VÀ ĐÀO TẠOC SƢ PHẠM HÀ NỘI
BOBỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
----------
VŨ THỊ NGA
A
CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI
QUÂN ĐỘI DƢỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 - 1884
LUẬN ÁN TIẾN S HOA HỌC ỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOPHẠM HÀ NỘỊ NGA
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
----------
VŨ THỊ NGA
CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI
QUÂN ĐỘI DƢỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 - 1884
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 9.22.90.13
LUẬN ÁN TIẾN S HOA HỌC ỊCH SỬ
ị Thu Thủy
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1.PGS.TS Phan Ngọc Huyền
2.TS. Nguyễn Thị Thu Thủy
HÀ NỘI - 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu sử
dụng trong Luận án hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Những kết
quả của Luận án chưa được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả
Vũ Thị Nga
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Phan Ngọc Huyền và TS Nguyễn
Thị Thu Thủy đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và triển khai
Luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn thành viên trong Hội đồng đánh giá Luận án các
cấp đã có những ý kiến góp ý quý báu để tôi hoàn thiện Luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn cán bộ Trung tâm Lưu trữ quốc gia I và cán bộ Thư
viện Quốc gia Việt Nam đã giúp tôi tiếp cận tài liệu để bổ sung và triển khai Luận án.
Tôi xin cảm ơn cơ quan công tác, gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đồng môn đã
tạo điều kiện, ủng hộ tôi trong suốt thời gian học tập vừa qua!
Hà Nội, tháng 8 năm 2021
Tác giả
Vũ Thị Nga
iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Viết đầy đủ
Châu bản triều Nguyễn Châu bản
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ Hội điển
Hội điển tục biên Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên
Nhà xuất bản Nxb
Đại Việt sử ký toàn thư Toàn thư
Đại Nam thực lục Thực lục
iv
Bảng 2.1. Các chức quan và phẩm hàm của bộ Binh dưới triều Nguyễn .................. 42
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.2. Tổ chức một Doanh của quân đội triều Nguyễn ....................................... 43
Bảng 2.3. Số lượng đơn vị và quân lính trong một doanh ........................................ 44
Bảng 2.4. Số quân thuộc ngạch Thân binh dưới triều Nguyễn ................................. 45
Bảng 2.5. Số lượng Tinh binh đóng ở các địa phương ............................................. 48
Bảng 2.6. Số lượng quân lính ở các địa phương dưới triều Nguyễn ........................ 50
Bảng 3.1. Định mức lương tiền, gạo của võ quan triều Gia Long, ........................... 56
Minh Mệnh, Tự Đức ................................................................................................. 56
Bảng 3.2. Lương của công thần về hưu ban hành năm Gia Long thứ nhất (1802) ... 62
Bảng 3.3. Định mức lương đối với quan văn –võ về hưu ban hành năm Tự Đức thứ 32
(1879) ......................................................................................................................... 64
Bảng 3.4. Định mức cấp tuất cho võ quan năm Tự Đức thứ 12 (1859) .................... 70
Bảng 3.5. Chế độ truy tặng phẩm hàm cho võ quan bị cách chức trận vong ban hành
năm Tự Đức thứ 27 (1874) ....................................................................................... 71
Bảng 3.6. Định mức ban cấp cho quan văn võ bị nạn bão được ban hành năm Tự
Đức thứ 26 (1873) ..................................................................................................... 74
Bảng 4.1. Lương lính ở Kinh ban hành năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) .................. 88
Bảng 4.2. Lương của lính mộ Bắc kỳ ban hành năm Tự Đức thứ 32 (1879) ........... 90
Bảng 4.3. Lương điền của mỗi binh lính được ban hành năm Gia Long thứ 8 (1809)
................................................................................................................................... 92
Bảng 4.4.. Lương điền của binh lính ban hành năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) ...... 93
Bảng 4.5. Lương điền của binh lính ban hành năm Minh Mệnh thứ 17 (1836) ....... 94
v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Số lượng quân thuộc Cấm binh qua các triều vua ................................ 46
Biểu đồ 2.2. Số lượng quân thuộc Tinh binh qua các triều vua ................................ 49
Biểu đồ 2.3. Tổng hợp số lượng các ngạch quân ở trung ương thời Nguyễn ........... 49
Biểu đồ 2.4. Tổng số quân lính dưới triều Nguyễn qua các triều vua ...................... 51
Biểu đồ 3.1. Sự biến động của định mức lương tiền võ quan qua các triều vua Gia
Long, Minh Mệnh và Tự Đức ................................................................................... 57
Biểu đồ 3.2. Định mức lương điền của võ quan ban hành năm Gia Long thứ 3 (1804) .. 59
Biểu đồ 3.3. Định mức tiền may quần áo cho võ quan năm Gia Long thứ 17 (1818)
................................................................................................................................... 60
Biểu đồ 3.4. Định mức tiền tuất cho quan viên dưới triều Gia Long và Tự Đức ..... 67
Biểu đồ 3.5. Thưởng cho các công thần Vọng các năm Gia Long thứ nhất (1802) . 75
Biểu đồ 3.6. Số lượng thuộc binh được cấp cho công thần về hưu ban hành năm Gia
Long thứ nhất (1802)................................................................................................. 83
Biểu đồ 4.1. Khẩu phần ruộng đất của các ngạch Cấm binh và Tinh binh năm Gia
Long thứ 3 ( 1804) .................................................................................................... 91
vi
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG .............................................................................................................. iv
DANH MỤC BIỂU ĐỒ ......................................................................................................... v
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƢ IỆU .... 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................................... 9
1.1.1. Một số nghiên cứu của các học giả nước ngoài ................................................ 9
1.1.2. Những nghiên cứu của các học giả trong nước. .............................................. 12
1.2. Nguồn tư liệu nghiên cứu đề tài ......................................................................... 20
1.2.1. Nguồn tư liệu được biên chép trước triều Nguyễn ......................................... 20
1.2.2. Nguồn tư liệu biên chép trực tiếp dưới thời nhà Nguyễn ............................... 22
1.3. Những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu đề tài ..................................................... 28
Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 30
Chƣơng 2. BỐI CẢNH ỊCH SỬ THẾ Ỷ XIX VÀ TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI
TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802-1884 ..................................................................... 31
2.1. Bối cảnh lịch sử thế kỷ XIX ............................................................................... 31
2.1.1. Bối cảnh thế giới và khu vực .......................................................................... 31
2.1.2. Bối cảnh trong nước thế kỷ XIX ..................................................................... 34
2.2. Tổ chức quân đội dưới triều Nguyễn ................................................................. 38
2.2.1. Phân loại, phiên chế các ngạch quân ............................................................... 38
2.2.2. Cơ cấu, tổ chức ................................................................................................ 42
2.2.3. Số lượng, nhiệm vụ ......................................................................................... 44
Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................................. 52
Chƣơng 3. CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI VÕ QUAN TRONG QUÂN ĐỘI DƢỚI
TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 -1884 .................................................................... 53
3.1. Chế độ đãi ngộ bằng lương cho võ quan ....................................................................... 53
3.1.1. Chế độ đãi ngộ bằng lương đối với võ quan đương chức ......................................... 53
3.1.2. Chế độ lương đối với võ quan về hưu ......................................................................... 61
3.2. Chế độ đãi ngộ ngoài lương ............................................................................................ 64
vii
3.2.1. Chế độ phụ cấp .............................................................................................................. 64
3.2.2. Chế độ trợ cấp ............................................................................................................... 65
3.2.3. Chế độ khen thưởng ...................................................................................................... 74
Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................................................. 85
Chƣơng 4. CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI BINH LÍNH CỦA TRIỀU NGUYỄN
GIAI ĐOẠN 1802-1884 ........................................................................................................ 86
4.1. Chế độ đãi ngộ bằng lương cho binh lính ...................................................................... 86
4.1.1.Chế độ lương cho binh lính tại ngũ .............................................................................. 86
4.1.2. Chế độ lương đối với binh lính xuất ngũ .................................................................... 96
4.2. Chế độ đãi ngộ ngoài lương đối với binh lính ............................................................... 96
4.2.1. Chế độ phụ cấp .............................................................................................................. 96
4.2.2. Chế độ trợ cấp ............................................................................................................. 102
4.2.3. Chế độ khen thưởng .................................................................................................... 104
Tiểu kết chƣơng 4 ................................................................................................................ 115
Chƣơng 5. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI QUÂN
ĐỘI DƢỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802-1884 ............................................. 116
5.1. Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn trong cái nhìn so sánh lịch đại ............................. 116
5.1.1. Sự khác nhau của chế độ đãi ngộ đối với quân đội qua hai giai đoạn trước và sau
năm 1858 ................................................................................................................................ 116
5.1.2. Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với quân đội trong mối tương quan với các
triều đại trước ......................................................................................................................... 119
5.2. Một số đặc điểm về chế độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn ................. 124
5.2.1. Chế độ đãi ngộ đối với quân đội thể hiện sự phân biệt thứ bậc rõ rệt gắn với từng
đối tượng cụ thể ..................................................................................................................... 124
5.2.2. Chế độ đãi ngộ đối với quân đội thể hiện sự quân tâm đặc biệt của triều Nguyễn
đối với quân đội ..................................................................................................................... 127
5.2.3. Chế độ đãi ngộ đối với quân đội triều Nguyễn thể hiện sự linh hoạt nhằm đảm
bảo đời sống cho binh lính (đặc biệt là đối với binh lính làm nhiệm vụ chiến đấu) .... 130
5.2.4. Chế độ đãi ngộ dành cho quân đội phản chiếu khách quan bức tranh xã hội và tiềm
lực kinh tế của đất nước. ....................................................................................................... 134
5.3.Những tác động của chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn giai đoạn
1802-1884 .............................................................................................................................. 136
viii
5.3.1. Tác động tích cực ........................................................................................................ 136
5.3.2. Một số mặt trái của chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho quân đội ............ 138
Tiểu kết chƣơng 5 ................................................................................................................ 145
KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 146
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 150
PHỤ ỤC
1
MỞ ĐẦU
1. ý do chọn đề tài
Triều Nguyễn là triều đại cuối cùng trong lịch sử chế độ quân chủ ở Việt
Nam. Từ khi Nguyễn Ánh lật đổ vương triều Tây Sơn, lập ra nhà Nguyễn (năm
1802) đến khi Bảo Đại thoái vị (năm 1945), triều Nguyễn tồn tại 143 năm với 2 thời
kỳ lịch sử: quân chủ độc lập (1802 - 1884) và thuộc địa nửa phong kiến (1884 -
1945). Trong thời kỳ độc lập, dưới sự trị vì của các vua từ Gia Long, Minh Mệnh,
Thiệu Trị đến Tự Đức, triều Nguyễn đã xây dựng được một bộ máy nhà nước quân chủ
tập quyền cao độ với tổ chức hành chính thống nhất và lực lượng quân đội khá hoàn bị.
Trong đó, yếu tố quan trọng hàng đầu, ảnh hưởng đến sự vững mạnh quân đội triều
Nguyễn đó chính là chế độ đãi ngộ của nhà nước dành cho võ quan và binh lính.
Được xây dựng trong thời kỳ suy yếu của chế độ quân chủ, kinh tế nông
nghiệp vẫn là chủ đạo dù diện tích ruộng đất ngày càng bị thu hẹp. Bên cạnh đó,
thiên tai mất mùa liên tiếp xảy ra, nông dân và các thành phần khác trong xã hội liên
tục nổi dậy chống lại triều đình. Trong bối cảnh như vậy, đời sống của võ quan và
binh lính như thế nào? Chế độ đãi ngộ của nhà nước đối với quân đội có thực sự
phù hợp? Họ có thực sự được nhà nước quan tâm? Đây chính là những câu hỏi cần
được giải đáp bằng những cứ liệu khách quan và khoa học.
Nghiên cứu về vấn đề này sẽ góp phần bổ sung nguồn tư liệu nghiên cứu về các
biện pháp và chính sách đãi ngộ trong xây dựng quân đội dưới triều Nguyễn; đồng thời
đánh giá cụ thể hơn chế độ đãi ngộ cho quân đội có ảnh hưởng như thế nào đến tổ chức,
trình độ tác chiến của các lực lượng vũ trang dưới vương triều này. Thông qua tìm hiểu
vấn đề này, người đọc có thể hiểu được tình hình chính trị, kinh tế và xã hội Việt Nam
dưới sự cai trị của vương triều Nguyễn. Đây là một trong những cách tiếp cận giúp
chúng ta có cách nhìn đa chiều hơn về lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX.
Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động,
không ít thế lực thù địch vẫn luôn tìm cách phá hoại nền độc lập và chủ quyền biên
giới lãnh thổ của Việt Nam thì việc xây dựng một lực lượng quân đội chính quy tinh
nhuệ có tinh thần kiên định vững vàng là vấn đề được Đảng và nhà nước rất coi
2
trọng. Để làm được điều đó, chính sách lương thưởng và ưu đãi dành cho quân đội,
nhất là đối với chiến sĩ đang làm nhiệm vụ ở vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, hải
đảo giúp cho họ yên tâm công tác được nhà nước đặc biệt quan tâm. Việc tìm hiểu
chính sách đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho quân đội (đặc biệt là đối với các binh
lính đi làm nhiệm vụ lâu ngày, làm nhiệm vụ ở nơi khó khăn vất vả) có thể giúp người
đọc rút ra được một số bài học thiết thực trong công tác tiền lương và chính sách đối
với thương binh liệt sĩ, người có công với cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, việc tìm hiểu chính sách đãi ngộ dành cho quân đội của triều
Nguyễn sẽ là cơ sở tham khảo cho việc thực hiện chính sách đãi ngộ đối với chính
sách đối với quân đội trong giai đoạn hiện nay nhất là chính sách đối với thương
bệnh binh gia đình liệt sĩ, chính sách cho người có công với cách mạng và thân
nhân của bộ đội khi mà dân tộc vẫn còn phải khắc phục những hậu quả chiến tranh
do hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ để lại.
Kết quả việc nghiên cứu của đề tài cũng góp phần bổ sung nguồn tài liệu có
giá trị khoa học phục vụ trực tiếp cho việc nghiên cứu, giảng dạy và tham khảo về
vương triều Nguyễn ở đại học, cao đẳng và trường phổ thông.
Xuất phát từ những lí do trên, nghiên cứu sinh quyết định chọn vấn đề “Chế
độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802 - 1884” làm đề tài
nghiên cứu cho luận án Tiến sĩ của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án nhằm mục đích mô tả lại bức tranh về bối cảnh lịch sử cũng như nội
dung các chính sách đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho quân đội trong giai đoạn
1802-1884.
Bên cạnh đó, luận án hướng đến việc phân tích và chỉ ra được những nỗ lực,
cố gắng của triều đình nhà Nguyễn trong việc thi hành chế độ đãi ngộ cho quân đội.
Đồng thời, trên cơ sở tiếp cận từ mối quan hệ đa diện giữa tài chính và quốc phòng,
giữa ngân sách kinh tế và tiềm lực quân đội, đề tài hướng đến việc nhận thức lại và
nhận thức rõ hơn về những đãi ngộ về tài chính của vương triều Nguyễn dành cho
3
quân đội. Đây cũng là cơ sở nhằm góp phần đưa lại những nhận định, đánh giá
khách quan và rõ ràng hơn về vương triều này.
Kết quả nghiên cứu của luận án nhằm rút ra được những bài học kinh nghiệm
quý báu trong việc đầu tư và xây dựng nền quốc phòng an ninh quốc gia của nhà
nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nhằm giải quyết những nhiệm vụ dưới đây:
Thứ nhất, phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến chế độ đãi ngộ đối với quân
đội của vương triều Nguyễn như: bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước, cơ cấu tổ
chức quân đội của triều Nguyễn.
Thứ hai, trình bày và phân tích một cách hệ thống những nội dung của các
chính sách liên quan đến chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn cho quân đội như: chế độ
đãi ngộ bằng lương; chế đãi ngộ ngoài lương (gồm phụ cấp, trợ cấp và chế độ khen
thưởng dành cho võ quan (gồm võ quan đương chức và về hưu) và binh lính (gồm
binh lính đang làm nhiệm vụ và xuất ngũ).
Thứ ba, phân tích, so sánh và đánh giá đặc điểm, những tác động tích cực
cũng như hạn chế của chính sách đãi ngộ đối với quân đội của vương triều Nguyễn
trong thế kỉ XIX.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc thực thi chế độ đãi ngộ của triều
Nguyễn đối với quân đội giai đoạn 1802-1884. Hiện nay, khái niệm quân đội có thể
hiểu theo nghĩa rộng tuy nhiên trong nội dung của đề tài này chỉ đề cập đến 2 đối
tượng là võ quan và binh lính.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian từ khi vương triều
được thành lập năm 1802 đến năm 1884 khi triều Nguyễn thất bại trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Về không gian: Các tư liệu và nội dung đề cập trong luận án trên lãnh thổ nhà
nước Đại Nam dưới triều Nguyễn.
4
Về nội dung:
Quân đội của một quốc gia bao gồm nhiều nhân tố như tổ chức quân đội, sức
mạnh quân đội. Sức mạnh quân đội gồm yếu tố con người và trang bị vũ khí. Yếu tố
con người bao gồm lực lượng chỉ huy và lực lượng chiến đấu. Dưới thời quân chủ,
lực lượng này bao gồm võ quan (chỉ huy) và binh lính (tham gia thực hiện những
nhiệm vụ của quân đội). Trong khuôn khổ của luận án này, tác giả chỉ đề cập đến
yếu tố con người trong quân đội (tức võ quan và binh lính).
Chế độ đãi ngộ đối với quân đội có thể hiểu là những chính sách ưu đãi của
nhà nước nhằm xây dựng và củng cố quân đội. Tuy nhiên, khuôn khổ của luận án
này chỉ đề cập đến chế độ đãi ngộ của nhà nước đối với “những lao động đặc biệt”
của quân đội. Đó là các chính sách, biện pháp đãi ngộ dành cho võ quan và binh
lính. Trong đó bao gồm chế độ đãi ngộ bằng lương, và đãi ngộ ngoài lương (khen
thưởng, trợ cấp và phụ cấp). Một số nội hàm khái niệm liên quan đến đãi ngộ như:
Lương: Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (chủ biên), là khoản
tiền công trả định kì, thường là hàng tháng cho cán bộ công nhân viên [196; 985].
Lương trong quân đội thời kì quân chủ còn được gọi bằng thuật ngữ lương hướng.
Lương hướng được hiểu theo 2 nghĩa, nghĩa thứ nhất là lương thực dùng cho quân
đội, nghĩa thứ hai chính là lương bổng.
Phụ cấp và trợ cấp: Nếu phụ cấp được hiểu là nguồn cấp thêm ngoài khoản
chính (ví dụ tiền phụ cấp) thì trợ cấp được hiểu là khoản tiền (gồm tiền trợ cấp hàng
tháng, trợ cấp khó khăn đột xuất) được cấp cho một đối tượng nào đó để giúp đỡ họ
khi khó khăn. Dưới thời quân chủ, trợ cấp có nhiều loại như: cấp tuất nghĩa là
thương xót mà trợ cấp như tuất dưỡng, lân tuất, tiền tuất, tử tuất; tuất dưỡng là cứu
giúp mà nuôi nấng; tiền tuất là tiền trợ cấp cho thân nhân liệt sĩ hoặc thân nhân của
các viên chức nhà nước bị chết khi đang làm nhiệm vụ [196;1547].
Khen thưởng: được hiểu bao gồm cả nội hàm ngợi khen và ban thưởng bằng
hiện vật sao cho xứng đáng với thành tích công lao.
Với những nội hàm của khái niệm đã nêu trên, trong khuôn khổ của luận án
này, tác giả giới hạn chỉ đề cập đến những nội dung sau:
Chế độ đãi ngộ bằng lương. Đây là khoản ban cấp định kỳ cho võ quan và
5
binh lính của triều Nguyễn bao gồm tiền, gạo, ruộng đất và quân trang.
Chế đãi ngộ ngoài lương bao gồm phụ cấp, trợ cấp và khen thưởng. Trong đó
phụ cấp là khoản hỗ trợ của triều đình để bù đắp yếu tố về điều kiện lao động, mức
độ phức tạp của công việc, điều kiện sinh hoạt mà chưa được tính đến hay chưa
được tính đầy đủ trong mức lương. Trợ cấp là khoản hỗ trợ của triều đình cho võ
quan và binh lính khi rơi vào tình trạng không hoặc tạm ngừng lao động. Khen
thưởng là những khoản ban cấp ngoài lương của triều đình cho võ quan và binh lính
khi họ có thành tích, công lao hay trong những dịp trọng đại của đất nước.
Trong giới hạn của một luận án, công trình này không khảo cứu về những
vấn đề chi dùng ngân sách của triều Nguyễn cho quốc phòng, như chi mua sắm vũ
khí trang thiết bị, chi xây dựng các công trình phòng thủ, chi cấp nuôi dưỡng chăm
sóc một một số đội quân như voi ngựa của đội tượng binh và kị binh.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án nghiên cứu
về hoàn cảnh lịch sử, nội dung, đặc điểm và những tác động của chế độ đãi ngộ
dưới triều Nguyễn đối với quân đội trong thời kỳ độc lập từ 1802 đến 1884.
Luận án được thực hiện thông qua việc kết hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu đặc trưng của ngành Lịch sử như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic,
phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu các nguồn tư
liệu Trong đó, hai phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic.
Phương pháp lịch sử: Đây là phương pháp quan trọng nhằm tái hiện lại một
cách chính xác, có hệ thống hoàn cảnh, nội dung và mục đích chế độ đãi ngộ của
triều Nguyễn đối với quân đội trong giai đoạn từ năm 1802 đến 1884 gắn liền với
thời gian cai trị của 4 triều vua: Gia Long (1802-1820), Minh Mệnh (1820-1841),
Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1847-1883). Sử dụng phương pháp lịch sử giúp
cho việc trình bày nội dung của đề tài theo đúng trình tự thời gian. Qua phương
pháp này, chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn dành quân đội được đặt trong tổng thể
mối tương quan giữa bối cảnh lịch sử - nội dung của chính sách - tác động của
những chính sách đó tới chính trị, kinh tế và xã hội. Điều này giúp cho việc tìm hiểu
6
và đánh giá mỗi chính sách được triều Nguyễn ban hành một cách chính xác và
khách quan.
Phương pháp logic: Đây là phương pháp sử dụng các luận điểm khoa học
nhằm xem xét, nghiên cứu, khái quát, lý giải các sự kiện. Từ đó, đánh giá, rút ra kết
luận, chỉ ra bản chất, khuynh hướng tất yếu, quy luật vận động của lịch sử. Do vậy,
trên cơ sở tái hiện chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho quân đội từ 1802 đến
1884, tác giả rút ra đặc điểm, những tác động tích cực cũng như hạn chế của nó đối
với việc xây dựng lực lượng quân đội và sức mạnh của nó đối với công cuộc đảm
bảo an ninh của đất nước và giữ gìn độc lập dân tộc. Đây là phương pháp nhằm đảm
bảo tính khoa học cho luận án.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp bổ trợ khác như:
Phương pháp thống kê: Phương pháp này nhằm thu thập tài liệu, xử lý chắt
lọc dẫn chứng và tài liệu quan trọng. Trong chính sách của triều Nguyễn đối với
quân đội, đặc biệt là chế độ ban thưởng và trợ cấp, bên cạnh định mức ban hành,
trên thực tế, việc thực thi đối với mỗi triều vua và đối với những trường hợp cụ thể
nhà nước lại có những đãi ngộ riêng. Do đó, phương pháp thống kê nhằm làm sáng
tỏ sự mềm dẻo trong mỗi chính sách của vương triều Nguyễn cũng như mục đích
hay nguyên nhân của việc khen thưởng đó là gì, đối tượng cụ thể là ai. Đây là cơ sở
để khái quát nên những đặc điểm trong chính sách lương bổng và trợ cấp của vương
triều Nguyễn đối với quân đội.
Phương pháp sưu tầm và xử lý tư liệu: Qua tìm hiểu nguồn sử liệu, các chủ
trương, biện pháp của chế độ đãi ngộ dành cho quân đội dưới triều Nguyễn được ghi
lại trong nhiều nguồn sử liệu khác nhau. Ví dụ, nội dung về định mức ban thưởng
lương bổng cho quan lại nói chung và võ quan nói riêng dưới các triều vua Nguyễn
được cả Thực lục và Khâm định ghi lại. Tương tự như vậy, có khá nhiều sự kiện
cùng được ghi chép trong Minh Mệnh chính yếu, Đại Nam thực lục hay Minh Mệnh
ngự chế văn và Châu bản. Điều đó đòi hỏi người viết phải so sánh kiểm tra sự trùng
khớp hoặc sự khác nhau của sự kiện trong các nguồn tư liệu để lựa chọn tư liệu cho
luận án.
Phương pháp so sánh đối chiếu: Đây là phương pháp quan trọng giúp
7
cho tác giả từ sự kiện cụ thể có thể rút ra những luận điểm khái quát, đánh giá
một vấn đề trong chế độ đãi ngộ của nhà nước đối với quân đội cũng như thấy
được sự thay đổi của nó như thế nào qua các thời kì hoặc qua các triều vua. Từ
đó, giúp tác giả có thể đánh giá ý nghĩa, tác động của các chính sách đối với võ
quan, binh lính cũng như ảnh hưởng của nó đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh-
quốc phòng.
5. Đóng góp của luận án
Đề tài có những đóng góp mới về mặt khoa học và thực tiễn như sau:
- Luận án là công trình chuyên sâu nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện
về cơ sở hình thành và những nhân tố tác động đến những chính sách đãi ngộ của
triều Nguyễn dành cho quân đội giai đoạn 1802-1884.
- Luận án tái hiện lại quá trình ban hành, nội dung, biện pháp thực thi chế độ
đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn thông qua các nguồn tư liệu thư tịch và
tư liệu chính sử viết về vương triều Nguyễn.
- Từ những nội dung của chính sách, luận án đưa ra những nhận xét, so sánh
về đặc điểm của chế độ đãi ngộ dành cho quân đội và đánh giá những tác động, hạn
chế của chính sách này đối với chính trị, kinh tế và xã hội Việt Nam đương thời.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích phục vụ
cho việc nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX ở các viện nghiên
cứu, trường đại học, cao đẳng và các trường trung học phổ thông trên cả nước.
6. ết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận án dự kiến được trình bày trong 5 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và nguồn tư liệu.
Đây là chương giới thiệu tổng quan tình hình nghiên cứu của các học giả
trong và ngoài nước liên quan trực tiếp và gián tiếp đến đề tài nghiên cứu; khái quát
về các nguồn tư liệu tham khảo; những vấn đề đã được giải quyết và những vấn đề
tiếp tục được đặt ra trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Chương 2. Bối cảnh lịch sử và tổ chức quân đội dưới triều Nguyễn giai đoạn
1802-1884.
8
Chương này trình bày những yếu tố tác động và cơ sở của chính sách đãi ngộ
đối với quân đội dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884. Nội dung của chương đề
cập đến các vấn đề: bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước; cơ cấu tổ chức, lực
lượng và nhiệm vụ của quân đội của triều Nguyễn.
Chương 3. Chế độ đãi ngộ đối với võ quan dưới triều Nguyễn giai đoạn
1802-1884.
Đây là chương trình bày chế độ đãi ngộ bao gồm chính sách đãi ngộ bằng
lương của triều Nguyễn dành cho võ quan giai đoạn 1802-1884. Về lương, gồm
lương cho võ quan đương nhiệm và về hưu. Đãi ngộ ngoài lương gồm phụ cấp, trợ
cấp và khen thưởng. Đây là những khoản ban cấp của nhà nước cho võ quan khi đi
làm nhiệm vụ.
Chương 4. Chế độ đãi ngộ đối với binh lính dưới triều Nguyễn giai đoạn
1802-1884.
Đây là chương trình bày về chế độ lương của binh lính cũng như những
khoản phụ cấp cho binh lính khi đi làm nhiệm vụ đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa,
vùng có khí hậu khắc nghiệt. Khi bị ốm đau, trận thương trận vong được nhà nước
trợ cấp tiền, gạo, thuốc men hoặc mai táng. Những binh lính hoàn thành tốt nhiệm
vụ được triều đình khen thưởng.
Chương 5. Nhận xét, đánh giá về chế độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều
Nguyễn giai đoạn 1802- 1884.
Từ những nội dung cụ thể đã trình bày ở chương 3 và chương 4, chương này
rút ra nhận xét về sự kế thừa và hoàn thiện trong chính sách đãi ngộ của triều
Nguyễn so với các triều đại trước cũng như sự thay đổi trong chính sách đãi ngộ của
chính vương triều này đối với quân đội trước và sau năm 1858. Qua đó, tác giả rút
ra một số đặc điểm và nhận xét về những tác động tích cực và hạn chế của chính
sách đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyền dành cho quân đội đối với kinh tế,
chính trị và xã hội Việt Nam trong thế kỷ XIX.
9
Chƣơng 1.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TƢ IỆU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về triều Nguyễn là chủ đề thu hút sự chú ý của nhiều học giả
trong và ngoài nước. Liên quan trực tiếp và gián tiếp đến quân đội triều Nguyễn nói
chung và chế độ đãi ngộ cho quân đội của triều Nguyễn nói riêng có thể kể đến một
số công trình dưới đây:
1.1.1. Một số nghiên cứu của các học giả nước ngoài
Ở phương Tây, Alexander Barton Woodside (1971) cách đây gần nửa thế kỉ
đã cho xuất bản cuốn Vietnam and the Chinese model: A comparative study of
Nguyễn and Ch’ing civil government in the first half of the nineteenth century (Việt
Nam và mô hình Trung Hoa - Một nghiên cứu so sánh giữa chính quyền Việt Nam
với chính quyền Trung Hoa trong nửa đầu thế kỷ 19) do nhà xuất bản Đại học
Harvard ấn hành. Với công trình này, Alexander Woodside đã đi sâu nghiên cứu và
đối sánh về tổ chức bộ máy, hệ thống quan lại và các chế độ tuyển bổ, thi cử của
triều Nguyễn. Phần liên quan đến tài chính, lương bổng cho quân đội chưa có điều
kiện đề cập rõ song công trình này cũng gợi mở nhiều điều cho tác giả khi muốn so
sánh mô hình tổ chức nói chung và cũng như cá chính sách dành cho quân đội của
hai nhà nước nói riêng.
Trong bài viết “Politics and society in Viet nam during the early Nguyen
period (1802-62)” của tác giả R.B.Smith (1974) trên tạp chí Journal of the Royal
Asiatic Society, số 2, tháng 7 năm 1974, trang 153 – 169 cũng đã đề cập tới một số
khía cạnh của chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với võ quan.
Trong bài viết này, để nhằm sáng tỏ đặc điểm của chế độ chính trị của vương
triều Nguyễn thông qua mối quan hệ giữa mục đích cầm quyền với việc sử dụng
quan lại một số võ quan đã được tác giả nhắc tới trong bài viết tiêu biểu là Nguyễn
Công Trứ và Trương Minh Giảng. Đây là hai võ quan có công lao lớn đối với triều
Nguyễn trong công cuộc đánh dẹp các cuộc nổi dậy chống lại triều đình ở Bắc kỳ và
Nam Kỳ. Thông qua hành trạng thăng trầm của hai vị võ quan được đề cập trong bài
viết, tác giả có cách nhìn nhận khách quan về chế độ thưởng phạt của các vua triều
Nguyễn đối với võ quan khi lập công cũng như phạm tội.
10
Tác giả bài viết cũng đề cập đến Lê Quang Định (1759-1813), người có công
đối đánh Tây Sơn ở Gia Định được vua Gia Long phong làm thượng thư đầu tiên
của bộ Binh dưới triều Nguyễn. Đây là dẫn chứng sinh động thể hiện chính sách đối
với công thần của triều Nguyễn.
Ngoài ra, trong bài viết tác giả cũng đưa ra một số dữ liệu về tổ chức và quy
mô của quân đội triều. Về quy mộ, tác giả dẫn lời của một học giả cho rằng năm
1823 quy mô quân đội của triều Nguyễn có lẽ không vượt quá 40.000 người trong
đó có khoảng 150.000 người được trang bị vũ khí. Quân đội tăng lên trong những
năm 1830, nhưng vào thời điểm Pháp xâm lược năm 1858, số lượng quân giảm
xuống. Đây là những thông tin quan trọng để tác giả luận án đánh đánh giá sự biến
động về số lượng quân đội dưới triều Nguyễn và là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến
việc thực hiện chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho quân đội.
Tác giả Nola Cooke (1999) với bài viết “Southern regionalism and the
composition of the Nguyen ruling elite (1802-83)” in trên tạp chí Asian Studies
Review số 2 tháng 6 nằm 1999 trang 205-231cũng đã đề cập đến chế độ đãi ngộ của
triều Nguyễn đối với võ quan triều Nguyễn. Dựa trên số liệu và dẫn chứng trong các
tư liệu về lịch sử và giáo dục của triều Nguyễn như: Đại Nam liệt truyện, Đại Nam
thực lục tiền biên và chính biên, Quốc triều hương khoa lục tác giả nói lên lên sự ưu
ái của triều Nguyễn đối với quan lại có quê quán ở các tỉnh thuộc từ Đàng Trong trở
vào nhất là các tỉnh Nam kỳ từ những năm 30 của thế kỷ XIX trở về trước. Chính
sách đó bao gồm: ưu ái cho con cái các công thần (đãi ngộ cho con trai của công
thần có công được phép chọn địa điểm thi dưới thời vua Gia Long); một số quan lại
có quyền lực trong bộ máy hành chính xuất thân là những người không hoặc đỗ đạt
thấp trong khoa cử; tỉ lệ đỗ đạt ở các miền vùng (khác Nam kỳ) qua các trường thi
triều Nguyễn không tỉ lệ thuận với tỉ lệ số người làm quan trong triều đình.
Những số liệu trên là cơ sở để tác giả đưa ra những nhận xét và kết luận về
chính sách đãi ngộ đối với công thần của triều Nguyễn nhất là đối với bộ phận võ
quan trong quân đội.
Công trình nghiên cứu “The last emperors of Vietnam: from Tu Duc to Bao
Dai” của tạp chí Contributions in Asian studies số 7 năm 2000 nằm trong các
chuyên đề về Việt Nam thế kỷ XIX, XX của nhà xuất bản Greenwood, Mỹ của tác
giả Oscar Chapuis đã đề cập đến tình hình chính trị và xã hội dưới các triều vua từ
11
vua Tự Đức đến vua Bảo Đại. Trong nội dung viết về triều vua Tự Đức, tác giả đưa
ra những dẫn chứng bối cảnh triều Nguyễn trước khi thực dân Pháp xâm lược. Thay
lời kết luận tác giả dẫn lời kết luận của Trần Trọng Kim trong cuốn Việt Nam sử
lược, cho rằng sự túng quẫn, thiếu thốn, thiên tai, ngoại xâm, sự bất lực của chính
quyền vào cuối thời Tự Đức là những nguyên nhân khiến nước Việt Nam suy tàn.
Những nội dung về số lượng quân đội triều Nguyễn sau khi mất 3 tỉnh miền
Đông Nam kỳ mà tác giả bài viết đề cập đến là những nội dung liên quan trực tiếp
tới đề tài.
Tác giả cho rằng, quân đội sau khi tuyển vào năm 1862, chỉ 10% quân đội
được trang bị súng hỏa mai; huấn luyện diễn ra mỗi năm một lần, trong đó mỗi
người lính chỉ nhận được sáu viên đạn, và nếu anh ta bắn nhiều hơn chỉ tiêu được
giao này, anh ta phải trả cho phần chênh lệch. Lực lượng quân lính được điều động
từ Bắc Kỳ vào Nam kỳ tuy nhiên số quân lính có mặt ở Nam kỳ cùng triều đình
tham gia chiến đấu trên thực tế nhỏ hơn ghi chép của triều đình. Tác giả dẫn số liệu
cho rằng: số binh lính theo ghi chép có 119.000 được sai phái vào Nam Kỳ, nhưng
thực tế chỉ có 39.000 người có mặt. Khi Pháp tấn công Gia Định, lực lượng quân
đội triều Nguyễn chỉ có 7.000 binh sĩ thay vì 12.000 như báo cáo. Không quân dự
trữ nên trong trường hợp có thương vong, các sĩ quan quân đội sẽ đến những ngôi
làng gần đó để tuyển quân thay thế. [14; 205] Ngoài ra, tác giả cũng đề cập cụ thể
số binh lính và các hoạt động chống Pháp của quân đội triều đình kháng chiến
chống Pháp ở Đà Nẵng. Cụ thể ở Đà Nẵng có 2.000 quân do Lê Đình Lý và 10.000
quân của Nguyễn Tri Phương.
Những con số về số lượng quân lính trên một mặt thấy được số lượng tiền và
lương thực để phụ cấp cho binh lính đi làm nhiệm vụ đồng thời cũng đánh giá được
những khó khăn về lực lượng của quân đội triều Nguyễn trước nhiệm vụ bảo vệ độc
lập dân tộc.
Frédéric Mantienne (2003) với bài viết The transfer of Western military
technology to Vietnam in the late eighteenth and early nineteenth centuries: the
case of the Nguyen (Sự chuyển giao kĩ nghệ phương Tây cho Việt Nam giai đoạn
cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX: Trường hợp vương triều Nguyễn”) đăng trên
Journal of Southeast Asian Studies tập 34, số 3, trang 519-534, đã giới thiệu về hệ
thống gồm 32 thành trì của Việt Nam được xây dựng theo kỹ thuật quân sự của
12
phương Tây trong giai đoạn cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX. Tác giả cũng đề cập
đến việc vua Gia Long thời Nguyễn đã nỗ lực học kĩ thuật đóng tàu của phương Tây
và còn mong muốn đóng được tàu chạy bằng hơi nước tân tiến nhất thời bấy giờ (dù
không thành công).
Theo tác giả, cùng với tiếp cận mới về kĩ thuật, triều Nguyễn đã xây dựng
được một lực lượng thủy quân “thông thạo kĩ thuật hàng hải” vào nửa đầu thế kỉ
XIX mà có thể đánh giá chủ quan rằng “Việt Nam đã có một hải quân hùng mạnh
nhất Đông Nam Á” (?!). Nghiên cứu của Frédéric Mantienne (2003) tuy không trực
tiếp đề cập đến vấn đề nghiên cứu của luận án song đã cung cấp thêm một góc
nhìn khác để tác giả có cơ sở tìm hiểu kĩ hơn về tổ chức quân đội và sự chi
dùng, đầu tư của nhà Nguyễn cho quân đội (đặc biệt là lực lượng thủy quân)
vào đầu thế kỉ XIX.
Tác giả Keith Weller Taylor (2013) với cuốn sách A history of the
Vietnamese (Lịch sử của người Việt Nam), Cambridge University Press,
Cambridge đã đề cập tới việc khen thưởng đối với võ quan của vua Lê Thánh
Tông (Lê Tư Thành) vào năm 1467, [202; 347] và chính sách đãi ngộ dành
cho con cháu công thần có công với vương triều [202; 351]. Tuy không trực
tiếp đề cập đến chính sách đãi ngộ cho quân đội dưới triều Nguyễn nhưng
những đề cập của Keith Weller Taylor giúp tác giả luận án có thể tham khảo
trong việc đánh giá tính kế thừa của chính sách đãi ngộ dành cho quân đội của
vương triều Nguyễn.
George Dutton (2016) với bài viết“From civil war to uncivil peace the
Vietnamese army and the early Nguyễn state (1802–1841)”(Từ nội chiến đến hòa
bình, quân đội Việt Nam và giai đoạn đầu của triều Nguyễn (1802 - 1841) đăng trên
South East Asia Research số tháng 6/2016 là công trình nghiên cứu thể hiện cách
tiếp cận riêng của tác giả khi nhìn nhận về lịch sử Việt Nam dưới triều Nguyễn nửa
đầu thế kỉ XIX. Bài viết chủ yếu nói về kết cục của cuộc nội chiến giữa Tây Sơn và
nhà Nguyễn, tuy đã có những nhận định nhất định song chưa có điều kiện bàn sâu
về quân đội cùng chính sách lương bổng cho quân đội triều Nguyễn.
1.1.2. Những nghiên cứu của các học giả trong nước.
Nghiên cứu về triều Nguyễn ngày càng được giới sử học trong nước quan
tâm. Đã có nhiều công trình tìm hiểu các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa của vương
13
triều Nguyễn đã ra đời. Tuy nhiên, với phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ
xin đề cập đến những nghiên cứu ít nhiều có liên quan tới nội dung của luận án.
1.1.2.1. Nghiên cứu về tổ chức quân đội triều Nguyễn
Có nhiều công trình nghiên cứu về quân đội triều Nguyễn nói chung, tổ chức
và trang bị quân đội dưới triều Nguyễn nói riêng. Trong những công trình nghiên
cứu này, có thể đề cập đến một số công trình sau:
Đầu thế kỷ XX, Việt Nam sử lược (Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tái
bản năm 2008) của Trần Trọng Kim là tác phẩm thông sử đầu tiên viết bằng chữ
Quốc ngữ đã dành nhiều trang viết về triều Nguyễn. Trong phần viết về binh chế thời
vua Tự Đức, tác giả dành một đoạn ngắn để giới thiệu về phiên chế, tập luyện và
trang bị của quân đội dưới triều Nguyễn với góc nhìn khá quan ngại về sự lạc hậu,
yếu kém trong tổ chức quân đội và bố phòng. Tác giả kết luận:“Quân lính như thế,
binh khí như thế, mà quan thì lại cho lính về phòng, mỗi đội chỉ để độ chừng 20 tên
tại ngũ mà thôi. Vậy nên đến khi có sự, không lấy gì mà chống đỡ được” [139; 472].
Tác giả Phan Khoang (1948) trong cuốn Việt – Pháp bang giao sử (từ thế kỷ
XVII đến đầu thế kỷ XX), Huế được coi là cuốn sách đầu tiên sau cách mạng tháng
Tám đã đề cập đến binh chế của nước Đại Nam thời Tự Đức (đến năm 1858).
Nguyễn Tường Phượng (1950) với cuốn Lược khảo binh chế Việt Nam qua các
triều đại (Nxb Ngày mai, Hà Nội) đề cập đến binh chế thời quân chủ nước ta từ thời
Đinh đến triều Nguyễn. Về binh chế triều Nguyễn, tác giả đã đề cập đến vấn đề: tổ
chức quân đội, lực lượng quân đội, các binh chủng, vũ khí, quân phục, luật lệ trong
quân đội. Nhận xét về binh chế triều Nguyễn tác giả cho rằng:“Binh chế Việt Nam
tổ chức thật là khôn ngoan”[161; 86].
Sau năm 1975, những vấn đề cụ thể về quân đội triều Nguyễn như tổ chức
phiên chế, hệ thống phòng thủ và chế độ đãi ngộ được đề cập trong nhiều công trình
nghiên cứu và bài viết đăng trên các tạp chí và sách chuyên khảo, tham khảo.
Thứ nhất, nghiên cứu về tổ chức quân đội:
Nội dung này được để cập đến với 2 khía cạnh: tổ chức quân đội triều
Nguyễn nói chung, tổ chức quân đội của một triều vua cụ thể.
Về tổ chức của quân đội triều Nguyễn, bài viết của tác giả Đỗ Văn Ninh
(1993) về “Quân đội nhà Nguyễn” là một trong những khảo cứu về tổ chức quân
đội triều Nguyễn được công bố sớm nhất trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6. Nội
14
dung quan trọng nhất là của bài viết là hệ thống phòng thủ và trang bị của Bộ binh
và Thủy binh. Kết luận bài nhiên cứu, tác giả nhận định:“Tóm lại, quân đội của nhà
Nguyễn thực sự là một quân đội mạnh đáng kể trong cả khu vực Đông Nam Á
đương thời” [154; 53].
Từ năm 2000 đến nay, tổ chức quân đội triều Nguyễn đã được đề cập cụ thể
hơn trong một số công trình nghiên cứu như cuốn sách Lịch sử quân sự Việt Nam
(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội) do nhà sử học Đinh Xuân Lâm chủ biên
(2007). Bộ sách này gồm 14 tập, trong đó tập 8 đề cập đến hoạt động quân sự
của triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1896. Trước khi trình bày nội dung
chính là những hoạt động quân sự, tác giả đã khái quát bối cảnh, yêu cầu trong
xây dựng quân đội và sự phát triển của bộ binh, thủy binh, pháo binh và tượng
binh dưới thời vua Gia Long và Minh Mệnh cũng như cách tuyển dụng quân
đội dưới triều Nguyễn.
Những vấn đề chung về quân đội triều Nguyễn còn được đề cập trong một số
cuốn sách khác như: Trương Thị Yến (chủ biên) (2013), Lịch sử Việt Nam, tập 5 (từ
1802-1858) (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội); Dương Đình Lập (chủ biên) (2014), Lịch
sử tổ chức quân sự Việt Nam, tập 2 (1400-1930) (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội).
Bên cạnh đó còn có một số bài viết về tổ chức quân đội dưới từng triều vua
Nguyễn. Dưới triều Gia Long có bài nghiên cứu của Hoàng Lương (2014),“Chế độ
tuyển mộ và huấn luyện binh lính dưới triều Gia Long (1802-1819)” (Tạp chí Lịch
sử quân sự, số 274). Về tổ chức tuyển và sử dụng binh lính dưới triều Minh Mệnh
có nghiên cứu của Hà Duy Biển (2015) với công trình “Tổ chức và hoạt động của
bộ Binh dưới triều Minh Mệnh (1820 - 1840)” (Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường
Đại học KHXH&NV- Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội); Hoàng Lương (2016) với
“Tuyển mộ binh lính dưới triều Minh Mệnh 1820-1840” (Tạp chí Lịch sử quân sự,
số 297).
Về quân đội dưới triều Tự Đức có nghiên cứu của Nguyễn Trọng Minh
(2016), “Tìm hiểu về quân đội triều Nguyễn giai đoạn 1858 - 1884” (Tạp chí phát
triển Khoa học và Công nghệ, tập 19, số XI). Bài viết của tác giả với những phân
tích về đặc điểm của tổ chức, cách tuyển quân và lấy lính cũng như trang bị của
quân đội. Đây là cơ sở để tác giả nhận định mặc dù quân đội nhà Nguyễn đã có một
số cải tiến về kĩ thuật và trang bị nhưng vẫn chưa đủ mạnh để đương đầu với thế lực
15
ngoại xâm mạnh như quân đội Pháp lúc bấy giờ.
Nội dung các bài khảo cứu kể trên giúp tác giả luận án hiểu rõ hơn cơ sở của
việc tuyển dụng binh lính của triều Nguyễn, thông qua việc lập sổ hộ nhằm quản lý
dân đinh để thực hiện chế độ binh dịch và tuyển quân. Nghiên cứu của Hoàng
Lương (2016) về cách thức tuyển chọn quân đội thông qua hình thức Tuyển
binh (Giản binh) và Mộ binh đã cho thấy tác dụng của chính sách những chính
sách này nhằm“giúp cho nhà nước duy trì đội quân thường trực vừa đủ, quản
lý lực lượng tráng đinh hùng hậu sẵn sàng bổ sung quân ngũ khi cần thiết”
[152; 52].
Thứ hai, nghiên cứu về lực lượng quân đội:
Quân đội triều Nguyễn gồm Bộ binh, Thủy binh, Tượng binh và Pháo binh.
Trong đó, lực lượng được các nhà nghiên cứu để cập đến nhiều nhất là Thủy binh.
Các công trình nghiên cứu về lực lượng này có thể kể tới: Tố Am Nguyễn Toại
(2002) với Thủy quân ngày xưa (trong tuyển tập những bài nghiên cứu về triều
Nguyễn, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế xuất bản); Lê Thị Toán (2012) với
Vài nét về thủy quân thời Nguyễn (Nxb Thuận Hóa, Huế); Ngô Đức Lập (2014) với
“Lực lượng thổ binh dưới triều Nguyễn (1802-1885)” (Tạp chí Lịch sử quân sự,
tháng 11/2014).
Đặc biệt tác giả Bùi Gia Khánh đã có một số công trình nghiên cứu khá cụ
thể về thủy quân triều Nguyễn như: Bùi Gia Khánh (2010), Thuỷ quân triều Nguyễn
thời kỳ 1802 - 1885 (Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử, Trường Đại học Khoa học
Huế); Bùi Gia Khánh (2010), “Thủy quân triều Gia Long và Minh Mệnh với công
tác tuần tra, kiểm soát vùng biển đảo” (Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 5
(82)), Bùi Gia Khánh (2013),“Thủy quân triều Nguyễn dưới thời Gia Long và Minh
Mệnh” (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7), Bùi Gia Khánh (2015), “Chống cướp
biển dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802 - 1885” (Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á,
số 4). Gần đây tác giả tập hợp những công trình nghiên cứu xuất bản sách chuyên
khảo: Bùi Gia Khánh (2018) “Thủy quân triều Nguyễn (1802- 1884)” do Nxb
Chính trị Quốc gia Sự thật phát hành. Trên nguồn sử liệu chính là Đại Nam thực lục
và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tác giả đã trình bày khái quát sự phát triển và
hoàn thiện của hệ thống tổ chức quân đội, các ngạch binh của quân đội triều
Nguyễn trong sự đối sánh với Thủy binh nhưng dừng lại ở thời điểm cuối triều
16
Minh Mệnh. Đối với Thủy quân, tác giả dành phần lớn công trình nghiên cứu về tổ
chức, trang bị, hoạt động và vai trò của thủy binh đối với việc bảo vệ và khẳng định
chủ quyền biển đảo. Đánh giá về tổ chức và vai trò của thủy quân dưới triều Minh
Mệnh, tác giả cho rằng:“với một lực lượng thủy quân được tổ chức khá chặt chẽ và
trang bị khá toàn diện. Triều Nguyễn đã tổ chức việc thực hiện việc tuần tra, kiểm
soát vùng biển, đảo một cách tương đối hiệu quả” [141; 268].
Như vậy, nghiên cứu về quân đội triều Nguyễn trong những năm gần đây đã
thực sự trở thành đề tài thu hút sự quan tâm của các nhà sử học. Những công trình
nghiên cứu trên là cơ sở để tác giả đánh giá mức độ, số lượng lương bổng, trợ cấp
của triều Nguyễn cho quân đội.
1.1.2.2. Nghiên cứu liên quan đến chế độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều
Nguyễn
Vấn đề đãi ngộ cho võ quan và binh lính được đề cập ít nhiều trong một số
công trình nghiên cứu thông sử, đặc biệt là những chuyên khảo về triều Nguyễn.
Về chế độ lương đã có một số công trình nghiên cứu để cập đến chế độ lương
của quân đội triều Nguyễn. Phổ biến nhất là chế độ lương của một triều vua hoặc
lương của một lực lượng trong quân đội triều Nguyễn.
Đối với chế độ lương cho quân đội của triều Nguyễn nói chung, đã có một số
công trình nghiên cứu sau:
Trong Việt Nam sử lược (Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm
2008) của Trần Trọng Kim có một phần giới thiệu về lương bổng của các quan viên
và tiền dưỡng liêm của vua Minh Mệnh. Trong đó, tác giả có đề cập đến định mức
lương tiền gạo và tiền xuân phục tính theo năm được ban hành năm Minh Mệnh thứ
20 (1839). Cách thức và thời gian lĩnh lương của quan lại cũng được đề cập đến một
cách khái quát. Tác giả cho rằng:“Tiền lương bổng của các quan viên lúc bấy giờ
mà so sánh với bây giờ, thì thật là ít ỏi quá. Nhưng mà chắc là sự ăn tiêu thuở trước
không hết bao nhiêu. Nhà vua lại sợ những phủ huyện thiếu thốn mà nhũng lạm của
dân, cho nên mối năm lại phải thêm tiền dưỡng liêm” [139; 426].
Quyển IV (Tây Sơn và Nguyễn Sơ) thuộc bộ Việt sử tân biên của tác giả
Phạm Văn Sơn (1961) đã đề cập đến chế độ lương, bổng và tiền xuân phục của triều
đình ban cấp cho quan lại dưới triều vua Minh Mệnh. Tác giả cũng đưa ra nhận xét
tương đồng với tác giả Trần Trọng Kim khi cho rằng:“Chế độ lương bổng trên đây,
17
ta thấy quan lại đời xưa sống quá thanh bạch mặc dù mức sinh hoạt thời đó không
cao như ngày nay” [170; 330].
Định chế hành chính và quân sự triều Nguyễn (1802- 1885) là công trình
nghiên cứu về những quy định pháp luật triều Nguyễn đối với hành chính và quân
đội nằm trong chuyên đề Nghiên cứu pháp luật triều Nguyễn (1802- 1885) của các
nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Sư phạm Huế (Đại học Huế) do Huỳnh Công
Bá (2014) chủ biên. Trong phần định chế về điều hành quân đội, công trình đã đề
cập đến những đãi ngộ của nhà nước dành cho quân đội, gồm định chế về lương
bổng, điều dưỡng bệnh binh; cấp tuất liên quan đến các binh lính trận thương, trận
vong, bệnh vong, nạn gió bão...; định chế về thưởng phạt cho quân đội gồm thưởng
về quản mộ, thưởng về thắng trận, thưởng về bắt giặc, thưởng huân công; phạt về
tiết lậu, bỏ sở, bỏ nhiệm, lỡ nhiệm, đào ngũ, quản suất và phạt về nhũng lạm. Đánh
giá về các định chế này, tác giả cho rằng:“Cùng với một hệ thống tổ chức quân đội
hoàn chỉnh và bề thế, các chế độ liên quan đến việc xây dựng và phát triển lực
lượng quân đội cũng được triều Nguyễn hết sức chú ý và thể chế hóa một cách cụ
thể, chi tiết, toàn diện và chu đáo, thể hiện sự quan tâm sâu sát và tinh thần cần
chính, thân chính của các vua triều Nguyễn. Đó là những tấm gương sáng về những
nhà cai trị khuôn mẫu ở nước ta hồi thế kỷ XIX. Đồng thời, hệ thống binh chế đố đã
góp phần làm cho quân đội dưới triều Nguyễn là một lực lượng quân sự hùng hậu ở
Đông Nam Á lúc bấy giờ” [107; 482].
Tác giả Trịnh Ngọc Thiện (2014) trong bài viết “Tìm hiểu tổ chức quân đội Việt
Nam thời kỳ chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn (Từ cuối thế kỉ XVI đến nửa đầu thế
kỉ XIX)” in trên Tạp chí Khoa học trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, số
63/2014 đã dành một phần nội dung đề cập đến chế độ tuyển quân và cấp phát lương
cho binh lính ở Kinh thành và quân địa phương, trong đó tác giả nhấn mạnh:“Hàng
tháng, binh lính trong quân đội được nhà nước cấp một khoản tiền nhỏ gọi là “nguyệt
hướng” (lương tháng) và được hưởng phần đất công ở làng cao hơn so với khẩu phần
của các xã dân. Dưới thời vua Minh Mệnh, vấn đề lương và bổng lộc cho quan binh
được quy định chặt chẽ, theo từng cấp bậc. Nhìn chung mức lương của triều đình
không đủ đảm bảo cho cuộc sống, nhất là với binh lính” [179; 110].
Về chế độ lương của một triều vua cũng đã được đề cập trong một số công
trình nghiên cứu. Trong Lịch sử Việt Nam tập 5 (Trương Thị Yến chủ biên), Nxb
18
Khoa học xã hội, 2017, tác giả đã đề cập đến chế độ đãi ngộ đối với các quan viên
ban hành từ đời vua Gia Long đến Minh Mệnh. Những chính sách đó bao gồm chế
độ tiền lương ban hành năm Gia Long thứ 2 (1803) ở Bắc Thành, định mức lương
thống nhất đối với quan lại trên phạm vi cả nước ban hành năm Gia Long thứ 17
(1818), điều chỉnh vào năm Minh Mệnh thứ 20 (1839). Lương của võ quan thời kỳ
này bao gồm tiền, gạo và tiền xuân phục được trả theo năm. Ngoài ra, quan lại
(trong đó có võ quan) còn được chia ruộng khẩu phần theo chế độ quân điền ban
hành năm Gia Long thứ 3 (1804), dừng cấp vào năm Minh Mệnh thứ 20 (1839).
Bên cạnh đó, tác giả Hoàng Lương (2017) trong bài viết “Định lệ chi cấp
binh lương dưới triều Minh Mệnh (1820- 1840)” in trên Tạp chí Lịch sử quân sự số
308/2017 cũng đề cập đến việc chi cấp lương của binh lính dưới triều Minh Mệnh.
Đối tượng khảo sát chủ yếu của bài viết này tập trung vào ngạch thân binh, cấm
binh và tinh binh. Đánh giá chế độ lương của nhà nước đối với quân đội, tác giả kết
luận:“chính quyền Minh Mệnh một mặt vẫn giành sự ưu ái nhất định đối với bộ
phận thân binh, cấm binh; mặt khác, yếu tố công bằng trong định lệ chi cấp giữa
các ngạch quân bước đầu đầu được chú trọng” [153; 41].
Liên quan đến lương bổng của quan lại bộ binh dưới triều vua Minh Mệnh,
tác giả Hà Duy Biển đã công bố hai bài viết “Định mức lương bổng của quan lại Bộ
Binh dưới triều Minh Mệnh (1820-1840)”in trên Tạp chí Lịch sử quân sự, số
278/2015) và “Cách thức tính toán và chi cấp lương bổng đối với quan lại bộ Binh
triều Minh Mệnh (1820 - 1840)” in trên Tạp chí Lịch sử quân sự số 291 tháng
3/2016). Đây là hai bài viết khá chi tiết về chính sách tiền lương cho quan lại bộ
Binh dưới triều Minh Mệnh. Tác giả cho rằng, mặc dù còn một số bất cập do những
quy định về lương thưởng vẫn còn ít thay đổi so với thời Gia Long song chế độ
lương bổng dành cho quan lại bộ Binh thời vua Minh Mệnh vẫn được đánh giá là
khá hoàn bị. Tác giả bài viết cho rằng“Cách tính lương bổng của quan lại Bộ Binh
triều Minh Mệnh cho thấy sự chặt chẽ và cụ thể trong tính toán, dự liệu nhiều
trường hợp đặc thù nhằm đảm bảo cho quá trình tính lương được chính xác, minh
bạch và thống nhất. Các quy định này phần nào thể hiện tính nhân văn, khoan hậu
đối với quan lại trung thành, tận tụy với vương triều” [118; 49].
Nghiên cứu về chế độ đãi ngộ bằng lương của nhà nước cho các lực lượng
trong quân đội, tác giả Bùi Gia Khánh (2018) trong công trình“Thủy quân triều
19
Nguyễn (1802-1884)” (Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội) cũng đã đề cập đến
chính sách của vua Gia Long và Minh Mệnh đối võ quan và binh lính thuộc lực
lượng thủy binh như: tiền, gạo và ruộng đất. Nhận xét về chế độ lương của binh lính
dưới triều Nguyễn, tác giả cho rằng:“Với chế độ lương tháng và quân cấp lương
điền như vậy, mỗi người lính dưới triều Nguyễn có thể yên tâm về gia đình để tập
trung thực hiện nhiệm vụ của mình” [141; 87]. Tuy nhiên, vấn đề này chỉ được tác
giả đề cập một cách khái lược vì đây không phải nội dung chính của công trình
nghiên cứu. Ngoài ra, trong bài nghiên cứu có tựa đề Thủy quân nhà Nguyễn thời
vua Minh Mệnh đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 10/2016, các tác
giả Nguyễn Thị Thu Thủy, Nguyễn Phương Nga (2016) cũng đã dành một phần nhỏ
đề cập đến chế độ lương bổng của vua Minh Mệnh đối với võ quan và binh lính của
lực lượng Thủy binh .
Tiếp cận về chế độ đãi ngộ ngoài lương như trợ cấp, phụ cấp và khen thưởng
đã có một số nghiên cứu có liên quan được công bố dù số lượng không nhiều.
Về chế độ trợ cấp cho quân đội triều Nguyễn, trong một vài năm trở lại đây
đã xuất hiện nghiên cứu của một số tác giả. Công trình đầu tiên đề cập đến vấn đề
này là bài viết của tác giả Nguyễn Minh Tường với“Chính sách đối với chiến sĩ
trận vong, trận thương dưới triều Nguyễn” trên tạp chí Xưa – Nay (số 65, tháng
7/1999) sau được in lại trong sách Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở
Việt Nam (tr.201-203). Trong giới hạn một bài viết, tác giả đã đề cập sơ lược về
việc ban hành những chính sách của triều Nguyễn đối với thương binh, tử sĩ như:
lập sở dưỡng tế cho bệnh binh, cứu chữa, thưởng tiền bạc, cho về quê an dưỡng đối
với binh lính bị trận thương; ban tuất đối với binh sĩ trận vong, chôn cất và cấp tiền
đối với binh sĩ bệnh vong và bị nạn do gió bão.
Lê Quang Chắn (2013) trong bài viết“Chính sách ưu đãi của triều Nguyễn
đối với võ quan và binh lính (giai đoạn 1802-1884)” tạp chí Lịch sử quân sự tháng
11 năm 2013 và luận án Tiến sĩ“Chính sách xã hội của triều Nguyễn giai đoạn
1802-1858”, bảo vệ tại Học viện Khoa học Xã hội, tác giả đã dành một nội dung
trong chương 3 của luận án đề cập đến một số chính sách ưu đãi của triều Nguyễn
đối với võ quan và binh lính. Chính sách đó bao gồm: sự tri ân những đóng góp của
nhà nước đối với công thần; chế độ ưu đãi đặc biệt đối với võ quan và binh lính
như: đối với võ quan là chế độ ban cấp lương, đãi ngộ đối với cha mẹ và vợ con võ
20
quan; đối với binh lính là chế độ lương điền và tiền phụ dưỡng do địa phương đóng
góp; chế độ trợ cấp đối với tướng sĩ trận thương, trận vong và nạn bão. Nhận định
vể chính sách này, tác giả cho rằng:“Qua những trình bày trên cho thấy, triều đình
nhà Nguyễn có sự quan tâm đặc biệt và đã đề ra nhiều chính sách ưu đãi, có giá trị
nhân đạo đối với võ quan và binh lính- những con người mà ở bất kỳ thời kỳ lịch sử
nào cũng là đối tượng phải gánh chịu nhiều gian nan, hy sinh nhất đối với nhà
nước và dân tộc của họ” [121; 53] .
Nhìn chung, vấn đề lương bổng và trợ cấp của triều Nguyễn đối với quân đội
giai đoạn1802-1884 đã được đề cập trong một số công trình khảo cứu. Từ những
nghiên cứu này, tác giả luận án có thể hình dung được chế độ đãi ngộ của triều
Nguyễn cho quân đội gồm bao gồm những hoạt động nào? Trong chế độ lương
quân đội được ban cấp những vật phẩm gì, thời gian áp dụng ra sao? Chế độ lương
được ban hành và điều chỉnh vào các thời điểm nào? Đối với chế độ trợ cấp, qua bài
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Minh Tường có thể biết được triều Nguyễn đã thực
hiện trợ cấp cho đối tượng nào? Tuy nhiên, định mức lương cụ thể qua từng giai
đoạn của võ quan, chế độ phụ cấp, trợ cấp và khen thưởng cho võ quan và binh lính
trong những trường hợp nào, mục đích và vật phẩm ban cấp, đối tượng cụ thể chưa
được các nghiên cứu trên đề cập rõ ràng. Do vậy, nhiệm vụ tiếp tục của luận án là
làm rõ những vấn đề trên, từ đó có những nhận định, đánh giá khách quan về chính
sách đãi ngộ của vương triều Nguyễn dành cho quân đội.
1.2. Nguồn tƣ liệu nghiên cứu đề tài
Để tiến hành nghiên cứu nội dung của đề tài, luận án sử dụng các nguồn tư
liệu chủ yếu sau đây:
1.2.1. Nguồn tư liệu được biên chép trước triều Nguyễn
Đại Việt sử ký toàn thư là bộ chính sử do Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều
Hậu Lê biên soạn. Bộ sử được viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt Nam từ
thời đại Kinh Dương Vương năm 2879 TCN đến năm 1674 đời Lê Gia Tông thời
Hậu Lê. Những sự kiện được ghi lại trong bộ sử này đã cung cấp cho tác giả nội
dung những chính sách đãi ngộ của nhà nước đối với võ quan và binh lính qua các
triều đại Lý, Trần, Lê. Đây chính là những nội dung quan trọng làm cơ sở đối sánh
chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với quân đội với các triều đại trước.
Đại Việt thông sử (hay còn gọi là Lê triều thông sử) là bộ sử lớn do Lê Quý
21
Đôn biên soạn viết theo thể kỷ truyện đầu tiên trong lịch sử sử học Việt Nam. Tuy
hiện nay nội dung của bộ sử này không còn nguyên vẹn nhưng những nội dung của
bộ sách đã cung cấp một tư liệu lớn có giá trị về lịch sử 100 năm dưới 10 đời vua
triều Lê Sơ từ Lê Thái Tổ đến Cung Hoàng (nếu kể cả Lê Nghi Dân thì là mười một
đời vua). Trong đó, phần chí ghi chép các truyện về hậu phi, đế hệ, công thần và
nghịch thần là những nội dung không được đề cập đến trong các bộ sử khác.
Kiến văn tiểu lục được Lê Quý Đôn biên soạn và hoàn thành năm 1777.
Đây là tập bút ký gồm 12 quyển hiện nay còn 8 quyển ghi chép về lịch sử và văn hóa
Việt Nam từ triều Lý đến triều Hậu Lê. Nội dung chính của các chí gồm: những lời
răn dạy của một số nhân vật lịch sử Trung Quốc và Việt Nam, các lễ văn, những nhân
vật đã làm bia và minh chuông, nhân vật tiết tháo, nhà sư, phê bình thơ văn, địa lý,
sản vật và phong tục tập quán ở các địa phương. Nội dung quan trọng nhất liên quan
đến luận án là những tư liệu về chế độ bổng lộc cho võ quan và binh lính dưới các
triều Lý, Trần, Hậu Lê trong quyển 2 của bộ sách. Trong đó, chế độ ưu cấp đối với
binh lính dưới thời Lê Trung Hưng được ghi chép một cách cụ thể và chi tiết. Đây
chính là nguồn tham khảo quý giá của đề tài.
Phủ biên tạp lục là tập bút kí gồm 8 quyển được chia làm 2 phần của Lê
Quý Đôn ghi chép lại hầu hết các thông tin quan trọng về kinh tế và xã hội của
xứ Đàng Trong trong gần 200 năm từ cuối thế kỷ XVI đến thời kỳ ông làm
quan Hiệp trấn xứ Thuận Hóa của chính quyền Lê-Trịnh, vào khoảng năm
1776. Phần C quyển 3 của Phủ biên tạp lục Lê Quý Đôn dành phần lớn nói về
tổ chức quân đội, cách tuyển quân cũng như chính sách của chúa Nguyễn đối
với binh lính vùng Thuận Quảng.
Đại Việt sử ký tiền biên là bộ sử biên niên do Ngô Thì Sĩ biên soạn, Ngô
Thì Nhậm hiệu đính được khắc in năm 1800 dưới triều đại nhà Tây Sơn. Bộ
sách chép lịch sử dân tộc từ thời Hồng Bàng đến hết thời thuộc Minh. Phần bản
kỉ từ nhà Đinh đến hết thuộc Minh là tài liệu liên quan trực tiếp khi đánh giá,
so sánh chế độ lương bổng và trợ cấp của triều Nguyễn đối với binh lính với
các triều đại trước.
Ngoài các bộ sử được các sử gia đời trước ghi chép và biên soạn, một số
bộ sử được biên soạn dưới triều Nguyễn nhưng nội dung biên chép về các triều
đại trước Nguyễn cũng là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng của đề tài.
22
1.2.2. Nguồn tư liệu biên chép trực tiếp dưới thời nhà Nguyễn
Đây là nguồn sử liệu chính, có tính tin cậy cao, là cơ sở quan trọng để
phục dựng nội dung chủ yếu của luận án. Các tài liệu này gồm:
Đại Nam thực lục (chính biên) (bản dịch, 10 tập, Viện sử học dịch, Nhà
xuất bản Giáo dục xuất bản các năm 2004, 2007) là bộ sử lớn nhất, quan trọng
nhất của triều Nguyễn do Quốc sử quán biên soạn. Đây là một trong những
nguồn tài liệu thiết yếu nhất của đề tài, bởi tính đầy đủ và chính xác của nó.
Trong quá trình khảo cứu bộ Thực lục, tác giả luận án đã thu thập được số
lượng khá lớn thông tin liên quan đến chính sách của nhà nước đối với việc ban
cấp lương, khen thưởng, phụ cấp và trợ cấp cho võ quan và binh lính. Nội dung
liên quan đến triều Gia Long được đề cập đến trong tập 1. Trong tập này, tác
giả luận án tập hợp được tư liệu về chế độ lương ban hành đầu tiên đối với võ
quan các trấn Bắc Thành sau khi vua Gia Long lập nước và chế độ lương bổng
của võ quan thống nhất trên cả nước sau đó. Tập 1 của Thực lục còn có các tư
liệu về việc khen thưởng của triều Nguyễn dành cho quân đội. Nhiều nhất là
việc nhà vua thưởng cho võ quan và binh lính tham gia đánh dẹp các cuộc nổi
dậy chống vương triều ở Bắc Thành và binh lính tham gia xây dựng Kinh
thành. Tư liệu đáng chú ý về việc ân cấp trong tập 1 là chính sách dối với công
thần có công khôi phục vương triều.
Trong tập 2, 3, 4 và 5 của bộ Thực lục, những sử liệu về việc ban hành và
điều chỉnh định mức lương bổng của cả võ quan và binh lính dưới triều Minh
Mệnh so với triều Gia Long được biên chép khá cụ thể. Đây được coi là cơ sở
để đánh giá sự thay đổi chính sách đối với quân đội, nhất là đối với bộ phận võ
quan dưới triều vua Tự Đức trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp xâm
lược. Tư liệu nổi bật nhất phản ánh chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với
binh lính thời kỳ này chính là chính sách khen thưởng của triều đình đối với
tướng sĩ có thành tích trong công cuộc ổn định nội trị và chống ngoại xâm. Một
số võ quan có công lớn có công đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa lớn của Nông
Văn Vân, Cao Bá Quát hay Lê Văn Khôi được nhà nước trọng thưởng như Tạ
Quang Cự, Nguyễn Tri Phương, Trương Minh Giảng.
Tập 6 của bộ Thực lục, tác giả luận án khai thác được những tư liệu về chế
độ lương, trợ cấp, khen thưởng của vua Thiệu Trị cho võ quan và binh lính. Một số
23
năm (1842, 1845) triều đình thưởng công lớn cho các võ quan có công trạng như
Doãn Uẩn, Nguyễn Tri Phương.
Chế độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều vua Tự Đức được phản ánh trong
tập 7 và tập 8 của bộ chính sử này. Trong đó, đáng chú ý là sự điều chỉnh giảm định
mức lương, bổng của triều đình đối với võ quan. Tuy nhiên, việc trợ cấp cho võ quan
và binh lính cũng như thân nhân của họ được triều đình chú ý hơn các đời vua trước.
Thông qua những tư liệu trên, tác giả bài luận án có thể đánh giá được tác động của
chế đội này đối với sức mạnh của quân đội trong cuộc kháng chiến chống Pháp bảo
vệ độc lập dân tộc.
Ngoài nội dung cụ thể của chính sách đãi ngộ, qua tư liệu trong Thực lục, tác
giả luận án có thể hệ thống theo diễn trình thời gian những nội dung liên quan đến
chế độ đãi ngộ dành cho quân đội của mỗi triều vua như: bối cảnh ra đời, chính
sách, nội dung và sự thay đổi của mỗi chính sách bao gồm nguyên nhân và ảnh
hưởng của những sự thay đổi đó đối với quân đội và với đất nước.
Đây có thể coi là nguồn tài liệu quan trọng nhất của luận án.
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản dịch, 8 tập của Nhà xuất bản Thuận
Hóa, Huế phát hành năm 2004) là bộ sách biên chép về các điển lệ từ triều vua
Minh Mệnh về trước. Sách viết theo thể Hội điển, do Nội các triều Nguyễn biên
soạn. Nội dung bộ sách gồm các quy định, quy chế và việc thực thi những quy định
đối với hệ thống hành chính gồm các bộ, các phủ, các viện, các ty, các tự, các giám.
Trong khuôn khổ của luận án, tác giả khai thác chủ yếu tư liệu trong tập III viết về
bộ Binh và tập V viết về bộ Hộ.
Tập III của bộ Hội điển gồm nhiều tư liệu ghi chép về chế độ đãi ngộ của
triều Nguyễn cho quân đội được thi hành dưới triều vua Gia Long, Minh Mệnh và
Thiệu Trị và 4 năm đầu dưới triều Tự Đức. Đó là chế độ lương, phụ cấp cho võ
quan và binh lính khi đi ứng trực, tham gia các hoạt động sản xuất, thưởng nhân các
ngày Tết và các ngày lễ lớn của đất nước.
Trong tập V của bộ Hội điển, tác giả luận án có thể khai thác các tư liệu về tổ
chức quân đội. Về khen thưởng bao gồm: ban thưởng cho cho võ quan và binh lính trực
tiếp tham gia chiến trận và lập công, chế độ trợ cấp của ba vị vua đầu triều Nguyễn đối
với binh lính bị ốm, trận thương, trận vong và gặp nạn bão trong khi đi làm nhiệm vụ.
24
Với nguồn tư liệu này, tác giả luận án có thể tìm hiểu một chế độ đãi ngộ
được thực hiện xuyên suốt dưới các vua triều Nguyễn. Hạn chế của tài liệu này là
không khai thác được giá trị lịch sử, nguyên nhân mục đích của việc ban hành nên
khó có thể đánh giá khách quan ý nghĩa và tác động của chế độ đãi ngộ của triều
Nguyễn đối với chính trị và xã hội đương thời.
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên (bản dịch, 10 tập của Nhà xuất
bản Thuận Hóa, Huế in vào các năm 2004, 2007, 2009, 2012) là bộ sách viết về
điển lệ của các vua triều Nguyễn từ năm Tự Đức thứ 5 (1852) đến năm Thành Thái
thứ nhất (1889). Trong bộ Hội điển tục biên, tác giả khai thác nguồn sử liệu chủ yếu
trong tập III (từ quyển 11 đến 16 viết về bộ Hộ) và tập VII (từ quyển 34 đến quyển
37 viết về bộ Binh) với những nội dung về chế độ đãi ngộ cho quân đội triều
Nguyễn nửa sau thế kỷ XIX từ năm 1852 đến năm 1889 dưới thời kỳ trị vì của các
vua từ Tự Đức đến Đồng Khánh. Tuy nhiên trong khuôn khổ nội dung của luận án,
tác giả chỉ dừng lại nghiên cứu chế độ của triều Nguyễn đối với võ quan và binh
lính được thực dưới triều vua Tự Đức.
Châu bản triều Nguyễn: là tập hợp các văn bản hành chính được các vua
triều Nguyễn ban hành trong quá trình quản lý đất nước. Đây được coi là khối tài
liệu gốc phản ánh đầy đủ, toàn diện các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội
của xã hội Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX. Tư liệu của
Châu bản chính là nguồn sử liệu quan trọng để biên soạn các bộ sử và các sách điển
lệ chính thống của triều Nguyễn.
Toàn bộ khối Châu bản triều Nguyễn hiện nay được lưu trữ và bảo quản tại
Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. Do quá trình lưu giữ và bảo quản trước đây còn nhiều
hạn chế nên hiện nay khối Châu bản này không còn đầy đủ so với bản gốc. Nhiều
tập hoặc nhiều trang văn bản của tài liệu Châu bản triều Nguyễn đã bị thất lạc hoặc
rách nát không thể phục dựng lại như nguyên trạng. Việc tìm hiểu nội dung đầy đủ
của văn bản không khả thi, thậm chí có những khoảng thời gian không thể tìm thấy
tư liệu, đặc biệt là khoảng thời gian 25 năm (từ năm Tự Đức thứ 11 (1858) đến năm
Tự Đức thứ 36 (1883)) hiện nay còn rất ít.
Quá trình tìm kiếm và tập hợp tư liệu, tác giả luận án đã tìm được trong danh
mục tóm tắt của Châu bản triều Nguyễn nhiều tờ văn bản với nội dung liên quan
đến đề tài. Nhiều nhất là những bản tấu của địa phương, của bộ Binh xin vua giải
25
quyết những vấn đề về lương, khen thưởng và trợ cấp cho võ quan và binh lính đi
sai phái, trận vong, trận thương, chết bệnh và chế độ đãi ngộ đối với gia đình binh
lính....Cụ thể như sau:
Số tờ châu bản liên quan phân theo triều vua
Minh Mệnh Thiệu Trị Tự Đức
Phân theo khía cạnh nội dung Lương Gia Long 10 54
Bổng 3 263
Trợ cấp Đãi ngộ
44 57 80 180 ( 20 tờ về đặc ân, 10 phạt bổng) 109 90 459 20 214 (4 tờ về phạt bổng, 3 tờ cho võ quan phạm tội) 24 29 287 73 213 603 Tổng 1406
Như vậy, số tài liệu liên quan đến chế độ lương bổng và trợ cấp của nhà
nước dành cho quân đội trong Châu bản có hơn 1400 tài liệu (một số tài liệu có nội
dung trùng nhau trong ban cấp cho một đối tượng). Luận án hiện sử dụng 60 dẫn
chứng từ nguồn tài liệu này. Đặc biệt là 2 văn bản tài liệu có nội dung về việc khen
thưởng cho quân lính đi vẽ bản đồ ở quần đảo Hoàng sa (trên tổng số 9 tài liệu còn lưu
giữ được về chủ quyền của nước ta đối với quần đảo này qua tài liệu Châu bản).
Tư liệu trong Châu bản có giá trị quan trọng đối với luận án bởi tính chân
thực và độ tin cậy. Không chỉ phản ánh định chế, chính sách lương, trợ cấp và khen
thưởng cho binh lính dưới các đời vua triều Nguyễn mà Châu bản còn thể hiện việc
hiện thực hóa các chế độ, chính sách đó ở các địa phương. Việc triều Nguyễn đồng
ý hoặc không đồng ý phê duyệt với các văn bản của địa phương tâu xin cấp và xin
thưởng thêm cho cá nhân binh lính hoặc một đơn vị quân đã ít nhiều phản ánh sự
linh hoạt hay nhất quán trong những chính sách đối với quân đội của triều Nguyễn
khi áp dụng với các trường hợp cụ thể. Đây có thể coi là nguồn tư liệu mà các bộ
chính sử của triều Nguyễn không hoặc ít đề cập đến.
Đại Nam liệt truyện là bộ sử ghi chép tương đối đầy đủ về sự tích, công trạng
các công thần, liệt nữ, danh tăng, các vị vua, chúa trong gia phả triều Nguyễn trước
và sau khi “Gia Long lập quốc”. Trong tư liệu này, tácgiả luận án có thể tra cứu thu
thập được những tư liệu về việc thưởng phạt của triều Nguyễn cho các võ quan. Từ
đó, có thể đánh giá được mục đích và ý nghĩa của chính sách này đối với cá nhân võ
quan và đối với việc xây dựng quân đội.
Minh Mệnh chính yếu (bản dịch của Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế phát hành vào
26
năm 1994) là bộ sử đúc kết toàn bộ tư tưởng, chính sách của vua Minh Mệnh trong suốt
thời gian trị vì đất nước (1820-1841). Trong bộ sách này, nội dung về chế độ lương, trợ
cấp trận thương trận vong được phản ánh trong quyển 3 thiên thứ 4 (Thể thần), quyển
XIV thiên thứ mười ba về Chế binh, quyển XVIII thiên thứ 16 (Pháp độ) thưởng phạt
của các bộ, quyển XXI thiên thứ mười tám (Phấn võ) về hoạt động quân sự dưới triều
Minh Mệnh. Những tư liệu trong bộ sử này là cơ sở để tác giả bổ sung thông tin hoặc đối
sánh về tính xác thực của sự kiện được ghi chép trong các bộ khác sử như Thực lục hoặc
Hội điển. Đồng thời tư liệu trong Minh Mệnh chính yếu cũng góp phần bổ sung thêm
một số sự kiện mà những bộ sử khác không đề cập đến.
Minh Mệnh ngự chế văn (dụ văn), gồm 2 tập, do Trần Văn Quyền dịch và chú giải,
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội
xuất bản năm 2000. Đây là tập hợp những lời chỉ dụ -một phần trong các văn bản hành
chính của vua cho các cơ quan (các bộ, Hội đồng đình thần, các đơn vị quân...) - đối với
binh lính và các cá nhân.v.v....để bày tỏ quan điểm về các vấn đề trong xã hội hoặc thể hiện
sự giáo hóa và răn dạy của vua. Trong 2 tập của bộ Ngự chế văn, nội dung các chỉ dụ của
vua đối với bộ Binh, các quân thứ như quân thứ Gia Định, Trấn Tây đã nói lên chính
sách của vua Minh Mệnh đối với việc chi cấp lương, ban thưởng cho binh lính theo định lệ
hay thưởng thêm cho binh lính. Cụ thể, thưởng cho binh lính khi đi làm nhiệm vụ (ví dụ
như dụ số 7, 27, 32, 39 .... trong tập 1, dụ số 444, 486, 490, 501 trong tập 2), trợ cấp cho
binh sĩ bị đau ốm và bị thương trong khi đi đóng quân và đánh tham gia đánh dẹp các cuộc
nổi dậy (ví dụ như dụ số 5, 6, 36, 106, 116, 157 trong tập 1; dụ số 420, 509 trong tập 2); thể
hiện tư tưởng nhân đạo (ban cấp cho binh lính là người tù tội (ví dụ như dụ số 52 trong tập
1). Đây là nguồn tư liệu góp phần bổ sung cho những nội dung đã bị khuyết thiếu nhất là
trong Châu bản về các chính sách của triều Nguyễn đối với quân đội.
Nội dung Lương Tổng số 3
Bổng 32
Trợ cấp 8
Đãi ngộ 28
Tổng Số tài liệu cụ thể 16, 329, 386 32, 63, 71, 83, 116, 156, 160, 196, 198, 227, 234, 257, 266, 283, 284, 289, 294, 307, 345, 364, 437, 440, 444, 477, 547, 550, 560, 562, 569, 582, 588 15, 27, 39, 77, 191, 195, 202, 242. 5, 6, 11, 54, 55, 64, 70, 81, 104, 128, 133, 151, 153, 157, 171, 212, 224, 229, 247, 249, 366, 379, 394, 395, 396, 445, 507, 509 71/588 dụ
Quốc triều sử toát yếu gồm Quốc triều tiền biên toát yếu và Quốc triều chính
27
biên toát yếu là bộ sử giản lược, tóm tắt từ bộ Đại Nam Thực lục. Quốc triều chính
biên toát yếu gồm 6 quyển chép lược các sự kiện lớn được từ khi Nguyễn Ánh khởi
binh ở Gia Định từ 1778 đến khi vua Thành Thái lên ngôi năm 1889. Sách ghi tóm
tắt các sự kiện lịch sử theo lối biên niên do đó có thể tra cứu các sự kiện thuộc nội
dung của luận án theo thời gian một cách dễ dàng.
Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng tư liệu của một số bộ sử được biên soạn
dưới triều Nguyễn nhưng nội dung biên chép về các triều đại trước.
Bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục được coi là bộ sử lớn thứ 2 của
Việt Nam (bộ sử được đánh giá lớn đầu tiên của lịch sử dân tộc là Đại Việt sử ký
toàn thư) được các sử gia triều Nguyễn biên soạn dưới triều vua Tự Đức do Phan
Thanh Giản làm chủ biên. Bộ sách gồm hai phần: tiền biên và chính biên. Trong đó,
phần chính biên ghi chép từ năm 968 đến những năm cuối cùng của thế kỷ XVIII
dưới triều Hậu Lê. Đây là tài liệu quan trọng cho việc nghiên cứu lịch sử phong
kiến thời kỳ trước Nguyễn.
Lịch triều hiến chương loại chí là bộ sách được học giả Phan Huy Chú
nghiên cứu và biên soạn trong 10 năm (1809-1819). Đây được xem là bộ bách
khoa toàn thư đầu tiên của nước ta. Sách được phân loại, hệ thống hóa theo
phương pháp khoa học gồm 10 nội dung (được gọi là chí). Tài liệu lên quan
trực tiếp đến luận án là phần Quốc dụng chí nói về chế độ thuế khóa, tài chính
của các triều đại trong lịch sử và phần Binh chế chí nói về các tổ chức quân sự
qua các triều đại từ triều Lê trở về trước.
Bên cạnh đó luận án còn tham khảo và sử dụng tư liệu gia phả dòng họ,
văn bia hay sắc phong lưu giữ tại địa phương như văn bia sắc phong làng Hiền
Lương (Thừa Thiên Huế), gia phả dòng họ Đỗ Việt Nam, gia phả gia đình
Nguyễn Công Trứ, gia phả dòng họ Doãn và sắc phong An Tây mưu lược tướng
quân của danh tướng Doãn Uẩn ở nhà thờ dòng họ Doãn (Song Lãng, Vũ Thư,
Thái Bình).
Ngoài các nguồn sử liệu trên, luận án cũng tham khảo, kế thừa một số
tài liệu nghiên cứu có liên quan đến nội dung đề tài đã được công bố dưới
dạng các sách thông sử, chuyên khảo, tham khảo, bài viết trên tạp chí nghiên
cứu chuyên ngành của các học giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, nguồn tư
liệu thư tịch, chính sử vẫn là như vậy để nghiên cứu luận án, tác giả sử dụng
28
các bộ chính sử, thư tịch viết về các triều đại trước Nguyễn và dưới thời
Nguyễn. Nguồn tư liệu quan trọng nhất của luận án là các bộ sử được biên
soạn dưới triều Nguyễn như Thực lục, Hội điển (chính biên và Tục biên). Đây
là tài liệu chủ yếu để tác giả luận án phục dựng nội dung của luận án và đưa
các luận điểm khoa học có liên quan. Các tài liệu thư tịch khác như Châu bản,
Minh Mệnh chính yếu và Minh Mệnh ngự chế văn là những tài liệu bổ sung
nhằm làm phong phú, cụ thể hơn nội dung của luận án. Các bộ sử viết về các
triều đại trước Nguyễn làm cơ sở đối sánh với những chính sách được ban
hành dưới triều Nguyễn. Bên cạnh đó, tác giả cũng kế thừa một số công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học khác liên quan đến đề tài như đã trình bày
trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu. Tất cả những nguồn tư liệu này
giúp tác giả luận tái hiện được một cách đầy đủ, khách quan nhất có thể vấn đề
nghiên cứu của đề tài.
1.3. Những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu đề tài
Thông qua tổng quan tình hình nghiên cứu, có thể nhận thức được một số
vấn đề đặt ra trong nghiên cứu như sau:
1. Hệ thống tổ chức và các lực lượng quân đội dưới triều Nguyễn như bộ
binh, thủy binh, hệ thống phòng thủ đã được khá nhiều tác giả đề cập cụ thể trong
các công trình khảo cứu chuyên sâu (như của Đỗ Bang, Lưu Trang, Bùi Gia Khánh,
Hà Duy Biển...). Phần trình bày tình hình chung về quân đội triều Nguyễn khi đặt
trong các vấn đề chính trị - xã hội hoặc sự phát triển của lịch sử quân sự Việt Nam
chủ yếu mới dừng lại ở mức khái quát.
2. Vấn đề đãi ngộ cho quân đội dưới triều Nguyễn đã được đề cập ở một
số nội dung: định chế về thưởng phạt, cách tính và việc chi trả lương bổng cho
quan lại và binh lính dưới từng triều vua (chủ yếu mới khảo cứu về triều Minh
Mệnh). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu liên quan đến ngân sách chi cho
lương, bổng và trợ cấp cho quân đội dưới triều Nguyễn mới chỉ dừng lại ở việc
tổng thuật các chính sách mà vương triều Nguyễn đề ra (như bài viết của
Nguyễn Minh Tường và Huỳnh Công Bá); đề cập một phần nội dung chế độ đãi
ngộ khi khảo cứu quân đội dưới dưới triều Nguyễn (như bài viết của Nguyễn
Thị Thu Thủy, Nguyễn Phương Nga) hay cụ thể hơn có đề cập đến vấn đề
lương thưởng cho quan và quân trong quân đội dưới một triều vua ( vua Minh
29
Mệnh) (như bài viết của tác giả Hà Duy Biển, Hoàng Lương ).
Nhiều khía cạnh khác mà những nghiên cứu đi trước chưa đề cập cụ thể, hệ
thống và cần tiếp tục được làm rõ như:
Về tổ chức, chức danh, phẩm hàm của võ quan chỉ huy các lực lượng quân từ
trung ương đến địa phương là gì; số lượng và sự phát triển hay suy giảm của các lực
lượng trong quân đội qua các triều vua ra sao? Vấn đề này sẽ liên quan trực tiếp đến
ngân khố quốc gia trong việc chi cấp lương cho quân đội đồng thời phản ánh sức
mạnh của quân đội qua từng triều vua từ Gia Long đến Tự Đức nhất là trong bối
cảnh trước và trong khi triều đình nhà Nguyễn phải đối mặt với cuộc kháng chiến
xâm lược của thực dân Pháp.
Vấn đề sử dụng tướng sĩ như sai phái, chia ban cũng cần được làm rõ. Điều
này cũng sẽ liên quan trực tiếp đến việc thưởng và trợ cấp cho binh lính khi đi làm
nhiệm vụ.
Về chế độ đãi ngộ, cần làm rõ chế độ lương bổng, đãi ngộ và thưởng phạt
cho quân đội triều Nguyễn nói chung bao gồm những khía cạnh nào? Những thay
đổi về định lệ lương, phụ cấp, trợ cấp cho từng đối tượng gắn với địa vị và công
việc cụ thể qua từng triều vua ra sao? Quá trình thực hiện các chính sách này có gì
thay đổi qua các đời vua Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức? Chế độ đãi ngộ đối với
quân đội của triều Nguyễn có gì tương đồng, khác biệt so với các triều đại trước?
Những chính sách này có ảnh hưởng gì đến tình hình chính trị, kinh tế và xã hội
đương thời? Đây là những vấn đề còn để ngỏ cần được tiếp tục nghiên cứu một cách
chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống.
Qua những vấn đề đã trình bày nêu trên, cho đến nay chưa có một công trình
nghiên cứu chuyên sâu nào về vấn đề đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn giai
đoạn 1802 - 1884. Đây là cơ sở để tác giả luận án mạnh dạn theo đuổi đề tài nghiên cứu
của mình.
30
Tiểu kết chƣơng 1
Lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử Việt Nam dưới triều Nguyễn nói riêng
đã được các học giả quan tâm nghiên cứu. Tuy vấn đề đãi ngộ của triều Nguyễn đối
với quân đội còn tương đối ít ỏi nhưng những nhận định của các học giả về vấn đề
này ít nhiều giúp tác giả luận án trong việc so sánh, đánh giá vấn đề mà tác giả luận
án nghiên cứu.
Những năm gần đây, lịch sử Việt Nam dưới triều Nguyễn trong đó có những
vấn đề về quân đội như tổ chức, phiên chế trong quân đội, khí tài, hệ thống phòng
thủ đã được giới sử học đề cập tới trong những bộ thông sử cũng như trong các bài
nghiên cứu. Liên quan trực tiếp tới vấn đề chế độ đãi ngộ của nhà nước đối với quân
đội đã có một số bài viết công bố trên tạp chí chuyên ngành. Tuy nhiên, việc nghiên
cứu chế độ đãi ngộ đối với quân đội một cách hệ thống và toàn diện còn là vấn đề
còn bỏ ngỏ.
Nguồn sử liệu chính sử được biên soạn dưới triều Nguyễn như Đại Nam thực
lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là nguồn tư liệu chính cho nội dung của
luận án. Bên cạnh đó, luận án còn kế thừa, tham khảo những tư liệu, các bài nghiên
cứu liên quan trực tiếp đến nội dung của luận án làm cơ sở cho việc đánh giá, nhận
định về đặc điểm chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho quân đội.
31
Chƣơng 2.
BỐI CẢNH ỊCH SỬ THẾ Ỷ XIX VÀ TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI
TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802-1884
2.1. Bối cảnh lịch sử thế kỷ XIX
2.1.1. Bối cảnh thế giới và khu vực
2.1.1.1. Các nước trên thế giới chịu ảnh hưởng bởi sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
Đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây đang chuyển nhanh từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc. Để đáp ứng nhu cầu mạnh mẽ của
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, yêu cầu bức thiết đối với các nước tư bản là tìm kiếm
nguồn nguyên liệu, thị trường và nhân công lao động. Đó chính là nguyên nhân
chính dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa của các nước tư bản
phương Tây đối với các nước ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ la tinh nhằm biến
các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật
liệu, khai thác nhân công và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc. Bối cảnh này
đặt các nước Á, Phi, Mĩ latinh trước thách thức tìm biện pháp để bảo vệ độc lập dân
tộc chống lại sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Từ nửa sau thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra ở
Châu Âu và Bắc Mĩ với những phát minh điện tử, sóng vô tuyến điện, chất phóng
xạ, động cơ điện, Sự kết hợp giữa khoa học với sản xuất mang tính hệ thống đã
dần đưa khoa học trở thành lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển các ngành
công nghiệp khác như luyện kim, chế tạo máy, đóng tàu, công nghiệp quân sự; giao
thông vận tải Lĩnh vực kỹ thuật quân sự diễn ra cuộc cách mạng cơ giới hóa và tự
động hóa vũ khí trang bị chiến tranh. Đây là vừa là cơ hội đồng thời vừa là thách
thức đối với các quốc gia trong việc áp dụng những thành tựu của cách mạng công
nghiệp vào phát triển kinh tế, củng cố anh ninh quốc phòng nhất là trong bối cảnh
các nước phương Tây ứng dụng những thành tựu này trong công cuộc chạy đua vũ
trang để xâm lược thuộc địa.
Châu Á và khu vực Đông Nam Á - nơi có sự giàu có về tài nguyên thiên
nhiên, nguồn nhân lực dồi dào trở thành đối tượng nhòm ngó của chủ nghĩa thực
dân phương Tây. Ở châu Á, Ấn Độ, sau đó là Trung Quốc, đến giữa thế kỷ XIX đã
bị chủ nghĩa tư bản phương Tây xâm lược. Sau khi kí một số điều ước với Anh,
32
Pháp triều Mãn Thanh còn tồn tại nhưng chỉ là bù nhìn.
Đối với khu vực Đông Nam Á, từ rất sớm, các nước phương Tây đã đặt chân
đến khu vực này để giao thương buôn bán, đồng thời biến một số nước ở khu vực
thành thuộc địa. Trước thế kỷ XIX, Tây Ban Nha sau đó là Hà Lan, Anh và Pháp đã
đặt chân đến một số nước ở Đông Nam Á. Từ thế kỷ XIX, nhu cầu thị trường đối
với các nước tư bản tăng cao. Sau khi đặt nền thống trị lên các nước lớn, giàu tài
nguyên của châu Á là Ấn Độ và Trung Quốc, các nước phương Tây tiêu biểu là Hà
Lan, Anh, Pháp cạnh tranh quyết liệt ở Đông Nam Á. Do đó, các nước Đông Nam
Á trong đó có Việt Nam trở thành đối tượng xâm lược của các nước thực dân
phương Tây là tất yếu. Việc các nước này có trở thành thuộc địa hay không tùy
thuộc vào mỗi nước.
Thực tế, ngoại trừ Xiêm (Thái Lan) đến cuối thế kỷ XIX các nước trong
khu vực Đông Nam Á đều trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương
Tây: Indonexia trở thành thuộc địa của Hà Lan; Phillipin thành thuộc địa của Mĩ;
Mianma và Malaixia là thuộc địa của Anh. Cũng giống như các nước trong khu
vực, cùng với Lào và Campuchia, Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp
vào nửa cuối thế kỷ XIX.
2.1.1.2. Quan hệ giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á diễn ra phức tạp
Đến cuối thế kỷ XVIII, hầu hết các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á lâm
vào tình trạng khủng hoảng và suy thoái. Trong khi đó, Xiêm lại vươn lên thành
một quốc gia phong kiến hùng mạnh, âm mưu bành trướng mở rộng lãnh thổ và bá
quyền khu vực, ráo riết đẩy mạnh xâm lược Lào và Chân Lạp (Campuchia). Năm
1802, nhà Tây Sơn bị đánh bại, Nguyễn Ánh lên ngôi, lập ra vương triều Nguyễn.
Nhà nước Đại Nam dưới thời vua Minh Mệnh trở thành một trong hai quốc gia
phong kiến mạnh ở khu vực Đông Nam Á. Sự lớn mạnh của hai quốc gia phong
kiến Xiêm và Đại Nam cùng với các mối quan hệ của nó đã có tác động to lớn đối
với khu vực. Hòa bình hay bất ổn ở khu vực Đông Nam Á lục địa thế kỷ XIX đều
chịu sự chi phối của quan hệ Xiêm - Việt, hai nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất là
Chân Lạp và Lào.
Trong 30 năm đầu thế kỷ XIX, mối quan hệ bang giao giữa Xiêm- Đại Nam
nước nói chung tương đối tốt đẹp, hai nước cùng quan tâm đưa ra những giải pháp
tốt nhất để giải quyết những vấn đề xảy ra giữa hai nước và trong khu vực. Mối
33
quan hệ tốt đẹp này đã tạo sự ổn định cho khu vực Đông Nam Á lục địa. Thời gian
này, hai nước Xiêm - Đại Nam cùng đặt ảnh hưởng ở Chân lạp. Chân Lạp “thần
phục kép” bằng con đường hòa bình. Chân Lạp để Xiêm đóng quân ở Bat-tam-
bang, tránh xung đột bất lợi với Đại Nam. Đại Nam bảo hộ Chân Lạp, cố gắng giữ
hòa hiếu với Xiêm La nhưng vẫn có sự phòng bị.
Sang đời vua Minh Mệnh và Rama III, mối bang giao Xiêm - Việt bắt đầu
rạn nứt. Năm 1833, nhân cớ Lê Văn Khôi khởi nghĩa và cầu viện Xiêm chống lại
triều Nguyễn với lời hứa sẽ chia rẽ Nam Kì. Xiêm nhận thấy đây là cơ hội thuận lợi
để đánh bại và gạt ảnh hưởng của triều Nguyễn ở đất Chân Lạp. Vì thế, vua Rama
III đã mang quân tiến đánh Chân Lạp và Đại Nam. Sau sự kiện này, hai nước chấm
dứt quan hệ bang giao, bắt đầu thời kỳ xung đột và xảy chiến tranh giữa hai nước
trên đất Chân Lạp.
Dưới triều vua Thiệu Trị, từ năm 1841 đến đầu năm 1845, Xiêm ảnh hưởng
lớn tại Chân Lạp. Năm 1841, quân Nguyễn rút khỏi thành Trấn Tây (vùng đất lập
triều Nguyễn lập ra năm 1835 trên vùng đất Chân Lạp). Năm 1845, Đại Nam giành
lại ảnh hưởng số 1 tại Chân Lạp sau khi quân Nguyển chiếm lại Phnom Pênh.
Tháng 9 năm 1845, cả ba nước đi đến đàm phán. Kết quả của cuộc đàm phán này
Chân Lạp chịu sự bảo hộ của triều Nguyễn. Tháng 4 năm 1848, Ang Đuông lên
ngôi vua Chân Lạp với sự chứng kiến của đại diện hai nước Xiêm, Đại Nam. Từ sau
sự kiện này, quan hệ Việt Nam và Xiêm xung quanh vấn để Chân Lạp được xoa dịu.
Một quốc gia Đông Nam Á lục địa chịu ảnh hưởng sâu sắc của mối quan hệ
Việt- Xiêm đó là Lào. Lào chia thành nhiều tiểu quốc trong đó một số tiểu quốc thì
thần phục Đại Nam, một số tiểu quốc thì thần phục Xiêm La. Vào năm 1827, vua
Lang Xạn nổi dậy chống Xiêm đồng thời sang cầu cứu vua Nguyễn. Lúc đầu Minh
Mệnh không mang viện binh sang giúp Lào nhưng nhận thấy rằng nếu Xiêm chiếm
Lào sẽ ảnh hưởng đến biên giới vùng Tây Bắc, nên vua Minh Mệnh đã cho quan
binh mang thư sang trách nước Xiêm, mặt khác đem quân sang Lào. Xiêm muốn sự
việc yên ổn nên đã rút quân về nước từ đó tình hình Lào được yên ổn.
Với những đặc điểm của tình hình thế giới và khu vực nêu trên cho thấy, việc
củng cố và xây dựng một lực lượng quân đội mạnh là yêu cầu thiết yếu đối với các
nước Á, Phi, Mĩ la tinh trong đó có nhà nước Đại Nam dưới triều Nguyễn. Bên cạnh
đó, các vua triều Nguyễn cũng củng cố sức mạnh quốc gia trong đó có quân đội để
34
bảo hộ các nước Chân Lạp, Lào vừa vừa gây thanh thế đối với các thế lực đối lập như
Xiêm. Việc xây dựng lực lượng quân đội mạnh trong đó chế độ đãi ngộ cho võ quan và
binh lính nhằm đảm bảo độc lập dân tộc và uy thế của nhà nước Đại Nam là cần thiết.
2.1.2. Bối cảnh trong nước thế kỷ XIX
Năm 1802, Nguyễn Ánh lập ra vương triều Nguyễn, chấm dứt cuộc nội chiến
liên miên giữa Đàng Trong - Đàng Ngoài và thời gian dài đất nước bị chia cắt.
Trong 82 năm giai đoạn nắm quyền, dưới sự trị vì của các triều vua Gia Long, Minh
Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức, triều Nguyễn đã cai trị đất nước trong hai hoàn cảnh
khác biệt. Trước năm 1858 là giai đoạn các vua triều Nguyễn xây dựng đất nước
trong điều kiện hòa bình, sau năm 1858 là giai đoạn đất nước có chiến tranh. Bối
cảnh lịch sử này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách của triều Nguyễn đối với
quân đội trong đó có vấn đề đãi ngộ đối với võ quan và binh lính.
2.1.2.1. Bối cảnh triều Nguyễn trước năm 1858
Đây là giai đoạn triều Nguyễn thực thi chế độ lương bổng và trợ cấp cho võ
quan và binh lính trong thời kỳ hòa bình. Về chính trị, năm 1802 dựa vào sự ủng hộ
của đại địa chủ miền Nam, với chiến thuật quân sự độc đáo, Nguyễn Ánh đã đánh
thắng phong trào nông dân Tây Sơn lập ra vương triều Nguyễn. Giống như hầu hết
các vương triều trong lịch sử dân tộc, triều Nguyễn được lập ra sau thắng lợi quân
sự. Tuy nhiên bản chất của chiến thắng này có sự khác biệt so với những thắng lợi
quân sự thành lập các vương triều khác trong lịch sử. Triều Nguyễn đánh thắng
vương triều Tây Sơn- vương triều đại diện cho sức mạnh và niềm tự hào của nông
dân, một lực lượng chiếm đa số trong xã hội. Do đó, sau khi thành lập vương quyền,
vua Gia Long phải đương đầu với sự chống đối quyết liệt của nông dân. Ngoài ra là
sự không đồng thuận của là các sĩ phu Bắc Hà ở Đàng Ngoài – là những cựu thần,
nơi “đất cũ” của vua Lê. Đây chính là một trong những nguyên nhân để xây dựng
vương quyền vững mạnh, triều Nguyễn đặc biệt quan tâm tới xây dựng quân đội,
trong đó, vấn đề đãi ngộ đối với võ quan và binh lính được triều Nguyễn coi trọng.
Từ năm 1831, sau cải cách của vua Minh Mệnh, triều Nguyễn đã đã xây
dựng một bộ máy hành chính thống nhất từ trung ương xuống địa phương, quyền
lực tập trung cao độ trong tay Hoàng đế. Bên cạnh đó, việc làm chủ một vùng lãnh
thổ rộng lớn không chỉ tạo điều kiện thuận lợi để triều Nguyễn phát triển một quốc
gia thống nhất, hùng mạnh mà còn là thách thức đối với triều Nguyễn. Vấn đề khó
35
khăn nhất đối với triều Nguyễn là việc đồng thời phải ổn định chính trị, giữ vững
nền độc lập trên một vùng lãnh thổ với đường biên giới dài, vùng biển rộng lớn
luôn nổ ra những cuộc nổi dậy trong nước và âm mưu xâm lược từ bên ngoài. Từ bối
cảnh trên, dưới triều Minh Mệnh, việc xây dựng một lực lượng quân đội hùng mạnh
vừa bảo vệ độc lập dân tộc, vừa ổn định tình hình đất nước trở thành nhu cầu thiết yếu.
Về kinh tế, đến thế kỷ XIX nền kinh tế dưới triều Nguyễn vẫn là một nền kinh
tế nông nghiệp. Kinh tế nông nhiệp triều Nguyễn khá đa dạng nhưng vẫn không vượt
ra khỏi phương thức sản xuất cổ truyền. Ruộng đất –tư liệu sản xuất chính của nền kinh
tế- đứng trước một loạt khó khăn. Nhà nước đã tìm cách quản lý ruộng đất bằng chính
sách quân điền. Đồng thời mở rộng diện tích ruộng đất bằng chính sách lập đồn điền
khẩn hoang, khuyến khích nhân dân đi khai hoang phục hóa.
Kết quả của chính sách khai hoang đặc biệt là hình thức doanh điền giúp tăng
đáng kể diện tích ruộng đất công nhưng tình trạng thiên tai liên tiếp xảy ra như hạn
hán, lụt lội, vỡ đê ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế nông nghiệp của triều Nguyễn.
Theo ghi chép của các sử gia, trong gia đoạn 1802 - 1884, cả nước có trên 100 trận
lụt, 80 trận bão. Trong đó, Quảng Nam có 34 trận, Thừa Thiên có 32 trận, Quảng
Trị có 30 trận, Quảng Bình có 27 trận, Thanh Hóa có 22 trận, Quảng Ngãi, Nghệ An
có 19 trận, Hà Tĩnh và Bình Định có 14 trận. Vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng là nơi
xảy ra 23 trận bão, 50 trận lụt, 38 trận vỡ đê sông Hồng [131; 79].
Nạn đói liên tục hoành hành nhất là vào những năm 30, 40 của thế kỷ XIX ở
các tỉnh Bắc kỳ. Hậu quả để lại là năm 1827, dân hai trấn Sơn Nam, Nam Định có 353
xã thôn thuộc các huyện Thiên Thi, Phù Dung, Hoài An, Chương Đức, Quỳnh Côi,
Diên Hà dân phiêu tán, ruộng đất bỏ hoang. Năm 1930, Bắc Thành gạo đắt, dân đói,
triều đình phải hoãn thu thuế cho 11 trấn ở Bắc Thành và phát chẩn đến 23.000 hộc cho
dân nghèo.
Thuế ruộng đất vẫn là nguồn thu chủ yếu của quốc khố. Ngay khi lên ngôi, năm 1804 vua Gia Long thực hiện chia ruộng theo các hạng để đánh thuế.1 Đến năm
1836, vua Minh Mệnh thay đổi cách đánh thuế theo khu vực. Cả nước được chia ra
1 Các phủ Quảng Bình, Triệu Phong, Điện Bàn, Thăng Hoa, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên, Bình Hòa, Diên Khánh, ruộng công và tư mỗi mẫu nộp hạng nhất, 40 thăng thóc và 3 tiền; hạng nhì 30 thăng thóc và 3 tiền, hạng ba 20 thăng thóc và 3 tiền. Các trấn Nghệ An, Thanh Hoa, Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam thượng hạ và phủ Phụng Thiên, mỗi mẫu nộp thóc: hạng nhất 20 bát đồng quan; hạng nhì 42 bát đồng quan 15; hạng ba 25. 10. Từ Bình Thuận đến Gia Định và đạo Long Xuyên, Kiên Giang.
làm ba khu vực thu thuế ruộng: khu vực I gồm các tỉnh từ Quảng Bình đến Khánh
36
Hòa; khu vực II gồm các tỉnh từ Nghệ Tĩnh ra Bắc; khu vực III: gồm Bình Thuận và
lục tình Nam Kì. Trong đó, triều đình đánh thuế ruộng công nặng hơn thuế ruộng tư
nên tầng lớp nông dân nghèo không có ruộng, nhất là những vùng đông dân cư ở
đồng bằng sông Hồng, sông Mã, chịu thuế nặng. Ngoài thu thuế điền thổ các vua
triều Nguyễn đánh thuế đinh.
Các vua triều Nguyễn đã cho lập sổ đinh và chia dân đinh thành các hạng
giao cho xã trưởng quản lý để làm cơ sở cho việc đánh thuế. Đầu triều Gia Long,
nhà Nguyễn thu theo định mức nội đinh (dân ở làng) và ngoại đinh (người nơi khác
tới ở ngụ trong làng). Trong số đinh, nội đinh được sắp xếp theo hạng khá tỉ mỉ
(tráng hạng, quân hạng, dân hạng, lão tật hạng) với các mức thuế khác nhau. Những
hạng được miễn thuế là: người có chức sắc, con quan, nhiêu ấm, nhiêu thân, quan
chức, người đỗ đạt, binh sĩ, thợ thuyền.
Ngoài ra, tư tưởng Tống nho ăn sâu vào nhận thức của các tầng lớp vua quan
dẫn đến sự khước từ giao thương với các nước phương Tây đặc biệt là từ khi vua
Minh Mệnh cai trị đất nước. Chính sách này làm thui chột những yếu tố tiến bộ của
nền sản xuất hàng hóa đã manh nha xuất hiện từ thế kỷ XVIII khiến cho nền kinh tế
ngày càng lâm vào tình trạng khủng hoảng.
Những đặc điểm nêu trên của nền kinh tế đã ảnh hưởng lớn tới tiềm lực kinh
tế của đất nước, chi phối không nhỏ đến chính sách của vương triều Nguyễn đối với
xây dựng và bảo vệ đất nước trong đó có chế độ đãi ngộ của triều đình dành cho
quân đội.
Về xã hội, những cuộc nổi dậy chống triều đình đã bùng lên từ rất sớm liên
tục suốt từ đầu thời vua Gia Long đến thời vua Tự Đức. Lực lượng bao gồm các
tướng lĩnh cũ triều Tây Sơn, nông dân nhất là vùng Bắc Hà, nhân dân các dân tộc ở
miền núi Bắc Bộ, Trung Bộ và Tây Nguyên và binh lính .Trong đó có một số cuộc
khởi nghĩa lớn như: Phan Bá Vành ở Nam Định, Nông Văn Vân ở Tuyên Quang và
Lê Duy Lương ở Ninh Bình; Lê Văn Khôi ở vùng Gia Định. Triều Nguyễn phải
điều một số lượng quân lớn đi đánh dẹp. Do vậy, nhà nước phải chi một khoản tiền
lớn để phụ cấp cũng như khen thưởng cho đội quân này.
Có thể thấy, yếu tố ảnh hưởng đến chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn trước
năm 1858 như:
- Nền kinh tế nông nghiệp vẫn là nền kinh tế chủ đạo của triều Nguyễn trong
37
đó thuế ruộng đất thu bằng thóc là chủ yếu nhưng ruộng đất ngày càng khó khăn
cùng với đó là tình trạng trạng mất mùa, đói kém, thiên tai liên tiếp xảy ra ảnh
hưởng không nhỏ đến quốc khố của nhà nước. Đây là trở ngại đối với triều Nguyễn
trong việc đặt ra định mức đãi ngộ cho võ quan và binh lính.
- Binh lính trở thành lực lượng quan trọng trong việc dẹp yên các cuộc nổi
dậy trong nước và âm mưu xâm chiếm của các nước ngoại bang. Để khẳng định sự
cai trị và lớn mạnh của vương triều, triều Nguyễn cần phải có chính sách đãi ngộ
phù hợp đối với võ quan và binh lính.
2.1.2.2. Bối cảnh triều Nguyễn sau năm 1858
Đây là giai đoạn triều Nguyễn vừa phải dẹp yên những cuộc nổi dậy chống
đối triều đình vừa phải đối phó với sự xâm lược của thực dân Pháp.
Sang thời Tự Đức, trước và trong khi Pháp xâm lược, các cuộc khởi nghĩa
chống triều đình vẫn liên tiếp nổ ra. Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nông dân, sự nổi
dậy của nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi như các triều vua trước, ở giai
đoạn này triều Nguyễn còn phải chống lại sự nổi dậy của binh lính như cuộc khởi
nghĩa Lê Duy Phụng, sự cướp phá của tàn quân Thái Bình Thiên Quốc ở miền
thượng du tiêu biểu là khởi nghĩa Tam Đường ở Thái Nguyên, khởi nghĩa Ngô Côn
ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên. Một lực lượng lớn quân đội được vua Tự Đức
huy động để dẹp yên những cuộc nổi dậy này.
Từ tháng 9 năm 1858, triều Nguyễn phải tổ chức kháng chiến chống lại sự
xâm lược của thực dân Pháp. Đây là một thế lực ngoại xâm chưa từng có trong tiền
lệ với phương tiện chiến tranh hiện đại, cách đánh khác biệt. Sau khi đánh Đà Nẵng,
Pháp lần lượt mở rộng đánh chiếm các địa điểm quan trọng trên lãnh thổ nước Đại
Nam: Gia Định, Nam Kỳ, Bắc Kỳ và sau đó là Huế. Để chống đỡ lại hỏa lực, vũ
khí và phương tiện chiến tranh của Pháp, triều Nguyễn đã điều huy động một lực
lượng quan binh lớn tham gia chiến trận. Những hoạt động này đòi hỏi triều
Nguyễn phải ban cấp một khối lượng tiền gạo lớn để nuôi quân cũng như khen
thưởng cho võ quan và binh lính lập được nhiều công trạng.
Sau khi thất thủ ở Gia Định và các tỉnh An Giang, Hà Tiên và Vĩnh Long
triều đình Huế lần lượt ký với Pháp hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862 và Giáp Tuất
năm 1874. Với 2 điều ước này, nhà Nguyễn mất quyền cai trị ở lục tỉnh Nam Kỳ.
Đây là tổn thất rất lớn của triều Nguyễn. Từ đây, triều đình mất chỗ dựa quan trọng
là các đại địa chủ miền Nam, vốn là lực lượng đắc lực ủng hộ họ Nguyễn lấy lại
38
vương quyền, đồng thời mất đồng bằng sông Cửu Long, một trong những nơi cung
cấp lương thực chính của triều đình Huế.
Ngoài ra, trong điều khoản thứ 8 của Hiệp ước Nhâm Tuất, triều Nguyễn
phải bồi thường cho Pháp 4 triệu France chiến phí. Với việc kí kết hai bản Hiệp ước
này, vua Tự Đức vừa phải đối mặt với sự thiếu hụt ngân sách vừa phải trả nợ cho
Pháp đồng thời vẫn phải đảm bảo tài chính và lương thực ổn định tình hình trong
nước và chống ngoại xâm. Khó khăn chồng chất này đã ảnh hưởng trực tiếp đến
chính sách lương bổng và tài chính của nhà nước dành cho quân đội.
Hậu quả của những cuộc đàn áp và kháng chiến chống ngoại xâm thời kỳ
này đã gây ra những thương vong cho võ quan và binh lính trực tiếp tham gia chiến
trận. Do vậy, sau năm 1858 triều Nguyễn không chỉ trợ cấp cho tướng sĩ trận
thương, trận vong khi tham gia đánh dẹp những cuộc nổi dậy mà còn phải trợ cấp
cho những binh lính tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và thân
nhân của họ.
Những đặc điểm về kinh tế, chính trị xã hội nêu trên đã chi phối trực tiếp tới
chế độ đãi ngộ dành cho quân đội của triều Nguyễn. Thực tế này đòi hỏi triều
Nguyễn phải xây dựng một lực lượng quân đội đủ mạnh để bảo vệ quyền cai trị của
dòng họ, trấn áp các cuộc nổi dậy trong nước đồng thời chống lại cuộc xâm lược
của thực dân Pháp trong điều kiện đầy khó khăn và thử thách.
2.2. Tổ chức quân đội dƣới triều Nguyễn
2.2.1. Phân loại, phiên chế các ngạch quân
Bên cạnh hàng loạt chính sách cải tổ bộ máy chính quyền, hành chính, kinh
tế - xã hội, ngay sau khi nhà Nguyễn được thành lập (1802), vua Gia Long và các vị
vua kế nhiệm (Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tực Đức) đã triển khai nhiều biện pháp để
củng cố lực lượng quân đội, tạo chỗ dựa vững chắc cho sự tồn tại và phát triển của
vương triều. Quân đội do các vua triều Nguyễn xây dựng trong giai đoạn từ 1802
đến năm 1884 được tổ chức khá quy củ, hoàn chỉnh về tổ chức và trang bị. Điều này
phản ánh qua số lượng quân lính và cách thức tổ chức các lực lượng quân qua mỗi
triều vua.
Cũng như các triều đại trước, quân đội triều Nguyễn gồm các lực lượng Bộ
binh, Thủy binh, Pháo binh, Tượng binh. Xếp theo cấp độ binh chủng, quân đội
triều Nguyễn gồm 2 binh chủng là Bộ binh và Thủy binh trong đó Bộ binh là lực
lượng đông đảo và giữ vai trò quan trọng nhất trong quân đội triều Nguyễn. Trong
39
tổng số quân, ngoài Thủy sư kinh kỳ và một số vệ Thủy binh phân bố ở một số tỉnh
còn lại là lực lượng của Bộ binh.
Về tổ chức phiên chế các đơn vị trong Bộ binh, gồm 5 cấp đứng đầu là cấp
Doanh dưới là Vệ, Cơ và Đội do Đô Thống, hàm Chánh nhị phẩm chỉ huy. Bên cạnh
Bộ binh, một lực lượng được triều Nguyễn rất chú trọng xây dựng đó chính là Thủy
binh. Thủy quân gồm đơn vị chủ lực đóng tại Kinh gọi là Kinh kỳ Thủy sư.
Ngoài 2 binh chủng là Bộ binh và Thủy binh, quân đội triều Nguyễn còn có
lực lượng Tượng binh và Pháo binh. Tuy nhiên, Pháo binh và Tượng binh dưới triều
Nguyễn chỉ là các đơn vị hỗ trợ tác chiến nằm trong Bộ binh chứ chưa trở thành các
binh chủng độc lập. Mặc dù vậy, Tượng binh là lực lượng có vai trò quan trọng
trong chiến đấu của quân đội triều Nguyễn.
Có nhiều cách gọi các lực lượng quân dưới triều Nguyễn tùy theo địa bàn
đóng quân và chức năng nhiệm vụ. Nếu phân biệt cách tuyển mộ binh lính thì có
Tuyển binh (lính tuyển) và Mộ binh (lính mộ).
Về cách tuyển mộ binh lính, nhà nước lấy lính trên số dân đinh. Năm Gia
Long thứ nhất (1802) nhà nước ban hành quy định đối với các Trấn phía Bắc. Các
Trấn: Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương, Sơn Nam (thượng, hạ), Thanh Hóa ngoại
(Ninh Bình) áp dụng 7 suất đinh lấy 1 suất lính. Sáu ngoại trấn Tuyên Quang, Hưng
Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Yên Quảng thì cứ 10 đinh lấy 1 suất lính
[89; 522]. Khu vực miền Trung từ Quảng Bình đến Bình Thuận thì cứ 3 suất đinh
lấy một suất lính [69; 240]. Đối với thành Gia Định thì “dân hạng tráng 8 người lấy
1 lính; còn biệt nạp như đồn điền các trại, 3 người lấy 1 lính” [69; 241]. Sau cải
cách hành chính của vua Minh Mệnh, chế độ tuyển lính áp đối với các tỉnh Bắc kỳ
và Trung kỳ vẫn giữ nguyên tỉ lệ lấy quân thời vua Gia Long. Riêng đối với các tỉnh
Nam kỳ có điểu chỉnh.
Nhằm ổn định về quân số, các địa phương phải có trách nhiệm quản lý số
binh dân của địa phương khi đi thực hiện nghĩa vụ quân đội. Ngay từ thời Gia Long,
triều Nguyễn đã quy định binh lính thuộc sổ đinh của xã nào sau khi đi lính bị chết
hoặc bỏ trốn: nếu người lính bị chết, sau khi được bộ Binh phê duyệt thì địa phương
mà người lính có tên trong sổ đinh phải tìm người thay thế; trường hợp lính bỏ trốn
thì địa phương phải truy tìm người đó giao nộp, nếu không thể tìm ra người lính
trốn thì bắt anh em họ của người đó đi thay, nếu người lính trốn không có anh em
thì xã phải chọn người khác thay thế.
40
Ngoài tuyển chọn thông qua sổ đinh của làng xã do nhà nước quản lý, binh
lính của vương triều Nguyễn còn được bổ sung bằng cách lấy mộ binh. Mộ binh là
loại binh lính tuyển chọn từ bộ phận dân cư không có tên trong sổ đinh của làng xã,
gọi là dân ngoại tịch. Theo lời vua Minh Mệnh thì “lính này đi trận rất được
việc”[92; 905]. Việc áp dụng chế độ tuyển lính bằng chế độ mộ binh góp phần giải
quyết tình trạng thiếu quân trong quá trình lấy lính bằng phép tuyển binh.
Những phương thức tuyển lính này được các vua triều Nguyễn sau Gia Long
duy trì, tùy từng địa phương và từng thời điểm tỉ lệ tuyển quân có sự thay đổi cho
phù hợp với nhu cầu của nhà nước. Dân đinh khi được tuyển chọn hay ứng mộ
không quy định thời gian tham gia quân ngũ, đến thời Minh Mệnh chỉ có quy định
về hưu của binh lính. Cụ thể là từ 50 tuổi đối với người ốm yếu và 55 tuổi đối với
lính khỏe mạnh. Tuy nhiên, thời gian này có thể được kéo dài tới 60 tuổi tùy theo
điều kiện sức khỏe và binh lính có nhu cầu ở lại.
Tuyển binh và mộ binh là 2 phương thức tuyển quân dưới triều Nguyễn trong
đó tuyển quân cho số lượng quân ổn định và nhà nước chủ động bố trí lực lượng, tổ
chức các lực lượng quân. Lực lượng mộ binh có thể tăng giảm nhưng là một lực
lượng ứng nghĩa quan trọng góp phần củng cố lực lượng quân đội ở các địa phương.
Nếu phân biệt theo mức độ tin cậy và khả năng tác chiến thì có Thân binh,
Cấm binh và Tinh binh. Tuy nhiên, khi nói về tổ chức quân đội dưới triều Nguyễn
thường chia thành quân đóng tại Kinh đô gọi là Kinh binh và quân ở các tỉnh gọi là
Cơ binh. Kinh binh là binh lực trọng yếu của vương triều đảm nhiệm nhiều chức
năng, nhiệm vụ như phục vụ và bảo vệ an toàn cho nhà vua cùng Hoàng tộc, bảo
đảm an ninh cho Kinh thành và sẵn sàng cơ động thực hiện nhiệm vụ chiến đấu
khắp cả nước khi cần thiết. Kinh binh chia thành 3 ngạch quân: Thân binh, Cấm binh và
Tinh binh. Tuy nhiên, từ thời Thiệu Trị về sau, nhà Nguyễn không chia thành Thân binh,
Cấm binh và Tinh binh. Quân đội chia thành biền binh chính ngạch hoặc biền binh tạp
ngạch (ngoại ngạch). Các ngạch quân được biên chế theo cấp từ Doanh đến Ngũ. Trong
các ngạch binh này, Thân binh và Cấm binh có vai trò quan trọng hơn Tinh binh điều
này được thể hiện ở phẩm trật của võ quan đứng đầu các đơn vị quân.
Trong mỗi ngạch quân, bên cạnh lực lượng quân thường trực chiến đấu còn
có một lực lượng không nhỏ tham gia sai phái, phục dịch những công việc thường
ngày trong Kinh thành, Phủ đệ của thành viên Hoàng tộc, Nha môn các bộ được
41
biên chế thành từng Đội. Đối với Cơ binh, ngoài Ngũ quân Ngũ bảo thuộc Tinh
binh đóng ở 5 tỉnh. Quân Cơ binh được tổ chức thành 5 cấp như ở Kinh đô cao nhất
là cấp Liên cơ thấp nhất là Ngũ.
Đối với các lực lượng trong quân đội, triều Nguyễn thực hiện chia ban gồm 2
ban: một ban ở quân ngũ tập luyện, ứng trực (gọi là lính đương ban), một ban về
quê nghỉ ngơi, sản xuất (gọi là lính hạ ban) với số phiên theo tỉ lệ và thời gian
nhất định. Quy định về tỉ lệ phiên giữa ứng trực và nghỉ của quân lính giữa quân
ở Kinh thành và quân ở địa phương là không giống nhau. Đối với quân ở Kinh
thành, dưới triều vua Gia Long, năm Gia Long thứ 2 (1803) nhà nước đặt định
lệ, quân đội chia làm 3 phiên: 2 phiên nghỉ tại quê nhà, một phiên tại ngũ làm
nhiệm vụ ứng trực 1 tháng thay đổi 1 lần [69; 273]. Năm Gia Long thứ 5 (1806)
triều Nguyễn thay đổi tỉ lệ thành 5 phiên: 3 phiên làm việc, 2 phiên nghỉ ngơi,
đến năm 1810 tỉ lệ chia ban lại quay lại với tỉ lệ 2:1 như đã định ra năm 1802
[69; 273]. Sang thời vua Minh Mệnh, tùy vào tính chất công việc của các đội
quân, số lượng binh sĩ hay nơi đóng xa gần mà thực hiện việc có hay không chia
ban. Thời vua Thiệu Trị, ngay khi lên ngôi, nhà vua đã thực hiện việc không chia
ban đối với những quân có số lượng ít ở Kinh thành. Đối với các đội quân có số
lính nhiều thì việc chia ban được tính tùy theo quê quán xa gần của binh lính là
1 hoặc 2 tháng [69; 283]. Đến thời vua Tự Đức, năm 1851 triều Nguyễn thống
nhất việc chia ban ở của binh lính ở Kinh, một năm chia làm 3 đợt, trong đó 2
đợt (3 tháng đầu năm và 5 tháng cuối năm quân lính được chia làm 3 ban, 1
tháng đổi 1 lần, 4 tháng từ 1 tháng 3 đến mùng 1 tháng 7 quân chia thành chia
làm 2 ban (1 ban lưu ngũ, 1 ban nghỉ ngơi) 2 tháng đổi 1 lần.
Đối với quân địa phương, việc chia ban cũng được ban hành. Từ năm Gia
Long thứ 2 (1803) triều Nguyễn quy định, lính chia làm 3 phiên, 1 phiên ứng trực
và 2 phiên về quê quán, 1 tháng đổi 1 lần. Đến năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), vua
ban hành quy định, ở các tỉnh, tùy tình hình an ninh địa phương và có thể chia quân
thành 2 ban, thậm chí chia thành bốn, năm phiên chỉ để lại 1 ban tại ngũ.
Thời gian chia lại phiên hàng năm thường được thực hiện vào tháng 7, tháng
12 tất cả quân tập trung về đơn vị. Chế độ lương thưởng của nhà nước đối với các
phiên lính này khác nhau. Việc chia ban ứng trực kết hợp xen kẽ về quê nghỉ ngơi
của binh lính vừa đảm bảo được sản xuất nông nghiệp, vừa giảm gánh nặng cho
việc cung cấp lương thực thực phẩm nuôi quân.
42
2.2.2. Cơ cấu, tổ chức
2.2.2.1. Cơ cấu của bộ Binh
Trong hệ thống hành chính của triều Nguyễn, bộ Binh là một trong 6 bộ (lục
bộ), đây là cơ quan chuyên trách công tác binh bị nói chung được thành lập từ thời vua
Gia Long. Trách nhiệm của bộ Binh gồm: quản lý ngạch võ quan; tuyển mộ binh lính;
huấn luyện quân; trang bị cho binh sĩ, điều động quân đi canh phòng đồn trú và đánh
dẹp; tổ chức phòng thủ đồng thời chịu trách nhiệm quản lý kho súng, kho thuốc súng
và công tác bưu chính. Dưới thời Tự Đức tổ chức của bộ Binh như sau:
Phụ trách các cơ quan của bộ Binh là các quan được xếp theo phẩm hàm cao
thấp tùy theo vị trí phụ trách cụ thể như sau
Bảng 2.1. Các chức quan và phẩm hàm của bộ Binh dưới triều Nguyễn
Cơ quan Võ quan Phẩm trật Số lƣợng
Bộ Chánh nhị phẩm Tòng nhị phẩm
Ty
Thượng Thư Tả, Hữu tham tri Tả, Hữu Thị lang Chánh Tam phẩm Lang trung Viên ngoại Chủ sự Tư vụ Thư lại Tòng tứ phẩm Chánh ngũ phẩm Chánh lục phẩm Chánh thất phẩm Chánh bát phẩm hoặc Chánh cửu phẩm
1 2 2 1 1 1 1(2) Ty Võ Tuyển: 3 Ty kinh kì: 3 Ty trực tỉnh 2 Ty Khảo công 2
[Nguồn 69; 17]
43
2.2.2.2. Tổ chức lực lượng ở trung ương
Tổ chức quân đội Trung ương bao gồm 5 cấp theo thứ tự cao thấp như sau:
Doanh ->Vệ -> Đội -> Thập -> Ngũ.
Chỉ huy các đơn vị quân Trung ương gồm các võ quan hàm từ Chánh nhị
phẩm đến Tòng ngũ phẩm, riêng 2 cấp Thập và Ngũ chỉ huy các đơn vị quân này
chưa được xếp vào ngạch võ quan. Cụ thể như sau:
Bảng 2.2. Tổ chức một Doanh của quân đội triều Nguyễn
Đơn vị quân Doanh Vệ Đội Thập Ngũ Ngƣời chỉ huy Đô thống Vệ úy Cai đội Suất thập Ngũ trưởng Phẩm trật Chánh nhị phẩm Chánh tam phẩm Tòng ngũ phẩm Số lƣợng 1 1 1 1 1
[Nguồn: 69; 18, 23, 24]
Riêng với Võ quan là Cai đội đứng đầu đơn vị Đội quân ở Trung ương, tùy
theo đơn vị tại ngũ mà có phẩm trật lớn nhỏ khác nhau: Ở các đội Trung hầu, Nội
hầu, Cẩm y, Thị trung tả-hữu dực phẩm trật cao nhất trong chức danh Cai đội là
Tòng Tứ phẩm. Đối với các đội quân của Cấm binh và Tinh binh như: Thần Cơ,
Tiền Phong, Long Vũ, Hổ Oai, Nội Hầu, Kỳ Võ, Dực Vũ, Thượng Trà, Tài Thụ.
Nội Thủy, Phấn Dực, Kinh kị, Phi kỵ, Thần Sách, Hộ Lăng Cai đội thấp hơn 1 bậc
là Chánh ngũ phẩm. Cai đội ở các đội như Giám Thành, Võng Thành trật Tòng Ngũ
phẩm.
2.2.2.3. Tổ chức lực lượng ở địa phương
Tổ chức lực lượng quân đội các địa phương được tổ chức thành 5 cấp tương
đương với quân ở Kinh thành gồm: Liên cơ->Cơ-> Đội-> Thập-> Ngũ
Trong đó Liên cơ chỉ có ở những tỉnh lớn. Cấp Vệ tương đương với cấp Cơ ở
Kinh thành được tổ chức ở các tỉnh vừa và nhỏ. Quan chỉ huy các đơn vị quân ở địa
phương gồm: Đề đốc (đứng đầu một Liên cơ), Lãnh binh (đứng đầu một cơ/vệ), Cai đội
(đứng đầu một đội), Suất thập (đứng đầu một thập), Ngũ trưởng (đứng đầu một ngũ).
Cai đội ở các Đội quân ở địa phương phẩm trật thấp hơn Cai đội phẩm trật
thấp nhất ở Trung ương 1 bậc.
Hệ thống võ quan được biên chế ở các cấp với tên gọi và phẩm trật từ cao
xuống thấp. Phẩm trật của võ quan ở trung ương và địa phương có sự chênh lệch
44
trong cùng một cấp. Theo đó cấp Doanh ở Kinh đô võ quan chỉ huy phẩm trật là
Chánh nhị phẩm, trong khi đó cấp tương đương là Liên cơ ở địa phương thấp hơn 2
bậc là Chánh tam phẩm, ở cấp thứ 2 quan chỉ huy ở địa phương kém ở trung ương 1
bậc. Điều đó cho thấy triều đình coi trọng vai trò của võ quan cũng như lực lượng
quân của nhà nước ở Kinh thành. Đây chính là lực lượng tin cậy nhất của nhà vua
trong việc xây dựng, củng cố và phát triển vương triều.
2.2.3. Số lượng, nhiệm vụ
2.2.3.1. Số lượng và nhiệm vụ quân lính ở kinh thành
Tổ chức của quân đội triều Nguyễn gồm 5 cấp đối với cả lực lượng quân ở
Kinh thành và quân ở địa phương trong đó Doanh (ở trung ương) - Liên cơ (ở địa
phương) số lượng các đơn vị trực thuộc và số quân trong mỗi một đơn vị được quy
định như sau:
Bảng 2.3. Số lượng đơn vị và quân lính trong một doanh
STT Đơn vị Số binh lính trên một đơn vị quân
1 2 3 4 5 Doanh (Liên cơ) Vệ Đội Thập Ngũ Số đơn vị quân 1 5 10 5 2 2.500 500 50 10 5
[Nguồn:195-49 ]
Như vậy, theo định lệ thì mỗi Doanh – cấp cao nhất của quân đội dưới triều
Nguyễn là 2.500 người, cấp thấp nhất là ngũ, 5 người. Tuy nhiên, trên thực tế, con
số này có thể biến động, nhiều hơn hoặc ít hơn tùy từng triều vua và tùy theo nhu
cầu và hoàn cảnh lịch sử.
Số lượng quân đội ở kinh thành được ước tính trên cơ sở số lượng của từng
đơn vị thuộc các ngạch quân gồm: Thân binh, Cấm binh và Tinh binh.
Ngạch Thân binh còn gọi là quân túc vệ, gồm những người to lớn, mạnh
khỏe, giỏi võ, tuyển từ ngạch Cấm binh. Đây là những đơn vị được tín nhiệm, huấn
luyện kỹ, có nhiệm vụ canh giữ Đại Nội, Tử cấm thành, bảo vệ vua và sẵn sàng cơ
động thực hiện nhiệm vụ chiến đấu khắp cả nước khi cần thiết.
Tổ chức của Thân binh gồm 1 Doanh Vũ lâm và 4 Vệ (Cẩm Y, Kim Ngô,
Loan Giá, Tuyển Phong) do các võ quan từ Chánh nhị phẩm đến Tòng tam phẩm,
45
thuộc hàng võ quan cao cấp chỉ huy. Vệ Cẩm Y là quân Túc vệ, thay phiên ứng trực
hầu cận vua khi vua ở trong cung cũng như đi theo bảo vệ vua khi vua đi yết lăng,
tuần du, có trách nhiệm đảm bảo an ninh cho Tử Cấm Thành. Vệ Kim Ngô được lập
ra năm 1837 là quân Túc vệ, hỗ trợ cho vệ Cẩm Y. Vệ Loan Giá có nhiệm vụ lo về
nghi vệ khi vua đi ra yết triều. Vệ Tuyển Phong đây là bộ phận tinh nhuệ và đáng
tin cậy của triều đình. Doanh Vũ Lâm là quân đóng giữ Kinh thành.
Số lượng quân của các Vệ thuộc Thân binh, cụ thể như sau:
Bảng 2.4. Số quân thuộc ngạch Thân binh dưới triều Nguyễn
Số đơn vị quân Gia Long Minh Mệnh Thiệu Trị Tự Đức
1048 1048 1.200 10 đội Túc trực, 5 đội Trường trực 1.000 từ năm 1837 là 1048
10 đội 300 532 532 Chưa thành lập Các đơn vị quân Vệ Cẩm Y Vệ Kim Ngô
822 822 1095 1095 Vệ Loan Giá
4 ty: Hộ Vệ, Cảnh Tất, Loan Nghi, Kỳ Cổ 3 đội Dực Vũ 4 đội Dực Chấn 4 đội Dực Đễ
10 đội 0 0 0 625 Vệ Tuyển Phong
6.000 5.501 5.501 5.501 Doanh Vũ Lâm Gồm 2 dực, mỗi dực 5 vệ (10 vệ) , mỗi vệ 10 đội
Tổng 8.022 7.671 8.176 8.801
[Nguồn: 69; từ tr.81 đến tr. 97]
Ngạch Cấm binh đóng xung quanh bên trong Kinh thành, là bộ phận quân
đội có nhiệm vụ bảo vệ cho Hoàng thành và Kinh thành, sẵn sàng chịu sự điều động
tham gia chiến đấu. Tổ chức và Các đơn vị của ngạch Cấm binh chia thành 2 bộ
phận với 2 chức năng chính: bộ phận quân chiến đấu bảo vệ Kinh thành và các địa
phương được biên chế trong 6 doanh gồm doanh Thần Cơ, Tiền Phong, Long Võ
(Vũ), Hổ Uy (Oai), Hùng Nhuệ, Kỳ Vũ và vệ Kinh tượng. Cơ cấu của 1 doanh
thường gồm 5 vệ (Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu) riêng Doanh (Dinh) Kỳ Vũ chia làm
4 vệ (Nhất, Nhị, Tam, Tứ) cùng các vệ đóng ở các địa phương (doanh Kỳ Vũ không
có quân đóng ở các địa phương).
46
Cấm binh thời Nguyễn được tổ chức gồm 3 cấp, đứng đầu cấp Doanh do Đô
thống chế hàm Tòng nhất phẩm và Thống chế hàm Chánh nhị phẩm chỉ huy, thấp
nhất ở cấp Đội do Suất đội hàm Chánh lục phẩm chỉ huy. Ngoài các Doanh có
nhiệm vụ chiến đấu (Thần Cơ, Tiền Phong, Long Vũ, Hổ Uy (Oai), Hùng Nhuệ và
Kỳ Vũ (Võ)), các Vệ đội còn lại trong Cấm binh làm nhiệm vụ phục dịch và sai
phái trong Kinh thành.
Cấm binh gồm 2 lực lượng: lực lượng quân chiến đấu gồm 6 doanh và vệ
Kinh Tượng; lực lượng có chức năng chuyên lo công việc phục vụ, canh giữ, bảo vệ
và sai phái những công việc lặt vặt trong kinh thành được phiên chế trong các Vệ
đội. Nếu tính cả 2 bộ phận này thì tổng số quân của Cấm binh dưới các triều vua cụ
thể lần lượt sẽ là: triều Gia Long có 15.412 người, triều Minh Mệnh có 20.524
25000
20000
15000
10000
5000
0
Gia Long
Minh Mệnh
Thiệu Trị
Tự Đức
người; triều Thiệu Trị có 19.940 người và triều Tự Đức có 18.883 người.
Biểu đồ 2.1. Số lượng quân thuộc Cấm binh qua các triều vua
[Nguồn: 69; 98-114]
Con số của quân Cấm binh dưới triều vua Gia Long chỉ là tương đối. Chẳng
hạn, Khâm định Đại Nam hội điển ghi số đội hoặc số vệ được lập ra, nhưng không
ghi chính xác số quân, chẳng hạn của Tiền vệ thuộc doanh Hổ Uy là 10 đội [69;
109] không ghi chính xác số quân. Theo định lệ mỗi đội quân dưới triều Nguyễn là
50 người, hoặc một vệ theo định lệ là 500 người. Tuy nhiên 1 đội thuộc Trung vệ
Hổ Uy năm Gia Long thứ 9 (1810) lại biên chế mỗi đội quân là 60 người. Số lượng
Doanh Kỳ Vũ dưới triều vua Minh Mệnh cũng là con số tương đối do số lính Vệ Tứ
cũng được tính theo định lệ. Trong tổ chức Cấm binh, lực lượng quân chiến đấu
chiếm số lượng lớn hơn nhiều lần số quân phục vụ cho vua và các việc hàng ngày
trong kinh thành. Điều này cho thấy triều Nguyễn rất coi trọng nhiệm vụ an ninh
47
quốc phòng của quân đội nhưng cũng thể hiện sự ưu ái đối với Hoàng cung, thể
hiện tư tưởng của một chế độ quân chủ tập quyền.
Ngạch tinh binh là lính tinh nhuệ, bộ phận thường trực sẵn sàng chiến đấu
của quân đội triều Nguyễn tập trung chủ yếu trong Ngũ quân Ngũ bảo. Ngũ quân
tương đương với cấp Doanh của ngạch Thân và Cấm binh chỉ huy là một viên Đô
thống hàm Chánh nhất phẩm (phẩm hàm cao nhất của ngạch quan). Quân của Ngũ
quân ngũ bảo đóng ở 2 nơi, 1 bộ phận đóng ở Kinh thành gọi là Ngũ quân (gồm
Trung quân, Tiền quân, Hữu quân và Hậu quân) và 1 bộ phận quân kiêm quản đóng
ở 5 địa phương gọi là Ngũ bảo. Như vậy, đây là đội quân thường trực chiến đấu
không chỉ ở Kinh đô mà còn ở các địa phương. Dưới thời Thiệu Trị, lực lượng ngũ
quân ngũ bảo của Tinh binh được liệt vào hạng biền binh chính ngạch. Ngoài Ngũ
quân, ở Kinh đô còn có lực lượng Thủy binh gọi là Kinh kỳ thủy sư. Bên cạnh đó,
Tinh binh còn một bộ phận binh lính làm nhiệm vụ phục dịch trong Kinh thành, các
cơ quan hành chính (các bộ) và các nha môn, phủ đệ.
Tổ chức của Tinh binh dưới thời Nguyễn gồm có Ngũ quân ngũ bảo, Thủy sư Kinh
kỳ, Vệ Giám Thành, Vệ Thủ Hộ, Vệ Dực Hùng, Ty Lý Thiện, Thự Hòa Thanh, Thự
Thanh Bình, Thuộc binh 6 bộ, Thuộc binh các dực, Thuộc binh các phủ đệ và Nam Bắc
tào. Trong đó, Ngũ quân và Thủy sư Kinh kỳ làm nhiệm vụ chiến đấu.
Về số lượng, Tinh binh gồm lực lượng đóng ở Kinh thành và lực lượng kiêm
quản đóng ở địa phương. Đội quân này tập trung trong ngũ quân và ngũ bảo có số lượng
dao động hơn 5000 người và có sự chênh lệch không lớn giữa các đời vua (thời Gia
Long theo thống kế có 5.093 người, các đời vua từ Minh Mệnh đến Tự Đức đều có 5.050
người). [Số liệu do tác giả luận án tập hợp số liệu trong 69 từ trang 130 đến trang 133].
Nếu tính chung thì tổng số quân làm nhiệm vụ chiến đấu của ngạch Tinh
binh thời Nguyễn khá ổn định: các thời Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức đều có
12.764 người (chỉ riêng thời Gia Long có 9.293 người). Bên cạnh làm nhiệm vụ
chiến đấu, trong ngạch Tinh binh còn có số quân làm nhiệm vụ phục dịch và sai
phái. Trong đó, thời Gia Long có 3.774 người; thời Minh Mệnh có 3.725 người;
thời Thiệu Trị có 4.218 người và thời Tự Đức có 4.533 người [Số liệu do tác giả luận
án tập hợp số liệu trong 69 từ trang 136 đến trang 153].
Số quân làm nhiệm vụ phục dịch thuộc Tinh binh còn có thuộc binh các phủ
đệ vốn là nơi ở của các ông hoàng bà chúa và thuộc binh các nha (nơi làm việc của
quan lại) nhưng số lượng không nhiều và không cố định. Dưới thời vua Gia Long,
48
quy định cho phép phủ đệ lập thuộc binh để sai kiến. Trong đó quy định, Hoàng tử,
Hoàng tôn lập phủ đệ riêng thì được 200 thuộc binh, chưa lập phủ đệ thì 150 và
công chúa được 50 thuộc binh [69; 150].
Đối với với các nha, Gia Long năm thứ 5 (1806), triều Nguyễn quy định võ
quan phẩm trật cao như Đô thống chế các dinh Thần sách được tuyển 20 người, Cai đội
được 1 hoặc 2 người. Dưới thời vua Minh Mệnh, cao nhất là Thống chế ở Thị trung và
Thị nội đều được 50 người còn thấp nhất là Cai đội được 3 người. Đến thời Tự Đức, số
lượng thuộc binh ở các phủ đệ và các nha cũng không nhiều và không cố định, tùy
thuộc vào sự tăng giảm của Tôn Thất và quan lại có công được phong tước.
Ngoài đóng ở Kinh đô, ngạch tinh binh trong Ngũ quân thời Nguyễn còn
kiêm quản 1 lực lượng đóng ở địa phương. Số quân của mỗi Cơ ở các địa phương
tương đương với các Vệ đóng ở Kinh thành với số quân là 500 người, số quân trên
thực tế có sự chênh lệch so với định lệ, cụ thể như sau:
Bảng 2.5. Số lượng Tinh binh đóng ở các địa phương
Địa bàn Các đơn vị thuộc cơ binh đóng ở địa phương Thời Gia Long Thời Minh Mệnh Thời Thiệu Trị Thời Tự Đức Cơ quan trực thuộc
4.970 5.040 5040 5040 Trung quân Hà Nội
5.000 5.030 5.030 5.030 Tiền quân Nam Định
Tả quân 5.000 5.202 5.202 5.202 Hải Dương
5.000 5.000 5.000 5.000 Sơn Tây Hữu quân
5.000 5.099 5.099 5.099 Bắc Ninh Hậu quân 10 cơ gồm 5 Trấn cơ và 5 Định cơ - 10 cơ: +5 cơ hiệu chữ Cường +5 cơ hiệu chữ Tiệp 10 cơ: + 5 cơ hiệu chữ Kiên + 5 cơ hiệu chữ Nhuệ 10 cơ: +5 cơ hiệu chữ Hùng +5 hiệu chữ Dũng 10 cơ: +5 cơ hiệu chữ Uy. + 5 cơ hiệu chữ Thắng
Tổng 24.970 25.371 25.371 25.371
[Nguồn 69; từ tr.184 đến tr.199]
Như vậy, tính tổng cộng số Tinh binh của triều Nguyễn ở trung ương và cả
một bộ phận đóng ở các địa phương dao động từ 38.037 người (thời Gia Long) đến
42.668 người (thời Tự Đức) với tỉ lệ chênh lệch khoảng 1,12 lần.
49
42668
42353
41860
38037
Gia Long
Minh Mệnh
Thiệu Trị
Tự Đức
Biểu đồ 2.2. Số lượng quân thuộc Tinh binh qua các triều vua
[Nguồn: 69; từu tr.131đến tr.136]
Qua số lượng trên có thể thấy số quân của Tinh binh có số quân nhiều nhất
trong hệ thống các ngạch quân triều Nguyễn. Tinh binh có số quân gấp đôi lực
lượng Cấm binh trong đó quân chiến đấu của Tinh binh ở các địa phương chiếm
một nửa của lực lượng Tinh binh. Điều đó chứng tỏ triều Nguyễn rất chú trọng đến
quân đóng giữ ở các địa phương. Đây là lực lương vừa góp phần ổn định tình hình
của đất nước vừa dễ dàng cho việc sai phái.
Tổng hợp số lượng quân của cả ngạch Thân binh, Cấm binh và Tinh binh
cho thấy, số lượng quân ở trung ương dưới triều Nguyễn khá đông với khoảng hơn
44000
70.000 người, cụ thể như sau:
42668 0 0
42353 0 0
42000
41860 0 0
40000
38000
38037 0 0
36000
34000
Gia Long
Minh Mệnh
Thiệu Trị
Tự Đức
Triều vua
Biểu đồ 2.3. Tổng hợp số lượng các ngạch quân ở trung ương thời Nguyễn
[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ 69]
50
2.2.3.1. Số lượng và nhiệm vụ quân lính ở địa phương
Ngoài quân chủ lực đóng ở Kinh thành Huế, ở các tỉnh đều có quân đội
thường trực được thành lập theo quy định của triều đình. Lực lượng này còn được
gọi Cơ binh hay Biền binh. Cơ binh gồm 2 lực lượng chủ yếu là Bộ binh và Thủy
binh. Bộ binh bao gồm cả tượng cơ và pháo binh. Số lượng bộ binh phân bố ở các
tỉnh cụ thể như sau:
Bảng 2.6. Số lượng quân lính ở các địa phương dưới triều Nguyễn
STT Thời Gia Long Tỉnh Thời Tự Đức
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 50 523 827 1.050 150 384 1.800 200 1.500 >=100 50 500 302 799 650 1.150 950 1.900 1.800 >=1.300 550 598 >=1.000 220 169 250 <=1526 1.218 1.155 22.671 Thời Minh Mệnh 250 2.329 2.860 3.496 1250 1.506 3.222 1.725 5.312 3.700 5.429 4.610 775 1.605 1.907 1.292 753 1.345 3.164 1.429 3.231 705 2.406 767 1.014 811 387 2.161 1.252 948 755 62.396 Thời Thiệu Trị 250 2.334 2.690 3.463 1.250 1.556 3.210 1.725 5.312 3.700 5.480 4.660 775 1.454 1.884 1.292 738 1.603 3.214 1.429 3.074 705 2.406 817 1.164 811 434 2.211 995 1.032 1.213 62.881 250 2.334 2.690 3.463 1.250 1.556 3.210 1.725 5.300 3.758 5.463 4.660 571 1.454 1.884 1.292 738 1.603 3.414 1.429 3.104 705 2.406 817 1.164 1.311 434 2.211 995 1.032 1.213 63.436 Thừa Thiên Quảng Nam Quảng Ngãi Bình Định Phú Yên Khánh Hòa Bình Thuận Biên Hòa Gia Định Định Tường Vĩnh Long An Giang Hà Tiên Quảng Trị Quảng Bình Hà Tĩnh Nghệ An Thanh Hóa Ninh Bình Hà Nội Nam Định Hưng Yên Hải Dương Quảng Yên Sơn Tây Hưng Hóa Tuyên Quang Bắc Ninh Thái Nguyên Lạng Sơn Cao Bằng Tổng
[Nguồn: 69; từ tr.154 đến tr.234]
51
Dưới triều vua Gia Long, do số lượng không được ghi chép đầy đủ nên số
quân chỉ mang tính chất tương đối.
Tập hợp từ các số liệu trên, tổng số quân lính của trung ương và địa phương
THỜI TỰ ĐỨC
133788
THỜI THIỆU TRỊ
133350
THỜI MINH MỆNH
132451
THỜI GIA LONG
84142
0
20000 40000 60000 80000 100000 120000 140000 160000
Thời Gia Long Thời Minh Mệnh Thời Thiệu Trị
Thời Tự Đức
84142
132451
133350
133788
Tổng số quân lính của triều Nguyễn qua các triều vua
qua các triều vua Nguyễn từ 1802 đến 1884 như sau:
Biểu đồ 2.4. Tổng số quân lính dưới triều Nguyễn qua các triều vua
Như vậy, cùng với việc xây dựng và củng cố nền chính trị, từ triều vua Gia
Long đến Minh Mệnh, quân đội được hoàn thiện về tổ chức và lớn mạnh về quân
số. So với triều Minh Mệnh, các triều vua sau (Thiệu Trị và Tự Đức), số lượng quân
không có biến động nhiều.
Về tổ chức quân đội, đồng thời với việc phân bổ các ngạch quân, nơi đóng
quân triều Nguyễn có sự phân nhiệm rõ ràng đối với từng đội quân. Quân ở Kinh
thành bao gồm Thân binh, Cấm binh và Tinh binh có nhiệm vụ bảo vệ ở Kinh đô.
Nhiệm vụ bảo vệ ở Kinh đô bao gồm: túc trực bảo vệ vua, bảo vệ cung điện, canh
gác các cổng thành và tuần hành ban đêm, bảo vệ các công trình trong kinh thành
như: vườn ngự, miếu điện và lăng tẩm của tiên dòng họ Nguyễn. Quân đóng tại các
địa phương gồm quân ở các địa phương và một lực lượng Tinh binh được đóng ở
một số tỉnh. Nhiệm vụ gồm: bảo vệ tỉnh thành, xét hỏi nơi đồn ải, canh giữ vùng
biên cương, phòng ngự nơi ven biển, tuần tra cùng lãnh hải, vây bắt hải tặc, hộ vệ
thuyền vận tải, vận chuyển văn thư và ổn định vùng dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó,
những trường hợp quan trọng thì quân ở Kinh đô được sai phái tới các địa phương
hoặc quân địa phương được điều động thực hiện những nhiệm vụ trong kinh thành.
Việc phân công nhiệm vụ rõ ràng như trên sẽ giúp cho triều đình dễ dàng trong việc
quản lý số quân đồng thời dễ cho việc điều phối lương thực nuôi quân khi quân khi
binh lính đi làm nhiệm vụ.
52
Tiểu kết chƣơng 2
Quân đội triều Nguyễn đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động của đất
nước. Không chỉ là lực lượng chiến đấu quân đội triều Nguyễn còn là nhân lực tham
gia duy trì các hoạt động thường nhật của Kinh thành và Hoàng tộc. Quân lính
không chỉ đóng ở trong Kinh thành mà còn trấn giữ ở các địa phương đảm bảo ứng
trực và sai phái. Trong các lực lượng thì số quân trực tiếp chiến đấu chiếm số lượng
lớn chứng tỏ vai trò đảm bảo an ninh quốc phòng là nhiệm vụ quan trọng nhất của
quân đội dưới triều Nguyễn.
So sánh vai trò và vị trí của các lực lượng trong quân đội triều Nguyễn rõ
ràng Thân binh là đội quân được coi trọng nhất, Tinh binh và Cơ binh đứng sau
Thân cấm binh. Điều đó có thể thấy qua hệ thống võ quan. Cùng một chức quan
nhưng lại có sự khác nhau về phẩm hàm trong mỗi ngạch binh. Chẳng hạn, đứng
đầu cấp Vệ của Thân binh võ quan có hàm từ Tòng Nhị phẩm đến Tòng tam phẩm,
nhưng ở cấp Vệ của Cấm binh là từ Tòng Nhị phẩm đến Chánh tứ phẩm. Phẩm hàm
của võ quan cấp Vệ ở Cấm binh thấp hơn một bậc. Bên cạnh đó, chức Phó vệ úy ở
ngạch Thân binh hàm Tòng tam phẩm nhưng cũng chức quan này ở Cấm binh phẩm
hàm là Chánh tứ phẩm (thấp hơn một bậc). Hoặc cùng là Cai đội, ở ngạch Thân
binh là hàm Tòng Tứ phẩm, ngạch Cấm binh và Tinh binh Cai đội thấp hơn ở Thân
binh 1 bậc là Chánh ngũ phẩm hoặc Tòng lục phẩm, Cai đội thuộc lính Cơ binh chỉ
là Chánh lục phẩm, thấp hơn Cai đội phẩm trật thấp nhất ở Trung ương một bậc.
53
Chƣơng 3.
CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI VÕ QUAN TRONG QUÂN ĐỘI
DƢỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 -1884
3.1. Chế độ đãi ngộ bằng lƣơng cho võ quan
Đây là khoản chi trả thường xuyên của triều đình cho võ quan. Khoản thu
nhập này không chỉ đảm bảo đời sống cho võ quan và gia đình của họ mà còn thể
hiện sự quan tâm của triều Nguyễn tới vai trò của võ quan trong hệ thống chính trị
của đất nước.
3.1.1. Chế độ đãi ngộ bằng lương đối với võ quan đương chức
Võ quan là bộ phận chỉ huy quân đội. Đây là bộ phận trực tiếp thực hiện ý
chí của vua và triều đình trong chính sách đối nội và đối ngoại. Ðối với võ quan,
lương là nguồn thu nhập chính. Chế độ tiền lương sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời
sống vật chất và tinh thần của họ.
Dưới triều Nguyễn, định mức lương của võ quan cao thấp nằm trong định mức
chung của quan viên, dựa trên phẩm hàm. Trong quan chế triều Nguyễn, quan lại được
phân chia quan lại thành 9 bậc, cao nhất là Nhất phẩm, thấp nhất là Cửu phẩm, mỗi
phẩm lại chia thành 2 trật là Chánh và Tòng, tổng cộng thành 18 trật. Lương của quan
lại nói chung, võ quan nói riêng gồm tiền (tính bằng quan) và gạo (tính bằng phương)
được nhà nước chi trả theo năm. Ngoài ra, họ còn được nhận lương điền tính bằng mẫu
(ruộng) và phụ cấp áo quần gọi là xuân phục.
- Lương tiền, gạo
Dưới triều Nguyễn, chế độ ban cấp lương bằng tiền và gạo cho quan võ được
ban hành đầu tiên dưới thời Gia Long. Quy chế này được các vua từ Minh Mệnh
đến Thiệu Trị và Tự Đức tùy theo thực tế sinh hoạt và tình trạng tài chính của đất
nước mà có sự điều chỉnh về định mức cho phù hợp.
Thời vua Gia Long (1802- 1820) với quan niệm: đặt quan để làm việc, tất
phải có lương bổng để nuôi, rồi sau mới bắt phải thanh liêm được, ngay sau khi lên
ngôi, năm Gia Long năm thứ 2 (1803), triều đình đã ban hành chính sách lương
lương bổng cho quan và quân ở Bắc thành (những vùng đất khác không thấy tài liệu
ghi lại). Do vậy, có thể hiểu rằng, ngoài Bắc Thành võ quan được hưởng lương
bổng theo quy định mới, những vùng còn lại võ quan vẫn hưởng chế độ của triều
đại trước. Chế độ lương của võ quan Bắc Thành được quy định như sau: võ quan
54
thuộc “Binh bộ lương tháng mỗi người đều tiền 30 quan, gạo 20 phương; Trấn thủ,
Hiệp trấn các trấn, mỗi tháng tiền 10 quan, gạo 10 phương [89; 576]. Bên cạnh đó,
triều đình quy định: từ Thống chế trở xuống đến dựa theo chức vụ và năm nhận
chức, triều Nguyễn chia võ quan thành 5 hạng dựa theo thời gian tham gia quân
ngũ.
Theo định lệ này, lương của võ quan Bắc Thành có sự chênh lệnh lớn giữa
các hạng và quan phẩm hàm cao thấp. Mức lương tính theo năm cao nhất là Đô
thống chế các quân và thấp nhất là Cai đội (cụ thể xem phụ lục 1.a).
Đến tháng 5, năm Gia Long thứ 10 (1811), chế độ lương bổng cho võ quan
ngạch Thủy quân được ban hành. Trong đó võ quan của Thủy quân được hưởng
lương như võ quan của quân Thần sách [89; 816].
Sau thời gian ổn định và phát triển vương triều, đến năm Gia Long thứ 17
(1818), nhận thấy“nay thiên hạ đã yên, phải nên chế định bổng lộc cho có định tắc”
[89; 963], vua Gia Long đã thống nhất chế độ lương bổng cho cả võ quan và văn
quan trên cả nước. Theo đó, chế độ lương bổng của quan viên (trong đó có võ quan)
được chi trả bằng tiền và bạc đĩnh với định mức tính theo năm tùy theo phẩm trật
trong đó phẩm hàm thấp gồm bát và cửu phẩm xếp chung một định mức, không
phân biệt Chánh- Tòng. Do đó, có tổng cộng 15 mức, cao nhất là Chánh nhất phẩm,
thấp nhất là Chánh Tòng cửu phẩm. Cách chia này được các đời vua sau duy trì.
Theo định mức lương ban hành cho võ quan năm Gia Long thứ 17 (1818),
lương tiền gạo thời Gia Long có sự chênh lệnh quá lớn giữa các phẩm trật. Chẳng
hạn, cùng là nhất phẩm nhưng khác phẩm hàm định mức lương có sự chênh lệch
đáng kể: Chánh nhất phẩm có định mức lương gần gấp đôi lương của Tòng nhất
phẩm. Sự khác biệt này còn rõ hơn khi so sánh mức lương của võ quan có phẩm trật
cao với võ quan quan có phẩm trật thấp. Trong đó quan Chánh nhất phẩm có định
mức lương cao gấp 37,5 lần lương của Chánh Tòng cửu phẩm. Những hạn chế này
ít nhiều được khắc phục trong chế độ lương của quan lại dưới triều vua Minh Mệnh.
Thời vua Minh Mệnh (1820- 1841): Năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), cùng
với việc củng cố và hoàn thiện bộ máy hành chính của đất nước, nhận thấy chế độ
lương bổng thời Gia Long còn nhiều hạn chế, vua Minh Mệnh cho rằng có sự chênh
lệch quá lớn giữa các phẩm bậc đặc biệt là định mức lương của quan văn- võ từ Tứ
phẩm trở xuống quá thấp:“người phẩm cao thì lương quá nhiều, người phẩm thấp
thì lương quá ít. Từ chánh nhất phẩm đến chánh nhị phẩm, chi tiêu cũng đã được
55
dư dụ, duy từ chánh ngũ đến tòng cửu thì xem ra có phần không đủ. Nếu bớt của kẻ
có thừa thêm cho kẻ thiếu thốn, thì số bị bớt ít mà số được thêm nhiều. Xin sai bộ
Hộ châm chước liệu giảm bớt lương của những chức cao thêm cho những chức
thấp, để tỏ sự công bằng vừa phải” [93; 610]. Qua lời bàn trên có thể thấy vua
Minh Mệnh nhận thấy việc chỉnh định mức lương của quan văn-võ có phẩm hàm
cao là cần thiết nhưng cũng phải hợp lý để vừa khuyến khích những võ quan phẩm
hàm cao nhưng cũng vừa đảm bảo được đời sống cho võ quan có phẩm hàm thấp
dựa trên thực tế sinh hoạt của xã hội. Từ những tiêu chí đó, vua Minh Mệnh ban
hành định lệ mới về chi cấp lương. Theo định lệ này “số tiền gạo lương hằng năm
của từ Chánh nhất phẩm đến Chánh nhị phẩm thì liệu lượng giảm bớt đi. Từ Tòng
nhị phẩm trở xuống, số tiền theo thứ bậc tăng lên còn số gạo đã đủ ăn dùng hà tất
phải cho hậu quá. Vậy số gạo của tòng nhị phẩm hơi giảm đi, còn ngoài ra số gạo
các phẩm trật khác vẫn để như cũ” [93; 610].
So với mức lương của quan lại năm 1818 dưới triều vua Gia Long thì định
mức lương của đại quan (trong đó có võ quan) - quan có phẩm trật cao từ Tòng nhị
phẩm trở lên có sự điều chỉnh giảm xuống đáng kể, nhất là Chánh nhất phẩm, định
mức tiền gạo giảm tới gần 1 nửa. Các phẩm trật từ Chánh Tam phẩm trở xuống định
mức lương hầu như đều tăng lên theo mức độ tịnh tiến dựa trên phẩm hàm cao thấp.
Tuy nhiên, mức tăng của bộ phận võ quan nhỏ không có sự khác biệt đáng kể. Mặc
dù vậy, chính sách lương cho quan lại dưới thời Minh Mệnh đã rút ngắn sự chênh
lệch quyền lợi lớn giữa quan lại lớn nhỏ.
Thời vua Thiệu Trị (1841- 1847): Trong 7 năm cầm quyền, chế độ lương của
võ quan vẫn thực hiện theo định mức lương được ban hành năm Minh Mệnh thứ 20
(1839), không có sự điều chỉnh.
Thời vua Tự Đức (1847-1883): Năm Tự Đức thứ 14 (1861), cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp bước vào năm thứ 3, thực dân Pháp đang mở rộng đánh
chiếm các tỉnh Nam Kỳ, vua nhận thấy“việc quân nhu rất khẩn. Đình thần xin tiền
lương hằng năm của các quan văn võ từ tòng tam phẩm trở lên, liệu lượng rút bớt
đi, để giúp quân nhu. Hoàng thân cùng nội đình cũng đều dâng sớ xin rút bớt
lương. Vua nghe theo. Đều chuẩn cho bộ châm chước bàn định, bắt đầu bớt lương
từ tháng ấy, đợi việc đánh giặc xong lại cấp lương như cũ” [95; 717]. Do đó, định
lượng tiền gạo lương của võ quan nói riêng, quan lại nói chung được điều chỉnh
giảm đi so với định mức lương được ban hành năm 1839.
56
Định mức lương của quan lại nói chung (võ quan nói riêng) ban hành dưới
triều Gia Long, Minh Mệnh và Tự Đức cụ thể như sau:
Bảng 3.1. Định mức lương tiền, gạo của võ quan triều Gia Long, Minh Mệnh, Tự Đức
STT Phẩm trật
1 Chánh nhất phẩm 2 Tòng nhất phẩm 3 Chánh nhị phẩm Tòng nhị phẩm 4 5 Chánh tam phẩm 6 Tòng tam phẩm 7 Chánh tứ phẩm 8 Tòng tứ phẩm 9 Chánh ngũ phẩm 10 Tòng ngũ phẩm 11 Chánh lục phẩm 12 Tòng lục phẩm 13 Chánh, tòng thất phẩm 14 Chánh và tòng bát phẩm 15 Chánh, tòng cửu phẩm ƣơng Tiền (đơn vị: quan) Gạo (đơn vị:phƣơng) Tự Gia Đức Long 250 600 210 360 170 300 130 156 105 120 80 90 60 60 50 50 35 35 30 30 25 25 22 22 20 20 18 18 18 16 Minh Mệnh 400 300 250 180 150 120 60 60 40 35 30 22 22 20 18 Minh Mệnh 300 250 200 150 120 90 60 50 35 30 25 22 20 18 18 Gia Long 600 300 360 156 120 90 80 50 31 30 25 25 20 18 16 Tự Đức 340 250 210 150 130 105 60 60 40 35 30 22 22 20 18
[Nguồn 89; 963, 93; 610, 95; 717-718]
So sánh định mức lương của các phẩm trật qua các triều vua, rõ ràng lương
của võ quan lớn phẩm trật từ Tòng tam phẩm trở lên liên tục điều chỉnh giảm
xuống, nhiều nhất là Chánh nhất phẩm chỉ còn bằng gần hơn 1/3 so với thời Gia
Long và bằng hơn một nửa so với thời Minh Mệnh.
Bộ phận quan nhỏ, từ Tứ phẩm trở xuống định mức lương dưới thời Minh
Mệnh được duy trì. Lần điều chỉnh này dựa trên thực lực của nguồn tài chính đất
nước và trong giai đoạn nhà Nguyễn tập trung sức lực cho cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp. Như lời chỉ dụ của vua Tự Đức thì đây chỉ là giải pháp tạm thời đất
nước có chiến tranh và tập trung tiền để mua súng đạn. Điều này phản ánh thực
trạng nền kinh tế xã hội đương thời gặp nhiều khó khăn khi triều đình phải chi phí
rất nhiều cho các hoạt động quân sự cũng như trợ cấp cho binh lính thương vong
trong chiến tranh.
Tuy nhiên, đối với với võ quan từ Tòng Tam phẩm trở lên, nhất là trong hàng ngũ võ quan số lượng không lớn nên mục đích của lần điều chỉnh này không thực sự
57
phát huy tác dụng. Bên cạnh đó, bộ phận võ quan từ Tứ phẩm trở xuống là bộ phận
đông đảo, trực tiếp tham gia chiến đấu vẫn giữ định mức lương như cũ. Do đó, việc
điều chỉnh này không ảnh hưởng nhiều đến đời vật chất của các võ quan cấp thấp đồng thời cũng không có ý nghĩa động viên tinh thần đối với võ quan trực tiếp tham gia
700
600
600
500
400
360
400
340
300 250
300
N Ề I T N A U Q
300 250 210
180 150 150
200
150 130 120
120 105 90
60 60 60
60 60 50
100
0
chánh nhất phẩm
Tòng nhất phẩm
Tòng nhị phẩm
Chánh tam phẩm
Chánh tứ phẩm
Tòng tứ phẩm
Chánh nhị phẩm Gia Long
Minh Mệnh
Tòng tam phẩm Tự Đức
chiến trận trong bối cảnh đất nước có chiến tranh. Sự biến động của định mức lương võ quan từ 1802 đến 1884 được biểu hiện qua sơ đồ sau:
Biểu đồ 3.1. Sự biến động của định mức lương tiền võ quan qua các triều vua Gia
Long, Minh Mệnh và Tự Đức
Việc lĩnh lương của quan viên nói chung, võ quan nói riêng được một số vua
triều Nguyễn quy định cụ thể về thời gian và cơ quan chịu trách nhiệm cấp phát
lương. Võ quan ở Kinh đến lĩnh lương ở bộ Hộ, ngoài Kinh thì do người coi xét sở
ty chịu trách nhiệm cấp phát theo phẩm hàm, quy định này được đặt ra vào năm Gia
Long thứ 11 (1812). Đối với những trường hợp võ quan thăng hoặc giáng chức, năm
Minh Mệnh thứ 9 (1828) nhà nước quy định: Việc cấp lương và tiền xuân phục dựa
trên ngày trong chiếu cho thăng chức, không dựa vào ngày chiếu văn phát đến nơi. Nếu việc thăng hoặc giáng chức trùng với ngày phát lương từ mùng 1 đến ngày 20 của tháng phát lương thì được lĩnh hoặc trừ lương trong tháng đó, việc thăng hoặc giáng từ sau ngày 20 của tháng phát lương thì việc tăng hoặc giảm lương sẽ được thực hiện vào
kì lĩnh lương sau.
Đối với quan xin lĩnh lương bổng trước, dưới triều vua Thiệu Trị quy định “Các nhân viên được chi lương bổng tại kinh vào cuối năm, nếu như người nào muốn lĩnh trước tiền gạo năm sau, thì cho làm đơn lĩnh vào thượng tuần tháng 12”
58
[34; tờ 75 quyển 22 ngày 3 tháng 12 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842)].
Về thời gian lĩnh lương, Gia Long năm thứ 9 (1810), nhà vua quy định trả
lương cho quan viên 1 tháng 1 lần [89; 795], năm Gia Long 11 (1812) đổi định: “cấp phát lương bổng tại Kinh và tại ngoại từ nhất phẩm đến tam phẩm hàng năm
phát 2 kỳ; từ tứ phẩm đến thất phẩm phát theo bốn quý; từ bát, cửu phẩm đến quân số có dự bổng lương mỗi tháng phát 1 lần” [4; tờ 99, tập 2 ngày 17 tháng 11 năm
Gia Long thứ 11 (1812)]. Cụ thể: “Võ quan từ Nhất phẩm đến Tam phẩm một năm
lĩnh lương 2 đợt (6 tháng lĩnh một lần) lĩnh vào tháng giêng và tháng 7; Tứ phẩm
đến Thất phẩm lĩnh lương lĩnh lương làm 4 lần (3 tháng 1 lần) lấy các tháng đầu quý làm (tháng giêng, tháng 4, tháng 7, tháng 10) làm tháng lĩnh lương. Cửu phẩm
được lĩnh bổng thì được lĩnh mỗi tháng một lần. Ngày lĩnh lương, từ mùng 1 đến
ngày 20 của tháng phát lương” [4; tờ 99, tập 2 ngày 17 tháng 11 năm Gia Long thứ
11 (1812)]
Năm Minh Mệnh thứ 5 (1824), triều Nguyễn đổi quy định thời gian phát
lương thành 3 tháng 1 lần.
Năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), triều đình ban hành quy định những quan
viên đến kỳ lĩnh lương làm 2 bản đơn (1 bản nộp cho nhà nước, 1 bản quan giữ),
trong đơn ghi thời gian và có xác thực của người cai quản rồi nộp cho viên Lại điển.
Sau khi đơn được đóng dấu triện và xác thực của Lại điển, người thủ kho theo đơn
để phát tiền gạo cho quan theo định mức được nhận. Tuy nhiên, việc bắt buộc có ấn
triện trên đơn lĩnh lương bổng chỉ áp dụng đối với quan lại cấp thấp. Việc này được
phản ánh trong lời tấu của bộ binh: “việc chi phát tiền lương có liên quan tới tài sản
quốc gia. Nếu như các đơn lĩnh lương của quan viên văn võ ở kinh từ Tứ phẩm trở lên cho tới các nha môn, các quân doanh, các vệ đội đều được cấp ấn triện quan
phòng. Trong đó có thể không có ấn triện nhưng phẩm trật cao cũng đủ làm tin còn
quản gia và Ti vụ trở xuống đều là nhân viên nhỏ mà tiền gạo lĩnh trong đơn tới
hàng ngàn lại không có dấu làm bằng, về lý là rất quan ngại.” [35; tờ 75 quyển 22 ngày 3 tháng 12 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842)].
Triều Nguyễn cũng quy định rõ ràng từng loại tiền mà các quan viên (trong đó có võ quan) được lĩnh, quan được nhận tiền bằng đồng với kích cỡ to nhỏ, số
lượng khác nhau tùy theo phẩm trật: “Quan Chánh tòng nhất phẩm đồng tiền to nhỏ mỗi thứ 3 quan; Chánh tòng nhị phẩm đòng tiền to 2 quan, đồng tiền nhỏ 3 quan” [15; tờ 70 tập 78 ngày 27 tháng 6 năm Minh Mệnh 21 (1842)]. Tuy nhiên, những quy định này chỉ thực hiện đối với quan và võ quan thời bình. Khi có chiến tranh,
59
triều đình có những thay đổi phù hợp như lời tâu của bộ Hộ:“Lệ trước, phàm các
quan văn võ được bổ ra ngoài, hoặc phái đi trú phòng, về tiền và gạo theo lệ lương
bổng được chi đến kỳ cứ để cho lĩnh ở địa phương sở tại. Lúc thường, vô sự, như thế thực là phải; nhưng lúc có việc quân, chuyển vận lương thực rất khó. Vậy, phải
nên có một phen châm chước bàn lại để làm thế nào cho thích đáng” [15; tờ 70 tập 78 ngày 27 tháng 6 năm Minh Mệnh 21(1842)].
- Lương điền
Ngoài được cấp lương bằng tiền và gạo, võ quan còn được cấp công điền
công thổ theo lệ quân điền dựa theo phẩm trật nằm trong chế độ chung của quan lại dưới triều Nguyễn. Chế độ này được triều Nguyễn ban hành lần đầu vào năm Gia
Long thứ 3 (1804). Theo định lệ này, lương điền của quan viên văn võ được chia
thành 16 mức, trong đó, từ hàm Thất phẩm trở xuống Chánh - Tòng cùng một định
mức. Mức nhận nhiều nhất của của võ quan là 18 phần, thấp nhất là Chánh tòng cửu
18
20
15
14.5
14
13.5
13
15
12.5
12
11.5
11
10.5
10
9
8.5
8
10
5
Ị
n ầ h p o e h t c ứ m h n Đ
0
Nhị phẩm Tam phẩm Tứ phẩm Ngũ phẩm Lục phẩm
Bát phẩm Cửu phẩm
Trên nhất phẩm
Nhất phẩm
Thất phẩm
Phẩm hàm
Chánh
Tòng
phẩm được 8 phần. Cụ thể như sau:
Biểu đồ 3.2. Định mức lương điền của võ quan ban hành năm Gia Long thứ 3 (1804)
[Nguồn:89; 559]
So với chế độ lương ban cấp bằng tiền và gạo, chính sách ban cấp ruộng đất của triều Nguyễn đối với quan không có sự chênh lệch lớn giữa các phẩm hàm. Võ quan được hưởng chế độ ruộng đất này kéo dài trong 36 năm, đến năm 1840, vua Minh Mệnh tiến hành một số điều chỉnh về chế độ quân điền. Nhận thấy quan lại đã được hưởng nhiều lương và bổng lộc, nếu lấy phẩm trật để chia ruộng là không
công bằng do vậy, vua Minh Mệnh quy định “bao nhiêu điền thổ, cứ quan lại, binh thợ cùng các hạng dân thực nạp, biệt nạp, không cứ phẩm trật hơn kém, mỗi người
đều được cấp cho 1 phần khẩu phần” [93; 739]. Như vậy, từ sau năm 1840, võ quan cũng như các viên quan lại trong triều phẩm trật cao hay thấp đều được hưởng
60
số ruộng khẩu phần bằng nhau, không có sự phân biệt như chính sách ruộng đất ban
cho quan lại năm 1803 dưới triều vua Gia Long.
- Chế độ ban cấp tiền may quân phục Ngoài lương được cấp bằng tiền, gạo và ruộng được chia theo khẩu phần,
dưới triều Nguyễn võ quan cùng với các quan viên khác hàng năm còn được nhận tiền nhà nước ban cấp cho việc may quần áo. Tháng 1 năm Gia Long thứ 17
(1818), triều đình ban hành định lệ chi cấp tiền may quần áo gọi là tiền xuân phục
Bát phẩm
Thất phẩm
Lục phẩm
Ngũ phẩm
Tứ phẩm
m à h m ẩ h P
Tam phẩm
Nhị phẩm
Nhất phẩm
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Quan tiền
Column1
Tòng
Chánh
cho các quan văn võ từ nhất phẩm đến bát phẩm. Định mức cụ thể như sau:
Biểu đồ 3.3. Định mức tiền may quần áo cho võ quan năm Gia Long thứ 17 (1818)
[Nguồn: 89; 963, 67; 439]
Vua Gia Long cũng thống nhất mức ban cấp cho các quan văn, võ đã
nhận tiền xuân phục trước năm 1817 theo hướng có lợi cho những quan nhận
mức thấp hơn định mức hiện hành. Định lệ này quy định, quan (văn- võ) được
bổ từ năm Gia Long thứ 16 (1817) về trước, ai dự lệ có bổng và đồ mặc mùa xuân, theo lệ cũ được nhiều mà theo lệ mới được ít, thì chi theo lệ cũ; theo lệ mới được nhiều mà theo lệ cũ được ít, thì chi theo lệ mới; từ tháng giêng năm nay trở về sau đều theo lệ mới; ai có lỗi bị phạt thì chỉ phạt vào lương chính, tiền đồ mặc mùa xuân thì tha [89; 964].
Tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), thay vì cấp bằng tiền, đối với võ quan từ Chánh đội trưởng trở lên được triều đình phát trực tiếp bằng quần áo [90; 209]. Tuy nhiên, quy định này cũng được thực hiện linh hoạt, trên thực tế quan từ Lục phẩm trở lên vẫn được cấp phát bằng tiền và vải. Ví dụ, tháng 11
61
năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), nhà nước ban triều phục cho các quan văn võ
Nhị, Tam phẩm và các quan trấn ở Bắc Thành. Ai đã mua quần áo thì cấp cho
tiền, vải. Hoặc như theo bản ghi chép bộ Hộ kê khai y phục vụ xuân vào năm Minh Mệnh thứ 19 (1836) quan (văn- võ) từ Chánh ngũ phẩm trở lên được cấp
phát bằng quần áo và vải lụa:“quan trong kinh từ Chánh ngũ phẩm trở lên, y phục vụ xuân năm nay truyền theo số tiền mỗi viên được hưởng tính toán ứng
cấp y phục vụ xuân, hoặc cấp vải lụa tính thành tấm, loại nào bao nhiêu tấm
gộp lĩnh chia cấp” [16; tờ 65 tập 65 ngày 08 tháng 2 Minh Mệnh năm thứ 19
(1838)].
Dưới triều Tự Đức, năm 1858 nhà vua đổi phát bằng bạc lạng thay cho cấp
bằng tiền và vải hay quần. Trong đó quy đổi, mỗi đĩnh bạc 10 lạng giá 102 quan
tiền; người nào lương không đến 10 lạng bạc, thì cấp đĩnh bạc 1 lạng; người nào
lương không đến đĩnh 1 lạng, thì cấp thực tiền [95; 642].
Ngoài được ban cấp xuân phục, võ quan còn được triều đình ban cấp quần áo
mùa đông. Năm Minh Mệnh thứ 15 [1834], triều Nguyễn đặt định lệ ban áo mùa
đông cho võ quan từ Chánh- Phó Vệ uý trở lên [92; 357].
Bên cạnh đó, những võ quan mắc lỗi thì có thể bị giảm hoặc thôi cấp lương.
Chế độ này được thực hiện chung với chế độ phạt lương của quan viên triều
Nguyễn. Năm Gia Long thứ 17 (1818) triều Nguyễn quy định, quan viên có tội bị
xử phạt lương thì chỉ phạt lương chính và tiền dưỡng liêm vong lệ tiền áo xuân phục
vẫn được lĩnh theo định lệ. Năm Minh Mệnh thứ 10 (1829), triều đình quy định về
việc phạt lương cho đối với quan văn võ trong trường hợp bị xử phạt khi lương thấp
nhưng phạm lỗi lúc chức cao lương nhiều và ngược lại. Đối với trường hợp phạm lỗi lúc chức cao lương nhiều mà án phạt lúc chức thấp lương ít thì theo số lương
bổng trước mà khấu trừ vào lương hiện tại. Trường hợp ngược lại thì chiểu theo số
tiền gạo lương hiện tại mà trừ [67; 459]. Thiệu Trị năm thứ 3 (1843) quy định rõ về
việc quan viên bị thôi cấp lương tùy theo mức độ phạm tội và kết luận của vua trong sắc chỉ. Những viên quan phạm tội nặng, sắc chỉ của vua ghi bàn xử rất nghiêm thì bị bị thôi cấp lương. Trường hợp trong sắc chỉ không ghi xét xử nghiêm thì vẫn được nhận lương theo định lệ.
3.1.2. Chế độ lương đối với võ quan về hưu
Đây cũng là một trong những chính sách quan trọng của triều Nguyễn vừa đảm bảo đời sống cho võ quan đồng thời thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với những người có công đối với vương triều.
62
Ngay sau khi lập nước, năm Gia Long thứ 1 (1802), nhận thấy công lao
của các công thần vua Gia Long từng nói:“Trẫm từ khi vận nước suy vi, bôn
ba nhiều chỗ, các tướng sĩ đi theo giúp đỡ, khi trú ngụ ở thành Vọng Các, nếm đủ gian khổ, hoặc năm Mậu thân mới lấy Gia Định, ứng nghĩa cần vương. Sau
có người nhân đánh giặc bị thương hoặc già ốm mà phải về quê quán nghỉ ngơi. Hiện nay nước nhà đã yên, trẫm nhớ lại công trước, nên bàn việc đáp
đền” [89; 533].
Khi lên ngôi vua Gia Long đã thực hiện ban cấp tiền lương hàng tháng cho
công thần gồm võ quan và thuộc binh đầu quân từ sau năm Mậu thân (1788) (vua Gia Long lấy được thành Gia Định) đến trước năm Canh thân (1800) vua lấy được
thành Quy Nhơn. Số quan binh này chia làm ba hạng để chi cấp: quan binh về hưu
mà đánh trận bị thương là hạng nhất; người bệnh khỏi đợi dùng, tuổi già ốm yếu là
hạng nhì; người can phạm kỷ luật đã xá miễn là hạng ba. Từ việc phân hạng này nhà
nước cấp tiền và gạo hàng tháng theo định mức sau:
Bảng 3.2. Lương của công thần về hưu ban hành năm Gia Long thứ nhất (1802)
Định mức
STT Võ quan Hạng
Tiền (quan: tiền)
1 Chánh vệ, chánh chi
2 Phó vệ phó chi
3 Trưởng hiệu cai cơ, cai đội
4 Phó đội
5 Đội trưởng
6 Binh đinh
Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba 12 6 3 10 5 2:5 8 4 2 6 3 1 :5 4 2 1 2 1 0:5 Gạo (phƣơng: uyển) 12 6 3 10 5 2:15 8 4 2 6 3 1: 15 4 2 1 2 1 15 uyển
[Nguồn: 89; 533]
63
Ngoài ban thưởng theo định lệ, đối với công thần có công đặc biệt đối với
dựng nghiệp đế vương cho vương triều Nguyễn được vua Gia Long ban thưởng ưu
hậu. Tài liệu gia phả về dòng họ Đặng ở Lương Xá- Hà Tây ghi lại nội dung bài ký
về Thượng thư bộ binh Đặng Trần Thường “phò tá nhà vua” nên đã được tấn phong
lên chức Thượng thư bộ Binh “đứng đầu các quan, được dự bàn công việc binh dân
ở 11 trấn thuộc Bắc Thành, phàm các công việc quân sự quan trọng ông đều được
cùng hiệp thương (bàn bạc ) với quân Tổng trấn để xử lý” [151; 457].
Từ năm Minh Mệnh thứ 4 (1823), triều Nguyễn đã tiến hành ban cấp lương
cho võ quan về hưu do già yếu, bệnh tật, bị thương khi đi đánh trận. Những võ quan
này được cấp nửa lương khi về hưu.
Đối với võ quan cố trốn tránh trách nhiệm, ngại gian khổ nhà nước bắt về
hưu thì không được cấp lương. Chỉ dụ số 64 của sách Minh Mệnh ngự chế văn nêu
rõ: “từ nay về sau những người không gánh vác nổi công việc và những người có ý
trốn tránh việc khó khăn, nơi xa xôi chướng khí và thác bệnh xin nghỉ thì buộc về
hưu ngay việc không được theo lệ cấp nửa lương. Còn những người không thể chờ
để bổ thụ theo chức cũ mà tuổi cao, ốm yếu xin về quê hưu trí, thì nếu ai trước đây
đã từng bị thương tích nơi trận mạc, sẽ gia ân cấp cho nửa lương để sống những
năm còn lại và để tỏ rõ trẫm luôn khuyến khích người có công và trừng phạt kẻ lười
biếng” [99; dụ số 64, ngày 13 tháng giêng năm Minh Mệnh thứ 4 (1823)]
Tháng 12 năm Tự Đức thứ 7 (1854), triều Nguyễn có một số điều chỉnh đối
với quan viên trong đó có võ quan bị bệnh về hưu. Đối tượng áp dụng là từ Chánh,
Tòng tam phẩm trở xuống. Khi quan bị bệnh, tùy mức độ nặng nhẹ và năng lực mà
quyết định việc ở lại quân ngũ hay cho về hưu. Nếu bệnh chưa trầm trọng thì cho
nghỉ để chữa bệnh, nếu bệnh nặng cho nghỉ 4 tháng. Sau 4 tháng, những quan thực
sự có năng lực, có công lao sẽ được về quê chữa bệnh khi nào khỏi sẽ được ra làm
việc, người nào “tài hạn bình thường” thì khi bị bệnh sẽ cho nguyên hàm về hưu
không cần đợi đến tuổi [95; 349]. Ưu điểm của chế độ này so với chế độ được ban
hành năm Minh Mệnh thứ 4 (1823) là nhằm giữ lại những võ quan (văn- võ) có
năng tiếp tục làm việc cho quân đội, đảm bảo chế độ hưu công bằng đối với cống
hiến của võ quan cho quân đội.
Ngoài ra, đến năm Tự Đức thứ 9 (1856), triều Nguyễn cũng ban hành quy
định về việc miễn giáng cấp và giữ nguyên hàm đối với quan lại trong đó có võ
64
quân ốm trầm trọng phải về hưu [95; 476].
Đến năm Tự Đức thứ 32 (1879), triều Nguyễn thống nhất ban hành về chế độ
hưu trí đối với quan viên trong đó có võ quan 60 tuổi, từ Thất phẩm trở lên. Theo đó
võ quan dựa theo phẩm trật khi làm việc, mỗi tháng võ quan được nhận tiền, gạo
theo định mức:
Bảng 3.3. Định mức lương đối với quan văn –võ về hưu ban hành năm Tự Đức thứ 32
(1879)
Võ quan Định mức Tiền (quan:tiền ) Gạo (phƣơng)
STT 1 2 3 4 5 Chánh, Tòng tam phẩm trở xuống Chánh, Tòng tứ phẩm Chánh, Tòng ngũ phẩm Chánh, Tòng lục, thất phẩm Chánh, Tòng bát cửu phẩm 3 2 1:5 1 0,5 1 1 1 1 0,5
[Nguồn: 96; 367]
3.2. Chế độ đãi ngộ ngoài lƣơng
3.2.1. Chế độ phụ cấp
Bên cạnh nhận lương theo định lệ, đối với võ quan khi đi làm nhiệm vụ như
đi sai phái, đóng giữ ở những vùng biên giới, tiền đồn hoặc tham gia chiến trận
được triều Nguyễn ban cấp thêm.
-Trợ cấp thêm tiền bạc: đối với việc trợ cấp cho võ quan khi đi làm nhiệm
vụ, triều Nguyễn không đặt định lệ cụ thể mà tùy theo nơi đóng quân, tùy theo
nhiệm vụ và vai trò mà võ quan được ban cấp thêm tiền bạc. Sách Thực lục còn ghi
lại, Tự Đức năm thứ 12 (1859), vua ban bạc lạng cho quan viên trú phòng cửa biển
Thuận An, Tư Hiền:“Trần Tiến Thành, Nguyễn Như Thăng mỗi người 10 lạng bạc.
Chưởng vệ Nguyễn Đức Hựu, Mai Viết, Hồ Trị, mỗi người 7 lạng bạc; Vệ úy Lê
Quang 4 lạng bạc” [95; 634].
Định mức ban cấp dựa theo định mức lương bổng, như trường hợp của võ
quan chở hàng bằng đường biển từ Gia Định đến Kinh đô năm Minh Mệnh thứ 7
(1826) được Châu bản ghi rõ: “Ngoài việc cấp bổng ra, truyền gia ơn cấp cho các
viên quan 1 tháng tiền bổng” [17; tờ 24 Tập 19 ngày 07 tháng 8 năm Minh Mệnh
thứ 7 (1826)].
- Trợ cấp quân trang, ngoài tiền bạc, võ quan còn được ban cấp thêm quân
trang khi đi làm nhiệm vụ. Chế độ này được vua Minh Mệnh ban hành đầu tiên năm
65
1827 cho các quản quân đi thú ở Thanh Nghệ và Bắc Thành. Trong đó võ quan
được cấp đồ nhung phục 5 năm thay một lần như lệ ở Kinh. Một số trường hợp võ
quan cầm quân đi đánh dẹp cũng được cấp phát thêm quần áo như “năm viên Quản
vệ trừ người đã được cấp áo rét ngoài ra cấp thêm cho mỗi viên khố lụa nam hoa
hồng, hoa sen mỗi loại một cái” [18, tờ 48 tập 79 ngày15 tháng 10 năm Minh Mệnh
21 (1840)].
Dưới thời vua Tự Đức, việc ban cấp thêm quần áo cho võ quan đi làm nhiệm
vụ được thực hiện thường xuyên hơn các triều vua trước. Tùy từng vùng và thời tiết
nhất là về mùa đông võ quan được cấp thêm quần áo (áo rét). Vua Tự Đức nhiều lần
ban cấp thêm quần áo với số lượng lớn cho quan quân làm nhiệm vụ ở Bắc kỳ,
Trung kỳ (trong đó có các võ quan).
Việc ban cấp thêm quần áo cho cho quan viên trong đó có võ quan có thể
quy ra thành tiền như năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), vua cấp cho“quan viên hầu
Ngự giá Bắc tuần từ chánh ngũ phẩm đến tòng cửu phẩm, cộng 110 người, xin cấp
cho tiền may áo lạnh là 405 quan 5 tiền” [5; tờ 167 tập 3 ngày 30 tháng 8 năm
Minh Mệnh thứ 2 (1821)].
Bên cạnh đó, võ quan đi làm nhiệm vụ còn được phụ cấp thêm thuốc men
đặc biệt là những vùng thời tiết khắc nghiệt. Cùng với đó, võ quan còn được trợ cấp
khi đi thao diễn đường xa.
Như vậy, dưới triều Nguyễn, ngoài lương, võ quan khi đi làm nhiệm vụ đặc
biệt là ở những nơi xa xôi, những vùng xung yếu hoặc những nơi thời tiết khắc
nghiệt thường được nhận thêm một số khoản phụ cấp của nhà nước. Chế độ phụ cấp
này không có quy định mà dựa trên công việc và thời điểm mà võ quan được ban
cấp tiền, gạo, trang phục hoặc thuốc men nhằm đảm bảo cho họ hoàn thành nhiệm
vụ một cách tốt nhất.
3.2.2. Chế độ trợ cấp
- Chế độ trợ cấp đối với võ quan khi ốm
Việc trợ cấp cho võ quan bị bệnh trong thời gian đương chức dưới triều
Nguyễn bao gồm cả võ quan bị ốm và ốm chết. Chế độ này của võ quan được quy
định trong chế độ chung của quan viên. Đối với quan bị ốm, triều Nguyễn cho nghỉ
hưu hoặc cấp cho thuốc hoặc cho Thái y đến chữa bệnh. Nếu quan ốm tuổi đã cao,
triều Nguyễn giải quyết cho giảm tuổi rồi cho về hưu.
66
Võ quan ốm rồi chết được triều Nguyễn trợ cấp tiền, vải (các trường hợp ban
cấp cụ thể xem phụ lục 3b). Định mức ban cấp có sự khác nhau giữa quan tham gia
chiến trận ốm rồi chết với quan đương nhiệm bị ốm chết nhưng không đi chiến
trường. Trong đó, võ quan ra chiến trận rồi ốm chết mức trợ cấp được ưu ái hơn.
Chẳng hạn, cùng chức Vệ úy, năm Minh Mệnh thứ 9 (1828) Vệ uý Lê Hậu được
ban thưởng 1 cây gấm Tống và 100 quan tiền, Vệ úy Nguyễn Văn Hòa ở nơi đóng
thú bị ốm chết 1 cây gấm tàu, 100 quan tiền, truy tặng là Vệ úy quân Thần sách.
Tự Đức năm thứ 24 (1871), triều Nguyễn ban hành định lệ cấp nuôi cho các
quan văn võ đang trong quân thứ bị ốm và võ quan bị bệnh về hưu. Đối với võ quan
bị bệnh ở trong các quân thứ thì từ Nhị phẩm, ấn quan được cấp thuốc điều trị.
Ngoài ra, người nào bị ốm về quê hưu dưỡng thì: Chánh Tòng Tam phẩm cấp tiền
30 quan; Chánh Tòng Tứ phẩm cấp tiền 25 quan; Chánh Tòng Ngũ phẩm 20 quan;
Chánh Tòng Lục phẩm 15 quan; Chánh Tòng Thất phẩm 10 quan. Việc ban cấp
này, ở quân thứ thì do quan ở quân thứ, về quê thì do quan địa phương xét rồi chiểu
lệ được cấp tiền [95; 1290].
Năm Tự Đức thứ 27 (1874) triều Nguyễn ban hành định lệ tặng phẩm hàm
cho võ quan bị cách chức nhưng vẫn tham gia chiến trận bị bệnh chết: có thành tích
bắt, chém, đâm, bắn được giặc và chế độ cấp tuất cho binh lính.
Về chế độ tặng phẩm hàm, triều đình thực hiện tăng thêm phẩm hàm cho võ
quan so với lúc chết 2 hoặc 2 bậc. Nội dung của chế độ này được quy định cụ thể
như sau: Chánh, Tòng tam phẩm thì được truy tặng cho 4 trật (tức Bát phẩm); Tứ,
Ngũ phẩm được truy tặng cho 3 trật (tức Tòng bát phẩm); Lục, Thất phẩm được
truy tặng cho 2 trật (tức Chánh cửu phẩm); Bát, Cửu phẩm được truy tặng cho 1 trật
(tức Tòng cửu phẩm); tất cả đều được chiếu hàm được tặng mà cấp tuất. Nếu không
có công thì cấp tuất bằng với mức của binh lính: tiền 8 quan, vải nửa tấm [79; 71].
Những võ quan có công trạng ốm chết khi đang tham gia chiến trận triều
Nguyễn có chế độ ban thưởng đặc biệt như trường hợp võ quan Đỗ Thúc Thịnh.
Sách gia phả của dòng họ Đỗ Việt Nam còn ghi: Đỗ Thúc Thịnh đã phát động
phong trào kháng Pháp khá sôi nổi trong nhân dân Lục tỉnh Nam kỳ. Ông đã phối
hợp với Trương Công Định, Võ Duy Dương và Nguyễn Trung Trực đánh thắng nhiều
trận, nổi tiếng nhất là Nhật Tảo do Nguyễn Trung Trực chỉ huy (1861). Ông lâm bệnh
và mất tại quân thứ Vĩnh Long năm 1862. Sau khi ông mất vua Tự Đức đã truy phong
67
ông là “Văn võ toàn tài đại tướng công (184; 341) “Mặc dù không đồng chính kiến với
ông, vua Tự Đức cũng phải ca ngợi: ..và truy tặng ông chức Tuần vũ Định Tường, cấp
cho gia đình ông 1 vóc gấm, 5 tấm lụa, 10 cây vải, 80 lạng bạc, cử quan Khâm sai
mang đến tận nhà, tổ chức lễ phúng điếu trọng thể” [184; 399 -344].
- Trợ cấp đối với võ quan đương nhiệm bị chết
Triều Nguyễn từ Gia Long đến Minh Mệnh đã ban hành và điều chỉnh về
định mức trợ cấp tuất cho quan viên trong đó có võ quan (áp dụng đối với cả võ
quan ốm chết). Dưới triều Gia Long, chế độ cấp tuất được ban hành từ triều vua Gia
Long năm thứ 5 (1806) và được điều chỉnh năm Gia Long thứ 9 (1810). Trong đó,
võ quan cùng với quan viên trong triều được cấp tuất dựa theo phẩm trật gồm 9
phẩm cả Chánh và Tòng tức là 18 mức khác nhau từ cao xuống thấp, thấp nhất là
Tòng cửu phẩm được hưởng 4 quan tiền.
Sang triều Tự Đức, năm Tự Đức thứ 18 (1865), triều Nguyễn gộp chung chế
độ cấp tuất và cấp áo bào khi quan (văn- võ) chết làm một. Trong đó mức ban cấp
được phân biệt giữa người được và không được cấp áo triều bào. Chế độ cấp tuất
được điều chỉnh trong đó định mức tiền cấp tuất cho quan được tăng lên vào năm
Tòng tứ phẩm
Chánh tứ phẩm
Tòng tam phẩm
Chánh tam phẩm
Tòng nhị phẩm
Chánh nhị phẩm
Tòng nhất phẩm
Chánh nhất phẩm
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1000
Năm 1866
Năm 1865
Năm 1810
Năm 1806
Tự Đức thứ 19 (1866). Cụ thể đinh mức như sau:
Biểu đồ 3.4. Định mức tiền tuất cho quan viên dưới triều Gia Long và Tự Đức
[Nguồn 89;676-77, 67; 586, 75;199-201 ]
Dưới triều Nguyễn, ngoài cấp tuất theo định lệ chung cho cả văn quan và võ
quan một số võ quan có nhiều công trạng đối với vương triều khi chết còn được thưởng
thêm bạc tiền bạc vải lụa, gấm tống, sáp ong. (tham khảo thêm phụ lục 3.d).
68
Đặc biệt, võ quan chết còn được triều Nguyễn cho các địa phương tế lễ và
xây miếu thờ. Bắt đầu từ năm Minh Mệnh thứ 1 (1820), việc tế lễ cho võ quan được
đặt thành quy định, hằng năm lấy hai kỳ xuân thu lập đàn Ân tự để tế lễ cho những
người chết vì việc nước sau khi tế miếu công thần. Các võ quan có công còn được triều
Nguyễn cho thờ ở miếu Trung Thần. Một số võ quan chết còn được cấp mộ phu.
Đối với võ quan đã có chỉ thăng thụ, thực thụ, khai phục nhưng chưa lĩnh
bằng sắc mà đã chết thì bằng sắc được cấp cho người thân, quy định này được ban
hành năm Minh Mệnh năm thứ 9 (1828).
- Trợ cấp đối với võ quan trận thương
Ngoài việc được chăm sóc bởi các sinh y trong các sở Dưỡng tế được đặt ở
trong Kinh thành và các địa phương, võ quan còn được hưởng những quyền lợi
khác như khen thưởng và trợ cấp tiền bạc. Ngay từ năm Gia Long thứ 2 (1802),
triều Nguyễn cho các viên Cai đội bị trận thương được về quê an dưỡng và cấp cho
4 thuộc binh để phục vụ. Dưới thời Tự Ðức, khi cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp nổ ra, triều đình đã ban hành chế độ đối với võ quan và binh lính bị thương.
Chế độ này gồm ban cấp cho những người bị thương và chế độ đối với
người dưỡng thương. Việc trợ cấp đối với võ quan bị trận thương được triều
Nguyễn ban hành đầu tiên vào năm Tự Ðức thứ 12 (1859), trong đó triều đình quy
định, quan viên bị trọng thương được cấp 10 quan tiền, quan viên bị thương nhẹ cấp 6
quan [79; 82]. Đến năm Tự Ðức thứ 19 (1866), triều Nguyễn có quy định chế độ trợ
cấp đối với võ quan đánh giặc Tây dương bị thương. Cụ thể như sau:“Nếu võ quan bị
trọng thương là Chánh, Phó đề đốc thì được cấp 20 quan tiền; Chánh, Phó lãnh binh
thì được 18 quan; Ðốc binh được 16 quan; suất đội được 12 quan; Ðội trưởng được 10
quan. Trong trường hợp chỉ bị thương nhẹ thì Chánh, Phó đề đốc được cấp 18 quan;
Chánh, Phó lãnh binh được cấp 16 quan; Ðốc binh được 14 quan; quan viên được 12
quan; suất đội được 10 quan và Ðội trưởng được 8 quan” [79; 82].
Tự Đức năm thứ 24 (1871), triều Nguyễn thực hiện trợ cấp tiền cho võ quan
phải dưỡng thương với trường hợp ở lại quân thứ để điều dưỡng: người bị thương
nặng: chánh, phó lãnh binh được cấp tiền 20 quan, đốc binh được cấp 15 quan; quản
cơ 10 quan; suất đội 8 quan; người bị thương nhẹ: chánh, phó lãnh binh được cấp
tiền 15 quan; đốc binh, cấp 10 quan; quản cơ 6 quan; suất đội 5 quan [95; 1290].
Trường hợp về quê điều dưỡng chia ra 3 mức độ ban cấp:“Người nào bị thương
69
thành đốc tật trở về: chánh tòng tam phẩm, cấp 50 quan; chánh tòng tứ phẩm cấp
40 quan; Người nào bị thương nặng trở về: chánh tòng tam phẩm 40 quan; chánh
tòng tứ phẩm 35 quan; chánh tòng ngũ phẩm 25 quan; chánh tòng lục phẩm 20
quan; chánh tòng thất phẩm 15 quan” [95; 1290].
- Trợ cấp đối với võ quan trận vong
Với võ quan trận vong, ngoài chế độ đối với võ quan và binh lính bị chết trong
quân ngũ, triều Nguyễn còn ban cấp thêm tiền, vải lụa, tặng phẩm hàm, lo ma chay, tế lễ,
thờ phụng và chế độ đối với thân nhân của họ. Chế độ này được thực thi từ thời vua Gia
Long và nhiều nhất là dưới thời vua Tự Đức bởi đây là thời kỳ khi cuộc kháng chiến
chống Pháp nổ ra và võ quan là lực lượng quan trọng đứng đầu các trận chiến.
Dưới thời vua Gia Long, ngay năm Gia Long thứ nhất (1802), triều Nguyễn
đã ban hành định lệ ban cấp ruộng cho võ quan tử trận. Vua Gia Long quy định,
ngoài ruộng khẩu phần, mỗi người sẽ được cấp thêm một mẫu lương điền (ruộng
lương) để vợ con cày cấy thu hoa lợi trong 1 năm [69; 573]. Năm Minh Mệnh thứ 8
(1827 ), triều đình đặt định lệ ban cấp tiền tuất cho võ quan. Trong đó quy định: Vệ
uý cấp 150 quan tiền; Phó vệ uý, Quản cơ 100 quan; Phó quản cơ, Cai cơ 70 quan;
Suất đội 40 quan; Suất thập 20 quan; lính 10 quan. Dân phu thủ hạ thì người chết
cấp 5 quan [69; 573-574]. Năm Minh Mệnh thứ 15 (1834), triều đình ban hành
chế độ thưởng cho võ quan ở các cơ hương dũng đi đánh dẹp các cuộc khởi
nghĩa bị chết: Ngoại ủy Chánh phó suất cơ được thưởng 10 lạng bạc; Ngoại ủy
chánh phó suất đội được thưởng 3 lạng bạc, thổ dũng chết trận được thưởng 1
lạng bạc [69; 576].
Dưới thời Tự Đức, một năm sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra
(1859), triều đình đã ban hành chế độ cấp tuất bằng bạc thay vì cấp bằng tiền
như các triều vua trước đặc biệt là đối với quân thứ ở Quảng Nam, Gia Định và
những binh lính có công lao chống Pháp trên mặt trận Đà Nẵng và Gia Định lúc
bấy giờ. Định mức ban cấp dựa theo ngạch binh được áp dụng đối với cả những
võ quan chết tại trận và những quan binh bị thương rồi chết (không bao gồm
Chưởng vệ trở lên do đã được hưởng đặc ân của triều đình). Các võ quan trận
vong khác tùy theo cấp bậc được ban tặng khi chết được ban tặng thêm tiền bạc
cụ thể như sau:
70
Bảng 3.4. Định mức cấp tuất cho võ quan năm Tự Đức thứ 12 (1859)
Cấp bậc đƣợc ban tặng sau khi tử trận Bạc đƣợc cấp (lạng) Cấm binh vệ úy, lãnh binh các tỉnh Phó vệ úy, vệ úy các quân, phó lãnh binh Phó vệ úy các quân, quản cơ Phó quản cơ, phòng thủ úy Cẩm y cai đội, Cẩm y hiệu úy Tinh binh cai đội, Cấm binh suất đội Tinh binh suất đội 20 18 15 12 10 8 6
[Nguồn: 95; 607]
Năm Tự Đức thứ 13 (1860), triều Nguyễn tăng định mức cấp tuất cho võ quan trận vong. Trong đó quy định, những người thực hàm thì chiếu theo hàm được
tặng mà cấp tiền tuất gấp đôi: nếu võ quan trận vong chỉ là hàm thí, thự, sung, lãnh
được tặng thêm 2 trật thì cấp tuất theo hàm được tặng [79; 68-69]. Riêng với võ quan đi đánh giặc Thanh và đàn áp quân Man thì“quan binh đánh trận hy sinh được
tặng 1 trật, chuẩn cho chiếu theo lệ mới cấp tiền tuất gấp đôi; hạng được gia tặng
2, 3 trật, chiếu theo hàm được tặng cấp tiền tuất” [79; 69]. Tự Đức năm thứ 18
(1865), triều đình quy định võ quan trận vong cũng được cấp thêm tiền tuất nhưng
bỏ định lệ cấp triều bào như các võ quan khác.
Võ quan trận vong được triều đình truy tặng phẩm hàm. Chế độ này được thi
hành từ năm Gia Long thứ 2 (1802). Đây chính là cơ sở cho việc cấp tuất và ban thưởng. Phẩm hàm của võ quan trận vong được truy tặng như sau: Quản cơ trở lên
ban thưởng riêng theo chỉ của vua, quyền Quản cơ truy tặng Cấm binh chánh đội,
quyền Phó quản cơ truy tặng Tinh binh Chánh đội, quyền Suất đội truy tặng Cấm
binh Đội trưởng.
Đến năm Tự Đức thứ 11 (1858), triều Nguyễn ban hành định lệ về chế độ
tặng phẩm hàm cho võ quan trận vong khi đánh Pháp (Tây dương). Phẩm hàm được
truy thụ cụ thể như sau: Chánh tứ phẩm được tặng Tòng tam phẩm; Tòng tứ phẩm,
Chánh ngũ phẩm được tặng 1 trật, Tòng ngũ phẩm được tặng 1 trật, Chánh, Tòng lục phẩm được tặng 2 trật, Chánh, Tòng Thất phẩm được tặng 3 trật, Đội trưởng cấp bằng được tặng Tòng lục phẩm và Chánh thất phẩm [79; 67]. Năm 1864, vua Tự Đức quy định lại chế độ phẩm hàm cho quan binh trận vong. Trong đó quy định võ
quan trận vong có thực hàm và chưa có thực hàm đều được tăng thêm một trật và được cấp tuất theo phẩm hàm mới. Chính sách này tạo ra sự đồng đều và công bằng trong trong cấp tuất đối với võ quan. Năm Tự Đức thứ 27 (1874), triều Nguyễn đặt định lệ truy tặng phẩm hàm và cấp tiền tuất cho những người đi đánh giặc Thanh, các cuộc nổi
71
dậy của người Mán và người Thổ dựa trên tinh thần dũng cảm và tài trí cũng như tinh
thần quyết tâm đánh giặc. Việc đặt định này áp dụng cả đối với những người theo
thuyền đánh giặc.
Riêng đối với những võ quan mạo hiểm xông pha, khinh suất nhưng thủ
thắng rồi chết trận mà chưa có phẩm hàm nhà nước quy định:“là Quản đoàn thì tặng Tòng bát phẩm Bá hộ, là Suất đoàn thì tặng Chánh cửu phẩm Bá hộ” [79; 75].
Năm Tự Đức thứ 27 (1874), nhà nước đặt định lệ phẩm hàm cho quan viên (bao
gồm cả võ quan) bị cách chức nhưng vẫn tham gia chiến trận bị trận vong. Trong đó
quy định:
Bảng 3.5. Chế độ truy tặng phẩm hàm cho võ quan bị cách chức trận vong ban
hành năm Tự Đức thứ 27 (1874)
Phẩm trật đƣợc truy tặng
STT Phẩm trật trƣớc khi chết Mạnh mẽ xông pha trận mạc đánh thắng giặc Mạo hiểm xông pha mà khinh suất gây bất lợi
Tòng lục phẩm Chánh thất phẩm Chánh bát phẩm Tòng bát phẩm Chánh cửu phẩm Chánh cửu phẩm 1 Chánh, Tòng tam phẩm Chánh ngũ phẩm Tòng ngũ phẩm 2 Chánh, Tòng tứ phẩm 3 Chánh, Tòng ngũ phẩm Chánh lục phẩm 4 Chánh, Tòng lục phẩm Chánh thất phẩm 5 Chánh, Tòng thất phẩm Chánh bát phẩm 6 Chánh, Tòng bát phẩm Tòng cửu phẩm
[Nguồn: 79; 76]
Sau khi truy cấp phẩm hàm, từ Chánh tòng Tam phẩm đến Chánh tòng bát
phẩm theo hàm truy tặng mà cấp tiền tuất gấp đôi, đối với những viên mạnh mẽ xông
pha đánh giặc thì Chánh, Tòng cửu phẩm dựa theo nguyên hàm cấp tuất, quan thuộc tất
cả các phẩm hàm trên đều được hưởng lệ ấm nhiêu. Đối với những quan viên mạo
hiểm xông pha, khinh suất mà chết thì Chánh, Tòng thất phẩm được truy tặng Chánh
cửu phẩm chiếu theo hàm được tặng mà cấp tuất gấp đôi, Chánh, Tòng bát phẩm được
truy tặng Chánh cửu phẩm, theo hàm được tặng mà cấp tuất; Chánh, Tòng cửu phẩm cho truy theo nguyên hàm mà cấp tuất, nhưng dừng chế độ ấm nhiêu.
Ngoài thăng thưởng thêm tiền và tăng phẩm hàm, triều Nguyễn còn ban tặng
tặng gấm và vải lụa cho võ quan chết trận đặc biệt dưới triều vua Tự Đức. Võ quan
khi tử trận được cấp tiền vải, áo triều bào để thờ. Năm Tự Đức năm thứ 18 (1865),
nhà đổi định lệ thay cấp áo triều bào cho võ quan trận vong bằng tiền.
Những võ quan có công được nhà nước cấp ruộng lập bia võ công và lập
đền thờ. Chế độ này được thực thi đầu tiên vào năm 1837 dưới triều vua Minh
72
Mệnh. Những võ quan được ghi công vào bia như Trương Minh Giảng, Nguyễn
Xuân, Phạm Văn Điểm. Một số võ quan được lập đền thờ được Thực lục ghi lại
như: Minh Mệnh năm thứ 11 (1830), triều Nguyễn truy phong Cai đội Nguyễn
Ngọc Huyên làm An Ninh bá, lập đền thờ; Tự Đức năm thứ 34 (1881) triều đình sai
địa phương làm đền thờ Lãnh binh An Giang là Trương Định ở xã Tư Cung, tỉnh
Quảng Ngãi.
Ngoài chế độ đối với võ quan, triều Nguyễn còn có chế độ trợ cấp cho thân
nhân của võ quan trận vong
Đối với cha mẹ võ quan, năm Tự Đức thứ 4 (1851), triều đình thực hiện cấp
tiền gạo cho cha mẹ võ quan từ Suất đội trở lên chết khi đánh dẹp và đi đường biển.
Không phụ thuộc vào tuổi của cha mẹ và phẩm cấp của võ quan, triều Nguyễn
thống nhất cấp cho cha mẹ quan viên 3 quan tiền, 3 phương gạo, vải, lụa mỗi thứ 1
tấm. Tự Đức năm thứ 13 (1860), triều đình cấp tiền gạo cho thân nhân các tướng sĩ
chết trận ở quân thứ Quảng Nam- Gia Định. Trong đó quy định:“Nhị phẩm cấp cho
20 quan tiền, 8 phương gạo; tam phẩm cấp 15 quan tiền, 5 phương gạo; tứ phẩm
cấp 10 quan tiền, 4 phương gạo; ngũ phẩm cấp 8 quan tiền, 3 phương gạo; lục
phẩm trở xuống theo thứ tự mà giảm dần đi” [95; 686]. Tự Đức năm thứ 18 (1865),
triều đình ban hành định lệ, những cha mẹ của người chết trận nếu còn cha mẹ thì
cấp cho mỗi người quan tiền và 1 phương gạo [75; 196].
Đối với con của võ quan trận vong, triều Nguyễn cho được hưởng lệ ấm
nhiêu. Chế độ này bắt đầu ban hành từ năm Gia Long thứ 2 (1803) cùng với chế độ
chung cho con quan viên. Theo đó, phẩm hàm, quyền lợi của những người con được
hưởng tùy thuộc vào chức vụ của người cha. Đến thời vua Tự Đức, năm Tự Đức thứ
11 (1858), triều Nguyễn ban hành quy định tặng ấm nhiêu cho quan viên trong đó
có võ quan trận vong khi đi kháng chiến chống Pháp. Trong đó quy định:“Chánh tứ
phẩm được ấm thụ cho 1 người con hoặc em hoặc cháu là Tòng thất phẩm Thiên
hộ; Tòng tứ phẩm, Chánh ngũ phẩm một người con hoặc em hoặc cháu là Bát phẩm
Bá hộ; Chánh, Tòng thất ấm thụ cho 1 người con hoặc em hoặc cháu là Tòng cửu
phẩm Bá hộ; Đội trưởng cấp bằng được miễn cho 1 người con hoặc em hoặc cháu
binh diêu suốt đời” [79; 67]. Ngoài ra, con võ quan chết trận được nhà nước cấp
tiền gạo hàng tháng. Chế độ này được ban hành năm Tự Đức thứ 18 (1865) trong
73
chế độ chung của quan viên. Triều đình quy định, nếu con của quan văn – võ dưới
15 tuổi không có người nuôi dạy, hàng tháng cấp 5 tiền và nửa phương gạo, trên 16
tuổi đã đủ trưởng thành nên không cấp dưỡng [75; 196].
Đối với vợ của võ quan trận vong, triều Nguyễn ban cấp cho một số trường
hợp như: Tự Đức năm thứ 4 (1851), triều đình cấp tiền gạo cho vợ võ từ Suất đội
trở lên chết khi đánh dẹp và đi đường biển với mức: Tam phẩm trở lên cấp cho 3
quan tiền, 2 phương gạo; từ Tứ phẩm đến Thất phẩm, cấp cho 2 quan tiền, 1 phương
gạo (không áp dụng với vợ con người nào hiện còn không đến nỗi cô đơn khổ sở, đã
có lương bổng, người can án bị tội) [95; 209].
Tự Đức năm thứ 13 (1860), triều đình thực hiện cấp tiền gạo cho thân nhân
các tướng sĩ chết trận ở quân thứ Quảng Nam và Gia Định. Định mức cụ thể như
sau: võ quan chết trận còn cha mẹ vợ con: Nhị phẩm cấp cho 20 quan tiền, 8
phương gạo; Tam phẩm cấp 15 quan tiền, 5 phương gạo; Tứ phẩm cấp 10 quan tiền,
4 phương gạo; Ngũ phẩm cấp 8 quan tiền, 3 phương gạo; Lục phẩm trở xuống theo
thứ tự mà giảm dần đi [95; 686]. Với võ quan có công lao đặc biệt nhà nước có chế
độ đãi ngộ riêng đối với vợ của họ. Trường hợp điển hình là Tự Đức năm thứ 27
(1874), vua ân thưởng cấp tiền, gạo cho vợ nguyên An Giang Lãnh binh Trương
Định. Khi Pháp đánh chiếm các tỉnh ở Nam Kỳ, Trương Định mộ quân chống đánh,
sau thua ông cùng con trai bị giặc giết chết, vợ Định là Lê Thị Thưởng không chỗ
nương nhờ, “vợ của viên đã chết ấy (Thị Thưởng) tuổi đã già không nương tựa vào
đâu được, chuẩn cho quan tỉnh cấp dưỡng cho đủ (mỗi tháng cấp tiền 20 quan, gạo
2 phương), đến nay lại chuẩn cho sau khi chết cấp cho 100 quan tiền” [96; 283].
Chế độ trợ cấp cho võ quan bị nạn gió
Dưới triều Nguyễn, đường biển là một trong những con đường vận tải chính.
Không chỉ có binh dân mà quân đội triều Nguyễn là một lực lượng không nhỏ tham
gia vào việc vận tải bằng đường biển. Việc đi trên biển những thời điểm mưa bão,
nhất là trên vùng biển miền Trung dẫn đến những tai nạn chìm tàu và binh lính bị
chết đuối.Việc trợ cấp cho binh sĩ trong đó có võ quan bị nạn bão là một trong
những chính sách quan trọng. Ngay từ năm Gia Long thứ 2, triều đình đã ban cấp
tiền tuất cho 500 quân Thần Sách đi vận tải chết ở biển Thanh Hóa. Vệ úy được cấp
100 quan, Phó vệ úy được cấp 50 quan, Cai đội được cấp 30 quan [69; 583-484].
74
Năm Minh Mệnh thứ 1(1820) nhà vua ban hành chế độ trợ cấp cho võ quan từ
chánh đội trưởng trở lên khi đi công sai và ki đi làm việc tư. Trong định lệ này, có sự
phân biệt định mức giữa võ quan đi việc công và việc riêng, giữa chết và còn sống. Võ
quan khi đi làm việc công cao hơn việc tư, võ quan bị chết cao hơn còn sống [67; 581].
Năm Tự Đức thứ 26 (1873), triều Nguyễn ban hành định lệ trợ cấp đối đối
với võ quan bị nạn bão trong khi đi làm việc. Mức ban cấp dựa trên một số tiêu chí
như: phẩm trật, đi làm việc công hay việc riêng, võ quan sống hay chết (từ Lục
phẩm trở xuống đi việc công và riêng có mức ban cấp như nhau) cụ thể như sau:
Bảng 3.6. Định mức ban cấp cho quan văn võ bị nạn bão được ban hành năm Tự
Đức thứ 26 (1873)
Nội dung ban cấp
Đi việc công Đi việc riêng STT Phẩm hàm
1 Nhất phẩm, nhị phẩm 2 3 4 5 Đã chết Còn sống Đã chết Tiền Gạo 20 15 5 4 3 Tiền 30 20 8 6 5 Tiền 20 15 8 6 5 Còn sống Gạo 1 1 1 1 1 Tiền 15 10 5 4 3 2 2 1 1 1
Tam phẩm Tứ phẩm, Ngũ phẩm Lục phẩm, Thất phẩm Bát phẩm, Cửu phẩm [Nguồn: 75; 194-195]
Ngoài bên cấp tiền theo lệ định, các vua triều Nguyễn còn ban cấp thêm tiền tuất
hoặc truy tặng phẩm hàm hoặc ban cấp thêm vải lụa cho võ quan bị nạn gió.
Quan binh chết vì bão còn được triều đình tổ chức tế lễ. Năm Tự Đức thứ 8
(1855), vua cấp tuất và tế lễ ở bờ biển cho Suất đội đội Tuần hải ở Quảng Yên và 13
viên danh biền binh đều chết đuối do bão đánh chìm, Tự Đức năm thứ 10 (1857)
cấp tuất gấp đôi sai tế một tuần cho 41 biền binh tỉnh Biên Hoà chết do gặp bão trên
đường chở hàng hóa về Kinh.
3.2.3. Chế độ khen thưởng
-Chế độ ưu cấp đối với các công thần
Dưới thời Nguyễn có 3 loại công thần quan trọng: Khai quốc công thần, Trung hưng công thần và Vọng Các công thần. Vọng các công thần là những người phò tá vua Gia Long lúc nguy khốn và phải sang lánh nạn ở Vọng Các (Công thần Vọng các là những người hết lòng phò tá vua Gia Long lúc nguy khốn nhất, phải đi
75
lánh nạn ở Vọng Các ( Băng Cốc). Ví dụ như Châu Văn Tiếp, Tôn Thất Hội, Võ Di Ngy, Tống Viết Phúc, Mai Đức Nghị) . Khi dựng cơ nghiệp vua ban thưởng ưu hậu cho những công thần này.
Dưới triều vua Gia Long, triều Nguyễn chia Công thần Vọng các thành thành
3 hạng đồng thời thực hiện ban cấp lương tháng cho họ.
Theo chức quan, công thần được nhận trợ cấp hàng tháng bao gồm tiền và
14
12
12
10
10
8
8
n ề i t c ứ m
6
6
5
5
5
ị
4.5
h n Đ
4
4
3
3
2.8
2.5
2
2
2
1.15
1
0.5
0
Binh đinh
Phó đội
Đội trưởng
Phó vệ phó chi Trưởng hiệu cai cơ, cai đội
Chánh vệ, chánh chi
Hạng nhất
Hạng nhì
Hạng ba
gạo. Định lượng gạo tiền cơ bản bằng nhau. Cụ thể như sau:
Biểu đồ 3.5. Thưởng cho các công thần Vọng các năm Gia Long thứ nhất (1802)
[Nguồn: 89; 533-534]
Đồng thời công thần bao gồm cả võ quan được lập thuộc binh theo 3 hạng đã
quy định nhiều nhất là Chánh vệ (hạng nhất 8 thuộc binh, hạng nhì 6 thuộc binh,
hạng ba năm thuộc binh) thấp nhất là Phó đội (hạng nhất 2 thuộc binh, hạnh nhì và
ba đều 1 thuộc binh (xem thêm phụ lục 1.b). Những người là thuộc binh đều được
miễn dao dịch.
Ngoài ra, dưới thời vua Gia Long thứ 7 (1808) ban hành chế độ viên tử đối
với con cháu công thần. Nội dung của định lệ này nêu rõ: quan viên dự công Vọng
Các từ Cửu phẩm trở lên, thì các con đều được ghi làm quan viên tử, đều được miễn
binh dao và thuế thân; [89; 734]. Đến năm Minh Mệnh thứ hai (1821), triều Nguyễn
thực hiện chế độ tập ấm (như ấm tử và ấm sinh).
-Khen thưởng đối với võ quan có công trong các hoạt động quân sự
Đầu thời Nguyễn, vua Gia Long theo lệ của chúa Nguyễn trọng thưởng
cho tướng sĩ có công bắt giặc (chỉ phong trào nông dân Tây Sơn). Tướng sĩ ai bắt
76
sống được một người lính được thưởng 5 quan tiền; bắt được Hộ quân, Quản
quân, Đô ty, Đô úy được thưởng 20 quan tiền; bắt giết được Đô đốc thưởng 1000
quan tiền. Các võ tướng có công đánh thắng Tây Sơn, hình thức chủ yếu là
thưởng bằng tiền [89; 509].
Từ khi nắm quyền cai trị đất nước, các vua Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức
luôn phải đương đầu với những cuộc nổi dậy chống đối của rất nhiều bộ phận trong
xã hội (đã trình bày ở Chương 1 phần bối cảnh trong nước). Dưới triều Gia Long,
để dẹp yên các cuộc nổi triều đình đã cử các tướng như Lê Chất và Lê Văn Duyệt,
Tôn Thất Bính, Hoàng Viết Toản đi đánh dẹp. Giai đoạn trị vì của vua Minh Mệnh
nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa nhất, trong đó có nhiều cuộc khởi nghĩa lớn, triều đình
phải nhiều lần phái quân đi đánh dẹp mới có thể dập tắt. Những võ quan có công
lớn đối với việc trấn áp các cuộc khởi nghĩa thời kỳ này như Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Đức Nhuận, Nguyễn Hữu Thận, Tạ Quang Cự, Nguyễn Văn Trọng, Tống
Phúc Lương, Phan Văn Thúy, Trương Minh Giảng và Trần Văn Năng. Sang triều
Tự Đức, sau vài ba năm đầu còn yên trị, từ năm 1851 trở đi, các cuộc khởi nghĩa
tiếp tục nổ ra. Một số võ quan có công lớn thời kỳ này như Ông Ích Khiêm, Nguyễn
Viết Thành, Nguyễn Lệ, Vũ Trọng Bình. Sau những thắng lợi này, võ quan thường
được triều đình ban thưởng.
Ngoài ban thưởng cho võ quan đi dẹp các cuộc nổi dậy trong nước, triều đình
còn ban thưởng cho quan binh có công trong chiến đấu chống các thế lực ngoại
bang (quân Xiêm, Cao Miên và Pháp) như Trương Minh Giảng, Nguyễn Tri
Phương .
Việc ban thưởng của triều đình cho công trạng các võ quan cụ thể đã được
thống kê trong phần phụ lục 2a,2b,2c,2d,2e. Ở đây, tác giả trình bày khái quát một
số đặc điểm của chế độ khen thưởng của triều Nguyễn đối với võ quan có công lao
trong việc đánh dẹp các cuộc nổi dậy trong nước.
So với các triều vua khác, thời vua Minh Mệnh nhà nước ban thưởng cho võ
quan nhiều lần đồng thời mức ban thưởng cũng lớn hơn các triều vua còn lại.
Nguyên nhân đây là thời kỳ có nhiều cuộc nổi dậy với thời gian và quy mô lớn.
Thời vua Tự Đức mặc dù ở ngôi lâu, có những hoạt động quân sự quan trọng nhưng
việc khen thưởng cho võ quan không thường xuyên và mức khen thưởng thấp.
Việc khen thưởng cho võ quan của các vua triều Nguyễn thường được thực
hiện sau thắng lợi của mỗi trận đánh do đó một võ quan có thể được khen thưởng
77
nhiều lần khi thực hiện dẹp yên một cuộc nổi dậy. Tùy theo công trạng và quy mô
của cuộc khởi nghĩa võ quan tham gia và thắng trận sẽ được thưởng như: thăng cấp
bậc phẩm hàm (thường là 1 bậc), thưởng tiền, bạc với định mức không cố định.
Theo đó, những võ quan có phẩm hàm cao, lãnh đạo những cuộc khởi nghĩa
lớn thì có mức khen thưởng cao như Tạ Quang Cự đánh dẹp các cuộc nổi dậy
(Nông Văn Vân ở Bắc Kỳ và Lê Văn Khôi ở Nam Kỳ như khởi nghĩa dưới triều vua
Minh Mệnh và Nguyễn Tri Phương có công trong đánh Pháp dưới triều Tự Đức.
Trong các võ quan được nhà vua khen thưởng có những trường hợp tiêu biểu như
Nguyễn Tri Phương, Ðây là những võ quan lập được nhiều chiến công (cầm quân
đi đánh quân Xiêm, bình định Cao Miên). Sách Thực lục có ghi lại, năm 1845,
Nguyễn Tri Phương được vua Thiệu Trị ban thưởng “gia hàm Hiệp biện Ðại học sĩ,
quân công một cấp, kỷ lục ba thứ, thẻ bài đeo bằng ngọc đẹp có chữ “Cát tường
phước thọ”, dây rủ xuống có xâu san hô, nhẫn trân châu, cẩn vàng mặt kim cương,
kim tiền hạng to có chữ "Vạn tuế vĩnh lại" có dây rủ xuống, khánh vàng ghi công, mỗi
thứ một chiếc” [94; 760]. Ðến năm 1847, ông lại được triều đình ban thưởng “1 chiếc
nhẫn ngọc kim cương hạng lớn, chung quanh khảm ngọc trân châu bịt vàng của nhà
vua thường dùng, 1 cái bài đeo có dây tua xâu ngọc san hô tốt, có chữ “Cát tường
Phước trạch”, 1 đồng kim tiền hạng lớn có dây tua có chữ “Vạn thế vĩnh lại”, 1 đồng
kim tiền hạng vừa, có dây tua có chữ “Long vân khế hội” [94; 974].
Thông thường triều Nguyễn ban thưởng định mức bằng nhau cho võ quan
cùng 1 công trạng. Tuy nhiên, cũng có trường hợp việc khen thưởng được ban cấp
theo phẩm hàm, ví dụ võ quan thu phục thành Trà Vinh năm Thiệu Trị thứ nhất
(1841), vua ban thưởng quân đánh dẹp ở Cao Bằng năm Tự Đức thứ 21 (1868).
Ngoài ra, một số võ quan còn được thưởng tước hiệu, vải, lụa, súng, sâm nhung như
trường hợp năm Thiệu Trị thứ 7 (1854) triều đình “Thưởng cho Phủ biên tướng
quân Tiết chế Trấn Tây tổng hạt Vũ Văn Giải 1 thẻ ngọc đề: An Tây Trung Vũ
Tướng”.. Thưởng cho Viên Thự đô đốc trú phòng Trấn Tây bang biện sự vụ Nguyễn
Văn Hoàng 1 thẻ bài vàng đề: "An tây trấn kiện tướng" [38; tờ 64 quyển 40 ngày 8
tháng 2 năm Thiệu Trị 7 (1847)].
Ngoài thưởng cho từng cá nhân thì triều Nguyễn còn khen chung cho võ
quan tham gia và thắng lợi trong 1 hoạt động quân sự, ví dụ Thiệu Trị năm thứ 7
(1854) thưởng chung tướng sĩ binh lính tòng chinh tại Trấn Tây thắng lợi trở về, các
khoản thưởng yến và xét thưởng phân theo hạng [39; tờ 34 quyển 48 ngày 17 tháng
78
6 năm Thiệu Trị 7 (1847)]. Dưới triều vua Tự Ðức, võ quan lập được công lao lớn,
thắng trận trở về còn được nhà nước tổ chức lễ mừng công và ưu thưởng. Năm Tự
Ðức thứ 33 (1880), các quân thứ ở biên giới phía Bắc từ Thống đốc đến Lãnh binh
đều thưởng áo quần, bạc lạng theo thứ bậc; Đốc binh đến Hiệp quản được thưởng
bạc lạng; Cai suất đội đến binh đinh thưởng chung 20.000 quan tiền [96; 445].
Mặc dù vậy, khi không hoàn thành nhiệm vụ cũng bị xử phạt xứng đáng thua
trận cũng bị xử phạt nghiêm khắc kể cả những võ quan có chức hàm cao, lập nhiều
công trạng đối với triều Nguyễn như Dương Văn Phong, Trương Minh Giảng,
Nguyễn Công Trứ. Theo Bản phụng thượng dụ của Nội các ngày 26 tháng 10 năm
Thiệu Trị thứ nhất (năm 1841): “Trong đó trừ Trương Minh Giảng hiện đã chết và
đã đoạt lại chức hàm tướng quân. Nay lại truyền ngừng cấp và đòi lại bổng Chánh
thất phẩm mà cho con trai viên đó là Trương Minh Thi đã được cấp. Dương Văn
Phong trước đã cách chức, nay đã chết, không cần bàn xét...Lại các chức lưu nhiệm
và chuẩn quyền lãnh Án sát sứ tỉnh An Giang là Phạm Văn Điển, Nguyễn Công Trứ
truyền chiếu theo chức hàm hiện tại giáng 3 cấp lưu nhiệm.” [60; tờ 68, quyển 10
năm Thiệu Trị thứ 1(1841)].
-Khen thưởng đối với võ quan trong các hoạt động xây dựng và kiến thiết
đất nước
Như đã trình bày, tổ chức quân đội của triều Nguyễn không chỉ có lực lượng
quân chiến đấu mà còn bao gồm một lực lượng thuộc Cấm binh và Tinh binh là
những đơn vị làm nhiệm vụ xây dựng và sản xuất như khảo sát tình hình núi sông,
tham gia xây dựng các công thủy lợi và khai hoang. Cũng như các đội quân khác,
việc ban thưởng cho những võ quan đôn đốc những đội quân làm nhiệm vụ này là
cần thiết.
Thưởng cho võ quan hộ giá đi tuần du, kiểm tra và xem xét tình hình đất
nước. Tuần du là hoạt động thường xuyên của các vua triều Nguyễn đặc biệt dưới
thời vua Minh Mệnh. Mỗi dịp như vậy, võ quan cùng binh lính hộ giá là lực lượng
quan trọng đi theo hầu và bảo vệ vua. Trong thời gian trị vì của vua Minh Mệnh nhà
vua ban thưởng 7 lần cho các võ quan cùng các quan viên đi hộ giá vào các năm
1821, 1825, 1826, 1838. Trong đó năm Minh Mệnh thứ 6 (1827), nhà vua ban
thưởng 2 lần cho võ quan đi hộ giá tuần du ở Quảng Nam và Quảng Bình. Số lượng
võ quan được ban thưởng sau mối lần như vậy không được ghi lại cụ thể nhưng
theo thống kê một số lần số võ quan được thưởng tới hàng trăm người. Đặc biệt
79
năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), không chỉ số lượng người được ban cấp lớn mà nhà
vua cũng cấp ra một số lượng tiền gạo đáng kể thưởng cấp cho võ quan hộ giá. Sách
Thực lục ghi lại, vua ban thưởng cho “Võ từ Chánh nhất phẩm đến Cửu phẩm 927
người, 1.084 lạng bạc, 3.986 quan tiền, 1.446 phương gạo” [90; 175]. Mức khen
thưởng của mỗi võ quan đi hộ giá bằng tiền thông thường là 1 tháng tiền lương. Ví
dụ: võ quan đi tuần du Quảng Bình và Quảng Nam năm Minh Mệnh thứ 6 (1825).
Ngoài ra, một số năm võ quan được thưởng chung như năm Minh Mệnh thứ 6
(1826) vua ban thưởng cho võ quan từ Suất đội trở lên 2000 quan tiền.
Khen thưởng đối với võ quan tham gia các hoạt động xây dựng cung điện
đền đài, khảo sát địa hình và sản xuất nông nghiệp.
Triều Nguyễn được lập ra sau gần hai thế kỷ chiến tranh liên miên. Khi cầm
quyền, vua Gia Long chọn Thừa Thiên là vùng đất định đô của triều đại mới. Sau
một thời gian khôi phục đất nước, dưới triều vua Minh Mệnh, triều Nguyễn đã tiến
hành cuộc cải cách nhằm hoàn thiện và thống nhất các đơn vị hành chính như hoạch
định, đo đạc lại địa giới hành chính cũng như xây dựng cung điện thành quách.
Trong thời gian các vua đầu triều Nguyễn, quân đội là lực lượng không nhỏ tích cực
tham gia vào những nhiệm vụ nói trên. Mỗi khi hoàn công, võ quan và binh lính
được triều đình ban thưởng.
Qua các tài liệu chính sử dưới triều Nguyễn, việc ban thưởng cho các võ
quan trong các hoạt động này được thực hiện chủ yếu dưới thời vua Minh Mệnh. Ví
dụ, Minh Mệnh năm thứ 1 (1821) để hoạch định địa giới các tỉnh, triều đình đã sai
phái quan quân đi khảo sát và vẽ bản đồ đất nước và địa giới hành chính các địa
phương. Để khuyến khích võ quan và binh lính, ngay từ năm Minh Mệnh thứ 3
(1823) triều Nguyễn đã đặt định lệ thưởng cho binh của vệ Giám thành (đội quân có
nhiệm vụ khảo sát, đo đạc địa hình những nơi nhà nước muốn xây dựng những công
trình như kinh thành, pháo đài...) hoặc nơi vua cần biết địa hình núi sông. Dựa trên
việc phải đi sai phái xa - gần, vùng đồng bằng hay miền núi mà chia thành 2 hạng
nhất và nhì để ban thưởng.
Cụ thể mức thưởng như sau: Đi nơi xa hoặc miền rừng núi, công việc hơi
khó khăn là hạng nhất, đi địa phương cận tiện, vùng đồng ruộng bằng phẳng, công
việc hơi dễ là hạng nhì. Giám thành phó sứ được phái vào công việc hạng nhất thì
mỗi tháng được cấp 10 quan tiền 10 phương gạo, vào hạng nhì thì cấp 8 quan tiền 8
phương gạo. Nhân viên am hiểu việc đo đạc, hoạ đồ và chỉ vạch quy thức thì hạng
80
nhất được cấp 7 quan tiền 7 phương gạo, hạng nhì được cấp 6 quan tiền 6 phương
gạo. Người theo đi giúp việc đo đạc thì hạng nhất 5 quan tiền 5 phương gạo, hạng
nhì 4 quan tiền 4 phương gạo. Đều chiếu bổng hằng tháng mà cấp thêm [90; 199].
Ngoài định lệ ban thưởng thường xuyên, vua còn ban thưởng thêm gạo
tiền và quần áo cho những võ quan có công lao đặc biệt trong việc khảo sát địa
hình xây dựng.
Năm Minh Mệnh thứ 15 (1834), Thự Phó vệ úy vệ Giám thành Nguyễn Văn
Xướng, mang biền binh thuộc hạ đi đo vẽ hình thế núi sông các hạt từ Phú Yên đến
phía Nam và thành Nam Vang, vẽ đường bộ từ Hà Tiên sang Xiêm, bản đồ dâng
lên được vua thưởng 10 lạng bạc và biền binh đi theo được thưởng 1 tháng tiền
lương [92; 108]. Tuy nhiên, võ quan Vệ giám thành đi làm nhiệm vụ vẽ địa hình
không hoàn thành tốt nhiệm vụ bị triều đình xử phạt. Châu bản triều Nguyễn tờ 92,
tập 54 ngày 13 tháng 7 năm Minh Mạng 16 (1835), Nội các Phụng thượng dụ về
việc:“Viên được phái ra Hoàng Sa là Cai đội Phạm Văn Nguyên trở về chậm trễ,
vừa qua đã có chỉ giao cho Bộ trị tội. Nhưng đã tra chưa thấy rõ có tình tội riêng.
Vả lại lần đó phái đi ra biển, đã hoàn thành công việc lẽ ra được dự thưởng chỉ có
quản viên Phạm Văn Nguyên lúc về lại dám tự ý giữ chức thật là không hợp, trước
đây đã có chỉ cách chức giam cùm, nay truyền đánh ngay 80 gậy và gia ân khai
phục nguyên chức. Vẽ bản đồ chưa được rõ ràng là các Giám thành Trần Văn Vân,
Nguyễn Văn Tiện và Nguyễn Văn Hoằng đều đánh 80 gậy chuẩn cho thả bớt cả”
[31; tờ 92, tập 54 ngày 13 tháng 7 năm Minh Mệnh 16 (1835)].
Bên cạnh đó, võ quan tham gia vào hoạt động sản xuất như sản xuất nông
nghiệp (phụ trách việc đắp đê, khai hoang) và các hoạt động sản xuất khác như đúc
thành tốt nhiệm vụ cũng được nhà vua ban thưởng. Trong số lần võ quan được vua
khen thưởng cho hoạt động này, có 2 lần võ quan được thưởng nhiều nhất là cho võ
quan phụ trách đắp đê.
Ngoài ra, triều Nguyễn còn ban thưởng cho võ quan trong các hoạt động đi
sứ. Một số trường hợp võ quan được ban thưởng cho hoạt động này như: Thiệu Trị
năm thứ 6 (1846) đi sứ sang Giang Lưu Ba (tức Indonesia) được triều đình khen
thưởng: “Thuỷ Sư quản toạ là Phó vệ uý vệ 3 doanh Trung Vũ Phẩm nay gia ân lại
thưởng 1 mai tiền vàng Tam thọ, 15 lạng bạc, áo dài áo ngắn 2 chiếc quần mầu
hồng, mầu trắng mỗi loại 1 chiếc. Đội trưởng Cấm binh Vũ Dũng làm công vụ trên
thuyền lại gia thưởng 1 mai tiền vàng Nhị Nghi 10 lạng bạc. Trừ tiền vàng và bạc
81
sẽ tuân lệnh thi hành ra, còn áo quần nên dùng lụa màu. Kính vâng kê khai phúc
trình, chờ chỉ tuân lệnh thi hành.” [40; tờ 380 quyển 37, ngày 28 tháng 5 năm
Thiệu Trị thứ 6 (1846)].
Võ quan còn được ban thưởng trong các nhiệm vụ tuyển mộ binh lính và các
hoạt động luyện tập binh khí như thi bắn súng, thao diễn, sản xuất vũ khí. Tài liệu châu
bản còn ghi lại: Tự Đức năm thứ 2 (1849) binh lính và quan chức tỉnh Bình Định thao
diễn trong đó “Phó quản cơ Lê Sự truyền cho thưởng 1 lần kỷ lục, lại thưởng thêm cho
1 áo lụa trục sa, 1 áo vải tây, 1 quần vải lụa su màu lam. Các quan chức địa phương
cũng tham dự việc huấn luyện hàng ngày, cũng đáng khen thưởng, vì vậy Hộ đốc Lê
Nguyên Trung, Bố chính Trần Văn Thông cùng Lãnh binh Nguyễn Hóa đều thưởng cho
1 lần kỷ lục” [54; tờ 49, tập 11 ngày 10 tháng 2 năm Tự Đức 2 (1848)]. Không chỉ
được thưởng tiền bạc, võ quan còn được thăng thưởng chức tước phẩm hàm như văn
bia làng Hiền Lương (Phong Điền- Thừa Thiên Huế) còn ghi lại trường hợp Võ khố
đốc công Hoàng Văn Lịch có công, “khua kiếm oai phong, việc binh khí trang bị cho
thuộc hạ sắc bén, dạy vẽ nghiêm túc, có tác phong hùng dũng về chiến đấu. Mũ giáp võ
phục chỉnh tề theo hầu đã lâu, vất vả có nhiều công la thành tích ta thấu tỏ đáng khen”
nên được vua Thiệu Trị “phong Minh nghĩa Đô Úy” [180; 81].
Ban thưởng đối với võ quan nhân dịp lễ -tết
Trong các ngày trọng đại của đất nước như vua lên ngôi, mừng thọ Vua hoặc
Hoàng hậu, các ngày Tết trong năm, các vua triều Nguyễn thường thực hiện đại xá
và ban ân thưởng cho Hoàng tộc và bá quan văn võ. Việc ban ân bổng này của võ
quan được thực hiện với hai hình thức: ban thành định lệ và thưởng theo chỉ dụ ban
ấn của nhà vua trong mỗi dịp cụ thể. Trong đó, việc ban ân thưởng theo từng dịp cụ
thể là chủ yếu.
Về định mức khen thưởng cho võ quan, dưới thời vua Minh Mệnh thực hiện
mức khen thưởng vào này 2 ngày: tết Nguyên Đán và tết Lập hạ.
Định lệ thưởng tết Nguyên đán cho võ quan cùng với quan viên văn võ được
triều Nguyễn ban hành vào năm Minh Mệnh thứ 3 (1821). Định mức cụ thể như sau
“Chánh Nhất phẩm đều thưởng 12 lạng bạc, tòng Nhất phẩm 10 lạng, chánh Nhị phẩm
8 lạng, tòng Nhị phẩm 6 lạng, chánh Tam phẩm 5 lạng, tòng Tam phẩm 4 lạng, chánh
Tứ phẩm 3 lạng, tòng Tứ phẩm 2 lạng rưỡi, chánh Ngũ phẩm 2 lạng. Còn quan ở Kinh
nào không dự hàng ban, chiếu ai có dấu khuyên sau vua phê, theo phẩm bậc cũ mà
thương cấp; viên nào được chấm son, đều giảm 1 lạng. Quan ở ngoài đến chầu, Tứ
82
phẩm trở lên chuẩn cho theo phẩm bậc cũ mà thưởng cấp; Ngũ phẩm trở xuống, đều
thưởng 1 lạng….Chánh đội trưởng xuất đội, vệ Thị nội hiện tại, đều 1 lạng” [67; 463].
Từ năm Minh Mệnh thứ 4 (1823) triều Nguyễn đặt định lệ ban thưởng bạc
cho quan văn – võ nhân dịp lễ Khánh Hạ. Định mức ban cấp dựa trên phẩm hàm,
quan ở trong và ngoài kinh. Trong đó, chánh nhất phẩm được nhận 12 lạng, thấp
nhất là chánh đội trưởng, đội trưởng, suất đội được thưởng 1 lạng [90; 254].
Đặc biệt năm Tự Đức thứ 10 (1857), vua đặt định lệ thưởng cho quan văn võ
nhân tết Đoan Dương từ tứ phẩm trở lên. Ngoài ra, vào những dịp trọng đại như vua
lên ngôi, các ngày lễ như: mừng thọ Vua, mừng thọ Hoàng hậu hay các ngày tết
khác như tết Nguyên Đán, tết Đoan Dương võ quan cũng được ban thưởng (xem
thêm phụ lục 2f). Một số dịp không phải ngày lễ tết vua triều Nguyễn cũng ban ân
thưởng cho võ quan như: Thiệu Trị năm thứ 2 (1842), thưởng do yên bình được
mùa; Thiệu Trị năm thứ 2 (1842), thưởng nhân Bắc tuần hồi loan (vua đi tuần du
phía Bắc trở về).
Ngoài ban thưởng ưu hậu cho võ quan lập công trạng, dưới triều Nguyễn
những võ quan không hoàn thành nhiệm vụ cũng bị phạt nghiêm khắc như phạt
giảm phẩm hàm bổng lộc, cắt giảm lương: Ngày 26 tháng 10 năm Thiệu Trị 1
(1841), triều đình phạt quan trong việc coi giữ thành Trấn Tây, nội dung như sau:
Nay căn cứ vào tập tâu của bộ Hình về việc lần lượt đưa ra xét xử các võ quan trấn
giữ thành Trấn. Trong đó trừ Trương Minh Giảng hiện đã chết và đã đoạt lại chức
hàm tướng quân. Nay lại [dụ] truyền ngừng cấp và đòi lại bổng Chánh thất phẩm
mà cho con trai viên đó là Trương Minh Thi đã được cấp. Dương Văn Phong trước
đã cách chức, nay đã chết, không cần bàn xét [30; tờ 68 tập 10, ngày 26 tháng 10
năm Thiệu Trị thứ 1 (1841)]. Ngày 8 tháng 4 năm Tự Đức thứ 4 (1852), triều đình
ban dụ phạt đánh 90 gậy gồm 3 Đội trưởng, đánh 50 roi chiếu theo tội công phạt
bổng 9 tháng gồm 1 Suất đội, xin đánh ngay vì quản binh để binh lính thuộc phủ bỏ
trốn [58; tờ 56 tập 25 ngày 8 tháng 4 năm Tự Đức thứ 4 (1852)]. Ngày 5 tháng 6
năm Tự đức 16 (1864), vua phạt Lãnh binh Nguyễn Tăng Tín phạt 1 năm lương do
không có đối sách đối phó với thổ phỉ người Thanh cướp thuyển buôn ở Quảng
Ngãi [59; tờ 96, tập 152 ngày 5 tháng 6 năm Tự Đức thứ 16 (1864)].
- Ban thưởng đối với võ quan về hưu
Đồng thời với việc ban cấp lương tiền, năm Gia Long thứ nhất (1802) các
công thần (trừ binh đinh) còn được cấp thuộc binh theo quy định.
83
9
8
8
7
7
6
6
6
5
5
5
4
4
4
3
3
3
2
2
2
2
1
1
1
0
Phó đội
Chánh vệ
Phó vệ, Chánh chi
Phó chi
Trưởng hiệu, Cai cơ, Cai đội
Hạng nhất
Hạng nhì
Hạng 3
Biểu đồ 3.6. Số lượng thuộc binh được cấp cho công thần về hưu ban hành năm Gia
Long thứ nhất (1802)
[Nguồn: 89; 534]
Tự Đức năm thứ 5 [1852], triều Nguyễn ban hành định lệ ban ân thưởng các
thọ quan trong đó có võ quan. Tùy theo độ tuổi và phẩm trật võ quan được ban vải
lụa với định mức khác nhau.
Ngoài ra, võ quan về hưu còn được triều đình ban thưởng tiền bạc. Tiêu biểu
như năm Tự Đức thứ 2 (1848), triều đình ban tiền cho một số võ quan hưu trí:
Chưởng vệ Phùng Hữu Hoà 75 tuổi, Chưởng vệ Nguyễn Văn Lưu 73 tuổi, cho mỗi
người 100 quan tiền; 8 viên Chánh tam phẩm [95; 142].
Đối với võ quan về hưu, khi chết cũng được triều đình cấp tuất. Chế độ ban
cấp này của võ quan cũng nằm trong chế độ chung của quan viên được ban hành
đầu tiên vào tháng 12, năm Minh Mệnh thứ 13 (1833) gồm 2 mức ban cấp. Đối với
quan từ Tòng tam phẩm trở lên, được nguyên hàm về hưu (không áp dụng đối với
võ quan bị giáng hay bắt về hưu) khi chết, bộ Lễ tâu lên đợi chỉ của nhà vua để cấp
cho tiền tuất. Đối với quan từ Chánh Tứ phẩm trở xuống người nào đi trận bị
thương cho về quê được cấp nửa lương nếu chết thì chiếu theo phẩm hàm cấp cho
một nửa tiền tuất so với quan Tòng tam phẩm trở lên. Năm Tự Đức thứ 6 (1853),
triều đình ban hành chế độ cấp tuất đối với võ quan bị giáng chức hoặc buộc về hưu,
mỗi người được 20 quan tiền. (tham khảo thêm phụ lục 3c).
84
Năm Tự Đức thứ 7 (1853), triều Nguyễn ban hành định lệ về cho quan viên
văn võ mang theo triều phục khi về hưu. Với võ quan, đối tượng tượng thứ nhất là
quan đến 70 tuổi, Tòng nhị phẩm không dự vào hàng đình thần, giữ các chức như
Đề đốc, Chánh phó lãnh binh không bắt về hưu, hay giáng 5 cấp, hoặc cách chức
lưu nhiệm, thì cho phép các viên ấy khi về hưu được mang theo triều phục, khi chết
được khâm liệm bằng triều phục ấy. Đối tượng thứ 2 là võ quan ngoài 60 tuổi, ốm
yếu được giữ nguyên hàm về hưu, làm việc quan được 30 năm trở lên, có công lao
lớn, khi về hưu có tâu xin sẽ cho mang triều phục [95; 321]. Đến năm Tự Đức thứ
10 (1857), triều đình quy định cụ thể hơn đối với trường hợp thứ 2, võ quan được
mang triều phục về hưu phải là võ quan cao cấp từ Nhị phẩm trở lên, làm việc trên
30 năm, không phạm tội, tuổi 60 trở lên được cho về hưu trước niên lệ [95; 321].
Ngoài những ân thưởng trên võ quan cũng như các quan viên còn được
hưởng một số ưu đãi như giảm nhẹ hình phạt đối với quan phạm tội, chế độ nộp tiền
để tặng phẩm hàm cho cha đã chết. Khi cha mẹ quan văn- võ chết, trước năm 1878,
võ quan được triều đình cho về quê để tang cha mẹ.
Ngoài ra, đối với võ quan đã chết nhưng nghèo khó triều Nguyễn cũng chế
độ đặc biệt. Theo tác giả Nguyễn Minh Đức và Vũ Phạm Quang viết trong cuốn
Tướng Doãn Nỗ và họ Doãn trong lịch sử có chép lại gia phả dòng họ Doãn ở Song
Lãng – Vũ Thư Thái Bình như sau: sau khi ông mất, theo gia pải họ Doãn ở Song
Lãng, Vũ Thư thì: “Khi mở tráp của vị danh thần lừng lẫu tiếng tăm thấy một cuốn
sổ “nhật ký” có nghi còn nợ của người 1000 quan tiền. Các vị quan tỉnh thấy cụ làm
quan thanh liêm nghèo khó mới tâu xin triều đình ban ơn ngoại lệ. Sau, Tự Đức đã
đặc cấp cho gia đình cụ 4 mẫu ruộng hạng nhất trích từ công điền xã quê cụ”[104;
114-115].
85
Tiểu kết chƣơng 3
Dưới triều Nguyễn, chế độ đãi ngộ cho võ quan được các triều vua đặc biệt
quan tâm. Về chế độ đãi ngộ bằng lương, võ quan không chỉ được ban cấp lương
bằng tiền gạo mà còn được ban cấp ruộng đất và tiền xuân phục hàng năm. Định
mức lương của võ quan căn cứ trên phẩm trật và được ban cấp theo định lệ lương
chung của quan viên văn võ.
Định mức lương của võ quan thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp với hoàn
cảnh đất nước. Trong đó phụ cấp bằng lương của võ quan cao cấp từ tứ phẩm trở
lên giảm dần từ triều vua Minh Mệnh đặc biệt là dưới thời vua Tự Đức do tình trạng
khó khăn nhiều mặt, tình hình tài chính bị thu hẹp.
Đặc điểm nổi bật của chế độ đãi ngộ ngoài lương của triều Nguyễn cho võ
quan là chính sách ban thưởng cho võ quan lập được nhiều công trạng trong các
hoạt động quân sự. Những võ quan này không chỉ được thưởng bằng vật phẩm như
tiền, bạc, mà còn được thăng thụ phẩm hàm. Việc ưu cấp này triều Nguyễn áp đụng
chủ yếu đối với võ quan trận thương trận vong khi tham gia chiến trận.
Chính sách đãi ngộ đối với thân nhân võ quan như cha mẹ, vợ và con cái võ
quan (bao gồm cả võ quan đương nhiệm và võ quan trận thương trận vong) cũng là
một nội dung quan trọng thể hiện sự quan tâm của triều Nguyễn đối với quân đội.
Không chỉ quan tâm tới lực lượng quân đội còn đương nhiệm, vương triều
Nguyễn cũng ban hành những chính sách thể hiện sự quan tâm đối với các võ quan
về hưu. Chính sách này nhằm đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho võ quan
khi không còn trong quân ngũ, góp phần xây dựng một xã hội ổn định và công bằng
hơn.
86
Chƣơng 4.
CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI BINH LÍNH CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI
ĐOẠN 1802-1884
4.1. Chế độ đãi ngộ bằng lƣơng cho binh lính
Quân đội triều Nguyễn là đội quân chính quy đông đảo, trong đó binh lính
làm nhiệm vụ chiến đấu chiếm đa số. Nhận thấy vai trò quan trọng của binh lính
trong quân đội và mong muốn xây dựng một lực lượng quân đội chính quy vững
mạnh, các vua từ Gia Long đến Tự Đức đã ban hành nhiều chính sách quan trọng nhằm đảm bảo đời sống cho binh lính. Cũng như võ quan, lương của binh lính được
nhà nước ban cấp bằng tiền gạo và ruộng đất.
4.1.1.Chế độ lương cho binh lính tại ngũ - Chế độ lương bằng tiền, gạo
Chế độ ban cấp lương cho binh lính bằng tiền gạo là chế độ quan trọng nhất
nhằm đảm bảo nguồn lương thực hàng ngày cho binh lính. Dưới triều vua Gia
Long, lương của binh lính trên toàn quốc vẫn giữ nguyên định mức ban hành từ
trước năm 1802, mỗi tháng được cấp 1 quan tiền, 1 phương gạo. Mức lương này về
sau vẫn là mức lương cơ bản của binh lính triều Nguyễn. Tuy nhiên, tùy theo tính
chất công việc và vai trò của mỗi đơn vị quân mà nhà nước có sự điều chỉnh định mức lương tăng lên hoặc giảm đi.
Nhằm ổn định tình hình chính trị và kiểm soát vùng đất mới dưới sự quản lý
của vua Lê - chúa Trịnh và vương triều Tây Sơn trước kia, ngay từ năm 1803, triều
Nguyễn đã đặt định lệ lương bổng cho quân lính ở Bắc Thành dựa trên thời điểm
tham gia quân ngũ. Theo đó, mức lương cho binh lính ở Bắc thành được chia ra làm
3 hạng: hạng nhất là những người làm việc từ năm Mậu Thân đến năm Giáp Dần;
hạng nhì từ năm Ất Mão đến Canh Thân; hạng ba từ năm Tân Dậu đến Quý Hợi.
Dựa trên 3 thứ hạng này, triều Nguyễn định mức tiền gạo ban cấp theo tháng cho binh lính trong đó có sự khác nhau giữa quân chính quy (các quân ở kinh thành phục vụ cho vua, triều đình trung ương) và thuộc binh (phục vụ ở phủ đệ của quan lại và ông hoàng bà chúa). Theo đó, trong cùng một hạng thì ruộng của Thuộc binh thấp hơn ruộng của binh lính chính quy. Cụ thể như sau: Đội trưởng, biện lại các
quân và binh lính: hạng nhất 2 quan tiền, 2 phương gạo, hạng nhì 1 quan 5 tiền, 1 phương 15 bát gạo, hạng ba tiền 1 quan, gạo 1 phương; Đội trưởng thuộc binh lạc tòng và binh lính: hạng nhất 2 quan tiền 1 phương 15 bát gạo. hạng nhỉ 1 quan 15 tiền; 1 phương 7 bát gạo; hạng ba 1 quan tiền, 1 phương gạo [89; 576- 579].
87
Ngoài ra, vào năm này vua Gia Long còn ban hành chế độ lương bổng cho
binh lính người Xiêm thành 2 hạng cũ và mới tính từ năm Canh Thân (1800) về
trước và năm Tân Dậu (1801) về sau: Hạng cũ cai đội lương tháng tiền 3 quan, gạo 3 phương, phó đội tiền 2 quan, gạo 2 phương, binh lính tiền 1 quan 5 tiền, gạo 1
phương 15 bát; hạng mới thống binh lương tháng tiền 2 quan, gạo 2 phương, cai đội tiền 1 quan 5 tiền, gạo 1 phương 15 bát, phó đội và binh lính đều tiền 1 quan, gạo 1
phương; Thuộc kiên quân và tượng quân thì tiểu mục, thuộc binh, lương tháng đều
mỗi người gạo 1 phương; Lính kho mỗi tháng cấp gạo 15 bát) [89; 576-579].
Với quân lính ở các địa phương, vua Gia Long đặt định lệ ban cấp cho một
số vệ đội lính mộ ở Bắc Thành:
Tháng 7, Năm Gia Long thứ 7 (1808) định lệ cấp lương hàng tháng cho lính
mộ ở Bắc Thành đặc biệt là đối với người theo làm việc công ở thành trấn được sai
khiến đi đóng giữ ở các đồn bảo.
Định mức cụ thể là:
+ Quyền sai cai đội mỗi tháng tiền1 quan 5 tiền, gạo 1 phương 15 bát;
+ Từ đội trưởng đến binh lính, thì tiền 1 quan, gạo 1 phương [89; 735].
Tháng 6, Gia Long năm thứ 9 (1810), triều Nguyễn ban hành chế độ cấp
lương tháng cho 2 cơ lính mộ Tả Hùng và Hữu Hùng ở Bắc Thành gồm hơn 600
người (không ghi định mức cụ thể) [89; 785].
Dưới thời Minh Mệnh, nhà vua ban hành chế độ tiền lương cho một số đơn
vị đồng thời điều chỉnh mức lương của một số đội vệ trong Kinh tùy theo số lượng
công việc cũng như xuất thân của binh lính. Cụ thể như sau: Minh Mệnh năm thứ 2
(1821), nhà Nguyễn định lệ lương một tháng cho Tượng binh (gồm lính Kinh tượng và lính Tượng cơ các địa phương) trên cơ sở lấy số voi và voi đực hay voi cái mà
tính suất lương của lính. Đến năm Minh Mệnh thứ 8 (1827), nhà Nguyễn đổi định
việc trả lương cho tượng binh dựa trên độ tuổi của lính trong đó có cả các Tiểu mục
tuổi dưới 18 với số lương thấp hơn lương của lính đủ tuổi. Cụ thể, lính 18 tuổi trở lên mỗi tháng được triều đình ban cấp 1 quan tiền 1 phương gạo; tiểu mục từ 12 đến 15 tuổi mỗi tháng được 5 tiền, 15 bát gạo, từ 16 đến 17 tuổi mỗi tháng được cấp 5 tiền và 1 phương gạo [90; 653].
Năm Minh Mệnh thứ 10 (1829), triều Nguyễn thống nhất thực hiện việc ban cấp lương cho quân lính dựa trên ngạch binh: Thân binh, Cấm binh và Tinh binh. Trong đó, ngạch Thân binh được nhận mức lương cao hơn các ngạch binh khác, trong ngạch Thân binh cao nhất là lính Hộ vệ Loan giá là lính xuất thân từ những
88
người trong Tôn thất. Mỗi người lính được cấp một tháng tiền 2 quan 5 tiền, gạo 2
phương 15 đấu, thấp nhất là lính các đội giết thịt kiếm củi 1 phương gạo/tháng. Số
lính còn lại chiếm đa số vẫn nhận được mức lương như binh lính thời kỳ trước, mỗi người lính một tháng nhận được tiền 1 quan, gạo 1 phương.
Bảng 4.1. Lương lính ở Kinh ban hành năm Minh Mệnh thứ 10 (1829)
Định mức
Hạng Ngạch quân STT Các đơn vị Tiền (quan tiền)
Loan Giá
1 Thân binh Loan Nghi
Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba
Cẩm Y
Đại Thuyền Gạo (phương: đấu: phân) 2:15 1:15 1:15 1:15 1 1 1:7:5 2 1:15 1 2:5 1:5 1:5 1:5 1:5 1 1:5 3 2:5 2
1 1 Hạng nhất Hạng nhì Hạng 3 Không dự hạng
2 Cấm binh 1 1
1 1 1:5 1
1 0:5
1 1
Tinh binh 3
Thị trung, Thị Nội, Thần Cơ, Tiền Phong, Long Vũ Hổ Oai Thị Tượng, Thượng Trà Kim thương, Ngân Thương (Long Thao Hổ Lược) Thự Thanh Bình, Võng Thành Giám Thành, Phấn Dực, Giám Thành, Hộ Lăng, Kiêu kỵ, Thượng Tứ, Hòa Thanh Ty Lý Thiện, quân các Dực Đội giết thịt, kiếm củi 1 1 0:5
[Nguồn: 67; 442]
Trong Tinh binh, binh lính thuộc Thự Thanh Bình được hưởng mức lương
không đồng đều. Lương của binh lính được chia thành nhiều mức dựa trên nhiệm vụ
và trách nhiệm được giao. Trong đó, 1 người được mỗi tháng tiền 2 quan, gạo 2
phương; 6 người mỗi tháng được tiền 1 quan, gạo 1 phương; số còn lại 100 người
nhận mức lương thấp nhất của Tinh binh là mỗi tháng chỉ được 1 phương gạo.
89
Ngoài ra, dưới thời Minh Mệnh, nhà vua còn thực hiện chế độ ban cấp cho
lính thợ ở kinh và lính là tù nhân mỗi tháng tiền 5 tiền và 1 phương gạo [91; 297].
Đồng thời, vua Minh Mệnh cũng điều chỉnh mức lương đối với những đội quân ít
việc. Năm Minh Mệnh thứ 7 (1836), triều đình wuy định lính ở thự Hòa Thanh (đội
nhạc binh) số gạo cấp vẫn giữ lệ cũ (1 phương gạo) trong khi tiền chỉ được 5 tiền.
Năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), do lính 3 đội 1, 2, 3 thự Thanh Bình công việc ít
nên mỗi người một tháng chỉ được cấp 1 phương gạo; đội Ngư Hộ (đội cung ứng
làm việc vặt) ngừng cấp lương tiền gạo rồi cho về quê, khi có việc sai phái thì tính
theo ngày để cấp lương.
Dưới thời vua Thiệu Trị, năm Thiệu Trị thứ nhất (1841) triều đình đã định lệ
lương cho vệ Kim Ngô (mới lập) nhận lương bằng đội Cẩm Y, điều chỉnh định mức
lương của lính vệ Thủ Hộ ở ngạch Thân binh. Trong đó quy định: “Vệ thủ hộ về
trung vệ và 2 đội 7, 8 ở tiền vệ: gạo 1 phương; các đội 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10:
gạo 1 phương, tiền 5 tiền; 2 đội 1, 2 ở tả vệ: 5 tiền, gạo 1 phương; từ đội 3 đến đội
10: 1 phương gạo; vệ hữu lính đương ban: 5 tiền, gạo 1 phương” [67; 443].
Thiệu Trị năm thứ 4 (1844), vua cấp lương cho vệ Long Thuyền (thuộc Cấm
binh) giống như mức lương của đội Kim Ngô “gồm 10 đội, hợp thành 1 vệ đều lấy
biền binh Thuỷ sư chọn bổ vào. Vậy tiền, gạo, lương tháng của biền binh vệ ấy nên
chăng chiểu theo lệ của Kim Ngô, Cẩm Y mà thưởng cấp, do bề trên xét” [36; tờ 47
quyển 40 Thiệu Trị năm thứ 4 (1844)].
Dưới thời vua Tự Đức, chế độ lương tiền của một số đội quân như đội Tuyển
Phong của Thân binh và một số vệ đội của Cấm binh được điều chỉnh tăng thêm. Năm Tự
Đức năm 4 (1851), triều đình quy định cấp thêm lương cho lính Tuyển Phong và dinh các
quân sung làm lính Tuyển Phong mỗi tháng cứ 4 người thêm 1 phương gạo. Lính vệ Cẩm
Y, Kim Ngô ngoài lệ lương mỗi tháng; cấp thêm tiền 1 quan 5 tiền, gạo 1 phương, rồi lại
cấp thêm cứ 3 người 1 phương gạo nữa [67; 443]. Năm Tự Đức thứ 9 (1856), nhà nước
thống nhất tiền lương cho lính Thủ hộ quê ở Thừa Thiên cùng những lính quê ở Quảng
Nam (cận tiệm với Kinh đô) mỗi người 1 phương gạo; những người ở huyện Tống Sơn,
mỗi người một tháng tiền 5 tiền, gạo một phương [95; 480].
Đối với Cấm binh, năm Tự Đức thứ 34 (1881), triều Nguyễn tăng tiền lương cho mỗi binh lính thuộc doanh Vũ Lâm, các bảo, Thuỷ Sư, Kinh Tượng, Thượng Tứ, Kỳ Võ mỗi tháng 1 quan; lính đội Long thuyền mỗi binh lính được cấp thêm 5 tiền. Những người lính thuộc các Doanh, Vệ trên tổng mỗi tháng được nhận 2 quan tiền lương.
90
Bên cạnh những chính sách tiền lương cho binh lính ở Kinh, năm Tự Đức
thứ 32 [1879], triều đình ban hành chế độ lương theo tháng cho các đội quân là lính
mộ trên dưới 100 người ở các tỉnh Bắc kỳ khi làm nhiệm vụ canh phòng hoặc sai phái. Định mức ban cấp được quy định cụ thể như sau:
Bảng 4.2. Lương của lính mộ Bắc kỳ ban hành năm Tự Đức thứ 32 (1879)
Địa phƣơng Công việc Quan binh
Canh phòng trong hạt
Sai phái đánh dẹp trong hạt, canh phòng hạt khác
Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Cao Bằng Phái đi đánh dẹp ở hạt khác
Canh phòng và vận tải ở trong hạt
Đánh dẹp các ở trong hạt
Các tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh Đầu mục Binh dõng Đầu mục Binh dõng Đầu mục Binh dõng đầu mục Binh dõng Đầu mục Binh dõng Đầu mục Định mức ban cấp Gạo (phương) 1 Tiền (quan:tiền) 2 1 2:5 2 4 3 1:5 2 2 1:5 2
Binh dõng 1:5 Phái đi canh phòng, vận tải, đánh dẹp ở thượng du,
[Nguồn: 96; 439]
Có thể thấy trong chế độ ban cấp lương tiền gạo cho binh lính triều Gia Long đặc
biệt là triều Minh Mệnh, Thân binh là ngạch binh được coi trọng và được hưởng lương cao nhất. Nguyên nhân đây là bộ phận xuất thân từ Hoàng tộc, trực tiếp bảo vệ cho vua và
Kinh thành ảnh hưởng lớn đến sự ổn định chính trị trong nước. Lính thân binh cũng là lực
lượng tinh nhuệ và khỏe mạnh do đó luôn nhận được sự ưu ái của nhà nước.
Về thể lệ cấp phát lương cho binh lính, năm Gia Long năm thứ 11 (1812),
triều đình yêu cầu cho quân lính đầu năm phải làm sổ lương. Minh Mệnh năm thứ 4 (1823), nhà nước định rõ ngày phát lương cho mỗi quân lính. Đồng thời triều đình cũng quy định, tùy theo lương nhiều hay ít, binh lính sẽ được chủ thủ (người phát lương) phát cho số thẻ theo quy định gọi là phương quan (lương 1.000 phương đến
700 thì phát cho 5 cái phương, từ 600 đến 400 thì phát 3 cái phương, từ 300 đến 200 thì phát 2 cái phương, từ 100 trở xuống thì phát 1 cái phương) [90; 260]. Đến ngày phát lương binh lính làm đơn trình lên, rồi được nhận theo số thứ tự được phát ghi trên thẻ, không được lĩnh sang ngày khác.
91
Sang năm Tự Đức thứ 24 (1871), nhà nước đổi định lệ làm đơn lĩnh lương bổng.
Thay vì mỗi binh lính làm đơn lĩnh riêng thì triều đình quy định đến kì lĩnh lương tất cả
quân lính đóng trong ở một địa phương làm chung một đơn được phân chia theo mức lương bổng được lĩnh, tăng giảm so với tháng trước rồi đưa lên lĩnh chung [95; 1284].
Như vậy, khác với võ quan, lĩnh lương theo quý, binh lính nhận lương mỗi tháng một lần nhằm đảm bảo tiền và lương thực thường xuyên cho binh lính đồng thời giảm tải
cho cho việc vận chuyển và phân phối quân lương của nhà nước. Việc định ngày lĩnh
lương cho từng đội quân giúp việc lĩnh lương nhanh gọn, không ảnh hưởng nhiều đến
nhiệm vụ khi đi sai phái như quy định lĩnh lương chung được ban hành năm 1874.
- Chế độ lương điền
Lương điền là lương cấp bằng ruộng ở quê nhà để nuôi cha mẹ, vợ con binh
lính. Lương điền được cấp nhiều ít khác nhau tùy hạng lính. Do vậy, dưới triều
Nguyễn mỗi người lính tại ngũ thì thân nhân tại quê nhà vừa được chia ruộng khẩu
phần (chiếu theo lệ quân quân điền), vừa được cấp lương điền.
Nhằm ổn định tình hình chính trị, ngay khi lập nước, năm Gia Long thứ 1
(1802) triều Nguyễn đã định lệ ruộng khẩu phần cho quan quân dinh Quảng Đức
(tên gọi kinh đô Huế lúc đó) và quân lính ở Bắc Thành. Đối với quân dinh Quảng
Đức, ngoài ruộng khẩu phần, quân đi theo việc binh hoặc bị thương trở về thì mỗi
người được cấp 1 mẫu ruộng.
Đối với lính Bắc Thành, nhà nước ra định lệ:“Nếu trong xã có ruộng đất
công, thì cho chiếu cấp khẩu phần, ruộng nương và đất bãi chiếm riêng ngoài lệ
đều cấm” [89; 522]. Gia Long năm thứ 3 (1804), triều Nguyễn thi hành việc quân
7
9
Cấm binh
Tòng cấm binh
Tòng tinh binh
8
8.5
Binh lệ thuộc
cấp công điền công thổ trên toàn quốc. Theo đó binh lính các vệ đội, thuyền thuộc quân Cấm binh và Tinh binh ở ở Kinh thành theo định mức từ 9 phần đến 7 phần
Biểu đồ 4.1. Khẩu phần ruộng đất của các ngạch Cấm binh và Tinh binh năm Gia
Long thứ 3 ( 1804)
[Nguồn: 89; 599]
92
Loại ruộng đất thứ 2 mà binh lính được chia cấp dưới triều Gia Long là
lương điền. Loại ruộng này được chia theo hạng lính được ban hành tháng 9 năm
Gia Long thứ 8 (1809). Theo định lệ này lương điền của binh lính được chia thành 3 hạng, cụ thể như sau:
Bảng 4.3. Lương điền của mỗi binh lính được ban hành năm Gia Long thứ 8 (1809)
STT Hạng Đội quân Định mức
1 Nhất 1 mẫu
2 Nhì 9 sào
3 Ba 8 sào
Mười vệ Thị trung, 9 đội thuyền (Trung Hầu, nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu), ba đội Chấn Uy (nhất, nhị, tam), các đội của vệ Nội Trực, các đội của đội Tiểu Sai, đội Thị Trà, đội Loan Nghi, ba đội Tả vệ, Hữu vệ, Nội hoàng kiếm, mười đội của vệ Chấn Dực Nội thủy, ba vệ Thị tượng, các đội Nội Mã, Tả Mã, Hữu Mã, Tư Thiện, Thị Hành, Thị Nội, Trung Cần thị nội, Nội Cần thị nội, Nội Sai, Ngoại Trù, Tân Nhị. Quân Thần sách, Trung dinh vệ Long võ; Tiền dinh vệ Ban trực tiền, Tả dinh vệ Ban trực tả, Hữu dinh vệ Ban trực hữu, Hậu dinh vệ Ban trực hậu, năm cơ Thủy quân, năm đội Kiên thủy. Trung quân (hai vệ Trung bảo nhất, nhị). Tiền quân (hai vệ Tiền bảo nhất nhị),Tả quân (hai vệ Tả bảo nhất, nhị), Hữu quân (hai vệ Hữu bảo nhất, nhị), Hậu quân (hai vệ Hậu bảo nhất, nhị), quân Thần võ (hai vệ Võ bảo nhất, nhị), quân Chấn võ (hai vệ Chấn bảo nhất, nhị), Tượng quân, hai vệ Hùng Cự (nhất, nhị) các cơ của Tượng quân; Trường thọ cùng hai đội Thị trà, đội Thủ Kiệu nhất, đội Phiên Như Nội; cơ Kiên Thuận, các đội Cửu Dực; Trung quân, năm đội Trung sai; Tiền quân, năm đội Tiền sai; Tả quân, năm đội Tả sai; Hữu quân, năm đội Hữu sai; Hậu quân, năm đội Hậu sai, ba đội Kiên dũng; Tượng quân, năm đội Hùng sai; sáu bộ các đội thuộc Kiên
[Nguồn: 89; 757]
Từ biểu đồ 4.1 và bảng 4.3 dưới triều vua Gia Long, một người lính cả ruộng quân điền và lương điền theo định lệ được tối đa là 1 mẫu và tối thiểu là 8 sào chưa kể khẩu phần ruộng theo chính sách quân điền. Tùy theo thực tế ruộng đất của mỗi làng xã, ruộng khẩu phần theo phép quân điền của binh lính nhận được có thể ít
hoặc nhiều, không đồng đều nhau.
Đến năm Minh Mệnh thứ nhất (1820), triều Nguyễn thực hiện điều chỉnh ruộng khẩu phần và ruộng lương của một số vệ đội. Theo đó, một số vệ đội tổng ruộng khẩu phần và lương điền của mỗi người lính được 1 mẫu ruộng và 9 phần
93
khẩu phần gồm các vệ đội sau: Thị trung và Thị nội, 10 đội túc trực, dinh Thần cơ,
dinh Tiền phong, dinh Long võ, dinh Hổ oai quân Thị nội các đội Tiểu sai, các đội
Thị trà, đội Tả vệ, đội Hữu vệ, đội Hoàng kiếm, đội Ngân súng, đội Thị nghi, đội Bả cái, vệ Phấn dực Nội thuỷ, các vệ Thị tượng, các đội Dực vũ, đội Nội mã, đội Tả
mã, đội. Hữu mã các đội Tiểu hầu, đội Bả lệnh, vệ Kỳ võ, vệ Thành võ, vệ Trinh võ, đội Thượng thiện các đội Tư thiện, đội Trung cần, đội Tân nhất [90; 81].
Minh Mệnh năm thứ 2 (1821), triều Nguyễn định lệ cấp lương điền cho biền
binh ở vệ Hộ lăng trung theo như lệ quân Thị nội [90; 146].
Tháng 12 năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), nhằm thống nhất chế độ ruộng đất cho binh lính được lập trước (Cấm binh, Tinh binh) và lập sau (Thân binh) triều đình đã
thống nhất ruộng quân điền và lương điền và chia cấp theo định mức chung. Do đó,
người lính được ruộng quân điền cao thì ruộng lương điền cũng cao. Việc làm này tạo ra
sự thống nhất trong cách quản lý đồng thời thể hiện được sự ưu tiên của nhà nước đối với
những lực lượng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng hệ thống quân đội. Trong chế độ này,
binh lính của Thân binh được ưu tiên hơn binh lính của các ngạch binh còn lại.
Bảng 4.4.. Lương điền của binh lính ban hành năm Minh Mệnh thứ 12 (1831)
Định mức ruộng
Các đơn vị
Lực lƣợng
Ruộng khẩu (phần)
9
ƣơng điền (mẫu) 1
Thân binh
8,5 9
Cấm binh
8 9
7 8
7 8
Tinh binh 7 7
7 không có lương điền Vệ Cẩm Y , Loan Giá, dinh Vũ Lâm và Tả, Hữu Lưỡng dực Bốn dinh Thần Cơ, Tiền Phong, Long Võ, Hổ Oai và Nội Thuỷ vệ Viện Thượng Trà 2 đội Kim Sang, Ngân Sang, các đội Giáo Dưỡng binh, đội Thượng Thiện, đội Tài Hoa, thự Hoà Thanh, viện Thượng Tứ, Kinh Tượng và 5 dinh quân Thần Sách Các vệ, cơ, đội ở 5 quân Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu, các vệ, cơ Thuỷ quân 2 vệ Hộ lăng trung, tiền, các kiên, các sai, các dực, thuộc vệ Giám Thành và vệ Võng Thành, các ty Lý Thiện, Các vệ, cơ, đội và lính trạm thuộc các địa phương Đội Tuần bạc, đội Tân Sài, các đội thuộc phủ đệ, thuộc binh các nha, lính coi kho, hộ đánh cá và Thanh Bình thự ở Kinh, thuộc binh các nha ở các tỉnh ngoài
[Nguồn: 91; 262]
94
Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836), triều Nguyễn thay việc ban cấp lương điền
theo ngạch binh bằng tiêu chí dựa trên số lượng công việc và trọng trách binh lính
được giao. Ruộng đất chia thành 3 mức. Trong đó định mức lương cao nhất được
điều chỉnh giảm xuống so với định lệ ban hành năm Minh Mệnh thứ 12 (1831).
Mục đích của sự điều chỉnh này có lẽ nhằm giảm sự chênh lệnh về quyền lợi của
giữa những người lính trong quân đội.
Bảng 4.5. Lương điền của binh lính ban hành năm Minh Mệnh thứ 17 (1836)
Định mức
Ruộng ƣơng Đội quân khẩu phần điền
(phần) (sào)
Vệ Cẩm Y, vệ Loan Giá, 2 dực Tả, Hữu Vũ Lâm, 5 dinh
Thần Cơ, Tiền Phong, Long võ, Hổ Uy và Hùng Nhuệ,
dinh Kỳ Võ, 15 vệ Thuỷ sư, 10 vệ thuộc các bảo, các vệ 8 9 Kinh Tượng, viện Thượng Tứ, các đội Ngân Sang, đội
Kim Sang, các đội Giáo Dưỡng binh, viện Thượng Trà,
đội Thượng Thiện.
Lính 2 vệ Trung, Tiền Thủ hộ, các cơ, các đội Ngũ quân,
cơ Thuỷ sư Kiên Chu, các đội Thiện Chu, các vệ, các cơ, 7 8 các đội thuộc các địa phương, vệ Giám Thành, vệ Võng
Thành, các dực Hùng Sai.
Thự Hoà Thanh, đội Tài Hoa, các đội ty Lý Thiện, các 7 7 lính trạm.
Các đội thuộc các phủ đệ, thự Thanh Bình, thuộc binh các không có
nha trong Kinh và ngoài các tỉnh, các thuộc binh, đội Ngư 7 lương
Hộ. điền
[Nguồn: 92; 1056-1057]
Qua bảng 3.14, có thể thấy việc phân chia ruộng đất cho binh lính rõ ràng có
sự ưu tiên cho lính Thân binh, lực lượng quân lính làm nhiệm vụ chiến đấu của Cấm
binh và Tinh binh hơn những binh lính thuộc các đơn vị làm nhiệm vụ phục dịch và
hầu hạ. Điều đó chứng tỏ nhiệm vụ chiến đấu đảm bảo sự ổn định chính trị và độc lập
dân tộc là nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu đối với quân đội triều Nguyễn.
95
- Chế độ ban cấp quân phục
Ngoài lương, binh lính trong quân đội triều Nguyễn còn được ban cấp quần
áo và nhận một khoản tiền do nhân dân đóng góp gọi là tiền phụ dưỡng nuôi lính.
Đầu thời Nguyễn, Gia Long năm thứ nhất (1802), mỗi người lính ngoài
lương còn được cấp quần áo mỗi năm 2 lần. Số quần áo này do xã dân cấp. Binh lính mới nhập ngũ được cấp“mỗi người 1 đoạn vải dài 3 thước 5 tấc; 1 chiếc nhung
y vải xô ngoài đen lót vàng đều 8 thước; một chiếc quần tơ xô màu gỗ vàng 6 thước
và vải quần 1 thước, tiền khuy và tiền thuê may 5 mạch. Khi binh lính đã có lương
thì mỗi năm cấp 1 đoạn khăn vải màu đen (thâm) dài 4 thước 5 tấc, 2 áo đơn vải đen (thâm), mỗi cái 10 thước vải, 2 cái quần mỗi cái 7 thước vải” [69; 350]. Lính
giản ở Thanh Nghệ và Bắc Thành từ năm Gia Long thứ 12 (1813) được lĩnh 3 quan
vào tháng 12 hàng năm và tự đi may quần áo [89; 857].
Dưới thời Minh Mệnh, nhà nước quy định quân lính mỗi năm được cấp quần
áo một lần. Đến năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), nhà nước lại quy định đối với mộ
binh thuộc hạt và biền binh Bắc Thành chỉ cơ Định Man và tù phạm được dồn bổ
làm lính tiếp tục cấp quần áo, còn các bộ phận khác thì đình cấp.
Sang thời Tự Đức, các loại quần áo ban cấp cho binh lính thuộc Thân và Cấm
binh được quy định cụ thể hơn. Ty Hộ vệ, mỗi binh lính được cấp 1 áo trừu lông và 1
quần lụa màu cánh kiến; các vệ, đội Cẩm Y, Kim Ngô, Loan Giá, Cảnh Tất, Dực Vũ,
Dực Chấn, Võ Bị, Thượng Trà, Thượng Thiện, sở Ngự Mã và Vũ cử hành tẩu mỗi binh
lính được cấp áo vải màu đen hoặc trắng và quần sại nam màu cánh kiến mỗi thứ đều 1
chiếc; binh đinh được cấp áo vải màu đen, hoặc màu lam, quần sại nam màu cánh kiến
mỗi thứ đều 1 chiếc [95; 294]. Thời gian đổi cấp các hạng quần áo cũng được quy định cụ thể. Về binh phục 6 năm đổi 1 lần, riêng quân Vũ Lâm các bảo 8 năm đổi 1 lần. Các
loại trang phục gồm vải lam (dài 1 thước 3 tấc), dây lưng, giày da đen bít tất, khăn mũ,
áo vải xanh của lính các dinh vệ cắt may dài 1 thước 4 tấc 3 năm thay 1 lần; áo bông của
binh lính 10 năm 1 lần thay, áo đặc chủng 12 năm thay một lần.
Ngoài lương được cấp bằng tiền gạo, ruộng đất, quần áo hàng năm binh lính dưới triều Nguyễn còn được hưởng chế độ phụ dưỡng. Đây là tiền của xã dân đóng góp để nuôi lính. Chế độ này được ban hành năm Gia Long thứ 1 (1802) và được
thực thi trong 2 năm từ 1802-1084. Theo đó, những ai tham gia binh lính mỗi tháng được cấp 1 quan tiền .
Như vậy, cũng giống như võ quan, chính sách lương đối với binh lính triều Nguyễn cũng bao gồm tiền, gạo, ruộng đất, quân phục. Trong số các ngạch quân,
96
Thân binh là bộ phận được triều đình ưu ái nhất. Nguyên nhân của sự ưu ái này là
do nguồn gốc xuất thân của binh lính hầu hết là những người trong hoàng tộc. Đội
quân này thân cận với nhà vua, được nhà vua tin tưởng và đảm trách những nhiệm vụ liên quan trực tiếp tới sự an nguy của vua và Hoàng tộc. So với chế độ lương của
võ quan, định mức lương giữa các ngạch binh lính có sự chênh lệch ít hơn. Chính sách này có ảnh hưởng nhất đối với đời sống vật chất của binh lính, quyết định đến
sự ổn định của quân đội và nền chính trị đất nước.
4.1.2. Chế độ lương đối với binh lính xuất ngũ
Đối với binh lính, năm Tự Đức thứ 21 (1868), triều đình ban hành chế độ về hưu cho binh lính ở trong Kinh và các tỉnh, không kể tuyển binh hay mộ binh từ đội
trưởng trở xuống. Tuổi về hưu của binh lính theo quy định là 55 tuổi. Riêng với binh
lính ốm yếu, tuổi trên 50 dưới 55 tuổi cũng được triều đình cho về hưu.
Triều Nguyễn cũng thực hiện xét công và thăng thụ cho binh lính có công và
cấp lương cho họ theo chức phẩm được thăng trước khi về hưu. Đối với binh lính
đến khi về hưu nhập ngũ được 30 năm trở lên thì cấp bằng đội trưởng, thưởng cho
thực thụ; Trường hợp binh lính đến tuổi hưu nhưng còn khoẻ mạnh, xin ở lại thêm
trong quân ngũ đã được đủ 5 năm thì được tăng thưởng một ngạch bậc và khi về
hưu và được hưởng lương theo ngạch bậc mới này. Ví dụ, nếu thực thụ đội trưởng
thì gia thưởng Chánh đội trưởng, khi về hưu được nhận mức lương hưu của chức
Chánh đội trưởng [95; 1150, 1151].
4.2. Chế độ đãi ngộ ngoài lƣơng đối với binh lính
4.1.2. Chế độ phụ cấp 4.1.2.1. Chế độ phụ cấp đối với binh lính tham gia các hoạt động quân sự
Dưới thời Nguyễn, binh lính trong kinh và ngoài trấn thường xuyên được sai
phái đi việc công đóng giữ các cửa biển, vùng biên giới, đi vận tải, áp giải tù
phạm và đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy. Khi đi thực hiện những nhiệm vụ này,
ngoài lương được nhận theo định lệ, binh lính được nhà nước ban cấp thêm tiền gạo, quần áo thuốc men. Việc trợ cấp này bao gồm trợ cấp khi đi đường cũng như khi đang làm nhiệm vụ ở nơi đóng quân.
- Phụ cấp đi đường
Việc trợ cấp cho việc di chuyển của binh lính của triều Nguyễn đối với quân đội được thực hiện dưới với 2 bộ phận: đối với quân di chuyển bằng đường bộ và quân lính đi bằng đường thủy.
Đối với quân di chuyển bằng đường bộ, ngay từ thời vua Gia Long, triều
97
đình đã có chế độ trợ cấp đối với binh lính từ địa phương về kinh đô làm việc. Chế
độ trợ cấp này còn được ghi lại trong Châu bản. Cụ thể, ngày 14 tháng 3 năm Gia
Long thứ 4 (1805), vua ban cấp cho một số đội quân về Kinh làm việc gồm: 11000 quân mới tuyển mộ ở Bắc Thành, quan binh trấn Ngoại Thanh Hoa, quan binh các
doanh mới tuyển mộ thuộc nội trấn Thanh Hoa, quan binh các doanh mới tuyển mộ của trấn Nghệ An [3; tờ 101 tập 1, ngày 14 tháng 3 năm Gia Long thứ 4 (1805)].
Tuy nhiên, định mức được ban cấp cụ thể bao nhiêu không được ghi cụ thể.
Sang thời vua Minh Mệnh, tháng 2, Minh Mệnh năm thứ 2 (1821), vua đặt
định lệ trợ cấp đi đường cho“biền binh có việc công sai, phải tuỳ việc khó dễ, định hạn đi đường mà phát lương tiền cấp cho” [90;119]. Minh Mệnh năm thứ 5 (1824),
triều đình đặt định lệ trợ cấp đi đường cho binh lính dựa trên thời gian thực tế di
chuyển. Sách Hội điển ghi rõ, binh đinh ở vệ, cơ, đội các quân doanh ở Kinh phái
lính đi làm nhiệm vụ khi đi qua các doanh trấn từ Quảng Nam trở vào Nam và
Quảng Bình trở ra Bắc“đều chiểu thực số binh lính theo hạng cấp phát lương đi
đường, để được tiếp tế, đi đến nơi thì thôi, cho ghi làm lệ” [67; 457].
Năm Minh Mệnh thứ 11 (1830), binh lính tới ban (tức binh lính đi tới nơi để
làm nhiệm vụ sau thời gian nghỉ ngơi của chế độ luôn phiên ứng trực và nghỉ ngơi
của triều Nguyễn) cũng được trợ cấp đi đường.
Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) triều đình đổi cách tính lương đi đường, thay
vì tính theo ngày thực đi thời gian đi đường của binh lính sẽ được quy ra dựa trên
độ dài quãng đường. Trong đó quy định:“8, 9 nghìn trượng được tính làm 1 ngày,
từ Kinh sư đến trấn thành Quảng Nam, cấp 3 ngày lương; từ Quảng Nam đến
Quảng Ngãi cấp 3 ngày lương; từ Quảng Ngãi đến Bình Định cấp 4 ngày lương; từ Bình Định đến Phú Yên cấp 2 ngày lương; từ Phú Yên đến Bình Hoà cấp 4 ngày
lương; từ Bình Hoà đến Bình Thuận cấp 4 ngày lương; từ Bình Thuận đến Gia
Định cấp 8 ngày rưỡi [91; 168].
Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836), triều Nguyễn bổ sung thêm cách tính thời gian với những binh lính đi sai phái mà quãng đường di chuyển gần kinh thành. Cụ thể như sau: từ Bình Thuận đến Biên Hoà được tính là 7 ngày; từ Biên Hoà đến Gia Định 1 ngày; từ Gia Định đến Định Tường 2 ngày; từ Định Tường đến Vĩnh Long 1
ngày; từ Vĩnh Long đến An Giang 3 ngày; từ An Giang đến Hà Tiên 2 ngày; từ An Giang đến thành Trấn Tây 4 ngày [92; 1075]. Cách tính lương nhật trình quy ra ngày như trên mang tính thống nhất hơn, thuận tiện cho việc chi trả lương đi đường cho binh lính so với cách tính từ khi xuất phát đến khi tới nơi như cách tính ban
98
hành năm Minh Mệnh thứ 7 (1826).
Đối với quân lính đi công sai bằng đường biển, năm Minh Mệnh 20 (1839),
triều Nguyễn ban hành chế độ trợ cấp lương nhật trình cho biền binh thủy sư khi đi làm nhiệm vụ trong và ngoài nước. Việc trợ cấp thêm lần này, triều Nguyễn không
tính theo quãng đường xa gần như bộ binh mà dựa vào hạng ưu bình của binh lính. Đối với thủy binh sai phái trong nước: hạng ưu mỗi tháng cấp 3 quan, hạng nhất
mỗi tháng 2 quan, hạng nhì mỗi tháng 1 quan 5 tiền, hạng ba 1 quan, nếu binh lính
không xếp hạng thì sẽ được xét ban cấp sau. Đối với biền binh thủy sư đi công cán
ở nước ngoài, mỗi binh lính được nhận mức trợ cấp gấp đôi so với thủy binh đi công sai trong nước cùng thứ hạng [93; 588].
Dưới thời Tự Đức, năm thứ 18 (1865) triều Nguyễn thực hiện chế độ trợ cấp cho
thủy binh. Chế độ này cũng dựa theo hạng ưu bình nhưng khác nhau giữa 2 nhiệm vụ
trực tiếp chiến đấu và ở quân ngũ tập luyện. Cụ thể: hạng ưu mỗi tháng cấp thêm cho 3
quan; hạng nhất 2 quan 5 tiền, hạng nhì 2 quan, hạng ba 1 quan 5 tiền. Nếu binh lính đi
diễn tập thì được cấp thêm một nửa so với đi bắt giặc [95; 970].
- Phụ cấp cho binh lính ở nơi làm nhiệm vụ
Các vua triều Nguyễn, đặc biệt dưới thời vua Tự Đức rất quan tâm đến việc
trợ cấp thêm tiền gạo cho binh lính ở nơi làm nhiệm vụ.
Trợ cấp tiền, gạo, ngoài tiền gạo được nhận theo định mức lương, một số
đội quân còn được trợ cấp thêm tiền gạo trong khi được sai phái đi là nhiệm vụ.
Việc ban cấp này không thống nhất trong toàn quân mà chỉ thực hiện đối với một số
lực lượng và trong một số hoàn cảnh nhất định trong đó đặc biệt ưu tiên đối với
quân lính tham gia chiến trận. Sách Thực lục cho biết, tháng giêng năm Gia Long thứ 2 (1803), triều đình cấp thêm lương bổng cho các tướng sĩ bình man. Nhà vua
ban dụ rằng:“Quảng Ngãi thóc mất mùa, người thiếu ăn. Các tướng sĩ ở ngoài,
lương bổng dầu đã có định lệ, mà trèo đèo lặn suối khó nhọc, trẫm rất thương, vậy
cấp thêm gạo tháng cho mỗi người một phương” [89; 546].
Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược, triều Nguyễn đã ban cấp thêm tiền gạo cho quân lính đi đánh giặc ở các quân thứ: suất đội 4 quan, đội trưởng 3 quan, lính 2 quan [95; 570]. Đối với lính dõng đi theo quân thứ, năm Tự Đức thứ 15 (1862) nhà
nước tăng lương tiền từ 1 quan lên thành 2 quan [95; 779].
Trợ cấp trang phục, thuốc men, cùng với quần áo được ban cấp theo định lệ, khi đi làm nhiệm vụ, binh lính còn được cấp thêm quân phục. Việc trợ cấp này có thể thực hiện bằng việc cấp phát quần áo hoặc bằng tiền tùy theo quân thứ.
99
Quần áo cấp phát thêm cho binh lính ở nơi làm nhiệm vụ dưới triều Nguyễn
không được ban hành thành định lệ mà được ghi lại thông qua một số sự kiện cụ thể đặc
biệt là việc cấp phát thêm áo ấm khi trời rét. Minh Mệnh năm thứ 2 (1821), triều đình ban cấp cho binh lính cùng vua đi tuần phương Bắc mỗi người 1 cái áo, 1 cái quần, mỗi
người 3 quan tiền áo mùa đông. Năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), mỗi năm vua phát ở kho 3.000 tấm vải và 500 tấm sại nam cho Kinh binh đi thú ở Gia Định. [90; 796].
Dưới triều vua Tự Đức, đặc biệt là từ sau năm 1858, khi thực dân Pháp tiến
hành xâm lược nước Đại Nam, việc cấp thêm quần áo nhất là quần áo rét cho các
quân thứ ở miền Bắc và miền Trung được nhà nước đặc biệt quan tâm. Chế độ này không chỉ áp dụng đối với quân lính chính quy mà còn đối với cả mộ binh. Tự Đức
năm thứ 13 (1860), tướng sĩ các quân thứ đều được ban áo rét. Tự Đức năm thứ 32
(1879), toán dõng ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên mỗi người 3
quan 5 tiền. Đặc biệt năm Tự Đức thứ 25 (1872) triều Nguyễn còn “Ban áo rét cho
tướng biền nước Thanh 4.649 lạng bạc” [95; 1356].
Cũng giống như việc cấp phát quần áo, binh lính được triều Nguyễn cấp
thêm thuốc men khi đi làm nhiệm vụ. Việc trợ cấp này dười thời vua Gia Long đến
Minh Mệnh không được thực hiện thường xuyên. Tuy nhiên sang thời vua Tự Đức,
việc ban cấp cho quân lính đặc biệt là quân lính tham gia chiến trận được vua đặc
biệt quan tâm nhất là khi thời tiết khắc nghiệt hoặc ốm đau.
Phụ cấp đi làm nhiệm vụ lâu ngày, trong điều kiện khó khăn
Những binh lính đi làm việc trong điều kiện khó khăn khắc nghiệt, đi làm
nhiệm vụ xa nhà và những người đi làm nhiệm vụ lâu ngày đều được triều Nguyễn
cấp thêm tiền, gạo, quần áo. Việc ban cấp này được thực hiện nhiều nhất dưới thời vua Tự Đức, đặc biệt là sau năm 1858 khi triều Nguyễn tiến hành kháng chiến
chống thực dân Pháp.
Đối với binh lính đi làm nhiệm vụ lâu ngày, nhà vua thường cấp phát thêm
tiền, gạo (tiền là chủ yếu). Một số trường hợp điển hình được ban cấp như sau:
Minh Mệnh năm thứ 7 (1826), triều đình cho phép cấp thêm cho lính hai vệ Long thao và Hổ lược mỗi người 1 quan 1 tháng 1 quan do “thao diễn đã lâu, vua nghĩ họ tiêu dùng thiếu thốn nên cấp thêm cho” [90; 474]. Tự Đức năm thứ 18
(1865), cho mỗi người người lính quê Nghệ An đóng quân 3 năm ở Vệ Võ Thắng (Sơn Tây) mỗi người 3 quan tiền 1 tháng [95; 971].
Đối với binh lính phải đi làm nhiệm vụ xa quê quán, đi làm nhiệm vụ vùng sâu vùng xa nhà nước cũng trợ cấp thêm tiền gạo. Mức trợ cấp thông thường là
100
thêm mỗi người một tháng 1 quan tiền, 1 phương gạo. Ví dụ: Minh Mệnh năm thứ 2
(1820) cấp lương bổng cho biền binh ba tượng cơ Tiền hùng, Tả hùng, Hữu hùng ở
Bắc thành “lâu ngày đóng thú xa xôi”, cũng trong năm này triều đình cấp thêm cho 138 kỵ binh mỗi người mỗi tháng 1 quan tiền, 1 phương gạo, 2 lính tiểu mục, mỗi
người 1 phương gạo [90; 170].
Không chỉ lính chính quy, năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), triều Nguyễn còn
ban hành chế độ trợ cấp đối với giản binh và mộ binh đi đóng ở các đồn ải trong đó
quy định:“Phàm giản binh và mộ binh ở các hạt nếu có những người được phái đi
đồn ải biên cương để đóng giữ mà chốn ấy thực có lam chướng nặng nề thì mới chuẩn cho hằng tháng cấp tiền 1 quan, gạo 1 phương” [91; 587].
Đối với binh sĩ đang làm nhiệm vụ khi thời tiết khắc nghiệt nhất là ở những
tiền đồn cửa biển, ngoài cấp thêm tiền triều Nguyễn thường cấp thêm áo ấm vào
mùa đông và thuốc phòng và chữa bệnh vào mùa hè. Một số năm triều đình ban cấp
với số lượng lớn thuốc men và quần áo cho binh lính như: Tự Đức thứ 11 (1858),
triều đình cấp cho quân thứ Quảng Nam“quế Thanh, Nghệ, các thứ thuốc, thuốc
viên ban cấp cho và thầy thuốc đến chữa bệnh” [95; 569]. Tự Đức năm thứ 12
(1859), mùa hạ nắng nóng nên vua cấp cho tướng sĩ 2 quân thứ Quảng Nam, Định –
Biên, Tự Đức năm thứ 21 (1868), binh lính ở Bắc Kỳ được cấp áo rét.
Đối với binh lính khi làm việc ở những nơi khó khăn vất vả cũng được triều
Nguyễn ban cấp thêm tiền gạo. Chế độ này đã được đặt thành định lệ đối với binh
lính lưu ngũ và lính trạm. Cụ thể, từ năm Minh Mệnh năm thứ 16 (1835), ngoài chế
độ lương binh lính lưu ngũ và sai phái khó nhọc ở các địa phương mỗi binh lính
một tháng được cấp thêm 1 quan tiền. Đối với lính trạm, năm Tự Đức thứ 30 (1877), triều Nguyễn quy định các trạm từ phủ Thừa Thiên trở ra Bắc trước cấp cho
mỗi trạm tiền 10 quan, gạo 10 phương, nay cấp thêm tiền 12 quan, gạo 8 phương.
Năm Tự Đức thứ 18 (1865), các trạm binh trên cả nước được chi cấp thêm
tiền gạo tùy theo số lượng công việc, cụ thể:“Chỗ nào rất nhiều việc thì so sánh lương tháng, chia ba cho thêm 2 phần; chỗ bận vừa cho thêm một nửa; chỗ ít việc chia 3 cho thêm 1 phần lương” [95; 963].
Ngoài ra, binh lính còn được trợ cấp cho việc luyện tập binh pháp khi đi thao
diễn. Minh Mệnh năm thứ 2 (1820), nhà vua cấp cho lính mới mộ của tỉnh Gia Định về kinh thao diễn hai tháng gạo lương. Vào năm Tự Đức năm thứ 26 (1873), tổng số 8.311 binh đinh đã được triều đình cấp cho mỗi người 1 quan tiền cho việc diễn tập ở Kinh [95; 1421].
101
4.1.2.2. Phụ cấp cho binh lính đi làm nhiệm vụ lao động sản xuất
Dưới thời Nguyễn, ngoài lực lượng quân chủ lực có nhiệm vụ chiến đấu,
binh lính còn là lực lượng tham gia vào các hoạt động sản xuất và kiến thiết đất nước như: xây dựng cung điện thành quách, vận tải hàng hóa, hộ giá cho nhà vua và
hoàng tộc, đắp đê, làm thủy lợi và khai hoang. Việc ban cấp này ít được quy chuẩn thành định lệ. Chế độ phụ cấp này phần lớn dựa trên đối tượng và nhiệm vụ cụ thể.
Về định lệ chi cấp, năm Gia Long thứ 2 (1803), triều đình định lệ cấp tiền
lương tháng cho các biền binh Thanh Nghệ hộ giá theo hầu vua [89; 575]. Ngoài ra,
đến năm Tự Đức năm thứ nhất [1847], nhà Nguyễn đặt định lệ cấp tiền cho biền binh ở thuyền chuyên chở hàng hóa về Kinh và từ Kinh đi các tỉnh. Trong đó các
tỉnh xa Kinh đô binh lính được ưu tiên hơn. Triều đình quy định,“các tỉnh ở Nam
Kỳ mỗi tên 1 quan 5 tiền; các tỉnh ở Bắc Kỳ và Khánh Hoà, Bình Thuận, Bình Định,
Phú Yên, Nghệ An, Thanh Hoá mỗi tên 1 quan; các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Bình,
Quảng Nam mỗi tên 5 tiền” [95; 111].
Ngoài ban cấp theo định lệ, triều Nguyễn thực hiện ban cấp dựa theo nhiệm
vụ và công việc của binh lính.
Đối với binh lính vận tải hàng hóa, trước khi đặt định lệ trợ cấp tiền cho biền
binh ở thuyền chở hàng hóa ở Kinh và các tỉnh như dưới triều vua Tự Đức thì từ
thời vua Gia Long nhà nước đã thực hiện chi cấp thêm tiền cho binh lính đi vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển. Năm Gia Long năm thứ 4 (1805), biền binh chở
đồ vật công về kinh không phân biệt địa phương xuất phát“mỗi người được cấp 3
tháng lương” [89; 637). Minh Mệnh thứ 2 (1821), nhà nước“cấp thêm tiền gạo cho
thủy quân chở của công và sản vật ở địa phương mà cả 2 chiều đều có hàng hóa thì cấp 1 tháng lương, chỉ chở 2 chiều thì cấp 1 nửa”[90; 203].
Sau khi ban hành định mức thống nhất trợ cấp cho binh lính đi vận tải hàng
hóa, năm Tự Đức thứ 21 (1868), triều Nguyễn ban cấp thêm tiền cho binh lính làm
nhiệm vụ này. Trong đó, Quản suất được tăng thêm 1 phần ba tiền lương; binh lính cấp thêm cho mỗi người hàng tháng đủ 2 quan. Những binh lính vận tải lương thực cho quân đội được ưu tiên hơn những binh lính vận chuyển khác. Cụ thể:“Quyền quản mỗi tháng cấp cho 4 quan tiền, suất đội và tổng lý tháng cấp cho 3 quan 5
tiền, hương binh tháng cấp cho 3 quan tiền, còn gạo thì mỗi người đều được 1 phương” [95; 1263].
Bên cạnh đó, binh lính là lực lượng có vai trò quan trọng tham gia vào công việc kiến thiết đất nước như xây dựng cung điện, thành quách. Ngoài ban cấp lương
102
bổng, binh lính cũng được triều đình ban cấp thêm tiền gạo. Định mức ban cấp không
thống nhất giữa các thời điểm và giữa các lực lượng. Dưới thời vua Thiệu Trị, theo bản
tấu ngày 1 tháng 7 năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), nhà nước còn ban cấp tiền gạo theo ngày cho binh lính hạ ban vận chuyển đất để bồi đắp nền xây dựng phủ đệ mới ở phường Vĩnh
An (Kinh đô Huế), theo đó “Quan bộ binh đã trích giữ lại 650 biền binh hạ ban đến phường đó vận chuyển đất bồi đắp, từ ngày mồng 1 đến mồng 3 hạn trong 3 ngày việc
xong thì cho về nghỉ. Bộ thần xem xét số biền binh này là lính hạ ban, theo lệ không chi
lương bổng. Nay vâng trích giữ lại làm việc về lý nên theo ngày cấp phát tiền gạo mỗi
người mỗi ngày 20 triêvăn tiền, 1 bát gạo hết hạn thì thôi. Châu phê: Cấp cho 105 quan tiền” [37; tờ 123 quyển 35 năm Thiệu Trị thứ 6 (1846)].
4.2.2. Chế độ trợ cấp
-Chế độ trợ cấp đối với binh lính khi ốm
Đối với binh lính bị ốm, năm Gia Long thứ 11 (1812) triều Nguyễn quy định
các địa phương phải lập các trại Dưỡng tế, mỗi sở lấy lương y sở tại, thay nhau ứng
trực mỗi phiên 1, 2 người để chữa bệnh cho binh lính. Kinh phí do địa phương chi
cấp. Minh Mệnh năm thứ 2 (1821), nhà vua ban dụ:“Không phân biệt là binh hay
dân, nếu gặp ai mắc bệnh nguy khốn ở dọc đường, thì đòi quan sở tại phải tạm
chăm sóc nuôi dưỡng, rồi hỏi xem người bệnh, nếu là binh lính thì trình bộ Binh
báo cho viên cai quản đưa về điều trị” [99; lời dụ số 6, trang 28].
Năm Gia Long thứ 11 (1812), triều Nguyễn quy định binh lính đi sai phái bị
ốm (bệnh binh) nhà nước giao cho các sở dưỡng tế điều dưỡng. Lính ở Thanh Hóa
đi sai phái ở Kinh thì giao cho địa phương. Đối với binh lính ở Kinh, từ năm Minh
Mệnh thứ 2 (1821) quan Giám thành mỗi ngày phải đi kiểm tra nếu có lính ốm thì phải đem về điều trị. Với những vùng biên giới, quan địa phương phải mang thêm
thuốc men, sinh y “đặt nhiều phương pháp chữa bệnh” cho binh lính [69; 566].
Quy định này được vua Minh Mệnh thực hiện từ năm 1821.
-Chế độ trợ cấp đối với binh lính trận thương Trợ cấp đối với binh lính bị thương trong khi thực hiện nhiệm vụ là một việc làm thiết thực của nhà nước đảm bảo về sức khỏe, đời sống vật chất cũng như tinh thần cho binh sĩ. Chế độ trợ cấp này được triều Nguyễn ban hành thành định lệ dưới
triều Minh Mệnh. Đối với binh lính trong Kinh bị trận thương, nhà nước ban cấp với 3 trường hợp: đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy của nông dân bị thương được ban hành năm Minh Mệnh thứ 8 (1827)); đi dẹp thổ phỉ bị thương năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) và khi đi đánh giặc ở Nam Kỳ bị thương với mức ban thưởng khác nhau.
103
Đối với lính đi đánh dẹp ở Nam Kỳ, tùy theo mức độ bị thương mà được trợ
cấp: bị thương nhẹ 2 quan, bị thương nặng 5 quan, chết trận thưởng 2 lạng bạc [91;
642]. Riêng những người đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy của nông dân, nhà nước quy định: lính 5 quan, dân phu thủ hạ bị thương cấp 3 quan [90; 573].
Ngoài quân đội chính quy, năm Minh Mệnh thứ 16 (1835), triều Nguyễn còn ban hành chế độ khen thưởng đối với quan quân của các cơ hương dũng bị thương
khi đi đánh dẹp. Mức khen thưởng dựa trên chế độ khen thưởng của quân lính trong
Kinh. Trong đó thổ dũng bị thương mức thưởng bằng với thủ hạ [92; 601].
-Chế độ trợ cấp đối với binh lính trận vong Binh lính trận vong được triều Nguyễn tổ chức tế lễ. Tự Đức năm thứ 8 (1855),
triều đình tế lễ cho quan binh chết trận vì bão ở bờ biển gồm Suất đội đội Tuần hải ở
Quảng Yên và 13 viên danh biền binh đều chết đuối do bão đánh chìm, Tự Đức năm thứ
10 (1857), triều đình cấp tuất gấp đôi và sai tế một tuần cho 41 biền binh tỉnh Biên Hoà
chết do gặp bão trên đường chở hàng hóa về Kinh.
Ngoài ra, triều Nguyễn còn thực hiện trợ cấp cho thân nhân gồm cha mẹ,
vợ con binh lính. Dưới triều Nguyễn đặc biệt là vua Tự Đức ban hành một số
ưu đãi đối với cha mẹ (ông bà) của binh lính đặc biệt là binh lính trận vong. Tự
Đức năm thứ 18 (1865), vua đặt định lệ giảm trừ thời gian đi lính đối với bố và
anh của những người chết trận không có không có con, em, cháu (gọi bằng chú,
bác), nếu là lính thì trừ 4 năm, là dõng thì trừ 3 năm [95; 955]. Tự Đức năm thứ
25 (1872), triều đình cấp tiền cho ông bà, cha mẹ của binh dõng chết trận và
khi đi vận tải đường biển ốm chết, chết đuối. Nếu thân nhân còn sống mỗi
tháng cấp cho 1 quan tiền, 1 phương gạo, đến khi những người này chết thì nhà nước ban cấp cho: bố mẹ thì được cấp tiền 5 quan nửa tấm vải, ông bà thì được
cấp tiền 3 quan, nửa tấm vải [95; 1357]. Tự Đức năm thứ 34 (1881), các binh
dõng chết trận, người nào nhà có cha mẹ tuổi 60 trở lên, không có người nuôi
nấng thì được triều đình chiểu lệ cấp dưỡng.
-Chế độ trợ cấp đối với binh lính bị nạn gió Dưới triều Nguyễn, đường biển là một trong những con đường vận tải chính. Không chỉ có binh dân mà quân đội triều Nguyễn là một lực lượng không nhỏ tham
gia vận tải bằng đường biển. Việc đi trên biển những thời điểm mưa bão, nhất là trên vùng biển miền Trung dẫn đến những tai nạn chìm tàu binh lính bị chết đuối. Ngay từ triều vua Gia Long, triều đình đã ban hành những chính sách trợ cấp cho họ. Năm Gia Long thứ 2 (1803), triều đình ban cấp tiền tuất cho 500 quân Thần
104
Sách đi vận tải chết ở biển Thanh Hóa [69; 583]. Năm Gia Long thứ 14 (1815),
triều đình ban hành định lệ, binh lính bị nạn gió, không kể còn hay mất binh đinh
được 10 quan [69; 584].
4.2.3. Chế độ khen thưởng 4.2.3.1. Khen thưởng đối với binh lính đi làm nhiệm vụ quân sự và bang giao -Khen thưởng đối với binh lính làm nhiệm vụ canh phòng và đi sứ
Việc binh lính sai phái đi đóng giữ các địa phương trở thành hoạt động
thường xuyên dưới triều Nguyễn. Quân lính thường làm nhiệm vụ chia theo phiên.
Việc ban thưởng cho lính canh phòng phổ biến là thưởng chung cho quân làm nhiệm vụ ở một địa phương.
Ngoài ra, triều Nguyễn còn có chế độ thưởng ưu hậu cho quân lính đi đóng
giữ vùng biên giới, nhất là những tiền đồn ven biển.
Dưới triều Minh Mệnh, nhà vua đã ban hành hai định lệ về chế độ khen
thưởng cho quân lính ở Kinh đi đóng ở các tiền đồn và Thủy quân ở Kinh đi làm
nhiệm vụ ở Bắc Thành và các đồn ven biển Nam Định.
Cụ thể như sau: Minh Mệnh năm thứ 18 (1837), triều Nguyễn ban hành định
lệ thưởng cho các vệ lính ở Kinh đi đóng ở các tiền đồn. Trong đó quy định:“vệ nào
khí giới hoàn hảo, binh đinh trốn thiếu ít, các vệ đi đóng ở miền Nam, đường sá xa
xôi, thì quản vệ được thưởng gia 1 cấp, suất đội kỷ lục 2 thứ, tự quản vệ đến binh
đinh đều thưởng tiền lương 1 tháng rưỡi; các vệ đi đóng ở miền Bắc, đường sá hơi
gần, thì quản vệ kỷ lục 2 thứ, suất đội kỷ lục 1 thứ, tự quản vệ đến binh đinh đều
thưởng tiền lương 1 tháng, nếu có thêm việc vận tải của công và có công cán khác
được thanh thỏa thì lại thưởng riêng” [93; 113]; Năm Minh Mệnh thứ 10 (1829), triều Nguyễn ban hành chế độ thưởng cho thủy quân dinh Thần cơ ở Kinh đi thú Bắc
Thành và đồn thuỷ ở Nam Định mỗi người 1 tháng tiền lương, 1 bộ quần áo.
Ngoài những đội binh được thưởng theo định lệ, triều Nguyễn còn ban
thưởng đột xuất cho binh lính ở các đơn vị quân khác đi đóng giữ ở cửa biển, ví dụ: Minh Mệnh năm thứ 7 (1826), triều đình thưởng cho biền binh đóng giữ đài Trấn Hải (cửa biển Thuận An) 100 quan tiền.
Tự Đức năm thứ 26 (1873), triều đình ban thưởng số lượng lớn cho binh lính coi
giữ pháo đài, canh giữ các đồn ở cửa biển của các vệ Cấm binh: hộ vệ 924 người, tiền 1.386 quan; binh đinh 8.311 người, tiền theo số người mỗi người 1 quan [95; 1421].
Đối với binh lính đi sứ hay lính vận chuyển thư tín ở các trạm binh, năm Minh Mệnh thứ nhất (1820), triều Nguyễn đã ban hành định lệ thưởng cho binh lính
105
hoàn thành công việc nhanh hay chậm cho lính trạm từ Gia Định và Bắc Thành đến
Kinh. Nội dung ban hành như sau:“Thành Gia Định, việc rất khẩn 9 ngày đến Kinh,
thưởng tiền 6 quan, không tới 9 ngày mà đến thì thưởng thêm 3 quan; việc khẩn vừa đi 10 ngày đến thì thưởng tiền 4 quan. Bắc Thành việc rất khẩn đi 4 ngày 6 giờ đến
thì thưởng tiền 4 quan; đi không tới 4 ngày 6 giờ đến thì thưởng thêm 2 quan; việc khẩn vừa đi 5 ngày đến thì thưởng tiền 3 quan” [90; 42]. Ngoài ra, dựa trên số
lượng công việc nhiều hay ít mà lính trạm được triều đình ban thưởng.
-Thưởng công đối vơi binh lính tham gia chiến trận
Dưới triều Nguyễn, binh lính được khen thưởng khi tham gia chiến trận với
hai nhiệm vụ chủ yếu là tham gia đánh dẹp các cuộc nổi dậy và chống ngoại xâm
Trong hoạt động đánh dẹp các cuộc nổi dậy, các vua triều Nguyễn từ Gia
Long đến Tự Đức thường xuyên thưởng công cho binh lính (trong đó nhiều nhất là
dưới thời vua Minh Mệnh). Việc khen thưởng của vua Minh Mệnh cho binh lính
được thực hiện nhiều nhất vào các năm: Minh Mệnh thứ 14 (1833), Minh Mệnh thứ
15 (1834) và Minh Mệnh thứ 16 (1835).
Hình thức ban thưởng cho binh lính gồm 2 hình thức chủ yếu: đặt định lệ
hoặc ban thưởng sau mỗi trận đánh.
Về định lệ ban thưởng, năm Gia Long thứ 11 (1813), triều đình đặt định lệ
thưởng cho những người có công bắt và báo quan bọn cướp bóc của cải của nhân
dân cả trên thủy và trên bộ với định mức cao thấp khác nhau dựa trên mức độ quan
trọng của họ trong toán cướp. Cụ thể bắt đầu đảng thưởng 100 quan tiền; bắt được
đồ đảng từ 1 tên đến 10 tên thưởng 50 quan tiền, nếu có công báo chỉ cho quan bắt
được tên đầu đảng hoặc tên đồ đảng thưởng 50 quan tiền [69; 453].
Đến năm Tự Đức thứ 21 (1868), triều Nguyễn ban hành định mức thưởng
đối với quân lính đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở biên giới. Tùy theo công trạng là
bắt, bắn hay chém được viên đầu mục hay lính mà có mức ban thưởng khác nhau:
Bắt hay chém được đầu mục thưởng 12 quan; lính thưởng 7 quan; Bắn chết được đầu mục thưởng 5 quan, lính thưởng 1 quan; Trường hợp đuổi chặn, bắt, giết được không phải là ở chiến trường thì chiểu hạng thưởng một nửa. Duy chém được thủ lĩnh cuộc nổi dậy, chờ xin quyết định [95; 1145].
Điều đặc biệt trong chính sách khen thưởng cho binh lính của triều Nguyễn là ban hành là việc treo thưởng cho binh lính khi đi đánh trận. Định mức ban thưởng tùy theo quy mô của cuộc khởi nghĩa.
Dưới triều Minh Mệnh, nhà vua 2 lần ban hành treo thưởng cho binh lính
106
vào các năm Minh Mệnh năm thứ 14 (1833) vua dụ thưởng cho quan binh có kế
sách hay đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở Nam Kỳ nếu lấy được thành trì được thưởng
nghìn vàng, Minh Mệnh năm thứ 15 (1834), vua treo thưởng cho quân bắt và giết những tướng lĩnh trong cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân ở Thái Nguyên. Định
mức như sau: chém được Nông Văn Vân thưởng 1000 lạng bạc và cho làm quan tứ phẩm; bắt hoặc chém được các tướng lĩnh khác của cuộc khởi nghĩa thưởng cho 200
lạng bạc và cho làm quan thất phẩm, bắt hoặc chém được đầu mục thì chiếu theo
cấp bậc cao thấp mà phân biệt ban thưởng [92; 333- 334].
Dưới thời Thiệu Trị, năm 1842, nhà vua treo thưởng chém đầu những nghĩa quân người Man ở vùng biên giới. Mức khen thưởng tùy theo vai trò của đầu mục
đó trong cuộc nổi dậy. Thiệu Trị năm thứ 5 (1845) nhà vua đặt định lệ khen thưởng
đối với quan binh đi đẹp Trấn Tây và thành Vĩnh Long. Mức thưởng gồm: Bắt
chém được đầu mục là Chất Tri trừ số đã định ban thưởng 100 lạng bạc, 1000 quan
tiền ở nơi trú quân ra binh lính còn được thưởng thêm 100 lạng bạc, 500 quan tiền
và tặng hàm quan ngũ phẩm [69; 457].
Bên cạnh hình thức treo thưởng, các vua triều Nguyễn còn thực hiện nhiều hình
thức thưởng công. Phổ biến nhất là thưởng ngay sau khi quân lính đi đánh trận trở về với
hai hình thức ban thưởng: thưởng chung cho toàn bộ binh lính hoặc thưởng riêng. Ngoài
ra, triều Nguyễn còn tập hợp nhiều công trạng để thưởng công một lần.
Việc thưởng công cho binh sĩ được triều đình thực thi ngay sau khi tham gia
mỗi trận đánh với hình thức và định mức khác nhau. Hình thức nhiều nhất là ban
thưởng chung cho binh sĩ có công tham gia (hoặc đánh thắng) ở 1 địa phương hoặc
một trận đánh. Mức cao nhất là 6000 quan tiền (năm 1816, vua Gia Long ban thưởng cho biền binh đi đánh cuộc nổi dậy của người Man ở Thạch Bích, Quảng
Ngãi); Mức thấp hơn khoảng 2000 quan tiền như Minh Mệnh năm thứ 14 (1823)
triều đình thưởng cho binh lính đánh giữ thành Hưng Hóa 2500 quan, binh lính
đánh cướp đồn Giao Khẩu 2000 quan tiền.
Mức ban thưởng chung cho binh lính 1000 quan được thực hiện nhiều nhất. Dưới triều Gia Long 2 lần vào các năm: Gia Long năm thứ 7 (1808), Gia Long năm thứ 10 (1811), thưởng quan và binh đánh cuộc nổi dậy của Đặng Trần Siêu và Võ
Đình Lục ở Sơn Nam. Triều Minh Mệnh 7 lần ban thưởng chung cho binh lính ở mức này. Cụ thể: Minh Mệnh năm thứ 14 (1823) có 5 lần ban thưởng 1000 quan tiền cho: binh lính đánh Đồn Chi Nê; thưởng cho binh lính đánh đồn Hoàng Giang và Phố Cát ở Thanh Hóa; binh lính đánh thổ phỉ ở Vân Trung; binh lính dẹp cuộc
107
khởi nghĩa của Trần Minh Phụng ở Hưng Hóa; đánh thổ phỉ ở Cao Bằng. Minh
Mệnh năm thứ 16 (1835) vua thưởng 1000 quan tiền 2 lần cho viên biền binh dẹp
yên những cuộc nổi dậy của người Man ở Bình Thuận; thưởng cho binh lính có công dập tắt được khởi nghĩa Nông Văn Vân; Dưới thời vua Thiệu Trị, năm 1841
binh lính công thu phục Trà Vinh cũng được triều đình ban thưởng 1000 quan tiền.
Mức thấp nhất triều đình thưởng chung cho binh lính là từ 300 đến 100
quan tiền.
Bên cạnh được thưởng chung, những binh lính có công trạng cũng được ban
thưởng riêng. Định mức ban thưởng không thống nhất, nhưng thông thường thưởng mỗi binh lính 1 tháng lương tiền, hoặc 1 quan. Đối với quân lính có công trạng đặc
biệt như bắt hoặc giết được quân nổi dậy được thưởng riêng. Định mức thưởng phụ
thuộc vào quân nổi dậy là thủ lĩnh hay quân lính.
Đối với những binh lính có công tham gia góp phần thắng lợi cho mỗi trận
đánh cũng được triều Nguyễn ban thưởng. Minh Mệnh năm thứ 14 (1833), triều
đình khen thưởng cho binh lính tham gia đánh dẹp cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi.
Trong đó, binh lính bắn vào kho thuốc súng thưởng 300 lạng bạc, bắn thiêu hủy
được nhà cửa của thủ lĩnh Khôi được thưởng 1000 lạng bạc, giết được 1 thớt voi
thưởng 20 lạng bạc, bắn què voi thưởng 10 lạng bạc [69; 456].
Cũng năm này, vua Minh Mệnh thưởng cho quân lính đi phụ cho nghĩa quân
thu phục tỉnh Cao Bằng: lính trạm cưỡi ngựa lĩnh đệ cờ đỏ được thưởng 1 đồng
ngân tiền Phi long hạng lớn; lính trạm đi phụ được thưởng 1 đồng ngân tiền hạng
nhỏ; thị vệ Trần Văn Kiếm nhận tuyên bố tin thắng trận được thưởng 10 đồng ngân
tiền hạng lớn [91; 902].
Ngoài ra, nhà nước còn tổ chức khao thưởng cho binh sĩ sau khi dẹp yên các
cuộc nổi dậy. Hình thức ban thưởng này dựa trên số lần tham gia các trận đánh. Lớn
nhất là khao thưởng của triều đình vào năm Minh Mệnh năm thứ 16 (1835) cho quan
quân 3 đạo Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên có công đánh thắng cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân. Trong đó, binh lính từ đội trưởng chưa thực thụ đến binh lính ai đã tòng chinh 3 lần, đều thưởng 3 quan, ai tòng chinh 2 lần, đều thưởng 2 quan; 1 lần đều thưởng 1 quan.
- Khen thưởng đối với binh lính chống giặc ngoại xâm Ngoài ban thưởng cho binh lính đánh dẹp các cuộc nổi dậy trong nước, triều
Nguyễn còn ban thưởng cho binh lính đi làm nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm.
Dưới triều Minh Mệnh và Thiệu Trị vua ban thưởng cho binh lính đi đánh
108
quân Xiêm, triều Tự Đức vua ban thưởng cho binh lính đánh quân Pháp, các nhóm
thổ phỉ Trung Quốc và quân Cao Miên ở biên giới. Đối với những binh lính có công
trạng, triều đình ban thưởng chung bằng tiền hoặc thưởng riêng cho binh lính có công trạng nổi bật bằng tiền, vải lụa hoặc chức tước.
Đối với hình thức ban thưởng chung, Minh Mệnh năm thứ 14 (1833) và Minh Mệnh thứ 15 (1834), triều đình ban thưởng cho binh lính đánh quân Xiêm ở
Gia Định, An Giang, Hà Tiên và Nam Vang. Mức ban thưởng chung bằng tiền cao
nhất là 5000 quan như năm Minh Mệnh thứ 15 (1834), triều đình thưởng cho quân
lính đánh thắng quân Xiêm ở Nam Vang; thấp nhất là được thưởng 1000 quan hoặc mỗi người lính 1 tháng tiền lương.
Dưới triều vua Tự Đức, ngay khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược nổ ra, năm 1858 vua Tự Đức đã ban thưởng cho binh lính có công đánh
Pháp ở Đà Nẵng và Gia Định. Cụ thể, quân lính đánh Pháp ở 2 thành An Hải, Điện
Hải được ban thưởng ngân tiền có thứ bậc. Binh đắp luỹ từ bãi biển đến thành Điện
Hải được thưởng 100 quan tiền [95; 588].
Ngoài ra, dưới triều Tự Đức, triều đình ban thưởng cho quân lính tham gia đánh
quân Thanh và quân Cao Miên. Tự Đức năm thứ 12 (1859), binh lính đánh giặc nhà
Thanh cướp châu Tiên Yên được vua thưởng 300 quan, bắt sống hay lấy được một thủ
cấp của giặc cắt lấy tai thưởng tiền 10 quan [95; 619]; Tự Đức năm thứ 13 (1860), vua
ban thưởng cho quân quan An Giang đánh giặc Cao Miên ở Thất Sơn“cho chia hạng
thưởng cho gia cấp, kỷ lục ngân bài và thưởng chung một món tiền” [95; 683].
Với những cá nhân có công bắt giết giặc ngoại xâm triều đình thưởng riêng
với nhiều hình thức và định mức khác nhau bằng tiền hoặc vải lụa. Ví dụ, năm Minh Mệnh thứ 15 (1834), vua ban thưởng cho binh lính bắt sống 1 tên tướng Xiêm 30
lạng bạc; người chém được 1 tên lính giặc thưởng 2 lạng bạc [92; 40].
-Khen thưởng đối với binh lính trong công tác huấn luyện và rèn luyện
Huấn luyện là việc làm thường xuyên của quân đội nhằm xây dựng một đội quân vững mạnh và tinh nhuệ. Dưới triều Nguyễn, nhà nước thường tổ chức kiểm duyệt đội hình đội ngũ, thao diễn, sát hạch và thi bắn súng.
Đối với việc sử dụng vũ khí, triều Nguyễn thường ban thưởng cho quân có
hiệu quả cao trong tập luyện và thi bắn súng.
Về định lệ, năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), vua ban hành lệ thưởng cho quân luyện bắn súng, mục tiêu là thuyền giả:“Nếu bắn trúng mũi thuyền, cột buồm, thuỷ quân một phát thưởng 15 quan tiền, lục quân thưởng 10 quan tiền; trúng thân
109
thuyền, thuỷ quân một phát thưởng 10 quan tiền, lục quân 5 quan; có trúng mà một
phát không vào ụ thì không theo lệ ấy. Lại cấp quần áo tây cho lính pháo thủ để tiện
bắn súng” [90; 136]. Năm Tự Đức thứ 19 (1866), triều đình ban hành chế độ khen thưởng khi sát hạch cho Vệ Cẩm Y và Kim Ngô của Thân binh. Dựa theo kết quả
đánh giá ưu bình mà Thân binh được ban thưởng theo 5 định mức khác nhau. Cụ thể,“hạng ưu ưu (20 trượng trở lên), đều thưởng làm cấp bằng đội trưởng và
thưởng cho áo ống tay hẹp bằng vải trắng hay đen mỗi người mỗi thứ đều 1 chiếc,
quần sại nam màu cánh kiến mỗi người 1 chiếc; hạng ưu (16 trượng trở lên),
thưởng tiền 5 quan; hạng ưu thứ (13 trượng trở lên) thưởng 4 quan; hạng bình (10 trượng trở lên), thưởng 3 quan; hạng bình thứ (7 trượng trở lên) và hạng thứ (5
trượng trở lên đều thưởng 2 quan. Lại từ hạng ưu đến hạng thứ, đều thưởng cho
mỗi người 1 cái áo đen và 1 cái quần bằng sại nam màu cánh kiến” [95; 1003].
Ngoài ban thưởng theo định lệ, binh lính còn được thưởng thưởng đột xuất
vào các năm Minh Mệnh thứ 11(1830), Thiệu Trị năm thứ 2 (1842) (ban thưởng 2
lần) và Tự Đức năm thứ 12 (1858). Đối tượng được ban thưởng không chỉ quân
chính quy mà biền binh mức thưởng không cố định. Không chỉ thưởng chung
(Thiệu Trị năm thứ 2 (1842) biền binh điểm duyệt ở 5 tỉnh Bắc Kỳ và biền binh
diễn tập bắn bù nhìn ở cửa biển Thuận An năm Tự Đức thứ 28 (1875) được vua
thưởng 3000 quan tiền) binh lính còn được thưởng riêng như năm Minh Mệnh thứ
11 (1830) mỗi binh lính được thưởng 1 quan tiền [6; tờ 64 tập 39, ngày 19 tháng 1
năm Minh Mệnh thứ 11 (1830)].
Ngoài ra, binh lính còn được thưởng trong các hoạt động thao diễn và diễn
tập bao gồm cả binh lính ở kinh và lính ở các địa phương.
Đối với thao diễn, binh lính theo hạng được thưởng riêng và thưởng chung.
Về thưởng riêng, theo Châu bản, dưới thời Minh Mệnh binh lính được thưởng 3 lần
vào các năm: Minh Mệnh năm thứ 7 (1826) vua thưởng cho biền binh thao diễn bắn
súng điểu thương “bắn trúng 1 đích được coi như bắn trúng 2 khuyên. Ai bắn trúng 8,9, 10 khuyên đc xếp hạng ưu, thưởng 3 quan, trúng 6,7 khuyên đc xếp hạng bình, thưởng 2 quan, trúng 4,5 khuyên đc xếp hạng thứ, thưởng 1 quan” [28; tờ 288 tập 19 ngày 16 tháng 10, Minh Mệnh năm thứ 7 (1826)], năm Minh Mệnh thứ 11 (1830), triều
Nguyễn thưởng cho biền binh Thanh Nghệ, Bắc thành về Kinh thao diễn [7; tờ 221 tập 39 ngày 21 tháng 2 Minh Mệnh thứ 11(1830)] và binh lính trong Kinh mỗi người 1quan tiền [6; tờ 64 tập 39 ngày 19 tháng 1 Minh Mệnh thứ 11 (1830)].
Với thưởng chung, Minh Mệnh năm thứ 21 (1840) nhà vua “gia ân thưởng hết cho
110
Cẩm Y vệ 20 quan tiền, Cấm Binh 5 doanh 100 quan tiền” [19; tờ 94 tập 78 ngày 29 tháng
6 năm Minh Mệnh thứ 21 (1840)]. Dưới thời vua Thiệu Trị, nhà nước ban thưởng cho
binh lính 3 lần với mức thưởng khác nhau dựa trên định mức lương tháng: năm Thiệu Trị 6 (1846) nhà vua ban thưởng cho binh lính 5 tỉnh Bắc Kỳ “thưởng thêm cho mỗi tên nữa
tháng tiền lương bổng” [40; tờ 46 quyển 33 ngày tháng 5 năm Thiệu trị thứ 6 (1846)], Thiệu Trị năm thứ 7 (1847), triều đình ban thưởng cho biền binh Quảng Trị về kinh thao
diễn trong đó “binh đinh truyền cho thưởng mỗi người 1 tháng bổng tiền lương bổng, lại
chuẩn cho nghỉ ngơi mấy ngày rồi cho về tỉnh” [42; tờ 77 quyển 40 ngày 14 tháng 2 năm
Thiệu Trị thứ 7 (1847)] và nhân lễ Đông hưởng. Dưới thời vua Tự Đức, binh lính và chức quan ở Bình từ“Suất đội cho tới binh lính đều thưởng cho 1 tháng tiền lương bổng” [54;
tờ 49 tập 11, ngày 10 tháng 2 năm Tự Đức 2 (1848)].
Đối với diễn tập, triều Nguyễn khen thưởng nhiều nhất cho các lực lượng
chiến đấu của Tượng binh và Thủy binh. Hình thức chủ yếu là thưởng chung cho
một đội quân. Ví dụ, Minh Mệnh thứ 2 (1821), vua thưởng cho thủy quân diễn tập
trên sông Hương 200 quan tiền, Minh Mệnh 11 (1830) thưởng cho thủy quân “nhân
đầu xuân năm mới, theo thường lệ thao diễn thuỷ quân. Cho thưởng 300 quan tiền”
[29; tờ 31 tập 39 ngày 12 tháng 1 năm Minh Mệnh thứ 11 (1839)].
Như vậy, việc khen thưởng đối với binh lính có thành tích tốt trong tập luyện là
việc làm thường xuyên của các vua triều Nguyễn thể hiện sự coi trọng của nhà nước
đối với sự tinh nhuệ của quân đội khuyến khích binh lính trong tập luyện và chiến đấu.
4.2.3.2. Khen thưởng đối với binh lính trong nhiệm vụ xây dựng và kiến thiết đất nước
Dưới triều Nguyễn, binh lính được ban thưởng cho các hoạt động lao động
sản xuất như sản xuất quân trang quân dụng, binh lính hộ giá, binh lính tham gia các hoạt động sản xuất nông nhiệp và xây dựng các công trình công cộng.
Thưởng cho quân sản xuất quân trang và quân dụng gồm thưởng cho binh
lính đóng thuyền, chế tạo vũ khí.
Đối với binh lính đóng thuyền, việc ban thưởng được các vua triều Nguyễn thực thi vào các năm: Gia Long năm thứ 9 (1810), Minh Mệnh năm thứ 5 (1824) và Thiệu Trị năm thứ 2 (1842). Binh lính thường được thưởng chung với thợ đóng thuyền. Định mức khen thưởng có sự chênh lệch lớn, trong khi năm Gia Long thứ 9
(1810) lính đóng thuyền lê dương được thưởng tới 2.800 quan tiền [89; 802] thì năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) biền binh chế tạo thuyền, dẫn hộ về kinh chỉ được thưởng 30 quan [94; 360].
Đối với binh lính chế tạo vũ khí như đúc súng, tán luyện thuốc súng đạn,
111
chế tạo địa lôi được triều đình ban thưởng vào các năm: Minh Mệnh thứ 2 (1821)
(ban thưởng cho binh lính từ 5 đến 6 tiền), Minh Mệnh năm thứ 12 (1831) (biền
binh đúc súng mới (gan Oanh sơn) được ban thưởng thêm bổng nửa tháng), Thiệu Trị thứ 7 (1847) (triều đình thưởng cho 630 biền binh làm thường xuyên ở xưởng
đúc súng trong kinh 1 tháng lương bổng, 90 biền binh làm phụ nửa tháng lương bổng), Tự Đức năm thứ 6 (1853) (tăng thêm lương tháng cho Cai đội dinh Thần cơ
có công chế tạo đạn chấn địa lôi, đuốc hoả chiến).
Bên cạnh đó, những binh lính sửa chữa vũ khí, chăm sóc voi cũng được ban
thưởng. Ví dụ, Minh Mệnh năm thứ 15 (1834) binh lính mài gọt sửa chữa binh khí 200 quan tiền, Thiệu trị năm thứ 7 (1847), thưởng cho binh lính chăm sóc voi:
Dương Văn Liên và 14 binh lính được thưởng mỗi người 1 tháng tiền lương” [43; tờ
số 9 quyển 43 ngày 1 tháng 4 năm Thiệu trị 7 (1847)].
Thưởng cho binh lính hộ giá vua đi tuần du. Ngoài định lệ ban hành đối với quân
lính đi hộ giá ở Quảng Nam được đặt ra từ năm Minh Mệnh thứ 6 (1825) trong đó quy
định thưởng cho “binh lính thuỷ quân Hùng cự, các bảo phủ Thị Nội, vệ Cẩm y, cơ Thần
sách, thưởng cho mỗi người 1 quan tiền. Ngoài ra đều cấp cho một nửa. Lại nữa, từ sau
trở đi cứ tuân theo lệ này mà làm” [26; tờ 83 quyển 10, ngày 2 tháng 5 năm Minh Mệnh
thứ 6 (1825)] triều Nguyễn còn ban thưởng đối với từng đội quân (chủ yếu là Thân
binh) và định mức khác nhau tùy thuộc vào khoảng cách của quãng đường.
Triều Nguyễn còn thưởng cho binh lính hộ giá viếng thăm lăng của tổ tiên, binh
lính của các phủ đệ đi theo vua yết lăng cũng được ban thưởng. Thiệu Trị năm thứ nhất
(1841), triều đình thưởng cho“binh lính, nhân viên tạp phái và binh lính của các phủ đệ và
các nha môn đều thưởng cho mỗi người 2 mạch tiền” [45; tờ 155 quyển 7 ngày 13 tháng 3 năm Thiệu trị thứ nhất (1841)]. Thiệu Trị năm thứ 5 (1845), biền binh đi theo hộ giá đến
thăm Hiếu Lăng và Hiếu Đông lăng được triều đình thưởng cho 2 ngày lương hộ giá [46;
tờ 153 quyển 30 ngày 20 tháng 3 năm Thiệu Trị thứ 5 (1845)].
Binh lính hộ giá vua đi kiểm tra các hoạt động sản xuất nông nghiệp như kiểm tra đào kênh mương, kiểm tra cấy gặt binh lính hộ giá vua đi nghỉ mát (Minh Mệnh năm thứ 10 (1829)), kiểm tra làm đàn chay tế lễ ở chùa Thiêm mụ (Minh Mệnh năm thứ 2 (1821) đặc biệt, binh lính chờ hầu cũng được ban thưởng. Tài liệu Châu bản ghi lại, Thiệu Trị
năm thứ 6 (1846), vua thưởng cho“binh lính Kinh tượng, Thượng tứ chờ hầu trên đường cùng các binh lính, thợ tạp phái, truyền thưởng cho mỗi tên 1 mạch” [44; tờ 34 quyển 33 ngày 10 tháng 5 năm Thiệu Trị thứ 6 (1846)].
- Khen thưởng đối với binh lính tham gia các hoạt động sản xuất nông nghiệp
112
Dưới triều Nguyễn đặc biệt dưới triều vua Minh Mệnh, công tác khẩn hoang mở
rộng diện tích đất nông nghiệp được đẩy mạnh nhất là vùng Nam Bộ. Binh lính được coi là
một trong những lực lượng quan trọng của nhiệm vụ này. Để thưởng công và khuyến khích binh lính, triều Nguyễn đã ban thưởng cho binh lính chủ yếu bằng tiền với mức
thưởng không cố định. Năm Minh Mệnh thứ 21 (1840), triều đình thưởng cho binh lính khai khẩn ruộng ở Biên Hòa 400 quan tiền, ở An Giang 600 quan tiền [93; 664], cũng
trong năm này biền binh khai khẩn ruộng ở Vĩnh Long chỉ được thưởng 30 quan tiền [20;
tờ 258 quyển 77 ngày 2 tháng 6 năm Minh Mệnh thứ 21 (1840)].
Đối với binh lính tham gia công tác thủy lợi, triều Nguyễn ban thưởng bao gồm cả hình thức thưởng chung và thưởng riêng. Năm Gia Long thứ 7 (1808), vua
thưởng chung cho biền binh nạo vét sông, Minh Mệnh năm thứ 10 (1829) 400 biền
binh đắp đê mới ở làng Đa Hòa thuộc huyện Đông An (nay là huyện Khoái Châu,
Hưng Yên) được triều đình ban thưởng“mỗi người được thưởng 1 tháng lương
bằng tiền” [21; tờ 402 tập 36 ngày 28 tháng 10 năm Minh Mệnh 10 (1829)].
Đối với binh lính làm nhiệm vụ vận tải, Gia Long năm thứ 15 (1816), triều
Nguyễn đặt định lệ thưởng cho binh lính vận tải từ Kinh đến các địa phương và ngược
lại. Theo đó, cứ mỗi lượt thưởng thêm một tháng tiền lương, từ các địa phương vận tải về
Kinh thì thưởng một nửa [89; 926]. Gia Long năm thứ 11 (1812), vua ban hành định lệ
thưởng cho thuyền chở hàng hóa trên biển, lấy số lượng lượt chở làm tiêu chí. Cụ thể,
chở 7 lần thưởng thêm 3 tháng lương, từ 6 lần đến 3 lần đều thưởng 2 tháng lương, 2 lần
thưởng 1 tháng 15 ngày lương, 1 lần thưởng 1 tháng [89; 845].
Sang thời Minh Mệnh năm thứ 7 (1826), triều đình định mức ban thưởng cho
binh lính vận tải trong đó có sự phân biệt giữa binh lính vận chuyển cả 2 chiều và biền binh vận chuyển hàng hóa chỉ có 1 chiều: có hàng hóa thì cấp cho 1 quan tiền,
trở về không thì cấp một nửa” [90; 508].
Trước khi ban hành định lệ ban thưởng cho binh lính trong hoạt động vận
chuyển hàng hóa, Gia Long năm thứ 8 (1809), triều Nguyễn đã thưởng cho lính chở gỗ đá từ Quảng Nam về Kinh dựng các cửa kinh thành như Phó quản cơ cơ Hữu thủy là Lê Văn Duyên, các quân 4.800 quan tiền. Binh lính chở hàng hóa ở các địa phương với mức thưởng như chở hàng hóa đến Kinh và ngược lại. Năm Minh Mệnh
10 (1829), “80 thuỷ thủ phái đi Quảng Bình chở hàng đến trấn Quảng Ngãi mỗi người 1 quan tiền” [22; tờ 45 tập 31 ngày tháng 8 năm Minh Mệnh 10 (1829)].
Những binh lính phái đi tăng cường vận chuyển hàng hóa cũng được triều đình ban thưởng: Minh Mệnh 18 (1837), vua khen thưởng cho 29 biền binh tăng
113
phái mỗi người 5 mạch tiền [23; tờ 90 tập 58 ngày 22 tháng 7 năm Minh Mệnh thứ
18 (1837)]. Đáng chú ý, một số quan binh được thưởng vượt định mức do công
trạng: Minh Mệnh năm thứ 19 (1838), “từ Thủy sư hộ dẫn Đề đốc Vũ Văn Từ cho đến binh lính truyền thưởng mỗi người nửa tháng lương tiền. Thuận An tấn thủ
Đoàn Văn ý, Thủ ngự Phan Tiến Thanh đến các binh lính truyền thưởng đều mỗi người 30 quan” [24; tờ 87 tập 73 ngày 5 tháng 11 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838)].
Dưới triều Nguyễn, binh lính là lực lượng quan trọng tham gia xây dựng các
công trình công cộng như xây và tu sửa cung điện, xây đắp thành quách trong kinh
thành và ở địa phương, xây dựng các công trình phòng thủ quân sự. Hình thức ban phổ biến là thưởng cho binh lính sau khi hoàn thành công trình gồm thưởng chung
cho toàn bộ đội binh hoặc thưởng riêng cho từng binh lính (xem thêm phụ lục 2g).
Về thưởng chung, binh lính được thưởng nhiều nhất vào năm Gia Long năm thứ 18
(1819) sau khi xây mặt sau Kinh thành được ban thưởng 143.360 quan, năm Gia
Long thứ 10 (1811), binh lính xây điện Cần Chánh và Trung Hòa được thưởng
13.500 quan. Binh lính được thưởng riêng nhiều nhất là sau xây đắp Kinh thành:
Minh Mệnh thứ 13 (1832) và Thiệu Trị năm thứ nhất (1841) binh lính xây lăng
Hiếu Đông được thưởng mỗi người 2 tháng lương tiền.
Tuy nhiên, có những công trình binh lính được triều đình thưởng cả khi thi
công và khi hoàn công như binh lính xây dựng điện Thái Hòa năm Gia Long thứ 4
(1805) và xây dựng điện Cần Chánh năm Gia Long thứ 10 (1811).
Việc xây dựng cung điện và xây đắp thành quách trong kinh thành là hoạt
động tiến hành thường xuyên nhất của hoạt động xây dựng các công trình công
cộng. Binh lính xây dựng công trình này cũng có mức thưởng cao hơn binh lính xây dựng các công trình công cộng khác. Trong khi mức phổ biến ban thưởng cho binh
lính là 1 hoặc 2 tháng lương tiền thì năm Gia Long thứ 18 (1819) mỗi binh lính xây
dựng mặt sau Kinh thành được thưởng trung bình là 10 quan.
Triều Nguyễn còn thưởng cho binh lính tham gia các hoạt động khác như: lấy gỗ, đi săn bắn để lấy lễ vật dâng tiến làm lễ tế (Minh Mệnh năm thứ 6 (1826), 14 binh lính Cẩm y, Nội hầu, Thượng trà, Tiểu sai mỗi người 5 mạch tiền [25; tờ 121 quyển 10 ngày 1 tháng 9 năm Minh Mệnh thứ 6 (1825)]; trồng cây và canh giữ
hồ (Minh Mệnh năm thứ 20 (1839) binh lính canh giữ hồ Tĩnh Tâm được vua ban thưởng 100 quan tiền); giải tội phạm (Thiệu Trị 2 (1842) thưởng cho 5 binh lính mỗi người 1 mai ngân tiền và 5 quan tiền [47; tờ 4 tập 21, ngày 9 tháng 1 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842)]; cứu giúp binh thuyền tuần biển gặp bão; coi giữ các tôn
114
lăng (Tự Đức năm thứ 9 (1856) thưởng cho binh lính coi tôn lăng ở Thanh Hoá và
Quảng Nam mỗi người nửa tháng lương gạo và tiền).
Trong đó đặc biệt phải kể tới việc khen thưởng cho binh lính đi theo vệ Giám thành ra Hoàng Sa vẽ bản đồ của triều đình vào năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) và
năm Minh Mệnh thứ 18 (1837). Cụ thể: lính“hướng dẫn là Vũ Văn Hùng và Phạm Văn Sinh đều thưởng cho 3 mai tiền bằng bạc hạng nhỏ. Các binh thợ tham gia đều
thưởng cho mỗi người 1 quan tiền, rồi cho về đơn vị và cục. Dân phu do tỉnh phái,
trừ 2 tên hướng dẫn ra, còn lại đều thưởng cho mỗi người 1 quan tiền” [31; tờ 92
tập 54 ngày 13 tháng 7 năm Minh Mệnh 16 (1835)], [32, tờ 245 tập 57 ngày 13 tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 18 (1837)] cho biết binh dân trong hàng ngũ phải xông
pha đường biển cũng gian lao nên được triều đình ban thưởng ưu hậu.
4.2.3.3. Thưởng nhân dịp Lễ - Tết
Trong các ngày Lễ- Tết, các vua triều Nguyễn thường xuyên ban thưởng cho
Hoàng tộc, bá quan văn võ và binh lính.
Năm Minh Mệnh thứ 6 (1825), nhà nước đặt định lệ thưởng cho lính trạm
nhân dịp tết Nguyên đán và tết Vạn thọ (định mức không được ghi cụ thể).
So với võ quan, việc thưởng cho binh lính ít hơn, có sự phân biệt về định
mức khen thưởng giữa các ngạch binh trong Kinh thành, giữa lính ở trong Kinh và
lính ở tỉnh địa phương, thậm chí một số ngày Lễ- Tết chỉ có binh lính trong Kinh
mới được ban thưởng.
Không chỉ ban thưởng nhân ngày Lễ- Tết, nhân dịp đất nước bình yên được
mùa (năm Thiệu Trị năm thứ 2 (1842) hay khi Bộ Hộ biên tập bộ “Bắc tuần ân
điển” (Thiệu Trị năm thứ 2 (1842) binh lính cũng được ân thưởng.
Một số đặc ân khác đối với binh lính
Triều Nguyễn ban hành một số đặc ân đối với binh lính như cho phép binh
lính được giải ngũ về quê dưỡng ông bà cha mẹ nếu nhà neo người. Định lệ này
được ban hành năm Tự Đức thứ 8 (1855). Theo đó, binh lính nhà có cha mẹ 70 tuổi trở lên, xác thực không có chú, bác, anh, em và cháu ruột, hoặc là có, mà những người ấy còn nhỏ tuổi. Nếu binh lính thuộc ngạch giản binh, quan sở tại giao cho lý dịch, thân nhân ở nguyên quán làm giấy cam đoan, quan phủ, huyện, châu, đạo ấy
đóng ấn xác nhận là đúng sự thực thì cho phép thay thế bằng người khác. Nếu binh lính thuộc ngạch mộ binh, triều Nguyễn cho lý dịch ở địa phương lấy xác nhận của thân nhân và người cùng quê quán rồi cho viên quản suất tuyển và thay bằng dân đinh khác sau đó thông tin lại cho bộ Binh biết [95; 368].
115
Tiểu kết chƣơng 4
Cùng với chế độ đãi ngộ cho võ quan, chế độ đãi ngộ dành cho binh lính là một
trong những chính sách quan trọng nhằm xây dựng một đội quân vững mạnh của triều
Nguyễn. Binh lính được đãi ngộ bằng lương và các khoản ngoài lương khác như phụ cấp
khi đi làm nhiệm vụ ở vùng biên viễn hoặc nơi có khí hậu khắc nghiệt, trợ cấp khi trận
thương, trận vong, nạn gió bảo hay khen thưởng khi lập công.
Lương của binh lính được chi cấp bằng ruộng đất và Ruộng của binh lính
được ban cấp gồm lương điền và ruộng khẩu phần tùy theo ngạch binh và chức
năng, nhiệm vụ. Ruộng theo mỗi khẩu phần của các địa phương không giống nhau
nên trong một ngạch binh số ruộng nhận được của binh lính nhiều hay ít tùy thuộc
vào diện tích công điền của địa phương. Tuy diện tích công điền công thổ ngày
càng bị thu hẹp, tuy nhiên, binh lính vẫn là đối tượng được ưu ái trong chính sách
ban cấp quân điền của triều Nguyễn.
Mức khen thưởng và ưu cấp của nhà nước đối với binh lính thường dựa trên công
việc cụ thể mà không ban hành theo định lệ, trong đó có chính sách đối với binh lính bị
trận thương, trận vong, nạn bão được coi là chính sách quan trọng, phần nào thể hiện tư
tưởng nhân đạo của nhà nước. Những chính sảch này có ý nghĩa rất lớn nhất là khi nhân
dân ta đang đương đầu với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược.
Chế độ khen thưởng, đãi ngộ của triều Nguyễn đối với binh lính tham gia
trận mạc, những người có công với đất nước, những người thiệt thòi trong chiến
tranh như bệnh binh, tử sĩ, đối tượng như vợ góa con côi của binh lính trận vong có
ý nghĩa quan trọng góp phần động viên kịp thời và phần nào thể hiện tư tưởng nhân
đạo của vương triều Nguyễn.
116
Chƣơng 5.
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI
QUÂN ĐỘI DƢỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802-1884
5.1. Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn trong cái nhìn so sánh lịch đại 5.1.1. Sự khác nhau của chế độ đãi ngộ đối với quân đội qua hai giai đoạn trước
và sau năm 1858
Chế độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884
được ban hành dưới thời kỳ trị vì của các vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức chịu sự chi phối bởi bối lịch sử khác nhau. Từ năm 1802 đến năm 1858 là
thời kỳ hòa bình, vương triều mới thành lập sau thời gian dài chia cắt đất nước. Từ
năm 1858 đến năm 1884, sau thời gian củng cố và xây dựng vương triều, nhà
Nguyễn phải đối mặt với cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Những thay đổi của
hoàn cảnh đất nước, nhiệm vụ của quân đội đã tác động đến chính sách của triều
Nguyễn đối với võ quan và binh lính ở từng giai đoạn.
5.1.1.1. Từ năm 1802 đến năm 1858
Chế độ đãi ngộ cho quân đội giai đoạn này được thực thi từ triều vua Gia Long
đến 10 năm đầu dưới sự cai trị của vua Tự Đức. Ở thời kỳ đầu, dưới sự cầm quyền của
vua Gia Long, vương triều được thành lập sau thắng lợi của các cuộc giao chiến lật đổ
vương triều Tây Sơn lấy lại quyền cai trị cho dòng họ Nguyễn. Do đó, những chính sách
về khao thưởng cho binh lính, đãi ngộ cho các công thần vào sinh ra tử cùng vua Gia
Long được triều đình ưu tiên hàng đầu. Công thần được ban cấp bổng lộc, tiền, ruộng
đất. Con cháu của họ cũng được hưởng chế độ đãi ngộ của triều đình.
Đồng thời, đây cũng là thời kỳ triều Nguyễn xác lập vai trò của dòng họ trên
cả nước. Vì vậy, vua Gia Long đã ban hành những chế độ nhằm thống nhất sự quản
lý của vương triều trên mọi lĩnh vực đặc biệt là về chính trị trong đó có lực lượng
quân đội. Chế độ đãi ngộ bằng lương, bổng lộc cho võ quan và binh lính Bắc Thành sau đó thống nhất trên cả nước được ban hành.
Ngoài ra, đất nước được khôi phục sau thời gian binh đao, triều đình định đô ở vị trí mới, binh lính là lực lượng lớn triều đình sử dụng để khôi phục và xây dựng
các công về thành quách, cung điện Do vậy, triều đình đã ban thưởng và trợ cấp một số lượng tiền bạc lớn cho bộ phận binh lính tham gia xây dựng công trình này nhất là khi các công trình hoàn thành.
Ngày từ thời Gia Long, quân đội đã phải đi đánh dẹp những cuộc nổi dậy
117
trong nước nên những chính sách về khen thưởng, trợ cấp cũng như chính sách đãi
ngộ tuy đã được vua ban hành.
Sau thời gian khôi phục đất nước dưới triều vua Gia Long, chế độ phong kiến ổn định và phát triển dưới triều vua Minh Mệnh. Thời kỳ này quân đội được
củng cố, tổ chức quân đội và số lượng tăng lên. Từ kết quả nghiên cứu về tổ chức, số lượng quân lính cho thấy thời Minh Mệnh quân đội có tổ chức hoàn thiện, số
lượng quân đông nhất trong thời kỳ độc lập của vương triều Nguyễn đặc biệt là sự
lớn mạnh của lực lương thủy binh. Đồng thời quân đội thời kỳ này được sai phái đi
đánh dẹp các cuộc nổi dậy chống triều đình của các tầng lớp nhân dân cũng như chống lại sự xâm lược của quân Xiêm. Do vậy, thời kỳ này các chính sách đối với
quân đội của triều đình thời gian này chú trọng đến tăng lương bổng, ban hành chế
độ cho các đội quân mới lập và chi cấp một khối lượng lớn ngân khố để nuôi quân.
Chế độ khen thưởng ưu hậu đối với võ quan và binh lính lập được nhiều công trạng
trong đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa lớn được vua
Minh Mệnh quan tâm thực hiện.
Dưới thời vua Thiệu Trị, chế độ đãi ngộ dành cho quân đội không có sự thay
đổi đáng kể nhất là chế độ chi cấp thường xuyên như lương của võ quan và binh
lính. Những năm đầu dưới triều vua Tự Đức mặc dù trước âm mưu xâm lược của
chủ nghĩa tư bản phương Tây nhưng chính sách của vua Tự Đức thời kỳ này đối với
quân đội vẫn duy trì như chế độ của các vua thời kỳ trước.
5.1.1.2. Từ năm 1858 đến năm 1884
Đây là giai đoạn có sự thay đổi quan trọng trong chế độ đãi ngộ của vua Tự
Đức so với các triều vua trước, dưới tác động của thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Triều Nguyễn một mặt phải giữ vững nội trị chống lại các cuộc nổi dậy của
các lực lượng chống đối vừa phải chống giặc ngoại xâm. Bên cạnh những chi cấp
như giai đoạn trước, vấn đề lớn nhất lúc này là vua Tự Đức phải thực hiện chính
sách lương bổng và trợ cấp phù hợp cho đội quân được sai phái đi các mặt trận chống lại quá trình xâm lược của thực dân Pháp. Với việc đổi chiến thuật từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “tằm ăn lá”, quân Pháp lần lượt tấn công Đại Nam ở các vị trí Đà Nẵng, Gia Định, các tỉnh Nam Kỳ, Bắc Kỳ và Huế. Triều đình phải phái
các võ tướng (như Nguyễn Tri Phương) cùng số quân lớn tới các chiến trường một mặt xây dựng thành lũy và dồn bốt ở các vị trí xung yếu để ngăn sự tấn công của quân đội Pháp một mặt tổ chức kháng chiến. Nhiệm vụ này đòi hỏi triều đình không chỉ tiêu tốn một khoản ngân khố lớn để trợ cấp cho quân di chuyển mà còn phải trợ
118
cấp cho những tướng sĩ trận thương, trận vong sau mỗi trận đánh.
Ngoài ra, sau những Hiệp ước được ký kết năm 1862, 1874 của triều đình
Huế với thực dân Pháp, triều Nguyễn không chỉ mất những quyền lợi về thương mại, buôn bán mà còn chịu những gánh nặng về bồi thường chiến phí. Đặc biệt là
việc lần lượt để mất 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ sau đó là 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ cho Pháp đã ảnh hưởng lớn tới nguồn thu trong quốc khố của triều đình.
Trong bối cảnh chi phí lớn cho chiến tranh, nguồn tài chính ngày càng khó khăn,
từ sau năm sau từ năm 1858 vua Tự Đức có một số điều chỉnh về chế độ đãi ngộ đối với
quân đội trong đó một số chính sách được triều đình coi trọng hơn thời kỳ trước.
Chính sách đáng chú ý nhất là việc thay đổi định mức lương của quan lại cao
cấp (bao gồm võ quan, văn quan và Hoàng tộc). Từ Ngũ phẩm trở xuống, định mức
lương không có điều chỉnh đáng kể nhưng từ Tứ phẩm trở lên, định mức cả lương
tiền và gạo điều điều chỉnh giảm xuống. Những chính sách này ít nhiều ảnh hưởng
đến đời sống vật chất của bộ phận võ quan cao cấp. Nhưng xét về cơ bản không tác
động nhiều đến kết quả chống ngoại xâm của dân tộc. Bởi lẽ, bộ phận võ quan cao
cấp từ Tứ phẩm trở lên chiếm số lượng không lớn trong tổ chức quân đội, bên cạnh
đó bộ phận này còn được hưởng những quyền lợi khác như phụ cấp trợ cấp. Đối
tượng nhiều nhất trong bộ phận võ quan, tham gia trực tiếp trong chiến tranh là bộ
phận võ quan nhỏ từ ngũ phẩm trở xuống chế độ lương về cơ bản không thay đổi.
Do vậy, việc điều chỉnh định mức lương của võ quan cao cấp từ Ngũ phẩm trở lên
không tác động nhiều đến tinh thần binh sĩ trong kháng chiến chống Pháp.
Trong chính sách phụ cấp và trợ cấp cho quân đội, triều đình quan tâm đặc
biệt tới võ quan và binh lính trực tiếp tham gia kháng chống ngoại xâm như phụ cấp đi đường khi di chuyển quân, đóng giữ ở chiến đấu ở chiến trường và thưởng công.
Khác biệt với giai đoạn trước năm 1858, trong chính sách ban thưởng của vua
Tự Đức đối với võ quan và binh lính được ban thưởng ít hơn thời kỳ trước nhất so với
triều vua Minh Mệnh. Đối tượng ban thưởng ở đây phần lớn là ban thưởng theo cá nhân và có công trạng đặc biệt.
Điểm đáng chú ý nhất trong chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn thời kỳ này là chế độ trợ cấp của nhà nước đối với võ quan và binh lính gặp nạn khi tham
gia chiến trận. Trợ cấp đối với võ quan trận thương trận vong và thân nhân của họ là chính sách được triều Nguyễn chú trọng thời kỳ này. Chế độ trợ cấp của triều Nguyễn có sự phân biệt giữa võ quan thua trận võ quan gắng sức lập công bị thương, trận vong. Trong đó những người lập được công trạng được nhận chế độ đãi ngộ đặc biệt.
119
Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa nổi dậy chống lại
vương triều. Chính vì vậy, triều Nguyễn vẫn phải thực hiện trợ cấp cho binh lính đi
đánh dẹp và ban thưởng cho võ quan và binh lính có công như các triều vua trước.
Bên cạnh đó, thời kỳ này vua Tự Đức vẫn phải duy trì chế độ lương, phụ cấp
và trợ cấp đối với quân lính như trước kia. Những chính sách về ruộng đất đối với binh lính, lương, khen thưởng đối với võ quan cấp thấp từ Ngũ phẩm trở xuống vẫn
được duy trì.
Do vậy, chế độ đãi ngộ đối với quân đội trong 26 năm còn lại (từ 1858 đến
1884) của thời kỳ độc lập dưới sự cai trị của vua Tự Đức vừa có những điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của đất nước đồng thời vẫn duy trì những
chính sách đãi ngộ của thời kỳ trước nhằm thực hiện song song hai mục tiêu: ổn
định trật tự trong nước và chống ngoại xâm.
5.1.2. Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với quân đội trong mối tương quan
với các triều đại trước
So sánh với các triều đại trước, không khó để nhận thấy chế độ đãi ngộ của triều
Nguyễn đối với quân đội từ năm 1802 đến năm 1884 nổi lên mấy điểm như sau:
Thứ nhất, chế độ đãi ngộ dưới Nguyễn được xây dựng trên cơ sở kế thừa
những chính sách lương bổng dành cho quân đội của các triều đại trước.
Chính sách đãi ngộ đối với võ quan và binh lính của triều Nguyễn không chỉ
kế thừa một số nội dung của chính sách về lương, trợ cấp và khen thưởng mà còn kế
thừa tính giai cấp trong chính sách ban cấp và sự quan tâm của nhà nước dành cho
quân đội của các triều đại trước.
Trong thời kỳ quân chủ, nông nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo, ruộng đất là tư liệu sản xuất chính. Đây cũng là nguồn bổng lộc, tài sản quý nhất mà triều đình ban
cấp cho quan lại cũng như những người có công lao đối với vương triều. Bắt đầu từ
triều Trần, vua đã lấy ruộng đất ban cấp cho quý tộc (trong đó có bộ phận lớn là võ
quan) làm bổng lộc. Những Thái ấp của các quý tộc Trần vừa giúp quý tộc đảm bảo cuộc sống vừa là nơi phát triển quân đội đồng thời làm phiên dậu cho kinh thành.
Thời Lê Sơ, việc chia ruộng đất làm bổng lộc cho võ quan và binh lính được thực hiện ngay từ khi Lê Lợi lên ngôi, sang thời vua Lê Thánh Tông chế độ này
được cụ thể hóa bằng chính sách Lộc điền và quân điền. Thời Mạc, chiến tranh giữa các thế lực phong kiến nổ ra, binh sĩ là lực lượng được triều đình quan tâm ưu ái, vì vậy không chỉ quan lại mà binh lính cũng được hưởng ruộng lộc. Đặc biệt, dưới triều Lê Trung Hưng binh lính được chia thành nhiều hạng và hưởng định mức khác
120
nhau về ruộng đất tùy theo vai trò và nhiệm vụ. Trong đó binh lính thân cận với nhà
vua được hưởng nhiều quyền lợi hơn các ngạch binh khác.
Dưới triều Nguyễn, võ quan và binh lính ngoài được cấp lương bổng bằng tiền và gạo còn được triều đình ban thưởng bổng lộc và lương bằng ruộng đất.
Không chỉ được hưởng ruộng quân điền theo chế độ chia cấp ruộng đất của làng xã mà dân đinh khi đi lính còn được hưởng lương bằng ruộng đất. Như vậy, có thể thấy
triều Nguyễn đã tiếp tục kế thừa chính sách ban cấp cho binh lính bằng tư liệu quan
trọng nhất của nền kinh tế nông nghiệp đó chính là ruộng đất.
Chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn kế thừa sự bảo vệ quyền
lợi cho giai cấp cầm quyền của các triều đại trước
Ngay từ triều Trần, việc ban Thái ấp cho quý tộc (trong đó hầu hết là các võ
tướng) đã thể hiện tư tưởng bảo vệ chế độ quân chủ quý tộc. Với chính sách này,
các võ tướng là các quý tộc Trần làm chủ các Thái ấp. Bên cạnh được sử dụng một
diện tích ruộng đất lớn họ còn có một số quyền lợi khác như được lập quân đội
riêng. Tính giai cấp trong chính sách đối với quân đội được thể hiện rõ hơn dưới
triều Lê Sơ. Khi đánh giá về việc vua Lê Thái Tổ đã thực hiện phép quân điền, tác
giả Phan Huy Lê đã nhận xét:“Chế độ quân điền thời Lê có thể một phần nào xuất
phát từ quyền lợi của binh lính - những người dân đã hy sinh chiến đấu, đưa Lê Lợi
ngôi báu - chẳng hạn như ưu tiên cho quân lính được phần ruộng nhiều hơn dân
thường” [148; 115].
Dưới triều vua Lê Thánh Tông, triều đình ban hành chính sách Lộc điền cho
võ quan. Trong chính sách này, có sự phân biệt về quyền lợi giữa quan lại có phẩm
hàm cao (từ Tứ phẩm trở lên) và quan lại có phẩm hàm thấp (từ Ngũ phẩm trở xuống).
Theo đó, chỉ những quan lại cấp cao mới được hưởng chính sách Lộc điền,
một phần của Lộc điền là Thế nghiệp điền được nhà nước ban cấp vĩnh viễn, trở
thành tài sản riêng và võ quan mới có quyền sở hữu ruộng đất đó. Võ quan phẩm hàm thấp từ Ngũ phẩm trở xuống chỉ được hưởng ruộng quân điền.
Thời Lê Trung Hưng, nội dung bảo vệ quyền lợi cho gia cấp cầm quyền trong chính sách lương bổng và trợ cấp cho quân đội được biểu hiện rõ nét nhất. Sự ưu ái
thể hiện ở việc ưu cấp cho những binh lính có công đối với vương triều, binh lính có xuất thân là quê cũ của dòng họ nhà vua và binh lính xuất thân hoàng tộc trong chính sách ruộng đất của triều Lê Trung Hưng năm 1711. Trong đó, ruộng công làng xã bất kể nhiều hay ít thì mỗi người lính vẫn được chia theo số ruộng quy định trước, sau đó
121
còn lại mới chia cho dân.
Ngoài ra, chế độ đối với quân đội dưới triều Nguyễn còn kế thừa những
chính sách về việc khen thưởng cho quan binh sau khi thắng trận, ưu đãi đối với công thần và những người có công đối với vương triều của các triều đại trước. Những chính
sách này đã đã được thực thi từ triều Lý Trần và trong đó chính sách đối với công thần là chính sách nổi bật dưới thời các chúa Nguyễn. Trong đó chế độ đãi ngộ đối với công
thần, chúa Nguyễn đặc biệt ưu ái cho quan quân vùng Thanh - Nghệ Tĩnh đặc biệt là
quân lính có gốc gác vùng Tống Sơn, đồng huyện với dòng họ nhà chúa, mà tổ tiên đã
từng hỗ tòng chúa Nguyễn Hoàng và làm Tổng trấn xứ Thuận Hóa.
Dưới thời các chúa Nguyễn, các đinh tráng người huyện Tống Sơn thường
được bổ làm quan chỉ huy. Theo Lê Quý Đôn,“Họ Nguyễn chuyên dùng người dòng
họ mình, huyện mình và xứ Thanh Hoa. Chưởng dinh, Chưởng cơ, Cai cơ, Cai đội
không phải hạng ấy thì không được sung tuyển. Con cháu họ đời đời được nhiêu
miễn” [63;131]. Trên thực tế ngay cả Đội trưởng cũng chỉ bổ nhiệm người huyện
Tống Sơn, hay người theo chúa Nguyễn Hoàng vào Đàng Trong [63;158].
Bên cạnh đó, việc ban cấp lương bổng cho võ quan theo phẩm trật cho võ
quan được triều Nguyễn kế thừa từ chính sách ban cấp Lộc điền dưới triều vua Lê
Thánh Tông. Quan lại phân được nhận số ruộng lộc nhiều ít khác nhau dựa trên
phẩm hàm cao hay thấp. Bên cạnh đó, chính sách đãi ngộ như cấp cấp tuất và ruộng
đất cho võ quan và binh lính chết trận được tiếp nối từ triều chúa Trịnh Cương được
ban hành năm 1707, chính sách đối với võ quan về hưu được chúa Trịnh ban hành
vào năm 1720.
Theo chế độ này, võ quan về hưu được cấp bổng lộc gồm tiền nộp của một số xã (gọi là huệ dưỡng dân lộc) và tiền theo định lệ ban cấp của nhà nước đồng
thời khi chết được cúng tế và nhận tiền tuất. Theo Lịch triều hiến chương loại chí,
phần quan chức chí thì Chánh nhất phẩm được cấp 500 tiền tuất và 200 tiền cúng tế.
Thứ hai, chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn là chế độ hoàn
chỉnh nhất trong lịch sử xây dựng chính sách cho quân đội dưới thời kỳ quân chủ.
Trên cơ sở kế thừa chế độ đãi ngộ đối với quân đội của các triều đại trước, triều Nguyễn đã bổ sung và hoàn thiện hơn những chính sách lương bổng, trợ cấp
và phụ cấp của triều đình cho quân đội so với các triều đại trước cả về định chế, cách thức, đối tượng và vật phẩm được ban cấp.
Xét những nội dung đã trình bày ở chương 3 và chương 4, dễ dàng nhận ra rằng, chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với quân đội được chuẩn hóa về định chế
122
ban hành so với các vương triều trước. Các triều đại trước Nguyễn, việc ban hành
thành định chế mới dừng ở việc quy định định mức lương bổng cho võ quan và binh
lính. Ví dụ, dưới triều Lê Sơ, triều đình mới chỉ ban hành chế định về chế độ Lộc điền cho quan lại có phẩm hàm cao và chế độ quân điền cho võ quan có phẩm hàm
thấp và binh lính. Sang thời Mạc cũng mới chỉ có định lệ về ruộng “quan điền” cho binh lính.
Đến triều Nguyễn, không chỉ ban hành những định chế về bổng lộc cho võ quan
và chế độ lương điền cho binh lính mà triều Nguyễn còn có những quy định rõ ràng về
thủ tục nhận lương như thời gian, địa điểm, các bước và cơ quan chịu trách nhiệm cấp phát, các loại tiền được nhận với định mức lương cụ thể. Bên cạnh đó, triều Nguyễn
còn có những quy định rõ ràng về định mức lương, phụ cấp, trợ cấp và khen thưởng
cho các đối tượng khác nhau: võ quan đương chức, võ quan về hưu, binh lính tại ngũ
và binh lính xuất ngũ, võ quan, binh lính gặp nạn trong quân ngũ và thân nhân võ quan
và binh lính. Tuy thời điểm ban hành không thống nhất nhưng nhiều chế độ đãi ngộ
cho võ quan và binh lính đã ban hành thành định chế thực thi trên cả nước.
Điều này chứng tỏ sự thống nhất trong quản lý của triều Nguyễn trong quản
lý và chế độ đối với quân đội, như nhận xét của Hà Duy Biển (2015): “Cách tính
lương bổng của quan lại Bộ Binh triều Minh Mệnh cho thấy sự chặt chẽ và cụ thể
trong tính toán, dự liệu nhiều trường hợp đặc thù nhằm đảm bảo cho quá trình tính
lương được chính xác, minh bạch và thống nhất. Các quy định này phần nào thể
hiện tính nhân văn, khoan hậu đối với quan lại trung thành, tận tụy với vương
triều” [117; 49].
Chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884 được mở rộng về đối tượng hơn so với chế độ lương bổng và trợ cấp đối với binh lính của
các triều đại trước.
Như đã trình bày ở trên, dưới thời Lê Sơ, chính sách bổng lộc cho quan lại
mới dừng lại ở việc ban cấp cho quan lại có phẩm hàm lớn (từ Tứ phẩm trở lên).
Dưới triều Nguyễn, tất cả quan lại từ gồm lục phẩm và mỗi bậc chia ra thành Chánh và Tòng đều được hưởng bổng lộc theo thứ bậc. Việc ban cấp bổng lộc cho cả võ quan có phẩm hàm thấp thể hiện sự động viên cả về vật chất và tinh thần của
triều đình đối với bộ phận võ quan chiếm đa số đồng thời có ảnh hưởng đến sự lớn mạnh của quân đội cũng như sự ổn định của tình hình chính trị đất nước.
Đây là bộ phận có vai trò trực tiếp tham gia các hoạt động đánh dẹp các cuộc nổi dậy trong nước và chống các thế lực bên ngoài nhất là đối với một triều đại có
123
nhiều cuộc nổi dậy chống chính quyền như triều Nguyễn. Đối với quân lính, không
chỉ quân đội chính quy của nhà nước mà triều Nguyễn còn thực hiện chế độ lương
và trợ cấp cho cả mộ binh, hương dõng đặc biệt là đối với binh lính tham gia chiến trận. Những đối tượng liên quan đến võ quan và binh lính như vợ, cha mẹ, con,
cháu cũng được hưởng chế độ đãi ngộ của triều đình.
Đối với chế độ đãi ngộ, ngoài chế độ cho công thần và cấp tuất như thời kỳ
trước, dưới triều Nguyễn còn thực hiện ban cấp đối với binh lính bị ốm đau, trận bị
thương, trận vong cũng như chính sách đối với thân nhân của họ. Chính sách này
cho thấy sự quan tâm của nhà nước không chỉ đối với binh lính có công mà còn đối với những người lính gặp hoạn nạn trong quân ngũ.
Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với quân đội còn được cụ thể hóa về
biện pháp thực hiện. Đặc điểm này được thể hiện ở cả cách thức và định mức ban
cấp phù hợp đối với từng đối tượng.
Về cách thức thực hiện, triều Nguyễn đưa ra những quy định rõ ràng. Trong
chế độ trợ cấp, định mức ban cấp đối với binh lính bị ốm, lính bị trận thương hay
trận vong đều được quy định cụ thể. Võ quan và binh lính bị ốm được triều đình
quy định cụ thể về việc chữa trị và sử dụng sau khi khỏi bệnh. Binh lính đi làm
nhiệm vụ, tùy từng địa điểm và thời tiết mà nhà nước ban cấp vật phẩm phù hợp
như đối với lính làm nhiệm vụ ở nơi giá rét thì ban cấp thêm áo, ở nơi nóng bức thì
phát thêm thuốc men và dược liệu.
Về định mức, triều Nguyễn cũng đưa ra định mức cụ thể với từng đối tượng.
Việc này được hiện thực hóa từ triều vua Gia Long đến triều vua Tự Đức. Dưới
triều Gia Long, ngay khi lên ngôi, triều đình đã thực hiện chế độ đãi ngộ đối với công thần. Trong đó quy định rõ ràng, tùy theo năm tham gia, tùy theo cống hiến
cho vương triều mà có chế độ đãi ngộ phù hợp.
Sang triều Minh Mệnh, việc trợ cấp đi đường cho bộ binh, triều đình cũng
quy định cụ thể quãng đường quy ra ngày đường, đối với những binh sĩ trận vong tùy theo sự cố gắng và công trạng mà chia ra các hạng khác nhau; chế độ lương điền cho binh lính cũng được quy định rõ ràng về định mức dựa trên số lượng công việc và nhiệm vụ được giao của từng ngạch binh.
Đến thời Tự Đức, triều đình có những quy định rõ ràng về chế độ cấp tuất
đối với từng đội quân khi đi làm nhiệm vụ.
Bên cạnh đó, các chính sách của triều Nguyễn đối với quân đội có những điều chỉnh phù hợp với nhiệm vụ cũng như hoàn cảnh xã hội. Ví dụ mức lương triều
124
Gia Long đến Minh Mệnh võ quan phẩm hàm cao được điều chỉnh giảm đi, trong
đó chính sách đối với võ quan phẩm hàm thấp tăng lên đảm bảo cho đời sống của
võ quan cấp thấp và gia đình của họ. Những điều chỉnh này nhằm cân bằng hơn về khoảng cách quyền lợi giữa võ quan phẩm hàm cao, có trọng trách lớn đối với
vương triều đồng thời động viên võ quan nhỏ, những người khi có chiến sự là đối tượng chủ yếu trực tiếp tham gia chiến trận.
Chế độ đãi ngộ cho võ quan và binh lính dưới triều Nguyễn còn phong phú
hơn về vật phẩm thưởng cấp. Đối với binh lính, triều Lê Sơ, binh lính chỉ được cấp
ruộng khẩu phần theo định mức chung của làng xã, sang thời Nguyễn, ngoài ruộng ban cấp theo lệ quân điền, binh lính còn được ban cấp lương điền. Với chế độ này,
rõ ràng binh lính được ưu cấp hơn so với các triều đại trước.
Võ quan và binh lính khi đi làm nhiệm vụ đưới triều Nguyễn còn được nhận
được nhiều khoản phụ cấp dựa theo tính chất của công việc. Chính sách này dưới
thời kỳ trước không được tài liệu nào ghi lại. Ngoài ruộng đất, võ quan và binh lính
còn được thưởng cấp phẩm hàm, vải lụa, châu báu, thẻ bài, thuốc men, quần áo...
tùy trường hợp cụ thể. Ví dụ võ quan có công lao trong chiến trận như Tạ Quang
Cự, Nguyễn Tri Phương... ngoài ban cấp tiền bạc còn được triều đình thăng thưởng
phẩm hàm, vải lụa, ngọc...Hoặc khi ra trận bị ốm, trận thương, trận vong triều có
chế độ trợ cấp ưu hậu đối với binh sĩ đặc biệt là đối với võ quan. Ngoài cấp tuất võ
quan còn được ban cấp phẩm hàm, tế lễ, xây đền thờ, cho con cháu được hưởng một
số quyền lợi như được ấm thụ, được học trường Anh Danh...
Có thể thấy, những chính sách lương, trợ cấp và khen thưởng của triều
Nguyễn đối với quân đội bao gồm võ quan và binh lính được xây dựng trên cơ sở kế thừa những chính sách sơ khai thực hiện dưới các thời Lý Trần và được thực
hiện quy củ hơn dưới triều Lê Sơ, chịu tác động trực tiếp nhất là chính sách của
triều Lê Trung Hưng.
Triều Nguyễn đã kế thừa những chính sách đó và trong quá trình thực hiện có những điều chỉnh phù hợp với bối cảnh lịch sử và tiềm lực kinh tế của vương triều. Không thể phủ nhận rằng, so với chính sách của thời kỳ trước, chính sách của nhà nước thời Nguyễn đối với quân đội được thực hiện toàn diện hơn, đội ngũ võ
quan và binh lính cũng được triều đình ưu ái hơn.
5.2. Một số đặc điểm về chế độ đãi ngộ đối với quân đội dƣới triều Nguyễn
5.2.1. Chế độ đãi ngộ đối với quân đội thể hiện sự phân biệt thứ bậc rõ rệt gắn
với từng đối tượng cụ thể
125
Mục đích cuối cùng của chế độ đãi ngộ đối với quân đội là nhằm xây dựng
một đội quân mạnh, trung thành với nhà nước, ổn định tình hình nội trị và chống
các thế lực ngoại xâm đem lại cuộc sống hòa bình cho nhân dân. Tuy nhiên dưới thời quân chủ, bảo vệ nhà nước trước hết là bảo vệ chế độ chuyên chế của vua và
hoàng tộc. Do vậy trong chế độ đãi ngộ của nhà nước đối với quân đội, binh lính xuất thân hay có quan hệ và gắn lợi ích đối với vua và hoàng tộc luôn được nhà
nước bảo vệ quyền lợi không phải là việc đặc biệt. Đặc điểm này được thể hiện
không những trong tổ chức của quân đội mà còn thể hiện trong chế độ đối với võ
quan và binh lính.
Đối với tổ chức ngạch binh, một bộ phận con cháu trong hoàng tộc được
tuyển vào làm lính Thân binh (vệ Tuyển Phong). Đây là ngạch binh bảo vệ trực tiếp
cho vua và hoàng tộc đồng thời đây cũng là bộ phận được hưởng quyền lợi cao nhất
trong các chính sách của nhà nước, từ lương, phẩm trật đến chế độ ban thưởng khác.
Ngoài ra, võ quan là người trong tôn thất khi đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy
hoặc đánh giặc ngoại xâm bị trận vong, trận thương định mức ban thưởng cũng cao
hơn những võ quan khác. Điều này thể hiện mục đích của vua Nguyễn muốn duy trì
và củng cố sự trung thành của bộ phận binh lính trong tôn thất đối với dòng họ của
mình đồng thời cũng là một cách nhà nước duy trì sự cai trị của mình thông qua bộ
phận thân tộc của dòng họ.
Bên cạnh đó, triều Nguyễn ban hành chế độ ban cấp ưu hậu đối với quân lính
quê ở vùng Thanh - Nghệ nhất là đối lính quê ở Tống Sơn, quê hương của nhà
Nguyễn. Chính sách này bắt nguồn từ chế độ ưu cấp của nhà Lê - Trịnh đối với
quân ở Thanh Nghệ. Đây là bộ phận binh lính có công lớn cùng vua tham gia trận mạc trong nội chiến Lê – Mạc và giữ vững được vương triều, bộ phận này còn được
gọi là quân Tam phủ. Ngay từ khi lập nước, dưới triều vua Gia Long, triều đình đã
thực hiện nhiều chính sách ưu cấp đối với binh lính quê ở Tống Sơn.
Năm Gia Long thứ 2 (1803), vua đã dụ cho bộ Binh: “Người Tống Sơn đều là chỗ thân thích quê hương, theo đức Thái tổ ta vào trấn phương Nam, lập nhiều công lao, con cháu đời đời cùng nước hưởng Phước. Nhưng vì vận nước suy sút, phải tản cư trong dân gian. Nay lấy lại đô cũ thì người ta ai cũng tìm người cũ” [89; 455] bèn
cho ghi tên con cháu công thần ở Tống Sơn ở trong quân hay trong dân để lượng ghi dùng. Đồng thời vua Gia Long cho người liệt kê tổng công được 469 người công tính (họ nhà chúa) cùng con cháu các bề tôi cho tập ấm và miễn dao dịch.
Năm 1811 đời vua Gia Long, vua lệnh miễn tô thuế cho dân ở Tống Sơn
126
và cấp thêm tiền gạo cho binh lính. Thực lục cho biết, vua thấy Tống Sơn là đất
thang mộc, cội gốc ở đó nên muốn ra ân đặc biệt, hạ chiếu cho phép từ nay tô
thuế dao dịch đều được miễn, đồng thời thực hiện ban cấp:“Những binh ở vệ Tín uy Thị nội mỗi năm cấp cho mỗi người 12 phương gạo, như có sai phái việc
quân thì cấp cho lương tháng khác (1 quan tiền 1 phương gạo), hằng năm cứ tháng 12 thì đòi về tập hợp ở Kinh. Tại trấn thì cấp quần áo, 3 quan tiền và một
tháng tiền lương (1 quan 5 tiền), đến Kinh thì chiếu theo lệ lương của binh Tả
hầu Hữu hầu và Trung nhất mà cấp. Rồi hạ lệnh cho các thành dinh trấn, phàm
binh các đội thuyền Bính quê ở Tống Sơn thì quan thống quản không được sai bừa làm việc vặt, để tỏ phân biệt” [89; 812].
Năm Tự Đức thứ 9 (1856), nhà nước thống nhất tiền lương cho lính Thủ hộ có
sự phân biệt giữa lính quê ở Thừa Thiên và lính Quảng Nam với lính quê ở Tống Sơn.
Trong khi lính ở Tống Sơn được một tháng được 5 tiền, 1 phương gạo thì lính ở 2 địa
phương còn lại mỗi tháng chỉ được mỗi người 1 phương gạo [95; 480].
Ngoài ra, đối với lính Thanh Nghệ - vùng đất khởi nghiệp của các chúa
Nguyễn triều đình cũng có những chính sách ban cấp ưu hậu. Định lệ cấp lương
năm Gia Long thứ 2 (1803) cho biết, triều đình ban cấp tiền lương tháng cho các
biền binh Thanh Nghệ là lính hộ giá [89; 575]. Không chỉ được ban cấp lương, lính
quê ở vùng đất này còn được triều đình ban cấp tiền may quần áo. Lính giản ở
Thanh Nghệ từ năm Gia Long thứ 12 (1813) được lĩnh 3 quan vào tháng 12 hàng
năm và tự đi may quần áo. Tự Đức năm thứ 14 (1861), thực hiện chế độ ban thưởng
riêng cho 1487 biền binh hai tỉnh Thanh, Nghệ đến Kinh thao diễn mỗi người 1
quan tiền, 1 đĩnh bạc.
Sự ưu ái đặc biệt này lý giải tại sao trong thời gian cầm quyền của vương triều
Nguyễn, các cuộc khởi nghĩa nổ ra liên tiếp ở Bắc kỳ, Bắc Trung kỳ và Nam kỳ nhưng
không có cuộc khởi nghĩa nào nổ ra ở vùng Thanh Hóa Nghệ An và Hà Tĩnh.
Sự phân chia thứ bậc còn thể hiện ở sự ưu cấp của triều đình đối với binh lính làm nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ vua và Hoàng tộc. Trong định mức của chế lương bổng đối với binh lính, bộ phận thân binh và cấm binh luôn cao hơn các bộ ngạch binh khác. Như nhận định của tác giả Hoàng Lương (2017) về chính sách
lương của binh lính dưới triều Minh Mệnh:“chính quyền Minh Mệnh một mặt vẫn giành sự ưu ái nhất định đối với bộ phận thân binh, cấm binh; mặt khác, yếu tố công bằng trong định lệ chi cấp giữa các ngạch quân bước đầu đầu được chú trọng” [153; 41].
127
Không chỉ có chính sách ưu hậu đối với bộ phận binh lính có quan hệ thân
cận đối với vua mà trong chế độ lương, thưởng còn có sự phân biệt giữa quan lại
cấp cao và quan lại cấp thấp. Điều này thể hiện trong việc lấy phẩm hàm làm tiêu chí định mức lương bổng cho các quan (trong đó có võ quan) của triều Nguyễn.
Theo đó, những võ quan phẩm trật cao đồng nghĩa với mức lương bổng và trợ cấp cao và ngược lại. Trong định mức lương của triều Nguyễn có sự chênh lệnh rất lớn
giữa các phẩm hàm, chẳng hạn dưới triều Minh Mệnh, lương tiền của của Chánh
nhất phẩm 1 năm là 400 quan, Chánh tòng cửu phẩm chỉ được 18 quan (chênh lệch
hơn 20 lần). Phụ cấp may quần áo của Chánh nhất phẩm là 70 quan gấp 18 lần Chánh tòng bát phẩm với 4 quan, không có chế độ ban cấp tiền quần áo cho Cửu
phẩm. Không những thế, trong những ngày lễ - tết chính sách thưởng cũng có sự
chênh lệnh giữa võ quan cao cấp và võ quan cấp thấp, phân biệt giữa võ quan trong
và ngoài kinh thành
Dưới triều Nguyễn, bộ phận quan lại cao cấp từ Tứ phẩm trở lên là bộ phận
có quan hệ mật thiết với vua và hoàng tộc. Bộ phận này hoặc là thuộc dòng dõi nhà
vua hoặc giữ các trọng trách đứng đầu các cơ quan ảnh hưởng trực tiếp tới nền
chính trị của vương triều. Bản chất chính sách này là để bảo vệ quyền lợi của vua và
hoàng tộc. Do vậy, chính sách đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn thể hiện
sự phân chia thứ bậc rõ rệt.
5.2.2. Chế độ đãi ngộ đối với quân đội thể hiện sự quân tâm đặc biệt của triều
Nguyễn đối với quân đội
Sự quan tâm đặc biệt của nhà nước đối với quân đội được thể hiện trước hết
trong chính sách ban thưởng và trợ cấp dành cho võ quan và binh lính có công đối với vương triều. Ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã thực hiện chính sách ưu
cấp cho các công thần.
Công thần dưới triều Nguyễn gồm: trung thần Vọng Các, công thần trung
hưng và công thần khai quốc. Đây chính là những người cùng chúa Nguyễn Ánh chịu nhiều gian khổ khi phải lánh nạn sang Xiêm cũng như sát cánh cùng chúa Nguyễn Ánh lật đổ chính quyền Tây Sơn giành lại quyền làm chủ đất nước cho dòng họ Nguyễn. Khi lấy giành được vương quyền, lập nước, bộ phận quan binh
này nếu không tiếp tục trong quân ngũ thì được các vua từ Gia Long đến Minh Mệnh ban hành những chính sách trợ cấp và ban thưởng ưu hậu.
Chính sách này bao gồm trợ cấp tiền bạc theo định lệ, cho lập thuộc binh và một số trường hợp có công trạng đặc biệt được ban cấp riêng. Những chính sách
128
này không chỉ đảm bảo đời sống cho võ quan và binh lính mà còn thể hiện sự quan
tâm của nhà Nguyễn đối với những người có công khai dựng vương triều.
Dưới thời Minh Mệnh, không chỉ đối với võ quan mà binh lính cũng được nhà nước quan tâm trong đó có vấn đề về lương điền. Khi ruộng đất công bị thu hẹp, để
quản lý ruộng đất cũng như chống lại nạn ẩn lậu ruộng đất của địa chủ, triều đình thực hiện chia lại ruộng đất, định mức lương điền của các thành phần khác trong xã hội thay
đổi nhưng định mức ruộng khẩu phần của binh lính vẫn không thay đổi.
Theo phép quân điền cấp cho binh lính năm Minh Mệnh thứ 17 (1836) và
được cấp lại vào năm Minh Mệnh thứ 21 (1840) mỗi người lính trung bình được cấp 8 sào ruộng lương điền, chưa tính ruộng khẩu phần. Đồng thời vua Minh Mệnh
cũng quy định, sau khi chia đủ số lương điền cho binh lính triều Nguyễn mới ban
cấp cho các thành phần khác trong xã hội.
Sự quan tâm của triều Nguyễn đối với quân đội còn thể hiện ở chế độ phụ
cấp cho võ quan và binh binh lính đi làm nhiệm vụ ở nơi xung yếu, làm việc xa nhà,
làm nhiệm vụ lâu ngày và binh lính phải làm việc trong điều kiện thời tiết khắc
nghiệt. Đối với trường hợp binh lính đi làm việc trong những trường hợp nêu trên
không chỉ được triều Nguyễn ban cấp thêm tiền gạo mà còn được ban cấp quần áo
rét về mùa đông và thuốc men để phòng và chữa bệnh về mùa hè.
Đối với những người lính không may mắn trong khi làm nhiệm vụ triều
Nguyễn thực hiện sự quan tâm bằng chế độ trợ cấp.
Trong xây dựng và bảo vệ đất nước, nếu như việc khao thưởng cho tướng sĩ
có công là việc làm thiết thực để động viên tinh thần những tướng sĩ vừa trải qua
trận mạc thì việc thực hiện chế độ đối với những quan binh trận thương, trận vong và gia đình của họ cũng như chế độ đối với binh lính và võ quan về hưu có ý nghĩa
lớn giúp binh sĩ ổn định cuộc sống, xoa dịu nỗi đau trận mạc của những gia đình có
binh sĩ bị thương vong. Dưới triều Nguyễn, từ đời vua Gia Long nhà nước đã ban
hành những chính sách ưu cấp đối với thương binh và quan binh tử trận.
Khi binh sĩ bị bệnh, nhà nước lập ra các Sở dưỡng tế giao cho quan địa phương quản lý. Đối với binh sĩ tham gia chiến trận, nhà nước cho thầy y đi theo chữa bệnh cho quân lính. Những binh lính chữa khỏi thì cho trở lại
Đối với binh lính bị chết trong quân ngũ bao gồm cả chết bệnh và trận vong trận thương, ngay từ năm Gia Long thứ nhất (1802), nhà nước đã ban hành quy định cho vợ con binh lính chết trận hoặc chết bệnh khi đi tòng quân được 1 mẫu ruộng cày cấy trong vòng 1 năm. Dưới triều Tự Đức, khi nước ta kháng chiến chống Pháp
129
xâm lược triều Nguyễn cho lập trại Dưỡng tế, ban thưởng tiền gạo. Những chính
sách này góp phần đảm bảo sức khỏe giúp binh lính yên tâm hoàn thành nhiệm vụ.
Ngoài ra, đối với những võ quan về hưu và binh lính xuất ngũ cũng nhận được trợ cấp gạo tiền của nhà nước theo tháng, đặc biệt là đối với võ quan về hưu bị
chết cũng được triều đình cấp tuất.
Không chỉ thực hiện những ưu cấp đối với bệnh binh và tử sĩ, việc thực hiện
chính sách ban cấp tiền gạo cho gia đình quan binh hay chính sách trọng thưởng cho
công thần cũng là cách thể hiện sự quan tâm của triều Nguyễn dành cho những
người có công đối với vương triều với đất nước.
Sự quan tâm của nhà nước đối với quân đội của các vua triều Nguyễn còn
được thể hiện qua chính sách đối với những võ quan và binh lính phạm tội. Biểu
hiện rõ nhất ở việc thưởng phạt đối với võ quan phạm tội nhưng lập được công
trạng đối với đất nước. Những trường hợp này thường được phục chức, giữ nguyên
phẩm hàm và được ban thưởng ít hơn so với những quan không có tội.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc khen thưởng được giữ nguyên so
với những võ quan khác. Cá biệt một số trường hợp võ quan phạm tội đi quân thứ
lập được công trạng bị chết cũng được nhà nước ban cấp ưu hậu như trường hợp
được ghi lại trong Châu bản vào năm Tự Đức 11 (1858) khi nhà vua xét cho nguyên
Đề đốc là Hồ Đức Tú bị cách chức được sung làm hiệu lực tiền khu để chuộc tội vì
bị bệnh chết: “Hồ Đức Tú có quân công được ghi kỷ lục 9 lần, nay vì bị bệnh chết,
tình cảnh thật đáng thương…. Châu phê: Nghĩ đến công lao trước gia ân cho Hồ
Đức Tú chuẩn cho khai phục chức Phó vệ uý Cấm binh, chiếu hàm cấp tuất [56; tờ
331, tập 99 năm Tự Đức thứ 11 (1858)].
Sự quan tâm của triều Nguyễn đối với binh lính còn thể hiện ở chế độ đãi
ngộ đối với bộ phận binh lính xuất thân là tù nhân. Đây là một bộ phận trong quân
đội triều Nguyễn nhằm bổ sung số lượng binh lính trong quân đội phục vụ cho việc
chiến đấu hoặc khai hoang mở rộng diện tích đất công điền. Không giống như các triều đại trước, những tù nhân được sung làm lính dưới thời Nguyễn cũng được nhà nước ban cấp lương.
Dưới thời vua Minh Mệnh, triều Nguyễn ban hành định lệ trả lương cho các
tù nhân sung làm lính ở Kinh được cấp mỗi tháng tiền 5 tiền và 1 phương gạo (mức lương của lính chính ngạch là tiền 1 quan gạo 1 phương).
Đến thời vua Thiệu Trị, những chức dịch phạm tội đi sai phái ở quân thứ Trấn Tây còn được hưởng lương giống như những binh lính chính quy khác mối
130
tháng được cấp 1 quan tiền 1 phương gạo. Điều này được nói rõ trong bản tấu của
bộ Hộ ngày 27 tháng 12 năm Thiệu Trị thứ 6: “Tập tâu của quan quân thứ Trấn
Tây Vũ Văn Giải trình: Ngày tháng 5 năm ngoái đã có tập tâu về việc 6 tên chức dịch tỉnh An Giang bị xử đồ phối dịch xin tạm tha cho theo quân thứ sai phái. Xét lệ
lương lính đánh dẹp và lính mộ, khổ sai hiệu lực nếu tòng quân đều cấp một tháng 1 quan tiền 1 phương gạo. Nay bọn chúng đều được sung làm lính nên theo lệ giải
quyết. Vả lại bọn chúng hiện được sai phái phòng thủ đồn Trà Thiết, làm việc vất vả
gian lao. Vả 6 tên này đã được cấp 1 quan tiền, 1 phương gạo theo lệ. Nay xin theo
lệ này cấp tiếp lương gạo cho chúng chờ khi yên bình sẽ giải quyết theo lệ phát binh tại các tỉnh. Bộ thần cung nghĩ phụng chỉ: Tạm phê chuẩn các điều tâu trình, khi
xong việc lập tức giải quyết theo lệ định...” [53; tờ 403 quyển 39 ngày 27 tháng 12
năm Thiệu Trị 6 (1846)].
Ngoài ra, triều Nguyễn còn bỏ án phạt được ghi dưới lý lịch và cho phép các
võ quan phạm tội được hưởng chế độ nguyên hàm đặc biệt là đối với võ quan trận
vong. Dưới triều Nguyễn đã ghi nhận nhiều trường hợp được nhà vua ban ân như
vậy trong đó có Nguyễn Tri Phương. Mặc dù được giao trấn giữ thành Hà Nội, sau
khi lãnh đạo quân triều đình chống Pháp bị thất thủ, Nguyễn Tri Phương bị mắc tội
không hoàn thành nhiệm vụ nhưng đối với võ quan có nhiều ông lao Nguyễn Tri
Phương vẫn được vua Tự Đức ban cấp ưu hậu.
5.2.3. Chế độ đãi ngộ đối với quân đội triều Nguyễn thể hiện sự linh hoạt nhằm đảm
bảo đời sống cho binh lính (đặc biệt là đối với binh lính làm nhiệm vụ chiến đấu)
Khởi tạo nghiệp đế từ quá trình dụng binh nên các vua triều Nguyễn luôn có
ý thức xây dựng một lực lượng quân đội mạnh sẵn sàng chiến đấu bảo vệ chủ quyền quốc gia cũng như quyền lực của dòng họ. Yếu tố quan trọng nhất tạo nên một lực
lượng quân đội mạnh gồm người chỉ huy (võ quan) và quân lính.
Ngay từ thời vua Gia Long, vai trò của binh lính đối với độc lập dân tộc và
ổn định chính trị của đất nước đã được nhà vua khẳng định:“Giữ nước không thể không có quân” [89; 522]. Vua Minh Mệnh cũng từng khẳng định vai trò của quân đội với sự hưng thịnh của đất nước:“Việc binh có thể 100 năm không dùng đến, nhưng không thể một ngày không phòng bị được” [69; 406].
Các vua từ Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đến Tự Đức luôn ý thức xây dựng cho vương triều Nguyễn một lực lượng quân đội mạnh mà việc quan trọng đầu tiên quyết định đến sự vững mạnh của quân đội là có những chính sách kịp thời nhằm đảm bảo những nhu cầu thiết thực cho đời sống của võ quan và binh lính.
131
Trong đó, binh lính là lực lượng đông đảo nhất nên trong các chính sách của nhà
nước, binh lính luôn là đối tượng được ưu tiên.
Trước hết, triều Nguyễn ưu đãi trong việc cấp phát lương đối với binh lính khi tham gia chiến trận. Dưới triều Nguyễn, lương của binh lính bao gồm lương tiền
gạo và lương điền. Đối với lương tiền gạo, binh lính được cấp theo định kỳ 1 hoặc 3 tháng với định mức lương do nhà vua quy định đối với một khu vực như Bắc Kỳ,
Trung kỳ các tỉnh như Gia Định Thanh Nghệ; định mức theo ngạch binh như Thân
binh, Cấm binh hay Tinh binh hoặc theo số lượng công việc cũng như mức độ quan
trọng của công việc được giao.
Những chính sách này được ban hành và hoàn thiện dưới thời vua Gia Long
và Minh Mệnh. Loại thứ 2 mà binh lính được hưởng là ruộng đất. Ngoài ruộng là
lương của quân binh, mỗi người lính còn được nhận ruộng khẩu phần theo lệ ban
cấp cho dân đinh theo phép quân điền.
Đơn cử việc thực hiện phép quân điền và việc cấp ruộng cho binh lính (bao
gồm cả ruộng theo phép quân điền và lương điền) cho binh lính là ở Bình Định.
Đây là địa phương đầu tiên vua Minh Mệnh cho thí điểm chính sách quân điền) vào
năm Minh Mệnh thứ 20 (1839) sau đó thực hiện trong cả nước vào năm 1840. Theo
tác giả Phan Phương Thảo trong Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định qua
tư liệu địa bạ thì: “Dân đinh được 5 sào, 2 thước; lão nhiêu, phế tật được khoảng 2
sào 8 thước 5 phân (1/2 khẩu phần); cô nhi, quả phụ được khoảng 1 sào 13 thước
(1/3 khẩu phần). Trong khi đó mỗi binh lính được nhận khoảng 1 mẫu 3 sào 2 thước
(8 sào lương điền + 5 sào 2 thước khẩu phần), gấp hơn 2 lần khẩu phần của dân
đinh” “với thực trạng tình hình ruộng đất ở Bình Định và với cách chia ruộng công theo phép quân điền 1840 thì binh lính là có lợi nhất” [178; 127].
Mặc dù đã có định lệ cấp tiền và gạo cho binh lính nhưng giá lúa gạo trong
dân gian thay đổi thì các vua triều Nguyễn có sự điều chỉnh trong việc cấp phát
bằng tiền hay bằng gạo theo hướng có lợi cho binh lính.
Khi mất mùa, gạo tăng giá việc nhận tiền để mua gạo khiến binh lính sẽ mua được lượng gạo ít hơn thường lệ, điều đó sẽ gây khó khăn cho binh lính trong việc đảm bảo lương thực hàng ngày. Triều Nguyễn đổi định cho phép binh lính nhận
lương bằng lúa gạo thay vì nhận bằng tiền.
Theo bản tấu của quan Khoa đạo Đổng lý thanh tra tỉnh Quảng Yên Mai Khắc Mẫn tâu lên bộ Hộ về việc cấp phát lương cho binh lính ở tỉnh Hải Dương và Quảng Ninh thì: “Các hạt Hải Dương, Quảng Yên ruộng chưa gieo mạ được đang
132
mong trời mưa, ngày gần đây cầu đảo đã được mưa nhưng còn chưa đủ nước, nay
giá gạo ngoài chợ ở tỉnh Quảng Yên 1 phương giá 2 quan 4 mạch ngày một tăng
lên cao. Vả lại trước đây tỉnh ấy đã được miễn tô thuế năm nay, lương bổng của binh lính ở tỉnh đã xin chiết cấp bằng tiền. Lần này tỉnh Đông chở giao 2 vạn hộc
thóc, kho trữ tưởng đã dư đủ. Nhưng binh lính trong tỉnh đều đến tỉnh Đông mua gạo thì thật là khó khăn. Nay xin lương tính chiếu phát bằng thóc để được đỡ vất
vả” Khâm phụng Thánh dụ: Tất cả binh đinh trong tỉnh được chi cấp lương thực
hàng tháng là bao nhiêu gia ân đều cấp bằng thóc, ngoài ra lương bổng của các
thân viên biền binh, quan lại vẫn theo lệ chiết cấp bằng tiền” [49; tờ 34 quyển 6 ngày 4 tháng 6 năm Thiệu Trị thứ nhất (1841)].
Đến thời vua Thiệu Trị, triều đình cũng phê duyệt việc cấp thưởng bằng thóc
khi giá gạo cao thay vì bằng tiền cho quân lính 11 trạm thuộc Khánh Hòa. Châu bản
triều Nguyễn còn ghi lại“Bộ Hộ phúc trình: Khánh Hòa làm tập tâu trình bày việc
11 trạm thuộc hạt ấy lần được được thưởng gạo xin cho cấp bằng thóc. Sau đó vào
vụ đông giá gạo khá cao nên gạo lương bổng của các quan lại trong hạt trừ các
viên Bố chánh, Án sát, Lãnh binh ra còn lại đều xin cấp bằng thóc. Bộ thần đã tâu
trình vâng được phê bảo. Cung nghĩ phụng chỉ: Hạt ấy những ngày này giá gạo vẫn
cao mà phu các trạm ấy ngày đêm phát chuyển công văn cũng khá gian lao, vì vậy
từ tháng 9 năm nay đến tháng 12 số gạo được thưởng là bao đều gia ân cho cấp
bằng thóc, còn lương bổng của các quan lại tỉnh ấy vẫn y theo lệ chiết cấp bằng
tiền để có sự phân biệt” [50; tờ 253 tập 6 ngày 22 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ nhất
(1841)].
Ngược lại khi giá gạo giảm triều Nguyễn lại đồng ý cấp lương bổng cho binh sĩ bằng tiền chính sách này triều Nguyễn thực hiện đối với cả binh lính ở Kinh cũng
như ở các địa phương.
Đối với binh lính ở Kinh, điển hình như năm Minh Mệnh thứ 14 (1834) trong
văn bản hồi đáp của quan đại thần Nguyễn Khoa Minh có đề cập:“Trước đây vì gạo ở Kinh kỳ đắt nên giáng dụ chuyển tiền lương thành gạo cho binh đinh, lại dịch ở Kinh. Nay giá gạo thấy càng ngày càng cao nên gia ơn chiếu theo số binh đinh đang làm việc lấy toàn bộ số tiền lương 2 tháng 11và 12 (của họ) chuyển thành gạo
cứ 5 mạch được nửa hộc. Ngoài ra căn cứ theo các sắc dịch ấy mà chi cấp để giúp họ sinh sống. Đợi đến mùa xuân sang năm (mọi việc) sẽ lại làm theo như lệ cũ. Vậy truyền thông báo dụ này cho mọi người được biết....” [30; tờ 32, tập 49 ngày 25 tháng 10 năm Minh Mệnh thứ 14 (1833)].
133
Đối với binh sĩ các địa phương, nhà nước cũng có sự điều chỉnh khi định
mức lương tiền gạo ban hành không đủ cho nhu cầu của binh lính khi giá gạo trong
nước lên xuống không cố định. Ví dụ, trường hợp binh sĩ của tỉnh Lạng Sơn:“Bộ Hộ tâu: Lạng Sơn dâng tờ sớ trình bày việc: Đầu tháng 7 đến ngày 11 tháng 8 giá
gạo mỗi phương giảm 5 mạch, hiện tại mỗi phương 2 quan 5 mạch. Lại kèm theo trình bày gạo, lương bổng của biền binh hạt ấy nguyên theo lệ được chiết cấp bằng
tiền, kỳ tháng 5 vì giá gạo tăng cao, khâm phụng minh chỉ gia ân truyền cho từ đầu
tháng 6 đến cuối tháng 8 đều cấp bằng thóc. Nay giá gạo ở hạt ấy đã giảm từ mùng
1 tháng 9 trở về sau biền binh nên chăng theo lệ chiết cấp bằng tiền. Bộ thần vâng xét theo quan tập tâu trình bày thì giá gạo đã giảm, số gạo cần chi cho lương bổng
xin nên đều chiết cấp bằng tiền. Cung nghĩ phụng chỉ: Đều chuẩn cho chiết cấp tiền từ
đầu tháng này trở về sau” [51; tờ 204 quyển 6 ngày 5 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ nhất
(1841)].
Với những chính sách của nhà nước nói trên, chứng tỏ binh lính luôn được nhà
nước đảm bảo một định mức lương thực thực phẩm ổn định, đảm bảo đủ sức khỏe để
có thể tập luyện và chiến đấu. Bên cạnh đó, số lượng ruộng đất của mỗi người lính
được hưởng rõ ràng còn nhằm đảm bảo cho gia đình của binh lính có nguồn lương thực
sinh sống khi người lính là lực lượng lao động chính trong gia đình.
Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đã thể hiện rõ sự ưu ái đối của
nhà nước nhất là đối với võ quan và binh lính trực tiếp tham gia chiến trận và lập
được chiến công.
Trong quân đội triều Nguyễn, không chỉ có quân làm lực lượng ứng trực và
tham gia chiến đấu mà còn có một bộ phận quân phục vụ trong kinh thành và quân tham gia các hoạt động kiến thiết và lao động sản xuất. Việc ban thưởng của triều
Nguyễn cho các thứ quân thường dựa trên công trạng. Đối với những binh lính tham
gia chiến trận lập được chiến công thường được vua thưởng riêng và mức cao hơn
mức thưởng của binh lính tham gia các nhiệm vụ khác như làm sai dịch và ứng trực. Ngoài thưởng chung, võ quan và binh lính có công trạng đặc biệt còn được thưởng riêng. Thậm chí dưới triều Nguyễn, võ quan có can phạm nhưng lập được công lao trong chiến trận cũng được hậu thưởng. Theo thống kê trong các tư liệu
như Châu bản, Thực lục, Hội điển, riêng thời Minh Mệnh đã có tất cả 25 trường hợp như vậy.
Một số trường hợp điển hình như: Năm Minh Mệnh năm thứ 19 (1838), vua dụ viện Cơ mật rằng:“Nguyễn Văn Tình làm việc lầm bậy, hầu đến nổi loạn, tội hắn
134
vốn phải tội nặng, nhưng tạm nghĩ trận đánh ở cửa biển Thuận An năm trước, dự
có quân công, chỉ vì không có học nên đến nỗi thế, tạm chuẩn cho cách chức phát
làm binh cho làm việc chuộc tội, còn như Sô Đôn, thưởng cho 10 đồng Phi long ngân tiền hạng lớn, 2 người thổ mục đi trận ấy, cũng đều thưởng cho 5 đồng tiền
ấy” [93; 253]. Một người khác là Lãnh binh Mai Công Ngôn có chiến công nên cũng được cho thụ chức Chưởng cơ, gia quân công 1 cấp, thưởng 1 đồng kim tiền
Phi long hạng nhỏ và 1 nhẫn vàng mặt ngọc kim cương [92; 560].
5.2.4. Chế độ đãi ngộ dành cho quân đội phản chiếu khách quan bức tranh xã
hội và tiềm lực kinh tế của đất nước.
Chế độ đãi ngộ đối với võ quan, binh lính của vương triều Nguyễn được ra
đời trên cơ sở lực lượng quân đội cụ thể. Chính sách này chịu sự chi phối của tình
hình chính trị, bối cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế và xã hội đất nước thế kỷ XIX.
Đồng thời những chính sách này có tác dụng củng cố nền chính trị, tạo ra môi
trường ổn để phát triển kinh tế và bình yên cho xã hội.
Do đó, chính sách lương bổng và trợ cấp dành cho quân đội dưới triều
Nguyễn với chế độ chính trị, tiềm năng kinh tế và tình hình xã hội là một thực thể
có tác động tương hỗ lẫn nhau.
Trước hết, binh lính là một bộ phận chiếm số lượng không nhỏ trong xã hội,
là lực lượng quan trọng bảo vệ chế độ, chính quyền. Do vậy, những chính sách của
nhà nước đối với võ quan và binh lính, sự coi trọng của nhà nước đối với từng chính
sách trong một thời gian cụ thể sẽ phản ánh khách quan tình hình chính trị đất nước.
Dưới thời Gia Long, khi đất nước mới thống nhất, vương triều mới thành lập
sau thời gian dài nội chiến. Những chính sách về ưu thưởng công lao võ quan có công phò vua lập vường triều, đồng thời với đó là những chính sách nhằm xác lập
quyền lực cai quản đất nước được chú ý: ban hành chế độ lương điền, lương bổng
và cấp tuất đặt cơ sở cho cho chế độ lương, bổng của võ quan và binh lính.
Sang thời Minh Mệnh, khi đất nước được khôi phục và đang trên đà phát triển, những chính sách cho binh lính nhằm ổn định đất nước, thể hiện quyền lực lớn của nhà vua được thực thi như ban thưởng lớn cho võ quan lập chiến công, thưởng và chi cấp cho quan quân đi đánh quân Xiêm, bảo hộ Chân lạp và Lào. Thời
vua Tự Đức, nhất là sau khi Pháp xâm lược Việt Nam vào năm 1858, trước nguy cơ mất vương quyền nền độc lập bị đe dọa triều Nguyễn tập trung ban hành những chính sách về đãi ngộ cho võ quan và binh lính trận vong trận thương và khen thưởng cho võ quan trực tiếp tham gia chiến trận.
135
Tiềm lực kinh tế của đất nước cũng tác động tới chế độ đãi ngộ của triều
đình dành cho quân đội. Khi đất nước bình yên và phát triển thì việc thưởng ưu
hậu cho những võ quan và binh sĩ được thực hiện thường xuyên. Điều này có thể thấy rõ qua những sự kiện ban thưởng cho võ quan có công trong các hoạt
động quân sự hay việc ân thưởng cho võ quan và binh lính trong những dịp lễ tết hay những dịp đại khánh. Thời trị vì của vua Minh Mệnh được xem là thời
kỳ thịnh nhất của vương triều Nguyễn nên việc ban thưởng này diễn ra thường
xuyên và mức ban thưởng lớn. Võ quan lập được chiến công ngoài được thăng
chức tước còn được ban thưởng tiền, vải, ngọc. Trong những dịp tết không chỉ quan cao cấp mà quan thấp cũng được ban thưởng yến tiệc. Nhưng sang thời
Tự Đức, kinh tế khó khăn, Pháp xâm lược nên việc thưởng cho binh lính chủ
yếu là cho những võ quan và binh lính tham gia trận mạc và bệnh binh và tử sĩ.
Cũng như vậy, việc điều chỉnh giảm lương đối với quan trong triều trong đó có
một lực lượng không nhỏ là võ quan dưới thời Tự Đức phản ánh sự khó khăn,
suy giảm về tiềm lực kinh tế của vương triều. Nói như chỉ dụ của nhà vua khi
phải điều chỉnh giảm định mức lương cho binh lính, đây chỉ là chính sách tạm
thời. Điều đó cho thấy đó là giải pháp cực chẳng đã, nhất là trong bối cảnh đất
nước đang chống Pháp, việc giảm lương của võ quan không khỏi ảnh hưởng đến
đời sống vật chất và tinh thần của họ.
Ngoài ra, thực hiện chia lại ruộng quân điền cho binh lính năm 1840 hay ban
thưởng cho binh lính đi khai hoang phán ánh một thực tế là diện tích ruộng đất công
bị thu hẹp ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn thu của triều đình và ngân khố quốc gia.
Vì vậy, triều đình phải thực hiện những biện pháp để mở rộng diện tích ruộng đất công mà chính sách đãi ngộ cho võ quan và binh lính liên quan trực tiếp tới những
biện pháp kinh tế đó.
Chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884 phản
ánh tình hình xã hội thế kỷ XIX. Những chính sách củng cố tổ chức và mở rộng quy mô quân đội cùng với việc quan tâm của nhà nước đối với chính sách lương bổng và trợ cấp, phụ cấp và khen thưởng cho quân đội triều Nguyễn là bức tranh phản ánh hai mặt vừa thể hiện vai trò của quân đội đối với nền chính
trị của đất nước nhưng đồng thời thể hiện nhu cầu của giai cấp cầm quyền muốn giữ sự cai trị của mình trong bối cảnh dưới triều Nguyễn nổ ra rất nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân chống lại triều đình. Đặc điểm của các cuộc nổi dậy này diễn ra ngay từ khi vương triều mới thành lập và kéo dài liên tục trong thế
136
kỷ XIX trên tất cả các vùng miền của đất nước. Số lượng các cuộc khởi nghĩa
nông dân dưới triều Nguyễn nhiều hơn tất cả các cuộc nổi dậy của nhân dân
chống triều đình của các thời kỳ trước.
Việc ban thưởng của các triều vua từ Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đến
Tự Đức cho binh lính đi dẹp các cuộc nổi dậy của nông dân, của binh lính và đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng núi cho thấy tình hình xã hội bất ổn. Chính sách khen
thưởng cho quan đi mộ binh phản ánh tình trạng lính trốn quân ngũ đồng thời phản
ánh tình trạng dân lưu tán khiến cho việc lấy quân lính ở các địa phương khó khăn.
Điều đó lý giải tại sao ngay từ khi lên ngôi, vua Gia Long đã ban hành chính sách lương bổng đối với võ quan và binh lính ở Bắc Thành trong bối cảnh vương triều
còn nhiều khó khăn sau một thời gian dài chiến tranh tàn phá. Thời kỳ ổn định và
phát triển nhất của triều Nguyễn là dưới thời vua Minh Mệnh cũng là thời kỳ nổ ra
nhiều cuộc nổi dậy của nông dân với quy mô lớn và kéo dài mà triều đình phải rất
vất vả nhiều lần đem quân đi đánh dẹp mới có thể dập tắt như khởi nghĩa của Phan
Bá Vành, Nông Văn Văn và Lê Văn Khôi. Sự tăng lương của nhà nước cho võ quan
hay sự ban thưởng ưu hậu của triều đình cho quan binh thời kỳ này cũng phản ánh
tình hình nội trị bất ổn của đất nước.
Trên đây là những tác động của bối cảnh lịch sử, tình hình chính trị kinh tế
văn hóa đối với chế độ đãi ngộ dành cho quân đội của triều Nguyễn. Ngược lại,
chính chế độ lương bổng và trợ cấp cho quân đội có tác dụng lớn nhất đến sức mạnh
của quân đội. Sự lớn mạnh của quân đội sẽ hưởng trực tiếp tới nền chính trị, kinh tế,
xã hội của đất nước. Do đó, chính sách lương bổng và trợ cấp cho quân đội đúng,
phù hợp sẽ tác động trực tiếp tới sự ổn định và phát triển của nền chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta thế kỷ XIX dưới sự cai của vương triều Nguyễn.
5.3.Những tác động của chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn giai
đoạn 1802-1884
5.3.1. Tác động tích cực
Đối với xã hội, dưới triều Nguyễn, binh lính chiếm một số lượng không nhỏ trong xã hội. Chế độ đại ngộ của nhà nước đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho quân đội cũng chính là giúp cho một bộ phận trong xã hội được đảm bảo về
cuộc sống. Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ với võ quan trận vong, trận thương và chế độ ưu cấp đối với gia đình bao gồm cha mẹ và vợ con của binh lính (đặc biệt là gia đình võ quan) - những người thiệt thòi trong chiến tranh phần nào động viên tinh thần của họ giúp họ ổn định cuộc sống. Trên một khía cạnh nào đó chính sách này
137
giúp cho triều Nguyễn duy trì trật tự xã hội.
Đối với cá nhân võ quan và binh lính, chế độ đãi ngộ của nhà nước đã
đảm bảo đời sống cho võ quan và binh lính, động viên họ yên tâm hoàn thành nhiệm vụ. Với định mức lương cho binh lính áp dụng từ năm Gia Long thứ nhất
(1802) mỗi binh lính được cấp mỗi tháng 1 quan tiền, 1 phương gạo và quần áo mỗi năm được cấp phát 2 lần. Đây cũng là định mức phổ biến của binh lính của
các đời vua sau.
Dựa theo bài viết của tác giả Phan Huy Lê (2012) trong nghiên cứu về “Tình
hình khai mỏ dưới triều Nguyễn” trong đó tác giả dẫn theo lời của Piere Pasquier thì dưới triều Nguyễn, 1 phương bằng ½ hộc bằng 13 thăng, mà 1 thăng bằng 2,932 lít,
và hộc bằng 76,226 lít. Tác giả cân 1 lít gạo mùa nặng 880gr, từ đó kết luận, 1
phương gạo bằng 38,113 lít gạo nặng khoảng 32,783 kg [147; 61]. Đồng thời theo
Nguyễn Phan Quang và Đặng Huy Vận (1965), trong định mức thuế năm Gia Long
thứ 11 (1812) thì đương thời “một quan tiền cho ngang một phương gạo”. Quy ra
mỗi người lính dưới triều Nguyễn mỗi tháng được cấp 67 kg gạo. Do đó, các tác giả
Nguyễn Phan Quang và Đặng Huy Vận (1965) nhận định: “Đó không phải là mức
lương quá thấp đối với một người lính. Trái lại chứng tỏ chính sách ưu đãi binh
lính của Gia Long” [164; 21]. Ngoài ra, binh lính còn được cấp ruộng theo chính
sách lương điền và quân điền với định mức khác nhau tùy theo ngạch quân.
(Nguyễn Phan Quang và Đặng Huy Vận (1965). Với chế độ lương tháng (gồm tiền
và gạo) và lương điền, mỗi người lính được nhận rõ ràng là mức lương thể hiện sự
ưu ái của triều đình đối với binh lính, giúp họ có thể yên tâm hoàn thành nhiệm vụ
như nhận định của tác giả Bùi Huy Khánh ( 2018) [141; 87].
Cũng như các triều đại trước, chế độ đãi ngộ dành cho quân đội dưới triều
Nguyễn không chỉ đảm bảo đời sống cho võ quan mà còn củng cố tư tưởng trung
quân ái quốc theo tư tưởng của quan hệ vua tôi trong xã hội phong kiến. Đối với võ
quan, mức lương tính theo định mức dưới triều Tự Đức đã được điều chỉnh giảm xuống nhiều so với triều vua Gia Long và Tự Đức khi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra. Theo đó, cao nhất là Chánh nhất phẩm, mỗi năm được 340 quan tiền, 250 phương gạo, Tòng nhất phẩm mỗi năm được 250 quan tiền 210 phương gạo; Chánh
Tòng cửu phẩm mỗi năm được 18 quan tiền 18 phương gạo. Theo tính toán của Phan Huy Lê, quy ra gạo mỗi năm Chánh Nhất phẩm là 19.341,97 kg gạo, Tòng Nhất phẩm là 15.080,18kg gạo, Chánh Tòng cửu phẩm mỗi năm được 1.180 kg gạo. Như vậy, mỗi tháng quan Chánh nhất phẩm nhận được 1.611kg gạo, Tòng Nhất
138
phẩm nhận được 1.256 kg gạo, Chánh Tòng cửu phẩm mỗi tháng nhận được 98,3 kg
gạo. Với khoản lương quy ra gạo trên, rõ ràng mỗi tháng của quan cao cấp nhận
được là một số lượng gạo lớn nhưng với quan phẩm hàm thấp, số lương nhận được cũng không phải quá cao. Tác giả Phạm Văn Sơn khi cho rằng:“ta thấy quan lại
đời xưa sống quá thanh bạch mặc dù mức sinh hoạt thời đó không cao như ngày nay” [170; 330] có lẽ là muốn nói đến mức lương của võ quan phẩm hàm thấp. Tuy
nhiên, ngoài lương võ quan còn nhận được những khoản thu nhập khác như thưởng
công, thưởng nhân ngày lễ- tết. Trong giai đoạn có chiến tranh, những khó khăn của
nền kinh tế nông nghiệp như lũ lụt, hạn hán chế độ lương của triều Nguyễn đối với võ quan có lẽ vẫn đảm bảo được đời sống cho họ.
Chính vì vậy, triều Nguyễn luôn có rất nhiều tướng tài giỏi nhiều lần cầm
quân giúp vua đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở nhiều địa phương hay lãnh đạo quân đội
triều đình kháng chiến chống thực dân Pháp ở các chiến trường như Tạ Quang Cự,
Nguyễn Công Trứ hay Doãn Uẩn, Nguyễn Tri Phương.
Nguyễn Công Trứ là một trường hợp điển hình trong số đó. Ông lập được
công lớn dưới triều Minh Mệnh như đánh dẹp khởi nghĩa Phan Bá Vành khởi nghĩa
Nông Văn Vân nhưng khi không lập được công trạng ở Trấn Tây, Nguyễn Công
Trứ cũng các võ tướng bị bộ Hình đưa ra xét xử. Theo bản phụng thượng dụ của
Nội các ngày 26 tháng 10 năm Thiệu Trị 1: “Căn cứ vào tập tâu của bộ Hình đưa
ra xét xử nguyên Trấn Tây tướng quân Trương Minh Giảng, Tham tán Dương Văn
Phong, Hiệp tán Cao Hữu Dực và Kinh lược Phạm Văn Điển, Tán lý Nguyễn Công
Trứ làm việc không có công trạng…… Nguyễn Công Trứ truyền chiếu theo chức
hàm hiện tại giáng 3 cấp lưu nhiệm” [34; tờ 68 tập 10, ngày 26 tháng 10 năm Thiệu Trị 1 (1841)]. Sau đó Nguyễn Công Trứ vẫn xin vua cầm quân đi đánh giặc. Ông
cũng góp nhiều công lớn trong đánh quân Xiêm vào năm 1841- 1845. Đến đời vua
Tự Đức thứ 11 (1858), thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng lúc này Nguyễn Công Trứ
đã 80 tuổi nhưng vẫn xin vua cho đi đánh giặc.
Chính những chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đã phần nào cố lòng trung thành đối với võ quan. Đây chính là bộ phận lãnh đạo, là lực lượng quan trọng nhất trong quân đội của triều Nguyễn.
5.3.2. Một số mặt trái của chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho quân đội
Quân lính đông cùng với sự ưu ái của nhà nước đối với quân lính là gánh
nặng cho nền kinh tế đất nước.
Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với quân đội là nhằm xây dựng một lực
139
lượng quân đội vững mạnh, đảm bảo cho sự ổn định chính trị của đất nước. So với các
triều đại trước, chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn có sự kế thừa và hoàn thiện hơn về chế
định và biện pháp thực hiện. Tất nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, những chính sách đối với quân đội của triều Nguyễn cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định.
Như đã trình bày ở chương 2, cùng với việc xây dựng một nhà nước có tính tập quyền chuyên chế, với cách tuyển quân 3 dân đinh lấy 1 lính, triều Nguyễn xây
dựng cho mình bộ tổ chức quân đội đông đảo và tinh nhuệ. Song song với sự hoàn
thiện cơ cấu tổ chức quân đội là chế độ đãi ngộ nhằm đảm bảo đời sống cho binh
lính. Để đảm bảo lương thực duy trì số quân này thực sự là gánh nặng đối với nền kinh tế đất nước.
Thực tế, triều Nguyễn đã thực hiện việc chia ban nhằm giảm thiểu sự chi
cấp của nhà nước cho quân đội nhưng chính sách này chỉ mang tính tức thời.
Gánh nặng này bắt nguồn từ nhiều chính sách của nhà Nguyễn đối với quân đội,
trong đó có chính sách lương điền được ban hành dưới thời vua Gia Long. Khi
mới lập nước, với mục đích tịch thu ruộng đất của phe đối lập, quản lý diện tích
công điền công thổ và đất bỏ hoang thì việc chia cấp ruộng công làm lương cho
binh lính khá phù hợp.
Đến cuối thời Minh Mệnh, trước tình trạng khi ruộng đất công bị thu hẹp,
ruộng đất tư ngày càng nhiều, triều đình phải tiến hành phép quân điền vào năm
1840 nhằm hạn chế sự mở rộng của ruộng đất tư. Chính sách ưu cấp cho binh lính
dẫn đến hiện trạng ruộng lính chiếm đa số ruộng đất công. Điển hình là Bình Định,
tỉnh đầu tiên vua Minh Mệnh cho tiến hành phép quân điền nhưng trước khi chia
ruộng theo phép quân điền, nhà nước tiến hành chia ruộng cho binh lính theo định lệ lương điền ban hành năm 1836.
Theo định lệ này, mỗi binh lính sẽ được chia trung bình 8 sào ruộng. Trong
khi đó theo tổng tính của tác giả Phan Phương Thảo trong Chính sách quân điền
năm 1839 ở Bình Định thì tổng diện tích đất công của tỉnh này năm 1839 khoảng 40.000 mẫu với số lính là 15.000 người. Do đó, ruộng lương điền của binh lính là 12.000 mẫu chiếm 33,3% (tức khoảng 1/3) tổng số ruộng công chưa kể ruộng khẩu phần mà binh lính được hưởng theo chính sách quân điền. Rõ ràng, việc duy trì mức
lương điền cho một đội quân lớn trong khi đó ruộng công điền ngày càng bị thu hẹp đã trở thành gánh nặng đối với vương triều Nguyễn, gây ra gánh nặng đối với nền kinh tế đất nước, cho ngân khố quốc gia.
Ngoài ra, dưới triều Nguyễn, tình trạng thiên tai như vỡ đê, lụt lội, hạn hán, bão
140
liên tiếp xảy ra. Theo thống kê trong Thực lục, từ năm 1803 đến năm 1873 triều Nguyễn
có 49 lần bị thiên tai (Gia Long 12 lần, Minh Mệnh 16, Thiệu Trị 6 lần, Tự Đức 15 lần).
Thiên tai ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng như năng suất cây trồng. Trong bối cảnh đó, những nỗ lực chi dùng tài chính để nuôi một đội quân lớn
chiếm một phần không nhỏ trong ngân khố của quốc gia. Mặc dù không có con số cụ thể về sự tổng thu chi của nhà nước cho quân đội trong một thời gian cụ thể tuy nhiên có thể
lấy việc nhà nước cấp cho thành Trấn Tây làm ví dụ điển hình.
Thành Trấn được vua Minh Mệnh sát nhập vào lãnh thổ Đại Nam năm Minh
Mệnh thứ 15 (1835) từ vùng đất của người Chân Lạp. Trong 6 năm (từ 1835 đến 1841), triều Nguyễn phải huy động một số quân lớn để đánh dẹp sự nổi dậy của
người Chân Lạp và âm mưu chiếm trấn Tây của quân Xiêm. Theo bản tấu của bộ
Binh năm Minh Mệnh thứ 19 (1840) “các loại biền binh cần để lại đồn thú ở thành
gồm 6137 người” [8; tờ 91 quyển số 68 ngày 19 tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 19
(1838)]. Để nuôi số quân này, triều Nguyễn không chỉ cấp tiền và lương thực từ
ngân khố của nhà nước mà còn huy động các tỉnh thành khác cung cấp nuôi quân
lính đi trấn giữ ở thành Trấn Tây. Tháng 6 năm Minh Mệnh thứ 6 (1825), theo bản
tâu về việc cung cấp cho quân thành Trấn Tây của bộ Hộ, số lượng chi được ghi lại
như sau: “cung cấp cho thân biền binh đinh được sai phái đi công vụ, cùng việc sửa
chữa kho tàng và việc cung cấp cho các viên biền đã mất về chôn cất ở quê quán.
Cộng với các khoản khoản đãi vào các ngày lễ tiết, cầu mưa, cầu an... Tính gộp cả
lại từ năm thứ 15 đến năm thứ 19 là thời gian 5 năm này đã chi quá 5049 quan 7
mạch tiền 167 phương gạo…... Căn cứ các khoản hiện khai kiểm tra từng khoản,
nhưng tiến tính gộp hơn 5238 quan 170 phương gạo. Trừ số trước sau chi quá là 5238 quan tiền 170 phương gạo như vậy số tiền còn lại chỉ có 20 văn” [9; tờ số 62
quyển 77, ngày 5 tháng 6 năm Minh Mệnh thứ 21 (1840)].
Ngoài ra, các tỉnh thành như Định Tường, Vĩnh Long, Long Tường phải
cung cấp tiền gạo cho thành Trấn Tây. Cụ thể, tỉnh Định Tường “2 vạn phương gạo” [10; tờ 16 quyển 63 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838)] và 6000 phương gạo [11; tờ 62 quyển 63 ngày 7 tháng 4 nhuận năm Minh Mệnh 19 (1838)], tỉnh Long Tường “rút ngay trong kho của tỉnh mỗi loại tiền ấy là 200 mai, cử người chuyển đến
thành nhận tích trữ để chuẩn bị chi cấp khi cần. Nay thành ấy gửi tư yêu cầu, việc thực khẩn thiết. Tỉnh thần đã rút ngay 306 mai loại lớn và 94 mai loại nhỏ ngân tiền Phi Long trong kho để đủ 400 mai, cử chiến thuyền chở ngay giao cho thành ấy nhận trữ để đủ chi cấp khi cần. Phụng chỉ: Đã biết. Lại truyền cho tỉnh Định Tường
141
rút ra 206 mai loại lớn, 94 mai loại lớn ngân tiền Phi Long hiện đang giữ [12; tờ 47
tập 63 ngày 19 tháng 3 năm Minh Mệnh 19 (1838)], tỉnh Quảng Nam “tiền 1080
quan, gạo hơn 50 phương [13; tờ 330 quyển số 79 ngày 3 tháng 11 năm Minh Mệnh 21 (1840)]; tỉnh Vĩnh Long cũng nhiều lần phải vận chuyển gạo cung cấp cho thành
Trấn Tây như bản tấu của quyền hộ Tổng đốc quan phòng Long Tường, Bố Chánh sứ Vĩnh Long Trương Văn Uyển: “Ngày 26 tháng Giêng năm nay nhận được tư văn của
thành Trấn Tây trình bày: Trước đây thành ấy đã trù tính năm nay tư lấy 3 vạn
phương lương thực của tỉnh thần chuyển giao cho tỉnh An Giang tích trữ để chuyển
đến tỉnh ấy cho đủ dùng. Nay ngoài biên thành hạt ấy có biến, tư xin điều binh lính khá nhiều, đã tư cho tỉnh thần cử ngay chiến thuyền chuyển đến trước 1 hoặc 2 vạn
phương lương thực giao cho tỉnh An Giang nhận tích trữ tiện chuyển đến thành để
kịp cấp phát. Ngày 16 lại nhận được Thượng dụ do bộ Hộ cung lục: Truyền cho
theo số chiến thuyền ở tỉnh có bao nhiêu chiếc nhanh chóng tu sửa cho vững chắc
ngay, tất cả đều liệu số lính nhiều ít mà chở thêm quân nhu, pháo đạn, khí giới.
Chúng thần đã xuất ngay thóc kho sức cho dân phu thuộc hạt xay thành gạo, phái
cử chiến thuyền tiếp tục chuyển giao 2 nơi An Giang, Trấn Tây nhận tích trữ đủ để
cấp phát. Số gạo cần dùng rất nhiều nên thuê dân xay. Cứ xay mỗi hộc thóc thành 1
phương gạo, xin nên chuẩn định thuê tiền công 20 văn, không giải quyết theo lệ
trước” [14; tờ 34 quyển số 63 ngày 1 tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838)].
Chế độ đãi ngộ đối với quân đội của triều Nguyễn không thể ngăn chặn được
tình trạng binh lính trốn khỏi quân ngũ
Tình trạng này càng tăng lên đặc biệt dưới triều vua Tự Đức. Mặc dù triều
Nguyễn đã có những chính sách rất thiết thực nhằm đảm bảo đời cho võ quan và binh lính nhưng dưới triều Nguyễn, rất nhiều đơn vị quân (đặc biệt là các đơn vị
quân ở địa phương) có số lượng binh lính ngày càng giảm sút. Một số đội vệ còn
rất ít để duy trì số quân ngũ theo quy định buộc phải tuyển thêm hoặc tính cách
giải thể hoặc sáp nhập. Biểu hiện này đã được phản ánh qua thống kê về số lượng quân qua các triều vua ở chương 2. Một số tài liệu châu bản cũng phản ánh tình trạng này. Ví dụ tờ 194 tập 58 ngày 28 tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 18 (1837) Bộ binh tấu trình về việc tỉnh An Giang trình bày: “thuộc hạt lính trận lần lượt bỏ trốn
và chết gồm 402 người, cho đốc thúc bổ sung đã đủ ngạch trong tuần tháng 6 năm nay có bổ sung lính thu bỏ trốn và chết ở Trấn Tây và Hà Tiên, mới tuyển gồm 65 người” [4; tờ 194 tập 58 ngày 28 tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 18 (1837)].
142
Ngay cả lính ở Kinh, vệ Tuyển phong là lực lượng được triều Nguyễn ưu ái đến thời
vua Tự Đức cũng thiếu hụt binh lính. Vua Tự Đức đã “ lấy làm lạ hỏi rằng: Lính vệ
Tuyển phong, tiền lương đã hậu, tiến thân lại nhanh, so với các quân khác là hậu hơn cả, sao không có người ứng tuyển, để đến nỗi thiếu ngạch” [ 95;224]
Để khắc phục tình trạng này, triều Nguyễn đã ban hành quy định thưởng phạt đối với những người mộ binh tùy theo số lượng nhiều ít mà võ quan tuyển mộ được.
Tình trạng này được phản ánh rất rõ trong Hội điển nhất là dưới triều vua Tự Đức.
Bên cạnh đó dưới triều Nguyễn còn xảy ra tình trạng lính trốn triều đình cho
quân đi bắt và phạt nặng: “Những lính trốn tự mùa xuân trước lần lượt bắt được, đã vâng chỉ, hễ trốn lần đầu đóng gông 2 tháng, hết hạn lại đánh 100 côn đỏ, giao về
hàng ngũ cũ, lại do bộ ghi lấy họ tên, sau còn trốn sẽ chém ; trốn 2 lần thì phát
vãng đi đất mới Trấn Ninh làm binh. Các lính trốn năm nay thì xin tư ngay cho các
quan địa phương tìm bắt. Những tên bắt được thì xin theo nghiêm chỉ năm ấy tâu rõ
để trừng phạt.” [91; 11-12].
Ngoài ra, để giải quyết tình trạng thiếu binh lính trong quân ngũ, triều đình
đã thực hiện biện pháp bắt lính. Đây là tình trạng chỉ diễn ra dưới triều Nguyễn.
Trong Châu bản, biện pháp này không chỉ được nói tới dưới triều Tự Đức khi số
lượng quân đội ngày càng giảm sút mà dưới thời Minh Mệnh, khi lực lượng quân
đội đông nhất thì vẫn xảy ra tình trạng bắt lính để xung vào quân ngũ. Tờ 78 tập 79
ngày 21 tháng 10 năm Minh Mạng 21 theo lời tấu của bộ Binh về việc tỉnh Vĩnh
Long vâng minh dụ của vua thúc bắt quân hương dũng đủ số 3000 quân cho đến
Trấn Tây sai phái [33; tờ 78 tập 79 ngày 21 tháng 10 năm Minh Mạng 21 (1840)].
Quan lại địa phương thực hiện bắt đủ số binh lính mới được chi cấp lương. Ví dụ, Tờ 170 tập 10 ngày 18 tháng 2 năm Tự Đức 2 tấu về việc Tuần phủ Bình Định Lê
Nguyên Trung làm theo yêu cầu của bộ Binh năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), cuối năm
các Cai tổng, Phó tổng được giao nhiệm vụ thúc bắt lính cuối năm thống kê người
nào đã đủ thì cho theo tháng tiếp tục cấp tiền, gạo. Năm Tự Đức thứ nhất (1848) các viên Cai tổng, Phó tổng thuộc các phủ huyện trong hạt trong năm ngoái thúc bắt lính đều thiếu, năm nay (1849) trong 3 tổng Xuân An, Trung Chính, Nhân Nghĩa , chỉ có tổng Trung Chính đã đủ, tổng Xuân An còn thiếu ít Cai tổng 2 tổng này nên
chi cấp lương. Cai Nhân Nghĩa thiếu nhiều quân dừng cấp lương [55; Tờ 170 tập 10 ngày 18 tháng 2 năm Tự Đức 2 (1848)]
Ngoài ra, bên cạnh phong trào chống triều đình của nông dân và nhân dân vùng dân tộc thiểu số còn có cả phong trào của binh lính chống lại triều đình mà tiêu biểu là
143
cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi (1833-1835) ở Nam Kỳ. Lý giải nguyên nhân này, có
ý kiến cho rằng do quy định về số năm tại ngũ của cả võ quan và binh lính quá dài, hoặc
các cuộc khởi nghĩa nổ ra liên tục dẫn đến việc võ quan và binh lính không có thời gian nghỉ ngơi. Một mặt nào đó tình trạng lính bỏ trốn khỏi quân ngũ chứng tỏ sự bất ổn của
tình hình chính trị cũng như những chính sách của nhà nước đối với binh lính trên thực tế vẫn còn ít nhiều hạn chế ảnh hưởng đến tinh thần của họ.
Nhiều chính sách của chế độ đãi ngộ còn mang tính nhất thời
Thông thường chế độ của nhà nước được hiểu là những quy định được ghi
thành văn bản, được nhà nước ban hành và thực hiện trong thực tế. Tuy nhiên, ngoại trừ một số chính sách như; lương cho võ quan được triều Nguyễn ban hành trong
chế độ chung dành cho quan lại, quân điền cho binh lính và một vài chế độ trợ cấp
với chiến sĩ trận thương, trận vong được ban hành đầu triều Nguyễn, dưới thời vua
Gia Long, hầu hết các chính sách được bổ sung ở các đời vua sau có những chính
sách đến triều Minh Mệnh, thậm chí triều Tự Đức mới được ban hành.
Nhiều định lệ ban hành không phải từ sự bàn bạc hay quyết sách của nhà vua
mà xuất phát từ việc vua ban cấp cho một đối tượng rồi từ đó theo lệ thi hành. Từ
thời Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đến Tự Đức các vị vua nhà Nguyễn đã rất
nhiều lần thực hiện ban thưởng cho quan binh có công đánh dẹp các cuộc nổi dậy và
chống giặc ngoại xâm nhưng không quy chuẩn thành định lệ về định mức thưởng
phạt. Ngay cả chế độ phụ cấp cho binh lính đi sai phái cũng không có quy định rõ
ràng mà triều đình thường dựa vào trường hợp tương tự đã ban cấp để áp dụng cho
những trường hợp sau. Tài liệu Châu bản còn chép về việc bộ Hộ tâu lên vua Minh
Mệnh trường hợp ở tỉnh Quảng Trị: “Tập tâu của tỉnh Quảng Trị trình bầy việc các tên Trần Văn Hòa, Đào Văn Sự nguyên là lính lần này được về tỉnh sai phái, việc
được cấp tiền, gạo bao nhiêu chưa có lệ định. Vâng kiểm tra thấy năm Minh Mệnh
thứ 19 (1838) nguyên có các tên Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Hiến, Võ Văn
Thuyên về tỉnh sai phái đều được cấp hàng tháng tiền 1 quan, gạo 1 phương. Nay bọn Trần Văn Hòa cũng xin cấp lương ăn như vậy để đủ chi dùng. Bộ thần xét thấy các tên về tỉnh sai phái việc cấp tiền, gạo hàng tháng vẫn chưa định thành lệ. Vâng kiểm tra thấy bọn Nguyễn Văn Huyên năm trước về tỉnh Quảng Trị chịu sai phái và
bọn Nguyễn Văn Tuấn gồm 52 tên năm nay được phái giao đến Trấn Tây sai phái đều được cấp mỗi tháng 1 quan tiền và 1 phương gạo. Nay tỉnh đó dựa theo năm trước đã làm trình xin chi cấp nghĩ nên chuẩn cho theo y đã xin. Cung nghĩ phụng chỉ: Chuẩn y lời xin” [52; tờ143 quyển 13 ngày 17 tháng 3 năm Thiệu Trị 1 (1841)].
144
Điều này, một mặt phản ánh sự linh hoạt nhất định trong việc thực hiện chế độ
đãi ngộ cho quân đội, mặt khác, cũng cho thấy tính nhất thời, thậm chí thiếu khả thi trong
việc thực hiện chế độ đãi ngộ dành cho võ quan và binh lính triều Nguyễn mà cơ sở sâu xa là khả năng chi dùng ngân sách ngày càng khó khăn, eo hẹp của vương triều Nguyễn.
Tổ chức quân đội hoàn bị, lực lượng quân đông, chế độ đãi ngộ đối với quân đội toàn diện hơn các triều đại trước nhưng quân đội triều Nguyễn vẫn không ngăn
nổi những cuộc đấu tranh nổ ra liên tục và khắp mọi miền tổ quốc của các tầng lớp
nhân dân. Theo Phan Huy Lê trong Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam tập 3,
trong thời gian từ 1802 đến 1884 có khoảng 450 cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình (Gia Long 73 cuộc, Minh Mệnh 234 cuộc, Thiệu Trị 58 cuộc và Tự Đức
khoảng 100 cuộc). Ngay từ khi vương triều lập ra, nhân dân khắp Bắc kỳ đã nổi lên
chống đối triều đình. Quân đội dưới thời Minh Mệnh đông về số lượng, hoàn chỉnh
về tổ chức và ưu ái về chế độ đãi ngộ nhưng đây lại là thời kỳ nổ ra nhiều cuộc khởi
nghĩa nhất. Trong 7 năm (1840-1847) cầm quyền vua Thiệu Trị cũng phải huy động
lực lượng đánh dẹp tới 58 cuộc khởi nghĩa.
Dưới triều Tự Đức, mặc dù triều đình và nhân dân phải chống ngoại xâm
nhưng khởi nghĩa chống triều đình không vì thế mà suy giảm. Những cuộc nổi dậy
không chỉ đơn thuần là khởi nghĩa nông dân mà còn gồm nhiều thành phần xã hội
khác. Ví dụ cuộc khởi nghĩa Cao Bá Quát (là một trí thức nho học) khởi nghĩa Lê
Văn Khôi (là một võ quan) Vì sao lại có hiện tượng như vậy? Phải chăng quân đội
triều Nguyễn chưa đủ mạnh? Có thể lý giải vấn đề này bằng bối cảnh thành lập và
mục đích xây dựng quân đội của vương triều Nguyễn. Năm 1802 triều Nguyễn
được thành lập bằng một thắng lợi quân sự trước vương triều Tây Sơn để giành chính quyền. Ngay từ khi lên ngôi, triều Nguyễn đã gặp phải sự chống đối của các
phe phái chính trị đối lập khác đặc biệt là cựu thần của dòng họ Lê và triều Tây
Sơn. Để giữ vững uy quyền của dòng họ triều Nguyễn phải xây dựng một lực lượng
quân đội mạnh để bảo vệ vương triều. Do đó quân đội triều Nguyễn bên cạnh bảo vệ độc lập dân tộc thì trấn áp các cuộc nổi dậy để bảo vệ vương quyền là nhiệm vụ không kém phần quan trọng. Ngoài ra, triều Nguyễn còn phải hao tổn sức người sức của để củng cố quân đội nhằm gây thanh thế với các nước láng giềng chống lại âm
mưu xâm lược của quân Xiêm và bảo hộ Lào và Chân Lạp. Đây là lý do giải thích tại sao triều Nguyễn lên cầm quyền gặp lại sự chống đối của nhiều tầng lớp nhân dân như vậy.
145
Tiểu kết chƣơng 5
Chế độ đãi ngộ là một trong những chính sách quan trọng trong việc xây dựng lực lượng quân đội dưới triều Nguyễn. Được xây dựng trên cơ sở kế thừa
những chính sách đối với binh lính của các triều đại trước, các vị vua thời Nguyễn
từ Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đến Tự Đức đã hoàn thiện cho phù hợp với nền
chính trị, tình hình xã hội và tiềm lực kinh tế của đất nước. Trong đó võ quan và
binh lính là đối tượng luôn được được nhà nước quan tâm so với các thành phần
khác trong xã hội. Kết quả lớn nhất của chính sách này là giúp vương triều Nguyễn
quản lý đất nước, giữ được nền thống trị của vương triều.
Bên cạnh những giá trị tích cực, chế độ lương bổng của triều Nguyễn dành
cho quân đội cũng không tránh khỏi những hạn chế như tính giai cấp và sự bất bình
đẳng. Trong chế độ đối đãi ngộ dành cho quân đội, luôn có sự chênh phân biệt lớn
giữa võ quan và binh lính, giữa phẩm hàm cao và thấp, giữa nguồn gốc thường dân
và quý tộc.
Chế độ đãi ngộ dành cho quân đội là nỗ lực lớn của vương triều Nguyễn
nhằm xây dựng chỗ dựa và nền tảng quyền lực cho nhà nước quân chủ chuyên chế.
Tuy nhiên, do khó khăn ngày càng lớn của tình hình tài chính, sự ưu ái của nhà
nước dành cho quân đội thông qua chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp, trợ cấp,
khen thưởng...dần dần bộc lộ mặt trái trở thành gánh nặng cho nền kinh tế xã hội
của quốc gia.
146
KẾT LUẬN
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về chể độ đãi ngộ của triều Nguyễn
dành cho quân đội, tác giả luận án rút ra một số kết luận sau:
1. Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với quân đội ra đời nhằm xây dựng một đội quân vững mạnh, đảm bảo sự ổn định chính trị của cho giai cấp cầm quyền.
Truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ khi họ Khúc xây
dựng nền tự chủ đến Lý, Trần, Lê Sơ đã chứng minh rằng nền chính trị ổn định là
nền tảng cho sự phát triển kinh tế và văn hóa. Bên cạnh vai trò của vua là người cầm quyền quyết định mọi mặt của đất nước thì một trong những lực lượng giúp vua
thực thi chính sách quản lý đất nước giữ vững sự ổn định (hoặc loạn lạc) của nền
chính trị đó chính là quân đội. Do vậy, ý thức xây dựng một lực lượng quân đội mạnh
và trung thành là yêu cầu thiết yếu của một quốc gia độc lập mà để có được điều đó
thì việc đảm bảo đời sống của võ quan và binh lính cũng như sự động viên cả về vật
chất và tinh thần của nhà nước đối với quân đội là việc làm đặc biệt quan trọng.
Khác với đánh giá trước đây cho rằng quân đội triều Nguyễn yếu kém lạc
hậu, được xây dựng trên nền tảng của một vương triều khủng hoảng trầm trọng. Với
những tư liệu cụ thể và khách quan và đáng tin cậy đã nêu, có thể thấy rằng so với
các triều đại phong kiến trước, cùng với ý thức xây dựng nhà nước tập quyền triều
Nguyễn rất có ý thức xây dựng một lực lượng quân đội chính quy vững mạnh để
đảm bảo sự cầm quyền của dòng họ cũng như sự ổn định của quốc gia dân tộc. Điều
này được minh chứng trước hết trong tổ chức quân đội dưới triều Nguyễn. Vương
triều Nguyễn đã xây dựng được một lực lượng quân đội đông tổ chức hoàn chỉnh hơn so với các vương triều trước với đầy đủ các lực lượng quân như bộ binh, thủy
binh, pháo binh, tượng binh. Trong đó, sự phát triển đặc biệt về tổ chức và số lượng
của Thủy quân của triều Nguyễn so với Thủy quân các triều đại trước cho thấy triều
Nguyễn rất coi trọng việc bảo vệ chủ quyền và an ninh trên biển như nhận định của Nguyễn Tường Phượng (1950) [161; 86], Đỗ Văn Ninh (1993) [155; 60], Hoàng Lương (2016) [1153; 52]...
Nội dung của chế độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn qua các
triều vua từ Gia Long đến Tự Đức ngày càng được hoàn thiện hơn so với các triều đại trước đó. Trên thực tế, định mức được ban cấp và các biện pháp nhằm trợ cấp đãi ngộ cho quân đội dưới triều Nguyễn đã đảm bảo phần nào đời sống vật chất cho binh lính. Thực tế chính sách lương bổng và trợ cấp của võ quan đối với quân đội
147
triều Nguyễn không hoàn toàn giống như nhận định trước đây của một số nhà
nghiên cứu khi cho rằng: Quân lính bị triều đình bạc đãi, võ quan bị triều đình xem
rẻ. Trên thực tế, nguyên nhân thất bại của quân đội triều Nguyễn đối với thực dân Pháp bắt nguồn bắt nguồn từ sai lầm trong đường lối kháng chiến, sự thiếu quyết tâm kháng chiến của bộ phận lớn quan quân triều đình và sự thiếu chỗ dựa từ sức mạnh đại đoàn kết của nhân dân.
Nguyên nhân thất bại của quân đội triều Nguyễn trước thực dân Pháp bắt
nguồn từ tư duy chiến thuật vẫn còn theo binh pháp truyền thống, dù đã tiến bộ hơn
thời kỳ trước nhưng trang bị vũ khí còn thô sơ và tư tưởng chủ hòa của vua quan
phong kiến, sự thiếu chỗ dựa từ sức mạnh đại đoàn kết của nhân dân đã ảnh hưởng tới quyết tâm kháng chiến đến cùng của triều Nguyễn.
2. Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn cho võ quan và binh lính có tác động không nhỏ đến bộ phận binh lính - lực lượng có vai trò trực tiếp đối với sự ổn định
chính trị của quốc gia. Trong đó, chế độ lương cho quan binh là chính sách quan
trọng đảm bảo đời sống vật chất cho binh lính tập luyện và chiến đấu, duy trì sự ổn
định của quân đội. Các hình thức phụ cấp và trợ cấp đặc biệt là trợ cấp cho binh lính
khi đi làm nhiệm vụ có ý nghĩa động viên kịp thời tinh thần giúp họ hoàn thành tốt
nhiệm vụ. Chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn đối với binh lính tham gia trận mạc,
những người có công với vương triều, những bệnh binh, tử sĩ, đối tượng như vợ
góa, con côi của binh lính trận vong thực sự có ý nghĩa tích cực, phần nào ổn định
đời sống cho một bộ phận dân chúng đồng thời ở một khía cạnh nhất định đã thể
hiện tư tưởng nhân văn dưới sự cai trị của triều Nguyễn.
3. Chế độ đãi ngộ của vương triều Nguyễn dành cho võ quan và binh lính có thể hiểu rõ hơn tình hình chính trị, tiềm lực kinh tế, sự ổn định hoặc bất ổn của xã
hội đương thời, đặc biệt là đối với những chính sách được nhà nước ưu tiên thực
hiện dưới mỗi triều vua hoặc trong một bối cảnh lịch sử nhất định. Khi mới thành lập vương triều, để ổn định tình hình đất nước, khẳng định sự cai trị của dòng họ, đồng thời đáp lại công lao của những người có công đối với vương triều, vua Gia Long đã có nhiều chính sách thể hiện sự quan tâm đối với vùng đất Bắc Hà và các công thần, võ tướng. Sang thời Minh Mệnh, để củng cố nền chính trị và sự lớn mạnh của vương triều, nhà vua thực hiện việc điều chỉnh tăng định mức lương, ban thưởng hậu hĩnh cho những binh sĩ có công đối với đất nước đặc biệt là bộ phận võ quan đã giúp triều đình dập tan sự nổi dậy của các thế lực chống đối. Dưới triều Tự
Đức, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nổ ra, chế độ đãi ngộ đối với
148
những binh lính bị bệnh, trận thương, trận vong lại được nhà nước đặc biệt quan
tâm. Có thể nói, chế độ đãi ngộ của nhà nước đối với quân đội phần nào giúp chúng
ta hình dung rõ hơn về bức tranh về đời sống chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam trong thế kỷ XIX dưới sự cai trị của triều Nguyễn.
4. Chế độ đãi ngộ dành cho quân đội dưới triều Nguyễn có một số hạn chế như thể hiện sự phân biệt rõ rệt giữa các phẩm trật và nguồn gốc xuất thân của binh
lính. Việc ban cấp từ định mức lương hàng tháng đến thưởng cho quan quân nhất là
võ quan triều Nguyễn đều dựa trên phẩm trật cao thấp, càng phẩm trật cao thì càng
được hưởng bổng lộc lớn. Ngoài ra, định lệ mức lương của binh lính triều Nguyễn dựa theo tiêu chí người trong và ngoài tông thất mà không dựa trên công trạng cụ
thể cho thấy quan điểm rõ ràng của nhà nước nhằm bảo vệ bộ phận quan lại cao cấp
cũng như lợi ích của bộ phận xuất thân từ hoàng tộc và những người có công lao đối
với dòng họ Nguyễn. Những chính sách này có giá trị động viên tinh thần đối với
người được ban cấp nhưng mặt trái của nó là làm tăng thêm sự bất bình đẳng, khoét
sâu thêm những mâu thuẫn trong xã hội nhất là đối với những lực lượng luôn có tư
tưởng chống đối lại sự cai trị của triều Nguyễn như các cựu thần và con cháu của
dòng họ Lê - Trịnh ở Bắc Hà, nhân dân vùng dân tộc thiểu số. Đây là những mâu
thuẫn nội tại của nhà Nguyễn ngay từ khi vương triều được thành lập và sẽ là một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu của vương triều Nguyễn nhất là dưới
thời kỳ nước Đại Nam phải đối mặt với sự xâm lược của thực dân Pháp.
Mặc dù đã cố gắng thực thi nhiều biện pháp để đảm bảo động viên tinh thần
của võ quan và binh lính nhưng chế độ đãi ngộ dành cho quân đội dưới triều
Nguyễn không tránh khỏi một số hạn chế trong nội dung chủ trương cũng như quá trình triển khai thực hiện. Trong đó, nhiều quy định được ban hành xuất phát từ việc
ban cấp cho một đối tượng cụ thể rồi mới đặt thành định lệ thi hành với những
trường hợp tương tự. Ngoài ra, chế độ đãi ngộ dành cho quân đội dưới triều Nguyễn
vẫn không thể tránh khỏi tình trạng lính trốn quân ngũ và sự suy giảm về số lượng do không tuyển được binh lính, đặc biệt là dưới triều vua Tự Đức. 5.Những chính sách đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn không chỉ có ý nghĩa đối với đương thời mà còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong
việc tổ chức và xây dựng lực lượng quân đội hiện nay.
Chế độ khen thưởng của nhà nước dành cho quân đội hiện nay đã có nhiều điểm mới và tiến bộ. Tuy nhiên, trong xây dựng chính sách rất cần tham chiếu những biện pháp đãi ngộ của triều Nguyễn dành cho những binh sĩ hoàn thành
149
nhiệm vụ hoặc có công trạng đặc biệt. Trong chính sách khen thưởng cần có sự
phân biệt giữa các nhiệm vụ và lấy tiêu chí về hiệu quả công việc và mức độ quan
trọng đối với nền an ninh, quốc phòng để xem xét đánh giá.
Kinh nghiệm lịch sử từ việc nghiên cứu đề tài cho thấy, chế độ tiền lương và
phụ cấp phải đảm bảo được mức sống cho quân đội, phù hợp với bối cảnh đất nước và điều kiện kinh tế quốc gia. Đồng thời, nhà nước phải có chế độ phụ cấp thêm cho
những binh lính đi làm nhiệm vụ như phí đi đường, phụ cấp khi đi làm nhiệm vụ lâu
ngày, phụ cấp cho binh sĩ đi là nhiệm vụ ở những vùng biên giới hoặc làm việc
trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Đối với những người lính đi làm những nhiệm vụ đặc thù như vậy, nhà nước cần có những chế độ phụ cấp riêng đảm bảo cho họ
yên tâm công tác như tiền, gạo, quân trang quân dụng và y tế. Chế độ này có ý
nghĩa thiết thực đối với binh sĩ đang đóng quân ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới
hải đảo hiện nay.
Khảo cứu chế độ trợ cấp của triều Nguyễn dành cho binh lính trận thương,
trận vong, bị bệnh hay tai nạn cũng như biện pháp trợ cấp cho gia đình cha mẹ vợ
con của binh lính còn cho thấy đó là những chính sách có ý nghĩa nhân đạo, rất cần
cho nhà nước Việt Nam hiện nay tham khảo trong việc xây dựng chính sách đối với
thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng hàng năm.
150
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu thƣ tịch 1.Đặng Xuân Bảng (2000), Việt sử cương mục tiết yếu (bản dịch), Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
2.Phan Huy Chú (2018), Lịch triều hiến chương loại chí (bản dịch), tập I,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 101 tập 1, ngày 14 tháng 3 năm Gia
Long thứ 4 (1805), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
4.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 99 tập 2, ngày 17 tháng 11 năm Gia
Long thứ 11 (1813), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
5.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 167 tập 3, ngày 30 tháng 8 năm Minh
Mệnh thứ 2 (1821), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
6.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 64 tập 39, ngày 19 tháng 1 năm Minh
Mệnh thứ 11(1830), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
7.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 221 tập 39, ngày 21 tháng 2 năm
Minh Mệnh thứ 11 (1830), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
8.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 91 tập 68, ngày 19 tháng 4 năm
Minh Mệnh thứ 19 (1838), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
9.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ số 62 quyển 77, ngày 5 tháng 6 năm
Minh Mệnh thứ 21 (1941), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
10.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 16 quyển 63, năm Minh Mệnh thứ
19 (1838), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
11.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 62 quyển 63, ngày 7 tháng 4 nhuận
năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
12.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 47 tập 63, ngày 19 tháng 3 năm
Minh Mệnh 19 (1838), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
13.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 330 quyển số 79, ngày 3 tháng 11
năm Minh Mệnh 21 (1840), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
14.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 34 quyển số 63, ngày 1 tháng 3
năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
15.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 70 tập 78, ngày 27 tháng 6 năm
Minh Mệnh 21(1840), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
16. Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 65 tập 65, ngày 08 tháng 2 Minh
Mệnh năm thứ 19 (1838), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
17. Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 24 tập 19, ngày 07 tháng 8 năm
Minh Mệnh thứ 7 (1826), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
18.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 48 tập 79, ngày15 tháng 10 năm
Minh Mệnh 21 (1840), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
151
19.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 94 tập 78, ngày 29 tháng 6 năm
Minh Mệnh thứ 21 (1840), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
20.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 258 quyển 77, ngày 2 tháng 6 năm
Minh Mệnh thứ 21 (1840), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
21.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 402 tập 36, ngày 28 tháng 10 năm
Minh Mệnh 10 (1829), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
22.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 45 tập 31, ngày tháng 8 năm Minh
Mệnh 10 (1829), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
23.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 90 tập 58, ngày 22 tháng 7 năm
Minh Mệnh thứ 18 (1837), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
24.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 87 tập 73, ngày 5 tháng 11 năm
Minh Mệnh thứ 19 (1838), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
25.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 121 quyển 10, ngày 1 tháng 9 năm
Minh Mệnh thứ 6 (1825), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
26.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 83 quyển 10, ngày 2 tháng 5 năm
Minh Mệnh thứ 6 (1825), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
27.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tập 49 ngày 25 tháng 10 năm Minh
Mệnh thứ 14 (1833), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
28. Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 288 tập 19, ngày 16 tháng 10 năm
Minh Mệnh thứ 7 (1826), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I
29.Châu bản triều Nguyễn, (bản dịch), tờ 31 tập 39, ngày 12 tháng 1 năm
Minh Mệnh thứ 11 (1830), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
30.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 32 tập 49, ngày 25 tháng 10 năm
Minh Mệnh thứ 14 (1833), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
31.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 92 tập 54, ngày 13 tháng 7 năm
Minh Mạng 16 (1835), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
32.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 245 tập 57, ngày 13 tháng 7 năm
Minh Mạng 18 (1837) bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
33.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 78 tập 79, ngày 21 tháng 10 năm
Minh Mệnh 21(1840), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
34.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 68 tập 10, ngày 26 tháng 10 năm
Thiệu Trị thứ nhất (1841), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
35.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 75 quyển 22, ngày 3 tháng 12 năm
Thiệu Trị 2 (1842), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
36.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 47 quyển 40, năm Thiệu Trị thứ 4
(1844), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
37.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 123 quyển 35, năm Thiệu Trị thứ 6
(1846), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
38.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 64 quyển 40, ngày 8 tháng 2 năm
152
Thiệu Trị 7 (1847), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
39.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 34 quyển 48, ngày 17 tháng 6 năm
Thiệu Trị 7 (1847) , bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
40.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 380 quyển 37, ngày 28 tháng 5 năm
Thiệu Trị thứ 6 (18, bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
41.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 46 quyển 33, ngày tháng 5 năm
Thiệu trị thứ 6, bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
42.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 77 quyển 40, ngày 14 tháng 2 năm
Thiệu Trị thứ 7 (1847) , bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
43.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 9 quyển 43, ngày 1 tháng 4 năm
Thiệu Trị 7 (1847) , bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
44.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 34 quyển 33, ngày 10 tháng 5 năm
Thiệu Trị thứ 6 (1846), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
45.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 155 quyển 7, ngày 13 tháng 3 năm
Thiệu trị thứ 1 (1841), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
46.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 153 quyển 30, ngày 20 tháng 3 năm
Thiệu Trị thứ 5 (1845), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
47.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 4 tập 21, ngày 9 tháng 1 năm Thiệu
Trị thứ 2 (1842), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
48.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 181 quyển 7, ngày 19 tháng 3 năm
Thiệu Trị thứ nhất (1841), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
49.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 34 quyển 6, ngày 4 tháng 6 năm
Thiệu Trị thứ nhất (1841), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
50.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 253 tập 6, ngày 22 tháng 9 năm
Thiệu Trị thứ nhất (1841) bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
51.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 204 quyển 6, ngày 5 tháng 9 năm
Thiệu Trị thứ nhất (1841), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
52.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 143 quyển 13, ngày 17 tháng 3 năm
Thiệu Trị thứ nhất (1841), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
53.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 403 quyển 39, ngày 27 tháng 12
năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) , bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
54.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 49 tập 11, ngày 10 tháng 2 năm Tự
Đức thứ 2 (1842), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
55.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 170 tập 10, ngày 18 tháng 2 năm
Tự Đức 2 (1848) bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
56.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 331 tập 99, năm Tự Đức thứ 11
(1858), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
57.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 292 tập 338, ngày 30 tháng 02 năm
Tự Đức 32 (1879), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
153
58.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 56 tập 25, ngày 8 tháng 4 năm Tự
Đức thứ 4 (1851), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
59.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch), tờ 96 tập 152, ngày 5 tháng 6 năm Tự
Đức thứ 16 (1863), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
60.Châu bản triều Nguyễn (bản dịch) tờ 68, quyển 10 năm Thiệu Trị thứ
1(1841), bản lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
61.Cao Xuân Dục (1998), Quốc triều chính biên toát yếu (bản dịch), Nxb
Thuận Hóa, Huế.
62.Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục (bản dịch), Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
63.Lê Quý Đôn (2015) Phủ biên tạp lục (bản dịch) Nxb Đà Nẵng. 64.Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (2013), Đại việt sử kí toàn thư (bản
dịch), Nxb Thời đại, Hà Nội.
65.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản
dịch), tập I, Nxb Thuận Hóa, Huế.
66.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản
dịch), tập II, Nxb Thuận Hóa, Huế.
67.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản
dịch), tập III, Nxb Thuận Hóa, Huế.
68.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản
dịch), tập IV, Nxb Thuận Hóa, Huế.
69.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản
dịch), tập V, Nxb Thuận Hóa, Huế.
70.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản
dịch), tập VI, Nxb Thuận Hóa, Huế.
71.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản
dịch), tập VII, Nxb Thuận Hóa, Huế.
72.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (bản
dịch), tập VIII, Nxb Thuận Hóa, Huế.
73.Nội các triều Nguyễn (2004), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên
(bản dịch), tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
74.Nội các triều Nguyễn (2004), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên
(bản dịch), tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
75.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên
(bản dịch), tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
76.Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên
(bản dịch), tập IV, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
77.Nội các triều Nguyễn ( 2007), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên
(bản dịch), tập V, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
154
78.Nội các triều Nguyễn (2006), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên
(bản dịch), tập VI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
79.Nội các triều Nguyễn (2009), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên
(bản dịch), tập VII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
80. Nội các triều Nguyễn (2009), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên
(bản dịch), tập VIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
81.Nội các triều Nguyễn (2012), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên
(bản dịch), tập IX, Nxb Thuận Hóa, Huế.
82.Nội các triều Nguyễn (2012), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên
(bản dịch), tập X, Nxb Thuận Hóa, Huế.
83.Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện (bản dịch), tập I,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
84.Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện (bản dịch), tập II,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
85. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện (bản dịch), tập
III, Nxb Thuận Hóa, Huế.
86.Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện (bản dịch), tập
IV, Nxb Thuận Hóa, Huế.
87.Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Minh Mệnh chính yếu (bản dịch), Nxb
Thuận Hóa, Huế.
88.Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí (bản dịch),
tập I, Nxb Thuận Hóa, Huế.
89.Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập I,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
90.Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập II,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
91.Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập III,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
92.Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập IV,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
93. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập V,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
94.Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập VI,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
95. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập VII,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
96.Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập
VIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
97.Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập IX,
155
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
98.Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục (bản dịch), tập X,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
99.Quốc sử quán triều Nguyễn (2000), Trần Văn Quyền dịch và chú giải, Minh Mệnh ngự chế văn (bản dịch), Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu Hán Nôm.
100. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007) Khâm định Việt sử thông giám
cương mục (bản dịch) tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
101.Viện Hán Nôm (dịch), (2018) Đại việt sử ký tục biên (bản dịch), Nxb
Hồng Đức, Thanh Hóa.
B. Tài liệu nghiên cứu tiếng Việt 102.Võ Hương An (2020) Từ điển nhà Nguyễn, Nxb Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh.
103.Alexander Barton Woodside (2002), “Chính quyền trung ương triều Nguyễn và nhà Thanh: Cơ cấu quyền lực và quá trình giao tiếp”, Những vấn đề lịch sử Việt Nam, Bán nguyệt san Xưa và Nay, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.201-248.
104.Nguyễn Quan Ân (1995), Tướng quân Doãn Nỗ và họ Doãn trong lịch
sử, Nxb Hà Nội.
105.Nguyễn Thế Anh (2008), Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều
Nguyễn, Nxb Văn học, Hà Nội.
106.Huỳnh Công Bá, Huỳnh Văn Nhật Tiến (2014), Định chế hành chính và
quân sự triều Nguyễn (1802-1885), Nxb Thuận Hóa, Huế.
107.Huỳnh Công Bá (2017), Định chế pháp luật và tố tụng triều Nguyễn
(1802-1885), Nxb Thuận Hóa, Huế.
108.Đỗ Bang (2001),“Tình hình lũ lụt ở Quảng Nam vào thế kỷ XIX và những biện pháp cứu trợ của triều Nguyễn 1802 -1884”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 3 năm 2001.
109.Đỗ Bang (Chủ biên) (1997), Tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn giai
đoạn 1802-1884, Nxb Thuận Hóa, Huế.
110.Đỗ Bang (Chủ biên) (1998), Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà
nước triều Nguyễn, những vấn đề đặt ra hiện nay, Nxb Thuận Hóa, Huế.
111.Đỗ Bang (2002), “Triều Nguyễn sau 200 năm nhìn lại”, Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời Nguyễn ở Đại học, Cao đẳng sư phạm và phổ thông, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia, Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội.
112.Đỗ Bang (2011), Hệ thống phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn,
Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
113.Đỗ Bang, Đinh Xuân Lâm (1999), Tư tưởng canh tân đất nước dưới
triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.
156
114.Đỗ Bang, Trương Hữu Quýnh, Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân (1997), Tình
hình ruộng đất và đời sống Việt Nam dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.
115. Bảo tàng Hà Tĩnh (2017) Văn bia Hà Tĩnh, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
116.Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại Thành phổ Hồ Chí Minh (1995), Những
vấn đề văn hóa xã hội thời Nguvễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
117.Hà Duy Biển (2015), “Định mức lương bổng của quan lại Bộ Binh dưới
triều Minh Mệnh (1820-1840)”, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 2 (278), tr.51-56.
118.Hà Duy Biển, Tổ chức và hoạt động của bộ Binh dưới triều Minh Mệnh (1820 - 1840), Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học KHXH&Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội), Hà Nội.
119.Bộ Ngoại giao, Ủy ban biên giới quốc gia, (2019) Tuyển tập các châu bản triều Nguyễn về việc thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb Trí thức, Hà Nội.
120. Bùi Hạnh Cẩn, Nguyễn Loan, Lan Phương (1995), Những ông nghè,
ông cống triều Nguyễn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
121. Lê Quang Chắn (2015) Chính sách xã hội triều Nguyễn giai đoạn 1802- 1884, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện khoa học xã hội, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam.
122. Lê Tiến Công (2017), Tổ chức phòng thủ và hoạt động bảo vệ vùng biển miền trung dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
123. Cục Lưu trữ nhà nước (1998), Mục lục châu bản triều Nguyễn, Tập I,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
124.Cục Lưu trữ nhà nước (2010), Mục lục châu bản triều Nguyễn, Tập II,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
125.Phan Đại Doãn - Nguyễn Minh Tường (1998), Một số vấn đề về quan
chế triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.
126.Đinh Thị Dung (2000), Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX, Luận án Tiến sĩ lịch sử, Trường Đại học KHXH& Nhân văn (ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh), Tp Hồ Chí Minh.
127.Lê Thị Kim Dung (2000), “Thực chất của chính sách “Bế quan tỏa cảng” dưới triều Minh Mệnh (1820-1840)”, Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, Số 2 (Chuyên san Khoa học xã hội), Tập XVI, Tr.1-11.
128.Nguyễn Hồng Dương, Phan Đại Doãn (1990), Sơ thảo lịch sử bảo vệ an
ninh quốc gia và giữ gìn trật tự xã hội Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
129.Nguyễn Văn Đăng (2004), “Ngành đóng tàu thuyền ở Huế thời
Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6.
130. Nguyễn Đoàn (1967), Tìm hiểu về bưu chính đời Gia Long, Minh Mệnh,
157
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 9.
131.Trần Văn Giàu (1958), Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà
Nguyễn trước 1858, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
132.Trần Văn Giàu (1956), Chống xâm lăng (Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến
1898), Nxb Xây dựng, Hà Nội.
133.Nguyễn Sĩ Hải (1962), Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn Sơ (1802-1847), Luận án Tiến sĩ pháp lý, Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn, Sài Gòn. 134.Đỗ Mạnh Hàm (biên chép), Nguyễn Công Trứ gia đình tàng cảo, ký hiệu
VHv.327, Viện nghiên cứu Hán Nôm.
135.Vĩnh Hồ (1989), “Tổ chức quân đội và vũ khí quân dụng của Việt Nam
dưới triều Nguyễn”, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 7.
136.Lê Thị Thanh Hòa (1995), “Việc sử dụng quan lại của vương triều
Nguyễn từ 1802 đến 1884”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Số 3, Tr.56-63.
137.Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2008), Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Nxb. Thế giới, Hà Nội. 138.Đỗ Đức Hùng (1997), Vấn đề trị thủy ở đồng bằng Bắc Bộ dưới triều
Nguyễn thế kỷ XIX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
139.Trần Trọng Kim (2008), Việt Nam sử lược, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 140. Bùi Gia Khánh (2013), “Thủy quân triều Nguyễn dưới thời vua Gia
Long và Minh Mệnh”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7.
141.Bùi Gia Khánh (2018), Thủy quân triều Nguyễn (1802-1884), Nxb
Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
142.Phan Khoang (1948), Việt –Pháp bang giao sử (từ thế kỷ XVII đến đầu
thế kỷ XX, Nxb Thuận hóa, Huế.
143.Nguyễn Cảnh Minh (chủ biên) (2008), Lịch sử Việt Nam tập III, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
144.Nguyễn Trọng Minh (2016), “Tìm hiểu về quân đội triều Nguyễn giai đoạn 1858 - 1884”, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 19, số XI/2016. 145.Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (2007), Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 8
(Hoạt động quân sự từ năm 1802 đến năm 1896), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
146. Dương Đình Lập (chủ biên) (2014), Lịch sử tổ chức quân sự Việt Nam,
Tập 2 (1400-1930), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
147.Phan Huy Lê (1963), “Tình hình khai mỏ dưới triều Nguyễn” Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử số 53.
148.Phan Huy Lê, (1965) Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập II, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
149.Phan Huy Lê, (1965) Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập III, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
150.Phan Huy Lê, chủ biên (2012), Lịch sử Việt Nam gồm tập I và tập II,
158
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
151.Ngô Thế Long dịch và chú thích (2006), Đặng gia phả hệ toản chính
thực lục và Đặng gia phả ký tục biên Lương Xá –Hà Tây, Nxb Thế giới, Hà Nội.
152.Hoàng Lương (2016) “Tuyển mộ binh lính dưới triều Minh Mệnh 1820-
1840”, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 297.
153.Hoàng Lương (2017), “Định lệ chi cấp binh lương dưới triều Minh
Mệnh (1820- 1840)”, Tạp chí Lịch sử quân sự số 308.
154.Đỗ Văn Ninh (1993), “Quân đội nhà Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu lịch
sử, số 6, Tr.45-53.
155. Đỗ Văn Ninh (2002), Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 156.Nhiều tác giả (2002), Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt
Nam, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế và Tạp chí Xưa & Nay, Huế.
157. Nhiều tác giả (2002), Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều Nguyễn, Sở Khoa học-Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên Huế, Trung tâm Bào tồn di tích cố đô Huế.
158. Nhiều tác giả (2005), Lịch sử nhà Nguyễn, một cách tiếp cận mới, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
159.Nguyễn Danh Phiệt (1993),“Suy nghĩ về bộ máy Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền nửa đầu thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6, tr.13- 20.
160. Phạm Ái Phương (1998),“Khoa học quân sự triều Minh Mệnh trước ảnh
hưởng của phương Tây”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5.
161.Nguyễn Tường Phượng (1950), Lược khảo binh chế Việt Nam qua các
thời đại, Nxb Ngày mai, Hà Nội.
162.Emmanuel Poisson (2006), Quan và lại ở miền Bắc Việt Nam - Một bộ máy hành chính trước thử thách (1820-1918), Đào Hùng và Nguyễn Văn Sự dịch, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
163.Nguyễn Phan Quang, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh (1980),
Lịch sử Việt Nam (1428-1858), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
164.Nguyễn Phan Quang, Đặng Huy Vận (1965), “Tìm hiểu chế độ lao dịch
và và binh dịch dưới triều vua Gia Long”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 80.
165.Vũ Văn Quân (1991), Chế độ ruộng đất - Kinh tế nông nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, Luận án Phó Tiến sĩ Sử học, Trường Đại học KHXH& Nhân văn (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.
166.Trương Hữu Quýnh - Đỗ Bang (1997), Tình hình mộng đẩí nông nghiệp
và đời sổng nông dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hoá, Huế.
167.Hồ Đình Sắc- Hồ Bá Thâm (2017), Họ Hồ Quỳnh Bảng, Nxb Nghệ An,
Nghệ An.
168.Trần Đức Anh Sơn (1994), “Một số đính chính về niên đại các vua triều
159
Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4.
169.Trần Đức Anh Sơn (2011), Nghề đóng thuyền và tàu thuyền ở Việt Nam
thời Nguyễn, Tạp chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, số 1, 2.
170. Phạm Văn Sơn (1961), Việt sử tân biên, Quyển IV (Từ Tây Sơn mạt
điệp đến Nguyễn sơ), Nxb Đại Nam, Sài Gòn.
171.Nguyễn Hữu Tâm (2008), “Khái quát tình hình nghiên cứu lịch sử triều Nguyễn của các học giả Trung Quốc từ đầu thế kỷ XXI đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 391, 392.
172.Trần Thanh Tâm (1996), Tìm hiểu quan chức nhà Nguyễn, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
173.Văn Tạo (1993), “Sơ bộ nhận thức về nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX”,
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6.
174.Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (1993), Chuyên đề về nhà Nguyễn, Viện Sử
học, Hà Nội.
175. Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu (2002), Hoàng Việt luật lệ,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
176.Nguyễn Văn Thành (2006), “Chúa Nguyễn Phúc Ánh với lực lượng
thủy quân thiện chiến”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 93.
177.Minh Thành (1993), Thư mục về nhà Nguyễn, Tạp chí Nghiên cứu lịch
sử, số 6, tr.70-91.
178. Phan Phương Thảo (2004) Chính sách quân điền ở Bình Định, Nxb Trẻ,
Hà Nội
179.Trịnh Ngọc Thiện (2014), “Tìm hiểu tổ chức quân đội Việt Nam thời kỳ chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn (Từ cuối thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XIX)” Tạp chí Khoa học trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, số 63.
180.Dương Phước Thu, Dương thị Hải Vân sưu tầm, chú dịch giới thiệu , Phan Anh Dũng hiện đính (2013) Văn bản Hán Nôm làng Hiền Lương, Nxb Thuận Hóa, Huế.
181.Nguyễn Huy Thục (chủ biên) (2014), Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam, tập 2 (Từ năm 1428 đến năm 1858), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 182.Lê Thị Toán (2012), Vài nét về thủy quân thời Nguyễn, Di sản Văn hóa
Huế - nghiên cứu và bảo tồn, Nxb Thuận Hóa, Huế.
183.Nguyễn Khánh Toàn (1954), Vài nhận xét về thời kỳ từ cuối nhà Lê đến
đầu nhà Nguyễn, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
184. Đỗ Tông (2001), Họ Đỗ Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 185.Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự - Bộ Quốc phòng (2004), Từ điển
bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
186.Trường Đại học Sư phạm Huế (1992), Triều Nguyễn - những vấn đề về
lịch sử, tư tưởng và văn học, Chương trình nghiên cứu triều Nguyễn, tập I, Huế.
160
187.Trường Đại học Sư phạm Huế (1993), Triều Nguyễn - những vấn đề về
lịch sử, tư tưởng và văn học, Chương trình nghiên cứu triều Nguyễn, tập II, Huế.
188.Trường Đại học Sư phạm Huế (1994), Triều Nguyễn - những vấn đề về
lịch sử, tư tưởng và văn học, Chương trình nghiên cứu triều Nguyễn, tập III, Huế.
189.Nguyễn Minh Tuấn (2006), Tổ chức chính quyền thời kỳ phong kiến ở
Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
190.Nguyễn Đình Tư (1998), Cảng biển Đà Nằng dưới triều Nguyễn, Tạp
chí Xưa và Nay, Hội Sử học xuất bản, Hà Nội.
191.Nguyễn Minh Tường (2015), “Sự ra đời của tiền lương trong lịch sử và chế độ tiền lương dưới thời quân chủ Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5, số 6.
192.Nguyễn Minh Tường (1996), Cải cách hành chính dưới triều Minh
Mệnh (1820-1840), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
193.Nguyễn Hoài Văn (2002), Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt
Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
194.Trần Thị Vinh (2002), “Thể chế chính trị thời Nguyễn (dưới triều Gia
Long và Minh Mệnh”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6.
195.Viện Sử học (2013), Lịch sử Việt Nam, tập V Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
196. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2008), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.
197.Trương Thị Yến (Chủ biên) (2017), Lịch sử Việt Nam, tập 5 (từ 1802
đến 1858), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
198.Yoshiharu Tsuboi (1990), Nước Việt Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Bản dịch của Nguyễn Đình Đầu, Ban Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản.
C.Tài liệu nghiên cứu tiếng nƣớc ngoài 199.Alexander Barton Woodside (1971), Vietnam and the Chinese model: A comparative study of Nguyen and Ch'ing civil government in the first half of the nineteenth century, Harvard University Press, Cambridge.
200.Frédéric Mantienne
transfer of Western military (2003), “The technology to Vietnam in the late eighteenth and early nineteenth centuries: the case of the Nguyen”, Journal of Southeast Asian Studies, volume 34 - issue 3, pp. 519- 534)
201.George Dutton (2016), “From civil war to uncivil peace the Vietnamese army and the early Nguyễn state (1802–1841)”, South East Asia Research, No. 6/2016.
202.Keith Weller Taylor (2013), A history of the Vietnamese, Cambridge
University Press, Cambridge.
161
203.Nola Cooke (1999), “Southern regionalism and the composition of the
Nguyen ruling elite (1802-83)”, Asian Studies Review, No.2.6/1999 trang 205-231.
204.R.B.Smith (1974), “Politics and society in Viet nam during the early Nguyen period (1802-62)”, Journal of the Royal Asiatic Society, No.2, 7 /1974, trang 153 – 169. 205. Oscar Chapuis (2000), “The last emperors of Vietnam: from Tu Duc to Bao Dai”, Contributions in Asian studies, Greenwood press, USA, No. 7/ 2000.
206.陈峰 (1992),清代军费研究,武汉大学出版社,湖北.
207.顾吉辰 (1992), 北宋军赏制度考述, 史林1992年第3期
208. 秦萍 (2007), 宋代军费若干问题研究, 西北大学硕士学位论文
209.邱义林 (1994), 明代中前期军费供给特点的形成与演变, 江西社会科
学, 1994年第6期.
210. 宋丹 (2014), 宋代武官俸禄制度研究, 河南大学硕士学位论文
211. 杨顺波 (2005), 明代军制与军饷, 云南师范大学硕士学位论文
212. 张松梅 (2008), 明代军饷研究, 南开大学博士学位论文
213. 周銮书 (2000), 宋代养兵政策剖析, 江西师范大学学报, 2000年第3期)
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ IÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Vũ Thị Nga (2019) “Chế độ đãi ngộ đối với võ quan trong quân đội của vương triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884”. Tạp chí Khoa học, trường Đại học Sư phạm, tháng 2/ 2019 trang 120-129.
2. Vũ Thị Nga (2020) “Chế độ lương và trợ cấp cho binh lính trong quân đội triều Nguyễn (1802-1884)”. Tạp chí Khoa học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 2/ 2020, trang 120- 127.
3. Vũ Thị Nga (2021)“Chế độ đãi ngộ đối với thân nhân võ quan và binh lính trong quân đội triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884 ”. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 5/2021, trang 76-83.
1
PHỤ LỤC
1. Phụ lục về chính sách lƣơng của triều Nguyễn cho quân đội a. Lương của võ quan Bắc Thành năm Gia Long thứ 2 (1803)
Hạng năm Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng tƣ
Chức vụ
Tiền Gạo
Tiền Gạo Tiền Gạo Tiền Gạo Tiền Gạo
30.4 20.12 30.3 20.9 30.2 20.6 30.1 20.3 30 20
20.4 15.12 20.3 15.9 20.2 15.6 20.1 15.3 20 15
chánh
13.3 10.9 13.2 10.6 13.1 10.3 13 10 10 5
10.2 7..6 10.1.20 7.4 10.40 7.2 10 7 8 3
10.2 7.6
10.1.20 7.4 10.40 7.2
10 7 8 3
10.2 7.6
10.1.20 7.4 10.40. 7.2
10 7 8 4
Đô thống chế phó tướng Phó đô thống chế Chánh thống đồn và quản mười cơ Phó thống đồn, phó quản mười cơ, chánh quản các tượng cơ, chánh quản Tứ dực cơ Chánh vệ úy khâm sai thuộc nội cai quản Bắc đội Thành Đồ gia và quản các đội Uy chấn Chánh vệ úy khâm sai thuộc nội cai cơ, quản đồ gia Bắc Thành và các đội quản uy chấn,
Phó vệ úy
8.2 5.6
8.1.20 5.4
8.40 5.2 8 5 8 2
8.2 5.6
8.1.20 5.4
8.40 5.2 8 5 7 4
Chánh trưởng chi, chánh quản cơ, phó quản Tứ dực
Tham quân
8.1
8.1.30 3.3 3.2 8.0.30 3.1 8 3 5 2
5.2 3.6
5.1.20 3.4 5.0.40 3.2
5 3 4 3
Phó trưởng chi, phó quản cơ
Tham mưu
5.1
5.1.30 2.3 2.2 5.0.30 2.1 5 2 4 2
Trường hiệu
4.1.30 3.3 Cai cơ, cai đội, 4.1.30 3.3 4.1 4.1 3.2 4.0.30 3.1 3.1 4.30 3.2 4 4 3 3 3 2 2 2
2
Hạng năm Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba Hạng tƣ
Chức vụ
Tiền Gạo
Tiền Gạo Tiền Gạo Tiền Gạo Tiền Gạo
suất đội
4.1.30 2.3 4.1 2.2 4.30 2.1 4 2 2 2
3.1.30 2.18 3.1 2.17 3.30 2.16 3 2.15 1 1
thuộc binh,
5.1.30
3.3
5.1
3 5 5.2 3.4
3.2 5.0.30 3.1
thuộc binh,
5.1.30
3.3
5.1
3 5 5.2 3.4
3.2 5.30 3.1
Tam luận Cai đội, phó đội, chánh đội trưởng, phó suất đội Về chánh vệ Về chánh vệ
Phó vệ
4.1
2.2
4.0.30
2.1
4
2 3 4.1.30 2.3 2
binh
3.1
2.2
3.0.30
2.1
3
2 2 3.1.30 2.3 2
2.6
2.2
2.5.30
2.1
2.5
1 1 2.6.30 2.3 2
2.1
2.2
2.30
2.1
2
1 1 2.1.30 2.3 2
luận
2.1
2.2
2.30
2.1
2
2.1.30 2.3 2 1.5 1.15
1.1.30
1.3
1.1
1.2 1.4
1.2 1.30 1.1
1 1
Cai cơ, cai đội về thuộc lạc tòng, Phó đội, chánh đội trưởng Thư ký, tri bạ, cai án, câu kê, cai hợp, thủ hợp, tượng ty Tham về thuộc binh lạc tòng Thư ký, tri bạ, cai án, câu kê, cai hợp, thủ hợp về thuộc binh lạc tòng
bằng 60 đồng tiền kẽm.
Phương, hộc là thúng vuông để đong thóc gạo trong đó hộc để thu phát lúa, phương để thu phát gạo; 01
phương = 13 thăng =30 đấu gạt bằng miệng; 01 hộc = 2 phương = 26 thăng)
[Nguồn: 84; 576-7-8-9] (Đơn vị tính: tiền: quan; gạo: phương) (01 quan tiền gồm 600 đồng tiền kẽm được chia ra làm 2 xâu, mỗi xâu là 5 tiền (300 đồng tiền kẽm), 1 tiền
b. Thuộc binh ban cấp cho công thần năm Gia Long thứ nhất (1802)
STT Chức quan 1 Chánh vệ 2 3 4 5 Phó vệ, chánh chi Phó chi Trưởng hiệu, cai cơ, cai đội Phó đội Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba 6 5 4 2 1 8 7 6 3 2 5 4 3 2 1
3
2. Phụ lục về khen thƣởng của triều Nguyễn cho quân đội a.Võ quan được ban thưởng cho hoạt động chống các cuộc nổi dậy dưới triều vua Minh Mệnh
Nội dung khen thƣởng
STT
Thời gian
Lý do khen thƣởng
Mức độ ban thƣởng
Võ quan đƣợc thƣởng Chánh quản cơ Phạm Đình Bảo
Minh Mệnh năm thứ 4 (1823)
1
Thưởng cấp 1 bậc, bộ mũ áo tam phẩm Chánh đội thưởng suất đội, 7 lạng bạc Thưởng quân công kỷ lục, 1 chiếc áo đoạn
Chánh quản cơ Phạm Đình Bảo Đánh dẹp ở Nghệ An.
Giết Phan Duy Cán.
Phó vệ úy Nguyễn Vân Thịnh Cai cơ Phạm Văn Bình, Phó vệ úy Cao Khả Cận Bộ biền là Lê văn Tiến
Minh Mệnh năm thứ 5 (1824)
2
Đi bắt cướp ở Thừa Thiên
Thưởng ký lục 1 lần và 1 cây súng trương chữ vàng của Tây dương 50 quan tiền
3
Nguyễn Đình Phổ, Phan Bá Phụng
Được thưởng quân công kỷ lục đều 1 lần
thứ
Minh Mệnh năm thứ 7 (1826) Minh Mệnh năm 8 (1827)
Phạm Văn Lý
4
Đánh dẹp Xa Văn Nhị ở Hưng Hóa Đánh dẹp cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành
Nguyễn Văn Phong
Phạm Đình Bảo và Nguyễn Công Trứ
Thăng làm Thống chế, một khẩu súng tay bịt vàng của Tây dương, 1 cái gươm đầu sư tử mạ vàng, 1 cái áo mở bụng bằng nhung đỏ cúc vàng Thăng chưởng cơ, 1 khẩu súng tay bịt bạc, 1 cái gươm đầu sư tử mạ vàng, 1 áo mở bụng bằng nhung Chương Châu hoa Thưởng hai thứ kỷ lục quân công, thưởng chung cùng biền binh 15.000 quan tiền. 15 lạng bạc,
5
Hiệp trấn Phan Thanh Giản phó Quản cơ là Đỗ Thế Giới
Dẹp Ác man ở Quảng Ngãi Đánh đồn Chi Nê Ninh Bình
Minh Mệnh (1831)
Đánh dẹp ở Sơn Âm - Ninh Bình
Thăng chức quản cơ, thưởng mỗi người 3 đồng tiên phi long bằng bạc hạng lớn. 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng khảm 3 hạt ngọc kim cường to bàng hạt đậu, 1 chi
Tạ Quang Cự
4
Nội dung khen thƣởng
STT
Thời gian
Lý do khen thƣởng
Mức độ ban thƣởng
Võ quan đƣợc thƣởng
chính nhân sâm Quan Đông, 2 chi nhân sâm Cao Ly hạng tốt
6
Phó lãnh binh là Lương Văn Liễu Tạ Quang Cự
Đánh dẹp ở Thanh Hóa, Ninh Bình, Hưng Hóa
Minh Mệnh năm 1833
Hoàng Đăng Thận
Tổng đốc Nguyễn Đình Phổ
Vệ úy, trật chánh Tam phẩm. Tạ Quang Cự cho phong tước Võ Lao tử, lên 1 bực quân công Hoàng Đăng Thận cho phong Phong tước An Chí nam, thưởng 1 bực quân công. Đổi từ bị cách lưu sang giáng 4 bậc lưu, thưởng 2 đồng tiền phi long bằng vàng hạng lớn
tạm
Phó Quản cơ là Đặng Văn Đinh
Bắt được tướng cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên Đánh ở Lạng Sơn
Đinh lĩnh binh dũng phòng hộ, cho thưởng chức Quản cơ Phong tước bá Thưởng lên 1 bực quân công
Tạ Quang Cự được phong lên tước bá Tạ Quang Cự Võ Văn Từ đại tướng quân là Phan Văn Thúy
Thu lại tỉnh Cao Bằng Tiến đánh thành Phan An
Tham tán đại thần là Trương Minh Giảng
Đánh đồn Giao Khẩu
Tướng quân Trần Văn Năng, Tống Phước Lương
Lê Văn Đức
Đánh dẹp khởi nghĩa Nông Văn Vân
1 chiếc thẻ bài bằng ngọc trắng có chữ “phúc thọ”, 1 chiếc đồng hồ báo thức 3 kim, 1 đồng tiền phi long bằng vàng hạng lớn. 1 chiếc bài đeo bằng ngọc trắng có chữ “phúc thọ”, 1 đồng tiền vàng hạng lớn. Mỗi người 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng nạm ngọc kim cương to bằng hạt đậu, 1 đồng tiền vàng hạng lớn, 5 đồng tiền vàng hạng nhỏ, lại đều thưởng lên 1 bực quân công. Cho quân công gia một cấp, một chiếc nhẫn vàng mặt kim cương lớn bằng hạt đậu, một đồng kim tiền Phi long hạng nhỏ. Thưởng lên 1 bực quân công
Đánh ở Vân Trung
Tổng đốc Lê Văn Đức, Tham tán Nguyễn Công Trứ
5
Nội dung khen thƣởng
STT
Thời gian
Lý do khen thƣởng
Mức độ ban thƣởng
Võ quan đƣợc thƣởng
Đánh dẹp khởi nghĩa Nông Văn Vân
Tổng Thống Tạ Quang Cự, Tham Tán Võ Văn Từ
1 bậc quân công, 1 khẩu súng trường Tây Dương, 1 hầu bao gấm
Vệ úy là Nguyễn Hiếu
Thưởng 1 bực quân công, và 1 đồng tiền Minh Mệnh phi long bằng vàng hạng nhỏ.
Bắt dư đảng cuộc khởi nghĩa Cận, (Bắc Cạn)
Cai đội Ma Ngọc Lý,
Đội trưởng Trình Văn Châu
Minh Mệnh năm thứ 15(1834)
Mỗi người 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng khảm ngọc kim cương, 1 đồng tiền Minh Mệnh phi long hạng lớn, 1 đồng tiên vàng hạng nhỏ
Thu tỉnh Cao Bằng, chém được thủ lĩnh Cẩn
Phạm Dụng Giai
Khôi phục hàm cũ, thưởng 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng khảm pha lê
Phó Vệ úy Tiên bảo nhị Tôn Thất Bậc
Thưởng trước chức Vệ úy ấy, 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng khảm 5 hạt liên châu bằng ngọc kim cương.
Đánh cuộc nổi dậy của Nông Văn Vân ở Sơn - Hưng - Tuyên,
Thự lãnh binh Hà Nội Vũ Đình Quang
7
Thưởng chức Vệ úy trật chánh Tam phẩm, vẫn sung làm quan lãnh binh Hà Nội, thưởng 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng khảm 3 hạt liên châu bằng ngọc kim cương.
100 quan tiền
Đánh ở thành Gia Định
Tả tướng quân Tống Phước Lương
80 quan
Hữu tướng quân Nguyễn Văn Trọng
Đánh ở Cao Bằng
Lê Văn Bột
Lãnh binh Vũ Văn Tình, Quản vệ Lê Bá Dần Phó quản cơ Nguyễn
Quân công gia kỷ lục 2 thứ, một chiếc áo trận bằng sa kiểu bồng vai, hoa mãng tròn 5 đồng ngân tiền Phi long
Nguyễn Văn
Văn Thìn
hạng lớn
Nhàn ở Sơn
Tây
6
Nội dung khen thƣởng
STT
Thời gian
Lý do khen thƣởng
Mức độ ban thƣởng
Võ quan đƣợc thƣởng Tổng đốc Tạ Quang Cự
Tổng đốc Lê Vãn Đức
Đánh thắng khởi nghĩa Nông Văn Vân
Minh Mệnh năm thứ 16 (1835)
Tham tán Nguyễn Công Trứ, Lê Văn Thụy, Nguyễn Tiến Lâm, Hồ Hựu Phạm Văn Điển Tướng quân Nguyễn Xuân, Phạm Hữu Tâm
Đánh Khởi nghĩa Lê Văn Khôi ở thành Phan An
1 chiếc nhẫn đeo tay khảm ngọc kim cương,1 chiếc bài đeo bằng ngọc trắng cổ chữ “phúc thọ”, dây tua khảm san hô, hình con hươu bang vàng, 1 chiếc nhẫn đeo tay khảm ngọc kim cương, 1 chiếc bài đeo bằng ngọc trắng cổ chữ “phúc thọ” và dây tua khảm san hô, 2 hình con lạc đà bằng vàng Mỗi người 1 đôi nhẫn đeo tay bằng ngọc kim cương, 1 chiếc thẻ bài đeo bằng hỷ ngọc, kèm với dây tua khảm san hô 1 hình con ngựa bằng vàng, Mỗi người 80 quan tiền, 1 chiếc nhẫn đeo tay bàng vàng khảm ngọc kim cương to bằng hạt đậu và 1 chiếc bài đeo bằng ngọc trắng cỏ chữ “phúc thọ”, kèm theo bông tua san hô. 1 đồng tiền phi long vàng hạng lớn.
8
Tham tán Trần Văn Trứ, Lãnh binh Trần Hữu Thăng, Tổng đốc, Bình thành tử là Trương Minh Giảng; Tham tán đại thần
Tấn phong Bình thành bá, lại thăng thự Đông các đại học sĩ, lại lên hàmThái tủ Thái báo, vẫn lĩnh chức An Hà tổng đốc, giữ ấn bảo hộ nước Cao Miên
Đánh dẹp ở Phan An, đánh quân Xiêm ở Thuận Cảng, lấy hết được địa giới Cao Miên Có công lấy lại được thành Phiên An
Tướng quân Nguyễn Xuân, Phạm Hữu Tâm, Tổng đốc Nguyễn Văn Trọng
Tham tán Hồ Văn Khuê, Trần Văn Trí, Nguyễn Công Hoán,
Mỗi người một cái nhẫn vàng mặt kim cương to bằng hột đỗ, một cái bài đeo bằng ngọc trắng có hai chữ “Phước thọ” có dây thao đeo san hô rủ xuống. Mỗi người 1 cái nhẫn vàng mặt kim cương, hạng vừa, 1 cái bài đeo bằng ngọc trắng chạm khắc cỏ hoa có dây thao đeo san hô rủ xuống (Trẫn
7
Nội dung khen thƣởng
STT
Thời gian
Lý do khen thƣởng
Mức độ ban thƣởng
Võ quan đƣợc thƣởng
Văn Trí thưởng thêm 1 đồng kim tiền Phi Long hạng lớn)
Lãnh binh
Mai Công Ngôn,
Lê Sách, Trần Hữu Thăng
Mỗi người 1 cái nhẫn vàng mặt kim cương hạng nhỏ, 1 cái bài đeo bằng ngọc trắng, chạm trổ cỏ hoa và có dây thao đeo san hô rủ xuống (Trần Hữu Thăng thưởng thêm 1 đồng kim tiền Phi Long hạng lớn)
Nguyễn Tri Phương
1 cái bài đeo bằng ngọc trắng chạm trổ hoa cỏ, và có dây thao đeo san hô rủ xuống
Trương Đăng Quế
Minh thứ 18
Đánh dẹp ở Thanh Hóa
1 bực quân công và 1 lần kỷ lục
Năm Mệnh (1837)
Doãn Uẩn
1 bực quân công
9
Đê đổc Hà Nội là Tôn Thất Bật
1 bực quân công và 2 lần kỳ lục.
Suất đội Trần Văn Chử
Minh Mệnh năm thứ 20 (1839)
Bọn ác Man ở Quảng Ngãi
10
Thưởng Văn Chử kỷ lục 2 thứ, 2 đồng ngân tiền Phi long hạng lớn, thưởng chung cho binh dân 500 quan tiền
Quản vệ Nguyễn Văn Do
Minh Mệnh năm thứ 21 (1840)
Chém cuộc nổi dậy ở vùng biển Đồ Bà -Hà Tiên
11
Khôi phục 2 bậc phạm tội lưu nhậm, thưởng 1 bực quân công, và thưởng 1 đồng tiền vàng có chữ “cát tường ngũ bảo” hạng nhỏ, 1 chiếc áo mổ bụng bằng nhung bông
Đánh dẹp ở Thái Nguyên
Cai đội Dương Như Cát
Dưới tên có ghi là giáng 3 cấp, vua cho khai phục lại cả. Lại thưởng thêm cho 10 đồng Phi long ngân tiền hạng lớn
8
b. Bảng khen thưởng cho võ quan đánh dẹp các cuộc nổi dậy dưới triều vua Thiệu Trị [Bảng được tác giả luận án tập hợp từ Đại nam thực lục, Khâm định Đại nam hội điển sự lệ]
Nôi dung khen thƣởng STT Năm Lý do khen thƣởng Mức khen thƣởng Võ quan đƣợc khen thƣởng
Thưởng quân công 1 cấp
1 Thưởng quan binh thu phục Trà Vinh Tham tán Nguyễn Tiến Lâm Bùi Công Huyên
2 Dẹp loạn ở Quảng Ngãi.
Thiệu Trị năm thứ nhất (1841)
Thưởng trả lại nguyên hàm Tổng đốc, thêm cho 1 đồng kim tiền, 1 cái nhẫn vàng Được gia quân công 1 cấp, thưởng nhẫn vàng 1 cái Quân công 1 cấp và 1 đồng kim tiền hạng nhỏ Bổ thự Quản cơ, lại thưởng thêm cho 1 đồng ngân tiền hạng lớn; Phong 1 cái nhẫn vàng, 1 đồng kim tiền Phi long hạng to, gia thưởng quân công 1 cấp
3 Nguyễn Tiến Song lãnh binh Nguyễn Vĩnh thự Phó quản cơ Lê Văn Cơ Thưởng cho Tổng đốc Long - Tường Dương Văn Phong Duy Tráng Đánh thổ phỉ ở xứ Liệt Điệt (thuộc Hà Tiên)
1 cái nhẫn vàng mặt thuỷ tinh, 1 đồng kim tiền nhỏ, 1 bộ ngọc đeo sắc trắng có dây xâu ngọc san hô rủ xuống, gia thưởng quân công 1 cấp Quân công 1 cấp
4
Bổ Phó vệ uý Cấm binh Thưởng Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Lương Nhàn Quản cơ Tôn Thất Nghị
5 Đánh các cuộc nổi dậy ở Trà Tâm và Sóc Trăng Thưởng cho các tướng sĩ đi Tây chinh Thiệu Trị năm thứ 2 (1842)
Thự Chưởng vệ vệ Cẩm y, Kiêu dũng tướng Dương Thái Thự Chưởng vệ vệ Kim ngô Đoàn Quang Mật Thưởng nhẫn vàng mặt thuỷ tinh, kim tiền Song long hạng nhỏ, dây thao đeo quạt có xâu hạt ngọc, mỗi thứ 1. Thưởng nhẫn vàng mặt thuỷ tinh, kim tiền Phú thọ đa nam hạng nhỏ, dây theo đeo quạt có xâu hổ phách nạm vàng, mỗi
9
Nôi dung khen thƣởng STT Năm Lý do khen thƣởng Mức khen thƣởng Võ quan đƣợc khen thƣởng
Đánh dẹp ác Man Thưởng cho Lãnh binh Nguyễn Vĩnh Thưởng cho Vĩnh gia một cấp, kim tiền “tam thọ” 1 đồng, khánh vàng “kỷ công” và nhẫn vàng đều 1 chiếc 6
Doãn Uẩn
7
Quân công 1 cấp, nhẫn vàng mặt liên châu kim cương, kim tiền có chữ "ngũ Phước" và dây rủ xuống, mỗi thứ một chiếc
Thiệu Trị năm thứ 4 (1844) Thiệu Trị năm thứ 5 (1845) Đánh thắng Lạp Man trên sông Sách Sô
c.Bảng tổng hợp vể việc võ quan được ban thưởng có công chống các cuộc nổi dậy dưới triều vua Tự Đức
Nội dung khen thƣởng
STT Năm Lý do khen thƣởng Định mức khen Võ quan đƣợc khen
Đánh Ác Man ở làng Y Tự Đức năm thứ 9 (1856) Thưởng cho mỗi người kỷ lục một thứ, 1
Đốc sức (Tống Phước Minh) Tham biện (Phan Tĩnh), Lãnh binh (Nguyễn Tràng Duyệt)
Kỉ lục 1 thứ Thưởng cho Quản cơ Lê Quang Huy 2
Tự Đức năm thứ 17 (1864) Tự Đức năm thứ 21 (1868) Tán lý là Ông ích Khiêm, Đề đốc là Nguyễn Viết Thành Chiêu dụ người Man ở Bình Định Ngô Côn tập trung quân đánh tiền đồn thuộc Cao Bằng
3
Tạ Kế Quý
nhẫn vàng khảm tinh quang pha lê, Phạm Chi Hương nhẫn vàng mặt khảm ngọc hoả tề liên châu, mỗi người một chiếc, quân công mỗi người 1 cấp 1 cái nhẫn vàng khảm ngọc hoả tề liên châu và 1 đồng tiền vàng có chữ ngũ Phước có dây thao rủ xuống
10
Nội dung khen thƣởng
STT Năm Lý do khen thƣởng Định mức khen Võ quan đƣợc khen
Đề đốc là Đặng Duy Ngọ,
Án sát là Nguyễn Tạo
1 đồng tiền vàng "Tứ mỹ, Lại thưởng gia quân công mỗi người 1 cấp 1 đồng tiền vàng "Tam thọ". Lại thưởng gia quân công mỗi người 1 cấp Thưởng kỷ lục 1 thứ, 4
Tự Đức năm thứ 24 (1871) Tán lý Ông ích Khiêm, Đề đốc Nguyễn Hùng, án sát sứ Nguyễn Tạo
Thưởng cho có thứ bậc. Tham tán Ông ích Khiêm, Tán lý Trần Thiện Chính
5 Thưởng quân công kỷ lục, kim tiền, ngân tiền có thứ bậc Tự Đức năm thứ 25 (1872) Thưởng cho lực lượng đánh dẹp cuộc nổi dậy ở hạt phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Thưởng cho quân bắt được quân khởi nghĩa ở quân thứ Đông Triều Thưởng quân dẹp quân nổi dậy giữ đồn lớn ở xã Sen Hồ (thuộc tỉnh Sơn Tây) Đánh lui các cuộc nổi dậy trên biển
Thưởng thăng Lãnh binh
6 Đề đốc là Đinh Hội, Phó đề đốc là Trần Môn, án sát là Hoàng Diệu Phó lãnh binh làm việc là Lưu Vĩnh Phước Tự Đức năm thứ 27 (1874)
Phó sứ là Trương Quang Đản đ 7 Tự Đức thứ năm 34 (1881)
8
Trần Văn Tỉnh, Nguyễn Văn Phó
Gia thưởng 1 cấp, tướng biền đi đánh trận này, đều được thưởng gia cấp, kỷ lục và ngân bài có thứ bậc khác nhau Chánh, phó quản đốc đều kỷ lục 2 lần, biền binh mỗi chiếc tàu 100 quan tiền Năm Tự Đức thứ 36 (1883)
Đánh cuộc nổi dậy Hoàng Anh chiếm giữ Trấn Hà ở tỉnh Hưng Hóa, Dẹp các cuộc nổi dậy ở Ước Lễ, Phước Bình Thái Nguyên Đánh dẹp các cuộc nổi dậy ở đảo Đồi Mồi (thuộc phận biển tỉnh Khánh Hoà) thắng trận.
[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Thực lục, Hội điển, Châu bản triều Nguyễn]
11
Mức thƣởng d.Bảng về việc thưởng cho võ quan đánh quân Xiêm dưới triều vua Minh Mệnh và Thiệu Trị Thời gian Trận đánh
An Giang, Châu Đốc
Phong tước Nam, lại thưởng mỗi người 1 đồng tiên vàng hạng lớn và 2 đồng liền vàng hạng nhỏ Thưởng chức Vệ úy. Thưởng lên 1 bực quân công.
Minh Mệnh năm thứ 14 (1833)
Võ quan đƣợc thƣởng Tướng Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân Phó vệ úy Nguyễn Văn Tình Phó lãnh binh Võ Đình Quang
sang hạ Lào, giáp Quảng Trị Thưởng lên 1 bực quân công.
Quản cơ Nguyễn Văn Vân Tham tán Nguyễn Xuân
Năm thứ 15 (1834)
Trương Minh Giảng
Tán tướng Trương Phúc Đé
Quyền sai đội trưởng Nguyễn Phong tước tân Khánh bá, chức Đô thông, trật tòng nhất phẩm, vẫn lĩnh chức tổng đốc Vinh Long, Định Tường, lại thương 1 chi nhân sâm công phẩm Quan Đông, 2 chi nhân sâm Cao Ly của vua dùng, và 3 đồng tiền bằng vàng có 2 con rồng hạng nhỏ, 1 chiếc đồng hồ Tây dương, 1 chiếc nhẫn đeo tay bạng vàng nạm ngọc kim cương to bằng hạt đậu trắng. Phong tước Bình Thành tử, thăng Hiệp biện đại học sỹ, vẩn lĩnh chức tổng đốc An Giang, Hà Tiên, và thương 1 chi nhân sâm cống phẩm Quan Đông, 2 chi nhân sâm Cao Ly của vua dùng, 3 đồng tiền vàng có 2 con rồng hạng nhỏ, 1 chiếc đồng hồ Tây dương, 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng nạm kim cương to báng hạt đậu trắng, đế to sự ưu đãi quân công Thăng chức Tham tri bộ Binh, và1 đồng tiền phi long vàng hạng nhỏ, lại phong ấm cho 1 đứa con làm Hiệu úy vệ Cẩm y. Thực thụ đội trưởng ngay,1 chiếc bài thưởng công bằng bạc, 100 lạng bạc
12
Mức thƣởng Thời gian Trận đánh Võ quan đƣợc thƣởng
Văn Huy Nguyễn Tú
Hồ Hữu Thấm Lê Văn Thụy
(thưởng cùng binh lính) Trong danh sách hiện ghi giáng 4 bực, cho lập tức được khôi phục 2 bực, vẫn ghi giáng 2 bực lưu nhậm Ghi giáng 2 bực, cho được khôi phục Tước Thông Cương nam. Phạm Phi cho phong là La Phong nam để nêu quân công
2 nghìn quan tiền.
Trương Minh Giảng, Nguyền Xuân, Hồ Văn Quế
Thưởng cho làm Chưởng cơ
Quân Xiêm quấy rối ở Châu Ba Lan, Cam Lộ, Quân Xiêm quấy rối thành phiên An Xiêm ở sông Cổ Hỗ Thưởng cho gia hàm Vệ úy
Thưởng cho gia hàm Phó quản cơ
Vệ úy Ban trực Tả vệ Phạm Hữu Tâm Phó vệ úy Nguyễn Đức Huấn Cai đội bọn Lê Văn Ngôn An - Hà Tổng đốc Tín Vũ hầu Phạm Văn Điển Trần Kim Thiệu Trị năm thứ 2 [1842]
Dẹp các cuộc cướp phá đường bộ ở Vĩnh Long Trần Linh
1 đồng kim tiền Song long hạng trung có dây đeo, 1 chiếc nhẫn vàng mặt thuỷ tinh liên châu và gia quân công 1 cấp; Phó quản cơ, gia quân công 1 cấp, kim tiền hạng nhỏ và nhẫn vàng mỗi thứ 1, lại 1 chiếc tử kim bài có chữ Thưởng công và 5 lạng bạc; Chánh đội trưởng suất đội, 3 đồng ngân tiền Phong là Bao Liệt tử
Phong là Bình Thắng nam
Quân Xiêm quấy Hà Tiên và sông Vĩnh Tế An Hà Tổng đôc Nguyễn Công Nhàn Thự Thông chế Nguyền Lương Nhàn
13
Mức thƣởng Võ quan đƣợc thƣởng Thời gian Trận đánh
Võ Văn Giải
Thiệu Trị năm thứ 7 (1847)
Dẹp yên quân Xiêm ở biên giới Trấn Tây
Nguyễn Tri Phương
Lê Văn Phú
Doãn Uẩn
1 bực “Trác dị”. Nguyễn Văn Hoàng được thương 1 bực “đái tùy”. 1 chiếc nhẫn đeo tay của vua dùng bằng vàng viền trân châu khảm hạt ngọc kim cương hạng lớn, 1 chiếc bài đeo có bông tua trân châu san hô bằng ngọc tốt có chữ “phúc thọ trùng viên”, 1 đồng tiền vàng hạng lớn kèm bông tua có chữ “Vạn thế Vĩnh lại”, 1 đồng tiên vàng hạng lớn kèm bông tua có chữ “Long vân khế hội”, ban sắc cho Võ Văn Giải chức An tây Trung võ ướng, cấp cho bài đeo bằng ngọc tốt. 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng của vua dùng, viên trân châu, khảm hạt ngọc kim cương hạng lớn, 1 chiếc bài đeo kèm bông tua san hô bằng ngọc tốt, có chủ' “Cát tường phúc trạch”, 1 đồng tiền vàng hạng lớn kèm bông tua có chữ “Vạn thế Vĩnh lại”, 1 đồng tiền vàng hạng trung kèm bông tua có chữ “Long vân khế hội”, phong sắc cho Nguyễn Tri Phương là An tây dũng tướng, cấp cho bài đeo bảng vàng 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng khảm ngọc kim cương hạng lớn, 1 chiếc bài đeo kèm bông tua san hô bằng ngọc tốt có chữ "Phúc Khánh" 1 đông tiên vàng hạng trung kèm theo bông tua có chữ “Vạn thê Vĩnh lại”, 1 đông tiên vàng kèm theo bông tua có chữ “tam thọ”. Doãn Uẩn 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng khám ngọc kim cương hạng lớn, 1 chiếc bài đeo bằng ngọc tốt có chữ “bình an” kèm theo bông tua bằng san hô, 1 đồng tiên vàng hạng trung kèm theo bông tua có chữ “Vạn thế Vĩnh lại”, 1 đông tiền vàng kèm theo bông tua có chữ “Nhi nghi”, 1 chiếc quạt vua dùng, có hộp đựng bằng san hô, đê
14
Mức thƣởng Thời gian Trận đánh Võ quan đƣợc thƣởng
bài thơ “bình định Tiêm Lạp”, 1 tập “Tây chinh Kỷ tiệp” của vua làm, viết bằng giấy rồng, 1 cái chén rót rượu bằng ngọc tốt, đê tỏ là người có phẩm chất “sáng sủa, cứng1 rán và đầm ấm như ngọc”, 1 con báo vằn bàng vàng' để tò là người co tài năng giữ được, làm được, biết cả văn, biết cả võ.”. “Doãn Uẩn nhiêu lần đánh ở Thông Bình, Sách Xô, lập công đầu tiên, cho đến trận đánh thọc vào Thiết Thằng, bình định được Trấn Tây, tiến lên Vĩnh Long, bức bách Ỏ Đông, đêu biêt bày ra 'kê lạ đế giành phần thắng, tỏ rõ mưu mô tài lược. Nay phong sắc cho Doãn Uẩn là An tây Mưu lương tướng, cấp cho bài đeo băng vàng”
Nguyễn Văn Hoàng
1 chiếc nhẫn đeo tay băng vàng khám ngọc kim cương hạng trung, 1 chiếc bài đeo bằng' ngọc tốt có chừ “Ưng dường”, kèm theo bông tua bằng san hô, 1 đông tiên vàng kèm theo bông tua có chữ “Tứ mỹ”,phong sắc cho Nguyễn Văn Hoàng là An tây Tuấn kiện tướng, cấp cho thẻ bài bằng vàng khiến cho dùng để đeo, để biểu dương công nòi hàng trận, mãi mãi được dội ơn này
An Giang Lãnh binh, quyền lãnh đê đốc là Lê Đình Lý
1 chiếc bài “Thưởng công” bằng vàng, 1 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng dát ngọc kim cương liên châu, 1 đồng tiên vàng hạng’ nhì kèm theo bông tua có chữ “Vạn thế Vĩnh lại” để khen ngợi công lao.
[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Thực lục, Hội điển, Châu bản triều Nguyễn]
15
e. Bảng thống kê võ quan được ban thưởng có công chống ngoại xâm dưới triều vua Tự Đức
Nội dung khen thƣởng
STT Thời gian Mức khen thƣởng
ý do khen thƣởng Địa điểm trận đánh Cao Bằng 1
Đối tƣợng đƣợc khen Phó lãnh binh Cao Bằng là Nguyễn Hữu Thân Tự Đức năm thứ 7 (1854)
2
Tự Đức năm thứ 15 (1862) Thưởng cho các viên ấy có thứ bậc khác nhau. Cho kỷ lục gia cấp, ngân tiền có thứ bậc khác nhau.
Thưởng cấp kỷ và kim tiền có thứ bậc 3
Đánh quân Thanh Tự Đức năm thứ 25 (1872) Quyền Phó lãnh binh là bọn Ngô Tất Ninh
Tạ Hiện
Thưởng thăng làm Phó quản cơ
Tôn Thất Thuyết 4
Cướp phá Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng. giặc Thanh chiếm giữ huyện lỵ Sơn Dương Hàm Giang (thuộc tỉnh Quảng Yên). An Viên, Đông Lỗ,
Tự Đức năm thứ 28 (1875)
5 Lãnh binh Hoàng Đình Tự Đức năm thứ 29 (1876)
gia 6
Tự Đức năm thứ 31 (1878) Đốc thúc đánh là Lưu Vĩnh Phước, Ngô Tất Ninh
Chàng Sơn (thuộc Quảng Yên). Đồn chợ Mới (Thái Nguyên) Thăng thự Tổng đốc, 1 bài đeo bằng ngọc quý, 1 nhẫn vàng khảm ngọc châu hỏa tề, kim tiền “Long vân khế hội” hạng nhất, hạng nhì mỗi thứ 1 đồng 1 cấp quân công, binh, dõng được ngân tiền có từng bậc. Thưởng quân công 1 cấp, tiền vàng Tứ mỹ mỗi người 1 đồng,
7 Đức năm Quân thứ Trương Quang Đản Thưởng kỷ lục 3 thứ Phó sứ là Trương Được ghi vào lý lịch
16
Nội dung khen thƣởng
STT Thời gian Mức khen thƣởng
và nghị thưởng
ý do khen thƣởng Địa điểm trận đánh Thái Nguyên thứ 32 (1879)
8
thưởng chung 9
Thưởng kỷ lục, kim tiền, ngân tiền có cấp bậc Vua cho 100 quan tiền
hàm, 10
Đối tƣợng đƣợc khen Quang Đản, Thương biện là Lương Quy Chính Thập Châu, Lãnh binh Nguyễn Hữu Phu, đốc đới Hoàng Thủ Trung Nguyễn Tri Phương và quân lính làm lũy sắt Hiệp quản Nguyễn Doã thăng chức thưởng cho ngân tiền
11
Nguyễn Tri Phương
2 thành An Hải, Điện Hải. Giữ đồn ở Thạch Than. Giữ đồn đồn Phú Nhuận Tự Đức năm thứ 34 (1881) Tự Đức năm thứ 11 (1858) Tự Đức năm thứ 12 (1859) Tự Đức năm thứ 13 (1860)
Vua cho là Nguyễn thưởng Tri Phương các hạng kim tiền lớn nhỏ gia một cấp quân công
kỷ lục 2 thứ
Thưởng cho quan đánh thắng Pháp ở thành Gia Định 12
Tự Đức năm thứ 13 (1860)
Đánh Pháp
Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Cáp Lê Tố, Nguyễn Duy, Hồ Hòa, Tôn Thất Trĩ Quản suất là bọn Trương Định
Nguyễn Tri Phương
Thưởng quan quân đi đánh dẹp ở Biên Hòa
Tôn Thất Cáp
Tự Đức năm thứ 14 (1861) Thưởng chung cho biền binh 800 quan tiền 3 chiếc áo kép chẽn tay màu bảo lam, quần đỏ 1 chiếc, quần trắng 2 chiếc, Tri Phương 100 lạng bạc. Áo chiến 1 chiếc, áo kép chẽn tay màu bảo lam 2 chiếc, quần đỏ và quần trắng mỗi thứ
17
Nội dung khen thƣởng
STT Thời gian Mức khen thƣởng ý do khen thƣởng Địa điểm trận đánh Đối tƣợng đƣợc khen
13
Công Nhàn
cho, tha
17 Tự Đức năm thứ 25 (1872) Ở Quán Ty (thuộc tỉnh Hưng Hoá) Tham tán Ông ích Khiêm, Tán tương Nguyễn Di
1 chiếc, 60 lạng bạc. Một chiếc áo trận bằng thúng thúc màu hoa lan trơn, 1 quần nhiễu trơn màu lam, Nhàn 30 lạng bạc Dưới tên chua cách lưu, lại thưởng thêm cho 1 tấm bài vàng; Di được thưởng quân công, kỷ lục 1 thứ; các biền binh được thưởng cho tiền).
[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Thực lục, Hội điển, Châu bản triều Nguyễn]
f. Bảng về việc thưởng cho võ quan nhân ngày Lễ, Tết dưới triều Nguyễn
Thƣởng dịp lễ
Nội dung khen thƣởng STT Năm Triều vua Đối tƣợng
1 Quan quân Tên ngày Tết Lập quốc
Gia Long
Gia Long thứ 1(1802) Quan thì thưởng Mức khen thƣởng thưởng chung 50000 quan tiền một tháng lương
Lễ ở Ninh lăng
2 Thƣởng ngày tết
Nội dung khen thưởng
Ngày Tết Thời gian Đối tượng Mức khen thưởng
Ở Kinh Chánh Nhất phẩm đến Tòng tứ phẩm
Nguyên Đán Minh Mệnh
Minh Mạng năm thứ 14 (1833) Ngoài Kinh
Chánh nhất phẩm10 đồng, mỗi phẩm giảm 1 đồng đến tòng, tòng Tứ phẩm 2 đồng; tòng Ngũ phấm trở xuống 1 đồng. Ngũ phẩm trở lên dự yến Ngũ phẩm trở xuổng 2 đồng tiền Phi Long
18
Thƣởng dịp lễ
Nội dung khen thƣởng STT Năm Triều vua
Tên ngày Tết Nguyên Đán Đối tƣợng Kinh lược sứ Tạ Quang Cự
Mức khen thƣởng 100 quan tiền (ĐN TL tập 5, tr.7)
Minh Mệnh năm thứ 18 (1837)
Ở Kinh Nhất phẩm đến Tòng ngũ phẩm
Vạn Thọ Minh Mạng năm thứ 8 (1827)
Thưởng vải lụa từ Nhất phẩm đều 2 tấm đoạn, 2 tấm the giảm dần đến chánh tòng Ngũ phẩm 4 lạng. Thưởng vải lụa với hao văn và lượng khác nhau tùy theo phẩm trật Tiền lương 2 tháng.
Thu Hưởng Ở Kinh, Từ Chánh nhất phẩm đến Tòng cửu phẩm Ngoài Kinh thất phẩm trở xuống tự tam phẩm trở lên ở điện Văn Minh
Mỗi người một cái túi hương.
Quản vệ trở xuống
Trùng Cửu Thưởng tiền 2000 (thưởng cùng binh lính
Khánh Hạ Minh Mệnh năm thứ 21 (1840) Minh Mệnh năm thứ 9 (1828) Minh Mạng năm 19 (1838)
Thƣởng ngày lễ
Vua lên ngôi
Trong Kinh Tứ phẩm ở ngoài Tam phẩm trở lên Thưởng bạc từ 20 lạng đến 2 lạng tùy theo phẩm trật
Cấp một lần kỷ lục. Đều cho tha phạt.
Phối hưởng Thế tổ Cao hoàng đế
Hoàng Minh Mệnh thứ nhất (1820) Minh Mệnh thứ 2 (1821) Minh Tam phẩm trở lên ở Kinh và ở ngoài, Quan phạm sai lầm việc công phạt bổng từ năm Minh Mệnh thứ 2 về trước Quan ở Kinh từ tam Ban cho bạc thay yến
19
Thƣởng dịp lễ
Nội dung khen thƣởng STT Năm Triều vua Mức khen thƣởng
theo thứ bậc.
Đối tƣợng phẩm, ở ngoài từ nhị phẩm trở lên
Thưởng bạc từ 20 lạng đến 6 lạng theo thứ bậc Tên ngày Tết mẫu làm Hoàng thái hậu. Thăng phối
Quan ở Kinh từ Tòng Tam phẩm trở lên
Quan ở Kinh từ Chánh tòng ngũ phẩm Lục tuần Hoàng thái hậu
Mệnh năm thứ 2 (1821) Minh Mệnh năm thứ 3 (1822) Minh Mệnh năm thứ 8 (1827)
Mừng thọ vua 40 tuổi
Kinh đô: Chánh Nhất phẩm Địa phương Tứ phẩm trở lên
Minh Mệnh năm thứ 11 (1830)
Từ Tòng tam phẩm trở lên thưởng vải lụa theo thứ bậc -Chánh tứ phẩm đến Ngũ phẩm thưởng bạc từ 6 lạng, mỗi phẩm bậc giảm đi 1 lạng Thưởng bạc từ 12 lạng, đến 1 lạng. Tứ phẩm trở lên, thưởng cấp Chánh Ngũ phẩm trở xuống, thưởng 1 lạng. Thưởng vải lụa và tiền
Mừng thọ Hoàng hậu Quan từ ngũ phẩm ở Kinh
Mừng thọ vua
Được thưởng vải lụa tùy với hoa văn khác nhau tùy theo phẩm hàm
Quan ở Kinh từ Chánh nhất phẩm đến Chánh tòng ngũ phẩm,
Lễ đại khánh. Quan ở Kinh từ Tòng lục phẩm trở lên
Minh Mệnh năm thứ 18 (1837) Minh Mệnh năm thứ 18 [1837] Minh Mệnh năm thứ 8
Tòng tam phẩm trở lên được thưởng vải lụa theo thứ bậc Chánh tứ phẩm trở xuống thưởng tiền
20
Thƣởng dịp lễ
Nội dung khen thƣởng STT Năm Triều vua Đối tƣợng Mức khen thƣởng
Thưởng tiền bổng 1 tháng. Tên ngày Tết Khánh tiết ban ân
Phó vệ úy và Suất đội một số Vệ Thân binh
Thưởng 2 tháng lương, tiền, gạo Võ quan ở kinh từ Lục phẩm trở xuống, suất đội Đại Khánh Hoàng thái hậu
Tiền lương 2 tháng. Lễ đại khánh
Lương một tháng Tiền lương 2 tháng Minh Mệnh thứ 10 (1829) Minh Mệnh năm thứ 18 (1837) Minh Mệnh năm thứ 21 (1840) Ngũ phẩm và lục phẩm trở xuống Quản vệ, quản cơ Thất phẩm trở xuống
3 Thƣởng ngày Tết Thiệu Trị
27 người từ suất đội đến thị vệ Nguyên Đán Mỗi người 1 đồng ngân tiền Bát bảo hạng nhỏ
Thiệu Trị năm thứ 2 (1842)
Thưởng tư 10 lạng bạc trở xuống theo thứ bậc Thƣởng ngày Lễ Quan ở Kinh từ nhất phẩm đến Tòng lục phẩm Tuyên Từ khánh thái Hoàng thái hậu Thiệu Trị năm đầu (1841)
Thƣởng dịp Tết
Nguyên Đán ăn yến 4.000 quan tiền
Vải lụa
Tự Đức năm thứ 4 (1851) Vạn Thọ Tự Đức năm thứ 4 (1851)
Nguyên Đán.
Ăn yến và thưởng theo thứ bậc Đợi Chỉ ban ơn cho.
Tự Đức năm thứ 12 (1859) 4 Tự Đức Tứ phẩm trở lên từ ngũ phẩm trở xuống Tam phẩm kinh ở Kinh;Tổng đốc, Tuân phú, Bố chánh, Án sát ở ngoài Quan ngũ phẩm trở lên ở Kinh Quan phạm sai lầm bị cách lưu, giáng phạt từ tháng 12 năm Tự Đức thứ 11
21
Thƣởng dịp lễ
Nội dung khen thƣởng STT Năm Triều vua Tên ngày Tết Đối tƣợng Mức khen thƣởng
về trước
Nguyên Đán. Quân thứ Quảng Nam Tiền và gạo lương một tháng.
Nguyên Đán
Thưởng cho quan quân ở quân thứ 3 đạo Tiền, gạo, lương tháng (từ 3 tháng đến 1 tháng) có thứ bậc
Quan quân
Nguyên Đán Thưởng ăn yến, thưởng tiền
Nguyên Đán Ngũ phẩm trở lên ở Kinh
Ban tiệc yến, thưởng đồng tiền bằng vàng, bạc có thứ bậc.
Tự Đức năm thứ 12 (1859) Tự Đức năm thứ 22 (1869) Tự Đức năm thứ 31 (1878) Tự Đức năm thứ 31 (1878)
Từ 100 quan giảm dần theo thứ bậc100
Tổng thống, hiệp thống, tán tương, Chánh phó lãnh binh, đốc binh Ở Kinh võ từ tứ phẩm trở lên
Hoàng thái hậu 50 tuổi.
Vạn Thọ. Tự Đức, năm thứ 22 (1869) Tự Đức năm thứ 12 (1859) Ăn yến 1 lần và thưởng cho có thứ bậc khác nhau. ngũ phẩm đến cửu phẩm Lương 1 tháng.
Thu Hưởng
Tự Đức thứ 8 (1855) Ngoài Kinh từ Phó lãnh binh trở lên Quan ở Kinh từ Nhất phẩm đến Cửu phẩm
Tăng ân bổng cao nhất là Chánh Nhất phẩm 100 quan thấp nhất là chánh tòng cửu phẩm 12 quan
Thƣởng dịp Lễ
Dâng tôn hiệu Tự Đức năm thứ Kinh, tứ phẩm trở lên; ở ngoài, lãnh Thưởng bạc thay cỗ yến có thứ bậc khác nhau.
22
Thƣởng dịp lễ
Nội dung khen thƣởng STT Năm Triều vua Đối tƣợng Mức khen thƣởng
2 (1849) binh trở lê
Tên ngày Tết Hoàng thái hậu Lương 1 tháng
thưởng cho có thứ bậc khác nhau.
Tự Đức năm thứ 3 (1850)
Hiến tổ Chương hoàng đế lên phối hưởng.
Thưởng tiền lương 1 tháng. Thưởng vải lụa theo thứ bậc
Quan ở Kinh, từ ngũ phẩm đến thất phẩm, quản vệ, quản cơ đến suất đội Ngoài Kinh tổng đốc, Tuần phủ, Đề đốc, Bố chính, Án sát, Tuyên phủ sứ, Chánh, phó Lãnh binh Ngoài Kinh: quản vệ, quản cơ suất đội Quan trowng kinh từ Tòng tứ phẩm đến Quản vệ Hoàng thái hậu 40 tuổi Tự Đức năm thứ 2 (1849)
Thưởng cho tiền, gạo 1 tháng lương.
Hoàng thái hậu thọ 60 tuổi
Kinh từ ngũ phẩm, ở ngoài từ tứ phẩm trở xuống cho đến cửu phẩm Quan quân
Tiền lương 1 tháng.
Thượng thọ vua
Tứ phẩm trở lên ở Kinh và tỉnh ngoài
Thưởng gia 1 cấp, thí sai, thí thự đều thưởng gia ân ban có thứ bậc. Tiết đại khánh.
Tự Đức năm thứ 22 (1869) Tự Đức năm thứ 32 (1879) Tự Đức năm thứ 31 (1878)
[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ các tư liệu Thực lục, Hội điển, Châu bản]
23
g. Bảng thống kê về việc thưởng cho binh lính xây dựng các công trình công cộng dưới triều Nguyễn
Nội dung khen thƣởng
ST T Công trình sửa đắp Năm Đối tƣợng Mức khen thƣởng
Binh lính 2400 quan
Binh lính 13.500 quan
Gia Long năm thứ 4 (1804) Gia Long năm thứ 10 (1811)
Gia Long thứ 6 (1807) Biền binh 500
1 Biền binh 1.600 quan
Gia Long năm thứ 9 (1810)
Biền binh 3.000 quan
Biền binh 200 quan
Gia Long năm thứ 12 (1813) Minh Mệnh năm thứ 18 (1837)
Các quân 140.000
Gia Long năm thứ 17 (1818)
143.360 quan
14.336 binh đinh Binh đinh 109.500 quan 2 Gia Long năm thứ 18 (1819) Minh Mệnh năm thứ 4 (1823)
Minh Mệnh thứ 13 (1832) Tự Đức năm thứ 10 (1857) 9.500 biền binh Biền binh, lính
Xây và tu sửa cung điện Xây dựng điện Thái Hòa Xây điện Cần Chánh, Trung Hòa Sửa cung Trường Thọ Sửa cung Khôn Đức và Hữu trường lang Sửa điện Khôn Nguyên Sửa sang 2 điện Văn Minh và Võ Hiển Xây đắp thành Kinh thành Hai mặt trước và bên hữu Kinh thành Xây mặt sau Kinh thành Xây hai mặt tiền và hữu của Kinh thành Xây đắp Kinh thành Sửa chữa cửa Đông Nam Kinh thành Tiền lương 2 tháng kỷ lục hay tiền có thứ bậc khác nhau.
24
Nội dung khen thƣởng
ST T Công trình sửa đắp Năm Đối tƣợng Mức khen thƣởng
Xây đắp thành trấn ở các địa phương
Minh Mệnh thứ 9 (1828) Quan và
quân Biền binh 3 Minh Mệnh năm thứ 16 (1835) Thưởng tiền, lụa theo thứ bậc Tiền lương 1 tháng
Quân và dân 3000 quan Minh Mệnh năm thứ 17 (1836)
4 2 quan tiền 1 phương gạo
Xây thành trấn Thanh Hoa Đắp lấp đường hào ở bốn góc thành Gia Định Dời tỉnh thành Phú Yên ra chỗ khác Xây dựng các công trình phòng thủ ven biển 300 lính ở Minh Mệnh thứ 8 Xây đắp cửa Võ dinh (1827). Thắng ở Quảng Bình. Xây chùa
5 biền binh Xây chùa tháp Minh Mệnh năm thứ 18 (1837) 400 quan tiền.
Xây lăng
Thiệu Trị năm thứ nhất Binh lính 2 tháng tiền
(1841) lương bổng
Dựng lăng tẩm Thiệu Trị năm thứ nhất Từ Quản vệ 1 tháng tiền
Hiếu Sơn” (1841) đến binh lương bổng
lính 6 Sửa, dựng lăng Mỗi người một Tự Đức năm thứ nhất (1848) tháng lương tiền
và gạo.
Biền binh ở Kinh,quản suất biền binh Quảng Nam, Thanh Hoá, Nghệ An đến phụ làm
Làm nhà hóng mát
1.500 quan tiền 7 Tự Đức năm thứ 10 (1857) Viên biền binh đinh
Làm nhà hóng mát Từ Chu và Hương Giang
[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ tài liệu Thực lục, Châu bản, và Hội điển]
25
3. Phụ lục về chế độ đãi ngộ của triều Nguyễn cho võ quan, binh lính và thân nhân a. Định mức cấp tuất cho võ quan triều vua Gia Long
Gia Long thứ 5 (1806) Gia ong năm thứ 9 (1810)
STT Phẩm hàm STT Phẩm hàm Định mức
Chánh nhất phẩm tòng nhất phẩm chánh nhị phẩm tòng nhị phẩm chánh tam phẩm Tòng tam phẩm Chánh Tòng tứ phẩm Chánh Tòng ngũ phẩm Chánh Tòng lục phẩm Chánh Tòng thất phẩm Chánh Tòng bát phẩm Chánh Tòng cửu phẩm Lính lưu thú Định mức 400 300 200 100 70 40 30 25 20 15 10 5 3 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 Chánh nhất phẩm Tòng nhất phẩm Chánh nhị phẩm Tòng nhị phẩm Chánh tam phẩm Tòng tam phẩm Chánh tứ phẩm Tòng tứ phẩm Chánh ngũ phẩm Tòng ngũ phẩm Chánh lục phẩm Tòng lục phẩm Chánh thất phẩm Tòng thất phẩm Chánh bát phẩm Tòng bát phẩm Chánh cửu phẩm Tòng cửu phẩm Binh lính 400 300 200 100 70 40 30 28 25 23 20 18 15 13 10 8 5 4 3 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
[Nguồn: Thực lục, tập 1, tr. 676-677, 789
b. Bảng thống kê về việc ban cấp cho võ quan đi làm nhiệm vụ sai phái bị ốm chết
Nội dung trợ cấp
STT Năm Lý do Mức trợ cấp
Võ quan đƣợc ban cấp úy Văn Cho 200 quan tiền
Vệ Nguyên 1
đi Mang
Chánh Quản cơ Nguyễn Văn Điển trên đường Chết đem vệ binh về Kinh Phái Vang, Na Sầm, 2
Chưởng Cấp tuất, cho 100 quan tiềên, 1 cây gấm tàu. Cơ Đi đánh dẹp khởi Cấp tuất, cấp vải lụa, tặng 3 Minh Mệnh thứ 2 (1820) Minh Mệnh năm
26
Nội dung trợ cấp
STT Năm Lý do Mức trợ cấp Võ quan đƣợc ban cấp
4 Văn
thứ (1823) Nguyễn Tuấn, nghĩa Lý Khai Ba bị bệnh rồi chết.
4
Năm Minh Mệnh thứ 7(1826) Chưởng cơ Đỗ Thiên Thẩm Chưởng Hậu quân Quận công Lê Chất Đóng thú lâu ngày, bệnh chết Ốm chết khi làm nhiệm vụ ở Bình Định
5
Vệ úy Nguyễn Văn Hòa Ở nơi đóng thú bị ốm chết 6
Trấn thủ Võ Văn Tín
Xông pha khí độc núi rừng mắc bệnh chết 7
Minh Mệnh thứ 9 (1828) Minh Mệnh năm 12 thứ (1831)
chiếu Quản cơ Lê Văn Lẫm Tới Kinh thao diễn ốm chết
8
Đi bắt giặc
binh Văn 9 Lãnh Nguyễn Phượng
Vệ úy Nguyễn Duy Trữ Đi đánh dẹp ở Đà Bắc,
9
chức hàm Thống chế chánh Nhị phẩm, 200 lạng bạc. Cấp tuất, 200 quan tiền. Bãi triều 3 ngày, tặng Thiếu phó, thuỵ Dũng Nghị, cấp gấm sa, đoạn lông mỗi thứ 6 tấm, tiền 3.000 quan; sai quan đến tế; cấp cho 3 người mộ phu. Hoàng thái hậu nghe tin cũng cho 300 lạng bạc 1 cây gấm tàu, 100 quan tiền, truy tặng là Vệ úy quân Thần sách Tặng chức hàm Chưởng cơ tòng Nhị phẩm, cấp tuất theo hàm được tặng, 2 cây gấm tàu, 200 quan tiền, 5 tấm lụa, 10 tấm vải Cho khôi phục 4 bậc bị giáng và theo nguyên hàm Quản cơ mà cấp tuất, 500 quan tiền, 3 tấm lụa, 5 tấm vải. Tặng chức hàm Chương cơ tòng Nhị phấm,100 lạng bạc. Vua nhớ Trữ là người xuất sắc trong việc đánh dẹp, rất thương tiếc, truy tặng hàm Vệ úy, Chánh tam phẩm, 100 lạng bạc. Minh Mệnh năm thứ 13 (1832) Minh
27
Nội dung trợ cấp
STT Năm Lý do Mức trợ cấp
Võ quan đƣợc ban cấp Vệ úy Nguyễn Thọ Tuấn
Mệnh năm 14 thứ (1833) Xông pha khí độc núi rừng, bị bệnh rồi chết
10
lâu quân
11
Suất đội Tống Văn Bình Chương cơ Lê Thuận Tình
Tòng ngày ốm rồi mất Sai phái đi Trấn Tây đánh dẹp ốm chết 12
Minh Mệnh năm thứ 15 (1834)
Chưởng cơ Lê Văn Thụy 13 Khôi phục 2 bậc bị giáng, 200 lạng bạc, truy tặng chức hàm Chương cơ tòng Nhị phẩm, theo hàm cấp tuất, phong Gia Quan nam, 3 cảy gấm Tàu, 10 tấm lụa. Cấp tuất gấp lên 1 lần Cho khôi phục chức hàm Vệ úy chánh Tam phẩm, theo phẩm mà cấp tuất, 30 lạng bạc. Truy tặng hàm Thống chế, cấp tuất, 500 quan tiền, 3 cây gấm Tàu Đi đánh dẹp giặc Tiêm (Xiêm), ốm chết
Vệ úy Lê Văn Dũng
Trấn giữ đồn ốm vẫn gượng dậy tham chiến 14
Minh Mệnh năm 17 thứ (1836) Thiệu Trị năm thứ 2 (1842)
Đề đốc Vũ Văn Từ Đi thọ giá nhà vua ở Thanh Hóa
15
được sai phái chết tại quan thứ
bang biện Suất đội Nguyễn Văn Chiêm 16
18 tháng 2 năm Tự Đức 20
Truy tặng Vệ úy, chiếu theo hàm tặng mà cấp tuất. Truy tặng Đô thống, cấp cho gấm Trung Quốc, sa màu mỗi thứ 3, vóc Nam 10 tấm, lụa 20 tấm, vải 40 tấm, tiền 800 quan Vậy gia ân truy tặng cho Nguyễn Văn Chiêm làm Chánh đội trưởng Suất đội Cấm binh và chiểu theo hàm mới để cấp tuất. Hàm cấm binh Cai đội, chiếu lệ cấp tuất Cai đội Nguyễn Văn Sĩ
14 tháng 3 Tự năm Đức 20 Hiệp quản thuỷ vệ Quảng Bình còn chưa nhậm chức 17
28
Nội dung trợ cấp
STT Năm Lý do Mức trợ cấp
Võ quan đƣợc ban cấp Phó quản cơ Lê Sỹ Làm nhiệm vụ ở Bình Định
18 28 tháng 10 Tự năm Đức 15
Can án đồn lớn thất thủ, chiếu theo phẩm hàm cấp tuất, không truy thụ. Cho khai tiêu 30 quan tiền công để khâm liệm
Hiệp quản Nguyễn Văn Đức 19
Nay ở nơi đóng quân bị ốm chế
19 tháng 10 năm Tự Đức 15 12 tháng 10 năm Tự Đức 15 20
Cai đội quyền sung Hiệp quản Trần Quang Tú, Cai đội Bang biện Hiệp quản Trần Tuân Phó vệ uý Trương Linh
hiện theo quân thứ làm sai phái Đội trưởng
29 tháng 9 năm Tự Đức 11
21
Nguyên Đề đốc Hồ Đức Tú
22
đội Bị cách chức được sung làm hiệu lực tiền khu để chuộc tội Đi sai phái
cai Viên Nguyễn Lật 23 28 tháng 12 Tự năm Đức 11 Tập 133 tờ 235 TĐ 12
24 Án sát tỉnh Cao Bằng Nguyễn Hiên Bị cải tạo chuộc tội đã đến Cao Lạng làm nhiệm vụ
11 tháng 9 năm Tự Đức 22 ở quân ngũ bị bệnh Truy thụ làm Phó quản cơ, theo hàm mới cấp tuất Không có công trạng đánh dẹp, can dự án thất thủ xét xử chưa xong, chiếu theo như lệ cũ cấp tuất thêm gấp đôi không được truy thăng Dưới tên còn bị phạt 6 tháng bổng, xin tha cho và theo đó cấp tuất tăng gấp đôi. Vậy xin cung nghĩ phụng chỉ: Trương Linh vì ốm mà chết về tình thật đáng thương, truyền gia ân cấp tuất tăng gấp đôi đã tỏ lòng thương xót. Có quân công được ghi kỷ lục 9 lần chuẩn cho khai phục chức Phó vệ uý Cấm binh, chiếu hàm cấp tuất. Chưa có công trạng khi sai phái nên theo phẩm hàm cấp tuất, không cho truy thụ Theo lệ các viên bị cách chức hiệu lực tình nguyện đi đánh dẹp không may bị bệnh chết được xét cấp 3
29
Nội dung trợ cấp
STT Năm Lý do Mức trợ cấp Võ quan đƣợc ban cấp
Cai đội Cấm binh Ngô Văn Cường Đến Thái Nguyên đánh dẹp 25
Phó Lãnh Hoàng đình Mậu Bị bệnh chết khi ở quân thứ 24
quan tiền, chết trận cấp gấp đôi. tỉnh này đã chi 57 quan tiền để lo liệu nên chăng cho được quyết toán. Xin chiếu theo lệ truy thu Cai đội Cấm binh, chiếu theo phẩm hàm cấp tuất. Thực thụ Quản cơ, chiếu tặng hàm cấp tuất tăng gấp rưỡi, Chiếu lệ nên cấp gấp đôi
binh Văn Đi sai phái ở Nghệ An 25
Lãnh Nguyễn Trung Phó lãnh binh Vũ Văn Diệu Sai phái đến quân thứ Thái Nguyên 26
Cai đội Cấm binh Hoàng Đình Mậu
Miễn giáng 3 cấp lưu nhiệm. Cấp tuất gấp đôi. Truy thụ hàm Quản cơ, thêm gấp rưỡi cấp tuất theo hàm Lãnh Phó Lãnh binh tỉnh Thái Nguyên 27
12 tháng 12 năm Tự Đức 30 13 tháng 10 năm Tự Đức 30 27 tháng 9 năm Tự Đức 30 14 tháng 4 năm Tự Đức 30 20 tháng 10 năm Tự Đức 30
[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Thực lục, Hội điển, Châu bản triều Nguyễn]
c. Bảng thống kê về việc trợ cấp cho võ quan đương nhiệm bị chết dưới triều Nguyễn
STT Năm Mức ban cấp
1 Minh Mệnh năm thứ nhất (1819).
2
3 Truy tặng Binh bộ Thượng thư, cho 200 lạng bạc cấp cho 2 người mộ phu. Tiền tuất 200 quan. Ban cấp 100 lạng bạc
4
Võ quan đƣợc ban cấp Thự Thượng thư Binh bộ Nguyễn Tường Vân ở Bắc Thành Chưởng cơ Nguyễn Văn Thanh Vệ uý Thị trung Tôn Thất Trinh Vệ úy Nguyễn Văn Hòa Vua đặc ân hậu tuất Vệ uý Lê Hậu 1 cây gấm Tống và 100 quan tiền 5 Minh Mệnh thứ 2 (1820) Minh Mệnh năm thứ 11 (1830)
30
STT Năm Mức ban cấp
Minh Mệnh năm thứ 12 (1831), Cấp tuất theo hàm mới lại100 quan tiền, khôi phục 1 bậc bị giáng 6
Minh Mệnh năm thứ 16 (1835) 7
Võ quan đƣợc ban cấp Thự phó Vệ úy dinh Hổ Oai Nguyễn Văn Vị Tuyên binh Lãnh Quang Nguyễn Văn Quyên Tổng đốc Long Tường Đoàn Văn Phú Minh Mệnh năm thứ 21 (1840) 8
Tự Đức năm thứ 19 (1866) 9
Nguyên Tuần phủ Tổng đốc Ninh - Thái Đỗ Quang (ốm xin nghỉ) chết.
3/3 TĐ 2
Thự Tổng đốc Định Biên Nguyễn Đức Hoạt
10
Truy tặng hàm Thống chế, theo hàm cấp tuất, 500 quan tiên, 2 cây gấm Tàu. Thưởng 3 cây gấm Tống, 200quan. Chuẩn bị lễ phẩm lập đàn cúng lễ, hộ tống linh cữu về quê. Thưởng thêm 300 quan để lo việc tang. Truy tặng hàm Lễ bộ Thượng thư, tiền tuất 600 quan, cấp cho mẹ viên ấy mỗi tháng 2 phương gạo, 10 quan tiền, khi chết, cho 100 quan tiền và lục dụng con.b 1 tấm triều bào theo Chánh nhị phẩm mà cấp tuất, thêm cho 3 cây gấm Tống, 5 tấm lụa trắng, 300 quan, đàn tế cấp thêm 300 quan tiền lo việc an tang Cấp tuất theo lệ định cho truy tặng thực thụ Thành Thủ uý... và chiếu theo hàm mới cấp tuất 10 tháng 7 năm Tự Đức 4 11
Truy thực thụ, theo hàm mới cấp tuất
12
Theo phẩm hàm cấp tuất
13
Chiếu lệ cấp tuất
14 24 tháng 7 năm Tự Đức 4 5 tháng 11 năm Tự Đức 4 14 tháng 11 năm Tự Đức 4
15 Thự Thành Thủ uý sung Hiệp quản vệ Quảng Nam Hoàng Công Tính Thự Phó vệ uý chư quân Lãnh Từ tế Tôn Thất Quyền Phó vệ uý, Phi kỵ úy Nguyễn Đức Phó vệ uý vệ Hữu Thuỷ thuộc tỉnh Đinh Tường Nguyễn Nguyên Quản cơ cơ Lê Thức, Cấp tuất theo lệ ra, thuộc diện quan chức hàm Chánh tứ phẩm nên xin làm tờ sớ tâu lên đầy đủ
26 tháng 8 năm Tự Đức 2 26 tháng 8 năm Phó vệ uý Trần Đăng Theo lệ cấp tuất 16
31
STT Năm Mức ban cấp Võ quan đƣợc ban cấp
Chiếu theo phẩm hàm cấp tuất 17
Điền Phò mã Đô uý Đoàn Văn Tuyển Vệ uý Phạm Hựu
Tự Đức 2 10 tháng 7 năm Tự đức 16 25 tháng 6 năm Tự Đức 20
18
thủ uý Có tội về khoản nhận sai thuốc vẽ bị đánh 50 roi, phần bồi thường tiền là 140 quan 5 mạch 52 văn. Trước sau đã bồi nạp được 40 quan, còn thiếu 64 quan 5 mạch 52 văn. Châu điểm vào hai chữ miễn bồi) Truyền chiếu theo phẩm trật cấp tuất
Lĩnh Thành Nguyễn Bá Hợp 19
Chiếu lệ cấp tuất. 20
Phó Quản cơ Phạm Trinh Thự chưởng vệ Hoàng Trọng Hổ
10 tháng 10 năm Tự Đức 15 17 tháng 9 năm Tự Đức 15 25 tháng 7 năm Tự Đức 30
21
Bị giáng 1 cấp lưu, nay xin khoan miễn. Lại thêm viên quan ấy từ khi thăng thụ 1 bậc đến khi bị bệnh chết là được hơn 3 năm. Nên xin truy thụ Chưởng vệ Tòng nhị phẩm, chiếu theo lệ mới cấp tuất 600 quan.
[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Thực lục, Hội điển, Châu bản triều Nguyễn]
d. Bảng thống kê về việc trợ cấp cho võ quan có nhiều công trạng, đương nhiệm chết dưới triều Nguyễn
STT Năm Công lao Mức ban thƣởng
Có công vọng các
1
Khi bị bệnh, vua sai trung sứ đến thăm, cho quế thượng phương. Khi chết, tặng Thống chế, thuỵ Thành Cẩn; 300 quan tiền, 2 cây gấm Tống, 30 tấm vải.
Minh Mệnh thứ năm thứ 3 (1822)
2
Võ quan đƣợc trợ cấp Thự Hữu thống chế Thị trung Nguyễn Văn Tính Chưởng Hữu quân quận công Nguyễn Là bậc thần đại huân cựu, người trung Tặng Thái bảo, thuỵ Trung Cẩn. 1.000 quan tiền, 300 lạng bạc, 2 cây gấm chân kim, 3 cây gấm Tống, 30 tấm lụa, đội Thị thiện hằng ngày làm cỗ nấu để cúng. Khi đưa về Gia Định, vua ngự giá đến nhà rót rượu cúng. Cho
32
STT Năm Công lao Mức ban thƣởng
Võ quan đƣợc trợ cấp Văn Nhân
thành cẩn hậu.
3 Chưởng cơ Nguyễn Khắc Tuấn 100 binh đội hữu sai đưa đi. Đến ngày an táng, nghỉ chầu một ngày. Cấp cho 10 người mộ phu. Truy tặng Thống chế, cấp hàng tơ, 200 lạng bạc, sai quan dụ tế, cho gia quyến 200 quan tiền.
Minh Mệnh năm thứ 4 (1823)
4
Đánh dẹp lập nhiều chiến công Có công triều 2 Gia Long và Minh Mệnh
Truy tặng Thái phó, thụy Trung dũng, 30 tấm gấm đoạn và nhiễu, 3.000 quan tiền, nghỉ chầu 3 ngày, sai quan tứ tế. Ngày đưa đám lại nghỉ chầu 1 ngày, sai quan tứ tế, hạ lệnh cho 1.000 lính và 10 thớt voi đi đưa đám. Cho thêm 1.400 quan tiền, 1.000 phương gạo, 10 người mộ phu. Cháu đem về quê chôn, cho vải 100 tấm, tiền 500 quan, sai quan đến tế; bắt dân sở tại xây phần mộ, cấp cho tiền gạo
Chưởng Tượng quân Quận công Nguyễn Đức Xuyên Giám quân Tống Phước Đạm 5
Buổi đầu trung hưng, giữ thành Diên Khánh Minh Mệnh năm thứ 5 (1824)
thống Lê
Tặng Thiếu bảo chưởng dinh, thuỵ là Tráng nghị, sai quan tứ tế, 5 cây gấm Tống, 50 tấm lụa, 100 tấm vải, 2.000 quan, 3 người mộ phu. 6 Đô chế Văn Thành Có nhiều công lao đánh giặc,
9 Truy tặng Tả quân Đô thống phủ Chưỏng phủ sự, chiếu theo hàm tặng mà cấp tuất, 3 cây gấm tàu, 10 tấm lụa, 500 quan tiền.
Theo vua lâu ngày, siêng năng Minh Mệnh thứ (1828) 7
Làm việc lập công
Cấp tuất, tặng chức Hộ thành binh mã sứ, 100 quan tiền. 8 Thự Chưởng quân Đoàn Văn Trường Hộ thành bính mã Đồ Phục Thịnh
Minh Mệnh năm thứ 11 (1830)
33
STT Năm Công lao Mức ban thƣởng
Võ quan đƣợc trợ cấp
úy
Vệ Nguyễn Tiến Trữ Lập công trong bắt giặc Truy tặng chức hàm chính Tam phẩm, chiếu theo phấm cấp tuất, 100 lạng bạc. 9
úy
10
11 300 quan tiền, 3 chiếc áo, 3 chiếc quần, 1 cây gấm Tống, 5 tấm lụa, 10 tấm vải, 10 cân sáp, 300 cân dầu Trong danh sách có ghi giáng phạt đều cho khôi phục, 100 lạng bạc, 3 cây gấm tàu.
Minh Mệnh năm thứ 13 (1832) Minh Mang năm thứ 14 (1833) Truy tặng hàm Thiếu bảo, cấp tuất, 5 cây gấm Tàu, 10 tấm lụa, 20 tấm vải
12
thống
Vệ Trương Văn Hậu Thông chế Thần sách Phạm Văn Lý Hậu quân thông Đô phủ Chương phủ sự Đô phủ Lương Tài hầu Trần Văn Năng Minh Mệnh năm thứ 15 (1834)
13
Truy tặng hàm Thái phó, phong Tân Thành quận công, tên thụy là Trung Dũng,gấm màu, nhiễu màu, sa màu mỗi thứ 10 tấm và 3000 quan tiền, an táng xong cho tế một tuần. Vua làm thơ để viếng. Đám tang đến Kinh, vua sai Hoàng tử đến chỗ nhà đám, ban cho 3 nậm rượu.
Truy tặng hàm Quản cơ, theo hàm tặng cấp tuất, thưởng thêm 100 quan tiền.
Có công đi đánh dẹp Theo vua lâu ngày có nhiêu công lao, Lão thành, lập nhiều chiến công Có nhiều lao công triều 2 Gia Long Minh Mệnh, đi loạn dẹp ở thành Phiên An Có công lao trong chiến trận Phó Quản cơ Hô Văn Thường 14
có
Phó Quản cơ Nguyễn Doãn 15 Chiếu lệ cấp tuất. Châu phê thực nay truy tặng lên chức Quản cơ
Minh Mệnh năm thứ 16 (1835) 15 tháng 9 năm Tự Đức 15 18/6 Chưởng Dũng cảm, công trạng có chiến Truy tặng chức Thống chế chiếu theo phẩm
34
STT Năm Công lao Mức ban thƣởng
công 16
năm Tự đức 16
bộ
Sai phái Lạng Bằng hàm cấp tuất, lại cấp thêm cho 500 quan tiền. Tỉnh đó sửa lễ do 1 Bố chánh hoặc án sát tứ tế 1 lần Truy tặng Hiệp biện đại học sĩ, chiếu lệ tặng hàm, cấp tuất gấp đôi cấp là 1 ngàn 4 trăm quan, áo bào đã cấp ở quê rồi 17 13 tháng 3 năm Tự Đức 22
Võ quan đƣợc trợ cấp vệ Đề đốc Phạm Hữu Xuân Nguyên Binh Thượng thư, Phan Khắc Thuận
[Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Thực lục, Hội điển, Châu bản triều Nguyễn]