1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
Bùi Thị Vân Anh
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP
BỘT PHÁT QUANG KẼM SILICAT
KÍCH HOẠT BỞI MANGAN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
Hà Nội - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
Bùi Thị Vân Anh
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP
BỘT PHÁT QUANG KẼM SILICAT
KÍCH HOẠT BỞI MANGAN
Chuyên ngành: Công nghệ hóa học các chất vô cơ
Mã số: 62.52.75.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TSKH. Nguyễn Anh Dũng
2. PGS. TS. Lê Xuân Thành
Hà Nội – 2012
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TSKH. Nguyễn Anh Dũng và PGS.TS. Lê Xuân Thành.
Các hình ảnh, số liệu, kết quả thực nghiệm trong luận án là trung thực và
khách quan, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và không sao chép từ bất
cứ một tài liệu khoa học nào.
Bùi Thị Vân Anh
2
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC BẢNG 4
DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH, ĐỒ THỊ 5
MỞ ĐẦU 9
13 1. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
13 1.1. Chất phát quang vô cơ
26 1.2. Chất phát quang nền kẽm silicat Zn2SiO4
32 1.3. Các phương pháp tổng hợp bột phát quang Zn2SiO4:Mn
43 2. NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
43 2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
44 2.2. Hóa chất, thiết bị
44 2.3. Phương pháp nghiên cứu
54 3. NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VÀ KẾT QUẢ
3.1. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tạo
56 precursor
3.1.1. Ảnh hưởng pH của dung dịch đến quá trình tạo precursor 56
3.1.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình tạo precursor 62
66 3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình nung đến sản phẩm
3.2.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ nung 66
3.2.1.1. Khảo sát sự biến đổi của precursor theo nhiệt độ bằng
phương pháp phân tích nhiệt 66
3.2.1.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ nung đến sự tạo thành tinh thể
68 Zn2SiO4
3.2.2. Ảnh hưởng của thời gian nung đến cường độ phát quang của
sản phẩm 75
3.2.3. Ảnh hưởng của tốc độ nâng nhiệt khi nung đến cường độ phát
quang của sản phẩm 78
3
81 3.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của chất kích hoạt mangan
3.3.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng mangan đến cường độ
phát quang của sản phẩm 81
85 3.3.2. Vai trò cấu trúc của mangan trong tinh thể Zn2SiO4
3.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của chất phụ gia điều chỉnh kích
91 thước hạt precursor
3.4.1. Ảnh hưởng của etanol 91
3.4.2. Ảnh hưởng của SDS 95
3.4.3. Ảnh hưởng của Tween 80 99
3.4.4. Ảnh hưởng của amoni xitrat 103
3.5. Nghiên cứu thử nghiệm ứng dụng của chất phát quang
109 Zn2SiO4:Mn
3.5.1. Ứng dụng trong chế tạo mực in phát quang 109
3.5.2. Ứng dụng trong chế tạo đèn huỳnh quang compact 111
114 KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO 116
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN 123
4
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Tên Nội dung Trang
1 Bảng 1.1 Bảng tổng hợp chất phát quang nền kẽm silicat 28
2 Bảng 1.2 Tổng hợp Zn2SiO4 bằng phương pháp phản ứng pha 33 rắn
35 3 Bảng 1.3 Tổng hợp Zn2SiO4 bằng phương pháp sol-gel
38 4 Bảng 1.4 Tổng hợp Zn2SiO4 bằng phương pháp thủy nhiệt
5 Bảng 3.1 Ảnh hưởng pH của dung dịch tạo kết tủa 57
6 Bảng 3.2 Ảnh hưởng của nhiệt độ tạo precursor 63
7 Bảng 3.3 Ảnh hưởng của nhiệt độ nung 72
8 Bảng 3.4 Ảnh hưởng của thời gian nung 75 Ảnh hưởng của thời gian nung
9 Bảng 3.5 Ảnh hưởng của tốc độ nâng nhiệt 78
10 Bảng 3.6 Ảnh hưởng của hàm lượng mangan 81
11 Bảng 3.7 Ảnh hưởng của hàm lượng etanol 92
12 Bảng 3.8 Ảnh hưởng của hàm lượng SDS 96
13 Bảng 3.9 Ảnh hưởng của hàm lượng Tween 80 100
14 Bảng 3.10 Ảnh hưởng của hàm lượng amoni xitrat 105
5
DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH, ĐỒ THỊ
STT Tên Nội dung Trang
1 Hình 1.1 Một số dạng khuyết tật thường gặp trong mạng tinh 14 thể
2 Hình 1.2 Cơ chế phát quang 18
3 Hình 1.3 Cơ chế phát quang tái hợp tức thời 20
4 Hình 1.4 Cơ chế phát quang tái hợp kéo dài 21
5 Hình 1.5 Sự thay đổi thế năng của trạng thái cơ bản của tâm
phát quang phụ thuộc vào khoảng cách giữa các 22
nguyên tử trong tinh thể
6 Hình 1.6 Giản đồ toạ độ cấu hình năng lượng 22
7 Hình 1.7 Sơ đồ mô tả các mức năng lượng hoạt hóa và giải 24 thích sự phát quang
8 Hình 1.8 26 Tứ diện trong mạng octosilicat
9 Hình 1.9 Màu và bước sóng phát quang của chất phát quang 27 nền Zn2SiO4
29 10 Hình 1.10 Cấu trúc tinh thể của -Zn2SiO4
11 Hình 2.1 Sự nhiễu xạ tia X trên mạng tinh thể 47
12 Hình 2.2 Sơ đồ phương pháp đo SEM 49
13 Hình 2.3 Sơ đồ khối hệ đo phát quang 52
14 Hình 2.4 Sơ đồ hệ đo phát quang phân giải cao nguồn kích 53 thích được dùng là laser He-Cd
15 Hình 3.1 Sơ đồ tổng hợp theo phương pháp đồng kết tủa 54
16 Hình 3.2 Hiệu suất tổng hợp các mẫu bảng 3.1 57
17 Hình 3.3 Giản đồ XRD của mẫu precursor 58
18 Hình 3.4 Ảnh SEM của mẫu precursor 59
19 Hình 3.5 Phổ phát quang các mẫu bảng 3.1 60
6
20 Hình 3.6 Giản đồ XRD mẫu 1.1 60
21 Hình 3.7 Giản đồ XRD mẫu 1.5 61
22 Hình 3.8 Giản đồ XRD mẫu 1.6 61
23 Hình 3.9 Phổ phát quang của các mẫu bảng 3.2 63
24 Hình 3.10 Giản đồ XRD mẫu 2.1 64
25 Hình 3.11 Giản đồ XRD mẫu 2.2 64
26 Hình 3.12 Giản đồ XRD mẫu 2.4 65
67
68
69
69
70
70
71
27 Hình 3.13 Giản đồ phân tích nhiệt mẫu precursor 28 Hình 3.14 Giản đồ XRD của mẫu 3.1 (nung ở 700oC) 29 Hình 3.15 Giản đồ XRD của mẫu 3.2 (nung ở 725oC) 30 Hình 3.16 Giản đồ XRD của mẫu 3.3 (nung ở 750oC) 31 Hình 3.17 Giản đồ XRD của mẫu 3.4 (nung ở 800oC) 32 Hình 3.18 Giản đồ XRD của mẫu 3.5 (nung ở 850oC) 33 Hình 3.19 Giản đồ XRD của mẫu 3.6 (nung ở 900oC) 34 Hình 3.20 Giản đồ XRD của mẫu 3.8 (nung ở 1100oC) 71
35 Hình 3.21 Giản đồ XRD của các mẫu thay đổi nhiệt độ nung 72
36 Hình 3.22 Phổ phát quang của các mẫu bảng 3.3 73
37 Hình 3.23 Phổ phát quang của các mẫu bảng 3.4 75
38 Hình 3.24 Giản đồ XRD mẫu 4.1 76
39 Hình 3.25 Giản đồ XRD mẫu 4.2 76
40 Hình 3.26 Giản đồ XRD mẫu 4.4 77
41 Hình 3.27 Giản đồ XRD mẫu 5.1 78
42 Hình 3.28 Giản đồ XRD mẫu 5.2 79
43 Hình 3.29 Giản đồ XRD mẫu 5.3 79
44 Hình 3.30 Phổ phát quang các mẫu bảng 3.5 80
45 Hình 3.31 Phổ phát quang các mẫu bảng 3.6 82
46 Hình 3.32 Giản đồ XRD mẫu 6.1 (không có mangan) 82
47 Hình 3.33 Giản đồ XRD mẫu 6.3 83
7
48 Hình 3.34 Giản đồ XRD mẫu 6.5 83
49 Hình 3.35 Giản đồ XRD mẫu 6.6 84
50 Hình 3.36 Ảnh SEM của mẫu 6.5 với độ phóng đại khác nhau 89
51 Hình 3.37 Ảnh TEM của mẫu 6.5 89
52 Hình 3.38 Phổ phát quang các mẫu bảng 3.7 (khi cho thêm 92 etanol)
53 Hình 3.39 Ảnh SEM của precursor mẫu 7.3 93
54 Hình 3.40 Giản đồ XRD mẫu 7.3 94
55 Hình 3.41 Ảnh SEM mẫu 7.3 94
56 Hình 3.42 Phổ phát quang các mẫu bảng 3.8 (khi cho thêm 96 SDS)
57 Hình 3.43 Ảnh SEM precursor của mẫu 8.3 97
58 Hình 3.44 Giản đồ XRD mẫu 8.3 98
59 Hình 3.45 Ảnh SEM của mẫu 8.3 98
60 Hình 3.46 Cấu trúc phân tử của Tween 80 99
61 Hình 3.47 Phổ phát quang các mẫu bảng 3.9 ( khi cho thêm 101 Tween 80)
62 Hình 3.48 Ảnh SEM precursor của mẫu 9.4 102
63 Hình 3.49 Giản đồ XRD mẫu 9.4 103
64 Hình 3.50 Ảnh SEM của mẫu 9.4 103
65 Hình 3.51 Phân tử amoni xitrat 104
66 Hình 3.52 Phổ phát quang các mẫu bảng 3.10 (khi cho thêm 106 amoni xitrat)
67 Hình 3.53 Ảnh SEM precursor của mẫu 10.3 107
68 Hình 3.54 Giản đồ XRD mẫu 10.3 108
69 Hình 3.55 Ảnh SEM của mẫu 10.3 108
70 Hình 3.56 Mẫu giấy có in mực phát quang (quan sát dưới ánh 110 sáng ban ngày)
8
71 Hình 3.57 Mẫu giấy có in mực phát quang (quan sát khi kích 110 thích bởi đèn UV có bước sóng λ = 325 nm)
72 Hình 3.58 Kết quả thử nghiệm mẫu đèn sản xuất từ Zn2SiO4:Mn 112 tổng hợp được
9
MỞ ĐẦU
Các chất phát quang vô cơ là một trong những chất ngày càng được
ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật và đời sống. Chúng
được sử dụng trong việc chế tạo các ống tia catot, cho việc phân loại sản
phẩm, tự động hoá dây chuyền công nghệ, mã hoá các sản phẩm có giá trị
hoặc đưa vào các biển báo hiệu nhằm ngăn ngừa các sự cố. Đối với các giấy
tờ hay các hồ sơ quan trọng, các ngân phiếu, tiền giấy cũng như các sản phẩm
có giá trị, việc mã hoá bằng chất phát quang cho phép bảo vệ sản phẩm khỏi
nạn làm giả.
Với chất nền là kẽm silicat, có thể kích hoạt thêm các ion của kim loại
chuyển tiếp hoặc các ion của các nguyên tố đất hiếm để tạo ra chất phát quang
khác nhau. Trong các chất phát quang vô cơ đó, kẽm silicat kích hoạt bởi
mangan (Zn2SiO4:Mn) đóng một vai trò quan trọng. Zn2SiO4:Mn là thành
phần không thể thiếu để chế tạo các màn hình. Ngoài ra, Zn2SiO4:Mn còn
được sử dụng để làm sơn phát quang, mực phát quang, trong việc tạo mã
vạch, trong việc đánh dấu sản phẩm cũng như đặt biểu tượng sản phẩm. Ưu
điểm của chất phát quang kẽm silicat kích hoạt bởi mangan là được sử dụng
cho nhiều hệ vật liệu khác nhau như gốm sứ, thuỷ tinh, chất dẻo, giấy…
Hiện tại ở Việt Nam và trên thế giới đang có rất nhiều công trình
nghiên cứu tổng hợp vật liệu phát quang với các hệ nền khác nhau cũng như
với các chất kích hoạt khác nhau. Với chất nền kẽm silicat, hiện vẫn đang
được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học. Tuy nhiên, ở Việt Nam,
theo tìm hiểu của chúng tôi, nghiên cứu tổng hợp chất phát quang nền kẽm
silicat cụ thể là kẽm silicat kích hoạt bởi mangan chưa được công bố bởi các
nhà khoa học khác ngoài nhóm nghiên cứu của nghiên cứu sinh. Ngày nay, có
nhiều phương pháp để tổng hợp chất phát quang vô cơ, trong đó có chất phát
quang Zn2SiO4:Mn. Các phương pháp tổng hợp được chia ra theo quá trình
tiến hành hoặc điều kiện tiến hành. Mỗi phương pháp có những đặc điểm
10
riêng, cần nghiên cứu để lựa chọn phương pháp phù hợp cũng như điều khiển
được các yếu tố công nghệ để tạo ra các sản phẩm phù hợp với các ứng dụng
cụ thể. Việc tìm một phương pháp tổng hợp mà yêu cầu năng lượng thấp
không chỉ mang lại lợi ích cho công nghiệp mà còn giúp giải quyết những vấn
đề về môi trường và năng lượng cho toàn xã hội.
Trên cơ sở đó, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án này là: “Nghiên cứu
tổng hợp bột phát quang kẽm silicat kích hoạt bởi mangan”.
Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu tổng hợp bột phát quang kẽm silicat kích hoạt bởi mangan
Zn2SiO4:Mn theo phương pháp đồng kết tủa đi từ các nguyên liệu đầu là các
muối tinh khiết bao gồm Zn(CH3COO)2.2H2O, Na2SiO3.9H2O, MnSO4.H2O
có bổ sung thêm amoniac. Thực hiện phản ứng giữa các muối trong dung
dịch, thu được các tiền chất gọi là precursor. Precursor này sấy khô, sau đó
nung để thu được bột phát quang Zn2SiO4:Mn. Sản phẩm thu được được
nghiên cứu các tính chất và ứng dụng thử nghiệm trong chế tạo mực in phát
quang và chế tạo đèn huỳnh quang compact.
Nội dung nghiên cứu:
Nội dung nghiên cứu tổng hợp bột phát quang Zn2SiO4:Mn bao gồm:
- Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tạo precursor
+ Ảnh hưởng pH của dung dịch đến quá trình tạo precursor
+ Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình tạo precursor
- Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình nung
+ Ảnh hưởng của nhiệt độ nung đến sự tạo thành tinh thể của Zn2SiO4
+ Ảnh hưởng của thời nung đến cường độ phát quang của sản phẩm
+ Ảnh hưởng của tốc độ nâng nhiệt khi nung đến cường độ phát quang
của sản phẩm
- Nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng mangan đến cường độ phát quang
của sản phẩm
11
- Nghiên cứu ảnh hưởng của chất phụ gia điều chỉnh kích thước hạt của
precursor
- Nghiên cứu thử nghiệm ứng dụng của chất phát quang Zn2SiO4:Mn
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp đồng kết tủa là phương pháp được sử dụng để tổng hợp
bột phát quang kẽm silicat kích hoạt bởi mangan Zn2SiO4:Mn.
Các phương pháp phân tích được dùng trong quá trình nghiên cứu tổng
hợp bột phát quang Zn2SiO4:Mn bao gồm: phương pháp phân tích nhiệt
(DTA, TGA), phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD), phương pháp hiển vi điện
tử quét (SEM), phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (TEM), phương pháp
đo phổ phát quang (PL)…
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án:
- Ý nghĩa khoa học: Chất phát quang kẽm silicat kích hoạt bởi mangan
Zn2SiO4:Mn đã được tổng hợp thành công theo phương pháp đồng kết tủa
trong điều kiện đơn giản, với yêu cầu năng lượng tương đối thấp. Đây là công
trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng của chất phát quang Zn2SiO4:Mn tổng hợp được và đề xuất lựa chọn
phụ gia sử dụng để nâng cao chất lượng sản phẩm. Trên cơ sở đó xác lập
được những điều kiện tối ưu cho quá trình tổng hợp bột phát quang kẽm
silicat kích hoạt bởi mangan Zn2SiO4:Mn, một trong những vật liệu phát
quang vô cơ quan trọng được sử dụng nhiều trong thực tế.
- Ý nghĩa thực tiễn: Bước đầu nghiên cứu thử nghiệm ứng dụng chất phát
quang trong chế tạo mực in phát quang và chế tạo đèn huỳnh quang compact.
Các kết quả mới của luận án:
1. Chất phát quang kẽm silicat kích hoạt bởi mangan Zn2SiO4:Mn đã được
tổng hợp thành công theo phương pháp đồng kết tủa đi từ các hóa chất cơ bản
là các muối tinh khiết bao gồm Zn(CH3COO)2.2H2O, Na2SiO3.9H2O,
12
MnSO4.H2O có bổ sung thêm amoniac, trong điều kiện đơn giản với yêu cầu
năng lượng tương đối lớn.
2. Luận án đã nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố công nghệ cần thiết để
đưa ra điều kiện tổng hợp chất phát quang kẽm silicat kích hoạt bởi mangan
Zn2SiO4:Mn tối ưu: Quá trình kết tủa precursor được tiến hành ở nhiệt độ
thường, trong môi trường pH 9, sau đó precursor được nung trong môi trường không khí ở nhiệt độ 900oC, tốc độ nâng nhiệt 10oC/phút, thời gian lưu nhiệt
30 phút.
3. Luận án đã khảo sát một số phụ gia và lựa chọn đề xuất phụ gia sử dụng để
nâng cao chất lượng sẩn phẩm Zn2SiO4:Mn. Chất hoạt động bề mặt SDS thêm vào với tỷ lệ mol SDS/Zn2+ = 3,125% tạo thành sản phẩm có cường độ phát
quang cao và cỡ hạt đồng đều hơn.
4. Luận án đã bước đầu nghiên cứu thử nghiệm ứng dụng chất phát quang
Zn2SiO4:Mn trong chế tạo mực in phát quang và chế tạo đèn huỳnh quang
compact. Bột phát quang kẽm silicat kích hoạt bởi mangan tổng hợp theo
phương pháp đồng kết tủa có thể sử dụng để chế tạo mực in phát quang in lên
các sản phẩm cần bảo mật hay chống hàng giả. Zn2SiO4:Mn tổng hợp được có
thể sử dụng như là một thành phần của bột huỳnh quang ba màu trong sản
xuất đèn huỳnh quang compact tại công ty Cổ phần bóng đèn phích nước
Rạng Đông.
Bố cục của luận án:
Luận án có 123 trang, gồm 4 phần chính: Tổng quan lý thuyết (30
trang); Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu (12 trang); Nghiên cứu thực
nghiệm và kết quả (60 trang); Kết luận (2 trang). Trong luận án có 14 bảng
biểu, 72 hình vẽ và đồ thị, liên quan đến luận án có 78 tài liệu tham khảo.
13
1. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
1.1. Chất phát quang vô cơ
Chất phát quang vô cơ là các chất được chế tạo từ các hợp chất vô cơ
có thể hấp thụ năng lượng và sau đó phát ra năng lượng dưới dạng ánh sáng
nhìn thấy [8, 14, 26]. Có nhiều dạng phát quang tùy vào nguồn năng lượng
kích thích như: quang phát quang là sự phát quang do tác dụng của photon
ánh sáng; điện phát quang là sự phát quang bởi tác dụng của năng lượng điện;
hóa phát quang là sự phát quang xảy ra do phản ứng hoá học; nhiệt phát
quang là sự phát quang xảy ra do tác dụng của nhiệt; cơ phát quang là sự phát
quang do tác dụng của cơ học; phát quang tia âm cực là dùng tia âm cực hoặc
chùm electron có năng lượng đủ lớn để gây ra sự phát quang [3, 39]. Tùy
thuộc vào thời gian phát quang sau khi bị kích thích, chất phát quang được
chia thành hai loại: huỳnh quang và lân quang. Huỳnh quang là hiện tượng phát quang chỉ kéo dài không quá 10-8 giây sau khi ngừng kích thích. Lân quang là hiện tượng phát quang kéo dài hơn 10-8 giây sau khi ngừng kích
thích [31, 39].
Chất phát quang vô cơ có chứa hai thành phần chính: chất nền và chất
kích hoạt, đôi khi còn thêm một lượng chất tăng nhạy [10, 71]. Chất nền
chiếm thành phần chủ yếu trong vật liệu. Chúng là các hợp chất dạng tinh thể
như oxit, sunfit, silicat… của các kim loại như Zn, Mg, Αl… Những vật liệu
nền thường thuộc nhóm vật liệu bán dẫn, có vùng cấm rộng. Chất kích hoạt
chiếm một lượng rất nhỏ, thường là cation của các nguyên tố chuyển tiếp Mn,
Ag, Cu… hay các nguyên tố đất hiếm Eu, Ce… Đặc điểm của các ion kích
hoạt này là có rất nhiều obitan trống - đó là các vị trí để electron nhảy lên khi
bị kích thích và sau đó nhảy về trạng thái năng lượng thấp hơn và phát xạ.
Trong các chất phát quang vô cơ, chất kích hoạt có vai trò tạo ra các khuyết
tật trong cấu trúc tinh thể nền.
Xâm nhập
Lỗ trống
Thay thế
14
Hình 1.1: Một số dạng khuyết tật thường gặp trong mạng tinh thể
Đặc tính phát quang của chất phát quang nói chung phụ thuộc vào đặc
tính của vật liệu nền và chất kích hoạt. Sự tác động qua lại giữa chúng sẽ
quyết định hiệu quả phát quang. Hiệu quả phát quang trong những vật liệu
này được xác định nhờ vào bản chất của cấu trúc vùng và những quá trình
động lực học xảy ra ở những tâm hoạt hóa. Vì vậy, trong tất cả những loại vật
liệu, cách chế tạo, bản chất và lượng tâm hoạt hóa được sử dụng đóng một vai
trò rất quan trọng.
Sự phát quang của các chất phát quang vô cơ bao gồm các quá trình
sau: hấp thụ và kích thích; chuyển hoá năng lượng và phát quang.
Sự kích thích đòi hỏi năng lượng tác động lên chất phát quang làm nó
có thể hấp thụ được. Cơ chế kích thích khác nhau phụ thuộc vào dạng năng
lượng kích thích [39].
Sự kích thích bởi photon
Độ hấp thụ của chất phát quang phụ thuộc năng lượng của photon được
đưa ra bởi phổ hấp thụ. Phổ này có thể chỉ ra bởi các miền khác nhau như:
miền hấp thụ mạng lưới cơ bản, hấp thụ bề mặt biên và hấp thụ khuyết tật.
15
Thường thì sự kích thích chỉ diễn ra với những photon ở mức năng
lượng cao. Sự hấp thụ có hiệu quả được chỉ ra bởi phổ kích thích, phổ này chỉ
ra sự phụ thuộc của cường độ phát quang vào năng lượng photon. Sự phát
quang mạnh diễn ra khi photon kích thích có đủ năng lượng để chuyển một
electron từ vùng hóa trị lên vùng dẫn.
Các chất phát quang không hấp thụ hiệu quả photon có năng lượng xác
định thì có thể làm tăng độ nhạy đối với bức xạ này bằng cách đưa vào trong
tinh thể nền các ion có khả năng hấp thụ cao photon này.
Sự kích thích bởi electron
Một phần electron tác động lên chất phát quang được phản xạ lại kèm
theo sự mất năng lượng. Hệ số tán xạ và số nguyên tử trung bình Z được
đưa ra bởi công thức:
= (ln Z -1,5)/6
Đối với chất phát quang nền là ZnS (ZZn=30, ZS=16, do đó ZZnS=23) có
hệ số 0,27, có nghĩa là 27% năng lượng cung cấp không dùng cho việc
phát quang.
Một biểu thức cho sự giảm năng lượng riêng dE/dx là sự giảm năng
lượng của electron ban đầu sau khi di chuyển một khoảng x trong chất phát
quang được chỉ ra ở biểu thức:
Trong đó: E: năng lượng electron ;
N: số electron trên một cm3 ;
Z: thứ tự số nguyên tử ;
E:điện tích nguyên tử ;
E1: năng lượng ion hoá trung bình của các electron.
Đối với các electron ban đầu có năng lượng cao (> 30 keV), mức độ
thâm nhập sâu của electron được xác định theo định luật Thomson -
Whidelington như sau:
16
E2 - = a.x
Trong đó:
E: năng lượng ban đầu của các electron sơ cấp
Ex: năng lượng của electron sau khi di chuyển một đoạn x
a: hằng số
Độ sâu thâm nhập tổng cộng R được đưa ra bởi Ex = 0 và x = R, do vậy:
E2 = a.R
Phạm vi thâm nhập này là tỉ lệ với bình phương của năng lượng ban
đầu của các electron sơ cấp.
Các electron tán xạ không đàn hồi và các electron thứ cấp tạo ra các
chất mang điện tích trong chất phát quang, sau đó được kết hợp lại và phát
quang một cách trực tiếp hoặc sau khi di chuyển một khoảng trong mạng lưới.
Sự kích thích bởi tia X
Như một dạng bức xạ điện từ, các tia X và tia tuân theo các quy tắc
hấp thụ giống với trường hợp kích thích bởi photon. Do những năng lượng
cao của electron thứ cấp tạo khi hấp thụ, cơ chế kích thích bởi tia X gần giống
với cơ chế kích thích bởi electron hơn cơ chế kích thích bởi photon. Sự hấp
thụ đưa ra bởi biểu thức sau:
I = Io.e
Trong đó: Io:cường độ của tia X tới
: hệ số hấp thụ bức xạ trên mỗi cm
x: khoảng cách di chuyển trong vật liệu tính bằng cm
Thực tế hệ số tắt khối lượng ( là khối lượng riêng của vật chất)
được sử dụng thay vì hệ số hấp thụ .
Lượng tử tia X được hấp thụ bởi chất phát quang chủ yếu tạo ra
electron quang có động năng lớn nhất bằng động năng của lượng tử tia X
17
được hấp thụ. Do vậy, quá trình xảy ra tiếp theo đó tương tự như quá trình
kích thích electron.
Sự kích thích của các chất phát quang không phải lúc nào cũng xảy ra
tại tâm phát quang mà còn ở các vị trí khác trong tinh thể. Sự kết hợp lại và
phát xạ đòi hỏi có một sự chuyển năng lượng hấp thụ đến tâm phát quang.
Điều này diễn ra theo cơ chế sau:
1. Sự di chuyển các electron được kích thích và các lỗ trống.
2. Sự di chuyển các cặp electron và lỗ trống.
3. Sự cộng hưởng giữa các nguyên tử với các trường điện xen phủ.
4. Sự hấp thụ lại của một lượng tử ánh sáng đã được phát ra từ một tâm
hoạt hoá bởi một tâm phát xạ khác.
Quá trình kết hợp lại không phụ thuộc vào bản chất của sự kích thích.
Các thông số chỉ ra ảnh hưởng của loại kích thích là cường độ của các dải
phát xạ khác nhau, các hiệu suất lượng tử và tính chất suy giảm. Đối với sự
kích thích bởi photon, hiệu suất lượng tử có thể có thể đạt 70% trong khi mức
cực đại này chỉ đạt 25% đối với sự kích thích bởi electron. Thời gian kéo dài
và cường độ kéo dài sau đó của sự kích thích electron thấp hơn đối với kích
thích bởi photon.
Động học phản ứng trong trường hợp đơn giản nhất khi kích thích và
phát xạ xảy ra trong cùng một nguyên tử, phân tử hoặc một tâm phát quang.
Sự kết hợp lại này có thể sau đó được xem như một phản ứng đơn phân tử bậc
một. Sự giảm đi trong số các electron bị kích thích được đưa ra như sau:
Số electron bị kích thích này là hàm của thời gian:
Trong đó: .
Và cường độ phát quang được đưa ra:
18
Thời gian suy giảm không phụ thuộc vào số nguyên tử kích thích hoặc
các phân tử kích thích tương ứng. Nếu như sự kết hợp lại này bị dừng lại, sự
phát quang xảy ra theo phản ứng hai phân tử bậc hai. Khả năng kết hợp lại
của electron bị kích thích với các lỗ trống là đúng tỉ lệ với nồng độ n của các
electron và nồng độ p của các lỗ trống.
Khi n = p, I = -k.dn/dt = cnp = cn2
và với
Như vậy, cường độ phát quang sau là thấp hơn cường độ phát quang
ban đầu và khi đến nửa giá trị của cường độ phát quang ban đầu, sự suy giảm
chậm hơn.
Quy tắc cường độ giảm theo đường hypebol chỉ đúng trong khoảng giá
trị giới hạn. Nếu như các electron này bị bẫy tạm thời trước khi tái kết hợp thì
sự tương tác của chúng khá phức tạp.
Sự phát quang của chất phát quang vô cơ được trình bày trong hình 1.2:
Hình 1.2: Cơ chế phát quang
(H: mạng tinh thể nền; A: chất kích hoạt)
Nói chung năng lượng của tia phát ra bé hơn năng lượng của tia kích
hoạt, nghĩa là sự phát sáng của chất rắn thông thường chuyển dịch về phía
sóng dài hơn so với tia kích hoạt. Bức xạ kích hoạt trong đèn huỳnh quang -
một lĩnh vực quan trọng nhất trong việc sử dụng chất phát quang vô cơ - là
ánh sáng cực tím (nguồn bức xạ thủy ngân).
19
Khi chuyển từ trạng thái kích thích về trạng thái cơ bản, các electron có
thể bị giữ lại trong các khuyết tật bề mặt (các bẫy electron, bẫy lượng tử).
Chúng không còn khả năng chuyển năng lượng để phát xạ mà chỉ trao đổi
nhiệt để làm thay đổi mức năng lượng, do đó, vật liệu không thể phát quang.
Sự chuyển năng lượng không bức xạ trong chất phát quang có chứa
chất tăng nhạy xảy ra khi có các điều kiện sau:
- Mức năng lượng của chất kích hoạt và chất tăng nhạy ở trạng thái kích
thích gần nhau.
- Ion kích hoạt và ion tăng nhạy chiếm vị trí gần nhau trong mạng lưới
tinh thể nền.
Dưới tác dụng của nguồn kích thích, các ion chất tăng nhạy nhảy lên
trạng thái kích thích và sau đó sẽ chuyển năng lượng cho ion kích hoạt bên
cạnh. Quá trình này không xảy ra sự mất năng lượng hoặc chỉ mất một phần
năng lượng không đáng kể. Cuối cùng, ion tăng nhạy lại về trạng thái cơ bản;
ion kích hoạt nhận năng lượng kích thích, phát xạ và chuyển về trạng thái cơ
bản.
Sự chuyển năng lượng không bức xạ dạng trên là cơ sở của tác dụng
nhiễm độc do một số tạp chất. Năng lượng kích thích được chuyển từ ion tăng
nhạy hoặc kích hoạt sang tạp chất và khuếch tán trong mạng lưới tinh thể nền
dưới dạng năng lượng dao động. Do đó, khi điều chế các chất phát quang, yêu
cầu thiết yếu là phải loại bỏ hết các ion có khuynh hướng gây ra sự chuyển không bức xạ về trạng thái cơ bản như Co2+, Fe2+, Ni2+…
Hiện tượng quang phát quang ở tinh thể xảy ra theo hai cơ chế, phụ
thuộc vào đặc điểm của chất nền và tính chất của chất hoạt hóa gồm: cơ chế
phát quang tái hợp tức thời và cơ chế phát quang tái hợp kéo dài [4, 20].
Cơ chế phát quang tái hợp tức thời bao gồm ba giai đoạn:
- Electron hấp thụ năng lượng kích thích để chuyển từ trạng thái cơ bản
lên trạng thái kích thích.
- Electron bị mất một phần năng lượng dưới dạng nhiệt.
20
- Electron tái hợp với tâm hoạt tính, phát bức xạ và trở về trạng thái cơ
bản.
Thế năng
Kích thích Phát xạ
Trạng thái cơ bản của electron
Hình 1.3: Cơ chế phát quang tái hợp tức thời
Cơ chế phát quang tái hợp kéo dài gồm năm giai đoạn:
- Electron hấp thụ năng lượng kích thích để chuyển từ trạng thái cơ bản
lên trạng thái kích thích.
Electron bị mất một phần năng lượng dưới dạng nhiệt. -
Electron bị giữ lại trong các bẫy electron, ngăn cản các chuyển đổi năng -
lượng liên quan đến bức xạ.
Electron được kích thích nhiệt, nhảy lên mức năng lượng cao hơn -
Electron tái hợp với tâm hoạt tính, phát bức xạ và trở về trạng thái cơ -
bản.
21
Bẫy e
Thế năng
Kích thích Phát xạ
Trạng thái cơ bản của electron
Hình 1.4: Cơ chế phát quang tái hợp kéo dài
Trong nhiều trường hợp, cơ chế phát quang không được hiểu một cách
chi tiết do đó để diễn giải người ta thường sử dụng các mô hình đã được đơn
giản hoá.
Mô hình này dựa trên giản đồ mức năng lượng của các nguyên tử và
phân tử áp dụng được đối với các chất phát quang, ở đó sự kích thích và sự
phát xạ xảy ra ở cùng trung tâm phát quang.
22
Thế năng
V2 V1 V0
re1
Khoảng cách giữa các nguyên tử
Hình 1.5: Sự thay đổi thế năng của trạng thái cơ bản của tâm phát quang
phụ thuộc vào khoảng cách giữa các nguyên tử trong tinh thể
E
Thế năng Trạng thái cơ bản
B C
D
A
re1
Trạng thái kích thích
Khoảng cách giữa các nguyên tử
Hình 1.6: Giản đồ tọa độ cấu hình năng lượng
Mối quan hệ năng lượng của quá trình phát quang được biểu diễn ở
giản đồ tọa độ cấu hình năng lượng (Hình 1.6). Hình này chỉ ra sự thay đổi
thế năng của trạng thái cơ bản và trạng thái kích thích của tâm chất phát
quang phụ thuộc vào khoảng cách giữa các nguyên tử. Hình 1.6, đường phía
23
dưới thấp hơn chỉ ra trạng thái cơ bản của trung tâm phát quang với các mức
dao động và đường trên chỉ ra trạng thái kích thích của trung tâm phát quang. Khi hấp thụ bức xạ kích thích, các electron chuyển nhanh (10-9s) từ
trạng thái cơ bản lên trạng thái kích thích. Do vậy, toạ độ không gian vẫn giữ
nguyên không thay đổi và sự chuyển dịch biểu diễn bằng các đường thẳng
đứng. Do hệ kích thích không đạt ngay trạng thái cân bằng sau hấp thụ năng
lượng, đầu tiên nó dịch chuyển hướng đến các mức dao động thấp nhất có sự
mất năng lượng cho mạng lưới. Từ mức này, electron có thể chuyển về một
trong những mức dao động ở trạng thái cơ bản có phát ra ánh sáng và cuối
cùng chuyển về ví trí cân bằng. Mô hình này giải thích dạng miền hấp thụ và
phát xạ bởi sự phân bố các mức dao động và sự chuyển dịch Stockes nhờ các
quá trình không phát xạ.
Giản đồ cấu hình năng lượng đánh giá định tính sự thay đổi thế năng
phụ thuộc khoảng cách giữa các nguyên tử. Đường cong có cực tiểu ứng với
đại lượng cân bằng nào đó của độ dài liên kết re. Ở trạng thái cơ bản của
electron chỉ có thể có những trạng thái dao động gián đoạn khác nhau của
electron ứng với các mức năng lượng V0, V1... Đường cong thế năng trên hình
1.6 tương ứng với mỗi trạng thái electron của tâm phát quang.
Hình 1.6 mô tả vị trí điển hình các đường cong thế năng của trạng thái
cơ bản và của trạng thái kích thích. Sử dụng hình 1.6 để giải thích một số nét
đặc trưng của chất phát quang. Trước hết, quá trình kích thích là quá trình
chuyển tâm hoạt động từ mức năng lượng của trạng thái cơ bản lên một trong
các mức dao động cao hơn, ví dụ, tâm hoạt động ở mức B của trạng thái kích
thích chuyển về mức năng lượng thấp C và xảy ra sự tách li một phần năng
lượng. Năng lượng mất đi dưới dạng nhiệt. Cuối cùng, tâm hoạt động quay về
trạng thái cơ bản của mình (lên mức A hoặc mức D) và phát ra ánh sáng. Vì
năng lượng kích hoạt chuyển từ A đến B cao hơn năng lượng phát ra khi
chuyển từ C đến D, nên bức xạ phát ra được đặc trưng bằng bước sóng dài
hơn so với bức xạ kích hoạt.
24
Hình 1.6 có thể giải thích hiện tượng tắt nhiệt xảy ra ở một nhiệt độ nào
đó thì sự phát sáng của chất phát quang giảm đi rõ rệt. Hình 1.6 cho thấy ở
điểm E đường cong thế năng của trạng thái cơ bản và của trạng thái kích thích
giao nhau. Như vậy, ở điểm này ion ở trạng thái kích thích chuyển về trạng
thái cơ bản ở cùng mức năng lượng. Nếu ion chuyển vào trạng thái kích thích
có đủ năng lượng và đạt điểm E, ion có thể rơi lên một trong những mức dao
động của trạng thái cơ bản. Nếu điều này xảy ra thì tất cả năng lượng tách ra
được thoát ra dưới dạng năng lượng dao động, và không có sự phát sáng. Bởi
vậy, năng lượng ứng với điểm E được gọi là năng lượng tới hạn. Mức tới hạn
như vậy của năng lượng có thể đạt được bằng cách đun nóng vì khi đó năng
lượng nhiệt của ion tăng lên và khả năng chuyển lên mức dao động cao hơn.
Điều trình bày trên đây để giải thích hiện tượng tắt nhiệt kiểu chuyển
tức là một trong các ví dụ của sự chuyển không bức xạ. Trong những quá
trình chuyển như vậy, ion kích thích mất năng lượng dư của mình bằng cách
chuyển năng lượng dao động ra xung quanh trong mạng lưới của tinh thể nền.
Ở trường hợp này, ion kích thích có thể quay lại mức năng lượng thấp mà
không phát ra bức xạ điện từ (nghĩa là ánh sáng).
Các quá trình kích thích và phát quang của vật liệu có thể mô tả bởi sơ
Hình 1.7: Sơ đồ mô tả các mức năng lượng hoạt hóa và giải thích sự phát quang
đồ mức năng lượng hình 1.7.
25
Các tạp chất và những khuyết tật trong cấu trúc tinh thể có ảnh hưởng
đến tính chất quang của vật liệu do chúng hình thành các mức năng lượng
trong vùng cấm. ảnh hưởng của những mức năng lượng này là electron có thể
dễ dàng đến và đi. Mặt khác, những electron này có thể tái kết hợp một cách
trực tiếp bởi sự di chuyển về vùng hoá trị. Hình 1.7 chỉ ra hai khả năng tái kết
hợp của electron. Đầu tiên khi bị kích thích, electron ở mức cơ bản trong vùng
hoá trị nhận năng lượng vượt qua vùng cấm lên mức năng lượng cao hơn
trong vùng dẫn. Sau đó:
- Cách 1: Electron nhảy về trạng thái kích thích (mức năng lượng của chất
hoạt hoá) và phát xạ bởi sự nhảy tiếp về trạng thái cơ bản (mức năng lượng
của chất hoạt hoá). Quá trình này không xảy ra với tất cả các trường hợp
ngoại trừ sự di chuyển có mức năng lượng cao.
- Cách 2: Đầu tiên, electron bị giữ lại ở các bẫy, ở các bẫy này không cho
phép các chuyển đổi có liên quan đến bức xạ. Sau đó, các electron này bị kích
thích lại nhảy lên vùng dẫn và sau đó phát xạ bằng cách nhảy về mức năng
lượng của chất hoạt hoá.
26
1.2. Chất phát quang nền kẽm silicat
Kẽm silicat tồn tại trong tự nhiên dưới dạng khoáng có tên là Willemit.
Theo phân loại, kẽm silicat thuộc nhóm octosilicat, nghĩa là mạng tinh thể
gồm các tứ diện riêng rẽ , cation Zn2+ nằm giữa những tứ diện đó. Tứ
diện là đơn vị kiến trúc cơ sở của tất cả các silicat [2, 7]. Về đặc điểm
cấu trúc của silicat, sự nghiên cứu bằng tia X đã đưa tới các kết luận sau: Trong tất cả các silicat đã nghiên cứu, mỗi ion Si4+ bao giờ cũng nằm giữa 4 ion O2- bố trí ở các góc của một tứ diện. Mối liên kết giữa các ion oxi với silic
mạnh hơn nhiều mối liên kết với các kim loại đóng vai trò cation trong kiến
trúc tinh thể của silicat. Liên kết Si-O là liên kết cộng hoá trị, khoảng cách Si- O chỉ khoảng 1,6Ao.
Hình 1.8: Tứ diện trong mạng octosilicat
Công thức thành phần của kẽm silicat là 2ZnO.SiO2. Như vậy thành
phần hoá học tính theo khối lượng là 73% ZnO và 27% SiO2. Chiếm một
phần rất nhỏ trong thành phần của kẽm silicat là các ion kim loại có tác dụng
như một chất kích hoạt đóng vai trò là tâm phát quang, làm cho kẽm silicat có
thể phát quang. Tùy vào phương pháp và điều kiện tổng hợp, tinh thể nền
Zn2SiO4 có thể tồn tại ở ba dạng thù hình khác nhau: α-Zn2SiO4, β-Zn2SiO4,
γ-Zn2SiO4. Trong các dạng thù hình này, α-Zn2SiO4 là pha thông thường,
được đặc biệt quan tâm do khả năng bền nhiệt động học. Với tinh thể nền α-
27
Zn2SiO4, có thể kích hoạt bởi cation của các nguyên tố kim loại chuyển tiếp
hay các nguyên tố đất hiếm để thu được các chất phát quang khác nhau. Để
thu chất phát quang màu lam, chất nền Zn2SiO4 được kích hoạt bởi các ion Eu2+[59]; Ce3+[58] hoặc Hf4+[78]. Tb3+ khi được kích thích vào tinh thể nền
Zn2SiO4 sẽ tạo ra chất phát quang Zn2SiO4 phát quang màu lục ở bước sóng khoảng 542 nm [18, 32, 69]. Zn2SiO4 khi kích hoạt bởi Eu3+ hoặc Fe3+ tạo ra
chất phát quang màu đỏ ở bước sóng λmax = 615 nm [16, 25, 27, 53, 57, 60,
69] hoặc λmax = 741 nm [24]. Màu và bước sóng phát quang của chất phát
quang nền kẽm kích hoạt bởi các ion khác nhau được chỉ ra ở hình 1.9 và
bảng 1.1 dưới đây:
Hình 1.9: Màu và bước sóng phát quang của chất phát quang nền Zn2SiO4
28
Bảng 1.1: Bảng tổng hợp chất phát quang nền kẽm silicat
Màu phát quang
Ion kích hoạt
Tỷ lệ mol ion kích hoạt/Zn2+
Phương pháp tổng hợp
Tài liệu tham khảo
0,07
Eu2+ Ce3+
Bước sóng phát quang λmax, nm 418 489
Lam [59] [58] [76]
Hf4+ 471 0,01
Tb3+ 542 0,05
518-531 0,01-0,15 [18, 32] [30, 33, 42, 49, 56, 73]
lục Sol-gel 0,0025-0,025 Sol-gel Phương pháp phản ứng pha rắn Sol-gel Phương pháp phản ứng pha rắn Phương pháp sol-gel 0,005-0,2 Mn2+ 520-529
520-528 0,01-0,2
[11, 19, 22, 29, 43, 45, 50, 57, 61, 68] [28, 34, 36, 37, 63, 66, 67, 72, 74] [16, 25, 27, 53, 57, 60] Eu3+ 615 0,01-0,06
đỏ [24]
Fe3+ 741 0,01
[36, 37, 74]
561-565 0,02
vàng Mn2+ (*)
(*): β-Zn2SiO4:Mn phát quang màu vàng
[23, 50] 575-579 0,02-0,1 Phương pháp thủy nhiệt Sol- gel/Thủy nhiệt Phương pháp kết tinh hệ nóng chảy Phương pháp thủy nhiệt Phương pháp sol-gel
Kẽm silicat là một chất tiềm năng, phát quang đa màu trong vùng ánh
sáng nhìn thấy theo sự lựa chọn ion kích hoạt khác nhau, tuy nhiên sử dụng thực tiễn chỉ dùng chính là ion Mn2+[48].
Willemit hay kẽm silicat kích hoạt bởi mangan (Zn2SiO4:Mn) được sử
dụng như là một chất phát quang trong đèn huỳnh quang, đèn tích điện neon,
29
Tivi đen trắng, Tivi màu, một số thiết bị màn hình khác và thiết bị chiếu sáng
từ những năm 1930. Hiện tại, Zn2SiO4:Mn được sử dụng với một lượng lớn
cho những Tivi tiên tiến nhất, màn hình plasma vì hiệu quả phát quang cao,
độ tinh khiết màu và độ bền hóa, bền nhiệt. Zn2SiO4:Mn là một trong những
vật liệu tiên tiến, xuất hiện trong vòng 180 năm qua và được nghiên cứu rộng
rãi. Tiếp theo các khám phá, Zn2SiO4:Mn được quan tâm nhiều đến sự hình
thành, tinh thể học, sự phát quang, ứng dụng của nó như là một vật liệu công
nghiệp. Hiện tại, các nhà nghiên cứu đang hướng tới các phương pháp mới để
sản xuất Zn2SiO4:Mn mà không cần đến nhiệt độ quá cao. Thêm vào đó có
thể thu được các vật liệu đồng nhất, có độ mịn cao, là tiềm năng cho những
ứng dụng mới.
Zn2SiO4:Mn là chất phát quang với tinh thể nền là Zn2SiO4 và ion kích hoạt là Mn2+. Tùy vào dạng thù hình của tinh thể nền Zn2SiO4, Zn2SiO4:Mn
có thể phát quang các màu khác nhau: α-Zn2SiO4:Mn phát quang màu lục, β-
Zn2SiO4:Mn phát quang màu vàng và γ-Zn2SiO4 :Mn phát quang màu đỏ [13,
46, 47, 52].
Cấu trúc tinh thể của -Zn2SiO4 được chỉ ra ở hình 1.10 bởi S. R.
Lukié và các cộng sự [64].
Hình 1.10: Cấu trúc tinh thể của -Zn2SiO4
30
và các -Zn2SiO4:Mn thuộc dạng octosilicat bao gồm các tứ diện
tứ diện riêng biệt. Các dạng tinh thể điển hình của sản phẩm trong tự
nhiên là hình lăng trụ hoặc hình que. -Zn2SiO4:Mn phát ra ánh sáng màu lục
rất mạnh dưới ánh sáng đèn UV hoặc chùm electron. -Zn2SiO4:Mn được sử
dụng trong nhiều loại màn hình và thiết bị phát sáng. Sự phát quang màu lục của -Zn2SiO4:Mn là do ion Mn2+ thay thế ion Zn2+ trong tinh thể nền Zn2SiO4 [12, 62]. Ion Mn2+ phát quang tương ứng đến các electron trong obitan ngoài cùng 3d, ở đó sự chuyển của electron 3d5 từ trạng thái kích thích
đến trạng thái cơ bản. Hàm lượng Mn trong khoáng willemit thay đổi rộng
trong khi hàm lượng Mn trong mẫu tổng hợp Zn2SiO4:Mn thường giới hạn
quanh 0,5-10% mol. Cường độ phát quang thay đổi khi thay đổi hàm lượng
mangan và giá trị cường độ lớn nhất được chỉ ra tại hàm lượng mangan 2-3%
mol [11, 29, 45, 50, 61, 65].
-Zn2SiO4:Mn là pha giả bền nhiệt động học, phát quang màu vàng tại
bước sóng λmax = 580nm. β-Zn2SiO4 được điều chế bằng việc nung hỗn hợp ZnO, SiO2 và MnCl2 (Mn chiếm 1% về khối lượng) ở khoảng 1500oC và làm
nguội nhanh trong nước. Hệ tinh thể thuộc dạng triclinic [48]. Rooksby và
McKeag đã đăng ký JCPDS (Joint Committee on Powder Diffraction
Standards) no. 19-1479. Pfeiffer và Fonda đã tổng hợp -Zn2SiO4:Mn có pic
phát quang và giản đồ XRD tương tự giản đồ XRD của Rooksby và McKeag bằng việc nấu chảy hỗn hợp ZnO và SiO2 tại 700-750oC và làm lạnh.
-Zn2SiO4 còn được đăng ký JCPDS no. 14-0653 bằng việc nung
Zn4(OH)2Si2O7.H2O
Zn4(OH)2Si2O7
-Zn2SiO4
-Zn2SiO4
hemimophit Zn4(OH)2Si2O7.H2O trong không khí. Hemimophit được đề hydrat ở 550oC và sau đó chuyển hóa như sau:
-Zn2SiO4 được điều chế bởi việc nung hemimophit Zn4(OH)2Si2O7 ở 725-760oC và làm nguội nhanh vật liệu trên một bề mặt kim loại hoặc làm
nguội chậm với tốc độ 20oC/phút. Hệ tinh thể thu được ở dạng trực thoi. -
31
Zn2SiO4 có thể được điều chế tương tự bằng việc nóng chảy và nung hỗn hợp
ZnO và SiO2 trong đó tỷ lệ mol Si/Zn là 1,7 (cao hơn giá trị hệ số tỷ lượng
Si/Zn là 0,5. -Zn2SiO4 dạng trực thoi chuyển hóa thành -Zn2SiO4 bởi quá trình nung đến 960oC và làm lạnh nhanh hoặc chậm [48]. Taylor chỉ ra rằng
sự chuyển hóa này là do sự sắp xếp lại của nguyên tử.
Nghiên cứu tổng hợp Zn2SiO4:Mn bằng phương pháp thủy nhiệt, Junxi
Wan và các cộng sự [36] đã chỉ ra ở các điều kiện tổng hợp khác nhau sẽ thu
được Zn2SiO4 ở các dạng α hoặc β, α-Zn2SiO4:Mn phát quang màu lục ở pic
phát quang λmax = 525 nm và β-Zn2SiO4:Mn phát quang màu vàng ở pic phát
quang λmax = 575 nm. Theo tài liệu này, các tác giả cũng đưa ra kết luận, ở
điều kiện nhiệt độ thường, β-Zn2SiO4 khá bền và chỉ ở nhiệt độ cao, β-
Zn2SiO4 chuyển hóa thành α-Zn2SiO4. Cũng theo phương pháp thủy nhiệt,
nhiều tác giả cũng chỉ ra sự chuyển pha từ β thành α ở nhiệt độ cao [74].
N. Taghavinia và các cộng sự [51] tìm thấy các điều kiện khác nhau trong đó
xuất hiện Zn2SiO4 phát quang màu vàng. Các tác giả đã chỉ ra yếu tố quan
trọng quyết định sự tạo thành Zn2SiO4 phát quang màu vàng là nhiệt độ nung.
Theo đó, nhiệt độ nung thấp Zn2SiO4 tạo thành sẽ phát quang màu vàng. Kết
quả XRD cũng khẳng định, cỡ hạt phát quang màu vàng nhỏ hơn cỡ hạt phát
quang màu xanh.
Williamson và Glasser [54] đã điều chế γ-Zn2SiO4 bằng cách làm nguội
nhanh một hệ nóng chảy gồm ZnO và SiO2 trong đó tỷ lệ mol ZnO khoảng
45-50% (nhỏ hơn giá trị hệ số tỷ lượng Zn/Si là 2). Pha γ-Zn2SiO4 được đăng
ký JCPDS no. 23-1172 và có cấu trúc ô mạng lập phương tâm mặt đơn giản.
Fonda đã thu được pha phát quang đỏ bằng việc nung hỗn hợp ZnO và SiO2 dư đến 1530oC, cao hơn so với nhiệt độ nóng chảy là 1512oC một chút và làm lạnh cực nhanh (430oC/s); trong khi đó pha phát quang vàng được điều chế bằng việc làm lạnh nhanh (83oC/phút) và pha phát quang màu lục được điều
chế bằng việc làm lạnh chậm từ hệ nóng chảy tương tự [35]. Pha phát quang
đỏ thu được có pic phát quang tại 670 nm. Pfeiffer và Fonda [39] đã chỉ ra
32
rằng thủy tinh phát quang đỏ có pic phát quang tại 630 nm được tạo thành bởi
việc nóng chảy và làm lạnh một hỗn hợp chứa ZnO và SiO2. Tuy nhiên, pha
γ-Zn2SiO4 không ổn định và cơ chế của sự phát quang màu đỏ của γ-
Zn2SiO4:Mn là không rõ ràng.
1.3. Các phương pháp tổng hợp bột phát quang Zn2SiO4:Mn
Ngày nay, có nhiều phương pháp để tổng hợp chất phát quang vô cơ
trong đó có chất phát quang Zn2SiO4:Mn. Các phương pháp tổng hợp được
chia ra theo quá trình tiến hành hoặc điều kiện tiến hành [8, 44]. Việc tìm một
phương pháp tổng hợp mà yêu cầu nhiệt độ thấp có thể vượt qua những hạn
chế về sự phân bố cỡ hạt chất rắn không chỉ mang lại lợi ích cho công nghiệp
mà còn giúp giải quyết những vấn đề về môi trường và năng lượng cho toàn
xã hội. Thêm vào đó, việc tìm một phương pháp tổng hợp mà có thể điều
khiển hình thái rất cần thiết để thu được các hạt thích ứng trong việc ứng dụng
công nghệ hiện đại. Mỗi phương pháp có những đặc điểm riêng, cần nghiên
cứu để lựa chọn phương pháp phù hợp cũng như điều khiển được các yếu tố
công nghệ để tạo ra các sản phẩm phù hợp với các ứng dụng cụ thể [1].
1.3.1. Phương pháp phản ứng pha rắn
Trong các phương pháp tổng hợp, phương pháp được sử dụng nhiều
nhất là phương pháp phản ứng pha rắn (phương pháp gốm). Các nguyên liệu đầu được trộn kỹ và nung tại 900-1500oC vài giờ trong các môi trường khí
khác nhau. Sau nung tạo ra được các tinh thể vô cơ có chất kích hoạt trong
cấu trúc. Để tổng hợp Zn2SiO4:Mn, thường dùng ZnO, SiO2 và MnO hoặc MnCO3 là nguyên liệu đầu và phản ứng được tiến hành ở 1100-1400oC
khoảng 2-4 giờ. Phương pháp phản ứng pha rắn thu được các hạt với hình
dạng không đồng đều, hạt cỡ micron với sự phân bố cỡ hạt rộng. Bảng 1.2
tổng hợp các nghiên cứu tổng hợp Zn2SiO4 bằng phương pháp phản ứng pha
rắn.
33
Bảng 1.2: Tổng hợp Zn2SiO4 bằng phương pháp phản ứng pha rắn
Nhiệt độ nung, oC
1200oC
1300oC 1350oC Thời gian nung, giờ 2 giờ 3 giờ 4 giờ 4 giờ 24 giờ Tài liệu tham khảo [33] [30] [49] [73] [56]
Pha tạo thành SiO2/Zn2SiO4 α-Zn2SiO4 α-Zn2SiO4 α-Zn2SiO4 α-Zn2SiO4
Morell Antoinette, Goumard Nathalie [49] đưa ra một phương pháp
điều chế kẽm silicat hoạt hoá bởi mangan. Phương pháp này đi từ hỗn hợp
ban đầu gồm: ZnO, SiO2 và MnCO3 trong môi trường nước, sấy khô hỗn hợp và nung trong môi trường nitơ tại các nhiệt độ khác nhau (1200 – 1400oC) tuỳ
thuộc vào hàm lượng mangan.
Để giảm bớt nhiệt độ nung, để mangan không bị oxi hoá, Akos Kiss,
Peter Kleinschmit and Giinter Halbritter [15] chỉ ra phương pháp điều chế các
nguyên liệu ban đầu gồm: ZnO, SiO2, MnO, TiO2, Cr2O3, Na2O, Al2O3 … Hỗn hợp này nung ở 850 – 1400oC trong không khí 0,5 – 6 giờ.
Cơ chế tạo thành pha của Zn2SiO4:Mn theo phương pháp phản ứng pha
rắn được quan tâm đến từ rất lâu. Sự tạo thành pha của Zn2SiO4:Mn và các
chất phát quang vô cơ khác sử dụng phương pháp phản ứng pha rắn được tiến
hành bằng sự khuếch tán chất rắn của nguyên tử và nhóm nguyên tử trong các
nguyên liệu rắn thô mà tốc độ khuếch tán thấp. Nhiều tài liệu đã chỉ ra rằng ZnO và SiO2 đã phản ứng vào khoảng 775oC để tạo ra Zn2SiO4 với sự xuất
hiện của pic tỏa nhiệt. A. Patra [11] thu được giá trị nhiệt độ để tạo Zn2SiO4
tương tự bằng các thí nghiệm phản ứng ở pha rắn khi thay đổi nhiệt độ nung.
Pha Zn2SiO4 bắt đầu hình thành bằng sự phân tán ZnO từ bề mặt của
SiO2 theo phương trình phản ứng sau:
SiO2 + 2 ZnO = Zn2SiO4
34
E.G.King chỉ ra rằng nhiệt tạo thành của Zn2SiO4 từ ZnO và SiO2 tại 25oC là -6,90 kcal/mol (-28,8 kJ/mol). K. Takagi và Y. Suzuki chỉ ra rằng ZnO hấp thụ và di chuyển đến bề mặt của SiO2 ở khoảng 650oC. K.Takagi đã
tính toán năng lượng hoạt hóa bằng 40,8 kcal/mol và xác nhận sự khuếch tán
chất rắn là yếu tố điều khiển tốc độ để tạo thành Zn2SiO4. Do vậy, không thể có trường hợp tạo Zn2SiO4 ở nhiệt độ thấp hơn 770oC nếu cơ chế tạo thành
pha dựa trên sự phân tán trong pha rắn [48].
Phương pháp phản ứng pha rắn là một phương pháp truyền thống, được
sử dụng rộng rãi. Đây là một phương pháp dễ thực hiện trong điều kiện bình
thường, không yêu cầu kỹ thuật cao hay thiết bị hiện đại. Tuy nhiên, phản ứng
xảy ra theo phương pháp này với tốc độ rất chậm, thậm chí ngay cả khi
nghiền chất phản ứng thật mịn rồi nung ở nhiệt độ cao. Phương pháp này yêu
cầu năng lượng điện và nhiệt lớn, sản phẩm thu được có kết khối, phân bố hạt
không đồng đều, kích thước hạt cỡ vài micron [8].
1.3.2. Phương pháp sol-gel
Sol-gel là phương pháp cho phép trộn lẫn các chất ở quy mô nguyên tử
và hạt keo để tổng hợp các vật liệu có độ sạch và tính đồng nhất cao. Quá
trình sol-gel được định nghĩa là quá trình tạo ra vật liệu bằng cách điều chế
sol, chuyển từ sol thành gel và cuối cùng là tách dung môi.
Phương pháp sol-gel hầu hết tiến hành cùng với dung môi như là nước
lỏng, chất lỏng ion hay hỗn hợp ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ sôi và áp suất
thường [9]. Các nguồn kẽm và các chất kích hoạt (ví dụ nitrat, sunfat, clorua,
axetat) và các nguồn Si (silica, silicat, alkoxysilan…) được sử dụng như các
chất ban đầu. Trong phương pháp sol-gel, các chất được hòa tan hay phân tán
trong các dung môi và sau đó trộn lẫn để tạo ra dung dịch phân tán đồng nhất.
Hầu hết các precursor thu được bằng phương pháp sol-gel không phải là
Zn2SiO4 tinh thể mà là các precursor vô định hình, sau đó, các precursor này
35
được nung tại nhiệt độ cao (khoảng 1000oC) để tạo ra Zn2SiO4. Bảng 1.3 tổng
hợp các nghiên cứu tổng hợp Zn2SiO4 bằng phương pháp sol-gel.
Bảng 1.3: Tổng hợp Zn2SiO4 bằng phương pháp sol-gel
Nhiệt độ, oC
Nhiệt độ nung, oC 800-1200oC Thời gian nung, giờ - Tài liệu tham khảo [22]
25oC
900oC 850-1000oC 1000oC 1000oC 1000oC 900-1200oC 800-1200oC 48 giờ 1 giờ 2-10 giờ 1-2 giờ - 2-12 giờ - Pha tạo thành sau nung β-Zn2SiO4 (800oC) α-Zn2SiO4 (1000oC) α-Zn2SiO4 α-Zn2SiO4 α-Zn2SiO4 α-Zn2SiO4 α-Zn2SiO4 α-Zn2SiO4 [43] [11] [50] [45, 57, 68] [19] [61] [29]
60oC 80oC
Thomas và các cộng sự [68] đã nghiên cứu tổng hợp thành công
Zn2SiO4:Mn bằng phương pháp sol-gel. TEOS được thêm vào dung dịch chứa
2% mol Mn(CH3COO)2.4H2O và Zn(CH3COO)2.2H2O hòa tan trong etanol
và khuấy tại nhiệt độ phòng. Quá trình này tiến hành ở pH = 10, giá trị pH
được điều chỉnh bằng việc thêm vào hệ phản ứng dung dịch amoniac và chất
hoạt động bề mặt Tween 80. Dung dịch tạo thành được khuấy để tạo thành
gel. Sản phẩm gel tạo thành được nung trong 2 giờ tại các nhiệt độ nung thay đổi từ 800-1100oC. Kết quả chỉ ra rằng, mẫu nung tại 1100oC tạo một pha tinh
thể duy nhất Zn2SiO4 và cho cường độ phát quang cao nhất. Bài báo cũng chỉ
ra rằng, việc thêm chất hoạt động bề mặt Tween 80 đã làm giảm kích thước
hạt và ngăn cản sự kết khối mạnh của sản phẩm.
A. Patra và cộng sự [11] đã nghiên cứu tổng hợp Zn2SiO4:Mn theo
phương pháp sol-gel. TEOS được thêm vào hỗn hợp 1-propanol và 2-butanol
với tỷ lệ mol TEOS: H2O: 1-propanol: 2-butanol = 1:3:3:2, hỗn hợp thu được
khuấy 1 giờ, thu được sol. Tiếp theo Zn(CH3COO)2.2H2O và
36
Mn(CH3COO)2.4H2O được thêm vào sol và khuấy 30 phút. Các hạt thu được
sau đó được rửa 2 lần với axeton và 2 lần với metanol. Precursor thu được tiếp tục sấy ở 60oC trong 12 giờ. Khi nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ nung, các tác giả đã đưa ra kết luận, mẫu nung ở 750oC, ngoài pha chính là Zn2SiO4 còn thấy xuất hiện pha của ZnO; mẫu nung ở 850oC và 1000oC trên
giản đồ XRD chỉ thấy xuất hiện một pha là Zn2SiO4. Theo phương pháp này, cỡ hạt của sản phẩm thu được khi nung ở 1000oC xác định trên ảnh TEM là
khoảng 50 nm.
Bằng phương pháp sol-gel, nghiên cứu tổng hợp Zn2SiO4:Mn tại các
nhiệt độ khác nhau khi thay đổi hàm lượng mangan kích hoạt, Mu-Tsun Tsai và các cộng sự [50] cho rằng, với nhiệt độ nung đến 500oC, sản phẩm thu
được ở dạng vô định hình, các pic nhiễu xạ yếu xuất hiện sau khi nung ở 600oC; các pic và cường độ pic tăng hơn khi nung mẫu đến 1000oC. Với việc nung mẫu ở 800-1000oC, tất cả các mẫu bột thu được đều trắng, từ điều này
có thể cho rằng ion Mn tồn tại trong sản phẩm có hóa trị 2. Trên giản đồ XRD
chỉ thấy xuất hiện một pha tinh thể duy nhất là α-Zn2SiO4, từ điều này có thể cho rằng các ion Mn2+ đã được phân tán tốt khi thay thế cho các ion Zn2+
trong mạng lưới tinh thể kẽm silicat sau khi nung [29, 50]. Dựa vào ảnh SEM,
có thể xác định cỡ hạt trung bình của sản phẩm khoảng 35 nm với sự kết khối
nhẹ ở mẫu Zn2SiO4 không kích hoạt Mn và tăng dần sự kết khối của các mẫu
kích hoạt bởi mangan Zn2-xMnxSiO4 với x = 6% và x = 20%. Kết quả nghiên
cứu phổ phát quang của Zn2-xMnxSiO4 kích thích ở bước sóng 270nm khi nung ở 1000oC, hàm lượng mangan thay đổi cho thấy, cường độ phát quang
tăng khi tăng hàm lượng mangan đến cao nhất là x = 6% và giảm đáng kể với
các giá trị cao hơn. Bài báo cũng chỉ ra sự tăng của cường độ phát quang tỷ lệ
với sự tăng của nhiệt độ nung và thời gian nung.
Tác giả Ha-Kyun Jung và các cộng sự [29] tổng hợp Zn2SiO4:Mn theo
phương pháp sol-gel cũng nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng mangan. Các
tác giả đã đưa ra kết luận với hàm lượng mangan là 1% số mol so với kẽm
37
cho cường độ phát quang là cao nhất, ứng với thành phần của vật liệu phát
quang là Zn1,98Mn0,02SiO4. Tài liệu này cũng đưa ra khẳng định chất phát quang thu được là Zn2SiO4:Mn, trong đó Zn2SiO4 là chất nền, ion Mn2+ là chất kích hoạt thay thế Zn2+ trong mạng lưới tinh thể.
Cũng theo phương pháp sol-gel, nghiên cứu tổng hợp Zn2SiO4:Mn khi
thay đổi hàm lượng mangan trong khoảng 1-7% số mol so với kẽm, nhóm tác
giả Ravilisetty [61] đưa ra kết luận với hàm lượng 3% số mol mangan so với
kẽm, sản phẩm Zn2SiO4:Mn thu được cho cường độ phát quang là lớn nhất.
M.S. Kwon và cộng sự [45] cũng nghiên cứu tổng hợp Zn2SiO4:Mn
bằng phương pháp sol-gel với các nguyên liệu đầu là Zn(CH3COO)2.2H2O,
TEOS và MnCl2. Bài báo cho các kết quả là khi tổng hợp sản phẩm thu được
ở các pH của dung dịch khác nhau. Với pH = 11, sản phẩm thu được là pha
đơn tinh thể Zn2SiO4. Các tác giả đã nghiên cứu sự thay đổi hàm lượng
mangan. Có thể nhận thấy với hàm lượng 5% Mn kích hoạt, cho cường độ
phát quang cao nhất khi kích thích ở 254 nm và cũng cho cường độ kích thích
cao nhất tại bước sóng phát quang 524 nm.
Một trong những ưu điểm lớn của phương pháp sol-gel là có thể tạo ra
các hạt Zn2SiO4 hình cầu. H.K. Jung và cộng sự [40] đã chỉ ra rằng hạt -
Zn2SiO4:Mn có dạng hình cầu đồng nhất, có thể tổng hợp bằng việc nung precursor tại 1050oC vài giờ. Các precursor này được điều chế bằng kỹ thuật
sol-gel với ZnNO3.6H2O, MnNO3.6H2O, axit oxalic và các hạt cầu SiO2 là
nguyên liệu ban đầu. Các hạt SiO2 hình cầu có thể lớn lên mà vẫn giữ dạng
hình cầu bởi vì các ion Zn và Mn phân tán vào các hạt SiO2 trong quá trình
nung.
Tóm lại, phương pháp sol-gel được tiến hành ở áp suất khí quyển và
nhiệt độ thường, quá trình tạo thành pha Zn2SiO4 với hầu hết các phương pháp sol-gel cần nung ở nhiệt độ lớn hơn 800oC. Nói cách khác, có thể xem
xét phương pháp sol-gel là một phương pháp điều chế precursor của phương
pháp phản ứng pha rắn. Bất kỳ phương pháp sol-gel nào cũng có thể thu được
38
đặc điểm cụ thể của các vật liệu như là cỡ hạt, hình dáng hạt. Phương pháp
sol-gel có tiềm năng thay đổi các vật liệu để có được các tính chất mong
muốn nhất định khi được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác.
1.3.3. Phương pháp thủy nhiệt
Phương pháp thủy nhiệt thường được sử dụng trong tổng hợp nhiều vật
liệu vô cơ và vật liệu lai. Phương pháp thủy nhiệt sử dụng nước như là môi
trường phản ứng, ngoài ra còn có thể sử dụng các dung môi hữu cơ làm môi
trường phản ứng. Các thí nghiệm thủy nhiệt thường được tiến hành trong một
autoclave trong đó các vật liệu đầu hay các precursor được cho vào và xử lý nhiệt tại 100-370oC. Hầu hết các nghiên cứu tổng hợp Zn2SiO4 đều chỉ ra sự
tạo thành pha -Zn2SiO4:Mn phát quang màu lục không cần nung với sự phát
quang và độ tinh thể thấp hơn đáng kể so với phương pháp phản ứng pha rắn.
Bảng 1.4 tổng hợp các nghiên cứu tổng hợp Zn2SiO4 bằng phương pháp thủy
nhiệt.
Bảng 1.4: Tổng hợp Zn2SiO4 bằng phương pháp thủy nhiệt
Nhiệt độ, oC Thời gian Pha tạo thành
200oC 72 giờ Tài liệu tham khảo [74]
α-Zn2SiO4 (H2O) β-Zn2SiO4 (etylen glycol) α-Zn2SiO4 β-Zn2SiO4 (làm nguội nhanh bằng H2O)
220oC 6 ngày [36, 37]
α-Zn2SiO4 α-Zn2SiO4 α-Zn2SiO4 α-Zn2SiO4
230oC
2 giờ 12 giờ 10-12 giờ 6 giờ [63] [34] [67] [28]
280oC
J. H. Zheng và cộng sự [34] cho rằng -Zn2SiO4 được tạo thành trong nước và etanol khoảng 12 giờ tại 110oC - nhiệt độ thấp nhất trong các nghiên
cứu thủy nhiệt, mặc dù pic XRD của vật liệu rất rộng chỉ ra độ tinh thể rất
39
thấp. Thời gian phản ứng cần thiết để tạo thành sản phẩm có xu hướng giảm
đi khi tăng nhiệt độ.
S. W. Lu và cộng sự [63] chỉ ra rằng các hạt -Zn2SiO4:Mn thu được bằng việc sử dụng phương pháp thủy nhiệt ở 230oC trong 2 giờ. Cường độ
phát quang của sản phẩm này chỉ bằng 1/6 cường độ phát quang của sản phẩm tổng hợp bằng phương pháp phản ứng pha rắn (1000oC, 2 giờ) khi sử dụng
các nguyên liệu ban đầu tương tự nhau. Y. Wang và cộng sự [75] cho rằng
cường độ phát quang của -Zn2SiO4:Mn tổng hợp bằng phương pháp thủy nhiệt (230oC, 6 giờ) và nung tại 1100oC thì gần giống -Zn2SiO4:Mn tổng hợp theo phương pháp phản ứng pha rắn tại 1250oC.
J. H. Zheng và cộng sự [34] báo cáo rằng Zn2SiO4 có thể tổng hợp theo
phương pháp thủy nhiệt từ kẽm axetat và TEOS hoặc Na2SiO3. Nhiệt độ tổng
hợp thấp nhất và các thông số phản ứng xác định hình thái học của sản phẩm
được thảo luận. Nồng độ bazơ cao ưu tiên tạo dạng que. XRD, TEM được sử
dụng để xác định đặc tính của sản phẩm.
Để đưa ra mối quan hệ giữa nồng độ mangan kích hoạt và cường độ
phát quang của Zn2SiO4:Mn, các mẫu sản phẩm với tỷ lệ khác nhau của
Mn/Zn được nghiên cứu. Theo nghiên cứu này, thể tích ô mạng cơ sở tăng khi tăng hàm lượng của mangan. Kết quả cũng khẳng định thêm rằng, ion Zn2+ có thể được thay thế bởi ion Mn2+ trong mạng lưới tinh thể Zn2SiO4 với một lượng lớn tỷ lệ mol do bán kính ion tương tự nhau (bán kính ion Mn2+ bằng 0,80Ao và bán kính ion Zn2+ bằng 0,74 Ao ) [50, 74].
Yaqi Jiang và cộng sự [74] đã chỉ ra Zn2SiO4:Mn với các dạng hình
thái học, cấu trúc tinh thể và sự phát quang khác nhau được tổng hợp theo
phương pháp thủy nhiệt trong hệ etylen glycol. XRD và SEM được sử dụng
để xác định đặc tính của sự kết tinh pha, cỡ hạt và hình thái. Zn2SiO4:Mn
dạng thông thường có phát quang lục tại bước sóng phát quang 525 nm
trong khi phát quang vàng tại bước sóng 563 nm được tạo ra bởi -
Zn2SiO4:Mn. Kết quả đo XRD chỉ ra rằng pha chuyển từ phát quang vàng
40
sang lục ở nhiệt độ cao. Sự phụ thuộc cường độ phát quang vào nồng độ kích hoạt Mn2+ cũng được nghiên cứu và kết luận nồng độ kích hoạt tốt nhất là
tương đối thấp.
Tổng hợp Zn2SiO4:Mn bằng phương pháp thủy nhiệt tạo ra chất phát
quang màu lục mà không cần nung. Bước sóng phát quang có thay đổi đôi
chút khi thay đổi bước sóng kích thích: Bước sóng phát quang λmax là 518 nm
khi kích thích bởi ánh sáng 240 nm, bước sóng phát quang λmax là 520 nm khi
kích thích bởi ánh sáng 210 nm, bước sóng phát quang λmax là 520 nm khi
kích thích bởi ánh sáng 250 nm và bước sóng phát quang λmax là 522 ± 1 nm
khi kích thích bởi ánh sáng 255 ± 2 nm. Giá trị các λmax này thay đổi 2-7 nm
từ giá trị 525 nm của Zn2SiO4:Mn tổng hợp theo phương pháp phản ứng pha
rắn.
Cơ chế tạo thành của Zn2SiO4 bằng phương pháp thủy nhiệt xảy ra ở
nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ của phương pháp phản ứng pha rắn, phương pháp
sol-gel, phương pháp tổng hợp từ pha hơi và vì vậy hiểu được cơ chế này là
rất quan trọng. H. Wang và cộng sự [28] đã tiến hành phản ứng thủy nhiệt sử
dụng các kết tủa màu trắng được tạo thành từ ZnCl2, Mn(NO3)2 và
Na2SiO3.9H2O trong H2O tại nhiệt độ thường. Kết tủa trắng vô định hình thu được chuyển hóa thành hemimophit Zn4(OH)2SiO7.H2O ở 160oC trong 6 giờ, thành hỗn hợp pha của Zn4(OH)2SiO7.H2O và -Zn2SiO4 ở 200 - 240oC trong 6 giờ và thành -Zn2SiO4 dạng hình kim cỡ vài micromet ở 280oC trong 6 giờ. Pha -Zn2SiO4 được tạo thành trong thời gian phản ứng 4 giờ ở 280oC.
Sự chuyển hóa Zn4(OH)2SiO7.H2O thành -Zn2SiO4 được tiến hành với sự
tăng nhiệt độ, do đó nhiệt độ tăng của quá trình tổng hợp bằng phương pháp
thủy nhiệt có thể sẽ trở thành một hướng nghiên cứu cho sự tạo thành pha
Zn2SiO4. Nghiên cứu việc tạo thành pha, J. Wan và cộng sự [53] cho rằng pha
-Zn2SiO4 tạo thành khi lò phản ứng bị dập tắt trong H2O ở nhiệt độ phòng, pha -Zn2SiO4 được tạo thành sau phản ứng ở 220oC, 6 ngày.
41
Phương pháp thủy nhiệt tạo ra pha tinh thể -Zn2SiO4 tại nhiệt độ thấp
hơn trong tất cả các phương pháp khác và tạo ra các hạt có hình dạng và cỡ
hạt khác nhau phụ thuộc vào điều kiện phản ứng, dung môi và các vật liệu
ban đầu. Phương pháp thủy nhiệt này được cho rằng sẽ cải thiện việc tạo ra
các sản phẩm mới và cho phép việc giảm nhiều hơn nhiệt độ và thời gian
phản ứng để tạo ra Zn2SiO4.
1.3.4. Phương pháp tổng hợp từ pha hơi
Phương pháp tổng hợp từ pha hơi là một phương pháp trong đó dung
dịch có chứa các nguyên liệu ban đầu được gia nhiệt trực tiếp ở nhiệt độ cao.
Chang Hee Lee và cộng sự [21] báo cáo rằng -Zn2SiO4:Mn có thể tổng hợp
bằng cách đốt cháy các nguyên liệu ban đầu Zn(NO3)2.6H2O,
Mn(NO3)2.4H2O và SiO2 cùng với diformyl hydrazine (C2H4N2O2) được sử
dụng như là một nhiên liệu và việc thêm một lượng nhỏ nước trong đĩa Petri ở 500oC trong một lò kín. Sản phẩm thu được chứa nhiều ZnO được nung ở 950oC khoảng 3 giờ để tạo thành -Zn2SiO4.
V. B. Bhatkar và các cộng sự [70] cũng đưa ra phương pháp
Zn2SiO4:Mn bằng phương pháp tổng hợp từ pha hơi. Thành phần nguyên liệu
ban đầu cần dùng là muối kẽm cacbonat ZnCO3, axit silicic (SiO2. xH2O) và
mangan sunfat MnSO4. Urê được sử dụng như là một nhiên liệu và amoni
nitrat NH4NO3 được sử dụng như là một chất oxi hóa. Tất cả các thành phần
với tỷ lệ hợp thức cùng với nhiên liệu, chất oxi hóa và một lượng nhỏ nước được trộn đều với nhau. Hỗn hợp được nghiền và nung trong lò tại 500oC. Tốc độ tăng nhiệt nhanh, hỗn hợp được bay hơi và đốt cháy tại 450oC để tạo
sản phẩm Zn2SiO4:Mn.
42
1.3.5. Phương pháp đồng kết tủa
Phương pháp đồng kết tủa là một phương pháp hóa học được biết đến
từ rất lâu, được ứng dụng nhiều trong quá trình tổng hợp vật liệu vô cơ.
Các kết tủa tạo bởi phương pháp đồng kết tủa được dùng làm chất
phản ứng trong quá trình tổng hợp vật liệu được gọi là các precursor. Phương
pháp này có nhiều ưu điểm vì các precursor có thể đạt được hệ số tỷ lượng
chính xác, lượng tạp chất thấp, độ đồng nhất cao. Đặc biệt các ion kim loại
được đưa vào cùng một phân tử hay trong một dung dịch rắn nên được trộn
lẫn với nhau đến mức độ nguyên tử do đó giảm khoảng cách khuếch tán xuống còn khoảng 1-10 Ao, trong khi khoảng cách khuếch tán của các ion trong phương pháp nung kết là 104Ao. Do khoảng cách bé, khả năng phản ứng
của hệ cao hơn, nhiệt độ phản ứng thấp hơn, thời gian phản ứng ngắn. Sản
phẩm thu được có độ mịn và độ đồng nhất cao hơn nhiều so với phương pháp
nung kết đi từ các oxit. Ngoài ra, một ưu điểm nữa của phương pháp này là
nguyên liệu ban đầu là các muối thông thường, điều kiện tiến hành đơn giản,
thời gian phản ứng không dài.
Tóm lại, có rất nhiều phương pháp để tổng hợp bột phát quang kẽm
silicat kích hoạt bởi mangan. Theo như các tài liệu tham khảo, các phương
pháp tổng hợp thường được sử dụng là phương pháp phản ứng pha rắn,
phương pháp sol-gel, phương pháp thủy nhiệt… Phương pháp đồng kết tủa có
nhiều ưu điểm như đã trình bày ở trên, vì vậy cần được quan tâm nghiên cứu
để tổng hợp Zn2SiO4:Mn. Trên cơ sở đó, luận án này là công trình khoa học
nghiên cứu tổng hợp bột phát quang Zn2SiO4:Mn bằng phương pháp đồng kết
tủa.
43
2. NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Như đã trình bày, kẽm silicat kích hoạt bởi mangan là một chất phát
quang hiện vẫn đang được các nhà khoa học nghiên cứu. Các vấn đề mà các
nhà khoa học đặc biệt quan tâm là phương pháp tổng hợp, các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình tổng hợp và ứng dụng của vật liệu Zn2SiO4:Mn thu được.
Trên cơ sở đó, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án này là: “Nghiên cứu tổng
hợp bột phát quang kẽm silicat kích hoạt bởi mangan”.
Zn2SiO4:Mn được tổng hợp theo phương pháp đồng kết tủa đi từ các
nguyên liệu đầu là các muối tinh khiết bao gồm Zn(CH3COO)2.2H2O,
Na2SiO3.9H2O, MnSO4.H2O có bổ sung thêm amoniac. Thực hiện phản ứng
giữa các muối trong dung dịch, thu được các tiền chất gọi là precursor.
Precursor này sấy khô, sau đó nung để thu được bột phát quang Zn2SiO4:Mn.
Nội dung nghiên cứu tổng hợp bột phát quang Zn2SiO4:Mn bao gồm:
- Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tạo precursor
+ Ảnh hưởng pH của dung dịch đến quá trình tạo precursor
+ Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình tạo precursor
- Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình nung
+ Ảnh hưởng của nhiệt độ nung đến sự tạo thành tinh thể của Zn2SiO4
+ Ảnh hưởng của thời nung đến cường độ phát quang của sản phẩm
+ Ảnh hưởng của tốc độ nâng nhiệt khi nung đến cường độ phát quang
của sản phẩm
- Nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng mangan đến cường độ phát quang
của sản phẩm
- Nghiên cứu ảnh hưởng của chất phụ gia điều chỉnh kích thước hạt của
precursor
- Nghiên cứu thử nghiệm ứng dụng của chất phát quang Zn2SiO4:Mn
44
2.2. Hóa chất và thiết bị
Hoá chất:
- Zn(CH3COO)2.2H2O loại tinh khiết, Merck
- Na2SiO3.9H2O loại tinh khiết, Merck
- NH3 loại tinh khiết, Trung Quốc
- MnSO4.H2O loại tinh khiết, Merck
- C2H5OH loại tinh khiết, Trung Quốc
- Tween 80 loại tinh khiết, Merck
- SDS loại tinh khiết, Merck
- Amoni xitrat loại tinh khiết, Merk
Ngoài ra còn một số hoá chất khác.
Thiết bị:
- Tủ sấy
- Lò nung Nabertherm
- Bơm hút chân không
- Máy điều nhiệt
- Máy khuấy từ
- Máy đo pH
- Thiết bị chụp XRD, SEM, TEM, PL.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp, cần phải xác
định thành phần, cấu trúc, tính chất, cỡ hạt… của sản phẩm thu được. Ngày
nay có rất nhiều phương pháp vật lý, hóa lý hiện đại được đưa ra tạo điều kiện
cho việc xác định đó thuận tiện, đơn giản và chính xác hơn.
Các phương pháp phân tích được dùng trong quá trình nghiên cứu tổng
hợp bột phát quang kẽm silicat kích hoạt bởi mangan bao gồm: phương pháp
phân tích nhiệt (DTA, TGA), phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD), phương
pháp hiển vi điện tử quét (SEM), phương pháp hiển vi điện tử truyền qua
45
(TEM), phương pháp đo phổ phát quang (PL)… Mỗi một phương pháp có
những đặc điểm riêng, được ứng dụng trong những trường hợp cụ thể. Có thể
kết hợp nhiều phương pháp để thu được kết quả tin cậy.
2.3.1. Phương pháp phân tích nhiệt (Thermal analysis method)
Khi đốt nóng mẫu thì thường trong mẫu sẽ xảy ra những biến đổi về
khối lượng, thành phần, cấu trúc và có thể xảy ra một hay nhiều phản ứng hoá
học giữa các thành phần, các nguyên tố trong mẫu ở một nhiệt độ nào đó.
Những biến đổi đó xảy ra thường kèm theo các hiệu ứng thu nhiệt hay toả
nhiệt. Tất cả những hiệu ứng trên được xác định và ghi trên các giản đồ. Kết
quả ghi trên giản đồ nhiệt cùng với các phương pháp phân tích, khảo sát khác
sẽ giúp ta rút ra được những kết luận về sự biến đổi của mẫu theo nhiệt độ đốt
nóng chúng.
Mẫu được đặt trong lò, được gia nhiệt trong các điều kiện thích hợp sẽ
xảy ra các biến đổi khối lượng, nhiệt lượng hoặc kích thước. Các đầu đo thích
hợp được sử dụng cho mỗi trường hợp sẽ thu được các đường phân tích nhiệt
tương ứng. Đầu đo sự thay đổi khối lượng sẽ cho đường TG, đầu đo sự thay
đổi nhiệt lượng cho đường DSC (hoặc DTA), đầu đo sự thay đổi kích thước
mẫu cho đường TMA.
Dựa vào giản đồ phân tích nhiệt, có thể dự đoán các biến đổi vật lý,
biến đổi hóa học theo nhiệt độ.
Phân tích các biến đổi vật lý: Các quá trình nóng chảy, kết tinh, bay hơi,
thăng hoa, sự giãn nở nhiệt...
Phân tích các biến đổi hoá học: chuyển hoá thù hình, các phản ứng oxi
hoá, các phản ứng khử, các quá trình phân huỷ, phản ứng pha rắn...
Trong luận án, giản đồ phân tích nhiệt được thực hiện trên máy
Setaram của Pháp.
46
2.3.2. Phương pháp nhiễu xạ tia X (X-ray diffraction, XRD)
Phương pháp nhiễu xạ tia X được sử dụng từ rất sớm và phổ biến nhất
để nghiên cứu cấu trúc vật rắn, vì tia X có bước sóng ngắn và nhỏ hơn khoảng
cách giữa các nguyên tử trong vật rắn, giá trị bước sóng được xác định rất
chính xác.
Phương pháp nhiễu xạ tia X là phương pháp phân tích dựa trên sự
nhiễu xạ của tia X để dự đoán cấu trúc các pha tinh thể của vật liệu [5, 6, 55].
Khi chiếu tia X vào vật rắn tinh thể ta thấy xuất hiện các tia nhiễu xạ
với cường độ và hướng khác nhau. Các hướng này bị khống chế bởi bước
sóng của bức xạ tới và bởi bản chất của mẫu tinh thể. Nếu góc chiếu hợp với
mặt tinh thể một góc nhất định thì sẽ xảy ra hiện tượng phản xạ đối với tia
chiếu tới. Hiện tượng này xảy ra là do tính tuần hoàn trong mạng tinh thể gây
ra. Do đó, mọi tinh thể đều có thể xảy ra hiện tượng nhiễu xạ tia X mà không
phụ thuộc vào thành phần hóa học.
Theo lý thuyết cấu tạo tinh thể, mạng tinh thể được xây dựng từ các
nguyên tử hay ion phân bố đều đặn trong không gian theo một quy luật xác
định. Khi chùm tia X tới bề mặt tinh thể và đi vào bên trong mạng lưới tinh
thể thì mạng lưới này đóng vai trò như một cấu tử nhiễu xạ đặc biệt. Các
nguyên tử, ion bị kích thích bởi chùm tia X tới sẽ tạo thành các tâm phát ra
các tia phản xạ. Mặt khác, các nguyên tử, ion này được phân bố trên các mặt
phẳng song song. Do đó, hiệu quang trình của hai tia phản xạ bất kỳ trên hai
mặt phẳng song song cạnh nhau được tính như sau:
= BC + CD = 2dsin.
Trong đó:
d: độ dài khoảng cách giữa hai mặt phẳng song song;
: góc giữa chùm tia X và mặt phẳng phản xạ.
47
Hình 2.1: Sự nhiễu xạ tia X trên mạng tinh thể
Theo điều kiện giao thoa, để các sóng phản xạ trên hai mặt phẳng cùng
pha thì hiệu quang trình phải bằng số nguyên lần độ dài bước sóng:
2dsinθ = nλ
Trong đó: n = 1, 2, 3, 4…
λ: độ dài bước sóng tia X.
Hệ thức trên là hệ thức Vufl-Bragg thể hiện mối quan hệ giữa bước
sóng tia X và khoảng cách giữa các mặt phẳng nguyên tử. Đây là phương
trình cơ bản để nghiên cứu cấu trúc mạng tinh thể.
Từ điều kiện nhiễu xạ cho thấy, mỗi loại tinh thể có kiểu mạng xác
định sẽ cho ảnh nhiễu xạ với vị trí, số lượng và cường độ của các vạch nhiễu
xạ là xác định đặc trưng cho kiểu mạng đó. Căn cứ vào cực đại nhiễu xạ thu
được trên giản đồ, người ta tìm được góc nhiễu xạ 2θ để suy ra giá trị độ dài
khoảng cách d giữa hai mặt phẳng song song. Từ giá trị d tìm được, người ta
so sánh với ngân hàng các giá trị d chuẩn để tìm ra thành phần cấu trúc mạng
tinh thể của chất cần nghiên cứu.
Dựa vào giản đồ nhiễu xạ tia X, có thể xác định:
48
+ Các pha tinh thể của mẫu
+ Khoảng cách các mặt của tinh thể của mẫu
+ Định lượng các pha có trong mẫu
+ Kích thước tinh thể trung bình theo phương trình Scherrer:
Trong đó:
D: kích thước tinh thể trung bình với góc nhiễu xạ ;
k: hệ số hình học được chọn là 0,9;
: bước sóng tia X, = 0,15406 nm;
β: độ rộng tại vị trí nửa vạch nhiễu xạ, rad;
: góc theo phương trình Vufl- Bragg.
Trong luận án, các mẫu chụp nhiễu xạ tia X (XRD) được thực hiện
trên máy D8 – Advance của hang Brucker Đức.
2.3.3. Phương pháp hiển vi điển tử quét (Scanning Electron Microscopy,
SEM)
Hiển vi điện tử quét là một loại kính hiển vi điện tử có thể tạo ra ảnh
với độ phân giải cao của bề mặt mẫu bằng cách sử dụng một chùm điện tử
hẹp quét trên bề mặt mẫu [6, 55]. Việc tạo ảnh được thông qua việc ghi nhận
và phân tích các bức xạ phát ra từ tương tác của chùm điện tử với bề mặt mẫu.
Chùm tia điện tử được tạo ra từ catot qua hai tụ quang sẽ được hội tụ
lên mẫu nghiên cứu. Khi chùm điện tử đập vào mẫu, trên bề mặt mẫu phát ra
các chùm tia điện tử thứ cấp. Mỗi điện tử phát xạ này qua điện thế gia tốc vào
phần thu sẽ biến đổi thành một tín hiệu ánh sáng. Tín hiệu được khuếch đại,
đưa vào mạng lưới điều khiển tạo độ sáng trên màn hình dạng bề mặt mẫu
nghiên cứu.
49
Kính hội tụ
Detectơ Nguồn phát điện tử Mẫu nghiên cứu
Hình ảnh Máy tính Bộ khuếch đại
Hình 2.2: Sơ đồ phương pháp SEM
Việc phát các chùm điện tử trong SEM cũng giống như việc tạo ra
chùm điện tử trong kính hiển vi điện tử truyền qua, tức là điện tử được phát ra
từ súng phóng điện tử (có thể là phát xạ nhiệt, hay phát xạ trường...), sau đó
được tăng tốc. Tuy nhiên, thế tăng tốc của SEM thường chỉ từ 10 kV đến 50
kV vì sự hạn chế của thấu kính từ, việc hội tụ các chùm điện tử có bước sóng
quá nhỏ vào một điểm kích thước nhỏ sẽ rất khó khăn. Điện tử được phát ra,
tăng tốc và hội tụ thành một chùm điện tử hẹp nhờ hệ thống thấu kính từ, sau
đó quét trên bề mặt mẫu nhờ các cuộn quét tĩnh điện. Độ phân giải của SEM
được xác định từ kích thước chùm điện tử hội tụ, mà kích thước của chùm
điện tử này bị hạn chế bởi quang sai, chính vì thế mà SEM không thể đạt
được độ phân giải tốt như TEM. Ngoài ra, độ phân giải của SEM còn phụ
thuộc vào tương tác giữa vật liệu tại bề mặt mẫu vật và điện tử. Khi điện tử
tương tác với bề mặt mẫu vật, sẽ có các bức xạ phát ra, sự tạo ảnh trong SEM
và các phép phân tích được thực hiện thông qua việc phân tích các bức xạ
này.
50
Hiển vi điện tử quét có thể đo và phân tích các mẫu ở dạng khối, màng
mỏng, bột. Nếu TEM chỉ cung cấp thông tin về các mẫu mỏng thì với SEM có
thể nhận được ảnh ba chiều. Độ phân giải đạt được tốt nhất là 10 nm
Hiển vi điện tử quét thường được sử dụng để nghiên cứu bề mặt, kích
thước, hình dạng vi tinh thể do khả năng phóng đại và tạo ảnh rất rõ nét và chi
tiết.
Ưu điểm của phương pháp: Mặc dù không thể có độ phân giải tốt như
kính hiển vi điện tử truyền qua nhưng kính hiển vi điện tử quét lại có điểm
mạnh là phân tích mà không cần phá hủy mẫu vật và có thể hoạt động ở chân
không thấp. Một điểm mạnh khác của SEM là giá thành của SEM thấp hơn rất
nhiều so với TEM, vì thế SEM phổ biến hơn so với TEM.
Trong luận án, ảnh hiển vi điện tử quét SEM được chụp bằng thiết bị
kính hiển vi điện tử quét HITACHI S-4800.
2.3.4. Phương pháp hiển vi điện tử truyền qua (Transmission Electron
Microscopy, TEM)
Kính hiển vi điện tử truyền qua là một thiết bị nghiên cứu vi cấu trúc
vật rắn, sử dụng chùm điện tử có năng lượng cao chiếu xuyên qua mẫu vật rắn
mỏng và sử dụng các thấu kính từ để tạo ảnh với độ phóng đại lớn (có thể tới
hàng triệu lần), ảnh có thể tạo ra trên màn huỳnh quang, hay trên phim quang
học, hay ghi nhận bằng các máy chụp kỹ thuật số [6, 55].
Nguyên tắc tạo ảnh của TEM gần giống với kính hiển vi quang học,
điểm khác quan trọng là sử dụng sóng điện tử thay cho sóng ánh sáng và thấu
kính từ thay cho thấu kính thủy tinh. Có hai cách để tạo ra chùm điện tử là sử
dụng nguồn phát xạ nhiệt điện tử và sử dụng súng phát xạ trường. Sau khi
thoát ra khỏi catot, điện tử được gia tốc đến anot rỗng dưới thế tăng tốc V
(một thông số quan trọng của TEM). Về lý thuyết, kính hiển vi điện tử có thể
dễ dàng phân biệt được khoảng cách giữa hai nguyên tử (vào cỡ 0,3-0,5 nm).
Trong khi đó, kính hiển vi quang học có năng suất phân giải bằng một nửa
51
bước sóng của ánh sang nhìn thấy (0,4-0,7 µm) nên ta chỉ phân biệt được các
chi tiết lớn hơn 0,2 µm. Vì trong TEM sử dụng chùm tia điện tử thay cho ánh
sáng nên việc điều khiển sự tạo ảnh không còn là thấu kính thủy tinh mà thay
bằng các thấu kính từ. Thấu kính từ thực chất là một nam châm điện có cấu
trúc là một cuộn dây cuốn trên lõi làm bằng vật liệu từ mềm. Từ trường sinh
ra ở khe từ sẽ được tính toán để có sự phân bố sao cho chùm tia điện tử truyền
qua sẽ có độ lệch thích hợp với từng loại thấu kính. Tiêu cự của thấu kính
được điều chỉnh thông qua từ trường ở khe từ, có nghĩa là điều khiển cường
độ dòng điện chạy qua cuộn dây.
Dù được phát triển từ rất lâu, nhưng đến thời điểm hiện tại, TEM vẫn là
một công cụ nghiên cứu mạnh và hiện đại trong nghiên cứu về cấu trúc vật
rắn, được sử dụng rộng rãi trong vật lý chất rắn, khoa học vật liệu, công nghệ
nanô, hóa học, sinh học, y học... và vẫn đang trong quá trình phát triển với
Điểm mạnh của TEM
nhiều tính năng và độ mạnh mới.
- Có thể tạo ra ảnh cấu trúc vật rắn với độ tương phản, độ phân giải (kể cả
không gian và thời gian) rất cao đồng thời dễ dàng đọc các thông tin về cấu
trúc. Khác với dòng kính hiển vi quét đầu dò, TEM cho ảnh thật của cấu trúc
bên trong vật rắn nên đem lại nhiều thông tin hơn, đồng thời rất dễ dàng tạo ra
các hình ảnh này ở độ phân giải tới cấp độ nguyên tử.
- Đi kèm với các hình ảnh chất lượng cao là nhiều phép phân tích rất hữu ích
Điểm yếu của TEM
đem lại nhiều thông tin cho nghiên cứu vật liệu.
- Đắt tiền: TEM có nhiều tính năng mạnh và là thiết bị rất hiện đại do đó giá
thành của nó rất cao, đồng thời đòi hỏi các điều kiện làm việc phức tạp, ví dụ
chân không siêu cao, sự ổn định về điện và nhiều phụ kiện đi kèm.
- Đòi hỏi nhiều phép xử lý mẫu phức tạp, cần phải phá hủy mẫu (điều này
không thích hợp với nhiều tiêu bản sinh học).
52
- Việc điều khiển TEM rất phức tạp và đòi hỏi nhiều bước thực hiện chính xác
cao.
Trong luận án, ảnh hiển vi điện tử truyền qua TEM được chụp trên máy
hiển vi điện tử truyền qua JEM1010 của hãng Jeol - Nhật Bản.
2.3.5. Phương pháp đo phổ quang phát quang (photoluminescence, PL)
Phát quang là sự tái bức xạ của ánh sáng hấp thụ trước đó của một loại
vật liệu. Khi các nguyên tử, phân tử hấp thụ ánh sáng, chúng chuyển lên trạng
thái có mức năng lượng cao hơn, và khi chuyển về trạng thái cơ bản, chúng
giải phóng năng lượng dư và có thể phát quang. Với các chất phát quang khác
nhau, khi kích thích cùng một bước sóng, phổ phát quang của chúng là khác
Máy tính
Buồng đặt mẫu
Ống nhân quang điện
nhau [17, 20, 26].
Máy đơn sắc
Nguồn sáng kích thích
Hình 2.3: Sơ đồ khối hệ đo phát quang
Phổ phát quang PL ghi nhận các chuyển dời của điện tử trong vật liệu
có giải phóng năng lượng dưới dạng photon sau khi bị kích thích. Phổ PL sẽ
được ghi dưới dạng phân bố cường độ phát quang phát ra theo bước sóng
hoặc số sóng của nguồn kích thích cho trước.
Nguồn kích thích có thể là một ánh sáng laser hoặc là một đèn thủy
ngân, phát ra các photon đơn sắc trong vùng nhìn thấy.
Tín hiệu từ nguồn sáng kích thích được chiếu trực tiếp lên mẫu để kích
thích các điện tử từ trạng thái có mức năng lượng thấp lên trạng thái kích
thích có mức năng lượng cao. Tín hiệu phát quang phát ra do quá trình hồi
phục của điện tử được phân tích qua máy đơn sắc và thu nhận qua đầu thu
(thường là CCD hoặc là ống nhân quang điện) để biến đổi thành tín hiệu đưa
ra máy tính xử lý.
53
L1
Laser He-Cd 325nm
L2
SAMPLE
He
VACUUM
CCD Camera L3 L4 L5
N2
Hình 2.4: Sơ đồ hệ đo phát quang phân giải cao
nguồn kích thích được dùng là laser He-Cd
Mẫu được gắn trên mặt kim loại của đầu đo mẫu và đưa vào bình làm
lạnh bằng thủy tinh chứa heli lỏng, bình này lại được đặt trong một bình khác
chứa nitơ lỏng. Cả hai bình này được cô lập với môi trường ngoài bằng chân
không. Với cấu trúc như vậy, mẫu có thể được làm lạnh xuống dưới nhiệt độ
4-7 K. Nguồn kích thích được dùng là laser He-Cd phát ở bước sóng 325 nm
với công suất khoảng 4 W.
Sau khi đi qua các thấu kính hội tụ và suy giảm L1, kính phản xạ toàn
phần L2, kính phản xạ một chiều L3, kính hội tụ L4, chùm laser được chiếu
vào mẫu qua một cửa sổ buồng đo.
Trong luận án, phổ phát quang của các mẫu được đo ở bước sóng kích
thích 325 nm trên hệ đo quang phổ của Viện Khoa học Vật liệu - Viện Khoa
học và Công nghệ Việt Nam.
54
3. NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VÀ KẾT QUẢ
Quá trình tổng hợp mẫu phát quang kẽm silicat kích hoạt bởi mangan
theo phương pháp đồng kết tủa tiến hành theo sơ đồ hình 3.1.
H2O
Dung dịch Zn(CH3COO)2 1M Dung dịch MnSO4 0,01M
Dung dịch Na2SiO3 1M
Dung dịch A
Dung dịch amoniac 2,5M
Dung dịch B Bình phản ứng
H2O
Lọc rửa precursor
Sấy
Nung
Sản phẩm
Hình 3.1: Sơ đồ tổng hợp theo phương pháp đồng kết tủa
55
Quá trình tổng hợp được mô tả như sau: Chuẩn bị hai dung dịch A và B
có tỷ lệ mol (Zn + Mn) : Si = 2 : 1. Dung dịch A bao gồm: dung dịch
Zn(CH3COO)2 1M, dung dịch MnSO4 0,01M và H2O (tỷ lệ mol Zn : Mn xác
định - ứng với chất có thành phần cần tổng hợp là Zn2-xMnxSiO4). Dung dịch
B bao gồm: dung dịch Na2SiO3 1M, dung dịch amoniac 2,5M và H2O. Tiến
hành đổ hai dung dịch A và B vào bình phản ứng, khuấy 15 phút. Lọc và rửa precursor thu được bằng nước cất, sau đó sấy precursor ở 85oC. Precursor sau
sấy được nung để thu sản phẩm. Như vậy, quá trình tổng hợp mẫu
Zn2SiO4:Mn gồm hai giai đoạn: giai đoạn kết tủa trong dung dịch tạo
precursor và giai đoạn nung precursor để tạo thành sản phẩm.
- Xét trường hợp tổng hợp Zn2SiO4 không có chất kích hoạt (ứng với x = 0):
Các phản ứng xảy ra khi tạo precursor như sau:
Zn(CH3COO)2 + Na2SiO3 ZnSiO3 + 2CH3COONa (1)
Zn(CH3COO)2 + 2NH3 + 2H2O Zn(OH)2 + 2CH3COONH4 (2)
Phản ứng tổng:
2Zn(CH3COO)2 + Na2SiO3 + 2NH3 + 2H2O ZnSiO3 +
+ Zn(OH)2 + 2CH3COONa + 2CH3COONH4 (3)
Phương trình ion có dạng:
(4) Na2SiO3 2Na+ + Si
+ OH- (5) NH3 + H2O ⇌
Zn(CH3COO)2 Zn2+ + 2CH3COO- (6) Zn2+ + 2OH- Zn(OH)2 (7)
+ Si ZnSiO3 (8)
Zn2+
Phản ứng tổng:
2Zn2+ + Si + 2NH3 + 2H2O ZnSiO3 + Zn(OH)2 + 2 (9)
56
Phản ứng xảy ra khi nung precursor như sau:
ZnSiO3 + Zn(OH)2 Zn2SiO4 + H2O (10)
- Trong trường hợp tổng hợp chất phát quang có thành phần Zn2-xMnxSiO4 (x = số mol Mn2+ cho vào = số mol Zn2+ bớt đi), các phản ứng xảy ra hoàn toàn
tương tự. Như vậy, thành phần precursor gồm: ZnSiO3, MnSiO3, Zn(OH)2,
Mn(OH)2 và H2O.
Khi nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp, các mẫu
được tiến hành tổng hợp như sơ đồ hình 3.1 trong những điều kiện tương tự
nhau, chỉ thay đổi yếu tố cần nghiên cứu.
3.1. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tạo precursor
Quá trình tạo precursor là một quá trình quan trọng quyết định đến tính
chất của sản phẩm. Để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tạo
precursor, các mẫu được tiến hành tổng hợp như sơ đồ hình 3.1, chuẩn bị hai
dung dịch A và B sao cho tỷ lệ số mol các mẫu cố định là Zn : Si : Mn = 1,98
: 1 : 0,02 (ứng với chất có thành phần cần tổng hợp là Zn1,98Mn0,02SiO4). Tiến
hành đổ hai dung dịch A và B vào bình phản ứng, khuấy 15 phút. Lọc và rửa precursor thu được bằng nước cất, sau đó sấy precursor ở 85oC. Precursor sau sấy được nung ở 900oC với tốc độ nâng nhiệt 10oC/phút, lưu nhiệt 30 phút để
thu sản phẩm.
Theo như các phản ứng xảy ra khi tạo precursor, OH- có tham gia vào
thành phần phản ứng, do đó cần nghiên cứu ảnh hưởng pH của dung dịch tạo
kết tủa. Ngoài ra, nhiệt độ tạo precursor cũng cần quan tâm để nghiên cứu ảnh
hưởng đến quá trình tạo precursor.
3.1.1. Ảnh hưởng pH của dung dịch đến quá trình tạo precursor
Để tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của pH, các mẫu được tiến hành
tổng hợp trong các điều kiện tương tự nhau. Các mẫu precursor được tạo ra ở
đây đều trong môi trường kiềm và điều chỉnh giá trị pH bằng cách thay đổi
57
hàm lượng dung dịch amoniac thêm vào. Sản phẩm tạo thành được xác định
hiệu suất tổng hợp, chụp phổ phát quang và XRD.
Bảng 3.1 là tổng hợp kết quả nghiên cứu ảnh hưởng pH của dung dịch
đến quá trình tổng hợp.
Bảng 3.1: Ảnh hưởng pH của dung dịch tạo kết tủa
Mẫu
1,98:1:0,02: 0
1,98:1:0,02: 0,5
1,98:1:0,02: 1
1,98:1:0,02: 1,5
1,98:1:0,02: 2
1,98:1:0,02: 2,5
Mẫu 1.1 Mẫu 1.2 Mẫu 1.3 Mẫu 1.4 Mẫu 1.5 Mẫu 1.6
6,42 6,88 7,63 8,78 9,16 10,45
Tỷ lệ mol Zn:Si:Mn:OH (a) pH
52 73 85 94 100 100
Hiệu suất tổng hợp, % (b)
Không
Cường độ phát
8473 15186 19543 22717 29272 phát
quang, a.u
×
(a): Tỷ lệ mol Zn:Si:Mn:OH = tỷ lệ mol Zn(CH3COO)2:Na2SiO3:MnSO4: NH4OH ở phản ứng tạo kết tủa precursor (b): Hiệu suất tổng hợp =Lượng mẫu sau nung/Lượng mẫu lý thuyết Lượng mẫu lý thuyết = nzn × MZnO +
+ nMn × MMnO
quang
Hình 3.2: Hiệu suất tổng hợp các mẫu bảng 3.1
58
Nhận xét:
Theo phương trình phản ứng, OH- có tham gia vào thành phần phản ứng, liên quan đến lượng kết tủa tạo thành. Để kết tủa hết Zn2+ và Mn2+, số mol OH- thêm vào bằng tổng số mol (Zn2+ + Mn2+) ban đầu. Theo thực nghiệm, với các mẫu 1.1, 1.2, 1.3 và 1.4, khi tăng lượng OH-, hiệu suất kết tủa tăng dần. Với mẫu 1.5, khi pH = 9 ứng với số mol OH- thêm vào bằng số mol (Zn2+ + Mn2+) ban đầu, đạt hiệu suất kết tủa 100%. Điều này rất phù hợp với tính toán theo hệ số tỷ lượng của các phản ứng xảy ra để lượng các ion Zn2+, Mn2+ chuyển hết về dạng kết tủa. Để kiểm tra lượng Zn2+, Mn2+ có còn dư sau
phản ứng, tiến hành kiểm tra nước lọc sau kết tủa. Trong nước lọc này, không thấy sự tồn tại của Zn2+ và Mn2+. Điều này có thể khẳng định lượng Zn2+, Mn2+ đã chuyển hết về dạng kết tủa. Precursor mẫu 1.5 được chụp XRD,
SEM để xác định thành phần pha và cỡ hạt. Kết quả được chỉ ra ở hình 3.3 và
hình 3.4:
Hình 3.3: Giản đồ XRD của precursor mẫu 1.5
59
Hình 3.4: Ảnh SEM của precursor mẫu 1.5
Dựa vào kết quả XRD và SEM của mẫu precursor, ta thấy precursor tạo
thành ở dạng vô định hình, bao gồm các chùm hạt với đa số các hạt có cỡ
khoảng 20-30 nm.
Các mẫu precursor tạo thành sau sấy được nung để tạo sản phẩm. Sản
phẩm tạo thành được chụp phổ phát quang và XRD. Kết quả được chỉ ra ở các
hình 3.5, hình 3.6, hình 3.7 và hình 3.8 như sau:
60
Hình 3.5: Phổ phát quang các mẫu bảng 3.1
Hình 3.6: Giản đồ XRD mẫu 1.1
61
Hình 3.7: Giản đồ XRD mẫu 1.5
Hình 3.8: Giản đồ XRD mẫu 1.6
62
Nhận xét:
Dựa vào kết quả thu được, ta thấy khi thêm amoniac, pH của dung dịch
tăng, cường độ phát quang của sản phẩm tăng lên đáng kể. Với giá trị pH = 9,
mẫu thu được cho cường độ phát quang là cao nhất. Khi tăng giá trị pH, theo phương trình phản ứng, dễ dàng nhận thấy sẽ dư lượng OH- không tham gia
phản ứng, đây là lý do sản phẩm cuối cùng có lẫn pha tạp. Thêm vào đó, ở môi trường pH lớn, ion Mn2+ dễ dàng bị oxi hóa lên mức oxi hóa cao hơn.
Theo giản đồ XRD (hình 3.8), ở giản đồ này ngoài pic của Zn2SiO4 còn có pic
của ZnO, Mn2SiO4 và SiO2. Do vậy có thể khẳng định rằng phản ứng tạo
Zn2SiO4 ở đây xảy ra không hoàn toàn và chất kích hoạt mangan tồn tại ở
dạng pha tạp Mn2SiO4 mà không đi vào tinh thể nền. Sự xuất hiện các pha tạp
ở mẫu pH = 10 là nguyên nhân làm cho mẫu sản phẩm thu được không phát
quang.
Kết luận:
Bằng phương pháp đồng kết tủa, có thể tổng hợp chất phát quang
Zn2SiO4:Mn đi từ dung dịch các muối thông thường. Quá trình kết tủa cần
thêm amonic tạo ra dung dịch có pH bằng khoảng 9 để đạt hiệu suất 100% và
thu được sản phẩm có cường độ phát quang cao nhất.
3.1.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình tạo precursor
Để nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình tạo precursor, tiến hành tạo các mẫu precursor ở các nhiệt độ 25, 40, 60, 80oC với thành phần các chất ban đầu như mẫu 1.5. Lọc rửa precursor thu được, sấy khô ở 85oC, nghiền mịn rồi nung ở 900oC với tốc độ nâng nhiệt 10oC/phút, lưu nhiệt 30
phút. Sản phẩm thu được chụp phổ phát quang và XRD. Kết quả nghiên cứu
được chỉ ra ở b ảng 3.2, hình 3.9, hình 3.10, hình 3.11 và hình 3.12:
63
Bảng 3.2: Ảnh hưởng của nhiệt độ tạo precursor
Mẫu Mẫu 2.1 Mẫu 2.2 Mẫu 2.3 Mẫu 2.4
25 40 60 80 Nhiệt độ, oC
Cường độ phát quang, 29272 22974 22709 11116
au
Hình 3.9: Phổ phát quang của các mẫu bảng 3.2
64
Hình 3.10: Giản đồ XRD mẫu 2.1
Hình 3.11: Giản đồ XRD mẫu 2.2
65
Hình 3.12: Giản đồ XRD mẫu 2.4
Nhận xét:
Dựa vào giản đồ XRD của các mẫu 2.1, 2.2 và 2.4 ở trên, ta thấy chỉ
có tinh thể kẽm silicat Zn2SiO4. Dựa vào phổ phát quang của các mẫu bảng 3.2, ta thấy rằng mẫu tiến hành tạo precursor ở 25oC có cường độ phát quang cao nhất sau đó giảm dần, mẫu tiến hành ở 80oC có cường độ phát quang rất
thấp. Điều này có thể được giải thích như sau: các phản ứng đồng kết tủa được tiến hành trong môi trường bazơ nên ở nhiệt độ cao Mn2+ rất dễ bị oxi hóa lên mức oxi hóa cao hơn làm giảm hàm lượng Mn2+ trong tinh thể, lượng tâm phát
quang hình thành khi nung ít sẽ làm giảm cường độ phát quang của sản phẩm.
Thêm vào đó, khi quan sát màu của sản phẩm Zn2SiO4:Mn thu được, nhận thấy hai mẫu tạo precursor ở 60oC và 80oC có màu hơi vàng. Màu vàng của
hai mẫu 2.3 và 2.4 này có thể là màu của mangan ở mức oxi hóa cao hơn.
Tóm lại, khi tăng nhiệt độ của phản ứng tạo precursor làm giảm cường độ phát
quang của Zn2SiO4:Mn. Do đó, nhiệt độ thích hợp cho việc tạo kết tủa
66
precursor theo phương pháp đồng kết tủa là ở nhiệt độ thường 25oC. Điều kiện
này cũng có ý nghĩa thực tiễn vì quá trình tổng hợp sẽ đơn giản hơn.
Kết luận:
Khi tăng nhiệt độ của phản ứng tạo precursor, cường độ phát quang của
Zn2SiO4 giảm. Để sản phẩm bột Zn2SiO4:Mn có cường độ phát quang cao nhất, cần tiến hành phản ứng tạo precursor ở nhiệt độ thường 25oC.
3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình nung đến sản phẩm
3.2.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ nung
3.2.1.1. Khảo sát sự biến đổi của precursor theo nhiệt độ bằng phương
pháp phân tích nhiệt
Theo các nghiên cứu ở mục 3.1, để tổng hợp bột phát quang nền
Zn2SiO4 theo phương pháp đồng kết tủa, phản ứng tạo precursor cần tiến hành ở 25oC trong môi trường pH = 9. Precursor thu được cần sấy khô và nung. Ở
phần này sẽ nghiên cứu sự biến đổi của precursor theo nhiệt độ. Để thực hiện
mục đích này, tiến hành phân tích nhiệt một mẫu precursor có thành phần và
điều kiện tổng hợp như mẫu 2.1.
Kết quả phân tích nhiệt của mẫu precursor được chỉ ra ở hình 3.13 sau
đây:
67
Hình 3.13: Giản đồ phân tích nhiệt mẫu precursor
Nhận xét:
Trên giản đồ phân tích nhiệt này ta thấy có một pic thu nhiệt ở 95,5oC với độ giảm trọng lượng khoảng 2% (90oC-100oC), đó có thể là ứng với sự
mất nước ẩm. Sau đó, là sự mất dần nước cấu trúc (không có pic rõ rệt). Độ
giảm khối lượng tổng cộng ứng với sự mất nước cấu trúc là 14,75%. Thành
phần của precursor (qui ra dạng oxit): 2ZnO.1SiO2.2H2O. Lượng nước nằm
trong precursor lớn như vậy cũng là dễ hiểu vì phản ứng đồng kết tủa xảy ra
trong dung dịch, thành phần precursor trong môi trường bazơ chủ yếu là các hydroxit. Ở đây ta thấy xuất hiện một vai toả nhiệt ở nhiệt độ khoảng 900oC,
chứng tỏ tại đây có xảy ra phản ứng, có thể là phản ứng giữa các cấu tử để tạo
kẽm silicat. Do đó ta có thể dự đoán nhiệt độ phản ứng tạo kẽm silicat sẽ là khoảng 900oC.
68
3.2.1.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ nung đến sự tạo thành tinh thể Zn2SiO4
Dựa vào kết quả phân tích nhiệt, ta có thể dự đoán nhiệt độ nung precursor để tạo Zn2SiO4 khoảng 900oC. Như đã trình bày ở trên, mẫu bột sau
khi kết tủa là một hỗn hợp các chất vô định hình. Sự chuyển đổi từ các
precursor thành sản phẩm là Zn2SiO4 được nghiên cứu khi thay đổi dần nhiệt độ nung. Theo kết quả nghiên cứu ở trên, mẫu tạo precursor tại 25oC cho
cường độ phát quang cao nhất, do đó dùng mẫu precursor này đem khảo sát ở
các nhiệt độ nung khác nhau.
Tiến hành làm một lượng lớn mẫu ở điều kiện tạo precursor là 25oC, có
thành phần tương tự mẫu 2.1; sau khi lọc rửa kết tủa, sấy khô, nghiền mịn và
lấy từng mẫu nhỏ đi nung ở các nhiệt độ khác nhau với tốc độ nâng nhiệt 10oC/phút, lưu nhiệt 30 phút. Để xác định thành phần pha, sản phẩm tạo thành
được chụp XRD.
Hình 3.14: Giản đồ XRD của mẫu 3.1 (nung ở 700oC)
Faculty of Chemistry, HUS, VNU, D8 ADVANCE-Bruker - Mau 725
- File: Van Anh BK mau 725.raw - T ype: Locked Coupled - Start: 20.000 ° - End: 70.010 ° - Step: 0.030 ° - Step time: 1. s - Temp.: 25°C (Room) - Time Started: 8 s - 2-Theta: 20.000 ° - Theta: 10.000 ° - Chi:
69
Hình 3.15: Giản đồ XRD của mẫu 3.2 (nung ở 725oC)
Hình 3.16: Giản đồ XRD của mẫu 3.3 (nung ở 750oC)
70
Hình 3.17: Giản đồ XRD của mẫu 3.4 (nung ở 800oC)
Hình 3.18: Giản đồ XRD của mẫu 3.5 (nung ở 850oC)
71
Hình 3.19: Giản đồ XRD của mẫu 3.6 (nung ở 900oC)
Hình 3.20: Giản đồ XRD của mẫu 3.8 (nung ở 1100oC)
72
Hình 3.21: Giản đồ XRD của các mẫu thay đổi nhiệt độ nung
Kết quả tổng hợp phân tích được chỉ ra ở bảng 3.3 dưới đây:
Bảng 3.3: Ảnh hưởng của nhiệt độ nung
Mẫu
Mẫu
Mẫu
Mẫu
Mẫu
Mẫu
Mẫu
Mẫu
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
3.7
3.8
700
725
750
800
850
900
1000
1100
Nhiệt độ nung, oC
β -
β -
Vô
Vô
β -
α -
α -
α -
Thành
Zn2SiO4
Zn2SiO4
định
định
α -
α –
phần pha
Zn2SiO4
Zn2SiO4
Zn2SiO4
Zn2SiO4
hình
hình
Zn2SiO4
Zn2SiO4
Cường độ
phát
13922 13117
29272
28518
quang,
a.u
73
Hình 3.22: Phổ phát quang của các mẫu bảng 3.3
Nhận xét:
Dựa vào giản đồ XRD các mẫu sau nung ở các nhiệt độ khác nhau, ta thấy: khi nung đến 725oC, sản phẩm thu được vẫn ở dạng vô định hình. Với mẫu sản phẩm nung ở 750 oC, theo kết quả XRD chỉ thấy xuất hiện một pha tinh thể duy nhất là β-Zn2SiO4. Ở 800oC xuất hiện β-Zn2SiO4 là một pha tinh thể, ngoài ra còn thấy sự xuất hiện của α-Zn2SiO4. Ở nhiệt độ cao hơn 900oC
chỉ thấy sự xuất hiện của một pha tinh thể duy nhất α-Zn2SiO4. Sự xuất hiện của pha β-Zn2SiO4 khi nung kết ở 750oC là kết quả phù hợp với nhiều công
trình đã công bố. Marit Mai, Claus Feldmann đã thu được β-Zn2SiO4:Mn khi nung các precursor tại 750oC, 15 phút; cũng trong các điều kiện tương tự nhưng precursor nung ở 1000oC, 15 phút cho dạng tinh thể α-Zn2SiO4:Mn
[46]. Khi nung hemimophit Zn4(OH)2SiO7, N. Taghavinia cũng khẳng định sự
tạo thành các dạng pha khác nhau của tinh thể Zn2SiO4:Mn khi thay đổi các
74
điều kiện tổng hợp [51]. Masafumi Takesue [48] đã chỉ ra rằng β-Zn2SiO4 thu được ở điều kiện nhiệt độ 725-760oC và hệ tinh thể được xác định là trực thoi. Sự chuyển pha từ β-Zn2SiO4 thành α-Zn2SiO4 xảy ra khi nung ở 960oC. Như
vậy, β-Zn2SiO4 là một pha không bền, tồn tại trong khoảng nhiệt độ 750- 850oC. Từ các kết quả chụp XRD trên ta thấy, ở 900oC đã thu được α-Zn2SiO4 đơn pha, tương tự như các mẫu nung ở nhiệt độ cao hơn (1100oC). Điều này hoàn toàn dự đoán được vì sau khi nung kết ở các nhiệt độ 900oC, 1000oC và 1100oC, các mẫu thu được cho độ sáng phát quang tương tự nhau khi soi bằng
đèn UV – bước sóng 254nm. Như vậy, có thể khẳng định, α-Zn2SiO4 thu được khi sản phẩm được nung ở nhiệt độ 900oC.
Để đánh giá tính chất phát quang của Zn2SiO4:Mn, tiến hành chụp phổ phát quang các mẫu nung ở 750oC, 800oC, 900oC và 1100oC. Kết quả chụp
phổ phát quang chỉ ra ở hình 3.22. Dựa vào kết quả đo được, các mẫu nung ở 900oC, 1100oC có giản đồ XRD tương tự và cho cường độ phát quang tương
tự nhau. Điều này một lần nữa khẳng định, việc nung kết để thu được sản phẩm α-Zn2SiO4 cần tiến hành ở 900oC. Đây là nhiệt độ tổng hợp thấp hơn
nhiều so với phương pháp tổng hợp khác như phương pháp sol-gel hay
phương pháp phản ứng pha rắn [29, 56, 61, 73]. Như vậy, α-Zn2SiO4 đơn pha được tạo thành khi nung kết bắt đầu ở nhiệt độ 900oC, phát quang màu lục ở
bước sóng λmax = 525 nm khi kích thích bởi tia UV có bước sóng = 325 nm. Kết quả phổ phát quang cho thấy, mẫu nung ở 750oC, 800oC phát ra
ánh sáng màu vàng (bước sóng 576 nm) - đây là màu phát quang của β- Zn2SiO4. Mẫu nung ở 800oC có cường độ phát quang yếu hơn, điều này hoàn
toàn phù hợp vì giản đồ XRD của mẫu này ngoài xuất hiện pha chính là β- Zn2SiO4 còn có lẫn α-Zn2SiO4. Tương tự như vậy, mẫu nung ở 900oC chỉ xuất
hiện pha duy nhất là α-Zn2SiO4 nên cho cường độ phát quang khá cao (gấp khoảng 2 lần mẫu nung ở 800oC).
75
3.2.2. Ảnh hưởng của thời gian nung đến cường độ phát quang của sản
phẩm
Liên quan đến chế độ nhiệt của quá trình nung kết tạo sản phẩm, thời
gian nung (thời gian lưu nhiệt) cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
sản phẩm. Để nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố này, tiến hành tổng hợp
các mẫu tương tự mẫu 3.6 nhưng thời gian lưu nhiệt khác nhau. Kết quả được
chỉ ra ở bảng 3.4 và các hình 3.23 đến 3.26 như sau:
Bảng 3.4: Ảnh hưởng của thời gian nung
Mẫu
Mẫu 4.1 Mẫu 4.2 Mẫu 4.3 Mẫu 4.4
Thời gian lưu nhiệt, phút
15 30 45 60
Cường độ phát quang, a.u
12955 29272 12153 11286
Hình 3.23 : Phổ phát quang của các mẫu bảng 3.4
76
Hình 3.24: Giản đồ XRD mẫu 4.1
Hình 3.25: Giản đồ XRD mẫu 4.2
77
Hình 3.26: Giản đồ XRD mẫu 4.4
Nhận xét:
Các mẫu 4.1, 4.3 và 4.4 có cường độ phát quang thấp hơn hẳn so với
mẫu 4.2 (lưu nhiệt 30 phút). Điều này có thể được giải thích là do khi lưu
nhiệt 15 phút (mẫu 4.1) sẽ chưa đủ thời gian để tạo thành các tâm phát quang.
Còn khi lưu nhiệt quá lâu (mẫu 4.3, 4.4) thì mangan sẽ bị oxi hóa lên mức oxi
hóa cao làm mất lượng tâm phát quang, đồng thời các hạt có thể bị kết khối
nên cường độ phát quang giảm đi rõ rệt. Từ giản đồ XRD, thấy rằng các mẫu nung ở 900oC với thời gian lưu nhiệt tăng dần, chỉ thu được một dạng tinh thể duy nhất là α-Zn2SiO4. Như vậy, precursor thu được cần nung ở 900oC, với
thời gian lưu nhiệt 30 phút tạo thành chất phát quang Zn2SiO4:Mn có cường
độ phát quang cao nhất.
78
3.2.3. Ảnh hưởng của tốc độ nâng nhiệt khi nung đến cường độ phát
quang của sản phẩm
Trong quá trình nung, tốc độ nâng nhiệt cũng là một yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng sản phẩm. Để nghiên cứu vấn đề này, tiến hành làm một lượng lớn mẫu tương tự mẫu 4.2 ở điều kiện tạo precursor là 25oC. Sau khi lọc rửa kết tủa, sấy khô và nghiền mịn, lấy từng mẫu nhỏ đi nung ở nhiệt độ 900oC với các tốc độ nâng nhiệt 5, 10, 15oC/phút, lưu nhiệt 30 phút. Sản phẩm tạo
thành chụp XRD và phổ phát quang, kết quả được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 3.5: Ảnh hưởng của tốc độ nâng nhiệt
Mẫu 5.1 Mẫu 5.2 Mẫu 5.3
5 10 15 Mẫu Tốc độ nâng nhiệt, oC/phút
31876 29272 9882 Cường độ phát quang, a.u
Hình 3.27: Giản đồ XRD mẫu 5.1
79
Hình 3.28: Giản đồ XRD mẫu 5.2
Hình 3.29: Giản đồ XRD mẫu 5.3
80
Hình 3.30: Phổ phát quang các mẫu bảng 3.5
Nhận xét:
Dựa vào giản đồ XRD của các mẫu này ta thấy, các mẫu thu được chỉ
xuất hiện một pha tinh thể duy nhất là α-Zn2SiO4. Dựa vào phổ phát quang của các mẫu, ta thấy tốc độ nâng nhiệt 5oC/phút cho cường độ phát quang cao nhất
và sau đó độ phát quang giảm khi tăng tốc độ nâng nhiệt. Dựa vào cường độ
phát quang các mẫu, nhận thấy sự chênh lệch cường độ phát quang hai mẫu nung với tốc độ 5oC/phút và 10oC/phút không nhiều, thêm vào đó, với tốc độ 5oC/phút thì thời gian nung kéo dài và tiêu tốn nhiều năng lượng. Do vậy, chọn tốc độ 10oC/phút là hợp lý.
Kết luận chung phần nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình nung:
Sự tạo thành tinh thể -Zn2SiO4 bắt đầu ở 750oC, tăng tiếp nhiệt độ nung, dạng -Zn2SiO4 chuyển dần về dạng -Zn2SiO4. Ở 900oC, sản phẩm
81
thu được chỉ chứa một dạng tinh thể duy nhất là -Zn2SiO4. Dạng β-Zn2SiO4
phát quang màu vàng ở bước sóng λmax = 576 nm, α-Zn2SiO4 phát quang màu
lục ở bước sóng λmax = 525 nm khi bị kích thích bởi tia UV có bước sóng λ =
325 nm.
Điều kiện nung thích hợp nhất để tạo sản phẩm bột phát quang - Zn2SiO4:Mn có cường độ phát quang cao nhất là: nung ở 900oC với tốc độ nâng nhiệt 10oC/phút, thời gian lưu nhiệt 30 phút.
3.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của chất kích hoạt mangan
3.3.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng mangan đến cường độ phát
quang của sản phẩm
Hàm lượng của chất kích hoạt là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến
cường độ của chất phát quang. Khi nghiên cứu tổng hợp chất phát quang kẽm
silicat kích hóa bởi mangan, có rất nhiều công trình nghiên cứu ảnh hưởng
của hàm lượng mangan kích hoạt. Với mỗi phương pháp tổng hợp, với mỗi
điều kiện tổng hợp khác nhau sẽ tìm được hàm lượng mangan tối ưu để kích
hoạt cho cường độ phát quang mong muốn.
Bảng 3.6: Ảnh hưởng của hàm lượng mangan
Mẫu Mẫu Mẫu Mẫu Mẫu Mẫu Mẫu
6.1 6.2 6.3 6.4 6.5 6.6 6.7
Tỷ lệ mol
2 : 0
2 : 0,005 2 : 0,01 2 : 0,015 2 : 0,02 2 : 0,025
2 : 0,03
(Zn+Mn) :
Mn
Không Không
Cường độ
phát 6682 17190 25995 29272 13364 phát
phát quang,
a.u
quang quang
82
Hình 3.31: Phổ phát quang các mẫu bảng 3.6
Hình 3.32: Giản đồ XRD mẫu 6.1 (không có mangan)
83
Hình 3.33: Giản đồ XRD mẫu 6.3
Hình 3.34: Giản đồ XRD mẫu 6.5
84
Hình 3.35: Giản đồ XRD mẫu 6.6
Nhận xét:
Với vật liệu phát quang, tâm phát quang là yếu tố quan trọng nhất. Để
tăng hiệu suất phát quang, các tinh thể nền được pha tạp các ion với nồng độ
cao. Tuy nhiên, khi nồng độ pha tạp lớn hơn giá trị tới hạn dẫn đến hình thành
các đám tạp chất có thể làm giảm hoặc dập tắt sự phát quang. Điều này được
gọi là sự dập tắt do nồng độ [17, 26, 50]. Với tinh thể nền Zn2SiO4, khi tăng
hàm lượng mangan kích hoạt đến 1,25% so với kẽm, cường độ của mẫu 6.6
giảm hơn so với mẫu 6.5 (kích hoạt hàm lượng mangan 1% so với kẽm). Khi
tăng tiếp hàm lượng mangan đến 1,5% so với kẽm, sản phẩm thu được có
màu vàng nâu, có thể do mangan đã bị oxi hóa lên mức oxi hóa cao hơn. Điều
này có thể được giải thích khi tăng hàm lượng mangan quá giá trị tới hạn
(hàm lượng mangan bằng 1% so với kẽm), mangan không đi vào mạng lưới của tinh thể nền Zn2SiO4, không ở vị trí thay thế Zn2+ nên dễ dàng bị oxi hoá
85
lên mức oxi hoá 3, tồn tại dạng tạp chất làm cho sản phẩm có màu vàng nâu,
do đó giảm cường độ phát quang.
Kết luận:
Bằng phương pháp đồng kết tủa, sản phẩm kẽm silicat kích hoạt bởi
mangan với hàm lượng mangan bằng 1% so với kẽm (Zn1,98Mn0,02SiO4) tổng
hợp được có cường độ phát quang cao nhất.
3.3.2. Vai trò cấu trúc của mangan trong tinh thể Zn2SiO4
Để đánh giá sự sai lệch mạng tinh thể khi tinh thể nền Zn2SiO4 kích
hoạt bởi mangan, tiến hành xác định các thông số mạng của tinh thể
Zn2SiO4:Mn và so sánh với Zn2SiO4 khi không có chất kích hoạt.
Mỗi loại tinh thể xác định sẽ thuộc 1 trong 7 loại hệ tinh thể khác nhau.
Mỗi loại hệ tinh thể được xác định bởi các thông số mạng a, b, c, α, β, γ và
đều có phương trình liên hệ giữa khoảng cách giữa các mặt tinh thể dhkl với
các thông số mạng đó.
Zn2SiO4 thuộc hệ tinh thể mặt thoi, với các thông số mạng theo đăng ký
JCPDS no. 79-2005:
a = b = 13,948; c = 9,315 α = β = 90o; γ = 120o
và phương trình liên hệ:
Như vậy, cần xác định hai thông số a và c.
86
a. Xác định a, c của tinh thể Zn2SiO4 không có Mn (Tỷ lệ (Zn+Mn):Mn = 2:0)
l h k a (Ao) c (Ao) dhkl
0 4,028 3 0 13,953 9,316 -3 2,837 1 1
0 3,486 2 2 13,944 9,318 -3 2,319 2 2
-3 1,860 3 3 13,945 9,306 6 1,551 0 0
Giá trị trung bình 13,947 9,313
13,948 9,315 Giá trị mẫu Zn2SiO4 chuẩn (*)
Độ lệch -0,001 -0,002
(*) Mẫu chuẩn là mẫu theo đăng ký JCPDS no. 79-2005
b. Xác định a, c của tinh thể Zn2SiO4:Mn (Tỷ lệ (Zn+Mn):Mn = 2:0,01)
h k l a (Ao) c (Ao) dhkl
3,494 2 2 0 13,976 9,325 2,840 1 1 -3
2,640 1 4 0 13,970 9,311 2,320 2 2 -3
1,862 3 3 -3 13,931 9,351 1,422 7 1 -3
Giá trị trung bình 13,959 9,329
13,947 9,313 Giá trị mẫu Zn2SiO4 so sánh
Độ lệch +0,012 +0,016
87
c. Xác định a, c của tinh thể Zn2SiO4:Mn (Tỷ lệ (Zn+Mn):Mn = 2:0,02)
l k h a (Ao) c (Ao) dhkl
0 1 1,601 7 13,957 9,339 -3 1 2,843 1
0 4 2,639 1 13,964 9,336 -3 2 2,323 2
-3 3 1,863 3 13,964 9,325 0 2 3,491 2
Giá trị trung bình 13,962 9,333
13,947 9,313 Giá trị mẫu Zn2SiO4 so sánh
Độ lệch + 0,015 + 0,020
d. Xác định a, c của tinh thể Zn2SiO4:Mn (Tỷ lệ (Zn+Mn):Mn = 2:0,025)
l k h a (Ao) c (Ao) dhkl
0 2 3,484 2 13,936 9,295 -3 1 2,831 1
0 4 2,632 1 13,927 9,305 -3 2 2,316 2
-3 3 1,859 3 13,915 9,327 -3 1 1,420 7
Giá trị trung bình 13,926 9,309
13,947 9,313 Giá trị mẫu Zn2SiO4 so sánh
Độ lệch -0,021 -0,004
88
Tổng hợp:
Mẫu 6.1 Mẫu 6.3 Mẫu 6.5 Mẫu 6.6 Mẫu (không có (0,5% Mn (1% Mn so (1,25% Mn chuẩn Mn) so với Zn) với Zn) so với Zn)
13,948 13,947 13,959 13,962 13,926 a, Ao
9,315 9,313 9,329 9,333 9,309 c, Ao
1569,413 1568,851 1574,252 1575,604 1563,459 V, (Ao)3
Nhận xét:
Dựa vào kết quả tính toán ở trên, có thể nhận xét như sau:
- Mẫu 6.1, tổng hợp Zn2SiO4 không có mangan, các thông số mạng lưới a,
c tính được có kết quả tương tự như mẫu Zn2SiO4 chuẩn, độ sai lệch rất nhỏ,
không đáng kể.
- Khi thêm mangan, các thông số mạng lưới a, c có thay đổi. Điều này
chứng tỏ, một lượng nhỏ mangan thêm vào có ảnh hưởng đến kích thước ô mạng và như vậy ion Mn2+ đã đi vào mạng lưới của tinh thể nền Zn2SiO4. Nhiều tài liệu đã khẳng định, Mn2+ đã thay thế một phần Zn2+ trong mạng lưới tinh thể Zn2SiO4. Do bán kính của các ion có sai lệch (bán kính ion của Zn2+ = 0,074 nm; bán kính ion của Mn2+ = 0,080 nm) dẫn đến sự sai lệch thông số ô
mạng của tinh thể [50, 74].
- Theo kết quả thu được ở trên, khi tăng hàm lượng của mangan kích hoạt,
tinh thể Zn2SiO4:Mn thu được có các thông số ô mạng tăng dần. Điều này khá
phù hợp với một số tài liệu đã công bố [50]. Tuy nhiên, sau khi lượng ion Mn2+ thay thế lớn nhất (mẫu 6.5), tiếp tục tăng hàm lượng mangan kích hoạt,
các thông số ô mạng giảm mạnh và cường độ phát quang cũng giảm đáng kể.
- Mức oxi hóa của mangan trong tinh thể Zn2SiO4 là yếu tố quan trọng
quyết định khả năng phát quang của Zn2SiO4:Mn. Nhiều tài liệu đã khẳng
89
định, mangan tồn tại ở mức oxi hóa +2 mới có khả năng phát quang [42, 65].
Thêm vào đó, mẫu bột Zn2SiO4:Mn phát quang được chỉ khi mẫu bột đó có
màu trắng. Các mẫu bột tổng hợp có màu vàng nâu không phát quang đó là do
mangan trong tinh thể tồn tại ở dạng hóa trị cao làm cho sản phẩm có màu
[50, 70]. Như vậy, có thể khẳng định mangan trong mạng lưới tinh thể
Zn2SiO4 tồn tại ở mức oxi hóa +2.
Để đánh giá cụ thể hơn kích thước của sản phẩm, mẫu 6.5 được chụp
ảnh SEM (Viện Khoa học vật liệu – Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam)
và ảnh TEM (Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương), kết quả thu được như sau:
Hình 3.36: Ảnh SEM của mẫu 6.5 với độ phóng đại khác nhau
Hình 3.37: Ảnh TEM của mẫu 6.5
90
Dựa vào giản đồ XRD của mẫu 6.5, ta thấy sản phẩm thu được chỉ có
duy nhất một cấu trúc tinh thể của kẽm silicat. Trên ảnh SEM ta thấy các hạt
sản phẩm không đồng đều, có sự kết khối thành từng đám. Dựa vào ảnh TEM
của mẫu 6.5, ta thấy sản phẩm thu được gồm nhiều hạt hình cầu riêng biệt có
kích thước khoảng 40 nm. Các hạt này có kích thước tương đương với kích
thước hạt sơ cấp trung bình tính theo phương trình Scherrer:
D: kích thước tinh thể trung bình với góc nhiễu xạ ;
k: hệ số hình học được chọn là 0,9 k = 0,9;
: bước sóng tia X = 0,15406 nm;
: góc theo phương trình Vufl- Bragg;
= 15,735o (pic cực đại trên giản đồ tại vị trí 2 = 31,470o);
β: độ rộng tại vị trí nửa pic, rad;
β = 0,195o
Do đó:
Kết luận:
- Chất phát quang kẽm silicat kích hoạt bởi mangan Zn2SiO4:Mn đã được tổng
hợp thành công theo phương pháp đồng kết tủa. Chất phát quang Zn2SiO4:Mn
tổng hợp được trong điều kiện đơn giản: Quá trình kết tủa precursor được tiến
hành ở nhiệt độ thường, trong môi trường pH 9, sau đó precursor được nung trong môi trường không khí ở nhiệt độ 900oC, tốc độ nâng nhiệt 10oC/phút,
thời gian lưu nhiệt 30 phút.
- Chất phát quang kẽm silicat kích hoạt bởi mangan thu được có thành phần
Zn1,98Mn0,02SiO4 đơn pha, cấu trúc mặt thoi phát ra ánh sáng màu lục ở bước
sóng λmax = 525 nm khi kích thích bởi tia UV có bước sóng = 325 nm.
91
3.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của chất phụ gia điều chỉnh kích thước hạt
precursor
Theo như các kết quả đã nghiên cứu ở trên, mẫu sản phẩm Zn2SiO4:Mn
thu được có cường độ phát quang cao, được tổng hợp trong điều kiện thuận
lợi. Tuy nhiên, bột Zn2SiO4:Mn có cỡ hạt không đồng đều, bị kết khối. Để
giảm độ kết khối, giảm kích thước hạt và tăng cường độ phát quang, luận án
tiếp tục trình bày nghiên cứu ảnh hưởng của chất phụ gia đến quá trình tổng
hợp Zn2SiO4:Mn.
Tiến hành tổng hợp các mẫu theo sơ đồ tổng hợp với tỉ lệ các chất ban
đầu theo số mol Zn : Si : Mn : OH = 1,98 : 1 : 0,02 : 2 (ứng với chất có thành
phần cần tổng hợp là Zn1,98Mn0,02SiO4) và thay đổi lượng chất phụ gia cho
vào. Chuẩn bị dung dịch A gồm: dung dịch Zn(CH3COO)2 1M, dung dịch
MnSO4 0,01M và H2O. Dung dịch B bao gồm: dung dịch Na2SiO3 1M, dung
dịch amoniac 2,5M, chất phụ gia và H2O. Tiến hành đổ hai dung dịch A và B
vào bình phản ứng, khuấy 15 phút. Lọc và rửa precursor thu được bằng nước cất, sau đó sấy precursor ở 85oC. Precursor sau sấy được nung ở 900oC, lưu nhiệt 30 phút với tốc độ nâng nhiệt 10oC/phút. Sản phẩm thu được đem chụp
XRD, chụp SEM và đo phổ phát quang ở bước sóng kích thích 325 nm.
3.4.1. Ảnh hưởng của etanol
Để nghiên cứu ảnh hưởng của etanol, tiến hành tổng hợp các mẫu như
trình bày ở trên. Các mẫu được tổng hợp với tỷ lệ các chất ban đầu theo số
mol Zn : Si : Mn : OH = 1,98 : 1 : 0,02 : 2 (ứng với chất có thành phần cần
tổng hợp là Zn1,98Mn0,02SiO4) và thay đổi lượng etanol cho vào. Kết quả được
chỉ ra ở bảng 3.7 và hình 3.38:
92
Bảng 3.7: Ảnh hưởng của hàm lượng etanol
Mẫu Mẫu 7.1 Mẫu 7.2 Mẫu 7.3 Mẫu 7.4 Mẫu 7.5
VEtanol /Vp.ư, 0 2,5 3,75 5 6,25 %
Cường độ
29272 32229 44737 36685 32840 phát quang,
Hình 3.38: Phổ phát quang các mẫu bảng 3.7 (khi cho thêm etanol)
a.u
Nhận xét:
Qua phổ phát quang ta thấy các mẫu khi cho thêm etanol đều có cường
độ phát quang cao hơn hẳn mẫu không cho thêm etanol. Mẫu 7.3 (Vetanol/Vpư
(%) = 3,75%) có cường độ phát quang cao nhất sau đó là mẫu 7.4, mẫu 7.5,
mẫu 7.2. Như vậy, cường độ phát quang tăng dần khi tăng hàm lượng etanol
93
tới 3,75% thể tích etanol so với thể tích phản ứng thì cường độ phát quang đạt
cực đại rồi giảm xuống. Điều này được giải thích là do etanol có tác dụng như
một chất hoạt động bề mặt làm tăng độ xốp của precursor nên tăng khả năng hấp phụ Mn2+, do đó làm tăng cường độ phát quang. Khi tăng etanol quá hàm
lượng cần thiết, các phân tử etanol sẽ lưu lại ở dung dịch đóng vai trò như là
các tạp chất và do vậy không có lợi cho quá trình tổng hợp, ảnh hưởng đến
chất lượng sản phẩm, cụ thể là làm giảm cường độ phát quang của sản phẩm.
Xét mẫu 7.3 (Vetanol/Vp.ư = 3,75%) có cường độ phát quang cao nhất:
Precursor tạo thành được chụp SEM, kết quả được chỉ ra ở hình 3.39:
Hình 3.39: Ảnh SEM của precursor mẫu 7.3
So sánh với ảnh SEM của precursor mẫu không thêm chất phụ gia hình
3.4, dễ dàng nhận thấy precursor mẫu 7.3 có cỡ hạt đồng đều và xốp hơn. Đây
có thể là nguyên nhân làm cho sản phẩm thu được sau nung có cỡ hạt nhỏ và
đồng đều hơn. Precursor sau nung tạo sản phẩm được chụp XRD và SEM, kết
quả được chỉ ra ở hình 3.40 và hình 3.41:
94
Hình 3.40: Giản đồ XRD mẫu 7.3
Hình 3.41: Ảnh SEM mẫu 7.3
95
Nhận xét:
Từ kết quả chụp giản đồ XRD cho thấy sản phẩm thu được chỉ có duy
nhất tinh thể Zn2SiO4 có độ tinh thể cao. Qua ảnh chụp SEM cho thấy khi
thêm etanol, sản phẩm không kết khối, có cỡ hạt đồng đều hơn cỡ 0,5 μm. Do
vậy, cường độ phát quang của mẫu 7.3 cao hơn cường độ phát quang của mẫu
7.1.
Kết luận:
Khi cho thêm etanol, cường độ phát quang của sản phẩm tăng lên, mẫu
7.3 (Vetanol/Vp.ư(%) = 3,75%) có cường độ phát quang cao nhất.
3.4.2. Ảnh hưởng của SDS (natri dodexyl sunphat)
SDS là chữ viết tắt của tên tiếng Anh - Sodium dodecyl sulfate. Đó là
một hợp chất hữu cơ có công thức CH3(CH2)11OSO3Na.
Để nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng SDS, tiến hành tổng hợp các
mẫu với tỷ lệ các chất ban đầu theo số mol Zn : Si : Mn : OH = 1,98 : 1 : 0,02
: 2 (ứng với chất có thành phần cần tổng hợp là Zn1,98Mn0,02SiO4) và thay đổi
lượng SDS cho vào. Chuẩn bị dung dịch A gồm: dung dịch Zn(CH3COO)2
1M, dung dịch MnSO4 0,01M và H2O. Dung dịch B bao gồm: dung dịch
Na2SiO3 1M, dung dịch amoniac 2,5M, SDS và H2O. Tiến hành đổ hai dung
dịch A và B vào bình phản ứng, khuấy 15 phút. Lọc và rửa precursor thu được bằng nước cất, sau đó sấy precursor ở 85oC. Precursor sau sấy được nung ở 900oC, lưu nhiệt 30 phút với tốc độ nâng nhiệt 10oC/phút. Sản phẩm tạo thành
được đo phổ phát quang ở bước sóng kích thích 325 nm. Kết quả được chỉ ra
ở bảng 3.8 và hình 3.42:
96
Bảng 3.8: Ảnh hưởng của hàm lượng SDS
Mẫu Mẫu 8.1 Mẫu 8.2 Mẫu 8.3 Mẫu 8.4 Mẫu 8.5
0 1,250 3,125 6,250 9,375 Số mol SDS/Zn2+, %
Cường độ phát 29272 49159 55952 41720 36536 quang, a.u
Hình 3.42: Phổ phát quang các mẫu bảng 3.8 (khi cho thêm SDS)
Nhận xét :
Dựa vào phổ phát quang các mẫu cho thấy khi thêm SDS vào thì các
mẫu có cường độ phát quang cao hơn mẫu khi không cho thêm SDS. Cường
độ phát quang tăng khi tăng hàm lượng của SDS và đạt cực đại ở mẫu 8.3 (%mol SDS/Zn2+ = 3,125%), sau đó giảm dần. Điều này có thể được giải
thích như sau: Khi cho thêm SDS sẽ làm giảm sức căng bề mặt của nước làm
97
cho precursor dễ dàng bị thấm ướt dung dịch chứa chất hoạt động bề mặt. Các
phân tử chất hoạt động bề mặt hấp phụ lên bề mặt, bao quanh các hạt kết tủa,
hạn chế sự dính kết lại với nhau. Do đó, precursor thu được xốp và nhỏ nên khả năng phân tán của Mn2+ là tốt hơn, dẫn đến cường độ phát quang tăng
hơn. Khi tăng SDS quá hàm lượng cần thiết, các phân tử SDS sẽ lưu lại ở
dung dịch đóng vai trò như là các tạp chất và do vậy không có lợi cho quá
trình tổng hợp, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, cụ thể là làm giảm
cường độ phát quang của sản phẩm.
Để làm rõ hơn, precursor của mẫu 8.3 (mẫu có cường độ phát quang
cao nhất) chụp SEM, kết quả được chỉ ra ở hình 3.43:
Hình 3.43: Ảnh SEM precursor của mẫu 8.3
Phù hợp với nhận định trên, so sánh với ảnh SEM của precursor mẫu
không thêm chất phụ gia hình 3.4, dễ dàng nhận thấy precursor mẫu 8.3 có cỡ
hạt đồng đều và xốp hơn và đây là nguyên nhân làm cho sản phẩm thu được
sau nung có cỡ hạt nhỏ và đồng đều hơn. Precursor sau nung tạo sản phẩm
được chụp XRD và SEM, kết quả được chỉ ra ở hình 3.44 và hình 3.45:
98
Hình 3.44: Giản đồ XRD mẫu 8.3
Hình 3.45: Ảnh SEM của mẫu 8.3
99
Nhận xét:
Từ kết quả chụp giản đồ XRD cho thấy sản phẩm thu được chỉ có duy
nhất tinh thể Zn2SiO4 có độ tinh thể cao. Qua ảnh chụp SEM cho thấy khi
thêm SDS sản phẩm đồng đều hơn cỡ 0,5 μm không kết khối, nhìn thấy rõ bề
mặt phân chia các hạt. Do vậy, cường độ phát quang của mẫu 8.3 cao hơn
cường độ phát quang của mẫu 8.1.
Kết luận:
Các mẫu khi cho thêm SDS với hàm lượng thích hợp thì cho cường độ
phát quang tăng lên, mẫu 8.3 có cường độ phát quang cao nhất ứng với tỉ lệ số %mol SDS/Zn2+ = 3,125% .
3.4.3. Ảnh hưởng của Tween 80 (Polysorbate 80)
Hình 3.46: Cấu trúc phân tử của Tween 80
Polysorbate 80 tên thương mại gọi là Tween 80 là một chất hoạt động
bề mặt phi ion và chất nhũ hóa có nguồn gốc từ poly etoxylat sobitan và axit
oleic thường được sử dụng trong thực phẩm. Các nhóm ưa nước trong khu
phức hợp này là polyete còn được gọi là nhóm polyoxyetylen đó là các
polyme của etylen oxit.
Để nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng Tween 80, tiến hành tổng hợp
các mẫu với tỷ lệ các chất ban đầu theo số mol Zn : Si : Mn : OH = 1,98 : 1 :
0,02 : 2 (ứng với chất có thành phần cần tổng hợp là Zn1,98Mn0,02SiO4) và thay
100
đổi lượng Tween 80 cho vào. Chuẩn bị dung dịch A gồm: dung dịch
Zn(CH3COO)2 1M, dung dịch MnSO4 0,01M và H2O. Dung dịch B bao gồm:
dung dịch Na2SiO3 1M, dung dịch amoniac 2,5M, Tween 80 và H2O. Tiến
hành đổ hai dung dịch A và B vào bình phản ứng, khuấy 15 phút. Lọc và rửa precursor thu được bằng nước cất, sau đó sấy precursor ở 85oC. Precursor sau sấy được nung ở 900oC, lưu nhiệt 30 phút với tốc độ nâng nhiệt 10oC/phút.
Sản phẩm tạo thành được đo phổ phát quang ở bước sóng kích thích 325 nm.
Kết quả được chỉ ra ở bảng 3.9 và hình 3.47:
Bảng 3.9: Ảnh hưởng của hàm lượng Tween 80
Mẫu Mẫu Mẫu Mẫu Mẫu Mẫu 9.1 9.2 9.3 9.4 9.5
0 0,4 0,6 0,8 1 VTween /Vp.ư, %
Cường độ phát quang, 29272 33195 45911 55020 46603 a.u
101
Hình 3.47 : Phổ phát quang các mẫu bảng 3.9 ( khi cho thêm Tween 80)
Nhận xét :
Qua phổ phát quang ta nhận thấy khi cho thêm Tween với các hàm
lượng thích hợp thì các mẫu cho cường độ phát quang cao hơn so với không
có Tween. Cường độ phát quang tăng theo hàm lượng cho vào của Tween và
đạt cực đại tại mẫu 9.4 ứng với VTween/Vp.ư (%) = 0,8% và giảm dần khi tăng
tiếp hàm lượng Tween. Điều này được giải thích là có thể do khi cho Tween
vào thì làm giảm kích thước các hạt kết tủa do sự giảm sự kết dính giữa các
hạt với nhau làm tăng sự phân tán của ion chất kích hoạt nên cường độ phát
quang tăng. Khi tăng Tween 80 quá hàm lượng cần thiết, các phân tử Tween
80 sẽ lưu lại ở dung dịch đóng vai trò như là các tạp chất và do vậy không có
lợi cho quá trình tổng hợp, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, cụ thể là làm
giảm cường độ phát quang của sản phẩm.
102
Để làm rõ hơn, precursor của mẫu 9.4 (mẫu có cường độ phát quang
cao nhất) chụp SEM, kết quả được chỉ ra ở hình 3.48:
Hình 3.48: Ảnh SEM precursor của mẫu 9.4
So sánh với ảnh SEM của precursor mẫu không thêm chất phụ gia hình
3.4, dễ dàng nhận thấy precursor mẫu 9.4 có cỡ hạt đồng đều và xốp hơn và
đây có thể là nguyên nhân làm cho sản phẩm thu được sau nung có cỡ hạt nhỏ
và đồng đều hơn. Precursor sau nung tạo sản phẩm được chụp XRD và SEM,
kết quả được chỉ ra ở hình 3.49 và hình 3.50:
103
Hình 3.50: Ảnh SEM của mẫu 9.4
Hình 3.49: Giản đồ XRD mẫu 9.4
104
Nhận xét:
Từ kết quả chụp giản đồ XRD cho thấy sản phẩm thu được chỉ có duy
nhất tinh thể Zn2SiO4 có độ tinh thể cao. Do vậy, cường độ phát quang của
mẫu 9.4 cao hơn cường độ phát quang của mẫu 9.1. Ảnh SEM của mẫu 9.4
cho thấy sản phẩm có xu hướng tạo thành dạng hạt, tuy nhiên không rõ bề mặt
phân chia giữa các hạt như các mẫu 7.3 (thêm etanol) và mẫu 8.3 (thêm
SDS). Độ kết khối của mẫu 9.4 giảm hơn so với mẫu 9.1 không cho thêm chất
phụ gia. Dễ dàng nhận thấy kích thước của các hạt không đồng đều, bề mặt
của các hạt khó xác định.
Kết luận:
Các mẫu khi cho thêm chất hoạt động bề mặt Tween 80 thì có cường độ
phát quang tăng lên, mẫu 9.4 có cường độ phát quang cao nhất ứng với
VTween/Vp.ư (%) = 0,8%.
3.4.4. Ảnh hưởng của amoni xitrat ((NH4)2C6H6O7)
Hình 3.51: Phân tử amoni xitrat
Amoni xitrat là muối của axit xitric ở dạng bột tinh thể màu trắng với mùi amoniac. Trong dung dịch, amoni xitrat có thể tạo phức với Mn2+, Zn2+
làm chậm quá trình tạo kết tủa làm các hạt kết tủa đồng đều và nhỏ hơn có thể
105
sẽ tăng cường độ phát quang. Vì vậy, cần khảo sát ảnh hưởng hàm lượng
amoni xitrat đến cường độ phát quang của Zn2SiO4:Mn.
Để nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng amoni xitrat, tiến hành tổng
hợp các mẫu với tỷ lệ các chất ban đầu theo số mol Zn : Si : Mn : OH = 1,98 :
1 : 0,02 : 2 (ứng với chất có thành phần cần tổng hợp là Zn1,98Mn0,02SiO4) và
thay đổi lượng amoni xitrat cho vào. Chuẩn bị dung dịch A gồm: dung dịch
Zn(CH3COO)2 1M, dung dịch MnSO4 0,01M và H2O. Dung dịch B bao gồm:
dung dịch Na2SiO3 1M, dung dịch amoniac 2,5M, amoni xitrat và H2O. Tiến
hành đổ hai dung dịch A và B vào bình phản ứng, khuấy 15 phút. Lọc và rửa precursor thu được bằng nước cất, sau đó sấy precursor ở 85oC. Precursor sau sấy được nung ở 900oC, lưu nhiệt 30 phút với tốc độ nâng nhiệt 10oC/phút.
Sản phẩm tạo thành được đo phổ phát quang ở bước sóng kích thích 325 nm.
Kết quả được chỉ ra ở bảng 3.10 và hình 3.52:
Bảng 3.10: Ảnh hưởng của hàm lượng amoni xitrat
Mẫu Mẫu 10.1 Mẫu 10.2 Mẫu 10.3 Mẫu 10.4
0 25 50 75 Số mol amoni xitrat/Zn2+, %
Cường độ phát 29272 39464 46356 33140 quang, a.u
106
Hình 3.52: Phổ phát quang các mẫu bảng 3.10 (khi cho thêm amoni xitrat)
Nhận xét :
Tiến hành đo cường độ phát quang của các mẫu khi thay đổi hàm lượng
amoni xitrat, kết quả cho thấy khi cho thêm amoni xitrat vào thì cường độ
phát quang cao hơn với khi không dùng thêm, độ phát quang cực đại ứng với tỷ lệ % mol amoni xitrat/Zn2+ = 50%. Độ phát quang của mẫu 10.3 đo được
gấp 1,63 lần mẫu 10.1 (mẫu không cho thêm chất phụ gia). Các mẫu phát
quang với bước sóng khoảng 525 nm, trong vùng ánh sang màu lục. Cường
độ phát quang tăng theo hàm lượng amoni xitrat đạt cực đại tại mẫu 10.3 rồi
giảm dần. Khi cho thêm amoni xitrat vào thì ngay lập tức amoni xitrat tạo phức với Mn2+ và Zn2+, các phức tạo thành làm nồng độ các ion này ở dạng tự
do còn rất nhỏ làm cho quá trình kết tủa diễn ra chậm hơn và có tác động tới
cường độ phát quang của sản phẩm. Khi tăng amoni xitrat quá hàm lượng cần
thiết, các phân tử amoni xitrat sẽ lưu lại ở dung dịch đóng vai trò như là các
107
tạp chất và do vậy không có lợi cho quá trình tổng hợp, ảnh hưởng đến chất
lượng sản phẩm, cụ thể là làm giảm cường độ phát quang của sản phẩm.
Để làm rõ hơn, precursor của mẫu 10.3 (mẫu có cường độ phát quang
cao nhất) chụp SEM, kết quả được chỉ ra ở hình 3.53:
Hình 3.53: Ảnh SEM precursor của mẫu 10.3
So sánh với ảnh SEM của precursor mẫu không thêm chất phụ gia hình
3.4, dễ dàng nhận thấy precursor mẫu 10.3 xốp hơn, tuy nhiên các hạt
precursor vẫn gắn kết với nhau. Do precursor có độ xốp nên có thể làm tăng khả năng phân tán Mn2+ và do đó, làm tăng cường độ phát quang. Precursor
sau nung tạo sản phẩm được chụp XRD và SEM, kết quả được chỉ ra ở hình
3.54 và hình 3.55:
108
Hình 3.55: Ảnh SEM của mẫu 10.3
Hình 3.54: Giản đồ XRD mẫu 10.3
109
Nhận xét:
Giản đồ XRD cho thấy sản phẩm hoàn toàn đơn pha chỉ có kẽm silicat
có độ tinh thể cao. Do vậy, cường độ phát quang của mẫu 10.3 cao hơn cường
độ phát quang của mẫu 10.1. Dựa vào ảnh SEM của mẫu 10.3 cho thấy có sự
kết tụ mạnh của các hạt tinh thể, tạo thành những khối lớn trên 20 μm. Tuy
nhiên, vẫn nhận ra các hạt tinh thể nhỏ dưới 0,2 μm..
Kết luận:
Khi thêm amoni xitrat vào với hàm lượng phù hợp thì có tác dụng tăng
cường độ phát quang của sản phẩm. Mẫu 10.3 có cường độ phát quang cao nhất ứng với tỉ lệ % mol amoni xitrat/Zn2+ = 50% .
Kết luận chung phần nghiên cứu ảnh hưởng của chất phụ gia:
Phần 3.4 đã trình bày các kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của chất phụ
gia đến kích thước hạt và cường độ phát quang của bột phát quang kẽm silicat
kích hoạt bởi mangan. Khi thêm các chất phụ gia (etanol, SDS, Tween 80 và
amoni xitrat) với một lượng phù hợp đều làm tăng cường độ phát quang của
sản phẩm Zn2SiO4:Mn. Trong số các phụ gia nghiên cứu, chất hoạt động bề mặt SDS thêm vào với tỷ lệ mol SDS/Zn2+ = 3,125% tạo thành sản phẩm có
cường độ phát quang cao nhất và cỡ hạt đồng đều hơn.
3.5. Nghiên cứu thử nghiệm ứng dụng của chất phát quang Zn2SiO4:Mn
3.5.1. Ứng dụng trong chế tạo mực in phát quang
Chất phát quang kẽm silicat kích hóa bởi mangan tổng hợp ở trên được
pha chế để tạo mực in. Sau đó, được in trên giấy in thông thường sử dụng
khuôn in lưới phủ màng keo diazo với độ phân giải 160 đường kẻ/cm. Kết
quả được chỉ ra ở hình 3.56 và hình 3.57 như sau:
110
Hình 3.56: Mẫu giấy có in mực phát quang
(quan sát dưới ánh sáng ban ngày)
Hình 3.57: Mẫu giấy có in mực phát quang
(quan sát khi kích thích bởi đèn UV có bước sóng λ = 325 nm)
Nhận xét:
Dưới ánh sáng thường, không thể phân biệt được mẫu giấy có in mực
phát quang và một mẫu giấy trắng. Khi chiếu đèn UV, mẫu giấy có in mực sẽ
111
hiện lên dòng chữ màu xanh mà đã in. Tính chất này cho phép sử dụng mực
in chế tạo được trong việc in lên các sản phẩm cần bảo mật hay chống hàng
giả.
3.5.2. Ứng dụng trong chế tạo đèn huỳnh quang compact
Hiện nay, tiết kiệm năng lượng đã và đang là một vấn đề vô cùng cấp
thiết. Vật liệu phát quang ba màu được đặc biệt quan tâm bởi nhiều nhà khoa
học trên thế giới vì hiệu quả và khả năng tiết kiệm năng lượng trong chiếu
sáng của chúng.
Đèn sợi đốt truyền thống được cho là kém hiệu quả về mặt sử dụng
năng lượng. So với bóng đèn sợi đốt, các bóng đèn huỳnh quang compact có
những ưu điểm rõ rệt. Đèn compact không chỉ có hiệu suất phát quang cao
hơn (4-6 lần) mà còn có thời gian hoạt động dài hơn (10-20 lần). Do đó, đèn
compact đang được đưa vào sử dụng rộng rãi.
Đèn compact được ứng dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày thường
là đèn compact phát ra ánh sáng trắng. Một trong những cách phổ biến nhất
để chế tạo đèn compact hiện nay là phương pháp trộn màu, sử dụng ba loại
vật liệu phát ra ba màu cơ bản là màu đỏ, màu lam và màu lục để tạo nên ánh
sáng trắng.
Các vật liệu phát quang thường ở dạng bột, thành phần vật liệu phát
quang bao gồm chất nền và các chất pha tạp (đất hiếm, kim loại chuyển tiếp).
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự phát triển của ngành công
nghiệp chiếu sáng, các loại vật liệu có khả năng phát quang trong vùng ánh
sáng nhìn thấy đã được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi. Các vật liệu phát quang ánh sáng màu đỏ bao gồm: Y2O3:Eu3+, MgSiO5:Mn, SrTiO3:Pr,
SrS:Eu… Các vật liệu phát quang ánh sáng màu lam bao gồm: SrS:Cu,
Ga2S4:Ce, BaSO4:Eu, Y2SiO5:Ce… Các vật liệu phát quang ánh sáng màu lục
bao gồm: ZnS:Cu, LaPO4:Ce, Y2SiO5:Tb, MgSiO3:Ti… Trộn ba loại bột với
112
ba màu nói trên theo một tỷ lệ thích hợp sẽ thu được bột ba màu phát ra ánh
sáng trắng.
Luận án đã trình bày nghiên cứu tổng hợp Zn2SiO4:Mn, đó là một loại
bột phát quang màu lục. Zn2SiO4:Mn tổng hợp ở trên được ứng dụng như là
một thành phần của bột huỳnh quang ba màu. Sau khi trộn Zn2SiO4:Mn tạo
bột huỳnh quang ba màu, bột thu được này được tráng đèn compact tại công
ty Cổ phần bóng đèn phích nước Rạng Đông, kết quả được chỉ ra ở hình 3.58
Hình 3.58: Kết quả thử nghiệm mẫu đèn sản xuất từ Zn2SiO4:Mn tổng hợp được
như sau:
Nhận xét:
Bột huỳnh quang ba màu được sử dụng để sản xuất bóng đèn huỳnh
quang compact ở công ty bóng đèn Rạng Đông được trộn từ ba bột màu cơ
113
bản là màu đỏ, màu lam và màu lục theo một tỷ lệ phối trộn nhất định. Bột
phát quang màu lục Zn2SiO4:Mn tổng hợp được của luận án được thay thế
hoàn toàn bột màu lục hiện đang sử dụng tại công ty. Để có được bột ba màu,
trộn bột phát quang Zn2SiO4 màu lục này với bột màu đỏ và màu lam theo tỷ
lệ tương tự tỷ lệ ba màu đang áp dụng tại công ty. Kết quả thử nghiệm thu
được là rất khả quan, sản phẩm bóng đèn compact sản xuất từ bột huỳnh
quang ba màu (trong đó bột màu lục là bột Zn2SiO4:Mn) có chất lượng tương
tự bóng đèn được sản xuất từ bột huỳnh quang ba màu mà công ty hiện đang
sử dụng. Các thông số cơ bản đánh giá chất lượng của bóng đèn được đo đạc
và kiểm định tại phòng quản lý chất lượng của công ty Cổ phần bóng đèn
phích nước Rạng Đông (được chỉ ra ở hình 3.58). Như vậy, Zn2SiO4:Mn tổng
hợp được có thể sử dụng như là một thành phần của bột huỳnh quang ba màu
trong sản xuất đèn huỳnh quang compact tại công ty Cổ phần bóng đèn phích
nước Rạng Đông.
114
KẾT LUẬN
Từ các kết quả nghiên cứu đã thu được, có thể rút ra một số kết luận
chính như sau:
1. Chất phát quang kẽm silicat kích hoạt bởi mangan Zn2SiO4:Mn đã được
tổng hợp thành công theo phương pháp đồng kết tủa. Chất phát quang
Zn2SiO4:Mn tổng hợp được trong điều kiện đơn giản: Quá trình kết tủa
precursor được tiến hành ở nhiệt độ thường, trong môi trường pH 9, sau đó precursor được nung trong môi trường không khí ở nhiệt độ 900oC, tốc độ nâng nhiệt 10oC/phút, thời gian lưu nhiệt 30 phút.
2. Chất phát quang kẽm silicat kích hoạt bởi mangan thu được có thành phần
Zn1,98Mn0,02SiO4 đơn pha, cấu trúc mặt thoi phát ra ánh sáng màu lục ở bước
sóng λmax = 525 nm khi kích thích bởi tia UV có bước sóng = 325 nm.
3. Sự tạo thành tinh thể -Zn2SiO4 bắt đầu ở 750oC, tăng tiếp nhiệt độ nung, dạng -Zn2SiO4 chuyển dần về dạng -Zn2SiO4. Ở 900oC, sản phẩm thu được
chỉ chứa một dạng tinh thể duy nhất là -Zn2SiO4. Dạng β-Zn2SiO4 phát
quang màu vàng ở bước sóng λmax = 576 nm, α-Zn2SiO4 phát quang màu lục ở
bước sóng λmax = 525 nm khi bị kích thích bởi tia UV có bước sóng λ = 325
nm.
4. Trong số các phụ gia nghiên cứu, chất hoạt động bề mặt SDS thêm vào với tỷ lệ mol SDS/Zn2+ = 3,125% tạo thành sản phẩm có cường độ phát quang cao
nhất và cỡ hạt đồng đều hơn.
5. Bước đầu nghiên cứu thử nghiệm ứng dụng chất phát quang trong chế tạo
mực in phát quang và chế tạo đèn huỳnh quang compact. Bột phát quang kẽm
silicat kích hoạt bởi mangan tổng hợp theo phương pháp đồng kết tủa có thể
sử dụng để chế tạo mực in phát quang in lên các sản phẩm cần bảo mật hay
115
chống hàng giả. Zn2SiO4:Mn tổng hợp được có thể sử dụng như là một thành
phần của bột huỳnh quang ba màu trong sản xuất đèn huỳnh quang compact
tại công ty Cổ phần bóng đèn phích nước Rạng Đông.
116 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
La Văn Bình (2000), Khoa học và công nghệ vật liệu, NXB Đại học Bách Khoa
Hà Nội.
2.
Hoàng Ngọc Cang, Hoàng Nhâm (1990), Hóa học vô cơ, NXB Đại học và Trung
học chuyên nghiệp Hà Nội.
3.
Lê Công Dưỡng (1997), Vật liệu học, NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.
4.
Quan Hán Khang, Trịnh Hân, Lê Nguyên Sóc (1979), Tinh thể học đại cương,
NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội.
5.
Từ Văn Mặc (2003), Phân tích hóa lý và phương pháp phổ nghiệm nghiên cứu cấu
trúc phân tử, NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.
6.
Phạm Ngọc Nguyên (2005), Kỹ thuật phân tích vật lý, Nhà xuất bản Khoa học và
Kỹ thuật Hà Nội.
7.
Đào Đình Thức (1980), Cấu trúc phân tử và liên kết hoá học, NXB Đại học và
Trung học chuyên nghiệp Hà Nội.
8.
Phan Văn Tường (2005), Vật liệu vô cơ, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật Hà
Nội.
Tiếng Việt:
9.
A. Beganskiene, S. Sakirzanovas, I. Kazadojev, A. Melninkaitis, V. Sirutkaitis, A.
Kareiva (2007), “Sol-gel derived antireflective coating with controlled thickness
and reflective index”, Materials Science-Poland, 25(3), pp. 817-824
10. A.F. Wells (1975), Structural Inorganic Chemistry, Clarendon Press, Oxford.
11. A. Patra, Gary A. Baker, Sheila N. Baker (2005), “Effects of dopant concentration
and annealing
temperature on
the phosphorescence
from Zn2SiO4:Mn
nanocrystals”, Journal of Luminescence, 111, pp. 105-111.
12. A. Roy, S. Polarz, S. Rabe, B. Rellinghaus, H. Zahres, F. E. Kruis and Matthias
Driess (2004), “First Preparation of Nanocrystalline Zinc Silicate by Chemical
Vapor Synthesis Using an Organometallic Single-Source Precursor”, Chem. Eur.
J., 10, pp. 1565-1575.
13. A.M. Hu, M. Li, D.L. Mao Dali, K.M. Liang (2005), “Crystallization and
properties of a spodumene-willemite glass ceramic”, Thermochimica Acta, 437,
Tiếng Anh:
pp. 110-113.
14. Adrian Kitai (2008), Luminescent Materials and Applications, John Willey&Sons.
15. Akos Kiss, Peter Kleinschmit and Giinter Halbritter (1988), Process for producing
luminous material based on manganese activated zinc silicate, Patent number:
4767567.
16. Alan G. Joly, Wei Chen, Jun Zhang, Shaopeng Wang (2007), “Electronic energy relaxation and luminescence decay dynamics of Eu3+ in Zn2SiO4:Eu3+ phosphors”,
Journal of Luminescence, 126, pp. 491-496.
17. B. Henderson, G. F. Imbusch (1989), Optical Spectroscopy of Inorganic Solids,
Clarendon Press. Oxford.
18. Bing Yan, Honghua Huang (2007), “Matrix-inducing synthesis and luminescence of Zn2SiO4:xTb3+ submicrometer phosphors derived from the sol-gel assembling
of different multicomponent hybrid precursors”, Journal of Alloys and
Compounds, 429, pp. 338-342.
19. Burtrand I. Lee and Song Wei Lu (2000), “Synthesis of nanoparticles via surface
modification for electronic applications”, Journal of Ceramic Processing
Research, 1(1), pp. 20-26.
20. Claudio Furetta (2003), Handbook of Thermoluminescence, World Scientific.
21. Chang Hee Lee, Yun Chan Kang, Kyeong Youl Jung, Joong Gill Choi (2005),
“Phosphor layer formed from the Zn2SiO4:Mn phosphor particles with spherical
shape and fine size”, Materials Research Bulletin, 117, pp. 210-215.
22. Chung-Cherng Lin, Pouyan Shen (1994), “Sol-gel synthesis of zinc orthosilicate”,
Journal of Non-Crystalline Solids, 171, pp. 281-289.
23. D.Y. Kong, M. Yu, C.K. Lin, X.M. Liu, J. Lin and J. Fang (2005), “Sol-gel
Synthesis and Characterization of Zn2SiO4:Mn@SiO2 Spherical Core-Shell
Particles”, Journal of The Electrochemical Society, 152(9), pp. 146-151.
24. Enrico Cavalli, Alessandro Belletti, Ester Zannoni (1995), “Luminescence of Fe-
doped willemite single crystals”, Journal of solid state chemistry, 117, pp. 16-20
25. Fuhai Su, Baoshan Ma, Kun Ding, Guohua Li, Shaopeng Wang, Wei Chen, Alan
G. Joly, Davia E. McCready (2006), “Luminescence temperature and pressure studies of Zn2SiO4 phosphors doped with Mn2+ and Eu3+ ions”, Journal of
Luminescence, 116, pp. 117-126.
26. G. Blasse, B.C. Grabmaier (1994), Luminescent Materials, Springer-Verlag.
117
nanometer powder phosphors”, Materials Chemistry and Physics, 68, pp. 31-35
28. Haifeng Wang, Yunqi Ma, Guangshun Yi, Depu Chen (2003), “Synthesis of Mn-
doped Zn2SiO4 rodlike nanoparticles through hydrothermal method”, Materials
Chemistry and Physics, 82, pp. 414-418.
29. Ha-Kyun Jung, Bu Young Sung, Hee Dong Park (2004), “Preparing green
phosphor based on zinc orthosilicate”, Patent No: US 6,716,369 B1.
30. Hideki Hoshino, Naoko Furusawa, Hisatake Okada (2005), “Manganes-activated
zinc silicate phosphor and plasma display panel”, Patent number: 0269552 A1.
31. Hiroyuki Yokoyama and Kikuo Ujihara
(2006), Phosphor Handbook,
Taylor&Francis Group, LLC.
32. Honghua Huang, Bing Yan
(2006), “In situ sol-gel composition of multicomponent hybrid precursor to hexagon-like Zn2SiO4:Tb3+ microcrystalline
phosphors with different silicate sources”, Applied Surface Science, 252, pp. 2967-
2972.
33. J. El Ghoul, C. Barthou, M. Saadoun, L.El Mir (2010), “Synthesis and optical
characterization of SiO2/Zn2SiO4:Mn nanocomposite”, Physica, 405, pp. 597-601.
34. Jing Hui Zeng, Hai Li Fu, Tian Jun Lou, Yan Yu, Yuan Hui Sun, Dong Yang Li
(2009), “Precursor, base concentration and solvent behavior on the formation of
zinc silicate”, Materials Research Bulletin, 44, pp. 1106-1110.
35. Jun Lin, Dirk U. Sanger, M. Mennig, K. Barner (1999), “Sol-gel synthesis and
characterization of Zn2SiO4:Mn phosphor films”, Thin Solid Films, B64, pp. 73-
78.
36. Junxi Wan, Xiangying Chen, Zhenghua Wang, Li Mu, Yitai Qian (2005), “One-
dimensional
characterization,
rice-like Mn-doped Zn2SiO4: Preparation,
luminescent properties and its stability”, Journal of Crystal Growth, 280, pp. 239-
243.
37. Junxi Wan, Zhenghua Wang, Xiangying Chen, Li Mu, Weichao Yu, Yitai Qian
(2006), “Controlled synthesis and relationship between luminescent properties and
shape/crystal structure of Zn2SiO4:Mn phosphor”, Journal of Luminescence, 121,
pp. 32-38.
38. Kai Su, T. Tilley and Michael J. Sailor (1996), “Molecular and Polymer Precursor
118 27. H.X. Zhang, S. Buddhudu, C. H. Kam, Y. Zhou, Y. L. Lam, K. S. Wong, B. S. Ooi, S. L. Ng, W. X. Que (2001), “Luminescence of Eu3+ and Tb3+ doped Zn2SiO4
Routes To Manganese - Doped Zinc Orthosilicate Phosphors", Journal of the
American Chemistry Society, 118, pp. 3459 - 3468.
39. Karl A. Franz (1996), Luminescent materials from Ullmann’s Encyclopedia of
Industrial Chemistry, A(15), pp. 519-557.
40. Kazuaki Shibuki, Masafumi Takesue, Taku M. Aida, Masaru Watanabe,
Hiromichi Hayashi, Richard L. Smith Jr (2010), “Continuous synthesis of Zn2SiO4:Mn fine particles in supercritical water at temperature of 400-500oC and
pressures of 30-35 MPa”, Journal of Supercritical Fluids, 54, pp. 266-271.
41. Kee-Sun Sohn, Bonghyun Cho, Hee Dong Park (1999), “Excitation energy-
dependent photoluminescence behavior in Zn2SiO4:Mn phosphors”, Materials
Letters, 41, pp. 303-308.
42. Kee-Sun Sohn, Bonghyun Cho, Hee Dong Park, Yong Gyu Choi, Kyong Hon Kim
(2000), “Effect of heat treatment on photoluminescence behavior of Zn2SiO4:Mn
phosphors”, Journal of the European Ceramic Society, 20, pp. 1043-1051.
43. L. Reynaud, C. Brouca-Cabarrecq and A. Mosset (1996), “A new solution route to
silicates. Part 3: Aqueous sol-gel synthesis of willemite and apotassium antimony
silicate”, Materials Research Bulletin, 31(9), pp. 1133-1139.
44. Lesley E. Smart, Elaine A. Moore (2005), Solid State Chemistry, Taylor &
Francis.
45. M.S. Kwon, C.J. Kim (2005), “Sol-gel synthesis and green luminescence of
nanocrystalline Zn2SiO4:Mn phosphor”, Journal of Materials Science, 40, pp.
4089-4091.
46. Marit Mai, Claus Feldmann (2009), “Two-color emission of Zn2SiO4:Mn from
ionic liquid mediated synthesis”, Solid State Sciences, 11, pp. 528-532.
47. Masafumi Takesue, Atsuko Suino, Kenji Shimoyama, Yukiya Hakuta, Hiromichi
Hayashi, Richard L. Smith Jr (2008), “Formation of α- and β-phase Mn-doped zinc
silicate in supercritical water and its luminescence properties at Si/(Zn+Mn) ratios
0.25 to 1.25”, Journal of Crystal Growth, 310, pp. 4185-4189.
48. Masafumi Takesue, Hiromichi Hayashi, Richard L. Smith Jr (2009), “Thermal and
chemistry methods for producing zinc silicate (willemite): A review”, Progress in
Crystal Growth and Characterization of Materials, 55, pp. 98-124.
49. Morell Antoinette , Goumard Nathalie (1997), “Phosphor material based on
manganese-doped zinc silicate and method for obtaining such a material”, Patent
119
number: US5645761.
50. Mu-Tsun Tsai, Yu-Feng Lu, Yen-Kai Wang
(2010), “Synthesis and
characterization of manganese-doped zinc orthosilicate phosphor powders”,
Journal of Alloys and Compounds, 505, pp. 818-823.
51. N. Taghavinia, G. Lerondel, H. Makino, A. Yamamoto, T. Yao, Y. Kawazoe, T.
Goto (2002), “Growth of luminescent Zn2SiO4:Mn particles inside oxidized porous
silicon: emergence of yellow luminescence”, Journal of Crystal Growth, 237-239,
pp. 869-873.
52. N. Taghavinia, G. Lerondel, H. Makino, T. Yao (2006), “Blue- and red-emitting
phosphor nanoparticles embedded in a porous matrix”, Thin solid Films, 503,
pp.190-195.
53. Noriyuki Wada, Kazuo Kojima (2007), “Glass composition dependence of Eu3+
ion red fluorescence”, Journal of Luminescence, 126, pp. 53-62.
54. P. Thiyagarajan, M. Kottaisamy and M.S. Ramachandra Rao (2007), “Structural
and luminescence properties of pulsed laser deposition green-emitting Zn2SiO4:Mn
phosphor thin film”, Scripta Materialian, 57, 433-436.
55. Paul A. Webb, Clyde Orr, Ronnie W. Camp, James P. Olivier (1997), Analytical
Methods in Fine Particle Technology, Micromeritics Instrument Corporation,
Norcross, GA USA.
56. Perry P. Pirooz, Toledo, Ohio (1985), “Sealing glass and method of making a
willemite filler therefore”, Patent number: 4,522,925.
57. Poonam Sharma, H.S. Bhatti (2009), “Laser induced down conversion optical
characterizations of synthesized Zn2-xMnxSiO4 (0.5≤x≤5mol%) nanophosphors”,
Journal of Alloys and Compounds, 473, pp. 483-489.
58. Q.Y. Zhang, K. Pita, C.H. Kam (2003), “Sol-gel derived zinc silicate phosphor
film for full-color display applications”, Journal of Physics and Chemistry of
Solids, 64, pp. 333-338.
59. R.C. Ropp (2004), Luminescence and the Solid State, Warren, NJ 07059, USA.
60. Radenka Krsmanovic, Zeljka Antic, Ivana Zekovic, Miroslave D. Dramicanin (2009), “Polymer-assisted sol-gel synthesis and characterization of Zn2SiO4:Eu3+
powders”, Jornal of Alloys and Compounds, 480, pp.494-498.
61. Ravilisetty (1999), “Method of preparing high brighiness, shorter persistence zinc
orthosilicate phosphor”, Patent number: WO 99/28409.
120
polymer-assisted sol-gel method”, Scripta Materialia, 58, pp. 655-658.
63. S.W. Lu, T. Copeland, B.I. Lee, W. Tong, B.K. Wagner, W. Park, F. Zhang (2001), “Synthesis and luminescent properties of Mn2+ doped Zn2SiO4 phosphors
by a hydrothermal method”, Journal of Physics and Chemistry of Solids, 62, pp.
777-781.
64. Shila Alavi, Jeannette Dexpert-Ghys, Brigitte Caussat (2007), “High temperature
annealing of micrometric Zn2SiO4:Mn phosphor powders in fluidized bed”,
Materials Research Bulletin.
65. Tae Hwan Cho, Ho Jung Chang (2003), “Preparation and characterizations of
Zn2SiO4:Mn green phosphors”, Ceramics International, 29, pp. 611-618.
66. Temer S. Ahmadi, Markus Haase, Horst Weller (2000), “Low-temperature
synthesis of pure and Mn-doped willemite phosphor (Zn2SiO4:Mn) in aqueous
medium”, Materials Research Bulletin, 35, pp. 1869-1879.
67. Tian Jun Lou, Jing Hui Zeng, Xiang Dong Lou, Hai Li Fu, Ye Feng Wang, Rui Li
Ma, Lin Jian Tong, Ya Li Chen (2007), “A facile synthesis to Zn2SiO4:Mn
phosphor with controllable size and morphology at low temperature”, Journal of
Colloid and Interface Science, 314, pp. 510-513.
68. Thomas S. Copeland, Burt I. Lee, Jason Qi, A.K. Elrod (2002), “Synthesis and luminescent properties of Mn2+-doped zinc silicate phosphors by sol-gel methods”,
Journal of Luminescence, 97, pp. 168-173.
69. V. Natarajan, K. V. R. Murthy, M. L. Jayanth Kumar (2005), “Photoluminescence investigations of Zn2SiO4 co-doped with Eu3+ and Tb3+ ions”, Solid State
Comminications, 134, pp. 261-264.
70. V.B. Bhatkar, S.K. Omanwar, S.V. Moharil (2007), “Combustion synthesis of
silicate phosphors”, Optical Materials, 29, pp. 1066-1070.
71. William M.Yen, Shigeo Shionoya, Hajime Yamamoto (2007), Phosphor
Handbook, CRC Press.
72. Xue Yu, Yuhua Wang (2010), “Synthesis and photoluminescence improvement of
monodispersed Zn2SiO4:Mn nanophosphors”, Journal of Alloys and Compounds,
497, pp. 290-294.
73. Yan Hao, Yuhua Wang (2007), “Luminescent properties of Zn2SiO4:Mn phosphor
121 62. S.R. Lukié, D.M. Dramicanin, M. Mitrié and Lj. Dacanin (2008), “Optical and structural properties of Zn2SiO4:Mn2+ green phosphor nanoparticles obtained by a
under UV, VUV and CR excitation”, Journal of Luminescence, 122-123, pp. 1006-
1008.
74. Yaqi Jiang, Jie Chen, Zhaoxiong Xie, LAnsun Zheng (2010), “Syntheses and
optical properties of α- and β-Zn2SiO4:Mn nanoparticles by solvothermal method
in ethylene glycol-water system”, Materials Chemistry and Physics, 120, pp. 313-
318.
75. Yuhua Wang, Yan Hao, Lihui Yuwen (2006), “Synthesis process dependent photoluminescent properties of Zn2SiO4:Mn2+ upon VUV region”, Journal of
Alloys and Compounds, 425, pp. 339-342.
76. Yuuki Ono, Nobuyuki Yokosawa, Takeo Ito (2007), “Manganes-activated zinc
silicate phosphor and image display device using the same”, Patent number:
0001580 A1.
77. Z.T. Kang, Y. Liu, B.K. Wagner, R. Gilstrap, M. Liu, C.J. Summers (2006), “Luminescence properties of Mn2+ doped Zn2SiO4 phosphor films synthesized by
combustion CVD”, Journal of Luminescence, 121, pp. 595-600.
78. Zifei Peng, Caiqin Luo, Junbao Yu, Zhu Xu, Xiangfu Lu, Guobin Zhang (2008),
“Preparation and characterization of Hf4+-doped zinc silicate
long-lasting
phosphorescent material”, Materials Letters, 62, pp. 487-490.
122
123 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA LUẬN ÁN
1. Lê Xuân Thành, Bùi Thị Vân Anh (2007), “Nghiên cứu khả năng tổng hợp
chất phát quang kẽm silicat hoạt hoá bởi mangan”, Tạp chí Hoá học & Ứng
dụng, Số 4 (64), Tr. 32-34, 42.
2. Bùi Thị Vân Anh, Lê Xuân Thành (2007), “Ảnh hưởng của thành phần
nguyên liệu đến độ phát quang của kẽm silicat hoạt hoá bởi mangan”, Tạp
chí Khoa học và Công nghệ, Tập 45, số 1B, Tr. 381-385.
3. Trần Vân Dung, Lê Xuân Thành, Bùi Thị Vân Anh (2008), “Tổng hợp chất
phát quang kẽm silicat hoạt hóa bởi mangan theo phương pháp đồng kết tủa
sử dụng dung dịch natri silicat có bổ sung ammoniac”, Tạp chí Hoá học,
T.46 (2A), Tr. 31-36.
4. Lê Xuân Thành, Bùi Thị Vân Anh (2008), “Tổng hợp chất phát quang kẽm
silicat cỡ nano hoạt hoá bởi mangan theo phương pháp sol-gel”, Tạp chí
Hoá học, T.46 (2A), Tr. 291-294.
5. Bui Thi Van Anh, Nguyen Anh Dung, Le Xuan Thanh, Nguyen Tien Manh
(2011), “The effects of firing temperatures on the phase formation and
photoluminescence intensity of Zn2SiO4:Mn”, Journal of Chemistry, Vol.
49 (3A), pp. 408-411.
6 Bui Thi Van Anh, Nguyen Anh Dung, Le Xuan Thanh (2012),
“Preparation and characterization of manganese - doped zinc orthosilicate
phosphor powders by co-precipitation method”, Journal of Science &
Technology, Vol. 87 (A), pp. 18-22.