọc tỉ thập thành trưng cát thụy dao đồ vạn thế ứng gia tường; Phú đắc Thiên

hòa thời nhược phồn vinh toại; Phú đắc Địa lợi niên phong phú thứ chương… Tuy

nhiên, trong cách sử dụng Phú đắc của Thiệu Trị nó có sự kết hợp hòa lẫn giữa các

thể và cách khác. Có lúc Phú đắc trong một bài thơ làm theo lối Cận thể; có lúc nó

được kết hợp với Ly hợp thể, Tạp số thể... Như vậy, với cách làm thơ theo dạng Phú

đắc này, thi nhân có thể sáng tác một bài Phú đắc theo thể Từ, Khúc, Lục bát, Song

thất lục bát... cốt yếu đảm bảo nêu được ý nghĩa điển tích, điển cố trong bài thơ.

Ví dụ: bài thơ Phú đắc Yến yến vu phi 賦得燕燕于飛/Chim yến cùng bay.

喃呢交玉頷 Nam ni giao ngọc hạm 頏頡舞玄依 Hàng hiệt vũ huyền y 掠水雙雙過 Lược thủy song song quá 粘花對對婓 Niêm hoa đối đối phi 並依還並偶 Tịnh y hoàn tịnh ngẫu 相約莫相違 Tương ước mạc tương vi 畫檻呼朋語 Họa hạm hô bằng ngữ 雕梁作伴歸. Điêu lương tác bạn quy.

Dưới hàm đôi yến kêu thánh thót Lượn nhảy múa trong màu huyền y Sóng sánh bay lướt qua mặt nước Song hành qua vườn hoa khoe sắc Cùng nương nhau lại cùng sánh đôi Cùng ước hẹn mà chẳng xa cách Đậu trước cửa thì thầm gọi nhau Cùng chim trời làm bạn về tổ.

Ông chú thích mỗi câu đều gợi lên ý nghĩa của hình ảnh đôi chim yến cùng bay:

Bài thơ trên là một bài ngũ ngôn luật, gieo vần Thượng bình ngũ Vi

上平五微: y 依 (câu 2); phi 婓 (câu 4); vi 違 (câu 6); quy 歸 (câu 8). Như vậy, về thể

là một bài Cận thể ngũ ngôn luật, nhưng được kết hợp với cách Phú đắc nên các

câu thơ đều ngụ ý nghĩa về đôi chim yến cùng bay, một điển tích văn học nổi tiếng

trong bài Chim yến bay đi của Kinh Thi. Qua ví dụ này để nhận thấy, Phú đắc

không phải là thể thơ mà chính là thi cách.

Phiến đối cách 扇對格:

Phiến đối là thể thơ đối cách cú, có dạng hình dung như cánh quạt, đối theo

hình thức xen kẽ. Trong một bài thơ 4 câu, liên trên sẽ đối với liên dưới, chính là

câu 1 đối với câu 3; câu 2 đối với câu 4, gọi là Phiến đối, hay còn gọi là Cách cú

115

đối. Phiến đối là một loại đối khá hiếm gặp, có tính chất là ngang không đối (trong

cùng liên không đối) nhưng dọc đối (đối xen kẽ giữa hai liên).

Giải mã cách luật Phiến đối trong bài thơ Phong sảng ngâm nga 風爽吟哦

Liên A:

Liên B :

(1) (2) (3)

書院清凉景, Thư viện thanh lương cảnh, 歐蘇翰墨場。 Âu Tô hàn mặc trường。 文筵閒樂地, Văn diên nhàn lạc địa, 李杜典墳章。 Lý Đỗ điển phần chương。 (4)

của Thiệu Trị, vốn phỏng tác theo bài Hòa uất cô đài của Tô Đông Pha:

Bài thơ trên, trong cùng một liên (A) hoặc (B) thì không đối nhau. Chỉ đối

nhau xen kẽ giữa cặp liên, câu 1 - 3; 2 - 4 tạo thành đối ngẫu, từ luật bằng trắc đến

từ tính, ý nghĩa trong câu đều tương đối chuẩn chỉnh.

Về đối ý: “thư viện” đối “văn diên”; “thanh lương cảnh” đối “nhàn lạc

địa”; “Âu (Dương Tu) Tô (Đông Pha)” đối “Lý (Bạch) Đỗ (Phủ)”; “hàn mặc trường”

đối “điển phần chương”.

Về đối luật bằng trắc: “viện (T)” đối “diên (B)”; “lương (B)” đối “lạc (T)”;

“Tô (B)” đối “Đỗ (T)”; “mặc (T)” đối “phần (B)”.

Cô nhạn xuất quần cách 孤鴈出羣格 và Cô nhạn nhập quần cách

孤鴈入羣格:

Cô nhạn xuất quần cách hay Cô nhạn nhập quần cách là một khái niệm

thuộc phạm trù luật thi, còn gọi là tá vận (mượn vần). Cô nhạn xuất quần cách

nghĩa là nhạn lẻ rời bầy; Cô nhạn nhập quần cách nghĩa là nhạn lẻ vào bầy. Về hình

thức cách luật chung của thi cách Cô nhạn đó là trong bài thơ 4 câu hoặc 8 câu thì

sẽ có một câu lạc vần/ mượn vần so với vần của toàn bài. Và tùy theo quan niệm mà

cách gọi Cô nhạn xuất quần hay Cô nhạn nhập quần có sự trái nghịch nhau giữa

Thiệu Trị (Đại Nam) và tại Trung Quốc, cụ thể như sau:

Quan niệm ở Trung Quốc: Vào thời Minh, Tạ Trăn là người đầu tiên gọi việc

câu đầu bài thơ mượn lân vận là Cô nhạn xuất quần, ông viết trong tác phẩm Tứ

minh thi thoại rằng: “七言絕, 律, 起句借韻, 謂之孤雁出群, 宋人多有之 [129]”/ Thất ngôn

tuyệt, thất ngôn luật thi, câu đầu mượn vần, gọi là Cô nhạn xuất quần, người đời

Tống thường dùng cách này; hay Trương Hạo viết trong Cổ điển thi từ thông luận:

“唐宋人常不拘首句韻腳之規, 而借用鄰韻, 後世稱為孤雁出群格” [129]/ Thời Đường Tống,

116

thi nhân thường không gò bó quy định cho vận cước của câu đầu bài thơ, thường

mượn lân vận, đời sau gọi là Cô nhạn xuất quần cách.

Về Cô nhạn nhập quần cách là câu cuối của một bài thơ sẽ mượn một chữ

thuộc một bộ lân vận để làm cước vận (còn gọi là Cô nhạn cổn quần cách), ví như

là một con nhạn trắng lẫn vào trong một bầy nhạn đen. Như vậy, tại Trung Quốc,

nói về Cô nhạn xuất quần cách là câu đầu bài thơ (câu 1) sẽ mượn vần; còn Cô

nhạn nhập quần cách là câu cuối bài thơ (câu 4; câu 8) sẽ mượn vần.

Quan niệm của Thiệu Trị - Đại Nam: Căn cứ vào chính âm vận của hai bài

thơ do ông sáng tác và chú thích thì thấy rằng, Cô nhạn xuất quần cách là hình thức

mượn vần ở câu cuối (câu 4 hoặc câu 8); Cô nhạn nhập quần cách là mượn vần câu

đầu. Trong sách Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại cũng cho rằng: “Đối với các

nhà thơ lành nghề, thỉnh thoảng có lối sai vần cố ý, như sai vần câu 8 gọi là Cô

nhạn xuất quần, nghĩa là nhạn lẻ ra bầy; như sai vần câu 1 gọi là Cô nhạn nhập

quần, nghĩa là nhạn lẻ vào bầy” [47, tr.283]. Như vậy, quan niệm này trái nghịch

với quan niệm tại Trung Quốc. Đi vào chi tiết hai bài thơ của Thiệu Trị để thấy rõ

quan niệm của ông:

Bài thơ Bình đạo ngư du, Hữu Cô nhạn xuất quần cách/ 萍道魚游,

右孤鴈出羣格: Đây là một bài thất ngôn luật, Thiệu Trị dùng Cô nhạn xuất quần

cách thể hiện ở điểm mượn vần câu 8, dùng lân vận “Thượng bình ngũ Vi 上平五微”

Câu 1: chi 之

(上平四支)

Câu 2: phi 披

(上平四支 )

Câu 4: di 移

(上平四支)

Câu 6: y 漪

(上平四支)

Câu 8: phi 飛

(上平五微), (lân vận)

so với toàn vận cả bài thuộc “Thượng bình tứ Chi 上平四支”.

Bài Tùng bì lộc phục: Đây là một bài thất ngôn tuyệt, Thiệu Trị dùng Cô

nhạn nhập quần cách. Mượn vần câu 1, thuộc Thượng bình ngũ Vi 上平五微, so

Câu 1: y 依

(上平五微), (lân vận)

Câu 2: bì 陂

(上平四支)

Câu 4: thùy 垂

(上平四支)

với toàn vận của cả bài là Thượng bình tứ Chi 上平四支.

117

Về cách gọi tên là Cô nhạn xuất quần hay Cô nhạn nhập quần chỉ xuất hiện

lần đầu vào thời Minh, cách khá xa so với thời chúng được sử dụng là Đường Tống.

Có lẽ thời Đường Tống chúng được hiểu như là một cách phá luật, trốn vần, mượn

vần của thể thơ Cận thể và về sau mới được các nhà nghiên cứu gọi tên. Việc gọi

tên trái nghịch nhau theo chúng tôi không ảnh hưởng tới cách luật của bài thơ, vì

rằng “nhạn lẻ ra bầy” hay “nhạn lẻ vào bầy” thì cũng không ảnh hưởng kết cấu bài

thơ, nó vẫn chỉ là hình thức mượn lân vận của một trong hai trường hợp là câu đầu

và câu cuối, đó chỉ là quan niệm định danh.

Tập thơ Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp, tổng cộng có khoảng 57 thể cách

cổ kim được Thiệu Trị sử dụng, chứng minh sự am hiểu sâu sắc về thể cách thi pháp

của ông. Chúng tôi giới thiệu khái niệm cách luật của 57 thể cách và tiến hành phân

tích, giải mã sự vận hành của chúng trong các sáng tác của Thiệu Trị.

3.3 Thể cách thi pháp tân sáng

3.3.1 Khái quát thống kê thể cách thi pháp tân sáng

Trong toàn bộ tập thơ Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp, chúng tôi nhận thấy,

phần nhiều các thể cách cổ kim của các danh sĩ Trung Hoa khi Thiệu Trị tiếp nhận

thì đều có cải biên hoặc cải chế thư pháp (hình thức) mà không sử dụng nguyên thể.

Đó cũng là tiền đề để ông tự sáng tạo ra những thể cách thơ ca mới và vận dụng

chúng vào quá trình sáng tác của mình. Tập thơ ghi nhận được 15 thể cách tân sáng

sau: Toàn chuyển chu hoàn thể; Giản ước thể; Thất chính cách; Bát ngôn thể; Thập

ngôn thể; Thiên văn thể; Địa dư thể; Văn đức thể; Vũ công thể; Quần phương thể;

Ngư danh thể; Tập đề thể; Đối thi thể; Liên hoàn thể; Tung hoành thể;. Đây được

xem là nét đặc sắc trong sự nghiệp sáng tác văn chương của Thiệu Trị. Tương tự như

các thể cách cổ kim, chúng tôi lần lượt tiến hành trình bày khái niệm và luận giải các

thể cách tân sáng.

Bảng 3.2: Thống kê sáng tác theo đặc trưng Thể cách tân sáng

TT

Tên thể/ cách

Tên bài thơ

Q.

Q.1

1. 池塘初夏臨興水榭放吟 Trì đường sơ hạ lâm hứng thủy tạ phóng ngâm

01 自 創 爲 旋 轉 周 環 體 Tự sáng vi Toàn chuyển chu hoàn thể.

Q.1

02 增 創 簡 約 體 Tăng sáng

1.題嚴子陵圖 Đề Nghiêm Tử lăng đồ 2.題李泌圖 Đề Lý Bí đồ

Giản ước thể

Q.2

03 新 創 七 政 格 Tân sáng 1. 山寺禪鐘 Sơn tự thiền chung

118

Thất chính cách

Q.2

04 新創八言體 Tân sáng Bát

1.倚檻荷香 Ỷ hạm hà hương

ngôn thể

Q.2

05 新 創 十 言 體 Tân sáng

1. 蘆岸沐鷗 Lô ngạn mộc âu

Thập ngôn thể

Q.3

06 新 創 天 文 體 Tân sáng

1. 天文 Thiên văn

Thiên văn thể

Q.3

07 新創地輿體 Tân sáng Địa

1. 地輿 Địa dư

dư thể

Q.3

08 新 創 文 德 體 Tân sáng

1. 文風 Văn phong

Văn đức thể

Q.3

09 新創武功體 Tân sáng Vũ

1. 武烈 Vũ liệt

công thể

Q.3

10 新 創 羣 芳 體 Tân sáng

1. 花發隨時馥 Hoa phát tùy thời phức

Quần phương thể

Q.3

11 新 創 魚 名 體 Tân sáng

1. 魚泳淺深泓 Ngư vịnh thiển thâm hoằng

Ngư danh thể

Q.3

12 新創集題體 Tân sáng Tập

1. 以題爲對爰成律詩 Dĩ đề vi đối viên thành luật thi

đề thể

Q.3

13 新創對詩體 Tân sáng Đối

1. 以題爲詩復向前對 Dĩ đề vi thi phục hướng tiền đối

thi thể

Q.3

14 新 創 連 環 體 Tân sáng

1. 雅致 Nhã trí

Liên hoàn thể

Q.3

15 新 創 縱 橫 體 Tân sáng

1. 景色 Cảnh sắc

Tung hoành thể

3.3.2 Luận giải thể cách thi pháp tân sáng

Tân sáng Bát ngôn thể 新創八言體:

Bát ngôn là thể thơ do Thiệu Trị tự sáng tạo và quy định cách luật. Một bài

gồm 64 chữ, 8 câu, mỗi câu 8 chữ và gieo độc vận. Đây là điểm khác biệt so với thơ

bát cú Cổ phong ở mục thể cách cổ kim. Tìm hiểu bài thơ Ỷ hạm hà hương

倚檻荷香, bài thơ này được gieo độc vận Thượng bình tứ Chi 上平四支thể hiện ở

các câu 2: trì池; câu 4: kì 奇; câu 6: tư 滋; câu 8: tri 知.

Tân sáng Thập ngôn thể 新創十言體:

Thập ngôn là thể thơ do Thiệu Trị tự sáng tạo và quy định cách luật. Một bài

gồm 80 chữ, 8 câu, mỗi câu 10 chữ và gieo độc vận. Tìm hiểu bài thơ Lô ngạn mộc

âu 蘆岸沐鷗, bài thơ được gieo độc vận Khứ thanh nhị thập tứ Kính 去聲二十四敬,

thể hiện các câu 2: chính 正; câu 4: vịnh 泳; câu 6: tính 性; câu 8: chính 政.

Tân sáng Quần phương thể 新創羣芳體 và Ngư danh thể 新創魚名體:

119

Quần phương và Ngư danh là hai thể thơ do Thiệu Trị tự sáng tạo, lấy cảm

hứng từ các thể Điểu danh, Thụ danh... căn cứ vào chủ đề và nội hàm để đặt tên thể

thơ. Quần phương là lựa chọn tên các loài hoa cỏ; Ngư danh là lấy tên các loài cá

để làm thơ. Về cách luật là những bài thất ngôn và ngũ ngôn luật hoặc mở rộng thất

tuyệt, ngũ tuyệt, toàn bài được gieo độc vận. Tìm hiểu hai bài thơ được vận dụng

theo hai thể này:

- Quần phương thể: Bài Hoa phát tùy thời phức 花發隨時馥, là một bài thất

ngôn luật, có 8 loài hoa cỏ được sử dụng tương ứng với vị trí đầu 8 câu thơ: mẫu

đơn 牡丹; thược dược芍藥; hà chi 荷芰; huệ lan 蕙蘭; hoàng hoa 黄花; đan quế 丹桂;

kim túc 金粟; ngọc mai 玉梅. Bài thơ được gieo độc vận Hạ bình thất Dương

下平七陽, thể hiện các câu 2: phương 芳; câu 4: hương 香; câu 6: quang 光; câu 8:

vương 王.

- Ngư danh thể: Bài thơ Ngư vịnh thiển thâm hoằng 魚泳淺深泓, là một bài

ngũ ngôn luật với chọn tên các loài cá để làm thơ: côn 鯤 (cá côn); kình 黥 (cá voi);

phụ 鮒 (cá diếc); tức 鯽 (cá diếc); lư 鱸 (cá vược); niêm 鮎 (cá trê), bài thơ gieo độc

vận thượng bình tứ chi 上平四支, câu 2: nhai 涯; câu 4: trì 池; câu 6: thì 時: câu 8:

chi 之.

Tân sáng Tập đề thể 新創集題體 và Tân sáng Đối thi thể 新創對詩體:

Hai thể Tập đề và Đối thi do Thiệu Trị sáng tạo, với việc lựa chọn tập hợp

tựa đề các bài thơ để làm thành một bài thơ có tính chất đối xứng nhau.

Thể Tập đề: chọn tựa đề “ngư - tiều - canh - độc” để đối xứng mà thành luật

thi, các chữ trong câu theo từng cặp 1 - 2 và 3 - 4 đều có tính đối nhau về ý nghĩa và

漁艇江天樂 Ngư đĩnh giang thiên lạc 樵柯水石閒 Tiều kha thủy thạch nhàn 耕犁隴畝適 Canh lê lũng mẫu thích 讀卷聖贒歡. Độc quyển thánh hiền hoan.

luật bằng trắc, như sau:

Thể Đối thi: tương tự như bài trên, lấy tựa đề bài thơ có ý nghĩa “hoa -thụ -

花發隨時馥 Hoa phát tùy thời phức

cầm - ngư” mà đối xứng theo từng cặp về ý nghĩa và luật bằng trắc.

120

樹標歷歲榮 Thụ tiêu lịch tuế vinh 禽飛來往遂 Cầm phi lai vãng toại 魚泳淺深泓. Ngư vịnh thiển thâm hoằng.

* Nhóm các thể cách tân sáng của Thiệu Trị, sáng tác dựa trên nguyên tắc sử

dụng hư tự để biểu thị ý nghĩa chủ đề muốn đề cập, ông gọi đó là Cấm tự thể, bao

gồm các thể cách: Thiên văn, Địa dư, Văn phong, Vũ liệt và Thất chính cách. Sau

đây, chúng tôi dẫn ví dụ về một trường hợp cho dạng thơ Cấm tự thể này:

Thất chính cách 七政格:

Thể cách này được Thiệu Trị sáng tạo, sử dụng cho bài thơ Sơn tự thiền chung.

Trong lời chú thích giải mã cho thể cách của ông: Phàm mỗi câu bảy chữ, trong thơ

hàm chứa ý nghĩa nhật; nguyệt; thổ; kim; thủy; mộc; hỏa mà không câu nệ thứ tự.

Tại mỗi vị trí thì vay mượn các hư tự để sử dụng nhưng không sắp đặt trong câu,

các chữ nhật; nguyệt; kim; mộc; thủy; hỏa; thổ cũng không có trong câu, cũng gọi

là Cấm tự thể. Như vậy, Thất chính cách là cách thức sử dụng bảy yếu tố: nhật,

nguyệt, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ để sáng tác thơ. Tuy nhiên, trong bài thơ 7 yếu tố

này không trực tiếp xuất hiện mà là dùng các bộ trong các chữ để biểu đạt, như: chữ

Thần, dùng bộ nhật, chữ Lãng dùng bộ nguyệt, chữ Chung dùng bộ kim, chữ Thụ

dùng bộ mộc, chữ Phù dùng bộ thủy, chữ Đăng dùng bộ hỏa, chữ Dã dùng bộ thổ…

Thần hi tiệm lãng lâm khâm viễn Thụ ảnh phô huy tiễu bích nùng, Đăng triệt Phạm đường phù hiểu kính Yên tiêu khoáng dã thính triêu chung.

bài thơ Sơn tự thiền chung:

晨熹漸朗林嶔遠 樹影鋪輝峭壁濃, 燈撤梵堂浮曉鏡 煙消曠埜聽朝鐘. Tiếng chuông thiền tịnh của ngôi chùa trên núi Mặt trời vừa mọc, ánh sáng trăng dần khuất sau đỉnh núi xa Bóng muôn cây hiển bày dày đặc trên vách núi cheo leo, Phạm đường vừa tắt đèn, buổi sớm mặt hồ trong như gương Cánh đồng rộng khói tan dần, nghe tiếng chuông sớm vọng lại.

- Các hư tự biểu thị 7 yếu tố như sau:

Thần hi 晨熹: mặt trời buổi sớm, có bộ nhật tức 日; Lãng 朗: ánh sáng trăng khuất xa, có bộ nguyệt tức 月; Chung 鐘: chuông bằng đồng, có bộ kim tức 金; Thụ 樹: cây, có bộ mộc tức 木; Phù 浮: mặt nước nổi, có bộ thủy tức 水;

121

Đăng 燈: đèn, có bộ hỏa tức 火; Dã 埜: cánh đồng, có bộ thổ tức 土.

Nếu vận dụng Thất chính cách, chúng ta cũng có thể phỏng tác một bài thơ

khác tương tự, ví dụ: Thê húc 棲旭: chỉ ánh sáng mặt trời đậu trên thành cầu, cây cỏ,

dùng bộ nhật trong chữ húc để chỉ mặt trời - 日,… Tùy thuộc vào lượng từ ngữ,

năng lực sáng tạo và sự nhạy cảm, tinh tế thiên bẩm của tâm hồn để chọn lọc và sắp

xếp câu chữ sao cho đúng quy tắc âm vận và cách luật để sáng tác một bài thất tuyệt

bất kỳ. Qua ví dụ này, có thể thấy rằng giữa thể và cách về cơ bản tách biệt rõ ràng

nhưng trong một bài thơ có thể tồn tại song hành.

Tân sáng Tung hoành thể 新創縱橫體:

Tung hoành là thể thơ do Thiệu Trị sáng tạo và sử dụng trong bài Cảnh sắc.

Thể thơ này căn cứ vào tên gọi đã có thể hiểu phần nào quy luật, tung 縱 là dọc,

hoành 橫 là ngang, tức là thể thơ mà các câu trong bài được đọc theo chiều dọc và

chiều ngang (dọc trước, ngang sau). Một bài thơ được sáng tác theo thể này, không

quy định về cách luật, có thể là thất ngôn, ngũ ngôn bát cú Cổ phong hoặc Cận thể.

Đồ hình: Bài thơ Cảnh sắc đọc theo thể Tung hoành

Sau đây là sơ đồ cách giải mã bài thơ Cảnh sắc 景色:

Đây là một bài thơ bát cú Cổ phong, với sơ đồ trên, theo hướng mũi tên tuần

tự đọc 4 câu đầu theo chiều dọc (tung) trước; và kế đến là đọc 4 câu sau theo chiều

遠岫粧新黛 Viễn tụ trang tân đại 輕煙媚早風 Khinh yên mỵ tảo phong 蘭猶凝露白 Lan do ngưng lộ bạch

Ngọn núi được tô điểm mới Làn khói tươi nhẹ bay trước gió Hoa lan ngưng đọng giọt sương trắng

ngang (hoành), để đạt một bài hoàn chỉnh với ý nghĩa hợp lí như sau:

122

Cây phong chợt nhiễm sương hồng

楓乍染霜紅30 Phong sạ nhiễm sương hồng 濯練漏魚藂 Trạc luyện lậu ngư tùng 陣鴈橫空點 Trận nhạn hoành không điểm 雲霞帯赤烘 Vân hà đới xích hồng 印藍浮水天. Ấn lam phù thủy thiên.

Đàn cá uốn lượn trong làn nước Đàn nhạn tô điểm giữa trời không Ráng mây như dải lụa đỏ Sắc lam trời chiếu trên nước.

Tự sáng Toàn chuyển chu hoàn thể 旋轉周環體:

Toàn chuyển chu hoàn là thể thơ do Thiệu Trị tự sáng tạo được dùng trong

bài thơ Trì đường sơ Hạ lâm hứng thủy tạ phóng ngâm (từ đây, gọi là Trì đường) 池

Đồ hình: Bài Trì đường sơ hạ lâm hứng thủy tạ phóng ngâm

塘初夏臨興水榭放吟, (Thưởng cảnh đầu hè bên bờ thủy tạ), với đồ hình như sau:

Bài thơ được Thiệu Trị chú thích: “Trì đường sơ hạ lâm hứng thủy tạ phóng

ngâm - Tự sáng vi Toàn chuyển chu hoàn thể/ Án thử thi nhất chương bằng trắc,

bát vận tả toàn hữu chuyển nhi quan hữu diệu/ Ngũ thập lục hiền nhi Toàn chuyển

độc thành cửu thập lục chương giai hiệp thể luật âm vận chi diệu”, Tự sáng tạo thể

Toàn chuyển chu hoàn/ Đây là một bài thơ dùng bằng trắc và tám vận xoay trái

xoay phải mà nhìn thấy được sự kì diệu/ Trái phải đọc thành 96 bài (thất ngôn ngũ

ngôn), đều đúng cách luật, là sự kỳ diệu của âm vận. Nội hàm bài thơ cũng tương tự

như bài Vũ trung sơn thủy, có 56 chữ, dùng các vận trong Bội văn vận phủ, chỉ

phương pháp là khác nhau, Vũ trung sơn thủy dùng Hồi văn kiêm liên hoàn, bài Trì

đường dùng Toàn chuyển chu hoàn thể. Trước khi giải mã cấu trúc vận hành, cần

tìm hiểu về các thể cách được sử dụng và các mật mã trong bài thơ:

- Toàn chuyển còn gọi là Tả toàn hữu chuyển - xoay trái xoay phải, câu thơ

30 Theo chúng tôi, câu này có thể lấy ý trong câu thơ “Thu mãn phong lâm sương diệp hồng 秋滿楓林霜葉紅”/ Thu ngập rừng phong, sương nhuộm đỏ lá. (Nguyễn Du, Từ Châu đạo trung 徐州道中).

được đọc theo lối uyển chuyển phải trái mà không phải đường thẳng. Chu hoàn có

123

nghĩa là quay vòng quanh, các chữ, các câu đều có thể đọc theo hình tròn liên tiếp.

Kết hợp hai quy tắc Toàn chuyển chu hoàn là đọc xoay trái xoay phải uyển chuyển

các câu chữ và kết hợp quay vòng quanh.

- Hai vần là bằng - trắc; tám vận là Hạ bình thanh nhất Tiên 下平聲一先; Hạ

bình thanh thập tứ Diêm 下平聲十四鹽; Thượng thanh Nhị thập ngũ Hữu

上聲二十五有; Thượng thanh Nhị thập cửu Hãm 上聲二十九豏; Khứ thanh Nhất

Tống 去聲一送; Thượng bình thanh Nhất Đông 上平聲一東; Hạ bình thanhThập

Chưng 下平聲十蒸; Khứ thanh Tứ Trí 去聲四寘. Chúng tôi phác họa biểu đồ thuận/

Đồ hình: Phác họa thuận/ đảo độc thể Toàn chuyển chu hoàn

đảo độc của bài thơ Trì đường và kí hiệu để tiện gọi tên khi giải mã:

Nhìn vào tổng thể đồ hình toàn bài thơ gồm 8 dòng, được chia làm 4 cặp liên,

chúng tôi kí hiệu thứ tự các cặp liên từ phải sang trái là A-B-C-D; đồng thời trong

mỗi cặp sẽ gồm 6 “cụm từ” nhỏ, mỗi đoạn có 2 chữ hoặc 3 chữ. Kỹ thuật phân chia

số dòng và cụm chữ như vậy, đảm bảo tính uyển chuyển linh hoạt khi xoay trái

xoay phải, thuận đảo độc cũng có thể đạt được số câu thất ngôn hoặc ngũ ngôn nhất

định và đúng cách luật âm vận. Thứ tự trên xuống phải trái xoay vần được mô hình

một bài sau đây:

Liên A: Liên B: Liên C: Liên D: A1 - A2 - A3, B1 - B2 - B3, C1 - C2 - C3, D1 - D2 - D3, - A4 - A5 - A6. - B4 - B5 - B6. - C4 - C5 - C6. - D4 - D5 - D6.

124

- Kỹ xảo Tả toàn hữu chuyển: Đó là câu thơ đi theo hướng uyển chuyển trái

phải, được thể hiện khi kết hợp các “cụm từ” để tạo thành một câu. Tương tự như

vậy, thay đổi thuận nghịch các “cụm từ” thì sẽ đọc được nhiều bài thơ. Tìm hiểu

雲走, Thiêm trường thụy húc đằng vân tẩu,

水濺. Giảm khước nùng yên lộng thủy tiên. (一先)

A5 A6

岸柳, Diêm ái thúy lưu ngưng ngạn liễu,

池蓮. Hạm trang hồng phức tống trì liên.

(一先)

台斗, Điềm điềm dịch hiểu trừng thai đẩu,

照天. Trạm trạm không minh động chiếu thiên. (一先)

透牖, Liêm triển mỵ quang chưng thấu dũ,

傳筵. Phạm vi đồng mỹ chúng truyền diên. (一先)

添長 瑞旭騰 A1 A2 A3 減却 濃煙弄 A4 檐藹 翠流凝 B1 B2 B3 檻裝 紅馥送 B4 B5 B6 湉湉 易曉澄 C1 C2 C3 湛湛 空明洞 C4 C5 C6 匳展 媚光蒸 D1 D2 D3 範圍 同美衆 D4 D5 D6

giải mã trường hợp bài thơ thất ngôn đọc thuận vần Nhất Tiên sẽ thấy rõ kỹ xảo này:

- Kỹ xảo chu hoàn thể hiện khi các câu được đọc xoay vòng tròn, chọn bắt

đầu từ các cặp liên khác nhau đều có nghĩa. Ví dụ bài thơ vần nhất Tiên sau đây,

nếu chọn cặp “liên B” làm câu đầu thì cặp “liên A” trở thành liên cuối của bài thơ

岸柳, Diêm ái thúy lưu ngưng ngạn liễu,

池蓮. Hạm trang hồng phức tống trì liên.

(一先)

台斗, Điềm điềm dịch hiểu trừng thai đẩu,

照天. Trạm trạm không minh động chiếu thiên. (一先)

透牖, Liêm triển mỵ quang chưng thấu dũ,

傳筵. Phạm vi đồng mỹ chúng truyền diên. (一先)

雲走, Thiêm trường thụy húc đằng vân tẩu,

水濺. Giảm khước nùng yên lộng thủy tiên. (一先)

檐藹 翠流凝 B1 B2 B3 檻裝 紅馥送 B4 B5 B6 湉湉 易曉澄 C1 C2 C3 湛湛 空明洞 C4 C5 C6 匳展 媚光蒸 D1 D2 D3 範圍 同美衆 D4 D5 D6 添長 瑞旭騰 A1 A2 A3 減却 濃煙弄 A4

A5 A6

và tương tự như thế đối với tuần tự các cặp liên khác:

125

Sau đây là 24 cách thức để đọc 96 bài thơ theo chú thích của Thiệu Trị:

(01). 初轉句順讀七言一先韻四首 Sơ chuyển cú thuận độc thất ngôn nhất

Tiên vận tứ thủ: 4 bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật.

(02). 又摘句順讀七言一先韻四首 Hựu trích cú thuận độc thất ngôn nhất

Tiên vận tứ thủ: 4 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt.

(03). 又按句倒讀七言十四鹽韻四首 Hựu án cú đảo độc thất ngôn thập tứ

Diêm vận tứ thủ: 4 bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật.

(04). 又間句倒讀七言十四鹽韻四首 Hựu gián cú đảo độc thất ngôn thập tứ

Diêm vận tứ thủ: 4 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt.

(05). 又隔句順讀七言二十五有韻四首 Hựu cách cú thuận độc thất ngôn nhị

thập ngũ Hữu vận tứ thủ: 4 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt.

(06). 又換句順讀七言二十五有韻四首 Hựu hoán cú thuận độc thất ngôn

nhị thập ngũ Hữu vận tứ thủ.

(07). 又翻句倒讀七言二十九豏韻四首 Hựu phiên cú đảo độc thất ngôn nhị

thập cửu Hãm vận tứ thủ.

(08). 又折句倒讀七言二十九豏韻四首 Hựu chiết cú đảo độc thất ngôn nhị thập cửu

Hãm vận tứ thủ.

(09). 又轉句順讀五言一先韻四首 Hựu chuyển cú thuận độc ngũ ngôn nhất

Tiên vận tứ thủ.

(10). 又摘句順讀五言一先韻四首 Hựu trích cú thuận độc ngũ ngôn nhất

Tiên vận tứ thủ.

(11). 又按句倒讀五言十四鹽韻四首 Hựu án cú đảo độc ngũ ngôn thập tứ

Diêm vận tứ thủ.

(12). 又間句倒讀五言十四鹽韻四首 Hựu gián cú đảo độc ngũ ngôn thập tứ

diêm vận tứ thủ.

(13). 又隔句順讀五言二十五有韻四首 Hựu cách cú thuận độc ngũ ngôn nhị

thập ngũ Hữu vận tứ thủ.

(14). 又按句順讀五言二十五有韻四首 Hựu án cú thuận độc ngũ ngôn nhị

thập ngũ Hữu vận tứ thủ.

(15). 又翻句倒讀五言二十九豏韻四首 Hựu phiên cú đảo độc ngũ ngôn nhị thập

cửu Hãm vận tứ thủ.

(16). 又折句倒讀五言二十九豏韻四首 Hựu chiết cú đảo độc ngũ ngôn nhị thập cửu

Hãm vận tứ thủ.

(17). 又轉句順讀五言一送韻四首 Hựu chuyển cú thuận độc ngũ ngôn nhất

Tống vận tứ thủ.

126

(18). 又摘句順讀五言一送韻四首 Hựu trích cú thuận độc ngũ ngôn nhất

Tống vận tứ thủ.

(19). 又翻句倒讀五言一東韻四首 Hựu phiên cú đảo độc ngũ ngôn nhất

Đông vận tứ thủ.

(20). 又折句倒讀五言一東韻四首 Hựu chiết cú đảo độc ngũ ngôn nhất

Đông vận tứ thủ.

(21). 又隔句順讀五言十蒸韻四首 Hựu cách cú thuận độc ngũ ngôn thập

Chưng vận tứ thủ.

(22). 又換句順讀五言十蒸韻四首 Hựu hoán cú thuận độc ngũ ngôn thập

Chưng vận tứ thủ.

(23). 又按句倒讀五言四寘韻四首 Hựu án cú đảo độc ngũ ngôn tứ Trí vận

tứ thủ.

(24). 又間句倒讀五言四寘韻四首 Hựu gián cú đảo độc ngũ ngôn tứ Trí vận

tứ thủ.

Tuy cách luật bài thơ này là Toàn chuyển chu hoàn nhưng ngoài cách đọc

trái phải xoay vần ra, chúng tôi nhận thấy trong bài này có kết hợp các kiểu đọc

thuận và nghịch theo dạng hồi văn, điển hình là bài vần Tiên và vần Diêm. Bài vần

Diêm là đọc ngược từ chữ cuối câu cuối của bài vần Tiên theo thông thể hồi văn.

Đồng thời bài vần Diêm “láy” lại chữ “diên 筵” của vần Tiên theo kiểu Liên hoàn.

Qua đó, nhận thấy sự liên hệ tương đồng giữa hai thể cách này và có thể khẳng định

khi sáng tạo thể Toàn chuyển chu hoàn, Thiệu Trị đã kế thừa cách luật vận hành của

Hồi văn và Liên hoàn.

(一先)

(一先)

(一先)

Trạm trạm không minh đỗng chiếu thiên Liêm triển mỵ quang chưng thấu dũ Phạm vi đồng mỹ chúng truyền diên.

(一先)

添長瑞旭騰雲走, Thiêm trường thụy húc đằng vân tẩu 減却濃煙弄水濺. Giảm khước nùng yên lộng thủy tiên 檐藹翠流凝岸柳, Diêm ái thúy lưu ngưng ngạn liễu 檻裝紅馥送池蓮. Hạm trang hồng phức tống trì liên 湉湉易曉澄台斗, Điềm điềm dịch hiểu trừng thai đẩu 湛湛空明洞照天. 匳展媚光蒸透牖, 範圍同美衆傳筵. Mặt trời vừa mọc thêm vệt nắng dài cưỡi mây bay đi Đẩy lùi làn khói đậm đặc trên dòng nước chảy tung tóe Trước mái nhà ánh sáng ngưng tụ trên cành liễu xanh biếc Cây hồng bên hiên thoảng đưa hương đến tận ao sen Buổi sớm mặt nước lặng trong còn vương [ảnh] sao Thai, Đẩu

+ Thuận độc thất ngôn vận nhất Tiên:

127

Sương móc phủ kín, ánh sáng lọt qua khoảng không chiếu giữa trời Mở chiếc hộp đẹp, ánh sáng chiếu xuyên qua khung cửa đang ngồi Xung quanh, sự tươi đẹp đều lan rộng trong tiệc vui.

(十四鹽)

(十四鹽)

(十四鹽)

Tẩu vân đằng húc thụy trường thiêm.

(十四鹽)

筵傳衆美同圍範, Diên truyền chúng mỹ đồng vi phạm 牖透蒸光媚展匳. Dũ thấu chưng quang mị triển liêm 天照洞明空湛湛, Thiên chiếu động minh không trạm trạm 斗台澄曉易湉湉. Đẩu Thai trừng hiểu dịch điềm điềm 蓮池送馥紅裝檻, Liên trì tống phức hồng trang hạm 柳岸凝流翠藹檐. Liễu ngạn ngưng lưu thúy ái diềm 濺水弄煙濃却減, Tiên thủy lộng yên nùng khước giảm 走雲騰旭瑞長添. Từ cuộc vui cái đẹp lan truyền đi đến xung quanh Xuyên khung cửa ánh sáng đẹp chiếu qua chiếc hộp Ánh sáng giữa trời chiếu xuyên hư không nhiều sương móc Sao Thai Đẩu rọi ảnh giữa hồ nước phẳng lặng ban mai Ao sen đưa hương thơm đến vườn hồng bên hiên nhà Nhành liễu bên bờ ngưng sắc biếc dưới mái nhà Nước chảy tung tóe làn khói đậm đặc tan biến Mây trôi dưới ánh mặt trời một vệt dài thêm.

+ Đảo độc thất ngôn vận Thập tứ Diêm:

Trong 15 thể cách tân sáng, chúng tôi chỉ giải mã được 13 thể cách, trong đó

các thể được sử dụng chung một cách thức gọi là “cấm tự thể” chúng tôi chỉ tiến

hành giải mã một trường hợp là Thất chính cách. Về thể Toàn chuyển chu hoàn là

thể tân sáng đặc sắc khi Thiệu Trị đã đặc biệt dụng tâm nghiên cứu phương pháp

dụng vận và cách luật để từ một có thể đọc thành 96 bài thơ. Các thể cách chưa giải

mã được gồm: Giản ước thể; Liên hoàn thể (với đồ dạng hai vòng tròn giao nhau).

Đối với việc sáng tác theo thể thơ Toàn chuyển chu hoàn hay Hồi văn liên

hoàn, yêu cầu đầu tiên chính là tài năng văn chương, sự am hiểu thể cách, cách luật

âm vận của tác giả. Thứ đến là sự tinh tế nhạy bén trong việc lựa chọn chủ đề, chọn

lựa từ ngữ trong các bộ vận của Vận phủ phù hợp với đề tài, vận dụng thể cách để

dựng nên cấu trúc đồ hình của bài thơ. Việc đảm bảo các câu thơ sau khi giải mã

phải đúng cách luật âm vận cũng là điều rất quan trọng. Nếu như không có sự quy

ước khi đọc phải đúng luật âm vận thì có thể chọn chữ hoặc câu bất kì để đọc được

một bài thơ. Vì thế, đối với các thể thơ này việc nắm được quy định về âm luật theo

từng bộ vận là điều kiện tiên quyết để có thể giải mã chính xác bài thơ. Sự tinh tế

128

của tác giả thể hiện ở việc chọn các chữ ở bộ vận khác nhau nhưng cùng diễn tả về

một chủ đề và sắp xếp chúng theo quy luật thể cách rồi quy ước độc thuận, độc

nghịch, trích cú, gian cú... ra được các bài khác nhau, đồng thời phải đảm bảo tất cả

đều đúng quy tắc âm vận là việc vô cùng khó khăn đòi hỏi tác giả phải là người tỉ

mỉ và cẩn thận, đồng thời phải rất công phu và tâm huyết với thi ca.

3.4 Giá trị thi học của tác phẩm

Nền thi học của một dân tộc là vấn đề lớn với phạm vi nghiên cứu sâu rộng,

bao quát toàn bộ các phương diện của thơ ca văn chương, được chia thành sáu chủ

đề nghiên cứu: Nghiên cứu lí luận cơ bản về thi ca; Nghiên cứu kỹ thuật sáng tác và

hình thức thơ ca; Nghiên cứu về các trào lưu sáng tác thơ ca; Nghiên cứu về các bộ

tổng tập, tuyển tập, biệt tập thi ca hoặc nghiên cứu một tác phẩm cụ thể; Nghiên

cứu về tác giả cho đến việc hình thành một nhóm tác giả có cùng quan điểm sáng

tác và Lý luận thi ca. Tác phẩm này, xét trên góc độ giá trị thi học, chúng tôi căn cứ

vào xuất phát điểm của nó mà khái lược hai giá trị cơ bản, đó là giá trị về mặt thể

cách thi pháp và giá trị về tính dân tộc được xét trên góc độ văn chương, cụ thể như

sau:

- Giá trị về mặt thể cách thi pháp: Thiệu Trị cho biên soạn tác phẩm Ngự chế

cổ kim thể cách thi pháp này với mục đích đề cao việc sử dụng thể và cách để sáng

tác văn chương, đây là giá trị đầu tiên. Chính sách chấn hưng văn trị được vận dụng

rõ ràng trong thời gian trị vì của ông qua việc tổ chức nhiều khoa thi, để tuyển chọn

nhân tài cho đất nước, xây dựng một nền văn trị hưng thịnh. Trong thời gian 7 năm

trị vì ông đã mở đến 11 khoa thi, khích lệ sĩ tử dùi mài kinh sử, khăn gói lều chõng

lên kinh sư dự thi và khiến phong trào học thuật ngày càng sôi nổi khắp đất nước.

Nếu muốn xây dựng một nền văn chương rực rỡ thì phải có đường hướng cụ thể, sự

ra đời của tác phẩm này cùng sách âm vận là muốn định hướng con đường phát

triển một cách bài bản. Bản thân Thiệu Trị vốn thích văn chương, đam mê nghiên

cứu thi học, thể cách. Ông tiếp nhận các thể cách cổ kim để phỏng tác, thậm chí phá

cách cải chế các thể cách, biến chúng thành một dạng thể mới để làm phong phú

phương thức sáng tác thơ ca. Như trường hợp hai bài thơ theo thể Hỏa diệm và Phi

nhạn, tuy phỏng theo cách luật cổ nhưng ông đã cải chế thư pháp thành một đồ hình

khác, đây có thể xem là một biến thể phát triển độc lập mang đậm màu sắc cá nhân

129

tác giả. Xét trong tiến trình lịch sử phát triển của thơ ca trung đại nước ta, đã từng

xảy ra hiện tượng tiếp thu, phát triển rồi sau đó tồn tại độc lập với nguyên thể,

trường hợp của thể Song thất lục bát, vốn phát triển từ sự kết hợp giữa từ thể Thất

ngôn tuyệt và Lục bát, nhưng sau đó đã khẳng định vị thế và song hành cùng thể

Lục bát trở thành hai thể thơ đại diện cho tính dân tộc với những áng văn bất hủ như:

Đoạn trường tân thanh (lục bát), Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm khúc bản

dịch Nôm (Song thất lục bát)... Như vậy, việc Thiệu Trị tiếp thu các thể cách cổ

kim của Trung Quốc rồi cải biên, cải chế để sáng tác đã chứng minh cho tình thần

cầu tiến, ý thức theo đuổi sự toàn mỹ về nghệ thuật trong sáng tác và hoài bão

khẳng định tính độc lập về cách thi pháp cho văn chương nước nhà. Chính sự kết

hợp hai thể Hồi văn và Liên hoàn trong bài Vũ trung sơn thủy và Phước Viên văn

hội lương dạ mạn ngâm đã tạo nên một kiệt tác thi hoạ, đồng thời là minh chứng rõ

nét cho sự linh hoạt kỳ diệu của âm luật trong thể cách thi pháp cổ kim. Đặc biệt

phải kể đến những thể cách thi pháp tự sáng mang đậm màu sắc cá nhân Thiệu Trị

đã một lần nữa khẳng định tình yêu và đam mê của ông đối với thi học nói chung và

thể cách thi pháp nói riêng. Đồng thời sự xuất hiện của 15 thể cách mới đã góp phần

làm phong phú thêm kho tàng thể cách thi pháp cho nền thi học trung đại Việt Nam

nói riêng và thi học cổ kim nói chung. Điều này vô hình chung đã biến Thiệu Trị

thành hình mẫu cho những nỗ lực sáng tạo trong văn chương để hậu thế ngưỡng

vọng học tập.

- Giá trị dân tộc nhìn từ góc độ văn chương: Với vị thế của một Hoàng Đế

luôn mang trong mình ý thức độc lập, tự chủ về thể cách và âm vận, Thiệu Trị cho

biên soạn tác phẩm này và sách âm vận Thiệu Trị văn quy, chứng tỏ ông muốn thúc

đẩy hình thành một nền văn học mang đậm màu sắc Đại Nam. Đây là ý thức nỗ lực

có định hướng rõ ràng và mục đích tốt đẹp của Thiệu Trị, chứ không đơn thuần là

suy nghĩ nông cạn tranh đua thiệt hơn với học thuật Trung Quốc như một số nhận

định trước đây. Bởi vì trong học thuật, văn hóa, văn học việc tiếp thu dữ liệu từ một

nền văn minh khác đều trải qua sự chọn lọc, cải biên cho phù hợp với bản quốc. Đó

là góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc cũng như khẳng định sức sống mạnh mẽ của nền

văn hiến Đại Nam. Thiệu Trị muốn cung cấp những đầu sách căn bản thích hợp với

quan điểm sáng tác của người Việt, thuận tiện cho người hiện tại và đời sau khi

nghiên cứu, tra cứu và sáng tác thơ ca mà không phải tốn thời gian tìm kiếm ở các bộ

130

Tự điển và Vận phủ của Trung Quốc. Từ đó, hình thành và phát triển sự cộng hưởng

giữa các cá nhân trong lực lượng sáng tác văn học nước nhà. Việc ra đời tập thơ

được thai nghén từ sự thôi thúc mãnh liệt của mục đích phổ biến rộng rãi những

phương thức sáng tác đặc biệt để danh thần sĩ tử học hỏi và vận dụng. Tuy nhiên

xuyên suốt thời gian sau đó vẫn chưa thấy vị danh sĩ đại thần nào phỏng tác theo các

thể cách được cho là đặc biệt này. Ví như bài Vũ trung sơn thủy với thể cách Hồi văn

thể kiêm Liên hoàn độc đáo của nghệ thuật dùng chữ, chơi chữ nhưng không thấy tác gia nào làm theo hình thức này31.

Thiệu Trị đã từng nói với quần thần trong những lúc đàm luận về văn chương

rằng: “nước ta là một đất nước văn hiến” và “văn vật nước ta không kém gì Trung

Quốc” [64, tr.529]. Mặc dù nhận định này là dẫn lời tiền nhân nhưng vẫn căn cứ vào

tình hình thực tế của xã hội đương thời, cộng với ý thức biên soạn tác phẩm Ngự chế

cổ kim thể cách thi pháp và sách Thiệu Trị văn quy đã khẳng định Thiệu Trị xứng

đáng được công nhận với vai trò một thi sĩ, một nhà nghiên cứu trên trinh thần và ý

thức tự tôn, tụ cường dân tộc của một vị Hoàng Đế. Nghiên cứu những thành tựu qua

sự nghiệp sáng tác văn chương của Thiệu Trị để thấy rõ sự hưng thịnh của nền văn

học, sự phong phú của văn phong và giá trị của chính sách chấn hưng văn trị dưới

thời Nguyễn. Qua đó, có thể công nhận Hoàng đế Thiệu Trị với tư cách một thi sĩ và

31 Vấn đề này có thể nhiều nguyên nhân, nếu nói rằng không có danh sĩ đủ trình độ về thể cách thi pháp, âm

vận và văn từ để sáng tác theo thì không đúng, vì lịch sử sau đó có biết bao bậc danh sĩ tài hoa và ngay chính

vua Tự Đức kế tục vua Thiệu Trị hay các Hoàng đệ của ông là Miên Thẩm, Miên Trinh… cũng là những bậc

tài hoa văn chương nhưng mặc nhiên không thấy ai sáng tác, theo suy luận của chúng tôi có thể bởi 2 lí do:

Thứ nhất, chính vì thể cách Hồi văn thể kiêm liên hoàn hay Tự sáng Toàn chuyển chu hoàn thể phải dụng công

rất công phu và khó vận dụng để sáng tác. Thứ hai, thời phong kiến, quân vương là tối cao thì không ai dám

vượt mặt, một là để kính trọng thiên tử, hai là không muốn hệ lụy. Giả như có danh sĩ làm một bài thơ theo

hình thức này mà cố tình làm không hay thì mang tiếng muôn đời; nhưng nếu làm quá hay, hay hơn cả vua

được nhiều người xưng tụng thì tai họa có thể đến bất cứ khi nào, nếu bị đại thần khác ghanh ghét tài mà soi

xét câu chữ rồi quy tội thì họa tru di dòng tộc xem chừng khó thoát. Chúng tôi đưa ra lí do mang tính chủ quan

như vậy, để thấy rõ nguyên nhân tại sao không thấy những sáng tác kiểu này của các danh sĩ về sau.

một nhà nghiên cứu thi học.

131

Tiểu kết chương 3

Thi học là khoa học về thơ, bàn luận về thơ. Thi pháp là khái niệm chỉ các

phương pháp và quy luật sáng tác thơ ca, là một bộ phận nghiên cứu của nền thi học.

Khái niệm thể cách thi pháp trong tên gọi tác phẩm của vua Thiệu Trị có nghĩa là

các quy tắc và phương pháp để sáng tác thơ. Chương này, chúng tôi đã khái quát về

thể và cách; thể là thể loại, thể tài thơ ca, căn cứ vào hình thức nội dung mà xác

định tính danh; cách là cách thức, cách luật khi sáng tác thơ ca. Thể cách là một

khái niệm phức hợp chỉ về các thể thơ, cách luật và phương pháp sáng tác thơ ca.

Thiệu Trị quan niệm thơ là xuất phát từ tâm nhưng việc am hiểu thể cách thi pháp là

điều cần thiết và phải trau dồi, không hiểu được thể cách thì khó lòng sáng tác được

thơ văn. Vì vậy, ông đề cao việc học thơ và nghiên cứu thể cách thi pháp.

Trong toàn bộ tập thơ Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp có khoảng 72 thể

cách, trong đó có 57 thể cách cổ kim và 15 thể cách tân sáng. Chúng tôi đã lần lượt

trình bày các khái niệm, cách luật vận hành của từng thể, cách và ứng dụng giải mã

các bài thơ của Thiệu Trị. Với các thể cách cổ kim, trên cở sở là các bài phụ lục

nguyên thể của các tác gia Trung Quốc được Thiệu Trị phỏng tác, chúng tôi căn cứ

vào đó để khảo cứu về khái niệm của mỗi thể cách, và tiến hành đối chiếu so sánh

về cách luật hay thư pháp giữa nguyên thể và thơ của Thiệu Trị. Phần nhiều các thể

cách khi tiếp nhận ông đều có cải chế thư pháp và cải biên cách luật âm vận. Điều

này cũng là thể hiện ý thức cá nhân và nhu cầu khẳng định giá trị bản thể của Thiệu

Trị, đồng thời là tiền đề cho việc ông sáng tạo các thể cách mới. Đây là đóng góp

thiết thực của Thiệu Trị trên phương diện thi học. Sự phong phú trong việc vận

dụng nhiều thể cách cổ kim và tân sáng trong sáng tác thơ ca là luận cứ chắc chắc

để khẳng định luận điểm: Thiệu Trị đã dày công nghiên cứu để đạt đến sự am tường

thông tỏ âm luật, thể cách. Khám phá những quan điểm về nghệ thuật thể cách thi

pháp của Thiệu Trị để phát hiện một khía cạnh mới về ông - một thi sĩ đề cao sự

toàn mỹ trong văn chương.

Nghiên cứu về thể cách thi pháp cổ kim và tân sáng của tác phẩm này, để

thấy rõ chủ ý của Thiệu Trị là tạo nên một đầu sách cơ bản về thể cách khi sáng tác

văn chương cho nước Đại Nam. Cùng với việc ông cho biên soạn sách về âm vận

Thiệu Trị văn quy đã chứng minh tinh thần độc lập, tự chủ về mặt thể cách và âm

vận của Thiệu Trị trong tư cách một vị thi sĩ Hoàng đế.

132

CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM

NGỰ CHẾ CỔ KIM THỂ CÁCH THI PHÁP TẬP

Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi tiến hành tìm hiểu những đặc điểm

nội dung để làm rõ quan niệm về nội dung thơ ca của Thiệu Trị trong tư cách một vị

Hoàng đế dùng văn chương bình trị thiên hạ và tư cách một thi sĩ yêu văn chương,

thiên nhiên non nước. Đồng thời làm rõ mối quan hệ giữa nội dung và thể cách thi

pháp.

4.1 Quan niệm về nội dung thơ ca và mối quan hệ của nó với thể cách thi pháp

Trước khi tìm hiểu quan niệm sáng tác của Thiệu Trị, chúng tôi sơ lược tìm

hiểu quan niệm chung của thời kỳ Văn học trung đại Việt Nam.

4.1.1 Quan niệm về nội dung thơ ca thời trung đại Việt Nam

Thời kỳ trung đại, quan điểm xuất hiện xuyên suốt trong sáng tác văn chương,

đặc biệt là thơ ca của các danh sĩ, tao nhân là “thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo”. Đây

là quan điểm của vua Thuấn, vốn được xuất phát từ Kinh Thư: “Đế viết, thi ngôn chí,

ca vĩnh ngôn 帝曰: 詩言志, 歌永言” [91, tr. 412]. Chí là hướng đi của tâm, hàm

chứa tâm tư tình cảm, chí khí; ngôn là lời nói khi tâm có hướng đi thì phát ra thành

lời thơ. Theo vua Thuấn, trong việc trị quốc là đối với những kẻ cứng rắn thường

bạo ngược, kẻ tự tin thường kiêu ngạo nên phải răn dạy trước. Giáo hóa bằng cách

nào? đó là dùng thơ và nhạc, cho nên thơ đối với quân vương có chức năng giáo hóa

muôn dân. Trong sách Văn tâm điêu long, thiên Minh thi (giảng giải về thơ), Lưu

Hiệp (465-520) đã bình dẫn quan điểm này: “Vua Thuấn cho rằng thơ là để nói lên

cái chí, lời ca là để làm cho lời nói được lâu dài, cho nên ở trong lòng là chí, nói ra

thành lời gọi là thơ. Người ta có bảy cái tình (hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục), bị sự vật xúc

động thì sinh cảm xúc. Cảm xúc thì nói lên cái chí. Cái đó là tự nhiên vậy” [27,

tr.149]. Văn chương là nơi gửi gắm nỗi lòng trước thế sự, thỏa chí bình sinh, là con

đường tiến thân của danh sĩ xưa.

Quan niệm sáng tác văn chương của tiền nhân phần nhiều được tìm thấy

trong các lời tựa, bạt hay cảm khái ngôn hoài. Trong Việt âm thi tập, danh sĩ Phan

Phu Tiên có nói rằng: “Tâm người ta có điều gì ắt hình ra lời, cho nên thơ là để nói

133

chí vậy (Tâm hữu sở chi tất hình ư ngôn, cố thi dĩ ngôn chí dã)” [53, tr.58]. Khi bàn

về ‘thần’, ‘khí’, ‘thể’, ‘cách’, Nguyễn Tư Giản cho rằng: “Văn của thánh nhân là

chở đạo, văn của văn nhân là để luận đạo. Bàn về văn của văn nhân, có văn nghĩa lý,

có văn chính sự, có văn từ chương, mà cốt yếu là ở thần, ở khí, ở thể, ở cách. Tinh

nghĩa nhập thần thì cái thần văn sẽ đầy đặn; nuôi tầm nhìn rộng trông xa thì hơi văn

sẽ thăng bằng; trong bụng nuốt tám chín chằm Vân Mộng thì thể văn sẽ bao la mà

thoải mái; đọc nát vạn cuốn sách, cảm thấy như có thần bên mình thì thể cách văn sẽ

lớn lao mà đúng đắn” [83, tr.275]. Văn ở đây là chỉ chung cho việc sáng tác văn

chương bao gồm cả thơ ca, việc sáng tạo ra một tác phẩm văn chương đòi hỏi tác giả

phải thoả mãn bốn yếu sau: Tinh nghĩa là yếu tố tinh hoa có thể hiểu là thiên bẩm,

riêng biệt của mỗi cá nhân, một khi phát huy được tinh nghĩa này thì văn bút sẽ nhập

thần điêu luyện; Một tác gia bao giờ cũng có con mắt bao quát thế sự và thấu cảm

tha nhân; Tác gia phải là người trải sự đời, đã đi nhiều nơi, thu vào tầm mắt muôn

trùng non nước, trong từng lời văn đều là từng trải nghiệm; Đã lật giở nát vạn cuốn

sách để học tập nghiên cứu, phải nghe nhiều, đọc nhiều kinh sách của người xưa thì

lời văn mới xuất thần bay bổng được, như Đại thi hào Đỗ Phủ từng nói: “Độc thư

phá vạn quyển/ hạ bút như hữu thần - Đọc sách nát vạn quyển, hạ bút như có thần”

[33, tr.105]. Người xưa đã xác định những yếu tố nền móng cho việc bước vào thế

giới văn chương huyền diệu.

Từ xưa đến nay, bậc thánh nhân hay danh sĩ văn nhân đều đề cao tình lý là

hồn cốt của văn chương, Lê Văn Đức đã nói: “Tình dấy ở bên trong mà phát thành

thơ, kẻ đa tình xem thơ đó mà cảm xúc với nó” [76, tr.162], hay Nguyễn Đức Đạt khi

bàn luận về văn chương đã nói: “Văn chương là cơ bắp của tình lý, tình lý là xương

cốt của văn chương. Tình lý chứa chan mà văn chương dạt dào, đó là ngọc quý của

buồng văn, lý đào của văn nghệ” [83, tr.277]. Tình lý có thâm sâu thì lời lẽ văn

chương mới tuyệt diệu, tình lý vốn gốc ở tâm, xuất phát thành lời thơ, như một danh

sĩ từng nói: “Thơ là âm thanh của trái tim. Xem thơ của ai thì có thể biết tâm của

người đó” [76, tr.147], yếu tố này có thể hiểu là giọng điệu, phong cách sáng tác văn

chương. Bởi vì thơ văn là tiếng lòng mang màu sắc cá nhân, xuất phát từ năng lực

ngôn ngữ thiên bẩm của mỗi thi, văn nhân mà định hình văn phong thi cốt riêng biệt

không lẫn tạp. Danh sĩ Phạm Nguyễn Du đã nói về tài nghệ thơ ca rằng: “Thơ là tài

nghệ. Các bậc hiền triết ngày xưa đầy đủ ở đạo đức và nhân nhưng vẫn có người

134

chưa đầy đủ ở tài nghệ. Vì tài nghệ phần nhiều nảy sinh từ thiên bẩm, chứ không

hoàn toàn do học vấn, đó là điều nhân tài xưa nay cùng tán đồng vậy” [83, tr.162]. Ở

đây, nhấn mạnh yếu tố tài năng văn chương là do thiên bẩm và việc học tập trau dồi

cũng vô cùng quan trọng, chính hai yếu tố tiên quyết này sẽ tạo ra một chỉnh thể văn

chương.

Như vậy, để hình thành nên được một tác phẩm văn chương trước hết là yếu

tố thiên bẩm của mỗi người, có một tâm hồn đồng điệu, xúc cảm, thi vị, mới có thể

biến những rung động từ trái tim phát khởi thành lời thơ. Bên cạnh đó, một yêu cầu

quan trọng là hiểu rõ thể cách thi pháp, để vận hành những rung cảm tâm thức đó

thành một cấu trúc tác phẩm hoàn chỉnh, có như vậy một tác phẩm văn chương mới

có thể tồn tại vĩnh cửu với thời gian.

4.1.2 Quan niệm về nội dung thơ ca của Thiệu Trị

Thiệu Trị sinh năm 1807 và mất năm 1841, ông sống hoàn toàn trong khoảng

thời gian nửa đầu thế kỷ XIX. Chiếu theo phân kỳ Văn học thì thuộc giai đoạn thứ 3 của Văn học trung đại Việt Nam32 (XVIII - Nửa đầu XIX). “Giai đoạn này phát

triển rực rỡ, là giai đoạn đơm hoa kết trái và bội thu. Giai đoạn này chẳng những

phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức và còn ghi lại dấu ấn bằng những tác

phẩm đỉnh cao trong tất cả các loại hình nghệ thuật [45, tr. 21]. Vì vậy, có thể nói

Thiệu Trị đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc của thành tựu văn học thời kì này,

điều đó thể hiện rõ qua việc khẳng định tư tưởng truyền thống “thi dĩ ngôn chí”, ông

cho rằng: “Thơ ở trong bụng là chí, nói ra thành lời là thơ [64, tr.979]. Chính vua

Minh Mạng trong lời tựa Ngự chế thi sơ tập khi bàn về thơ cũng nói rằng: “Thơ văn

vốn có gốc ở tâm, phát ra ở chí, nếu như để người khác thay mình làm ra thì có gọi

là chí nữa, hà tất nhận lấy cái hư danh ấy làm gì” [76, tr.151]. Theo quan niệm của

Thiệu Trị, tâm tư tình cảm, chí khí khi còn ở trong lòng gọi là chí và mượn ngôn

ngữ để chuyển thành lời gọi là thơ. Thơ là tiếng lòng chân thật, thể hiện cảm xúc và

phản ánh tình cảm của con người; đồng thời có thể lột tả rõ nét cuộc sống và hiện

thực xã hội.

Ngoài quan niệm tư tưởng sáng tác văn chương là “thi dĩ ngôn chí”, với tư

32 Theo Nguyễn Đăng Na, “10 thế kỷ Văn học trung đại Việt Nam được chia làm 4 giai đoạn: 1) Thế kỷ X – XIV; 2) Thế kỷ XV – XVII; 3) Thế kỷ XVIII – nửa đầu XIX; 4) Nửa cuối thế kỷ XIX”. [45, tr.14].

cách một Hoàng đế, ông đề cao việc sáng tác thơ văn là để “chính giáo hóa”. Điều

135

này thể hiện ở việc dùng thơ ca bình trị thiên hạ, dùng thơ để giảng dạy cho học trò,

để giáo hóa muôn dân, thiết lập một nền văn trị bằng cách mở nhiều khoa thi tuyển

chọn nhân tài qua con đường cử nghiệp văn chương cửa Khổng sân Trình. Đây là

quan điểm chủ đạo trong sự nghiệp sáng tác, là giá trị cốt lõi của văn chương Hoàng

đế, ông cho rằng: “Thơ để tả tính tình, chính giáo hóa, là lòng của trời đất đó. Thánh

nhân nói không học thơ thì không thể nói được. Vậy, thơ không thể không học, là rõ

ràng lắm” [64, tr.979]. Ông đề cao thơ ca với vai trò mới, thơ là tiếng nói, chính là

lòng của trời đất. Trong lời tựa Ngự chế thi sơ tập, ông viết: “Thơ là lòng của trời

đất, là điều noi theo của đạo đức làm quân vương, là nguồn gốc của trăm phúc, là

cửa ngõ của muôn vật (夫詩者天地之心君德之祖百福之宗萬物之户, Phù thi giả

thiên địa chi tâm, quân đức chi tổ, bách phúc chi tông, vạn vật chi hộ)” [107, tr1a].

Ông cho rằng thơ ca gắn liền với càn khôn vũ trụ, Nho giáo đề cao thiên mệnh, thơ

đơn thuần không còn là của cá nhân mà trong lời thơ hàm chứa đạo của trời đất. Bởi

vì vua là thiên tử nên lời thơ cũng chính là ý trời. Theo ông, thơ còn là đạo của bậc

quân vương, gốc của trăm phúc, cửa ngõ của muôn vật. Thơ không còn là cảm hứng

thi ca tầm thường nữa, nó được nâng tầm lên bậc giáo hóa trong việc trị quốc an dân,

vì vốn dĩ cái học của đế vương là để giáo hóa như Lê Quý Đôn đã đề cập trong Lệ

ngôn: “Bàn về cái học của quân vương là chính giáo hóa, cai trị thiên hạ, còn việc

sáng tác văn chương cho hay, hay tiến thân là việc không đáng bàn, nó chỉ là thú

vui lúc thanh nhàn việc triều chính. Mà vua Thuấn được xem là người khai mở chức

năng giáo hóa của nền văn trị này” [42, tr. 205]. Cho nên văn chương của vua là để

thiết lập nền trị bình, không đơn thuần là ngâm vịnh, chỉ khi việc triều chính nhàn

hạ thì mới lấy ngâm vịnh thi ca thú vui tao nhã. Thiệu Trị cũng có nói trong lời tựa

quyển nhị: “Những lúc nhàn rỗi thì lấy việc thưởng ngoạn cảnh hoặc lấy việc đọc

sách vở cổ làm vui, rồi thơ ca cứ tự nhiên như vậy mà vẫy bút thành vịnh” [106].

Chính bởi cho rằng thơ là gốc ở tâm mà phát thành lời, ông khẳng định thơ phải đạt

nét đẹp ở ôn nhu đôn hậu và điều hòa ở tuấn dật thanh tân. Thơ làm cho đúng đắn

ngay thẳng sự giáo hóa, đây là yêu cầu được đặt lên hàng đầu với vai trò là một vị

Hoàng đế đề cao “chấn hưng văn trị”, dùng văn chương để cai trị thiên hạ; mặt khác

chính giáo hóa cũng là phương diện thể hiện nét đẹp thuần phong mỹ tục trong thơ

ca, cho khắp nơi được thừa hưởng ân huệ, đó chính là lòng của trời đất.

4.1.3 Mối quan hệ giữa nội dung thơ ca và thể cách thi pháp

136

Mối quan hệ giữa nội dung và thể cách thi pháp là hai mặt của một vấn đề,

chúng có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời. Nghiên cứu vấn đề này, chúng

tôi tập trung phân tích ở hai yếu tố:

Thứ nhất, tính gắn kết tương hỗ giữa nội dung và thể cách. Điều này được

thể hiện ở kỹ xảo sử dụng các phương pháp làm thơ, vận dụng hài hoà đúng cách

luật của âm vận trong sáng tác văn chương. Tiêu chuẩn một bài thơ hay theo cách

của người xưa là sự kết hợp hoàn hảo giữa hình thức và nội dung; bài thơ đó phải

được gieo đúng luật, đúng vần tức là yếu tố thể cách thi pháp được đảm bảo, (ngoại

trừ những bài thơ được phá cách với dụng ý thể hiện cá tính của tác giả, dạng thức

này chiếm số lượng không đáng kể) thì nội dung mới được đánh giá cao. Vì vậy đối

với các bậc danh sĩ xưa, việc sáng tác thơ không chỉ đòi hỏi phải có tâm hồn nhạy

bén, tức cảnh sinh tình mà còn phải hiểu rõ cách luật thơ ca để vận dụng ngôn ngữ

trong quá trình sáng tác, đảm bảo yếu tố câu từ rõ nghĩa và thể cách thông suốt. Đó

chính là mối quan hệ chặt chẽ giữa thể cách và nội dung.

Thứ hai, mối quan hệ thể hiện ở tính thẩm mỹ, nghệ thuật trang trí. Như đã

biết, nghệ thuật, mỹ thuật cung đình Nguyễn đạt độ tinh xảo cao dưới thời Thiệu Trị,

chính ông là một người yêu cái đẹp và đề cao sự “toàn mỹ trong văn chương” (chữ

dùng của Hà Văn Minh). Việc áp dụng các thể cách độc đáo càng gia tăng tính thẩm

mỹ cho bài thơ. Không còn đơn thuần là thưởng thức nội dung truyền tải qua câu từ,

mà còn cộng hưởng thêm yếu tố thẩm mỹ thị giác, đưa người đọc trải nghiệm một

cung bậc cảm xúc mới khi được thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật thi hoạ - một

bức tranh bằng thơ, mang đậm yếu tố mỹ thuật. Điều này đã tăng thêm giá trị cho

bài thơ, đồng thời khẳng định mối liên hệ mật thiết nhất giữa việc vận dụng thể cách

thi pháp và truyền tải nội dung.

Chúng tôi lấy dẫn chứng thực tế nhất đó là bài thơ Vũ trung sơn thuỷ tại

chính điện Long An - Cố đô Huế. Ngoài nội dung bài thơ miêu tả một bức tranh

phong cảnh xứ sở thần kinh non nước hữu tình, tựa hồ một bức tranh thuỷ mặc, thì

yếu tố kỹ xảo sắp xếp của thể cách thi pháp Hồi văn thể kiêm Liên hoàn với đồ hình

như trận đồ bát quái rất đặc biệt và có giá trị thẩm mỹ cao, đã nâng tầm tổng thể bài

thơ thành một tác phẩm mỹ thuật. Ở đây, nó không còn là một bài thơ thất ngôn bát

137

cú thông thường nữa mà là một tác phẩm nghệ thuật về văn chương. Người đọc,

trước hết là thưởng thức một bức thi hoạ, từ đó nảy sinh sự hiếu kỳ thích thú và

Bức tranh thơ Vũ trung sơn thuỷ - Non nước trong mưa được khảm xà cừ trên đố bản của gian chính điện Long An - Cố đô Huế.

muốn tìm hiểu nghiên cứu, giải mã bài thơ.

4.2 Nội dung thơ ca trong cương vị một Hoàng đế

Với cương vị Hoàng đế khác với danh sĩ thông thường ở chỗ ông đã dùng

thơ ca trong việc trị nước, đây là chủ đề nòng cốt xuyên suốt các tác phẩm thi ca

của Thiệu Trị. Trong toàn bộ tập thơ, chủ đề này được phác họa một cách rõ nét,

chiếm dung lượng khá lớn và truyền tải những nét chính: trị quốc an dân, chăm lo

nông nghiệp, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng thuận lợi.

4.2.1 Vận dụng tư tưởng Nho giáo trong trị quốc an dân

Triều Nguyễn cai trị đất nước lấy Nho giáo làm gốc và bản thân Thiệu Trị

cũng được vua cha Minh Mạng hoạch định rõ con đường cai trị đất nước theo tư

tưởng này. Nho giáo đề cao thiên mệnh, vua xưng là thiên tử, phụng mệnh trời cai

trị muôn dân cho nên nghi thức tế đàn Nam Giao là một trong những phép điển

quan trọng hàng đầu của chế độ phong kiến, là cầu nối giữa Hoàng đế với càn khôn

vũ trụ. Vậy trước khi làm lễ cáo trời đất phải trai giới nghiêm ngặt, có nghĩa là

kiêng giữ mọi phép tắc để cho thân tâm trong sạch. Trai cung là hành cung thuộc

đàn Nam Giao, nơi để nhà vua tịnh tâm trước khi tiến hành tế lễ.

Với tư cách Hoàng đế, Thiệu Trị luôn ấp ủ ước nguyện cho Hoàng triều được

dài lâu, muôn dân ấm no, ước nguyện này của ông thể hiện qua việc noi theo pháp

chế tiên vương, thân chinh ngự giá kính sự tế Giao. Đồng thời ông còn bày tỏ nỗi

138

lòng qua việc sáng tác 10 bài minh khắc vào biển đồng treo ở Trai cung

(迎遵聖製於齋宮栽 松十株各銘銅牌懸示來許). Nội dung những bài minh với

hàm ý cầu nguyện cho đất nước thanh bình, Hoàng triều hưng thịnh dài lâu, vững

Tuân y gia pháp Tuân theo gia pháp Giá hạnh trai cung Ngự đến trai cung Thân trồng cây tốt Thân tài gia thụ Vĩnh đối thần phong. Mãi xứng cung vua. (其一, Kỳ nhất)

遵依家法 駕幸齋宮 親栽嘉樹 永對宸楓. Vua ngự giá đến Trai cung, tuân theo phép điển Hoàng triều giữ gìn trai giới,

chãi như khí chất của cây tùng, được thể hiện qua những ý thơ:

cáo trời đất mong cho đất nước được mưa hòa gió thuận, muôn dân ấm no. Tùng là

loài cây tượng trưng cho khí chất người quân tử, hiên ngang giữa trời với tán cây

xanh mát che phủ với ý nghĩa che chở muôn dân. Nhà vua chính tay trồng cây tùng

百木爲長 萬古長存 負荷日月 矗翠乾坤.

(其三, Kỳ tam)

Bách mộc vi trưởng Đứng đầu trăm cây Vạn cổ trường tồn Muôn năm còn mãi Phụ hà nhật nguyệt Ngày tháng gánh vác Súc thúy càn khôn. Cao vút đất trời.

ở đàn Nam Giao để thể hiện ước nguyện lớn lao đó.

Cây tùng đứng đầu trong muôn cây, cao vút tượng trưng cho tinh thần bất

khuất, vững chắc đến muôn đời, hiên ngang trước phong ba bão táp. Rễ thiêng cuộn

sâu vào lòng đất, bóng mát trùm cả bầu trời, tuyên cáo khắp tứ phương, chính nơi

đây là muôn đời, (靈根蟠地/茂蔭際天/表端 四國/於萬斯年, Linh căn bàn địa/

Mậu ấm tế thiên/ Biểu đoan tứ quốc/ Ư vạn tư niên). Việc trồng cây tùng vững chắc

cao vút cạnh Thái đàn tượng trưng cho sự vững chãi của rường cột, nền móng nước

明哲君子 正直大夫 邦國之輔 伊呂之儔.

Minh triết quân tử Quân tử sáng suốt Chính trực đại phu Đại phu chính trực Bang quốc chi phụ Phò tá quốc gia Y Lữ chi trù.

Sánh cùng Y Lữ.

(其七, Kỳ thất)

nhà, gốc cành nối nhau nghìn vạn năm để quốc gia muôn đời vững mạnh.

Nho giáo đề cao phẩm chất người quân tử khi sống giữa cuộc đời, tuyệt đối

tránh xa hành vi tiểu nhân. Qua việc trồng cây tùng và sáng tác các bài minh treo ở

Trai cung, điều cốt yếu mà vua muốn nhắc nhở, răn dạy quần thần là hãy lấy khí

chất quân tử của cây tùng làm tôn chỉ sống và phò tá triều đình. Bậc quân tử phải

139

luôn sáng suốt, bậc đại phu phải luôn ngay thẳng, có nghĩa là không để quyền lực,

danh lợi, bổng lộc làm lu mờ tâm trí để rồi sa vào con đường tội lỗi, mặc cho lòng

tham lấn lướt mà vơ vét của công, bòn rút xương máu nhân dân để tư lợi cho bản

thân. Một trung thần phải lấy việc quốc gia xã hội làm trọng, một lòng phò tá quân

vương, dốc hết tài trí để phục vụ đất nước, lấy sự ấm no của muôn dân làm căn bản

thi hành thì đạo quân tử đại phu ngày một sáng. Chỉ vậy, mới có thể đứng vào hàng

ngũ những Y Doãn (phò tá Thành Thang lập nên nhà Thương), Lã Vọng Khương

Tử Nha (phò tá Chu Vũ Vương khai lập ra triều đại nhà Chu), là đại diện cho tấm

肇造先澤 培擁榮光 一本萬葉 百世無疆.

Triệu tạo tiên trạch Tiền nhân mở mang Bồi ủng vinh quang Bồi đắp vinh quang Nhất bổn vạn diệp Một gốc muôn cành Bách thế vô cương. Nối mãi muôn đời.

(其十, Kỳ thập)

lòng trung quân ái quốc vẹn toàn.

Kính sự tế Giao thể hiện sự tưởng nhớ công ơn sâu dày của các bậc tiền nhân

đã mở mang bờ cõi, bồi đắp cho được sáng mãi dài lâu. Từ một gốc mà sinh ra

muôn cành lá, tiếp nối mãi cho đến muôn đời. Các vị chúa Nguyễn mà mở đầu là

chúa Nguyễn Hoàng với tầm nhìn chiến lược xa rộng đã vượt dãy Hoành sơn vào

trấn thủ vùng đất Thuận Hóa. Từ đó các vị chúa kế tiếp không ngừng mở mang bờ

cõi về phương Nam tạo thành một thế lực vững mạnh Đàng Trong đối trọng với

Đàng Ngoài. Cho đến khi chúa Nguyễn Phúc Ánh thống nhất giang sơn thu về một

mối. Mở đầu triều đại nhà Nguyễn với niên hiệu Gia Long năm 1802, bờ cõi đất

nước đã đi vào ổn định, mọi định chế, phép điển đều thống nhất cho toàn quốc. Đặc

biệt ông được vua cha Minh Mạng hết lòng yêu thương dạy dỗ với kỳ vọng lớn lao

đã nuôi dưỡng ông thành tài. Chính vì ghi nhớ ơn đức cao dày của các bậc tiên

vương mà Thiệu Trị với vai trò người tiếp nối triều đại càng dốc lòng bồi đắp phép

điển, dùng đức sáng để cai trị thiên hạ, làm cho hoàng triều xương minh, để từ một

gốc mà sinh ra muôn cành lá tươi tốt nối mãi cho đến muôn đời.

Việc trị nước xem yên định bờ cõi là trọng sự, lúc này các tỉnh phía Bắc như

Sơn Tây, Tuyên Quang, Bắc Ninh, Thái Nguyên xảy ra nạn đạo tặc. Vua điều Tổng

đốc Sơn Hưng Tuyên Nguyễn Đăng Giai đến tuyên thị đức ý của triều đình, khiến

khiến những kẻ đạo tặc cải ác hoàn lương, từ đó bốn bể được yên bình. Vua ân cần

140

thăm hỏi những thành quả đạt được từ việc phủ dụ trong nước, các địa phương khắp

憂勤圖治撫盈成 Ưu cần đồ trị phủ doanh thành 德化承先正令行 Đức hóa thừa tiên chính lệnh hành 廾六地方無一盜 Củng lục địa phương vô nhất đạo 萬千閭里遂三生 Vạn thiên lư lý toại tam sinh 輸誠納款風埃淨 Thâu thành nạp khoản phong ai tịnh 變惡歸良海宇平 Biến ác quy lương hải vũ bình 振刷百爲安自得 Chấn xoát bách vi an tự đắc 憂勤圖治撫盈成. Ưu cần đồ trị phủ doanh thành. Ân cần thăm hỏi vỗ về trong nước được thành tựu Thừa hưởng đức tiên đế mà thi hành chính lệnh Hai sáu địa phương không có một tên ăn trộm Muôn nghìn làng mạc đầy đủ thỏa nguyện cuộc sống Các khoản thâu nộp qua gió bụi vẫn chân thật Chuyển ác về lương thiện bốn bể yên bình Việc chấn chỉnh trăm sự được ổn định Ân cần thăm hỏi vỗ về trong nước được thành tựu.

nơi đều gửi thiếp về báo tin thành công khiến cho nhà vua vui mừng mà cảm tác:

Trong 7 năm trị vì (1841-1847) của Thiệu Trị, vì được kế thừa thành quả của

hai triều vua trước nên tình hình đất nước Đại Nam cơ bản ổn định về mọi mặt.

Thiệu Trị đã sáng tác 10 bài thơ Phú đắc miêu tả sự yên bình thịnh trị của đất nước

tở nhiều phương diện như: Thiên hòa, Địa lợi, Hà thuận, Hải điềm, Nhâm tài, Cảm

hóa, Bảo định vũ công, Dân khang hộ tịch tăng… Trong đó, điều mà triều đình vô

cùng kỳ vọng chính là gia tăng nhân khẩu, bài thơ Phú đắc Dân khang hộ tịch tăng

phiền thịnh quốc thái bang cơ vĩnh cửu trường, đã thể hiện rõ điều mong mỏi đó của

三朝皆愛養 Tam triều giai ái dưỡng 九域共咸綏 Cửu vực cộng hàm tuy 蘇息安恬樂 Tô tức an điềm lạc 蕃昌富庶怡 Phiền xương phú thứ di 重千難悉擧 Trùng thiên nan tất cử 百萬尚零遺 Bách vạn thượng linh di 本固邦寧謐 Bổn cố bang ninh mật 延洪億載基. Diên hồng ức tải cơ.

Ba triều đều yêu thương nuôi dưỡng Khắp cõi đều được vỗ về an ổn Dân chúng nghỉ ngơi niềm an lạc Đông đúc nhiều phú quý ắt vui vẻ Thêm hàng nghìn, khó biết hết được Có đến trên cả hơn trăm vạn Bờ cõi được yên định bền chắc Vững mạnh kéo dài đến muôn ức năm.

Thiệu Trị.

Bài thơ kể về việc nuôi dưỡng, chăm lo cho muôn dân của “tam triều” (Gia

Long, Minh Mạng và Thiệu Trị), làm cho dân ngày một đông đúc hưng thịnh. Qua

những số liệu được chú thích trong bài thơ, có biết được dân số của nước ta đầu thời

141

Nguyễn, như sau: Gia Long nguyên niên (1802): 72 vạn 2.590 người đến năm thứ

18 (1819): 61 vạn 3.912 người; Minh Mạng nguyên niên (1820): 62 vạn 246 người

đến năm 1840 là 97 vạn 560 người; Thiệu Trị nguyên niên (1841) 92 vạn 5.184

người (đầu năm Thiệu Trị, khu vực trấn Tây nhà Nguyễn rút quân về và phong

vương cho nước Cao Miên nên dân số vùng này là 4 vạn 9.165 người không được

tính); năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) là 98 vạn 6.231 người và đến năm 1847 là 102

vạn 4.388; từ năm 1846 đến 1847 dân số tăng được 3 vạn 8.157 người.

Thiệu Trị có nhiều sáng tác thể hiện quan điểm cai trị đất nước, mà trong đó

ông đề cao các giá trị tư tưởng của kinh điển Nho giáo. Trong trị quốc, Thiệu Trị

với tôn chỉ tuân theo hai vị tiên vương khi mọi định chế về chính sự, kinh tế, quân

sự đều đã được hoàn bị trước đó. Đặc biệt là vâng theo những lời giáo huấn của

Hoàng khảo, lấy tư tưởng Nho giáo cai trị đất nước. Để khắc ghi lời dạy đó, vua đã

sáng tác hai bài minh theo đồ dạng hình tròn độc đáo, sau đó khắc ở thư phòng và

trên văn bảo để hằng ngày tự răn mình. Bài thứ nhất là Ngự diên văn bảo lấy tư

明理正心 Minh lý Chính tâm

Làm sáng tỏ đạt được Chính tâm

行止敬欽. Hành Chỉ kính khâm.

Thi hành đều kính theo Chỉ thiện.

tưởng trong sách Đại học:

Thiệu Trị khi còn là Hoàng tử đã được vua cha Minh Mạng cho đến nhà đọc

sách và chỉ dạy Đạo của sách Đại học, ba cương lĩnh, tám điều mục, cốt yếu ở chỗ

Chí thiện. Hoàng tử Miên Tông nhân đó đặt tên là Chỉ Thiện Đường. Sách Đại học

dạy: Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện 大學之道,

在明明德, 在親33民, 在止於至善. Chỉ ư chí thiện là giá trị cốt lõi của sách Đại học,

là đạo của bậc quân vương. Phương pháp học đạo của bậc đại nhân là suy xét đức

tính nơi mình cho sáng tỏ. Tự mỗi người đều có đức tính ấy, đối với kẻ chưa suy xét

thì nó chưa hiện ra gọi là minh minh đức. Đức mình sáng tỏ rồi mới đem chỉ bày cho

người khác để lìa cái dở theo cái hay, lìa cũ theo mới gọi là tân dân. Rồi mình chọn

lấy mức trọn lành mà theo và ở yên nơi mức đó gọi là chỉ ư chí thiện. Khi đã chọn

mức trọn lành mà ở yên nơi đó thì chí hướng mới quyết định. Chí hướng đã có thì

tâm khí mới tĩnh, thanh tịnh rồi mới an. An rồi sau đó mới suy xét rõ sự lý. Suy xét

33 Theo Nhà Hán học Đoàn Trung Còn, chữ 親, ngày xưa đọc là tân, nay đọc là thân. Vậy nên đọc theo nghĩa xưa là: Tân.

rồi mới đạt mức trọn lành.

142

Chính tâm, sách Đại học dạy: Tu thân, tại chính kỳ tâm 修身, 在正其心,

muốn tu chỉnh thân mình thì trước hết phải giữ cho lòng mình ngay thẳng. Lòng

ngay thẳng thì khi đó chúng ta mới phán xét sự lý được phân minh. Khi lòng hờn

giận, sợ sệt hay ham vui sướng thì lòng mình không thể ngay thẳng được. Sách Đại

học dạy tiếp: Lòng mình chẳng được ngay thẳng thì mắt nhìn nhưng chẳng thấy, tai

nghe nhưng chẳng nghe, miệng ăn nhưng chẳng cảm được mùi vị. Vì vậy tu thân là

chính tại giữ lòng ngay thẳng, (Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn,

thực nhi bất tri kỳ vị. Thử vị tu thân, tại chính kỳ tâm 心不在焉, 視而不見,

聽而不聞, 食而不知其味. 此謂修身, 在正其心).

Muốn giữ lòng được ngay thẳng (chính tâm) thì cần phải làm cho ý thành

thật. Muốn cho ý thành thật thì cần phải làm cho trí chu đáo. Muốn trí được thấu

đáo thì phải nghiên cứu sự vật, (Dục chính kỳ tâm giả tiên thành kỳ ý. Dục thành kỳ

ý giả tiên trí kỳ tri. Trí tri tại cách vật 欲正其心者, 先誠其意. 欲誠其意者,

先致其知. 致知在格物). Như vậy, việc thấu tỏ mọi sự lý là điều kiện tiên quyết

trong việc sửa mình. Lòng chỉ ngay thẳng khi nó được an định. Đây là trạng thái

tịch tĩnh của thân và tâm. Một con người bất kể là bậc quân vương, quan hầu hay

thứ dân, muốn tu được thân thì phải giữ cho lòng ngay thẳng, an định. Đối với đạo

quân vương là tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, phải giữ được lòng ngay thẳng

(chính tâm) thì mới tu được thân, tu thân rồi mới sắp đặt nhà cửa chỉnh tề, nhà cửa

được chỉnh tề thì mới cai trị được đất nước, trị được nước yên ổn mới làm cho thiên

hạ được thái bình.

Trong bài minh Nhật trường giảng tụng, về Kinh Thi, Kinh Thư trong Ngũ

日樂詩書 Nhật lạc Thi Thư

Ngày vui đọc Kinh Thi, Kinh Thư

述作時餘.

Thuật tác thời dư. Giành thời gian thực hành noi theo.

Kinh của Nho giáo:

Tứ Thư, Ngũ Kinh là đạo trị quốc của người quân tử theo tư tưởng Nho giáo.

Kinh Thi và Kinh Thư là hai trong Ngũ Kinh. Kinh Thi là bộ sách kinh điển của Nho

giáo, một kiệt tác văn học tổng tập thơ ca tiền cổ của Trung Quốc. Kinh Thư hay

còn gọi là Thượng Thư là sách ghi chép sử các vua từ thời thượng cổ Hạ, Thương,

Chu… để cho các vị vua đời sau noi theo các bậc minh quân như vua Nghiêu, vua

Thuấn, vua Vũ… không tàn bạo như Kiệt, Trụ để rồi mất nước. Với ý nghĩa to lớn

143

như vậy Thiệu Trị đã sáng tác bài minh và được đặt ở ngự thư phòng để ngày ngày

lấy đó răn mình chẳng dám quên tụng đọc Thi Thư. Nhà vua tự nhắc nhủ bản thân

phải giành nhiều thời gian trong ngày để nghiên tầm và thực hành.

Qua nội dung chính của hai bài minh là Chính tâm, Chí thiện, đọc tụng Thi,

Thư, Thiệu Trị cốt là để răn mình vâng theo lời răn dạy của vua cha Minh Mạng, lấy

đó làm tôn chỉ trị quốc an dân, phải làm cho đất nước thịnh vượng, yên bình, nhân

dân phải được cơm áo đầy đủ. Tự bản thân phải luôn sửa đổi, noi theo phép của các

bậc tiên thánh. Đó cũng là cách vâng theo cổ nhân chăm lo trị quốc an dân, tránh

việc buông lỏng bản thân theo những thú vui trần tục mà quên đi sơn hà xã tắc. Tất

cả cũng với mong muốn an bang tế thế.

4.2.2 Chấn hưng văn trị

Hoàng đế làm thơ thì dụng ý văn chương thường không chỉ là bày rỏ tâm tư

hay tức cảnh sinh tình mà quan trọng là dùng văn chương để cai trị thiên hạ. Chính

ngay trong lời biểu tấu của triều thần cũng giải thích rõ ý này: Ban hành [tập thơ]

mục đích để xiển hóa nguồn mạch, làm sáng tỏ thể dụng của nền văn trị (頒行以闡

化源用光文治事 Ban hành dĩ xiển hóa nguyên dụng quang văn trị sự). Thiệu Trị lên

ngôi và trị vì trong thời kỳ đất nước đã hoàn toàn ổn định, mọi định chế, binh bị,

hành chính đều đã chu toàn, ông chỉ tiếp tục duy trì kỷ cương, phép tắc đã được

hoạch định rõ ràng mà hiếm khi thi hành cải cách. Thiệu Trị thường bàn luận với cận

thần rằng: “Văn vật nước ta không kém gì Trung Quốc” [64, tr.529], chứng tỏ ông

luôn ý thức rõ ràng và tự hào về truyền thống hàng ngàn năm văn vật, văn hiến của

dân tộc Việt. Trong lời tựa Ngự chế thi sơ tập, ông viết: “Hoàng khảo Thánh Tổ

Nhân Hoàng đế của ta giáo hóa không bờ bến, muốn làm tăng sự xiển dương nền văn

phong nước Đại Nam ngày càng thêm lớn, (Hoàng khảo Thánh Tổ Nhân Hoàng đế

vô cương chi giáo, tư ích xiển ngã Đại Nam phi chấn văn phong, 皇考聖祖仁皇帝

無彊之教思益闡我大南丕振文風)” [107, tr.7b]. Cho nên việc thi hành chính sách

xiển dương văn phong cũng là vâng theo tiên đế. Ông giành thời gian để nghiên tầm

văn chương cổ kim, mở nhiều khoa thi để chọn nhân tài, khuyến khích sáng tác văn

chương. Từ đó, khiến phong trào sáng tác văn chương phát triển ngày càng sôi nổi

trong xã hội, từ quan lại cho đến Nho sĩ, nhân tài đều quy tụ về kinh đô, cảnh tượng

náo nhiệt đó được miêu tả qua bài thơ Phú đắc Chấn hưng văn trị ngự quần phương:

144

臨軒親制策 Lâm hiên thân chế sách

Ngự đến nhà ngoài thân chế sách lược

恩典廣掄才 Ân điển quảng luân tài

Ban ân điển mở rộng chọn nhân tài

秋試連年擧 Thu thí liên niên cử

Mùa Thu kỳ thi liên tục được tiến cử

春科繼序開 Xuân khoa kế tự khai

Mùa Xuân các khoa kế tục mở ra

使能隨槳拔 Sứ năng tùy tưởng bạt

Tùy năng lực khuyến khích đề bạt

爲治裕豐來 Vi trị dụ phong lai

Nền cai trị phồn thịnh tự nhiên đến

盛世羣才集 Thịnh thế quần tài tập

Đời hưng thịnh quần tài câu hội

明時衆妙該 Minh thời chúng diệu cai.

Sáng thời khắp cả đều tuyệt diệu.

Trong thời gian trị vì từ 1841 đến 1847, ông đã ban hành tổ chức được 11 kỳ

thi Hương; 5 kỳ thi Hội; 5 kỳ thi Đình, trong đó có hai Ân khoa, cụ thể như sau:

Thứ nhất, Ân khoa Tân Sửu (1841), tháng 3 Thi Hội; tháng 5 Thi Đình; Thứ hai, Ân

khoa Nhâm Dần (1842), tháng 5 Thi Hội; tháng 6 Thi Đình; Thứ ba, Khoa Quý

Mão (1843), tháng 3 Thi Hội; tháng 5 Thi Đình; Thứ tư, Khoa Giáp Thìn (1844),

tháng 3 Thi Hội; tháng 5 Thi Đình; Thứ năm, Khoa Đinh Mùi (1847), tháng 3 Thi

Hội; tháng 4 Thi Đình. Điều này thể hiện rõ chủ trương chú trọng tuyển chọn nhân

tài, chấn hưng văn phong đất nước trong chính sách cai trị của vua Thiệu Trị.

Vua ban hành chính sách chấn hưng văn trị, ngoài việc ân điển nhiều khoa

thi để tuyển chọn nhân tài, vua còn đặc biệt quan tâm đến đồ án giảng dạy cho học

trò. Vua đích thân ngự chế chín thiên cổ thể về Thiên cao, địa hậu, phúc tải quần

sinh, tam cương, ngũ thường phỏng theo tư tưởng Nho giáo, để gia ân đến các giảng

đường cho học trò tu tiến. Nội dung chính của 9 thiên như sau: Cao minh 高明 (đức

sáng của trời cao); Bác hậu 博厚 (đức sâu dày của đất); Sủng tuy 寵綏 (vỗ về ban

ân huệ); Trung lương 忠良 (lương thần trung nghĩa); Từ ái 慈愛 (yêu thương);

Hiếu đễ 孝悌 (kính thuận với người lớn hơn mình); Tạo đoan 造端 (kiến tạo đứng

維彼蒼蒼

Duy bỉ thương thương Trời kia xanh xanh

厥類惟章

Quyết loại duy chương Chỉ có văn chương

浩浩元氣

Hạo hạo nguyên khí Mênh mông nguyên khí

六極五常.

Lục cực ngũ thường. Cùng cực ngũ thường. (高明, Cao minh)

đắn); Hữu vu 友于 (hiếu thuận anh em); Chỉ tín 止信 (đề cao trung tín).

Vua cốt yếu lấy năm điều Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí - Tín mà dạy học trò phải

suy xét rốt ráo nghĩa lý, lấy đó làm tôn chỉ tu tiến thân tâm. Người quân tử học đạo

145

thánh hiền phải thấy được ơn lớn của trời cao, tu dưỡng đầy đủ năm đức tính này.

Nhân (仁) là cung cách người đối xử với người trong tình thương yêu, cái mình

không muốn thì chớ làm cho người (己所不欲, 勿施于人). Lễ (禮) là bao gồm các

việc thờ cùng thánh hiền, tiền nhân. Nghĩa (義) là khí chất con người sống vì lẽ phải.

Trí (智) là trí thức suy xét hành động cho đúng, quan trọng hơn cả là nắm được

thiên mệnh. Tín (信) là uy tín, đã nói điều gì thì phải thi hành. Thiệu Trị muốn cho

廣大博厚 含通吐靈 循里以作 無爲以寧.

Quảng đại bác hậu Đất dày rộng lớn Hàm thông thổ linh Hàm chứa tánh linh Tuần lý dĩ tác Vô vi dĩ ninh.

Theo lí mà làm Vô vi mà an.

(博厚, Bác hậu)

học trò hiểu rõ đạo lý người quân tử, dốc lòng phò tá quân vương, chăm lo thiên hạ.

Đức của đất là sâu dày tĩnh mặc, rộng lớn có thể dung chứa tất cả, nuôi

dưỡng sinh linh, muôn loài nhờ đó mà sinh trưởng. Thừa hưởng đức tính đó, thì

người quân tử khi thi hành mọi sự đều theo lý mà làm, lấy tinh thần vô vi mà an

định mọi việc. Vô vi (無爲) đây chính là tư tưởng của Lão Tử, đã được nhà vua vận

dụng vào sáng tác. Vô vi có nghĩa là không làm gì mà không gì là không làm (無為

而無不為), đứng trước sự việc mà chúng ta không biết phải làm thế nào thì tốt nhất

không nên làm, thiên nhiên vũ trụ đã vận hành theo quy trình của nó, chúng ta

không nên can thiệp làm lệch quy trình đó. Vô vi không có nghĩa là không làm gì,

有爲畏天之威 Hữu vi úy thiên chi uy Luôn kính sợ oai trời 于時保之堯 Gìn giữ như vua Nghiêu Vu thời bảo chi Nghiêu 兢兢舜業業 Căng căng Thuấn nghiệp nghiệp Kiêng dè như vua Thuấn 一日二日萬幾. Nhất nhật nhị nhật vạn cơ.

Ngày ngày cần xét nét.

nhưng cần hòa hợp với Đạo và cần làm những việc cần thiết.

Khi thi hành chính sự, vua luôn kính cẩn noi theo phép điển các bậc tiên

vương. Vua Nghiêu Thuấn là điển hình cho việc trị quốc lấy nhân nghĩa làm đầu, là

thời đại mà các triều đại sau đều ngưỡng vọng, trọng kẻ sĩ, ngôi vua truyền hiền mà

không truyền tử, lấy lợi ích của muôn dân, sơn hà xã tắc làm trọng. Qua đó, vua

muốn răn dạy người quân tử luôn phải chỉnh đốn bản thân cho ngay thẳng, để không

phạm phải sai lầm. Phàm làm điều gì thì luôn có trời xanh soi xét, Nho giáo luôn đề

cao thiên mệnh, người quân tử phải nắm bắt và thi hành theo thì mới hiên ngang

sống giữa đất trời.

146

4.2.3 Thương dân, chăm lo nông nghiệp

Thiệu Trị là một vị vua ôn lương hoà nhã, đặc biệt thương dân, tấm lòng này

thể hiện rất rõ trong các sáng tác của ông. Lời thơ có lúc thể hiện sự quan tâm đến

thời tiết để mong cho mùa màng thuận lợi, hay khi nghe tin thóc lúa được mùa biết

dân sẽ no đủ mà an lòng và cũng xót xa khi nghe sâu bệnh phá hoại lúa má, nước lũ

dâng cao khiến cho mùa màng bất lợi. Tựu chung đều thể hiện tấm lòng thương dân

như “con đỏ” của vua Thiệu Trị. Có lúc, nhà vua đêm khuya ngồi trong cung thần,

nghe tiếng mưa trên mái nhà, chạnh lòng thương người dân đang cấy gặt ngoài đồng

Quế điện xao văn tri nhuận trạch Lan đình tống phức truất kỳ anh Kê thanh sạ hiết vũ thanh tế Tân khổ kham lân giá sắc đinh.

桂殿敲聞知潤澤 蘭庭送馥茁奇英 鷄聲乍歇雨聲細 辛苦堪憐稼穡丁. Điện quế nghe tiếng mưa rơi biết đã thấm nhuần Trước sân lan thoảng hương đưa, cỏ cây nảy mầm Tiếng gà vừa dứt nghe mưa nhẹ rơi dần Thương dân kham khổ cấy gặt cánh đồng xa.

(Vũ thanh, kỳ nhị)

xa trong giá rét:

Nông nghiệp đóng vai trò chủ lực đối với nền kinh tế của các triều đại phong

kiến. Lương thực đầy đủ thì đất nước mới được yên ổn, dân mới được ăn no, quân sự

mới có lương thảo để phòng bị biên cương hay chinh phạt. Vì vậy nông nghiệp chính

là mối quan tâm hàng đầu trong việc trị quốc. Vì vậy vua Thiệu Trị cũng luôn canh

今年睛雨慶時和 Kim niên tình vũ khánh thời hòa 寒煖無偏好事多 Hàn noãn vô thiên hảo sự đa 開霽昨欣豐瑞粟 Khai tễ tạc hân phong thụy túc 霑膏斯喜長新和. Triêm cao tư hỷ trường tân hòa. Năm nay trời quang tạnh mừng thời tiết được điều hòa Lạnh ấm không nghiêng lệch nhiều sự việc được tốt Hôm qua trời hửng vui điềm tốt lúa thóc lại được mùa Thấm nhuần mưa móc, mừng cây lúa được sinh trưởng. (季秋, Quý thu)

cánh trong lòng ước nguyện về một mùa màng bội thu:

Noi theo tư tưởng trị quốc “huệ dân mẫn nông” của vua cha Minh Mạng,

ông luôn một lòng chăm lo người dân vất vả vì công việc đồng áng. Thời tiết ở kinh

đô Phú Xuân cứ hễ vào thu là bắt đầu vào mùa mưa lũ bất thường. Nhà vua đang lo

lắng nước lũ sẽ về sớm trong hạ tuần tháng tám âm lịch, lúa thì đương chín, dân lại

gặt hái chưa xong, nhưng rồi nghe tin vụ mùa được thu hoạch sớm trước lũ, nhà vua

147

bỗng chốc cảm thấy yên lòng. Ông không quên cảm tạ trời cao đã đoái thương con

dân của mình mà cho một năm khí hậu ôn hòa, mùa bội thu, dân mừng vui, bài thơ

Trọng thu hòa thục thời hậu dư khủng trị lạo tấn chi kỳ mỗi vi nông ưu thường hữu

mặc đảo hà hạnh được ông sáng tác theo điệu cách Thủ vỹ ngâm càng làm nhịp điệu

Kim niên hảo đắc triệu thiên hòa Bách tính hàm hân thắng sự đa Tình hợp khả tư càn sái túc Lạo trì kham tất ngải thu hòa Phồn phong châu quận gia gia lạc Ôn bão thương tương xứ xứ ca Dần cảm hạo từ thùy quyến hựu Kim niên hảo đắc triệu thiên hòa.

今年好得兆天和 百姓咸欣勝事多 睛合可資乾晒粟 潦遲堪悉刈收禾 繁豐洲郡家家樂 温飽倉箱處處哥 寅感昊慈垂眷祐 今年好得兆天和. Năm nay được điềm tốt khí trời ôn hòa Trăm họ cùng mừng vui thắng lợi nhiều Trời tạnh ráo cùng có thể phơi khô thóc Lũ đến chậm đợi được thu hoạch xong Khắp châu quận phồn thịnh nhà nhà vui Rương đầy thóc ấm no nơi nơi hát mừng reo Kính cẩn trời xanh rủ lòng thương cảm hộ trì Năm nay được điềm tốt khí trời ôn hòa.

câu thơ thêm phần hân hoan.

Chú trọng việc nông nghiệp là tuân theo phép điển tiền nhân, vua đích thân

cày ruộng trong lễ Tịch điền để lấy làm gương cho thiên hạ, lấy đó làm điều răn dạy

các quan phải chăm lo cho nông nghiệp. Trong một lần cày ruộng dịp đầu năm, nhà

vua đã nói với quần thần rằng: “Vua cày ruộng Tịch điền để khuyên bề tôi chú trọng

việc làm ruộng, dẫn đầu cả thiên hạ trọng việc làm ruộng” [64, tr.846]. Đến mùa thu

hoạch, vua đi thăm ruộng Tịch điền, thân hành tự tay gặt lúa và sai Hoàng tử xuống

ruộng gặt lúa để thấu hiểu nỗi cơ cực của người nông phu. Được mùa bội thu, vua rất

mừng, dụ rằng: “Lúa ruộng các địa phương năm nay đều thu hoạch được nhiều, ta

rất mừng cho muôn dân, nay ruộng Tịch điền của nhà vua đã thu hoạch được, kính

dùng vào việc tế tự, có thể bày tỏ được tấm lòng thành hiếu” [64, tr.674]. Thiệu Trị

là một vị vua yêu thơ văn và am tường thể cách thi pháp, cho nên sự quan tâm mùa

màng, những vấn đề chính yếu của đất nước cũng được biểu hiện một cách đặc biệt.

Một bài thơ được Thiệu Trị sáng tác theo Thể tạp số, thứ tự tăng dần từ một cho đến

148

ức triệu thể hiện sự lo lắng cho vụ mùa nông nghiệp, được vận dụng hài hòa giữa con

Nhất nhân bào dữ duy dân vật Nhị tự ưu cần thuận vũ dương Tam phục dĩ quá tiêu khốc thử Tứ thời tiệm kiến nhạ tân lương Ngũ canh tạc đắc triêm cao nhuận Lục hợp kim khai ái thự quang.

一人胞與惟民物 二字憂勤順雨暘 三伏已過消酷暑 四時漸見迓新涼 五更昨得霑膏潤 六合今開靄曙光. Một người vì đồng bào, nghĩ cho muôn dân vạn vật Hai chữ ưu cần, mong cho mưa thuận trời quang Ba cúi đầu cầu mong vượt qua nắng khô hạn tiêu tan Bốn thời dần dần thấy được sự tươi mát mới mẻ Năm canh đêm trước đạt được sự thấm nhuần ân trạch Sáu hòa hợp khí mây vén mở ánh rạng đông xuyên qua

số và sự việc, tạo thành một thể thống nhất:

Mở đầu bài thơ là với số một, một người (nhất nhân, 一人) vì tình đồng bào

mà suy nghĩ cho muôn dân vạn vật. Một người chính là Thiệu Trị, tấm lòng của nhà

vua với muôn dân không còn là nghĩa quân thần nữa mà là ý nghĩa cao cả của tình

đồng bào, dân tộc thiêng liêng. Vì tình đồng bào đó mà hai chữ siêng năng lo nghĩ

(ưu cần, 憂勤) luôn thường trực trong suy nghĩa của nhà vua và mong cho mưa

thuận trời quang. Lo nghĩ thì luôn phủ phục (tam phục, 三伏) trước trời cao đất dày

để mong cho cơn nắng hạn tiêu tan, để cho bốn mùa (tứ thời, 四時) điều hòa. Năm

canh (ngũ canh, 五更) thâu được ơn mưa móc thấm nhuần, sáu mong hòa hợp (lục

lợp, 六合) sương mù ngùn ngụt lúc rạng đông. Tất cả là những dấu hiệu cho thấy

Thất nguyệt bân phong tồn niệm lự Bát hoành đoái trạch ủy chiêm vọng Cửu cù tễ liễu hồn sinh sắc Thập mẫu thu hạ thượng bá phương.

七月豳風存念慮 八紘兌澤慰瞻望 九衢霽柳渾生色 十畝秋荷尚播芳. Tháng bảy gió bân thổi suốt khiến suy nghĩ âu lo Tám ban ân trạch thăm hỏi mà trông về nơi xa Chín đường lớn mưa tạnh hửng trời liễu cùng sinh sắc Mười mẫu ruộng mùa thu còn vung vãi hương thơm.

một năm với thời tiết ôn hòa thuận lợi.

Đây là nhịp điệu của tiết trời mùa thu hoạch. Tháng bảy (thất nguyệt, 七月)

gió bân còn thổi cũng khiến phải suy nghĩ lo âu, tám giềng mối (bát hoành, 八紘) đã

149

ban ân trạch trông ngóng thăm hỏi, chín đường mây (cửu cù, 九衢) mưa tạnh hửng

Bách hủy Nam cương sương bất phạ Thiên thăng Bắc lý mạch hoàn nhương Vạn gia khả bốc phong niên lạc Ức tải thâm kỳ thứ sự khang Triệu tính hương thôn hân án đổ Kinh đô cung khuyết tập trinh tường.

百卉南疆霜不怕 千塍北里麥還穰 萬家可卜豐年樂 億載深期庶事康 兆姓鄉村欣案堵 京都宮闕集禎祥. Trăm hoa cỏ phương Nam chẳng e ngại sương gió Nghìn thửa ruộng muôn dặm đất Bắc còn sum suê Có thể biết muôn nhà một năm phồn thịnh an vui Ức năm kỳ hẹn nhiều sự việc được yên ổn Triệu tính xóm làng vui công án được vững vàng Kinh đô cung điện lầu gác tập hợp điềm tốt lành.

trời, mười mẫu ruộng (thập mẫu, 十畝) đến mùa thu hương thơm tỏa khắp.

Nhà vua đứng ở kinh đô mà trông về hai miền Nam Bắc, nhận được tin báo

trăm loài hoa màu (bách hủy, 百卉) ở phương Nam chẳng e ngại sương gió, nghìn

thửa ruộng (thiên thăng, 千塍) nơi đất Bắc vẫn luôn tươi tốt thì cũng an lòng. Đó là

dấu hiệu vui mừng có thể đoán biết muôn nhà (vạn gia, 萬家) được một năm phồn

thịnh, ức năm (ức tải, 億載) muôn việc được đầy đủ an khang. Triệu nhà (triệu tính,

兆姓) xóm làng mừng vui vững vàng, kinh đô lầu gác hợp điềm lành.

Những bài thơ về nông gia của Thiệu Trị, chúng ta cảm nhận như những giai

điệu mùa màng, cày cấy, gặt hái của người dân. Hơn hết đó là tiếng lòng trắc ẩn lo

toan, có âm thanh mừng vui của tác giả là một vị vua đứng đầu thiên hạ.

4.3 Nội dung văn chương trong tư cách một thi nhân

Ngoài tôn chỉ lấy văn chương để cai trị thiên hạ dưới tư cách của một vị

Hoàng đế, Thiệu Trị cũng là một thi sĩ yêu phong cảnh thiên nhiên, tức cảnh sinh

tình, xuất khẩu thành thơ, đứng trước một cảnh vật hữu tình non nước bao giờ cũng

gợi trong tác giả cảm hứng thi ca bất tận. Tình cảm đối với thi sĩ Miên Tông là tình

yêu non nước quê hương, là tình yêu đối với vua cha, với muôn dân, tình cảm đó

được gửi gắm vào những lời thơ mộc mạc chân tình.

4.3.1 Tình cảm với vua cha

Thiệu Trị luôn một lòng chí hiếu với vua cha. Ông sinh ra được 13 ngày thì

mẹ mất, được Hoàng tổ khảo và Thuận Thiên Cao Hoàng hậu chăm nom, đặc biệt là

150

vua cha Minh Mạng đã hết lòng yêu thương dạy dỗ để ông có đủ tư cách kế vị. Ông

luôn một lòng kính ngưỡng, không hề trái ý và luôn kề cận vua cha để học hỏi, giữ

Hàn dạ chung trầm vũ hựu phong Sầu khuê sắc dưỡng lịch tam đông Truyền tâm di huấn lương quy tại Nhiễu tất thừa hoan vãng sự không.

寒夜鐘沈雨又風 愁暌色養歷三冬 傳心遺訓良規在 繞膝承歡往事空. Đêm mưa gió lạnh tiếng chuông vọng đưa Sầu xa cách dung mạo nuôi dưỡng đã ba đông Truyền tâm lời di huấn vẫn luôn thường tại Nương vui dưới gối cha muôn sự đều không.

trọn hiếu đạo. Hai bài thơ Ức tích thể hiện nỗi mong nhớ vua cha của ông:

Bài thơ này, được viết sau khi vua Minh Mạng mất 3 năm. Giữa đêm lạnh,

thi sĩ ngồi lắng nghe tiếng chuông văng vẳng trong tiếng gió mưa, như lòng ông 3

năm qua vì cách trở với vua cha mà luôn day dứt nỗi sầu muộn không nguôi. Ông

luôn nhớ thương khắc khoải những phút giây vui vầy dưới gối cha, đồng thời người

Trường đoạn mộng kinh sơ thị vấn Nhân sinh bi cực cách âm dung Du du mông mật thương thiên ngoại

腸斷夢驚疎侍問 人生悲極隔音容 悠悠濛密蒼天外 寒夜鐘沈雨又風. Hàn dạ chung trầm vũ hựu phong. Hầu tham vấn chợt tỉnh mộng sầu não ruột Đời người đau cùng cực khi cách trở dáng hình Dằng dặc ngoài trời cao mưa nhẹ rơi Đêm mưa gió lạnh tiếng chuông vọng đưa. (憶昔其二, Ức tích - kỳ nhị)

con hiếu thuận luôn khắc ghi di huấn sau cùng của vua cha trong tâm thức.

Nỗi đau đớn day dứt tưởng chừng như đoạn trường của người con lên đến

đỉnh điểm khi trong giấc mộng vẫn còn hoài tưởng được hầu cạnh bên cha. Đời

người còn nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau cách trở âm dương, muốn nghe nhưng

không còn tiếng, muốn nhìn nhưng người chẳng còn đây. Câu thơ “Nhân sinh bi

Nan kham ức tích nhật thừa ân Chỉ hiếu tư trung phụng thánh nhân Tức mộc thừa chu phương huấn chính Xưng thương vũ thải chính ngu thân.

難堪憶昔日承恩 止孝思忠奉聖人 息木乘舟方訓政 稱觴舞綵正娛親. Khó lòng quên được lúc xưa ngày ngày được thừa ân Nay duy chỉ có hiếu và trung tuân mệnh thánh nhân [vua cha] Tựa cây ngồi thuyền mọi nơi vâng theo khuôn phép dạy bảo Uống rượu xem múa tiêu khiển đều ngay thẳng.

cực cách âm dung” đã khắc hoạ rõ nét nỗi bi thương cùng cực của Thiệu Trị.

151

Để tưởng nhớ công ơn của vua cha, mỗi ngày ông vâng mệnh thi hành hiếu

trung, phụng dưỡng thờ đức Thánh tổ mẫu, thờ cúng các bậc tiên vương và chăm lo

chính sự không sao nhãng, như vậy thì dẫu cách trở cũng vẫn như kề bên hầu cận.

Mọi lời dặn dò của vua cha ông đều nhất nhất thi hành, thể hiện sự hiếu trung chuẩn

mực, nghỉ ngơi hay đi thuyền, mọi việc làm đều vâng theo khuôn phép, đến cả việc

uống rượu xem múa hát cũng giữ thân mình cho được ngay thẳng. Điều này phản

ánh đúng phẩm chất ôn nhu hiền hòa của Thiệu Trị, không tham đắm trong hưởng

Thiên trường địa cửu tâm hoài cựu Thử vãng hàn lai nhãn giới tân Sương lộ cảm thời tăng luyến mộ

天長地久心懷舊 暑往寒來眼界新 霜露感時增戀慕 難堪憶昔日承恩. Nan kham ức tích nhật thừa ân. Trời cao đất dày chứng cho tấm lòng luôn nhớ ơn xưa Hè qua đông tới con mắt nhìn thế sự ngày càng mới Sương móc thấm nhuần lòng cảm mộ càng tăng thêm Khó lòng quên được lúc xưa ngày ngày được thừa ân.

(憶昔其一, Ức tích – kỳ nhất)

thụ dục lạc, chỉ một lòng gìn giữ giềng mối nước nhà.

Tấm lòng thương tưởng đến vua cha của ông được thể hiện rất rõ qua việc

luôn noi theo những chính sách cũng như mọi định chế mà vua Minh Mạng đã hoạch

định, để gìn giữ giềng mối. Nỗi nhớ thương vua cha có trời đất chứng giám, hè qua

đông tới con mắt nhìn việc đời càng thêm sáng, lòng luyến mộ như mưa móc thấm

nhuần, khó lòng quên được ngày tháng hầu cận thừa hưởng ân đức bên vua cha.

4.3.2 Hình tượng con người, thiên nhiên trong thơ Thiệu Trị

Một nội dung khác được phản ánh tương đối rõ nét trong thơ Thiệu Trị chính

là sự đồng cảm với nỗi vất vả nhọc nhằn của người dân. Hình tượng con người

được khắc họa trong thơ ông luôn mang vẻ mộc mạc, bình dị, là những người chăn

trâu, người tiều phu, lão ngư phủ, là tiếng học đồng thanh của lũ trẻ, của người thiếu

phụ đập vải bên bờ sông… là vị Hoàng đế nhưng thơ ông lại bình dị lạ thường,

những quang cảnh sinh hoạt thường nhật của muôn dân đều được ông trân trọng

khắc hoạ vào thi ca. Điều này cũng góp phần minh chứng rõ nét quan điểm làm vua

của Thiệu Trị, rằng quân vương không nên chỉ biết ngôi cao trên vương tọa mà phải

thực sự mục kích những bình dị nhân sinh khi hân hoan hạnh phúc và cả khi thống

khổ bi thương, để có thể thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc với con dân của mình.

152

Đoài sơn tịch chiếu trám minh ba Tốn nhị khinh thôi phiếm đĩnh quá Chấn nhiếp ngư hà kinh điếu võng Cấn tri âu lộ bạn giang hà Nhàn khán thiên ngoại vân Ly hợp Bất lụy trần trung lộ Khảm kha Vạn hác Khôn dư tùy sở ngộ Nhất chung Càn trúc trợ thanh ca.

兌山夕照蘸明波 巽二輕催泛艇過 振懾魚鰕驚釣網 艮知鷗鷺伴江河 閒看天外雲離合 不累塵中路坎軻 萬壑坤輿隨所遇 一鐘乾竺助清歌. Ánh nắng chiều xuyên qua núi rọi sáng con sóng Hai mái chèo nhẹ buông thuyền trôi đi Khiến lũ tôm cá sợ hãi va vào lưới câu Biết cùng với chim hải âu làm bạn trên sông nước Nhàn ngắm trời cao mây bay tan hợp Không bị trói buộc trong chốn bụi trần nhiêu khê Muôn vùng đất hang hốc hiểm nguy đều từng gặp Một tiếng chuông giữa trời hòa tiếng ca trong ngần. (Ngư đĩnh giang thiên lạc)

Thi sĩ Miên Tông vui thích ngắm cảnh ngư phủ mưu sinh trên sông nước,

ông hòa mình vào niềm vui, tiếng ca của họ. Người ngư phủ ung dung ôm mái chèo,

giăng lưới, cuộc sống có cơ cực nhưng vẫn ngập tràn niềm vui. Chim hải âu là bạn,

lòng chẳng vướng bụi trần nhiêu khê, cất tiếng ca cùng ngắm trời xanh. Bài thơ

được Miên Tông vận dụng tài tình Thể quái danh, 8 câu thơ đều hàm chứa mỗi quẻ

dịch của bát quái là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Li, Khôn, Đoài được khéo léo

Hoàng diệp thu sương túng bộ xuyên Giáng vân viễn trám tả hồng tuyền Thương chi nhất phủ cung vương chất Bích động song phong lạc trịnh kiền Bạch bích bất hiềm tùy thế tục Hắc điềm sạ tỉnh học thần tiên Lam kiều thúy chướng yên hà thú Lục thủy thanh sơn tuế nguyệt duyên.

黄葉秋霜縱步穿 絳雲遠蘸瀉紅泉 蒼枝一斧供王質 碧洞雙峰樂鄭虔 白璧不嫌隨世俗 黑甜乍醒學神僊 藍橋翠嶂煙霞趣 綠水青山歲月緣 Mùa thu lá vàng rơi sương xuyên qua lối đi Xa xa mây giáng xuống chảy qua con suối hồng Cành cây xanh một nhát búa còn nguyên chất Trước động bích khỏe khoắn trèo lên ngọn núi Ngọc trắng chẳng ngại chi theo thói đời Điềm đen bỗng tỉnh học thần tiên Lam kiều xanh biếc khói chiều nhẹ bay qua ngọn núi Núi xanh nước biếc tùy duyên theo tháng năm. (Tiều kha thủy thạch nhàn)

lồng vào nhịp điệu lời thơ.

153

Bài thơ họa nên một bức tranh về hình ảnh người tiều phu đốn củi trên núi

với sự hài hòa của sắc màu: lá vàng mùa thu, áng mây làm con suối thêm hồng, cây

xanh, ngọc trắng, những gam màu của núi xanh, nước biếc được khéo léo lồng vào

Canh nhất lê 耕一梨 田一畝 Điền nhất mẫu 田間滴滴纔雨後 Điền gian trích trích tài vũ hậu 田上依依應作耦 Điền thượng y y ứng tác ngẫu 稼穡艱難深念之 Giá sắc gian nan thâm niệm chi 勤劬終歲憐農叟. Cần cù chung tuế lân nông tẩu. Cày một cái Ruộng một mẫu Sau khi trời vừa mới rơi nhẹ mấy giọt mưa Trên đồng hai người cùng nương nhau cày ruộng Gieo mạ gặt hái gian nan, thấu tỏ được điều đó Thương người nông phu cần cù suốt năm.

(Canh lê lũng mẫu thích)

trong nội dung bài thơ chính là đặc điểm của thể cách Các sắc thể.

Trên cánh đồng rộng, người nông phu với cái cày, gieo những giọt mồ hồi

trong hơi lạnh, thấu tỏ sự gian nan. Ông thương nông phu suốt năm cơ cực cày cấy.

Ông cũng không khỏi động lòng trước hình ảnh mục đồng trên lưng trâu, chiếc nón

cài sau lưng, tay cầm sáo trúc ngân nga khúc nhạc hòa mình vào thiên nhiên trong

ánh tà dương tĩnh mịch buổi chiều tà. Để rồi cầm lòng không đặng chắp bút viết nên

một bài thơ khắc họa hình ảnh rất đỗi bình dị đó - một mục đồng một trâu - hình

tượng này vốn đã rất thân quen của thơ ca nước nhà. Thơ ca của một vị Hoàng đế

cũng đầm ấm tình quê hương, mộc mạc và thanh tao.

飯牛歸野正斜暉, Phạn ngưu quy dã chính tà huy, 野正斜暉幾曲吹. Dã chính tà huy ki khúc xuy. 幾曲吹殘雲夢竹, Ki khúc xuy tàn vân mộng trúc, 殘雲夢竹飯牛歸. Tàn vân mộng trúc phạn ngưu quy. Trâu ăn đồng xa, trở về lúc chiều tà, Trở về lúc chiều tà, khúc nhạc thổi. Khúc nhạc thổi lên, mây tàn mộng trúc, Mây tàn mộng trúc, trâu ăn đồng xa trở về. (Tịch giao mục địch)

Thiệu Trị yêu tha thiết non sông đất nước và tình yêu đó chính là niềm tự

hào dân tộc. Tình yêu thiên nhên đất nước được ông gửi gắm vào thi ca qua những

dòng thơ trầm mặc nhưng dạt dào xúc cảm. Hình ảnh thiên nhiên được khắc họa

154

trong thơ Thiệu Trị xuất phát từ những rung cảm của tâm hồn người nghệ sĩ trước

cảnh sắc bình dị, thân thương nhưng không kém phần diễm lệ của đất nước nói

chung và kinh đô Phú Xuân nói riêng. Phần lớn cuộc đời ông chỉ dành những

chuyến đi để thưởng lãm vẻ đẹp núi sông chốn Kinh đô. Duy chỉ một lần ông thân

chinh Ngự giá Bắc tuần, trong chuyến đi ông đã tức cảnh sinh tình mà sáng tác tập

thơ Bắc tuần thi tập. Tập thơ ký lục những danh lam thắng cảnh, phong tục tập

quán cho đến điển xưa tích cũ của những địa phương mà ông đi qua trong quá trình

tuần du từ Phú Xuân đến Thăng Long - Hà Nội. Quả thật đáng tiếc khi ông chưa

một lần có cơ hội du ngoạn phương Nam, để được mục kích thiên nhiên đất trời một

dải dài Đại Nam. Thiệu Trị đặc biệt chú trọng đến những giá trị của nghệ thuật thi

họa, đã dành thời gian sáng tác và lựa chọn những thắng cảnh nổi tiếng tại kinh đô

qua tác phẩm Thần kinh nhị thập cảnh, gồm hai mươi cảnh đẹp nổi tiếng đất thần

kinh như: Trùng Minh viễn chiếu, Vĩnh Thiệu Phương văn, Tịnh Hồ hạ hứng, Thư

Uyển xuân quang, Thiên Mụ chung thanh, Tây Lãnh thang hoàng… sau đó thì cho

Nội các in ấn thành sách, có tranh mộc bản minh họa, vẽ tranh gương treo tại các

cung điện, vẽ trên đồ sứ kiểu, khắc chùm thơ vào bia đá và dựng tại các thắng cảnh.

Qua đó, thấy rằng ông rất quan tâm đến việc bảo tồn những thắng cảnh tự nhiên của

đất nước, đồng thời cũng thể hiện yêu cầu về sự chỉn chu toàn mỹ đối với nghệ

thuật thi họa.

Một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông về non nước thiên nhiên là

bài Vũ trung sơn thủy. Sự nổi tiếng của bài thơ này trước hết đến từ phương thức

sáng tác theo thể cách Hồi văn thể kiêm Liên hoàn độc đáo. Sự tài năng trong việc

vận dụng thể cách thi pháp của ông được biểu hiện rõ nét qua thú chơi thơ tao nhã

này. Chính hình thức thể cách đã nâng tầm bài thơ lên thành một tác phẩm mỹ thuật

mang lại cảm hứng cho người đọc. Không chỉ vậy, phong cảnh non nước trong bài

thơ cũng hiện lên một cách hài hòa sinh động. Sau đây, là một cách đọc thuận bài

灣環雨下江潮汛 漲溢風前岸汴清 山鎖暗雲催陣陣 浪生跳玉滴聲聲

Loan hoàn vũ hạ giang triều tấn Trướng dật phong tiền ngạn biện thanh Sơn tỏa ám vân thôi trận trận Lãng sinh khiêu ngọc trích thanh thanh

thơ theo vần Canh:

155

Sàn sàn thủy giản đài tư nhuận Dạng dạng ba châu liệu mậu vinh Nhàn điếu nhất chu ngư dật tấn Hướng lâm song tiễn yến phi khinh.

潺潺水澗苔滋潤 漾漾波洲蓼茂榮 閒釣一舟漁逸迅 向林雙剪燕飛輕. Chỗ khuỷu sông, mưa xuống nước dâng cao Nước mênh mông, gió thổi tận bến bờ Mây từng trận, che phủ trên đỉnh núi Nước sóng vỗ, giọt nhảy như tiếng ngọc Khe nước chảy, rì rì rêu thêm đượm Nước gợn sóng, cù lao rau tươi tốt Nhẹ buông câu, thuyền ngư ông đang tới Hướng về rừng, đôi én nhẹ nhàng bay.

Tổng thể bài thơ là cái nhìn bao quát cảnh vật non nước trong mưa. Thi sĩ

tĩnh lặng ngắm nhìn mưa rơi xuống dòng sông như hạt ngọc nhảy múa trong mưa,

nước chảy cuộn dâng cao ở khuỷu sông, đôi bờ rêu cỏ xanh tươi, nhuần vị, xa xa

nơi ngọn núi mây lũ lượt kéo về giăng kín. Cảnh vật vốn đã thi vị, cộng hưởng với

hình ảnh chiếc thuyền con nhàn hạ của lão ngư đang buông câu trên sông, như nét

chấm phá nổi bật giữa mênh mông cảnh vật. Không gian đang chìm trong yên bình

tĩnh mịch thì bất chợt thi nhân phóng tầm mắt ra xa bắt trọn hình ảnh đôi chim én

nhẹ bay về rừng. Nghệ thuật thi trung hữu họa vẫn thường thấy trong thi ca, thi sĩ

Vương Bột thời Sơ Đường (Trung Quốc) chỉ với hai câu thơ trong bài Đằng Vương

các tự đã vẽ nên một bức tranh mùa thu tuyệt sắc: Lạc hà dữ cô vụ tề phi/ Thu thủy

cộng trường thiên nhất sắc (落霞與孤鶩齊飛,秋水共長天一色), Ráng chiều với

cánh cò đơn lẻ cùng bay/ Nước thu cùng với trời dài một sắc màu xanh biếc. Thi sĩ

Miên Tông với tâm thế tĩnh lặng đang đắm chìm trong cảnh sắc thiên nhiên bàng

bạc màn mưa, nhưng với một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và luôn dạt dào thi hứng đã

giúp ông có thể bắt kịp những chuyển động dù là nhỏ nhất của thiên nhiên đất trời.

Bài thơ là bức tranh phong cảnh thủy mặc với bao la sông nước đậm hồn dân tộc,

mà trong đó hình ảnh ngư ông nhàn hạ buông câu giữa không gian rộng lớn chính là

điểm nhấn nhỏ bé khiến cho cái rộng lớn càng thêm rộng lớn vô cùng. Hình ảnh

một đôi chim én chấp chới bay về non ngàn xa xăm là điểm động bé nhỏ những

tưởng khuấy động được không gian tĩnh lặng, ngược lại chỉ khiến cái tĩnh lặng càng

thêm tĩnh lặng vô cùng. Đó chính là nét đặc sắc của nghệ thuật Thi trung hữu họa,

và bút pháp họa vân hiển nguyệt đã lấy động tả tĩnh, lấy nhỏ bé mong manh để khắc

156

họa mênh mông vô tận, lấy cái hữu hạn của đời người để ngưỡng vọng non nước

thiên nhiên vĩnh hằng trường cửu.

Thơ Thiệu trị không chỉ vẽ nên bức tranh phong cảnh thiên nhiên bốn mùa

xuân hạ thu đông, với cảnh sắc diễm lệ lay động mọi cung bậc cảm xúc của thi nhân.

春霑孝雨欣豐歲 Xuân triêm hiếu vũ hân phong tuế 夏興薰風樂阜財 Hạ hưng huân phong lạc phụ tài 秋賞月明清景物 Thu thưởng nguyệt minh thanh cảnh vật 冬祈曙煖遍寰垓 Đông kỳ thự noãn biến hoàn cai. Mùa xuân mưa thấm nhuần, vui vì năm nay phồn thịnh Mùa hạ gió mang hơi ấm, mừng của cải được dồi dào Mùa thu ngắm trăng sáng, nhìn cảnh vật thanh bình Mùa đông cầu mong nắng ấm, trải khắp muôn nơi. (Thưởng cảnh)

Mà lời thơ còn hàm chứa lời nguyện cầu tha thiết được thể hiện trong từng giai tiết:

Cảnh vật mùa xuân với hình ảnh lầu gác bên hồ, ngoài hiên gió thổi nhẹ làm

rèm châu khẽ rung rinh. Tác giả yên tĩnh lắng nghe tiếng chim gõ vào cây trên núi

mà âm thanh vang tận cánh đồng; trong hồ nước chảy hoa trôi xuyên qua ghềnh đá,

chợt tiếng sấm vang rền rung chuyển báo hiệu tiết giao mùa. Cây cối nhuận sắc

nghiêng mình bên hồ, ẩn hiện trong làn khói mờ ảo. Muôn vật thiên nhiên cộng

hưởng tạo thành cảnh sắc mùa xuân tú lệ, khiến cho tao nhân thưởng cảnh bất giác

Hồ lâu châu bạc ảnh đê thùy Tế táp khinh khinh hạm ngoại xuy Vạn vị thiên nhiên thiều ảnh lệ Nghi nhân lưu thưởng giác khể trì.

湖樓珠箔影低垂 細颯輕輕檻外吹 萬彙天然韶景麗 宜人留賞覺稽遲. Ảnh tòa gác bên hồ, rèm châu buông phủ Ngoài hiên gió nhẹ nhàng thổi cành đung đưa Muôn vật thiên nhiên cảnh sắc tốt đẹp Nên người thưởng cảnh đứng khẽ cuối đầu.

khẽ cúi đầu.

Một sớm mùa xuân, khi thi nhân đang lặng ngắm rặng liễu xuân hãy còn

xanh tươi như những chuỗi ngọc rũ xuống mặt hồ, hoa sen cũng may mắn được

hưởng khí xuân nên khoe sắc rực hồng. Bỗng nghe tiếng ve văng vẳng đượm buồn

柳排青瑣蔭湖筆 蓮逢靈運紅蒸綺 賞閒美景叶良晨 蟬鳴漸漸舒長夏.

Liễu bài thanh tỏa ấm hồ bút Liên phùng linh vận hồng chưng ỷ Thưởng nhàn mỹ cảnh diệp lương thần Thiền minh tiệm tiệm thư trường hạ.

như một khúc bi ca tiễn đưa mùa xuân để sang hạ trong sự tiếc nuối của thi nhân.

157

Rặng liễu xanh đưa chuỗi ngọc phủ bờ hồ Sen gặp linh vận tô hồng đẹp như lụa Nhàn hạ thưởng cảnh đẹp hài hòa buổi sớm Tiếng ve chậm rãi dần đưa vào mùa hạ.

Bài thơ Trì đường sơ hạ lâm hứng thủy tạ phóng ngâm được Thiệu Trị cảm

tác trong tiết trời đầu hạ khi ngồi hóng mát trên lầu thủy tạ trong Ngự uyển. Điều

đặc biệt là bài thơ được ông sử dụng thể Toàn chuyển chu hoàn do chính ông sáng

tạo để đọc thành nhiều bài. Trong đó, có thể đọc thành bài thất ngôn luật mà dù cho

đọc xuôi hay ngược vẫn đảm bảo niêm luật chặt chẽ, thể hiện sự công phu trong

Thiêm trường thụy húc đằng vân tẩu Giảm khước nùng yên lộng thủy tiên

添長瑞旭騰雲走 減却濃煙弄水濺 檐藹翠流凝岸柳 Diêm ái thúy lưu ngưng ngạn liễu 檻裝紅馥送池蓮 Hạm trang hồng phức tống trì liên Mặt trời vừa mọc thêm vệt nắng dài cưỡi mây bay đi Đẩy lùi làn khói đậm đặc trên dòng nước chảy tung tóe Trước mái nhà ánh sáng ngưng tụ trên cành liễu xanh biếc Cây hồng bên hiên thoảng đưa hương đến tận ao sen

thuật chơi chữ của ông. Sau đây, là cách đọc thuận vần Tiên:

Tác giả ngồi thưởng cảnh lúc ánh mặt trời vừa lên những vệt nắng dài, lướt

cùng mây bay đi và xua tan làn khói đậm đặc trên dòng nước. Trước hiên ánh nắng

Điềm điềm dịch hiểu trừng thai đẩu Trạm trạm không minh đỗng chiếu thiên Liêm triển mỵ quang chưng thấu dũ Phạm vi đồng mỹ chúng truyền diên.

湉湉易曉澄台斗 湛湛空明洞照天 匳展媚光蒸透牖 範圍同美衆傳筵. Buổi sớm mặt nước lặng trong còn vương [ảnh] sao thai, đẩu Sương móc phủ kín, ánh sáng lọt qua khoảng không chiếu giữa trời Mở chiếc hộp đẹp, ánh sáng chiếu xuyên qua khung cửa đang ngồi Xung quanh, sự tươi đẹp đều lan rộng trong tiệc vui.

ngưng tụ trên cành liễu, cây hồng bên hiên thoảng đưa hương thơm đến tận ao sen.

Khung cảnh buổi sáng sớm đầu mùa hạ yên bình cùng thoang thoảng hoa

hồng quyện lẫn hương sen. Mặt hồ phẳng lặng còn mờ chiếu ảnh sao thai đẩu, ánh

sáng xuyên thấu qua màn sương móc, rồi xuyên qua khung cửa, dường như mang

theo những điều tốt lành, tươi đẹp đến nơi này. Hạ nồng nắng phai, những cơn mưa

凝月色 照花陰 玉宇三更静

Ngưng nguyệt sắc Chiếu hoa âm Ngọc vũ tam canh tĩnh

Trăng tụ màu Rọi dưới hoa Hiên ngọc canh ba vắng

ngâu cũng bắt nhịp thu sang. Cảnh sắc thu hoà theo nhịp điệu tam ngũ thất ngôn thi:

158

Kim phong vạn lại ngâm Viễn tái bất vô thôi thú địch

金風萬籟吟 Gió thổi ngâm muôn khúc 遠塞不無催戌笛 Biên ải tiếng sáo thôi thúc giục 孤村更有動寒碪. Cô thôn cánh hữu động hàn châm. Thôn vắng nghe chày giặt vải.

Ánh trăng thu ngưng tụ trên cành hoa, lưu chiếc bóng dưới hiên ngọc, canh

ba vắng lặng tiếng gió vút lên như tiếng sáo trời vọng lại. Nơi Hoàng cung tĩnh lặng,

thi nhân chợt phóng suy nghĩ về nơi biên cương. Ông luôn đau đáu nỗi lo lắng,

thương cảm cho những binh sỹ ngày đêm canh phòng biên ải, bảo vệ chủ quyền non

sông mà ngâm nga khúc biên tái. Tiếng sáo chiều không ngừng thôi thúc con người

quay về nghỉ ngơi. Thôn vắng vang tiếng chày giặt vải giữa cái giá lạnh ngày thu.

Hình ảnh con người xuất hiện trong bài thơ thật tự nhiên, chân chất nhưng không

旣知感德而叢生/Ký tri cảm đức nhi tùng sinh/ Cảm mộ đức tính sinh trưởng rừng sâu 豈徒與草木爲伍/Khởi đồ dữ thảo mộc vi ngũ/ Há chỉ cùng hàng ngũ với cỏ cây 不爲莫服而不芳/Bất vi mạc phục nhi bất phương/Không vì chốn rậm rạp mà không thơm 不以莫知而止杜/Bất dĩ mạc tri nhi chỉ đỗ/Không vì chẳng biết mà dừng lại sự tỏa hương.

kém phần thi vị.

Thi nhân dường như đồng cảm với hoa lan khi sinh trưởng tự chốn rừng sâu

nhưng chẳng chịu ngang hàng cùng dã thảo. Hoa lan tượng trung cho phẩm chất cao

quý của một loài hoa mà tự nó luôn kiêu hãnh tỏa hương. Bất luận hoàn cảnh sống,

dù có ở nơi rậm rạp bon chen vẫn không thể bị lẫn tạp mùi hương; hay chốn hoang

vu không người lai vãng thưởng hoa, nó vẫn âm thầm ban hương. Thuận theo thiên

tính tự nhiên rằng “hữu xạ tự nhiên hương”. Giống như phẩm chất người quân tử

sống giữa đời, không vì danh lợi, tự nỗ lực trau dồi năng lực bản thân, sống không

thẹn với phẩm tiết người quân tử thì tự nhiên danh tiếng sẽ vang xa mà cuộc đời

破商飈兮帶雨開 Phá thương biểu hề đới vũ khai 冒嚴霜兮向月吐 Mạo nghiêm sương hề hướng nguyệt thổ 豈惟鮮豔於春天 Khởi duy tiên diễm ư xuân thiên 更覺馨香於秋圃 Cánh giác hinh hương ư thu phố. Gió thu thổi mạnh chừ mang theo cơn mưa đến Sương giăng phủ chừ ánh trăng dần hiện ra Há chỉ rực rỡ tươi đẹp ở trời xuân Lại thêm hương thơm lừng ở khu vườn thu.

cũng nhàn vi.

159

Gió thu thổi mạnh mang theo cơn mưa đến, sương giăng phủ lạnh buốt, ánh

trăng dần hiện ra. Hoa lan không chỉ rực rỡ tươi đẹp giữa trời xuân mà vẫn tiếp tục

Nam cai thi hề bách hạnh tiên Y lan tháo hề vạn vật đổ Lan hề! Lan hề! Vương giả hương Lan hề! Lan hề! Thiện nhân vũ.

南陔詩兮百行先 猗蘭操兮萬勿覩 蘭兮蘭兮王者香 蘭兮蘭兮善人宇. Thềm thơ trời Nam chừ là đầu tiên trong muôn sự Đẹp thay tiết tháo hoa lan chừ muôn vật cùng nhìn Lan hề! Lan hề! Hương thơm của vương giả Lan hề! Lan hề! Thiện nhân trong thiên hạ.

nở hoa và tỏa hương trong khu vườn mùa thu.

Hoa lan rừng ở độ tươi sắc mang nét đẹp thanh tú chốn rừng sâu mà ẩn chứa

hương thơm kiêu kỳ, quyến rũ của vương giả chốn thị thành. Thi nhân thưởng lan

mà cảm xúc thăng hoa, bất giác cảm khái “Lan hề! Lan hề!”. Với vua Minh Mạng,

tiên vương đặc biệt yêu quý hoa Ngô Đồng, loài hoa được mệnh danh là “vương giả

chi hoa”, thậm chí còn được mang về trồng rất nhiều trong Hoàng cung và cho khắc

trên Nhân Đỉnh. Vua Thiệu Trị cũng vậy, ông cũng say đắm vẻ đẹp, hương thơm và

khí chất của hoa lan mà ca tụng là “vương giả chi hương”, hương thơm của vương

Trong ánh nắng tùng bách càng tươi đẹp Đôi chim sáo thi nhau cùng hót vang Vừa cất cánh bay lượn trời cao rộng Dòng nước ấm cá tung tăng bơi lội

晚匊含芳蘂 Vãn cúc hàm phương nhị Cúc nở muộn còn ngậm nhụy hoa thơm 新梅綴嫩枝 Tân mai chuế nộn chi Mai vừa mới mọc lên nữa một cành 迎風楊柳絮 Nghênh phong dương liễu nhứ Đón gió đông bông liễu nhẹ đưa bay 浴日栢松姿 Dục nhật bách tùng tư 交語雙鸜鵒 Giao ngữ song cù dục 初飛數意而 Sơ phi số ý nhi 玉鱗浮煖溜 Ngọc lân phù noãn lưu 赬尾負暄池. Trinh vỹ phụ huyên trì. Chiếc đuôi đỏ vẩy mình trong ao xanh.

giả, là vua trong các loài hương.

Trời vào đông nhưng thu vẫn còn níu giữ, đóa cúc nở muộn còn ngậm nhụy

hoa thơm, cây mai vừa đâm một nhành mới (hoa, 花). Đón gió đông bông liễu nhẹ

đưa bay, trong ánh nắng mùa đông tùng bách càng tươi sắc (thụ, 樹). Đôi chim sáo

thi nhau cùng hót vang, vừa cất cánh bay lượn dưới bầu trời cao rộng (cầm, 禽).

Trong ao xanh cá tung tăng bơi lội trong dòng nước ấm, chiếc đuôi đỏ cậy khỏe vẩy

mình lượn vòng quanh (ngư, 魚).

160

倚蔭長竿放 Ỷ ấm trường can phóng 憑磯細縷垂 Bằng ki tế lũ thùy 柴岡來打衆 Sài cương lai đả chúng 霽色竟歸馳 Tễ sắc cánh quy trì 曠野催犁返 Khoáng dã thôi lê phản 平坡叱犢隨 Bình pha sất độc tùy 絃哥何處起 Huyền ca hà xứ khởi 村學教童兒. Thôn học giáo đồng nhi.

Sào trúc dài tựa mình buông chèo chống Tựa qua ghềnh áo cũ khẽ buông đưa Sườn núi cao đến đốn củi mang về Trời quang tạnh trọn ngày dong ruỗi Cánh đồng rộng thúc giục cày nhanh về Đất gập ghềnh quát trâu nhỏ đi theo Tiếng đàn ca nơi nào vừa dấy lên Trong thôn tiếng dạy trẻ còn vang.

(Đông tình)

Ngư – tiều – canh – mục là hệ thống hình tượng quen thuộc và giàu hình ảnh

trong thi ca cổ điển, là sự phản ánh chân thực đời sống lao động của thường dân

trong xã hội phong kiến cũ. Trong 4 ngành nghề người xưa gọi là tứ dân gồm: ngư

– tiều – canh – mục thì Thiệu Trị đã thay thế hình ảnh của mục (người làm nghề gỗ)

bằng độc (người dạy học, đọc sách)34. Người đánh cá chống sào trúc dài nương

mình theo dòng chảy mà vượt qua ghềnh đá, chiếc áo cũ nhẹ buông (ngư, 漁).

Người tiều phu suốt một ngày rong ruổi khắp các sườn núi đốn củi mang về (tiều,

樵). Dưới ruộng sâu người nông phu cũng dừng cày thúc giục kéo trâu về (canh,

耕). Trong cảnh chiều tĩnh lặng, bỗng tiếng đàn từ đâu vang lên, thì ra là tiếng trẻ

trong thôn còn vọng lại dư âm (độc, 讀). Qua ý thơ ta thấy được cảnh làng quê

thanh bình mộc mạc, chiều muộn ai cũng hối hả quay về sau một ngày rong ruổi

mưu sinh, tiếng đồng ca vang lên đã xua đi cái lạnh và sưởi ấm xóm làng những

ngày đông.

Thi sĩ Miên Tông lập một ngôi nhà để ngâm vịnh thơ ca gọi tên là Thi xá

Đạm Như (淡如詩舍). Những lúc nhàn rỗi, vua ngự đến đây đọc sách, ngắm phong

cảnh, cảm hứng thi từ mà vung bút thành văn. Có đôi lúc, ông ngồi lắng nghe tiếng

Thủy diện khiêu châu thanh nạo hoạt Thạch giai trích ngọc hưởng tùy sinh Kim pha đảo hạp hà huyên đại Thanh thảo trường đê mạch lãng khinh Phấn bích cách văn diêm lưu hạ Nê châu ám động lại giao minh

水面跳珠聲撓滑 石階滴玉響隨生 金坡倒峽荷喧大 青草長堤麥浪輕 粉壁隔聞簷溜下 泥洲暗動籟交鳴

34 Chế độ phong kiến xưa chia ra 12 ngành nghề thuộc 3 tầng lớp: quyền lực: công – hầu – bá – tước; ngành nghề: sĩ – nông – công – thương; tiêu khiển: ngư – tiều – canh – mục.

mưa rơi trên mái nhà, tiếng mưa như là giọt châu.

161

Cưu tài hoán bãi trưng cao trạch Tả chú khuynh bồn triệt dạ minh.

鳩纔喚罷徴膏澤 瀉澍傾盆徹夜明. Mưa như tiếng châu nhảy trên mặt nước Giọt rơi thềm đá như tiếng ngọc vang xa Nước chảy ngược qua ao sen kêu rả rích Cỏ xanh trên đê cùng sóng lúa nhẹ rung Cách vách nghe tiếng nước trên mái nhà Bãi cù lao mịt mờ nghe tiếng mưa vọng lại Chim thư cưu ngưng gọi ngoài đầm nước Mưa phải thời chảy nghiêng chậu suốt đêm. (Vũ thanh, kỳ nhất/ 雨聲, 其一)

Tiếng giọt mưa rơi trên mặt nước như tiếng hạt châu, giọt rơi thềm đá như

tiếng ngọc vang xa. Cảnh mưa trong thi ca bao giờ cũng mang màu sắc đượm buồn,

tiếng mưa như tiếng lòng của chính thi nhân. Cách xa một bãi cù lao còn nghe tiếng

mưa vọng lại, tiếng chim thư cưu buồn gọi nhau ngoài đầm nước thêm não lòng.

Khi thi nhân tĩnh lặng ngắm mưa, dù trong lòng có đeo gánh sầu nặng bao nhiêu đi

nữa đều được nước mưa gột rửa và cuốn đi tất cả. Đặc biệt là mưa của xứ thần kinh

(xứ Huế) đã trở thành một đặc sản không nơi nào có được. Mưa xứ này thâm trầm

sâu lắng, mưa miên man theo ngày tháng, như muốn trầm mình trong ký ức, như

muốn giấu đi tất cả những tâm tư sâu nặng. Trong những đêm tĩnh lặng, vua ngồi

trong điện quế nghe mưa, mưa xuyên qua khóm trúc bên hiên tựa như khúc nhạc

giữa trời không, khi tiếng gà vừa dứt, mưa vẫn còn rơi nhẹ, vua chạnh lòng thương

dân kham khổ hãy còn phải cấy gặt ngoài đồng xa.

Tình cảm, tình yêu thiên nhiên non nước trong thơ Thiệu Trị cũng thể hiện

nét trầm mặc và thanh tao. Ở đấy, ta cảm nhận được xúc cảm của một Thi sĩ quân

vương mang trong lòng ước nguyện cho người người ấm no, là sự cảm thông sâu

sắc với nỗi thống khổ của muôn dân. Cảnh sắc thiên nhiên non nước, con người

trong thơ ông hiện lên qua những bức tranh sinh động với những gam màu đa sắc của

bốn mùa xuân hạ thu đông đầy thi vị, mộc mạc chân tình.

162

Tiểu kết chương 4

Chương 4 với nội dung đặt trọng tâm ở việc nghiên cứu tìm hiểu quan niệm

nội dung văn chương của Thiệu Trị, mối quan hệ với thể cách thi pháp và khảo cứu

những đặc điểm nội dung nổi bật của tập thơ. Trước hết, chúng tôi đề cập đến hai

quan niệm sáng tác chính của Thiệu Trị đó là chính giáo hóa và thơ để nói “chí”.

Hai quan niệm này được thể hiện xuyên suốt trong các sáng tác của ông ở vai trò

quân vương và thi sĩ. Chính giáo hóa là quan niệm vốn có từ thời vua Thuấn (Trung

Quốc), đây là đặc điểm nội dung cơ bản thường thấy trong văn chương của một vị

Hoàng đế, chỉ việc dùng văn chương cai trị đất nước, giáo hóa muôn dân, chấn

hưng nền văn trị. Quan niệm thơ để nói “chí” đã trở thành nội hàm xuyên suốt thơ

ca trung đại Việt Nam và Thiệu Trị không ngoại lệ khi kế thừa các thành tựu của

Văn học trung đại Việt Nam. “Chí” ở trong lòng chính là yếu tố tình cảm, tâm tư,

nguyện vọng… được phát khởi thành lời thơ qua ngôn ngữ. Thơ ca là cuộc sống, là

khía cạnh nghệ thuật của một nền văn hiến.

Từ chính hai quan niệm sáng tác trên, chúng tôi tiến hành quan chiếu các

sáng tác để tìm hiểu đặc điểm nội dung. Với quan niệm sáng tác trong tư cách một

vị Hoàng đế là chính giáo hóa, Thiệu Trị đã có những bài thơ mang đậm tư tưởng

Nho giáo về tính thiên mệnh, chăm lo chính sự, mùa màng, răn mình. Vua nhận

mệnh trời để chăm lo cho muôn dân, cầu cho đất nước hùng cường. Các bài minh ở

đàn Nam Giao thể hiện rõ sứ mệnh và ước nguyện đó. Ông còn có những sáng tác

mang lấy cảm hứng từ tư tưởng của sách Tứ thư, Ngũ kinh với mục đích cho học trò

tu tiến.

Quan niệm thơ để nói “chí” thể hiện qua những sáng tác mang nội dung về

tình cảm, con người và tình yêu thiên nhiên, đã phác họa một cách rõ nét tâm hồn

của thi sĩ Miên Tông. Ở đấy, tâm thức ông cũng xao động trước cảnh nước non hữu

tình, thiên nhiên hài hòa. Ông đặc biệt yêu thương muôn dân, các hình tượng ngư,

tiều, canh, độc, mục đồng… đã đi vào thơ ông một cách mộc mạc, bình dị. Nghiên

cứu đặc điểm giá trị nội dung của tác phẩm đã giúp chúng tôi thấu hiểu tâm hồn của

vị Hoàng đế thi sĩ.

163

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập,

luận án đã làm sáng tỏ một số vấn đề sau.

1. Khái quát tổng quan các công trình nghiên cứu về văn bản Ngự chế thi của

Thiệu Trị, kể cả thơ văn được ghi chép trong chính sử, sách địa chí thời Nguyễn,

chạm khắc trên các công trình kiến trúc lăng tẩm, cung đình triều Nguyễn. Riêng

đối với văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, chúng tôi khẳng

định những nghiên cứu có liên quan đến tác phẩm chỉ dừng lại ở việc mô tả sơ lược

văn bản (các công trình thư mục học) hay nghiên cứu một vài bài thơ. Đáng chú ý

hơn cả là nghiên cứu của Nguyễn Tài Cẩn về bài thơ Vũ trung sơn thủy và kỹ xảo

của thể cách Hồi văn kiêm Liên hoàn độc đáo dựa trên tính đơn âm tiết của chữ Hán.

Căn cứ vào bộ chính sử Đại Nam thực lục chính biên, tam kỷ, chúng tôi đã

giới thiệu khái lược về tiểu sử thân thế, điểm qua một vài nét về sự nghiệp chính trị

của tác giả. Ông sinh ra và được nuôi dưỡng trong những năm tháng hoàng kim

nhất của triều Nguyễn, bẩm tính hiền hòa, hiếu thuận, siêng năng tu chí, có thiên

hướng nghệ thuật và yêu thích văn chương. Sau khi lên ngôi, ông tuân giữ mọi định

chế phép tắc, chính trị, binh bị vốn đã ổn định từ hai triều vua trước. Trong thời

gian 7 năm cai trị của ông (1841-1847), đất nước Đại Nam vẫn tương đối ổn định.

Luận án chú trọng tìm hiểu sự nghiệp văn chương đồ sộ của Thiệu Trị với

tổng cộng 4 tập Ngự chế thi gồm 55 quyển; mục lục 16 quyển, tổng cộng 2.946 bài

thơ, cùng nhiều tập thơ khác được biên tập theo từng chủ đề như: Ngự chế Bắc tuần

thi tập, Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, Ngự đề đồ hội thi tập... hầu hết các

tập thơ này đều được trích tuyển hoặc biên tập chung vào tổng nguồn Thiệu Trị Ngự

chế thi và cùng với tập Chỉ Thiện đường hội tập gồm 683 bài thơ được sáng tác lúc

tiềm để (chưa lên ngôi). Như vậy, xét tổng thể sự nghiệp văn chương của Thiệu Trị

gồm 12 tập thơ Ngự chế, 2 tập văn Ngự chế, sách Thiệu Trị văn quy, Ngự chế lịch

đại sử tổng luận... với số lượng khoảng 3.647 bài thơ và nhiều bài văn.

2. Luận án dùng các phương pháp hiệu khám, đối hiệu văn bản học, điền dã

và phương pháp liên ngành… để nghiên cứu về văn bản tác phẩm Ngự chế cổ kim

thể cách thi pháp tập. Văn bản tác phẩm được lưu trữ tại 3 nguồn: Viện Nghiên cứu

164

Hán Nôm, Hà Nội; Thư viện Quốc gia, Hà Nội và Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV,

Đà Lạt với hiện trạng mỗi nguồn không được đầy đủ nội dung. Chúng tôi đã lần

lượt khảo cứu văn bản từ các nguồn, xác định tư liệu mộc bản tại Trung tâm lưu trữ

Quốc gia IV là thiện bản để phục vụ công tác nghiên cứu. Đây là tư liệu gốc được

tàng bản tại Quốc Sử quán triều Nguyễn, tức là cùng thời đại với tác giả; mộc bản là

nguồn tư liệu quý giá và mức độ chính xác dường như là tuyệt đối. Chúng tôi tiến

hành công tác hiệu điểm, hiệu đối và bổ khuyết cho thiện bản để đạt nội dung hoàn

bị nhất phục vụ cho quá trình nghiên cứu của luận án và các công trình nghiên cứu

trong tương lai. Luận án cũng đã tiến hành khảo cứu cấu trúc nội dung từng quyển.

Số lượng bài thơ trong tác phẩm là 157 thủ (chương/ bài), đúng với số lượng được

Nội các nêu trong lời Biểu dâng sách và đối chiếu với tổng nguồn Thiệu Trị Ngự

chế thi xác nhận nội dung tương đồng, đảm bảo tính nhất thống của tác phẩm.

Luận án cũng giới thiệu sơ lược tiểu sử của những đại thần Nội các trong hội

đồng biên tập, khảo hiệu, viết chữ, khắc in với mục đích tôn vinh công lao của tiền

nhân và đề xuất khi nghiên cứu về tác giả của một tác phẩm Hán Nôm cần phải mở

rộng phạm vi nghiên cứu đến những nhân vật với tư cách là người biên soạn, biên

định, san khắc, khảo hiệu.

3. Luận án nghiên cứu, luận giải vấn đề cốt yếu của tập thơ là thể cách thi pháp.

Thi pháp là các phương pháp, quy luật sáng tác thơ ca, là một bộ phận nghiên cứu của thi

học. Thiệu Trị cho rằng kiến thức về thể cách thi pháp là điều rất cần thiết, thành thạo

cách luật âm vận mới có thể bước vào lâu đài văn chương.

Sự nghiệp văn chương của Thiệu Trị được đánh giá cao ở trình độ điêu luyện

khi vận dụng thể cách thi pháp. Điều đó được thể hiện rất rõ trong Ngự chế cổ kim

thể cách thi pháp tập. Tác phẩm này gồm khoảng 72 thể cách, có 57 thể cách cổ

kim và 15 thể cách tân sáng. Trong đó, chúng tôi đã luận giải và phân tích được 57

thể cách cổ kim và 13 thể cách tân sáng, bằng việc áp dụng quy tắc đã giải mã được

để tìm hiểu các bài thơ của Thiệu Trị, chính là cách để đi sâu khám phá gia tài văn

chương của ông. Đối với các thể cách cổ kim, sáng tác nổi tiếng nhất của ông là bài

Vũ trung sơn thủy được sáng tác theo thể Hồi văn kiêm Liên hoàn, từ một bài thơ

với bằng trắc, 4 vận đọc được 64 bài. Trong các thể cách tân sáng với bài thơ Trì

165

đường sơ hạ lâm hứng thủy tạ phóng ngâm được ông sáng tác theo thể cách Toàn

chuyển chu hoàn thể do chính ông sáng tạo, dùng quy tắc bằng trắc, 8 vận đọc thành

96 bài thơ. Từ trước đến nay, các nghiên cứu đều thông qua bài Vũ trung sơn thủy

để tiến hành đánh giá kiến thức cũng như trình độ vận dụng thể cách văn chương

Thiệu Trị. Nhưng qua sự nghiên cứu luận giải 72 thể cách ông sử dụng trong tác

phẩm này và con số không dừng ở đây, có thể khẳng định ông thực sự yêu văn

chương và đặc biệt say mê nghiên tầm, sáng tạo các thể cách thi pháp và âm vận thi

học. Với tư cách người đứng đầu đất nước và mang trong mình tâm hồn của một thi

sĩ, ông luôn ấp ủ hoài bão có thể độc lập phát triển hệ thống thể cách và âm vận của

văn chương nước nhà. Điều này đã chứng minh Thiệu Trị là một tác gia lớn và là

một nhà nghiên cứu thi học nghiêm cẩn, nhiệt thành. Ông mưu cầu sự toàn mỹ

trong sáng tác, yêu tha thiết nét đẹp ca từ. Có thể thấy việc nghiên cứu một cách

chuyên sâu và nghiêm túc về thể cách thi pháp ở thời điểm bấy giờ chính là đóng

góp lớn lao của ông đối với nền thi học văn chương thời Nguyễn - Việt Nam.

4. Luận án làm sáng tỏ được hai quan niệm sáng tác văn chương của Thiệu

Trị. Thứ nhất, trong cương vị của một Hoàng đế thì nội dung thơ văn của ông mang

lại hiệu quả to lớn đối với chính sách chính giáo hóa, chấn hưng văn trị, dùng văn

chương cai trị thiên hạ, chăm lo chính sự đất nước, mùa màng, đê điều, thương

dân… Đây là điểm khác biệt giữa thơ văn của một vị Hoàng đế và tao nhân thường

tình. Thứ hai, với vai trò một thi nhân, thơ văn của ông thắm đượm tình yêu thiên

nhiên đất trời, non nước hữu tình, với lối thể hiện tình cảm mộc mạc, nhẹ nhàng,

dân dã, chân tình. Từ đó, luận án khẳng định hình tượng của Thiệu Trị là hình

tượng song hành Hoàng đế - Thi nhân. Đồng thời, luận án làm rõ mối quan hệ

tương hỗ giữa nội dung văn chương với thể cách thi pháp được sử dụng trong thơ

của Thiệu Trị.

5. Với những thành tựu về sự nghiệp sáng tác được lưu giữ đến ngày nay và

đặc biệt nhấn mạnh thái độ trách nhiệm với sự độc lập của thể cách và âm vận nước

nhà, Thiệu Trị xứng đáng biết đến không chỉ là một vị Hoàng đế mà còn là một tác

gia lớn của nền Văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi

pháp tập, là đại diện tiêu biểu minh chứng một cách rõ nét kiến thức uyên thâm về

166

thi học và khả năng vận dụng khéo léo thể cách thi pháp trong sự nghiệp sáng tác của

Thiệu Trị. Tuy nhiên để khám phá hết giá trị nghệ thuật về thi học vẫn cần nhiều hơn

nữa những công trình nghiên cứu chuyên sâu về tác phẩm, đặc biệt là đi vào chi tiết

từng sáng tác. Trong gia tài văn chương đồ sộ của Thiệu Trị, tập thơ này chỉ là một

tập thơ nhỏ, chưa thể phản ánh hết quan niệm sáng tác và đóng góp của ông đối với

Văn học trung đại Việt Nam. Trong tương lai, cần thêm nhiều công trình khoa học

nghiên cứu về văn bản và tổng tập Thiệu Trị Ngự chế thi của ông để luận giải và

đánh giá một cách đúng đắn giá trị của kho tàng lớn lao này. Với hy vọng luận án

của chúng tôi sẽ tạo tiền đề cơ sở để có thể đề nghị đưa thơ văn của Thiệu Trị vào

giới thiệu trong những tổng tập lớn, phục vụ công tác nghiên cứu và giảng dạy (trong

những công trình như: Từ điển Văn học, Sách giáo khoa) để cho các thế hệ hiện tại

và tương lai hiểu về một tác gia lớn, hiểu được giá trị văn chương Hoàng tộc nói

riêng và văn chương thời Nguyễn nói chung đối với nền văn hiến dân tộc.

Cuối cùng, do điều kiện chủ quan cũng như khách quan luận án chắc chắn

không tránh khỏi những khiếm khuyết, sai lầm. Chúng tôi kính mong nhận được

những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà nghiên cứu, quý vị độc giả để trong thời

gian tới, luận án sẽ ngày càng được hoàn thiện hơn./.

Hà Nội, tháng 7 năm 2021

Tác giả luận án

167

CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Phan Thanh Việt, 2020, “Khảo cứu hai bài minh theo đồ dạng hình tròn trong

tập Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp của Thiệu Trị”. Kỷ yếu Hội thảo Khoa

học, “Nghiên cứu Hán Nôm năm 2020”, Nxb Thế giới.

2. Phan Thanh Việt, 2020, “Bước đầu khảo cứu bài Ngự diên văn bảo minh của

vua Thiệu Trị tại điện Long An”. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, “Nghiên cứu và

giảng dạy tác phẩm Văn học theo thể loại”, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.

3. Phan Thanh Việt, 2021, “Sự nghiệp chính trị và văn học của Hoàng đế Thiệu

Trị”, trong “Tuyển tập công trình nghiên cứu Ngữ văn học tập 5”, Nxb Đại học

Sư phạm Hà Nội.

4. Phan Thanh Việt, 2021, “Hoàng đế Thiệu Trị và dấu ấn với Phật giáo Phú Xuân”, Kỷ

yếu Hội thảo Khoa học “Văn học và ngôn ngữ trong thế giới đương đại - Bản sắc

và hội nhập”, Khoa Ngữ văn - Trường ĐHSP Hà Nội, Nxb Giáo dục.

5. Phan Thanh Việt, 2022, “Sự nghiệp Văn học của Thiệu Trị và dấu ấn với Văn học

Phật giáo Phú Xuân - Huế”, Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Thủ Đô Hà Nội, số

58 - Khoa học Xã hội và Giáo dục.

6. Phan Thanh Việt, 2022, “Khảo cứu văn bản và tìm hiểu giá trị thi học tác phẩm Ngự

chế cổ kim thể cách thi pháp tập của Thiệu Trị”, Tạp chí Hán Nôm, số 3 (172) 2022.

168

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Võ Hương An (2012), Từ điển Nhà Nguyễn, Nam Việt xuất bản, California,

USA.

2. Phan Thuận An, Phạm Đức Thành Dũng, Nguyễn Phước Hải Trung và cộng sự

(1997), Thần kinh nhị thập cảnh, thơ vua Thiệu Trị, Nxb Thuận Hóa.

3. Đào Duy Anh (2009), Từ điển Hán Việt, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội.

4. Aristote, bản dịch (1999), Nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn Học, Hà Nội.

5. Lại Nguyên Ân (2018), Từ điển Văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX,

Nxb Văn Học.

6. Huỳnh Công Bá (2018), Giáo dục và khoa cử Nho học triều Nguyễn 1802 -

1919, Nxb Thuận Hóa.

7. B.A.V.H, bản dịch (2012), Những người bạn Cố đô Huế, (tập XXVI), Nxb

Thuận Hóa.

8. Bộ Quốc gia giáo dục (1960), “Hai bài thơ bí ẩn dưới thời vua Thiệu Trị”, trong

Việt Nam khảo cổ tập san, số 1, trang 470-472.

9. Vĩnh Cao và Phan Thanh Hải (2003), “Vườn Thiệu Phương qua thơ ngự chế”,

trong Tạp chí Sông Hương, số 178.

10. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Tìm hiểu kỹ xảo hồi văn liên hoàn trong bài Vũ trung

sơn thủy của Thiệu Trị, Nxb Thuận Hóa.

11. Trần Văn Chánh (2012), Từ điển Hán Việt - Hán ngữ cổ đại và hiện đại, Nxb

Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

12. Bùi Văn Chất (2007), Bài viết “Non nước trong mưa – Một bài thơ của thi sĩ

Miên Tông”, trong Tạp chí Hán Nôm, Số 5 (84).

13. Nguyễn Thị Thanh Chung (2018), Khảo luận hồ sơ tác giả Văn học Hán Nôm

Việt Nam, Nxb ĐHSP Hà Nội.

14. Thiều Chửu (2009), Hán Việt tự điển, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội.

15. Đoàn Trung Còn (2000), Tứ thư, Nxb Thuận Hóa.

16. Hoàng Ngọc Cương (2018), Tuyển tập thơ văn Trương Đăng Quế, Nxb ĐHSP

Hà Nội.

169

17. Cao Xuân Dục (chủ biên) (Thế kỷ XX, 1908), Quốc triều chính biên toát yếu,

bản dịch (1972), Nhóm nghiên cứu sử địa Việt Nam xuất bản.

18. Phạm Đức Thành Dũng, Vĩnh Cao, Phan Thuận An và cộng sự (2000), Khoa cử

và các nhà khoa bảng triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa.

19. Phạm Tất Đắc (2016), Văn pháp chữ Hán, Nxb Hồng Đức.

20. Phan Đăng (2019), “Thơ ngự chế của Hoàng đế Thiệu Trị trang trí bên trong

đình Hương Nguyện chùa Thiên Mụ” trong Tạp chí Liễu Quán, số 18, tháng 8

năm 2019, Huế.

21. Lê Quang Định, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Phan Đăng dịch (2005),

Nxb Thuận Hóa, Huế.

22. Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, bản dịch Viện Sử học (2007), Nxb Văn Hóa

Thông Tin.

23. Trần Văn Giáp (1984), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, (tập 1 - 2), Nxb Văn Hóa,

Hà Nội.

24. Nguyễn Hà (2014), Nghiên cứu Hàm Long sơn chí - Tác giả và tác phẩm, Luận

án Tiến sĩ Ngữ Văn, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

25. Dương Quảng Hàm (2019), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Văn Học

26. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn

học, Nxb Giáo Dục.

27. Lưu Hiệp, bản dịch (1999), Văn tâm điêu long, Nxb Văn Học, Hà Nội.

28. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu và cộng sự (đồng chủ biên)

(2004), Từ điển Văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới.

29. Nguyễn Xuân Hoài, Phạm Thị Huệ, Phan Đình Nham (2008), Mộc bản triều

Nguyễn, đề mục tổng quan, Nxb Chính trị Quốc gia.

30. Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc (1995), Nguyễn Phúc tộc thế phả Thủy tổ phả

- Vương phả - Đế phả, Nxb Thuận Hóa.

31. Phạm Thị Huệ, “Mộc bản triều Nguyễn của Việt Nam, Di sản tư liệu thế giới”,

trong Tạp chí Xưa và nay, số 474, Tháng 6, 2018.

32. Thích Giới Hương (2004), Văn bia chùa Huế, Lưu hành nội bộ, chùa Diệu Đế,

Huế.

170

33. Trần Trung Hỷ (2013), “Cố nhân phẩm bình thơ Đỗ Phủ” trong Kỷ yếu Hội

thảo quốc tế kỷ niệm 1300 năm, năm sinh thi hào Đỗ Phủ, Nxb Văn Học, trang

102-122.

34. Nguyễn Huy Khuyến (2015), Nghiên cứu văn bản khắc in thơ ngự chế của

Minh Mạng, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.

35. Nguyễn Huy Khuyến (2016), “Làm rõ tác giả của Ngự chế Bắc tuần thi tập và

tìm hiểu giá trị tập thơ”, trong Tạp chí phát triển KH&CN, tập 18, (số X3), trang

31-48.

36. Phan Huy Lê (2019), Huế và Triều Nguyễn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

37. Phạm Thị Lê, Tìm hiểu Hoàng Huấn cửu thiên của vua Thiệu Trị, Khóa luận tốt

nghiệp.

38. Mai Quốc Liên (2020), Lý luận phê bình văn nghệ cổ Việt Nam, Nxb Văn Học.

39. Trịnh Khắc Mạnh (2019), Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

40. Hà Văn Minh (2007), Nghiên cứu văn bản Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn,

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, trường ĐHSP Hà Nội.

41. Hà Văn Minh và Nguyễn Thanh Tùng (2013), “Tổng quan thực trạng văn bản

và hướng nghiên cứu hệ thống thi tuyển chữ Hán Việt Nam” trong Hán Nôm

học trong nhà trường, một số vấn đề nghiên cứu và trao đổi, Nxb ĐHSP Hà Nội,

trang 234-253.

42. Hà Văn Minh (2020), “Một kiểu loại văn bản đặc thù trong hệ thống các tác

phẩm lí luận phê bình văn nghệ Việt Nam thời trung đại: trường hợp Lệ ngôn

sách Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn” trong sách Nghiên cứu và giảng dạy tác

phẩm Văn học theo thể loại, Nxb ĐHSP Hà Nội, trang 194-215.

43. Nguyễn Đăng Na (2007), Đặc điểm Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

44. Nguyễn Đăng Na (chủ biên) (2009), Văn học trung đại Việt Nam, (tập 1), Nxb

ĐHSP Hà Nội.

45. Nguyễn Đăng Na (2021), Con đường giải mã Văn học trung đại Việt Nam, Nxb

ĐHSP Hà Nội.

171

46. Đinh Văn Niêm (2014), Thi cử học vị học hàm dưới các triều đại phong kiến

Việt Nam, Nxb Lao Động.

47. Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức (1971), Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể

loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

48. Trần Nghĩa và Franscois Gros (1993), Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu (tập 1),

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

49. Trần Nghĩa và Franscois Gros (1993), Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu (tập 2),

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

50. Trần Nghĩa và Franscois Gros (1993), Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu (tập 3),

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

51. Lưu Thị Nhận, Tìm hiểu tác phẩm Ngự chế lịch đại sử tổng luận, Khóa luận tốt

nghiệp.

52. Nhiều tác giả (1982), Dịch từ Hán sang Việt, Một khoa học một nghệ thuật,

Nxb Khoc học Xã hội, Hà Nội.

53. Nhiều tác giả (2013), Nghiên cứu thi tuyển chữ Hán Việt Nam, một số vấn đề

lịch sử - tác giả - văn bản, Nxb ĐHSP Hà Nội.

54. Nhiều tác giả (2013), Hán Nôm học trong nhà trường, một số vấn đề nghiên

cứu và trao đổi, Nxb ĐHSP Hà Nội.

55. Nhiều tác giả (2017), Triều Nguyễn và lịch sử của chúng ta, Nxb Hồng Đức.

56. Nguyễn Khắc Phi và Trần Đình Sử (1998), Về thi pháp thơ Đường, Nxb Đà

Nẵng.

57. Nguyễn Tân Phong (1994), Về hai bài thơ hồi văn kiêm liên hoàn của vua

Thiệu Trị, Nxb Thuận Hóa.

58. Nguyễn Văn Phương (2016), Khảo cứu tác phẩm Ngự đề đồ hội thi tập, Luận

văn Thạc sĩ Ngữ văn, trường ĐHKHXH&NV, Hà Nội.

59. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, (tập 1), bản dịch Viện Sử Học

(2007), Nxb Giáo Dục.

60. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, (tập 2), bản dịch Viện Sử Học

(2007), Nxb Giáo Dục.

172

61. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, (tập 3), bản dịch Viện Sử Học

(2007), Nxb Giáo Dục.

62. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, (tập 4), bản dịch Viện Sử Học

(2007), Nxb Giáo Dục.

63. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, (tập 5), bản dịch Viện Sử Học

(2007), Nxb Giáo Dục.

64. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, (tập 6), Đệ tam kỷ - Thực lục

về Hiến tổ chương Hoàng đế (vua Thiệu Trị), bản dịch Viện Sử Học (2007),

Nxb Giáo Dục.

65. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, (tập 7), bản dịch Viện Sử Học

(2007), Nxb Giáo Dục.

66. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, bản dịch Viện Sử Học (2014)

– Trọn bộ 4 tập, Nxb Thuận Hóa.

67. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, bản dịch Viện

Sử Học (2007) – Trọn bộ 8 tập, Nxb Thuận Hóa.

68. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí (tập 1), bản dịch Viện Sử

Học (2006), Nxb Thuận Hóa.

69. Lê Văn Siêu (2006), Văn học sử Việt Nam, Nxb Văn Học.

70. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb

Giáo Dục.

71. Trần Đình Sử (2017), Dẫn luận thi pháp học văn học, Nxb ĐHSP Hà Nội.

72. Trần Đình sử (2018), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb ĐHSP Hà Nội.

73. Trần Đình Sử (2020), Lí thuyết và thi pháp văn học, Nxb ĐHSP Hà Nội.

74. Quách Tấn (1998), Thi pháp thơ Đường, Nxb Trẻ.

75. Nguyễn Thanh Tùng (2010), Sự phát triển tư tưởng thi học Việt Nam từ thế kỉ X

đến hết thế kỉ XIX, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, trường ĐHSP Hà Nội.

76. Nguyễn Thanh Tùng (2016), Tuyển tập thi luận Việt Nam thời trung đại, Nxb

ĐHSP Hà Nội.

77. Nguyễn Thanh Tùng (2016), Thơ lục ngôn chữ Hán Việt Nam thời trung đại thế

kỉ X – XIX, Nxb ĐHSP Hà Nội.

173

78. Lê Mạnh Thát (2006), Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Nxb Phương Đông.

79. Thích Mật Thể (1970), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nhà sách Minh Đức, Đà

Nẵng phát hành.

80. Ngô Đức Thọ và Trịnh Khắc Mạnh, (2007), Cơ sở văn bản học Hán Nôm, Nxb

Khoa học xã hội.

81. Ngô Đức Thọ (1997), Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Nxb

Văn Hóa.

82. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi (2006), Các nhà khoa

bảng Việt Nam 1075 - 1919, Nxb Văn Học.

83. Phan Trọng Thưởng, Vũ Thanh, Trần Nho Thìn và cộng sự (2007), 10 thế kỷ

bàn luận về văn chương, tập 1, Nxb Giáo Dục.

84. Nguyễn Thị Huyền Trang (2013), Chân dung Thiệu Trị với tư cách là một tác

gia văn học qua Đại Nam thực lục, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, trường ĐH

KHXH&NV, Hà Nội.

85. Nguyễn Quốc Trị (2020), Nguyễn Văn Tường và cuộc chiến chống đô hộ Pháp

của Nhà Nguyễn, (quyển 1), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

86. Nguyễn Phước Hải Trung (2002), Chơi chữ Hán Nôm, những bài thơ độc đáo,

Nxb Thuận Hóa.

87. Nguyễn Phước Hải Trung (2019), Thế giới nghệ thuật trong thơ trên kiến trúc

cung đình Huế, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ, Văn học và Văn hóa Việt Nam,

trường ĐHKH Huế.

88. Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế (2015), Bảo tồn và phát huy giá trị hệ

thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Huế.

89. Phan Thúc Trực, bản dịch (2019), Quốc sử di biên, Nxb Khoa học Xã hội.

90. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2004), Tứ Thư, Nxb Khoa học Xã hội.

91. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2004), Ngũ Kinh, Nxb Khoa học Xã hội.

92. Lê Trí Viễn chủ biên (1984), Cơ sở Ngữ văn Hán Nôm, Tập III - IV, Nxb Giáo

Dục, Hà Nội.

174

93. Phan Thanh Việt (2020), “Bước đầu khảo cứu bài ‘Ngự diên văn bảo minh’ của

vua Thiệu Trị tại điện Long An”, trong sách Nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm

văn học theo thể loại, Nxb ĐHSP Hà Nội, trang 245-251.

94. Phan Thanh Việt (2020), “Khảo cứu hai bài minh theo đồ dạng hình tròn trong

tập Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập của Thiệu Trị”, trong Kỷ yếu Hội thảo

Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Thế giới, trang 1008-

1019.

95. Phan Thanh Việt (2021), “Sự nghiệp chính trị và Văn học của Hoàng đế Thiệu

Trị”, trong Tuyển tập công trình nghiên cứu Ngữ văn học tập 5, Nxb ĐHSP Hà

Nội.

96. Phan Thanh Việt (2021), “Hoàng đế Thiệu Trị và dấu ấn với Phật giáo Phú

Xuân”, trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Văn học và ngôn ngữ trong thế giới

đương đại - Bản sắc và hội nhập, Khoa Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội, Nxb

Giáo dục, trang 796-805.

97. Phan Thanh Việt, 2022, “Sự nghiệp Văn học của Thiệu Trị và dấu ấn với Văn

học Phật giáo Phú Xuân - Huế”, Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Thủ Đô Hà

Nội, số 58 - Khoa học Xã hội và Giáo dục.

98. Phan Thanh Việt, 2022, “Khảo cứu văn bản và tìm hiểu giá trị thi học tác phẩm

Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập của Thiệu Trị”, Tạp chí Hán Nôm, số 3

(172) 2022.

99. Trần Ngọc Vương (chủ biên) (2015), Văn học Việt Nam thế kỷ X đến thế kỷ

XIX-Những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

100. Trần Quốc Vượng (1987), “Vài suy nghĩ về xứ Huế và vị thế lịch sử của nó”,

trong Tạp chí Sông Hương, số 25.

B. Tài liệu Hán Nôm:

101. 御製古今體格詩法集 Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, bản in, kí hiệu:

A.3052, lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.

102. 御製古今體格詩法集 Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, bản chép tay

kí hiệu: A.1960, lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.

175

103. 紹治御製古今體格詩法集 Thiệu Trị Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập,

bản chép tay, kí hiệu: VHv.123, lưu trữ tại VNCHN.

104. 御製古今體格詩法 Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp, bản chép tay, kí hiệu:

VHv.1165, lưu trữ tại VNCHN.

105. 御製古今詩體集抄 Ngự chế cổ kim thi thể tập sao, bản chép tay, kí hiệu:

A.1877: lưu trữ tại VNCHN.

106. 御製古今體格詩法集 Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, bản in quyển

thủ kí hiệu: R.1597, lưu trữ tại Thư viện Quốc gia, Hà Nội.

107. 御製古今體格詩法集 Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, bản in quyển

tam kí hiệu: R.1598, lưu trữ tại Thư viện Quốc gia, Hà Nội.

108. 御製古今體格詩法集 Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập, bản in tư liệu

mộc bản tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV - Đà Lạt.

109. 紹治御製詩初集 Thiệu Trị Ngự chế thi sơ tập, (tư liệu Hán Nôm, sưu tầm).

110. 紹治御製詩二集 Thiệu Trị Ngự chế thi nhị tập, (tư liệu Hán Nôm, sưu tầm).

111. 紹治御製詩三集 Thiệu Trị Ngự chế thi tam tập, (tư liệu Hán Nôm, sưu tầm).

112. 紹治御製詩四集 Thiệu Trị Ngự chế thi tứ tập, (tư liệu Hán Nôm, sưu tầm).

113. 欽定輯韻摘要, 明命己亥年 Khâm định tập vận trích yếu, Minh Mạng

(1839), Kí hiệu: A.766/1-3, lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.

C. Tài liệu tiếng Trung Quốc:

114. 王雲五 (總編纂者) (清), 《佩文韻府》, 商務印書館發行, 中国。

115. 張玉書 (等編) (清), 《康煕字典》, 世紀出版集团; 上海書店出版社, 中

国, 出版發行, 1985 (2000 重印)。

116. 王運煕 (1981), 《中國文學批評史》, 上海古籍出本社。

117. 蔣凡 (1994), 《中國古代文論教程》, 中國書籍出本社。

118. 胡適 (1996), 《白話文學史》, 東方出本社。

119. 章培恒 (1997), 《中國文學史》, 復旦大學出本社。

120. 吴建民 (2001), 《中国古代诗学原理》, 人民文学出版社, 中国。

176

121. 张剑 (编著), 《中国古典奇体诗》, 兰洲大学出版社, 中国。

122. 鉴赏 (编著), 《奇诗 (趣味古诗) 》, 中国。

123. 赵翼 (编著) (清),《瓯北诗话》, 中国。

124. 涂宗涛 (2010),《诗词曲格律纲要》人民出版社, 中国。

D. Tài liệu điện tử ngoại văn:

125. 趣味诗欣赏,Linkhttps://www.docin.com/p-111365742.html, [材料阅读时间:

2021年6月].

126. 吴镇,中国人民大学文学院,“回文诗正读倒读都通顺,古人智慧了不起

”.Link:https://baijiahao.baidu.com/s?id=1676353794745453127&wfr=spider&for

=pc, [材料阅读时间: 2021年6月].

127. 王春法,中国国家博物院馆长,“浅议律诗韵法之辘轳韵、进退韵、葫芦韵”. Link:

http://blog.sina.com.cn/s/blog_69c92ab70102ykkt.html, [材料阅读时间: 2021年6月].

128. 汉语词典, Link Hán Ngữ từ điển trực tuyến: https://cidian.qianp.com/,

[材料阅读时间: 2021年6月].

129. 暮秋鸿雁,“格律诗别格:孤雁出群和孤雁入群是啥意思?有啥区别吗?”

Link:https://baijiahao.baidu.com/s?id=1674281366183649488&wfr=spide

r&for=pc, [材料阅读时间: 2021年6月].

177

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC I Thống kê đề mục tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập và vị trí bài thơ trong Thiệu Trị Ngự chế thi

TT

Thể/ cách

Vị trí trong Ngự chế thi

Quyển nhất/ Tên bài thơ

Nguyên tác/ Phỏng nguyên thể

Minh

Nguyên tác

Sơ tập, Q.1, tờ 23b-25b4

1 迎遵聖製於齋宮栽松十株各銘銅牌懸示來 許 Nghênh tuân Thánh chế ư Trai cung tài tùng thập chu các minh đồng bài huyền thị lai hứa (Kính ngưỡng tuân theo, ngự chế 10 bài minh khắc vào biển đồng treo trên cây Tùng ở Trai cung).

Ly hợp thể

Nguyên tác

2 雨聲,二首 Vũ thanh, nhị thủ (Tiếng mưa, 2

bài)

Phú đắc

Nguyên tác

3 賦得燕燕于飛 Phú đắc yến yến vu phi (Phú

đắc chim yến cùng bay)

Phú vịnh

Nguyên tác

Sơ tập, Q.5, tờ 7a-8a4 Sơ tập, Q.7, tờ 38a Sơ tập, Q.11, tờ 39b

4 秋蘭盛開置之座右走筆成咏 Thu lan thịnh khai trí chi tọa hữu tẩu bút thành vịnh (Mùa thu hoa lan nở rộ, ngồi ngắm vẩy bút thành vịnh)

Bài luật

Nguyên tác

5 冬晴八韻 Đông tình, bát vận (Ngày đông mưa

tạnh, 8 vần)

Thủ vỹ ngâm Nguyên tác

6 季春觸景偶作 Quý xuân xúc cảnh ngẫu tác

(Cuối xuân ngắm cảnh cảm hứng ngẫu tác)

Sơ tập, Q.12, tờ 23a Nhị tập, Q.2, tờ 31b Nhị tập, Q.5, tờ 24a

Tam ngũ thất ngôn thi

Phỏng nguyên thể

7 步 元 鄭 允 端 秋 夜 三 五 七 言 詩 原 韻 Bộ Nguyên Trịnh Doãn Đoan, Thu dạ, tam ngũ thất ngôn thi nguyên vận (Đêm thu - Phỏng theo thể tam ngũ thất ngôn nguyên vận của Trịnh Doãn Đoan đời Nguyên)

Cổ thể

Nguyên tác

Nhị tập, Q.6, tờ 17b

8 偶憶杜詩一二摘句摛成古體一篇借咏子美 戲題少陵集上 Ngẫu ức Đỗ thi nhất nhị trích cú si thành cổ thể nhất thiên tá vịnh Tử Mỹ hý đề Thiếu Lăng tập thượng (Chợt nhớ thơ họ Đỗ, trích 1-2 câu vung bút một thành thiên cổ thể vịnh Đỗ Tử Mỹ vui đề Thiếu Lăng tập thượng)

Thủ vỹ ngâm Nguyên tác

9 憶昔二首 Ức tích, nhị thủ (Nhớ xưa, 2 bài)

Nguyên tác

Nhị tập, Q.7, tờ 39b Nhị tập, Q.8, tờ 16b

10 賦得飛潛動植皆春意三首 Phú đắc phi tiềm động thực giai xuân ý tam thủ (Phú đắc muôn loài đều là ý xuân, 3 bài)

Phú đắc/ Thiền liên thể Cổ thể

Nguyên tác

11 臨池有會 Lâm trì hữu hội (Đến hồ nước có

hội)

Lục ngôn

Nguyên tác

12 晚眺 Vãn thiếu (Chiều ngắm cảnh xa)

Cửu ngôn

Nguyên tác

13 將雨 Tương vũ (Nghe mưa)

Nguyên tác

14 開 卷 自 勗 Khai quyển tự úc (Mở sách tự

Nhất tự chí thập tự Thủ vỹ ngâm Nguyên tác

15

Nhị tập, Q.9, tờ 33b Nhị tập, Q.10, tờ 8b Nhị tập, Q.10, tờ 9a Nhị tập, Q.10, tờ 10b Nhị tập, Q.10, tờ 11b

khuyến tấn) 據刑部將諸地方春季寧帖彙册呈覽堪慰于 懷卽援筆紀事 Cứ Hình bộ tương chư địa

PL1

phương xuân quý ninh thiếp vị sách trình lãm kham úy vu hoài tức viên bút kỷ sự

Cổ thể

Nguyên tác

16 南風來行 Nam phong lai hành (Gió phương

Nam thổi tới)

Ly hợp thể

17 賦得飛空作雨聲 Phú đắc Phi không tác vũ thanh (Phú đắc tiếng mưa rơi giữa hư không)

Tạp số thể

18 冬晴 Đông tình (Ngày Đông quang đãng)

Nhị tập, Q.10, tờ 12b Nhị tập, Q.13, tờ 10a Nhị tập, Q.14, tờ 2b

Phỏng nguyên thể Phỏng nguyên thể Bào Minh Viễn Nguyên tác

19 雨中山水 Vũ trung sơn thủy (Non nước trong

Tam tập, Q.1, tờ 29a-34a5

mưa)

Hồi văn thể kiêm liên hoàn Minh

20 御筵文寶銘 Ngự diên Văn bảo minh (Bài

Tam tập, Q.1, tờ 34a

minh vua ngự đề trên Văn bảo)

21 月 Nguyệt (Trăng)

Phỏng Lương Vũ Đế Cổ nghiễn minh Phỏng nguyên thể Nguyên tác

Tần quán cách Thiền liên thể

Tam tập, Q.1, tờ 35a Tam tập, Q.1, tờ 35a

22 春 雨 初 晴 値 芳 朝 節 幸 機 暇 園 賜 侍 從 宴 賞 Xuân vũ sơ tình trực phương triều tiết hạnh Cơ Hạ viên tứ thị tùng yến thưởng (Mưa xuân vừa dứt, sáng sớm đến vườn Cơ Hạ ban thưởng yến tiệc, 2 bài).

Nguyên tác

Tam tập, Q.3, tờ 2b-8b4

Tự sáng Toàn chuyển chu hoàn thể Giản ước thể Nguyên tác

23 池塘初夏臨興水榭放吟 Trì đường sơ hạ lâm hứng thủy tạ phóng ngâm (Đầu hạ ngồi ở nhà thủy tạ bên bờ hồ cảm hứng phóng ngâm) 24 題嚴子陵圖 Đề Nghiêm Tử Lăng đồ (Đề trên

tranh Nghiêm Tử Lăng)

Giản ước thể Nguyên tác

25 題李泌圖 Đề Lý Bí đồ (Đề trên tranh Lí Bí)

Chiết tự thể

26 雲水亭 Vân Thủy đình (Đình Vân Thủy)

Tam tập, Q.3, tờ 9b Tam tập, Q.3, tờ 10a Tam tập, Q.3, tờ 12a

Tạp số thể

27 賦得旣雨晴亦佳 Phú đắc Ký vũ tình diệc giai

Tam tập, Q.5, tờ 23b

(Phú đắc mưa đã tạnh trời trong đẹp)

Phỏng nguyên thể Bạch Lạc Thiên Phỏng nguyên thể Bào Minh Viễn

Thủ vỹ ngâm Nguyên tác

28 季秋 Quý thu (Cuối thu)

Cận thể

Nguyên tác

Tam tập, Q.7, tờ 37b Tam tập, Q.8, tờ 2b

29 御園偶題每句各用園中名勝 Ngự viên ngẫu đề mỗi cú các dụng viên trung danh thắng (Vườn ngự ngẫu đề mỗi câu dùng danh thắng thơ)

* 天高地厚覆載羣生三綱五常秉彝恒性因倣

Phỏng Thi Kinh

Tam tập, Q.9, tờ 18a

Đề mục của 9 thiên: Cổ thể

詩 經 古 體 創 製 九 篇 分 賜 講 堂 用 加 修 進 Thiên cao địa hậu phúc tải quần sinh tam cương ngũ thường bỉnh di hằng tính nhân phỏng Thi kinh cổ thể sáng chế cửu thiên bân tứ giảng đường dụng gia tu tiến. (Trời cao, đất dày che chở muôn loài, tam cương, ngũ thường, luân thường đạo lí, nhân phỏng Kinh Thi cổ thể sáng chế chín thiên, phân phát đi các giảng đường để tu tiến).

Cổ thể

Cổ thể

Phỏng Thi Kinh Phỏng Thi Kinh

Tam tập, Q.9, tờ 18b Tam tập, Q.9, tờ 19a

30 高明三章章四 Cao minh tam chương chương tứ cú (Trời cao, 3 chương, chương 4 câu) 31 博 厚 三 章 章 四 句 Bác hậu tam chương chương tứ cú (Đất dày, 3 chương, chương 4

PL2

câu)

Cổ thể

Phỏng Thi Kinh

Tam tập, Q.9, tờ 19b

32 寵 綏 三 章 二 章 章 四 句一 章六 句 Sủng tuy tam chương nhị chương chương tứ cú nhất chương nhị cú

Cổ thể

33 忠良三章章四句 Trung lương tam chương

chương tứ cú

Cổ thể

34 慈愛三章章四句 Từ ái tam chương chương

tứ cú

Cổ thể

35 孝 悌 三 章 章 四 句 Hiếu đễ tam chương

chương tứ cú

Cổ thể

36 造 端 三 章 章 四 句 Tạo đoan tam chương

chương tứ cú

Cổ thể

37 友 于 三 章 章 四 句 Hữu vu tam chương

chương tứ cú

Cổ thể

38 止信三章章四句 Chỉ tín tam chương chương

tứ cú

Phỏng Thi Kinh Phỏng Thi Kinh Phỏng Thi Kinh Phỏng Thi Kinh Phỏng Thi Kinh Phỏng Thi Kinh Nguyên tác

39 晴林鳥語 Tình lâm điểu ngữ

Tam tập, Q.9, tờ 20a Tam tập, Q.9, tờ 20a Tam tập, Q.9, tờ 20b Tam tập, Q.9, tờ 21a Tam tập, Q.9, tờ 21a Tam tập, Q.9, tờ 21b Tam tập, Q.9, tờ 31b

Thủ vỹ ngâm/ Tiến thối cách Lời tựa thơ

Nguyên tác

Tam tập, Q.17, tờ 1a

* 仲秋禾熟時候余恐値潦汛之期每爲農憂常 有默禱何幸 Trọng Thu hòa thục thời hậu dư khủng trị lạo tấn chi kỳ mỗi vi nông ưu thường hữu mặc đảo hà hạnh

Thủ vỹ ngâm Nguyên tác

Tam tập, Q.17, tờ 2b

40 仲秋禾熟時候余恐値潦汛之期每爲農憂常 有默禱何幸 Trọng Thu hòa thục thời hậu dư khủng trị lạo tấn chi kỳ mỗi vi nông ưu thường hữu mặc đảo hà hạnh – Hỷ nhi hữu tác Thủ vỹ ngâm

Phú đắc

Nguyên tác

Tứ tập, Q.5, tờ 12b

41 天庥滋至國慶增隆玉璽應十成壽旦啟十全 之美瑶圖徵萬世佳年欣萬事之宜信可供識 勝一章復賦得美成十咏 Thiên hưu tư chí quốc khánh tăng long ngọc tỉ ứng thập thành thọ đán khải thập toàn chi mỹ, dao đồ trưng vạn thế giai niên hân vạn sự chi nghi tín khả cung thức thắng nhất chương phục phú đắc mỹ thành thập vịnh

Phú đắc

Nguyên tác

Tứ tập, Q.5, tờ 13a

42 賦得玉璽十成徵吉瑞,瑶圖萬世應嘉祥 Phú đắc Ngọc tỉ thập thành trưng cát thụy, Dao đồ vạn thế ứng gia tường

Phú đắc

Nguyên tác

43 賦 得 天 和 時 若 繁 榮 遂 Phú đắc Thiên hòa

thời nhược phồn vinh toại

Phú đắc

Nguyên tác

44 賦得地利年豐富庶彰 Phú đắc Địa lợi niên

phong phú thứ chương

Phú đắc

Nguyên tác

45 賦 得 河 順 鄉 村 欣 案 堵 Phú đắc Hà thuận

hương thôn hân án đổ

Phú đắc

Nguyên tác

46 賦得海恬舟楫樂徜徉 Phú đắc Hải điềm chu

tiếp lạc thảng dương

Phú đắc

Nguyên tác

47 賦 得 任 才 考 績 森 賢 輔 Phú đắc Nhâm tài

khảo tích sâm hiền phụ

Phú đắc

Nguyên tác

48 賦得感化來賓撫臘羗 Phú đắc Cảm hóa lai

tân phủ lạp khương

Phú đắc

Nguyên tác

49 賦得保定武功清遠裔 Phú đắc Bảo định vũ

Tứ tập, Q.5, tờ 13b Tứ tập, Q.5, tờ 14b Tứ tập, Q.5, tờ 15a Tứ tập, Q.5, tờ 16a Tứ tập, Q.5, tờ 16b Tứ tập, Q.5, tờ 16b Tứ tập, Q.5, tờ 17a

công thanh viễn duệ

PL3

Phú đắc

Nguyên tác

50 賦得振興文治御羣方 Phú đắc Chấn hưng

văn trị ngự quần phương

Phú đắc

Nguyên tác

Tứ tập, Q.5, tờ 17b Tứ tập, Q.5, tờ 18b

21 Thể cách

Tổng

51 賦得民康户籍增蕃盛國泰邦基永久長 Phú đắc Dân khang hộ tịch tăng phiên thịnh quốc thái bang cơ vĩnh cửu trường 83 Bài thơ (Đã tính các bài nhị thủ, tam thủ, tam chương); 1 tựa thơ.

35 Nguyên tác; 17 Phỏng nguyên thể

Thể/ cách

TT

Nguyên tác/ Phỏng nguyên thể

Quyển nhị/ Tên bài thơ

Nguyên tác

* 序 Tự

Lời tựa quyển nhị Nghiêu giới

1 靜裡觀天 Tĩnh lý quán thiên

Ca

2 咸孚沐日 Hàm phu mộc nhật

Vũ diêu

3 晚綴雲容 Vãn xuyết vân dung

Phỏng Đường Nghiêu giới Phỏng Ngu Thuấn, Khanh Vân Ca Phỏng Vũ Chú đỉnh diêu Phỏng Thương minh

Minh

4 夕蒸霞彩 Tịch chưng hà thái

Minh

5 空架虹霓 Không giá hồng nghê

Phỏng Chu Vũ Vương Quán bàn minh Thủy tiên thao Phỏng Bá Nha,

6 陣來煙雨 Trận lai yên vũ

Ca

Thủy tiên thao Phỏng Việt nhân ca

7 星朗三垣 Tinh lãng tam viên

Ca

8 霽光萬宇 Tễ quang vạn vũ

9 漢浮玉鏡 Hán phù ngọc kính

Bách lương thể Ca

10 夜靜銀河 Dạ tĩnh ngân hà

Vị trí trong Thiệu Trị Ngự chế thi Tứ tập, Q.5, tờ 22b Tứ tập, Q.5, tờ 23a Tứ tập, Q.5, tờ 23b Tứ tập, Q.5, tờ 23b Tứ tập, Q.5, tờ 24a Tứ tập, Q.5, tờ 24b Tứ tập, Q.5, tờ 25a Tứ tập, Q.5, tờ 25a Tứ tập, Q.5, tờ 25b Tứ tập, Q.5, tờ 26a Tứ tập, Q.5, tờ 27b

Song vận thể

11 曉色竒峯 Hiểu sắc kỳ phong

Tứ tập, Q.5, tờ 27b

Điệp vận thể

12 晴輝秀水 Tình huy tú thủy

Tứ tập, Q.5, tờ 28a

Phỏng Hán Cao Đế, Đại phong ca Phỏng Hán Vũ Đế, Bách lương thể Phỏng Hán Chiêu Đế, Lâm hà ca Phỏng Đường, Chương Kiệt song vận thể Phỏng Đường, Bì Nhật Hưu, sơn trung ngâm

13 韞玉山輝 Uẩn ngọc sơn huy

Toàn trắc thể

14 懷珠川媚 Hoài châu xuyên mị

Tứ tập, Q.5, tờ 28b Tứ tập, Q.5, tờ 29a

Điệp tự thể

15 重樓雅望 Trùng lâu nhã vọng

Điệp tự thể

16 曲榭遣閒 Khúc tạ khiển nhàn

17 池塘玩月 Trì đường ngoạn nguyệt

Cú cú dụng tự thể Hồi văn thể

18 亭院納凉 Đình viện nạp lương

19 平橋閒步 Bình kiều nhàn bộ

Dược danh ly hợp thể

Tứ tập, Q.5, tờ 29b Tứ tập, Q.5, tờ 30a Tứ tập, Q.5, tờ 30b Tứ tập, Q.5, tờ 31a Tứ tập, Q.5, tờ 31b

Toàn bằng thể Phỏng Đường, Lục Quy Mông, khổ vũ Phỏng Tống, Mai Nghiêu Thần, chu trung tức sự Phỏng Tống, Vương Thập Bằng Phỏng Tống, Triệu Cát Sĩ, lâm ngọa tập Phỏng Lương Nguyên Đế, xuân nhật Phỏng Tề Vương Sinh, xuân du Phỏng Đường, Trương Tịch, bà dương khách

PL4

Chiết tự thể

20 高閣清居 Cao các thanh cư

Tứ tập, Q.5, tờ 32b

Minh

21 日長講誦 Nhật trường giảng tụng

Phỏng Đường, Bạch Lạc Thiên, Du tử tiêu cung Phỏng Ân Trọng Kham, tửu bàn minh

Phiến đối cách Phỏng Tống, Tô

22 風爽吟哦 Phong sảng ngâm nga

Tứ tập, Q.5, tờ 33a Tứ tập, Q.5, tờ 33b

23 夕郊牧笛 Tịch giao mục địch

Đông Pha, Hòa uất cô đài Phỏng Tống, Tần Quán Nguyên tác

24 山寺禪鐘 Sơn tự thiền chung

25 巖壑樵閒 Nham hác tiều nhàn

Tàng tự hồi văn thể Tân sáng thất chính cách Tam ngũ thất ngôn thể Từ

26 江村漁樂 Giang thôn ngư lạc

27 林泑校獵 Lâm ửu giáo liệp

Nhất tự chí thập tự thể Tam ngôn thể

Phỏng Đường, Lý Bạch Phỏng Minh, Trần Kế, ngư phụ từ Phỏng Tống, Văn Đồng, vịnh trúc Phỏng Lỗ Liên Tử

28 隴畝耘耡 Lũng mẫu vân sừ

Tứ ngôn thể

29 泛海歸帆 Phiếm hải quy phàm

30 濟川擊楫 Tế Xuyên kích tiếp

Ngũ ngôn cổ thể Lục ngôn thể

31 古渡孤舟 Cổ độ cô chu

Phỏng Hoàng Đế, Binh pháp Phỏng Hán, Tô Vũ, biệt lý lăng Phỏng Đường, Cố Huống, quy sơn tác

Hoàng nga ca Phỏng Thiếu Hạo

32 空山疲馬 Không sơn bì mã

Mẫu Hoàng Nga ca Nguyên tác

33 倚檻荷香 Ỷ hạm hà hương

Tân sáng bát ngôn thể Cửu ngôn thể

34 垂堂竹蔭 Thùy đường trúc ấm

Phỏng Bắc Chu, Sưu Tín, thương điều khúc Nguyên tác

35 蘆岸沐鷗 Lô ngạn mộc âu

Tân sáng thập ngôn thể Tạp số thể

36 蘋洲宿鷺 Tần châu túc lộ

37 松陂鹿伏 Tùng bì lộc phục

Phỏng Tống, Bào Minh Viễn, số thi Phỏng Đường, Đỗ Phủ, đầu mộ phủ Nguyên tác

38 萍道魚游 Bình đạo ngư du

39 曠埜螢燈 Khoáng dã huỳnh đăng

Cô nhạn nhập quần cách Cô nhạn xuất quần cách Tiến thoái cách

Tứ tập, Q.5, tờ 33b Tứ tập, Q.5, tờ 34a Tứ tập, Q.5, tờ 35a Tứ tập, Q.5, tờ 35a Tứ tập, Q.5, tờ 36a Tứ tập, Q.5, tờ 37a Tứ tập, Q.5, tờ 37a Tứ tập, Q.5, tờ 37b Tứ tập, Q.5, tờ 38a Tứ tập, Q.5, tờ 38b Tứ tập, Q.5, tờ 39b Tứ tập, Q.5, tờ 40a Tứ tập, Q.5, tờ 40b Tứ tập, Q.5, tờ 41a Tứ tập, Q.5, tờ 42a Tứ tập, Q.5, tờ 42b Tứ tập, Q.5, tờ 44a

Thủ vỹ ngâm

40 清宵蟬韻 Thanh tiêu thiền vận

Tứ tập, Q.5, tờ 44b

Tổng 40 Bài thơ; 1 tựa

34 Thể cách

Phỏng Tống, Lý Sư Trung, tống đường giới Phỏng Tống, Thiệu Nghiêu Phu 4 Nguyên tác; 36 Phỏng nguyên thể

Thể/ cách Nguyên tác/

TT

Vị trí trong Ngự chế thi

Quyển tam/ Tên bài thơ

Phỏng nguyên thể Nguyên tác

* 序 Tự

Nguyên tác

1 天文 Thiên văn

Tứ tập, Q.6, tờ 1a Tứ tập, Q.6, tờ 1b

Lời tựa quyển tam Tân sáng Thiên văn thể

PL5

Nguyên tác

2 地輿 Địa dư

Nguyên tác

3 人姓 Nhân tính

Nguyên tác

4 文風 Văn phong

Nguyên tác

5 武烈 Vũ liệt

Tân sáng Địa dư thể Thánh chế Tính thị thể Tân sáng Văn đức thể Tân sáng Vũ công thể Khẩu tự thể

6 談論 Đàm luận

Tứ tập, Q.6, tờ 2a Tứ tập, Q.6, tờ 2b Tứ tập, Q.6, tờ 4a Tứ tập, Q.6, tờ 4b Tứ tập, Q.6, tờ 5a

Kiến trừ thể

7 安邊 An biên

8 治功 Trị công

Cung điện thể

Tứ tập, Q.6, tờ 5b Tứ tập, Q.6, tờ 6a

9 政化 Chính hóa

Quận huyện danh thể

Tứ tập, Q.6, tờ 7a

Tứ khí thể

10 賞景 Thưởng cảnh

Tứ tập, Q.6, tờ 8a

Bát âm thể

11 煙鎖池塘柳 Yên tỏa trì đường liễu

Tứ tập, Q.6, tờ 8a

Lục phủ thể

12 霜濡錦堞蕉 Sương nhu cẩm điệp tiêu

Tứ tập, Q.6, tờ 9a

13 漁艇江天樂 Ngư đĩnh giang thiên lạc

Quái danh thể

Tứ tập, Q.6, tờ 9b

Tứ sắc thể

14 樵柯水石閒 Tiều kha thủy thạch nhàn

Tứ tập, Q.6, tờ 10a

15 耕犁隴畝適 Canh lê lũng mẫu thích

Trường đoản cú thể

Tứ tập, Q.6, tờ 10b

16 讀卷聖贒歡 Độc quyển thánh hiền hoan

Hồ lô vận thể

Phỏng Trần, Thẩm Quýnh, hòa sái hoàng môn Phỏng Lương Tuyên Đế Phỏng Lương Nguyên Đế, cung điện danh Phỏng Lương, Phạm Vân, quận huyện danh Phỏng Tống, Vương Vy, tứ khí Phỏng Trần, Thầm Quýnh, bát âm Phỏng Trần Thẩm Quýnh, lục phủ Phỏng Giản Văn Đế, quái danh Phỏng Tề Vương Sinh, tứ sắc Phỏng Đường, Bạch Cư Dị, phiếm tiểu… Phỏng Đường, Lý Bạch hồ lô vận Nguyên tác

17 花發隨時馥 Hoa phát tùy thời phức

Tứ tập, Q.6, tờ 11a Tứ tập, Q.6, tờ 11b

Tân sáng Quần phương thể Thụ danh thể Phỏng Lương

18 樹標歷歲榮 Thụ tiêu lịch tuế vinh

Tứ tập, Q.6, tờ 12a

19 禽飛來往遂 Cầm phi lai vãng toại

Điểu danh thể

Tứ tập, Q.6, tờ 12b

Nguyên Đế, thụ danh Phỏng Lương Nguyên Đế, điểu danh Nguyên tác

20 魚泳淺深泓 Ngư vịnh thiển thâm hoằng

Tứ tập, Q.6, tờ 13a

Nguyên tác

21 以題爲對爰成律詩 Dĩ đề vi đối viên thành

Tân sáng Ngư danh thể Tân sáng Tập đề thể

Tứ tập, Q.6, tờ 13a

luật thi

PL6

Nguyên tác

22 以題爲詩復向前對 Dĩ đề vi thi phục hướng

Tân sáng Đối thi thể Mê tự thể

tiền đối 23 謎語 Mê ngữ

Tứ tập, Q.6, tờ 13b Tứ tập, Q.6, tờ 14a

24 春臺 Xuân đài

Hỏa diệm thể

Tứ tập, Q.6, tờ 15a

Phỏng Tống, Bào Chiêu, mê tự Phỏng hỏa diệm nhưng cải chế thư pháp

Phi nhạn thể Phỏng phi

25 夀域 Thọ vực

Tứ tập, Q.6, tờ 15b

nhạn nhưng cải chế thư pháp Nguyên tác

26 雅致 Nhã trí

Tứ tập, Q.6, tờ 16a

27 風光 Phong quang

Tứ tập, Q.6, tờ 17a

Phỏng Phật Ấn, điệp vận trường ca Nguyên tác

28 景色 Cảnh sắc

Tứ tập, Q.6, tờ 19b

Tân sáng Liên hoàn thể Điệp vận trường ca thể Tân sáng Tung hoành thể Đảo cú thể

Nguyên tác

29 品類 Phẩm loại

Nguyên tác

30 覽勝 Lãm thắng

Thiền liên thể

Tứ tập, Q.6, tờ 20b Tứ tập, Q.6, tờ 23a

Nguyên tác

* 跋 Bạt

Tứ tập, Q.6, tờ 24b

Tổng 30 Bài thơ; 1 tựa; 1 bạt

Bài văn có giá trị tương đương lời hậu bạt 30 Thể cách

13 Nguyên tác; 17 Phỏng nguyên thể

PL7

PHỤ LỤC II

Tuyển dịch quyển nhất và tựa thơ Tác phẩm Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp tập

I. QUYỂN NHẤT: * 迎遵聖製於齋宮栽松十株各銘銅牌懸示來許 Nghênh tuân Thánh chế ư Trai cung tài tùng thập chu các minh đồng bài huyền thị lai hứa. (10 bài). Bài 1: 其一

Kỳ nhất Tuân y gia pháp

Thân tài gia thụ Nghĩa: Tuân theo gia pháp Ngự đến trai cung Thân trồng cây tốt

Bài 2: 其二

Bài 3: 其三

Bài 4: 其四

Bài 5: 其五

Bài 6: 其六

近依泰畤 Cận y thái trĩ 普沐乾施 樑棟之材 邦家之基

Bài 7: 其七

Mãi xứng cung vua. Nghĩa: Rễ thiêng cuộn đất Bóng mát trùm trời Tiêu biểu bốn phương Nơi đây muôn đời. Nghĩa: Đứng đầu trăm cây Muôn năm còn mãi Ngày tháng gánh vác Cao vút đất trời. Nghĩa: Đạo của Tài thành Công của Phụ tướng Gốc cành nối đời Quốc gia vững mạnh. Nghĩa: Cành nhiều xanh mát Cao vững dài lâu Trời cao đất dày Nước nhà yên bình. Nghĩa: Gần nương thái đàn Thấm khắp trời cao Rường cột vững chắc Nền móng nước nhà. Nghĩa: Quân tử sáng suốt 遵依家法 駕幸齋宮 Giá hạnh trai cung 親栽嘉樹 永對宸楓. Vĩnh đối thần phong. Kỳ nhị 靈根蟠地 Linh căn bàn địa 茂蔭際天 Mậu ấm tế thiên 表端四國 Biểu đoan tứ quốc 於萬斯年. Ư vạn tư niên. Kỳ tam 百木爲長 Bách mộc vi trưởng 萬古長存 Vạn cổ trường tồn 負荷日月 Phụ hà nhật nguyệt 矗翠乾坤. Súc thúy càn khôn. Kỳ tứ 裁成之道 Tài thành chi đạo 輔相之功 Phụ tướng chi công 本枝奕葉 Bổn chi dịch diệp 家國綿洪. Gia quốc miên hồng. Kỳ ngũ 繁枝綠蔭 Phồn chi lục ấm 勁節延齡 Kính tiết diên linh 天長地久 Thiên trường địa cửu 本固邦寜. Bổn cố bang ninh. Kỳ lục Phổ mộc càn thi Lương đống chi tài Bang gia chi cơ. Kỳ thất 明哲君子 Minh triết quân tử

PL8

Bài 8: 其八

Kỳ bát Sâm sâm chi cán Tế tế hiền lương

Đại phu chính trực Phò tá quốc gia Sánh cùng Y Lữ. Nghĩa: Cành lá rậm rạp Cứu vớt hiền lương Che chở nước ta

正直大夫 Chính trực đại phu 邦國之輔 Bang quốc chi phụ 伊呂35之儔 Y Lữ chi trù. 森森枝幹 濟濟賢良 佑我邦國 Hựu ngã bang quốc 長侍君王

Bài 9: 其九

Trường thị quân vương. Mãi hầu quân vương. Kỳ cửu Bổn căn tráng cố

本根壯固 枝葉蕃昌 Chi diệp phiên xương 永懷思慕 紹庥揚芳

Bài 10: 其十

Nghĩa: Gốc rễ vững chắc Cành lá tươi tốt Vĩnh hoài tư mộ Mãi hoài tưởng niệm Thiệu hưu dương phương. Kế thừa phát dương. Kỳ thập 肇造先澤 Triệu tạo tiên trạch 培擁榮光 Bồi ủng vinh quang 一本萬葉 Nhất bổn vạn diệp 百世無疆 Bách thế vô cương. Nghĩa: Tiền nhân mở mang Bồi đắp vinh quang Một gốc muôn cành Nối mãi muôn đời.

* 雨聲, 二首 Vũ thanh nhị thủ (每勾戲藏有用藥方者爲離合體 Mỗi cú hý tạng hữu dụng dược phương giả vi ly hợp thể). Bài 11: Vũ thanh, kỳ nhất 雨聲, 其一 Hán: 水面跳珠聲撓滑 Âm: Thủy diện khiêu châu thanh nạo hoạt Thạch giai trích ngọc hưởng tùy sinh Kim pha đảo hạp hà huyên đại

Thanh thảo trường đê mạch lãng khinh

Phấn bích cách văn diêm lưu hạ Nê châu ám động lại giao minh

Cưu tài hoán bãi trưng cao trạch Tả chú khuynh bồn triệt dạ minh. 石階滴玉響隨生 金坡倒峽荷喧大 青草長堤麥浪輕 粉壁隔聞簷溜下 泥洲暗動籟交鳴 鳩纔喚罷徴膏澤 瀉澍傾盆徹夜明.

Nghĩa: Tiếng mưa (Kỳ 1)

35 伊呂 Y Lữ: tức Y Doãn và Lữ Vọng Khương Tử Nha.

Mưa như tiếng châu nhảy trên mặt nước Giọt rơi thềm đá như tiếng ngọc vang xa Nước chảy ngược qua ao sen kêu rả rích Cỏ xanh trên đê cùng sóng lúa nhẹ rung Cách vách nghe tiếng nước trên mái nhà Bãi cù lao mịt mờ nghe tiếng mưa vọng lại

PL9

Chim thư cưu ngưng gọi ngoài đầm nước Mưa phải thời chảy nghiêng chậu suốt đêm.

Vũ thanh, kỳ nhị

Bài 12: Hán: 香圃瓊林常秀麗 Âm: Hương phố quỳnh lâm thường tú lệ Xuân cao thu lộ tịch trường sinh Thảo lung dã sắc phi yên đạm

Trúc ỷ thiềm lưu nhã vận thanh

春膏秋露藉長生 草籠埜色飛煙淡 竹倚簷流雅韻清 桂殿36敲聞知潤澤 蘭庭送馥茁奇英 Quế điện xao văn tri nhuận trạch Lan đình tống phức truất kỳ anh

鷄聲乍歇雨聲細 辛苦堪憐稼穡丁. Kê thanh sạ hiết vũ thanh tế Tân khổ kham lân giá sắc đinh.

Nghĩa: Tiếng mưa (kỳ 2)

Vườn báu hương sắc thường rất tú lệ Xuân thu mưa móc nhờ đó sinh trưởng Cánh đồng hoa cỏ tươi đẹp, khói nhẹ bay Trúc tựa mái nhà tuôn chảy khúc nhạc thanh Điện quế nghe tiếng mưa biết đã thấm nhuần Trước sân lan đưa hương, cỏ cây nảy mầm Tiếng gà vừa dứt nghe mưa nhẹ rơi dần Thương dân kham khổ cấy gặt cánh đồng xa.

Hàng hiệt vũ huyền y Lược thủy song song quá Niêm hoa đối đối phi Tịnh y hoàn tịnh ngẫu Tương ước mạc tương vi Họa hạm hô bằng ngữ Điêu lương tác bạn quy. 頏頡舞玄依 掠水雙雙過 粘花對對婓 並依還並偶 相約莫相違 畫檻呼朋語 雕梁作伴歸

Bài 13: Phú đắc yến yến vu phi 賦得燕燕于飛37 Hán: 喃呢交玉頷 Âm: Nam ni giao ngọc hạm Nghĩa: Phú đắc Chim yến cùng bay

36 桂殿 quế điện: cung vua. 37 燕燕于飛 yến yến vu phi: Chim yến bay đi, tích trong kinh Thi

Dưới hàm đôi yến kêu thánh thót Lượn nhảy múa trong màu huyền y Sóng sánh bay lướt qua mặt nước Song hành qua vườn hoa khoe sắc Cùng nương nhau lại cùng sánh đôi

PL10

Cùng ước hẹn mà chẳng xa cách Đậu trước cửa thì thầm gọi nhau Cùng chim trời làm bạn về tổ.

Bài 14: Thu lan thịnh khai trí chi tòa hữu tẩu bút thành vịnh 秋蘭盛開置之坐 右走筆成咏 Hán: 旣知感德而叢生, Âm: Ký tri cảm đức nhi tùng sinh Khởi đồ dữ thảo mộc vi ngũ. Bất vi mạc phục nhi bất phương Bất dĩ mạc tri nhi chỉ đỗ. Phá thương biểu hề đới vũ khai Mạo nghiêm sương hề hướng nguyệt thổ. Khởi duy tiên diễm ư xuân thiên Cánh giác hinh hương ư thu phố. Hà bất trí châu ngọc tại bàng Chỉ trịnh trọng danh hoa khả thủ Thập thất chi ấp trung tín tai Thập bộ chi nội phân phương phổ Nam cai thi hề bách hành tiên Y lan tháo hề vạn vật đổ Lan hề! Lan hề! Vương giả hương Lan hề! Lan hề! Thiện nhân vũ. 豈徒與草木爲伍. 不爲莫服而不芳, 不以莫知而止杜. 破商飈兮帶雨開, 冒嚴霜兮向月吐. 豈惟鮮豔於春天, 更覺馨香於秋圃. 何不置珠玉在旁, 只鄭重名花可取. 十室之邑忠信哉, 十步之内芬芳普. 南陔詩兮百行先, 猗蘭操兮萬勿覩. 蘭兮蘭兮王者香, 蘭兮蘭兮善人宇.

Nghĩa: Mùa thu ngồi xem hoa lan nở rộ vẩy bút thành vịnh Biết cảm mộ đức tính đã sinh trưởng ở rừng sâu Há chỉ có cùng với cỏ cây đứng hàng ngũ Không vì ở chốn rậm rạp mà không thơm Không vì chẳng biết mà dừng lại sự tỏa hương Gió thu thổi mạnh hề mang theo cơn mưa đến Sương giăng phủ hề ánh trăng dần hiện ra Há chỉ rực rỡ tươi đẹp ở trời xuân Lại thêm hương thơm lừng ở khu vườn thu Sao không sắp đặt châu ngọc ở bên mình Chỉ cẩn thận danh hoa mà chọn lấy Trong ấp mười nhà trung tín thay Trong vòng mười bước tiếng thơm rộng khắp Thềm thơ trời Nam chừ là làm đầu tiên trong muôn sự Thịnh đẹp thay tiết tháo hoa lan chừ muôn vật cùng nhìn Lan hề! Lan hề! hương thơm của vương giả Lan hề! Lan hề! thiện nhân trong thiên hạ.

PL11

Bài 15: Đông tình bát vận 冬晴八韻 [Dĩ hoa thụ cầm ngư, ngư tiều canh độc ai thứ ư cú trung các ngụ ý nghĩa 以花樹禽魚漁樵耕讀挨次於句中各寓意義]38 Hán: 晚匊含芳蘂, 新梅綴嫩枝. 迎風楊柳絮, 浴日栢松姿. 交語雙鸜鵒, 初飛數意而. 玉鱗浮煖溜, 赬尾負暄池. 倚蔭長竿放, 憑磯細縷垂. 柴岡來打衆, 霽色竟歸馳. 曠野催犁返, 平坡叱犢隨. 絃哥何處起, 村學教童兒. Âm: Vãn cúc hàm phương nhị Tân mai chuế nộn chi Nghênh phong dương liễu nhứ Dục nhật bách tùng tư Giao ngữ song cù dục Sơ phi số ý nhi Ngọc lân phù noãn lưu Trinh vỹ phụ huyên trì. Ỷ ấm trường can phóng Bằng ki tế lũ thùy Sài cương lai đả chúng Tễ sắc cánh quy trì Khoáng dã thôi lê phản Bình pha sất độc tùy Huyền ca hà xứ khởi Thôn học giáo đồng nhi.

Nghĩa: Ngày Đông mưa tạnh (tám vần)

Cúc nở muộn còn ngậm nhụy hoa thơm Mai vừa mới mọc lên nữa một cành Đón gió đông bông liễu nhẹ đưa bay Trong ánh nắng tùng bách càng tươi đẹp Đôi chim sáo thi nhau cùng hót vang Vừa cất cánh bay lượn trời cao rộng Dòng nước ấm cá tung tăng bơi lội Chiếc đuôi đỏ vẩy mình trong ao xanh Sào trúc dài tựa mình buông chèo chống Tựa qua ghềnh áo cũ khẽ buông đưa Sườn núi cao đến đốn củi mang về Trời quang tạnh trọn ngày dong ruỗi Cánh đồng rộng thúc giục cày nhanh về Đất gập ghềnh quát trâu nhỏ đi theo Tiếng đàn ca nơi nào vừa dấy lên Trong thôn tiếng dạy trẻ còn vang.

38 Lấy hoa thụ cầm ngư, ngư tiều canh độc thứ tự sắp xếp trong câu hiện lên ý nghĩa các hình tượng đó.

Bài 16: Quý xuân xúc cảnh ngẫu tác (Thủ vỹ ngâm) Hán: 鶯轉聲聲暗惱春 Âm: Oanh chuyển thanh thanh ám não xuân

PL12

柳排青瑣蔭湖津 蓮逢靈運紅蒸綺 草戀王孫綠綴茵 解慍薰風堪韻事 賞閒美景叶良晨 蟬鳴漸漸舒長夏 鶯轉聲聲暗惱春. Liễu bài thanh tỏa ấm hồ tân Liên phùng linh di hồng chưng ỷ Thảo luyến vương tôn lục chuyết nhân Giải uẩn huân phong kham vận sự Thưởng nhàn mỹ cảnh hiệp lương thần Thiền minh tiệm tiệm thư trường hạ Oanh chuyển thanh thanh ám não xuân.

Nghĩa: Cuối xuân ngắm cảnh ngẫu hứng sáng tác

Chim oanh hót nhẹ làm xuân thêm não lòng Rặng liễu xanh đưa chuỗi ngọc phủ bờ hồ Sen gặp linh vận tô hồng đẹp như lụa Cỏ biếc khâu chiếu đệm êm nhớ vương tôn Hóa giải giận hờn gió hương đưa thế sự Nhàn hạ thưởng cảnh đẹp hài hòa buổi sớm Tiếng ve chậm rãi dần đưa vào mùa hạ Chim oanh hót nhẹ làm xuân thêm não lòng.

Bài 17: Bộ Nguyên, Trịnh Doãn Đoan, Thu dạ, tam ngũ thất ngôn thi nguyên vận Hán: 凝月色 Âm: Ngưng nguyệt sắc 照花陰 Chiếu hoa âm Ngọc vũ tam canh tĩnh 玉宇三更静 金風萬籟吟 Kim phong vạn lại ngâm Viễn tái bất vô thôi thú địch 遠塞不無催戌笛 孤村更有動寒碪. Cô thôn cánh hữu động hàn châm.

Nghĩa: Đêm thu, sáng tác theo thể tam ngũ thất ngôn của Trịnh Doãn Đoan thời Nguyên.

Trăng tụ màu Rọi dưới hoa Hiên ngọc canh ba vắng Gió thổi ngâm muôn khúc Biên ải tiếng sáo thôi thúc giục Thôn vắng lạnh nghe tiếng chày vải.

Bài 18: Ngẫu ức Đỗ thi nhất nhị trích cú si thành cổ thể nhất thiên, tá vịnh Tử Mỹ hý đề Thiếu Lăng tập thượng 偶憶杜39詩一二摘句摛成古體一篇,借咏子美 戲題少陵集上 Hán: 昔者與高李 Âm: Tích giả dữ cao Lý

39 杜: tức Đỗ Phủ, hiệu Tử Mỹ, đại thi hào thời thịnh Đường,

生逢酒賦欺 文章日自父 風物長年悲 Sinh phùng tửu phú khi Văn chương nhật tự phụ Phong vật trường niên bi

PL13

疎懶爲名誤 酸甘止自知 異才應間出 涕灑亂交頣 蔬食常不飽 茶瓜留客遲 情窮造化理 遣興莫過詩

Sơ lãn vi danh ngộ Toan cam chỉ tự tri Dị tài ứng gian xuất Thế sái loạn giao di Sơ thực thường bất bão Trà qua lưu khách trì Tình cùng tạo hóa lí Khiển hứng mạc quá thi. Nghĩa: Chợt nhớ thơ Đỗ Phủ chọn một vài câu vẽ vời thành một thiên cổ thể

Mượn vịnh Tử Mỹ đề ở Thiếu Lăng tập thượng. Xưa ta cùng với Lý Bạch Sinh thời lấy rượu dãi bày sự tình Văn chương ngày ngày trông cậy Năm dài thương xót muôn vật Xao nhãng vì lỡ lầm danh tiếng Kẻ sĩ nghèo chỉ tự biết cam chịu Tài lạ ứng hợp xuất hiện giữa đời Nước mắt chạy loạn trên má gầy Ăn rau thường chẳng được no Trà đắng mong giữ khách thư thả Tình này sánh cùng lý tạo hóa Bị lưu đày cao hứng chẳng làm thơ.

Bài 19: Ức tích - Kỳ nhất Hán: 難堪憶昔日承恩 Âm: Nan kham ức tích nhật thừa ân

Chỉ hiếu tư trung phụng thánh nhân Tức mộc thừa chu phương huấn chính Xưng thương vũ thải chính ngu thân Thiên trường địa cửu tâm hoài cựu Thử vãng hàn lai nhãn giới tân Sương lộ cảm thời tăng luyến mộ Nan kham ức tích nhật thừa ân.

止孝思忠奉聖人 息木乘舟方訓政 稱觴舞綵正娛親 天長地久心懷舊 暑往寒來眼界新 霜露感時增戀慕 難堪憶昔日承恩. Nghĩa: Nhớ xưa – kỳ một

Khó lòng quên được lúc xưa ngày ngày được thừa ân Nay duy chỉ có hiếu và trung tuân mệnh thánh nhân [vua cha] Tựa cây ngồi thuyền mọi nơi vâng theo khuôn phép dạy bảo Uống rượu xem múa tiêu khiển đều ngay thẳng Trời cao đất dày chứng cho tấm lòng luôn nhớ ơn xưa Hè qua đông tới con mắt nhìn thế sự ngày càng mới Sương móc thấm nhuần lòng cảm mộ càng tăng thêm Khó lòng quên được lúc xưa ngày ngày được thừa ân.

Bài 20: Ức tích - kỳ nhị Hán: 寒夜鐘沈雨又風 Âm: Hàn dạ chung trầm vũ hựu phong

PL14

愁暌色養歷三冬 傳心遺訓良規在 繞膝承歡往事空. 腸斷夢驚疎侍問 人生悲極隔音容 悠悠濛密蒼天外 寒夜鐘沈雨又風. Sầu khuê sắc dưỡng lịch tam đông Truyền tâm di huấn lương quy tại Nhiễu tất thừa hoan vãng sự không. Trường đoạn mộng kinh sơ thị vấn Nhân sinh bi cực cách âm dung Du du mông mật thương thiên ngoại Hàn dạ chung trầm vũ hựu phong.

Nghĩa: Nhớ xưa - kỳ hai

Đêm mưa gió lạnh tiếng chuông vọng đưa Sầu xa cách dung mạo nuôi dưỡng đã ba đông Truyền tâm lời di huấn vẫn luôn thường tại Nương vui dưới gối cha muôn sự đều không. Hầu tham vấn chợt tỉnh mộng sầu não ruột Đời người đau cùng cực khi cách trở dáng hình Dằng dặc ngoài trời cao mưa nhẹ rơi Đêm mưa gió lạnh tiếng chuông vọng đưa.

Bài 21. Phú đắc phi tiềm động thực giai xuân ý tam thủ - Kỳ nhất

(Dụng thiền liên thể tịnh vận)

何處條風解凍吹 向煖鶯啼紅樹杪 Hán: 曈曨山欲斂雲垂 Âm: Đồng lông sơn dục liễm vân thùy Hà xứ điều phong giải đống xuy Hướng noãn oanh đề hồng thụ diểu

負喧魚躍綠塘陂 翩翻蝶陣圍芳塢 Phụ huyên ngư dược lục đường bì Biên phiên điệp trận vi phương ổ

馥郁花叢照液池 物色可知春態著 Phức úc hoa tùng chiếu dịch trì Vật sắc khả tri xuân thái trước

東君姑且日遲遲.

Đông quân cô thả nhật trì trì. Nghĩa: Phú đắc cỏ cây muôn thú đều ẩn chứa ý xuân, kỳ một

Mặt trời lên mây giăng thu về đỉnh núi Nơi nào đó bình yên gió ngừng thổi Về chỗ ấm oanh hót trên ngọn cây hồng Nương chỗ nắng cá tung tăng trong ao xanh Bướm bay nhẹ vây thành lũy quanh cỏ hoa Hương thơm trong vườn ngào ngạt đến tận ao Vạn vật tươi sắc đã biết xuân rực rỡ Phương đông mặt trời lẻ loi thư thả lên.

Bài 22. Phú đắc phi tiềm động thực giai xuân ý tam thủ - Kỳ nhị Hán: 青葱弱柳綠陰垂 Âm: Thanh thông nhược liễu lục âm thùy

寄語東風且謾吹 Ký ngữ đông phong thả mạn xuy

PL15

Tử hàm ngại phi xuyên khúc hạm Kim lân lộng ảnh ẩn bình pha

紫頷礙飛穿曲檻 金鱗弄影隱平陂 顛狂蜂隊爭香蘂 Điên cuồng phong đội tranh hương nhị

Lịch loạn đào hoa chức cẩm trì Cảnh vật thanh dương chân thú vị

歷亂桃花織錦池 景物青陽眞趣味 騷人難寫莫嫌遲. Tao nhân nan tả mạc hiềm trì

Nghĩa: Kỳ hai

Nhành liễu xanh mướt vừa hé núp dưới tán Gửi lời vào ngọn gió đông thư thả đưa Chim én chẳng ngại bay lượn dưới hiên nhà Cá vàng tung tăng ẩn hiện dưới ao trong Ong xếp từng đàn tranh nhau lấy nhụy hoa Hoa đào chen chúc như gấm dệt bên hồ Cảnh vật trong xanh thực thú vị Khách thơ khó tả chớ hiềm nghi.

Bài 23. Phú đắc phi tiềm động thực giai xuân ý tam thủ - Kỳ tam Hán: 湖樓珠箔影低垂 Âm: Hồ lâu châu bạc ảnh đê thùy

細颯輕輕檻外吹 Tế táp khinh khinh hạm ngoại xuy

山啄木鳴來沃埜 Sơn trác mộc minh lai ốc dã

水梭花泳出寒陂 雷聲蟄振交芳節 Thủy thoa hoa vịnh xuất hàn pha Lôi thanh trập chấn giao phương tiết

樹色烟濃蔭玉池 萬彙天然韶景麗 Thụ sắc yên nùng ấm ngọc trì Vạn vị thiên nhiên thiều cảnh lệ

宜人留賞覺稽遲. Nghi nhân lưu thưởng giác khể trì.

Nghĩa: Kỳ ba

Tòa gác bên hồ rèm châu buông phủ xuống Ngoài hiên gió nhẹ nhàng thổi cành đung đưa Trên núi chim mổ cây tiếng rót tận cánh đồng Nước chảy hoa trôi xuất qua ghềnh nghiêng lạnh Sấm vang rung chuyển báo hiệu tiết giao mùa Cây cối tươi sắc khói phủ đầy ao ngọc Muôn vật thiên nhiên cảnh sắc tốt đẹp Nên người thưởng cảnh đứng khẽ cuối đầu.

Âm: Nghĩa: Soi xét trong ao tự hiểu

Bài 24: 臨池有會 Lâm trì hữu hội Hán: biết

PL16

Chí thanh hề vô ngư Chí sát hề vô đồ Nước trong thì không cá Xét cùng thì không có bạn

至清兮無魚 至察兮無徒 彊中兮則揚 Cương trung hề tắc dương Trong mạnh ắt đề cao

弱中兮則紆 非非近乎訕 Trong yếu ắt sầu muộn Lầm lỗi gần chê bai Nhược trung hề tắc vu Phi phi cận hồ san

是是近乎諛 塞翁所失馬 Đứng đắn gần tâng bốc Tái ông mà thất mã Thị thị cận hồ sưu Tái ông sở thất mã

左氏所失巫 牛眼之得地 Sai lệch mà thất vu Trâu nhìn chỗ đắc địa Tả thị sở thất vu Ngưu nhãn chi đắc địa

羊溝之鷄株 Dương câu chi kê chu Dê gà được rãnh cây

鑽屈榖之瓠 解疏屬之拘 Dùi mài như trục xe Thông suốt cần tìm tòi Toản khuất cốc chi hồ Giải sơ thuộc chi câu

人之才不足 子之力也夫 Tài của người không đủ Lực con người như thế Nhân chi tài bất túc Tử chi lực dã phu

Rễ cuộn chờ lợi khí Nước đục tìm được ngọc. Bàn căn tu lợi khí Trọc thủy khả cầu châu.

蟠根須利器 濁水可求珠. Bài 25: Vãn thiếu (lục ngôn) Âm: Giang thượng ba quang lạc chiếu

Đê biên thụ ảnh tà huy Du ngư hý tảo phù vịnh Túc điểu xuyên vân cạnh phi Mục địch sơ lâm sạ yết Khách phàm viễn phố hồi quy Ngư đăng huỳnh hỏa giao thố Dã sắc lam yên chính phì.

Nghĩa: Chiều muộn ngắm cảnh xa

Trên sông ánh sáng rọi xuống con sóng Triền đê bóng cây nghiêng trong nắng chiều Cá bơi lội tung tăng tìm rong rêu Chim đậu nghỉ tranh bay vào mây trắng Sáo mục đồng vào rừng thưa chợt ngắt Buồm giăng xa quay về bến đậu nghỉ Ánh đèn thuyền quyện lẫn đom đóm bay Đồng xa rộng khói núi giăng kín đầy.

Bài 26: Tương vũ (cửu ngôn) Âm: Tứ vọng hưng vân dĩ kiến thương dương vũ

PL17

Nhất suy táp địa trữ khán thạch yến phi Thúc hốt gian hà nhĩ cao đê thanh sảng Tư tu lý đông tây nam bắc tuy vi.

Nghĩa: Trời sắp mưa.

Trông bốn hướng mây bay đã thấy khởi điềm tốt lành Một cơn gió thổi trên đất, đứng đợi xem chim én bay Chớp nhoáng vòm trời lúc [thì] gần xa, lúc [thì] cao thấp trong sáng Vụt chốc bốn phía đông tây nam bắc có mưa nhỏ.

Bài 26: Cứ hình bộ tương chư địa phương xuân quý ninh thiếp vị sách trình lãm kham úy vu hoài tức viên bút kỷ sự (Thủ vỹ ngâm) Âm

Hán: 憂勤圖治撫盈成 Ưu cần đồ trị phủ doanh thành 德化承先正令行 Đức hóa thừa tiên chính lệnh hành 廾六地方無一盜 Củng lục địa phương vô nhất đạo 萬千閭里遂三生 Vạn thiên lư lý toại tam sinh 輸誠納款風埃淨 Thâu thành nạp khoản phong ai tịnh 變惡歸良海宇平 Biến ác quy lương hải vũ bình 振刷百爲安自得 Chấn xoát bách vi an tự đắc 憂勤圖治撫盈成. Ưu cần đồ trị phủ doanh thành.

Nghĩa: Căn cứ Bộ Hình đến các địa phương cuối xuân hợp danh sách trình lãm thấy yên lòng, nhớ nghĩ liền cầm bút ghi lại sự việc (Thủ vỹ ngâm)

Ân cần thăm hỏi vỗ về trong nước được thành tựu Thừa hưởng đức tiên đế mà thi hành chính lệnh Hai sáu địa phương không có một tên ăn trộm Muôn nghìn làng mạc đầy đủ thỏa nguyện cuộc sống Các khoản thâu nộp qua gió bụi vẫn chân thật Chuyển ác về lương thiện bốn bể yên bình Việc chấn chỉnh trăm sự được ổn định Ân cần thăm hỏi vỗ về trong nước được thành tựu.

Bài 27: Nam phong lai hành Âm: Hạ cảnh tình huân phong sinh giải Uẩn ngô dân lạc phụ tài thế Đạo hanh thử nhật thử thiên kỳ Thuận tự duy bào duy dữ tổng quan tình.

Nghĩa: Gió từ phương Nam tới

Cảnh mùa hạ quang đãng cỏ thơm theo gió sinh muôn nơi Trách mình nhưng an thấy dân vui đời phồn thịnh

PL18

Mong chính đạo hanh thông ngay hôm nay ngay vòm trời này Chỉ đồng bào chỉ anh em mới cùng nhau gắn kết thân tình?

Bài 28: Phú đắc phi không tác vũ thanh (đắc liên tự)

[Dụng dược danh ly hợp thể]

Âm: Đồng Lĩnh vân ly trứ cửu huyền

Tham sai bích hán sắc tương liên Kiều chiêm mông mật đằng thiên lí Cập thính lâm lãnh tại bán thiên Hà thủy viên ngân ba hướng hoạt Thạch giai loạn trích chầm thanh toàn Phú hoa đàm thái lâm tùy đại Không dạ si diêm cánh tự nhiên.

Nghĩa:

Ngọn Đồng Lĩnh mây rẻ lối hiển bày chín tầng tuyệt diệu Cùng với sông Hán lẫn vào nhau một màu ngọc biếc Ngước mắt trông lên thấy mưa nhỏ bay xa nghìn dặm Vừa kịp nghe cảm nhận lãnh lẽo ướt đẫm ở giữa trời Trên sông nước cuộn tròn chỗ xoáy làm tiếng sóng vang xa Trên thềm đá giọt nước bắn loạn xạ vụt chốc tan ra Mây che kín trời chợt tia sáng rực [và] mưa lớn cứ tuôn xuống Đêm vắng mưa khua trên mái nhà tự nhiên suốt canh thâu.

Bài 29: Đông tình (Phỏng Bào Minh Viễn, Tạp số thể, nguyên đề tự nhất chí thập tư cải dụng thất ngôn tổng kế số mục) Âm: Nhất thiên khoáng lãng ái triêu huy Nhị khí điều hòa tự phất vi Tam đảo phong quang thành bất dị Tứ giao cảnh sắc nhạ dư huy Ngũ hồ ngư vịnh nghênh huyên dược Lục mạc cầm đề hướng noãn phi Thất bảo lâu đài tăng diễm lệ Bát hoành nhân vật toại chiêm y Cửu anh mai đóa tài sơ phóng Thập bộ lan tùng thượng ái phỉ Bách hủy tổng vô sầu lãnh liệt Thiên sơn đô tận liễm hàn uy Vạn phương thuần mỹ an lê thứ Ức tải hưu trưng ưng đế kỳ

PL19

Triệu tính âu ca thời nhược thụy Hằng hà phúc thọ chúc từ vi.

Nghĩa: Ngày đông quang đãng

Một bầu trời khoáng đãng sương phủ kín lúc sớm mai Hai khí trời đất được điều hòa trật tự chẳng mất đi Ba bãi cù lao quang cảnh sáng đẹp thật chẳng khác Bốn vùng ngoại thành cảnh sắc tốt đẹp lạ thường Năm con cá bơi lội nhảy dưới hồ đón nắng ấm áp Sáu con chim hót dưới màn trời bay về nắng ấm Bảy lâu đài quý càng tăng thêm tươi đẹp lộng lẫy. Tám người đội nón dải tua thỏa chí nương mắt ngắm nhìn Chín đóa hoa mai tươi sắc vừa hé nở Mười bước rừng lan tươi tốt còn lưu mãi hương thơm Trăm loài cỏ dại chẳng sầu muộn trong lạnh rét Ngàn núi đều uy nghi vững chãi trước giá lạnh Muôn phương tốt đẹp yên ổn cho con dân Ức năm che chở điều tốt lành nơi chốn đế kinh Triệu dân ca ngợi là điềm tốt thời thái bình Hằng hà phúc thọ được chúc tụng chốn hoàng cung.

Âm: Vũ trung sơn thủy

Bài 30: Vũ trung sơn thủy (bằng vận) Hán: 雨中山水 Loan hoàn vũ hạ giang triều tấn Trướng dật phong tiền ngạn biện thanh

Sơn tỏa ám vân thôi trận trận Lãng sinh khiêu ngọc trích thanh thanh

Sàn sàn thủy giản đài tư nhuận Dạng dạng ba châu liệu mậu vinh

Nhàn điếu nhất chu ngư dật tấn Hướng lâm song tiễn yến phi khinh.

灣環雨下江潮汛 漲溢風前岸汴清 山鎖暗雲催陣陣 浪生跳玉滴聲聲 潺潺水澗苔滋潤 漾漾波洲蓼茂榮 閒釣一舟漁逸迅 向林雙剪燕飛輕. Nghĩa: * Non nước trong mưa

Chỗ khuỷu sông, mưa xuống nước dâng cao Nước mênh mông, gió thổi tận bến bờ Mây từng trận, che phủ trên đỉnh núi Nước sóng vỗ, giọt nhảy như tiếng ngọc Khe nước chảy, rì rì rêu thêm đượm Nước gợn sóng, cù lao rau tươi tốt Nhẹ buông câu, một thuyền ngư đang tới

PL20

Hướng về rừng, đôi én nhẹ nhàng bay.

Âm: Vũ trung sơn thủy

* Vũ trung sơn thủy (trắc vận) Hán: 雨中山水

Trướng dật phong tiền ngạn biện thanh Loan hoàn vũ hạ giang triều tấn

Lãng sinh khiêu ngọc trích thanh thanh

Sơn tỏa ám vân thôi trận trận Dạng dạng ba châu liệu mậu vinh

Sàn sàn thủy giản đài tư nhuận Hướng lâm song tiễn yến phi khinh.

Nhàn điếu nhất chu ngư dật tấn.

漲溢風前岸汴清 灣環雨下江潮汛 浪生跳玉滴聲聲 山鎖暗雲催陣陣 漾漾波洲蓼茂榮 潺潺水澗苔滋潤 向林雙剪燕飛輕 閒釣一舟漁逸迅. Nghĩa: Non nước trong mưa

Nước mênh mông, gió thổi tận bến bờ Chỗ khuỷu sông, mưa xuống nước dâng cao Nước sóng vỗ, giọt nhảy như tiếng ngọc Mây từng trận, che phủ trên đỉnh núi Nước gợn sóng, cù lao rau tươi tốt Khe nước chảy, rì rì rêu thêm đượm Hướng về rừng, đôi én nhẹ nhàng bay Nhẹ buông câu, một thuyền ngư đang tới.

Âm: Minh lý Chính tâm

Bài 31: Ngự diên văn bảo minh. Hán: 明理正心 行止敬欽. Hành Chỉ kính khâm

Nghĩa: Ngự chế bài minh trên văn bảo Làm sáng tỏ lý lẽ, mới đạt được Chính tâm (lòng ngay thẳng) Thi hành việc gì, đều kính theo điều Chỉ thiện (làm theo và ở yên nơi mức ấy). Dịch minh văn:

Rõ lý Chính tâm Kính vâng Chỉ thiện.

Bài 32: Nguyệt

(Hý dụng Tần Quán cách – Độc thành thất ngôn tuyệt)

Cách 1: Hán: 月 Âm: Nguyệt

一輪明月照寰瀛 Nhất luân minh nguyệt chiếu hoàn doanh 月照寰瀛景色清 Nguyệt chiếu hoàn doanh cảnh sắc thanh 景色清閒雲靜夜 Cảnh sắc thanh nhàn vân tĩnh dạ 閒雲靜夜一輪明. Nhàn vân tĩnh dạ nhất luân minh.

Nghĩa: Trăng (Hý dùng Tần Quán cách – Đọc thành thất ngôn tứ tuyệt)

PL21

Một vầng trăng sáng, chiếu khắp bờ cõi Chiếu khắp bờ cõi cảnh sắc trong Cảnh sắc trong, đêm tĩnh mây nhàn bay Đêm tĩnh mây nhàn bay, một vầng trăng sáng.

Bài 33: Xuân vũ sơ tình trị phương triêu tiết hạnh Cơ Hạ viên tứ thị tùng yến thưởng – Kỳ nhất, (Dụng thiền liên thể) Âm: Dạ vũ minh châu thượng xuyết chi

Tình thôi cấm uyển bộ khinh di Phương thần chính thích danh hoa diễm Phỏng cổ vô tu yết cổ vi Thủy trường xuân đường liên sạ phóng Yên tiêu tễ cảnh liễu do thùy Kham cúng thắng thưởng văn diên lạc Hà tất sinh hoàn ngọc quản suy.

Nghĩa: Mưa xuân vừa dứt sáng sớm thưởng cảnh ở vườn Cơ Hạ ban thưởng yến, kỳ một

Đêm mưa giọt nước như ngọc sáng còn vương trên cành Mưa như thúc giục chân bước nhanh vào Ngự uyển Buổi sớm hoa cỏ vẫn còn thơm ngát tươi đẹp Phỏng xưa chớ nên khua đánh trống Ao lớn nước đầy đương xuân hoa sen chợt vừa nở Khói tan mưa tạnh cành dương liễu đung đưa Có thể ngồi trên chiếu trúc thưởng cảnh cũng an lạc Cần gì nữa phải thổi khèn sáo ngọc.

Bài 34: Xuân vũ sơ tình trị phương triêu tiết hạnh Cơ Hạ viên tứ thị tùng yến thưởng – Kỳ nhị Âm: Xuân cao ký nhuận thượng lâm chi Ấp thúy tân tình liễu ảnh di Thảo thụ phu vinh kham thưởng ngoạn Nông tang tín khả hảo thí vi Thời điều tiết trị khán hoa thích Phong dẫn hương niêm luyến tụ thùy Uyển chuyển đề oanh nghênh giá ngữ Tiêu thiều nghi thị khúc trung suy.

Nghĩa: Mưa xuân vừa dứt sáng sớm thưởng cảnh ở vườn Cơ Hạ ban thưởng yến, kỳ hai

Mùa xuân đã thấm nhuần mưa móc cành cây trên rừng Trời tạnh mưa ngắm cảnh liễu rủ bóng xanh biếc xuống nước Hoa cỏ cây cối phô bày vẻ tươi tốt có thể thưởng thức

PL22

Việc nông tang yên chí có thể thi hành sự yêu thích Thời tiết đang điều hòa thích thú ngăm hoa cỏ Gió dẫn hương thơm dính vướng lên tay áo rủ xuống Chim vàng anh hót lời thánh thót nghênh thánh giá Khúc nhạc mùa xuân vang lên giữa hư không. Bài 35: Trì đường sơ hạ lâm hứng thủy tạ phóng ngâm

(Tự sáng vi toàn chuyển chu hoàn thể)

a. Thuận độc thất ngôn Nhất Tiên vận Hán: 添長瑞旭騰雲走 Âm: Thiêm trường thụy húc đằng vân tẩu Giảm khước nùng yên lộng thủy tiên

Diêm ái thúy lưu ngưng ngạn liễu

Hạm trang hồng phức tống trì liên Điềm điềm dịch hiểu trừng thai đẩu

Trạm trạm không minh đỗng chiếu thiên Liêm triển mỵ quang chưng thấu dũ

減却濃煙弄水濺 檐藹翠流凝岸柳 檻裝紅馥送池蓮 湉湉易曉澄台斗 湛湛空明洞照天 匳展媚光蒸透牖 範圍同美衆傳筵. Phạm vi đồng mỹ chúng truyền diên.

Nghĩa: Đầu mùa hạ ngồi nhà thủy tạ bên bờ hồ cảm hứng phóng ngâm.

Mặt trời vừa mọc thêm vệt nắng dài cưỡi mây bay đi Đẩy lùi làn khói đậm đặc trên dòng nước chảy tung tóe Trước mái nhà ánh sáng ngưng tụ trên cành liễu xanh biếc Cây hồng bên hiên thoảng đưa hương đến tận ao sen Buổi sớm mặt nước lặng trong còn vương [ảnh] sao thai, đẩu Sương móc phủ kín, ánh sáng lọt qua khoảng không chiếu giữa trời Mở chiếc hộp đẹp, ánh sáng chiếu xuyên qua khung cửa đang ngồi Xung quanh, sự tươi đẹp đều lan rộng trong tiệc vui.

牖透蒸光媚展匳 天照洞明空湛湛 b. Đảo độc thất ngôn Thập tứ Diêm vận Hán: 筵傳衆美同圍範 Âm: Diên truyền chúng mỹ đồng vi phạm Dũ thấu chưng quang mị triển liêm Thiên chiếu động minh không trạm trạm

斗台澄曉易湉湉 蓮池送馥紅裝檻 柳岸凝流翠藹檐 濺水弄煙濃却減 走雲騰旭瑞長添. Đẩu Thai trừng hiểu dịch điềm điềm Liên trì tống phức hồng trang hạm Liễu ngạn ngưng lưu thúy ái diềm Tiên thủy lộng yên nùng khước giảm Tẩu vân đằng húc thụy trường thiêm.

Nghĩa: Đầu mùa hạ ngồi nhà thủy tạ bên bờ hồ cảm hứng phóng ngâm.

Từ cuộc vui cái đẹp lan truyền đi đến xung quanh

PL23

Xuyên khung cửa ánh sáng đẹp chiếu qua chiếc hộp Ánh sáng giữa trời chiếu xuyên hư không nhiều sương móc Sao thai đẩu rọi bóng giữa hồ nước trong trôi phẳng lặng Ao sen đưa hương thơm đến vườn hồng bên hiên nhà Bờ liễu sắc xanh biếc ngưng đọng ánh sáng dưới mái nhà Nước chảy tung tóe làn khói đậm đặc bị đẩy lùi Mây bay lững lờ ánh mặt trời cưỡi lên một vệt nắng dài thêm.

Bài 36: Phú đắc ký vũ tình diệc giai (Phỏng Bào Minh Viễn, Tạp số thể tự nhất chí thập tự kim cải dụng thất ngôn luật hựu gia tổng số). Hán: 一人胞與惟民物 Âm: Nhất nhân bào dữ duy dân vật Nhị tự ưu cần thuận vũ dương

Tam phục dĩ quá tiêu khốc thử Tứ thời tiệm kiến nhạ tân lương

Ngũ canh tạc đắc triêm cao nhuận Lục hợp kim khai ái thự quang

Thất nguyệt bân phong tồn niệm lự Bát hoành đoái trạch ủy chiêm vọng

Cửu cù tễ liễu hồn sinh sắc

Thập mẫu thu hạ thượng bá phương. Bách hủy Nam cương sương bất phạ

Thiên thăng Bắc lý mạch hoàn nhương Vạn gia khả bốc phong niên lạc

Ức tải thâm kỳ thứ sự khang Triệu tính hương thôn hân án đổ

二字憂勤順雨暘 三伏已過消酷暑 四時漸見迓新涼 五更昨得霑膏潤 六合今開靄曙光 七月豳風存念慮 八紘兌澤慰瞻望 九衢霽柳渾生色 十畝秋荷尚播芳. 百卉南疆霜不怕 千塍北里麥還穰 萬家可卜豐年樂 億載深期庶事康 兆姓鄉村欣案堵 京都宮闕集禎祥. Kinh đô cung khuyết tập trinh tường.

Nghĩa: Tạnh mưa muôn điều tốt đẹp

Một người vì tình đồng bào mà suy nghĩ cho muôn dân vạn vật Hai chữ lo nghĩ siêng năng mong cho mưa thuận trời quang Ba cúi đầu cầu mong vượt qua nắng khô hạn tiêu tan Bốn thời dần dần thấy được sự tươi mát mới mẻ Năm canh đêm trước đạt được sự thấm nhuần ân trạch Sáu hôm nay khí mây hòa hợp vén mở cho ánh rạng đông xuyên qua Bảy tháng gió bân thổi suốt khiến còn suy nghĩ âu lo Tám đội nón dải tua ban ân trạch thăm hỏi mà trông về nơi xa Chín con đường lớn mưa tạnh hửng trời liễu cùng sinh sắc

PL24

Mười mẫu ruộng mùa thu hoa sen còn vung vãi hương thơm Trăm loài hoa cỏ phương Nam vững chãi chẳng e ngại sương gió Nghìn thửa ruộng nơi muôn dặm đất Bắc vẫn còn sum suê Muôn nhà có thể đoán biết được một năm phồn thịnh an vui Ức năm kỳ hẹn nhiều sự việc được yên ổn Triệu tính xóm làng mừng vui công án được vững vàng Kinh đô cung điện lầu gác tập hợp điềm tốt lành.

Bài 37: Quý thu (Thủ vĩ ngâm) Âm: Kim niên tình vũ khánh thời hòa

Hàn noãn vô thiên hảo sự đa Khai tễ tạc hân phong thụy túc Triêm cao tư hỷ trường tân hòa Cúc do tiên diễm tiêu kim nhị Mai tiệm phân phương phóng ngọc khỏa Vật sắc khả tri trưng khí dự Kim niên tình vũ khánh thời hòa.

Nghĩa: Cuối thu

Năm nay trời quang tạnh mừng thời tiết được điều hòa Lạnh ấm không nghiêng lệch nhiều sự việc được tốt Hôm qua trời hửng vui điềm tốt lúa thóc lại được mùa Thấm nhuần mưa móc, vui mừng cây lúa được sinh trưởng Hoa cúc còn tươi màu rực rỡ, đầu ngọn phô bày nhụy vàng Mai cũng thấm nhiễm hương cỏ thơm đọng lại trong hốc cây Nhìn sắc màu vạn vật cũng có thể biết được tiết khí yên vui Năm nay trời quang tạnh mừng thời tiết được điều hòa. Bài 38: Ngự viên ngẫu đề, mỗi cú các dụng viên trung danh thắng Âm: Quần phương tú nhuận [sơn] cấm viên đa

Lưu ý thư [trai] dư nhã hứng tha Lâu súc thúy tiêu [lâu] ngưng thụy sắc Kiều hoành kim đông [kiều] ẩm tình ba Tứ thời nùng diễm trường xuân quán Nhất phái uyên nguyên tiểu ngự hà Sơn thủy hữu tình nhân trí [đường] lạc Thiên thân [điện] cảnh huống khánh hàm hòa.

Nghĩa: Trong vườn ngự ngẫu nhiên đề vịnh, mỗi câu dùng các thắng cảnh trong vườn làm chủ đề

Nhiều hoa cỏ thanh tú [núi], nhuần tươi tốt trong vườn ngự Lưu ý chí tại thư phòng [trai], nhiều cảm hứng đẹp xa xăm

PL25

Lầu đài sừng sững trời không [lâu], ngưng đọng màu ngọc biếc Cầu bắt ngang tựa cầu vồng sắc vàng [cầu], uống sóng mưa tạnh Bốn mùa nồng đượm tươi đẹp, như mùa xuân bất tận Một dòng tiểu ngự hà, thâm sâu tĩnh lặng trôi Sông núi hữu tình, lòng nhân từ thấu hiểu [đường] đắc an lạc Trời cao gác điện [điện], cảnh vật ban tặng niềm vui khắp nơi hòa hợp. * Chùm thơ: Thiên cao, địa hậu, phúc tải quần sinh, tam cương ngũ thường, bỉnh di hằng tính, nhân phỏng Thi Kinh cổ thể, sáng chế cửu thiên bân tứ giảng đường, dụng gia tu tiến. (Mỗi thiên gồm 3 chương – tương đương 3 bài). * Đệ nhất thiên: Cao minh [Trời cao soi sáng], tam chương chương tứ cú Bài 39: Hán

Nghĩa: Trời kia xanh xanh Chỉ có văn chương

Bài 40: Hán:

Âm: 維彼蒼蒼 Duy bỉ thương thương 厥類惟章 Quyết loại duy chương 浩浩元氣 Hạo hạo nguyên khí 六極五常. Lục cực ngũ thường. Mênh mông nguyên khí Cùng cực ngũ thường. Nghĩa: Dằng dặc trên cao

Tuần văn dĩ động Noi văn mà làm

Bài 41: Hán:

Muôn vật lưu hình. Nghĩa: Trời cao xoay vần Đạo như giương cung

Âm: 悠悠在上 Du du tại thượng 蕩蕩正青 Đãng đãng chính thanh Mênh mông ngay ngắn 循文以動 品物流形. Phẩm vật lưu hình. Âm: 乾乾健運 Càn càn kiện vận 道猶張弓 Đạo do trương cung 徧覆包涵 Biến phúc bao hàm 昭明顯融. Chiêu minh hiển dung. Bao phủ cùng khắp Sáng rực rõ rệt.

* Đệ nhị thiên: Bác hậu [đức lớn như đất], tam chương chương tứ cú Bài 42: Hán: Nghĩa:

Đất dày rộng lớn Hàm chứa tánh linh

Âm: 廣大博厚 Quảng đại bác hậu 含通吐靈 Hàm thông thổ linh 循里以作 Tuần lí dĩ tác Theo lí mà làm 無爲以寧. Vô vi dĩ ninh. Vô vi mà an. Nghĩa: Âm: 乃順承天 Nãi thuận thừa thiên Tùy thuận theo trời 可以正政 Khả dĩ chính chính Chính trị đúng đắn 平均和調 Bằng phẳng điều hòa Bình quân hòa điều 方貞柔靜 Phương trinh nhu tĩnh. Mềm mại trong sạch. Bài 43: Hán:

PL26

Bài 44: Hán: Nghĩa: Núi cao trầm mặc

Âm: 岡…沉墨 Cương … trầm mặc 窅冥鴻蒙 Yểu minh hồng mông 厚德載物 Hậu đức tải vật 生植之功. Sinh thực chi công. Sâu thăm mịt mù Đức dày chở vật Sinh trưởng muôn vật.

* Đệ tam thiên: Sủng tuy [vỗ về an ổn] tam chương, nhị chương chương tứ cú, nhất chương lục cú Bài 45: Hán:

Âm: Thọ thiên minh Mạng Đản nhâm sủng tuy Hậu khắc gian quyết Hậu cố tương đại. Âm: Hữu vi úy thiên chi uy Nghĩa: Nhận Mạng trời cao Kính cẩn vỗ về Qua được gian nan Việc lớn sẽ thành. Nghĩa: Luôn kính sợ oai trời

Vu thời bảo chi Nghiêu Gìn giữ như vua Nghiêu

Căng căng Thuấn nghiệp nghiệp Kiêng dè như vua Thuấn

Ngày ngày cần xét nét.

Bài 46: Hán: 有爲畏天之威 于時保之堯 兢兢舜業業 一日二日萬幾. Nhất nhật nhị nhật vạn cơ. Nghĩa: Bài 47: Âm: Đạo được lưu truyền Cầm giữ bên trong Không lệch không thẳng Ngay thẳng công minh Ngày ngày siêng năng gìn giữ Dân chúng khắp nơi hòa hợp. Đạo thống tương truyền Doãn chấp quyết trung Vô thiên vô đảng Chí chính chí công Ưu cần nhật thận nhất nhật Lê dân ư biến thời sủng.

* Đệ tứ thiên: Trung lương [Trung thần hiền lương] tam chương, chương tứ cú. Bài 48: Âm:

Minh minh tại hạ Tả hữu tuân tuân Túc dạ phỉ giải Dĩ sự nhất nhân.

Bài 49: Âm:

Bài 50: Âm:

Chí hiệp nghị tùng Tương tư dĩ thành Trung tín bất đảng Sự trị thân vinh. Chung thủy phất du Nghĩa: Sáng rõ cấp dưới Tả hữu tin cẩn Đêm ngày chẳng biếng Lấy việc một người. Nghĩa: Chí hòa luận theo Giúp việc sẽ thành Trung tín không bè [đảng]. Sửa việc thân vinh. Nghĩa: Trước sau chẳng đổi

PL27

Đạo kỳ sở đạo Cổ quăng hỷ tai Quân quốc chi bảo. Đạo luôn là đạo Bề tôi mừng thay Vua luôn trân quý.

* Đệ ngũ thiên: Từ ái [thương xót yêu thương] tam chương, chương tứ cú. Nghĩa: Bài 51: Âm: Dạy điều thương yêu Từ huệ dĩ giáo Viết học Thi hồ Rằng học Thi Kinh Nghĩa phương thị huấn Huấn thị điều Nghĩa Viết học Lễ hồ.

Bài 52: Âm:

Tỉ xá học cung Đoạn cơ chi huấn Hữu nghiêm quân yên Vô cùng chi văn.

Bài 53: Hán: Âm:

Đại tai càn nguyên Chí tai khôn nguyên Thiên tính chí thân Võng cực thâm ân. Rằng học Lễ nghi. Nghĩa: Dời nhà [vào] học [trong] cung Dạy dỗ đoạn trừ Có vua nghiêm minh Nghe không cùng tận. Nghĩa: Lớn thay trời cao Cùng thay đất rộng Tính trời đến thân Ân sâu không cùng.

* Đệ lục thiên: Hiếu đễ [thương xót yêu thương] tam chương, chương tứ cú. Bài 54: Âm:

Hiếu đễ dĩ túc Đắc chi thiên nhiên Tiên ý thừa chí Sùng đức tượng hiền.

Bài 55: Âm:

Nghĩa: Hiếu thuận cung kính Điều đó tự nhiên Vâng theo ý chí Chuộng đức mộ hiền. Nghĩa: Dáng vẻ mềm mại An lạc cùng khắp

Nhu sắc thừa nhan Di di tận lạc Khẳng cấu khẳng đường Con nối nghiệp cha Khẳng bá khẳng hoạch. Có trồng được thu.

Bài 56: Âm:

Nghĩa: Hài hòa với hiếu Đức lớn tin sâu

Khắc hài dĩ hiếu Huyền đức thăng văn Vi bách hành quan miện Việc áo mão là trọng Việc thiên hạ là vua. Vi thiên hạ đại quân.

* Đệ thất thiên: Tạo đoan [kiến tạo ngay thẳng] tam chương, chương tứ cú. Nghĩa: Bài 57: Âm: Trung hậu bền chắc Đôn mông dĩ cố

PL28

Khuyến miễn dĩ trinh Lục hợp tứ lễ Thông đạt thần minh.

Bài 58: Âm:

Bài 59: Âm:

Trí công bất lưu Trí lâm hữu biện Càn khôn hàm hằng Tử tôn hiếu thiện. Duy gia chi bảo Chung thân bất ly Nghi gia phú thọ Cử án tề my. Khuyên răn liêm khiết Lục hợp tứ lễ Tinh thần sáng suốt. Nghĩa: Xét công chẳng [cần] lưu Xét cùng có tội Trời đất cùng khắp Con cháu hiếu thiện. Nghĩa: Giữ nhà an ổn Có chết không rời Nhà được phú thọ Cất cử chỉnh tề.

Bài 61: Âm:

* Đệ bát thiên: Hữu vu [anh em hiếu thuận] tam chương, chương tứ cú. Nghĩa: Bài 60: Âm: Kính trọng huynh trưởng Yêu mến họ hàng Thường thường yên ổn Oai nghiêm trước người. Nghĩa: Khoan dung dạy bảo Hòa thuận kính trọng Thuần thục thi hành Được điều ngay thẳng. Nghĩa: Lập kính tự trưởng Lập ái tự thân Dong dong kỳ kỳ Uy uy hiển dân. Khoan dụ dĩ hối Tỉ thuận dĩ kính Giai hữu tuần hành Khắc thí hữu chính. Bài 62: Âm:

Quỳnh phương huệ mậu Ngọc quý cỏ thơm Anh em như ngọc Lan phát ngọc huy Cùng cực hiếu thuận Hiếu hữu thời cách Mãi mãi giữ gìn. Vĩnh nãi bảo chi.

Đồng nhân vu môn Duy đạo sở tồn Tương ma dĩ tín Trung nghĩa chi ngôn.

* Đệ cửu thiên: Chỉ tín [Gìn giữ chữ tín], tam chương chương tứ cú Bài 63: Âm: Bài 64: Âm:

Nghĩa: Người cùng một nhà Chỉ đạo tồn tại Lấy tín đối đãi Ngôn từ trung nghĩa. Nghĩa: Keo sơn bền chặt Vững như vàng đá Cố ư giao tất Kiên ư kim thạch

PL29

Bài 65: Âm: Kính nghiệp lạc quần Phụ nhân tế bồn.

Kính nghiệp vui vầy Lòng nhân đầy tràn. Nghĩa: Lấy đỏ nhuộm ắt đỏ Nhiễm chi dĩ chu tắc xích Lấy lam nhuộm ắt xanh Nhiễm chi dĩ lam tắc thanh Việc do xác lập Sự do chi lập Danh do mà thành. Danh do chi thành. Bài 66: Tình lâm điểu ngữ Âm: Quỳnh lâm nhật úc vạn niên chi Quần tập gia cầm đắc sở y Hoản hiển tân ca phi vãng phục Nam nê giai thoại vũ sai trì Yêu nhân nhược tố nghênh xuân đáo Đối cảnh tương trào tiễn lạp quy Bảo hợp thái hòa khai thịnh hội Quỳnh lâm nhật úc vạn niên chi Nghĩa: Trời tạnh mưa trong rừng chim tụ hót Trong rừng ngọc có muôn cành lá Muôn chim có nơi để yên nghỉ Vui hòa hót ca bay lượn vòng Kêu gọi nhảy múa muôn nghìn điệu Mời người cùng đón mùa xuân đến Trước cảnh đùa giỡn tiễn nhau về Hợp cùng thái hòa mở hưng thịnh Trong rừng ngọc có muôn cành lá. Bài 67: Tựa thơ (Q1, trang 37b4 – 39a2). Hán: 仲秋禾熟時候余恐値潦汛之期每爲農憂常有默禱何幸.

上蒼照鑒,憂民憫農之心.時若堪徵年豐,可卜自八月來兹,睛多雨少,諒必

潦遲,田禾正熟.日前詢之承天府臣,收穫田禾事狀.據署京城提督兼理承天府事

務阮尹,署府尹陳章,府丞阮忠義等.具片奏敘照據屬轄各縣,農家咸稱本年秋禾

節蒙時雨,高低之田均得一律秀好.其早稼者,收穫漸已悉功,其晚稼者次第就熟

亦已收穫.本月二十日左右方畢功.誠爲大稔.若下旬縱使潦汛,亦保無別礙等語.

今已至八月二十日節交寒露而連日晴和,免遭潦漲.信爲萬寶收成,喜而有作,首

尾吟.

PL30

Âm: Trọng thu hòa thục thời hậu dư khủng trị lạo tấn chi kỳ mỗi vi nông ưu thường hữu mặc đảo hà hạnh.

Thượng thương chiếu giám, ưu dân mẫn nông chi tâm. Thời nhược kham trưng niên phong, khả bốc tự bát nguyệt lai tư, tình đa vũ thiểu, lượng tất lạo trì, điền hòa chính thục. Nhật tiền tuân chi Thừa Thiên phủ thần thu hoạch điền hòa sự trạng. Cứ Thự Kinh thành Đề đốc kiêm Lý Thừa Thiên phủ sự vụ Nguyễn Doãn, Thự Phủ doãn Trần Chương, Phủ thừa Nguyễn Trung Nghĩa đẳng. Cụ phiến tấu tự chiếu cứ thuộc hạt các huyện, nông gia hàm xưng bổn niên thu hòa tiết mông thời vũ, cao đê chi điền quân đắc nhất luật tú hảo. Kỳ tảo giá giả thu hoạch tiệm dĩ tất công, kỳ vãn giá giả thứ đệ tựu thục diệc dĩ thu hoạch. Bổn nguyệt nhị thập nhật tả hữu phương khả tất công. Thành vi đại nẫm. Nhược hạ tuần túng sứ lạo tấn, diệc bảo vô biệt ngại đẳng ngữ. Kim dĩ chí bát nguyệt nhị thập nhật tiết giao hàn lộ nhi liên nhật tình hòa, miễn tao lạo trướng. Tín vi vạn bảo thu thành, hỷ nhi hữu tác, Thủ vỹ ngâm. Nghĩa: Giữa thu lúa bắt đầu đến lúc chín ta lo sợ nước lụt tới kỳ dâng cao, mỗi lúc vậy thường lo âu cho mùa màng mà thường mật đảo cầu nguyện cho được may mắn. Trời xanh chiếu giám, lòng ta thương nghĩ đến dân, lo lắng cho mùa màng. Thời tiết thuận lợi có thể thấy năm nay thịnh vượng, dự đoán từ đầu tháng Tám đến nay, trời tạnh nhiều mà mưa thì ít, vậy có thể lường xét việc nước lũ ắt đến chậm, lúa ngoài ruộng vừa chín. Ngày trước hỏi han các quan ở phủ Thừa Thiên tình trạng thu hoạch lúa chín. Căn cứ vào lời tấu của bọn Thự Kinh thành Đề đốc kiêm Lý Thừa Thiên phủ sự vụ Nguyễn Doãn; Thự Phủ doãn Trần Chương; Phủ thừa Nguyễn Trung Nghĩa vừa dâng lên. Theo dõi các huyện thuộc phần cai quản trong phủ, tất cả nhà nông đều khen mùa thu năm nay, cây lúa gặp thời tiết thuận lợi có mưa nhẹ, ruộng đồng cao thấp khắp nơi như một đều được trổ đòng tốt tươi. Những nơi gieo mạ sớm đã dần thu hoạch xong tất cả, những nơi gieo mạ muộn cũng đã kế nhau đến thời chín cũng đã thu hoạch rồi. Ngày 20 tháng Tám này các nơi có thể hoàn tất công việc thu hoạch lúa. Năm nay được mùa to là điều chân thật. Nếu cuối tháng giả sử nước lũ bắt đầu dâng thì cũng an toàn không lo ngại gì nữa, tất cả các quan đều tâu như vậy. Nay đã đến ngày 20 tháng tám thời tiết chuyển qua lạnh cùng sương móc mà ngày vẫn tạnh ráo, mưa lũ năm nay cũng ôn hòa không gặp cảnh nước dâng mênh mông. Nhận được tin tốt như muôn vật quý báu hợp thành, vui vẻ mà làm bài thơ theo điệu thủ vỹ ngâm. Bài 68: Trọng thu hòa thục thời hậu dư khủng trị lạo tấn chi kỳ mỗi vi nông ưu thường hữu mặc đảo hà hạnh (Thủ vỹ ngâm) Hán: 今年好得兆天和 Âm: Kim niên hảo đắc triệu thiên hòa

百姓咸欣勝事多 Bách tính hàm hân thắng sự đa

PL31

Tình hợp khả tư càn sái túc Lạo trì kham tất ngải thu hòa

Phồn phong châu quận gia gia lạc

Ôn bão thương tương xứ xứ ca Dần cảm hạo từ thùy quyến hựu

睛合可資乾晒粟 潦遲堪悉刈收禾 繁豐洲郡家家樂 温飽倉箱處處哥 寅感昊慈垂眷祐 今年好得兆天和. Kim niên hảo đắc triệu thiên hòa.

Nghĩa: Giữa thu lúa bắt đầu đến lúc chín ta lo sợ nước lụt tới kỳ dâng cao, mỗi lúc vậy thường lo âu cho mùa màng mà thường mật đảo cầu nguyện cho được may mắn.

Năm nay được điềm tốt khí trời ôn hòa Trăm họ cùng mừng vui thắng lợi nhiều Trời tạnh ráo cùng có thể phơi khô thóc Lũ đến chậm đợi được thu hoạch xong Khắp châu quận phồn thịnh nhà nhà vui Rương đầy thóc ấm no nơi nơi hát mừng reo Kính cẩn trời xanh rủ lòng thương cảm hộ trì Năm nay được điềm tốt khí trời ôn hòa.

Bài 69: Thiên hưu tư chí quốc khánh tăng long ngọc tỉ ứng thập thành thọ đán khải thập toàn chi mỹ. Dao đồ trưng vạn thế giai niên hân vạn sự chi nghi tín khả cung thức thắng nhất chương phục phú đắc mỹ thành thập vịnh 天庥滋至國慶增隆玉璽應十成壽旦啟十全之美.瑶圖徵萬世佳年欣萬事之宜信 可供識勝一章復賦得美成十咏 Hán: 玉璽十成徵吉瑞 Âm: Ngọc tỉ thập thành trưng cát thụy

Dao đồ vạn thế ứng gia tường

Thiên hòa thời nhược phồn vinh toại

Địa lợi niên phong phú thứ chương

Hà thuận hương thôn hân án đổ

瑶圖萬世應嘉祥 天和時若繁榮遂 地利年豐富庶彰 河順鄉村欣案堵 海恬舟楫樂徜祥

任才考績森賢輔 Hải điềm chu tiếp lạc thảng tường Nhậm tài khảo tích sâm hiền phụ

感化來賓撫臘羗 保定武功清遠裔 Cảm hóa lai tân phủ lạp khương Bảo định vũ công thanh viễn duệ

振興文治御羣方 民康户籍增蕃盛 國泰邦基永久長. Chấn hưng văn trị ngự quần phương Dân khang hộ tịch tăng phiên thịnh Quốc thái bang cơ vĩnh cữu trường.

Nghĩa:

Ngọc tỉ thành tựu trưng điềm lành

PL32

Ngọc quý muôn đời ứng điềm tốt Khí trời hòa thuận nước phồn vinh Đất lợi thóc đầy dân giàu thịnh Nước thuận làng mạc vui rực rỡ Biển êm thuyền chèo xuôi tự tại Nhân tài tích lũy rừng thánh hiền Cảm hóa biên thùy mừng quy phục Vũ công yên định đến đời sau Chấn hưng văn trị đến muôn nơi Dân khỏe hộ nhiều tăng đầy thịnh Nước yên cõi định mãi vững bền.

Bài 70: Phú đắc chấn hưng văn trị ngự quần phương 賦得振興文治御羣方 Hán: 臨軒親制策 Âm: Lâm hiên thân chế sách Ân điển quảng luân tài Thu thí liên niên cử

Xuân khoa kế tự khai

Sứ năng tùy tưởng bạt Vi trị dụ phong lai

恩典廣掄才 秋試連年擧 春科繼序開 使能隨槳拔 爲治裕豐來 盛世羣才集 明時衆妙該 Thịnh thế quần tài tập Minh thời chúng diệu cai.

Nghĩa: Phú đắc chấn hưng nền văn trị khắp muôn phương Ngự đến nhà ngoài đích thân chế các sách lược Ban ân điển mở rộng kén chọn nhân tài Mua thu các năm kỳ thi liên tục được tiến cử Mùa xuân các khoa kế tục mở ra Tùy năng lực mà khuyến khích đề bạt Nền cai trị phồn thịnh tự nhiên đến Đời hưng thịnh quần tài câu hội Sáng thời khắp cả đều tuyệt diệu.

Bài 71: Phú đắc dân khang hộ tịch tăng phiền thịnh quốc thái bang cơ vĩnh cửu trường 賦得民康户籍增蕃盛國泰邦基永久長 Hán: 三朝皆愛養 Âm: Tam triều giai ái dưỡng

九域共咸綏 蘇息安恬樂 蕃昌富庶怡 重千難悉擧 Cửu vực cộng hàm tuy Tô tức an điềm lạc Phiền xương phú thứ di Trùng thiên nan tất cử

PL33

Bách vạn thượng linh di Bổn cố bang ninh mật

百萬尚零遺 本固邦寧謐 延洪億載基. Diên hồng ức tải cơ.

Nghĩa: Phú đắc dân yên ổn hộ tịch tăng đông đúc, nước thái bình bờ cõi mãi bền lâu.

Ba triều đều yêu thương nuôi dưỡng dân Khắp cõi đều được vỗ về an ổn Dân chúng nghỉ ngơi niềm an lạc Đông đúc nhiều phú quý ắt vui vẻ Lại thêm hàng nghìn khó biết hết được Có đến trên cả hơn trăm vạn Bờ cõi được yên định bền chắc Vững mạnh kéo dài đến muôn ức năm.

***

* QUYỂN NHỊ: Bài 1: Tựa thơ: trang.1a

Hán: 幾餘賞勝,莫如墳典之娛.長夏寓閒,曷若品題之雅,清暇書樓,披卷聖賢

可會於心.淡如詩舍,揮毫風景,發生於思.覽天地文章,雲物無限,襟懷集古今 體格詩歌,偶然賦咏.

Âm: Kỷ dư thưởng thắng, mạc như phần điển chi ngu. Trường hạ ngụ nhàn, hạt nhược phẩm đề chi nhã, thanh hạ thư lâu phi quyển, thánh hiền khả hội ư tâm. Đạm Như thi xxá huy hào, phong cảnh phát sinh ư tư. Lãm thiên địa văn chương vân vật, vô hạn khâm hoài, tập cổ kim thể cách thi ca, ngẫu nhiên phú vịnh.

Nghĩa: Những lúc nhàn rỗi thưởng ngoạn thắng cảnh hoặc lấy việc đọc sách vở cổ làm vui. Suốt mùa hạ ở với cảnh an nhàn, lấy sự thanh nhã mà phẩm đề, thư thái đọc sách một cách cặn kẽ tại lầu sách, đến nỗi thánh hiền có thể thấy được cả trong tâm. Thi xá Đạm Như vung bút thành văn, phong cảnh sinh khởi ở suy nghĩ. Xem văn chương trong trời đất hết thảy như muộn vật mây bay, tấm lòng ôm ấp hoài bão chẳng giới hạn, tập cổ kim thể cách thi ca, cứ như vậy ngẫu nhiên mà đề vịnh.

***

* QUYỂN 3: Bài 1: Tựa thơ: trang 1a. Hán:

萬幾清暇長日,遣閒集古今體格詩家,冩夏景四十章已咏觀天地文章品類

侑宸筵三十體復吟次用廣於詞場而進益於多士也.

PL34

Âm: Vạn kỷ thanh hạ trường nhật, khiển nhàn tập cổ kim thể cách thi gia. Tả hạ cảnh tứ thập chương dĩ vịnh. Quán thiên địa văn chương phẩm loại, hựu thần diên tam thập thể, phục ngâm thứ dụng quảng ư từ trường, nhi tiến ích ư đa sĩ dã.

Nghĩa: Nhiều lúc thanh thản nhàn hạ, ngày dài thư thái tiêu khiển tập thơ cổ kim thể cách của thi gia. Sáng tác đề vịnh cảnh mùa hạ được bốn mươi chương. Xem hết thảy phẩm loại văn chương trong thiên hạ, cùng ở trong cung thần là hơn ba mươi thể. Lại dùng để ngâm vịnh quảng bá lời văn đến các trường học, mà tăng sự tu tiến lợi ích cho học trò vậy.

PL35

PHỤ LỤC III

VĂN BẢN TÁC PHẨM

NGỰ CHẾ CỔ KIM THỂ CÁCH THI PHÁP TẬP

(Các tờ bổ khuyết và phục dựng được ghi chú)

Bản in mộc bản TTLTQG IV - Đà Lạt, đã được hiệu điểm, bổ khuyết

PL36

NGỰ CHẾ CỔ KIM THỂ CÁCH THI PHÁP TẬP Ấn triện: THỂ THIÊN HÀNH KIỆN THIỆU TRỊ THẦN HÀN

PL37

NGỰ CHẾ CỔ KIM THỂ CÁCH THI PHÁP TẬP

PL38

QUYỂN THỦ (MỤC LỤC)

Số trang quyển thủ chia làm 3 phần: - Phần 1: Nội dung bài Biểu: tờ 1 - 8 - Phần 2: Nội dung danh tước đại thần Nội các: tờ 1 - 3 - Phần 3: Nội dung chính mục lục: tờ 1 - 34

Biểu

Tờ 1 a-b (R.1597) – Bổ khuyết

Tờ 2 a-b (R.1597) – Bổ khuyết

PL39

Tờ 3 a-b (R.1597) – Bổ khuyết

Tờ 4 a-b (R.1597) – Bổ khuyết

Tờ 5 a-b (R.1597) – Bổ khuyết

PL40

Tờ 6 a-b (R.1597) – Bổ khuyết

Tờ 7 a-b (R.1597) – Bổ khuyết

Tờ 8 a-b (R.1597) – Bổ khuyết

PL41

Tờ 1 a-b (R.1597) – Bổ khuyết

Tờ 2 a-b (R.1597) – Bổ khuyết

Tờ 3 a-b (R.1597) – Bổ khuyết

PL42

Tờ 1 a-b

Tờ 2 a-b

Tờ 3 a-b

PL43

Tờ 4 a-b

Tờ 5 a-b

Tờ 6 a-b

PL44

Tờ 7 a-b

Tờ 8 a-b

Tờ 9 a-b

PL45

Tờ 10 a-b

Tờ 11 a-b

Tờ 12 a-b

PL46

Tờ 13 a-b (R.1597) – Bổ khuyết

Tờ 14 a-b (R.1597) – Bổ khuyết

Tờ 15 a-b (R.1597) – Bổ khuyết

PL47

Tờ 16 a-b (R.1597) – Bổ khuyết

Tờ 17 a-b

Tờ 18 a-b

PL48

Tờ 19 a-b

Tờ 20 a-b

Tờ 21 a-b

PL49

Tờ 22 a-b

Tờ 23 a-b

Tờ 24 a-b

PL50

Tờ 25 a-b

Tờ 26 a-b

Tờ 27 a-b

PL51

Tờ 28 a-b

Tờ 29 a-b

Tờ 30 a-b

PL52

Tờ 31 a-b

Tờ 32 a-b

Tờ 33 a-b

PL53

Tờ 34 a-b

PL54

QUYỂN NHẤT

Q.1: Tờ 1 a-b

Q.1: Tờ 2 a-b

Q.1: Tờ 3 a-b

PL55

Q.1: Tờ 4 a-b

Q.1: Tờ 5 a-b

Q.1: Tờ 6 a-b

PL56

Q.1: Tờ 7 a-b

Q.1: Tờ 8 a-b

Q.1: Tờ 9 a-b

PL57

Q.1: Tờ 10 a-b

Q.1: Tờ 11 a-b

Q.1: Tờ 12 a-b

PL58

Q.1: Tờ 13 a-b

Q.1: Tờ 14 a-b

Q.1: Tờ 15 a-b

PL59

Q.1: Tờ 16 a-b

Q.1: Tờ 17 a-b

Q.1: Tờ 18 a-b

PL60

Q.1: Tờ 19 a-b

Q.1: Tờ 20 a-b

Q.1: Tờ 21 a-b

PL61

Q.1: Tờ 22 a-b

Q.1: Tờ 23 a-b

Q.1: Tờ 24 a-b

PL62

Q.1: Tờ 25 a-b

Q.1: Tờ 26 a-b

Q.1: Tờ 27 a-b

PL63

Q.1: Tờ 28 a-b

Q.1: Tờ 29 a-b

Q.1: Tờ 30 a-b

PL64

Q.1: Tờ 31 a-b

Q.1: Tờ 32 a-b

Q.1: Tờ 33 a-b

PL65

Q.1: Tờ 34 a-b

Q.1: Tờ 35 a-b

Q.1: Tờ 36 a-b

PL66

Q.1: Tờ 37 a-b

Q.1: Tờ 38 a-b

Q.1: Tờ 39 a-b

PL67

Q.1: Tờ 40 a-b

Q.1: Tờ 41 a-b

Q.1: Tờ 42 a-b

PL68

Q.1: Tờ 43 a-b

Q.1: Tờ 44 a-b

Q.1: Tờ 45 a-b

PL69

Q.1: Tờ 46 a-b

Q.1: Tờ 47 a-b (A.3052) – Bổ khuyết

PL70

QUYỂN NHỊ

Q.2: Tờ 1 a-b

Q.2: Tờ 2 a-b

PL71

Q.2: Tờ 3 a-b

Q.2: Tờ 4 a-b

Q.2: Tờ 5 a-b

Q.2: Tờ 6 a-b

PL72

Q.2: Tờ 7 a-b

Q.2: Tờ 8 a-b

Q.2: Tờ 9 a-b

PL73

Q.2: Tờ 10 a-b

Q.2: Tờ 11 a-b. Phục dựng bổ khuyết

Q.2: Tờ 12 a-b. Phục dựng bổ khuyết

PL74

Q.2: Tờ 13 a-b

Q.2: Tờ 14 a-b

Q.2: Tờ 15 a-b

PL75

Q.2: Tờ 16 a-b

Q.2: Tờ 17 a-b

Q.2: Tờ 18 a-b

PL76

Q.2: Tờ 19 a-b

Q.2: Tờ 20 a-b

Q.2: Tờ 21 a-b

PL77

Q.2: Tờ 22 a-b

Q.2: Tờ 23 a-b

Q.2: Tờ 24 a-b

PL78

Q.2: Tờ 25 a-b. Phục dựng bổ khuyết

Q.2: Tờ 26 a-b. Phục dựng bổ khuyết

Q.2: Tờ 27 a-b

PL79

Q.2: Tờ 28 a-b

Q.2: Tờ 29 a-b

Q.2: Tờ 30 a-b

PL80

Q.2: Tờ 31 a-b

Q.2: Tờ 32 a-b

Q.2: Tờ 33 a-b

PL81

Q.2: Tờ 34 a-b

Q.2: Tờ 35 a-b. Phục dựng bổ khuyết

Q.2: Tờ 36 a-b. Phục dựng bổ khuyết

PL82

Q.2: Tờ 37 a-b

Q.2: Tờ 38 a-b

PL83

QUYỂN TAM

Q.3: Tờ 1 a-b

Q.3: Tờ 2 a-b

Q.3: Tờ 3 a-b

PL84

Q.3: Tờ 4 a-b

Q.3: Tờ 5 a-b

Q.3: Tờ 6 a-b

PL85

Q.3: Tờ 7 a-b (R.1598) – Bổ khuyết

Q.3: Tờ 8 a-b (R.1598) – Bổ khuyết

Q.3: Tờ 9 a-b

PL86

Q.3: Tờ 10 a-b

Q.3: Tờ 11 a-b

Q.3: Tờ 12 a-b

PL87

Q.3: Tờ 13 a-b

Q.3: Tờ 14 a-b

Q.3: Tờ 15 a-b

PL88

Q.3: Tờ 16 a-b

Q.3: Tờ 17 a-b

Q.3: Tờ 18 a-b

PL89

Q.3: Tờ 19 a-b

Q.3: Tờ 20 a-b

Q.3: Tờ 21 a-b

PL90

Q.3: Tờ 22 a-b

Q.3: Tờ 23 a-b

Q.3: Tờ 24 a-b

PL91

Q.3: Tờ 25 a-b

Q.3: Tờ 26 a-b

Q.3: Tờ 27 a-b

PL92

Q.3: Tờ 28 a-b

Q.3: Tờ 29 a-b

Q.3: Tờ 30 a-b

PL93

Q.3: Tờ 31 a-b

Q.3: Tờ 32 a-b

Q.3: Tờ 33 a-b

PL94

Q.3: Tờ 34 a-b

Q.3: Tờ 35 a-b

Q.3: Tờ 36 a-b

PL95

Q.3: Tờ 37 a-b. (R.1598) – Bổ khuyết

Q.3: Tờ 38 a-b. (R.1598) – Bổ khuyết

Q.3: Tờ 39 a-b

PL96

Q.3: Tờ 40 a-b

Q.3: Tờ 41 a-b

Q.3: Tờ 42 a-b

PL97

Q.3: Tờ 43 a-b

Q.3: Tờ 44 a-b

NỘI DUNG VĂN BẢN TÁC PHẨM KẾT THÚC

PL98