VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

ĐÀO TRUNG ĐỨC

QUYỀN KHÔNG BUỘC PHẢI ĐƯA RA LỜI KHAI

CHỐNG LẠI CHÍNH MÌNH HOẶC BUỘC PHẢI

NHẬN MÌNH CÓ TỘI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2023

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

ĐÀO TRUNG ĐỨC

QUYỀN KHÔNG BUỘC PHẢI ĐƯA RA LỜI KHAI

CHỐNG LẠI CHÍNH MÌNH HOẶC BUỘC PHẢI

NHẬN MÌNH CÓ TỘI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn: PGS.TS.Mai Đắc Biên.

Hà Nội - 2023

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi

dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Mai Đắc Biên.

Các kết quả nghiên cứu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công

trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được

trích dẫn đúng theo quy định.

Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.

Tác giả luận văn

(Ký, ghi rõ họ tên)

Đào Trung Đức

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy, cô giáo trong Trường Đại

học Kiểm sát Hà Nội, những người đã dạy dỗ, chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá

trình học tập.

Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới thầy PGS.TS Mai Đắc Biên -

Phó hiệu trưởng nhà trường đã giúp đỡ em trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn

thành luận văn này. Cảm ơn những ý kiến đóng góp của thầy đã giúp em hoàn thiện

đề tài một cách tốt nhất. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn VKSND tối cao, TAND

tối cao đã tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ em trong suốt quá trình nghiên cứu tài liệu,

hồ sơ và tìm kiếm số liệu.

Hà Nội, ngày tháng năm 2023

Tác giả luận văn

Đào Trung Đức

DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, BLTTHS năm 2015

sửa đổi bổ sung năm 2021

Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi BLHS năm 2015

bổ sung năm 2017

CQĐT CQĐT

ĐTV ĐTV

KSV KSV

Tố tụng hình sự TTHS

Tòa án nhân dân TAND

Viện kiểm sát nhân dân VKSND

VAHS VAHS

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

VỀ QUYỀN KHÔNG BUỘC PHẢI ĐƯA RA LỜI KHAI CHỐNG LẠI CHÍNH

MÌNH HOẶC BUỘC PHẢI NHẬN MÌNH CÓ TỘI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC

TỘI.............................................................................................................................. 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống

lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội .............. 7

1.1.1. Khái niệm .......................................................................................................... 7

1.1.2. Đặc điểm ......................................................................................................... 11

1.1.3. Ý nghĩa ............................................................................................................ 14

1.2. Quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia trên thế giới về quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình

có tội .......................................................................................................................... 16

1.2.1. Quy định của pháp luật quốc tế ...................................................................... 16

1.2.2. Quy định của pháp luật một số quốc gia ........................................................ 17

1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người

bị buộc tội ................................................................................................................. 20

1.3.1. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của người bị buộc tội được ghi nhận trực tiếp thông qua các quy

định về quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ............................ 23

1.3.2. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của người bị buộc tội được thể hiện rõ trong hoạt động lấy lời khai,

hỏi cung trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố,

trong thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa xét xử ................................................ 32

1.3.3. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của người bị buộc tội được thể hiện rõ trong việc bị can, bị cáo

khiếu nại vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng, kháng cáo quyết định, bản án

của Tòa án ................................................................................................................. 35

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 36

Chương 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN KHÔNG BUỘC PHẢI ĐƯA

RA LỜI KHAI CHỐNG LẠI CHÍNH MÌNH HOẶC BUỘC PHẢI NHẬN

MÌNH CÓ TỘI ........................................................................................................ 37

2.1. Thực tiễn thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính

mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của các cơ quan tiến hành tố tụng ....... 37

2.1.1. Kết quả thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội của các cơ quan tiến hành tố tụng ...................... 37

2.1.2. Kết quả sử dụng quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội ........................................... 39

2.2. Những tồn tại, thiếu sót trong việc thực hiện quyền không buộc phải đưa ra

lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc

tội .............................................................................................................................. 42

2.2.1. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của người bị buộc tội theo quy định của pháp luật chưa được người

tiến hành tố tụng thực hiện một cách hiệu quả, thống nhất. ..................................... 42

2.2.2. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội được người bị buộc tội sử dụng chưa hiệu quả hoặc bị lạm dụng45

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót ................................................... 46

2.3.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự còn bất cập ...................................... 46

2.3.2. Cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật

để bảo đảm thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội .............................................................................. 48

2.3.3. Người bị buộc tội chưa nhận thức đầy đủ về quyền không buộc phải đưa ra lời

khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội ................................... 49

2.3.4. Công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan dân cử và của nhân dân đối với

việc thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội chưa được chú trọng, quan tâm triệt để ................................ 50

2.3.5. Điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu .................................... 51

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 52

Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN

KHÔNG BUỘC PHẢI ĐƯA RA LỜI KHAI CHỐNG LẠI CHÍNH MÌNH

HOẶC BUỘC PHẢI NHẬN MÌNH CÓ TỘI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI .... 53

3.1. Yêu cầu đảm bảo thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống

lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội ............ 53

3.1.1. Yêu cầu cải cách tư pháp trong lĩnh vực hình sự ............................................ 53

3.1.2. Yêu cầu đảm bảo thi hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội của người bị buộc tội ........................................................................................... 54

3.1.3. Yêu cầu bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội ............... 55

3.1.4. Yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm ....................................... 56

3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống

lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội ................................................. 57

3.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật ................................................................. 57

3.2.2. Bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ, nhận thức về trách nhiệm của người

tiến hành tố tụng ........................................................................................................ 59

3.2.3. Phát triển, nâng cao trình độ của đội ngũ luật sư đáp ứng yêu cầu tham gia tố

tụng, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý ................................................................... 61

3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về quyền không

buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mính hoặc buộc phải nhận mình có tội cho

người dân .................................................................................................................. 62

3.2.5. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn kịp thời

những vướng mắc khó khăn và phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành

tố tụng trong việc thực hiện quyền ............................................................................ 63

3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong việc thực hiện hoạt động áp dụng

pháp luật tố tụng hình sự .......................................................................................... 65

3.2.7. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ, chính sách đối với công

chức, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký Tòa án ...................................................... 65

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 67

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC I

PHỤ LỤC II

PHIẾU KHẢO SÁT (1)

PHIẾU KHẢO SÁT (2)

PHỤ LỤC III

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con

người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý

quốc tế. Điểm g khoản 3 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị

năm 1966 (International Covenant on Civil and Political Rights, 1966-ICCPR 1966)

mà Việt Nam đã ký kết gia nhập vào ngày 24/9/1982 thể hiện rõ ràng về quyền không

buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Hiện

nay, văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng xác định: “Hoạt động tư pháp phải bảo vệ

công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,

bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đấu

tranh có hiệu quả với mọi loại tội phạm và vi phạm” [17, tr.59]. Hiến pháp năm 2013

có những đổi mới trong tư duy lập hiến khi lần đầu tiên ghi nhận, phân biệt rõ ràng

quyền con người với các quyền của công dân. Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013

quy định, ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền

công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo

vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Trên tinh thần đó, pháp luật TTHS đặt ra

yêu cầu bảo vệ tối đa quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá

nhân trong quá trình giải quyết VAHS cùng với việc phát hiện chính xác, xử lý kịp

thời, đúng đắn mọi hành vi phạm tội, người phạm tội (pháp nhân thương mại phạm

tội). BLTTHS năm 2015 ghi nhận thêm nhiệm vụ “góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ

quyền con người, quyền công dân” tại Điều 2 so với quy định tại Điều 1 BLTTHS

năm 2003. Theo đó, BLTTHS đã chú trọng đến việc tôn trọng, bảo vệ quyền con

người trong quá trình giải quyết vụ án, đặc biệt là quyền của người thuộc các nhóm

người dễ bị tổn thương như người bị buộc tội, người bị kết án, người khó có khả năng

tự bảo vệ quyền của mình khi tham gia tố tụng, người tố giác, nhân chứng, người bị

hại và những người thân thích của những người đó. Việc ghi nhận, bảo đảm quyền

và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trong quá trình chứng minh tội phạm có ý

nghĩa quan trọng, góp phần xây dựng nền tư pháp tiến bộ, công bằng, văn minh.

2

BLTTHS năm 2015 đã bổ sung các quy định trực tiếp về quyền không buộc phải đưa

ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc

tội. Như vậy, việc vận dụng quyền này góp phần loại trừ trường hợp người bị nghi

thực hiện tội phạm bị xâm phạm đến quyền con người, các quyền chính đáng của

mình. Đồng thời, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm

chứng minh tội phạm theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định cũng như đảm bảo

việc thực hiện buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

mình có tội của người bị buộc tội.

Pháp luật TTHS Việt Nam đã có những tiến bộ trong tư duy lập pháp về quyền

con người nói chung hay quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội nói riêng. Tuy nhiên, việc áp

dụng quyền này vẫn còn khó khăn và vướng mắc. Mặc dù quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội đã được nhiều

tác giả nghiên cứu nhưng việc tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật và phân tích

cụ thể về tình hình thực tế cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo đảm thực

hiện quyền này khi giải quyết VAHS trong giai đoạn năm 2018-2022 là điều cần thiết.

Chính vì những lí lẽ trên, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, tăng cường cơ chế

bảo vệ quyền con người trong TTHS, hạn chế tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt,

tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử, học viên lựa chọn đề tài: “Quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị

buộc tội trong TTHS Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. Qua đó, góp phần

làm sâu sắc hơn lý luận về quyền của người bị buộc tội và vấn đề thực tiễn, đề xuất

những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền này trên thực tế.

2. Tình hình nghiên cứu

Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của người bị buộc tội trong pháp luật quốc tế được các tác giả nước

ngoài nghiên cứu dưới tên gọi “quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội” (The right to silence) hoặc “Đặc quyền

chống lại sự tự buộc tội” (The privilege against self-incrimination) [59]. Quyền

3

không buộc phải đưa ra lời chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị

buộc tội trong TTHS Việt Nam được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu như nhóm

Luận văn thạc sĩ: Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong luật TTHS

Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội),(2017), Đại học quốc gia Hà

Nội, Đinh Hải Ninh; Bảo vệ quyền của người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm

giữ, người bị tam giam, bị can, bị cáo) trong luật TTHS Việt Nam, (2019), Đại học

quốc gia Hà Nội, Lê Tiến Quân; Nguyễn Hữu Hậu (2019), Đảm bảo quyền con người

của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong

giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện

khoa học xã hội, Hà Nội; Vũ Công Giao - Nguyễn Minh Tâm (2015), “Quyền không

buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội trong

pháp luật quốc tế, pháp luật của một số quốc gia và Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và

pháp luật, (3); Nguyễn Vũ Linh Giang (2016), “Quyền không buộc phải đưa ra lời

khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội trong TTHS”, Tạp chí

Nhà nước và pháp luật, (12);…

Những công trình nghiên cứu trên phần lớn tập chung vào nội dung cơ bản về

quyền của người bị buộc tội nói chung; một số bài viết, công trình nghiên cứu về

quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

mình có tội nhưng chưa làm rõ tình hình sử dụng quyền không buộc phải đưa ra lời

khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội và

việc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo đảm thực hiện quyền này trong quá

trình giải quyết VAHS. BLTTHS năm 2015 ra đời cùng với sự phát triển, thay đổi về

kinh tế - xã hội, việc thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính

mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội bộc lộ một số hạn chế,

vướng mắc nên vấn đề tiếp tục nghiên cứu quyền này là hết sức cần thiết để bảo vệ

quyền con người, quyền của người bị buộc tội trong TTHS.

Từ tình hình nghiên cứu trên, việc nghiên cứu đề tài “Quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị

buộc tội trong TTHS” là cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.

4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị

buộc tội trong pháp luật TTHS Việt Nam. Đồng thời, làm rõ những bất cập, vướng

mắc về quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng quyền này của người bị buộc tội trong

quá trình giải quyết VAHS từ năm 2018-2022. Từ đó, học viên đưa ra những giải

pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật, nâng cao thực hiện quyền không buộc phải đưa ra

lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau:

- Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền không buộc phải đưa ra

lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội

gồm khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa.

- Nêu và phân tích quy định về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống

lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội trong pháp luật TTHS quốc tế và một

số quốc gia trên thế giới (Mỹ, Đức, Nhật Bản).

Phân tích, đánh giá quy định của BLTTHS năm 2015, các văn bản hướng dẫn

về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

mình có tội của người bị buộc tội.

- Nghiên cứu tình hình tội phạm, thực tiễn thực hiện quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị

buộc tội trong TTHS trong giai đoạn 05 năm (2018-2022).

- Kiến nghị các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả quyền không buộc

phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người

bị buộc tội trong TTHS.

4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

5

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận về quyền không

buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của

người bị buộc tội; quy định của pháp luật TTHS quốc tế và một số quốc gia về quyền

này; quy định của BLTTHS năm 2015 và thực tiễn thực hiện quyền này của người bị

buộc tội từ năm 2018 đến năm 2022.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận, quy định của BLTTHS năm 2015 về

quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

mình có tội của người bị buộc tội. Đồng thời, luận văn nghiên cứu về tình hình tội

phạm (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) từ năm 2018-2022 trên phạm vi cả nước, tình

hình thực tiễn người bị buộc tội thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; cơ quan, người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng bảo đảm thực hiện quyền này trong TTHS. Từ đó, đưa ra các yêu

cầu, các giải pháp thực hiện hiệu quả quyền không phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng

và Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp, chính sách bảo

vệ quyền con người, quyền công dân.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học pháp lý hình sự

như: phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp, thống kê, xã hội học… Cụ thể:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá, so sánh các quan điểm của các

tác giả về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội của người bị buộc tội; quy định của pháp luật quốc tế và một

số quốc gia; quy định của BLTTHS năm 2015 về quyền này của người bị buộc tội.

6

- Phương pháp xã hội học (lập bảng Anket), tổng hợp, phân tích, thống kê thực

tiễn người bị buộc tội sử dụng quyền không phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội; cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

bảo đảm việc thực hiện quyền này trong các VAHS.

- Phương pháp phân tích, hệ thống nhằm đề xuất các giải pháp đảm bảo thực

hiện quyền không phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

mình có tội của người bị buộc tội quá trình giải quyết VAHS.

6. Ý nghĩa của luận văn

Đề tài “Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong TTHS” góp phần hoàn thiện

một số vấn đề lý luận về người bị buộc tội, quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; đưa ra các kiến nghị khắc

phục những vướng mắc của BLTTHS, nâng cao áp dụng quyền này trong thực tiễn.

Qua đó, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, hạn chế tình trạng

oan, sai trong TTHS. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên

cứu luật pháp hoặc phục vụ hoạt động thực tiễn trong điều tra, truy tố, xét xử VAHS.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận

văn có kết cấu gồm 03 chương, gồm:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình

có tội của người bị buộc tội

Chương 2: Thực tiễn thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội

Chương 3: Yêu cầu và giải pháp đảm bảo thực hiện quyền không buộc

phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội

7

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN

KHÔNG BUỘC PHẢI ĐƯA RA LỜI KHAI CHỐNG LẠI CHÍNH MÌNH

HOẶC BUỘC PHẢI NHẬN MÌNH CÓ TỘI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội

1.1.1. Khái niệm

1.1.1.1. Khái niệm người bị buộc tội

Thuật ngữ pháp lý “người bị buộc tội” lần đầu tiên xuất hiện trong Hiến pháp

năm 2013. Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định người bị buộc tội được coi là không

có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của

Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, điểm

đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 ghi nhận người bị buộc tội gồm: người bị bắt,

người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đồng thời, khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 quy

định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người

có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện…”. Một trong

những điểm mới nổi bật của BLTTHS năm 2015 là ghi nhận người bị buộc tội có thể

là pháp nhân thương mại thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định

là tội phạm.

Hiện nay, nhiều tác giả đã đưa ra các quan điểm khác nhau về khái niệm người

bị buộc tội như:

Người bị buộc tội là người bị các cơ quan tiến hành tố tụng có đủ căn cứ nghi

ngờ họ thực hiện hành vi phạm tội và với họ đã bị bắt, tạm giữ, khởi tố bị can hoặc

bị Tòa án đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật [28, tr.14]. Khái niệm chưa nêu

ra trường hợp người bị buộc tội là người bị bắt, bị tạm giữ thực hiện hành vi có dấu

hiệu tội phạm theo BLHS, chưa nêu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp

ra các quyết định tố tụng làm phát sinh địa vị pháp lý của người bị buộc tội.

Đồng thời, cũng có quan điểm cho rằng, người bị buộc tội là người (cá nhân)

bị cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp tố tụng để bảo đảm cho việc

8

phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, truy cứu trách nhiệm hình sự khi có đủ căn cứ theo

luật định xác định người đó có thể đã thực hiện tội phạm hoặc hành vi có dấu hiệu tội

phạm mà BLHS quy định là tội phạm. Người bị buộc tội có địa vị pháp lý cụ thể là

người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được pháp luật quy định tương ứng với

từng giai đoạn tố tụng cụ thể [31, tr.12-13]. Theo quan điểm của học viên, người bị

buộc tội còn có thể là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại trong

trường hợp thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi nguy hiểm cho xã hội có dấu

hiệu tội phạm theo Điều 75, 76 BLHS năm 2015.

Để làm rõ khái niệm người bị buộc tội cần hiểu quy định pháp luật về người

bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo:

Về người bị bắt. Điều 55, khoản 2 Điều 109 BLTTHS năm 2015 chưa định nghĩa

người bị bắt mà chỉ quy định là người tham gia tố tụng, liệt kê các trường hợp bắt người

gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người

đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn.

Về người bị tạm giữ. Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn

cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc

người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Họ là người

chưa bị khởi tố về hình sự, trừ người bị bắt theo quyết định truy nã đã bị khởi tố về

hình sự được quy định tại Điều 59 BLTTHS năm 2015.

Về bị can. Bị can là người hoặc pháp nhân đã bị khởi tố về hình sự. Quyền và

nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp

luật của pháp nhân theo quy định (Điều 60 BLTTHS năm 2015). Như vậy, BLTTHS

có điểm mới khi việc ghi nhận pháp nhân có thể là bị can nếu có đủ căn cứ xác định

pháp nhân đã thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm.

Về bị cáo. Theo Điều 61 BLTTHS năm 2015, bị cáo là người hoặc pháp nhân

đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân

được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định.

Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng dựa vào các tình tiết thực tế,

các căn cứ pháp lý (BLHS, BLTTHS) để xác định chủ thể đã thực hiện hành vi có

9

dấu hiệu tội phạm hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội được BLHS quy định. Từ đó,

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng ban hành các quyết định tố tụng như: Lệnh

bắt, quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố bị can, quyết định truy tố, quyết định đưa

vụ án ra xét xử… để xác định địa vị pháp lý và quyền, nghĩa vụ của người bị buộc

tội. Ví dụ, bị cáo là người hoặc pháp nhân thương mại đã bị Tòa án quyết định đưa ra

xét xử. Tư cách pháp lý và quyền, nghĩa vụ của bị cáo phát sinh từ khi Tòa án ra quyết

định đưa vụ án ra xét xử (Điều 61, 277 BLTTHS năm 2015).

Theo BLTTHS năm 2015, người bị buộc tội có thể bị áp dụng các biện pháp

ngăn chặn hoặc bị khởi tố, điều tra, truy tố, đưa ra xét xử nhưng họ chưa thể bị coi là

có tội. Như vậy, người bị buộc tội chưa bị coi là người phạm tội mà là người bị nghi

thực hiện tội phạm, có thể bị áp dụng các biện pháp luật định khi cơ quan, người có

thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án, xử lý chính xác

tội phạm, người phạm tội. Việc chứng minh tội phạm phải tuân theo trình tự, thủ tục

do BLTTHS quy định để rút ra kết luận, quyết định buộc tội, kết tội hoặc không buộc

tội, kết tội. Hoạt động chứng minh tội phạm cần bảo đảm được các quyền tố tụng của

người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác.

Từ những nội dung đã phân tích, có thể đưa ra khái niệm người bị buộc tội

như sau: Người bị buộc tội là người hoặc pháp nhân thương mại (thông qua đại diện

theo pháp luật) đã bị cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nghi thực hiện

tội phạm, xác lập tư cách pháp lý của họ là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo và tiến hành các hoạt động luật định để xem xét buộc tội họ.

1.1.1.2. Khái niệm nhận mình có tội của người bị buộc tội

Từ điển Tiếng Việt định nghĩa nhận là “2. Chịu là có, là đúng; thừa nhận.

Nhận lỗi…” [30, tr.712]. BLTTHS năm 2015 đề cập về hành vi nhận mình có tội của

người bị buộc tội thông qua các quy định:

Một là, hành vi tự thú, đầu thú (điểm h, i Điều 4 BLTTHS năm 2015). Theo

đó, tự thú là việc người bị buộc tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành

vi phạm tội của mình trước khi người bị buộc tội, hành vi phạm tội của họ bị phát

10

hiện. Đầu thú là trường hợp người bị buộc tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra

trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình.

Hai là, lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, lời khai của bị can, bị cáo trong

quá trình điều tra, truy tố (Điều 95, 98, 309 BLTTHS năm 2015). Khi người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng tiến hành lấy lời khai, người bị bắt, bị tạm giữ trình bày những

tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm. Trong quá trình hỏi cung,

bị can trình bày rõ ràng, đầy đủ về những tình tiết của vụ án mà người đó đang bị tình

nghi thực hiện tội phạm. Lời nhận tội chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp

với những chứng cứ khách của vụ án, không được dùng lời nhận tội của bị can làm

chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.

Ba là, khi hỏi bị cáo, bị cáo nói lời sau cùng (Điều 309, 324 BLTTHS năm

2015) tại phiên tòa sơ thẩm. Bị cáo trả lời những câu hỏi làm rõ tình tiết, chứng cứ,

tài liệu, vật chứng trong vụ án của Hội đồng xét xử, Viện kểm sát, người bào chữa,

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Bị cáo trình bày ý kiến

về bảo cáo trạng và những tình tiết của vụ án. Kết thúc tranh luận, bị cáo được nói lời

sau cùng. Theo đó, bị cáo “tự nhận mình có tội” là đồng ý về tội danh và những nội

dung liên quan đến việc xác định người đó có tội trong bản cáo trạng, bản luận tội

của Viện kiểm sát. Như vậy, BLTTHS năm 2015 quy định việc “nhận mình có tội”

của người bị buộc tội thể hiện ra ngoài bằng hình thức nói, viết (biên bản) và được

thực hiện theo trình tự, thủ tục BLTTHS.

Theo quan điểm của học viên, nhận mình có tội của người bị buộc tội là sự

thừa nhận của người bị buộc tội về việc đã thực hiện tội phạm hoặc hành vi có dấu

hiệu tội phạm mà BLHS quy định là tội phạm được cơ quan, người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng xác minh, thu thập theo trình tự, thủ tục của BLTTHS trong quá

trình giải quyết VAHS.

1.1.1.3. Khái niệm lời khai chống lại chính mình của người bị buộc tội

Từ điển Tiếng Việt định nghĩa chống là “3. Hoạt động ngược lại, gây trở lực

cho hành động của ai hoặc cho tác động của cái gì” [30, tr.170].

11

Trong quá trình giải quyết VAHS, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

áp dụng các biện pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện

và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng

nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Theo điểm b

khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 2015, lời khai, lời trình bày là một trong những nguồn

chứng cứ để làm rõ tội phạm, người phạm tội. Lời khai của người bị buộc tội là lời

trình bày của người bị bắt, người bị tạm giữ về những tình tiết liên quan đến việc họ

bị tình nghi thực hiện tội phạm; lời khai của bị can, bị cáo về những tình tiết của vụ

án. Người bị buộc tội có quyền chủ động, tự nguyện khi khai báo về những vấn đề

liên quan đến vụ án nhưng không buộc phải trả lời những câu hỏi, yêu cầu cơ quan,

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi cho rằng việc trả lời có khả năng dẫn đến

hậu quả pháp lý bất lợi cho quyền và lợi ích của họ [39, tr. 43]. Như vậy, có thể hiểu,

lời khai chống lại chính mình của người bị buộc tội là lời trình bày của người bị buộc

tội chứa đựng những tình tiết, thông tin, chứng cứ về VAHS có thể dẫn đến hậu quả

pháp lý bất lợi cho họ.

Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm quyền không buộc phải đưa

ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc

tội trong TTHS: Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong TTHS là quyền của người bị

buộc tội mà theo đó họ được tự do ý chí trình bày hoặc không trình bày lời khai của

mình về nội dung, tình tiết, sự kiện của vụ án mà người đó cho rằng có thể dẫn đến

hậu quả pháp lý bất lợi, khiến họ có nguy cơ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

1.1.2. Đặc điểm

- Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của người bị buộc tội là quyền con người của người bị buộc tội

trong TTHS

Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của người bị buộc tội thể hiện nguyên tắc đảm bảo quyền con người

trong TTHS. Quyền con người của người bị buộc tội trong TTHS bao gồm nhiều

12

quyền khác nhau như: quyền bảo đảm bình đẳng trước pháp luật, quyền bất khả xâm

phạm về thân thể; quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm,

tài sản cá nhân khác; quyền được bào chữa; quyền được kháng cáo bản án, quyết định

của Tòa án; quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội của người bị buộc tội… Người bị buộc tội là nhóm người dễ bị

tổn thương, dễ bị xâm phạm các quyền, lợi ích trong TTHS do mối quan hệ pháp luật

TTHS là mối quan hệ phát sinh giữa Nhà nước với người phạm tội (pháp nhân thương

mại phạm tội). Đồng thời, người bị buộc tội bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện

pháp cưỡng chế nên quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người

bị buộc tội không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ. Quyền này cũng tạo

ra một hành lang pháp lý trong việc điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể TTHS, hạn

chế việc lạm quyền của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

- Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội thể hiện sự tự nguyện của người bị buộc tội trong quá trình TTHS

Người bị buộc tội có thể trình bày hoặc không trình bày những tình tiết, tài

liệu liên quan đến vụ án cũng như trả lời các câu hỏi của cơ quan, người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng nếu như bản thân họ cho rằng việc này sẽ gây ảnh hưởng tiêu

cực đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ, khiến họ có nguy cơ bị truy cứu trách nhiệm

hình sự. Người bị buộc tội thực hiện quyền này như một khả năng để tự bào chữa cho

mình, thực hiện hoặc không thực hiện quyền này hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự

nguyện của người bị buộc tội mà không có gì ép buộc, ngăn cản. Tuy nhiên, quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội của người bị buộc tội không phải là quyền tuyệt đối [46, tr.43]. Trên thực tế, quyền

này có ý nghĩa tích cực khi có tình trạng oan, sai hay người bị buộc tội có tâm lý

hoảng loạn, mất tự chủ, bình tĩnh khi cho rằng sẽ phải đối mặt với hậu quả pháp lý

bất lợi, chế tài về hình sự. Như vậy, người bị buộc tội có thể tự nguyện không thực

hiện quyền này, đồng thời chủ động trình bày, đưa ra tài liệu, đồ vật về vụ án hoặc

thành khẩn khai báo, tích cực hợp tác làm rõ tội phạm để có thể hưởng tình tiết giảm

13

nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 50 BLHS năm 2015 khi quyết định

hình phạt nếu người đó phạm tội.

- Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của người bị buộc tội là sự thể hiện một số nguyên tắc trong TTHS

Thứ nhất, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội gắn liền với nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 13 BLTTHS

năm 2015). Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh

theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu

lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ buộc tội, kết tội theo

trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố

tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng có nhiệm vụ làm rõ sự thật khách quan của vụ án, kết luận người bị buộc

tội có phạm tội hay không phạm tội dựa trên toàn bộ, đầy đủ các chứng cứ chứng

minh hợp pháp mà không chỉ dựa vào việc người bị buộc tội đưa ra hoặc không đưa

ra lời khai thừa nhận mình có tội để quy kết họ đã thực hiện hành vi phạm tội.

Thứ hai, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội thể hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án quy định

tại Điều 15 BLTTHS năm 2015. Trách nhiệm chứng minh người bị buộc tội có hay

không thực hiện hành vi phạm tội, và làm rõ những tình tiết liên quan đến VAHS

thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành hành tố tụng. Theo đó, cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy

định của BLTTHS, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ

vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án, không được thực hiện

bất kỳ hình thức trái pháp luật để cưỡng ép người bị buộc tội phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Người bị buộc tội có quyền

nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Như vậy, kể cả khi một người đã

thực hiện tội phạm nhưng cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không thể làm

làm sáng tỏ việc người đó phạm tội, mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết do

BLTTHS quy định thì cũng không thể tiến hành truy tố, xét xử, kết tội người đó.

14

Thứ ba, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội có mối liên hệ mật thiết với nguyên tắc đảm bảo quyền

bào chữa của người bị buộc tội (Điều 16 BLTTHS năm 2015). Theo đó, người bị

buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Người bị buộc

tội được biết lý do mình bị buộc tội; được trình bày lời khai, trình bày ý kiến; đưa ra

chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên

quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá. Trong đó, người

bào chữa cần cung cấp cho cho người bị buộc tội nhận thức, quy định về thực hiện

quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

mình có tội. Đồng thời, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách

nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ quyền

bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Trong đó, có quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội để bảo đảm

cho việc giải quyết vụ án được khách quan, công bằng.

1.1.3. Ý nghĩa

Một là, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội góp phần bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội trong TTHS.

Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội được xem là một biện pháp bảo vệ quyền con người của người bị

buộc tội. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần có thái độ vô tư, khách quan,

không được định kiến đối với việc người bị buộc tội không đưa ra lời khai gây bất lợi

cho họ để bảo đảm tính khách quan của quá trình giải quyết vụ án. Pháp luật TTHS

loại trừ những hành vi trái pháp luật tác động đến người bị buộc tội để đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội trái với mong muốn của họ.

Các trường hợp mớm cung, bức cung, nhục hình, tác động tâm lý hay thân thể người

bị buộc tội trong quá trình thu thập chứng cứ, các hoạt động tố tụng như hỏi cung, lấy

lời khai, đối chất… bị nghiêm cấm nhằm đảm bảo quá trình chứng minh tội phạm,

người phạm tội được tiến hành hợp pháp, đúng người, đúng tội, tránh làm oan người

vô tội, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội không bị xâm hại.

15

Ngoài ra, quyền này thể hiện tính dân chủ và nhân đạo của hoạt động TTHS khi người

bị buộc tội được tự nguyện, tự do thể hiện ý chí trong việc đưa ra lời khai của mình,

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Hai là, góp phần vào việc phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm pháp luật từ phía

các cơ quan tố tụng dẫn đến oan, sai trong TTHS. Quyền không buộc phải đưa ra lời

khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội được ghi nhận trong

TTHS là cơ sở để CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án chứng minh tội phạm một cách

thuyết phục, công minh. Lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội không được thực hiện trên sự tự do ý chí của người bị buộc tội sẽ không có giá trị

pháp lý, không được sử dụng làm chứng cứ trong VAHS [46, tr.57]. Quyền này đặt

ra yêu cầu các cơ quan, người tiến hành tố tụng khi tiến hành giải quyết vụ án không

phụ thuộc quá nhiều vào lời khai của người bị buộc tội mà phải xem xét tổng thể,

toàn diện các tình tiết, nội dung của vụ án bằng các chứng cứ buộc tội, gỡ tội. Mọi

giả định, nghi ngờ về lỗi của người bị buộc tội phải được làm rõ theo trình tự, thủ tục

luật định và áp dụng thống nhất các quy định của BLHS, BLTTHS; nếu không thì vụ

án phải được giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Theo đó, cơ quan có

thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp như như các

biện pháp kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm, biện pháp cưỡng chế, ngăn chặn,

khám xét, triệu tập lấy lời khai, hỏi cung... để quá trình chứng minh tội phạm, người

phạm tội khách quan, đúng người, đúng tội.

Ba là, góp phần vào việc xác định rõ trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền

tiến hành tố tụng trong việc chứng minh hành vi phạm tội của người bị buộc tội với

từng giai đoạn TTHS. Người bị buộc tội có thái độ im lặng, từ chối trình bày, không

trả lời các câu hói về các vấn đề gây bất lợi cho mình không phải hành vi không hợp

tác với quá trình điều tra, truy tố, xét xử VAHS hay cố tình chối tội, nên cơ quan có

thẩm quyền tiến hành tố tụng không thể áp dụng đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm

hình sự khi quyết định hình phạt. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có vai trò,

chức năng, quyền hạn trong đấu tranh, phòng chống tội phạm, giải quyết vụ việc có

dấu hiệu của tội phạm. Theo đó, CQĐT thực hiện chức năng tiếp nhận, giải quyết

16

thông tin về tội phạm, tiến hành điều tra các tội phạm để phát hiện, xác định tội phạm,

người thực hiện hành vi phạm tội và đề nghị truy tố; Cơ quan được giao nhiệm vụ

tiến hành một số hoạt động điều tra là các cơ quan quản lý nhà nước được tiến hành

một số hoạt động điều tra trong một thời gian nhất định đối với tội phạm xảy ra trong

lĩnh vực mình quản lý, sau đó chuyển cho cơ quan tiến hành tố tụng tiếp tục giải quyết

vụ án; VKSND có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;

TAND là cơ quan xét xử. Như vậy, các cơ quan cùng thực hiện mục đích chung là

phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi phạm tội, người phạm tội (pháp

nhân thương mại phạm tội).

1.2. Quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia trên thế giới về

quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội

1.2.1. Quy định của pháp luật quốc tế

Trong các văn kiện quốc tế, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội được hiểu là

“quyền im lặng - right to remain silent” [59] - một trong những nội dung cơ bản về

quyền con người. Hệ thống pháp luật quốc tế chưa có định nghĩa thống nhất về “quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội” nhưng nội hàm của quyền này được quy định trong một số công ước quốc tế, văn

kiện quốc tế về quyền con người:

Đầu tiên, Điều 11 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 của Liên Hợp

Quốc tuyên bố: “Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự đều có quyền được coi là vô tội

cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật tại một phiên tòa xét xử công

khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình”.

Sau đó, Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR), Công

ước của Liên hợp quốc về các quyền trẻ em năm 1989 đã ghi nhận quyền không buộc

phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội là một

quyền cơ bản của con người khi đối mặt với sự buộc tội từ cơ quan quyền lực Nhà

nước. Theo đó, điểm g khoản 3 Điều 14 ICCPR quy định: “Không ai buộc phải đưa

17

ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội” [11]. Điều 12

Tuyên bố về bảo vệ mọi người khỏi bị tra tấn và các hình thức đối xử hay trừng phạt

tàn ác, vô nhân đạo hay hạ nhục khác năm 1975 quy định:“Bất kỳ lời khai nào đã

được xác lập mà có được bởi kết quả của tra tấn hoặc đối xử hay trừng phạt một cách

tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác không thể được viện dẫn làm bằng chứng

chống lại người có liên quan hoặc chống lại bất kỳ người nào khác trong bất kỳ thủ

tục tố tụng nào”. Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn

ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm năm 1984 quy định: “Lời khai của người bị

tra tấn, bị dùng nhục hình, bị đối xử vô nhân đạo không có giá trị chứng minh trong

quá trình điều tra vụ án” [13]. Như vậy, lời khai, lời trình bày chống lại người có

liên quan hay bất kỳ người nào khác do bị đối xử tàn bạo, hạ nhục, ép buộc thì không

có giá trị về pháp lý và không được sử dụng trong quá trình tố tụng.

Theo Điều 14 Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về hoạt động

tư pháp đối với người vị thành niên năm 1985 (các quy tắc Bắc Kinh), trong bất kỳ

trường hợp nào, thủ tục xét xử người chưa thành niên phạm tội cũng đều phải tuân

theo những tiêu chuẩn tối thiểu được áp dụng chung cho bất cứ bị can nào theo một

thủ tục được biết tới là “thủ tục pháp lý cần thiết” [12]. Thủ tục pháp lý cần thiết là

việc “xét xử công bằng và chính đáng” có những biện pháp bảo vệ cho những quyền

cơ bản như: quyền suy đoán vô tội, quyền đưa ra nhân chứng, vật chứng, quyền được

biện hộ trước tòa, quyền im lặng, quyền được nói lời cuối cùng trong phiên tòa xét

xử, quyền kháng cáo.

Như vậy, hầu hết các văn kiện quốc tế đều ghi nhận rõ ràng quyền không buộc

phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội như là một

biện pháp quan trọng để bảo vệ quyền con người trong TTHS. Khi phát sinh mối quan

hệ bất bình đẳng với cơ quan quyền lực Nhà nước thì người bị buộc tội được quyền

im lặng, không phải khai báo, trình bày lời khai vì có thể gây hậu quả pháp lý bất lợi

đối với họ.

1.2.2. Quy định của pháp luật một số quốc gia

1.2.2.1. Quy định của pháp luật Hoa Kỳ

18

Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội là quyền cơ bản trong pháp luật Hoa Kỳ, được hiến định trong Tu

chính án thứ 5 Hiến pháp Hoa Kỳ: “không ai bị buộc phải trở thành nhân chứng

chống lại anh ta trong bất kỳ VAHS nào”. Đến năm 1966, thuật ngữ “Miranda

warning” (Lời cảnh báo miranda: quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội) được thiết lập trong Án lệ Miranda

v.Arizona. Theo đó, nội dung án lệ như sau: Vào ngày 23/3/1963, Emesto Miranda

bị bắt vì hành vi trộm cắp tại một ngân hàng tại thành phố Phoenix, bang Arizona,

Hoa Kỳ. Sau khi bị cảnh sát thẩm vấn, Miranda đã tự nguyện thừa nhận tội trộm cắp

và hành vi bắt cóc và hãm hiếp một cô gái 18 tuổi. Tháng 6/1963, Miranda bị Tòa án

quận Maricopa, thành phố Phonenix phán quyết 20 năm tù vì ba tội: trộm cắp, bắt

cóc và hiếp dâm. Sau đó, Miranda đã kháng án với lý do khi bị bắt, anh ta không được

thông báo về việc bất cứ một lời khai nào của mình sau này có thể được sử dụng để

chống lại chính mình, và không biết về quyền được luật sư bào chữa khi cảnh sát hỏi

cung. Tháng 6/1965, vụ án được Toà án tối cao Hoa Kỳ giải quyết. Theo đó, Chánh

án Tòa án tối cao đã ra phán quyết bác bỏ việc kết tội Miranda khi chỉ dựa trên lời

nhận tội do Miranda không được cho biết về những quyền của mình. Từ đó, Tòa án

tối cao Hoa Kỳ ra án lệ về việc trước khi thẩm vấn, cảnh sát phải thông báo cho người

bị nghi thực hiện tội phạm như sau: Anh có quyền giữ im lặng và từ chối trả lời câu

hỏi. Bất cứ điều gì anh nói cũng sẽ được dùng để chống lại anh trước tòa. Anh có

quyền nhờ luật sư trước khi khai báo với cảnh sát và các luật sư sẽ có mặt khi cảnh

sát thẩm vấn anh. Nếu anh không thể tìm được luật sư, anh sẽ được Tòa án triệu tập

một luật sư trước khi trả lời các câu hỏi. Anh có thể trả lời câu hỏi khi không có luật

sư nhưng anh vẫn có quyền tạm ngừng trả lời bất cứ lúc nào để chờ sự có mặt của

luật sư [24, tr.42]. Do đó, cảnh báo Miranda là một quy định để tăng cường bảo vệ

quyền của người bị buộc tội. Pháp luật TTHS Hoa kỳ quy định người bị nghi thực

hiện tội phạm có quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội, nhưng cơ quan công tố vẫn thực hiện quyền buộc tội,

chứng minh người phạm tội bằng các phương pháp khác nhau.

19

1.2.2.2. Quy định của pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức

Trong pháp luật TTHS Đức, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội được thể hiện tại

khoản 1 Điều 103 Hiến pháp Đức: “… Bất cứ ai bị xét xử đều phải lắng nghe ý kiến

của họ”. Quy định này gián tiếp ghi nhận việc người bị buộc tội có quyền trả lời hay

không trả lời trong quá trình TTHS mà không bị tác động từ người tiến hành tố tụng.

BLTTHS Đức quy định người bị buộc tội có quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội trong tất cả các giai đoạn tố

tụng từ trước khi bị thẩm vấn đến khi kết thúc quá trình xét xử. Theo đó:

- Khoản 3 Điều 115 BLTTHS Đức: “Trong quá trình xem xét, các yếu tố buộc

tội sẽ phải được trình bày đối với bị can và anh ta phải được thông báo về quyền của

mình trong việc đối đáp lại lời buộc tội hoặc giữ im lặng. Anh ta phải được tạo điều

kiện bác bỏ căn cứ cho việc nghi ngờ và bắt người và đưa ra những tình tiết có lợi

cho mình”. Sau khi bị bắt, người bị buộc tội được thông báo về những quyền cơ bản,

trong đó có quyền tự nguyện đối đáp hoặc im lặng khi thẩm phán xét việc buộc tội.

- Khoản 1 Điều 136 BLTTHS Đức: “Tại thời điểm bắt đầu việc lấy lời khai

lần đầu tiên, bị cáo sẽ được thông báo về tội danh bị khởi tố và các điều khoản luật

hình sự áp dụng. Anh ta sẽ được thông báo việc theo luật pháp, anh ta có quyền trình

bày ý kiến đối với lời buộc tội hoặc không phát biểu bất cứ điều gì về lời buộc tội và

ngay trước khi tiến hành kiểm tra, trao đổi với luật sư bào chữa do anh ta lựa chọn.

Anh ta sẽ được hướng dẫn việc có thể yêu cầu thu thập chứng cứ để phục vụ việc bào

chữa. Trong những trường hợp phù hợp, bị cáo sẽ được thông báo rằng anh ta có thể

trình bày ý kiến bằng văn bản”. Trong giai đoạn truy tố, xét xử, người bị buộc tội có

quyền được thông báo về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội, các quyền khác như bào chữa, thu thập chứng cứ…

1.2.2.3. Quy định của pháp luật Nhật Bản

Trong pháp luật TTHS Nhật Bản, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống

lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội chỉ được ghi

nhận trong giai đoạn xét xử. Theo khoản 3 Điều 291 BLTTHS Nhật Bản: “Sau khi

20

bản cáo trạng được công bố, chủ toạ phiên toà, trên cơ sở thông báo rằng bị cáo có

thể giữ im lặng trong toàn bộ quá trình xét xử hoặc từ chối trả lời về những câu hỏi

mang tính chất cá nhân hoặc những vấn đề cần thiết khác được quy định trong Điều

lệ của toà án với mục đích bảo vệ quyền của mình, cho phép bị cáo và luật sư có cơ

hội trình bày những vấn đề liên quan đến vụ án” [6]. Như vậy, bị cáo, người bào chữa

có quyền lựa chọn giữ im lặng, từ chối trả lời hoặc trình bày ý kiến về vụ án ngay sau

khi công tố viên công bố khi bản cáo trạng.

Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội là quyền của bị cáo không bị bắt buộc phải đưa ra lời khai hoặc làm

chứng để chống lại chính mình, có quyền im lặng từ khi bắt đầu đến khi kết thúc

phiên toà xét xử. BLTTHS Nhật Bản quy định các quyền của bị cáo nói chung và

quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

mình có tội nói riêng tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo

trước các cáo buộc của công tố viên, hạn chế việc lạm quyền của các cơ quan có thẩm

quyền, đảm bảo quá trình xét xử được khách quan, công bằng.

1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền không

buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội

của người bị buộc tội

Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội là tiền đề quan trọng để đảm bảo thực thi nguyên tắc suy đoán vô

tội, trách nhiệm chứng minh tội phạm và quyền bào chữa. Như đã trình bày ở trên,

quyền này đã được quy định từ rất lâu trong Bộ luật TTHS của nhiều nước dưới cái

tên tương tự là “quyền im lặng” và tỏ ra có hiệu quả trong việc đảm bảo quyền của

người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

BLTTHS năm 2003 có nhiều quy định liên quan đến quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người BBT.

Tuy nhiên, đây chỉ là những quy định không rõ ràng hay có sự đề cập một cách trực

tiếp. Do đó, vẫn còn rất nhiều ý kiến trái chiều liên quan đến việc thực tế quyền không

buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội có

21

được quy định trong Bộ luật này hay chưa? Liệu rằng quyền không buộc phải đưa ra

lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội có phải là một quyền

con người hay không? Hay cần quy định quyền này vào pháp luật như thế nào? Có ý

kiến cho rằng quyền này không phải quyền con người. Ý kiến khác lại cho rằng quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội phải nằm trong nhóm quyền con người, quyền công dân. Một ý kiến khác lại cho

rằng quyền này thực chất cần được hiểu là người bị bắt, tạm giam, tạm giữ có quyền

không đưa ra chứng cứ bất lợi. Điều 10 BLTTHS năm 2003 quy định:“Trách nhiệm

chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng

không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Vì bị can, bị cáo không phải chứng

minh là mình vô tội, cho nên không cần phải khai báo. Đây chính là một quy định

mặc thị của quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội. Về vấn đề này, tác giả cho rằng quan điểm này chưa chuẩn

xác, vì đây là quy định tất yếu khi ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội quy định tại

Điều 9. Chứng minh tội phạm là trách nhiệm của cơ quan, người THTT để xác định

bốn vấn đề:

“1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình

tiết khác của hành vi phạm tội;

2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay

vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;

3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị

can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;

4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.”

Việc khai báo hay không khai báo của người BBT không là hoạt động chứng

minh tội phạm. Người BBT có thực hiện hành vi chứng minh mình vô tội hay không,

hay không thể chứng minh mình vô tội cũng không thể xem là căn cứ xác định tội

phạm. Có thể xem đây như là một nguyên tắc trong pháp luật La Mã cổ đại: “Trách

nhiệm chứng minh thuộc về người khẳng định, chứ không thuộc về người phủ định”.

22

Như vậy, quy định tại Điều 10 nên được nhìn nhận là nội dung của nguyên tắc suy

đoán vô tội.

Khoản 4 Điều 209 BLTTHS năm 2003 quy định: “Nếu bị cáo không trả lời các

câu hỏi thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi

của đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan

đến vụ án”. Không thể xem đây là một quy định về quyền không buộc phải đưa ra lời

khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Về hình thức, quy định

này nằm trong thủ tục xét hỏi tại phiên tòa nên chỉ có thể xem đây là một tình huống

mà nhà làm luật đã dự liệu trước những diễn biến tại phiên tòa. Xét về nội dung, đây

cũng không thể xem là một quyền của bị cáo trong quá trình tố tụng. BLTTHS năm

2003 còn có những quy định liên quan đến quyền trình bày lời khai của người BBT.

Tùy vào từng chủ thể mà Bộ luật TTHS quy định phạm vi quyền này khác nhau:

- Người bị tạm giữ, bị can có quyền trình bày lời khai

- Bị cáo có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và trình bày ý kiến, tranh luận

tại phiên tòa

Người BBT có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến hay đưa ra tài liệu,

đồ vật yêu cầu mà không có nghĩa vụ phải trình bày lời khai. Do đó, có nhiều ý kiến

cho rằng không cần quy định thêm quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội vì người BBT hoàn toàn có quyền quyết

định việc có trình bày lời khai hay không. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy dù đã ghi nhận

quyền trình bày lời khai, ý kiến cho người BBT nhưng vẫn còn sự bất cập, thiếu rõ

ràng trong phạm vi các quy định này.

BLTTHS năm 2003 chưa có quy định nào rõ ràng về quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người BBT.

Người BBT không có căn cứ để bảo vệ quyền chính đáng của mình khi tham gia tố

tụng. Mà chính cả người THTT cũng chưa bao giờ giải thích cho người bị tạm giữ,

bị can, bị cáo về quyền không khai báo (hoặc không có nghĩa vụ khai báo) trước khi

tiến hành hỏi cung thẩm vấn với lý do Bộ luật TTHS không quy định đó là một quyền

23

tố tụng. Như vậy, việc không quy định một cơ chế rõ ràng đã làm cho quyền không

buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội

không thể hiện được vai trò bảo vệ quyền của người BBT trong quá trình TTHS.

BLTTHS năm 2015 chính thức quy định trực tiếp về quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị

buộc tội trong TTHS so với quy định của BLTTHS năm 2003. Trước đây, BLTTHS

năm 2003 chỉ ghi nhận nội hàm của quyền này thông qua một số quy định liên quan.

Theo đó, Điều 10 về nguyên tắc xác định sự thật vụ án, trách nhiệm chứng minh tội

phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, bị can, bị cáo có quyền nhưng không

buộc phải chứng minh là mình vô tội. Đồng thời, điểm c khoản 2 Điều 48 và điểm c

khoản 2 Điều 49 quy định người bị tạm giữ và bị can có quyền trình bày lời khai;

điểm g khoản 2 Điều 50 quy định bị cáo có quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại

phiên tòa. BLTTHS năm 2003 quy định việc trình bày lời khai, ý kiến là quyền của

người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, việc thực hiện hoặc không thực hiện quyền này dựa

trên sự tự nguyện về ý chí của họ. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi

là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án, không được dùng lời nhận

tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội. Như vậy, việc quy định không

rõ ràng, thống nhất về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội gây khó khăn trong việc vận

dụng, thực hiện quyền trong quá trình giải quyết VAHS, ảnh hưởng đến quyền, lợi

ích của người bị buộc tội. Do đó, BLTTHS năm 2015 đã hoàn thiện, quy định mới về

quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

mình có tội của người bị buộc tội nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và thực tiễn

của công tác điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm quyền con người trong TTHS.

1.3.1. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội được ghi nhận trực tiếp thông

qua các quy định về quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

Thứ nhất, pháp luật TTHS quy định người bị buộc tội có quyền không buộc

phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội

24

Điểm d khoản 1 Điều 58, điểm c khoản 2 Điều 59, điểm d khoản 2 Điều 60,

điểm h khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm 2015 quy định người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết

định truy nã, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền “Trình bày lời khai, trình bày

ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

mình có tội”. Người bị buộc tội có quyền trình bày lời khai, ý kiến của mình khi cơ

quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành các hoạt động tố tụng như lấy lời khai

người bị bắt, người bị tạm giữ; hỏi cung bị can, bị cáo; đối chất; yêu cầu bị can đưa

ra ý kiến, nhận xét khi nhận dạng người, ảnh hoặc vật; yêu cầu người bị bắt, bị tạm

giữ, bị can trình bày ý kiến khi nhận biết giọng nói của một người… Theo khoản 2

Điều 183 BLTTHS năm 2015, khi hỏi cung bị can, có thể cho bị can viết bản tự khai

của mình. Như vậy, BLTTHS năm 2015 ghi nhận sự chủ động, tự nguyện, quyền lựa

chọn thái độ hợp tác với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc làm rõ

tội phạm, người phạm tội của người bị buộc tội khi trình bày lời khai, ý kiến về các

tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm, những thông tin, tình tiết

của vụ án (Điều 95, 98 BLTTHS năm 2015). Theo đó, trường hợp người bị buộc tội

lựa chọn giữ thái độ im lặng, không trình bày, không khai nhận hành vi phạm tội của

mình, hoặc khai báo gian dối thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội từ chối

khai báo hoặc khai báo gian dối và cũng không bị coi hành vi này là tình tiết tăng

nặng trách nhiệm hình sự. Người bị buộc tội được thực hiện quyền này trong suốt quá

trình tố tụng từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi

tố, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS.

Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 quy định trường hợp người bị buộc tội đưa

ra lời tự “nhận tội” một cách tự nguyện, lời khai được thu thập đúng theo trình tự, thủ

tục của BLTTHS và phù hợp với chứng cứ chứng minh khác thì lời nhận tội đó được

chấp nhận, có thể được coi là chứng cứ trong VAHS (khoản 2 Điều 98 BLTTHS năm

2015). Điều luật này xác định trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng phải tôn trọng thái độ tự nguyện, loại trừ các hành vi trái pháp luật tác

25

động đến tinh thần, thân thể của người bị buộc tội trong quá trình thu thập lời khai,

lời cung của họ.

Thứ hai, pháp luật TTHS quy định quyền được thông báo về quyền và nghĩa

vụ của người bị buộc tội

Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo,

giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng (khoản

1 Điều 71 BLTTHS năm 2015). Theo điểm c khoản 1 Điều 58, điểm b khoản 2 Điều

59, điểm b khoản 2 Điều 60, điểm c khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm 2015, người bị

bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của

họ, trong đó có quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội. Khoản 2 Điều 113, khoản 3 Điều 117 BLTTHS năm

2015 quy định người thi hành lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam, quyết

định tạm giữ phải đọc lệnh, quyết định, giải thích lệnh, quyết định, quyền và nghĩa

vụ của người bị bắt, bị tạm giữ và phải lập biên bản về việc bắt, giao lệnh, quyết định

cho người bị bắt. Bên cạnh đó, Điều 3 Thông tư 46/2019/TT-BTC [8] quy định khi

tiếp nhận người bị bắt, quyết định tạm giữ cho người bị tạm giữ, quyết định khởi tố

bị can cho bị can, người thực hiện lệnh, quyết định, tiếp nhận người bị bắt phải đọc,

giải thích rõ về quyền, nghĩa vụ của họ và ghi vào biên bản giao nhận, trong đó thể

hiện về việc nhờ người bào chữa và đề nghị thông báo cho người đại diện, người thân

thích của họ. Theo khoản 2 Điều 183 BLTTHS năm 2015, trước khi tiến hành hỏi

cung lần đầu, ĐTV phải giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ của họ, và

phải ghi vào biên bản. Khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, chủ tọa phiên tòa kiểm tra lại

sự có mặt của những người có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập và kiểm tra lý lịch,

phổ biến quyền và nghĩa vụ của họ (khoản 3 Điều 301 BLTTHS năm 2015).

Thứ ba, về đảm bảo pháp lý trong trường hợp ghi âm, ghi hình có âm thanh

bắt buộc

BLTTHS năm 2015 lần đầu tiên quy định về việc bắt buộc ghi âm, ghi hình

có âm thanh trong hỏi cung bị can tại khoản 6 Điều 183 ngăn ngừa vi phạm pháp luật,

xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bảo đảm lời khai của bị can được thu

26

thập đúng đắn theo pháp luật. Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở

CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được

ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi

âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có

thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đồng thời, khoản 2 Điều 7 Thông tư liên tịch số

01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNNPTNT-VKSNDTC [9] quy định CQĐT, Viện

kiểm sát, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khi nhận

được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố do cá nhân trực tiếp đến tố giác

về tội phạm hoặc đại diện cơ quan, tổ chức trực tiếp đến báo tin về tội phạm thì lập

biên bản tiếp nhận, ghi vào sổ tiếp nhận, có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh

việc tiếp nhận.

Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện, sử dụng kết

quả ghi âm, ghi hình có âm thanh trong quá trình giải quyết VAHS, Thông tư liên

tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC TANDTC-BQP [11] được ban hành. Theo

đó, ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh là việc sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật

để ghi lại âm thanh hoặc hình ảnh có âm thanh trong quá trình hỏi cung bị can; lấy

lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội, người làm

chứng, người bị hại, đương sự; đối chất; tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố [11, khoản 1 Điều 2].

VKSND đã ban hành Quyết định số 264/QĐ-VKSTC [51] nhằm thực hiện

thống nhất công tác kiểm sát ghi âm, ghi hình có âm thanh và áp dụng đúng đắn các

trường hợp trực tiếp ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh khi hỏi cung bị can, lấy lời

khai trong khởi tố, điều tra, truy tố VAHS. Theo đó, các trường hợp có thể ghi âm

hoặc ghi hình có âm thanh: (1) Hỏi cung bị can tại địa điểm khác theo yêu cầu của bị

can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; (2) Trực tiếp tiếp nhận

tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức, cá nhân; (3) Lấy

lời khai của người làm chứng, người bị hại, đương sự; (4) Tiến hành đối chất. Như

vậy, việc tiến hành và kiểm sát thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh được

pháp luật TTHS quy định đầy đủ, chặt chẽ nhằm tạo tiền đề quan trọng để bảo vệ

27

quyền của bị can, bảo đảm việc thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội không bị tác động trái pháp

luật làm ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động hỏi cung, lấy lời khai. Từ đó, việc ghi

âm hoặc ghi hình có âm thanh được tiến hành khách quan, minh bạch, bảo đảm tính

nguyên vẹn, chính xác và giá trị chứng minh của lời khai, lời trình bày.

Thứ tư, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội được bảo đảm dựa trên một số

nguyên tắc của luật TTHS

(1) Nguyên tắc suy đoán vô tội

Theo Điều 13 BLTTHS năm 2015, người bị buộc tội được coi là không có tội

cho đến khi được chứng minh theo đúng các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định

và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Điều này có nghĩa, người bị

buộc tội phải được coi là vô tội cho đến khi hành vi và lỗi của người đó được chứng

minh theo quy định của BLTTHS và có phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Mọi nghi ngờ về lỗi đều được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội và

phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ [3, tr.15].

Theo Điều 7 BLTTHS năm 2015, mọi hoạt động TTHS phải được thực hiện

theo quy định của BLTTHS, không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố,

điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy

định. Chứng cứ không được thu thập đúng theo trình tự, thủ tục thì không có giá trị

pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết VAHS (Khoản 2 Điều 87

BLTTHS năm 2015). Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại

khi có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố (Điều

358 BLTTHS năm 2015). Như vậy, việc giải quyết VAHS được công khai, minh

bạch, đảm bảo quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội của người bị buộc tội, hạn chế những trường hợp người bị buộc

tội bị tác động, dẫn dắt để đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc nhận mình có

tội trái pháp luật. Hành vi khai báo, nhận tội của người bị buộc tội được khuyến khích

nhưng không phải là nghĩa vụ bắt buộc trong quá trình chứng minh tội phạm.

28

(2) Nguyên tắc xác định sự thật vụ án

Theo Điều 15 BLTTHS năm 2015, chứng minh tội phạm là trách nhiệm của

cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của

mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp hợp pháp do

BLTTHS quy định để xác định sự thật của vụ án, phải kiểm tra, đánh giá chứng cứ

đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ hợp pháp, không nhận xét, kết luận định

kiến, chủ quan, tùy nghi về người bị buộc tội. Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành

tố tụng phải thu thập, đánh giá các chứng cứ về vụ án đúng với các tình tiết trên thực

tế đã diễn ra bao gồm toàn bộ các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, những tình

tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.

Đồng thời, người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là

mình vô tội. Như vậy, người bị buộc tội không có nghĩa vụ, không bị bắt buộc phải

chứng minh sự vô tội của mình. Nguyên tắc xác định sự thật vụ án đòi hỏi trách nhiệm

của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tôn trọng sự thật vụ án, làm sáng tỏ các

tình tiết liên quan đến vụ án, bảo đảm việc thực thi quyền không buộc phải đưa ra lời

khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội.

(3) Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội

Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trước sự buộc tội của cơ quan

có thẩm quyền tiến hành tố tụng là một trong những nguyên tắc được cụ thể hóa từ

khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013. Theo Điều 16 BLTTHS năm 2015, nguyên

tắc này được thể hiện ở việc người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc

người khác bào chữa.

Quyền bào chữa của người bị buộc tội từ khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt,

tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ

sở của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc

từ khi có quyết định tạm giữ. Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm

phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để

người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra (điểm g khoản 1 Điều 58,

điểm d khoản 2 Điều 59, Điều 74 BLTTHS năm 2015).

29

Bảo đảm quyền bào chữa được thể hiện rõ nét ở việc người bị buộc tội được

trình bày lời khai, ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến

về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm

tra, đánh giá; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng liên quan đến việc buộc tội mình. Bị cáo có quyền đề nghị chủ tọa

phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý;

tranh luận tại phiên tòa; nói lời sau cùng trước khi nghị án; xem biên bản phiên tòa,

yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa; kháng cáo bản án, quyết

định của Tòa án (Điều 309, 322, 324, 331 BLTTHS năm 2015). Người bị buộc tội có

quyền tự bào chữa theo hướng có lợi hơn cho mình như bào chữa mình vô tội hoặc

phạm tội nhẹ hơn, chỉ phải chịu hình phạt nhẹ hơn, được hưởng án treo, miễn trách

nhiệm hình sự, miễn hình phạt, chịu mức bồi thường thiệt hại ít hơn… so với sự buộc

tội của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; theo đó, người bị buộc tội đang thực

hiện chủ động, hiệu quả quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội.

(4) Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm

Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm là một trong những nguyên tắc đổi mới

tư duy lập pháp nhằm bảo đảm sự công bằng, dân chủ, nâng cao chất lượng xét xử.

Tranh tụng là sự tranh luận, đối đáp theo thủ tục tố tụng để xác định sự thật [42,

tr.72]. Điều 26 BLTTHS năm 2015 quy định người bị buộc tội, người bào chữa có

quyền đưa ra chứng cứ, yêu cầu và đánh giá chứng cứ một cách bình đẳng với ĐTV,

KSV, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết VAHS

nhằm góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án. Theo đó, điểm đ, e khoản 1

Điều 58; điểm đ, e khoản 2 Điều 59; điểm d, e khoản 2 Điều 60; điểm d, e khoản 2

Điều 61; điểm h khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 đã bổ sung việc người bị buộc

tội có quyền đưa ra chứng cứ, trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan

và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; người bào chữa

có quyền thu thập, đưa ra chứng cứ. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho KSV,

30

bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền,

nghĩa vụ và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.

Thứ năm, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội được bảo đảm thông qua việc thực

hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm

sát trong TTHS

- Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn

tin về tội phạm. KSV kiểm sát quá trình kiểm tra, xác minh, hoạt động lấy lời khai

ban đầu bằng kiểm sát hồ sơ, biên bản lấy lời khai. Qua đó, KSV kiểm tra về tính tự

nguyện trong lời khai, lời trình bày của người bị buộc tội; việc bảo đảm quyền không

buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.

- Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp

ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Theo Điều 15, 16, 17, 23 Quyết định 111/QĐ-

VKSTC [50], KSV kiểm sát chặt chẽ thẩm quyền, căn cứ, thời hạn, trình tự giữ người

trong trường hợp khẩn cấp; tạm giữ, gia hạn tạm giữ; bắt bị can, bị cáo để tạm giam;

tạm giam, gia hạn tạm giam; áp giải, dẫn giải. KSV kiểm sát việc thông báo, giải thích

về quyền, nghĩa vụ của người bị buộc tội, quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.

- Kiểm sát hoạt động tư pháp để bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người

bị buộc tội. Theo khoản 2 Điều 11 Quyết định 111/QĐ-VKSTC, trong việc kiểm sát

để bảo đảm quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội của người bị buộc tội, KSV kiểm sát việc chuyển đơn yêu cầu

người bào chữa; thông báo về đơn yêu cầu nhờ người bào chữa; bảo đảm quyền từ

chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa; việc chỉ định người bào chữa. Trong giai

đoạn truy tố, KSV tiếp nhận, xử lý đơn yêu cầu bào chữa; đề xuất lãnh đạo tiến hành

các thủ tục chỉ định người bào chữa cho bị can; bố trí thời gian, địa điểm và kiểm sát

chặt chẽ bị can, người bào chữa thực hiện yêu cầu theo Điều 82 BLTTHS năm 2015.

- Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra VAHS

31

Một là, kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can. Điều 183 BLTTHS năm 2015 quy

định KSV tham gia hỏi cung bị can khi xét thấy cần thiết. KSV kiểm sát hỏi cung bị

can, xem xét cách đặt câu hỏi của ĐTV, câu trả lời của bị can. KSV kiểm tra việc phổ

biến quyền, nghĩa vụ bị can, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính

mình hoặc buộc phải nhận mình có tội trước khi hỏi cung lần đầu. Theo khoản 4 Điều

50 Quyết định 111/QĐ-VKSTC, KSV trực tiếp hỏi cung bị can khi bị can kêu oan,

khiếu nại hoạt động điều tra; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực trong lời khai

của bị can… Qua đó, KSV kiểm tra tính hợp pháp của các hoạt động điều tra, xem

xét ĐTV có sử dụng các biện pháp trái luật để yêu cầu bị can khai báo hay không.

Hai là, kiểm sát đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói. Theo Điều 52, 53

Quyết định số 111/QĐ-VKSTC, KSV phải có mặt để kiểm sát việc đối chất, nhận

dạng, nhận biết giọng nói, nếu vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản. KSV kiểm sát căn

cứ, trình tự, thành phần tham gia. Trong đó, kiểm tra việc đưa ra các câu hỏi của

ĐTV, theo dõi việc thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính

mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của bị can và những người tham gia đối chất.

- Trong giai đoạn truy tố, căn cứ khoản 3 Điều 236 BLTTHS năm 2015, Viện

kiểm sát thực hiện một số hoạt động điều tra (hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất…)

nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án

yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ cho CQĐT. KVS

tập trung làm rõ việc bảo đảm quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính

mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Đồng thời, VKSND bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của người tham gia tố tụng khi ban hành bản cáo trạng đúng đắn.

- Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử VAHS

Một là, tham gia xét hỏi. Theo khoản 4 Điều 24 Quyết định 505/QĐ-VKSTC

[49] khi KSV xét hỏi bị cáo cần đặt câu hỏi khách quan, rõ ràng, tránh kết luận ngay

để đảm bảo quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội của bị cáo.

Hai là, luận tội, tranh luận. Theo Điều 321 BLTTHS năm 2015, luận tội của

KSV căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa, ý

32

kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại,

đương sự, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Theo khoản 1 Điều 24 Quy chế

505/QĐ-VKSTC, KSV bắt buộc phải tranh luận. KSV chú ý lắng nghe bị cáo, người

bào chữa trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận, khi đó bị cáo có quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội. KSV đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật và lập luận để đối đáp đến cùng đối với

từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác.

Ba là, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử vụ án của Tòa án tại phiên

tòa. Trong đó, KSV chú ý kiểm sát về quyết định hoãn phiên tòa khi bị cáo yêu cầu

để bảo đảm việc bào chữa, không để xảy ra trường hợp chủ tọa phiên tòa xét hỏi qua

loa sau đó yêu cầu KSV hỏi.

Bốn là, quyết định kháng nghị. VKSND quyết định kháng nghị phúc thẩm khi

có các căn cứ theo khoản 1 Điều 37 Quy chế 505/QĐ-VKSTC; quyết định kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm khi có căn cứ theo Điều 371 BLTTHS năm 2015. Qua

đó, góp phần bảo đảm việc ban hành bản án, quyết định của Tòa án khách quan, dân

chủ, kịp thời xử lý hành vi xâm phạm quyền của người bị buộc tội, quyền không buộc

phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.

1.3.2. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội được thể hiện rõ trong hoạt động

lấy lời khai, hỏi cung trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố,

điều tra, truy tố, trong thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa xét xử

Thứ nhất, trong lấy lời khai, hỏi cung trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về

tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố:

Điều 95 BLTTHS năm 2015 quy định người bị bắt, người bị tạm giữ trình bày

những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm. Cơ quan, người có

thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích về quyền và nghĩa

vụ của người bị bắt, bị tạm giữ, trong đó có quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội cho người bị bắt, người bị tạm

giữ (khoản 2 Điều 113, khoản 3 Điều 117 BLTTHS năm 2015). Hiểu rõ nội dung của

33

quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

mình có tội, người bị bắt, người bị tạm giữ có quyền trình bày hoặc không trình bày

các câu hỏi từ phía cơ quan, người tiến hành tố tụng, hay có thể trình bày những tình

tiết, sự kiện có lợi cho chính mình, làm giảm trách nhiệm hình sự.

Khi tiến hành hỏi cung lần đầu, ĐTV có nghĩa vụ thông báo, giải thích quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội của bị can (Điều 183 BLTTHS năm 2015). Cũng tương tự như người bị bắt, người

bị tạm giữ, trong quá trình hỏi cung, nếu bị can nhận thấy việc trả lời câu hỏi của

ĐTV là bất lợi cho chính bị can thì bị can có quyền từ chối trả lời hoặc chỉ trả lời

những thông tin, tình tiết liên quan khác của vụ án. ĐTV không được phép bức cung,

nhục hình, ép buộc bị can phải trả lời những câu hỏi mà mình đưa ra. Bị can có quyền

nhận tội hoặc không nhận tội, thành khẩn khai báo để hưởng các tình tiết gảm nhẹ

trách nhiệm hình sự. Việc nhận tội của bị can không được dùng làm chứng cứ duy

nhất để buộc tội, kết tội bị can, đồng thời, lời nhận tội của bị can chỉ có thể được coi

là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án (Điều 98 BLTTHS).

Thứ hai, trong xét hỏi tại phiên tòa:

Theo khoản 2, khoản 3 Điều 309 BLTTHS năm 2015, bị cáo trình bày ý kiến

về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án. Hội đồng xét xử hỏi thêm về những

điểm mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Nếu bị cáo không trả lời

các câu hỏi thì hội đồng xét xử, KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của bị hại, đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng,

tài liệu có liên quan đến vụ án. Như vậy, bị cáo thực hiện quyền không buộc phải đưa

ra lời khai không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

mình có tội thông qua việc có quyền không trả lời các câu hỏi tại phiên tòa xét xử.

Đồng thời, bị cáo có quyền chủ động khai báo, giữ nguyên lời khai trong gia đoạn

điều tra, truy tố mà không phải trình bày thêm các nội dung khác, được bày tỏ quan

điểm không đồng ý về tội danh mà VKSND đề nghị truy tố. Hơn nữa, bị cáo được

đặt câu hỏi với các bị cáo khác về những nội dung có liên quan đến bị cáo khi được

chủ tọa phiên tòa đồng ý.

34

Thứ ba, khi tranh luận tại phiên tòa:

Theo khoản 1 khoản 2 Điều 322 BLTTHS năm 2015, bị cáo, người bào chữa,

người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và

lập luận của mình để đối đáp với KSV về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ

xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu

quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những

tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân

sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những

tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Như vậy, bị cáo, người bào chữa có quyền đưa

ra chứng cứ, tài liệu có lợi để bảo vệ quyền, lợi ích của mình, thể hiện quyền không

buộc phải đưa ra lời khai không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội.

Đồng thời, bị cáo có quyền đề nghị người bào chữa thực hiện việc tranh tụng

tại phiên tòa hoặc bị cáo tự bào chữa, không buộc nhận mình có tội. Theo đó, bị cáo

trình bày lời bào chữa; người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo; bị cáo,

người đại diện của bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa (khoản 2 Điều 320

BLTTHS năm 2015). Đây là một quyền quan trọng để bị cáo bảo đảm thực hiện quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội. Theo đó, bị cáo nhờ người bào chữa hoặc tự bào chữa thì họ đang sử dụng quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội một cách hiệu quả, chủ động khi tranh luận tại phiên tòa. Người bào chữa trợ giúp

bị cáo về pháp lý nhằm bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi đưa ra các

chứng cứ, lập luận bào chữa cho bị cáo, đối đáp với quan điểm luận tội của VKSND.

Như vậy, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của bị cáo được thực hiện thông việc chủ động khai báo, đưa ra

chứng cứ gỡ tội, đề nghị người bào chữa tranh tụng tại phiên tòa hoặc tự mình bào

chữa không buộc nhận mình có tội.

35

1.3.3. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội được thể hiện rõ trong việc bị

can, bị cáo khiếu nại vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng, kháng cáo quyết

định, bản án của Tòa án

Điều 32, khoản 1 Điều 469 BLTTHS năm 2015, khoản 1 Điều 3 Thông tư liên

tịch số 02/2018/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT quy định việc

phối hợp thi hành một số quy định của BLTTHS về khiếu nại, tố cáo thì cá nhân, tổ

chức có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm

phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Nếu quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội bị xâm

hại, không được cơ quan, người tiến hành tố tụng bảo đảm thì người bị buộc tội thực

hiện khiếu nại đến cơ quan, người có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết. Khi tiếp nhận

khiếu nại của người bị buộc tội, cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có

trách nhiệm theo dõi, giải quyết kịp thời, đúng quy định của pháp luật và gửi quyết

định giải quyết khiếu nại hoặc quyết định đình chỉ việc giải quyết khiếu nại cho người

bị buộc tội, người bị khiếu nại. Theo điểm p khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số

02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP quy định việc phối hợp giữa các cơ

quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để

điều tra bổ sung, nếu khiếu nại của người bị buộc tội không được giải quyết đúng theo

quy định của pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người bị

buộc tội thì Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Đồng thời, khoản 1, 2 Điều 331 BLTTHS năm 2015 quy định bị cáo, người

đại diện của bị cáo có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm; người bào

chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược

điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa. Trường hợp cho rằng quyền, lợi

ích, trong đó có quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội chưa được bảo đảm thì bị cáo, người đại diện của bị cáo,

người bào chữa của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể

chất thực hiện kháng cáo trong thời hạn theo Điều 333, 335 BLTTHS năm 2015.

36

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Bảo đảm quyền con người là nhiệm vụ quan trọng, lâu dài của mỗi quốc gia

và cộng đồng quốc tế. Với bản chất là một quyền con người, quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị

buộc tội được đánh giá là một quyền thiết yếu trong pháp luật TTHS và được ghi

nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế cũng như pháp luật của nhiều quốc gia.

Thông qua việc nghiên cứu có thể thấy, việc đảm bảo quyền không buộc phải đưa ra

lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội

là xu hướng tất yếu, phù hợp phát triển của xã hội. Hơn nữa, quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội cũng là một

công cụ quan trọng trong việc bảo vệ vững chắc quyền con người, quyền này phải

được tôn trọng và nghiên cứu tiếp thu một cách toàn diện.

Pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật TTHS nói riêng đều đã có những

quy định về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội của người bị buộc tội, tuy nhiên còn nhiều điểm chưa thật sự

phù hợp. Vì thế, trong phạm vi công trình nghiên cứu này, tác giả đã nghiên cứu một

cách khái quát quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trên thế giới. Đồng thời, đánh giá những

quy định pháp luật TTHS Việt Nam để đưa ra những kiến nghị, đề xuất cho việc ghi

nhận quyền này vào hệ thống pháp luật nước ta được hoàn chỉnh hơn. Để đảm bảo

khả năng thực thi quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội vào đời sống xã hội, tác giả đề xuất

một số giải pháp mang tính định hướng nhằm bảo đảm quyền này.

37

Chương 2

THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN KHÔNG BUỘC PHẢI ĐƯA RA LỜI KHAI

CHỐNG LẠI CHÍNH MÌNH HOẶC BUỘC PHẢI NHẬN MÌNH CÓ TỘI

2.1. Thực tiễn thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của các cơ quan tiến hành tố tụng

2.1.1. Kết quả thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của các cơ quan tiến hành tố tụng Qua kết quả khảo sát bằng phương pháp điều tra xã hội học, có thể thấy, cơ

quan, người tiến hành tố tụng (ĐTV, Cán bộ điều tra, KSV, Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân, Thư ký Tòa án) đã loại bỏ định kiến, nhận thức chủ quan, duy ý chí, tiêu

cực đối với người bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án. Theo đó, những người

tiến hành tố tụng đều khuyến khích người bị buộc tội thành khẩn khai báo về nội

dung, tình tiết của vụ án, tích cực hợp tác điều tra, làm rõ tội phạm. Đồng thời ĐTV,

Cán bộ điều tra, KSV, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án cho rằng việc

thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của người bị buộc tội gây những khó khăn nhất định trong việc giải

quyết vụ án (Phụ lục I bảng 4, chiếm 62.5%); không xem lời khai, lời nhận tội của

người bị buộc tội là chứng cứ duy nhất để buộc tội mà đánh giá, xem xét toàn bộ, đầy

đủ mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết năng nặng trách

nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và những vấn đề khách liên

quan. Khi tiến hành các hoạt động tố tụng như lấy lời khai người bị bắt, bị tạm giữ,

hỏi cung bị can, bị cáo, xét hỏi tại phiên tòa, ĐTV, KSV, Thẩm phán, Hội thẩm nhân

dân đều tạo điều kiện để người bị buộc tội thực hiện quyền không buộc phải đưa ra

lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Khi người bị buộc tội

từ chối trả lời câu hỏi, yêu cầu trình bày ý kiến thì những người tiến hành tố tụng đều

tôn trọng và chuyển sang câu hỏi khác về vụ án (Phụ lục I bảng 3, chiếm 81%). Việc

tranh tụng tại phiên tòa được chú trọng theo hướng thực chất, hiệu quả. Các chủ tọa

phiên tòa không hạn chế thời gian dành cho tranh tụng, tôn trọng và đảm bảo cho các

bên tham gia tố tụng đưa ra chứng cứ và trình bày hết tất cả ý kiến của mình.

38

Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của người bị buộc tội được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành

tố tụng đảm bảo thực hiện. Trong giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra,

truy tố, CQĐT, Viện kiểm sát đã tạo điều kiện để người bào chữa được trao đổi, gặp

gỡ người bị buộc tội, thu thập tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án. Qua đó, giúp

người buộc tội biết, thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình cũng như quyền không buộc

phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. 100%

người tiến hành tố tụng được khảo sát thực hiện giải thích, thông báo và phổ biến về

quyền này cho người bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án (Phụ lục I bảng 1).

Trước khi tiến hành lấy lời khai, hỏi cung, đa số ĐTV nêu cao tinh thần trách

nhiệm, bảo đảm tuân thủ đúng các quy định của BLTTHS năm 2015. KSV đã thực

hiện hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố, kiểm sát khởi tố,

điều tra VAHS nhằm bảo đảm các quyết định, hành vi tố tụng của CQĐT đúng đắn,

không xâm phạm đến quyền, lợi ích của người tham gia tố tụng cũng như quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội của người bị buộc tội. KSV thực hiện tốt công tác kiểm sát hoạt động lấy lời khai,

hỏi cung bị can thông qua kiểm sát trực tiếp hoặc thông qua nghiên cứu hồ sơ vụ án.

Đồng thời, KSV đã thực hiện tốt vai trò khi thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử

tại phiên tòa. Theo đó, KSV đã bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội, đặc biệt trong

thủ tục xét hỏi, tranh luận. Bị cáo được tự do ý chí trong việc trình bày lời khai, đưa

ra chứng cứ nhằm phục vụ cho việc gỡ tội của chính mình; bị cáo có quyền trả lời

hoặc giữ im lặng trước các câu hỏi của Hội đồng xét xử, KSV. Thẩm phán chủ tọa

phiên tòa bảo đảm sự khách quan, chú trọng thực hiện hiệu quả công tác xét xử,

hướng dẫn bị cáo thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình như: quyền đưa ra các

chứng cứ, tài liệu, đồ vật; trình bày lời khai, trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu,

đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh

giá; đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa… Đặc

biệt, trong bảo đảm thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

39

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của bị cáo, Thẩm phán tạo điều kiện,

không giới hạn thời gian để bị cáo, người bào chữa của bị cáo thực hiện việc tranh

luận, ghi nhận và tôn trọng những ý kiến, lời trình bày, đối đáp của bị cáo.

Điển hình, vụ án Lưu Toàn Thắng phạm Tội mua bán trái phép chất ma túy tại

thị trấn Cái Rồng, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh: Từ tháng 4/2020 đến tháng

5/2020, Thắng đã bốn lần chỉ đạo Lâm Văn Thời giao ma túy loại Ketamine, MDMA

cho Trần Văn Trường. Khi ĐTV tiến hành lấy lời khai, Thắng không thừa nhận hành

vi mua bán chất ma túy của mình, phủ nhận bản thân không chỉ đạo Thời mang ma

túy đi giao cho Trường. Đồng thời, khi ĐTV hỏi về mối quan hệ của Thắng với Trần

Văn Trường thì Thắng không trả lời. Theo điểm d khoản 2 Điều 60 BLTTHS năm

2015, Thắng có quyền từ chối trả lời những câu hỏi gây bất lợi cho mình, không buộc

phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội và được

CQĐT đã bảo đảm thực hiện quyền này. Do đó, tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, KSV

tích cực tham gia xét hỏi, phân tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án,

làm rõ hành vi phạm tội để đấu tranh với bị cáo cũng như giáo dục để bị cáo nhận

thức rõ được tính nguy hiểm của tội phạm, tác hại của ma túy khiến Thắng đã phải

cúi đầu nhận tội. [53]

2.1.2. Kết quả sử dụng quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội

Trong các giai đoạn giải quyết VAHS, người bị buộc tội đã sử dụng quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội trong hoạt động lấy lời khai, hỏi cung của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến

hành tố tụng như là một công cụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

mình. Trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, một

bộ phận người bị buộc tội đã vận dụng quyền này rất tốt trong lấy lời khai, hỏi cung.

Theo đó, người bị buộc tội trình bày những tình tiết, tài liệu, thông tin về vụ án, những

lời trình bày này nhằm cung cấp các tình tiết liên quan đến hành vi của các chủ thể

khác, những thông tin xung quanh vụ án. Trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung, những

câu hỏi, yêu cầu mà người bị buộc tội cho rằng sẽ gây nên sự bất lợi cho chính bản

40

thân mình thì họ từ chối trình bày, cố tình lẫn tránh bằng cách trả lời những vấn đề

khác, trả lời không đúng sự thật nhằm làm giảm trách nhiệm hình sự mà họ có thể bị

áp dụng. Đồng thời, dưới sự giúp đỡ, tư vấn của người bào chữa, người bị buộc tội

hiểu rõ các quy định của pháp luật TTHS về quyền, nghĩa vụ của mình, trong đó có

quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

mình có tội; nhận biết được các tình tiết, chứng cứ có lợi, bất lợi đối với mình. Từ

đây, khi cơ quan, người tiến hành tố tụng yêu cầu người bị buộc tội trình bày lời khai,

hỏi cung, lấy lời khai, người bị buộc tội có thể đưa ra lựa chọn trả lời hoặc không trả

lời, im lặng trước các câu hỏi, yêu cầu gây hậu quả pháp lý bất lợi hoặc lựa chọn trình

bày các tình tiết, sự kiện có lợi cho việc gỡ tội của mình. Sự tham gia của người bào

chữa trong VAHS có thể sớm phát hiện các vi phạm của cơ quan, người tiến hành tố

tụng trong bảo đảm quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội. Mặc khác, đây cũng chính là điều

kiện cần và đủ để người bào chữa phát huy tối đa việc gỡ tội cho người bị buộc tội,

tạo được sự bình đẳng, khách quan giữa bên buộc tội và bên gỡ tội.

Tuy nhiên, qua khảo sát, tỷ lệ người bị buộc tội biết, sử dụng về quyền không

buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội là

không cao trong quá trình giải quyết VAHS (Phụ lục II bảng 1 - chiếm tỷ lệ 17.5%),

người bị buộc tội giữ thái độ im lặng, từ chối khai báo chủ yếu nhằm che dấu hành vi

phạm tội. Phần lớn người bị buộc tội vẫn lầm tưởng rằng họ buộc phải trình bày, khai

báo với cơ quan, người tiến hành tố tụng tất cả những gì biết về vụ án, về hành vi mà

họ đã thực hiện trên thực tế. Bên cạnh đó, một số ít người bị buộc tội cho rằng nếu

không khai báo thì tính chất, mức độ hành vi của họ sẽ nghiêm trọng hơn, bị áp dụng

một mức hình phạt nặng hơn. Qua nghiên cứu, lý do khiến người bị buộc tội khai báo

hoặc nhận tội là do họ bị thuyết phục bởi những chứng cứ mà CQĐT, Viện kiểm sát,

Tòa án đã thu thập (chiếm 17%) hoặc người bị buộc tội ăn năn hối cải, chủ động đầu

thú, tự thú, thành khẩn khai báo hoặc để được hưởng khoan hồng của pháp luật, giảm

nhẹ trách nhiệm hình sự. Trong giai đoạn xét xử, người bị buộc tội thực hiện quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

41

tội một cách triệt để nhất thông qua việc im lặng, không thừa nhận, phủ nhận đã thực

hiện hành vi phạm tội (Phụ lục II bảng 3). Việc bị cáo im lặng không được xem là

tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, càng không thể quy kết cho bị cáo đã thực

hiện hành vi phạm tội. Khi bị xét hỏi, bị cáo từ chối trả lời câu hỏi của cơ quan, người

tiến hành tố tụng khi nhận thấy việc trả lời tạo nên khó khăn cho việc gỡ tội của mình,

mặc khác bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Khi tranh luận,

bị cáo chủ động, tự tin đưa ra các quan điểm, ý kiến cá nhân, các tài liệu, chứng cứ

và lập luận của mình để đối đáp với KSV về những chứng cứ xác định có tội, chững

cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu

quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những

tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự… Đồng thời, bị cáo cũng đưa ra đề

nghị của mình, đáp lại ý kiến của người tham gia tố tụng khác.

Điển hình, vụ án Trương Hồ Phương Nga và Nguyễn Đức Thùy Dung bị truy

tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định của Điều 174 BLHS năm 2015

xảy ra tại thành phố Hồ Chí Minh [20].

Bị cáo đã vận dụng nguyên tắc xác định sự thật của vụ án tại Điều 15 BLTTHS

năm 2015, thể hiện rõ việc không có nghĩa vụ phải chứng minh mình vô tội, trách

nhiệm chứng minh bà Nga phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc về cơ quan,

người tiến hành tố tụng. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội được bị cáo Nga thực hiện xuyên suốt quá trình xét

xử, đã bảo vệ tối đa quyền, lợi ích chính đáng của bà Nga, bảo đảm vụ án được xét

xử công bằng, dân chủ.

Ngoài ra, thực hiện việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, phần lớn bị

cáo, người đại diện, người bào chữa đã vận dụng và thực hiện hiệu quả quyền kháng

cáo sau khi kết thúc phiên tòa. Trên thực tế, bị cáo, người bào chữa không đồng tình

với bản án, quyết định của Tòa án, thực hiện kháng cáo nhằm xin giảm hình phạt

chính, hình phạt bổ sung, đề nghị thay đổi tội danh theo hướng nhẹ hơn điểm, khoản,

điều mà Hội đồng xét xử áp dụng, xin được hưởng án treo, đề nghị minh oan vì không

phạm tội… Khi đó, bị cáo đã sử dụng quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống

42

lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Việc bị cáo thực hiện quyền kháng

cáo đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét toàn diện, kỹ càng tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ

vụ án để ra quyết định chấp nhận hay bác kháng cáo, bảo vệ quy ền, lợi ích hợp

pháp của bị cáo, trong đó có quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính

mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.

2.2. Những tồn tại, thiếu sót trong việc thực hiện quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người

bị buộc tội

Thực tiễn thi hành quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong pháp luật TTHS Việt

Nam hiện hành vẫn còn một số tồn tại, thiếu sót như sau:

2.2.1. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội theo quy định của pháp luật

chưa được người tiến hành tố tụng thực hiện một cách hiệu quả, thống nhất.

Trong một số vụ án, khi tiến hành lấy lời khai, hỏi cung người bị buộc tội

ĐTV, cán bộ điều tra, KSV, Thẩm phán chưa phát huy được vai trò tích cực trong

bảo đảm thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội.

Một số ĐTV, cán bộ điều tra, lực lượng Công an xã khi lấy lời khai người bị

buộc tội thường không chú tâm đến trình tự, thủ tục lấy lời khai ban đầu. Công an xã

khi kiểm tra, xác minh sơ bộ, lấy lời khai ban đầu đa phần yêu cầu người bị buộc

tội tự viết lời khai mà không thực hiện việc giải thích, thông báo về quyền không

buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội cho

người bị buộc tội. Trong một số trường hợp, khi bắt đầu lấy lời khai, hỏi cung, người

tiến hành tố tụng trực tiếp đi thẳng vào đặt câu hỏi để người bị buộc tội trả lời, thực

hiện một cách hình thức, nhanh chóng, không có sự trau chuốt, kỹ càng việc phổ biến

quyền, nghĩa vụ cho người bị buộc tội để người bị buộc tội hiểu rõ bản chất, nội hàm

của quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

mình có tội. Điều này đã làm người bị buộc tội không biết bản thân mình có quyền

43

gì, nghĩa vụ như thế nào, trước những vấn đề mà người tiến hành tố tụng đặt ra, mình

có quyền từ chối trả lời hay không. Từ đây, dẫn đến nhận thức sai lầm trong tư duy

của người bị buộc tội là họ có nghĩa vụ phải trình bày lời khai, trả lời tất cả các câu

hỏi của người tiến hành tố tụng, bao gồm cả việc đưa ra các tài liệu chứng cứ, lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Ngoài ra, một số ĐTV yêu

cầu người bị buộc tội trình bày tất cả những tình tiết, sự kiện của vụ án, bao gồm cả

chứng cứ buộc tội, gỡ tội cho chính mình, do đó quyền không buộc phải đưa ra lời

khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của bị can không được

cơ quan, người tiến hành tố tụng đảm bảo.

CQĐT thực hiện bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, gia hạn

tạm giữ đối với những người bị nghi thực hiện tội phạm khi chưa đủ căn cứ, thực hiện

không đúng trình tự, thủ tục theo BLTTHS năm 2015. Trong đó, ĐTV giải thích

quyền và nghĩa vụ của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can một cách qua loa và chỉ ghi

vào biên bản giao nhận cho đúng quy định, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền

con người của người bị buộc tội. Nhiều vụ án mà ĐTV lạm dụng lệnh bắt người bị

giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định tạm giữ nhưng không có đủ căn cứ, chứng

cứ, tài liệu để khởi tố bị can mặc dù đã áp dụng các biện pháp luật định dẫn đến xâm

phạm nghiêm trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người bị bắt, bị tạm giữ. Do vậy, khi

VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, truy tố VAHS vào năm 2022 đã:

không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp (105 trường hợp); phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp

sau đó trả tự do vì không xử lý hình sự (16 trường hợp); hủy quyết định tạm giữ

(420 trường hợp); không phê chuẩn gia hạn tạm giữ (84 người) [48]. Ngoài ra, việc

ghi âm, ghi hình có âm thanh khi xác minh, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khi lấy

lời khai ban đầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để bảo đảm quyền, lợi

ích hợp pháp của người bị bắt, bị tạm giữ chưa được thực hiện tốt.

Một số trường hợp ĐTV bức cung, dùng nhục hình trong lấy lời khai, hỏi cung

khi người bị buộc tội không khai báo. Biểu hiện cụ thể là những hành vi đánh đập,

hành hạ, đe đọa người bị buộc tội phải nhận tội, phải trình bày lời khai theo ý chí của

họ… Hành vi này không những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng mà còn xâm

44

phạm quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của người bị buộc tội. Điển hình, vụ án về Tội dùng nhục hình theo

Điều 373 BLHS năm 2015 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang - Tháp

Chàm. Theo đó, tại phòng hỏi cung số 2, do bực tức việc Võ Tấn M có thái độ không

hợp tác làm việc và có lời lẽ xúc phạm cán bộ nên Ngô Văn S, Trần Đức L, Nguyễn

Phạm Việt H, Hồ Bá Đ và Vũ Trọng Tr là cán bộ Đội cảnh sát thi hành án hình sự và

hỗ trợ tư pháp Công an thành phố Phan Rang đã có các hành vi dùng vũ lực đối với

Võ Tấn M gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là Võ Tấn M chết [phụ lục III].

Một số ĐTV, cán bộ điều tra cho rằng quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội sẽ gây

ra những cản trở, khó khăn nhất định cho quá trình thực hiện nhiệm vụ của họ; mặc

khác, việc ghi nhận quyền này tạo điều kiện cho người bị buộc tội khai báo quanh co,

chối tội. Trong một số trường hợp, CQĐT thu thập, đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ

nhưng do bị can khai nhận hành vi đã thực hiện dẫn đến ban hành các quyết định

không đúng, theo hướng bất lợi cho bị can. Theo đó, Viện kiểm sát yêu cầu CQĐT

hủy bỏ quyết định khởi tố trong 24 vụ án (năm 2021), trong 11 vụ án (năm 2022);

VKS hủy bỏ quyết định khởi tố trong 66 vụ án (2021), trong 48 vụ án (năm 2022)

[48]. Một số trường hợp cơ quan, người tiến hành tố tụng không đảm bảo quyền bào

chữa cho người bị buộc tội, gây khó khăn khi người bị buộc tội yêu cầu được gặp

người bào chữa; không thông báo cho người bào chữa khi tiến hành lấy lời khai, hỏi

cung người bị buộc tội; hạn chế người bào chữa tham gia tranh luận, tham gia hỏi tại

phiên tòa…

Bên cạnh đó, vai trò của người bào chữa trong việc trợ giúp pháp lý cho người

bị buộc tội còn mờ nhạt, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Người bào chữa cho người

bị buộc tội có vai trò quan trọng trong trợ giúp thực hiện các quyền của người bị buộc

tội, bảo vệ quyền, lợi ích của họ trong TTHS.Từ đó, quyền không buộc phải đưa ra

lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội

chưa bảo đảm, mục đích quyền bào chữa chưa đạt hiệu quả cao.

45

2.2.2. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội được người bị buộc tội sử dụng chưa hiệu quả hoặc

bị lạm dụng

Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội chưa được đa số người bị buộc tội nhận thức, nắm rõ nên hiệu quả

sử dụng quyền trong lấy lời khai, hỏi cung của cơ quan, người tiến hành tố tụng chưa

cao trong quá trình giải quyết VAHS. Một số trường hợp người bị buộc tội có tâm lý

lo sợ, hoang mang khi làm việc với CQĐT, VKSND nên người bị buộc tội không thể

nhận định, lựa chọn những vấn đề để trình bày với cơ quan, người tiến hành tố tụng

khi được hỏi cung, lấy lời khai về những tình tiết làm sáng tỏ vụ án, có lợi cho việc

gỡ tội; hay từ chối khai báo những thông tin bất lợi, làm tăng nặng trách nhiệm hình

sự của người bị buộc tội. Một số trường hợp người bị buộc tội sau khi đã được cơ

quan, người có thẩm quyền thông báo, giải thích về quyền, nghĩa vụ cũng như quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội nhưng chưa hiểu, chưa nắm bắt được nội dung nên vẫn trình bày tất cả các chứng

cứ, lời khai trong phạm vi hiểu biết của mình. Thêm vào đó, một số người bị buộc tội

vẫn chưa đánh giá được vai trò quan trọng của quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội trong việc bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của mình nên trong quá trình giải quyết VAHS người bị buộc tội sử

dụng quyền không đúng thời điểm, sử dụng không hiệu quả.

Mặt khác, một số trường hợp người bị buộc tội lạm dụng quyền không buộc

phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Trong

những vụ án về tội phạm có các phương thức, thủ đoạn phức tạp, tinh vi, có tổ chức,

sử dụng công nghệ thông tin, phạm tội trên không gian mạng.... như đánh bạc qua

mạng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích

của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, và các tội phạm về

ma túy… người bị buộc tội thường là những người đã tiếp xúc nhiều lần với cơ quan,

người tiến hành tiến hành tố tụng, có tiền án, tiền sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm,

thực hiện tội phạm từ hai lần trở lên nên có hiểu biết nhất định về quyền của mình

46

trong các giai đoạn của VAHS. Do đó, những người này thường lạm dụng quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội, thể hiện thái độ im lặng tuyệt đối, chai lì khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành lấy

lời khai, hỏi cung. Điều này sẽ gây ra những khó khăn nhất định cho công tác thu

thập, đánh giá tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm của cơ quan, người tiến hành

tố tụng. Trong trường hợp các tài liệu, chứng cứ, các thông tin, tình tiết về vụ án

không rõ ràng, không đủ căn cứ để buộc tội nên Tòa án phải ra quyết định tạm đình

chỉ vụ án hoặc quyết định đình chỉ vụ án. Từ đó, người bị buộc tội có thể không phải

chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội đã thực hiện. Ví dụ như vụ án về tội

“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định của Điều 174 BLHS năm 2015 của

Trương Hồ Phương Nga, Nguyễn Đức Thùy Dung đã phân tích ở mục 2.2.3.

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót

2.3.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự còn bất cập

Thứ nhất, BLTTHS năm 2015 chưa quy định rõ định nghĩa người bị buộc tội,

nội hàm quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của người bị buộc tội mà chỉ quy định trực tiếp người bị buộc tội có

quyền này tại điểm d khoản 1 Điều 58, điểm c khoản 2 Điều 59, điểm d khoản 2 Điều

60, điểm h khoản 2 Điều 61. Đồng thời, hiện nay chưa có văn bản dưới luật hướng

dẫn cụ thể về khái niệm, nội dung, phạm vi áp dụng, thời điểm thông báo, cơ chế bảo

đảm thực hiện và trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Do đó, gây khó khăn cho cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng

thống nhất pháp luật để bảo đảm việc thực hiện quyền này của người bị buộc tội.

Thứ hai, BLTTHS năm 2015, Điều 1 Thông tư liên tịch số 01/2021/TTLT-

BCA-BQP-BTC-BNNPTNT-VKSNDTC [10] tăng cường trách nhiệm của Công an

xã, phường, thị trấn, Đồn công an khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm,

trong đó có hoạt động lấy lời khai ban đầu. Tuy nhiên, chưa quy định rõ ràng, chi tiết

về thủ tục hoạt động lấy lời khai này sau khi phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người phạm

tội quả tang, người đang bị truy nã cũng như chưa quy định trách nhiệm phải thông

báo quyền, nghĩa vụ của người bi buộc tội nói chung, quyền không quyền không buộc

phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội nói riêng.

47

Đồng thời, khoản 4 Điều 110, khoản 1 Điều 114 BLTTHS năm 2015 quy

định sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị giữ,

bị bắt, CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải

lấy lời khai ngay và trong thời hạn 12 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do

cho người bị bắt. Trong khi đó, theo khoản 2 Điều 113, khoản 3 Điều 117 BLTTHS

năm 2015, người thi hành lệnh, quyết định bắt hoặc quyết tạm giữ thông báo, giải

thích quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt, người bị tạm giữ. Các quy định này

không thống nhất về thời điểm thông báo và giải thích về quyền nói chung và quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội của người bị bắt, người bị tạm giữ.

Thứ ba, khoản 6 Điều 183 BLTTHS năm 2015 quy định việc hỏi cung bị can

tại địa điểm khác có thể được ghi âm, ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can

hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, Thông tư liên

tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP [11] chưa hướng dẫn cụ thể

về các trường hợp, căn cứ để CQĐT chấp nhận, về quy trình thực hiện yêu cầu nếu

được chấp nhận đã gây khó khăn trong việc hiểu và áp dụng pháp luật. Khoản 3 Điều

183 BLTTHS năm 2015 quy định rõ trách nhiệm của ĐTV, Cán bộ điều tra, KSV,

Kiểm tra viên bức cung, dùng nhục hình đối với bị can khi hỏi cung bị can thì phải

chịu trách nhiệm hình sự theo quy định BLHS. Tuy nhiên, về vấn đề này không được

quy định khi lấy lời khai người làm chứng.

Thứ tư, Điều 82 BLTTHS năm 2015, sau khi kết thúc điều tra, người bào chữa

có quyền yêu cầu đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc

bào chữa. Tuy nhiên, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục, cách

thức, phương thức sao chụp, thời hạn trả lời yêu cầu dẫn đến việc gây khó khăn cho

người bào chữa tiếp cận hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo chữa cũng như ảnh hưởng

đến quyền của người bị buộc tội.

Bên cạnh đó, Điều 291 BLTTHS năm 2015 quy định nếu người bào chữa vắng

mặt lần thứ nhất không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan

hoặc được triệu tập lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa. Quy

48

định này ràng buộc việc tham gia phiên tòa của người bào chữa để bảo đảm thời hạn

giải quyết vụ án. Tuy nhiên, người bào chữa cần có mặt tại phiên tòa hoặc bản bào

chữa phải được gửi trước cho Tòa án để bảo đảm thực hiện hiệu quả tranh tụng bình

đẳng, dân chủ tại phiên tòa. Do đó, người bào chữa vắng mặt lần thứ hai vì lý do

chính đáng và bản bào chữa chưa được gửi đến Tòa án mà Tòa án vẫn mở phiên tòa

sẽ ảnh hưởng đế quyền của bị cáo, trong đó có quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.

2.3.2. Cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực hiện nghiêm túc quy định của

pháp luật để bảo đảm thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội

Bên cạnh đội ngũ ĐTV, KSV, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân có năng lực

chuyên môn, giàu kinh nghiệm, vẫn còn một số ĐTV, KSV có kỹ năng nghiệp vụ và

kinh nghiệm thực tiễn chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ

trong quá trình giải quyết vụ án. Theo đó, một số ĐTV, KSV nghiên cứu chưa sâu

sắc các quy định của BLHS, BLTTHS về bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa

vụ của người bị buộc tội, dẫn đến thực hiện không đúng theo quy định, lạm dụng việc

đề xuất áp dụng một số biện pháp ngăn chặn như bắt người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, tạm giữ. Đồng thời, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của người

bào chữa như là một biện pháp bảo đảm quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống

lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội cũng như nhằm

ngăn chặn, loại trừ kịp thời những vi phạm pháp luật trong TTHS. Bên cạnh đó, lãnh

đạo cơ quan CQĐT chưa kiểm tra, đôn đốc trong chỉ đạo, kiểm tra nghiệp vụ khi thực

hiện các biện pháp điều tra nhằm xác định sự thật vụ án.

KSV chưa thực hiện tốt nhiệm vụ trong thực hành quyền công tố và kiểm sát

áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các hoạt động điều tra (lấy lời khai người bị bắt,

người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, đối chất…), một số trường hợp phê chuẩn bắt người

bị giữ trong trường hợp khẩn cấp sau đó trả tự do. Cụ thể, Viện kiểm sát phê chuẩn

lệnh bắt khẩn cấp sau đó trả tự do vì không xử lý hình sự 2 người (năm 2021), 16

người (năm 2022); phê chuẩn lệnh gia hạn tạm gữ sau đó trả tự do không xử lý hình

49

sự 20 người (năm 2021), 28 người (năm 2022) [48]. Bên cạnh đó, một số KSV chưa

chủ động trong việc yêu cầu ĐTV khắc phục vi phạm đã xảy ra khi tiến hành một số

hoạt động điều tra, chưa nghiên cứu hồ sơ vụ án toàn diện dẫn đến việc không kiểm

tra đầy đủ, chặt chẽ các chứng cứ mà CQĐT đã thu thập, các hoạt động tố tụng để

xem xét việc thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội của người bị buộc tội. Công

tác phối hợp, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ của VKSND cấp

trên đối với VKSND cấp dưới chưa được thường xuyên, kịp thời. Mối quan hệ phối

hợp giữa Viện kiểm sát với CQĐT, TAND ở một số địa phương chưa được thực hiện

chặt chẽ dẫn đến việc gây khó khăn cho hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ; xét

hỏi, kiểm tra vật chứng, lời khai và các chứng cử khác trong quá trình giải quyết vụ

án, từ đó làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả giải quyết vụ án, việc bảo đảm

quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

mình có tội của người bị buộc tội.

2.3.3. Người bị buộc tội chưa nhận thức đầy đủ về quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội

Phần lớn người bị buộc tội có trình độ học vấn, khả năng hiểu biết thông tin,

kiến thức pháp luật TTHS hạn chế. Người bị buộc tội biết và vận dụng quyền không

buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội khi

cơ quan, người tiến hành tố tụng hoặc người bào chữa thông báo, giải thích về quyền,

nghĩa vụ của mình trong quá trình giải quyết VAHS. Trong một số vụ án, người bị

buộc tội có trình độ học vấn thấp, thậm chí là không biết chữ gây khó khăn trong

công tác giải thích, phổ biến quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội. Mặt khác,

người bị buộc tội thường không thể nhận thức đầy đủ, nắm rõ về các quyền và nghĩa

vụ đã được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo, giải thích

trước đó. Trong hoạt động lấy lời khai, hỏi cung, người bị buộc tội trình bày về những

thông tin, nội dung, tình tiết của vụ án, không tự bào chữa về hành vi của mình bởi

tâm lý e sợ trước cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cho rằng mình sẽ

phải chịu trách nhiệm hình sự, hậu quả pháp lý bất lợi nếu từ chối khai báo.

50

Theo Điều 74 BLTTHS, người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can,

trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị

bắt có mặt tại trụ sở CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Một số trường hợp, người bị buộc tội

không biết mình có quyền nhờ bào chữa từ thời điểm này. Từ đó, đã gián tiếp làm

cho quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

mình có tội của người bị buộc tội không được thực hiện tốt.

2.3.4. Công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan dân cử và của nhân dân

đối với việc thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội chưa được chú trọng, quan tâm triệt để

Khoản 2 Điều 33 BLTTHS năm 2015 quy định cơ quan nhà nước, Ủy ban

Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, đại biểu dân cử có quyền

giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; giám sát

việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố

tụng. Theo khoản 1 Điều 11, Điều 13 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội

đồng nhân dân năm 2015, Quốc hội thực hiện hoạt động giám sát tối cao bằng việc

xem xét báo cáo công tác của TAND tối cao, VKSND tối cao; xem xét các báo cáo

công tác hằng năm, báo cáo công tác nhiệm kỳ của TAND tối cao, VKSND tối cao.

Đồng thời, đại biểu Quốc hội thực hiện việc chất vấn Chánh án TAND tối cao,

Viện trưởng VKSND tối cao. Đồng thời, Hội đồng nhân dân xem xét báo cáo công

tác 06 tháng, hằng năm, báo cáo công tác TAND, VKSND cùng cấp cũng như giám

sát, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân (Điều 59, 87

Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015).

Ngoài ra, người thực hiện giám sát hoạt động của cơ quan, người tiến hành tố

tụng vẫn còn hạn chế về kiến thức pháp luật hình sự, các thủ tục, trình tự trong quá

trình giải quyết VAHS là một trong những nguyên nhân làm cho quyền không buộc

phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người

bị buộc tội chưa được đảm bảo toàn diện, hiệu quả.

51

2.3.5. Điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu

Nhìn chung, việc trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật chưa đáp ứng yêu

cầu cho công tác giải quyết VAHS. Thực tế các trụ sở của CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa

án, phòng làm việc của Công an xã, phường, thị trấn, Đồn công tan tại ủy ban nhân xã,

phường, trị trấn vẫn chưa được trang bị đầy đủ các thiết bị, phương tiện làm việc cần

thiết như: máy vi tính, máy ghi âm, ghi hình có âm thanh, máy scan, USB, máy quét…

Các trụ sở của các cơ quan tiến hành tố tụng đã có thiết bị, phương tiện làm việc nhưng

đã xuống cấp, lạc hậu, chưa đáp ứng yêu câu giải quyết tội phạm hiện nay, các tội phạm

công nghệ cao xảy ra ngày càng nhiều cũng như chưa thể đáp ứng thực hiện hiệu quả

thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành tổ chức phiên tòa trực tuyến. Do đó, đã tạo nên những rào

cản nhất định cho công tác giải quyết nguồn tin, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS

của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Đặc biệt, đối với hoạt động ghi âm, ghi hình có âm

thanh bắt buộc trong lấy lời khai, hỏi cung bị can, cơ quan, người tiến hành tố tụng không

được cung cấp trang thiết bị cần thiết để thực hiện ghi âm, ghi hình hiệu quả trên thực tế.

Do vậy, ảnh hưởng đến công tác kiểm tra, giám sát để hoạt động lấy lời khai, hỏi cung

được tiến hành khách quan, bảo đảm thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội.

Một số CQĐT, VKSND cấp huyện chưa được đầu tư đồng bộ để xây dựng

phòng hỏi cung, lấy lời khai riêng bảo đảm cho việc ghi âm, ghi hình có các điều kiện

ánh sáng, góc quay rõ, không bị xen lẫn các tạp âm khác. Điều này gây khó khăn cho

việc kiểm tra tính hợp pháp của hoạt động lấy lời khai, hỏi cung để phát hiện, xử lý

kịp thời vi phạm pháp luật của ĐTV, cán bộ điều tra, KSV; xem xét lại đầy đủ cách

đặt câu hỏi, việc trả lời của người bị buộc tội, những điểm còn mâu thuẫn trong trường

hợp người bị buộc tội kêu oan. Bên cạnh đó, một số ĐTV, cán bộ điều tra, KSV chưa

được trang bị các kiến thức chuyên môn, kỹ năng để sử dụng thành thạo các thiết bị

kỹ thuật ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; chưa nắm bắt kỹ, thực hiện tốt công tác

bảo quản, lưu trữ kết quả dữ liệu ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh đã tạo nên những

thách thách trong việc thực hiện ghi âm, ghi hình có âm thanh.

52

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 luận văn đã phân tích, đánh giá tình hình tội phạm, công tác khởi

tố, điều tra, truy tố VAHS phạm vi cả nước trong giai đoạn từ 2018-2022, khảo sát

thực tiễn việc sử dụng quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội. Từ đó, đánh giá thực trạng,

đưa ra những tồn tại, thiếu sót và nguyên nhân của những tồn tại, thiếu sót khi thực

hiện quyền này của người bị buộc tội.

Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của người bị buộc tội trong quá trình giải quyết VAHS còn những

khó khăn như: quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội của người bị buộc tội chưa được thực hiện một cách hiệu quả,

thống nhất; đảm bảo quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội của lực lượng Công an xã,

CQĐT chưa thực hiện tốt; một số trường hợp người bị buộc tội lạm dụng quyền không

buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mính hoặc buộc phải nhận mình có tội.

Đồng thời, quy định của BLTTHS năm 2015 vẫn có một số hạn chế, bất cập ảnh

hưởng đến bảo đảm thực hiện quyền này của người bị buộc tội. Qua đó, việc tiếp tục

nghiên cứu, sửa đổi các quy định của BLTTHS năm 2015 là cần thiết, đặc biệt là

những quy định liên quan đến bảo đảm quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống

lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội.

53

Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN KHÔNG

BUỘC PHẢI ĐƯA RA LỜI KHAI CHỐNG LẠI CHÍNH MÌNH HOẶC

BUỘC PHẢI NHẬN MÌNH CÓ TỘI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI

3.1. Yêu cầu đảm bảo thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội

3.1.1. Yêu cầu cải cách tư pháp trong lĩnh vực hình sự

Cải cách tư pháp là nhiệm vụ trọng tâm và quan trọng để xây dựng, hoàn thiện

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Năm 2022, Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XIII của Đảng đã xác định: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên

nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân” [17]. Bảo vệ quyền con người nói

chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội nói riêng luôn là vấn đề được

quan tâm trong xây dựng và hoàn thiện nền tư pháp tiến bộ. Do đó, đã đặt ra yêu cầu

hoạt động TTHS phải chú trọng đến việc đề cao công lý, không làm oan người vô tội.

Thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp, quy

định của pháp luật TTHS, quyền con người và quyền, lợi ích hợp pháp cần được đảm

bảo, trong đó bao gồm quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội.

Hiện nay, công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư

pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật,

coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu

quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội [4] đã thực

hiện tốt theo Nghị quyết số 49-NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020”. Mặc dù vậy, quy định của BLTTHS năm 2015 còn nhiều điểm bất cập, chưa

đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội để bảo vệ

54

quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trong BLTTHS năm 2015 nhưng

chưa quy định đầy đủ, còn nhiều bất cập, vướng mắc ảnh hưởng đến viêc bảo đảm

thực hiện quyền này trên thực tế. Do vậy, yêu cầu của cải cách tư pháp trong lĩnh

vực hình sự cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi các quy định của BLTTHS năm

2015 về bảo vệ quyền của con người, quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng

nói chung, trong đó có quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội. Qua đó, góp phần giải quyết

VAHS được khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

3.1.2. Yêu cầu đảm bảo thi hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của người bị buộc tội

Trong quá trình giải quyết, cơ quan, người tiến hành tố tụng thực hiện những

nhiệm vụ, quyền hạn luật định đúng theo các quy định của BLTTHS, từ đó tôn trọng

và bảo đảm quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội của người bị buộc tội. Người bị buộc tội có thể sử dụng quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Cơ quan, người tiến hành tố

tụng khi tiến hành buộc tội phải dựa trên các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp

pháp, không chỉ dựa vào lời khai của người bị buộc tội. Mọi lời khai, lời trình bày

của người bị buộc tội, chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá thận trọng, tranh luận,

làm rõ tại phiên tòa.

Mọi hoạt động TTHS phải được thực hiện theo quy định của BLTTHS. Theo

đó, cơ quan, người tiến hành tố tụng phải nhận thức và áp dụng đúng đắn, triệt để các

quy định về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội của người bị buộc tội, các quy định bảo đảm để người bị buộc

tội thực hiện quyền này. Như vậy, cần đặt ra yêu cầu chấp hành đúng quy định của

BLTTHS và các văn bản hướng dẫn nói chung, về quyền không buộc phải đưa ra lời

khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội nói

riêng nhằm tạo cơ sở, nền tảng quan trọng để quá trình giải quyết VAHS được khách

55

quan, đúng đắn, không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế

quyền con người, quyền công dân trái luật cũng như các quyền, lợi ích hợp pháp của

người bị buộc tội không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ. Qua đó, góp

phần bảo vệ quyền con người trong TTHS cũng như bảo vệ trật tự xã hội.

3.1.3. Yêu cầu bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội

- Yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội

Theo Điều 16 BLTTHS năm 2015, khoản 1 Điều 73 BLTTHS, quyền bào chữa

là quyền cơ bản của người bị buộc tội trong TTHS. Thực hiện quyền bào chữa và bảo

đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là yêu cầu khách quan của TTHS, là điều

kiện cần thiết để bảo đảm tranh tụng trong xét xử dân chủ, bình đẳng. Khi thực hiện

quyền và nghĩa vụ của mình, người bào chữa trợ giúp người bị buộc tội trong việc

tuân thủ đúng trình tự, thủ tục TTHS, vận dụng hiệu quả quyền trong quá trình giải

quyết vụ án, trong đó có bảo đảm quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội.

- Yêu cầu bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá

nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân

Hoạt động TTHS mang tính quyền lực nhà nước nên có những tác động nhất

định tới quyền con người, quyền của người bị buộc tội, vì vậy cần thực hiện tốt

nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân;

danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân (Điều 11 BLTTHS năm 2015). Cơ quan, người

tiến hành tố tụng tôn trọng tự do ý chí trong trình bày lời khai của người bị buộc tội,

không được sử dụng các biện pháp trái pháp luật như bức cung, nhục hình, mớm

cung… bắt buộc, cưỡng ép họ trình bày lời khai khi thực hiện các biện pháp điều tra.

- Yêu cầu bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của người bị buộc tội

Quyền khiếu nại, tố cáo của người bị buộc tội ghi nhận tại Điều 32 BLTTHS

năm 2015. Khi quyền của người bị buộc tội nói chung, quyền không buộc phải đưa

ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội nói riêng bị cơ quan,

người tiến hành tố tụng xâm phạm, người bị buộc tội có thể thực hiện việc khiếu nại,

tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết. Cơ quan,

56

người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn

của mình có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật khiếu nại, tố

cáo và gửi văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo cho người bị buộc tội cũng như áp

dụng các biện pháp bảo vệ người bị buộc tội khi có yêu cầu, ngăn chặn thiệt hại có

thể xảy ra, bảo đảm kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo được thi hành nghiêm chỉnh

và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết trên thực tế.

3.1.4. Yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm

Thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước đã đạt được

những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, công

tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội

được tăng cường. Tuy nhiên, tình hình tội phạm có xu hướng ngày càng tăng về số

lượng với tính chất, mức độ nghiêm trọng, diễn biến phức tạp,. Theo đó, các loại tội

phạm với phương thức nguy hiểm, thủ đoạn tinh vi, có tổ chức, hình thành các băng

nhóm xã hội đen, đầu cơ các mặt hàng thiết yếu y tế, lương thực, thực phẩm để trục

lợi, sử dụng công nghệ cao để phạm tội. Đồng thời, các vụ án về tội phạm tham nhũng,

lợi dụng chức vụ, quyền hạn, giết người, cố ý gây thương tích ngày càng được dư

luận xã hội quan tâm [40].

Hiệu quả đảm bảo thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội thể hiện tính khách

quan, hợp pháp trong việc lấy lời khai, lời cung – một trong những nguồn chứng cứ,

góp phần bảo đảm xử lý nghiêm tội phạm, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, phát

hiện kịp thời vi phạm về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội. Đồng thời, cần căn cứ vào

thực tiễn của tình hình xử lý tội phạm trên thực tế để đề xuất những giải pháp thiết

thực đảm bảo quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội của người bị buộc tội đáp ứng yêu cầu về lý luận, có khả năng

thực thi trên thực tế. Qua đó, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết, xét

xử tội phạm hiện nay cũng như thực hiện các nhiệm vụ, yêu cầu về bảo đảm quyền

con người đã đề ra.

57

3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội

3.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật

- Cần ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất về khái niệm, nội dung, thời

điểm thực hiện, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền bảo đảm quyền không buộc

phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người

bị buộc tội và hậu quả pháp lý khi vi phạm các quy định về bảo đảm quyền này của

người bị buộc tội.

Trong đó, văn bản hướng dẫn phải quy định thông báo về quyền không buộc

phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người

bị buộc tội ngay trước mỗi lần tiến hành lấy lời khai và hỏi cung bị cao, bị cáo. Thông

báo về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội của người bị buộc tội cần đáp ứng các yêu cầu về câu từ đơn giản,

dễ hiểu, rõ ràng để người bị buộc tội đưa ra sự lựa chọn của chính mình. Theo đó,

trước khi bắt đầu việc lấy lời khai, hỏi cung người bị buộc tội, người lấy lời khai, hỏi

cung có nghĩa vụ thông báo với người bị buộc tội như sau: “Anh/chị có quyền trả lời

hoặc không trả lời các câu hỏi của ĐTV (KSV), không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”

Đối với người bị bắt thì thông báo phải được thực hiện ngay tại thời điểm bắt.

Đối với người bị tạm giữ, việc thông báo phải thực hiện ngay khi giao quyết định tạm

giữ cho người đó. CQĐT sau khi nhận được quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố

bị can hoặc quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát thì phải giao ngay cho bị can

và thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của bị can theo Điều 60 BLTTHS năm

2015. Người tiến hành giao quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị cáo phải thông báo,

giải thích quyền và nghĩa vụ của bị cáo theo quy định tại Điều 61 BLTTHS năm 2015

Đồng thời, văn bản hướng dẫn cần quy định cơ chế loại trừ người bị buộc tội

lạm dụng việc thực hiện quyền này trong TTHS. Trong hoạt động xác minh ban đầu

diễn ra trước khi có quyết định khởi tố VAHS, người bị buộc tội khi khai báo có

quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận

58

mình có tội, nhưng không có nghĩa lạm quyền này để giả tạo chứng cứ, làm cản trở

quá trình lấy lời khai, thu thập chứng cứ trước trước khi quyết định khởi tố hoặc

không khởi tố VAHS.

- Bổ sung quy định của BLTTHS năm 2015 về trình tự, thủ tục lấy lời khai ban

đầu của Công an xã, phường, thị trấn, Đồn công an khi bắt giữ, tiếp nhận người phạm

tội quả tang, người đang bị truy nã. Theo tác giả, trình tự, thủ tục này có thể dụng trên

quy định về trình tự hỏi cung bị can. Bởi lẽ, lời khai của người phạm tội quả tang, người

đang bị truy nã, bị can đều có giá trị và có thể được sử dụng để làm chứng cứ trong giải

quyết VAHS nếu được thu thập theo đúng thủ tục do BLTTHS quy định. Trong đó,

quy định rõ trách nhiệm Công an xã, phường, thị trấn, Đồn công an thông báo, giải

thích rõ quyền này khi bắt giữ, tiếp nhận người phạm tội quả tang, người đang bị truy

nã. Bên cạnh đó, bổ sung quy định tại Điều 91 BLTTHS năm 2015 về lấy lời khai

người làm chứng, quy định rõ ĐTV, Cán bộ điều tra, KSV, Kiểm tra viên khi có hành

vi bức cung, nhục hình tùy theo tính chất, mức độ sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự.

- Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP cần

bổ sung quy định, hướng dẫn về các trường hợp, căn cứ để CQĐT chấp nhận việc ghi

âm, ghi hình có thanh theo yêu cầu của bị can khi thực hiện hỏi cung ngoài cơ sở

giam giữ, trụ sở CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra. Đồng thời, ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục, cách thức,

phương thức sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án của người bào chữa.

- Bổ sung quy định tại Điều 291 BLTTHS năm 2015 theo hướng nếu người

bào chữa vắng mặt lần thứ nhất không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại

khách quan và chưa gửi bản bào chữa, hoặc triệu tập lần thứ hai mà vẫng vắng mặt

thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa để bảo vệ quyền, lợi ích của bị cáo, bảo đảm việc

tranh tụng tại phiên tòa được dân chủ, công bằng.

- BLTTHS năm 2015 cần bổ sung cho VKSND thẩm quyền trực tiếp kiểm sát

hoạt động xác minh sơ bộ ban đầu đối với Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công

an cũng như tăng cường trách nhiệm thông báo về việc tiếp nhận nguồn tin về tội

phạm của các cơ quan này cho VKSND.

59

- BLTTHS năm 2015, Thông tư liên tịch số 04/2018 cần bổ sung quy định về

việc ghi âm, ghi hình có âm thanh trong trường hợp KSV trực tiếp thực hiện hỏi cung

bị can, lấy lời khai người bị bắt, bị tạm giữ. Biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung

do KSV thực hiện lấy lời khai, hỏi cung theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS

năm 2015 là một trong những nguồn chứng cứ, để đảm bảo tính khách quan của loại

chứng cứ này, tăng cường hiệu quả trong quá trình giải quyết vụ án.

3.2.2. Bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ, nhận thức về trách nhiệm

của người tiến hành tố tụng

Công tác nâng cao trình trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhận thức về trách

nhiệm của người tiến hành tố tụng trong bảo đảm quyền không buộc phải đưa ra lời

khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội

được thực hiện thông qua các giải pháp cụ thể:

Thứ nhất, thủ trưởng CQĐT, lãnh đạo Viện kiểm sát, Chánh án Tòa án cần

tăng cường các lớp đào tạo, nâng cao nhận thức của ĐTV, Cán bộ điều tra, KSV,

Kiểm tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký tòa án về các quy định của

BLTTHS năm 2015, các văn bản hướng dẫn nhằm nâng cao nhiệm vụ, quyền hạn

trong quá trình giải quyết VAHS cũng như phổ cập quy định của pháp luật về quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội của người bị buộc tội. Quán triệt quan điểm cần phải ghi âm, ghi hình có âm thanh

trong hỏi cung bị can khi thuộc các trường hợp BLTTHS quy định.

Thứ hai, cần đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng năng lực của ĐTV, cán bộ

điều tra, KSV, kiểm tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thông qua việc tổ chức

các lớp bồi dưỡng, cuộc họp rút kinh nhiệm, cuộc họp tổng kết thực tiễn về các kỹ

năng nghiệp vụ như:

- Các kỹ năng khi thu thập chứng cư, tài liệu trong VAHS, kỹ năng đặt câu hỏi

khi lấy lời khai, hỏi cung; thực hiện ghi âm, ghi hình có âm thanh trong hỏi cung;

nghiên cứu hồ sơ; xem xét để áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế

phải đảm bảo thực hiện đúng căn cứ và cần thiết… của ĐTV, Cán bộ điều tra.

60

- Các kỹ năng thực hành quyền công tố, kiểm sát giải quyết VAHS như kỹ

năng đề tra yêu cầu điều tra; kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án; kỹ năng kiểm sát hoạt

động lấy lời khai, hỏi cung; kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc áp

dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế của CQĐT; kỹ năng xét

hỏi; kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa... của KSV.

- Các kỹ năng điều hành phiên tòa, xét hỏi tại phiên tòa, kỹ năng nghiên cứu

hồ sơ vụ án, phân tích và đánh giá chứng cứ, phát hiện các vi phạm… của Thẩm phán

cũng như kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án, phân tích và đánh giá tài liệu, chứng cứ

của Thư ký tòa án, Hội thẩm nhân dân. Qua đó, nâng cao trình độ về nghiệp vụ xét

xử và các kỹ năng cần thiết khác nhằm tăng cường hiệu quả thực hiện việc giải quyết

VAHS, góp phần bảo đảm quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính

mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội.

Thứ ba, các cơ quan tiến hành tố tụng cần hường xuyên tổ chức các lớp tập

huấn, hội thảo khoa học chuyên sâu, chuyên đề riêng để dễ dàng tiếp cận, hiểu rõ chi

tiết nội dung về bảo vệ quyền con người, quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong

TTHS. Từ đó, nâng cao chất lượng kết quả giải quyết vụ án, hạn chế vi phạm quyền,

lợi ích của người bị buộc tội. Tại các buổi hội thảo chuyên sâu, người tiến hành tố

tụng chủ động trao đổi, tương tác, đưa ra các ý kiến thực chất, có ý nghĩa không chỉ

về mặt lý luận mà còn mang tính thực tế cao. Qua đó, là cơ sở để quyền không buộc

phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người

bị buộc tội được đảm bảo trên thực tế.

Thứ tư, người tiến hành tố tụng cần phát huy tính tự giác, chủ động, thường xuyên

cập nhật, nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật TTHS về quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội

của người bị buộc tội cũng như quyền của người bị buộc tội. Từ đó, nắm vững, nâng cao

nhận thức về các quy định của pháp luật, vận dụng hiệu quả các kỹ năng nghiệp vụ để

làm sáng tỏ tội phạm và người phạm tội trong VAHS, bảo đảm quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc

61

tội. Ngoài ra, người tiến hành tố tụng cần thường xuyên tự đánh giá lại kết quả thực hiện

nhiệm vụ sau mỗi buổi hỏi cung, tham gia phiên tòa, rút kinh nghiệm một cách nghiêm

túc những thiếu sót, chú ý lắng nghe các ý kiến góp ý của đồng nghiệp, dư luận của công

chúng với thái độ cầu thị, trao dồi phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị vững vàng để

bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ, chức năng chính trị được giao.

3.2.3. Phát triển, nâng cao trình độ của đội ngũ luật sư đáp ứng yêu cầu

tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý

Theo khoản 1 Điều 75 BLTTHS năm 2015, quyền bào chữa của người bị buộc

tội nhằm đảm bảo quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội được thực hiện tốt trên thực tế. Để người bị buộc tội sử

dụng có hiệu quả quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình, người bào chữa cần nâng cao kiến thức pháp luật, cập nhật các

văn bản pháp luật về nghiệp vụ bào chữa cũng như đút kết kinh nghiệm từ những vụ

án đã tham gia bào chữa. Cụ thể, cần nắm chắc quy định BLTTHS, Luật luật sư năm

2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012, Nghị định số 137/2018/NĐ-CP ngày 08/10/2018

sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 quy

định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật luật sư...; tăng cường bồi dưỡng

tư tưởng, đạo đức, lối sống, trau dồi đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ luật sư. Từ đó,

xây dựng đội ngũ luật sư giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất, đạo đức tốt nhằm

nâng cao chất lượng, hình ảnh và vị thế của luật sư trong quá trình giải quyết VAHS.

Theo đó, người bào chữa phải nắm chắc, hiểu rõ nội dung, nội hàm của quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có

tội, vận dụng hiệu quả, triệt để quyền và nghĩa vụ của mình để bảo vệ tối đa quyền,

lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Đồng thời, cần nâng cao nhận thức về vai trò

của người bào chữa trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc

tội để bảo đảm sự tham gia của người bào chữa vào hoạt động trợ giúp người bị buộc

tội ngay từ giai đoạn đầu tiên kiểm tra, xác minh nguồn tin và trong suốt quá trình

giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, giúp cho người tiến hành tố tụng thận trọng hơn trong

62

hoạt động của mình, hạn chế trình trạng oan sai trong TTHS.

3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về quyền

không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mính hoặc buộc phải nhận mình

có tội cho người dân

Công tác tuyên truyền, phổ biến quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống

lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội là một trong

những giải pháp quan trọng để nâng cao nhận thức về quyền của người bị buộc tội.

Theo đó:

- Thủ trưởng CQĐT, lãnh đạo đơn vị, Viện trưởng VKSND, Chánh án TAND

các cấp cần thường xuyên quan tâm, chỉ đạo đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến

về quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội trong TTHS, hay quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội trong cơ quan,

đơn vị cũng như trong quần chúng nhân dân bằng nhiều hình thức như: phổ biến

quyền này trong các cuộc hội nghị tổng kết cuối năm của từng cơ quan; tuyên truyền

trên các nền tảng mạng xã hội, đài phát thanh; biên soạn và phát hành tài liệu về nội

dung của quyền này... Đồng thời cũng cần thực hiện đồng bộ việc phổ cập trách

nhiệm, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong giải quyết

VAHS để người dân nắm rõ.

- Khi tham gia bào chữa cho người bị buộc tội người bào chữa cần theo dõi,

nắm bắt rõ quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội để họ nhận thức đúng đắn về nội dung quyền mà mình được

thực hiện, đôn đốc, hướng dẫn cho người bị buộc tội linh động trong cách trả lời, trình

bày lời khai.

- Thông qua tổ chức, triển khai thường xuyên các hoạt động tư vấn pháp luật,

trợ giúp pháp lý, công khai bản án trên cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối

cao theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP ngày 16/3/2017 của Hội

đồng Thẩm phán TAND tối cao, hay thông qua việc tổ chức các phiên toà xét xử công

khai, lưu động. Tại những phiên tòa này, người dân được nghe thông tin về vụ án

đang được xét xử, theo dõi trực tiếp toàn bộ diễn biến phiên tòa và quyết định của

63

HĐXX. Qua đó, người dân có thể tiếp cận với BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2015

và các văn bản pháp luật liên quan, nghe Chủ tọa phiên tòa phổ biến về quyền và

nghĩa vụ của người có mặt tại phiên tòa, đặc biệt là quyền buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị cáo, quyền bảo

đảm quyền bảo chữa…

3.2.5. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn

kịp thời những vướng mắc khó khăn và phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền

tiến hành tố tụng trong việc thực hiện quyền

Thứ nhất, Thủ trưởng CQĐT, lãnh đạo Viện kiểm sát, Chánh án Tòa án thường

xuyên theo dõi, kiểm tra, xem xét việc giải quyết VAHS để kịp thời trao đổi, giải

quyết những vấn đề vướng mắc phát sinh. Cụ thể, cần thường xuyên tổ chức các cuộc

họp giao ban để nắm chắc đầy đủ diễn biến, nội dung, chứng cứ, tài liệu trong vụ án;

xem xét quyết định, hành vi tố tụng; xem xét và xử lý vi phạm của ĐTV, Cán bộ điều

tra, KSV, Kiểm tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký tòa án, nhất là vi

phạm trong việc bảo đảm quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội. Đặc biệt, VKSND cấp trên

cần chú trọng công tác kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ cho VKSND cấp dưới. Trong

quá trình giải quyết vụ án, nếu phát sinh vướng mắc về pháp luật trong bảo đảm thực

hiện quyền của người bị buộc tội, Viện kiểm sát cấp dưới cũng có thể báo cáo thỉnh

thị với Viện kiểm sát cấp trên để xin ý kiến để được hướng dẫn, giải đáp vướng mắc

trong nhận thức quy định của pháp luật, chú trọng chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Chỉ

thị 06/CT-VKSNDTC ngày 6/12/2013 của Viện trưởng VKSND tối cao về tăng

cường trách nhiệm thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra, gắng công tố

với hoạt động điều tra, đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm… Bên cạnh

đó, cần tổng hợp những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện công tác

chuyên môn, nghiệp vụ giải quyết VAHS để hướng dẫn giải quyết, tháo gỡ và kiến

nghị khắc phục.

Thứ hai, lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng cần tăng cường công tác quản

lý cán bộ, công chức, nâng cao kỷ cương, kỷ luật công vụ; chú trọng tổ chức kiểm tra

64

định kỳ và công tác tự kiểm tra của từng đơn vị để kịp thời phát hiện, xử lý sai phạm

trong quá trình giải quyết vụ án, xâm phạm quyền của người bị buộc tội, Ngoài ra,

lãnh đạo các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp cần thực hiện việc điều động, luân

chuyển đội ngũ cán bộ, công chức, ĐTV, cán bộ điều tra, Thẩm phấn, Hội thẩm nhân

dân, Thư ký tòa án để kịp thời bổ sung nguồn nhân lực cho các đơn vị có số lượng vụ

án nhiều cần được giải quyết kịp thời.

Bên cạnh đó, lãnh đạo CQĐT, VKSND, TAND tăng cường trách nhiệm phối

hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc kịp thời xử lý, giải quyết các VAHS,

thường xuyên trao đổi, cung cấp, thông báo những thông tin, văn bản hướng dẫn, chỉ

đạo về nghiệp vụ trong TTHS. Công tác phối hợp cần được thực hiện thường xuyên,

cụ thể liên quan đến trách nhiệm của từng ngành ngay từ khi giải quyết nguồn tin về

tội phạm, điều tra và kiểm sát điều tra VAHS, áp dụng các biện pháp ngăn chặn và

xét xử VAHS. Theo đó, công tác tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm cần được

lãnh đạo liên ngành quan tâm chỉ đạo thực hiện nghiêm túc. KSV định hướng điều

tra, đề xuất yêu cầu, phối hợp với ĐTV, cán bộ điều tra để thu thập các tài liệu, chứng

cứ liên quan trong VAHS. Trong quá trình điều tra vụ án, giữa ĐTV và KSV cần có

sự phối hợp thường xuyên, KSV kiểm sát các quyết định, hành vi tố tụng của ĐTV,

kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, đảm bảo quá trình điều tra đúng theo quy định của

pháp luật. Trong giai đoạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử. KSV và Thẩm phán chủ

động trao đổi, giải quyết kịp thời những vướng mắc trong các vụ án phức tạp, đặc

biệt nghiêm trọng, các vụ án đưa ra xét xử lưu động, dư luận xã hội quan tâm có ảnh

hưởng đến tình hình chính trị của địa phương. Trường hợp những người tiến hành tố

tụng có nhận thức khác nhau về quy định pháp luật, đặc biệt là quy định về quyền

buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của

người bị buộc tội; có nhiều quan điểm khác nhau về đường lối giải quyết vụ án thì

lãnh đạo CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án cần tổ chức họp liên ngành để cùng nhau thảo

luận, trao đổi, đề xuất ra các giải pháp khắc phục dựa trên tinh thần tích cực, dân chủ.

Qua cuộc họp liên ngành, CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án đút kết những kinh nghiệm

65

thực tiễn, hạn chế những sai phạm, vướng mắc tương tự trong việc bảo đảm thực hiện

quyền của người bị buộc tội.

3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong việc thực hiện hoạt

động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự

Thứ nhất, tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Mặt trận tổ

quốc Việt Nam, Hội đồng nhân dân… bằng các hình thức: cho ý kiến, chỉ đạo về báo

cáo công tác tại các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân, thông qua việc nghe báo

cáo đảm bảo về quyền, lợi ích của người bị buộc tội; thẩm tra về các vi phạm xảy ra

trong hoạt động tố tụng, trong đó có vi phạm quyền của người bị buộc tội;. Đối với

VKSND, TAND thông qua chất vấn và trả lời chất vấn, trong đó cần chú trọng hoạt

động chất vấn của đại biểu dân cử.

Thứ hai, tăng cường hoạt động kiểm sát của VKSND đối với việc tuân thủ các

trình tự, thủ tục TTHS. VKSND cần thực hiện nghiêm các quy định của BLTTHS

năm 2015, Luật tổ chức VKSND năm 2014 khi thực hành quyền công tố, kiểm sát

hoạt động tư pháp trong TTHS. Công tác kiểm tra chấp hành quy định của BLTTHS

về bảo đảm thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội phải được tiến hành xuyên suốt quá trình giải quyết

vụ án. Từ đó, đảm bảo cho hoạt động tố tụng được thực hiện đúng pháp luật, các

quyền của người bị buộc tội được tôn trọng, và được sử dụng hiệu quả.

Thứ ba, khuyến khích nhân dân chủ động thực hiện việc kiểm tra, giám sát

hoạt động của cơ quan, người tiến hành tố tụng thông qua tiếp cận, theo dõi các thông

tin được công khai, báo cáo của chính quyền địa phương, tham dự hội nghị trao đổi,

đối thoại giữa chính quyền địa phương với cơ quan tiến hành tố tụng. Theo đó, cần

xây dựng cơ chế tạo điều kiện cho nhân dân, các cơ quan báo chí, truyền hình, tích

cực nắm bắt thông tin vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến

hành tố tụng để kiến nghị xử lý các hành vi xâm phạm quyền không buộc phải đưa ra

lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội.

3.2.7. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ, chính sách đối với

công chức, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký Tòa án

66

Thứ nhất, công tác đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các

cơ quan và hoạt động tư pháp theo hướng ngân sách tư pháp do Quốc hội phân bổ và

giao cho các cơ quan tư pháp địa phương quản lý và sử dụng. Từng bước xây dựng

trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang, hiện đại, đầy đủ trang thiết bị

phục quá tình giải quyết vụ án đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, tăng cường áp dụng

công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng như thực hiện Thông

tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BCA-BQP-BTP về thi hành

tổ chức phiên tòa trực tuyến.

Thứ hai, cải tạo, xây dựng phòng hỏi cung, lấy lời khai riêng biệt có trang bị

các thiết bị kỹ thuật, phương tiện ghi âm, ghi hình có âm thanh và bảo quản kết quả

ghi âm, ghi hình có âm thanh như: máy ghi âm, máy tính, máy ảnh, thiết bị camera,

thiết bị lưu trữ dữ liệu; máy chiếu vật thể dùng để trình chiếu tài liệu, chứng cứ,

USB, ổ đĩa... tại trụ sở CQĐT, VKND, cơ sử giam giữ hay đơn vị của cơ quan được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Thứ ba, cải cách chế độ tiền lương, chế độ đãi ngộ đối với công chức, KSV,

Thẩm phán, Thư ký tòa án đặc biệt đối với những công chức công tác ở vùng sâu,

vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn. Việc thực hiện chế độ đãi ngộ,

khen thưởng xứng đáng tạo động lực thực hiện nhiệm vụ hiệu quả, nâng cao đạo đức

công vụ, góp phần làm trong sạch hoạt động tư pháp.

Ngoài ra, tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp và có xu hướng

ngày càng tăng, áp lực và trách nhiệm công việc của KSV cũng ngày một tăng cao.

Vì vậy, để tăng cường tính hiệu quả trong giải quyết VAHS, Quốc hội cần đẩy

mạnh công tác tuyển dụng, tăng biên chế trong ngành Kiểm sát, ngành Tòa án từ

đây làm giảm bớt tình trạng quá tải cho KSV, Thẩm phán khi được phân công giải

quyết vụ án.

67

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trong chương 3, luận văn đưa ra những yêu cầu, đề xuất những giải pháp đảm

bảo thực hiện hiệu quả quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội nhằm khắc phục một số bất

cập, vướng mắc của các quy định pháp luật TTHS cũng như những khó khăn, vướng

mắc trong thực tiễn thực hiện quyền này, đáp ứng công cuộc cải cách tư pháp của

Đảng và Nhà nước.

Để đảm bảo thực hiện hiệu quả quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống

lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội cần: hoàn thiện

quy định của pháp luật; bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ, nhận thức về trách

nhiệm của người tiến hành tố tụng; phát triển, nâng cao trình độ của đội ngũ luật sư

đáp ứng yêu cầu tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý; nâng cao hiệu

quả công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về quyền không buộc phải đưa ra lời

khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội cho người dân; nâng cao

hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn kịp thời những vướng mắc,

khó khăn và phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc

thực hiện quyền; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong việc thực hiện hoạt

động áp dụng pháp luật TTHS; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ,

chính sách đối với cán bộ, KSV. Các giải pháp trên cần được thực hiện một cách đồng

bộ, nhất quán nhằm bảo đảm thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống

lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội.

68

KẾT LUẬN

Với bản chất là một quyền con người, quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội là một

quyền thiết yếu nhằm bảo vệ quyền của người buộc tội trong pháp luật TTHS. Thông

qua nghiên cứu, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong TTHS là quyền của người bị

buộc tội mà theo đó họ được tự do ý chí trình bày hoặc không trình bày lời khai của

mình về nội dung, tình tiết, sự kiện của vụ án mà người đó cho rằng có thể dẫn đến

hậu quả pháp lý bất lợi, khiến họ có nguy cơ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Pháp luật TTHS nước ta đã có những quy định về quyền không buộc phải đưa

ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc

tội trong BLTTHS năm 2015, tuy nhiên các quy định này chưa thống nhất, còn nhiều

điểm hạn chế, vướng mắc. Trong luận văn, tác giả phân tích các vấn đề lý luận và

quy định của pháp luật hình sự hiện hành về quyền không buộc phải đưa ra lời khai

chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội. Từ việc

phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật TTHS, tác giả đưa ra những kiến nghị,

đề xuất hoàn thiện việc quy định quyền này trong BLTTHS năm 2015. Thêm vào đó,

tác giả làm rõ việc bảo đảm áp dụng quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong VAHS thông

qua thống kê, so sánh, phân tích tình hình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS

cũng như khảo sát việc thực hiện quyền này trên thực tế bằng phương pháp xã hội

học. Qua đó, tác giả đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng nhằm bảo đảm

quyền này được đảm bảo hiệu quả phù hợp với tình hình thực tiễn thời gian tới. Tôn

trọng, bảo đảm thực hiện quyền con người nói chung, quyền không buộc phải đưa ra

lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội

nói riêng thể hiện tinh thần cải cách tư pháp, chính sách về bảo vệ quyền con người,

quyền và lợi ích chính đáng của công dân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tham khảo Tiếng Việt

1. Nguyễn Ngọc Anh (2011), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự 2003, NXB

Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

2. Trịnh Tuấn Anh - Nguyễn Thị Thanh Nhã (2019), “Nguyên tắc suy đoán vô tội và

quyền được im lặng trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề được đặt ra”, Tạp chí

pháp luật và thực tiễn, (38).

3. Trần Văn Biên - Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình

sự năm 2015, NXB Thế giới, Hà Nội.

4. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

5. Bộ luật tố tụng hình sự Đức.

6. Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản.

7. Bộ tư pháp (2006), Từ điển luật học, NXB Tư pháp, Hà Nội.

8. Bộ Công an (2019), Thông tư 46/2019/TT-BTC ngày 10/10/2019 quy định trách

nhiệm của lực lượng công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người

bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả

tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố

(viết tắt là Thông tư 46/2019/TT-BTC).

9. Bộ Công an-Bộ Quốc phòng-Bộ tài chính- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông

thôn-Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-

BCA-BQP-BTC-BNTPTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 quy định việc phối

hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố (viết tắt là Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT/BCA-BQP-

BTC-BNTPTNT-VKSNDTC).

10. Bộ Công an-Bộ quốc phòng-Bộ tài chính-Bộ nông nghiệp và phát triển nông

thôn-Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2021), Thông tư liên tịch số 01/2021/TTLT-

BCA-BQP-BTC-BNTPTNT-VKSNDTC ngày 29/11/2021 quy định việc phối

hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố (viết tắt là Thông tư liên tịch 01/2021/TTLT-BCA-BQP-

BTC-BNTPTNT-VKSNDTC).

11. Bộ Công an-Viện kiểm sát nhân dân tối cao-Tòa án nhân dân tối cao-Bộ Quốc

phòng (2018), Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-

TANDTC-BQP ngày 01/02/2018 hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm

hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi

hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử (viết tắt là Thông tư liên

tịch 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP).

12. Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiếu của Liên hiệp quốc về hoạt động tư pháp đối với

người vị thành niên năm 1985 (các quy tắc Bắc Kinh).

13. Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo

hoặc hạ thấp nhân phẩm năm 1984.

14. Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.

15. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989.

16. Chu Đăng Dung (2014), Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS, Luận

văn thạc sỹ luật học, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của

Đảng.

18. Nguyễn Hoàng Hà (2018), Quyền im lặng của bị cáo và những yêu cầu với Kiểm

sát viên tại phiên tòa hình sự, https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-

sat/quyen-im-lang-cua-bi-cao-va-nhung-yeu-cau-voi-kiem-d10 t1189.html, truy

cập ngày 20/12/2022.

19. Nguyễn Hữu Hậu (2019), Đảm bảo quyền con người của người bị buộc tội trong

hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra,

truy tố, xét xử VAHS, Luận án tiến sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.

20. Cập nhật: Phiên tòa xét xử vụ án Trương Hồ Phương Nga và Cao Toàn Mỹ

https://youtu.be/XCUwwgaU5uI, kênh Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh

21. Nguyễn Ngọc Hoàng (2016), Quyền im lặng, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện

khoa học xã hội, Hà Nội.

22. Trần Văn Hùng (2021), Bảo đảm quyền im lặng của bị cáo trong xét xử VAHS,

https://tapchitoaan.vn/bao-dam-quyen-im-lang-cua-bi-cao-trong-xet-xu-vu-an-

hinh-su, truy cập ngày 20/12/2022.

23. Võ Minh Kỳ (2018), “Quyền im lặng của người bị buộc tội và các đảm bảo pháp

lý trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số (13).

24. Võ Minh Kỳ (2022), “Cảnh báo Miranda: bảo đảm pháp lý cho người bị buộc tội

thực hiện quyền im lặng trong giai đoạn điều tra”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,

số (1).

25. Nguyễn Thị Mai (2021), Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm VAHS,

Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

26. Năm 2018, Ngành Kiểm sát nhân dân hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu Quốc

hội giao, https://kiemsat.vn/nam-2018-nganh-kiem-sat-nhan-dan-hoan-thanh-

vuot-muc-nhieu-chi-tieu-quoc-hoi-giao-51541.html, truy cập ngày 12/01/2023.

27. Năm 2019, 10 kết quả hoạt động nổi bật năm 2019 của ngành Kiểm sát nhân dân,

https://coquandieutravkstc.gov.vn/10-ket-qua-hoat-dong-noi-bat-nam-2019-cua-

nganh-kiem-sat-nhan-dan/, truy cập ngày 12/01/2023.

28. Đinh Hải Ninh (2017), Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội trong

luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội),

Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội.

29. Năm 2018: Ngành Kiểm sát nhân dân hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu Quốc

hội giao, https://kiemsat.vn/nam-2018-nganh-kiem-sat-nhan-dan-hoan-thanh-

vuot-muc-nhieu-chi-tieu-quoc-hoi-giao-51541.html, truy cập ngày 12/01/2023.

30. Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học, Hà

Nội- Đà Nẵng.

31. Đào Thị Thanh Phương (2021), Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong tố tụng

hình sự, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật, đại học quốc gia Hà Nội.

32. Lê Tiến Quân (2019), Bảo vệ quyền của người bị buộc tội (người bị bắt, người bị

tạm giữ, người bị tam giam, bị can, bị cáo) trong luật tố tụng hình sự Việt Nam,

Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật, đại học quốc gia Hà Nội.

33. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

34. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự.

35. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự.

36. Quốc hội (2017), Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.

37. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

38. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2018, 2019, 2020, 2021,

2022.

39. Võ Văn Tài - Trịnh Tuấn Anh (2016), “Một số vấn đề lý luận về quyền im lặng

trong tố tụng hình sự”, Tạp chí phát triển khoa học và công nghệ, tập 19, (6).

40. Nguyễn Thị Trang (2017), Đảm bảo quyền con người của người bị buộc tội từ

thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà

Nội.

41. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

42. Trường đại học Kiểm sát Hà Nội (2020), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam,

NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

43. Trường đại học Kiểm sát Hà Nội (2020), Giáo trình thực hành quyền công tố và

kiểm sát điều tra, truy tố VAHS, NXB Tư pháp, Hà Nội.

44. Trường đại học Kiểm sát Hà Nội (2019), Giáo trình thực hành quyền công tố và

kiểm sát xét xử VAHS, NXB Tư pháp, Hà Nội.

45. Trường đại học Kiểm sát Hà Nội (2020), Giáo trình luật hình sự (phần chung),

NXB Tư pháp, Hà Nội.

46. Phạm Xuân Việt (2021), “Đảm bảo thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời

khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội đối với hoạt động lấy

lời khai, hỏi cung bị can trong điều tra VAHS”, Tạp chí nghề luật, (07).

47. Viện kiểm sát nhân dân tối cao-Bộ Công an- Bộ Quốc phòng (2018), Thông tư

liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 quy định về

phối hợp giữa CQĐT và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của

bộ luật tố tụng hình sự (viết tắt là Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-

VKSNDTC-BCA-BQP).

48. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thống kê kết quả thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp năm 2021, 2022.

49. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày

18/12/2017 về việc ban hành quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát

xét xử VAHS (viết tắt là Quyết định 505/QĐ-VKSTC).

50. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2020), Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày

17/4/2020 về việc ban hành quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát

việc khởi tố, điều tra, truy tố (viết tắt là Quyết định 111/QĐ-VKSTC).

51. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2020), Quyết định số 264/QĐ-VKSTC ngày

21/7/2020 về việc ban hành quy trình tạm thời kiểm sát việc ghi âm hoặc ghi hình

có âm thanh của cơ quan có thẩm quyền điều tra; trực tiếp ghi âm hoặc ghi hình

có âm thanh khi hỏi cung bị can, lấy lời khai trong các giai đoạn khởi tố, điều tra,

truy tố (viết tắt là Quyết định 264/QĐ-VKSTC).

52. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2018, 2019, 2020,

2021, 2022.

53. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Vụ án Lưu Toàn Thắng phạm Tội mua

bán trái phép chất ma túy tại thị trấn Cái Rồng, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh,

http://www.vksquangninh.gov.vn/2011-06-02-04-50-23/th-c-hanh-quy-n-cong-

t/3680-quanh-co-choi-toi-van-khong-thoat-an-tu.

Tài liệu tham khảo tiếng nước ngoài

54. GS Anna C. Conley: https://tuoitre.vn/trach-nhiem-buoc-toi-thuoc-cac-co-quan-

chinh-phu-655018.htm

55. http://www.courts.go.jp/saiban/qa_keizi/qa_keizi_20/index.html

56. https://link.springer.com/chapter/10.1057/9780230599765_5

57. Miranda v. Arizona (No. 759), 384 U.S. 436, Supreme Court Reporter, 86, 1966,

trang 1602 – 1664.

58. No person shall be compelled in any criminal case to be a witness against himself.

PHỤ LỤC I:

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC

Kết quả bảng hỏi dành cho người tiến hành tố tụng

Câu 1: Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ông/bà/anh/chị có thông

báo, giải thích quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc

buộc phải nhận mình có tội cho người bị buộc tội biết không?

Câu trả lời

STT Cơ quan nơi khảo sát Có Không Khác

1 VKSND huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng

2 VKSND quận Ngô Quyền, TP. Hải Phòng

3 VKSND huyện Tiên Lãng, TP. Hải Phòng

4 VKSND quận Kiến An, TP. Hải Phòng

5 VKSND huyện Thủy Nguyên, TP. Hải Phòng

6 CQĐT huyện Cát Hải, TP. Hải Phòng

7 TAND quận Lê Chân, TP. Hải Phòng

8 CQĐT quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội

9 VKSND huyện Thường Tín, TP. Hà Nội

10 VKSND quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội

11 VKSND thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh

12 VKSND Huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn

13 VKSND tối cao

14 VKSND Quận 3, TP. Hồ Chí Minh

15 TAND huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh

16 VKSND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh

17 CQĐT TP. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận

18 CQĐT thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh

19 VKSND thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An

20 VKSND TP. Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

Bảng 1

Câu trả lời lựa chọn Số người trả lời Tỷ lệ

1. Có 200 100%

2. Không 0 0%

3. Khác 0 0%

Tổng số người trả lời: 200

Câu 2: Trường hợp nào thì người bị buộc tội giữ im lặng, từ chối khai

báo?

Câu trả lời

Biết rõ Che mình dấu có STT Cơ quan nơi khảo sát hành vi Khác quyền phạm im tội lặng

1 VKSND huyện Vĩnh Bảo, TP. Hải Phòng

VKSND quận Ngô Quyền, TP. Hải Phòng 2

3 VKSND huyện Tiên Lãng, TP. Hải Phòng

4 VKSND quận Kiến An, TP. Hải Phòng

5 VKSND huyện Thủy Nguyên, TP. Hà Nội

6 CQĐT huyện Cát Hải, TP. Hải Phòng

7 TAND quận Lê Chân, TP. Hải Phòng

8 CQĐT quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội

9 VKSND huyện Thường Tín, TP. Hà Nội

10 VKSND quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội

VKSND thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng 11 Ninh

12 VKSND Huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn

13 VKSND tối cao

14 VKSND Quận 3, TP. Hồ Chí Minh

15 TAND huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh

16 VKSND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh

17 CQĐT TP. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận

18 CQĐT thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh

19 VKSND thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An

20 VKSND TP. Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

Bảng 2

Câu trả lời lựa chọn Số người trả lời Tỷ lệ

1. Che dấu hành vi phạm tội 185 88,5%

2. Biết rõ mình có quyền không buộc phải

đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc 11,5% 23

buộc phải nhận mình có tội

3. Khác 0 0

Tổng số người trả lời: 200

Câu 3: Tổng số vụ án hình sự mà trong đó quyền không buộc phải đưa

ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị

buộc tội được đảm bảo?

(Các cơ quan nơi người tiến hành tố tụng công tác đều không có số liệu thống

kê cụ thể)

Câu 4: Trường hợp người bị buộc tội từ chối khai báo thì phương hướng

xử lý của ông/bà/anh/chị như thế nào?

Bảng 3

Câu trả lời lựa chọn Số người trả lời Tỷ lệ

1. Kết thúc việc lấy lời khai, hỏi cung 162 81%

2. Thuyết phục người bị buộc tội 34 17% khai báo

4 2% 3. Khác

Tổng số người trả lời: 200

Câu 5: Việc ghi nhận quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội có gây ra khó

khăn cho ông/bà/anh/chị trong quá trình giải quyết vụ án hình sự không?

Bảng 4

Câu trả lời lựa chọn Số người trả lời Tỷ lệ

1. Có 125 62,5%

2. Không 75 37,5%

3. Khác 0 0%

Tổng số người trả lời: 200

Câu 6: Khó khăn mà ông/bà/anh/chị gặp phải khi người bị buộc tội thực

hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội là gì?

Các câu trả lời (chiếm đến 73%) người tiến hành tố tụng cho rằng việc người

bị buộc tội giữ quyền im lặng, từ chối khai báo gây ra một số khó khăn trong việc thu

thập chứng cứ, điều tra vụ án, xét xử vụ án, nhất là những vụ án có tính chất phức

tạp, người bị buộc tội sử dụng các phương pháp, thủ đoạn tinh vi để thực hiện tội

phạm. Còn lại cho rằng việc người bị buộc tội giữ im lặng, từ chối khai báo không

ảnh hưởng quá nhiều đến quá trình giải quyết vụ án, bởi lẻ các tài liệu, chứng cứ khác

có trong hồ sơ vụ án đã phản ánh đúng tính chất hành vi phạm tội của người bị buộc

tội, đủ cơ sở để kết luận người bị buộc tội có tội hay không có tội.

PHỤ LỤC II:

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC

Kết quả bảng hỏi dành cho người bị buộc tội

Câu 1: Anh/chị có biết về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống

lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội không ?

Bảng 1

Câu trả lời lựa chọn Số người trả lời Tỷ lệ

35 17,5% 1. Có

165 82,5% 2. Không

Tổng số người trả lời: 200

Câu 2: Anh/chị có sử dụng quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống

lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội khi cơ quan tiến hành tố tụng

lấy lời khai, hỏi cung không?

Bảng 2

Câu trả lời lựa chọn Số người trả lời Tỷ lệ

30 15% 1. Có

170 85% 2. Không

Tổng số người trả lời: 200

Câu 3: Anh/chị sử dụng quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại

chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội thông qua hình thức nào?

Câu trả lời lựa chọn Số người trả lời Tỷ lệ

1. Không hành động (im lặng, không thừa

74 76,29% nhận, phủ nhận đã thực hiện hành vi phạm

tội

2. Hành động (chối tội, đưa ra lời khai khẳng 23 27,71% định không thực hiện hành vi phạm tội)

Tổng số người trả lời: 97

PHIẾU KHẢO SÁT (1)

Họ và tên:

Đơn vị công tác:

Cấp bậc:

Chức danh:

(Vui lòng đánh dấu “x” vào ô phù hợp với suy nghĩ, việc làm của

mình hoặc cho tác giả ý kiến khác ở từng câu hỏi tương ứng)

1. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ông/bà/anh/chị có thông báo,

giải thích quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình

hoặc buộc phải nhận mình có tội cho người bị buộc tội biết không?

a. Có b. Không c. Khác

2. Trường hợp nào thì người bị buộc giữ im lặng, tội từ chối khai báo? a. Che dấu hành vi phạm tội b. Biết rõ mình có quyền

c. Khác

3. Tổng số vụ án hình sự mà trong đó quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc

tội được đảm bảo?

…………………………………………………………………………

4. Trường hợp người bị buộc tội từ chối khai báo thì phương hướng xử lý

của ông/bà/anh/chị như thế nào? a. Kết thúc việc lấy lời khai, hỏi cung b. Thuyết phục người bị buộc tội khai báo

c. Khác

5. Việc ghi nhận quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính

mình hoặc buộc phải nhận mình có tội có gây ra khó khăn cho

ông/bà/anh/chị trong quá trình giải quyết vụ án hình sự không? (nếu có

trả lời câu 6) a. Có b. Không c. Khác

6. Khó khăn mà ông/bà/anh/chị gặp phải khi người bị buộc tội thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc

phải nhận mình có tội là gì?

…………………………………………………………………………

Cảm ơn ông/bà/anh/chị đã dành thời gian để thực hiện khảo sát!

PHIẾU KHẢO SÁT (2)

Họ và tên:

Nghề nghiệp:

(Vui lòng đánh dấu “x” vào ô phù hợp với suy nghĩ, việc làm của

mình hoặc cho tác giả ý kiến khác ở từng câu hỏi tương ứng)

1. Anh/chị có biết về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính

mình hoặc buộc phải nhận mình có tội không ? a. Có

b. Không

2. Anh/chị có sử dụng quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội khi cơ quan tiến hành tố

tụng lấy lời khai, hỏi cung không? a. Có b. Không

3: Anh/chị sử dụng quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính

mình hoặc buộc phải nhận mình có tội thông qua hình thức nào?

a. Không hành động (im lặng, không thừa nhận, phủ nhận đã thực hiện hành

vi phạm tội

b. Hành động (chối tội, đưa ra lời khai khẳng định không thực hiện hành vi

phạm tội)

Cảm ơn ông/bà/anh/chị đã dành thời gian để thực hiện khảo sát!

PHỤ LỤC III

Vụ án về Tội dùng nhục hình theo Điều 373 BLHS tại thành phố Phan

Rang – Tháp Chàm.

Khoảng 14 giờ ngày 08/9/2017, Ngô Văn S, Trần Đức L, Nguyễn Phạm Việt

H, Hồ Bá Đ và Vũ Trọng Tr là cán bộ Đội cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư

pháp (Đội CSTHAHS và HTTP) Công an thành phố P R -Th C, tỉnh Ninh Thuận

tham gia họp Đội tại hội Tr đơn vị do ông Nguyễn Văn Đức, Đội trưởng chủ trì.

Khoảng 15 giờ 20 phút cùng ngày, ông Trần Quang Tr là Điều tra viên Cơ quan cảnh

sát điều tra Công an tỉnh Ninh Thuận dẫn giải Võ Tấn M là bị can đang bị khởi tố về

tội “mua bán trái phép chất ma túy” giao cho Nhà tạm giữ Công an thành phố P R -

Th C để tiếp tục giam theo thẩm quyền. Lúc này cả đội đang họp nên ông Đ phân

công cán bộ trực ban Hồ Bá Đ và cán bộ y tế Trần Thị T làm thủ tục tiếp nhận Võ

Tấn M. Qua kiểm tra, Trần Thị T xác định sức khỏe M bình thường, trên cơ thể không

phát hiện thương tích. Sau đó Đ giao M cho cán bộ quản giáo Lê Xuân T đưa vào

buồng giam số 12 giam chung với Nguyễn Văn L, Ngô Thanh Th và Nguyễn Xuân

T, còn Đ tiếp tục đi hoàn tất thủ tục giao nhận hồ sơ tạm gia M.

Ngay sau khi vào buồng giam số 12, M và Nguyễn Văn L xảy ra xô xát nhưng

được Ngô Thanh Th can ngăn nên không có thương tích xảy ra. Lúc này, ông Nguyễn

Hữu B, Phó Trưởng Công an thành phố Phan Rang Tháp Chàm, Trưởng Nhà tạm giữ

đi kiểm tra đột xuất khu giam giữ phát hiện M đánh nhau trong buồng giam đã yêu

cầu cán bộ quản giáo Lê Xuân T đưa M lên phòng hỏi cung số 2 làm việc. Sau đó,

ông Bình đi lên hội Tr nơi ông Nguyễn Văn Đức đang chủ trì họp yêu cầu ông Đ phân

công cán bộ xuống giải quyết việc M vi phạm nội quy. Tại phòng họp, ông Đ phân

công Vũ Trọng Tr và Ngô Văn S xuống làm việc với M, rồi tiếp tục chủ trì họp Đội.

Khi Tr và S xuống phòng hỏi cung số 2, thấy M đang đứng trong phòng đọc

nội quy. Tr hỏi M vì sao đánh nhau trong buồng giam thì M có thái độ không hợp tác

làm việc và không thừa nhận vi phạm, Tr đã dùng tay trái tát vào mặt M hai lần, mỗi

lần một cái. Thấy M không hợp tác làm việc với Tr, S tiến đến trước mặt M hỏi

nguyên nhân M đánh nhau thì M vẫn chối không thừa nhận nên S dùng tay phải tát

vào hai bên mặt M ba lần, mỗi lần từ hai đến ba cái và dùng tay đấm vào phía trước

ngực M nhiều cái để cho M sợ chấp hành đúng nội quy. Vào lúc này, ông Đ cho Đội

nghỉ họp giải lao và đi xuống phòng camera trích xuất hình ảnh xác định đối tượng

đánh nhau với M. Nguyễn Phạm Việt H và Trần Đức L ra đứng giải lao ở ngoài sân

nghe thấy ở khu vực phòng hỏi cung trong khu giam giữ có tiếng ồn ào nên đi xuống

xem. Khi tới phòng hỏi cung số 2, H thấy S đang đánh M, còn M thì la hét, có lời nói

xúc phạm cán bộ. H đi tới trước mặt M thì M đòi bỏ chạy ra ngoài cửa, H và Tr kéo

M lại giữa phòng. H hỏi M vì sao đánh nhau thì M không thừa nhận và tiếp tục xúc

phạm cán bộ nên H dùng tay phải tát vào mặt M ba cái thì M kêu lên “cán bộ giết

người”. Thấy vậy, H lấy ống nhựa (ống nhựa dẻo màu hồng, đường kính 2,7cm, dài

53cm, một đầu được hàn kín bằng nhựa, một đầu bên trong nhét một khúc gỗ dài

10cm được cố định bằng hai cây đinh) đang dựng ở cột tường bên phải trong phòng,

tay trái H cầm tay trái của M ghì xuống thấp, tay phải H cầm ống nhựa giơ lên cao

đánh liên tục vào hai bên vai, lưng, cổ của M. Sau đó, S giằng lấy ống nhựa từ tay

Hà, tay phải S cầm ống nhựa giơ lên cao đánh nhiều cái vào khu vực bắp tay, hông,

sườn, thắt lưng, đùi, đầu gối và cẳng chân bên trái của M. Ngay sau đó, L bước tới

hỏi M nguyên nhân đánh nhau nhưng M không trả lời thì L dùng tay phải tát qua tát

lại vào hai bên mặt M và dùng chân phải đang đi giày đá nhiều cái vào khu vực bụng,

sườn, ngực, mặt của M. Thấy L đá vào khu vực nguy hiểm trên người M, Tr kéo L

ra. Lúc này, Hồ Bá Đ tiếp tục được ông Đ phân công xuống lập biên bản với M đi

vào phòng hỏi cung số 2. Đ đứng trước mặt M hỏi lý do M đánh nhau thì M giơ chân

lên đá vào chân của Đ nên Đ dùng tay phải tát qua tát lại vào mặt M hai cái và dùng

chân đang đi giày đá vào ống chân M ba cái. Thấy M vẫn có thái độ chống đối, H lên

phòng ở lấy xuống một chiếc còng tay số 8 (có số E16-509, cấp cho Hà), H còng một

bên vào cổ tay trái của M, còn Tr bẻ tay phải của M ra sau và còng vào đầu còng còn

lại. Sau đó, Tr đi ra ngoài trong phòng còn S , L , Đ và H cùng khống chế đẩy M ngồi

xuống ghế để làm việc nhưng M không ngồi yên, liên tục dùng chân đạp vào bàn phía

trước nên S , L , Đ và H cùng đẩy M đến sát cửa sổ ở cuối phòng để còng hai tay M

vào thanh sắt ngang thứ tư trên cửa sổ (tính từ trên xuống) theo tư thế người thẳng

đứng, chân chạm đất, hai tay của M bị còng ở vị trí cao hơn đầu. Lúc này, M tiếp tục

la hét, hai chân liên tục đạp vào chân bàn và tủ sắt kê ở bên cạnh nên Đ đi lên phòng

ở lấy xuốn một chiếc còng chân và còng hai đầu còng vào hai cổ chân của M. Sau đó,

S đi lập danh chỉ bản can phạm, L và H tiếp tục lên họp đội, Tr được phân công ở lại

làm việc với Nguyễn Văn L, Đ làm việc với M, chiến sĩ nghĩa vụ Nguyễn Đoàn Anh

T làm nhiệm vụ canh gác bên ngoài phòng hỏi cung số 2. Khi Đ ngồi lập biên bản, M

tiếp tục giãy giụa, đạp chân vào tủ và bàn nên Đ đi lấy thêm chiếc còng chân thứ hai

xuống, một đầu còng được Đ móc vào giữa sợi dây xích của chiếc còng chân thứ

nhất, đầu còng còn lại Đ móc vào chân bàn để cố định cho M khỏi di chuyển nhưng

sau đó M tiếp tục giãy đạp làm bung đầu còng móc vào chân bàn. Khoảng 16 giờ 10

phút, Đ nhìn thấy M bị ngất xỉu, đầu gục sang một bên, gọi không trả lời nên Đ và

Nguyễn Đoàn Anh T mở còng tay, còng chân và đặt M nằm xuống nền nhà, chiến sĩ

nghĩa vụ Nguyễn Văn Toàn đi lên báo cho ông Đ biết. ông Đ phân công Trần Thị T

xuống cấp cứu cho M thì phát hiện M đã chết L sàng. M được đưa đi cấp cứu tại Bệnh

viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận, bác sĩ xác định M đã chết trước khi đến viện.

Sau khi phát hiện việc Võ Tấn M chết, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh

Ninh Thuận đã khám nghiệm hiện Tr, khám nghiệm tử thi và ra các quyết định trưng

cầu giám định liên quan. Ngày 14/9/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh

Thuận đã chuyển hồ sơ vụ án cho CQĐT VKSND tối cao giải quyết theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 119/TT ngày 15/11/2017, Trung

tâm pháp y tỉnh Ninh Thuận giám định về tử thi Võ Tấn M kết luận: đa chấn thương

phần mềm cơ thể, tụ máu tổ chức dưới da đầu tương ứng tổn thương vùng đầu bên

ngoài, ứ dịch não tủy, não phù nhẹ, hai phổi xẹp sung huyết, xuất huyết có nhiều nang

khí, lòng khí quản sung huyết, gan sung huyết, niêm mạc dạ dày sung huyết xuất

huyết. Vi thể: não, tiểu não sung huyết, phù quanh mạch, thiểu dưỡng cơ tim cấp,

sung huyết và phù phổi cấp, gan sung hhuyết và thoái hóa mỡ, sung huyết các tạng

cấp. Nguyên nhân chết: chết do phù phổi cấp, xẹp phổi gây suy hô hấp, trụy tim mạch

cấp tính, đa sung huyết phủ tạng trên cơ thể đa chấn thương.

Tại Công văn số 399/CV-TTPY ngày 26/12/2017, Trung tâm pháp y tỉnh Ninh

Thuận giải thích kết luận giám định pháp y về tử thi số 119/TT xác định: các tổn

thương trên cơ thể Võ Tấn M do vật tày, tay, chân tác động và do va đập mạnh vào

các song chắn cửa sổ và tường khi bị treo tay lên cao. Các tổn thương nội tại bên

trong do phù xẹp phổi thiếu dưỡng khí và rối loạn tuần hoàn huyết động đến các tạng

sung huyết cấp.

Quá trình điều tra các bị cáo Nguyễn Phạm Việt H, Vũ Trọng Tr và gia đình

các bị cáo Ngô Văn S, Hồ Bá Đ và Trần Đức L đã bồi thường cho gia đình người bị

hại tổng số tiền 238.700.000 Đ (mỗi người 47.740.000 đồng). Công an thành phố

Phan Rang Tháp Chàm đã hỗ trợ cho gia đình Võ Tấn M 14.100.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2018/HSST ngày 13 tháng 9 năm 2018, Tòa

án nhân dân tỉnh Ninh Thuận quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Ngô Văn S, Nguyễn Phạm Việt H, Trần Đức L, Hồ Bá Đ

và Vũ Trọng Tr đều phạm tội “Dùng nhục hình”.

Áp dụng khoản 3 Điều 298; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS năm

1999; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc

hội; khoản 3 Điều 7, điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Xử phạt bị cáo Ngô

Văn S 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/11/2017.

Áp dụng khoản 3 Điều 298; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS năm

1999. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phạm Việt H 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình

phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành án; xử phạt bị cáo Trần Đức L 06 (sáu) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành án; xử phạt bị cáo Hồ Bá

Đ 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/11/2017.

Áp dụng khoản 3 Điều 298; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47

BLHS năm 1999. Xử phạt bị cáo Vũ Trọng Tr 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành

hình phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành án.

Áp dụng khoản 4 Điều 298 BLHS năm 1999:

Cấm các bị cáo Ngô Văn S, Trần Đức L và Nguyễn Phạm Việt H đảm nhiệm

các chức vụ trong ngành Công an 03 (ba) năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

Cấm bị cáo Hồ Bá Đ đảm nhiệm các chức vụ trong ngành Công an 02 (hai)

năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

Cấm bị cáo Vũ Trọng Tr đảm nhiệm các chức vụ trong ngành Công an 01

(một) năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 42 BLHS năm 1999; các Điều 357,

468, 584, 585, 586, 591 Bộ luật dân sự năm 2015.

Ghi nhận sự thỏa thuận giữa đại diện hợp pháp của bị hại và các bị cáo. Các

bị cáo Ngô Văn S, Trần Đức L, Nguyễn Phạm Việt H, Hồ Bá Đ và Vũ Trọng Tr, mỗi

bị cáo có trách nhiệm tiếp tục bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại là bà Phạm

Thị Thu H 108.000.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và

quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 20/9/2018 bị cáo Vũ Trọng Tr kháng cáo xin được hưởng án treo. Ngày

21/9/2018 các bị cáo Trần Đức L và Nguyễn Phạm Việt H kháng cáo xin giảm nhẹ

hình phạt và xin xem xét lại phần trách nhiệm dân sự.

Ngày 26/9/2018 các bị cáo Ngô Văn S và Hồ Bá Đ kháng cáo xin giảm nhẹ

hình phạt và xin xem xét lại phần trách nhiệm dân sự.

Ngày 25/9/2018 đại diện hợp pháp của bị hại, bà Phạm Thị Thu H kháng cáo

đề nghị chuyển tội danh từ “Tội dùng nhục hình” sang tội “Giết người” với tình tiết

định khung tăng nặng phạm tội “có tính chất côn đồ” và “có tính chất đê hèn”; và

xem xét trách nhiệm hình sự đối với ông Nguyễn Văn Đức và ông Nguyễn Hữu B.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Ngô Văn S, Hồ Bá Đ, Trần Đức L và

Nguyễn Phạm Việt H xin giảm nhẹ hình phạt, và xin xem xét lại phần trách nhiệm

dân sự để khấu trừ số tiền 47.740.000 Đ đã bồi thường; bị cáo Vũ Trọng Tr xin được

hưởng án treo, với lý do:

Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo Ngô Văn S đã tiếp tục bồi thường 10.000.000 Đ

khắc phục một phần hậu quả, bị cáo đã ăn năn hối cải, bản thân là lao động chính

trong gia đình, hòan cảnh gia đình khó khăn.

Bị cáo Nguyễn Phạm Việt H tiếp tục bồi thường 5 triệu đồng; hành vi của bị

cáo H có phần hạn chế, bị cáo mới ra Tr công tác chưa được 10 tháng chưa có kinh

nghiệm, là lao động chính trong gia đình.

Bị cáo Trần Đức L không nghĩ hậu quả chết người xảy ra, đã thấy sai, đã ăn

năn hối cải.

Bị cáo Hồ Bá Đ đã tiếp tục bồi thường 20 triệu đồng, bị cáo chỉ đánh vào vùng

không nguy hiểm, đã ăn năn hối cải khi nạn nhân chết.

Bị cáo Vũ Trọng Tr tiếp tục bồi thường 40 triệu đồng, chỉ tát 2 cái vào má nạn

nhân, không ảnh hưởng đến sức khỏe của bị hại; bị cáo không có động cơ cá nhân,

chỉ bộc phát.

Đại diện hợp pháp của bị hại giữ nguyên kháng cáo, yêu cầu chuyển tội danh

“Tội dùng nhục hình” sang tội “Giết người” vì các bị cáo đánh chết người bằng tay

chân, và bằng thanh gỗ bọc nhựa, còng tay chân bị hại để đánh là rất man rợ. Còn các

ông Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Hữu B đã thiếu trách nhiệm để xảy ra hậu quả đặc

biệt nghiêm trọng nên cần xem xét trách nhiệm về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả

nghiêm trọng.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội

“Tội dùng nhục hình” là có căn cứ đúng pháp luật. Về trách nhiệm dân sự, đại diện

hợp pháp bị hại yêu cầu bồi thường 539 triệu Đ nhưng gia đình các bị cáo đã cùng

nhau bồi thường 238 triệu Đ để khắc phục hậu quả, mỗi bị cáo đã bồi thường là

47.740.000 Đ nhưng chưa khấu trừ. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp của

bị hại Đ ý khấu trừ cho mỗi bị cáo khoản tiền 47.740.000 đồng. Do đó, đề nghị Hội

Đ xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo về xin giảm nhẹ hình phạt và xin

hưởng án treo; không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại về chuyển

tội danh sang từ “ Dùng nhục hình” thành tội “Giết người”, giữ nguyên bản án sơ

thẩm về tội danh và hình phạt; chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo sửa bản

án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo Ngô Văn S, Trần Đức L và Hồ Bá Đ thống nhất

với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp

pháp của bị hại chuyển tội danh từ “Tội dùng nhục hình” thành tội “Giết người”.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Phạm Việt H trình bày, các bị cáo bị xét

xử về tội “Dùng nhục hình” là có căn cứ, bị cáo H có dùng ống nhựa đánh vào vai

của bị hại để răn đe cho bị hại chấp hành, làm việc. Bị cáo H là bị cáo nhỏ tuổi nhất,

có nhân thân tốt, hoàn cảnh gia đình khó khăn, mẹ bệnh tật; sau khi xét xử sơ thẩm

đã tiếp tục bồi thường 5 triệu Đ khắc phục hậu quả, đề nghị Hội Đ xét xử chấp nhận

kháng cáo của bị cáo H giảm nhẹ cho bị cáo H một phần hình phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Vũ Trọng Tr trình bày, trước và sau khi xét xử sơ

thẩm bị cáo Tr đã bồi thường 87.740.000 đồng, khắc phục hậu quả. Trong quá trình

điều tra đã xác định bị cáo Tr đã ngăn cản, không cho L đá vào người của bị hại; hậu

quả chết người xảy ra khi Tr đã rời khỏi hiện Tr. Bị cáo Tr có vai trò hạn chế, nhiều

tình tiết giảm nhẹ và nhân thân tốt đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định

tại Điều 65 BLHS. Đề nghị Hội Đ xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo, cho bị cáo

Tr được hưởng án treo.

Đại diện hợp pháp của bị hại trình bày, của các bị cáo đã dùng tay, chân, thanh

gỗ bọc nhựa đánh người, hậu quả chết người đã xảy ra, và các bị cáo còng tay, chân

làm nạn nhân không thể chống đỡ là hành vi giết người rất man rợ. Hành vi của các

bị cáo đã cấu thành tội “Giết người” theo quy định tại Điều 93 BLHS năm 1999,

nhưng Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 298 BLHS năm 1999 là áp dụng pháp luật

không đúng. Ngoài ra, nếu ông Nguyễn Hữu B, Nguyễn Văn Đức có trách nhiệm

nhiều hơn trong công việc được giao thì hậu quả sẽ không xảy ra, do đó việc không

truy tố các ông Bình, ông Đ về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”

theo quy định tại Điều 285 BLHS năm 1999 là bỏ lọt tội phạm. Ngoài ra, theo khám

nghiệm tử thi thì có thương tích tại vùng đầu, nhưng không có bị cáo nào thừa nhận

đã đánh vào vùng đầu của bị hại; cần triệu tập người làm chứng Nguyễn Văn L tham

gia phiên tòa và trích xuất camera phòng hỏi cung vì các bị cáo dùng cây sắt bọc nhựa

đánh, khi còng treo tay thì không cho bị hại mặc quần áo.

Do đó, đề nghị Hội Đ xét xử hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, chuyển tội

danh từ “Tội dùng nhục hình” thành tội “Giết người”.

Đại diện hợp pháp của bị hại bổ sung, nếu không chỉ đạo thì công an sẽ không

có đánh người vì đánh phạm là không được phép. Các ông Đ, ông Bình quản lý nhưng

để chết người mà không có trách nhiệm gì là không thể chấp nhận được và gia đình

chúng tôi chưa nhận được Đ nào tiền bồi thường, mà chỉ có việc lo ma chay.

Đại diện Viện kiểm sát tranh luận, vẫn giữ nguyên quan điểm về tội danh, các

luật sư đều thống nhất là bị cáo đang thi hành công vụ, không có ý thức tước đoạt

sinh mạng của bị hại và kết luận giám định pháp y đã nêu rõ nguyên nhân chết của

Võ Tấn M nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Dùng nhục hình” là có

căn cứ. Còn bị cáo Tr đã tát 2 tát vào mặt bị hại, còng tay, tạo điều kiện cho các bị

cáo khác dùng vũ lực tấn công bị hại nên bị cáo Tr xin hưởng án treo vì vai trò hạn

chế là không có căn cứ.

Đại diện hợp pháp của bị hại tranh luận, hậu quả chết người xảy ra nên các bị

cáo phải chịu trách nhiệm về tội giết người theo hướng dẫn của Nghị quyết số

04/HĐTP năm 1986 của Hội Đ Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, cần chuyển tội

danh “Giết người” cho đúng quy định của pháp luật và để răn đe.

Nhận định của Tòa án cấp cao thành phố Hồ Chí Minh:

1. Về yêu cầu chuyển tội danh từ tội “Dùng nhục hình” thành tội “Giết người”:

Võ Tấn M là bị can đang tạm giam để điều tra về hành vi “Mua bán trái phép

chất ma túy”. Tại phòng tạm giam, Võ Tấn M đã có hành vi đánh nhau với bị can

khác. Để tiến hành lập biên bản, lấy lời khai của bị can Võ Tấn M về hành vi gây gỗ

đánh nhau khi tạm giam, nhưng do M có thái độ bất hợp tác dẫn đến các bị cáo Ngô

Văn S, Hồ Bá Đ và Vũ Trọng Tr, là cán bộ Đội cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ

tư pháp Công an thành phố Phan Rang, được giao nhiệm vụ lập biên bản, đã dùng tay

chân và công cụ hỗ trợ đánh M. Còn Trần Đức L, Nguyễn Phạm Việt H, đã giúp sức

cho Ngô Văn S, Hồ Bá Đ và Vũ Trọng Tr trong khi thi hành công vụ, đã có hành vi

dùng vũ lực trái phép làm bị can Võ Tấn M chết.

Do công vụ của các bị cáo không phải là công vụ thông thường mà là nhiệm vụ

trong hoạt động điều tra, được BLHS điều chỉnh bằng một chương riêng – Chương

XXII “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp” và được BLTTHS quy định có CQĐT

riêng tại khoản 3 Điều 110 - Thẩm quyền điều tra thuộc về CQĐT của VKSND tối cao.

Các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã quy kết hành vi của 05 bị cáo

dùng vũ lực gây đau đớn về thể xác, gây ra cái chết cho bị can Võ Tấn M xảy ra khi

thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tạm giam, trong hoạt động điều tra, là hành vi xâm

phạm hoạt động đúng đắn của CQĐT trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân và cấu thành tội “Dùng nhục

hình” được quy định tại Điều 298 thuộc Chương XXII “Các tội xâm phạm hoạt động

tư pháp” của BLHS là có căn cứ và đúng pháp luật. Hậu quả chết người của vụ án

được xem xét là tình tiết định khung tăng nặng “gây hậu quả đặc biệt nghiêm

trọng” được quy định tại khoản 3 của điều luật chứ không cấu thành tội “Giết người”.

Theo quy định về tội “Dùng nhục hình” tại khoản 4 Điều 373 BLHS năm

2015: “Phạm tội làm người bị nhục hình chết, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc

tù chung thân”. Do BLHS năm 2015 lùi hiệu lực thi hành và theo quy định tại điểm c

khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 và điểm c khoản 4 Điều

1 của Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc Hội, quy định tại khoản

4 Điều 373 BLHS năm 2015 có hình phạt nặng hơn nhiều so với hình phạt được quy

định tại khoản 3 Điều 298 BLHS năm 1999, nên không áp dụng đối với những hành vi

phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01/ 01/2018 của các bị cáo trong vụ án này.

Đại diện theo ủy quyền của đại diện hợp pháp của bị hại kháng cáo yêu cầu

chuyển tội danh, xét xử các bị cáo về tội “Giết người” là không có căn cứ bởi lẽ, khi

thực hiện công vụ, các bị cáo dùng nhục hình, dẫn đến chết người, chứ không cố ý

tước đoạt tính mạng của Võ Tấn M, hậu quả Võ Tấn M chết nằm ngoài ý thức chủ

quan của các bị cáo.

Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo về việc chuyển tội

danh từ tội “Dùng nhục hình” theo quy định tại Điều 298 BLHS thành tội “Giết

người” theo quy định tại Điều 93 BLHS của đại diện hợp pháp của bị hại.

2/ Về kháng cáo của các bị cáo Ngô Văn S, Trần Đức L, Nguyễn Phạm Việt

H, Hồ Bá Đ và Vũ Trọng Tr:

Hành vi phạm tội của các bị cáo Ngô Văn S, Trần Đức L, Nguyễn Phạm Việt

H, Hồ Bá Đ và Vũ Trọng Tr dùng nhục hình làm Võ Tấn M chết, là tình tiết định

khung tăng nặng “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” thuộc Tr hợp rất nghiêm trọng

quy định tại khoản 3 Điều 298 BLHS.

Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến hoạt động tư pháp, gây tác

động xấu đến uy tín của ngành Công an, gây bất bình trong dư luận xã hội mà còn

ảnh hưởng đến trật tự, trị an tại địa phương nên cần thiết phải xử phạt các bị cáo mức

án nghiêm khắc để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất rất nghiêm trọng của vụ án, vai

trò của các bị cáo trong vụ án này, trong đó:

Đối với bị cáo Ngô Văn S là người thực hiện hành vi phạm tội tích cực nhất,

dùng tay phải tát vào hai bên mặt M 3 lần mỗi lần từ 2 đến 3 tát, và dùng tay đấm vào

trước ngực M nhiều cái; S dằn lấy ống nhựa từ Hà, giơ lên cao đánh nhiều cái vào

khu vực bắp tay, hông, sườn, thắt lưng, đùi, đầu gối, và cẳng chân bên trái của M. Vì

vậy S phải chịu trách nhiệm chính liên quan đến cái chết của Võ Tấn M.

Đối với bị cáo Trần Đức L đã dùng tay phải tát qua tát lại hai bên mặt M, dùng

chân phải mang giày đá nhiều cái vào ngực, bụng, sườn, mặt của Võ Tấn M. Bị cáo

L thực hiện tội phạm với vai trò Đ phạm giúp sức tích cực không bằng S nên cũng

phải chịu trách nhiệm chính đối với cái chết của M.

Đối với bị cáo Nguyễn Phạm Việt H đã dùng tay, dùng ống nhựa đánh liên tục

vào hai bên khu vực vai, lưng, cổ của nạn nhân. H dùng tay phải tát vào mặt M 3 cái

thì M kêu cán bộ giết người, nên H lấy ống nhựa, ghì M xuống, đánh vào 2 bên vai,

lưng, cổ của M. Thấy M có thái độ chông đối H lên phòng lấy còng số 8, còng bên

tay trái. Bị cáo H thực hiện tội phạm với vai trò là Đ phạm giúp sức tích cực nên H

cũng phải chịu trách nhiệm chính đối với cái chết của M.

Đối với bị cáo Hồ Bá Đ dùng tay tát vào mặt Võ Tấn M 2 cái, dùng chân mang

giày đá vào ống chân của M 3 cái. Do M đạp, la hét nên Đ lên lầu lấy còng chân và

còng vào cổ chân của M, rồi sau đó M giãy giụa đạp, Đ tiếp tục lấy còng chân thứ

hai, còng chân M, móc đầu còng còn lại với chân bàn, M đạp bung đầu còng móc cào

chân bàn dùng còng để còng hai chân M lại. Tuy nhiên, hành vi dùng nhục hình của

bị cáo Đ là ở những vị trí ít gây nguy hiểm tính mạng cho nạn nhân hơn vì vậy Đ chịu

trách nhiệm ở mức độ thấp hơn S , L và Hà.

Đối với bị cáo Vũ Trọng Tr dùng tay tát vào mặt M dùng tay tát vào mặt M 2

lần, mỗi lần 1 cái và Tr bẻ tay phải M ra sau, còng vào đầu còng còn lại. Thấy L đá

nhiều cái vào khu vực nguy hiểm nên Tr kéo Trần Đức L không cho đá M, nên Tr

tham gia với vai trò hạn chế.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức

độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và hậu quả gây ra; đã xem xét các tình tiết tăng

nặng, giảm nhẹ và nhân thân của các bị cáo Ngô Văn S, Trần Đức L, Nguyễn Phạm

Việt H, Hồ Bá Đ và Vũ Trọng Tr.

Theo quy định Điều 298 BLHS có khung hình phạt ở khoản 3 là từ 05 năm

đến 12 năm tù. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Ngô Văn S 7 năm tù, Trần Đức L

6 năm tù, Nguyễn Phạm Việt H 6 năm tù, Hồ Bá Đ 5 năm tù là thỏa đáng, phù hợp

với vai trò và các tình tiết giảm nhẹ của từng bị cáo. Riêng bị cáo Vũ Trọng Tr tham

gia với vai trò hạn chế nên được áp dụng Điều 47 BLHS cho bị cáo hưởng mức án

dưới khung hình phạt, xử phạt Vũ Trọng Tr 3 năm tù là phù hợp.

Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Ngô Văn S, Trần Đức L, Nguyễn Phạm

Việt H, Hồ Bá Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo Tr xin được hưởng án treo

với lý do sau khi xét xử sơ thẩm đã bồi thường thêm để khắc phục một phần hậu quả,

nhưng tình tiết mới này là không đáng kể, không làm thay đổi tính chất rất nghiêm

trọng của vụ án, nên không có cơ sở chấp nhận.

Về kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại, yêu cầu xem xét trách nhiệm

hình sự đối với ông Nguyễn Hữu B, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự, Trưởng

Nhà tạm giữ Công an thành phố P R - Th C và ông Nguyễn Văn Đức, Đội trưởng đội

THAHS và HTTP, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an thành phố P

R - Th C về hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, yêu cầu

này đã CQĐT VKSND tối cao đặt ra giải quyết nhưng kết quả điều tra chưa đủ căn

cứ để xử lý hình sự đối với ông Bình và ông Đ và Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét

nên Tòa án cấp phúc thẩm không đặt ra để giải quyết.

3/ Về trách nhiệm dân sự:

Đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 539.000.000

Đ là các khoản mai táng phí, khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho gia đình của

bị hại và mỗi bị cáo phải bồi thường 108.000.00 đồng.

Các bị cáo Ngô Văn S, Trần Đức L, Nguyễn Phạm Việt H, Hồ Bá Đ và Vũ

Trọng Tr kháng cáo xin được khấu trừ số tiền mà mỗi bị cáo đã tự nguyện bồi thường

47.740.000 Đ cho gia đình bị hại và tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp của

bị hại Đ ý khấu trừ, nên các mỗi bị cáo còn phải bồi thường tiếp khoản tiền 60.300.000

Đ (108.000.000 Đ - 47.700.000 đồng).

Do đó, Hội Đ xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo sửa bản án

sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự.

Về án phí, do sửa bản án sơ thẩm nên các bị cáo không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 355 BLTTHS

- Không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại, bà Phạm Thị

Thu H; Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Ngô Văn S , Nguyễn Phạm

Việt H, Trần Đức L, Hồ Bá Đ và Vũ Trọng Tr.

- Giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần tội danh và hình phạt; sửa bản án sơ

thẩm về phần trách nhiệm dân sự.

Tuyên bố các bị cáo Ngô Văn S, Nguyễn Phạm Việt H, Trần Đức L, Hồ Bá Đ

và Vũ Trọng Tr đều phạm tội “Dùng nhục hình”.

Áp dụng: khoản 3 Điều 298; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS năm

1999; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc

hội; khoản 3 Điều 7, điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Xử phạt bị cáo Ngô

Văn S 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/11/2017.

Áp dụng: khoản 3 Điều 298; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS năm

1999. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phạm Việt H 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình

phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành án. Xử phạt bị cáo Trần Đức L 06 (sáu) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành án. Xử phạt bị cáo Hồ

Bá Đ 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/11/2017.

Áp dụng: khoản 3 Điều 298; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47

BLHS năm 1999. Xử phạt bị cáo Vũ Trọng Tr 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành

hình phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành án.

Áp dụng khoản 4 Điều 298 BLHS năm 1999:

Cấm các bị cáo Ngô Văn S, Trần Đức L và Nguyễn Phạm Việt H đảm nhiệm

các chức vụ trong ngành Công an 03 (ba) năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

Cấm bị cáo Hồ Bá Đ đảm nhiệm các chức vụ trong ngành Công an 02 (hai) năm sau

khi chấp hành xong hình phạt tù. Cấm bị cáo Vũ Trọng Tr đảm nhiệm các chức vụ

trong ngành Công an 01 (một) năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù.

Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng: Điều 42 BLHS năm 1999; các Điều 357, 468, 584, 585, 586, 591 Bộ

luật dân sự năm 2015.

Các bị cáo Ngô Văn S, Trần Đức L, Nguyễn Phạm Việt H, Hồ Bá Đ và Vũ

Trọng Tr, mỗi bị cáo có trách nhiệm tiếp tục bồi thường cho đại diện hợp pháp của

bị hại là bà Phạm Thị Thu H 60.300.000 đồng.

- Các bị cáo Ngô Văn S , Nguyễn Phạm Việt H, Trần Đức L, Hồ Bá Đ và Vũ

Trọng Tr không phải chịu 200.000 Đ án phí hình sự phúc thẩm.

- Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng

nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

(Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn)