ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

TRỊNH VĂN SÖY

NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ - XÃ HỘI NẢY SINH

TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA

CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở TỈNH THANH HÓA

LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

TRỊNH VĂN SÖY

NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ - XÃ HỘI NẢY SINH

TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA

CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số : 62.31.01.01

LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Phí Mạnh Hồng

HÀ NỘI - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của tôi,

có sự hỗ trợ giúp đỡ của Thầy giáo hướng dẫn, một số

thầy cô giáo khác và bạn bè, đồng nghiệp. Các số liệu

nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa

học của luận án chưa được ai công bố trong bất kỳ

công trình nào.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trịnh Văn Súy

MỤC LỤC

Danh mục chữ viết tắt ........................................................................................ i

Danh mục bảng biểu .......................................................................................... ii

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................... 8

1.1. Những công trình đã công bố liên quan đến nội dung luận án .............. 8

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về CPH DNNN nói chung ................... 8

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về những vấn đề kinh tế-xã hội nảy

sinh trong quá trình CPH và hậu CPH DNNN ....................................... 16

1.1.3. Các công trình nghiên cứu quá trình CPH DNNN trên địa bàn tỉnh

Thanh Hóa ............................................................................................... 18

1.2. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố và những vấn đề đặt

ra cần đƣợc nghiên cứu tiếp ........................................................................ 19

1.2.1. Những kết quả chủ yếu của các công trình nghiên cứu trên ........ 19

1.2.2. Một số vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu tiếp ............................ 21

Chƣơng 2: CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ - XÃ HỘI NẢY SINH TRONG QUÁ

TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC: CƠ SỞ LÝ

LUẬN VÀ THỰC TIỄN ................................................................................. 25

2.1. Khái lƣợc chung về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc ............. 25

2.1.1. Doanh nghiệp nhà nước và vai trò của chúng trong nền kinh tế thị

trường ...................................................................................................... 25

2.1.2. Những hạn chế của các DNNN và nguyên nhân của chúng ......... 29

2.1.3. Thực chất của CPH doanh nghiệp nhà nước ................................ 33

2.1.4. Cổ phần hóa DNNN – giải pháp cơ bản nhằm khắc phục những yếu

kém của khu vực DNNN và nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế ........ 36

2.2. Các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình cổ phần hoá doanh

nghiệp nhà nƣớc. ......................................................................................... 39

2.2.1. Xung đột lợi ích – cội nguồn sâu sa của các vấn đề kinh tế-xã hội

nẩy sinh trong quá trình CPH DNNN ..................................................... 39

2.2.2. Các vấn đề kinh tế-xã hội cụ thể thường nảy sinh trong quá trình

CPH DNNN ............................................................................................. 41

2.3. Những yếu tố ảnh hƣởng đến các vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trong

quá trình CPH DNNN ................................................................................. 53

2.3.1. Môi trường cạnh tranh và khung pháp lý điều tiết hoạt động chung

của các doanh nghiệp.............................................................................. 53

2.3.2. Khuôn khổ pháp lý và tính minh bạch của tiến trình cổ phần hóa

các DNNN ............................................................................................... 55

2.3.3. Những biện pháp hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp

trong quá trình cổ phần hóa ................................................................... 57

2.3.4. Các thiết chế hỗ trợ quá trình CPH DNNN. ................................. 58

2.3.5. Đội ngũ cán bộ làm công tác CPH. .............................................. 58

2.3.6. Nhận thức xã hội về quá trình CPH DNNN. ................................. 59

2.4. Thực tiễn giải quyết những vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trong quá

trình này ở một số địa phƣơng và bài học kinh nghiệm cho Thanh Hóa .... 60

2.4.1. Thực tiễn giải quyết những vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trong

quá trình này ở một số địa phương ......................................................... 60

2.4.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra cho tỉnh Thanh Hóa ............. 71

Chƣơng 3: TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ

- XẪ HỘI ĐẶT RA TỪ QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH

NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở TỈNH THANH HÓA ............................................. 76

3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và DNNN của Thanh Hóa ảnh

hƣởng đến quá trình CPH DNNN . ............................................................. 76

3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội. .............................................. 76

3.1.2. Đặc điểm DNNN của Thanh Hóa trước cổ phần hóa ................... 79

3.2.Tình hình, kết quả thực hiện CPH DNNN ở Thanh Hóa. ..................... 81

3.2.1. Các giai đoạn triển khai thực hiện cổ phần hóa các DNNN ........ 81

3.2.2. Một số kết quả và nhận xét chung. ................................................ 81

3.3. Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình cổ phần hóa

doanh nghiệp nhà nƣớc ở Thanh Hóa ......................................................... 84

3.3.1. Tâm lý chần chừ, e ngại, ngăn trở tiến trình CPH ..................... 84

3.3.2. Vấn đề xác định giá trị các doanh nghiệp Nhà nước để cổ phần

hoá ........................................................................................................... 85

3.3.3. Việc đánh giá và xử lý nợ của các DN cổ phần hóa ...................... 88

3.3.4. Vấn đề sắp xếp lại lực lượng lao động và giải quyết lao động “dôi

dư” trong các DNCPH ............................................................................ 89

3.3.5. Vấn đề chuyển đổi cấu trúc sở hữu và quan hệ giữa các nhóm

cổ đông. ................................................................................................... 91

3.3.6. Vấn đề quản lý nhà nước và sự phân biệt đối xử đối với DN sau

CPH (so với DNNN). ............................................................................. 100

3.4. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong

quá trình cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa. ............................................ 102

3.4.1. Cơ chế, chính sách về CPH DNNN . ........................................... 102

3.4.2. Công tác quản lý nhà nước về CPH DNNN trên địa bàn tỉnh chưa

theo kịp với yêu cầu ............................................................................... 106

3.4.3. Các thiết chế hỗ trợ tiến trình CPH DNNN còn kém phát triển. 108

3.4.4. Nhận thức xã hội và công tác tuyên truyền về CPH còn hạn chế .... 109

Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ

KINH TẾ - XÃ HỘI NẢY SINH TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA

DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở TỈNH THANH HÓA ........................... 112

4.1. Quan điểm giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trong quá

trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở Thanh Hóa những năm tới.. 112

4.1.1. Bối cảnh của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Thanh Hóa

những năm tới ....................................................................................... 112

4.1.2. Quan điểm giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong

quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Thanh Hóa .............. 116

4.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế và giải quyết các vấn đề kinh tế- xã

hội nảy sinh trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở Thanh

Hóa những năm tới .................................................................................... 124

4.2.1. Đổi mới phương pháp định giá đi đôi với nâng cao kỹ năng và đạo

đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ định giá tài sản doanh nghiệp ... 124

4.2.2. Minh bạch hóa vấn đề tài chính và quyền sở hữu của Nhà nước

trong doanh nghiệp sau CPH ................................................................ 129

4.2.3. Phân định rõ và tách bạch chức năng quản lý Nhà nước với chức

năng chủ sở hữu Nhà nước tại các CTCP ............................................ 135

4.2.4. Hoàn thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo tính bình đẳng trong

đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi của người lao

động trong các doanh nghiệp sau CPH .............................................. 139

4.2.5. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền địa

phương và nâng cao vai trò của Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước

trong quá trình CPH DNNN ............................................................... 1433

4.3. Một số kiến nghị với Nhà nƣớc và bộ/ ngành hữu quan .................. 1466

KẾT LUẬN ................................................................................................... 149

DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .. 153

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 154

PHỤ LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa : Cổ phần hóa : Công ty cổ phần : Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc : Dòng tiền chiết khấu : Doanh nghiệp : Doanh nghiệp nhà nƣớc : Doanh nghiệp cổ phần hóa

CNH, HĐH CPH CTCP CPH DNNN DCF DN DNNN DNCPH DNTN : Doanh nghiệp tƣ nhân : Đổi mới phát triển doanh nghiệp ĐMPTDN : Hội đồng quản trị HĐQT : Khu vực tƣ nhân KVTN KVTN : Khu vực tƣ nhân KT-XH: : Kinh tế- xã hội KTNN NDT SCIC SLĐ SNG SXKD TBCN TCT TĐKT TĐKT, TCT TNHH TTCK UBND VNN XHCN : Kinh tế nhà nƣớc : Nhân dân tệ : Tổng công ty kinh doanh vốn nhà nƣớc : Sức lao động : Cộng đồng các quốc gia độc lập : Sản xuất kinh doanh : Tƣ bản chủ nghĩa : Tổng công ty : Tập đoàn kinh tế : Tập đoàn kinh tế, tổng công ty : Trách nhiệm hữu hạn : Thị trƣờng chứng khoán : Ủy ban nhân dân : Vốn nhà nƣớc : Xã hội chủ nghĩa

i

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Một số kết quả của các DN CPH của tỉnh Thừa Thiên - Huế năm

2010 ................................................................................................................. 64

Bảng 2.2: So sánh tỷ lệ tăng thu nhập của ngƣời lao động và tăng lợi nhuận

của 3 CTCP. .................................................................................................... 70

Bảng 3.1. Tỷ trọng cơ cấu kinh tế của tỉnh Thanh Hóa .................................. 77

Bảng 3.2. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế Thanh Hóa 2006-2012 (%) ................. 78

Bảng 3.3. Thu nhập bình quân đầu ngƣời/tháng giai đoạn 2002-2012 ........... 79

Bảng 3.4: Số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và nợ khó đòi (tính đến

1/1/1995) ......................................................................................................... 80

ii

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Kể từ năm 1986, với đƣờng lối Đổi Mới của Đảng Cộng sản Việt Nam,

nền kinh tế nƣớc ta đã từng bƣớc chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập

trung sang cơ chế kinh tế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc, theo định

hƣớng xã hội chủ nghĩa. Trong bƣớc chuyển đổi này, các doanh nghiệp nhà

nƣớc (DNNN) - bộ phận trọng yếu của nền kinh tế, nói chung đã không thích

ứng đƣợc, bộc lộ nhiều yếu kém , hoạt động thiếu hiệu quả, không tƣơng

xứng với vai trò mà chúng đƣợc kỳ vọng cũng nhƣ các nguồn lực mà chúng

nắm giữ. Trƣớc tình hình đó, vào đầu những năm 1990, Đảng và Nhà nƣớc đã

chủ trƣơng đổi mới một cách căn bản, toàn diện đối với các DNNN. Nhiều

chính sách và giải pháp đã đƣợc tiến hành, trong đó có giải pháp chuyển đổi

các DNNN thành Công ty cổ phần (cổ phần hoá các DNNN). Đây là biện

pháp quan trọng nhằm tạo ra sự chuyển biến căn bản về cơ cấu sở hữu và hoạt

động của các DNNN, để thông qua đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh

tranh của chính khu vực DNNN cũng nhƣ của cả nền kinh tế.

Sau hơn 20 năm tổ chức thực hiện cổ phần hóa (CPH) DNNN, các chỉ

tiêu nhƣ: vốn, doanh thu, lợi nhuận, thu nhập của ngƣời lao động... tại nhiều

doanh nghiệp sau CPH đã có sự cải thiện rõ rệt. Tuy vậy, tính đến nay tiến

trình này vẫn diễn ra chậm chạp. Khu vực DNNN vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn,

hoạt động của nhiều DN sau CPH còn khó khăn, hiệu quả hoạt động và năng

lực cạnh tranh thấp, thậm chí nhiều doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ. Nhiều

vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình CPH DNNN đã tác động xấu

đến quá trình CPH nói riêng, đến sự phát triển kinh tế-xã hội nói chung.

Tại Thanh Hóa, quá trình CPH DNNN đã đƣợc triển khai nghiêm túc

và thu đƣợc những kết quả nhất định. Tính đến 31 tháng 12 năm 2014, Thanh

Hoá đã CPH đƣợc 98 doanh nghiệp, trong đó có 24 doanh nghiệp bộ phận.

1

Kết quả khảo sát cho thấy, đa số các doanh nghiệp sau CPH hoạt động sản

xuất kinh doanh có hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, tiến

trình CPH DNNN ở Thanh Hóa vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó nổi lên là:

các mục tiêu chủ yếu của CPH đạt thấp; trong nhiều trƣờng hợp, việc xác định

giá trị doanh nghiệp trƣớc khi CPH chƣa hợp lý; các doanh nghiệp còn lúng

túng trong việc xây dựng chiến lƣợc sản phẩm và chiến lƣợc phát triển... Điều

đáng nói là, sau cổ phần hóa, hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh

nghiệp vẫn thấp... Nguyên nhân của tình trạng đó có nhiều, trong đó có

nguyên nhân từ những vấn đề kinh tế-xã hội (KT – XH) tiêu cực nẩy sinh

trong quá trình CPH nhƣng chƣa đƣợc tỉnh quan tâm giải quyết kịp thời, nhƣ:

tình trạng thất thoát tài sản nhà nƣớc còn phổ biến; vai trò của ngƣời lao

động- cổ đông trong công ty chƣa đƣợc coi trọng; cơ cấu sở hữu còn thiếu

minh bạch; sự xung đột lợi ích nhóm bắt đầu bộc lộ; vấn đề xử lý nợ còn lúng

túng.v.v... Tất cả điều đó đều gây ra khó khăn cho tiến trình CPH DNNN,

ngăn cản nó đi đến mục tiêu của mình. Điều này đòi hỏi các nhà quản lý, các

cơ quan ban ngành từ Trung ƣơng đến địa phƣơng, các nhà nghiên cứu phải

có biện pháp để giải quyết những vấn đề nảy sinh đó một cách hiệu quả.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, NCS đã chọn đề tài cho luận án tiến

sĩ Kinh tế chính trị của mình là: “Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong

quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Thanh Hoá", nhằm trả

lời các câu hỏi nghiên cứu sau:

- Quá trình CPH DNNN thƣờng làm nảy sinh các vấn đề kinh tế-xã hội nào?

Căn nguyên sâu sa có tính quy luật chi phối sự nảy sinh các vấn đề này là gì?

- Những vấn đề đó bộc lộ, thể hiện nhƣ thế nào trong quá trình CPH DNNN ở

Thanh Hóa?

- Cần có các giải pháp gì để xử lý hiệu quả các vấn đề trên nhằm đẩy nhanh

tiến độ CPH và nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN sau CPH trên địa

bàn Tỉnh?

2

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích

Mục đích nghiên cứu của luận án là nhằm làm rõ các vấn đề kinh tế-xã

hội nảy sinh trong quá trình CPH DNNN ở Thanh Hóa, tìm ra nguyên nhân

của tình trạng này, từ đó đề xuất các giải pháp xử lý thích hợp để đẩy nhanh

tiến độ và nâng cao hiệu quả tiến trình CPH DNNN trên địa bàn tỉnh.

2.2. Nhiệm vụ

Để đạt đƣợc mục đích trên, luận án phải thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:

- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, chỉ ra

những kết quả và những vấn đề đặt ra cần phải đƣợc nghiên cứu tiếp.

- Xây dựng khung khổ lý thuyết về CPH DNNN và các vấn đề kinh tế -

xã hội thƣờng nảy sinh trong quá trình này.

- Khảo cứu kinh nghiệm xử lý các vấn đề kinh tế - xã hội tiêu cực nảy sinh

trong quá trình cổ phần hóa DNNN của một số địa phƣơng.

- Phân tích, đánh giá thực tế những vấn đề kinh tế - xã hội tiêu cực nảy

sinh trong quá trình cổ phần hoá DNNN ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 1998 đến

năm 2014, làm rõ những kết quả và hạn chế trong việc xử lý các vấn đề này

trong thực tiễn CPH ở Tỉnh.

- Đƣa ra quan điểm và đề xuất giải pháp xử lý các vấn đề kinh tế - xã hội

tiêu cực nảy sinh trong quá trình cổ phần hoá các DNNN ở Thanh Hoá đến

năm 2020.

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là những vấn đề kinh tế-xã hội nẩy sinh

trong quá trình CPH DNNN dƣới góc độ Kinh tế chính trị..Điều này thể hiện ở

chỗ: các vấn đề nảy sinh trong quá trình CPH đƣợc xem xét, cắt nghĩa dƣới góc độ

kinh tế - xã hội, nhƣ là sự phản chiếu các quan hệ lợi ích chứ không phải dƣới góc

độ kinh tế - kỹ thuật; việc lý giải các vấn đề cũng nhƣ đề xuất giải pháp thƣờng

3

đƣợc gắn với môi trƣờng thể chế, chính sách và vai trò của nhà nƣớc hơn là tiếp

cận từ góc độ doanh nghiệp hay đề xuất giải pháp cho doanh nghiệp.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề KT-XH bộc lộ

trong quá trình CPH DNNN, chủ yếu phát sinh từ sự xung đột lợi ích giữa các

chủ thể kinh tế có liên quan, tạo ra những tác động tiêu cực đến quá trình này.

Đây chính là những tình huống hay khía cạnh khó khăn mà ngƣời ta cần phải

giải quyết hay vƣợt qua nếu muốn quá trình CPH DNNN đi đến đƣợc mục tiêu

của mình. Các vấn đề kinh tế - kỹ thuật nảy sinh trong quá trình cổ phần hóa sẽ

không đề cập hoặc chỉ đề cập ở mức độ nhất định để làm rõ các quan hệ lợi ích

kinh tế có liên quan.

Ở Việt Nam, quá trình CPH DNNN đã trải qua nhiều giai đoạn và hiện vẫn

đang đƣợc tiếp tục đẩy mạnh. Một số vấn đề nảy sinh ở các doanh nghiệp sau

CPH có thể tạo ra ảnh hƣởng tiêu cực đối với tiến trình CPH tiếp theo. Đứng trên

góc nhìn đó, những vấn đề nhƣ vậy vẫn cần đƣợc xem xét, giải quyết trong tổng

thể quá trình CPH DNNN nói chung. Đó là lý do một số khía cạnh sau CPH của

DN vẫn nằm trong phạm vi nghiên cứu của luận án này.

- Về không gian: Trong khuôn khổ luận án này, NCS chỉ tập trung nghiên

cứu những vấn đề kinh tế-xã hội nảy sinh có tác động tiêu cực đến tiến trình

CPH DNNN ở tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên, luận án cũng nghiên cứu vấn đề này

tại một số địa phƣơng khác để đúc rút bài học kinh nghiệm cho tỉnh Thanh Hóa.

- Về thời gian: từ 1998, thời điểm tỉnh Thanh Hóa bắt đầu thực hiện CPH

DNNN, đến năm 2014.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận

Luận án sử dụng cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là phƣơng pháp luận đƣợc sử dụng

xuyên suốt trong Luận án để nhận diện đúng bản chất của tiến trình CPH

4

DNNN nói chung trong điều kiện các nền kinh tế thị trƣờng cũng nhƣ những

biểu hiện đặc thù của nó trong thực tiễn các nền kinh tế đang chuyển đổi nhƣ

Việt Nam. Với cách tiếp cận biện chứng, Luận án xem xét các vấn đề KT-XH

nảy sinh trong tiến trình CPH DNNN không phải nhƣ các sự kiện ngẫu nhiên

mà nhƣ là những hệ quả tất yếu từ sự xung đột lợi ích giữa các nhóm ngƣời

khác nhau gắn liền với quá trình này.

Quán triệt nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, Luận án đặt việc xử lý

những vấn đề nảy sinh trong quá trình CPH DNNN ở Việt Nam nói chung, ở

Thanh Hóa nói riêng trong mối quan hệ của nó với tổng thể quá trình đổi mới

theo hƣớng phát triển kinh tế thị trƣờng, mở cửa và hội nhập, trong đó CPH

DNNN đƣợc xem nhƣ một bộ phận của quá trình cải cách và định vị lại khu

vực DNNN, tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế theo các yêu cầu và nguyên lý

của kinh tế thị trƣờng.

4.2. Phương pháp cụ thể

Trong luận án, một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể sau đƣợc chú trọng:

- Phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học: Đây là phƣơng pháp đặc thù

trong nghiên cứu kinh tế chính trị. Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng nhằm tạm

gạt bỏ khỏi đối tƣợng nghiên cứu những vấn đề cá biệt, ngẫu nhiên, ít có ảnh

hƣởng đến quá trình CPH DNNN để đi sâu nghiên cứu những vấn đề mang

tính cốt yếu, phổ biến, có ảnh hƣởng quyết định đến quá trình CPH DNNN và

cách thức xử lý các vấn đề nảy sinh trong quá trình này. Phƣơng pháp này

đƣợc áp dụng chủ yếu ở chƣơng 3 và một phần ở chƣơng 2 (phần nghiên cứu

kinh nghiệm các nƣớc).

- Phƣơng pháp kết hợp lôgic và lịch sử đƣợc sử dụng trong luận án khi

tác giả cố gắng khảo sát tiến trình CPH DNNN và các vấn đề kinh tế - xã hội

nảy sinh ở Thanh Hóa theo diễn tiến lịch sử của chúng (theo các giai đoạn của

quá trình CPH nói chung cũng nhƣ các bƣớc CPH đối với một doanh nghiệp

cụ thể) song đồng thời lại sẵn sàng bỏ qua những yếu tố ngẫu nhiên để xâu

5

chuỗi, kết nối các khía cạnh khác nhau trong các vấn đề nảy sinh nhằm tìm ra

lô gic bên trong chi phối các tất cả vấn đề trên: sự xung đột lợi ích giữa các

chủ thể kinh tế có liên quan. Đó là cơ sở để tác giả luận án phân tích, lý giải

đối tƣợng nghiên cứu và tìm kiếm các đề xuất giải pháp.

- Phƣơng pháp nghiên cứu tình huống, phƣơng pháp phân tích - tổng hợp

đƣợc sử dụng trong các chƣơng 2 - 3 và 4, trong đó nhiều nhất là ở chƣơng 3.

Chẳng hạn việc phân tích cho phép tác giả luận án khảo cứu, đánh giá riêng rẽ

từng khía cạnh nảy sinh, có ảnh hƣởng tiêu cực đến mục tiêu của quá trình

CPH DNNN cả trƣớc, trong và sau tiến trình này nếu xét ở một doanh nghiệp

cụ thể. Tuy thế, thông qua việc khái quát hóa, dựa trên lô gic của các mối

quan hệ lợi ích, tác giả cố gắng tổng hợp lại để nhận diện đƣợc một số yếu tố

có khả năng chi phối chung các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh cụ thể (sự

xung đột lợi ích, môi trƣờng kinh doanh chung hay khía cạnh thể chế…). Sử

dụng các phƣơng pháp này cho phép tác giả đƣa ra đƣợc những nhận xét,

đánh giá sát thực hơn về tình hình CPH DNNN và xử lý các vấn đề nảy sinh

có tác động tiêu cực đến quá trình CPH DNNN trong thời gian qua, chỉ rõ

những thành tựu và hạn chế của quá trình này.

- Phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng trong cả chƣơng 2 và chƣơng 3, đặc

biệt trong phần nghiên cứu kinh nghiệm của các địa phƣơng khác và đánh giá

thực trạng CPH DNNN và cách thức giải quyết các vấn đề KT-XH nảy sinh

trong quá trình CPH DNNN tại tỉnh Thanh Hóa. Sử dụng phƣơng pháp này sẽ

cho phép làm rõ những ƣu điểm, thành tựu hay nhƣợc điểm, hạn chế trong CPH

DNNN và giải quyết các vấn đề KT-XH tiêu cực nảy sinh trong quá trình đó.

- Luận án chủ yếu sử dụng các số liệu, dữ liệu thứ cấp đƣợc chắt lọc từ

các công trình (bài báo khoa học, sách chuyên khảo, luận án, luận văn…) có

liên quan đến vấn đề CPH DNNN đƣợc công bố dƣới dạng các tài liệu sách,

báo hay trên các trang websites. cũng nhƣ các báo cáo của tỉnh ủy, ủy ban

nhân dân tỉnh Thanh Hóa về tình hình CPH DNNN.

6

5. Những đóng góp khoa học của luận án

- Bổ sung và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về các vấn đề kinh tế-xã

hội nảy sinh mang tính phổ biến trong quá trình cổ phần hóa các DNNN, trong

đó chỉ rõ sự xung đột lợi ích không tránh khỏi giữa các chủ thể kinh tế gắn liền

với quá trình chuyển đổi hình thức và tính chất của sở hữu trong CPH DNNN

là nguyên nhân sâu sa chi phối các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong tiến

trình CPH. Luận án cũng luận giải và khẳng định các vấn đề nhƣ cách định vị

vai trò, vị trí của nhà nƣớc , các DNNN trong nền kinh tế thị trƣờng; trình độ

phát triển của các thể chế thị trƣờng là các yếu tố then chốt chi phối mức độ

bộc lộ và khả năng xử lý các vấn đề kinh tế - xã hội trên.

- Chỉ ra và phân tích những vấn đề kinh tế - xã hội bộc lộ cụ thể trong

quá trình CPH DNNN tại tỉnh Thanh Hóa trong 15 năm qua (1998-2014), cắt

nghĩa đƣợc một số yếu tố dẫn dắt, chi phối các vấn đề này.

- Đƣa ra và luận giải một số quan điểm và giải pháp nhằm xử lý có hiệu

quả các tác động của những vấn đề kinh tế - xã hội tiêu cực nảy sinh trong

quá trình CPH DNNN ở Thanh Hóa từ nay đến năm 2020.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và các phụ

lục, nội dung chính của luận án đƣợc kết cấu thành 4 chƣơng:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

Chương 2: Các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình cổ

phần hóa doanh nghiệp nhà nước: cơ sở lý luận và thực tiễn

Chương 3: Tiến trình cổ phần hóa và những vấn đề kinh tế - xã hội đạt

ra từ quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Thanh Hóa

Chương 4: Quan điểm và giải pháp giải quyết các vấn đề kinh tế - xã

hội nảy sinh trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh

Thanh Hóa

7

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Những công trình đã công bố liên quan đến nội dung luận án

Cổ phần hóa DNNN là một chủ đề lớn đƣợc nhiều học giả và các nhà

hoạch định chính sách quan tâm. Vì vậy, xung quanh vấn đề này đã có khá

nhiều công trình khoa học đƣợc công bố, trong đó những công trình liên quan

trực tiếp đến đề tài luận án có thể phân thành 3 nhóm: Nhóm 1, gồm các công

trình nghiên cứu những vấn đề chung về CPH DNNN; Nhóm 2, gồm những

công trình nghiên cứu về các vấn đề kinh tế-xã hội nảy sinh trong quá trình

CPH DNNN và cách thức xử lý; Nhóm 3, gồm những bài viết về tiến trình

CPH DNNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về CPH DNNN nói chung

+ Những công trình nghiên cứu lý luận về cổ phần hóa DN N N

Những vấn đề lý luận chung về DNNN và CPH DNNN đƣợc khá nhiều

ngƣời, cả trong nƣớc và ngoài nƣớc, quan tâm nghiên cứu. Tại Việt Nam,

ngoài các cơ quan nghiên cứu chuyên ngành nhƣ Viện nghiên cứu Quản lý

kinh tế Trung ƣơng, các Viện nghiên cứu của Bộ, Ngành- là cơ quan quản lý

trực tiếp doanh nghiệp nhà nƣớc, còn có nhiều chuyên gia kinh tế độc lập đã

dày công nghiên cứu vấn đề này. Trong số hàng trăm công trình đã xuất bản

mà NCS tiếp cận đƣợc, nhìn chung đều hƣớng tới một mục đích chung là tìm

ra con đƣờng đƣa DNNN vào quĩ đạo vận động của kinh tế thị trƣờng, làm

cho DNNN thích ứng đƣợc với cơ chế mới.

Các tác giả Nguyễn Hữu Từ (1993), Ngô Quang Minh (2001), Nguyễn

Cảnh Hoan (2002), Đỗ Thị Phi Hoài (2003), Lê Hồng Hạnh (2004), và nhiều

ngƣời khác đều thống nhất quan điểm, cho rằng CPH DNNN là tất yếu khách

quan trong quá trình chuyển nền kinh tế từ vận động theo cơ chế kế hoạch hóa

8

tập trung sang cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc, theo định hƣớng

xã hội chủ nghĩa. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Cơ sở khoa học và thực

tiễn của việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam” (1998) đã chỉ

rõ cơ sở khoa học của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc. Từ việc trở

lại quá khứ tìm kiếm nguồn gốc ra đời của công ty cổ phần, bằng sự diễn giải

giản đơn, dễ hiểu đề tài đã làm sáng tỏ tính ƣu việt của công ty cổ phần mà

các loại hình kinh tế khác không thể nào có đƣợc. Tuy nhiên, các tác giả cũng

lƣu ý rằng, CTCP không phải hoàn toàn hiệu quả hơn DNNN, mà bản thân

chúng cũng có những hạn chế nhất định.

Một số tác giả đƣa ra vấn đề có tính lý luận quan trọng nhƣng hiện đang

có những ý kiến khác nhau, là nên gọi quá trình chuyển DNNN thành công ty

cổ phần là cổ phần hoá hay tƣ nhân hoá? Các tác giả của đề tài trên khẳng

định, rằng không thể coi các doanh nghiệp có thành phần Nhà nƣớc (tuy mức

độ khác nhau) nhƣ xí nghiệp liên doanh, công ty cổ phần, hay công ty trách

nhiệm hữu hạn.... là tƣ nhân, vì cho dù hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp,

trong công ty cổ phần có yếu tố Nhà nƣớc. Theo họ, nếu Nhà nƣớc- ngƣời đại

diện cho toàn dân tham gia, mà lại coi là tƣ nhân thì sẽ là điều không hiểu nổi.

Tƣơng tự nhƣ vậy, các vấn đề nhƣ: cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc có

làm chệch hƣớng XHCN không?”; lợi ích của Nhà nƣớc và của ngƣời lao

động sẽ nhƣ thế nào? hay công ty cổ phần hoạt động có hiệu quả hơn doanh

nghiệp Nhà nƣớc không?... cũng đƣợc bàn tới khá nhiều trong các công trình

đã công bố. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đều có chung một câu trả lời là:

CPH DNNN không hề làm chệch hƣớng xã hội chủ nghĩa; các doanh nghiệp

nhà nƣớc sau khi cổ phần hoá đều hoạt động có hiệu quả hơn, thể hiện là các

chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận, thu nhập của ngƣời lao động, lợi tức cổ phần

đều tăng lên so với trƣớc. Trên cơ sở thực tiễn đó, kết luận đƣợc rút ra là, khi

chuyển doanh nghiệp nhà nƣớc thành công ty cổ phần thì nếu có mất chỉ

“mất” đi tác phong quan liêu, cửa quyền và sự tham nhũng, lãng phí ... mà

9

thôi, còn cái đƣợc cơ bản và lâu dài là lợi ích của cả Nhà nƣớc, tập thể và

ngƣời lao động đều tăng lên. Đó là vì, mặc dù công ty cổ phần có cấu trúc khá

phức tạp, nhƣng do tách bạch quyền sở hữu với quyền kinh doanh, chuvên

môn hoá sản xuất nên công ty cổ phần đạt hiệu quả cao hơn các hình thức

khác, kể cả doanh nghiệp tƣ nhân, công ty TNHH và doanh nghiệp 100% vốn

nhà nƣớc. Vì vậy, việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần là hợp quy luật

xã hội hoá nguổn vốn đầu tƣ và kinh doanh, là xu thế tất yếu khách quan ở

nƣớc ta, và cái đƣợc sẽ nhiều hơn cái mất.

Một số công trình đề cập cơ sở thực tiễn của việc cổ phần hoá doanh

nghiệp nhà nƣớc. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ƣơng (1994), Bộ Tài

chính (1998), và Bùi Quốc Anh (2009), khi phân tích luận cứ khoa học của việc

cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế

thị trƣờng ở Việt Nam đều khẳng định rằng: sự thay đổi thể chế kinh tế đòi hỏi

phải cổ phần hoá, vì các thể chế kinh tế, lần lƣợt đi từ kinh tế thị trƣờng tự do

đến kinh tế kế hoạch hoá tập trung và hiện tại là kinh tế hỗn hợp. Kinh tế hỗn

hợp ra đời là cơ sở cho sự xuất hiện và phát triển công ty cổ phần và công ty cổ

phần chính là hiện thân bậc cao của kinh tế hỗn hợp. Hay nói cách khác, so với

các loại hình doanh nghiệp khác, công ty cổ phần có nhiều ƣu điểm nhƣ khả

năng huy động vốn với quy mô lớn cho đầu tƣ phát triển; mục tiêu của những

ngƣời góp vốn thống nhất; sự liên tục và không hạn định về thời gian hoạt động;

phƣơng thức quản lý khoa học chặt chẽ; khả năng phân tán rủi ro cao. Cổ phần

hoá doanh nghiệp nhà nƣớc là phù hợp với chủ trƣơng phát triển kinh tế của các

quốc gia, kể cả nƣớc ta. Đối với các nƣớc phát triển đó là thay đổi theo hƣớng

mở rộng hơn sở hữu cộng đồng, giảm bớt tỷ trọng sở hữu Nhà nƣớc và sở hữu

tập tập thể. Đối với các nƣớc đang phát triển và đặc biệt là những nƣớc có nền

kinh tế chuyển đổi, đây là vấn đề quan trọng, nhạy cảm về chính trị.

Một số khác lại khẳng định: cổ phần hoá là một giải pháp tài chính

quan trọng hiện nay, góp phần giải quyết khó khăn về vốn từng bƣớc nâng

10

cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của các DNNN; đồng thời tạo

điều kiện để Nhà nƣớc tập trung nguồn lực cho sự phát triển các lĩnh vực khác

của nền kinh tế.

+ Những công trình nghiên cứu thực tiễn cổ phần hóa DN N N

Đề tài NCKH cấp Bộ, do Ngô Quang Minh làm chủ nhiệm (2001) đã

đƣa ra kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới về vấn đề CPH DNNN và

phân tích tính khả thi của việc áp dụng kinh nghiệm đó vào điều kiện Việt

Nam. Đánh giá tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc, khảo sát tình

hình và kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nƣớc đã cổ phần

hóa, trên cơ sở đó đề tài đƣa ra một số quan điểm định hƣớng và giải pháp

chung nhất mang tính chiến lƣợc cho sự phát triển của doanh nghiệp nhà nƣớc

trong thời gian tiếp theo.

Nhiều luận án tiến sĩ kinh tế đã đƣợc bảo vệ đã tiếp cận quá trình CPH

DNNN dƣới các góc độ khác nhau. Luận án của Nghiên cứu sinh Trần Hồng

Thái, với đề tài “Các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả tiến trình CPH

DNNN” (2001) đã tập trung làm rõ: quá trình phát triển của kinh tế cổ phần và

các loại hình doanh nghiệp mang tính cổ phần, khẳng định quá trình phát triển

này có tính quy luật. Qua nghiên cứu lịch sử hình thành, phát triển của hệ thống

xí nghiệp quốc doanh, “mổ xẻ” thực trạng hệ thống DNNN, luận án khẳng định

nguyên nhân làm chậm tiến độ CPH là do “vai trò điều tiết của nhà nƣớc và cơ

chế chính sách”. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất một số giải pháp, kiến nghị

nhằm thúc đẩy thực hiện có hiệu quả tiến trình CPH DNNN giai đoạn 2001 -

2010. Theo dòng tƣ duy đó, Luận án Tiến sĩ với đề tài: “Tiếp tục đẩy mạnh

quá trình CPH DNNN ở Việt Nam giai đoạn đến năm 2010” (2003) của

Nghiên cứu sinh Đỗ Thị Phi Hoài đã đƣa ra cái nhìn tổng thể về quá trình

CPH DNNN ở Việt Nam sau 10 năm thực hiện (1992-2002); phân tích những

khó khăn, vƣớng mắc cần tháo gỡ và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm

thúc đẩy quá trình CPH DNNN trong thời gian đến năm 2010.

11

Đề tài nghiên cứu của Nguyễn Cảnh Hoan (2002) đã đề cập đến vấn đề

thể chế tài chính trong tiến trình CPH DNNN ở Việt Nam. Đề tài đã tập trung

làm rõ cơ sở lý luận về mối quan hệ của thể chế tài chính đối với cổ phần hóa

DNNN, trong đó đã làm rõ vai trò và ý nghĩa của việc xác định một thể chế tài

chính phù hợp trong cổ phần hóa DNNN.

Có một số công trình khoa học nghiên cứu cả doanh nghiệp nhà nƣớc ở

các quốc gia trên thế giới và xu thế cải cách doanh nghiệp nhà tại các quốc gia

đó để rút ra bài học bổ ích cho Việt Nam về vấn đề này. Kinh nghiệm CPH

DNNN trên thế giới đƣợc các tác giả lựa chọn chủ yếu tập trung vào các nƣớc

có nhiều thành công trong CPH DNNN, đồng thời có điều kiện tƣơng đối gần

với Việt Nam, nhƣ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Cộng hòa

Liên bang Nga, Ba Lan, Hungary... Cuốn sách “Cổ phần hóa doanh nghiệp

nhà nước, những vấn đề lý luận và thực tiễn” (2004) của Lê Hồng Hạnh, do

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phát hành đã nghiên cứu những thăng trầm

của doanh nghiệp nhà nƣớc ở các quốc gia trên thế giới và xu thế cải cách

doanh nghiệp nhà nƣớc của họ, trong đó có cổ phần hóa doanh nghiệp nhà

nƣớc là hình thức cơ bản, đƣợc các nƣớc áp dụng rộng rãi. Vận dụng kinh

nghiệm các nƣớc vào điều kiện Việt Nam, tác giả khẳng định cổ phần hóa là

giải pháp cải cách doanh nghiệp nhà nƣớc tối ƣu trong điều kiện nƣớc ta hiện

nay và chỉ rõ các tiền đề kinh tế, chính trị và pháp lý cơ bản của cổ phần hóa

doanh nghiệp nhà nƣớc.

Hoàn thiện nền tảng pháp lý cho tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp

nhà nƣớc là nội dung đƣợc nhiều công trình nghiên cứu đề cập. Các tác giả Lê

Hồng Hạnh (2004), Bùi Quốc Anh (2009) và một số ngƣời khác đã chỉ ra một

số bất cập của pháp luật hiện hành ở Việt Nam trong lĩnh vực CPH DNNN,

trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp để tiếp tục hoàn thiện nền tảng pháp lý

để thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt Nam nhanh

và hiệu quả. Các công trình nghiên cứu của Lin, J. Y, F. Cai & Z. Li

12

(1997), Bộ Tài chính (1998), Tô Huy Rứa (2006), Phạm Minh Chính

(2012),... đƣa ra nhiều kinh nghiệm từ các nƣớc về CPH DNNN, trong đó

nhấn mạnh những khía cạnh có thể khai thác vận dụng vào Việt Nam và

những khía cạnh không thành công của họ mà Việt Nam nên tránh. Chẳng

hạn, liệu pháp "sốc" ở CHLB Nga với kế hoạch tƣ nhân hoá nhanh chóng một

khối lƣợng lớn DNNN trong thời gian 3-4 năm đã đẩy quá trình tƣ nhân hoá

vào tình thế hết sức khó khăn và mục tiêu ban đầu đề ra không thực hiện đƣợc,

còn nền kinh tế Nga thì vẫn trong tình trạng suy giảm, đời sống dân Nga giảm

sút nhanh, thất thoát tài sản, bất công tăng lên, xã hội không ổn định. Hay tại

Ba Lan, tƣ nhân hoá cũng diễn ra ổ ạt trong nhiều ngành, dự kiến trong 4 năm

tƣ nhân hoá 50% số doanh nghiệp Nhà nƣớc với 2 hình thức tƣ nhân hoá gián

tiếp và tƣ nhân hoá trực tiếp. Còn tại Trung Quốc, nhờ có những bƣớc đi thận

trọng hơn, nên tiến trình CPH tại nƣớc này khá thành công. Nhiều ngƣời

trong số trên đều nhất trí, rằng để CPH DNNN thành công kinh nghiệm rút ra

từ các nƣớc là cần phải có phƣơng án tổng thể, không nên quá lệ thuộc vào

nƣớc ngoài; diện doanh nghiệp cổ phần hoá phải rộng; phải có chính sách ƣu

đãi phù hợp; cổ phần hoá phải là bộ phận của chƣơng trình cơ cấu lại doanh

nghiệp nhà nƣớc, tránh chuyển từ độc quyền Nhà nƣớc sang độc quyền tƣ

nhân.

Tiến trình CPH DNNN ở Việt Nam đƣợc đề tài nghiên cứu của bộ Tài

chính (1998) phân tích sâu về những vƣớng mắc và tồn tại của cổ phần hoá.

Không chỉ dừng lại ở các vấn đề đƣợc phát hiện mà còn đi sâu phân tích các

nguyên nhân làm chậm tiến trình cổ phần hoá. Ở đây các tác giả đã tổng kết

và rút ra một số nguyên nhân chung làm chậm tiến trình cổ phần hoá, trong đó

quan trọng là: i) khung khổ pháp lý chƣa đầy đủ (thiếu Luật hoặc pháp lệnh

về cổ phần hoá); ii) e ngại về tƣ tƣởng do chƣa có nghị quyết riêng của Bộ

Chính trị; iii) chƣa coi trọng tuyên truyền, giải thích, hƣớng dẫn về cổ phần

hoá. Dƣới góc nhìn phát triển bền vững, Tô Huy Rứa (2006) đã đề xuất giải

13

pháp: quá trình đổi mới doanh nghiệp phải đƣợc đặt trong chiến lƣợc phát

triển kinh tế - xã hội bền vững, tức là: các doanh nghiệp cổ phần phải có sức

cạnh tranh cao nhất và tạo nên chất lƣợng tăng trƣởng tốt nhất; làm tăng vốn,

tăng lợi nhuận, giảm nợ xấu, chia sẻ rủi ro cho các chủ sở hữu, tạo động lực

làm chủ cho ngƣời lao động, tạo sức mạnh kinh tế để giải quyết các vấn đề xã

hội và môi trƣờng; liên kết đƣợc những nguồn vốn để nó trở thành nguồn vốn

xã hội, thúc đẩy nhanh việc xã hội hóa nguồn vốn và tƣ liệu sản xuất; công

nhân và ngƣời lao động có vị thế làm chủ của những ngƣời cổ đông, trở thành

đồng sở hữu cùng với doanh nghiệp nhà nƣớc. Đặc biệt, M.Landalt (Viện

công nghệ châu Á- AIT), trên cơ sở khảo sát rất kỹ quá trình CPH DNNN ở

Thành phổ Hồ Chí Minh, phân tích những trở ngại và những cơ hội trong quá

trình thực hiện, phân tích quá trình CPH trong các nền kinh tế đang chuyển

đổi và đang phát triển, tác giả đề xuất những biện pháp và quy trình thực hiện

CPH cấp doanh nghiệp ở Việt Nam.

Nghiên cứu sâu hơn về quá trình CPH DNNN, các tác giả Hồ Sỹ Hùng

(2012), Nguyễn Huy Oánh và Lê Văn Bằng (2006), Lê Đình Vinh, Ngô Đăng

Thành (2010), và một số ngƣời khác đã không chỉ dừng lại ở việc tìm giải

pháp để đẩy nhanh tiến độ CPH DNNN, mà còn nghiên cứu giải pháp để đổi

mới các tổng công ty Nhà nƣớc (TCTNN), trong đó tập trung vào việc tìm

hƣớng đi cho các tổng công ty chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty

Mẹ - Con. Theo các tác giả này, nguyên nhân cơ bản khiến các TCTNN

không phát huy đƣợc năng lực trƣớc hết là do bản chất nội tại của chúng. Một

trong những giải pháp đƣợc quan tâm để giải quyết vấn đề nội tại của các

TCTNN là chuyển TCT sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty

con, bởi đó là cách để tạo khả năng tiền tệ hoá mối liên kết kinh tế giữa doanh

nghiệp này với doanh nghiệp khác trong nội bộ các TCT, và điều này có thể

khắc phục một cách cơ bản nhƣợc điểm nội tại của mô hình TCTNN. Hai tác

giả Nguyễn Huy Oánh và Lê Văn Bằng cho rằng, mô hình Công ty Mẹ - Con

14

là một giải pháp lớn để tăng tính minh bạch của của doanh nghiệp nhà nƣớc

và góp phần quan trọng định hƣớng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Nhiều

công trình nghiên cứu thừa nhận tính ƣu việt của mô hình Công ty Mẹ - Con

và đều gợi ý cho việc nhân rộng mô hình này ở Việt Nam. Trong công trình

nghiên cứu khoa học cấp Trƣờng Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội,

với đề tài “Quá trình cải cách các tổng công ty nhà nƣớc ở Việt Nam theo mô

hình Công ty Mẹ - Con”, tác giả Ngô Đăng Thành chỉ rõ: trong xu thế hội

nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các doanh nghiệp đều phải chấp nhận cạnh

tranh bình đẳng, thì sự hiện diện của các TCTNN và nâng cao hiệu quả họat

động của chúng là biện pháp hữu hiệu để đƣơng đầu với các công ty lớn mạnh

của nƣớc ngoài. Do đó, việc đổi mới về tổ chức và hoạt động của các TCTNN,

dần chuyển hoạt động của các TCTNN này theo mô hình Công ty Mẹ - Con,

trên cơ sở đó hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, đủ sức cạnh tranh trên thị

trƣờng trong và ngoài nƣớc là yêu cầu cấp thiết. Tập trung vào tiến trình cải

cách các tổng công ty trong thời gian từ năm 2002 đến năm 2009, đề tài kết

luận, rằng chủ trƣơng đổi mới các TCTNN theo mô hình Công ty mẹ - con là

đúng đắn, đƣợc đƣa ra kịp thời, và có lộ trình thích hợp, đi từ đổi mới về lƣợng

đến đổi mới về chất. Tuy vậy, việc triển khai chủ trƣơng sắp xếp, đổi mới các

TCTNN diễn ra còn chậm và có phần rời rạc; tỷ lệ vốn cổ phần của Nhà nƣớc

trong các TCT đã CPH còn quá cao; việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở

hữu vốn về TCT Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc còn chậm. Những hạn

chế đó đã vô hình chung tạo thành lực cản đối với quyền tự chủ và hoạt động

của doanh nghiệp, theo đó hiệu quả hoạt động của các TCT còn thấp.

+ Những công trình nghiên cứu cổ phần hóa DN N N ở c á c n ư ớc

Trong khoảng 10 năm gần đây, tại các nƣớc Đông Âu, SNG và Trung

Quốc có khá nhiều công trình của cả các tác giả bản xứ lẫn nƣớc ngoài bàn về

DNNN và tƣ nhân hóa, cổ phần hóa DNNN. Các công trình của SNG và

Đông Âu chủ yếu bàn về quá trình thay đổi vị trí, vai trò, tỷ trọng khu vực

15

DNNN gắn với quá trình cải cách chuyển đổi kinh tế. Có thể kể ra những

công trình tiêu biểu nhƣ: D. Sachs (tác phẩm "Tƣ nhân hóa ở Đông Âu"), A.

Rađƣgin (Quá trình tƣ nhân hóa ở Nga) ... và trên các tạp chí chuyên ngành

của Nga có hàng loạt các bài nghiên cứu về diễn biến quá trình tƣ nhân hóa,

ảnh hƣởng của tƣ nhân hóa, các hình thức tƣ nhân hóa... Công trình tiêu biểu

về quá trình cải cách các DNNN ở Trung Quốc là tác phẩm: “Bàn về cải cách

toàn diện DNNN" do Trƣơng Văn Bân chủ biên (đã dịch ra tiếng Việt: NXB

CTQG. H. 1996)...

Có thể mô tả bức tranh nghiên cứu về DNNN, cổ phần hóa, tƣ nhân hóa

ở các nƣớc là một bức tranh đa màu sắc với những quan điểm rất khác nhau

và thƣờng gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng nƣớc đã có khu vực

DNNN nhƣ thế nào, hệ thống kinh tế có thay đổi về cơ chế hay không, thay

đổi nhiều hay ít, nhanh hay chậm. Ở đây có nhiều quan điểm và kinh nghiệm

rất bổ ích cho nƣớc ta nhƣng xét đến cùng chúng chỉ có giá trị tham khảo.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về những vấn đề kinh tế-xã hội nảy sinh

trong quá trình CPH và hậu CPH DNNN

Những công trình viết về các vấn đề này chủ yếu tập trung vào khai

thác khía cạnh hạn chế của quá trình thực hiện CPH. Tiêu biểu trong số các

công trình nhóm này là Trần Ngọc Bút (1998), với bài “Bức xúc của cổ phần

hoá DNNN”, đăng tải trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 4; Trần thị Minh

Ngọc (2008), với đề tài cấp Bộ, tiêu đề “Những yếu tố cản trở quá trình cổ phần

hóa DNNN trên địa bàn Hà Nội hiện nay”; Phạm Ngọc Linh (2009), với bài viết

đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 11(451), tiêu đề “Doanh nghiệp nhà

nước và những vấn đề sau cổ phần hóa”... Các công trình này đã tập trung

nghiên cứu mổ xẻ các vấn đề gặp phải trong quá trình CPH, chỉ rõ những

phân vân, những bất cập nảy sinh trong và sau CPH DNNN nhƣ: Định giá

doanh nghiệp để CPH thƣờng chƣa sát với thị trƣờng, vƣớng mắc khó khăn

trong giải quyết nợ của các doanh nghiệp, các chính sách đối với ngƣời lao

16

động trong doanh nghiệp nhà nƣớc CPH còn nhiều bất cập, việc quản lý tài

chính của các doanh nghiệp sau CPH còn nhiều lúng túng. Đó cũng là quan

điểm của nhiều bài tham luận trong Hội thảo khoa học quốc gia chủ đề “Cổ

phần hóa DNNN” (2001), trong đó có tác giả Trần Tiến Cƣờng, với báo cáo

“Các vấn đề tồn tại và phát sinh của DNNN sau cổ phần hoá đa dạng sở

hữu”; Lê Hoàng Hải, với bài “Một số vướng mắc về tài chính đối với doanh

nghiệp sau cổ phần hoá và đa dạng sở hữu”.

Cũng có những bài viết khai thác những vấn đề hết sức cụ thể, nảy sinh

trong quá trình CPH DNNN. Tác giả Nguyễn Thị Kim Phƣợng (2001) đã đi

sâu nghiên cứu các yếu tố tâm lý xã hội ảnh hƣởng đến quá trình CPH

DNNN, trên cơ sở đó dự báo xu hƣớng phát triển và đề xuất các giải pháp để

định hƣớng hình thành phát triển các yếu tố tâm lý xã hội tích cực đối với quá

trình CPH DNNN. Tác giả Chu Đức Hoài (2001) thì đi sâu nghiên cứu cơ sở

lý luận và thực tiễn của việc giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội đối với ngƣời

lao động trong các DNNN khi CPH. Còn tác giả Phạm Quang Huy (2002) và

Nguyễn Cảnh Hoan (2002) lại phân tích khía cạnh tác động của tài chính và thị

trƣờng Chứng khoán đến quá trình CPH DNNN.

Việc nghiên cứu sự chuyển biến quan hệ sở hữu trong quá trình CPH

DNNN ở Việt Nam một cách căn bản nhất phải kể đến luận án tiến sĩ kinh tế

chính trị của NCS Nguyễn Lê Quý Hiển (2012). Luận án khẳng định: sự

chuyển biến quan hệ sở hữu trong CPH DNNN hiện nay thực chất là chuyển

từ chủ thể sở hữu đơn nhất sang đa chủ thể sở hữu, theo đó, mối quan hệ giữa

các chủ thể sở hữu sẽ chuyển biến theo hƣớng giảm sở hữu Nhà nƣớc, tăng sở

hữu tƣ nhân, nhờ đó các tài sản trong DNNN đƣợc CPH đƣợc khai thác và sử

dụng có hiệu quả hơn. Bằng việc phân tích, so sánh, đánh giá những tác động

của sự biến đổi quan hệ sở hữu đến hiệu quả kinh doanh của DNNN sau CPH,

tác giả một lần nữa khẳng định về sự cần thiết, tính đúng đắn của chủ trƣơng

CPH DNNN của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam.

17

1.1.3. Các công trình nghiên cứu quá trình CPH DNNN trên địa bàn tỉnh

Thanh Hóa

Nghiên cứu vấn đề CPH DNNN, nhất là những vấn đề KT-XH nảy

sinh trong quá trình CPH tại tỉnh Thanh Hóa hiện chƣa có nhiều. Không kể

các Báo cáo hàng năm của Ủy ban Nhân dân tỉnh, của các các Sở, Ban Ngành

hữu quan, đã có một số luận văn thạc sĩ, một vài cuộc hội thảo khoa học đƣợc

tổ chức bàn về vấn đề này. Những công trình nghiên cứu đã công bố viết về

quá trình CPH DNNN và những vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình này

tại tỉnh Thanh Hóa có thể kể đến là Hội thảo khoa học chủ đề “Đổi mới phát

huy chủ đạo của DNNN” (1998) do Ban Kinh tế tỉnh Thanh Hóa tổ chức; Hội

thảo khoa học chủ đề “Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Thanh Hóa” (2009), do

Trƣờng Đại học Hồng Đức tổ chức. Ngoài ra có một số bài (không nhiều) viết

về từng doanh nghiệp cụ thể, đăng tải trên Báo Thanh Hóa của Đỗ Gia Ngân

(2010); Trần Đoàn Viên (2011, 2012); Phạm Ngọc (2013); Lê Hà (2013);

Tùng Dƣơng (2014) và Nguyễn Xuân (2015). Các công trình này chủ yếu

khẳng định tính ƣu việt của CPH DNNN và từ đó phản ánh sự tiến bộ của các

DNNN sau CPH.

Hầu hết các công trình trên là những bài viết ngắn, chủ yếu tập trung

phản ánh một vài khía cạnh của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc hoặc

phản ảnh hiệu quả sản xuất kinh doanh của một hoặc vài doanh nghiệp nhà

nƣớc sau cổ phần để khẳng định tính tất yếu, tính ƣu việt của doanh nghiệp

nhà nƣớc sau cổ phần hóa so với các doanh nghiệp nhà nƣớc trƣớc đó, nhƣ:

“Công ty cổ phần Sông Đà 25, nổ lực vƣơn lên bƣớc phát triển mới”; “Công

ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn, đồng thuận để phát triển”; “Công ty cổ phần

Dƣợc - Vật tƣ y tế Thanh Hóa, bƣớc tiến mới sau 10 năm cổ phần hóa”; hay

“Công ty cổ phần mía đƣờng Lam Sơn gắn với phát triển nông nghiệp, nông

thôn miền tây”.v.v...

18

1.2. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố và những vấn đề

đặt ra cần đƣợc nghiên cứu tiếp

1.2.1. Những kết quả chủ yếu của các công trình nghiên cứu trên

1.2.1.1. Về vấn đề CPH DNNN.

Từ các công trình đã công bố nêu trên, có thể khái quát một số kết quả

nghiên cứu chủ yếu nhƣ sau:

+ Các công trình đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về

CPH, về vai trò của CTCP trong nền kinh tế thị trƣờng. Các công trình đã phân

tích CPH DNNN ở nhiều phƣơng diện, nhiều khía cạnh khác nhau, từ đó đã từng

bƣớc hình thành cơ sở lý luận của CPH DNNN, trên cơ sở đó khẳng định tính tất

yếu khách quan và sự cần thiết của CPH DNNN trong tiến trình đổi mới và tái

cấu trúc lại nền kinh tế của Việt Nam. Với các cách tiếp cận khác nhau về quá

trình này, các tác giả đều đƣa đến kết luận CPH DNNN là một xu thế phát triển

tất yếu hợp quy luật trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trƣờng XHCN ở

Việt Nam hiện nay. Một số công trình nhấn mạnh: cổ phần hoá doanh nghiệp

nhà nƣớc một xu thế khách quan ở nƣớc ta hiện nay, đó là sự lựa chọn hợp quy

luật, đáp ứng yêu cầu đổi mới và cơ cấu lại nền kinh tế; CTCP là hình thức tổ

chức kinh doanh tiên tiến văn minh và hiệu quả là cuộc cách mạng về chuyển

đổi sở hữu trong kinh tế quốc doanh, thay đổi mục đích kinh doanh. Tóm lại, cổ

phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là dòng chảy của đa sở hữu đa thành phần, một

chiến lƣợc phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nƣớc hiện nay.

+ Một số công trình đã mở rộng đối tƣợng nghiên cứu ra ngoài phạm vi

CPH. Đó là sự nghiên cứu về quá trình đổi mới, cơ cấu lại khu vực doanh

nghiệp Nhà nƣớc ở Việt nam. Thông qua việc phân tích quá trình đổi mới khu

vực doanh nghiệp Nhà nƣớc, làm rõ những kết quả đã đạt đƣợc của các chủ

trƣơng chính sách chuyển đổi sở hữu và thí điểm cổ phần hóa. Phân tích lý do

chủ yếu dẫn đến sự chậm trễ hay chƣa thành công của chủ trƣơng cổ phần

hóa; đƣa ra những vấn đề cần phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu, xử lý.

19

+ Các công trình đã tập trung nghiên cứu tiến trình CPH DNNN ở các

cấp độ và giai đoạn khác nhau, từ đó đã phác họa đƣợc bức tranh đa màu sắc

về quá trình CPH DNNN tại Việt Nam từ năm 2002 đến những năm đầu thập

niên 2010. Quá trình triển khai thực hiện chủ trƣơng CPH DNNN và tình hình

thực hiện chính sách của Nhà nƣớc về vấn đề này đã đƣợc các tác giả phân tích

một cách khá toàn diện, trên cơ sở đó chỉ ra những thành công, hạn chế và

nguyên nhân của những thành công và hạn chế đó, đồng thời tìm ra những khó

khăn, vƣớng mắc có tính khách quan gây cản trở cho quá trình thực hiện CPH

DNNN. Những vƣớng mắc đƣợc nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra là: khung khổ pháp

lý về cổ phần hóa DNNN còn thiếu; quan hệ sở hữu trong các DNNN sau CPH

chƣa có sự chuyển biến rõ rệt; hạ tầng tài chính và các đơn vị trung gian hỗ trợ

cổ phần hóa cũng còn thiếu; vấn đề bán cổ phần cho cán bộ, công nhân trong

doanh nghiệp (với những điều kiện ƣu đãi) và chính sách đối với ngƣời lao

động khi cổ phần hóa còn nhiều bất cập.v.v...

+ Đã đúc kết đƣợc một số bài học, cả thành công và thất bại, trong quá

trình CPH DNNN của một số quốc gia trên thế giới, nhất là của các nƣớc

Trung Quốc, SNG và Đông Âu, một số nƣớc châu Á nhƣ Đài Loan, Hàn

Quốc, Malaysia.... Khi nghiên cứu CPH DNNN trên thế giới, các tác giả đã

tập trung nghiên cứu bối cảnh, quá trình và cách thức tiến hành CPH DNNN.

Một số công trình đã tiếp cận tiến trình CPH DNNN dƣới góc độ xem xét các

giải pháp tái cơ cấu các DNNN ở các quốc gia khác nhau, nhất là ở các nƣớc

có nền kinh tế chuyển đổi- những nƣớc có bối cảnh thực hiện chuyển đổi cơ

chế tƣơng tự nhƣ Việt Nam, nhằm rút ra bài học có thể áp dụng vào Việt Nam.

+ Các nghiên cứu cũng đã đề xuất những quan điểm và giải pháp nâng

cao hiệu quả tiến trình CPH DNNN ở Việt Nam trong những năm tiếp theo, cả

ở tầm vĩ mô và vi mô. Một số giải pháp đƣợc nhiều công trình đề cập là: phải

có sự quyết tâm của Chính phủ; phải tạo điều kiện pháp lý cho cổ phần hoá;

phải có bộ máy điều hành đủ mạnh; cần thành lập quỹ hỗ trợ cổ phần hoá....

20

1.2.1.2. Các nghiên cứu về những vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh.

Những nghiên cứu về vấn đề này chƣa nhiều, chủ yếu đề cập đến một

số khía cạnh nhƣ vấn đề chuyển đổi cơ cấu sở hữu; vấn đề định giá doanh

nghiệp để CPH thƣờng chƣa sát với thị trƣờng; vƣớng mắc khó khăn trong

giải quyết nợ của các doanh nghiệp; các chính sách đối với ngƣời lao động

trong doanh nghiệp nhà nƣớc CPH; việc quản lý tài chính của các doanh

nghiệp sau CPH còn nhiều lúng túng,…Hơn nữa, các nghiên cứu này chƣa

đƣợc tiến hành một cách có hệ thống và chƣa luận giải một cách thấu đáo

trên cơ sở kết nối, xâu chuỗi các vấn đề vƣớng mắc, nảy sinh trên cơ sở các

mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể kinh tế có liên quan, bắt nguồn từ tính

chất chuyển đổi của quán trình CPH.

1.2.2. Một số vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu tiếp

Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập vấn đề CPH DNNN dƣới

nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó mỗi góc nhìn đều đƣợc phân tích, đánh

giá khá sát thực. Đó là nguồn tài liệu vô cùng quý giá để tác giả luận án kế

thừa. Tuy nhiên, trƣớc yêu cầu của sự nghiệp đổi mới kinh tế trong bối cảnh

hội nhập quốc tế, nhất là tại một địa phƣơng KT-XH còn chƣa phát triển

mạnh nhƣ tỉnh Thanh Hóa, nhiều vấn đề đang đặt ra, cả lý luận và thực tiễn

đòi hỏi phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu thấu đáo, bởi những công trình trên

hoặc là chƣa giải quyết triệt để, hoặc là do giới hạn bởi phạm vi thời gian

nghiên cứu (chƣa thể cập nhật tình hình) trong khi nền kinh tế nói chung, tiến

trình CPH DNNN nói riêng vẫn tiếp tục vận động. Cụ thể, những vấn đề chủ

yếu đặt ra mà luận án có nhiệm vụ phải giải quyết là:

Thứ nhất, chƣa có sự thống nhất về quan niệm CPH DNNN.

Mặc dù đã tiến hành CPH DNNN trên thực tế đƣợc hơn 20 năm song một

số vấn đề đặt ra nhƣng chƣa có câu trả lời thống nhất giữa các nhà nghiên

cứu, trong đó nổi lên là: Thực chất của quá trình CPH DNNN là gì? Phải

chăng nó chỉ đơn giản chỉ là quá trình chuyển đối từ một hình thức sở hữu

21

đơn nhất (nhà nƣớc) sang hình thức đa sở hữu? Cổ phần hóa và tƣ nhân hóa là

một hay hai? Việc nhấn mạnh sự khác biệt giữa CPH và tƣ nhân hóa cũng nhƣ

giữ quá trình CPH trong khuôn khổ “phi tƣ nhân hóa” có thể đƣa tiến trình đi

đến thành công – tăng cƣờng sức sống và nâng cao hiệu quả chung của nền

kinh tế? Nhà nƣớc có nên nắm giữ tỷ lệ vốn khống chế trong các DNNN CPH

không? nếu không thì nên nắm giữ ở mức độ nào là tốt?

Thứ hai, Mặc dù những vấn đề KT-XH nẩy sinh, có tác động tiêu cực

đến quá trình CPH DNNN ở Việt Nam đã đƣợc đề cập, phân tích ở những mức

độ khác nhau trong các công trình nghiên cứu về CPH. song việc nghiên cứu

chúng một cách hệ thống, nhƣ một chủ đề chuyên biệt, nhằm cắt nghĩa gốc rễ

sâu sa của các vấn đề trên cũng nhƣ biểu hiện cụ thể của chúng trong tiến trình

CPH, dù xét trên phạm vi cả nƣớc nói chung hay trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

nói riêng hầu nhƣ chƣa đƣợc thực hiện. Có thể nói, cho đến nay các nghiên

cứu lĩnh vực này, đặc biệt gắn với thực tiễn Thanh Hóa, mới chỉ dừng ở mức

chấm phá, đƣợc trình bày kết hợp với các vấn đề khác trong một chủ đề rộng

hơn. Nói cách khác, hiện nay vẫn chƣa có một công trình nghiên cứu chuyên

sâu về vấn đề này, nhất là với tƣ cách một luận án tiến sĩ chuyên ngành kinh tế

chính trị.

Thứ ba, các công trình đi trƣớc tuy đã nghiên cứu khá toàn diện về lý

luận và thực tiễn CPH DNNN tại Việt Nam song phần lớn các công trình

trên mới chỉ nghiên cứu quá trình CPH DNNN trong giới hạn thời gian từ

năm 2010 trở về trƣớc. Những công trình nghiên cứu vấn đề này sau năm

2010 còn rất ít, trong khi bối cảnh thực hiện CPH các DNNN mấy năm gần

đây đã có nhiều thay đổi. Đặc biệt những vấn đề KT-XH sau cổ phần hoá

các DNNN, nhất là những vấn đề có tác động tiêu cực trƣớc đây chƣa phát

sinh, đến nay mới bộc lộ với những diễn biến phức tạp, đòi hỏi phải đƣợc

nhận thức và giải quyết.

22

Những khoảng trống lý luận và thực tiễn trên đây đòi hỏi phải đƣợc

bổ sung, lấp đầy bởi những công trình nghiên cứu tiếp theo nhằm làm cho

vấn đề CPH DNNN, đặc biệt là những vấn đề mới nảy sinh có tác động

tiêu cực của quá trình đó đƣợc thể hiện một cách toàn diện, đầy đủ và hệ

thống. Luận án này sẽ cố gắng góp phần đáp ứng yêu cầu đó.

23

Kết luận Chƣơng 1

CPH DNNN là một quá trình tất yếu ở Việt Nam trong bối cảnh chuyển sang

kinh tế thị trƣờng và hội nhập Quốc tế. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên

quan đến vấn đề này đƣợc công bố trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng đa

dạng, nhƣ: sách, báo, tạp chí, đề tài NCKH, Hội thảo khoa học, luận văn, luận án.

Những công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh, nhiều cấp độ,

nhiều giai đoạn khác nhau của vấn đề cổ phần hóa DNNN, đƣa ra những kết luận,

những gợi ý khác nhau nhằm tiếp tục tiến trình CPH DNNN một cách nhanh hơn

và hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, do sự vận động của nền kinh tế là không ngừng, tiến trình CPH

DNNN vẫn còn đã và đang tiếp tục diễn ra, vì vậy nhiều vấn đề đặt ra cần đƣợc

tiếp tục nghiên cứu trong những công trình tiếp theo của các nhà nghiên cứu, các

nhà quản lý cũng nhƣ các nhà hoạch định chính sách. Luận án mà chúng tôi đang

thực hiện, với đề tài “Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình cổ

phần hóa DNNN ở tỉnh Thanh Hóa” sẽ là một trong những công trình nghiên cứu

cần thiết đó.

24

Chƣơng 2

CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ - XÃ HỘI NẢY SINH TRONG QUÁ TRÌNH

CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ

THỰC TIỄN

2.1. Khái lƣợc chung về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc

2.1.1. Doanh nghiệp nhà nước và vai trò của chúng trong nền kinh tế thị

trường

Ngƣời ta có thể có các cách hiểu khác nhau về khái niệm DNNN. Theo

cách hiểu đƣợc nhiều ngƣời chia sẻ, một doanh nghiệp đƣợc coi là DNNN khi

nó : 1) thuộc quyền kiểm soát, chi phối của nhà nƣớc, khi nhà nƣớc hoàn toàn

sở hữu DN hoặc là cổ đông chính của DN ; 2) có chức năng sản xuất hàng

hóa, hay dịch vụ có thể bán ra trên thị trƣờng (cho công chúng, các DN tƣ

nhân hay DNNN khác) ; 3) ít nhiều vẫn theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, mặc dù

nó có thể vẫn phải đảm trách các chức năng xã hội khác mà nhà nƣớc ủy thác

[43, tr.601-602]. Theo cách hiểu này, DNNN đƣợc phân biệt với các tổ chức,

hay cơ quan công cộng thông thƣờng.

Trong các nền kinh tế KHH tập trung, khi mà sở hữu công trở thành

hình thức thống trị tuyệt đối và đƣợc xem là hình thức sở hữu phù hợp với

bản chất của CNXH, khu vực DNNN bao trùm trong toàn bộ nền kinh tế, đặc

biệt là trong lĩnh vực công nghiệp. Các DNNN cung cấp đại bộ phận các hàng

hóa, dịch vụ cho nhu cầu xã hội. Do các quan hệ thị trƣờng không đƣợc thừa

nhận một cách thực chất, các DNNN không hoạt động nhƣ một chủ thể kinh

doanh độc lập, mà chịu sự kiểm soát, chi phối trực tiếp bởi nhà nƣớc. Trong

thời kỳ này, chúng thƣờng đƣợc gọi là xí nghiệp nhà nƣớc, hay nhà máy quốc

doanh thay vì đƣợc xem nhƣ các « doanh nghiệp ».

Trong nền kinh tế thị trƣờng, khi mà sở hữu tƣ nhân đƣợc thừa nhận,

việc sản xuất đại đa số các hàng hóa, dịch vụ thông thƣờng là do các doanh

25

nghiệp tƣ nhân đảm nhận. Trong các nền kinh tế thị trƣờng phát triển, nếu

không kể đến các dịch vụ công, không có khả năng thƣơng mại hóa nhƣ dịch

vụ quốc phòng, luật pháp, bảo đảm an ninh xã hội, đƣợc cung ứng bởi các tổ

chức công thì các DNNN chỉ tham gia vào việc cung cấp một số hàng hóa

đƣợc xem là quan trọng, có liên quan đến đông đảo ngƣời tiêu dùng nhƣ điện,

nƣớc sạch, dịch vụ bƣu chính, viễn thông, vận tải hàng không hay đƣờng sắt,

một số dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ y tế, giáo dục…mặc dù điều đó không loại

trừ sự cung cấp của khu vực tƣ nhân. Tuy vậy, ở các nền kinh tế đang phát triển,

DNNN thƣờng đóng giữ một vai trò to lớn hơn, đặc biệt là trong ngành công

nghiệp khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhất là trong thời kỳ từ sau chiến tranh

thế giới thứ hai đến những năm 80 của thế kỷ trƣớc. Nhiều nƣớc trong thời kỳ

này, sau khi giành đƣợc độc lập, trong điều kiện năng lực của khu vực tƣ nhân

trong nƣớc còn hạn chế, đã sử dụng các DNNN nhƣ một công cụ để tiến hành và

thúc đẩy công nghiệp hóa, phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, thoát dần khỏi

sự phụ thuộc vào các nƣớc « chính quốc » trƣớc đây. DNNN đƣợc nhìn nhận là

có thể đóng giữ nhiều vai trò khác nhau và đó là các lý do đƣợc đƣa ra để biện

minh cho sự thành lập các DNNN : 1) DNNN đƣợc xem là một công cụ để huy

động và tích lũy vốn, phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa; 2) DNNN đƣợc coi

nhƣ là một kênh tạo việc làm mới hoặc duy trì việc làm cũ (khi nhà nƣớc tiếp

quản các DNTN làm ăn thua lỗ, có nguy cơ phá sản) ; 3) DNNN đƣợc xem là

một công cụ để nhà nƣớc kiểm soát nền kinh tế - theo nghĩa này, các DNNN

đƣợc coi là có « vai trò chủ đạo », chiếm lĩnh những « đỉnh cao chỉ huy » hay

những ngành đƣợc xem là « then chốt » đối với nền kinh tế ; 4) DNNN cũng có

thể đƣợc lập ra để phục vụ một mục tiêu xã hội : phân phối lại thu nhập, tạo ra sự

cân đối trong sự phát triển giữa các vùng, miền ; tạo công ăn việc làm …Với các

lý do này, trong một thời gian dài, khu vực DNNN trở nên khá phát triển ngay cả

ở nhiều nƣớc không thuộc hệ thống XHCN cũ nhƣ Ấn Độ, Pakistan, nhiều nƣớc

ở Nam Mỹ hay Châu Phi.

26

Tuy nhiên, từ những năm 1980, những hạn chế của khu vực các DNNN

dần dần đƣợc bộc lộ rõ nét. Ngƣời ta bắt đầu nhận ra rằng các kỳ vọng mà xã

hội gửi gắm vào các DNNN trong rất nhiều trƣờng hợp không trở thành hiện

thực. Ở hầu khắp mọi nơi, các DNNN thƣờng có hiệu quả hoạt động thấp hơn

các DN tƣ nhân ; nhiều DNNN hoạt động trong tình trạng thua lỗ kéo dài, vì

thế nhìn chung ở các nƣớc đang phát triển các DNNN không phải là nguồn

tạo ra tích lũy ròng mà trái lại, lại là nơi sử dụng những nguồn tích lũy [ 43;

tr.616]. So với khu vực tƣ nhân, khu vực các DNNN cũng thƣờng ít thành

công hơn trong việc tạo ra việc làm mới, do chúng thƣờng tập trung vào

những ngành thâm dụng vốn, đặc biệt là những ngành khai thác chế biến tài

nguyên thiên nhiên [ 43; tr.628]. Trách nhiệm xã hội mà các DNNN phải đảm

nhận thƣờng làm gia tăng các khoản chi phí kinh doanh của các DN và che

mờ đi những yếu kém của chúng. Chi phí để thực hiện các mục tiêu xã hội

nhất định (tạo việc làm, trợ cấp, trợ giá hay đảm bảo phúc lợi cho ngƣời

nghèo…) không đƣợc thể hiện rõ ràng và trở nên tốn kém so với các hình

thức trực tiếp khác [ 87; tr.248-255]. Tuy nắm giữ những ngành, lĩnh vực

đƣợc xem là « then chốt », thƣờng có vị thế độc quyền và đƣợc hƣởng nhiều

ƣu đãi, nhƣng do hoạt động không hiệu quả nên các DN này không đóng đƣợc

vai trò « dẫn dắt » cũng nhƣ ảnh hƣởng tích cực đối với nền kinh tế.

Từ thực tiễn trên, dần dần ngƣời ta đi đến một nhận thức rõ hơn về vai

trò của các các DNNN trong nền kinh tế thị trƣờng. Theo trƣờng phái kinh tế

học công cộng, vai trò này bắt nguồn từ vai trò của Nhà nƣớc trong việc sửa

chữa các thất bại thị trƣờng để đảm bảo nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn,

ổn định hơn và công bằng hơn. Tuy nhiên, để thực hiện vai trò của mình, nhà

nƣớc có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhƣ hệ thống pháp luật, các chính

sách thuế, chi tiêu, chính sách tiền tệ…, và trong nhiều trƣờng hợp, các công

cụ này tỏ ra là hiệu quả hơn so với công cụ « các DNNN » vì chúng cho phép

nhà nƣớc đứng ngoài các hoạt động sản xuất kinh doanh cụ thể nhƣ một

27

« trọng tài » hay tác nhân trung gian giữa các nhà sản xuất với nhau, giữa

ngƣời sản xuất và tiêu dùng… hơn là một “trọng tài” kiêm “cầu thủ”.

Chức năng chính của DNNN trong các nền kinh tế thị trƣờng là cung

cấp các hàng hóa, dịch vụ công (thƣờng là trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng);

một số hàng hóa tƣ có tầm quan trọng đặc biệt liên quan đến lợi ích chung của

nhiều ngƣời (điện, nƣớc…); một số hàng hóa, dịch vụ có ý nghĩa xã hội cao

mà khu vực tƣ nhân không muốn hoặc chƣa có điều kiện cung cấp (những

hàng hóa, dịch vụ kiểu này ngày càng ít trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện

nay). Trong số các hàng hóa công, nhiều hàng hóa nhƣ quốc phòng, an ninh

xã hội… đƣợc cung cấp thông qua các tổ chức công chứ không phải thông

qua hệ thống DNNN hiểu theo khái niệm mà luận án đã nêu.

Với chức năng nhƣ vậy, ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy ở các nền kinh

tế thị trƣờng phát triển, nơi mà nền kinh tế vận hành tƣơng đối hiệu quả, khu

vực DNNN chỉ chiếm vị trí tƣơng đối khiêm tốn so với khu vực tƣ nhân.

Ở các nƣớc đang phát triển, khi mà KVTN trong nƣớc còn kém phát

triển, chƣa có khả năng thâm nhập vào những ngành, lĩnh vực công nghệ tiên

tiến, đòi hỏi đầu tƣ vốn lớn song có triển vọng hay lợi thế so sánh trong tƣơng

lai hay những ngành, lĩnh vực quan trọng hay thiết yếu song lại cần quy mô

đầu tƣ vốn lớn…thì, về mặt lý thuyết, nhà nƣớc có thể dùng DNNN để thúc

đẩy sự phát triển các ngành, lĩnh vực này. Khi KVTN trƣởng thành hơn,

chúng sẽ đƣợc chuyển giao lại cho KVTN. Trên thực tiễn, khi năng lực đầu tƣ

của chính nhà nƣớc là hạn chế thì khó khăn ở đây là : làm thế nào để xác định

chính xác những ngành/lĩnh vực có lợi thế so sánh tƣơng lai để ƣu tiên đầu

tƣ ? Bên cạnh đó, một khi đã đƣợc thành lập, các DNNN lại có những động

cơ riêng để kéo dài sự tồn tại của mình (kể cả khi chúng hoạt động không hiệu

quả), do đó, việc “chuyển giao‟ hiệu quả các DNNN cho KVTN không dễ

thực hiện.

Tóm lại, khác với mô hình kinh tế Kế hoạch hóa tập trung hay Kinh tế chỉ

28

huy, trong kinh tế thị trƣờng, khu vực DNNN có một vai trò tƣơng đối khiêm tốn

trong việc sản xuất, cung cấp các hàng hóa, dịch vụ. Chúng chỉ là một trong

nhiều công cụ để nhà nƣớc thực hiện vai trò, chức năng của mình; bổ sung, hỗ

trợ cho khu vực tƣ nhân để đảm bảo hiệu quả chung của nền kinh tế... Tuy vậy,

do nhiều nguyên nhân khác nhau, kể cả là do các yếu tố lịch sử để lại mà trong

các nƣớc đang phát triển, khu vực DNNN có thể vẫn là một khu vực kinh tế lớn,

có ảnh hƣởng không nhỏ đến toàn bộ sự vận hành của nền kinh tế chung.

2.1.2. Những hạn chế của các DNNN và nguyên nhân của chúng

Hạn chế chung của khu vực DNNN trong các nền kinh tế thị trƣờng là

hiệu quả hoạt động của khu vực này nhìn chung thấp hơn so với KVTN .

Tình trạng chung mà ngƣời ta thƣờng nhắc đến khi nói về khu vực DNNN,

nhất là ở những nơi mà quy mô khu vực này tƣơng đối lớn, khả năng giám sát

của nhà nƣớc còn nhiều hạn chế, là: nhiều DN thua lỗ, kéo dài; một số DN tuy

không thua lỗ song tỷ suất sinh lời thƣờng thấp so với các DN tƣ nhân thông

thƣờng; khả năng cạnh tranh hạn chế; tính năng động, sáng tạo, đổi mới thấp;

tình trạng tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng phát sinh... Do hiệu quả hoạt

động thấp, mức độ đóng góp của khu vực DNNN trong GDP, cho ngân sách

nhà nƣớc cũng nhƣ trong việc tạo ra công ăn việc làm thƣờng thấp so với giá

trị các nguồn lực xã hội mà khu vực này nắm giữ.

Nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế, yếu kém của khu vực

DNNN bắt nguồn từ chính tính chất của sở hữu công hay những hạn chế trong

việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực công trong nền kinh tế thị trƣờng.

Điều này có thể giải thích thông qua một số khía cạnh sau:

- Quyết định phân bổ, sử dụng tài sản hay nguồn lực công là một dạng

quyết định tập thể khác hẳn các quyết định cá nhân. Nó thƣờng gắn với các quá

trình chính trị phức tạp, trong đó những ngƣời sở hữu đích thực chỉ là những

ngƣời “đồng sở hữu”. Khó khăn ở đây là làm thế nào để biến các quyết định

của các cá nhân khác nhau thành một quyết định tập thể chung, phản ánh đƣợc

29

nguyện vọng và lợi ích chung của các thành viên? Lý thuyết về “Lựa chọn

công cộng”, với Định lý về Tính không thể của Arrow [87; tr.211-212] đã

chứng minh rằng: ngƣời ta không thể thiết lập đƣợc các quy tắc để có thể ra

đƣợc các quyết định tập thể có hiệu quả. Khác hẳn các quyết định cá nhân đối

với các tài sản tƣ nhân, quyết định liên quan đến tài sản công luôn tiềm ẩn nguy

cơ thiếu hiệu quả.

- Sở hữu toàn dân thƣờng phải đƣợc thực hiện thông qua sở hữu nhà

nƣớc. Những chính khách và công chức nhà nƣớc thực chất chỉ là những

ngƣời đại diện cho nhân dân, đƣợc nhân dân ủy quyền để quản lý các tài sản

công. Sự bất cân xứng về quyền lực và thông tin giữa những người được ủy

quyền và những người đồng sở hữu dễ dẫn đến sự lạm dụng trong việc sử

dụng các tài sản công từ phía những ngƣời đƣợc ủy quyền.

- Chế độ đồng sở hữu không khuyến khích những ngƣời đƣợc giao quyền

quản lý các tài sản công (ví dụ các giám đốc DNNN) sử dụng các tài sản này

một cách có hiệu quả nhƣ tài sản cá nhân của họ. Ở đây tồn tại sự xung đột lợi

ích giữa ngƣời sở hữu (toàn dân) và ngƣời quản lý (ngƣời có quyền ra quyết

định trực tiếp đối với các tài sản). Sự khác biệt về lợi ích và chi phí mà xã hội

hay cộng đồng phải gánh chịu với lợi ích và chi phí của chính cá nhân ngƣời

đƣợc ủy thác quản lý thƣờng rất lớn có thể thúc đẩy ngƣời quản lý đƣa ra

những quyết định có lợi cho mình nhƣng không có lợi, hoặc thậm chí gây

thiệt hại lớn cho xã hội. Ở các DNNN, hiện tƣợng DN thua lỗ, tài sản công bị

thất thoát, song giám đốc DNNN vẫn đƣợc hƣởng lƣơng cao hoặc giàu có là

không hiếm.

- Chế độ đồng sở hữu không khuyến khích từng ngƣời dân tận tâm giám

sát việc sử dụng các tài sản mà mình chỉ là ngƣời đồng sở hữu, chứ không

phải là ngƣời sở hữu tƣ nhân. Một ngƣời không bỏ chút thời gian, công sức

hay tiền bạc nào để theo dõi, giám sát, bảo vệ các tài sản công trƣớc sự lạm

dụng có thể của những ngƣời đƣợc ủy thác quản lý nào đó vẫn có thể giữ

30

đƣợc phần lợi ích của mình khi những tài sản đó đƣợc bảo vệ bởi thời gian,

công sức hay tiền bạc của ngƣời khác. Chính vì thế, những ngƣời đồng sở

hữu, (nhất là khi họ chỉ là một phần tử nhỏ bé trong một cộng đồng sở hữu

chung to lớn) luôn có xu hƣớng ỷ lại vào sự giám sát của người khác, hƣởng

lợi trên sự giám sát của ngƣời khác. Đây chính là hạn chế bắt nguồn từ hiện

tƣợng “kẻ ăn không”- những ngƣời chỉ muốn thụ hƣởng một lợi ích nào đó

mà không muốn trả tiền hay công sức mà kinh tế học thƣờng đề cập.

Tất cả những điều này khiến những tài sản công nói chung, và tài sản

công trong các DNNN nói riêng khó đƣợc phân bổ và sử dụng hiệu quả nhƣ

các tài sản thuộc về sở hữu của các cá nhân cụ thể, xác định [52; tr. 4 - 7].

Ngoài ra, những yếu tố sau cũng làm các DNNN khó hoạt động hiệu quả:

- Vì các lý do khác nhau, các DNNN thƣờng hoạt động trong môi trƣờng

thiếu vắng cạnh tranh, thƣờng đƣợc che chắn, hoặc nhận ƣu đãi từ phía nhà

nƣớc. Khi hoạt động trong một môi trƣờng thiếu các áp lực cạnh tranh cần

thiết, DN không có động lực để buộc phải luôn luôn đổi mới và không ngừng

nâng cao năng lực cạnh tranh. Vì thế, về dài hạn, các DNNN thƣờng hoạt

động không hiệu quả

- Các DNNN thƣờng ít bị đối diện với nguy cơ phá sản, do chúng luôn

có thể trông chờ vào sự yểm trợ cần thiết của nhà nƣớc, ngay cả khi chúng

làm ăn thua lỗ kéo dài. Một DN không lo bị phá sản do các quyết định sai lầm

nghĩa là nó không thực sự bị trả giá vì những quyết định hay lựa chọn của

mình. Trong trƣờng hợp này, vô hình chung, các quyết định thiếu cân nhắc,

thiếu hiệu quả đƣợc khuyến khích.

- Hệ thống khuyến khích và trừng phạt đối với các cá nhân trong các

DNNN thƣờng yếu hơn so với các DNTN. Do những ràng buộc khác nhau,

chế độ lƣơng, thƣởng trong các DNNN thƣờng không linh hoạt nhƣ ở trong

các DNTN. Hệ thống lƣơng, thƣởng thƣờng đƣợc quy định một cách cứng

nhắc, bị kiểm soát bởi những chính sách hay quy định chung của nhà nƣớc

31

(điều cần thiết để tránh sự lạm dụng ngân quỹ công). Chênh lệch lƣơng giữa

những ngƣời lao động khác nhau, có năng suất và đóng góp khác nhau, không

đủ mạnh nhƣ ở các DNTN. Hệ thống lƣơng nhƣ vậy không tạo ra sự khuyến

khích mạnh mẽ đối với những ngƣời tài năng, những lao động giỏi, có năng

suất lao động cao. Bên cạnh đó, việc sa thải, trừng phạt những ngƣời lao động

không chăm chỉ, vi phạm kỷ luật hay đơn giản là những ngƣời có năng suất

thấp, không phù hợp với sự phát triển của DN trong khu vực công thƣờng

không dễ dàng nhƣ ở các DNTN. Nói một cách khác, ở các DNNN, các

khuyến khích cá nhân hƣớng đến tính hiệu quả tỏ ra yếu hơn nhiều so với ở

các DNTN cả về phƣơng diện “thƣởng” đối với những ngƣời giỏi, năng suất

cao lẫn phƣơng diện “phạt” với những ngƣời “yếu kém‟, năng suất thấp.

- Sự lẫn lộn, chồng chéo giữa các mục tiêu kinh doanh và mục tiêu xã hội

mà DNNN thƣờng phải đảm nhận cũng làm cho các DNNN hoạt động kém

hiệu quả. Với một DNTN thông thƣờng, mục tiêu lợi nhuận luôn đƣợc ƣu tiên

và đƣợc xác định một cách rành mạch. Trong điều kiện đó, nó buộc và có động

cơ thực sự để hoạt động một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, với DNNN, trong

nhiều trƣờng hợp, ngoài việc theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, nó có thể phải gánh

vác một số nhiệm vụ có tính chất xã hội (giải quyết việc làm, phát triển kinh tế

vùng sâu, vùng xa, đóng góp vào việc cải thiện phúc lợi với cộng đồng...) mà

nhà nƣớc ủy thác. Ở Việt Nam, các DNNN còn đƣợc xem là một công cụ để

nhà nƣớc bình ổn kinh tế vĩ mô (chẳng hạn nhƣ kiềm chế lạm phát). Khi các

chức năng kinh doanh và xã hội của DNNN không đƣợc tách bạch, DN khó có

điều kiện cũng nhƣ động cơ để hoạt động hiệu quả. Chẳng hạn, khi phải tham

gia vào việc giải quyết việc làm một cách trực tiếp, DN khó có thể cắt giảm lao

động dôi dƣ, để tiết kiệm chi phí. Ở đây, gánh nặng do phải thực hiện các mục

tiêu xã hội không cho phép DN có đƣợc lựa chọn kinh tế hợp lý. Mặt khác,

những nhiệm vụ xã hội này cũng có thể là bình phong che chắn cho hoạt động

kinh doanh yếu kém của DN.

32

Tóm lại, có nhiều nguyên nhân khách quan, nằm bên trong cấu trúc thể chế

tổ chức lẫn khuyến khích cá nhân khiến cho khu vực DNNN thƣờng hoạt động

kém hiệu quả hơn hơn so với khu vực DNTN ở hầu khắp các nền kinh tế thị

trƣờng. Nhận rõ điều này, xu hƣớng cải tổ, sắp xếp lại và thu hẹp khu vực DNNN

đã diễn ra rộng rãi ở các nƣớc, đặc biệt từ những năm 80 của thế kỷ trƣớc.

2.1.3. Thực chất của CPH doanh nghiệp nhà nước

Cổ phần hóa DNNN là quá trình biến một DNNN, hoàn toàn do nhà

nƣớc sở hữu thành một công ty cổ phần, hoạt động trên nền tảng sự góp vốn

của nhiều ngƣời khác nhau với tƣ cách là các cổ đông. Quá trình này có thể

đƣợc thực hiện theo nhiều phƣơng cách: đối tƣợng cổ phần hóa có thể là toàn

bộ hay một phần tài sản của DNNN; trong cấu trúc sở hữu của DN sau CPH,

nhà nƣớc có thể vẫn nắm giữ một tỷ trọng vốn cổ phần đáng kể, thậm chí là

có ý nghĩa chi phối, song cũng có thể thoái vốn hoàn toàn, do đó không còn là

cổ đông của CTCP. Trong trƣờng hợp nhà nƣớc là cổ đông lớn nhất, có khả

năng khống chế, chi phối CTCP, trên nhiều phƣơng diện, DN sau CPH rất

gần với một DNNN. Trong trƣờng hợp sau, DN sau CPH sẽ hoạt động nhƣ

một doanh nghiệp tƣ nhân cho dù dƣới hình thức công ty cổ phần, nó do

nhiều ngƣời sở hữu chứ không giống nhƣ một doanh nghiệp cá thể, do một cá

nhân duy nhất sở hữu.

Mục đích của CPH DNNN là nhằm hƣớng tới việc: (1) Nâng cao hiệu

quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp; (2) Tạo khả năng huy động các

nguồn vốn xã hội để phát triển sản xuất kinh doanh; (3) Tăng cƣờng sự giám

sát của chủ sở hữu đối với hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời tạo điều

kiện để các doanh nghiệp và ngƣời lao động đƣợc tự chủ hơn trong kinh

doanh. Trong đó, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của

doanh nghiệp đƣợc xem là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá việc CPH một

DNNN thành công hay không thành công.

33

Hƣớng theo cái đích nhƣ vậy, quá trình CPH DNNN không đơn giản

chỉ là quá trình chuyển đổi sở hữu từ hình thức sở hữu nhà nƣớc đơn nhất

sang hình thức đa sở hữu nhƣ nhiều ngƣời thƣờng diễn giải [1, tr.22; 47,

tr.27...]. Đằng sau sở hữu nhà nƣớc là sở hữu xã hội hay sở hữu toàn dân, do

đó tài sản thuộc sở hữu nhà nƣớc về bản chất là tài sản đồng sở hữu của mọi

cá nhân trong xã hội. Nếu hiểu đa sở hữu trong CTCP là hình thức đồng sở

hữu của nhiều cổ đông cá nhân, thì thậm chí sở hữu nhà nƣớc còn mang tính

chất đa sở hữu hơn, vì phạm vi đồng sở hữu đƣợc mở rộng hơn. Còn nếu hiểu

đa sở hữu trong CTCP nhƣ sự pha trộn, kết hợp sở hữu công (khi nhà nƣớc

vẫn là một cổ đông) và sở hữu tƣ, thì cần lƣu ý trƣờng hợp nhà nƣớc vẫn là

một cổ đông lớn, có khả năng chi phối, lấn át các cổ đông khác. Nhƣ ở phần

sau của luận án đã chỉ ra, trong trƣờng hợp này, những thay đổi trong phƣơng

thức quản lý và vận hành DN sau CPH ít xảy ra, hiệu quả hoạt động của nó

không có sự cải thiện rõ rệt. Mục đích của CPH sẽ không đạt đƣợc.

Nhƣ vậy, quá trình CPH DNNN phải từ sự thay đổi cấu trúc sở hữu để

tạo ra những động lực và khuyến khích mới, phù hợp với các nguyên tắc thị

trƣờng, nhằm đem lại một sức sống mới cho các DN đƣợc CPH, nhờ đó nâng

cao hiệu quả hoạt động của chính khu vực DNNN cũng nhƣ của cả nền kinh

tế. Điều này chỉ đạt đƣợc khi tính chất “vô chủ” của sở hữu công và các

khuyết tật nảy sinh từ đó đƣợc khắc phục.

Nói cách khác, thực chất của quá trình cổ phần hóa DNNN là sự

chuyển đổi tài sản thuộc sở hữu chung của toàn dân vốn đƣợc sử dụng trong

một DNNN cụ thể thành tài sản riêng của một tập thể người xác định, biến

những tài sản này từ chỗ đƣợc đối xử nhƣ là tài sản “vô chủ”, “phi cá nhân

hóa” (trong dân gian ngƣời ta thƣờng nói là tài sản “chùa”) thành những tài

sản hữu chủ, tài sản của các cá nhân cụ thể, đích thực. Quá trình này cũng là

quá trình định vị lại vai trò, vị trí Nhà nƣớc cũng nhƣ khu vực DNNN. Đứng

34

trƣớc các tác nhân thị trƣờng (những ngƣời sản xuất và tiêu dùng), nhà nƣớc

phải xuất hiện nhƣ một thể chế đặc biệt, chủ yếu đóng vai trò là ngƣời trung

gian, tạo ra và thực thi “luật chơi” bình đẳng trên „sân chơi” thị trƣờng hơn là

ngƣời trực tiếp đầu tƣ, sản xuất hàng hóa, dịch vụ. Nhà nƣớc chỉ can thiệp vào

nền kinh tế khi có sự thiếu vắng thị trƣờng hay có sự tồn tại của “thất bại thị

trƣờng”. Các công cụ để nhà nƣớc điều tiết nền kinh tế chủ yếu phải là các

công cụ mang tính “trung lập” (không thiên vị) nhƣ luật pháp, các chính sách

thuế, chi tiêu chính phủ, chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế đối ngoại...Bên

cạnh đó, nhà nƣớc có thể sử dụng các DNNN nhƣ một công cụ để sửa chữa

các thất bại thị trƣờng, song không phải để điều tiết kinh tế vĩ mô (ví dụ để

bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát chẳng hạn, việc nhà nƣớc sử dụng chính

sách tiền tệ hay tài khóa sẽ hiệu quả hơn, ít tốn kém hơn vì nó không gây ra

sự méo mó đối với hệ thống giá cả cũng nhƣ tạo ra gánh nặng trợ cấp đối với

ngân sách nhà nƣớc), mà là để cung cấp những hàng hóa, dịch vụ mà khu vực

tƣ nhân cung cấp không hiệu quả, không muốn cung cấp hoặc chưa có khả

năng cung cấp (ở những nơi khu vực tƣ nhân còn nhỏ bé). Đối với các nền

kinh tế thị trƣờng điển hình, đó chính là các hàng hóa, dịch vụ công, và một

số ít hàng hóa, dịch vụ tƣ, có chi phí giao dịch cao, liên quan đến việc tiêu

dùng của đông đảo dân chúng (điện, nƣớc, giao thông vận tải, dịch vụ bƣu

chính...). Nói cách khác, CPH DNNN đối với các nƣớc đang phát triển hay

chuyển đổi chính là một nội dung quan trọng của tiến trình tái cấu trúc nền

kinh tế, xác lập lại tƣơng quan giữa khu vực công và tƣ phù hợp với nguyên

tắc của nền kinh tế thị trƣờng, vốn lấy vận hành lành mạnh của khu vực tƣ

nhân làm động lực chính để tồn tại và phát triển.

Quá trình CPH DNNN cũng mở ra khả năng theo đó những ngƣời lao

động cũng trở thành cổ đông, thành những ngƣời đồng sở hữu doanh nghiệp,

từ đó tạo ra quyền làm chủ đích thực của họ đối với doanh nghiệp. Khi gắn

với lợi ích thiết thân của chính họ, sự giám sát tập thể của ngƣời lao động đối

35

với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh một phần nào đó sẽ đƣợc tăng

cƣờng và chính quá trình này cũng tạo ra cơ chế phân phối lợi ích hài hòa hơn

giữa Nhà nƣớc, doanh nghiệp và ngƣời lao động.

2.1.4. Cổ phần hóa DNNN – giải pháp cơ bản nhằm khắc phục những yếu

kém của khu vực DNNN và nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế

Cổ phần hóa DNNN là một trong những nội dung quan trọng của quá

trình sắp xếp lại và đổi mới hoạt động của khu vực DNNN, nhằm tạo ra các

chủ thể kinh tế đích thực phù hợp với các nguyên tắc của nền kinh tế thị

trƣờng. Sự cần thiết của quá trình CPH DNNN bắt nguồn từ những lý do sau:

Thứ nhất, do sự yếu kém, hạn chế bắt nguồn từ tính chất sở hữu công

của các DNNN nhƣ đã đƣợc phân tích. Để khắc phục điều này, cần thiết phải

chuyển đổi hình thức, tính chất sở hữu đối với tài sản trong các doanh nghiệp

nhà nƣớc, trừ một số ít DNNN cần thiết phải giữ lại để nhà nƣớc thực hiện

các chức năng của mình mà khu vực tƣ nhân không thể thay thế đƣợc.

Thứ hai, do tính ưu việt của công ty cổ phần cho phép nó trở thành hình

thức có thể thay thế và khắc phục những hạn chế, yếu kém của DNNN.

Công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh hay một loại hình doanh

nghiệp đƣợc hình thành trên cơ sở góp vốn của nhiều ngƣời với tƣ cách là các

cổ đông– những ngƣời đồng sở hữu công ty, thông qua việc nắm giữ lƣợng cổ

phiếu hay số vốn cổ phần khác nhau của công ty. Công ty cổ phần là một dạng

tổ chức kinh doanh có trách nhiệm hữu hạn. Với tƣ cách là những ngƣời đồng

sở hữu, các cổ đông không có quyền rút vốn trực tiếp mà chỉ có thể rút vốn một

cách gián tiếp thông qua quá trình chuyển nhƣợng cổ phiếu (tức chứng chỉ xác

nhận sở hữu cổ phần) cho ngƣời khác. Chính thể thức này cho phép công ty cổ

phần có thể tồn tại bền vững hơn so với các loại hình tổ chức kinh doanh chung

vốn khác. Những ƣu việt của CTCP so với các loại hình DNTN khác thể hiện ở

những điểm sau:

36

- Chế độ trách nhiệm hữu hạn của công ty cổ phần cho phép các cổ đông

của nó chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác

của công ty trong phạm vi phần vốn góp. Tính chất “trách nhiệm hữu hạn”

giới hạn mức độ thiệt hại tối đa mà cổ đông phải gánh chịu khi công ty làm ăn

thua lỗ, nợ nần nên nó giảm thiểu mức độ rủi ro (so với các hình thức tổ chức

kinh doanh khác) cho các cổ đông trong việc lựa chọn các kênh đầu tƣ vốn

của mình. Đây là lợi thế khiến cho công ty cổ phần dễ dàng huy động vốn từ

nhiều ngƣời khác nhau, và vì thế, khi điều kiện kinh doanh thuận lợi, các công

ty cổ phần dễ dàng mở rộng quy mô hơn hẳn so với các loại hình doanh

nghiệp trách nhiệm vô hạn. Không phải ngẫu nhiên mà ở các nền kinh tế thị

trƣờng điển hình, các DN lớn thƣờng tồn tại dƣới hình thức CTCP.

- Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, nó có thể có mặt

trong hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề do cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết

sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều ngƣời cùng góp vốn vào công ty. Khả năng

huy động vốn của công ty cổ phần rất cao, do có hình thức huy động vốn rộng

rãi thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng.

- Việc chuyển nhƣợng vốn trong công ty cổ phần là tƣơng đối dễ dàng,

do vậy phạm vi đối tƣợng đƣợc tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả

các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần.

- Ngƣời lao động trong doanh nghiệp cổ phần có thể vừa là ngƣời lao động

vừa là chủ sở hữu một phần vốn của doanh nghiệp. Khi họ có cả tƣ cách là ngƣời

chủ sở hữu, họ sẽ có trách nhiệm cao hơn trong việc giám sát, kiểm tra đối với

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có động lực hơn trong việc

thực thi các nhiệm vụ của mình trong các khâu hoạt động của công ty.

Mặt khác, so với các DNNN thì lợi thế của công ty cổ phần lại nằm chủ

yếu ở tính chất sở hữu xác định của nó. Tuy nó đƣợc hình thành trên cơ sở sự

góp vốn của nhiều ngƣời, do đó các cổ đông cũng là những ngƣời đồng sở

37

hữu, song đó là chế độ đồng sở hữu của một nhóm nhỏ ngƣời xác định trong

xã hội thay vì là sở hữu chung của hàng triệu ngƣời trong toàn xã hội. Vị thế

„đồng sở hữu” của các cổ đông trong CTCP cũng khác nhau, không giống chế

độ đồng sở hữu trong DNNN hay hợp tác xã (HTX): tiếng nói, quyền lực ra

quyết định của mỗi cổ đông phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của họ. Điều này tạo

ra sự thống nhất và gắn kết trách nhiệm và quyền lợi trong tất cả các khâu:

đóng góp đầu vào, quản lý và kiểm soát quá trình kinh doanh, phân phối kết

quả kinh doanh. Vì thế, khi đƣợc CPH, nhờ tài sản của DN có đƣợc những

ngƣời sở hữu cụ thể, đích thực, có động cơ và lợi ích thiết thân trong việc bảo

vệ, khai thác một cách có hiệu quả các tài sản này mà những bất ổn gắn liền

với tính chất sở hữu công về cơ bản đƣợc giải quyết. Điều đó sẽ mở đƣờng

cho những thay đổi khác trong bộ máy quản lý, phƣơng thức quản trị cũng

Thứ ba, thông qua quá trình CPH DNNN, một mặt các DNNN đƣợc CPH

nhƣ toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.

có động lực để hoạt động hiệu quả hơn, do đó sẽ cải thiện sức cạnh tranh và

hiệu quả chung của cả nền kinh tế. Mặt khác, số lƣợng các DNNN còn lại sẽ

giảm xuống cho phép nhà nƣớc có điều kiện đầu tƣ và quản lý tốt hơn khu

vực DN mà nhà nƣớc trực tiếp sở hữu. Việc giải phóng một bộ phận DNNN

khỏi khu vực công, cho phép chúng tồn tại nhƣ các CTCP, đặc biệt nhƣ là

một loại hình DN của khu vực tƣ nhân sẽ tạo ra áp lực và nền tảng hay tiền đề

để nhà nƣớc phải đối xử bình đẳng hơn với tất cả DN, nhờ đó làm lành mạnh

hóa môi trƣờng kinh doanh chung và tăng cƣờng sự cạnh tranh giữa các DN.

Điều đó là cần thiết để nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế.

Ngoài ra, với quá trình CPH, nhà nƣớc có thể cắt giảm đƣợc nhiều

khoản bù lỗ cho nhiều DNNN làm ăn kém hiệu quả trƣớc đây, đồng thời có

thể thu về một lƣợng tài chính đáng kể nhờ thoái vốn và bán tài sản của các

38

DNNN để cải thiện cán cân ngân sách và thực hiện tốt hơn các chức năng

khác không thể thoái thác của mình.

2.2. Các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình cổ phần hoá

doanh nghiệp nhà nƣớc.

2.2.1. Xung đột lợi ích – cội nguồn sâu sa của các vấn đề kinh tế-xã hội nẩy

sinh trong quá trình CPH DNNN

Trong ngôn ngữ hàng ngày, thuật ngữ “các vấn đề” thƣờng hàm chỉ

những tình huống khó khăn, không đƣợc mong đợi, có khả năng tạo ra những

mối nguy hại hay tác động tiêu cực mà ngƣời ta cần phải giải quyết hay vƣợt

qua. Nhƣ mọi quá trình kinh tế - xã hội khác, quá trình CPH DNNN cũng

thƣờng nảy sinh những vấn đề kinh tế - xã hội mà ngƣời ta buộc phải vƣợt

qua. Đó chính là những “khó khăn, bất cập”, những “vƣớng mắc cần tháo

gỡ”, “các điểm nghẽn” phát sinh từ quá trình CPH DNNN, có tác động xấu

đến tiến trình này, do đó, việc giải quyết chúng trở thành cần thiết để đảm bảo

cho tiến trình này đi đến thành công. Các vấn đề nhƣ vậy hiện diện trong tất

cả các khâu của quá trình CPH, từ giai đoạn chuẩn bị CPH cho đến khi công

ty cổ phần đã vận hành nhƣ kết quả của việc CPH một DNNN trƣớc đó.

Cổ phần hóa các DNNN là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu từ chỗ

các tài sản của DN đƣợc xem là sở hữu chung của toàn xã hội (mà nhà nƣớc

là ngƣời đại diện) sang chỗ chúng thuộc sở hữu của một nhóm cổ đông cụ thể.

Là một quá trình chuyển đổi, quá trình cổ phần hóa DNNN chứa đựng trong

nó những xung đột, mâu thuẫn lợi ích giữa các chủ thể kinh tế có liên quan.

Trong một DNNN sắp đƣợc CPH, luôn tồn tại sự khác biệt giữa lợi ích xã hội

mà nhà nƣớc là ngƣời đại diện, lợi ích cá nhân của các quan chức thuộc cơ

quan “chủ quản” của DN, lợi ích của các những ngƣời lãnh đạo DNNN, lợi

ích của những ngƣời lao động, lợi ích của các nhà đầu tƣ tiềm năng. Trong

một DN sau cổ phần hóa, luôn tiềm ẩn sự xung đột lợi ích giữa lợi ích xã hội,

lợi ích của các cổ đông, lợi ích của những ngƣời lao động. Trong cả hai

39

trƣờng hợp, quá trình CPH còn tác động đến lợi ích của các nhóm xã hội khác

có liên quan đến sự hoạt động của DNNN hay DN sau CPH nhƣ: nhà cung

cấp, ngƣời tiêu dùng, các quan chức chính quyền…[Trong nội bộ từng nhóm

xã hội (ví dụ giữa các cổ đông hay những ngƣời lao động…), sự thống nhất

lợi ích không phải luôn luôn đƣợc đảm bảo – điều này phụ thuộc vào chính

sách hay cơ chế phân phối thu nhập cụ thể của từng doanh nghiệp. Tuy nhiên,

khía cạnh này vƣợt ra ngoài phạm vi xem xét của luận án]. Lợi ích của các

chủ thể khác biệt nhau này trở nên xung đột với nhau khi quá trình CPH làm

cho ai đó bị thiệt hại trong khi ngƣời khác lại có thể đƣợc hƣởng lợi. Trong

quá trình chuyển đổi hình thái sở hữu do CPH, những ngƣời bị thiệt là những

ngƣời mà lợi ích của họ gắn liền với việc duy trì hình thức sở hữu công trong

doanh nghiệp (những ngƣời lãnh đạo DN, một bộ phận ngƣời lao động trong

DN, những cán bộ ở cơ quan nhà nƣớc trực tiếp “quản lý” DN, những nhà

cung cấp “độc quyền” của DN…). Những ngƣời đƣợc lợi là toàn xã hội nói

chung và những ngƣời có tiềm năng khai thác tài sản và sức lực của mình tốt

hơn khi DNNN đƣợc cổ phần hóa. Khi tài sản xã hội đƣợc sử dụng hiệu quả

hơn, lợi ích gia tăng sẽ gián tiếp làm lợi cho các thành viên khác trong xã hội.

Vấn đề là ở chỗ: khi quá trình cổ phần hóa mới bắt đầu, nó có thể trực tiếp đe

dọa và làm tổn hại đến lợi ích khá tập trung của một số nhóm ngƣời cụ thể,

trong khi đó lợi ích xã hội mà nó mang lại cho nhiều ngƣời lại mang tính chất

“tiềm năng” và phân tán. Đó là lý do khiến quá trình cổ phần hóa bị chống

đối, công khai hay ngấm ngầm, và nhiều khi là quyết liệt bởi những ngƣời bị

thua thiệt, mất mát về lợi ích.

Mặt khác, quá trình CPH có thể bị “méo mó”, do đó bị đi chệch ra khỏi

mục tiêu mà xã hội kỳ vọng nếu nó đƣợc thúc đẩy theo hƣớng làm lợi cho

một nhóm nhỏ trên cơ sở sự thiệt hai chung của toàn xã hội (ví dụ nhƣ khi nó

cho phép một nhóm nhỏ ngƣời có thể thu gom tài sản xã hội với giá cực kỳ rẻ

mạt và dễ dàng trở nên giàu có). Trong một môi trƣờng thiếu công khai, minh

40

bạch, xã hội không thiết lập đƣợc cơ chế bảo vệ lợi ích của mình, tiến trình

CPH sẽ bị dẫn dắt bởi những động cơ sai lạc và trở nên không hiệu quả.

Nhƣ vậy, có thể thấy cổ phần hóa các DNNN là một quá trình không dễ

dàng, đặc biệt ở các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi nhƣ Việt Nam. Với các

nƣớc vốn có nền tảng kinh tế thị trƣờng, việc cổ phần hóa DNNN đơn giản là

một sự cân bằng lại tƣơng quan giữa khu vực công với khu vực tƣ, khi mà vì

những lý do lịch sử khác nhau, khu vực công trƣớc đó đã đƣợc mở rộng quá

mức. Ngay cả trong trƣờng hợp nhƣ vậy, việc cổ phần hóa vẫn luôn gặp phải

sự phản kháng hay chống đối của một bộ phận xã hội vốn đƣợc hƣởng lợi từ

việc tồn tại và hoạt động của khu vực DNNN trƣớc đây. Đối với các nền kinh

tế chuyển đổi, vấn đề trở nên phức tạp hơn do quy mô của khu vực công do

lịch sử để lại là quá lớn, do các quan hệ thị trƣờng và thể chế tƣơng ứng với nó

còn chƣa phát triển, do đó lực lƣợng doanh nhân lẫn khu vực tƣ nhân còn nhỏ

bé hay yếu kém. Ở những nƣớc này luôn tồn tại những khó khăn, ngăn trở quá

trình cổ phần hóa, làm cho nó không dễ dàng đi đến thành công, đặc biệt khi

đằng sau chúng ẩn chứa ngầm những quan tâm, lợi ích khác nhau.

Tóm lại, sự xung đột lợi ích, những sự bất mãn, chống đối từ những

ngƣời bị thua thiệt về lợi ích, cũng nhƣ những “méo mó” trong phân phối lợi

ích hay các hành vi trục lợi cá nhân tạo ra các thách thức, khó khăn cho quá

trình CPH. Chúng hoặc sẽ làm chậm tiến trình này, hoặc sẽ dẫn dắt nó đi

chệch ra khỏi mục tiêu đã định. Đó chính là nguồn gốc sâu sa của các vấn đề

kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình CPHDNNN.

2.2.2. Các vấn đề kinh tế-xã hội cụ thể thường nảy sinh trong quá trình CPH

DNNN

Tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của từng nƣớc, quá trình CPH

DNNN có thể nảy sinh các vấn đề kinh tế - xã hội khác nhau. Những vấn đề

cụ thể có tính chất phổ biến thƣờng phát sinh là:

Thứ nhất, Tâm lý chần chừ, bất mãn, ngăn trở tiến trình CPH:

41

Ít nhất có những nhóm ngƣời sau có động cơ chống đối hay gây khó dễ

cho tiến trình cổ phần hóa:

+ Thứ nhất là những ngƣời giữ các vị trí trọng yếu trong bộ máy quản lý

của DNNN thuộc diện cổ phần hóa. Đây là những ngƣời quá trình cổ phần

hóa sẽ đe dọa địa vị và lợi ích mà họ đang đƣợc thụ hƣởng một cách tức thời

và họ thƣờng không “mặn mà” với những sự thay đổi, do đó có xu hƣớng

phản đối hay ngấm ngầm làm chậm trễ tiến trình cổ phần hóa.

+ Những ngƣời lao động đang làm việc ở các DNNN thuộc diện cổ phần

hóa. Nói chung, làm việc ở các DNNN, công việc của họ đƣợc coi là khá ổn định.

Họ cùng thƣờng đƣợc hƣởng mức lƣơng nói chung là cao hơn khu vực khác và

đƣợc hƣởng các chế độ phúc lợi khác nhau do nhà nƣớc bảo đảm. Khi cổ phần

hóa, công việc tƣơng lai của họ sẽ trở nên bấp bênh hơn. Họ có thể bị sa thải; vị trí

công việc của họ có thể bị sắp xếp lại do yêu cầu hợp lý hóa sản xuất, kinh doanh,

tiết kiệm chi phí để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tƣơng lai. Nói

chung, những ngƣời lao động không thấy triển vọng công việc và thu nhập tốt hơn

sau cổ phần hóa thƣờng có động cơ ngăn cản tiến trình này.

+ Những ngƣời nằm trong bộ máy quản lý hành chính nhà nƣớc bên trên

doanh nghiệp cũng có thể bị thua thiệt vì quá trình cổ phần hóa. Với tƣ cách

là cơ quan chủ quản hay cơ quan quản lý nhà nƣớc chuyên ngành, những

ngƣời này có nhiều quyền hành chi phối các DNNN mà họ phụ trách, từ việc

bổ nhiệm, phê duyệt nhân sự cấp cao của doanh nghiệp đến việc hỗ trợ doanh

nghiệp tiếp cận các nguồn lực khan hiếm nhƣ đất đai, tín dụng, hay phê duyệt

các khoản trợ vốn…Cũng từ khả năng đó, họ có nhận đƣợc những khoản lợi

ích không dễ xác định từ những quan hệ “có đi, có lại” giữa họ và doanh

nghiệp. Về nguyên tắc thì mối quan hệ tiêu cực giữa cơ quan quản lý nhà

nƣớc với một doanh nghiệp ở khu vực tƣ nhân vẫn có thể xảy ra. Song do tính

chất sở hữu công, tiêu cực ở khu vực DNNN có quy mô lớn hơn và dễ dàng

thực hiện hơn. Sự gắn bó lợi ích nhƣ vậy sẽ khiến cho việc chống đối cổ phần

42

hóa có thể mở rộng sang cả một bộ phần nào đó trong bộ máy quản lý nhà

nƣớc các cấp. Đây có lẽ là một lý do khiến tiến trình cổ phần hóa thƣờng

chậm trễ , dù nó đã đƣợc khởi động ở cấp cao nhất.

+ Ngay cả những ngƣời ở khu vực tƣ nhân vẫn có thể có đƣợc những

đặc lợi từ khu vực công, từ các DNNN nhờ những quan hệ kinh tế đặc quyền

mà họ đã thiết lập đƣợc. Họ là những ngƣời cung cấp sản phẩm đầu vào hay

dịch vụ hỗ trợ cho DNNN. Họ cũng có thể là những ngƣời tiêu thụ sản phẩm

đầu ra cho DNNN. Với việc khai thác những “lỗ hổng” cơ chế gắn liền với sở

hữu công, họ có thể thu đƣợc những khoản lợi nhờ nâng giá các đầu vào hay

đƣợc hƣởng các khoản “hoa hồng” cao khi trở thành đại lý tiêu thụ đầu ra cho

DNNN. Sau cổ phần hóa, những nguyên tắc thị trƣờng sẽ đƣợc áp dụng và

tuân thủ, những lợi lộc của những ngƣời nhƣ vậy sẽ bị xem xét. Vì thế, một

cách tự nhiên, họ là một nhóm xã hội có thể đƣợc liên kết để chống lại những

sự thay đổi.

+ Một bộ phận không nhỏ dân cƣ có thể đƣợc hƣởng lợi trực tiếp từ sự

tồn tại của các DNNN nhờ họ đƣợc mua những sản phẩm mà DNNN cung

cấp với giá rẻ, thấp hơn giá thị trƣờng, bất chấp điều này cũng có thể là một

nguyên nhân khiến DNNN hay đối diện với nguy cơ thua lỗ, nếu nó không

đƣợc hƣởng khoản bù lỗ tƣơng xứng từ ngân sách nhà nƣớc. Vì thế, việc cổ

phần hóa những DNNN nhƣ vậy thƣờng gây ra sự lo lắng cho cả những ngƣời

vốn quen đƣợc mua các sản phẩm có trợ giá (các nhu yếu phẩm, năng lƣợng,

vận chuyển đƣờng sắt…) của khu vực công.

Nhƣ vậy, rõ ràng quá trình cổ phần hóa DNNN chứa đựng trong nó

những mâu thuẫn lợi ích rõ ràng. Trong khi xét về dài hạn, cổ phần hóa sẽ góp

phần làm lành mạnh hóa môi trƣờng kinh doanh, tạo ra những động lực mới

để gia tăng hiệu quả của cả khu vực DNNN lẫn cả nền kinh tế, do đó sẽ cải

thiện phúc lợi chung cho cả xã hội. Tuy nhiên, ít nhất là trong ngắn hạn, nó

cũng đem lại sự thua thiệt và bất an cho những nhóm xã hội khác nhau. Điều

43

đó sẽ tạo ra sự phản đối, chống đối, ngấm ngầm hay công khai, dƣới nhiều

hình thức khác nhau. Nó làm cho các chƣơng trình cổ phần hóa thƣờng diễn

ra khó khăn, chậm trễ, bị biến dạng và không đạt đƣợc những kết quả nhƣ

mong đợi.

Thứ hai, việc lựa chọn các DNNN cần CPH và các động cơ chi phối.

Mục tiêu quan trọng nhất của quá trình cổ phần hóa các DNNN là nâng

cao hiệu quả chung của cả nền kinh tế. Nó đƣợc thực hiện thông qua việc

chuyển đổi hình thức sở hữu khiến cho các tài sản xã hội trƣớc đây sử dụng

không hiệu quả trong các DNNN có khả năng đƣợc sử dụng hiệu quả hơn khi

chúng đƣợc kiểm soát bởi những ngƣời chủ hữu hình và đích thực hơn. Tuy

nhiên, không phải mọi DNNN đều cần hay có thể cổ phần hóa. Vì thế, lựa

chọn DNNN nào là doanh nghiệp cần đƣa vào diện CPH, doanh nghiệp nào

cần đƣợc giữ lại lâu dài trong khu vực công là một việc làm cần thiết. Đáng

tiếc đây lại là vấn đề mà ngƣời ta không dễ dàng có câu trả lời rành mạch. Về

nguyên tắc, khu vực công có trách nhiệm cung cấp các hàng hóa, dịch vụ

công cộng mà thị trƣờng hoặc không cung cấp đƣợc (quốc phòng, xây dựng

đê điều…) hoặc cung cấp không hiệu quả. Những hàng hóa, dịch vụ nhƣ vậy

thƣờng đƣợc cung cấp miễn phí thông qua các tổ chức công cộng, chứ không

phải thông qua các DNNN theo nghĩa hẹp mà chúng ta đã xác định. Quan

niệm DNNN phải nắm những vị trí then chốt, những „đài chỉ huy‟ chiến lƣợc

của nền kinh tế cũng đã từng bị xem xét lại ở nhiều nƣớc đang phát triển, và

trên thực tế tình hình tài chính công cũng nhƣ “sức khỏe” chung của nền kinh

tế ở nhiều nơi trở nên lành mạnh hơn khi các DNNN trong lĩnh vực khai

khoáng hay những ngành công nghiệp nặng then chốt đƣợc cổ phần hóa. Hơn

nữa, ranh giới giữa một ngành/lĩnh vực đƣợc xem là “then chốt” hay “không

then chốt” cũng không rõ ràng. Ví dụ các ngành kinh doanh nhƣ ngân hàng,

xăng dầu, viễn thông…là “then chốt” hay “không then chốt”? Trừ ngân hàng

TW, ở nhiều nƣớc các lĩnh vực này vẫn thƣờng do khu vực tƣ nhân nắm giữ.

44

Vì thế, theo quan điểm hiệu quả chung, nhà nƣớc chỉ nên nắm giữ các

DN cung cấp các hàng hóa có tầm quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa xã hội lớn,

có liên quan đến việc tiêu dùng của đông đảo dân chúng, đồng thời lại là nơi

cần lƣợng vốn đầu tƣ lớn mà khu vực tƣ nhân khó hoặc không muốn đảm

nhận. Danh mục các lĩnh vực nhƣ vậy không nhiều và có thể thay đổi, tùy

theo sự lớn mạnh của khu vực tƣ nhân và cả nền kinh tế.

Ngay cả khi đã thống nhất đƣợc các tiêu chí nhằm xác định các DNNN

cần CPH hay không cần CPH thì các khó khăn chƣa hẳn đã hoàn toàn mất đi.

Vấn đề là ở chỗ: Xét từ phía lợi ích nhà nƣớc, những DNNN mà nhà nƣớc

không cần nắm giữ, không muốn chi phối thƣờng là các doanh nghiệp làm ăn

thua lỗ kéo dài. Chúng thƣờng là đối tƣợng mà các nhà hoạch định chính sách

công muốn cổ phần hóa càng nhanh càng tốt, nhất là trong bối cảnh gánh nặng

tài chính để duy trì hoạt động của các doanh nghiệp nhƣ vậy ngày càng gia

tăng. Tuy vậy, đứng trên góc độ lợi ích của các nhà đầu tƣ tƣ nhân, các DN này

lại là đối tƣợng không hấp dẫn nên rất khó CPH. Ngƣợc lại, các DNNN trong

những ngành đặc biệt, kinh doanh thuận lợi, có lãi cao (nhƣ kinh doanh rƣợu,

bia, thuốc lá chẳng hạn…), thì dù không đƣợc xác định là “ngành then chốt”,

nhà nƣớc về thực chất không cần nắm giữ, dễ dàng CPH, và cần đƣợc CPH để

gia tăng hơn nữa hiệu quả hoạt động của chúng thì ngƣời ta lại không có nhiều

động cơ chuyển giao chúng cho chủ sở hữu khác. Rõ ràng ở đây có sự khác

biệt và xung đột giữa lợi ích xã hội tổng thể của cả nền kinh tế với lợi ích tài

chính cục bộ của bộ máy nhà nƣớc (tồn tại dƣới dạng nguồn thu cho ngân sách

nhà nƣớc) cũng nhƣ những ngƣời làm việc trong các DNNN này.

Thứ ba, vấn đề thất thoát tài sản xã hội và định giá doanh nghiệp

Để cổ phần hóa một DNNN, ngƣời ta buộc phải định giá doanh nghiệp

này, trên cơ sở xác định giá đất, giá trị các tài sản hữu hình, vô hình của DN

(trong đó bao gồm cả giá trị thƣơng hiệu, uy tín, lợi thế riêng của DN…)

cũng nhƣ đối chiếu chúng với kết quả kinh doanh hiện tại và triển vọng tƣơng

45

lai của doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp chính xác là cần thiết và có ảnh

hƣởng không nhỏ đến tiến trình cổ phần hóa. Khi doanh nghiệp đƣợc định giá

quá cao, nó khó thu hút đƣợc các nhà đầu tƣ tƣ nhân tiềm năng bỏ tiền vào

mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Quá trình cổ phần hóa sẽ không thực hiện

đƣợc hay bị biến tƣớng, khi nó chỉ có thể cổ phần hóa một phần tài sản nhỏ

của DN và chỉ thu hút đƣợc các nhà đầu tƣ muốn „góp vốn” không hẳn vì

động cơ kinh doanh (các DNNN khác, các nhà đầu tƣ có “dƣ dả” tiền bạc, cần

hợp pháp hóa đồng tiền của mình). Ngƣợc lại, khi doanh nghiệp bị định giá

quá thấp, tài sản của nhà nƣớc hay của xã hội sẽ bị thất thoát và rơi vào tay

những ngƣời có thể thâu tóm đƣợc một số lƣợng lớn cổ phiếu của doanh

nghiệp. Một số ngƣời nhờ vậy có thể giàu lên rất nhanh mà không cần nhiều đến

tài năng kinh doanh nhờ trục lợi đƣợc từ việc định giá thấp này. Điều này đã

từng xảy ra trên một diện rộng trong quá trình cổ phần hóa các DNNN ở Nga.

Hệ quả là nhiều ngành công nghiệp quan trọng của Nga bị khống chế bởi các

“đại gia” tƣ nhân, nhiều lĩnh vực trƣớc đây thuộc độc quyền của nhà nƣớc trở

thành độc quyền tƣ nhân. Tính hiệu quả có thể mong đợi từ quá trình cổ phần

hóa do vậy bị suy giảm, trong khi phân hóa xã hội lại trở nên sâu sắc hơn.

Định giá chính xác doanh nghiệp là một công việc khó khăn, đặc biệt là

đối với các nƣớc đang phát triển, khi các thể chế thị trƣờng chƣa phát triển

đầy đủ; thị trƣờng chứng khoán, thị trƣờng vốn, thị trƣờng đất đai còn đang ở

giai đoạn khởi đầu, kém hoàn thiện, do vậy, giá cả các tài sản vốn, đất

đai…đƣợc hình thành một cách “méo mó”, chƣa phản ánh chính xác tính

khan hiếm theo kiểu thị trƣờng, dựa trên sự tƣơng tác cung – cầu công khai,

minh bạch. Ở những nƣớc này, đội ngũ các chuyên gia thẩm định giá có trình

độ cũng còn thiếu hụt, các chuẩn mực kế toán, kiểm toán dựa trên thông lệ

quốc tế còn chƣa đƣợc áp dụng rộng rãi. Trong bối cảnh đó, động cơ trục lợi

của những ngƣời có liên quan có thể thúc đẩy việc xác định giá trị của các tài

sản doanh nghiệp – một công việc vốn không dễ dàng – một cách sai lạc.

46

Đối với nhiều DNNN, đặc biệt là ở các nền kinh tế chuyển đổi, kém phát

triển, đất đai (gắn liền với những vị trí kinh doanh cụ thể), có thể là một tài

sản có giá trị tƣơng đối lớn so với các tài sản khác. Tuy vậy, trong bối cảnh

chuyển đổi, thị trƣờng đất đai mới ra đời, chƣa phát triển, đôi khi giá trị tài sản

này lại bị bỏ qua, hoặc bị định giá thấp. Đây là một kẽ hở lớn có thể làm thất

thoát một lƣợng tài sản có giá trị của xã hội khi cổ phần hóa đƣợc tiến hành.

Việc xác định giá trị của các tài sản vô hình (chẳng hạn nhƣ thƣơng

hiệu, lợi thế kinh doanh…) của DNNN đƣợc cổ phần hóa lại càng khó khăn,

đặc biệt trong điều kiện các thị trƣờng dịch vụ, trong đó có dịch vụ thẩm định

giá chƣa phát triển, xã hội thiếu những công cụ khách quan theo kiểu thị

trƣờng để xác định giá trị của các hàng hóa vô hình cũng nhƣ ngƣời dân có

thói quen đánh giá thấp lợi ích của những hàng hóa, dịch vụ loại này và không

sẵn sàng trả tiền cho chúng (Trong các nƣớc XHCN cũ trƣớc đây, do tình

trạng “thiếu hụt” hàng hóa và do chúng đƣợc sản xuất, phân phối chủ yếu

theo kế hoạch của nhà nƣớc, nên vấn đề thƣơng hiệu, quảng cáo thƣờng bị

xem nhẹ, không đƣợc coi là có giá trị)

Tóm lại, ở các nƣớc đang phát triển, do những khó khăn bắt nguồn từ

những hạn chế trong trình độ phát triển của thị trƣờng và các yếu kém thể chế

khác, luôn tiềm ẩn nguy cơ hình thành các nhóm lợi ích có thể lợi dụng và có

động cơ làm méo mó quá trình đánh giá, xác định giá trị doanh nghiệp.

Thứ tư, những khó khăn trong việc xử lý hậu quả do các DNNN trước cổ

phần hóa để lại.

Quá trình cổ phần hóa DNNN cũng luôn luôn vấp phải những khó khăn

do phải xử lý những vấn đề mà hoạt động của doanh nghiệp trong thời kỳ

trƣớc để lại. Có thể kể ra một số vấn đề nhƣ: xử lý các khoản nợ tồn đọng, sắp

xếp lại đội ngũ lao động, thay đổi bộ máy lãnh đạo, quản lý cũng nhƣ phƣơng

thức quản lý và đi kèm với nó là thay đổi toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp

sau cổ phần hóa.Việc xử lý những vấn đề nhƣ vậy luôn luôn gây khó khăn

47

hay thiệt hại lợi ích cho một nhóm ngƣời nào đó: những doanh nghiệp hay cá

nhân đóng vai trò con nợ, những ngƣời lao động có thể bị mất việc làm hay

phải rời khỏi vị trí công việc có thu nhập cao, những ngƣời lãnh đạo doanh

nghiệp có khả năng bị thay thế…Họ có động cơ để chống đối hay bất hợp tác

với những ngƣời muốn đẩy nhanh quá trình CPH nếu những mất mát lợi ích

của họ, ngay cả khi chúng bắt nguồn từ những đặc quyền cũ, không đƣợc bù

đắp thỏa đáng.

Trong kinh doanh, một doanh nghiệp luôn có những khoản nợ phải đòi

cũng nhƣ những khoản nợ phải trả. Về nguyên tắc, trên sổ sách kế toán, khi

bù trừ lẫn nhau, khoản nợ ròng (có thể dƣơng, hoặc âm hoặc bằng 0) của

doanh nghiệp trƣớc thời điểm cổ phần hóa sẽ đƣợc phản ánh trong giá trị

doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, tính chất của các khoản nợ là rất khác

nhau. Doanh nghiệp có thể đối diện với các khoản nợ tồn đọng lâu năm, khó

đòi, trong đó con nợ có thể là một doanh nghiệp khác đang gặp khó khăn,

thậm chí đang trong giai đoạn phá sản hay đã giải thể. Việc thu hồi các khoản

nợ nhƣ vậy luôn gặp khó khăn và thƣờng phải đối diện với các thủ tục pháp lý

rắc rối. Trong khi đó, với tƣ cách là con nợ, doanh nghiệp cổ phần hóa trong

tƣơng lai cũng có nghĩa vụ phải thanh toán các khoản nợ gắn liền với các hoạt

động trong thời kỳ trƣớc của nó. Tính phức tạp trong việc xử lý các khoản nợ

chồng chéo nhau nhƣ vậy không chỉ gây trở ngại cho việc xây dựng các

phƣơng án cổ phần hóa, định giá doanh nghiệp, bán cổ phần mà có thể ảnh

hƣởng đến cả tiến trình hoạt động về sau của doanh nghiệp sau cổ phần hóa.

Sau cổ phần hóa, việc sắp xếp lại đội ngũ lao động là không tránh khỏi.

Do nhiều nguyên nhân (tính chất phi thị trƣờng của nền kinh tế, việc không

coi trọng tính hiệu quả hoặc sự thiếu vắng cạnh tranh…), trong các DNNN

cần CPH, lực lƣợng lao động thƣờng không tinh gọn, số lƣợng thƣờng cao

hơn nhu cầu ở mức hiệu quả, cơ cấu lao động nhiều khi không phù hợp, một

bộ phận lao động không đáp ứng đƣợc đƣợc yêu cầu khi phải làm việc trong

48

một môi trƣờng năng động hơn, giàu tính cạnh tranh hơn theo kiểu thị trƣờng.

Hậu quả là sau CPH, doanh nghiệp buộc phải sa thải một số lƣợng lao động

“dôi dƣ”, đồng thời tuyển dụng lao động mới có kỹ năng hay trình độ phù hợp

hơn. Nếu nhƣ việc tuyển dụng mới là vấn đề mà doanh nghiệp hoàn toàn tự

chủ giải quyết thì việc sa thải số lao động “thừa” lại gây cho doanh nghiệp

nhiều tốn kém về thời gian và tiền bạc do hệ thống trợ cấp và bảo hiểm xã hội

ở các nƣớc đang phát triển chƣa hoàn thiện cũng nhƣ việc phân chia trách

nhiệm, nghĩa vụ giữa doanh nghiệp và nhà nƣớc trong lĩnh vực này thƣờng

không rõ ràng. Những rắc rối về thủ tục và nghĩa vụ tài chính mà doanh

nghiệp có thể phải gánh chịu đối với số lao động không còn đƣợc tiếp tục sử

dụng là một rào cản không nhỏ đối với sắp xếp lại đội ngũ lao động ở doanh

nghiệp sau cổ phần hóa.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa là mục

tiêu quan trọng của mọi quá trình cổ phần hóa. Để làm đƣợc việc này, doanh

nghiệp phải thay đổi bộ máy lãnh đạo, quản lý, phải thiết lập cơ chế, cung

cách quản lý mới thay cho cơ chế, cung cách quản lý vốn đã tồn tại lâu dài

trong doanh nghiệp nhà nƣớc trƣớc đây. Chỉ làm đƣợc nhƣ vậy, những đổi

mới khác (phƣơng hƣớng kinh doanh, công nghệ…) hƣớng đến tính năng

động và hiệu quả mới có thể thực hiện đƣợc. Tuy nhiên, ở những doanh

nghiệp vốn có lịch sử tồn tại lâu dài, việc thay đổi cung cách làm việc, hoạt

động thƣờng không dễ dàng vì những hậu quả do doanh nghiệp cũ để lại

thƣờng là nặng nề. Điều này càng trở nên khó khăn khi cổ phần hóa không tạo

ra sự thay đổi thực sự có ý nghĩa trong cấu trúc sở hữu, cho phép hình thành

một nhóm nhỏ chủ sở hữu xác định có khả năng chi phối tài sản doanh

nghiệp, có lợi ích thiết thân trong việc khai thác, sử dụng chúng. Trong trƣờng

hợp sau cổ phần hóa mà những ngƣời lãnh đạo và đội ngũ lao động của

doanh nghiệp lại trở thành những cổ đông chính của doanh nghiệp, những cổ

đông mới bên ngoài không “thâm nhập” đƣợc vào doanh nghiệp thì những

49

thay đổi có ý nghĩa trong phƣơng thức điều hành, quản lý doanh nghiệp rất

khó xảy ra.. Đây là điều đã xảy ra khá phổ biến ở Nga trong những năm 90 ở

thế kỷ trƣớc, khi mà quá trình cổ phần hóa diễn ra một cách khép kín, trong

nội bộ doanh nghiệp.

Thứ năm, vấn đề chuyển đổi cấu trúc sở hữu và xác định tỷ lệ vốn cổ

phần mà nhà nước cần nắm giữ trong DNCPH.

Vì những lý do khác nhau, nhà nƣớc vẫn có động cơ tham gia hay chi

phối hoạt động của một số DNNN sau CPH. Sau cổ phần hóa, ở một số doanh

nghiệp, nhà nƣớc vẫn tiếp tục là cổ đông nắm một lƣợng cổ phiếu nhất định

của doanh nghiệp. Khi nhà nƣớc vẫn là cổ đông chính, ngƣời đại diện cho

phần vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp vẫn là ngƣời có tiếng nói quyết định ở

doanh nghiệp, do đó những “khuyết tật” của sở hữu công vẫn không đƣợc

khắc phục. Tƣơng tự nhƣ trƣờng hợp đã nói ở trên, trong trƣờng hợp này,

những thay đổi có ý nghĩa trong phƣơng thức quản trị doanh nghiệp cũng khó

xảy ra, doanh nghiệp CPH vẫn khó tạo ra các động lực cần thiết để trở nên

hiệu quả hơn. Chính vì lý do này mà ở Việt Nam, tại nhiều DNNN hậu cổ

phần hóa vẫn chƣa có sự thay đổi đáng kể nào về cách quản trị doanh nghiệp.

Hội đồng quản trị của các DNNN đã cổ phần hóa mà Nhà nƣớc nắm quyền

chi phối chủ yếu vẫn bao gồm các công chức có quyền, lợi ích gắn với bộ

máy điều hành hoặc kiêm nhiệm các vị trí điều hành doanh nghiệp. Theo số

liệu điều tra, sau khi CPH vẫn có đến 81,5% giám đốc doanh nghiệp đƣợc giữ

nguyên chức vụ; 78% chức danh Phó Giám đốc và kế toán trƣởng không có

sự thay đổi. Cụ thể, trên 80% doanh nghiệp mà Nhà nƣớc có cổ phần chi phối

có thành viên HĐQT đồng thời kiêm nhiệm chức năng điều hành doanh

nghiệp [63]. Chính vì vậy nên việc điều hành doanh nghiệp không đảm bảo

đƣợc tính độc lập, khách quan và điều kiện để bảo đảm lợi ích của các bên có

liên quan, đặc biệt là quyền lợi của các cổ đông tƣ nhân thiểu số. Đây chính là

50

điều các tổ chức quỹ đầu tƣ ngần ngại góp vốn vì họ sẽ khó có đƣợc ý kiến

quyết định dù có tham gia HĐQT.

Một vấn đề quản trị nữa thƣờng xảy ra ở các DN hậu cổ phần hóa mà

nhà nƣớc là cổ đông chi phối là sự thiếu hụt nhân sự phù hợp, có khả năng điều

hành doanh nghiệp theo cơ chế thị trƣờng. Vì nhà nƣớc là chủ sở hữu chi phối

doanh nghiệp nên về nguyên tắc, hầu hết vị trí trong HĐQT, ban giám đốc là do

nhà nƣớc bổ nhiệm. Trong trƣờng hợp này, họ thƣờng hành động nhƣ một viên

chức nhà nƣớc hơn là một nhà kinh doanh. Thậm chí trong nhiều trƣờng hợp,

những ngƣời lãnh đạo doanh nghiệp đƣợc bổ nhiệm có thể xuất thân là công

chức, viên chức nhà nƣớc, thiếu kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp hoặc chƣa có

những trải nghiệm cần thiết trên thƣơng trƣờng. Những điều đó sẽ ngăn trở sự

đổi mới trong cung cách lãnh đạo và điều hành doanh nghiệp..

Trong trƣờng hợp nhà nƣớc chỉ là một cổ đông nhỏ, việc điều hành

doanh nghiệp khi đó chủ yếu thuộc về các nhà đầu tƣ tƣ nhân. Khi doanh

nghiệp hoạt động có hiệu quả, lợi ích của nhà nƣớc đƣợc bảo đảm thông qua

phần cổ tức đƣợc chia cũng nhƣ sự gia tăng trong giá trị cổ phiếu. Tuy nhiên,

ngay cả trong trƣờng hợp này, việc thực hiện quyền sở hữu của nhà nƣớc và

bảo vệ lợi ích của nhà nƣớc hay xã hội vẫn có thể là vấn đề phải lƣu tâm. Vấn

đề là ở chỗ: khi những ngƣời đại diện cho phần vốn nhà nƣớc không coi số

vốn đó là tài sản của chính mình (trên thực tế, trong quan hệ với khối tài sản

trên, lợi ích cá nhân của ngƣời đại diện khác biệt và không tự động tƣơng

thích với lợi ích của xã hội hay nhà nƣớc) họ có thể thỏa thuận, nhƣợng bộ

với các cổ đông tƣ nhân khác trong việc ra quyết định, bất chấp điều này có

thể làm thiệt hại cho lợi ích của xã hội hay nhà nƣớc (ví dụ: những thua lỗ „cố

tình” tạm thời trong một khoảng thời gian nào đó có thể làm thất thoát vốn

nhà nƣớc tại doanh nghiệp). Rõ ràng, khi nhà nƣớc can dự vào hoạt động của

doanh nghiệp nhƣ một cổ đông, những khúc mắc nảy sinh do việc thực hiện

“sở hữu công” là những vấn đề không dễ giải quyết.

51

Thứ sáu, vấn đề phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp và

khó khăn trong việc thiết lập môi trường kinh doanh lành mạnh

Sau cổ phần hóa, doanh nghiệp về nguyên tắc có điều kiện hoạt động

hiệu quả nếu nó tồn tại trong môi trƣờng kinh doanh thuận lợi, có tính cạnh

tranh cao, đƣợc đối xử bình đẳng. Những khó khăn, rủi ro mà từng doanh

nghiệp có thể vấp phải là những khó khăn chung mà các doanh nghiệp trong

một nền kinh tế thị trƣờng phải đối diện, và đó là vấn đề mà chính doanh

nghiệp phải giải quyết. Tuy nhiên, thành công chung của quá trình cổ phần

hóa có thể bị đe dọa nếu môi trƣờng kinh doanh lành mạnh theo các nguyên

tắc thị trƣờng chƣa đƣợc thiết lập. Chẳng hạn, khi các doanh nghiệp không

đƣợc đối xử bình đẳng, các doanh nghiệp nhà nƣớc vẫn đƣợc ƣu đãi và có lợi

thế trong việc tiếp cận thị trƣờng, tiếp cận các nguồn lực khan hiếm nhƣ đất

đai, tín dụng…thì cũng nhƣ các doanh nghiệp tƣ nhân khác, doanh nghiệp cổ

phần hóa sẽ rơi vào thế bất lợi, thua thiệt. Điều này khiến cho tâm lý e ngại và

chống đối cổ phần hóa các DNNN càng có cơ hội bộc lộ. Mặt khác, do quen

đƣợc ƣu đãi, các DNNN không thuộc diện phải CPH cũng không dễ dàng từ

bỏ vị thế có tính chất đặc quyền của mình. Điều này gây khó khăn cho việc

thúc đẩy tiến trình CPH.

Mặt khác, nhƣ kinh nghiệm CPH DNNN trong những năm 1990 ở Nga

đã chỉ ra, những thay đổi tích cực về quản trị doanh nghiệp và công nghệ chỉ

diễn ra mạnh mẽ nếu các rào cản ngăn trở cạnh tranh trên thị trƣờng đƣợc

tháo gỡ. Không chỉ cấu trúc sở hữu thiên về cổ đông nhà nƣớc, mà cả vị thế

độc quyền lẫn các mối quan hệ thân hữu giữa doanh nghiệp với bộ máy quyền

lực nhà nƣớc cũng là các yếu tố kìm hãm các sự thay đổi. Dù là doanh nghiệp

tƣ nhân, khi có vị thế độc quyền, có khả năng khống chế đƣợc thị trƣờng,

doanh nghiệp vẫn có thể thu đƣợc lợi nhuận độc quyền cao mà không cần đổi

mới. Nguồn lực và sáng kiến của doanh nghiệp sẽ đƣợc sử dụng tập trung vào

việc bảo vệ vị thế độc quyền, đặc lợi của mình hơn là vào việc cải thiện, gia

52

tăng năng lực cạnh tranh. Nói cách khác, nếu cổ phần hóa DNNN không đi

liền với các hoạt động tái cấu trúc khác, trong đó có việc xác định lại vị trí của

khu vực công, của các DNNN lẫn việc phá vỡ các thế độc quyền mà trƣớc đây

DNNN đƣợc thụ hƣởng thì hiệu quả mà ngƣời ta mong chờ từ tiến trình cổ

phần hóa không xảy ra. Đây là một công việc không dễ dàng vì nó đụng chạm

đến lợi ích của các DN độc quyền này hay thân hữu này, dù cho lợi ích của

chúng có xung đột ra sao với lợi ích xã hội chung.

2.3. Những yếu tố ảnh hƣởng đến các vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh

trong quá trình CPH DNNN

Nhƣ đã trình bày, cội nguồn sâu xa dẫn đến sự xuất hiện các vấn đề

kinh tế - xã hội có khả năng tác động tiêu cực đến quá trình CPH DNNN bắt

nguồn từ sự khác biệt và xung đột lợi ích gữa các bên có liên quan đến tiến

trình này. Tuy vậy, mức độ bộc lộ cũng nhƣ hiệu quả xử lý chúng lại tùy

thuộc vào nhiều yếu tố. Tác động vào các yếu tố này trong nhiều trƣờng hợp

lại gắn liền với vai trò của nhà nƣớc trong toàn bộ tiến trình CPH nói chung

cũng nhƣ trong việc xử lý các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh nói riêng.

2.3.1. Môi trường cạnh tranh và khung pháp lý điều tiết hoạt động chung

của các doanh nghiệp.

Môi trƣờng kinh doanh nói chung không chỉ ảnh hƣởng đến toàn bộ hoạt

động của các doanh nghiệp mà còn ảnh hƣởng trực tiếp đến tiến độ, chất lƣợng

và hiệu quả của tiến trình cổ phần hóa DNNN. Môi trƣờng kinh doanh trong đó

doanh nghiệp hoạt động bao gồm nhiều yếu tố. Nhiều yếu tố có liên quan đến

hoạt động của nhà nƣớc: môi trƣờng kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng trƣởng kinh tế,

mức độ làm phát, thất nghiệp…); hệ thống pháp luật và sự thực thi của bộ máy

nhà nƣớc tạo ra khuôn khổ pháp lý chung cho sự hoạt động của các doanh

nghiệp; các cấu trúc thị trƣờng và sự điều tiết của nhà nƣớc…Các yếu tố này ít

nhiều đều có thể làm thuận lợi hay gây trở ngai cho tiến trình cổ phần hóa. Ở

đây, chúng ta chỉ đề cập đến một vài khía cạnh trực tiếp.

53

Nhƣ ở trên đã đề cập, để các doanh nghiệp sau cổ phần hóa có động lực

đổi mới toàn diện cung cách sản xuất, kinh doanh, khắc phục đƣợc những hạn

chế hay khiếm khuyết mà các doanh nghiệp nhà nƣớc hay mắc phải, chúng

phải đƣợc đặt trong môi trƣờng cạnh tranh lành mạnh. Điều này đòi hỏi nhà

nƣớc phải đối xử bình đẳng thật sự với tất cả các doanh nghiệp, không phân

biệt đối xử giữa chúng theo các nguyên tắc phi thị trƣờng, ví dụ, theo hình

thức sở hữu hay các thành phần kinh tế. Tính bình đẳng này đòi hỏi nhà nƣớc

phải tạo ra môi trƣờng pháp lý cho phép các doanh nghiệp đều có cơ hội nhƣ

nhau trong việc tiếp cận thị trƣờng, tiếp cận đến các nguồn lực khan hiếm của

xã hội, vì thế khả năng tiếp cận này chỉ phụ thuộc vào năng lực của doanh

nghiệp chứ không phụ thuộc vào tính chất sở hữu của nó. Nhà nƣớc vẫn có

thể trợ cấp cho doanh nghiệp này song lại đánh thuế cao đối với doanh nghiệp

kia, song điều đó đƣợc tiến hành trên cơ sở sữa chữa các thất bại thị trƣờng

(ví dụ, các doanh nghiệp sản xuất các hàng hóa gây ngoại ứng tích cực đƣợc

nhận trợ cấp sẽ có động lực gia tăng sản lƣợng, hƣớng đến mức hiệu quả mà

xã hội mong đợi; ngƣợc lại, các doanh nghiệp gây ra nhiều ô nhiễm có thể bị

“phạt” thông qua việc phải gánh chịu một mức thuế cao hơn) chứ không phải

đó là doanh nghiệp nhà nƣớc hay doanh nghiệp phi nhà nƣớc.

Ngƣợc lại với nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng trên, ở nhiều nƣớc đang

phát triển, sự phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp thƣờng hay

diễn ra, trong đó lợi thế thƣờng thuộc về các DNNN. Điều này chẳng những

làm giảm động lực hiệu quả đối với các DNNN, mà còn gây bất lợi, thua thiệt

một cách không đáng có đối với các DNTN. Kết quả là, với việc cổ phần hóa,

vô hình chung doanh nghiệp bị mất đi các khoản ƣu đãi mà một DNNN trƣớc

đây vẫn đƣợc hƣởng. Sự phân biệt đối xử nhƣ vậy tạo ra sự khuyến khích duy

trì doanh nghiệp dƣới hình thức DNNN, chống đối cổ phần hóa, cản trở các

DN sau cổ phần hóa nhanh chóng tạo ra những kết quả kinh tế tích cực.

54

Môi trƣờng cạnh tranh còn liên quan đến khả năng thiết lập các rào cản

đi vào thị trƣờng của các doanh nghiệp hiện hành đối với các doanh nghiệp

mới. Các rào cản này có thể bắt nguồn từ những lý do khách quan (lợi thế

kinh tế quy mô của các ngành khác nhau), cũng có thể bắt nguồn từ những lý

do “nhân tạo” do nhà nƣớc tạo ra. Chúng khiến cho các doanh nghiệp có

quyền lực thị trƣờng, mà đỉnh điểm của nó là vị thế độc quyền trên thị trƣờng.

Độc quyền làm giảm hiệu quả chung của cả nền kinh tế, dù đó là độc quyền

nhà nƣớc hay độc quyền tƣ nhân. Vì thế, nếu quá trình cổ phần hóa chỉ đơn

giản thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp từ chỗ là DNNN thành DN

phi nhà nƣớc, trong khi vị thế độc quyền của doanh nghiệp không bị đụng

chạm thì cổ phần hóa về căn bản vẫn không tạo ra sự chuyển biến về phƣơng

diện hiệu quả chung. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc tái cấu trúc

các doanh nghiệp nhà nƣớc, phá vỡ thế độc quyền của các doanh nghiệp này

ở những nơi có thể cũng nhƣ tạo lập và hoàn thiện môi trƣờng kinh doanh

chung theo hƣớng tăng cƣờng tính cạnh tranh trong việc ngăn chặn hay giảm

thiểu những khó khăn phát sinh trong tiến trình cổ phần hóa.

2.3.2. Khuôn khổ pháp lý và tính minh bạch của tiến trình cổ phần hóa các

DNNN

Nhiều khó khăn phát sinh trong quá trình cổ phần hóa gắn liền với kế

hoạch, chƣơng trình cổ phần hóa các DNNN đƣợc xây dựng thiếu cân nhắc,

thiếu thận trọng, không đƣợc yểm trợ bởi những quy định pháp lý chặt chẽ, và

không có lộ trình hợp lý, rõ ràng. Các vấn đề phức tạp, ngăn trở tiến trình cổ

phần hóa diễn ra một cách thuận lợi và hiệu quả cũng thƣờng xuất hiện khi

tính minh bạch trong các khâu của cổ phần hóa không đƣợc bảo đảm.

Mức độ thành công của quá trình cổ phần hóa DNNN và xử lý các vấn

đề phát sinh tùy thuộc nhiều vào:

- Quan niệm mà nhà nƣớc theo đuổi về vị trí của khu vực DNNN nói

riêng cũng nhƣ cách tiếp cận của nhà nƣớc về sự cân bằng cần thiết giữa khu

55

vực công và khu vực tƣ trong một nền kinh tế thị trƣờng. Quan điểm đó

thƣờng chi phối các tiêu chí đƣợc thiết kế và sử dụng để lựa chọn các doanh

nghiệp nhà nƣớc cần đƣợc giữ lại hay cần đƣợc cổ phần hóa, nhà nƣớc cần

nắm giữ vốn (chi phối hoặc không chi phối) hay không cần nắm giữ vốn trong

các DN cổ phần hóa . Các tiêu chí này có đƣợc xác lập rõ ràng, và đƣợc công

bố công khai, minh bạch hay không có ảnh hƣởng không nhỏ đến các vấn đề

phát sinh.

- Sự lựa chọn phƣơng thức cổ phần hóa cụ thể bao gồm việc xác định

quy mô và tính chất (khép kín, mang tính chất nội bộ hay hoàn toàn mở rộng,

công khai) của việc cổ phần hóa cũng nhƣ các quy định khung về tỷ lệ cổ

phần hóa theo từng loại hình doanh nghiệp trong đó có tỷ lệ mà nhà nƣớc cần

giữ lại, tỷ lệ dành cho ngƣời lao động trong doanh nghiệp, tỷ lệ dành cho các

đối tác chiến lƣợc, cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài và tỷ lệ bán ra trên thị

trƣờng cho các nhà đầu tƣ khác. Khi các tỷ lệ này đƣợc quy định không có cơ

sở rõ ràng, đặc biệt trong trƣờng hợp tỷ lệ cổ phần đƣợc bán ra trên thị trƣờng

không đủ lớn, quá trình cổ phần hóa thƣờng bị lạm dụng và các vấn đề phức

tạp dễ phát sinh, hoặc khó xử lý.

- Quy định của nhà nƣớc về việc cung cấp thông tin về tính hình tài

chính, cơ cấu sở hữu (một DNNN về thực chất thuộc sở hữu của nhà nƣớc

song vẫn có thể có cơ cấu sở hữu chồng chéo do sự tham dự của các doanh

nghiệp, công ty khác nhau vào việc nắm giữ vốn), hiện trạng cơ cấu quản lý

của doanh nghiệp dự kiến cổ phần hóa cho các nhà đầu tƣ. Các thông tin này

càng đầy đủ, công khai, minh bạch, có thể kiểm chứng, quá trình cổ phần hóa

càng diễn ra thuận lợi và hiệu quả.

- Các quy định khung chi phối việc lựa chọn phƣơng pháp định giá tài

sản, xác định giá trị doanh nghiệp đƣợc cổ phần hóa (quy trình, phƣơng pháp

đánh giá, thẩm định giá trị doanh nghiệp), phƣơng thức phát hành cổ phiếu

(chào bán nội bộ hay phát hành rộng rãi ra thị trƣờng…), các đối tƣợng bị

56

cấm mua cổ phiếu của doanh nghiệp cũng nhƣ các quy định về xử lý vấn đề

nợ hay lực lƣợng lao động “dôi dƣ”. Mức độ rõ ràng, minh bạch và tính hợp

lý của các quy định này sẽ ảnh hƣởng không nhỏ đến tiến trình cổ phần hóa

và khả năng giải quyết các vấn đề phát sinh.

- Các quy định pháp quy liên quan đến việc thực hiện quyền sở hữu của

cổ đông nhà nƣớc cũng nhƣ cách thức mà nhà nƣớc can thiệp vào quá trình

vận hành của doanh nghiệp sau cổ phần hóa, nhất là trong trƣờng hợp vẫn

nắm một lƣợng cổ phần đáng kể. Sự thiếu rành mạch của các quy định kiểu

này có ngăn cản những thay đổi tích cực trong phƣơng thức quản trị doanh

nghiệp sau cổ phần hóa cũng nhƣ bảo vệ một cách hiệu quả lợi ích thực sự

của nhà nƣớc trong doanh nghiệp.

2.3.3. Những biện pháp hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp trong

quá trình cổ phần hóa

Nhiều vấn đề kinh tế - xã hội phát sinh trong quá trình cổ phần hóa cần

nhận đƣợc sự hỗ trợ, trợ giúp trực tiếp của nhà nƣớc khi chúng vƣợt ra khỏi

tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Cổ phần hóa một DNNN chỉ trở nên hấp dẫn

đối với các nhà đầu tƣ tiềm năng khi triển vọng kinh doanh tƣơng lai của

doanh nghiệp là sáng sủa, có thể dự đoán đƣợc. Điều này tùy thuộc nhiều vào

kết quả hoạt động trong quá khứ của doanh nghiệp. Nói chung, các DNNN

thua lỗ, nhà nƣớc không muốn nắm giữ, khó trở thành đối tƣợng mà các nhà

đầu tƣ quan tâm. Trong nhiều trƣờng hợp, để xúc tiến quá trình cổ phần hóa,

nhà nƣớc phải có sự hỗ trợ về vốn liếng, đầu tƣ công nghệ và những sự trợ

giúp khác nhằm khắc phục những khó khăn hiện thời của doanh nghiệp và cải

thiện kết quả kinh doanh của nó.

Những hỗ trợ tài chính của nhà nƣớc trong việc khoanh nợ, xử lý nợ

tồn đọng, bảo đảm chế độ an sinh xã hội cho những ngƣời lao động thuộc

57

diện “dôi dƣ” …cũng giúp làm dịu đi những khó khăn mà các doanh nghiệp

phải đối diện trong tiến trình cổ phần hóa.

2.3.4. Các thiết chế hỗ trợ quá trình CPH DNNN.

Quá trình chuyển đổi sở hữu gắn liền với tiến trình cổ phần hóa diễn ra thuận

lợi hay không, những vấn đề phát sinh có thể giải quyết dễ dàng hay khó khăn tùy

thuộc nhiều vào mức độ phát triển của các thể chế thị trƣờng và các khuôn khổ

pháp lý đi kèm với nó. Chẳng hạn, việc định giá tài sản doanh nghiệp sẽ trở nên dễ

dàng hơn khi thị trƣờng chứng khoán phát triển, vận hành hiệu quả, các hoạt động

đầu cơ, bóp méo giá cả hay gian lận trên thị trƣờng đƣợc ngăn chặn hữu hiệu; các

tài sản, bao gồm cả đất đai, dễ dàng đƣợc chuyển đổi, giao dịch và định giá thông

qua các công ty tài chính, công ty định giá trị doanh nghiệp.. Thông qua việc phát

triển và hoàn thiện thị trƣờng lao động, xây dựng và hoàn thiện các bộ luật lao

động, bảo trợ xã hội và hệ thống an sinh xã hội, nhà nƣớc có thể tháo gỡ đƣợc

nhiều khó khăn phát sinh từ quá trình sắp xếp lại đội ngũ lao động của doanh

nghiệp cổ phần hóa. Thông qua các quy định pháp lý hữu hiệu về chế độ kế toán,

kiểm toán các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp cần cổ phần hóa

sẽ trở nên minh bạch hơn. Khi thị trƣờng và các tổ chức mua, bán nợ ra đời và

phát triển, khi luật hợp đồng đƣợc thực thi, việc xử lý các khoản nợ tồn đọng trong

các DNNN trƣớc cổ phần hóa cũng có điều kiện thực hiện nhanh chóng và hiệu

quả hơn.

2.3.5. Đội ngũ cán bộ làm công tác CPH.

Việc xử lý các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong tiến trình CPH

DNNN phụ thuộc trực tiếp vào số lƣợng và chất lƣợng của đội ngũ cán bộ

trực tiếp chịu trách nhiệm tổ chức chỉ đạo, triển khai, giám sát các chƣơng

trình, kế hoạch CPH. Khi đội ngũ này có quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng, có

năng lực và trách nhiệm nghề nghiệp cao, có khả năng phát hiện cũng nhƣ xử

lý các vấn đề nảy sinh trên cơ sở pháp luật và chính sách CPH cũng nhƣ sự

58

phối hợp các lực lƣợng, tổ chức có liên quan thì việc xử lý các vấn đề kinh tế

- xã hội xuất hiện trong quá trình CPH trở nên thông suốt và hiệu quả hơn.

2.3.6. Nhận thức xã hội về quá trình CPH DNNN.

Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình CPH DNNN và

việc xử lý chúng còn bị ảnh hƣởng bởi nhận thức và tâm lý xã hội nói chung

về bản chất và nội dung của quá trình CPH. Ở các nền kinh tế chuyển đổi, đặc

biệt là ở các quốc gia kém phát triển, những e ngại và nhận thức lệch lạc về

CPH DNNN còn bắt nguồn từ chỗ: nhận thức xã hội về mô hình kinh tế thị

trƣờng, về vị trí và sự phân công chức năng giữa khu vực công và khu vực tƣ,

về vai trò của nhà nƣớc trong tƣơng quan với thị trƣờng vẫn chứa đựng nhiều

định kiến. Chẳng hạn, tuy ngƣời ta có thể thừa nhận kinh tế thị trƣờng, thừa

nhận sở hữu tƣ nhân, thừa nhận sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế

song lại vẫn ngấm ngấm hay công khai thừa nhận vị thế đặc biệt của khu vực

kinh tế nhà nƣớc trong đó có các DNNN. Hệ quả là: khu vực DNNN ở những

mức độ khác nhau vẫn đƣợc nhận đƣợc các ƣu đãi (trong tiếp cận thị trƣờng,

đất đai hay tín dụng…) nhất định, khiến cho sân chơi chung của các “thành

phần kinh tế trở nên không bình đẳng trên thực tế. Điều này một mặt làm tăng

khó khăn cho các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân, trong đó có các DN sau cổ

phần hóa, làm giảm tính hấp dẫn của mô hình DN cổ phần, mặt khác, nó

khích lệ những ngƣời muốn níu kéo và duy trì DNNN dƣới hình thức cũ, ngay

cả khi nó cần đƣợc cải tổ thông qua cổ phần hóa. Những ngƣời đƣợc hƣởng

lợi từ việc duy trì các DNNN có liên quan có động cơ tự nhiên để thừa nhận

và bảo vệ các quan điểm hay cách nhìn nhƣ vậy, cho dù nó có thể gây ra tổn

hại đối với lợi ích xã hội chung. Điều này thƣờng tạo ra sự ngập ngừng trong

việc tiến hành cổ phần hóa, ngay cả khi nó đƣợc tuyên bố và đƣợc lên kế

hoạch chi tiết.

59

2.4. Thực tiễn giải quyết những vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trong quá

trình này ở một số địa phƣơng và bài học kinh nghiệm cho Thanh Hóa

2.4.1. Thực tiễn giải quyết những vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trong quá

trình này ở một số địa phương

Sau một thời gian dài tiến hành CPH DNNN, nhiều địa phƣơng đã đạt

những thành tựu đáng kể. Để đúc rút bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho

tỉnh Thanh Hóa, Luận án chọn địa bàn nghiên cứu là các tỉnh Nghệ An, Thừa

Thiên - Huế và Nam Định vì đây là những tỉnh có điều kiện địa lý, kinh tế và

văn hóa, xã hội khá tƣơng đồng với tỉnh Thanh Hóa.

2.4.1.1. Kinh nghiệm của tỉnh Nghệ An

Nghệ An là một tỉnh lớn, bắt đầu thực hiện thí điểm CPH từ năm 1998.

Nhận thức rõ vấn đề, Tỉnh đã sớm chỉ đạo để vƣợt qua 3 trở ngại lớn là: (1)

Loại bỏ thái độ chần chừ của các sở chủ quản, các giám đốc DNN trong CPH;

(2) Phá bỏ rào cản về tài chính và xử lý linh hoạt các tài sản của DNNN thuộc

diện CPH; và (3) Giải quyết dứt điểm vấn đề lao động dôi dƣ theo hƣớng có

lợi nhất cho ngƣời lao động.

Trong quá trình thực thi chƣơng trình CPH, Nghệ An luôn coi trọng và

quan tâm công tác tuyên truyền các chủ trƣơng của Đảng, chính sách của Nhà

nƣớc về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nƣớc để nâng cao nhận thức cho

cán bộ, đảng viên, đặc biệt là lãnh đạo và và ngƣời lao động trong các doanh

nghiệp CPH. Nhờ nhận thức đúng về ý nghĩa của chủ trƣơng CPH DNNN, về

lợi ích dài hạn của tiến trình này cũng nhƣ những biện pháp hỗ trợ có thể của

nhà nƣớc tâm lý chần chừ, e ngại hay chống đối CPH phần nào đƣợc hạn chế..

Đặc biệt, trong quá trình CPH, Tỉnh thƣờng xuyên chỉ đạo các ngành,

các cấp quan tâm xử lý tốt, kịp thời các vấn đề về tài chính của doanh nghiệp

trƣớc khi chuyển đổi, tiến hành phân tích một cách có cơ sở khoa học về

nguyên nhân của tình trạng đó để đƣa ra các biện pháp nhằm lành mạnh hóa

60

tình hình tài chính của các DNNN khi chúng đƣợc chọn CPH. Đồng thời,

tỉnh cũng có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình chuyển

đổi kịp thời nhƣ hỗ trợ, trợ cấp cho số lao động dôi dƣ do sắp xếp lại, hỗ trợ

tài chính cho doanh nghiệp sau chuyển đổi…

Với cách làm nhƣ trên, đến hết tháng 12 năm 2010, theo báo cáo của

UBND tỉnh, Nghệ An đã sắp xếp, chuyển đổi đƣợc 166 doanh nghiệp, trong

đó CPH đƣợc 86 doanh nghiệp (chiếm 51,8% tổng số DNNN đƣợc chuyển

đổi sở hữu). Cơ cấu vốn của doanh nghiệp trƣớc và sau chuyển đổi sang công ty

cổ phần đã thay đổi rõ rệt. Cụ thể, trƣớc khi chuyển đổi, vốn nhà nƣớc tại các

DNNN là 265 tỷ đồng; sau chuyển đổi chỉ còn 126 tỷ đồng. Việc thoái vốn

nhà nƣớc trong các DNNN đã tạo điều kiện cho tỉnh Nghệ An có thêm lƣợng

vốn đáng kể để đầu tƣ phát triển những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế.

- Vốn điều lệ sau chuyển đổi đến 30/6/2010 là: 278.044 triệu đồng,

trong đó vốn nhà nƣớc chỉ chiếm hơn 56%.

Số lao động dôi dƣ do sắp xếp chuyển đổi doanh nghiệp tại tỉnh này là

3.703 ngƣời.

Để làm lành mạnh hóa tình hình tài chính của doanh nghiệp trƣớc khi

chuyển đổi, căn cứ các quy chế quản lý tài chính hiện hành, UBND tỉnh đã ban

hành các quyết định xử lý những tồn tại về tài chính cho các doanh nghiệp, trong

đó: Tài sản không cần dùng: 20.154 triệu đồng; Tài sản chờ thanh lý loại khỏi

GTDN: 6.948 triệu đồng; Công nợ khó đòi: 36.332 triệu đồng; Nợ Ngân hàng, nợ

ngân sách: 12.972 triệu đồng; và các khoản khác: 80.497 triệu đồng.

Khi doanh nghiệp chuyển đổi hình thức sở hữu, số tiền bán phần vốn

nhà nƣớc đƣợc Tỉnh chuyển về Quỹ sắp xếp doanh nghiệp địa phƣơng tại Kho

bạc Nhà nƣớc Nghệ An. Số tiền này đƣợc sử dụng vào đầu tƣ và cho vay đối

với các doanh nghiệp sau CPH, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh

61

nghiệp này phát triển. Cụ thể Tỉnh đã cho các DN vay vốn kinh doanh: 11.824

triệu đồng; bổ sung vốn cho DNNN: 18.948 triệu đồng; hỗ trợ đào tạo lại lao

động: 1.855 triệu đồng; và các công việc khác: 18.614 triệu đồng.

Hiệu quả của tiến trình CPH DNNN ở tỉnh Nghệ An đƣợc thể hiện ở kết

quả hoạt động của doanh nghiệp sau khi CPH. Theo số liệu của năm 2009, so

với năm trƣớc, vốn điều lệ tại các DNNN CPH tăng 11,5% (đạt mức 278.044

triệu đồng; doanh thu đạt 2.713.256 triệu đồng; lãi trƣớc thuế đạt 232.596

triệu đồng; nộp ngân sách đạt 658.014 triệu đồng; thu nhập bình quân đạt

2.190.000 đồng/ngƣời/tháng; cổ tức đạt 15%; và lợi nhuận/vốn chủ sở hữu

đạt 60%.

2.4.1.2. Kinh nghiệm của tỉnh Thừa Thiên- Huế

Tiến trình CPH DNNN tại Thừa Thiên Huế gần nhƣ diễn ra cùng thời

điểm với Thanh Hóa (năm 2000, chỉ sau Thanh Hóa 2 năm).

Để triển khai chủ trƣơng CPH DNNN trên địa bàn, đầu tiên Tỉnh căn cứ

vào thực trạng các mặt hoạt động SXKD và tình hình tài chính của doanh

nghiệp để xác định hình thức sắp xếp DNNN thích hợp. Tỉnh luôn chú trọng

việc phổ biến cho các cấp lãnh đạo và ngƣời lao động tại các doanh nghiệp

nắm vững, hiểu rõ các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về sắp

xếp, chuyển đổi DNNN, nhờ đó giảm thiểu những bất đồng, e ngại, tạo ra

đƣợc sự đồng thuận nhất định hỗ trợ tiến trình CPH.

Bƣớc vào tiến trình CPH, Tỉnh rất quan tâm đến việc phân loại các DNNN,

trên cơ sở tình hình kinh doanh và kết quả tài chính của chúng. Các thông tin về

các khoản nợ của doanh nghiệp đƣợc thu thập và báo cáo, các giải pháp nhằm làm

lành mạnh hóa tình hình tài chính của các doanh nghiệp đƣợc khuyến khích và

trong chừng mực nhất định đƣợc hỗ trợ thông qua vai trò trung gian, phối hợp

(trong việc khoanh nợ và thanh toán bù trừ nợ giữa các doanh nghiệp) của các cơ

quan quản lý nhà nƣớc Tỉnh. Điều này có tác động lớn đến lòng tin và sự lựa chọn

62

mua cổ phiếu của các nhà đầu tƣ. Không chỉ có vậy, Tỉnh còn hỗ trợ các doanh

nghiệp xây dựng phƣơng án SXKD cho các doanh nghiệp hậu cổ phần hóa, đồng

thời tạo môi trƣờng để các phƣơng án đó mang tính khả thi cao. Thừa Thiên –

Huế cũng khuyến khích việc bán cổ phần ra ngoài để thu hút vốn, chất xám của

toàn xã hội, nhất là thu hút các nhà đầu tƣ chiến lƣợc để tạo thêm động lực cho sự

phát triển của doanh nghiệp.

Nhƣ trên đã đề cập, việc tạo ra sự đồng thuận và quyết tâm đổi mới của

các bên liên quan, đặc biệt là giữa bộ máy lãnh đạo doanh nghiệp và tập thể

ngƣời lao động là yếu tố căn bản tạo nên sự thành công của tiến trình CPH. Bên

cạnh đó, Tỉnh xác định, trong quá trình thực hiện cổ phần hóa, cần có sự điều

chỉnh hình thức sắp xếp doanh nghiệp một cách linh hoạt để phù hợp hơn với

tình hình thực tế. Nhận thức đó là cơ sở quan trọng để áp dụng các hình thức

cải cách khác hiệu quả hơn nhƣ: giao, bán, khoán, cho thuê, giải thể hay phá

sản, nếu doanh nghiệp đó không cổ phần hóa đƣợc.

Tỉnh chủ trƣơng tiến trình CPH vừa phải bảo đảm tiến độ, vừa phải đảm

bảo sự ổn định và phát triển của doanh nghiệp sau sắp xếp. Đó là cách để

tránh tình trạng chạy theo tiến độ mà không đảm bảo chất lƣợng nhƣ đã từng

xẩy ra tại nhiều địa phƣơng.

Trong khâu quản trị doanh nghiệp sau CPH, tỉnh chỉ đao: đối với các

doanh sau cổ phần còn vốn Nhà nƣớc, việc lựa chọn ngƣời trực tiếp quản lý

phần vốn nhà nƣớc cần cân nhắc kỹ, tránh tình trạng độc quyền (chọn 1

ngƣời) và phải kiểm tra theo dõi sát, thƣờng xuyên, nếu không đảm bảo yêu

cầu cần phải thay thế ngay.

Đối với các doanh nghiệp đã CPH, Thừa Thiên Huế luôn quan tâm xây

dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nƣớc về tài chính doanh nghiệp có đủ năng

lực chuyên môn và có tầm nhìn chiến lƣợc, hiểu biết kinh tế thị trƣờng, có tƣ

duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong thực thi công

63

vụ để giúp doanh nghiệp đủ sức cạnh tranh và tham gia quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế. Định kỳ một năm hai lần, Thƣờng trực Ban Đổi mới và Phát

triển Doanh nghiệp hoặc Lãnh đạo tỉnh tổ chức gặp gỡ, đối thoại với doanh

nghiệp để nghe phản ánh những khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình thực

thi. Nhờ đó, Tỉnh có đƣợc cơ sở thực tiễn sát thực để đƣa ra những biện pháp

tháo gỡ kịp thời, kể cả việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh nhƣ

giải quyết vấn đề lao động “dôi dƣ” hay định giá tài sản doanh nghiệp.

Với cách làm nhƣ trên, nên dù tiến hành CPH muộn nhƣng tiến trình

này vẫn đƣợc đẩy nhanh, đồng thời các vấn đề kinh tế, xã hội nảy sinh đƣợc

hạn chế hay giải quyết kịp thời hơn. Tính đến hết năm 2010, tỉnh Thừa Thiên

Huế đã sắp xếp, chuyển đổi đƣợc 73/73 DN (đạt 100%), trong đó cổ phần hóa

đạt 34 DN, chiếm 46,6%.

Qua sắp xếp số lƣợng DNNN ở tỉnh Thừa Thiên Huế đã giảm đáng kể,

nhất là các doanh nghiệp nhỏ, hoạt động kém hiệu quả. Ngƣợc lại, số lƣợng

các công ty cổ phần tại địa phƣơng tăng lên nhiều, trong đó phần lớn tiếp tục

hoạt động ổn định, các chỉ tiêu về số lƣợng và chất lƣợng đều khá tốt (bảng 2.1).

Bảng 2.1. Một số kết quả của các DN CPH của tỉnh Thừa Thiên - Huế

năm 2010

STT Chỉ tiêu Khi sắp xếp Năm 2010 So với trước

(tỷ đồng) (tỷ đồng) CPH (%)

1 Vốn điều lệ bq 01 DN 13,30 15 +12,8

2 Doanh thu bq 01 DN/năm 29,00 55 +89,6

3 Lãi bình quân 01 DN/năm 0,78 2,1 +156,4

4 Nộp NS bq 01 DN/năm 1,13 2 +76,9

Nguồn: UBND tính Thừa Thiên - Huế, năm 2010.

Qua quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên

Huế có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:

64

-. Chú trọng khâu phổ biến cho lãnh đạo và ngƣời lao động các doanh nghiệp

nắm vững, hiểu rõ các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về sắp xếp,

chuyển đổi nhằm hạn chế và khắc phục tâm lý chần chừ, chống đối CPH..

- Cổ phần hóa DNNN phải đảm bảo quyền làm chủ thực sự của các cổ

đông, trong đó có đông đảo ngƣời lao động để tạo động lực mạnh bên trong

doanh nghiệp. Ngoài ra, cũng cần mạnh dạn bán cổ phần ra ngoài để thu hút

vốn, chất xám của toàn xã hội nhất là các nhà đầu tƣ chiến lƣợc để tạo thêm

động lực phát triển doanh nghiệp.

- Phải khuyến khích và thúc đẩy quá trình lành mạnh hóa tình hình tài

chính trƣớc cổ phần hóa, làm rõ và có cơ chế thúc đẩy việc xử lý các khoản nợ;

bên cạnh đó phƣơng án SXKD sau cổ phần cũng phải có tính khả thi cao, bộ

máy lãnh đạo doanh nghiệp và tập thể ngƣời lao động cũng phải nhất trí, quyết

tâm đổi mới và phát triển doanh nghiệp.

- Phải linh hoạt điều chỉnh hình thức sắp xếp trong quá trình thực hiện,

quá trình cổ phần hóa, nếu doanh nghiệp có sự biến động lớn về tài chính...

không cổ phần hóa đƣợc thì chuyển ngay sang các hình thức khác (giao, bán,

giải thể, phá sản...)

- Sắp xếp, chuyển đổi DNNN nói chung và thông qua quá trình CPH nói

riêng đƣợc xác định là quá trình khó khăn, không thể thực hiện một cách nóng

vội. Do đó, quá trình này vừa phải bảo đảm tiến độ, vừa phải đảm bảo sự ổn

định và phát triển của doanh nghiệp sau sắp xếp, tránh khuynh hƣớng chạy

theo tiến độ mà không đảm bảo chất lƣợng của tiến trình CPH.

- Đối với các doanh sau cổ phần còn vốn Nhà nƣớc, việc lựa chọn ngƣời

trực tiếp quản lý phần vốn Nhà nƣớc cần cân nhắc kỹ, tránh tình trạng độc

quyền (chọn 1 ngƣời) và phải kiểm tra theo dõi sát, thƣờng xuyên, nếu không

đảm bảo yêu cầu cần phải thay thế ngay.

65

- Chú trọng nâng trình độ và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Cấp ủy,

đây là yếu tố quyết định đến việc nâng cao chất lƣợng sinh hoạt đảng ở doanh

nghiệp. Xây dựng tốt mối quan hệ giữa cấp ủy với chủ doanh nghiệp. Giải

quyết tốt mối quan hệ này là khâu then chốt để đảm bảo cho công tác xây

dựng Đảng trong doanh nghiệp.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nƣớc về tài chính doanh nghiệp

có năng lực chuyên môn và tầm nhìn chiến lƣợc, hiểu biết kinh tế thị trƣờng,

có tƣ duy đổi mới, có tâm sáng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm

trong thực thi công vụ để giúp doanh nghiệp đủ sức cạnh tranh và tham gia

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

- Định kỳ một năm hai lần, Thƣờng trực Ban Đổi mới và Phát triển Doanh

nghiệp hoặc Lãnh đạo tỉnh tổ chức gặp gỡ, đối thoại với doanh nghiệp để nghe

phản ánh những khó khăn, vƣớng mắc cần tháo gỡ làm cơ sở điều chỉnh hoặc

xây dựng cơ chế chính sách liên quan đến doanh nghiệp cho phù hợp.

2.4.1.3 Kinh nghiệm của tỉnh Nam Định

Đến hết năm 2010, Nam Định đã cổ phần hóa đƣợc 50 DNNN. Số

lƣợng các DNNN đƣợc CPH chƣa nhiều, quy mô vốn bình quân của doanh

nghiệp còn nhỏ, thời gian hoạt động chƣa lâu. Tuy vậy, hiệu quả hoạt động

của các DN sau CPH bƣớc đầu đƣợc cải thiện, thể hiện ở các mặt sau:

Một là, sở hữu nhà nƣớc bƣớc đầu đƣợc cấu trúc lại theo yêu cầu phát

triển nền kinh tế nhiều thành phần. Qua việc bán cổ phiếu, Nhà nƣớc thu hồi

đƣợc một lƣợng vốn quan trọng vào ngân sách nhà nƣớc để đầu tƣ trở lại các

doanh nghiệp và giải quyết một số chính sách cho ngƣời lao động.

Hai là, Sự thay đổi trong cấu trúc sở hữu đã tạo ra động lực mới cho sự

thay đổi trong bộ máy quản lý và phƣơng thức quản trị DN, đồng thời tạo ra

cơ chế kiểm soát có hiệu quả của ngƣời lao động đối với doanh nghiệp. Nhờ

đó nhiều doanh nghiệp tiết kiệm đƣợc chi phí sản xuất, tăng năng suất lao

66

động. Cụ thể: các CTCP trên địa bàn tỉnh Nam Định bình quân giảm đƣợc chi

phí khoảng 20%. Ở một số công ty cổ phần nhƣ: CTCP dây lƣới thép Nam

Định; CTCP vận tải ô tô Nam Định, CTCP xây dựng hạ tầng Thành Công;

CTCP dệt may Sơn Nam..., giá thành sản phẩm đã giảm đƣợc 50% so với

trƣớc khi CPH,

Ba là, hình thành cơ chế phân phối mới theo hƣớng phát huy các nguồn

lực trong điều kiện nền KTTT và hội nhập quốc tế: Ngƣời lao động trong

doanh nghiệp có quyền đƣợc mua cổ phiếu và trở thành cổ đông nên quan hệ

của họ với doanh nghiệp thể hiện ở 2 tƣ cách: Ngƣời làm thuê cho doanh

nghiệp và ngƣời làm chủ doanh nghiệp. Do vậy ngoài tiền lƣơng họ còn nhận

đƣợc thu nhập dƣới hình thức lợi tức cổ phần. Điều này khiến họ quan tâm

hơn đến sự sống còn và phát triển của doanh nghiệp. Qua các doanh nghiệp

hình thành từ CPH DNNN cho thấy: ở CTCP xây dựng nông nghiệp và phát

triển nông thôn Nam Định; CTCP xây dựng Nam Định; CTCP dƣợc Nam Hà;

CTCP đóng tàu sông Đào Nam Hà; CTCP dây lƣới thép Nam Định; CTCP

Bạch Đằng,... mức thu nhập bình quân hàng tháng của ngƣời lao động tăng từ

800.000 lên 2.500.000đ/ngƣời /tháng (tăng 3,1 lần). Ở các doanh nghiệp còn

lại, mức tăng bình quân là 1.5 lần.

Tuy nhiên quá trình CPH DNNN ở Nam Định cũng đã nảy sinh một số

vẫn đề kinh tế - xã hôi sau:

*Sự chuyển đổi cấu trúc sở hữu ở một số doanh nghiệp không tạo ra sự

thay đổi rõ rệt về bộ máy quản lý và phương thức quản trị doanh nghiệp,

người lao động khó trở thành người chú thực sự của các doanh nghiệp sau

CPH

Những doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN mà nhà nƣớc là cổ

đông lớn ( vốn của nhà nƣớc 30% hoặc 51%) vẫn còn nặng về hoạt động theo

cơ chế xin - cho nên việc điều hành hoạt động của doanh nghiệp hết sức khó

khăn và ách tắc. Bộ máy quản lý từ chủ tịch hội đồng quản trị, ban giám đốc

67

đến các phòng, ban phân xƣởng sản xuất về cơ bản đƣợc chuyển từ DNNN

sang, chƣa tiếp cận đƣợc với phƣơng thức quản lý mới, nên chỉ đạo điều hành

sản xuất, kinh doanh ở các doanh nghiệp này còn nhiều lúng túng. Cá biệt có

Giám đốc điều hành, chủ tịch Hội đồng quản trị không tôn trọng cả điều lệ

công ty đã gây ra sự mất đoàn kết trong nội bộ.

Ngoài ra, cán bộ quản lý điều hành ở các doanh nghiệp có trình độ học

vấn, chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, thụ động khả năng thích ứng và tiếp

cận phƣơng hƣớng hiện đại với công nghệ còn ở mức thấp, hoạt động quản lý

điều hành chủ yếu theo kinh nghiệm, ngại va chạm và chậm đổi mới.

Thực tế ở các doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN trên địa bàn

tỉnh Nam Định thì tỷ trọng cổ phần bán cho ngƣời lao động trong doanh

nghiệp chiếm khoảng 70% vốn điều lệ, phần bán cho cổ đông ngoài doanh

nghiệp chỉ đạt xấp xỉ 10%. Cùng với cổ phần hóa cơ bản khép kín, ở nhiều

công ty cổ phần, Nhà nƣớc vẫn còn nắm một tỷ lệ lớn vốn cổ phần ( thƣờng

từ 60% đến 80%). Thực tiễn này cho thấy sự bất cập của Tỉnh trong việc đối

diên với vấn đề chuyển đổi cấu trúc sở hữu trong tiến trình CPH.

Tại một số CTCP, ngƣời lao động đồng thời là cổ đông, một phần do

nhận thức chƣa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình hay sự hiểu biết pháp

luật về CTCP còn hạn chế, một phần do quá nghèo nên buộc phải chuyển

nhƣợng cổ phần cuả mình cho ngƣời khác, do đó mất quyền làm chủ công ty.

Hậu quả là ở một số doanh nghiệp sau CPH, kết quả sản xuất kinh

doanh giảm sút so với trƣớc khi CPH. Đây thƣờng là các DN hoạt động trong

một số ngành, lĩnh vực khó khăn, công nghệ sản xuất lạc hậu, sản phẩm thiếu

sức cạnh tranh, trình độ tổ chức lãnh đạo yếu kém. Số doanh nghiệp này

chiếm tới 5% - 7% so với số doanh nghiệp đã đƣợc thực hiện CPH DNNN,

trong đó có: CTCP vật liệu xây lắp Nam Định, CTCP Dệt may Mỹ nghệ xuất

khẩu, CTCP Chế biến hải sản Nam Định...

68

* Nhiều vướng mắc xảy ra đối với người lao động trong các DNNN khi

CPH, đặc biệt là ở các DN sau CPH làm ăn thua lỗ.

Một trong những khó khăn nhất của vấn đề chuyển đổi DNNN là xử lý

các vấn đề xã hội gắn với đội ngũ cán bộ, công nhân đã gắn bó nhiều năm với

doanh nghiệp. Về mặt quyền lợi, những cán bộ, công nhân các DNNN đang

hƣởng chế độ lƣơng và bảo hiểm có nhiều ƣu việt hơn so với các loại hình

khác, đặc biệt trong trƣờng hợp doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Trong khi đó,

việc đóng góp bảo hiểm xã hội cho ngƣời lao động ở các doanh nghiệp hình

thành từ CPH DNNN còn nhiều bất cập do các cơ quan quản lý nhà nƣớc

thiếu văn bản hƣớng dẫn phù hợp.

Nhiều cán bộ, công nhân đã cao tuổi sẽ không đáp ứng yêu cầu kinh

doanh khi DNNN đƣợc chuyển đổi thành CTCP. Trong bối cảnh trên, khi vấn

đề giải quyết lao động dôi dƣ ở một số CTCP chƣa đƣợc quan tâm đúng mức

thì rõ ràng quá trình CPH DNNN gây ra những bức xúc xã hội không nhỏ.

Bên cạnh một số doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN kinh doanh

có hiệu quả, có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, thu hút thêm lao động, có

không ít doanh nghiệp kinh doanh sa sút, dẫn tới thừa lao động. Trong trƣờng

hợp này, do thiếu sự hỗ trợ cần thiết từ phía nhà nƣớc, các doanh nghiệp này

không có đủ điều kiện vật chất để giải quyết những vấn đề mang tính xã hội (

trợ cấp, tìm việc mới...) liên quan đến những ngƣời bị mất việc. Tính ƣu việt

của CPH DNNN không đƣợc phát huy, tiến trình CPH tiếp theo sẽ gặp nhiều

trở ngại.

* Thu nhập của người lao động tăng chậm:

Nhìn chung, mặc dù ở nhiều doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN

kết quả kinh doanh (doanh thu, lợi nhuận…) ít nhiều đƣợc cải thiện, thu nhập

bình quân ngƣời lao động cũng nhƣ mức đóng góp cho NSNN gia tăng, song

tốc độ tăng của hai chỉ tiêu sau cùng còn thấp, chƣa tƣơng xứng với phát triển

công ty. Điều đó đƣợc thể hiện ở bảng sau:

69

Bảng 2.2: So sánh tỷ lệ tăng thu nhập của ngƣời lao động và tăng lợi

nhuận của 3 CTCP.

STT TÊN CTCP Thời gian Tỷ lệ tăng Tỷ lệ tăng Tỷ lệ tăng

hoạt động về nộp lợi nhuận thu nhập

của CTCP NSNN của NLĐ

1 CTCP Dây lƣới 11 năm 16% 534% 23%

thép NĐ

2 CTCPDệt may 6 năm 20% 488% 17%

Sơn Nam

3 CTCP 6 năm 4% 153% 10%

NADIMEX

Nguồn: báo cáo của UBND tỉnh Nam Định năm 2009

Bảng 2.2 cho thấy, ở CTCP Dây lƣới thép nam Định, sau 11 năm hoạt

động tỷ lệ tăng lợi nhuận đạt 534% trong khi đó mức tăng thu nhập của ngƣời

lao động chỉ đạt 23% và các nộp ngân sách nhà nƣớc chỉ tăng 16%. Ở CTCP

dệt may Sơn Nam sau 6 năm hoạt động tỷ lệ tăng lợi nhuận là 488%, tỷ lệ

tăng thu nhập của ngƣời lao động là 17%,...Nhƣ vậy lợi ích thu đƣợc từ thành

quả kinh doanh của các công ty này chủ yếu rơi vào những ngƣời sở hữu công

ty, trong đó có một số ngƣời lao động với tƣ cách là cổ đông, còn đời sống

của số đông ngƣời lao động tuy đƣợc cải thiện, song không đáng kể.

* Quan hệ của các cổ đông và CTCP cũng chưa được ràng buộc rõ

ràng, minh bạch, quyền và nghĩa vụ của cổ đông với tư cách là chủ của công

ty chưa đựợc thực hiện đầy đủ,

Qua khảo sát cho thấy: ở nhiều công ty chƣa có các cuộc hội thảo theo

chuyên đề, các hội nghị và các diễn đàn thực sự để ngƣời lao động với tƣ cách

là cổ đông bày tỏ quan điểm và đƣa ra tiếng nói dân chủ thực sự của mình

trƣớc các vấn đề của doanh nghiệp, nên đã gây ra ức chế, mất đoàn kết trong

nội bộ một số ít công ty. Bên cạnh đó hoạt động của các tổ chức chính trị, xã

70

hội ở các doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN còn nhiều hạn chế, lúng

túng, chƣa phát huy vai trò khả năng của mình. Ngoài ra nhiều doanh nghiệp

do chạy theo lợi nhuận mà bỏ qua hoặc coi nhẹ vấn đề bảo vệ môi trƣờng.

2.4.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra cho tỉnh Thanh Hóa

Từ kinh nghiệm CPH và giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội đặt ra cho

quá trình CPH tại một số địa phƣơng, có thể rút ra một số bài học mà tỉnh

Thanh Hóa có thể tham khảo, áp dụng nhƣ sau:

Thứ nhất, muốn CPH DNNN thành công, các vấn đề kinh tế - xã hội nảy

sinh đƣợc hạn chế và tháo gỡ hiệu quả, chƣơng trình, kế hoạch CPH phải

đƣợc hoạch định bài bản nhƣ là bộ phận của chƣơng trình cơ cấu lại khu vực

doanh nghiệp nhà nƣớc nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Phải trên cơ sở

định vị lại vai trò của khu vực kinh tế nhà nƣớc để mở rộng diện DNNN phải

cổ phần hoá. Các DN CPH phải đƣợc hỗ trợ một cách nhất quán và phù hợp.

Đồng thời, CPH DNNN phải đƣợc thực hiện từng bƣớc, đối tƣợng cổ phần

hóa phải là doanh nghiệp hoạt động có tiềm năng để tránh việc xóa nợ hợp

pháp cho những DNNN làm ăn thua lỗ kéo dài, nợ xấu nhiều.

Thứ hai, phải coi trọng công tác tuyên truyền nhằm tác động vào nhận

thức của các đối tƣợng có liên quan đến quá trình CPH, và hạn chế các bất

đồng, chống đối CPH dƣới các hình thức khác nhau trên cơ sở sự đồng thuận

về lợi ích dài hạn chung. Bên cạnh đó, phải có sự ràng buộc trách nhiệm đối

với lãnh đạo các doanh nghiệp thuộc diện CPH trong việc chấp hành đề án

và kế hoạch CPH đã đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ và Chủ tịch UBND tỉnh phê

duyệt, chủ động tập trung xử lý dứt điểm những vấn đề tồn đọng trong quá

trình CPH để triển khai thực hiện tốt các bƣớc công việc của CPH. Thực tế

cho thấy ở hầu hết các DNNN, ngƣời lao động không thể tự khởi xƣớng

cũng nhƣ không thể phản đối hoặc cản trở việc CPH, nếu nhƣ giám đốc và

cơ quan chủ quản đã khởi xƣớng và phát động. Vì vậy, có thể thấy rằng

CPH có hiệu quả cao hay thấp, tiến độ nhanh hay chậm phụ thuộc chủ yếu

71

vào vai trò của chính lãnh đạo các doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản.

Thứ ba, cần có sự phối hợp giữa các ngành, các cấp và phân công trách

nhiệm cụ thể, rõ ràng trong việc tổ chức triển khai kế hoạch CPH DNNN.

Lãnh đạo tỉnh cần thƣờng xuyên đôn đốc, hƣớng dẫn, kiểm tra các doanh

nghiệp thực hiện CPH theo phƣơng án và kế hoạch đã đƣợc phê duyệt; kịp

thời phát hiện và cùng với doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn, vƣớng mắc

trong quá trình CPH DNNN để đề xuất, kiến nghị với cơ các quan nhà nƣớc

có thẩm quyền xem xét, giải quyết.

Thứ tư, phải tập trung chỉ đạo xử lý dứt điểm những vấn đề tồn đọng về

tài chính doanh nghiệp trƣớc khi chuyển đổi, nhất là các khoản công nợ tồn

đọng, kéo dài. Đây là yếu tố rất quan trọng trong quy trình sắp xếp, đổi mới

doanh nghiệp Nhà nƣớc. Trên thực tế những doanh nghiệp chấp hành tốt công

tác quản lý vốn và tài sản, chủ động xử lý tốt các khoản công nợ tồn đọng,

làm lành mạnh hóa tình trạng tài chính doanh nghiệp trƣớc khi CPH sẽ tạo

điều kiện thuận lợi cho khâu xác định giá trị doanh nghiệp, rút ngắn đƣợc thời

gian trong quá trình CPH và thƣờng tạo đƣợc hiệu quả SXKD cao sau CPH.

Mặt khác, phải hoàn thiện thể chế tạo hành lang pháp lý công bằng cho

các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc, giảm bớt các thủ tục hành chính, kết hợp

với các biện pháp giải quyết vấn đề xã hội. Kết hợp chặt chẽ giữa cổ phần hóa

và công ty hóa nhằm khắc phục tình trạng cổ phần hóa trên hình thức.

Thứ năm, phải mạnh dạn bán hết phần vốn Nhà nƣớc tại doanh nghiệp cổ

phần hóa thuộc diện Nhà nƣớc không cần nắm giữ cổ phần chi phối cũng nhƣ

tránh tình trạng CPH theo kiểu khép kín, nội bộ hóa nhằm tạo ra sự thay đổi thực

sự, đúng hƣớng trong cấu trúc sở hữu của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, những

doanh nghiệp cổ phần hóa không còn vốn Nhà nƣớc tham gia thì hiệu quả SXKD

thƣờng cao hơn đối với những doanh nghiệp còn vốn Nhà nƣớc. Mặt khác, nếu

còn vốn nhà nƣớc tham gia tại doanh nghiệp thì phải cử ngƣời đại diện quản lý

phần vốn Nhà nƣớc, đồng thời phải quy định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của

72

ngƣời đại diện phần vốn Nhà nƣớc tại các DN CPH. Hiện nay do ngƣời đại diện

quản lý phần vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp thƣờng kiêm nhiệm nên việc quản lý

còn nhiều hạn chế, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đặt ra.

Thứ sáu, phải coi trọng công tác tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp,

vì đây là nhân tố quyết định đến chất lƣợng, hiệu quả sắp xếp, đổi mới

DNNN. Qua thực tế những doanh nghiệp có ngƣời quản lý giỏi thì tiếp tục đổi

mới, phát triển và mang lại hiệu quả sau khi chuyển đổi. Vì vậy, phải thƣờng

xuyên chăm lo đến việc xây dựng đội ngũ viên chức lãnh đạo doanh nghiệp,

phải lựa chọn đƣợc những ngƣời thực sự có đủ năng lực và phẩm chất, đáp

ứng yêu cầu đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của

doanh nghiệp Nhà nƣớc sau CPH. Cần mạnh dạn thực hiện chế độ thi tuyển

các chức danh lãnh đạo công ty và thuê giám đốc.

Thứ bảy, khi có những vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh phải làm rõ nguyên

nhân, thống nhất quan điểm chi đạo để giải quyết tận gốc các vấn đề, tạo đƣợc sự

hài hòa về lợi ích của doanh nghiệp, nhà nƣớc và ngƣời lao động.

73

Kết luận Chƣơng 2

Trong nền kinh tế thị trƣờng, các DNNN vẫn đóng giữ một vai trò quan

trọng nhất định trong toàn bộ cơ cấu tổng thể của nền kinh tế. Tuy nhiên, ở

những nƣớc mà khu vực DNNN quá lớn, nhiều DNNN thƣờng hoạt động

không hiệu quả thì cần đƣợc chuyển đổi hình thức sở hữu và tổ chức sản xuất

kinh doanh, trong đó CPH là giải pháp hữu hiệu đƣợc nhiều nƣớc lựa chọn.

CPH một bộ phận các DNNN này chính là phƣơng thức để tạo ra sự cân

bằng hơn giữa khu vực công và khu vực tƣ, nhằm tăng cƣờng hiệu quả của cả

nền kinh tế vốn dĩ về cơ bản đƣợc vận hành theo các nguyên tắc thị trƣờng. Sự

cần thiết của quá trình cổ phần hóa bắt nguồn từ chính những hạn chế, yếu

kém của các DNNN khi chúng phải chuyển phƣơng thức hoạt động từ cơ chế

kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trƣờng. Cổ phần hóa các DNNN

là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của

chính khu vực các DNNN cũng nhƣ của cả nền kinh tế.

Song cổ phần hóa các DNNN là một quá trình phức tạp, trong đó

thƣờng nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội cần giải quyết nhằm biến nó

thành một quá trình không thể đảo ngƣợc. Ở đây luôn tiềm ẩn những mối xung

đột lợi ích giữa các nhóm xã hội khác nhau. Có những lực lƣợng xã hội đƣợc

hƣởng lợi từ việc duy trì hình thức và vị thế của các DNNN, và họ ngấm ngầm

hay công khai, sẵn sàng tìm cách ngăn trở tiến trình cổ phần hóa. Có những

nhận thức khác nhau về vị trí của khu vực DNNN trong nền kinh tế thị trƣờng,

khiến cho việc lựa chọn các DNNN phải cổ phần hóa hay tỷ lệ vốn nhà nƣớc

phải nắm giữ sau cổ phần hóa không bao giờ là dễ dàng. Việc định giá doanh

nghiệp cũng nhƣ giải quyết các di sản do DNNN để lại trƣớc khi cổ phần hóa

trở nên khó khăn hơn nếu không có các thiết chế thị trƣờng và pháp luật có

liên quan yểm trợ, nhất là những hoạt động này thƣờng đụng chạm và có liên

quan đến lợi ích khác nhau của các chủ thể có liên quan.

74

Việc xử lý các vấn đề phức tạp nảy sinh từ tiến trình cổ phần hóa

DNNN phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó nhà nƣớc luôn đóng

giữ một vai trò quan trọng, chi phối. Việc xây dựng một kế hoạch và lộ trình

cổ phần hóa phù hợp, khoa học gắn liền với việc hoàn thiện môi trƣờng pháp

lý và chính sách, phát triển các thể chế thị trƣờng , tăng cƣờng năng lực của

bộ máy nhà nƣớc.. là tiền đề quan trọng để các vấn đề nảy sinh đƣợc giải

quyết, qua đó quá trình cổ phần hóa đƣợc thúc đẩy thành công.

75

Chƣơng 3

TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ - XẪ

HỘI ĐẶT RA TỪ QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH

NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở TỈNH THANH HÓA

3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và DNNN của Thanh Hóa ảnh

hƣởng đến quá trình CPH DNNN .

3.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội.

Thanh Hóa là tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, có diện tích tự nhiên là 11.134,73km2,

chiếm 3,36% diện tích toàn quốc, đứng thứ 5 trong 63 tỉnh thành phố. Thanh Hóa nằm ở 19018 - 20000 vĩ độ bắc, 104022 - 106004 kinh độ đông, phía Bắc

giáp 3 tỉnh Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình với đƣờng ranh giới dài 175km, phía

Nam và Tây Nam giáp với tỉnh Nghệ An, với đƣờng ranh giới hơn 160km; phía

Tây Nam giáp với tỉnh Hủa Phăn của nƣớc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào,

với đƣờng biên giới dài 192km; phía Đông giáp với Vịnh Bắc Bộ, với đƣờng bờ

biển dài 102km. Địa hình của tỉnh Thanh Hóa nghiêng dốc và kéo dài từ Tây

Bắc xuống Đông Nam; đồi núi chiếm 3/4 diện tích của cả tỉnh.

Thanh Hóa nằm ở cửa ngõ giao lƣu giữa Bắc Bộ và Trung Bộ và vùng kinh

tế trọng điểm Bắc Bộ, đồng thời nằm trên các tuyến giao lƣu quan trọng của hệ

thống đƣờng quốc tế và quốc gia nhƣ: Tuyến đƣờng sắt thống nhất, quốc lộ 1A,

quốc lộ 10; đƣờng 15A và đƣờng Hồ Chí Minh xuyên suốt vùng Trung du miền

núi của tỉnh; có đƣờng 215 nối Thanh Hóa với tỉnh Hủa Phăn của Lào. Tỉnh có

các cửa khẩu nhƣ Na Mèo, TénTần, trong đó cửa khẩu Na Mèo đƣợc quy hoạch

xây dựng thành khu kinh tế cửa khẩu thời kỳ 2008-2015 (Quyết định số

52/2005/QĐ-CO ngày 25 tháng 4 năm 2005 của Thủ tƣớng Chính phủ). Đây là

lợi thế lớn để phát triển kinh tế cửa khẩu, mở rộng hợp tác và giao lƣu thƣơng

mại quốc tế với các tỉnh Bắc Lào, Đông Bắc Thái Lan và các vùng lân cận thông

qua hệ thống các tuyến đƣờng xuyên Á trong khu vực.

76

Tài nguyên thiên nhiên của Thanh Hóa: Rừng và nghề rừng vốn là thế

mạnh của tỉnh. Toàn tỉnh có 710.000 ha rừng và đất rừng chiếm 63% tổng

diện tích tự nhiên. Thanh Hóa cũng có nguồn khoáng sản khá đa dạng với 42

loại khác nhau, nhiều loại có trữ lƣợng lớn so với cả nƣớc nhƣ: đá vôi xi

măng, đá ốp lát, sét làm xi măng, gạch ngói, crôm, secpentin, đôlômit...

Thanh Hóa là tỉnh đất rộng, ngƣời đông, với dân số năm 2011 là 3.406.805

ngƣời và có 7 dân tộc anh em sinh sống, là một tỉnh chƣa thực sự phát triển, kinh

tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp; công nghiệp chƣa phát triển, dịch vụ và giao

lƣu hàng hóa chậm phát triển. Phần lớn dân cƣ sống ở vùng nông thôn.

Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng; Nghị

quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI nhiệm kỳ 2005-2010, Thanh Hóa đã

từng bƣớc phát triển kinh tế một cách toàn diện trên các lĩnh vực nông nghiệp,

công nghiệp và dịch vụ, thực hiện xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm

cho ngƣời lao động. Cơ cấu kinh tế của tỉnh đƣợc chuyển dịch theo hƣớng

tích cực, ngày càng phù hợp với tiềm năng, lợi thế của tỉnh và nhu cầu của thị

trƣờng. Trong tổng sản lƣợng, tỷ trọng của các ngành nông, lâm, ngƣ nghiệp

giảm dần (từ 38,5% năm 2001 xuống còn 23,7% năm 2011), tỷ trọng các

ngành công nghiệp và dịch vụ tăng dần (chẳng hạn, tỷ trọng công nghiệp và

xây dựng tăng từ 27,9% năm 2001 lên thành 41,9% năm 2011; dịch vụ tăng từ

33,6% năm 2001 lên 34,4% năm 2011

Bảng 3.1. Tỷ trọng cơ cấu kinh tế của tỉnh Thanh Hóa

Năm

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011

Chỉ tiêu

Nông, lâm thủy sản

38,5 36,8 35,4 33,6 32,3 30,4 28,6 29,9 27,0 24,1 25,6

Công nghiệp - xây dựng 27,9 29,8 31,6 33,3 34,6 35,1 36,6 36,0 38,5 41,5 40,4

Dịch vụ - thƣơng mại

33,6 33,4 33,0 33,1 33,1 34,5 34,8 34,1 34,5 34,4 34,0

Nguồn: Niên giám thống kê Thanh Hóa năm 2012.

Đơn vị tính: %

77

Trong sản xuất nông nghiệp, ngƣời dân đã biết chuyển đổi cơ cấu cây

trồng, vật nuôi cho phù hợp với điều kiện của mỗi vùng, thay đổi mùa vụ để

tránh thiên tai và thiệt hại mùa màng. Cùng với sự phát triển của cơ chế thị

trƣờng, ngƣời dân đã thay đổi tƣ duy, biết tận dụng lợi thế của từng vùng,

từng loại giống cây trồng, vật nuôi để phát triển sản xuất hàng hóa.

Trong công nghiệp và xây dựng đã có bƣớc tăng trƣởng khá, công

nghiệp chế biến tăng đáng kể. Cùng với việc khai thác tốt hơn tiềm năng về

tài nguyên thiên nhiên, điều đó đã tạo ra thêm nhiều việc làm, thu hút thêm

nhiều lao động vào các hoạt động kinh tế trong Tỉnh.

Lĩnh vực thƣơng mại du lịch và dịch vụ đã đƣợc mở rộng và đạt tốc độ

tăng trƣởng khá; đáng chú ý trong ngành du lịch có lợi thế thiên nhiên ban

tặng là bãi biển Sầm Sơn, một trong những bãi tắm lý tƣởng trong nƣớc, thu

hút lƣợng du khách đến nghỉ mát, tắm biển năm sau cao hơn năm trƣớc, đóng

góp ngày càng lớn vào tăng trƣởng GDP của tỉnh. Khu du lịch suối cá Cẩm

Lƣơng (Cẩm Thủy), khu di tích Lam Kinh đƣợc đầu tƣ xây dựng và tôn tạo;

di tích thành nhà Hồ đƣợc công nhận di sản văn hóa thế giới... đang mở ra

triển vọng của ngành du lịch Thanh Hóa.

Kết cấu hạ tầng ngày càng đƣợc cải thiện; hệ thống giao thông đƣợc xây

dựng và nâng cấp, hàng loạt công trình xây dựng đƣợc hoàn thành, đã làm

thay đổi bộ mặt các đô thị và vùng nông thôn trong tỉnh.

Kinh tế luôn duy trì tốc độ tăng trƣởng khá, năm sau cao hơn năm trƣớc.

Tăng trƣởng kinh tế bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2012 đạt 11,3% cao

hơn giai đoạn 2001-2005.

Bảng 3.2. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế Thanh Hóa 2006-2012 (%)

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

Nguồn: Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa năm 2012.

10,2 10,5 11,3 10,8 13,7 12,3 11,8

78

Thu nhập bình quân đầu ngƣời đƣợc tăng lên, đời sống nhân dân đƣợc cải

thiện, năm 2002 thu nhập bình quân đầu ngƣời đạt 224.000 đồng/ngƣời/tháng,

đến năm 2011 đạt 867 nghìn đồng/ngƣời/tháng, năm 2012 đạt 1350 nghìn

đồng/ngƣời/tháng.

Đơn vị tính: nghìn đồng

Bảng 3.3. Thu nhập bình quân đầu ngƣời/tháng giai đoạn 2002-2012

Năm 2002 2004 2006 2008 2010 2012

Trung bình 224,0 311,1 395,0 604,7 867,0 1350

Thành trị 240,0 625,3 788,4 1.215,4 1.461,0 1.571,0

Nguồn: Niên giám thống kê Thanh Hóa 2012

Nông thôn 204,2 277,2 351,3 535,8 792,0 1219

Cùng với sự tăng trƣởng kinh tế, các lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn

hóa, giáo dục, y tế và các hoạt động xã hội có chuyển biến tích cực, an sinh xã

hội đƣợc chăm lo, đời sống nhân dân không ngừng đƣợc cải thiện. Tỷ lệ hộ

nghèo giảm từ 34,71% năm 2005 xuống 12,85% năm 2011.

Trong thời gian tới, Thanh Hóa sẽ tập trung phát triển kinh tế - xã hội

nhanh, hiệu quả và bền vững; tạo sự chuyển biến căn bản về chất lƣợng tăng

trƣởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, phấn đấu đến 2020 trở thành tỉnh

công nghiệp có cơ cấu kinh tế hợp lý, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội

đƣợc phát triển đồng bộ, hiện đại; đồng thời là một trong những trung tâm

kinh tế, giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục thể thao, khoa học - kỹ thuật của vùng

Bắc Trung Bộ và cả nƣớc.

3.1.2. Đặc điểm DNNN của Thanh Hóa trước cổ phần hóa

Cũng nhƣ các DNNN ở nƣớc ta trƣớc đây, DNNN ở Thanh Hóa đƣợc ra

đời trong bối cảnh nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, nên

số lƣợng DNNN phát triển quá nhanh. Tính đến 31/12/1984 toàn tỉnh có 454

DNNN. Hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các DNNN ở Thanh Hóa trƣớc khi

cổ phần hóa là rất thấp. Nhiều doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà

79

nƣớc rất thấp, thậm chí thua lỗ, sức cạnh tranh kém. Nguyên nhân chính của

việc thua lỗ là do sử dụng nguyên vật liệu cao hơn định mức, lãng phí trong

quá trình sản xuất, sản phẩm hƣ hỏng nhiều, chi phí tiền lƣơng tăng, nhu cầu

vốn cho mở rộng sản xuất tăng, dẫn đến chi phí lãi vay chiếm tỷ trọng lớn

trong giá thành sản phẩm.

Sau 10 năm tổ chức sắp xếp lại DNNN theo Quyết định 315, Nghị định

388, Chỉ thị 500 của Thủ tƣớng Chính phủ, đến 31/12/1994 toàn Tỉnh còn 136

DNNN (trong đó Tỉnh quản lý 128, Huyện quản lý 8).

Hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN thấp dẫn đến nhiều doanh

nghiệp thua lỗ và nợ khó đòi.

Bảng 3.4: Số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và nợ khó đòi

(tính đến 1/1/1995) Đơn vị tính: Triệu đồng

TT

Tên doanh nghiệp

Tiền thua lỗ Nợ khó đòi Mất vốn

1

Công ty thuốc lá

7.700

2

Thuỷ sản

5.900

3.000

3

Công ty điện

800

4

Công ty phân lân

3.700

5

Công ty thuỷ lợi 1

3.400

14.000

6

Công ty thuỷ nông sông Chu

1.700

7

Công ty Điện lực

817

8

Công ty Điện máy

243

9

Xí nghiệp đông lạnh xuất khẩu

311

10

Công ty nông sản thực phẩm

783

Nguồn: Báo cáo tình hình, tài chính doanh nghiệp - Cục quản lý vốn và tài

sản nhà nước tại doanh nghiệp Thanh Hoá năm 1995

Đến tháng 10/2001 trƣớc khi có NQ TW3 khoá IX của Đảng về tiếp sắp

xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nƣớc, toàn

Tỉnh còn 101 DNNN do Tỉnh quản lý. Trong năm 2001 có 52 doanh nghiệp

80

kinh doanh có lãi là 15,568 triệu đồng, 21 doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ

9.649 triệu đồng, lỗ luỹ kế của các DNNN đến cuối 2001 là 119.862 triệu

đồng, nợ khó đòi khoảng 40 tỷ đồng

3.2.Tình hình, kết quả thực hiện CPH DNNN ở Thanh Hóa.

3.2.1. Các giai đoạn triển khai thực hiện cổ phần hóa các DNNN

Quá trình CPH DNNN ở Thanh Hóa đƣợc thực hiện từ năm 1998 đến nay:

- Giai đoạn thí điểm từ năm 1998 đến 2000: Trên cơ sở sắp xếp phân

loại DNNN theo chỉ thị số 20/1998/CT-TTG ngày 24/4/1998 của Thủ tƣớng

Chính phủ, căn cứ vào tình hình thực tế các DNNN của tỉnh, giai đoạn 1998 -

2000 UBND tỉnh Thanh Hoá đã quyết định chọn 25 DNNN để CPH. Hầu hết

các doanh nghiệp đƣợc chọn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang làm ăn có

lãi hoặc trƣớc mắt đang gặp khó khăn nhƣng triển vọng tốt. Kết quả 18

DNNN đã đƣợc CPH.

- Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hoá từ năm 2001 đến nay: Trên cơ sở sơ

kết công tác CPH giai đoạn 1998 - 2000 và quán triệt NQTW lần thứ 3 (khoá

IX), thực hiện các Nghị định 64, Nghị định 103 và Quyết định số 292/QĐ-

TTg, ngày 18/3/2003 của Thủ Tƣớng Chính phủ về việc phê duyệt phƣơng án

tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 2003 - 2005 và

giai đoạn 2005 - 2009, công văn số 1959/ TTg - ĐMDN, ngày 27 tháng 10

năm 2011 về phƣơng án sắp xếp, đổi mới DNNN thuộc UBND tỉnh Thanh

Hóa giai đoạn 2011 - 2015, tính đến tháng 31/12/2014 toàn Tỉnh đã CPH

đƣợc 98 doanh nghiệp, trong đó có 24 doanh nghiệp cổ phần bộ phận; giao,

bán khoán, cho thuê 06 doanh nghiệp, sáp nhập, hợp nhất 24 doanh nghiệp,

giải thể, phá sản 02 doanh nghiệp.

3.2.2. Một số kết quả và nhận xét chung.

- Về tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nƣớc cơ bản hoàn thành

theo lộ trình của Chính phủ giao.

- Về cơ cấu các DNNN đƣợc cổ phần hóa,

81

+ Ngành công nghiệp 34 doanh nghiệp = 34,6% tổng các doanh nghiệp đã CPH

+ Ngành xây dựng 18 doanh nghiệp = 18,3% tổng các doanh nghiệp đã CPH

+ Ngành giao thông 12 doanh nghiệp = 12,2% tổng các doanh nghiệp đã CPH

+ Ngành thƣơng mại 07 doanh nghiệp = 7,1% tổng các doanh nghiệp đã CPH

+ Ngành thủy sản 08 doanh nghiệp = 8,1% tổng các doanh nghiệp đã CPH

+ Ngành nông nghiệp 11 doanh nghiệp = 11,2% tổng các doanh nghiệp

đã CPH

+ Các ngành khác 08 doanh nghiệp = 8,1% tổng các doanh nghiệp đã CPH

- Về những thay đổi trong hoạt động của các DN sau cổ phần hoá:

+ Cấu trúc sở hữu và bộ máy quản lý

Qua khảo sát và nghiên cứu ở 80 doanh nghiệp đã cổ phần hóa (CPH) từ

năm 2001 đến 31/12/2014 cho thấy: tổ chức bộ máy của các DN đƣợc sắp xếp

gọn nhẹ hơn, nhờ đó giảm đƣợc 50% lao động gián tiếp so với trƣớc khi CPH.

Nhiều doanh nghiệp đã giảm từ 40 đến 50% lao động trực tiếp nhƣ: CTCP

Quản lý đƣờng bộ 2 Thanh Hóa (50,8)%, CTCP Quản lý và xây dựng đƣờng

bộ 1 Thanh Hóa (45,8%), CTCP Quản lý thủy nội địa và xây dựng Thanh Hóa

(40%). Các công ty đã chú trong hơn trong việc đầu tƣ nâng cao chất lƣợng

nguồn nhân lực và xây dựng nhà xƣởng, đổi mới công nghệ, điển hình nhƣ:

CTCP Xây lắp Điện lực Thanh Hóa 12 năm qua đầu tƣ thêm 250 tỷ đồng;

CTCP Thƣong mại Thiệu Yên 14 năm qua đã đầu tƣ 150 tỷ đồng; CTCP Vật

tƣ y tế trong 13 đầu tƣ 120 tỷ đồng; CTCP Dạ Lan 14 năm đầu tƣ 130 tỷ

đồng; CTCP Dƣợc vật tƣ y tế 12 năm đầu tƣ 100 tỷ đồng...

+ Phản ứng chiến lƣợc của doanh nghiệp sau cổ phần hóa: Đa số các

CTCP đều đã xác định lại đƣợc lĩnh vực kinh doanh chính yếu, các thị trƣờng

và chiến lƣợc kinh doanh; đổi mới công nghệ; những thay đổi trong cơ chế

quản lý (hệ thống kế hoạch, kế toán, quản trị thông tin, quản trị tài chính,

quản trị nhân lực…) đã có nhiều đổi mới theo hƣớng tích cực.

- Kết quả và hiệu quả hoạt động của các DN sau cổ phần hóa

82

Bức tranh chung của các DNNN đã CPH của Thanh Hóa là tƣơng đối

tích cực. Thực tế ở 80 doanh nghiệp đã cổ phần hóa (CPH) từ năm 2001 đến

31/12/2014 cho thấy: Sau CPH các Doanh nghiệp đều đã chủ động xây dựng

đƣợc các phƣơng án sản xuất kinh doanh khá phù hợp với yêu cầu mở rộng

thị trƣờng theo hƣớng đa ngành, đa nghề; tổ chức bộ máy đƣợc sắp xếp gọn

nhẹ hơn, nhiều doanh nghiệp sau CPH đã quan tâm đổi mới công nghệ, đầu tƣ

mua sắm máy móc, thiết bị hiện đại, mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao

chất lƣợng, hạ giá thành sản phẩm, tăng đƣợc sức cạnh tranh trên thị trƣờng,

điển hình nhƣ: CTCP Dƣợc - Vật tƣ y tế Thanh Hóa, CTCP Xây lắp Điện lực

Thanh Hóa, CTCP Xây dựng số 3, CTCP HUT4, CTCP Đƣờng Lam sơn,

CTCP xi măng Bỉm sơn, CTCP thƣơng mại Thiệu Yên, CTCP môi trƣờng đô

thị và dịch vụ Sầm sơn, CTCP xây dựng giao thông Yên Định, CTCP xây

dựng giao thông Thạch Thành...Vì vậy tất cả các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của

các DNCPH đều tăng so với trƣớc CPH.

Tổng hợp hoạt động SXKD ở 80 doanh nghiệp (đã CPH trên 01 năm trở

lên) trong năm 2013 cho thấy: so với trƣớc khi CPH, Vốn điều lệ của các DN

này tăng thêm hơn 143 tỷ đồng; doanh thu đạt trên 3.482. 292 triệu đồng tăng

thêm 1.866.541 triệu đồng; lợi nhuận đạt 78.054 triệu đồng, tăng 70.657 triệu

đồng; nộp ngân sách Nhà nƣớc đạt trên 85.312 triệu đồng, tăng 40.244 triệu

đồng; tổng số lao động tăng 11%; cổ tức bình quân đạt khoảng 13%/năm, thu

nhập của ngƣời lao động bình quân đạt 1,81 triệu đồng/ngƣời/ tháng, tăng 0,85

triệu đồng/ ngƣời/ tháng. Nhiều CTCP có thu nhập bình quân của ngƣời lao

đông cao nhƣ: CTCP Đƣờng Lam sơn (7,2 tr đồng/ tháng), CTCP Xi măng

Bỉm Sơn (7,5 tr đồng / tháng), CTCP tƣ vấn thiết kế xây dựng (5 tr

đồng/tháng), CTCP Tƣ vấn Thủy lợi (5 tr đồng/ tháng).

Tuy vậy, kết quả SXKD của các DN sau CPH là không đồng đều. Một

số DN thực sự cải thiện đƣợc hiệu quả kinh doanh và làm ăn có lãi trong khi

83

một số khác vẫn ở trong tình trạng khó khăn, bị thua lỗ hoặc chỉ có mức lợi

nhuận thấp. Vấn đề này sẽ đƣợc phân tích chi tiết hơn ở mục 3.3.

3.3. Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình cổ phần hóa

doanh nghiệp nhà nƣớc ở Thanh Hóa

Mặc dù tiến trình cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa đã có những chuyển

biến tích cực, đặc biệt là từ khi Nghị định 187/2004/NĐ-CP đƣợc triển khai

thay thế Nghị định 64/CP với những đổi mới quan trọng về cơ chế nhằm tháo

gỡ những vƣớng mắc của doanh nghiệp trong tiến trình đẩy nhanh quá trình

cổ phần hóa, song vẫn có nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh là:

3.3.1. Tâm lý chần chừ, e ngại, ngăn trở tiến trình CPH

Nhƣ phân tích ở chƣơng 2, cũng nhƣ mọi quá trình chuyển đổi khác, quá

trình CPH DNNN tất yếu làm phát sinh những xung đột lợi ích và đó chính là

nguyên nhân sâu sa của các vấn đề kinh tế - xã hội đi liền với tiến trình này.

Cũng nhƣ các địa phƣơng khác trên phạm vi cả nƣớc, ở Thanh Hóa, tiến

trình cổ phần hóa một bộ phận DNNN tất yếu dẫn đến sự thay đổi cách vận

hành và quản lý DN và theo đó là quyền lợi của một số ngƣời đang trực tiếp

hoặc gián tiếp quản lý, điều hành doanh nghiệp sẽ bị đụng chạm. Do vậy, đã

và sẽ có một số cán bộ quản lý nhà nƣớc, cán bộ lãnh đạo và quản lý doanh

nghiệp chƣa hoàn toàn đồng tình, thậm chí còn có hành vi, việc làm gây cản

trở quá trình cổ phần hóa DNNN.

Tâm lý chần chừ, e ngại, cản trở quá trình CPH thật ra là hiện tƣợng tự

nhiên, nảy sinh do quyền lợi, cƣơng vị công tác, vị trí làm việc… của một số

ngƣời bị quá trình CPH đe dọa. Tuy nhiên, trƣớc chủ trƣơng có tính chất pháp

quy của nhà nƣớc, hiện tƣợng này thƣờng không biểu hiện một cách công

khai mà thƣờng bộc lộ một cách gián tiếp thông qua các hành động ngấm

ngầm, gây cản trở hoặc tạo ra sự trì hoãn đối với tiến độ CPH. Hệ quả là: thời

gian xây dựng các phƣơng án CPH bị kéo dài, chất lƣợng các phƣơng án

CPH đƣợc chuẩn bị một cách hạn chế, có một khoảng cách rõ rệt giữa thời

84

điểm phƣơng án CPH đƣợc phê duyệt và thời điểm DNNN đƣợc chuyển

chính thức thành CTCP. Điển hình cho tâm lý chần chừ dẫn đến việc kéo dài

thời gian thực hiện CPH, làm thất thoát, hƣ hỏng tài sản của xã hội do không

đƣợc sử dụng kịp thời là trƣờng hợp CTCP Crôm mít Cổ Định. Ở công ty

này, phải qua thời gian tiến hành CPH kéo dài gần 8 năm, từ tháng 12 năm

2006 đến tháng 11 năm 2014, thì phân xƣởng luyện quặng mới đƣợc hoạt

động trở lại còn các phân xƣởng khác máy móc vẫn đang chờ công nhân. Ở

một số công ty khác nhƣ CTCP mía đƣờng Thanh Hóa, CTCP giao thông

Nông Cống, Tổng CTCP xây dựng Thanh Hóa, mặc dù là những doanh

nghiệp có quy mô nhỏ, song từ thời điểm phƣơng án CPH đƣợc phê duyệt đến

thời điểm chuyển thành CTCP cũng kéo dài từ 17 tháng đến 21 tháng [110,

biểu số 4].

3.3.2. Vấn đề xác định giá trị các doanh nghiệp Nhà nước để cổ phần hoá

Việc xác định giá trị doanh nghiệp (đặc biệt là vấn đề xác định giá trị

quyền sử dụng đất và thƣơng hiệu của các doanh nghiệp Nhà nƣớc) để CPH

ở một số doanh nghiệp còn mang nặng tính chủ quan, chƣa sát giá thị trƣờng,

do một số tài sản quan trọng của DN nhƣ đất đai, thƣơng hiệu, lợi thế kinh

doanh không đƣợc định giá đúng hay bị bỏ qua. Hậu quả là giá trị của nhiều

doanh nghiệp đƣợc CPH nói chung bị đánh giá thấp; vốn, tài sản của nhà

nƣớc hay xã hội vì thế bị thất thoát và rơi vào các cổ đông mới của DNCPH.

Nghiêm trọng hơn, trong nhiều trƣờng hợp, sự thất thoát này không đem lại

lợi ích cho số đông ngƣời lao động trong DN mà tập trung vào những cổ đông

lớn, có khả năng thu gom các cổ phiếu mà ngƣời lao động bán lại. Đây là

trƣờng hợp đã xảy ra ở một số DNCPH nhƣ: CTCP Du lịch Thanh Hóa,

CTCP Thƣơng mại Dịch vụ Hoằng Hóa, CTCP Thƣơng mại Thiệu Yên…

Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng trên là các hƣớng dẫn của nhà

nƣớc về việc xác định giá trị quyền sử dụng đất áp dụng cho các DNNN cần

CPH còn thiếu nhất quán. Liên quan đến vấn đề này, có tới 3 Nghị định của

85

Chính phủ điều chỉnh. Chẳng hạn, Nghị định 181 của Chính phủ quy định chi

tiết và hƣớng dẫn thực hiện một số điều của luật đất đai quy định: giá trị

quyền sử dụng đất đƣợc tính vào giá trị doanh nghiệp khi CPH. Tuy vậy,

Nghị định 187 của Chính phủ ban hành ngay sau đó lại loại trừ giá trị quyền

sử dụng đất ra khỏi giá trị doanh nghiệp khi CPH. Đến Nghị định

17/2006/NĐ-CP, ngày 27/9/2006 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số

điều của các Nghị định hƣớng dẫn về thi hành Luật đất đai và Nghị định

187/2004/NĐ-CP về chuyển DNNN thành lập CTCP cũng chỉ sửa đổi điểm b

khoản 1, điều 19 của Nghị định 187 theo đó quy định: Nếu trƣờng hợp doanh

nghiệp CPH lựa chọn hình thức giao đất thì phải tính giá trị quyền sử dụng

đất vào giá trị doanh nghiệp CPH, còn các trƣờng hợp khác vẫn còn bỏ ngỏ.

Đây là một khe hỡ dễ làm thất thoát tài sản của Nhà nƣớc và gây nên những

hiệu ứng không tốt cho việc CPH DNNN. Trên thực tế, việc thiếu nhất quán

trong việc tính giá trị đất đai trong xác định giá trị doanh nghiệp, đã dẫn đến

tình trạng: một số DN đƣợc định giá cao, trong khi ở một số DN khác, giá trị

DN lại đƣợc xác định quá thấp. Một số doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế trung

bình nhƣng khi tính giá trị của đất đai, lợi thế vị trí địa lý của đất lại bị đánh

giá quá cao làm cho giá trị doanh nghiệp tăng cao. Điều này tạo ra áp lực đẩy

giá cổ phiếu của DN lên cao, việc bán cổ phần của DN cho các nhà đầu tƣ trở

nên khó khăn. Trong một số trƣờng hợp, nhà nƣớc có thể buộc phải nắm giữ

phần vốn chi phối ngay cả khi điều này đƣợc xác định là không cần thiết.

Hậu quả là, sau CPH, phƣơng thức quản lý, kinh doanh của doanh nghiệp

không thay đổi rõ rệt. SXKD của DN vẫn kém hiệu quả. Tình trạng này

thƣờng xảy ra ở các doanh nghiệp thuộc ngành nông nghiệp. Ngƣợc lại, khi

giá trị đất đai, đặc biệt là giá trị lợi thế vị trí của đất đai không đƣợc phản ánh

đầy đủ vào giá trị doanh nghiệp, một bộ phận tài sản xã hội sẽ bị thất thoát và

chuyển vào tay các nhà đầu tƣ.

86

Cùng với giá trị quyền sử dụng đất, trong CPH DNNN, việc tính toán,

định giá lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp - một tài sản rất lớn của nhiều

DNNN gồm: vị trí địa lí, thƣơng hiệu, các mối quan hệ bạn hàng, thị phần

trên thị trƣờng, trình độ tay nghề của ngƣời lao động…dƣờng nhƣ cũng còn

nhiều sơ hở, vì tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP chỉ nêu: “Giá trị thực tế của

doanh nghiệp cổ phẩn hóa là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp

tại thời điểm cổ phần hóa có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà

người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Lợi thế kinh doanh gồm:

vị trí địa lí, giá trị thương hiệu, tiềm năng phát triển”.

Trên thực tế, dựa vào Nghị định này, căn cứ duy nhất để tính lợi thế của

doanh nghiệp là tỉ suất lợi nhuận sau thuế bình quân 3 năm liền kề trƣớc thời

điểm xác định giá trị doanh nghiệp để CPH. Với phƣơng pháp này những

doanh nghiệp không có lợi nhuận thì cũng sẽ đồng nghĩa với việc doanh

nghiệp không có lợi thế kinh doanh. Đây cũng là điểm bất cập trong việc xác

định giá trị doanh nghiệp, vì thực tế có những doanh nghiệp tỷ suất lợi nhuận

3 năm liền kề trƣớc thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp để CPH bằng

không thậm chí âm nhƣng vẫn có tiềm năng hay lợi thế kinh doanh rất lớn.

Do chƣa có sự thống nhất trong cách tính giá trị đất và lợi thế kinh doanh

của các DNNN khi CPH nên tại Thanh Hóa nhiều DNNN khi CPH thực sự đã

không tính hết giá trị của DNNN. Chẳng hạn, CTCP Quản lý Thủy nội địa và xây dựng Thanh Hóa khi CPH đang quản lý 11445m2 đất ở số 320, phố Trần

Hƣng Đạo, Thành phố Thanh Hóa nhƣng giá trị cả đất và lợi thế kinh doanh chỉ

đƣợc tính là 330 triệu đồng; CTCP Thƣơng mại miền núi Thanh Hóa có tổng số đất sử dụng khi CPH là 93.683m2 trong đó có 89.536m2 nằm chủ yếu ở các Thị

trấn các huyện miền núi nhƣng tổng giá trị doanh nghiệp (bao gồm cả 14 cụm

thƣơng mại với 67 cửa hàng bán lẻ, 2 tổ hợp nhà hàng, 8 nhà nghỉ, 3 kho vật tƣ kỹ thuật tại Thanh Hóa và 2900 m2 hệ thống kho ở các chi nhánh, hệ thống kho

xăng dầu nằm rải rác cả ở trung tâm TP lẫn ở 11 huyện; đội xe tải với 25 đầu xe

87

có tải trọng từ 25 tấn trở lên) đƣợc xác định chỉ là 65.000 triệu đồng; CTCP Du

lịch Thanh Hóa có trụ sở chính số 25A, phố Quang Trung Thành phố thanh Hóa, với diện tích đất khi CPH là 14.070m2 nhƣng giá trị đất chỉ đƣợc xác định là 32,8

, chiều rộng bám QL1 là

triệu đồng và giá trị lợi thế kinh doanh đƣợc tính là 12,06 triệu đồng; CTCP giống cây trồng Thanh Hóa với diện tích đất 2200 m2

50m nằm giữa Thành phố Thanh Hóa nhƣng khi CPH định giá chỉ 5 tỷ đồng,...

Mặt khác, một số tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc của các doanh nghiệp

có thời gian đƣa vào sử dụng đã lâu, giá trị theo sổ sách rất thấp song theo

quy định không đƣợc loại khỏi giá trị doanh nghiệp. Việc thực hiện đánh giá

lại của các cơ quan thẩm quyền đôi khi làm tăng giá trị doanh nghiệp dẫn đến

khó khăn cho doanh nghiệp sau khi tái cơ cấu.

3.3.3. Việc đánh giá và xử lý nợ của các DN cổ phần hóa

Việc quy định kế thừa trách nhiệm về tài chính giữa DNNN trƣớc đây

với CTCP sau này trong Nghị định 109/2007/NĐ-CP chƣa thực rõ ràng và có

phần chƣa thực phù hợp với thực tế, nhất là các khoản nợ khó đòi. Khoản nợ

này, ở nhiều DNNN đã tồn đọng nhiều năm, qua nhiều đời lãnh đạo rất khó có

khả năng thu hồi nhƣng theo quy định con nợ vẫn còn tồn tại nên vẫn phải thu

hồi. Việc đối chiếu xác định công nợ phải thu, phải trả thƣờng kéo dài; một số

đối tƣợng không có khả năng thu hồi hoặc không chịu ký xác nhận công nợ.

Trong khi đó việc đƣa ra khởi kiện tại tòa án kinh tế lại vấp phải nhiều thủ tục

phức tạp. Thực tế này đã ảnh hƣởng không nhỏ đến tiến độ CPH các DNNN.

Mặt khác doanh nghiệp sau CPH gặp rất nhiều khó khăn trong đòi nợ, trả lãi,

nên thực sự các khoản nợ này đang là một gánh nặng cho nhiều DNNN sau

CPH. Chẳng hạn ở CTCP In Báo Thanh Hóa khi CPH, số nợ phải trả đƣợc xác định là

51.687.911.403 đồng so với tổng giá trị tài sản là 63.886.446.372 đồng. Ở CTCP Thƣơng mại

miền núi khi CPH, số nợ phải trả là 85.363. 450.849 đồng so với lƣợng vốn chủ sở hữu là

53.059.759.733 đồng. Ở CTCP Quản lý Đƣờng bộ 2 Thanh Hóa khi CPH, số nợ phải trả là

8.485.928.417 đồng trong khi tổng vốn kinh doanh là 6.892.045.599 đồng. Ở CTCP Sông Mã

88

khi CPH, số nợ phải trả đƣợc xác định là 477.497.106.836 đồng so với tổng giá trị tài sản là

480.164.392.170 đồng.

3.3.4. Vấn đề sắp xếp lại lực lượng lao động và giải quyết lao động “dôi dư”

trong các DNCPH

3.3.4.1.Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động trong các doanh

nghiệp sau CPH.

Một trong những khó khăn nhất của vấn đề chuyển đổi DNNN là xử lý

các vấn đề xã hội gắn với đội ngũ cán bộ, công nhân đã gắn bó nhiều năm với

doanh nghiệp. Về mặt quyền lợi, những cán bộ, công nhân các DNNN đang

hƣởng chế độ lƣơng và bảo hiểm có nhiều ƣu việt hơn so với các loại hình

DN khác, kể cả trƣờng hợp doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Nhiều cán bộ, công

nhân do hạn chế về trình độ và tay nghề, đặc biệt là những ngƣời cao tuổi sẽ

không đáp ứng yêu cầu mới của DN sau chuyển đổi. Vì thế, hiện tƣợng lao

động “dôi dƣ” là không tránh khỏi. Chế độ chính sách đối với ngƣời lao động dôi dƣ

sau CPH đã đƣợc thực hiện theo đúng các quy định hiện hành của Nhà nƣớc nhƣ Nghị định

số 41/2002/NĐ-CP, ngày 11/4/2002, Nghị định số 110/2007/NĐ-CP, ngày26/6/2007, Nghị

định số 91/2010/NĐ-CP, ngày 20/8/2010. Ở 70 doanh nghiệp cố phần hóa từ năm 2002

đến 2013 có 2.960 ngƣời lao động đƣợc xem là lực lƣợng dôi dƣ trong đó 2653

ngƣời dôi dƣ theo Nghị định 41 và 307 ngƣời theo Nghị định 110 của Chính

phủ. Tỉnh đã hỗ trợ 71.506 triệu đồng và tạo điều kiện cho số hộ nghèo vay

trả chậm 6.842 triệu đồng. Vì vậy số lao động dôi dƣ sau cổ phần hóa các

DNNN đều có việc làm mới. Song do việc chi trả cho ngƣời lao động dôi dƣ

không đồng đều giữa các doanh nghiệp khi cổ phần hóa, đặc biệt nhiều doanh

nghiệp chi trả thấp, nên vẫn còn nhiều ngƣời khó khăn trong cuộc sống (Công

ty cổ phần Sông Mã hỗ trợ mỗi lao động dôi dƣ 53,1 triệu đồng, Công ty cổ

phần quản lý và xây dựng đƣờng bộ I hỗ trợ 46 triệu đồng/ngƣời, Công ty cổ

phần đƣờng bộ 2 Thanh Hóa chỉ hỗ trợ 28,6 triệu đồng/ngƣời)…Đối với

doanh nghiệp nhà nƣớc đã thực hiện chuyển đổi thành công ty TNHH một thành

89

viên, nay lại tiếp tục chuyển thành công ty cổ phần nên việc thực hiện chính sách

cho ngƣời lao động dôi dƣ gặp nhiều khó khăn, ngƣời lao động chỉ đƣợc hƣởng

chế độ theo Luật Lao động mà không đƣợc hƣởng chính sách theo quy định tại

Nghị định số 91/2010/NĐ-CP ngày 20/8/2010 của Chính Phủ.

Vấn đề giải quyết chế độ cho ngƣời lao động vẫn bộc lộ những bất cập cả

trong các DN đã có một thời gian hoạt động sau CPH. Thực tế, bên cạnh một

số doanh nghiệp sau cổ phần hóa kinh doanh có hiệu quả, mở rộng đƣợc quy

mô sản xuất, thu hút thêm lao động, thì vẫn có không ít doanh nghiệp kinh

doanh sa sút, dẫn tới dƣ thừa lao động. Trong trƣờng hợp này, nếu không có

sự hỗ trợ của Nhà nƣớc, doanh nghiệp sẽ không có điều kiện vật chất để giải

quyết các vấn đề mang tính xã hội (trợ cấp, tìm việc làm mới…) liên quan đến

những ngƣời bị mất việc. Điều đó ít nhiều dẫn tới tình trạng hoang mang

chung cho đội ngũ những ngƣời lao động. Một mặt, những ngƣời lao động

đang làm việc có thể lo sợ mất việc làm, do trình độ chuyên môn kỹ thuật

thấp, không đáp ứng đƣợc yêu cầu của công việc. Mặt khác do chênh lệch về

thu nhập giữa ngƣời trực tiếp lao động và ngƣời điều hành, quản lý về tiền

lƣơng, tiền thƣởng, lợi ích cổ phần… nên ngƣời lao động không có động lực

để yên tâm cống hiến hết mình cho DN.

3.3.4.2. Vấn đề thu nhập của người lao động trong các DN sau CPH

Do phƣơng án SXKD sau CPH chƣa thực sát với yêu cầu thị trƣờng, do

hạn chế trong quản lý điều hành ở một số doanh nghiệp hình thành từ CPH

DNNN nên khoảng 10% DN CPH có lợi nhuận sau thuế thấp, thậm chí giảm

so với thời điểm trƣớc CPH. Ở các DN này thu nhập bình quân của ngƣời lao

động tăng không đáng kể, thậm chí bị giảm nhƣ: ở CTCP Xây dựng nông

nghiệp và phát triển nông thôn, sau 11 năm CPH (2002- 2013) thu nhập bình

quan của ngƣời lao động chỉ tăng từ 1 triệu đồng lên 1,2 triệu đồng; ở CTCP

Vận tải sông biển, sau 10 năm CPH (2003- 2013) thu nhập bình quân của

ngƣời lao động chỉ tăng từ 0,5 triệu đồng lên 0,9 triệu đồng; ở CTCP Lợn

90

giống Hoằng Hóa, sau 10 năm CPH (2003- 2013) thu nhập của ngƣời lao

động chỉ tăng từ 0,45 triệu đồng lên 0,5 triệu đồng; ở CTCP Vật liệu Hàm

Rồng sau 9 năm CPH (2004-2013) thu nhập của ngƣời lao động chỉ tăng từ

0,7 triệu đồng lên 0,9 triệu đồng... Ở một số CTCP, thu nhập của ngƣời lao

động giảm so với trƣớc CPH nhƣ: CTCP Công trình Giao thông CPH năm

2004 với mức thu nhập bình quân của công nhân là 0,7 triệu đồng nhƣng đến

năm 2014 chỉ còn 0,6 triệu đồng; ở CTCP Xây dựng Sông Mã 1, CPH năm

2007 với mức thu nhập bình quân của công nhân là 2 triệu đồng nhƣng đến

năm 2014 chỉ còn 0,5 triệu đồng; ở CTCP Xuất nhập khẩu thủy sản, CPH

năm 2007 với mức thu nhập bình quân của công nhân là 1,2 triệu đồng nhƣng

đến năm 2014 chỉ còn 1 triệu đồng...

Nhƣ vậy mục tiêu của CPH là làm tăng thu nhập cho ngƣời lao động và

tăng đóng góp vào ngân sách nhà nƣớc chƣa thực sự đạt yêu cầu. Thu nhập

của ngƣời lao động trong các doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN nhìn

chung tăng, nhƣng mức tăng không đáng kể so với lợi nhuận của công ty.

3.3.5. Vấn đề chuyển đổi cấu trúc sở hữu và quan hệ giữa các nhóm cổ đông.

3.3.5.1. Thực trạng bán cổ phần ưu đãi cho người lao động trong các doanh

nghiệp Nhà nước khi cổ phần hoá.

Việc bán cổ phần ƣu đãi cho ngƣời lao động trong DNNN khi CPH đã

đƣợc quy định khá cụ thể trong các Nghị định 28/NĐ-CP, Nghị định 44/NĐ-

CP, Nghị định 64/2002/NĐ-CP. Tuy vậy, có những quy định cũng chƣa thực

phù hợp với thực tế. Chẳng hạn, việc quy định giá bán ƣu đãi cổ phần cho

ngƣời lao động trong DNNN khi CPH bằng 60% mức đấu giá thành công

bình quân trên sàn chứng khoán có thể là cao và ngƣời lao động khó có thể

mua để trở thành cổ đông của CTCP. Trên thực tế ở Thanh Hóa, đa số công

nhân trong các DNNN là ngƣời lao động nghèo vì trong một thời gian dài,

DNNN của họ hoạt động kém hiệu quả, thậm chí nhiều doanh nghiệp thua lỗ

kéo dài nên tiền lƣơng của họ chỉ đủ duy trì cuộc sống, chƣa có tích lũy hoặc

91

tích lũy chƣa đáng kể. Việc đa số ngƣời lao động không đủ tiền để mua hết cổ

phần ƣu đãi dẫn đến một số đã bán ngay quyền mua cổ phần ƣu đãi cho các

nhà đầu tƣ khác để hƣởng một chút chênh lệch. Một số khác phải vay mƣợn

để mua hết số cổ phần ƣu đãi nhƣng rồi lại cũng phải buộc lòng “bán lúa non”

cho những ngƣời khác để lấy chênh lệch vì họ chƣa đủ giàu để sở hữu cổ

phần và chờ hƣởng cổ tức, trong đó có cả những cổ phần ƣu đãi ghi danh mà

theo quy định không đƣợc chuyển nhƣợng trong 3 năm đầu. Thực tế này có

thể thấy rõ trong các công ty cổ phần xuất khẩu thủy sản, công ty cổ phần

dịch vụ thƣơng mại PETEC, CTCP Đầu tƣ Nông nghiệp Thiệu Yên, CTCP

giống cây trồng Thanh hóa, CTCP giống và phát triển cây trồng Thanh hóa,…

Việc quy định tổng giá trị cổ phần ƣu đãi cho ngƣời lao động trong

DNNN khi CPH theo Nghị định 44/NĐ-CP không quá 20% tổng vốn Nhà

nƣớc cho tất cả các doanh nghiệp cũng tỏ ra chƣa phù hợp. Thực tế cho thấy:

những doanh nghiệp quy mô vốn nhà nƣớc lớn, số lƣợng lao động không lớn

thì nhìn chung ngƣời lao động trong doanh nghiệp khi CPH có thể mua đủ

đƣợc số cổ phần ƣu đãi tối đa là 10 cổ phần cho một năm công tác tại DNNN.

Nhƣng những doanh nghiệp quy mô vốn nhà nƣớc ít, số lƣợng lao động lại

nhiều thì lƣợng cổ phần ƣu đãi tính cho 1 năm công tác của ngƣời lao động tại

DNNN lại quá thấp. Chẳng hạn: chỉ tiêu này ở CTCP Giấy Mục Sơn là: 5

năm/10 cổ phần, ở CTCP Bao bì Lam sơn: 4,1 năm/10 cổ phần, CTCP cơ khí

19/5: 3,1 năm/10 cổ phần…

Đặc biệt, sau CPH tồn tại xu hƣớng một số cổ đông lớn muốn thâu tóm

quyền chi phối doanh nghiệp bằng cách mua lại cổ phần của công nhân nghèo,

thậm chí có tình trạng ép công nhân bán cổ phiếu ƣu đãi của mình trong một số

doanh nghiệp. Xu hƣớng trên thƣờng xảy ra trong trƣờng hợp cổ phiếu ƣu đãi

có mệnh giá thấp do ƣu đãi của nhà nƣớc và do định giá thấp, hoặc trong

trƣờng hợp doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có hiệu quả,... Việc bán cổ

92

phiếu sẽ làm cho ngƣời công nhân mất đi nguồn thu nhập, ổn định từ cổ phần,

mất quyền làm chủ đối với doanh nghiệp với tƣ cách của ngƣời góp vốn.

Cụ thể nhƣ ở các CTCP đầu tƣ nông nghiệp Thiệu Yên; CTCP giống và

phát triển gia cầm Thanh hóa; CTCP Vật tƣ tổng hợp Thanh hóa; CTCP đầu

tƣ phát triển đô thị Thanh hóa... khi mới CPH, hầu hết ngƣời lao động trong

các công ty này đều có cổ phần., Tuy nhiên đến 2014, trung bình chỉ còn 1%

ngƣời lao động còn nắm giữ vốn cổ phần của DN.

Các thực tế trên cho thấy: mục tiêu gắn bó ngƣời lao động với các CTCP

thông qua việc biến họ thành những cổ đông thực sự của DN đã không đạt

đƣợc kết quả nhƣ mong đợi. Mặt khác, việc bán cổ phần cho Tổ chức Công

đoàn ở hầu hết các DN không thực hiện đƣợc, dẫn đến vai trò của công đoàn

trong các DNNN sau CPH rất mờ nhạt.

Nhƣ vậy, mục tiêu thực hiện đa dạng hóa sở hữu trong các doanh nghiệp

và biến công nhân thành ngƣời chú thực sự của các doanh nghiệp sau CPH

không đạt đƣợc nhƣ kỳ vọng.

Việc cổ phần hóa cũng thƣờng đƣợc thực hiện một cách khép kín, trong nội

bộ DNCPH. Thực tế ở 98 doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN trên địa bàn

tỉnh Thanh Hóa thì tỷ trọng cổ phần bán cho những ngƣời vốn từng làm việc trong

doanh nghiệp chiếm khoảng 70% vốn điều lệ, các cổ đông ngoài doanh nghiệp chỉ

nắm giữ xấp xỉ 10%. Việc CPH tƣơng đối khép kín để lại nhiều hệ lụy: đƣợc định

giá theo kiểu “nội bộ”, nhiều tài sản của DN có xu hƣớng bị định giá thấp, do đó

tài sản xã hội dễ bị thất thoát; các tài năng kinh doanh và nguồn lực bên ngoài

doanh nghiệp không đƣợc thu hút đủ mạnh để tạo ra một sức sống mới, một sự

thay đổi mạnh mẽ đối với toàn bộ quá trình hoạt động của DN sau CPH.

3.3.5.2. Thực trạng về lựa chọn các nhà đầu tư chiến lược và đấu giá cổ phần

ra công chúng.

Trong chuyển đổi cấu trúc sở hữu nhằm tạo ra sức sống mới cho

DNCPH còn có vấn đề chọn các nhà đầu tƣ chiến lƣợc và đấu giá cổ phần ra

93

công chúng. Nhìn chung rất ít CTCP có nhà đầu tƣ chiến lƣợc. Qua khảo sát ở

98 DNNN đã CPH chỉ có 3 doanh nghiệp chọn đƣợc nhà đầu tƣ chiến lƣợc là:

CTCP Đƣờng Lam Sơn là nhà đầu tƣ chiến lƣợc của CTCP Du lịch Thanh

Hóa, với 39% vốn điều lệ; CTCP sản xuất và thƣơng mại PP là nhà đầu tƣ

chiến lƣợc của CTCP In Báo Thanh Hóa, với 11,18 % vốn điều lệ; Hợp tác xã

Hợp Phát, Bản Cội xã Xuân Phú, huyện Quan Hóa là nhà đầu tƣ chiến lƣợc

của của CTCP Thƣơng mại miền núi Thanh Hóa. Tổng cổ phần của các nhà

đầu tƣ chiến lƣợc trong các DNNN đã CPH của tỉnh chỉ chiếm 0,59%.

Việc CPH cơ bản khép kín, nên tỷ lệ cổ phần đem ra đấu giá công khai ở

các DNNN CPH thƣờng thấp: CTCP Thƣơng mại miền núi 11,16%; CTCP

Quản lý Thủy nội địa và Xây Dựng Thanh Hóa 19%, CTCP Đƣờng bộ 2 Thanh

Hóa 20%...

3.3.5.3. Vấn đề quan hệ giữa cổ đông lớn và các cổ đông nhỏ trong các

DNCPH.

Thực tế, ở tất cả các công ty cổ phần tại Thanh Hóa các nhà đầu tƣ nhỏ,

nắm giữ một số lƣợng cổ phiếu ít ỏi, hầu nhƣ không có tiếng nói đối với các

quyết định của doanh nghiệp, kể cả đối với những quyết định có ảnh hƣởng

trực tiếp đến lợi ích của các nhà đầu tƣ này. Đặc biệt khi xảy ra xung đột hay

tranh chấp về lợi ích thì các ý kiến của các nhà đầu tƣ nhỏ thƣờng không đƣợc

chú ý giải quyết hoặc giải quyết rất chậm. Điều này có thể dẫn đến nhận định

cho rằng: ở các CTCP, quyền lợi của các cổ đông nhỏ không đƣợc bảo vệ, và

điều đó làm cho niềm tin của họ đối với các cổ đông lớn và công ty cổ phần

có phần giảm sút. Tuy nhiên, tiếng nói, quyền ra quyết định, quyền lợi và

nghĩa vụ của các cổ đông tỷ lệ thuận với số lƣợng cổ phiếu mà cổ đông sở

hữu là một đặc điểm và ƣu thế của hình thức tổ chức doanh nghiệp dƣới dạng

CTCP. Nó cho phép lợi ích hay tổn thất của mỗi ngƣời trong việc tham gia ra

quyết định đối với tài sản chung của DN tƣơng thích với phần vốn góp của

họ. Điều khắc phục đƣợc nhƣợc điểm của hình thức tổ chức DN dƣới dạng

94

các HTX, cho thấy sức sống thực sự của các CTCP. Việc hiện diện thực sự

một nhóm nhỏ cổ đông lớn giúp cho CTCP có đƣợc những cá nhân sở hữu

thực sự không bị “phi cá nhân hóa” theo kiểu đại chúng khi vốn của DN bị

phân tán trong hàng ngàn cổ đông nhỏ lẻ. Cơ chế của CTCP là: khi các cổ

đông nhỏ cảm thấy thất vọng hay cho là bị thua thiệt họ có thể rút vốn thông

qua việc chuyển nhƣợng các cổ phiếu của mình. Trong trƣờng hợp này, điều

cần thiết chỉ là sự vận hành trôi chảy, minh bạch của thị trƣờng chứng khoán

nhằm tạo thuận lợi cho sự chuyển nhƣợng này.

3.3.5.4. Vấn đề quan hệ giữa cổ đông và người quản lý trong các DNCPH.

Quan hệ giữa cổ đông và ngƣời quản lý trong các DNCPH không còn

đơn thuần là quan hệ giữa ngƣời lãnh đạo và công nhân mà còn là quan hệ

giữa các cổ đông với nhau. Song qua khảo sát ở nhiều CTCP cho thấy: Quan

hệ của các cổ đông và các CTCP cũng chƣa đƣợc rõ ràng, nhận thức chƣa đầy

đủ quyền và nghĩa vụ vị thế của cổ đông với tƣ cách là chủ của công ty, chƣa

có tiếng nói dân chủ thực sự, chƣa có các cuộc hội thảo theo chuyên đề, các

hội nghị và các diễn đàn thực sự để ngƣời lao động với tƣ cách là cổ đông bày

tỏ quan điểm và đƣa ra tiếng nói dân chủ thực sự của mình trƣớc doanh

nghiệp, nên đã gây ra ức chế, nghi kỵ lẫn nhau trong nội bộ công ty. Vấn đề

giải quyết lao động dôi dƣ chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, thực thi chính sách

chƣa triệt để. Bên cạnh đó hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội ở các

doanh nghiệp hình thành từ CPH DNNN còn nhiều hạn chế, lúng túng, chƣa

phát huy vai trò khả năng của mình [110]. Ngoài ra một số ít CTCP do quá

chạy theo lợi nhuận mà bỏ qua hoặc coi nhẹ vấn đề bảo vệ môi trƣờng.

3.3.5.5. Về vấn đề cổ đông nhà nước ở các DNCPH

Ở đây có hai khía cạnh: i) vị thế của cổ đông nhà nƣớc hay tỷ trọng cổ

phần mà nhà nƣớc nắm giữ có ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến hiệu quả hoạt động

của DN sau CPH; ii) việc thực hiện quyền sở hữu nhà nƣớc trong các CTCP

mà nhà nƣớc là cổ đông.

95

Về khía cạnh thứ nhất, có thể thấy: cùng với quá trình cổ phần hóa về

cơ bản mang tính khép kín, ở nhiều công ty cổ phần, Nhà nƣớc vẫn là cổ

đông chính, nắm nhiều cổ phần. Chẳng hạn, ở công ty cổ phần Quản lý

thủy nội địa và xây dựng Thanh Hóa, cổ đông Nhà nƣớc chiếm tới 70%

vốn điều lệ. Ở một số công ty, Nhà nƣớc vẫn sở hữu từ 60% vốn điều lệ trở

lên nhƣ: Công ty quản lý đƣờng bộ 1 Thanh Hóa, công ty quản lý đƣờng bộ

2 Thanh Hóa, Công ty Du lịch Thanh hóa, cá biệt nhƣ CTCP Crôm mít Cổ

Định nhà nƣớc giữ tới 93% vốn điều lệ... Ở đa số các CTCP, tỷ lệ vốn Nhà

nƣớc nắm giữ tuy thấp hơn 50%, nhƣng do số vốn còn lại bị phân tán giữa

nhiều cổ đông, nên trong nhiều trƣờng hợp, Nhà nƣớc vẫn là cổ đông lớn

nhất, giữ vai trò quan trọng có tính chất quyết định đối với mọi hoạt động của

công ty. Trong trƣờng hợp này, CPH không làm thay đổi căn bản cấu trúc sở

hữu, khiến cho DN sau CPH về cơ bản vẫn giữ hình dạng và mô thức hoạt

động nhƣ một DNNN. Những chuyển biến thực sự trong vận hành của DN ít

xảy ra, đúng nhƣ sự phân tích lý thuyết đã chỉ rõ. Ngay trong “Báo cáo tổng

kết 10 năm thực hiện sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh

nghiệp” năm 2011 của Sở Tài chính Thanh Hóa cũng đƣa ra nhận định: “Một

số doanh nghiệp sau chuyển đổi tiếp tục duy trì đội ngũ cán bộ cán bộ quản lý

chủ chốt của DNNN chuyển sang nên cách nghĩ, cách làm vẫn giữ theo cơ

chế bao cấp, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của nền kinh tế thị trƣờng và hội

nhập quốc tế, sức cạnh tranh của số doanh nghiệp này còn thấp” [110, tr.6].

Hệ quả là sau CPH, hiệu quả hoạt động của DN đƣợc cải thiện hầu nhƣ không

đáng kể hoặc không đƣợc cải thiện. Thực tiễn CPH DNNN ở Thanh Hóa cho

thấy, nhóm các DN cải thiện đƣợc hiệu quả hoạt động sau CPH thƣờng là

nhóm các DN mà sau CPH, tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà nƣớc là thấp, trong

khi ở nhóm các DN không cải thiện đƣợc hiệu quả hoạt động sau khi đƣợc

CPH, nhà nƣớc vẫn là cổ đông lớn, nắm giữ hơn 50% cổ phiếu của công ty.

Cụ thể:

96

- Đối với nhóm DN cải thiện được hiệu quả hoạt động sau CPH, thƣờng

là những công ty mà sau CPH, nhà nƣớc hoặc chỉ là cổ đông nhỏ hoặc không

còn nắm giữ vốn. Điển hình cho nhóm này là các công ty nhƣ: CTCP Dƣợc -

Vật tƣ y tế Thanh Hóa, CTCP Xây lắp Điện lực Thanh Hóa, CTCP Xây dựng

số 3, CTCP HUT4, CTCP Đƣờng Lam sơn, CTCP xi măng Bỉm sơn, CTCP

thƣơng mại Thiệu Yên, CTCP môi trƣờng đô thị và dịch vụ Sầm sơn, CTCP

Dạ Lan, CTCP Thiết bị vật tƣ y tế, CTCP Vật tƣ tổng hợp Thanh Hóa, CTCP

Dƣợc vật tƣ y tế, CTCP xây lắp điện lực Thanh Hóa...Số liệu về kết quả kinh

doanh và thu nhập của ngƣời lao động của các công ty này đƣợc thể hiện trong

các bảng tại phục lục 4.2 và 4.3..

Ở các CTCP mà sau CPH nhà nƣớc giữ tỷ lệ cổ phần thấp, tình hình sản

xuất kinh doanh có sự cải thiện rõ rệt so với giai đoạn trƣớc CPH. Điều đó thể

hiện ở chỗ: Hoạt động SXKD của nhiều CTCP đã vƣợt khỏi địa giới hành

chính Thanh Hóa, vƣơn ra toàn quốc mà điển hình là : CTCP xây lắp điện

Thanh Hóa, Tổng CTCP đầu tƣ XD Cầu Đƣờng....; Doanh thu, lợi nhuận, nộp

ngân sách của các công ty đều tăng trung bình từ 10-15%/năm, nhiều doanh

nghiệp đã thoát khỏi nguy cơ phá sản và đứng vững trong cơ chế kinh tế thị

trƣờng trong những năm qua. Tất cả các doanh nghiệp đều đảm bảo đƣợc việc

làm, nhiều CTCP tạo thêm đƣợc việc làm so với trƣớc CPH điển hình nhƣ:

CTCP Dạ Lan, tăng 300 ngƣời, CTCP phân bón Hàm Rồng tăng 210 ngƣời,

CTCP xây lắp điện lực Thanh Hóa tăng 162 ngƣời, CTCP Vật tƣ y tế Thanh

Hóa tăng 122 ngƣời..... Tất cả các CTCP đều tạo đƣợc thu nhập khá cao và ổn

định cho cán bộ, công nhân viên, nếu tính cả lãi cổ tức, nhiều CTCP có thu

nhập bình quân của công nhân từ 7-8 triệu đồng/tháng.

Sự thành công của các CTCP nhà nƣớc giữ tỷ lệ cổ phần thấp xuất phát từ

chỗ khi Nhà nƣớc nắm giữ tỷ lệ cổ phần thấp, nhất là khi nhà nƣớc hoàn toàn

không còn là cổ đông thì DN mới thực sự đƣợc cởi trói, tính tự chủ của chúng

97

mới hoàn toàn đƣợc đảm bảo và tôn trọng, các CTCP mới thực sự hành động

đƣợc theo đúng luật công ty. Hầu hết các CTCP sản xuất kinh doanh có hiệu quả

cao là những doanh nghiệp mà các thành viên Hội đồng quản trị đều có tỷ lệ cổ

phần cao, đồng thời đa số cán bộ công nhân của công ty là cổ đông, vì điều này

đã thực sự gắn chặt trách nhiệm của thành viên Hội đồng quản trị và công nhân

trong công ty hơn. Hơn thế họ đều SXKD bằng vốn của chính mình nên tất cả

đều phải có trách nhiệm và nổ lực hơn trong xây dựng công ty.

- Đối với nhóm các DN không cải thiện được hiệu quả hoạt động sau

CPH. Ở một số doanh nghiệp CPH, hiệu quả sản xuất kinh doanh vẫn thấp,

điển hình là các CTCP sản xuất kinh doanh các loại con, cây giống nông

nghiệp, thủy sản, CTCP chế biến lâm sản Hàm Rồng, CTCP 25A, CTCP bến

xe khách Thanh Hóa, CTCP Xây dựng Sông Mã 1, CTCP Tƣ vấn xây dựng

Sông Mã, CTCP Phù Đổng, CTCP Xây dựng Sông Mã 2. Có thể thấy điều

này qua bảng số liệu phụ lục 4.4 và 4.5. Đây chính là những CTCP mà nhà

nƣớc chiếm tỷ lệ cổ phần cao. Đa số các CTCP này đều có doanh thu thấp, lợi

nhuận thấp không ổn định và khoản nộp ngân sách là không đáng kể; nhiều

CTCP thậm chí đứng trƣớc bờ vực phá sản. Các công ty này không tạo thêm

đƣợc việc làm mới dẫn đến số lao động ngày càng giảm. Thu nhập của cán bộ

công nhân thấp, ở một vài công ty tiền lƣơng của ngƣời lao động tăng chủ yếu do

lƣơng tối thiểu tăng và và số lƣợng lao động giảm.

Hiệu quả hoạt động thấp của các CTCP mà nhà nƣớc giữ tỷ lệ cổ phần

cao xuất phát từ chỗ: với việc nhà nƣớc nắm giữ tỷ lệ cổ phần cao, sau CPH

gần nhƣ các CTCP cơ bản vẫn hoạt động nhƣ các DNNN; phƣơng thức quản

lý SXKD, bộ máy quản lý của DN sau CPH không thay đổi; những yếu kém

cố hữu của DNNN không đƣợc khắc phục.

Do nhà nƣớc vẫn chiếm giữ tỷ lệ cổ phần cao, tỷ lệ cán bộ công nhân

trong các công ty cổ phần trở thành cổ đông của CTCP đạt thấp. Điều đó

98

khiến cho ở nhiều CTCP, cán bộ công nhân chƣa thực sự gắn bó với công ty,

vì lƣơng thấp và lãi cổ tức hầu nhƣ không có. Đồng thời do nhà nƣớc chiếm

tỷ lệ cổ phần cao nên hầu hết các thành viên hội đồng quản trị các công ty này

đều không có đủ số lƣợng cổ phần 10% trở lên. Tiếng nói và khả năng ảnh

hƣởng của họ đến việc ra quyết định SXKD của công ty yếu ớt trƣớc sự “lấn

át” của cổ đông nhà nƣớc. Điều này hạn chế tính tích cực, chủ động của các

cổ đông cá nhân, kể cả các cổ đông là thành viên của hội đồng quản trị. Trong

trƣờng hợp này, CPH không tạo ra các động lực và khuyến khích để thay đổi

cung cách hoạt động của doanh nghiệp.

Về khía cạnh thứ hai, vấn đề khó khăn là thiết lập cơ chế thực hiện và

bảo đảm quyền sở hữu của nhà nƣớc tại doanh nghiệp. Trên thực tế, tƣ cách

cổ đông của nhà nƣớc đƣợc thực hiện thông qua ngƣời đại diện – vốn không

phải là ngƣời chủ sở hữu tài sản đích thực. Ở đây, tồn tại một số bất cập nhƣ:

i) Nhìn chung quyền lợi và trách nhiện của ngƣời đại diện phần vốn của nhà

nƣớc không đƣợc quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật, nhất là ở

những CTCP vốn Nhà nƣớc dƣới 51% ii) Việc cử ngƣời đại diện phần vốn

Nhà nƣớc tại các CTCP cũng còn chƣa thật hợp lý (là ngƣời của Sở tài chính

đảm nhiệm, theo cơ chế kiêm nhiệm nên thƣờng không sát các hoạt động của

doanh nghiệp). iii) Việc thực hiện quyền sở hữu của cổ đông nhà nƣớc trong

các DNCPH còn phân tán, chồng chéo, do sự thiếu tách bạch giữa nhà nƣớc

với tƣ cách là ngƣời sở hữu vốn với nhà nƣớc với nhà nƣớc với tƣ cách là một

cơ quan quản lý công quyền chung. Điều này dẫn đến các bộ, sở chủ quản đều

có thể tham dự vào việc quản lý phần vốn của nhà nƣớc tại CTCP. Trƣớc tình

hình đó, nhiều ngƣời cho rằng việc chuyển giao quyền quản lý phần vốn Nhà

nƣớc tại các doanh nghiệp đã CPH từ các bộ, ngành và UBND các tỉnh cho

Tổng công ty đầu tƣ kinh doanh vốn nhà nƣớc (SCIC) là tiền đề cần thiết để

xóa bỏ triệt để cơ chế chủ quản, từng bƣớc tạo điều kiện cho việc quản lý vốn

nhà nƣớc ở các CTCP có hiệu quả hơn.

99

Có ý kiến cho rằng, cần có một quy chế quản lý phần vốn Nhà nƣớc tại

các DNCPH chặt chẽ hơn, thông qua việc hoàn thiện mô hình Tổng công ty

đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc (SCIC). Khi đó SCIC sẽ có vai trò nhƣ

những cổ đông khác trong doanh nghiệp thay vì là các cơ quan quản lý hành

chính với con dấu của cơ quan chủ quản đóng vai trò là ngƣời đại diện phần

vốn Nhà nƣớc trong DNCPH nhƣ hiện nay. Hơn thế, theo cơ chế hiện hành,

đối với những CTCP mà nhà nƣớc chiếm cổ phần chi phối, việc bổ nhiệm chủ

tịch HĐQT và giám đốc vẫn do cơ quan đại diện phần vốn nhà nƣớc đề cử và

UBND tỉnh bổ nhiệm. Thông thƣờng, đó là những ngƣời với tƣ cách cá nhân,

không có cổ phần nhiều nên tình trạng công ty SXKD lỗ hay lãi cũng ít ảnh

hƣởng đến thu nhập của họ. Trong trƣờng hợp này, họ ít có động lực để tạo

nên sự đột phá trong quản lý, điều hành doanh nghiệp và có xu hƣớng ra các

quyết định có tính “an toàn” cao. Trong khi đó, đối với các cổ đông cá nhân

khác trong HĐQT, nhất là những cổ đông lớn, việc SXKD của DN lỗ hay lãi

đều ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền lợi và thu nhập nên họ luôn có xu hƣớng

thay đổi năng động để phù hợp với cơ chế kinh tế thị trƣờng và công ty kinh

doanh ngày càng hiệu quả. Điều này dẫn đến sự xung đột ngay trong HĐQT

và nó thƣờng ảnh hƣởng tiêu cực đến hoạt động SXKD của DN. Đó cũng là lý

do khiến cho ở hầu hết các CTCP mà nhà nƣớc là cổ đông chi phối, SXKD

thƣờng đạt hiệu quả thấp. Vì thế, sau 5 đến 7 năm, hơn 90 % CTCP mà nhà

nƣớc giữ cổ phần chi phối đều đã phải bán hết số vốn còn lại cho các cổ đông

khác. Sau khi bán hết vốn nhà nƣớc, đa số các CTCP đã cải thiện đƣợc hiệu

quả SXKD của mình.

3.3.6. Vấn đề quản lý nhà nước và sự phân biệt đối xử đối với DN sau CPH

(so với DNNN).

Thực tế cho thấy các doanh nghiệp hình thành từ cổ phần hóa DNNN

trên địa bàn Thanh Hóa có quy mô vốn bình quân thấp, thời gian hoạt động

chƣa lâu. Nhƣng điều quan trọng là đã hình thành một loại hình doanh nghiệp

100

mới, với nhiều hình thức sở hữu, huy động đƣợc nhiều vốn của xã hội vào quá

trình sản xuất, kinh doanh, tạo thêm động lực mới trong cơ chế quản lý kinh

tế. Lợi ích của Nhà nƣớc, của doanh nghiệp và ngƣời lao động đƣợc bảo đảm

tốt hơn. Tuy vậy, hiện nay môi trƣờng kinh doanh chung của doanh nghiệp

trong đó có các DNCPH còn nhiều bất cập. Điều đó đƣợc thể hiện ở những

điểm sau:

i) Hoạt động quản lý, giám sát của các cơ quan nhà nƣớc đối với DNNN

sau CPH một mặt chƣa chặt chẽ, mặt khác vẫn chƣa tách bạch đƣợc chức

năng quản lý hành chính với chức năng quản lý của chủ sở hữu đối với

DNCPH trong trƣờng hợp nhà nƣớc vẫn là một cổ đông.

ii) Môi trƣờng cạnh tranh giữa các DN CPH và các DN khác chƣa thật lành

mạnh, quản lí Nhà nƣớc đối với các DN CPH đang đặt ra nhiều vấn đề.

Việc quản lý nhà nƣớc và quan hệ của các cơ quan nhà nƣớc đối với các

DNNN sau CPH cũng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc không chỉ cho

các CTCP mà cả cho phía các cơ quan quản lý nhà nƣớc. Trƣớc hết, DNNN

sau CPH thƣờng bị kỳ thị, phân biệt đối xử, bị mất đi những ƣu đãi mà trƣớc

đây khi còn là DNNN, nó vẫn đƣợc thụ hƣởng. DNCPH thƣờng khó tiếp cận

đƣợc các khoản vay của Ngân hàng, nhất là các khoản vay ƣu đãi. Các DN

này thƣờng bị kiểm tra, thanh tra nhiều hơn, với một địa vị pháp lý thiếu rõ

ràng (nhất là các CTCP mà nhà nƣớc giữ cổ phần chi phối: khi cơ quan quản

lý nhà nƣớc cần kiển soát thì chúng đƣợc coi là DNNN, khi xét ƣu đãi thì

chúng lại đƣợc coi là CTCP). Các cơ quan quản lý Nhà nƣớc còn nhiều lúng

túng trong việc thực hiện quản lý nhà nƣớc đối với các DN CPH. Do chƣa có

quy chế quản lý các CTCP thống nhất nên chƣa rõ cơ quan nào là đầu mối để

tổng hợp và giải quyết những vấn đề vƣớng mắc cho các CTCP, cơ quan nào

chịu trách nhiệm tuyên truyền, cung cấp thông tin, đứng ra tổ chức tập huấn,

phổ biến nghiệp vụ, các chính sách để các CTCP hoạt động theo luật, cơ quan

101

nào giúp UBND tỉnh quản lý các DNNN sau CPH (nhất là đối với các doanh

nghiệp mà Nhà nƣớc vẫn giữ cổ phần chi phối).

iii) Tính bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội kinh doanh và các

nguồn lực giữa DN CPH và DNNN không đƣợc đảm bảo.

Theo các Nghị định về cổ phần hóa, doanh nghiệp cổ phần hóa đƣợc tiếp tục vay vốn

của Ngân hàng thƣơng mại, công ty tài chính và tổ chức tín dụng khác của Nhà nƣớc theo

cơ chế lãi suất đƣợc áp dụng đối với DNNN. Nhƣng trong thực tế không ít doanh nghiệp đã

phản ánh tình trạng: Chính phủ thì cho phép, nhƣng về phía ngân hàng lại có quy định chỉ có

những DNCPH mà nhà nƣớc nắm giữ cổ phần chi phối thì mới đƣợc áp dụng cơ chế tín

dung ƣu đãi dành cho DNNN, còn với những DN mà nhà nƣớc không nắm giữ cổ phần chi

phối thì việc này chỉ đuợc áp dụng trong 2 năm đầu sau khi chuyển đổi. Các doanh nghiệp

sau cổ phần hóa đều phải thế chấp khi vay vốn, trong khi DNNN có thể vẫn đƣợc tín chấp.

3.4. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh

trong quá trình cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa.

3.4.1. Cơ chế, chính sách về CPH DNNN .

Cơ chế, chính sách của nhà nƣớc đối với vấn đề CPH DNNN ở Thanh

Hóa đƣợc thực hiện theo khung cơ chế, chính sách chung. Ngoài các biện

pháp có tính chất tổ chức, hành chính, Tỉnh hầu nhƣ không cụ thể hóa thành

những văn bản chính sách đặc thù riêng. Ảnh hƣởng của các chính sách đó thể

hiện ở một số điểm sau:

- Chính sách lựa chọn và phân loại các DNNN CPH: Việc sắp xếp lại các

DNNN trong tiến hành CPH bao gồm việc xác định các DNNN nào vẫn tiếp

tục đƣợc nhà nƣớc nắm giữ 100% vốn và các DNNN sẽ đƣợc CPH. Với các

DN thuộc nhóm sau, sẽ có một số DN tuy đƣợc CPH song nhà nƣớc vẫn là cổ

đông chính, chi phối, thậm chí có thể nắm trên 50% số vốn của DN bên cạnh

những DN mà nhà nƣớc chỉ chiếm giữ một tỷ lệ vốn sau CPH khiêm tốn hoặc

nhà nƣớc thoái vốn hoàn toàn. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là cho đến nay, vẫn

chƣa có một tiêu chí rành mạch nào để phân loại các DNNN trƣớc CPH thành

102

những kiểu, dạng nhƣ vậy. Với quan niệm kinh tế nhà nƣớc phải giữ “vai trò

chủ đạo” trong “nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, sự định

vị đúng đắn tƣơng quan và vai trò giữa nhà nƣớc với thị trƣờng, giữa khu vực

DNNN với khu vực DNTN phù hợp với nguyên tắc của một nền kinh tế thị

trƣờng hiện đại trở nên khó khăn, khó thực hiện đƣợc. Trong điều kiện đó,

quá trình CPH nói chung ở Việt Nam cũng nhƣ ở Thanh Hóa không đƣợc

thiết kế bài bản mà thƣờng đƣợc triển khai theo từng giai đoạn khác nhau, tùy

theo áp lực của thực tiễn kinh tế chung. CPH DNNN vốn là bƣớc đi cần thiết

để phát triển KVTN, phát triển kinh tế thị trƣờng thực chất đôi khi bị đảo

ngƣợc khi mà yêu cầu bảo vệ khu vực DNNN đƣợc đề cao (giai đoạn bùng nổ

của các tập đoàn kinh tế theo những nguyên tắc phi thị trƣờng là ví dụ). Vì

thế, việc phân loại và lựa chọn các DNNN phải CPH thực tế không đƣợc căn

cứ trên tiêu chí về tính hiệu quả chung mà lại bị chi phối bởi các quan điểm

chính trị. Trên thực tế, các DNNN đƣợc xem là nhà nƣớc cần nắm giữ (không

CPH hay nhà nƣớc là cổ đông chi phối) là các DN lớn hoặc DN hoạt động

trong những ngành đƣợc coi là chiến lƣợc, then chốt. Tƣ tƣởng “nắm lớn,

buông nhỏ”, giữ các khâu chiến lƣợc (tƣơng tự nhƣ cách làm của Trung

Quốc) dƣờng nhƣ phù hợp với quan điểm về tính chủ đạo của kinh tế nhà

nƣớc. Chẳng hạn theo Quyết định 155/2004/QĐ-TTG ngày 24/8/2004 của

Thủ tƣớng Chính phủ, các DNNN có vốn từ 30 tỷ VND trở lên sẽ không

CPH, DNNN có vốn từ 20 tỷ NVD trở lên thì sau CPH, nhà nƣớc sẽ vẫn nắm

trên 50% vốn cổ phần. Cách xác định ngành/lĩnh vực chiến lƣợc cũng không

thật rõ ràng, và bị chi phối bởi các quan điểm “phi kinh tế”. Chẳng hạn, theo

Quyết định 155 nói trên, những ngành nhƣ thuốc lá, xuất bản, sản xuất phim

khoa học, thời sự, tài liệu đƣợc xem là những ngành nhà nƣớc cần nắm giữ

100% vốn. Cách phân loại nhƣ vậy tạo ra rào cản khiến cho các DNNN hoạt

động trong các lĩnh vực nhƣ sản xuất điện, khai khoáng, cơ khí, hóa chất và

thuốc bảo vệ thực vật, hay một số lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng và thực

103

phẩm nhƣ muối ăn, sữa, bia, cồn chỉ đƣợc CPH với điều kiện nhà nƣớc là cổ

đông chi phối. Tóm lại, ở Việt Nam, cách xác định và phân loại các DNNN để

CPH đƣợc thực hiện từ trên xuống (do Thủ tƣớng quyết định) và không nhất

thiết phải xuất phát từ tính hiệu quả. Đó là lý do giải thích hiện tƣợng tồn tại

những DNCPH mà nhà nƣớc là cổ đông chi phối, hoạt động không hiệu quả

nhƣ đã phân tích ở trên, song không đƣợc xử lý.

- Chính sách tín dụng: Các doanh nghiệp sau cổ phần hóa còn bị phân

biệt đối xử so với các DNNN. Chúng đƣợc xem nhƣ một doanh nghiệp phi

nhà nƣớc hay một DNTN nên thƣờng gặp khó khăn khi vay vốn, nhất là các

khoản vay ƣu đãi của Nhà nƣớc, vốn trên thực tế chỉ đƣợc dành cho các

DNNN, đặc biệt là các DNNN lớn.

- Chính sách bán cổ phiếu ƣu đãi đối với ngƣời lao động: Theo quy định

hiện hành, những ngƣời lao động trong DNNN thuộc diện CPH đƣợc mua cổ

phiếu với giá ƣu đãi, thấp hơn 40% so với mức giá đấu thầu thành thành công

bình quân của cổ phiếu. Lƣợng cổ phiếu mà ngƣời lao động trong DN đƣợc

mua tỷ lệ với số năm công tác của họ tại doanh nghiệp. Tỷ lệ cổ phiếu đƣợc

bán trong nội bộ đƣợc quy định bằng 70% vốn điều lệ. Các quy định có tính

chất "chính sách" nhƣ vậy thể hiện sự ƣu đãi đối với những ngƣời lao động

làm việc trong các DNCPH, có tác dụng làm dịu đi tâm lý e ngại, chống đối

quá trình CPH, và đƣợc kỳ vọng là một biện pháp biến ngƣời lao động thành

những cổ đông của CTCP, nhờ đó họ sẽ có động lực hoạt động tốt hơn với tƣ

cách là ngƣời chủ của DN. Tuy nhiên, những quy định đó lại là nguyên nhân

trực tiếp dẫn đến hiện tƣợng cổ phần hóa nội bộ, làm cho DNCPH không thu

hút đƣợc các nhà đầu tƣ bên ngoài, nhất là các nhà đầu tƣ chiến lƣợc. Mặt

khác, việc ƣu đãi đối với những ngƣời lao động làm việc trực tiếp ở doanh

nghiệp làm thất thoát một phần vốn chung của toàn xã hội, tỏ ra là bất công

đối với các thành viên của xã hội khác nằm ngoài doanh nghiệp. Hơn nữa,

nhƣ thực tế thƣờng xảy ra, do thu nhập thấp, những ngƣời lao động bình

104

thƣờng thƣờng có xu hƣớng bán lại cổ phần của mình cho ngƣời khác, khiến

cho mục tiêu kỳ vọng về “cổ đông – ngƣời lao động” thƣờng không đạt đƣợc.

Tính chất khép kín, thiếu công khai rộng rãi cũng khiến cho những ngƣời mua

gom đƣợc các cổ phiếu từ những ngƣời lao động bình thƣờng thƣờng là các

lãnh đạo cũ của doanh nghiệp, có quan hệ gần gũi và có lợi thế thông tin. Tất

cả những điều này khiến cho việc hình thành cấu trúc sở hữu của DNCPH có

thể chệch khỏi hƣớng hiệu quả nhƣ đã phân tích.

Các văn bản chính sách quy định và hƣớng dẫn cách xác định giá trị

doanh nghiệp (phƣơng pháp tính giá trị quyền sử dụng đất, giá trị lợi thế vị trí

địa lý, giá trị thƣơng hiệu…), giải quyết dƣ nợ, phƣơng pháp tính toán giá

khởi điểm chào bán cổ phần lần đầu, bố trí việc làm cho ngƣời lao động… thể

hiện thiếu rõ ràng, dẫn đến sự hiểu và vận dụng không thống nhất, có thể bị

lạm dụng. Chẳng hạn, theo quy định hiện hành của nhà nƣớc, ngƣời ta có thể

áp dụng 3 phƣơng pháp để xác định giá trị các DNNN để CPH gồm: Phƣơng

pháp tài sản, phƣơng pháp dòng tiền chiết khấu (DCF) và phƣơng pháp xác

định giá trị lợi thế kinh doanh. Theo phƣơng pháp tài sản, ngƣời ta cần xác

định chính xác giá trị các tài sản hữu hình cũng nhƣ vô hình của doanh

nghiệp. Đối với các tài sản nhƣ máy móc, thiết bị, giá trị của tài sản đƣợc

đánh giá trên cơ sở ƣớc lƣợng giá trị ban đầu (“nguyên giá tính theo giá thị

trƣờng”) của tài sản và phần trăm chất lƣợng còn lại của tài sản. Việc ƣớc

lƣợng “nguyên giá” thị trƣờng ở thời điểm xác định giá đối với các tài sản là

dây chuyền sản xuất rất lạc hậu về công nghệ, hiện tại không còn đƣợc sản

xuất, lƣu thông trên thị trƣờng và cũng không có tài sản so sánh tƣơng đƣơng

là rất khó khăn. Điều đó cũng đúng với các tài sản “chuyên biệt” mà nhà nƣớc

thƣờng đầu tƣ cho các doanh nghiệp công ích (quản lý đƣờng bộ, đƣờng song,

quản lý môi trƣờng đô thị…). Để khắc phục điều đó, ngƣời ta cho phép các tài

sản loại này đƣợc xác định nguyên giá theo giá tài sản ghi trên sổ kế toán.

Vấn đề là trong một số trƣờng hợp, giá trị tài sản trên sổ kế toán có thể rất cao

105

(một cách bất hợp lý), do tài sản đã đƣợc đánh giá lại nhiều lần theo sự thay

đổi của chế độ tỷ giá nhƣ quy định của Nhà nƣớc trong chế độ kế toán trƣớc

đây. Việc xác định giá trị của các tài sản vô hình (chẳng hạn nhƣ thƣơng hiệu,

lợi thế kinh doanh…) của DNNN đƣợc cổ phần hóa cũng gặp nhiều trở ngại

khi các thị trƣờng dịch vụ, hay thị trƣờng của các hàng hóa vô hình chƣa phát

triển. Những bất cập tƣơng tự cũng có thể xảy ra khi áp dụng phƣơng pháp

DCF (dòng tiền chiết khấu) hay phƣơng pháp xác định giá trị lợi thế kinh

doanh khi xác định giá trị doanh nghiệp.

- Các văn bản pháp quy cũng nhƣ các chính sách hỗ trợ DN trong quá

trình CPH của nhà nƣớc chƣa đƣợc ban hành kịp thời và đƣợc điều chỉnh phù

hợp khi xuất hiện những vấn đề mới phát sinh trong thực tế. Thậm chí có

những văn bản hƣớng dẫn về CPH đƣợc ban hành quá chậm khiến cho các

doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi thực hiện.

- Tỉnh cũng chƣa chủ động trong việc nghiên cứu, và cụ thể hóa các văn

bản pháp quy này phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của địa phƣơng.

3.4.2. Công tác quản lý nhà nước về CPH DNNN trên địa bàn tỉnh chưa

theo kịp với yêu cầu

- Chƣơng trình và kế hoạch CPH DNNN chƣa đƣợc thiết kế chu đáo,

bài bản: Điều này đƣợc thể hiện ở chỗ: trong nhiều năm qua, kế hoạch CPH

DNNN không đƣợc thiết kế nhƣ một bộ phận của tiến trình hoàn thiện và phát

triển các thể chế thị trƣờng, định vị lại vai trò của nhà nƣớc trong nền kinh tế

thị trƣờng, tái cấu trúc lại toàn bộ khu vực DNNN cũng nhƣ cả nền kinh tế. Các

tiêu chí để phân loại các DNNN thành những DN mà nhà nƣớc cần nắm giữ

100% vốn, DN thuộc diện cổ phần hóa song nhà nƣớc vẫn nắm giữ trên 50%

vốn hoặc giữ cổ phần ở mức chi phối, DN thuộc diện cổ phần hóa song nhà

nƣớc không cần trở thành cổ đông chi phối hay có thể thoái vốn hoàn toàn

không đƣợc xác định rõ ràng. Những DNNN đƣợc xem là nhà nƣớc cần nắm

giữ thƣờng gắn liền với quy mô (các DN lớn), tầm quan trọng (các DN hoạt

106

động trong các ngành “chiến lƣợc” - đây cũng là một thuật ngữ không rõ ràng)

hoặc có khả năng đem lại nguồn thu lớn cho nhà nƣớc hơn là dựa trên sự định

vị đúng đắn vai trò và tƣơng quan của khu vực công – tƣ trong nền kinh tế thị

trƣờng. Các phƣơng án CPH nhiều khi không đƣợc chuẩn bị chi tiết gắn với

cách thức tổ chức và phƣơng pháp xác định giá trị doanh nghiệp, phƣơng thức

bán cổ phần, lịch trình và tiến độ, sự phối hợp giữa các bên có liên quan và sự

phân công trách nhiệm, thời hạn hoàn thành cụ thể…, trong đó các vấn đề kinh

tế - xã hội nảy sinh sớm đƣợc dự liệu và đƣợc đảm bảo nguồn lực để xử lý

[xem thêm phần phụ lục]. Trách nhiệm của ngƣời lãnh đạo DNNN thuộc diện

CPH không đƣợc quy định rõ ràng. Việc giao cho chủ tịch UBND tỉnh chịu

trách nhiệm quyết định số lƣợng cổ phần, thời gian, phƣơng thức tổ chức bán,

quyết định lựa chọn tổ chức tƣ vấn bán cổ phần, thậm chí quyết định giá khởi

điểm đấu giá chứ không phải một cơ quan chuyên trách có thẩm quyền đã tạo

ra gánh nặng và áp lực không đáng có đối với ngƣời đứng đầu UBND tỉnh,

cũng nhƣ có thể nảy sinh những hệ lụy khác khi quyền quyết định đối với

những khâu quan trọng của quá trình CPH một DNNN lại đƣợc thiết kế một

cách quá tập trung.

- Quy trình cổ phần hóa vẫn còn phức tạp gắn với nhiều thủ tục phiền hà,

chậm đƣợc đổi mới, cải tiến. Công tác chỉ đạo, thực hiện công tác CPH còn

chồng chéo, liên quan đến hầu hết các sở, ban, ngành, địa phƣơng song sự

phối hợp giữa các tổ chức, cơ quan này còn thiếu hiệu quả. Công tác triển

khai, kiểm tra, đôn đốc, giám sát các đề án CPH đã đƣợc phê duyệt còn chậm

trễ, lúng túng. Việc xử lý các vƣớng mắc nảy sinh thƣờng bị kéo dài do các

thủ tục hành chính phức tạp, liên quan đến nhiều bộ phận chức năng. Tính

năng động nói chung của các cơ quan quản lý hành chính nhà nƣớc trên địa

bàn Tỉnh không đƣợc đánh giá cao (Theo “Báo cáo về chỉ số năng lực cạnh

tranh cấp tỉnh PCI 2014” chỉ số về tính năng động của Thanh Hóa năm 2014

chỉ đạt 5,58 điểm, không đƣợc cải thiện so với năm 2013 và thấp hơn so với

107

nhiều chỉ số thành phần khác. [75]) cũng phần nào phản ánh vai trò của các cơ

quan này đối với việc xử lý các vấn đề của CPH. Các doanh nghiệp thuộc

diện cổ phần hóa chƣa chủ động xử lý những vƣớng mắc về tài chính, các

khoản nợ phải thu hồi, các khoản nợ phải trả…

- Việc đấu giá cổ phần cũng nảy sinh một số vấn đề dễ phát sinh tiêu cực.

Đó là, hiện tƣợng thao túng bán đấu giá cổ phiếu của một số cá nhân, tổ chức

bằng cách nâng đấu giá lên cao, nhằm loại bỏ ngay lập tức những ngƣời có

nhu cầu mua cổ phiếu thực sự. Sau khi kết thúc phiên bán đấu giá, những

ngƣời này từ chối không mua số cổ phần đã đấu giá, chấp nhận mất tiền đặt

cọc và theo quy định, ngƣời chào giá mua cao thứ hai sẽ đƣợc xét để mua số

cổ phiếu đó. Khi có sự thông đồng với nhau giữa những ngƣời này, giá cổ

phiếu sẽ bị thao túng và tài sản của nhà nƣớc dễ bị thất thoát.

- Một số doanh nghiệp đã thực hiện sai chính sách của Nhà nƣớc trong

đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp, dẫn đến việc không thể quyết toán thuế,

không xác định đƣợc giá trị doanh nghiệp, tạo ra việc khiếu kiện kéo dài. Việc

điều tra, xử lý các vi phạm gặp rất nhiều khó khăn, do có sự thay đổi về chính

sách, về cán bộ, hoặc những vi phạm chƣa đƣợc giải quyết xong thì doanh

nghiệp lại tiến hành các bƣớc tiếp theo.

3.4.3. Các thiết chế hỗ trợ tiến trình CPH DNNN còn kém phát triển.

Trong một môi trƣờng mà các thị trƣờng liên quan đến các dịch vụ cao

cấp gắn liền các tài sản tài chính, trí tuệ…nhƣ thị trƣờng chứng khoán, thị

trƣờng dịch vụ tƣ vấn, thị trƣờng dịch vụ khoa học công nghệ… hầu nhƣ mới

chỉ manh nha hình thành, hay thị trƣờng đất đai phát triển một cách lệch lạc,

méo mó (do các quy định về sở hữu đất đai), việc định giá hay xử lý nợ của

doanh nghiệp trở nên khó khăn và dễ bị lạm dụng. Việc thiếu vắng hoặc kém

hoàn thiện của các thể chế thị trƣờng có khả năng cho phép đánh giá một cách

khách quan giá trị của các sản phẩm hay hàng hóa khó đánh giá (đất đai, cổ

phiếu, thƣơng hiệu, lợi thế kinh doanh, mua bán nợ…) cũng nhƣ các tổ chức

108

cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp, các chuyên gia tƣ vấn có trình độ cao và đạo

đức nghề nghiệp đáng tin cậy là những khó khăn khách quan chung, gây trở

ngại cho việc xử lý các vấn đề liên quan đến việc định giá tài sản doanh

nghiệp CPH cũng nhƣ xử lý một số tồn đọng khác của doanh nghiệp, tạo ra

những kẽ hở cho các nhóm lợi ích có thể lợi dụng.

3.4.4. Nhận thức xã hội và công tác tuyên truyền về CPH còn hạn chế

Ở Thanh Hóa, một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, ngƣời lao

động trong doanh nghiệp chƣa hiểu thấu đáo thực chất lợi ích của quá trình

chuyển DNNN thành công ty cổ phần, sợ bị xáo trộn việc làm, cƣơng vị công

tác nên thiếu ủng hộ quá trình CPH.

Thói quen sống và làm việc trong chế độ quan liêu, bao cấp trƣớc đây,

đã làm cho ngƣời lao động sợ cổ phần hóa. Họ cho rằng cổ phần hóa sẽ làm

cho họ mất việc làm, do không có tiền mua cổ phiếu, tuổi cao sức yếu không

thích nghi với cơ chế thị trƣờng. Một bộ phận công chức, lãnh đạo doanh

nghiệp nhà nƣớc hay cơ quan chủ quản của doanh nghiệp vốn đƣợc hƣởng lợi

từ vị trí đặc quyền cũ cũng e ngại và thiếu chủ động đón nhận chủ trƣơng

CPH do lo sợ bị mất vị trí và thua thiệt về lợi ích. Kế hoạch CPH, vì thế, mà

có thể bị thiết kế một cách thiếu chu đáo, bài bản, bị triển khai chậm chễ,

thiếu quyết liệt. Trong quá trình thực thi, những vấn đề nảy sinh không đƣợc

nhận biết sớm và có giải pháp xử lý kịp thời, thích hợp.

Sự hạn chế trong nhận thức chung của toàn xã hội cũng nhƣ của cán bộ, đảng

viên ở Thanh Hóa về vấn đề CPH DNNN có liên quan đến những vấn đề gốc rễ

hơn nhƣ: quan niệm khoa học và thực tiễn về nền kinh tế thị trƣờng hiện đại, về

mô hình kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở Việt Nam. Cách nhìn định kiến,

thiếu cơ sở thực tiễn về những vấn đề này khiến cho trong xã hội, vẫn chƣa có sự

thống nhất nhận thức thực sự về vai trò của sở hữu tƣ nhân và khu vực tƣ nhân

cũng nhƣ vai trò của nhà nƣớc và các DNNN trong nền kinh tế thị trƣờng. Tâm lý

e ngại CPH sẽ dẫn đến tƣ nhân hóa hay không chấp nhận CPH là tƣ nhân hóa, bất

109

chấp sự CPH nửa vời mà theo đó, ở các DN sau CPH, nhà nƣớc vẫn là cổ đông

lớn chi phối số phận DN, không tạo ra sự cải thiện đáng kể đối với hiệu quả hoạt

động của DN, khiến cho chủ trƣơng CPH không biến thành một kế hoạch hành

động chi tiết, đƣợc thực thi một cách quyết liệt và nhất quán. Sự chần chừ, ngập

ngừng trong trƣờng hợp này là khó tránh khỏi.

Vƣớng mắc về vấn đề tƣ tƣởng, nhận thức tồn tại thậm chí cả ở cấp cao

nhất khiến cho chủ trƣơng CPH không trở thành quyết tâm chính trị ƣu tiên

cao của các cấp ủy và chính quyền. Nó cũng làm cho các nội dung tuyên

truyền về chủ trƣơng CPH trở nên thiếu sâu sắc, và không đƣợc triển khai sâu

rộng. Ở Thanh Hóa, một số cấp ủy Đảng, cán bộ lãnh đạo chủ chốt chƣa chủ

động nghiên cứu, phổ biến rộng rãi để đảng viên, quần chúng hiểu rõ yêu cầu

cần thiết, lợi ích của việc cổ phần hóa, tháo gỡ những khúc mắc của họ về tƣ

tƣởng. Việc phổ biến chủ trƣơng CPH của Đảng và Nhà nƣớc thƣờng đƣợc

tập trung chủ yếu ở những DNNN thuộc diện CPH mà không đƣợc tuyền

truyền rộng rãi trong mọi nhóm xã hội khiến cho quá trình này không thu hút

đƣợc sự quan tâm, ủng hộ và giám sát của toàn xã hội. Điều đó phần nào cũng

làm giảm tính công khai, minh bạch của tiến trình CPH, cho phép cách thực

hiện CPH theo kiểu khép kín, nội bộ hóa có điều kiện diễn ra, tiến độ CPH

diễn ra chậm chễ mà không có ai thực sự bị trừng phạt. Từ đó, nhiều vấn đề

kinh tế - xã hội sẽ nảy sinh.

Công tác tuyên truyền, giáo dục và đấu tranh với tƣ tƣởng bảo thủ chƣa

đƣợc đặt ra một cách nghiêm túc và chƣa có biện pháp hữu hiệu, đủ mạnh để

khắc phục. Đồng thời, những lãnh đạo doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức có sai

phạm, đặc biệt là đối với những ngƣời gây khó khăn, cản trở, chống đối chỉ

đạo của cấp trên, vi phạm các quy định về cổ phần hóa và sắp xếp doanh

nghiệp, cán bộ quản lý gây thua lỗ, nợ đọng, thất thoát tài sản nhà nƣớc chƣa

đƣợc xử lý kiên quyết, nghiêm minh. Những điều này khiến việc triển khai

quá trình CPH nói chung trở nên khó khăn.

110

Kết luận Chƣơng 3

Chƣơng 3 đã tập trung nghiên cứu tình hình và kết quả CPH DNNN ở tỉnh

Thanh Hóa, trên cơ sở đó đã chỉ rõ các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá

trình CPH các DNNN của tỉnh.

Thực tiễn chỉ rõ quá trình CPH các DNNN tại Thanh Hóa đã tạo ra nhiều

chuyển biến tích cực tại các DN này. Tuy nhiên nó cũng cho thấy: Các công ty

mà ở đó, nhà nƣớc giữ tỷ lệ cổ phần thấp, nhất là những CTCP mà Nhà nƣớc

không còn nắm cổ phần đã thực sự chủ động trong SXKD nên hiệu quả SXKD

cao hơn, tạo đƣợc nhiều việc làm hơn so với trƣớc CPH. Ngƣợc lại, ở các CTCP

mà Nhà nƣớc giữ tỷ lệ cổ phần cao thuờng ít có sự thay đổi trong quản trị doanh

nghiệp, trong nhân sự, tính tự chủ, chủ động của DN trong SXKD thấp, nhất là ở

những CTCP mà các thành viên trong HĐQT chỉ nắm giữ tỷ lệ vốn cổ phần

thấp, chỉ có một số ít cán bộ công nhân là cổ đông. Trong số này, sau CPH công

ty vẫn hoạt động kinh doanh với hiệu quả thấp, thậm chí còn đứng trƣớc nguy

cơ bị phá sản.

Bên cạnh đó, quá trình CPH cũng nhƣ sự vận hành của các DN sau CPH

nhìn chung vẫn gặp nhiều khó khăn. Toàn bộ quá trình này vẫn đã và đang

đối diện với nhiều vấn đề bất cập, cần tháo gỡ: Các lực cản kinh tế -xã hội

nảy sinh trong quá trình chuẩn bị CPH các DNNN; những khó khăn trong

việc xác định giá trị doanh nghiệp để CPH; vấn đề bán cổ phần ƣu đãi cho

ngƣời lao động trong các doanh nghiệp CPH, vấn đề cổ đông Nhà Nƣớc, cổ

đông chiến lƣợc; vấn đề xử lý công nợ của các doanh nghiệp; vấn đề quản lý

Nhà nƣớc đối với các doanh nghiệp đang trong quá trình CPH, vấn đề cần

giải quyết đối với các doanh nghiệp sau CPH...Giải quyết tốt các vấn đề này

là nền tảng để thúc đẩy nhanh tiến độ và nâng cao hiệu quả của quá trình

CPH các DNNN ở Thanh Hóa trong thời gian tới.

111

Chƣơng 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ

- XÃ HỘI NẢY SINH TRONG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH

NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở TỈNH THANH HÓA

4.1. Quan điểm giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trong quá

trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở Thanh Hóa những năm tới

4.1.1. Bối cảnh của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Thanh Hóa

những năm tới

4.1.1.1. Bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội chung

Sau hơn 20 năm thực hiện quá trình sắp xếp, đổi mới khu vực DNNN,

trong đó có quá trình CPH các DNNN, cùng với tiến trình Đổi mới chung,

diện mạo nền kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi rõ rệt. Khu vực tƣ nhân đã

lớn mạnh không ngừng và trở thành khu vực đóng góp lớn nhất trong việc sản

xuất hàng hóa, dịch vụ, tạo công ăn, việc làm, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế.

Với hàng ngàn doanh nghiệp đã đƣợc cổ phần hóa, khu vực DNNN đã đƣợc

thu hẹp một bƣớc và thích nghi tốt hơn với nền kinh tế thị trƣờng. Những thay

đổi về mặt cấu trúc nhƣ vậy là một nội dung quan trọng của tiến trình Đổi

mới, của việc chuyển một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang một nền

kinh tế thị trƣờng, góp phần làm nên những thành tựu tăng trƣởng đầy ấn

tƣợng của Việt Nam thời kỳ Đổi mới.

Tuy vậy, nhìn tổng thể, so với các DN thuộc khu vực tƣ nhân trong

nƣớc cũng nhƣ các doanh nghiệp FDI, khu vực DNNN vẫn đƣợc xem là khu

vực hoạt động kinh doanh kém hiệu quả nhất, mặc dù đây vẫn là khu vực

đang chiếm giữ phần lớn lƣợng vốn và tài sản của toàn xã hội. Đóng góp vào

GDP cũng nhƣ vào việc giải quyết việc làm của khu vực DNNN hoàn toàn

không tƣơng xứng với tỷ trọng tài sản xã hội mà nó nắm giữ. Hiệu quả thấp,

năng lực cạnh tranh hạn chế, tình trạng tham nhũng dễ xảy ra, tỷ lệ thua lỗ

112

cao, quy mộ và tỷ lệ nợ so với vốn sở hữu lớn là những cụm từ mà ngƣời ta

thƣờng sử dụng để đánh giá khái quát về khu vực này. Quy mô lớn, hoạt động

thiếu hiệu quả của khu vực DNNN đã kéo tụt hiệu quả chung của nền kinh tế

và là nguyên nhân nội tại quan trọng dẫn đến sự suy thoái trong tốc độ tăng

trƣởng của nền kinh tế kéo dài từ năm 2010 đến nay [104].

Trong bối cảnh diễn biến phức tạp của nền kinh tế thế giới sau cuộc

khủng hoảng suy thoái kinh tế toàn cầu 2008, nhịp độ tăng trƣởng kinh tế Việt

Nam chậm lại một cách rõ rệt trong những năm qua cho thấy chất lƣợng thấp

và tính kèm bền vững của quá trình này. Đó cũng là thách thức to lớn mà Đất

nƣớc đang đối mặt và phải vƣợt qua. Trong điều kiện những xung lực có đƣợc

từ giai đoạn đầu Đổi mới đã dần cạn kiệt, mô thức tăng trƣởng theo chiều

rộng đã không còn “dƣ địa” để phát huy, việc đổi mới mô hình tăng trƣởng và

tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế đã và đang đƣợc đặt ra một cách cấp thiết.

Tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế trên cơ sở phát triển một nền kinh tế thị

trƣờng hiện đại, năng động cao, có khả năng hội nhập sâu và hiệu quả vào nền

kinh tế thế giới nhằm tạo ra những động lực và sức sống mới cho nền kinh tế

là nội dung chính của tiến trình tiếp tục Đổi mới nền kinh tế Việt Nam trong

những năm tới. Nó đƣợc đƣợc đặt ra không chỉ bắt nguồn từ yêu cầu nội tại

của nền kinh tế mà còn xuất phát từ những áp lực bên ngoài do quá trình toàn

cầu hóa và hội nhập quốc tế đem lại. Những cam kết tự do hóa nền kinh tế

gắn liền với việc gia nhập WTO, sự hình thành Cộng đồng kinh tế chung

ASEAN trong tƣơng lai cận kề, triển vọng hình thành và tham gia

TPP…không chỉ đem lại những cơ hội mà còn tạo ra những thách thức to lớn

đối với nền kinh tế đất nƣớc. Các doanh nghiệp trong nƣớc sẽ ngày càng phải

đối diện với áp lực cạnh tranh mạnh hơn từ phía các đối tác bên ngoài, theo

những tiêu chuẩn, chuẩn mực quốc tế ngày càng khắt khe. Trong điều kiện đó,

tái cấu trúc một cách toàn diện nền kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả và năng

lực cạnh tranh quốc tế của nó là quá trình không thể né tránh.

113

Tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế có nội dung rất rộng, có liên quan đến

mọi lĩnh vực, ngành và các doanh nghiệp. Nó không chỉ liên quan đến việc

cải tổ các hoạt động đầu tƣ, chi tiêu và điều tiết nền kinh tế của nhà nƣớc,

sắp xếp và cấu trúc lại hệ thống ngân hàng mà còn đụng chạm đến việc định

vị và cấu trúc lại hệ thống các doanh nghiệp trong cả khu vực tƣ lẫn công.

Trong những nội dung đó, tái cấu trúc các DNNN đƣợc xem là một trong

những khâu then chốt. Trong bối cảnh nhƣ vậy, với tƣ cách là một bộ phận

hữu cơ của việc tái cấu trúc khu vực các DNNN, quá trình CPH DNNN buộc

phải đƣợc đẩy nhanh theo những mục tiêu hiệu quả mà tiến trình tái cấu trúc

quy định.

Cũng theo phƣơng hƣớng nhƣ vậy, Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban

chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII của Đảng đã ghi rõ: Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nƣớc

theo hƣớng: doanh nghiệp nhà nƣớc tập trung vào những lĩnh vực then chốt,

thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực

mà doanh nghiệp thuộc các thành phần khác không đầu tƣ. Đẩy mạnh CPH,

bán vốn mà Nhà nƣớc không cần nắm giữ, bao gồm cả những doanh nghiệp

đang kinh doanh có hiệu quả; hoàn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu

hình và tài sản vô hình (tài sản trí tuệ, thƣơng hiệu,...) trong CPH theo nguyên

tắc thị trƣờng. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị,

công ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn Nhà nƣớc và chức năng

quản lý nhà nƣớc, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nƣớc;

sớm xóa bỏ chức năng chủ sở hữu nhà nƣớc của các bộ, ủy ban nhân dân đối

với vốn, tài sản nhà nƣớc tại các doanh nghiệp. Thành lập một cơ quan

chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nƣớc. Kiện

toàn đội ngũ lãnh đạo, quản lý và nâng cao năng lực quản trị , quản lý doanh

nghiệp nhà nƣớc phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Tăng cƣờng quản lý, giám

sát, kiểm tra, kiểm soát đảm bảo công khai, minh bạch về đầu tƣ, tài chính và

114

các hoạt động của doanh nghiệp nhà nƣớc. [ 36; tr. 31].

4.1.1.2. Chủ trương phát triển kinh tế xã hội và mục tiêu cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước của tỉnh Thanh Hóa

Dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII

tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2015-2020 chỉ ra

phƣơng hƣớng chung của tỉnh là “ Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tranh thủ

thời cơ, vận hội mới, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình

tăng trƣởng, nhanh chóng nâng cao chất lƣợng, hiệu quả và năng lực cạnh

tranh của nền kinh tế; tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trƣờng đầu tƣ kinh

doanh, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tƣ phát

triển; nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực và các hoạt động văn hóa xã hội;

thực hiện tốt công tác giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội; tăng cƣờng bảo

vệ môi trƣờng, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, chủ động đối phó với biến đổi

khí hậu; bảo đảm quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội; phấn đấu đến

năm 2020 trở thành tỉnh tiên tiến; đến năm 2025 cơ bản trở thành tỉnh công

nghiệp theo hƣớng hiện đại”. [ 90; tr. 28].

Để thực hiện chủ trƣơng trên, Thanh Hóa chủ trƣơng “ Tiếp tục thực

hiện chủ trƣơng CPH DNNN, thoái vốn nhà nƣớc và sắp xếp chuyển đổi chủ

sở hữu doanh nghiệp theo lộ trình , đảm bảo tính công khai, minh bạch”

[ 90; tr. 37].

Mục tiêu cổ phần hóa DNNN và tái cấu trúc DNNN ở tỉnh Thanh Hóa

là nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tƣ và xã hội, tăng

cƣờng năng lực cạnh tranh. Yêu cầu của tái cấu trúc DNNN và cổ phần hóa

DNNN đều hƣớng tới giảm số lƣợng các DNNN, nâng cao chất lƣợng hiệu

quả hoạt động, tiềm lực tài chính để phát triển trong điều kiện cạnh tranh khốc

liệt nhƣ hiện nay.

115

Quy hoạch và cơ cấu lại cổ phần hóa DNNN theo quan điểm chung của

Đảng, Nhà nƣớc cũng nhƣ của tỉnh đề ra về đổi mới, sắp xếp các DNNN, cổ

phần hóa DNNN giai đoạn tiếp theo nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả sản

xuất, kinh doanh, phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế.

Nói chung, trong thời gian từ nay đến hết năm 2020 tiến trình CPH DNNN

tại tỉnh Thanh Hóa phải hƣớng tới thực hiện tốt 3 nội dung chủ yếu sau:

(i) Đẩy mạnh cổ phần hóa để thu hẹp khu vực DNNN trên địa bàn;

(ii) Thoái vốn Nhà nƣớc khỏi các lĩnh vực kinh doanh mà DNNN không

cần nắm giữ;

(iii) Đổi mới và nâng cao năng lực quản trị tại các doanh nghiệp sau CPH.

4.1.2. Quan điểm giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá

trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Thanh Hóa

4.1.2.1. Phải xem quá trình CPH DNNN và giải quyết các vấn đề kinh tế- xã

hội nảy sinh từ đó như là yêu cầu khách quan của tiến trình phát triển kinh tế

thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Quá trình đổi mới ở Việt Nam trong gần 30 năm qua thực chất là quá

trình đoạn tuyệt dần với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trƣớc đây để phát

triển nền kinh tế thị trƣờng đầy đủ,, hiện đại, có tính hội nhập quốc tế cao. Dù

có những khó khăn, trở ngại, kể cả về mặt nhận thức, tƣ tƣởng, song nhƣ thực

tiễn đã chỉ rõ: đây là một quá trình không thể đảo ngƣợc.

Phát triển nền kinh tế thị trƣờng hiện đại, theo xu hƣớng mở cửa, hội

nhập đòi hỏi phải nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nƣớc và thị

trƣờng, phải định vị lại vị trí, vai trò và tƣơng quan giữa khu vực công và khu

vực tƣ, phải tạo lập vững chắc các nền tảng thị trƣờng dựa trên việc thừa nhận

rộng rãi quyền sở hữu tƣ nhân với sự tồn tại của các chủ thể kinh tế đa dạng

và năng động. Trong xu hƣớng này, việc cơ cấu lại khu vực DNNN, CPH bộ

bộ phận đáng kể các DNNN là cực kỳ cần thiết và là một bộ phận hữu cơ của

tiến trình phát triển kinh tế thị trƣờng nói chung.

116

Với quan điểm nhƣ vậy, việc thúc đẩy quá trình CPH DNNN phải trở

thành quyết tâm chính trị của mọi cấp lãnh đạo. Nó cần đƣợc tuyền truyền sâu

rộng để trở thành nhận thức chung, đồng thuận giữa các cấp, các ngành và các

tầng lớp nhân dân.Những tƣ tƣởng ngập ngừng, e ngại, chống đối quá trình

CPH cần đƣợc phê phán.

Thêm nữa, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc tiến hành xử lý

những vấn đề kinh tế -xã hội nảy sinh trong CPH DNNN cũng phải tính đến

thông lệ quốc tế. Có nhƣ thế mới đƣa ra các cơ chế chính sách, mô hình tổ

chức quản lý, các thiết chế hỗ trợ CPH phù hợp, đảm bảo đƣợc tính cạnh

tranh, tính hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề trên..

4.1.2.2. Giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trên cơ sở nhận thức

đúng về bản chất cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, coi cổ phần hóa

DNNN như một bộ phận thiết yếu của quá trình tái cấu trúc toàn bộ nền kinh

tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy sự phát triển toàn bộ nền kinh tế

theo chiều sâu

Mặc dù CPH DNNN đã tiến hành hơn 20 năm song nhận thức về bản

chất của CPH vẫn chƣa có sự rõ ràng và thống nhất. Nhiều ngƣời, kể cả một

số nhà hoạch định chính sách, hiện vẫn còn hiểu bản chất của CPH DNNN chỉ

là nhằm giảm bớt tỷ trọng sở hữu của nhà nƣớc trong doanh nghiệp. Đó chỉ là

cách hiểu thông thƣờng nhất và đơn giản nhất. Cách hiểu và cách làm nhƣ

vậy, trên thực tế chỉ đạt đƣợc những thành công trong việc giảm bớt số lƣợng

DNNN và tỷ trọng vốn của Nhà nƣớc trong các DNNN, chứ không tạo đƣợc

sự chuyển biến về chất trong các doanh nghiệp này. Điều đó dẫn đến tình

trạng nhiều DNNN sau CPH rất lúng lúng về phƣơng thức hoạt động và hoạt

động kém hiệu quả. Thực tế đó đặt ra yêu cầu phải có sự nhận thức đúng và

toàn diện hơn về bản chất và mục tiêu CPH.

Phải khẳng định lại, cổ phần hoá DNNN không chỉ là quá trình bán cổ

phần của các DNNN mà Nhà nƣớc không cần nắm giữ cho các nhà đầu tƣ tƣ

117

nhân, mà ngoài mục tiêu đó, tiến trình CPH DNNN còn có các mục tiêu quan

trọng khác nữa. Đó là:

+ CPH để thực hiện tái cấu trúc lại hệ thống DNNN, tiến tới tái cấu trúc

toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Có nghĩa là, CPH DNNN còn có mục tiêu là

phải làm cho bản thân các DN ấy sau khi đƣợc cổ phần hoá phải trở thành

một thực thể kinh tế lành mạnh, hay nói khác đi là làm “lành mạnh hóa” khu

vực kinh tế Nhà nƣớc. Trong trƣờng hợp ngƣợc lại (đang phổ biến hiện nay),

thì cổ phần hoá, thậm chí còn gây tác động tiêu cực đến các khu vực kinh tế

khác, bởi một khi nguồn vốn xã hội đã đƣợc thu hút vào khu vực kinh tế Nhà

nƣớc thì đồng thời cũng “đẩy” luôn các thực thể kinh tế yếu kém sang các khu

vực kinh tế khác. Rốt cuộc, tuy chúng ta giảm đƣợc một phần gánh nặng tài

chính cho Nhà nƣớc tại các DNNN (cũ), nhƣng lại đặt lên đó một gánh nặng

khác từ các doanh nghiệp ấy sau khi đã cổ phần hóa.

Với cách hiểu về bản chất CPH DNNN nhƣ hiện nay thì kết quả CPH

nhiều lắm cũng chỉ tạo đƣợc ra một sự cân bằng giả tạo, tạm thời giữa khu vực

kinh tế nhà nƣớc và kinh tế tƣ nhân, bởi vì ngay sau đó nó lại mất đi sự cân

bằng ấy, do các doanh nghiệp sau CPH đã không thể phát triển đƣợc bền vững

trên cơ sở nguồn vốn mới, lực lƣợng lao động mới và cách thức quản trị mới.

+ CPH để giải quyết vấn đề nợ xấu tại các DNNN. Nói cách khác, cổ

phần hóa cũng là một giải pháp hữu hiệu để Nhà nƣớc thoái vốn tại các

doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, đồng thời tạo sự minh bạch và lành

mạnh về tài chính trong các doanh nghiệp đó.

Nói tóm lại, CPH DNNN là nhằm hƣớng tới nhiều mục tiêu, trong đó 3

mục tiêu cơ bản nhất là: (1) Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức

cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại doanh nghiệp có nhiều chủ sở

hữu, trong đó có đông đảo ngƣời lao động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ

chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản

của Nhà nƣớc và của doanh nghiệp; (2) Đa dạng hóa các chủ thể sở hữu nhằm

118

huy động nguồn vốn của toàn xã hội để phát triển sản xuất kinh doanh, bao

gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nƣớc và ngoài nƣớc

để đầu tƣ đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp; và (3) Phát huy vai

trò làm chủ thực sự của ngƣời lao động, của cổ đông; tăng cƣờng sự giám

sát của nhà đầu tƣ đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà

nƣớc, doanh nghiệp, nhà đầu tƣ và ngƣời lao động.

Thêm nữa, trong bối cảnh mới, việc xử lý các vấn đề kinh tế- xã hội nảy

sinh cần phải dựa trên cơ sở coi cổ phần hóa DNNN nhƣ một bộ phận thiết

yếu của quá trình tái cấu trúc toàn bộ nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng

trƣởng, thúc đẩy sự phát triển toàn bộ nền kinh tế theo chiều sâu và hội nhập.

Để tiếp tục duy trì đƣơc tốc độ tăng trƣởng kinh tế nhanh, bền vững

trong bối cảnh nền kinh tế đất nƣớc ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế

thế giới và các xung lực do quá trình đổi mới trƣớc đây yếu dần, khả năng

tăng trƣởng theo chiều rộng, dựa trên việc mở rộng khai thác nhanh các yếu tố

đầu vào sẵn có ngày càng cạn kiệt, quá trình tái cấu trúc lại toàn bộ nền kinh

tế và đổi mới mô hình tăng trƣởng đang đƣợc đặt ra cấp bách. Một trong

những nội dung quan trọng của quá trình này chính là tái cấu trúc lại khu vực

DNNN, định vị lại vai trò và chức năng của khu vực này nhằm làm cho nó trở

nên hiệu quả hơn cũng nhƣ góp phần thực sự vào sự gia tăng hiệu quả của nền

kinh tế. Cổ phần hóa DNNN nhằm biến một bộ phận DNNN hoạt động thiếu

hiệu quả mà nhà nƣớc không cần nắm giữ thành những thực thế kinh tế mới,

giàu sức sống, có động lực tự thân trong việc theo đuổi việc sử dụng các

nguồn lực và tài sản doanh nghiệp một cách có hiệu quả rõ ràng là một khâu

quan trọng của chƣơng trình tái cấu trúc tổng thể này. Quan điểm nhƣ vậy cần

đƣợc quán triệt để tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội, ngăn ngừa các xung

đột nảy sinh cũng nhƣ tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý các vấn đề kinh

tế - xã hội vấp phải trong tiến trình CPH.

119

Hạn chế lớn nhất của các DNNN là thƣờng hoạt động kém hiệu quả hơn

nhiều so với các loại hình doanh nghiệp khác, mà nguyên nhân chính là do

tính chất sở hữu của nó. Tính chất sở hữu công, sở hữu chung của toàn xã hội

khiến cho các tài sản của DNNN dễ rơi vào nguy cơ hoặc là trở thành những

tài sản vô chủ (không của ai cả), hoặc là trở thành tài sản của một ai đó (biến

tài sản chung thành tài sản riêng). Cả hai trƣờng hợp này đều làm giảm hiệu

quả hoạt động của doanh nghiệp, biểu hiện trƣớc hết ở hiệu quả sử dụng vốn

nhà nƣớc trong các DNNN rất thấp. Trên thực tế, để tạo ra 1 đồng doanh thu,

các doanh nghiệp tƣ nhân cần 8,2 đồng vốn (các nƣớc phát triển chỉ cần 6,7

đồng), nhƣng DNNN phải cần đến 15 đồng [97]. Để khắc phục điều này,

Chính phủ Việt Nam đã chủ trƣơng tiến hành cải cách DNNN vào những năm

đầu 1990, trong đó cổ phần hoá đƣợc xác định là một biện pháp hữu hiệu.

Cần nhận thức rằng, điều cần nhấn mạnh là mục tiêu khách quan của

quá trình cổ phần hóa các DNNN là cải thiện hiệu quả cả ở khu vực DNNN

lẫn trong cả nền kinh tế, thông qua việc đem lại cho các DN và nền kinh tế

một sức sống mới, một năng lực cạnh tranh mới, cao hơn. Nếu cổ phần hóa

mà không nâng cao đƣợc hiệu quả của DN sau CPH, vẫn làm các tài sản xã

hội bị sử dụng lãng phí, vẫn tạo điều kiện để các hiện tƣợng tham nhũng hay

tiêu cực cũ phát sinh thì tiến trình cổ phần hóa không đáng đƣợc thực hiện.

Mặc dù trong những hoàn cảnh cụ thể, ở các nƣớc khác nhau, ngƣời ta có thể

gán cho quá trình cổ phần hóa các DNNN các mục tiêu cụ thể khác nhau,

nhƣng thực chất của vấn đề, mục tiêu hiệu quả phải là mục tiêu ƣu tiên.

Không xác định rõ điều này, quá trình cổ phần hóa có thể không mang lại

hiệu quả mong muốn. Về nhận thức, điều này đã đƣợc đƣa ra từ năm 2001, tại

Kỳ họp thứ Ba của BCH Trung ƣơng Đảng khóa IX. Nghị quyết khẳng

định:“Mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là nhằm tạo ra loại

hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo ngƣời lao

động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nƣớc và huy động thêm

120

vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ

chế quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nƣớc, phát huy

vai trò làm chủ thực sự của ngƣời lao động, của cổ đông và tăng cƣờng

giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài hòa lợi ích của nhà

nƣớc, doanh nghiệp và ngƣời lao động” [36].

Nhƣ vậy, CPH DNNN còn có mục tiêu rất quan trọng là tạo điều kiện

để các doanh nghiệp sinh lợi. Chính vì sự nhầm lẫn về mục tiêu của doanh

nghiệp chỉ là vấn đề sở hữu nên nhiều ngƣời, kể các các nhà lãnh đạo, các nhà

quản lý không quan tâm đến mục tiêu sinh lợi. Khả năng sinh lợi của doanh

nghiệp gắn liền với việc mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm, tăng sản phẩm

hàng hóa cho thị trƣờng, tăng khoản nộp cho ngân sách. Tăng nguồn thu cho

ngân sách là cách duy nhất để Nhà nƣớc tăng phúc lợi cho ngƣời lao động.

Nếu nhấn mạnh tính sở hữu, không những mục tiêu về lợi nhuận không đạt

đƣợc mà mục tiêu về phúc lợi cho ngƣời lao động cũng vô nghĩa. Đây là bài

học đắt giá mà chúng ta đã phải trả trong mấy chục năm nền kinh tế vận động

theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung.

Việc thực hiện hình thức đa sở hữu đối với các doanh nghiệp trong quá

trình cổ phần hóa DNNN về thực chất là sự xóa bỏ tình trạng “ vô chủ” trong các

doanh nghiệp này. Tùy theo tính chất, đặc điểm của loại hình doanh nghiệp mà

nhà nƣớc có thể giữ cổ phần chi phối ở một số ít doanh nghiệp đặc biệt hoặc chỉ

tham gia cổ phần ở mức cần thiết. Điều quan trọng là phải xây dựng trên cơ sở

những tiền đề và các dự báo khả thi để từ đó có thể đƣa ra những giải pháp hữu

hiệu nhằm nâng cao sức cạnh tranh và kinh doanh thực sự có hiệu quả.

Việc thực hiện thoái vốn nhà nƣớc tại các DNNN cũng đồng nghĩa với

việc tăng cƣờng huy động các nhà đầu tƣ có tiềm lực về vốn và điều kiện kinh

doanh tham gia mua cổ phần, cùng với ngƣời lao động trong doanh nghiệp để

nâng cao trách nhiệm quản lý, tổ chức sản xuất, kinh doanh với trách nhiệm

sở hữu tài sản trong doanh nghiệp. Tại tỉnh Thanh Hóa, do đặc điểm các

121

doanh nghiệp hình thành từ cổ phần hóa DNNN trên địa bàn hầu hết có quy

mô nguồn vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp rất nhỏ, nên cần áp dụng hình thức

mở rộng quy mô sản xuất bằng cách phát hành thêm cổ phiếu.

4.1.2.3. Giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh trên cơ sở tăng

cường tính công khai, minh bạch và xác lập nguyên tắc hài hòa hóa lợi ích.

Trong nhiều trƣờng hợp, sự xung đột lợi ích gắn liền với quá trình CPH

DNNN bộc lộ ra thành vấn đề kinh tế - xã hội có khả năng cản trở và tác động

tiêu cực đến quá trình này là do phƣơng thức CPH thiếu công khai, minh

bạch. Chẳng hạn, khi đất đai, hay nhiều tài sản khác của DNNN đƣợc định giá

công khai, minh bạch, thông qua cơ chế đấu giá mang tính cạnh tranh, thu hút

đƣợc nhiều ngƣời tham gia, khi những thông tin có liên quan đến các tài sản

đƣợc công bố rộng rãi thì chắc chắn những tiêu cực và lạm dụng trong việc

định giá các tài sản trên ít có cơ hội phát sinh, tài sản nhà nƣớc vì vậy cũng ít

bị thất thoát hơn. Khi quá trình cổ phần hóa một DNNN nào đó chỉ diễn ra

một cách khép kín trong nội bộ những ngƣời lãnh đạo và tập thể lao động của

doanh nghiệp, thì khả năng giá trị doanh nghiệp bị đánh giá thấp thông qua

giá cổ phiếu doanh nghiệp bị găm lại ở mức thấp rất dễ xảy ra. Các nhà đầu tƣ

bên ngoài có khả năng trở thành cổ đông mới, có thể đem lại một sức sống

mới cho doanh nghiệp cả về tài năng lẫn nguồn lực tài chính bị ngăn cản. Vì

thế công khai, minh bạch phải trở thành nguyên tắc để ngăn ngừa và xử lý các

vấn đề kinh tế - xã hội gắn liền với quá trình CPH DNNN.

Nhƣ đã phân tích, sự xung đột lợi ích là không tránh khỏi trong quá

trình chuyển đổi hình thức và cấu trúc sở hữu từ DNNN sang thành CTCP. Để

ngăn cản và hạn chế sự chống đối phát sinh từ sự xung đột này, bên cạnh việc

tuyên truyền và công khai hóa, cần áp dụng nguyên tắc hài hóa hóa tối đa các

mối tƣơng tác lợi ích giữa các chủ thể kinh tế có liên quan. Trong một chừng

mực nhất định có thể sử dụng các hình thức đền bù thích hợp cho những

ngƣời bị thiệt hại, nhất là những ngƣời gặp khó khăn, ở vị thế yếu thế. Chẳng

hạn, những ngƣời lao động, bị “dôi dƣ” là những ngƣời nhƣ vậy. Trong

122

trƣờng hợp này, nhà nƣớc, vì lợi ích xã hội dài hạn phải có trách nhiệm “đền

bù” một cách thỏa đáng cho họ dƣới các hình thức khác nhau, tránh tình trạng

vì khó khăn ngân sách ngắn hạn, các cơ quan nhà nƣớc có xu hƣớng đùn đẩy

trách nhiệm cho các DN CPH. Những lãnh đạo DNNN cũ, có quá trình công

tác lâu dài và gắn bó với DN cũng có thể đƣợc xem xét đền bù. Tuy vậy, khi

sự thiệt hại của một số ngƣời làm việc trong DNNN cũ gắn liền với vị thế

“đặc quyền, đặc lợi” của họ thì về nguyên tắc nhà nƣớc và xã hội không cần

“đền bù”. Trong trƣờng hợp này nguyên tắc xử lý thích hợp là tuyên truyền,

công khai hóa.

4.1.2.4. Xem hoàn thiện và nâng cao chất lượng của các thể chể thị trường

nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi và lành mạnh cho mọi doanh

nghiệp như một phương thức hữu hiệu để xử lý các vấn đề kinh tế- xã hội nảy

sinh trong quá trình CPH DNNN

Nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình CPH DNNN trở

nên khó giải quyết là do sự yếu kém hay thiếu vắng các thể chế thị trƣờng

tƣơng ứng. Chẳng hạn, việc định giá tài sản hay xác định giá trị doanh nghiệp

trở nên khó khăn và dễ bị lạm dụng một phần là do các thị trƣờng liên quan

đến việc giao dịch, mua, bán các sản phẩm, dịch vụ cao cấp nhƣ thị trƣờng

chứng khoán, thị trƣờng mua, bán nợ, thị trƣờng các sản phẩm trí tuệ, thƣơng

hiệu hay các hàng hóa vô hình khác cũng nhƣ thị trƣờng đất đai còn chƣa ra

đời hoặc mới manh nha phát triển, còn kém hoàn thiện, vận hành chƣa lành

mạnh do sự thiếu vắng các quy định và chuẩn mực điều tiết thích hợp. Chính

vì vậy, việc tiếp tục phát triển và hoàn thiện các thị trƣờng này không chỉ là

cần thiết đối với việc tiếp tục thúc đẩy công cuộc phát triển nền kinh tế thị

trƣờng ở Việt Nam nói chung mà còn là phƣơng cách để ngăn ngừa và giải

quyết dài hạn nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình CPH

DNNN trong tƣơng lai.

123

Sự phân biệt đối xử giữa DNNN và các loại hình doanh nghiệp khác,

nhƣ đã phân tích không chỉ thúc đẩy tâm lý e ngại CPH mà còn làm méo mó

môi trƣờng kinh doanh, làm sai lạc các tín hiệu thị trƣờng, gây ra sự phân bổ

không hiệu quả các nguồn lực chung của xã hội. Tình trạng này chẳng những

không khuyến khích các DNNN tăng cƣờng năng lực cạnh tranh mà còn ngăn

cản sự phát triển lành mạnh của các DN thuộc loại hình khác, trong đó có các

DNCPH. Vì thế, việc tiếp tục cải thiện môi trƣờng kinh doanh nói chung

nhằm tạo ra sân chơi bình đẳng cho mọi doanh nghiệp là cần thiết cả với việc

xử lý các vấn đề nảy sinh trong tiến trình CPH. Nó cần đƣợc thực hiện theo

hƣớng: tạo thuận lợi một cách bình đẳng cho mọi doanh nghiêp trong việc gia

nhập thị trƣờng, tiếp cận các nguồn lực nhƣ đất đai, tín dụng, tiếp cận thông

tin và các dịch vụ công; giảm thiểu các chi phí phi chính thức trong quan hệ

với các cơ quan công quyền; tăng cƣờng tính cạnh tranh thị trƣờng, trên cơ sở

hạn chế tối đa các rào cản gia nhập thị trƣờng cũng nhƣ xóa bỏ vị thế độc

quyền “nhân tạo” của một số doanh nghiệp (nhƣ một số tập đoàn kinh tế hiện

nay chẳng hạn)

4.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế và giải quyết các vấn đề kinh tế- xã

hội nảy sinh trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở

Thanh Hóa những năm tới

4.2.1. Đổi mới phương pháp định giá đi đôi với nâng cao kỹ năng và đạo đức

nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ định giá tài sản doanh nghiệp

4.2.1.1. Đối mới phương pháp định giá doanh nghiệp

Định giá doanh nghiệp (xác định giá trị doanh nghiệp) trong cổ phần

hóa là công việc hết sức quan trọng và có tác động quyết định đến sự thành

công khi chuyển DNNN sang công ty cổ phần. Thực chất của quá trình CPH

doanh nghiệp nhà nƣớc là quá trình chuyển giao sở hữu. Do vậy, nó đòi hỏi

giá trị vốn nhà nƣớc hiện có tại doanh nghiệp phải đƣợc định giá chính xác

124

chống thất thoát, tham nhũng tài sản nhà nƣớc trong các doanh nghiệp nhà

nƣớc, thu hút đƣợc các nguồn vốn xã hội đầu tƣ vào doanh nghiệp.

Hiện nay, tại tỉnh Thanh Hóa đang thực hiện định giá doanh nghiệp

theo 2 phƣơng pháp xác định giá trị doanh nghiệp mà Nhà nƣớc qui định, là

phƣơng pháp tài sản và phƣơng pháp dòng tiền chiết khấu. Việc xác định giá

trị doanh nghiệp theo các phƣơng pháp này, trên thực tế đã tỏ ra kém hiệu quả

do còn mang nặng tính chủ quan, dẫn đến kết quả thiếu chính xác, chƣa phản

ánh đúng giá trị thực của doanh nghiệp. Trong nhiều trƣờng hợp, việc định

giá tài sản doanh nghiệp không đúng đã dẫn đến tình trạng mâu thuẫn lợi ích

giữa Nhà nƣớc và nhà đầu tƣ. Nếu định giá doanh nghiệp thấp hơn giá trị thực

thì Nhà nƣớc bị thiệt (bị mất tài sản) và ngƣời mua cổ phần đƣợc lợi; còn định

giá cao hơn giá trị thực của doanh nghiệp thì sẽ dẫn đến tình trạng ngƣợc lại,

tức là Nhà nƣớc đƣợc lợi và ngƣời mua cổ phần bị thiệt. Trong cả hai trƣờng

hợp đều làm cho quá trình CPH khó khăn hơn, vì chừng nào chƣa giải quyết

đƣợc sự hải hòa về các lợi ích, thì chừng đó vẫn sẽ không thu hút đƣợc sự

quan tâm của các nhà đầu tƣ, nhất là những nhà đầu tƣ tiềm năng. Thêm nữa,

việc định giá doanh nghiệp thấp còn dẫn đến sự chênh lệch lớn giữa giá trị cổ

phiểu chuyển nhƣợng tại doanh nghiệp sau CPH với giá trị cổ phiếu ban đầu,

làm nảy sinh hiện tƣợng tiêu cực nhƣ mua bán cổ phần trao tay, hay bán cả cổ

phiếu ƣu đãi nhƣ: CTCP 25 A, CTCP Thƣơng Mại Hoằng Hóa...

Việc định giá tài sản DNNN không chính xác đƣợc bộc lộ rõ nhất trên thị

trƣờng chứng khoán. Cụ thể, đã có một số doanh nghiệp tuy tiềm lực kinh tế

không phải thuộc loại mạnh, nhƣng trên thị trƣờng chứng khoán, chỉ số cổ phiếu

của doanh nghiệp vẫn tăng rất cao, nhờ không tính giá trị quyền sử dụng đất vào

giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa (chỉ tính giá trị thuê đất hàng năm theo hợp

đồng lâu dài đã ký từ trƣớc). Trong khi đó, giá trị sử dụng đất có thể trở thành

giá trị siêu lợi nhuận trong kinh doanh vốn của doanh nghiệp đã CPH. Việc

không tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi CPH đồng

125

nghĩa với việc Nhà nƣớc đã mất đi quyền đƣợc nhận phần “địa tô chênh lệch”

phát sinh từ quyền sử dụng đất; còn những nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp

sau CPH đƣơng nhiên sẽ thu đƣợc phần ”địa tô” ấy.

Định giá doanh nghiệp trƣớc khi CPH đúng sẽ cho phép tránh đƣợc

những thất thoát, vƣớng mắc phát sinh trong các doanh nghiệp hậu CPH. Tuy

nhiên, việc định giá doanh nghiệp là việc làm khó. Việc đƣa giá trị quyền sử

dụng đất vào tài sản doanh nghiệp trƣớc khi CPH nhƣ trên chỉ là một ví dụ cụ

thể. Định giá doanh nghiệp còn thƣờng gặp phải những khó khăn khác nữa, nhƣ

định giá công nghệ, nhất là công nghệ đã qua sử dụng; định giá thƣơng hiệu và

lợi thế kinh doanh- những tài sản vô hình có giá trị lớn nhƣng lại rất khó xác

định giá cả,.v.v... Nhƣng dù khó thế nào cũng phải cố gắng tính toán đầy đủ tài

sản của DNNN vào trong giá trị doanh nghiệp trƣớc khi CPH. Tuyệt đối không

nên loại bỏ bất cứ bộ phận tài sản nào ra khỏi giá trị doanh nghiệp CPH,

Để định giá doanh nghiệp khách quan và chính xác, một mặt, tỉnh phải

xuất phát từ trên cơ sở những qui định của Nhà nƣớc, nhƣng mặt khác, phải

cứ vào điều kiện thực tiễn quá trình CPH các doanh nghiệp nhà nƣớc trên địa

bàn, có tính đến kinh nghiệm trong và ngoài nƣớc, để áp dụng thêm các hình

thức định giá khác hiệu quả hơn. Cụ thể:.

+ Để tạo đƣợc sự khách quan hơn trong việc tính giá trị doanh nghiệp,

tỉnh cần sử dụng nhiều phƣơng pháp khác nhau, trong đó phải đề cao phƣơng

pháp đấu giá công khai thay cho việc định giá bằng các hội đồng tƣơng đối

khép kín; đồng thời nên trao thêm quyền cho các địa phƣơng trong việc chọn

các phƣơng thức bán cổ phần nhƣ: đấu giá, thỏa thuận hoặc bảo lãnh phát

hành. Cần thành lập và sử dụng các Hội đồng độc lập để đánh giá hay thẩm

định giá các loại tài sản của doanh nghiệp làm cơ sở cho việc xác định giá

khởi điểm ban đầu để đƣa ra đấu giá thay vì sử dụng các cơ quan quản lý nhà

nƣớc. Chuyển giao thẩm quyền xác định giá khởi điểm này (hiện do ngƣời

đứng đầu cơ quan hành chính tỉnh đảm nhận) cho các Hội đồng độc lập trên.

126

Cần thấy rằng, chỉ có thông qua cơ chế thị trƣờng để xác định giá trị doanh

nghiệp, và để cho thị trƣờng điều tiết thì mới phản ảnh đƣợc giá trị thực của

doanh nghiệp. Làm nhƣ vậy, không chỉ tránh đƣợc thất thoát vốn nhà nƣớc,

mà còn làm cho cổ đông dễ chấp nhận hơn. Trong trƣờng hợp thị trƣờng còn

chƣa hoàn thiện, chƣa phát triển đầy đủ, việc sử dụng các tổ chức hay chuyên

gia tƣ vấn độc lập, có chuyên môn phù hợp thay cho các tổ chức và cá nhân

có động cơ và lợi ích gắn liền với việc chuyển đổi quyền sở hữu của các tài

sản công hoặc không có chuyên môn thích hợp sẽ đảm bảo cho quá trình định

giá trở nên khách quan hơn, ít có khả năng bị lạm dụng hơn.

+ Đổi mới phƣơng pháp xác định giá trị doanh nghiệp trên cơ sở mở

rộng và đề cao các biện pháp kinh tế và hạn chế và thu hẹp các biện pháp

hành chính. Ngoài việc phải tính đúng, tính đủ giá trị các loại tài sản của

doanh nghiệp thì cần phải đƣợc đƣa vào giá trị doanh nghiệp khi CPH các giá

trị của tài sản vô hình nhƣ: giá trị quyền sử dụng đất, giá trị thƣơng hiệu, lợi

thế kinh doanh, năng lực quản lý, trình độ tay nghề của ngƣời lao động.

Tỉnh cần chú ý phải gắn việc đổi mới cách thức xác định giá trị DN với

phƣơng thức bán cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hóa; gắn quá trình cổ

phần hóa với niêm yết cổ phần trên thị trƣờng chứng khoán. Có chính sách đúng

đắn đối với ngƣời lao động để họ yên tâm tham gia vào quá trình cổ phần hóa.

Đồng thời phải có kế hoạch thu hút các chuyên gia giỏi vào việc đánh giá tài sản,

nhằm xác định đúng giá trị thực tế của các tài sản. Đề cao vai trò của đại diện

doanh nghiệp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp theo nguyên tắc thị trƣờng,

để ngƣời bán (Nhà nƣớc) và ngƣời mua (đại diện cổ đông) thƣơng lƣợng với nhau

về tài sản và giá cả. Nhà nƣớc nên chuyển từ Hội đồng xác định giá trị doanh

nghiệp có tính chất áp đặt sang đấu giá tài sản của doanh nghiệp.

4.2.1.2. Nâng cao năng lực và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ

cán bộ định giá

Cổ phần hóa DNNN thực chất là việc bán vốn của nhà nƣớc tại doanh

nghiệp ra thị trƣờng, vì vậy việc định giá doanh nghiệp thế nào cho đúng có

127

vai trò cực kỳ quan trọng. Rõ ràng, khi Nhà nƣớc tổ chức bán vốn của mình

thì điều quan tâm hàng đầu là bán cho ai và bán bao nhiêu, tức là phải bán

“đƣợc giá” để bảo toàn vốn Nhà nƣớc. Nếu định giá cao thì khó bán mà định

giá thấp thì Nhà nƣớc mất vốn.

Cái khó của việc định giá doanh nghiệp không chỉ do yếu tố khách quan

nhƣ trình độ, kỹ năng của ngƣời định giá; mà còn có cả yếu tố chủ quan nhƣ đạo

đức phẩm chất của đội ngũ cán bộ định giá kém, chỉ nhằm vào mƣu lợi cho bản

thân. Thậm chí, đã có tình trạng cán bộ định giá thấp giá trị doanh nghiệp để rồi

sau đó mua lại những tài sản ấy đem bán ra ngoài, thu chênh lệch.

Thực tế đó đang đặt ra yêu cầu cho tỉnh Thanh Hóa là phải nâng cao kỹ

năng và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ định giá doanh nghiệp khi

CPH. Việc nâng cao năng lực thẩm định giá và đánh giá giá trị tài sản của

doanh nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xử lý những vấn đề

phức tạp đặt ra trong quá trình này. Hiện nay, đội ngũ cán bộ làm công tác

định giá doanh nghiệp tại tỉnh Thanh Hóa phần lớn chƣa đƣợc qua các lớp đào

tạo chuyên sâu nên việc xử lý các tình huống trong khi định giá còn nhiều

lúng túng. Giải pháp cơ bản nhất cho vấn đề này là phải hình thành đƣợc một

đội ngũ thẩm định viên chuyên nghiệp, nòng cốt đƣợc đào tạo chính qui về

định giá tài sản, đặc biệt là định giá bất động sản và thƣơng hiệu.

Để công tác định giá tốt, bên cạnh đội ngũ cán bộ chuyên trách, tỉnh

cũng cần xây dựng đội ngũ trợ lý cho thẩm định viên về giá. Đây là những

ngƣời tuy chƣa phải là thẩm định viên (chƣa đƣợc cấp thẻ), nhƣng có vai trò

trợ giúp quan trọng cho thẩm định viên trong việc thu thập số liệu và những

công việc khởi đầu, hay hỗ trợ cho báo cáo thẩm định. Những ngƣời này đƣợc

coi nhƣ là “đội quân dự bị” cho đội ngũ cán bộ thẩm định viên lành nghề

(đƣợc cấp thẻ) trong tƣơng lai.

128

4.2.2. Minh bạch hóa vấn đề tài chính và quyền sở hữu của Nhà nước trong

doanh nghiệp sau CPH

4.2.2.1. Minh bạch về quyền sở hữu của Nhà nước

Vai trò của công ty cổ phần đã đƣợc thực tiễn thế giới chứng minh,

nhƣng tại Việt Nam, nhiều công ty cổ phần đƣợc chuyển đổi từ doanh nghiệp

nhà nƣớc lại hoạt động khó khăn và kém hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân lý

giải cho tình trạng này, trong đó nguyên nhân về sự thiếu minh bạch về quyền

sở hữu của Nhà nƣớc trong doanh nghiệp CPH là nguyên nhân cơ bản. Cụ thể

là, cũng nhƣ cả nƣớc, tại tỉnh Thanh Hóa hiện nay vẫn còn sự nhập nhằng

nƣớc đôi giữa DNNN và CTCP có sự tham gia của Nhà nƣớc.

Chúng ta biết rằng, mục tiêu của cổ phần hoá không chỉ là quá trình

bán cổ phần của các DNNN ra ngoài, mà điều quan trọng hơn là ai sau CPH

ai sẽ nắm quyền chi phối. Nếu CPH xong mà Nhà nƣớc vẫn nắm quyền sở

hữu chi phối thì về cơ bản vẫn những con ngƣời ấy, đội ngũ quản lý ấy,

phƣơng thức quản trị ấy, và cả chiến lƣợc kinh doanh ấy nữa..., thì CTCP này

vẫn không có gì khác so với DNNN trƣớc CPH. Nhƣ vậy thì, việc bán cổ

phần ra ngoài ấy mới chỉ đạt mục tiêu thoái một phần vốn Nhà nƣớc tại các

DNNN, theo đó làm giảm tỷ trọng sở hữu vốn Nhà nƣớc trong các doanh

nghiệp này, chứ chƣa tạo đƣợc sự thay đổi về chất trong hoạt động quản trị

doanh nghiệp, trong khi đây lại là điều vô cùng quan trọng đối với việc nâng

cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trƣờng. Nói

khác đi, cổ phần hóa các DNNN là phải hƣớng tới mục tiêu làm cho bản thân

các DN ấy sau khi đƣợc cổ phần hoá sẽ trở thành một thực thể kinh tế lành

mạnh, có năng lực cạnh tranh cao trên thị trƣờng. Muốn đƣợc nhƣ vậy thì

phải hạn chế đến mức tối đa tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần của Nhà nƣớc (chẳng

hạn nhà nƣớc không có cơ sở gì để phải nắm giữ tỷ lệ vốn cổ phần trên 50%

nhƣ ở các CTCP đầu tƣ nông nghiệp Yên Định, CTCP giống và phát triển gia

cầm Thanh Hóa, CTCP quản lý xây dựng đồng bộ 1 và 2 Thanh Hóa nhƣ hiện

129

nay); mở rộng sự tham gia của các cổ đông bên ngoài, nhất là những cổ đông

lớn, có tiềm lực về công nghệ và tài chính. Thực tiễn cho thấy, các nhà đầu tƣ

cá nhân trong nƣớc là nguồn lực quan trọng, nếu không muốn nói là nguồn

lực chủ yếu, có tác động tích cực đến quá trình cổ phần hóa DNNN. Điều này

là không riêng gì tại Việt Nam, mà ngay cả tại các nƣớc thuộc Tổ chức kinh tế

hợp tác và phát triển (OECD), nhƣ Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Đức

hay Pháp đều rất chú trọng các nhà đầu tƣ này. Họ đã đƣa ra các hình thức

khuyến khích nhƣ: giảm giá cổ phiếu, thanh toán từng phần, thậm chí còn hỗ

trợ chống trƣợt giá cổ phiếu lên đến 10% trong năm đầu tiên (một số công ty

cổ phần hóa ở Tây Ban Nha)..., nhằm tạo nhu cầu mạnh mẽ trong việc mua

bán và giữ cổ phiếu của các đối tƣợng đó. Thiết nghĩ, những kinh nghiệm đó

của các nƣớc rất đáng để Việt Nam nói chung, tỉnh Thanh Hóa nói riêng

nghiên cứu và áp dụng.

Từ sự phân tích trên cho thấy, việc minh bạch hóa về sở hữu trong

DNNN sau CPH đã có tác động rất lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh

của doanh nghiệp. Thực tiễn tại tỉnh Thanh Hóa, nhƣ đã trình bày ở chƣơng 3,

cũng đã minh chứng cho điều đó. Trong số các DNNN đã CPH, doanh nghiệp

nào có tỷ lệ vốn sở hữu Nhà nƣớc càng thấp thì hiệu quả kinh doanh càng cao;

và ngƣợc lại. Đó là vì, một khi không còn vốn Nhà nƣớc trong doanh nghiệp,

hoặc Nhà nƣớc không còn nắm giữ cổ phần chi phối nữa thì DNNN CPH

mới có đƣợc sự thay đổi về chất, do: (i) công ty đƣợc tự chủ hơn nên việc ra

quyết định sẽ nhanh chóng và mục tiêu lợi nhuận đƣợc đặt ra rõ ràng, vì vậy

hoạt động của doanh nghiệp sẽ hiệu quả hơn; (ii) mô hình tổ chức doanh

nghiệp và cung cách quản lý trong doanh nghiệp đó cũng có sự đổi khác theo

hƣớng năng động hơn, phù hợp với cơ chế thị trƣờng hơn so với cách thức

quản lý kém hiệu quả mà các DNNN trƣớc khi CPH vẫn làm; và (iii) do có sự

tách bạch giữa chức năng quản lý Nhà nƣớc và vai trò đại diện chủ sở hữu của

Nhà nƣớc; đồng thời quyền hạn, trách nhiệm của hội đồng quản trị và tổng

130

giám đốc trong các DNNN CPH đối với vốn và tài sản nhà nƣớc tại doanh

nghiệp cũng đƣợc phân định rõ ràng. Việc tách bạch hai yếu tố sở hữu và

quản trị sẽ cho phép doanh nghiệp có thể vừa bảo đảm quyền chủ động sản

xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; vừa bảo toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng

vốn và tài sản nhà nƣớc.

Với ý nghĩa trên, việc giảm thiểu tỷ lệ cổ phần của Nhà nƣớc trong các

DNNN sau CPH là hết sức cần thiết. Để đƣợc nhƣ vậy, tỉnh cần đẩy mạnh

thoái vốn nhà nƣớc trong các CTCP mà nhà nƣớc không cần nắm giữ. Nhƣ đã

đề cập ở trên, đối với các DNNN sau CPH nếu Nhà nƣớc vẫn chiếm cổ phần

chi phối họăc là cổ đông lớn nhất thì theo các quy định hiện hành, chủ tịch

HĐQT, giám đốc và ngƣời đại diện phần vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp vẫn

do nhà nƣớc bổ nhiệm, thậm chí phần lớn lao động trong công ty vẫn là

những ngƣời lao động tại doanh nghiệp trƣớc đây. Có nghĩa là, dù đã CPH

nhƣng thực chất các doanh nghiệp đó vẫn là DNNN. Điều này hạn chế rất lớn

đến tính tự chủ của CTCP nên thƣờng hiệu quả SXKD ở các doanh nghiệp

loại này thấp. Vì vậy để nâng cao hiệu quả kinh doanh của DNNN sau CPH

Nhà nƣớc cần đẩy nhanh việc thoái phần vốn còn lại ở đại đa số các DN mà

nhà nƣớc không cần nắm giữ. Làm nhƣ vậy, một mặt tỉnh sẽ có thêm nguồn

vốn để đầu tƣ vào các công trình, ngành nghề trọng điểm khác; mặt khác, sẽ

tăng tính tự chủ cho doanh nghiệp, tạo sự thay đổi thực sự trong các CTCP.

Bên cạnh việc xác định tỷ lệ sở hữu và trách nhiệm của chủ sở hữu Nhà

nƣớc, tỉnh còn phải xác định rõ quyền hạn trách nhiệm của các chủ sở hữu vốn

khác và của pháp nhân doanh nghiệp. Cần nhấn mạnh rằng, DN là pháp nhân,

có tài sản độc lập với chủ sở hữu vốn và các tổ chức khác; chịu trách nhiệm về

các khoản nợ, nghĩa vụ tài sản khác bằng tài sản của mình. Các chủ sở hữu vốn

khác có quyền đƣợc hƣởng lợi ích từ việc đầu tƣ vốn và chịu trách nhiệm về

nợ, nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn đầu tƣ vào DN. Còn

chủ sở hữu vốn Nhà nƣớc đầu tƣ vào DN có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm,

131

quyết định lƣơng, thƣởng đối với ngƣời đƣợc ủy quyền thực hiện chức năng

đại diện chủ sở hữu; quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau thuế của công ty do

Nhà nƣớc đầu tƣ vốn trực tiếp; nhƣng không có quyền can thiệp trực tiếp vào

hoạt động kinh doanh của công ty, nhằm đảm bảo cho DN hoạt động theo

nguyên tắc thị trƣờng.

4.2.2.2. Minh bạch tài chính.

Minh bạch, đặc biệt là minh bạch về tài chính là yêu cầu đầu tiên và

cũng là phƣơng thức hữu hiệu nhất để triển khai có hiệu quả quá trình CPH

DNNN. Thực tiễn tiến trình CPH DNNN tại tỉnh đã cho thấy, việc thiếu minh

bạch trong quá trình CPH là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng

hoạt động thiếu phƣơng hƣớng và kém hiệu quả của các CTCP sau khi CPH

xong. Để minh bạch hóa vấn đề tài chính của DNNN trƣớc và sau CPH, tỉnh

Thanh Hóa cần tập trung giải quyết một số vấn đề cụ thể sau:

Thứ nhất, cần khắc phục sự thiếu minh bạch trong định giá doanh

nghiệp. Việc đánh giá tài sản doanh nghiệp quá thấp so với giá trị thực của nó và

thiếu sự công khai, minh bạch đã tạo cơ hội cho một số nhóm lợi ích “lách luật”

để thâu tóm tài sản nhà nƣớc. Chúng ta phải hiểu rằng, CPH là bán một phần tài

sản của Nhà nƣớc (toàn dân), cho nên toàn dân phải có quyền đƣợc “biết” và

đƣợc “bàn” về vấn đề này. Điều đó có nghĩa là, tỉnh phải công khai các thông tin

về DNNN nào sẽ CPH, và tài sản của mỗi doanh nghiệp đó là bao nhiêu, hoạt

động kinh doanh của doanh thế nào, thậm chí phải công bố cả những thông tin

về cơ cấu sở hữu và quản trị vốn, tài sản ở doanh nghiệp hiện tại và hƣớng xử lý

khi cổ phần hóa. Một điều ngƣời mua cổ phần đặc biệt quan tâm nữa là tình hình

tài chính của doanh nghiệp CPH. Họ muốn biết và có quyền đƣợc biết tình hình

tài chính của doanh nghiệp họ định đầu tƣ có lành mạnh hay không; doanh

nghiệp có nợ nhiều không, và số nợ đó sẽ đƣợc giải quyết nhƣ thế nào, có khả

năng tháo gỡ không. Nếu những thông tin đó đƣợc công khai rõ ràng thì họ sẽ

yên tâm hơn khi đƣa ra quyết định mua cổ phần của doanh nghiệp. Vì vậy, tỉnh

132

cần phải cung cấp những thông tin tối thiểu trên khi thực hiện CPH DNNN. Có

nhƣ vậy, trong quá trình CPH DNNN sẽ ít nẩy sinh những vấn đề kinh tế-xã hội

có tác động tiêu cực, gây phức tạp cho quá trình này.

Thứ hai, minh bạch hóa các khoản nợ của DNNN trước CPH và xử

lý một cách hiệu quả. Sự thiếu minh bạch trong xử lý nợ của DNNN trƣớc

khi CPH cũng là lực cản lớn đối với hoạt động của các công ty này. Trên thực

tế, khi chuyển đổi doanh nghiệp do không xác định rõ trách nhiệm trả nợ

thuộc về ai sau khi CPH nên nhiều doanh nghiệp vẫn tồn đọng những món nợ,

thậm chí là khá lớn. Nguyên nhân là do những quy định về kế thừa trách

nhiệm tài chính giữa DNNN trƣớc CPH và công ty cổ phần (DNNN sau CPH)

vẫn còn nhập nhằng, thiếu rõ ràng, minh bạch. Giải pháp cho vấn đề này là

phải tìm đúng nguyên nhân của các khoản nợ để cơ cấu lại nợ trong nội bộ

doanh nghiệp. Những khoản nợ do nguyên nhân từ phía doanh nghiệp thì nhất

định phải xử lý bằng bồi thƣờng vật chất, hoặc đƣa các khoản nợ phải thu này

vào kết quả hoạt động kinh doanh (nếu không thể quy đƣợc trách nhiệm cá

nhân). Còn với những khoản nợ do nguyên nhân khách quan thì số nợ đó phải

qui về trách nhiệm của chủ sở hữu vốn Nhà nƣớc tại doanh nghiệp, vì vậy nó

phải đƣợc xử lý bằng các biện pháp phù hợp tƣơng ứng với từng khoản nợ.

Cụ thể, nếu là nợ vay ngân hàng thì sẽ đƣợc trả bằng nguồn tiền thu đƣợc do

chuyển đổi sở hữu để trả nợ; nếu là khoản nợ bảo hiểm xã hội do doanh

nghiệp mất khả năng thanh toán (chứ không phải do doanh nghiệp trốn

BHXH) thì đƣợc trả bằng nguồn tiền thu đƣợc từ chuyển đổi sở hữu sau khi

trả nợ vay; còn nếu là khoản nợ nƣớc ngoài mà doanh nghiệp vay vốn có bảo

lãnh thì tổ chức bảo lãnh chủ động đàm phán với chủ nợ nƣớc ngoài để xin

giảm nợ và có kế hoạch cùng với doanh nghiệp tìm nguồn vốn trả nợ nƣớc

ngoài. Riêng khoản nợ với đối tác là các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh

(nếu có) thì cách tốt nhất là chuyển thành giá trị cổ phần để chủ nợ trở thành

cổ đông của công ty.

133

Việc thành lập công ty mua bán nợ là giải pháp tốt nhất để xử lý các

khoản nợ đọng của các DNNN CPH, bởi các công ty mua bán nợ sẽ là nhân tố

thúc đẩy sự phát triển của các thị trƣờng thƣơng phiếu và các nghiệp vụ chiết

khấu thƣơng phiếu trong nền kinh tế thị trƣờng. Nhƣng việc thành lập công ty

này tại một địa phƣơng cấp tỉnh là rất khó, do hình thức kinh doanh này khá

mới mẻ; và mặt khác, do các khoản nợ chính thức đƣợc mua bán tại địa bàn

một tỉnh không nhiều, trong đó hầu hết các khoản nợ đọng có nhu cầu cần bán

lại là nợ “xấu”. Vì vậy, tỉnh cần phối hợp chặt chẽ với các Công ty mua bán

nợ của Bộ/Ngành để thị trƣờng hoá các khoản nợ. Ngoài ra, các DNNN CPH

tại tỉnh cần tăng cƣờng phát hành cổ phiếu và niêm yết trên thị trƣờng chứng

khoán nhằm chứng khoán hóa tất cả các tài sản của DNCPH.

Thứ ba, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước tại các DNNN CPH.

Việc bào toàn và phát triển vốn nhà nƣớc trong CTCP là một nhân tố đảm bảo

quyền lợi của ngƣời lao động trong công ty, đồng thời cũng bảo đảm sự hợp

lý về cơ cấu tiền lƣơng và tiền thƣởng. Quy định phân phối lợi nhuận sau thuế

của DN CPH và chi trả cổ tức theo đúng nguyên tắc hạch toán kinh doanh, bù

đắp các khoản lỗ không đƣợc trừ vào lợi nhuận trƣớc thuế, nộp tiền thu sử

dụng vốn ngân sách nhà nƣớc, trích lập các quỹ đầu tƣ phát triển, quỹ dự phòng

tài chính, quỹ dự phòng mất việc làm, quỹ phúc lợi khen thƣởng. Bên cạnh đó,

cần có những quy định cụ thể về việc sử dụng các quỹ trong DNCPH.

Riêng đối với Quỹ dự phòng tài chính, cần cho phép công ty đƣợc trích 20%

và khi số dƣ quỹ đƣợc 50% vốn Điều lệ thì không trích nữa (thay vì trích 10%

và đến 25% thì không trích nữa nhƣ hiện nay). Đây là quỹ để bù đắp các phần

tổn thất xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã bồi thƣờng bởi các tổ chức,

cá nhân gây ra tổn thất và của tổ chức bảo hiểm..., nên tăng tỷ lệ trích nhƣ trên sẽ

hợp lý hơn.

Chính sách phân phối lợi nhuận và chi trả cổ tức của các CTCP phải

đƣợc hạch toán rõ ràng, phải đặt yêu cầu lấy thu bù chi và có lãi. CTCP phải tính

134

đúng, tính đủ chi phí sản xuất nhằm xác định chính xác kết quả hoạt động sản

xuất, kinh doanh, tránh hiện tƣợng “lãi giả, lõ thật”, phân phối lợi nhuận và chi

trả cổ tức phải đƣợc trích từ lợi nhuận, tránh tình trạng “ăn mòn vào vốn”.

Thứ tư, phải minh bạch trong phân phối lợi nhuận sau thuế và chi trả

cổ tức. Đây là cơ sở để bảo đảm hài hoà quyền lợi của các đối tƣợng liên quan

đến CTCP. Phân phối lợi nhuận và chi trả cổ tức là một vấn đề nhạy cảm vì nó

liên quan đến nhiều đối tƣợng, nhiều vấn đề, cổ đông và ngƣời lao động cũng

muốn đƣợc hƣởng nhiều, công ty cũng muốn có nhiều lợi nhuận để mở rộng nhu

cầu vốn… phƣơng thức chi trả cổ tức cũng rất phức tạp, có cổ đông cần cổ tức

tiền mặt để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, có ngƣời muốn nhận cổ tức cổ phiếu để

có nhiều lợi nhuận hơn trong tƣơng lai, có công ty muốn trả cổ tức bằng tiền

mặt, có công ty muốn thanh toán bằng cổ phiếu để tăng vốn… Nói chung là việc

phân phối lợi nhuận sau thuế và chi trả cổ tức trong CTCP đòi hỏi phải đƣợc tính

toán khoa học, hợp lý thoả mãn tất cả các yêu cầu của các đối tƣợng trong thời

kỳ đó nhằm tránh những xáo động bất lợi cho chính công ty.

4.2.3. Phân định rõ và tách bạch chức năng quản lý Nhà nước với chức

năng chủ sở hữu Nhà nước tại các CTCP

Hiện nay, tình trạng “lấn sân” của Nhà nƣớc đối với doanh nghiệp đang

tồn tại khá phổ biến. Cụ thể là Nhà nƣớc vẫn đang can thiệp quá sâu vào các

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, thậm chí đôi khi còn quyết định điều

đó. Nguyên nhân là do Nhà nƣớc chƣa phân định rõ đâu là chức năng của Nhà

nƣớc với tƣ cách là ngƣời quản lý vĩ mô và với tƣ cách là chủ thể sở hữu

trong doanh nghiệp CPH. Điều này trái với nguyên tắc của CTCP, là quyền

lợi và trách nhiệm của cổ đông tƣơng ứng với phần vốn góp của họ vào công

ty. Theo đó, Nhà nƣớc với tƣ cách là ngƣời góp vốn vào công ty, thì chỉ có

quyền hữu hạn tùy thuộc vào phần vốn của Nhà nƣớc trong CTCP, chứ không

có toàn quyền nhƣ là cấp trên đối với CTCP. Nói cách khác, Nhà nƣớc không

135

thể can thiệp quá quyền hạn của mình, lại càng không đƣợc áp đặt đối với

hoạt động kinh doanh của công ty.

Mặc dù Chính phủ đã ban hành cơ chế phân công, phân cấp việc thực

hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nƣớc đối với doanh

nghiệp nhà nƣớc và vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp (Nghị định số

99/2012/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2012); trong đó quy định rõ hơn

quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan trong việc thực hiện quản lý

của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nƣớc song trên thực tế việc lạm

quyền của cơ quan Nhà nƣớc vẫn còn phổ biến tại các DNNN sau CPH. Vì

vậy, cần thực hiện triệt để hơn việc tách chức năng quản lý nhà nƣớc với chức

năng thực hiện các quyền chủ sở hữu; tách bạch việc thực hiện quyền chủ sở

hữu đối với quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp...

Để làm đƣợc nhƣ vậy, trƣớc hết cần phân định rõ vai trò của Nhà nƣớc

với tƣ cách là ngƣời quản lý giám sát và vai trò của Nhà nƣớc với tƣ cách là

ngƣời đại diện vốn chủ sở hữu tham gia quản trị CTCP. Cụ thể, với vai trò là

ngƣời giám quản thì hoạt động của Nhà nƣớc phải hƣớng tới mục tiêu lợi ích

công cộng; còn với vai trò là ngƣời đại diện vốn chủ sở hữu tham gia quản trị

CTCP thì hoạt động của Nhà nƣớc phải hƣớng tới mục tiêu lợi nhuận. Nhận

thức đúng điều này, tỉnh sẽ khắc phục đƣợc tình trạng nhập nhằng nƣớc đôi

trong vai trò của Nhà nƣớc, nhờ đó sẽ nâng cao sức sáng tạo, tinh thần kinh

doanh trong doanh nghiệp, tránh đƣợc những ảnh hƣởng tiêu cực đến hiệu quả

kinh doanh của doanh nghiệp sau CPH. Cần hiểu rằng, nếu với tƣ cách ngƣời

quản lý CTCP, thì đại diện vốn chủ sở hữu nhà nƣớc cũng chỉ nhƣ là ngƣời

đƣợc Hội đồng quản trị công ty thuê để điều hành CTCP hiệu quả theo những

mục tiêu mà Hội đồng quản trị đề ra. Vì vậy, ngƣời đại diện vốn chủ sở hữu

Nhà nƣớc chỉ là ngƣời do Nhà nƣớc ủy quyền giám sát, điều hành của CTCP,

họ có trách nhiệm giám sát hoạt động của công ty, hoặc đƣợc bổ nhiệm làm

thành viên hội đồng quản trị của công ty. Cho nên, chỉ có ngƣời đại diện vốn

136

chủ sở hữu Nhà nƣớc trong CTCP (giám đốc hoặc ban điều hành của CTCP)

mới đƣợc hƣởng chế độ lƣơng bổng tại công ty, do hội đồng quản trị đề xuất

thông qua hội nghị cổ đông hàng năm; còn ngƣời đƣợc Nhà nƣớc bổ nhiệm

trong hội đồng quản trị của DNNN không đƣợc nhận lƣơng hay tiền của DN.

Có nhƣ vậy mới đảm bảo tính khách quan trong giám quản, theo đó họ sẽ toàn

tâm làm việc vì lợi ích của Nhà nƣớc.

Việc xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nƣớc về vốn

và tài sản tại các CTCP phải dựa trên cơ sở hoàn thiện cơ chế phân cấp thực

hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nƣớc theo nguyên tắc “một đầu

mối”, tức là cần có một bộ phận chuyên trách theo dõi việc sử dụng vốn, tài

sản nhà nƣớc và phân tích, đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp

nhà nƣớc, kể cả các tập đoàn, tổng công ty đặc biệt đang hoạt động trên địa

bàn tỉnh. Tuy nhiên, để xác định đƣợc trách nhiệm của “chủ sở hữu”, đại diện

chủ sở hữu, đặc biệt là đối với những công ty có trên 50% vốn nhà nƣớc, thì

cần xác định rõ quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của Ngƣời đại diện tại DN

sau CPH, đặc biệt là phải thực hiện tốt quy chế ngƣời đại diện vốn của Nhà nƣớc

tại doanh nghiệp sau CPH. Phải dựa vào cơ sở pháp lý cụ thể để xác định rõ

quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu VNN, quyền cử ngƣời đại diện trong DN để

thực hiện quyền của cổ đông VNN, chế độ báo cáo, kiểm tra, giám sát, chế độ

lƣơng thƣởng... giúp chủ sở hữu VNN trong việc quản lý hiệu quả VNN đầu tƣ

vào DN sau CPH.

Để phát huy hiệu quả nguồn vốn Nhà nƣớc đầu tƣ vào các CTCP, đòi

hỏi ngƣời đại diện chủ sở hữu phải: (i) là ngƣời đƣợc Chủ sở hữu giới thiệu để

ứng cử các chức danh trong Ban quản lý, điều hành hoặc Ban Kiểm soát tại DN

CPH có VNN theo Điều lệ của DN đó; (ii) là ngƣời đƣợc quyền thay mặt Chủ

sở hữu tham dự và biểu quyết các vấn đề có liên quan đến quyền cổ đông, bên

liên doanh trong các kỳ họp Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị DN CPH

có VNN; (iii) là ngƣời đƣợc hƣởng các khoản lƣơng, tiền thƣởng, bảo hiểm xã

137

hội, bảo hiểm y tế và các quyền lợi khác theo quy định của pháp luật hiện hành

và điều lệ DN CPH có VNN và đƣợc hƣởng phụ cấp ngƣời đại diện do Chủ sở

hữu chi trả. Ngoài ra, ngƣời đại diện chủ sở hữu còn phải đƣợc tham gia các

chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ do Chủ sở hữu hay DN CPH có

VNN tổ chức.

Không chỉ phân định rõ vai trò của Nhà nƣớc trong quản lý vĩ mô và

quản lý kinh doanh của chủ sở hữu vốn Nhà nƣớc trong CTCP, mà việc làm

rõ mối quan hệ giữa chủ sở hữu vốn Nhà nƣớc và ngƣời đại diện chủ sở hữu

vốn Nhà nƣớc tại các DNNN CPH cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc xử

lý các vấn đề kinh tế-xã hội nẩy sinh trong quá trình CPH. Trong mối quan hệ

đó, chủ sở hữu phần vốn của nhà nƣớc là một cổ đông góp vốn, có các quyền

và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và Điều lệ DN; còn ngƣời đại diện

vốn chủ sở hữu thì chỉ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cổ đông tƣơng ứng

phần vốn góp đƣợc đại diện theo quy định của pháp luật và Điều lệ DN. Ngƣời

đại diện, nếu là thành viên chuyên trách trong Ban quản lý, điều hành hoặc là

ngƣời lao động DN sau CPH có VNN đƣợc hƣởng tiền lƣơng, phụ cấp trách

nhiệm (nếu có), tiền thƣởng và các quyền lợi khác theo quy định tại Điều lệ

DN đó và do DN đó chi trả. Ngoài ra, còn đƣợc hƣởng tiền phụ cấp ngƣời đại

diện do chủ sở hữu chi trả theo quy định của Nhà nƣớc và chủ sở hữu. Đồng

thời ngƣời đại diện chủ sở hữu sẽ là ngƣời thay mặt chủ sở hữu thực hiện việc

theo dõi, giám sát tình hình tài chính, họat động kinh doanh của DN theo quy định

của pháp luật, Điều lệ DN; theo dõi, đôn đốc và thực hiện thu hồi vốn của chủ

sở hữu tại DN có vốn góp của nhà nƣớc nhƣ cổ tức và các khoản đƣợc chia

khác từ vốn góp vào các DN và các khoản thù lao ngƣời đại diện do DN chi

trả; theo dõi, đôn đốc thanh toán các khoản công nợ phải thu của chủ sở

hữu tại DN CPH có VNN (nếu có).

Nói tóm lại, đặc trƣng cơ bản của nền kinh tế thị trƣờng là vận động theo

quy luật khách quan, thị trƣờng là căn cứ để phân bổ các nguồn lực xã hội, các

138

chủ thể kinh doanh bình đẳng, gắn liền với chế độ sở hữu đa dạng mà sở hữu nhà

nƣớc là một bộ phận. Vì vậy, sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau bên

cạnh sở hữu Nhà nƣớc cũng là lẽ dĩ nhiên. Tính đa dạng sẽ tạo ra một cơ cấu sở

hữu phù hợp, từ đó, các nguồn lực đƣợc mở rộng và sử dụng một cách tối ƣu và

thông thƣờng tính hiệu quả nằm ngoài khu vực kinh tế nhà nƣớc. Trong cơ cấu

sở hữu, sở hữu nhà nƣớc và sở hữu tƣ nhân bình đẳng trong mối quan hệ bổ

sung, hỗ trợ cùng phát triển. Cơ cấu sở hữu không phải bất biến, mà biến đổi

theo yêu cầu của phát triển và thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội,

khi cần thiết phải xác lập sở hữu nhà nƣớc, khi đã đạt đƣợc yêu cầu quản lý vĩ

mô thì có thể chuyển đổi sở hữu sang khu vực tƣ nhân.

4.2.4. Hoàn thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo tính bình đẳng trong đối

xử giữa các loại hình doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi của người lao động

trong các doanh nghiệp sau CPH

Thứ nhất, đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nƣớc sau CPH.

Không riêng gì ở tỉnh Thanh Hóa, mà trên phạm vi cả nƣớc cũng đang tồn tại

thực trạng có nhiều doanh nghiệp nhà nƣớc không muốn chuyển sang công ty

cổ phần là do môi trƣờng thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế chƣa

đƣợc thiết lập và doanh nghiệp mất đi lợi thế đƣợc ƣu đãi vốn đƣợc dành cho

các DNNN. Điều đó cho thấy, để thúc đẩy tiến trình CPH DNNN theo hƣớng

hiệu quả, hạn chế tối đa những vấn đề KT-XH nảy sinh có tác động tiêu cực

đến tiến trình này thì việc tạo lập môi trƣờng kinh doanh lành mạnh, không

mang tính phân biệt đối xử là cực kỳ quan trọng.

Trong thực tế, khi các doanh nghiệp đã đƣợc cổ phần hóa thì thƣờng

đƣợc coi là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, không đƣợc đối xử ngang hàng

nhƣ những những doanh nghiệp nhà nƣớc khác. Điều này thể hiện rất rõ qua

khả năng tiếp cận các nguồn vốn của những tổ chức tín dụng nhà nƣớc. Nếu

nhƣ khi còn là doanh nghiệp nhà nƣớc, những doanh nghiệp này không chỉ

nhận đƣợc nguồn vốn từ nhiều kênh khác nhau nhƣ đầu tƣ cơ bản, bổ sung

139

vốn lƣu động, đƣợc xóa nợ, hay bảo lãnh nợ, thì nay không những không còn

các nguồn vốn trên, mà lại còn bị rơi vào tình trạng khó đƣợc vay vốn bởi tâm

lý lo ngại họ là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, không có ngƣời bảo đảm

(Chính phủ, các Bộ hay Uỷ ban nhân dân các cấp) khi không có khả năng trả

đƣợc nợ. Trong lĩnh vực thuế, cách tính thuế đối với một số tài sản của doanh

nghiệp nhà nƣớc đƣợc cổ phần hóa cũng chứa đựng những bất hợp lý. Chẳng

hạn, nếu tài sản đƣợc chuyển giao khi còn là doanh nghiệp nhà nƣớc thì

không bị tính thuế trƣớc bạ, nhƣng sau khi doanh nghiệp đã cổ phần hóa thì

phải chịu thuế này… Sự phân biệt đối xử nhƣ vậy đã tạo lên tâm lý lo ngại

trong lãnh đạo doanh nghiệp khi phải đƣơng đầu với nhiều khó khăn phía

trƣớc, dẫn đến tình trạng lƣỡng lự trong lựa chọn phƣơng án cổ phần hóa

doanh nghiệp.

Cần nhanh chóng loại bỏ hết các ƣu đãi bất hợp lý. Đây là biện pháp

hữu hiệu để loại bỏ những đặc quyền, đặc lợi cho các DNNN, gây bất lợi cho

các doanh nghiệp khác trong cạnh tranh thị trƣờng, nhất là đối với các doanh

nghiệp mới CPH. Về nguyên tắc DNNN sau CPH hoạt động theo luật DN và

do đó nó chịu sự chế định của tất cả các cơ quan Nhà nƣớc thực thi giám sát

pháp luật. Tuy nhiên cần bổ sung các điều khoản phát sinh phù hợp với

DNNN sau CPH mà hệ thống văn bản pháp luật hiện tại chƣa có. Ngoài ra

cần đẩy mạnh cải cách hành chính và đổi mới hoạt động của các cơ quan quản

lý Nhà nƣớc để sao cho các cơ quan này buộc phải cung cấp các dịch vụ công

một cách công bằng cho các DN thuộc mọi loại hình khác nhau, trong đó có

DNNN sau CPH.

Thứ hai, xây dựng cơ chế phù hợp để bảo vệ lợi ích của các chủ thể sở

hữu. Bảo vệ quyền sở hữu, cũng tức là bảo vệ lợi ích của các chủ thể sở hữu

trong các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, là hoạt động thể hiện trách nhiệm của

chính quyền nhà nƣớc các cấp đối với công dân của mình. Không thể vì mục

tiêu xã hội hay các mục tiêu khác mà làm cho quyền sở hữu của các chủ thể

140

sở hữu trong doanh nghiệp bị xâm hại, nếu họ thực hiện đúng pháp luật. Tuy

nhiên, để có thể thực hiện việc bảo vệ quyền sở hữu của các chủ thể một cách

hữu hiệu và hợp pháp thì việc quy định rõ ràng quyền hạn và nghĩa vụ của các

chủ thể sở hữu là cần thiết. Về quyền hạn, cần quy định rõ họ đƣợc thụ hƣởng

những quyền hạn cụ thể nào; về nghĩa vụ cũng cần có quy định những nghĩa

vụ mà các chủ thể sở hữu trong doanh nghiệp phải tuân theo, đặc biệt là việc

đảm bảo cơ chế phân chia lợi ích một cách minh bạch để tránh xảy ra những

tranh chấp trong và sau quá trình chuyển đổi sở hữu. Những thu nhập có đƣợc

từ lợi ích nắm giữ cổ phần doanh nghiệp cần phải là đối tƣợng tính thuế thu

nhập cá nhân một cách minh bạch.

Thứ ba, đảm bảo an sinh xã hội cho ngƣời lao động trong các DNNN CPH.

+ Đối với lao động bị mất việc làm sau khi doanh nghiệp CPH.

Do các doanh nghiệp đã cổ phần hoá phải hoạt động theo cơ chế thị

trƣờng, cho nên rất khó để tránh đƣợc tình trạng bị thua lỗ, hoặc phải cơ cấu lại.

Trong những trƣờng hợp nhƣ vậy có thể một bộ phận ngƣời lao động bị mất việc

làm, trƣớc hết là những ngƣời không có quyền sở hữu, tức không phải là cổ đông

của công ty. Trong điều kiện đó, việc thực hiện chế độ trợ cấp thất nghiệp, hoặc

hỗ trợ trợ cấp trong thời gian họ tìm kiếm việc làm mới là rất cần thiết. Để có

nguồn kinh phí hỗ trợ lao động mất việc làm,Tỉnh cần tổ chức và phát huy vai

trò của quỹ bảo hiểm thất nghiệp, quỹ hỗ trợ ngƣời lao động bị dôi dƣ khi tiến

hành tái cấu trúc doanh nghiệp CPH hoặc vì lý do bất khả kháng mà ngƣời lao

động trở thành ngƣời thất nghiệp. Ngoài ra, Tỉnh cần chủ động xây dựng Quỹ hỗ

trợ cho doanh nghiệp CPH cho những mục tiêu kiểu này từ những nguồn lực địa

phƣơng thay vì chỉ trông chờ vào Quỹ hỗ trợ chung của nhà nƣớc.

+ Đối với lao động dôi dƣ sau CPH.

Với đối tƣợng này, Tỉnh cần có chính sách nhƣ: hỗ trợ vốn ban đầu cho

những ngƣời kinh doanh nhỏ, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển các

chƣơng trình tạo công ăn việc làm cho ngƣời lao động, xuất khẩu lao động...

141

để kích cầu lao động. Thực hiện điều này sẽ giảm đƣợc sức ép về lao động dƣ

thừa ở doanh nghiệp sau CPH thông qua việc chuyển một bộ phận lao động

này sang khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện

thúc đẩy phát triển thị trƣờng lao động, kể cả lao động quản lý và lãnh đạo

các doanh nghiệp sau CPH.

Ngoài sự hỗ trợ ngƣời lao động dôi dƣ tìm kiếm việc làm tại các khu vực

khác nhau của nền kinh tế, Thanh Hóa cần chú trọng tạo việc làm mới cho họ.

Tuy nhiên, do đa số những ngƣời lao động dôi dƣ trong quá trình chuyển sở hữu

tại các doanh nghiệp cổ phần hoá của Thanh Hóa đều đã lớn tuổi, trình độ thấp,

hoặc thuộc nhóm ngành nghề mà chu kỳ sản phẩm đang đi xuống, nhu cầu xã

hội không cao nữa cho nên việc bố trí việc làm mới sẽ rất khó khăn. Chính

quyền các cấp có thể tạo điều kiện để cho ngƣời lao động đó có thể tìm đƣợc

việc làm mới thông qua sự hỗ trợ về mặt thông tin. Hệ thống các kênh thông tin,

các hội chợ tuyển dụng là những kênh thích hợp đối với ngƣời lao động có thể

tìm kiếm việc làm. Để làm tốt việc này, vấn đề tạo điều kiện để ngƣời lao động

có thể đáp ứng đƣợc yêu cầu của chỗ làm mới là hết sức cần thiết. Việc triển

khai các chƣơng trình nâng cao trình độ, đào tạo lại cho ngƣời lao động hoặc hỗ

trợ ngƣời lao động tham gia nâng cao, đào tạo lại tay nghề là cần thiết để ngƣời

lao động có cơ hội tìm đƣợc việc làm mới. Để làm đƣợc việc này cần có sự rà

soát và nắm một cách tổng thể về sự di động việc làm trong quá trình vận hành

của các doanh nghiệp cổ phần hoá, đặc biệt là quá trình tái cấu trúc sở hữu của

các doanh nghiệp cổ phần hoá ở Thanh Hóa hiện nay.

Bên cạnh đó, UBND Tỉnh cần ban hành các quy định cần thiết về trách

nhiệm và quyền hạn của chủ sở hữu đối với ngƣời lao động để buộc họ phải

quan tâm bảo vệ lợi ích chính đáng của ngƣời lao động nếu việc chuyển đổi

sở hữu gây ra tổn hại đối với những ngƣời này. Đây là chính sách cần xây

dựng để đảm bảo trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp, mặc dù trong

trƣờng hợp này, doanh nghiệp cần nhận đƣợc sự hỗ trợ nhất định từ nhà nƣớc.

142

4.2.5. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền địa

phương và nâng cao vai trò của Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong

quá trình CPH DNNN

Một là, các cấp ủy Đảng và chính quyền tỉnh Thanh Hóa cần tăng cƣờng chỉ

đạo công tác thực hiện cổ phần hóa DNNN, chú trọng nâng cao hơn nữa chất

lƣợng việc xây dựng phƣơng án sản xuất, kinh doanh sau cổ phần hóa. Khuyến

khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành thêm cổ phiếu để tăng quy mô

vốn của các doanh nghiệp.

Hai là, Tỉnh cần xây dựng lộ trình cổ phần hóa một cách thận trọng,

chắc chắn. Cần thu hẹp dần diện các DNCPH mà nhà nƣớc cần nắm cổ phần

chi phối. Trƣớc mắt nhà nƣớc chỉ cần nắm cổ phần chi phối tại một số ít doanh

nghiệp có vai trò, vị trí quan trọng trong định hƣớng chiến lƣợc và nhiệm vụ

kinh tế - xã hội của tỉnh..

Ba là, phải tập trung tháo gỡ những khó khăn, vƣớng mắc sau khi cổ phần

hóa, đặc biệt là vấn đề quyền sử dụng đất. Việc tháo gỡ những khó khăn vƣớng

mắc này phải đặt trong bối cảnh của hệ thống pháp luật hiện hành. Cụ thể:

+ Thực hiện nghiêm chỉnh luật đất đai (sửa đổi) đã đƣợc Quốc hội

thông qua 10-2013. Tạo điều kiện cho các DNNN sau cổ phần hóa có điều

kiện kinh doanh ổn định và không ngừng phát triển.

+ Có chính sách kịp thời để xử lý số lao động dôi dƣ, nhất là số lao

động dôi dƣ đã xử lý một lần khi chuyển đổi hình thức hoạt động (sáp nhập,

chuyển công ty mẹ - công ty con, chuyển công ty TNHH một thành viên).

Đồng thời, Tỉnh cũng phải có những biện pháp xử lý kiên quyết để ngăn chặn

tình trạng liên kết, "thông thầu" trong quá trình bán đấu giá cổ phiếu. Do vậy,

Tỉnh cần rà soát để có thể ban hành những quy định cụ thể về quá trình và

phƣơng thức bán cổ phiếu theo hƣớng tăng cƣờng tính cạnh tranh, công khai,

minh bạch nhằm khắc phục những „lỗ hổng” làm méo mó giá cả cổ phiếu và

các tài sản nhà nƣớc khác.

143

+ UBND Tỉnh cần xem xét nâng mức phí thuê tƣ vấn định giá, tạo điều

kiện cho doanh nghiệp thuê đƣợc những tƣ vấn định giá có uy tín, chuyên

nghiệp khi cổ phần hóa, đặc biệt khi Thanh Hóa, trong thời gian tới, cần tiến

hành cổ phần hóa các DNNN quy mô lớn, có quy mô công nợ, các mối quan

hệ kinh tế, mạng lƣới kinh doanh phức tạp hơn.

Để nâng cao trách nhiệm của các định chế trung gian trong quá trình cổ

phần hóa cần gắn việc thanh toán chi phí thuê tƣ vấn định giá, đấu giá với kết

quả bán cổ phần, thực hiện chính sách thƣởng đối với những đơn vị thực hiện

tốt công tác tƣ vấn, bán đấu giá cổ phần, khuyến khích các doanh nghiệp cổ

phần hóa thực hiện phƣơng thức bảo lãnh, phát hành. Ngoài ra, cần rà soát lại

quy định theo đó doanh nghiệp thuộc diện CPH đƣợc trực tiếp ký hợp đồng tƣ

vấn với các tổ chức tƣ vấn định giá tài sản doanh nghiệp, nhất là trong trƣờng

hợp quá trình CPH mang tính chất nội bộ, khép kín, để tránh những lạm dụng,

tiêu cực, gây ra sự thất thoát về tài sản của nhà nƣớc.

Bốn là, Nâng cao vai trò của Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước trên

địa bàn

Ban đổi mới doanh nghiệp tại các địa phƣơng là cơ quan trực tiếp chỉ đạo

và chịu trách nhiệm đối với tiến trình CPH DNNN. Đồng thời, đây cũng là cơ

quan đầu mối để tổng hợp và xử lý những khó khăn, vƣớng mắc cả trƣớc, trong

và sau quá trình CPH DNNN. Vì vậy, Ban đổi mới doanh nghiệp có có tác động

quyết định đến sự thành công hay thất bại của tiến trình này. Thực tiễn quá trình

cổ phần hóa DNNN trong cả nƣớc cho thấy, tại địa phƣơng nào có Ban đổi mới

DNNN đủ năng lực, hoạt động tích cực, bám sát thực tiễn để chỉ đạo, hƣớng dẫn

doanh nghiệp chuyển đổi, thì những vấn đề KT-XH tiêu cực nảy sinh ít hơn, kết

quả CPH đạt mức cao hơn; và ngƣợc lại. Vì vậy, tỉnh Thanh Hóa cần có kế

hoạch tái thành lập Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp của mình trên cơ sở

phối kết hợp với các Sở, Ban, Ngành trên địa bàn, dƣới sự chỉ đạo của Ban Đổi

144

mới và Phát triển doanh nghiệp Trung ƣơng. Hƣớng đổi mới Ban này nên tập

trung vào các vấn đề chủ yếu sau:

- Bố trí đủ cán bộ chuyên trách trong những khâu liên quan đến CPH

DNNN. Hiện tại ban đổi mới và phát triển DN của tỉnh đã giải tán chỉ còn

một biên chế nằm trong Văn phòng UBND tỉnh, nên dù còn ít DN thuộc diện

phải CPH nhƣng để giải quyết kịp thời có hiệu quả đƣợc các vấn đề KT-XH

nảy sinh trong các DN CPH thì việc tái thành lập lại ban này là râtƣ cần thiết.

Việc bố trí đủ lực lƣợng chuyên trách và tạo điều kiện cho lực lƣợng

này nâng cao kiến thức và kỹ năng đối với công việc, chắc chắn những vấn đề

KT-XH nẩy sinh trong quá trình CPH, nhƣ: lao động dôi dƣ, chuyển nhƣợng

cổ phần, đối tƣợng mua cổ phần của doanh nghiệp, hay định giá tài sản doanh

nghiệp.... sẽ đƣợc xử lý kịp thời và hiệu quả.

- Ban đổi mới doanh nghiệp tỉnh cần phát huy vai trò tham mƣu cho

tỉnh, đồng thời tăng cƣờng công tác hƣớng dẫn, phổ biến, tuyên truyền và

kiểm tra, đôn đốc các doanh nghiệp thực hiện phƣơng án tổng thể tái cơ cấu

DNNN theo đúng các phƣơng án và lộ trình của Chính phủ, trong đó có lộ

trình CPH các DNNN và phƣơng án xử lý tốt những vấn đề kinh tế - xã hội

nảy sinh trong và sau quá trình CPH DNNN.

- Cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa Ban Đổi mới và Phát triển

doanh nghiệp của địa phƣơng với Ban Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp

của Trung ƣơng, Bộ, Ngành.

Ngoài ra, trên cơ sở nhận thức đúng đắn về bản chất và nội dung của

quá trình CPH, trên cơ sở coi đó là yêu cầu tự nhiên, khách quan của tiến

trình hoàn thiện và phát triển nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam cũng nhƣ

xem quá trình này nhƣ bộ phận hữu cơ của quá trình tái cấu trúc toàn bộ nền

kinh tế, Tỉnh cần có biện pháp tuyên truyền sâu rộng để tạo ra sự đồng thuận

rộng rãi trong toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết xử lý

các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình này.

145

4.3. Một số kiến nghị với Nhà nƣớc và bộ/ ngành hữu quan

Thứ nhất, Nhà nƣớc cần có chính sách rõ ràng, cụ thể về xử lý nợ tại

các DNNN trong diện CPH. Hiện tại, qui định của Nhà nƣớc về các khoản nợ

phải thu theo điều 15, các khoản nợ phải trả theo điều 16 của Nghị định

59/2011/ND- CP, tuy có nhiều điểm mới nhằm tháo gỡ nợ cho DNCPH xong

vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục đƣợc nghiên cứu sữa đổi. Để giải quyết dứt

điểm vấn đề này, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sau CPH hoạt

động trôi chảy, một mặt Nhà nƣớc cần tiếp tục nghiên cứu tìm ra những giải

pháp cụ thể sát hợp và khả thi hơn để tháo gỡ cho các CTCP, trên cơ sở nên

xem lại việc bắt buộc thừa kế nợ của CTCP và DNNN trƣớc đó cho phù hợp

hơn. Đồng thời đẩy mạnh hoạt động của các công ty mua bán nợ và tài sản

tồn đọng của DNNN khi CPH.

+ Cần ban hành quy chế cụ thể về tổ chức quản lý các DNNN sau CPH,

nhất là doanh nghiệp Nhà nƣớc giữ 51% vốn điều lệ trở lên cho phù hợp với

Luật công ty. Hiện nay việc bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà

nƣớc tại các doanh nghiệp cổ phần hóa về Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh

vốn nhà nƣớc (SCIC) đã làm cho việc kiểm tra, giám sát của địa phƣơng đối

với các doanh nghiệp cổ phần hóa rất khó khăn; các địa phƣơng ít nhận đƣợc

thông tin phản hồi cũng nhƣ đề xuất của các doanh nghiệp này để có giải pháp

quản lý cho phù hợp và kịp thời. Cần làm rõ ai là ngƣời đại diện chủ sở hữu

vốn Nhà nƣớc trong các CTCP nhằm chấm dứt quan hệ sở hữu Nhà nƣớc khá

chung chung nhƣ hiện nay.

+ Hoàn thiện, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp quy theo hƣớng

tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển hơn nữa các hoạt động cổ phần hoá, phù

hợp với bối cảnh đất nƣớc đã hội nhập vào sân chơi quốc tế, đặc biệt là về thị

trƣờng chứng khoán có vai trò nhƣ là một “sân chơi” quan trong nhất đối với

các hoạt động liên quan tới khía cạnh tài chính của cổ phần hoá. Ở đây cần

nhấn mạnh rằng tài chính và luồng tài chính đối với kinh tế cổ phần đƣợc coi

146

là máu và các mạch dẫn máu cho cơ thể kinh tế này; do vậy, nếu “sân chơi”

này không đƣợc tổ chức và quản lý tốt thì mọi cố gắng cổ phần hoá sẽ không

thể phát huy tác dụng.

Thứ hai, Nhà nƣớc cần ban hành các văn bản hƣớng dẫn thực hiên chủ

trƣơng CPH DNNN nhanh chóng và sát sao hơn. Cụ thể:

+ Điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến bán cổ phiếu nhƣ: xóa bỏ

mức khống chế về quyền mua cổ phiếu lần đầu và mở rộng đối tƣợng mua cổ

phiếu vì mức quy định mua cổ phiếu của các pháp nhân, thể nhân trong đợt

phát hành cổ phiếu lần đầu đã hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tƣ chiến

lƣợc, của cán bộ lãnh đạo… Đồng thời, cần có các giải pháp phù hợp tháo gỡ

khó khăn về các khoản nợ khó thu cho các DNNN sau CPH. Cần tổng kết

việc xử lý nợ trong khu vực DNNN và DNNN sau CPH có biện pháp hữu

hiệu để giải quyết dứt điểm tình trạng nợ dây dƣa, nợ chiếm dụng không lành

mạnh. Đánh giá hoạt đông của Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của

doanh nghiệp, đặc biệt là của DNNN đã CPH để sử dụng có hiệu quả hơn

công cụ này, Có cơ chế tạo lập thị trƣờng mua, bán nợ với sự tham gia của

một số DNNN và tổ chức kinh tế ngoài Nhà nƣớc để giúp các chủ nợ và ngân

hàng xử lý tốt hơn nợ tồn đọng, gắn chặt quyền lợi với hiệu quả kinh doanh,

góp phần nâng cao năng lực tài chính để giải quyết bớt gánh nặng tài chính do

nợ đọng cho các DNNN sau CPH, nhằm tăng cƣờng tính an toàn của hệ thống

tài chính ngân hàng trong quá trình tái cấu trúc DNNN.

+ Nghiên cứu phát triển thêm mô hình các quỹ đầu tƣ đối với DNNN

CPH, và có chế tài để hạn chế tình trạng các nhà đầu tƣ lợi dụng chính sách

ƣu đãi của Nhà nƣớc để mua cổ phần nhằm kiếm lời trong ngắn hạn. Đó cũng

là cách để học gắn bó lâu dài hơn với các DNCPH. Mặt khác, cần thành lập

các tổ chức trung gian để hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện CPH nhƣ: Công ty tƣ

vấn mua bán nợ và tài sản doanh nghiệp, công tƣ tƣ vấn CPH, công ty định

giá doanh nghiệp, dịch vụ phát hành cổ phiếu...

147

+ Tiếp tục hoàn chỉnh tổ chức bộ máy và đẩy mạnh hoạt động của

Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc (SCIC). Tạo điều kiện hình

thành và phát triển hoàn thiện thị trƣờng chứng khoán vì thị trƣờng chứng

khoán không chỉ có quan hệ mật thiết với CTCP mà còn có vai trò tích cực là

yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế thị trƣờng.

Kết luận chƣơng 4

Cũng nhƣ cả nƣớc, CPH DNNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa là nhằm

hƣớng tới các mục tiêu cơ bản nhất là: nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của

doanh nghiệp; huy động nguồn vốn của toàn xã hội để phát triển sản xuất

kinh doanh và phát huy vai trò làm chủ thực sự của ngƣời lao động, của cổ

đông.

Để đạt đƣợc các mục tiêu đó, quan điểm tiến hành CPH DNNN và giải

quyết các vấn đề KT-XH nẩy sinh trong quá trình này là phải nhận thức đúng

về bản chất cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là điều kiện tiền đề đảm bảo

sự thành công của tiến trình CPH; coi cổ phần hóa DNNN là giải pháp hữu

hiệu để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp, góp

phần tạo sự phát triển toàn bộ nền kinh tế theo chiều sâu; và coi mọi tƣ tƣởng

nóng vội hay ỷ lại đều là lực cản đối của tiến trình CPH DNNN.

Trên cơ sở các quan điểm đó, căn cứ vào những vấn đề KT-XH phát

sinh trong quá trình CPH DNNN và những hạn chế trong cách thức xử lý các

vấn đề đó ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 1998 đến nay, cho thấy, để thúc đẩy tiến

trình CPH trên địa bàn một cách hiệu quả quả là rất khó khăn. Thực tiễn đó

đòi hỏi Tỉnh phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ cả về kinh tế, hành chính

và tổ chức; phải giải quyết những vấn đề nảy sinh cả ở giai đoạn trƣớc CPH,

trong quá trình CPH và sau quá trình CPH cả đối với ngƣời lao động, tổ chức

bộ máy quản lý và môi trƣờng hoạt động của doanh nghiệp.

148

KẾT LUẬN

Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn tiến trình CPH

DNNN và những vấn đề KT-XH nảy sinh trong quá trình này tại tỉnh Thanh Hóa

trong hơn 15 năm qua, có thể rút ra một số kết luận cơ bản sau:

Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nƣớc đã từng giữ vai trò rất quan trọng

trong phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam, đặc biệt đã có những đóng góp

to lớn vào thắng lợi chung của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ

quốc. Tuy nhiên, bƣớc sang thời kỳ đổi mới, cùng với sự phát triển kinh tế

chung của cả nƣớc, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, hầu hết các doanh

nghiệp nhà nƣớc không còn đáp ứng đƣợc yêu cầu mới đặt ra của nền kinh tế

thị trƣờng, và đã bộc lộ nhiều yếu kém. Vì vậy, việc sắp xếp, đổi mới và nâng

cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nƣớc, trong đó có

biện pháp CPH, nhằm tăng cƣờng năng lực cạnh tranh chung của cả nền kinh

tế cũng nhƣ phát huy vai trò đích thực của kinh tế nhà nƣớc trong nền kinh tế

thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa là sự cần thiết khách quan.

Thứ hai, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là một chủ trƣơng lớn của

Đảng và Nhà nƣớc, có nhiều tác động đến sự phát triển kinh tế của đất nƣớc

cũng nhƣ đời sống ngƣời lao động. Vì vậy, việc đẩy nhanh tiến độ CPH

DNNN là tất yếu khách quan, phù hợp với yêu cầu hoàn thiện và phát triển

nền kinh tế thị trƣờng, gắn liền với xu thế hội nhập quốc tế. Về mặt lý luận,

cổ phần hoá là một giải pháp quan trọng góp phần giải quyết những khó khăn

về vốn, từng bƣớc nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của

doanh nghiệp; đồng thời tạo điều kiện để Nhà nƣớc tập trung nguồn lực cho

sự phát triển các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Trên thực tế, tại những

DNNN đã CPH, khi chuyển thành công ty cổ phần thì tình trạng quan liêu,

cửa quyền, tham nhũng, lãng phí ... từng bƣớc đƣợc loại bỏ; ngƣợc lại, lợi ích

của cả Nhà nƣớc, tập thể và ngƣời lao động đều đƣợc nâng cao.

Thứ ba, trong quá trình tiến hành CPH DNNN, nhiều vấn đề KT-XH nảy

149

sinh, có tác động tiêu cực đến quá trình CPH, đòi hỏi phải đƣợc giải quyết kịp

thời. Những vấn đề này có cội nguồn sâu xa từ sự khác biệt và xung đột lợi

ích do tính chất chuyển đổi sở hữu mà quá trình CPH gây ra. Chúng thƣờng

biểu hiện phổ biến trong các vấn đề nhƣ: tâm lý chần chừ, e ngại, chống đối

CPH; lựa chọn doanh nghiệp CPH; định giá doanh nghiệp; chuyển đổi cơ cấu

sở hữu; tổ chức hoạt động và quản trị doanh nghiệp sau CPH; sắp xếp lao

động và xử lý lực lƣợng lao động dôi dƣ.v.v...

Thứ tư, tại tỉnh Thanh Hóa, tiến trình CPH DNNN tuy diễn ra muộn hơn

so với nhiều địa phƣơng khác, song về cơ bản cũng không nằm ngoài tình

trạng chung của cả nƣớc. Đó là, bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc thì vẫn

còn nhiều vấn đề đặt ra cả trong và sau khi thực hiện CPH, đòi hỏi phải đƣợc

giải quyết. Mặc dù tỉnh đã có nhiều biện pháp khắc phục, song đến nay, sau

15 năm thực hiện CPH, nhiều vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ, cần tiếp tục đƣợc xử lý

để thúc đẩy một cách hiệu quả hơn tiến trình CPH.

Thứ năm, những vấn đề KT-XH nói trên nảy sinh do nhiều nguyên nhân

khác nhau, cả chủ quan và khách quan, trong đó các nguyên nhân chủ yếu là:

tâm lý chần chừ do xung đột lợi ích đã tạo ra những trở ngại cho tiến trình CPH;

cơ chế chính sách về CPH DNNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa còn những bất

cập; công tác quản lý Nhà nƣớc về CPH DN của tỉnh chƣa theo kịp yêu cầu và

các thể chế thị trƣờng có khả năng hỗ trợ tiến trình CPH DNNN nhƣ: thị trƣờng

chứng khoán, các công ty cung cấp các dịch vụ tài chính, dịch vụ tƣ vấn về CPH

còn kém phát triển....

Thứ sáu, để khắc phục những vấn đề KT-XH nảy sinh có tác động tiêu

cực đến tiến trình CPH DNNN tại tỉnh Thanh Hóa, trong thời gian tiếp theo

tỉnh cần quán triệt các quan điểm, nhƣ: xem CPH DNNN nhƣ một yêu cầu

khách quan của tiến trình hoàn thiện và phát triển nền kinh tế thị trƣờng và

hội nhập quốc tế; coi nhận thức đúng về bản chất cổ phần hóa doanh nghiệp

nhà nƣớc là điều kiện tiền đề để thực hiện thành công quá trình này; khẳng

150

định cổ phần hóa DNNN là giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sử dụng

vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp, góp phần tạo sự phát triển toàn bộ nền

kinh tế theo chiều sâu….

Thứ bảy: cùng với các quan điểm trên, để xử lý các vấn đề kinh tế - xã

hội nảy sinh, thúc đẩy nhanh tiến trình CPH, Thanh Hóa cần triển khai đồng

bộ nhiều giải pháp nhƣ: lựa chọn đúng đắn các DNNN để tiến hành CPH

trong những năm tới; đổi mới phƣơng pháp định giá DN nhằm chống thất

thoát tài sản Nhà nƣớc khi CPH; tạo điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho

ngƣời lao động và DN sau CPH; thực hiện giảm tỷ lệ cổ phần thuộc sở hữu

Nhà nƣớc trong các DN nhà nƣớc CPH đồng thời phải minh bạch hóa vấn đề

tài chính và sở hữu của Nhà nƣớc trong DN sau cổ phần hóa nhằm tạo môi

trƣờng cạnh tranh lành mạnh; tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ

CPH DNNN; tăng cƣờng vai trò quản lý và trách nhiệm của các cấp chính

quyền Nhà nƣớc tại địa phƣơng trong quá trình CPH; nâng cao vai trò của

Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nƣớc trên địa bàn; phân định rõ và tách bạch

chức năng quản lý Nhà nƣớc với chức năng chủ sở hữu Nhà nƣớc tại các

CTCP; đổi mới phƣơng thức quản trị và điều hành phù hợp với các doanh

nghiệp nhà nƣớc cổ phần hóa. Bên cạnh đó, cần quan tâm nâng cao chất

lƣợng của các thể chế thị trƣờng nhằm tạo ra môi trƣờng kinh doanh thuận lợi

và lành mạnh cho mọi DN và xem đó nhƣ một phƣơng thức hữu hiệu để xủa

lý các vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình CPH DNNN; tăng

cƣờng công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức chung của toàn xã

hội đối với quá trình CPH.

Cuối cùng, để các giải pháp trên mang tính khả thi cao, đòi hỏi Nhà

nƣớc và các Bộ/Ngành hữu quan phải điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến

bán cổ phiếu; nghiên cứu phát triển thêm mô hình các quỹ đầu tƣ đối với

DNNN CPH; tiếp tục hoàn chỉnh tổ chức bộ máy và đẩy mạnh hoạt động của

Tổng công ty Đầu tƣ và kinh doanh vốn nhà nƣớc (SCIC); thành lập các tổ

151

chức trung gian để hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện CPH; tiếp tục kiện toàn Ban

chỉ đạo, đổi mới và phát triển doanh nghiệp ở Trung ƣơng và các Bộ, ngành,

địa phƣơng.

152

DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

CỦA TÁC GIẢ

1. Trịnh Văn Súy, 2010. “Cổ phần hoá DNNN của tỉnh Thanh Hoá, một số

vấn đề cần quan tâm”, Tạp chí Thương Mại, số 33, 34.

2. Trịnh Văn Súy, 2013. “ Cổ phần hóa DNNN ở Thanh Hóa trong giai đoạn

hiện nay”, Tạp chí Khoa học chính trị tháng 4 năm 2013.

3. Trịnh Văn Súy, 2013. “ Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá

trình cổ phần hóa các DNNN ở Thanh Hóa”,Tạp chí Kinh tế Môi trường,

tháng 5-6 năm 2013, ISSN 1559 – 1906.

4. Trịnh Văn Súy, 2013. “ Cổ phần hóa DNNN của tỉnh Thanh hóa, một số

kinh nghiệm và đề xuất”, Tạp chí Kinh tế môi trường, tháng 7 năm 2013.

5. Trịnh Văn Súy, 2014. “ Hiệu quả sán xuất kinh doanh từ mô hình liên kết

4 nhà của công ty cổ phần mía đƣờng Lam Sơn”, Tạp chí Kinh tế Môi

trường, số xuân Giáp Ngọ, 2014, ISSN 1559 – 1906.

6. Trịnh Văn Súy “Năm 2015 triển vọng phát triển môi trƣờng kinh doanh

Việt Nam”, tạp chí kinh tế môi trƣờng số 1+2 năm 2015.

7. Trịnh Văn Súy, 2015. “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc: Một số giải

pháp chủ yếu cho tỉnh Thanh Hóa”, Tạp chí kinh tế Châu Á – Thái Bình

Dương, số tháng 3 năm 2015.

8. Trịnh Văn Súy, 2015. “Tăng trƣởng xanh xu hƣớng của thời đại”. Tạp chí

kinh tế môi trường, số tháng 5-6 năm 2015.

153

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Bùi Quốc Anh (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cổ phần hóa

và sau cổ phần hóa các DNNN ở Việt Nam. Luận án Tiến sĩ kinh tế -

Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

2. Ban Chỉ đạo đổi mới và Phát triển doanh nghiệp (2003), Các văn bản về

đổi mới doanh nghiệp nhà nước”, Hà Nội.

3. Ban Chỉ đạo Trung ƣơng (2003), Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung

ương 6 (lần 2), khoá VIII, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn

Đảng chống tham nhũng, lãng phí, Tài liệu chỉ đạo, hƣớng dẫn thực

hiện (lƣu hành nội bộ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Ban Đổi mới và Phát triển Doanh nghiệp Trung ƣơng (2008), Tài liệu

Hội thảo về Tổng kết công tác sắp xếp DNNN do Ban đổi mới và phát

triển Doanh nghiệp Trung ương tổ thức tháng 5/2008 tại Hà Nội.

5. Trƣơng Văn Bân (Chủ biên, 1996), Bàn về cải cách toàn diện doanh

nghiệp nhà nước. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Nguyễn Thị Bằng (3/1994), “Góp thêm ý kiến về CPH DNNN” Tạp chí

Tài chính.

7. Nguyễn Trọng Bảo (1998), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đội ngũ

cán bộ quản lý doanh nghiệp trong nước thời kỳ CNH, HDH đất nước,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

8. Trần Công Bảng (1998), “Tiến trình và triển vọng cổ phần hoá DNNN ở

Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế phát triển 3/1998.

9. Nguyễn Văn Bảo (chủ biên) (2009), Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Thanh

hóa”, Nxb Thanh Hóa.

10. Bộ Tài chính (10/2003), Hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện cổ

phần, Hà Nội.

11. Bộ Tài chính (2007), Thông tư 146/2007/TT-BTC ngày 6/12/2007

154

Hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển

doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định

tại Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007.

12. Trần Ngọc Bút (1998), “Bức xúc của cổ phần hoá DNNN”, Tạp chí

Kinh tế và dự báo.

13. Ngô Tùng Chinh (2005), "Củng cố tổ chức cơ sở đảng trong các doanh

nghiệp cổ phần hoá", Tạp chí Lý luận chính trị.

14. Chính phủ (1998), Nghị định số 48/ND-CP ngày 11/7/1998 của Chính

phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Hà Nội.

15. Chính phủ (1999), Nghị định số 103/1999/ND-CP, ngày 10/6/1999 của

Chính phủ về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN, Hà Nội.

16. Chính phủ (1999), Nghị định số 49/2002 của Chính phủ sữa đổi bổ sung

một số điều của Nghị định số 103/1999/ND-CP, ngày 10/9/1999 của

Chính phủ giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN, Hà Nội.

17. Chính phủ (1999), Nghị quyết số 117/1999/QĐ-TTg, ngày 28/6/1999,

của Thủ tướng chính phủ về tổ chức và hoạt động quỹ hỗ trợ sắp xếp và

CPH DNNN.

18. Chính phủ (2002), Nghị quyết số 58/2002/QĐ-TTg, ngày 26/4/2002, của

Thủ tướng chính phủ về ban hành tiêu chí danh mục phân loại DNNN và

tổng công ty Nhà nuớc, Hà Nội.

19. Chính phủ (2002), Nghị định số 41/2001/ND-CP, ngày 11/4/2002 của

Chính phủ về chính sách đối với người lao động dôi dư do sắp xếp lại

DNNN, Hà Nội.

20. Chính phủ (2002), Nghị định số 64/2002/ND, ngày 19/6/2002 của Chính

phủ về việc chuyển DNNN thành CTCP, Hà Nội.

21. Chính phủ (2007), Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 Về

chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nƣớc thành công ty cổ phần, Hà

Nội.

155

22. Chính phủ (2011), Nghị định 59/2011/NĐ- CP, ngày 18 tháng 7 năm

2011 của Chính Phủ “Về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước

thành công ty cổ phần”.

23. Phạm Minh Chính (2012), “Kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh

của doanh nghiệp một số quốc gia trên thế giới”, Tạp chí Cộng sản.

24. “Cổ phần hoá lối ra của các DNNN trong nền kinh tế thị trƣờng cạnh

tranh” (1994), Tạp chí Kinh tế phát triển, (44).

25. “CPH, giải pháp quan trọng trong cải cách DNNN, CTCP” (2002),

Thông tin Kinh tế đối ngoại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Trần Tiến Cƣờng (2001), Các vấn đề tồn tại và phát sinh của DNNN

sau cổ phần hoá đa dạng sở hữu, tài liệu Hội thảo về cổ phần hoá.

27. Nguyễn Thị Doan (2006), “Gắn chặt công tác kiểm tra, giám sát của cấp

ủy đối với tiến trình CPH DNNN”, Tạp chí Cộng sản, (6).

28. Phạm Văn Dũng - Phạm Mạnh Thƣờng “ Một số vấn đề tài chính khi

tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước” Tạp chí Tài chính,

tháng 8 năm 1996.

29. Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Chiến lược ổn định và phát triển kinh

tế - xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội.

30. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc

giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

32. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

156

35. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết hội nghị lần thứ III Ban

Chấp hành trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát

triển và nâng cao hiệu quả DNNN, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Đảng cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban

chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Đảng cộng sản Việt Nam (2015) Dự thảo các văn kiện trình đại hội XII

của Đảng. ( Tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp huyện, cấp tỉnh và

tƣơng đƣơng)

38. Đảng ủy Ban kinh tế tỉnh Thanh Hóa (1998), Đổi mới phát huy chủ đạo

của DNNN, Hội thảo khoa học tháng 12/1998, Thanh Hóa.

39. Đặng Quang Điệu (2/1998), “Góp ý kiến về chính sách đối với ngƣời

lao động khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc”, Kinh tế Dự báo.

40. Võ Văn Đức (1997), “Thử tìm nguyên nhân và giải pháp đẩy nhanh tiến

trình CPH DNNN”, Nghiên cứu lý luận, (6).

41. Võ Văn Đức, TS Đinh Ngọc Giang ( Đồng chủ biên) (2012) “ Một số

vấn đề kinh tế - Xẫ hội nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị

hóa ở Việt Nam”

42. Hoàng Châu Giang (2009), Chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp, Nxb

Thông tấn, Hà Nội.

43. M. Gills, D. Perkins, M. Roemer, D. R. Snodgrass (1990). Kinh tế học

của sự phát triển, Tập 2. Viện nghiên cứu quản lý TƢ – Trung tâm

thông tin tƣ liệu

44. Trần Quang Hà (1998), “Công ty CPH DNNN và thị trƣờng chứng

khoán”, Nghiên cứu kinh tế số 241, tháng 6/1998.

45. Lê Hồng Hạnh (2004), Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước những vấn

đề lý luận và thực tiễn, (sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

157

46. Lê Hoàng Hải (2001), Một số vướng mắc về tài chính đối với doanh

nghiệp sau cổ phần hoá và đa dạng sở hữu, Tài liệu Hội thảo về cổ phần

hoá.

47. Trần Ngọc Hiên (2007), “CPH DNNN, thực trạng và giải pháp”, Tạp chí

Cộng sản, (4).

48. Nguyễn Lê Quý Hiển (2012), Chuyển biến quan hệ sở hữu trong quá

trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam. Luận án Tiến sĩ kinh tế -Trƣờng

Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

49. Chu Đức Hoài (2002), Bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong quá

trình CPH DNNN, chuyên đề nghiên cứu của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

50. Đỗ Thị Phi Hoài (2003), Tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa

doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn đến 2010. Luận án tiến sĩ

kinh tế - Viện Kinh tế học.

51. Nguyễn Cảnh Hoan (2002), Một số giải pháp hoàn thiện thể chế tài chính

trong tiến trình CPH DNNN Việt Nam hiện nay, đề tài cấp bộ của Học viện

chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

52. Phí Mạnh Hồng (2011), “Vấn đề phân phối trong nền kinh tế thị trƣờng

định hƣớng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (1/392).

53. Phí Mạnh Hồng, Trần Đình Thiên (2014), “ Quan niệm và tính thực tiễn

của “Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”,

Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (3/430)

54. Lê Văn Hội (2006), "Vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong doanh

nghiệp cổ phần có vốn Nhà nƣớc", Tạp chí Xây dựng Đảng, (7).

55. Vƣơng Đình Huệ (2011), “Giải pháp chủ yếu nhằm tái cấu trúc DNNN”

Việt nam net, tháng 12 năm 2011.

56. Phạm Quang Huy (2002), Thị trường chứng khoán Việt Nam với vấn đề

CPH DNNN đề tài cấp sở của Ủy ban Chứng khoán nhà nƣớc, Hà Nội.

158

57. Hồ Sỹ Hùng (2012), “Đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nƣớc và một

số thách thức đặt ra”, Tạp chí Cộng sản, (840).

58. Hồ Xuân Hùng (2004), "Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Kết quả,

vướng mắc và giải pháp", Tạp chí Công sản, (18).

59. Trần Mai Hƣơng (1998), “CPH với vấn đề nguời lao động, nghiên cứu

kinh tế”, (236).

60. Hỏi - Đáp về luật doanh nghiệp (2003), Nxb Giao thông vận tải, Hà

Nội.

61. Quốc Khánh (2006), “Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng với tiến trình

CPH DNNN”, Tạp chí Xây dụng Đảng, (4).

62. Vũ Trọng Kim (2006), "Xây dựng các đoàn thể chính trị, xã hội vững

mạnh ở các doanh nghiệp CPH", Tạp chí Cộng sản, (111).

63. Phạm Ngọc Linh (2009), “Doanh nghiệp nhà nƣớc và những vấn đề sau

cổ phần hóa”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, 11(451)

64. Trần Xuân Long (2012), Hoàn thiện chính sách quản lý vốn của Nhà

nước trong DNNN sau cổ phần hóa, Luận án tiến sĩ Kinh tế - Trƣờng

Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

65. Nguyễn Phi Long (29/3/2005), "Nâng cao hiệu lực lãnh đạo của tổ chức

đảng trong các công ty cổ phần có vốn Nhà nƣớc", Báo Nhân dân.

66. Luật Doanh nghiệp (2005), Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.

67. Hồ Chí Minh (1985), Toàn tập, Tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội.

68. Ngô Quang Minh (2001), Kinh tế nhà nước và quá trình cổ phần hóa

doanh nghiệp nhà nước – Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam.

Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà

Nội.

69. Lê Hữu Nghĩa (2006), "Phát huy vai trò lãnh đạo của đảng đối với tiến trình

cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc", Tạp chí Cộng sản, (104).

159

70. Đỗ Ngọc Ninh (2004), Nâng cao năng lực sức chiến đấu của các đảng

bộ phường ở Thủ đô Hà Nội hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

71. Hoàng Nga ( chủ biên), (2009) “ Thị trường Chứng khoán”

72. Trần Thị Minh Ngọc (2008) “ Những yếu tố cản trở quá trình cổ phần

hóa DNNN trên địa bàn Hà Nội hiện nay”. Đề tài khoa học cấp bộ, Học

viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

73. Đỗ Thị Oanh (2002), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

hiện nay, thực trạng và giải pháp, Hà Nội.

74. Nguyễn Huy Oánh, Lê Văn Bằng (2006), “Mô hình công ty mẹ, công ty

con – một giải pháp lớn để tăng tính minh bạch của DNNN và góp phần

quan trọng định hƣớng XHCN của nền kinh tế nƣớc ta”. Tạp chí Nghiên

cứu Kinh tế (3/334)

75. Phòng thƣơng mại và công nghiệp Việt Nam & Cơ quan phát triển quốc tế

Hoa Kỳ (2015), “PCI 2014. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2014”.

Nxb Lao Động, Hà Nội.

76. Phan Thành Phố (1996), Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế

ở Việt Nam - Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

77. Vũ Văn Phúc, “Giải pháp khắc phục những vấn đề đang đặt ra từ thực

trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc hiện nay”, Website Đảng

cộng sản Việt Nam.

78. Nguyễn Năng Phúc (chủ biên) (2009), Phân tích tài chính công ty cổ

phần, Nxb Tài chính, Hà Nội.

79. Nguyễn Thị Kim Phƣợng (2001), Các yếu tố tâm lý xã hội ảnh hưởng

đến quá trình CPH DNNN hiện nay, đề tài cấp bộ của Học viên Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

80. Bích Phƣợng (2005), “15 năm CPH doanh nghiệp, hiệu quả nhƣng còn

chậm”, Tạp chí Châu Á Thái Bình Dương, (5).

160

81. Nguyễn Ngọc Quang (1994), “CPH DNNN, giải pháp chiến lƣợc đổi

mới khu vực kinh tế nhà nƣớc”, Nghiên cứu Kinh tế nhà nước.

82. Vƣơng Đức Hoàng Quân và Nguyễn Thị Ngọc Liên (2007), “Bàn thêm

về đa sở hữu và vai trò của cổ đông chiến lƣợc”, Tạp chí Tài chính.

83. Quốc hội (2003), Luật DNNN, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

84. Quốc hội (2013), Luật Doanh nghiệp nhà nước sửa đổi, Nxb Tài chính,

Hà Nội.

85. Lƣơng Xuân Quỳ, 2004. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa. Đề tài cấp Nhà nƣớc mã số KX01.09/2001-2005

86. Tô Huy Rứa (2006), “CPH DNNN- dƣới góc nhìn phát triển kinh tế - xã

hội bền vững”, Tạp chí Cộng sản, (5).

87. Joseph. E. Stiglitz (1995), Kinh tế học công cộng. Nxb Khoa học và kỹ

thuật & Trƣờng ĐH KTQD

88. Tài liệu Hội nghị Tổng kết 10 năm sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng

cao hiệu quả DNNN, tháng 12 năm 2011.

89. Hoàng Xuân Tại, Báo cáo tóm tắt nghiên cứu, đánh giá công tác CPH

các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và đề xuất giải pháp thúc đẩy

công tác CPH ở Thanh Hóa.

90. Lê Văn Tâm (2004), Cổ phần hóa và quản lý doanh nghiệp nhà nước

sau cổ phần hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

91. Trần Hồng Thái (2001), Các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả tiến

trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Luận án tiến sĩ kinh tế -

Trƣờng Đại học kinh tế TP Hồ Chí Minh.

92. Nguyễn Hữu Thắng (chủ nhiệm) (2011), Khủng hoảng nợ công trên thế

giới và bài học rút ra cho Việt Nam, đề tài cấp Bộ, Học viện Chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

161

93. Ngô Đăng Thành (Chủ trì) (2010), Cải cách các Tổng công ty nhà nước ở

Việt Nam theo mô hình Công ty Mẹ - Con (Chủ trì), Đề tài cấp Trƣờng

Đại học Kinh tế, ĐHQG Hà Nội.

94. Tỉnh ủy Thanh Hóa (2015) Dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp

hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII tại Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh lần thứ

XVIII, nhiệm kỳ 2015-2020 ( Tài liệu sử dụng tại đại hội Đảng bộ cấp

huyện và tương đương).

95. Nguyễn Thị Thơm (1999), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt

Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà

Nội.

96. Nguyễn Thị Thơm, “Doanh nghiệp nhà nƣớc sau cổ phần hóa: kết quả hoạt

động, bất cập nảy sinh và hƣớng tháo gỡ”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (7).

97. Hoàng Công Thi và PTS Phùng Thị Đoan (1992), “Cổ phần hóa doanh

nghiệp Nhà nƣớc ở Việt Nam”, Thông tin chuyên đề, Viện Khoa học Tài

chính, Bộ Tài chính, Hà Nội.

98. Trần Đình Thiên “ Giải pháp cho việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà

nước” Báo nhân dân hằng tháng số 179, tháng 3 năm 2012

99. Nguyễn Thế Tràm và Trần Thị Bích Hạnh (2014), “Làm thế nào thúc ép

cải cách doanh nghiệp nhà nƣớc có hiệu quả”, Tạp chí Phát triển kinh

tế-xã hội Đà Nẵng, số 57

100. Đoàn Văn Trƣờng (1996), Thành lập tổ chức và điều hành hoạt động

CTCP, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.

101. Nguyễn Hữu Từ (1993), Công ty cổ phần và CPH DNNN ở nước ta

hiện nay, đề tài cấp Bộ của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

102. Vũ Huy Từ (2003), “Nhìn lại quá trình CPH DNNN: động thái và giải

pháp”, Chứng khoán Việt Nam, (9).

103. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ƣơng (1998), Chuyển đổi các

162

DNNN - quản lý sự thay đổi triệt để trong môi trường phi điều tiết, Hà Nội.

104. Ủy Ban Kinh tế Quốc hội – Nhóm tƣ vấn chính sách kinh tế vĩ mô, Báo

cáo kinh tế vĩ mô 2013- Cải cách thể chế kinh tế: chìa khóa cho tái cơ cấu.

NXB Tri thức, Hà Nội, 2014.

105. UBND tỉnh Thanh Hóa (2002), Báo cáo tình hình đổi mới DNNN của

tỉnh Thanh Hóa.

106. UBND tỉnh Thanh hóa (2002), Hệ thống văn bản mới về sắp xếp, đổi

mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước.

107. UBND tỉnh Thanh Hóa (2003), Báo cáo tình hình đổi mới DNNN của

tỉnh Thanh Hóa.

108. UBND tỉnh Thanh Hóa, Đề án sắp xếp đổi mới, phát triển DNNN.

109. UBND tỉnh Thanh Hóa, Hệ thống văn bản mới về sắp xếp đổi mới, phát

triển DNNN.

110. UBND tỉnh Thanh Hóa – Sở Tài chính (2011), Báo cáo tổng kết 10 năm

thực hiện sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh

nghiệp nhà nước.

111. Hoàng Trung (2015) Tƣơng lai của các doanh nghiệp nhà nƣớc nhìn từ

cổ phần hóa” http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/227419/tuong-lai-cua-cac-

doanh-nghiep-nha-nuoc-nhin-tu-co-phan-hoa.html Cập nhật

25/03/2015 08:00 GMT+7

Tài liệu tiếng Anh

112. Brada, J. C (1996), Privatization is transition – or is it?, Journal of

Economic Perspectives, Vol.10, No2, pp 67-86

113. Lin J.Y, F. Cai & Z. Li (1997), Pefect Information and Reform of the

State-Owned Enterprises in China. Shanghai: Shanghai People‟s Press.

114. Sjoholm, Fredrik (2006), State owned enterprises and equitization in

Vietnam, EIJS Working Papaer series 228, The European Institute of

Japanese Studies.

163

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

UBND TỈNH THANH HOÁ C.TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

THƢƠNG MẠI MIỀN NÖI

Số: 1088 /PA - TMMN

Thanh Hoá, ngày12 tháng 8 năm 2012

PHƢƠNG ÁN

CỔ PHẦN HOÁ CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN

THƢƠNG MẠI MIỀN NÖI THANH HOÁ

Phần thứ nhất

THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN

THƢƠNG MẠI MIỀN NÖI

I – THÔNG TIN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP

1 – Tên và địa chỉ doanh nghiệp

Tên doanh nghiệp: Công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi

Thanh Hoá.

Tên tiếng Anh: THANH HOA MOUNTAINOUS TRADING

COMPANY LIMITED.

Trụ sở chính: Số 100 Triệu Quốc Đạt-Phƣờng Điện Biên- thànhPhố

Thanh Hoá

Điện thoại: 037 3852409 - Fax: 0373 850127.

Là doanh nghiệp hạch toá kinh tế độc lập, là công ty TNHH một thành viên

do UBND tỉnh Thanh Hoá làm chủ sở hữu.

2 -Quá trình phát triển của công ty.

- Công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá, tiền

thân là công ty Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá, đƣợc thành lập theo Quyết

định số 1005/QĐ-UBTH ngày 01/11/1990 của UBND tỉnh Thanh Hoá.

Năm 1999 đổi tên thành công ty Thƣơng mại và Đầu tƣ phát triển miền núi

Thanh Hoá theo Quyết định số 2418/QB-UB ngày 29/10/1999 của Chủ tịch

UBND tỉnh Thanh Hoá.

Năm 2010 đƣợc chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên Thƣơng

mại miền núi theo Quyết định số 2197/QĐ-UBND ngày 22/6/2010.

3. Hình thức tổ chức và tƣ cách pháp nhận :

Công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá có tƣ

cách pháp nhân , có tên riêng, con dấu riêng và đƣợc mở tài khoản bằng tiền Việt

Nam và ngoại tệ tại các ngân hàng trong và ngoài nƣớc.

Công ty có bộ máy điều hành, có quyền và nghĩa vụ của công ty TNHH

một thành viên theo Luật Doanh nghiệp, Điều lệ công ty và các quy định của

pháp luật.

Công ty có vốn và tài sản riêng, chụi trách nhiệm đối với các khoản nợ

bằng toàn bộ tài sản của công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi

Thanh Hoá.

Công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá có quyền

sở hữu, sử dụng và định đoạt đối với tên gọi, thƣơng hiệu, sản phẩm, biểu tƣợng

của công ty theo quy định của pháp luật.

4 - Chức năng, nhiệm vụ của công ty:

Công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá đƣợc

UBND tỉnh giao nhiệm vụ tổ chức kinh doanh hàng hoá- dịch vụ phục vụ nhu

cầu phát triển sản xuất và đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi trong

tỉnh và thực hiện nhiệm vụ đột xuất khác theo yêu cầu của tỉnh.

5 – Ngành nghề kinh doanh (Theo GCNĐKKD)

Số Ngành nghề kinh doanh Mã ngành

TT

1 - Bán buôn hàng Nông, lâm sản, thực phẩm: 4620, 46201, 46202,

đậu, lạc, gỗ, luồng, lơn, trâu, bò. 46203, 46204, 46209

2 - Bán buôn, bán lẻ gạo, lƣơng thực, đồ 4631, 4632, 4633,

uống, thuốc lá . 4711, 4722

3 - Bán lẻ đồ dùng gia đình, điện gia dụng, 4742, 47511, 47519,

gốm, sứ, thuỷ tinh và thiết bị gia đình khác 47591, 47592, 47593,

47599, 47892,

4 - Bán buôn, bán lẻ đồ uống có cồn: Bia, 4633, 46331, 46332,

rƣợu và nƣớc giải khát...thuốc lá 4634, 46340, 4724,

47240

5 - Hàng vật tƣ kỹ thuật phục vụ SX: Sắt thép, 46622, 46631, 46632,

xi măng, tấm lợp, gạch ngói, phân bón... 46633, 46639, 47524,

47525, 46691

6 - Bán buôn, bán lẻ mô tô xe máy và phụ 4541, 4542, 4543,

tùng mô tô xe máy, bán lẻ xe đạp 47735, 47738,

7 - Bán buôn, bán lẻ hàng may mặc 4641, 46411, 46412,

46413, 46414, 47741

- Bán buôn, bán lẻ xăng dầu, dầu nhớt... 46613, 4730 8

- Bán lẻ hàng hoá vật tƣ phục vụ tiêu dùng; 4773 9

Dầu hoả, ga, khí hoá lỏng, bếp ga...

10 - Kinh doanh dịch vụ ăn uống, khách sạn, 5610, 55103, 55104,

nhà nghỉ; massage, giặt là. 9620

- Kinh doanh dịch vụ vận tải đƣờng bộ. 49331, 49332, 49333 11

- Sản xuất chế biến hàng Nông lâm sản. 1629 12

13 - Thi công các công trình dân dụng, công 4100, 4290

nghiệp, giao thông, thuỷ lợi

14 - Kinh doanh kho bãi, lƣu giữ hàng hoá 52109

15 - Kinh doanh các ngành nghề khác căn cứ

vào năng lực của Công ty, nhu cầu của Thị

trƣờng và đƣợc pháp luật cho phép.

6 – Cơ cấu tổ chức công ty.

a- Cơ cấu tổ chức quản lý công ty bao gồm: Chủ tịch công ty, Giám

đốc công ty và Kiểm soát viên. Chủ tịch công ty kiêm Giám đốc.

b - Bộ máy giúp việc

- Gồm : 03 phó giám đốc, kế toán trƣởng và 01 kiểm soát viên không

chuyên trách

- Các phòng chức năng chuyên môn, nghiệp vụ: 06 phòng.

+ Phòng Tổ chức - Hành chính.

+ Phòng Tài chính – Thống kê, Kế hoạch.

+ Phòng Kinh doanh Vật tƣ nông nghiệp và hàng tiêu dùng.

+ Phòng Kinh doanh Vật tƣ xây dựng.

+ Phòng Kinh doanh xăng dầu và thiết bị kỹ thuật.

+ Phòng Kinh doanh Vận tải và Dịch vụ.

* Chức năng, nhiệm vụ các phòng chức năng công ty.

- Tham mƣu cho lãnh đạo công ty theo chức năng đƣợc Chủ tịch công

ty qui định.

- Xây dựng, tổ chức thực hiện hệ thống quản lý chức năng.

- Chỉ đao, hƣớng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của

các Chi nhánh trực thuộc theo chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao.

- Tổ chức hoạt động kinh doanh các lĩnh vực đƣợc phân công.

c - Các đơn vị trực thuộc: 11 chi nhánh.

+ Chi nhánh Thƣơng mại Mƣờng Lát:

+ Chi nhánh Thƣơng mại Quan Sơn:

+ Chi nhánh Thƣơng mại Quan Hoá

+ Chi nhánh Thƣơng mại Bá Thƣớc.

+ Chi nhánh Thƣơng mại Lang Chánh.

+ Chi nhánh Thƣơng mại Ngọc Lặc.

+ Chi nhánh Thƣơng mại Thƣờng Xuân.

+ Chi nhánh Thƣơng mại Nhƣ Xuân.

+ Chi nhánh Thƣơng mại Nhƣ Thanh.

+ Chi nhánh Thƣơng mại Cẩm Thuỷ.

+ Chi nhánh Thƣơng mại Thạch Thành.

* Chức năng, nhiệm vụ của các Chi nhánh trực thuộc:

- Tổ chức các hoạt động kinh doanh – phục vụ theo ngành nghề đăng ký

kinh doanh trên địa bàn đƣợc phân công.

- Giữ vững và phát triển thị trƣờng trên địa bàn và ngoài địa bàn.

- Thực hiện hoàn thành nhiệm vụ và các chỉ tiêu kế hoạch công ty giao.

- Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đƣợc giao, tạo việc làm ổn định và

tăng thu nhập cho ngƣời lao động.

7 – Mạng lƣới và cơ sở vật chất

- Công ty có hệ thống mạng lƣới bán lẻ với 14 cụm Thƣơng mại, 67 cửa

hàng bán lẻ, 25 của hàng Xăng dầu và hàng trăm đại lý bán buôn, bán lẻ

trong toàn tỉnh.

- Hệ thống mạng lƣới dịch vụ với 2 tổ hợp gồm nhà hàng, nhà nghỉ, xông

hơi masage; 8 nhà nghỉ tại 11 huyện miền núi.

- Hệ thống kho chứa hàng gồm: 03 kho Vật tƣ kỹ thuật tại Thành phố Thanh Hoá diện tích trên 1.600m2 (chƣa kể diện tích kho bãi ngoài trời) và hệ thống kho tại các chi nhánh 2.900m2; Hệ thống kho xăng dầu gồm 02 tổng

kho tại Thành phố Thanh Hoá có sức chứa trên 3.000m3 và các kho tại 11 huyện miền núi có sức chứa trên 1.000 m3.

- Đội xe vận tải với 25 đầu xe tải trọng từ 12 tấn trở lên, trong đó có 9 xe

chuyên dụng.

8 – Vốn kinh doanh tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp

Tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, vốn kinh doanh của công ty

là: đồng

a – Phân theo cơ cấu

ĐVT: đồng

31/12/2011 theo đánh giá lại

Khoản 31/12/2009 31/12/2010 31/12/2011 mục

Vốn ngắn 68.341.174.951 83.416.092.400 77.387.311.458 hạn

Vốn dài 47.847.629.976 55.317.888.941 61.035.899.164 hạn

Tổng cộng 116.188.804.927 138.733.981.341 138.423.210.622

b – Phân theo nguồn vốn. ĐVT: đồng

31/12/2011

Khoản mục 31/12/2009 31/12/2010 31/12/2011 theo đánh giá

lại

Nguồn Vốn 46.072.888.315 50.786.177.455 53.059.759.733 CSH

Nợ phải trả 70.115.916.612 87.947.803.886 85.363.450.849

Tổng cộng 116.188.804.927 138.733.981.341 138.423.210.622

9 – Tình hình lao động của công ty tại thời điểm công bố giá trị

doanh nghiệp

a – Số lượng lao động.

Tổng số lao động hiện có đến 31/7 /2012 là: 354 ngƣời.

IV – TÌNH HÌNH KINH DOANH CỦA CÔNG TY 3 NĂM TRƢỚC

KHI CỔ PHẦN HOÁ (TỪ NĂM 2009 – 2011).

Trong những năm qua, công ty kinh doanh trong điều kiện còn gặp nhiều

khó khăn do địa bàn hoạt động rộng, mạng lƣới phân tán; kinh tế, xã hội miền

núi phát triển chƣa đồng đều, giữa các vùng còn có chênh lệch lớn, thu nhập

của đồng bào còn ở mức thấp, sức mua bị hạn chế; sản phẩm hàng hoá do

đồng bào miền núi sản xuất chƣa nhiều; các chính sách Tài chính, Tín dụng

chƣa đồng bộ, các yếu tố trên ảnh hƣởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất

kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh thƣơng mại Dịch vụ nói riêng.

Bên cạnh những khó khăn, đƣợc sự quan tâm lãnh đạo của Tỉnh ủy,

HĐND, UBND Tỉnh; chỉ đạo của các Sở, Ban, Ngành; sự đồng tình ủng hộ

của cấp uỷ, chính quyền địa phƣơng huyện, xã; sự tin tƣởng của đồng bào các

dân tộc miền núi, sự tín nhiệm của các bạn hàng, đồng thời với với sự lãnh

đạo đúng đắn của các cấp uỷ chi bộ, sự chỉ đạo, điều hành tập trung thống

nhất của ban lãnh đạo chuyên môn từ Công ty đến Chi nhánh, cùng với sự

đồng tâm hiệp lực, cố gắng của mỗi tập thể, mỗi cá nhân trong toàn công ty,

Công ty đã phát huy nội lực, vƣợt qua khó khăn để đƣa hoạt động Kinh doanh

– Phục vụ ngày càng phát triển, thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị

đƣợc giao, làm nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nƣớc, bảo đảm việc làm và thu

nhập cho ngƣời lao động, bảo toàn vốn và phát triển doanh nghiệp. Một số

lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty:

1 - Kết quả KD từ năm 2009 đến 2011.

TT Chỉ tiêu ĐVT Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011

I Nguồn vốn chủ sở hữu Tr đồng 46.072 50.786 53.059

Tổng doanh thu Tr đồng 857.564 1.035.191 1.218.152 II

- Doanh thu bán hàng Tr đồng 842.725 1.027.393 1.201.638 1

- Doanh thu HĐTC Tr đồng 3.420 6.412 7.139 2

- Thu nhập khác Tr đồng 11.419 1.386 9.375 3

Lợi nhuận sau thuế Tr đồng 545 156 342 III TNDN

Nộp Ngân sách Tr đồng 3.031 3.241 1.931 IV

Thuế GTGT Tr đồng 2.574 3.051 1.626 1

Thuế TNDN Tr đồng 77 48 22 2

Thuế, phí khác Tr đồng 380 142 283 3

423 Ngƣời 341 338 V Tổng số Lao động BQ

1.000 đ 1.952 2.268 2.441 VI Lƣơng bình quân tháng

Tr đồng 2.017 3.523 1.906 VII NSLĐ bình quân

Nộp BHXH, BHYT, Tr đồng 2.140 2.406 2.348 VIII BHTN

Tr đồng 70.775,6 87.947,8 85363,4 IX Tổng nợ phải trả

Phải trả ngân sách Tr đồng 0 0 0 1

Nợ khác Tr đồng 70.775,6 87.947,8 85363,4 2

Tr đồng 37.191,3 40.456,9 35.624,8 Tổng số nợ phải thu X

Trong đó: Nợ khó đòi Tr đồng

2 – Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu

a – Kinh doanh xăng dầu.

Công ty là tổng đại lý của Tổng công ty xăng dầu Việt Nam , với năng

lực gồm: hệ thống kho dự trữ, trung chuyển xăng dầu gồm 02 tổng kho tại Thành phố Thanh Hoá có sức chứa trên 3.000m3; 25 cửa hàng xăng dầu tại 11 huyện miền núi có sức chứa trên 1.000 m3 và hệ thống các cửa hàng đại lý

bán lẻ xăng dầu; bộ phận vận tải với 04 xe bồn tự tổ chức vận chuyển hàng

cho các cửa hàng.

b – Kinh doanh Vật liệu xây dựng

Mặt hàng kinh doanh chủ yếu là Xi măng, sắt thép. Hiện nay công ty là nhà

phân phối của Công ty Xi măng Nghi sơn, đại lý của Xi măng Vinakansai, xi

măng Bỉm sơn... có hệ thống các đại lý bán hàng trong toàn tỉnh, Công ty có đội

xe vận tải đủ đáp ứng yêu cầu vận chuyển hàng cho khách;

c – Kinh doanh Vật tƣ nông nghiệp.

Mặt hàng kinh doanh chủ yếu là các loại phân bón nhƣ Đạm, Lân, kali,

phân tổng hợp NPK. Hiện công ty là đại lý cấp I của Phân bón Lâm Thao,

phân bón Thiên Nông.

d – Kinh doanh hàng hoá tiêu dùng khác.

Công ty luôn xác định và duy trì kinh doanh các mặt hàng truyền thống,

hàng thiết yếu phục vụ đồng bào miền núi là nhƣ: Lƣơng thực, muối ăn, thực

phẩm Công nghệ, các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu khác...coi đây vừa là trách

nhiệm, vừa là mặt hàng có lợi thế cạnh tranh.

e – Kinh doanh dịch vụ

* Kinh doanh Dịch vụ ăn uống, nhà nghỉ.

Trong những năm gần đây, Công ty đã đƣa kinh doanh dịch vụ: ăn uống,

giải khát, nhà nghỉ, xông hơi massage tại các huyện miền núi vào danh mục

kinh doanh chính, từng bƣớc đầu tƣ phát triển loại hình dịch vụ du lịch. Đến

nay cơ bản hầu hết các huyện miền núi có nhà nghỉ, trong đó có 02 tổ hợp nhà

hàng, nhà nghỉ, hoạt động ổn định và có hiệu quả.

* Kinh doanh kho bãi.

Công ty có kho bãi tại thành phố Thanh Hoá, với tổng diện tích mặt bằng là: 5.069 m2, trong đó diện tích kho là 1.500m2. Từ năm 2011 bƣớc đầu đã

đƣa vào sử dụng, khai thác với các hình thức dịch vụ giữ xe ô tô và cho thuê

kho bãi.

g – Kinh doanh dịch vụ vận tải.

Bộ phận vận tải của công ty hiện tại chủ yếu vận chuyển hàng hoá phục

vụ cho kinh doanh trong nội bộ.

* Mặt hàng chủ yếu

TT Chỉ tiêu ĐVT Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Ghi chú

Xăng ô tô 1000l 20.111 1 20.375 19.847

Dầu diezen 1000l 22.349 2 23.498 22.734

3 Dầu hoả 1000l 503 278 386

4 Dầu nhờn 1000l 92 162 110

5 Xi măng Tấn 232.481 264.428 299.433

6 Sắt thép Tấn 500 427 215

7 Phân bón Tấn 29.270 37.498 24.614

Hàng tiêu dùng 8 Tr đ 51.368 12.110 14.021 khác

9 Ăn uống, giải khát Tr đ 3.900 3.137 2.461

10 Nhà nghỉ Tr đ 1.815 2.185 2.130

V - TÌNH HÌNH QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI.

1 – Danh mục các diện tích đất công ty đang quản lý, sử dụng.

Diện tích Số

Địa điểm, lƣợng TT ĐVT Trong đó đơn vị quản lý sử dụng Lô đất Tổng số Đất thuê Đất khác

7 1 TP Thanh Hoá (VP) M2 10.667,7 10.667,7

2 Chi nhánh TM Mƣờng Lát 4 4.181,1 4.181,1

3 Chi nhánh TM Quan Hoá 7 4.403,5 4.403,5

4 Chi nhánh TM Quan Sơn 4 3.824 3.824

Chi nhánh TM Bá Thƣớc 11 6.651,2 6.651,2 5

6 Chi nhánh TM Lang Chánh 6 5.155 5.155

7 Chi nhánh TM Ngọc Lặc M2 M2 M2 M2 M2 M2 5 21.515,6 18.260,6 3.255

(mua)

8 Chi nhánh TM Thƣờng Xuân 7 6.083 6.083

9 Chi nhánh TM Nhƣ Xuân 2 3.299 3.299

10 Chi nhánh TM Nhƣ Thanh 5 5.004 5.004

11 Chi nhánh TM Cẩm Thuỷ M2 M2 M2 M2 5 6.691,6 5.799,6 892

(giao)

12 Chi nhánh TM Thạch Thành 6 2.473,1 2.473,1

13 CHXD Lam Kinh, Thọ Xƣơng M2 M2 1 13.735 13.735

(VP)

TỔNG CỘNG M2 70 93.683,8 89.536,8 4.147

VI – GIÁ TRỊ THỰC TẾ CỦA DOANH NGHIỆP TẠI THỜI ĐIỂM

31/12/2011.

Theo quyết định số /QĐ-UBND ngày của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh

Hoá về việc phê duyệt giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá Công ty TNHH

một thành viên Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá.

1 – Tổng giá trị tài sản thực tế tại công ty theo sổ sách kế toán và kết

quả thẩm định đến 31/12/2011:

Đơn vị tính: Đồng

Tài sản Số liệu sổ sách Số liệu Chênh

kế toán thẩm lệch

định TĐ và Sổ

sách

A - TỔNG GIÁ TRỊ TÀI SẢN

CÔNG TY

I – Tài sản đang dùng

1 – TSCĐ và Đầu tƣ dài hạn

a – Tài sản cố định 53.243.649.792

– TSCĐ hữu hình 53.243.649.792

– TSCĐ vô hình

b – Các khoản ĐTTC dài hạn

c – Tài sản dài hạn khác

2 – TSLĐ và Đầu tƣ ngắn hạn

a – Tiền 7.912.653.160

b - Đầu tƣ tài chính ngắn hạn

c – Các khoản phải thu 35.624.846.342

d – Trị giá hàng tồn kho 32.316.065.773

e – Tài sản ngắn hạn khác 1.553.746.183

3 – Chi phí XDCB dở dang 111.724.727

4 – Giá trị lợi thế kinh doanh

5 – Giá trị quyền sử dụng đất

II – Tài sản không cần dùng

1 – TSCĐ và Đầu tƣ dài hạn

2 – TSLĐ và Đầu tƣ ngắn hạn

B – TỔNG NỢ PHẢI TRẢ

1 – Nợ ngắn hạn 79.126.704.658

2 – Nợ dài hạn 6.236.746.191

C - SỐ DƢ QUĨ PHÖC LỢI, KHEN

THƢỞNG

D - TỔNG GIÁ TRỊ THỰC TẾ VỐN

NN

TẠI DOANH NGHIỆP (A, I –

(B+C)

Phần thứ hai.

PHƢƠNG ÁN CỔ PHẦN HOÁ

I/ CỎ SỞ PHÁP LÝ ĐỂ XÂY DỰNG PHƢƠNG ÁN

1/ Những căn cứ pháp lý

- Căn cứ Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2011 của Chính

phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nƣớc thành Công ty cổ phần.

- Căn cứ Thông tƣ số 196/2011/TT-BTC ngày 26 tháng 12 năm 2011

của Bộ Tài chính hƣớng dẫn bán cổ phần lần đầu và quản lý, sử dụng tiền thu

từ cổ phần hoá của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nƣớc thực hiện chuyển

đổi thành Công ty cổ phần.

II – NỘI DUNG PHƢƠNG ÁN CỔ PHẦN HOÁ.

1- Hình thức cổ phần hoá

Căn cứ tình hình thực tế công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại

miền núi Thanh Hoá chọn hình thức cổ phần hoá theo quy định tại khoản2,

Điều 4 Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011. Bán một phần vốn nhà

nƣớc kết hợp phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.

2 – Tên, địa chỉ công ty.

- Tên đầy đủ theo tiếng Việt: CÔNG TY CỔ PHẦN THƢƠNG MẠI

MIỀN NÚI THANH HOÁ.

- Tên giao dịch: CÔNG TY THƢƠNG MẠI MIỀN NÚI .

- Tên giao dịch quốc tế: THANH HOA MOUNTAINOUS TRADING

JOINT STOCK COMPANY

- Tên viết tắt:

- Địa chỉ trụ sở chính: Số 100 Triệu Quốc Đạt – P. Điện Biên – TP.

Thanh Hoá - tỉnh Thanh Hoá.

- Điện thoại 037 3852409 Fax: 037 3850527

- Tài khoản số : 3500431101000032 -Tại Ngân hàng NNPTNT tỉnh

Thanh Hoá.

- Tài khoản số: 50110000003569 - Tại Ngân hàng ĐT và PT tỉnh Thanh Hoá.

3 – Ngành nghề kinh doanh.

Ngành nghề kinh doanh Mã ngành Số

TT

1 - Bán buôn hàng Nông, lâm sản, thực 4620, 46201, 46202,

phẩm: đậu, lạc, gỗ, luồng, lơn, trâu, bò. 46203, 46204, 46209

2 - Bán buôn, bán lẻ gạo, lƣơng thực, đồ 4631, 4632, 4633, 4711,

uống, thuốc lá . 4722

3 - Bán lẻ đồ dùng gia đình, điện gia dụng, 4742, 47511, 47519,

gốm, sứ, thuỷ tinh và thiết bị gia đình khác 47591, 47592, 47593,

47599, 47892,

4 - Bán buôn, bán lẻ đồ uống có cồn: Bia, 4633, 46331, 46332,

rƣợu và nƣớc giải khát...thuốc lá 4634, 46340, 4724,

47240

5 - Hàng vật tƣ kỹ thuật phục vụ SX: Sắt 46622, 46631, 46632,

thép, xi măng, tấm lợp, gạch ngói, phân 46633, 46639, 47524,

bón... 47525, 46691

6 - Bán buôn, bán lẻ mô tô xe máy và phụ 4541, 4542, 4543,

tùng mô tô xe máy, bán lẻ xe đạp 47735, 47738,

7 - Bán buôn, bán lẻ hàng may mặc 4641, 46411, 46412,

46413, 46414, 47741

- Bán buôn, bán lẻ xăng dầu, dầu nhớt... 46613, 4730 8

- Bán lẻ hàng hoá vật tƣ phục vụ tiêu dùng; 4773 9

Dầu hoả, ga , bếp ga...

10 - Kinh doanh dịch vụ ăn uống, khách sạn, 55103, 55104, 5610,

nhà nghỉ; massage, giặt là, karaoke. 9620

- Kinh doanh dịch vụ vận tải đƣờng bộ. 49331, 49332, 49333 11

- Sản xuất chế biến hàng Nông lâm sản. 1629 12

- Thi công các công trình dân dụng, công 4100, 4290 13

nghiệp, giao thông, thuỷ lợi

- Kinh doanh kho bãi, lƣu giữ hàng hoá 52109 14

- Kinh doanh các ngành nghề khác căn cứ 15

vào năng lực của Công ty, nhu cầu của Thị

trƣờng và đƣợc pháp luật cho phép.

4 – Dự kiến cơ cấu tổ chức sau khi chuyển sang công ty cổ phần:

Đại hội cổ đông

Ban kiểm soát

Hội đồng quản trị

Ban giám đốc

Các phòng chức năng

1. Phòng Tổ chức – Hành chính

2. Phòng Tài chính kế hoạch

3. Phòng Kinh doanh.

4. Phòng.....

Các đơn vị trực thuộc

1. Chi nhánh miền núi.

2. Các xí nghiệp.

5 – Vốn điều lệ và cơ cấu vốn điều lệ

5.1 – Vốn điều lệ

- Vốn điều lệ: 65.000.000.000 đồng .

- Mệnh giá 01 cổ phần: 10.000 đồng/1 cổ phần.

- Số lƣợng cổ phần: 6.500.000 cổ phần

5.2 – Cơ cấu vốn điều lệ.

Cơ cấu vốn Số cổ phần Tỉ lệ %

Cổ phần Nhà nƣớc 3.315.000 51,00

Cổ phần bán ra 3.185.000 49,00

Trong đó:

- CBNCV mua theo giá ƣu đãi theo NĐ 59 CP

- Tổ chức Công đoàn. - -

- Nhà đầu tƣ chiến lƣợc.

- Cổ đông mua cổ phần qua đấu giá

6 – Phƣơng án bán cổ phần.

Sau 30 ngày kể từ ngày có Quyết định phê duyệt giá trị doanh nghiệp

của Chủ tịch UBND tỉnh , công ty thực hiện bán cổ phần lần đầu:

6.1- Giá khởi điểm dự kiến 10.500 đồng/1CP.

6.2 - Đối tƣợng mua cổ phần.

Đối tƣợng mua cổ phần bao gồm cán bộ công nhân viên công ty và các

nhà đầu tƣ trong nƣớc (theo Điều 6 Nghị định 59/2011/NĐ-CP)

a- Cổ phần bán ƣu đãi cho CBCNV

Cổ phần ƣu đãi bán cho ngƣời lao động có tên trong danh sách thƣờng

xuyên của doanh nghoanh nghiệp tính đến thời điểm công bố giá trị doanh

nghiệp (theo NĐ 59/2011/NĐ-CP).

- Tổng số lao động đƣợc mua ƣu đãi:

- Tổng số năm công tác

- Tổng số cổ phần đƣợc mua ƣu đãi :

- Tổng số cổ phần đƣợc mua thêm:

- Tỷ lệ chiếm % vốn điều lệ

(Danh sách ngƣời lao động, số năm công tác, số cổ phần của từng ngƣời

đƣợc mua ƣu đãi theo phụ lục đính kèm).

b – Cổ phần bán cho nhà đầu tƣ chiến lƣợc.

Nhà đầu tƣ chiến lƣợc là các doanh nghiệp có đủ các điều kiện theo qui

định tại Điều 37, Nghị định 59/2011/NĐ-CP.

- Đơn vị tham gia nhà đầu tƣ chiến lƣợc:

- Tổng số cổ phần bán cho nhà đầu tƣ chiến lƣợc

- Tỷ lệ chiếm % vốn điều lệ

c- Cổ phần bán đấu giá ra bên ngoài

- Đơn vị thực hiện bán đấu giá:

- Tổng số cổ phần bán đấu giá

- Tỷ lệ chiếm % vốn điều lệ

7- Thời gian bán đấu giá : Sau khi có Quyết định của UBDN tỉnh Thanh

Hoá phê duyệt Phƣơng án cổ phần hoá công ty TNHH một thành viên

Thƣơng Mại Miền núi Thanh Hoá.

8 – Chi phí cổ phần hoá.

Tổng giá trị doanh nghiệp thực tế tại doanh nghiệp đến thời điểm

31/12/2011 là: đồng, do đó Công ty dự kiến tổng chi phí cổ phần hoá là:

500.000.000 đồng, bao gồm các khoản mục chính sau đây:

TT Khoản mục chi phí Số tiền (đồng)

1 Chi phí tập huấn nghiệp vụ về cổ phần hoá 5.000.000

2 Chi phí thuê tƣ vấn xác định giá trị doanh nghiệp 121.000.000

3 Chi phí tổ chức hội nghị triển khai công tác CPH 67.000.000

4 Chi phí kiểm kê, đối chiếu công nợ xác định giá trị doanh 50.000.000

nghiệp

5 Chi phí xây dựng Phƣơng án CPH và xây dựng Điều lệ công 23.000.000

ty CP

6 Chi phí hoạt động tuyên truyền, công bố thông tin doanh 16.000.000

nghiệp

7 Chi phí tổ chức bán cổ phần (Đấu giá, bảo lãnh phát hành) 70.000.000

8 Chi phí hoạt động của Ban chỉ đạo, tổ giúp việc 78.000.000

9 Chi phí Đại hội cổ đông lần đầu 30.000.000

10 Chi phí khác (Văn phòng phẩm, hành chính....) 40.000.000

Tổng cộng 500.000.000

Chi phí cổ phần hoá sẽ đƣợc quyết toán trên cơ sở các chi phí thực tế phát

sinh sau khi kết thúc quá trình cổ phần hoá.

9 – Kế hoạch sử dụng tiền thu đƣợc từ bán cổ phần thuộc vốn Nhà nƣớc.

Trên cơ sở giá trị thực tế phần vốn Nhà nƣớc tại doanh nghiệp, tỉ lệ góp

vốn của Nhà nƣớc tại công ty cổ phần, Công ty cổ phần Thƣơng mại miền núi

dự kiến kế hoạch sử dụng tiền thu từ cổ phần hoá, tạm tính theo phƣơng án

giả sử tất cả cổ phần bán ra đƣợc mua hết với giá 10.500 đồng/1 cổ phần và

giá đấu thành công thấp nhất là 10.500 đồng/ 1 cổ phần:

11 – Kế hoạch xử lý lao động dôi dƣ.

- Số lao động dôi dƣ không có nhu cầu sử dụng công ty cho nghỉ việc và

giải quyết chế độ theo qui định tại điều 17, điều 31 Bộ luật lao động.

- Số lao động hết hạn hợp đồng, lao động xin tự nguyện chấm dứt HĐLĐ,

giải quyết chế độ theo qui định tại điều 42 Bộ luật lao động.

12 – Định hƣớng kinh doanh của công ty sau cổ phần

13.1 - Định hƣớng phát triển sau khi cổ phần:

Đẩy mạnh kinh doanh các mặt hàng chủ lực phục vụ phát triển sản xuất

và hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống đồng bào các dân tộc miền núi,

với quan điểm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lƣợng phục vụ và hiệu

quả kinh doanh.

Phấn đấu các chỉ tiêu cơ bản có mức tăng trƣởng hàng năm từ 5% trở lên.

12.2 - Những giải pháp chủ yếu

a - Về công tác tổ chức bộ máy và cán bộ:

Sắp xếp, cơ cấu lại bộ máy, cán bộ các phòng công ty đến các Chi

nhánh, thực hiện bổ nhiệm, bổ nhiệm lại và luân chuyển cán bộ theo nguyên

tắc căn cứ yêu cầu công việc để bố trí cán bộ; tăng cƣờng cán bộ trẻ có trình

độ chuyên môn, có năng lực thực tiễn vào bộ máy cán bộ lãnh đạo chủ chốt,

thay thế cán bộ không đáp ứng yêu cầu, tạo nên bộ máy gọn nhẹ, điều hành

hiệu quả.

b - Về lao động :

- Tiếp nhận số lao động từ công ty nhà nƣớc chuyển sang, trên cơ sở đó

rà soát, sắp xếp lại lao động ở tất cả các khâu từ Văn phòng công ty đến các

Chi nhánh. Thực hiện định mức lao động cho từng đơn vị, từng phòng, từng

bộ phận theo yêu cầu thực tế của công việc; phân công, bố trí sắp xếp lao

động theo trình độ chuyên môn phù hợp với từng công việc và năng lực sở

trƣờng của từng ngƣời nhằm sử dụng có hiệu quả lực lƣợng lao động; Tuyển

dụng lao động mới có trình độ chuyên để bổ sung lao động thay thế số lao

động xin nghỉ chế độ, kết hợp với công tác đào tạo để phát triển nguồn nhân

lực nhằm nâng cao chất lƣợng lao động nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo

nói riêng.

c - Về kinh doanh:

- Đẩy mạnh kinh doanh các mặt hàng chủ lực phục vụ phát triển Kinh tế

– Xã hội miền núi nhƣ: : Xi măng, phân bón, xăng dầu..., phục vụ phát triển

sản xuất.

- Duy trì kinh doanh các mặt hàng truyền thống, hàng thiết yếu : muối

iốt, gạo và các mặt hàng tiêu dùng khác phục vụ nhu cầu đa dạng của đồng

bào miền núi; khai thác hiệu quả các chƣơng trình, dự án chính sách phát triển

kinh tế xã hội miền núi, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị trên địa bàn .

- Tiếp tục đầu tƣ mở rộng kinh doanh dịch vụ: ăn uống, giải khát, nhà

nghỉ, karaoke... phục vụ cho nhu cầu phát triển của xã hội.

- Củng cố đội xe vận tải, đầu tƣ mua sắm thêm phƣơng tiện khai thác

kinh doanh dịch vụ vận tải

d - Về thị trường và mạng lưới kinh doanh.

Xác định thị trƣờng chính là miền núi, kết hợp với phát triển thị trƣờng

các huyện miền xuôi trong tỉnh, từng bƣớc mở rộng quan hệ trao đổi hàng hóa

với nƣớc bạn Lào, trƣớc mắt khai thác lợi thế thƣơng mại các cửa khẩu, tiến

tới có mặt hàng xuất khẩu.

Củng cố lại hệ thống mạng lƣới trên miền núi theo hƣớng xây dựng các tổ

hợp Thƣơng mại – Dịch vụ tại các trung tâm huyện, các cửa hàng kinh doanh

tổng hợp tại trung tâm cụm xã và các cửa hàng bán lẻ bán các mặt hàng chủ lực,

hàng tiêu dùng thiết yếu tại các xã ; phát triển mạng lƣới đến từng khu dân cƣ,

đến các công trình theo hình thức bán lẻ trực tiếp cho ngƣời tiêu dùng.

e - Về vốn và cơ chế quản lý tài chính:

* Về vốn :

- Đổi mới công tác quản lý, sử dụng hiệu quả, đúng mục đích tiền vốn.

+ Đối với nợ phải trả : Tiếp tục thực hiện trách nhiệm thanh toán các

khoản nợ phải trả cho chủ nợ, kể cả nợ cán bộ công nhân viên.

+ Đối với các khoản nợ phải thu: Tiếp tục triển khai các biện pháp thu

hồi các khoản nợ phải thu của Doanh nghiệp chuyển đổi (trừ những khoản nợ

kéo dài mà ngƣời nợ không còn khả năng thanh toán) và thu hồi các khoản nợ

khi đến hạn. Xử lý công nợ khó thu theo cơ chế dự phòng của doanh nghiệp .

- Về cơ chế quản lý tài chính :

+ Xây dựng, ban hành qui chế quản lý tài chính nội bộ .

+ Ban hành các định mức kinh tế, kỹ thuật, chi phí...trong phạm vi nội bộ

Công ty trên nguyên tắc thực hiện công khai, minh bạch theo qui định của

Nhà nƣớc nhằm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả kinh

doanh ; Thực hiện phân cấp, giao quyền mở rộng quyền tự chủ cho các Chi

nhánh theo nguyên tắc tự hạch toán, bảo đảm bù đắp chi phí và có lãi, gắn trách

nhiệm cho từng chức danh đối với công việc.

g - Về công tác Đảng và các đoàn thể.

Duy trì cơ cấu tổ chức và hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng và các

tổ chức đoàn thể ở Văn phòng công ty và các Chi nhánh. Tăng cƣờng sự lãnh

đạo của tổ chức Đảng ở từng đơn vị, phát huy vai trò phối hợp, tham gia quản

lý của các tổ chức đoàn thể quần chúng trên cơ sở qui định của pháp luật và

Điều lệ của mỗi tổ chức.

12.3 – Một số chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu 03 năm sau cổ phần hoá.

ĐVT : đồng

Kế hoạch T Chỉ tiêu T Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015

2 4 5 6 1

Kế hoạch đầu tƣ XDCB 1

2 Vốn điều lệ

3 Tổng số lao động 315 320 330

4 Tổng quĩ lƣơng

5 Thu nhập BQ 1 3.500.000 4.500.000 5.500.000

ngƣời/tháng

6 Tổng doanh thu 1.450.000.000. 1.500.000.000. 1.600.000.000.

000 000 000

Tr đó: Doanh thu bán 1.445.000.000. 1.494.000.000. 1.593.000.000.

000 000 000 hàng

Doanh thu Dịch vụ 5.000.000.000 6.000.000.000 7.000.000.000

7 Tổng chi phí

8 Lợi nhuận sau thuế

9 Tỉ lệ cổ tức

Phần thứ III

TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƢƠNG ÁN ĐƢỢC DUYỆT

I – TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Sau khi phƣơng án cổ phần hoá đƣợc duyệt, công việc tổ chức thực

hiện sẽ đƣợc tiến hành trình tự theo các bƣớc sau đây :

1 – Tổ chức bán cổ phần

- Phối hợp với công ty...thực hiện công bố thông tin trên các phƣơng

tiện thông tin đại chúng theo đúng qui định (tối thiểu 20 ngày trƣớc ngày tổ

chức đấu giá).

- Cung cấp thông tin liên quan đến doanh nghiệp và cuộc đấu giá cho

các nhà đầu tƣ, các tổ chức xúc tiến đầu tƣ cùng với đơn đăng ký tham gia

đấu giá.

- Tiếp nhận đơn đăng ký tham gia đấu giá, kiểm tra điều kiện tham dự

đấu giá, thu tiền đặt cọc và phát phiếu tham dự cho các nhà đầu tƣ có đủ điều

kiện.

- Tổ chức việc đấu giá, công bố kết quả đấu giá, lập biên bản và báo

cáo kết quả cho BCĐ cổ phần hoá.

- Thu tiền của nhà đầu tƣ trúng thầu và trả tiền đặt cọc cho nhà đầu tƣ

không trúng thầu theo đúng qui định của pháp luật và Qui chế đấu giá.

- Sau khi chốt giá trúng thầu bình quân thực tế theo kết quả đấu giá,

Công ty sẽ tiến hành thủ tục thu tiền mua cổ phần ƣu đãi của CBCNV trong

vòng 15 ngày làm việc kể từ ngày tổ chức bán đấu giá.

- Báo cáo kết quả thanh toán tiền bán cổ phần cho UBND tỉnh, trong

trƣờng hợp không bán hết số cổ phần bán ra, Công ty sẽ làm công văn kiến

nghị UBND tỉnh cho ý kiến chỉ đạo xử lý số cổ phần chƣa bán hết trong thời

gian nhanh nhất.

2 – Tổ chức Đại hội cổ đông thành lập công ty cổ phần, đăng ký

kinh doanh và ra mắt cổ ty cổ phần.

- BCĐ cổ phần hoá công ty sẽ tổ chức Đại hội cổ đông lần đầu để thông

qua Điều lệ và phƣơng án đƣợc duyệt, Bầu Hội đồng quản trị và Ban kiểm

soát Công ty cổ phần.

- Chủ tịch công ty kiêm giám đốc, Kế toán trƣởng công ty cổ phần hoá

thực hiện bàn giao cho Hội đồng quản trị và Ban tổng giám đốc các vấn đề :

Lao động, tài sản, tiền vốn, danh sách cổ đông, tài liệu, hồ sơ sổ sách của

doanh nghiệp.

- Hoàn tất công việc còn lại về đăng ký kinh doanh, khắc dấu, phát

hành sổ cổ đông, thực hiện chính sách cho ngƣời lao động và thực hiện kế

hoạch sản xuất kinh doanh sau cổ phần hoá.

- Tiến hành thanh, quyết toán vốn, tài sản và các vấn đề tài chính khác

phát sinh từ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp Công ty TNHH một

thành viên Thƣơng mại miền núi đến thời điểm chính thức bàn giao sang

Công ty Cổ phần Thƣơng mại miền núi.

II – THỜI GIAN THỰC HIỆN

- Sau khi có quyết định phê duyệt phƣơng án cổ phần hoá, việc triển

khai tổ chức bán cổ phần theo phƣơng án sẽ tiến hành trong vòng 45 ngày để

bảo đảm tiến độ cổ phần hoá theo kế hoạch đề ra.

- Sau khi kết thúc thời hạn thu tiền của nhà đầu tƣ tham gia đấu giá và

CBCNV mua cổ phần ƣu đãi, nếu số cổ phần bán ra chƣa đƣợc bán hết, Công

ty sẽ lập tờ trình đề nghị UBND tỉnh xem xét giải quyết.

- Trong vòng 10 ngày sau khi hoàn tất việc bán cổ phần và thu tiền,

Công ty sẽ chốt danh sách cổ đông và tiến hành Đại hội cổ đông thành lập.

- Ngay sau khi hoàn tất việc Đại hội cổ đông thành lập, Hội đồng quản

trị và Ban giám đốc mới tiến hành đăng ký kinh doanh, ra mắt công ty cổ

phần và lập tờ trình giải quyết các vấn đề tài chính phát sinh từ thời điểm xác

định giá trị doanh nghiệp đến khi ra mắt công ty cổ phần trình UBND tỉnh

xem xét phê duyệt.

III – KIẾN NGHỊ

Để tạo điều kiện cho công ty ổn định và phát triển sau khi chuyển đổi

sang công ty TNHH một thành viên, công ty đề nghị Chủ sở hữu (UBND

tỉnh) một số nội dung sau :

1 - Đề nghị UBND tỉnh tạo điều kiện để công ty thực hiện một số dự án

mở rộng và phát triển kinh doanh.

2 - Với lợi thế tiềm năng về mạng lƣới, cơ sở vật chất và lao động hiện

có của công ty, đề nghị UBND tỉnh quan tâm tạo điều kiện để Công ty đƣợc

giao thực hiện những chƣơng trình, dự án, chính sách đối với miền núi phù

hợp với chức năng, nhiệm vụ của công ty.

3 – Hiện nay quĩ dự phòng trợ cấp mất việc làm của công ty tại thời

điểm là : đồng, không đủ chi trả chế độ cho ngƣời lao động. Đề nghị quĩ hỗ

trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp hỗ trợ kinh phí để giải quyết chế độ

cho ngƣời lao động mất việc, thôi việc theo qui định hiện hành.

Trên đây là nội dung phƣơng án chuyển đổi công ty Thƣơng mại và

ĐTPT miền núi Thanh Hoá thành công ty TNHH một thành viên.

Kính trình Chủ tịch UBND tỉnh xem xét quyết định./.

CHỦ TỊCH CÔNG TY KIÊM

TRƢỞNG BCĐ CỔ PHẦN HOÁ GIÁM ĐỐC

Nguyễn Lƣơng Thăng( đã ký) Nguyễn Đình Tự ( Đã ký)

UỶ BAN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Phụ lục 2

TỈNH THANH HOÁ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SỞ TÀI CHÍNH

Thanh Hoá, ngày 10 tháng 5 năm 2010

PHƢƠNG ÁN

BÁN PHẦN VỐN NHÀ NƢỚC ĐẦU TƢ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN

DU LỊCH THANH HÓA

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa tại công

văn số 7304/UBND - ĐMDN ngày 31 tháng 12 năm 2010 về việc bán phần

vốn nhà nƣớc tại Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hóa; Căn cứ vào quy định

của pháp luật, Điều lệ Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hóa, Công ty TNHH

một thành viên Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá. Sở Tài chính lập phƣơng án

bán phần vốn nhà nƣớc tại Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hóa nhƣ sau:

I. Căn cứ pháp lý:

- Căn cứ Luật Doanh nghiệp năm 2005 số 60/2005/QH11. ngày

29/11/2005.

- Căn cứ Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11. ngày 29/6/2006.

- Căn cứ Luật Đất đai của Quốc hội nƣớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Việt Nam số 13/2003/QH11 về đất đai.

- Căn cứ Điều lệ tổ chức và hoạt động Công ty cổ phần Du lịch Thanh

Hóa tháng 6 năm 2007 (sửa đổi bổ sung theo Nghị quyết đại hội đồng cổ đông

thƣờng niên ngày 9 tháng 6 năm 2007); Điều lệ tổ chức và hoạt động công ty

TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi Thanh Hoá.

- Căn cứ Thông tƣ 18/2007/TT – BTC ngày 13/3/2007 của Bộ Tài

chính hƣớng dẫn việc mua, bán lại cổ phiếu và một số trƣờng hợp phát hành

thêm cổ phiếu của công ty đại chúng.

- Căn cứ Nghị định số 09/2009/NĐ-CP ngày 05/02/2009 của Chính phủ

Ban hành quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nƣớc và quản lý vốn nhà

nƣớc đầu tƣ vào doanh nghiệp khác.

- Căn cứ Quyết định số 14/2011/QĐ-TTg ngày 04/3/2011 của Thủ

tƣớng Chính phủ về việc ban hành tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp

Nhà nƣớc.

- Căn cứ Quyết định số 540/2011/QĐ-UBND ngày 25/01/2011 của

UBND thành phố Thanh Hoá về việc ban hành giá các loại đất, phân loại

đƣờng phố trên địa bàn thành phố Thanh Hoá năm 2011.

II. Sự cần thiết phải bán phần vốn Nhà nƣớc đầu tƣ tại Công ty cổ

phần Du lịch Thanh Hoá.

1. Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá đã đi vào hoạt động từ năm

2002, có vị trí địa lí rất thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch,

với tổng diện tích đất quản lý 14.070 m2, vốn điều lệ 12.000 triệu đồng.

Nhƣng sau gần 9 năm đi vào hoạt động, mặc dù rất cố gắng nhƣng do cơ sở

vật chất đã lạc hậu xuống cấp nghiêm trọng, giá trị tài sản cố định đã hao mòn

hết nhƣng chƣa đƣợc đầu tƣ mới; năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên

công ty chƣa đáp ứng yêu cầu đổi mới, công ty không phát huy đƣợc lợi thế vị

trí địa lý, thƣơng hiệu ngày bị mai một, do đó hiệu quả kinh doanh đạt thấp,

nợ đọng BHXH, lỗ tuỹ kế đến 31/12/2010 là 404 triệu đồng, thu nhập thấp,

đời sống cán bộ nhân viên gặp nhiều khó khăn, lợi ích của các cổ đông gần

nhƣ không có. Nguyên nhân chủ yếu là thiếu nhà đầu tƣ có tiềm năng đầu tƣ

nâng cấp và chƣa có cơ chế quản lý phù hợp. Nên có cơ chế thu hút đƣợc nhà

đầu tƣ chiến lƣợc trong và ngoài nƣớc đầu tƣ vào công ty cổ phần Du lịch

Thanh Hoá sẽ giúp công ty lành mạnh hoá và cải thiện cơ cấu tài chính hiện

nay của công ty, có nhƣ vậy mới góp phần phát triển cơ sở hạ tầng của ngành

Du lịch, tạo vị thế cạnh tranh đối với hoạt động du lịch trong và ngoài tỉnh.

2. Căn cứ Quyết định số 14/2011/QĐ-TTg ngày 04/3/2011 của Thủ

tƣớng Chính phủ về việc ban hành tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp

Nhà nƣớc, Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá không thuộc diện doanh

nghiệp cổ phần Nhà nƣớc tham gia cổ phần, do đó Nhà nƣớc không cần

chiếm giữ cổ phần chi phối, Nhà nƣớc không cần đầu tƣ bổ sung và đủ điều

kiện bán phần vốn nhà nƣớc tại Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá để thu

hồi vốn nhà nƣớc đầu tƣ vào nhiệm vụ khác.

3. Từ những yêu cầu và sự cần thiết trên, sau khi trao đổi với Công ty

cổ phần Mía đƣờng Lam Sơn (cổ đông chiếm 39% vốn điều lệ); Công ty

TNHH một thành viên Thƣơng mại miền núi (ngƣời trực tiếp quản lý phần

vốn nhà nƣớc tại Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá). Sở Tài chính trình

Chủ tịch UBND tỉnh phƣơng án bán phần vốn nhà nƣớc tại Công ty cổ phần

Du lịch Thanh Hoá.

III. Mục đích sử dụng phần vốn nhà nƣớc thu hồi .

Thu hồi phần vốn Nhà nƣớc đã đầu tƣ vào Công ty cổ phần Du lịch

Thanh Hoá về để đầu tƣ cho các nhiệm vụ của tỉnh.

IV. Thông tin chính về công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá

1. Giới thiệu chung

- Tên công ty: Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá

- Địa chỉ: 25A- Quang Trung, Thành phố Thanh Hoá

- Điện thoại : 0373.720.979 Fax : 0373 720.797

- Vốn Điều lệ : 12.000.000.000 đồng

- Ngành nghề kinh doanh:

Kinh doanh nhà hàng, khách sạn, massage, karaoke; kinh doanh dịch

vụ cho thuê văn phòng, nhà làm việc; mua bán các loại rƣợu, thuốc lá điếu

sản xuất trong nƣớc; kinh doanh ăn uống; kinh doanh vận chuyển khách du

lịch, kinh doanh dịch vụ du lịch lữ hành, khách quốc tế và nội địa.

2. Cơ cấu vốn điều lệ hiện tại

- Tổng vốn điều lệ : 12.000.000.000 đồng

- Vốn Nhà nƣớc giao công ty TNHH một thành viên TMMN quản lý :

6.000.000.000 đồng, chiếm 50 %.

- Vốn công ty CP mía đƣờng Lam Sơn: 4.680.000.000 đồng, chiếm

39%.

- Vốn các cổ đông khác : 1.320.000.000 đồng, chiếm 11%.

3. Tình hình tài chính công ty đến 31/12/2010

- Tổng giá trị tài sản trên sổ sách kế toán 12.596.947.349 đồng

+ Tài sản lƣu động và đầu tƣ ngắn hạn 814.596.339 đồng

+ Tài sản cố định và đầu tƣ dài hạn 11.782.351.010 đồng

+ Nợ phải trả 711.078.974 đồng

+ Lỗ luỹ kế 404.266.784 đồng

+ Giá trị doanh nghiệp 11.885.868.375 đồng

4. Thông tin về đất đai, lợi thế vị trí địa lý, lợi thế kinh doanh.

- Diện tích đất Công ty đang quản lý sử dụng: 14.070 m2

- Địa chỉ tại phƣờng Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hoá. Trên ngã tƣ giao

lộ giữa phố Quang Trung và phố Tịnh Điền. Khu đất có vị trí gần trung tâm của

thành phố, thuận tiện cho việc đặt trụ sở, cũng nhƣ phát triển kinh doanh, giao

dịch làm văn phòng, trung tâm thƣơng mại và dịch vụ du lịch.

- Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá đƣợc UBND tỉnh Thanh Hoá cấp

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 015925 ngày 24/4/2002. Đất thuê trả

tiền thuê sử dụng đất hàng năm, thời hạn sử dụng đến hết năm 2031.

V. Cơ sở pháp lý và nội dung xác định lại giá trị cổ phần tại thời

điểm 01/01/2011.

1. Cơ sở xác định giá trị cổ phần

a. Căn cứ khoản 3 Điều 1 Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày

26/6/2007 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nƣớc thành

công ty cổ phần quy định: Việc xác định lại giá trị cổ phần phải thực hiện

công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trƣờng; khắc phục tình trạng cổ

phần hoá khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trƣờng

vốn, thị trƣờng chứng khoán.

b. Tại phần III, mục A phƣơng pháp tài sản Thông tƣ số 146/2007/TT-

BTC ngày 06/12/2007 của Bộ Tài chính quy định: "Giá trị thực tế của doanh

nghiệp là giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm

xác định giá trị doanh nghiệp có tính đến khả năng sinh lời của doanh

nghiệp".

c. Để xác định giá trị cổ phần của doanh nghiệp khi thực hiện bán cổ

phần trƣớc hết phải xác định đƣợc giá trị thực tế của doanh nghiệp.

Giá trị thực tế của doanh nghiệp = Giá trị thực tế của tài sản + Giá trị

lợi thế kinh doanh + Giá trị vốn đầu tƣ dài hạn của doanh nghiệp tại doanh

nghiệp khác + Giá trị quyền sử dụng đất .

2. Nội dung, xác định giá trị doanh nghiệp và giá trị cổ phần.

a. Giá trị thực tế của tài sản: Tài sản hiện vật; tài sản bằng tiền, các

khoản nợ phải thu, các khoản chi phí dở dang, giá trị tài sản vô hình...

b. Giá trị vốn đầu tƣ dài hạn của doanh nghiệp tại doanh nghiệp khác.

c. Giá trị lợi thế kinh doanh, giá trị lợi thế vị trí địa lý.

Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá thực hiện hình thức thuê đất, trả

tiền thuê đất hàng năm, do vậy không tính giá trị thuê đất vào giá trị doanh

nghiệp mà chỉ tính giá trị lợi thế vị trí địa lý của khu đất vào giá trị thực tế của

doanh nghiệp.

VI. Phƣơng án xác định giá trị cổ phần

1. Loại hình doanh nghiệp

Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá là công ty cổ phần tại thời điểm

01/01/2011 chƣa đƣợc đăng ký là công ty Đại chúng do vậy, cổ phiếu của

công ty chƣa đƣợc niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán.

2. Dự kiến giá trị doanh nghiệp theo giá thị trƣờng tại thời điểm

01/01/2011.

2.1. Xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp.

Theo báo cáo tài chính của Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá đến

31/12/2010 giá trị tài sản trên sổ sách nhƣ sau:

A. Tài sản lƣu động và đầu tƣ ngắn hạn : 814.596.339 đồng

I. Tiền: 219.725.220 đồng

II. Các khoản phải thu: 416.585.423 đồng

III. Hàng tồn kho: 86.663.159 đồng

IV. Tài sản lƣu động khác: 91.622.537 đồng

B. Tài sản cố định và đầu tƣ dài hạn : 11.782.351.010 đồng.

I. Tài sản cố định: 10.936.258.326 đồng

II. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang: 75.236.118 đồng

III. Các khoản ký quỹ, ký cƣợc dài hạn: 250.000.000 đồng

IV. Chi phí trả trƣớc dài hạn: 520.856.5 66 đồng

C. Tổng giá trị tài sản doanh nghiệp: 12.596.947.349 đồng

D. Nợ phải trả: 711.078.974 đồng

E. Lỗ luỹ kế: 404.266.784 đồng

G. Giá trị nguồn vốn chủ sở hữu: 11.885.868.375 đồng.

2.2. Xác định giá trị lợi thế vị trí địa lý

a. Giá thị trƣờng và giá đất theo quy định

- Căn cứ Quyết định số 540/2011/QĐ-UBND ngày 25/01/2011 của

UBND thành phố Thanh Hoá về việc phê duyệt giá các loại đất, phân loại

đƣờng phố trên địa bàn thành phố Thanh Hoá năm 2011. Theo đó, giá đất ở

Đƣờng Quang Trung là 18.000.000 đ/m2, giá đất SXKD (bằng 18.000.000 x

67%) là 12.060.000 đồng.

- Giá đất ở theo giá thị trƣờng tại thời điểm 32.800.000 đồng, giá đất

SXKD là 22.000.000 đồng (bằng 32.800.000 x 67%) .

Vị trí 1: Giá đất SXKD theo thị trƣờng Giá đất SXKD tại QĐ 540

22.000.000 đ/m2 12.060.000 đ/m2

Vị trí 2 ( 50%): 11.000.000 đ/m2 6.030.000 đ/m2

b. Diện tích đất phân chia theo các vị trí

Vị trí 1: Đƣờng Quang Trung 99m x 25m = 2.475 m2

Vị trí 2: Đƣờng Tich Điền và các vị trí sâu > 25 m, diện tích còn lại là

11.595 m2

c. Dự kiến giá trị lợi thế vị trí địa lý

Vị trí 1 = ( 22.000.000 - 12.060.000 ) x 2.475 m2 = 24.601.500.000 đồng.

Vị trí 2 = ( 11.000.000- 6.030.000 ) x 11.595 m2 x 0.7 =40.339.005.000 đồng

Tổng = (24.601.500.000 + 40.339.005.000 ) = 64.940.505.000 đồng

d. Tổng giá trị doanh nghiệp:

*Tổng giá trị doanh nghiệp = Giá trị lợi thế ví trí địa lý + Giá trị tài sản.

64.940.505.000 đồng + 11.885.868.375 đồng = 76.826.373.375đồng.

2.3- Giá sàn 01 cổ phần

- Giá trị một cổ phần:

76.826.373.375đồng / 120.000 cổ phần = 640.220 đồng.

- Lấy giá trị một cổ phần đƣợc tính trên để làm giá sàn cổ phần đấu giá.

Giá sàn dự kiến: 640.000 đồng/1 cổ phần:

VII. Phƣơng án:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 87 Luật Doanh nghiệp năm 2005 số

60/2005/QH11. Các cổ phần đƣợc tự do chuyển nhƣợng, trừ trƣờng hợp quy

định tại điểm 3 Điều 87 và khoản 5 điều 84 của Luật này. việc chuyển nhƣợng

đƣợc thực hiện bằng văn bản theo cách thông thƣờng hoặc bằng cách trao tay

cổ phiếu. Giấy tờ chuyển nhƣợng phải đƣợc bên chuyển nhƣợng hoặc bên

nhận chuyển nhƣợng hoặc đại diện uỷ quyền của họ ký. Bên chuyển nhƣợng

vẫn là ngƣời sở hữu cổ phần có liên quan cho đến khi tên của ngƣời nhận

chuyển nhƣợng đƣợc đăng ký vào sổ đăng ký cổ đông.

Tại khoản 6 Điều 87 Luật Doanh nghiệp năm 2005, quy định: Điều

kiện, phƣơng thức và thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng thực hiện theo

quy định của pháp luật về chứng khoán.

Từ những quy định của Nhà nƣớc nêu trên, Sở Tài chính đề xuất các

phƣơng án nhƣ sau:

A. Phương án trình Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt bán cho Công ty

cổ phần Mía đường Lam sơn mua 100% cổ phần nhà nước.

Lý do: Công ty cổ phần Mía đƣờng Lam Sơn là cổ đông hiện hữu có số

cổ phần chiếm giữ là 39% và là nhà đầu tƣ có đủ điều kiện về năng lực tài

chính để tái cơ cấu lại vốn và đầu tƣ mở rộng Công ty cổ phần Du lịch Thanh

Hoá. Công ty cổ phần Mía đƣờng Lam Sơn có nhu cầu mua số cổ phần nhà

nƣớc cần bán để có điều kiện đầu tƣ lại toàn bộ Công ty cổ phần Du lịch

Thanh Hoá phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển mới.

1. Loại cổ phần cần bán: cổ phần nhà nƣớc

2. Mệnh giá cổ phần: 100.000 đồng/CP

3. Số lƣợng cổ phần bán: 60.000 CP

- Tổng giá trị cổ phần bán theo mệnh giá: 6.000.000.000 đồng

4. Thời gian tổ chức thực hiện: Dự kiến 15/6/2011

5. Phƣơng thức bán: Theo phƣơng thức chỉ định .

6. Giá bán xác định theo giá thị trƣờng tại thời điểm bán

6.1. Nguyên tắc và phƣơng pháp xác định giá:

- Để xác định giá trị cổ phần của doanh nghiệp khi thực hiện bán cổ

phần trƣớc hết phải xác định đƣợc giá trị thực tế của doanh nghiệp.

Giá trị thực tế của doanh nghiệp = Giá trị thực tế của tài sản + Giá trị

lợi thế vị trí địa lý .

- Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt việc lựa chọn Đơn vị tƣ vấn có đủ

điều kiện xác định giá trị doanh nghiệp tại thời điểm bán cổ phần.

6.2. Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt giá bán và giá trị phần vốn nhà

nƣớc theo giá trị xác định tại thời điểm bán.

7. Dự kiến giá bán

Giá trị doanh nghiệp tính theo giá thị trƣờng tại thời điểm 01/01/2011 :

Tổng giá trị doanh nghiệp = Giá trị lợi thế ví trí địa lý + Giá trị tài sản.

- Giá trị lợi thế ví trí địa lý: 64.940.505.000 đồng

- Giá trị tài sản: 11.885.868.375 đồng

- Tổng giá trị doanh nghiệp: 76.826.373.375đồng.

- Giá bán là : 640.000 đồng/1cổ phần.

8. Giá trị vốn nhà nƣớc thu hồi (dự kiến) sau khi bán:

Số tiền thu hồi vốn nhà nƣớc (chƣa trừ chi phí để bán phần vốn nhà

nƣớc): 640.000đồng x 60.000 cổ phần = 38.400.000.000 đồng, đƣợc nộp vào

Ngân sách nhà nƣớc.

B. Phương án trình Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt bán cho các nhà đầu

tư trong và ngoài doanh nghiệp (kể cả các cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài).

Lý do: Việc bán cổ phần cho các nhà đầu tƣ trong và ngoài doanh

nghiệp (kể cả cổ đông là nhà đầu tƣ nƣớc ngoài) đƣợc thực hiện công khai,

minh bạch, theo nguyên tắc thị trƣờng, đảm bảo gắn thị trƣờng vốn, thị trƣờng

chứng khoán, tạo sự bình đẳng cho các nhà đầu tƣ và khuyến khích các nhà

đầu tƣ có đủ điều kiện về năng lực tài chính đầu tƣ vốn vào Công ty cổ phần

Du lịch Thanh Hoá.

Điều kiện bán: Thực hiện phƣơng án này trong điều kiện Công ty CP

Mía đƣờng Lam Sơn không đạt đƣợc hợp đồng mua toàn bộ phần vốn nhà

nƣớc theo phƣơng án A.

1. Loại cổ phần chào bán, mệnh giá cổ phần, số lƣợng cổ phần dự kiến

chào bán: Nhƣ phƣơng án A.

2. Thời gian tổ chức thực hiện: Dự kiến 15/6/2011

3. Đối tƣợng, phƣơng thức chào bán

3.1. Đối tƣợng: Chào bán cho các cổ đông trong và ngoài nƣớc, số

lƣợng nhà đầu tƣ không xác định.

3.2. Phƣơng thức chào bán: Theo phƣơng thức tổ chức bán đấu giá công

khai, thông qua tổ chức tƣ vấn chứng khoán.

Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt chọn Trung tâm chứng khoán hoặc Sở

giao dịch chứng khoán tổ chức bán cổ phần ra ngoài công chúng.

4. Giá chào bán: Nguyên tắc và phƣơng pháp xác định nhƣ quy định tại

điểm 6 phƣơng án A

5. Trách nhiệm của Sở Tài chính

- Trình Chủ tịch UBND tỉnh lựa chọn đơn vị tƣ vấn xác định giá trị

doanh nghiệp tại thời điểm chào bán .

- Phối hợp với các ngành thẩm định giá trị doanh nghiệp, giá sàn trình

Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt .

- Trình Chủ tịch UBND tỉnh lựa chọn Sở giao dịch chứng khoán hoặc

tổ chức bán đấu giá cổ phần.

- Phối hợp các ngành kiểm tra đôn đốc các doanh nghiệp và Đơn vị tƣ

vấn thực hiện nhiệm vụ bán cổ phần tại công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá,

tổng hợp kết quả bán đấu giá cổ phần báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh.

6. Trách nhiệm của Công ty TNHH một thành viên Thƣơng mại miền

núi Thanh Hoá

- Thông báo Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Du lịch Thanh Hoá về

việc bán phần vốn nhà nƣớc tại công ty.

- Hợp đồng với Đơn vị tƣ vấn đủ điều kiện xác định giá trị doanh nghiệp và

Sở giao dịch chứng khoán khi đƣợc Chủ tịch UBND tỉnh chấp thuận.

- Thực hiện đăng ký niêm yết thông tin tại Sở giao dịch chứng khoán

- Thực hiện các công việc khác cùng Đơn vị tƣ vấn nhằm đảm bảo cho

đợt chào bán đấu giá cổ phần thành công.

Kính trình Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt./.

SỞ TÀI CHÍNH

PGĐ

Lê Đình Chén ( Đã ký)

Phụ lục 3

Bảng 2.5: Hiệu quả SXKD của doanh nghiệp sau cổ phần hóa

(từ 1 năm trở lên)

ĐVT: Triệu đồng

Thu nhập

Nộp ngân

Vốn điều lệ

Doanh thu

Số lao động

bình quân

Tỷ lệ

Thời

sách

NLĐ

điểm

chi trả

Tên công ty

chuyển

cổ tức

TT

Năm

Năm

Năm

Năm

cổ phần

Ngày

Năm

sang

năm

trƣớc

Năm

trƣớc

Năm

trƣớc

Năm

trƣớc

Năm

01/01

trƣớc

CTCP

2010

khi

2010

khi

2010

khi

2010

khi

2010

2010

khi CPH

CPH

CPH

CPH

CPH

299.687 443.412 1.615.751 3.482.292 45.068 85.312 10.123 7.765

0,96

1,81

CTCP mỹ Hoàng Long

31/5/2002

1.000

1.000

650

650

20

15

63

63

0,3

1

1

CTCP vận tải ô tô Thanh

8/1/2001

2.4.00

2.400

2.570

53.217

78

288

100

163

0,45

2,9

10,5

2

Hóa

3 CTCP Du lịch Thanh hóa

2/2002

12.000 11.998

6.612

9.183

423

405

125

104

0,7

1,7

CTCP Giấy Lam Sơn

2/2002

5.000

5.000

21.500

28.434

1.200 1.408

221

221

0,6

1,7

4

CTCP Thép thanh thái

15/4/2002

6.000

6.000

6.630

10.195

70

252

89

32

0,5

1,8

14

5

CTCP XL-Điện lực Thanh

2/8/2002

8.878

8.878

31.727 105.603

513

5.193

212

237

0,9

2,6

20

6

Hóa

CTCP Giống và

8/2002

1.600

1.600

1.645

5.325

11

2

63

30

0,6

1,5

7

PTGT/Hóa

CTCP Lợn giống dân

8/2002

700

1.300

786

7.630

6

42

49

34

0,63

1,95

0,7

8

quyền

CTCP XDNN và PTNT

31/8/2002

6.500

8.150

25.610 104.786

130

3.704

377

298

1

1,2

9

CTCP Giống thủy sản

31/07/2002 3.000

4.043

1.263

1.857

11

31

65

61

1,5

0,35

10

CTCP Dƣợc vật tƣ y tế

31/11/2002 14.500 39.200

96.781 591.743

1.168 13.174

860

795

1,6

0,67

11

CTCP đầu tƣ NN Yên

31/12/2002 2.600

2.419

1.177

5.174

2

4

22

27

0,412

2,04

12

định

CTCP tƣ vấn thiết kế xây

14/7/2003

600

600

1.250

2.881

150

426

18

18

1,2

4,9

13

dựng

CTCP xây lắp 4

15/7/2003

1.500

1.500

3.780

6.751

105

215

31

31

1,5

2,5

14

CTCP Gạch trƣờng lâm

19/7/2003

2.000

2.000

8.360

12.115

10.361 1.067

62

62

1

2,1

15

CTCP bê tông thƣơng

11/7/2003

1.300

1.300

4.205

6.700

21

151

39

39

1,5

2,5

16

phẩm

CTCP chế biến tinh bột

7/9/2003

2.000

3.317

4.620

5.547

442

52

91

91

1

2,4

10

17

ngô

CTCP Cơ khí và XLSông

1/1/2005

6.000

6.000

10.250

46.274

89

880

137

220

15

12

24

18

chu

19

CTCP May Thanh Hóa

2/11/2003

1.600

2.500

6.313

10.293

29

190

505

500

05

2

CTCP Vận tải sông biển

30/6/2003

1.000

1.800

3.438

858

150

12

46

30

05

09

20

CTCP Bao bì

30/11/2003 5.000

5.000

12.120 109.815

350

1.383

276

252

12

21

21

CTCP QLvà KT bến xe

30/4/2003

1.800

1.800

1.947

11.293

211

1.212

88

165

07

25

22

12

23 Tổng CTCP tƣ vấn XDGT 28/6/2003

3.500

3.500

3.115

17

881

880

108

76

15

45

12

CTCP Giống và PTCN

30/6/2003

2.600

2.600

970

3.658

5

20

45

23

05

11

24

Thọ Xuân

25

CTCP Tƣ vấn thủy lợi

30/6/2003

1.700

1.700

2.989

15.844

613

1.690

85

76

12

46

18

CTCP Cầu đƣờng Thanh

11

25

31/7/2003

8000

8.000

23.530

91.262

203

4.100

220

151

26

14

Hóa

27

CTCP Giống cây trồng

30/1/2003

5000

5.000

35.684

85.021

383

262

224

148

036

12

CTCP Chế biến thủy sản

23/12/2003 1.200

1.200

2.463

3.939

185

432

91

35

056

14

28

thanh hóa

CTCP Thực phẩm NS và

30/6/2003

4.597

8.000

93.044

19.198

774

1.873

254

128

03

15

29

DL

CTCP TM và DL Thanh

31/10/2003 5.000 20.332

28.802

81.765

826

2.134

245

124

02

17

105

30

Hóa sông

CTCP In ba đình Thanh

30/4/2003

2.000

2.000

9.838

10.989

86

127

81

62

08

18

31

Hóa

CTCP Lợn giống Hoằng

31/12/2003 2.600

2.600

3.292

3.102

75

230

64

49

045

05

32

Hóa

CTCP Vật liệu hàm rồng

30/4/2004

2.100

2.200

3.251

4.130

95

114

75

75

07

09

33

CTCP Xây dựng số 3

30/4/2004

4.300

4.300

42.938

75.227

528

3.489

280

214

077

3

34

CTCP Giấy Thanh sơn

30/6/2004

500

500

3.930

4.452

364

332

60

063

1

60

35

CTCP SNK / Thanh hóa

14/7/2004

7.000

5.361

282.359 54.179

515

522

335

08

12

49

36

CTCP GTCC Thạch

45

30/9/2003

1.000

3.000

2.786

11.942

8

541

75

07

174

37

Thành

CTCP Mía đƣờng Thanh

7/4/2004

2.000

1.758

1.516

31.855

151

452

108

42

07

26

38

Hóa

CTCP Công trình giao

1.200

1.200

2.120

3.195

50

71

67

67

07

06

39

thông

CTCP Xây dựng giao

1/4/2004

1.200

2.200

28.779

18.500

925

781

212

86

0,7

1,5

40

thông 2 Thanh hóa

CTCPKS và XDPG

31/12/2004 7.000

7.006

48.782

45.734

1.749 2.617

548

132

0,5

1,9

5

41

T.Hóa

CTCP Giao thông Nông

31/5/2005

700

1.000

520

820

42

50

50

22

0,8

1,5

42

cống

43

CTCP Điện máy HCTH

31/12/2004 5.555

5.555

103.215 168.260

111

1.056

169

79

0,85

1,98

10

CTCPTM Tổng hợp

31/12/2004 2.000

2.582

26.518

50.037

47

298

170

73

0,75

2

44

6

T/Hóa

CTCP Giao thông 2

08/5/2004

1.388

2.417

3.620

19.172

417

2.079

120

44

0,8

1,5

45

46

CTCPVL và XDT/ hóa

5/4/2004

2.100

5.000

25.780 160.628

5.350 6.945

124

130

0,7

1,3

CTCP Xây dựng và phát

31/7/2005 19.642 19.642

158.685 160.379

3.240 4.672

382

216

1,2

1,5

47

triển hạ tầng

CTCP Tƣ vấn xây dựng

31/3/2006

600

600

1.930

2.059

95

181

27

27

1,2

2,3

48

sông chu

CTCPXây dựng nam sông

31/3/2006

500

500

638

1.130

53

84

0,9

1,2

23

23

49

CTCP Phú đổng

31/3/2006

1.800

1.800

2130

3.671

190

223

0,9

0,6

28

28

50

CTCP Chợ lam sơn

31/3/2006

1.900

9.500

1025

8.905

85

61

7

0,8

1,4

50

46

51

CTCP Gạch BLOC

31/3/2006

900

900

1225

3.051

42

58

0,9

1,2

37

37

52

CTCPDịch vụ thƣơng mại

31/3/2006

4.000

4.000

168540 544.942

740

2.728

57

1,2

1

34

53

ph

CTCPdịch vụ XKLĐ và

4/3//2006

5.000

5.000

540

362

7

28

43

13

1

1,5

54

CG

CTCPTổng công ty CTCP

8/12/2006 30.000 1.00000

63150

260.576

2.576 8.232

422

150

1,2

2,5

22

55

xây dựng T/ Hóa

CTCPMT và CTĐT Bỉm

17/5/2007

3.500

3.495

2931

7.042

111

101

1,2

1,9

7,5

79

92

56

sơn

CTCP chợ vƣờn hoa

4/2006

1.000 22.534

1212

3.024

31

65

46

46

0,9

1,2

57

CTCPchợ động thọ

30/4/2007

4.000

4.000

858

1.020

65

90

35

35

0,9

1,2

58

CTCP xây dựng sông mã

31/1/2007

2.000

2.000

1542

8.148

224

489

18

78

2

3,1

59

số 1

CTCP xây dựng sông mã

20/4/2007

3.500

3.500

12011

25.347

14

966

33

33

2

1,4

60

số 2

CTCP xây dựng sông mã

30/11/2007 2.200

2.200

840

706

55

494

11

11

2

0,5

61

số 3

CTCPxây dựng sông mã

30/11/2007 3.500

3.500

520

3.550

55

538

17

9

2

0,5

62

số 4

CTCPây dựng sông mã số

30/10/2007 3.500

3.500

921

25.361

1.444

171

11

11

1,2

1,8

63

5

CTCPtƣ vấn XD sông mã 6 31/10/2007

800

800

311

1.914

96

145

14

14

1

0,7

64

CTCPXNK thủy sản

7/6/2007

3.500

3.500

71.014

59.480

1.457

144

458

420

0,5

1

65

CTCPMTĐT và DL sầm sơn

16/12/2008 6.155

6.155

5.055

5.457

155

148

160

160

1,8

2

66

CTCP sách thiết bị trƣờng học

22/7/2008 10.500 10.500

32.788

29.879

189

189

53

44

2,7

3

67

CTCPQL Đƣờng thủy NĐ

30/7/2009

3.700

3.700

13.994

16.147

570

1.604

209

143

1,8

2,2

68

và giao thông

CTCP QL Đƣờng bộ 1

30/12/2009 7.000

7.000

19.092

11.947

1.341 1.100

242

131

1,8

2

69

CTCP QL Đƣờng bộ 2

10/03/2010 8.000

8.000

21.724

15.945

2.310 1.800

319

201

1,3

1,9

70

Nguồn: Sở Tài chính Thanh Hóa.

Phụ lục 4

Phụ lục 4.1:

TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG DNNN TỈNH THANH HÓA 1995- 1997

Thông số 1. Tổng số doanh nghiệp Đơn vị tính Đơn vị 1995 162 1996 142 1997 136

Đon vị 18 1.1. Số DN công ích

1.2. Số DN sán xuất kinh Đơn vị 162 142 118

doanh 1.3. Số doanh nghiệp có lãi Đơn vị 79 71 79

1.4. Số doanh nghiệp hòa Đơn vị 20 7 8

vốn 1.5. Số doanh nghiệp lỗ Đơn vị 63 64 49

vốn 2. Vốn kinh doanh Tr.đồng 410.814 413.803 485.608

2.1. Vốn ngân sách Tr.đồng 301.3150 203.557 296.540

2.2. Vốn tự bổ sung Tr.đồng 109.499 104.016 187.439

2.3. Vốn liên doanh Tr.dổng 1.594

2.4. Vòn HĐ các nguồn Tr.dồng 7.230 35

khác 3. Diện tích đất nr 172.400 151.410 145.110

4. Lao động Ngƣời 29.992 27.991 28.016

1.1. LĐ chờ sắp xếp việc Ngƣời 4.238 3.487 3.002

5. Kết quả kinh doanh

5.1. Doanh thu Tr.đồng 1.087.246 1.115.626 u 77.543

5.2. Lãi thực hiện (trƣớc Tr.đồng 5.802 3.672 1.346

thuế) 5.3. Lỗ (cộng dồn) Tr.dồng 39.454 51.850 35.262

6. Tổng mức nộp ngân sách Tr.đồng 117.967 101.583 96.123

6.1. Thuế doanh thu Tr.đồng 15.303 14.603 18.754

6.2. Thuế lợi tức Tr.đồng 2.381 2.201 2.189

6.3. Thuế xuất nhập khẩu Tr.đồng 47.570 31.277

6.4. Thuế tiêu thụ đặc biệt Tr.đồng 86.067 32.423 34.55 1

6.5. Thu sử dụng vốn Tr.dồng 7.956 5.492 1473

7. Tổng nợ phải trả Tr.đồng 568.046 558.434 534.755

7.1. Nợ ngân sách Tr.đồng 36.778 28.767 21.115

7.2. Nọ' ngân hàng Tr.đồng 264.223 209.947 211.710

8. Tổng nợ phai thu Tr.đồng 308.796 265.631 269.560

8.1. Nợ khó đòi Tr.đồng 14.400 20.678 757

Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt dộng của doanh nghiệp nhà nƣớc - Ban

đổi mới doanh nghiệp nhà nƣớc tinh Thanh Hóa

Tỷ lệ

Phụ lục 4.2: Doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách của một số CTCP nhà nƣớc giữ tỷ lệ cổ phần thấp (triêụ đồng)

cổ

Năm

Năm

Năm

Năm

phần

Doanh thu Lợi nhuận sau thuế Nộp ngân sách S

20

20

20

20

20

20

20

20

20

20

20

20

CPH

11

12

13

14

11

12

11

12

13

14

14

13

Tên công ty T

trƣớc CPH

trƣớc CPH

nhà nƣớc

trƣớc CPH

CTCP Thƣơng

2000

0%

1,3

529

535

629

730

0,1

5,2

5,3

6,2

7,3

0,02 4,7 4,8

5

5,2

T

mại Thiệu Yên

CTCP Dạ Lan

2000

0% Âm

65

76

79

83

Âm

1

1,2

1,3

1,6

1,9 2,1

2,3

3

0

1

CTCP Vật tƣ

2006

0%

13,5

97

120

130

160 Âm

46

50

55

60

9,7

11

13,7

14

0

2

tổng hợp TH

CTCP Đƣờng

2000

0%

342 1511

1661 1621 1651

34

252 351

346

348

22

70

106 129

146

3

Lam Sơn

CTCP Phân Lân

1992

0%

2,7

70

93

104

152 Âm

1,7

2,1

3,6

4,7

0

0,9 1,4

2,3

3,2

4

Hàm Rồng

17,

2002

21%

400

827

880

890

920

3

15

16

17

1,7

20 20,4

26

28

5

CTCP Dƣợc Vật tƣ y tế TH

5

CTCP Xây lắp

2002

0%

20

400

420

430

444

âm

5

5,5

6,2

0,2

7

7,5

7,8

9,8

7

6

điện lực TH

CTCP giống cây

1993

0%

0,05

83

85

90

96

âm

0,4 0,45

0,5

0,7

0

0,2 0,3 0,36

0,4

7

trồng TH

CTCP đầu tƣ

2005

0%

120

450

460

530

637

0,2

1,1

1,5

2,1

2,3

3,4

6,7 8,9 13,4 14,1

8

9

phát triển đô thị

Thanh Hóa

Tổng CTCP

10

công trình giao

2004 7,3%

27

156

198

247

285

0

3,2

2,5

4,5

3,9

1

4

5

5,7

6,9

thông 1 TH

CTCP thƣơng

0,0

11

mại dịch vụ

2000

0%

0,5

70

90

100

120 Âm

0,4 0,45

0,5

0,6

0

0,2

0,3

0,4

9

Hoằng Hóa

Tổng CTCP đầu tƣ

12

2003

0%

29,5

120

174

178

201

0,13

0,8

1,2

1,3

1,7

0,2

1,2 1,8

1,9

2,1

XD Cầu Đống

CTCP tƣ vấn

13

2003

0%

1,2

2,8

3,2

3,6

4

0

0,27 0,5

0,7

0,8

1,1

0,1 0,2

0,4

0,5

thiết kế XD

CTCP tƣ vấn

14

2003

0%

2,9

16

17,5

18

20

0,2

0,5

0,8

0,9

1

0,2

1,7 1,9

2,1

2,3

Thủy lợi

Tổng CTCP tƣ vấn xây

15

2003

0%

3,1

18

21

25

26

0,5

0,6

0,7

0,9

1,1

0,2

0,3 0,5

0,7

0,9

dựng giao thông

16

2001

5%

5

400

490

510

650

0,2

18

21

25

40

0,09

19

20

21

21,5

CTCP vật tƣ y tế Thanh Hóa

Nguồn Sở Tài chính Thanh Hóa và khảo sát thực tế

Phụ lục 4.3: Lao động, thu nhập bình quân của một CTCP nhà nƣớc giữ tỷ lệ cổ phần thấp

Tỷ lệ cổ

Đơn vị tính: Triệu đồng

phần

Năm

Năm

Năm

Số lao động Thu nhập bình quân S

20

20

20

20

20

20

20

20

CPH

trƣớc

11

12

13

14

11

12

13

14

Tên công ty T

CPH

nhà nƣớc

trƣớc CPH

CTCP Thƣơng mại

3,5

3,7

160

165

170

180

0,5

4

4,7

51

2000

0%

T

Thiệu Yên

52

CTCP Dạ Lan

2000

0%

280

290

310

350

0,5

3,6

3,8

4,5

5,0

1

CTCP Vật tƣ tổng

2006

0%

140

150

150

160

170

1

3,5

4,0

4,6

5,6

2

hợp TH

CTCP Đƣờng Lam

2000

0%

1450

1102

1040

1000

1100

0,8

5,0

6,0

6,2

6,0

3

Sơn

CTCP Phân Lân Hàm

1992

0%

215

310

350

400

425

0,017

2,5

3,0

3,8

4,5

4

Rồng

CTCP Dƣợc Vật tƣ y

2002

21%

780

928

920

956

963

1,0

4,6

4,9

5,2

5,5

5

tế TH

CTCP Xây lắp điện

2002

0%

286

400

400

420

448

0,7

3,8

4,0

4,6

5,6

6

lực TH

CTCP giống cây

1993

0%

200

250

260

255

270

0,5

2,5

3,5

4,0

4,3

7

8

trồng TH

CTCP đầu tƣ phát

triển đô thị Thanh

2005

0%

638

799

799

802

810

0,5

2,0

2,9

3,8

4,2

Hóa

Tổng CTCP công

10

2004

7,3%

310

320

323

330

330

0,7

3,5

4,0

4,5

5,6

trình giao thông 1 TH

CTCP thƣơng mại

11

2000

0%

50

65

65

70

75

1,0

3,0

3,5

4,1

5,3

dịch vụ Hoằng Hóa

Tổng CTCP đầu tƣ XD

12

2003

0%

180

200

220

230

250

0,8

3,5

3,8

4,5

5,6

Cầu Đống

CTCP tƣ vấn thiết kế

13

2003

0%

18

20

25

30

30

0,8

5,0

5,5

6,0

6,6

xây dựng

CTCP tƣ vấn Thủy

14

2003

0%

76

85

85

90

95

1,2

4,9

5,3

5,9

6,4

lợi

Tổng CTCP tƣ vấn xây

15

2003

0%

96

108

110

110

112

1,5

4,7

5,4

5,6

6,0

dựng giao thông

CTCP vật tƣ y tế

16

2001

5%

17

90

113

118

139

0,5

7,0

9,0

11

13,5

Thanh Hóa

9

Nguồn Sở Tài chính Thanh Hóa và khảo sát thực tế

Tỷ lệ

Phụ lục 4.4: Doanh thu, lợi nhuận nộp ngân sách của một số CTCP nhà nƣớc nắm giữ tỷ lệ cổ phần cao

Doanh thu Lợi nhuận sau thuế Nộp ngân sách

cổ

Năm

Năm

Năm

Năm

phần

S

T

Tên công ty

20

20

20

20

20

20

20

20

20

20

20

20

CPH

11

12

13

14

11

12

11

12

13

14

14

13

trƣớc CPH

trƣớc CPH

trƣớc CPH

nhà nƣớc

CTCP đầu tƣ

2,2

2,3

2,3

2,3

Lỗ 90

21

160

26

1,5

1,5

1,5

1,5

Âm

1

nông nghiệp

2002

86%

0

0

tỷ

tỷ

tỷ

tỷ

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

Yên Định

CTCP giống và

-1,2

-1,1

-1,3

-0,7

0,5

0,5

0,5

0,5

2

2003

54%

0

0

0

0

0

0

0

tỷ

tỷ

tỷ

tỷ

triệu

triệu

triệu

triệu

phát triển gia cầm Thanh Hóa

CTCP giống

50

8,3

8,3

9,8

370

380

400

430

130

135

140

170

3

cây trồng

1993

51%

9 tỷ

0

0

triệu

tỷ

tỷ

tỷ

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

Thanh Hóa

CTCP quản lý

18

18,2

290

380

232

52

650

590

890

860

880

13

298

4

xây dựng đồng

2009

57%

19 tỷ 13 tỷ

triệu

tỷ

tỷ

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

tỷ

bộ 1 Thanh Hóa

26

25

300

350

330

150

0,9

1,1

1,1

19

CTCP quản lý

2010

56%

20 tỷ 18 tỷ

0

1 tỷ

1 tỷ

5

tỷ

tỷ

triệu

triệu

triệu

triệu

tỷ

tỷ

tỷ

tỷ

đồng bộ 2

T

Thanh Hóa

CTCP đầu tƣ

3,1

2,1

1,9

1,7

40

40

40

40

phát triển chăn

6

2003

59% 3,2 tỷ

0

0

0

0

0

64 triệu

tỷ

tỷ

tỷ

tỷ

triệu

triệu

triệu

triệu

nuôi Hoằng Hóa

CTCP Xây

2,5

2,6

3,2

100

120

150

130

45

46

50

52

dựng và quản

7

2005

51%

0

3 tỷ

0

0

tỷ

tỷ

tỷ

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

lý giao thông

Nông Cống

CTCP quản lý

32

33

35

3,5

3,7

4,2

200

250

300

320

350

đƣờng thủy nội

8

2009

51%

20 tỷ 30 tỷ

4 tỷ

0

tỷ

tỷ

tỷ

tỷ

tỷ

tỷ

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

địa Thanh Hóa

CTCP công

3,2

3,1

3,4

50

55

55

60

65

9

trình giao

2004

51% 2,1 tỷ 3 tỷ

0

0

0

0

0

tỷ

tỷ

tỷ

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

thông

CTCP xây dựng

840

709

780

50

75

75

77

78

5

5

7

9

800

850

10

2007

51%

0

triệu

triệu

Sông Mã 1

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

Nguồn Sở Tài chính Thanh Hóa và khảo sát thực tế

Phụ lục 4.5:Lao động, thu nhập bình quân của một CTCP nhà nƣớc giữ cổ phần cao

Tỷ lệ cổ

Đơn vị tính: Triệu đồng

phần

Năm

Năm

Năm

Số lao động Thu nhập bình quân S

20

20

20

20

20

20

20

20

CPH

trƣớc

11

12

13

14

11

12

13

14

Tên công ty T

CPH

nhà nƣớc

trƣớc CPH

CTCP đầu tƣ nông

2,5

1,5 triệu

1,9 triệu

21

20

16

16

0,5 triệu

2,2 triệu

2002

86%

46

T

triệu

nghiệp Yên Định

CTCP giống và

0,5

1,2

1,3

1,8

2

phát triển gia cầm

2003

54%

56

30

26

26

18

1

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

Thanh Hóa

0,5

1,1

1,2

1,5

2,2

CTCP giống cây

1993

51%

400

250

220

185

180

2

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

trồng Thanh Hóa

CTCP quản lý xây

1,7

2,5

2,8

3,2

3,5

dựng đồng bộ 1

2009

57%

360

245

150

150

150

3

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

Thanh Hóa

CTCP quản lý

1,8

2,2

2,6

3,3

đồng bộ 2 Thanh

2010

56%

301

200

200

170

170

3 triệu

4

triệu

triệu

triệu

triệu

Hóa

CTCP đầu tƣ phát

2003

59%

62

30

30

26

24

0,7

1,5

2,1

2,6

2,9

5

6

triển chăn nuôi

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

Hoằng Hóa

CTCP Xây dựng

0,9

1,5

2,0

2,3

2,7

và quản lý giao

2005

51%

57

40

40

50

50

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

thông Nông Cống

CTCP quản lý

2,5

3,1

3,0

3,2

3,5

đƣờng thủy nội

2009

51%

190

150

150

145

140

7

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

địa Thanh Hóa

CTCP công trình

0,7

0,6

0,9

1,1

1,5

2004

51%

87

67

67

60

55

8

giao thông

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

CTCP xây dựng

2.0

0,8

1.0

1,2

1,4

10

2007

51%

31

11

11

10

10

Sông Mã 1

triệu

triệu

triệu

triệu

triệu

9

Nguồn Sở Tài chính Thanh Hóa và khảo sát thực tế

Phụ lục 5:

BÁO CÁO MỘT SỐ CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH DNNN TỈNH QUẢN LÝ NĂM 2001

NGÀN NGÀN NGÀNH NGÀN NGÀN NGÀNH NGÀNH TỔNG TT CHỈ TIÊU ĐVT H THUỶ H H H CN GT CỘNG

1 TỔNG SỐ DN DN 12 8 SẢN 6 TM 5 KHÁC 11 99 XD 12

NNPT 45 NT 636.58 2 DOANH THU TR.Đ 161.585 90.433 365.960 279.491 151.371 74.912 1.760.836 4

2.1 DN CÓ LÃI DN 3 7 26 1 8 56 4 7

TỔNG SỐ LÃI TR.Đ 187 1.857 4.576 2.128 744 403 1.872 11.767

2.2 DN HÕA VỐN DN 3 1 1 8 1 2

2.3 DNLÔ DN 6 1 19 4 2 35 3

TONG SO LO TR.Đ 3.384 722 876 6.907 4.024 329 16.242

2.4 TONG SO LAI-LO(-) TR.Đ (3.197) 1.135 3.700 (4.779) (3.280) 403 1.543 (4.475)

LOLUYKE TR.Đ 80.772 7.179 2.400 20.118 14.148 711 4.247 129.577

3. TONG SO LAO ĐONG NGƢỜI 1.770 1.454 4.470 10.309 795 1.073 690 20.561

4 TỔNG QUỸ LƢƠNG TR.Đ 9.279 10.313 39.973 52.878 2.519 6.087 4.609 125.658

LƢƠNG BQ/NGƢỜI/ THÁNG NGHÌN 500 591 550 427 264 650 652 509

5 TỔNG VỐN CHỦ SỞ HỮU TR.Đ (57.726) 14.531 52.137 416.590 8.852 25.515 11.679 471.578

5.1 VỐN KINH DOANH TR.Đ 23.542 16.749 45.392 333.145 22.925 26.337 12.974 481.064

6 TỔNG NỢ PHẢI TRẢ TR.Đ 172.965 91.076 490.991 314.428 35.948 67.548 16.851 1.198.807

6.1 Nơ QUÁ HAN TR.Đ 2.224 1.151 10.814 14.189

7 TỔNG NỢ PHẢI THU TR.Đ 39.742 65.116 234.707 148.880 9.304 43.543 7.471 548.763

7.1 Nơ KHÓ ĐÕI TR.Đ 919 919 4.287 2.466 519 9.110

TỔNG PHÁT SINH NỘP

8 TR.Đ 1.719 3.161 24.182 4.194 2.810 16.864 4.333 57.963

NS

8.1 ĐÃ NỘP NGÂN SÁCH TR.Đ 1.413 3.621 19.523 6.026 1.459 15.369 5.005 52.416

Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước - Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước tỉnh Thanh Hóa

Phụ lục 6:

BÁO CÁO MỘT SỐ CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH DNNN TỈNH QUẢN LÝ NĂM 2002

NGÀNH

NGÀNH

NGÀNH

NGÀNH

NGÀNH

NGÀNH

NGÀNH

TT

CHỈ TIÊU

ĐVT

TỔNG CỘNG

CÔNG

THUỶ

KHÁC

GT

XD

NNPTNT

TM

NGHIỆP

SẢN

Tổng số DN DN 9 13 11 40 5 5 10 93 1

758.70 91.34 Doanh Thu TR.Đ 187.400 137.100 428.491 217.883 162.000 1.982.014 2 0 0

2.1 DN có lãi DN 3 10 7 19 1 4 8 52

Tổng số lãi TR.Đ 290 1.951 4.611 2.644 500 565 1.888 12.449

2.2 DN hòa vốn DN 1 1 1 15 18

2.3 DN lỗ DN 5 2 3 6 4 1 2 23

Tổng số lỗ TR.Đ 1.652 1.154 4.320 702 3.292 150 130 11.400

2.4 Tổng số lãi - lỗ (-) TR.Đ (1.362) 797 291 1.942 (2.792) 415 1.758 1.049

L ỗ l ũ y k ế TR.Đ 82.134 7.901 4.682 15.156 16.552 825 1.951 129.201

3. Tổng số lao động NGƯỜI 1.887 2.382 4.682 8.800 815 1.145 731 20.442

4 Tổng quỹ lương TR.Đ 10.827 17.998 34.356 45.139 2.965 6.950 4.411 122.646

Lương BQ/ người/tháng NGHÌN 478

630 611 427 303 703 502 500

(55.751 11.84 5 Tổng vốn chủ sở hữu TR.Đ 24.206 60.717 409.249 3.571 29.223 483.055 ) 0

12.97 5.1 Vốn kinh doanh TR.Đ 24.042 26.151 70.024 320.498 19.916 28.587 502.192 4

122.53 18.44 6 Tổng nợ phải trả TR.Đ 221.489 116.596 635.449 278.172 42.665 1.435.351 6 4

6.1 Nợ quá hạn TR.Đ 2.574 1.151 10.602 14.327

7 Tổng nợ phải thu TR.Đ 63.052 63.688 231.518 96.270 12.577 72.731 9.803 549.639

I 7.1 Nợ khó đòi TR.Đ 898 21.708 4.095 3.570 674 30.945

Tổng phát sinh nộp NS

8 TR.Đ 1.965 3.478 9.898 2.839 1.458 18.320 4.992 42.951

Ị 8.1 Đã nộp ngân sách TR.Đ 1.379 3.582 9.138 3.100 1.350 18.819 5.135 42.503

Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước - Ban đổi mới cloanh nghiệp nhà nước

tỉnh Thanh Hóa