ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
TRỊNH VĂN SÖY
NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ - XÃ HỘI NẢY SINH
TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA
CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở TỈNH THANH HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
TRỊNH VĂN SÖY
NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ - XÃ HỘI NẢY SINH
TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA
CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 62.31.01.01
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Phí Mạnh Hồng
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của tôi,
có sự hỗ trợ giúp đỡ của Thầy giáo hướng dẫn, một số
thầy cô giáo khác và bạn bè, đồng nghiệp. Các số liệu
nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa
học của luận án chưa được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trịnh Văn Súy
MỤC LỤC
Danh mục chữ viết tắt ........................................................................................ i
Danh mục bảng biểu .......................................................................................... ii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................... 8
1.1. Những công trình đã công bố liên quan đến nội dung luận án .............. 8
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về CPH DNNN nói chung ................... 8
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về những vấn đề kinh tế-xã hội nảy
sinh trong quá trình CPH và hậu CPH DNNN ....................................... 16
1.1.3. Các công trình nghiên cứu quá trình CPH DNNN trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa ............................................................................................... 18
1.2. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố và những vấn đề đặt
ra cần đƣợc nghiên cứu tiếp ........................................................................ 19
1.2.1. Những kết quả chủ yếu của các công trình nghiên cứu trên ........ 19
1.2.2. Một số vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu tiếp ............................ 21
Chƣơng 2: CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ - XÃ HỘI NẢY SINH TRONG QUÁ
TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC: CƠ SỞ LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN ................................................................................. 25
2.1. Khái lƣợc chung về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc ............. 25
2.1.1. Doanh nghiệp nhà nước và vai trò của chúng trong nền kinh tế thị
trường ...................................................................................................... 25
2.1.2. Những hạn chế của các DNNN và nguyên nhân của chúng ......... 29
2.1.3. Thực chất của CPH doanh nghiệp nhà nước ................................ 33
2.1.4. Cổ phần hóa DNNN – giải pháp cơ bản nhằm khắc phục những yếu
kém của khu vực DNNN và nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế ........ 36
2.2. Các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nƣớc. ......................................................................................... 39
2.2.1. Xung đột lợi ích – cội nguồn sâu sa của các vấn đề kinh tế-xã hội
nẩy sinh trong quá trình CPH DNNN ..................................................... 39
2.2.2. Các vấn đề kinh tế-xã hội cụ thể thường nảy sinh trong quá trình
CPH DNNN ............................................................................................. 41
2.3. Những yếu tố ảnh hƣởng đến các vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trong
quá trình CPH DNNN ................................................................................. 53
2.3.1. Môi trường cạnh tranh và khung pháp lý điều tiết hoạt động chung
của các doanh nghiệp.............................................................................. 53
2.3.2. Khuôn khổ pháp lý và tính minh bạch của tiến trình cổ phần hóa
các DNNN ............................................................................................... 55
2.3.3. Những biện pháp hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp
trong quá trình cổ phần hóa ................................................................... 57
2.3.4. Các thiết chế hỗ trợ quá trình CPH DNNN. ................................. 58
2.3.5. Đội ngũ cán bộ làm công tác CPH. .............................................. 58
2.3.6. Nhận thức xã hội về quá trình CPH DNNN. ................................. 59
2.4. Thực tiễn giải quyết những vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trong quá
trình này ở một số địa phƣơng và bài học kinh nghiệm cho Thanh Hóa .... 60
2.4.1. Thực tiễn giải quyết những vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trong
quá trình này ở một số địa phương ......................................................... 60
2.4.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra cho tỉnh Thanh Hóa ............. 71
Chƣơng 3: TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ
- XẪ HỘI ĐẶT RA TỪ QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH
NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở TỈNH THANH HÓA ............................................. 76
3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và DNNN của Thanh Hóa ảnh
hƣởng đến quá trình CPH DNNN . ............................................................. 76
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội. .............................................. 76
3.1.2. Đặc điểm DNNN của Thanh Hóa trước cổ phần hóa ................... 79
3.2.Tình hình, kết quả thực hiện CPH DNNN ở Thanh Hóa. ..................... 81
3.2.1. Các giai đoạn triển khai thực hiện cổ phần hóa các DNNN ........ 81
3.2.2. Một số kết quả và nhận xét chung. ................................................ 81
3.3. Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nƣớc ở Thanh Hóa ......................................................... 84
3.3.1. Tâm lý chần chừ, e ngại, ngăn trở tiến trình CPH ..................... 84
3.3.2. Vấn đề xác định giá trị các doanh nghiệp Nhà nước để cổ phần
hoá ........................................................................................................... 85
3.3.3. Việc đánh giá và xử lý nợ của các DN cổ phần hóa ...................... 88
3.3.4. Vấn đề sắp xếp lại lực lượng lao động và giải quyết lao động “dôi
dư” trong các DNCPH ............................................................................ 89
3.3.5. Vấn đề chuyển đổi cấu trúc sở hữu và quan hệ giữa các nhóm
cổ đông. ................................................................................................... 91
3.3.6. Vấn đề quản lý nhà nước và sự phân biệt đối xử đối với DN sau
CPH (so với DNNN). ............................................................................. 100
3.4. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong
quá trình cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa. ............................................ 102
3.4.1. Cơ chế, chính sách về CPH DNNN . ........................................... 102
3.4.2. Công tác quản lý nhà nước về CPH DNNN trên địa bàn tỉnh chưa
theo kịp với yêu cầu ............................................................................... 106
3.4.3. Các thiết chế hỗ trợ tiến trình CPH DNNN còn kém phát triển. 108
3.4.4. Nhận thức xã hội và công tác tuyên truyền về CPH còn hạn chế .... 109
Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ
KINH TẾ - XÃ HỘI NẢY SINH TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở TỈNH THANH HÓA ........................... 112
4.1. Quan điểm giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trong quá
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở Thanh Hóa những năm tới.. 112
4.1.1. Bối cảnh của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Thanh Hóa
những năm tới ....................................................................................... 112
4.1.2. Quan điểm giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Thanh Hóa .............. 116
4.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế và giải quyết các vấn đề kinh tế- xã
hội nảy sinh trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở Thanh
Hóa những năm tới .................................................................................... 124
4.2.1. Đổi mới phương pháp định giá đi đôi với nâng cao kỹ năng và đạo
đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ định giá tài sản doanh nghiệp ... 124
4.2.2. Minh bạch hóa vấn đề tài chính và quyền sở hữu của Nhà nước
trong doanh nghiệp sau CPH ................................................................ 129
4.2.3. Phân định rõ và tách bạch chức năng quản lý Nhà nước với chức
năng chủ sở hữu Nhà nước tại các CTCP ............................................ 135
4.2.4. Hoàn thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo tính bình đẳng trong
đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi của người lao
động trong các doanh nghiệp sau CPH .............................................. 139
4.2.5. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền địa
phương và nâng cao vai trò của Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước
trong quá trình CPH DNNN ............................................................... 1433
4.3. Một số kiến nghị với Nhà nƣớc và bộ/ ngành hữu quan .................. 1466
KẾT LUẬN ................................................................................................... 149
DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .. 153
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 154
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa : Cổ phần hóa : Công ty cổ phần : Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc : Dòng tiền chiết khấu : Doanh nghiệp : Doanh nghiệp nhà nƣớc : Doanh nghiệp cổ phần hóa
CNH, HĐH CPH CTCP CPH DNNN DCF DN DNNN DNCPH DNTN : Doanh nghiệp tƣ nhân : Đổi mới phát triển doanh nghiệp ĐMPTDN : Hội đồng quản trị HĐQT : Khu vực tƣ nhân KVTN KVTN : Khu vực tƣ nhân KT-XH: : Kinh tế- xã hội KTNN NDT SCIC SLĐ SNG SXKD TBCN TCT TĐKT TĐKT, TCT TNHH TTCK UBND VNN XHCN : Kinh tế nhà nƣớc : Nhân dân tệ : Tổng công ty kinh doanh vốn nhà nƣớc : Sức lao động : Cộng đồng các quốc gia độc lập : Sản xuất kinh doanh : Tƣ bản chủ nghĩa : Tổng công ty : Tập đoàn kinh tế : Tập đoàn kinh tế, tổng công ty : Trách nhiệm hữu hạn : Thị trƣờng chứng khoán : Ủy ban nhân dân : Vốn nhà nƣớc : Xã hội chủ nghĩa
i
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Một số kết quả của các DN CPH của tỉnh Thừa Thiên - Huế năm
2010 ................................................................................................................. 64
Bảng 2.2: So sánh tỷ lệ tăng thu nhập của ngƣời lao động và tăng lợi nhuận
của 3 CTCP. .................................................................................................... 70
Bảng 3.1. Tỷ trọng cơ cấu kinh tế của tỉnh Thanh Hóa .................................. 77
Bảng 3.2. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế Thanh Hóa 2006-2012 (%) ................. 78
Bảng 3.3. Thu nhập bình quân đầu ngƣời/tháng giai đoạn 2002-2012 ........... 79
Bảng 3.4: Số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và nợ khó đòi (tính đến
1/1/1995) ......................................................................................................... 80
ii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ năm 1986, với đƣờng lối Đổi Mới của Đảng Cộng sản Việt Nam,
nền kinh tế nƣớc ta đã từng bƣớc chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế kinh tế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc, theo định
hƣớng xã hội chủ nghĩa. Trong bƣớc chuyển đổi này, các doanh nghiệp nhà
nƣớc (DNNN) - bộ phận trọng yếu của nền kinh tế, nói chung đã không thích
ứng đƣợc, bộc lộ nhiều yếu kém , hoạt động thiếu hiệu quả, không tƣơng
xứng với vai trò mà chúng đƣợc kỳ vọng cũng nhƣ các nguồn lực mà chúng
nắm giữ. Trƣớc tình hình đó, vào đầu những năm 1990, Đảng và Nhà nƣớc đã
chủ trƣơng đổi mới một cách căn bản, toàn diện đối với các DNNN. Nhiều
chính sách và giải pháp đã đƣợc tiến hành, trong đó có giải pháp chuyển đổi
các DNNN thành Công ty cổ phần (cổ phần hoá các DNNN). Đây là biện
pháp quan trọng nhằm tạo ra sự chuyển biến căn bản về cơ cấu sở hữu và hoạt
động của các DNNN, để thông qua đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh
tranh của chính khu vực DNNN cũng nhƣ của cả nền kinh tế.
Sau hơn 20 năm tổ chức thực hiện cổ phần hóa (CPH) DNNN, các chỉ
tiêu nhƣ: vốn, doanh thu, lợi nhuận, thu nhập của ngƣời lao động... tại nhiều
doanh nghiệp sau CPH đã có sự cải thiện rõ rệt. Tuy vậy, tính đến nay tiến
trình này vẫn diễn ra chậm chạp. Khu vực DNNN vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn,
hoạt động của nhiều DN sau CPH còn khó khăn, hiệu quả hoạt động và năng
lực cạnh tranh thấp, thậm chí nhiều doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ. Nhiều
vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình CPH DNNN đã tác động xấu
đến quá trình CPH nói riêng, đến sự phát triển kinh tế-xã hội nói chung.
Tại Thanh Hóa, quá trình CPH DNNN đã đƣợc triển khai nghiêm túc
và thu đƣợc những kết quả nhất định. Tính đến 31 tháng 12 năm 2014, Thanh
Hoá đã CPH đƣợc 98 doanh nghiệp, trong đó có 24 doanh nghiệp bộ phận.
1
Kết quả khảo sát cho thấy, đa số các doanh nghiệp sau CPH hoạt động sản
xuất kinh doanh có hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, tiến
trình CPH DNNN ở Thanh Hóa vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó nổi lên là:
các mục tiêu chủ yếu của CPH đạt thấp; trong nhiều trƣờng hợp, việc xác định
giá trị doanh nghiệp trƣớc khi CPH chƣa hợp lý; các doanh nghiệp còn lúng
túng trong việc xây dựng chiến lƣợc sản phẩm và chiến lƣợc phát triển... Điều
đáng nói là, sau cổ phần hóa, hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh
nghiệp vẫn thấp... Nguyên nhân của tình trạng đó có nhiều, trong đó có
nguyên nhân từ những vấn đề kinh tế-xã hội (KT – XH) tiêu cực nẩy sinh
trong quá trình CPH nhƣng chƣa đƣợc tỉnh quan tâm giải quyết kịp thời, nhƣ:
tình trạng thất thoát tài sản nhà nƣớc còn phổ biến; vai trò của ngƣời lao
động- cổ đông trong công ty chƣa đƣợc coi trọng; cơ cấu sở hữu còn thiếu
minh bạch; sự xung đột lợi ích nhóm bắt đầu bộc lộ; vấn đề xử lý nợ còn lúng
túng.v.v... Tất cả điều đó đều gây ra khó khăn cho tiến trình CPH DNNN,
ngăn cản nó đi đến mục tiêu của mình. Điều này đòi hỏi các nhà quản lý, các
cơ quan ban ngành từ Trung ƣơng đến địa phƣơng, các nhà nghiên cứu phải
có biện pháp để giải quyết những vấn đề nảy sinh đó một cách hiệu quả.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, NCS đã chọn đề tài cho luận án tiến
sĩ Kinh tế chính trị của mình là: “Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong
quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Thanh Hoá", nhằm trả
lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Quá trình CPH DNNN thƣờng làm nảy sinh các vấn đề kinh tế-xã hội nào?
Căn nguyên sâu sa có tính quy luật chi phối sự nảy sinh các vấn đề này là gì?
- Những vấn đề đó bộc lộ, thể hiện nhƣ thế nào trong quá trình CPH DNNN ở
Thanh Hóa?
- Cần có các giải pháp gì để xử lý hiệu quả các vấn đề trên nhằm đẩy nhanh
tiến độ CPH và nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN sau CPH trên địa
bàn Tỉnh?
2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận án là nhằm làm rõ các vấn đề kinh tế-xã
hội nảy sinh trong quá trình CPH DNNN ở Thanh Hóa, tìm ra nguyên nhân
của tình trạng này, từ đó đề xuất các giải pháp xử lý thích hợp để đẩy nhanh
tiến độ và nâng cao hiệu quả tiến trình CPH DNNN trên địa bàn tỉnh.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận án phải thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, chỉ ra
những kết quả và những vấn đề đặt ra cần phải đƣợc nghiên cứu tiếp.
- Xây dựng khung khổ lý thuyết về CPH DNNN và các vấn đề kinh tế -
xã hội thƣờng nảy sinh trong quá trình này.
- Khảo cứu kinh nghiệm xử lý các vấn đề kinh tế - xã hội tiêu cực nảy sinh
trong quá trình cổ phần hóa DNNN của một số địa phƣơng.
- Phân tích, đánh giá thực tế những vấn đề kinh tế - xã hội tiêu cực nảy
sinh trong quá trình cổ phần hoá DNNN ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 1998 đến
năm 2014, làm rõ những kết quả và hạn chế trong việc xử lý các vấn đề này
trong thực tiễn CPH ở Tỉnh.
- Đƣa ra quan điểm và đề xuất giải pháp xử lý các vấn đề kinh tế - xã hội
tiêu cực nảy sinh trong quá trình cổ phần hoá các DNNN ở Thanh Hoá đến
năm 2020.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là những vấn đề kinh tế-xã hội nẩy sinh
trong quá trình CPH DNNN dƣới góc độ Kinh tế chính trị..Điều này thể hiện ở
chỗ: các vấn đề nảy sinh trong quá trình CPH đƣợc xem xét, cắt nghĩa dƣới góc độ
kinh tế - xã hội, nhƣ là sự phản chiếu các quan hệ lợi ích chứ không phải dƣới góc
độ kinh tế - kỹ thuật; việc lý giải các vấn đề cũng nhƣ đề xuất giải pháp thƣờng
3
đƣợc gắn với môi trƣờng thể chế, chính sách và vai trò của nhà nƣớc hơn là tiếp
cận từ góc độ doanh nghiệp hay đề xuất giải pháp cho doanh nghiệp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề KT-XH bộc lộ
trong quá trình CPH DNNN, chủ yếu phát sinh từ sự xung đột lợi ích giữa các
chủ thể kinh tế có liên quan, tạo ra những tác động tiêu cực đến quá trình này.
Đây chính là những tình huống hay khía cạnh khó khăn mà ngƣời ta cần phải
giải quyết hay vƣợt qua nếu muốn quá trình CPH DNNN đi đến đƣợc mục tiêu
của mình. Các vấn đề kinh tế - kỹ thuật nảy sinh trong quá trình cổ phần hóa sẽ
không đề cập hoặc chỉ đề cập ở mức độ nhất định để làm rõ các quan hệ lợi ích
kinh tế có liên quan.
Ở Việt Nam, quá trình CPH DNNN đã trải qua nhiều giai đoạn và hiện vẫn
đang đƣợc tiếp tục đẩy mạnh. Một số vấn đề nảy sinh ở các doanh nghiệp sau
CPH có thể tạo ra ảnh hƣởng tiêu cực đối với tiến trình CPH tiếp theo. Đứng trên
góc nhìn đó, những vấn đề nhƣ vậy vẫn cần đƣợc xem xét, giải quyết trong tổng
thể quá trình CPH DNNN nói chung. Đó là lý do một số khía cạnh sau CPH của
DN vẫn nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận án này.
- Về không gian: Trong khuôn khổ luận án này, NCS chỉ tập trung nghiên
cứu những vấn đề kinh tế-xã hội nảy sinh có tác động tiêu cực đến tiến trình
CPH DNNN ở tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên, luận án cũng nghiên cứu vấn đề này
tại một số địa phƣơng khác để đúc rút bài học kinh nghiệm cho tỉnh Thanh Hóa.
- Về thời gian: từ 1998, thời điểm tỉnh Thanh Hóa bắt đầu thực hiện CPH
DNNN, đến năm 2014.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án sử dụng cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là phƣơng pháp luận đƣợc sử dụng
xuyên suốt trong Luận án để nhận diện đúng bản chất của tiến trình CPH
4
DNNN nói chung trong điều kiện các nền kinh tế thị trƣờng cũng nhƣ những
biểu hiện đặc thù của nó trong thực tiễn các nền kinh tế đang chuyển đổi nhƣ
Việt Nam. Với cách tiếp cận biện chứng, Luận án xem xét các vấn đề KT-XH
nảy sinh trong tiến trình CPH DNNN không phải nhƣ các sự kiện ngẫu nhiên
mà nhƣ là những hệ quả tất yếu từ sự xung đột lợi ích giữa các nhóm ngƣời
khác nhau gắn liền với quá trình này.
Quán triệt nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, Luận án đặt việc xử lý
những vấn đề nảy sinh trong quá trình CPH DNNN ở Việt Nam nói chung, ở
Thanh Hóa nói riêng trong mối quan hệ của nó với tổng thể quá trình đổi mới
theo hƣớng phát triển kinh tế thị trƣờng, mở cửa và hội nhập, trong đó CPH
DNNN đƣợc xem nhƣ một bộ phận của quá trình cải cách và định vị lại khu
vực DNNN, tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế theo các yêu cầu và nguyên lý
của kinh tế thị trƣờng.
4.2. Phương pháp cụ thể
Trong luận án, một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể sau đƣợc chú trọng:
- Phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học: Đây là phƣơng pháp đặc thù
trong nghiên cứu kinh tế chính trị. Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng nhằm tạm
gạt bỏ khỏi đối tƣợng nghiên cứu những vấn đề cá biệt, ngẫu nhiên, ít có ảnh
hƣởng đến quá trình CPH DNNN để đi sâu nghiên cứu những vấn đề mang
tính cốt yếu, phổ biến, có ảnh hƣởng quyết định đến quá trình CPH DNNN và
cách thức xử lý các vấn đề nảy sinh trong quá trình này. Phƣơng pháp này
đƣợc áp dụng chủ yếu ở chƣơng 3 và một phần ở chƣơng 2 (phần nghiên cứu
kinh nghiệm các nƣớc).
- Phƣơng pháp kết hợp lôgic và lịch sử đƣợc sử dụng trong luận án khi
tác giả cố gắng khảo sát tiến trình CPH DNNN và các vấn đề kinh tế - xã hội
nảy sinh ở Thanh Hóa theo diễn tiến lịch sử của chúng (theo các giai đoạn của
quá trình CPH nói chung cũng nhƣ các bƣớc CPH đối với một doanh nghiệp
cụ thể) song đồng thời lại sẵn sàng bỏ qua những yếu tố ngẫu nhiên để xâu
5
chuỗi, kết nối các khía cạnh khác nhau trong các vấn đề nảy sinh nhằm tìm ra
lô gic bên trong chi phối các tất cả vấn đề trên: sự xung đột lợi ích giữa các
chủ thể kinh tế có liên quan. Đó là cơ sở để tác giả luận án phân tích, lý giải
đối tƣợng nghiên cứu và tìm kiếm các đề xuất giải pháp.
- Phƣơng pháp nghiên cứu tình huống, phƣơng pháp phân tích - tổng hợp
đƣợc sử dụng trong các chƣơng 2 - 3 và 4, trong đó nhiều nhất là ở chƣơng 3.
Chẳng hạn việc phân tích cho phép tác giả luận án khảo cứu, đánh giá riêng rẽ
từng khía cạnh nảy sinh, có ảnh hƣởng tiêu cực đến mục tiêu của quá trình
CPH DNNN cả trƣớc, trong và sau tiến trình này nếu xét ở một doanh nghiệp
cụ thể. Tuy thế, thông qua việc khái quát hóa, dựa trên lô gic của các mối
quan hệ lợi ích, tác giả cố gắng tổng hợp lại để nhận diện đƣợc một số yếu tố
có khả năng chi phối chung các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh cụ thể (sự
xung đột lợi ích, môi trƣờng kinh doanh chung hay khía cạnh thể chế…). Sử
dụng các phƣơng pháp này cho phép tác giả đƣa ra đƣợc những nhận xét,
đánh giá sát thực hơn về tình hình CPH DNNN và xử lý các vấn đề nảy sinh
có tác động tiêu cực đến quá trình CPH DNNN trong thời gian qua, chỉ rõ
những thành tựu và hạn chế của quá trình này.
- Phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng trong cả chƣơng 2 và chƣơng 3, đặc
biệt trong phần nghiên cứu kinh nghiệm của các địa phƣơng khác và đánh giá
thực trạng CPH DNNN và cách thức giải quyết các vấn đề KT-XH nảy sinh
trong quá trình CPH DNNN tại tỉnh Thanh Hóa. Sử dụng phƣơng pháp này sẽ
cho phép làm rõ những ƣu điểm, thành tựu hay nhƣợc điểm, hạn chế trong CPH
DNNN và giải quyết các vấn đề KT-XH tiêu cực nảy sinh trong quá trình đó.
- Luận án chủ yếu sử dụng các số liệu, dữ liệu thứ cấp đƣợc chắt lọc từ
các công trình (bài báo khoa học, sách chuyên khảo, luận án, luận văn…) có
liên quan đến vấn đề CPH DNNN đƣợc công bố dƣới dạng các tài liệu sách,
báo hay trên các trang websites. cũng nhƣ các báo cáo của tỉnh ủy, ủy ban
nhân dân tỉnh Thanh Hóa về tình hình CPH DNNN.
6
5. Những đóng góp khoa học của luận án
- Bổ sung và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về các vấn đề kinh tế-xã
hội nảy sinh mang tính phổ biến trong quá trình cổ phần hóa các DNNN, trong
đó chỉ rõ sự xung đột lợi ích không tránh khỏi giữa các chủ thể kinh tế gắn liền
với quá trình chuyển đổi hình thức và tính chất của sở hữu trong CPH DNNN
là nguyên nhân sâu sa chi phối các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong tiến
trình CPH. Luận án cũng luận giải và khẳng định các vấn đề nhƣ cách định vị
vai trò, vị trí của nhà nƣớc , các DNNN trong nền kinh tế thị trƣờng; trình độ
phát triển của các thể chế thị trƣờng là các yếu tố then chốt chi phối mức độ
bộc lộ và khả năng xử lý các vấn đề kinh tế - xã hội trên.
- Chỉ ra và phân tích những vấn đề kinh tế - xã hội bộc lộ cụ thể trong
quá trình CPH DNNN tại tỉnh Thanh Hóa trong 15 năm qua (1998-2014), cắt
nghĩa đƣợc một số yếu tố dẫn dắt, chi phối các vấn đề này.
- Đƣa ra và luận giải một số quan điểm và giải pháp nhằm xử lý có hiệu
quả các tác động của những vấn đề kinh tế - xã hội tiêu cực nảy sinh trong
quá trình CPH DNNN ở Thanh Hóa từ nay đến năm 2020.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, nội dung chính của luận án đƣợc kết cấu thành 4 chƣơng:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước: cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 3: Tiến trình cổ phần hóa và những vấn đề kinh tế - xã hội đạt
ra từ quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Thanh Hóa
Chương 4: Quan điểm và giải pháp giải quyết các vấn đề kinh tế - xã
hội nảy sinh trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh
Thanh Hóa
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình đã công bố liên quan đến nội dung luận án
Cổ phần hóa DNNN là một chủ đề lớn đƣợc nhiều học giả và các nhà
hoạch định chính sách quan tâm. Vì vậy, xung quanh vấn đề này đã có khá
nhiều công trình khoa học đƣợc công bố, trong đó những công trình liên quan
trực tiếp đến đề tài luận án có thể phân thành 3 nhóm: Nhóm 1, gồm các công
trình nghiên cứu những vấn đề chung về CPH DNNN; Nhóm 2, gồm những
công trình nghiên cứu về các vấn đề kinh tế-xã hội nảy sinh trong quá trình
CPH DNNN và cách thức xử lý; Nhóm 3, gồm những bài viết về tiến trình
CPH DNNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về CPH DNNN nói chung
+ Những công trình nghiên cứu lý luận về cổ phần hóa DN N N
Những vấn đề lý luận chung về DNNN và CPH DNNN đƣợc khá nhiều
ngƣời, cả trong nƣớc và ngoài nƣớc, quan tâm nghiên cứu. Tại Việt Nam,
ngoài các cơ quan nghiên cứu chuyên ngành nhƣ Viện nghiên cứu Quản lý
kinh tế Trung ƣơng, các Viện nghiên cứu của Bộ, Ngành- là cơ quan quản lý
trực tiếp doanh nghiệp nhà nƣớc, còn có nhiều chuyên gia kinh tế độc lập đã
dày công nghiên cứu vấn đề này. Trong số hàng trăm công trình đã xuất bản
mà NCS tiếp cận đƣợc, nhìn chung đều hƣớng tới một mục đích chung là tìm
ra con đƣờng đƣa DNNN vào quĩ đạo vận động của kinh tế thị trƣờng, làm
cho DNNN thích ứng đƣợc với cơ chế mới.
Các tác giả Nguyễn Hữu Từ (1993), Ngô Quang Minh (2001), Nguyễn
Cảnh Hoan (2002), Đỗ Thị Phi Hoài (2003), Lê Hồng Hạnh (2004), và nhiều
ngƣời khác đều thống nhất quan điểm, cho rằng CPH DNNN là tất yếu khách
quan trong quá trình chuyển nền kinh tế từ vận động theo cơ chế kế hoạch hóa
8
tập trung sang cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc, theo định hƣớng
xã hội chủ nghĩa. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Cơ sở khoa học và thực
tiễn của việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam” (1998) đã chỉ
rõ cơ sở khoa học của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc. Từ việc trở
lại quá khứ tìm kiếm nguồn gốc ra đời của công ty cổ phần, bằng sự diễn giải
giản đơn, dễ hiểu đề tài đã làm sáng tỏ tính ƣu việt của công ty cổ phần mà
các loại hình kinh tế khác không thể nào có đƣợc. Tuy nhiên, các tác giả cũng
lƣu ý rằng, CTCP không phải hoàn toàn hiệu quả hơn DNNN, mà bản thân
chúng cũng có những hạn chế nhất định.
Một số tác giả đƣa ra vấn đề có tính lý luận quan trọng nhƣng hiện đang
có những ý kiến khác nhau, là nên gọi quá trình chuyển DNNN thành công ty
cổ phần là cổ phần hoá hay tƣ nhân hoá? Các tác giả của đề tài trên khẳng
định, rằng không thể coi các doanh nghiệp có thành phần Nhà nƣớc (tuy mức
độ khác nhau) nhƣ xí nghiệp liên doanh, công ty cổ phần, hay công ty trách
nhiệm hữu hạn.... là tƣ nhân, vì cho dù hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp,
trong công ty cổ phần có yếu tố Nhà nƣớc. Theo họ, nếu Nhà nƣớc- ngƣời đại
diện cho toàn dân tham gia, mà lại coi là tƣ nhân thì sẽ là điều không hiểu nổi.
Tƣơng tự nhƣ vậy, các vấn đề nhƣ: cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc có
làm chệch hƣớng XHCN không?”; lợi ích của Nhà nƣớc và của ngƣời lao
động sẽ nhƣ thế nào? hay công ty cổ phần hoạt động có hiệu quả hơn doanh
nghiệp Nhà nƣớc không?... cũng đƣợc bàn tới khá nhiều trong các công trình
đã công bố. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đều có chung một câu trả lời là:
CPH DNNN không hề làm chệch hƣớng xã hội chủ nghĩa; các doanh nghiệp
nhà nƣớc sau khi cổ phần hoá đều hoạt động có hiệu quả hơn, thể hiện là các
chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận, thu nhập của ngƣời lao động, lợi tức cổ phần
đều tăng lên so với trƣớc. Trên cơ sở thực tiễn đó, kết luận đƣợc rút ra là, khi
chuyển doanh nghiệp nhà nƣớc thành công ty cổ phần thì nếu có mất chỉ
“mất” đi tác phong quan liêu, cửa quyền và sự tham nhũng, lãng phí ... mà
9
thôi, còn cái đƣợc cơ bản và lâu dài là lợi ích của cả Nhà nƣớc, tập thể và
ngƣời lao động đều tăng lên. Đó là vì, mặc dù công ty cổ phần có cấu trúc khá
phức tạp, nhƣng do tách bạch quyền sở hữu với quyền kinh doanh, chuvên
môn hoá sản xuất nên công ty cổ phần đạt hiệu quả cao hơn các hình thức
khác, kể cả doanh nghiệp tƣ nhân, công ty TNHH và doanh nghiệp 100% vốn
nhà nƣớc. Vì vậy, việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần là hợp quy luật
xã hội hoá nguổn vốn đầu tƣ và kinh doanh, là xu thế tất yếu khách quan ở
nƣớc ta, và cái đƣợc sẽ nhiều hơn cái mất.
Một số công trình đề cập cơ sở thực tiễn của việc cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nƣớc. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ƣơng (1994), Bộ Tài
chính (1998), và Bùi Quốc Anh (2009), khi phân tích luận cứ khoa học của việc
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trƣờng ở Việt Nam đều khẳng định rằng: sự thay đổi thể chế kinh tế đòi hỏi
phải cổ phần hoá, vì các thể chế kinh tế, lần lƣợt đi từ kinh tế thị trƣờng tự do
đến kinh tế kế hoạch hoá tập trung và hiện tại là kinh tế hỗn hợp. Kinh tế hỗn
hợp ra đời là cơ sở cho sự xuất hiện và phát triển công ty cổ phần và công ty cổ
phần chính là hiện thân bậc cao của kinh tế hỗn hợp. Hay nói cách khác, so với
các loại hình doanh nghiệp khác, công ty cổ phần có nhiều ƣu điểm nhƣ khả
năng huy động vốn với quy mô lớn cho đầu tƣ phát triển; mục tiêu của những
ngƣời góp vốn thống nhất; sự liên tục và không hạn định về thời gian hoạt động;
phƣơng thức quản lý khoa học chặt chẽ; khả năng phân tán rủi ro cao. Cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nƣớc là phù hợp với chủ trƣơng phát triển kinh tế của các
quốc gia, kể cả nƣớc ta. Đối với các nƣớc phát triển đó là thay đổi theo hƣớng
mở rộng hơn sở hữu cộng đồng, giảm bớt tỷ trọng sở hữu Nhà nƣớc và sở hữu
tập tập thể. Đối với các nƣớc đang phát triển và đặc biệt là những nƣớc có nền
kinh tế chuyển đổi, đây là vấn đề quan trọng, nhạy cảm về chính trị.
Một số khác lại khẳng định: cổ phần hoá là một giải pháp tài chính
quan trọng hiện nay, góp phần giải quyết khó khăn về vốn từng bƣớc nâng
10
cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của các DNNN; đồng thời tạo
điều kiện để Nhà nƣớc tập trung nguồn lực cho sự phát triển các lĩnh vực khác
của nền kinh tế.
+ Những công trình nghiên cứu thực tiễn cổ phần hóa DN N N
Đề tài NCKH cấp Bộ, do Ngô Quang Minh làm chủ nhiệm (2001) đã
đƣa ra kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới về vấn đề CPH DNNN và
phân tích tính khả thi của việc áp dụng kinh nghiệm đó vào điều kiện Việt
Nam. Đánh giá tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc, khảo sát tình
hình và kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nƣớc đã cổ phần
hóa, trên cơ sở đó đề tài đƣa ra một số quan điểm định hƣớng và giải pháp
chung nhất mang tính chiến lƣợc cho sự phát triển của doanh nghiệp nhà nƣớc
trong thời gian tiếp theo.
Nhiều luận án tiến sĩ kinh tế đã đƣợc bảo vệ đã tiếp cận quá trình CPH
DNNN dƣới các góc độ khác nhau. Luận án của Nghiên cứu sinh Trần Hồng
Thái, với đề tài “Các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả tiến trình CPH
DNNN” (2001) đã tập trung làm rõ: quá trình phát triển của kinh tế cổ phần và
các loại hình doanh nghiệp mang tính cổ phần, khẳng định quá trình phát triển
này có tính quy luật. Qua nghiên cứu lịch sử hình thành, phát triển của hệ thống
xí nghiệp quốc doanh, “mổ xẻ” thực trạng hệ thống DNNN, luận án khẳng định
nguyên nhân làm chậm tiến độ CPH là do “vai trò điều tiết của nhà nƣớc và cơ
chế chính sách”. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất một số giải pháp, kiến nghị
nhằm thúc đẩy thực hiện có hiệu quả tiến trình CPH DNNN giai đoạn 2001 -
2010. Theo dòng tƣ duy đó, Luận án Tiến sĩ với đề tài: “Tiếp tục đẩy mạnh
quá trình CPH DNNN ở Việt Nam giai đoạn đến năm 2010” (2003) của
Nghiên cứu sinh Đỗ Thị Phi Hoài đã đƣa ra cái nhìn tổng thể về quá trình
CPH DNNN ở Việt Nam sau 10 năm thực hiện (1992-2002); phân tích những
khó khăn, vƣớng mắc cần tháo gỡ và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm
thúc đẩy quá trình CPH DNNN trong thời gian đến năm 2010.
11
Đề tài nghiên cứu của Nguyễn Cảnh Hoan (2002) đã đề cập đến vấn đề
thể chế tài chính trong tiến trình CPH DNNN ở Việt Nam. Đề tài đã tập trung
làm rõ cơ sở lý luận về mối quan hệ của thể chế tài chính đối với cổ phần hóa
DNNN, trong đó đã làm rõ vai trò và ý nghĩa của việc xác định một thể chế tài
chính phù hợp trong cổ phần hóa DNNN.
Có một số công trình khoa học nghiên cứu cả doanh nghiệp nhà nƣớc ở
các quốc gia trên thế giới và xu thế cải cách doanh nghiệp nhà tại các quốc gia
đó để rút ra bài học bổ ích cho Việt Nam về vấn đề này. Kinh nghiệm CPH
DNNN trên thế giới đƣợc các tác giả lựa chọn chủ yếu tập trung vào các nƣớc
có nhiều thành công trong CPH DNNN, đồng thời có điều kiện tƣơng đối gần
với Việt Nam, nhƣ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Cộng hòa
Liên bang Nga, Ba Lan, Hungary... Cuốn sách “Cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước, những vấn đề lý luận và thực tiễn” (2004) của Lê Hồng Hạnh, do
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phát hành đã nghiên cứu những thăng trầm
của doanh nghiệp nhà nƣớc ở các quốc gia trên thế giới và xu thế cải cách
doanh nghiệp nhà nƣớc của họ, trong đó có cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nƣớc là hình thức cơ bản, đƣợc các nƣớc áp dụng rộng rãi. Vận dụng kinh
nghiệm các nƣớc vào điều kiện Việt Nam, tác giả khẳng định cổ phần hóa là
giải pháp cải cách doanh nghiệp nhà nƣớc tối ƣu trong điều kiện nƣớc ta hiện
nay và chỉ rõ các tiền đề kinh tế, chính trị và pháp lý cơ bản của cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nƣớc.
Hoàn thiện nền tảng pháp lý cho tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nƣớc là nội dung đƣợc nhiều công trình nghiên cứu đề cập. Các tác giả Lê
Hồng Hạnh (2004), Bùi Quốc Anh (2009) và một số ngƣời khác đã chỉ ra một
số bất cập của pháp luật hiện hành ở Việt Nam trong lĩnh vực CPH DNNN,
trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp để tiếp tục hoàn thiện nền tảng pháp lý
để thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt Nam nhanh
và hiệu quả. Các công trình nghiên cứu của Lin, J. Y, F. Cai & Z. Li
12
(1997), Bộ Tài chính (1998), Tô Huy Rứa (2006), Phạm Minh Chính
(2012),... đƣa ra nhiều kinh nghiệm từ các nƣớc về CPH DNNN, trong đó
nhấn mạnh những khía cạnh có thể khai thác vận dụng vào Việt Nam và
những khía cạnh không thành công của họ mà Việt Nam nên tránh. Chẳng
hạn, liệu pháp "sốc" ở CHLB Nga với kế hoạch tƣ nhân hoá nhanh chóng một
khối lƣợng lớn DNNN trong thời gian 3-4 năm đã đẩy quá trình tƣ nhân hoá
vào tình thế hết sức khó khăn và mục tiêu ban đầu đề ra không thực hiện đƣợc,
còn nền kinh tế Nga thì vẫn trong tình trạng suy giảm, đời sống dân Nga giảm
sút nhanh, thất thoát tài sản, bất công tăng lên, xã hội không ổn định. Hay tại
Ba Lan, tƣ nhân hoá cũng diễn ra ổ ạt trong nhiều ngành, dự kiến trong 4 năm
tƣ nhân hoá 50% số doanh nghiệp Nhà nƣớc với 2 hình thức tƣ nhân hoá gián
tiếp và tƣ nhân hoá trực tiếp. Còn tại Trung Quốc, nhờ có những bƣớc đi thận
trọng hơn, nên tiến trình CPH tại nƣớc này khá thành công. Nhiều ngƣời
trong số trên đều nhất trí, rằng để CPH DNNN thành công kinh nghiệm rút ra
từ các nƣớc là cần phải có phƣơng án tổng thể, không nên quá lệ thuộc vào
nƣớc ngoài; diện doanh nghiệp cổ phần hoá phải rộng; phải có chính sách ƣu
đãi phù hợp; cổ phần hoá phải là bộ phận của chƣơng trình cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nƣớc, tránh chuyển từ độc quyền Nhà nƣớc sang độc quyền tƣ
nhân.
Tiến trình CPH DNNN ở Việt Nam đƣợc đề tài nghiên cứu của bộ Tài
chính (1998) phân tích sâu về những vƣớng mắc và tồn tại của cổ phần hoá.
Không chỉ dừng lại ở các vấn đề đƣợc phát hiện mà còn đi sâu phân tích các
nguyên nhân làm chậm tiến trình cổ phần hoá. Ở đây các tác giả đã tổng kết
và rút ra một số nguyên nhân chung làm chậm tiến trình cổ phần hoá, trong đó
quan trọng là: i) khung khổ pháp lý chƣa đầy đủ (thiếu Luật hoặc pháp lệnh
về cổ phần hoá); ii) e ngại về tƣ tƣởng do chƣa có nghị quyết riêng của Bộ
Chính trị; iii) chƣa coi trọng tuyên truyền, giải thích, hƣớng dẫn về cổ phần
hoá. Dƣới góc nhìn phát triển bền vững, Tô Huy Rứa (2006) đã đề xuất giải
13
pháp: quá trình đổi mới doanh nghiệp phải đƣợc đặt trong chiến lƣợc phát
triển kinh tế - xã hội bền vững, tức là: các doanh nghiệp cổ phần phải có sức
cạnh tranh cao nhất và tạo nên chất lƣợng tăng trƣởng tốt nhất; làm tăng vốn,
tăng lợi nhuận, giảm nợ xấu, chia sẻ rủi ro cho các chủ sở hữu, tạo động lực
làm chủ cho ngƣời lao động, tạo sức mạnh kinh tế để giải quyết các vấn đề xã
hội và môi trƣờng; liên kết đƣợc những nguồn vốn để nó trở thành nguồn vốn
xã hội, thúc đẩy nhanh việc xã hội hóa nguồn vốn và tƣ liệu sản xuất; công
nhân và ngƣời lao động có vị thế làm chủ của những ngƣời cổ đông, trở thành
đồng sở hữu cùng với doanh nghiệp nhà nƣớc. Đặc biệt, M.Landalt (Viện
công nghệ châu Á- AIT), trên cơ sở khảo sát rất kỹ quá trình CPH DNNN ở
Thành phổ Hồ Chí Minh, phân tích những trở ngại và những cơ hội trong quá
trình thực hiện, phân tích quá trình CPH trong các nền kinh tế đang chuyển
đổi và đang phát triển, tác giả đề xuất những biện pháp và quy trình thực hiện
CPH cấp doanh nghiệp ở Việt Nam.
Nghiên cứu sâu hơn về quá trình CPH DNNN, các tác giả Hồ Sỹ Hùng
(2012), Nguyễn Huy Oánh và Lê Văn Bằng (2006), Lê Đình Vinh, Ngô Đăng
Thành (2010), và một số ngƣời khác đã không chỉ dừng lại ở việc tìm giải
pháp để đẩy nhanh tiến độ CPH DNNN, mà còn nghiên cứu giải pháp để đổi
mới các tổng công ty Nhà nƣớc (TCTNN), trong đó tập trung vào việc tìm
hƣớng đi cho các tổng công ty chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty
Mẹ - Con. Theo các tác giả này, nguyên nhân cơ bản khiến các TCTNN
không phát huy đƣợc năng lực trƣớc hết là do bản chất nội tại của chúng. Một
trong những giải pháp đƣợc quan tâm để giải quyết vấn đề nội tại của các
TCTNN là chuyển TCT sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty
con, bởi đó là cách để tạo khả năng tiền tệ hoá mối liên kết kinh tế giữa doanh
nghiệp này với doanh nghiệp khác trong nội bộ các TCT, và điều này có thể
khắc phục một cách cơ bản nhƣợc điểm nội tại của mô hình TCTNN. Hai tác
giả Nguyễn Huy Oánh và Lê Văn Bằng cho rằng, mô hình Công ty Mẹ - Con
14
là một giải pháp lớn để tăng tính minh bạch của của doanh nghiệp nhà nƣớc
và góp phần quan trọng định hƣớng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Nhiều
công trình nghiên cứu thừa nhận tính ƣu việt của mô hình Công ty Mẹ - Con
và đều gợi ý cho việc nhân rộng mô hình này ở Việt Nam. Trong công trình
nghiên cứu khoa học cấp Trƣờng Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội,
với đề tài “Quá trình cải cách các tổng công ty nhà nƣớc ở Việt Nam theo mô
hình Công ty Mẹ - Con”, tác giả Ngô Đăng Thành chỉ rõ: trong xu thế hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các doanh nghiệp đều phải chấp nhận cạnh
tranh bình đẳng, thì sự hiện diện của các TCTNN và nâng cao hiệu quả họat
động của chúng là biện pháp hữu hiệu để đƣơng đầu với các công ty lớn mạnh
của nƣớc ngoài. Do đó, việc đổi mới về tổ chức và hoạt động của các TCTNN,
dần chuyển hoạt động của các TCTNN này theo mô hình Công ty Mẹ - Con,
trên cơ sở đó hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, đủ sức cạnh tranh trên thị
trƣờng trong và ngoài nƣớc là yêu cầu cấp thiết. Tập trung vào tiến trình cải
cách các tổng công ty trong thời gian từ năm 2002 đến năm 2009, đề tài kết
luận, rằng chủ trƣơng đổi mới các TCTNN theo mô hình Công ty mẹ - con là
đúng đắn, đƣợc đƣa ra kịp thời, và có lộ trình thích hợp, đi từ đổi mới về lƣợng
đến đổi mới về chất. Tuy vậy, việc triển khai chủ trƣơng sắp xếp, đổi mới các
TCTNN diễn ra còn chậm và có phần rời rạc; tỷ lệ vốn cổ phần của Nhà nƣớc
trong các TCT đã CPH còn quá cao; việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở
hữu vốn về TCT Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc còn chậm. Những hạn
chế đó đã vô hình chung tạo thành lực cản đối với quyền tự chủ và hoạt động
của doanh nghiệp, theo đó hiệu quả hoạt động của các TCT còn thấp.
+ Những công trình nghiên cứu cổ phần hóa DN N N ở c á c n ư ớc
Trong khoảng 10 năm gần đây, tại các nƣớc Đông Âu, SNG và Trung
Quốc có khá nhiều công trình của cả các tác giả bản xứ lẫn nƣớc ngoài bàn về
DNNN và tƣ nhân hóa, cổ phần hóa DNNN. Các công trình của SNG và
Đông Âu chủ yếu bàn về quá trình thay đổi vị trí, vai trò, tỷ trọng khu vực
15
DNNN gắn với quá trình cải cách chuyển đổi kinh tế. Có thể kể ra những
công trình tiêu biểu nhƣ: D. Sachs (tác phẩm "Tƣ nhân hóa ở Đông Âu"), A.
Rađƣgin (Quá trình tƣ nhân hóa ở Nga) ... và trên các tạp chí chuyên ngành
của Nga có hàng loạt các bài nghiên cứu về diễn biến quá trình tƣ nhân hóa,
ảnh hƣởng của tƣ nhân hóa, các hình thức tƣ nhân hóa... Công trình tiêu biểu
về quá trình cải cách các DNNN ở Trung Quốc là tác phẩm: “Bàn về cải cách
toàn diện DNNN" do Trƣơng Văn Bân chủ biên (đã dịch ra tiếng Việt: NXB
CTQG. H. 1996)...
Có thể mô tả bức tranh nghiên cứu về DNNN, cổ phần hóa, tƣ nhân hóa
ở các nƣớc là một bức tranh đa màu sắc với những quan điểm rất khác nhau
và thƣờng gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng nƣớc đã có khu vực
DNNN nhƣ thế nào, hệ thống kinh tế có thay đổi về cơ chế hay không, thay
đổi nhiều hay ít, nhanh hay chậm. Ở đây có nhiều quan điểm và kinh nghiệm
rất bổ ích cho nƣớc ta nhƣng xét đến cùng chúng chỉ có giá trị tham khảo.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về những vấn đề kinh tế-xã hội nảy sinh
trong quá trình CPH và hậu CPH DNNN
Những công trình viết về các vấn đề này chủ yếu tập trung vào khai
thác khía cạnh hạn chế của quá trình thực hiện CPH. Tiêu biểu trong số các
công trình nhóm này là Trần Ngọc Bút (1998), với bài “Bức xúc của cổ phần
hoá DNNN”, đăng tải trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 4; Trần thị Minh
Ngọc (2008), với đề tài cấp Bộ, tiêu đề “Những yếu tố cản trở quá trình cổ phần
hóa DNNN trên địa bàn Hà Nội hiện nay”; Phạm Ngọc Linh (2009), với bài viết
đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 11(451), tiêu đề “Doanh nghiệp nhà
nước và những vấn đề sau cổ phần hóa”... Các công trình này đã tập trung
nghiên cứu mổ xẻ các vấn đề gặp phải trong quá trình CPH, chỉ rõ những
phân vân, những bất cập nảy sinh trong và sau CPH DNNN nhƣ: Định giá
doanh nghiệp để CPH thƣờng chƣa sát với thị trƣờng, vƣớng mắc khó khăn
trong giải quyết nợ của các doanh nghiệp, các chính sách đối với ngƣời lao
16
động trong doanh nghiệp nhà nƣớc CPH còn nhiều bất cập, việc quản lý tài
chính của các doanh nghiệp sau CPH còn nhiều lúng túng. Đó cũng là quan
điểm của nhiều bài tham luận trong Hội thảo khoa học quốc gia chủ đề “Cổ
phần hóa DNNN” (2001), trong đó có tác giả Trần Tiến Cƣờng, với báo cáo
“Các vấn đề tồn tại và phát sinh của DNNN sau cổ phần hoá đa dạng sở
hữu”; Lê Hoàng Hải, với bài “Một số vướng mắc về tài chính đối với doanh
nghiệp sau cổ phần hoá và đa dạng sở hữu”.
Cũng có những bài viết khai thác những vấn đề hết sức cụ thể, nảy sinh
trong quá trình CPH DNNN. Tác giả Nguyễn Thị Kim Phƣợng (2001) đã đi
sâu nghiên cứu các yếu tố tâm lý xã hội ảnh hƣởng đến quá trình CPH
DNNN, trên cơ sở đó dự báo xu hƣớng phát triển và đề xuất các giải pháp để
định hƣớng hình thành phát triển các yếu tố tâm lý xã hội tích cực đối với quá
trình CPH DNNN. Tác giả Chu Đức Hoài (2001) thì đi sâu nghiên cứu cơ sở
lý luận và thực tiễn của việc giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội đối với ngƣời
lao động trong các DNNN khi CPH. Còn tác giả Phạm Quang Huy (2002) và
Nguyễn Cảnh Hoan (2002) lại phân tích khía cạnh tác động của tài chính và thị
trƣờng Chứng khoán đến quá trình CPH DNNN.
Việc nghiên cứu sự chuyển biến quan hệ sở hữu trong quá trình CPH
DNNN ở Việt Nam một cách căn bản nhất phải kể đến luận án tiến sĩ kinh tế
chính trị của NCS Nguyễn Lê Quý Hiển (2012). Luận án khẳng định: sự
chuyển biến quan hệ sở hữu trong CPH DNNN hiện nay thực chất là chuyển
từ chủ thể sở hữu đơn nhất sang đa chủ thể sở hữu, theo đó, mối quan hệ giữa
các chủ thể sở hữu sẽ chuyển biến theo hƣớng giảm sở hữu Nhà nƣớc, tăng sở
hữu tƣ nhân, nhờ đó các tài sản trong DNNN đƣợc CPH đƣợc khai thác và sử
dụng có hiệu quả hơn. Bằng việc phân tích, so sánh, đánh giá những tác động
của sự biến đổi quan hệ sở hữu đến hiệu quả kinh doanh của DNNN sau CPH,
tác giả một lần nữa khẳng định về sự cần thiết, tính đúng đắn của chủ trƣơng
CPH DNNN của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam.
17
1.1.3. Các công trình nghiên cứu quá trình CPH DNNN trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa
Nghiên cứu vấn đề CPH DNNN, nhất là những vấn đề KT-XH nảy
sinh trong quá trình CPH tại tỉnh Thanh Hóa hiện chƣa có nhiều. Không kể
các Báo cáo hàng năm của Ủy ban Nhân dân tỉnh, của các các Sở, Ban Ngành
hữu quan, đã có một số luận văn thạc sĩ, một vài cuộc hội thảo khoa học đƣợc
tổ chức bàn về vấn đề này. Những công trình nghiên cứu đã công bố viết về
quá trình CPH DNNN và những vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình này
tại tỉnh Thanh Hóa có thể kể đến là Hội thảo khoa học chủ đề “Đổi mới phát
huy chủ đạo của DNNN” (1998) do Ban Kinh tế tỉnh Thanh Hóa tổ chức; Hội
thảo khoa học chủ đề “Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Thanh Hóa” (2009), do
Trƣờng Đại học Hồng Đức tổ chức. Ngoài ra có một số bài (không nhiều) viết
về từng doanh nghiệp cụ thể, đăng tải trên Báo Thanh Hóa của Đỗ Gia Ngân
(2010); Trần Đoàn Viên (2011, 2012); Phạm Ngọc (2013); Lê Hà (2013);
Tùng Dƣơng (2014) và Nguyễn Xuân (2015). Các công trình này chủ yếu
khẳng định tính ƣu việt của CPH DNNN và từ đó phản ánh sự tiến bộ của các
DNNN sau CPH.
Hầu hết các công trình trên là những bài viết ngắn, chủ yếu tập trung
phản ánh một vài khía cạnh của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc hoặc
phản ảnh hiệu quả sản xuất kinh doanh của một hoặc vài doanh nghiệp nhà
nƣớc sau cổ phần để khẳng định tính tất yếu, tính ƣu việt của doanh nghiệp
nhà nƣớc sau cổ phần hóa so với các doanh nghiệp nhà nƣớc trƣớc đó, nhƣ:
“Công ty cổ phần Sông Đà 25, nổ lực vƣơn lên bƣớc phát triển mới”; “Công
ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn, đồng thuận để phát triển”; “Công ty cổ phần
Dƣợc - Vật tƣ y tế Thanh Hóa, bƣớc tiến mới sau 10 năm cổ phần hóa”; hay
“Công ty cổ phần mía đƣờng Lam Sơn gắn với phát triển nông nghiệp, nông
thôn miền tây”.v.v...
18
1.2. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố và những vấn đề
đặt ra cần đƣợc nghiên cứu tiếp
1.2.1. Những kết quả chủ yếu của các công trình nghiên cứu trên
1.2.1.1. Về vấn đề CPH DNNN.
Từ các công trình đã công bố nêu trên, có thể khái quát một số kết quả
nghiên cứu chủ yếu nhƣ sau:
+ Các công trình đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về
CPH, về vai trò của CTCP trong nền kinh tế thị trƣờng. Các công trình đã phân
tích CPH DNNN ở nhiều phƣơng diện, nhiều khía cạnh khác nhau, từ đó đã từng
bƣớc hình thành cơ sở lý luận của CPH DNNN, trên cơ sở đó khẳng định tính tất
yếu khách quan và sự cần thiết của CPH DNNN trong tiến trình đổi mới và tái
cấu trúc lại nền kinh tế của Việt Nam. Với các cách tiếp cận khác nhau về quá
trình này, các tác giả đều đƣa đến kết luận CPH DNNN là một xu thế phát triển
tất yếu hợp quy luật trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trƣờng XHCN ở
Việt Nam hiện nay. Một số công trình nhấn mạnh: cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nƣớc một xu thế khách quan ở nƣớc ta hiện nay, đó là sự lựa chọn hợp quy
luật, đáp ứng yêu cầu đổi mới và cơ cấu lại nền kinh tế; CTCP là hình thức tổ
chức kinh doanh tiên tiến văn minh và hiệu quả là cuộc cách mạng về chuyển
đổi sở hữu trong kinh tế quốc doanh, thay đổi mục đích kinh doanh. Tóm lại, cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là dòng chảy của đa sở hữu đa thành phần, một
chiến lƣợc phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nƣớc hiện nay.
+ Một số công trình đã mở rộng đối tƣợng nghiên cứu ra ngoài phạm vi
CPH. Đó là sự nghiên cứu về quá trình đổi mới, cơ cấu lại khu vực doanh
nghiệp Nhà nƣớc ở Việt nam. Thông qua việc phân tích quá trình đổi mới khu
vực doanh nghiệp Nhà nƣớc, làm rõ những kết quả đã đạt đƣợc của các chủ
trƣơng chính sách chuyển đổi sở hữu và thí điểm cổ phần hóa. Phân tích lý do
chủ yếu dẫn đến sự chậm trễ hay chƣa thành công của chủ trƣơng cổ phần
hóa; đƣa ra những vấn đề cần phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu, xử lý.
19
+ Các công trình đã tập trung nghiên cứu tiến trình CPH DNNN ở các
cấp độ và giai đoạn khác nhau, từ đó đã phác họa đƣợc bức tranh đa màu sắc
về quá trình CPH DNNN tại Việt Nam từ năm 2002 đến những năm đầu thập
niên 2010. Quá trình triển khai thực hiện chủ trƣơng CPH DNNN và tình hình
thực hiện chính sách của Nhà nƣớc về vấn đề này đã đƣợc các tác giả phân tích
một cách khá toàn diện, trên cơ sở đó chỉ ra những thành công, hạn chế và
nguyên nhân của những thành công và hạn chế đó, đồng thời tìm ra những khó
khăn, vƣớng mắc có tính khách quan gây cản trở cho quá trình thực hiện CPH
DNNN. Những vƣớng mắc đƣợc nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra là: khung khổ pháp
lý về cổ phần hóa DNNN còn thiếu; quan hệ sở hữu trong các DNNN sau CPH
chƣa có sự chuyển biến rõ rệt; hạ tầng tài chính và các đơn vị trung gian hỗ trợ
cổ phần hóa cũng còn thiếu; vấn đề bán cổ phần cho cán bộ, công nhân trong
doanh nghiệp (với những điều kiện ƣu đãi) và chính sách đối với ngƣời lao
động khi cổ phần hóa còn nhiều bất cập.v.v...
+ Đã đúc kết đƣợc một số bài học, cả thành công và thất bại, trong quá
trình CPH DNNN của một số quốc gia trên thế giới, nhất là của các nƣớc
Trung Quốc, SNG và Đông Âu, một số nƣớc châu Á nhƣ Đài Loan, Hàn
Quốc, Malaysia.... Khi nghiên cứu CPH DNNN trên thế giới, các tác giả đã
tập trung nghiên cứu bối cảnh, quá trình và cách thức tiến hành CPH DNNN.
Một số công trình đã tiếp cận tiến trình CPH DNNN dƣới góc độ xem xét các
giải pháp tái cơ cấu các DNNN ở các quốc gia khác nhau, nhất là ở các nƣớc
có nền kinh tế chuyển đổi- những nƣớc có bối cảnh thực hiện chuyển đổi cơ
chế tƣơng tự nhƣ Việt Nam, nhằm rút ra bài học có thể áp dụng vào Việt Nam.
+ Các nghiên cứu cũng đã đề xuất những quan điểm và giải pháp nâng
cao hiệu quả tiến trình CPH DNNN ở Việt Nam trong những năm tiếp theo, cả
ở tầm vĩ mô và vi mô. Một số giải pháp đƣợc nhiều công trình đề cập là: phải
có sự quyết tâm của Chính phủ; phải tạo điều kiện pháp lý cho cổ phần hoá;
phải có bộ máy điều hành đủ mạnh; cần thành lập quỹ hỗ trợ cổ phần hoá....
20
1.2.1.2. Các nghiên cứu về những vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh.
Những nghiên cứu về vấn đề này chƣa nhiều, chủ yếu đề cập đến một
số khía cạnh nhƣ vấn đề chuyển đổi cơ cấu sở hữu; vấn đề định giá doanh
nghiệp để CPH thƣờng chƣa sát với thị trƣờng; vƣớng mắc khó khăn trong
giải quyết nợ của các doanh nghiệp; các chính sách đối với ngƣời lao động
trong doanh nghiệp nhà nƣớc CPH; việc quản lý tài chính của các doanh
nghiệp sau CPH còn nhiều lúng túng,…Hơn nữa, các nghiên cứu này chƣa
đƣợc tiến hành một cách có hệ thống và chƣa luận giải một cách thấu đáo
trên cơ sở kết nối, xâu chuỗi các vấn đề vƣớng mắc, nảy sinh trên cơ sở các
mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể kinh tế có liên quan, bắt nguồn từ tính
chất chuyển đổi của quán trình CPH.
1.2.2. Một số vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu tiếp
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập vấn đề CPH DNNN dƣới
nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó mỗi góc nhìn đều đƣợc phân tích, đánh
giá khá sát thực. Đó là nguồn tài liệu vô cùng quý giá để tác giả luận án kế
thừa. Tuy nhiên, trƣớc yêu cầu của sự nghiệp đổi mới kinh tế trong bối cảnh
hội nhập quốc tế, nhất là tại một địa phƣơng KT-XH còn chƣa phát triển
mạnh nhƣ tỉnh Thanh Hóa, nhiều vấn đề đang đặt ra, cả lý luận và thực tiễn
đòi hỏi phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu thấu đáo, bởi những công trình trên
hoặc là chƣa giải quyết triệt để, hoặc là do giới hạn bởi phạm vi thời gian
nghiên cứu (chƣa thể cập nhật tình hình) trong khi nền kinh tế nói chung, tiến
trình CPH DNNN nói riêng vẫn tiếp tục vận động. Cụ thể, những vấn đề chủ
yếu đặt ra mà luận án có nhiệm vụ phải giải quyết là:
Thứ nhất, chƣa có sự thống nhất về quan niệm CPH DNNN.
Mặc dù đã tiến hành CPH DNNN trên thực tế đƣợc hơn 20 năm song một
số vấn đề đặt ra nhƣng chƣa có câu trả lời thống nhất giữa các nhà nghiên
cứu, trong đó nổi lên là: Thực chất của quá trình CPH DNNN là gì? Phải
chăng nó chỉ đơn giản chỉ là quá trình chuyển đối từ một hình thức sở hữu
21
đơn nhất (nhà nƣớc) sang hình thức đa sở hữu? Cổ phần hóa và tƣ nhân hóa là
một hay hai? Việc nhấn mạnh sự khác biệt giữa CPH và tƣ nhân hóa cũng nhƣ
giữ quá trình CPH trong khuôn khổ “phi tƣ nhân hóa” có thể đƣa tiến trình đi
đến thành công – tăng cƣờng sức sống và nâng cao hiệu quả chung của nền
kinh tế? Nhà nƣớc có nên nắm giữ tỷ lệ vốn khống chế trong các DNNN CPH
không? nếu không thì nên nắm giữ ở mức độ nào là tốt?
Thứ hai, Mặc dù những vấn đề KT-XH nẩy sinh, có tác động tiêu cực
đến quá trình CPH DNNN ở Việt Nam đã đƣợc đề cập, phân tích ở những mức
độ khác nhau trong các công trình nghiên cứu về CPH. song việc nghiên cứu
chúng một cách hệ thống, nhƣ một chủ đề chuyên biệt, nhằm cắt nghĩa gốc rễ
sâu sa của các vấn đề trên cũng nhƣ biểu hiện cụ thể của chúng trong tiến trình
CPH, dù xét trên phạm vi cả nƣớc nói chung hay trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
nói riêng hầu nhƣ chƣa đƣợc thực hiện. Có thể nói, cho đến nay các nghiên
cứu lĩnh vực này, đặc biệt gắn với thực tiễn Thanh Hóa, mới chỉ dừng ở mức
chấm phá, đƣợc trình bày kết hợp với các vấn đề khác trong một chủ đề rộng
hơn. Nói cách khác, hiện nay vẫn chƣa có một công trình nghiên cứu chuyên
sâu về vấn đề này, nhất là với tƣ cách một luận án tiến sĩ chuyên ngành kinh tế
chính trị.
Thứ ba, các công trình đi trƣớc tuy đã nghiên cứu khá toàn diện về lý
luận và thực tiễn CPH DNNN tại Việt Nam song phần lớn các công trình
trên mới chỉ nghiên cứu quá trình CPH DNNN trong giới hạn thời gian từ
năm 2010 trở về trƣớc. Những công trình nghiên cứu vấn đề này sau năm
2010 còn rất ít, trong khi bối cảnh thực hiện CPH các DNNN mấy năm gần
đây đã có nhiều thay đổi. Đặc biệt những vấn đề KT-XH sau cổ phần hoá
các DNNN, nhất là những vấn đề có tác động tiêu cực trƣớc đây chƣa phát
sinh, đến nay mới bộc lộ với những diễn biến phức tạp, đòi hỏi phải đƣợc
nhận thức và giải quyết.
22
Những khoảng trống lý luận và thực tiễn trên đây đòi hỏi phải đƣợc
bổ sung, lấp đầy bởi những công trình nghiên cứu tiếp theo nhằm làm cho
vấn đề CPH DNNN, đặc biệt là những vấn đề mới nảy sinh có tác động
tiêu cực của quá trình đó đƣợc thể hiện một cách toàn diện, đầy đủ và hệ
thống. Luận án này sẽ cố gắng góp phần đáp ứng yêu cầu đó.
23
Kết luận Chƣơng 1
CPH DNNN là một quá trình tất yếu ở Việt Nam trong bối cảnh chuyển sang
kinh tế thị trƣờng và hội nhập Quốc tế. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên
quan đến vấn đề này đƣợc công bố trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng đa
dạng, nhƣ: sách, báo, tạp chí, đề tài NCKH, Hội thảo khoa học, luận văn, luận án.
Những công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh, nhiều cấp độ,
nhiều giai đoạn khác nhau của vấn đề cổ phần hóa DNNN, đƣa ra những kết luận,
những gợi ý khác nhau nhằm tiếp tục tiến trình CPH DNNN một cách nhanh hơn
và hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, do sự vận động của nền kinh tế là không ngừng, tiến trình CPH
DNNN vẫn còn đã và đang tiếp tục diễn ra, vì vậy nhiều vấn đề đặt ra cần đƣợc
tiếp tục nghiên cứu trong những công trình tiếp theo của các nhà nghiên cứu, các
nhà quản lý cũng nhƣ các nhà hoạch định chính sách. Luận án mà chúng tôi đang
thực hiện, với đề tài “Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình cổ
phần hóa DNNN ở tỉnh Thanh Hóa” sẽ là một trong những công trình nghiên cứu
cần thiết đó.
24
Chƣơng 2
CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ - XÃ HỘI NẢY SINH TRONG QUÁ TRÌNH
CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
2.1. Khái lƣợc chung về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc
2.1.1. Doanh nghiệp nhà nước và vai trò của chúng trong nền kinh tế thị
trường
Ngƣời ta có thể có các cách hiểu khác nhau về khái niệm DNNN. Theo
cách hiểu đƣợc nhiều ngƣời chia sẻ, một doanh nghiệp đƣợc coi là DNNN khi
nó : 1) thuộc quyền kiểm soát, chi phối của nhà nƣớc, khi nhà nƣớc hoàn toàn
sở hữu DN hoặc là cổ đông chính của DN ; 2) có chức năng sản xuất hàng
hóa, hay dịch vụ có thể bán ra trên thị trƣờng (cho công chúng, các DN tƣ
nhân hay DNNN khác) ; 3) ít nhiều vẫn theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, mặc dù
nó có thể vẫn phải đảm trách các chức năng xã hội khác mà nhà nƣớc ủy thác
[43, tr.601-602]. Theo cách hiểu này, DNNN đƣợc phân biệt với các tổ chức,
hay cơ quan công cộng thông thƣờng.
Trong các nền kinh tế KHH tập trung, khi mà sở hữu công trở thành
hình thức thống trị tuyệt đối và đƣợc xem là hình thức sở hữu phù hợp với
bản chất của CNXH, khu vực DNNN bao trùm trong toàn bộ nền kinh tế, đặc
biệt là trong lĩnh vực công nghiệp. Các DNNN cung cấp đại bộ phận các hàng
hóa, dịch vụ cho nhu cầu xã hội. Do các quan hệ thị trƣờng không đƣợc thừa
nhận một cách thực chất, các DNNN không hoạt động nhƣ một chủ thể kinh
doanh độc lập, mà chịu sự kiểm soát, chi phối trực tiếp bởi nhà nƣớc. Trong
thời kỳ này, chúng thƣờng đƣợc gọi là xí nghiệp nhà nƣớc, hay nhà máy quốc
doanh thay vì đƣợc xem nhƣ các « doanh nghiệp ».
Trong nền kinh tế thị trƣờng, khi mà sở hữu tƣ nhân đƣợc thừa nhận,
việc sản xuất đại đa số các hàng hóa, dịch vụ thông thƣờng là do các doanh
25
nghiệp tƣ nhân đảm nhận. Trong các nền kinh tế thị trƣờng phát triển, nếu
không kể đến các dịch vụ công, không có khả năng thƣơng mại hóa nhƣ dịch
vụ quốc phòng, luật pháp, bảo đảm an ninh xã hội, đƣợc cung ứng bởi các tổ
chức công thì các DNNN chỉ tham gia vào việc cung cấp một số hàng hóa
đƣợc xem là quan trọng, có liên quan đến đông đảo ngƣời tiêu dùng nhƣ điện,
nƣớc sạch, dịch vụ bƣu chính, viễn thông, vận tải hàng không hay đƣờng sắt,
một số dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ y tế, giáo dục…mặc dù điều đó không loại
trừ sự cung cấp của khu vực tƣ nhân. Tuy vậy, ở các nền kinh tế đang phát triển,
DNNN thƣờng đóng giữ một vai trò to lớn hơn, đặc biệt là trong ngành công
nghiệp khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhất là trong thời kỳ từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai đến những năm 80 của thế kỷ trƣớc. Nhiều nƣớc trong thời kỳ
này, sau khi giành đƣợc độc lập, trong điều kiện năng lực của khu vực tƣ nhân
trong nƣớc còn hạn chế, đã sử dụng các DNNN nhƣ một công cụ để tiến hành và
thúc đẩy công nghiệp hóa, phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, thoát dần khỏi
sự phụ thuộc vào các nƣớc « chính quốc » trƣớc đây. DNNN đƣợc nhìn nhận là
có thể đóng giữ nhiều vai trò khác nhau và đó là các lý do đƣợc đƣa ra để biện
minh cho sự thành lập các DNNN : 1) DNNN đƣợc xem là một công cụ để huy
động và tích lũy vốn, phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa; 2) DNNN đƣợc coi
nhƣ là một kênh tạo việc làm mới hoặc duy trì việc làm cũ (khi nhà nƣớc tiếp
quản các DNTN làm ăn thua lỗ, có nguy cơ phá sản) ; 3) DNNN đƣợc xem là
một công cụ để nhà nƣớc kiểm soát nền kinh tế - theo nghĩa này, các DNNN
đƣợc coi là có « vai trò chủ đạo », chiếm lĩnh những « đỉnh cao chỉ huy » hay
những ngành đƣợc xem là « then chốt » đối với nền kinh tế ; 4) DNNN cũng có
thể đƣợc lập ra để phục vụ một mục tiêu xã hội : phân phối lại thu nhập, tạo ra sự
cân đối trong sự phát triển giữa các vùng, miền ; tạo công ăn việc làm …Với các
lý do này, trong một thời gian dài, khu vực DNNN trở nên khá phát triển ngay cả
ở nhiều nƣớc không thuộc hệ thống XHCN cũ nhƣ Ấn Độ, Pakistan, nhiều nƣớc
ở Nam Mỹ hay Châu Phi.
26
Tuy nhiên, từ những năm 1980, những hạn chế của khu vực các DNNN
dần dần đƣợc bộc lộ rõ nét. Ngƣời ta bắt đầu nhận ra rằng các kỳ vọng mà xã
hội gửi gắm vào các DNNN trong rất nhiều trƣờng hợp không trở thành hiện
thực. Ở hầu khắp mọi nơi, các DNNN thƣờng có hiệu quả hoạt động thấp hơn
các DN tƣ nhân ; nhiều DNNN hoạt động trong tình trạng thua lỗ kéo dài, vì
thế nhìn chung ở các nƣớc đang phát triển các DNNN không phải là nguồn
tạo ra tích lũy ròng mà trái lại, lại là nơi sử dụng những nguồn tích lũy [ 43;
tr.616]. So với khu vực tƣ nhân, khu vực các DNNN cũng thƣờng ít thành
công hơn trong việc tạo ra việc làm mới, do chúng thƣờng tập trung vào
những ngành thâm dụng vốn, đặc biệt là những ngành khai thác chế biến tài
nguyên thiên nhiên [ 43; tr.628]. Trách nhiệm xã hội mà các DNNN phải đảm
nhận thƣờng làm gia tăng các khoản chi phí kinh doanh của các DN và che
mờ đi những yếu kém của chúng. Chi phí để thực hiện các mục tiêu xã hội
nhất định (tạo việc làm, trợ cấp, trợ giá hay đảm bảo phúc lợi cho ngƣời
nghèo…) không đƣợc thể hiện rõ ràng và trở nên tốn kém so với các hình
thức trực tiếp khác [ 87; tr.248-255]. Tuy nắm giữ những ngành, lĩnh vực
đƣợc xem là « then chốt », thƣờng có vị thế độc quyền và đƣợc hƣởng nhiều
ƣu đãi, nhƣng do hoạt động không hiệu quả nên các DN này không đóng đƣợc
vai trò « dẫn dắt » cũng nhƣ ảnh hƣởng tích cực đối với nền kinh tế.
Từ thực tiễn trên, dần dần ngƣời ta đi đến một nhận thức rõ hơn về vai
trò của các các DNNN trong nền kinh tế thị trƣờng. Theo trƣờng phái kinh tế
học công cộng, vai trò này bắt nguồn từ vai trò của Nhà nƣớc trong việc sửa
chữa các thất bại thị trƣờng để đảm bảo nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn,
ổn định hơn và công bằng hơn. Tuy nhiên, để thực hiện vai trò của mình, nhà
nƣớc có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhƣ hệ thống pháp luật, các chính
sách thuế, chi tiêu, chính sách tiền tệ…, và trong nhiều trƣờng hợp, các công
cụ này tỏ ra là hiệu quả hơn so với công cụ « các DNNN » vì chúng cho phép
nhà nƣớc đứng ngoài các hoạt động sản xuất kinh doanh cụ thể nhƣ một
27
« trọng tài » hay tác nhân trung gian giữa các nhà sản xuất với nhau, giữa
ngƣời sản xuất và tiêu dùng… hơn là một “trọng tài” kiêm “cầu thủ”.
Chức năng chính của DNNN trong các nền kinh tế thị trƣờng là cung
cấp các hàng hóa, dịch vụ công (thƣờng là trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng);
một số hàng hóa tƣ có tầm quan trọng đặc biệt liên quan đến lợi ích chung của
nhiều ngƣời (điện, nƣớc…); một số hàng hóa, dịch vụ có ý nghĩa xã hội cao
mà khu vực tƣ nhân không muốn hoặc chƣa có điều kiện cung cấp (những
hàng hóa, dịch vụ kiểu này ngày càng ít trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện
nay). Trong số các hàng hóa công, nhiều hàng hóa nhƣ quốc phòng, an ninh
xã hội… đƣợc cung cấp thông qua các tổ chức công chứ không phải thông
qua hệ thống DNNN hiểu theo khái niệm mà luận án đã nêu.
Với chức năng nhƣ vậy, ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy ở các nền kinh
tế thị trƣờng phát triển, nơi mà nền kinh tế vận hành tƣơng đối hiệu quả, khu
vực DNNN chỉ chiếm vị trí tƣơng đối khiêm tốn so với khu vực tƣ nhân.
Ở các nƣớc đang phát triển, khi mà KVTN trong nƣớc còn kém phát
triển, chƣa có khả năng thâm nhập vào những ngành, lĩnh vực công nghệ tiên
tiến, đòi hỏi đầu tƣ vốn lớn song có triển vọng hay lợi thế so sánh trong tƣơng
lai hay những ngành, lĩnh vực quan trọng hay thiết yếu song lại cần quy mô
đầu tƣ vốn lớn…thì, về mặt lý thuyết, nhà nƣớc có thể dùng DNNN để thúc
đẩy sự phát triển các ngành, lĩnh vực này. Khi KVTN trƣởng thành hơn,
chúng sẽ đƣợc chuyển giao lại cho KVTN. Trên thực tiễn, khi năng lực đầu tƣ
của chính nhà nƣớc là hạn chế thì khó khăn ở đây là : làm thế nào để xác định
chính xác những ngành/lĩnh vực có lợi thế so sánh tƣơng lai để ƣu tiên đầu
tƣ ? Bên cạnh đó, một khi đã đƣợc thành lập, các DNNN lại có những động
cơ riêng để kéo dài sự tồn tại của mình (kể cả khi chúng hoạt động không hiệu
quả), do đó, việc “chuyển giao‟ hiệu quả các DNNN cho KVTN không dễ
thực hiện.
Tóm lại, khác với mô hình kinh tế Kế hoạch hóa tập trung hay Kinh tế chỉ
28
huy, trong kinh tế thị trƣờng, khu vực DNNN có một vai trò tƣơng đối khiêm tốn
trong việc sản xuất, cung cấp các hàng hóa, dịch vụ. Chúng chỉ là một trong
nhiều công cụ để nhà nƣớc thực hiện vai trò, chức năng của mình; bổ sung, hỗ
trợ cho khu vực tƣ nhân để đảm bảo hiệu quả chung của nền kinh tế... Tuy vậy,
do nhiều nguyên nhân khác nhau, kể cả là do các yếu tố lịch sử để lại mà trong
các nƣớc đang phát triển, khu vực DNNN có thể vẫn là một khu vực kinh tế lớn,
có ảnh hƣởng không nhỏ đến toàn bộ sự vận hành của nền kinh tế chung.
2.1.2. Những hạn chế của các DNNN và nguyên nhân của chúng
Hạn chế chung của khu vực DNNN trong các nền kinh tế thị trƣờng là
hiệu quả hoạt động của khu vực này nhìn chung thấp hơn so với KVTN .
Tình trạng chung mà ngƣời ta thƣờng nhắc đến khi nói về khu vực DNNN,
nhất là ở những nơi mà quy mô khu vực này tƣơng đối lớn, khả năng giám sát
của nhà nƣớc còn nhiều hạn chế, là: nhiều DN thua lỗ, kéo dài; một số DN tuy
không thua lỗ song tỷ suất sinh lời thƣờng thấp so với các DN tƣ nhân thông
thƣờng; khả năng cạnh tranh hạn chế; tính năng động, sáng tạo, đổi mới thấp;
tình trạng tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng phát sinh... Do hiệu quả hoạt
động thấp, mức độ đóng góp của khu vực DNNN trong GDP, cho ngân sách
nhà nƣớc cũng nhƣ trong việc tạo ra công ăn việc làm thƣờng thấp so với giá
trị các nguồn lực xã hội mà khu vực này nắm giữ.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế, yếu kém của khu vực
DNNN bắt nguồn từ chính tính chất của sở hữu công hay những hạn chế trong
việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực công trong nền kinh tế thị trƣờng.
Điều này có thể giải thích thông qua một số khía cạnh sau:
- Quyết định phân bổ, sử dụng tài sản hay nguồn lực công là một dạng
quyết định tập thể khác hẳn các quyết định cá nhân. Nó thƣờng gắn với các quá
trình chính trị phức tạp, trong đó những ngƣời sở hữu đích thực chỉ là những
ngƣời “đồng sở hữu”. Khó khăn ở đây là làm thế nào để biến các quyết định
của các cá nhân khác nhau thành một quyết định tập thể chung, phản ánh đƣợc
29
nguyện vọng và lợi ích chung của các thành viên? Lý thuyết về “Lựa chọn
công cộng”, với Định lý về Tính không thể của Arrow [87; tr.211-212] đã
chứng minh rằng: ngƣời ta không thể thiết lập đƣợc các quy tắc để có thể ra
đƣợc các quyết định tập thể có hiệu quả. Khác hẳn các quyết định cá nhân đối
với các tài sản tƣ nhân, quyết định liên quan đến tài sản công luôn tiềm ẩn nguy
cơ thiếu hiệu quả.
- Sở hữu toàn dân thƣờng phải đƣợc thực hiện thông qua sở hữu nhà
nƣớc. Những chính khách và công chức nhà nƣớc thực chất chỉ là những
ngƣời đại diện cho nhân dân, đƣợc nhân dân ủy quyền để quản lý các tài sản
công. Sự bất cân xứng về quyền lực và thông tin giữa những người được ủy
quyền và những người đồng sở hữu dễ dẫn đến sự lạm dụng trong việc sử
dụng các tài sản công từ phía những ngƣời đƣợc ủy quyền.
- Chế độ đồng sở hữu không khuyến khích những ngƣời đƣợc giao quyền
quản lý các tài sản công (ví dụ các giám đốc DNNN) sử dụng các tài sản này
một cách có hiệu quả nhƣ tài sản cá nhân của họ. Ở đây tồn tại sự xung đột lợi
ích giữa ngƣời sở hữu (toàn dân) và ngƣời quản lý (ngƣời có quyền ra quyết
định trực tiếp đối với các tài sản). Sự khác biệt về lợi ích và chi phí mà xã hội
hay cộng đồng phải gánh chịu với lợi ích và chi phí của chính cá nhân ngƣời
đƣợc ủy thác quản lý thƣờng rất lớn có thể thúc đẩy ngƣời quản lý đƣa ra
những quyết định có lợi cho mình nhƣng không có lợi, hoặc thậm chí gây
thiệt hại lớn cho xã hội. Ở các DNNN, hiện tƣợng DN thua lỗ, tài sản công bị
thất thoát, song giám đốc DNNN vẫn đƣợc hƣởng lƣơng cao hoặc giàu có là
không hiếm.
- Chế độ đồng sở hữu không khuyến khích từng ngƣời dân tận tâm giám
sát việc sử dụng các tài sản mà mình chỉ là ngƣời đồng sở hữu, chứ không
phải là ngƣời sở hữu tƣ nhân. Một ngƣời không bỏ chút thời gian, công sức
hay tiền bạc nào để theo dõi, giám sát, bảo vệ các tài sản công trƣớc sự lạm
dụng có thể của những ngƣời đƣợc ủy thác quản lý nào đó vẫn có thể giữ
30
đƣợc phần lợi ích của mình khi những tài sản đó đƣợc bảo vệ bởi thời gian,
công sức hay tiền bạc của ngƣời khác. Chính vì thế, những ngƣời đồng sở
hữu, (nhất là khi họ chỉ là một phần tử nhỏ bé trong một cộng đồng sở hữu
chung to lớn) luôn có xu hƣớng ỷ lại vào sự giám sát của người khác, hƣởng
lợi trên sự giám sát của ngƣời khác. Đây chính là hạn chế bắt nguồn từ hiện
tƣợng “kẻ ăn không”- những ngƣời chỉ muốn thụ hƣởng một lợi ích nào đó
mà không muốn trả tiền hay công sức mà kinh tế học thƣờng đề cập.
Tất cả những điều này khiến những tài sản công nói chung, và tài sản
công trong các DNNN nói riêng khó đƣợc phân bổ và sử dụng hiệu quả nhƣ
các tài sản thuộc về sở hữu của các cá nhân cụ thể, xác định [52; tr. 4 - 7].
Ngoài ra, những yếu tố sau cũng làm các DNNN khó hoạt động hiệu quả:
- Vì các lý do khác nhau, các DNNN thƣờng hoạt động trong môi trƣờng
thiếu vắng cạnh tranh, thƣờng đƣợc che chắn, hoặc nhận ƣu đãi từ phía nhà
nƣớc. Khi hoạt động trong một môi trƣờng thiếu các áp lực cạnh tranh cần
thiết, DN không có động lực để buộc phải luôn luôn đổi mới và không ngừng
nâng cao năng lực cạnh tranh. Vì thế, về dài hạn, các DNNN thƣờng hoạt
động không hiệu quả
- Các DNNN thƣờng ít bị đối diện với nguy cơ phá sản, do chúng luôn
có thể trông chờ vào sự yểm trợ cần thiết của nhà nƣớc, ngay cả khi chúng
làm ăn thua lỗ kéo dài. Một DN không lo bị phá sản do các quyết định sai lầm
nghĩa là nó không thực sự bị trả giá vì những quyết định hay lựa chọn của
mình. Trong trƣờng hợp này, vô hình chung, các quyết định thiếu cân nhắc,
thiếu hiệu quả đƣợc khuyến khích.
- Hệ thống khuyến khích và trừng phạt đối với các cá nhân trong các
DNNN thƣờng yếu hơn so với các DNTN. Do những ràng buộc khác nhau,
chế độ lƣơng, thƣởng trong các DNNN thƣờng không linh hoạt nhƣ ở trong
các DNTN. Hệ thống lƣơng, thƣởng thƣờng đƣợc quy định một cách cứng
nhắc, bị kiểm soát bởi những chính sách hay quy định chung của nhà nƣớc
31
(điều cần thiết để tránh sự lạm dụng ngân quỹ công). Chênh lệch lƣơng giữa
những ngƣời lao động khác nhau, có năng suất và đóng góp khác nhau, không
đủ mạnh nhƣ ở các DNTN. Hệ thống lƣơng nhƣ vậy không tạo ra sự khuyến
khích mạnh mẽ đối với những ngƣời tài năng, những lao động giỏi, có năng
suất lao động cao. Bên cạnh đó, việc sa thải, trừng phạt những ngƣời lao động
không chăm chỉ, vi phạm kỷ luật hay đơn giản là những ngƣời có năng suất
thấp, không phù hợp với sự phát triển của DN trong khu vực công thƣờng
không dễ dàng nhƣ ở các DNTN. Nói một cách khác, ở các DNNN, các
khuyến khích cá nhân hƣớng đến tính hiệu quả tỏ ra yếu hơn nhiều so với ở
các DNTN cả về phƣơng diện “thƣởng” đối với những ngƣời giỏi, năng suất
cao lẫn phƣơng diện “phạt” với những ngƣời “yếu kém‟, năng suất thấp.
- Sự lẫn lộn, chồng chéo giữa các mục tiêu kinh doanh và mục tiêu xã hội
mà DNNN thƣờng phải đảm nhận cũng làm cho các DNNN hoạt động kém
hiệu quả. Với một DNTN thông thƣờng, mục tiêu lợi nhuận luôn đƣợc ƣu tiên
và đƣợc xác định một cách rành mạch. Trong điều kiện đó, nó buộc và có động
cơ thực sự để hoạt động một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, với DNNN, trong
nhiều trƣờng hợp, ngoài việc theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, nó có thể phải gánh
vác một số nhiệm vụ có tính chất xã hội (giải quyết việc làm, phát triển kinh tế
vùng sâu, vùng xa, đóng góp vào việc cải thiện phúc lợi với cộng đồng...) mà
nhà nƣớc ủy thác. Ở Việt Nam, các DNNN còn đƣợc xem là một công cụ để
nhà nƣớc bình ổn kinh tế vĩ mô (chẳng hạn nhƣ kiềm chế lạm phát). Khi các
chức năng kinh doanh và xã hội của DNNN không đƣợc tách bạch, DN khó có
điều kiện cũng nhƣ động cơ để hoạt động hiệu quả. Chẳng hạn, khi phải tham
gia vào việc giải quyết việc làm một cách trực tiếp, DN khó có thể cắt giảm lao
động dôi dƣ, để tiết kiệm chi phí. Ở đây, gánh nặng do phải thực hiện các mục
tiêu xã hội không cho phép DN có đƣợc lựa chọn kinh tế hợp lý. Mặt khác,
những nhiệm vụ xã hội này cũng có thể là bình phong che chắn cho hoạt động
kinh doanh yếu kém của DN.
32
Tóm lại, có nhiều nguyên nhân khách quan, nằm bên trong cấu trúc thể chế
tổ chức lẫn khuyến khích cá nhân khiến cho khu vực DNNN thƣờng hoạt động
kém hiệu quả hơn hơn so với khu vực DNTN ở hầu khắp các nền kinh tế thị
trƣờng. Nhận rõ điều này, xu hƣớng cải tổ, sắp xếp lại và thu hẹp khu vực DNNN
đã diễn ra rộng rãi ở các nƣớc, đặc biệt từ những năm 80 của thế kỷ trƣớc.
2.1.3. Thực chất của CPH doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hóa DNNN là quá trình biến một DNNN, hoàn toàn do nhà
nƣớc sở hữu thành một công ty cổ phần, hoạt động trên nền tảng sự góp vốn
của nhiều ngƣời khác nhau với tƣ cách là các cổ đông. Quá trình này có thể
đƣợc thực hiện theo nhiều phƣơng cách: đối tƣợng cổ phần hóa có thể là toàn
bộ hay một phần tài sản của DNNN; trong cấu trúc sở hữu của DN sau CPH,
nhà nƣớc có thể vẫn nắm giữ một tỷ trọng vốn cổ phần đáng kể, thậm chí là
có ý nghĩa chi phối, song cũng có thể thoái vốn hoàn toàn, do đó không còn là
cổ đông của CTCP. Trong trƣờng hợp nhà nƣớc là cổ đông lớn nhất, có khả
năng khống chế, chi phối CTCP, trên nhiều phƣơng diện, DN sau CPH rất
gần với một DNNN. Trong trƣờng hợp sau, DN sau CPH sẽ hoạt động nhƣ
một doanh nghiệp tƣ nhân cho dù dƣới hình thức công ty cổ phần, nó do
nhiều ngƣời sở hữu chứ không giống nhƣ một doanh nghiệp cá thể, do một cá
nhân duy nhất sở hữu.
Mục đích của CPH DNNN là nhằm hƣớng tới việc: (1) Nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp; (2) Tạo khả năng huy động các
nguồn vốn xã hội để phát triển sản xuất kinh doanh; (3) Tăng cƣờng sự giám
sát của chủ sở hữu đối với hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời tạo điều
kiện để các doanh nghiệp và ngƣời lao động đƣợc tự chủ hơn trong kinh
doanh. Trong đó, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp đƣợc xem là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá việc CPH một
DNNN thành công hay không thành công.
33
Hƣớng theo cái đích nhƣ vậy, quá trình CPH DNNN không đơn giản
chỉ là quá trình chuyển đổi sở hữu từ hình thức sở hữu nhà nƣớc đơn nhất
sang hình thức đa sở hữu nhƣ nhiều ngƣời thƣờng diễn giải [1, tr.22; 47,
tr.27...]. Đằng sau sở hữu nhà nƣớc là sở hữu xã hội hay sở hữu toàn dân, do
đó tài sản thuộc sở hữu nhà nƣớc về bản chất là tài sản đồng sở hữu của mọi
cá nhân trong xã hội. Nếu hiểu đa sở hữu trong CTCP là hình thức đồng sở
hữu của nhiều cổ đông cá nhân, thì thậm chí sở hữu nhà nƣớc còn mang tính
chất đa sở hữu hơn, vì phạm vi đồng sở hữu đƣợc mở rộng hơn. Còn nếu hiểu
đa sở hữu trong CTCP nhƣ sự pha trộn, kết hợp sở hữu công (khi nhà nƣớc
vẫn là một cổ đông) và sở hữu tƣ, thì cần lƣu ý trƣờng hợp nhà nƣớc vẫn là
một cổ đông lớn, có khả năng chi phối, lấn át các cổ đông khác. Nhƣ ở phần
sau của luận án đã chỉ ra, trong trƣờng hợp này, những thay đổi trong phƣơng
thức quản lý và vận hành DN sau CPH ít xảy ra, hiệu quả hoạt động của nó
không có sự cải thiện rõ rệt. Mục đích của CPH sẽ không đạt đƣợc.
Nhƣ vậy, quá trình CPH DNNN phải từ sự thay đổi cấu trúc sở hữu để
tạo ra những động lực và khuyến khích mới, phù hợp với các nguyên tắc thị
trƣờng, nhằm đem lại một sức sống mới cho các DN đƣợc CPH, nhờ đó nâng
cao hiệu quả hoạt động của chính khu vực DNNN cũng nhƣ của cả nền kinh
tế. Điều này chỉ đạt đƣợc khi tính chất “vô chủ” của sở hữu công và các
khuyết tật nảy sinh từ đó đƣợc khắc phục.
Nói cách khác, thực chất của quá trình cổ phần hóa DNNN là sự
chuyển đổi tài sản thuộc sở hữu chung của toàn dân vốn đƣợc sử dụng trong
một DNNN cụ thể thành tài sản riêng của một tập thể người xác định, biến
những tài sản này từ chỗ đƣợc đối xử nhƣ là tài sản “vô chủ”, “phi cá nhân
hóa” (trong dân gian ngƣời ta thƣờng nói là tài sản “chùa”) thành những tài
sản hữu chủ, tài sản của các cá nhân cụ thể, đích thực. Quá trình này cũng là
quá trình định vị lại vai trò, vị trí Nhà nƣớc cũng nhƣ khu vực DNNN. Đứng
34
trƣớc các tác nhân thị trƣờng (những ngƣời sản xuất và tiêu dùng), nhà nƣớc
phải xuất hiện nhƣ một thể chế đặc biệt, chủ yếu đóng vai trò là ngƣời trung
gian, tạo ra và thực thi “luật chơi” bình đẳng trên „sân chơi” thị trƣờng hơn là
ngƣời trực tiếp đầu tƣ, sản xuất hàng hóa, dịch vụ. Nhà nƣớc chỉ can thiệp vào
nền kinh tế khi có sự thiếu vắng thị trƣờng hay có sự tồn tại của “thất bại thị
trƣờng”. Các công cụ để nhà nƣớc điều tiết nền kinh tế chủ yếu phải là các
công cụ mang tính “trung lập” (không thiên vị) nhƣ luật pháp, các chính sách
thuế, chi tiêu chính phủ, chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế đối ngoại...Bên
cạnh đó, nhà nƣớc có thể sử dụng các DNNN nhƣ một công cụ để sửa chữa
các thất bại thị trƣờng, song không phải để điều tiết kinh tế vĩ mô (ví dụ để
bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát chẳng hạn, việc nhà nƣớc sử dụng chính
sách tiền tệ hay tài khóa sẽ hiệu quả hơn, ít tốn kém hơn vì nó không gây ra
sự méo mó đối với hệ thống giá cả cũng nhƣ tạo ra gánh nặng trợ cấp đối với
ngân sách nhà nƣớc), mà là để cung cấp những hàng hóa, dịch vụ mà khu vực
tƣ nhân cung cấp không hiệu quả, không muốn cung cấp hoặc chưa có khả
năng cung cấp (ở những nơi khu vực tƣ nhân còn nhỏ bé). Đối với các nền
kinh tế thị trƣờng điển hình, đó chính là các hàng hóa, dịch vụ công, và một
số ít hàng hóa, dịch vụ tƣ, có chi phí giao dịch cao, liên quan đến việc tiêu
dùng của đông đảo dân chúng (điện, nƣớc, giao thông vận tải, dịch vụ bƣu
chính...). Nói cách khác, CPH DNNN đối với các nƣớc đang phát triển hay
chuyển đổi chính là một nội dung quan trọng của tiến trình tái cấu trúc nền
kinh tế, xác lập lại tƣơng quan giữa khu vực công và tƣ phù hợp với nguyên
tắc của nền kinh tế thị trƣờng, vốn lấy vận hành lành mạnh của khu vực tƣ
nhân làm động lực chính để tồn tại và phát triển.
Quá trình CPH DNNN cũng mở ra khả năng theo đó những ngƣời lao
động cũng trở thành cổ đông, thành những ngƣời đồng sở hữu doanh nghiệp,
từ đó tạo ra quyền làm chủ đích thực của họ đối với doanh nghiệp. Khi gắn
với lợi ích thiết thân của chính họ, sự giám sát tập thể của ngƣời lao động đối
35
với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh một phần nào đó sẽ đƣợc tăng
cƣờng và chính quá trình này cũng tạo ra cơ chế phân phối lợi ích hài hòa hơn
giữa Nhà nƣớc, doanh nghiệp và ngƣời lao động.
2.1.4. Cổ phần hóa DNNN – giải pháp cơ bản nhằm khắc phục những yếu
kém của khu vực DNNN và nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế
Cổ phần hóa DNNN là một trong những nội dung quan trọng của quá
trình sắp xếp lại và đổi mới hoạt động của khu vực DNNN, nhằm tạo ra các
chủ thể kinh tế đích thực phù hợp với các nguyên tắc của nền kinh tế thị
trƣờng. Sự cần thiết của quá trình CPH DNNN bắt nguồn từ những lý do sau:
Thứ nhất, do sự yếu kém, hạn chế bắt nguồn từ tính chất sở hữu công
của các DNNN nhƣ đã đƣợc phân tích. Để khắc phục điều này, cần thiết phải
chuyển đổi hình thức, tính chất sở hữu đối với tài sản trong các doanh nghiệp
nhà nƣớc, trừ một số ít DNNN cần thiết phải giữ lại để nhà nƣớc thực hiện
các chức năng của mình mà khu vực tƣ nhân không thể thay thế đƣợc.
Thứ hai, do tính ưu việt của công ty cổ phần cho phép nó trở thành hình
thức có thể thay thế và khắc phục những hạn chế, yếu kém của DNNN.
Công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh hay một loại hình doanh
nghiệp đƣợc hình thành trên cơ sở góp vốn của nhiều ngƣời với tƣ cách là các
cổ đông– những ngƣời đồng sở hữu công ty, thông qua việc nắm giữ lƣợng cổ
phiếu hay số vốn cổ phần khác nhau của công ty. Công ty cổ phần là một dạng
tổ chức kinh doanh có trách nhiệm hữu hạn. Với tƣ cách là những ngƣời đồng
sở hữu, các cổ đông không có quyền rút vốn trực tiếp mà chỉ có thể rút vốn một
cách gián tiếp thông qua quá trình chuyển nhƣợng cổ phiếu (tức chứng chỉ xác
nhận sở hữu cổ phần) cho ngƣời khác. Chính thể thức này cho phép công ty cổ
phần có thể tồn tại bền vững hơn so với các loại hình tổ chức kinh doanh chung
vốn khác. Những ƣu việt của CTCP so với các loại hình DNTN khác thể hiện ở
những điểm sau:
36
- Chế độ trách nhiệm hữu hạn của công ty cổ phần cho phép các cổ đông
của nó chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
của công ty trong phạm vi phần vốn góp. Tính chất “trách nhiệm hữu hạn”
giới hạn mức độ thiệt hại tối đa mà cổ đông phải gánh chịu khi công ty làm ăn
thua lỗ, nợ nần nên nó giảm thiểu mức độ rủi ro (so với các hình thức tổ chức
kinh doanh khác) cho các cổ đông trong việc lựa chọn các kênh đầu tƣ vốn
của mình. Đây là lợi thế khiến cho công ty cổ phần dễ dàng huy động vốn từ
nhiều ngƣời khác nhau, và vì thế, khi điều kiện kinh doanh thuận lợi, các công
ty cổ phần dễ dàng mở rộng quy mô hơn hẳn so với các loại hình doanh
nghiệp trách nhiệm vô hạn. Không phải ngẫu nhiên mà ở các nền kinh tế thị
trƣờng điển hình, các DN lớn thƣờng tồn tại dƣới hình thức CTCP.
- Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, nó có thể có mặt
trong hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề do cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết
sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều ngƣời cùng góp vốn vào công ty. Khả năng
huy động vốn của công ty cổ phần rất cao, do có hình thức huy động vốn rộng
rãi thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng.
- Việc chuyển nhƣợng vốn trong công ty cổ phần là tƣơng đối dễ dàng,
do vậy phạm vi đối tƣợng đƣợc tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả
các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần.
- Ngƣời lao động trong doanh nghiệp cổ phần có thể vừa là ngƣời lao động
vừa là chủ sở hữu một phần vốn của doanh nghiệp. Khi họ có cả tƣ cách là ngƣời
chủ sở hữu, họ sẽ có trách nhiệm cao hơn trong việc giám sát, kiểm tra đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có động lực hơn trong việc
thực thi các nhiệm vụ của mình trong các khâu hoạt động của công ty.
Mặt khác, so với các DNNN thì lợi thế của công ty cổ phần lại nằm chủ
yếu ở tính chất sở hữu xác định của nó. Tuy nó đƣợc hình thành trên cơ sở sự
góp vốn của nhiều ngƣời, do đó các cổ đông cũng là những ngƣời đồng sở
37
hữu, song đó là chế độ đồng sở hữu của một nhóm nhỏ ngƣời xác định trong
xã hội thay vì là sở hữu chung của hàng triệu ngƣời trong toàn xã hội. Vị thế
„đồng sở hữu” của các cổ đông trong CTCP cũng khác nhau, không giống chế
độ đồng sở hữu trong DNNN hay hợp tác xã (HTX): tiếng nói, quyền lực ra
quyết định của mỗi cổ đông phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của họ. Điều này tạo
ra sự thống nhất và gắn kết trách nhiệm và quyền lợi trong tất cả các khâu:
đóng góp đầu vào, quản lý và kiểm soát quá trình kinh doanh, phân phối kết
quả kinh doanh. Vì thế, khi đƣợc CPH, nhờ tài sản của DN có đƣợc những
ngƣời sở hữu cụ thể, đích thực, có động cơ và lợi ích thiết thân trong việc bảo
vệ, khai thác một cách có hiệu quả các tài sản này mà những bất ổn gắn liền
với tính chất sở hữu công về cơ bản đƣợc giải quyết. Điều đó sẽ mở đƣờng
cho những thay đổi khác trong bộ máy quản lý, phƣơng thức quản trị cũng
Thứ ba, thông qua quá trình CPH DNNN, một mặt các DNNN đƣợc CPH
nhƣ toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
có động lực để hoạt động hiệu quả hơn, do đó sẽ cải thiện sức cạnh tranh và
hiệu quả chung của cả nền kinh tế. Mặt khác, số lƣợng các DNNN còn lại sẽ
giảm xuống cho phép nhà nƣớc có điều kiện đầu tƣ và quản lý tốt hơn khu
vực DN mà nhà nƣớc trực tiếp sở hữu. Việc giải phóng một bộ phận DNNN
khỏi khu vực công, cho phép chúng tồn tại nhƣ các CTCP, đặc biệt nhƣ là
một loại hình DN của khu vực tƣ nhân sẽ tạo ra áp lực và nền tảng hay tiền đề
để nhà nƣớc phải đối xử bình đẳng hơn với tất cả DN, nhờ đó làm lành mạnh
hóa môi trƣờng kinh doanh chung và tăng cƣờng sự cạnh tranh giữa các DN.
Điều đó là cần thiết để nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế.
Ngoài ra, với quá trình CPH, nhà nƣớc có thể cắt giảm đƣợc nhiều
khoản bù lỗ cho nhiều DNNN làm ăn kém hiệu quả trƣớc đây, đồng thời có
thể thu về một lƣợng tài chính đáng kể nhờ thoái vốn và bán tài sản của các
38
DNNN để cải thiện cán cân ngân sách và thực hiện tốt hơn các chức năng
khác không thể thoái thác của mình.
2.2. Các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nƣớc.
2.2.1. Xung đột lợi ích – cội nguồn sâu sa của các vấn đề kinh tế-xã hội nẩy
sinh trong quá trình CPH DNNN
Trong ngôn ngữ hàng ngày, thuật ngữ “các vấn đề” thƣờng hàm chỉ
những tình huống khó khăn, không đƣợc mong đợi, có khả năng tạo ra những
mối nguy hại hay tác động tiêu cực mà ngƣời ta cần phải giải quyết hay vƣợt
qua. Nhƣ mọi quá trình kinh tế - xã hội khác, quá trình CPH DNNN cũng
thƣờng nảy sinh những vấn đề kinh tế - xã hội mà ngƣời ta buộc phải vƣợt
qua. Đó chính là những “khó khăn, bất cập”, những “vƣớng mắc cần tháo
gỡ”, “các điểm nghẽn” phát sinh từ quá trình CPH DNNN, có tác động xấu
đến tiến trình này, do đó, việc giải quyết chúng trở thành cần thiết để đảm bảo
cho tiến trình này đi đến thành công. Các vấn đề nhƣ vậy hiện diện trong tất
cả các khâu của quá trình CPH, từ giai đoạn chuẩn bị CPH cho đến khi công
ty cổ phần đã vận hành nhƣ kết quả của việc CPH một DNNN trƣớc đó.
Cổ phần hóa các DNNN là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu từ chỗ
các tài sản của DN đƣợc xem là sở hữu chung của toàn xã hội (mà nhà nƣớc
là ngƣời đại diện) sang chỗ chúng thuộc sở hữu của một nhóm cổ đông cụ thể.
Là một quá trình chuyển đổi, quá trình cổ phần hóa DNNN chứa đựng trong
nó những xung đột, mâu thuẫn lợi ích giữa các chủ thể kinh tế có liên quan.
Trong một DNNN sắp đƣợc CPH, luôn tồn tại sự khác biệt giữa lợi ích xã hội
mà nhà nƣớc là ngƣời đại diện, lợi ích cá nhân của các quan chức thuộc cơ
quan “chủ quản” của DN, lợi ích của các những ngƣời lãnh đạo DNNN, lợi
ích của những ngƣời lao động, lợi ích của các nhà đầu tƣ tiềm năng. Trong
một DN sau cổ phần hóa, luôn tiềm ẩn sự xung đột lợi ích giữa lợi ích xã hội,
lợi ích của các cổ đông, lợi ích của những ngƣời lao động. Trong cả hai
39
trƣờng hợp, quá trình CPH còn tác động đến lợi ích của các nhóm xã hội khác
có liên quan đến sự hoạt động của DNNN hay DN sau CPH nhƣ: nhà cung
cấp, ngƣời tiêu dùng, các quan chức chính quyền…[Trong nội bộ từng nhóm
xã hội (ví dụ giữa các cổ đông hay những ngƣời lao động…), sự thống nhất
lợi ích không phải luôn luôn đƣợc đảm bảo – điều này phụ thuộc vào chính
sách hay cơ chế phân phối thu nhập cụ thể của từng doanh nghiệp. Tuy nhiên,
khía cạnh này vƣợt ra ngoài phạm vi xem xét của luận án]. Lợi ích của các
chủ thể khác biệt nhau này trở nên xung đột với nhau khi quá trình CPH làm
cho ai đó bị thiệt hại trong khi ngƣời khác lại có thể đƣợc hƣởng lợi. Trong
quá trình chuyển đổi hình thái sở hữu do CPH, những ngƣời bị thiệt là những
ngƣời mà lợi ích của họ gắn liền với việc duy trì hình thức sở hữu công trong
doanh nghiệp (những ngƣời lãnh đạo DN, một bộ phận ngƣời lao động trong
DN, những cán bộ ở cơ quan nhà nƣớc trực tiếp “quản lý” DN, những nhà
cung cấp “độc quyền” của DN…). Những ngƣời đƣợc lợi là toàn xã hội nói
chung và những ngƣời có tiềm năng khai thác tài sản và sức lực của mình tốt
hơn khi DNNN đƣợc cổ phần hóa. Khi tài sản xã hội đƣợc sử dụng hiệu quả
hơn, lợi ích gia tăng sẽ gián tiếp làm lợi cho các thành viên khác trong xã hội.
Vấn đề là ở chỗ: khi quá trình cổ phần hóa mới bắt đầu, nó có thể trực tiếp đe
dọa và làm tổn hại đến lợi ích khá tập trung của một số nhóm ngƣời cụ thể,
trong khi đó lợi ích xã hội mà nó mang lại cho nhiều ngƣời lại mang tính chất
“tiềm năng” và phân tán. Đó là lý do khiến quá trình cổ phần hóa bị chống
đối, công khai hay ngấm ngầm, và nhiều khi là quyết liệt bởi những ngƣời bị
thua thiệt, mất mát về lợi ích.
Mặt khác, quá trình CPH có thể bị “méo mó”, do đó bị đi chệch ra khỏi
mục tiêu mà xã hội kỳ vọng nếu nó đƣợc thúc đẩy theo hƣớng làm lợi cho
một nhóm nhỏ trên cơ sở sự thiệt hai chung của toàn xã hội (ví dụ nhƣ khi nó
cho phép một nhóm nhỏ ngƣời có thể thu gom tài sản xã hội với giá cực kỳ rẻ
mạt và dễ dàng trở nên giàu có). Trong một môi trƣờng thiếu công khai, minh
40
bạch, xã hội không thiết lập đƣợc cơ chế bảo vệ lợi ích của mình, tiến trình
CPH sẽ bị dẫn dắt bởi những động cơ sai lạc và trở nên không hiệu quả.
Nhƣ vậy, có thể thấy cổ phần hóa các DNNN là một quá trình không dễ
dàng, đặc biệt ở các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi nhƣ Việt Nam. Với các
nƣớc vốn có nền tảng kinh tế thị trƣờng, việc cổ phần hóa DNNN đơn giản là
một sự cân bằng lại tƣơng quan giữa khu vực công với khu vực tƣ, khi mà vì
những lý do lịch sử khác nhau, khu vực công trƣớc đó đã đƣợc mở rộng quá
mức. Ngay cả trong trƣờng hợp nhƣ vậy, việc cổ phần hóa vẫn luôn gặp phải
sự phản kháng hay chống đối của một bộ phận xã hội vốn đƣợc hƣởng lợi từ
việc tồn tại và hoạt động của khu vực DNNN trƣớc đây. Đối với các nền kinh
tế chuyển đổi, vấn đề trở nên phức tạp hơn do quy mô của khu vực công do
lịch sử để lại là quá lớn, do các quan hệ thị trƣờng và thể chế tƣơng ứng với nó
còn chƣa phát triển, do đó lực lƣợng doanh nhân lẫn khu vực tƣ nhân còn nhỏ
bé hay yếu kém. Ở những nƣớc này luôn tồn tại những khó khăn, ngăn trở quá
trình cổ phần hóa, làm cho nó không dễ dàng đi đến thành công, đặc biệt khi
đằng sau chúng ẩn chứa ngầm những quan tâm, lợi ích khác nhau.
Tóm lại, sự xung đột lợi ích, những sự bất mãn, chống đối từ những
ngƣời bị thua thiệt về lợi ích, cũng nhƣ những “méo mó” trong phân phối lợi
ích hay các hành vi trục lợi cá nhân tạo ra các thách thức, khó khăn cho quá
trình CPH. Chúng hoặc sẽ làm chậm tiến trình này, hoặc sẽ dẫn dắt nó đi
chệch ra khỏi mục tiêu đã định. Đó chính là nguồn gốc sâu sa của các vấn đề
kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình CPHDNNN.
2.2.2. Các vấn đề kinh tế-xã hội cụ thể thường nảy sinh trong quá trình CPH
DNNN
Tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của từng nƣớc, quá trình CPH
DNNN có thể nảy sinh các vấn đề kinh tế - xã hội khác nhau. Những vấn đề
cụ thể có tính chất phổ biến thƣờng phát sinh là:
Thứ nhất, Tâm lý chần chừ, bất mãn, ngăn trở tiến trình CPH:
41
Ít nhất có những nhóm ngƣời sau có động cơ chống đối hay gây khó dễ
cho tiến trình cổ phần hóa:
+ Thứ nhất là những ngƣời giữ các vị trí trọng yếu trong bộ máy quản lý
của DNNN thuộc diện cổ phần hóa. Đây là những ngƣời quá trình cổ phần
hóa sẽ đe dọa địa vị và lợi ích mà họ đang đƣợc thụ hƣởng một cách tức thời
và họ thƣờng không “mặn mà” với những sự thay đổi, do đó có xu hƣớng
phản đối hay ngấm ngầm làm chậm trễ tiến trình cổ phần hóa.
+ Những ngƣời lao động đang làm việc ở các DNNN thuộc diện cổ phần
hóa. Nói chung, làm việc ở các DNNN, công việc của họ đƣợc coi là khá ổn định.
Họ cùng thƣờng đƣợc hƣởng mức lƣơng nói chung là cao hơn khu vực khác và
đƣợc hƣởng các chế độ phúc lợi khác nhau do nhà nƣớc bảo đảm. Khi cổ phần
hóa, công việc tƣơng lai của họ sẽ trở nên bấp bênh hơn. Họ có thể bị sa thải; vị trí
công việc của họ có thể bị sắp xếp lại do yêu cầu hợp lý hóa sản xuất, kinh doanh,
tiết kiệm chi phí để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tƣơng lai. Nói
chung, những ngƣời lao động không thấy triển vọng công việc và thu nhập tốt hơn
sau cổ phần hóa thƣờng có động cơ ngăn cản tiến trình này.
+ Những ngƣời nằm trong bộ máy quản lý hành chính nhà nƣớc bên trên
doanh nghiệp cũng có thể bị thua thiệt vì quá trình cổ phần hóa. Với tƣ cách
là cơ quan chủ quản hay cơ quan quản lý nhà nƣớc chuyên ngành, những
ngƣời này có nhiều quyền hành chi phối các DNNN mà họ phụ trách, từ việc
bổ nhiệm, phê duyệt nhân sự cấp cao của doanh nghiệp đến việc hỗ trợ doanh
nghiệp tiếp cận các nguồn lực khan hiếm nhƣ đất đai, tín dụng, hay phê duyệt
các khoản trợ vốn…Cũng từ khả năng đó, họ có nhận đƣợc những khoản lợi
ích không dễ xác định từ những quan hệ “có đi, có lại” giữa họ và doanh
nghiệp. Về nguyên tắc thì mối quan hệ tiêu cực giữa cơ quan quản lý nhà
nƣớc với một doanh nghiệp ở khu vực tƣ nhân vẫn có thể xảy ra. Song do tính
chất sở hữu công, tiêu cực ở khu vực DNNN có quy mô lớn hơn và dễ dàng
thực hiện hơn. Sự gắn bó lợi ích nhƣ vậy sẽ khiến cho việc chống đối cổ phần
42
hóa có thể mở rộng sang cả một bộ phần nào đó trong bộ máy quản lý nhà
nƣớc các cấp. Đây có lẽ là một lý do khiến tiến trình cổ phần hóa thƣờng
chậm trễ , dù nó đã đƣợc khởi động ở cấp cao nhất.
+ Ngay cả những ngƣời ở khu vực tƣ nhân vẫn có thể có đƣợc những
đặc lợi từ khu vực công, từ các DNNN nhờ những quan hệ kinh tế đặc quyền
mà họ đã thiết lập đƣợc. Họ là những ngƣời cung cấp sản phẩm đầu vào hay
dịch vụ hỗ trợ cho DNNN. Họ cũng có thể là những ngƣời tiêu thụ sản phẩm
đầu ra cho DNNN. Với việc khai thác những “lỗ hổng” cơ chế gắn liền với sở
hữu công, họ có thể thu đƣợc những khoản lợi nhờ nâng giá các đầu vào hay
đƣợc hƣởng các khoản “hoa hồng” cao khi trở thành đại lý tiêu thụ đầu ra cho
DNNN. Sau cổ phần hóa, những nguyên tắc thị trƣờng sẽ đƣợc áp dụng và
tuân thủ, những lợi lộc của những ngƣời nhƣ vậy sẽ bị xem xét. Vì thế, một
cách tự nhiên, họ là một nhóm xã hội có thể đƣợc liên kết để chống lại những
sự thay đổi.
+ Một bộ phận không nhỏ dân cƣ có thể đƣợc hƣởng lợi trực tiếp từ sự
tồn tại của các DNNN nhờ họ đƣợc mua những sản phẩm mà DNNN cung
cấp với giá rẻ, thấp hơn giá thị trƣờng, bất chấp điều này cũng có thể là một
nguyên nhân khiến DNNN hay đối diện với nguy cơ thua lỗ, nếu nó không
đƣợc hƣởng khoản bù lỗ tƣơng xứng từ ngân sách nhà nƣớc. Vì thế, việc cổ
phần hóa những DNNN nhƣ vậy thƣờng gây ra sự lo lắng cho cả những ngƣời
vốn quen đƣợc mua các sản phẩm có trợ giá (các nhu yếu phẩm, năng lƣợng,
vận chuyển đƣờng sắt…) của khu vực công.
Nhƣ vậy, rõ ràng quá trình cổ phần hóa DNNN chứa đựng trong nó
những mâu thuẫn lợi ích rõ ràng. Trong khi xét về dài hạn, cổ phần hóa sẽ góp
phần làm lành mạnh hóa môi trƣờng kinh doanh, tạo ra những động lực mới
để gia tăng hiệu quả của cả khu vực DNNN lẫn cả nền kinh tế, do đó sẽ cải
thiện phúc lợi chung cho cả xã hội. Tuy nhiên, ít nhất là trong ngắn hạn, nó
cũng đem lại sự thua thiệt và bất an cho những nhóm xã hội khác nhau. Điều
43
đó sẽ tạo ra sự phản đối, chống đối, ngấm ngầm hay công khai, dƣới nhiều
hình thức khác nhau. Nó làm cho các chƣơng trình cổ phần hóa thƣờng diễn
ra khó khăn, chậm trễ, bị biến dạng và không đạt đƣợc những kết quả nhƣ
mong đợi.
Thứ hai, việc lựa chọn các DNNN cần CPH và các động cơ chi phối.
Mục tiêu quan trọng nhất của quá trình cổ phần hóa các DNNN là nâng
cao hiệu quả chung của cả nền kinh tế. Nó đƣợc thực hiện thông qua việc
chuyển đổi hình thức sở hữu khiến cho các tài sản xã hội trƣớc đây sử dụng
không hiệu quả trong các DNNN có khả năng đƣợc sử dụng hiệu quả hơn khi
chúng đƣợc kiểm soát bởi những ngƣời chủ hữu hình và đích thực hơn. Tuy
nhiên, không phải mọi DNNN đều cần hay có thể cổ phần hóa. Vì thế, lựa
chọn DNNN nào là doanh nghiệp cần đƣa vào diện CPH, doanh nghiệp nào
cần đƣợc giữ lại lâu dài trong khu vực công là một việc làm cần thiết. Đáng
tiếc đây lại là vấn đề mà ngƣời ta không dễ dàng có câu trả lời rành mạch. Về
nguyên tắc, khu vực công có trách nhiệm cung cấp các hàng hóa, dịch vụ
công cộng mà thị trƣờng hoặc không cung cấp đƣợc (quốc phòng, xây dựng
đê điều…) hoặc cung cấp không hiệu quả. Những hàng hóa, dịch vụ nhƣ vậy
thƣờng đƣợc cung cấp miễn phí thông qua các tổ chức công cộng, chứ không
phải thông qua các DNNN theo nghĩa hẹp mà chúng ta đã xác định. Quan
niệm DNNN phải nắm những vị trí then chốt, những „đài chỉ huy‟ chiến lƣợc
của nền kinh tế cũng đã từng bị xem xét lại ở nhiều nƣớc đang phát triển, và
trên thực tế tình hình tài chính công cũng nhƣ “sức khỏe” chung của nền kinh
tế ở nhiều nơi trở nên lành mạnh hơn khi các DNNN trong lĩnh vực khai
khoáng hay những ngành công nghiệp nặng then chốt đƣợc cổ phần hóa. Hơn
nữa, ranh giới giữa một ngành/lĩnh vực đƣợc xem là “then chốt” hay “không
then chốt” cũng không rõ ràng. Ví dụ các ngành kinh doanh nhƣ ngân hàng,
xăng dầu, viễn thông…là “then chốt” hay “không then chốt”? Trừ ngân hàng
TW, ở nhiều nƣớc các lĩnh vực này vẫn thƣờng do khu vực tƣ nhân nắm giữ.
44
Vì thế, theo quan điểm hiệu quả chung, nhà nƣớc chỉ nên nắm giữ các
DN cung cấp các hàng hóa có tầm quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa xã hội lớn,
có liên quan đến việc tiêu dùng của đông đảo dân chúng, đồng thời lại là nơi
cần lƣợng vốn đầu tƣ lớn mà khu vực tƣ nhân khó hoặc không muốn đảm
nhận. Danh mục các lĩnh vực nhƣ vậy không nhiều và có thể thay đổi, tùy
theo sự lớn mạnh của khu vực tƣ nhân và cả nền kinh tế.
Ngay cả khi đã thống nhất đƣợc các tiêu chí nhằm xác định các DNNN
cần CPH hay không cần CPH thì các khó khăn chƣa hẳn đã hoàn toàn mất đi.
Vấn đề là ở chỗ: Xét từ phía lợi ích nhà nƣớc, những DNNN mà nhà nƣớc
không cần nắm giữ, không muốn chi phối thƣờng là các doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ kéo dài. Chúng thƣờng là đối tƣợng mà các nhà hoạch định chính sách
công muốn cổ phần hóa càng nhanh càng tốt, nhất là trong bối cảnh gánh nặng
tài chính để duy trì hoạt động của các doanh nghiệp nhƣ vậy ngày càng gia
tăng. Tuy vậy, đứng trên góc độ lợi ích của các nhà đầu tƣ tƣ nhân, các DN này
lại là đối tƣợng không hấp dẫn nên rất khó CPH. Ngƣợc lại, các DNNN trong
những ngành đặc biệt, kinh doanh thuận lợi, có lãi cao (nhƣ kinh doanh rƣợu,
bia, thuốc lá chẳng hạn…), thì dù không đƣợc xác định là “ngành then chốt”,
nhà nƣớc về thực chất không cần nắm giữ, dễ dàng CPH, và cần đƣợc CPH để
gia tăng hơn nữa hiệu quả hoạt động của chúng thì ngƣời ta lại không có nhiều
động cơ chuyển giao chúng cho chủ sở hữu khác. Rõ ràng ở đây có sự khác
biệt và xung đột giữa lợi ích xã hội tổng thể của cả nền kinh tế với lợi ích tài
chính cục bộ của bộ máy nhà nƣớc (tồn tại dƣới dạng nguồn thu cho ngân sách
nhà nƣớc) cũng nhƣ những ngƣời làm việc trong các DNNN này.
Thứ ba, vấn đề thất thoát tài sản xã hội và định giá doanh nghiệp
Để cổ phần hóa một DNNN, ngƣời ta buộc phải định giá doanh nghiệp
này, trên cơ sở xác định giá đất, giá trị các tài sản hữu hình, vô hình của DN
(trong đó bao gồm cả giá trị thƣơng hiệu, uy tín, lợi thế riêng của DN…)
cũng nhƣ đối chiếu chúng với kết quả kinh doanh hiện tại và triển vọng tƣơng
45
lai của doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp chính xác là cần thiết và có ảnh
hƣởng không nhỏ đến tiến trình cổ phần hóa. Khi doanh nghiệp đƣợc định giá
quá cao, nó khó thu hút đƣợc các nhà đầu tƣ tƣ nhân tiềm năng bỏ tiền vào
mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Quá trình cổ phần hóa sẽ không thực hiện
đƣợc hay bị biến tƣớng, khi nó chỉ có thể cổ phần hóa một phần tài sản nhỏ
của DN và chỉ thu hút đƣợc các nhà đầu tƣ muốn „góp vốn” không hẳn vì
động cơ kinh doanh (các DNNN khác, các nhà đầu tƣ có “dƣ dả” tiền bạc, cần
hợp pháp hóa đồng tiền của mình). Ngƣợc lại, khi doanh nghiệp bị định giá
quá thấp, tài sản của nhà nƣớc hay của xã hội sẽ bị thất thoát và rơi vào tay
những ngƣời có thể thâu tóm đƣợc một số lƣợng lớn cổ phiếu của doanh
nghiệp. Một số ngƣời nhờ vậy có thể giàu lên rất nhanh mà không cần nhiều đến
tài năng kinh doanh nhờ trục lợi đƣợc từ việc định giá thấp này. Điều này đã
từng xảy ra trên một diện rộng trong quá trình cổ phần hóa các DNNN ở Nga.
Hệ quả là nhiều ngành công nghiệp quan trọng của Nga bị khống chế bởi các
“đại gia” tƣ nhân, nhiều lĩnh vực trƣớc đây thuộc độc quyền của nhà nƣớc trở
thành độc quyền tƣ nhân. Tính hiệu quả có thể mong đợi từ quá trình cổ phần
hóa do vậy bị suy giảm, trong khi phân hóa xã hội lại trở nên sâu sắc hơn.
Định giá chính xác doanh nghiệp là một công việc khó khăn, đặc biệt là
đối với các nƣớc đang phát triển, khi các thể chế thị trƣờng chƣa phát triển
đầy đủ; thị trƣờng chứng khoán, thị trƣờng vốn, thị trƣờng đất đai còn đang ở
giai đoạn khởi đầu, kém hoàn thiện, do vậy, giá cả các tài sản vốn, đất
đai…đƣợc hình thành một cách “méo mó”, chƣa phản ánh chính xác tính
khan hiếm theo kiểu thị trƣờng, dựa trên sự tƣơng tác cung – cầu công khai,
minh bạch. Ở những nƣớc này, đội ngũ các chuyên gia thẩm định giá có trình
độ cũng còn thiếu hụt, các chuẩn mực kế toán, kiểm toán dựa trên thông lệ
quốc tế còn chƣa đƣợc áp dụng rộng rãi. Trong bối cảnh đó, động cơ trục lợi
của những ngƣời có liên quan có thể thúc đẩy việc xác định giá trị của các tài
sản doanh nghiệp – một công việc vốn không dễ dàng – một cách sai lạc.
46
Đối với nhiều DNNN, đặc biệt là ở các nền kinh tế chuyển đổi, kém phát
triển, đất đai (gắn liền với những vị trí kinh doanh cụ thể), có thể là một tài
sản có giá trị tƣơng đối lớn so với các tài sản khác. Tuy vậy, trong bối cảnh
chuyển đổi, thị trƣờng đất đai mới ra đời, chƣa phát triển, đôi khi giá trị tài sản
này lại bị bỏ qua, hoặc bị định giá thấp. Đây là một kẽ hở lớn có thể làm thất
thoát một lƣợng tài sản có giá trị của xã hội khi cổ phần hóa đƣợc tiến hành.
Việc xác định giá trị của các tài sản vô hình (chẳng hạn nhƣ thƣơng
hiệu, lợi thế kinh doanh…) của DNNN đƣợc cổ phần hóa lại càng khó khăn,
đặc biệt trong điều kiện các thị trƣờng dịch vụ, trong đó có dịch vụ thẩm định
giá chƣa phát triển, xã hội thiếu những công cụ khách quan theo kiểu thị
trƣờng để xác định giá trị của các hàng hóa vô hình cũng nhƣ ngƣời dân có
thói quen đánh giá thấp lợi ích của những hàng hóa, dịch vụ loại này và không
sẵn sàng trả tiền cho chúng (Trong các nƣớc XHCN cũ trƣớc đây, do tình
trạng “thiếu hụt” hàng hóa và do chúng đƣợc sản xuất, phân phối chủ yếu
theo kế hoạch của nhà nƣớc, nên vấn đề thƣơng hiệu, quảng cáo thƣờng bị
xem nhẹ, không đƣợc coi là có giá trị)
Tóm lại, ở các nƣớc đang phát triển, do những khó khăn bắt nguồn từ
những hạn chế trong trình độ phát triển của thị trƣờng và các yếu kém thể chế
khác, luôn tiềm ẩn nguy cơ hình thành các nhóm lợi ích có thể lợi dụng và có
động cơ làm méo mó quá trình đánh giá, xác định giá trị doanh nghiệp.
Thứ tư, những khó khăn trong việc xử lý hậu quả do các DNNN trước cổ
phần hóa để lại.
Quá trình cổ phần hóa DNNN cũng luôn luôn vấp phải những khó khăn
do phải xử lý những vấn đề mà hoạt động của doanh nghiệp trong thời kỳ
trƣớc để lại. Có thể kể ra một số vấn đề nhƣ: xử lý các khoản nợ tồn đọng, sắp
xếp lại đội ngũ lao động, thay đổi bộ máy lãnh đạo, quản lý cũng nhƣ phƣơng
thức quản lý và đi kèm với nó là thay đổi toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp
sau cổ phần hóa.Việc xử lý những vấn đề nhƣ vậy luôn luôn gây khó khăn
47
hay thiệt hại lợi ích cho một nhóm ngƣời nào đó: những doanh nghiệp hay cá
nhân đóng vai trò con nợ, những ngƣời lao động có thể bị mất việc làm hay
phải rời khỏi vị trí công việc có thu nhập cao, những ngƣời lãnh đạo doanh
nghiệp có khả năng bị thay thế…Họ có động cơ để chống đối hay bất hợp tác
với những ngƣời muốn đẩy nhanh quá trình CPH nếu những mất mát lợi ích
của họ, ngay cả khi chúng bắt nguồn từ những đặc quyền cũ, không đƣợc bù
đắp thỏa đáng.
Trong kinh doanh, một doanh nghiệp luôn có những khoản nợ phải đòi
cũng nhƣ những khoản nợ phải trả. Về nguyên tắc, trên sổ sách kế toán, khi
bù trừ lẫn nhau, khoản nợ ròng (có thể dƣơng, hoặc âm hoặc bằng 0) của
doanh nghiệp trƣớc thời điểm cổ phần hóa sẽ đƣợc phản ánh trong giá trị
doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, tính chất của các khoản nợ là rất khác
nhau. Doanh nghiệp có thể đối diện với các khoản nợ tồn đọng lâu năm, khó
đòi, trong đó con nợ có thể là một doanh nghiệp khác đang gặp khó khăn,
thậm chí đang trong giai đoạn phá sản hay đã giải thể. Việc thu hồi các khoản
nợ nhƣ vậy luôn gặp khó khăn và thƣờng phải đối diện với các thủ tục pháp lý
rắc rối. Trong khi đó, với tƣ cách là con nợ, doanh nghiệp cổ phần hóa trong
tƣơng lai cũng có nghĩa vụ phải thanh toán các khoản nợ gắn liền với các hoạt
động trong thời kỳ trƣớc của nó. Tính phức tạp trong việc xử lý các khoản nợ
chồng chéo nhau nhƣ vậy không chỉ gây trở ngại cho việc xây dựng các
phƣơng án cổ phần hóa, định giá doanh nghiệp, bán cổ phần mà có thể ảnh
hƣởng đến cả tiến trình hoạt động về sau của doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
Sau cổ phần hóa, việc sắp xếp lại đội ngũ lao động là không tránh khỏi.
Do nhiều nguyên nhân (tính chất phi thị trƣờng của nền kinh tế, việc không
coi trọng tính hiệu quả hoặc sự thiếu vắng cạnh tranh…), trong các DNNN
cần CPH, lực lƣợng lao động thƣờng không tinh gọn, số lƣợng thƣờng cao
hơn nhu cầu ở mức hiệu quả, cơ cấu lao động nhiều khi không phù hợp, một
bộ phận lao động không đáp ứng đƣợc đƣợc yêu cầu khi phải làm việc trong
48
một môi trƣờng năng động hơn, giàu tính cạnh tranh hơn theo kiểu thị trƣờng.
Hậu quả là sau CPH, doanh nghiệp buộc phải sa thải một số lƣợng lao động
“dôi dƣ”, đồng thời tuyển dụng lao động mới có kỹ năng hay trình độ phù hợp
hơn. Nếu nhƣ việc tuyển dụng mới là vấn đề mà doanh nghiệp hoàn toàn tự
chủ giải quyết thì việc sa thải số lao động “thừa” lại gây cho doanh nghiệp
nhiều tốn kém về thời gian và tiền bạc do hệ thống trợ cấp và bảo hiểm xã hội
ở các nƣớc đang phát triển chƣa hoàn thiện cũng nhƣ việc phân chia trách
nhiệm, nghĩa vụ giữa doanh nghiệp và nhà nƣớc trong lĩnh vực này thƣờng
không rõ ràng. Những rắc rối về thủ tục và nghĩa vụ tài chính mà doanh
nghiệp có thể phải gánh chịu đối với số lao động không còn đƣợc tiếp tục sử
dụng là một rào cản không nhỏ đối với sắp xếp lại đội ngũ lao động ở doanh
nghiệp sau cổ phần hóa.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa là mục
tiêu quan trọng của mọi quá trình cổ phần hóa. Để làm đƣợc việc này, doanh
nghiệp phải thay đổi bộ máy lãnh đạo, quản lý, phải thiết lập cơ chế, cung
cách quản lý mới thay cho cơ chế, cung cách quản lý vốn đã tồn tại lâu dài
trong doanh nghiệp nhà nƣớc trƣớc đây. Chỉ làm đƣợc nhƣ vậy, những đổi
mới khác (phƣơng hƣớng kinh doanh, công nghệ…) hƣớng đến tính năng
động và hiệu quả mới có thể thực hiện đƣợc. Tuy nhiên, ở những doanh
nghiệp vốn có lịch sử tồn tại lâu dài, việc thay đổi cung cách làm việc, hoạt
động thƣờng không dễ dàng vì những hậu quả do doanh nghiệp cũ để lại
thƣờng là nặng nề. Điều này càng trở nên khó khăn khi cổ phần hóa không tạo
ra sự thay đổi thực sự có ý nghĩa trong cấu trúc sở hữu, cho phép hình thành
một nhóm nhỏ chủ sở hữu xác định có khả năng chi phối tài sản doanh
nghiệp, có lợi ích thiết thân trong việc khai thác, sử dụng chúng. Trong trƣờng
hợp sau cổ phần hóa mà những ngƣời lãnh đạo và đội ngũ lao động của
doanh nghiệp lại trở thành những cổ đông chính của doanh nghiệp, những cổ
đông mới bên ngoài không “thâm nhập” đƣợc vào doanh nghiệp thì những
49
thay đổi có ý nghĩa trong phƣơng thức điều hành, quản lý doanh nghiệp rất
khó xảy ra.. Đây là điều đã xảy ra khá phổ biến ở Nga trong những năm 90 ở
thế kỷ trƣớc, khi mà quá trình cổ phần hóa diễn ra một cách khép kín, trong
nội bộ doanh nghiệp.
Thứ năm, vấn đề chuyển đổi cấu trúc sở hữu và xác định tỷ lệ vốn cổ
phần mà nhà nước cần nắm giữ trong DNCPH.
Vì những lý do khác nhau, nhà nƣớc vẫn có động cơ tham gia hay chi
phối hoạt động của một số DNNN sau CPH. Sau cổ phần hóa, ở một số doanh
nghiệp, nhà nƣớc vẫn tiếp tục là cổ đông nắm một lƣợng cổ phiếu nhất định
của doanh nghiệp. Khi nhà nƣớc vẫn là cổ đông chính, ngƣời đại diện cho
phần vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp vẫn là ngƣời có tiếng nói quyết định ở
doanh nghiệp, do đó những “khuyết tật” của sở hữu công vẫn không đƣợc
khắc phục. Tƣơng tự nhƣ trƣờng hợp đã nói ở trên, trong trƣờng hợp này,
những thay đổi có ý nghĩa trong phƣơng thức quản trị doanh nghiệp cũng khó
xảy ra, doanh nghiệp CPH vẫn khó tạo ra các động lực cần thiết để trở nên
hiệu quả hơn. Chính vì lý do này mà ở Việt Nam, tại nhiều DNNN hậu cổ
phần hóa vẫn chƣa có sự thay đổi đáng kể nào về cách quản trị doanh nghiệp.
Hội đồng quản trị của các DNNN đã cổ phần hóa mà Nhà nƣớc nắm quyền
chi phối chủ yếu vẫn bao gồm các công chức có quyền, lợi ích gắn với bộ
máy điều hành hoặc kiêm nhiệm các vị trí điều hành doanh nghiệp. Theo số
liệu điều tra, sau khi CPH vẫn có đến 81,5% giám đốc doanh nghiệp đƣợc giữ
nguyên chức vụ; 78% chức danh Phó Giám đốc và kế toán trƣởng không có
sự thay đổi. Cụ thể, trên 80% doanh nghiệp mà Nhà nƣớc có cổ phần chi phối
có thành viên HĐQT đồng thời kiêm nhiệm chức năng điều hành doanh
nghiệp [63]. Chính vì vậy nên việc điều hành doanh nghiệp không đảm bảo
đƣợc tính độc lập, khách quan và điều kiện để bảo đảm lợi ích của các bên có
liên quan, đặc biệt là quyền lợi của các cổ đông tƣ nhân thiểu số. Đây chính là
50
điều các tổ chức quỹ đầu tƣ ngần ngại góp vốn vì họ sẽ khó có đƣợc ý kiến
quyết định dù có tham gia HĐQT.
Một vấn đề quản trị nữa thƣờng xảy ra ở các DN hậu cổ phần hóa mà
nhà nƣớc là cổ đông chi phối là sự thiếu hụt nhân sự phù hợp, có khả năng điều
hành doanh nghiệp theo cơ chế thị trƣờng. Vì nhà nƣớc là chủ sở hữu chi phối
doanh nghiệp nên về nguyên tắc, hầu hết vị trí trong HĐQT, ban giám đốc là do
nhà nƣớc bổ nhiệm. Trong trƣờng hợp này, họ thƣờng hành động nhƣ một viên
chức nhà nƣớc hơn là một nhà kinh doanh. Thậm chí trong nhiều trƣờng hợp,
những ngƣời lãnh đạo doanh nghiệp đƣợc bổ nhiệm có thể xuất thân là công
chức, viên chức nhà nƣớc, thiếu kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp hoặc chƣa có
những trải nghiệm cần thiết trên thƣơng trƣờng. Những điều đó sẽ ngăn trở sự
đổi mới trong cung cách lãnh đạo và điều hành doanh nghiệp..
Trong trƣờng hợp nhà nƣớc chỉ là một cổ đông nhỏ, việc điều hành
doanh nghiệp khi đó chủ yếu thuộc về các nhà đầu tƣ tƣ nhân. Khi doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả, lợi ích của nhà nƣớc đƣợc bảo đảm thông qua
phần cổ tức đƣợc chia cũng nhƣ sự gia tăng trong giá trị cổ phiếu. Tuy nhiên,
ngay cả trong trƣờng hợp này, việc thực hiện quyền sở hữu của nhà nƣớc và
bảo vệ lợi ích của nhà nƣớc hay xã hội vẫn có thể là vấn đề phải lƣu tâm. Vấn
đề là ở chỗ: khi những ngƣời đại diện cho phần vốn nhà nƣớc không coi số
vốn đó là tài sản của chính mình (trên thực tế, trong quan hệ với khối tài sản
trên, lợi ích cá nhân của ngƣời đại diện khác biệt và không tự động tƣơng
thích với lợi ích của xã hội hay nhà nƣớc) họ có thể thỏa thuận, nhƣợng bộ
với các cổ đông tƣ nhân khác trong việc ra quyết định, bất chấp điều này có
thể làm thiệt hại cho lợi ích của xã hội hay nhà nƣớc (ví dụ: những thua lỗ „cố
tình” tạm thời trong một khoảng thời gian nào đó có thể làm thất thoát vốn
nhà nƣớc tại doanh nghiệp). Rõ ràng, khi nhà nƣớc can dự vào hoạt động của
doanh nghiệp nhƣ một cổ đông, những khúc mắc nảy sinh do việc thực hiện
“sở hữu công” là những vấn đề không dễ giải quyết.
51
Thứ sáu, vấn đề phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp và
khó khăn trong việc thiết lập môi trường kinh doanh lành mạnh
Sau cổ phần hóa, doanh nghiệp về nguyên tắc có điều kiện hoạt động
hiệu quả nếu nó tồn tại trong môi trƣờng kinh doanh thuận lợi, có tính cạnh
tranh cao, đƣợc đối xử bình đẳng. Những khó khăn, rủi ro mà từng doanh
nghiệp có thể vấp phải là những khó khăn chung mà các doanh nghiệp trong
một nền kinh tế thị trƣờng phải đối diện, và đó là vấn đề mà chính doanh
nghiệp phải giải quyết. Tuy nhiên, thành công chung của quá trình cổ phần
hóa có thể bị đe dọa nếu môi trƣờng kinh doanh lành mạnh theo các nguyên
tắc thị trƣờng chƣa đƣợc thiết lập. Chẳng hạn, khi các doanh nghiệp không
đƣợc đối xử bình đẳng, các doanh nghiệp nhà nƣớc vẫn đƣợc ƣu đãi và có lợi
thế trong việc tiếp cận thị trƣờng, tiếp cận các nguồn lực khan hiếm nhƣ đất
đai, tín dụng…thì cũng nhƣ các doanh nghiệp tƣ nhân khác, doanh nghiệp cổ
phần hóa sẽ rơi vào thế bất lợi, thua thiệt. Điều này khiến cho tâm lý e ngại và
chống đối cổ phần hóa các DNNN càng có cơ hội bộc lộ. Mặt khác, do quen
đƣợc ƣu đãi, các DNNN không thuộc diện phải CPH cũng không dễ dàng từ
bỏ vị thế có tính chất đặc quyền của mình. Điều này gây khó khăn cho việc
thúc đẩy tiến trình CPH.
Mặt khác, nhƣ kinh nghiệm CPH DNNN trong những năm 1990 ở Nga
đã chỉ ra, những thay đổi tích cực về quản trị doanh nghiệp và công nghệ chỉ
diễn ra mạnh mẽ nếu các rào cản ngăn trở cạnh tranh trên thị trƣờng đƣợc
tháo gỡ. Không chỉ cấu trúc sở hữu thiên về cổ đông nhà nƣớc, mà cả vị thế
độc quyền lẫn các mối quan hệ thân hữu giữa doanh nghiệp với bộ máy quyền
lực nhà nƣớc cũng là các yếu tố kìm hãm các sự thay đổi. Dù là doanh nghiệp
tƣ nhân, khi có vị thế độc quyền, có khả năng khống chế đƣợc thị trƣờng,
doanh nghiệp vẫn có thể thu đƣợc lợi nhuận độc quyền cao mà không cần đổi
mới. Nguồn lực và sáng kiến của doanh nghiệp sẽ đƣợc sử dụng tập trung vào
việc bảo vệ vị thế độc quyền, đặc lợi của mình hơn là vào việc cải thiện, gia
52
tăng năng lực cạnh tranh. Nói cách khác, nếu cổ phần hóa DNNN không đi
liền với các hoạt động tái cấu trúc khác, trong đó có việc xác định lại vị trí của
khu vực công, của các DNNN lẫn việc phá vỡ các thế độc quyền mà trƣớc đây
DNNN đƣợc thụ hƣởng thì hiệu quả mà ngƣời ta mong chờ từ tiến trình cổ
phần hóa không xảy ra. Đây là một công việc không dễ dàng vì nó đụng chạm
đến lợi ích của các DN độc quyền này hay thân hữu này, dù cho lợi ích của
chúng có xung đột ra sao với lợi ích xã hội chung.
2.3. Những yếu tố ảnh hƣởng đến các vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh
trong quá trình CPH DNNN
Nhƣ đã trình bày, cội nguồn sâu xa dẫn đến sự xuất hiện các vấn đề
kinh tế - xã hội có khả năng tác động tiêu cực đến quá trình CPH DNNN bắt
nguồn từ sự khác biệt và xung đột lợi ích gữa các bên có liên quan đến tiến
trình này. Tuy vậy, mức độ bộc lộ cũng nhƣ hiệu quả xử lý chúng lại tùy
thuộc vào nhiều yếu tố. Tác động vào các yếu tố này trong nhiều trƣờng hợp
lại gắn liền với vai trò của nhà nƣớc trong toàn bộ tiến trình CPH nói chung
cũng nhƣ trong việc xử lý các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh nói riêng.
2.3.1. Môi trường cạnh tranh và khung pháp lý điều tiết hoạt động chung
của các doanh nghiệp.
Môi trƣờng kinh doanh nói chung không chỉ ảnh hƣởng đến toàn bộ hoạt
động của các doanh nghiệp mà còn ảnh hƣởng trực tiếp đến tiến độ, chất lƣợng
và hiệu quả của tiến trình cổ phần hóa DNNN. Môi trƣờng kinh doanh trong đó
doanh nghiệp hoạt động bao gồm nhiều yếu tố. Nhiều yếu tố có liên quan đến
hoạt động của nhà nƣớc: môi trƣờng kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng trƣởng kinh tế,
mức độ làm phát, thất nghiệp…); hệ thống pháp luật và sự thực thi của bộ máy
nhà nƣớc tạo ra khuôn khổ pháp lý chung cho sự hoạt động của các doanh
nghiệp; các cấu trúc thị trƣờng và sự điều tiết của nhà nƣớc…Các yếu tố này ít
nhiều đều có thể làm thuận lợi hay gây trở ngai cho tiến trình cổ phần hóa. Ở
đây, chúng ta chỉ đề cập đến một vài khía cạnh trực tiếp.
53
Nhƣ ở trên đã đề cập, để các doanh nghiệp sau cổ phần hóa có động lực
đổi mới toàn diện cung cách sản xuất, kinh doanh, khắc phục đƣợc những hạn
chế hay khiếm khuyết mà các doanh nghiệp nhà nƣớc hay mắc phải, chúng
phải đƣợc đặt trong môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh. Điều này đòi hỏi nhà
nƣớc phải đối xử bình đẳng thật sự với tất cả các doanh nghiệp, không phân
biệt đối xử giữa chúng theo các nguyên tắc phi thị trƣờng, ví dụ, theo hình
thức sở hữu hay các thành phần kinh tế. Tính bình đẳng này đòi hỏi nhà nƣớc
phải tạo ra môi trƣờng pháp lý cho phép các doanh nghiệp đều có cơ hội nhƣ
nhau trong việc tiếp cận thị trƣờng, tiếp cận đến các nguồn lực khan hiếm của
xã hội, vì thế khả năng tiếp cận này chỉ phụ thuộc vào năng lực của doanh
nghiệp chứ không phụ thuộc vào tính chất sở hữu của nó. Nhà nƣớc vẫn có
thể trợ cấp cho doanh nghiệp này song lại đánh thuế cao đối với doanh nghiệp
kia, song điều đó đƣợc tiến hành trên cơ sở sữa chữa các thất bại thị trƣờng
(ví dụ, các doanh nghiệp sản xuất các hàng hóa gây ngoại ứng tích cực đƣợc
nhận trợ cấp sẽ có động lực gia tăng sản lƣợng, hƣớng đến mức hiệu quả mà
xã hội mong đợi; ngƣợc lại, các doanh nghiệp gây ra nhiều ô nhiễm có thể bị
“phạt” thông qua việc phải gánh chịu một mức thuế cao hơn) chứ không phải
đó là doanh nghiệp nhà nƣớc hay doanh nghiệp phi nhà nƣớc.
Ngƣợc lại với nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng trên, ở nhiều nƣớc đang
phát triển, sự phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp thƣờng hay
diễn ra, trong đó lợi thế thƣờng thuộc về các DNNN. Điều này chẳng những
làm giảm động lực hiệu quả đối với các DNNN, mà còn gây bất lợi, thua thiệt
một cách không đáng có đối với các DNTN. Kết quả là, với việc cổ phần hóa,
vô hình chung doanh nghiệp bị mất đi các khoản ƣu đãi mà một DNNN trƣớc
đây vẫn đƣợc hƣởng. Sự phân biệt đối xử nhƣ vậy tạo ra sự khuyến khích duy
trì doanh nghiệp dƣới hình thức DNNN, chống đối cổ phần hóa, cản trở các
DN sau cổ phần hóa nhanh chóng tạo ra những kết quả kinh tế tích cực.
54
Môi trƣờng cạnh tranh còn liên quan đến khả năng thiết lập các rào cản
đi vào thị trƣờng của các doanh nghiệp hiện hành đối với các doanh nghiệp
mới. Các rào cản này có thể bắt nguồn từ những lý do khách quan (lợi thế
kinh tế quy mô của các ngành khác nhau), cũng có thể bắt nguồn từ những lý
do “nhân tạo” do nhà nƣớc tạo ra. Chúng khiến cho các doanh nghiệp có
quyền lực thị trƣờng, mà đỉnh điểm của nó là vị thế độc quyền trên thị trƣờng.
Độc quyền làm giảm hiệu quả chung của cả nền kinh tế, dù đó là độc quyền
nhà nƣớc hay độc quyền tƣ nhân. Vì thế, nếu quá trình cổ phần hóa chỉ đơn
giản thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp từ chỗ là DNNN thành DN
phi nhà nƣớc, trong khi vị thế độc quyền của doanh nghiệp không bị đụng
chạm thì cổ phần hóa về căn bản vẫn không tạo ra sự chuyển biến về phƣơng
diện hiệu quả chung. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc tái cấu trúc
các doanh nghiệp nhà nƣớc, phá vỡ thế độc quyền của các doanh nghiệp này
ở những nơi có thể cũng nhƣ tạo lập và hoàn thiện môi trƣờng kinh doanh
chung theo hƣớng tăng cƣờng tính cạnh tranh trong việc ngăn chặn hay giảm
thiểu những khó khăn phát sinh trong tiến trình cổ phần hóa.
2.3.2. Khuôn khổ pháp lý và tính minh bạch của tiến trình cổ phần hóa các
DNNN
Nhiều khó khăn phát sinh trong quá trình cổ phần hóa gắn liền với kế
hoạch, chƣơng trình cổ phần hóa các DNNN đƣợc xây dựng thiếu cân nhắc,
thiếu thận trọng, không đƣợc yểm trợ bởi những quy định pháp lý chặt chẽ, và
không có lộ trình hợp lý, rõ ràng. Các vấn đề phức tạp, ngăn trở tiến trình cổ
phần hóa diễn ra một cách thuận lợi và hiệu quả cũng thƣờng xuất hiện khi
tính minh bạch trong các khâu của cổ phần hóa không đƣợc bảo đảm.
Mức độ thành công của quá trình cổ phần hóa DNNN và xử lý các vấn
đề phát sinh tùy thuộc nhiều vào:
- Quan niệm mà nhà nƣớc theo đuổi về vị trí của khu vực DNNN nói
riêng cũng nhƣ cách tiếp cận của nhà nƣớc về sự cân bằng cần thiết giữa khu
55
vực công và khu vực tƣ trong một nền kinh tế thị trƣờng. Quan điểm đó
thƣờng chi phối các tiêu chí đƣợc thiết kế và sử dụng để lựa chọn các doanh
nghiệp nhà nƣớc cần đƣợc giữ lại hay cần đƣợc cổ phần hóa, nhà nƣớc cần
nắm giữ vốn (chi phối hoặc không chi phối) hay không cần nắm giữ vốn trong
các DN cổ phần hóa . Các tiêu chí này có đƣợc xác lập rõ ràng, và đƣợc công
bố công khai, minh bạch hay không có ảnh hƣởng không nhỏ đến các vấn đề
phát sinh.
- Sự lựa chọn phƣơng thức cổ phần hóa cụ thể bao gồm việc xác định
quy mô và tính chất (khép kín, mang tính chất nội bộ hay hoàn toàn mở rộng,
công khai) của việc cổ phần hóa cũng nhƣ các quy định khung về tỷ lệ cổ
phần hóa theo từng loại hình doanh nghiệp trong đó có tỷ lệ mà nhà nƣớc cần
giữ lại, tỷ lệ dành cho ngƣời lao động trong doanh nghiệp, tỷ lệ dành cho các
đối tác chiến lƣợc, cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài và tỷ lệ bán ra trên thị
trƣờng cho các nhà đầu tƣ khác. Khi các tỷ lệ này đƣợc quy định không có cơ
sở rõ ràng, đặc biệt trong trƣờng hợp tỷ lệ cổ phần đƣợc bán ra trên thị trƣờng
không đủ lớn, quá trình cổ phần hóa thƣờng bị lạm dụng và các vấn đề phức
tạp dễ phát sinh, hoặc khó xử lý.
- Quy định của nhà nƣớc về việc cung cấp thông tin về tính hình tài
chính, cơ cấu sở hữu (một DNNN về thực chất thuộc sở hữu của nhà nƣớc
song vẫn có thể có cơ cấu sở hữu chồng chéo do sự tham dự của các doanh
nghiệp, công ty khác nhau vào việc nắm giữ vốn), hiện trạng cơ cấu quản lý
của doanh nghiệp dự kiến cổ phần hóa cho các nhà đầu tƣ. Các thông tin này
càng đầy đủ, công khai, minh bạch, có thể kiểm chứng, quá trình cổ phần hóa
càng diễn ra thuận lợi và hiệu quả.
- Các quy định khung chi phối việc lựa chọn phƣơng pháp định giá tài
sản, xác định giá trị doanh nghiệp đƣợc cổ phần hóa (quy trình, phƣơng pháp
đánh giá, thẩm định giá trị doanh nghiệp), phƣơng thức phát hành cổ phiếu
(chào bán nội bộ hay phát hành rộng rãi ra thị trƣờng…), các đối tƣợng bị
56
cấm mua cổ phiếu của doanh nghiệp cũng nhƣ các quy định về xử lý vấn đề
nợ hay lực lƣợng lao động “dôi dƣ”. Mức độ rõ ràng, minh bạch và tính hợp
lý của các quy định này sẽ ảnh hƣởng không nhỏ đến tiến trình cổ phần hóa
và khả năng giải quyết các vấn đề phát sinh.
- Các quy định pháp quy liên quan đến việc thực hiện quyền sở hữu của
cổ đông nhà nƣớc cũng nhƣ cách thức mà nhà nƣớc can thiệp vào quá trình
vận hành của doanh nghiệp sau cổ phần hóa, nhất là trong trƣờng hợp vẫn
nắm một lƣợng cổ phần đáng kể. Sự thiếu rành mạch của các quy định kiểu
này có ngăn cản những thay đổi tích cực trong phƣơng thức quản trị doanh
nghiệp sau cổ phần hóa cũng nhƣ bảo vệ một cách hiệu quả lợi ích thực sự
của nhà nƣớc trong doanh nghiệp.
2.3.3. Những biện pháp hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp trong
quá trình cổ phần hóa
Nhiều vấn đề kinh tế - xã hội phát sinh trong quá trình cổ phần hóa cần
nhận đƣợc sự hỗ trợ, trợ giúp trực tiếp của nhà nƣớc khi chúng vƣợt ra khỏi
tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Cổ phần hóa một DNNN chỉ trở nên hấp dẫn
đối với các nhà đầu tƣ tiềm năng khi triển vọng kinh doanh tƣơng lai của
doanh nghiệp là sáng sủa, có thể dự đoán đƣợc. Điều này tùy thuộc nhiều vào
kết quả hoạt động trong quá khứ của doanh nghiệp. Nói chung, các DNNN
thua lỗ, nhà nƣớc không muốn nắm giữ, khó trở thành đối tƣợng mà các nhà
đầu tƣ quan tâm. Trong nhiều trƣờng hợp, để xúc tiến quá trình cổ phần hóa,
nhà nƣớc phải có sự hỗ trợ về vốn liếng, đầu tƣ công nghệ và những sự trợ
giúp khác nhằm khắc phục những khó khăn hiện thời của doanh nghiệp và cải
thiện kết quả kinh doanh của nó.
Những hỗ trợ tài chính của nhà nƣớc trong việc khoanh nợ, xử lý nợ
tồn đọng, bảo đảm chế độ an sinh xã hội cho những ngƣời lao động thuộc
57
diện “dôi dƣ” …cũng giúp làm dịu đi những khó khăn mà các doanh nghiệp
phải đối diện trong tiến trình cổ phần hóa.
2.3.4. Các thiết chế hỗ trợ quá trình CPH DNNN.
Quá trình chuyển đổi sở hữu gắn liền với tiến trình cổ phần hóa diễn ra thuận
lợi hay không, những vấn đề phát sinh có thể giải quyết dễ dàng hay khó khăn tùy
thuộc nhiều vào mức độ phát triển của các thể chế thị trƣờng và các khuôn khổ
pháp lý đi kèm với nó. Chẳng hạn, việc định giá tài sản doanh nghiệp sẽ trở nên dễ
dàng hơn khi thị trƣờng chứng khoán phát triển, vận hành hiệu quả, các hoạt động
đầu cơ, bóp méo giá cả hay gian lận trên thị trƣờng đƣợc ngăn chặn hữu hiệu; các
tài sản, bao gồm cả đất đai, dễ dàng đƣợc chuyển đổi, giao dịch và định giá thông
qua các công ty tài chính, công ty định giá trị doanh nghiệp.. Thông qua việc phát
triển và hoàn thiện thị trƣờng lao động, xây dựng và hoàn thiện các bộ luật lao
động, bảo trợ xã hội và hệ thống an sinh xã hội, nhà nƣớc có thể tháo gỡ đƣợc
nhiều khó khăn phát sinh từ quá trình sắp xếp lại đội ngũ lao động của doanh
nghiệp cổ phần hóa. Thông qua các quy định pháp lý hữu hiệu về chế độ kế toán,
kiểm toán các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp cần cổ phần hóa
sẽ trở nên minh bạch hơn. Khi thị trƣờng và các tổ chức mua, bán nợ ra đời và
phát triển, khi luật hợp đồng đƣợc thực thi, việc xử lý các khoản nợ tồn đọng trong
các DNNN trƣớc cổ phần hóa cũng có điều kiện thực hiện nhanh chóng và hiệu
quả hơn.
2.3.5. Đội ngũ cán bộ làm công tác CPH.
Việc xử lý các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong tiến trình CPH
DNNN phụ thuộc trực tiếp vào số lƣợng và chất lƣợng của đội ngũ cán bộ
trực tiếp chịu trách nhiệm tổ chức chỉ đạo, triển khai, giám sát các chƣơng
trình, kế hoạch CPH. Khi đội ngũ này có quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng, có
năng lực và trách nhiệm nghề nghiệp cao, có khả năng phát hiện cũng nhƣ xử
lý các vấn đề nảy sinh trên cơ sở pháp luật và chính sách CPH cũng nhƣ sự
58
phối hợp các lực lƣợng, tổ chức có liên quan thì việc xử lý các vấn đề kinh tế
- xã hội xuất hiện trong quá trình CPH trở nên thông suốt và hiệu quả hơn.
2.3.6. Nhận thức xã hội về quá trình CPH DNNN.
Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình CPH DNNN và
việc xử lý chúng còn bị ảnh hƣởng bởi nhận thức và tâm lý xã hội nói chung
về bản chất và nội dung của quá trình CPH. Ở các nền kinh tế chuyển đổi, đặc
biệt là ở các quốc gia kém phát triển, những e ngại và nhận thức lệch lạc về
CPH DNNN còn bắt nguồn từ chỗ: nhận thức xã hội về mô hình kinh tế thị
trƣờng, về vị trí và sự phân công chức năng giữa khu vực công và khu vực tƣ,
về vai trò của nhà nƣớc trong tƣơng quan với thị trƣờng vẫn chứa đựng nhiều
định kiến. Chẳng hạn, tuy ngƣời ta có thể thừa nhận kinh tế thị trƣờng, thừa
nhận sở hữu tƣ nhân, thừa nhận sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
song lại vẫn ngấm ngấm hay công khai thừa nhận vị thế đặc biệt của khu vực
kinh tế nhà nƣớc trong đó có các DNNN. Hệ quả là: khu vực DNNN ở những
mức độ khác nhau vẫn đƣợc nhận đƣợc các ƣu đãi (trong tiếp cận thị trƣờng,
đất đai hay tín dụng…) nhất định, khiến cho sân chơi chung của các “thành
phần kinh tế trở nên không bình đẳng trên thực tế. Điều này một mặt làm tăng
khó khăn cho các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân, trong đó có các DN sau cổ
phần hóa, làm giảm tính hấp dẫn của mô hình DN cổ phần, mặt khác, nó
khích lệ những ngƣời muốn níu kéo và duy trì DNNN dƣới hình thức cũ, ngay
cả khi nó cần đƣợc cải tổ thông qua cổ phần hóa. Những ngƣời đƣợc hƣởng
lợi từ việc duy trì các DNNN có liên quan có động cơ tự nhiên để thừa nhận
và bảo vệ các quan điểm hay cách nhìn nhƣ vậy, cho dù nó có thể gây ra tổn
hại đối với lợi ích xã hội chung. Điều này thƣờng tạo ra sự ngập ngừng trong
việc tiến hành cổ phần hóa, ngay cả khi nó đƣợc tuyên bố và đƣợc lên kế
hoạch chi tiết.
59
2.4. Thực tiễn giải quyết những vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trong quá
trình này ở một số địa phƣơng và bài học kinh nghiệm cho Thanh Hóa
2.4.1. Thực tiễn giải quyết những vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trong quá
trình này ở một số địa phương
Sau một thời gian dài tiến hành CPH DNNN, nhiều địa phƣơng đã đạt
những thành tựu đáng kể. Để đúc rút bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho
tỉnh Thanh Hóa, Luận án chọn địa bàn nghiên cứu là các tỉnh Nghệ An, Thừa
Thiên - Huế và Nam Định vì đây là những tỉnh có điều kiện địa lý, kinh tế và
văn hóa, xã hội khá tƣơng đồng với tỉnh Thanh Hóa.
2.4.1.1. Kinh nghiệm của tỉnh Nghệ An
Nghệ An là một tỉnh lớn, bắt đầu thực hiện thí điểm CPH từ năm 1998.
Nhận thức rõ vấn đề, Tỉnh đã sớm chỉ đạo để vƣợt qua 3 trở ngại lớn là: (1)
Loại bỏ thái độ chần chừ của các sở chủ quản, các giám đốc DNN trong CPH;
(2) Phá bỏ rào cản về tài chính và xử lý linh hoạt các tài sản của DNNN thuộc
diện CPH; và (3) Giải quyết dứt điểm vấn đề lao động dôi dƣ theo hƣớng có
lợi nhất cho ngƣời lao động.
Trong quá trình thực thi chƣơng trình CPH, Nghệ An luôn coi trọng và
quan tâm công tác tuyên truyền các chủ trƣơng của Đảng, chính sách của Nhà
nƣớc về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nƣớc để nâng cao nhận thức cho
cán bộ, đảng viên, đặc biệt là lãnh đạo và và ngƣời lao động trong các doanh
nghiệp CPH. Nhờ nhận thức đúng về ý nghĩa của chủ trƣơng CPH DNNN, về
lợi ích dài hạn của tiến trình này cũng nhƣ những biện pháp hỗ trợ có thể của
nhà nƣớc tâm lý chần chừ, e ngại hay chống đối CPH phần nào đƣợc hạn chế..
Đặc biệt, trong quá trình CPH, Tỉnh thƣờng xuyên chỉ đạo các ngành,
các cấp quan tâm xử lý tốt, kịp thời các vấn đề về tài chính của doanh nghiệp
trƣớc khi chuyển đổi, tiến hành phân tích một cách có cơ sở khoa học về
nguyên nhân của tình trạng đó để đƣa ra các biện pháp nhằm lành mạnh hóa
60
tình hình tài chính của các DNNN khi chúng đƣợc chọn CPH. Đồng thời,
tỉnh cũng có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình chuyển
đổi kịp thời nhƣ hỗ trợ, trợ cấp cho số lao động dôi dƣ do sắp xếp lại, hỗ trợ
tài chính cho doanh nghiệp sau chuyển đổi…
Với cách làm nhƣ trên, đến hết tháng 12 năm 2010, theo báo cáo của
UBND tỉnh, Nghệ An đã sắp xếp, chuyển đổi đƣợc 166 doanh nghiệp, trong
đó CPH đƣợc 86 doanh nghiệp (chiếm 51,8% tổng số DNNN đƣợc chuyển
đổi sở hữu). Cơ cấu vốn của doanh nghiệp trƣớc và sau chuyển đổi sang công ty
cổ phần đã thay đổi rõ rệt. Cụ thể, trƣớc khi chuyển đổi, vốn nhà nƣớc tại các
DNNN là 265 tỷ đồng; sau chuyển đổi chỉ còn 126 tỷ đồng. Việc thoái vốn
nhà nƣớc trong các DNNN đã tạo điều kiện cho tỉnh Nghệ An có thêm lƣợng
vốn đáng kể để đầu tƣ phát triển những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế.
- Vốn điều lệ sau chuyển đổi đến 30/6/2010 là: 278.044 triệu đồng,
trong đó vốn nhà nƣớc chỉ chiếm hơn 56%.
Số lao động dôi dƣ do sắp xếp chuyển đổi doanh nghiệp tại tỉnh này là
3.703 ngƣời.
Để làm lành mạnh hóa tình hình tài chính của doanh nghiệp trƣớc khi
chuyển đổi, căn cứ các quy chế quản lý tài chính hiện hành, UBND tỉnh đã ban
hành các quyết định xử lý những tồn tại về tài chính cho các doanh nghiệp, trong
đó: Tài sản không cần dùng: 20.154 triệu đồng; Tài sản chờ thanh lý loại khỏi
GTDN: 6.948 triệu đồng; Công nợ khó đòi: 36.332 triệu đồng; Nợ Ngân hàng, nợ
ngân sách: 12.972 triệu đồng; và các khoản khác: 80.497 triệu đồng.
Khi doanh nghiệp chuyển đổi hình thức sở hữu, số tiền bán phần vốn
nhà nƣớc đƣợc Tỉnh chuyển về Quỹ sắp xếp doanh nghiệp địa phƣơng tại Kho
bạc Nhà nƣớc Nghệ An. Số tiền này đƣợc sử dụng vào đầu tƣ và cho vay đối
với các doanh nghiệp sau CPH, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh
61
nghiệp này phát triển. Cụ thể Tỉnh đã cho các DN vay vốn kinh doanh: 11.824
triệu đồng; bổ sung vốn cho DNNN: 18.948 triệu đồng; hỗ trợ đào tạo lại lao
động: 1.855 triệu đồng; và các công việc khác: 18.614 triệu đồng.
Hiệu quả của tiến trình CPH DNNN ở tỉnh Nghệ An đƣợc thể hiện ở kết
quả hoạt động của doanh nghiệp sau khi CPH. Theo số liệu của năm 2009, so
với năm trƣớc, vốn điều lệ tại các DNNN CPH tăng 11,5% (đạt mức 278.044
triệu đồng; doanh thu đạt 2.713.256 triệu đồng; lãi trƣớc thuế đạt 232.596
triệu đồng; nộp ngân sách đạt 658.014 triệu đồng; thu nhập bình quân đạt
2.190.000 đồng/ngƣời/tháng; cổ tức đạt 15%; và lợi nhuận/vốn chủ sở hữu
đạt 60%.
2.4.1.2. Kinh nghiệm của tỉnh Thừa Thiên- Huế
Tiến trình CPH DNNN tại Thừa Thiên Huế gần nhƣ diễn ra cùng thời
điểm với Thanh Hóa (năm 2000, chỉ sau Thanh Hóa 2 năm).
Để triển khai chủ trƣơng CPH DNNN trên địa bàn, đầu tiên Tỉnh căn cứ
vào thực trạng các mặt hoạt động SXKD và tình hình tài chính của doanh
nghiệp để xác định hình thức sắp xếp DNNN thích hợp. Tỉnh luôn chú trọng
việc phổ biến cho các cấp lãnh đạo và ngƣời lao động tại các doanh nghiệp
nắm vững, hiểu rõ các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về sắp
xếp, chuyển đổi DNNN, nhờ đó giảm thiểu những bất đồng, e ngại, tạo ra
đƣợc sự đồng thuận nhất định hỗ trợ tiến trình CPH.
Bƣớc vào tiến trình CPH, Tỉnh rất quan tâm đến việc phân loại các DNNN,
trên cơ sở tình hình kinh doanh và kết quả tài chính của chúng. Các thông tin về
các khoản nợ của doanh nghiệp đƣợc thu thập và báo cáo, các giải pháp nhằm làm
lành mạnh hóa tình hình tài chính của các doanh nghiệp đƣợc khuyến khích và
trong chừng mực nhất định đƣợc hỗ trợ thông qua vai trò trung gian, phối hợp
(trong việc khoanh nợ và thanh toán bù trừ nợ giữa các doanh nghiệp) của các cơ
quan quản lý nhà nƣớc Tỉnh. Điều này có tác động lớn đến lòng tin và sự lựa chọn
62
mua cổ phiếu của các nhà đầu tƣ. Không chỉ có vậy, Tỉnh còn hỗ trợ các doanh
nghiệp xây dựng phƣơng án SXKD cho các doanh nghiệp hậu cổ phần hóa, đồng
thời tạo môi trƣờng để các phƣơng án đó mang tính khả thi cao. Thừa Thiên –
Huế cũng khuyến khích việc bán cổ phần ra ngoài để thu hút vốn, chất xám của
toàn xã hội, nhất là thu hút các nhà đầu tƣ chiến lƣợc để tạo thêm động lực cho sự
phát triển của doanh nghiệp.
Nhƣ trên đã đề cập, việc tạo ra sự đồng thuận và quyết tâm đổi mới của
các bên liên quan, đặc biệt là giữa bộ máy lãnh đạo doanh nghiệp và tập thể
ngƣời lao động là yếu tố căn bản tạo nên sự thành công của tiến trình CPH. Bên
cạnh đó, Tỉnh xác định, trong quá trình thực hiện cổ phần hóa, cần có sự điều
chỉnh hình thức sắp xếp doanh nghiệp một cách linh hoạt để phù hợp hơn với
tình hình thực tế. Nhận thức đó là cơ sở quan trọng để áp dụng các hình thức
cải cách khác hiệu quả hơn nhƣ: giao, bán, khoán, cho thuê, giải thể hay phá
sản, nếu doanh nghiệp đó không cổ phần hóa đƣợc.
Tỉnh chủ trƣơng tiến trình CPH vừa phải bảo đảm tiến độ, vừa phải đảm
bảo sự ổn định và phát triển của doanh nghiệp sau sắp xếp. Đó là cách để
tránh tình trạng chạy theo tiến độ mà không đảm bảo chất lƣợng nhƣ đã từng
xẩy ra tại nhiều địa phƣơng.
Trong khâu quản trị doanh nghiệp sau CPH, tỉnh chỉ đao: đối với các
doanh sau cổ phần còn vốn Nhà nƣớc, việc lựa chọn ngƣời trực tiếp quản lý
phần vốn nhà nƣớc cần cân nhắc kỹ, tránh tình trạng độc quyền (chọn 1
ngƣời) và phải kiểm tra theo dõi sát, thƣờng xuyên, nếu không đảm bảo yêu
cầu cần phải thay thế ngay.
Đối với các doanh nghiệp đã CPH, Thừa Thiên Huế luôn quan tâm xây
dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nƣớc về tài chính doanh nghiệp có đủ năng
lực chuyên môn và có tầm nhìn chiến lƣợc, hiểu biết kinh tế thị trƣờng, có tƣ
duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong thực thi công
63
vụ để giúp doanh nghiệp đủ sức cạnh tranh và tham gia quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Định kỳ một năm hai lần, Thƣờng trực Ban Đổi mới và Phát
triển Doanh nghiệp hoặc Lãnh đạo tỉnh tổ chức gặp gỡ, đối thoại với doanh
nghiệp để nghe phản ánh những khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình thực
thi. Nhờ đó, Tỉnh có đƣợc cơ sở thực tiễn sát thực để đƣa ra những biện pháp
tháo gỡ kịp thời, kể cả việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh nhƣ
giải quyết vấn đề lao động “dôi dƣ” hay định giá tài sản doanh nghiệp.
Với cách làm nhƣ trên, nên dù tiến hành CPH muộn nhƣng tiến trình
này vẫn đƣợc đẩy nhanh, đồng thời các vấn đề kinh tế, xã hội nảy sinh đƣợc
hạn chế hay giải quyết kịp thời hơn. Tính đến hết năm 2010, tỉnh Thừa Thiên
Huế đã sắp xếp, chuyển đổi đƣợc 73/73 DN (đạt 100%), trong đó cổ phần hóa
đạt 34 DN, chiếm 46,6%.
Qua sắp xếp số lƣợng DNNN ở tỉnh Thừa Thiên Huế đã giảm đáng kể,
nhất là các doanh nghiệp nhỏ, hoạt động kém hiệu quả. Ngƣợc lại, số lƣợng
các công ty cổ phần tại địa phƣơng tăng lên nhiều, trong đó phần lớn tiếp tục
hoạt động ổn định, các chỉ tiêu về số lƣợng và chất lƣợng đều khá tốt (bảng 2.1).
Bảng 2.1. Một số kết quả của các DN CPH của tỉnh Thừa Thiên - Huế
năm 2010
STT Chỉ tiêu Khi sắp xếp Năm 2010 So với trước
(tỷ đồng) (tỷ đồng) CPH (%)
1 Vốn điều lệ bq 01 DN 13,30 15 +12,8
2 Doanh thu bq 01 DN/năm 29,00 55 +89,6
3 Lãi bình quân 01 DN/năm 0,78 2,1 +156,4
4 Nộp NS bq 01 DN/năm 1,13 2 +76,9
Nguồn: UBND tính Thừa Thiên - Huế, năm 2010.
Qua quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên
Huế có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:
64
-. Chú trọng khâu phổ biến cho lãnh đạo và ngƣời lao động các doanh nghiệp
nắm vững, hiểu rõ các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về sắp xếp,
chuyển đổi nhằm hạn chế và khắc phục tâm lý chần chừ, chống đối CPH..
- Cổ phần hóa DNNN phải đảm bảo quyền làm chủ thực sự của các cổ
đông, trong đó có đông đảo ngƣời lao động để tạo động lực mạnh bên trong
doanh nghiệp. Ngoài ra, cũng cần mạnh dạn bán cổ phần ra ngoài để thu hút
vốn, chất xám của toàn xã hội nhất là các nhà đầu tƣ chiến lƣợc để tạo thêm
động lực phát triển doanh nghiệp.
- Phải khuyến khích và thúc đẩy quá trình lành mạnh hóa tình hình tài
chính trƣớc cổ phần hóa, làm rõ và có cơ chế thúc đẩy việc xử lý các khoản nợ;
bên cạnh đó phƣơng án SXKD sau cổ phần cũng phải có tính khả thi cao, bộ
máy lãnh đạo doanh nghiệp và tập thể ngƣời lao động cũng phải nhất trí, quyết
tâm đổi mới và phát triển doanh nghiệp.
- Phải linh hoạt điều chỉnh hình thức sắp xếp trong quá trình thực hiện,
quá trình cổ phần hóa, nếu doanh nghiệp có sự biến động lớn về tài chính...
không cổ phần hóa đƣợc thì chuyển ngay sang các hình thức khác (giao, bán,
giải thể, phá sản...)
- Sắp xếp, chuyển đổi DNNN nói chung và thông qua quá trình CPH nói
riêng đƣợc xác định là quá trình khó khăn, không thể thực hiện một cách nóng
vội. Do đó, quá trình này vừa phải bảo đảm tiến độ, vừa phải đảm bảo sự ổn
định và phát triển của doanh nghiệp sau sắp xếp, tránh khuynh hƣớng chạy
theo tiến độ mà không đảm bảo chất lƣợng của tiến trình CPH.
- Đối với các doanh sau cổ phần còn vốn Nhà nƣớc, việc lựa chọn ngƣời
trực tiếp quản lý phần vốn Nhà nƣớc cần cân nhắc kỹ, tránh tình trạng độc
quyền (chọn 1 ngƣời) và phải kiểm tra theo dõi sát, thƣờng xuyên, nếu không
đảm bảo yêu cầu cần phải thay thế ngay.
65
- Chú trọng nâng trình độ và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Cấp ủy,
đây là yếu tố quyết định đến việc nâng cao chất lƣợng sinh hoạt đảng ở doanh
nghiệp. Xây dựng tốt mối quan hệ giữa cấp ủy với chủ doanh nghiệp. Giải
quyết tốt mối quan hệ này là khâu then chốt để đảm bảo cho công tác xây
dựng Đảng trong doanh nghiệp.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nƣớc về tài chính doanh nghiệp
có năng lực chuyên môn và tầm nhìn chiến lƣợc, hiểu biết kinh tế thị trƣờng,
có tƣ duy đổi mới, có tâm sáng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
trong thực thi công vụ để giúp doanh nghiệp đủ sức cạnh tranh và tham gia
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Định kỳ một năm hai lần, Thƣờng trực Ban Đổi mới và Phát triển Doanh
nghiệp hoặc Lãnh đạo tỉnh tổ chức gặp gỡ, đối thoại với doanh nghiệp để nghe
phản ánh những khó khăn, vƣớng mắc cần tháo gỡ làm cơ sở điều chỉnh hoặc
xây dựng cơ chế chính sách liên quan đến doanh nghiệp cho phù hợp.
2.4.1.3 Kinh nghiệm của tỉnh Nam Định
Đến hết năm 2010, Nam Định đã cổ phần hóa đƣợc 50 DNNN. Số
lƣợng các DNNN đƣợc CPH chƣa nhiều, quy mô vốn bình quân của doanh
nghiệp còn nhỏ, thời gian hoạt động chƣa lâu. Tuy vậy, hiệu quả hoạt động
của các DN sau CPH bƣớc đầu đƣợc cải thiện, thể hiện ở các mặt sau:
Một là, sở hữu nhà nƣớc bƣớc đầu đƣợc cấu trúc lại theo yêu cầu phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần. Qua việc bán cổ phiếu, Nhà nƣớc thu hồi
đƣợc một lƣợng vốn quan trọng vào ngân sách nhà nƣớc để đầu tƣ trở lại các
doanh nghiệp và giải quyết một số chính sách cho ngƣời lao động.
Hai là, Sự thay đổi trong cấu trúc sở hữu đã tạo ra động lực mới cho sự
thay đổi trong bộ máy quản lý và phƣơng thức quản trị DN, đồng thời tạo ra
cơ chế kiểm soát có hiệu quả của ngƣời lao động đối với doanh nghiệp. Nhờ
đó nhiều doanh nghiệp tiết kiệm đƣợc chi phí sản xuất, tăng năng suất lao
66
động. Cụ thể: các CTCP trên địa bàn tỉnh Nam Định bình quân giảm đƣợc chi
phí khoảng 20%. Ở một số công ty cổ phần nhƣ: CTCP dây lƣới thép Nam
Định; CTCP vận tải ô tô Nam Định, CTCP xây dựng hạ tầng Thành Công;
CTCP dệt may Sơn Nam..., giá thành sản phẩm đã giảm đƣợc 50% so với
trƣớc khi CPH,
Ba là, hình thành cơ chế phân phối mới theo hƣớng phát huy các nguồn
lực trong điều kiện nền KTTT và hội nhập quốc tế: Ngƣời lao động trong
doanh nghiệp có quyền đƣợc mua cổ phiếu và trở thành cổ đông nên quan hệ
của họ với doanh nghiệp thể hiện ở 2 tƣ cách: Ngƣời làm thuê cho doanh
nghiệp và ngƣời làm chủ doanh nghiệp. Do vậy ngoài tiền lƣơng họ còn nhận
đƣợc thu nhập dƣới hình thức lợi tức cổ phần. Điều này khiến họ quan tâm
hơn đến sự sống còn và phát triển của doanh nghiệp. Qua các doanh nghiệp
hình thành từ CPH DNNN cho thấy: ở CTCP xây dựng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Nam Định; CTCP xây dựng Nam Định; CTCP dƣợc Nam Hà;
CTCP đóng tàu sông Đào Nam Hà; CTCP dây lƣới thép Nam Định; CTCP
Bạch Đằng,... mức thu nhập bình quân hàng tháng của ngƣời lao động tăng từ
800.000 lên 2.500.000đ/ngƣời /tháng (tăng 3,1 lần). Ở các doanh nghiệp còn
lại, mức tăng bình quân là 1.5 lần.
Tuy nhiên quá trình CPH DNNN ở Nam Định cũng đã nảy sinh một số
vẫn đề kinh tế - xã hôi sau:
*Sự chuyển đổi cấu trúc sở hữu ở một số doanh nghiệp không tạo ra sự
thay đổi rõ rệt về bộ máy quản lý và phương thức quản trị doanh nghiệp,
người lao động khó trở thành người chú thực sự của các doanh nghiệp sau
CPH
Những doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN mà nhà nƣớc là cổ
đông lớn ( vốn của nhà nƣớc 30% hoặc 51%) vẫn còn nặng về hoạt động theo
cơ chế xin - cho nên việc điều hành hoạt động của doanh nghiệp hết sức khó
khăn và ách tắc. Bộ máy quản lý từ chủ tịch hội đồng quản trị, ban giám đốc
67
đến các phòng, ban phân xƣởng sản xuất về cơ bản đƣợc chuyển từ DNNN
sang, chƣa tiếp cận đƣợc với phƣơng thức quản lý mới, nên chỉ đạo điều hành
sản xuất, kinh doanh ở các doanh nghiệp này còn nhiều lúng túng. Cá biệt có
Giám đốc điều hành, chủ tịch Hội đồng quản trị không tôn trọng cả điều lệ
công ty đã gây ra sự mất đoàn kết trong nội bộ.
Ngoài ra, cán bộ quản lý điều hành ở các doanh nghiệp có trình độ học
vấn, chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, thụ động khả năng thích ứng và tiếp
cận phƣơng hƣớng hiện đại với công nghệ còn ở mức thấp, hoạt động quản lý
điều hành chủ yếu theo kinh nghiệm, ngại va chạm và chậm đổi mới.
Thực tế ở các doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN trên địa bàn
tỉnh Nam Định thì tỷ trọng cổ phần bán cho ngƣời lao động trong doanh
nghiệp chiếm khoảng 70% vốn điều lệ, phần bán cho cổ đông ngoài doanh
nghiệp chỉ đạt xấp xỉ 10%. Cùng với cổ phần hóa cơ bản khép kín, ở nhiều
công ty cổ phần, Nhà nƣớc vẫn còn nắm một tỷ lệ lớn vốn cổ phần ( thƣờng
từ 60% đến 80%). Thực tiễn này cho thấy sự bất cập của Tỉnh trong việc đối
diên với vấn đề chuyển đổi cấu trúc sở hữu trong tiến trình CPH.
Tại một số CTCP, ngƣời lao động đồng thời là cổ đông, một phần do
nhận thức chƣa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình hay sự hiểu biết pháp
luật về CTCP còn hạn chế, một phần do quá nghèo nên buộc phải chuyển
nhƣợng cổ phần cuả mình cho ngƣời khác, do đó mất quyền làm chủ công ty.
Hậu quả là ở một số doanh nghiệp sau CPH, kết quả sản xuất kinh
doanh giảm sút so với trƣớc khi CPH. Đây thƣờng là các DN hoạt động trong
một số ngành, lĩnh vực khó khăn, công nghệ sản xuất lạc hậu, sản phẩm thiếu
sức cạnh tranh, trình độ tổ chức lãnh đạo yếu kém. Số doanh nghiệp này
chiếm tới 5% - 7% so với số doanh nghiệp đã đƣợc thực hiện CPH DNNN,
trong đó có: CTCP vật liệu xây lắp Nam Định, CTCP Dệt may Mỹ nghệ xuất
khẩu, CTCP Chế biến hải sản Nam Định...
68
* Nhiều vướng mắc xảy ra đối với người lao động trong các DNNN khi
CPH, đặc biệt là ở các DN sau CPH làm ăn thua lỗ.
Một trong những khó khăn nhất của vấn đề chuyển đổi DNNN là xử lý
các vấn đề xã hội gắn với đội ngũ cán bộ, công nhân đã gắn bó nhiều năm với
doanh nghiệp. Về mặt quyền lợi, những cán bộ, công nhân các DNNN đang
hƣởng chế độ lƣơng và bảo hiểm có nhiều ƣu việt hơn so với các loại hình
khác, đặc biệt trong trƣờng hợp doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Trong khi đó,
việc đóng góp bảo hiểm xã hội cho ngƣời lao động ở các doanh nghiệp hình
thành từ CPH DNNN còn nhiều bất cập do các cơ quan quản lý nhà nƣớc
thiếu văn bản hƣớng dẫn phù hợp.
Nhiều cán bộ, công nhân đã cao tuổi sẽ không đáp ứng yêu cầu kinh
doanh khi DNNN đƣợc chuyển đổi thành CTCP. Trong bối cảnh trên, khi vấn
đề giải quyết lao động dôi dƣ ở một số CTCP chƣa đƣợc quan tâm đúng mức
thì rõ ràng quá trình CPH DNNN gây ra những bức xúc xã hội không nhỏ.
Bên cạnh một số doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN kinh doanh
có hiệu quả, có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, thu hút thêm lao động, có
không ít doanh nghiệp kinh doanh sa sút, dẫn tới thừa lao động. Trong trƣờng
hợp này, do thiếu sự hỗ trợ cần thiết từ phía nhà nƣớc, các doanh nghiệp này
không có đủ điều kiện vật chất để giải quyết những vấn đề mang tính xã hội (
trợ cấp, tìm việc mới...) liên quan đến những ngƣời bị mất việc. Tính ƣu việt
của CPH DNNN không đƣợc phát huy, tiến trình CPH tiếp theo sẽ gặp nhiều
trở ngại.
* Thu nhập của người lao động tăng chậm:
Nhìn chung, mặc dù ở nhiều doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN
kết quả kinh doanh (doanh thu, lợi nhuận…) ít nhiều đƣợc cải thiện, thu nhập
bình quân ngƣời lao động cũng nhƣ mức đóng góp cho NSNN gia tăng, song
tốc độ tăng của hai chỉ tiêu sau cùng còn thấp, chƣa tƣơng xứng với phát triển
công ty. Điều đó đƣợc thể hiện ở bảng sau:
69
Bảng 2.2: So sánh tỷ lệ tăng thu nhập của ngƣời lao động và tăng lợi
nhuận của 3 CTCP.
STT TÊN CTCP Thời gian Tỷ lệ tăng Tỷ lệ tăng Tỷ lệ tăng
hoạt động về nộp lợi nhuận thu nhập
của CTCP NSNN của NLĐ
1 CTCP Dây lƣới 11 năm 16% 534% 23%
thép NĐ
2 CTCPDệt may 6 năm 20% 488% 17%
Sơn Nam
3 CTCP 6 năm 4% 153% 10%
NADIMEX
Nguồn: báo cáo của UBND tỉnh Nam Định năm 2009
Bảng 2.2 cho thấy, ở CTCP Dây lƣới thép nam Định, sau 11 năm hoạt
động tỷ lệ tăng lợi nhuận đạt 534% trong khi đó mức tăng thu nhập của ngƣời
lao động chỉ đạt 23% và các nộp ngân sách nhà nƣớc chỉ tăng 16%. Ở CTCP
dệt may Sơn Nam sau 6 năm hoạt động tỷ lệ tăng lợi nhuận là 488%, tỷ lệ
tăng thu nhập của ngƣời lao động là 17%,...Nhƣ vậy lợi ích thu đƣợc từ thành
quả kinh doanh của các công ty này chủ yếu rơi vào những ngƣời sở hữu công
ty, trong đó có một số ngƣời lao động với tƣ cách là cổ đông, còn đời sống
của số đông ngƣời lao động tuy đƣợc cải thiện, song không đáng kể.
* Quan hệ của các cổ đông và CTCP cũng chưa được ràng buộc rõ
ràng, minh bạch, quyền và nghĩa vụ của cổ đông với tư cách là chủ của công
ty chưa đựợc thực hiện đầy đủ,
Qua khảo sát cho thấy: ở nhiều công ty chƣa có các cuộc hội thảo theo
chuyên đề, các hội nghị và các diễn đàn thực sự để ngƣời lao động với tƣ cách
là cổ đông bày tỏ quan điểm và đƣa ra tiếng nói dân chủ thực sự của mình
trƣớc các vấn đề của doanh nghiệp, nên đã gây ra ức chế, mất đoàn kết trong
nội bộ một số ít công ty. Bên cạnh đó hoạt động của các tổ chức chính trị, xã
70
hội ở các doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN còn nhiều hạn chế, lúng
túng, chƣa phát huy vai trò khả năng của mình. Ngoài ra nhiều doanh nghiệp
do chạy theo lợi nhuận mà bỏ qua hoặc coi nhẹ vấn đề bảo vệ môi trƣờng.
2.4.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra cho tỉnh Thanh Hóa
Từ kinh nghiệm CPH và giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội đặt ra cho
quá trình CPH tại một số địa phƣơng, có thể rút ra một số bài học mà tỉnh
Thanh Hóa có thể tham khảo, áp dụng nhƣ sau:
Thứ nhất, muốn CPH DNNN thành công, các vấn đề kinh tế - xã hội nảy
sinh đƣợc hạn chế và tháo gỡ hiệu quả, chƣơng trình, kế hoạch CPH phải
đƣợc hoạch định bài bản nhƣ là bộ phận của chƣơng trình cơ cấu lại khu vực
doanh nghiệp nhà nƣớc nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Phải trên cơ sở
định vị lại vai trò của khu vực kinh tế nhà nƣớc để mở rộng diện DNNN phải
cổ phần hoá. Các DN CPH phải đƣợc hỗ trợ một cách nhất quán và phù hợp.
Đồng thời, CPH DNNN phải đƣợc thực hiện từng bƣớc, đối tƣợng cổ phần
hóa phải là doanh nghiệp hoạt động có tiềm năng để tránh việc xóa nợ hợp
pháp cho những DNNN làm ăn thua lỗ kéo dài, nợ xấu nhiều.
Thứ hai, phải coi trọng công tác tuyên truyền nhằm tác động vào nhận
thức của các đối tƣợng có liên quan đến quá trình CPH, và hạn chế các bất
đồng, chống đối CPH dƣới các hình thức khác nhau trên cơ sở sự đồng thuận
về lợi ích dài hạn chung. Bên cạnh đó, phải có sự ràng buộc trách nhiệm đối
với lãnh đạo các doanh nghiệp thuộc diện CPH trong việc chấp hành đề án
và kế hoạch CPH đã đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ và Chủ tịch UBND tỉnh phê
duyệt, chủ động tập trung xử lý dứt điểm những vấn đề tồn đọng trong quá
trình CPH để triển khai thực hiện tốt các bƣớc công việc của CPH. Thực tế
cho thấy ở hầu hết các DNNN, ngƣời lao động không thể tự khởi xƣớng
cũng nhƣ không thể phản đối hoặc cản trở việc CPH, nếu nhƣ giám đốc và
cơ quan chủ quản đã khởi xƣớng và phát động. Vì vậy, có thể thấy rằng
CPH có hiệu quả cao hay thấp, tiến độ nhanh hay chậm phụ thuộc chủ yếu
71
vào vai trò của chính lãnh đạo các doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản.
Thứ ba, cần có sự phối hợp giữa các ngành, các cấp và phân công trách
nhiệm cụ thể, rõ ràng trong việc tổ chức triển khai kế hoạch CPH DNNN.
Lãnh đạo tỉnh cần thƣờng xuyên đôn đốc, hƣớng dẫn, kiểm tra các doanh
nghiệp thực hiện CPH theo phƣơng án và kế hoạch đã đƣợc phê duyệt; kịp
thời phát hiện và cùng với doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn, vƣớng mắc
trong quá trình CPH DNNN để đề xuất, kiến nghị với cơ các quan nhà nƣớc
có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
Thứ tư, phải tập trung chỉ đạo xử lý dứt điểm những vấn đề tồn đọng về
tài chính doanh nghiệp trƣớc khi chuyển đổi, nhất là các khoản công nợ tồn
đọng, kéo dài. Đây là yếu tố rất quan trọng trong quy trình sắp xếp, đổi mới
doanh nghiệp Nhà nƣớc. Trên thực tế những doanh nghiệp chấp hành tốt công
tác quản lý vốn và tài sản, chủ động xử lý tốt các khoản công nợ tồn đọng,
làm lành mạnh hóa tình trạng tài chính doanh nghiệp trƣớc khi CPH sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho khâu xác định giá trị doanh nghiệp, rút ngắn đƣợc thời
gian trong quá trình CPH và thƣờng tạo đƣợc hiệu quả SXKD cao sau CPH.
Mặt khác, phải hoàn thiện thể chế tạo hành lang pháp lý công bằng cho
các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc, giảm bớt các thủ tục hành chính, kết hợp
với các biện pháp giải quyết vấn đề xã hội. Kết hợp chặt chẽ giữa cổ phần hóa
và công ty hóa nhằm khắc phục tình trạng cổ phần hóa trên hình thức.
Thứ năm, phải mạnh dạn bán hết phần vốn Nhà nƣớc tại doanh nghiệp cổ
phần hóa thuộc diện Nhà nƣớc không cần nắm giữ cổ phần chi phối cũng nhƣ
tránh tình trạng CPH theo kiểu khép kín, nội bộ hóa nhằm tạo ra sự thay đổi thực
sự, đúng hƣớng trong cấu trúc sở hữu của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, những
doanh nghiệp cổ phần hóa không còn vốn Nhà nƣớc tham gia thì hiệu quả SXKD
thƣờng cao hơn đối với những doanh nghiệp còn vốn Nhà nƣớc. Mặt khác, nếu
còn vốn nhà nƣớc tham gia tại doanh nghiệp thì phải cử ngƣời đại diện quản lý
phần vốn Nhà nƣớc, đồng thời phải quy định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của
72
ngƣời đại diện phần vốn Nhà nƣớc tại các DN CPH. Hiện nay do ngƣời đại diện
quản lý phần vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp thƣờng kiêm nhiệm nên việc quản lý
còn nhiều hạn chế, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đặt ra.
Thứ sáu, phải coi trọng công tác tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp,
vì đây là nhân tố quyết định đến chất lƣợng, hiệu quả sắp xếp, đổi mới
DNNN. Qua thực tế những doanh nghiệp có ngƣời quản lý giỏi thì tiếp tục đổi
mới, phát triển và mang lại hiệu quả sau khi chuyển đổi. Vì vậy, phải thƣờng
xuyên chăm lo đến việc xây dựng đội ngũ viên chức lãnh đạo doanh nghiệp,
phải lựa chọn đƣợc những ngƣời thực sự có đủ năng lực và phẩm chất, đáp
ứng yêu cầu đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp Nhà nƣớc sau CPH. Cần mạnh dạn thực hiện chế độ thi tuyển
các chức danh lãnh đạo công ty và thuê giám đốc.
Thứ bảy, khi có những vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh phải làm rõ nguyên
nhân, thống nhất quan điểm chi đạo để giải quyết tận gốc các vấn đề, tạo đƣợc sự
hài hòa về lợi ích của doanh nghiệp, nhà nƣớc và ngƣời lao động.
73
Kết luận Chƣơng 2
Trong nền kinh tế thị trƣờng, các DNNN vẫn đóng giữ một vai trò quan
trọng nhất định trong toàn bộ cơ cấu tổng thể của nền kinh tế. Tuy nhiên, ở
những nƣớc mà khu vực DNNN quá lớn, nhiều DNNN thƣờng hoạt động
không hiệu quả thì cần đƣợc chuyển đổi hình thức sở hữu và tổ chức sản xuất
kinh doanh, trong đó CPH là giải pháp hữu hiệu đƣợc nhiều nƣớc lựa chọn.
CPH một bộ phận các DNNN này chính là phƣơng thức để tạo ra sự cân
bằng hơn giữa khu vực công và khu vực tƣ, nhằm tăng cƣờng hiệu quả của cả
nền kinh tế vốn dĩ về cơ bản đƣợc vận hành theo các nguyên tắc thị trƣờng. Sự
cần thiết của quá trình cổ phần hóa bắt nguồn từ chính những hạn chế, yếu
kém của các DNNN khi chúng phải chuyển phƣơng thức hoạt động từ cơ chế
kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trƣờng. Cổ phần hóa các DNNN
là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của
chính khu vực các DNNN cũng nhƣ của cả nền kinh tế.
Song cổ phần hóa các DNNN là một quá trình phức tạp, trong đó
thƣờng nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội cần giải quyết nhằm biến nó
thành một quá trình không thể đảo ngƣợc. Ở đây luôn tiềm ẩn những mối xung
đột lợi ích giữa các nhóm xã hội khác nhau. Có những lực lƣợng xã hội đƣợc
hƣởng lợi từ việc duy trì hình thức và vị thế của các DNNN, và họ ngấm ngầm
hay công khai, sẵn sàng tìm cách ngăn trở tiến trình cổ phần hóa. Có những
nhận thức khác nhau về vị trí của khu vực DNNN trong nền kinh tế thị trƣờng,
khiến cho việc lựa chọn các DNNN phải cổ phần hóa hay tỷ lệ vốn nhà nƣớc
phải nắm giữ sau cổ phần hóa không bao giờ là dễ dàng. Việc định giá doanh
nghiệp cũng nhƣ giải quyết các di sản do DNNN để lại trƣớc khi cổ phần hóa
trở nên khó khăn hơn nếu không có các thiết chế thị trƣờng và pháp luật có
liên quan yểm trợ, nhất là những hoạt động này thƣờng đụng chạm và có liên
quan đến lợi ích khác nhau của các chủ thể có liên quan.
74
Việc xử lý các vấn đề phức tạp nảy sinh từ tiến trình cổ phần hóa
DNNN phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó nhà nƣớc luôn đóng
giữ một vai trò quan trọng, chi phối. Việc xây dựng một kế hoạch và lộ trình
cổ phần hóa phù hợp, khoa học gắn liền với việc hoàn thiện môi trƣờng pháp
lý và chính sách, phát triển các thể chế thị trƣờng , tăng cƣờng năng lực của
bộ máy nhà nƣớc.. là tiền đề quan trọng để các vấn đề nảy sinh đƣợc giải
quyết, qua đó quá trình cổ phần hóa đƣợc thúc đẩy thành công.
75
Chƣơng 3
TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ - XẪ
HỘI ĐẶT RA TỪ QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH
NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở TỈNH THANH HÓA
3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và DNNN của Thanh Hóa ảnh
hƣởng đến quá trình CPH DNNN .
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội.
Thanh Hóa là tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, có diện tích tự nhiên là 11.134,73km2,
chiếm 3,36% diện tích toàn quốc, đứng thứ 5 trong 63 tỉnh thành phố. Thanh Hóa nằm ở 19018 - 20000 vĩ độ bắc, 104022 - 106004 kinh độ đông, phía Bắc
giáp 3 tỉnh Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình với đƣờng ranh giới dài 175km, phía
Nam và Tây Nam giáp với tỉnh Nghệ An, với đƣờng ranh giới hơn 160km; phía
Tây Nam giáp với tỉnh Hủa Phăn của nƣớc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào,
với đƣờng biên giới dài 192km; phía Đông giáp với Vịnh Bắc Bộ, với đƣờng bờ
biển dài 102km. Địa hình của tỉnh Thanh Hóa nghiêng dốc và kéo dài từ Tây
Bắc xuống Đông Nam; đồi núi chiếm 3/4 diện tích của cả tỉnh.
Thanh Hóa nằm ở cửa ngõ giao lƣu giữa Bắc Bộ và Trung Bộ và vùng kinh
tế trọng điểm Bắc Bộ, đồng thời nằm trên các tuyến giao lƣu quan trọng của hệ
thống đƣờng quốc tế và quốc gia nhƣ: Tuyến đƣờng sắt thống nhất, quốc lộ 1A,
quốc lộ 10; đƣờng 15A và đƣờng Hồ Chí Minh xuyên suốt vùng Trung du miền
núi của tỉnh; có đƣờng 215 nối Thanh Hóa với tỉnh Hủa Phăn của Lào. Tỉnh có
các cửa khẩu nhƣ Na Mèo, TénTần, trong đó cửa khẩu Na Mèo đƣợc quy hoạch
xây dựng thành khu kinh tế cửa khẩu thời kỳ 2008-2015 (Quyết định số
52/2005/QĐ-CO ngày 25 tháng 4 năm 2005 của Thủ tƣớng Chính phủ). Đây là
lợi thế lớn để phát triển kinh tế cửa khẩu, mở rộng hợp tác và giao lƣu thƣơng
mại quốc tế với các tỉnh Bắc Lào, Đông Bắc Thái Lan và các vùng lân cận thông
qua hệ thống các tuyến đƣờng xuyên Á trong khu vực.
76
Tài nguyên thiên nhiên của Thanh Hóa: Rừng và nghề rừng vốn là thế
mạnh của tỉnh. Toàn tỉnh có 710.000 ha rừng và đất rừng chiếm 63% tổng
diện tích tự nhiên. Thanh Hóa cũng có nguồn khoáng sản khá đa dạng với 42
loại khác nhau, nhiều loại có trữ lƣợng lớn so với cả nƣớc nhƣ: đá vôi xi
măng, đá ốp lát, sét làm xi măng, gạch ngói, crôm, secpentin, đôlômit...
Thanh Hóa là tỉnh đất rộng, ngƣời đông, với dân số năm 2011 là 3.406.805
ngƣời và có 7 dân tộc anh em sinh sống, là một tỉnh chƣa thực sự phát triển, kinh
tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp; công nghiệp chƣa phát triển, dịch vụ và giao
lƣu hàng hóa chậm phát triển. Phần lớn dân cƣ sống ở vùng nông thôn.
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng; Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI nhiệm kỳ 2005-2010, Thanh Hóa đã
từng bƣớc phát triển kinh tế một cách toàn diện trên các lĩnh vực nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ, thực hiện xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm
cho ngƣời lao động. Cơ cấu kinh tế của tỉnh đƣợc chuyển dịch theo hƣớng
tích cực, ngày càng phù hợp với tiềm năng, lợi thế của tỉnh và nhu cầu của thị
trƣờng. Trong tổng sản lƣợng, tỷ trọng của các ngành nông, lâm, ngƣ nghiệp
giảm dần (từ 38,5% năm 2001 xuống còn 23,7% năm 2011), tỷ trọng các
ngành công nghiệp và dịch vụ tăng dần (chẳng hạn, tỷ trọng công nghiệp và
xây dựng tăng từ 27,9% năm 2001 lên thành 41,9% năm 2011; dịch vụ tăng từ
33,6% năm 2001 lên 34,4% năm 2011
Bảng 3.1. Tỷ trọng cơ cấu kinh tế của tỉnh Thanh Hóa
Năm
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Chỉ tiêu
Nông, lâm thủy sản
38,5 36,8 35,4 33,6 32,3 30,4 28,6 29,9 27,0 24,1 25,6
Công nghiệp - xây dựng 27,9 29,8 31,6 33,3 34,6 35,1 36,6 36,0 38,5 41,5 40,4
Dịch vụ - thƣơng mại
33,6 33,4 33,0 33,1 33,1 34,5 34,8 34,1 34,5 34,4 34,0
Nguồn: Niên giám thống kê Thanh Hóa năm 2012.
Đơn vị tính: %
77
Trong sản xuất nông nghiệp, ngƣời dân đã biết chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi cho phù hợp với điều kiện của mỗi vùng, thay đổi mùa vụ để
tránh thiên tai và thiệt hại mùa màng. Cùng với sự phát triển của cơ chế thị
trƣờng, ngƣời dân đã thay đổi tƣ duy, biết tận dụng lợi thế của từng vùng,
từng loại giống cây trồng, vật nuôi để phát triển sản xuất hàng hóa.
Trong công nghiệp và xây dựng đã có bƣớc tăng trƣởng khá, công
nghiệp chế biến tăng đáng kể. Cùng với việc khai thác tốt hơn tiềm năng về
tài nguyên thiên nhiên, điều đó đã tạo ra thêm nhiều việc làm, thu hút thêm
nhiều lao động vào các hoạt động kinh tế trong Tỉnh.
Lĩnh vực thƣơng mại du lịch và dịch vụ đã đƣợc mở rộng và đạt tốc độ
tăng trƣởng khá; đáng chú ý trong ngành du lịch có lợi thế thiên nhiên ban
tặng là bãi biển Sầm Sơn, một trong những bãi tắm lý tƣởng trong nƣớc, thu
hút lƣợng du khách đến nghỉ mát, tắm biển năm sau cao hơn năm trƣớc, đóng
góp ngày càng lớn vào tăng trƣởng GDP của tỉnh. Khu du lịch suối cá Cẩm
Lƣơng (Cẩm Thủy), khu di tích Lam Kinh đƣợc đầu tƣ xây dựng và tôn tạo;
di tích thành nhà Hồ đƣợc công nhận di sản văn hóa thế giới... đang mở ra
triển vọng của ngành du lịch Thanh Hóa.
Kết cấu hạ tầng ngày càng đƣợc cải thiện; hệ thống giao thông đƣợc xây
dựng và nâng cấp, hàng loạt công trình xây dựng đƣợc hoàn thành, đã làm
thay đổi bộ mặt các đô thị và vùng nông thôn trong tỉnh.
Kinh tế luôn duy trì tốc độ tăng trƣởng khá, năm sau cao hơn năm trƣớc.
Tăng trƣởng kinh tế bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2012 đạt 11,3% cao
hơn giai đoạn 2001-2005.
Bảng 3.2. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế Thanh Hóa 2006-2012 (%)
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Nguồn: Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa năm 2012.
10,2 10,5 11,3 10,8 13,7 12,3 11,8
78
Thu nhập bình quân đầu ngƣời đƣợc tăng lên, đời sống nhân dân đƣợc cải
thiện, năm 2002 thu nhập bình quân đầu ngƣời đạt 224.000 đồng/ngƣời/tháng,
đến năm 2011 đạt 867 nghìn đồng/ngƣời/tháng, năm 2012 đạt 1350 nghìn
đồng/ngƣời/tháng.
Đơn vị tính: nghìn đồng
Bảng 3.3. Thu nhập bình quân đầu ngƣời/tháng giai đoạn 2002-2012
Năm 2002 2004 2006 2008 2010 2012
Trung bình 224,0 311,1 395,0 604,7 867,0 1350
Thành trị 240,0 625,3 788,4 1.215,4 1.461,0 1.571,0
Nguồn: Niên giám thống kê Thanh Hóa 2012
Nông thôn 204,2 277,2 351,3 535,8 792,0 1219
Cùng với sự tăng trƣởng kinh tế, các lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn
hóa, giáo dục, y tế và các hoạt động xã hội có chuyển biến tích cực, an sinh xã
hội đƣợc chăm lo, đời sống nhân dân không ngừng đƣợc cải thiện. Tỷ lệ hộ
nghèo giảm từ 34,71% năm 2005 xuống 12,85% năm 2011.
Trong thời gian tới, Thanh Hóa sẽ tập trung phát triển kinh tế - xã hội
nhanh, hiệu quả và bền vững; tạo sự chuyển biến căn bản về chất lƣợng tăng
trƣởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, phấn đấu đến 2020 trở thành tỉnh
công nghiệp có cơ cấu kinh tế hợp lý, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
đƣợc phát triển đồng bộ, hiện đại; đồng thời là một trong những trung tâm
kinh tế, giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục thể thao, khoa học - kỹ thuật của vùng
Bắc Trung Bộ và cả nƣớc.
3.1.2. Đặc điểm DNNN của Thanh Hóa trước cổ phần hóa
Cũng nhƣ các DNNN ở nƣớc ta trƣớc đây, DNNN ở Thanh Hóa đƣợc ra
đời trong bối cảnh nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, nên
số lƣợng DNNN phát triển quá nhanh. Tính đến 31/12/1984 toàn tỉnh có 454
DNNN. Hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các DNNN ở Thanh Hóa trƣớc khi
cổ phần hóa là rất thấp. Nhiều doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà
79
nƣớc rất thấp, thậm chí thua lỗ, sức cạnh tranh kém. Nguyên nhân chính của
việc thua lỗ là do sử dụng nguyên vật liệu cao hơn định mức, lãng phí trong
quá trình sản xuất, sản phẩm hƣ hỏng nhiều, chi phí tiền lƣơng tăng, nhu cầu
vốn cho mở rộng sản xuất tăng, dẫn đến chi phí lãi vay chiếm tỷ trọng lớn
trong giá thành sản phẩm.
Sau 10 năm tổ chức sắp xếp lại DNNN theo Quyết định 315, Nghị định
388, Chỉ thị 500 của Thủ tƣớng Chính phủ, đến 31/12/1994 toàn Tỉnh còn 136
DNNN (trong đó Tỉnh quản lý 128, Huyện quản lý 8).
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN thấp dẫn đến nhiều doanh
nghiệp thua lỗ và nợ khó đòi.
Bảng 3.4: Số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và nợ khó đòi
(tính đến 1/1/1995) Đơn vị tính: Triệu đồng
TT
Tên doanh nghiệp
Tiền thua lỗ Nợ khó đòi Mất vốn
1
Công ty thuốc lá
7.700
2
Thuỷ sản
5.900
3.000
3
Công ty điện
800
4
Công ty phân lân
3.700
5
Công ty thuỷ lợi 1
3.400
14.000
6
Công ty thuỷ nông sông Chu
1.700
7
Công ty Điện lực
817
8
Công ty Điện máy
243
9
Xí nghiệp đông lạnh xuất khẩu
311
10
Công ty nông sản thực phẩm
783
Nguồn: Báo cáo tình hình, tài chính doanh nghiệp - Cục quản lý vốn và tài
sản nhà nước tại doanh nghiệp Thanh Hoá năm 1995
Đến tháng 10/2001 trƣớc khi có NQ TW3 khoá IX của Đảng về tiếp sắp
xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nƣớc, toàn
Tỉnh còn 101 DNNN do Tỉnh quản lý. Trong năm 2001 có 52 doanh nghiệp
80
kinh doanh có lãi là 15,568 triệu đồng, 21 doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ
9.649 triệu đồng, lỗ luỹ kế của các DNNN đến cuối 2001 là 119.862 triệu
đồng, nợ khó đòi khoảng 40 tỷ đồng
3.2.Tình hình, kết quả thực hiện CPH DNNN ở Thanh Hóa.
3.2.1. Các giai đoạn triển khai thực hiện cổ phần hóa các DNNN
Quá trình CPH DNNN ở Thanh Hóa đƣợc thực hiện từ năm 1998 đến nay:
- Giai đoạn thí điểm từ năm 1998 đến 2000: Trên cơ sở sắp xếp phân
loại DNNN theo chỉ thị số 20/1998/CT-TTG ngày 24/4/1998 của Thủ tƣớng
Chính phủ, căn cứ vào tình hình thực tế các DNNN của tỉnh, giai đoạn 1998 -
2000 UBND tỉnh Thanh Hoá đã quyết định chọn 25 DNNN để CPH. Hầu hết
các doanh nghiệp đƣợc chọn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang làm ăn có
lãi hoặc trƣớc mắt đang gặp khó khăn nhƣng triển vọng tốt. Kết quả 18
DNNN đã đƣợc CPH.
- Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hoá từ năm 2001 đến nay: Trên cơ sở sơ
kết công tác CPH giai đoạn 1998 - 2000 và quán triệt NQTW lần thứ 3 (khoá
IX), thực hiện các Nghị định 64, Nghị định 103 và Quyết định số 292/QĐ-
TTg, ngày 18/3/2003 của Thủ Tƣớng Chính phủ về việc phê duyệt phƣơng án
tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2003 - 2005 và
giai đoạn 2005 - 2009, công văn số 1959/ TTg - ĐMDN, ngày 27 tháng 10
năm 2011 về phƣơng án sắp xếp, đổi mới DNNN thuộc UBND tỉnh Thanh
Hóa giai đoạn 2011 - 2015, tính đến tháng 31/12/2014 toàn Tỉnh đã CPH
đƣợc 98 doanh nghiệp, trong đó có 24 doanh nghiệp cổ phần bộ phận; giao,
bán khoán, cho thuê 06 doanh nghiệp, sáp nhập, hợp nhất 24 doanh nghiệp,
giải thể, phá sản 02 doanh nghiệp.
3.2.2. Một số kết quả và nhận xét chung.
- Về tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nƣớc cơ bản hoàn thành
theo lộ trình của Chính phủ giao.
- Về cơ cấu các DNNN đƣợc cổ phần hóa,
81
+ Ngành công nghiệp 34 doanh nghiệp = 34,6% tổng các doanh nghiệp đã CPH
+ Ngành xây dựng 18 doanh nghiệp = 18,3% tổng các doanh nghiệp đã CPH
+ Ngành giao thông 12 doanh nghiệp = 12,2% tổng các doanh nghiệp đã CPH
+ Ngành thƣơng mại 07 doanh nghiệp = 7,1% tổng các doanh nghiệp đã CPH
+ Ngành thủy sản 08 doanh nghiệp = 8,1% tổng các doanh nghiệp đã CPH
+ Ngành nông nghiệp 11 doanh nghiệp = 11,2% tổng các doanh nghiệp
đã CPH
+ Các ngành khác 08 doanh nghiệp = 8,1% tổng các doanh nghiệp đã CPH
- Về những thay đổi trong hoạt động của các DN sau cổ phần hoá:
+ Cấu trúc sở hữu và bộ máy quản lý
Qua khảo sát và nghiên cứu ở 80 doanh nghiệp đã cổ phần hóa (CPH) từ
năm 2001 đến 31/12/2014 cho thấy: tổ chức bộ máy của các DN đƣợc sắp xếp
gọn nhẹ hơn, nhờ đó giảm đƣợc 50% lao động gián tiếp so với trƣớc khi CPH.
Nhiều doanh nghiệp đã giảm từ 40 đến 50% lao động trực tiếp nhƣ: CTCP
Quản lý đƣờng bộ 2 Thanh Hóa (50,8)%, CTCP Quản lý và xây dựng đƣờng
bộ 1 Thanh Hóa (45,8%), CTCP Quản lý thủy nội địa và xây dựng Thanh Hóa
(40%). Các công ty đã chú trong hơn trong việc đầu tƣ nâng cao chất lƣợng
nguồn nhân lực và xây dựng nhà xƣởng, đổi mới công nghệ, điển hình nhƣ:
CTCP Xây lắp Điện lực Thanh Hóa 12 năm qua đầu tƣ thêm 250 tỷ đồng;
CTCP Thƣong mại Thiệu Yên 14 năm qua đã đầu tƣ 150 tỷ đồng; CTCP Vật
tƣ y tế trong 13 đầu tƣ 120 tỷ đồng; CTCP Dạ Lan 14 năm đầu tƣ 130 tỷ
đồng; CTCP Dƣợc vật tƣ y tế 12 năm đầu tƣ 100 tỷ đồng...
+ Phản ứng chiến lƣợc của doanh nghiệp sau cổ phần hóa: Đa số các
CTCP đều đã xác định lại đƣợc lĩnh vực kinh doanh chính yếu, các thị trƣờng
và chiến lƣợc kinh doanh; đổi mới công nghệ; những thay đổi trong cơ chế
quản lý (hệ thống kế hoạch, kế toán, quản trị thông tin, quản trị tài chính,
quản trị nhân lực…) đã có nhiều đổi mới theo hƣớng tích cực.
- Kết quả và hiệu quả hoạt động của các DN sau cổ phần hóa
82
Bức tranh chung của các DNNN đã CPH của Thanh Hóa là tƣơng đối
tích cực. Thực tế ở 80 doanh nghiệp đã cổ phần hóa (CPH) từ năm 2001 đến
31/12/2014 cho thấy: Sau CPH các Doanh nghiệp đều đã chủ động xây dựng
đƣợc các phƣơng án sản xuất kinh doanh khá phù hợp với yêu cầu mở rộng
thị trƣờng theo hƣớng đa ngành, đa nghề; tổ chức bộ máy đƣợc sắp xếp gọn
nhẹ hơn, nhiều doanh nghiệp sau CPH đã quan tâm đổi mới công nghệ, đầu tƣ
mua sắm máy móc, thiết bị hiện đại, mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao
chất lƣợng, hạ giá thành sản phẩm, tăng đƣợc sức cạnh tranh trên thị trƣờng,
điển hình nhƣ: CTCP Dƣợc - Vật tƣ y tế Thanh Hóa, CTCP Xây lắp Điện lực
Thanh Hóa, CTCP Xây dựng số 3, CTCP HUT4, CTCP Đƣờng Lam sơn,
CTCP xi măng Bỉm sơn, CTCP thƣơng mại Thiệu Yên, CTCP môi trƣờng đô
thị và dịch vụ Sầm sơn, CTCP xây dựng giao thông Yên Định, CTCP xây
dựng giao thông Thạch Thành...Vì vậy tất cả các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của
các DNCPH đều tăng so với trƣớc CPH.
Tổng hợp hoạt động SXKD ở 80 doanh nghiệp (đã CPH trên 01 năm trở
lên) trong năm 2013 cho thấy: so với trƣớc khi CPH, Vốn điều lệ của các DN
này tăng thêm hơn 143 tỷ đồng; doanh thu đạt trên 3.482. 292 triệu đồng tăng
thêm 1.866.541 triệu đồng; lợi nhuận đạt 78.054 triệu đồng, tăng 70.657 triệu
đồng; nộp ngân sách Nhà nƣớc đạt trên 85.312 triệu đồng, tăng 40.244 triệu
đồng; tổng số lao động tăng 11%; cổ tức bình quân đạt khoảng 13%/năm, thu
nhập của ngƣời lao động bình quân đạt 1,81 triệu đồng/ngƣời/ tháng, tăng 0,85
triệu đồng/ ngƣời/ tháng. Nhiều CTCP có thu nhập bình quân của ngƣời lao
đông cao nhƣ: CTCP Đƣờng Lam sơn (7,2 tr đồng/ tháng), CTCP Xi măng
Bỉm Sơn (7,5 tr đồng / tháng), CTCP tƣ vấn thiết kế xây dựng (5 tr
đồng/tháng), CTCP Tƣ vấn Thủy lợi (5 tr đồng/ tháng).
Tuy vậy, kết quả SXKD của các DN sau CPH là không đồng đều. Một
số DN thực sự cải thiện đƣợc hiệu quả kinh doanh và làm ăn có lãi trong khi
83
một số khác vẫn ở trong tình trạng khó khăn, bị thua lỗ hoặc chỉ có mức lợi
nhuận thấp. Vấn đề này sẽ đƣợc phân tích chi tiết hơn ở mục 3.3.
3.3. Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nƣớc ở Thanh Hóa
Mặc dù tiến trình cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa đã có những chuyển
biến tích cực, đặc biệt là từ khi Nghị định 187/2004/NĐ-CP đƣợc triển khai
thay thế Nghị định 64/CP với những đổi mới quan trọng về cơ chế nhằm tháo
gỡ những vƣớng mắc của doanh nghiệp trong tiến trình đẩy nhanh quá trình
cổ phần hóa, song vẫn có nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh là:
3.3.1. Tâm lý chần chừ, e ngại, ngăn trở tiến trình CPH
Nhƣ phân tích ở chƣơng 2, cũng nhƣ mọi quá trình chuyển đổi khác, quá
trình CPH DNNN tất yếu làm phát sinh những xung đột lợi ích và đó chính là
nguyên nhân sâu sa của các vấn đề kinh tế - xã hội đi liền với tiến trình này.
Cũng nhƣ các địa phƣơng khác trên phạm vi cả nƣớc, ở Thanh Hóa, tiến
trình cổ phần hóa một bộ phận DNNN tất yếu dẫn đến sự thay đổi cách vận
hành và quản lý DN và theo đó là quyền lợi của một số ngƣời đang trực tiếp
hoặc gián tiếp quản lý, điều hành doanh nghiệp sẽ bị đụng chạm. Do vậy, đã
và sẽ có một số cán bộ quản lý nhà nƣớc, cán bộ lãnh đạo và quản lý doanh
nghiệp chƣa hoàn toàn đồng tình, thậm chí còn có hành vi, việc làm gây cản
trở quá trình cổ phần hóa DNNN.
Tâm lý chần chừ, e ngại, cản trở quá trình CPH thật ra là hiện tƣợng tự
nhiên, nảy sinh do quyền lợi, cƣơng vị công tác, vị trí làm việc… của một số
ngƣời bị quá trình CPH đe dọa. Tuy nhiên, trƣớc chủ trƣơng có tính chất pháp
quy của nhà nƣớc, hiện tƣợng này thƣờng không biểu hiện một cách công
khai mà thƣờng bộc lộ một cách gián tiếp thông qua các hành động ngấm
ngầm, gây cản trở hoặc tạo ra sự trì hoãn đối với tiến độ CPH. Hệ quả là: thời
gian xây dựng các phƣơng án CPH bị kéo dài, chất lƣợng các phƣơng án
CPH đƣợc chuẩn bị một cách hạn chế, có một khoảng cách rõ rệt giữa thời
84
điểm phƣơng án CPH đƣợc phê duyệt và thời điểm DNNN đƣợc chuyển
chính thức thành CTCP. Điển hình cho tâm lý chần chừ dẫn đến việc kéo dài
thời gian thực hiện CPH, làm thất thoát, hƣ hỏng tài sản của xã hội do không
đƣợc sử dụng kịp thời là trƣờng hợp CTCP Crôm mít Cổ Định. Ở công ty
này, phải qua thời gian tiến hành CPH kéo dài gần 8 năm, từ tháng 12 năm
2006 đến tháng 11 năm 2014, thì phân xƣởng luyện quặng mới đƣợc hoạt
động trở lại còn các phân xƣởng khác máy móc vẫn đang chờ công nhân. Ở
một số công ty khác nhƣ CTCP mía đƣờng Thanh Hóa, CTCP giao thông
Nông Cống, Tổng CTCP xây dựng Thanh Hóa, mặc dù là những doanh
nghiệp có quy mô nhỏ, song từ thời điểm phƣơng án CPH đƣợc phê duyệt đến
thời điểm chuyển thành CTCP cũng kéo dài từ 17 tháng đến 21 tháng [110,
biểu số 4].
3.3.2. Vấn đề xác định giá trị các doanh nghiệp Nhà nước để cổ phần hoá
Việc xác định giá trị doanh nghiệp (đặc biệt là vấn đề xác định giá trị
quyền sử dụng đất và thƣơng hiệu của các doanh nghiệp Nhà nƣớc) để CPH
ở một số doanh nghiệp còn mang nặng tính chủ quan, chƣa sát giá thị trƣờng,
do một số tài sản quan trọng của DN nhƣ đất đai, thƣơng hiệu, lợi thế kinh
doanh không đƣợc định giá đúng hay bị bỏ qua. Hậu quả là giá trị của nhiều
doanh nghiệp đƣợc CPH nói chung bị đánh giá thấp; vốn, tài sản của nhà
nƣớc hay xã hội vì thế bị thất thoát và rơi vào các cổ đông mới của DNCPH.
Nghiêm trọng hơn, trong nhiều trƣờng hợp, sự thất thoát này không đem lại
lợi ích cho số đông ngƣời lao động trong DN mà tập trung vào những cổ đông
lớn, có khả năng thu gom các cổ phiếu mà ngƣời lao động bán lại. Đây là
trƣờng hợp đã xảy ra ở một số DNCPH nhƣ: CTCP Du lịch Thanh Hóa,
CTCP Thƣơng mại Dịch vụ Hoằng Hóa, CTCP Thƣơng mại Thiệu Yên…
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng trên là các hƣớng dẫn của nhà
nƣớc về việc xác định giá trị quyền sử dụng đất áp dụng cho các DNNN cần
CPH còn thiếu nhất quán. Liên quan đến vấn đề này, có tới 3 Nghị định của
85
Chính phủ điều chỉnh. Chẳng hạn, Nghị định 181 của Chính phủ quy định chi
tiết và hƣớng dẫn thực hiện một số điều của luật đất đai quy định: giá trị
quyền sử dụng đất đƣợc tính vào giá trị doanh nghiệp khi CPH. Tuy vậy,
Nghị định 187 của Chính phủ ban hành ngay sau đó lại loại trừ giá trị quyền
sử dụng đất ra khỏi giá trị doanh nghiệp khi CPH. Đến Nghị định
17/2006/NĐ-CP, ngày 27/9/2006 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số
điều của các Nghị định hƣớng dẫn về thi hành Luật đất đai và Nghị định
187/2004/NĐ-CP về chuyển DNNN thành lập CTCP cũng chỉ sửa đổi điểm b
khoản 1, điều 19 của Nghị định 187 theo đó quy định: Nếu trƣờng hợp doanh
nghiệp CPH lựa chọn hình thức giao đất thì phải tính giá trị quyền sử dụng
đất vào giá trị doanh nghiệp CPH, còn các trƣờng hợp khác vẫn còn bỏ ngỏ.
Đây là một khe hỡ dễ làm thất thoát tài sản của Nhà nƣớc và gây nên những
hiệu ứng không tốt cho việc CPH DNNN. Trên thực tế, việc thiếu nhất quán
trong việc tính giá trị đất đai trong xác định giá trị doanh nghiệp, đã dẫn đến
tình trạng: một số DN đƣợc định giá cao, trong khi ở một số DN khác, giá trị
DN lại đƣợc xác định quá thấp. Một số doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế trung
bình nhƣng khi tính giá trị của đất đai, lợi thế vị trí địa lý của đất lại bị đánh
giá quá cao làm cho giá trị doanh nghiệp tăng cao. Điều này tạo ra áp lực đẩy
giá cổ phiếu của DN lên cao, việc bán cổ phần của DN cho các nhà đầu tƣ trở
nên khó khăn. Trong một số trƣờng hợp, nhà nƣớc có thể buộc phải nắm giữ
phần vốn chi phối ngay cả khi điều này đƣợc xác định là không cần thiết.
Hậu quả là, sau CPH, phƣơng thức quản lý, kinh doanh của doanh nghiệp
không thay đổi rõ rệt. SXKD của DN vẫn kém hiệu quả. Tình trạng này
thƣờng xảy ra ở các doanh nghiệp thuộc ngành nông nghiệp. Ngƣợc lại, khi
giá trị đất đai, đặc biệt là giá trị lợi thế vị trí của đất đai không đƣợc phản ánh
đầy đủ vào giá trị doanh nghiệp, một bộ phận tài sản xã hội sẽ bị thất thoát và
chuyển vào tay các nhà đầu tƣ.
86
Cùng với giá trị quyền sử dụng đất, trong CPH DNNN, việc tính toán,
định giá lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp - một tài sản rất lớn của nhiều
DNNN gồm: vị trí địa lí, thƣơng hiệu, các mối quan hệ bạn hàng, thị phần
trên thị trƣờng, trình độ tay nghề của ngƣời lao động…dƣờng nhƣ cũng còn
nhiều sơ hở, vì tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP chỉ nêu: “Giá trị thực tế của
doanh nghiệp cổ phẩn hóa là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp
tại thời điểm cổ phần hóa có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà
người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Lợi thế kinh doanh gồm:
vị trí địa lí, giá trị thương hiệu, tiềm năng phát triển”.
Trên thực tế, dựa vào Nghị định này, căn cứ duy nhất để tính lợi thế của
doanh nghiệp là tỉ suất lợi nhuận sau thuế bình quân 3 năm liền kề trƣớc thời
điểm xác định giá trị doanh nghiệp để CPH. Với phƣơng pháp này những
doanh nghiệp không có lợi nhuận thì cũng sẽ đồng nghĩa với việc doanh
nghiệp không có lợi thế kinh doanh. Đây cũng là điểm bất cập trong việc xác
định giá trị doanh nghiệp, vì thực tế có những doanh nghiệp tỷ suất lợi nhuận
3 năm liền kề trƣớc thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp để CPH bằng
không thậm chí âm nhƣng vẫn có tiềm năng hay lợi thế kinh doanh rất lớn.
Do chƣa có sự thống nhất trong cách tính giá trị đất và lợi thế kinh doanh
của các DNNN khi CPH nên tại Thanh Hóa nhiều DNNN khi CPH thực sự đã
không tính hết giá trị của DNNN. Chẳng hạn, CTCP Quản lý Thủy nội địa và xây dựng Thanh Hóa khi CPH đang quản lý 11445m2 đất ở số 320, phố Trần
Hƣng Đạo, Thành phố Thanh Hóa nhƣng giá trị cả đất và lợi thế kinh doanh chỉ
đƣợc tính là 330 triệu đồng; CTCP Thƣơng mại miền núi Thanh Hóa có tổng số đất sử dụng khi CPH là 93.683m2 trong đó có 89.536m2 nằm chủ yếu ở các Thị
trấn các huyện miền núi nhƣng tổng giá trị doanh nghiệp (bao gồm cả 14 cụm
thƣơng mại với 67 cửa hàng bán lẻ, 2 tổ hợp nhà hàng, 8 nhà nghỉ, 3 kho vật tƣ kỹ thuật tại Thanh Hóa và 2900 m2 hệ thống kho ở các chi nhánh, hệ thống kho
xăng dầu nằm rải rác cả ở trung tâm TP lẫn ở 11 huyện; đội xe tải với 25 đầu xe
87
có tải trọng từ 25 tấn trở lên) đƣợc xác định chỉ là 65.000 triệu đồng; CTCP Du
lịch Thanh Hóa có trụ sở chính số 25A, phố Quang Trung Thành phố thanh Hóa, với diện tích đất khi CPH là 14.070m2 nhƣng giá trị đất chỉ đƣợc xác định là 32,8
, chiều rộng bám QL1 là
triệu đồng và giá trị lợi thế kinh doanh đƣợc tính là 12,06 triệu đồng; CTCP giống cây trồng Thanh Hóa với diện tích đất 2200 m2
50m nằm giữa Thành phố Thanh Hóa nhƣng khi CPH định giá chỉ 5 tỷ đồng,...
Mặt khác, một số tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc của các doanh nghiệp
có thời gian đƣa vào sử dụng đã lâu, giá trị theo sổ sách rất thấp song theo
quy định không đƣợc loại khỏi giá trị doanh nghiệp. Việc thực hiện đánh giá
lại của các cơ quan thẩm quyền đôi khi làm tăng giá trị doanh nghiệp dẫn đến
khó khăn cho doanh nghiệp sau khi tái cơ cấu.
3.3.3. Việc đánh giá và xử lý nợ của các DN cổ phần hóa
Việc quy định kế thừa trách nhiệm về tài chính giữa DNNN trƣớc đây
với CTCP sau này trong Nghị định 109/2007/NĐ-CP chƣa thực rõ ràng và có
phần chƣa thực phù hợp với thực tế, nhất là các khoản nợ khó đòi. Khoản nợ
này, ở nhiều DNNN đã tồn đọng nhiều năm, qua nhiều đời lãnh đạo rất khó có
khả năng thu hồi nhƣng theo quy định con nợ vẫn còn tồn tại nên vẫn phải thu
hồi. Việc đối chiếu xác định công nợ phải thu, phải trả thƣờng kéo dài; một số
đối tƣợng không có khả năng thu hồi hoặc không chịu ký xác nhận công nợ.
Trong khi đó việc đƣa ra khởi kiện tại tòa án kinh tế lại vấp phải nhiều thủ tục
phức tạp. Thực tế này đã ảnh hƣởng không nhỏ đến tiến độ CPH các DNNN.
Mặt khác doanh nghiệp sau CPH gặp rất nhiều khó khăn trong đòi nợ, trả lãi,
nên thực sự các khoản nợ này đang là một gánh nặng cho nhiều DNNN sau
CPH. Chẳng hạn ở CTCP In Báo Thanh Hóa khi CPH, số nợ phải trả đƣợc xác định là
51.687.911.403 đồng so với tổng giá trị tài sản là 63.886.446.372 đồng. Ở CTCP Thƣơng mại
miền núi khi CPH, số nợ phải trả là 85.363. 450.849 đồng so với lƣợng vốn chủ sở hữu là
53.059.759.733 đồng. Ở CTCP Quản lý Đƣờng bộ 2 Thanh Hóa khi CPH, số nợ phải trả là
8.485.928.417 đồng trong khi tổng vốn kinh doanh là 6.892.045.599 đồng. Ở CTCP Sông Mã
88
khi CPH, số nợ phải trả đƣợc xác định là 477.497.106.836 đồng so với tổng giá trị tài sản là
480.164.392.170 đồng.
3.3.4. Vấn đề sắp xếp lại lực lượng lao động và giải quyết lao động “dôi dư”
trong các DNCPH
3.3.4.1.Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động trong các doanh
nghiệp sau CPH.
Một trong những khó khăn nhất của vấn đề chuyển đổi DNNN là xử lý
các vấn đề xã hội gắn với đội ngũ cán bộ, công nhân đã gắn bó nhiều năm với
doanh nghiệp. Về mặt quyền lợi, những cán bộ, công nhân các DNNN đang
hƣởng chế độ lƣơng và bảo hiểm có nhiều ƣu việt hơn so với các loại hình
DN khác, kể cả trƣờng hợp doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Nhiều cán bộ, công
nhân do hạn chế về trình độ và tay nghề, đặc biệt là những ngƣời cao tuổi sẽ
không đáp ứng yêu cầu mới của DN sau chuyển đổi. Vì thế, hiện tƣợng lao
động “dôi dƣ” là không tránh khỏi. Chế độ chính sách đối với ngƣời lao động dôi dƣ
sau CPH đã đƣợc thực hiện theo đúng các quy định hiện hành của Nhà nƣớc nhƣ Nghị định
số 41/2002/NĐ-CP, ngày 11/4/2002, Nghị định số 110/2007/NĐ-CP, ngày26/6/2007, Nghị
định số 91/2010/NĐ-CP, ngày 20/8/2010. Ở 70 doanh nghiệp cố phần hóa từ năm 2002
đến 2013 có 2.960 ngƣời lao động đƣợc xem là lực lƣợng dôi dƣ trong đó 2653
ngƣời dôi dƣ theo Nghị định 41 và 307 ngƣời theo Nghị định 110 của Chính
phủ. Tỉnh đã hỗ trợ 71.506 triệu đồng và tạo điều kiện cho số hộ nghèo vay
trả chậm 6.842 triệu đồng. Vì vậy số lao động dôi dƣ sau cổ phần hóa các
DNNN đều có việc làm mới. Song do việc chi trả cho ngƣời lao động dôi dƣ
không đồng đều giữa các doanh nghiệp khi cổ phần hóa, đặc biệt nhiều doanh
nghiệp chi trả thấp, nên vẫn còn nhiều ngƣời khó khăn trong cuộc sống (Công
ty cổ phần Sông Mã hỗ trợ mỗi lao động dôi dƣ 53,1 triệu đồng, Công ty cổ
phần quản lý và xây dựng đƣờng bộ I hỗ trợ 46 triệu đồng/ngƣời, Công ty cổ
phần đƣờng bộ 2 Thanh Hóa chỉ hỗ trợ 28,6 triệu đồng/ngƣời)…Đối với
doanh nghiệp nhà nƣớc đã thực hiện chuyển đổi thành công ty TNHH một thành
89
viên, nay lại tiếp tục chuyển thành công ty cổ phần nên việc thực hiện chính sách
cho ngƣời lao động dôi dƣ gặp nhiều khó khăn, ngƣời lao động chỉ đƣợc hƣởng
chế độ theo Luật Lao động mà không đƣợc hƣởng chính sách theo quy định tại
Nghị định số 91/2010/NĐ-CP ngày 20/8/2010 của Chính Phủ.
Vấn đề giải quyết chế độ cho ngƣời lao động vẫn bộc lộ những bất cập cả
trong các DN đã có một thời gian hoạt động sau CPH. Thực tế, bên cạnh một
số doanh nghiệp sau cổ phần hóa kinh doanh có hiệu quả, mở rộng đƣợc quy
mô sản xuất, thu hút thêm lao động, thì vẫn có không ít doanh nghiệp kinh
doanh sa sút, dẫn tới dƣ thừa lao động. Trong trƣờng hợp này, nếu không có
sự hỗ trợ của Nhà nƣớc, doanh nghiệp sẽ không có điều kiện vật chất để giải
quyết các vấn đề mang tính xã hội (trợ cấp, tìm việc làm mới…) liên quan đến
những ngƣời bị mất việc. Điều đó ít nhiều dẫn tới tình trạng hoang mang
chung cho đội ngũ những ngƣời lao động. Một mặt, những ngƣời lao động
đang làm việc có thể lo sợ mất việc làm, do trình độ chuyên môn kỹ thuật
thấp, không đáp ứng đƣợc yêu cầu của công việc. Mặt khác do chênh lệch về
thu nhập giữa ngƣời trực tiếp lao động và ngƣời điều hành, quản lý về tiền
lƣơng, tiền thƣởng, lợi ích cổ phần… nên ngƣời lao động không có động lực
để yên tâm cống hiến hết mình cho DN.
3.3.4.2. Vấn đề thu nhập của người lao động trong các DN sau CPH
Do phƣơng án SXKD sau CPH chƣa thực sát với yêu cầu thị trƣờng, do
hạn chế trong quản lý điều hành ở một số doanh nghiệp hình thành từ CPH
DNNN nên khoảng 10% DN CPH có lợi nhuận sau thuế thấp, thậm chí giảm
so với thời điểm trƣớc CPH. Ở các DN này thu nhập bình quân của ngƣời lao
động tăng không đáng kể, thậm chí bị giảm nhƣ: ở CTCP Xây dựng nông
nghiệp và phát triển nông thôn, sau 11 năm CPH (2002- 2013) thu nhập bình
quan của ngƣời lao động chỉ tăng từ 1 triệu đồng lên 1,2 triệu đồng; ở CTCP
Vận tải sông biển, sau 10 năm CPH (2003- 2013) thu nhập bình quân của
ngƣời lao động chỉ tăng từ 0,5 triệu đồng lên 0,9 triệu đồng; ở CTCP Lợn
90
giống Hoằng Hóa, sau 10 năm CPH (2003- 2013) thu nhập của ngƣời lao
động chỉ tăng từ 0,45 triệu đồng lên 0,5 triệu đồng; ở CTCP Vật liệu Hàm
Rồng sau 9 năm CPH (2004-2013) thu nhập của ngƣời lao động chỉ tăng từ
0,7 triệu đồng lên 0,9 triệu đồng... Ở một số CTCP, thu nhập của ngƣời lao
động giảm so với trƣớc CPH nhƣ: CTCP Công trình Giao thông CPH năm
2004 với mức thu nhập bình quân của công nhân là 0,7 triệu đồng nhƣng đến
năm 2014 chỉ còn 0,6 triệu đồng; ở CTCP Xây dựng Sông Mã 1, CPH năm
2007 với mức thu nhập bình quân của công nhân là 2 triệu đồng nhƣng đến
năm 2014 chỉ còn 0,5 triệu đồng; ở CTCP Xuất nhập khẩu thủy sản, CPH
năm 2007 với mức thu nhập bình quân của công nhân là 1,2 triệu đồng nhƣng
đến năm 2014 chỉ còn 1 triệu đồng...
Nhƣ vậy mục tiêu của CPH là làm tăng thu nhập cho ngƣời lao động và
tăng đóng góp vào ngân sách nhà nƣớc chƣa thực sự đạt yêu cầu. Thu nhập
của ngƣời lao động trong các doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN nhìn
chung tăng, nhƣng mức tăng không đáng kể so với lợi nhuận của công ty.
3.3.5. Vấn đề chuyển đổi cấu trúc sở hữu và quan hệ giữa các nhóm cổ đông.
3.3.5.1. Thực trạng bán cổ phần ưu đãi cho người lao động trong các doanh
nghiệp Nhà nước khi cổ phần hoá.
Việc bán cổ phần ƣu đãi cho ngƣời lao động trong DNNN khi CPH đã
đƣợc quy định khá cụ thể trong các Nghị định 28/NĐ-CP, Nghị định 44/NĐ-
CP, Nghị định 64/2002/NĐ-CP. Tuy vậy, có những quy định cũng chƣa thực
phù hợp với thực tế. Chẳng hạn, việc quy định giá bán ƣu đãi cổ phần cho
ngƣời lao động trong DNNN khi CPH bằng 60% mức đấu giá thành công
bình quân trên sàn chứng khoán có thể là cao và ngƣời lao động khó có thể
mua để trở thành cổ đông của CTCP. Trên thực tế ở Thanh Hóa, đa số công
nhân trong các DNNN là ngƣời lao động nghèo vì trong một thời gian dài,
DNNN của họ hoạt động kém hiệu quả, thậm chí nhiều doanh nghiệp thua lỗ
kéo dài nên tiền lƣơng của họ chỉ đủ duy trì cuộc sống, chƣa có tích lũy hoặc
91
tích lũy chƣa đáng kể. Việc đa số ngƣời lao động không đủ tiền để mua hết cổ
phần ƣu đãi dẫn đến một số đã bán ngay quyền mua cổ phần ƣu đãi cho các
nhà đầu tƣ khác để hƣởng một chút chênh lệch. Một số khác phải vay mƣợn
để mua hết số cổ phần ƣu đãi nhƣng rồi lại cũng phải buộc lòng “bán lúa non”
cho những ngƣời khác để lấy chênh lệch vì họ chƣa đủ giàu để sở hữu cổ
phần và chờ hƣởng cổ tức, trong đó có cả những cổ phần ƣu đãi ghi danh mà
theo quy định không đƣợc chuyển nhƣợng trong 3 năm đầu. Thực tế này có
thể thấy rõ trong các công ty cổ phần xuất khẩu thủy sản, công ty cổ phần
dịch vụ thƣơng mại PETEC, CTCP Đầu tƣ Nông nghiệp Thiệu Yên, CTCP
giống cây trồng Thanh hóa, CTCP giống và phát triển cây trồng Thanh hóa,…
Việc quy định tổng giá trị cổ phần ƣu đãi cho ngƣời lao động trong
DNNN khi CPH theo Nghị định 44/NĐ-CP không quá 20% tổng vốn Nhà
nƣớc cho tất cả các doanh nghiệp cũng tỏ ra chƣa phù hợp. Thực tế cho thấy:
những doanh nghiệp quy mô vốn nhà nƣớc lớn, số lƣợng lao động không lớn
thì nhìn chung ngƣời lao động trong doanh nghiệp khi CPH có thể mua đủ
đƣợc số cổ phần ƣu đãi tối đa là 10 cổ phần cho một năm công tác tại DNNN.
Nhƣng những doanh nghiệp quy mô vốn nhà nƣớc ít, số lƣợng lao động lại
nhiều thì lƣợng cổ phần ƣu đãi tính cho 1 năm công tác của ngƣời lao động tại
DNNN lại quá thấp. Chẳng hạn: chỉ tiêu này ở CTCP Giấy Mục Sơn là: 5
năm/10 cổ phần, ở CTCP Bao bì Lam sơn: 4,1 năm/10 cổ phần, CTCP cơ khí
19/5: 3,1 năm/10 cổ phần…
Đặc biệt, sau CPH tồn tại xu hƣớng một số cổ đông lớn muốn thâu tóm
quyền chi phối doanh nghiệp bằng cách mua lại cổ phần của công nhân nghèo,
thậm chí có tình trạng ép công nhân bán cổ phiếu ƣu đãi của mình trong một số
doanh nghiệp. Xu hƣớng trên thƣờng xảy ra trong trƣờng hợp cổ phiếu ƣu đãi
có mệnh giá thấp do ƣu đãi của nhà nƣớc và do định giá thấp, hoặc trong
trƣờng hợp doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có hiệu quả,... Việc bán cổ
92
phiếu sẽ làm cho ngƣời công nhân mất đi nguồn thu nhập, ổn định từ cổ phần,
mất quyền làm chủ đối với doanh nghiệp với tƣ cách của ngƣời góp vốn.
Cụ thể nhƣ ở các CTCP đầu tƣ nông nghiệp Thiệu Yên; CTCP giống và
phát triển gia cầm Thanh hóa; CTCP Vật tƣ tổng hợp Thanh hóa; CTCP đầu
tƣ phát triển đô thị Thanh hóa... khi mới CPH, hầu hết ngƣời lao động trong
các công ty này đều có cổ phần., Tuy nhiên đến 2014, trung bình chỉ còn 1%
ngƣời lao động còn nắm giữ vốn cổ phần của DN.
Các thực tế trên cho thấy: mục tiêu gắn bó ngƣời lao động với các CTCP
thông qua việc biến họ thành những cổ đông thực sự của DN đã không đạt
đƣợc kết quả nhƣ mong đợi. Mặt khác, việc bán cổ phần cho Tổ chức Công
đoàn ở hầu hết các DN không thực hiện đƣợc, dẫn đến vai trò của công đoàn
trong các DNNN sau CPH rất mờ nhạt.
Nhƣ vậy, mục tiêu thực hiện đa dạng hóa sở hữu trong các doanh nghiệp
và biến công nhân thành ngƣời chú thực sự của các doanh nghiệp sau CPH
không đạt đƣợc nhƣ kỳ vọng.
Việc cổ phần hóa cũng thƣờng đƣợc thực hiện một cách khép kín, trong nội
bộ DNCPH. Thực tế ở 98 doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa thì tỷ trọng cổ phần bán cho những ngƣời vốn từng làm việc trong
doanh nghiệp chiếm khoảng 70% vốn điều lệ, các cổ đông ngoài doanh nghiệp chỉ
nắm giữ xấp xỉ 10%. Việc CPH tƣơng đối khép kín để lại nhiều hệ lụy: đƣợc định
giá theo kiểu “nội bộ”, nhiều tài sản của DN có xu hƣớng bị định giá thấp, do đó
tài sản xã hội dễ bị thất thoát; các tài năng kinh doanh và nguồn lực bên ngoài
doanh nghiệp không đƣợc thu hút đủ mạnh để tạo ra một sức sống mới, một sự
thay đổi mạnh mẽ đối với toàn bộ quá trình hoạt động của DN sau CPH.
3.3.5.2. Thực trạng về lựa chọn các nhà đầu tư chiến lược và đấu giá cổ phần
ra công chúng.
Trong chuyển đổi cấu trúc sở hữu nhằm tạo ra sức sống mới cho
DNCPH còn có vấn đề chọn các nhà đầu tƣ chiến lƣợc và đấu giá cổ phần ra
93
công chúng. Nhìn chung rất ít CTCP có nhà đầu tƣ chiến lƣợc. Qua khảo sát ở
98 DNNN đã CPH chỉ có 3 doanh nghiệp chọn đƣợc nhà đầu tƣ chiến lƣợc là:
CTCP Đƣờng Lam Sơn là nhà đầu tƣ chiến lƣợc của CTCP Du lịch Thanh
Hóa, với 39% vốn điều lệ; CTCP sản xuất và thƣơng mại PP là nhà đầu tƣ
chiến lƣợc của CTCP In Báo Thanh Hóa, với 11,18 % vốn điều lệ; Hợp tác xã
Hợp Phát, Bản Cội xã Xuân Phú, huyện Quan Hóa là nhà đầu tƣ chiến lƣợc
của của CTCP Thƣơng mại miền núi Thanh Hóa. Tổng cổ phần của các nhà
đầu tƣ chiến lƣợc trong các DNNN đã CPH của tỉnh chỉ chiếm 0,59%.
Việc CPH cơ bản khép kín, nên tỷ lệ cổ phần đem ra đấu giá công khai ở
các DNNN CPH thƣờng thấp: CTCP Thƣơng mại miền núi 11,16%; CTCP
Quản lý Thủy nội địa và Xây Dựng Thanh Hóa 19%, CTCP Đƣờng bộ 2 Thanh
Hóa 20%...
3.3.5.3. Vấn đề quan hệ giữa cổ đông lớn và các cổ đông nhỏ trong các
DNCPH.
Thực tế, ở tất cả các công ty cổ phần tại Thanh Hóa các nhà đầu tƣ nhỏ,
nắm giữ một số lƣợng cổ phiếu ít ỏi, hầu nhƣ không có tiếng nói đối với các
quyết định của doanh nghiệp, kể cả đối với những quyết định có ảnh hƣởng
trực tiếp đến lợi ích của các nhà đầu tƣ này. Đặc biệt khi xảy ra xung đột hay
tranh chấp về lợi ích thì các ý kiến của các nhà đầu tƣ nhỏ thƣờng không đƣợc
chú ý giải quyết hoặc giải quyết rất chậm. Điều này có thể dẫn đến nhận định
cho rằng: ở các CTCP, quyền lợi của các cổ đông nhỏ không đƣợc bảo vệ, và
điều đó làm cho niềm tin của họ đối với các cổ đông lớn và công ty cổ phần
có phần giảm sút. Tuy nhiên, tiếng nói, quyền ra quyết định, quyền lợi và
nghĩa vụ của các cổ đông tỷ lệ thuận với số lƣợng cổ phiếu mà cổ đông sở
hữu là một đặc điểm và ƣu thế của hình thức tổ chức doanh nghiệp dƣới dạng
CTCP. Nó cho phép lợi ích hay tổn thất của mỗi ngƣời trong việc tham gia ra
quyết định đối với tài sản chung của DN tƣơng thích với phần vốn góp của
họ. Điều khắc phục đƣợc nhƣợc điểm của hình thức tổ chức DN dƣới dạng
94
các HTX, cho thấy sức sống thực sự của các CTCP. Việc hiện diện thực sự
một nhóm nhỏ cổ đông lớn giúp cho CTCP có đƣợc những cá nhân sở hữu
thực sự không bị “phi cá nhân hóa” theo kiểu đại chúng khi vốn của DN bị
phân tán trong hàng ngàn cổ đông nhỏ lẻ. Cơ chế của CTCP là: khi các cổ
đông nhỏ cảm thấy thất vọng hay cho là bị thua thiệt họ có thể rút vốn thông
qua việc chuyển nhƣợng các cổ phiếu của mình. Trong trƣờng hợp này, điều
cần thiết chỉ là sự vận hành trôi chảy, minh bạch của thị trƣờng chứng khoán
nhằm tạo thuận lợi cho sự chuyển nhƣợng này.
3.3.5.4. Vấn đề quan hệ giữa cổ đông và người quản lý trong các DNCPH.
Quan hệ giữa cổ đông và ngƣời quản lý trong các DNCPH không còn
đơn thuần là quan hệ giữa ngƣời lãnh đạo và công nhân mà còn là quan hệ
giữa các cổ đông với nhau. Song qua khảo sát ở nhiều CTCP cho thấy: Quan
hệ của các cổ đông và các CTCP cũng chƣa đƣợc rõ ràng, nhận thức chƣa đầy
đủ quyền và nghĩa vụ vị thế của cổ đông với tƣ cách là chủ của công ty, chƣa
có tiếng nói dân chủ thực sự, chƣa có các cuộc hội thảo theo chuyên đề, các
hội nghị và các diễn đàn thực sự để ngƣời lao động với tƣ cách là cổ đông bày
tỏ quan điểm và đƣa ra tiếng nói dân chủ thực sự của mình trƣớc doanh
nghiệp, nên đã gây ra ức chế, nghi kỵ lẫn nhau trong nội bộ công ty. Vấn đề
giải quyết lao động dôi dƣ chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, thực thi chính sách
chƣa triệt để. Bên cạnh đó hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội ở các
doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN còn nhiều hạn chế, lúng túng, chƣa
phát huy vai trò khả năng của mình [110]. Ngoài ra một số ít CTCP do quá
chạy theo lợi nhuận mà bỏ qua hoặc coi nhẹ vấn đề bảo vệ môi trƣờng.
3.3.5.5. Về vấn đề cổ đông nhà nước ở các DNCPH
Ở đây có hai khía cạnh: i) vị thế của cổ đông nhà nƣớc hay tỷ trọng cổ
phần mà nhà nƣớc nắm giữ có ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến hiệu quả hoạt động
của DN sau CPH; ii) việc thực hiện quyền sở hữu nhà nƣớc trong các CTCP
mà nhà nƣớc là cổ đông.
95
Về khía cạnh thứ nhất, có thể thấy: cùng với quá trình cổ phần hóa về
cơ bản mang tính khép kín, ở nhiều công ty cổ phần, Nhà nƣớc vẫn là cổ
đông chính, nắm nhiều cổ phần. Chẳng hạn, ở công ty cổ phần Quản lý
thủy nội địa và xây dựng Thanh Hóa, cổ đông Nhà nƣớc chiếm tới 70%
vốn điều lệ. Ở một số công ty, Nhà nƣớc vẫn sở hữu từ 60% vốn điều lệ trở
lên nhƣ: Công ty quản lý đƣờng bộ 1 Thanh Hóa, công ty quản lý đƣờng bộ
2 Thanh Hóa, Công ty Du lịch Thanh hóa, cá biệt nhƣ CTCP Crôm mít Cổ
Định nhà nƣớc giữ tới 93% vốn điều lệ... Ở đa số các CTCP, tỷ lệ vốn Nhà
nƣớc nắm giữ tuy thấp hơn 50%, nhƣng do số vốn còn lại bị phân tán giữa
nhiều cổ đông, nên trong nhiều trƣờng hợp, Nhà nƣớc vẫn là cổ đông lớn
nhất, giữ vai trò quan trọng có tính chất quyết định đối với mọi hoạt động của
công ty. Trong trƣờng hợp này, CPH không làm thay đổi căn bản cấu trúc sở
hữu, khiến cho DN sau CPH về cơ bản vẫn giữ hình dạng và mô thức hoạt
động nhƣ một DNNN. Những chuyển biến thực sự trong vận hành của DN ít
xảy ra, đúng nhƣ sự phân tích lý thuyết đã chỉ rõ. Ngay trong “Báo cáo tổng
kết 10 năm thực hiện sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp” năm 2011 của Sở Tài chính Thanh Hóa cũng đƣa ra nhận định: “Một
số doanh nghiệp sau chuyển đổi tiếp tục duy trì đội ngũ cán bộ cán bộ quản lý
chủ chốt của DNNN chuyển sang nên cách nghĩ, cách làm vẫn giữ theo cơ
chế bao cấp, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của nền kinh tế thị trƣờng và hội
nhập quốc tế, sức cạnh tranh của số doanh nghiệp này còn thấp” [110, tr.6].
Hệ quả là sau CPH, hiệu quả hoạt động của DN đƣợc cải thiện hầu nhƣ không
đáng kể hoặc không đƣợc cải thiện. Thực tiễn CPH DNNN ở Thanh Hóa cho
thấy, nhóm các DN cải thiện đƣợc hiệu quả hoạt động sau CPH thƣờng là
nhóm các DN mà sau CPH, tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà nƣớc là thấp, trong
khi ở nhóm các DN không cải thiện đƣợc hiệu quả hoạt động sau khi đƣợc
CPH, nhà nƣớc vẫn là cổ đông lớn, nắm giữ hơn 50% cổ phiếu của công ty.
Cụ thể:
96
- Đối với nhóm DN cải thiện được hiệu quả hoạt động sau CPH, thƣờng
là những công ty mà sau CPH, nhà nƣớc hoặc chỉ là cổ đông nhỏ hoặc không
còn nắm giữ vốn. Điển hình cho nhóm này là các công ty nhƣ: CTCP Dƣợc -
Vật tƣ y tế Thanh Hóa, CTCP Xây lắp Điện lực Thanh Hóa, CTCP Xây dựng
số 3, CTCP HUT4, CTCP Đƣờng Lam sơn, CTCP xi măng Bỉm sơn, CTCP
thƣơng mại Thiệu Yên, CTCP môi trƣờng đô thị và dịch vụ Sầm sơn, CTCP
Dạ Lan, CTCP Thiết bị vật tƣ y tế, CTCP Vật tƣ tổng hợp Thanh Hóa, CTCP
Dƣợc vật tƣ y tế, CTCP xây lắp điện lực Thanh Hóa...Số liệu về kết quả kinh
doanh và thu nhập của ngƣời lao động của các công ty này đƣợc thể hiện trong
các bảng tại phục lục 4.2 và 4.3..
Ở các CTCP mà sau CPH nhà nƣớc giữ tỷ lệ cổ phần thấp, tình hình sản
xuất kinh doanh có sự cải thiện rõ rệt so với giai đoạn trƣớc CPH. Điều đó thể
hiện ở chỗ: Hoạt động SXKD của nhiều CTCP đã vƣợt khỏi địa giới hành
chính Thanh Hóa, vƣơn ra toàn quốc mà điển hình là : CTCP xây lắp điện
Thanh Hóa, Tổng CTCP đầu tƣ XD Cầu Đƣờng....; Doanh thu, lợi nhuận, nộp
ngân sách của các công ty đều tăng trung bình từ 10-15%/năm, nhiều doanh
nghiệp đã thoát khỏi nguy cơ phá sản và đứng vững trong cơ chế kinh tế thị
trƣờng trong những năm qua. Tất cả các doanh nghiệp đều đảm bảo đƣợc việc
làm, nhiều CTCP tạo thêm đƣợc việc làm so với trƣớc CPH điển hình nhƣ:
CTCP Dạ Lan, tăng 300 ngƣời, CTCP phân bón Hàm Rồng tăng 210 ngƣời,
CTCP xây lắp điện lực Thanh Hóa tăng 162 ngƣời, CTCP Vật tƣ y tế Thanh
Hóa tăng 122 ngƣời..... Tất cả các CTCP đều tạo đƣợc thu nhập khá cao và ổn
định cho cán bộ, công nhân viên, nếu tính cả lãi cổ tức, nhiều CTCP có thu
nhập bình quân của công nhân từ 7-8 triệu đồng/tháng.
Sự thành công của các CTCP nhà nƣớc giữ tỷ lệ cổ phần thấp xuất phát từ
chỗ khi Nhà nƣớc nắm giữ tỷ lệ cổ phần thấp, nhất là khi nhà nƣớc hoàn toàn
không còn là cổ đông thì DN mới thực sự đƣợc cởi trói, tính tự chủ của chúng
97
mới hoàn toàn đƣợc đảm bảo và tôn trọng, các CTCP mới thực sự hành động
đƣợc theo đúng luật công ty. Hầu hết các CTCP sản xuất kinh doanh có hiệu quả
cao là những doanh nghiệp mà các thành viên Hội đồng quản trị đều có tỷ lệ cổ
phần cao, đồng thời đa số cán bộ công nhân của công ty là cổ đông, vì điều này
đã thực sự gắn chặt trách nhiệm của thành viên Hội đồng quản trị và công nhân
trong công ty hơn. Hơn thế họ đều SXKD bằng vốn của chính mình nên tất cả
đều phải có trách nhiệm và nổ lực hơn trong xây dựng công ty.
- Đối với nhóm các DN không cải thiện được hiệu quả hoạt động sau
CPH. Ở một số doanh nghiệp CPH, hiệu quả sản xuất kinh doanh vẫn thấp,
điển hình là các CTCP sản xuất kinh doanh các loại con, cây giống nông
nghiệp, thủy sản, CTCP chế biến lâm sản Hàm Rồng, CTCP 25A, CTCP bến
xe khách Thanh Hóa, CTCP Xây dựng Sông Mã 1, CTCP Tƣ vấn xây dựng
Sông Mã, CTCP Phù Đổng, CTCP Xây dựng Sông Mã 2. Có thể thấy điều
này qua bảng số liệu phụ lục 4.4 và 4.5. Đây chính là những CTCP mà nhà
nƣớc chiếm tỷ lệ cổ phần cao. Đa số các CTCP này đều có doanh thu thấp, lợi
nhuận thấp không ổn định và khoản nộp ngân sách là không đáng kể; nhiều
CTCP thậm chí đứng trƣớc bờ vực phá sản. Các công ty này không tạo thêm
đƣợc việc làm mới dẫn đến số lao động ngày càng giảm. Thu nhập của cán bộ
công nhân thấp, ở một vài công ty tiền lƣơng của ngƣời lao động tăng chủ yếu do
lƣơng tối thiểu tăng và và số lƣợng lao động giảm.
Hiệu quả hoạt động thấp của các CTCP mà nhà nƣớc giữ tỷ lệ cổ phần
cao xuất phát từ chỗ: với việc nhà nƣớc nắm giữ tỷ lệ cổ phần cao, sau CPH
gần nhƣ các CTCP cơ bản vẫn hoạt động nhƣ các DNNN; phƣơng thức quản
lý SXKD, bộ máy quản lý của DN sau CPH không thay đổi; những yếu kém
cố hữu của DNNN không đƣợc khắc phục.
Do nhà nƣớc vẫn chiếm giữ tỷ lệ cổ phần cao, tỷ lệ cán bộ công nhân
trong các công ty cổ phần trở thành cổ đông của CTCP đạt thấp. Điều đó
98
khiến cho ở nhiều CTCP, cán bộ công nhân chƣa thực sự gắn bó với công ty,
vì lƣơng thấp và lãi cổ tức hầu nhƣ không có. Đồng thời do nhà nƣớc chiếm
tỷ lệ cổ phần cao nên hầu hết các thành viên hội đồng quản trị các công ty này
đều không có đủ số lƣợng cổ phần 10% trở lên. Tiếng nói và khả năng ảnh
hƣởng của họ đến việc ra quyết định SXKD của công ty yếu ớt trƣớc sự “lấn
át” của cổ đông nhà nƣớc. Điều này hạn chế tính tích cực, chủ động của các
cổ đông cá nhân, kể cả các cổ đông là thành viên của hội đồng quản trị. Trong
trƣờng hợp này, CPH không tạo ra các động lực và khuyến khích để thay đổi
cung cách hoạt động của doanh nghiệp.
Về khía cạnh thứ hai, vấn đề khó khăn là thiết lập cơ chế thực hiện và
bảo đảm quyền sở hữu của nhà nƣớc tại doanh nghiệp. Trên thực tế, tƣ cách
cổ đông của nhà nƣớc đƣợc thực hiện thông qua ngƣời đại diện – vốn không
phải là ngƣời chủ sở hữu tài sản đích thực. Ở đây, tồn tại một số bất cập nhƣ:
i) Nhìn chung quyền lợi và trách nhiện của ngƣời đại diện phần vốn của nhà
nƣớc không đƣợc quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật, nhất là ở
những CTCP vốn Nhà nƣớc dƣới 51% ii) Việc cử ngƣời đại diện phần vốn
Nhà nƣớc tại các CTCP cũng còn chƣa thật hợp lý (là ngƣời của Sở tài chính
đảm nhiệm, theo cơ chế kiêm nhiệm nên thƣờng không sát các hoạt động của
doanh nghiệp). iii) Việc thực hiện quyền sở hữu của cổ đông nhà nƣớc trong
các DNCPH còn phân tán, chồng chéo, do sự thiếu tách bạch giữa nhà nƣớc
với tƣ cách là ngƣời sở hữu vốn với nhà nƣớc với nhà nƣớc với tƣ cách là một
cơ quan quản lý công quyền chung. Điều này dẫn đến các bộ, sở chủ quản đều
có thể tham dự vào việc quản lý phần vốn của nhà nƣớc tại CTCP. Trƣớc tình
hình đó, nhiều ngƣời cho rằng việc chuyển giao quyền quản lý phần vốn Nhà
nƣớc tại các doanh nghiệp đã CPH từ các bộ, ngành và UBND các tỉnh cho
Tổng công ty đầu tƣ kinh doanh vốn nhà nƣớc (SCIC) là tiền đề cần thiết để
xóa bỏ triệt để cơ chế chủ quản, từng bƣớc tạo điều kiện cho việc quản lý vốn
nhà nƣớc ở các CTCP có hiệu quả hơn.
99
Có ý kiến cho rằng, cần có một quy chế quản lý phần vốn Nhà nƣớc tại
các DNCPH chặt chẽ hơn, thông qua việc hoàn thiện mô hình Tổng công ty
đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc (SCIC). Khi đó SCIC sẽ có vai trò nhƣ
những cổ đông khác trong doanh nghiệp thay vì là các cơ quan quản lý hành
chính với con dấu của cơ quan chủ quản đóng vai trò là ngƣời đại diện phần
vốn Nhà nƣớc trong DNCPH nhƣ hiện nay. Hơn thế, theo cơ chế hiện hành,
đối với những CTCP mà nhà nƣớc chiếm cổ phần chi phối, việc bổ nhiệm chủ
tịch HĐQT và giám đốc vẫn do cơ quan đại diện phần vốn nhà nƣớc đề cử và
UBND tỉnh bổ nhiệm. Thông thƣờng, đó là những ngƣời với tƣ cách cá nhân,
không có cổ phần nhiều nên tình trạng công ty SXKD lỗ hay lãi cũng ít ảnh
hƣởng đến thu nhập của họ. Trong trƣờng hợp này, họ ít có động lực để tạo
nên sự đột phá trong quản lý, điều hành doanh nghiệp và có xu hƣớng ra các
quyết định có tính “an toàn” cao. Trong khi đó, đối với các cổ đông cá nhân
khác trong HĐQT, nhất là những cổ đông lớn, việc SXKD của DN lỗ hay lãi
đều ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền lợi và thu nhập nên họ luôn có xu hƣớng
thay đổi năng động để phù hợp với cơ chế kinh tế thị trƣờng và công ty kinh
doanh ngày càng hiệu quả. Điều này dẫn đến sự xung đột ngay trong HĐQT
và nó thƣờng ảnh hƣởng tiêu cực đến hoạt động SXKD của DN. Đó cũng là lý
do khiến cho ở hầu hết các CTCP mà nhà nƣớc là cổ đông chi phối, SXKD
thƣờng đạt hiệu quả thấp. Vì thế, sau 5 đến 7 năm, hơn 90 % CTCP mà nhà
nƣớc giữ cổ phần chi phối đều đã phải bán hết số vốn còn lại cho các cổ đông
khác. Sau khi bán hết vốn nhà nƣớc, đa số các CTCP đã cải thiện đƣợc hiệu
quả SXKD của mình.
3.3.6. Vấn đề quản lý nhà nước và sự phân biệt đối xử đối với DN sau CPH
(so với DNNN).
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp hình thành từ cổ phần hóa DNNN
trên địa bàn Thanh Hóa có quy mô vốn bình quân thấp, thời gian hoạt động
chƣa lâu. Nhƣng điều quan trọng là đã hình thành một loại hình doanh nghiệp
100
mới, với nhiều hình thức sở hữu, huy động đƣợc nhiều vốn của xã hội vào quá
trình sản xuất, kinh doanh, tạo thêm động lực mới trong cơ chế quản lý kinh
tế. Lợi ích của Nhà nƣớc, của doanh nghiệp và ngƣời lao động đƣợc bảo đảm
tốt hơn. Tuy vậy, hiện nay môi trƣờng kinh doanh chung của doanh nghiệp
trong đó có các DNCPH còn nhiều bất cập. Điều đó đƣợc thể hiện ở những
điểm sau:
i) Hoạt động quản lý, giám sát của các cơ quan nhà nƣớc đối với DNNN
sau CPH một mặt chƣa chặt chẽ, mặt khác vẫn chƣa tách bạch đƣợc chức
năng quản lý hành chính với chức năng quản lý của chủ sở hữu đối với
DNCPH trong trƣờng hợp nhà nƣớc vẫn là một cổ đông.
ii) Môi trƣờng cạnh tranh giữa các DN CPH và các DN khác chƣa thật lành
mạnh, quản lí Nhà nƣớc đối với các DN CPH đang đặt ra nhiều vấn đề.
Việc quản lý nhà nƣớc và quan hệ của các cơ quan nhà nƣớc đối với các
DNNN sau CPH cũng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc không chỉ cho
các CTCP mà cả cho phía các cơ quan quản lý nhà nƣớc. Trƣớc hết, DNNN
sau CPH thƣờng bị kỳ thị, phân biệt đối xử, bị mất đi những ƣu đãi mà trƣớc
đây khi còn là DNNN, nó vẫn đƣợc thụ hƣởng. DNCPH thƣờng khó tiếp cận
đƣợc các khoản vay của Ngân hàng, nhất là các khoản vay ƣu đãi. Các DN
này thƣờng bị kiểm tra, thanh tra nhiều hơn, với một địa vị pháp lý thiếu rõ
ràng (nhất là các CTCP mà nhà nƣớc giữ cổ phần chi phối: khi cơ quan quản
lý nhà nƣớc cần kiển soát thì chúng đƣợc coi là DNNN, khi xét ƣu đãi thì
chúng lại đƣợc coi là CTCP). Các cơ quan quản lý Nhà nƣớc còn nhiều lúng
túng trong việc thực hiện quản lý nhà nƣớc đối với các DN CPH. Do chƣa có
quy chế quản lý các CTCP thống nhất nên chƣa rõ cơ quan nào là đầu mối để
tổng hợp và giải quyết những vấn đề vƣớng mắc cho các CTCP, cơ quan nào
chịu trách nhiệm tuyên truyền, cung cấp thông tin, đứng ra tổ chức tập huấn,
phổ biến nghiệp vụ, các chính sách để các CTCP hoạt động theo luật, cơ quan
101
nào giúp UBND tỉnh quản lý các DNNN sau CPH (nhất là đối với các doanh
nghiệp mà Nhà nƣớc vẫn giữ cổ phần chi phối).
iii) Tính bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội kinh doanh và các
nguồn lực giữa DN CPH và DNNN không đƣợc đảm bảo.
Theo các Nghị định về cổ phần hóa, doanh nghiệp cổ phần hóa đƣợc tiếp tục vay vốn
của Ngân hàng thƣơng mại, công ty tài chính và tổ chức tín dụng khác của Nhà nƣớc theo
cơ chế lãi suất đƣợc áp dụng đối với DNNN. Nhƣng trong thực tế không ít doanh nghiệp đã
phản ánh tình trạng: Chính phủ thì cho phép, nhƣng về phía ngân hàng lại có quy định chỉ có
những DNCPH mà nhà nƣớc nắm giữ cổ phần chi phối thì mới đƣợc áp dụng cơ chế tín
dung ƣu đãi dành cho DNNN, còn với những DN mà nhà nƣớc không nắm giữ cổ phần chi
phối thì việc này chỉ đuợc áp dụng trong 2 năm đầu sau khi chuyển đổi. Các doanh nghiệp
sau cổ phần hóa đều phải thế chấp khi vay vốn, trong khi DNNN có thể vẫn đƣợc tín chấp.
3.4. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh
trong quá trình cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa.
3.4.1. Cơ chế, chính sách về CPH DNNN .
Cơ chế, chính sách của nhà nƣớc đối với vấn đề CPH DNNN ở Thanh
Hóa đƣợc thực hiện theo khung cơ chế, chính sách chung. Ngoài các biện
pháp có tính chất tổ chức, hành chính, Tỉnh hầu nhƣ không cụ thể hóa thành
những văn bản chính sách đặc thù riêng. Ảnh hƣởng của các chính sách đó thể
hiện ở một số điểm sau:
- Chính sách lựa chọn và phân loại các DNNN CPH: Việc sắp xếp lại các
DNNN trong tiến hành CPH bao gồm việc xác định các DNNN nào vẫn tiếp
tục đƣợc nhà nƣớc nắm giữ 100% vốn và các DNNN sẽ đƣợc CPH. Với các
DN thuộc nhóm sau, sẽ có một số DN tuy đƣợc CPH song nhà nƣớc vẫn là cổ
đông chính, chi phối, thậm chí có thể nắm trên 50% số vốn của DN bên cạnh
những DN mà nhà nƣớc chỉ chiếm giữ một tỷ lệ vốn sau CPH khiêm tốn hoặc
nhà nƣớc thoái vốn hoàn toàn. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là cho đến nay, vẫn
chƣa có một tiêu chí rành mạch nào để phân loại các DNNN trƣớc CPH thành
102
những kiểu, dạng nhƣ vậy. Với quan niệm kinh tế nhà nƣớc phải giữ “vai trò
chủ đạo” trong “nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, sự định
vị đúng đắn tƣơng quan và vai trò giữa nhà nƣớc với thị trƣờng, giữa khu vực
DNNN với khu vực DNTN phù hợp với nguyên tắc của một nền kinh tế thị
trƣờng hiện đại trở nên khó khăn, khó thực hiện đƣợc. Trong điều kiện đó,
quá trình CPH nói chung ở Việt Nam cũng nhƣ ở Thanh Hóa không đƣợc
thiết kế bài bản mà thƣờng đƣợc triển khai theo từng giai đoạn khác nhau, tùy
theo áp lực của thực tiễn kinh tế chung. CPH DNNN vốn là bƣớc đi cần thiết
để phát triển KVTN, phát triển kinh tế thị trƣờng thực chất đôi khi bị đảo
ngƣợc khi mà yêu cầu bảo vệ khu vực DNNN đƣợc đề cao (giai đoạn bùng nổ
của các tập đoàn kinh tế theo những nguyên tắc phi thị trƣờng là ví dụ). Vì
thế, việc phân loại và lựa chọn các DNNN phải CPH thực tế không đƣợc căn
cứ trên tiêu chí về tính hiệu quả chung mà lại bị chi phối bởi các quan điểm
chính trị. Trên thực tế, các DNNN đƣợc xem là nhà nƣớc cần nắm giữ (không
CPH hay nhà nƣớc là cổ đông chi phối) là các DN lớn hoặc DN hoạt động
trong những ngành đƣợc coi là chiến lƣợc, then chốt. Tƣ tƣởng “nắm lớn,
buông nhỏ”, giữ các khâu chiến lƣợc (tƣơng tự nhƣ cách làm của Trung
Quốc) dƣờng nhƣ phù hợp với quan điểm về tính chủ đạo của kinh tế nhà
nƣớc. Chẳng hạn theo Quyết định 155/2004/QĐ-TTG ngày 24/8/2004 của
Thủ tƣớng Chính phủ, các DNNN có vốn từ 30 tỷ VND trở lên sẽ không
CPH, DNNN có vốn từ 20 tỷ NVD trở lên thì sau CPH, nhà nƣớc sẽ vẫn nắm
trên 50% vốn cổ phần. Cách xác định ngành/lĩnh vực chiến lƣợc cũng không
thật rõ ràng, và bị chi phối bởi các quan điểm “phi kinh tế”. Chẳng hạn, theo
Quyết định 155 nói trên, những ngành nhƣ thuốc lá, xuất bản, sản xuất phim
khoa học, thời sự, tài liệu đƣợc xem là những ngành nhà nƣớc cần nắm giữ
100% vốn. Cách phân loại nhƣ vậy tạo ra rào cản khiến cho các DNNN hoạt
động trong các lĩnh vực nhƣ sản xuất điện, khai khoáng, cơ khí, hóa chất và
thuốc bảo vệ thực vật, hay một số lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng và thực
103
phẩm nhƣ muối ăn, sữa, bia, cồn chỉ đƣợc CPH với điều kiện nhà nƣớc là cổ
đông chi phối. Tóm lại, ở Việt Nam, cách xác định và phân loại các DNNN để
CPH đƣợc thực hiện từ trên xuống (do Thủ tƣớng quyết định) và không nhất
thiết phải xuất phát từ tính hiệu quả. Đó là lý do giải thích hiện tƣợng tồn tại
những DNCPH mà nhà nƣớc là cổ đông chi phối, hoạt động không hiệu quả
nhƣ đã phân tích ở trên, song không đƣợc xử lý.
- Chính sách tín dụng: Các doanh nghiệp sau cổ phần hóa còn bị phân
biệt đối xử so với các DNNN. Chúng đƣợc xem nhƣ một doanh nghiệp phi
nhà nƣớc hay một DNTN nên thƣờng gặp khó khăn khi vay vốn, nhất là các
khoản vay ƣu đãi của Nhà nƣớc, vốn trên thực tế chỉ đƣợc dành cho các
DNNN, đặc biệt là các DNNN lớn.
- Chính sách bán cổ phiếu ƣu đãi đối với ngƣời lao động: Theo quy định
hiện hành, những ngƣời lao động trong DNNN thuộc diện CPH đƣợc mua cổ
phiếu với giá ƣu đãi, thấp hơn 40% so với mức giá đấu thầu thành thành công
bình quân của cổ phiếu. Lƣợng cổ phiếu mà ngƣời lao động trong DN đƣợc
mua tỷ lệ với số năm công tác của họ tại doanh nghiệp. Tỷ lệ cổ phiếu đƣợc
bán trong nội bộ đƣợc quy định bằng 70% vốn điều lệ. Các quy định có tính
chất "chính sách" nhƣ vậy thể hiện sự ƣu đãi đối với những ngƣời lao động
làm việc trong các DNCPH, có tác dụng làm dịu đi tâm lý e ngại, chống đối
quá trình CPH, và đƣợc kỳ vọng là một biện pháp biến ngƣời lao động thành
những cổ đông của CTCP, nhờ đó họ sẽ có động lực hoạt động tốt hơn với tƣ
cách là ngƣời chủ của DN. Tuy nhiên, những quy định đó lại là nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến hiện tƣợng cổ phần hóa nội bộ, làm cho DNCPH không thu
hút đƣợc các nhà đầu tƣ bên ngoài, nhất là các nhà đầu tƣ chiến lƣợc. Mặt
khác, việc ƣu đãi đối với những ngƣời lao động làm việc trực tiếp ở doanh
nghiệp làm thất thoát một phần vốn chung của toàn xã hội, tỏ ra là bất công
đối với các thành viên của xã hội khác nằm ngoài doanh nghiệp. Hơn nữa,
nhƣ thực tế thƣờng xảy ra, do thu nhập thấp, những ngƣời lao động bình
104
thƣờng thƣờng có xu hƣớng bán lại cổ phần của mình cho ngƣời khác, khiến
cho mục tiêu kỳ vọng về “cổ đông – ngƣời lao động” thƣờng không đạt đƣợc.
Tính chất khép kín, thiếu công khai rộng rãi cũng khiến cho những ngƣời mua
gom đƣợc các cổ phiếu từ những ngƣời lao động bình thƣờng thƣờng là các
lãnh đạo cũ của doanh nghiệp, có quan hệ gần gũi và có lợi thế thông tin. Tất
cả những điều này khiến cho việc hình thành cấu trúc sở hữu của DNCPH có
thể chệch khỏi hƣớng hiệu quả nhƣ đã phân tích.
Các văn bản chính sách quy định và hƣớng dẫn cách xác định giá trị
doanh nghiệp (phƣơng pháp tính giá trị quyền sử dụng đất, giá trị lợi thế vị trí
địa lý, giá trị thƣơng hiệu…), giải quyết dƣ nợ, phƣơng pháp tính toán giá
khởi điểm chào bán cổ phần lần đầu, bố trí việc làm cho ngƣời lao động… thể
hiện thiếu rõ ràng, dẫn đến sự hiểu và vận dụng không thống nhất, có thể bị
lạm dụng. Chẳng hạn, theo quy định hiện hành của nhà nƣớc, ngƣời ta có thể
áp dụng 3 phƣơng pháp để xác định giá trị các DNNN để CPH gồm: Phƣơng
pháp tài sản, phƣơng pháp dòng tiền chiết khấu (DCF) và phƣơng pháp xác
định giá trị lợi thế kinh doanh. Theo phƣơng pháp tài sản, ngƣời ta cần xác
định chính xác giá trị các tài sản hữu hình cũng nhƣ vô hình của doanh
nghiệp. Đối với các tài sản nhƣ máy móc, thiết bị, giá trị của tài sản đƣợc
đánh giá trên cơ sở ƣớc lƣợng giá trị ban đầu (“nguyên giá tính theo giá thị
trƣờng”) của tài sản và phần trăm chất lƣợng còn lại của tài sản. Việc ƣớc
lƣợng “nguyên giá” thị trƣờng ở thời điểm xác định giá đối với các tài sản là
dây chuyền sản xuất rất lạc hậu về công nghệ, hiện tại không còn đƣợc sản
xuất, lƣu thông trên thị trƣờng và cũng không có tài sản so sánh tƣơng đƣơng
là rất khó khăn. Điều đó cũng đúng với các tài sản “chuyên biệt” mà nhà nƣớc
thƣờng đầu tƣ cho các doanh nghiệp công ích (quản lý đƣờng bộ, đƣờng song,
quản lý môi trƣờng đô thị…). Để khắc phục điều đó, ngƣời ta cho phép các tài
sản loại này đƣợc xác định nguyên giá theo giá tài sản ghi trên sổ kế toán.
Vấn đề là trong một số trƣờng hợp, giá trị tài sản trên sổ kế toán có thể rất cao
105
(một cách bất hợp lý), do tài sản đã đƣợc đánh giá lại nhiều lần theo sự thay
đổi của chế độ tỷ giá nhƣ quy định của Nhà nƣớc trong chế độ kế toán trƣớc
đây. Việc xác định giá trị của các tài sản vô hình (chẳng hạn nhƣ thƣơng hiệu,
lợi thế kinh doanh…) của DNNN đƣợc cổ phần hóa cũng gặp nhiều trở ngại
khi các thị trƣờng dịch vụ, hay thị trƣờng của các hàng hóa vô hình chƣa phát
triển. Những bất cập tƣơng tự cũng có thể xảy ra khi áp dụng phƣơng pháp
DCF (dòng tiền chiết khấu) hay phƣơng pháp xác định giá trị lợi thế kinh
doanh khi xác định giá trị doanh nghiệp.
- Các văn bản pháp quy cũng nhƣ các chính sách hỗ trợ DN trong quá
trình CPH của nhà nƣớc chƣa đƣợc ban hành kịp thời và đƣợc điều chỉnh phù
hợp khi xuất hiện những vấn đề mới phát sinh trong thực tế. Thậm chí có
những văn bản hƣớng dẫn về CPH đƣợc ban hành quá chậm khiến cho các
doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi thực hiện.
- Tỉnh cũng chƣa chủ động trong việc nghiên cứu, và cụ thể hóa các văn
bản pháp quy này phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của địa phƣơng.
3.4.2. Công tác quản lý nhà nước về CPH DNNN trên địa bàn tỉnh chưa
theo kịp với yêu cầu
- Chƣơng trình và kế hoạch CPH DNNN chƣa đƣợc thiết kế chu đáo,
bài bản: Điều này đƣợc thể hiện ở chỗ: trong nhiều năm qua, kế hoạch CPH
DNNN không đƣợc thiết kế nhƣ một bộ phận của tiến trình hoàn thiện và phát
triển các thể chế thị trƣờng, định vị lại vai trò của nhà nƣớc trong nền kinh tế
thị trƣờng, tái cấu trúc lại toàn bộ khu vực DNNN cũng nhƣ cả nền kinh tế. Các
tiêu chí để phân loại các DNNN thành những DN mà nhà nƣớc cần nắm giữ
100% vốn, DN thuộc diện cổ phần hóa song nhà nƣớc vẫn nắm giữ trên 50%
vốn hoặc giữ cổ phần ở mức chi phối, DN thuộc diện cổ phần hóa song nhà
nƣớc không cần trở thành cổ đông chi phối hay có thể thoái vốn hoàn toàn
không đƣợc xác định rõ ràng. Những DNNN đƣợc xem là nhà nƣớc cần nắm
giữ thƣờng gắn liền với quy mô (các DN lớn), tầm quan trọng (các DN hoạt
106
động trong các ngành “chiến lƣợc” - đây cũng là một thuật ngữ không rõ ràng)
hoặc có khả năng đem lại nguồn thu lớn cho nhà nƣớc hơn là dựa trên sự định
vị đúng đắn vai trò và tƣơng quan của khu vực công – tƣ trong nền kinh tế thị
trƣờng. Các phƣơng án CPH nhiều khi không đƣợc chuẩn bị chi tiết gắn với
cách thức tổ chức và phƣơng pháp xác định giá trị doanh nghiệp, phƣơng thức
bán cổ phần, lịch trình và tiến độ, sự phối hợp giữa các bên có liên quan và sự
phân công trách nhiệm, thời hạn hoàn thành cụ thể…, trong đó các vấn đề kinh
tế - xã hội nảy sinh sớm đƣợc dự liệu và đƣợc đảm bảo nguồn lực để xử lý
[xem thêm phần phụ lục]. Trách nhiệm của ngƣời lãnh đạo DNNN thuộc diện
CPH không đƣợc quy định rõ ràng. Việc giao cho chủ tịch UBND tỉnh chịu
trách nhiệm quyết định số lƣợng cổ phần, thời gian, phƣơng thức tổ chức bán,
quyết định lựa chọn tổ chức tƣ vấn bán cổ phần, thậm chí quyết định giá khởi
điểm đấu giá chứ không phải một cơ quan chuyên trách có thẩm quyền đã tạo
ra gánh nặng và áp lực không đáng có đối với ngƣời đứng đầu UBND tỉnh,
cũng nhƣ có thể nảy sinh những hệ lụy khác khi quyền quyết định đối với
những khâu quan trọng của quá trình CPH một DNNN lại đƣợc thiết kế một
cách quá tập trung.
- Quy trình cổ phần hóa vẫn còn phức tạp gắn với nhiều thủ tục phiền hà,
chậm đƣợc đổi mới, cải tiến. Công tác chỉ đạo, thực hiện công tác CPH còn
chồng chéo, liên quan đến hầu hết các sở, ban, ngành, địa phƣơng song sự
phối hợp giữa các tổ chức, cơ quan này còn thiếu hiệu quả. Công tác triển
khai, kiểm tra, đôn đốc, giám sát các đề án CPH đã đƣợc phê duyệt còn chậm
trễ, lúng túng. Việc xử lý các vƣớng mắc nảy sinh thƣờng bị kéo dài do các
thủ tục hành chính phức tạp, liên quan đến nhiều bộ phận chức năng. Tính
năng động nói chung của các cơ quan quản lý hành chính nhà nƣớc trên địa
bàn Tỉnh không đƣợc đánh giá cao (Theo “Báo cáo về chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh PCI 2014” chỉ số về tính năng động của Thanh Hóa năm 2014
chỉ đạt 5,58 điểm, không đƣợc cải thiện so với năm 2013 và thấp hơn so với
107
nhiều chỉ số thành phần khác. [75]) cũng phần nào phản ánh vai trò của các cơ
quan này đối với việc xử lý các vấn đề của CPH. Các doanh nghiệp thuộc
diện cổ phần hóa chƣa chủ động xử lý những vƣớng mắc về tài chính, các
khoản nợ phải thu hồi, các khoản nợ phải trả…
- Việc đấu giá cổ phần cũng nảy sinh một số vấn đề dễ phát sinh tiêu cực.
Đó là, hiện tƣợng thao túng bán đấu giá cổ phiếu của một số cá nhân, tổ chức
bằng cách nâng đấu giá lên cao, nhằm loại bỏ ngay lập tức những ngƣời có
nhu cầu mua cổ phiếu thực sự. Sau khi kết thúc phiên bán đấu giá, những
ngƣời này từ chối không mua số cổ phần đã đấu giá, chấp nhận mất tiền đặt
cọc và theo quy định, ngƣời chào giá mua cao thứ hai sẽ đƣợc xét để mua số
cổ phiếu đó. Khi có sự thông đồng với nhau giữa những ngƣời này, giá cổ
phiếu sẽ bị thao túng và tài sản của nhà nƣớc dễ bị thất thoát.
- Một số doanh nghiệp đã thực hiện sai chính sách của Nhà nƣớc trong
đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp, dẫn đến việc không thể quyết toán thuế,
không xác định đƣợc giá trị doanh nghiệp, tạo ra việc khiếu kiện kéo dài. Việc
điều tra, xử lý các vi phạm gặp rất nhiều khó khăn, do có sự thay đổi về chính
sách, về cán bộ, hoặc những vi phạm chƣa đƣợc giải quyết xong thì doanh
nghiệp lại tiến hành các bƣớc tiếp theo.
3.4.3. Các thiết chế hỗ trợ tiến trình CPH DNNN còn kém phát triển.
Trong một môi trƣờng mà các thị trƣờng liên quan đến các dịch vụ cao
cấp gắn liền các tài sản tài chính, trí tuệ…nhƣ thị trƣờng chứng khoán, thị
trƣờng dịch vụ tƣ vấn, thị trƣờng dịch vụ khoa học công nghệ… hầu nhƣ mới
chỉ manh nha hình thành, hay thị trƣờng đất đai phát triển một cách lệch lạc,
méo mó (do các quy định về sở hữu đất đai), việc định giá hay xử lý nợ của
doanh nghiệp trở nên khó khăn và dễ bị lạm dụng. Việc thiếu vắng hoặc kém
hoàn thiện của các thể chế thị trƣờng có khả năng cho phép đánh giá một cách
khách quan giá trị của các sản phẩm hay hàng hóa khó đánh giá (đất đai, cổ
phiếu, thƣơng hiệu, lợi thế kinh doanh, mua bán nợ…) cũng nhƣ các tổ chức
108
cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp, các chuyên gia tƣ vấn có trình độ cao và đạo
đức nghề nghiệp đáng tin cậy là những khó khăn khách quan chung, gây trở
ngại cho việc xử lý các vấn đề liên quan đến việc định giá tài sản doanh
nghiệp CPH cũng nhƣ xử lý một số tồn đọng khác của doanh nghiệp, tạo ra
những kẽ hở cho các nhóm lợi ích có thể lợi dụng.
3.4.4. Nhận thức xã hội và công tác tuyên truyền về CPH còn hạn chế
Ở Thanh Hóa, một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, ngƣời lao
động trong doanh nghiệp chƣa hiểu thấu đáo thực chất lợi ích của quá trình
chuyển DNNN thành công ty cổ phần, sợ bị xáo trộn việc làm, cƣơng vị công
tác nên thiếu ủng hộ quá trình CPH.
Thói quen sống và làm việc trong chế độ quan liêu, bao cấp trƣớc đây,
đã làm cho ngƣời lao động sợ cổ phần hóa. Họ cho rằng cổ phần hóa sẽ làm
cho họ mất việc làm, do không có tiền mua cổ phiếu, tuổi cao sức yếu không
thích nghi với cơ chế thị trƣờng. Một bộ phận công chức, lãnh đạo doanh
nghiệp nhà nƣớc hay cơ quan chủ quản của doanh nghiệp vốn đƣợc hƣởng lợi
từ vị trí đặc quyền cũ cũng e ngại và thiếu chủ động đón nhận chủ trƣơng
CPH do lo sợ bị mất vị trí và thua thiệt về lợi ích. Kế hoạch CPH, vì thế, mà
có thể bị thiết kế một cách thiếu chu đáo, bài bản, bị triển khai chậm chễ,
thiếu quyết liệt. Trong quá trình thực thi, những vấn đề nảy sinh không đƣợc
nhận biết sớm và có giải pháp xử lý kịp thời, thích hợp.
Sự hạn chế trong nhận thức chung của toàn xã hội cũng nhƣ của cán bộ, đảng
viên ở Thanh Hóa về vấn đề CPH DNNN có liên quan đến những vấn đề gốc rễ
hơn nhƣ: quan niệm khoa học và thực tiễn về nền kinh tế thị trƣờng hiện đại, về
mô hình kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở Việt Nam. Cách nhìn định kiến,
thiếu cơ sở thực tiễn về những vấn đề này khiến cho trong xã hội, vẫn chƣa có sự
thống nhất nhận thức thực sự về vai trò của sở hữu tƣ nhân và khu vực tƣ nhân
cũng nhƣ vai trò của nhà nƣớc và các DNNN trong nền kinh tế thị trƣờng. Tâm lý
e ngại CPH sẽ dẫn đến tƣ nhân hóa hay không chấp nhận CPH là tƣ nhân hóa, bất
109
chấp sự CPH nửa vời mà theo đó, ở các DN sau CPH, nhà nƣớc vẫn là cổ đông
lớn chi phối số phận DN, không tạo ra sự cải thiện đáng kể đối với hiệu quả hoạt
động của DN, khiến cho chủ trƣơng CPH không biến thành một kế hoạch hành
động chi tiết, đƣợc thực thi một cách quyết liệt và nhất quán. Sự chần chừ, ngập
ngừng trong trƣờng hợp này là khó tránh khỏi.
Vƣớng mắc về vấn đề tƣ tƣởng, nhận thức tồn tại thậm chí cả ở cấp cao
nhất khiến cho chủ trƣơng CPH không trở thành quyết tâm chính trị ƣu tiên
cao của các cấp ủy và chính quyền. Nó cũng làm cho các nội dung tuyên
truyền về chủ trƣơng CPH trở nên thiếu sâu sắc, và không đƣợc triển khai sâu
rộng. Ở Thanh Hóa, một số cấp ủy Đảng, cán bộ lãnh đạo chủ chốt chƣa chủ
động nghiên cứu, phổ biến rộng rãi để đảng viên, quần chúng hiểu rõ yêu cầu
cần thiết, lợi ích của việc cổ phần hóa, tháo gỡ những khúc mắc của họ về tƣ
tƣởng. Việc phổ biến chủ trƣơng CPH của Đảng và Nhà nƣớc thƣờng đƣợc
tập trung chủ yếu ở những DNNN thuộc diện CPH mà không đƣợc tuyền
truyền rộng rãi trong mọi nhóm xã hội khiến cho quá trình này không thu hút
đƣợc sự quan tâm, ủng hộ và giám sát của toàn xã hội. Điều đó phần nào cũng
làm giảm tính công khai, minh bạch của tiến trình CPH, cho phép cách thực
hiện CPH theo kiểu khép kín, nội bộ hóa có điều kiện diễn ra, tiến độ CPH
diễn ra chậm chễ mà không có ai thực sự bị trừng phạt. Từ đó, nhiều vấn đề
kinh tế - xã hội sẽ nảy sinh.
Công tác tuyên truyền, giáo dục và đấu tranh với tƣ tƣởng bảo thủ chƣa
đƣợc đặt ra một cách nghiêm túc và chƣa có biện pháp hữu hiệu, đủ mạnh để
khắc phục. Đồng thời, những lãnh đạo doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức có sai
phạm, đặc biệt là đối với những ngƣời gây khó khăn, cản trở, chống đối chỉ
đạo của cấp trên, vi phạm các quy định về cổ phần hóa và sắp xếp doanh
nghiệp, cán bộ quản lý gây thua lỗ, nợ đọng, thất thoát tài sản nhà nƣớc chƣa
đƣợc xử lý kiên quyết, nghiêm minh. Những điều này khiến việc triển khai
quá trình CPH nói chung trở nên khó khăn.
110
Kết luận Chƣơng 3
Chƣơng 3 đã tập trung nghiên cứu tình hình và kết quả CPH DNNN ở tỉnh
Thanh Hóa, trên cơ sở đó đã chỉ rõ các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá
trình CPH các DNNN của tỉnh.
Thực tiễn chỉ rõ quá trình CPH các DNNN tại Thanh Hóa đã tạo ra nhiều
chuyển biến tích cực tại các DN này. Tuy nhiên nó cũng cho thấy: Các công ty
mà ở đó, nhà nƣớc giữ tỷ lệ cổ phần thấp, nhất là những CTCP mà Nhà nƣớc
không còn nắm cổ phần đã thực sự chủ động trong SXKD nên hiệu quả SXKD
cao hơn, tạo đƣợc nhiều việc làm hơn so với trƣớc CPH. Ngƣợc lại, ở các CTCP
mà Nhà nƣớc giữ tỷ lệ cổ phần cao thuờng ít có sự thay đổi trong quản trị doanh
nghiệp, trong nhân sự, tính tự chủ, chủ động của DN trong SXKD thấp, nhất là ở
những CTCP mà các thành viên trong HĐQT chỉ nắm giữ tỷ lệ vốn cổ phần
thấp, chỉ có một số ít cán bộ công nhân là cổ đông. Trong số này, sau CPH công
ty vẫn hoạt động kinh doanh với hiệu quả thấp, thậm chí còn đứng trƣớc nguy
cơ bị phá sản.
Bên cạnh đó, quá trình CPH cũng nhƣ sự vận hành của các DN sau CPH
nhìn chung vẫn gặp nhiều khó khăn. Toàn bộ quá trình này vẫn đã và đang
đối diện với nhiều vấn đề bất cập, cần tháo gỡ: Các lực cản kinh tế -xã hội
nảy sinh trong quá trình chuẩn bị CPH các DNNN; những khó khăn trong
việc xác định giá trị doanh nghiệp để CPH; vấn đề bán cổ phần ƣu đãi cho
ngƣời lao động trong các doanh nghiệp CPH, vấn đề cổ đông Nhà Nƣớc, cổ
đông chiến lƣợc; vấn đề xử lý công nợ của các doanh nghiệp; vấn đề quản lý
Nhà nƣớc đối với các doanh nghiệp đang trong quá trình CPH, vấn đề cần
giải quyết đối với các doanh nghiệp sau CPH...Giải quyết tốt các vấn đề này
là nền tảng để thúc đẩy nhanh tiến độ và nâng cao hiệu quả của quá trình
CPH các DNNN ở Thanh Hóa trong thời gian tới.
111
Chƣơng 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ
- XÃ HỘI NẢY SINH TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở TỈNH THANH HÓA
4.1. Quan điểm giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trong quá
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở Thanh Hóa những năm tới
4.1.1. Bối cảnh của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Thanh Hóa
những năm tới
4.1.1.1. Bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội chung
Sau hơn 20 năm thực hiện quá trình sắp xếp, đổi mới khu vực DNNN,
trong đó có quá trình CPH các DNNN, cùng với tiến trình Đổi mới chung,
diện mạo nền kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi rõ rệt. Khu vực tƣ nhân đã
lớn mạnh không ngừng và trở thành khu vực đóng góp lớn nhất trong việc sản
xuất hàng hóa, dịch vụ, tạo công ăn, việc làm, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế.
Với hàng ngàn doanh nghiệp đã đƣợc cổ phần hóa, khu vực DNNN đã đƣợc
thu hẹp một bƣớc và thích nghi tốt hơn với nền kinh tế thị trƣờng. Những thay
đổi về mặt cấu trúc nhƣ vậy là một nội dung quan trọng của tiến trình Đổi
mới, của việc chuyển một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang một nền
kinh tế thị trƣờng, góp phần làm nên những thành tựu tăng trƣởng đầy ấn
tƣợng của Việt Nam thời kỳ Đổi mới.
Tuy vậy, nhìn tổng thể, so với các DN thuộc khu vực tƣ nhân trong
nƣớc cũng nhƣ các doanh nghiệp FDI, khu vực DNNN vẫn đƣợc xem là khu
vực hoạt động kinh doanh kém hiệu quả nhất, mặc dù đây vẫn là khu vực
đang chiếm giữ phần lớn lƣợng vốn và tài sản của toàn xã hội. Đóng góp vào
GDP cũng nhƣ vào việc giải quyết việc làm của khu vực DNNN hoàn toàn
không tƣơng xứng với tỷ trọng tài sản xã hội mà nó nắm giữ. Hiệu quả thấp,
năng lực cạnh tranh hạn chế, tình trạng tham nhũng dễ xảy ra, tỷ lệ thua lỗ
112
cao, quy mộ và tỷ lệ nợ so với vốn sở hữu lớn là những cụm từ mà ngƣời ta
thƣờng sử dụng để đánh giá khái quát về khu vực này. Quy mô lớn, hoạt động
thiếu hiệu quả của khu vực DNNN đã kéo tụt hiệu quả chung của nền kinh tế
và là nguyên nhân nội tại quan trọng dẫn đến sự suy thoái trong tốc độ tăng
trƣởng của nền kinh tế kéo dài từ năm 2010 đến nay [104].
Trong bối cảnh diễn biến phức tạp của nền kinh tế thế giới sau cuộc
khủng hoảng suy thoái kinh tế toàn cầu 2008, nhịp độ tăng trƣởng kinh tế Việt
Nam chậm lại một cách rõ rệt trong những năm qua cho thấy chất lƣợng thấp
và tính kèm bền vững của quá trình này. Đó cũng là thách thức to lớn mà Đất
nƣớc đang đối mặt và phải vƣợt qua. Trong điều kiện những xung lực có đƣợc
từ giai đoạn đầu Đổi mới đã dần cạn kiệt, mô thức tăng trƣởng theo chiều
rộng đã không còn “dƣ địa” để phát huy, việc đổi mới mô hình tăng trƣởng và
tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế đã và đang đƣợc đặt ra một cách cấp thiết.
Tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế trên cơ sở phát triển một nền kinh tế thị
trƣờng hiện đại, năng động cao, có khả năng hội nhập sâu và hiệu quả vào nền
kinh tế thế giới nhằm tạo ra những động lực và sức sống mới cho nền kinh tế
là nội dung chính của tiến trình tiếp tục Đổi mới nền kinh tế Việt Nam trong
những năm tới. Nó đƣợc đƣợc đặt ra không chỉ bắt nguồn từ yêu cầu nội tại
của nền kinh tế mà còn xuất phát từ những áp lực bên ngoài do quá trình toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế đem lại. Những cam kết tự do hóa nền kinh tế
gắn liền với việc gia nhập WTO, sự hình thành Cộng đồng kinh tế chung
ASEAN trong tƣơng lai cận kề, triển vọng hình thành và tham gia
TPP…không chỉ đem lại những cơ hội mà còn tạo ra những thách thức to lớn
đối với nền kinh tế đất nƣớc. Các doanh nghiệp trong nƣớc sẽ ngày càng phải
đối diện với áp lực cạnh tranh mạnh hơn từ phía các đối tác bên ngoài, theo
những tiêu chuẩn, chuẩn mực quốc tế ngày càng khắt khe. Trong điều kiện đó,
tái cấu trúc một cách toàn diện nền kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả và năng
lực cạnh tranh quốc tế của nó là quá trình không thể né tránh.
113
Tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế có nội dung rất rộng, có liên quan đến
mọi lĩnh vực, ngành và các doanh nghiệp. Nó không chỉ liên quan đến việc
cải tổ các hoạt động đầu tƣ, chi tiêu và điều tiết nền kinh tế của nhà nƣớc,
sắp xếp và cấu trúc lại hệ thống ngân hàng mà còn đụng chạm đến việc định
vị và cấu trúc lại hệ thống các doanh nghiệp trong cả khu vực tƣ lẫn công.
Trong những nội dung đó, tái cấu trúc các DNNN đƣợc xem là một trong
những khâu then chốt. Trong bối cảnh nhƣ vậy, với tƣ cách là một bộ phận
hữu cơ của việc tái cấu trúc khu vực các DNNN, quá trình CPH DNNN buộc
phải đƣợc đẩy nhanh theo những mục tiêu hiệu quả mà tiến trình tái cấu trúc
quy định.
Cũng theo phƣơng hƣớng nhƣ vậy, Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban
chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng đã ghi rõ: Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nƣớc
theo hƣớng: doanh nghiệp nhà nƣớc tập trung vào những lĩnh vực then chốt,
thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực
mà doanh nghiệp thuộc các thành phần khác không đầu tƣ. Đẩy mạnh CPH,
bán vốn mà Nhà nƣớc không cần nắm giữ, bao gồm cả những doanh nghiệp
đang kinh doanh có hiệu quả; hoàn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu
hình và tài sản vô hình (tài sản trí tuệ, thƣơng hiệu,...) trong CPH theo nguyên
tắc thị trƣờng. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị,
công ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn Nhà nƣớc và chức năng
quản lý nhà nƣớc, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nƣớc;
sớm xóa bỏ chức năng chủ sở hữu nhà nƣớc của các bộ, ủy ban nhân dân đối
với vốn, tài sản nhà nƣớc tại các doanh nghiệp. Thành lập một cơ quan
chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nƣớc. Kiện
toàn đội ngũ lãnh đạo, quản lý và nâng cao năng lực quản trị , quản lý doanh
nghiệp nhà nƣớc phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Tăng cƣờng quản lý, giám
sát, kiểm tra, kiểm soát đảm bảo công khai, minh bạch về đầu tƣ, tài chính và
114
các hoạt động của doanh nghiệp nhà nƣớc. [ 36; tr. 31].
4.1.1.2. Chủ trương phát triển kinh tế xã hội và mục tiêu cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước của tỉnh Thanh Hóa
Dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII
tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2015-2020 chỉ ra
phƣơng hƣớng chung của tỉnh là “ Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tranh thủ
thời cơ, vận hội mới, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình
tăng trƣởng, nhanh chóng nâng cao chất lƣợng, hiệu quả và năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế; tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trƣờng đầu tƣ kinh
doanh, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tƣ phát
triển; nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực và các hoạt động văn hóa xã hội;
thực hiện tốt công tác giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội; tăng cƣờng bảo
vệ môi trƣờng, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, chủ động đối phó với biến đổi
khí hậu; bảo đảm quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội; phấn đấu đến
năm 2020 trở thành tỉnh tiên tiến; đến năm 2025 cơ bản trở thành tỉnh công
nghiệp theo hƣớng hiện đại”. [ 90; tr. 28].
Để thực hiện chủ trƣơng trên, Thanh Hóa chủ trƣơng “ Tiếp tục thực
hiện chủ trƣơng CPH DNNN, thoái vốn nhà nƣớc và sắp xếp chuyển đổi chủ
sở hữu doanh nghiệp theo lộ trình , đảm bảo tính công khai, minh bạch”
[ 90; tr. 37].
Mục tiêu cổ phần hóa DNNN và tái cấu trúc DNNN ở tỉnh Thanh Hóa
là nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tƣ và xã hội, tăng
cƣờng năng lực cạnh tranh. Yêu cầu của tái cấu trúc DNNN và cổ phần hóa
DNNN đều hƣớng tới giảm số lƣợng các DNNN, nâng cao chất lƣợng hiệu
quả hoạt động, tiềm lực tài chính để phát triển trong điều kiện cạnh tranh khốc
liệt nhƣ hiện nay.
115
Quy hoạch và cơ cấu lại cổ phần hóa DNNN theo quan điểm chung của
Đảng, Nhà nƣớc cũng nhƣ của tỉnh đề ra về đổi mới, sắp xếp các DNNN, cổ
phần hóa DNNN giai đoạn tiếp theo nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả sản
xuất, kinh doanh, phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế.
Nói chung, trong thời gian từ nay đến hết năm 2020 tiến trình CPH DNNN
tại tỉnh Thanh Hóa phải hƣớng tới thực hiện tốt 3 nội dung chủ yếu sau:
(i) Đẩy mạnh cổ phần hóa để thu hẹp khu vực DNNN trên địa bàn;
(ii) Thoái vốn Nhà nƣớc khỏi các lĩnh vực kinh doanh mà DNNN không
cần nắm giữ;
(iii) Đổi mới và nâng cao năng lực quản trị tại các doanh nghiệp sau CPH.
4.1.2. Quan điểm giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Thanh Hóa
4.1.2.1. Phải xem quá trình CPH DNNN và giải quyết các vấn đề kinh tế- xã
hội nảy sinh từ đó như là yêu cầu khách quan của tiến trình phát triển kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Quá trình đổi mới ở Việt Nam trong gần 30 năm qua thực chất là quá
trình đoạn tuyệt dần với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trƣớc đây để phát
triển nền kinh tế thị trƣờng đầy đủ,, hiện đại, có tính hội nhập quốc tế cao. Dù
có những khó khăn, trở ngại, kể cả về mặt nhận thức, tƣ tƣởng, song nhƣ thực
tiễn đã chỉ rõ: đây là một quá trình không thể đảo ngƣợc.
Phát triển nền kinh tế thị trƣờng hiện đại, theo xu hƣớng mở cửa, hội
nhập đòi hỏi phải nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nƣớc và thị
trƣờng, phải định vị lại vị trí, vai trò và tƣơng quan giữa khu vực công và khu
vực tƣ, phải tạo lập vững chắc các nền tảng thị trƣờng dựa trên việc thừa nhận
rộng rãi quyền sở hữu tƣ nhân với sự tồn tại của các chủ thể kinh tế đa dạng
và năng động. Trong xu hƣớng này, việc cơ cấu lại khu vực DNNN, CPH bộ
bộ phận đáng kể các DNNN là cực kỳ cần thiết và là một bộ phận hữu cơ của
tiến trình phát triển kinh tế thị trƣờng nói chung.
116
Với quan điểm nhƣ vậy, việc thúc đẩy quá trình CPH DNNN phải trở
thành quyết tâm chính trị của mọi cấp lãnh đạo. Nó cần đƣợc tuyền truyền sâu
rộng để trở thành nhận thức chung, đồng thuận giữa các cấp, các ngành và các
tầng lớp nhân dân.Những tƣ tƣởng ngập ngừng, e ngại, chống đối quá trình
CPH cần đƣợc phê phán.
Thêm nữa, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc tiến hành xử lý
những vấn đề kinh tế -xã hội nảy sinh trong CPH DNNN cũng phải tính đến
thông lệ quốc tế. Có nhƣ thế mới đƣa ra các cơ chế chính sách, mô hình tổ
chức quản lý, các thiết chế hỗ trợ CPH phù hợp, đảm bảo đƣợc tính cạnh
tranh, tính hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề trên..
4.1.2.2. Giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trên cơ sở nhận thức
đúng về bản chất cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, coi cổ phần hóa
DNNN như một bộ phận thiết yếu của quá trình tái cấu trúc toàn bộ nền kinh
tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy sự phát triển toàn bộ nền kinh tế
theo chiều sâu
Mặc dù CPH DNNN đã tiến hành hơn 20 năm song nhận thức về bản
chất của CPH vẫn chƣa có sự rõ ràng và thống nhất. Nhiều ngƣời, kể cả một
số nhà hoạch định chính sách, hiện vẫn còn hiểu bản chất của CPH DNNN chỉ
là nhằm giảm bớt tỷ trọng sở hữu của nhà nƣớc trong doanh nghiệp. Đó chỉ là
cách hiểu thông thƣờng nhất và đơn giản nhất. Cách hiểu và cách làm nhƣ
vậy, trên thực tế chỉ đạt đƣợc những thành công trong việc giảm bớt số lƣợng
DNNN và tỷ trọng vốn của Nhà nƣớc trong các DNNN, chứ không tạo đƣợc
sự chuyển biến về chất trong các doanh nghiệp này. Điều đó dẫn đến tình
trạng nhiều DNNN sau CPH rất lúng lúng về phƣơng thức hoạt động và hoạt
động kém hiệu quả. Thực tế đó đặt ra yêu cầu phải có sự nhận thức đúng và
toàn diện hơn về bản chất và mục tiêu CPH.
Phải khẳng định lại, cổ phần hoá DNNN không chỉ là quá trình bán cổ
phần của các DNNN mà Nhà nƣớc không cần nắm giữ cho các nhà đầu tƣ tƣ
117
nhân, mà ngoài mục tiêu đó, tiến trình CPH DNNN còn có các mục tiêu quan
trọng khác nữa. Đó là:
+ CPH để thực hiện tái cấu trúc lại hệ thống DNNN, tiến tới tái cấu trúc
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Có nghĩa là, CPH DNNN còn có mục tiêu là
phải làm cho bản thân các DN ấy sau khi đƣợc cổ phần hoá phải trở thành
một thực thể kinh tế lành mạnh, hay nói khác đi là làm “lành mạnh hóa” khu
vực kinh tế Nhà nƣớc. Trong trƣờng hợp ngƣợc lại (đang phổ biến hiện nay),
thì cổ phần hoá, thậm chí còn gây tác động tiêu cực đến các khu vực kinh tế
khác, bởi một khi nguồn vốn xã hội đã đƣợc thu hút vào khu vực kinh tế Nhà
nƣớc thì đồng thời cũng “đẩy” luôn các thực thể kinh tế yếu kém sang các khu
vực kinh tế khác. Rốt cuộc, tuy chúng ta giảm đƣợc một phần gánh nặng tài
chính cho Nhà nƣớc tại các DNNN (cũ), nhƣng lại đặt lên đó một gánh nặng
khác từ các doanh nghiệp ấy sau khi đã cổ phần hóa.
Với cách hiểu về bản chất CPH DNNN nhƣ hiện nay thì kết quả CPH
nhiều lắm cũng chỉ tạo đƣợc ra một sự cân bằng giả tạo, tạm thời giữa khu vực
kinh tế nhà nƣớc và kinh tế tƣ nhân, bởi vì ngay sau đó nó lại mất đi sự cân
bằng ấy, do các doanh nghiệp sau CPH đã không thể phát triển đƣợc bền vững
trên cơ sở nguồn vốn mới, lực lƣợng lao động mới và cách thức quản trị mới.
+ CPH để giải quyết vấn đề nợ xấu tại các DNNN. Nói cách khác, cổ
phần hóa cũng là một giải pháp hữu hiệu để Nhà nƣớc thoái vốn tại các
doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, đồng thời tạo sự minh bạch và lành
mạnh về tài chính trong các doanh nghiệp đó.
Nói tóm lại, CPH DNNN là nhằm hƣớng tới nhiều mục tiêu, trong đó 3
mục tiêu cơ bản nhất là: (1) Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức
cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại doanh nghiệp có nhiều chủ sở
hữu, trong đó có đông đảo ngƣời lao động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ
chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản
của Nhà nƣớc và của doanh nghiệp; (2) Đa dạng hóa các chủ thể sở hữu nhằm
118
huy động nguồn vốn của toàn xã hội để phát triển sản xuất kinh doanh, bao
gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nƣớc và ngoài nƣớc
để đầu tƣ đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp; và (3) Phát huy vai
trò làm chủ thực sự của ngƣời lao động, của cổ đông; tăng cƣờng sự giám
sát của nhà đầu tƣ đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà
nƣớc, doanh nghiệp, nhà đầu tƣ và ngƣời lao động.
Thêm nữa, trong bối cảnh mới, việc xử lý các vấn đề kinh tế- xã hội nảy
sinh cần phải dựa trên cơ sở coi cổ phần hóa DNNN nhƣ một bộ phận thiết
yếu của quá trình tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng
trƣởng, thúc đẩy sự phát triển toàn bộ nền kinh tế theo chiều sâu và hội nhập.
Để tiếp tục duy trì đƣơc tốc độ tăng trƣởng kinh tế nhanh, bền vững
trong bối cảnh nền kinh tế đất nƣớc ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế
thế giới và các xung lực do quá trình đổi mới trƣớc đây yếu dần, khả năng
tăng trƣởng theo chiều rộng, dựa trên việc mở rộng khai thác nhanh các yếu tố
đầu vào sẵn có ngày càng cạn kiệt, quá trình tái cấu trúc lại toàn bộ nền kinh
tế và đổi mới mô hình tăng trƣởng đang đƣợc đặt ra cấp bách. Một trong
những nội dung quan trọng của quá trình này chính là tái cấu trúc lại khu vực
DNNN, định vị lại vai trò và chức năng của khu vực này nhằm làm cho nó trở
nên hiệu quả hơn cũng nhƣ góp phần thực sự vào sự gia tăng hiệu quả của nền
kinh tế. Cổ phần hóa DNNN nhằm biến một bộ phận DNNN hoạt động thiếu
hiệu quả mà nhà nƣớc không cần nắm giữ thành những thực thế kinh tế mới,
giàu sức sống, có động lực tự thân trong việc theo đuổi việc sử dụng các
nguồn lực và tài sản doanh nghiệp một cách có hiệu quả rõ ràng là một khâu
quan trọng của chƣơng trình tái cấu trúc tổng thể này. Quan điểm nhƣ vậy cần
đƣợc quán triệt để tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội, ngăn ngừa các xung
đột nảy sinh cũng nhƣ tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý các vấn đề kinh
tế - xã hội vấp phải trong tiến trình CPH.
119
Hạn chế lớn nhất của các DNNN là thƣờng hoạt động kém hiệu quả hơn
nhiều so với các loại hình doanh nghiệp khác, mà nguyên nhân chính là do
tính chất sở hữu của nó. Tính chất sở hữu công, sở hữu chung của toàn xã hội
khiến cho các tài sản của DNNN dễ rơi vào nguy cơ hoặc là trở thành những
tài sản vô chủ (không của ai cả), hoặc là trở thành tài sản của một ai đó (biến
tài sản chung thành tài sản riêng). Cả hai trƣờng hợp này đều làm giảm hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp, biểu hiện trƣớc hết ở hiệu quả sử dụng vốn
nhà nƣớc trong các DNNN rất thấp. Trên thực tế, để tạo ra 1 đồng doanh thu,
các doanh nghiệp tƣ nhân cần 8,2 đồng vốn (các nƣớc phát triển chỉ cần 6,7
đồng), nhƣng DNNN phải cần đến 15 đồng [97]. Để khắc phục điều này,
Chính phủ Việt Nam đã chủ trƣơng tiến hành cải cách DNNN vào những năm
đầu 1990, trong đó cổ phần hoá đƣợc xác định là một biện pháp hữu hiệu.
Cần nhận thức rằng, điều cần nhấn mạnh là mục tiêu khách quan của
quá trình cổ phần hóa các DNNN là cải thiện hiệu quả cả ở khu vực DNNN
lẫn trong cả nền kinh tế, thông qua việc đem lại cho các DN và nền kinh tế
một sức sống mới, một năng lực cạnh tranh mới, cao hơn. Nếu cổ phần hóa
mà không nâng cao đƣợc hiệu quả của DN sau CPH, vẫn làm các tài sản xã
hội bị sử dụng lãng phí, vẫn tạo điều kiện để các hiện tƣợng tham nhũng hay
tiêu cực cũ phát sinh thì tiến trình cổ phần hóa không đáng đƣợc thực hiện.
Mặc dù trong những hoàn cảnh cụ thể, ở các nƣớc khác nhau, ngƣời ta có thể
gán cho quá trình cổ phần hóa các DNNN các mục tiêu cụ thể khác nhau,
nhƣng thực chất của vấn đề, mục tiêu hiệu quả phải là mục tiêu ƣu tiên.
Không xác định rõ điều này, quá trình cổ phần hóa có thể không mang lại
hiệu quả mong muốn. Về nhận thức, điều này đã đƣợc đƣa ra từ năm 2001, tại
Kỳ họp thứ Ba của BCH Trung ƣơng Đảng khóa IX. Nghị quyết khẳng
định:“Mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là nhằm tạo ra loại
hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo ngƣời lao
động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nƣớc và huy động thêm
120
vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ
chế quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nƣớc, phát huy
vai trò làm chủ thực sự của ngƣời lao động, của cổ đông và tăng cƣờng
giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài hòa lợi ích của nhà
nƣớc, doanh nghiệp và ngƣời lao động” [36].
Nhƣ vậy, CPH DNNN còn có mục tiêu rất quan trọng là tạo điều kiện
để các doanh nghiệp sinh lợi. Chính vì sự nhầm lẫn về mục tiêu của doanh
nghiệp chỉ là vấn đề sở hữu nên nhiều ngƣời, kể các các nhà lãnh đạo, các nhà
quản lý không quan tâm đến mục tiêu sinh lợi. Khả năng sinh lợi của doanh
nghiệp gắn liền với việc mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm, tăng sản phẩm
hàng hóa cho thị trƣờng, tăng khoản nộp cho ngân sách. Tăng nguồn thu cho
ngân sách là cách duy nhất để Nhà nƣớc tăng phúc lợi cho ngƣời lao động.
Nếu nhấn mạnh tính sở hữu, không những mục tiêu về lợi nhuận không đạt
đƣợc mà mục tiêu về phúc lợi cho ngƣời lao động cũng vô nghĩa. Đây là bài
học đắt giá mà chúng ta đã phải trả trong mấy chục năm nền kinh tế vận động
theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung.
Việc thực hiện hình thức đa sở hữu đối với các doanh nghiệp trong quá
trình cổ phần hóa DNNN về thực chất là sự xóa bỏ tình trạng “ vô chủ” trong các
doanh nghiệp này. Tùy theo tính chất, đặc điểm của loại hình doanh nghiệp mà
nhà nƣớc có thể giữ cổ phần chi phối ở một số ít doanh nghiệp đặc biệt hoặc chỉ
tham gia cổ phần ở mức cần thiết. Điều quan trọng là phải xây dựng trên cơ sở
những tiền đề và các dự báo khả thi để từ đó có thể đƣa ra những giải pháp hữu
hiệu nhằm nâng cao sức cạnh tranh và kinh doanh thực sự có hiệu quả.
Việc thực hiện thoái vốn nhà nƣớc tại các DNNN cũng đồng nghĩa với
việc tăng cƣờng huy động các nhà đầu tƣ có tiềm lực về vốn và điều kiện kinh
doanh tham gia mua cổ phần, cùng với ngƣời lao động trong doanh nghiệp để
nâng cao trách nhiệm quản lý, tổ chức sản xuất, kinh doanh với trách nhiệm
sở hữu tài sản trong doanh nghiệp. Tại tỉnh Thanh Hóa, do đặc điểm các
121
doanh nghiệp hình thành từ cổ phần hóa DNNN trên địa bàn hầu hết có quy
mô nguồn vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp rất nhỏ, nên cần áp dụng hình thức
mở rộng quy mô sản xuất bằng cách phát hành thêm cổ phiếu.
4.1.2.3. Giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh trên cơ sở tăng
cường tính công khai, minh bạch và xác lập nguyên tắc hài hòa hóa lợi ích.
Trong nhiều trƣờng hợp, sự xung đột lợi ích gắn liền với quá trình CPH
DNNN bộc lộ ra thành vấn đề kinh tế - xã hội có khả năng cản trở và tác động
tiêu cực đến quá trình này là do phƣơng thức CPH thiếu công khai, minh
bạch. Chẳng hạn, khi đất đai, hay nhiều tài sản khác của DNNN đƣợc định giá
công khai, minh bạch, thông qua cơ chế đấu giá mang tính cạnh tranh, thu hút
đƣợc nhiều ngƣời tham gia, khi những thông tin có liên quan đến các tài sản
đƣợc công bố rộng rãi thì chắc chắn những tiêu cực và lạm dụng trong việc
định giá các tài sản trên ít có cơ hội phát sinh, tài sản nhà nƣớc vì vậy cũng ít
bị thất thoát hơn. Khi quá trình cổ phần hóa một DNNN nào đó chỉ diễn ra
một cách khép kín trong nội bộ những ngƣời lãnh đạo và tập thể lao động của
doanh nghiệp, thì khả năng giá trị doanh nghiệp bị đánh giá thấp thông qua
giá cổ phiếu doanh nghiệp bị găm lại ở mức thấp rất dễ xảy ra. Các nhà đầu tƣ
bên ngoài có khả năng trở thành cổ đông mới, có thể đem lại một sức sống
mới cho doanh nghiệp cả về tài năng lẫn nguồn lực tài chính bị ngăn cản. Vì
thế công khai, minh bạch phải trở thành nguyên tắc để ngăn ngừa và xử lý các
vấn đề kinh tế - xã hội gắn liền với quá trình CPH DNNN.
Nhƣ đã phân tích, sự xung đột lợi ích là không tránh khỏi trong quá
trình chuyển đổi hình thức và cấu trúc sở hữu từ DNNN sang thành CTCP. Để
ngăn cản và hạn chế sự chống đối phát sinh từ sự xung đột này, bên cạnh việc
tuyên truyền và công khai hóa, cần áp dụng nguyên tắc hài hóa hóa tối đa các
mối tƣơng tác lợi ích giữa các chủ thể kinh tế có liên quan. Trong một chừng
mực nhất định có thể sử dụng các hình thức đền bù thích hợp cho những
ngƣời bị thiệt hại, nhất là những ngƣời gặp khó khăn, ở vị thế yếu thế. Chẳng
hạn, những ngƣời lao động, bị “dôi dƣ” là những ngƣời nhƣ vậy. Trong
122
trƣờng hợp này, nhà nƣớc, vì lợi ích xã hội dài hạn phải có trách nhiệm “đền
bù” một cách thỏa đáng cho họ dƣới các hình thức khác nhau, tránh tình trạng
vì khó khăn ngân sách ngắn hạn, các cơ quan nhà nƣớc có xu hƣớng đùn đẩy
trách nhiệm cho các DN CPH. Những lãnh đạo DNNN cũ, có quá trình công
tác lâu dài và gắn bó với DN cũng có thể đƣợc xem xét đền bù. Tuy vậy, khi
sự thiệt hại của một số ngƣời làm việc trong DNNN cũ gắn liền với vị thế
“đặc quyền, đặc lợi” của họ thì về nguyên tắc nhà nƣớc và xã hội không cần
“đền bù”. Trong trƣờng hợp này nguyên tắc xử lý thích hợp là tuyên truyền,
công khai hóa.
4.1.2.4. Xem hoàn thiện và nâng cao chất lượng của các thể chể thị trường
nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi và lành mạnh cho mọi doanh
nghiệp như một phương thức hữu hiệu để xử lý các vấn đề kinh tế- xã hội nảy
sinh trong quá trình CPH DNNN
Nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình CPH DNNN trở
nên khó giải quyết là do sự yếu kém hay thiếu vắng các thể chế thị trƣờng
tƣơng ứng. Chẳng hạn, việc định giá tài sản hay xác định giá trị doanh nghiệp
trở nên khó khăn và dễ bị lạm dụng một phần là do các thị trƣờng liên quan
đến việc giao dịch, mua, bán các sản phẩm, dịch vụ cao cấp nhƣ thị trƣờng
chứng khoán, thị trƣờng mua, bán nợ, thị trƣờng các sản phẩm trí tuệ, thƣơng
hiệu hay các hàng hóa vô hình khác cũng nhƣ thị trƣờng đất đai còn chƣa ra
đời hoặc mới manh nha phát triển, còn kém hoàn thiện, vận hành chƣa lành
mạnh do sự thiếu vắng các quy định và chuẩn mực điều tiết thích hợp. Chính
vì vậy, việc tiếp tục phát triển và hoàn thiện các thị trƣờng này không chỉ là
cần thiết đối với việc tiếp tục thúc đẩy công cuộc phát triển nền kinh tế thị
trƣờng ở Việt Nam nói chung mà còn là phƣơng cách để ngăn ngừa và giải
quyết dài hạn nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình CPH
DNNN trong tƣơng lai.
123
Sự phân biệt đối xử giữa DNNN và các loại hình doanh nghiệp khác,
nhƣ đã phân tích không chỉ thúc đẩy tâm lý e ngại CPH mà còn làm méo mó
môi trƣờng kinh doanh, làm sai lạc các tín hiệu thị trƣờng, gây ra sự phân bổ
không hiệu quả các nguồn lực chung của xã hội. Tình trạng này chẳng những
không khuyến khích các DNNN tăng cƣờng năng lực cạnh tranh mà còn ngăn
cản sự phát triển lành mạnh của các DN thuộc loại hình khác, trong đó có các
DNCPH. Vì thế, việc tiếp tục cải thiện môi trƣờng kinh doanh nói chung
nhằm tạo ra sân chơi bình đẳng cho mọi doanh nghiệp là cần thiết cả với việc
xử lý các vấn đề nảy sinh trong tiến trình CPH. Nó cần đƣợc thực hiện theo
hƣớng: tạo thuận lợi một cách bình đẳng cho mọi doanh nghiêp trong việc gia
nhập thị trƣờng, tiếp cận các nguồn lực nhƣ đất đai, tín dụng, tiếp cận thông
tin và các dịch vụ công; giảm thiểu các chi phí phi chính thức trong quan hệ
với các cơ quan công quyền; tăng cƣờng tính cạnh tranh thị trƣờng, trên cơ sở
hạn chế tối đa các rào cản gia nhập thị trƣờng cũng nhƣ xóa bỏ vị thế độc
quyền “nhân tạo” của một số doanh nghiệp (nhƣ một số tập đoàn kinh tế hiện
nay chẳng hạn)
4.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế và giải quyết các vấn đề kinh tế- xã
hội nảy sinh trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở
Thanh Hóa những năm tới
4.2.1. Đổi mới phương pháp định giá đi đôi với nâng cao kỹ năng và đạo đức
nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ định giá tài sản doanh nghiệp
4.2.1.1. Đối mới phương pháp định giá doanh nghiệp
Định giá doanh nghiệp (xác định giá trị doanh nghiệp) trong cổ phần
hóa là công việc hết sức quan trọng và có tác động quyết định đến sự thành
công khi chuyển DNNN sang công ty cổ phần. Thực chất của quá trình CPH
doanh nghiệp nhà nƣớc là quá trình chuyển giao sở hữu. Do vậy, nó đòi hỏi
giá trị vốn nhà nƣớc hiện có tại doanh nghiệp phải đƣợc định giá chính xác
124
chống thất thoát, tham nhũng tài sản nhà nƣớc trong các doanh nghiệp nhà
nƣớc, thu hút đƣợc các nguồn vốn xã hội đầu tƣ vào doanh nghiệp.
Hiện nay, tại tỉnh Thanh Hóa đang thực hiện định giá doanh nghiệp
theo 2 phƣơng pháp xác định giá trị doanh nghiệp mà Nhà nƣớc qui định, là
phƣơng pháp tài sản và phƣơng pháp dòng tiền chiết khấu. Việc xác định giá
trị doanh nghiệp theo các phƣơng pháp này, trên thực tế đã tỏ ra kém hiệu quả
do còn mang nặng tính chủ quan, dẫn đến kết quả thiếu chính xác, chƣa phản
ánh đúng giá trị thực của doanh nghiệp. Trong nhiều trƣờng hợp, việc định
giá tài sản doanh nghiệp không đúng đã dẫn đến tình trạng mâu thuẫn lợi ích
giữa Nhà nƣớc và nhà đầu tƣ. Nếu định giá doanh nghiệp thấp hơn giá trị thực
thì Nhà nƣớc bị thiệt (bị mất tài sản) và ngƣời mua cổ phần đƣợc lợi; còn định
giá cao hơn giá trị thực của doanh nghiệp thì sẽ dẫn đến tình trạng ngƣợc lại,
tức là Nhà nƣớc đƣợc lợi và ngƣời mua cổ phần bị thiệt. Trong cả hai trƣờng
hợp đều làm cho quá trình CPH khó khăn hơn, vì chừng nào chƣa giải quyết
đƣợc sự hải hòa về các lợi ích, thì chừng đó vẫn sẽ không thu hút đƣợc sự
quan tâm của các nhà đầu tƣ, nhất là những nhà đầu tƣ tiềm năng. Thêm nữa,
việc định giá doanh nghiệp thấp còn dẫn đến sự chênh lệch lớn giữa giá trị cổ
phiểu chuyển nhƣợng tại doanh nghiệp sau CPH với giá trị cổ phiếu ban đầu,
làm nảy sinh hiện tƣợng tiêu cực nhƣ mua bán cổ phần trao tay, hay bán cả cổ
phiếu ƣu đãi nhƣ: CTCP 25 A, CTCP Thƣơng Mại Hoằng Hóa...
Việc định giá tài sản DNNN không chính xác đƣợc bộc lộ rõ nhất trên thị
trƣờng chứng khoán. Cụ thể, đã có một số doanh nghiệp tuy tiềm lực kinh tế
không phải thuộc loại mạnh, nhƣng trên thị trƣờng chứng khoán, chỉ số cổ phiếu
của doanh nghiệp vẫn tăng rất cao, nhờ không tính giá trị quyền sử dụng đất vào
giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa (chỉ tính giá trị thuê đất hàng năm theo hợp
đồng lâu dài đã ký từ trƣớc). Trong khi đó, giá trị sử dụng đất có thể trở thành
giá trị siêu lợi nhuận trong kinh doanh vốn của doanh nghiệp đã CPH. Việc
không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi CPH đồng
125
nghĩa với việc Nhà nƣớc đã mất đi quyền đƣợc nhận phần “địa tô chênh lệch”
phát sinh từ quyền sử dụng đất; còn những nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp
sau CPH đƣơng nhiên sẽ thu đƣợc phần ”địa tô” ấy.
Định giá doanh nghiệp trƣớc khi CPH đúng sẽ cho phép tránh đƣợc
những thất thoát, vƣớng mắc phát sinh trong các doanh nghiệp hậu CPH. Tuy
nhiên, việc định giá doanh nghiệp là việc làm khó. Việc đƣa giá trị quyền sử
dụng đất vào tài sản doanh nghiệp trƣớc khi CPH nhƣ trên chỉ là một ví dụ cụ
thể. Định giá doanh nghiệp còn thƣờng gặp phải những khó khăn khác nữa, nhƣ
định giá công nghệ, nhất là công nghệ đã qua sử dụng; định giá thƣơng hiệu và
lợi thế kinh doanh- những tài sản vô hình có giá trị lớn nhƣng lại rất khó xác
định giá cả,.v.v... Nhƣng dù khó thế nào cũng phải cố gắng tính toán đầy đủ tài
sản của DNNN vào trong giá trị doanh nghiệp trƣớc khi CPH. Tuyệt đối không
nên loại bỏ bất cứ bộ phận tài sản nào ra khỏi giá trị doanh nghiệp CPH,
Để định giá doanh nghiệp khách quan và chính xác, một mặt, tỉnh phải
xuất phát từ trên cơ sở những qui định của Nhà nƣớc, nhƣng mặt khác, phải
cứ vào điều kiện thực tiễn quá trình CPH các doanh nghiệp nhà nƣớc trên địa
bàn, có tính đến kinh nghiệm trong và ngoài nƣớc, để áp dụng thêm các hình
thức định giá khác hiệu quả hơn. Cụ thể:.
+ Để tạo đƣợc sự khách quan hơn trong việc tính giá trị doanh nghiệp,
tỉnh cần sử dụng nhiều phƣơng pháp khác nhau, trong đó phải đề cao phƣơng
pháp đấu giá công khai thay cho việc định giá bằng các hội đồng tƣơng đối
khép kín; đồng thời nên trao thêm quyền cho các địa phƣơng trong việc chọn
các phƣơng thức bán cổ phần nhƣ: đấu giá, thỏa thuận hoặc bảo lãnh phát
hành. Cần thành lập và sử dụng các Hội đồng độc lập để đánh giá hay thẩm
định giá các loại tài sản của doanh nghiệp làm cơ sở cho việc xác định giá
khởi điểm ban đầu để đƣa ra đấu giá thay vì sử dụng các cơ quan quản lý nhà
nƣớc. Chuyển giao thẩm quyền xác định giá khởi điểm này (hiện do ngƣời
đứng đầu cơ quan hành chính tỉnh đảm nhận) cho các Hội đồng độc lập trên.
126
Cần thấy rằng, chỉ có thông qua cơ chế thị trƣờng để xác định giá trị doanh
nghiệp, và để cho thị trƣờng điều tiết thì mới phản ảnh đƣợc giá trị thực của
doanh nghiệp. Làm nhƣ vậy, không chỉ tránh đƣợc thất thoát vốn nhà nƣớc,
mà còn làm cho cổ đông dễ chấp nhận hơn. Trong trƣờng hợp thị trƣờng còn
chƣa hoàn thiện, chƣa phát triển đầy đủ, việc sử dụng các tổ chức hay chuyên
gia tƣ vấn độc lập, có chuyên môn phù hợp thay cho các tổ chức và cá nhân
có động cơ và lợi ích gắn liền với việc chuyển đổi quyền sở hữu của các tài
sản công hoặc không có chuyên môn thích hợp sẽ đảm bảo cho quá trình định
giá trở nên khách quan hơn, ít có khả năng bị lạm dụng hơn.
+ Đổi mới phƣơng pháp xác định giá trị doanh nghiệp trên cơ sở mở
rộng và đề cao các biện pháp kinh tế và hạn chế và thu hẹp các biện pháp
hành chính. Ngoài việc phải tính đúng, tính đủ giá trị các loại tài sản của
doanh nghiệp thì cần phải đƣợc đƣa vào giá trị doanh nghiệp khi CPH các giá
trị của tài sản vô hình nhƣ: giá trị quyền sử dụng đất, giá trị thƣơng hiệu, lợi
thế kinh doanh, năng lực quản lý, trình độ tay nghề của ngƣời lao động.
Tỉnh cần chú ý phải gắn việc đổi mới cách thức xác định giá trị DN với
phƣơng thức bán cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hóa; gắn quá trình cổ
phần hóa với niêm yết cổ phần trên thị trƣờng chứng khoán. Có chính sách đúng
đắn đối với ngƣời lao động để họ yên tâm tham gia vào quá trình cổ phần hóa.
Đồng thời phải có kế hoạch thu hút các chuyên gia giỏi vào việc đánh giá tài sản,
nhằm xác định đúng giá trị thực tế của các tài sản. Đề cao vai trò của đại diện
doanh nghiệp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp theo nguyên tắc thị trƣờng,
để ngƣời bán (Nhà nƣớc) và ngƣời mua (đại diện cổ đông) thƣơng lƣợng với nhau
về tài sản và giá cả. Nhà nƣớc nên chuyển từ Hội đồng xác định giá trị doanh
nghiệp có tính chất áp đặt sang đấu giá tài sản của doanh nghiệp.
4.2.1.2. Nâng cao năng lực và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ
cán bộ định giá
Cổ phần hóa DNNN thực chất là việc bán vốn của nhà nƣớc tại doanh
nghiệp ra thị trƣờng, vì vậy việc định giá doanh nghiệp thế nào cho đúng có
127
vai trò cực kỳ quan trọng. Rõ ràng, khi Nhà nƣớc tổ chức bán vốn của mình
thì điều quan tâm hàng đầu là bán cho ai và bán bao nhiêu, tức là phải bán
“đƣợc giá” để bảo toàn vốn Nhà nƣớc. Nếu định giá cao thì khó bán mà định
giá thấp thì Nhà nƣớc mất vốn.
Cái khó của việc định giá doanh nghiệp không chỉ do yếu tố khách quan
nhƣ trình độ, kỹ năng của ngƣời định giá; mà còn có cả yếu tố chủ quan nhƣ đạo
đức phẩm chất của đội ngũ cán bộ định giá kém, chỉ nhằm vào mƣu lợi cho bản
thân. Thậm chí, đã có tình trạng cán bộ định giá thấp giá trị doanh nghiệp để rồi
sau đó mua lại những tài sản ấy đem bán ra ngoài, thu chênh lệch.
Thực tế đó đang đặt ra yêu cầu cho tỉnh Thanh Hóa là phải nâng cao kỹ
năng và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ định giá doanh nghiệp khi
CPH. Việc nâng cao năng lực thẩm định giá và đánh giá giá trị tài sản của
doanh nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xử lý những vấn đề
phức tạp đặt ra trong quá trình này. Hiện nay, đội ngũ cán bộ làm công tác
định giá doanh nghiệp tại tỉnh Thanh Hóa phần lớn chƣa đƣợc qua các lớp đào
tạo chuyên sâu nên việc xử lý các tình huống trong khi định giá còn nhiều
lúng túng. Giải pháp cơ bản nhất cho vấn đề này là phải hình thành đƣợc một
đội ngũ thẩm định viên chuyên nghiệp, nòng cốt đƣợc đào tạo chính qui về
định giá tài sản, đặc biệt là định giá bất động sản và thƣơng hiệu.
Để công tác định giá tốt, bên cạnh đội ngũ cán bộ chuyên trách, tỉnh
cũng cần xây dựng đội ngũ trợ lý cho thẩm định viên về giá. Đây là những
ngƣời tuy chƣa phải là thẩm định viên (chƣa đƣợc cấp thẻ), nhƣng có vai trò
trợ giúp quan trọng cho thẩm định viên trong việc thu thập số liệu và những
công việc khởi đầu, hay hỗ trợ cho báo cáo thẩm định. Những ngƣời này đƣợc
coi nhƣ là “đội quân dự bị” cho đội ngũ cán bộ thẩm định viên lành nghề
(đƣợc cấp thẻ) trong tƣơng lai.
128
4.2.2. Minh bạch hóa vấn đề tài chính và quyền sở hữu của Nhà nước trong
doanh nghiệp sau CPH
4.2.2.1. Minh bạch về quyền sở hữu của Nhà nước
Vai trò của công ty cổ phần đã đƣợc thực tiễn thế giới chứng minh,
nhƣng tại Việt Nam, nhiều công ty cổ phần đƣợc chuyển đổi từ doanh nghiệp
nhà nƣớc lại hoạt động khó khăn và kém hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân lý
giải cho tình trạng này, trong đó nguyên nhân về sự thiếu minh bạch về quyền
sở hữu của Nhà nƣớc trong doanh nghiệp CPH là nguyên nhân cơ bản. Cụ thể
là, cũng nhƣ cả nƣớc, tại tỉnh Thanh Hóa hiện nay vẫn còn sự nhập nhằng
nƣớc đôi giữa DNNN và CTCP có sự tham gia của Nhà nƣớc.
Chúng ta biết rằng, mục tiêu của cổ phần hoá không chỉ là quá trình
bán cổ phần của các DNNN ra ngoài, mà điều quan trọng hơn là ai sau CPH
ai sẽ nắm quyền chi phối. Nếu CPH xong mà Nhà nƣớc vẫn nắm quyền sở
hữu chi phối thì về cơ bản vẫn những con ngƣời ấy, đội ngũ quản lý ấy,
phƣơng thức quản trị ấy, và cả chiến lƣợc kinh doanh ấy nữa..., thì CTCP này
vẫn không có gì khác so với DNNN trƣớc CPH. Nhƣ vậy thì, việc bán cổ
phần ra ngoài ấy mới chỉ đạt mục tiêu thoái một phần vốn Nhà nƣớc tại các
DNNN, theo đó làm giảm tỷ trọng sở hữu vốn Nhà nƣớc trong các doanh
nghiệp này, chứ chƣa tạo đƣợc sự thay đổi về chất trong hoạt động quản trị
doanh nghiệp, trong khi đây lại là điều vô cùng quan trọng đối với việc nâng
cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trƣờng. Nói
khác đi, cổ phần hóa các DNNN là phải hƣớng tới mục tiêu làm cho bản thân
các DN ấy sau khi đƣợc cổ phần hoá sẽ trở thành một thực thể kinh tế lành
mạnh, có năng lực cạnh tranh cao trên thị trƣờng. Muốn đƣợc nhƣ vậy thì
phải hạn chế đến mức tối đa tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần của Nhà nƣớc (chẳng
hạn nhà nƣớc không có cơ sở gì để phải nắm giữ tỷ lệ vốn cổ phần trên 50%
nhƣ ở các CTCP đầu tƣ nông nghiệp Yên Định, CTCP giống và phát triển gia
cầm Thanh Hóa, CTCP quản lý xây dựng đồng bộ 1 và 2 Thanh Hóa nhƣ hiện
129
nay); mở rộng sự tham gia của các cổ đông bên ngoài, nhất là những cổ đông
lớn, có tiềm lực về công nghệ và tài chính. Thực tiễn cho thấy, các nhà đầu tƣ
cá nhân trong nƣớc là nguồn lực quan trọng, nếu không muốn nói là nguồn
lực chủ yếu, có tác động tích cực đến quá trình cổ phần hóa DNNN. Điều này
là không riêng gì tại Việt Nam, mà ngay cả tại các nƣớc thuộc Tổ chức kinh tế
hợp tác và phát triển (OECD), nhƣ Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Đức
hay Pháp đều rất chú trọng các nhà đầu tƣ này. Họ đã đƣa ra các hình thức
khuyến khích nhƣ: giảm giá cổ phiếu, thanh toán từng phần, thậm chí còn hỗ
trợ chống trƣợt giá cổ phiếu lên đến 10% trong năm đầu tiên (một số công ty
cổ phần hóa ở Tây Ban Nha)..., nhằm tạo nhu cầu mạnh mẽ trong việc mua
bán và giữ cổ phiếu của các đối tƣợng đó. Thiết nghĩ, những kinh nghiệm đó
của các nƣớc rất đáng để Việt Nam nói chung, tỉnh Thanh Hóa nói riêng
nghiên cứu và áp dụng.
Từ sự phân tích trên cho thấy, việc minh bạch hóa về sở hữu trong
DNNN sau CPH đã có tác động rất lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Thực tiễn tại tỉnh Thanh Hóa, nhƣ đã trình bày ở chƣơng 3,
cũng đã minh chứng cho điều đó. Trong số các DNNN đã CPH, doanh nghiệp
nào có tỷ lệ vốn sở hữu Nhà nƣớc càng thấp thì hiệu quả kinh doanh càng cao;
và ngƣợc lại. Đó là vì, một khi không còn vốn Nhà nƣớc trong doanh nghiệp,
hoặc Nhà nƣớc không còn nắm giữ cổ phần chi phối nữa thì DNNN CPH
mới có đƣợc sự thay đổi về chất, do: (i) công ty đƣợc tự chủ hơn nên việc ra
quyết định sẽ nhanh chóng và mục tiêu lợi nhuận đƣợc đặt ra rõ ràng, vì vậy
hoạt động của doanh nghiệp sẽ hiệu quả hơn; (ii) mô hình tổ chức doanh
nghiệp và cung cách quản lý trong doanh nghiệp đó cũng có sự đổi khác theo
hƣớng năng động hơn, phù hợp với cơ chế thị trƣờng hơn so với cách thức
quản lý kém hiệu quả mà các DNNN trƣớc khi CPH vẫn làm; và (iii) do có sự
tách bạch giữa chức năng quản lý Nhà nƣớc và vai trò đại diện chủ sở hữu của
Nhà nƣớc; đồng thời quyền hạn, trách nhiệm của hội đồng quản trị và tổng
130
giám đốc trong các DNNN CPH đối với vốn và tài sản nhà nƣớc tại doanh
nghiệp cũng đƣợc phân định rõ ràng. Việc tách bạch hai yếu tố sở hữu và
quản trị sẽ cho phép doanh nghiệp có thể vừa bảo đảm quyền chủ động sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; vừa bảo toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn và tài sản nhà nƣớc.
Với ý nghĩa trên, việc giảm thiểu tỷ lệ cổ phần của Nhà nƣớc trong các
DNNN sau CPH là hết sức cần thiết. Để đƣợc nhƣ vậy, tỉnh cần đẩy mạnh
thoái vốn nhà nƣớc trong các CTCP mà nhà nƣớc không cần nắm giữ. Nhƣ đã
đề cập ở trên, đối với các DNNN sau CPH nếu Nhà nƣớc vẫn chiếm cổ phần
chi phối họăc là cổ đông lớn nhất thì theo các quy định hiện hành, chủ tịch
HĐQT, giám đốc và ngƣời đại diện phần vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp vẫn
do nhà nƣớc bổ nhiệm, thậm chí phần lớn lao động trong công ty vẫn là
những ngƣời lao động tại doanh nghiệp trƣớc đây. Có nghĩa là, dù đã CPH
nhƣng thực chất các doanh nghiệp đó vẫn là DNNN. Điều này hạn chế rất lớn
đến tính tự chủ của CTCP nên thƣờng hiệu quả SXKD ở các doanh nghiệp
loại này thấp. Vì vậy để nâng cao hiệu quả kinh doanh của DNNN sau CPH
Nhà nƣớc cần đẩy nhanh việc thoái phần vốn còn lại ở đại đa số các DN mà
nhà nƣớc không cần nắm giữ. Làm nhƣ vậy, một mặt tỉnh sẽ có thêm nguồn
vốn để đầu tƣ vào các công trình, ngành nghề trọng điểm khác; mặt khác, sẽ
tăng tính tự chủ cho doanh nghiệp, tạo sự thay đổi thực sự trong các CTCP.
Bên cạnh việc xác định tỷ lệ sở hữu và trách nhiệm của chủ sở hữu Nhà
nƣớc, tỉnh còn phải xác định rõ quyền hạn trách nhiệm của các chủ sở hữu vốn
khác và của pháp nhân doanh nghiệp. Cần nhấn mạnh rằng, DN là pháp nhân,
có tài sản độc lập với chủ sở hữu vốn và các tổ chức khác; chịu trách nhiệm về
các khoản nợ, nghĩa vụ tài sản khác bằng tài sản của mình. Các chủ sở hữu vốn
khác có quyền đƣợc hƣởng lợi ích từ việc đầu tƣ vốn và chịu trách nhiệm về
nợ, nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn đầu tƣ vào DN. Còn
chủ sở hữu vốn Nhà nƣớc đầu tƣ vào DN có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm,
131
quyết định lƣơng, thƣởng đối với ngƣời đƣợc ủy quyền thực hiện chức năng
đại diện chủ sở hữu; quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau thuế của công ty do
Nhà nƣớc đầu tƣ vốn trực tiếp; nhƣng không có quyền can thiệp trực tiếp vào
hoạt động kinh doanh của công ty, nhằm đảm bảo cho DN hoạt động theo
nguyên tắc thị trƣờng.
4.2.2.2. Minh bạch tài chính.
Minh bạch, đặc biệt là minh bạch về tài chính là yêu cầu đầu tiên và
cũng là phƣơng thức hữu hiệu nhất để triển khai có hiệu quả quá trình CPH
DNNN. Thực tiễn tiến trình CPH DNNN tại tỉnh đã cho thấy, việc thiếu minh
bạch trong quá trình CPH là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng
hoạt động thiếu phƣơng hƣớng và kém hiệu quả của các CTCP sau khi CPH
xong. Để minh bạch hóa vấn đề tài chính của DNNN trƣớc và sau CPH, tỉnh
Thanh Hóa cần tập trung giải quyết một số vấn đề cụ thể sau:
Thứ nhất, cần khắc phục sự thiếu minh bạch trong định giá doanh
nghiệp. Việc đánh giá tài sản doanh nghiệp quá thấp so với giá trị thực của nó và
thiếu sự công khai, minh bạch đã tạo cơ hội cho một số nhóm lợi ích “lách luật”
để thâu tóm tài sản nhà nƣớc. Chúng ta phải hiểu rằng, CPH là bán một phần tài
sản của Nhà nƣớc (toàn dân), cho nên toàn dân phải có quyền đƣợc “biết” và
đƣợc “bàn” về vấn đề này. Điều đó có nghĩa là, tỉnh phải công khai các thông tin
về DNNN nào sẽ CPH, và tài sản của mỗi doanh nghiệp đó là bao nhiêu, hoạt
động kinh doanh của doanh thế nào, thậm chí phải công bố cả những thông tin
về cơ cấu sở hữu và quản trị vốn, tài sản ở doanh nghiệp hiện tại và hƣớng xử lý
khi cổ phần hóa. Một điều ngƣời mua cổ phần đặc biệt quan tâm nữa là tình hình
tài chính của doanh nghiệp CPH. Họ muốn biết và có quyền đƣợc biết tình hình
tài chính của doanh nghiệp họ định đầu tƣ có lành mạnh hay không; doanh
nghiệp có nợ nhiều không, và số nợ đó sẽ đƣợc giải quyết nhƣ thế nào, có khả
năng tháo gỡ không. Nếu những thông tin đó đƣợc công khai rõ ràng thì họ sẽ
yên tâm hơn khi đƣa ra quyết định mua cổ phần của doanh nghiệp. Vì vậy, tỉnh
132
cần phải cung cấp những thông tin tối thiểu trên khi thực hiện CPH DNNN. Có
nhƣ vậy, trong quá trình CPH DNNN sẽ ít nẩy sinh những vấn đề kinh tế-xã hội
có tác động tiêu cực, gây phức tạp cho quá trình này.
Thứ hai, minh bạch hóa các khoản nợ của DNNN trước CPH và xử
lý một cách hiệu quả. Sự thiếu minh bạch trong xử lý nợ của DNNN trƣớc
khi CPH cũng là lực cản lớn đối với hoạt động của các công ty này. Trên thực
tế, khi chuyển đổi doanh nghiệp do không xác định rõ trách nhiệm trả nợ
thuộc về ai sau khi CPH nên nhiều doanh nghiệp vẫn tồn đọng những món nợ,
thậm chí là khá lớn. Nguyên nhân là do những quy định về kế thừa trách
nhiệm tài chính giữa DNNN trƣớc CPH và công ty cổ phần (DNNN sau CPH)
vẫn còn nhập nhằng, thiếu rõ ràng, minh bạch. Giải pháp cho vấn đề này là
phải tìm đúng nguyên nhân của các khoản nợ để cơ cấu lại nợ trong nội bộ
doanh nghiệp. Những khoản nợ do nguyên nhân từ phía doanh nghiệp thì nhất
định phải xử lý bằng bồi thƣờng vật chất, hoặc đƣa các khoản nợ phải thu này
vào kết quả hoạt động kinh doanh (nếu không thể quy đƣợc trách nhiệm cá
nhân). Còn với những khoản nợ do nguyên nhân khách quan thì số nợ đó phải
qui về trách nhiệm của chủ sở hữu vốn Nhà nƣớc tại doanh nghiệp, vì vậy nó
phải đƣợc xử lý bằng các biện pháp phù hợp tƣơng ứng với từng khoản nợ.
Cụ thể, nếu là nợ vay ngân hàng thì sẽ đƣợc trả bằng nguồn tiền thu đƣợc do
chuyển đổi sở hữu để trả nợ; nếu là khoản nợ bảo hiểm xã hội do doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán (chứ không phải do doanh nghiệp trốn
BHXH) thì đƣợc trả bằng nguồn tiền thu đƣợc từ chuyển đổi sở hữu sau khi
trả nợ vay; còn nếu là khoản nợ nƣớc ngoài mà doanh nghiệp vay vốn có bảo
lãnh thì tổ chức bảo lãnh chủ động đàm phán với chủ nợ nƣớc ngoài để xin
giảm nợ và có kế hoạch cùng với doanh nghiệp tìm nguồn vốn trả nợ nƣớc
ngoài. Riêng khoản nợ với đối tác là các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
(nếu có) thì cách tốt nhất là chuyển thành giá trị cổ phần để chủ nợ trở thành
cổ đông của công ty.
133
Việc thành lập công ty mua bán nợ là giải pháp tốt nhất để xử lý các
khoản nợ đọng của các DNNN CPH, bởi các công ty mua bán nợ sẽ là nhân tố
thúc đẩy sự phát triển của các thị trƣờng thƣơng phiếu và các nghiệp vụ chiết
khấu thƣơng phiếu trong nền kinh tế thị trƣờng. Nhƣng việc thành lập công ty
này tại một địa phƣơng cấp tỉnh là rất khó, do hình thức kinh doanh này khá
mới mẻ; và mặt khác, do các khoản nợ chính thức đƣợc mua bán tại địa bàn
một tỉnh không nhiều, trong đó hầu hết các khoản nợ đọng có nhu cầu cần bán
lại là nợ “xấu”. Vì vậy, tỉnh cần phối hợp chặt chẽ với các Công ty mua bán
nợ của Bộ/Ngành để thị trƣờng hoá các khoản nợ. Ngoài ra, các DNNN CPH
tại tỉnh cần tăng cƣờng phát hành cổ phiếu và niêm yết trên thị trƣờng chứng
khoán nhằm chứng khoán hóa tất cả các tài sản của DNCPH.
Thứ ba, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước tại các DNNN CPH.
Việc bào toàn và phát triển vốn nhà nƣớc trong CTCP là một nhân tố đảm bảo
quyền lợi của ngƣời lao động trong công ty, đồng thời cũng bảo đảm sự hợp
lý về cơ cấu tiền lƣơng và tiền thƣởng. Quy định phân phối lợi nhuận sau thuế
của DN CPH và chi trả cổ tức theo đúng nguyên tắc hạch toán kinh doanh, bù
đắp các khoản lỗ không đƣợc trừ vào lợi nhuận trƣớc thuế, nộp tiền thu sử
dụng vốn ngân sách nhà nƣớc, trích lập các quỹ đầu tƣ phát triển, quỹ dự phòng
tài chính, quỹ dự phòng mất việc làm, quỹ phúc lợi khen thƣởng. Bên cạnh đó,
cần có những quy định cụ thể về việc sử dụng các quỹ trong DNCPH.
Riêng đối với Quỹ dự phòng tài chính, cần cho phép công ty đƣợc trích 20%
và khi số dƣ quỹ đƣợc 50% vốn Điều lệ thì không trích nữa (thay vì trích 10%
và đến 25% thì không trích nữa nhƣ hiện nay). Đây là quỹ để bù đắp các phần
tổn thất xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã bồi thƣờng bởi các tổ chức,
cá nhân gây ra tổn thất và của tổ chức bảo hiểm..., nên tăng tỷ lệ trích nhƣ trên sẽ
hợp lý hơn.
Chính sách phân phối lợi nhuận và chi trả cổ tức của các CTCP phải
đƣợc hạch toán rõ ràng, phải đặt yêu cầu lấy thu bù chi và có lãi. CTCP phải tính
134
đúng, tính đủ chi phí sản xuất nhằm xác định chính xác kết quả hoạt động sản
xuất, kinh doanh, tránh hiện tƣợng “lãi giả, lõ thật”, phân phối lợi nhuận và chi
trả cổ tức phải đƣợc trích từ lợi nhuận, tránh tình trạng “ăn mòn vào vốn”.
Thứ tư, phải minh bạch trong phân phối lợi nhuận sau thuế và chi trả
cổ tức. Đây là cơ sở để bảo đảm hài hoà quyền lợi của các đối tƣợng liên quan
đến CTCP. Phân phối lợi nhuận và chi trả cổ tức là một vấn đề nhạy cảm vì nó
liên quan đến nhiều đối tƣợng, nhiều vấn đề, cổ đông và ngƣời lao động cũng
muốn đƣợc hƣởng nhiều, công ty cũng muốn có nhiều lợi nhuận để mở rộng nhu
cầu vốn… phƣơng thức chi trả cổ tức cũng rất phức tạp, có cổ đông cần cổ tức
tiền mặt để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, có ngƣời muốn nhận cổ tức cổ phiếu để
có nhiều lợi nhuận hơn trong tƣơng lai, có công ty muốn trả cổ tức bằng tiền
mặt, có công ty muốn thanh toán bằng cổ phiếu để tăng vốn… Nói chung là việc
phân phối lợi nhuận sau thuế và chi trả cổ tức trong CTCP đòi hỏi phải đƣợc tính
toán khoa học, hợp lý thoả mãn tất cả các yêu cầu của các đối tƣợng trong thời
kỳ đó nhằm tránh những xáo động bất lợi cho chính công ty.
4.2.3. Phân định rõ và tách bạch chức năng quản lý Nhà nước với chức
năng chủ sở hữu Nhà nước tại các CTCP
Hiện nay, tình trạng “lấn sân” của Nhà nƣớc đối với doanh nghiệp đang
tồn tại khá phổ biến. Cụ thể là Nhà nƣớc vẫn đang can thiệp quá sâu vào các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thậm chí đôi khi còn quyết định điều
đó. Nguyên nhân là do Nhà nƣớc chƣa phân định rõ đâu là chức năng của Nhà
nƣớc với tƣ cách là ngƣời quản lý vĩ mô và với tƣ cách là chủ thể sở hữu
trong doanh nghiệp CPH. Điều này trái với nguyên tắc của CTCP, là quyền
lợi và trách nhiệm của cổ đông tƣơng ứng với phần vốn góp của họ vào công
ty. Theo đó, Nhà nƣớc với tƣ cách là ngƣời góp vốn vào công ty, thì chỉ có
quyền hữu hạn tùy thuộc vào phần vốn của Nhà nƣớc trong CTCP, chứ không
có toàn quyền nhƣ là cấp trên đối với CTCP. Nói cách khác, Nhà nƣớc không
135
thể can thiệp quá quyền hạn của mình, lại càng không đƣợc áp đặt đối với
hoạt động kinh doanh của công ty.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành cơ chế phân công, phân cấp việc thực
hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nƣớc đối với doanh
nghiệp nhà nƣớc và vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp (Nghị định số
99/2012/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2012); trong đó quy định rõ hơn
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan trong việc thực hiện quản lý
của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nƣớc song trên thực tế việc lạm
quyền của cơ quan Nhà nƣớc vẫn còn phổ biến tại các DNNN sau CPH. Vì
vậy, cần thực hiện triệt để hơn việc tách chức năng quản lý nhà nƣớc với chức
năng thực hiện các quyền chủ sở hữu; tách bạch việc thực hiện quyền chủ sở
hữu đối với quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp...
Để làm đƣợc nhƣ vậy, trƣớc hết cần phân định rõ vai trò của Nhà nƣớc
với tƣ cách là ngƣời quản lý giám sát và vai trò của Nhà nƣớc với tƣ cách là
ngƣời đại diện vốn chủ sở hữu tham gia quản trị CTCP. Cụ thể, với vai trò là
ngƣời giám quản thì hoạt động của Nhà nƣớc phải hƣớng tới mục tiêu lợi ích
công cộng; còn với vai trò là ngƣời đại diện vốn chủ sở hữu tham gia quản trị
CTCP thì hoạt động của Nhà nƣớc phải hƣớng tới mục tiêu lợi nhuận. Nhận
thức đúng điều này, tỉnh sẽ khắc phục đƣợc tình trạng nhập nhằng nƣớc đôi
trong vai trò của Nhà nƣớc, nhờ đó sẽ nâng cao sức sáng tạo, tinh thần kinh
doanh trong doanh nghiệp, tránh đƣợc những ảnh hƣởng tiêu cực đến hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp sau CPH. Cần hiểu rằng, nếu với tƣ cách ngƣời
quản lý CTCP, thì đại diện vốn chủ sở hữu nhà nƣớc cũng chỉ nhƣ là ngƣời
đƣợc Hội đồng quản trị công ty thuê để điều hành CTCP hiệu quả theo những
mục tiêu mà Hội đồng quản trị đề ra. Vì vậy, ngƣời đại diện vốn chủ sở hữu
Nhà nƣớc chỉ là ngƣời do Nhà nƣớc ủy quyền giám sát, điều hành của CTCP,
họ có trách nhiệm giám sát hoạt động của công ty, hoặc đƣợc bổ nhiệm làm
thành viên hội đồng quản trị của công ty. Cho nên, chỉ có ngƣời đại diện vốn
136
chủ sở hữu Nhà nƣớc trong CTCP (giám đốc hoặc ban điều hành của CTCP)
mới đƣợc hƣởng chế độ lƣơng bổng tại công ty, do hội đồng quản trị đề xuất
thông qua hội nghị cổ đông hàng năm; còn ngƣời đƣợc Nhà nƣớc bổ nhiệm
trong hội đồng quản trị của DNNN không đƣợc nhận lƣơng hay tiền của DN.
Có nhƣ vậy mới đảm bảo tính khách quan trong giám quản, theo đó họ sẽ toàn
tâm làm việc vì lợi ích của Nhà nƣớc.
Việc xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nƣớc về vốn
và tài sản tại các CTCP phải dựa trên cơ sở hoàn thiện cơ chế phân cấp thực
hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc theo nguyên tắc “một đầu
mối”, tức là cần có một bộ phận chuyên trách theo dõi việc sử dụng vốn, tài
sản nhà nƣớc và phân tích, đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
nhà nƣớc, kể cả các tập đoàn, tổng công ty đặc biệt đang hoạt động trên địa
bàn tỉnh. Tuy nhiên, để xác định đƣợc trách nhiệm của “chủ sở hữu”, đại diện
chủ sở hữu, đặc biệt là đối với những công ty có trên 50% vốn nhà nƣớc, thì
cần xác định rõ quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của Ngƣời đại diện tại DN
sau CPH, đặc biệt là phải thực hiện tốt quy chế ngƣời đại diện vốn của Nhà nƣớc
tại doanh nghiệp sau CPH. Phải dựa vào cơ sở pháp lý cụ thể để xác định rõ
quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu VNN, quyền cử ngƣời đại diện trong DN để
thực hiện quyền của cổ đông VNN, chế độ báo cáo, kiểm tra, giám sát, chế độ
lƣơng thƣởng... giúp chủ sở hữu VNN trong việc quản lý hiệu quả VNN đầu tƣ
vào DN sau CPH.
Để phát huy hiệu quả nguồn vốn Nhà nƣớc đầu tƣ vào các CTCP, đòi
hỏi ngƣời đại diện chủ sở hữu phải: (i) là ngƣời đƣợc Chủ sở hữu giới thiệu để
ứng cử các chức danh trong Ban quản lý, điều hành hoặc Ban Kiểm soát tại DN
CPH có VNN theo Điều lệ của DN đó; (ii) là ngƣời đƣợc quyền thay mặt Chủ
sở hữu tham dự và biểu quyết các vấn đề có liên quan đến quyền cổ đông, bên
liên doanh trong các kỳ họp Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị DN CPH
có VNN; (iii) là ngƣời đƣợc hƣởng các khoản lƣơng, tiền thƣởng, bảo hiểm xã
137
hội, bảo hiểm y tế và các quyền lợi khác theo quy định của pháp luật hiện hành
và điều lệ DN CPH có VNN và đƣợc hƣởng phụ cấp ngƣời đại diện do Chủ sở
hữu chi trả. Ngoài ra, ngƣời đại diện chủ sở hữu còn phải đƣợc tham gia các
chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ do Chủ sở hữu hay DN CPH có
VNN tổ chức.
Không chỉ phân định rõ vai trò của Nhà nƣớc trong quản lý vĩ mô và
quản lý kinh doanh của chủ sở hữu vốn Nhà nƣớc trong CTCP, mà việc làm
rõ mối quan hệ giữa chủ sở hữu vốn Nhà nƣớc và ngƣời đại diện chủ sở hữu
vốn Nhà nƣớc tại các DNNN CPH cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc xử
lý các vấn đề kinh tế-xã hội nẩy sinh trong quá trình CPH. Trong mối quan hệ
đó, chủ sở hữu phần vốn của nhà nƣớc là một cổ đông góp vốn, có các quyền
và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và Điều lệ DN; còn ngƣời đại diện
vốn chủ sở hữu thì chỉ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cổ đông tƣơng ứng
phần vốn góp đƣợc đại diện theo quy định của pháp luật và Điều lệ DN. Ngƣời
đại diện, nếu là thành viên chuyên trách trong Ban quản lý, điều hành hoặc là
ngƣời lao động DN sau CPH có VNN đƣợc hƣởng tiền lƣơng, phụ cấp trách
nhiệm (nếu có), tiền thƣởng và các quyền lợi khác theo quy định tại Điều lệ
DN đó và do DN đó chi trả. Ngoài ra, còn đƣợc hƣởng tiền phụ cấp ngƣời đại
diện do chủ sở hữu chi trả theo quy định của Nhà nƣớc và chủ sở hữu. Đồng
thời ngƣời đại diện chủ sở hữu sẽ là ngƣời thay mặt chủ sở hữu thực hiện việc
theo dõi, giám sát tình hình tài chính, họat động kinh doanh của DN theo quy định
của pháp luật, Điều lệ DN; theo dõi, đôn đốc và thực hiện thu hồi vốn của chủ
sở hữu tại DN có vốn góp của nhà nƣớc nhƣ cổ tức và các khoản đƣợc chia
khác từ vốn góp vào các DN và các khoản thù lao ngƣời đại diện do DN chi
trả; theo dõi, đôn đốc thanh toán các khoản công nợ phải thu của chủ sở
hữu tại DN CPH có VNN (nếu có).
Nói tóm lại, đặc trƣng cơ bản của nền kinh tế thị trƣờng là vận động theo
quy luật khách quan, thị trƣờng là căn cứ để phân bổ các nguồn lực xã hội, các
138
chủ thể kinh doanh bình đẳng, gắn liền với chế độ sở hữu đa dạng mà sở hữu nhà
nƣớc là một bộ phận. Vì vậy, sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau bên
cạnh sở hữu Nhà nƣớc cũng là lẽ dĩ nhiên. Tính đa dạng sẽ tạo ra một cơ cấu sở
hữu phù hợp, từ đó, các nguồn lực đƣợc mở rộng và sử dụng một cách tối ƣu và
thông thƣờng tính hiệu quả nằm ngoài khu vực kinh tế nhà nƣớc. Trong cơ cấu
sở hữu, sở hữu nhà nƣớc và sở hữu tƣ nhân bình đẳng trong mối quan hệ bổ
sung, hỗ trợ cùng phát triển. Cơ cấu sở hữu không phải bất biến, mà biến đổi
theo yêu cầu của phát triển và thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội,
khi cần thiết phải xác lập sở hữu nhà nƣớc, khi đã đạt đƣợc yêu cầu quản lý vĩ
mô thì có thể chuyển đổi sở hữu sang khu vực tƣ nhân.
4.2.4. Hoàn thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo tính bình đẳng trong đối
xử giữa các loại hình doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi của người lao động
trong các doanh nghiệp sau CPH
Thứ nhất, đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nƣớc sau CPH.
Không riêng gì ở tỉnh Thanh Hóa, mà trên phạm vi cả nƣớc cũng đang tồn tại
thực trạng có nhiều doanh nghiệp nhà nƣớc không muốn chuyển sang công ty
cổ phần là do môi trƣờng thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế chƣa
đƣợc thiết lập và doanh nghiệp mất đi lợi thế đƣợc ƣu đãi vốn đƣợc dành cho
các DNNN. Điều đó cho thấy, để thúc đẩy tiến trình CPH DNNN theo hƣớng
hiệu quả, hạn chế tối đa những vấn đề KT-XH nảy sinh có tác động tiêu cực
đến tiến trình này thì việc tạo lập môi trƣờng kinh doanh lành mạnh, không
mang tính phân biệt đối xử là cực kỳ quan trọng.
Trong thực tế, khi các doanh nghiệp đã đƣợc cổ phần hóa thì thƣờng
đƣợc coi là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, không đƣợc đối xử ngang hàng
nhƣ những những doanh nghiệp nhà nƣớc khác. Điều này thể hiện rất rõ qua
khả năng tiếp cận các nguồn vốn của những tổ chức tín dụng nhà nƣớc. Nếu
nhƣ khi còn là doanh nghiệp nhà nƣớc, những doanh nghiệp này không chỉ
nhận đƣợc nguồn vốn từ nhiều kênh khác nhau nhƣ đầu tƣ cơ bản, bổ sung
139
vốn lƣu động, đƣợc xóa nợ, hay bảo lãnh nợ, thì nay không những không còn
các nguồn vốn trên, mà lại còn bị rơi vào tình trạng khó đƣợc vay vốn bởi tâm
lý lo ngại họ là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, không có ngƣời bảo đảm
(Chính phủ, các Bộ hay Uỷ ban nhân dân các cấp) khi không có khả năng trả
đƣợc nợ. Trong lĩnh vực thuế, cách tính thuế đối với một số tài sản của doanh
nghiệp nhà nƣớc đƣợc cổ phần hóa cũng chứa đựng những bất hợp lý. Chẳng
hạn, nếu tài sản đƣợc chuyển giao khi còn là doanh nghiệp nhà nƣớc thì
không bị tính thuế trƣớc bạ, nhƣng sau khi doanh nghiệp đã cổ phần hóa thì
phải chịu thuế này… Sự phân biệt đối xử nhƣ vậy đã tạo lên tâm lý lo ngại
trong lãnh đạo doanh nghiệp khi phải đƣơng đầu với nhiều khó khăn phía
trƣớc, dẫn đến tình trạng lƣỡng lự trong lựa chọn phƣơng án cổ phần hóa
doanh nghiệp.
Cần nhanh chóng loại bỏ hết các ƣu đãi bất hợp lý. Đây là biện pháp
hữu hiệu để loại bỏ những đặc quyền, đặc lợi cho các DNNN, gây bất lợi cho
các doanh nghiệp khác trong cạnh tranh thị trƣờng, nhất là đối với các doanh
nghiệp mới CPH. Về nguyên tắc DNNN sau CPH hoạt động theo luật DN và
do đó nó chịu sự chế định của tất cả các cơ quan Nhà nƣớc thực thi giám sát
pháp luật. Tuy nhiên cần bổ sung các điều khoản phát sinh phù hợp với
DNNN sau CPH mà hệ thống văn bản pháp luật hiện tại chƣa có. Ngoài ra
cần đẩy mạnh cải cách hành chính và đổi mới hoạt động của các cơ quan quản
lý Nhà nƣớc để sao cho các cơ quan này buộc phải cung cấp các dịch vụ công
một cách công bằng cho các DN thuộc mọi loại hình khác nhau, trong đó có
DNNN sau CPH.
Thứ hai, xây dựng cơ chế phù hợp để bảo vệ lợi ích của các chủ thể sở
hữu. Bảo vệ quyền sở hữu, cũng tức là bảo vệ lợi ích của các chủ thể sở hữu
trong các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, là hoạt động thể hiện trách nhiệm của
chính quyền nhà nƣớc các cấp đối với công dân của mình. Không thể vì mục
tiêu xã hội hay các mục tiêu khác mà làm cho quyền sở hữu của các chủ thể
140
sở hữu trong doanh nghiệp bị xâm hại, nếu họ thực hiện đúng pháp luật. Tuy
nhiên, để có thể thực hiện việc bảo vệ quyền sở hữu của các chủ thể một cách
hữu hiệu và hợp pháp thì việc quy định rõ ràng quyền hạn và nghĩa vụ của các
chủ thể sở hữu là cần thiết. Về quyền hạn, cần quy định rõ họ đƣợc thụ hƣởng
những quyền hạn cụ thể nào; về nghĩa vụ cũng cần có quy định những nghĩa
vụ mà các chủ thể sở hữu trong doanh nghiệp phải tuân theo, đặc biệt là việc
đảm bảo cơ chế phân chia lợi ích một cách minh bạch để tránh xảy ra những
tranh chấp trong và sau quá trình chuyển đổi sở hữu. Những thu nhập có đƣợc
từ lợi ích nắm giữ cổ phần doanh nghiệp cần phải là đối tƣợng tính thuế thu
nhập cá nhân một cách minh bạch.
Thứ ba, đảm bảo an sinh xã hội cho ngƣời lao động trong các DNNN CPH.
+ Đối với lao động bị mất việc làm sau khi doanh nghiệp CPH.
Do các doanh nghiệp đã cổ phần hoá phải hoạt động theo cơ chế thị
trƣờng, cho nên rất khó để tránh đƣợc tình trạng bị thua lỗ, hoặc phải cơ cấu lại.
Trong những trƣờng hợp nhƣ vậy có thể một bộ phận ngƣời lao động bị mất việc
làm, trƣớc hết là những ngƣời không có quyền sở hữu, tức không phải là cổ đông
của công ty. Trong điều kiện đó, việc thực hiện chế độ trợ cấp thất nghiệp, hoặc
hỗ trợ trợ cấp trong thời gian họ tìm kiếm việc làm mới là rất cần thiết. Để có
nguồn kinh phí hỗ trợ lao động mất việc làm,Tỉnh cần tổ chức và phát huy vai
trò của quỹ bảo hiểm thất nghiệp, quỹ hỗ trợ ngƣời lao động bị dôi dƣ khi tiến
hành tái cấu trúc doanh nghiệp CPH hoặc vì lý do bất khả kháng mà ngƣời lao
động trở thành ngƣời thất nghiệp. Ngoài ra, Tỉnh cần chủ động xây dựng Quỹ hỗ
trợ cho doanh nghiệp CPH cho những mục tiêu kiểu này từ những nguồn lực địa
phƣơng thay vì chỉ trông chờ vào Quỹ hỗ trợ chung của nhà nƣớc.
+ Đối với lao động dôi dƣ sau CPH.
Với đối tƣợng này, Tỉnh cần có chính sách nhƣ: hỗ trợ vốn ban đầu cho
những ngƣời kinh doanh nhỏ, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển các
chƣơng trình tạo công ăn việc làm cho ngƣời lao động, xuất khẩu lao động...
141
để kích cầu lao động. Thực hiện điều này sẽ giảm đƣợc sức ép về lao động dƣ
thừa ở doanh nghiệp sau CPH thông qua việc chuyển một bộ phận lao động
này sang khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện
thúc đẩy phát triển thị trƣờng lao động, kể cả lao động quản lý và lãnh đạo
các doanh nghiệp sau CPH.
Ngoài sự hỗ trợ ngƣời lao động dôi dƣ tìm kiếm việc làm tại các khu vực
khác nhau của nền kinh tế, Thanh Hóa cần chú trọng tạo việc làm mới cho họ.
Tuy nhiên, do đa số những ngƣời lao động dôi dƣ trong quá trình chuyển sở hữu
tại các doanh nghiệp cổ phần hoá của Thanh Hóa đều đã lớn tuổi, trình độ thấp,
hoặc thuộc nhóm ngành nghề mà chu kỳ sản phẩm đang đi xuống, nhu cầu xã
hội không cao nữa cho nên việc bố trí việc làm mới sẽ rất khó khăn. Chính
quyền các cấp có thể tạo điều kiện để cho ngƣời lao động đó có thể tìm đƣợc
việc làm mới thông qua sự hỗ trợ về mặt thông tin. Hệ thống các kênh thông tin,
các hội chợ tuyển dụng là những kênh thích hợp đối với ngƣời lao động có thể
tìm kiếm việc làm. Để làm tốt việc này, vấn đề tạo điều kiện để ngƣời lao động
có thể đáp ứng đƣợc yêu cầu của chỗ làm mới là hết sức cần thiết. Việc triển
khai các chƣơng trình nâng cao trình độ, đào tạo lại cho ngƣời lao động hoặc hỗ
trợ ngƣời lao động tham gia nâng cao, đào tạo lại tay nghề là cần thiết để ngƣời
lao động có cơ hội tìm đƣợc việc làm mới. Để làm đƣợc việc này cần có sự rà
soát và nắm một cách tổng thể về sự di động việc làm trong quá trình vận hành
của các doanh nghiệp cổ phần hoá, đặc biệt là quá trình tái cấu trúc sở hữu của
các doanh nghiệp cổ phần hoá ở Thanh Hóa hiện nay.
Bên cạnh đó, UBND Tỉnh cần ban hành các quy định cần thiết về trách
nhiệm và quyền hạn của chủ sở hữu đối với ngƣời lao động để buộc họ phải
quan tâm bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời lao động nếu việc chuyển đổi
sở hữu gây ra tổn hại đối với những ngƣời này. Đây là chính sách cần xây
dựng để đảm bảo trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp, mặc dù trong
trƣờng hợp này, doanh nghiệp cần nhận đƣợc sự hỗ trợ nhất định từ nhà nƣớc.
142
4.2.5. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền địa
phương và nâng cao vai trò của Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong
quá trình CPH DNNN
Một là, các cấp ủy Đảng và chính quyền tỉnh Thanh Hóa cần tăng cƣờng chỉ
đạo công tác thực hiện cổ phần hóa DNNN, chú trọng nâng cao hơn nữa chất
lƣợng việc xây dựng phƣơng án sản xuất, kinh doanh sau cổ phần hóa. Khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành thêm cổ phiếu để tăng quy mô
vốn của các doanh nghiệp.
Hai là, Tỉnh cần xây dựng lộ trình cổ phần hóa một cách thận trọng,
chắc chắn. Cần thu hẹp dần diện các DNCPH mà nhà nƣớc cần nắm cổ phần
chi phối. Trƣớc mắt nhà nƣớc chỉ cần nắm cổ phần chi phối tại một số ít doanh
nghiệp có vai trò, vị trí quan trọng trong định hƣớng chiến lƣợc và nhiệm vụ
kinh tế - xã hội của tỉnh..
Ba là, phải tập trung tháo gỡ những khó khăn, vƣớng mắc sau khi cổ phần
hóa, đặc biệt là vấn đề quyền sử dụng đất. Việc tháo gỡ những khó khăn vƣớng
mắc này phải đặt trong bối cảnh của hệ thống pháp luật hiện hành. Cụ thể:
+ Thực hiện nghiêm chỉnh luật đất đai (sửa đổi) đã đƣợc Quốc hội
thông qua 10-2013. Tạo điều kiện cho các DNNN sau cổ phần hóa có điều
kiện kinh doanh ổn định và không ngừng phát triển.
+ Có chính sách kịp thời để xử lý số lao động dôi dƣ, nhất là số lao
động dôi dƣ đã xử lý một lần khi chuyển đổi hình thức hoạt động (sáp nhập,
chuyển công ty mẹ - công ty con, chuyển công ty TNHH một thành viên).
Đồng thời, Tỉnh cũng phải có những biện pháp xử lý kiên quyết để ngăn chặn
tình trạng liên kết, "thông thầu" trong quá trình bán đấu giá cổ phiếu. Do vậy,
Tỉnh cần rà soát để có thể ban hành những quy định cụ thể về quá trình và
phƣơng thức bán cổ phiếu theo hƣớng tăng cƣờng tính cạnh tranh, công khai,
minh bạch nhằm khắc phục những „lỗ hổng” làm méo mó giá cả cổ phiếu và
các tài sản nhà nƣớc khác.
143
+ UBND Tỉnh cần xem xét nâng mức phí thuê tƣ vấn định giá, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp thuê đƣợc những tƣ vấn định giá có uy tín, chuyên
nghiệp khi cổ phần hóa, đặc biệt khi Thanh Hóa, trong thời gian tới, cần tiến
hành cổ phần hóa các DNNN quy mô lớn, có quy mô công nợ, các mối quan
hệ kinh tế, mạng lƣới kinh doanh phức tạp hơn.
Để nâng cao trách nhiệm của các định chế trung gian trong quá trình cổ
phần hóa cần gắn việc thanh toán chi phí thuê tƣ vấn định giá, đấu giá với kết
quả bán cổ phần, thực hiện chính sách thƣởng đối với những đơn vị thực hiện
tốt công tác tƣ vấn, bán đấu giá cổ phần, khuyến khích các doanh nghiệp cổ
phần hóa thực hiện phƣơng thức bảo lãnh, phát hành. Ngoài ra, cần rà soát lại
quy định theo đó doanh nghiệp thuộc diện CPH đƣợc trực tiếp ký hợp đồng tƣ
vấn với các tổ chức tƣ vấn định giá tài sản doanh nghiệp, nhất là trong trƣờng
hợp quá trình CPH mang tính chất nội bộ, khép kín, để tránh những lạm dụng,
tiêu cực, gây ra sự thất thoát về tài sản của nhà nƣớc.
Bốn là, Nâng cao vai trò của Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước trên
địa bàn
Ban đổi mới doanh nghiệp tại các địa phƣơng là cơ quan trực tiếp chỉ đạo
và chịu trách nhiệm đối với tiến trình CPH DNNN. Đồng thời, đây cũng là cơ
quan đầu mối để tổng hợp và xử lý những khó khăn, vƣớng mắc cả trƣớc, trong
và sau quá trình CPH DNNN. Vì vậy, Ban đổi mới doanh nghiệp có có tác động
quyết định đến sự thành công hay thất bại của tiến trình này. Thực tiễn quá trình
cổ phần hóa DNNN trong cả nƣớc cho thấy, tại địa phƣơng nào có Ban đổi mới
DNNN đủ năng lực, hoạt động tích cực, bám sát thực tiễn để chỉ đạo, hƣớng dẫn
doanh nghiệp chuyển đổi, thì những vấn đề KT-XH tiêu cực nảy sinh ít hơn, kết
quả CPH đạt mức cao hơn; và ngƣợc lại. Vì vậy, tỉnh Thanh Hóa cần có kế
hoạch tái thành lập Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp của mình trên cơ sở
phối kết hợp với các Sở, Ban, Ngành trên địa bàn, dƣới sự chỉ đạo của Ban Đổi
144
mới và Phát triển doanh nghiệp Trung ƣơng. Hƣớng đổi mới Ban này nên tập
trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
- Bố trí đủ cán bộ chuyên trách trong những khâu liên quan đến CPH
DNNN. Hiện tại ban đổi mới và phát triển DN của tỉnh đã giải tán chỉ còn
một biên chế nằm trong Văn phòng UBND tỉnh, nên dù còn ít DN thuộc diện
phải CPH nhƣng để giải quyết kịp thời có hiệu quả đƣợc các vấn đề KT-XH
nảy sinh trong các DN CPH thì việc tái thành lập lại ban này là râtƣ cần thiết.
Việc bố trí đủ lực lƣợng chuyên trách và tạo điều kiện cho lực lƣợng
này nâng cao kiến thức và kỹ năng đối với công việc, chắc chắn những vấn đề
KT-XH nẩy sinh trong quá trình CPH, nhƣ: lao động dôi dƣ, chuyển nhƣợng
cổ phần, đối tƣợng mua cổ phần của doanh nghiệp, hay định giá tài sản doanh
nghiệp.... sẽ đƣợc xử lý kịp thời và hiệu quả.
- Ban đổi mới doanh nghiệp tỉnh cần phát huy vai trò tham mƣu cho
tỉnh, đồng thời tăng cƣờng công tác hƣớng dẫn, phổ biến, tuyên truyền và
kiểm tra, đôn đốc các doanh nghiệp thực hiện phƣơng án tổng thể tái cơ cấu
DNNN theo đúng các phƣơng án và lộ trình của Chính phủ, trong đó có lộ
trình CPH các DNNN và phƣơng án xử lý tốt những vấn đề kinh tế - xã hội
nảy sinh trong và sau quá trình CPH DNNN.
- Cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa Ban Đổi mới và Phát triển
doanh nghiệp của địa phƣơng với Ban Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp
của Trung ƣơng, Bộ, Ngành.
Ngoài ra, trên cơ sở nhận thức đúng đắn về bản chất và nội dung của
quá trình CPH, trên cơ sở coi đó là yêu cầu tự nhiên, khách quan của tiến
trình hoàn thiện và phát triển nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam cũng nhƣ
xem quá trình này nhƣ bộ phận hữu cơ của quá trình tái cấu trúc toàn bộ nền
kinh tế, Tỉnh cần có biện pháp tuyên truyền sâu rộng để tạo ra sự đồng thuận
rộng rãi trong toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết xử lý
các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình này.
145
4.3. Một số kiến nghị với Nhà nƣớc và bộ/ ngành hữu quan
Thứ nhất, Nhà nƣớc cần có chính sách rõ ràng, cụ thể về xử lý nợ tại
các DNNN trong diện CPH. Hiện tại, qui định của Nhà nƣớc về các khoản nợ
phải thu theo điều 15, các khoản nợ phải trả theo điều 16 của Nghị định
59/2011/ND- CP, tuy có nhiều điểm mới nhằm tháo gỡ nợ cho DNCPH xong
vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục đƣợc nghiên cứu sữa đổi. Để giải quyết dứt
điểm vấn đề này, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sau CPH hoạt
động trôi chảy, một mặt Nhà nƣớc cần tiếp tục nghiên cứu tìm ra những giải
pháp cụ thể sát hợp và khả thi hơn để tháo gỡ cho các CTCP, trên cơ sở nên
xem lại việc bắt buộc thừa kế nợ của CTCP và DNNN trƣớc đó cho phù hợp
hơn. Đồng thời đẩy mạnh hoạt động của các công ty mua bán nợ và tài sản
tồn đọng của DNNN khi CPH.
+ Cần ban hành quy chế cụ thể về tổ chức quản lý các DNNN sau CPH,
nhất là doanh nghiệp Nhà nƣớc giữ 51% vốn điều lệ trở lên cho phù hợp với
Luật công ty. Hiện nay việc bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà
nƣớc tại các doanh nghiệp cổ phần hóa về Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh
vốn nhà nƣớc (SCIC) đã làm cho việc kiểm tra, giám sát của địa phƣơng đối
với các doanh nghiệp cổ phần hóa rất khó khăn; các địa phƣơng ít nhận đƣợc
thông tin phản hồi cũng nhƣ đề xuất của các doanh nghiệp này để có giải pháp
quản lý cho phù hợp và kịp thời. Cần làm rõ ai là ngƣời đại diện chủ sở hữu
vốn Nhà nƣớc trong các CTCP nhằm chấm dứt quan hệ sở hữu Nhà nƣớc khá
chung chung nhƣ hiện nay.
+ Hoàn thiện, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp quy theo hƣớng
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển hơn nữa các hoạt động cổ phần hoá, phù
hợp với bối cảnh đất nƣớc đã hội nhập vào sân chơi quốc tế, đặc biệt là về thị
trƣờng chứng khoán có vai trò nhƣ là một “sân chơi” quan trong nhất đối với
các hoạt động liên quan tới khía cạnh tài chính của cổ phần hoá. Ở đây cần
nhấn mạnh rằng tài chính và luồng tài chính đối với kinh tế cổ phần đƣợc coi
146
là máu và các mạch dẫn máu cho cơ thể kinh tế này; do vậy, nếu “sân chơi”
này không đƣợc tổ chức và quản lý tốt thì mọi cố gắng cổ phần hoá sẽ không
thể phát huy tác dụng.
Thứ hai, Nhà nƣớc cần ban hành các văn bản hƣớng dẫn thực hiên chủ
trƣơng CPH DNNN nhanh chóng và sát sao hơn. Cụ thể:
+ Điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến bán cổ phiếu nhƣ: xóa bỏ
mức khống chế về quyền mua cổ phiếu lần đầu và mở rộng đối tƣợng mua cổ
phiếu vì mức quy định mua cổ phiếu của các pháp nhân, thể nhân trong đợt
phát hành cổ phiếu lần đầu đã hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tƣ chiến
lƣợc, của cán bộ lãnh đạo… Đồng thời, cần có các giải pháp phù hợp tháo gỡ
khó khăn về các khoản nợ khó thu cho các DNNN sau CPH. Cần tổng kết
việc xử lý nợ trong khu vực DNNN và DNNN sau CPH có biện pháp hữu
hiệu để giải quyết dứt điểm tình trạng nợ dây dƣa, nợ chiếm dụng không lành
mạnh. Đánh giá hoạt đông của Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của
doanh nghiệp, đặc biệt là của DNNN đã CPH để sử dụng có hiệu quả hơn
công cụ này, Có cơ chế tạo lập thị trƣờng mua, bán nợ với sự tham gia của
một số DNNN và tổ chức kinh tế ngoài Nhà nƣớc để giúp các chủ nợ và ngân
hàng xử lý tốt hơn nợ tồn đọng, gắn chặt quyền lợi với hiệu quả kinh doanh,
góp phần nâng cao năng lực tài chính để giải quyết bớt gánh nặng tài chính do
nợ đọng cho các DNNN sau CPH, nhằm tăng cƣờng tính an toàn của hệ thống
tài chính ngân hàng trong quá trình tái cấu trúc DNNN.
+ Nghiên cứu phát triển thêm mô hình các quỹ đầu tƣ đối với DNNN
CPH, và có chế tài để hạn chế tình trạng các nhà đầu tƣ lợi dụng chính sách
ƣu đãi của Nhà nƣớc để mua cổ phần nhằm kiếm lời trong ngắn hạn. Đó cũng
là cách để học gắn bó lâu dài hơn với các DNCPH. Mặt khác, cần thành lập
các tổ chức trung gian để hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện CPH nhƣ: Công ty tƣ
vấn mua bán nợ và tài sản doanh nghiệp, công tƣ tƣ vấn CPH, công ty định
giá doanh nghiệp, dịch vụ phát hành cổ phiếu...
147
+ Tiếp tục hoàn chỉnh tổ chức bộ máy và đẩy mạnh hoạt động của
Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc (SCIC). Tạo điều kiện hình
thành và phát triển hoàn thiện thị trƣờng chứng khoán vì thị trƣờng chứng
khoán không chỉ có quan hệ mật thiết với CTCP mà còn có vai trò tích cực là
yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế thị trƣờng.
Kết luận chƣơng 4
Cũng nhƣ cả nƣớc, CPH DNNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa là nhằm
hƣớng tới các mục tiêu cơ bản nhất là: nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của
doanh nghiệp; huy động nguồn vốn của toàn xã hội để phát triển sản xuất
kinh doanh và phát huy vai trò làm chủ thực sự của ngƣời lao động, của cổ
đông.
Để đạt đƣợc các mục tiêu đó, quan điểm tiến hành CPH DNNN và giải
quyết các vấn đề KT-XH nẩy sinh trong quá trình này là phải nhận thức đúng
về bản chất cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là điều kiện tiền đề đảm bảo
sự thành công của tiến trình CPH; coi cổ phần hóa DNNN là giải pháp hữu
hiệu để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp, góp
phần tạo sự phát triển toàn bộ nền kinh tế theo chiều sâu; và coi mọi tƣ tƣởng
nóng vội hay ỷ lại đều là lực cản đối của tiến trình CPH DNNN.
Trên cơ sở các quan điểm đó, căn cứ vào những vấn đề KT-XH phát
sinh trong quá trình CPH DNNN và những hạn chế trong cách thức xử lý các
vấn đề đó ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 1998 đến nay, cho thấy, để thúc đẩy tiến
trình CPH trên địa bàn một cách hiệu quả quả là rất khó khăn. Thực tiễn đó
đòi hỏi Tỉnh phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ cả về kinh tế, hành chính
và tổ chức; phải giải quyết những vấn đề nảy sinh cả ở giai đoạn trƣớc CPH,
trong quá trình CPH và sau quá trình CPH cả đối với ngƣời lao động, tổ chức
bộ máy quản lý và môi trƣờng hoạt động của doanh nghiệp.
148
KẾT LUẬN
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn tiến trình CPH
DNNN và những vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình này tại tỉnh Thanh Hóa
trong hơn 15 năm qua, có thể rút ra một số kết luận cơ bản sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nƣớc đã từng giữ vai trò rất quan trọng
trong phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam, đặc biệt đã có những đóng góp
to lớn vào thắng lợi chung của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ
quốc. Tuy nhiên, bƣớc sang thời kỳ đổi mới, cùng với sự phát triển kinh tế
chung của cả nƣớc, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, hầu hết các doanh
nghiệp nhà nƣớc không còn đáp ứng đƣợc yêu cầu mới đặt ra của nền kinh tế
thị trƣờng, và đã bộc lộ nhiều yếu kém. Vì vậy, việc sắp xếp, đổi mới và nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nƣớc, trong đó có
biện pháp CPH, nhằm tăng cƣờng năng lực cạnh tranh chung của cả nền kinh
tế cũng nhƣ phát huy vai trò đích thực của kinh tế nhà nƣớc trong nền kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa là sự cần thiết khách quan.
Thứ hai, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là một chủ trƣơng lớn của
Đảng và Nhà nƣớc, có nhiều tác động đến sự phát triển kinh tế của đất nƣớc
cũng nhƣ đời sống ngƣời lao động. Vì vậy, việc đẩy nhanh tiến độ CPH
DNNN là tất yếu khách quan, phù hợp với yêu cầu hoàn thiện và phát triển
nền kinh tế thị trƣờng, gắn liền với xu thế hội nhập quốc tế. Về mặt lý luận,
cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng góp phần giải quyết những khó khăn
về vốn, từng bƣớc nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp; đồng thời tạo điều kiện để Nhà nƣớc tập trung nguồn lực cho
sự phát triển các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Trên thực tế, tại những
DNNN đã CPH, khi chuyển thành công ty cổ phần thì tình trạng quan liêu,
cửa quyền, tham nhũng, lãng phí ... từng bƣớc đƣợc loại bỏ; ngƣợc lại, lợi ích
của cả Nhà nƣớc, tập thể và ngƣời lao động đều đƣợc nâng cao.
Thứ ba, trong quá trình tiến hành CPH DNNN, nhiều vấn đề KT-XH nảy
149
sinh, có tác động tiêu cực đến quá trình CPH, đòi hỏi phải đƣợc giải quyết kịp
thời. Những vấn đề này có cội nguồn sâu xa từ sự khác biệt và xung đột lợi
ích do tính chất chuyển đổi sở hữu mà quá trình CPH gây ra. Chúng thƣờng
biểu hiện phổ biến trong các vấn đề nhƣ: tâm lý chần chừ, e ngại, chống đối
CPH; lựa chọn doanh nghiệp CPH; định giá doanh nghiệp; chuyển đổi cơ cấu
sở hữu; tổ chức hoạt động và quản trị doanh nghiệp sau CPH; sắp xếp lao
động và xử lý lực lƣợng lao động dôi dƣ.v.v...
Thứ tư, tại tỉnh Thanh Hóa, tiến trình CPH DNNN tuy diễn ra muộn hơn
so với nhiều địa phƣơng khác, song về cơ bản cũng không nằm ngoài tình
trạng chung của cả nƣớc. Đó là, bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc thì vẫn
còn nhiều vấn đề đặt ra cả trong và sau khi thực hiện CPH, đòi hỏi phải đƣợc
giải quyết. Mặc dù tỉnh đã có nhiều biện pháp khắc phục, song đến nay, sau
15 năm thực hiện CPH, nhiều vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ, cần tiếp tục đƣợc xử lý
để thúc đẩy một cách hiệu quả hơn tiến trình CPH.
Thứ năm, những vấn đề KT-XH nói trên nảy sinh do nhiều nguyên nhân
khác nhau, cả chủ quan và khách quan, trong đó các nguyên nhân chủ yếu là:
tâm lý chần chừ do xung đột lợi ích đã tạo ra những trở ngại cho tiến trình CPH;
cơ chế chính sách về CPH DNNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa còn những bất
cập; công tác quản lý Nhà nƣớc về CPH DN của tỉnh chƣa theo kịp yêu cầu và
các thể chế thị trƣờng có khả năng hỗ trợ tiến trình CPH DNNN nhƣ: thị trƣờng
chứng khoán, các công ty cung cấp các dịch vụ tài chính, dịch vụ tƣ vấn về CPH
còn kém phát triển....
Thứ sáu, để khắc phục những vấn đề KT-XH nảy sinh có tác động tiêu
cực đến tiến trình CPH DNNN tại tỉnh Thanh Hóa, trong thời gian tiếp theo
tỉnh cần quán triệt các quan điểm, nhƣ: xem CPH DNNN nhƣ một yêu cầu
khách quan của tiến trình hoàn thiện và phát triển nền kinh tế thị trƣờng và
hội nhập quốc tế; coi nhận thức đúng về bản chất cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nƣớc là điều kiện tiền đề để thực hiện thành công quá trình này; khẳng
150
định cổ phần hóa DNNN là giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp, góp phần tạo sự phát triển toàn bộ nền
kinh tế theo chiều sâu….
Thứ bảy: cùng với các quan điểm trên, để xử lý các vấn đề kinh tế - xã
hội nảy sinh, thúc đẩy nhanh tiến trình CPH, Thanh Hóa cần triển khai đồng
bộ nhiều giải pháp nhƣ: lựa chọn đúng đắn các DNNN để tiến hành CPH
trong những năm tới; đổi mới phƣơng pháp định giá DN nhằm chống thất
thoát tài sản Nhà nƣớc khi CPH; tạo điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho
ngƣời lao động và DN sau CPH; thực hiện giảm tỷ lệ cổ phần thuộc sở hữu
Nhà nƣớc trong các DN nhà nƣớc CPH đồng thời phải minh bạch hóa vấn đề
tài chính và sở hữu của Nhà nƣớc trong DN sau cổ phần hóa nhằm tạo môi
trƣờng cạnh tranh lành mạnh; tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ
CPH DNNN; tăng cƣờng vai trò quản lý và trách nhiệm của các cấp chính
quyền Nhà nƣớc tại địa phƣơng trong quá trình CPH; nâng cao vai trò của
Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nƣớc trên địa bàn; phân định rõ và tách bạch
chức năng quản lý Nhà nƣớc với chức năng chủ sở hữu Nhà nƣớc tại các
CTCP; đổi mới phƣơng thức quản trị và điều hành phù hợp với các doanh
nghiệp nhà nƣớc cổ phần hóa. Bên cạnh đó, cần quan tâm nâng cao chất
lƣợng của các thể chế thị trƣờng nhằm tạo ra môi trƣờng kinh doanh thuận lợi
và lành mạnh cho mọi DN và xem đó nhƣ một phƣơng thức hữu hiệu để xủa
lý các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình CPH DNNN; tăng
cƣờng công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức chung của toàn xã
hội đối với quá trình CPH.
Cuối cùng, để các giải pháp trên mang tính khả thi cao, đòi hỏi Nhà
nƣớc và các Bộ/Ngành hữu quan phải điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến
bán cổ phiếu; nghiên cứu phát triển thêm mô hình các quỹ đầu tƣ đối với
DNNN CPH; tiếp tục hoàn chỉnh tổ chức bộ máy và đẩy mạnh hoạt động của
Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc (SCIC); thành lập các tổ
151
chức trung gian để hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện CPH; tiếp tục kiện toàn Ban
chỉ đạo, đổi mới và phát triển doanh nghiệp ở Trung ƣơng và các Bộ, ngành,
địa phƣơng.
152
DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ
1. Trịnh Văn Súy, 2010. “Cổ phần hoá DNNN của tỉnh Thanh Hoá, một số
vấn đề cần quan tâm”, Tạp chí Thương Mại, số 33, 34.
2. Trịnh Văn Súy, 2013. “ Cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa trong giai đoạn
hiện nay”, Tạp chí Khoa học chính trị tháng 4 năm 2013.
3. Trịnh Văn Súy, 2013. “ Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá
trình cổ phần hóa các DNNN ở Thanh Hóa”,Tạp chí Kinh tế Môi trường,
tháng 5-6 năm 2013, ISSN 1559 – 1906.
4. Trịnh Văn Súy, 2013. “ Cổ phần hóa DNNN của tỉnh Thanh hóa, một số
kinh nghiệm và đề xuất”, Tạp chí Kinh tế môi trường, tháng 7 năm 2013.
5. Trịnh Văn Súy, 2014. “ Hiệu quả sán xuất kinh doanh từ mô hình liên kết
4 nhà của công ty cổ phần mía đƣờng Lam Sơn”, Tạp chí Kinh tế Môi
trường, số xuân Giáp Ngọ, 2014, ISSN 1559 – 1906.
6. Trịnh Văn Súy “Năm 2015 triển vọng phát triển môi trƣờng kinh doanh
Việt Nam”, tạp chí kinh tế môi trƣờng số 1+2 năm 2015.
7. Trịnh Văn Súy, 2015. “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc: Một số giải
pháp chủ yếu cho tỉnh Thanh Hóa”, Tạp chí kinh tế Châu Á – Thái Bình
Dương, số tháng 3 năm 2015.
8. Trịnh Văn Súy, 2015. “Tăng trƣởng xanh xu hƣớng của thời đại”. Tạp chí
kinh tế môi trường, số tháng 5-6 năm 2015.
153
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Bùi Quốc Anh (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cổ phần hóa
và sau cổ phần hóa các DNNN ở Việt Nam. Luận án Tiến sĩ kinh tế -
Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
2. Ban Chỉ đạo đổi mới và Phát triển doanh nghiệp (2003), Các văn bản về
đổi mới doanh nghiệp nhà nước”, Hà Nội.
3. Ban Chỉ đạo Trung ƣơng (2003), Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 6 (lần 2), khoá VIII, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng chống tham nhũng, lãng phí, Tài liệu chỉ đạo, hƣớng dẫn thực
hiện (lƣu hành nội bộ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Đổi mới và Phát triển Doanh nghiệp Trung ƣơng (2008), Tài liệu
Hội thảo về Tổng kết công tác sắp xếp DNNN do Ban đổi mới và phát
triển Doanh nghiệp Trung ương tổ thức tháng 5/2008 tại Hà Nội.
5. Trƣơng Văn Bân (Chủ biên, 1996), Bàn về cải cách toàn diện doanh
nghiệp nhà nước. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Bằng (3/1994), “Góp thêm ý kiến về CPH DNNN” Tạp chí
Tài chính.
7. Nguyễn Trọng Bảo (1998), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đội ngũ
cán bộ quản lý doanh nghiệp trong nước thời kỳ CNH, HDH đất nước,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Trần Công Bảng (1998), “Tiến trình và triển vọng cổ phần hoá DNNN ở
Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế phát triển 3/1998.
9. Nguyễn Văn Bảo (chủ biên) (2009), Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Thanh
hóa”, Nxb Thanh Hóa.
10. Bộ Tài chính (10/2003), Hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện cổ
phần, Hà Nội.
11. Bộ Tài chính (2007), Thông tư 146/2007/TT-BTC ngày 6/12/2007
154
Hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định
tại Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007.
12. Trần Ngọc Bút (1998), “Bức xúc của cổ phần hoá DNNN”, Tạp chí
Kinh tế và dự báo.
13. Ngô Tùng Chinh (2005), "Củng cố tổ chức cơ sở đảng trong các doanh
nghiệp cổ phần hoá", Tạp chí Lý luận chính trị.
14. Chính phủ (1998), Nghị định số 48/ND-CP ngày 11/7/1998 của Chính
phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Hà Nội.
15. Chính phủ (1999), Nghị định số 103/1999/ND-CP, ngày 10/6/1999 của
Chính phủ về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN, Hà Nội.
16. Chính phủ (1999), Nghị định số 49/2002 của Chính phủ sữa đổi bổ sung
một số điều của Nghị định số 103/1999/ND-CP, ngày 10/9/1999 của
Chính phủ giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN, Hà Nội.
17. Chính phủ (1999), Nghị quyết số 117/1999/QĐ-TTg, ngày 28/6/1999,
của Thủ tướng chính phủ về tổ chức và hoạt động quỹ hỗ trợ sắp xếp và
CPH DNNN.
18. Chính phủ (2002), Nghị quyết số 58/2002/QĐ-TTg, ngày 26/4/2002, của
Thủ tướng chính phủ về ban hành tiêu chí danh mục phân loại DNNN và
tổng công ty Nhà nuớc, Hà Nội.
19. Chính phủ (2002), Nghị định số 41/2001/ND-CP, ngày 11/4/2002 của
Chính phủ về chính sách đối với người lao động dôi dư do sắp xếp lại
DNNN, Hà Nội.
20. Chính phủ (2002), Nghị định số 64/2002/ND, ngày 19/6/2002 của Chính
phủ về việc chuyển DNNN thành CTCP, Hà Nội.
21. Chính phủ (2007), Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 Về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nƣớc thành công ty cổ phần, Hà
Nội.
155
22. Chính phủ (2011), Nghị định 59/2011/NĐ- CP, ngày 18 tháng 7 năm
2011 của Chính Phủ “Về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
thành công ty cổ phần”.
23. Phạm Minh Chính (2012), “Kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp một số quốc gia trên thế giới”, Tạp chí Cộng sản.
24. “Cổ phần hoá lối ra của các DNNN trong nền kinh tế thị trƣờng cạnh
tranh” (1994), Tạp chí Kinh tế phát triển, (44).
25. “CPH, giải pháp quan trọng trong cải cách DNNN, CTCP” (2002),
Thông tin Kinh tế đối ngoại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Trần Tiến Cƣờng (2001), Các vấn đề tồn tại và phát sinh của DNNN
sau cổ phần hoá đa dạng sở hữu, tài liệu Hội thảo về cổ phần hoá.
27. Nguyễn Thị Doan (2006), “Gắn chặt công tác kiểm tra, giám sát của cấp
ủy đối với tiến trình CPH DNNN”, Tạp chí Cộng sản, (6).
28. Phạm Văn Dũng - Phạm Mạnh Thƣờng “ Một số vấn đề tài chính khi
tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước” Tạp chí Tài chính,
tháng 8 năm 1996.
29. Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế - xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội.
30. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
32. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
35. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết hội nghị lần thứ III Ban
Chấp hành trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả DNNN, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban
chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng cộng sản Việt Nam (2015) Dự thảo các văn kiện trình đại hội XII
của Đảng. ( Tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp huyện, cấp tỉnh và
tƣơng đƣơng)
38. Đảng ủy Ban kinh tế tỉnh Thanh Hóa (1998), Đổi mới phát huy chủ đạo
của DNNN, Hội thảo khoa học tháng 12/1998, Thanh Hóa.
39. Đặng Quang Điệu (2/1998), “Góp ý kiến về chính sách đối với ngƣời
lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc”, Kinh tế Dự báo.
40. Võ Văn Đức (1997), “Thử tìm nguyên nhân và giải pháp đẩy nhanh tiến
trình CPH DNNN”, Nghiên cứu lý luận, (6).
41. Võ Văn Đức, TS Đinh Ngọc Giang ( Đồng chủ biên) (2012) “ Một số
vấn đề kinh tế - Xẫ hội nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị
hóa ở Việt Nam”
42. Hoàng Châu Giang (2009), Chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp, Nxb
Thông tấn, Hà Nội.
43. M. Gills, D. Perkins, M. Roemer, D. R. Snodgrass (1990). Kinh tế học
của sự phát triển, Tập 2. Viện nghiên cứu quản lý TƢ – Trung tâm
thông tin tƣ liệu
44. Trần Quang Hà (1998), “Công ty CPH DNNN và thị trƣờng chứng
khoán”, Nghiên cứu kinh tế số 241, tháng 6/1998.
45. Lê Hồng Hạnh (2004), Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước những vấn
đề lý luận và thực tiễn, (sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
157
46. Lê Hoàng Hải (2001), Một số vướng mắc về tài chính đối với doanh
nghiệp sau cổ phần hoá và đa dạng sở hữu, Tài liệu Hội thảo về cổ phần
hoá.
47. Trần Ngọc Hiên (2007), “CPH DNNN, thực trạng và giải pháp”, Tạp chí
Cộng sản, (4).
48. Nguyễn Lê Quý Hiển (2012), Chuyển biến quan hệ sở hữu trong quá
trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam. Luận án Tiến sĩ kinh tế -Trƣờng
Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
49. Chu Đức Hoài (2002), Bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong quá
trình CPH DNNN, chuyên đề nghiên cứu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
50. Đỗ Thị Phi Hoài (2003), Tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn đến 2010. Luận án tiến sĩ
kinh tế - Viện Kinh tế học.
51. Nguyễn Cảnh Hoan (2002), Một số giải pháp hoàn thiện thể chế tài chính
trong tiến trình CPH DNNN Việt Nam hiện nay, đề tài cấp bộ của Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
52. Phí Mạnh Hồng (2011), “Vấn đề phân phối trong nền kinh tế thị trƣờng
định hƣớng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (1/392).
53. Phí Mạnh Hồng, Trần Đình Thiên (2014), “ Quan niệm và tính thực tiễn
của “Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (3/430)
54. Lê Văn Hội (2006), "Vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong doanh
nghiệp cổ phần có vốn Nhà nƣớc", Tạp chí Xây dựng Đảng, (7).
55. Vƣơng Đình Huệ (2011), “Giải pháp chủ yếu nhằm tái cấu trúc DNNN”
Việt nam net, tháng 12 năm 2011.
56. Phạm Quang Huy (2002), Thị trường chứng khoán Việt Nam với vấn đề
CPH DNNN đề tài cấp sở của Ủy ban Chứng khoán nhà nƣớc, Hà Nội.
158
57. Hồ Sỹ Hùng (2012), “Đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nƣớc và một
số thách thức đặt ra”, Tạp chí Cộng sản, (840).
58. Hồ Xuân Hùng (2004), "Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Kết quả,
vướng mắc và giải pháp", Tạp chí Công sản, (18).
59. Trần Mai Hƣơng (1998), “CPH với vấn đề nguời lao động, nghiên cứu
kinh tế”, (236).
60. Hỏi - Đáp về luật doanh nghiệp (2003), Nxb Giao thông vận tải, Hà
Nội.
61. Quốc Khánh (2006), “Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng với tiến trình
CPH DNNN”, Tạp chí Xây dụng Đảng, (4).
62. Vũ Trọng Kim (2006), "Xây dựng các đoàn thể chính trị, xã hội vững
mạnh ở các doanh nghiệp CPH", Tạp chí Cộng sản, (111).
63. Phạm Ngọc Linh (2009), “Doanh nghiệp nhà nƣớc và những vấn đề sau
cổ phần hóa”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, 11(451)
64. Trần Xuân Long (2012), Hoàn thiện chính sách quản lý vốn của Nhà
nước trong DNNN sau cổ phần hóa, Luận án tiến sĩ Kinh tế - Trƣờng
Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
65. Nguyễn Phi Long (29/3/2005), "Nâng cao hiệu lực lãnh đạo của tổ chức
đảng trong các công ty cổ phần có vốn Nhà nƣớc", Báo Nhân dân.
66. Luật Doanh nghiệp (2005), Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
67. Hồ Chí Minh (1985), Toàn tập, Tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội.
68. Ngô Quang Minh (2001), Kinh tế nhà nước và quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước – Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam.
Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
69. Lê Hữu Nghĩa (2006), "Phát huy vai trò lãnh đạo của đảng đối với tiến trình
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc", Tạp chí Cộng sản, (104).
159
70. Đỗ Ngọc Ninh (2004), Nâng cao năng lực sức chiến đấu của các đảng
bộ phường ở Thủ đô Hà Nội hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Hoàng Nga ( chủ biên), (2009) “ Thị trường Chứng khoán”
72. Trần Thị Minh Ngọc (2008) “ Những yếu tố cản trở quá trình cổ phần
hóa DNNN trên địa bàn Hà Nội hiện nay”. Đề tài khoa học cấp bộ, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
73. Đỗ Thị Oanh (2002), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
hiện nay, thực trạng và giải pháp, Hà Nội.
74. Nguyễn Huy Oánh, Lê Văn Bằng (2006), “Mô hình công ty mẹ, công ty
con – một giải pháp lớn để tăng tính minh bạch của DNNN và góp phần
quan trọng định hƣớng XHCN của nền kinh tế nƣớc ta”. Tạp chí Nghiên
cứu Kinh tế (3/334)
75. Phòng thƣơng mại và công nghiệp Việt Nam & Cơ quan phát triển quốc tế
Hoa Kỳ (2015), “PCI 2014. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2014”.
Nxb Lao Động, Hà Nội.
76. Phan Thành Phố (1996), Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế
ở Việt Nam - Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
77. Vũ Văn Phúc, “Giải pháp khắc phục những vấn đề đang đặt ra từ thực
trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc hiện nay”, Website Đảng
cộng sản Việt Nam.
78. Nguyễn Năng Phúc (chủ biên) (2009), Phân tích tài chính công ty cổ
phần, Nxb Tài chính, Hà Nội.
79. Nguyễn Thị Kim Phƣợng (2001), Các yếu tố tâm lý xã hội ảnh hưởng
đến quá trình CPH DNNN hiện nay, đề tài cấp bộ của Học viên Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
80. Bích Phƣợng (2005), “15 năm CPH doanh nghiệp, hiệu quả nhƣng còn
chậm”, Tạp chí Châu Á Thái Bình Dương, (5).
160
81. Nguyễn Ngọc Quang (1994), “CPH DNNN, giải pháp chiến lƣợc đổi
mới khu vực kinh tế nhà nƣớc”, Nghiên cứu Kinh tế nhà nước.
82. Vƣơng Đức Hoàng Quân và Nguyễn Thị Ngọc Liên (2007), “Bàn thêm
về đa sở hữu và vai trò của cổ đông chiến lƣợc”, Tạp chí Tài chính.
83. Quốc hội (2003), Luật DNNN, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Quốc hội (2013), Luật Doanh nghiệp nhà nước sửa đổi, Nxb Tài chính,
Hà Nội.
85. Lƣơng Xuân Quỳ, 2004. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đề tài cấp Nhà nƣớc mã số KX01.09/2001-2005
86. Tô Huy Rứa (2006), “CPH DNNN- dƣới góc nhìn phát triển kinh tế - xã
hội bền vững”, Tạp chí Cộng sản, (5).
87. Joseph. E. Stiglitz (1995), Kinh tế học công cộng. Nxb Khoa học và kỹ
thuật & Trƣờng ĐH KTQD
88. Tài liệu Hội nghị Tổng kết 10 năm sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả DNNN, tháng 12 năm 2011.
89. Hoàng Xuân Tại, Báo cáo tóm tắt nghiên cứu, đánh giá công tác CPH
các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và đề xuất giải pháp thúc đẩy
công tác CPH ở Thanh Hóa.
90. Lê Văn Tâm (2004), Cổ phần hóa và quản lý doanh nghiệp nhà nước
sau cổ phần hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Trần Hồng Thái (2001), Các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả tiến
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Luận án tiến sĩ kinh tế -
Trƣờng Đại học kinh tế TP Hồ Chí Minh.
92. Nguyễn Hữu Thắng (chủ nhiệm) (2011), Khủng hoảng nợ công trên thế
giới và bài học rút ra cho Việt Nam, đề tài cấp Bộ, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
161
93. Ngô Đăng Thành (Chủ trì) (2010), Cải cách các Tổng công ty nhà nước ở
Việt Nam theo mô hình Công ty Mẹ - Con (Chủ trì), Đề tài cấp Trƣờng
Đại học Kinh tế, ĐHQG Hà Nội.
94. Tỉnh ủy Thanh Hóa (2015) Dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII tại Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh lần thứ
XVIII, nhiệm kỳ 2015-2020 ( Tài liệu sử dụng tại đại hội Đảng bộ cấp
huyện và tương đương).
95. Nguyễn Thị Thơm (1999), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
96. Nguyễn Thị Thơm, “Doanh nghiệp nhà nƣớc sau cổ phần hóa: kết quả hoạt
động, bất cập nảy sinh và hƣớng tháo gỡ”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (7).
97. Hoàng Công Thi và PTS Phùng Thị Đoan (1992), “Cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam”, Thông tin chuyên đề, Viện Khoa học Tài
chính, Bộ Tài chính, Hà Nội.
98. Trần Đình Thiên “ Giải pháp cho việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước” Báo nhân dân hằng tháng số 179, tháng 3 năm 2012
99. Nguyễn Thế Tràm và Trần Thị Bích Hạnh (2014), “Làm thế nào thúc ép
cải cách doanh nghiệp nhà nƣớc có hiệu quả”, Tạp chí Phát triển kinh
tế-xã hội Đà Nẵng, số 57
100. Đoàn Văn Trƣờng (1996), Thành lập tổ chức và điều hành hoạt động
CTCP, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
101. Nguyễn Hữu Từ (1993), Công ty cổ phần và CPH DNNN ở nước ta
hiện nay, đề tài cấp Bộ của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
102. Vũ Huy Từ (2003), “Nhìn lại quá trình CPH DNNN: động thái và giải
pháp”, Chứng khoán Việt Nam, (9).
103. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ƣơng (1998), Chuyển đổi các
162
DNNN - quản lý sự thay đổi triệt để trong môi trường phi điều tiết, Hà Nội.
104. Ủy Ban Kinh tế Quốc hội – Nhóm tƣ vấn chính sách kinh tế vĩ mô, Báo
cáo kinh tế vĩ mô 2013- Cải cách thể chế kinh tế: chìa khóa cho tái cơ cấu.
NXB Tri thức, Hà Nội, 2014.
105. UBND tỉnh Thanh Hóa (2002), Báo cáo tình hình đổi mới DNNN của
tỉnh Thanh Hóa.
106. UBND tỉnh Thanh hóa (2002), Hệ thống văn bản mới về sắp xếp, đổi
mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước.
107. UBND tỉnh Thanh Hóa (2003), Báo cáo tình hình đổi mới DNNN của
tỉnh Thanh Hóa.
108. UBND tỉnh Thanh Hóa, Đề án sắp xếp đổi mới, phát triển DNNN.
109. UBND tỉnh Thanh Hóa, Hệ thống văn bản mới về sắp xếp đổi mới, phát
triển DNNN.
110. UBND tỉnh Thanh Hóa – Sở Tài chính (2011), Báo cáo tổng kết 10 năm
thực hiện sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước.
111. Hoàng Trung (2015) Tƣơng lai của các doanh nghiệp nhà nƣớc nhìn từ
cổ phần hóa” http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/227419/tuong-lai-cua-cac-
doanh-nghiep-nha-nuoc-nhin-tu-co-phan-hoa.html Cập nhật
25/03/2015 08:00 GMT+7
Tài liệu tiếng Anh
112. Brada, J. C (1996), Privatization is transition – or is it?, Journal of
Economic Perspectives, Vol.10, No2, pp 67-86
113. Lin J.Y, F. Cai & Z. Li (1997), Pefect Information and Reform of the
State-Owned Enterprises in China. Shanghai: Shanghai People‟s Press.
114. Sjoholm, Fredrik (2006), State owned enterprises and equitization in
Vietnam, EIJS Working Papaer series 228, The European Institute of
Japanese Studies.
163
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
UBND TỈNH THANH HOÁ C.TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
THƢƠNG MẠI MIỀN NÖI
Số: 1088 /PA - TMMN
Thanh Hoá, ngày12 tháng 8 năm 2012
PHƢƠNG ÁN
CỔ PHẦN HOÁ CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN
THƢƠNG MẠI MIỀN NÖI THANH HOÁ
Phần thứ nhất
THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN
THƢƠNG MẠI MIỀN NÖI
I – THÔNG TIN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP
1 – Tên và địa chỉ doanh nghiệp
Tên doanh nghiệp: Công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi
Thanh Hoá.
Tên tiếng Anh: THANH HOA MOUNTAINOUS TRADING
COMPANY LIMITED.
Trụ sở chính: Số 100 Triệu Quốc Đạt-Phƣờng Điện Biên- thànhPhố
Thanh Hoá
Điện thoại: 037 3852409 - Fax: 0373 850127.
Là doanh nghiệp hạch toá kinh tế độc lập, là công ty TNHH một thành viên
do UBND tỉnh Thanh Hoá làm chủ sở hữu.
2 -Quá trình phát triển của công ty.
- Công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá, tiền
thân là công ty Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá, đƣợc thành lập theo Quyết
định số 1005/QĐ-UBTH ngày 01/11/1990 của UBND tỉnh Thanh Hoá.
Năm 1999 đổi tên thành công ty Thƣơng mại và Đầu tƣ phát triển miền núi
Thanh Hoá theo Quyết định số 2418/QB-UB ngày 29/10/1999 của Chủ tịch
UBND tỉnh Thanh Hoá.
Năm 2010 đƣợc chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên Thƣơng
mại miền núi theo Quyết định số 2197/QĐ-UBND ngày 22/6/2010.
3. Hình thức tổ chức và tƣ cách pháp nhận :
Công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá có tƣ
cách pháp nhân , có tên riêng, con dấu riêng và đƣợc mở tài khoản bằng tiền Việt
Nam và ngoại tệ tại các ngân hàng trong và ngoài nƣớc.
Công ty có bộ máy điều hành, có quyền và nghĩa vụ của công ty TNHH
một thành viên theo Luật Doanh nghiệp, Điều lệ công ty và các quy định của
pháp luật.
Công ty có vốn và tài sản riêng, chụi trách nhiệm đối với các khoản nợ
bằng toàn bộ tài sản của công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi
Thanh Hoá.
Công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá có quyền
sở hữu, sử dụng và định đoạt đối với tên gọi, thƣơng hiệu, sản phẩm, biểu tƣợng
của công ty theo quy định của pháp luật.
4 - Chức năng, nhiệm vụ của công ty:
Công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá đƣợc
UBND tỉnh giao nhiệm vụ tổ chức kinh doanh hàng hoá- dịch vụ phục vụ nhu
cầu phát triển sản xuất và đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi trong
tỉnh và thực hiện nhiệm vụ đột xuất khác theo yêu cầu của tỉnh.
5 – Ngành nghề kinh doanh (Theo GCNĐKKD)
Số Ngành nghề kinh doanh Mã ngành
TT
1 - Bán buôn hàng Nông, lâm sản, thực phẩm: 4620, 46201, 46202,
đậu, lạc, gỗ, luồng, lơn, trâu, bò. 46203, 46204, 46209
2 - Bán buôn, bán lẻ gạo, lƣơng thực, đồ 4631, 4632, 4633,
uống, thuốc lá . 4711, 4722
3 - Bán lẻ đồ dùng gia đình, điện gia dụng, 4742, 47511, 47519,
gốm, sứ, thuỷ tinh và thiết bị gia đình khác 47591, 47592, 47593,
47599, 47892,
4 - Bán buôn, bán lẻ đồ uống có cồn: Bia, 4633, 46331, 46332,
rƣợu và nƣớc giải khát...thuốc lá 4634, 46340, 4724,
47240
5 - Hàng vật tƣ kỹ thuật phục vụ SX: Sắt thép, 46622, 46631, 46632,
xi măng, tấm lợp, gạch ngói, phân bón... 46633, 46639, 47524,
47525, 46691
6 - Bán buôn, bán lẻ mô tô xe máy và phụ 4541, 4542, 4543,
tùng mô tô xe máy, bán lẻ xe đạp 47735, 47738,
7 - Bán buôn, bán lẻ hàng may mặc 4641, 46411, 46412,
46413, 46414, 47741
- Bán buôn, bán lẻ xăng dầu, dầu nhớt... 46613, 4730 8
- Bán lẻ hàng hoá vật tƣ phục vụ tiêu dùng; 4773 9
Dầu hoả, ga, khí hoá lỏng, bếp ga...
10 - Kinh doanh dịch vụ ăn uống, khách sạn, 5610, 55103, 55104,
nhà nghỉ; massage, giặt là. 9620
- Kinh doanh dịch vụ vận tải đƣờng bộ. 49331, 49332, 49333 11
- Sản xuất chế biến hàng Nông lâm sản. 1629 12
13 - Thi công các công trình dân dụng, công 4100, 4290
nghiệp, giao thông, thuỷ lợi
14 - Kinh doanh kho bãi, lƣu giữ hàng hoá 52109
15 - Kinh doanh các ngành nghề khác căn cứ
vào năng lực của Công ty, nhu cầu của Thị
trƣờng và đƣợc pháp luật cho phép.
6 – Cơ cấu tổ chức công ty.
a- Cơ cấu tổ chức quản lý công ty bao gồm: Chủ tịch công ty, Giám
đốc công ty và Kiểm soát viên. Chủ tịch công ty kiêm Giám đốc.
b - Bộ máy giúp việc
- Gồm : 03 phó giám đốc, kế toán trƣởng và 01 kiểm soát viên không
chuyên trách
- Các phòng chức năng chuyên môn, nghiệp vụ: 06 phòng.
+ Phòng Tổ chức - Hành chính.
+ Phòng Tài chính – Thống kê, Kế hoạch.
+ Phòng Kinh doanh Vật tƣ nông nghiệp và hàng tiêu dùng.
+ Phòng Kinh doanh Vật tƣ xây dựng.
+ Phòng Kinh doanh xăng dầu và thiết bị kỹ thuật.
+ Phòng Kinh doanh Vận tải và Dịch vụ.
* Chức năng, nhiệm vụ các phòng chức năng công ty.
- Tham mƣu cho lãnh đạo công ty theo chức năng đƣợc Chủ tịch công
ty qui định.
- Xây dựng, tổ chức thực hiện hệ thống quản lý chức năng.
- Chỉ đao, hƣớng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của
các Chi nhánh trực thuộc theo chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao.
- Tổ chức hoạt động kinh doanh các lĩnh vực đƣợc phân công.
c - Các đơn vị trực thuộc: 11 chi nhánh.
+ Chi nhánh Thƣơng mại Mƣờng Lát:
+ Chi nhánh Thƣơng mại Quan Sơn:
+ Chi nhánh Thƣơng mại Quan Hoá
+ Chi nhánh Thƣơng mại Bá Thƣớc.
+ Chi nhánh Thƣơng mại Lang Chánh.
+ Chi nhánh Thƣơng mại Ngọc Lặc.
+ Chi nhánh Thƣơng mại Thƣờng Xuân.
+ Chi nhánh Thƣơng mại Nhƣ Xuân.
+ Chi nhánh Thƣơng mại Nhƣ Thanh.
+ Chi nhánh Thƣơng mại Cẩm Thuỷ.
+ Chi nhánh Thƣơng mại Thạch Thành.
* Chức năng, nhiệm vụ của các Chi nhánh trực thuộc:
- Tổ chức các hoạt động kinh doanh – phục vụ theo ngành nghề đăng ký
kinh doanh trên địa bàn đƣợc phân công.
- Giữ vững và phát triển thị trƣờng trên địa bàn và ngoài địa bàn.
- Thực hiện hoàn thành nhiệm vụ và các chỉ tiêu kế hoạch công ty giao.
- Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đƣợc giao, tạo việc làm ổn định và
tăng thu nhập cho ngƣời lao động.
7 – Mạng lƣới và cơ sở vật chất
- Công ty có hệ thống mạng lƣới bán lẻ với 14 cụm Thƣơng mại, 67 cửa
hàng bán lẻ, 25 của hàng Xăng dầu và hàng trăm đại lý bán buôn, bán lẻ
trong toàn tỉnh.
- Hệ thống mạng lƣới dịch vụ với 2 tổ hợp gồm nhà hàng, nhà nghỉ, xông
hơi masage; 8 nhà nghỉ tại 11 huyện miền núi.
- Hệ thống kho chứa hàng gồm: 03 kho Vật tƣ kỹ thuật tại Thành phố Thanh Hoá diện tích trên 1.600m2 (chƣa kể diện tích kho bãi ngoài trời) và hệ thống kho tại các chi nhánh 2.900m2; Hệ thống kho xăng dầu gồm 02 tổng
kho tại Thành phố Thanh Hoá có sức chứa trên 3.000m3 và các kho tại 11 huyện miền núi có sức chứa trên 1.000 m3.
- Đội xe vận tải với 25 đầu xe tải trọng từ 12 tấn trở lên, trong đó có 9 xe
chuyên dụng.
8 – Vốn kinh doanh tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp
Tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, vốn kinh doanh của công ty
là: đồng
a – Phân theo cơ cấu
ĐVT: đồng
31/12/2011 theo đánh giá lại
Khoản 31/12/2009 31/12/2010 31/12/2011 mục
Vốn ngắn 68.341.174.951 83.416.092.400 77.387.311.458 hạn
Vốn dài 47.847.629.976 55.317.888.941 61.035.899.164 hạn
Tổng cộng 116.188.804.927 138.733.981.341 138.423.210.622
b – Phân theo nguồn vốn. ĐVT: đồng
31/12/2011
Khoản mục 31/12/2009 31/12/2010 31/12/2011 theo đánh giá
lại
Nguồn Vốn 46.072.888.315 50.786.177.455 53.059.759.733 CSH
Nợ phải trả 70.115.916.612 87.947.803.886 85.363.450.849
Tổng cộng 116.188.804.927 138.733.981.341 138.423.210.622
9 – Tình hình lao động của công ty tại thời điểm công bố giá trị
doanh nghiệp
a – Số lượng lao động.
Tổng số lao động hiện có đến 31/7 /2012 là: 354 ngƣời.
IV – TÌNH HÌNH KINH DOANH CỦA CÔNG TY 3 NĂM TRƢỚC
KHI CỔ PHẦN HOÁ (TỪ NĂM 2009 – 2011).
Trong những năm qua, công ty kinh doanh trong điều kiện còn gặp nhiều
khó khăn do địa bàn hoạt động rộng, mạng lƣới phân tán; kinh tế, xã hội miền
núi phát triển chƣa đồng đều, giữa các vùng còn có chênh lệch lớn, thu nhập
của đồng bào còn ở mức thấp, sức mua bị hạn chế; sản phẩm hàng hoá do
đồng bào miền núi sản xuất chƣa nhiều; các chính sách Tài chính, Tín dụng
chƣa đồng bộ, các yếu tố trên ảnh hƣởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất
kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh thƣơng mại Dịch vụ nói riêng.
Bên cạnh những khó khăn, đƣợc sự quan tâm lãnh đạo của Tỉnh ủy,
HĐND, UBND Tỉnh; chỉ đạo của các Sở, Ban, Ngành; sự đồng tình ủng hộ
của cấp uỷ, chính quyền địa phƣơng huyện, xã; sự tin tƣởng của đồng bào các
dân tộc miền núi, sự tín nhiệm của các bạn hàng, đồng thời với với sự lãnh
đạo đúng đắn của các cấp uỷ chi bộ, sự chỉ đạo, điều hành tập trung thống
nhất của ban lãnh đạo chuyên môn từ Công ty đến Chi nhánh, cùng với sự
đồng tâm hiệp lực, cố gắng của mỗi tập thể, mỗi cá nhân trong toàn công ty,
Công ty đã phát huy nội lực, vƣợt qua khó khăn để đƣa hoạt động Kinh doanh
– Phục vụ ngày càng phát triển, thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị
đƣợc giao, làm nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nƣớc, bảo đảm việc làm và thu
nhập cho ngƣời lao động, bảo toàn vốn và phát triển doanh nghiệp. Một số
lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty:
1 - Kết quả KD từ năm 2009 đến 2011.
TT Chỉ tiêu ĐVT Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011
I Nguồn vốn chủ sở hữu Tr đồng 46.072 50.786 53.059
Tổng doanh thu Tr đồng 857.564 1.035.191 1.218.152 II
- Doanh thu bán hàng Tr đồng 842.725 1.027.393 1.201.638 1
- Doanh thu HĐTC Tr đồng 3.420 6.412 7.139 2
- Thu nhập khác Tr đồng 11.419 1.386 9.375 3
Lợi nhuận sau thuế Tr đồng 545 156 342 III TNDN
Nộp Ngân sách Tr đồng 3.031 3.241 1.931 IV
Thuế GTGT Tr đồng 2.574 3.051 1.626 1
Thuế TNDN Tr đồng 77 48 22 2
Thuế, phí khác Tr đồng 380 142 283 3
423 Ngƣời 341 338 V Tổng số Lao động BQ
1.000 đ 1.952 2.268 2.441 VI Lƣơng bình quân tháng
Tr đồng 2.017 3.523 1.906 VII NSLĐ bình quân
Nộp BHXH, BHYT, Tr đồng 2.140 2.406 2.348 VIII BHTN
Tr đồng 70.775,6 87.947,8 85363,4 IX Tổng nợ phải trả
Phải trả ngân sách Tr đồng 0 0 0 1
Nợ khác Tr đồng 70.775,6 87.947,8 85363,4 2
Tr đồng 37.191,3 40.456,9 35.624,8 Tổng số nợ phải thu X
Trong đó: Nợ khó đòi Tr đồng
2 – Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu
a – Kinh doanh xăng dầu.
Công ty là tổng đại lý của Tổng công ty xăng dầu Việt Nam , với năng
lực gồm: hệ thống kho dự trữ, trung chuyển xăng dầu gồm 02 tổng kho tại Thành phố Thanh Hoá có sức chứa trên 3.000m3; 25 cửa hàng xăng dầu tại 11 huyện miền núi có sức chứa trên 1.000 m3 và hệ thống các cửa hàng đại lý
bán lẻ xăng dầu; bộ phận vận tải với 04 xe bồn tự tổ chức vận chuyển hàng
cho các cửa hàng.
b – Kinh doanh Vật liệu xây dựng
Mặt hàng kinh doanh chủ yếu là Xi măng, sắt thép. Hiện nay công ty là nhà
phân phối của Công ty Xi măng Nghi sơn, đại lý của Xi măng Vinakansai, xi
măng Bỉm sơn... có hệ thống các đại lý bán hàng trong toàn tỉnh, Công ty có đội
xe vận tải đủ đáp ứng yêu cầu vận chuyển hàng cho khách;
c – Kinh doanh Vật tƣ nông nghiệp.
Mặt hàng kinh doanh chủ yếu là các loại phân bón nhƣ Đạm, Lân, kali,
phân tổng hợp NPK. Hiện công ty là đại lý cấp I của Phân bón Lâm Thao,
phân bón Thiên Nông.
d – Kinh doanh hàng hoá tiêu dùng khác.
Công ty luôn xác định và duy trì kinh doanh các mặt hàng truyền thống,
hàng thiết yếu phục vụ đồng bào miền núi là nhƣ: Lƣơng thực, muối ăn, thực
phẩm Công nghệ, các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu khác...coi đây vừa là trách
nhiệm, vừa là mặt hàng có lợi thế cạnh tranh.
e – Kinh doanh dịch vụ
* Kinh doanh Dịch vụ ăn uống, nhà nghỉ.
Trong những năm gần đây, Công ty đã đƣa kinh doanh dịch vụ: ăn uống,
giải khát, nhà nghỉ, xông hơi massage tại các huyện miền núi vào danh mục
kinh doanh chính, từng bƣớc đầu tƣ phát triển loại hình dịch vụ du lịch. Đến
nay cơ bản hầu hết các huyện miền núi có nhà nghỉ, trong đó có 02 tổ hợp nhà
hàng, nhà nghỉ, hoạt động ổn định và có hiệu quả.
* Kinh doanh kho bãi.
Công ty có kho bãi tại thành phố Thanh Hoá, với tổng diện tích mặt bằng là: 5.069 m2, trong đó diện tích kho là 1.500m2. Từ năm 2011 bƣớc đầu đã
đƣa vào sử dụng, khai thác với các hình thức dịch vụ giữ xe ô tô và cho thuê
kho bãi.
g – Kinh doanh dịch vụ vận tải.
Bộ phận vận tải của công ty hiện tại chủ yếu vận chuyển hàng hoá phục
vụ cho kinh doanh trong nội bộ.
* Mặt hàng chủ yếu
TT Chỉ tiêu ĐVT Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Ghi chú
Xăng ô tô 1000l 20.111 1 20.375 19.847
Dầu diezen 1000l 22.349 2 23.498 22.734
3 Dầu hoả 1000l 503 278 386
4 Dầu nhờn 1000l 92 162 110
5 Xi măng Tấn 232.481 264.428 299.433
6 Sắt thép Tấn 500 427 215
7 Phân bón Tấn 29.270 37.498 24.614
Hàng tiêu dùng 8 Tr đ 51.368 12.110 14.021 khác
9 Ăn uống, giải khát Tr đ 3.900 3.137 2.461
10 Nhà nghỉ Tr đ 1.815 2.185 2.130
V - TÌNH HÌNH QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI.
1 – Danh mục các diện tích đất công ty đang quản lý, sử dụng.
Diện tích Số
Địa điểm, lƣợng TT ĐVT Trong đó đơn vị quản lý sử dụng Lô đất Tổng số Đất thuê Đất khác
7 1 TP Thanh Hoá (VP) M2 10.667,7 10.667,7
2 Chi nhánh TM Mƣờng Lát 4 4.181,1 4.181,1
3 Chi nhánh TM Quan Hoá 7 4.403,5 4.403,5
4 Chi nhánh TM Quan Sơn 4 3.824 3.824
Chi nhánh TM Bá Thƣớc 11 6.651,2 6.651,2 5
6 Chi nhánh TM Lang Chánh 6 5.155 5.155
7 Chi nhánh TM Ngọc Lặc M2 M2 M2 M2 M2 M2 5 21.515,6 18.260,6 3.255
(mua)
8 Chi nhánh TM Thƣờng Xuân 7 6.083 6.083
9 Chi nhánh TM Nhƣ Xuân 2 3.299 3.299
10 Chi nhánh TM Nhƣ Thanh 5 5.004 5.004
11 Chi nhánh TM Cẩm Thuỷ M2 M2 M2 M2 5 6.691,6 5.799,6 892
(giao)
12 Chi nhánh TM Thạch Thành 6 2.473,1 2.473,1
13 CHXD Lam Kinh, Thọ Xƣơng M2 M2 1 13.735 13.735
(VP)
TỔNG CỘNG M2 70 93.683,8 89.536,8 4.147
VI – GIÁ TRỊ THỰC TẾ CỦA DOANH NGHIỆP TẠI THỜI ĐIỂM
31/12/2011.
Theo quyết định số /QĐ-UBND ngày của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh
Hoá về việc phê duyệt giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá Công ty TNHH
một thành viên Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá.
1 – Tổng giá trị tài sản thực tế tại công ty theo sổ sách kế toán và kết
quả thẩm định đến 31/12/2011:
Đơn vị tính: Đồng
Tài sản Số liệu sổ sách Số liệu Chênh
kế toán thẩm lệch
định TĐ và Sổ
sách
A - TỔNG GIÁ TRỊ TÀI SẢN
CÔNG TY
I – Tài sản đang dùng
1 – TSCĐ và Đầu tƣ dài hạn
a – Tài sản cố định 53.243.649.792
– TSCĐ hữu hình 53.243.649.792
– TSCĐ vô hình
b – Các khoản ĐTTC dài hạn
c – Tài sản dài hạn khác
2 – TSLĐ và Đầu tƣ ngắn hạn
a – Tiền 7.912.653.160
b - Đầu tƣ tài chính ngắn hạn
c – Các khoản phải thu 35.624.846.342
d – Trị giá hàng tồn kho 32.316.065.773
e – Tài sản ngắn hạn khác 1.553.746.183
3 – Chi phí XDCB dở dang 111.724.727
4 – Giá trị lợi thế kinh doanh
5 – Giá trị quyền sử dụng đất
II – Tài sản không cần dùng
1 – TSCĐ và Đầu tƣ dài hạn
2 – TSLĐ và Đầu tƣ ngắn hạn
B – TỔNG NỢ PHẢI TRẢ
1 – Nợ ngắn hạn 79.126.704.658
2 – Nợ dài hạn 6.236.746.191
C - SỐ DƢ QUĨ PHÖC LỢI, KHEN
THƢỞNG
D - TỔNG GIÁ TRỊ THỰC TẾ VỐN
NN
TẠI DOANH NGHIỆP (A, I –
(B+C)
Phần thứ hai.
PHƢƠNG ÁN CỔ PHẦN HOÁ
I/ CỎ SỞ PHÁP LÝ ĐỂ XÂY DỰNG PHƢƠNG ÁN
1/ Những căn cứ pháp lý
- Căn cứ Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2011 của Chính
phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nƣớc thành Công ty cổ phần.
- Căn cứ Thông tƣ số 196/2011/TT-BTC ngày 26 tháng 12 năm 2011
của Bộ Tài chính hƣớng dẫn bán cổ phần lần đầu và quản lý, sử dụng tiền thu
từ cổ phần hoá của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nƣớc thực hiện chuyển
đổi thành Công ty cổ phần.
II – NỘI DUNG PHƢƠNG ÁN CỔ PHẦN HOÁ.
1- Hình thức cổ phần hoá
Căn cứ tình hình thực tế công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại
miền núi Thanh Hoá chọn hình thức cổ phần hoá theo quy định tại khoản2,
Điều 4 Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011. Bán một phần vốn nhà
nƣớc kết hợp phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
2 – Tên, địa chỉ công ty.
- Tên đầy đủ theo tiếng Việt: CÔNG TY CỔ PHẦN THƢƠNG MẠI
MIỀN NÚI THANH HOÁ.
- Tên giao dịch: CÔNG TY THƢƠNG MẠI MIỀN NÚI .
- Tên giao dịch quốc tế: THANH HOA MOUNTAINOUS TRADING
JOINT STOCK COMPANY
- Tên viết tắt:
- Địa chỉ trụ sở chính: Số 100 Triệu Quốc Đạt – P. Điện Biên – TP.
Thanh Hoá - tỉnh Thanh Hoá.
- Điện thoại 037 3852409 Fax: 037 3850527
- Tài khoản số : 3500431101000032 -Tại Ngân hàng NNPTNT tỉnh
Thanh Hoá.
- Tài khoản số: 50110000003569 - Tại Ngân hàng ĐT và PT tỉnh Thanh Hoá.
3 – Ngành nghề kinh doanh.
Ngành nghề kinh doanh Mã ngành Số
TT
1 - Bán buôn hàng Nông, lâm sản, thực 4620, 46201, 46202,
phẩm: đậu, lạc, gỗ, luồng, lơn, trâu, bò. 46203, 46204, 46209
2 - Bán buôn, bán lẻ gạo, lƣơng thực, đồ 4631, 4632, 4633, 4711,
uống, thuốc lá . 4722
3 - Bán lẻ đồ dùng gia đình, điện gia dụng, 4742, 47511, 47519,
gốm, sứ, thuỷ tinh và thiết bị gia đình khác 47591, 47592, 47593,
47599, 47892,
4 - Bán buôn, bán lẻ đồ uống có cồn: Bia, 4633, 46331, 46332,
rƣợu và nƣớc giải khát...thuốc lá 4634, 46340, 4724,
47240
5 - Hàng vật tƣ kỹ thuật phục vụ SX: Sắt 46622, 46631, 46632,
thép, xi măng, tấm lợp, gạch ngói, phân 46633, 46639, 47524,
bón... 47525, 46691
6 - Bán buôn, bán lẻ mô tô xe máy và phụ 4541, 4542, 4543,
tùng mô tô xe máy, bán lẻ xe đạp 47735, 47738,
7 - Bán buôn, bán lẻ hàng may mặc 4641, 46411, 46412,
46413, 46414, 47741
- Bán buôn, bán lẻ xăng dầu, dầu nhớt... 46613, 4730 8
- Bán lẻ hàng hoá vật tƣ phục vụ tiêu dùng; 4773 9
Dầu hoả, ga , bếp ga...
10 - Kinh doanh dịch vụ ăn uống, khách sạn, 55103, 55104, 5610,
nhà nghỉ; massage, giặt là, karaoke. 9620
- Kinh doanh dịch vụ vận tải đƣờng bộ. 49331, 49332, 49333 11
- Sản xuất chế biến hàng Nông lâm sản. 1629 12
- Thi công các công trình dân dụng, công 4100, 4290 13
nghiệp, giao thông, thuỷ lợi
- Kinh doanh kho bãi, lƣu giữ hàng hoá 52109 14
- Kinh doanh các ngành nghề khác căn cứ 15
vào năng lực của Công ty, nhu cầu của Thị
trƣờng và đƣợc pháp luật cho phép.
4 – Dự kiến cơ cấu tổ chức sau khi chuyển sang công ty cổ phần:
Đại hội cổ đông
Ban kiểm soát
Hội đồng quản trị
Ban giám đốc
Các phòng chức năng
1. Phòng Tổ chức – Hành chính
2. Phòng Tài chính kế hoạch
3. Phòng Kinh doanh.
4. Phòng.....
Các đơn vị trực thuộc
1. Chi nhánh miền núi.
2. Các xí nghiệp.
5 – Vốn điều lệ và cơ cấu vốn điều lệ
5.1 – Vốn điều lệ
- Vốn điều lệ: 65.000.000.000 đồng .
- Mệnh giá 01 cổ phần: 10.000 đồng/1 cổ phần.
- Số lƣợng cổ phần: 6.500.000 cổ phần
5.2 – Cơ cấu vốn điều lệ.
Cơ cấu vốn Số cổ phần Tỉ lệ %
Cổ phần Nhà nƣớc 3.315.000 51,00
Cổ phần bán ra 3.185.000 49,00
Trong đó:
- CBNCV mua theo giá ƣu đãi theo NĐ 59 CP
- Tổ chức Công đoàn. - -
- Nhà đầu tƣ chiến lƣợc.
- Cổ đông mua cổ phần qua đấu giá
6 – Phƣơng án bán cổ phần.
Sau 30 ngày kể từ ngày có Quyết định phê duyệt giá trị doanh nghiệp
của Chủ tịch UBND tỉnh , công ty thực hiện bán cổ phần lần đầu:
6.1- Giá khởi điểm dự kiến 10.500 đồng/1CP.
6.2 - Đối tƣợng mua cổ phần.
Đối tƣợng mua cổ phần bao gồm cán bộ công nhân viên công ty và các
nhà đầu tƣ trong nƣớc (theo Điều 6 Nghị định 59/2011/NĐ-CP)
a- Cổ phần bán ƣu đãi cho CBCNV
Cổ phần ƣu đãi bán cho ngƣời lao động có tên trong danh sách thƣờng
xuyên của doanh nghoanh nghiệp tính đến thời điểm công bố giá trị doanh
nghiệp (theo NĐ 59/2011/NĐ-CP).
- Tổng số lao động đƣợc mua ƣu đãi:
- Tổng số năm công tác
- Tổng số cổ phần đƣợc mua ƣu đãi :
- Tổng số cổ phần đƣợc mua thêm:
- Tỷ lệ chiếm % vốn điều lệ
(Danh sách ngƣời lao động, số năm công tác, số cổ phần của từng ngƣời
đƣợc mua ƣu đãi theo phụ lục đính kèm).
b – Cổ phần bán cho nhà đầu tƣ chiến lƣợc.
Nhà đầu tƣ chiến lƣợc là các doanh nghiệp có đủ các điều kiện theo qui
định tại Điều 37, Nghị định 59/2011/NĐ-CP.
- Đơn vị tham gia nhà đầu tƣ chiến lƣợc:
- Tổng số cổ phần bán cho nhà đầu tƣ chiến lƣợc
- Tỷ lệ chiếm % vốn điều lệ
c- Cổ phần bán đấu giá ra bên ngoài
- Đơn vị thực hiện bán đấu giá:
- Tổng số cổ phần bán đấu giá
- Tỷ lệ chiếm % vốn điều lệ
7- Thời gian bán đấu giá : Sau khi có Quyết định của UBDN tỉnh Thanh
Hoá phê duyệt Phƣơng án cổ phần hoá công ty TNHH một thành viên
Thƣơng Mại Miền núi Thanh Hoá.
8 – Chi phí cổ phần hoá.
Tổng giá trị doanh nghiệp thực tế tại doanh nghiệp đến thời điểm
31/12/2011 là: đồng, do đó Công ty dự kiến tổng chi phí cổ phần hoá là:
500.000.000 đồng, bao gồm các khoản mục chính sau đây:
TT Khoản mục chi phí Số tiền (đồng)
1 Chi phí tập huấn nghiệp vụ về cổ phần hoá 5.000.000
2 Chi phí thuê tƣ vấn xác định giá trị doanh nghiệp 121.000.000
3 Chi phí tổ chức hội nghị triển khai công tác CPH 67.000.000
4 Chi phí kiểm kê, đối chiếu công nợ xác định giá trị doanh 50.000.000
nghiệp
5 Chi phí xây dựng Phƣơng án CPH và xây dựng Điều lệ công 23.000.000
ty CP
6 Chi phí hoạt động tuyên truyền, công bố thông tin doanh 16.000.000
nghiệp
7 Chi phí tổ chức bán cổ phần (Đấu giá, bảo lãnh phát hành) 70.000.000
8 Chi phí hoạt động của Ban chỉ đạo, tổ giúp việc 78.000.000
9 Chi phí Đại hội cổ đông lần đầu 30.000.000
10 Chi phí khác (Văn phòng phẩm, hành chính....) 40.000.000
Tổng cộng 500.000.000
Chi phí cổ phần hoá sẽ đƣợc quyết toán trên cơ sở các chi phí thực tế phát
sinh sau khi kết thúc quá trình cổ phần hoá.
9 – Kế hoạch sử dụng tiền thu đƣợc từ bán cổ phần thuộc vốn Nhà nƣớc.
Trên cơ sở giá trị thực tế phần vốn Nhà nƣớc tại doanh nghiệp, tỉ lệ góp
vốn của Nhà nƣớc tại công ty cổ phần, Công ty cổ phần Thƣơng mại miền núi
dự kiến kế hoạch sử dụng tiền thu từ cổ phần hoá, tạm tính theo phƣơng án
giả sử tất cả cổ phần bán ra đƣợc mua hết với giá 10.500 đồng/1 cổ phần và
giá đấu thành công thấp nhất là 10.500 đồng/ 1 cổ phần:
11 – Kế hoạch xử lý lao động dôi dƣ.
- Số lao động dôi dƣ không có nhu cầu sử dụng công ty cho nghỉ việc và
giải quyết chế độ theo qui định tại điều 17, điều 31 Bộ luật lao động.
- Số lao động hết hạn hợp đồng, lao động xin tự nguyện chấm dứt HĐLĐ,
giải quyết chế độ theo qui định tại điều 42 Bộ luật lao động.
12 – Định hƣớng kinh doanh của công ty sau cổ phần
13.1 - Định hƣớng phát triển sau khi cổ phần:
Đẩy mạnh kinh doanh các mặt hàng chủ lực phục vụ phát triển sản xuất
và hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống đồng bào các dân tộc miền núi,
với quan điểm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lƣợng phục vụ và hiệu
quả kinh doanh.
Phấn đấu các chỉ tiêu cơ bản có mức tăng trƣởng hàng năm từ 5% trở lên.
12.2 - Những giải pháp chủ yếu
a - Về công tác tổ chức bộ máy và cán bộ:
Sắp xếp, cơ cấu lại bộ máy, cán bộ các phòng công ty đến các Chi
nhánh, thực hiện bổ nhiệm, bổ nhiệm lại và luân chuyển cán bộ theo nguyên
tắc căn cứ yêu cầu công việc để bố trí cán bộ; tăng cƣờng cán bộ trẻ có trình
độ chuyên môn, có năng lực thực tiễn vào bộ máy cán bộ lãnh đạo chủ chốt,
thay thế cán bộ không đáp ứng yêu cầu, tạo nên bộ máy gọn nhẹ, điều hành
hiệu quả.
b - Về lao động :
- Tiếp nhận số lao động từ công ty nhà nƣớc chuyển sang, trên cơ sở đó
rà soát, sắp xếp lại lao động ở tất cả các khâu từ Văn phòng công ty đến các
Chi nhánh. Thực hiện định mức lao động cho từng đơn vị, từng phòng, từng
bộ phận theo yêu cầu thực tế của công việc; phân công, bố trí sắp xếp lao
động theo trình độ chuyên môn phù hợp với từng công việc và năng lực sở
trƣờng của từng ngƣời nhằm sử dụng có hiệu quả lực lƣợng lao động; Tuyển
dụng lao động mới có trình độ chuyên để bổ sung lao động thay thế số lao
động xin nghỉ chế độ, kết hợp với công tác đào tạo để phát triển nguồn nhân
lực nhằm nâng cao chất lƣợng lao động nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo
nói riêng.
c - Về kinh doanh:
- Đẩy mạnh kinh doanh các mặt hàng chủ lực phục vụ phát triển Kinh tế
– Xã hội miền núi nhƣ: : Xi măng, phân bón, xăng dầu..., phục vụ phát triển
sản xuất.
- Duy trì kinh doanh các mặt hàng truyền thống, hàng thiết yếu : muối
iốt, gạo và các mặt hàng tiêu dùng khác phục vụ nhu cầu đa dạng của đồng
bào miền núi; khai thác hiệu quả các chƣơng trình, dự án chính sách phát triển
kinh tế xã hội miền núi, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị trên địa bàn .
- Tiếp tục đầu tƣ mở rộng kinh doanh dịch vụ: ăn uống, giải khát, nhà
nghỉ, karaoke... phục vụ cho nhu cầu phát triển của xã hội.
- Củng cố đội xe vận tải, đầu tƣ mua sắm thêm phƣơng tiện khai thác
kinh doanh dịch vụ vận tải
d - Về thị trường và mạng lưới kinh doanh.
Xác định thị trƣờng chính là miền núi, kết hợp với phát triển thị trƣờng
các huyện miền xuôi trong tỉnh, từng bƣớc mở rộng quan hệ trao đổi hàng hóa
với nƣớc bạn Lào, trƣớc mắt khai thác lợi thế thƣơng mại các cửa khẩu, tiến
tới có mặt hàng xuất khẩu.
Củng cố lại hệ thống mạng lƣới trên miền núi theo hƣớng xây dựng các tổ
hợp Thƣơng mại – Dịch vụ tại các trung tâm huyện, các cửa hàng kinh doanh
tổng hợp tại trung tâm cụm xã và các cửa hàng bán lẻ bán các mặt hàng chủ lực,
hàng tiêu dùng thiết yếu tại các xã ; phát triển mạng lƣới đến từng khu dân cƣ,
đến các công trình theo hình thức bán lẻ trực tiếp cho ngƣời tiêu dùng.
e - Về vốn và cơ chế quản lý tài chính:
* Về vốn :
- Đổi mới công tác quản lý, sử dụng hiệu quả, đúng mục đích tiền vốn.
+ Đối với nợ phải trả : Tiếp tục thực hiện trách nhiệm thanh toán các
khoản nợ phải trả cho chủ nợ, kể cả nợ cán bộ công nhân viên.
+ Đối với các khoản nợ phải thu: Tiếp tục triển khai các biện pháp thu
hồi các khoản nợ phải thu của Doanh nghiệp chuyển đổi (trừ những khoản nợ
kéo dài mà ngƣời nợ không còn khả năng thanh toán) và thu hồi các khoản nợ
khi đến hạn. Xử lý công nợ khó thu theo cơ chế dự phòng của doanh nghiệp .
- Về cơ chế quản lý tài chính :
+ Xây dựng, ban hành qui chế quản lý tài chính nội bộ .
+ Ban hành các định mức kinh tế, kỹ thuật, chi phí...trong phạm vi nội bộ
Công ty trên nguyên tắc thực hiện công khai, minh bạch theo qui định của
Nhà nƣớc nhằm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả kinh
doanh ; Thực hiện phân cấp, giao quyền mở rộng quyền tự chủ cho các Chi
nhánh theo nguyên tắc tự hạch toán, bảo đảm bù đắp chi phí và có lãi, gắn trách
nhiệm cho từng chức danh đối với công việc.
g - Về công tác Đảng và các đoàn thể.
Duy trì cơ cấu tổ chức và hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng và các
tổ chức đoàn thể ở Văn phòng công ty và các Chi nhánh. Tăng cƣờng sự lãnh
đạo của tổ chức Đảng ở từng đơn vị, phát huy vai trò phối hợp, tham gia quản
lý của các tổ chức đoàn thể quần chúng trên cơ sở qui định của pháp luật và
Điều lệ của mỗi tổ chức.
12.3 – Một số chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu 03 năm sau cổ phần hoá.
ĐVT : đồng
Kế hoạch T Chỉ tiêu T Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015
2 4 5 6 1
Kế hoạch đầu tƣ XDCB 1
2 Vốn điều lệ
3 Tổng số lao động 315 320 330
4 Tổng quĩ lƣơng
5 Thu nhập BQ 1 3.500.000 4.500.000 5.500.000
ngƣời/tháng
6 Tổng doanh thu 1.450.000.000. 1.500.000.000. 1.600.000.000.
000 000 000
Tr đó: Doanh thu bán 1.445.000.000. 1.494.000.000. 1.593.000.000.
000 000 000 hàng
Doanh thu Dịch vụ 5.000.000.000 6.000.000.000 7.000.000.000
7 Tổng chi phí
8 Lợi nhuận sau thuế
9 Tỉ lệ cổ tức
Phần thứ III
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƢƠNG ÁN ĐƢỢC DUYỆT
I – TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Sau khi phƣơng án cổ phần hoá đƣợc duyệt, công việc tổ chức thực
hiện sẽ đƣợc tiến hành trình tự theo các bƣớc sau đây :
1 – Tổ chức bán cổ phần
- Phối hợp với công ty...thực hiện công bố thông tin trên các phƣơng
tiện thông tin đại chúng theo đúng qui định (tối thiểu 20 ngày trƣớc ngày tổ
chức đấu giá).
- Cung cấp thông tin liên quan đến doanh nghiệp và cuộc đấu giá cho
các nhà đầu tƣ, các tổ chức xúc tiến đầu tƣ cùng với đơn đăng ký tham gia
đấu giá.
- Tiếp nhận đơn đăng ký tham gia đấu giá, kiểm tra điều kiện tham dự
đấu giá, thu tiền đặt cọc và phát phiếu tham dự cho các nhà đầu tƣ có đủ điều
kiện.
- Tổ chức việc đấu giá, công bố kết quả đấu giá, lập biên bản và báo
cáo kết quả cho BCĐ cổ phần hoá.
- Thu tiền của nhà đầu tƣ trúng thầu và trả tiền đặt cọc cho nhà đầu tƣ
không trúng thầu theo đúng qui định của pháp luật và Qui chế đấu giá.
- Sau khi chốt giá trúng thầu bình quân thực tế theo kết quả đấu giá,
Công ty sẽ tiến hành thủ tục thu tiền mua cổ phần ƣu đãi của CBCNV trong
vòng 15 ngày làm việc kể từ ngày tổ chức bán đấu giá.
- Báo cáo kết quả thanh toán tiền bán cổ phần cho UBND tỉnh, trong
trƣờng hợp không bán hết số cổ phần bán ra, Công ty sẽ làm công văn kiến
nghị UBND tỉnh cho ý kiến chỉ đạo xử lý số cổ phần chƣa bán hết trong thời
gian nhanh nhất.
2 – Tổ chức Đại hội cổ đông thành lập công ty cổ phần, đăng ký
kinh doanh và ra mắt cổ ty cổ phần.
- BCĐ cổ phần hoá công ty sẽ tổ chức Đại hội cổ đông lần đầu để thông
qua Điều lệ và phƣơng án đƣợc duyệt, Bầu Hội đồng quản trị và Ban kiểm
soát Công ty cổ phần.
- Chủ tịch công ty kiêm giám đốc, Kế toán trƣởng công ty cổ phần hoá
thực hiện bàn giao cho Hội đồng quản trị và Ban tổng giám đốc các vấn đề :
Lao động, tài sản, tiền vốn, danh sách cổ đông, tài liệu, hồ sơ sổ sách của
doanh nghiệp.
- Hoàn tất công việc còn lại về đăng ký kinh doanh, khắc dấu, phát
hành sổ cổ đông, thực hiện chính sách cho ngƣời lao động và thực hiện kế
hoạch sản xuất kinh doanh sau cổ phần hoá.
- Tiến hành thanh, quyết toán vốn, tài sản và các vấn đề tài chính khác
phát sinh từ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp Công ty TNHH một
thành viên Thƣơng mại miền núi đến thời điểm chính thức bàn giao sang
Công ty Cổ phần Thƣơng mại miền núi.
II – THỜI GIAN THỰC HIỆN
- Sau khi có quyết định phê duyệt phƣơng án cổ phần hoá, việc triển
khai tổ chức bán cổ phần theo phƣơng án sẽ tiến hành trong vòng 45 ngày để
bảo đảm tiến độ cổ phần hoá theo kế hoạch đề ra.
- Sau khi kết thúc thời hạn thu tiền của nhà đầu tƣ tham gia đấu giá và
CBCNV mua cổ phần ƣu đãi, nếu số cổ phần bán ra chƣa đƣợc bán hết, Công
ty sẽ lập tờ trình đề nghị UBND tỉnh xem xét giải quyết.
- Trong vòng 10 ngày sau khi hoàn tất việc bán cổ phần và thu tiền,
Công ty sẽ chốt danh sách cổ đông và tiến hành Đại hội cổ đông thành lập.
- Ngay sau khi hoàn tất việc Đại hội cổ đông thành lập, Hội đồng quản
trị và Ban giám đốc mới tiến hành đăng ký kinh doanh, ra mắt công ty cổ
phần và lập tờ trình giải quyết các vấn đề tài chính phát sinh từ thời điểm xác
định giá trị doanh nghiệp đến khi ra mắt công ty cổ phần trình UBND tỉnh
xem xét phê duyệt.
III – KIẾN NGHỊ
Để tạo điều kiện cho công ty ổn định và phát triển sau khi chuyển đổi
sang công ty TNHH một thành viên, công ty đề nghị Chủ sở hữu (UBND
tỉnh) một số nội dung sau :
1 - Đề nghị UBND tỉnh tạo điều kiện để công ty thực hiện một số dự án
mở rộng và phát triển kinh doanh.
2 - Với lợi thế tiềm năng về mạng lƣới, cơ sở vật chất và lao động hiện
có của công ty, đề nghị UBND tỉnh quan tâm tạo điều kiện để Công ty đƣợc
giao thực hiện những chƣơng trình, dự án, chính sách đối với miền núi phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ của công ty.
3 – Hiện nay quĩ dự phòng trợ cấp mất việc làm của công ty tại thời
điểm là : đồng, không đủ chi trả chế độ cho ngƣời lao động. Đề nghị quĩ hỗ
trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp hỗ trợ kinh phí để giải quyết chế độ
cho ngƣời lao động mất việc, thôi việc theo qui định hiện hành.
Trên đây là nội dung phƣơng án chuyển đổi công ty Thƣơng mại và
ĐTPT miền núi Thanh Hoá thành công ty TNHH một thành viên.
Kính trình Chủ tịch UBND tỉnh xem xét quyết định./.
CHỦ TỊCH CÔNG TY KIÊM
TRƢỞNG BCĐ CỔ PHẦN HOÁ GIÁM ĐỐC
Nguyễn Lƣơng Thăng( đã ký) Nguyễn Đình Tự ( Đã ký)
UỶ BAN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Phụ lục 2
TỈNH THANH HOÁ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
SỞ TÀI CHÍNH
Thanh Hoá, ngày 10 tháng 5 năm 2010
PHƢƠNG ÁN
BÁN PHẦN VỐN NHÀ NƢỚC ĐẦU TƢ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
DU LỊCH THANH HÓA
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa tại công
văn số 7304/UBND - ĐMDN ngày 31 tháng 12 năm 2010 về việc bán phần
vốn nhà nƣớc tại Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hóa; Căn cứ vào quy định
của pháp luật, Điều lệ Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hóa, Công ty TNHH
một thành viên Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá. Sở Tài chính lập phƣơng án
bán phần vốn nhà nƣớc tại Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hóa nhƣ sau:
I. Căn cứ pháp lý:
- Căn cứ Luật Doanh nghiệp năm 2005 số 60/2005/QH11. ngày
29/11/2005.
- Căn cứ Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11. ngày 29/6/2006.
- Căn cứ Luật Đất đai của Quốc hội nƣớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam số 13/2003/QH11 về đất đai.
- Căn cứ Điều lệ tổ chức và hoạt động Công ty cổ phần Du lịch Thanh
Hóa tháng 6 năm 2007 (sửa đổi bổ sung theo Nghị quyết đại hội đồng cổ đông
thƣờng niên ngày 9 tháng 6 năm 2007); Điều lệ tổ chức và hoạt động công ty
TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá.
- Căn cứ Thông tƣ 18/2007/TT – BTC ngày 13/3/2007 của Bộ Tài
chính hƣớng dẫn việc mua, bán lại cổ phiếu và một số trƣờng hợp phát hành
thêm cổ phiếu của công ty đại chúng.
- Căn cứ Nghị định số 09/2009/NĐ-CP ngày 05/02/2009 của Chính phủ
Ban hành quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nƣớc và quản lý vốn nhà
nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp khác.
- Căn cứ Quyết định số 14/2011/QĐ-TTg ngày 04/3/2011 của Thủ
tƣớng Chính phủ về việc ban hành tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp
Nhà nƣớc.
- Căn cứ Quyết định số 540/2011/QĐ-UBND ngày 25/01/2011 của
UBND thành phố Thanh Hoá về việc ban hành giá các loại đất, phân loại
đƣờng phố trên địa bàn thành phố Thanh Hoá năm 2011.
II. Sự cần thiết phải bán phần vốn Nhà nƣớc đầu tƣ tại Công ty cổ
phần Du lịch Thanh Hoá.
1. Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá đã đi vào hoạt động từ năm
2002, có vị trí địa lí rất thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch,
với tổng diện tích đất quản lý 14.070 m2, vốn điều lệ 12.000 triệu đồng.
Nhƣng sau gần 9 năm đi vào hoạt động, mặc dù rất cố gắng nhƣng do cơ sở
vật chất đã lạc hậu xuống cấp nghiêm trọng, giá trị tài sản cố định đã hao mòn
hết nhƣng chƣa đƣợc đầu tƣ mới; năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên
công ty chƣa đáp ứng yêu cầu đổi mới, công ty không phát huy đƣợc lợi thế vị
trí địa lý, thƣơng hiệu ngày bị mai một, do đó hiệu quả kinh doanh đạt thấp,
nợ đọng BHXH, lỗ tuỹ kế đến 31/12/2010 là 404 triệu đồng, thu nhập thấp,
đời sống cán bộ nhân viên gặp nhiều khó khăn, lợi ích của các cổ đông gần
nhƣ không có. Nguyên nhân chủ yếu là thiếu nhà đầu tƣ có tiềm năng đầu tƣ
nâng cấp và chƣa có cơ chế quản lý phù hợp. Nên có cơ chế thu hút đƣợc nhà
đầu tƣ chiến lƣợc trong và ngoài nƣớc đầu tƣ vào công ty cổ phần Du lịch
Thanh Hoá sẽ giúp công ty lành mạnh hoá và cải thiện cơ cấu tài chính hiện
nay của công ty, có nhƣ vậy mới góp phần phát triển cơ sở hạ tầng của ngành
Du lịch, tạo vị thế cạnh tranh đối với hoạt động du lịch trong và ngoài tỉnh.
2. Căn cứ Quyết định số 14/2011/QĐ-TTg ngày 04/3/2011 của Thủ
tƣớng Chính phủ về việc ban hành tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp
Nhà nƣớc, Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá không thuộc diện doanh
nghiệp cổ phần Nhà nƣớc tham gia cổ phần, do đó Nhà nƣớc không cần
chiếm giữ cổ phần chi phối, Nhà nƣớc không cần đầu tƣ bổ sung và đủ điều
kiện bán phần vốn nhà nƣớc tại Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá để thu
hồi vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào nhiệm vụ khác.
3. Từ những yêu cầu và sự cần thiết trên, sau khi trao đổi với Công ty
cổ phần Mía đƣờng Lam Sơn (cổ đông chiếm 39% vốn điều lệ); Công ty
TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi (ngƣời trực tiếp quản lý phần
vốn nhà nƣớc tại Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá). Sở Tài chính trình
Chủ tịch UBND tỉnh phƣơng án bán phần vốn nhà nƣớc tại Công ty cổ phần
Du lịch Thanh Hoá.
III. Mục đích sử dụng phần vốn nhà nƣớc thu hồi .
Thu hồi phần vốn Nhà nƣớc đã đầu tƣ vào Công ty cổ phần Du lịch
Thanh Hoá về để đầu tƣ cho các nhiệm vụ của tỉnh.
IV. Thông tin chính về công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá
1. Giới thiệu chung
- Tên công ty: Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá
- Địa chỉ: 25A- Quang Trung, Thành phố Thanh Hoá
- Điện thoại : 0373.720.979 Fax : 0373 720.797
- Vốn Điều lệ : 12.000.000.000 đồng
- Ngành nghề kinh doanh:
Kinh doanh nhà hàng, khách sạn, massage, karaoke; kinh doanh dịch
vụ cho thuê văn phòng, nhà làm việc; mua bán các loại rƣợu, thuốc lá điếu
sản xuất trong nƣớc; kinh doanh ăn uống; kinh doanh vận chuyển khách du
lịch, kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành, khách quốc tế và nội địa.
2. Cơ cấu vốn điều lệ hiện tại
- Tổng vốn điều lệ : 12.000.000.000 đồng
- Vốn Nhà nƣớc giao công ty TNHH một thành viên TMMN quản lý :
6.000.000.000 đồng, chiếm 50 %.
- Vốn công ty CP mía đƣờng Lam Sơn: 4.680.000.000 đồng, chiếm
39%.
- Vốn các cổ đông khác : 1.320.000.000 đồng, chiếm 11%.
3. Tình hình tài chính công ty đến 31/12/2010
- Tổng giá trị tài sản trên sổ sách kế toán 12.596.947.349 đồng
+ Tài sản lƣu động và đầu tƣ ngắn hạn 814.596.339 đồng
+ Tài sản cố định và đầu tƣ dài hạn 11.782.351.010 đồng
+ Nợ phải trả 711.078.974 đồng
+ Lỗ luỹ kế 404.266.784 đồng
+ Giá trị doanh nghiệp 11.885.868.375 đồng
4. Thông tin về đất đai, lợi thế vị trí địa lý, lợi thế kinh doanh.
- Diện tích đất Công ty đang quản lý sử dụng: 14.070 m2
- Địa chỉ tại phƣờng Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hoá. Trên ngã tƣ giao
lộ giữa phố Quang Trung và phố Tịnh Điền. Khu đất có vị trí gần trung tâm của
thành phố, thuận tiện cho việc đặt trụ sở, cũng nhƣ phát triển kinh doanh, giao
dịch làm văn phòng, trung tâm thƣơng mại và dịch vụ du lịch.
- Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá đƣợc UBND tỉnh Thanh Hoá cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 015925 ngày 24/4/2002. Đất thuê trả
tiền thuê sử dụng đất hàng năm, thời hạn sử dụng đến hết năm 2031.
V. Cơ sở pháp lý và nội dung xác định lại giá trị cổ phần tại thời
điểm 01/01/2011.
1. Cơ sở xác định giá trị cổ phần
a. Căn cứ khoản 3 Điều 1 Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày
26/6/2007 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nƣớc thành
công ty cổ phần quy định: Việc xác định lại giá trị cổ phần phải thực hiện
công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trƣờng; khắc phục tình trạng cổ
phần hoá khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trƣờng
vốn, thị trƣờng chứng khoán.
b. Tại phần III, mục A phƣơng pháp tài sản Thông tƣ số 146/2007/TT-
BTC ngày 06/12/2007 của Bộ Tài chính quy định: "Giá trị thực tế của doanh
nghiệp là giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm
xác định giá trị doanh nghiệp có tính đến khả năng sinh lời của doanh
nghiệp".
c. Để xác định giá trị cổ phần của doanh nghiệp khi thực hiện bán cổ
phần trƣớc hết phải xác định đƣợc giá trị thực tế của doanh nghiệp.
Giá trị thực tế của doanh nghiệp = Giá trị thực tế của tài sản + Giá trị
lợi thế kinh doanh + Giá trị vốn đầu tƣ dài hạn của doanh nghiệp tại doanh
nghiệp khác + Giá trị quyền sử dụng đất .
2. Nội dung, xác định giá trị doanh nghiệp và giá trị cổ phần.
a. Giá trị thực tế của tài sản: Tài sản hiện vật; tài sản bằng tiền, các
khoản nợ phải thu, các khoản chi phí dở dang, giá trị tài sản vô hình...
b. Giá trị vốn đầu tƣ dài hạn của doanh nghiệp tại doanh nghiệp khác.
c. Giá trị lợi thế kinh doanh, giá trị lợi thế vị trí địa lý.
Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá thực hiện hình thức thuê đất, trả
tiền thuê đất hàng năm, do vậy không tính giá trị thuê đất vào giá trị doanh
nghiệp mà chỉ tính giá trị lợi thế vị trí địa lý của khu đất vào giá trị thực tế của
doanh nghiệp.
VI. Phƣơng án xác định giá trị cổ phần
1. Loại hình doanh nghiệp
Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá là công ty cổ phần tại thời điểm
01/01/2011 chƣa đƣợc đăng ký là công ty Đại chúng do vậy, cổ phiếu của
công ty chƣa đƣợc niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán.
2. Dự kiến giá trị doanh nghiệp theo giá thị trƣờng tại thời điểm
01/01/2011.
2.1. Xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp.
Theo báo cáo tài chính của Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá đến
31/12/2010 giá trị tài sản trên sổ sách nhƣ sau:
A. Tài sản lƣu động và đầu tƣ ngắn hạn : 814.596.339 đồng
I. Tiền: 219.725.220 đồng
II. Các khoản phải thu: 416.585.423 đồng
III. Hàng tồn kho: 86.663.159 đồng
IV. Tài sản lƣu động khác: 91.622.537 đồng
B. Tài sản cố định và đầu tƣ dài hạn : 11.782.351.010 đồng.
I. Tài sản cố định: 10.936.258.326 đồng
II. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang: 75.236.118 đồng
III. Các khoản ký quỹ, ký cƣợc dài hạn: 250.000.000 đồng
IV. Chi phí trả trƣớc dài hạn: 520.856.5 66 đồng
C. Tổng giá trị tài sản doanh nghiệp: 12.596.947.349 đồng
D. Nợ phải trả: 711.078.974 đồng
E. Lỗ luỹ kế: 404.266.784 đồng
G. Giá trị nguồn vốn chủ sở hữu: 11.885.868.375 đồng.
2.2. Xác định giá trị lợi thế vị trí địa lý
a. Giá thị trƣờng và giá đất theo quy định
- Căn cứ Quyết định số 540/2011/QĐ-UBND ngày 25/01/2011 của
UBND thành phố Thanh Hoá về việc phê duyệt giá các loại đất, phân loại
đƣờng phố trên địa bàn thành phố Thanh Hoá năm 2011. Theo đó, giá đất ở
Đƣờng Quang Trung là 18.000.000 đ/m2, giá đất SXKD (bằng 18.000.000 x
67%) là 12.060.000 đồng.
- Giá đất ở theo giá thị trƣờng tại thời điểm 32.800.000 đồng, giá đất
SXKD là 22.000.000 đồng (bằng 32.800.000 x 67%) .
Vị trí 1: Giá đất SXKD theo thị trƣờng Giá đất SXKD tại QĐ 540
22.000.000 đ/m2 12.060.000 đ/m2
Vị trí 2 ( 50%): 11.000.000 đ/m2 6.030.000 đ/m2
b. Diện tích đất phân chia theo các vị trí
Vị trí 1: Đƣờng Quang Trung 99m x 25m = 2.475 m2
Vị trí 2: Đƣờng Tich Điền và các vị trí sâu > 25 m, diện tích còn lại là
11.595 m2
c. Dự kiến giá trị lợi thế vị trí địa lý
Vị trí 1 = ( 22.000.000 - 12.060.000 ) x 2.475 m2 = 24.601.500.000 đồng.
Vị trí 2 = ( 11.000.000- 6.030.000 ) x 11.595 m2 x 0.7 =40.339.005.000 đồng
Tổng = (24.601.500.000 + 40.339.005.000 ) = 64.940.505.000 đồng
d. Tổng giá trị doanh nghiệp:
*Tổng giá trị doanh nghiệp = Giá trị lợi thế ví trí địa lý + Giá trị tài sản.
64.940.505.000 đồng + 11.885.868.375 đồng = 76.826.373.375đồng.
2.3- Giá sàn 01 cổ phần
- Giá trị một cổ phần:
76.826.373.375đồng / 120.000 cổ phần = 640.220 đồng.
- Lấy giá trị một cổ phần đƣợc tính trên để làm giá sàn cổ phần đấu giá.
Giá sàn dự kiến: 640.000 đồng/1 cổ phần:
VII. Phƣơng án:
Theo quy định tại khoản 5 Điều 87 Luật Doanh nghiệp năm 2005 số
60/2005/QH11. Các cổ phần đƣợc tự do chuyển nhƣợng, trừ trƣờng hợp quy
định tại điểm 3 Điều 87 và khoản 5 điều 84 của Luật này. việc chuyển nhƣợng
đƣợc thực hiện bằng văn bản theo cách thông thƣờng hoặc bằng cách trao tay
cổ phiếu. Giấy tờ chuyển nhƣợng phải đƣợc bên chuyển nhƣợng hoặc bên
nhận chuyển nhƣợng hoặc đại diện uỷ quyền của họ ký. Bên chuyển nhƣợng
vẫn là ngƣời sở hữu cổ phần có liên quan cho đến khi tên của ngƣời nhận
chuyển nhƣợng đƣợc đăng ký vào sổ đăng ký cổ đông.
Tại khoản 6 Điều 87 Luật Doanh nghiệp năm 2005, quy định: Điều
kiện, phƣơng thức và thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng thực hiện theo
quy định của pháp luật về chứng khoán.
Từ những quy định của Nhà nƣớc nêu trên, Sở Tài chính đề xuất các
phƣơng án nhƣ sau:
A. Phương án trình Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt bán cho Công ty
cổ phần Mía đường Lam sơn mua 100% cổ phần nhà nước.
Lý do: Công ty cổ phần Mía đƣờng Lam Sơn là cổ đông hiện hữu có số
cổ phần chiếm giữ là 39% và là nhà đầu tƣ có đủ điều kiện về năng lực tài
chính để tái cơ cấu lại vốn và đầu tƣ mở rộng Công ty cổ phần Du lịch Thanh
Hoá. Công ty cổ phần Mía đƣờng Lam Sơn có nhu cầu mua số cổ phần nhà
nƣớc cần bán để có điều kiện đầu tƣ lại toàn bộ Công ty cổ phần Du lịch
Thanh Hoá phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển mới.
1. Loại cổ phần cần bán: cổ phần nhà nƣớc
2. Mệnh giá cổ phần: 100.000 đồng/CP
3. Số lƣợng cổ phần bán: 60.000 CP
- Tổng giá trị cổ phần bán theo mệnh giá: 6.000.000.000 đồng
4. Thời gian tổ chức thực hiện: Dự kiến 15/6/2011
5. Phƣơng thức bán: Theo phƣơng thức chỉ định .
6. Giá bán xác định theo giá thị trƣờng tại thời điểm bán
6.1. Nguyên tắc và phƣơng pháp xác định giá:
- Để xác định giá trị cổ phần của doanh nghiệp khi thực hiện bán cổ
phần trƣớc hết phải xác định đƣợc giá trị thực tế của doanh nghiệp.
Giá trị thực tế của doanh nghiệp = Giá trị thực tế của tài sản + Giá trị
lợi thế vị trí địa lý .
- Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt việc lựa chọn Đơn vị tƣ vấn có đủ
điều kiện xác định giá trị doanh nghiệp tại thời điểm bán cổ phần.
6.2. Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt giá bán và giá trị phần vốn nhà
nƣớc theo giá trị xác định tại thời điểm bán.
7. Dự kiến giá bán
Giá trị doanh nghiệp tính theo giá thị trƣờng tại thời điểm 01/01/2011 :
Tổng giá trị doanh nghiệp = Giá trị lợi thế ví trí địa lý + Giá trị tài sản.
- Giá trị lợi thế ví trí địa lý: 64.940.505.000 đồng
- Giá trị tài sản: 11.885.868.375 đồng
- Tổng giá trị doanh nghiệp: 76.826.373.375đồng.
- Giá bán là : 640.000 đồng/1cổ phần.
8. Giá trị vốn nhà nƣớc thu hồi (dự kiến) sau khi bán:
Số tiền thu hồi vốn nhà nƣớc (chƣa trừ chi phí để bán phần vốn nhà
nƣớc): 640.000đồng x 60.000 cổ phần = 38.400.000.000 đồng, đƣợc nộp vào
Ngân sách nhà nƣớc.
B. Phương án trình Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt bán cho các nhà đầu
tư trong và ngoài doanh nghiệp (kể cả các cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài).
Lý do: Việc bán cổ phần cho các nhà đầu tƣ trong và ngoài doanh
nghiệp (kể cả cổ đông là nhà đầu tƣ nƣớc ngoài) đƣợc thực hiện công khai,
minh bạch, theo nguyên tắc thị trƣờng, đảm bảo gắn thị trƣờng vốn, thị trƣờng
chứng khoán, tạo sự bình đẳng cho các nhà đầu tƣ và khuyến khích các nhà
đầu tƣ có đủ điều kiện về năng lực tài chính đầu tƣ vốn vào Công ty cổ phần
Du lịch Thanh Hoá.
Điều kiện bán: Thực hiện phƣơng án này trong điều kiện Công ty CP
Mía đƣờng Lam Sơn không đạt đƣợc hợp đồng mua toàn bộ phần vốn nhà
nƣớc theo phƣơng án A.
1. Loại cổ phần chào bán, mệnh giá cổ phần, số lƣợng cổ phần dự kiến
chào bán: Nhƣ phƣơng án A.
2. Thời gian tổ chức thực hiện: Dự kiến 15/6/2011
3. Đối tƣợng, phƣơng thức chào bán
3.1. Đối tƣợng: Chào bán cho các cổ đông trong và ngoài nƣớc, số
lƣợng nhà đầu tƣ không xác định.
3.2. Phƣơng thức chào bán: Theo phƣơng thức tổ chức bán đấu giá công
khai, thông qua tổ chức tƣ vấn chứng khoán.
Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt chọn Trung tâm chứng khoán hoặc Sở
giao dịch chứng khoán tổ chức bán cổ phần ra ngoài công chúng.
4. Giá chào bán: Nguyên tắc và phƣơng pháp xác định nhƣ quy định tại
điểm 6 phƣơng án A
5. Trách nhiệm của Sở Tài chính
- Trình Chủ tịch UBND tỉnh lựa chọn đơn vị tƣ vấn xác định giá trị
doanh nghiệp tại thời điểm chào bán .
- Phối hợp với các ngành thẩm định giá trị doanh nghiệp, giá sàn trình
Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt .
- Trình Chủ tịch UBND tỉnh lựa chọn Sở giao dịch chứng khoán hoặc
tổ chức bán đấu giá cổ phần.
- Phối hợp các ngành kiểm tra đôn đốc các doanh nghiệp và Đơn vị tƣ
vấn thực hiện nhiệm vụ bán cổ phần tại công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá,
tổng hợp kết quả bán đấu giá cổ phần báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh.
6. Trách nhiệm của Công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại miền
núi Thanh Hoá
- Thông báo Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá về
việc bán phần vốn nhà nƣớc tại công ty.
- Hợp đồng với Đơn vị tƣ vấn đủ điều kiện xác định giá trị doanh nghiệp và
Sở giao dịch chứng khoán khi đƣợc Chủ tịch UBND tỉnh chấp thuận.
- Thực hiện đăng ký niêm yết thông tin tại Sở giao dịch chứng khoán
- Thực hiện các công việc khác cùng Đơn vị tƣ vấn nhằm đảm bảo cho
đợt chào bán đấu giá cổ phần thành công.
Kính trình Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt./.
SỞ TÀI CHÍNH
PGĐ
Lê Đình Chén ( Đã ký)
Phụ lục 3
Bảng 2.5: Hiệu quả SXKD của doanh nghiệp sau cổ phần hóa
(từ 1 năm trở lên)
ĐVT: Triệu đồng
Thu nhập
Nộp ngân
Vốn điều lệ
Doanh thu
Số lao động
bình quân
Tỷ lệ
Thời
sách
NLĐ
điểm
chi trả
Tên công ty
chuyển
cổ tức
TT
Năm
Năm
Năm
Năm
cổ phần
Ngày
Năm
sang
năm
trƣớc
Năm
trƣớc
Năm
trƣớc
Năm
trƣớc
Năm
01/01
trƣớc
CTCP
2010
khi
2010
khi
2010
khi
2010
khi
2010
2010
khi CPH
CPH
CPH
CPH
CPH
299.687 443.412 1.615.751 3.482.292 45.068 85.312 10.123 7.765
0,96
1,81
CTCP mỹ Hoàng Long
31/5/2002
1.000
1.000
650
650
20
15
63
63
0,3
1
1
CTCP vận tải ô tô Thanh
8/1/2001
2.4.00
2.400
2.570
53.217
78
288
100
163
0,45
2,9
10,5
2
Hóa
3 CTCP Du lịch Thanh hóa
2/2002
12.000 11.998
6.612
9.183
423
405
125
104
0,7
1,7
CTCP Giấy Lam Sơn
2/2002
5.000
5.000
21.500
28.434
1.200 1.408
221
221
0,6
1,7
4
CTCP Thép thanh thái
15/4/2002
6.000
6.000
6.630
10.195
70
252
89
32
0,5
1,8
14
5
CTCP XL-Điện lực Thanh
2/8/2002
8.878
8.878
31.727 105.603
513
5.193
212
237
0,9
2,6
20
6
Hóa
CTCP Giống và
8/2002
1.600
1.600
1.645
5.325
11
2
63
30
0,6
1,5
7
PTGT/Hóa
CTCP Lợn giống dân
8/2002
700
1.300
786
7.630
6
42
49
34
0,63
1,95
0,7
8
quyền
CTCP XDNN và PTNT
31/8/2002
6.500
8.150
25.610 104.786
130
3.704
377
298
1
1,2
9
CTCP Giống thủy sản
31/07/2002 3.000
4.043
1.263
1.857
11
31
65
61
1,5
0,35
10
CTCP Dƣợc vật tƣ y tế
31/11/2002 14.500 39.200
96.781 591.743
1.168 13.174
860
795
1,6
0,67
11
CTCP đầu tƣ NN Yên
31/12/2002 2.600
2.419
1.177
5.174
2
4
22
27
0,412
2,04
12
định
CTCP tƣ vấn thiết kế xây
14/7/2003
600
600
1.250
2.881
150
426
18
18
1,2
4,9
13
dựng
CTCP xây lắp 4
15/7/2003
1.500
1.500
3.780
6.751
105
215
31
31
1,5
2,5
14
CTCP Gạch trƣờng lâm
19/7/2003
2.000
2.000
8.360
12.115
10.361 1.067
62
62
1
2,1
15
CTCP bê tông thƣơng
11/7/2003
1.300
1.300
4.205
6.700
21
151
39
39
1,5
2,5
16
phẩm
CTCP chế biến tinh bột
7/9/2003
2.000
3.317
4.620
5.547
442
52
91
91
1
2,4
10
17
ngô
CTCP Cơ khí và XLSông
1/1/2005
6.000
6.000
10.250
46.274
89
880
137
220
15
12
24
18
chu
19
CTCP May Thanh Hóa
2/11/2003
1.600
2.500
6.313
10.293
29
190
505
500
05
2
CTCP Vận tải sông biển
30/6/2003
1.000
1.800
3.438
858
150
12
46
30
05
09
20
CTCP Bao bì
30/11/2003 5.000
5.000
12.120 109.815
350
1.383
276
252
12
21
21
CTCP QLvà KT bến xe
30/4/2003
1.800
1.800
1.947
11.293
211
1.212
88
165
07
25
22
12
23 Tổng CTCP tƣ vấn XDGT 28/6/2003
3.500
3.500
3.115
17
881
880
108
76
15
45
12
CTCP Giống và PTCN
30/6/2003
2.600
2.600
970
3.658
5
20
45
23
05
11
24
Thọ Xuân
25
CTCP Tƣ vấn thủy lợi
30/6/2003
1.700
1.700
2.989
15.844
613
1.690
85
76
12
46
18
CTCP Cầu đƣờng Thanh
11
25
31/7/2003
8000
8.000
23.530
91.262
203
4.100
220
151
26
14
Hóa
27
CTCP Giống cây trồng
30/1/2003
5000
5.000
35.684
85.021
383
262
224
148
036
12
CTCP Chế biến thủy sản
23/12/2003 1.200
1.200
2.463
3.939
185
432
91
35
056
14
28
thanh hóa
CTCP Thực phẩm NS và
30/6/2003
4.597
8.000
93.044
19.198
774
1.873
254
128
03
15
29
DL
CTCP TM và DL Thanh
31/10/2003 5.000 20.332
28.802
81.765
826
2.134
245
124
02
17
105
30
Hóa sông
CTCP In ba đình Thanh
30/4/2003
2.000
2.000
9.838
10.989
86
127
81
62
08
18
31
Hóa
CTCP Lợn giống Hoằng
31/12/2003 2.600
2.600
3.292
3.102
75
230
64
49
045
05
32
Hóa
CTCP Vật liệu hàm rồng
30/4/2004
2.100
2.200
3.251
4.130
95
114
75
75
07
09
33
CTCP Xây dựng số 3
30/4/2004
4.300
4.300
42.938
75.227
528
3.489
280
214
077
3
34
CTCP Giấy Thanh sơn
30/6/2004
500
500
3.930
4.452
364
332
60
063
1
60
35
CTCP SNK / Thanh hóa
14/7/2004
7.000
5.361
282.359 54.179
515
522
335
08
12
49
36
CTCP GTCC Thạch
45
30/9/2003
1.000
3.000
2.786
11.942
8
541
75
07
174
37
Thành
CTCP Mía đƣờng Thanh
7/4/2004
2.000
1.758
1.516
31.855
151
452
108
42
07
26
38
Hóa
CTCP Công trình giao
1.200
1.200
2.120
3.195
50
71
67
67
07
06
39
thông
CTCP Xây dựng giao
1/4/2004
1.200
2.200
28.779
18.500
925
781
212
86
0,7
1,5
40
thông 2 Thanh hóa
CTCPKS và XDPG
31/12/2004 7.000
7.006
48.782
45.734
1.749 2.617
548
132
0,5
1,9
5
41
T.Hóa
CTCP Giao thông Nông
31/5/2005
700
1.000
520
820
42
50
50
22
0,8
1,5
42
cống
43
CTCP Điện máy HCTH
31/12/2004 5.555
5.555
103.215 168.260
111
1.056
169
79
0,85
1,98
10
CTCPTM Tổng hợp
31/12/2004 2.000
2.582
26.518
50.037
47
298
170
73
0,75
2
44
6
T/Hóa
CTCP Giao thông 2
08/5/2004
1.388
2.417
3.620
19.172
417
2.079
120
44
0,8
1,5
45
46
CTCPVL và XDT/ hóa
5/4/2004
2.100
5.000
25.780 160.628
5.350 6.945
124
130
0,7
1,3
CTCP Xây dựng và phát
31/7/2005 19.642 19.642
158.685 160.379
3.240 4.672
382
216
1,2
1,5
47
triển hạ tầng
CTCP Tƣ vấn xây dựng
31/3/2006
600
600
1.930
2.059
95
181
27
27
1,2
2,3
48
sông chu
CTCPXây dựng nam sông
31/3/2006
500
500
638
1.130
53
84
0,9
1,2
23
23
49
mã
CTCP Phú đổng
31/3/2006
1.800
1.800
2130
3.671
190
223
0,9
0,6
28
28
50
CTCP Chợ lam sơn
31/3/2006
1.900
9.500
1025
8.905
85
61
7
0,8
1,4
50
46
51
CTCP Gạch BLOC
31/3/2006
900
900
1225
3.051
42
58
0,9
1,2
37
37
52
CTCPDịch vụ thƣơng mại
31/3/2006
4.000
4.000
168540 544.942
740
2.728
57
1,2
1
34
53
ph
CTCPdịch vụ XKLĐ và
4/3//2006
5.000
5.000
540
362
7
28
43
13
1
1,5
54
CG
CTCPTổng công ty CTCP
8/12/2006 30.000 1.00000
63150
260.576
2.576 8.232
422
150
1,2
2,5
22
55
xây dựng T/ Hóa
CTCPMT và CTĐT Bỉm
17/5/2007
3.500
3.495
2931
7.042
111
101
1,2
1,9
7,5
79
92
56
sơn
CTCP chợ vƣờn hoa
4/2006
1.000 22.534
1212
3.024
31
65
46
46
0,9
1,2
57
CTCPchợ động thọ
30/4/2007
4.000
4.000
858
1.020
65
90
35
35
0,9
1,2
58
CTCP xây dựng sông mã
31/1/2007
2.000
2.000
1542
8.148
224
489
18
78
2
3,1
59
số 1
CTCP xây dựng sông mã
20/4/2007
3.500
3.500
12011
25.347
14
966
33
33
2
1,4
60
số 2
CTCP xây dựng sông mã
30/11/2007 2.200
2.200
840
706
55
494
11
11
2
0,5
61
số 3
CTCPxây dựng sông mã
30/11/2007 3.500
3.500
520
3.550
55
538
17
9
2
0,5
62
số 4
CTCPây dựng sông mã số
30/10/2007 3.500
3.500
921
25.361
1.444
171
11
11
1,2
1,8
63
5
CTCPtƣ vấn XD sông mã 6 31/10/2007
800
800
311
1.914
96
145
14
14
1
0,7
64
CTCPXNK thủy sản
7/6/2007
3.500
3.500
71.014
59.480
1.457
144
458
420
0,5
1
65
CTCPMTĐT và DL sầm sơn
16/12/2008 6.155
6.155
5.055
5.457
155
148
160
160
1,8
2
66
CTCP sách thiết bị trƣờng học
22/7/2008 10.500 10.500
32.788
29.879
189
189
53
44
2,7
3
67
CTCPQL Đƣờng thủy NĐ
30/7/2009
3.700
3.700
13.994
16.147
570
1.604
209
143
1,8
2,2
68
và giao thông
CTCP QL Đƣờng bộ 1
30/12/2009 7.000
7.000
19.092
11.947
1.341 1.100
242
131
1,8
2
69
CTCP QL Đƣờng bộ 2
10/03/2010 8.000
8.000
21.724
15.945
2.310 1.800
319
201
1,3
1,9
70
Nguồn: Sở Tài chính Thanh Hóa.
Phụ lục 4
Phụ lục 4.1:
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG DNNN TỈNH THANH HÓA 1995- 1997
Thông số 1. Tổng số doanh nghiệp Đơn vị tính Đơn vị 1995 162 1996 142 1997 136
Đon vị 18 1.1. Số DN công ích
1.2. Số DN sán xuất kinh Đơn vị 162 142 118
doanh 1.3. Số doanh nghiệp có lãi Đơn vị 79 71 79
1.4. Số doanh nghiệp hòa Đơn vị 20 7 8
vốn 1.5. Số doanh nghiệp lỗ Đơn vị 63 64 49
vốn 2. Vốn kinh doanh Tr.đồng 410.814 413.803 485.608
2.1. Vốn ngân sách Tr.đồng 301.3150 203.557 296.540
2.2. Vốn tự bổ sung Tr.đồng 109.499 104.016 187.439
2.3. Vốn liên doanh Tr.dổng 1.594
2.4. Vòn HĐ các nguồn Tr.dồng 7.230 35
khác 3. Diện tích đất nr 172.400 151.410 145.110
4. Lao động Ngƣời 29.992 27.991 28.016
1.1. LĐ chờ sắp xếp việc Ngƣời 4.238 3.487 3.002
5. Kết quả kinh doanh
5.1. Doanh thu Tr.đồng 1.087.246 1.115.626 u 77.543
5.2. Lãi thực hiện (trƣớc Tr.đồng 5.802 3.672 1.346
thuế) 5.3. Lỗ (cộng dồn) Tr.dồng 39.454 51.850 35.262
6. Tổng mức nộp ngân sách Tr.đồng 117.967 101.583 96.123
6.1. Thuế doanh thu Tr.đồng 15.303 14.603 18.754
6.2. Thuế lợi tức Tr.đồng 2.381 2.201 2.189
6.3. Thuế xuất nhập khẩu Tr.đồng 47.570 31.277
6.4. Thuế tiêu thụ đặc biệt Tr.đồng 86.067 32.423 34.55 1
6.5. Thu sử dụng vốn Tr.dồng 7.956 5.492 1473
7. Tổng nợ phải trả Tr.đồng 568.046 558.434 534.755
7.1. Nợ ngân sách Tr.đồng 36.778 28.767 21.115
7.2. Nọ' ngân hàng Tr.đồng 264.223 209.947 211.710
8. Tổng nợ phai thu Tr.đồng 308.796 265.631 269.560
8.1. Nợ khó đòi Tr.đồng 14.400 20.678 757
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt dộng của doanh nghiệp nhà nƣớc - Ban
đổi mới doanh nghiệp nhà nƣớc tinh Thanh Hóa
Tỷ lệ
Phụ lục 4.2: Doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách của một số CTCP nhà nƣớc giữ tỷ lệ cổ phần thấp (triêụ đồng)
cổ
Năm
Năm
Năm
Năm
phần
Doanh thu Lợi nhuận sau thuế Nộp ngân sách S
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
CPH
11
12
13
14
11
12
11
12
13
14
14
13
Tên công ty T
trƣớc CPH
trƣớc CPH
nhà nƣớc
trƣớc CPH
CTCP Thƣơng
2000
0%
1,3
529
535
629
730
0,1
5,2
5,3
6,2
7,3
0,02 4,7 4,8
5
5,2
T
mại Thiệu Yên
CTCP Dạ Lan
2000
0% Âm
65
76
79
83
Âm
1
1,2
1,3
1,6
1,9 2,1
2,3
3
0
1
CTCP Vật tƣ
2006
0%
13,5
97
120
130
160 Âm
46
50
55
60
9,7
11
13,7
14
0
2
tổng hợp TH
CTCP Đƣờng
2000
0%
342 1511
1661 1621 1651
34
252 351
346
348
22
70
106 129
146
3
Lam Sơn
CTCP Phân Lân
1992
0%
2,7
70
93
104
152 Âm
1,7
2,1
3,6
4,7
0
0,9 1,4
2,3
3,2
4
Hàm Rồng
17,
2002
21%
400
827
880
890
920
3
15
16
17
1,7
20 20,4
26
28
5
CTCP Dƣợc Vật tƣ y tế TH
5
CTCP Xây lắp
2002
0%
20
400
420
430
444
âm
5
5,5
6,2
0,2
7
7,5
7,8
9,8
7
6
điện lực TH
CTCP giống cây
1993
0%
0,05
83
85
90
96
âm
0,4 0,45
0,5
0,7
0
0,2 0,3 0,36
0,4
7
trồng TH
CTCP đầu tƣ
2005
0%
120
450
460
530
637
0,2
1,1
1,5
2,1
2,3
3,4
6,7 8,9 13,4 14,1
8
9
phát triển đô thị
Thanh Hóa
Tổng CTCP
10
công trình giao
2004 7,3%
27
156
198
247
285
0
3,2
2,5
4,5
3,9
1
4
5
5,7
6,9
thông 1 TH
CTCP thƣơng
0,0
11
mại dịch vụ
2000
0%
0,5
70
90
100
120 Âm
0,4 0,45
0,5
0,6
0
0,2
0,3
0,4
9
Hoằng Hóa
Tổng CTCP đầu tƣ
12
2003
0%
29,5
120
174
178
201
0,13
0,8
1,2
1,3
1,7
0,2
1,2 1,8
1,9
2,1
XD Cầu Đống
CTCP tƣ vấn
13
2003
0%
1,2
2,8
3,2
3,6
4
0
0,27 0,5
0,7
0,8
1,1
0,1 0,2
0,4
0,5
thiết kế XD
CTCP tƣ vấn
14
2003
0%
2,9
16
17,5
18
20
0,2
0,5
0,8
0,9
1
0,2
1,7 1,9
2,1
2,3
Thủy lợi
Tổng CTCP tƣ vấn xây
15
2003
0%
3,1
18
21
25
26
0,5
0,6
0,7
0,9
1,1
0,2
0,3 0,5
0,7
0,9
dựng giao thông
16
2001
5%
5
400
490
510
650
0,2
18
21
25
40
0,09
19
20
21
21,5
CTCP vật tƣ y tế Thanh Hóa
Nguồn Sở Tài chính Thanh Hóa và khảo sát thực tế
Phụ lục 4.3: Lao động, thu nhập bình quân của một CTCP nhà nƣớc giữ tỷ lệ cổ phần thấp
Tỷ lệ cổ
Đơn vị tính: Triệu đồng
phần
Năm
Năm
Năm
Số lao động Thu nhập bình quân S
20
20
20
20
20
20
20
20
CPH
trƣớc
11
12
13
14
11
12
13
14
Tên công ty T
CPH
nhà nƣớc
trƣớc CPH
CTCP Thƣơng mại
3,5
3,7
160
165
170
180
0,5
4
4,7
51
2000
0%
T
Thiệu Yên
52
CTCP Dạ Lan
2000
0%
280
290
310
350
0,5
3,6
3,8
4,5
5,0
1
CTCP Vật tƣ tổng
2006
0%
140
150
150
160
170
1
3,5
4,0
4,6
5,6
2
hợp TH
CTCP Đƣờng Lam
2000
0%
1450
1102
1040
1000
1100
0,8
5,0
6,0
6,2
6,0
3
Sơn
CTCP Phân Lân Hàm
1992
0%
215
310
350
400
425
0,017
2,5
3,0
3,8
4,5
4
Rồng
CTCP Dƣợc Vật tƣ y
2002
21%
780
928
920
956
963
1,0
4,6
4,9
5,2
5,5
5
tế TH
CTCP Xây lắp điện
2002
0%
286
400
400
420
448
0,7
3,8
4,0
4,6
5,6
6
lực TH
CTCP giống cây
1993
0%
200
250
260
255
270
0,5
2,5
3,5
4,0
4,3
7
8
trồng TH
CTCP đầu tƣ phát
triển đô thị Thanh
2005
0%
638
799
799
802
810
0,5
2,0
2,9
3,8
4,2
Hóa
Tổng CTCP công
10
2004
7,3%
310
320
323
330
330
0,7
3,5
4,0
4,5
5,6
trình giao thông 1 TH
CTCP thƣơng mại
11
2000
0%
50
65
65
70
75
1,0
3,0
3,5
4,1
5,3
dịch vụ Hoằng Hóa
Tổng CTCP đầu tƣ XD
12
2003
0%
180
200
220
230
250
0,8
3,5
3,8
4,5
5,6
Cầu Đống
CTCP tƣ vấn thiết kế
13
2003
0%
18
20
25
30
30
0,8
5,0
5,5
6,0
6,6
xây dựng
CTCP tƣ vấn Thủy
14
2003
0%
76
85
85
90
95
1,2
4,9
5,3
5,9
6,4
lợi
Tổng CTCP tƣ vấn xây
15
2003
0%
96
108
110
110
112
1,5
4,7
5,4
5,6
6,0
dựng giao thông
CTCP vật tƣ y tế
16
2001
5%
17
90
113
118
139
0,5
7,0
9,0
11
13,5
Thanh Hóa
9
Nguồn Sở Tài chính Thanh Hóa và khảo sát thực tế
Tỷ lệ
Phụ lục 4.4: Doanh thu, lợi nhuận nộp ngân sách của một số CTCP nhà nƣớc nắm giữ tỷ lệ cổ phần cao
Doanh thu Lợi nhuận sau thuế Nộp ngân sách
cổ
Năm
Năm
Năm
Năm
phần
S
T
Tên công ty
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
20
CPH
11
12
13
14
11
12
11
12
13
14
14
13
trƣớc CPH
trƣớc CPH
trƣớc CPH
nhà nƣớc
CTCP đầu tƣ
2,2
2,3
2,3
2,3
Lỗ 90
21
160
26
1,5
1,5
1,5
1,5
Âm
1
nông nghiệp
2002
86%
0
0
tỷ
tỷ
tỷ
tỷ
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
Yên Định
CTCP giống và
-1,2
-1,1
-1,3
-0,7
0,5
0,5
0,5
0,5
2
2003
54%
0
0
0
0
0
0
0
tỷ
tỷ
tỷ
tỷ
triệu
triệu
triệu
triệu
phát triển gia cầm Thanh Hóa
CTCP giống
50
8,3
8,3
9,8
370
380
400
430
130
135
140
170
3
cây trồng
1993
51%
9 tỷ
0
0
triệu
tỷ
tỷ
tỷ
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
Thanh Hóa
CTCP quản lý
18
18,2
290
380
232
52
650
590
890
860
880
13
298
4
xây dựng đồng
2009
57%
19 tỷ 13 tỷ
triệu
tỷ
tỷ
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
tỷ
bộ 1 Thanh Hóa
26
25
300
350
330
150
0,9
1,1
1,1
19
CTCP quản lý
2010
56%
20 tỷ 18 tỷ
0
1 tỷ
1 tỷ
5
tỷ
tỷ
triệu
triệu
triệu
triệu
tỷ
tỷ
tỷ
tỷ
đồng bộ 2
T
Thanh Hóa
CTCP đầu tƣ
3,1
2,1
1,9
1,7
40
40
40
40
phát triển chăn
6
2003
59% 3,2 tỷ
0
0
0
0
0
64 triệu
tỷ
tỷ
tỷ
tỷ
triệu
triệu
triệu
triệu
nuôi Hoằng Hóa
CTCP Xây
2,5
2,6
3,2
100
120
150
130
45
46
50
52
dựng và quản
7
2005
51%
0
3 tỷ
0
0
tỷ
tỷ
tỷ
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
lý giao thông
Nông Cống
CTCP quản lý
32
33
35
3,5
3,7
4,2
200
250
300
320
350
đƣờng thủy nội
8
2009
51%
20 tỷ 30 tỷ
4 tỷ
0
tỷ
tỷ
tỷ
tỷ
tỷ
tỷ
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
địa Thanh Hóa
CTCP công
3,2
3,1
3,4
50
55
55
60
65
9
trình giao
2004
51% 2,1 tỷ 3 tỷ
0
0
0
0
0
tỷ
tỷ
tỷ
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
thông
CTCP xây dựng
840
709
780
50
75
75
77
78
5
5
7
9
800
850
10
2007
51%
0
triệu
triệu
Sông Mã 1
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
Nguồn Sở Tài chính Thanh Hóa và khảo sát thực tế
Phụ lục 4.5:Lao động, thu nhập bình quân của một CTCP nhà nƣớc giữ cổ phần cao
Tỷ lệ cổ
Đơn vị tính: Triệu đồng
phần
Năm
Năm
Năm
Số lao động Thu nhập bình quân S
20
20
20
20
20
20
20
20
CPH
trƣớc
11
12
13
14
11
12
13
14
Tên công ty T
CPH
nhà nƣớc
trƣớc CPH
CTCP đầu tƣ nông
2,5
1,5 triệu
1,9 triệu
21
20
16
16
0,5 triệu
2,2 triệu
2002
86%
46
T
triệu
nghiệp Yên Định
CTCP giống và
0,5
1,2
1,3
1,8
2
phát triển gia cầm
2003
54%
56
30
26
26
18
1
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
Thanh Hóa
0,5
1,1
1,2
1,5
2,2
CTCP giống cây
1993
51%
400
250
220
185
180
2
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
trồng Thanh Hóa
CTCP quản lý xây
1,7
2,5
2,8
3,2
3,5
dựng đồng bộ 1
2009
57%
360
245
150
150
150
3
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
Thanh Hóa
CTCP quản lý
1,8
2,2
2,6
3,3
đồng bộ 2 Thanh
2010
56%
301
200
200
170
170
3 triệu
4
triệu
triệu
triệu
triệu
Hóa
CTCP đầu tƣ phát
2003
59%
62
30
30
26
24
0,7
1,5
2,1
2,6
2,9
5
6
triển chăn nuôi
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
Hoằng Hóa
CTCP Xây dựng
0,9
1,5
2,0
2,3
2,7
và quản lý giao
2005
51%
57
40
40
50
50
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
thông Nông Cống
CTCP quản lý
2,5
3,1
3,0
3,2
3,5
đƣờng thủy nội
2009
51%
190
150
150
145
140
7
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
địa Thanh Hóa
CTCP công trình
0,7
0,6
0,9
1,1
1,5
2004
51%
87
67
67
60
55
8
giao thông
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
CTCP xây dựng
2.0
0,8
1.0
1,2
1,4
10
2007
51%
31
11
11
10
10
Sông Mã 1
triệu
triệu
triệu
triệu
triệu
9
Nguồn Sở Tài chính Thanh Hóa và khảo sát thực tế
Phụ lục 5:
BÁO CÁO MỘT SỐ CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH DNNN TỈNH QUẢN LÝ NĂM 2001
NGÀN NGÀN NGÀNH NGÀN NGÀN NGÀNH NGÀNH TỔNG TT CHỈ TIÊU ĐVT H THUỶ H H H CN GT CỘNG
1 TỔNG SỐ DN DN 12 8 SẢN 6 TM 5 KHÁC 11 99 XD 12
NNPT 45 NT 636.58 2 DOANH THU TR.Đ 161.585 90.433 365.960 279.491 151.371 74.912 1.760.836 4
2.1 DN CÓ LÃI DN 3 7 26 1 8 56 4 7
TỔNG SỐ LÃI TR.Đ 187 1.857 4.576 2.128 744 403 1.872 11.767
2.2 DN HÕA VỐN DN 3 1 1 8 1 2
2.3 DNLÔ DN 6 1 19 4 2 35 3
TONG SO LO TR.Đ 3.384 722 876 6.907 4.024 329 16.242
2.4 TONG SO LAI-LO(-) TR.Đ (3.197) 1.135 3.700 (4.779) (3.280) 403 1.543 (4.475)
LOLUYKE TR.Đ 80.772 7.179 2.400 20.118 14.148 711 4.247 129.577
3. TONG SO LAO ĐONG NGƢỜI 1.770 1.454 4.470 10.309 795 1.073 690 20.561
4 TỔNG QUỸ LƢƠNG TR.Đ 9.279 10.313 39.973 52.878 2.519 6.087 4.609 125.658
LƢƠNG BQ/NGƢỜI/ THÁNG NGHÌN 500 591 550 427 264 650 652 509
5 TỔNG VỐN CHỦ SỞ HỮU TR.Đ (57.726) 14.531 52.137 416.590 8.852 25.515 11.679 471.578
5.1 VỐN KINH DOANH TR.Đ 23.542 16.749 45.392 333.145 22.925 26.337 12.974 481.064
6 TỔNG NỢ PHẢI TRẢ TR.Đ 172.965 91.076 490.991 314.428 35.948 67.548 16.851 1.198.807
6.1 Nơ QUÁ HAN TR.Đ 2.224 1.151 10.814 14.189
7 TỔNG NỢ PHẢI THU TR.Đ 39.742 65.116 234.707 148.880 9.304 43.543 7.471 548.763
7.1 Nơ KHÓ ĐÕI TR.Đ 919 919 4.287 2.466 519 9.110
TỔNG PHÁT SINH NỘP
8 TR.Đ 1.719 3.161 24.182 4.194 2.810 16.864 4.333 57.963
NS
8.1 ĐÃ NỘP NGÂN SÁCH TR.Đ 1.413 3.621 19.523 6.026 1.459 15.369 5.005 52.416
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước - Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước tỉnh Thanh Hóa
Phụ lục 6:
BÁO CÁO MỘT SỐ CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH DNNN TỈNH QUẢN LÝ NĂM 2002
NGÀNH
NGÀNH
NGÀNH
NGÀNH
NGÀNH
NGÀNH
NGÀNH
TT
CHỈ TIÊU
ĐVT
TỔNG CỘNG
CÔNG
THUỶ
KHÁC
GT
XD
NNPTNT
TM
NGHIỆP
SẢN
Tổng số DN DN 9 13 11 40 5 5 10 93 1
758.70 91.34 Doanh Thu TR.Đ 187.400 137.100 428.491 217.883 162.000 1.982.014 2 0 0
2.1 DN có lãi DN 3 10 7 19 1 4 8 52
Tổng số lãi TR.Đ 290 1.951 4.611 2.644 500 565 1.888 12.449
2.2 DN hòa vốn DN 1 1 1 15 18
2.3 DN lỗ DN 5 2 3 6 4 1 2 23
Tổng số lỗ TR.Đ 1.652 1.154 4.320 702 3.292 150 130 11.400
2.4 Tổng số lãi - lỗ (-) TR.Đ (1.362) 797 291 1.942 (2.792) 415 1.758 1.049
L ỗ l ũ y k ế TR.Đ 82.134 7.901 4.682 15.156 16.552 825 1.951 129.201
3. Tổng số lao động NGƯỜI 1.887 2.382 4.682 8.800 815 1.145 731 20.442
4 Tổng quỹ lương TR.Đ 10.827 17.998 34.356 45.139 2.965 6.950 4.411 122.646
Lương BQ/ người/tháng NGHÌN 478
630 611 427 303 703 502 500
(55.751 11.84 5 Tổng vốn chủ sở hữu TR.Đ 24.206 60.717 409.249 3.571 29.223 483.055 ) 0
12.97 5.1 Vốn kinh doanh TR.Đ 24.042 26.151 70.024 320.498 19.916 28.587 502.192 4
122.53 18.44 6 Tổng nợ phải trả TR.Đ 221.489 116.596 635.449 278.172 42.665 1.435.351 6 4
6.1 Nợ quá hạn TR.Đ 2.574 1.151 10.602 14.327
7 Tổng nợ phải thu TR.Đ 63.052 63.688 231.518 96.270 12.577 72.731 9.803 549.639
I 7.1 Nợ khó đòi TR.Đ 898 21.708 4.095 3.570 674 30.945
Tổng phát sinh nộp NS
8 TR.Đ 1.965 3.478 9.898 2.839 1.458 18.320 4.992 42.951
Ị 8.1 Đã nộp ngân sách TR.Đ 1.379 3.582 9.138 3.100 1.350 18.819 5.135 42.503
Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước - Ban đổi mới cloanh nghiệp nhà nước
tỉnh Thanh Hóa