VÀ ĐÀO TẠOC SƢ PHẠM HÀ NỘI

BOBỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

----------

VŨ THỊ NGA

A

CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI

QUÂN ĐỘI DƢỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 - 1884

LUẬN ÁN TIẾN S HOA HỌC ỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOPHẠM HÀ NỘỊ NGA

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

----------

VŨ THỊ NGA

CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI

QUÂN ĐỘI DƢỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 - 1884

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 9.22.90.13

LUẬN ÁN TIẾN S HOA HỌC ỊCH SỬ

ị Thu Thủy

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

1.PGS.TS Phan Ngọc Huyền

2.TS. Nguyễn Thị Thu Thủy

HÀ NỘI - 2021

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu sử

dụng trong Luận án hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Những kết

quả của Luận án chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác.

Tác giả

Vũ Thị Nga

ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Phan Ngọc Huyền và TS Nguyễn

Thị Thu Thủy đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và triển khai

Luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn thành viên trong Hội đồng đánh giá Luận án các

cấp đã có những ý kiến góp ý quý báu để tôi hoàn thiện Luận án.

Tôi xin trân trọng cảm ơn cán bộ Trung tâm Lưu trữ quốc gia I và cán bộ Thư

viện Quốc gia Việt Nam đã giúp tôi tiếp cận tài liệu để bổ sung và triển khai Luận án.

Tôi xin cảm ơn cơ quan công tác, gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đồng môn đã

tạo điều kiện, ủng hộ tôi trong suốt thời gian học tập vừa qua!

Hà Nội, tháng 8 năm 2021

Tác giả

Vũ Thị Nga

iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Viết đầy đủ

Châu bản triều Nguyễn Châu bản

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ Hội điển

Hội điển tục biên Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên

Nhà xuất bản Nxb

Đại Việt sử ký toàn thư Toàn thư

Đại Nam thực lục Thực lục

iv

Bảng 2.1. Các chức quan và phẩm hàm của bộ Binh dưới triều Nguyễn .................. 42

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.2. Tổ chức một Doanh của quân đội triều Nguyễn ....................................... 43

Bảng 2.3. Số lượng đơn vị và quân lính trong một doanh ........................................ 44

Bảng 2.4. Số quân thuộc ngạch Thân binh dưới triều Nguyễn ................................. 45

Bảng 2.5. Số lượng Tinh binh đóng ở các địa phương ............................................. 48

Bảng 2.6. Số lượng quân lính ở các địa phương dưới triều Nguyễn ........................ 50

Bảng 3.1. Định mức lương tiền, gạo của võ quan triều Gia Long, ........................... 56

Minh Mệnh, Tự Đức ................................................................................................. 56

Bảng 3.2. Lương của công thần về hưu ban hành năm Gia Long thứ nhất (1802) ... 62

Bảng 3.3. Định mức lương đối với quan văn –võ về hưu ban hành năm Tự Đức thứ 32

(1879) ......................................................................................................................... 64

Bảng 3.4. Định mức cấp tuất cho võ quan năm Tự Đức thứ 12 (1859) .................... 70

Bảng 3.5. Chế độ truy tặng phẩm hàm cho võ quan bị cách chức trận vong ban hành

năm Tự Đức thứ 27 (1874) ....................................................................................... 71

Bảng 3.6. Định mức ban cấp cho quan văn võ bị nạn bão được ban hành năm Tự

Đức thứ 26 (1873) ..................................................................................................... 74

Bảng 4.1. Lương lính ở Kinh ban hành năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) .................. 88

Bảng 4.2. Lương của lính mộ Bắc kỳ ban hành năm Tự Đức thứ 32 (1879) ........... 90

Bảng 4.3. Lương điền của mỗi binh lính được ban hành năm Gia Long thứ 8 (1809)

................................................................................................................................... 92

Bảng 4.4.. Lương điền của binh lính ban hành năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) ...... 93

Bảng 4.5. Lương điền của binh lính ban hành năm Minh Mệnh thứ 17 (1836) ....... 94

v

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Số lượng quân thuộc Cấm binh qua các triều vua ................................ 46

Biểu đồ 2.2. Số lượng quân thuộc Tinh binh qua các triều vua ................................ 49

Biểu đồ 2.3. Tổng hợp số lượng các ngạch quân ở trung ương thời Nguyễn ........... 49

Biểu đồ 2.4. Tổng số quân lính dưới triều Nguyễn qua các triều vua ...................... 51

Biểu đồ 3.1. Sự biến động của định mức lương tiền võ quan qua các triều vua Gia

Long, Minh Mệnh và Tự Đức ................................................................................... 57

Biểu đồ 3.2. Định mức lương điền của võ quan ban hành năm Gia Long thứ 3 (1804) .. 59

Biểu đồ 3.3. Định mức tiền may quần áo cho võ quan năm Gia Long thứ 17 (1818)

................................................................................................................................... 60

Biểu đồ 3.4. Định mức tiền tuất cho quan viên dưới triều Gia Long và Tự Đức ..... 67

Biểu đồ 3.5. Thưởng cho các công thần Vọng các năm Gia Long thứ nhất (1802) . 75

Biểu đồ 3.6. Số lượng thuộc binh được cấp cho công thần về hưu ban hành năm Gia

Long thứ nhất (1802)................................................................................................. 83

Biểu đồ 4.1. Khẩu phần ruộng đất của các ngạch Cấm binh và Tinh binh năm Gia

Long thứ 3 ( 1804) .................................................................................................... 91

vi

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... iii

DANH MỤC BẢNG .............................................................................................................. iv

DANH MỤC BIỂU ĐỒ ......................................................................................................... v

MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1

Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƢ IỆU .... 9

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................................... 9

1.1.1. Một số nghiên cứu của các học giả nước ngoài ................................................ 9

1.1.2. Những nghiên cứu của các học giả trong nước. .............................................. 12

1.2. Nguồn tư liệu nghiên cứu đề tài ......................................................................... 20

1.2.1. Nguồn tư liệu được biên chép trước triều Nguyễn ......................................... 20

1.2.2. Nguồn tư liệu biên chép trực tiếp dưới thời nhà Nguyễn ............................... 22

1.3. Những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu đề tài ..................................................... 28

Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 30

Chƣơng 2. BỐI CẢNH ỊCH SỬ THẾ Ỷ XIX VÀ TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI

TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802-1884 ..................................................................... 31

2.1. Bối cảnh lịch sử thế kỷ XIX ............................................................................... 31

2.1.1. Bối cảnh thế giới và khu vực .......................................................................... 31

2.1.2. Bối cảnh trong nước thế kỷ XIX ..................................................................... 34

2.2. Tổ chức quân đội dưới triều Nguyễn ................................................................. 38

2.2.1. Phân loại, phiên chế các ngạch quân ............................................................... 38

2.2.2. Cơ cấu, tổ chức ................................................................................................ 42

2.2.3. Số lượng, nhiệm vụ ......................................................................................... 44

Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................................. 52

Chƣơng 3. CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI VÕ QUAN TRONG QUÂN ĐỘI DƢỚI

TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 -1884 .................................................................... 53

3.1. Chế độ đãi ngộ bằng lương cho võ quan ....................................................................... 53

3.1.1. Chế độ đãi ngộ bằng lương đối với võ quan đương chức ......................................... 53

3.1.2. Chế độ lương đối với võ quan về hưu ......................................................................... 61

3.2. Chế độ đãi ngộ ngoài lương ............................................................................................ 64

vii

3.2.1. Chế độ phụ cấp .............................................................................................................. 64

3.2.2. Chế độ trợ cấp ............................................................................................................... 65

3.2.3. Chế độ khen thưởng ...................................................................................................... 74

Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................................................. 85

Chƣơng 4. CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI BINH LÍNH CỦA TRIỀU NGUYỄN

GIAI ĐOẠN 1802-1884 ........................................................................................................ 86

4.1. Chế độ đãi ngộ bằng lương cho binh lính ...................................................................... 86

4.1.1.Chế độ lương cho binh lính tại ngũ .............................................................................. 86

4.1.2. Chế độ lương đối với binh lính xuất ngũ .................................................................... 96

4.2. Chế độ đãi ngộ ngoài lương đối với binh lính ............................................................... 96

4.2.1. Chế độ phụ cấp .............................................................................................................. 96

4.2.2. Chế độ trợ cấp ............................................................................................................. 102

4.2.3. Chế độ khen thưởng .................................................................................................... 104

Tiểu kết chƣơng 4 ................................................................................................................ 115

Chƣơng 5. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI QUÂN

ĐỘI DƢỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802-1884 ............................................. 116

5.1. Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn trong cái nhìn so sánh lịch đại ............................. 116

5.1.1. Sự khác nhau của chế độ đãi ngộ đối với quân đội qua hai giai đoạn trước và sau

năm 1858 ................................................................................................................................ 116

5.1.2. Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với quân đội trong mối tương quan với các

triều đại trước ......................................................................................................................... 119

5.2. Một số đặc điểm về chế độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn ................. 124

5.2.1. Chế độ đãi ngộ đối với quân đội thể hiện sự phân biệt thứ bậc rõ rệt gắn với từng

đối tượng cụ thể ..................................................................................................................... 124

5.2.2. Chế độ đãi ngộ đối với quân đội thể hiện sự quân tâm đặc biệt của triều Nguyễn

đối với quân đội ..................................................................................................................... 127

5.2.3. Chế độ đãi ngộ đối với quân đội triều Nguyễn thể hiện sự linh hoạt nhằm đảm

bảo đời sống cho binh lính (đặc biệt là đối với binh lính làm nhiệm vụ chiến đấu) .... 130

5.2.4. Chế độ đãi ngộ dành cho quân đội phản chiếu khách quan bức tranh xã hội và tiềm

lực kinh tế của đất nước. ....................................................................................................... 134

5.3.Những tác động của chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn giai đoạn

1802-1884 .............................................................................................................................. 136

viii

5.3.1. Tác động tích cực ........................................................................................................ 136

5.3.2. Một số mặt trái của chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho quân đội ............ 138

Tiểu kết chƣơng 5 ................................................................................................................ 145

KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 146

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 150

PHỤ ỤC

1

MỞ ĐẦU

1. ý do chọn đề tài

Triều Nguyễn là triều đại cuối cùng trong lịch sử chế độ quân chủ ở Việt

Nam. Từ khi Nguyễn Ánh lật đổ vương triều Tây Sơn, lập ra nhà Nguyễn (năm

1802) đến khi Bảo Đại thoái vị (năm 1945), triều Nguyễn tồn tại 143 năm với 2 thời

kỳ lịch sử: quân chủ độc lập (1802 - 1884) và thuộc địa nửa phong kiến (1884 -

1945). Trong thời kỳ độc lập, dưới sự trị vì của các vua từ Gia Long, Minh Mệnh,

Thiệu Trị đến Tự Đức, triều Nguyễn đã xây dựng được một bộ máy nhà nước quân chủ

tập quyền cao độ với tổ chức hành chính thống nhất và lực lượng quân đội khá hoàn bị.

Trong đó, yếu tố quan trọng hàng đầu, ảnh hưởng đến sự vững mạnh quân đội triều

Nguyễn đó chính là chế độ đãi ngộ của nhà nước dành cho võ quan và binh lính.

Được xây dựng trong thời kỳ suy yếu của chế độ quân chủ, kinh tế nông

nghiệp vẫn là chủ đạo dù diện tích ruộng đất ngày càng bị thu hẹp. Bên cạnh đó,

thiên tai mất mùa liên tiếp xảy ra, nông dân và các thành phần khác trong xã hội liên

tục nổi dậy chống lại triều đình. Trong bối cảnh như vậy, đời sống của võ quan và

binh lính như thế nào? Chế độ đãi ngộ của nhà nước đối với quân đội có thực sự

phù hợp? Họ có thực sự được nhà nước quan tâm? Đây chính là những câu hỏi cần

được giải đáp bằng những cứ liệu khách quan và khoa học.

Nghiên cứu về vấn đề này sẽ góp phần bổ sung nguồn tư liệu nghiên cứu về các

biện pháp và chính sách đãi ngộ trong xây dựng quân đội dưới triều Nguyễn; đồng thời

đánh giá cụ thể hơn chế độ đãi ngộ cho quân đội có ảnh hưởng như thế nào đến tổ chức,

trình độ tác chiến của các lực lượng vũ trang dưới vương triều này. Thông qua tìm hiểu

vấn đề này, người đọc có thể hiểu được tình hình chính trị, kinh tế và xã hội Việt Nam

dưới sự cai trị của vương triều Nguyễn. Đây là một trong những cách tiếp cận giúp

chúng ta có cách nhìn đa chiều hơn về lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX.

Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động,

không ít thế lực thù địch vẫn luôn tìm cách phá hoại nền độc lập và chủ quyền biên

giới lãnh thổ của Việt Nam thì việc xây dựng một lực lượng quân đội chính quy tinh

nhuệ có tinh thần kiên định vững vàng là vấn đề được Đảng và nhà nước rất coi

2

trọng. Để làm được điều đó, chính sách lương thưởng và ưu đãi dành cho quân đội,

nhất là đối với chiến sĩ đang làm nhiệm vụ ở vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, hải

đảo giúp cho họ yên tâm công tác được nhà nước đặc biệt quan tâm. Việc tìm hiểu

chính sách đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho quân đội (đặc biệt là đối với các binh

lính đi làm nhiệm vụ lâu ngày, làm nhiệm vụ ở nơi khó khăn vất vả) có thể giúp người

đọc rút ra được một số bài học thiết thực trong công tác tiền lương và chính sách đối

với thương binh liệt sĩ, người có công với cách mạng trong giai đoạn hiện nay.

Bên cạnh đó, việc tìm hiểu chính sách đãi ngộ dành cho quân đội của triều

Nguyễn sẽ là cơ sở tham khảo cho việc thực hiện chính sách đãi ngộ đối với chính

sách đối với quân đội trong giai đoạn hiện nay nhất là chính sách đối với thương

bệnh binh gia đình liệt sĩ, chính sách cho người có công với cách mạng và thân

nhân của bộ đội khi mà dân tộc vẫn còn phải khắc phục những hậu quả chiến tranh

do hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ để lại.

Kết quả việc nghiên cứu của đề tài cũng góp phần bổ sung nguồn tài liệu có

giá trị khoa học phục vụ trực tiếp cho việc nghiên cứu, giảng dạy và tham khảo về

vương triều Nguyễn ở đại học, cao đẳng và trường phổ thông.

Xuất phát từ những lí do trên, nghiên cứu sinh quyết định chọn vấn đề “Chế

độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802 - 1884” làm đề tài

nghiên cứu cho luận án Tiến sĩ của mình.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Luận án nhằm mục đích mô tả lại bức tranh về bối cảnh lịch sử cũng như nội

dung các chính sách đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho quân đội trong giai đoạn

1802-1884.

Bên cạnh đó, luận án hướng đến việc phân tích và chỉ ra được những nỗ lực,

cố gắng của triều đình nhà Nguyễn trong việc thi hành chế độ đãi ngộ cho quân đội.

Đồng thời, trên cơ sở tiếp cận từ mối quan hệ đa diện giữa tài chính và quốc phòng,

giữa ngân sách kinh tế và tiềm lực quân đội, đề tài hướng đến việc nhận thức lại và

nhận thức rõ hơn về những đãi ngộ về tài chính của vương triều Nguyễn dành cho

3

quân đội. Đây cũng là cơ sở nhằm góp phần đưa lại những nhận định, đánh giá

khách quan và rõ ràng hơn về vương triều này.

Kết quả nghiên cứu của luận án nhằm rút ra được những bài học kinh nghiệm

quý báu trong việc đầu tư và xây dựng nền quốc phòng an ninh quốc gia của nhà

nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài nhằm giải quyết những nhiệm vụ dưới đây:

Thứ nhất, phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến chế độ đãi ngộ đối với quân

đội của vương triều Nguyễn như: bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước, cơ cấu tổ

chức quân đội của triều Nguyễn.

Thứ hai, trình bày và phân tích một cách hệ thống những nội dung của các

chính sách liên quan đến chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn cho quân đội như: chế độ

đãi ngộ bằng lương; chế đãi ngộ ngoài lương (gồm phụ cấp, trợ cấp và chế độ khen

thưởng dành cho võ quan (gồm võ quan đương chức và về hưu) và binh lính (gồm

binh lính đang làm nhiệm vụ và xuất ngũ).

Thứ ba, phân tích, so sánh và đánh giá đặc điểm, những tác động tích cực

cũng như hạn chế của chính sách đãi ngộ đối với quân đội của vương triều Nguyễn

trong thế kỉ XIX.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc thực thi chế độ đãi ngộ của triều

Nguyễn đối với quân đội giai đoạn 1802-1884. Hiện nay, khái niệm quân đội có thể

hiểu theo nghĩa rộng tuy nhiên trong nội dung của đề tài này chỉ đề cập đến 2 đối

tượng là võ quan và binh lính.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về thời gian: Đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian từ khi vương triều

được thành lập năm 1802 đến năm 1884 khi triều Nguyễn thất bại trong cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Về không gian: Các tư liệu và nội dung đề cập trong luận án trên lãnh thổ nhà

nước Đại Nam dưới triều Nguyễn.

4

Về nội dung:

Quân đội của một quốc gia bao gồm nhiều nhân tố như tổ chức quân đội, sức

mạnh quân đội. Sức mạnh quân đội gồm yếu tố con người và trang bị vũ khí. Yếu tố

con người bao gồm lực lượng chỉ huy và lực lượng chiến đấu. Dưới thời quân chủ,

lực lượng này bao gồm võ quan (chỉ huy) và binh lính (tham gia thực hiện những

nhiệm vụ của quân đội). Trong khuôn khổ của luận án này, tác giả chỉ đề cập đến

yếu tố con người trong quân đội (tức võ quan và binh lính).

Chế độ đãi ngộ đối với quân đội có thể hiểu là những chính sách ưu đãi của

nhà nước nhằm xây dựng và củng cố quân đội. Tuy nhiên, khuôn khổ của luận án

này chỉ đề cập đến chế độ đãi ngộ của nhà nước đối với “những lao động đặc biệt”

của quân đội. Đó là các chính sách, biện pháp đãi ngộ dành cho võ quan và binh

lính. Trong đó bao gồm chế độ đãi ngộ bằng lương, và đãi ngộ ngoài lương (khen

thưởng, trợ cấp và phụ cấp). Một số nội hàm khái niệm liên quan đến đãi ngộ như:

Lương: Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (chủ biên), là khoản

tiền công trả định kì, thường là hàng tháng cho cán bộ công nhân viên [196; 985].

Lương trong quân đội thời kì quân chủ còn được gọi bằng thuật ngữ lương hướng.

Lương hướng được hiểu theo 2 nghĩa, nghĩa thứ nhất là lương thực dùng cho quân

đội, nghĩa thứ hai chính là lương bổng.

Phụ cấp và trợ cấp: Nếu phụ cấp được hiểu là nguồn cấp thêm ngoài khoản

chính (ví dụ tiền phụ cấp) thì trợ cấp được hiểu là khoản tiền (gồm tiền trợ cấp hàng

tháng, trợ cấp khó khăn đột xuất) được cấp cho một đối tượng nào đó để giúp đỡ họ

khi khó khăn. Dưới thời quân chủ, trợ cấp có nhiều loại như: cấp tuất nghĩa là

thương xót mà trợ cấp như tuất dưỡng, lân tuất, tiền tuất, tử tuất; tuất dưỡng là cứu

giúp mà nuôi nấng; tiền tuất là tiền trợ cấp cho thân nhân liệt sĩ hoặc thân nhân của

các viên chức nhà nước bị chết khi đang làm nhiệm vụ [196;1547].

Khen thưởng: được hiểu bao gồm cả nội hàm ngợi khen và ban thưởng bằng

hiện vật sao cho xứng đáng với thành tích công lao.

Với những nội hàm của khái niệm đã nêu trên, trong khuôn khổ của luận án

này, tác giả giới hạn chỉ đề cập đến những nội dung sau:

Chế độ đãi ngộ bằng lương. Đây là khoản ban cấp định kỳ cho võ quan và

5

binh lính của triều Nguyễn bao gồm tiền, gạo, ruộng đất và quân trang.

Chế đãi ngộ ngoài lương bao gồm phụ cấp, trợ cấp và khen thưởng. Trong đó

phụ cấp là khoản hỗ trợ của triều đình để bù đắp yếu tố về điều kiện lao động, mức

độ phức tạp của công việc, điều kiện sinh hoạt mà chưa được tính đến hay chưa

được tính đầy đủ trong mức lương. Trợ cấp là khoản hỗ trợ của triều đình cho võ

quan và binh lính khi rơi vào tình trạng không hoặc tạm ngừng lao động. Khen

thưởng là những khoản ban cấp ngoài lương của triều đình cho võ quan và binh lính

khi họ có thành tích, công lao hay trong những dịp trọng đại của đất nước.

Trong giới hạn của một luận án, công trình này không khảo cứu về những

vấn đề chi dùng ngân sách của triều Nguyễn cho quốc phòng, như chi mua sắm vũ

khí trang thiết bị, chi xây dựng các công trình phòng thủ, chi cấp nuôi dưỡng chăm

sóc một một số đội quân như voi ngựa của đội tượng binh và kị binh.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Dựa trên phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án nghiên cứu

về hoàn cảnh lịch sử, nội dung, đặc điểm và những tác động của chế độ đãi ngộ

dưới triều Nguyễn đối với quân đội trong thời kỳ độc lập từ 1802 đến 1884.

Luận án được thực hiện thông qua việc kết hợp nhiều phương pháp nghiên

cứu đặc trưng của ngành Lịch sử như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic,

phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu các nguồn tư

liệu Trong đó, hai phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp lịch sử và

phương pháp logic.

Phương pháp lịch sử: Đây là phương pháp quan trọng nhằm tái hiện lại một

cách chính xác, có hệ thống hoàn cảnh, nội dung và mục đích chế độ đãi ngộ của

triều Nguyễn đối với quân đội trong giai đoạn từ năm 1802 đến 1884 gắn liền với

thời gian cai trị của 4 triều vua: Gia Long (1802-1820), Minh Mệnh (1820-1841),

Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1847-1883). Sử dụng phương pháp lịch sử giúp

cho việc trình bày nội dung của đề tài theo đúng trình tự thời gian. Qua phương

pháp này, chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn dành quân đội được đặt trong tổng thể

mối tương quan giữa bối cảnh lịch sử - nội dung của chính sách - tác động của

những chính sách đó tới chính trị, kinh tế và xã hội. Điều này giúp cho việc tìm hiểu

6

và đánh giá mỗi chính sách được triều Nguyễn ban hành một cách chính xác và

khách quan.

Phương pháp logic: Đây là phương pháp sử dụng các luận điểm khoa học

nhằm xem xét, nghiên cứu, khái quát, lý giải các sự kiện. Từ đó, đánh giá, rút ra kết

luận, chỉ ra bản chất, khuynh hướng tất yếu, quy luật vận động của lịch sử. Do vậy,

trên cơ sở tái hiện chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho quân đội từ 1802 đến

1884, tác giả rút ra đặc điểm, những tác động tích cực cũng như hạn chế của nó đối

với việc xây dựng lực lượng quân đội và sức mạnh của nó đối với công cuộc đảm

bảo an ninh của đất nước và giữ gìn độc lập dân tộc. Đây là phương pháp nhằm đảm

bảo tính khoa học cho luận án.

Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp bổ trợ khác như:

Phương pháp thống kê: Phương pháp này nhằm thu thập tài liệu, xử lý chắt

lọc dẫn chứng và tài liệu quan trọng. Trong chính sách của triều Nguyễn đối với

quân đội, đặc biệt là chế độ ban thưởng và trợ cấp, bên cạnh định mức ban hành,

trên thực tế, việc thực thi đối với mỗi triều vua và đối với những trường hợp cụ thể

nhà nước lại có những đãi ngộ riêng. Do đó, phương pháp thống kê nhằm làm sáng

tỏ sự mềm dẻo trong mỗi chính sách của vương triều Nguyễn cũng như mục đích

hay nguyên nhân của việc khen thưởng đó là gì, đối tượng cụ thể là ai. Đây là cơ sở

để khái quát nên những đặc điểm trong chính sách lương bổng và trợ cấp của vương

triều Nguyễn đối với quân đội.

Phương pháp sưu tầm và xử lý tư liệu: Qua tìm hiểu nguồn sử liệu, các chủ

trương, biện pháp của chế độ đãi ngộ dành cho quân đội dưới triều Nguyễn được ghi

lại trong nhiều nguồn sử liệu khác nhau. Ví dụ, nội dung về định mức ban thưởng

lương bổng cho quan lại nói chung và võ quan nói riêng dưới các triều vua Nguyễn

được cả Thực lục và Khâm định ghi lại. Tương tự như vậy, có khá nhiều sự kiện

cùng được ghi chép trong Minh Mệnh chính yếu, Đại Nam thực lục hay Minh Mệnh

ngự chế văn và Châu bản. Điều đó đòi hỏi người viết phải so sánh kiểm tra sự trùng

khớp hoặc sự khác nhau của sự kiện trong các nguồn tư liệu để lựa chọn tư liệu cho

luận án.

Phương pháp so sánh đối chiếu: Đây là phương pháp quan trọng giúp

7

cho tác giả từ sự kiện cụ thể có thể rút ra những luận điểm khái quát, đánh giá

một vấn đề trong chế độ đãi ngộ của nhà nước đối với quân đội cũng như thấy

được sự thay đổi của nó như thế nào qua các thời kì hoặc qua các triều vua. Từ

đó, giúp tác giả có thể đánh giá ý nghĩa, tác động của các chính sách đối với võ

quan, binh lính cũng như ảnh hưởng của nó đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh-

quốc phòng.

5. Đóng góp của luận án

Đề tài có những đóng góp mới về mặt khoa học và thực tiễn như sau:

- Luận án là công trình chuyên sâu nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện

về cơ sở hình thành và những nhân tố tác động đến những chính sách đãi ngộ của

triều Nguyễn dành cho quân đội giai đoạn 1802-1884.

- Luận án tái hiện lại quá trình ban hành, nội dung, biện pháp thực thi chế độ

đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn thông qua các nguồn tư liệu thư tịch và

tư liệu chính sử viết về vương triều Nguyễn.

- Từ những nội dung của chính sách, luận án đưa ra những nhận xét, so sánh

về đặc điểm của chế độ đãi ngộ dành cho quân đội và đánh giá những tác động, hạn

chế của chính sách này đối với chính trị, kinh tế và xã hội Việt Nam đương thời.

- Kết quả nghiên cứu của luận án là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích phục vụ

cho việc nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX ở các viện nghiên

cứu, trường đại học, cao đẳng và các trường trung học phổ thông trên cả nước.

6. ết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của

luận án dự kiến được trình bày trong 5 chương:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và nguồn tư liệu.

Đây là chương giới thiệu tổng quan tình hình nghiên cứu của các học giả

trong và ngoài nước liên quan trực tiếp và gián tiếp đến đề tài nghiên cứu; khái quát

về các nguồn tư liệu tham khảo; những vấn đề đã được giải quyết và những vấn đề

tiếp tục được đặt ra trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.

Chương 2. Bối cảnh lịch sử và tổ chức quân đội dưới triều Nguyễn giai đoạn

1802-1884.

8

Chương này trình bày những yếu tố tác động và cơ sở của chính sách đãi ngộ

đối với quân đội dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884. Nội dung của chương đề

cập đến các vấn đề: bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước; cơ cấu tổ chức, lực

lượng và nhiệm vụ của quân đội của triều Nguyễn.

Chương 3. Chế độ đãi ngộ đối với võ quan dưới triều Nguyễn giai đoạn

1802-1884.

Đây là chương trình bày chế độ đãi ngộ bao gồm chính sách đãi ngộ bằng

lương của triều Nguyễn dành cho võ quan giai đoạn 1802-1884. Về lương, gồm

lương cho võ quan đương nhiệm và về hưu. Đãi ngộ ngoài lương gồm phụ cấp, trợ

cấp và khen thưởng. Đây là những khoản ban cấp của nhà nước cho võ quan khi đi

làm nhiệm vụ.

Chương 4. Chế độ đãi ngộ đối với binh lính dưới triều Nguyễn giai đoạn

1802-1884.

Đây là chương trình bày về chế độ lương của binh lính cũng như những

khoản phụ cấp cho binh lính khi đi làm nhiệm vụ đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa,

vùng có khí hậu khắc nghiệt. Khi bị ốm đau, trận thương trận vong được nhà nước

trợ cấp tiền, gạo, thuốc men hoặc mai táng. Những binh lính hoàn thành tốt nhiệm

vụ được triều đình khen thưởng.

Chương 5. Nhận xét, đánh giá về chế độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều

Nguyễn giai đoạn 1802- 1884.

Từ những nội dung cụ thể đã trình bày ở chương 3 và chương 4, chương này

rút ra nhận xét về sự kế thừa và hoàn thiện trong chính sách đãi ngộ của triều

Nguyễn so với các triều đại trước cũng như sự thay đổi trong chính sách đãi ngộ của

chính vương triều này đối với quân đội trước và sau năm 1858. Qua đó, tác giả rút

ra một số đặc điểm và nhận xét về những tác động tích cực và hạn chế của chính

sách đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyền dành cho quân đội đối với kinh tế,

chính trị và xã hội Việt Nam trong thế kỷ XIX.

9

Chƣơng 1.

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƢ IỆU

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Nghiên cứu về triều Nguyễn là chủ đề thu hút sự chú ý của nhiều học giả

trong và ngoài nước. Liên quan trực tiếp và gián tiếp đến quân đội triều Nguyễn nói

chung và chế độ đãi ngộ cho quân đội của triều Nguyễn nói riêng có thể kể đến một

số công trình dưới đây:

1.1.1. Một số nghiên cứu của các học giả nước ngoài

Ở phương Tây, Alexander Barton Woodside (1971) cách đây gần nửa thế kỉ

đã cho xuất bản cuốn Vietnam and the Chinese model: A comparative study of

Nguyễn and Ch’ing civil government in the first half of the nineteenth century (Việt

Nam và mô hình Trung Hoa - Một nghiên cứu so sánh giữa chính quyền Việt Nam

với chính quyền Trung Hoa trong nửa đầu thế kỷ 19) do nhà xuất bản Đại học

Harvard ấn hành. Với công trình này, Alexander Woodside đã đi sâu nghiên cứu và

đối sánh về tổ chức bộ máy, hệ thống quan lại và các chế độ tuyển bổ, thi cử của

triều Nguyễn. Phần liên quan đến tài chính, lương bổng cho quân đội chưa có điều

kiện đề cập rõ song công trình này cũng gợi mở nhiều điều cho tác giả khi muốn so

sánh mô hình tổ chức nói chung và cũng như cá chính sách dành cho quân đội của

hai nhà nước nói riêng.

Trong bài viết “Politics and society in Viet nam during the early Nguyen

period (1802-62)” của tác giả R.B.Smith (1974) trên tạp chí Journal of the Royal

Asiatic Society, số 2, tháng 7 năm 1974, trang 153 – 169 cũng đã đề cập tới một số

khía cạnh của chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với võ quan.

Trong bài viết này, để nhằm sáng tỏ đặc điểm của chế độ chính trị của vương

triều Nguyễn thông qua mối quan hệ giữa mục đích cầm quyền với việc sử dụng

quan lại một số võ quan đã được tác giả nhắc tới trong bài viết tiêu biểu là Nguyễn

Công Trứ và Trương Minh Giảng. Đây là hai võ quan có công lao lớn đối với triều

Nguyễn trong công cuộc đánh dẹp các cuộc nổi dậy chống lại triều đình ở Bắc kỳ và

Nam Kỳ. Thông qua hành trạng thăng trầm của hai vị võ quan được đề cập trong bài

viết, tác giả có cách nhìn nhận khách quan về chế độ thưởng phạt của các vua triều

Nguyễn đối với võ quan khi lập công cũng như phạm tội.

10

Tác giả bài viết cũng đề cập đến Lê Quang Định (1759-1813), người có công

đối đánh Tây Sơn ở Gia Định được vua Gia Long phong làm thượng thư đầu tiên

của bộ Binh dưới triều Nguyễn. Đây là dẫn chứng sinh động thể hiện chính sách đối

với công thần của triều Nguyễn.

Ngoài ra, trong bài viết tác giả cũng đưa ra một số dữ liệu về tổ chức và quy

mô của quân đội triều. Về quy mộ, tác giả dẫn lời của một học giả cho rằng năm

1823 quy mô quân đội của triều Nguyễn có lẽ không vượt quá 40.000 người trong

đó có khoảng 150.000 người được trang bị vũ khí. Quân đội tăng lên trong những

năm 1830, nhưng vào thời điểm Pháp xâm lược năm 1858, số lượng quân giảm

xuống. Đây là những thông tin quan trọng để tác giả luận án đánh đánh giá sự biến

động về số lượng quân đội dưới triều Nguyễn và là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến

việc thực hiện chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho quân đội.

Tác giả Nola Cooke (1999) với bài viết “Southern regionalism and the

composition of the Nguyen ruling elite (1802-83)” in trên tạp chí Asian Studies

Review số 2 tháng 6 nằm 1999 trang 205-231cũng đã đề cập đến chế độ đãi ngộ của

triều Nguyễn đối với võ quan triều Nguyễn. Dựa trên số liệu và dẫn chứng trong các

tư liệu về lịch sử và giáo dục của triều Nguyễn như: Đại Nam liệt truyện, Đại Nam

thực lục tiền biên và chính biên, Quốc triều hương khoa lục tác giả nói lên lên sự ưu

ái của triều Nguyễn đối với quan lại có quê quán ở các tỉnh thuộc từ Đàng Trong trở

vào nhất là các tỉnh Nam kỳ từ những năm 30 của thế kỷ XIX trở về trước. Chính

sách đó bao gồm: ưu ái cho con cái các công thần (đãi ngộ cho con trai của công

thần có công được phép chọn địa điểm thi dưới thời vua Gia Long); một số quan lại

có quyền lực trong bộ máy hành chính xuất thân là những người không hoặc đỗ đạt

thấp trong khoa cử; tỉ lệ đỗ đạt ở các miền vùng (khác Nam kỳ) qua các trường thi

triều Nguyễn không tỉ lệ thuận với tỉ lệ số người làm quan trong triều đình.

Những số liệu trên là cơ sở để tác giả đưa ra những nhận xét và kết luận về

chính sách đãi ngộ đối với công thần của triều Nguyễn nhất là đối với bộ phận võ

quan trong quân đội.

Công trình nghiên cứu “The last emperors of Vietnam: from Tu Duc to Bao

Dai” của tạp chí Contributions in Asian studies số 7 năm 2000 nằm trong các

chuyên đề về Việt Nam thế kỷ XIX, XX của nhà xuất bản Greenwood, Mỹ của tác

giả Oscar Chapuis đã đề cập đến tình hình chính trị và xã hội dưới các triều vua từ

11

vua Tự Đức đến vua Bảo Đại. Trong nội dung viết về triều vua Tự Đức, tác giả đưa

ra những dẫn chứng bối cảnh triều Nguyễn trước khi thực dân Pháp xâm lược. Thay

lời kết luận tác giả dẫn lời kết luận của Trần Trọng Kim trong cuốn Việt Nam sử

lược, cho rằng sự túng quẫn, thiếu thốn, thiên tai, ngoại xâm, sự bất lực của chính

quyền vào cuối thời Tự Đức là những nguyên nhân khiến nước Việt Nam suy tàn.

Những nội dung về số lượng quân đội triều Nguyễn sau khi mất 3 tỉnh miền

Đông Nam kỳ mà tác giả bài viết đề cập đến là những nội dung liên quan trực tiếp

tới đề tài.

Tác giả cho rằng, quân đội sau khi tuyển vào năm 1862, chỉ 10% quân đội

được trang bị súng hỏa mai; huấn luyện diễn ra mỗi năm một lần, trong đó mỗi

người lính chỉ nhận được sáu viên đạn, và nếu anh ta bắn nhiều hơn chỉ tiêu được

giao này, anh ta phải trả cho phần chênh lệch. Lực lượng quân lính được điều động

từ Bắc Kỳ vào Nam kỳ tuy nhiên số quân lính có mặt ở Nam kỳ cùng triều đình

tham gia chiến đấu trên thực tế nhỏ hơn ghi chép của triều đình. Tác giả dẫn số liệu

cho rằng: số binh lính theo ghi chép có 119.000 được sai phái vào Nam Kỳ, nhưng

thực tế chỉ có 39.000 người có mặt. Khi Pháp tấn công Gia Định, lực lượng quân

đội triều Nguyễn chỉ có 7.000 binh sĩ thay vì 12.000 như báo cáo. Không quân dự

trữ nên trong trường hợp có thương vong, các sĩ quan quân đội sẽ đến những ngôi

làng gần đó để tuyển quân thay thế. [14; 205] Ngoài ra, tác giả cũng đề cập cụ thể

số binh lính và các hoạt động chống Pháp của quân đội triều đình kháng chiến

chống Pháp ở Đà Nẵng. Cụ thể ở Đà Nẵng có 2.000 quân do Lê Đình Lý và 10.000

quân của Nguyễn Tri Phương.

Những con số về số lượng quân lính trên một mặt thấy được số lượng tiền và

lương thực để phụ cấp cho binh lính đi làm nhiệm vụ đồng thời cũng đánh giá được

những khó khăn về lực lượng của quân đội triều Nguyễn trước nhiệm vụ bảo vệ độc

lập dân tộc.

Frédéric Mantienne (2003) với bài viết The transfer of Western military

technology to Vietnam in the late eighteenth and early nineteenth centuries: the

case of the Nguyen (Sự chuyển giao kĩ nghệ phương Tây cho Việt Nam giai đoạn

cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX: Trường hợp vương triều Nguyễn”) đăng trên

Journal of Southeast Asian Studies tập 34, số 3, trang 519-534, đã giới thiệu về hệ

thống gồm 32 thành trì của Việt Nam được xây dựng theo kỹ thuật quân sự của

12

phương Tây trong giai đoạn cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX. Tác giả cũng đề cập

đến việc vua Gia Long thời Nguyễn đã nỗ lực học kĩ thuật đóng tàu của phương Tây

và còn mong muốn đóng được tàu chạy bằng hơi nước tân tiến nhất thời bấy giờ (dù

không thành công).

Theo tác giả, cùng với tiếp cận mới về kĩ thuật, triều Nguyễn đã xây dựng

được một lực lượng thủy quân “thông thạo kĩ thuật hàng hải” vào nửa đầu thế kỉ

XIX mà có thể đánh giá chủ quan rằng “Việt Nam đã có một hải quân hùng mạnh

nhất Đông Nam Á” (?!). Nghiên cứu của Frédéric Mantienne (2003) tuy không trực

tiếp đề cập đến vấn đề nghiên cứu của luận án song đã cung cấp thêm một góc

nhìn khác để tác giả có cơ sở tìm hiểu kĩ hơn về tổ chức quân đội và sự chi

dùng, đầu tư của nhà Nguyễn cho quân đội (đặc biệt là lực lượng thủy quân)

vào đầu thế kỉ XIX.

Tác giả Keith Weller Taylor (2013) với cuốn sách A history of the

Vietnamese (Lịch sử của người Việt Nam), Cambridge University Press,

Cambridge đã đề cập tới việc khen thưởng đối với võ quan của vua Lê Thánh

Tông (Lê Tư Thành) vào năm 1467, [202; 347] và chính sách đãi ngộ dành

cho con cháu công thần có công với vương triều [202; 351]. Tuy không trực

tiếp đề cập đến chính sách đãi ngộ cho quân đội dưới triều Nguyễn nhưng

những đề cập của Keith Weller Taylor giúp tác giả luận án có thể tham khảo

trong việc đánh giá tính kế thừa của chính sách đãi ngộ dành cho quân đội của

vương triều Nguyễn.

George Dutton (2016) với bài viết“From civil war to uncivil peace the

Vietnamese army and the early Nguyễn state (1802–1841)”(Từ nội chiến đến hòa

bình, quân đội Việt Nam và giai đoạn đầu của triều Nguyễn (1802 - 1841) đăng trên

South East Asia Research số tháng 6/2016 là công trình nghiên cứu thể hiện cách

tiếp cận riêng của tác giả khi nhìn nhận về lịch sử Việt Nam dưới triều Nguyễn nửa

đầu thế kỉ XIX. Bài viết chủ yếu nói về kết cục của cuộc nội chiến giữa Tây Sơn và

nhà Nguyễn, tuy đã có những nhận định nhất định song chưa có điều kiện bàn sâu

về quân đội cùng chính sách lương bổng cho quân đội triều Nguyễn.

1.1.2. Những nghiên cứu của các học giả trong nước.

Nghiên cứu về triều Nguyễn ngày càng được giới sử học trong nước quan

tâm. Đã có nhiều công trình tìm hiểu các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa của vương

13

triều Nguyễn đã ra đời. Tuy nhiên, với phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ

xin đề cập đến những nghiên cứu ít nhiều có liên quan tới nội dung của luận án.

1.1.2.1. Nghiên cứu về tổ chức quân đội triều Nguyễn

Có nhiều công trình nghiên cứu về quân đội triều Nguyễn nói chung, tổ chức

và trang bị quân đội dưới triều Nguyễn nói riêng. Trong những công trình nghiên

cứu này, có thể đề cập đến một số công trình sau:

Đầu thế kỷ XX, Việt Nam sử lược (Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tái

bản năm 2008) của Trần Trọng Kim là tác phẩm thông sử đầu tiên viết bằng chữ

Quốc ngữ đã dành nhiều trang viết về triều Nguyễn. Trong phần viết về binh chế thời

vua Tự Đức, tác giả dành một đoạn ngắn để giới thiệu về phiên chế, tập luyện và

trang bị của quân đội dưới triều Nguyễn với góc nhìn khá quan ngại về sự lạc hậu,

yếu kém trong tổ chức quân đội và bố phòng. Tác giả kết luận:“Quân lính như thế,

binh khí như thế, mà quan thì lại cho lính về phòng, mỗi đội chỉ để độ chừng 20 tên

tại ngũ mà thôi. Vậy nên đến khi có sự, không lấy gì mà chống đỡ được” [139; 472].

Tác giả Phan Khoang (1948) trong cuốn Việt – Pháp bang giao sử (từ thế kỷ

XVII đến đầu thế kỷ XX), Huế được coi là cuốn sách đầu tiên sau cách mạng tháng

Tám đã đề cập đến binh chế của nước Đại Nam thời Tự Đức (đến năm 1858).

Nguyễn Tường Phượng (1950) với cuốn Lược khảo binh chế Việt Nam qua các

triều đại (Nxb Ngày mai, Hà Nội) đề cập đến binh chế thời quân chủ nước ta từ thời

Đinh đến triều Nguyễn. Về binh chế triều Nguyễn, tác giả đã đề cập đến vấn đề: tổ

chức quân đội, lực lượng quân đội, các binh chủng, vũ khí, quân phục, luật lệ trong

quân đội. Nhận xét về binh chế triều Nguyễn tác giả cho rằng:“Binh chế Việt Nam

tổ chức thật là khôn ngoan”[161; 86].

Sau năm 1975, những vấn đề cụ thể về quân đội triều Nguyễn như tổ chức

phiên chế, hệ thống phòng thủ và chế độ đãi ngộ được đề cập trong nhiều công trình

nghiên cứu và bài viết đăng trên các tạp chí và sách chuyên khảo, tham khảo.

Thứ nhất, nghiên cứu về tổ chức quân đội:

Nội dung này được để cập đến với 2 khía cạnh: tổ chức quân đội triều

Nguyễn nói chung, tổ chức quân đội của một triều vua cụ thể.

Về tổ chức của quân đội triều Nguyễn, bài viết của tác giả Đỗ Văn Ninh

(1993) về “Quân đội nhà Nguyễn” là một trong những khảo cứu về tổ chức quân

đội triều Nguyễn được công bố sớm nhất trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6. Nội

14

dung quan trọng nhất là của bài viết là hệ thống phòng thủ và trang bị của Bộ binh

và Thủy binh. Kết luận bài nhiên cứu, tác giả nhận định:“Tóm lại, quân đội của nhà

Nguyễn thực sự là một quân đội mạnh đáng kể trong cả khu vực Đông Nam Á

đương thời” [154; 53].

Từ năm 2000 đến nay, tổ chức quân đội triều Nguyễn đã được đề cập cụ thể

hơn trong một số công trình nghiên cứu như cuốn sách Lịch sử quân sự Việt Nam

(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội) do nhà sử học Đinh Xuân Lâm chủ biên

(2007). Bộ sách này gồm 14 tập, trong đó tập 8 đề cập đến hoạt động quân sự

của triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1896. Trước khi trình bày nội dung

chính là những hoạt động quân sự, tác giả đã khái quát bối cảnh, yêu cầu trong

xây dựng quân đội và sự phát triển của bộ binh, thủy binh, pháo binh và tượng

binh dưới thời vua Gia Long và Minh Mệnh cũng như cách tuyển dụng quân

đội dưới triều Nguyễn.

Những vấn đề chung về quân đội triều Nguyễn còn được đề cập trong một số

cuốn sách khác như: Trương Thị Yến (chủ biên) (2013), Lịch sử Việt Nam, tập 5 (từ

1802-1858) (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội); Dương Đình Lập (chủ biên) (2014), Lịch

sử tổ chức quân sự Việt Nam, tập 2 (1400-1930) (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội).

Bên cạnh đó còn có một số bài viết về tổ chức quân đội dưới từng triều vua

Nguyễn. Dưới triều Gia Long có bài nghiên cứu của Hoàng Lương (2014),“Chế độ

tuyển mộ và huấn luyện binh lính dưới triều Gia Long (1802-1819)” (Tạp chí Lịch

sử quân sự, số 274). Về tổ chức tuyển và sử dụng binh lính dưới triều Minh Mệnh

có nghiên cứu của Hà Duy Biển (2015) với công trình “Tổ chức và hoạt động của

bộ Binh dưới triều Minh Mệnh (1820 - 1840)” (Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường

Đại học KHXH&NV- Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội); Hoàng Lương (2016) với

“Tuyển mộ binh lính dưới triều Minh Mệnh 1820-1840” (Tạp chí Lịch sử quân sự,

số 297).

Về quân đội dưới triều Tự Đức có nghiên cứu của Nguyễn Trọng Minh

(2016), “Tìm hiểu về quân đội triều Nguyễn giai đoạn 1858 - 1884” (Tạp chí phát

triển Khoa học và Công nghệ, tập 19, số XI). Bài viết của tác giả với những phân

tích về đặc điểm của tổ chức, cách tuyển quân và lấy lính cũng như trang bị của

quân đội. Đây là cơ sở để tác giả nhận định mặc dù quân đội nhà Nguyễn đã có một

số cải tiến về kĩ thuật và trang bị nhưng vẫn chưa đủ mạnh để đương đầu với thế lực

15

ngoại xâm mạnh như quân đội Pháp lúc bấy giờ.

Nội dung các bài khảo cứu kể trên giúp tác giả luận án hiểu rõ hơn cơ sở của

việc tuyển dụng binh lính của triều Nguyễn, thông qua việc lập sổ hộ nhằm quản lý

dân đinh để thực hiện chế độ binh dịch và tuyển quân. Nghiên cứu của Hoàng

Lương (2016) về cách thức tuyển chọn quân đội thông qua hình thức Tuyển

binh (Giản binh) và Mộ binh đã cho thấy tác dụng của chính sách những chính

sách này nhằm“giúp cho nhà nước duy trì đội quân thường trực vừa đủ, quản

lý lực lượng tráng đinh hùng hậu sẵn sàng bổ sung quân ngũ khi cần thiết”

[152; 52].

Thứ hai, nghiên cứu về lực lượng quân đội:

Quân đội triều Nguyễn gồm Bộ binh, Thủy binh, Tượng binh và Pháo binh.

Trong đó, lực lượng được các nhà nghiên cứu để cập đến nhiều nhất là Thủy binh.

Các công trình nghiên cứu về lực lượng này có thể kể tới: Tố Am Nguyễn Toại

(2002) với Thủy quân ngày xưa (trong tuyển tập những bài nghiên cứu về triều

Nguyễn, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế xuất bản); Lê Thị Toán (2012) với

Vài nét về thủy quân thời Nguyễn (Nxb Thuận Hóa, Huế); Ngô Đức Lập (2014) với

“Lực lượng thổ binh dưới triều Nguyễn (1802-1885)” (Tạp chí Lịch sử quân sự,

tháng 11/2014).

Đặc biệt tác giả Bùi Gia Khánh đã có một số công trình nghiên cứu khá cụ

thể về thủy quân triều Nguyễn như: Bùi Gia Khánh (2010), Thuỷ quân triều Nguyễn

thời kỳ 1802 - 1885 (Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử, Trường Đại học Khoa học

Huế); Bùi Gia Khánh (2010), “Thủy quân triều Gia Long và Minh Mệnh với công

tác tuần tra, kiểm soát vùng biển đảo” (Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5

(82)), Bùi Gia Khánh (2013),“Thủy quân triều Nguyễn dưới thời Gia Long và Minh

Mệnh” (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7), Bùi Gia Khánh (2015), “Chống cướp

biển dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802 - 1885” (Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á,

số 4). Gần đây tác giả tập hợp những công trình nghiên cứu xuất bản sách chuyên

khảo: Bùi Gia Khánh (2018) “Thủy quân triều Nguyễn (1802- 1884)” do Nxb

Chính trị Quốc gia Sự thật phát hành. Trên nguồn sử liệu chính là Đại Nam thực lục

và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tác giả đã trình bày khái quát sự phát triển và

hoàn thiện của hệ thống tổ chức quân đội, các ngạch binh của quân đội triều

Nguyễn trong sự đối sánh với Thủy binh nhưng dừng lại ở thời điểm cuối triều

16

Minh Mệnh. Đối với Thủy quân, tác giả dành phần lớn công trình nghiên cứu về tổ

chức, trang bị, hoạt động và vai trò của thủy binh đối với việc bảo vệ và khẳng định

chủ quyền biển đảo. Đánh giá về tổ chức và vai trò của thủy quân dưới triều Minh

Mệnh, tác giả cho rằng:“với một lực lượng thủy quân được tổ chức khá chặt chẽ và

trang bị khá toàn diện. Triều Nguyễn đã tổ chức việc thực hiện việc tuần tra, kiểm

soát vùng biển, đảo một cách tương đối hiệu quả” [141; 268].

Như vậy, nghiên cứu về quân đội triều Nguyễn trong những năm gần đây đã

thực sự trở thành đề tài thu hút sự quan tâm của các nhà sử học. Những công trình

nghiên cứu trên là cơ sở để tác giả đánh giá mức độ, số lượng lương bổng, trợ cấp

của triều Nguyễn cho quân đội.

1.1.2.2. Nghiên cứu liên quan đến chế độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều

Nguyễn

Vấn đề đãi ngộ cho võ quan và binh lính được đề cập ít nhiều trong một số

công trình nghiên cứu thông sử, đặc biệt là những chuyên khảo về triều Nguyễn.

Về chế độ lương đã có một số công trình nghiên cứu để cập đến chế độ lương

của quân đội triều Nguyễn. Phổ biến nhất là chế độ lương của một triều vua hoặc

lương của một lực lượng trong quân đội triều Nguyễn.

Đối với chế độ lương cho quân đội của triều Nguyễn nói chung, đã có một số

công trình nghiên cứu sau:

Trong Việt Nam sử lược (Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm

2008) của Trần Trọng Kim có một phần giới thiệu về lương bổng của các quan viên

và tiền dưỡng liêm của vua Minh Mệnh. Trong đó, tác giả có đề cập đến định mức

lương tiền gạo và tiền xuân phục tính theo năm được ban hành năm Minh Mệnh thứ

20 (1839). Cách thức và thời gian lĩnh lương của quan lại cũng được đề cập đến một

cách khái quát. Tác giả cho rằng:“Tiền lương bổng của các quan viên lúc bấy giờ

mà so sánh với bây giờ, thì thật là ít ỏi quá. Nhưng mà chắc là sự ăn tiêu thuở trước

không hết bao nhiêu. Nhà vua lại sợ những phủ huyện thiếu thốn mà nhũng lạm của

dân, cho nên mối năm lại phải thêm tiền dưỡng liêm” [139; 426].

Quyển IV (Tây Sơn và Nguyễn Sơ) thuộc bộ Việt sử tân biên của tác giả

Phạm Văn Sơn (1961) đã đề cập đến chế độ lương, bổng và tiền xuân phục của triều

đình ban cấp cho quan lại dưới triều vua Minh Mệnh. Tác giả cũng đưa ra nhận xét

tương đồng với tác giả Trần Trọng Kim khi cho rằng:“Chế độ lương bổng trên đây,

17

ta thấy quan lại đời xưa sống quá thanh bạch mặc dù mức sinh hoạt thời đó không

cao như ngày nay” [170; 330].

Định chế hành chính và quân sự triều Nguyễn (1802- 1885) là công trình

nghiên cứu về những quy định pháp luật triều Nguyễn đối với hành chính và quân

đội nằm trong chuyên đề Nghiên cứu pháp luật triều Nguyễn (1802- 1885) của các

nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Sư phạm Huế (Đại học Huế) do Huỳnh Công

Bá (2014) chủ biên. Trong phần định chế về điều hành quân đội, công trình đã đề

cập đến những đãi ngộ của nhà nước dành cho quân đội, gồm định chế về lương

bổng, điều dưỡng bệnh binh; cấp tuất liên quan đến các binh lính trận thương, trận

vong, bệnh vong, nạn gió bão...; định chế về thưởng phạt cho quân đội gồm thưởng

về quản mộ, thưởng về thắng trận, thưởng về bắt giặc, thưởng huân công; phạt về

tiết lậu, bỏ sở, bỏ nhiệm, lỡ nhiệm, đào ngũ, quản suất và phạt về nhũng lạm. Đánh

giá về các định chế này, tác giả cho rằng:“Cùng với một hệ thống tổ chức quân đội

hoàn chỉnh và bề thế, các chế độ liên quan đến việc xây dựng và phát triển lực

lượng quân đội cũng được triều Nguyễn hết sức chú ý và thể chế hóa một cách cụ

thể, chi tiết, toàn diện và chu đáo, thể hiện sự quan tâm sâu sát và tinh thần cần

chính, thân chính của các vua triều Nguyễn. Đó là những tấm gương sáng về những

nhà cai trị khuôn mẫu ở nước ta hồi thế kỷ XIX. Đồng thời, hệ thống binh chế đố đã

góp phần làm cho quân đội dưới triều Nguyễn là một lực lượng quân sự hùng hậu ở

Đông Nam Á lúc bấy giờ” [107; 482].

Tác giả Trịnh Ngọc Thiện (2014) trong bài viết “Tìm hiểu tổ chức quân đội Việt

Nam thời kỳ chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn (Từ cuối thế kỉ XVI đến nửa đầu thế

kỉ XIX)” in trên Tạp chí Khoa học trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, số

63/2014 đã dành một phần nội dung đề cập đến chế độ tuyển quân và cấp phát lương

cho binh lính ở Kinh thành và quân địa phương, trong đó tác giả nhấn mạnh:“Hàng

tháng, binh lính trong quân đội được nhà nước cấp một khoản tiền nhỏ gọi là “nguyệt

hướng” (lương tháng) và được hưởng phần đất công ở làng cao hơn so với khẩu phần

của các xã dân. Dưới thời vua Minh Mệnh, vấn đề lương và bổng lộc cho quan binh

được quy định chặt chẽ, theo từng cấp bậc. Nhìn chung mức lương của triều đình

không đủ đảm bảo cho cuộc sống, nhất là với binh lính” [179; 110].

Về chế độ lương của một triều vua cũng đã được đề cập trong một số công

trình nghiên cứu. Trong Lịch sử Việt Nam tập 5 (Trương Thị Yến chủ biên), Nxb

18

Khoa học xã hội, 2017, tác giả đã đề cập đến chế độ đãi ngộ đối với các quan viên

ban hành từ đời vua Gia Long đến Minh Mệnh. Những chính sách đó bao gồm chế

độ tiền lương ban hành năm Gia Long thứ 2 (1803) ở Bắc Thành, định mức lương

thống nhất đối với quan lại trên phạm vi cả nước ban hành năm Gia Long thứ 17

(1818), điều chỉnh vào năm Minh Mệnh thứ 20 (1839). Lương của võ quan thời kỳ

này bao gồm tiền, gạo và tiền xuân phục được trả theo năm. Ngoài ra, quan lại

(trong đó có võ quan) còn được chia ruộng khẩu phần theo chế độ quân điền ban

hành năm Gia Long thứ 3 (1804), dừng cấp vào năm Minh Mệnh thứ 20 (1839).

Bên cạnh đó, tác giả Hoàng Lương (2017) trong bài viết “Định lệ chi cấp

binh lương dưới triều Minh Mệnh (1820- 1840)” in trên Tạp chí Lịch sử quân sự số

308/2017 cũng đề cập đến việc chi cấp lương của binh lính dưới triều Minh Mệnh.

Đối tượng khảo sát chủ yếu của bài viết này tập trung vào ngạch thân binh, cấm

binh và tinh binh. Đánh giá chế độ lương của nhà nước đối với quân đội, tác giả kết

luận:“chính quyền Minh Mệnh một mặt vẫn giành sự ưu ái nhất định đối với bộ

phận thân binh, cấm binh; mặt khác, yếu tố công bằng trong định lệ chi cấp giữa

các ngạch quân bước đầu đầu được chú trọng” [153; 41].

Liên quan đến lương bổng của quan lại bộ binh dưới triều vua Minh Mệnh,

tác giả Hà Duy Biển đã công bố hai bài viết “Định mức lương bổng của quan lại Bộ

Binh dưới triều Minh Mệnh (1820-1840)”in trên Tạp chí Lịch sử quân sự, số

278/2015) và “Cách thức tính toán và chi cấp lương bổng đối với quan lại bộ Binh

triều Minh Mệnh (1820 - 1840)” in trên Tạp chí Lịch sử quân sự số 291 tháng

3/2016). Đây là hai bài viết khá chi tiết về chính sách tiền lương cho quan lại bộ

Binh dưới triều Minh Mệnh. Tác giả cho rằng, mặc dù còn một số bất cập do những

quy định về lương thưởng vẫn còn ít thay đổi so với thời Gia Long song chế độ

lương bổng dành cho quan lại bộ Binh thời vua Minh Mệnh vẫn được đánh giá là

khá hoàn bị. Tác giả bài viết cho rằng“Cách tính lương bổng của quan lại Bộ Binh

triều Minh Mệnh cho thấy sự chặt chẽ và cụ thể trong tính toán, dự liệu nhiều

trường hợp đặc thù nhằm đảm bảo cho quá trình tính lương được chính xác, minh

bạch và thống nhất. Các quy định này phần nào thể hiện tính nhân văn, khoan hậu

đối với quan lại trung thành, tận tụy với vương triều” [118; 49].

Nghiên cứu về chế độ đãi ngộ bằng lương của nhà nước cho các lực lượng

trong quân đội, tác giả Bùi Gia Khánh (2018) trong công trình“Thủy quân triều

19

Nguyễn (1802-1884)” (Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội) cũng đã đề cập đến

chính sách của vua Gia Long và Minh Mệnh đối võ quan và binh lính thuộc lực

lượng thủy binh như: tiền, gạo và ruộng đất. Nhận xét về chế độ lương của binh lính

dưới triều Nguyễn, tác giả cho rằng:“Với chế độ lương tháng và quân cấp lương

điền như vậy, mỗi người lính dưới triều Nguyễn có thể yên tâm về gia đình để tập

trung thực hiện nhiệm vụ của mình” [141; 87]. Tuy nhiên, vấn đề này chỉ được tác

giả đề cập một cách khái lược vì đây không phải nội dung chính của công trình

nghiên cứu. Ngoài ra, trong bài nghiên cứu có tựa đề Thủy quân nhà Nguyễn thời

vua Minh Mệnh đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10/2016, các tác

giả Nguyễn Thị Thu Thủy, Nguyễn Phương Nga (2016) cũng đã dành một phần nhỏ

đề cập đến chế độ lương bổng của vua Minh Mệnh đối với võ quan và binh lính của

lực lượng Thủy binh .

Tiếp cận về chế độ đãi ngộ ngoài lương như trợ cấp, phụ cấp và khen thưởng

đã có một số nghiên cứu có liên quan được công bố dù số lượng không nhiều.

Về chế độ trợ cấp cho quân đội triều Nguyễn, trong một vài năm trở lại đây

đã xuất hiện nghiên cứu của một số tác giả. Công trình đầu tiên đề cập đến vấn đề

này là bài viết của tác giả Nguyễn Minh Tường với“Chính sách đối với chiến sĩ

trận vong, trận thương dưới triều Nguyễn” trên tạp chí Xưa – Nay (số 65, tháng

7/1999) sau được in lại trong sách Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở

Việt Nam (tr.201-203). Trong giới hạn một bài viết, tác giả đã đề cập sơ lược về

việc ban hành những chính sách của triều Nguyễn đối với thương binh, tử sĩ như:

lập sở dưỡng tế cho bệnh binh, cứu chữa, thưởng tiền bạc, cho về quê an dưỡng đối

với binh lính bị trận thương; ban tuất đối với binh sĩ trận vong, chôn cất và cấp tiền

đối với binh sĩ bệnh vong và bị nạn do gió bão.

Lê Quang Chắn (2013) trong bài viết“Chính sách ưu đãi của triều Nguyễn

đối với võ quan và binh lính (giai đoạn 1802-1884)” tạp chí Lịch sử quân sự tháng

11 năm 2013 và luận án Tiến sĩ“Chính sách xã hội của triều Nguyễn giai đoạn

1802-1858”, bảo vệ tại Học viện Khoa học Xã hội, tác giả đã dành một nội dung

trong chương 3 của luận án đề cập đến một số chính sách ưu đãi của triều Nguyễn

đối với võ quan và binh lính. Chính sách đó bao gồm: sự tri ân những đóng góp của

nhà nước đối với công thần; chế độ ưu đãi đặc biệt đối với võ quan và binh lính

như: đối với võ quan là chế độ ban cấp lương, đãi ngộ đối với cha mẹ và vợ con võ

20

quan; đối với binh lính là chế độ lương điền và tiền phụ dưỡng do địa phương đóng

góp; chế độ trợ cấp đối với tướng sĩ trận thương, trận vong và nạn bão. Nhận định

vể chính sách này, tác giả cho rằng:“Qua những trình bày trên cho thấy, triều đình

nhà Nguyễn có sự quan tâm đặc biệt và đã đề ra nhiều chính sách ưu đãi, có giá trị

nhân đạo đối với võ quan và binh lính- những con người mà ở bất kỳ thời kỳ lịch sử

nào cũng là đối tượng phải gánh chịu nhiều gian nan, hy sinh nhất đối với nhà

nước và dân tộc của họ” [121; 53] .

Nhìn chung, vấn đề lương bổng và trợ cấp của triều Nguyễn đối với quân đội

giai đoạn1802-1884 đã được đề cập trong một số công trình khảo cứu. Từ những

nghiên cứu này, tác giả luận án có thể hình dung được chế độ đãi ngộ của triều

Nguyễn cho quân đội gồm bao gồm những hoạt động nào? Trong chế độ lương

quân đội được ban cấp những vật phẩm gì, thời gian áp dụng ra sao? Chế độ lương

được ban hành và điều chỉnh vào các thời điểm nào? Đối với chế độ trợ cấp, qua bài

nghiên cứu của tác giả Nguyễn Minh Tường có thể biết được triều Nguyễn đã thực

hiện trợ cấp cho đối tượng nào? Tuy nhiên, định mức lương cụ thể qua từng giai

đoạn của võ quan, chế độ phụ cấp, trợ cấp và khen thưởng cho võ quan và binh lính

trong những trường hợp nào, mục đích và vật phẩm ban cấp, đối tượng cụ thể chưa

được các nghiên cứu trên đề cập rõ ràng. Do vậy, nhiệm vụ tiếp tục của luận án là

làm rõ những vấn đề trên, từ đó có những nhận định, đánh giá khách quan về chính

sách đãi ngộ của vương triều Nguyễn dành cho quân đội.

1.2. Nguồn tƣ liệu nghiên cứu đề tài

Để tiến hành nghiên cứu nội dung của đề tài, luận án sử dụng các nguồn tư

liệu chủ yếu sau đây:

1.2.1. Nguồn tư liệu được biên chép trước triều Nguyễn

Đại Việt sử ký toàn thư là bộ chính sử do Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều

Hậu Lê biên soạn. Bộ sử được viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt Nam từ

thời đại Kinh Dương Vương năm 2879 TCN đến năm 1674 đời Lê Gia Tông thời

Hậu Lê. Những sự kiện được ghi lại trong bộ sử này đã cung cấp cho tác giả nội

dung những chính sách đãi ngộ của nhà nước đối với võ quan và binh lính qua các

triều đại Lý, Trần, Lê. Đây chính là những nội dung quan trọng làm cơ sở đối sánh

chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với quân đội với các triều đại trước.

Đại Việt thông sử (hay còn gọi là Lê triều thông sử) là bộ sử lớn do Lê Quý

21

Đôn biên soạn viết theo thể kỷ truyện đầu tiên trong lịch sử sử học Việt Nam. Tuy

hiện nay nội dung của bộ sử này không còn nguyên vẹn nhưng những nội dung của

bộ sách đã cung cấp một tư liệu lớn có giá trị về lịch sử 100 năm dưới 10 đời vua

triều Lê Sơ từ Lê Thái Tổ đến Cung Hoàng (nếu kể cả Lê Nghi Dân thì là mười một

đời vua). Trong đó, phần chí ghi chép các truyện về hậu phi, đế hệ, công thần và

nghịch thần là những nội dung không được đề cập đến trong các bộ sử khác.

Kiến văn tiểu lục được Lê Quý Đôn biên soạn và hoàn thành năm 1777.

Đây là tập bút ký gồm 12 quyển hiện nay còn 8 quyển ghi chép về lịch sử và văn hóa

Việt Nam từ triều Lý đến triều Hậu Lê. Nội dung chính của các chí gồm: những lời

răn dạy của một số nhân vật lịch sử Trung Quốc và Việt Nam, các lễ văn, những nhân

vật đã làm bia và minh chuông, nhân vật tiết tháo, nhà sư, phê bình thơ văn, địa lý,

sản vật và phong tục tập quán ở các địa phương. Nội dung quan trọng nhất liên quan

đến luận án là những tư liệu về chế độ bổng lộc cho võ quan và binh lính dưới các

triều Lý, Trần, Hậu Lê trong quyển 2 của bộ sách. Trong đó, chế độ ưu cấp đối với

binh lính dưới thời Lê Trung Hưng được ghi chép một cách cụ thể và chi tiết. Đây

chính là nguồn tham khảo quý giá của đề tài.

Phủ biên tạp lục là tập bút kí gồm 8 quyển được chia làm 2 phần của Lê

Quý Đôn ghi chép lại hầu hết các thông tin quan trọng về kinh tế và xã hội của

xứ Đàng Trong trong gần 200 năm từ cuối thế kỷ XVI đến thời kỳ ông làm

quan Hiệp trấn xứ Thuận Hóa của chính quyền Lê-Trịnh, vào khoảng năm

1776. Phần C quyển 3 của Phủ biên tạp lục Lê Quý Đôn dành phần lớn nói về

tổ chức quân đội, cách tuyển quân cũng như chính sách của chúa Nguyễn đối

với binh lính vùng Thuận Quảng.

Đại Việt sử ký tiền biên là bộ sử biên niên do Ngô Thì Sĩ biên soạn, Ngô

Thì Nhậm hiệu đính được khắc in năm 1800 dưới triều đại nhà Tây Sơn. Bộ

sách chép lịch sử dân tộc từ thời Hồng Bàng đến hết thời thuộc Minh. Phần bản

kỉ từ nhà Đinh đến hết thuộc Minh là tài liệu liên quan trực tiếp khi đánh giá,

so sánh chế độ lương bổng và trợ cấp của triều Nguyễn đối với binh lính với

các triều đại trước.

Ngoài các bộ sử được các sử gia đời trước ghi chép và biên soạn, một số

bộ sử được biên soạn dưới triều Nguyễn nhưng nội dung biên chép về các triều

đại trước Nguyễn cũng là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng của đề tài.

22

1.2.2. Nguồn tư liệu biên chép trực tiếp dưới thời nhà Nguyễn

Đây là nguồn sử liệu chính, có tính tin cậy cao, là cơ sở quan trọng để

phục dựng nội dung chủ yếu của luận án. Các tài liệu này gồm:

Đại Nam thực lục (chính biên) (bản dịch, 10 tập, Viện sử học dịch, Nhà

xuất bản Giáo dục xuất bản các năm 2004, 2007) là bộ sử lớn nhất, quan trọng

nhất của triều Nguyễn do Quốc sử quán biên soạn. Đây là một trong những

nguồn tài liệu thiết yếu nhất của đề tài, bởi tính đầy đủ và chính xác của nó.

Trong quá trình khảo cứu bộ Thực lục, tác giả luận án đã thu thập được số

lượng khá lớn thông tin liên quan đến chính sách của nhà nước đối với việc ban

cấp lương, khen thưởng, phụ cấp và trợ cấp cho võ quan và binh lính. Nội dung

liên quan đến triều Gia Long được đề cập đến trong tập 1. Trong tập này, tác

giả luận án tập hợp được tư liệu về chế độ lương ban hành đầu tiên đối với võ

quan các trấn Bắc Thành sau khi vua Gia Long lập nước và chế độ lương bổng

của võ quan thống nhất trên cả nước sau đó. Tập 1 của Thực lục còn có các tư

liệu về việc khen thưởng của triều Nguyễn dành cho quân đội. Nhiều nhất là

việc nhà vua thưởng cho võ quan và binh lính tham gia đánh dẹp các cuộc nổi

dậy chống vương triều ở Bắc Thành và binh lính tham gia xây dựng Kinh

thành. Tư liệu đáng chú ý về việc ân cấp trong tập 1 là chính sách dối với công

thần có công khôi phục vương triều.

Trong tập 2, 3, 4 và 5 của bộ Thực lục, những sử liệu về việc ban hành và

điều chỉnh định mức lương bổng của cả võ quan và binh lính dưới triều Minh

Mệnh so với triều Gia Long được biên chép khá cụ thể. Đây được coi là cơ sở

để đánh giá sự thay đổi chính sách đối với quân đội, nhất là đối với bộ phận võ

quan dưới triều vua Tự Đức trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp xâm

lược. Tư liệu nổi bật nhất phản ánh chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với

binh lính thời kỳ này chính là chính sách khen thưởng của triều đình đối với

tướng sĩ có thành tích trong công cuộc ổn định nội trị và chống ngoại xâm. Một

số võ quan có công lớn có công đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa lớn của Nông

Văn Vân, Cao Bá Quát hay Lê Văn Khôi được nhà nước trọng thưởng như Tạ

Quang Cự, Nguyễn Tri Phương, Trương Minh Giảng.

Tập 6 của bộ Thực lục, tác giả luận án khai thác được những tư liệu về chế

độ lương, trợ cấp, khen thưởng của vua Thiệu Trị cho võ quan và binh lính. Một số

23

năm (1842, 1845) triều đình thưởng công lớn cho các võ quan có công trạng như

Doãn Uẩn, Nguyễn Tri Phương.

Chế độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều vua Tự Đức được phản ánh trong

tập 7 và tập 8 của bộ chính sử này. Trong đó, đáng chú ý là sự điều chỉnh giảm định

mức lương, bổng của triều đình đối với võ quan. Tuy nhiên, việc trợ cấp cho võ quan

và binh lính cũng như thân nhân của họ được triều đình chú ý hơn các đời vua trước.

Thông qua những tư liệu trên, tác giả bài luận án có thể đánh giá được tác động của

chế đội này đối với sức mạnh của quân đội trong cuộc kháng chiến chống Pháp bảo

vệ độc lập dân tộc.

Ngoài nội dung cụ thể của chính sách đãi ngộ, qua tư liệu trong Thực lục, tác

giả luận án có thể hệ thống theo diễn trình thời gian những nội dung liên quan đến

chế độ đãi ngộ dành cho quân đội của mỗi triều vua như: bối cảnh ra đời, chính

sách, nội dung và sự thay đổi của mỗi chính sách bao gồm nguyên nhân và ảnh

hưởng của những sự thay đổi đó đối với quân đội và với đất nước.

Đây có thể coi là nguồn tài liệu quan trọng nhất của luận án.

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản dịch, 8 tập của Nhà xuất bản Thuận

Hóa, Huế phát hành năm 2004) là bộ sách biên chép về các điển lệ từ triều vua

Minh Mệnh về trước. Sách viết theo thể Hội điển, do Nội các triều Nguyễn biên

soạn. Nội dung bộ sách gồm các quy định, quy chế và việc thực thi những quy định

đối với hệ thống hành chính gồm các bộ, các phủ, các viện, các ty, các tự, các giám.

Trong khuôn khổ của luận án, tác giả khai thác chủ yếu tư liệu trong tập III viết về

bộ Binh và tập V viết về bộ Hộ.

Tập III của bộ Hội điển gồm nhiều tư liệu ghi chép về chế độ đãi ngộ của

triều Nguyễn cho quân đội được thi hành dưới triều vua Gia Long, Minh Mệnh và

Thiệu Trị và 4 năm đầu dưới triều Tự Đức. Đó là chế độ lương, phụ cấp cho võ

quan và binh lính khi đi ứng trực, tham gia các hoạt động sản xuất, thưởng nhân các

ngày Tết và các ngày lễ lớn của đất nước.

Trong tập V của bộ Hội điển, tác giả luận án có thể khai thác các tư liệu về tổ

chức quân đội. Về khen thưởng bao gồm: ban thưởng cho cho võ quan và binh lính trực

tiếp tham gia chiến trận và lập công, chế độ trợ cấp của ba vị vua đầu triều Nguyễn đối

với binh lính bị ốm, trận thương, trận vong và gặp nạn bão trong khi đi làm nhiệm vụ.

24

Với nguồn tư liệu này, tác giả luận án có thể tìm hiểu một chế độ đãi ngộ

được thực hiện xuyên suốt dưới các vua triều Nguyễn. Hạn chế của tài liệu này là

không khai thác được giá trị lịch sử, nguyên nhân mục đích của việc ban hành nên

khó có thể đánh giá khách quan ý nghĩa và tác động của chế độ đãi ngộ của triều

Nguyễn đối với chính trị và xã hội đương thời.

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên (bản dịch, 10 tập của Nhà xuất

bản Thuận Hóa, Huế in vào các năm 2004, 2007, 2009, 2012) là bộ sách viết về

điển lệ của các vua triều Nguyễn từ năm Tự Đức thứ 5 (1852) đến năm Thành Thái

thứ nhất (1889). Trong bộ Hội điển tục biên, tác giả khai thác nguồn sử liệu chủ yếu

trong tập III (từ quyển 11 đến 16 viết về bộ Hộ) và tập VII (từ quyển 34 đến quyển

37 viết về bộ Binh) với những nội dung về chế độ đãi ngộ cho quân đội triều

Nguyễn nửa sau thế kỷ XIX từ năm 1852 đến năm 1889 dưới thời kỳ trị vì của các

vua từ Tự Đức đến Đồng Khánh. Tuy nhiên trong khuôn khổ nội dung của luận án,

tác giả chỉ dừng lại nghiên cứu chế độ của triều Nguyễn đối với võ quan và binh

lính được thực dưới triều vua Tự Đức.

Châu bản triều Nguyễn: là tập hợp các văn bản hành chính được các vua

triều Nguyễn ban hành trong quá trình quản lý đất nước. Đây được coi là khối tài

liệu gốc phản ánh đầy đủ, toàn diện các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội

của xã hội Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX. Tư liệu của

Châu bản chính là nguồn sử liệu quan trọng để biên soạn các bộ sử và các sách điển

lệ chính thống của triều Nguyễn.

Toàn bộ khối Châu bản triều Nguyễn hiện nay được lưu trữ và bảo quản tại

Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. Do quá trình lưu giữ và bảo quản trước đây còn nhiều

hạn chế nên hiện nay khối Châu bản này không còn đầy đủ so với bản gốc. Nhiều

tập hoặc nhiều trang văn bản của tài liệu Châu bản triều Nguyễn đã bị thất lạc hoặc

rách nát không thể phục dựng lại như nguyên trạng. Việc tìm hiểu nội dung đầy đủ

của văn bản không khả thi, thậm chí có những khoảng thời gian không thể tìm thấy

tư liệu, đặc biệt là khoảng thời gian 25 năm (từ năm Tự Đức thứ 11 (1858) đến năm

Tự Đức thứ 36 (1883)) hiện nay còn rất ít.

Quá trình tìm kiếm và tập hợp tư liệu, tác giả luận án đã tìm được trong danh

mục tóm tắt của Châu bản triều Nguyễn nhiều tờ văn bản với nội dung liên quan

đến đề tài. Nhiều nhất là những bản tấu của địa phương, của bộ Binh xin vua giải

25

quyết những vấn đề về lương, khen thưởng và trợ cấp cho võ quan và binh lính đi

sai phái, trận vong, trận thương, chết bệnh và chế độ đãi ngộ đối với gia đình binh

lính....Cụ thể như sau:

Số tờ châu bản liên quan phân theo triều vua

Minh Mệnh Thiệu Trị Tự Đức

Phân theo khía cạnh nội dung Lương Gia Long 10 54

Bổng 3 263

Trợ cấp Đãi ngộ

44 57 80 180 ( 20 tờ về đặc ân, 10 phạt bổng) 109 90 459 20 214 (4 tờ về phạt bổng, 3 tờ cho võ quan phạm tội) 24 29 287 73 213 603 Tổng 1406

Như vậy, số tài liệu liên quan đến chế độ lương bổng và trợ cấp của nhà

nước dành cho quân đội trong Châu bản có hơn 1400 tài liệu (một số tài liệu có nội

dung trùng nhau trong ban cấp cho một đối tượng). Luận án hiện sử dụng 60 dẫn

chứng từ nguồn tài liệu này. Đặc biệt là 2 văn bản tài liệu có nội dung về việc khen

thưởng cho quân lính đi vẽ bản đồ ở quần đảo Hoàng sa (trên tổng số 9 tài liệu còn lưu

giữ được về chủ quyền của nước ta đối với quần đảo này qua tài liệu Châu bản).

Tư liệu trong Châu bản có giá trị quan trọng đối với luận án bởi tính chân

thực và độ tin cậy. Không chỉ phản ánh định chế, chính sách lương, trợ cấp và khen

thưởng cho binh lính dưới các đời vua triều Nguyễn mà Châu bản còn thể hiện việc

hiện thực hóa các chế độ, chính sách đó ở các địa phương. Việc triều Nguyễn đồng

ý hoặc không đồng ý phê duyệt với các văn bản của địa phương tâu xin cấp và xin

thưởng thêm cho cá nhân binh lính hoặc một đơn vị quân đã ít nhiều phản ánh sự

linh hoạt hay nhất quán trong những chính sách đối với quân đội của triều Nguyễn

khi áp dụng với các trường hợp cụ thể. Đây có thể coi là nguồn tư liệu mà các bộ

chính sử của triều Nguyễn không hoặc ít đề cập đến.

Đại Nam liệt truyện là bộ sử ghi chép tương đối đầy đủ về sự tích, công trạng

các công thần, liệt nữ, danh tăng, các vị vua, chúa trong gia phả triều Nguyễn trước

và sau khi “Gia Long lập quốc”. Trong tư liệu này, tácgiả luận án có thể tra cứu thu

thập được những tư liệu về việc thưởng phạt của triều Nguyễn cho các võ quan. Từ

đó, có thể đánh giá được mục đích và ý nghĩa của chính sách này đối với cá nhân võ

quan và đối với việc xây dựng quân đội.

Minh Mệnh chính yếu (bản dịch của Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế phát hành vào

26

năm 1994) là bộ sử đúc kết toàn bộ tư tưởng, chính sách của vua Minh Mệnh trong suốt

thời gian trị vì đất nước (1820-1841). Trong bộ sách này, nội dung về chế độ lương, trợ

cấp trận thương trận vong được phản ánh trong quyển 3 thiên thứ 4 (Thể thần), quyển

XIV thiên thứ mười ba về Chế binh, quyển XVIII thiên thứ 16 (Pháp độ) thưởng phạt

của các bộ, quyển XXI thiên thứ mười tám (Phấn võ) về hoạt động quân sự dưới triều

Minh Mệnh. Những tư liệu trong bộ sử này là cơ sở để tác giả bổ sung thông tin hoặc đối

sánh về tính xác thực của sự kiện được ghi chép trong các bộ khác sử như Thực lục hoặc

Hội điển. Đồng thời tư liệu trong Minh Mệnh chính yếu cũng góp phần bổ sung thêm

một số sự kiện mà những bộ sử khác không đề cập đến.

Minh Mệnh ngự chế văn (dụ văn), gồm 2 tập, do Trần Văn Quyền dịch và chú giải,

Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội

xuất bản năm 2000. Đây là tập hợp những lời chỉ dụ -một phần trong các văn bản hành

chính của vua cho các cơ quan (các bộ, Hội đồng đình thần, các đơn vị quân...) - đối với

binh lính và các cá nhân.v.v....để bày tỏ quan điểm về các vấn đề trong xã hội hoặc thể hiện

sự giáo hóa và răn dạy của vua. Trong 2 tập của bộ Ngự chế văn, nội dung các chỉ dụ của

vua đối với bộ Binh, các quân thứ như quân thứ Gia Định, Trấn Tây đã nói lên chính

sách của vua Minh Mệnh đối với việc chi cấp lương, ban thưởng cho binh lính theo định lệ

hay thưởng thêm cho binh lính. Cụ thể, thưởng cho binh lính khi đi làm nhiệm vụ (ví dụ

như dụ số 7, 27, 32, 39 .... trong tập 1, dụ số 444, 486, 490, 501 trong tập 2), trợ cấp cho

binh sĩ bị đau ốm và bị thương trong khi đi đóng quân và đánh tham gia đánh dẹp các cuộc

nổi dậy (ví dụ như dụ số 5, 6, 36, 106, 116, 157 trong tập 1; dụ số 420, 509 trong tập 2); thể

hiện tư tưởng nhân đạo (ban cấp cho binh lính là người tù tội (ví dụ như dụ số 52 trong tập

1). Đây là nguồn tư liệu góp phần bổ sung cho những nội dung đã bị khuyết thiếu nhất là

trong Châu bản về các chính sách của triều Nguyễn đối với quân đội.

Nội dung Lương Tổng số 3

Bổng 32

Trợ cấp 8

Đãi ngộ 28

Tổng Số tài liệu cụ thể 16, 329, 386 32, 63, 71, 83, 116, 156, 160, 196, 198, 227, 234, 257, 266, 283, 284, 289, 294, 307, 345, 364, 437, 440, 444, 477, 547, 550, 560, 562, 569, 582, 588 15, 27, 39, 77, 191, 195, 202, 242. 5, 6, 11, 54, 55, 64, 70, 81, 104, 128, 133, 151, 153, 157, 171, 212, 224, 229, 247, 249, 366, 379, 394, 395, 396, 445, 507, 509 71/588 dụ

Quốc triều sử toát yếu gồm Quốc triều tiền biên toát yếu và Quốc triều chính

27

biên toát yếu là bộ sử giản lược, tóm tắt từ bộ Đại Nam Thực lục. Quốc triều chính

biên toát yếu gồm 6 quyển chép lược các sự kiện lớn được từ khi Nguyễn Ánh khởi

binh ở Gia Định từ 1778 đến khi vua Thành Thái lên ngôi năm 1889. Sách ghi tóm

tắt các sự kiện lịch sử theo lối biên niên do đó có thể tra cứu các sự kiện thuộc nội

dung của luận án theo thời gian một cách dễ dàng.

Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng tư liệu của một số bộ sử được biên soạn

dưới triều Nguyễn nhưng nội dung biên chép về các triều đại trước.

Bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục được coi là bộ sử lớn thứ 2 của

Việt Nam (bộ sử được đánh giá lớn đầu tiên của lịch sử dân tộc là Đại Việt sử ký

toàn thư) được các sử gia triều Nguyễn biên soạn dưới triều vua Tự Đức do Phan

Thanh Giản làm chủ biên. Bộ sách gồm hai phần: tiền biên và chính biên. Trong đó,

phần chính biên ghi chép từ năm 968 đến những năm cuối cùng của thế kỷ XVIII

dưới triều Hậu Lê. Đây là tài liệu quan trọng cho việc nghiên cứu lịch sử phong

kiến thời kỳ trước Nguyễn.

Lịch triều hiến chương loại chí là bộ sách được học giả Phan Huy Chú

nghiên cứu và biên soạn trong 10 năm (1809-1819). Đây được xem là bộ bách

khoa toàn thư đầu tiên của nước ta. Sách được phân loại, hệ thống hóa theo

phương pháp khoa học gồm 10 nội dung (được gọi là chí). Tài liệu lên quan

trực tiếp đến luận án là phần Quốc dụng chí nói về chế độ thuế khóa, tài chính

của các triều đại trong lịch sử và phần Binh chế chí nói về các tổ chức quân sự

qua các triều đại từ triều Lê trở về trước.

Bên cạnh đó luận án còn tham khảo và sử dụng tư liệu gia phả dòng họ,

văn bia hay sắc phong lưu giữ tại địa phương như văn bia sắc phong làng Hiền

Lương (Thừa Thiên Huế), gia phả dòng họ Đỗ Việt Nam, gia phả gia đình

Nguyễn Công Trứ, gia phả dòng họ Doãn và sắc phong An Tây mưu lược tướng

quân của danh tướng Doãn Uẩn ở nhà thờ dòng họ Doãn (Song Lãng, Vũ Thư,

Thái Bình).

Ngoài các nguồn sử liệu trên, luận án cũng tham khảo, kế thừa một số

tài liệu nghiên cứu có liên quan đến nội dung đề tài đã được công bố dưới

dạng các sách thông sử, chuyên khảo, tham khảo, bài viết trên tạp chí nghiên

cứu chuyên ngành của các học giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, nguồn tư

liệu thư tịch, chính sử vẫn là như vậy để nghiên cứu luận án, tác giả sử dụng

28

các bộ chính sử, thư tịch viết về các triều đại trước Nguyễn và dưới thời

Nguyễn. Nguồn tư liệu quan trọng nhất của luận án là các bộ sử được biên

soạn dưới triều Nguyễn như Thực lục, Hội điển (chính biên và Tục biên). Đây

là tài liệu chủ yếu để tác giả luận án phục dựng nội dung của luận án và đưa

các luận điểm khoa học có liên quan. Các tài liệu thư tịch khác như Châu bản,

Minh Mệnh chính yếu và Minh Mệnh ngự chế văn là những tài liệu bổ sung

nhằm làm phong phú, cụ thể hơn nội dung của luận án. Các bộ sử viết về các

triều đại trước Nguyễn làm cơ sở đối sánh với những chính sách được ban

hành dưới triều Nguyễn. Bên cạnh đó, tác giả cũng kế thừa một số công trình

nghiên cứu của các nhà khoa học khác liên quan đến đề tài như đã trình bày

trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu. Tất cả những nguồn tư liệu này

giúp tác giả luận tái hiện được một cách đầy đủ, khách quan nhất có thể vấn đề

nghiên cứu của đề tài.

1.3. Những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu đề tài

Thông qua tổng quan tình hình nghiên cứu, có thể nhận thức được một số

vấn đề đặt ra trong nghiên cứu như sau:

1. Hệ thống tổ chức và các lực lượng quân đội dưới triều Nguyễn như bộ

binh, thủy binh, hệ thống phòng thủ đã được khá nhiều tác giả đề cập cụ thể trong

các công trình khảo cứu chuyên sâu (như của Đỗ Bang, Lưu Trang, Bùi Gia Khánh,

Hà Duy Biển...). Phần trình bày tình hình chung về quân đội triều Nguyễn khi đặt

trong các vấn đề chính trị - xã hội hoặc sự phát triển của lịch sử quân sự Việt Nam

chủ yếu mới dừng lại ở mức khái quát.

2. Vấn đề đãi ngộ cho quân đội dưới triều Nguyễn đã được đề cập ở một

số nội dung: định chế về thưởng phạt, cách tính và việc chi trả lương bổng cho

quan lại và binh lính dưới từng triều vua (chủ yếu mới khảo cứu về triều Minh

Mệnh). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu liên quan đến ngân sách chi cho

lương, bổng và trợ cấp cho quân đội dưới triều Nguyễn mới chỉ dừng lại ở việc

tổng thuật các chính sách mà vương triều Nguyễn đề ra (như bài viết của

Nguyễn Minh Tường và Huỳnh Công Bá); đề cập một phần nội dung chế độ đãi

ngộ khi khảo cứu quân đội dưới dưới triều Nguyễn (như bài viết của Nguyễn

Thị Thu Thủy, Nguyễn Phương Nga) hay cụ thể hơn có đề cập đến vấn đề

lương thưởng cho quan và quân trong quân đội dưới một triều vua ( vua Minh

29

Mệnh) (như bài viết của tác giả Hà Duy Biển, Hoàng Lương ).

Nhiều khía cạnh khác mà những nghiên cứu đi trước chưa đề cập cụ thể, hệ

thống và cần tiếp tục được làm rõ như:

Về tổ chức, chức danh, phẩm hàm của võ quan chỉ huy các lực lượng quân từ

trung ương đến địa phương là gì; số lượng và sự phát triển hay suy giảm của các lực

lượng trong quân đội qua các triều vua ra sao? Vấn đề này sẽ liên quan trực tiếp đến

ngân khố quốc gia trong việc chi cấp lương cho quân đội đồng thời phản ánh sức

mạnh của quân đội qua từng triều vua từ Gia Long đến Tự Đức nhất là trong bối

cảnh trước và trong khi triều đình nhà Nguyễn phải đối mặt với cuộc kháng chiến

xâm lược của thực dân Pháp.

Vấn đề sử dụng tướng sĩ như sai phái, chia ban cũng cần được làm rõ. Điều

này cũng sẽ liên quan trực tiếp đến việc thưởng và trợ cấp cho binh lính khi đi làm

nhiệm vụ.

Về chế độ đãi ngộ, cần làm rõ chế độ lương bổng, đãi ngộ và thưởng phạt

cho quân đội triều Nguyễn nói chung bao gồm những khía cạnh nào? Những thay

đổi về định lệ lương, phụ cấp, trợ cấp cho từng đối tượng gắn với địa vị và công

việc cụ thể qua từng triều vua ra sao? Quá trình thực hiện các chính sách này có gì

thay đổi qua các đời vua Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức? Chế độ đãi ngộ đối với

quân đội của triều Nguyễn có gì tương đồng, khác biệt so với các triều đại trước?

Những chính sách này có ảnh hưởng gì đến tình hình chính trị, kinh tế và xã hội

đương thời? Đây là những vấn đề còn để ngỏ cần được tiếp tục nghiên cứu một cách

chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống.

Qua những vấn đề đã trình bày nêu trên, cho đến nay chưa có một công trình

nghiên cứu chuyên sâu nào về vấn đề đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn giai

đoạn 1802 - 1884. Đây là cơ sở để tác giả luận án mạnh dạn theo đuổi đề tài nghiên cứu

của mình.

30

Tiểu kết chƣơng 1

Lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử Việt Nam dưới triều Nguyễn nói riêng

đã được các học giả quan tâm nghiên cứu. Tuy vấn đề đãi ngộ của triều Nguyễn đối

với quân đội còn tương đối ít ỏi nhưng những nhận định của các học giả về vấn đề

này ít nhiều giúp tác giả luận án trong việc so sánh, đánh giá vấn đề mà tác giả luận

án nghiên cứu.

Những năm gần đây, lịch sử Việt Nam dưới triều Nguyễn trong đó có những

vấn đề về quân đội như tổ chức, phiên chế trong quân đội, khí tài, hệ thống phòng

thủ đã được giới sử học đề cập tới trong những bộ thông sử cũng như trong các bài

nghiên cứu. Liên quan trực tiếp tới vấn đề chế độ đãi ngộ của nhà nước đối với quân

đội đã có một số bài viết công bố trên tạp chí chuyên ngành. Tuy nhiên, việc nghiên

cứu chế độ đãi ngộ đối với quân đội một cách hệ thống và toàn diện còn là vấn đề

còn bỏ ngỏ.

Nguồn sử liệu chính sử được biên soạn dưới triều Nguyễn như Đại Nam thực

lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là nguồn tư liệu chính cho nội dung của

luận án. Bên cạnh đó, luận án còn kế thừa, tham khảo những tư liệu, các bài nghiên

cứu liên quan trực tiếp đến nội dung của luận án làm cơ sở cho việc đánh giá, nhận

định về đặc điểm chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho quân đội.

31

Chƣơng 2.

BỐI CẢNH ỊCH SỬ THẾ Ỷ XIX VÀ TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI

TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802-1884

2.1. Bối cảnh lịch sử thế kỷ XIX

2.1.1. Bối cảnh thế giới và khu vực

2.1.1.1. Các nước trên thế giới chịu ảnh hưởng bởi sự phát triển của chủ nghĩa tư bản

Đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây đang chuyển nhanh từ giai

đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc. Để đáp ứng nhu cầu mạnh mẽ của

nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, yêu cầu bức thiết đối với các nước tư bản là tìm kiếm

nguồn nguyên liệu, thị trường và nhân công lao động. Đó chính là nguyên nhân

chính dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa của các nước tư bản

phương Tây đối với các nước ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ la tinh nhằm biến

các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật

liệu, khai thác nhân công và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc. Bối cảnh này

đặt các nước Á, Phi, Mĩ latinh trước thách thức tìm biện pháp để bảo vệ độc lập dân

tộc chống lại sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây.

Từ nửa sau thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra ở

Châu Âu và Bắc Mĩ với những phát minh điện tử, sóng vô tuyến điện, chất phóng

xạ, động cơ điện, Sự kết hợp giữa khoa học với sản xuất mang tính hệ thống đã

dần đưa khoa học trở thành lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển các ngành

công nghiệp khác như luyện kim, chế tạo máy, đóng tàu, công nghiệp quân sự; giao

thông vận tải Lĩnh vực kỹ thuật quân sự diễn ra cuộc cách mạng cơ giới hóa và tự

động hóa vũ khí trang bị chiến tranh. Đây là vừa là cơ hội đồng thời vừa là thách

thức đối với các quốc gia trong việc áp dụng những thành tựu của cách mạng công

nghiệp vào phát triển kinh tế, củng cố anh ninh quốc phòng nhất là trong bối cảnh

các nước phương Tây ứng dụng những thành tựu này trong công cuộc chạy đua vũ

trang để xâm lược thuộc địa.

Châu Á và khu vực Đông Nam Á - nơi có sự giàu có về tài nguyên thiên

nhiên, nguồn nhân lực dồi dào trở thành đối tượng nhòm ngó của chủ nghĩa thực

dân phương Tây. Ở châu Á, Ấn Độ, sau đó là Trung Quốc, đến giữa thế kỷ XIX đã

bị chủ nghĩa tư bản phương Tây xâm lược. Sau khi kí một số điều ước với Anh,

32

Pháp triều Mãn Thanh còn tồn tại nhưng chỉ là bù nhìn.

Đối với khu vực Đông Nam Á, từ rất sớm, các nước phương Tây đã đặt chân

đến khu vực này để giao thương buôn bán, đồng thời biến một số nước ở khu vực

thành thuộc địa. Trước thế kỷ XIX, Tây Ban Nha sau đó là Hà Lan, Anh và Pháp đã

đặt chân đến một số nước ở Đông Nam Á. Từ thế kỷ XIX, nhu cầu thị trường đối

với các nước tư bản tăng cao. Sau khi đặt nền thống trị lên các nước lớn, giàu tài

nguyên của châu Á là Ấn Độ và Trung Quốc, các nước phương Tây tiêu biểu là Hà

Lan, Anh, Pháp cạnh tranh quyết liệt ở Đông Nam Á. Do đó, các nước Đông Nam

Á trong đó có Việt Nam trở thành đối tượng xâm lược của các nước thực dân

phương Tây là tất yếu. Việc các nước này có trở thành thuộc địa hay không tùy

thuộc vào mỗi nước.

Thực tế, ngoại trừ Xiêm (Thái Lan) đến cuối thế kỷ XIX các nước trong

khu vực Đông Nam Á đều trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương

Tây: Indonexia trở thành thuộc địa của Hà Lan; Phillipin thành thuộc địa của Mĩ;

Mianma và Malaixia là thuộc địa của Anh. Cũng giống như các nước trong khu

vực, cùng với Lào và Campuchia, Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp

vào nửa cuối thế kỷ XIX.

2.1.1.2. Quan hệ giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á diễn ra phức tạp

Đến cuối thế kỷ XVIII, hầu hết các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á lâm

vào tình trạng khủng hoảng và suy thoái. Trong khi đó, Xiêm lại vươn lên thành

một quốc gia phong kiến hùng mạnh, âm mưu bành trướng mở rộng lãnh thổ và bá

quyền khu vực, ráo riết đẩy mạnh xâm lược Lào và Chân Lạp (Campuchia). Năm

1802, nhà Tây Sơn bị đánh bại, Nguyễn Ánh lên ngôi, lập ra vương triều Nguyễn.

Nhà nước Đại Nam dưới thời vua Minh Mệnh trở thành một trong hai quốc gia

phong kiến mạnh ở khu vực Đông Nam Á. Sự lớn mạnh của hai quốc gia phong

kiến Xiêm và Đại Nam cùng với các mối quan hệ của nó đã có tác động to lớn đối

với khu vực. Hòa bình hay bất ổn ở khu vực Đông Nam Á lục địa thế kỷ XIX đều

chịu sự chi phối của quan hệ Xiêm - Việt, hai nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất là

Chân Lạp và Lào.

Trong 30 năm đầu thế kỷ XIX, mối quan hệ bang giao giữa Xiêm- Đại Nam

nước nói chung tương đối tốt đẹp, hai nước cùng quan tâm đưa ra những giải pháp

tốt nhất để giải quyết những vấn đề xảy ra giữa hai nước và trong khu vực. Mối

33

quan hệ tốt đẹp này đã tạo sự ổn định cho khu vực Đông Nam Á lục địa. Thời gian

này, hai nước Xiêm - Đại Nam cùng đặt ảnh hưởng ở Chân lạp. Chân Lạp “thần

phục kép” bằng con đường hòa bình. Chân Lạp để Xiêm đóng quân ở Bat-tam-

bang, tránh xung đột bất lợi với Đại Nam. Đại Nam bảo hộ Chân Lạp, cố gắng giữ

hòa hiếu với Xiêm La nhưng vẫn có sự phòng bị.

Sang đời vua Minh Mệnh và Rama III, mối bang giao Xiêm - Việt bắt đầu

rạn nứt. Năm 1833, nhân cớ Lê Văn Khôi khởi nghĩa và cầu viện Xiêm chống lại

triều Nguyễn với lời hứa sẽ chia rẽ Nam Kì. Xiêm nhận thấy đây là cơ hội thuận lợi

để đánh bại và gạt ảnh hưởng của triều Nguyễn ở đất Chân Lạp. Vì thế, vua Rama

III đã mang quân tiến đánh Chân Lạp và Đại Nam. Sau sự kiện này, hai nước chấm

dứt quan hệ bang giao, bắt đầu thời kỳ xung đột và xảy chiến tranh giữa hai nước

trên đất Chân Lạp.

Dưới triều vua Thiệu Trị, từ năm 1841 đến đầu năm 1845, Xiêm ảnh hưởng

lớn tại Chân Lạp. Năm 1841, quân Nguyễn rút khỏi thành Trấn Tây (vùng đất lập

triều Nguyễn lập ra năm 1835 trên vùng đất Chân Lạp). Năm 1845, Đại Nam giành

lại ảnh hưởng số 1 tại Chân Lạp sau khi quân Nguyển chiếm lại Phnom Pênh.

Tháng 9 năm 1845, cả ba nước đi đến đàm phán. Kết quả của cuộc đàm phán này

Chân Lạp chịu sự bảo hộ của triều Nguyễn. Tháng 4 năm 1848, Ang Đuông lên

ngôi vua Chân Lạp với sự chứng kiến của đại diện hai nước Xiêm, Đại Nam. Từ sau

sự kiện này, quan hệ Việt Nam và Xiêm xung quanh vấn để Chân Lạp được xoa dịu.

Một quốc gia Đông Nam Á lục địa chịu ảnh hưởng sâu sắc của mối quan hệ

Việt- Xiêm đó là Lào. Lào chia thành nhiều tiểu quốc trong đó một số tiểu quốc thì

thần phục Đại Nam, một số tiểu quốc thì thần phục Xiêm La. Vào năm 1827, vua

Lang Xạn nổi dậy chống Xiêm đồng thời sang cầu cứu vua Nguyễn. Lúc đầu Minh

Mệnh không mang viện binh sang giúp Lào nhưng nhận thấy rằng nếu Xiêm chiếm

Lào sẽ ảnh hưởng đến biên giới vùng Tây Bắc, nên vua Minh Mệnh đã cho quan

binh mang thư sang trách nước Xiêm, mặt khác đem quân sang Lào. Xiêm muốn sự

việc yên ổn nên đã rút quân về nước từ đó tình hình Lào được yên ổn.

Với những đặc điểm của tình hình thế giới và khu vực nêu trên cho thấy, việc

củng cố và xây dựng một lực lượng quân đội mạnh là yêu cầu thiết yếu đối với các

nước Á, Phi, Mĩ la tinh trong đó có nhà nước Đại Nam dưới triều Nguyễn. Bên cạnh

đó, các vua triều Nguyễn cũng củng cố sức mạnh quốc gia trong đó có quân đội để

34

bảo hộ các nước Chân Lạp, Lào vừa vừa gây thanh thế đối với các thế lực đối lập như

Xiêm. Việc xây dựng lực lượng quân đội mạnh trong đó chế độ đãi ngộ cho võ quan và

binh lính nhằm đảm bảo độc lập dân tộc và uy thế của nhà nước Đại Nam là cần thiết.

2.1.2. Bối cảnh trong nước thế kỷ XIX

Năm 1802, Nguyễn Ánh lập ra vương triều Nguyễn, chấm dứt cuộc nội chiến

liên miên giữa Đàng Trong - Đàng Ngoài và thời gian dài đất nước bị chia cắt.

Trong 82 năm giai đoạn nắm quyền, dưới sự trị vì của các triều vua Gia Long, Minh

Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức, triều Nguyễn đã cai trị đất nước trong hai hoàn cảnh

khác biệt. Trước năm 1858 là giai đoạn các vua triều Nguyễn xây dựng đất nước

trong điều kiện hòa bình, sau năm 1858 là giai đoạn đất nước có chiến tranh. Bối

cảnh lịch sử này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách của triều Nguyễn đối với

quân đội trong đó có vấn đề đãi ngộ đối với võ quan và binh lính.

2.1.2.1. Bối cảnh triều Nguyễn trước năm 1858

Đây là giai đoạn triều Nguyễn thực thi chế độ lương bổng và trợ cấp cho võ

quan và binh lính trong thời kỳ hòa bình. Về chính trị, năm 1802 dựa vào sự ủng hộ

của đại địa chủ miền Nam, với chiến thuật quân sự độc đáo, Nguyễn Ánh đã đánh

thắng phong trào nông dân Tây Sơn lập ra vương triều Nguyễn. Giống như hầu hết

các vương triều trong lịch sử dân tộc, triều Nguyễn được lập ra sau thắng lợi quân

sự. Tuy nhiên bản chất của chiến thắng này có sự khác biệt so với những thắng lợi

quân sự thành lập các vương triều khác trong lịch sử. Triều Nguyễn đánh thắng

vương triều Tây Sơn- vương triều đại diện cho sức mạnh và niềm tự hào của nông

dân, một lực lượng chiếm đa số trong xã hội. Do đó, sau khi thành lập vương quyền,

vua Gia Long phải đương đầu với sự chống đối quyết liệt của nông dân. Ngoài ra là

sự không đồng thuận của là các sĩ phu Bắc Hà ở Đàng Ngoài – là những cựu thần,

nơi “đất cũ” của vua Lê. Đây chính là một trong những nguyên nhân để xây dựng

vương quyền vững mạnh, triều Nguyễn đặc biệt quan tâm tới xây dựng quân đội,

trong đó, vấn đề đãi ngộ đối với võ quan và binh lính được triều Nguyễn coi trọng.

Từ năm 1831, sau cải cách của vua Minh Mệnh, triều Nguyễn đã đã xây

dựng một bộ máy hành chính thống nhất từ trung ương xuống địa phương, quyền

lực tập trung cao độ trong tay Hoàng đế. Bên cạnh đó, việc làm chủ một vùng lãnh

thổ rộng lớn không chỉ tạo điều kiện thuận lợi để triều Nguyễn phát triển một quốc

gia thống nhất, hùng mạnh mà còn là thách thức đối với triều Nguyễn. Vấn đề khó

35

khăn nhất đối với triều Nguyễn là việc đồng thời phải ổn định chính trị, giữ vững

nền độc lập trên một vùng lãnh thổ với đường biên giới dài, vùng biển rộng lớn

luôn nổ ra những cuộc nổi dậy trong nước và âm mưu xâm lược từ bên ngoài. Từ bối

cảnh trên, dưới triều Minh Mệnh, việc xây dựng một lực lượng quân đội hùng mạnh

vừa bảo vệ độc lập dân tộc, vừa ổn định tình hình đất nước trở thành nhu cầu thiết yếu.

Về kinh tế, đến thế kỷ XIX nền kinh tế dưới triều Nguyễn vẫn là một nền kinh

tế nông nghiệp. Kinh tế nông nhiệp triều Nguyễn khá đa dạng nhưng vẫn không vượt

ra khỏi phương thức sản xuất cổ truyền. Ruộng đất –tư liệu sản xuất chính của nền kinh

tế- đứng trước một loạt khó khăn. Nhà nước đã tìm cách quản lý ruộng đất bằng chính

sách quân điền. Đồng thời mở rộng diện tích ruộng đất bằng chính sách lập đồn điền

khẩn hoang, khuyến khích nhân dân đi khai hoang phục hóa.

Kết quả của chính sách khai hoang đặc biệt là hình thức doanh điền giúp tăng

đáng kể diện tích ruộng đất công nhưng tình trạng thiên tai liên tiếp xảy ra như hạn

hán, lụt lội, vỡ đê ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế nông nghiệp của triều Nguyễn.

Theo ghi chép của các sử gia, trong gia đoạn 1802 - 1884, cả nước có trên 100 trận

lụt, 80 trận bão. Trong đó, Quảng Nam có 34 trận, Thừa Thiên có 32 trận, Quảng

Trị có 30 trận, Quảng Bình có 27 trận, Thanh Hóa có 22 trận, Quảng Ngãi, Nghệ An

có 19 trận, Hà Tĩnh và Bình Định có 14 trận. Vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng là nơi

xảy ra 23 trận bão, 50 trận lụt, 38 trận vỡ đê sông Hồng [131; 79].

Nạn đói liên tục hoành hành nhất là vào những năm 30, 40 của thế kỷ XIX ở

các tỉnh Bắc kỳ. Hậu quả để lại là năm 1827, dân hai trấn Sơn Nam, Nam Định có 353

xã thôn thuộc các huyện Thiên Thi, Phù Dung, Hoài An, Chương Đức, Quỳnh Côi,

Diên Hà dân phiêu tán, ruộng đất bỏ hoang. Năm 1930, Bắc Thành gạo đắt, dân đói,

triều đình phải hoãn thu thuế cho 11 trấn ở Bắc Thành và phát chẩn đến 23.000 hộc cho

dân nghèo.

Thuế ruộng đất vẫn là nguồn thu chủ yếu của quốc khố. Ngay khi lên ngôi, năm 1804 vua Gia Long thực hiện chia ruộng theo các hạng để đánh thuế.1 Đến năm

1836, vua Minh Mệnh thay đổi cách đánh thuế theo khu vực. Cả nước được chia ra

1 Các phủ Quảng Bình, Triệu Phong, Điện Bàn, Thăng Hoa, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên, Bình Hòa, Diên Khánh, ruộng công và tư mỗi mẫu nộp hạng nhất, 40 thăng thóc và 3 tiền; hạng nhì 30 thăng thóc và 3 tiền, hạng ba 20 thăng thóc và 3 tiền. Các trấn Nghệ An, Thanh Hoa, Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam thượng hạ và phủ Phụng Thiên, mỗi mẫu nộp thóc: hạng nhất 20 bát đồng quan; hạng nhì 42 bát đồng quan 15; hạng ba 25. 10. Từ Bình Thuận đến Gia Định và đạo Long Xuyên, Kiên Giang.

làm ba khu vực thu thuế ruộng: khu vực I gồm các tỉnh từ Quảng Bình đến Khánh

36

Hòa; khu vực II gồm các tỉnh từ Nghệ Tĩnh ra Bắc; khu vực III: gồm Bình Thuận và

lục tình Nam Kì. Trong đó, triều đình đánh thuế ruộng công nặng hơn thuế ruộng tư

nên tầng lớp nông dân nghèo không có ruộng, nhất là những vùng đông dân cư ở

đồng bằng sông Hồng, sông Mã, chịu thuế nặng. Ngoài thu thuế điền thổ các vua

triều Nguyễn đánh thuế đinh.

Các vua triều Nguyễn đã cho lập sổ đinh và chia dân đinh thành các hạng

giao cho xã trưởng quản lý để làm cơ sở cho việc đánh thuế. Đầu triều Gia Long,

nhà Nguyễn thu theo định mức nội đinh (dân ở làng) và ngoại đinh (người nơi khác

tới ở ngụ trong làng). Trong số đinh, nội đinh được sắp xếp theo hạng khá tỉ mỉ

(tráng hạng, quân hạng, dân hạng, lão tật hạng) với các mức thuế khác nhau. Những

hạng được miễn thuế là: người có chức sắc, con quan, nhiêu ấm, nhiêu thân, quan

chức, người đỗ đạt, binh sĩ, thợ thuyền.

Ngoài ra, tư tưởng Tống nho ăn sâu vào nhận thức của các tầng lớp vua quan

dẫn đến sự khước từ giao thương với các nước phương Tây đặc biệt là từ khi vua

Minh Mệnh cai trị đất nước. Chính sách này làm thui chột những yếu tố tiến bộ của

nền sản xuất hàng hóa đã manh nha xuất hiện từ thế kỷ XVIII khiến cho nền kinh tế

ngày càng lâm vào tình trạng khủng hoảng.

Những đặc điểm nêu trên của nền kinh tế đã ảnh hưởng lớn tới tiềm lực kinh

tế của đất nước, chi phối không nhỏ đến chính sách của vương triều Nguyễn đối với

xây dựng và bảo vệ đất nước trong đó có chế độ đãi ngộ của triều đình dành cho

quân đội.

Về xã hội, những cuộc nổi dậy chống triều đình đã bùng lên từ rất sớm liên

tục suốt từ đầu thời vua Gia Long đến thời vua Tự Đức. Lực lượng bao gồm các

tướng lĩnh cũ triều Tây Sơn, nông dân nhất là vùng Bắc Hà, nhân dân các dân tộc ở

miền núi Bắc Bộ, Trung Bộ và Tây Nguyên và binh lính .Trong đó có một số cuộc

khởi nghĩa lớn như: Phan Bá Vành ở Nam Định, Nông Văn Vân ở Tuyên Quang và

Lê Duy Lương ở Ninh Bình; Lê Văn Khôi ở vùng Gia Định. Triều Nguyễn phải

điều một số lượng quân lớn đi đánh dẹp. Do vậy, nhà nước phải chi một khoản tiền

lớn để phụ cấp cũng như khen thưởng cho đội quân này.

Có thể thấy, yếu tố ảnh hưởng đến chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn trước

năm 1858 như:

- Nền kinh tế nông nghiệp vẫn là nền kinh tế chủ đạo của triều Nguyễn trong

37

đó thuế ruộng đất thu bằng thóc là chủ yếu nhưng ruộng đất ngày càng khó khăn

cùng với đó là tình trạng trạng mất mùa, đói kém, thiên tai liên tiếp xảy ra ảnh

hưởng không nhỏ đến quốc khố của nhà nước. Đây là trở ngại đối với triều Nguyễn

trong việc đặt ra định mức đãi ngộ cho võ quan và binh lính.

- Binh lính trở thành lực lượng quan trọng trong việc dẹp yên các cuộc nổi

dậy trong nước và âm mưu xâm chiếm của các nước ngoại bang. Để khẳng định sự

cai trị và lớn mạnh của vương triều, triều Nguyễn cần phải có chính sách đãi ngộ

phù hợp đối với võ quan và binh lính.

2.1.2.2. Bối cảnh triều Nguyễn sau năm 1858

Đây là giai đoạn triều Nguyễn vừa phải dẹp yên những cuộc nổi dậy chống

đối triều đình vừa phải đối phó với sự xâm lược của thực dân Pháp.

Sang thời Tự Đức, trước và trong khi Pháp xâm lược, các cuộc khởi nghĩa

chống triều đình vẫn liên tiếp nổ ra. Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nông dân, sự nổi

dậy của nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi như các triều vua trước, ở giai

đoạn này triều Nguyễn còn phải chống lại sự nổi dậy của binh lính như cuộc khởi

nghĩa Lê Duy Phụng, sự cướp phá của tàn quân Thái Bình Thiên Quốc ở miền

thượng du tiêu biểu là khởi nghĩa Tam Đường ở Thái Nguyên, khởi nghĩa Ngô Côn

ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên. Một lực lượng lớn quân đội được vua Tự Đức

huy động để dẹp yên những cuộc nổi dậy này.

Từ tháng 9 năm 1858, triều Nguyễn phải tổ chức kháng chiến chống lại sự

xâm lược của thực dân Pháp. Đây là một thế lực ngoại xâm chưa từng có trong tiền

lệ với phương tiện chiến tranh hiện đại, cách đánh khác biệt. Sau khi đánh Đà Nẵng,

Pháp lần lượt mở rộng đánh chiếm các địa điểm quan trọng trên lãnh thổ nước Đại

Nam: Gia Định, Nam Kỳ, Bắc Kỳ và sau đó là Huế. Để chống đỡ lại hỏa lực, vũ

khí và phương tiện chiến tranh của Pháp, triều Nguyễn đã điều huy động một lực

lượng quan binh lớn tham gia chiến trận. Những hoạt động này đòi hỏi triều

Nguyễn phải ban cấp một khối lượng tiền gạo lớn để nuôi quân cũng như khen

thưởng cho võ quan và binh lính lập được nhiều công trạng.

Sau khi thất thủ ở Gia Định và các tỉnh An Giang, Hà Tiên và Vĩnh Long

triều đình Huế lần lượt ký với Pháp hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862 và Giáp Tuất

năm 1874. Với 2 điều ước này, nhà Nguyễn mất quyền cai trị ở lục tỉnh Nam Kỳ.

Đây là tổn thất rất lớn của triều Nguyễn. Từ đây, triều đình mất chỗ dựa quan trọng

là các đại địa chủ miền Nam, vốn là lực lượng đắc lực ủng hộ họ Nguyễn lấy lại

38

vương quyền, đồng thời mất đồng bằng sông Cửu Long, một trong những nơi cung

cấp lương thực chính của triều đình Huế.

Ngoài ra, trong điều khoản thứ 8 của Hiệp ước Nhâm Tuất, triều Nguyễn

phải bồi thường cho Pháp 4 triệu France chiến phí. Với việc kí kết hai bản Hiệp ước

này, vua Tự Đức vừa phải đối mặt với sự thiếu hụt ngân sách vừa phải trả nợ cho

Pháp đồng thời vẫn phải đảm bảo tài chính và lương thực ổn định tình hình trong

nước và chống ngoại xâm. Khó khăn chồng chất này đã ảnh hưởng trực tiếp đến

chính sách lương bổng và tài chính của nhà nước dành cho quân đội.

Hậu quả của những cuộc đàn áp và kháng chiến chống ngoại xâm thời kỳ

này đã gây ra những thương vong cho võ quan và binh lính trực tiếp tham gia chiến

trận. Do vậy, sau năm 1858 triều Nguyễn không chỉ trợ cấp cho tướng sĩ trận

thương, trận vong khi tham gia đánh dẹp những cuộc nổi dậy mà còn phải trợ cấp

cho những binh lính tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và thân

nhân của họ.

Những đặc điểm về kinh tế, chính trị xã hội nêu trên đã chi phối trực tiếp tới

chế độ đãi ngộ dành cho quân đội của triều Nguyễn. Thực tế này đòi hỏi triều

Nguyễn phải xây dựng một lực lượng quân đội đủ mạnh để bảo vệ quyền cai trị của

dòng họ, trấn áp các cuộc nổi dậy trong nước đồng thời chống lại cuộc xâm lược

của thực dân Pháp trong điều kiện đầy khó khăn và thử thách.

2.2. Tổ chức quân đội dƣới triều Nguyễn

2.2.1. Phân loại, phiên chế các ngạch quân

Bên cạnh hàng loạt chính sách cải tổ bộ máy chính quyền, hành chính, kinh

tế - xã hội, ngay sau khi nhà Nguyễn được thành lập (1802), vua Gia Long và các vị

vua kế nhiệm (Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tực Đức) đã triển khai nhiều biện pháp để

củng cố lực lượng quân đội, tạo chỗ dựa vững chắc cho sự tồn tại và phát triển của

vương triều. Quân đội do các vua triều Nguyễn xây dựng trong giai đoạn từ 1802

đến năm 1884 được tổ chức khá quy củ, hoàn chỉnh về tổ chức và trang bị. Điều này

phản ánh qua số lượng quân lính và cách thức tổ chức các lực lượng quân qua mỗi

triều vua.

Cũng như các triều đại trước, quân đội triều Nguyễn gồm các lực lượng Bộ

binh, Thủy binh, Pháo binh, Tượng binh. Xếp theo cấp độ binh chủng, quân đội

triều Nguyễn gồm 2 binh chủng là Bộ binh và Thủy binh trong đó Bộ binh là lực

lượng đông đảo và giữ vai trò quan trọng nhất trong quân đội triều Nguyễn. Trong

39

tổng số quân, ngoài Thủy sư kinh kỳ và một số vệ Thủy binh phân bố ở một số tỉnh

còn lại là lực lượng của Bộ binh.

Về tổ chức phiên chế các đơn vị trong Bộ binh, gồm 5 cấp đứng đầu là cấp

Doanh dưới là Vệ, Cơ và Đội do Đô Thống, hàm Chánh nhị phẩm chỉ huy. Bên cạnh

Bộ binh, một lực lượng được triều Nguyễn rất chú trọng xây dựng đó chính là Thủy

binh. Thủy quân gồm đơn vị chủ lực đóng tại Kinh gọi là Kinh kỳ Thủy sư.

Ngoài 2 binh chủng là Bộ binh và Thủy binh, quân đội triều Nguyễn còn có

lực lượng Tượng binh và Pháo binh. Tuy nhiên, Pháo binh và Tượng binh dưới triều

Nguyễn chỉ là các đơn vị hỗ trợ tác chiến nằm trong Bộ binh chứ chưa trở thành các

binh chủng độc lập. Mặc dù vậy, Tượng binh là lực lượng có vai trò quan trọng

trong chiến đấu của quân đội triều Nguyễn.

Có nhiều cách gọi các lực lượng quân dưới triều Nguyễn tùy theo địa bàn

đóng quân và chức năng nhiệm vụ. Nếu phân biệt cách tuyển mộ binh lính thì có

Tuyển binh (lính tuyển) và Mộ binh (lính mộ).

Về cách tuyển mộ binh lính, nhà nước lấy lính trên số dân đinh. Năm Gia

Long thứ nhất (1802) nhà nước ban hành quy định đối với các Trấn phía Bắc. Các

Trấn: Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương, Sơn Nam (thượng, hạ), Thanh Hóa ngoại

(Ninh Bình) áp dụng 7 suất đinh lấy 1 suất lính. Sáu ngoại trấn Tuyên Quang, Hưng

Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Yên Quảng thì cứ 10 đinh lấy 1 suất lính

[89; 522]. Khu vực miền Trung từ Quảng Bình đến Bình Thuận thì cứ 3 suất đinh

lấy một suất lính [69; 240]. Đối với thành Gia Định thì “dân hạng tráng 8 người lấy

1 lính; còn biệt nạp như đồn điền các trại, 3 người lấy 1 lính” [69; 241]. Sau cải

cách hành chính của vua Minh Mệnh, chế độ tuyển lính áp đối với các tỉnh Bắc kỳ

và Trung kỳ vẫn giữ nguyên tỉ lệ lấy quân thời vua Gia Long. Riêng đối với các tỉnh

Nam kỳ có điểu chỉnh.

Nhằm ổn định về quân số, các địa phương phải có trách nhiệm quản lý số

binh dân của địa phương khi đi thực hiện nghĩa vụ quân đội. Ngay từ thời Gia Long,

triều Nguyễn đã quy định binh lính thuộc sổ đinh của xã nào sau khi đi lính bị chết

hoặc bỏ trốn: nếu người lính bị chết, sau khi được bộ Binh phê duyệt thì địa phương

mà người lính có tên trong sổ đinh phải tìm người thay thế; trường hợp lính bỏ trốn

thì địa phương phải truy tìm người đó giao nộp, nếu không thể tìm ra người lính

trốn thì bắt anh em họ của người đó đi thay, nếu người lính trốn không có anh em

thì xã phải chọn người khác thay thế.

40

Ngoài tuyển chọn thông qua sổ đinh của làng xã do nhà nước quản lý, binh

lính của vương triều Nguyễn còn được bổ sung bằng cách lấy mộ binh. Mộ binh là

loại binh lính tuyển chọn từ bộ phận dân cư không có tên trong sổ đinh của làng xã,

gọi là dân ngoại tịch. Theo lời vua Minh Mệnh thì “lính này đi trận rất được

việc”[92; 905]. Việc áp dụng chế độ tuyển lính bằng chế độ mộ binh góp phần giải

quyết tình trạng thiếu quân trong quá trình lấy lính bằng phép tuyển binh.

Những phương thức tuyển lính này được các vua triều Nguyễn sau Gia Long

duy trì, tùy từng địa phương và từng thời điểm tỉ lệ tuyển quân có sự thay đổi cho

phù hợp với nhu cầu của nhà nước. Dân đinh khi được tuyển chọn hay ứng mộ

không quy định thời gian tham gia quân ngũ, đến thời Minh Mệnh chỉ có quy định

về hưu của binh lính. Cụ thể là từ 50 tuổi đối với người ốm yếu và 55 tuổi đối với

lính khỏe mạnh. Tuy nhiên, thời gian này có thể được kéo dài tới 60 tuổi tùy theo

điều kiện sức khỏe và binh lính có nhu cầu ở lại.

Tuyển binh và mộ binh là 2 phương thức tuyển quân dưới triều Nguyễn trong

đó tuyển quân cho số lượng quân ổn định và nhà nước chủ động bố trí lực lượng, tổ

chức các lực lượng quân. Lực lượng mộ binh có thể tăng giảm nhưng là một lực

lượng ứng nghĩa quan trọng góp phần củng cố lực lượng quân đội ở các địa phương.

Nếu phân biệt theo mức độ tin cậy và khả năng tác chiến thì có Thân binh,

Cấm binh và Tinh binh. Tuy nhiên, khi nói về tổ chức quân đội dưới triều Nguyễn

thường chia thành quân đóng tại Kinh đô gọi là Kinh binh và quân ở các tỉnh gọi là

Cơ binh. Kinh binh là binh lực trọng yếu của vương triều đảm nhiệm nhiều chức

năng, nhiệm vụ như phục vụ và bảo vệ an toàn cho nhà vua cùng Hoàng tộc, bảo

đảm an ninh cho Kinh thành và sẵn sàng cơ động thực hiện nhiệm vụ chiến đấu

khắp cả nước khi cần thiết. Kinh binh chia thành 3 ngạch quân: Thân binh, Cấm binh và

Tinh binh. Tuy nhiên, từ thời Thiệu Trị về sau, nhà Nguyễn không chia thành Thân binh,

Cấm binh và Tinh binh. Quân đội chia thành biền binh chính ngạch hoặc biền binh tạp

ngạch (ngoại ngạch). Các ngạch quân được biên chế theo cấp từ Doanh đến Ngũ. Trong

các ngạch binh này, Thân binh và Cấm binh có vai trò quan trọng hơn Tinh binh điều

này được thể hiện ở phẩm trật của võ quan đứng đầu các đơn vị quân.

Trong mỗi ngạch quân, bên cạnh lực lượng quân thường trực chiến đấu còn

có một lực lượng không nhỏ tham gia sai phái, phục dịch những công việc thường

ngày trong Kinh thành, Phủ đệ của thành viên Hoàng tộc, Nha môn các bộ được

41

biên chế thành từng Đội. Đối với Cơ binh, ngoài Ngũ quân Ngũ bảo thuộc Tinh

binh đóng ở 5 tỉnh. Quân Cơ binh được tổ chức thành 5 cấp như ở Kinh đô cao nhất

là cấp Liên cơ thấp nhất là Ngũ.

Đối với các lực lượng trong quân đội, triều Nguyễn thực hiện chia ban gồm 2

ban: một ban ở quân ngũ tập luyện, ứng trực (gọi là lính đương ban), một ban về

quê nghỉ ngơi, sản xuất (gọi là lính hạ ban) với số phiên theo tỉ lệ và thời gian

nhất định. Quy định về tỉ lệ phiên giữa ứng trực và nghỉ của quân lính giữa quân

ở Kinh thành và quân ở địa phương là không giống nhau. Đối với quân ở Kinh

thành, dưới triều vua Gia Long, năm Gia Long thứ 2 (1803) nhà nước đặt định

lệ, quân đội chia làm 3 phiên: 2 phiên nghỉ tại quê nhà, một phiên tại ngũ làm

nhiệm vụ ứng trực 1 tháng thay đổi 1 lần [69; 273]. Năm Gia Long thứ 5 (1806)

triều Nguyễn thay đổi tỉ lệ thành 5 phiên: 3 phiên làm việc, 2 phiên nghỉ ngơi,

đến năm 1810 tỉ lệ chia ban lại quay lại với tỉ lệ 2:1 như đã định ra năm 1802

[69; 273]. Sang thời vua Minh Mệnh, tùy vào tính chất công việc của các đội

quân, số lượng binh sĩ hay nơi đóng xa gần mà thực hiện việc có hay không chia

ban. Thời vua Thiệu Trị, ngay khi lên ngôi, nhà vua đã thực hiện việc không chia

ban đối với những quân có số lượng ít ở Kinh thành. Đối với các đội quân có số

lính nhiều thì việc chia ban được tính tùy theo quê quán xa gần của binh lính là

1 hoặc 2 tháng [69; 283]. Đến thời vua Tự Đức, năm 1851 triều Nguyễn thống

nhất việc chia ban ở của binh lính ở Kinh, một năm chia làm 3 đợt, trong đó 2

đợt (3 tháng đầu năm và 5 tháng cuối năm quân lính được chia làm 3 ban, 1

tháng đổi 1 lần, 4 tháng từ 1 tháng 3 đến mùng 1 tháng 7 quân chia thành chia

làm 2 ban (1 ban lưu ngũ, 1 ban nghỉ ngơi) 2 tháng đổi 1 lần.

Đối với quân địa phương, việc chia ban cũng được ban hành. Từ năm Gia

Long thứ 2 (1803) triều Nguyễn quy định, lính chia làm 3 phiên, 1 phiên ứng trực

và 2 phiên về quê quán, 1 tháng đổi 1 lần. Đến năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), vua

ban hành quy định, ở các tỉnh, tùy tình hình an ninh địa phương và có thể chia quân

thành 2 ban, thậm chí chia thành bốn, năm phiên chỉ để lại 1 ban tại ngũ.

Thời gian chia lại phiên hàng năm thường được thực hiện vào tháng 7, tháng

12 tất cả quân tập trung về đơn vị. Chế độ lương thưởng của nhà nước đối với các

phiên lính này khác nhau. Việc chia ban ứng trực kết hợp xen kẽ về quê nghỉ ngơi

của binh lính vừa đảm bảo được sản xuất nông nghiệp, vừa giảm gánh nặng cho

việc cung cấp lương thực thực phẩm nuôi quân.

42

2.2.2. Cơ cấu, tổ chức

2.2.2.1. Cơ cấu của bộ Binh

Trong hệ thống hành chính của triều Nguyễn, bộ Binh là một trong 6 bộ (lục

bộ), đây là cơ quan chuyên trách công tác binh bị nói chung được thành lập từ thời vua

Gia Long. Trách nhiệm của bộ Binh gồm: quản lý ngạch võ quan; tuyển mộ binh lính;

huấn luyện quân; trang bị cho binh sĩ, điều động quân đi canh phòng đồn trú và đánh

dẹp; tổ chức phòng thủ đồng thời chịu trách nhiệm quản lý kho súng, kho thuốc súng

và công tác bưu chính. Dưới thời Tự Đức tổ chức của bộ Binh như sau:

Phụ trách các cơ quan của bộ Binh là các quan được xếp theo phẩm hàm cao

thấp tùy theo vị trí phụ trách cụ thể như sau

Bảng 2.1. Các chức quan và phẩm hàm của bộ Binh dưới triều Nguyễn

Cơ quan Võ quan Phẩm trật Số lƣợng

Bộ Chánh nhị phẩm Tòng nhị phẩm

Ty

Thượng Thư Tả, Hữu tham tri Tả, Hữu Thị lang Chánh Tam phẩm Lang trung Viên ngoại Chủ sự Tư vụ Thư lại Tòng tứ phẩm Chánh ngũ phẩm Chánh lục phẩm Chánh thất phẩm Chánh bát phẩm hoặc Chánh cửu phẩm

1 2 2 1 1 1 1(2) Ty Võ Tuyển: 3 Ty kinh kì: 3 Ty trực tỉnh 2 Ty Khảo công 2

[Nguồn 69; 17]

43

2.2.2.2. Tổ chức lực lượng ở trung ương

Tổ chức quân đội Trung ương bao gồm 5 cấp theo thứ tự cao thấp như sau:

Doanh ->Vệ -> Đội -> Thập -> Ngũ.

Chỉ huy các đơn vị quân Trung ương gồm các võ quan hàm từ Chánh nhị

phẩm đến Tòng ngũ phẩm, riêng 2 cấp Thập và Ngũ chỉ huy các đơn vị quân này

chưa được xếp vào ngạch võ quan. Cụ thể như sau:

Bảng 2.2. Tổ chức một Doanh của quân đội triều Nguyễn

Đơn vị quân Doanh Vệ Đội Thập Ngũ Ngƣời chỉ huy Đô thống Vệ úy Cai đội Suất thập Ngũ trưởng Phẩm trật Chánh nhị phẩm Chánh tam phẩm Tòng ngũ phẩm Số lƣợng 1 1 1 1 1

[Nguồn: 69; 18, 23, 24]

Riêng với Võ quan là Cai đội đứng đầu đơn vị Đội quân ở Trung ương, tùy

theo đơn vị tại ngũ mà có phẩm trật lớn nhỏ khác nhau: Ở các đội Trung hầu, Nội

hầu, Cẩm y, Thị trung tả-hữu dực phẩm trật cao nhất trong chức danh Cai đội là

Tòng Tứ phẩm. Đối với các đội quân của Cấm binh và Tinh binh như: Thần Cơ,

Tiền Phong, Long Vũ, Hổ Oai, Nội Hầu, Kỳ Võ, Dực Vũ, Thượng Trà, Tài Thụ.

Nội Thủy, Phấn Dực, Kinh kị, Phi kỵ, Thần Sách, Hộ Lăng Cai đội thấp hơn 1 bậc

là Chánh ngũ phẩm. Cai đội ở các đội như Giám Thành, Võng Thành trật Tòng Ngũ

phẩm.

2.2.2.3. Tổ chức lực lượng ở địa phương

Tổ chức lực lượng quân đội các địa phương được tổ chức thành 5 cấp tương

đương với quân ở Kinh thành gồm: Liên cơ->Cơ-> Đội-> Thập-> Ngũ

Trong đó Liên cơ chỉ có ở những tỉnh lớn. Cấp Vệ tương đương với cấp Cơ ở

Kinh thành được tổ chức ở các tỉnh vừa và nhỏ. Quan chỉ huy các đơn vị quân ở địa

phương gồm: Đề đốc (đứng đầu một Liên cơ), Lãnh binh (đứng đầu một cơ/vệ), Cai đội

(đứng đầu một đội), Suất thập (đứng đầu một thập), Ngũ trưởng (đứng đầu một ngũ).

Cai đội ở các Đội quân ở địa phương phẩm trật thấp hơn Cai đội phẩm trật

thấp nhất ở Trung ương 1 bậc.

Hệ thống võ quan được biên chế ở các cấp với tên gọi và phẩm trật từ cao

xuống thấp. Phẩm trật của võ quan ở trung ương và địa phương có sự chênh lệch

44

trong cùng một cấp. Theo đó cấp Doanh ở Kinh đô võ quan chỉ huy phẩm trật là

Chánh nhị phẩm, trong khi đó cấp tương đương là Liên cơ ở địa phương thấp hơn 2

bậc là Chánh tam phẩm, ở cấp thứ 2 quan chỉ huy ở địa phương kém ở trung ương 1

bậc. Điều đó cho thấy triều đình coi trọng vai trò của võ quan cũng như lực lượng

quân của nhà nước ở Kinh thành. Đây chính là lực lượng tin cậy nhất của nhà vua

trong việc xây dựng, củng cố và phát triển vương triều.

2.2.3. Số lượng, nhiệm vụ

2.2.3.1. Số lượng và nhiệm vụ quân lính ở kinh thành

Tổ chức của quân đội triều Nguyễn gồm 5 cấp đối với cả lực lượng quân ở

Kinh thành và quân ở địa phương trong đó Doanh (ở trung ương) - Liên cơ (ở địa

phương) số lượng các đơn vị trực thuộc và số quân trong mỗi một đơn vị được quy

định như sau:

Bảng 2.3. Số lượng đơn vị và quân lính trong một doanh

STT Đơn vị Số binh lính trên một đơn vị quân

1 2 3 4 5 Doanh (Liên cơ) Vệ Đội Thập Ngũ Số đơn vị quân 1 5 10 5 2 2.500 500 50 10 5

[Nguồn:195-49 ]

Như vậy, theo định lệ thì mỗi Doanh – cấp cao nhất của quân đội dưới triều

Nguyễn là 2.500 người, cấp thấp nhất là ngũ, 5 người. Tuy nhiên, trên thực tế, con

số này có thể biến động, nhiều hơn hoặc ít hơn tùy từng triều vua và tùy theo nhu

cầu và hoàn cảnh lịch sử.

Số lượng quân đội ở kinh thành được ước tính trên cơ sở số lượng của từng

đơn vị thuộc các ngạch quân gồm: Thân binh, Cấm binh và Tinh binh.

Ngạch Thân binh còn gọi là quân túc vệ, gồm những người to lớn, mạnh

khỏe, giỏi võ, tuyển từ ngạch Cấm binh. Đây là những đơn vị được tín nhiệm, huấn

luyện kỹ, có nhiệm vụ canh giữ Đại Nội, Tử cấm thành, bảo vệ vua và sẵn sàng cơ

động thực hiện nhiệm vụ chiến đấu khắp cả nước khi cần thiết.

Tổ chức của Thân binh gồm 1 Doanh Vũ lâm và 4 Vệ (Cẩm Y, Kim Ngô,

Loan Giá, Tuyển Phong) do các võ quan từ Chánh nhị phẩm đến Tòng tam phẩm,

45

thuộc hàng võ quan cao cấp chỉ huy. Vệ Cẩm Y là quân Túc vệ, thay phiên ứng trực

hầu cận vua khi vua ở trong cung cũng như đi theo bảo vệ vua khi vua đi yết lăng,

tuần du, có trách nhiệm đảm bảo an ninh cho Tử Cấm Thành. Vệ Kim Ngô được lập

ra năm 1837 là quân Túc vệ, hỗ trợ cho vệ Cẩm Y. Vệ Loan Giá có nhiệm vụ lo về

nghi vệ khi vua đi ra yết triều. Vệ Tuyển Phong đây là bộ phận tinh nhuệ và đáng

tin cậy của triều đình. Doanh Vũ Lâm là quân đóng giữ Kinh thành.

Số lượng quân của các Vệ thuộc Thân binh, cụ thể như sau:

Bảng 2.4. Số quân thuộc ngạch Thân binh dưới triều Nguyễn

Số đơn vị quân Gia Long Minh Mệnh Thiệu Trị Tự Đức

1048 1048 1.200 10 đội Túc trực, 5 đội Trường trực 1.000 từ năm 1837 là 1048

10 đội 300 532 532 Chưa thành lập Các đơn vị quân Vệ Cẩm Y Vệ Kim Ngô

822 822 1095 1095 Vệ Loan Giá

4 ty: Hộ Vệ, Cảnh Tất, Loan Nghi, Kỳ Cổ 3 đội Dực Vũ 4 đội Dực Chấn 4 đội Dực Đễ

10 đội 0 0 0 625 Vệ Tuyển Phong

6.000 5.501 5.501 5.501 Doanh Vũ Lâm Gồm 2 dực, mỗi dực 5 vệ (10 vệ) , mỗi vệ 10 đội

Tổng 8.022 7.671 8.176 8.801

[Nguồn: 69; từ tr.81 đến tr. 97]

Ngạch Cấm binh đóng xung quanh bên trong Kinh thành, là bộ phận quân

đội có nhiệm vụ bảo vệ cho Hoàng thành và Kinh thành, sẵn sàng chịu sự điều động

tham gia chiến đấu. Tổ chức và Các đơn vị của ngạch Cấm binh chia thành 2 bộ

phận với 2 chức năng chính: bộ phận quân chiến đấu bảo vệ Kinh thành và các địa

phương được biên chế trong 6 doanh gồm doanh Thần Cơ, Tiền Phong, Long Võ

(Vũ), Hổ Uy (Oai), Hùng Nhuệ, Kỳ Vũ và vệ Kinh tượng. Cơ cấu của 1 doanh

thường gồm 5 vệ (Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu) riêng Doanh (Dinh) Kỳ Vũ chia làm

4 vệ (Nhất, Nhị, Tam, Tứ) cùng các vệ đóng ở các địa phương (doanh Kỳ Vũ không

có quân đóng ở các địa phương).

46

Cấm binh thời Nguyễn được tổ chức gồm 3 cấp, đứng đầu cấp Doanh do Đô

thống chế hàm Tòng nhất phẩm và Thống chế hàm Chánh nhị phẩm chỉ huy, thấp

nhất ở cấp Đội do Suất đội hàm Chánh lục phẩm chỉ huy. Ngoài các Doanh có

nhiệm vụ chiến đấu (Thần Cơ, Tiền Phong, Long Vũ, Hổ Uy (Oai), Hùng Nhuệ và

Kỳ Vũ (Võ)), các Vệ đội còn lại trong Cấm binh làm nhiệm vụ phục dịch và sai

phái trong Kinh thành.

Cấm binh gồm 2 lực lượng: lực lượng quân chiến đấu gồm 6 doanh và vệ

Kinh Tượng; lực lượng có chức năng chuyên lo công việc phục vụ, canh giữ, bảo vệ

và sai phái những công việc lặt vặt trong kinh thành được phiên chế trong các Vệ

đội. Nếu tính cả 2 bộ phận này thì tổng số quân của Cấm binh dưới các triều vua cụ

thể lần lượt sẽ là: triều Gia Long có 15.412 người, triều Minh Mệnh có 20.524

25000

20000

15000

10000

5000

0

Gia Long

Minh Mệnh

Thiệu Trị

Tự Đức

người; triều Thiệu Trị có 19.940 người và triều Tự Đức có 18.883 người.

Biểu đồ 2.1. Số lượng quân thuộc Cấm binh qua các triều vua

[Nguồn: 69; 98-114]

Con số của quân Cấm binh dưới triều vua Gia Long chỉ là tương đối. Chẳng

hạn, Khâm định Đại Nam hội điển ghi số đội hoặc số vệ được lập ra, nhưng không

ghi chính xác số quân, chẳng hạn của Tiền vệ thuộc doanh Hổ Uy là 10 đội [69;

109] không ghi chính xác số quân. Theo định lệ mỗi đội quân dưới triều Nguyễn là

50 người, hoặc một vệ theo định lệ là 500 người. Tuy nhiên 1 đội thuộc Trung vệ

Hổ Uy năm Gia Long thứ 9 (1810) lại biên chế mỗi đội quân là 60 người. Số lượng

Doanh Kỳ Vũ dưới triều vua Minh Mệnh cũng là con số tương đối do số lính Vệ Tứ

cũng được tính theo định lệ. Trong tổ chức Cấm binh, lực lượng quân chiến đấu

chiếm số lượng lớn hơn nhiều lần số quân phục vụ cho vua và các việc hàng ngày

trong kinh thành. Điều này cho thấy triều Nguyễn rất coi trọng nhiệm vụ an ninh

47

quốc phòng của quân đội nhưng cũng thể hiện sự ưu ái đối với Hoàng cung, thể

hiện tư tưởng của một chế độ quân chủ tập quyền.

Ngạch tinh binh là lính tinh nhuệ, bộ phận thường trực sẵn sàng chiến đấu

của quân đội triều Nguyễn tập trung chủ yếu trong Ngũ quân Ngũ bảo. Ngũ quân

tương đương với cấp Doanh của ngạch Thân và Cấm binh chỉ huy là một viên Đô

thống hàm Chánh nhất phẩm (phẩm hàm cao nhất của ngạch quan). Quân của Ngũ

quân ngũ bảo đóng ở 2 nơi, 1 bộ phận đóng ở Kinh thành gọi là Ngũ quân (gồm

Trung quân, Tiền quân, Hữu quân và Hậu quân) và 1 bộ phận quân kiêm quản đóng

ở 5 địa phương gọi là Ngũ bảo. Như vậy, đây là đội quân thường trực chiến đấu

không chỉ ở Kinh đô mà còn ở các địa phương. Dưới thời Thiệu Trị, lực lượng ngũ

quân ngũ bảo của Tinh binh được liệt vào hạng biền binh chính ngạch. Ngoài Ngũ

quân, ở Kinh đô còn có lực lượng Thủy binh gọi là Kinh kỳ thủy sư. Bên cạnh đó,

Tinh binh còn một bộ phận binh lính làm nhiệm vụ phục dịch trong Kinh thành, các

cơ quan hành chính (các bộ) và các nha môn, phủ đệ.

Tổ chức của Tinh binh dưới thời Nguyễn gồm có Ngũ quân ngũ bảo, Thủy sư Kinh

kỳ, Vệ Giám Thành, Vệ Thủ Hộ, Vệ Dực Hùng, Ty Lý Thiện, Thự Hòa Thanh, Thự

Thanh Bình, Thuộc binh 6 bộ, Thuộc binh các dực, Thuộc binh các phủ đệ và Nam Bắc

tào. Trong đó, Ngũ quân và Thủy sư Kinh kỳ làm nhiệm vụ chiến đấu.

Về số lượng, Tinh binh gồm lực lượng đóng ở Kinh thành và lực lượng kiêm

quản đóng ở địa phương. Đội quân này tập trung trong ngũ quân và ngũ bảo có số lượng

dao động hơn 5000 người và có sự chênh lệch không lớn giữa các đời vua (thời Gia

Long theo thống kế có 5.093 người, các đời vua từ Minh Mệnh đến Tự Đức đều có 5.050

người). [Số liệu do tác giả luận án tập hợp số liệu trong 69 từ trang 130 đến trang 133].

Nếu tính chung thì tổng số quân làm nhiệm vụ chiến đấu của ngạch Tinh

binh thời Nguyễn khá ổn định: các thời Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức đều có

12.764 người (chỉ riêng thời Gia Long có 9.293 người). Bên cạnh làm nhiệm vụ

chiến đấu, trong ngạch Tinh binh còn có số quân làm nhiệm vụ phục dịch và sai

phái. Trong đó, thời Gia Long có 3.774 người; thời Minh Mệnh có 3.725 người;

thời Thiệu Trị có 4.218 người và thời Tự Đức có 4.533 người [Số liệu do tác giả luận

án tập hợp số liệu trong 69 từ trang 136 đến trang 153].

Số quân làm nhiệm vụ phục dịch thuộc Tinh binh còn có thuộc binh các phủ

đệ vốn là nơi ở của các ông hoàng bà chúa và thuộc binh các nha (nơi làm việc của

quan lại) nhưng số lượng không nhiều và không cố định. Dưới thời vua Gia Long,

48

quy định cho phép phủ đệ lập thuộc binh để sai kiến. Trong đó quy định, Hoàng tử,

Hoàng tôn lập phủ đệ riêng thì được 200 thuộc binh, chưa lập phủ đệ thì 150 và

công chúa được 50 thuộc binh [69; 150].

Đối với với các nha, Gia Long năm thứ 5 (1806), triều Nguyễn quy định võ

quan phẩm trật cao như Đô thống chế các dinh Thần sách được tuyển 20 người, Cai đội

được 1 hoặc 2 người. Dưới thời vua Minh Mệnh, cao nhất là Thống chế ở Thị trung và

Thị nội đều được 50 người còn thấp nhất là Cai đội được 3 người. Đến thời Tự Đức, số

lượng thuộc binh ở các phủ đệ và các nha cũng không nhiều và không cố định, tùy

thuộc vào sự tăng giảm của Tôn Thất và quan lại có công được phong tước.

Ngoài đóng ở Kinh đô, ngạch tinh binh trong Ngũ quân thời Nguyễn còn

kiêm quản 1 lực lượng đóng ở địa phương. Số quân của mỗi Cơ ở các địa phương

tương đương với các Vệ đóng ở Kinh thành với số quân là 500 người, số quân trên

thực tế có sự chênh lệch so với định lệ, cụ thể như sau:

Bảng 2.5. Số lượng Tinh binh đóng ở các địa phương

Địa bàn Các đơn vị thuộc cơ binh đóng ở địa phương Thời Gia Long Thời Minh Mệnh Thời Thiệu Trị Thời Tự Đức Cơ quan trực thuộc

4.970 5.040 5040 5040 Trung quân Hà Nội

5.000 5.030 5.030 5.030 Tiền quân Nam Định

Tả quân 5.000 5.202 5.202 5.202 Hải Dương

5.000 5.000 5.000 5.000 Sơn Tây Hữu quân

5.000 5.099 5.099 5.099 Bắc Ninh Hậu quân 10 cơ gồm 5 Trấn cơ và 5 Định cơ - 10 cơ: +5 cơ hiệu chữ Cường +5 cơ hiệu chữ Tiệp 10 cơ: + 5 cơ hiệu chữ Kiên + 5 cơ hiệu chữ Nhuệ 10 cơ: +5 cơ hiệu chữ Hùng +5 hiệu chữ Dũng 10 cơ: +5 cơ hiệu chữ Uy. + 5 cơ hiệu chữ Thắng

Tổng 24.970 25.371 25.371 25.371

[Nguồn 69; từ tr.184 đến tr.199]

Như vậy, tính tổng cộng số Tinh binh của triều Nguyễn ở trung ương và cả

một bộ phận đóng ở các địa phương dao động từ 38.037 người (thời Gia Long) đến

42.668 người (thời Tự Đức) với tỉ lệ chênh lệch khoảng 1,12 lần.

49

42668

42353

41860

38037

Gia Long

Minh Mệnh

Thiệu Trị

Tự Đức

Biểu đồ 2.2. Số lượng quân thuộc Tinh binh qua các triều vua

[Nguồn: 69; từu tr.131đến tr.136]

Qua số lượng trên có thể thấy số quân của Tinh binh có số quân nhiều nhất

trong hệ thống các ngạch quân triều Nguyễn. Tinh binh có số quân gấp đôi lực

lượng Cấm binh trong đó quân chiến đấu của Tinh binh ở các địa phương chiếm

một nửa của lực lượng Tinh binh. Điều đó chứng tỏ triều Nguyễn rất chú trọng đến

quân đóng giữ ở các địa phương. Đây là lực lương vừa góp phần ổn định tình hình

của đất nước vừa dễ dàng cho việc sai phái.

Tổng hợp số lượng quân của cả ngạch Thân binh, Cấm binh và Tinh binh

cho thấy, số lượng quân ở trung ương dưới triều Nguyễn khá đông với khoảng hơn

44000

70.000 người, cụ thể như sau:

42668 0 0

42353 0 0

42000

41860 0 0

40000

38000

38037 0 0

36000

34000

Gia Long

Minh Mệnh

Thiệu Trị

Tự Đức

Triều vua

Biểu đồ 2.3. Tổng hợp số lượng các ngạch quân ở trung ương thời Nguyễn

[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ 69]

50

2.2.3.1. Số lượng và nhiệm vụ quân lính ở địa phương

Ngoài quân chủ lực đóng ở Kinh thành Huế, ở các tỉnh đều có quân đội

thường trực được thành lập theo quy định của triều đình. Lực lượng này còn được

gọi Cơ binh hay Biền binh. Cơ binh gồm 2 lực lượng chủ yếu là Bộ binh và Thủy

binh. Bộ binh bao gồm cả tượng cơ và pháo binh. Số lượng bộ binh phân bố ở các

tỉnh cụ thể như sau:

Bảng 2.6. Số lượng quân lính ở các địa phương dưới triều Nguyễn

STT Thời Gia Long Tỉnh Thời Tự Đức

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 50 523 827 1.050 150 384 1.800 200 1.500 >=100 50 500 302 799 650 1.150 950 1.900 1.800 >=1.300 550 598 >=1.000 220 169 250 <=1526 1.218 1.155 22.671 Thời Minh Mệnh 250 2.329 2.860 3.496 1250 1.506 3.222 1.725 5.312 3.700 5.429 4.610 775 1.605 1.907 1.292 753 1.345 3.164 1.429 3.231 705 2.406 767 1.014 811 387 2.161 1.252 948 755 62.396 Thời Thiệu Trị 250 2.334 2.690 3.463 1.250 1.556 3.210 1.725 5.312 3.700 5.480 4.660 775 1.454 1.884 1.292 738 1.603 3.214 1.429 3.074 705 2.406 817 1.164 811 434 2.211 995 1.032 1.213 62.881 250 2.334 2.690 3.463 1.250 1.556 3.210 1.725 5.300 3.758 5.463 4.660 571 1.454 1.884 1.292 738 1.603 3.414 1.429 3.104 705 2.406 817 1.164 1.311 434 2.211 995 1.032 1.213 63.436 Thừa Thiên Quảng Nam Quảng Ngãi Bình Định Phú Yên Khánh Hòa Bình Thuận Biên Hòa Gia Định Định Tường Vĩnh Long An Giang Hà Tiên Quảng Trị Quảng Bình Hà Tĩnh Nghệ An Thanh Hóa Ninh Bình Hà Nội Nam Định Hưng Yên Hải Dương Quảng Yên Sơn Tây Hưng Hóa Tuyên Quang Bắc Ninh Thái Nguyên Lạng Sơn Cao Bằng Tổng

[Nguồn: 69; từ tr.154 đến tr.234]

51

Dưới triều vua Gia Long, do số lượng không được ghi chép đầy đủ nên số

quân chỉ mang tính chất tương đối.

Tập hợp từ các số liệu trên, tổng số quân lính của trung ương và địa phương

THỜI TỰ ĐỨC

133788

THỜI THIỆU TRỊ

133350

THỜI MINH MỆNH

132451

THỜI GIA LONG

84142

0

20000 40000 60000 80000 100000 120000 140000 160000

Thời Gia Long Thời Minh Mệnh Thời Thiệu Trị

Thời Tự Đức

84142

132451

133350

133788

Tổng số quân lính của triều Nguyễn qua các triều vua

qua các triều vua Nguyễn từ 1802 đến 1884 như sau:

Biểu đồ 2.4. Tổng số quân lính dưới triều Nguyễn qua các triều vua

Như vậy, cùng với việc xây dựng và củng cố nền chính trị, từ triều vua Gia

Long đến Minh Mệnh, quân đội được hoàn thiện về tổ chức và lớn mạnh về quân

số. So với triều Minh Mệnh, các triều vua sau (Thiệu Trị và Tự Đức), số lượng quân

không có biến động nhiều.

Về tổ chức quân đội, đồng thời với việc phân bổ các ngạch quân, nơi đóng

quân triều Nguyễn có sự phân nhiệm rõ ràng đối với từng đội quân. Quân ở Kinh

thành bao gồm Thân binh, Cấm binh và Tinh binh có nhiệm vụ bảo vệ ở Kinh đô.

Nhiệm vụ bảo vệ ở Kinh đô bao gồm: túc trực bảo vệ vua, bảo vệ cung điện, canh

gác các cổng thành và tuần hành ban đêm, bảo vệ các công trình trong kinh thành

như: vườn ngự, miếu điện và lăng tẩm của tiên dòng họ Nguyễn. Quân đóng tại các

địa phương gồm quân ở các địa phương và một lực lượng Tinh binh được đóng ở

một số tỉnh. Nhiệm vụ gồm: bảo vệ tỉnh thành, xét hỏi nơi đồn ải, canh giữ vùng

biên cương, phòng ngự nơi ven biển, tuần tra cùng lãnh hải, vây bắt hải tặc, hộ vệ

thuyền vận tải, vận chuyển văn thư và ổn định vùng dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó,

những trường hợp quan trọng thì quân ở Kinh đô được sai phái tới các địa phương

hoặc quân địa phương được điều động thực hiện những nhiệm vụ trong kinh thành.

Việc phân công nhiệm vụ rõ ràng như trên sẽ giúp cho triều đình dễ dàng trong việc

quản lý số quân đồng thời dễ cho việc điều phối lương thực nuôi quân khi quân khi

binh lính đi làm nhiệm vụ.

52

Tiểu kết chƣơng 2

Quân đội triều Nguyễn đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động của đất

nước. Không chỉ là lực lượng chiến đấu quân đội triều Nguyễn còn là nhân lực tham

gia duy trì các hoạt động thường nhật của Kinh thành và Hoàng tộc. Quân lính

không chỉ đóng ở trong Kinh thành mà còn trấn giữ ở các địa phương đảm bảo ứng

trực và sai phái. Trong các lực lượng thì số quân trực tiếp chiến đấu chiếm số lượng

lớn chứng tỏ vai trò đảm bảo an ninh quốc phòng là nhiệm vụ quan trọng nhất của

quân đội dưới triều Nguyễn.

So sánh vai trò và vị trí của các lực lượng trong quân đội triều Nguyễn rõ

ràng Thân binh là đội quân được coi trọng nhất, Tinh binh và Cơ binh đứng sau

Thân cấm binh. Điều đó có thể thấy qua hệ thống võ quan. Cùng một chức quan

nhưng lại có sự khác nhau về phẩm hàm trong mỗi ngạch binh. Chẳng hạn, đứng

đầu cấp Vệ của Thân binh võ quan có hàm từ Tòng Nhị phẩm đến Tòng tam phẩm,

nhưng ở cấp Vệ của Cấm binh là từ Tòng Nhị phẩm đến Chánh tứ phẩm. Phẩm hàm

của võ quan cấp Vệ ở Cấm binh thấp hơn một bậc. Bên cạnh đó, chức Phó vệ úy ở

ngạch Thân binh hàm Tòng tam phẩm nhưng cũng chức quan này ở Cấm binh phẩm

hàm là Chánh tứ phẩm (thấp hơn một bậc). Hoặc cùng là Cai đội, ở ngạch Thân

binh là hàm Tòng Tứ phẩm, ngạch Cấm binh và Tinh binh Cai đội thấp hơn ở Thân

binh 1 bậc là Chánh ngũ phẩm hoặc Tòng lục phẩm, Cai đội thuộc lính Cơ binh chỉ

là Chánh lục phẩm, thấp hơn Cai đội phẩm trật thấp nhất ở Trung ương một bậc.

53

Chƣơng 3.

CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI VÕ QUAN TRONG QUÂN ĐỘI

DƢỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 -1884

3.1. Chế độ đãi ngộ bằng lƣơng cho võ quan

Đây là khoản chi trả thường xuyên của triều đình cho võ quan. Khoản thu

nhập này không chỉ đảm bảo đời sống cho võ quan và gia đình của họ mà còn thể

hiện sự quan tâm của triều Nguyễn tới vai trò của võ quan trong hệ thống chính trị

của đất nước.

3.1.1. Chế độ đãi ngộ bằng lương đối với võ quan đương chức

Võ quan là bộ phận chỉ huy quân đội. Đây là bộ phận trực tiếp thực hiện ý

chí của vua và triều đình trong chính sách đối nội và đối ngoại. Ðối với võ quan,

lương là nguồn thu nhập chính. Chế độ tiền lương sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời

sống vật chất và tinh thần của họ.

Dưới triều Nguyễn, định mức lương của võ quan cao thấp nằm trong định mức

chung của quan viên, dựa trên phẩm hàm. Trong quan chế triều Nguyễn, quan lại được

phân chia quan lại thành 9 bậc, cao nhất là Nhất phẩm, thấp nhất là Cửu phẩm, mỗi

phẩm lại chia thành 2 trật là Chánh và Tòng, tổng cộng thành 18 trật. Lương của quan

lại nói chung, võ quan nói riêng gồm tiền (tính bằng quan) và gạo (tính bằng phương)

được nhà nước chi trả theo năm. Ngoài ra, họ còn được nhận lương điền tính bằng mẫu

(ruộng) và phụ cấp áo quần gọi là xuân phục.

- Lương tiền, gạo

Dưới triều Nguyễn, chế độ ban cấp lương bằng tiền và gạo cho quan võ được

ban hành đầu tiên dưới thời Gia Long. Quy chế này được các vua từ Minh Mệnh

đến Thiệu Trị và Tự Đức tùy theo thực tế sinh hoạt và tình trạng tài chính của đất

nước mà có sự điều chỉnh về định mức cho phù hợp.

Thời vua Gia Long (1802- 1820) với quan niệm: đặt quan để làm việc, tất

phải có lương bổng để nuôi, rồi sau mới bắt phải thanh liêm được, ngay sau khi lên

ngôi, năm Gia Long năm thứ 2 (1803), triều đình đã ban hành chính sách lương

lương bổng cho quan và quân ở Bắc thành (những vùng đất khác không thấy tài liệu

ghi lại). Do vậy, có thể hiểu rằng, ngoài Bắc Thành võ quan được hưởng lương

bổng theo quy định mới, những vùng còn lại võ quan vẫn hưởng chế độ của triều

đại trước. Chế độ lương của võ quan Bắc Thành được quy định như sau: võ quan

54

thuộc “Binh bộ lương tháng mỗi người đều tiền 30 quan, gạo 20 phương; Trấn thủ,

Hiệp trấn các trấn, mỗi tháng tiền 10 quan, gạo 10 phương [89; 576]. Bên cạnh đó,

triều đình quy định: từ Thống chế trở xuống đến dựa theo chức vụ và năm nhận

chức, triều Nguyễn chia võ quan thành 5 hạng dựa theo thời gian tham gia quân

ngũ.

Theo định lệ này, lương của võ quan Bắc Thành có sự chênh lệnh lớn giữa

các hạng và quan phẩm hàm cao thấp. Mức lương tính theo năm cao nhất là Đô

thống chế các quân và thấp nhất là Cai đội (cụ thể xem phụ lục 1.a).

Đến tháng 5, năm Gia Long thứ 10 (1811), chế độ lương bổng cho võ quan

ngạch Thủy quân được ban hành. Trong đó võ quan của Thủy quân được hưởng

lương như võ quan của quân Thần sách [89; 816].

Sau thời gian ổn định và phát triển vương triều, đến năm Gia Long thứ 17

(1818), nhận thấy“nay thiên hạ đã yên, phải nên chế định bổng lộc cho có định tắc”

[89; 963], vua Gia Long đã thống nhất chế độ lương bổng cho cả võ quan và văn

quan trên cả nước. Theo đó, chế độ lương bổng của quan viên (trong đó có võ quan)

được chi trả bằng tiền và bạc đĩnh với định mức tính theo năm tùy theo phẩm trật

trong đó phẩm hàm thấp gồm bát và cửu phẩm xếp chung một định mức, không

phân biệt Chánh- Tòng. Do đó, có tổng cộng 15 mức, cao nhất là Chánh nhất phẩm,

thấp nhất là Chánh Tòng cửu phẩm. Cách chia này được các đời vua sau duy trì.

Theo định mức lương ban hành cho võ quan năm Gia Long thứ 17 (1818),

lương tiền gạo thời Gia Long có sự chênh lệnh quá lớn giữa các phẩm trật. Chẳng

hạn, cùng là nhất phẩm nhưng khác phẩm hàm định mức lương có sự chênh lệch

đáng kể: Chánh nhất phẩm có định mức lương gần gấp đôi lương của Tòng nhất

phẩm. Sự khác biệt này còn rõ hơn khi so sánh mức lương của võ quan có phẩm trật

cao với võ quan quan có phẩm trật thấp. Trong đó quan Chánh nhất phẩm có định

mức lương cao gấp 37,5 lần lương của Chánh Tòng cửu phẩm. Những hạn chế này

ít nhiều được khắc phục trong chế độ lương của quan lại dưới triều vua Minh Mệnh.

Thời vua Minh Mệnh (1820- 1841): Năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), cùng

với việc củng cố và hoàn thiện bộ máy hành chính của đất nước, nhận thấy chế độ

lương bổng thời Gia Long còn nhiều hạn chế, vua Minh Mệnh cho rằng có sự chênh

lệch quá lớn giữa các phẩm bậc đặc biệt là định mức lương của quan văn- võ từ Tứ

phẩm trở xuống quá thấp:“người phẩm cao thì lương quá nhiều, người phẩm thấp

thì lương quá ít. Từ chánh nhất phẩm đến chánh nhị phẩm, chi tiêu cũng đã được

55

dư dụ, duy từ chánh ngũ đến tòng cửu thì xem ra có phần không đủ. Nếu bớt của kẻ

có thừa thêm cho kẻ thiếu thốn, thì số bị bớt ít mà số được thêm nhiều. Xin sai bộ

Hộ châm chước liệu giảm bớt lương của những chức cao thêm cho những chức

thấp, để tỏ sự công bằng vừa phải” [93; 610]. Qua lời bàn trên có thể thấy vua

Minh Mệnh nhận thấy việc chỉnh định mức lương của quan văn-võ có phẩm hàm

cao là cần thiết nhưng cũng phải hợp lý để vừa khuyến khích những võ quan phẩm

hàm cao nhưng cũng vừa đảm bảo được đời sống cho võ quan có phẩm hàm thấp

dựa trên thực tế sinh hoạt của xã hội. Từ những tiêu chí đó, vua Minh Mệnh ban

hành định lệ mới về chi cấp lương. Theo định lệ này “số tiền gạo lương hằng năm

của từ Chánh nhất phẩm đến Chánh nhị phẩm thì liệu lượng giảm bớt đi. Từ Tòng

nhị phẩm trở xuống, số tiền theo thứ bậc tăng lên còn số gạo đã đủ ăn dùng hà tất

phải cho hậu quá. Vậy số gạo của tòng nhị phẩm hơi giảm đi, còn ngoài ra số gạo

các phẩm trật khác vẫn để như cũ” [93; 610].

So với mức lương của quan lại năm 1818 dưới triều vua Gia Long thì định

mức lương của đại quan (trong đó có võ quan) - quan có phẩm trật cao từ Tòng nhị

phẩm trở lên có sự điều chỉnh giảm xuống đáng kể, nhất là Chánh nhất phẩm, định

mức tiền gạo giảm tới gần 1 nửa. Các phẩm trật từ Chánh Tam phẩm trở xuống định

mức lương hầu như đều tăng lên theo mức độ tịnh tiến dựa trên phẩm hàm cao thấp.

Tuy nhiên, mức tăng của bộ phận võ quan nhỏ không có sự khác biệt đáng kể. Mặc

dù vậy, chính sách lương cho quan lại dưới thời Minh Mệnh đã rút ngắn sự chênh

lệch quyền lợi lớn giữa quan lại lớn nhỏ.

Thời vua Thiệu Trị (1841- 1847): Trong 7 năm cầm quyền, chế độ lương của

võ quan vẫn thực hiện theo định mức lương được ban hành năm Minh Mệnh thứ 20

(1839), không có sự điều chỉnh.

Thời vua Tự Đức (1847-1883): Năm Tự Đức thứ 14 (1861), cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp bước vào năm thứ 3, thực dân Pháp đang mở rộng đánh

chiếm các tỉnh Nam Kỳ, vua nhận thấy“việc quân nhu rất khẩn. Đình thần xin tiền

lương hằng năm của các quan văn võ từ tòng tam phẩm trở lên, liệu lượng rút bớt

đi, để giúp quân nhu. Hoàng thân cùng nội đình cũng đều dâng sớ xin rút bớt

lương. Vua nghe theo. Đều chuẩn cho bộ châm chước bàn định, bắt đầu bớt lương

từ tháng ấy, đợi việc đánh giặc xong lại cấp lương như cũ” [95; 717]. Do đó, định

lượng tiền gạo lương của võ quan nói riêng, quan lại nói chung được điều chỉnh

giảm đi so với định mức lương được ban hành năm 1839.

56

Định mức lương của quan lại nói chung (võ quan nói riêng) ban hành dưới

triều Gia Long, Minh Mệnh và Tự Đức cụ thể như sau:

Bảng 3.1. Định mức lương tiền, gạo của võ quan triều Gia Long, Minh Mệnh, Tự Đức

STT Phẩm trật

1 Chánh nhất phẩm 2 Tòng nhất phẩm 3 Chánh nhị phẩm Tòng nhị phẩm 4 5 Chánh tam phẩm 6 Tòng tam phẩm 7 Chánh tứ phẩm 8 Tòng tứ phẩm 9 Chánh ngũ phẩm 10 Tòng ngũ phẩm 11 Chánh lục phẩm 12 Tòng lục phẩm 13 Chánh, tòng thất phẩm 14 Chánh và tòng bát phẩm 15 Chánh, tòng cửu phẩm ƣơng Tiền (đơn vị: quan) Gạo (đơn vị:phƣơng) Tự Gia Đức Long 250 600 210 360 170 300 130 156 105 120 80 90 60 60 50 50 35 35 30 30 25 25 22 22 20 20 18 18 18 16 Minh Mệnh 400 300 250 180 150 120 60 60 40 35 30 22 22 20 18 Minh Mệnh 300 250 200 150 120 90 60 50 35 30 25 22 20 18 18 Gia Long 600 300 360 156 120 90 80 50 31 30 25 25 20 18 16 Tự Đức 340 250 210 150 130 105 60 60 40 35 30 22 22 20 18

[Nguồn 89; 963, 93; 610, 95; 717-718]

So sánh định mức lương của các phẩm trật qua các triều vua, rõ ràng lương

của võ quan lớn phẩm trật từ Tòng tam phẩm trở lên liên tục điều chỉnh giảm

xuống, nhiều nhất là Chánh nhất phẩm chỉ còn bằng gần hơn 1/3 so với thời Gia

Long và bằng hơn một nửa so với thời Minh Mệnh.

Bộ phận quan nhỏ, từ Tứ phẩm trở xuống định mức lương dưới thời Minh

Mệnh được duy trì. Lần điều chỉnh này dựa trên thực lực của nguồn tài chính đất

nước và trong giai đoạn nhà Nguyễn tập trung sức lực cho cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp. Như lời chỉ dụ của vua Tự Đức thì đây chỉ là giải pháp tạm thời đất

nước có chiến tranh và tập trung tiền để mua súng đạn. Điều này phản ánh thực

trạng nền kinh tế xã hội đương thời gặp nhiều khó khăn khi triều đình phải chi phí

rất nhiều cho các hoạt động quân sự cũng như trợ cấp cho binh lính thương vong

trong chiến tranh.

Tuy nhiên, đối với với võ quan từ Tòng Tam phẩm trở lên, nhất là trong hàng ngũ võ quan số lượng không lớn nên mục đích của lần điều chỉnh này không thực sự

57

phát huy tác dụng. Bên cạnh đó, bộ phận võ quan từ Tứ phẩm trở xuống là bộ phận

đông đảo, trực tiếp tham gia chiến đấu vẫn giữ định mức lương như cũ. Do đó, việc

điều chỉnh này không ảnh hưởng nhiều đến đời vật chất của các võ quan cấp thấp đồng thời cũng không có ý nghĩa động viên tinh thần đối với võ quan trực tiếp tham gia

700

600

600

500

400

360

400

340

300 250

300

N Ề I T N A U Q

300 250 210

180 150 150

200

150 130 120

120 105 90

60 60 60

60 60 50

100

0

chánh nhất phẩm

Tòng nhất phẩm

Tòng nhị phẩm

Chánh tam phẩm

Chánh tứ phẩm

Tòng tứ phẩm

Chánh nhị phẩm Gia Long

Minh Mệnh

Tòng tam phẩm Tự Đức

chiến trận trong bối cảnh đất nước có chiến tranh. Sự biến động của định mức lương võ quan từ 1802 đến 1884 được biểu hiện qua sơ đồ sau:

Biểu đồ 3.1. Sự biến động của định mức lương tiền võ quan qua các triều vua Gia

Long, Minh Mệnh và Tự Đức

Việc lĩnh lương của quan viên nói chung, võ quan nói riêng được một số vua

triều Nguyễn quy định cụ thể về thời gian và cơ quan chịu trách nhiệm cấp phát

lương. Võ quan ở Kinh đến lĩnh lương ở bộ Hộ, ngoài Kinh thì do người coi xét sở

ty chịu trách nhiệm cấp phát theo phẩm hàm, quy định này được đặt ra vào năm Gia

Long thứ 11 (1812). Đối với những trường hợp võ quan thăng hoặc giáng chức, năm

Minh Mệnh thứ 9 (1828) nhà nước quy định: Việc cấp lương và tiền xuân phục dựa

trên ngày trong chiếu cho thăng chức, không dựa vào ngày chiếu văn phát đến nơi. Nếu việc thăng hoặc giáng chức trùng với ngày phát lương từ mùng 1 đến ngày 20 của tháng phát lương thì được lĩnh hoặc trừ lương trong tháng đó, việc thăng hoặc giáng từ sau ngày 20 của tháng phát lương thì việc tăng hoặc giảm lương sẽ được thực hiện vào

kì lĩnh lương sau.

Đối với quan xin lĩnh lương bổng trước, dưới triều vua Thiệu Trị quy định “Các nhân viên được chi lương bổng tại kinh vào cuối năm, nếu như người nào muốn lĩnh trước tiền gạo năm sau, thì cho làm đơn lĩnh vào thượng tuần tháng 12”

58

[34; tờ 75 quyển 22 ngày 3 tháng 12 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842)].

Về thời gian lĩnh lương, Gia Long năm thứ 9 (1810), nhà vua quy định trả

lương cho quan viên 1 tháng 1 lần [89; 795], năm Gia Long 11 (1812) đổi định: “cấp phát lương bổng tại Kinh và tại ngoại từ nhất phẩm đến tam phẩm hàng năm

phát 2 kỳ; từ tứ phẩm đến thất phẩm phát theo bốn quý; từ bát, cửu phẩm đến quân số có dự bổng lương mỗi tháng phát 1 lần” [4; tờ 99, tập 2 ngày 17 tháng 11 năm

Gia Long thứ 11 (1812)]. Cụ thể: “Võ quan từ Nhất phẩm đến Tam phẩm một năm

lĩnh lương 2 đợt (6 tháng lĩnh một lần) lĩnh vào tháng giêng và tháng 7; Tứ phẩm

đến Thất phẩm lĩnh lương lĩnh lương làm 4 lần (3 tháng 1 lần) lấy các tháng đầu quý làm (tháng giêng, tháng 4, tháng 7, tháng 10) làm tháng lĩnh lương. Cửu phẩm

được lĩnh bổng thì được lĩnh mỗi tháng một lần. Ngày lĩnh lương, từ mùng 1 đến

ngày 20 của tháng phát lương” [4; tờ 99, tập 2 ngày 17 tháng 11 năm Gia Long thứ

11 (1812)]

Năm Minh Mệnh thứ 5 (1824), triều Nguyễn đổi quy định thời gian phát

lương thành 3 tháng 1 lần.

Năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), triều đình ban hành quy định những quan

viên đến kỳ lĩnh lương làm 2 bản đơn (1 bản nộp cho nhà nước, 1 bản quan giữ),

trong đơn ghi thời gian và có xác thực của người cai quản rồi nộp cho viên Lại điển.

Sau khi đơn được đóng dấu triện và xác thực của Lại điển, người thủ kho theo đơn

để phát tiền gạo cho quan theo định mức được nhận. Tuy nhiên, việc bắt buộc có ấn

triện trên đơn lĩnh lương bổng chỉ áp dụng đối với quan lại cấp thấp. Việc này được

phản ánh trong lời tấu của bộ binh: “việc chi phát tiền lương có liên quan tới tài sản

quốc gia. Nếu như các đơn lĩnh lương của quan viên văn võ ở kinh từ Tứ phẩm trở lên cho tới các nha môn, các quân doanh, các vệ đội đều được cấp ấn triện quan

phòng. Trong đó có thể không có ấn triện nhưng phẩm trật cao cũng đủ làm tin còn

quản gia và Ti vụ trở xuống đều là nhân viên nhỏ mà tiền gạo lĩnh trong đơn tới

hàng ngàn lại không có dấu làm bằng, về lý là rất quan ngại.” [35; tờ 75 quyển 22 ngày 3 tháng 12 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842)].

Triều Nguyễn cũng quy định rõ ràng từng loại tiền mà các quan viên (trong đó có võ quan) được lĩnh, quan được nhận tiền bằng đồng với kích cỡ to nhỏ, số

lượng khác nhau tùy theo phẩm trật: “Quan Chánh tòng nhất phẩm đồng tiền to nhỏ mỗi thứ 3 quan; Chánh tòng nhị phẩm đòng tiền to 2 quan, đồng tiền nhỏ 3 quan” [15; tờ 70 tập 78 ngày 27 tháng 6 năm Minh Mệnh 21 (1842)]. Tuy nhiên, những quy định này chỉ thực hiện đối với quan và võ quan thời bình. Khi có chiến tranh,

59

triều đình có những thay đổi phù hợp như lời tâu của bộ Hộ:“Lệ trước, phàm các

quan văn võ được bổ ra ngoài, hoặc phái đi trú phòng, về tiền và gạo theo lệ lương

bổng được chi đến kỳ cứ để cho lĩnh ở địa phương sở tại. Lúc thường, vô sự, như thế thực là phải; nhưng lúc có việc quân, chuyển vận lương thực rất khó. Vậy, phải

nên có một phen châm chước bàn lại để làm thế nào cho thích đáng” [15; tờ 70 tập 78 ngày 27 tháng 6 năm Minh Mệnh 21(1842)].

- Lương điền

Ngoài được cấp lương bằng tiền và gạo, võ quan còn được cấp công điền

công thổ theo lệ quân điền dựa theo phẩm trật nằm trong chế độ chung của quan lại dưới triều Nguyễn. Chế độ này được triều Nguyễn ban hành lần đầu vào năm Gia

Long thứ 3 (1804). Theo định lệ này, lương điền của quan viên văn võ được chia

thành 16 mức, trong đó, từ hàm Thất phẩm trở xuống Chánh - Tòng cùng một định

mức. Mức nhận nhiều nhất của của võ quan là 18 phần, thấp nhất là Chánh tòng cửu

18

20

15

14.5

14

13.5

13

15

12.5

12

11.5

11

10.5

10

9

8.5

8

10

5

n ầ h p o e h t c ứ m h n Đ

0

Nhị phẩm Tam phẩm Tứ phẩm Ngũ phẩm Lục phẩm

Bát phẩm Cửu phẩm

Trên nhất phẩm

Nhất phẩm

Thất phẩm

Phẩm hàm

Chánh

Tòng

phẩm được 8 phần. Cụ thể như sau:

Biểu đồ 3.2. Định mức lương điền của võ quan ban hành năm Gia Long thứ 3 (1804)

[Nguồn:89; 559]

So với chế độ lương ban cấp bằng tiền và gạo, chính sách ban cấp ruộng đất của triều Nguyễn đối với quan không có sự chênh lệch lớn giữa các phẩm hàm. Võ quan được hưởng chế độ ruộng đất này kéo dài trong 36 năm, đến năm 1840, vua Minh Mệnh tiến hành một số điều chỉnh về chế độ quân điền. Nhận thấy quan lại đã được hưởng nhiều lương và bổng lộc, nếu lấy phẩm trật để chia ruộng là không

công bằng do vậy, vua Minh Mệnh quy định “bao nhiêu điền thổ, cứ quan lại, binh thợ cùng các hạng dân thực nạp, biệt nạp, không cứ phẩm trật hơn kém, mỗi người

đều được cấp cho 1 phần khẩu phần” [93; 739]. Như vậy, từ sau năm 1840, võ quan cũng như các viên quan lại trong triều phẩm trật cao hay thấp đều được hưởng

60

số ruộng khẩu phần bằng nhau, không có sự phân biệt như chính sách ruộng đất ban

cho quan lại năm 1803 dưới triều vua Gia Long.

- Chế độ ban cấp tiền may quân phục Ngoài lương được cấp bằng tiền, gạo và ruộng được chia theo khẩu phần,

dưới triều Nguyễn võ quan cùng với các quan viên khác hàng năm còn được nhận tiền nhà nước ban cấp cho việc may quần áo. Tháng 1 năm Gia Long thứ 17

(1818), triều đình ban hành định lệ chi cấp tiền may quần áo gọi là tiền xuân phục

Bát phẩm

Thất phẩm

Lục phẩm

Ngũ phẩm

Tứ phẩm

m à h m ẩ h P

Tam phẩm

Nhị phẩm

Nhất phẩm

0

10

20

30

40

50

60

70

80

Quan tiền

Column1

Tòng

Chánh

cho các quan văn võ từ nhất phẩm đến bát phẩm. Định mức cụ thể như sau:

Biểu đồ 3.3. Định mức tiền may quần áo cho võ quan năm Gia Long thứ 17 (1818)

[Nguồn: 89; 963, 67; 439]

Vua Gia Long cũng thống nhất mức ban cấp cho các quan văn, võ đã

nhận tiền xuân phục trước năm 1817 theo hướng có lợi cho những quan nhận

mức thấp hơn định mức hiện hành. Định lệ này quy định, quan (văn- võ) được

bổ từ năm Gia Long thứ 16 (1817) về trước, ai dự lệ có bổng và đồ mặc mùa xuân, theo lệ cũ được nhiều mà theo lệ mới được ít, thì chi theo lệ cũ; theo lệ mới được nhiều mà theo lệ cũ được ít, thì chi theo lệ mới; từ tháng giêng năm nay trở về sau đều theo lệ mới; ai có lỗi bị phạt thì chỉ phạt vào lương chính, tiền đồ mặc mùa xuân thì tha [89; 964].

Tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), thay vì cấp bằng tiền, đối với võ quan từ Chánh đội trưởng trở lên được triều đình phát trực tiếp bằng quần áo [90; 209]. Tuy nhiên, quy định này cũng được thực hiện linh hoạt, trên thực tế quan từ Lục phẩm trở lên vẫn được cấp phát bằng tiền và vải. Ví dụ, tháng 11

61

năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), nhà nước ban triều phục cho các quan văn võ

Nhị, Tam phẩm và các quan trấn ở Bắc Thành. Ai đã mua quần áo thì cấp cho

tiền, vải. Hoặc như theo bản ghi chép bộ Hộ kê khai y phục vụ xuân vào năm Minh Mệnh thứ 19 (1836) quan (văn- võ) từ Chánh ngũ phẩm trở lên được cấp

phát bằng quần áo và vải lụa:“quan trong kinh từ Chánh ngũ phẩm trở lên, y phục vụ xuân năm nay truyền theo số tiền mỗi viên được hưởng tính toán ứng

cấp y phục vụ xuân, hoặc cấp vải lụa tính thành tấm, loại nào bao nhiêu tấm

gộp lĩnh chia cấp” [16; tờ 65 tập 65 ngày 08 tháng 2 Minh Mệnh năm thứ 19

(1838)].

Dưới triều Tự Đức, năm 1858 nhà vua đổi phát bằng bạc lạng thay cho cấp

bằng tiền và vải hay quần. Trong đó quy đổi, mỗi đĩnh bạc 10 lạng giá 102 quan

tiền; người nào lương không đến 10 lạng bạc, thì cấp đĩnh bạc 1 lạng; người nào

lương không đến đĩnh 1 lạng, thì cấp thực tiền [95; 642].

Ngoài được ban cấp xuân phục, võ quan còn được triều đình ban cấp quần áo

mùa đông. Năm Minh Mệnh thứ 15 [1834], triều Nguyễn đặt định lệ ban áo mùa

đông cho võ quan từ Chánh- Phó Vệ uý trở lên [92; 357].

Bên cạnh đó, những võ quan mắc lỗi thì có thể bị giảm hoặc thôi cấp lương.

Chế độ này được thực hiện chung với chế độ phạt lương của quan viên triều

Nguyễn. Năm Gia Long thứ 17 (1818) triều Nguyễn quy định, quan viên có tội bị

xử phạt lương thì chỉ phạt lương chính và tiền dưỡng liêm vong lệ tiền áo xuân phục

vẫn được lĩnh theo định lệ. Năm Minh Mệnh thứ 10 (1829), triều đình quy định về

việc phạt lương cho đối với quan văn võ trong trường hợp bị xử phạt khi lương thấp

nhưng phạm lỗi lúc chức cao lương nhiều và ngược lại. Đối với trường hợp phạm lỗi lúc chức cao lương nhiều mà án phạt lúc chức thấp lương ít thì theo số lương

bổng trước mà khấu trừ vào lương hiện tại. Trường hợp ngược lại thì chiểu theo số

tiền gạo lương hiện tại mà trừ [67; 459]. Thiệu Trị năm thứ 3 (1843) quy định rõ về

việc quan viên bị thôi cấp lương tùy theo mức độ phạm tội và kết luận của vua trong sắc chỉ. Những viên quan phạm tội nặng, sắc chỉ của vua ghi bàn xử rất nghiêm thì bị bị thôi cấp lương. Trường hợp trong sắc chỉ không ghi xét xử nghiêm thì vẫn được nhận lương theo định lệ.

3.1.2. Chế độ lương đối với võ quan về hưu

Đây cũng là một trong những chính sách quan trọng của triều Nguyễn vừa đảm bảo đời sống cho võ quan đồng thời thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với những người có công đối với vương triều.

62

Ngay sau khi lập nước, năm Gia Long thứ 1 (1802), nhận thấy công lao

của các công thần vua Gia Long từng nói:“Trẫm từ khi vận nước suy vi, bôn

ba nhiều chỗ, các tướng sĩ đi theo giúp đỡ, khi trú ngụ ở thành Vọng Các, nếm đủ gian khổ, hoặc năm Mậu thân mới lấy Gia Định, ứng nghĩa cần vương. Sau

có người nhân đánh giặc bị thương hoặc già ốm mà phải về quê quán nghỉ ngơi. Hiện nay nước nhà đã yên, trẫm nhớ lại công trước, nên bàn việc đáp

đền” [89; 533].

Khi lên ngôi vua Gia Long đã thực hiện ban cấp tiền lương hàng tháng cho

công thần gồm võ quan và thuộc binh đầu quân từ sau năm Mậu thân (1788) (vua Gia Long lấy được thành Gia Định) đến trước năm Canh thân (1800) vua lấy được

thành Quy Nhơn. Số quan binh này chia làm ba hạng để chi cấp: quan binh về hưu

mà đánh trận bị thương là hạng nhất; người bệnh khỏi đợi dùng, tuổi già ốm yếu là

hạng nhì; người can phạm kỷ luật đã xá miễn là hạng ba. Từ việc phân hạng này nhà

nước cấp tiền và gạo hàng tháng theo định mức sau:

Bảng 3.2. Lương của công thần về hưu ban hành năm Gia Long thứ nhất (1802)

Định mức

STT Võ quan Hạng

Tiền (quan: tiền)

1 Chánh vệ, chánh chi

2 Phó vệ phó chi

3 Trưởng hiệu cai cơ, cai đội

4 Phó đội

5 Đội trưởng

6 Binh đinh

Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba 12 6 3 10 5 2:5 8 4 2 6 3 1 :5 4 2 1 2 1 0:5 Gạo (phƣơng: uyển) 12 6 3 10 5 2:15 8 4 2 6 3 1: 15 4 2 1 2 1 15 uyển

[Nguồn: 89; 533]

63

Ngoài ban thưởng theo định lệ, đối với công thần có công đặc biệt đối với

dựng nghiệp đế vương cho vương triều Nguyễn được vua Gia Long ban thưởng ưu

hậu. Tài liệu gia phả về dòng họ Đặng ở Lương Xá- Hà Tây ghi lại nội dung bài ký

về Thượng thư bộ binh Đặng Trần Thường “phò tá nhà vua” nên đã được tấn phong

lên chức Thượng thư bộ Binh “đứng đầu các quan, được dự bàn công việc binh dân

ở 11 trấn thuộc Bắc Thành, phàm các công việc quân sự quan trọng ông đều được

cùng hiệp thương (bàn bạc ) với quân Tổng trấn để xử lý” [151; 457].

Từ năm Minh Mệnh thứ 4 (1823), triều Nguyễn đã tiến hành ban cấp lương

cho võ quan về hưu do già yếu, bệnh tật, bị thương khi đi đánh trận. Những võ quan

này được cấp nửa lương khi về hưu.

Đối với võ quan cố trốn tránh trách nhiệm, ngại gian khổ nhà nước bắt về

hưu thì không được cấp lương. Chỉ dụ số 64 của sách Minh Mệnh ngự chế văn nêu

rõ: “từ nay về sau những người không gánh vác nổi công việc và những người có ý

trốn tránh việc khó khăn, nơi xa xôi chướng khí và thác bệnh xin nghỉ thì buộc về

hưu ngay việc không được theo lệ cấp nửa lương. Còn những người không thể chờ

để bổ thụ theo chức cũ mà tuổi cao, ốm yếu xin về quê hưu trí, thì nếu ai trước đây

đã từng bị thương tích nơi trận mạc, sẽ gia ân cấp cho nửa lương để sống những

năm còn lại và để tỏ rõ trẫm luôn khuyến khích người có công và trừng phạt kẻ lười

biếng” [99; dụ số 64, ngày 13 tháng giêng năm Minh Mệnh thứ 4 (1823)]

Tháng 12 năm Tự Đức thứ 7 (1854), triều Nguyễn có một số điều chỉnh đối

với quan viên trong đó có võ quan bị bệnh về hưu. Đối tượng áp dụng là từ Chánh,

Tòng tam phẩm trở xuống. Khi quan bị bệnh, tùy mức độ nặng nhẹ và năng lực mà

quyết định việc ở lại quân ngũ hay cho về hưu. Nếu bệnh chưa trầm trọng thì cho

nghỉ để chữa bệnh, nếu bệnh nặng cho nghỉ 4 tháng. Sau 4 tháng, những quan thực

sự có năng lực, có công lao sẽ được về quê chữa bệnh khi nào khỏi sẽ được ra làm

việc, người nào “tài hạn bình thường” thì khi bị bệnh sẽ cho nguyên hàm về hưu

không cần đợi đến tuổi [95; 349]. Ưu điểm của chế độ này so với chế độ được ban

hành năm Minh Mệnh thứ 4 (1823) là nhằm giữ lại những võ quan (văn- võ) có

năng tiếp tục làm việc cho quân đội, đảm bảo chế độ hưu công bằng đối với cống

hiến của võ quan cho quân đội.

Ngoài ra, đến năm Tự Đức thứ 9 (1856), triều Nguyễn cũng ban hành quy

định về việc miễn giáng cấp và giữ nguyên hàm đối với quan lại trong đó có võ

64

quân ốm trầm trọng phải về hưu [95; 476].

Đến năm Tự Đức thứ 32 (1879), triều Nguyễn thống nhất ban hành về chế độ

hưu trí đối với quan viên trong đó có võ quan 60 tuổi, từ Thất phẩm trở lên. Theo đó

võ quan dựa theo phẩm trật khi làm việc, mỗi tháng võ quan được nhận tiền, gạo

theo định mức:

Bảng 3.3. Định mức lương đối với quan văn –võ về hưu ban hành năm Tự Đức thứ 32

(1879)

Võ quan Định mức Tiền (quan:tiền ) Gạo (phƣơng)

STT 1 2 3 4 5 Chánh, Tòng tam phẩm trở xuống Chánh, Tòng tứ phẩm Chánh, Tòng ngũ phẩm Chánh, Tòng lục, thất phẩm Chánh, Tòng bát cửu phẩm 3 2 1:5 1 0,5 1 1 1 1 0,5

[Nguồn: 96; 367]

3.2. Chế độ đãi ngộ ngoài lƣơng

3.2.1. Chế độ phụ cấp

Bên cạnh nhận lương theo định lệ, đối với võ quan khi đi làm nhiệm vụ như

đi sai phái, đóng giữ ở những vùng biên giới, tiền đồn hoặc tham gia chiến trận

được triều Nguyễn ban cấp thêm.

-Trợ cấp thêm tiền bạc: đối với việc trợ cấp cho võ quan khi đi làm nhiệm

vụ, triều Nguyễn không đặt định lệ cụ thể mà tùy theo nơi đóng quân, tùy theo

nhiệm vụ và vai trò mà võ quan được ban cấp thêm tiền bạc. Sách Thực lục còn ghi

lại, Tự Đức năm thứ 12 (1859), vua ban bạc lạng cho quan viên trú phòng cửa biển

Thuận An, Tư Hiền:“Trần Tiến Thành, Nguyễn Như Thăng mỗi người 10 lạng bạc.

Chưởng vệ Nguyễn Đức Hựu, Mai Viết, Hồ Trị, mỗi người 7 lạng bạc; Vệ úy Lê

Quang 4 lạng bạc” [95; 634].

Định mức ban cấp dựa theo định mức lương bổng, như trường hợp của võ

quan chở hàng bằng đường biển từ Gia Định đến Kinh đô năm Minh Mệnh thứ 7

(1826) được Châu bản ghi rõ: “Ngoài việc cấp bổng ra, truyền gia ơn cấp cho các

viên quan 1 tháng tiền bổng” [17; tờ 24 Tập 19 ngày 07 tháng 8 năm Minh Mệnh

thứ 7 (1826)].

- Trợ cấp quân trang, ngoài tiền bạc, võ quan còn được ban cấp thêm quân

trang khi đi làm nhiệm vụ. Chế độ này được vua Minh Mệnh ban hành đầu tiên năm

65

1827 cho các quản quân đi thú ở Thanh Nghệ và Bắc Thành. Trong đó võ quan

được cấp đồ nhung phục 5 năm thay một lần như lệ ở Kinh. Một số trường hợp võ

quan cầm quân đi đánh dẹp cũng được cấp phát thêm quần áo như “năm viên Quản

vệ trừ người đã được cấp áo rét ngoài ra cấp thêm cho mỗi viên khố lụa nam hoa

hồng, hoa sen mỗi loại một cái” [18, tờ 48 tập 79 ngày15 tháng 10 năm Minh Mệnh

21 (1840)].

Dưới thời vua Tự Đức, việc ban cấp thêm quần áo cho võ quan đi làm nhiệm

vụ được thực hiện thường xuyên hơn các triều vua trước. Tùy từng vùng và thời tiết

nhất là về mùa đông võ quan được cấp thêm quần áo (áo rét). Vua Tự Đức nhiều lần

ban cấp thêm quần áo với số lượng lớn cho quan quân làm nhiệm vụ ở Bắc kỳ,

Trung kỳ (trong đó có các võ quan).

Việc ban cấp thêm quần áo cho cho quan viên trong đó có võ quan có thể

quy ra thành tiền như năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), vua cấp cho“quan viên hầu

Ngự giá Bắc tuần từ chánh ngũ phẩm đến tòng cửu phẩm, cộng 110 người, xin cấp

cho tiền may áo lạnh là 405 quan 5 tiền” [5; tờ 167 tập 3 ngày 30 tháng 8 năm

Minh Mệnh thứ 2 (1821)].

Bên cạnh đó, võ quan đi làm nhiệm vụ còn được phụ cấp thêm thuốc men

đặc biệt là những vùng thời tiết khắc nghiệt. Cùng với đó, võ quan còn được trợ cấp

khi đi thao diễn đường xa.

Như vậy, dưới triều Nguyễn, ngoài lương, võ quan khi đi làm nhiệm vụ đặc

biệt là ở những nơi xa xôi, những vùng xung yếu hoặc những nơi thời tiết khắc

nghiệt thường được nhận thêm một số khoản phụ cấp của nhà nước. Chế độ phụ cấp

này không có quy định mà dựa trên công việc và thời điểm mà võ quan được ban

cấp tiền, gạo, trang phục hoặc thuốc men nhằm đảm bảo cho họ hoàn thành nhiệm

vụ một cách tốt nhất.

3.2.2. Chế độ trợ cấp

- Chế độ trợ cấp đối với võ quan khi ốm

Việc trợ cấp cho võ quan bị bệnh trong thời gian đương chức dưới triều

Nguyễn bao gồm cả võ quan bị ốm và ốm chết. Chế độ này của võ quan được quy

định trong chế độ chung của quan viên. Đối với quan bị ốm, triều Nguyễn cho nghỉ

hưu hoặc cấp cho thuốc hoặc cho Thái y đến chữa bệnh. Nếu quan ốm tuổi đã cao,

triều Nguyễn giải quyết cho giảm tuổi rồi cho về hưu.

66

Võ quan ốm rồi chết được triều Nguyễn trợ cấp tiền, vải (các trường hợp ban

cấp cụ thể xem phụ lục 3b). Định mức ban cấp có sự khác nhau giữa quan tham gia

chiến trận ốm rồi chết với quan đương nhiệm bị ốm chết nhưng không đi chiến

trường. Trong đó, võ quan ra chiến trận rồi ốm chết mức trợ cấp được ưu ái hơn.

Chẳng hạn, cùng chức Vệ úy, năm Minh Mệnh thứ 9 (1828) Vệ uý Lê Hậu được

ban thưởng 1 cây gấm Tống và 100 quan tiền, Vệ úy Nguyễn Văn Hòa ở nơi đóng

thú bị ốm chết 1 cây gấm tàu, 100 quan tiền, truy tặng là Vệ úy quân Thần sách.

Tự Đức năm thứ 24 (1871), triều Nguyễn ban hành định lệ cấp nuôi cho các

quan văn võ đang trong quân thứ bị ốm và võ quan bị bệnh về hưu. Đối với võ quan

bị bệnh ở trong các quân thứ thì từ Nhị phẩm, ấn quan được cấp thuốc điều trị.

Ngoài ra, người nào bị ốm về quê hưu dưỡng thì: Chánh Tòng Tam phẩm cấp tiền

30 quan; Chánh Tòng Tứ phẩm cấp tiền 25 quan; Chánh Tòng Ngũ phẩm 20 quan;

Chánh Tòng Lục phẩm 15 quan; Chánh Tòng Thất phẩm 10 quan. Việc ban cấp

này, ở quân thứ thì do quan ở quân thứ, về quê thì do quan địa phương xét rồi chiểu

lệ được cấp tiền [95; 1290].

Năm Tự Đức thứ 27 (1874) triều Nguyễn ban hành định lệ tặng phẩm hàm

cho võ quan bị cách chức nhưng vẫn tham gia chiến trận bị bệnh chết: có thành tích

bắt, chém, đâm, bắn được giặc và chế độ cấp tuất cho binh lính.

Về chế độ tặng phẩm hàm, triều đình thực hiện tăng thêm phẩm hàm cho võ

quan so với lúc chết 2 hoặc 2 bậc. Nội dung của chế độ này được quy định cụ thể

như sau: Chánh, Tòng tam phẩm thì được truy tặng cho 4 trật (tức Bát phẩm); Tứ,

Ngũ phẩm được truy tặng cho 3 trật (tức Tòng bát phẩm); Lục, Thất phẩm được

truy tặng cho 2 trật (tức Chánh cửu phẩm); Bát, Cửu phẩm được truy tặng cho 1 trật

(tức Tòng cửu phẩm); tất cả đều được chiếu hàm được tặng mà cấp tuất. Nếu không

có công thì cấp tuất bằng với mức của binh lính: tiền 8 quan, vải nửa tấm [79; 71].

Những võ quan có công trạng ốm chết khi đang tham gia chiến trận triều

Nguyễn có chế độ ban thưởng đặc biệt như trường hợp võ quan Đỗ Thúc Thịnh.

Sách gia phả của dòng họ Đỗ Việt Nam còn ghi: Đỗ Thúc Thịnh đã phát động

phong trào kháng Pháp khá sôi nổi trong nhân dân Lục tỉnh Nam kỳ. Ông đã phối

hợp với Trương Công Định, Võ Duy Dương và Nguyễn Trung Trực đánh thắng nhiều

trận, nổi tiếng nhất là Nhật Tảo do Nguyễn Trung Trực chỉ huy (1861). Ông lâm bệnh

và mất tại quân thứ Vĩnh Long năm 1862. Sau khi ông mất vua Tự Đức đã truy phong

67

ông là “Văn võ toàn tài đại tướng công (184; 341) “Mặc dù không đồng chính kiến với

ông, vua Tự Đức cũng phải ca ngợi: ..và truy tặng ông chức Tuần vũ Định Tường, cấp

cho gia đình ông 1 vóc gấm, 5 tấm lụa, 10 cây vải, 80 lạng bạc, cử quan Khâm sai

mang đến tận nhà, tổ chức lễ phúng điếu trọng thể” [184; 399 -344].

- Trợ cấp đối với võ quan đương nhiệm bị chết

Triều Nguyễn từ Gia Long đến Minh Mệnh đã ban hành và điều chỉnh về

định mức trợ cấp tuất cho quan viên trong đó có võ quan (áp dụng đối với cả võ

quan ốm chết). Dưới triều Gia Long, chế độ cấp tuất được ban hành từ triều vua Gia

Long năm thứ 5 (1806) và được điều chỉnh năm Gia Long thứ 9 (1810). Trong đó,

võ quan cùng với quan viên trong triều được cấp tuất dựa theo phẩm trật gồm 9

phẩm cả Chánh và Tòng tức là 18 mức khác nhau từ cao xuống thấp, thấp nhất là

Tòng cửu phẩm được hưởng 4 quan tiền.

Sang triều Tự Đức, năm Tự Đức thứ 18 (1865), triều Nguyễn gộp chung chế

độ cấp tuất và cấp áo bào khi quan (văn- võ) chết làm một. Trong đó mức ban cấp

được phân biệt giữa người được và không được cấp áo triều bào. Chế độ cấp tuất

được điều chỉnh trong đó định mức tiền cấp tuất cho quan được tăng lên vào năm

Tòng tứ phẩm

Chánh tứ phẩm

Tòng tam phẩm

Chánh tam phẩm

Tòng nhị phẩm

Chánh nhị phẩm

Tòng nhất phẩm

Chánh nhất phẩm

0

100

200

300

400

500

600

700

800

900

1000

Năm 1866

Năm 1865

Năm 1810

Năm 1806

Tự Đức thứ 19 (1866). Cụ thể đinh mức như sau:

Biểu đồ 3.4. Định mức tiền tuất cho quan viên dưới triều Gia Long và Tự Đức

[Nguồn 89;676-77, 67; 586, 75;199-201 ]

Dưới triều Nguyễn, ngoài cấp tuất theo định lệ chung cho cả văn quan và võ

quan một số võ quan có nhiều công trạng đối với vương triều khi chết còn được thưởng

thêm bạc tiền bạc vải lụa, gấm tống, sáp ong. (tham khảo thêm phụ lục 3.d).

68

Đặc biệt, võ quan chết còn được triều Nguyễn cho các địa phương tế lễ và

xây miếu thờ. Bắt đầu từ năm Minh Mệnh thứ 1 (1820), việc tế lễ cho võ quan được

đặt thành quy định, hằng năm lấy hai kỳ xuân thu lập đàn Ân tự để tế lễ cho những

người chết vì việc nước sau khi tế miếu công thần. Các võ quan có công còn được triều

Nguyễn cho thờ ở miếu Trung Thần. Một số võ quan chết còn được cấp mộ phu.

Đối với võ quan đã có chỉ thăng thụ, thực thụ, khai phục nhưng chưa lĩnh

bằng sắc mà đã chết thì bằng sắc được cấp cho người thân, quy định này được ban

hành năm Minh Mệnh năm thứ 9 (1828).

- Trợ cấp đối với võ quan trận thương

Ngoài việc được chăm sóc bởi các sinh y trong các sở Dưỡng tế được đặt ở

trong Kinh thành và các địa phương, võ quan còn được hưởng những quyền lợi

khác như khen thưởng và trợ cấp tiền bạc. Ngay từ năm Gia Long thứ 2 (1802),

triều Nguyễn cho các viên Cai đội bị trận thương được về quê an dưỡng và cấp cho

4 thuộc binh để phục vụ. Dưới thời Tự Ðức, khi cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp nổ ra, triều đình đã ban hành chế độ đối với võ quan và binh lính bị thương.

Chế độ này gồm ban cấp cho những người bị thương và chế độ đối với

người dưỡng thương. Việc trợ cấp đối với võ quan bị trận thương được triều

Nguyễn ban hành đầu tiên vào năm Tự Ðức thứ 12 (1859), trong đó triều đình quy

định, quan viên bị trọng thương được cấp 10 quan tiền, quan viên bị thương nhẹ cấp 6

quan [79; 82]. Đến năm Tự Ðức thứ 19 (1866), triều Nguyễn có quy định chế độ trợ

cấp đối với võ quan đánh giặc Tây dương bị thương. Cụ thể như sau:“Nếu võ quan bị

trọng thương là Chánh, Phó đề đốc thì được cấp 20 quan tiền; Chánh, Phó lãnh binh

thì được 18 quan; Ðốc binh được 16 quan; suất đội được 12 quan; Ðội trưởng được 10

quan. Trong trường hợp chỉ bị thương nhẹ thì Chánh, Phó đề đốc được cấp 18 quan;

Chánh, Phó lãnh binh được cấp 16 quan; Ðốc binh được 14 quan; quan viên được 12

quan; suất đội được 10 quan và Ðội trưởng được 8 quan” [79; 82].

Tự Đức năm thứ 24 (1871), triều Nguyễn thực hiện trợ cấp tiền cho võ quan

phải dưỡng thương với trường hợp ở lại quân thứ để điều dưỡng: người bị thương

nặng: chánh, phó lãnh binh được cấp tiền 20 quan, đốc binh được cấp 15 quan; quản

cơ 10 quan; suất đội 8 quan; người bị thương nhẹ: chánh, phó lãnh binh được cấp

tiền 15 quan; đốc binh, cấp 10 quan; quản cơ 6 quan; suất đội 5 quan [95; 1290].

Trường hợp về quê điều dưỡng chia ra 3 mức độ ban cấp:“Người nào bị thương

69

thành đốc tật trở về: chánh tòng tam phẩm, cấp 50 quan; chánh tòng tứ phẩm cấp

40 quan; Người nào bị thương nặng trở về: chánh tòng tam phẩm 40 quan; chánh

tòng tứ phẩm 35 quan; chánh tòng ngũ phẩm 25 quan; chánh tòng lục phẩm 20

quan; chánh tòng thất phẩm 15 quan” [95; 1290].

- Trợ cấp đối với võ quan trận vong

Với võ quan trận vong, ngoài chế độ đối với võ quan và binh lính bị chết trong

quân ngũ, triều Nguyễn còn ban cấp thêm tiền, vải lụa, tặng phẩm hàm, lo ma chay, tế lễ,

thờ phụng và chế độ đối với thân nhân của họ. Chế độ này được thực thi từ thời vua Gia

Long và nhiều nhất là dưới thời vua Tự Đức bởi đây là thời kỳ khi cuộc kháng chiến

chống Pháp nổ ra và võ quan là lực lượng quan trọng đứng đầu các trận chiến.

Dưới thời vua Gia Long, ngay năm Gia Long thứ nhất (1802), triều Nguyễn

đã ban hành định lệ ban cấp ruộng cho võ quan tử trận. Vua Gia Long quy định,

ngoài ruộng khẩu phần, mỗi người sẽ được cấp thêm một mẫu lương điền (ruộng

lương) để vợ con cày cấy thu hoa lợi trong 1 năm [69; 573]. Năm Minh Mệnh thứ 8

(1827 ), triều đình đặt định lệ ban cấp tiền tuất cho võ quan. Trong đó quy định: Vệ

uý cấp 150 quan tiền; Phó vệ uý, Quản cơ 100 quan; Phó quản cơ, Cai cơ 70 quan;

Suất đội 40 quan; Suất thập 20 quan; lính 10 quan. Dân phu thủ hạ thì người chết

cấp 5 quan [69; 573-574]. Năm Minh Mệnh thứ 15 (1834), triều đình ban hành

chế độ thưởng cho võ quan ở các cơ hương dũng đi đánh dẹp các cuộc khởi

nghĩa bị chết: Ngoại ủy Chánh phó suất cơ được thưởng 10 lạng bạc; Ngoại ủy

chánh phó suất đội được thưởng 3 lạng bạc, thổ dũng chết trận được thưởng 1

lạng bạc [69; 576].

Dưới thời Tự Đức, một năm sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra

(1859), triều đình đã ban hành chế độ cấp tuất bằng bạc thay vì cấp bằng tiền

như các triều vua trước đặc biệt là đối với quân thứ ở Quảng Nam, Gia Định và

những binh lính có công lao chống Pháp trên mặt trận Đà Nẵng và Gia Định lúc

bấy giờ. Định mức ban cấp dựa theo ngạch binh được áp dụng đối với cả những

võ quan chết tại trận và những quan binh bị thương rồi chết (không bao gồm

Chưởng vệ trở lên do đã được hưởng đặc ân của triều đình). Các võ quan trận

vong khác tùy theo cấp bậc được ban tặng khi chết được ban tặng thêm tiền bạc

cụ thể như sau:

70

Bảng 3.4. Định mức cấp tuất cho võ quan năm Tự Đức thứ 12 (1859)

Cấp bậc đƣợc ban tặng sau khi tử trận Bạc đƣợc cấp (lạng) Cấm binh vệ úy, lãnh binh các tỉnh Phó vệ úy, vệ úy các quân, phó lãnh binh Phó vệ úy các quân, quản cơ Phó quản cơ, phòng thủ úy Cẩm y cai đội, Cẩm y hiệu úy Tinh binh cai đội, Cấm binh suất đội Tinh binh suất đội 20 18 15 12 10 8 6

[Nguồn: 95; 607]

Năm Tự Đức thứ 13 (1860), triều Nguyễn tăng định mức cấp tuất cho võ quan trận vong. Trong đó quy định, những người thực hàm thì chiếu theo hàm được

tặng mà cấp tiền tuất gấp đôi: nếu võ quan trận vong chỉ là hàm thí, thự, sung, lãnh

được tặng thêm 2 trật thì cấp tuất theo hàm được tặng [79; 68-69]. Riêng với võ quan đi đánh giặc Thanh và đàn áp quân Man thì“quan binh đánh trận hy sinh được

tặng 1 trật, chuẩn cho chiếu theo lệ mới cấp tiền tuất gấp đôi; hạng được gia tặng

2, 3 trật, chiếu theo hàm được tặng cấp tiền tuất” [79; 69]. Tự Đức năm thứ 18

(1865), triều đình quy định võ quan trận vong cũng được cấp thêm tiền tuất nhưng

bỏ định lệ cấp triều bào như các võ quan khác.

Võ quan trận vong được triều đình truy tặng phẩm hàm. Chế độ này được thi

hành từ năm Gia Long thứ 2 (1802). Đây chính là cơ sở cho việc cấp tuất và ban thưởng. Phẩm hàm của võ quan trận vong được truy tặng như sau: Quản cơ trở lên

ban thưởng riêng theo chỉ của vua, quyền Quản cơ truy tặng Cấm binh chánh đội,

quyền Phó quản cơ truy tặng Tinh binh Chánh đội, quyền Suất đội truy tặng Cấm

binh Đội trưởng.

Đến năm Tự Đức thứ 11 (1858), triều Nguyễn ban hành định lệ về chế độ

tặng phẩm hàm cho võ quan trận vong khi đánh Pháp (Tây dương). Phẩm hàm được

truy thụ cụ thể như sau: Chánh tứ phẩm được tặng Tòng tam phẩm; Tòng tứ phẩm,

Chánh ngũ phẩm được tặng 1 trật, Tòng ngũ phẩm được tặng 1 trật, Chánh, Tòng lục phẩm được tặng 2 trật, Chánh, Tòng Thất phẩm được tặng 3 trật, Đội trưởng cấp bằng được tặng Tòng lục phẩm và Chánh thất phẩm [79; 67]. Năm 1864, vua Tự Đức quy định lại chế độ phẩm hàm cho quan binh trận vong. Trong đó quy định võ

quan trận vong có thực hàm và chưa có thực hàm đều được tăng thêm một trật và được cấp tuất theo phẩm hàm mới. Chính sách này tạo ra sự đồng đều và công bằng trong trong cấp tuất đối với võ quan. Năm Tự Đức thứ 27 (1874), triều Nguyễn đặt định lệ truy tặng phẩm hàm và cấp tiền tuất cho những người đi đánh giặc Thanh, các cuộc nổi

71

dậy của người Mán và người Thổ dựa trên tinh thần dũng cảm và tài trí cũng như tinh

thần quyết tâm đánh giặc. Việc đặt định này áp dụng cả đối với những người theo

thuyền đánh giặc.

Riêng đối với những võ quan mạo hiểm xông pha, khinh suất nhưng thủ

thắng rồi chết trận mà chưa có phẩm hàm nhà nước quy định:“là Quản đoàn thì tặng Tòng bát phẩm Bá hộ, là Suất đoàn thì tặng Chánh cửu phẩm Bá hộ” [79; 75].

Năm Tự Đức thứ 27 (1874), nhà nước đặt định lệ phẩm hàm cho quan viên (bao

gồm cả võ quan) bị cách chức nhưng vẫn tham gia chiến trận bị trận vong. Trong đó

quy định:

Bảng 3.5. Chế độ truy tặng phẩm hàm cho võ quan bị cách chức trận vong ban

hành năm Tự Đức thứ 27 (1874)

Phẩm trật đƣợc truy tặng

STT Phẩm trật trƣớc khi chết Mạnh mẽ xông pha trận mạc đánh thắng giặc Mạo hiểm xông pha mà khinh suất gây bất lợi

Tòng lục phẩm Chánh thất phẩm Chánh bát phẩm Tòng bát phẩm Chánh cửu phẩm Chánh cửu phẩm 1 Chánh, Tòng tam phẩm Chánh ngũ phẩm Tòng ngũ phẩm 2 Chánh, Tòng tứ phẩm 3 Chánh, Tòng ngũ phẩm Chánh lục phẩm 4 Chánh, Tòng lục phẩm Chánh thất phẩm 5 Chánh, Tòng thất phẩm Chánh bát phẩm 6 Chánh, Tòng bát phẩm Tòng cửu phẩm

[Nguồn: 79; 76]

Sau khi truy cấp phẩm hàm, từ Chánh tòng Tam phẩm đến Chánh tòng bát

phẩm theo hàm truy tặng mà cấp tiền tuất gấp đôi, đối với những viên mạnh mẽ xông

pha đánh giặc thì Chánh, Tòng cửu phẩm dựa theo nguyên hàm cấp tuất, quan thuộc tất

cả các phẩm hàm trên đều được hưởng lệ ấm nhiêu. Đối với những quan viên mạo

hiểm xông pha, khinh suất mà chết thì Chánh, Tòng thất phẩm được truy tặng Chánh

cửu phẩm chiếu theo hàm được tặng mà cấp tuất gấp đôi, Chánh, Tòng bát phẩm được

truy tặng Chánh cửu phẩm, theo hàm được tặng mà cấp tuất; Chánh, Tòng cửu phẩm cho truy theo nguyên hàm mà cấp tuất, nhưng dừng chế độ ấm nhiêu.

Ngoài thăng thưởng thêm tiền và tăng phẩm hàm, triều Nguyễn còn ban tặng

tặng gấm và vải lụa cho võ quan chết trận đặc biệt dưới triều vua Tự Đức. Võ quan

khi tử trận được cấp tiền vải, áo triều bào để thờ. Năm Tự Đức năm thứ 18 (1865),

nhà đổi định lệ thay cấp áo triều bào cho võ quan trận vong bằng tiền.

Những võ quan có công được nhà nước cấp ruộng lập bia võ công và lập

đền thờ. Chế độ này được thực thi đầu tiên vào năm 1837 dưới triều vua Minh

72

Mệnh. Những võ quan được ghi công vào bia như Trương Minh Giảng, Nguyễn

Xuân, Phạm Văn Điểm. Một số võ quan được lập đền thờ được Thực lục ghi lại

như: Minh Mệnh năm thứ 11 (1830), triều Nguyễn truy phong Cai đội Nguyễn

Ngọc Huyên làm An Ninh bá, lập đền thờ; Tự Đức năm thứ 34 (1881) triều đình sai

địa phương làm đền thờ Lãnh binh An Giang là Trương Định ở xã Tư Cung, tỉnh

Quảng Ngãi.

Ngoài chế độ đối với võ quan, triều Nguyễn còn có chế độ trợ cấp cho thân

nhân của võ quan trận vong

Đối với cha mẹ võ quan, năm Tự Đức thứ 4 (1851), triều đình thực hiện cấp

tiền gạo cho cha mẹ võ quan từ Suất đội trở lên chết khi đánh dẹp và đi đường biển.

Không phụ thuộc vào tuổi của cha mẹ và phẩm cấp của võ quan, triều Nguyễn

thống nhất cấp cho cha mẹ quan viên 3 quan tiền, 3 phương gạo, vải, lụa mỗi thứ 1

tấm. Tự Đức năm thứ 13 (1860), triều đình cấp tiền gạo cho thân nhân các tướng sĩ

chết trận ở quân thứ Quảng Nam- Gia Định. Trong đó quy định:“Nhị phẩm cấp cho

20 quan tiền, 8 phương gạo; tam phẩm cấp 15 quan tiền, 5 phương gạo; tứ phẩm

cấp 10 quan tiền, 4 phương gạo; ngũ phẩm cấp 8 quan tiền, 3 phương gạo; lục

phẩm trở xuống theo thứ tự mà giảm dần đi” [95; 686]. Tự Đức năm thứ 18 (1865),

triều đình ban hành định lệ, những cha mẹ của người chết trận nếu còn cha mẹ thì

cấp cho mỗi người quan tiền và 1 phương gạo [75; 196].

Đối với con của võ quan trận vong, triều Nguyễn cho được hưởng lệ ấm

nhiêu. Chế độ này bắt đầu ban hành từ năm Gia Long thứ 2 (1803) cùng với chế độ

chung cho con quan viên. Theo đó, phẩm hàm, quyền lợi của những người con được

hưởng tùy thuộc vào chức vụ của người cha. Đến thời vua Tự Đức, năm Tự Đức thứ

11 (1858), triều Nguyễn ban hành quy định tặng ấm nhiêu cho quan viên trong đó

có võ quan trận vong khi đi kháng chiến chống Pháp. Trong đó quy định:“Chánh tứ

phẩm được ấm thụ cho 1 người con hoặc em hoặc cháu là Tòng thất phẩm Thiên

hộ; Tòng tứ phẩm, Chánh ngũ phẩm một người con hoặc em hoặc cháu là Bát phẩm

Bá hộ; Chánh, Tòng thất ấm thụ cho 1 người con hoặc em hoặc cháu là Tòng cửu

phẩm Bá hộ; Đội trưởng cấp bằng được miễn cho 1 người con hoặc em hoặc cháu

binh diêu suốt đời” [79; 67]. Ngoài ra, con võ quan chết trận được nhà nước cấp

tiền gạo hàng tháng. Chế độ này được ban hành năm Tự Đức thứ 18 (1865) trong

73

chế độ chung của quan viên. Triều đình quy định, nếu con của quan văn – võ dưới

15 tuổi không có người nuôi dạy, hàng tháng cấp 5 tiền và nửa phương gạo, trên 16

tuổi đã đủ trưởng thành nên không cấp dưỡng [75; 196].

Đối với vợ của võ quan trận vong, triều Nguyễn ban cấp cho một số trường

hợp như: Tự Đức năm thứ 4 (1851), triều đình cấp tiền gạo cho vợ võ từ Suất đội

trở lên chết khi đánh dẹp và đi đường biển với mức: Tam phẩm trở lên cấp cho 3

quan tiền, 2 phương gạo; từ Tứ phẩm đến Thất phẩm, cấp cho 2 quan tiền, 1 phương

gạo (không áp dụng với vợ con người nào hiện còn không đến nỗi cô đơn khổ sở, đã

có lương bổng, người can án bị tội) [95; 209].

Tự Đức năm thứ 13 (1860), triều đình thực hiện cấp tiền gạo cho thân nhân

các tướng sĩ chết trận ở quân thứ Quảng Nam và Gia Định. Định mức cụ thể như

sau: võ quan chết trận còn cha mẹ vợ con: Nhị phẩm cấp cho 20 quan tiền, 8

phương gạo; Tam phẩm cấp 15 quan tiền, 5 phương gạo; Tứ phẩm cấp 10 quan tiền,

4 phương gạo; Ngũ phẩm cấp 8 quan tiền, 3 phương gạo; Lục phẩm trở xuống theo

thứ tự mà giảm dần đi [95; 686]. Với võ quan có công lao đặc biệt nhà nước có chế

độ đãi ngộ riêng đối với vợ của họ. Trường hợp điển hình là Tự Đức năm thứ 27

(1874), vua ân thưởng cấp tiền, gạo cho vợ nguyên An Giang Lãnh binh Trương

Định. Khi Pháp đánh chiếm các tỉnh ở Nam Kỳ, Trương Định mộ quân chống đánh,

sau thua ông cùng con trai bị giặc giết chết, vợ Định là Lê Thị Thưởng không chỗ

nương nhờ, “vợ của viên đã chết ấy (Thị Thưởng) tuổi đã già không nương tựa vào

đâu được, chuẩn cho quan tỉnh cấp dưỡng cho đủ (mỗi tháng cấp tiền 20 quan, gạo

2 phương), đến nay lại chuẩn cho sau khi chết cấp cho 100 quan tiền” [96; 283].

Chế độ trợ cấp cho võ quan bị nạn gió

Dưới triều Nguyễn, đường biển là một trong những con đường vận tải chính.

Không chỉ có binh dân mà quân đội triều Nguyễn là một lực lượng không nhỏ tham

gia vào việc vận tải bằng đường biển. Việc đi trên biển những thời điểm mưa bão,

nhất là trên vùng biển miền Trung dẫn đến những tai nạn chìm tàu và binh lính bị

chết đuối.Việc trợ cấp cho binh sĩ trong đó có võ quan bị nạn bão là một trong

những chính sách quan trọng. Ngay từ năm Gia Long thứ 2, triều đình đã ban cấp

tiền tuất cho 500 quân Thần Sách đi vận tải chết ở biển Thanh Hóa. Vệ úy được cấp

100 quan, Phó vệ úy được cấp 50 quan, Cai đội được cấp 30 quan [69; 583-484].

74

Năm Minh Mệnh thứ 1(1820) nhà vua ban hành chế độ trợ cấp cho võ quan từ

chánh đội trưởng trở lên khi đi công sai và ki đi làm việc tư. Trong định lệ này, có sự

phân biệt định mức giữa võ quan đi việc công và việc riêng, giữa chết và còn sống. Võ

quan khi đi làm việc công cao hơn việc tư, võ quan bị chết cao hơn còn sống [67; 581].

Năm Tự Đức thứ 26 (1873), triều Nguyễn ban hành định lệ trợ cấp đối đối

với võ quan bị nạn bão trong khi đi làm việc. Mức ban cấp dựa trên một số tiêu chí

như: phẩm trật, đi làm việc công hay việc riêng, võ quan sống hay chết (từ Lục

phẩm trở xuống đi việc công và riêng có mức ban cấp như nhau) cụ thể như sau:

Bảng 3.6. Định mức ban cấp cho quan văn võ bị nạn bão được ban hành năm Tự

Đức thứ 26 (1873)

Nội dung ban cấp

Đi việc công Đi việc riêng STT Phẩm hàm

1 Nhất phẩm, nhị phẩm 2 3 4 5 Đã chết Còn sống Đã chết Tiền Gạo 20 15 5 4 3 Tiền 30 20 8 6 5 Tiền 20 15 8 6 5 Còn sống Gạo 1 1 1 1 1 Tiền 15 10 5 4 3 2 2 1 1 1

Tam phẩm Tứ phẩm, Ngũ phẩm Lục phẩm, Thất phẩm Bát phẩm, Cửu phẩm [Nguồn: 75; 194-195]

Ngoài bên cấp tiền theo lệ định, các vua triều Nguyễn còn ban cấp thêm tiền tuất

hoặc truy tặng phẩm hàm hoặc ban cấp thêm vải lụa cho võ quan bị nạn gió.

Quan binh chết vì bão còn được triều đình tổ chức tế lễ. Năm Tự Đức thứ 8

(1855), vua cấp tuất và tế lễ ở bờ biển cho Suất đội đội Tuần hải ở Quảng Yên và 13

viên danh biền binh đều chết đuối do bão đánh chìm, Tự Đức năm thứ 10 (1857)

cấp tuất gấp đôi sai tế một tuần cho 41 biền binh tỉnh Biên Hoà chết do gặp bão trên

đường chở hàng hóa về Kinh.

3.2.3. Chế độ khen thưởng

-Chế độ ưu cấp đối với các công thần

Dưới thời Nguyễn có 3 loại công thần quan trọng: Khai quốc công thần, Trung hưng công thần và Vọng Các công thần. Vọng các công thần là những người phò tá vua Gia Long lúc nguy khốn và phải sang lánh nạn ở Vọng Các (Công thần Vọng các là những người hết lòng phò tá vua Gia Long lúc nguy khốn nhất, phải đi

75

lánh nạn ở Vọng Các ( Băng Cốc). Ví dụ như Châu Văn Tiếp, Tôn Thất Hội, Võ Di Ngy, Tống Viết Phúc, Mai Đức Nghị) . Khi dựng cơ nghiệp vua ban thưởng ưu hậu cho những công thần này.

Dưới triều vua Gia Long, triều Nguyễn chia Công thần Vọng các thành thành

3 hạng đồng thời thực hiện ban cấp lương tháng cho họ.

Theo chức quan, công thần được nhận trợ cấp hàng tháng bao gồm tiền và

14

12

12

10

10

8

8

n ề i t c ứ m

6

6

5

5

5

4.5

h n Đ

4

4

3

3

2.8

2.5

2

2

2

1.15

1

0.5

0

Binh đinh

Phó đội

Đội trưởng

Phó vệ phó chi Trưởng hiệu cai cơ, cai đội

Chánh vệ, chánh chi

Hạng nhất

Hạng nhì

Hạng ba

gạo. Định lượng gạo tiền cơ bản bằng nhau. Cụ thể như sau:

Biểu đồ 3.5. Thưởng cho các công thần Vọng các năm Gia Long thứ nhất (1802)

[Nguồn: 89; 533-534]

Đồng thời công thần bao gồm cả võ quan được lập thuộc binh theo 3 hạng đã

quy định nhiều nhất là Chánh vệ (hạng nhất 8 thuộc binh, hạng nhì 6 thuộc binh,

hạng ba năm thuộc binh) thấp nhất là Phó đội (hạng nhất 2 thuộc binh, hạnh nhì và

ba đều 1 thuộc binh (xem thêm phụ lục 1.b). Những người là thuộc binh đều được

miễn dao dịch.

Ngoài ra, dưới thời vua Gia Long thứ 7 (1808) ban hành chế độ viên tử đối

với con cháu công thần. Nội dung của định lệ này nêu rõ: quan viên dự công Vọng

Các từ Cửu phẩm trở lên, thì các con đều được ghi làm quan viên tử, đều được miễn

binh dao và thuế thân; [89; 734]. Đến năm Minh Mệnh thứ hai (1821), triều Nguyễn

thực hiện chế độ tập ấm (như ấm tử và ấm sinh).

-Khen thưởng đối với võ quan có công trong các hoạt động quân sự

Đầu thời Nguyễn, vua Gia Long theo lệ của chúa Nguyễn trọng thưởng

cho tướng sĩ có công bắt giặc (chỉ phong trào nông dân Tây Sơn). Tướng sĩ ai bắt

76

sống được một người lính được thưởng 5 quan tiền; bắt được Hộ quân, Quản

quân, Đô ty, Đô úy được thưởng 20 quan tiền; bắt giết được Đô đốc thưởng 1000

quan tiền. Các võ tướng có công đánh thắng Tây Sơn, hình thức chủ yếu là

thưởng bằng tiền [89; 509].

Từ khi nắm quyền cai trị đất nước, các vua Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức

luôn phải đương đầu với những cuộc nổi dậy chống đối của rất nhiều bộ phận trong

xã hội (đã trình bày ở Chương 1 phần bối cảnh trong nước). Dưới triều Gia Long,

để dẹp yên các cuộc nổi triều đình đã cử các tướng như Lê Chất và Lê Văn Duyệt,

Tôn Thất Bính, Hoàng Viết Toản đi đánh dẹp. Giai đoạn trị vì của vua Minh Mệnh

nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa nhất, trong đó có nhiều cuộc khởi nghĩa lớn, triều đình

phải nhiều lần phái quân đi đánh dẹp mới có thể dập tắt. Những võ quan có công

lớn đối với việc trấn áp các cuộc khởi nghĩa thời kỳ này như Nguyễn Công Trứ,

Nguyễn Đức Nhuận, Nguyễn Hữu Thận, Tạ Quang Cự, Nguyễn Văn Trọng, Tống

Phúc Lương, Phan Văn Thúy, Trương Minh Giảng và Trần Văn Năng. Sang triều

Tự Đức, sau vài ba năm đầu còn yên trị, từ năm 1851 trở đi, các cuộc khởi nghĩa

tiếp tục nổ ra. Một số võ quan có công lớn thời kỳ này như Ông Ích Khiêm, Nguyễn

Viết Thành, Nguyễn Lệ, Vũ Trọng Bình. Sau những thắng lợi này, võ quan thường

được triều đình ban thưởng.

Ngoài ban thưởng cho võ quan đi dẹp các cuộc nổi dậy trong nước, triều đình

còn ban thưởng cho quan binh có công trong chiến đấu chống các thế lực ngoại

bang (quân Xiêm, Cao Miên và Pháp) như Trương Minh Giảng, Nguyễn Tri

Phương .

Việc ban thưởng của triều đình cho công trạng các võ quan cụ thể đã được

thống kê trong phần phụ lục 2a,2b,2c,2d,2e. Ở đây, tác giả trình bày khái quát một

số đặc điểm của chế độ khen thưởng của triều Nguyễn đối với võ quan có công lao

trong việc đánh dẹp các cuộc nổi dậy trong nước.

So với các triều vua khác, thời vua Minh Mệnh nhà nước ban thưởng cho võ

quan nhiều lần đồng thời mức ban thưởng cũng lớn hơn các triều vua còn lại.

Nguyên nhân đây là thời kỳ có nhiều cuộc nổi dậy với thời gian và quy mô lớn.

Thời vua Tự Đức mặc dù ở ngôi lâu, có những hoạt động quân sự quan trọng nhưng

việc khen thưởng cho võ quan không thường xuyên và mức khen thưởng thấp.

Việc khen thưởng cho võ quan của các vua triều Nguyễn thường được thực

hiện sau thắng lợi của mỗi trận đánh do đó một võ quan có thể được khen thưởng

77

nhiều lần khi thực hiện dẹp yên một cuộc nổi dậy. Tùy theo công trạng và quy mô

của cuộc khởi nghĩa võ quan tham gia và thắng trận sẽ được thưởng như: thăng cấp

bậc phẩm hàm (thường là 1 bậc), thưởng tiền, bạc với định mức không cố định.

Theo đó, những võ quan có phẩm hàm cao, lãnh đạo những cuộc khởi nghĩa

lớn thì có mức khen thưởng cao như Tạ Quang Cự đánh dẹp các cuộc nổi dậy

(Nông Văn Vân ở Bắc Kỳ và Lê Văn Khôi ở Nam Kỳ như khởi nghĩa dưới triều vua

Minh Mệnh và Nguyễn Tri Phương có công trong đánh Pháp dưới triều Tự Đức.

Trong các võ quan được nhà vua khen thưởng có những trường hợp tiêu biểu như

Nguyễn Tri Phương, Ðây là những võ quan lập được nhiều chiến công (cầm quân

đi đánh quân Xiêm, bình định Cao Miên). Sách Thực lục có ghi lại, năm 1845,

Nguyễn Tri Phương được vua Thiệu Trị ban thưởng “gia hàm Hiệp biện Ðại học sĩ,

quân công một cấp, kỷ lục ba thứ, thẻ bài đeo bằng ngọc đẹp có chữ “Cát tường

phước thọ”, dây rủ xuống có xâu san hô, nhẫn trân châu, cẩn vàng mặt kim cương,

kim tiền hạng to có chữ "Vạn tuế vĩnh lại" có dây rủ xuống, khánh vàng ghi công, mỗi

thứ một chiếc” [94; 760]. Ðến năm 1847, ông lại được triều đình ban thưởng “1 chiếc

nhẫn ngọc kim cương hạng lớn, chung quanh khảm ngọc trân châu bịt vàng của nhà

vua thường dùng, 1 cái bài đeo có dây tua xâu ngọc san hô tốt, có chữ “Cát tường

Phước trạch”, 1 đồng kim tiền hạng lớn có dây tua có chữ “Vạn thế vĩnh lại”, 1 đồng

kim tiền hạng vừa, có dây tua có chữ “Long vân khế hội” [94; 974].

Thông thường triều Nguyễn ban thưởng định mức bằng nhau cho võ quan

cùng 1 công trạng. Tuy nhiên, cũng có trường hợp việc khen thưởng được ban cấp

theo phẩm hàm, ví dụ võ quan thu phục thành Trà Vinh năm Thiệu Trị thứ nhất

(1841), vua ban thưởng quân đánh dẹp ở Cao Bằng năm Tự Đức thứ 21 (1868).

Ngoài ra, một số võ quan còn được thưởng tước hiệu, vải, lụa, súng, sâm nhung như

trường hợp năm Thiệu Trị thứ 7 (1854) triều đình “Thưởng cho Phủ biên tướng

quân Tiết chế Trấn Tây tổng hạt Vũ Văn Giải 1 thẻ ngọc đề: An Tây Trung Vũ

Tướng”.. Thưởng cho Viên Thự đô đốc trú phòng Trấn Tây bang biện sự vụ Nguyễn

Văn Hoàng 1 thẻ bài vàng đề: "An tây trấn kiện tướng" [38; tờ 64 quyển 40 ngày 8

tháng 2 năm Thiệu Trị 7 (1847)].

Ngoài thưởng cho từng cá nhân thì triều Nguyễn còn khen chung cho võ

quan tham gia và thắng lợi trong 1 hoạt động quân sự, ví dụ Thiệu Trị năm thứ 7

(1854) thưởng chung tướng sĩ binh lính tòng chinh tại Trấn Tây thắng lợi trở về, các

khoản thưởng yến và xét thưởng phân theo hạng [39; tờ 34 quyển 48 ngày 17 tháng

78

6 năm Thiệu Trị 7 (1847)]. Dưới triều vua Tự Ðức, võ quan lập được công lao lớn,

thắng trận trở về còn được nhà nước tổ chức lễ mừng công và ưu thưởng. Năm Tự

Ðức thứ 33 (1880), các quân thứ ở biên giới phía Bắc từ Thống đốc đến Lãnh binh

đều thưởng áo quần, bạc lạng theo thứ bậc; Đốc binh đến Hiệp quản được thưởng

bạc lạng; Cai suất đội đến binh đinh thưởng chung 20.000 quan tiền [96; 445].

Mặc dù vậy, khi không hoàn thành nhiệm vụ cũng bị xử phạt xứng đáng thua

trận cũng bị xử phạt nghiêm khắc kể cả những võ quan có chức hàm cao, lập nhiều

công trạng đối với triều Nguyễn như Dương Văn Phong, Trương Minh Giảng,

Nguyễn Công Trứ. Theo Bản phụng thượng dụ của Nội các ngày 26 tháng 10 năm

Thiệu Trị thứ nhất (năm 1841): “Trong đó trừ Trương Minh Giảng hiện đã chết và

đã đoạt lại chức hàm tướng quân. Nay lại truyền ngừng cấp và đòi lại bổng Chánh

thất phẩm mà cho con trai viên đó là Trương Minh Thi đã được cấp. Dương Văn

Phong trước đã cách chức, nay đã chết, không cần bàn xét...Lại các chức lưu nhiệm

và chuẩn quyền lãnh Án sát sứ tỉnh An Giang là Phạm Văn Điển, Nguyễn Công Trứ

truyền chiếu theo chức hàm hiện tại giáng 3 cấp lưu nhiệm.” [60; tờ 68, quyển 10

năm Thiệu Trị thứ 1(1841)].

-Khen thưởng đối với võ quan trong các hoạt động xây dựng và kiến thiết

đất nước

Như đã trình bày, tổ chức quân đội của triều Nguyễn không chỉ có lực lượng

quân chiến đấu mà còn bao gồm một lực lượng thuộc Cấm binh và Tinh binh là

những đơn vị làm nhiệm vụ xây dựng và sản xuất như khảo sát tình hình núi sông,

tham gia xây dựng các công thủy lợi và khai hoang. Cũng như các đội quân khác,

việc ban thưởng cho những võ quan đôn đốc những đội quân làm nhiệm vụ này là

cần thiết.

Thưởng cho võ quan hộ giá đi tuần du, kiểm tra và xem xét tình hình đất

nước. Tuần du là hoạt động thường xuyên của các vua triều Nguyễn đặc biệt dưới

thời vua Minh Mệnh. Mỗi dịp như vậy, võ quan cùng binh lính hộ giá là lực lượng

quan trọng đi theo hầu và bảo vệ vua. Trong thời gian trị vì của vua Minh Mệnh nhà

vua ban thưởng 7 lần cho các võ quan cùng các quan viên đi hộ giá vào các năm

1821, 1825, 1826, 1838. Trong đó năm Minh Mệnh thứ 6 (1827), nhà vua ban

thưởng 2 lần cho võ quan đi hộ giá tuần du ở Quảng Nam và Quảng Bình. Số lượng

võ quan được ban thưởng sau mối lần như vậy không được ghi lại cụ thể nhưng

theo thống kê một số lần số võ quan được thưởng tới hàng trăm người. Đặc biệt

79

năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), không chỉ số lượng người được ban cấp lớn mà nhà

vua cũng cấp ra một số lượng tiền gạo đáng kể thưởng cấp cho võ quan hộ giá. Sách

Thực lục ghi lại, vua ban thưởng cho “Võ từ Chánh nhất phẩm đến Cửu phẩm 927

người, 1.084 lạng bạc, 3.986 quan tiền, 1.446 phương gạo” [90; 175]. Mức khen

thưởng của mỗi võ quan đi hộ giá bằng tiền thông thường là 1 tháng tiền lương. Ví

dụ: võ quan đi tuần du Quảng Bình và Quảng Nam năm Minh Mệnh thứ 6 (1825).

Ngoài ra, một số năm võ quan được thưởng chung như năm Minh Mệnh thứ 6

(1826) vua ban thưởng cho võ quan từ Suất đội trở lên 2000 quan tiền.

Khen thưởng đối với võ quan tham gia các hoạt động xây dựng cung điện

đền đài, khảo sát địa hình và sản xuất nông nghiệp.

Triều Nguyễn được lập ra sau gần hai thế kỷ chiến tranh liên miên. Khi cầm

quyền, vua Gia Long chọn Thừa Thiên là vùng đất định đô của triều đại mới. Sau

một thời gian khôi phục đất nước, dưới triều vua Minh Mệnh, triều Nguyễn đã tiến

hành cuộc cải cách nhằm hoàn thiện và thống nhất các đơn vị hành chính như hoạch

định, đo đạc lại địa giới hành chính cũng như xây dựng cung điện thành quách.

Trong thời gian các vua đầu triều Nguyễn, quân đội là lực lượng không nhỏ tích cực

tham gia vào những nhiệm vụ nói trên. Mỗi khi hoàn công, võ quan và binh lính

được triều đình ban thưởng.

Qua các tài liệu chính sử dưới triều Nguyễn, việc ban thưởng cho các võ

quan trong các hoạt động này được thực hiện chủ yếu dưới thời vua Minh Mệnh. Ví

dụ, Minh Mệnh năm thứ 1 (1821) để hoạch định địa giới các tỉnh, triều đình đã sai

phái quan quân đi khảo sát và vẽ bản đồ đất nước và địa giới hành chính các địa

phương. Để khuyến khích võ quan và binh lính, ngay từ năm Minh Mệnh thứ 3

(1823) triều Nguyễn đã đặt định lệ thưởng cho binh của vệ Giám thành (đội quân có

nhiệm vụ khảo sát, đo đạc địa hình những nơi nhà nước muốn xây dựng những công

trình như kinh thành, pháo đài...) hoặc nơi vua cần biết địa hình núi sông. Dựa trên

việc phải đi sai phái xa - gần, vùng đồng bằng hay miền núi mà chia thành 2 hạng

nhất và nhì để ban thưởng.

Cụ thể mức thưởng như sau: Đi nơi xa hoặc miền rừng núi, công việc hơi

khó khăn là hạng nhất, đi địa phương cận tiện, vùng đồng ruộng bằng phẳng, công

việc hơi dễ là hạng nhì. Giám thành phó sứ được phái vào công việc hạng nhất thì

mỗi tháng được cấp 10 quan tiền 10 phương gạo, vào hạng nhì thì cấp 8 quan tiền 8

phương gạo. Nhân viên am hiểu việc đo đạc, hoạ đồ và chỉ vạch quy thức thì hạng

80

nhất được cấp 7 quan tiền 7 phương gạo, hạng nhì được cấp 6 quan tiền 6 phương

gạo. Người theo đi giúp việc đo đạc thì hạng nhất 5 quan tiền 5 phương gạo, hạng

nhì 4 quan tiền 4 phương gạo. Đều chiếu bổng hằng tháng mà cấp thêm [90; 199].

Ngoài định lệ ban thưởng thường xuyên, vua còn ban thưởng thêm gạo

tiền và quần áo cho những võ quan có công lao đặc biệt trong việc khảo sát địa

hình xây dựng.

Năm Minh Mệnh thứ 15 (1834), Thự Phó vệ úy vệ Giám thành Nguyễn Văn

Xướng, mang biền binh thuộc hạ đi đo vẽ hình thế núi sông các hạt từ Phú Yên đến

phía Nam và thành Nam Vang, vẽ đường bộ từ Hà Tiên sang Xiêm, bản đồ dâng

lên được vua thưởng 10 lạng bạc và biền binh đi theo được thưởng 1 tháng tiền

lương [92; 108]. Tuy nhiên, võ quan Vệ giám thành đi làm nhiệm vụ vẽ địa hình

không hoàn thành tốt nhiệm vụ bị triều đình xử phạt. Châu bản triều Nguyễn tờ 92,

tập 54 ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng 16 (1835), Nội các Phụng thượng dụ về

việc:“Viên được phái ra Hoàng Sa là Cai đội Phạm Văn Nguyên trở về chậm trễ,

vừa qua đã có chỉ giao cho Bộ trị tội. Nhưng đã tra chưa thấy rõ có tình tội riêng.

Vả lại lần đó phái đi ra biển, đã hoàn thành công việc lẽ ra được dự thưởng chỉ có

quản viên Phạm Văn Nguyên lúc về lại dám tự ý giữ chức thật là không hợp, trước

đây đã có chỉ cách chức giam cùm, nay truyền đánh ngay 80 gậy và gia ân khai

phục nguyên chức. Vẽ bản đồ chưa được rõ ràng là các Giám thành Trần Văn Vân,

Nguyễn Văn Tiện và Nguyễn Văn Hoằng đều đánh 80 gậy chuẩn cho thả bớt cả”

[31; tờ 92, tập 54 ngày 13 tháng 7 năm Minh Mệnh 16 (1835)].

Bên cạnh đó, võ quan tham gia vào hoạt động sản xuất như sản xuất nông

nghiệp (phụ trách việc đắp đê, khai hoang) và các hoạt động sản xuất khác như đúc

thành tốt nhiệm vụ cũng được nhà vua ban thưởng. Trong số lần võ quan được vua

khen thưởng cho hoạt động này, có 2 lần võ quan được thưởng nhiều nhất là cho võ

quan phụ trách đắp đê.

Ngoài ra, triều Nguyễn còn ban thưởng cho võ quan trong các hoạt động đi

sứ. Một số trường hợp võ quan được ban thưởng cho hoạt động này như: Thiệu Trị

năm thứ 6 (1846) đi sứ sang Giang Lưu Ba (tức Indonesia) được triều đình khen

thưởng: “Thuỷ Sư quản toạ là Phó vệ uý vệ 3 doanh Trung Vũ Phẩm nay gia ân lại

thưởng 1 mai tiền vàng Tam thọ, 15 lạng bạc, áo dài áo ngắn 2 chiếc quần mầu

hồng, mầu trắng mỗi loại 1 chiếc. Đội trưởng Cấm binh Vũ Dũng làm công vụ trên

thuyền lại gia thưởng 1 mai tiền vàng Nhị Nghi 10 lạng bạc. Trừ tiền vàng và bạc

81

sẽ tuân lệnh thi hành ra, còn áo quần nên dùng lụa màu. Kính vâng kê khai phúc

trình, chờ chỉ tuân lệnh thi hành.” [40; tờ 380 quyển 37, ngày 28 tháng 5 năm

Thiệu Trị thứ 6 (1846)].

Võ quan còn được ban thưởng trong các nhiệm vụ tuyển mộ binh lính và các

hoạt động luyện tập binh khí như thi bắn súng, thao diễn, sản xuất vũ khí. Tài liệu châu

bản còn ghi lại: Tự Đức năm thứ 2 (1849) binh lính và quan chức tỉnh Bình Định thao

diễn trong đó “Phó quản cơ Lê Sự truyền cho thưởng 1 lần kỷ lục, lại thưởng thêm cho

1 áo lụa trục sa, 1 áo vải tây, 1 quần vải lụa su màu lam. Các quan chức địa phương

cũng tham dự việc huấn luyện hàng ngày, cũng đáng khen thưởng, vì vậy Hộ đốc Lê

Nguyên Trung, Bố chính Trần Văn Thông cùng Lãnh binh Nguyễn Hóa đều thưởng cho

1 lần kỷ lục” [54; tờ 49, tập 11 ngày 10 tháng 2 năm Tự Đức 2 (1848)]. Không chỉ

được thưởng tiền bạc, võ quan còn được thăng thưởng chức tước phẩm hàm như văn

bia làng Hiền Lương (Phong Điền- Thừa Thiên Huế) còn ghi lại trường hợp Võ khố

đốc công Hoàng Văn Lịch có công, “khua kiếm oai phong, việc binh khí trang bị cho

thuộc hạ sắc bén, dạy vẽ nghiêm túc, có tác phong hùng dũng về chiến đấu. Mũ giáp võ

phục chỉnh tề theo hầu đã lâu, vất vả có nhiều công la thành tích ta thấu tỏ đáng khen”

nên được vua Thiệu Trị “phong Minh nghĩa Đô Úy” [180; 81].

Ban thưởng đối với võ quan nhân dịp lễ -tết

Trong các ngày trọng đại của đất nước như vua lên ngôi, mừng thọ Vua hoặc

Hoàng hậu, các ngày Tết trong năm, các vua triều Nguyễn thường thực hiện đại xá

và ban ân thưởng cho Hoàng tộc và bá quan văn võ. Việc ban ân bổng này của võ

quan được thực hiện với hai hình thức: ban thành định lệ và thưởng theo chỉ dụ ban

ấn của nhà vua trong mỗi dịp cụ thể. Trong đó, việc ban ân thưởng theo từng dịp cụ

thể là chủ yếu.

Về định mức khen thưởng cho võ quan, dưới thời vua Minh Mệnh thực hiện

mức khen thưởng vào này 2 ngày: tết Nguyên Đán và tết Lập hạ.

Định lệ thưởng tết Nguyên đán cho võ quan cùng với quan viên văn võ được

triều Nguyễn ban hành vào năm Minh Mệnh thứ 3 (1821). Định mức cụ thể như sau

“Chánh Nhất phẩm đều thưởng 12 lạng bạc, tòng Nhất phẩm 10 lạng, chánh Nhị phẩm

8 lạng, tòng Nhị phẩm 6 lạng, chánh Tam phẩm 5 lạng, tòng Tam phẩm 4 lạng, chánh

Tứ phẩm 3 lạng, tòng Tứ phẩm 2 lạng rưỡi, chánh Ngũ phẩm 2 lạng. Còn quan ở Kinh

nào không dự hàng ban, chiếu ai có dấu khuyên sau vua phê, theo phẩm bậc cũ mà

thương cấp; viên nào được chấm son, đều giảm 1 lạng. Quan ở ngoài đến chầu, Tứ

82

phẩm trở lên chuẩn cho theo phẩm bậc cũ mà thưởng cấp; Ngũ phẩm trở xuống, đều

thưởng 1 lạng….Chánh đội trưởng xuất đội, vệ Thị nội hiện tại, đều 1 lạng” [67; 463].

Từ năm Minh Mệnh thứ 4 (1823) triều Nguyễn đặt định lệ ban thưởng bạc

cho quan văn – võ nhân dịp lễ Khánh Hạ. Định mức ban cấp dựa trên phẩm hàm,

quan ở trong và ngoài kinh. Trong đó, chánh nhất phẩm được nhận 12 lạng, thấp

nhất là chánh đội trưởng, đội trưởng, suất đội được thưởng 1 lạng [90; 254].

Đặc biệt năm Tự Đức thứ 10 (1857), vua đặt định lệ thưởng cho quan văn võ

nhân tết Đoan Dương từ tứ phẩm trở lên. Ngoài ra, vào những dịp trọng đại như vua

lên ngôi, các ngày lễ như: mừng thọ Vua, mừng thọ Hoàng hậu hay các ngày tết

khác như tết Nguyên Đán, tết Đoan Dương võ quan cũng được ban thưởng (xem

thêm phụ lục 2f). Một số dịp không phải ngày lễ tết vua triều Nguyễn cũng ban ân

thưởng cho võ quan như: Thiệu Trị năm thứ 2 (1842), thưởng do yên bình được

mùa; Thiệu Trị năm thứ 2 (1842), thưởng nhân Bắc tuần hồi loan (vua đi tuần du

phía Bắc trở về).

Ngoài ban thưởng ưu hậu cho võ quan lập công trạng, dưới triều Nguyễn

những võ quan không hoàn thành nhiệm vụ cũng bị phạt nghiêm khắc như phạt

giảm phẩm hàm bổng lộc, cắt giảm lương: Ngày 26 tháng 10 năm Thiệu Trị 1

(1841), triều đình phạt quan trong việc coi giữ thành Trấn Tây, nội dung như sau:

Nay căn cứ vào tập tâu của bộ Hình về việc lần lượt đưa ra xét xử các võ quan trấn

giữ thành Trấn. Trong đó trừ Trương Minh Giảng hiện đã chết và đã đoạt lại chức

hàm tướng quân. Nay lại [dụ] truyền ngừng cấp và đòi lại bổng Chánh thất phẩm

mà cho con trai viên đó là Trương Minh Thi đã được cấp. Dương Văn Phong trước

đã cách chức, nay đã chết, không cần bàn xét [30; tờ 68 tập 10, ngày 26 tháng 10

năm Thiệu Trị thứ 1 (1841)]. Ngày 8 tháng 4 năm Tự Đức thứ 4 (1852), triều đình

ban dụ phạt đánh 90 gậy gồm 3 Đội trưởng, đánh 50 roi chiếu theo tội công phạt

bổng 9 tháng gồm 1 Suất đội, xin đánh ngay vì quản binh để binh lính thuộc phủ bỏ

trốn [58; tờ 56 tập 25 ngày 8 tháng 4 năm Tự Đức thứ 4 (1852)]. Ngày 5 tháng 6

năm Tự đức 16 (1864), vua phạt Lãnh binh Nguyễn Tăng Tín phạt 1 năm lương do

không có đối sách đối phó với thổ phỉ người Thanh cướp thuyển buôn ở Quảng

Ngãi [59; tờ 96, tập 152 ngày 5 tháng 6 năm Tự Đức thứ 16 (1864)].

- Ban thưởng đối với võ quan về hưu

Đồng thời với việc ban cấp lương tiền, năm Gia Long thứ nhất (1802) các

công thần (trừ binh đinh) còn được cấp thuộc binh theo quy định.

83

9

8

8

7

7

6

6

6

5

5

5

4

4

4

3

3

3

2

2

2

2

1

1

1

0

Phó đội

Chánh vệ

Phó vệ, Chánh chi

Phó chi

Trưởng hiệu, Cai cơ, Cai đội

Hạng nhất

Hạng nhì

Hạng 3

Biểu đồ 3.6. Số lượng thuộc binh được cấp cho công thần về hưu ban hành năm Gia

Long thứ nhất (1802)

[Nguồn: 89; 534]

Tự Đức năm thứ 5 [1852], triều Nguyễn ban hành định lệ ban ân thưởng các

thọ quan trong đó có võ quan. Tùy theo độ tuổi và phẩm trật võ quan được ban vải

lụa với định mức khác nhau.

Ngoài ra, võ quan về hưu còn được triều đình ban thưởng tiền bạc. Tiêu biểu

như năm Tự Đức thứ 2 (1848), triều đình ban tiền cho một số võ quan hưu trí:

Chưởng vệ Phùng Hữu Hoà 75 tuổi, Chưởng vệ Nguyễn Văn Lưu 73 tuổi, cho mỗi

người 100 quan tiền; 8 viên Chánh tam phẩm [95; 142].

Đối với võ quan về hưu, khi chết cũng được triều đình cấp tuất. Chế độ ban

cấp này của võ quan cũng nằm trong chế độ chung của quan viên được ban hành

đầu tiên vào tháng 12, năm Minh Mệnh thứ 13 (1833) gồm 2 mức ban cấp. Đối với

quan từ Tòng tam phẩm trở lên, được nguyên hàm về hưu (không áp dụng đối với

võ quan bị giáng hay bắt về hưu) khi chết, bộ Lễ tâu lên đợi chỉ của nhà vua để cấp

cho tiền tuất. Đối với quan từ Chánh Tứ phẩm trở xuống người nào đi trận bị

thương cho về quê được cấp nửa lương nếu chết thì chiếu theo phẩm hàm cấp cho

một nửa tiền tuất so với quan Tòng tam phẩm trở lên. Năm Tự Đức thứ 6 (1853),

triều đình ban hành chế độ cấp tuất đối với võ quan bị giáng chức hoặc buộc về hưu,

mỗi người được 20 quan tiền. (tham khảo thêm phụ lục 3c).

84

Năm Tự Đức thứ 7 (1853), triều Nguyễn ban hành định lệ về cho quan viên

văn võ mang theo triều phục khi về hưu. Với võ quan, đối tượng tượng thứ nhất là

quan đến 70 tuổi, Tòng nhị phẩm không dự vào hàng đình thần, giữ các chức như

Đề đốc, Chánh phó lãnh binh không bắt về hưu, hay giáng 5 cấp, hoặc cách chức

lưu nhiệm, thì cho phép các viên ấy khi về hưu được mang theo triều phục, khi chết

được khâm liệm bằng triều phục ấy. Đối tượng thứ 2 là võ quan ngoài 60 tuổi, ốm

yếu được giữ nguyên hàm về hưu, làm việc quan được 30 năm trở lên, có công lao

lớn, khi về hưu có tâu xin sẽ cho mang triều phục [95; 321]. Đến năm Tự Đức thứ

10 (1857), triều đình quy định cụ thể hơn đối với trường hợp thứ 2, võ quan được

mang triều phục về hưu phải là võ quan cao cấp từ Nhị phẩm trở lên, làm việc trên

30 năm, không phạm tội, tuổi 60 trở lên được cho về hưu trước niên lệ [95; 321].

Ngoài những ân thưởng trên võ quan cũng như các quan viên còn được

hưởng một số ưu đãi như giảm nhẹ hình phạt đối với quan phạm tội, chế độ nộp tiền

để tặng phẩm hàm cho cha đã chết. Khi cha mẹ quan văn- võ chết, trước năm 1878,

võ quan được triều đình cho về quê để tang cha mẹ.

Ngoài ra, đối với võ quan đã chết nhưng nghèo khó triều Nguyễn cũng chế

độ đặc biệt. Theo tác giả Nguyễn Minh Đức và Vũ Phạm Quang viết trong cuốn

Tướng Doãn Nỗ và họ Doãn trong lịch sử có chép lại gia phả dòng họ Doãn ở Song

Lãng – Vũ Thư Thái Bình như sau: sau khi ông mất, theo gia pải họ Doãn ở Song

Lãng, Vũ Thư thì: “Khi mở tráp của vị danh thần lừng lẫu tiếng tăm thấy một cuốn

sổ “nhật ký” có nghi còn nợ của người 1000 quan tiền. Các vị quan tỉnh thấy cụ làm

quan thanh liêm nghèo khó mới tâu xin triều đình ban ơn ngoại lệ. Sau, Tự Đức đã

đặc cấp cho gia đình cụ 4 mẫu ruộng hạng nhất trích từ công điền xã quê cụ”[104;

114-115].

85

Tiểu kết chƣơng 3

Dưới triều Nguyễn, chế độ đãi ngộ cho võ quan được các triều vua đặc biệt

quan tâm. Về chế độ đãi ngộ bằng lương, võ quan không chỉ được ban cấp lương

bằng tiền gạo mà còn được ban cấp ruộng đất và tiền xuân phục hàng năm. Định

mức lương của võ quan căn cứ trên phẩm trật và được ban cấp theo định lệ lương

chung của quan viên văn võ.

Định mức lương của võ quan thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp với hoàn

cảnh đất nước. Trong đó phụ cấp bằng lương của võ quan cao cấp từ tứ phẩm trở

lên giảm dần từ triều vua Minh Mệnh đặc biệt là dưới thời vua Tự Đức do tình trạng

khó khăn nhiều mặt, tình hình tài chính bị thu hẹp.

Đặc điểm nổi bật của chế độ đãi ngộ ngoài lương của triều Nguyễn cho võ

quan là chính sách ban thưởng cho võ quan lập được nhiều công trạng trong các

hoạt động quân sự. Những võ quan này không chỉ được thưởng bằng vật phẩm như

tiền, bạc, mà còn được thăng thụ phẩm hàm. Việc ưu cấp này triều Nguyễn áp đụng

chủ yếu đối với võ quan trận thương trận vong khi tham gia chiến trận.

Chính sách đãi ngộ đối với thân nhân võ quan như cha mẹ, vợ và con cái võ

quan (bao gồm cả võ quan đương nhiệm và võ quan trận thương trận vong) cũng là

một nội dung quan trọng thể hiện sự quan tâm của triều Nguyễn đối với quân đội.

Không chỉ quan tâm tới lực lượng quân đội còn đương nhiệm, vương triều

Nguyễn cũng ban hành những chính sách thể hiện sự quan tâm đối với các võ quan

về hưu. Chính sách này nhằm đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho võ quan

khi không còn trong quân ngũ, góp phần xây dựng một xã hội ổn định và công bằng

hơn.

86

Chƣơng 4.

CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI BINH LÍNH CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI

ĐOẠN 1802-1884

4.1. Chế độ đãi ngộ bằng lƣơng cho binh lính

Quân đội triều Nguyễn là đội quân chính quy đông đảo, trong đó binh lính

làm nhiệm vụ chiến đấu chiếm đa số. Nhận thấy vai trò quan trọng của binh lính

trong quân đội và mong muốn xây dựng một lực lượng quân đội chính quy vững

mạnh, các vua từ Gia Long đến Tự Đức đã ban hành nhiều chính sách quan trọng nhằm đảm bảo đời sống cho binh lính. Cũng như võ quan, lương của binh lính được

nhà nước ban cấp bằng tiền gạo và ruộng đất.

4.1.1.Chế độ lương cho binh lính tại ngũ - Chế độ lương bằng tiền, gạo

Chế độ ban cấp lương cho binh lính bằng tiền gạo là chế độ quan trọng nhất

nhằm đảm bảo nguồn lương thực hàng ngày cho binh lính. Dưới triều vua Gia

Long, lương của binh lính trên toàn quốc vẫn giữ nguyên định mức ban hành từ

trước năm 1802, mỗi tháng được cấp 1 quan tiền, 1 phương gạo. Mức lương này về

sau vẫn là mức lương cơ bản của binh lính triều Nguyễn. Tuy nhiên, tùy theo tính

chất công việc và vai trò của mỗi đơn vị quân mà nhà nước có sự điều chỉnh định mức lương tăng lên hoặc giảm đi.

Nhằm ổn định tình hình chính trị và kiểm soát vùng đất mới dưới sự quản lý

của vua Lê - chúa Trịnh và vương triều Tây Sơn trước kia, ngay từ năm 1803, triều

Nguyễn đã đặt định lệ lương bổng cho quân lính ở Bắc Thành dựa trên thời điểm

tham gia quân ngũ. Theo đó, mức lương cho binh lính ở Bắc thành được chia ra làm

3 hạng: hạng nhất là những người làm việc từ năm Mậu Thân đến năm Giáp Dần;

hạng nhì từ năm Ất Mão đến Canh Thân; hạng ba từ năm Tân Dậu đến Quý Hợi.

Dựa trên 3 thứ hạng này, triều Nguyễn định mức tiền gạo ban cấp theo tháng cho binh lính trong đó có sự khác nhau giữa quân chính quy (các quân ở kinh thành phục vụ cho vua, triều đình trung ương) và thuộc binh (phục vụ ở phủ đệ của quan lại và ông hoàng bà chúa). Theo đó, trong cùng một hạng thì ruộng của Thuộc binh thấp hơn ruộng của binh lính chính quy. Cụ thể như sau: Đội trưởng, biện lại các

quân và binh lính: hạng nhất 2 quan tiền, 2 phương gạo, hạng nhì 1 quan 5 tiền, 1 phương 15 bát gạo, hạng ba tiền 1 quan, gạo 1 phương; Đội trưởng thuộc binh lạc tòng và binh lính: hạng nhất 2 quan tiền 1 phương 15 bát gạo. hạng nhỉ 1 quan 15 tiền; 1 phương 7 bát gạo; hạng ba 1 quan tiền, 1 phương gạo [89; 576- 579].

87

Ngoài ra, vào năm này vua Gia Long còn ban hành chế độ lương bổng cho

binh lính người Xiêm thành 2 hạng cũ và mới tính từ năm Canh Thân (1800) về

trước và năm Tân Dậu (1801) về sau: Hạng cũ cai đội lương tháng tiền 3 quan, gạo 3 phương, phó đội tiền 2 quan, gạo 2 phương, binh lính tiền 1 quan 5 tiền, gạo 1

phương 15 bát; hạng mới thống binh lương tháng tiền 2 quan, gạo 2 phương, cai đội tiền 1 quan 5 tiền, gạo 1 phương 15 bát, phó đội và binh lính đều tiền 1 quan, gạo 1

phương; Thuộc kiên quân và tượng quân thì tiểu mục, thuộc binh, lương tháng đều

mỗi người gạo 1 phương; Lính kho mỗi tháng cấp gạo 15 bát) [89; 576-579].

Với quân lính ở các địa phương, vua Gia Long đặt định lệ ban cấp cho một

số vệ đội lính mộ ở Bắc Thành:

Tháng 7, Năm Gia Long thứ 7 (1808) định lệ cấp lương hàng tháng cho lính

mộ ở Bắc Thành đặc biệt là đối với người theo làm việc công ở thành trấn được sai

khiến đi đóng giữ ở các đồn bảo.

Định mức cụ thể là:

+ Quyền sai cai đội mỗi tháng tiền1 quan 5 tiền, gạo 1 phương 15 bát;

+ Từ đội trưởng đến binh lính, thì tiền 1 quan, gạo 1 phương [89; 735].

Tháng 6, Gia Long năm thứ 9 (1810), triều Nguyễn ban hành chế độ cấp

lương tháng cho 2 cơ lính mộ Tả Hùng và Hữu Hùng ở Bắc Thành gồm hơn 600

người (không ghi định mức cụ thể) [89; 785].

Dưới thời Minh Mệnh, nhà vua ban hành chế độ tiền lương cho một số đơn

vị đồng thời điều chỉnh mức lương của một số đội vệ trong Kinh tùy theo số lượng

công việc cũng như xuất thân của binh lính. Cụ thể như sau: Minh Mệnh năm thứ 2

(1821), nhà Nguyễn định lệ lương một tháng cho Tượng binh (gồm lính Kinh tượng và lính Tượng cơ các địa phương) trên cơ sở lấy số voi và voi đực hay voi cái mà

tính suất lương của lính. Đến năm Minh Mệnh thứ 8 (1827), nhà Nguyễn đổi định

việc trả lương cho tượng binh dựa trên độ tuổi của lính trong đó có cả các Tiểu mục

tuổi dưới 18 với số lương thấp hơn lương của lính đủ tuổi. Cụ thể, lính 18 tuổi trở lên mỗi tháng được triều đình ban cấp 1 quan tiền 1 phương gạo; tiểu mục từ 12 đến 15 tuổi mỗi tháng được 5 tiền, 15 bát gạo, từ 16 đến 17 tuổi mỗi tháng được cấp 5 tiền và 1 phương gạo [90; 653].

Năm Minh Mệnh thứ 10 (1829), triều Nguyễn thống nhất thực hiện việc ban cấp lương cho quân lính dựa trên ngạch binh: Thân binh, Cấm binh và Tinh binh. Trong đó, ngạch Thân binh được nhận mức lương cao hơn các ngạch binh khác, trong ngạch Thân binh cao nhất là lính Hộ vệ Loan giá là lính xuất thân từ những

88

người trong Tôn thất. Mỗi người lính được cấp một tháng tiền 2 quan 5 tiền, gạo 2

phương 15 đấu, thấp nhất là lính các đội giết thịt kiếm củi 1 phương gạo/tháng. Số

lính còn lại chiếm đa số vẫn nhận được mức lương như binh lính thời kỳ trước, mỗi người lính một tháng nhận được tiền 1 quan, gạo 1 phương.

Bảng 4.1. Lương lính ở Kinh ban hành năm Minh Mệnh thứ 10 (1829)

Định mức

Hạng Ngạch quân STT Các đơn vị Tiền (quan tiền)

Loan Giá

1 Thân binh Loan Nghi

Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba

Cẩm Y

Đại Thuyền Gạo (phương: đấu: phân) 2:15 1:15 1:15 1:15 1 1 1:7:5 2 1:15 1 2:5 1:5 1:5 1:5 1:5 1 1:5 3 2:5 2

1 1 Hạng nhất Hạng nhì Hạng 3 Không dự hạng

2 Cấm binh 1 1

1 1 1:5 1

1 0:5

1 1

Tinh binh 3

Thị trung, Thị Nội, Thần Cơ, Tiền Phong, Long Vũ Hổ Oai Thị Tượng, Thượng Trà Kim thương, Ngân Thương (Long Thao Hổ Lược) Thự Thanh Bình, Võng Thành Giám Thành, Phấn Dực, Giám Thành, Hộ Lăng, Kiêu kỵ, Thượng Tứ, Hòa Thanh Ty Lý Thiện, quân các Dực Đội giết thịt, kiếm củi 1 1 0:5

[Nguồn: 67; 442]

Trong Tinh binh, binh lính thuộc Thự Thanh Bình được hưởng mức lương

không đồng đều. Lương của binh lính được chia thành nhiều mức dựa trên nhiệm vụ

và trách nhiệm được giao. Trong đó, 1 người được mỗi tháng tiền 2 quan, gạo 2

phương; 6 người mỗi tháng được tiền 1 quan, gạo 1 phương; số còn lại 100 người

nhận mức lương thấp nhất của Tinh binh là mỗi tháng chỉ được 1 phương gạo.

89

Ngoài ra, dưới thời Minh Mệnh, nhà vua còn thực hiện chế độ ban cấp cho

lính thợ ở kinh và lính là tù nhân mỗi tháng tiền 5 tiền và 1 phương gạo [91; 297].

Đồng thời, vua Minh Mệnh cũng điều chỉnh mức lương đối với những đội quân ít

việc. Năm Minh Mệnh thứ 7 (1836), triều đình wuy định lính ở thự Hòa Thanh (đội

nhạc binh) số gạo cấp vẫn giữ lệ cũ (1 phương gạo) trong khi tiền chỉ được 5 tiền.

Năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), do lính 3 đội 1, 2, 3 thự Thanh Bình công việc ít

nên mỗi người một tháng chỉ được cấp 1 phương gạo; đội Ngư Hộ (đội cung ứng

làm việc vặt) ngừng cấp lương tiền gạo rồi cho về quê, khi có việc sai phái thì tính

theo ngày để cấp lương.

Dưới thời vua Thiệu Trị, năm Thiệu Trị thứ nhất (1841) triều đình đã định lệ

lương cho vệ Kim Ngô (mới lập) nhận lương bằng đội Cẩm Y, điều chỉnh định mức

lương của lính vệ Thủ Hộ ở ngạch Thân binh. Trong đó quy định: “Vệ thủ hộ về

trung vệ và 2 đội 7, 8 ở tiền vệ: gạo 1 phương; các đội 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10:

gạo 1 phương, tiền 5 tiền; 2 đội 1, 2 ở tả vệ: 5 tiền, gạo 1 phương; từ đội 3 đến đội

10: 1 phương gạo; vệ hữu lính đương ban: 5 tiền, gạo 1 phương” [67; 443].

Thiệu Trị năm thứ 4 (1844), vua cấp lương cho vệ Long Thuyền (thuộc Cấm

binh) giống như mức lương của đội Kim Ngô “gồm 10 đội, hợp thành 1 vệ đều lấy

biền binh Thuỷ sư chọn bổ vào. Vậy tiền, gạo, lương tháng của biền binh vệ ấy nên

chăng chiểu theo lệ của Kim Ngô, Cẩm Y mà thưởng cấp, do bề trên xét” [36; tờ 47

quyển 40 Thiệu Trị năm thứ 4 (1844)].

Dưới thời vua Tự Đức, chế độ lương tiền của một số đội quân như đội Tuyển

Phong của Thân binh và một số vệ đội của Cấm binh được điều chỉnh tăng thêm. Năm Tự

Đức năm 4 (1851), triều đình quy định cấp thêm lương cho lính Tuyển Phong và dinh các

quân sung làm lính Tuyển Phong mỗi tháng cứ 4 người thêm 1 phương gạo. Lính vệ Cẩm

Y, Kim Ngô ngoài lệ lương mỗi tháng; cấp thêm tiền 1 quan 5 tiền, gạo 1 phương, rồi lại

cấp thêm cứ 3 người 1 phương gạo nữa [67; 443]. Năm Tự Đức thứ 9 (1856), nhà nước

thống nhất tiền lương cho lính Thủ hộ quê ở Thừa Thiên cùng những lính quê ở Quảng

Nam (cận tiệm với Kinh đô) mỗi người 1 phương gạo; những người ở huyện Tống Sơn,

mỗi người một tháng tiền 5 tiền, gạo một phương [95; 480].

Đối với Cấm binh, năm Tự Đức thứ 34 (1881), triều Nguyễn tăng tiền lương cho mỗi binh lính thuộc doanh Vũ Lâm, các bảo, Thuỷ Sư, Kinh Tượng, Thượng Tứ, Kỳ Võ mỗi tháng 1 quan; lính đội Long thuyền mỗi binh lính được cấp thêm 5 tiền. Những người lính thuộc các Doanh, Vệ trên tổng mỗi tháng được nhận 2 quan tiền lương.

90

Bên cạnh những chính sách tiền lương cho binh lính ở Kinh, năm Tự Đức

thứ 32 [1879], triều đình ban hành chế độ lương theo tháng cho các đội quân là lính

mộ trên dưới 100 người ở các tỉnh Bắc kỳ khi làm nhiệm vụ canh phòng hoặc sai phái. Định mức ban cấp được quy định cụ thể như sau:

Bảng 4.2. Lương của lính mộ Bắc kỳ ban hành năm Tự Đức thứ 32 (1879)

Địa phƣơng Công việc Quan binh

Canh phòng trong hạt

Sai phái đánh dẹp trong hạt, canh phòng hạt khác

Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Cao Bằng Phái đi đánh dẹp ở hạt khác

Canh phòng và vận tải ở trong hạt

Đánh dẹp các ở trong hạt

Các tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh Đầu mục Binh dõng Đầu mục Binh dõng Đầu mục Binh dõng đầu mục Binh dõng Đầu mục Binh dõng Đầu mục Định mức ban cấp Gạo (phương) 1 Tiền (quan:tiền) 2 1 2:5 2 4 3 1:5 2 2 1:5 2

Binh dõng 1:5 Phái đi canh phòng, vận tải, đánh dẹp ở thượng du,

[Nguồn: 96; 439]

Có thể thấy trong chế độ ban cấp lương tiền gạo cho binh lính triều Gia Long đặc

biệt là triều Minh Mệnh, Thân binh là ngạch binh được coi trọng và được hưởng lương cao nhất. Nguyên nhân đây là bộ phận xuất thân từ Hoàng tộc, trực tiếp bảo vệ cho vua và

Kinh thành ảnh hưởng lớn đến sự ổn định chính trị trong nước. Lính thân binh cũng là lực

lượng tinh nhuệ và khỏe mạnh do đó luôn nhận được sự ưu ái của nhà nước.

Về thể lệ cấp phát lương cho binh lính, năm Gia Long năm thứ 11 (1812),

triều đình yêu cầu cho quân lính đầu năm phải làm sổ lương. Minh Mệnh năm thứ 4 (1823), nhà nước định rõ ngày phát lương cho mỗi quân lính. Đồng thời triều đình cũng quy định, tùy theo lương nhiều hay ít, binh lính sẽ được chủ thủ (người phát lương) phát cho số thẻ theo quy định gọi là phương quan (lương 1.000 phương đến

700 thì phát cho 5 cái phương, từ 600 đến 400 thì phát 3 cái phương, từ 300 đến 200 thì phát 2 cái phương, từ 100 trở xuống thì phát 1 cái phương) [90; 260]. Đến ngày phát lương binh lính làm đơn trình lên, rồi được nhận theo số thứ tự được phát ghi trên thẻ, không được lĩnh sang ngày khác.

91

Sang năm Tự Đức thứ 24 (1871), nhà nước đổi định lệ làm đơn lĩnh lương bổng.

Thay vì mỗi binh lính làm đơn lĩnh riêng thì triều đình quy định đến kì lĩnh lương tất cả

quân lính đóng trong ở một địa phương làm chung một đơn được phân chia theo mức lương bổng được lĩnh, tăng giảm so với tháng trước rồi đưa lên lĩnh chung [95; 1284].

Như vậy, khác với võ quan, lĩnh lương theo quý, binh lính nhận lương mỗi tháng một lần nhằm đảm bảo tiền và lương thực thường xuyên cho binh lính đồng thời giảm tải

cho cho việc vận chuyển và phân phối quân lương của nhà nước. Việc định ngày lĩnh

lương cho từng đội quân giúp việc lĩnh lương nhanh gọn, không ảnh hưởng nhiều đến

nhiệm vụ khi đi sai phái như quy định lĩnh lương chung được ban hành năm 1874.

- Chế độ lương điền

Lương điền là lương cấp bằng ruộng ở quê nhà để nuôi cha mẹ, vợ con binh

lính. Lương điền được cấp nhiều ít khác nhau tùy hạng lính. Do vậy, dưới triều

Nguyễn mỗi người lính tại ngũ thì thân nhân tại quê nhà vừa được chia ruộng khẩu

phần (chiếu theo lệ quân quân điền), vừa được cấp lương điền.

Nhằm ổn định tình hình chính trị, ngay khi lập nước, năm Gia Long thứ 1

(1802) triều Nguyễn đã định lệ ruộng khẩu phần cho quan quân dinh Quảng Đức

(tên gọi kinh đô Huế lúc đó) và quân lính ở Bắc Thành. Đối với quân dinh Quảng

Đức, ngoài ruộng khẩu phần, quân đi theo việc binh hoặc bị thương trở về thì mỗi

người được cấp 1 mẫu ruộng.

Đối với lính Bắc Thành, nhà nước ra định lệ:“Nếu trong xã có ruộng đất

công, thì cho chiếu cấp khẩu phần, ruộng nương và đất bãi chiếm riêng ngoài lệ

đều cấm” [89; 522]. Gia Long năm thứ 3 (1804), triều Nguyễn thi hành việc quân

7

9

Cấm binh

Tòng cấm binh

Tòng tinh binh

8

8.5

Binh lệ thuộc

cấp công điền công thổ trên toàn quốc. Theo đó binh lính các vệ đội, thuyền thuộc quân Cấm binh và Tinh binh ở ở Kinh thành theo định mức từ 9 phần đến 7 phần

Biểu đồ 4.1. Khẩu phần ruộng đất của các ngạch Cấm binh và Tinh binh năm Gia

Long thứ 3 ( 1804)

[Nguồn: 89; 599]

92

Loại ruộng đất thứ 2 mà binh lính được chia cấp dưới triều Gia Long là

lương điền. Loại ruộng này được chia theo hạng lính được ban hành tháng 9 năm

Gia Long thứ 8 (1809). Theo định lệ này lương điền của binh lính được chia thành 3 hạng, cụ thể như sau:

Bảng 4.3. Lương điền của mỗi binh lính được ban hành năm Gia Long thứ 8 (1809)

STT Hạng Đội quân Định mức

1 Nhất 1 mẫu

2 Nhì 9 sào

3 Ba 8 sào

Mười vệ Thị trung, 9 đội thuyền (Trung Hầu, nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu), ba đội Chấn Uy (nhất, nhị, tam), các đội của vệ Nội Trực, các đội của đội Tiểu Sai, đội Thị Trà, đội Loan Nghi, ba đội Tả vệ, Hữu vệ, Nội hoàng kiếm, mười đội của vệ Chấn Dực Nội thủy, ba vệ Thị tượng, các đội Nội Mã, Tả Mã, Hữu Mã, Tư Thiện, Thị Hành, Thị Nội, Trung Cần thị nội, Nội Cần thị nội, Nội Sai, Ngoại Trù, Tân Nhị. Quân Thần sách, Trung dinh vệ Long võ; Tiền dinh vệ Ban trực tiền, Tả dinh vệ Ban trực tả, Hữu dinh vệ Ban trực hữu, Hậu dinh vệ Ban trực hậu, năm cơ Thủy quân, năm đội Kiên thủy. Trung quân (hai vệ Trung bảo nhất, nhị). Tiền quân (hai vệ Tiền bảo nhất nhị),Tả quân (hai vệ Tả bảo nhất, nhị), Hữu quân (hai vệ Hữu bảo nhất, nhị), Hậu quân (hai vệ Hậu bảo nhất, nhị), quân Thần võ (hai vệ Võ bảo nhất, nhị), quân Chấn võ (hai vệ Chấn bảo nhất, nhị), Tượng quân, hai vệ Hùng Cự (nhất, nhị) các cơ của Tượng quân; Trường thọ cùng hai đội Thị trà, đội Thủ Kiệu nhất, đội Phiên Như Nội; cơ Kiên Thuận, các đội Cửu Dực; Trung quân, năm đội Trung sai; Tiền quân, năm đội Tiền sai; Tả quân, năm đội Tả sai; Hữu quân, năm đội Hữu sai; Hậu quân, năm đội Hậu sai, ba đội Kiên dũng; Tượng quân, năm đội Hùng sai; sáu bộ các đội thuộc Kiên

[Nguồn: 89; 757]

Từ biểu đồ 4.1 và bảng 4.3 dưới triều vua Gia Long, một người lính cả ruộng quân điền và lương điền theo định lệ được tối đa là 1 mẫu và tối thiểu là 8 sào chưa kể khẩu phần ruộng theo chính sách quân điền. Tùy theo thực tế ruộng đất của mỗi làng xã, ruộng khẩu phần theo phép quân điền của binh lính nhận được có thể ít

hoặc nhiều, không đồng đều nhau.

Đến năm Minh Mệnh thứ nhất (1820), triều Nguyễn thực hiện điều chỉnh ruộng khẩu phần và ruộng lương của một số vệ đội. Theo đó, một số vệ đội tổng ruộng khẩu phần và lương điền của mỗi người lính được 1 mẫu ruộng và 9 phần

93

khẩu phần gồm các vệ đội sau: Thị trung và Thị nội, 10 đội túc trực, dinh Thần cơ,

dinh Tiền phong, dinh Long võ, dinh Hổ oai quân Thị nội các đội Tiểu sai, các đội

Thị trà, đội Tả vệ, đội Hữu vệ, đội Hoàng kiếm, đội Ngân súng, đội Thị nghi, đội Bả cái, vệ Phấn dực Nội thuỷ, các vệ Thị tượng, các đội Dực vũ, đội Nội mã, đội Tả

mã, đội. Hữu mã các đội Tiểu hầu, đội Bả lệnh, vệ Kỳ võ, vệ Thành võ, vệ Trinh võ, đội Thượng thiện các đội Tư thiện, đội Trung cần, đội Tân nhất [90; 81].

Minh Mệnh năm thứ 2 (1821), triều Nguyễn định lệ cấp lương điền cho biền

binh ở vệ Hộ lăng trung theo như lệ quân Thị nội [90; 146].

Tháng 12 năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), nhằm thống nhất chế độ ruộng đất cho binh lính được lập trước (Cấm binh, Tinh binh) và lập sau (Thân binh) triều đình đã

thống nhất ruộng quân điền và lương điền và chia cấp theo định mức chung. Do đó,

người lính được ruộng quân điền cao thì ruộng lương điền cũng cao. Việc làm này tạo ra

sự thống nhất trong cách quản lý đồng thời thể hiện được sự ưu tiên của nhà nước đối với

những lực lượng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng hệ thống quân đội. Trong chế độ này,

binh lính của Thân binh được ưu tiên hơn binh lính của các ngạch binh còn lại.

Bảng 4.4.. Lương điền của binh lính ban hành năm Minh Mệnh thứ 12 (1831)

Định mức ruộng

Các đơn vị

Lực lƣợng

Ruộng khẩu (phần)

9

ƣơng điền (mẫu) 1

Thân binh

8,5 9

Cấm binh

8 9

7 8

7 8

Tinh binh 7 7

7 không có lương điền Vệ Cẩm Y , Loan Giá, dinh Vũ Lâm và Tả, Hữu Lưỡng dực Bốn dinh Thần Cơ, Tiền Phong, Long Võ, Hổ Oai và Nội Thuỷ vệ Viện Thượng Trà 2 đội Kim Sang, Ngân Sang, các đội Giáo Dưỡng binh, đội Thượng Thiện, đội Tài Hoa, thự Hoà Thanh, viện Thượng Tứ, Kinh Tượng và 5 dinh quân Thần Sách Các vệ, cơ, đội ở 5 quân Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu, các vệ, cơ Thuỷ quân 2 vệ Hộ lăng trung, tiền, các kiên, các sai, các dực, thuộc vệ Giám Thành và vệ Võng Thành, các ty Lý Thiện, Các vệ, cơ, đội và lính trạm thuộc các địa phương Đội Tuần bạc, đội Tân Sài, các đội thuộc phủ đệ, thuộc binh các nha, lính coi kho, hộ đánh cá và Thanh Bình thự ở Kinh, thuộc binh các nha ở các tỉnh ngoài

[Nguồn: 91; 262]

94

Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836), triều Nguyễn thay việc ban cấp lương điền

theo ngạch binh bằng tiêu chí dựa trên số lượng công việc và trọng trách binh lính

được giao. Ruộng đất chia thành 3 mức. Trong đó định mức lương cao nhất được

điều chỉnh giảm xuống so với định lệ ban hành năm Minh Mệnh thứ 12 (1831).

Mục đích của sự điều chỉnh này có lẽ nhằm giảm sự chênh lệnh về quyền lợi của

giữa những người lính trong quân đội.

Bảng 4.5. Lương điền của binh lính ban hành năm Minh Mệnh thứ 17 (1836)

Định mức

Ruộng ƣơng Đội quân khẩu phần điền

(phần) (sào)

Vệ Cẩm Y, vệ Loan Giá, 2 dực Tả, Hữu Vũ Lâm, 5 dinh

Thần Cơ, Tiền Phong, Long võ, Hổ Uy và Hùng Nhuệ,

dinh Kỳ Võ, 15 vệ Thuỷ sư, 10 vệ thuộc các bảo, các vệ 8 9 Kinh Tượng, viện Thượng Tứ, các đội Ngân Sang, đội

Kim Sang, các đội Giáo Dưỡng binh, viện Thượng Trà,

đội Thượng Thiện.

Lính 2 vệ Trung, Tiền Thủ hộ, các cơ, các đội Ngũ quân,

cơ Thuỷ sư Kiên Chu, các đội Thiện Chu, các vệ, các cơ, 7 8 các đội thuộc các địa phương, vệ Giám Thành, vệ Võng

Thành, các dực Hùng Sai.

Thự Hoà Thanh, đội Tài Hoa, các đội ty Lý Thiện, các 7 7 lính trạm.

Các đội thuộc các phủ đệ, thự Thanh Bình, thuộc binh các không có

nha trong Kinh và ngoài các tỉnh, các thuộc binh, đội Ngư 7 lương

Hộ. điền

[Nguồn: 92; 1056-1057]

Qua bảng 3.14, có thể thấy việc phân chia ruộng đất cho binh lính rõ ràng có

sự ưu tiên cho lính Thân binh, lực lượng quân lính làm nhiệm vụ chiến đấu của Cấm

binh và Tinh binh hơn những binh lính thuộc các đơn vị làm nhiệm vụ phục dịch và

hầu hạ. Điều đó chứng tỏ nhiệm vụ chiến đấu đảm bảo sự ổn định chính trị và độc lập

dân tộc là nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu đối với quân đội triều Nguyễn.

95

- Chế độ ban cấp quân phục

Ngoài lương, binh lính trong quân đội triều Nguyễn còn được ban cấp quần

áo và nhận một khoản tiền do nhân dân đóng góp gọi là tiền phụ dưỡng nuôi lính.

Đầu thời Nguyễn, Gia Long năm thứ nhất (1802), mỗi người lính ngoài

lương còn được cấp quần áo mỗi năm 2 lần. Số quần áo này do xã dân cấp. Binh lính mới nhập ngũ được cấp“mỗi người 1 đoạn vải dài 3 thước 5 tấc; 1 chiếc nhung

y vải xô ngoài đen lót vàng đều 8 thước; một chiếc quần tơ xô màu gỗ vàng 6 thước

và vải quần 1 thước, tiền khuy và tiền thuê may 5 mạch. Khi binh lính đã có lương

thì mỗi năm cấp 1 đoạn khăn vải màu đen (thâm) dài 4 thước 5 tấc, 2 áo đơn vải đen (thâm), mỗi cái 10 thước vải, 2 cái quần mỗi cái 7 thước vải” [69; 350]. Lính

giản ở Thanh Nghệ và Bắc Thành từ năm Gia Long thứ 12 (1813) được lĩnh 3 quan

vào tháng 12 hàng năm và tự đi may quần áo [89; 857].

Dưới thời Minh Mệnh, nhà nước quy định quân lính mỗi năm được cấp quần

áo một lần. Đến năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), nhà nước lại quy định đối với mộ

binh thuộc hạt và biền binh Bắc Thành chỉ cơ Định Man và tù phạm được dồn bổ

làm lính tiếp tục cấp quần áo, còn các bộ phận khác thì đình cấp.

Sang thời Tự Đức, các loại quần áo ban cấp cho binh lính thuộc Thân và Cấm

binh được quy định cụ thể hơn. Ty Hộ vệ, mỗi binh lính được cấp 1 áo trừu lông và 1

quần lụa màu cánh kiến; các vệ, đội Cẩm Y, Kim Ngô, Loan Giá, Cảnh Tất, Dực Vũ,

Dực Chấn, Võ Bị, Thượng Trà, Thượng Thiện, sở Ngự Mã và Vũ cử hành tẩu mỗi binh

lính được cấp áo vải màu đen hoặc trắng và quần sại nam màu cánh kiến mỗi thứ đều 1

chiếc; binh đinh được cấp áo vải màu đen, hoặc màu lam, quần sại nam màu cánh kiến

mỗi thứ đều 1 chiếc [95; 294]. Thời gian đổi cấp các hạng quần áo cũng được quy định cụ thể. Về binh phục 6 năm đổi 1 lần, riêng quân Vũ Lâm các bảo 8 năm đổi 1 lần. Các

loại trang phục gồm vải lam (dài 1 thước 3 tấc), dây lưng, giày da đen bít tất, khăn mũ,

áo vải xanh của lính các dinh vệ cắt may dài 1 thước 4 tấc 3 năm thay 1 lần; áo bông của

binh lính 10 năm 1 lần thay, áo đặc chủng 12 năm thay một lần.

Ngoài lương được cấp bằng tiền gạo, ruộng đất, quần áo hàng năm binh lính dưới triều Nguyễn còn được hưởng chế độ phụ dưỡng. Đây là tiền của xã dân đóng góp để nuôi lính. Chế độ này được ban hành năm Gia Long thứ 1 (1802) và được

thực thi trong 2 năm từ 1802-1084. Theo đó, những ai tham gia binh lính mỗi tháng được cấp 1 quan tiền .

Như vậy, cũng giống như võ quan, chính sách lương đối với binh lính triều Nguyễn cũng bao gồm tiền, gạo, ruộng đất, quân phục. Trong số các ngạch quân,

96

Thân binh là bộ phận được triều đình ưu ái nhất. Nguyên nhân của sự ưu ái này là

do nguồn gốc xuất thân của binh lính hầu hết là những người trong hoàng tộc. Đội

quân này thân cận với nhà vua, được nhà vua tin tưởng và đảm trách những nhiệm vụ liên quan trực tiếp tới sự an nguy của vua và Hoàng tộc. So với chế độ lương của

võ quan, định mức lương giữa các ngạch binh lính có sự chênh lệch ít hơn. Chính sách này có ảnh hưởng nhất đối với đời sống vật chất của binh lính, quyết định đến

sự ổn định của quân đội và nền chính trị đất nước.

4.1.2. Chế độ lương đối với binh lính xuất ngũ

Đối với binh lính, năm Tự Đức thứ 21 (1868), triều đình ban hành chế độ về hưu cho binh lính ở trong Kinh và các tỉnh, không kể tuyển binh hay mộ binh từ đội

trưởng trở xuống. Tuổi về hưu của binh lính theo quy định là 55 tuổi. Riêng với binh

lính ốm yếu, tuổi trên 50 dưới 55 tuổi cũng được triều đình cho về hưu.

Triều Nguyễn cũng thực hiện xét công và thăng thụ cho binh lính có công và

cấp lương cho họ theo chức phẩm được thăng trước khi về hưu. Đối với binh lính

đến khi về hưu nhập ngũ được 30 năm trở lên thì cấp bằng đội trưởng, thưởng cho

thực thụ; Trường hợp binh lính đến tuổi hưu nhưng còn khoẻ mạnh, xin ở lại thêm

trong quân ngũ đã được đủ 5 năm thì được tăng thưởng một ngạch bậc và khi về

hưu và được hưởng lương theo ngạch bậc mới này. Ví dụ, nếu thực thụ đội trưởng

thì gia thưởng Chánh đội trưởng, khi về hưu được nhận mức lương hưu của chức

Chánh đội trưởng [95; 1150, 1151].

4.2. Chế độ đãi ngộ ngoài lƣơng đối với binh lính

4.1.2. Chế độ phụ cấp 4.1.2.1. Chế độ phụ cấp đối với binh lính tham gia các hoạt động quân sự

Dưới thời Nguyễn, binh lính trong kinh và ngoài trấn thường xuyên được sai

phái đi việc công đóng giữ các cửa biển, vùng biên giới, đi vận tải, áp giải tù

phạm và đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy. Khi đi thực hiện những nhiệm vụ này,

ngoài lương được nhận theo định lệ, binh lính được nhà nước ban cấp thêm tiền gạo, quần áo thuốc men. Việc trợ cấp này bao gồm trợ cấp khi đi đường cũng như khi đang làm nhiệm vụ ở nơi đóng quân.

- Phụ cấp đi đường

Việc trợ cấp cho việc di chuyển của binh lính của triều Nguyễn đối với quân đội được thực hiện dưới với 2 bộ phận: đối với quân di chuyển bằng đường bộ và quân lính đi bằng đường thủy.

Đối với quân di chuyển bằng đường bộ, ngay từ thời vua Gia Long, triều

97

đình đã có chế độ trợ cấp đối với binh lính từ địa phương về kinh đô làm việc. Chế

độ trợ cấp này còn được ghi lại trong Châu bản. Cụ thể, ngày 14 tháng 3 năm Gia

Long thứ 4 (1805), vua ban cấp cho một số đội quân về Kinh làm việc gồm: 11000 quân mới tuyển mộ ở Bắc Thành, quan binh trấn Ngoại Thanh Hoa, quan binh các

doanh mới tuyển mộ thuộc nội trấn Thanh Hoa, quan binh các doanh mới tuyển mộ của trấn Nghệ An [3; tờ 101 tập 1, ngày 14 tháng 3 năm Gia Long thứ 4 (1805)].

Tuy nhiên, định mức được ban cấp cụ thể bao nhiêu không được ghi cụ thể.

Sang thời vua Minh Mệnh, tháng 2, Minh Mệnh năm thứ 2 (1821), vua đặt

định lệ trợ cấp đi đường cho“biền binh có việc công sai, phải tuỳ việc khó dễ, định hạn đi đường mà phát lương tiền cấp cho” [90;119]. Minh Mệnh năm thứ 5 (1824),

triều đình đặt định lệ trợ cấp đi đường cho binh lính dựa trên thời gian thực tế di

chuyển. Sách Hội điển ghi rõ, binh đinh ở vệ, cơ, đội các quân doanh ở Kinh phái

lính đi làm nhiệm vụ khi đi qua các doanh trấn từ Quảng Nam trở vào Nam và

Quảng Bình trở ra Bắc“đều chiểu thực số binh lính theo hạng cấp phát lương đi

đường, để được tiếp tế, đi đến nơi thì thôi, cho ghi làm lệ” [67; 457].

Năm Minh Mệnh thứ 11 (1830), binh lính tới ban (tức binh lính đi tới nơi để

làm nhiệm vụ sau thời gian nghỉ ngơi của chế độ luôn phiên ứng trực và nghỉ ngơi

của triều Nguyễn) cũng được trợ cấp đi đường.

Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) triều đình đổi cách tính lương đi đường, thay

vì tính theo ngày thực đi thời gian đi đường của binh lính sẽ được quy ra dựa trên

độ dài quãng đường. Trong đó quy định:“8, 9 nghìn trượng được tính làm 1 ngày,

từ Kinh sư đến trấn thành Quảng Nam, cấp 3 ngày lương; từ Quảng Nam đến

Quảng Ngãi cấp 3 ngày lương; từ Quảng Ngãi đến Bình Định cấp 4 ngày lương; từ Bình Định đến Phú Yên cấp 2 ngày lương; từ Phú Yên đến Bình Hoà cấp 4 ngày

lương; từ Bình Hoà đến Bình Thuận cấp 4 ngày lương; từ Bình Thuận đến Gia

Định cấp 8 ngày rưỡi [91; 168].

Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836), triều Nguyễn bổ sung thêm cách tính thời gian với những binh lính đi sai phái mà quãng đường di chuyển gần kinh thành. Cụ thể như sau: từ Bình Thuận đến Biên Hoà được tính là 7 ngày; từ Biên Hoà đến Gia Định 1 ngày; từ Gia Định đến Định Tường 2 ngày; từ Định Tường đến Vĩnh Long 1

ngày; từ Vĩnh Long đến An Giang 3 ngày; từ An Giang đến Hà Tiên 2 ngày; từ An Giang đến thành Trấn Tây 4 ngày [92; 1075]. Cách tính lương nhật trình quy ra ngày như trên mang tính thống nhất hơn, thuận tiện cho việc chi trả lương đi đường cho binh lính so với cách tính từ khi xuất phát đến khi tới nơi như cách tính ban

98

hành năm Minh Mệnh thứ 7 (1826).

Đối với quân lính đi công sai bằng đường biển, năm Minh Mệnh 20 (1839),

triều Nguyễn ban hành chế độ trợ cấp lương nhật trình cho biền binh thủy sư khi đi làm nhiệm vụ trong và ngoài nước. Việc trợ cấp thêm lần này, triều Nguyễn không

tính theo quãng đường xa gần như bộ binh mà dựa vào hạng ưu bình của binh lính. Đối với thủy binh sai phái trong nước: hạng ưu mỗi tháng cấp 3 quan, hạng nhất

mỗi tháng 2 quan, hạng nhì mỗi tháng 1 quan 5 tiền, hạng ba 1 quan, nếu binh lính

không xếp hạng thì sẽ được xét ban cấp sau. Đối với biền binh thủy sư đi công cán

ở nước ngoài, mỗi binh lính được nhận mức trợ cấp gấp đôi so với thủy binh đi công sai trong nước cùng thứ hạng [93; 588].

Dưới thời Tự Đức, năm thứ 18 (1865) triều Nguyễn thực hiện chế độ trợ cấp cho

thủy binh. Chế độ này cũng dựa theo hạng ưu bình nhưng khác nhau giữa 2 nhiệm vụ

trực tiếp chiến đấu và ở quân ngũ tập luyện. Cụ thể: hạng ưu mỗi tháng cấp thêm cho 3

quan; hạng nhất 2 quan 5 tiền, hạng nhì 2 quan, hạng ba 1 quan 5 tiền. Nếu binh lính đi

diễn tập thì được cấp thêm một nửa so với đi bắt giặc [95; 970].

- Phụ cấp cho binh lính ở nơi làm nhiệm vụ

Các vua triều Nguyễn, đặc biệt dưới thời vua Tự Đức rất quan tâm đến việc

trợ cấp thêm tiền gạo cho binh lính ở nơi làm nhiệm vụ.

Trợ cấp tiền, gạo, ngoài tiền gạo được nhận theo định mức lương, một số

đội quân còn được trợ cấp thêm tiền gạo trong khi được sai phái đi là nhiệm vụ.

Việc ban cấp này không thống nhất trong toàn quân mà chỉ thực hiện đối với một số

lực lượng và trong một số hoàn cảnh nhất định trong đó đặc biệt ưu tiên đối với

quân lính tham gia chiến trận. Sách Thực lục cho biết, tháng giêng năm Gia Long thứ 2 (1803), triều đình cấp thêm lương bổng cho các tướng sĩ bình man. Nhà vua

ban dụ rằng:“Quảng Ngãi thóc mất mùa, người thiếu ăn. Các tướng sĩ ở ngoài,

lương bổng dầu đã có định lệ, mà trèo đèo lặn suối khó nhọc, trẫm rất thương, vậy

cấp thêm gạo tháng cho mỗi người một phương” [89; 546].

Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược, triều Nguyễn đã ban cấp thêm tiền gạo cho quân lính đi đánh giặc ở các quân thứ: suất đội 4 quan, đội trưởng 3 quan, lính 2 quan [95; 570]. Đối với lính dõng đi theo quân thứ, năm Tự Đức thứ 15 (1862) nhà

nước tăng lương tiền từ 1 quan lên thành 2 quan [95; 779].

Trợ cấp trang phục, thuốc men, cùng với quần áo được ban cấp theo định lệ, khi đi làm nhiệm vụ, binh lính còn được cấp thêm quân phục. Việc trợ cấp này có thể thực hiện bằng việc cấp phát quần áo hoặc bằng tiền tùy theo quân thứ.

99

Quần áo cấp phát thêm cho binh lính ở nơi làm nhiệm vụ dưới triều Nguyễn

không được ban hành thành định lệ mà được ghi lại thông qua một số sự kiện cụ thể đặc

biệt là việc cấp phát thêm áo ấm khi trời rét. Minh Mệnh năm thứ 2 (1821), triều đình ban cấp cho binh lính cùng vua đi tuần phương Bắc mỗi người 1 cái áo, 1 cái quần, mỗi

người 3 quan tiền áo mùa đông. Năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), mỗi năm vua phát ở kho 3.000 tấm vải và 500 tấm sại nam cho Kinh binh đi thú ở Gia Định. [90; 796].

Dưới triều vua Tự Đức, đặc biệt là từ sau năm 1858, khi thực dân Pháp tiến

hành xâm lược nước Đại Nam, việc cấp thêm quần áo nhất là quần áo rét cho các

quân thứ ở miền Bắc và miền Trung được nhà nước đặc biệt quan tâm. Chế độ này không chỉ áp dụng đối với quân lính chính quy mà còn đối với cả mộ binh. Tự Đức

năm thứ 13 (1860), tướng sĩ các quân thứ đều được ban áo rét. Tự Đức năm thứ 32

(1879), toán dõng ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên mỗi người 3

quan 5 tiền. Đặc biệt năm Tự Đức thứ 25 (1872) triều Nguyễn còn “Ban áo rét cho

tướng biền nước Thanh 4.649 lạng bạc” [95; 1356].

Cũng giống như việc cấp phát quần áo, binh lính được triều Nguyễn cấp

thêm thuốc men khi đi làm nhiệm vụ. Việc trợ cấp này dười thời vua Gia Long đến

Minh Mệnh không được thực hiện thường xuyên. Tuy nhiên sang thời vua Tự Đức,

việc ban cấp cho quân lính đặc biệt là quân lính tham gia chiến trận được vua đặc

biệt quan tâm nhất là khi thời tiết khắc nghiệt hoặc ốm đau.

Phụ cấp đi làm nhiệm vụ lâu ngày, trong điều kiện khó khăn

Những binh lính đi làm việc trong điều kiện khó khăn khắc nghiệt, đi làm

nhiệm vụ xa nhà và những người đi làm nhiệm vụ lâu ngày đều được triều Nguyễn

cấp thêm tiền, gạo, quần áo. Việc ban cấp này được thực hiện nhiều nhất dưới thời vua Tự Đức, đặc biệt là sau năm 1858 khi triều Nguyễn tiến hành kháng chiến

chống thực dân Pháp.

Đối với binh lính đi làm nhiệm vụ lâu ngày, nhà vua thường cấp phát thêm

tiền, gạo (tiền là chủ yếu). Một số trường hợp điển hình được ban cấp như sau:

Minh Mệnh năm thứ 7 (1826), triều đình cho phép cấp thêm cho lính hai vệ Long thao và Hổ lược mỗi người 1 quan 1 tháng 1 quan do “thao diễn đã lâu, vua nghĩ họ tiêu dùng thiếu thốn nên cấp thêm cho” [90; 474]. Tự Đức năm thứ 18

(1865), cho mỗi người người lính quê Nghệ An đóng quân 3 năm ở Vệ Võ Thắng (Sơn Tây) mỗi người 3 quan tiền 1 tháng [95; 971].

Đối với binh lính phải đi làm nhiệm vụ xa quê quán, đi làm nhiệm vụ vùng sâu vùng xa nhà nước cũng trợ cấp thêm tiền gạo. Mức trợ cấp thông thường là

100

thêm mỗi người một tháng 1 quan tiền, 1 phương gạo. Ví dụ: Minh Mệnh năm thứ 2

(1820) cấp lương bổng cho biền binh ba tượng cơ Tiền hùng, Tả hùng, Hữu hùng ở

Bắc thành “lâu ngày đóng thú xa xôi”, cũng trong năm này triều đình cấp thêm cho 138 kỵ binh mỗi người mỗi tháng 1 quan tiền, 1 phương gạo, 2 lính tiểu mục, mỗi

người 1 phương gạo [90; 170].

Không chỉ lính chính quy, năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), triều Nguyễn còn

ban hành chế độ trợ cấp đối với giản binh và mộ binh đi đóng ở các đồn ải trong đó

quy định:“Phàm giản binh và mộ binh ở các hạt nếu có những người được phái đi

đồn ải biên cương để đóng giữ mà chốn ấy thực có lam chướng nặng nề thì mới chuẩn cho hằng tháng cấp tiền 1 quan, gạo 1 phương” [91; 587].

Đối với binh sĩ đang làm nhiệm vụ khi thời tiết khắc nghiệt nhất là ở những

tiền đồn cửa biển, ngoài cấp thêm tiền triều Nguyễn thường cấp thêm áo ấm vào

mùa đông và thuốc phòng và chữa bệnh vào mùa hè. Một số năm triều đình ban cấp

với số lượng lớn thuốc men và quần áo cho binh lính như: Tự Đức thứ 11 (1858),

triều đình cấp cho quân thứ Quảng Nam“quế Thanh, Nghệ, các thứ thuốc, thuốc

viên ban cấp cho và thầy thuốc đến chữa bệnh” [95; 569]. Tự Đức năm thứ 12

(1859), mùa hạ nắng nóng nên vua cấp cho tướng sĩ 2 quân thứ Quảng Nam, Định –

Biên, Tự Đức năm thứ 21 (1868), binh lính ở Bắc Kỳ được cấp áo rét.

Đối với binh lính khi làm việc ở những nơi khó khăn vất vả cũng được triều

Nguyễn ban cấp thêm tiền gạo. Chế độ này đã được đặt thành định lệ đối với binh

lính lưu ngũ và lính trạm. Cụ thể, từ năm Minh Mệnh năm thứ 16 (1835), ngoài chế

độ lương binh lính lưu ngũ và sai phái khó nhọc ở các địa phương mỗi binh lính

một tháng được cấp thêm 1 quan tiền. Đối với lính trạm, năm Tự Đức thứ 30 (1877), triều Nguyễn quy định các trạm từ phủ Thừa Thiên trở ra Bắc trước cấp cho

mỗi trạm tiền 10 quan, gạo 10 phương, nay cấp thêm tiền 12 quan, gạo 8 phương.

Năm Tự Đức thứ 18 (1865), các trạm binh trên cả nước được chi cấp thêm

tiền gạo tùy theo số lượng công việc, cụ thể:“Chỗ nào rất nhiều việc thì so sánh lương tháng, chia ba cho thêm 2 phần; chỗ bận vừa cho thêm một nửa; chỗ ít việc chia 3 cho thêm 1 phần lương” [95; 963].

Ngoài ra, binh lính còn được trợ cấp cho việc luyện tập binh pháp khi đi thao

diễn. Minh Mệnh năm thứ 2 (1820), nhà vua cấp cho lính mới mộ của tỉnh Gia Định về kinh thao diễn hai tháng gạo lương. Vào năm Tự Đức năm thứ 26 (1873), tổng số 8.311 binh đinh đã được triều đình cấp cho mỗi người 1 quan tiền cho việc diễn tập ở Kinh [95; 1421].

101

4.1.2.2. Phụ cấp cho binh lính đi làm nhiệm vụ lao động sản xuất

Dưới thời Nguyễn, ngoài lực lượng quân chủ lực có nhiệm vụ chiến đấu,

binh lính còn là lực lượng tham gia vào các hoạt động sản xuất và kiến thiết đất nước như: xây dựng cung điện thành quách, vận tải hàng hóa, hộ giá cho nhà vua và

hoàng tộc, đắp đê, làm thủy lợi và khai hoang. Việc ban cấp này ít được quy chuẩn thành định lệ. Chế độ phụ cấp này phần lớn dựa trên đối tượng và nhiệm vụ cụ thể.

Về định lệ chi cấp, năm Gia Long thứ 2 (1803), triều đình định lệ cấp tiền

lương tháng cho các biền binh Thanh Nghệ hộ giá theo hầu vua [89; 575]. Ngoài ra,

đến năm Tự Đức năm thứ nhất [1847], nhà Nguyễn đặt định lệ cấp tiền cho biền binh ở thuyền chuyên chở hàng hóa về Kinh và từ Kinh đi các tỉnh. Trong đó các

tỉnh xa Kinh đô binh lính được ưu tiên hơn. Triều đình quy định,“các tỉnh ở Nam

Kỳ mỗi tên 1 quan 5 tiền; các tỉnh ở Bắc Kỳ và Khánh Hoà, Bình Thuận, Bình Định,

Phú Yên, Nghệ An, Thanh Hoá mỗi tên 1 quan; các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Bình,

Quảng Nam mỗi tên 5 tiền” [95; 111].

Ngoài ban cấp theo định lệ, triều Nguyễn thực hiện ban cấp dựa theo nhiệm

vụ và công việc của binh lính.

Đối với binh lính vận tải hàng hóa, trước khi đặt định lệ trợ cấp tiền cho biền

binh ở thuyền chở hàng hóa ở Kinh và các tỉnh như dưới triều vua Tự Đức thì từ

thời vua Gia Long nhà nước đã thực hiện chi cấp thêm tiền cho binh lính đi vận

chuyển hàng hóa bằng đường biển. Năm Gia Long năm thứ 4 (1805), biền binh chở

đồ vật công về kinh không phân biệt địa phương xuất phát“mỗi người được cấp 3

tháng lương” [89; 637). Minh Mệnh thứ 2 (1821), nhà nước“cấp thêm tiền gạo cho

thủy quân chở của công và sản vật ở địa phương mà cả 2 chiều đều có hàng hóa thì cấp 1 tháng lương, chỉ chở 2 chiều thì cấp 1 nửa”[90; 203].

Sau khi ban hành định mức thống nhất trợ cấp cho binh lính đi vận tải hàng

hóa, năm Tự Đức thứ 21 (1868), triều Nguyễn ban cấp thêm tiền cho binh lính làm

nhiệm vụ này. Trong đó, Quản suất được tăng thêm 1 phần ba tiền lương; binh lính cấp thêm cho mỗi người hàng tháng đủ 2 quan. Những binh lính vận tải lương thực cho quân đội được ưu tiên hơn những binh lính vận chuyển khác. Cụ thể:“Quyền quản mỗi tháng cấp cho 4 quan tiền, suất đội và tổng lý tháng cấp cho 3 quan 5

tiền, hương binh tháng cấp cho 3 quan tiền, còn gạo thì mỗi người đều được 1 phương” [95; 1263].

Bên cạnh đó, binh lính là lực lượng có vai trò quan trọng tham gia vào công việc kiến thiết đất nước như xây dựng cung điện, thành quách. Ngoài ban cấp lương

102

bổng, binh lính cũng được triều đình ban cấp thêm tiền gạo. Định mức ban cấp không

thống nhất giữa các thời điểm và giữa các lực lượng. Dưới thời vua Thiệu Trị, theo bản

tấu ngày 1 tháng 7 năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), nhà nước còn ban cấp tiền gạo theo ngày cho binh lính hạ ban vận chuyển đất để bồi đắp nền xây dựng phủ đệ mới ở phường Vĩnh

An (Kinh đô Huế), theo đó “Quan bộ binh đã trích giữ lại 650 biền binh hạ ban đến phường đó vận chuyển đất bồi đắp, từ ngày mồng 1 đến mồng 3 hạn trong 3 ngày việc

xong thì cho về nghỉ. Bộ thần xem xét số biền binh này là lính hạ ban, theo lệ không chi

lương bổng. Nay vâng trích giữ lại làm việc về lý nên theo ngày cấp phát tiền gạo mỗi

người mỗi ngày 20 triêvăn tiền, 1 bát gạo hết hạn thì thôi. Châu phê: Cấp cho 105 quan tiền” [37; tờ 123 quyển 35 năm Thiệu Trị thứ 6 (1846)].

4.2.2. Chế độ trợ cấp

-Chế độ trợ cấp đối với binh lính khi ốm

Đối với binh lính bị ốm, năm Gia Long thứ 11 (1812) triều Nguyễn quy định

các địa phương phải lập các trại Dưỡng tế, mỗi sở lấy lương y sở tại, thay nhau ứng

trực mỗi phiên 1, 2 người để chữa bệnh cho binh lính. Kinh phí do địa phương chi

cấp. Minh Mệnh năm thứ 2 (1821), nhà vua ban dụ:“Không phân biệt là binh hay

dân, nếu gặp ai mắc bệnh nguy khốn ở dọc đường, thì đòi quan sở tại phải tạm

chăm sóc nuôi dưỡng, rồi hỏi xem người bệnh, nếu là binh lính thì trình bộ Binh

báo cho viên cai quản đưa về điều trị” [99; lời dụ số 6, trang 28].

Năm Gia Long thứ 11 (1812), triều Nguyễn quy định binh lính đi sai phái bị

ốm (bệnh binh) nhà nước giao cho các sở dưỡng tế điều dưỡng. Lính ở Thanh Hóa

đi sai phái ở Kinh thì giao cho địa phương. Đối với binh lính ở Kinh, từ năm Minh

Mệnh thứ 2 (1821) quan Giám thành mỗi ngày phải đi kiểm tra nếu có lính ốm thì phải đem về điều trị. Với những vùng biên giới, quan địa phương phải mang thêm

thuốc men, sinh y “đặt nhiều phương pháp chữa bệnh” cho binh lính [69; 566].

Quy định này được vua Minh Mệnh thực hiện từ năm 1821.

-Chế độ trợ cấp đối với binh lính trận thương Trợ cấp đối với binh lính bị thương trong khi thực hiện nhiệm vụ là một việc làm thiết thực của nhà nước đảm bảo về sức khỏe, đời sống vật chất cũng như tinh thần cho binh sĩ. Chế độ trợ cấp này được triều Nguyễn ban hành thành định lệ dưới

triều Minh Mệnh. Đối với binh lính trong Kinh bị trận thương, nhà nước ban cấp với 3 trường hợp: đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy của nông dân bị thương được ban hành năm Minh Mệnh thứ 8 (1827)); đi dẹp thổ phỉ bị thương năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) và khi đi đánh giặc ở Nam Kỳ bị thương với mức ban thưởng khác nhau.

103

Đối với lính đi đánh dẹp ở Nam Kỳ, tùy theo mức độ bị thương mà được trợ

cấp: bị thương nhẹ 2 quan, bị thương nặng 5 quan, chết trận thưởng 2 lạng bạc [91;

642]. Riêng những người đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy của nông dân, nhà nước quy định: lính 5 quan, dân phu thủ hạ bị thương cấp 3 quan [90; 573].

Ngoài quân đội chính quy, năm Minh Mệnh thứ 16 (1835), triều Nguyễn còn ban hành chế độ khen thưởng đối với quan quân của các cơ hương dũng bị thương

khi đi đánh dẹp. Mức khen thưởng dựa trên chế độ khen thưởng của quân lính trong

Kinh. Trong đó thổ dũng bị thương mức thưởng bằng với thủ hạ [92; 601].

-Chế độ trợ cấp đối với binh lính trận vong Binh lính trận vong được triều Nguyễn tổ chức tế lễ. Tự Đức năm thứ 8 (1855),

triều đình tế lễ cho quan binh chết trận vì bão ở bờ biển gồm Suất đội đội Tuần hải ở

Quảng Yên và 13 viên danh biền binh đều chết đuối do bão đánh chìm, Tự Đức năm thứ

10 (1857), triều đình cấp tuất gấp đôi và sai tế một tuần cho 41 biền binh tỉnh Biên Hoà

chết do gặp bão trên đường chở hàng hóa về Kinh.

Ngoài ra, triều Nguyễn còn thực hiện trợ cấp cho thân nhân gồm cha mẹ,

vợ con binh lính. Dưới triều Nguyễn đặc biệt là vua Tự Đức ban hành một số

ưu đãi đối với cha mẹ (ông bà) của binh lính đặc biệt là binh lính trận vong. Tự

Đức năm thứ 18 (1865), vua đặt định lệ giảm trừ thời gian đi lính đối với bố và

anh của những người chết trận không có không có con, em, cháu (gọi bằng chú,

bác), nếu là lính thì trừ 4 năm, là dõng thì trừ 3 năm [95; 955]. Tự Đức năm thứ

25 (1872), triều đình cấp tiền cho ông bà, cha mẹ của binh dõng chết trận và

khi đi vận tải đường biển ốm chết, chết đuối. Nếu thân nhân còn sống mỗi

tháng cấp cho 1 quan tiền, 1 phương gạo, đến khi những người này chết thì nhà nước ban cấp cho: bố mẹ thì được cấp tiền 5 quan nửa tấm vải, ông bà thì được

cấp tiền 3 quan, nửa tấm vải [95; 1357]. Tự Đức năm thứ 34 (1881), các binh

dõng chết trận, người nào nhà có cha mẹ tuổi 60 trở lên, không có người nuôi

nấng thì được triều đình chiểu lệ cấp dưỡng.

-Chế độ trợ cấp đối với binh lính bị nạn gió Dưới triều Nguyễn, đường biển là một trong những con đường vận tải chính. Không chỉ có binh dân mà quân đội triều Nguyễn là một lực lượng không nhỏ tham

gia vận tải bằng đường biển. Việc đi trên biển những thời điểm mưa bão, nhất là trên vùng biển miền Trung dẫn đến những tai nạn chìm tàu binh lính bị chết đuối. Ngay từ triều vua Gia Long, triều đình đã ban hành những chính sách trợ cấp cho họ. Năm Gia Long thứ 2 (1803), triều đình ban cấp tiền tuất cho 500 quân Thần

104

Sách đi vận tải chết ở biển Thanh Hóa [69; 583]. Năm Gia Long thứ 14 (1815),

triều đình ban hành định lệ, binh lính bị nạn gió, không kể còn hay mất binh đinh

được 10 quan [69; 584].

4.2.3. Chế độ khen thưởng 4.2.3.1. Khen thưởng đối với binh lính đi làm nhiệm vụ quân sự và bang giao -Khen thưởng đối với binh lính làm nhiệm vụ canh phòng và đi sứ

Việc binh lính sai phái đi đóng giữ các địa phương trở thành hoạt động

thường xuyên dưới triều Nguyễn. Quân lính thường làm nhiệm vụ chia theo phiên.

Việc ban thưởng cho lính canh phòng phổ biến là thưởng chung cho quân làm nhiệm vụ ở một địa phương.

Ngoài ra, triều Nguyễn còn có chế độ thưởng ưu hậu cho quân lính đi đóng

giữ vùng biên giới, nhất là những tiền đồn ven biển.

Dưới triều Minh Mệnh, nhà vua đã ban hành hai định lệ về chế độ khen

thưởng cho quân lính ở Kinh đi đóng ở các tiền đồn và Thủy quân ở Kinh đi làm

nhiệm vụ ở Bắc Thành và các đồn ven biển Nam Định.

Cụ thể như sau: Minh Mệnh năm thứ 18 (1837), triều Nguyễn ban hành định

lệ thưởng cho các vệ lính ở Kinh đi đóng ở các tiền đồn. Trong đó quy định:“vệ nào

khí giới hoàn hảo, binh đinh trốn thiếu ít, các vệ đi đóng ở miền Nam, đường sá xa

xôi, thì quản vệ được thưởng gia 1 cấp, suất đội kỷ lục 2 thứ, tự quản vệ đến binh

đinh đều thưởng tiền lương 1 tháng rưỡi; các vệ đi đóng ở miền Bắc, đường sá hơi

gần, thì quản vệ kỷ lục 2 thứ, suất đội kỷ lục 1 thứ, tự quản vệ đến binh đinh đều

thưởng tiền lương 1 tháng, nếu có thêm việc vận tải của công và có công cán khác

được thanh thỏa thì lại thưởng riêng” [93; 113]; Năm Minh Mệnh thứ 10 (1829), triều Nguyễn ban hành chế độ thưởng cho thủy quân dinh Thần cơ ở Kinh đi thú Bắc

Thành và đồn thuỷ ở Nam Định mỗi người 1 tháng tiền lương, 1 bộ quần áo.

Ngoài những đội binh được thưởng theo định lệ, triều Nguyễn còn ban

thưởng đột xuất cho binh lính ở các đơn vị quân khác đi đóng giữ ở cửa biển, ví dụ: Minh Mệnh năm thứ 7 (1826), triều đình thưởng cho biền binh đóng giữ đài Trấn Hải (cửa biển Thuận An) 100 quan tiền.

Tự Đức năm thứ 26 (1873), triều đình ban thưởng số lượng lớn cho binh lính coi

giữ pháo đài, canh giữ các đồn ở cửa biển của các vệ Cấm binh: hộ vệ 924 người, tiền 1.386 quan; binh đinh 8.311 người, tiền theo số người mỗi người 1 quan [95; 1421].

Đối với binh lính đi sứ hay lính vận chuyển thư tín ở các trạm binh, năm Minh Mệnh thứ nhất (1820), triều Nguyễn đã ban hành định lệ thưởng cho binh lính

105

hoàn thành công việc nhanh hay chậm cho lính trạm từ Gia Định và Bắc Thành đến

Kinh. Nội dung ban hành như sau:“Thành Gia Định, việc rất khẩn 9 ngày đến Kinh,

thưởng tiền 6 quan, không tới 9 ngày mà đến thì thưởng thêm 3 quan; việc khẩn vừa đi 10 ngày đến thì thưởng tiền 4 quan. Bắc Thành việc rất khẩn đi 4 ngày 6 giờ đến

thì thưởng tiền 4 quan; đi không tới 4 ngày 6 giờ đến thì thưởng thêm 2 quan; việc khẩn vừa đi 5 ngày đến thì thưởng tiền 3 quan” [90; 42]. Ngoài ra, dựa trên số

lượng công việc nhiều hay ít mà lính trạm được triều đình ban thưởng.

-Thưởng công đối vơi binh lính tham gia chiến trận

Dưới triều Nguyễn, binh lính được khen thưởng khi tham gia chiến trận với

hai nhiệm vụ chủ yếu là tham gia đánh dẹp các cuộc nổi dậy và chống ngoại xâm

Trong hoạt động đánh dẹp các cuộc nổi dậy, các vua triều Nguyễn từ Gia

Long đến Tự Đức thường xuyên thưởng công cho binh lính (trong đó nhiều nhất là

dưới thời vua Minh Mệnh). Việc khen thưởng của vua Minh Mệnh cho binh lính

được thực hiện nhiều nhất vào các năm: Minh Mệnh thứ 14 (1833), Minh Mệnh thứ

15 (1834) và Minh Mệnh thứ 16 (1835).

Hình thức ban thưởng cho binh lính gồm 2 hình thức chủ yếu: đặt định lệ

hoặc ban thưởng sau mỗi trận đánh.

Về định lệ ban thưởng, năm Gia Long thứ 11 (1813), triều đình đặt định lệ

thưởng cho những người có công bắt và báo quan bọn cướp bóc của cải của nhân

dân cả trên thủy và trên bộ với định mức cao thấp khác nhau dựa trên mức độ quan

trọng của họ trong toán cướp. Cụ thể bắt đầu đảng thưởng 100 quan tiền; bắt được

đồ đảng từ 1 tên đến 10 tên thưởng 50 quan tiền, nếu có công báo chỉ cho quan bắt

được tên đầu đảng hoặc tên đồ đảng thưởng 50 quan tiền [69; 453].

Đến năm Tự Đức thứ 21 (1868), triều Nguyễn ban hành định mức thưởng

đối với quân lính đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở biên giới. Tùy theo công trạng là

bắt, bắn hay chém được viên đầu mục hay lính mà có mức ban thưởng khác nhau:

Bắt hay chém được đầu mục thưởng 12 quan; lính thưởng 7 quan; Bắn chết được đầu mục thưởng 5 quan, lính thưởng 1 quan; Trường hợp đuổi chặn, bắt, giết được không phải là ở chiến trường thì chiểu hạng thưởng một nửa. Duy chém được thủ lĩnh cuộc nổi dậy, chờ xin quyết định [95; 1145].

Điều đặc biệt trong chính sách khen thưởng cho binh lính của triều Nguyễn là ban hành là việc treo thưởng cho binh lính khi đi đánh trận. Định mức ban thưởng tùy theo quy mô của cuộc khởi nghĩa.

Dưới triều Minh Mệnh, nhà vua 2 lần ban hành treo thưởng cho binh lính

106

vào các năm Minh Mệnh năm thứ 14 (1833) vua dụ thưởng cho quan binh có kế

sách hay đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở Nam Kỳ nếu lấy được thành trì được thưởng

nghìn vàng, Minh Mệnh năm thứ 15 (1834), vua treo thưởng cho quân bắt và giết những tướng lĩnh trong cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân ở Thái Nguyên. Định

mức như sau: chém được Nông Văn Vân thưởng 1000 lạng bạc và cho làm quan tứ phẩm; bắt hoặc chém được các tướng lĩnh khác của cuộc khởi nghĩa thưởng cho 200

lạng bạc và cho làm quan thất phẩm, bắt hoặc chém được đầu mục thì chiếu theo

cấp bậc cao thấp mà phân biệt ban thưởng [92; 333- 334].

Dưới thời Thiệu Trị, năm 1842, nhà vua treo thưởng chém đầu những nghĩa quân người Man ở vùng biên giới. Mức khen thưởng tùy theo vai trò của đầu mục

đó trong cuộc nổi dậy. Thiệu Trị năm thứ 5 (1845) nhà vua đặt định lệ khen thưởng

đối với quan binh đi đẹp Trấn Tây và thành Vĩnh Long. Mức thưởng gồm: Bắt

chém được đầu mục là Chất Tri trừ số đã định ban thưởng 100 lạng bạc, 1000 quan

tiền ở nơi trú quân ra binh lính còn được thưởng thêm 100 lạng bạc, 500 quan tiền

và tặng hàm quan ngũ phẩm [69; 457].

Bên cạnh hình thức treo thưởng, các vua triều Nguyễn còn thực hiện nhiều hình

thức thưởng công. Phổ biến nhất là thưởng ngay sau khi quân lính đi đánh trận trở về với

hai hình thức ban thưởng: thưởng chung cho toàn bộ binh lính hoặc thưởng riêng. Ngoài

ra, triều Nguyễn còn tập hợp nhiều công trạng để thưởng công một lần.

Việc thưởng công cho binh sĩ được triều đình thực thi ngay sau khi tham gia

mỗi trận đánh với hình thức và định mức khác nhau. Hình thức nhiều nhất là ban

thưởng chung cho binh sĩ có công tham gia (hoặc đánh thắng) ở 1 địa phương hoặc

một trận đánh. Mức cao nhất là 6000 quan tiền (năm 1816, vua Gia Long ban thưởng cho biền binh đi đánh cuộc nổi dậy của người Man ở Thạch Bích, Quảng

Ngãi); Mức thấp hơn khoảng 2000 quan tiền như Minh Mệnh năm thứ 14 (1823)

triều đình thưởng cho binh lính đánh giữ thành Hưng Hóa 2500 quan, binh lính

đánh cướp đồn Giao Khẩu 2000 quan tiền.

Mức ban thưởng chung cho binh lính 1000 quan được thực hiện nhiều nhất. Dưới triều Gia Long 2 lần vào các năm: Gia Long năm thứ 7 (1808), Gia Long năm thứ 10 (1811), thưởng quan và binh đánh cuộc nổi dậy của Đặng Trần Siêu và Võ

Đình Lục ở Sơn Nam. Triều Minh Mệnh 7 lần ban thưởng chung cho binh lính ở mức này. Cụ thể: Minh Mệnh năm thứ 14 (1823) có 5 lần ban thưởng 1000 quan tiền cho: binh lính đánh Đồn Chi Nê; thưởng cho binh lính đánh đồn Hoàng Giang và Phố Cát ở Thanh Hóa; binh lính đánh thổ phỉ ở Vân Trung; binh lính dẹp cuộc

107

khởi nghĩa của Trần Minh Phụng ở Hưng Hóa; đánh thổ phỉ ở Cao Bằng. Minh

Mệnh năm thứ 16 (1835) vua thưởng 1000 quan tiền 2 lần cho viên biền binh dẹp

yên những cuộc nổi dậy của người Man ở Bình Thuận; thưởng cho binh lính có công dập tắt được khởi nghĩa Nông Văn Vân; Dưới thời vua Thiệu Trị, năm 1841

binh lính công thu phục Trà Vinh cũng được triều đình ban thưởng 1000 quan tiền.

Mức thấp nhất triều đình thưởng chung cho binh lính là từ 300 đến 100

quan tiền.

Bên cạnh được thưởng chung, những binh lính có công trạng cũng được ban

thưởng riêng. Định mức ban thưởng không thống nhất, nhưng thông thường thưởng mỗi binh lính 1 tháng lương tiền, hoặc 1 quan. Đối với quân lính có công trạng đặc

biệt như bắt hoặc giết được quân nổi dậy được thưởng riêng. Định mức thưởng phụ

thuộc vào quân nổi dậy là thủ lĩnh hay quân lính.

Đối với những binh lính có công tham gia góp phần thắng lợi cho mỗi trận

đánh cũng được triều Nguyễn ban thưởng. Minh Mệnh năm thứ 14 (1833), triều

đình khen thưởng cho binh lính tham gia đánh dẹp cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi.

Trong đó, binh lính bắn vào kho thuốc súng thưởng 300 lạng bạc, bắn thiêu hủy

được nhà cửa của thủ lĩnh Khôi được thưởng 1000 lạng bạc, giết được 1 thớt voi

thưởng 20 lạng bạc, bắn què voi thưởng 10 lạng bạc [69; 456].

Cũng năm này, vua Minh Mệnh thưởng cho quân lính đi phụ cho nghĩa quân

thu phục tỉnh Cao Bằng: lính trạm cưỡi ngựa lĩnh đệ cờ đỏ được thưởng 1 đồng

ngân tiền Phi long hạng lớn; lính trạm đi phụ được thưởng 1 đồng ngân tiền hạng

nhỏ; thị vệ Trần Văn Kiếm nhận tuyên bố tin thắng trận được thưởng 10 đồng ngân

tiền hạng lớn [91; 902].

Ngoài ra, nhà nước còn tổ chức khao thưởng cho binh sĩ sau khi dẹp yên các

cuộc nổi dậy. Hình thức ban thưởng này dựa trên số lần tham gia các trận đánh. Lớn

nhất là khao thưởng của triều đình vào năm Minh Mệnh năm thứ 16 (1835) cho quan

quân 3 đạo Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên có công đánh thắng cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân. Trong đó, binh lính từ đội trưởng chưa thực thụ đến binh lính ai đã tòng chinh 3 lần, đều thưởng 3 quan, ai tòng chinh 2 lần, đều thưởng 2 quan; 1 lần đều thưởng 1 quan.

- Khen thưởng đối với binh lính chống giặc ngoại xâm Ngoài ban thưởng cho binh lính đánh dẹp các cuộc nổi dậy trong nước, triều

Nguyễn còn ban thưởng cho binh lính đi làm nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm.

Dưới triều Minh Mệnh và Thiệu Trị vua ban thưởng cho binh lính đi đánh

108

quân Xiêm, triều Tự Đức vua ban thưởng cho binh lính đánh quân Pháp, các nhóm

thổ phỉ Trung Quốc và quân Cao Miên ở biên giới. Đối với những binh lính có công

trạng, triều đình ban thưởng chung bằng tiền hoặc thưởng riêng cho binh lính có công trạng nổi bật bằng tiền, vải lụa hoặc chức tước.

Đối với hình thức ban thưởng chung, Minh Mệnh năm thứ 14 (1833) và Minh Mệnh thứ 15 (1834), triều đình ban thưởng cho binh lính đánh quân Xiêm ở

Gia Định, An Giang, Hà Tiên và Nam Vang. Mức ban thưởng chung bằng tiền cao

nhất là 5000 quan như năm Minh Mệnh thứ 15 (1834), triều đình thưởng cho quân

lính đánh thắng quân Xiêm ở Nam Vang; thấp nhất là được thưởng 1000 quan hoặc mỗi người lính 1 tháng tiền lương.

Dưới triều vua Tự Đức, ngay khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

xâm lược nổ ra, năm 1858 vua Tự Đức đã ban thưởng cho binh lính có công đánh

Pháp ở Đà Nẵng và Gia Định. Cụ thể, quân lính đánh Pháp ở 2 thành An Hải, Điện

Hải được ban thưởng ngân tiền có thứ bậc. Binh đắp luỹ từ bãi biển đến thành Điện

Hải được thưởng 100 quan tiền [95; 588].

Ngoài ra, dưới triều Tự Đức, triều đình ban thưởng cho quân lính tham gia đánh

quân Thanh và quân Cao Miên. Tự Đức năm thứ 12 (1859), binh lính đánh giặc nhà

Thanh cướp châu Tiên Yên được vua thưởng 300 quan, bắt sống hay lấy được một thủ

cấp của giặc cắt lấy tai thưởng tiền 10 quan [95; 619]; Tự Đức năm thứ 13 (1860), vua

ban thưởng cho quân quan An Giang đánh giặc Cao Miên ở Thất Sơn“cho chia hạng

thưởng cho gia cấp, kỷ lục ngân bài và thưởng chung một món tiền” [95; 683].

Với những cá nhân có công bắt giết giặc ngoại xâm triều đình thưởng riêng

với nhiều hình thức và định mức khác nhau bằng tiền hoặc vải lụa. Ví dụ, năm Minh Mệnh thứ 15 (1834), vua ban thưởng cho binh lính bắt sống 1 tên tướng Xiêm 30

lạng bạc; người chém được 1 tên lính giặc thưởng 2 lạng bạc [92; 40].

-Khen thưởng đối với binh lính trong công tác huấn luyện và rèn luyện

Huấn luyện là việc làm thường xuyên của quân đội nhằm xây dựng một đội quân vững mạnh và tinh nhuệ. Dưới triều Nguyễn, nhà nước thường tổ chức kiểm duyệt đội hình đội ngũ, thao diễn, sát hạch và thi bắn súng.

Đối với việc sử dụng vũ khí, triều Nguyễn thường ban thưởng cho quân có

hiệu quả cao trong tập luyện và thi bắn súng.

Về định lệ, năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), vua ban hành lệ thưởng cho quân luyện bắn súng, mục tiêu là thuyền giả:“Nếu bắn trúng mũi thuyền, cột buồm, thuỷ quân một phát thưởng 15 quan tiền, lục quân thưởng 10 quan tiền; trúng thân

109

thuyền, thuỷ quân một phát thưởng 10 quan tiền, lục quân 5 quan; có trúng mà một

phát không vào ụ thì không theo lệ ấy. Lại cấp quần áo tây cho lính pháo thủ để tiện

bắn súng” [90; 136]. Năm Tự Đức thứ 19 (1866), triều đình ban hành chế độ khen thưởng khi sát hạch cho Vệ Cẩm Y và Kim Ngô của Thân binh. Dựa theo kết quả

đánh giá ưu bình mà Thân binh được ban thưởng theo 5 định mức khác nhau. Cụ thể,“hạng ưu ưu (20 trượng trở lên), đều thưởng làm cấp bằng đội trưởng và

thưởng cho áo ống tay hẹp bằng vải trắng hay đen mỗi người mỗi thứ đều 1 chiếc,

quần sại nam màu cánh kiến mỗi người 1 chiếc; hạng ưu (16 trượng trở lên),

thưởng tiền 5 quan; hạng ưu thứ (13 trượng trở lên) thưởng 4 quan; hạng bình (10 trượng trở lên), thưởng 3 quan; hạng bình thứ (7 trượng trở lên) và hạng thứ (5

trượng trở lên đều thưởng 2 quan. Lại từ hạng ưu đến hạng thứ, đều thưởng cho

mỗi người 1 cái áo đen và 1 cái quần bằng sại nam màu cánh kiến” [95; 1003].

Ngoài ban thưởng theo định lệ, binh lính còn được thưởng thưởng đột xuất

vào các năm Minh Mệnh thứ 11(1830), Thiệu Trị năm thứ 2 (1842) (ban thưởng 2

lần) và Tự Đức năm thứ 12 (1858). Đối tượng được ban thưởng không chỉ quân

chính quy mà biền binh mức thưởng không cố định. Không chỉ thưởng chung

(Thiệu Trị năm thứ 2 (1842) biền binh điểm duyệt ở 5 tỉnh Bắc Kỳ và biền binh

diễn tập bắn bù nhìn ở cửa biển Thuận An năm Tự Đức thứ 28 (1875) được vua

thưởng 3000 quan tiền) binh lính còn được thưởng riêng như năm Minh Mệnh thứ

11 (1830) mỗi binh lính được thưởng 1 quan tiền [6; tờ 64 tập 39, ngày 19 tháng 1

năm Minh Mệnh thứ 11 (1830)].

Ngoài ra, binh lính còn được thưởng trong các hoạt động thao diễn và diễn

tập bao gồm cả binh lính ở kinh và lính ở các địa phương.

Đối với thao diễn, binh lính theo hạng được thưởng riêng và thưởng chung.

Về thưởng riêng, theo Châu bản, dưới thời Minh Mệnh binh lính được thưởng 3 lần

vào các năm: Minh Mệnh năm thứ 7 (1826) vua thưởng cho biền binh thao diễn bắn

súng điểu thương “bắn trúng 1 đích được coi như bắn trúng 2 khuyên. Ai bắn trúng 8,9, 10 khuyên đc xếp hạng ưu, thưởng 3 quan, trúng 6,7 khuyên đc xếp hạng bình, thưởng 2 quan, trúng 4,5 khuyên đc xếp hạng thứ, thưởng 1 quan” [28; tờ 288 tập 19 ngày 16 tháng 10, Minh Mệnh năm thứ 7 (1826)], năm Minh Mệnh thứ 11 (1830), triều

Nguyễn thưởng cho biền binh Thanh Nghệ, Bắc thành về Kinh thao diễn [7; tờ 221 tập 39 ngày 21 tháng 2 Minh Mệnh thứ 11(1830)] và binh lính trong Kinh mỗi người 1quan tiền [6; tờ 64 tập 39 ngày 19 tháng 1 Minh Mệnh thứ 11 (1830)].

Với thưởng chung, Minh Mệnh năm thứ 21 (1840) nhà vua “gia ân thưởng hết cho

110

Cẩm Y vệ 20 quan tiền, Cấm Binh 5 doanh 100 quan tiền” [19; tờ 94 tập 78 ngày 29 tháng

6 năm Minh Mệnh thứ 21 (1840)]. Dưới thời vua Thiệu Trị, nhà nước ban thưởng cho

binh lính 3 lần với mức thưởng khác nhau dựa trên định mức lương tháng: năm Thiệu Trị 6 (1846) nhà vua ban thưởng cho binh lính 5 tỉnh Bắc Kỳ “thưởng thêm cho mỗi tên nữa

tháng tiền lương bổng” [40; tờ 46 quyển 33 ngày tháng 5 năm Thiệu trị thứ 6 (1846)], Thiệu Trị năm thứ 7 (1847), triều đình ban thưởng cho biền binh Quảng Trị về kinh thao

diễn trong đó “binh đinh truyền cho thưởng mỗi người 1 tháng bổng tiền lương bổng, lại

chuẩn cho nghỉ ngơi mấy ngày rồi cho về tỉnh” [42; tờ 77 quyển 40 ngày 14 tháng 2 năm

Thiệu Trị thứ 7 (1847)] và nhân lễ Đông hưởng. Dưới thời vua Tự Đức, binh lính và chức quan ở Bình từ“Suất đội cho tới binh lính đều thưởng cho 1 tháng tiền lương bổng” [54;

tờ 49 tập 11, ngày 10 tháng 2 năm Tự Đức 2 (1848)].

Đối với diễn tập, triều Nguyễn khen thưởng nhiều nhất cho các lực lượng

chiến đấu của Tượng binh và Thủy binh. Hình thức chủ yếu là thưởng chung cho

một đội quân. Ví dụ, Minh Mệnh thứ 2 (1821), vua thưởng cho thủy quân diễn tập

trên sông Hương 200 quan tiền, Minh Mệnh 11 (1830) thưởng cho thủy quân “nhân

đầu xuân năm mới, theo thường lệ thao diễn thuỷ quân. Cho thưởng 300 quan tiền”

[29; tờ 31 tập 39 ngày 12 tháng 1 năm Minh Mệnh thứ 11 (1839)].

Như vậy, việc khen thưởng đối với binh lính có thành tích tốt trong tập luyện là

việc làm thường xuyên của các vua triều Nguyễn thể hiện sự coi trọng của nhà nước

đối với sự tinh nhuệ của quân đội khuyến khích binh lính trong tập luyện và chiến đấu.

4.2.3.2. Khen thưởng đối với binh lính trong nhiệm vụ xây dựng và kiến thiết đất nước

Dưới triều Nguyễn, binh lính được ban thưởng cho các hoạt động lao động

sản xuất như sản xuất quân trang quân dụng, binh lính hộ giá, binh lính tham gia các hoạt động sản xuất nông nhiệp và xây dựng các công trình công cộng.

Thưởng cho quân sản xuất quân trang và quân dụng gồm thưởng cho binh

lính đóng thuyền, chế tạo vũ khí.

Đối với binh lính đóng thuyền, việc ban thưởng được các vua triều Nguyễn thực thi vào các năm: Gia Long năm thứ 9 (1810), Minh Mệnh năm thứ 5 (1824) và Thiệu Trị năm thứ 2 (1842). Binh lính thường được thưởng chung với thợ đóng thuyền. Định mức khen thưởng có sự chênh lệch lớn, trong khi năm Gia Long thứ 9

(1810) lính đóng thuyền lê dương được thưởng tới 2.800 quan tiền [89; 802] thì năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) biền binh chế tạo thuyền, dẫn hộ về kinh chỉ được thưởng 30 quan [94; 360].

Đối với binh lính chế tạo vũ khí như đúc súng, tán luyện thuốc súng đạn,

111

chế tạo địa lôi được triều đình ban thưởng vào các năm: Minh Mệnh thứ 2 (1821)

(ban thưởng cho binh lính từ 5 đến 6 tiền), Minh Mệnh năm thứ 12 (1831) (biền

binh đúc súng mới (gan Oanh sơn) được ban thưởng thêm bổng nửa tháng), Thiệu Trị thứ 7 (1847) (triều đình thưởng cho 630 biền binh làm thường xuyên ở xưởng

đúc súng trong kinh 1 tháng lương bổng, 90 biền binh làm phụ nửa tháng lương bổng), Tự Đức năm thứ 6 (1853) (tăng thêm lương tháng cho Cai đội dinh Thần cơ

có công chế tạo đạn chấn địa lôi, đuốc hoả chiến).

Bên cạnh đó, những binh lính sửa chữa vũ khí, chăm sóc voi cũng được ban

thưởng. Ví dụ, Minh Mệnh năm thứ 15 (1834) binh lính mài gọt sửa chữa binh khí 200 quan tiền, Thiệu trị năm thứ 7 (1847), thưởng cho binh lính chăm sóc voi:

Dương Văn Liên và 14 binh lính được thưởng mỗi người 1 tháng tiền lương” [43; tờ

số 9 quyển 43 ngày 1 tháng 4 năm Thiệu trị 7 (1847)].

Thưởng cho binh lính hộ giá vua đi tuần du. Ngoài định lệ ban hành đối với quân

lính đi hộ giá ở Quảng Nam được đặt ra từ năm Minh Mệnh thứ 6 (1825) trong đó quy

định thưởng cho “binh lính thuỷ quân Hùng cự, các bảo phủ Thị Nội, vệ Cẩm y, cơ Thần

sách, thưởng cho mỗi người 1 quan tiền. Ngoài ra đều cấp cho một nửa. Lại nữa, từ sau

trở đi cứ tuân theo lệ này mà làm” [26; tờ 83 quyển 10, ngày 2 tháng 5 năm Minh Mệnh

thứ 6 (1825)] triều Nguyễn còn ban thưởng đối với từng đội quân (chủ yếu là Thân

binh) và định mức khác nhau tùy thuộc vào khoảng cách của quãng đường.

Triều Nguyễn còn thưởng cho binh lính hộ giá viếng thăm lăng của tổ tiên, binh

lính của các phủ đệ đi theo vua yết lăng cũng được ban thưởng. Thiệu Trị năm thứ nhất

(1841), triều đình thưởng cho“binh lính, nhân viên tạp phái và binh lính của các phủ đệ và

các nha môn đều thưởng cho mỗi người 2 mạch tiền” [45; tờ 155 quyển 7 ngày 13 tháng 3 năm Thiệu trị thứ nhất (1841)]. Thiệu Trị năm thứ 5 (1845), biền binh đi theo hộ giá đến

thăm Hiếu Lăng và Hiếu Đông lăng được triều đình thưởng cho 2 ngày lương hộ giá [46;

tờ 153 quyển 30 ngày 20 tháng 3 năm Thiệu Trị thứ 5 (1845)].

Binh lính hộ giá vua đi kiểm tra các hoạt động sản xuất nông nghiệp như kiểm tra đào kênh mương, kiểm tra cấy gặt binh lính hộ giá vua đi nghỉ mát (Minh Mệnh năm thứ 10 (1829)), kiểm tra làm đàn chay tế lễ ở chùa Thiêm mụ (Minh Mệnh năm thứ 2 (1821) đặc biệt, binh lính chờ hầu cũng được ban thưởng. Tài liệu Châu bản ghi lại, Thiệu Trị

năm thứ 6 (1846), vua thưởng cho“binh lính Kinh tượng, Thượng tứ chờ hầu trên đường cùng các binh lính, thợ tạp phái, truyền thưởng cho mỗi tên 1 mạch” [44; tờ 34 quyển 33 ngày 10 tháng 5 năm Thiệu Trị thứ 6 (1846)].

- Khen thưởng đối với binh lính tham gia các hoạt động sản xuất nông nghiệp

112

Dưới triều Nguyễn đặc biệt dưới triều vua Minh Mệnh, công tác khẩn hoang mở

rộng diện tích đất nông nghiệp được đẩy mạnh nhất là vùng Nam Bộ. Binh lính được coi là

một trong những lực lượng quan trọng của nhiệm vụ này. Để thưởng công và khuyến khích binh lính, triều Nguyễn đã ban thưởng cho binh lính chủ yếu bằng tiền với mức

thưởng không cố định. Năm Minh Mệnh thứ 21 (1840), triều đình thưởng cho binh lính khai khẩn ruộng ở Biên Hòa 400 quan tiền, ở An Giang 600 quan tiền [93; 664], cũng

trong năm này biền binh khai khẩn ruộng ở Vĩnh Long chỉ được thưởng 30 quan tiền [20;

tờ 258 quyển 77 ngày 2 tháng 6 năm Minh Mệnh thứ 21 (1840)].

Đối với binh lính tham gia công tác thủy lợi, triều Nguyễn ban thưởng bao gồm cả hình thức thưởng chung và thưởng riêng. Năm Gia Long thứ 7 (1808), vua

thưởng chung cho biền binh nạo vét sông, Minh Mệnh năm thứ 10 (1829) 400 biền

binh đắp đê mới ở làng Đa Hòa thuộc huyện Đông An (nay là huyện Khoái Châu,

Hưng Yên) được triều đình ban thưởng“mỗi người được thưởng 1 tháng lương

bằng tiền” [21; tờ 402 tập 36 ngày 28 tháng 10 năm Minh Mệnh 10 (1829)].

Đối với binh lính làm nhiệm vụ vận tải, Gia Long năm thứ 15 (1816), triều

Nguyễn đặt định lệ thưởng cho binh lính vận tải từ Kinh đến các địa phương và ngược

lại. Theo đó, cứ mỗi lượt thưởng thêm một tháng tiền lương, từ các địa phương vận tải về

Kinh thì thưởng một nửa [89; 926]. Gia Long năm thứ 11 (1812), vua ban hành định lệ

thưởng cho thuyền chở hàng hóa trên biển, lấy số lượng lượt chở làm tiêu chí. Cụ thể,

chở 7 lần thưởng thêm 3 tháng lương, từ 6 lần đến 3 lần đều thưởng 2 tháng lương, 2 lần

thưởng 1 tháng 15 ngày lương, 1 lần thưởng 1 tháng [89; 845].

Sang thời Minh Mệnh năm thứ 7 (1826), triều đình định mức ban thưởng cho

binh lính vận tải trong đó có sự phân biệt giữa binh lính vận chuyển cả 2 chiều và biền binh vận chuyển hàng hóa chỉ có 1 chiều: có hàng hóa thì cấp cho 1 quan tiền,

trở về không thì cấp một nửa” [90; 508].

Trước khi ban hành định lệ ban thưởng cho binh lính trong hoạt động vận

chuyển hàng hóa, Gia Long năm thứ 8 (1809), triều Nguyễn đã thưởng cho lính chở gỗ đá từ Quảng Nam về Kinh dựng các cửa kinh thành như Phó quản cơ cơ Hữu thủy là Lê Văn Duyên, các quân 4.800 quan tiền. Binh lính chở hàng hóa ở các địa phương với mức thưởng như chở hàng hóa đến Kinh và ngược lại. Năm Minh Mệnh

10 (1829), “80 thuỷ thủ phái đi Quảng Bình chở hàng đến trấn Quảng Ngãi mỗi người 1 quan tiền” [22; tờ 45 tập 31 ngày tháng 8 năm Minh Mệnh 10 (1829)].

Những binh lính phái đi tăng cường vận chuyển hàng hóa cũng được triều đình ban thưởng: Minh Mệnh 18 (1837), vua khen thưởng cho 29 biền binh tăng

113

phái mỗi người 5 mạch tiền [23; tờ 90 tập 58 ngày 22 tháng 7 năm Minh Mệnh thứ

18 (1837)]. Đáng chú ý, một số quan binh được thưởng vượt định mức do công

trạng: Minh Mệnh năm thứ 19 (1838), “từ Thủy sư hộ dẫn Đề đốc Vũ Văn Từ cho đến binh lính truyền thưởng mỗi người nửa tháng lương tiền. Thuận An tấn thủ

Đoàn Văn ý, Thủ ngự Phan Tiến Thanh đến các binh lính truyền thưởng đều mỗi người 30 quan” [24; tờ 87 tập 73 ngày 5 tháng 11 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838)].

Dưới triều Nguyễn, binh lính là lực lượng quan trọng tham gia xây dựng các

công trình công cộng như xây và tu sửa cung điện, xây đắp thành quách trong kinh

thành và ở địa phương, xây dựng các công trình phòng thủ quân sự. Hình thức ban phổ biến là thưởng cho binh lính sau khi hoàn thành công trình gồm thưởng chung

cho toàn bộ đội binh hoặc thưởng riêng cho từng binh lính (xem thêm phụ lục 2g).

Về thưởng chung, binh lính được thưởng nhiều nhất vào năm Gia Long năm thứ 18

(1819) sau khi xây mặt sau Kinh thành được ban thưởng 143.360 quan, năm Gia

Long thứ 10 (1811), binh lính xây điện Cần Chánh và Trung Hòa được thưởng

13.500 quan. Binh lính được thưởng riêng nhiều nhất là sau xây đắp Kinh thành:

Minh Mệnh thứ 13 (1832) và Thiệu Trị năm thứ nhất (1841) binh lính xây lăng

Hiếu Đông được thưởng mỗi người 2 tháng lương tiền.

Tuy nhiên, có những công trình binh lính được triều đình thưởng cả khi thi

công và khi hoàn công như binh lính xây dựng điện Thái Hòa năm Gia Long thứ 4

(1805) và xây dựng điện Cần Chánh năm Gia Long thứ 10 (1811).

Việc xây dựng cung điện và xây đắp thành quách trong kinh thành là hoạt

động tiến hành thường xuyên nhất của hoạt động xây dựng các công trình công

cộng. Binh lính xây dựng công trình này cũng có mức thưởng cao hơn binh lính xây dựng các công trình công cộng khác. Trong khi mức phổ biến ban thưởng cho binh

lính là 1 hoặc 2 tháng lương tiền thì năm Gia Long thứ 18 (1819) mỗi binh lính xây

dựng mặt sau Kinh thành được thưởng trung bình là 10 quan.

Triều Nguyễn còn thưởng cho binh lính tham gia các hoạt động khác như: lấy gỗ, đi săn bắn để lấy lễ vật dâng tiến làm lễ tế (Minh Mệnh năm thứ 6 (1826), 14 binh lính Cẩm y, Nội hầu, Thượng trà, Tiểu sai mỗi người 5 mạch tiền [25; tờ 121 quyển 10 ngày 1 tháng 9 năm Minh Mệnh thứ 6 (1825)]; trồng cây và canh giữ

hồ (Minh Mệnh năm thứ 20 (1839) binh lính canh giữ hồ Tĩnh Tâm được vua ban thưởng 100 quan tiền); giải tội phạm (Thiệu Trị 2 (1842) thưởng cho 5 binh lính mỗi người 1 mai ngân tiền và 5 quan tiền [47; tờ 4 tập 21, ngày 9 tháng 1 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842)]; cứu giúp binh thuyền tuần biển gặp bão; coi giữ các tôn

114

lăng (Tự Đức năm thứ 9 (1856) thưởng cho binh lính coi tôn lăng ở Thanh Hoá và

Quảng Nam mỗi người nửa tháng lương gạo và tiền).

Trong đó đặc biệt phải kể tới việc khen thưởng cho binh lính đi theo vệ Giám thành ra Hoàng Sa vẽ bản đồ của triều đình vào năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) và

năm Minh Mệnh thứ 18 (1837). Cụ thể: lính“hướng dẫn là Vũ Văn Hùng và Phạm Văn Sinh đều thưởng cho 3 mai tiền bằng bạc hạng nhỏ. Các binh thợ tham gia đều

thưởng cho mỗi người 1 quan tiền, rồi cho về đơn vị và cục. Dân phu do tỉnh phái,

trừ 2 tên hướng dẫn ra, còn lại đều thưởng cho mỗi người 1 quan tiền” [31; tờ 92

tập 54 ngày 13 tháng 7 năm Minh Mệnh 16 (1835)], [32, tờ 245 tập 57 ngày 13 tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 18 (1837)] cho biết binh dân trong hàng ngũ phải xông

pha đường biển cũng gian lao nên được triều đình ban thưởng ưu hậu.

4.2.3.3. Thưởng nhân dịp Lễ - Tết

Trong các ngày Lễ- Tết, các vua triều Nguyễn thường xuyên ban thưởng cho

Hoàng tộc, bá quan văn võ và binh lính.

Năm Minh Mệnh thứ 6 (1825), nhà nước đặt định lệ thưởng cho lính trạm

nhân dịp tết Nguyên đán và tết Vạn thọ (định mức không được ghi cụ thể).

So với võ quan, việc thưởng cho binh lính ít hơn, có sự phân biệt về định

mức khen thưởng giữa các ngạch binh trong Kinh thành, giữa lính ở trong Kinh và

lính ở tỉnh địa phương, thậm chí một số ngày Lễ- Tết chỉ có binh lính trong Kinh

mới được ban thưởng.

Không chỉ ban thưởng nhân ngày Lễ- Tết, nhân dịp đất nước bình yên được

mùa (năm Thiệu Trị năm thứ 2 (1842) hay khi Bộ Hộ biên tập bộ “Bắc tuần ân

điển” (Thiệu Trị năm thứ 2 (1842) binh lính cũng được ân thưởng.

Một số đặc ân khác đối với binh lính

Triều Nguyễn ban hành một số đặc ân đối với binh lính như cho phép binh

lính được giải ngũ về quê dưỡng ông bà cha mẹ nếu nhà neo người. Định lệ này

được ban hành năm Tự Đức thứ 8 (1855). Theo đó, binh lính nhà có cha mẹ 70 tuổi trở lên, xác thực không có chú, bác, anh, em và cháu ruột, hoặc là có, mà những người ấy còn nhỏ tuổi. Nếu binh lính thuộc ngạch giản binh, quan sở tại giao cho lý dịch, thân nhân ở nguyên quán làm giấy cam đoan, quan phủ, huyện, châu, đạo ấy

đóng ấn xác nhận là đúng sự thực thì cho phép thay thế bằng người khác. Nếu binh lính thuộc ngạch mộ binh, triều Nguyễn cho lý dịch ở địa phương lấy xác nhận của thân nhân và người cùng quê quán rồi cho viên quản suất tuyển và thay bằng dân đinh khác sau đó thông tin lại cho bộ Binh biết [95; 368].

115

Tiểu kết chƣơng 4

Cùng với chế độ đãi ngộ cho võ quan, chế độ đãi ngộ dành cho binh lính là một

trong những chính sách quan trọng nhằm xây dựng một đội quân vững mạnh của triều

Nguyễn. Binh lính được đãi ngộ bằng lương và các khoản ngoài lương khác như phụ cấp

khi đi làm nhiệm vụ ở vùng biên viễn hoặc nơi có khí hậu khắc nghiệt, trợ cấp khi trận

thương, trận vong, nạn gió bảo hay khen thưởng khi lập công.

Lương của binh lính được chi cấp bằng ruộng đất và Ruộng của binh lính

được ban cấp gồm lương điền và ruộng khẩu phần tùy theo ngạch binh và chức

năng, nhiệm vụ. Ruộng theo mỗi khẩu phần của các địa phương không giống nhau

nên trong một ngạch binh số ruộng nhận được của binh lính nhiều hay ít tùy thuộc

vào diện tích công điền của địa phương. Tuy diện tích công điền công thổ ngày

càng bị thu hẹp, tuy nhiên, binh lính vẫn là đối tượng được ưu ái trong chính sách

ban cấp quân điền của triều Nguyễn.

Mức khen thưởng và ưu cấp của nhà nước đối với binh lính thường dựa trên công

việc cụ thể mà không ban hành theo định lệ, trong đó có chính sách đối với binh lính bị

trận thương, trận vong, nạn bão được coi là chính sách quan trọng, phần nào thể hiện tư

tưởng nhân đạo của nhà nước. Những chính sảch này có ý nghĩa rất lớn nhất là khi nhân

dân ta đang đương đầu với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược.

Chế độ khen thưởng, đãi ngộ của triều Nguyễn đối với binh lính tham gia

trận mạc, những người có công với đất nước, những người thiệt thòi trong chiến

tranh như bệnh binh, tử sĩ, đối tượng như vợ góa con côi của binh lính trận vong có

ý nghĩa quan trọng góp phần động viên kịp thời và phần nào thể hiện tư tưởng nhân

đạo của vương triều Nguyễn.

116

Chƣơng 5.

NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI

QUÂN ĐỘI DƢỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802-1884

5.1. Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn trong cái nhìn so sánh lịch đại 5.1.1. Sự khác nhau của chế độ đãi ngộ đối với quân đội qua hai giai đoạn trước

và sau năm 1858

Chế độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884

được ban hành dưới thời kỳ trị vì của các vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức chịu sự chi phối bởi bối lịch sử khác nhau. Từ năm 1802 đến năm 1858 là

thời kỳ hòa bình, vương triều mới thành lập sau thời gian dài chia cắt đất nước. Từ

năm 1858 đến năm 1884, sau thời gian củng cố và xây dựng vương triều, nhà

Nguyễn phải đối mặt với cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Những thay đổi của

hoàn cảnh đất nước, nhiệm vụ của quân đội đã tác động đến chính sách của triều

Nguyễn đối với võ quan và binh lính ở từng giai đoạn.

5.1.1.1. Từ năm 1802 đến năm 1858

Chế độ đãi ngộ cho quân đội giai đoạn này được thực thi từ triều vua Gia Long

đến 10 năm đầu dưới sự cai trị của vua Tự Đức. Ở thời kỳ đầu, dưới sự cầm quyền của

vua Gia Long, vương triều được thành lập sau thắng lợi của các cuộc giao chiến lật đổ

vương triều Tây Sơn lấy lại quyền cai trị cho dòng họ Nguyễn. Do đó, những chính sách

về khao thưởng cho binh lính, đãi ngộ cho các công thần vào sinh ra tử cùng vua Gia

Long được triều đình ưu tiên hàng đầu. Công thần được ban cấp bổng lộc, tiền, ruộng

đất. Con cháu của họ cũng được hưởng chế độ đãi ngộ của triều đình.

Đồng thời, đây cũng là thời kỳ triều Nguyễn xác lập vai trò của dòng họ trên

cả nước. Vì vậy, vua Gia Long đã ban hành những chế độ nhằm thống nhất sự quản

lý của vương triều trên mọi lĩnh vực đặc biệt là về chính trị trong đó có lực lượng

quân đội. Chế độ đãi ngộ bằng lương, bổng lộc cho võ quan và binh lính Bắc Thành sau đó thống nhất trên cả nước được ban hành.

Ngoài ra, đất nước được khôi phục sau thời gian binh đao, triều đình định đô ở vị trí mới, binh lính là lực lượng lớn triều đình sử dụng để khôi phục và xây dựng

các công về thành quách, cung điện Do vậy, triều đình đã ban thưởng và trợ cấp một số lượng tiền bạc lớn cho bộ phận binh lính tham gia xây dựng công trình này nhất là khi các công trình hoàn thành.

Ngày từ thời Gia Long, quân đội đã phải đi đánh dẹp những cuộc nổi dậy

117

trong nước nên những chính sách về khen thưởng, trợ cấp cũng như chính sách đãi

ngộ tuy đã được vua ban hành.

Sau thời gian khôi phục đất nước dưới triều vua Gia Long, chế độ phong kiến ổn định và phát triển dưới triều vua Minh Mệnh. Thời kỳ này quân đội được

củng cố, tổ chức quân đội và số lượng tăng lên. Từ kết quả nghiên cứu về tổ chức, số lượng quân lính cho thấy thời Minh Mệnh quân đội có tổ chức hoàn thiện, số

lượng quân đông nhất trong thời kỳ độc lập của vương triều Nguyễn đặc biệt là sự

lớn mạnh của lực lương thủy binh. Đồng thời quân đội thời kỳ này được sai phái đi

đánh dẹp các cuộc nổi dậy chống triều đình của các tầng lớp nhân dân cũng như chống lại sự xâm lược của quân Xiêm. Do vậy, thời kỳ này các chính sách đối với

quân đội của triều đình thời gian này chú trọng đến tăng lương bổng, ban hành chế

độ cho các đội quân mới lập và chi cấp một khối lượng lớn ngân khố để nuôi quân.

Chế độ khen thưởng ưu hậu đối với võ quan và binh lính lập được nhiều công trạng

trong đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa lớn được vua

Minh Mệnh quan tâm thực hiện.

Dưới thời vua Thiệu Trị, chế độ đãi ngộ dành cho quân đội không có sự thay

đổi đáng kể nhất là chế độ chi cấp thường xuyên như lương của võ quan và binh

lính. Những năm đầu dưới triều vua Tự Đức mặc dù trước âm mưu xâm lược của

chủ nghĩa tư bản phương Tây nhưng chính sách của vua Tự Đức thời kỳ này đối với

quân đội vẫn duy trì như chế độ của các vua thời kỳ trước.

5.1.1.2. Từ năm 1858 đến năm 1884

Đây là giai đoạn có sự thay đổi quan trọng trong chế độ đãi ngộ của vua Tự

Đức so với các triều vua trước, dưới tác động của thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Triều Nguyễn một mặt phải giữ vững nội trị chống lại các cuộc nổi dậy của

các lực lượng chống đối vừa phải chống giặc ngoại xâm. Bên cạnh những chi cấp

như giai đoạn trước, vấn đề lớn nhất lúc này là vua Tự Đức phải thực hiện chính

sách lương bổng và trợ cấp phù hợp cho đội quân được sai phái đi các mặt trận chống lại quá trình xâm lược của thực dân Pháp. Với việc đổi chiến thuật từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “tằm ăn lá”, quân Pháp lần lượt tấn công Đại Nam ở các vị trí Đà Nẵng, Gia Định, các tỉnh Nam Kỳ, Bắc Kỳ và Huế. Triều đình phải phái

các võ tướng (như Nguyễn Tri Phương) cùng số quân lớn tới các chiến trường một mặt xây dựng thành lũy và dồn bốt ở các vị trí xung yếu để ngăn sự tấn công của quân đội Pháp một mặt tổ chức kháng chiến. Nhiệm vụ này đòi hỏi triều đình không chỉ tiêu tốn một khoản ngân khố lớn để trợ cấp cho quân di chuyển mà còn phải trợ

118

cấp cho những tướng sĩ trận thương, trận vong sau mỗi trận đánh.

Ngoài ra, sau những Hiệp ước được ký kết năm 1862, 1874 của triều đình

Huế với thực dân Pháp, triều Nguyễn không chỉ mất những quyền lợi về thương mại, buôn bán mà còn chịu những gánh nặng về bồi thường chiến phí. Đặc biệt là

việc lần lượt để mất 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ sau đó là 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ cho Pháp đã ảnh hưởng lớn tới nguồn thu trong quốc khố của triều đình.

Trong bối cảnh chi phí lớn cho chiến tranh, nguồn tài chính ngày càng khó khăn,

từ sau năm sau từ năm 1858 vua Tự Đức có một số điều chỉnh về chế độ đãi ngộ đối với

quân đội trong đó một số chính sách được triều đình coi trọng hơn thời kỳ trước.

Chính sách đáng chú ý nhất là việc thay đổi định mức lương của quan lại cao

cấp (bao gồm võ quan, văn quan và Hoàng tộc). Từ Ngũ phẩm trở xuống, định mức

lương không có điều chỉnh đáng kể nhưng từ Tứ phẩm trở lên, định mức cả lương

tiền và gạo điều điều chỉnh giảm xuống. Những chính sách này ít nhiều ảnh hưởng

đến đời sống vật chất của bộ phận võ quan cao cấp. Nhưng xét về cơ bản không tác

động nhiều đến kết quả chống ngoại xâm của dân tộc. Bởi lẽ, bộ phận võ quan cao

cấp từ Tứ phẩm trở lên chiếm số lượng không lớn trong tổ chức quân đội, bên cạnh

đó bộ phận này còn được hưởng những quyền lợi khác như phụ cấp trợ cấp. Đối

tượng nhiều nhất trong bộ phận võ quan, tham gia trực tiếp trong chiến tranh là bộ

phận võ quan nhỏ từ ngũ phẩm trở xuống chế độ lương về cơ bản không thay đổi.

Do vậy, việc điều chỉnh định mức lương của võ quan cao cấp từ Ngũ phẩm trở lên

không tác động nhiều đến tinh thần binh sĩ trong kháng chiến chống Pháp.

Trong chính sách phụ cấp và trợ cấp cho quân đội, triều đình quan tâm đặc

biệt tới võ quan và binh lính trực tiếp tham gia kháng chống ngoại xâm như phụ cấp đi đường khi di chuyển quân, đóng giữ ở chiến đấu ở chiến trường và thưởng công.

Khác biệt với giai đoạn trước năm 1858, trong chính sách ban thưởng của vua

Tự Đức đối với võ quan và binh lính được ban thưởng ít hơn thời kỳ trước nhất so với

triều vua Minh Mệnh. Đối tượng ban thưởng ở đây phần lớn là ban thưởng theo cá nhân và có công trạng đặc biệt.

Điểm đáng chú ý nhất trong chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn thời kỳ này là chế độ trợ cấp của nhà nước đối với võ quan và binh lính gặp nạn khi tham

gia chiến trận. Trợ cấp đối với võ quan trận thương trận vong và thân nhân của họ là chính sách được triều Nguyễn chú trọng thời kỳ này. Chế độ trợ cấp của triều Nguyễn có sự phân biệt giữa võ quan thua trận võ quan gắng sức lập công bị thương, trận vong. Trong đó những người lập được công trạng được nhận chế độ đãi ngộ đặc biệt.

119

Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa nổi dậy chống lại

vương triều. Chính vì vậy, triều Nguyễn vẫn phải thực hiện trợ cấp cho binh lính đi

đánh dẹp và ban thưởng cho võ quan và binh lính có công như các triều vua trước.

Bên cạnh đó, thời kỳ này vua Tự Đức vẫn phải duy trì chế độ lương, phụ cấp

và trợ cấp đối với quân lính như trước kia. Những chính sách về ruộng đất đối với binh lính, lương, khen thưởng đối với võ quan cấp thấp từ Ngũ phẩm trở xuống vẫn

được duy trì.

Do vậy, chế độ đãi ngộ đối với quân đội trong 26 năm còn lại (từ 1858 đến

1884) của thời kỳ độc lập dưới sự cai trị của vua Tự Đức vừa có những điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của đất nước đồng thời vẫn duy trì những

chính sách đãi ngộ của thời kỳ trước nhằm thực hiện song song hai mục tiêu: ổn

định trật tự trong nước và chống ngoại xâm.

5.1.2. Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với quân đội trong mối tương quan

với các triều đại trước

So sánh với các triều đại trước, không khó để nhận thấy chế độ đãi ngộ của triều

Nguyễn đối với quân đội từ năm 1802 đến năm 1884 nổi lên mấy điểm như sau:

Thứ nhất, chế độ đãi ngộ dưới Nguyễn được xây dựng trên cơ sở kế thừa

những chính sách lương bổng dành cho quân đội của các triều đại trước.

Chính sách đãi ngộ đối với võ quan và binh lính của triều Nguyễn không chỉ

kế thừa một số nội dung của chính sách về lương, trợ cấp và khen thưởng mà còn kế

thừa tính giai cấp trong chính sách ban cấp và sự quan tâm của nhà nước dành cho

quân đội của các triều đại trước.

Trong thời kỳ quân chủ, nông nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo, ruộng đất là tư liệu sản xuất chính. Đây cũng là nguồn bổng lộc, tài sản quý nhất mà triều đình ban

cấp cho quan lại cũng như những người có công lao đối với vương triều. Bắt đầu từ

triều Trần, vua đã lấy ruộng đất ban cấp cho quý tộc (trong đó có bộ phận lớn là võ

quan) làm bổng lộc. Những Thái ấp của các quý tộc Trần vừa giúp quý tộc đảm bảo cuộc sống vừa là nơi phát triển quân đội đồng thời làm phiên dậu cho kinh thành.

Thời Lê Sơ, việc chia ruộng đất làm bổng lộc cho võ quan và binh lính được thực hiện ngay từ khi Lê Lợi lên ngôi, sang thời vua Lê Thánh Tông chế độ này

được cụ thể hóa bằng chính sách Lộc điền và quân điền. Thời Mạc, chiến tranh giữa các thế lực phong kiến nổ ra, binh sĩ là lực lượng được triều đình quan tâm ưu ái, vì vậy không chỉ quan lại mà binh lính cũng được hưởng ruộng lộc. Đặc biệt, dưới triều Lê Trung Hưng binh lính được chia thành nhiều hạng và hưởng định mức khác

120

nhau về ruộng đất tùy theo vai trò và nhiệm vụ. Trong đó binh lính thân cận với nhà

vua được hưởng nhiều quyền lợi hơn các ngạch binh khác.

Dưới triều Nguyễn, võ quan và binh lính ngoài được cấp lương bổng bằng tiền và gạo còn được triều đình ban thưởng bổng lộc và lương bằng ruộng đất.

Không chỉ được hưởng ruộng quân điền theo chế độ chia cấp ruộng đất của làng xã mà dân đinh khi đi lính còn được hưởng lương bằng ruộng đất. Như vậy, có thể thấy

triều Nguyễn đã tiếp tục kế thừa chính sách ban cấp cho binh lính bằng tư liệu quan

trọng nhất của nền kinh tế nông nghiệp đó chính là ruộng đất.

Chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn kế thừa sự bảo vệ quyền

lợi cho giai cấp cầm quyền của các triều đại trước

Ngay từ triều Trần, việc ban Thái ấp cho quý tộc (trong đó hầu hết là các võ

tướng) đã thể hiện tư tưởng bảo vệ chế độ quân chủ quý tộc. Với chính sách này,

các võ tướng là các quý tộc Trần làm chủ các Thái ấp. Bên cạnh được sử dụng một

diện tích ruộng đất lớn họ còn có một số quyền lợi khác như được lập quân đội

riêng. Tính giai cấp trong chính sách đối với quân đội được thể hiện rõ hơn dưới

triều Lê Sơ. Khi đánh giá về việc vua Lê Thái Tổ đã thực hiện phép quân điền, tác

giả Phan Huy Lê đã nhận xét:“Chế độ quân điền thời Lê có thể một phần nào xuất

phát từ quyền lợi của binh lính - những người dân đã hy sinh chiến đấu, đưa Lê Lợi

ngôi báu - chẳng hạn như ưu tiên cho quân lính được phần ruộng nhiều hơn dân

thường” [148; 115].

Dưới triều vua Lê Thánh Tông, triều đình ban hành chính sách Lộc điền cho

võ quan. Trong chính sách này, có sự phân biệt về quyền lợi giữa quan lại có phẩm

hàm cao (từ Tứ phẩm trở lên) và quan lại có phẩm hàm thấp (từ Ngũ phẩm trở xuống).

Theo đó, chỉ những quan lại cấp cao mới được hưởng chính sách Lộc điền,

một phần của Lộc điền là Thế nghiệp điền được nhà nước ban cấp vĩnh viễn, trở

thành tài sản riêng và võ quan mới có quyền sở hữu ruộng đất đó. Võ quan phẩm hàm thấp từ Ngũ phẩm trở xuống chỉ được hưởng ruộng quân điền.

Thời Lê Trung Hưng, nội dung bảo vệ quyền lợi cho gia cấp cầm quyền trong chính sách lương bổng và trợ cấp cho quân đội được biểu hiện rõ nét nhất. Sự ưu ái

thể hiện ở việc ưu cấp cho những binh lính có công đối với vương triều, binh lính có xuất thân là quê cũ của dòng họ nhà vua và binh lính xuất thân hoàng tộc trong chính sách ruộng đất của triều Lê Trung Hưng năm 1711. Trong đó, ruộng công làng xã bất kể nhiều hay ít thì mỗi người lính vẫn được chia theo số ruộng quy định trước, sau đó

121

còn lại mới chia cho dân.

Ngoài ra, chế độ đối với quân đội dưới triều Nguyễn còn kế thừa những

chính sách về việc khen thưởng cho quan binh sau khi thắng trận, ưu đãi đối với công thần và những người có công đối với vương triều của các triều đại trước. Những chính

sách này đã đã được thực thi từ triều Lý Trần và trong đó chính sách đối với công thần là chính sách nổi bật dưới thời các chúa Nguyễn. Trong đó chế độ đãi ngộ đối với công

thần, chúa Nguyễn đặc biệt ưu ái cho quan quân vùng Thanh - Nghệ Tĩnh đặc biệt là

quân lính có gốc gác vùng Tống Sơn, đồng huyện với dòng họ nhà chúa, mà tổ tiên đã

từng hỗ tòng chúa Nguyễn Hoàng và làm Tổng trấn xứ Thuận Hóa.

Dưới thời các chúa Nguyễn, các đinh tráng người huyện Tống Sơn thường

được bổ làm quan chỉ huy. Theo Lê Quý Đôn,“Họ Nguyễn chuyên dùng người dòng

họ mình, huyện mình và xứ Thanh Hoa. Chưởng dinh, Chưởng cơ, Cai cơ, Cai đội

không phải hạng ấy thì không được sung tuyển. Con cháu họ đời đời được nhiêu

miễn” [63;131]. Trên thực tế ngay cả Đội trưởng cũng chỉ bổ nhiệm người huyện

Tống Sơn, hay người theo chúa Nguyễn Hoàng vào Đàng Trong [63;158].

Bên cạnh đó, việc ban cấp lương bổng cho võ quan theo phẩm trật cho võ

quan được triều Nguyễn kế thừa từ chính sách ban cấp Lộc điền dưới triều vua Lê

Thánh Tông. Quan lại phân được nhận số ruộng lộc nhiều ít khác nhau dựa trên

phẩm hàm cao hay thấp. Bên cạnh đó, chính sách đãi ngộ như cấp cấp tuất và ruộng

đất cho võ quan và binh lính chết trận được tiếp nối từ triều chúa Trịnh Cương được

ban hành năm 1707, chính sách đối với võ quan về hưu được chúa Trịnh ban hành

vào năm 1720.

Theo chế độ này, võ quan về hưu được cấp bổng lộc gồm tiền nộp của một số xã (gọi là huệ dưỡng dân lộc) và tiền theo định lệ ban cấp của nhà nước đồng

thời khi chết được cúng tế và nhận tiền tuất. Theo Lịch triều hiến chương loại chí,

phần quan chức chí thì Chánh nhất phẩm được cấp 500 tiền tuất và 200 tiền cúng tế.

Thứ hai, chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn là chế độ hoàn

chỉnh nhất trong lịch sử xây dựng chính sách cho quân đội dưới thời kỳ quân chủ.

Trên cơ sở kế thừa chế độ đãi ngộ đối với quân đội của các triều đại trước, triều Nguyễn đã bổ sung và hoàn thiện hơn những chính sách lương bổng, trợ cấp

và phụ cấp của triều đình cho quân đội so với các triều đại trước cả về định chế, cách thức, đối tượng và vật phẩm được ban cấp.

Xét những nội dung đã trình bày ở chương 3 và chương 4, dễ dàng nhận ra rằng, chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với quân đội được chuẩn hóa về định chế

122

ban hành so với các vương triều trước. Các triều đại trước Nguyễn, việc ban hành

thành định chế mới dừng ở việc quy định định mức lương bổng cho võ quan và binh

lính. Ví dụ, dưới triều Lê Sơ, triều đình mới chỉ ban hành chế định về chế độ Lộc điền cho quan lại có phẩm hàm cao và chế độ quân điền cho võ quan có phẩm hàm

thấp và binh lính. Sang thời Mạc cũng mới chỉ có định lệ về ruộng “quan điền” cho binh lính.

Đến triều Nguyễn, không chỉ ban hành những định chế về bổng lộc cho võ quan

và chế độ lương điền cho binh lính mà triều Nguyễn còn có những quy định rõ ràng về

thủ tục nhận lương như thời gian, địa điểm, các bước và cơ quan chịu trách nhiệm cấp phát, các loại tiền được nhận với định mức lương cụ thể. Bên cạnh đó, triều Nguyễn

còn có những quy định rõ ràng về định mức lương, phụ cấp, trợ cấp và khen thưởng

cho các đối tượng khác nhau: võ quan đương chức, võ quan về hưu, binh lính tại ngũ

và binh lính xuất ngũ, võ quan, binh lính gặp nạn trong quân ngũ và thân nhân võ quan

và binh lính. Tuy thời điểm ban hành không thống nhất nhưng nhiều chế độ đãi ngộ

cho võ quan và binh lính đã ban hành thành định chế thực thi trên cả nước.

Điều này chứng tỏ sự thống nhất trong quản lý của triều Nguyễn trong quản

lý và chế độ đối với quân đội, như nhận xét của Hà Duy Biển (2015): “Cách tính

lương bổng của quan lại Bộ Binh triều Minh Mệnh cho thấy sự chặt chẽ và cụ thể

trong tính toán, dự liệu nhiều trường hợp đặc thù nhằm đảm bảo cho quá trình tính

lương được chính xác, minh bạch và thống nhất. Các quy định này phần nào thể

hiện tính nhân văn, khoan hậu đối với quan lại trung thành, tận tụy với vương

triều” [117; 49].

Chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884 được mở rộng về đối tượng hơn so với chế độ lương bổng và trợ cấp đối với binh lính của

các triều đại trước.

Như đã trình bày ở trên, dưới thời Lê Sơ, chính sách bổng lộc cho quan lại

mới dừng lại ở việc ban cấp cho quan lại có phẩm hàm lớn (từ Tứ phẩm trở lên).

Dưới triều Nguyễn, tất cả quan lại từ gồm lục phẩm và mỗi bậc chia ra thành Chánh và Tòng đều được hưởng bổng lộc theo thứ bậc. Việc ban cấp bổng lộc cho cả võ quan có phẩm hàm thấp thể hiện sự động viên cả về vật chất và tinh thần của

triều đình đối với bộ phận võ quan chiếm đa số đồng thời có ảnh hưởng đến sự lớn mạnh của quân đội cũng như sự ổn định của tình hình chính trị đất nước.

Đây là bộ phận có vai trò trực tiếp tham gia các hoạt động đánh dẹp các cuộc nổi dậy trong nước và chống các thế lực bên ngoài nhất là đối với một triều đại có

123

nhiều cuộc nổi dậy chống chính quyền như triều Nguyễn. Đối với quân lính, không

chỉ quân đội chính quy của nhà nước mà triều Nguyễn còn thực hiện chế độ lương

và trợ cấp cho cả mộ binh, hương dõng đặc biệt là đối với binh lính tham gia chiến trận. Những đối tượng liên quan đến võ quan và binh lính như vợ, cha mẹ, con,

cháu cũng được hưởng chế độ đãi ngộ của triều đình.

Đối với chế độ đãi ngộ, ngoài chế độ cho công thần và cấp tuất như thời kỳ

trước, dưới triều Nguyễn còn thực hiện ban cấp đối với binh lính bị ốm đau, trận bị

thương, trận vong cũng như chính sách đối với thân nhân của họ. Chính sách này

cho thấy sự quan tâm của nhà nước không chỉ đối với binh lính có công mà còn đối với những người lính gặp hoạn nạn trong quân ngũ.

Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với quân đội còn được cụ thể hóa về

biện pháp thực hiện. Đặc điểm này được thể hiện ở cả cách thức và định mức ban

cấp phù hợp đối với từng đối tượng.

Về cách thức thực hiện, triều Nguyễn đưa ra những quy định rõ ràng. Trong

chế độ trợ cấp, định mức ban cấp đối với binh lính bị ốm, lính bị trận thương hay

trận vong đều được quy định cụ thể. Võ quan và binh lính bị ốm được triều đình

quy định cụ thể về việc chữa trị và sử dụng sau khi khỏi bệnh. Binh lính đi làm

nhiệm vụ, tùy từng địa điểm và thời tiết mà nhà nước ban cấp vật phẩm phù hợp

như đối với lính làm nhiệm vụ ở nơi giá rét thì ban cấp thêm áo, ở nơi nóng bức thì

phát thêm thuốc men và dược liệu.

Về định mức, triều Nguyễn cũng đưa ra định mức cụ thể với từng đối tượng.

Việc này được hiện thực hóa từ triều vua Gia Long đến triều vua Tự Đức. Dưới

triều Gia Long, ngay khi lên ngôi, triều đình đã thực hiện chế độ đãi ngộ đối với công thần. Trong đó quy định rõ ràng, tùy theo năm tham gia, tùy theo cống hiến

cho vương triều mà có chế độ đãi ngộ phù hợp.

Sang triều Minh Mệnh, việc trợ cấp đi đường cho bộ binh, triều đình cũng

quy định cụ thể quãng đường quy ra ngày đường, đối với những binh sĩ trận vong tùy theo sự cố gắng và công trạng mà chia ra các hạng khác nhau; chế độ lương điền cho binh lính cũng được quy định rõ ràng về định mức dựa trên số lượng công việc và nhiệm vụ được giao của từng ngạch binh.

Đến thời Tự Đức, triều đình có những quy định rõ ràng về chế độ cấp tuất

đối với từng đội quân khi đi làm nhiệm vụ.

Bên cạnh đó, các chính sách của triều Nguyễn đối với quân đội có những điều chỉnh phù hợp với nhiệm vụ cũng như hoàn cảnh xã hội. Ví dụ mức lương triều

124

Gia Long đến Minh Mệnh võ quan phẩm hàm cao được điều chỉnh giảm đi, trong

đó chính sách đối với võ quan phẩm hàm thấp tăng lên đảm bảo cho đời sống của

võ quan cấp thấp và gia đình của họ. Những điều chỉnh này nhằm cân bằng hơn về khoảng cách quyền lợi giữa võ quan phẩm hàm cao, có trọng trách lớn đối với

vương triều đồng thời động viên võ quan nhỏ, những người khi có chiến sự là đối tượng chủ yếu trực tiếp tham gia chiến trận.

Chế độ đãi ngộ cho võ quan và binh lính dưới triều Nguyễn còn phong phú

hơn về vật phẩm thưởng cấp. Đối với binh lính, triều Lê Sơ, binh lính chỉ được cấp

ruộng khẩu phần theo định mức chung của làng xã, sang thời Nguyễn, ngoài ruộng ban cấp theo lệ quân điền, binh lính còn được ban cấp lương điền. Với chế độ này,

rõ ràng binh lính được ưu cấp hơn so với các triều đại trước.

Võ quan và binh lính khi đi làm nhiệm vụ đưới triều Nguyễn còn được nhận

được nhiều khoản phụ cấp dựa theo tính chất của công việc. Chính sách này dưới

thời kỳ trước không được tài liệu nào ghi lại. Ngoài ruộng đất, võ quan và binh lính

còn được thưởng cấp phẩm hàm, vải lụa, châu báu, thẻ bài, thuốc men, quần áo...

tùy trường hợp cụ thể. Ví dụ võ quan có công lao trong chiến trận như Tạ Quang

Cự, Nguyễn Tri Phương... ngoài ban cấp tiền bạc còn được triều đình thăng thưởng

phẩm hàm, vải lụa, ngọc...Hoặc khi ra trận bị ốm, trận thương, trận vong triều có

chế độ trợ cấp ưu hậu đối với binh sĩ đặc biệt là đối với võ quan. Ngoài cấp tuất võ

quan còn được ban cấp phẩm hàm, tế lễ, xây đền thờ, cho con cháu được hưởng một

số quyền lợi như được ấm thụ, được học trường Anh Danh...

Có thể thấy, những chính sách lương, trợ cấp và khen thưởng của triều

Nguyễn đối với quân đội bao gồm võ quan và binh lính được xây dựng trên cơ sở kế thừa những chính sách sơ khai thực hiện dưới các thời Lý Trần và được thực

hiện quy củ hơn dưới triều Lê Sơ, chịu tác động trực tiếp nhất là chính sách của

triều Lê Trung Hưng.

Triều Nguyễn đã kế thừa những chính sách đó và trong quá trình thực hiện có những điều chỉnh phù hợp với bối cảnh lịch sử và tiềm lực kinh tế của vương triều. Không thể phủ nhận rằng, so với chính sách của thời kỳ trước, chính sách của nhà nước thời Nguyễn đối với quân đội được thực hiện toàn diện hơn, đội ngũ võ

quan và binh lính cũng được triều đình ưu ái hơn.

5.2. Một số đặc điểm về chế độ đãi ngộ đối với quân đội dƣới triều Nguyễn

5.2.1. Chế độ đãi ngộ đối với quân đội thể hiện sự phân biệt thứ bậc rõ rệt gắn

với từng đối tượng cụ thể

125

Mục đích cuối cùng của chế độ đãi ngộ đối với quân đội là nhằm xây dựng

một đội quân mạnh, trung thành với nhà nước, ổn định tình hình nội trị và chống

các thế lực ngoại xâm đem lại cuộc sống hòa bình cho nhân dân. Tuy nhiên dưới thời quân chủ, bảo vệ nhà nước trước hết là bảo vệ chế độ chuyên chế của vua và

hoàng tộc. Do vậy trong chế độ đãi ngộ của nhà nước đối với quân đội, binh lính xuất thân hay có quan hệ và gắn lợi ích đối với vua và hoàng tộc luôn được nhà

nước bảo vệ quyền lợi không phải là việc đặc biệt. Đặc điểm này được thể hiện

không những trong tổ chức của quân đội mà còn thể hiện trong chế độ đối với võ

quan và binh lính.

Đối với tổ chức ngạch binh, một bộ phận con cháu trong hoàng tộc được

tuyển vào làm lính Thân binh (vệ Tuyển Phong). Đây là ngạch binh bảo vệ trực tiếp

cho vua và hoàng tộc đồng thời đây cũng là bộ phận được hưởng quyền lợi cao nhất

trong các chính sách của nhà nước, từ lương, phẩm trật đến chế độ ban thưởng khác.

Ngoài ra, võ quan là người trong tôn thất khi đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy

hoặc đánh giặc ngoại xâm bị trận vong, trận thương định mức ban thưởng cũng cao

hơn những võ quan khác. Điều này thể hiện mục đích của vua Nguyễn muốn duy trì

và củng cố sự trung thành của bộ phận binh lính trong tôn thất đối với dòng họ của

mình đồng thời cũng là một cách nhà nước duy trì sự cai trị của mình thông qua bộ

phận thân tộc của dòng họ.

Bên cạnh đó, triều Nguyễn ban hành chế độ ban cấp ưu hậu đối với quân lính

quê ở vùng Thanh - Nghệ nhất là đối lính quê ở Tống Sơn, quê hương của nhà

Nguyễn. Chính sách này bắt nguồn từ chế độ ưu cấp của nhà Lê - Trịnh đối với

quân ở Thanh Nghệ. Đây là bộ phận binh lính có công lớn cùng vua tham gia trận mạc trong nội chiến Lê – Mạc và giữ vững được vương triều, bộ phận này còn được

gọi là quân Tam phủ. Ngay từ khi lập nước, dưới triều vua Gia Long, triều đình đã

thực hiện nhiều chính sách ưu cấp đối với binh lính quê ở Tống Sơn.

Năm Gia Long thứ 2 (1803), vua đã dụ cho bộ Binh: “Người Tống Sơn đều là chỗ thân thích quê hương, theo đức Thái tổ ta vào trấn phương Nam, lập nhiều công lao, con cháu đời đời cùng nước hưởng Phước. Nhưng vì vận nước suy sút, phải tản cư trong dân gian. Nay lấy lại đô cũ thì người ta ai cũng tìm người cũ” [89; 455] bèn

cho ghi tên con cháu công thần ở Tống Sơn ở trong quân hay trong dân để lượng ghi dùng. Đồng thời vua Gia Long cho người liệt kê tổng công được 469 người công tính (họ nhà chúa) cùng con cháu các bề tôi cho tập ấm và miễn dao dịch.

Năm 1811 đời vua Gia Long, vua lệnh miễn tô thuế cho dân ở Tống Sơn

126

và cấp thêm tiền gạo cho binh lính. Thực lục cho biết, vua thấy Tống Sơn là đất

thang mộc, cội gốc ở đó nên muốn ra ân đặc biệt, hạ chiếu cho phép từ nay tô

thuế dao dịch đều được miễn, đồng thời thực hiện ban cấp:“Những binh ở vệ Tín uy Thị nội mỗi năm cấp cho mỗi người 12 phương gạo, như có sai phái việc

quân thì cấp cho lương tháng khác (1 quan tiền 1 phương gạo), hằng năm cứ tháng 12 thì đòi về tập hợp ở Kinh. Tại trấn thì cấp quần áo, 3 quan tiền và một

tháng tiền lương (1 quan 5 tiền), đến Kinh thì chiếu theo lệ lương của binh Tả

hầu Hữu hầu và Trung nhất mà cấp. Rồi hạ lệnh cho các thành dinh trấn, phàm

binh các đội thuyền Bính quê ở Tống Sơn thì quan thống quản không được sai bừa làm việc vặt, để tỏ phân biệt” [89; 812].

Năm Tự Đức thứ 9 (1856), nhà nước thống nhất tiền lương cho lính Thủ hộ có

sự phân biệt giữa lính quê ở Thừa Thiên và lính Quảng Nam với lính quê ở Tống Sơn.

Trong khi lính ở Tống Sơn được một tháng được 5 tiền, 1 phương gạo thì lính ở 2 địa

phương còn lại mỗi tháng chỉ được mỗi người 1 phương gạo [95; 480].

Ngoài ra, đối với lính Thanh Nghệ - vùng đất khởi nghiệp của các chúa

Nguyễn triều đình cũng có những chính sách ban cấp ưu hậu. Định lệ cấp lương

năm Gia Long thứ 2 (1803) cho biết, triều đình ban cấp tiền lương tháng cho các

biền binh Thanh Nghệ là lính hộ giá [89; 575]. Không chỉ được ban cấp lương, lính

quê ở vùng đất này còn được triều đình ban cấp tiền may quần áo. Lính giản ở

Thanh Nghệ từ năm Gia Long thứ 12 (1813) được lĩnh 3 quan vào tháng 12 hàng

năm và tự đi may quần áo. Tự Đức năm thứ 14 (1861), thực hiện chế độ ban thưởng

riêng cho 1487 biền binh hai tỉnh Thanh, Nghệ đến Kinh thao diễn mỗi người 1

quan tiền, 1 đĩnh bạc.

Sự ưu ái đặc biệt này lý giải tại sao trong thời gian cầm quyền của vương triều

Nguyễn, các cuộc khởi nghĩa nổ ra liên tiếp ở Bắc kỳ, Bắc Trung kỳ và Nam kỳ nhưng

không có cuộc khởi nghĩa nào nổ ra ở vùng Thanh Hóa Nghệ An và Hà Tĩnh.

Sự phân chia thứ bậc còn thể hiện ở sự ưu cấp của triều đình đối với binh lính làm nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ vua và Hoàng tộc. Trong định mức của chế lương bổng đối với binh lính, bộ phận thân binh và cấm binh luôn cao hơn các bộ ngạch binh khác. Như nhận định của tác giả Hoàng Lương (2017) về chính sách

lương của binh lính dưới triều Minh Mệnh:“chính quyền Minh Mệnh một mặt vẫn giành sự ưu ái nhất định đối với bộ phận thân binh, cấm binh; mặt khác, yếu tố công bằng trong định lệ chi cấp giữa các ngạch quân bước đầu đầu được chú trọng” [153; 41].

127

Không chỉ có chính sách ưu hậu đối với bộ phận binh lính có quan hệ thân

cận đối với vua mà trong chế độ lương, thưởng còn có sự phân biệt giữa quan lại

cấp cao và quan lại cấp thấp. Điều này thể hiện trong việc lấy phẩm hàm làm tiêu chí định mức lương bổng cho các quan (trong đó có võ quan) của triều Nguyễn.

Theo đó, những võ quan phẩm trật cao đồng nghĩa với mức lương bổng và trợ cấp cao và ngược lại. Trong định mức lương của triều Nguyễn có sự chênh lệnh rất lớn

giữa các phẩm hàm, chẳng hạn dưới triều Minh Mệnh, lương tiền của của Chánh

nhất phẩm 1 năm là 400 quan, Chánh tòng cửu phẩm chỉ được 18 quan (chênh lệch

hơn 20 lần). Phụ cấp may quần áo của Chánh nhất phẩm là 70 quan gấp 18 lần Chánh tòng bát phẩm với 4 quan, không có chế độ ban cấp tiền quần áo cho Cửu

phẩm. Không những thế, trong những ngày lễ - tết chính sách thưởng cũng có sự

chênh lệnh giữa võ quan cao cấp và võ quan cấp thấp, phân biệt giữa võ quan trong

và ngoài kinh thành

Dưới triều Nguyễn, bộ phận quan lại cao cấp từ Tứ phẩm trở lên là bộ phận

có quan hệ mật thiết với vua và hoàng tộc. Bộ phận này hoặc là thuộc dòng dõi nhà

vua hoặc giữ các trọng trách đứng đầu các cơ quan ảnh hưởng trực tiếp tới nền

chính trị của vương triều. Bản chất chính sách này là để bảo vệ quyền lợi của vua và

hoàng tộc. Do vậy, chính sách đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn thể hiện

sự phân chia thứ bậc rõ rệt.

5.2.2. Chế độ đãi ngộ đối với quân đội thể hiện sự quân tâm đặc biệt của triều

Nguyễn đối với quân đội

Sự quan tâm đặc biệt của nhà nước đối với quân đội được thể hiện trước hết

trong chính sách ban thưởng và trợ cấp dành cho võ quan và binh lính có công đối với vương triều. Ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã thực hiện chính sách ưu

cấp cho các công thần.

Công thần dưới triều Nguyễn gồm: trung thần Vọng Các, công thần trung

hưng và công thần khai quốc. Đây chính là những người cùng chúa Nguyễn Ánh chịu nhiều gian khổ khi phải lánh nạn sang Xiêm cũng như sát cánh cùng chúa Nguyễn Ánh lật đổ chính quyền Tây Sơn giành lại quyền làm chủ đất nước cho dòng họ Nguyễn. Khi lấy giành được vương quyền, lập nước, bộ phận quan binh

này nếu không tiếp tục trong quân ngũ thì được các vua từ Gia Long đến Minh Mệnh ban hành những chính sách trợ cấp và ban thưởng ưu hậu.

Chính sách này bao gồm trợ cấp tiền bạc theo định lệ, cho lập thuộc binh và một số trường hợp có công trạng đặc biệt được ban cấp riêng. Những chính sách

128

này không chỉ đảm bảo đời sống cho võ quan và binh lính mà còn thể hiện sự quan

tâm của nhà Nguyễn đối với những người có công khai dựng vương triều.

Dưới thời Minh Mệnh, không chỉ đối với võ quan mà binh lính cũng được nhà nước quan tâm trong đó có vấn đề về lương điền. Khi ruộng đất công bị thu hẹp, để

quản lý ruộng đất cũng như chống lại nạn ẩn lậu ruộng đất của địa chủ, triều đình thực hiện chia lại ruộng đất, định mức lương điền của các thành phần khác trong xã hội thay

đổi nhưng định mức ruộng khẩu phần của binh lính vẫn không thay đổi.

Theo phép quân điền cấp cho binh lính năm Minh Mệnh thứ 17 (1836) và

được cấp lại vào năm Minh Mệnh thứ 21 (1840) mỗi người lính trung bình được cấp 8 sào ruộng lương điền, chưa tính ruộng khẩu phần. Đồng thời vua Minh Mệnh

cũng quy định, sau khi chia đủ số lương điền cho binh lính triều Nguyễn mới ban

cấp cho các thành phần khác trong xã hội.

Sự quan tâm của triều Nguyễn đối với quân đội còn thể hiện ở chế độ phụ

cấp cho võ quan và binh binh lính đi làm nhiệm vụ ở nơi xung yếu, làm việc xa nhà,

làm nhiệm vụ lâu ngày và binh lính phải làm việc trong điều kiện thời tiết khắc

nghiệt. Đối với trường hợp binh lính đi làm việc trong những trường hợp nêu trên

không chỉ được triều Nguyễn ban cấp thêm tiền gạo mà còn được ban cấp quần áo

rét về mùa đông và thuốc men để phòng và chữa bệnh về mùa hè.

Đối với những người lính không may mắn trong khi làm nhiệm vụ triều

Nguyễn thực hiện sự quan tâm bằng chế độ trợ cấp.

Trong xây dựng và bảo vệ đất nước, nếu như việc khao thưởng cho tướng sĩ

có công là việc làm thiết thực để động viên tinh thần những tướng sĩ vừa trải qua

trận mạc thì việc thực hiện chế độ đối với những quan binh trận thương, trận vong và gia đình của họ cũng như chế độ đối với binh lính và võ quan về hưu có ý nghĩa

lớn giúp binh sĩ ổn định cuộc sống, xoa dịu nỗi đau trận mạc của những gia đình có

binh sĩ bị thương vong. Dưới triều Nguyễn, từ đời vua Gia Long nhà nước đã ban

hành những chính sách ưu cấp đối với thương binh và quan binh tử trận.

Khi binh sĩ bị bệnh, nhà nước lập ra các Sở dưỡng tế giao cho quan địa phương quản lý. Đối với binh sĩ tham gia chiến trận, nhà nước cho thầy y đi theo chữa bệnh cho quân lính. Những binh lính chữa khỏi thì cho trở lại

Đối với binh lính bị chết trong quân ngũ bao gồm cả chết bệnh và trận vong trận thương, ngay từ năm Gia Long thứ nhất (1802), nhà nước đã ban hành quy định cho vợ con binh lính chết trận hoặc chết bệnh khi đi tòng quân được 1 mẫu ruộng cày cấy trong vòng 1 năm. Dưới triều Tự Đức, khi nước ta kháng chiến chống Pháp

129

xâm lược triều Nguyễn cho lập trại Dưỡng tế, ban thưởng tiền gạo. Những chính

sách này góp phần đảm bảo sức khỏe giúp binh lính yên tâm hoàn thành nhiệm vụ.

Ngoài ra, đối với những võ quan về hưu và binh lính xuất ngũ cũng nhận được trợ cấp gạo tiền của nhà nước theo tháng, đặc biệt là đối với võ quan về hưu bị

chết cũng được triều đình cấp tuất.

Không chỉ thực hiện những ưu cấp đối với bệnh binh và tử sĩ, việc thực hiện

chính sách ban cấp tiền gạo cho gia đình quan binh hay chính sách trọng thưởng cho

công thần cũng là cách thể hiện sự quan tâm của triều Nguyễn dành cho những

người có công đối với vương triều với đất nước.

Sự quan tâm của nhà nước đối với quân đội của các vua triều Nguyễn còn

được thể hiện qua chính sách đối với những võ quan và binh lính phạm tội. Biểu

hiện rõ nhất ở việc thưởng phạt đối với võ quan phạm tội nhưng lập được công

trạng đối với đất nước. Những trường hợp này thường được phục chức, giữ nguyên

phẩm hàm và được ban thưởng ít hơn so với những quan không có tội.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc khen thưởng được giữ nguyên so

với những võ quan khác. Cá biệt một số trường hợp võ quan phạm tội đi quân thứ

lập được công trạng bị chết cũng được nhà nước ban cấp ưu hậu như trường hợp

được ghi lại trong Châu bản vào năm Tự Đức 11 (1858) khi nhà vua xét cho nguyên

Đề đốc là Hồ Đức Tú bị cách chức được sung làm hiệu lực tiền khu để chuộc tội vì

bị bệnh chết: “Hồ Đức Tú có quân công được ghi kỷ lục 9 lần, nay vì bị bệnh chết,

tình cảnh thật đáng thương…. Châu phê: Nghĩ đến công lao trước gia ân cho Hồ

Đức Tú chuẩn cho khai phục chức Phó vệ uý Cấm binh, chiếu hàm cấp tuất [56; tờ

331, tập 99 năm Tự Đức thứ 11 (1858)].

Sự quan tâm của triều Nguyễn đối với binh lính còn thể hiện ở chế độ đãi

ngộ đối với bộ phận binh lính xuất thân là tù nhân. Đây là một bộ phận trong quân

đội triều Nguyễn nhằm bổ sung số lượng binh lính trong quân đội phục vụ cho việc

chiến đấu hoặc khai hoang mở rộng diện tích đất công điền. Không giống như các triều đại trước, những tù nhân được sung làm lính dưới thời Nguyễn cũng được nhà nước ban cấp lương.

Dưới thời vua Minh Mệnh, triều Nguyễn ban hành định lệ trả lương cho các

tù nhân sung làm lính ở Kinh được cấp mỗi tháng tiền 5 tiền và 1 phương gạo (mức lương của lính chính ngạch là tiền 1 quan gạo 1 phương).

Đến thời vua Thiệu Trị, những chức dịch phạm tội đi sai phái ở quân thứ Trấn Tây còn được hưởng lương giống như những binh lính chính quy khác mối

130

tháng được cấp 1 quan tiền 1 phương gạo. Điều này được nói rõ trong bản tấu của

bộ Hộ ngày 27 tháng 12 năm Thiệu Trị thứ 6: “Tập tâu của quan quân thứ Trấn

Tây Vũ Văn Giải trình: Ngày tháng 5 năm ngoái đã có tập tâu về việc 6 tên chức dịch tỉnh An Giang bị xử đồ phối dịch xin tạm tha cho theo quân thứ sai phái. Xét lệ

lương lính đánh dẹp và lính mộ, khổ sai hiệu lực nếu tòng quân đều cấp một tháng 1 quan tiền 1 phương gạo. Nay bọn chúng đều được sung làm lính nên theo lệ giải

quyết. Vả lại bọn chúng hiện được sai phái phòng thủ đồn Trà Thiết, làm việc vất vả

gian lao. Vả 6 tên này đã được cấp 1 quan tiền, 1 phương gạo theo lệ. Nay xin theo

lệ này cấp tiếp lương gạo cho chúng chờ khi yên bình sẽ giải quyết theo lệ phát binh tại các tỉnh. Bộ thần cung nghĩ phụng chỉ: Tạm phê chuẩn các điều tâu trình, khi

xong việc lập tức giải quyết theo lệ định...” [53; tờ 403 quyển 39 ngày 27 tháng 12

năm Thiệu Trị 6 (1846)].

Ngoài ra, triều Nguyễn còn bỏ án phạt được ghi dưới lý lịch và cho phép các

võ quan phạm tội được hưởng chế độ nguyên hàm đặc biệt là đối với võ quan trận

vong. Dưới triều Nguyễn đã ghi nhận nhiều trường hợp được nhà vua ban ân như

vậy trong đó có Nguyễn Tri Phương. Mặc dù được giao trấn giữ thành Hà Nội, sau

khi lãnh đạo quân triều đình chống Pháp bị thất thủ, Nguyễn Tri Phương bị mắc tội

không hoàn thành nhiệm vụ nhưng đối với võ quan có nhiều ông lao Nguyễn Tri

Phương vẫn được vua Tự Đức ban cấp ưu hậu.

5.2.3. Chế độ đãi ngộ đối với quân đội triều Nguyễn thể hiện sự linh hoạt nhằm đảm

bảo đời sống cho binh lính (đặc biệt là đối với binh lính làm nhiệm vụ chiến đấu)

Khởi tạo nghiệp đế từ quá trình dụng binh nên các vua triều Nguyễn luôn có

ý thức xây dựng một lực lượng quân đội mạnh sẵn sàng chiến đấu bảo vệ chủ quyền quốc gia cũng như quyền lực của dòng họ. Yếu tố quan trọng nhất tạo nên một lực

lượng quân đội mạnh gồm người chỉ huy (võ quan) và quân lính.

Ngay từ thời vua Gia Long, vai trò của binh lính đối với độc lập dân tộc và

ổn định chính trị của đất nước đã được nhà vua khẳng định:“Giữ nước không thể không có quân” [89; 522]. Vua Minh Mệnh cũng từng khẳng định vai trò của quân đội với sự hưng thịnh của đất nước:“Việc binh có thể 100 năm không dùng đến, nhưng không thể một ngày không phòng bị được” [69; 406].

Các vua từ Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đến Tự Đức luôn ý thức xây dựng cho vương triều Nguyễn một lực lượng quân đội mạnh mà việc quan trọng đầu tiên quyết định đến sự vững mạnh của quân đội là có những chính sách kịp thời nhằm đảm bảo những nhu cầu thiết thực cho đời sống của võ quan và binh lính.

131

Trong đó, binh lính là lực lượng đông đảo nhất nên trong các chính sách của nhà

nước, binh lính luôn là đối tượng được ưu tiên.

Trước hết, triều Nguyễn ưu đãi trong việc cấp phát lương đối với binh lính khi tham gia chiến trận. Dưới triều Nguyễn, lương của binh lính bao gồm lương tiền

gạo và lương điền. Đối với lương tiền gạo, binh lính được cấp theo định kỳ 1 hoặc 3 tháng với định mức lương do nhà vua quy định đối với một khu vực như Bắc Kỳ,

Trung kỳ các tỉnh như Gia Định Thanh Nghệ; định mức theo ngạch binh như Thân

binh, Cấm binh hay Tinh binh hoặc theo số lượng công việc cũng như mức độ quan

trọng của công việc được giao.

Những chính sách này được ban hành và hoàn thiện dưới thời vua Gia Long

và Minh Mệnh. Loại thứ 2 mà binh lính được hưởng là ruộng đất. Ngoài ruộng là

lương của quân binh, mỗi người lính còn được nhận ruộng khẩu phần theo lệ ban

cấp cho dân đinh theo phép quân điền.

Đơn cử việc thực hiện phép quân điền và việc cấp ruộng cho binh lính (bao

gồm cả ruộng theo phép quân điền và lương điền) cho binh lính là ở Bình Định.

Đây là địa phương đầu tiên vua Minh Mệnh cho thí điểm chính sách quân điền) vào

năm Minh Mệnh thứ 20 (1839) sau đó thực hiện trong cả nước vào năm 1840. Theo

tác giả Phan Phương Thảo trong Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định qua

tư liệu địa bạ thì: “Dân đinh được 5 sào, 2 thước; lão nhiêu, phế tật được khoảng 2

sào 8 thước 5 phân (1/2 khẩu phần); cô nhi, quả phụ được khoảng 1 sào 13 thước

(1/3 khẩu phần). Trong khi đó mỗi binh lính được nhận khoảng 1 mẫu 3 sào 2 thước

(8 sào lương điền + 5 sào 2 thước khẩu phần), gấp hơn 2 lần khẩu phần của dân

đinh” “với thực trạng tình hình ruộng đất ở Bình Định và với cách chia ruộng công theo phép quân điền 1840 thì binh lính là có lợi nhất” [178; 127].

Mặc dù đã có định lệ cấp tiền và gạo cho binh lính nhưng giá lúa gạo trong

dân gian thay đổi thì các vua triều Nguyễn có sự điều chỉnh trong việc cấp phát

bằng tiền hay bằng gạo theo hướng có lợi cho binh lính.

Khi mất mùa, gạo tăng giá việc nhận tiền để mua gạo khiến binh lính sẽ mua được lượng gạo ít hơn thường lệ, điều đó sẽ gây khó khăn cho binh lính trong việc đảm bảo lương thực hàng ngày. Triều Nguyễn đổi định cho phép binh lính nhận

lương bằng lúa gạo thay vì nhận bằng tiền.

Theo bản tấu của quan Khoa đạo Đổng lý thanh tra tỉnh Quảng Yên Mai Khắc Mẫn tâu lên bộ Hộ về việc cấp phát lương cho binh lính ở tỉnh Hải Dương và Quảng Ninh thì: “Các hạt Hải Dương, Quảng Yên ruộng chưa gieo mạ được đang

132

mong trời mưa, ngày gần đây cầu đảo đã được mưa nhưng còn chưa đủ nước, nay

giá gạo ngoài chợ ở tỉnh Quảng Yên 1 phương giá 2 quan 4 mạch ngày một tăng

lên cao. Vả lại trước đây tỉnh ấy đã được miễn tô thuế năm nay, lương bổng của binh lính ở tỉnh đã xin chiết cấp bằng tiền. Lần này tỉnh Đông chở giao 2 vạn hộc

thóc, kho trữ tưởng đã dư đủ. Nhưng binh lính trong tỉnh đều đến tỉnh Đông mua gạo thì thật là khó khăn. Nay xin lương tính chiếu phát bằng thóc để được đỡ vất

vả” Khâm phụng Thánh dụ: Tất cả binh đinh trong tỉnh được chi cấp lương thực

hàng tháng là bao nhiêu gia ân đều cấp bằng thóc, ngoài ra lương bổng của các

thân viên biền binh, quan lại vẫn theo lệ chiết cấp bằng tiền” [49; tờ 34 quyển 6 ngày 4 tháng 6 năm Thiệu Trị thứ nhất (1841)].

Đến thời vua Thiệu Trị, triều đình cũng phê duyệt việc cấp thưởng bằng thóc

khi giá gạo cao thay vì bằng tiền cho quân lính 11 trạm thuộc Khánh Hòa. Châu bản

triều Nguyễn còn ghi lại“Bộ Hộ phúc trình: Khánh Hòa làm tập tâu trình bày việc

11 trạm thuộc hạt ấy lần được được thưởng gạo xin cho cấp bằng thóc. Sau đó vào

vụ đông giá gạo khá cao nên gạo lương bổng của các quan lại trong hạt trừ các

viên Bố chánh, Án sát, Lãnh binh ra còn lại đều xin cấp bằng thóc. Bộ thần đã tâu

trình vâng được phê bảo. Cung nghĩ phụng chỉ: Hạt ấy những ngày này giá gạo vẫn

cao mà phu các trạm ấy ngày đêm phát chuyển công văn cũng khá gian lao, vì vậy

từ tháng 9 năm nay đến tháng 12 số gạo được thưởng là bao đều gia ân cho cấp

bằng thóc, còn lương bổng của các quan lại tỉnh ấy vẫn y theo lệ chiết cấp bằng

tiền để có sự phân biệt” [50; tờ 253 tập 6 ngày 22 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ nhất

(1841)].

Ngược lại khi giá gạo giảm triều Nguyễn lại đồng ý cấp lương bổng cho binh sĩ bằng tiền chính sách này triều Nguyễn thực hiện đối với cả binh lính ở Kinh cũng

như ở các địa phương.

Đối với binh lính ở Kinh, điển hình như năm Minh Mệnh thứ 14 (1834) trong

văn bản hồi đáp của quan đại thần Nguyễn Khoa Minh có đề cập:“Trước đây vì gạo ở Kinh kỳ đắt nên giáng dụ chuyển tiền lương thành gạo cho binh đinh, lại dịch ở Kinh. Nay giá gạo thấy càng ngày càng cao nên gia ơn chiếu theo số binh đinh đang làm việc lấy toàn bộ số tiền lương 2 tháng 11và 12 (của họ) chuyển thành gạo

cứ 5 mạch được nửa hộc. Ngoài ra căn cứ theo các sắc dịch ấy mà chi cấp để giúp họ sinh sống. Đợi đến mùa xuân sang năm (mọi việc) sẽ lại làm theo như lệ cũ. Vậy truyền thông báo dụ này cho mọi người được biết....” [30; tờ 32, tập 49 ngày 25 tháng 10 năm Minh Mệnh thứ 14 (1833)].

133

Đối với binh sĩ các địa phương, nhà nước cũng có sự điều chỉnh khi định

mức lương tiền gạo ban hành không đủ cho nhu cầu của binh lính khi giá gạo trong

nước lên xuống không cố định. Ví dụ, trường hợp binh sĩ của tỉnh Lạng Sơn:“Bộ Hộ tâu: Lạng Sơn dâng tờ sớ trình bày việc: Đầu tháng 7 đến ngày 11 tháng 8 giá

gạo mỗi phương giảm 5 mạch, hiện tại mỗi phương 2 quan 5 mạch. Lại kèm theo trình bày gạo, lương bổng của biền binh hạt ấy nguyên theo lệ được chiết cấp bằng

tiền, kỳ tháng 5 vì giá gạo tăng cao, khâm phụng minh chỉ gia ân truyền cho từ đầu

tháng 6 đến cuối tháng 8 đều cấp bằng thóc. Nay giá gạo ở hạt ấy đã giảm từ mùng

1 tháng 9 trở về sau biền binh nên chăng theo lệ chiết cấp bằng tiền. Bộ thần vâng xét theo quan tập tâu trình bày thì giá gạo đã giảm, số gạo cần chi cho lương bổng

xin nên đều chiết cấp bằng tiền. Cung nghĩ phụng chỉ: Đều chuẩn cho chiết cấp tiền từ

đầu tháng này trở về sau” [51; tờ 204 quyển 6 ngày 5 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ nhất

(1841)].

Với những chính sách của nhà nước nói trên, chứng tỏ binh lính luôn được nhà

nước đảm bảo một định mức lương thực thực phẩm ổn định, đảm bảo đủ sức khỏe để

có thể tập luyện và chiến đấu. Bên cạnh đó, số lượng ruộng đất của mỗi người lính

được hưởng rõ ràng còn nhằm đảm bảo cho gia đình của binh lính có nguồn lương thực

sinh sống khi người lính là lực lượng lao động chính trong gia đình.

Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đã thể hiện rõ sự ưu ái đối của

nhà nước nhất là đối với võ quan và binh lính trực tiếp tham gia chiến trận và lập

được chiến công.

Trong quân đội triều Nguyễn, không chỉ có quân làm lực lượng ứng trực và

tham gia chiến đấu mà còn có một bộ phận quân phục vụ trong kinh thành và quân tham gia các hoạt động kiến thiết và lao động sản xuất. Việc ban thưởng của triều

Nguyễn cho các thứ quân thường dựa trên công trạng. Đối với những binh lính tham

gia chiến trận lập được chiến công thường được vua thưởng riêng và mức cao hơn

mức thưởng của binh lính tham gia các nhiệm vụ khác như làm sai dịch và ứng trực. Ngoài thưởng chung, võ quan và binh lính có công trạng đặc biệt còn được thưởng riêng. Thậm chí dưới triều Nguyễn, võ quan có can phạm nhưng lập được công lao trong chiến trận cũng được hậu thưởng. Theo thống kê trong các tư liệu

như Châu bản, Thực lục, Hội điển, riêng thời Minh Mệnh đã có tất cả 25 trường hợp như vậy.

Một số trường hợp điển hình như: Năm Minh Mệnh năm thứ 19 (1838), vua dụ viện Cơ mật rằng:“Nguyễn Văn Tình làm việc lầm bậy, hầu đến nổi loạn, tội hắn

134

vốn phải tội nặng, nhưng tạm nghĩ trận đánh ở cửa biển Thuận An năm trước, dự

có quân công, chỉ vì không có học nên đến nỗi thế, tạm chuẩn cho cách chức phát

làm binh cho làm việc chuộc tội, còn như Sô Đôn, thưởng cho 10 đồng Phi long ngân tiền hạng lớn, 2 người thổ mục đi trận ấy, cũng đều thưởng cho 5 đồng tiền

ấy” [93; 253]. Một người khác là Lãnh binh Mai Công Ngôn có chiến công nên cũng được cho thụ chức Chưởng cơ, gia quân công 1 cấp, thưởng 1 đồng kim tiền

Phi long hạng nhỏ và 1 nhẫn vàng mặt ngọc kim cương [92; 560].

5.2.4. Chế độ đãi ngộ dành cho quân đội phản chiếu khách quan bức tranh xã

hội và tiềm lực kinh tế của đất nước.

Chế độ đãi ngộ đối với võ quan, binh lính của vương triều Nguyễn được ra

đời trên cơ sở lực lượng quân đội cụ thể. Chính sách này chịu sự chi phối của tình

hình chính trị, bối cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế và xã hội đất nước thế kỷ XIX.

Đồng thời những chính sách này có tác dụng củng cố nền chính trị, tạo ra môi

trường ổn để phát triển kinh tế và bình yên cho xã hội.

Do đó, chính sách lương bổng và trợ cấp dành cho quân đội dưới triều

Nguyễn với chế độ chính trị, tiềm năng kinh tế và tình hình xã hội là một thực thể

có tác động tương hỗ lẫn nhau.

Trước hết, binh lính là một bộ phận chiếm số lượng không nhỏ trong xã hội,

là lực lượng quan trọng bảo vệ chế độ, chính quyền. Do vậy, những chính sách của

nhà nước đối với võ quan và binh lính, sự coi trọng của nhà nước đối với từng chính

sách trong một thời gian cụ thể sẽ phản ánh khách quan tình hình chính trị đất nước.

Dưới thời Gia Long, khi đất nước mới thống nhất, vương triều mới thành lập

sau thời gian dài nội chiến. Những chính sách về ưu thưởng công lao võ quan có công phò vua lập vường triều, đồng thời với đó là những chính sách nhằm xác lập

quyền lực cai quản đất nước được chú ý: ban hành chế độ lương điền, lương bổng

và cấp tuất đặt cơ sở cho cho chế độ lương, bổng của võ quan và binh lính.

Sang thời Minh Mệnh, khi đất nước được khôi phục và đang trên đà phát triển, những chính sách cho binh lính nhằm ổn định đất nước, thể hiện quyền lực lớn của nhà vua được thực thi như ban thưởng lớn cho võ quan lập chiến công, thưởng và chi cấp cho quan quân đi đánh quân Xiêm, bảo hộ Chân lạp và Lào. Thời

vua Tự Đức, nhất là sau khi Pháp xâm lược Việt Nam vào năm 1858, trước nguy cơ mất vương quyền nền độc lập bị đe dọa triều Nguyễn tập trung ban hành những chính sách về đãi ngộ cho võ quan và binh lính trận vong trận thương và khen thưởng cho võ quan trực tiếp tham gia chiến trận.

135

Tiềm lực kinh tế của đất nước cũng tác động tới chế độ đãi ngộ của triều

đình dành cho quân đội. Khi đất nước bình yên và phát triển thì việc thưởng ưu

hậu cho những võ quan và binh sĩ được thực hiện thường xuyên. Điều này có thể thấy rõ qua những sự kiện ban thưởng cho võ quan có công trong các hoạt

động quân sự hay việc ân thưởng cho võ quan và binh lính trong những dịp lễ tết hay những dịp đại khánh. Thời trị vì của vua Minh Mệnh được xem là thời

kỳ thịnh nhất của vương triều Nguyễn nên việc ban thưởng này diễn ra thường

xuyên và mức ban thưởng lớn. Võ quan lập được chiến công ngoài được thăng

chức tước còn được ban thưởng tiền, vải, ngọc. Trong những dịp tết không chỉ quan cao cấp mà quan thấp cũng được ban thưởng yến tiệc. Nhưng sang thời

Tự Đức, kinh tế khó khăn, Pháp xâm lược nên việc thưởng cho binh lính chủ

yếu là cho những võ quan và binh lính tham gia trận mạc và bệnh binh và tử sĩ.

Cũng như vậy, việc điều chỉnh giảm lương đối với quan trong triều trong đó có

một lực lượng không nhỏ là võ quan dưới thời Tự Đức phản ánh sự khó khăn,

suy giảm về tiềm lực kinh tế của vương triều. Nói như chỉ dụ của nhà vua khi

phải điều chỉnh giảm định mức lương cho binh lính, đây chỉ là chính sách tạm

thời. Điều đó cho thấy đó là giải pháp cực chẳng đã, nhất là trong bối cảnh đất

nước đang chống Pháp, việc giảm lương của võ quan không khỏi ảnh hưởng đến

đời sống vật chất và tinh thần của họ.

Ngoài ra, thực hiện chia lại ruộng quân điền cho binh lính năm 1840 hay ban

thưởng cho binh lính đi khai hoang phán ánh một thực tế là diện tích ruộng đất công

bị thu hẹp ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn thu của triều đình và ngân khố quốc gia.

Vì vậy, triều đình phải thực hiện những biện pháp để mở rộng diện tích ruộng đất công mà chính sách đãi ngộ cho võ quan và binh lính liên quan trực tiếp tới những

biện pháp kinh tế đó.

Chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884 phản

ánh tình hình xã hội thế kỷ XIX. Những chính sách củng cố tổ chức và mở rộng quy mô quân đội cùng với việc quan tâm của nhà nước đối với chính sách lương bổng và trợ cấp, phụ cấp và khen thưởng cho quân đội triều Nguyễn là bức tranh phản ánh hai mặt vừa thể hiện vai trò của quân đội đối với nền chính

trị của đất nước nhưng đồng thời thể hiện nhu cầu của giai cấp cầm quyền muốn giữ sự cai trị của mình trong bối cảnh dưới triều Nguyễn nổ ra rất nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân chống lại triều đình. Đặc điểm của các cuộc nổi dậy này diễn ra ngay từ khi vương triều mới thành lập và kéo dài liên tục trong thế

136

kỷ XIX trên tất cả các vùng miền của đất nước. Số lượng các cuộc khởi nghĩa

nông dân dưới triều Nguyễn nhiều hơn tất cả các cuộc nổi dậy của nhân dân

chống triều đình của các thời kỳ trước.

Việc ban thưởng của các triều vua từ Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đến

Tự Đức cho binh lính đi dẹp các cuộc nổi dậy của nông dân, của binh lính và đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng núi cho thấy tình hình xã hội bất ổn. Chính sách khen

thưởng cho quan đi mộ binh phản ánh tình trạng lính trốn quân ngũ đồng thời phản

ánh tình trạng dân lưu tán khiến cho việc lấy quân lính ở các địa phương khó khăn.

Điều đó lý giải tại sao ngay từ khi lên ngôi, vua Gia Long đã ban hành chính sách lương bổng đối với võ quan và binh lính ở Bắc Thành trong bối cảnh vương triều

còn nhiều khó khăn sau một thời gian dài chiến tranh tàn phá. Thời kỳ ổn định và

phát triển nhất của triều Nguyễn là dưới thời vua Minh Mệnh cũng là thời kỳ nổ ra

nhiều cuộc nổi dậy của nông dân với quy mô lớn và kéo dài mà triều đình phải rất

vất vả nhiều lần đem quân đi đánh dẹp mới có thể dập tắt như khởi nghĩa của Phan

Bá Vành, Nông Văn Văn và Lê Văn Khôi. Sự tăng lương của nhà nước cho võ quan

hay sự ban thưởng ưu hậu của triều đình cho quan binh thời kỳ này cũng phản ánh

tình hình nội trị bất ổn của đất nước.

Trên đây là những tác động của bối cảnh lịch sử, tình hình chính trị kinh tế

văn hóa đối với chế độ đãi ngộ dành cho quân đội của triều Nguyễn. Ngược lại,

chính chế độ lương bổng và trợ cấp cho quân đội có tác dụng lớn nhất đến sức mạnh

của quân đội. Sự lớn mạnh của quân đội sẽ hưởng trực tiếp tới nền chính trị, kinh tế,

xã hội của đất nước. Do đó, chính sách lương bổng và trợ cấp cho quân đội đúng,

phù hợp sẽ tác động trực tiếp tới sự ổn định và phát triển của nền chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta thế kỷ XIX dưới sự cai của vương triều Nguyễn.

5.3.Những tác động của chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn giai

đoạn 1802-1884

5.3.1. Tác động tích cực

Đối với xã hội, dưới triều Nguyễn, binh lính chiếm một số lượng không nhỏ trong xã hội. Chế độ đại ngộ của nhà nước đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho quân đội cũng chính là giúp cho một bộ phận trong xã hội được đảm bảo về

cuộc sống. Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ với võ quan trận vong, trận thương và chế độ ưu cấp đối với gia đình bao gồm cha mẹ và vợ con của binh lính (đặc biệt là gia đình võ quan) - những người thiệt thòi trong chiến tranh phần nào động viên tinh thần của họ giúp họ ổn định cuộc sống. Trên một khía cạnh nào đó chính sách này

137

giúp cho triều Nguyễn duy trì trật tự xã hội.

Đối với cá nhân võ quan và binh lính, chế độ đãi ngộ của nhà nước đã

đảm bảo đời sống cho võ quan và binh lính, động viên họ yên tâm hoàn thành nhiệm vụ. Với định mức lương cho binh lính áp dụng từ năm Gia Long thứ nhất

(1802) mỗi binh lính được cấp mỗi tháng 1 quan tiền, 1 phương gạo và quần áo mỗi năm được cấp phát 2 lần. Đây cũng là định mức phổ biến của binh lính của

các đời vua sau.

Dựa theo bài viết của tác giả Phan Huy Lê (2012) trong nghiên cứu về “Tình

hình khai mỏ dưới triều Nguyễn” trong đó tác giả dẫn theo lời của Piere Pasquier thì dưới triều Nguyễn, 1 phương bằng ½ hộc bằng 13 thăng, mà 1 thăng bằng 2,932 lít,

và hộc bằng 76,226 lít. Tác giả cân 1 lít gạo mùa nặng 880gr, từ đó kết luận, 1

phương gạo bằng 38,113 lít gạo nặng khoảng 32,783 kg [147; 61]. Đồng thời theo

Nguyễn Phan Quang và Đặng Huy Vận (1965), trong định mức thuế năm Gia Long

thứ 11 (1812) thì đương thời “một quan tiền cho ngang một phương gạo”. Quy ra

mỗi người lính dưới triều Nguyễn mỗi tháng được cấp 67 kg gạo. Do đó, các tác giả

Nguyễn Phan Quang và Đặng Huy Vận (1965) nhận định: “Đó không phải là mức

lương quá thấp đối với một người lính. Trái lại chứng tỏ chính sách ưu đãi binh

lính của Gia Long” [164; 21]. Ngoài ra, binh lính còn được cấp ruộng theo chính

sách lương điền và quân điền với định mức khác nhau tùy theo ngạch quân.

(Nguyễn Phan Quang và Đặng Huy Vận (1965). Với chế độ lương tháng (gồm tiền

và gạo) và lương điền, mỗi người lính được nhận rõ ràng là mức lương thể hiện sự

ưu ái của triều đình đối với binh lính, giúp họ có thể yên tâm hoàn thành nhiệm vụ

như nhận định của tác giả Bùi Huy Khánh ( 2018) [141; 87].

Cũng như các triều đại trước, chế độ đãi ngộ dành cho quân đội dưới triều

Nguyễn không chỉ đảm bảo đời sống cho võ quan mà còn củng cố tư tưởng trung

quân ái quốc theo tư tưởng của quan hệ vua tôi trong xã hội phong kiến. Đối với võ

quan, mức lương tính theo định mức dưới triều Tự Đức đã được điều chỉnh giảm xuống nhiều so với triều vua Gia Long và Tự Đức khi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra. Theo đó, cao nhất là Chánh nhất phẩm, mỗi năm được 340 quan tiền, 250 phương gạo, Tòng nhất phẩm mỗi năm được 250 quan tiền 210 phương gạo; Chánh

Tòng cửu phẩm mỗi năm được 18 quan tiền 18 phương gạo. Theo tính toán của Phan Huy Lê, quy ra gạo mỗi năm Chánh Nhất phẩm là 19.341,97 kg gạo, Tòng Nhất phẩm là 15.080,18kg gạo, Chánh Tòng cửu phẩm mỗi năm được 1.180 kg gạo. Như vậy, mỗi tháng quan Chánh nhất phẩm nhận được 1.611kg gạo, Tòng Nhất

138

phẩm nhận được 1.256 kg gạo, Chánh Tòng cửu phẩm mỗi tháng nhận được 98,3 kg

gạo. Với khoản lương quy ra gạo trên, rõ ràng mỗi tháng của quan cao cấp nhận

được là một số lượng gạo lớn nhưng với quan phẩm hàm thấp, số lương nhận được cũng không phải quá cao. Tác giả Phạm Văn Sơn khi cho rằng:“ta thấy quan lại

đời xưa sống quá thanh bạch mặc dù mức sinh hoạt thời đó không cao như ngày nay” [170; 330] có lẽ là muốn nói đến mức lương của võ quan phẩm hàm thấp. Tuy

nhiên, ngoài lương võ quan còn nhận được những khoản thu nhập khác như thưởng

công, thưởng nhân ngày lễ- tết. Trong giai đoạn có chiến tranh, những khó khăn của

nền kinh tế nông nghiệp như lũ lụt, hạn hán chế độ lương của triều Nguyễn đối với võ quan có lẽ vẫn đảm bảo được đời sống cho họ.

Chính vì vậy, triều Nguyễn luôn có rất nhiều tướng tài giỏi nhiều lần cầm

quân giúp vua đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở nhiều địa phương hay lãnh đạo quân đội

triều đình kháng chiến chống thực dân Pháp ở các chiến trường như Tạ Quang Cự,

Nguyễn Công Trứ hay Doãn Uẩn, Nguyễn Tri Phương.

Nguyễn Công Trứ là một trường hợp điển hình trong số đó. Ông lập được

công lớn dưới triều Minh Mệnh như đánh dẹp khởi nghĩa Phan Bá Vành khởi nghĩa

Nông Văn Vân nhưng khi không lập được công trạng ở Trấn Tây, Nguyễn Công

Trứ cũng các võ tướng bị bộ Hình đưa ra xét xử. Theo bản phụng thượng dụ của

Nội các ngày 26 tháng 10 năm Thiệu Trị 1: “Căn cứ vào tập tâu của bộ Hình đưa

ra xét xử nguyên Trấn Tây tướng quân Trương Minh Giảng, Tham tán Dương Văn

Phong, Hiệp tán Cao Hữu Dực và Kinh lược Phạm Văn Điển, Tán lý Nguyễn Công

Trứ làm việc không có công trạng…… Nguyễn Công Trứ truyền chiếu theo chức

hàm hiện tại giáng 3 cấp lưu nhiệm” [34; tờ 68 tập 10, ngày 26 tháng 10 năm Thiệu Trị 1 (1841)]. Sau đó Nguyễn Công Trứ vẫn xin vua cầm quân đi đánh giặc. Ông

cũng góp nhiều công lớn trong đánh quân Xiêm vào năm 1841- 1845. Đến đời vua

Tự Đức thứ 11 (1858), thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng lúc này Nguyễn Công Trứ

đã 80 tuổi nhưng vẫn xin vua cho đi đánh giặc.

Chính những chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đã phần nào cố lòng trung thành đối với võ quan. Đây chính là bộ phận lãnh đạo, là lực lượng quan trọng nhất trong quân đội của triều Nguyễn.

5.3.2. Một số mặt trái của chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho quân đội

Quân lính đông cùng với sự ưu ái của nhà nước đối với quân lính là gánh

nặng cho nền kinh tế đất nước.

Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với quân đội là nhằm xây dựng một lực

139

lượng quân đội vững mạnh, đảm bảo cho sự ổn định chính trị của đất nước. So với các

triều đại trước, chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn có sự kế thừa và hoàn thiện hơn về chế

định và biện pháp thực hiện. Tất nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, những chính sách đối với quân đội của triều Nguyễn cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định.

Như đã trình bày ở chương 2, cùng với việc xây dựng một nhà nước có tính tập quyền chuyên chế, với cách tuyển quân 3 dân đinh lấy 1 lính, triều Nguyễn xây

dựng cho mình bộ tổ chức quân đội đông đảo và tinh nhuệ. Song song với sự hoàn

thiện cơ cấu tổ chức quân đội là chế độ đãi ngộ nhằm đảm bảo đời sống cho binh

lính. Để đảm bảo lương thực duy trì số quân này thực sự là gánh nặng đối với nền kinh tế đất nước.

Thực tế, triều Nguyễn đã thực hiện việc chia ban nhằm giảm thiểu sự chi

cấp của nhà nước cho quân đội nhưng chính sách này chỉ mang tính tức thời.

Gánh nặng này bắt nguồn từ nhiều chính sách của nhà Nguyễn đối với quân đội,

trong đó có chính sách lương điền được ban hành dưới thời vua Gia Long. Khi

mới lập nước, với mục đích tịch thu ruộng đất của phe đối lập, quản lý diện tích

công điền công thổ và đất bỏ hoang thì việc chia cấp ruộng công làm lương cho

binh lính khá phù hợp.

Đến cuối thời Minh Mệnh, trước tình trạng khi ruộng đất công bị thu hẹp,

ruộng đất tư ngày càng nhiều, triều đình phải tiến hành phép quân điền vào năm

1840 nhằm hạn chế sự mở rộng của ruộng đất tư. Chính sách ưu cấp cho binh lính

dẫn đến hiện trạng ruộng lính chiếm đa số ruộng đất công. Điển hình là Bình Định,

tỉnh đầu tiên vua Minh Mệnh cho tiến hành phép quân điền nhưng trước khi chia

ruộng theo phép quân điền, nhà nước tiến hành chia ruộng cho binh lính theo định lệ lương điền ban hành năm 1836.

Theo định lệ này, mỗi binh lính sẽ được chia trung bình 8 sào ruộng. Trong

khi đó theo tổng tính của tác giả Phan Phương Thảo trong Chính sách quân điền

năm 1839 ở Bình Định thì tổng diện tích đất công của tỉnh này năm 1839 khoảng 40.000 mẫu với số lính là 15.000 người. Do đó, ruộng lương điền của binh lính là 12.000 mẫu chiếm 33,3% (tức khoảng 1/3) tổng số ruộng công chưa kể ruộng khẩu phần mà binh lính được hưởng theo chính sách quân điền. Rõ ràng, việc duy trì mức

lương điền cho một đội quân lớn trong khi đó ruộng công điền ngày càng bị thu hẹp đã trở thành gánh nặng đối với vương triều Nguyễn, gây ra gánh nặng đối với nền kinh tế đất nước, cho ngân khố quốc gia.

Ngoài ra, dưới triều Nguyễn, tình trạng thiên tai như vỡ đê, lụt lội, hạn hán, bão

140

liên tiếp xảy ra. Theo thống kê trong Thực lục, từ năm 1803 đến năm 1873 triều Nguyễn

có 49 lần bị thiên tai (Gia Long 12 lần, Minh Mệnh 16, Thiệu Trị 6 lần, Tự Đức 15 lần).

Thiên tai ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng như năng suất cây trồng. Trong bối cảnh đó, những nỗ lực chi dùng tài chính để nuôi một đội quân lớn

chiếm một phần không nhỏ trong ngân khố của quốc gia. Mặc dù không có con số cụ thể về sự tổng thu chi của nhà nước cho quân đội trong một thời gian cụ thể tuy nhiên có thể

lấy việc nhà nước cấp cho thành Trấn Tây làm ví dụ điển hình.

Thành Trấn được vua Minh Mệnh sát nhập vào lãnh thổ Đại Nam năm Minh

Mệnh thứ 15 (1835) từ vùng đất của người Chân Lạp. Trong 6 năm (từ 1835 đến 1841), triều Nguyễn phải huy động một số quân lớn để đánh dẹp sự nổi dậy của

người Chân Lạp và âm mưu chiếm trấn Tây của quân Xiêm. Theo bản tấu của bộ

Binh năm Minh Mệnh thứ 19 (1840) “các loại biền binh cần để lại đồn thú ở thành

gồm 6137 người” [8; tờ 91 quyển số 68 ngày 19 tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 19

(1838)]. Để nuôi số quân này, triều Nguyễn không chỉ cấp tiền và lương thực từ

ngân khố của nhà nước mà còn huy động các tỉnh thành khác cung cấp nuôi quân

lính đi trấn giữ ở thành Trấn Tây. Tháng 6 năm Minh Mệnh thứ 6 (1825), theo bản

tâu về việc cung cấp cho quân thành Trấn Tây của bộ Hộ, số lượng chi được ghi lại

như sau: “cung cấp cho thân biền binh đinh được sai phái đi công vụ, cùng việc sửa

chữa kho tàng và việc cung cấp cho các viên biền đã mất về chôn cất ở quê quán.

Cộng với các khoản khoản đãi vào các ngày lễ tiết, cầu mưa, cầu an... Tính gộp cả

lại từ năm thứ 15 đến năm thứ 19 là thời gian 5 năm này đã chi quá 5049 quan 7

mạch tiền 167 phương gạo…... Căn cứ các khoản hiện khai kiểm tra từng khoản,

nhưng tiến tính gộp hơn 5238 quan 170 phương gạo. Trừ số trước sau chi quá là 5238 quan tiền 170 phương gạo như vậy số tiền còn lại chỉ có 20 văn” [9; tờ số 62

quyển 77, ngày 5 tháng 6 năm Minh Mệnh thứ 21 (1840)].

Ngoài ra, các tỉnh thành như Định Tường, Vĩnh Long, Long Tường phải

cung cấp tiền gạo cho thành Trấn Tây. Cụ thể, tỉnh Định Tường “2 vạn phương gạo” [10; tờ 16 quyển 63 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838)] và 6000 phương gạo [11; tờ 62 quyển 63 ngày 7 tháng 4 nhuận năm Minh Mệnh 19 (1838)], tỉnh Long Tường “rút ngay trong kho của tỉnh mỗi loại tiền ấy là 200 mai, cử người chuyển đến

thành nhận tích trữ để chuẩn bị chi cấp khi cần. Nay thành ấy gửi tư yêu cầu, việc thực khẩn thiết. Tỉnh thần đã rút ngay 306 mai loại lớn và 94 mai loại nhỏ ngân tiền Phi Long trong kho để đủ 400 mai, cử chiến thuyền chở ngay giao cho thành ấy nhận trữ để đủ chi cấp khi cần. Phụng chỉ: Đã biết. Lại truyền cho tỉnh Định Tường

141

rút ra 206 mai loại lớn, 94 mai loại lớn ngân tiền Phi Long hiện đang giữ [12; tờ 47

tập 63 ngày 19 tháng 3 năm Minh Mệnh 19 (1838)], tỉnh Quảng Nam “tiền 1080

quan, gạo hơn 50 phương [13; tờ 330 quyển số 79 ngày 3 tháng 11 năm Minh Mệnh 21 (1840)]; tỉnh Vĩnh Long cũng nhiều lần phải vận chuyển gạo cung cấp cho thành

Trấn Tây như bản tấu của quyền hộ Tổng đốc quan phòng Long Tường, Bố Chánh sứ Vĩnh Long Trương Văn Uyển: “Ngày 26 tháng Giêng năm nay nhận được tư văn của

thành Trấn Tây trình bày: Trước đây thành ấy đã trù tính năm nay tư lấy 3 vạn

phương lương thực của tỉnh thần chuyển giao cho tỉnh An Giang tích trữ để chuyển

đến tỉnh ấy cho đủ dùng. Nay ngoài biên thành hạt ấy có biến, tư xin điều binh lính khá nhiều, đã tư cho tỉnh thần cử ngay chiến thuyền chuyển đến trước 1 hoặc 2 vạn

phương lương thực giao cho tỉnh An Giang nhận tích trữ tiện chuyển đến thành để

kịp cấp phát. Ngày 16 lại nhận được Thượng dụ do bộ Hộ cung lục: Truyền cho

theo số chiến thuyền ở tỉnh có bao nhiêu chiếc nhanh chóng tu sửa cho vững chắc

ngay, tất cả đều liệu số lính nhiều ít mà chở thêm quân nhu, pháo đạn, khí giới.

Chúng thần đã xuất ngay thóc kho sức cho dân phu thuộc hạt xay thành gạo, phái

cử chiến thuyền tiếp tục chuyển giao 2 nơi An Giang, Trấn Tây nhận tích trữ đủ để

cấp phát. Số gạo cần dùng rất nhiều nên thuê dân xay. Cứ xay mỗi hộc thóc thành 1

phương gạo, xin nên chuẩn định thuê tiền công 20 văn, không giải quyết theo lệ

trước” [14; tờ 34 quyển số 63 ngày 1 tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838)].

Chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn không thể ngăn chặn được

tình trạng binh lính trốn khỏi quân ngũ

Tình trạng này càng tăng lên đặc biệt dưới triều vua Tự Đức. Mặc dù triều

Nguyễn đã có những chính sách rất thiết thực nhằm đảm bảo đời cho võ quan và binh lính nhưng dưới triều Nguyễn, rất nhiều đơn vị quân (đặc biệt là các đơn vị

quân ở địa phương) có số lượng binh lính ngày càng giảm sút. Một số đội vệ còn

rất ít để duy trì số quân ngũ theo quy định buộc phải tuyển thêm hoặc tính cách

giải thể hoặc sáp nhập. Biểu hiện này đã được phản ánh qua thống kê về số lượng quân qua các triều vua ở chương 2. Một số tài liệu châu bản cũng phản ánh tình trạng này. Ví dụ tờ 194 tập 58 ngày 28 tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 18 (1837) Bộ binh tấu trình về việc tỉnh An Giang trình bày: “thuộc hạt lính trận lần lượt bỏ trốn

và chết gồm 402 người, cho đốc thúc bổ sung đã đủ ngạch trong tuần tháng 6 năm nay có bổ sung lính thu bỏ trốn và chết ở Trấn Tây và Hà Tiên, mới tuyển gồm 65 người” [4; tờ 194 tập 58 ngày 28 tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 18 (1837)].

142

Ngay cả lính ở Kinh, vệ Tuyển phong là lực lượng được triều Nguyễn ưu ái đến thời

vua Tự Đức cũng thiếu hụt binh lính. Vua Tự Đức đã “ lấy làm lạ hỏi rằng: Lính vệ

Tuyển phong, tiền lương đã hậu, tiến thân lại nhanh, so với các quân khác là hậu hơn cả, sao không có người ứng tuyển, để đến nỗi thiếu ngạch” [ 95;224]

Để khắc phục tình trạng này, triều Nguyễn đã ban hành quy định thưởng phạt đối với những người mộ binh tùy theo số lượng nhiều ít mà võ quan tuyển mộ được.

Tình trạng này được phản ánh rất rõ trong Hội điển nhất là dưới triều vua Tự Đức.

Bên cạnh đó dưới triều Nguyễn còn xảy ra tình trạng lính trốn triều đình cho

quân đi bắt và phạt nặng: “Những lính trốn tự mùa xuân trước lần lượt bắt được, đã vâng chỉ, hễ trốn lần đầu đóng gông 2 tháng, hết hạn lại đánh 100 côn đỏ, giao về

hàng ngũ cũ, lại do bộ ghi lấy họ tên, sau còn trốn sẽ chém ; trốn 2 lần thì phát

vãng đi đất mới Trấn Ninh làm binh. Các lính trốn năm nay thì xin tư ngay cho các

quan địa phương tìm bắt. Những tên bắt được thì xin theo nghiêm chỉ năm ấy tâu rõ

để trừng phạt.” [91; 11-12].

Ngoài ra, để giải quyết tình trạng thiếu binh lính trong quân ngũ, triều đình

đã thực hiện biện pháp bắt lính. Đây là tình trạng chỉ diễn ra dưới triều Nguyễn.

Trong Châu bản, biện pháp này không chỉ được nói tới dưới triều Tự Đức khi số

lượng quân đội ngày càng giảm sút mà dưới thời Minh Mệnh, khi lực lượng quân

đội đông nhất thì vẫn xảy ra tình trạng bắt lính để xung vào quân ngũ. Tờ 78 tập 79

ngày 21 tháng 10 năm Minh Mạng 21 theo lời tấu của bộ Binh về việc tỉnh Vĩnh

Long vâng minh dụ của vua thúc bắt quân hương dũng đủ số 3000 quân cho đến

Trấn Tây sai phái [33; tờ 78 tập 79 ngày 21 tháng 10 năm Minh Mạng 21 (1840)].

Quan lại địa phương thực hiện bắt đủ số binh lính mới được chi cấp lương. Ví dụ, Tờ 170 tập 10 ngày 18 tháng 2 năm Tự Đức 2 tấu về việc Tuần phủ Bình Định Lê

Nguyên Trung làm theo yêu cầu của bộ Binh năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), cuối năm

các Cai tổng, Phó tổng được giao nhiệm vụ thúc bắt lính cuối năm thống kê người

nào đã đủ thì cho theo tháng tiếp tục cấp tiền, gạo. Năm Tự Đức thứ nhất (1848) các viên Cai tổng, Phó tổng thuộc các phủ huyện trong hạt trong năm ngoái thúc bắt lính đều thiếu, năm nay (1849) trong 3 tổng Xuân An, Trung Chính, Nhân Nghĩa , chỉ có tổng Trung Chính đã đủ, tổng Xuân An còn thiếu ít Cai tổng 2 tổng này nên

chi cấp lương. Cai Nhân Nghĩa thiếu nhiều quân dừng cấp lương [55; Tờ 170 tập 10 ngày 18 tháng 2 năm Tự Đức 2 (1848)]

Ngoài ra, bên cạnh phong trào chống triều đình của nông dân và nhân dân vùng dân tộc thiểu số còn có cả phong trào của binh lính chống lại triều đình mà tiêu biểu là

143

cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi (1833-1835) ở Nam Kỳ. Lý giải nguyên nhân này, có

ý kiến cho rằng do quy định về số năm tại ngũ của cả võ quan và binh lính quá dài, hoặc

các cuộc khởi nghĩa nổ ra liên tục dẫn đến việc võ quan và binh lính không có thời gian nghỉ ngơi. Một mặt nào đó tình trạng lính bỏ trốn khỏi quân ngũ chứng tỏ sự bất ổn của

tình hình chính trị cũng như những chính sách của nhà nước đối với binh lính trên thực tế vẫn còn ít nhiều hạn chế ảnh hưởng đến tinh thần của họ.

Nhiều chính sách của chế độ đãi ngộ còn mang tính nhất thời

Thông thường chế độ của nhà nước được hiểu là những quy định được ghi

thành văn bản, được nhà nước ban hành và thực hiện trong thực tế. Tuy nhiên, ngoại trừ một số chính sách như; lương cho võ quan được triều Nguyễn ban hành trong

chế độ chung dành cho quan lại, quân điền cho binh lính và một vài chế độ trợ cấp

với chiến sĩ trận thương, trận vong được ban hành đầu triều Nguyễn, dưới thời vua

Gia Long, hầu hết các chính sách được bổ sung ở các đời vua sau có những chính

sách đến triều Minh Mệnh, thậm chí triều Tự Đức mới được ban hành.

Nhiều định lệ ban hành không phải từ sự bàn bạc hay quyết sách của nhà vua

mà xuất phát từ việc vua ban cấp cho một đối tượng rồi từ đó theo lệ thi hành. Từ

thời Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đến Tự Đức các vị vua nhà Nguyễn đã rất

nhiều lần thực hiện ban thưởng cho quan binh có công đánh dẹp các cuộc nổi dậy và

chống giặc ngoại xâm nhưng không quy chuẩn thành định lệ về định mức thưởng

phạt. Ngay cả chế độ phụ cấp cho binh lính đi sai phái cũng không có quy định rõ

ràng mà triều đình thường dựa vào trường hợp tương tự đã ban cấp để áp dụng cho

những trường hợp sau. Tài liệu Châu bản còn chép về việc bộ Hộ tâu lên vua Minh

Mệnh trường hợp ở tỉnh Quảng Trị: “Tập tâu của tỉnh Quảng Trị trình bầy việc các tên Trần Văn Hòa, Đào Văn Sự nguyên là lính lần này được về tỉnh sai phái, việc

được cấp tiền, gạo bao nhiêu chưa có lệ định. Vâng kiểm tra thấy năm Minh Mệnh

thứ 19 (1838) nguyên có các tên Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Hiến, Võ Văn

Thuyên về tỉnh sai phái đều được cấp hàng tháng tiền 1 quan, gạo 1 phương. Nay bọn Trần Văn Hòa cũng xin cấp lương ăn như vậy để đủ chi dùng. Bộ thần xét thấy các tên về tỉnh sai phái việc cấp tiền, gạo hàng tháng vẫn chưa định thành lệ. Vâng kiểm tra thấy bọn Nguyễn Văn Huyên năm trước về tỉnh Quảng Trị chịu sai phái và

bọn Nguyễn Văn Tuấn gồm 52 tên năm nay được phái giao đến Trấn Tây sai phái đều được cấp mỗi tháng 1 quan tiền và 1 phương gạo. Nay tỉnh đó dựa theo năm trước đã làm trình xin chi cấp nghĩ nên chuẩn cho theo y đã xin. Cung nghĩ phụng chỉ: Chuẩn y lời xin” [52; tờ143 quyển 13 ngày 17 tháng 3 năm Thiệu Trị 1 (1841)].

144

Điều này, một mặt phản ánh sự linh hoạt nhất định trong việc thực hiện chế độ

đãi ngộ cho quân đội, mặt khác, cũng cho thấy tính nhất thời, thậm chí thiếu khả thi trong

việc thực hiện chế độ đãi ngộ dành cho võ quan và binh lính triều Nguyễn mà cơ sở sâu xa là khả năng chi dùng ngân sách ngày càng khó khăn, eo hẹp của vương triều Nguyễn.

Tổ chức quân đội hoàn bị, lực lượng quân đông, chế độ đãi ngộ đối với quân đội toàn diện hơn các triều đại trước nhưng quân đội triều Nguyễn vẫn không ngăn

nổi những cuộc đấu tranh nổ ra liên tục và khắp mọi miền tổ quốc của các tầng lớp

nhân dân. Theo Phan Huy Lê trong Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam tập 3,

trong thời gian từ 1802 đến 1884 có khoảng 450 cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình (Gia Long 73 cuộc, Minh Mệnh 234 cuộc, Thiệu Trị 58 cuộc và Tự Đức

khoảng 100 cuộc). Ngay từ khi vương triều lập ra, nhân dân khắp Bắc kỳ đã nổi lên

chống đối triều đình. Quân đội dưới thời Minh Mệnh đông về số lượng, hoàn chỉnh

về tổ chức và ưu ái về chế độ đãi ngộ nhưng đây lại là thời kỳ nổ ra nhiều cuộc khởi

nghĩa nhất. Trong 7 năm (1840-1847) cầm quyền vua Thiệu Trị cũng phải huy động

lực lượng đánh dẹp tới 58 cuộc khởi nghĩa.

Dưới triều Tự Đức, mặc dù triều đình và nhân dân phải chống ngoại xâm

nhưng khởi nghĩa chống triều đình không vì thế mà suy giảm. Những cuộc nổi dậy

không chỉ đơn thuần là khởi nghĩa nông dân mà còn gồm nhiều thành phần xã hội

khác. Ví dụ cuộc khởi nghĩa Cao Bá Quát (là một trí thức nho học) khởi nghĩa Lê

Văn Khôi (là một võ quan) Vì sao lại có hiện tượng như vậy? Phải chăng quân đội

triều Nguyễn chưa đủ mạnh? Có thể lý giải vấn đề này bằng bối cảnh thành lập và

mục đích xây dựng quân đội của vương triều Nguyễn. Năm 1802 triều Nguyễn

được thành lập bằng một thắng lợi quân sự trước vương triều Tây Sơn để giành chính quyền. Ngay từ khi lên ngôi, triều Nguyễn đã gặp phải sự chống đối của các

phe phái chính trị đối lập khác đặc biệt là cựu thần của dòng họ Lê và triều Tây

Sơn. Để giữ vững uy quyền của dòng họ triều Nguyễn phải xây dựng một lực lượng

quân đội mạnh để bảo vệ vương triều. Do đó quân đội triều Nguyễn bên cạnh bảo vệ độc lập dân tộc thì trấn áp các cuộc nổi dậy để bảo vệ vương quyền là nhiệm vụ không kém phần quan trọng. Ngoài ra, triều Nguyễn còn phải hao tổn sức người sức của để củng cố quân đội nhằm gây thanh thế với các nước láng giềng chống lại âm

mưu xâm lược của quân Xiêm và bảo hộ Lào và Chân Lạp. Đây là lý do giải thích tại sao triều Nguyễn lên cầm quyền gặp lại sự chống đối của nhiều tầng lớp nhân dân như vậy.

145

Tiểu kết chƣơng 5

Chế độ đãi ngộ là một trong những chính sách quan trọng trong việc xây dựng lực lượng quân đội dưới triều Nguyễn. Được xây dựng trên cơ sở kế thừa

những chính sách đối với binh lính của các triều đại trước, các vị vua thời Nguyễn

từ Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đến Tự Đức đã hoàn thiện cho phù hợp với nền

chính trị, tình hình xã hội và tiềm lực kinh tế của đất nước. Trong đó võ quan và

binh lính là đối tượng luôn được được nhà nước quan tâm so với các thành phần

khác trong xã hội. Kết quả lớn nhất của chính sách này là giúp vương triều Nguyễn

quản lý đất nước, giữ được nền thống trị của vương triều.

Bên cạnh những giá trị tích cực, chế độ lương bổng của triều Nguyễn dành

cho quân đội cũng không tránh khỏi những hạn chế như tính giai cấp và sự bất bình

đẳng. Trong chế độ đối đãi ngộ dành cho quân đội, luôn có sự chênh phân biệt lớn

giữa võ quan và binh lính, giữa phẩm hàm cao và thấp, giữa nguồn gốc thường dân

và quý tộc.

Chế độ đãi ngộ dành cho quân đội là nỗ lực lớn của vương triều Nguyễn

nhằm xây dựng chỗ dựa và nền tảng quyền lực cho nhà nước quân chủ chuyên chế.

Tuy nhiên, do khó khăn ngày càng lớn của tình hình tài chính, sự ưu ái của nhà

nước dành cho quân đội thông qua chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp, trợ cấp,

khen thưởng...dần dần bộc lộ mặt trái trở thành gánh nặng cho nền kinh tế xã hội

của quốc gia.

146

KẾT LUẬN

Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về chể độ đãi ngộ của triều Nguyễn

dành cho quân đội, tác giả luận án rút ra một số kết luận sau:

1. Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với quân đội ra đời nhằm xây dựng một đội quân vững mạnh, đảm bảo sự ổn định chính trị của cho giai cấp cầm quyền.

Truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ khi họ Khúc xây

dựng nền tự chủ đến Lý, Trần, Lê Sơ đã chứng minh rằng nền chính trị ổn định là

nền tảng cho sự phát triển kinh tế và văn hóa. Bên cạnh vai trò của vua là người cầm quyền quyết định mọi mặt của đất nước thì một trong những lực lượng giúp vua

thực thi chính sách quản lý đất nước giữ vững sự ổn định (hoặc loạn lạc) của nền

chính trị đó chính là quân đội. Do vậy, ý thức xây dựng một lực lượng quân đội mạnh

và trung thành là yêu cầu thiết yếu của một quốc gia độc lập mà để có được điều đó

thì việc đảm bảo đời sống của võ quan và binh lính cũng như sự động viên cả về vật

chất và tinh thần của nhà nước đối với quân đội là việc làm đặc biệt quan trọng.

Khác với đánh giá trước đây cho rằng quân đội triều Nguyễn yếu kém lạc

hậu, được xây dựng trên nền tảng của một vương triều khủng hoảng trầm trọng. Với

những tư liệu cụ thể và khách quan và đáng tin cậy đã nêu, có thể thấy rằng so với

các triều đại phong kiến trước, cùng với ý thức xây dựng nhà nước tập quyền triều

Nguyễn rất có ý thức xây dựng một lực lượng quân đội chính quy vững mạnh để

đảm bảo sự cầm quyền của dòng họ cũng như sự ổn định của quốc gia dân tộc. Điều

này được minh chứng trước hết trong tổ chức quân đội dưới triều Nguyễn. Vương

triều Nguyễn đã xây dựng được một lực lượng quân đội đông tổ chức hoàn chỉnh hơn so với các vương triều trước với đầy đủ các lực lượng quân như bộ binh, thủy

binh, pháo binh, tượng binh. Trong đó, sự phát triển đặc biệt về tổ chức và số lượng

của Thủy quân của triều Nguyễn so với Thủy quân các triều đại trước cho thấy triều

Nguyễn rất coi trọng việc bảo vệ chủ quyền và an ninh trên biển như nhận định của Nguyễn Tường Phượng (1950) [161; 86], Đỗ Văn Ninh (1993) [155; 60], Hoàng Lương (2016) [1153; 52]...

Nội dung của chế độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn qua các

triều vua từ Gia Long đến Tự Đức ngày càng được hoàn thiện hơn so với các triều đại trước đó. Trên thực tế, định mức được ban cấp và các biện pháp nhằm trợ cấp đãi ngộ cho quân đội dưới triều Nguyễn đã đảm bảo phần nào đời sống vật chất cho binh lính. Thực tế chính sách lương bổng và trợ cấp của võ quan đối với quân đội

147

triều Nguyễn không hoàn toàn giống như nhận định trước đây của một số nhà

nghiên cứu khi cho rằng: Quân lính bị triều đình bạc đãi, võ quan bị triều đình xem

rẻ. Trên thực tế, nguyên nhân thất bại của quân đội triều Nguyễn đối với thực dân Pháp bắt nguồn bắt nguồn từ sai lầm trong đường lối kháng chiến, sự thiếu quyết tâm kháng chiến của bộ phận lớn quan quân triều đình và sự thiếu chỗ dựa từ sức mạnh đại đoàn kết của nhân dân.

Nguyên nhân thất bại của quân đội triều Nguyễn trước thực dân Pháp bắt

nguồn từ tư duy chiến thuật vẫn còn theo binh pháp truyền thống, dù đã tiến bộ hơn

thời kỳ trước nhưng trang bị vũ khí còn thô sơ và tư tưởng chủ hòa của vua quan

phong kiến, sự thiếu chỗ dựa từ sức mạnh đại đoàn kết của nhân dân đã ảnh hưởng tới quyết tâm kháng chiến đến cùng của triều Nguyễn.

2. Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn cho võ quan và binh lính có tác động không nhỏ đến bộ phận binh lính - lực lượng có vai trò trực tiếp đối với sự ổn định

chính trị của quốc gia. Trong đó, chế độ lương cho quan binh là chính sách quan

trọng đảm bảo đời sống vật chất cho binh lính tập luyện và chiến đấu, duy trì sự ổn

định của quân đội. Các hình thức phụ cấp và trợ cấp đặc biệt là trợ cấp cho binh lính

khi đi làm nhiệm vụ có ý nghĩa động viên kịp thời tinh thần giúp họ hoàn thành tốt

nhiệm vụ. Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với binh lính tham gia trận mạc,

những người có công với vương triều, những bệnh binh, tử sĩ, đối tượng như vợ

góa, con côi của binh lính trận vong thực sự có ý nghĩa tích cực, phần nào ổn định

đời sống cho một bộ phận dân chúng đồng thời ở một khía cạnh nhất định đã thể

hiện tư tưởng nhân văn dưới sự cai trị của triều Nguyễn.

3. Chế độ đãi ngộ của vương triều Nguyễn dành cho võ quan và binh lính có thể hiểu rõ hơn tình hình chính trị, tiềm lực kinh tế, sự ổn định hoặc bất ổn của xã

hội đương thời, đặc biệt là đối với những chính sách được nhà nước ưu tiên thực

hiện dưới mỗi triều vua hoặc trong một bối cảnh lịch sử nhất định. Khi mới thành lập vương triều, để ổn định tình hình đất nước, khẳng định sự cai trị của dòng họ, đồng thời đáp lại công lao của những người có công đối với vương triều, vua Gia Long đã có nhiều chính sách thể hiện sự quan tâm đối với vùng đất Bắc Hà và các công thần, võ tướng. Sang thời Minh Mệnh, để củng cố nền chính trị và sự lớn mạnh của vương triều, nhà vua thực hiện việc điều chỉnh tăng định mức lương, ban thưởng hậu hĩnh cho những binh sĩ có công đối với đất nước đặc biệt là bộ phận võ quan đã giúp triều đình dập tan sự nổi dậy của các thế lực chống đối. Dưới triều Tự

Đức, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nổ ra, chế độ đãi ngộ đối với

148

những binh lính bị bệnh, trận thương, trận vong lại được nhà nước đặc biệt quan

tâm. Có thể nói, chế độ đãi ngộ của nhà nước đối với quân đội phần nào giúp chúng

ta hình dung rõ hơn về bức tranh về đời sống chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam trong thế kỷ XIX dưới sự cai trị của triều Nguyễn.

4. Chế độ đãi ngộ dành cho quân đội dưới triều Nguyễn có một số hạn chế như thể hiện sự phân biệt rõ rệt giữa các phẩm trật và nguồn gốc xuất thân của binh

lính. Việc ban cấp từ định mức lương hàng tháng đến thưởng cho quan quân nhất là

võ quan triều Nguyễn đều dựa trên phẩm trật cao thấp, càng phẩm trật cao thì càng

được hưởng bổng lộc lớn. Ngoài ra, định lệ mức lương của binh lính triều Nguyễn dựa theo tiêu chí người trong và ngoài tông thất mà không dựa trên công trạng cụ

thể cho thấy quan điểm rõ ràng của nhà nước nhằm bảo vệ bộ phận quan lại cao cấp

cũng như lợi ích của bộ phận xuất thân từ hoàng tộc và những người có công lao đối

với dòng họ Nguyễn. Những chính sách này có giá trị động viên tinh thần đối với

người được ban cấp nhưng mặt trái của nó là làm tăng thêm sự bất bình đẳng, khoét

sâu thêm những mâu thuẫn trong xã hội nhất là đối với những lực lượng luôn có tư

tưởng chống đối lại sự cai trị của triều Nguyễn như các cựu thần và con cháu của

dòng họ Lê - Trịnh ở Bắc Hà, nhân dân vùng dân tộc thiểu số. Đây là những mâu

thuẫn nội tại của nhà Nguyễn ngay từ khi vương triều được thành lập và sẽ là một

trong những nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu của vương triều Nguyễn nhất là dưới

thời kỳ nước Đại Nam phải đối mặt với sự xâm lược của thực dân Pháp.

Mặc dù đã cố gắng thực thi nhiều biện pháp để đảm bảo động viên tinh thần

của võ quan và binh lính nhưng chế độ đãi ngộ dành cho quân đội dưới triều

Nguyễn không tránh khỏi một số hạn chế trong nội dung chủ trương cũng như quá trình triển khai thực hiện. Trong đó, nhiều quy định được ban hành xuất phát từ việc

ban cấp cho một đối tượng cụ thể rồi mới đặt thành định lệ thi hành với những

trường hợp tương tự. Ngoài ra, chế độ đãi ngộ dành cho quân đội dưới triều Nguyễn

vẫn không thể tránh khỏi tình trạng lính trốn quân ngũ và sự suy giảm về số lượng do không tuyển được binh lính, đặc biệt là dưới triều vua Tự Đức. 5.Những chính sách đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn không chỉ có ý nghĩa đối với đương thời mà còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong

việc tổ chức và xây dựng lực lượng quân đội hiện nay.

Chế độ khen thưởng của nhà nước dành cho quân đội hiện nay đã có nhiều điểm mới và tiến bộ. Tuy nhiên, trong xây dựng chính sách rất cần tham chiếu những biện pháp đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho những binh sĩ hoàn thành

149

nhiệm vụ hoặc có công trạng đặc biệt. Trong chính sách khen thưởng cần có sự

phân biệt giữa các nhiệm vụ và lấy tiêu chí về hiệu quả công việc và mức độ quan

trọng đối với nền an ninh, quốc phòng để xem xét đánh giá.

Kinh nghiệm lịch sử từ việc nghiên cứu đề tài cho thấy, chế độ tiền lương và

phụ cấp phải đảm bảo được mức sống cho quân đội, phù hợp với bối cảnh đất nước và điều kiện kinh tế quốc gia. Đồng thời, nhà nước phải có chế độ phụ cấp thêm cho

những binh lính đi làm nhiệm vụ như phí đi đường, phụ cấp khi đi làm nhiệm vụ lâu

ngày, phụ cấp cho binh sĩ đi là nhiệm vụ ở những vùng biên giới hoặc làm việc

trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Đối với những người lính đi làm những nhiệm vụ đặc thù như vậy, nhà nước cần có những chế độ phụ cấp riêng đảm bảo cho họ

yên tâm công tác như tiền, gạo, quân trang quân dụng và y tế. Chế độ này có ý

nghĩa thiết thực đối với binh sĩ đang đóng quân ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới

hải đảo hiện nay.

Khảo cứu chế độ trợ cấp của triều Nguyễn dành cho binh lính trận thương,

trận vong, bị bệnh hay tai nạn cũng như biện pháp trợ cấp cho gia đình cha mẹ vợ

con của binh lính còn cho thấy đó là những chính sách có ý nghĩa nhân đạo, rất cần

cho nhà nước Việt Nam hiện nay tham khảo trong việc xây dựng chính sách đối với

thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng hàng năm.

150

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu thƣ tịch 1.Đặng Xuân Bảng (2000), Việt sử cương mục tiết yếu (bản dịch), Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

2.Phan Huy Chú (2018), Lịch triều hiến chương loại chí (bản dịch), tập I,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

3.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 101 tập 1, ngày 14 tháng 3 năm Gia

Long thứ 4 (1805), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

4.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 99 tập 2, ngày 17 tháng 11 năm Gia

Long thứ 11 (1813), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

5.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 167 tập 3, ngày 30 tháng 8 năm Minh

Mệnh thứ 2 (1821), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

6.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 64 tập 39, ngày 19 tháng 1 năm Minh

Mệnh thứ 11(1830), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

7.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 221 tập 39, ngày 21 tháng 2 năm

Minh Mệnh thứ 11 (1830), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

8.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 91 tập 68, ngày 19 tháng 4 năm

Minh Mệnh thứ 19 (1838), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

9.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ số 62 quyển 77, ngày 5 tháng 6 năm

Minh Mệnh thứ 21 (1941), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

10.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 16 quyển 63, năm Minh Mệnh thứ

19 (1838), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

11.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 62 quyển 63, ngày 7 tháng 4 nhuận

năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

12.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 47 tập 63, ngày 19 tháng 3 năm

Minh Mệnh 19 (1838), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

13.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 330 quyển số 79, ngày 3 tháng 11

năm Minh Mệnh 21 (1840), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

14.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 34 quyển số 63, ngày 1 tháng 3

năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

15.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 70 tập 78, ngày 27 tháng 6 năm

Minh Mệnh 21(1840), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

16. Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 65 tập 65, ngày 08 tháng 2 Minh

Mệnh năm thứ 19 (1838), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

17. Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 24 tập 19, ngày 07 tháng 8 năm

Minh Mệnh thứ 7 (1826), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

18.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 48 tập 79, ngày15 tháng 10 năm

Minh Mệnh 21 (1840), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

151

19.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 94 tập 78, ngày 29 tháng 6 năm

Minh Mệnh thứ 21 (1840), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

20.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 258 quyển 77, ngày 2 tháng 6 năm

Minh Mệnh thứ 21 (1840), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

21.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 402 tập 36, ngày 28 tháng 10 năm

Minh Mệnh 10 (1829), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

22.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 45 tập 31, ngày tháng 8 năm Minh

Mệnh 10 (1829), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

23.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 90 tập 58, ngày 22 tháng 7 năm

Minh Mệnh thứ 18 (1837), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

24.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 87 tập 73, ngày 5 tháng 11 năm

Minh Mệnh thứ 19 (1838), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

25.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 121 quyển 10, ngày 1 tháng 9 năm

Minh Mệnh thứ 6 (1825), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

26.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 83 quyển 10, ngày 2 tháng 5 năm

Minh Mệnh thứ 6 (1825), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

27.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tập 49 ngày 25 tháng 10 năm Minh

Mệnh thứ 14 (1833), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

28. Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 288 tập 19, ngày 16 tháng 10 năm

Minh Mệnh thứ 7 (1826), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I

29.Châu bản triều Nguyễn, (bản dịch), tờ 31 tập 39, ngày 12 tháng 1 năm

Minh Mệnh thứ 11 (1830), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

30.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 32 tập 49, ngày 25 tháng 10 năm

Minh Mệnh thứ 14 (1833), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

31.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 92 tập 54, ngày 13 tháng 7 năm

Minh Mạng 16 (1835), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

32.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 245 tập 57, ngày 13 tháng 7 năm

Minh Mạng 18 (1837) bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

33.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 78 tập 79, ngày 21 tháng 10 năm

Minh Mệnh 21(1840), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

34.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 68 tập 10, ngày 26 tháng 10 năm

Thiệu Trị thứ nhất (1841), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

35.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 75 quyển 22, ngày 3 tháng 12 năm

Thiệu Trị 2 (1842), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

36.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 47 quyển 40, năm Thiệu Trị thứ 4

(1844), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

37.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 123 quyển 35, năm Thiệu Trị thứ 6

(1846), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

38.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 64 quyển 40, ngày 8 tháng 2 năm

152

Thiệu Trị 7 (1847), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

39.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 34 quyển 48, ngày 17 tháng 6 năm

Thiệu Trị 7 (1847) , bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

40.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 380 quyển 37, ngày 28 tháng 5 năm

Thiệu Trị thứ 6 (18, bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

41.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 46 quyển 33, ngày tháng 5 năm

Thiệu trị thứ 6, bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

42.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 77 quyển 40, ngày 14 tháng 2 năm

Thiệu Trị thứ 7 (1847) , bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

43.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 9 quyển 43, ngày 1 tháng 4 năm

Thiệu Trị 7 (1847) , bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

44.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 34 quyển 33, ngày 10 tháng 5 năm

Thiệu Trị thứ 6 (1846), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

45.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 155 quyển 7, ngày 13 tháng 3 năm

Thiệu trị thứ 1 (1841), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

46.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 153 quyển 30, ngày 20 tháng 3 năm

Thiệu Trị thứ 5 (1845), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

47.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 4 tập 21, ngày 9 tháng 1 năm Thiệu

Trị thứ 2 (1842), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

48.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 181 quyển 7, ngày 19 tháng 3 năm

Thiệu Trị thứ nhất (1841), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

49.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 34 quyển 6, ngày 4 tháng 6 năm

Thiệu Trị thứ nhất (1841), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

50.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 253 tập 6, ngày 22 tháng 9 năm

Thiệu Trị thứ nhất (1841) bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

51.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 204 quyển 6, ngày 5 tháng 9 năm

Thiệu Trị thứ nhất (1841), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

52.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 143 quyển 13, ngày 17 tháng 3 năm

Thiệu Trị thứ nhất (1841), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

53.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 403 quyển 39, ngày 27 tháng 12

năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) , bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

54.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 49 tập 11, ngày 10 tháng 2 năm Tự

Đức thứ 2 (1842), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

55.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 170 tập 10, ngày 18 tháng 2 năm

Tự Đức 2 (1848) bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

56.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 331 tập 99, năm Tự Đức thứ 11

(1858), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

57.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 292 tập 338, ngày 30 tháng 02 năm

Tự Đức 32 (1879), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

153

58.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 56 tập 25, ngày 8 tháng 4 năm Tự

Đức thứ 4 (1851), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

59.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 96 tập 152, ngày 5 tháng 6 năm Tự

Đức thứ 16 (1863), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

60.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch) tờ 68, quyển 10 năm Thiệu Trị thứ

1(1841), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.

61.Cao Xuân Dục (1998), Quốc triều chính biên toát yếu (bản dịch), Nxb

Thuận Hóa, Huế.

62.Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục (bản dịch), Nxb Văn hóa Thông

tin, Hà Nội.

63.Lê Quý Đôn (2015) Phủ biên tạp lục (bản dịch) Nxb Đà Nẵng. 64.Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (2013), Đại việt sử kí toàn thư (bản

dịch), Nxb Thời đại, Hà Nội.

65.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản

dịch), tập I, Nxb Thuận Hóa, Huế.

66.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản

dịch), tập II, Nxb Thuận Hóa, Huế.

67.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản

dịch), tập III, Nxb Thuận Hóa, Huế.

68.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản

dịch), tập IV, Nxb Thuận Hóa, Huế.

69.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản

dịch), tập V, Nxb Thuận Hóa, Huế.

70.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản

dịch), tập VI, Nxb Thuận Hóa, Huế.

71.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản

dịch), tập VII, Nxb Thuận Hóa, Huế.

72.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản

dịch), tập VIII, Nxb Thuận Hóa, Huế.

73.Nội các triều Nguyễn (2004), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên

(bản dịch), tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

74.Nội các triều Nguyễn (2004), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên

(bản dịch), tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

75.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên

(bản dịch), tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

76.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên

(bản dịch), tập IV, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

77.Nội các triều Nguyễn ( 2007), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên

(bản dịch), tập V, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

154

78.Nội các triều Nguyễn (2006), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên

(bản dịch), tập VI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

79.Nội các triều Nguyễn (2009), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên

(bản dịch), tập VII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

80. Nội các triều Nguyễn (2009), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên

(bản dịch), tập VIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

81.Nội các triều Nguyễn (2012), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên

(bản dịch), tập IX, Nxb Thuận Hóa, Huế.

82.Nội các triều Nguyễn (2012), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên

(bản dịch), tập X, Nxb Thuận Hóa, Huế.

83.Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện (bản dịch), tập I,

Nxb Thuận Hóa, Huế.

84.Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện (bản dịch), tập II,

Nxb Thuận Hóa, Huế.

85. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện (bản dịch), tập

III, Nxb Thuận Hóa, Huế.

86.Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện (bản dịch), tập

IV, Nxb Thuận Hóa, Huế.

87.Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Minh Mệnh chính yếu (bản dịch), Nxb

Thuận Hóa, Huế.

88.Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí (bản dịch),

tập I, Nxb Thuận Hóa, Huế.

89.Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập I,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

90.Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập II,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

91.Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập III,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

92.Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập IV,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

93. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập V,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

94.Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập VI,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

95. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập VII,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

96.Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập

VIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

97.Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập IX,

155

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

98.Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập X,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

99.Quốc sử quán triều Nguyễn (2000), Trần Văn Quyền dịch và chú giải, Minh Mệnh ngự chế văn (bản dịch), Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu Hán Nôm.

100. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007) Khâm định Việt sử thông giám

cương mục (bản dịch) tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

101.Viện Hán Nôm (dịch), (2018) Đại việt sử ký tục biên (bản dịch), Nxb

Hồng Đức, Thanh Hóa.

B. Tài liệu nghiên cứu tiếng Việt 102.Võ Hương An (2020) Từ điển nhà Nguyễn, Nxb Tổng hợp Thành phố

Hồ Chí Minh.

103.Alexander Barton Woodside (2002), “Chính quyền trung ương triều Nguyễn và nhà Thanh: Cơ cấu quyền lực và quá trình giao tiếp”, Những vấn đề lịch sử Việt Nam, Bán nguyệt san Xưa và Nay, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.201-248.

104.Nguyễn Quan Ân (1995), Tướng quân Doãn Nỗ và họ Doãn trong lịch

sử, Nxb Hà Nội.

105.Nguyễn Thế Anh (2008), Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều

Nguyễn, Nxb Văn học, Hà Nội.

106.Huỳnh Công Bá, Huỳnh Văn Nhật Tiến (2014), Định chế hành chính và

quân sự triều Nguyễn (1802-1885), Nxb Thuận Hóa, Huế.

107.Huỳnh Công Bá (2017), Định chế pháp luật và tố tụng triều Nguyễn

(1802-1885), Nxb Thuận Hóa, Huế.

108.Đỗ Bang (2001),“Tình hình lũ lụt ở Quảng Nam vào thế kỷ XIX và những biện pháp cứu trợ của triều Nguyễn 1802 -1884”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3 năm 2001.

109.Đỗ Bang (Chủ biên) (1997), Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai

đoạn 1802-1884, Nxb Thuận Hóa, Huế.

110.Đỗ Bang (Chủ biên) (1998), Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà

nước triều Nguyễn, những vấn đề đặt ra hiện nay, Nxb Thuận Hóa, Huế.

111.Đỗ Bang (2002), “Triều Nguyễn sau 200 năm nhìn lại”, Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời Nguyễn ở Đại học, Cao đẳng sư phạm và phổ thông, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia, Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội.

112.Đỗ Bang (2011), Hệ thống phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn,

Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

113.Đỗ Bang, Đinh Xuân Lâm (1999), Tư tưởng canh tân đất nước dưới

triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.

156

114.Đỗ Bang, Trương Hữu Quýnh, Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân (1997), Tình

hình ruộng đất và đời sống Việt Nam dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.

115. Bảo tàng Hà Tĩnh (2017) Văn bia Hà Tĩnh, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

116.Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại Thành phổ Hồ Chí Minh (1995), Những

vấn đề văn hóa xã hội thời Nguvễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

117.Hà Duy Biển (2015), “Định mức lương bổng của quan lại Bộ Binh dưới

triều Minh Mệnh (1820-1840)”, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 2 (278), tr.51-56.

118.Hà Duy Biển, Tổ chức và hoạt động của bộ Binh dưới triều Minh Mệnh (1820 - 1840), Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học KHXH&Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội), Hà Nội.

119.Bộ Ngoại giao, Ủy ban biên giới quốc gia, (2019) Tuyển tập các châu bản triều Nguyễn về việc thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb Trí thức, Hà Nội.

120. Bùi Hạnh Cẩn, Nguyễn Loan, Lan Phương (1995), Những ông nghè,

ông cống triều Nguyễn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

121. Lê Quang Chắn (2015) Chính sách xã hội triều Nguyễn giai đoạn 1802- 1884, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện khoa học xã hội, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.

122. Lê Tiến Công (2017), Tổ chức phòng thủ và hoạt động bảo vệ vùng biển miền trung dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

123. Cục Lưu trữ nhà nước (1998), Mục lục châu bản triều Nguyễn, Tập I,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

124.Cục Lưu trữ nhà nước (2010), Mục lục châu bản triều Nguyễn, Tập II,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

125.Phan Đại Doãn - Nguyễn Minh Tường (1998), Một số vấn đề về quan

chế triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.

126.Đinh Thị Dung (2000), Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX, Luận án Tiến sĩ lịch sử, Trường Đại học KHXH& Nhân văn (ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh), Tp Hồ Chí Minh.

127.Lê Thị Kim Dung (2000), “Thực chất của chính sách “Bế quan tỏa cảng” dưới triều Minh Mệnh (1820-1840)”, Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, Số 2 (Chuyên san Khoa học xã hội), Tập XVI, Tr.1-11.

128.Nguyễn Hồng Dương, Phan Đại Doãn (1990), Sơ thảo lịch sử bảo vệ an

ninh quốc gia và giữ gìn trật tự xã hội Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

129.Nguyễn Văn Đăng (2004), “Ngành đóng tàu thuyền ở Huế thời

Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6.

130. Nguyễn Đoàn (1967), Tìm hiểu về bưu chính đời Gia Long, Minh Mệnh,

157

Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 9.

131.Trần Văn Giàu (1958), Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà

Nguyễn trước 1858, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

132.Trần Văn Giàu (1956), Chống xâm lăng (Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến

1898), Nxb Xây dựng, Hà Nội.

133.Nguyễn Sĩ Hải (1962), Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn Sơ (1802-1847), Luận án Tiến sĩ pháp lý, Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn, Sài Gòn. 134.Đỗ Mạnh Hàm (biên chép), Nguyễn Công Trứ gia đình tàng cảo, ký hiệu

VHv.327, Viện nghiên cứu Hán Nôm.

135.Vĩnh Hồ (1989), “Tổ chức quân đội và vũ khí quân dụng của Việt Nam

dưới triều Nguyễn”, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 7.

136.Lê Thị Thanh Hòa (1995), “Việc sử dụng quan lại của vương triều

Nguyễn từ 1802 đến 1884”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 3, Tr.56-63.

137.Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2008), Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Nxb. Thế giới, Hà Nội. 138.Đỗ Đức Hùng (1997), Vấn đề trị thủy ở đồng bằng Bắc Bộ dưới triều

Nguyễn thế kỷ XIX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

139.Trần Trọng Kim (2008), Việt Nam sử lược, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 140. Bùi Gia Khánh (2013), “Thủy quân triều Nguyễn dưới thời vua Gia

Long và Minh Mệnh”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7.

141.Bùi Gia Khánh (2018), Thủy quân triều Nguyễn (1802-1884), Nxb

Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.

142.Phan Khoang (1948), Việt –Pháp bang giao sử (từ thế kỷ XVII đến đầu

thế kỷ XX, Nxb Thuận hóa, Huế.

143.Nguyễn Cảnh Minh (chủ biên) (2008), Lịch sử Việt Nam tập III, Nxb

Đại học Sư phạm, Hà Nội.

144.Nguyễn Trọng Minh (2016), “Tìm hiểu về quân đội triều Nguyễn giai đoạn 1858 - 1884”, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 19, số XI/2016. 145.Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (2007), Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 8

(Hoạt động quân sự từ năm 1802 đến năm 1896), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

146. Dương Đình Lập (chủ biên) (2014), Lịch sử tổ chức quân sự Việt Nam,

Tập 2 (1400-1930), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

147.Phan Huy Lê (1963), “Tình hình khai mỏ dưới triều Nguyễn” Tạp chí

Nghiên cứu lịch sử số 53.

148.Phan Huy Lê, (1965) Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập II, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

149.Phan Huy Lê, (1965) Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập III, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

150.Phan Huy Lê, chủ biên (2012), Lịch sử Việt Nam gồm tập I và tập II,

158

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

151.Ngô Thế Long dịch và chú thích (2006), Đặng gia phả hệ toản chính

thực lục và Đặng gia phả ký tục biên Lương Xá –Hà Tây, Nxb Thế giới, Hà Nội.

152.Hoàng Lương (2016) “Tuyển mộ binh lính dưới triều Minh Mệnh 1820-

1840”, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 297.

153.Hoàng Lương (2017), “Định lệ chi cấp binh lương dưới triều Minh

Mệnh (1820- 1840)”, Tạp chí Lịch sử quân sự số 308.

154.Đỗ Văn Ninh (1993), “Quân đội nhà Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu lịch

sử, số 6, Tr.45-53.

155. Đỗ Văn Ninh (2002), Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 156.Nhiều tác giả (2002), Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt

Nam, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế và Tạp chí Xưa & Nay, Huế.

157. Nhiều tác giả (2002), Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều Nguyễn, Sở Khoa học-Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên Huế, Trung tâm Bào tồn di tích cố đô Huế.

158. Nhiều tác giả (2005), Lịch sử nhà Nguyễn, một cách tiếp cận mới, Nxb

Đại học Sư phạm, Hà Nội.

159.Nguyễn Danh Phiệt (1993),“Suy nghĩ về bộ máy Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền nửa đầu thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6, tr.13- 20.

160. Phạm Ái Phương (1998),“Khoa học quân sự triều Minh Mệnh trước ảnh

hưởng của phương Tây”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5.

161.Nguyễn Tường Phượng (1950), Lược khảo binh chế Việt Nam qua các

thời đại, Nxb Ngày mai, Hà Nội.

162.Emmanuel Poisson (2006), Quan và lại ở miền Bắc Việt Nam - Một bộ máy hành chính trước thử thách (1820-1918), Đào Hùng và Nguyễn Văn Sự dịch, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

163.Nguyễn Phan Quang, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh (1980),

Lịch sử Việt Nam (1428-1858), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

164.Nguyễn Phan Quang, Đặng Huy Vận (1965), “Tìm hiểu chế độ lao dịch

và và binh dịch dưới triều vua Gia Long”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 80.

165.Vũ Văn Quân (1991), Chế độ ruộng đất - Kinh tế nông nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, Luận án Phó Tiến sĩ Sử học, Trường Đại học KHXH& Nhân văn (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.

166.Trương Hữu Quýnh - Đỗ Bang (1997), Tình hình mộng đẩí nông nghiệp

và đời sổng nông dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hoá, Huế.

167.Hồ Đình Sắc- Hồ Bá Thâm (2017), Họ Hồ Quỳnh Bảng, Nxb Nghệ An,

Nghệ An.

168.Trần Đức Anh Sơn (1994), “Một số đính chính về niên đại các vua triều

159

Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4.

169.Trần Đức Anh Sơn (2011), Nghề đóng thuyền và tàu thuyền ở Việt Nam

thời Nguyễn, Tạp chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, số 1, 2.

170. Phạm Văn Sơn (1961), Việt sử tân biên, Quyển IV (Từ Tây Sơn mạt

điệp đến Nguyễn sơ), Nxb Đại Nam, Sài Gòn.

171.Nguyễn Hữu Tâm (2008), “Khái quát tình hình nghiên cứu lịch sử triều Nguyễn của các học giả Trung Quốc từ đầu thế kỷ XXI đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 391, 392.

172.Trần Thanh Tâm (1996), Tìm hiểu quan chức nhà Nguyễn, Nxb Thuận

Hóa, Huế.

173.Văn Tạo (1993), “Sơ bộ nhận thức về nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX”,

Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6.

174.Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (1993), Chuyên đề về nhà Nguyễn, Viện Sử

học, Hà Nội.

175. Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu (2002), Hoàng Việt luật lệ,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

176.Nguyễn Văn Thành (2006), “Chúa Nguyễn Phúc Ánh với lực lượng

thủy quân thiện chiến”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 93.

177.Minh Thành (1993), Thư mục về nhà Nguyễn, Tạp chí Nghiên cứu lịch

sử, số 6, tr.70-91.

178. Phan Phương Thảo (2004) Chính sách quân điền ở Bình Định, Nxb Trẻ,

Hà Nội

179.Trịnh Ngọc Thiện (2014), “Tìm hiểu tổ chức quân đội Việt Nam thời kỳ chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn (Từ cuối thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XIX)” Tạp chí Khoa học trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, số 63.

180.Dương Phước Thu, Dương thị Hải Vân sưu tầm, chú dịch giới thiệu , Phan Anh Dũng hiện đính (2013) Văn bản Hán Nôm làng Hiền Lương, Nxb Thuận Hóa, Huế.

181.Nguyễn Huy Thục (chủ biên) (2014), Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam, tập 2 (Từ năm 1428 đến năm 1858), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 182.Lê Thị Toán (2012), Vài nét về thủy quân thời Nguyễn, Di sản Văn hóa

Huế - nghiên cứu và bảo tồn, Nxb Thuận Hóa, Huế.

183.Nguyễn Khánh Toàn (1954), Vài nhận xét về thời kỳ từ cuối nhà Lê đến

đầu nhà Nguyễn, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

184. Đỗ Tông (2001), Họ Đỗ Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 185.Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự - Bộ Quốc phòng (2004), Từ điển

bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

186.Trường Đại học Sư phạm Huế (1992), Triều Nguyễn - những vấn đề về

lịch sử, tư tưởng và văn học, Chương trình nghiên cứu triều Nguyễn, tập I, Huế.

160

187.Trường Đại học Sư phạm Huế (1993), Triều Nguyễn - những vấn đề về

lịch sử, tư tưởng và văn học, Chương trình nghiên cứu triều Nguyễn, tập II, Huế.

188.Trường Đại học Sư phạm Huế (1994), Triều Nguyễn - những vấn đề về

lịch sử, tư tưởng và văn học, Chương trình nghiên cứu triều Nguyễn, tập III, Huế.

189.Nguyễn Minh Tuấn (2006), Tổ chức chính quyền thời kỳ phong kiến ở

Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

190.Nguyễn Đình Tư (1998), Cảng biển Đà Nằng dưới triều Nguyễn, Tạp

chí Xưa và Nay, Hội Sử học xuất bản, Hà Nội.

191.Nguyễn Minh Tường (2015), “Sự ra đời của tiền lương trong lịch sử và chế độ tiền lương dưới thời quân chủ Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5, số 6.

192.Nguyễn Minh Tường (1996), Cải cách hành chính dưới triều Minh

Mệnh (1820-1840), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

193.Nguyễn Hoài Văn (2002), Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt

Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

194.Trần Thị Vinh (2002), “Thể chế chính trị thời Nguyễn (dưới triều Gia

Long và Minh Mệnh”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6.

195.Viện Sử học (2013), Lịch sử Việt Nam, tập V Nxb Khoa học Xã hội, Hà

Nội.

196. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2008), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học

Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.

197.Trương Thị Yến (Chủ biên) (2017), Lịch sử Việt Nam, tập 5 (từ 1802

đến 1858), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

198.Yoshiharu Tsuboi (1990), Nước Việt Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Bản dịch của Nguyễn Đình Đầu, Ban Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản.

C.Tài liệu nghiên cứu tiếng nƣớc ngoài 199.Alexander Barton Woodside (1971), Vietnam and the Chinese model: A comparative study of Nguyen and Ch'ing civil government in the first half of the nineteenth century, Harvard University Press, Cambridge.

200.Frédéric Mantienne

transfer of Western military (2003), “The technology to Vietnam in the late eighteenth and early nineteenth centuries: the case of the Nguyen”, Journal of Southeast Asian Studies, volume 34 - issue 3, pp. 519- 534)

201.George Dutton (2016), “From civil war to uncivil peace the Vietnamese army and the early Nguyễn state (1802–1841)”, South East Asia Research, No. 6/2016.

202.Keith Weller Taylor (2013), A history of the Vietnamese, Cambridge

University Press, Cambridge.

161

203.Nola Cooke (1999), “Southern regionalism and the composition of the

Nguyen ruling elite (1802-83)”, Asian Studies Review, No.2.6/1999 trang 205-231.

204.R.B.Smith (1974), “Politics and society in Viet nam during the early Nguyen period (1802-62)”, Journal of the Royal Asiatic Society, No.2, 7 /1974, trang 153 – 169. 205. Oscar Chapuis (2000), “The last emperors of Vietnam: from Tu Duc to Bao Dai”, Contributions in Asian studies, Greenwood press, USA, No. 7/ 2000.

206.陈峰 (1992),清代军费研究,武汉大学出版社,湖北.

207.顾吉辰 (1992), 北宋军赏制度考述, 史林1992年第3期

208. 秦萍 (2007), 宋代军费若干问题研究, 西北大学硕士学位论文

209.邱义林 (1994), 明代中前期军费供给特点的形成与演变, 江西社会科

学, 1994年第6期.

210. 宋丹 (2014), 宋代武官俸禄制度研究, 河南大学硕士学位论文

211. 杨顺波 (2005), 明代军制与军饷, 云南师范大学硕士学位论文

212. 张松梅 (2008), 明代军饷研究, 南开大学博士学位论文

213. 周銮书 (2000), 宋代养兵政策剖析, 江西师范大学学报, 2000年第3期)

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ IÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Vũ Thị Nga (2019) “Chế độ đãi ngộ đối với võ quan trong quân đội của vương triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884”. Tạp chí Khoa học, trường Đại học Sư phạm, tháng 2/ 2019 trang 120-129.

2. Vũ Thị Nga (2020) “Chế độ lương và trợ cấp cho binh lính trong quân đội triều Nguyễn (1802-1884)”. Tạp chí Khoa học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 2/ 2020, trang 120- 127.

3. Vũ Thị Nga (2021)“Chế độ đãi ngộ đối với thân nhân võ quan và binh lính trong quân đội triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884 ”. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 5/2021, trang 76-83.

1

PHỤ LỤC

1. Phụ lục về chính sách lƣơng của triều Nguyễn cho quân đội a. Lương của võ quan Bắc Thành năm Gia Long thứ 2 (1803)

Hạng năm Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng tƣ

Chức vụ

Tiền Gạo

Tiền Gạo Tiền Gạo Tiền Gạo Tiền Gạo

30.4 20.12 30.3 20.9 30.2 20.6 30.1 20.3 30 20

20.4 15.12 20.3 15.9 20.2 15.6 20.1 15.3 20 15

chánh

13.3 10.9 13.2 10.6 13.1 10.3 13 10 10 5

10.2 7..6 10.1.20 7.4 10.40 7.2 10 7 8 3

10.2 7.6

10.1.20 7.4 10.40 7.2

10 7 8 3

10.2 7.6

10.1.20 7.4 10.40. 7.2

10 7 8 4

Đô thống chế phó tướng Phó đô thống chế Chánh thống đồn và quản mười cơ Phó thống đồn, phó quản mười cơ, chánh quản các tượng cơ, chánh quản Tứ dực cơ Chánh vệ úy khâm sai thuộc nội cai quản Bắc đội Thành Đồ gia và quản các đội Uy chấn Chánh vệ úy khâm sai thuộc nội cai cơ, quản đồ gia Bắc Thành và các đội quản uy chấn,

Phó vệ úy

8.2 5.6

8.1.20 5.4

8.40 5.2 8 5 8 2

8.2 5.6

8.1.20 5.4

8.40 5.2 8 5 7 4

Chánh trưởng chi, chánh quản cơ, phó quản Tứ dực

Tham quân

8.1

8.1.30 3.3 3.2 8.0.30 3.1 8 3 5 2

5.2 3.6

5.1.20 3.4 5.0.40 3.2

5 3 4 3

Phó trưởng chi, phó quản cơ

Tham mưu

5.1

5.1.30 2.3 2.2 5.0.30 2.1 5 2 4 2

Trường hiệu

4.1.30 3.3 Cai cơ, cai đội, 4.1.30 3.3 4.1 4.1 3.2 4.0.30 3.1 3.1 4.30 3.2 4 4 3 3 3 2 2 2

2

Hạng năm Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng tƣ

Chức vụ

Tiền Gạo

Tiền Gạo Tiền Gạo Tiền Gạo Tiền Gạo

suất đội

4.1.30 2.3 4.1 2.2 4.30 2.1 4 2 2 2

3.1.30 2.18 3.1 2.17 3.30 2.16 3 2.15 1 1

thuộc binh,

5.1.30

3.3

5.1

3 5 5.2 3.4

3.2 5.0.30 3.1

thuộc binh,

5.1.30

3.3

5.1

3 5 5.2 3.4

3.2 5.30 3.1

Tam luận Cai đội, phó đội, chánh đội trưởng, phó suất đội Về chánh vệ Về chánh vệ

Phó vệ

4.1

2.2

4.0.30

2.1

4

2 3 4.1.30 2.3 2

binh

3.1

2.2

3.0.30

2.1

3

2 2 3.1.30 2.3 2

2.6

2.2

2.5.30

2.1

2.5

1 1 2.6.30 2.3 2

2.1

2.2

2.30

2.1

2

1 1 2.1.30 2.3 2

luận

2.1

2.2

2.30

2.1

2

2.1.30 2.3 2 1.5 1.15

1.1.30

1.3

1.1

1.2 1.4

1.2 1.30 1.1

1 1

Cai cơ, cai đội về thuộc lạc tòng, Phó đội, chánh đội trưởng Thư ký, tri bạ, cai án, câu kê, cai hợp, thủ hợp, tượng ty Tham về thuộc binh lạc tòng Thư ký, tri bạ, cai án, câu kê, cai hợp, thủ hợp về thuộc binh lạc tòng

bằng 60 đồng tiền kẽm.

Phương, hộc là thúng vuông để đong thóc gạo trong đó hộc để thu phát lúa, phương để thu phát gạo; 01

phương = 13 thăng =30 đấu gạt bằng miệng; 01 hộc = 2 phương = 26 thăng)

[Nguồn: 84; 576-7-8-9] (Đơn vị tính: tiền: quan; gạo: phương) (01 quan tiền gồm 600 đồng tiền kẽm được chia ra làm 2 xâu, mỗi xâu là 5 tiền (300 đồng tiền kẽm), 1 tiền

b. Thuộc binh ban cấp cho công thần năm Gia Long thứ nhất (1802)

STT Chức quan 1 Chánh vệ 2 3 4 5 Phó vệ, chánh chi Phó chi Trưởng hiệu, cai cơ, cai đội Phó đội Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba 6 5 4 2 1 8 7 6 3 2 5 4 3 2 1

3

2. Phụ lục về khen thƣởng của triều Nguyễn cho quân đội a.Võ quan được ban thưởng cho hoạt động chống các cuộc nổi dậy dưới triều vua Minh Mệnh

Nội dung khen thƣởng

STT

Thời gian

Lý do khen thƣởng

Mức độ ban thƣởng

Võ quan đƣợc thƣởng Chánh quản cơ Phạm Đình Bảo

Minh Mệnh năm thứ 4 (1823)

1

Thưởng cấp 1 bậc, bộ mũ áo tam phẩm Chánh đội thưởng suất đội, 7 lạng bạc Thưởng quân công kỷ lục, 1 chiếc áo đoạn

Chánh quản cơ Phạm Đình Bảo Đánh dẹp ở Nghệ An.

Giết Phan Duy Cán.

Phó vệ úy Nguyễn Vân Thịnh Cai cơ Phạm Văn Bình, Phó vệ úy Cao Khả Cận Bộ biền là Lê văn Tiến

Minh Mệnh năm thứ 5 (1824)

2

Đi bắt cướp ở Thừa Thiên

Thưởng ký lục 1 lần và 1 cây súng trương chữ vàng của Tây dương 50 quan tiền

3

Nguyễn Đình Phổ, Phan Bá Phụng

Được thưởng quân công kỷ lục đều 1 lần

thứ

Minh Mệnh năm thứ 7 (1826) Minh Mệnh năm 8 (1827)

Phạm Văn Lý

4

Đánh dẹp Xa Văn Nhị ở Hưng Hóa Đánh dẹp cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành

Nguyễn Văn Phong

Phạm Đình Bảo và Nguyễn Công Trứ

Thăng làm Thống chế, một khẩu súng tay bịt vàng của Tây dương, 1 cái gươm đầu sư tử mạ vàng, 1 cái áo mở bụng bằng nhung đỏ cúc vàng Thăng chưởng cơ, 1 khẩu súng tay bịt bạc, 1 cái gươm đầu sư tử mạ vàng, 1 áo mở bụng bằng nhung Chương Châu hoa Thưởng hai thứ kỷ lục quân công, thưởng chung cùng biền binh 15.000 quan tiền. 15 lạng bạc,

5

Hiệp trấn Phan Thanh Giản phó Quản cơ là Đỗ Thế Giới

Dẹp Ác man ở Quảng Ngãi Đánh đồn Chi Nê Ninh Bình

Minh Mệnh (1831)

Đánh dẹp ở Sơn Âm - Ninh Bình

Thăng chức quản cơ, thưởng mỗi người 3 đồng tiên phi long bằng bạc hạng lớn. 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng khảm 3 hạt ngọc kim cường to bàng hạt đậu, 1 chi

Tạ Quang Cự

4

Nội dung khen thƣởng

STT

Thời gian

Lý do khen thƣởng

Mức độ ban thƣởng

Võ quan đƣợc thƣởng

chính nhân sâm Quan Đông, 2 chi nhân sâm Cao Ly hạng tốt

6

Phó lãnh binh là Lương Văn Liễu Tạ Quang Cự

Đánh dẹp ở Thanh Hóa, Ninh Bình, Hưng Hóa

Minh Mệnh năm 1833

Hoàng Đăng Thận

Tổng đốc Nguyễn Đình Phổ

Vệ úy, trật chánh Tam phẩm. Tạ Quang Cự cho phong tước Võ Lao tử, lên 1 bực quân công Hoàng Đăng Thận cho phong Phong tước An Chí nam, thưởng 1 bực quân công. Đổi từ bị cách lưu sang giáng 4 bậc lưu, thưởng 2 đồng tiền phi long bằng vàng hạng lớn

tạm

Phó Quản cơ là Đặng Văn Đinh

Bắt được tướng cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên Đánh ở Lạng Sơn

Đinh lĩnh binh dũng phòng hộ, cho thưởng chức Quản cơ Phong tước bá Thưởng lên 1 bực quân công

Tạ Quang Cự được phong lên tước bá Tạ Quang Cự Võ Văn Từ đại tướng quân là Phan Văn Thúy

Thu lại tỉnh Cao Bằng Tiến đánh thành Phan An

Tham tán đại thần là Trương Minh Giảng

Đánh đồn Giao Khẩu

Tướng quân Trần Văn Năng, Tống Phước Lương

Lê Văn Đức

Đánh dẹp khởi nghĩa Nông Văn Vân

1 chiếc thẻ bài bằng ngọc trắng có chữ “phúc thọ”, 1 chiếc đồng hồ báo thức 3 kim, 1 đồng tiền phi long bằng vàng hạng lớn. 1 chiếc bài đeo bằng ngọc trắng có chữ “phúc thọ”, 1 đồng tiền vàng hạng lớn. Mỗi người 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng nạm ngọc kim cương to bằng hạt đậu, 1 đồng tiền vàng hạng lớn, 5 đồng tiền vàng hạng nhỏ, lại đều thưởng lên 1 bực quân công. Cho quân công gia một cấp, một chiếc nhẫn vàng mặt kim cương lớn bằng hạt đậu, một đồng kim tiền Phi long hạng nhỏ. Thưởng lên 1 bực quân công

Đánh ở Vân Trung

Tổng đốc Lê Văn Đức, Tham tán Nguyễn Công Trứ

5

Nội dung khen thƣởng

STT

Thời gian

Lý do khen thƣởng

Mức độ ban thƣởng

Võ quan đƣợc thƣởng

Đánh dẹp khởi nghĩa Nông Văn Vân

Tổng Thống Tạ Quang Cự, Tham Tán Võ Văn Từ

1 bậc quân công, 1 khẩu súng trường Tây Dương, 1 hầu bao gấm

Vệ úy là Nguyễn Hiếu

Thưởng 1 bực quân công, và 1 đồng tiền Minh Mệnh phi long bằng vàng hạng nhỏ.

Bắt dư đảng cuộc khởi nghĩa Cận, (Bắc Cạn)

Cai đội Ma Ngọc Lý,

Đội trưởng Trình Văn Châu

Minh Mệnh năm thứ 15(1834)

Mỗi người 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng khảm ngọc kim cương, 1 đồng tiền Minh Mệnh phi long hạng lớn, 1 đồng tiên vàng hạng nhỏ

Thu tỉnh Cao Bằng, chém được thủ lĩnh Cẩn

Phạm Dụng Giai

Khôi phục hàm cũ, thưởng 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng khảm pha lê

Phó Vệ úy Tiên bảo nhị Tôn Thất Bậc

Thưởng trước chức Vệ úy ấy, 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng khảm 5 hạt liên châu bằng ngọc kim cương.

Đánh cuộc nổi dậy của Nông Văn Vân ở Sơn - Hưng - Tuyên,

Thự lãnh binh Hà Nội Vũ Đình Quang

7

Thưởng chức Vệ úy trật chánh Tam phẩm, vẫn sung làm quan lãnh binh Hà Nội, thưởng 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng khảm 3 hạt liên châu bằng ngọc kim cương.

100 quan tiền

Đánh ở thành Gia Định

Tả tướng quân Tống Phước Lương

80 quan

Hữu tướng quân Nguyễn Văn Trọng

Đánh ở Cao Bằng

Lê Văn Bột

Lãnh binh Vũ Văn Tình, Quản vệ Lê Bá Dần Phó quản cơ Nguyễn

Quân công gia kỷ lục 2 thứ, một chiếc áo trận bằng sa kiểu bồng vai, hoa mãng tròn 5 đồng ngân tiền Phi long

Nguyễn Văn

Văn Thìn

hạng lớn

Nhàn ở Sơn

Tây

6

Nội dung khen thƣởng

STT

Thời gian

Lý do khen thƣởng

Mức độ ban thƣởng

Võ quan đƣợc thƣởng Tổng đốc Tạ Quang Cự

Tổng đốc Lê Vãn Đức

Đánh thắng khởi nghĩa Nông Văn Vân

Minh Mệnh năm thứ 16 (1835)

Tham tán Nguyễn Công Trứ, Lê Văn Thụy, Nguyễn Tiến Lâm, Hồ Hựu Phạm Văn Điển Tướng quân Nguyễn Xuân, Phạm Hữu Tâm

Đánh Khởi nghĩa Lê Văn Khôi ở thành Phan An

1 chiếc nhẫn đeo tay khảm ngọc kim cương,1 chiếc bài đeo bằng ngọc trắng cổ chữ “phúc thọ”, dây tua khảm san hô, hình con hươu bang vàng, 1 chiếc nhẫn đeo tay khảm ngọc kim cương, 1 chiếc bài đeo bằng ngọc trắng cổ chữ “phúc thọ” và dây tua khảm san hô, 2 hình con lạc đà bằng vàng Mỗi người 1 đôi nhẫn đeo tay bằng ngọc kim cương, 1 chiếc thẻ bài đeo bằng hỷ ngọc, kèm với dây tua khảm san hô 1 hình con ngựa bằng vàng, Mỗi người 80 quan tiền, 1 chiếc nhẫn đeo tay bàng vàng khảm ngọc kim cương to bằng hạt đậu và 1 chiếc bài đeo bằng ngọc trắng cỏ chữ “phúc thọ”, kèm theo bông tua san hô. 1 đồng tiền phi long vàng hạng lớn.

8

Tham tán Trần Văn Trứ, Lãnh binh Trần Hữu Thăng, Tổng đốc, Bình thành tử là Trương Minh Giảng; Tham tán đại thần

Tấn phong Bình thành bá, lại thăng thự Đông các đại học sĩ, lại lên hàmThái tủ Thái báo, vẫn lĩnh chức An Hà tổng đốc, giữ ấn bảo hộ nước Cao Miên

Đánh dẹp ở Phan An, đánh quân Xiêm ở Thuận Cảng, lấy hết được địa giới Cao Miên Có công lấy lại được thành Phiên An

Tướng quân Nguyễn Xuân, Phạm Hữu Tâm, Tổng đốc Nguyễn Văn Trọng

Tham tán Hồ Văn Khuê, Trần Văn Trí, Nguyễn Công Hoán,

Mỗi người một cái nhẫn vàng mặt kim cương to bằng hột đỗ, một cái bài đeo bằng ngọc trắng có hai chữ “Phước thọ” có dây thao đeo san hô rủ xuống. Mỗi người 1 cái nhẫn vàng mặt kim cương, hạng vừa, 1 cái bài đeo bằng ngọc trắng chạm khắc cỏ hoa có dây thao đeo san hô rủ xuống (Trẫn

7

Nội dung khen thƣởng

STT

Thời gian

Lý do khen thƣởng

Mức độ ban thƣởng

Võ quan đƣợc thƣởng

Văn Trí thưởng thêm 1 đồng kim tiền Phi Long hạng lớn)

Lãnh binh

Mai Công Ngôn,

Lê Sách, Trần Hữu Thăng

Mỗi người 1 cái nhẫn vàng mặt kim cương hạng nhỏ, 1 cái bài đeo bằng ngọc trắng, chạm trổ cỏ hoa và có dây thao đeo san hô rủ xuống (Trần Hữu Thăng thưởng thêm 1 đồng kim tiền Phi Long hạng lớn)

Nguyễn Tri Phương

1 cái bài đeo bằng ngọc trắng chạm trổ hoa cỏ, và có dây thao đeo san hô rủ xuống

Trương Đăng Quế

Minh thứ 18

Đánh dẹp ở Thanh Hóa

1 bực quân công và 1 lần kỷ lục

Năm Mệnh (1837)

Doãn Uẩn

1 bực quân công

9

Đê đổc Hà Nội là Tôn Thất Bật

1 bực quân công và 2 lần kỳ lục.

Suất đội Trần Văn Chử

Minh Mệnh năm thứ 20 (1839)

Bọn ác Man ở Quảng Ngãi

10

Thưởng Văn Chử kỷ lục 2 thứ, 2 đồng ngân tiền Phi long hạng lớn, thưởng chung cho binh dân 500 quan tiền

Quản vệ Nguyễn Văn Do

Minh Mệnh năm thứ 21 (1840)

Chém cuộc nổi dậy ở vùng biển Đồ Bà -Hà Tiên

11

Khôi phục 2 bậc phạm tội lưu nhậm, thưởng 1 bực quân công, và thưởng 1 đồng tiền vàng có chữ “cát tường ngũ bảo” hạng nhỏ, 1 chiếc áo mổ bụng bằng nhung bông

Đánh dẹp ở Thái Nguyên

Cai đội Dương Như Cát

Dưới tên có ghi là giáng 3 cấp, vua cho khai phục lại cả. Lại thưởng thêm cho 10 đồng Phi long ngân tiền hạng lớn

8

b. Bảng khen thưởng cho võ quan đánh dẹp các cuộc nổi dậy dưới triều vua Thiệu Trị [Bảng được tác giả luận án tập hợp từ Đại nam thực lục, Khâm định Đại nam hội điển sự lệ]

Nôi dung khen thƣởng STT Năm Lý do khen thƣởng Mức khen thƣởng Võ quan đƣợc khen thƣởng

Thưởng quân công 1 cấp

1 Thưởng quan binh thu phục Trà Vinh Tham tán Nguyễn Tiến Lâm Bùi Công Huyên

2 Dẹp loạn ở Quảng Ngãi.

Thiệu Trị năm thứ nhất (1841)

Thưởng trả lại nguyên hàm Tổng đốc, thêm cho 1 đồng kim tiền, 1 cái nhẫn vàng Được gia quân công 1 cấp, thưởng nhẫn vàng 1 cái Quân công 1 cấp và 1 đồng kim tiền hạng nhỏ Bổ thự Quản cơ, lại thưởng thêm cho 1 đồng ngân tiền hạng lớn; Phong 1 cái nhẫn vàng, 1 đồng kim tiền Phi long hạng to, gia thưởng quân công 1 cấp

3 Nguyễn Tiến Song lãnh binh Nguyễn Vĩnh thự Phó quản cơ Lê Văn Cơ Thưởng cho Tổng đốc Long - Tường Dương Văn Phong Duy Tráng Đánh thổ phỉ ở xứ Liệt Điệt (thuộc Hà Tiên)

1 cái nhẫn vàng mặt thuỷ tinh, 1 đồng kim tiền nhỏ, 1 bộ ngọc đeo sắc trắng có dây xâu ngọc san hô rủ xuống, gia thưởng quân công 1 cấp Quân công 1 cấp

4

Bổ Phó vệ uý Cấm binh Thưởng Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Lương Nhàn Quản cơ Tôn Thất Nghị

5 Đánh các cuộc nổi dậy ở Trà Tâm và Sóc Trăng Thưởng cho các tướng sĩ đi Tây chinh Thiệu Trị năm thứ 2 (1842)

Thự Chưởng vệ vệ Cẩm y, Kiêu dũng tướng Dương Thái Thự Chưởng vệ vệ Kim ngô Đoàn Quang Mật Thưởng nhẫn vàng mặt thuỷ tinh, kim tiền Song long hạng nhỏ, dây thao đeo quạt có xâu hạt ngọc, mỗi thứ 1. Thưởng nhẫn vàng mặt thuỷ tinh, kim tiền Phú thọ đa nam hạng nhỏ, dây theo đeo quạt có xâu hổ phách nạm vàng, mỗi

9

Nôi dung khen thƣởng STT Năm Lý do khen thƣởng Mức khen thƣởng Võ quan đƣợc khen thƣởng

Đánh dẹp ác Man Thưởng cho Lãnh binh Nguyễn Vĩnh Thưởng cho Vĩnh gia một cấp, kim tiền “tam thọ” 1 đồng, khánh vàng “kỷ công” và nhẫn vàng đều 1 chiếc 6

Doãn Uẩn

7

Quân công 1 cấp, nhẫn vàng mặt liên châu kim cương, kim tiền có chữ "ngũ Phước" và dây rủ xuống, mỗi thứ một chiếc

Thiệu Trị năm thứ 4 (1844) Thiệu Trị năm thứ 5 (1845) Đánh thắng Lạp Man trên sông Sách Sô

c.Bảng tổng hợp vể việc võ quan được ban thưởng có công chống các cuộc nổi dậy dưới triều vua Tự Đức

Nội dung khen thƣởng

STT Năm Lý do khen thƣởng Định mức khen Võ quan đƣợc khen

Đánh Ác Man ở làng Y Tự Đức năm thứ 9 (1856) Thưởng cho mỗi người kỷ lục một thứ, 1

Đốc sức (Tống Phước Minh) Tham biện (Phan Tĩnh), Lãnh binh (Nguyễn Tràng Duyệt)

Kỉ lục 1 thứ Thưởng cho Quản cơ Lê Quang Huy 2

Tự Đức năm thứ 17 (1864) Tự Đức năm thứ 21 (1868) Tán lý là Ông ích Khiêm, Đề đốc là Nguyễn Viết Thành Chiêu dụ người Man ở Bình Định Ngô Côn tập trung quân đánh tiền đồn thuộc Cao Bằng

3

Tạ Kế Quý

nhẫn vàng khảm tinh quang pha lê, Phạm Chi Hương nhẫn vàng mặt khảm ngọc hoả tề liên châu, mỗi người một chiếc, quân công mỗi người 1 cấp 1 cái nhẫn vàng khảm ngọc hoả tề liên châu và 1 đồng tiền vàng có chữ ngũ Phước có dây thao rủ xuống

10

Nội dung khen thƣởng

STT Năm Lý do khen thƣởng Định mức khen Võ quan đƣợc khen

Đề đốc là Đặng Duy Ngọ,

Án sát là Nguyễn Tạo

1 đồng tiền vàng "Tứ mỹ, Lại thưởng gia quân công mỗi người 1 cấp 1 đồng tiền vàng "Tam thọ". Lại thưởng gia quân công mỗi người 1 cấp Thưởng kỷ lục 1 thứ, 4

Tự Đức năm thứ 24 (1871) Tán lý Ông ích Khiêm, Đề đốc Nguyễn Hùng, án sát sứ Nguyễn Tạo

Thưởng cho có thứ bậc. Tham tán Ông ích Khiêm, Tán lý Trần Thiện Chính

5 Thưởng quân công kỷ lục, kim tiền, ngân tiền có thứ bậc Tự Đức năm thứ 25 (1872) Thưởng cho lực lượng đánh dẹp cuộc nổi dậy ở hạt phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Thưởng cho quân bắt được quân khởi nghĩa ở quân thứ Đông Triều Thưởng quân dẹp quân nổi dậy giữ đồn lớn ở xã Sen Hồ (thuộc tỉnh Sơn Tây) Đánh lui các cuộc nổi dậy trên biển

Thưởng thăng Lãnh binh

6 Đề đốc là Đinh Hội, Phó đề đốc là Trần Môn, án sát là Hoàng Diệu Phó lãnh binh làm việc là Lưu Vĩnh Phước Tự Đức năm thứ 27 (1874)

Phó sứ là Trương Quang Đản đ 7 Tự Đức thứ năm 34 (1881)

8

Trần Văn Tỉnh, Nguyễn Văn Phó

Gia thưởng 1 cấp, tướng biền đi đánh trận này, đều được thưởng gia cấp, kỷ lục và ngân bài có thứ bậc khác nhau Chánh, phó quản đốc đều kỷ lục 2 lần, biền binh mỗi chiếc tàu 100 quan tiền Năm Tự Đức thứ 36 (1883)

Đánh cuộc nổi dậy Hoàng Anh chiếm giữ Trấn Hà ở tỉnh Hưng Hóa, Dẹp các cuộc nổi dậy ở Ước Lễ, Phước Bình Thái Nguyên Đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở đảo Đồi Mồi (thuộc phận biển tỉnh Khánh Hoà) thắng trận.

[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Thực lục, Hội điển, Châu bản triều Nguyễn]

11

Mức thƣởng d.Bảng về việc thưởng cho võ quan đánh quân Xiêm dưới triều vua Minh Mệnh và Thiệu Trị Thời gian Trận đánh

An Giang, Châu Đốc

Phong tước Nam, lại thưởng mỗi người 1 đồng tiên vàng hạng lớn và 2 đồng liền vàng hạng nhỏ Thưởng chức Vệ úy. Thưởng lên 1 bực quân công.

Minh Mệnh năm thứ 14 (1833)

Võ quan đƣợc thƣởng Tướng Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân Phó vệ úy Nguyễn Văn Tình Phó lãnh binh Võ Đình Quang

sang hạ Lào, giáp Quảng Trị Thưởng lên 1 bực quân công.

Quản cơ Nguyễn Văn Vân Tham tán Nguyễn Xuân

Năm thứ 15 (1834)

Trương Minh Giảng

Tán tướng Trương Phúc Đé

Quyền sai đội trưởng Nguyễn Phong tước tân Khánh bá, chức Đô thông, trật tòng nhất phẩm, vẫn lĩnh chức tổng đốc Vinh Long, Định Tường, lại thương 1 chi nhân sâm công phẩm Quan Đông, 2 chi nhân sâm Cao Ly của vua dùng, và 3 đồng tiền bằng vàng có 2 con rồng hạng nhỏ, 1 chiếc đồng hồ Tây dương, 1 chiếc nhẫn đeo tay bạng vàng nạm ngọc kim cương to bằng hạt đậu trắng. Phong tước Bình Thành tử, thăng Hiệp biện đại học sỹ, vẩn lĩnh chức tổng đốc An Giang, Hà Tiên, và thương 1 chi nhân sâm cống phẩm Quan Đông, 2 chi nhân sâm Cao Ly của vua dùng, 3 đồng tiền vàng có 2 con rồng hạng nhỏ, 1 chiếc đồng hồ Tây dương, 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng nạm kim cương to báng hạt đậu trắng, đế to sự ưu đãi quân công Thăng chức Tham tri bộ Binh, và1 đồng tiền phi long vàng hạng nhỏ, lại phong ấm cho 1 đứa con làm Hiệu úy vệ Cẩm y. Thực thụ đội trưởng ngay,1 chiếc bài thưởng công bằng bạc, 100 lạng bạc

12

Mức thƣởng Thời gian Trận đánh Võ quan đƣợc thƣởng

Văn Huy Nguyễn Tú

Hồ Hữu Thấm Lê Văn Thụy

(thưởng cùng binh lính) Trong danh sách hiện ghi giáng 4 bực, cho lập tức được khôi phục 2 bực, vẫn ghi giáng 2 bực lưu nhậm Ghi giáng 2 bực, cho được khôi phục Tước Thông Cương nam. Phạm Phi cho phong là La Phong nam để nêu quân công

2 nghìn quan tiền.

Trương Minh Giảng, Nguyền Xuân, Hồ Văn Quế

Thưởng cho làm Chưởng cơ

Quân Xiêm quấy rối ở Châu Ba Lan, Cam Lộ, Quân Xiêm quấy rối thành phiên An Xiêm ở sông Cổ Hỗ Thưởng cho gia hàm Vệ úy

Thưởng cho gia hàm Phó quản cơ

Vệ úy Ban trực Tả vệ Phạm Hữu Tâm Phó vệ úy Nguyễn Đức Huấn Cai đội bọn Lê Văn Ngôn An - Hà Tổng đốc Tín Vũ hầu Phạm Văn Điển Trần Kim Thiệu Trị năm thứ 2 [1842]

Dẹp các cuộc cướp phá đường bộ ở Vĩnh Long Trần Linh

1 đồng kim tiền Song long hạng trung có dây đeo, 1 chiếc nhẫn vàng mặt thuỷ tinh liên châu và gia quân công 1 cấp; Phó quản cơ, gia quân công 1 cấp, kim tiền hạng nhỏ và nhẫn vàng mỗi thứ 1, lại 1 chiếc tử kim bài có chữ Thưởng công và 5 lạng bạc; Chánh đội trưởng suất đội, 3 đồng ngân tiền Phong là Bao Liệt tử

Phong là Bình Thắng nam

Quân Xiêm quấy Hà Tiên và sông Vĩnh Tế An Hà Tổng đôc Nguyễn Công Nhàn Thự Thông chế Nguyền Lương Nhàn

13

Mức thƣởng Võ quan đƣợc thƣởng Thời gian Trận đánh

Võ Văn Giải

Thiệu Trị năm thứ 7 (1847)

Dẹp yên quân Xiêm ở biên giới Trấn Tây

Nguyễn Tri Phương

Lê Văn Phú

Doãn Uẩn

1 bực “Trác dị”. Nguyễn Văn Hoàng được thương 1 bực “đái tùy”. 1 chiếc nhẫn đeo tay của vua dùng bằng vàng viền trân châu khảm hạt ngọc kim cương hạng lớn, 1 chiếc bài đeo có bông tua trân châu san hô bằng ngọc tốt có chữ “phúc thọ trùng viên”, 1 đồng tiền vàng hạng lớn kèm bông tua có chữ “Vạn thế Vĩnh lại”, 1 đồng tiên vàng hạng lớn kèm bông tua có chữ “Long vân khế hội”, ban sắc cho Võ Văn Giải chức An tây Trung võ ướng, cấp cho bài đeo bằng ngọc tốt. 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng của vua dùng, viên trân châu, khảm hạt ngọc kim cương hạng lớn, 1 chiếc bài đeo kèm bông tua san hô bằng ngọc tốt, có chủ' “Cát tường phúc trạch”, 1 đồng tiền vàng hạng lớn kèm bông tua có chữ “Vạn thế Vĩnh lại”, 1 đồng tiền vàng hạng trung kèm bông tua có chữ “Long vân khế hội”, phong sắc cho Nguyễn Tri Phương là An tây dũng tướng, cấp cho bài đeo bảng vàng 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng khảm ngọc kim cương hạng lớn, 1 chiếc bài đeo kèm bông tua san hô bằng ngọc tốt có chữ "Phúc Khánh" 1 đông tiên vàng hạng trung kèm theo bông tua có chữ “Vạn thê Vĩnh lại”, 1 đông tiên vàng kèm theo bông tua có chữ “tam thọ”. Doãn Uẩn 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng khám ngọc kim cương hạng lớn, 1 chiếc bài đeo bằng ngọc tốt có chữ “bình an” kèm theo bông tua bằng san hô, 1 đồng tiên vàng hạng trung kèm theo bông tua có chữ “Vạn thế Vĩnh lại”, 1 đông tiền vàng kèm theo bông tua có chữ “Nhi nghi”, 1 chiếc quạt vua dùng, có hộp đựng bằng san hô, đê

14

Mức thƣởng Thời gian Trận đánh Võ quan đƣợc thƣởng

bài thơ “bình định Tiêm Lạp”, 1 tập “Tây chinh Kỷ tiệp” của vua làm, viết bằng giấy rồng, 1 cái chén rót rượu bằng ngọc tốt, đê tỏ là người có phẩm chất “sáng sủa, cứng1 rán và đầm ấm như ngọc”, 1 con báo vằn bàng vàng' để tò là người co tài năng giữ được, làm được, biết cả văn, biết cả võ.”. “Doãn Uẩn nhiêu lần đánh ở Thông Bình, Sách Xô, lập công đầu tiên, cho đến trận đánh thọc vào Thiết Thằng, bình định được Trấn Tây, tiến lên Vĩnh Long, bức bách Ỏ Đông, đêu biêt bày ra 'kê lạ đế giành phần thắng, tỏ rõ mưu mô tài lược. Nay phong sắc cho Doãn Uẩn là An tây Mưu lương tướng, cấp cho bài đeo băng vàng”

Nguyễn Văn Hoàng

1 chiếc nhẫn đeo tay băng vàng khám ngọc kim cương hạng trung, 1 chiếc bài đeo bằng' ngọc tốt có chừ “Ưng dường”, kèm theo bông tua bằng san hô, 1 đông tiên vàng kèm theo bông tua có chữ “Tứ mỹ”,phong sắc cho Nguyễn Văn Hoàng là An tây Tuấn kiện tướng, cấp cho thẻ bài bằng vàng khiến cho dùng để đeo, để biểu dương công nòi hàng trận, mãi mãi được dội ơn này

An Giang Lãnh binh, quyền lãnh đê đốc là Lê Đình Lý

1 chiếc bài “Thưởng công” bằng vàng, 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng dát ngọc kim cương liên châu, 1 đồng tiên vàng hạng’ nhì kèm theo bông tua có chữ “Vạn thế Vĩnh lại” để khen ngợi công lao.

[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Thực lục, Hội điển, Châu bản triều Nguyễn]

15

e. Bảng thống kê võ quan được ban thưởng có công chống ngoại xâm dưới triều vua Tự Đức

Nội dung khen thƣởng

STT Thời gian Mức khen thƣởng

ý do khen thƣởng Địa điểm trận đánh Cao Bằng 1

Đối tƣợng đƣợc khen Phó lãnh binh Cao Bằng là Nguyễn Hữu Thân Tự Đức năm thứ 7 (1854)

2

Tự Đức năm thứ 15 (1862) Thưởng cho các viên ấy có thứ bậc khác nhau. Cho kỷ lục gia cấp, ngân tiền có thứ bậc khác nhau.

Thưởng cấp kỷ và kim tiền có thứ bậc 3

Đánh quân Thanh Tự Đức năm thứ 25 (1872) Quyền Phó lãnh binh là bọn Ngô Tất Ninh

Tạ Hiện

Thưởng thăng làm Phó quản cơ

Tôn Thất Thuyết 4

Cướp phá Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng. giặc Thanh chiếm giữ huyện lỵ Sơn Dương Hàm Giang (thuộc tỉnh Quảng Yên). An Viên, Đông Lỗ,

Tự Đức năm thứ 28 (1875)

5 Lãnh binh Hoàng Đình Tự Đức năm thứ 29 (1876)

gia 6

Tự Đức năm thứ 31 (1878) Đốc thúc đánh là Lưu Vĩnh Phước, Ngô Tất Ninh

Chàng Sơn (thuộc Quảng Yên). Đồn chợ Mới (Thái Nguyên) Thăng thự Tổng đốc, 1 bài đeo bằng ngọc quý, 1 nhẫn vàng khảm ngọc châu hỏa tề, kim tiền “Long vân khế hội” hạng nhất, hạng nhì mỗi thứ 1 đồng 1 cấp quân công, binh, dõng được ngân tiền có từng bậc. Thưởng quân công 1 cấp, tiền vàng Tứ mỹ mỗi người 1 đồng,

7 Đức năm Quân thứ Trương Quang Đản Thưởng kỷ lục 3 thứ Phó sứ là Trương Được ghi vào lý lịch

16

Nội dung khen thƣởng

STT Thời gian Mức khen thƣởng

và nghị thưởng

ý do khen thƣởng Địa điểm trận đánh Thái Nguyên thứ 32 (1879)

8

thưởng chung 9

Thưởng kỷ lục, kim tiền, ngân tiền có cấp bậc Vua cho 100 quan tiền

hàm, 10

Đối tƣợng đƣợc khen Quang Đản, Thương biện là Lương Quy Chính Thập Châu, Lãnh binh Nguyễn Hữu Phu, đốc đới Hoàng Thủ Trung Nguyễn Tri Phương và quân lính làm lũy sắt Hiệp quản Nguyễn Doã thăng chức thưởng cho ngân tiền

11

Nguyễn Tri Phương

2 thành An Hải, Điện Hải. Giữ đồn ở Thạch Than. Giữ đồn đồn Phú Nhuận Tự Đức năm thứ 34 (1881) Tự Đức năm thứ 11 (1858) Tự Đức năm thứ 12 (1859) Tự Đức năm thứ 13 (1860)

Vua cho là Nguyễn thưởng Tri Phương các hạng kim tiền lớn nhỏ gia một cấp quân công

kỷ lục 2 thứ

Thưởng cho quan đánh thắng Pháp ở thành Gia Định 12

Tự Đức năm thứ 13 (1860)

Đánh Pháp

Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Cáp Lê Tố, Nguyễn Duy, Hồ Hòa, Tôn Thất Trĩ Quản suất là bọn Trương Định

Nguyễn Tri Phương

Thưởng quan quân đi đánh dẹp ở Biên Hòa

Tôn Thất Cáp

Tự Đức năm thứ 14 (1861) Thưởng chung cho biền binh 800 quan tiền 3 chiếc áo kép chẽn tay màu bảo lam, quần đỏ 1 chiếc, quần trắng 2 chiếc, Tri Phương 100 lạng bạc. Áo chiến 1 chiếc, áo kép chẽn tay màu bảo lam 2 chiếc, quần đỏ và quần trắng mỗi thứ

17

Nội dung khen thƣởng

STT Thời gian Mức khen thƣởng ý do khen thƣởng Địa điểm trận đánh Đối tƣợng đƣợc khen

13

Công Nhàn

cho, tha

17 Tự Đức năm thứ 25 (1872) Ở Quán Ty (thuộc tỉnh Hưng Hoá) Tham tán Ông ích Khiêm, Tán tương Nguyễn Di

1 chiếc, 60 lạng bạc. Một chiếc áo trận bằng thúng thúc màu hoa lan trơn, 1 quần nhiễu trơn màu lam, Nhàn 30 lạng bạc Dưới tên chua cách lưu, lại thưởng thêm cho 1 tấm bài vàng; Di được thưởng quân công, kỷ lục 1 thứ; các biền binh được thưởng cho tiền).

[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Thực lục, Hội điển, Châu bản triều Nguyễn]

f. Bảng về việc thưởng cho võ quan nhân ngày Lễ, Tết dưới triều Nguyễn

Thƣởng dịp lễ

Nội dung khen thƣởng STT Năm Triều vua Đối tƣợng

1 Quan quân Tên ngày Tết Lập quốc

Gia Long

Gia Long thứ 1(1802) Quan thì thưởng Mức khen thƣởng thưởng chung 50000 quan tiền một tháng lương

Lễ ở Ninh lăng

2 Thƣởng ngày tết

Nội dung khen thưởng

Ngày Tết Thời gian Đối tượng Mức khen thưởng

Ở Kinh Chánh Nhất phẩm đến Tòng tứ phẩm

Nguyên Đán Minh Mệnh

Minh Mạng năm thứ 14 (1833) Ngoài Kinh

Chánh nhất phẩm10 đồng, mỗi phẩm giảm 1 đồng đến tòng, tòng Tứ phẩm 2 đồng; tòng Ngũ phấm trở xuống 1 đồng. Ngũ phẩm trở lên dự yến Ngũ phẩm trở xuổng 2 đồng tiền Phi Long

18

Thƣởng dịp lễ

Nội dung khen thƣởng STT Năm Triều vua

Tên ngày Tết Nguyên Đán Đối tƣợng Kinh lược sứ Tạ Quang Cự

Mức khen thƣởng 100 quan tiền (ĐN TL tập 5, tr.7)

Minh Mệnh năm thứ 18 (1837)

Ở Kinh Nhất phẩm đến Tòng ngũ phẩm

Vạn Thọ Minh Mạng năm thứ 8 (1827)

Thưởng vải lụa từ Nhất phẩm đều 2 tấm đoạn, 2 tấm the giảm dần đến chánh tòng Ngũ phẩm 4 lạng. Thưởng vải lụa với hao văn và lượng khác nhau tùy theo phẩm trật Tiền lương 2 tháng.

Thu Hưởng Ở Kinh, Từ Chánh nhất phẩm đến Tòng cửu phẩm Ngoài Kinh thất phẩm trở xuống tự tam phẩm trở lên ở điện Văn Minh

Mỗi người một cái túi hương.

Quản vệ trở xuống

Trùng Cửu Thưởng tiền 2000 (thưởng cùng binh lính

Khánh Hạ Minh Mệnh năm thứ 21 (1840) Minh Mệnh năm thứ 9 (1828) Minh Mạng năm 19 (1838)

Thƣởng ngày lễ

Vua lên ngôi

Trong Kinh Tứ phẩm ở ngoài Tam phẩm trở lên Thưởng bạc từ 20 lạng đến 2 lạng tùy theo phẩm trật

Cấp một lần kỷ lục. Đều cho tha phạt.

Phối hưởng Thế tổ Cao hoàng đế

Hoàng Minh Mệnh thứ nhất (1820) Minh Mệnh thứ 2 (1821) Minh Tam phẩm trở lên ở Kinh và ở ngoài, Quan phạm sai lầm việc công phạt bổng từ năm Minh Mệnh thứ 2 về trước Quan ở Kinh từ tam Ban cho bạc thay yến

19

Thƣởng dịp lễ

Nội dung khen thƣởng STT Năm Triều vua Mức khen thƣởng

theo thứ bậc.

Đối tƣợng phẩm, ở ngoài từ nhị phẩm trở lên

Thưởng bạc từ 20 lạng đến 6 lạng theo thứ bậc Tên ngày Tết mẫu làm Hoàng thái hậu. Thăng phối

Quan ở Kinh từ Tòng Tam phẩm trở lên

Quan ở Kinh từ Chánh tòng ngũ phẩm Lục tuần Hoàng thái hậu

Mệnh năm thứ 2 (1821) Minh Mệnh năm thứ 3 (1822) Minh Mệnh năm thứ 8 (1827)

Mừng thọ vua 40 tuổi

Kinh đô: Chánh Nhất phẩm Địa phương Tứ phẩm trở lên

Minh Mệnh năm thứ 11 (1830)

Từ Tòng tam phẩm trở lên thưởng vải lụa theo thứ bậc -Chánh tứ phẩm đến Ngũ phẩm thưởng bạc từ 6 lạng, mỗi phẩm bậc giảm đi 1 lạng Thưởng bạc từ 12 lạng, đến 1 lạng. Tứ phẩm trở lên, thưởng cấp Chánh Ngũ phẩm trở xuống, thưởng 1 lạng. Thưởng vải lụa và tiền

Mừng thọ Hoàng hậu Quan từ ngũ phẩm ở Kinh

Mừng thọ vua

Được thưởng vải lụa tùy với hoa văn khác nhau tùy theo phẩm hàm

Quan ở Kinh từ Chánh nhất phẩm đến Chánh tòng ngũ phẩm,

Lễ đại khánh. Quan ở Kinh từ Tòng lục phẩm trở lên

Minh Mệnh năm thứ 18 (1837) Minh Mệnh năm thứ 18 [1837] Minh Mệnh năm thứ 8

Tòng tam phẩm trở lên được thưởng vải lụa theo thứ bậc Chánh tứ phẩm trở xuống thưởng tiền

20

Thƣởng dịp lễ

Nội dung khen thƣởng STT Năm Triều vua Đối tƣợng Mức khen thƣởng

Thưởng tiền bổng 1 tháng. Tên ngày Tết Khánh tiết ban ân

Phó vệ úy và Suất đội một số Vệ Thân binh

Thưởng 2 tháng lương, tiền, gạo Võ quan ở kinh từ Lục phẩm trở xuống, suất đội Đại Khánh Hoàng thái hậu

Tiền lương 2 tháng. Lễ đại khánh

Lương một tháng Tiền lương 2 tháng Minh Mệnh thứ 10 (1829) Minh Mệnh năm thứ 18 (1837) Minh Mệnh năm thứ 21 (1840) Ngũ phẩm và lục phẩm trở xuống Quản vệ, quản cơ Thất phẩm trở xuống

3 Thƣởng ngày Tết Thiệu Trị

27 người từ suất đội đến thị vệ Nguyên Đán Mỗi người 1 đồng ngân tiền Bát bảo hạng nhỏ

Thiệu Trị năm thứ 2 (1842)

Thưởng tư 10 lạng bạc trở xuống theo thứ bậc Thƣởng ngày Lễ Quan ở Kinh từ nhất phẩm đến Tòng lục phẩm Tuyên Từ khánh thái Hoàng thái hậu Thiệu Trị năm đầu (1841)

Thƣởng dịp Tết

Nguyên Đán ăn yến 4.000 quan tiền

Vải lụa

Tự Đức năm thứ 4 (1851) Vạn Thọ Tự Đức năm thứ 4 (1851)

Nguyên Đán.

Ăn yến và thưởng theo thứ bậc Đợi Chỉ ban ơn cho.

Tự Đức năm thứ 12 (1859) 4 Tự Đức Tứ phẩm trở lên từ ngũ phẩm trở xuống Tam phẩm kinh ở Kinh;Tổng đốc, Tuân phú, Bố chánh, Án sát ở ngoài Quan ngũ phẩm trở lên ở Kinh Quan phạm sai lầm bị cách lưu, giáng phạt từ tháng 12 năm Tự Đức thứ 11

21

Thƣởng dịp lễ

Nội dung khen thƣởng STT Năm Triều vua Tên ngày Tết Đối tƣợng Mức khen thƣởng

về trước

Nguyên Đán. Quân thứ Quảng Nam Tiền và gạo lương một tháng.

Nguyên Đán

Thưởng cho quan quân ở quân thứ 3 đạo Tiền, gạo, lương tháng (từ 3 tháng đến 1 tháng) có thứ bậc

Quan quân

Nguyên Đán Thưởng ăn yến, thưởng tiền

Nguyên Đán Ngũ phẩm trở lên ở Kinh

Ban tiệc yến, thưởng đồng tiền bằng vàng, bạc có thứ bậc.

Tự Đức năm thứ 12 (1859) Tự Đức năm thứ 22 (1869) Tự Đức năm thứ 31 (1878) Tự Đức năm thứ 31 (1878)

Từ 100 quan giảm dần theo thứ bậc100

Tổng thống, hiệp thống, tán tương, Chánh phó lãnh binh, đốc binh Ở Kinh võ từ tứ phẩm trở lên

Hoàng thái hậu 50 tuổi.

Vạn Thọ. Tự Đức, năm thứ 22 (1869) Tự Đức năm thứ 12 (1859) Ăn yến 1 lần và thưởng cho có thứ bậc khác nhau. ngũ phẩm đến cửu phẩm Lương 1 tháng.

Thu Hưởng

Tự Đức thứ 8 (1855) Ngoài Kinh từ Phó lãnh binh trở lên Quan ở Kinh từ Nhất phẩm đến Cửu phẩm

Tăng ân bổng cao nhất là Chánh Nhất phẩm 100 quan thấp nhất là chánh tòng cửu phẩm 12 quan

Thƣởng dịp Lễ

Dâng tôn hiệu Tự Đức năm thứ Kinh, tứ phẩm trở lên; ở ngoài, lãnh Thưởng bạc thay cỗ yến có thứ bậc khác nhau.

22

Thƣởng dịp lễ

Nội dung khen thƣởng STT Năm Triều vua Đối tƣợng Mức khen thƣởng

2 (1849) binh trở lê

Tên ngày Tết Hoàng thái hậu Lương 1 tháng

thưởng cho có thứ bậc khác nhau.

Tự Đức năm thứ 3 (1850)

Hiến tổ Chương hoàng đế lên phối hưởng.

Thưởng tiền lương 1 tháng. Thưởng vải lụa theo thứ bậc

Quan ở Kinh, từ ngũ phẩm đến thất phẩm, quản vệ, quản cơ đến suất đội Ngoài Kinh tổng đốc, Tuần phủ, Đề đốc, Bố chính, Án sát, Tuyên phủ sứ, Chánh, phó Lãnh binh Ngoài Kinh: quản vệ, quản cơ suất đội Quan trowng kinh từ Tòng tứ phẩm đến Quản vệ Hoàng thái hậu 40 tuổi Tự Đức năm thứ 2 (1849)

Thưởng cho tiền, gạo 1 tháng lương.

Hoàng thái hậu thọ 60 tuổi

Kinh từ ngũ phẩm, ở ngoài từ tứ phẩm trở xuống cho đến cửu phẩm Quan quân

Tiền lương 1 tháng.

Thượng thọ vua

Tứ phẩm trở lên ở Kinh và tỉnh ngoài

Thưởng gia 1 cấp, thí sai, thí thự đều thưởng gia ân ban có thứ bậc. Tiết đại khánh.

Tự Đức năm thứ 22 (1869) Tự Đức năm thứ 32 (1879) Tự Đức năm thứ 31 (1878)

[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ các tư liệu Thực lục, Hội điển, Châu bản]

23

g. Bảng thống kê về việc thưởng cho binh lính xây dựng các công trình công cộng dưới triều Nguyễn

Nội dung khen thƣởng

ST T Công trình sửa đắp Năm Đối tƣợng Mức khen thƣởng

Binh lính 2400 quan

Binh lính 13.500 quan

Gia Long năm thứ 4 (1804) Gia Long năm thứ 10 (1811)

Gia Long thứ 6 (1807) Biền binh 500

1 Biền binh 1.600 quan

Gia Long năm thứ 9 (1810)

Biền binh 3.000 quan

Biền binh 200 quan

Gia Long năm thứ 12 (1813) Minh Mệnh năm thứ 18 (1837)

Các quân 140.000

Gia Long năm thứ 17 (1818)

143.360 quan

14.336 binh đinh Binh đinh 109.500 quan 2 Gia Long năm thứ 18 (1819) Minh Mệnh năm thứ 4 (1823)

Minh Mệnh thứ 13 (1832) Tự Đức năm thứ 10 (1857) 9.500 biền binh Biền binh, lính

Xây và tu sửa cung điện Xây dựng điện Thái Hòa Xây điện Cần Chánh, Trung Hòa Sửa cung Trường Thọ Sửa cung Khôn Đức và Hữu trường lang Sửa điện Khôn Nguyên Sửa sang 2 điện Văn Minh và Võ Hiển Xây đắp thành Kinh thành Hai mặt trước và bên hữu Kinh thành Xây mặt sau Kinh thành Xây hai mặt tiền và hữu của Kinh thành Xây đắp Kinh thành Sửa chữa cửa Đông Nam Kinh thành Tiền lương 2 tháng kỷ lục hay tiền có thứ bậc khác nhau.

24

Nội dung khen thƣởng

ST T Công trình sửa đắp Năm Đối tƣợng Mức khen thƣởng

Xây đắp thành trấn ở các địa phương

Minh Mệnh thứ 9 (1828) Quan và

quân Biền binh 3 Minh Mệnh năm thứ 16 (1835) Thưởng tiền, lụa theo thứ bậc Tiền lương 1 tháng

Quân và dân 3000 quan Minh Mệnh năm thứ 17 (1836)

4 2 quan tiền 1 phương gạo

Xây thành trấn Thanh Hoa Đắp lấp đường hào ở bốn góc thành Gia Định Dời tỉnh thành Phú Yên ra chỗ khác Xây dựng các công trình phòng thủ ven biển 300 lính ở Minh Mệnh thứ 8 Xây đắp cửa Võ dinh (1827). Thắng ở Quảng Bình. Xây chùa

5 biền binh Xây chùa tháp Minh Mệnh năm thứ 18 (1837) 400 quan tiền.

Xây lăng

Thiệu Trị năm thứ nhất Binh lính 2 tháng tiền

(1841) lương bổng

Dựng lăng tẩm Thiệu Trị năm thứ nhất Từ Quản vệ 1 tháng tiền

Hiếu Sơn” (1841) đến binh lương bổng

lính 6 Sửa, dựng lăng Mỗi người một Tự Đức năm thứ nhất (1848) tháng lương tiền

và gạo.

Biền binh ở Kinh,quản suất biền binh Quảng Nam, Thanh Hoá, Nghệ An đến phụ làm

Làm nhà hóng mát

1.500 quan tiền 7 Tự Đức năm thứ 10 (1857) Viên biền binh đinh

Làm nhà hóng mát Từ Chu và Hương Giang

[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ tài liệu Thực lục, Châu bản, và Hội điển]

25

3. Phụ lục về chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn cho võ quan, binh lính và thân nhân a. Định mức cấp tuất cho võ quan triều vua Gia Long

Gia Long thứ 5 (1806) Gia ong năm thứ 9 (1810)

STT Phẩm hàm STT Phẩm hàm Định mức

Chánh nhất phẩm tòng nhất phẩm chánh nhị phẩm tòng nhị phẩm chánh tam phẩm Tòng tam phẩm Chánh Tòng tứ phẩm Chánh Tòng ngũ phẩm Chánh Tòng lục phẩm Chánh Tòng thất phẩm Chánh Tòng bát phẩm Chánh Tòng cửu phẩm Lính lưu thú Định mức 400 300 200 100 70 40 30 25 20 15 10 5 3 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 Chánh nhất phẩm Tòng nhất phẩm Chánh nhị phẩm Tòng nhị phẩm Chánh tam phẩm Tòng tam phẩm Chánh tứ phẩm Tòng tứ phẩm Chánh ngũ phẩm Tòng ngũ phẩm Chánh lục phẩm Tòng lục phẩm Chánh thất phẩm Tòng thất phẩm Chánh bát phẩm Tòng bát phẩm Chánh cửu phẩm Tòng cửu phẩm Binh lính 400 300 200 100 70 40 30 28 25 23 20 18 15 13 10 8 5 4 3 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

[Nguồn: Thực lục, tập 1, tr. 676-677, 789

b. Bảng thống kê về việc ban cấp cho võ quan đi làm nhiệm vụ sai phái bị ốm chết

Nội dung trợ cấp

STT Năm Lý do Mức trợ cấp

Võ quan đƣợc ban cấp úy Văn Cho 200 quan tiền

Vệ Nguyên 1

đi Mang

Chánh Quản cơ Nguyễn Văn Điển trên đường Chết đem vệ binh về Kinh Phái Vang, Na Sầm, 2

Chưởng Cấp tuất, cho 100 quan tiềên, 1 cây gấm tàu. Cơ Đi đánh dẹp khởi Cấp tuất, cấp vải lụa, tặng 3 Minh Mệnh thứ 2 (1820) Minh Mệnh năm

26

Nội dung trợ cấp

STT Năm Lý do Mức trợ cấp Võ quan đƣợc ban cấp

4 Văn

thứ (1823) Nguyễn Tuấn, nghĩa Lý Khai Ba bị bệnh rồi chết.

4

Năm Minh Mệnh thứ 7(1826) Chưởng cơ Đỗ Thiên Thẩm Chưởng Hậu quân Quận công Lê Chất Đóng thú lâu ngày, bệnh chết Ốm chết khi làm nhiệm vụ ở Bình Định

5

Vệ úy Nguyễn Văn Hòa Ở nơi đóng thú bị ốm chết 6

Trấn thủ Võ Văn Tín

Xông pha khí độc núi rừng mắc bệnh chết 7

Minh Mệnh thứ 9 (1828) Minh Mệnh năm 12 thứ (1831)

chiếu Quản cơ Lê Văn Lẫm Tới Kinh thao diễn ốm chết

8

Đi bắt giặc

binh Văn 9 Lãnh Nguyễn Phượng

Vệ úy Nguyễn Duy Trữ Đi đánh dẹp ở Đà Bắc,

9

chức hàm Thống chế chánh Nhị phẩm, 200 lạng bạc. Cấp tuất, 200 quan tiền. Bãi triều 3 ngày, tặng Thiếu phó, thuỵ Dũng Nghị, cấp gấm sa, đoạn lông mỗi thứ 6 tấm, tiền 3.000 quan; sai quan đến tế; cấp cho 3 người mộ phu. Hoàng thái hậu nghe tin cũng cho 300 lạng bạc 1 cây gấm tàu, 100 quan tiền, truy tặng là Vệ úy quân Thần sách Tặng chức hàm Chưởng cơ tòng Nhị phẩm, cấp tuất theo hàm được tặng, 2 cây gấm tàu, 200 quan tiền, 5 tấm lụa, 10 tấm vải Cho khôi phục 4 bậc bị giáng và theo nguyên hàm Quản cơ mà cấp tuất, 500 quan tiền, 3 tấm lụa, 5 tấm vải. Tặng chức hàm Chương cơ tòng Nhị phấm,100 lạng bạc. Vua nhớ Trữ là người xuất sắc trong việc đánh dẹp, rất thương tiếc, truy tặng hàm Vệ úy, Chánh tam phẩm, 100 lạng bạc. Minh Mệnh năm thứ 13 (1832) Minh

27

Nội dung trợ cấp

STT Năm Lý do Mức trợ cấp

Võ quan đƣợc ban cấp Vệ úy Nguyễn Thọ Tuấn

Mệnh năm 14 thứ (1833) Xông pha khí độc núi rừng, bị bệnh rồi chết

10

lâu quân

11

Suất đội Tống Văn Bình Chương cơ Lê Thuận Tình

Tòng ngày ốm rồi mất Sai phái đi Trấn Tây đánh dẹp ốm chết 12

Minh Mệnh năm thứ 15 (1834)

Chưởng cơ Lê Văn Thụy 13 Khôi phục 2 bậc bị giáng, 200 lạng bạc, truy tặng chức hàm Chương cơ tòng Nhị phẩm, theo hàm cấp tuất, phong Gia Quan nam, 3 cảy gấm Tàu, 10 tấm lụa. Cấp tuất gấp lên 1 lần Cho khôi phục chức hàm Vệ úy chánh Tam phẩm, theo phẩm mà cấp tuất, 30 lạng bạc. Truy tặng hàm Thống chế, cấp tuất, 500 quan tiền, 3 cây gấm Tàu Đi đánh dẹp giặc Tiêm (Xiêm), ốm chết

Vệ úy Lê Văn Dũng

Trấn giữ đồn ốm vẫn gượng dậy tham chiến 14

Minh Mệnh năm 17 thứ (1836) Thiệu Trị năm thứ 2 (1842)

Đề đốc Vũ Văn Từ Đi thọ giá nhà vua ở Thanh Hóa

15

được sai phái chết tại quan thứ

bang biện Suất đội Nguyễn Văn Chiêm 16

18 tháng 2 năm Tự Đức 20

Truy tặng Vệ úy, chiếu theo hàm tặng mà cấp tuất. Truy tặng Đô thống, cấp cho gấm Trung Quốc, sa màu mỗi thứ 3, vóc Nam 10 tấm, lụa 20 tấm, vải 40 tấm, tiền 800 quan Vậy gia ân truy tặng cho Nguyễn Văn Chiêm làm Chánh đội trưởng Suất đội Cấm binh và chiểu theo hàm mới để cấp tuất. Hàm cấm binh Cai đội, chiếu lệ cấp tuất Cai đội Nguyễn Văn Sĩ

14 tháng 3 Tự năm Đức 20 Hiệp quản thuỷ vệ Quảng Bình còn chưa nhậm chức 17

28

Nội dung trợ cấp

STT Năm Lý do Mức trợ cấp

Võ quan đƣợc ban cấp Phó quản cơ Lê Sỹ Làm nhiệm vụ ở Bình Định

18 28 tháng 10 Tự năm Đức 15

Can án đồn lớn thất thủ, chiếu theo phẩm hàm cấp tuất, không truy thụ. Cho khai tiêu 30 quan tiền công để khâm liệm

Hiệp quản Nguyễn Văn Đức 19

Nay ở nơi đóng quân bị ốm chế

19 tháng 10 năm Tự Đức 15 12 tháng 10 năm Tự Đức 15 20

Cai đội quyền sung Hiệp quản Trần Quang Tú, Cai đội Bang biện Hiệp quản Trần Tuân Phó vệ uý Trương Linh

hiện theo quân thứ làm sai phái Đội trưởng

29 tháng 9 năm Tự Đức 11

21

Nguyên Đề đốc Hồ Đức Tú

22

đội Bị cách chức được sung làm hiệu lực tiền khu để chuộc tội Đi sai phái

cai Viên Nguyễn Lật 23 28 tháng 12 Tự năm Đức 11 Tập 133 tờ 235 TĐ 12

24 Án sát tỉnh Cao Bằng Nguyễn Hiên Bị cải tạo chuộc tội đã đến Cao Lạng làm nhiệm vụ

11 tháng 9 năm Tự Đức 22 ở quân ngũ bị bệnh Truy thụ làm Phó quản cơ, theo hàm mới cấp tuất Không có công trạng đánh dẹp, can dự án thất thủ xét xử chưa xong, chiếu theo như lệ cũ cấp tuất thêm gấp đôi không được truy thăng Dưới tên còn bị phạt 6 tháng bổng, xin tha cho và theo đó cấp tuất tăng gấp đôi. Vậy xin cung nghĩ phụng chỉ: Trương Linh vì ốm mà chết về tình thật đáng thương, truyền gia ân cấp tuất tăng gấp đôi đã tỏ lòng thương xót. Có quân công được ghi kỷ lục 9 lần chuẩn cho khai phục chức Phó vệ uý Cấm binh, chiếu hàm cấp tuất. Chưa có công trạng khi sai phái nên theo phẩm hàm cấp tuất, không cho truy thụ Theo lệ các viên bị cách chức hiệu lực tình nguyện đi đánh dẹp không may bị bệnh chết được xét cấp 3

29

Nội dung trợ cấp

STT Năm Lý do Mức trợ cấp Võ quan đƣợc ban cấp

Cai đội Cấm binh Ngô Văn Cường Đến Thái Nguyên đánh dẹp 25

Phó Lãnh Hoàng đình Mậu Bị bệnh chết khi ở quân thứ 24

quan tiền, chết trận cấp gấp đôi. tỉnh này đã chi 57 quan tiền để lo liệu nên chăng cho được quyết toán. Xin chiếu theo lệ truy thu Cai đội Cấm binh, chiếu theo phẩm hàm cấp tuất. Thực thụ Quản cơ, chiếu tặng hàm cấp tuất tăng gấp rưỡi, Chiếu lệ nên cấp gấp đôi

binh Văn Đi sai phái ở Nghệ An 25

Lãnh Nguyễn Trung Phó lãnh binh Vũ Văn Diệu Sai phái đến quân thứ Thái Nguyên 26

Cai đội Cấm binh Hoàng Đình Mậu

Miễn giáng 3 cấp lưu nhiệm. Cấp tuất gấp đôi. Truy thụ hàm Quản cơ, thêm gấp rưỡi cấp tuất theo hàm Lãnh Phó Lãnh binh tỉnh Thái Nguyên 27

12 tháng 12 năm Tự Đức 30 13 tháng 10 năm Tự Đức 30 27 tháng 9 năm Tự Đức 30 14 tháng 4 năm Tự Đức 30 20 tháng 10 năm Tự Đức 30

[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Thực lục, Hội điển, Châu bản triều Nguyễn]

c. Bảng thống kê về việc trợ cấp cho võ quan đương nhiệm bị chết dưới triều Nguyễn

STT Năm Mức ban cấp

1 Minh Mệnh năm thứ nhất (1819).

2

3 Truy tặng Binh bộ Thượng thư, cho 200 lạng bạc cấp cho 2 người mộ phu. Tiền tuất 200 quan. Ban cấp 100 lạng bạc

4

Võ quan đƣợc ban cấp Thự Thượng thư Binh bộ Nguyễn Tường Vân ở Bắc Thành Chưởng cơ Nguyễn Văn Thanh Vệ uý Thị trung Tôn Thất Trinh Vệ úy Nguyễn Văn Hòa Vua đặc ân hậu tuất Vệ uý Lê Hậu 1 cây gấm Tống và 100 quan tiền 5 Minh Mệnh thứ 2 (1820) Minh Mệnh năm thứ 11 (1830)

30

STT Năm Mức ban cấp

Minh Mệnh năm thứ 12 (1831), Cấp tuất theo hàm mới lại100 quan tiền, khôi phục 1 bậc bị giáng 6

Minh Mệnh năm thứ 16 (1835) 7

Võ quan đƣợc ban cấp Thự phó Vệ úy dinh Hổ Oai Nguyễn Văn Vị Tuyên binh Lãnh Quang Nguyễn Văn Quyên Tổng đốc Long Tường Đoàn Văn Phú Minh Mệnh năm thứ 21 (1840) 8

Tự Đức năm thứ 19 (1866) 9

Nguyên Tuần phủ Tổng đốc Ninh - Thái Đỗ Quang (ốm xin nghỉ) chết.

3/3 TĐ 2

Thự Tổng đốc Định Biên Nguyễn Đức Hoạt

10

Truy tặng hàm Thống chế, theo hàm cấp tuất, 500 quan tiên, 2 cây gấm Tàu. Thưởng 3 cây gấm Tống, 200quan. Chuẩn bị lễ phẩm lập đàn cúng lễ, hộ tống linh cữu về quê. Thưởng thêm 300 quan để lo việc tang. Truy tặng hàm Lễ bộ Thượng thư, tiền tuất 600 quan, cấp cho mẹ viên ấy mỗi tháng 2 phương gạo, 10 quan tiền, khi chết, cho 100 quan tiền và lục dụng con.b 1 tấm triều bào theo Chánh nhị phẩm mà cấp tuất, thêm cho 3 cây gấm Tống, 5 tấm lụa trắng, 300 quan, đàn tế cấp thêm 300 quan tiền lo việc an tang Cấp tuất theo lệ định cho truy tặng thực thụ Thành Thủ uý... và chiếu theo hàm mới cấp tuất 10 tháng 7 năm Tự Đức 4 11

Truy thực thụ, theo hàm mới cấp tuất

12

Theo phẩm hàm cấp tuất

13

Chiếu lệ cấp tuất

14 24 tháng 7 năm Tự Đức 4 5 tháng 11 năm Tự Đức 4 14 tháng 11 năm Tự Đức 4

15 Thự Thành Thủ uý sung Hiệp quản vệ Quảng Nam Hoàng Công Tính Thự Phó vệ uý chư quân Lãnh Từ tế Tôn Thất Quyền Phó vệ uý, Phi kỵ úy Nguyễn Đức Phó vệ uý vệ Hữu Thuỷ thuộc tỉnh Đinh Tường Nguyễn Nguyên Quản cơ cơ Lê Thức, Cấp tuất theo lệ ra, thuộc diện quan chức hàm Chánh tứ phẩm nên xin làm tờ sớ tâu lên đầy đủ

26 tháng 8 năm Tự Đức 2 26 tháng 8 năm Phó vệ uý Trần Đăng Theo lệ cấp tuất 16

31

STT Năm Mức ban cấp Võ quan đƣợc ban cấp

Chiếu theo phẩm hàm cấp tuất 17

Điền Phò mã Đô uý Đoàn Văn Tuyển Vệ uý Phạm Hựu

Tự Đức 2 10 tháng 7 năm Tự đức 16 25 tháng 6 năm Tự Đức 20

18

thủ uý Có tội về khoản nhận sai thuốc vẽ bị đánh 50 roi, phần bồi thường tiền là 140 quan 5 mạch 52 văn. Trước sau đã bồi nạp được 40 quan, còn thiếu 64 quan 5 mạch 52 văn. Châu điểm vào hai chữ miễn bồi) Truyền chiếu theo phẩm trật cấp tuất

Lĩnh Thành Nguyễn Bá Hợp 19

Chiếu lệ cấp tuất. 20

Phó Quản cơ Phạm Trinh Thự chưởng vệ Hoàng Trọng Hổ

10 tháng 10 năm Tự Đức 15 17 tháng 9 năm Tự Đức 15 25 tháng 7 năm Tự Đức 30

21

Bị giáng 1 cấp lưu, nay xin khoan miễn. Lại thêm viên quan ấy từ khi thăng thụ 1 bậc đến khi bị bệnh chết là được hơn 3 năm. Nên xin truy thụ Chưởng vệ Tòng nhị phẩm, chiếu theo lệ mới cấp tuất 600 quan.

[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Thực lục, Hội điển, Châu bản triều Nguyễn]

d. Bảng thống kê về việc trợ cấp cho võ quan có nhiều công trạng, đương nhiệm chết dưới triều Nguyễn

STT Năm Công lao Mức ban thƣởng

Có công vọng các

1

Khi bị bệnh, vua sai trung sứ đến thăm, cho quế thượng phương. Khi chết, tặng Thống chế, thuỵ Thành Cẩn; 300 quan tiền, 2 cây gấm Tống, 30 tấm vải.

Minh Mệnh thứ năm thứ 3 (1822)

2

Võ quan đƣợc trợ cấp Thự Hữu thống chế Thị trung Nguyễn Văn Tính Chưởng Hữu quân quận công Nguyễn Là bậc thần đại huân cựu, người trung Tặng Thái bảo, thuỵ Trung Cẩn. 1.000 quan tiền, 300 lạng bạc, 2 cây gấm chân kim, 3 cây gấm Tống, 30 tấm lụa, đội Thị thiện hằng ngày làm cỗ nấu để cúng. Khi đưa về Gia Định, vua ngự giá đến nhà rót rượu cúng. Cho

32

STT Năm Công lao Mức ban thƣởng

Võ quan đƣợc trợ cấp Văn Nhân

thành cẩn hậu.

3 Chưởng cơ Nguyễn Khắc Tuấn 100 binh đội hữu sai đưa đi. Đến ngày an táng, nghỉ chầu một ngày. Cấp cho 10 người mộ phu. Truy tặng Thống chế, cấp hàng tơ, 200 lạng bạc, sai quan dụ tế, cho gia quyến 200 quan tiền.

Minh Mệnh năm thứ 4 (1823)

4

Đánh dẹp lập nhiều chiến công Có công triều 2 Gia Long và Minh Mệnh

Truy tặng Thái phó, thụy Trung dũng, 30 tấm gấm đoạn và nhiễu, 3.000 quan tiền, nghỉ chầu 3 ngày, sai quan tứ tế. Ngày đưa đám lại nghỉ chầu 1 ngày, sai quan tứ tế, hạ lệnh cho 1.000 lính và 10 thớt voi đi đưa đám. Cho thêm 1.400 quan tiền, 1.000 phương gạo, 10 người mộ phu. Cháu đem về quê chôn, cho vải 100 tấm, tiền 500 quan, sai quan đến tế; bắt dân sở tại xây phần mộ, cấp cho tiền gạo

Chưởng Tượng quân Quận công Nguyễn Đức Xuyên Giám quân Tống Phước Đạm 5

Buổi đầu trung hưng, giữ thành Diên Khánh Minh Mệnh năm thứ 5 (1824)

thống Lê

Tặng Thiếu bảo chưởng dinh, thuỵ là Tráng nghị, sai quan tứ tế, 5 cây gấm Tống, 50 tấm lụa, 100 tấm vải, 2.000 quan, 3 người mộ phu. 6 Đô chế Văn Thành Có nhiều công lao đánh giặc,

9 Truy tặng Tả quân Đô thống phủ Chưỏng phủ sự, chiếu theo hàm tặng mà cấp tuất, 3 cây gấm tàu, 10 tấm lụa, 500 quan tiền.

Theo vua lâu ngày, siêng năng Minh Mệnh thứ (1828) 7

Làm việc lập công

Cấp tuất, tặng chức Hộ thành binh mã sứ, 100 quan tiền. 8 Thự Chưởng quân Đoàn Văn Trường Hộ thành bính mã Đồ Phục Thịnh

Minh Mệnh năm thứ 11 (1830)

33

STT Năm Công lao Mức ban thƣởng

Võ quan đƣợc trợ cấp

úy

Vệ Nguyễn Tiến Trữ Lập công trong bắt giặc Truy tặng chức hàm chính Tam phẩm, chiếu theo phấm cấp tuất, 100 lạng bạc. 9

úy

10

11 300 quan tiền, 3 chiếc áo, 3 chiếc quần, 1 cây gấm Tống, 5 tấm lụa, 10 tấm vải, 10 cân sáp, 300 cân dầu Trong danh sách có ghi giáng phạt đều cho khôi phục, 100 lạng bạc, 3 cây gấm tàu.

Minh Mệnh năm thứ 13 (1832) Minh Mang năm thứ 14 (1833) Truy tặng hàm Thiếu bảo, cấp tuất, 5 cây gấm Tàu, 10 tấm lụa, 20 tấm vải

12

thống

Vệ Trương Văn Hậu Thông chế Thần sách Phạm Văn Lý Hậu quân thông Đô phủ Chương phủ sự Đô phủ Lương Tài hầu Trần Văn Năng Minh Mệnh năm thứ 15 (1834)

13

Truy tặng hàm Thái phó, phong Tân Thành quận công, tên thụy là Trung Dũng,gấm màu, nhiễu màu, sa màu mỗi thứ 10 tấm và 3000 quan tiền, an táng xong cho tế một tuần. Vua làm thơ để viếng. Đám tang đến Kinh, vua sai Hoàng tử đến chỗ nhà đám, ban cho 3 nậm rượu.

Truy tặng hàm Quản cơ, theo hàm tặng cấp tuất, thưởng thêm 100 quan tiền.

Có công đi đánh dẹp Theo vua lâu ngày có nhiêu công lao, Lão thành, lập nhiều chiến công Có nhiều lao công triều 2 Gia Long Minh Mệnh, đi loạn dẹp ở thành Phiên An Có công lao trong chiến trận Phó Quản cơ Hô Văn Thường 14

Phó Quản cơ Nguyễn Doãn 15 Chiếu lệ cấp tuất. Châu phê thực nay truy tặng lên chức Quản cơ

Minh Mệnh năm thứ 16 (1835) 15 tháng 9 năm Tự Đức 15 18/6 Chưởng Dũng cảm, công trạng có chiến Truy tặng chức Thống chế chiếu theo phẩm

34

STT Năm Công lao Mức ban thƣởng

công 16

năm Tự đức 16

bộ

Sai phái Lạng Bằng hàm cấp tuất, lại cấp thêm cho 500 quan tiền. Tỉnh đó sửa lễ do 1 Bố chánh hoặc án sát tứ tế 1 lần Truy tặng Hiệp biện đại học sĩ, chiếu lệ tặng hàm, cấp tuất gấp đôi cấp là 1 ngàn 4 trăm quan, áo bào đã cấp ở quê rồi 17 13 tháng 3 năm Tự Đức 22

Võ quan đƣợc trợ cấp vệ Đề đốc Phạm Hữu Xuân Nguyên Binh Thượng thư, Phan Khắc Thuận

[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Thực lục, Hội điển, Châu bản triều Nguyễn]