BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN TUẤN HƢNG

THỰC HIỆN TỰ CHỦ VỀ TỔ CHỨC CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI - 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN TUẤN HƢNG

THỰC HIỆN TỰ CHỦ VỀ TỔ CHỨC CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Quản lý công

: 0 34 04 03

Mã số

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Quốc Sửu

2. PGS.TS Nguyễn Văn Quang

HÀ NỘI - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Tuấn Hƣng

MỤC LỤC

Trang

1

MỞ ĐẦU

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

THỰC HIỆN TỰ CHỦ VỀ TỔ CHỨC CỦA TRƢỜNG ĐẠI

9

HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM

1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài đối với những vấn đề lý luận trong

9 thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập

1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước đối với những vấn đề lý luận trong

15 thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập

1.3. Tình hình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến thực tiễn thực hiện tự

25 chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam

1.4. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến thực hiện tự chủ

29

về tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TRONG THỰC HIỆN TỰ CHỦ

VỀ TỔ CHỨC CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở

34

VIỆT NAM

34 2.1. Tự chủ đại học ở Việt Nam

2.2. Trường đại học công lập và tổ chức trường đại học công lập trong điều

44 kiện tự chủ đại học ở Việt Nam

2.3. Những khía cạnh căn bản trong thực hiện tự chủ về tổ chức của trường

55 đại học công lập ở Việt Nam

2.4. Kinh nghiệm thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học tại một

số quốc gia trên thế giới và hàm ý cho các trường đại học công lập ở

76 Việt Nam

Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN TỰ CHỦ VỀ TỔ CHỨC CỦA

85

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM

3.1. Hiện trạng chính sách và thể chế thực hiện tự chủ về tổ chức của

85 trường đại học công lập ở Việt Nam

3.2. Thực tiễn triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức của các trường đại học

105 công lập ở Việt Nam

3.3. Những vấn đề đặt ra trong thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức hiện

112 nay của các trường đại học công lập ở Việt Nam

Chƣơng 4: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN TỰ CHỦ VỀ TỔ

127

CHỨC CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM

4.1. Quan điểm và định hướng trong bảo đảm thực hiện tự chủ về tổ chức

127 của trường đại học công lập ở Việt Nam

4.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học

133 công lập ở Việt Nam

158

KẾT LUẬN

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN

160

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

161

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

168

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GDĐH : Giáo dục đại học

GDĐT : Giáo dục - đào tạo

HĐT : Hội đồng trường

NCS : Nghiên cứu sinh

QLNN : Quản lý nhà nước

TCĐH : Tự chủ đại học

TĐH : Trường đại học

TĐHCL : Trường đại học công lập

TNGT : Trách nhiệm giải trình

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang Tên bảng Số hiệu

bảng

3.1 Hiện trạng thể chế thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt

Nam (Trước khi Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số

86 điều của Luật GDĐH năm 2012 - Luật số 34)

3.2 Một số hạn chế của thể chế thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

ở Việt Nam (Giai đoạn trước khi Quốc hội ban hành Luật sửa đổi,

91 bổ sung một số điều của Luật GDĐH năm 2012 - Luật số 34)

3.3 Hiện trạng thể chế thực hiện tự về chủ tổ chức của TĐHCL đã

93 được sửa đổi, bổ sung

3.4 Hiện trạng thể chế nội bộ điều chỉnh thực hiện tự chủ về tổ chức

102 của TĐHCL

3.5 Thực tiễn triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL

108 không theo cơ chế của Nghị quyết 77/2014/NQ-CP

3.6 Tham chiếu cơ cấu thành viên của các trường tự chủ theo Nghị

119 quyết số 77/2014/NQ-CP

4.1 156 Ba trụ cột trong hệ thống thực thi TNGT của TĐHCL

DANH MỤC CÁC HÌNH

Tên hình Trang Số hiệu

hình

125 3.1 Mô hình quản trị TĐHCL ở Việt Nam

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trên thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay, tự chủ đại học (TCĐH) là xu hướng

tất yếu để đổi mới và phát triển giáo dục đại học (GDĐH) hiện đại. TCĐH đã trải qua

lịch sử phát triển hàng trăm năm, gắn với sự phát triển của các trường đại học (TĐH)

trong bối cảnh có sự thay đổi căn bản mối quan hệ giữa Nhà nước và TĐH dưới tác

động của điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn cầu cũng như ở từng

quốc gia. Sự thay đổi căn bản của GDĐH từ chức năng sản sinh ra tri thức trở thành

một ngành/lĩnh vực mang tính dịch vụ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao,

nguồn đầu vào cho hoạt động của mọi ngành/nghề/lĩnh vực trong xã hội cũng như lĩnh

vực quản lý nhà nước (QLNN) đã đặt ra yêu cầu cần có sự điều chỉnh lại mối quan hệ

hai chiều giữa Nhà nước và TĐH. Cụ thể, trong mối quan hệ với TĐH, Nhà nước phải

ngày càng giảm dần sự can thiệp trực tiếp vào hoạt động quản trị, quản lý của các trường

để trao quyền tự chủ nhiều hơn cho TĐH. Ngược trở lại, TĐH trong mối quan hệ với

Nhà nước buộc phải tăng cường sự tự chủ và trách nhiệm giải trình (TNGT) đối với mọi

hoạt động giáo dục - đào tạo (GDĐT) trên cơ sở tiếp thu các yếu tố hợp lý, hiệu quả từ

hoạt động QLNN. Sự điều chỉnh có tính kết hợp hai mặt này của mối quan hệ Nhà nước -

TĐH được duy trì và phát triển qua mô hình TCĐH, trong đó, vai trò truyền thống của

Nhà nước là quản lý trực tiếp trường đại học công lập (TĐHCL) dần chuyển sang vai

trò phi truyền thống là giám sát, hướng dẫn hoạt động GDĐT của các TĐH. Sự chuyển

đổi khách quan này diễn ra ở mọi quốc gia và Việt Nam cũng không là ngoại lệ.

Trong bối cảnh chung đó, thời gian qua ở Việt Nam, môi trường thể chế về TCĐH

đã có những chuyển biến tích cực. Hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật điều

chỉnh TCĐH đã được ban hành, như Luật Giáo dục (2005); Luật Giáo dục đại học

(2012); Điều lệ Trường đại học (2014); Nghị định “Quy định quyền tự chủ, tự chịu

trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị

sự nghiệp công lập” (Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006); Nghị định “Quy

định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập” (Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày

14/02/2015); Nghị quyết “Về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo

1

dục đại học công lập, giai đoạn 2014-2017” (Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày

24/10/2014); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH (Luật số

34/2018/QH14 ngày 19/11/2018); Nghị định “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành

một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học” (Nghị

định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019); Nghị định “Quy định về thành lập, tổ chức lại,

giải thể đơn vị sự nghiệp công lập” (Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020)...

Cùng với hệ thống thể chế, đã có nhiều chủ trương lớn về TCĐH cho thấy rõ

quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc thúc đẩy tiến trình TCĐH của

các TĐHCL. Nghị quyết số 29 Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương lần

thứ 8 khóa XI ngày 4/11/2013 (gọi tắt là Nghị quyết số 29) thống nhất chỉ đạo nhiệm

vụ, giải pháp cho toàn hệ thống GDĐT của cả nước phải nhanh chóng:

Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống

nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục - đào

tạo; coi trọng quản lý chất lượng. Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan

quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo và trách nhiệm quản lý theo ngành,

lãnh thổ của các bộ, ngành, địa phương. Phân định công tác quản lý nhà

nước với quản trị của cơ sở giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, nâng

cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo

dục - đào tạo [13].

Trên mọi bình diện, TCĐH đặt ra không ít những yêu cầu mới về cả tư duy, lý

luận cũng như hoạt động thực tiễn của hệ thống QLNN về GDĐH và các TĐHCL.

Song, cho đến nay, hiệu quả TCĐH của các TĐHCL, nhất là hiệu quả thực hiện tự chủ

về tổ chức của các trường vẫn đang tồn tại khá nhiều vấn đề, trong đó:

Công tác đổi mới hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm.

Quy hoạch mạng lưới đơn vị sự nghiệp công lập chủ yếu còn theo đơn vị

hành chính, chưa chú trọng quy hoạch theo ngành, lĩnh vực, đặc điểm vùng

miền và nhu cầu thực tế. Hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp còn cồng

kềnh, manh mún, phân tán, chồng chéo; quản trị nội bộ yếu kém, chất

lượng, hiệu quả dịch vụ thấp [14].

Nhận định của Nghị quyết Trung ương số 19 nêu trên về thực trạng tổ chức của

các đơn vị sự nghiệp công lập phản ánh khá rõ những vấn đề liên quan tới thực hiện tự

2

chủ về tổ chức của TĐHCL, cụ thể:

Thứ nhất, cách tiếp cận đối với quyền tự chủ về tổ chức của TĐHCL. Tự chủ

về tổ chức là một trong bốn trụ cột cơ bản của quyền TCĐH, phản ánh bản chất tư cách

pháp lý tự chủ của một đơn vị sự nghiệp công lập và một tổ chức đại học. Việc thực

hiện tự chủ về tổ chức chịu sự tác động trực tiếp từ thẩm quyền QLNN của chủ thể

quản lý trực tiếp TĐHCL. Đây là quyền tự chủ có điều kiện, nhưng việc vận hành

quyền tự chủ này liệu có cần phải đánh đổi bằng kết quả thực hiện tự chủ về tài chính

của TĐHCL hay không thì vẫn còn có những cách hiểu và tiếp cận khác nhau.

Thứ hai, trong hoạt động quản lý công, tự chủ về tổ chức của TĐHCL được

thực hiện trên cơ sở mối quan hệ phân cấp/ ủy quyền hợp lý, hiệu quả giữa Nhà nước

và TĐHCL. Nhưng việc phân vai và thực tiễn thực hiện sự phân vai này qua thực thi

chức năng QLNN về GDĐH và thực hiện chức năng quản trị, quản lý TĐHCL vẫn

chưa loại bỏ hết các rào cản về thể chế, về năng lực, về mô hình và phương thức quản

trị, quản lý TĐHCL. Đó là chưa kể đến sự không tương thích của nguồn lực, bộ máy,

hệ thống quản trị với hiệu quả của các hoạt động quản trị, quản lý nhà trường trong

điều kiện thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL.

Thứ ba, kết quả thí điểm thực hiện TCĐH về cả bốn phương diện: Thực hiện

nhiệm vụ chuyên môn học thuật; tổ chức; nhân sự; tài chính và tài sản của nhóm các

trường theo Nghị quyết “Về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo

dục đại học công lập, giai đoạn 2014 - 2017” (Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày

24/10/2014) đã cho thấy khá rõ những mặt mạnh và mặt hạn chế về tổ chức bộ máy của

các TĐHCL trong điều kiện áp dụng cơ chế thực hiện tự chủ về tổ chức.

Thứ tư, việc đúc rút kinh nghiệm từ cơ chế thí điểm của nhóm các trường theo

Nghị quyết số 77 để đẩy mạnh tiến trình TCĐH toàn diện đối với các cơ sở GDĐH

công lập, trong đó có các TĐHCL đã được Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

GDĐH (Luật số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018) đặt ra, theo đó, đến thời điểm sau

tháng 8 năm 2020, các cơ sở GDĐH công lập phải hoàn thành việc thành lập Hội đồng

trường (HĐT), cơ quan quyền lực tối cao của nhà trường để triển khai thực hiện TCĐH

một cách toàn diện. Khi các TĐHCL xúc tiến việc thành lập HĐT để thực hiện tự chủ về

tổ chức thì đã nảy sinh không ít vấn đề như: (1) Chuyển giao quyền lực từ Hiệu trưởng

sang HĐT; (2) mối quan hệ giữa HĐT với Đảng ủy và Hiệu trưởng; (3) Chủ tịch HĐT có

3

phải là người đứng đầu HĐT hay không? (4) Xác định ai là người đứng đầu TĐHCL?

(5) Cơ chế thực hiện thẩm quyền của chủ thể quản lý trực tiếp TĐHCL tại HĐT và

thực thi chức năng QLNN về GDĐH; (6) vấn đề đổi mới mô hình, phương thức quản

trị đại học của các TĐHCL trong thực hiện cơ chế tự chủ về tổ chức... Hàng loạt vấn đề

nêu trên hiện chưa có sự đầu tư nghiên cứu, tiếp cận và chuẩn bị một cách bài bản về

nhiều phương diện, nhất là từ phương diện lý luận, thể chế quản lý công và thực tiễn

thực hiện tự chủ về tổ chức của nhiều TĐHCL.

Từ thực tế trên thì việc đặt vấn đề nghiên cứu sâu sắc, toàn diện đối với thực

hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam dưới nhiều góc độ, nhất là góc độ quản lý

công là vô cùng cần thiết, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Với tầm nhìn đó,

nghiên cứu sinh (NCS) đã lựa chọn vấn đề “Thực hiện tự chủ về tổ chức của trường

đại học công lập ở Việt Nam” để thực hiện luận án tiến sĩ, chuyên ngành quản lý công.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án hướng tới mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn

trong thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam, từ đó đề xuất những giải

pháp nhằm góp phần tạo ra những thay đổi tích cực cả về lý luận cũng như hiệu quả

hoạt động thực tiễn đối với quá trình hiện thực hóa quyền tự chủ này của các TĐHCL

trong thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

* Về lý luận

Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về tự chủ tổ chức và

thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL (khái niệm, đặc điểm TCĐH; khái niệm, đặc

điểm của tổ chức của TĐHCL trong cơ chế TCĐH; bản chất mối quan hệ giữa Nhà

nước và TĐHCL trong thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL; nội dung, công cụ,

thiết chế, phương thức, TNGT của TĐHCL trong thực hiện tự chủ về tổ chức; kinh

nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐH).

* Về thực tiễn

- Nghiên cứu thực trạng nhận thức của các cơ quan nhà nước, TĐHCL và các

bên liên quan đối với thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL.

- Nghiên cứu thực trạng thể chế, thực tiễn và các giải pháp bảo đảm thực hiện

4

tự chủ về tổ chức của TĐHCL thời gian tới.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Lý luận thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam hiện nay;

- Thực trạng chính sách, thể chế, thiết chế và thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ

chức của TĐHCL ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu thực hiện tự chủ về tổ chức của

TĐHCL từ sau khi Luật GDĐH năm 2012 có hiệu lực cho đến nay.

- Về đối tượng và nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu lý luận, thể chế, và

thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức bộ máy mà không mở rộng nghiên cứu các vấn đề

thực hiện tự chủ về tổ chức nhân sự của nhóm TĐHCL trực thuộc sự quản lý của Bộ

GDĐT và các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực khác.

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận

Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm,

đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; tư duy đổi mới, hội nhập và tư duy quản lý

công mới, tư duy quản trị hiện đại, áp dụng đối với TĐHCL trong điều kiện thực hiện

tự chủ về tổ chức.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

Thứ nhất, các phương pháp thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin, dữ liệu về

đối tượng nghiên cứu, phù hợp với phạm vi nghiên cứu. Cụ thể, luận án tiếp cận công

trình nghiên cứu đã công bố, các chính sách, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; các

báo cáo quốc tế - quốc gia; quy chế quản lý nội bộ và thực tiễn quản trị, quản lý hiện

nay về tổ chức TĐHCL ở Việt Nam để có căn cứ, cơ sở cho việc phân tích, tổng hợp,

hệ thống hóa và luận giải các vấn đề lý luận, thực tiễn thuộc nhiệm vụ nghiên cứu của

luận án.

Thứ hai, phương pháp nghiên cứu dự báo, phỏng vấn sâu đối với một số các

nhà khoa học đồng thời là những giảng viên đang làm công tác quản lý trong TĐHCL

thuộc một số lĩnh vực (đào tạo ngành luật; đào tạo tư pháp; đào tạo về quản lý công;

5

đào tạo về quản lý về lao động - xã hội) để giải quyết một trong số nội dung được xác

định là đóng góp của luận án liên quan đến quan điểm và đề xuất giải pháp bảo đảm

thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL (tại phụ lục 4 của luận án).

Ngoài ra, phương pháp liên hệ, so sánh, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm từ thực

tiễn cũng sẽ được sử dụng trong quá trình hoàn thành luận án.

5. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu

* Câu hỏi nghiên cứu thứ nhất: Hệ thống lý luận quản lý công về tự chủ tổ

chức của TĐHCL ở Việt Nam hiện nay được hiểu và tiếp cận như thế nào?

* Giả thuyết nghiên cứu thứ nhất: Tự chủ về tổ chức là một trong bốn trụ cột

cơ bản của quyền TCĐH, được tiếp cận là quyền tự quyết định mục tiêu, sứ mạng, tầm

nhìn và cách thức vận hành tổ chức bộ máy của TĐHCL; có mối tương quan theo chiều

nghịch/chiều thuận với thẩm quyền QLNN về GDĐH và các lĩnh vực tự chủ về thực

hiện nhiệm vụ học thuật, nhân sự, tài chính - tài sản của TĐHCL; thể hiện bản chất tư

cách pháp lý của một cơ sở GDĐH công lập và tổ chức đại học. Sự phân cấp/ủy quyền

của Nhà nước và tư cách pháp lý là cơ sở của quyền tự chủ về tổ chức của TĐHCL;

điều kiện để TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức là phải có HĐT, có quy chế tổ chức

và hoạt động, có sự phân cấp tự chủ cho các đơn vị thuộc/trực thuộc.

* Câu hỏi nghiên cứu thứ hai: Hệ thống lý luận quản lý công về thực hiện tự

chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam hiện nay được hiểu và tiếp cận như thế nào?

* Giả thuyết nghiên cứu thứ hai: Thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL trên

cơ sở nguyên tắc, nội dung, thể chế, thiết chế, phương thức phù hợp, mang lại hiệu quả

cho thực hiện TCĐH; tương thích giữa hệ thống QLNN về GDĐH với mô hình,

phương thức thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL; (ii) phù hợp giữa năng lực quản

trị, quản lý nhà trường với điều kiện, yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ thực hiện tự chủ về

tổ chức của từng TĐHCL; hiện thực hóa mục tiêu kép là thực hiện sứ mạng, tầm nhìn

của TĐHCL và đổi mới toàn diện hệ thống GDĐH Việt Nam.

* Câu hỏi nghiên cứu thứ ba: Cần nhận diện và đánh giá như thế nào về thực

trạng hệ thống chính sách, thể chế, thiết chế thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở

Việt Nam hiện nay? Đâu là những khó khăn vướng mắc, hạn chế và nguyên nhân của

những khó khăn, vướng mắc, hạn chế trong thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL?

* Giả thuyết nghiên cứu thứ ba: Hệ thống chính sách, thể chế chung của Nhà

6

nước, thể chế, thiết chế quản trị, quản lý nội bộ của TĐHCL ở Việt Nam hiện nay đã có

nhiều những thay đổi tích cực, tiệm cận với xu hướng phát triển của các TĐHCL trên

thế giới; những khó khăn, vướng mắc, hạn chế và nguyên nhân của khó khăn, vướng

mắc, hạn chế trong thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL được nhận diện

từ nhiều phương diện (chính sách, thể chế, thiết chế, tư duy, năng lực, nguồn lực,

phương thức QLNN về GDĐH, quản trị, quản lý tổ chức bộ máy của các nhà trường).

Câu hỏi nghiên cứu thứ tư: Thực tiễn thí điểm thực hiện cơ chế tự chủ về tổ chức

của nhóm TĐHCL theo Nghị quyết 77/2014 và thực tiễn triển khai thực hiện tự chủ về tổ

chức của TĐHCL ở Việt Nam như thế nào? Đâu là những vấn đề đang đặt ra cho TĐHCL?

Giả thuyết nghiên cứu thứ tư: Kết quả thu được của nhóm các TĐHCL thí

điểm áp dụng cơ chế tự chủ theo Nghị quyết 77/2014 là một trong số căn cứ quan trọng

để thay đổi cách tiếp cận của các chủ thể QLNN và cơ sở GDĐH công lập về TCĐH;

khó khăn, vướng mắc, hạn chế về thực hiện tự chủ tổ chức của TĐHCL từ quá trình thí

điểm đã được Luật số 34 tháo gỡ một phần căn bản nhưng thực tế triển khai thực hiện

tự chủ về tổ chức của TĐHCL hiện vẫn đang phải đối diện với nhiều vấn đề liên quan

đến cách hiểu và áp dụng thể chế mới theo Luật số 34; sự thiếu thống nhất và đồng bộ

của luật chuyên ngành và luật liên quan về TCĐH; năng lực QLNN về GDĐH; năng

lực, mô hình, phương thức quản trị, quản lý hệ thống tổ chức nhà trường trong điều

kiện triển khai đồng loạt việc thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL theo Luật số 34.

* Câu hỏi nghiên cứu thứ năm: Quan điểm và giải pháp thực hiện tự chủ về tổ

chức của TĐHCL ở Việt Nam thời gian tới?

* Giả thuyết nghiên cứu thứ năm: Việc thực hiện tự chủ về tổ chức của

TĐHCL trong thời gian tới phải đảm bảo dựa trên quan điểm khoa học, nhất quán, rõ

ràng, với những giải pháp tổng thể, khả thi, đáp ứng yêu cầu trước mắt cũng như về lâu

dài đối với hiệu quả QLNN về GDĐH trong cơ chế TCĐH và hiệu quả quản trị, quản

lý TĐHCL triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức.

6. Những đóng góp mới của luận án

6.1. Đóng góp về nghiên cứu lý luận

- Làm sáng tỏ bản chất tự chủ về tổ chức và thực hiện tự chủ về tổ chức

của TĐHCL;

- Góp phần tạo ra sự thay đổi tích cực về nhận thức; phương thức tổ chức và

7

triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL;

- Đóng góp một số khái niệm khoa học cốt lõi trong lĩnh vực quản lý công đối

với thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL.

6.2. Đóng góp về nghiên cứu thực tiễn

Đánh giá, phân tích, luận giải những bất cập, hạn chế đối với thực hiện tự chủ

về tổ chức của TĐHCL thời gian qua, từ đó đóng góp cho việc định hướng và đề xuất

giải pháp khả thi, hiệu quả, phù hợp để dần hoàn thiện cơ chế thực hiện tự chủ về tổ

chức của TĐHCL ở Việt Nam thời gian tới.

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

- Về lý luận, luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu đối với lĩnh vực

thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL. Các nghiên cứu của luận án nhằm chỉ ra bản

chất, yêu cầu và vấn đề phải thực hiện đối với tự chủ về tổ chức của TĐHCL. Luận án

chỉ rõ yêu cầu, nội dung và kết quả cần đạt được trong thực hiện tự chủ về tổ chức của

các TĐHCL.

- Về thực tế, luận án đề xuất giải pháp hữu ích trong thực hiện tự chủ về tổ

chức của các TĐHCL ở Việt Nam thời gian tới. Luận án sau khi hoàn thành có giá trị

tham khảo đối với các TĐHCL tại Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển hệ thống

quản trị, quản lý tổ chức, phù hợp với cơ chế TCĐH tại Việt Nam thời gian tới.

8. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội

dung của luận án gồm 4 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến thực hiện tự chủ về

tổ chức của trường đại học công lập ở Việt Nam.

Chương 2: Những vấn đề lý luận trong thực hiện tự chủ về tổ chức của trường

đại học công lập ở Việt Nam.

Chương 3: Thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập ở

Việt Nam.

Chương 4: Giải pháp bảo đảm thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học

8

công lập ở Việt Nam.

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC HIỆN

TỰ CHỦ VỀ TỔ CHỨC CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM

1.1. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài đối với những vấn đề lý luận trong

thực hiện tự chủ về tổ chức của trƣờng đại học công lập

1.1.1. Đối với sách tham khảo

* Shattock Michael, năm 2006, “Managing good governance in higher

education, Open University Press, McGraw - Hill Education, United Kingdom (Quản

trị giáo dục đại học hiệu quả): Đây là công trình nghiên cứu có giá trị về tổ chức của

TĐH từ góc nhìn thiết chế. Ở nội dung chương 2 (Nguồn gốc và sự phát triển của quản

trị đại học hiện đại), tác giả đã phân tích một số mô hình quản trị đại học, như

Oxbridge, Scotland, Quản trị đại học công dân, Giáo dục Đại học Tập đoàn và Quản trị

Đại học Hoa Kỳ. Tác giả cũng đi sâu phân tích về vai trò của Hiệu trưởng và Phó hiệu

trưởng đại học cùng trưởng đơn vị thuộc đại học. Tác giả cũng nêu lên vấn đề quản trị

đại học và môi trường thay đổi. Tác giả quan tâm bàn về chiến lược của các đại học và

Nhà nước. Cuốn sách bàn đến vấn đề quản trị đại học hiệu quả trong thực tiễn, như vấn

đề bổ nhiệm Hiệu trưởng; giám sát quyền điều hành, vấn đề đánh giá hiệu quả và hiệu

suất; vấn đề về xung đột lợi ích và áp lực thay đổi trong quản trị đại học.

* Frankh.T.Rhodes, năm 2009, “Creation of the Future - Tạo dựng tương lai,

vai trò của các viện đại học Hoa Kỳ”, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn: Cuốn sách phân

tích nhiều nội dung liên quan đến công việc của một TĐH, như nội dung về Hội đồng

trường (HĐT)/Hội đồng quản trị, trách nhiệm của HĐT là quản trị theo kiểu “nhúng

mũi vào nhưng bỏ tay ra” [39, tr. 507] chứ không phải quản lý. Tác giả cũng phân tích

rõ vai trò của HĐT nằm ở chức năng tuyển chọn, bổ nhiệm, đưa ra đánh giá và không

ngừng hỗ trợ Hiệu trưởng quản lý, điều hành TĐHCL. Cuốn sách chỉ ra các thành tố

căn bản làm nên mối quan hệ then chốt giữa HĐT và Hiệu trưởng.

* Clark Kerr, năm 2013, “The uses of the university - Các công dụng của đại

học”, Nhà xuất bản Tri thức. Các nghiên cứu của tác giả về GDĐH Hoa Kỳ trước hết

là “những thông tin, phân tích, đánh giá, khái quát hóa một cách chân thực, khoa học

9

về sự thay đổi diện mạo của Đại học Hoa Kỳ qua những dấu mốc lịch sử” [23, tr. 31-32].

Một nhận xét rất cần được quan tâm khai thác về công dụng của đại học khi nghiên cứu

về quyền TCĐH, đó là đại học có tác dụng hữu hiệu cho xã hội hay phản hữu hiệu tùy

theo cách sử dụng nó. Nó thay đổi căn bản xã hội nếu thực hiện được đầy đủ các chức

năng hàn lâm bình thường của nó mà qua đó, nó đã có chỗ đứng ngàn năm. Nhưng mọi

sự thao túng đại học vào mục tiêu chính trị sẽ thay đổi bản chất đại học xấu đi hơn là

nó thay đổi tốt cho xã hội [23, tr. 35]. “Hôm nay chúng ta đứng vững. Nhưng ngày mai

khoa học sẽ tiến thêm một bước nữa và lúc đó, sẽ không thể có sự khẩn cầu xét lại một

bản án được dành cho những kẻ không được giáo dục và Kerr khẳng định đó là công

dụng của giáo dục” [23, tr. 35-36].

Trong cuốn sách, tác giả đã viện dẫn đến phát biểu của Kerr về TCĐH một

cách ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa: “Tôi không tin vào nguyên tắc rằng bởi

vì có một thống đốc mới nên cần có một Chủ tịch đại học mới. Điều này không bao giờ

xảy ra ở các đại học công tốt ở Hoa Kỳ. Đó là khía cạnh tự chủ (của đại học). Đại học

có thể phụng sự cho nhân loại tốt nhất khi được quản lý dài hạn bằng (nguyên tắc

quyền) tự chủ” [23, tr. 69-70]. Đề cập quyền TCĐH, Kerr nhấn mạnh: “Một đại học

được quản lý một phần dựa trên tự do. Một đại học không thể được quản lý như một

Nhà nước cảnh sát” [23, tr. 69]. Tiếp cận từ góc độ quản lý công về TCĐH cho thấy,

những phân tích của Kerr về một số nhân sự đại học cực kỳ có giá trị tham khảo cho

luận giải về thực hiện tự chủ tổ chức TĐHCL. Tác giả đã chính xác khi cho rằng, Viện

trưởng đại học (mà ở Việt Nam là Hiệu trưởng) là nhân sự hoạt động ở vị trí vừa phải

đối diện nhiều hướng cùng một lúc, vừa phải xoay xở để không “quay lưng” lại với bất

cứ bên nào. Theo tư duy khoa học quản lý công, đây là một nhận xét khoa học tinh tế

và quan trọng, điều mà nếu chỉ tiếp cận từ góc độ thể chế TĐH chưa chắc đã nhận diện

rõ vấn đề. Trong bối cảnh thay đổi lớn của các TĐH ở Mỹ cũng như ở nhiều nước và

ngay cả ở Việt Nam, tác giả đã rất có lý khi cho rằng, “Viện trưởng trở thành vị trung

tâm hòa giải giữa các giá trị của quá khứ, các viễn cảnh của tương lai và những thực tế

của hiện tại” [23, tr. 144].

Từ những nghiên cứu về cuốn sách, có thể rút ra nhận xét quan trọng có giá trị

tham chiếu đối với luận án, đó là những đánh giá chân thực, bản chất và khoa học về vị trí

chủ chốt trong TĐH ở hai trong số những vị trí cốt lõi là Hiệu trưởng và giảng viên. Giảng

10

viên là máy cái trong cỗ máy TĐH, Hiệu trưởng là máy trưởng để chỉ đạo vận hành cỗ

máy đó và vì vậy, trong điều kiện TCĐH, hai vị trí này nên được tiếp cận, phát triển và

quản lý như thế nào để hiệu quả và chất lượng nhất? Đây là những luận giải có ý nghĩa

cung cấp nguồn thông tin quý khi đề cập đến vấn đề giải pháp tăng cường nguồn lực

của tổ chức TĐHCL trong điều kiện thực hiện tự chủ về tổ chức ở Việt Nam.

* Iwinska Julia, Matei Liviu, năm 2014, University autonomy - A practical

handbook, Central European University, Hungary (Cẩm nang Tự chủ đại học): Một

trong những điểm nhấn quan trọng của cuốn sách tham khảo này là tìm câu trả lời cho

câu hỏi lớn, các khía cạnh của TCĐH là gì? Cuốn sách cũng làm rõ mức độ tự chủ mà

các TĐH được hưởng từ sự kiểm soát của Nhà nước, tác động đáng kể đến năng lực

quản lý các chiến lược phát triển phức tạp, xác định các chính sách và sắp xếp tổ chức

phù hợp với các đơn vị hỗ trợ cần thiết, nguồn nhân lực và tài chính. TĐH ngày càng

được công nhận là động lực thúc đẩy cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội trong khu vực phát

triển. Nhận thức về cách các TĐH có thể đóng góp cho sự đổi mới của khu vực và sự

phát triển kinh tế thông qua hợp tác với doanh nghiệp, chính quyền địa phương và các

chủ thể khác tại địa phương (ESMU, 2010).

Trong phần ba của cuốn sách, tác giả đề cập đến thực tiễn tự chủ với những ví

dụ của các quốc gia và TĐH. Có thể nhận thấy phần này của cuốn sách cung cấp những

kinh nghiệm tốt từ thực tế của các quốc gia. Cụ thể, khi đề cập đến tự chủ quyết định

về quản trị nội bộ và cơ cấu tổ chức thì các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cấu trúc quản trị

và lãnh đạo của các TĐH chịu sự điều chỉnh của khung pháp luật quốc gia. Trong hầu

hết các trường hợp, khung cơ bản dành cho cho các cơ quan ra quyết định (cơ quan chủ

quản chính trong một TĐH) được quy định trong các luật hoặc nghị định liên quan.

Nhưng đồng thời các TĐH vẫn có thể có một số quyền tự chủ trong việc áp dụng

khung pháp lý quốc gia, mà một trong số đó là tự chủ trong xây dựng và phát triển thể

chế điều chỉnh nội bộ của TĐHCL.

Một kinh nghiệm rất đáng chú ý từ nghiên cứu của công trình này liên quan

đến vấn đề mô hình chủ yếu thiết lập quản trị đại học nội bộ trong các TĐH ở châu Âu.

Chẳng hạn, 15 hệ thống (trong số 28) có một cơ cấu điều hành kép, thường bao gồm

một cơ quan đại diện nội bộ (như Hội đồng khoa học) và một Hội đồng đại học (thiên

về bên ngoài nhiều hơn). Trong các mô hình quản trị kép, quyền và năng lực ra quyết

11

định được phân chia giữa hai cơ quan. Các vấn đề học thuật thường thuộc về năng lực

của hội đồng khoa học, trong khi các vấn đề chiến lược liên quan đến Hội đồng đại

học. Sự phân chia năng lực và thẩm quyền ra quyết định giữa hai loại cơ quan chủ quản

có thể khác nhau đáng kể. Trong một số trường hợp, ví dụ như ở một số tiểu bang của

Đức, hội đồng đại học (thiên về bên ngoài) chỉ có vai trò tư vấn, trong khi thẩm quyền

ra quyết định chính thuộc về Hội đồng khoa học được bầu (nội bộ).

Một nội dung khác mang tính chất kinh nghiệm về tự chủ tổ chức cũng được

đề cập trong cuốn sách này, đó là tự do xác định cấu trúc học thuật nội bộ (như các

Khoa; Trung tâm). Các TĐH trong hầu hết các hệ thống GDĐH của châu Âu (trong 18

trên 28 phân tích) có thể tự do quyết định cấu trúc học thuật nội bộ của họ. Điều này

liên quan đến việc thành lập, số lượng và tên của các đơn vị học thuật (ví dụ: các khoa,

trường học, v.v...). Khía cạnh tự chủ này cũng bao gồm sáp nhập hoặc đóng cửa các

khoa học thuật nằm trong thẩm quyền tự chủ của TĐH trong hầu hết các trường hợp.

Một khía cạnh khác của kinh nghiệm quốc tế về tự chủ tổ chức bộ máy, nhân

sự TĐH công lập được nhìn thấy khá rõ ở nội dung các nghiên cứu trong cuốn sách này

là vấn đề tự do lựa chọn lãnh đạo TĐH (người đứng đầu điều hành). Cuốn sách chỉ ra

có bốn cách chính để bổ nhiệm người đứng đầu điều hành tại các TĐH ở châu Âu. Một

là, Hiệu trưởng TĐH được bầu bởi một cơ quan bầu cử đại học lớn với quy mô đại diện

rộng, bao gồm nhân viên học tập và hành chính, và sinh viên. Hai là, Hiệu trưởng được

bầu chọn một cách dân chủ bởi cơ quan quản lý của TĐH (thường là Hội đồng khoa

học, tức là cơ quan quyết định các vấn đề học thuật). Ba là, Hiệu trưởng được bổ nhiệm

bởi hội đồng TĐH (cơ quan quản lý quyết định các vấn đề chiến lược). Bốn là, Hiệu

trưởng được chỉ định thông qua quy trình hai bước kết hợp, bao gồm cả hội đồng khoa

học và HĐT.

Còn một cách tiếp cận khác là Hiệu trưởng/quản lý điều hành của trường được

chỉ định/lựa chọn bởi một cơ quan quản lý (hội đồng quản trị hoặc HĐT), hoặc được

lựa chọn bởi cơ quan học thuật kiểu hội đồng khoa học là hai cách tiếp cận phổ biến

như nhau. Tại 8 quốc gia, trong đó có Vương quốc Anh, Ireland, Đan Mạch và Thụy

Điển, quy trình chọn lọc được thực hiện bởi HĐT (thường bao gồm các thành viên bên

ngoài). 4 quốc gia còn lại, bao gồm Pháp, Hungary, Slovakia và Bồ Đào Nha thì người

lãnh đạo hàng đầu của TĐH được lựa chọn bởi một cơ quan quản lý được bầu theo

12

kiểu hội đồng khoa học.

* Karl Jaspers, năm 2016, “Ý niệm đại học”, Nhà xuất bản Hồng Đức: Cuốn

sách tập trung bàn về thiết chế đại học trong mối quan hệ với Nhà nước và xã hội.

Cuốn sách phân tích mối quan hệ giữa TĐH với Nhà nước/Chính phủ theo cả chiều

thuận và chiều nghịch, tức TĐH vừa thuộc Nhà nước, vừa tồn tại độc lập và không

mang tính nhà nước. Theo tác giả cuốn sách thì TĐH đòi hỏi một quyền tự do giảng

dạy, Nhà nước bảo đảm cho đại học quyền được theo đuổi những công trình nghiên

cứu và giảng dạy mà không chịu sự kiểm soát của những phe phái chính trị hoặc một

áp lực từ các ý thức hệ chính trị, triết lý hay tôn giáo. Nói cách khác thì TĐH là một

học đường đặc biệt, bởi Nhà nước và xã hội luôn dành cho nó sự quan tâm tích cực.

Đặc biệt, cuốn sách dành hẳn một chương để phân tích về mối quan hệ giữa tổ chức đại

học với Nhà nước, theo đó, Nhà nước chỉ làm chức năng giám sát về sự độc lập tổ chức

của TĐH. TĐH về phía mình sẵn sàng thừa nhận chức năng này của Nhà nước trong

chừng mực không có sự xung đột với mục tiêu lý tưởng của nhà trường. Có thể nhận

thấy, những phân tích của công trình nghiên cứu này đã phần nào lý giải rõ hơn về bản

chất lý luận của mối quan hệ giữa Nhà nước và TĐH.

* Bugaian Larisa, Reilly John E., Turcan Romeo V, năm 2016, “Rediscovering

university autonomy - The global market paradox of stakeholder and educational

values in higher education, Palgrave Macmillan, United States of America” (Tái khám

phá về tự chủ đại học): Luận điểm chính của các tác giả trong công trình này những là

hiểu biết đầy đủ hơn về TCĐH chỉ có thể có được thông qua một cái nhìn toàn diện về

mối quan hệ tương tác, phức tạp giữa các bên liên quan và chính sách, có thể củng cố

và kéo về hai hướng ngược nhau. Cuốn sách khái niệm hóa quan điểm toàn diện trong

một mô hình về thể chế TCĐH. Mô hình này tập hợp bốn trụ cột truyền thống của tự

chủ và năm mối quan hệ: Chính phủ - Đại học; Giảng viên - Đại học; Giảng viên - Sinh

viên; Đại học - Doanh nghiệp và Quốc tế - Đại học. Mỗi mối quan hệ này, đặc trưng

cho các điểm tương tác bên ngoài và bên trong giữa TĐH hiện đại và các bên liên quan

chính, không chỉ tác động tới bốn trụ cột mà còn liên quan và ảnh hưởng lẫn nhau và

tăng cường sự hiểu biết đối với cách tự diễn giải về tự chủ. Các tác giả phát hiện ra một

thực tế là quan niệm và mục tiêu tự chủ hơn của các TĐHCL và chính phủ thực chất có

sự khác nhau nhất định, dù cả hai bên đều sử dụng cùng một thuật ngữ tự chủ. Do tiếp

13

tục là nguồn cung cấp kinh phí chính của TĐH, Chính phủ mong đợi TĐH thực hiện

yêu cầu, thực thi các chiến lược và chính sách của Chính phủ trên nền tảng một mối

quan hệ hợp đồng hiệu quả mà không bao gồm các quy định cụ thể. TĐH thì muốn tự

chủ và độc lập trong phát triển mục tiêu riêng để cạnh tranh; để thành lập liên minh, sát

nhập và đối tác trong nước, trong khu vực và quốc tế; để tìm kiếm cách thức đảm bảo

sự độc lập lớn hơn về tài chính. Mức độ mà một TĐH có thể khai thác và phát triển quyền

tự chủ của mình phụ thuộc sâu sắc vào sự quản lý, lãnh đạo và quản trị của trường đó.

Do sự khác biệt về chất lượng và hiệu quả của các cơ quan quản lý và sự lãnh đạo và

quản lý của một trường, sẽ có sự khác biệt đáng kể giữa các trường trong cách họ phản

ứng với các cơ hội và thực hiện quyền tự chủ một cách hiệu quả và sáng tạo.

Các nghiên cứu trong cuốn sách này còn đưa ra nhận xét rằng, các tương tác

(mối quan hệ) không chỉ xác định cách thức tự chủ vận hành trong thực tế mà còn cả

cách các mối quan hệ có thể đồng thời góp phần tăng cường hoặc hạn chế quyền tự

chủ. Thông qua các trường hợp quốc tế, các tác giả đã khám phá sự phức tạp của quyền

tự chủ, mà hiểu rộng ra là được thể hiện trong các từ tự do và độc lập. Các tác giả nhận

thấy, tự chủ không chỉ phát sinh từ khung pháp lý quy định hoạt động của trường mà

còn từ mối quan hệ tương tác phức tạp giữa các bên liên quan và các chính sách có thể

củng cố và kéo giãn theo hai hướng ngược nhau. Từ đó, nghiên cứu của các tác giả

cũng nêu ra việc làm thế nào để cả Chính phủ và TĐHCL đều có thể quản lý tốt mối

quan hệ của từng bên.

Theo nghiên cứu của các tác giả cuốn sách thì bản chất và mức độ TCĐH được

điều chỉnh chủ yếu trong mối quan hệ giữa Nhà nước và TĐH. Các cơ quan nhà nước

kiểm soát sự điều hành và cơ cấu tổ chức của các TĐH. Nhà nước nắm thẩm quyền bổ

nhiệm hoặc miễn nhiệm Hiệu trưởng TĐH. Do đó, mức độ tự chủ hiệu quả của TĐH bị

ảnh hưởng mạnh bởi chất lượng của quản trị đại học. Có thể nhận thấy, cuốn sách tập

trung nhiều vào việc phân tích các mối quan hệ thuộc cơ cấu bên trong và bên ngoài

của TĐH để giúp cho việc nhận diện rõ hơn các mối quan hệ này trong cơ chế TCĐH.

* Philip G. Altbach, Liz Rusberg và Laura E. Rumbley, năm 2019, “Xu hướng

giáo dục đại học toàn cầu theo vết một cuộc cách mạng học thuật”, Nhà xuất bản Đại

học Quốc gia Hà Nội: Cuốn sách lý giải toàn cảnh về GDĐH toàn cầu trong nửa sau

thế kỷ 20 cho đến nay, với vai trò to lớn của Nhà nước đối với cuộc chạy đua phát triển

14

chất xám vĩ đại nhất của các TĐH trong thế kỷ 21.

1.1.2. Đối với bài nghiên cứu

* Su-Yan Pan, Hong Kong University Press, năm 2009, “Tự chủ đại học, nhà

nước và những thay đổi xã hội ở Trung Quốc”, người dịch: Phạm Thị Ly, Thông tin

Giáo dục quốc tế và so sánh của Đại học Hoa Sen, số 2.2010. Bài viết đưa ra khá nhiều

cách tiếp cận truyền thống về TĐH theo quan điểm của học giả phương Tây, như

Hetherington (1953); Newman (1959); Clark (1994); Martin (1972); Ordorika (2003)...

Bài viết phản ánh việc lý thuyết hóa mối quan hệ giữa Nhà nước và TĐHCL dựa trên

kinh nghiệm và thực tiễn của các TĐH phương Tây.

* Abd Rahman Ahmad, Alan Farley, Moonsamy Naidoo, năm 2012, Analysis

of Government - University relationship from the perspective of Agency Theory,

Journal of Education and Practice (Phân tích mối quan hệ giữa Trường Đại học và

Chính phủ từ góc độ lý thuyết ủy quyền), Tạp chí Giáo dục và Thực hành, Tập 3 (số 6):

Bài viết thảo luận về các khía cạnh chung của Lý thuyết ủy quyền, sự liên quan của nó

với việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Chính phủ và TĐHCL. Các tác giả đã chỉ ra lý

do cho sự phù hợp của Lý thuyết ủy quyền đối với quan hệ Chính phủ - TĐHCL.

1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nƣớc đối với những vấn đề lý luận trong

thực hiện tự chủ về tổ chức của trƣờng đại học công lập

1.2.1. Đối với sách tham khảo

* Phạm Phụ (2004), Về khuôn mặt mới của giáo dục đại học Việt Nam, Nhà

xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh: Với tính chất là tập hợp của nhiều

bài viết thì phần rất đáng chú ý trong tài liệu của GS. Phạm Phụ năm 2004 là những

trao đổi về cơ chế HĐT ở TĐHCL. Có rất nhiều mô hình và nhiều tên gọi khác nhau để

chỉ HĐT, như Board of Trustees, Board of Regents, Board of Governors, University

Board, University Council, University Court, v.v... nhưng tất cả đều có bản chất là một

“Hội đồng cai quản” (Governance), có thẩm quyền cao nhất trong cơ cấu của một

TĐHCL. Các nghiên cứu đi sâu vào luận giải chức năng, nhiệm vụ của HĐT với những

quyết định tập thể trong vai trò làm cầu nối giữa nhà trường và chủ sở hữu cộng đồng;

là thiết chế được chủ sở hữu cộng đồng ủy thác cả về quyền sử dụng, quyền đại diện

pháp lý lẫn một phần quyền định đoạt lợi ích phát sinh để đảm bảo giá trị kinh tế - xã

15

hội của nhà trường, đáp ứng được những nhu cầu và những quan tâm của chủ sở hữu

cộng đồng. Những luận giải của các tác giả đã chỉ ra một nút thắt về lý luận đối với

TCĐH từ góc nhìn về tổ chức TĐHCL.

Bên cạnh đó, các tác giả cũng nhận diện về mối quan hệ trong nhà trường, theo

đó, HĐT là thiết chế có trách nhiệm tối cao đối với xã hội, còn về mặt thẩm quyền thì

chỉ đứng sau chủ sở hữu cộng đồng và Nhà nước. Một nhiệm vụ quan trọng của HĐT

là bầu chọn Hiệu trưởng.

Các bài viết cũng đề cập đến cách thức kiểm soát hoạt động trong nhà trường

với nguyên tắc chỉ kiểm soát những chính sách đã được thiết lập và qua ba cách: (1) Báo

cáo của Hiệu trưởng về các chính sách đã được thiết lập, (2) sử dụng người kiểm tra

bên ngoài trường về một chính sách cụ thể nào đó, phổ biến là cách sử dụng kiểm toán

trong tài chính và (3) thanh tra trực tiếp hay thanh tra tại chỗ của HĐT về một chính

sách nào đó, có thể bằng cách lựa chọn ngẫu nhiên hay quy định định kỳ.

Cuốn sách đề cập chủ đề dịch vụ GDĐH có là một dạng hàng hóa hay không?

Theo các tác giả, GDĐH thường được Nhà nước cung cấp một phần và thị trường cung

cấp một phần. Cũng có nghĩa là Nhà nước gánh chịu chi phí một phần, người dân gánh

chịu chi phí một phần. Vậy, cũng không bất hợp lý khi quan niệm dịch vụ GDĐH là

một loại hàng hóa và không đánh đồng hoàn toàn giáo dục là hàng hóa, bởi giáo dục

luôn có ý nghĩa nhân văn. Đây cũng chính là một trong những luận điểm cần thiết để

luận giải một cách rộng sâu về mối quan hệ nền tảng điều chỉnh cơ chế tự chủ và

TNGT của TĐHCL.

Cuốn sách đề cập đến vấn đề cơ cấu và tổ chức quản lý hệ thống. Theo cách tiếp

cận của cuốn sách, để quản lý hệ thống GDĐH, mô hình phân cấp quản lý giữa trung ương

và các cơ sở đại học của các nước khá khác nhau. Nhưng nhìn chung, đa số các nước có

cách phân chia thẩm quyền theo kiểu “đuôi nặng”, nghĩa là thẩm quyền tập trung chủ yếu

ở cấp khoa/bộ môn/giảng viên hoặc ở cấp TĐHCL. Nếu nói riêng ở cấp TĐH thì TĐHCL

thường có một HĐT là một hội đồng quyền lực để quản trị nhà trường. Về thủ tục ra quyết

định, thường phối hợp cả ba mô hình theo kiểu Hiệp hội (Collegium), kiểu hành chính và

kiểu doanh nghiệp với trọng số khác nhau tùy loại TĐH. Việt Nam trái lại, về mặt tổ chức

quản lý, thẩm quyền tập trung nhiều ở cấp Bộ chủ quản, nghĩa là phân chia thẩm quyền

16

theo kiểu “đầu nặng”. Về nội dung quản lý, chưa chú trọng đúng mức việc xây dựng chính

sách công GDĐH và tính hiệu quả/ hiệu suất của cả hệ thống. Còn nói riêng, ở cấp

TĐHCL, quyền lực chủ yếu tập trung vào Ban Giám hiệu, ra quyết định cơ bản theo kiểu

hành chính. Trong khi đó, vấn đề trách nhiệm xã hội của các TĐHCL lại gần như chưa

được đặt ra. Đây là nhận xét về hạn chế của TCĐH ở Việt Nam với góc nhìn quản lý

công khá chuẩn xác, giúp cho NCS khai thác thêm trong luận án của mình.

Cuốn sách đề cập đến vấn đề xây dựng chính sách công về GDĐH. Khi nói về

chính sách công đối với GDĐH thì khó khăn mang tính thế kỷ, xuyên quốc gia đối với

mọi TĐHCL là bài toán cân bằng giữa chất lượng, hiệu quả và chi phí tài chính. Cuốn

sách đưa ra tư duy hiện đại về GDĐH, với cách tiếp cận, trong thời đại ngày nay, nếu

không coi giáo dục là hàng hóa, con người, xã hội, TĐH sẽ không biết cư xử với nó thế

nào cho đúng. Rốt cuộc sẽ là chắp vá, cắt dán và sửa chữa lung tung. Đây liệu có phải

là điểm mấu chốt của cơ sở khoa học để luận giải cho những nút thắt về tự chủ - QLNN

về GDĐH, tự chủ và TNGT của TĐH hay không cũng chính là một câu hỏi lý luận mà

NCS cần quan tâm trong luận án của mình.

Cuốn sách có những gợi ý khoa học cho phép luận giải về cơ sở của mối quan

hệ quản lý công về GDĐH, đó là vấn đề GDĐH và công bằng xã hội. Cuốn sách chỉ ra

kinh nghiệm của một số nước có trình độ phát triển GDĐH tương tự như Việt Nam khi

nghiên cứu vấn đề công bằng xã hội trong GDĐH phải đồng thời với cả ba nhóm vấn

đề: (1) Mối quan hệ giữa công bằng xã hội, chất lượng và hiệu quả (tài chính); (2) các

chỉ số công bằng xã hội (giới tính, vùng miền, sắc tộc, trạng thái kinh tế - xã hội...)

trong thực trạng và sự biến thiên của chúng trong quá trình mở rộng GDĐH; (3) các

yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận, được tham dự GDĐH.

Về cơ bản, cuốn sách có diện phổ quát khá rộng và sâu về TCĐH theo cách

tiếp cận hệ thống bộ máy thể chế với nền tảng lý luận là mối quan hệ giữa Nhà nước và

TĐHCL từ góc nhìn bản chất, vai trò của cả hai phía trong thực thi và đáp ứng nhu cầu

về quyền được học tập của người dân trong xã hội. Cuốn sách cung cấp tri thức cần

thiết cho việc nghiên cứu về TCĐH liên quan đến tổ chức, với một số gợi ý rất quan

trọng về cơ chế vận hành mối quan hệ bên trong và bên ngoài khi TĐHCL tự chủ và

thực hiện TNGT về tổ chức, về ứng xử của các chủ thể giao, phân quyền (Nhà nước)

17

và chủ thể nhận ủy quyền để thực hiện quyền TCĐH (TĐHCL) trước hàng loạt các vấn

đề đặt ra đối với quyền lợi và sự hiện diện của chủ thể thứ ba (người học - cộng đồng

xã hội); vấn đề lợi ích và giải quyết xung đột lợi ích giữa các bên; vấn đề trách nhiệm

nhà nước đối với an sinh xã hội; vấn đề chất lượng, hiệu quả GDĐH và bài toán về tài

chính phục vụ bộ máy, nhân sự, hoạt động GDĐT trong điều kiện tự chủ…

* Đinh Tuấn Minh, năm 2017, “Thị trường hóa cung ứng các dịch vụ công tại

Việt Nam”, Nhà xuất bản Tri thức. Với tính chất như báo cáo thuộc Dự án “Phát triển

nền kinh tế thị trường Việt Nam”, do Viện Friedrich Naunman Việt Nam tài trợ, cuốn

sách cung cấp một khuôn khổ phân tích dựa trên thị trường kinh tế học một thể chế mới

như là công cụ để phát triển và có giá trị tham khảo rất quan trọng cho hoạt động cung

ứng vụ công trong lĩnh vực GDĐH tại Việt Nam.

* Phạm Thị Thanh Hải, năm 2018, “Tự chủ đại học trong bối cảnh đổi mới

giáo dục” (nghiên cứu trường hợp Đại học Quốc gia Hà Nội), Nhà xuất bản Đại học

Quốc gia: Cuốn sách là tập hợp của một số các bài nghiên cứu về TCĐH ở Việt Nam

từ thực tiễn của một số TĐH.

* Nguyễn Xuân Xanh, năm 2019, “Đại học - Định chế giáo dục cao thay đổi

thế giới”, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh: sách giới thiệu những vấn

đề chung liên quan đến TCĐH trong bối cảnh đổi mới GDĐH.

* Nguyễn Mạnh Hùng, Trần Khánh Đức (đồng chủ biên), năm 2020, “Quản trị

trường đại học thông minh 4.0 và xếp hạng đại học theo mô hình QS”, Nhà xuất bản

Đại học Quốc gia Hà Nội: Sách gồm 12 chương, trong đó có những nội dung đề cập

trực tiếp đến vấn đề QLNN về GDĐH; về lý thuyết tổ chức và quản trị nhà trường hiện

đại, vốn là một trong những đích hướng đến của thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL.

1.2.2. Đối với bài nghiên cứu

* Lương Xuân Hà, năm 2007, “Đại học Pháp đối diện trước quyền tự chủ” tại

Tạp chí Tia sáng (số 22). Bài viết chứa đựng những thông tin quan trọng liên quan đến

Luật về quyền TCĐH được ban hành ở Pháp. Bài viết cho thấy một thực tế mà GDĐH

Pháp phải đối diện, đó là TCĐH đồng nghĩa với việc TĐHCL phải tự bơi, tự quyết

định số phận của mình, chấp nhận quy luật của thị trường.

* Trần Thị Bích Liễu, năm 2007, “Các cơ sở để cụ thể hóa cơ chế tự chủ, tự

18

chịu trách nhiệm của các trường đại học ở Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục (số 174), bài

viết tập trung luận giải cơ sở lý luận của tự chủ, tự chịu trách nhiệm TĐHCL, đó là dựa

trên nền tảng vận hành của kinh tế thị trường, yêu cầu xã hội và quyền lợi của con

người. Bài viết nhấn mạnh trách nhiệm của TĐHCL dựa trên quy luật của thị trường

(công khai thông tin, xây dựng năng lực và cấp kinh phí dựa trên kết quả hoạt động).

* Lâm Quang Thiệp, năm 2017, “Về mô hình quản trị và quản lý cho giáo dục

đại học Việt Nam”, đăng tại “Kỷ yếu Hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một

số điều của Luật giáo dục đại học”: Bài viết phân tích về mối quan hệ giữa HĐT và

Hiệu trưởng TĐHCL, theo đó HĐT lãnh đạo và quản trị TĐH qua Hiệu trưởng chứ

không phải trực tiếp tác động đến bộ máy của Hiệu trưởng. Bài viết còn chỉ ra khó khăn

khi áp dụng mô hình quản trị và quản lý mới ở các TĐHCL ở Việt Nam thời gian tới.

* Đặng Ứng Vận, năm 2017, “Tự chủ đại học Việt Nam: Nội dung, nguồn lực

và trách nhiệm”; Đặng Văn Định, năm 2017, “Tự chủ đại học, thực trạng và giải

pháp”; Đặng Bá Lãm, năm 2017, “Tọa đàm về thực trạng và các giải pháp hoàn thiện

chính sách, pháp luật tự chủ đại học”, tại “Hội nghị Tham vấn chuyên gia về tự chủ

đại học”: Theo các tác giả, điều quan trọng đối với TCĐH về tổ chức là Hiệu trưởng

luôn được chính nhà trường chọn. Do vậy, khi bàn về HĐT, tác giả đã chỉ rõ một số

hạn chế của thiết chế HĐT hiện nay.

* Nguyễn Quang Giai, năm 2018, “Tự chủ đại học và mô hình quản trị đại học

tự chủ” tại “Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục 2018 về giáo dục đại học - chuẩn hóa và hội

nhập quốc tế”. Bài viết nêu quan điểm nghiên cứu về TCĐH thường tập trung vào mối

quan hệ hay mức độ kiểm soát của Nhà nước đối với cơ sở GDĐH, từ đó giúp có sự

nhận diện tính ưu việt của TCĐH là đề cao sứ mạng tuyên bố, chú trọng chất lượng, phát

huy nội lực, khai thác ngoại lực, liên tục đổi mới, quản trị hiệu quả, chú trọng chất lượng.

* Trần Ngọc Giao, năm 2018, “Quản lý nhà nước về giáo dục đại học thực

trạng trong sự so sánh và một số đề xuất”, đăng tại “Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục 2018:

Giáo dục đại học - Chuẩn hóa và Hội nhập quốc tế”. Bài viết phân tích bản chất của

QLNN về GDĐT là sự đảm bảo những cam kết của Nhà nước đối với sự phát triển của

GDĐT, đưa ra so sánh về thực hiện cam kết này trong mối tương quan với một số quốc

gia ở khu vực châu Á, từ đó nhận xét sự tương đồng giữa Việt Nam và những quốc gia

này trong tiếp cận thực hiện tự chủ về tổ chức trên thể chế và sự bất cập trong thực hiện

19

thể chế này hiện nay.

* Phạm Thị Thu Hồng, năm 2019, “Kinh nghiệm quốc tế về cơ chế tự chủ của

các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực giáo dục và hàm ý cho Việt Nam”, đăng

tại “Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Cơ chế tự chủ đại học đối với các trường đại học công

lập, vấn đề đặt ra và vai trò của Kiểm toán nhà nước”. Bài viết cung cấp thông tin về

sự hình thành TCĐH ở một số nước, như Hàn Quốc, Indonexia, Thái Lan, trên cơ sở

đó, đưa ra ý kiến có tính tham khảo cho Việt Nam, như chính phủ khuyến khích các

đơn vị cung cấp dịch vụ công phải sáng tạo, tập trung vào việc cung cấp dịch vụ theo

cách mới. Đây là gợi ý tốt cho luận án khi bàn về giải pháp nâng cao năng lực của

TĐHCL trong thực hiện tự chủ về tổ chức.

1.2.3. Đối với luận án

* Phan Huy Hùng, năm 2011, “Quản lý nhà nước theo hướng đảm bảo quyền

tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học ở Việt Nam”, chuyên ngành Quản

lý Hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội: Trong luận án, TCĐH nói

chung và tự chủ về tổ chức nói riêng được giải quyết theo hướng gắn chặt với mối quan

hệ đa chiều giữa sứ mệnh, tầm nhìn, vai trò của TĐH và QLNN về GDĐH, trong đó

TĐH mang lại lợi ích công, góp phần quan trọng vào sự phát triển quốc gia, còn Nhà

nước có trách nhiệm tạo môi trường đảm bảo phát huy tốt nhất vai trò của TĐH. Thách

thức của TCĐH hay rào cản của cơ chế ra quyết định này có liên quan đến mối quan hệ

phân quyền giữa Nhà nước và TĐH. Nhận thức từ phía Nhà nước khi thực hiện thẩm

quyền quản lý GDĐH rất dễ dẫn đến khả năng bị tuyệt đối hóa, theo cả hai hướng:

Hoặc đề cao, hoặc gây e ngại từ phía chủ thể trao quyền. “Rào cản chính trị” của mối

quan hệ giao và phân quyền giữa Nhà nước và TĐH có liên quan đến sự tự vệ quốc gia,

với sự luận giải cho những băn khoăn rằng, khi giao quyền cho TĐH, liệu Nhà nước có

thoái thác trách nhiệm của mình? Đây là điểm sáng về lý luận của luận án. Từ đó, luận

án định nghĩa về TCĐH là khả năng hành động chủ động mang tính pháp lý về các mặt

học thuật, tài chính, tổ chức và nhân viên của tổ chức TĐH, là điều kiện cần để giúp

các TĐH thực hiện tốt sứ mệnh của mình, nó có tính tương đối và chịu ảnh hưởng bởi

chiến lược điều kiện hệ thống GDĐH của Nhà nước. Khái niệm tự chịu trách nhiệm

theo luận án là trách nhiệm báo cáo hay giải thích kết quả hoạt động một cách ngay

20

thẳng và trung thực cho các bên liên quan trong việc cung cấp dịch vụ GDĐH và sử

dụng nguồn lực. Vấn đề điều kiện và sự cân bằng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo tác

giả là sự đánh đổi, trả giá, tự do trong khuôn khổ, quyền bình đẳng trong cơ chế vận

hành quyền của ba bên trong quan hệ cung cầu về dịch vụ đào tạo.

Luận án tập trung nghiên cứu lý luận về QLNN đảm bảo tự chủ, tự chịu trách

nhiệm của TĐH, làm rõ khái niệm QLNN từ góc độ lý luận chung, khoa học quản lý

công và quản trị học, trên cơ sở ba trụ cột là chủ thể, khách thể và mục tiêu QLNN về

GDĐH. Luận án nêu được vai trò là “bà đỡ” của QLNN đối với TCĐH thông qua việc

tạo dựng môi trường đảm bảo cho sự hiện thực hóa TCĐH, giảm thiểu sự can thiệp sâu

vào chức năng vốn thuộc về TĐH, để TĐH tăng cường năng lực cạnh tranh và vượt

qua những thách thức ban đầu của quá trình TCĐH. Luận án chưa đi sâu phân tích mặt

thuận lợi và hạn chế của vai trò này, mặc dù đã phân tích khá cơ bản nội dung, phương

thức QLNN về GDĐH đảm bảo quyền TCĐH, nhất là thông qua 4 mô hình quản lý vĩ

mô. Luận án đã giới thiệu kinh nghiệm QLNN về GDĐH đảm bảo quyền tự chủ ở

Pháp, Trung Quốc, Singapore, Hoa Kỳ. Luận án dành một phần đáng kể số trang

nghiên cứu để bàn về QLNN trong GDĐH đảm bảo quyền TCĐH, thông qua ba nhóm

nội dung là cơ cấu tổ chức và thẩm quyền QLNN về GDĐH; cơ chế tự quản và sự quản

lý của nhà nước; thực trạng đảm bảo của Nhà nước đối với TĐH.

Luận án nêu và làm sáng tỏ những đề xuất về giải pháp đổi mới QLNN đảm

bảo TCĐH. Luận án đề cập đến mô hình QLNN đảm bảo quyền TCĐH theo hướng tái

cơ cấu tổ chức và thẩm quyền QLNN về GDĐH với ba lớp: (1) Lớp QLNN về GDĐH

thông qua quyền hành pháp thuần túy, đó là quản lý và điều hòa; (2) lớp quản lý trung

gian thực hiện chính sách với các tổ chức đệm độc lập; (3) lớp quản lý do TĐH thực

hiện thực hiện chức năng bán tự chủ, bán độc lập, giảm thiểu sự chỉ đạo cùng lúc từ nhiều

ngành đối với cùng nội dung công việc của TĐH, phi tập trung một số nội dung quản lý,

có sự tách biệt giữa quản lý vĩ mô và quản lý với tư cách chủ sở hữu TĐH của Nhà

nước. Phân định chức năng QLNN với chức năng cung cấp dịch vụ GDĐH. Luận án

nêu được tên gọi của các đầu mục thuộc nội dung xây dựng chính sách can thiệp phù

hợp với hoàn thiện thể chế TCĐH mà chưa đi sâu giải quyết thấu đáo từng vấn đề.

Tựu chung, QLNN hoàn toàn có thể được thực thi theo cách bảo vệ và thúc

21

đẩy TCĐH với điều kiện có sự hiện hữu của môi trường phù hợp. TCĐH thời điểm

những năm 2007 tại Việt Nam đang tồn tại với tư cách vấn đề hơn là giải pháp để nâng

vai trò cũng như hiệu quả hoạt động của TĐH. Việc tăng TCĐH phải song hành với

phi tập trung những công việc thuộc phạm vi quản trị của TĐH và đảm bảo TCĐH phải

trên cơ sở thực hiện đồng bộ các giải pháp (giải quyết tốt mối quan hệ giữa QLNN,

quản trị đại học tự chủ và trách nhiệm xã hội của cả Nhà nước và TĐH), tái cơ cấu tổ

chức và thẩm quyền quản lý nhà nước về GDĐH, xây dựng cơ chế đệm.

* Lương Văn Hải, năm 2012, “Vai trò Nhà nước trong mở rộng quyền tự chủ

của các trường đại học công lập Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học

Kinh tế Quốc dân, Hà Nội: Đề cập đến quyền TCĐH, luận án dựa trên cơ sở gắn với

vấn đề phân cấp. Luận án chỉ ra căn cứ quan trọng đầu tiên để Nhà nước trao quyền

cho một chủ thể pháp luật nào đó là tính tự chịu trách nhiệm. Luận án cho rằng, TCĐH

là phương thức thực hiện việc ủy quyền quản lý trong mối quan hệ giữa Nhà nước và

TĐH. Luận án nghiên cứu các nguyên tắc giao quyền TCĐH. Luận án luận giải quan

điểm, luận cứ của việc Nhà nước mở rộng quyền TCĐH từ chính sứ mệnh của TĐH

trong việc huy động trí tuệ và tâm huyết của cả xã hội. Mở rộng quyền TCĐH vừa là

yêu cầu tự thân của TĐH, vừa là yêu cầu tự thân của Nhà nước trong việc san sẻ gánh

nặng của quản lý vi mô để tập trung vào chức năng, nhiệm vụ quản lý vĩ mô đối với

GDĐH. Nhưng cách hiểu này cần cân nhắc, bởi thực chất thì tự chủ hay không tự chủ

sẽ không thể chỉ nhìn từ yếu tố chi phối hoạt động mà còn phải từ quyền tự quyết, tự do

hành động của TĐH. Luận án đã nêu ra bốn phương thức (hoặc bốn mô hình) QLNN

trong điều kiện mở rộng quyền TCĐH (mô hình Nhà nước kiểm soát; mô hình Nhà

nước giám sát; mô hình tự chủ đại học tuyệt đối; mô hình hỗn hợp). Luận án chỉ ra căn

cứ lựa chọn mức độ tiêu thức về quyền TCĐH (tính chịu trách nhiệm - tính hiệu quả -

tính hiệu lực). Cơ sở để đo lường chính là hệ thống mục tiêu trong và mục tiêu ngoài

của quản lý GDĐH từ góc nhìn của Nhà nước, TĐH và xã hội.

Luận án tiếp cận chức năng QLNN đối với TĐH tại Việt Nam trên cơ sở bốn

chức năng (định hướng, tổ chức, tạo môi trường, kiểm tra/ kiểm soát/ điều chỉnh). Đây

chính là gợi mở tốt của luận án để NCS tiếp tục làm sâu sắc thêm trong luận án của

mình. Luận án cũng đề cập đến vấn đề kinh nghiệm quốc tế trong việc Nhà nước mở

22

rộng quyền TCĐH. Từ đây, luận án đi sâu phân tích để chỉ ra bản chất của của hệ

thống GDĐH của Hoa Kỳ, đó là tính đa dạng của hệ thống GDĐH, phong phú về chức

năng để có giá trị giúp phục vụ cho nhu cầu phát triển đa dạng của xã hội. Sự phát triển

đa dạng và nhanh chóng đó được điều khiển bởi không phải sự chỉ đạo thống nhất của

quốc gia mà bởi sự lựa chọn từ cơ chế cạnh tranh của thị trường. Đây là điểm cần

nghiên cứu tới đây của NCS khi đặt vấn đề có thể ứng dụng vào Việt Nam hay không.

Luận án chỉ ra cơ sở giữ ổn định cho sự phát triển, được thiết kế bởi các lực

liên kết bên trong chứ không phải bằng những tác động áp đặt trực tiếp từ bên ngoài.

Vậy vấn đề cần nghiên cứu tiếp tục đó là việc thiết kế, tạo sức mạnh cho lực liên kết

bên trong như thế nào? Nói cách khác, vấn đề về thiết kế hệ thống tổ chức và một hệ

thống quản lý TĐH phù hợp, tương thích và đủ hiệu lực, hiệu quả để TĐH thành công

và đáp ứng yêu cầu xã hội khi cung cấp dịch vụ đào tạo cho xã hội, song hành với chức

năng xã hội khác của một tổ chức công lập đặc thù của Nhà nước.

Luận án cũng đã cung cấp thông tin quan trọng và hữu ích đối với mô hình

quản lý GDĐH của Nhật Bản. Trước đây, mô hình này là sự trái ngược lại với mô hình

của Hoa Kỳ, bởi nó nặng về tính tập trung và thống nhất quốc gia. Các hoạt động GDĐT

phụ thuộc phần nhiều vào ngân sách nhà nước. Nhân sự và tổ chức của trường đều nằm

dưới sự quản lý của Nhà nước. Cho đến thời điểm năm 2004, tất cả các TĐH quốc gia

của Nhật Bản đều chuyển đổi thành công ty đại học quốc gia, các quy định về ngân

sách, nhân sự được bãi bỏ. Thay đổi về tổ chức đáng lưu ý nhất là trường có Hội đồng

quản trị và Chủ tịch Hội đồng quản trị chính là người có quyền lực cao nhất. Thành quả

gặt hái được từ tiến trình đổi mới của đại học Nhật Bản rất đáng suy ngẫm từ phương

diện kinh nghiệm quốc tế đối với Việt Nam, đó là có những TĐH ở Nhật Bản đã được

xếp hạng vào top vị trí 100 TĐH uy tín nhất thế giới. Luận án còn luận giải về kinh

nghiệm của các TĐH ở châu Âu. Luận án cung cấp thông tin về việc phần lớn các TĐH

ở châu Âu được quyền quyết định cơ cấu quản trị mà ít có sự can thiệp của pháp luật,

sử dụng cơ cấu quản trị kép, bao gồm Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành phố và

Ban giám hiệu. Nhà trường được tự lựa chọn hay miễn nhiệm vị trí Hiệu trưởng.

Luận án đã có khá nhiều thông tin, phân tích và lập luận sâu sắc về nền tảng lý

luận, kinh nghiệm quốc tế về vai trò của Nhà nước trong việc mở rộng quyền TCĐH.

23

Quan điểm quyền tự chủ của TĐH là phương thức thực hiện việc ủy quyền quản lý

trong mối quan hệ giữa TĐH và Nhà nước mà luận án đưa ra cần được nghiên cứu tiếp

tục về tính khoa học và sự phù hợp với bản chất của TCĐH. Về lý luận, xây dựng các

lực liên kết bên trong và xử lý những tác động áp đặt trực tiếp từ bên ngoài như thế nào

để không làm biến dạng quyền TCĐH, đồng thời phát triển bền vững và vận hành hiệu

quả quyền TCĐH. Lực liên kết bên trong có đồng nghĩa với thể chế, thiết chế và hệ

thống quản trị tổ chức bộ máy, nhân sự TĐH hay không, có vận hành theo nguyên lý tự

chủ và trách nhiệm xã hội của TĐH hay không?

1.2.4. Đối với bài đăng trên Website

* Đoàn Mạnh Cương, “Đổi mới quản lý Giáo dục Việt Nam trong nền kinh tế

thị trường”, http://daotaovhttdl.vn/articledetail.aspx?sitepageid=627&articleid =453,

đăng ngày 18/01/2017. Bài viết đưa ra những cách nhìn nhận tổng thể đối với quan

điểm về giáo dục Việt Nam trong bối cảnh đất nước và thế giới hiện nay để từ đó có

cách tiếp cận phù hợp đối với hoạt động QLNN về giáo dục, yếu tố cốt yếu mà luận án

cần xem xét tới khi phân tích vấn đề lý luận cũng như thực tiễn của mối quan hệ giữa

Nhà nước và TĐHCL. Bài viết cung cấp những kiến thức cơ bản để vận dụng vào luận

án khi đánh giá các yếu tố tác động tới cơ chế TCĐH ở Việt Nam.

* Trần Quốc Toản, “Một số vấn đề về cơ chế tự chủ của các trường đại học”,

http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/mot-so-van-de-ve-co-che-tu-chu-cua-cac-truong-

dai-hoc, ngày phát hành 13/12/2018. Bài viết tập trung phân tích nội hàm quyền tự chủ

về tổ chức của TĐHCL từ đa diện góc tiếp cận và gắn với thực tiễn lịch sử phát triển

TCĐH ở Việt Nam. Tác giả bài viết thẳng thắn chỉ rõ những hạn chế trong tư duy tiếp

cận về cơ chế này ở Việt Nam như hoặc quá coi trọng quyền tự chủ của TĐHCL, hoặc

vẫn muốn quản chặt các TĐHCL từ phía cơ quan QLNN về GDĐH. Bài viết đi sâu

phân tích bản chất và nội dung của TCĐH từ góc nhìn của quyền hạn và trách nhiệm

nhà nước đối với GDĐH trong mối tương quan với bản chất và nội dung của quyền

quản trị, quản lý TĐHCL. Bài viết còn phân tích cụ thể TNGT của TĐHCL trong quá

trình hiện thực hóa quyền TCĐH. Từ đó, bài viết đã đưa ra những bình luận sâu sắc về

vai trò của Nhà nước và TĐHCL trong cơ chế TCĐH.

* Tạp chí Tổ chức nhà nước, “Trao quyền tự chủ đại học của Nhật Bản và kinh

24

nghiệm đối với Việt Nam”, https://tcnn.vn/news/detail/45861/Trao-quyen-tu-chu-dai-

hoc-cua-Nhat-Ban-va-kinh-nghiem-doi-voi-Viet-Nam.html, ngày đăng: 02/12/2019. Bài

viết trao đổi những thông tin hữu ích về mô hình quản trị đại học tự chủ ở Nhật Bản,

với xuất phát điểm từ thực trạng của nền giáo dục để có những thay đổi về chính sách

và thể chế điều chỉnh GDĐH theo hướng áp dụng mô hình tập đoàn trong quản trị đại

học ở Nhật Bản. Bài viết cung cấp các thông tin cập nhật về mô hình quản trị hiện nay

của các TĐH ở Nhật Bản, với điểm nhấn đáng lưu ý là việc tăng quyền quyết định cho

Chủ tịch trường và giảm các quyết định mang tính chất tập thể đã thể hiện rõ tầm quan

trọng của chế độ lãnh đạo cá nhân, đảm bảo mọi vấn đề được quyết định nhanh và Chủ

tịch là người đứng đầu chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Thực tế này

dường như có sự khác biệt với cách tiếp cận về Chủ tịch HĐT và HĐT ở Việt Nam

hiện nay. Một kinh nghiệm khác từ Nhật Bản là Hội đồng quản lý là hội đồng có cả các

chuyên gia bên ngoài trường tham gia vào điều hành quản lý ở nhiều nội dung khác

nhau, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi trường.

1.3. Tình hình nghiên cứu ở trong nƣớc liên quan đến thực tiễn thực hiện

tự chủ về tổ chức của trƣờng đại học công lập ở Việt Nam

1.3.1. Đối với bài nghiên cứu

* Trần Đức Viễn, năm 2018, “Hội đồng trường trong tiến trình tự chủ đại

học”, đăng tại Kỷ yếu Hội thảo giáo dục năm 2018: “Giáo dục đại học - Chuẩn hóa và

hội nhập quốc tế”, Ủy ban Văn hóa, giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng và

Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết tập trung phân tích về thiết chế

HĐT trong tiến trình TCĐH ở Việt Nam trước khi Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật GDĐH (Luật số 34). Bài viết chỉ ra khá nhiều những quan

ngại, hạn chế, bất cập về HĐT, đánh giá nguyên nhân khách quan, chủ quan của các

hạn chế, bất cập đó. Bài viết cũng nêu ra một số khuyến nghị chính sách rất thiết thực

để có sự nhận diện lại về TCĐH và vai trò của HĐT trong điều kiện Luật số 34 sẽ được

hiện thực hóa trong hệ thống cơ sở GDĐH công lập.

* Trần Đình Khôi Nguyên, năm 2019, “Thực trạng thí điểm tự chủ đại học trong

định hướng triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học”,

đăng tại “Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Cơ chế tự chủ đại học đối với các trường đại học

25

công lập, vấn đề đặt ra và vai trò của Kiểm toán nhà nước”. Bài viết tập trung đánh

giá thực trạng thực hiện tự chủ đại học của nhóm trường thực hiện thí điểm tự chủ theo

Nghị quyết số 77NQ-CP/2014; cung cấp thông tin về thực hiện tự chủ của 23 trường

với các mặt tự chủ trong đó có tự chủ về tổ chức. Bài viết nêu những vấn đề đặt ra

trong bối cảnh đã sửa đổi Luật GDĐH năm 2012, trong đó có đề xuất đáng chú ý là

kiểm soát vai trò của HĐT đối với thực hiện quyền TCĐH.

* Hồ Thanh Phong, năm 2019, “Tổng quan về tự chủ và quản trị đại học ở Việt

Nam”; Nguyễn Mậu Hùng, năm 2019, “Mô hình quản trị và phương thức tự chủ của

hệ thống giáo dục đại học thế giới và khả năng ứng dụng đối với hệ thống giáo dục đại

học Việt Nam trong thời gian tới”, đăng tại “Kỷ yếu Hội thảo quốc gia về thúc đẩy

quản trị và tự chủ đại học hướng đến thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

Luật Giáo dục đại học 2018”. Theo nhận định của tác giả Hồ Thanh Phong, mô hình

quản trị đại học ở Việt Nam sau năm 2013 đã có đổi mới căn bản theo hướng đổi mới

từ hệ thống GDĐH cho đến thành phần, cấu trúc, cơ chế quản lý lãnh đạo, các hoạt động

GDĐH, phù hợp với mô hình quản trị đại học hiện đại, chuyên nghiệp, có sự phối hợp

nhiều loại quyền lực, đa dạng hình thức sở hữu và đầu tư, có sự phân cấp, phân quyền

trong cơ quan QLNN đồng thời trao quyền tự chủ cho các TĐHCL đang phải cạnh tranh

về nguồn lực đầu vào và chất lượng đầu ra. Còn tác giả Nguyễn Mậu Hùng cho rằng,

“tự chủ đại học là một phương thức tổ chức hoạt động chứ không phải là chìa khóa vạn

năng cho mọi vấn đề của tất cả các nền giáo dục đại học trên thế giới” [20, tr. 127].

* Phạm Tất Thắng, năm 2019, “Hoàn thiện pháp luật và đổi mới cơ chế tài

chính nhằm đẩy mạnh quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam”, tại

“Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Cơ chế tự chủ đối với các trường đại học công lập - Vấn

đề đặt ra và vai trò của kiểm toán nhà nước”. Bài viết trao đổi thông tin Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều của Luật GDĐH 2018, đó là đã sửa đổi căn bản nội dung về

TCĐH theo hướng, tạo hành lang pháp lý để đẩy mạnh TCĐH. Sự thay đổi căn bản

của Luật số 34 nằm ở quy định về tăng cường phân cấp quản lý cho TĐHCL và tăng

thực quyền cho HĐT.

* Nguyễn Hữu Đức, năm 2020, “Tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình của

chủ sở hữu cơ sở giáo dục đại học”, đăng tại “Kỷ yếu Hội thảo giáo dục Việt Nam

26

2020: Tự chủ trong giáo dục đại học - Từ chính sách đến thực tiễn”, Ủy ban văn hóa

giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng: Bài viết có sự phân tích sâu sắc về nhiều

góc độ của thực hiện TNGT, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến hệ thống giám sát và

TNGT của HĐT. Tác giả phân tích thực trạng thiếu bộ công cụ giám sát các hoạt động

GDĐH. Tác giả cung cấp thông tin liên quan đến quan điểm tiếp cận theo bộ tiêu chí

UPM, đó là giá trị đạo đức, tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, trao đổi sinh viên

và chuyển đổi số. Tác giả bài viết chia sẻ quan điểm về việc Chính phủ, các bộ, ngành,

địa phương cần thực hiện tốt trách nhiệm đại diện chủ sở hữu nhà nước trong hoạt động

đầu tư cũng như điều hành vĩ mô để đảm bảo sự phát triển thống nhất của hệ thống

GDĐH quốc gia song song với thực hiện tốt chức năng và vai trò của HĐT để mang lại

giá trị thực sự cho thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL.

* Nguyễn Văn Hưng, năm 2020, “Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về

tự chủ tại các trường đại học công lập đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học”, đăng

tại “Kỷ yếu Hội thảo giáo dục Việt Nam 2020: Tự chủ trong giáo dục đại học - Từ

chính sách đến thực tiễn”, Ủy ban văn hóa giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng.

Bài viết nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp có tính thực tiễn và khả thi nhằm hiện thực

hóa TCĐH và tự chủ về tổ chức ở Việt Nam, thời kỳ hậu sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH.

* Nguyễn Văn Phúc, năm 2020, “Sự tự chủ bền vững của trường đại học nhìn

từ lý thuyết tổ chức”, đăng tại “Kỷ yếu Hội thảo giáo dục Việt Nam 2020: Tự chủ trong

giáo dục đại học - Từ chính sách đến thực tiễn”, Ủy ban văn hóa giáo dục Thanh niên,

Thiếu niên và Nhi đồng: Bài viết thể hiện quan điểm khoa học xác đáng, đó là TCĐH

vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của TĐH. Quan điểm này có giá trị cơ bản đối với sự

nhận diện về TCĐH và thực hiện tự chủ về tổ chức của một TĐHCL. Có như vậy, cả

cơ quan QLNN về GDĐH cũng như các TĐHCL mới có sự hiểu đúng và thực hiện

đúng về hai mặt của TCĐH. Bài viết đi sâu phân tích một số nội dung lý luận về việc

thực hiện sự tự chủ của các TĐH từ góc nhìn về tổ chức. Tác giả đã chỉ ra một số

những vướng mắc trong cơ chế thực hiện sự tự chủ của các TĐH ở Việt Nam hiện nay

do chưa có sự rõ ràng về vai trò, chức năng chủ sở hữu của Nhà nước và vai trò quản

trị, điều hành hoạt động GDĐT của TĐHCL. Theo tác giả bài viết, đây chính là một

trong số nguyên nhân vì sao có việc duy trì quá lâu sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt

27

động quản trị, quản lý về tổ chức của TĐHCL.

* Trần Đức Viễn, năm 2020, “Mối quan hệ giữa cơ quan chủ quản và trường

đại học”, đăng tại “Kỷ yếu Hội thảo giáo dục Việt Nam 2020: Tự chủ trong giáo dục

đại học - Từ chính sách đến thực tiễn”, Ủy ban văn hóa giáo dục Thanh niên, Thiếu

niên và Nhi đồng: Bài viết tập trung nhận diện thực trạng mối quan hệ giữa cơ quan

QLNN về GDĐH và các TĐHCL từ góc độ lịch sử, quan niệm xã hội, từ sự chưa rõ

ràng của cơ chế định hướng thị trường trong GDĐH tại Việt Nam… Bài viết đưa ra

một số kiến nghị, trong đó đáng chú ý là kiến nghị về nâng cao năng lực hoạt động

của HĐT; làm rõ mối quan hệ giữa HĐT và cơ quan quản lý có thẩm quyền; vấn đề

cùng vào cuộc và đồng hành của các cơ quan QLNN đối với các nhà trường trong

công cuộc TCĐH.

1.3.2. Đối với luận án

* Nguyễn Thị Thu Hà, năm 2012, “Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về

giáo dục đại học”, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội: Trong luận án,

quan niệm QLNN về GDĐH là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực

nhà nước đối với các hoạt động GDĐH, do các cơ quan QLNN tiến hành để thực hiện

chức năng, nhiệm vụ do Nhà nước ủy quyền, nhằm phát triển sự nghiệp GDĐH, duy trì

trật tự, kỷ cương, thực hiện mục tiêu đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH ở Việt Nam.

Việc phân cấp QLNN, quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở GDĐH là quá

trình thiết kế lại hệ thống và các quy định về trách nhiệm, quyền hạn và tính tự chịu

trách nhiệm trong hệ thống giáo dục. Quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở

GDĐH được pháp luật bảo đảm.

Kinh nghiệm quốc tế về quản lý GDĐH, như của Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật

Bản, Nga được luận án tập trung khai thác để chứng mình cho xu hướng phân cấp,

phân quyền trong quản lý GDĐH, trên cơ sở sử dụng pháp luật là thước đo chuẩn mực

để điều chỉnh hoạt động GDĐH, khuyến khích xã hội hóa GDĐH nhưng nhà nước vẫn

giữ vai trò điều chỉnh.

Liên quan đến vấn đề hiệu lực QLNN đối với GDĐH ở nước ta hiện nay, luận

án đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu lực QLNN về GDĐH, nhất là triết lý đổi

mới. Trên cơ sở triết lý giáo dục hiện đại, cần đổi mới tư duy QLNN về GDĐH cho

28

phù hợp với nhu cầu đổi mới và hội nhập, chỉ rõ những yếu tố tiêu cực để loại bỏ dần,

thay vào đó là những yếu tố tích cực, phù hợp với điều kiện thực tế của GDĐH nước ta

và xu thế chung của thế giới.

Luận án nhìn nhận vấn đề TCĐH từ góc độ phân cấp giữa các chủ thể liên

quan trong hoạt động QLNN về GDĐH, chú trọng vào đề xuất về phân cấp QLNN về

GDĐH theo đối tượng và theo chức năng, nhiệm vụ. Luận án đúc rút kết luận quan

trọng trong nâng cao hiệu lực QLNN về GDĐH phải đạt được các mục tiêu hoàn thiện

môi trường pháp lý, đổi mới cơ quan quản lý ở cấp Bộ, đổi mới hệ thống GDĐH và

quan trọng hơn là phải bảo đảm quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội thực chất của các

TĐH, cao đẳng trong mọi lĩnh vực hoạt động

* Nguyễn Trọng Tuấn, năm 2019, “Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại

học công lập ở nước ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ Luật học: Luận án làm rõ cơ sở lý

luận về TCĐH cùng các khái niệm liên quan, như quyền TCĐH, điều kiện, vai trò của

quyền TCĐH; làm rõ thực trạng việc thực hiện quyền TCĐH của các cơ sở GDĐH

công lập ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, luận án cũng đề xuất các kiến nghị, giải

pháp, khuyến nghị về việc hoàn thiện pháp luật và các công cụ quản lý khác để tăng

cường quyền tự chủ cho các cơ sở GDĐH công lập.

1.4. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến thực hiện tự

chủ về tổ chức của trƣờng đại học công lập ở Việt Nam

1.4.1. Liên quan đến những vấn đề lý luận trong thực hiện tự chủ về tổ chức

của trường đại học công lập ở Việt Nam

Các công trình đã cơ bản hình dung được khái niệm, đặc điểm, cơ sở, nội dung

của TCĐH từ các góc độ khác nhau, trong đó có góc độ tự chủ về tổ chức của TĐHCL.

Các phân tích, lập luận trong các công trình đã công bố mà NCS tiếp cận được cho

thấy, xu hướng TCĐH hiện nay là xu thế tất yếu trong phát triển GDĐH hiện đại.

Đối với thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL, phần lớn công trình này đều

có sự thống nhất về nhận thức lý luận rằng, cơ sở để thực hiện quyền tự chủ về tổ chức

của TĐHCL là dựa trên và chịu sự chi phối sâu sắc của mối quan hệ giữa thẩm quyền

QLNN về GDĐH với quyền tự chủ trong quản trị, quản lý và vận hành hệ thống tổ

chức của TĐHCL. Các công trình đã công bố đều nêu lên vai trò, ý nghĩa, điều kiện để

29

Nhà nước ủy quyền, san sẻ một phần thẩm quyền QLNN về GDĐH cho TĐHCL thông

qua phương thức, nội dung, cách thức vận hành thẩm quyền quản lý tự chủ của

TĐHCL. Lý thuyết ủy quyền được nhận diện là nền tảng lý luận cơ bản đối với quyền

tự chủ và thực hiện quyền về tổ chức của TĐHCL. Nhiều cách tiếp cận, nhiều mô hình,

kinh nghiệm quốc tế và trong nước về vấn đề này đã được đề cập ở mức độ khác nhau.

Từ đây, việc khẳng định TCĐH và tự chủ về tổ chức là quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm

xã hội của TĐHCL đã được xem xét, luận giải khá rõ nét và đa dạng về nhận thức luận.

Các công trình đã nghiên cứu, phân tích, luận giải một cách cơ bản, bước đầu về sứ

mệnh, cơ cấu, bản chất và cơ chế vận hành của thiết chế HĐT trong mối quan hệ với cơ

quan QLNN về GDĐH và Hiệu trưởng TĐH, đồng thời phản ánh vướng mắc và thực

trạng thiếu hiệu quả của thiết chế HĐT.

1.4.2. Liên quan đến những vấn đề thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức của

trường đại học công lập ở Việt Nam

Các nghiên cứu khẳng định thành tựu thể chế đối với thực hiện TCĐH nói

chung và thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL nói riêng là kết quả của sự đổi mới

trong tư duy nhận thức và quy định cụ thể về phân cấp, phân quyền từ bộ/ngành chủ

quản đã thúc đẩy TĐHCL bước đầu sắp xếp, rà soát, cơ cấu lại tổ chức nhà trường. Các

công trình đã công bố phân tích đa góc độ hiện trạng chung, riêng của thể chế thực hiện

TCĐH và tự chủ về tổ chức của các cơ sở GDĐH công lập nói chung, trong đó có các

TĐHCL, chỉ ra hạn chế lớn nhất của môi trường thể chế điều chỉnh việc thực hiện tự chủ

về tổ chức của các TĐHCL ở Việt Nam thời gian qua. Đã có sự thống nhất chung trong

kết quả nghiên cứu về thể chế TCĐH ở Việt Nam là nhận diện những vấn đề cần rà

soát, sửa đổi, bổ sung và tiếp tục phải được hoàn thiện đối với thể chế này ở Việt Nam

thời gian tới, trong đó nổi lên khá nhiều những vấn đề mang tính thời sự cấp bách đối

với thực hiện TCĐH ở Việt Nam giai đoạn tới đây, như mô hình và phương thức hoạt

động của HĐT được thiết lập và điều chỉnh như thế nào trong thể chế nội bộ của các

TĐHCL; thống nhất trong triển khai thực hiện các quy định liên quan đến tự chủ về tổ

chức trong các TĐHCL theo quy định của Luật số 34; tái thiết, quản lý, duy trì, phát

triển mô hình QLNN về GDĐH trong điều kiện các TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức;

vấn đề rà soát, thống nhất các quy định của luật chuyên ngành và luật liên quan trong

30

điều chỉnh việc thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam thời gian tới...

Các công trình đã chỉ ra nguyên nhân, cách thức mà Chính phủ nhiều quốc gia

đã sử dụng trong mối quan hệ với TĐHCL. Các nghiên cứu cũng khẳng định, đối với

thực hiện TCĐH ở Việt Nam hiện nay, không có mô hình mẫu để các TĐHCL có thể

áp dụng rập khuôn, do đó, muốn đổi mới toàn diện GDĐH trong tình hình mới thì

TĐHCL chỉ có thể làm tốt sứ mệnh của mình khi phát triển trong môi trường thể chế,

văn hóa và quản lý công phù hợp với điều kiện tự chủ và thực thi TNGT của từng

trường. Cần có sự “đổi vai” thực sự, hiệu quả trong quản trị, quản lý, điều hành tổ chức

và hoạt động của TĐHCL, theo đó, Nhà nước phải linh hoạt không chỉ trong vai trò

quản lý GDĐH tầm vĩ mô mà còn ở tư cách “Nhà đầu tư” thông thái và có trách nhiệm

xã hội đối với những công việc mà TĐHCL đang thay Nhà nước thực hiện để đáp ứng

nhu cầu học tập của toàn xã hội. Muốn vậy, TĐHCL phải là chủ thể chính trong quản

lý, điều hành tổ chức và hoạt động GDĐH, chịu trách nhiệm trước các chủ thể liên

quan đến hoạt động này.

1.4.3. Những vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu trong luận án

* Đối với những vấn đề lý luận và thể chế

Hầu hết các công trình nghiên cứu đã công bố mà luận án tiếp cận được cho

thấy một thực tế, các khía cạnh lý luận về TCĐH nói chung được tập trung nghiên cứu,

luận giải khá nhiều, với những cấp độ sâu rộng khác nhau. Trái ngược với kết quả

nghiên cứu về TCĐH nói chung, lý luận trong thực hiện tự chủ về tổ chức bộ máy của

TĐHCL ở Việt Nam đến thời điểm hiện tại hầu như có rất ít công trình nghiên cứu

chuyên sâu, trực diện và tổng thể về lĩnh vực này. Chính vì vậy, trong khuôn khổ của

luận án chuyên ngành quản lý công, những vấn đề lý luận trong thực hiện tự chủ về tổ

chức của TĐHCL sẽ phải giải quyết một cách cơ bản và chuyên sâu như sau:

(1) Khái niệm, đặc điểm tự chủ về tổ chức của TĐHCL;

(2) Khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình thức, nguyên tắc, công cụ, điều kiện,

yếu tố tác động, phương thức thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam;

(3) Tiếp tục làm sâu sắc mối quan hệ giữa Nhà nước và TĐHCL trong thực

hiện TCĐH;

(4) Tiếp tục làm sâu sắc vai trò của Nhà nước đối với TĐHCL trong điều kiện

31

thực hiện quyền tự chủ về tổ chức;

(5) Tiếp tục nghiên cứu vấn đề “phân vai” giữa thực hiện chức năng QLNN về

GDĐH với tự chủ thực hiện thẩm quyền quản trị, quản lý tổ chức bộ máy của TĐHCL,

từ đó làm sâu sắc chức năng định hướng, tổ chức, tạo môi trường, kiểm tra, kiểm soát,

điều chỉnh của Nhà nước trong mối quan hệ với TĐHCL;

(6) Làm rõ vị trí, vai trò của thực hiện quyền tự chủ về tổ chức trong mối quan

hệ với các mặt tự chủ khác của TĐHCL ở Việt Nam thời gian tới.

Giải quyết cơ bản, thấu đáo những vấn đề lý luận nêu trên cũng chính là những

đóng góp mới về lý luận của luận án đối với hệ thống các vấn đề lý luận về TCĐH nói

chung, thực hiện tự chủ về tổ chức của cơ sở GDĐH công lập nói riêng tại Việt Nam.

Ngoài ra, luận án cũng đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu về thể chế điều chỉnh

việc thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam. Luận án đặt mục tiêu phải

nhận diện, đánh giá được những kết quả, hạn chế, sự bất cập, nguyên nhân của những

bất cập, hạn chế hiện hữu trong thể chế thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL ở

Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở tổng hợp các thông tin, số liệu về hiện trạng thể chế

thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL hiện nay ở Việt Nam, luận án bước đầu

đánh giá, chỉ ra những điểm còn phải tiếp được hoàn thiện đối với với cả hệ thống thể

chế chung của Nhà nước cũng như thể chế nội bộ của TĐHCL trong thực hiện tự chủ

về tổ chức của TĐHCL. Luận án phân tích, luận giải những đề xuất hợp lý đối với hoàn

thiện thể chế quản lý công về GDĐH và cân bằng giữa năng lực tự chủ tổ chức với chất

lượng và hiệu quả hoạt động GDĐH của TĐHCL.

* Đối với hệ giải pháp đảm bảo thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở

Việt Nam

Lôgic xuyên suốt nội dung các vấn đề lý luận, thể chế, môi trường, điều kiện

thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL trong luận án này là việc đề xuất giải pháp

trọng tâm, trước mắt và lâu dài để đảm bảo hiệu quả thực hiện tự chủ về tổ chức của

TĐHCL ở Việt Nam thời gian tới. Đây là những giải pháp được đề xuất và luận giải

từ cả hai góc độ: (1) Hệ thống QLNN về GDĐH; (2) tổ chức bộ máy của TĐHCL tại

Việt Nam. Các nguyên cứu về lý luận thực hiện tự chủ tổ chức của TĐHCL trong

luận án này được tiếp cận bằng tư duy, lý luận quản lý công mới và quản trị, quản lý

32

đại học hiện đại.

Kết luận chƣơng 1

Đến thời điểm hiện tại, TCĐH nói chung và tự chủ về tổ chức nói riêng tuy

không còn là chủ đề mới, nhưng luôn có tính thời sự trên cả phương diện nghiên cứu

và thực tiễn. Sau Luật GDĐH năm 2012, các công trình nghiên cứu về cơ chế TCĐH

cũng gia tăng, song số lượng công trình nghiên cứu lĩnh vực thực hiện tự chủ về tổ chức

của TĐHCL ở Việt Nam còn quá ít. Một nguyên nhân của hiện trạng này là suốt 8 năm

Luật GDĐH năm 2012 đi vào đời sống, vấn đề mà các TĐHCL phải theo đuổi và tốn

không ít công sức là thực hiện tự chủ trong hoạt động chuyên môn học thuật và tài

chính. Dường như đã có một mặc định trong tư duy hành động của cả hệ thống cơ quan

QLNN về GDĐH và các TĐHCL, đó là ưu tiên cho thực hiện tự chủ về nhiệm vụ

chuyên môn học thuật và tự chủ hoàn toàn về tài chính để đổi lấy sự nới lỏng của Nhà

nước cho quyền tự chủ về tổ chức. Trên thực tế, việc thực hiện tự chủ về tổ chức của

TĐHCL gặp không ít rào cản, vướng mắc. Do vậy, để có sự tiếp cận hợp lý và hiệu quả

các vấn đề cần giải quyết trong khuôn khổ luận án, việc rà soát, đánh giá lại tình hình

nghiên cứu tự chủ về tổ chức của TĐHCL rất cần thiết. Chính từ việc rà soát, hệ thống

hóa các công trình nghiên cứu về tổ chức của TĐHCL thời gian qua, NCS đã thấy rõ

những việc cần tiếp tục triển khai trong luận án của mình ở các phương diện lý luận,

thể chế, thực tiễn thực hiện và giải pháp tăng cường năng lực, hiệu quả thực hiện tự chủ

về tổ chức của TĐHCL tại Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo (2020 - 2030).

Trong thời gian tới, những nghiên cứu đối với thực hiện tự chủ về tổ chức của

TĐHCL tại Việt Nam có ý nghĩa và giá trị ứng dụng rất thiết thực cho hệ thống QLNN

về GDDH và mỗi TĐHCL. Bởi vì, thời gian qua, đã và đang tồn tại một quan niệm khá

phổ biến về TCĐH, đó là thực hiện tự chủ về tài chính có ý nghĩa quyết định đối với

việc Nhà nước giao quyền tự chủ về tổ chức cho các cơ sở GDĐH công lập. Đây là một

trong số những tư duy lý luận, pháp lý cần được thay đổi khi đặt nó trong mối quan hệ

với vấn đề thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL. Đó cũng là trọng tâm về lý luận

33

cần được giải quyết trong luận án này.

Chƣơng 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TRONG THỰC HIỆN TỰ CHỦ VỀ TỔ CHỨC

CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM

2.1. Tự chủ đại học ở Việt Nam

2.1.1. Khái niệm tự chủ đại học

Các TĐHCL hiện nay đã thay đổi mạnh mẽ từ mục tiêu đến mô thức hoạt

động. Phần lớn TĐHCL hiện không còn thụ động trông chờ vào sự bao cấp hoàn toàn

của Nhà nước mà đã tự mình tiến về phía thị trường, thể hiện tính chất của mô hình

cung cấp dịch vụ đặc thù trong xã hội. Xu hướng các TĐHCL từng bước cơ cấu lại hai

giá trị nội tại là hàng hóa công và lợi ích tư đã trở lên phổ biến trên thế giới cũng như ở

Việt Nam. Ý nghĩa lợi ích tư của GDĐH ngày càng rõ ràng, tất yếu, hiện hữu chính

đáng và thích hợp trong cơ chế TCĐH. Vậy TCĐH là gì? Lịch sử hàng trăm năm của

TCĐH (university autonomy) trên thế giới và gần 20 năm qua ở Việt Nam đã cho thấy

sự đa diện trong cách tiếp cận đối với TCĐH.

Xét trên phương diện QLNN về GDĐH thì trước khi tiếp cận TCĐH cần hiểu

rõ khái niệm tự chủ. Theo cách hiểu thông thường từ góc độ cá nhân thì tự chủ là tự

quản lý, điều hành công việc của mình, không bị ai chi phối. Còn ở góc độ của tổ chức

thì tự chủ là đề cập tới sự hiện hữu của một tổ chức có sự độc lập hoặc có khả năng tự

quản lý bộ máy tổ chức và hoạt động của chính tổ chức. Với cách hiểu đó, tự chủ gắn

với một tổ chức đại học (tức TCĐH) trước hết được nhận diện là yêu cầu về phía Nhà

nước. Trong tương quan so sánh với phương thức QLNN truyền thống về GDĐH thì

TCĐH là phương thức mới, đồng bộ, nhằm kiến tạo, duy trì và phát triển môi trường

GDĐH trong trạng thái vận hành linh hoạt, theo hướng mở và hội nhập, tuân theo sự

điều chỉnh của pháp luật, sự điều tiết của quy luật thị trường để cải thiện chất lượng và

hiệu quả hoạt động của TĐHCL. Việc gia tăng nhu cầu xã hội đối với mở rộng khuôn

viên đại học, chuyển đổi từ giáo dục tinh hoa sang giáo dục đại chúng, kết hợp với sự

khủng hoảng kinh tế toàn cầu những năm 70 của thế kỷ XX đã làm giảm đáng kể khả

năng hỗ trợ từ phía Nhà nước đối với hệ thống phúc lợi xã hội và cung cấp dịch vụ công

đạt tiêu chuẩn, chất lượng, hiệu quả cho người dân, trong đó có dịch vụ GDĐH [55].

34

Tình hình này đã buộc Nhà nước phải tính đến sự thay đổi căn bản cơ chế quản lý

GDĐH bằng cách chuyển từ mô hình Nhà nước điều hành trực tiếp mọi hoạt động của

TĐHCL sang mô hình Nhà nước giám sát các hoạt động GDĐH theo cơ chế TCĐH.

Trong cơ chế đó, một mặt, Nhà nước phải thực hiện những thay đổi lớn về quy mô, cơ

cấu, sắp xếp nguồn lực tài chính và trọng tâm của TĐHCL để các trường có thể có khả

năng giải quyết tốt hơn nhu cầu dịch vụ công và cạnh tranh với tư cách là tổ chức có lợi

nhuận trên thị trường GDĐH, mặt khác, Nhà nước sẽ chủ động trao quyền tự chủ cho

các TĐHCL. Đối với lợi ích chung của toàn xã hội thì mục tiêu hàng đầu khi giao

TCĐH cho TĐHCL là để mang lại cho người dân hệ thống dịch vụ công gần gũi, thân

thiện, dễ tiếp cận, đáp ứng tốt và kịp thời hơn nhu cầu được đào tạo đại học.

Xét trên phương diện của từng TĐHCL thì TCĐH là quyền chủ thể pháp luật

trong mối quan hệ với Nhà nước. TCĐH là tự quyết định/tự định đoạt/tự vận hành hệ

thống tổ chức và các công việc thuộc thẩm quyền của TĐHCL mà không có sự can

thiệp từ bên ngoài vào phương thức quản trị, quản lý của nhà trường. Cách hiểu này tương đồng với quan niệm của hai tác giả Anderson và Johnson khi cho rằng, TCĐH là

sự tự do của một cơ sở GDĐH trong việc điều hành các công việc của trường mà

không có sự chỉ đạo hoặc tác động từ bất cứ cấp chính quyền nào [55]. Quyền tự quyết

định các hoạt động GDĐH của một TĐHCL được thể hiện qua các quyền, nghĩa vụ,

trách nhiệm và cách thức thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của TĐHCL. Bên cạnh

đó, TCĐH cũng là quyền của cơ sở GDĐH công lập trong việc tự quyết định sứ mạng

và chương trình hoạt động của mình, cách thức và phương tiện thực hiện sứ mạng, tầm

nhìn đó. Đây là quyền tự thân dựa trên tư cách một tổ chức đại học. Bên cạnh quyền tự

thân này, trong khuôn khổ quan hệ với thẩm quyền QLNN về GDĐH, TĐHCL còn phải

gánh vác nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực GDĐH mà Nhà nước giao cho

đơn vị sự nghiệp công lập của Nhà nước. Vậy nên đối với TĐHCL, TCĐH là một dạng

“quyền kép” của chủ thể pháp luật, tức vừa là quyền tự thân của một tổ chức đại học,

vừa là quyền dựa trên cơ sở sự phân cấp, ủy quyền của Nhà nước, phù hợp với địa vị

pháp lý của đơn vị sự nghiệp công lập khi cung cấp dịch vụ công về GDĐH cho xã hội.

Tổng hợp cả hai góc độ tiếp cận này, luận án tiếp cận về TCĐH là quyền tự xác

định và thực hiện mục tiêu, sứ mạng, tầm nhìn, nhằm đem lại hiệu quả, chất lượng cho

tổ chức và hoạt động của TĐHCL, góp phần hài hòa hóa lợi ích của sự phát triển nhà

35

trường với lợi ích phát triển nền GDĐH Việt Nam và lợi ích của toàn xã hội. Với khái

niệm này, TCĐH hàm chứa những quyền tự chủ rất cơ bản từ lăng kính tổ chức bộ máy

của một TĐHCL, đó là: (1) Quyền được tự xác định cơ cấu tổ chức nhà trường; (2) quyền

được tự điều hành hoạt động của tổ chức nhà trường để thực hiện tự chủ về thực hiện

nhiệm vụ chuyên môn học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản mà không bị kiểm

soát từ bên ngoài; (3) quyền được quyết định các phương tiện, cách thức để đạt được

mục tiêu, sứ mạng, tầm nhìn đã xác định; (4) TNGT về các quyết định và kết quả thực

hiện các quyết định của nhà trường trước Nhà nước, các chủ thể có liên quan và xã hội.

2.1.2. Đặc điểm của tự chủ đại học

* Tự chủ đại học làm thay đổi cách tiếp cận, nội dung, phương thức tổ chức,

quản trị đại học và QLNN về GDĐH

Từ mọi phương diện (Nhà nước - Nhà trường - Xã hội) thì TCĐH vốn dĩ gắn

liền và chịu sự chi phối trực tiếp bởi thị trường dịch vụ công và bối cảnh trong nước

cũng như quốc tế. Ở trong nước, công cuộc đổi mới toàn diện GDĐH Việt Nam trong

điều kiện xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và

xã hội hóa GDĐH tác động trực tiếp đến cơ chế QLNN về GDĐH. Trong hai thập niên

cuối của thế kỷ XX và hai thập niên đầu thế kỷ XXI, nhu cầu mở rộng GDĐH diễn ra ở

hầu hết mọi quốc gia và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Nhu cầu này xuất phát từ vai

trò của GDĐH ngày càng “cần thiết cho các dịch chuyển xã hội và thành công kinh tế ở

nhiều nước” [1, tr. 6]. Chất lượng GDĐH quyết định trực tiếp đến chất lượng nguồn

nhân lực, do đó, muốn đổi mới căn bản, toàn diện GDDH thì không thể không đổi mới

hệ thống các nhà trường, trong đó có các TĐHCL. Đổi mới hệ thống các TĐH đi liền

với đổi mới hệ thống QLNN về GDĐH và đổi mới hệ thống tổ chức, quản trị, quản lý

các TĐHCL nên TCĐH chính là lựa chọn thích hợp. Đây là con đường phát triển mà

không ít các TĐH trên thế giới đã áp dụng và gặt hái nhiều thành tựu. Chấp nhận lựa

chọn TCĐH là chấp nhận chuyển đổi từ cơ chế bao cấp về GDĐH sang phát triển các

dịch vụ công theo cơ chế kinh tế thị trường. Mà chấp nhận nguyên tắc thị trường trong

GDĐH cũng nghĩa là chấp nhận sự tham gia của khu vực tư nhân vào cung cấp dịch vụ

GDĐH. Song song với đó, GDĐH Việt Nam cũng phải chấp nhận việc mở cửa thị

trường GDĐH đối với các TĐH nước ngoài. Dịch vụ GDĐH vì vậy trở thành lĩnh vực

kinh doanh có tính khu vực và toàn cầu. Điều tất yếu là khi có sự tham gia của cả khu

36

vực tư nhân và TĐH nước ngoài vào thị trường GDĐH Việt Nam thì Nhà nước buộc

phải tạo ra môi trường thể chế phù hợp với xu thế chung của thế giới về GDĐH, đó là

xu thế tăng quyền tự chủ cho các TĐHCL để hệ thống các TĐHCL Việt Nam có thể

tồn tại, phát triển trong cơ chế cạnh tranh bình đẳng giữa các cơ sở GDĐH trong và

ngoài nước.

Trên thế giới, TCĐH đã trở thành xu thế tất yếu, dưới sự tác động của cuộc

Cách mạng công nghiệp 4.0. “Đây được gọi là cuộc cách mạng số, thông qua công nghệ

như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AL), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo

(AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)… để

chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số” [24, tr. 351]. Tác động lớn nhất của

yếu tố thời đại này chính là nhu cầu về phát triển mô hình giáo dục thông minh, có thể

liên kết giữa các yếu tố nhà trường với nhà quản lý và nhà doanh nghiệp, tạo điều kiện

đổi mới, sáng tạo và cải thiện năng suất lao động trong nền kinh tế tri thức. Mô hình

này tạo điều kiện hợp tác giữa GDĐH với sản xuất công nghiệp, mở rộng khuôn viên

dạy và học ra khỏi các bức tường truyền thống của các cơ sở đào tạo đại học, giúp

người học cá nhân hóa việc học tập để có thể tự quyết định việc học tập theo nhu cầu

bản thân. Điều này làm thay đổi tư duy, cách tiếp cận và cách thức tổ chức, quản trị các

TĐH. Khi việc học tập của người dân trở thành nhu cầu học tập suốt đời, có thể diễn ra

mọi lúc, mọi nơi thì tất yếu quản trị TĐHCL buộc phải thay đổi để thích nghi. Tái thiết

hệ thống QLNN về GDĐH và tái thiết hệ thống tổ chức, quản trị, quản lý cơ sở GDDH

công lập là đòi hỏi từ thực tiễn. Bối cảnh mang tính quốc tế này là lực đẩy buộc hệ

thống GDDH Việt Nam và hệ thống tổ chức, quản trị, quản lý của các TĐHCL phải

dịch chuyển tới cơ chế TCĐH.

Như vậy, TCĐH thực chất là sự thay đổi cách tiếp cận, nội dung, phương thức tổ

chức, quản trị, duy trì, phát triển mối quan hệ QLNN về GDĐH của Nhà nước với

TĐHCL trong quản trị, quản lý cơ sở GDĐH công lập. Ở góc độ này, bản chất của TCĐH

là sự giải thể một phần thẩm quyền, đồng thời cả nghĩa vụ và trách nhiệm của Nhà nước

đối với bảo đảm quyền được GDĐT của người dân từ cấp chính quyền trung ương cho

các cơ sở GDĐH công lập. “Cơ chế TCĐH tạo động lực cho sự phát triển và nâng cao

chất lượng nền GDĐH, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực trình độ cao của đất nước

trong giai đoạn phát triển mới - Phát triển theo chiều sâu, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

37

đại hóa, thích ứng với thể chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” [71].

* Tự chủ đại học là sự thống nhất, hài hòa và nhất quán về thể chế, thiết chế

và các điều kiện đảm đối với TĐHCL.

TCĐH là phương thức đồng bộ, phù hợp cả về hình thức lẫn nội dung, đem lại

cho TĐHCL địa vị pháp lý tự chủ thực chất, có sự gắn kết hữu cơ, thống nhất về quyền,

nghĩa vụ, trách nhiệm; lợi ích và trách nhiệm xã hội; tạo động lực cho sự phát triển bền

vững và hiệu quả của từng trường, đồng thời thực hiện tốt mục tiêu nâng cao chất

lượng GDĐT, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội, đất nước và hội nhập quốc tế. TCĐH

là sự thống nhất, hài hòa và nhất quán về thể chế, thiết chế và các điều kiện đảm bảo

đối với việc thực thi hiệu quả địa vị pháp lý tự chủ của TĐHCL. Nó là tổng thể các yếu tố

nhằm đem lại sự tự chủ hóa về tổ chức và các lĩnh vực hoạt động tự chủ của TĐHCL,

phù hợp với phân cấp thẩm quyền quản lý từ Nhà nước sang cho các TĐHCL.

Nhưng theo một khía cạnh khác, TCĐH cũng chứa đựng trong nó sự thống

nhất và mâu thuẫn khách quan về một số phương diện, như mục tiêu, lợi ích, động lực

và điều kiện đảm bảo cho việc thực thi cơ chế này. TCĐH gắn với mức độ kiểm soát

của Nhà nước đối với TĐHCL. Mức độ kiểm soát của Nhà nước càng giảm thì hệ số đo

lường mức độ tự chủ của TĐHCL càng cao. Đó là hệ trục đối xứng đảo chiều. TCĐH

tuy được xác lập bởi Nhà nước, nhưng muốn có sự thuận lợi khi vận hành cơ chế này

và mang lại hiệu quả tích cực cho cả ba bên (Nhà nước, xã hội và TĐHCL) thì không

thiếu vai trò của TĐHCL. Ngược trở lại, TCĐH không có nghĩa là các TĐHCL nằm

ngoài sự kiểm soát của Nhà nước. Khi Nhà nước trao quyền tự chủ cho các trường

cũng không phải để mặc các trường tự xoay xở, tồn tại, tự lo mọi nguồn lực hoạt động,

không còn nhận được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. “Trường đại học công lập là nơi duy

nhất mà nhờ sự nhượng bộ của Nhà nước và xã hội để ở bất kỳ giai đoạn phát triển nào

nó cũng có thể trau dồi sự tự trị khả dĩ và minh bạch nhất” [22, tr. 1].

* Tự chủ đại học có sự thống nhất giữa cấu trúc bên ngoài và cấu trúc bên

trong của quản trị, quản lý TĐHCL

Vận hành với tính chất của phương thức QLNN về GDĐH và quản trị, quản lý

TĐHCL, TCĐH là sự thống nhất của cấu trúc bên ngoài và cấu trúc bên trong. Cấu trúc

được hiểu là một sự sắp xếp và tổ chức các yếu tố bên trong/ bên ngoài có mối liên hệ

38

mật thiết đến hệ thống quản trị, quản lý của TĐHCL.

Cấu trúc bên ngoài của TCĐH thể hiện ở cơ cấu các mối quan hệ, sự gắn kết

và vận hành các mối quan hệ đó. Nó tồn tại và phát triển không chỉ liên quan đến

TĐHCL và Nhà nước mà còn liên quan đến người học, thị trường tiếp nhận, sử dụng

sản phẩm đào tạo của nhà trường và toàn xã hội.

Tương tự, cấu trúc bên trong của TCĐH liên quan đến cơ cấu những mối quan

hệ giữa các thiết chế quản trị, quản lý của TĐHCL (HĐT; Hiệu trưởng và Ban giám

hiệu; các đơn vị thuộc trường; các tổ chức chính trị - xã hội) với giảng viên/nhà khoa

học và sinh viên. Cấu trúc bên trong này phụ thuộc vào mô thức quản trị, quản lý tiên

tiến/hiện đại của hệ thống tổ chức nhà trường để quyết định đến chất lượng, hiệu quả

các mặt tự chủ khác của TĐHCL.

* Tự chủ đại học bao gồm nhiều thành thành tố có mối quan hệ gắn bó mật

thiết với nhau

Tự chủ đại học bao gồm một số nội dung cơ bản có mối quan hệ gắn bó mật

thiết với nhau. TCĐH đề cập tới mục tiêu (mục tiêu chung và mục tiêu riêng); nguyên

tắc; quyền hạn; trách nhiệm; nghĩa vụ; TNGT của các chủ thể (TĐHCL, Nhà nước);

vận hành tổ chức TĐHCL trong các mối quan hệ bên ngoài TĐHCL (có ý nghĩa là sự

phân vai giữa thẩm quyền QLNN về GDĐH và thẩm quyền quản trị nhà trường) và bên

trong (quan hệ giữa Đảng ủy - HĐT và Hiệu trưởng; quan hệ giữa các mặt tự chủ) của

TĐHCL; các điều kiện thực hiện quyền TCĐH của các trường. Giữa các yếu tố thuộc

nội dung của TCĐH có sự gắn kết mật thiết và chi phối lẫn nhau với tính chất của các

thành tố trong một tổ chức đại học. Yếu tố kết nối các cấu trúc bên trong và bên ngoài

của TĐHCL để vận hành hệ thống TCĐH chính là mối quan hệ giữa cơ quan QLNN về

GDĐH với TĐHCL và mối quan hệ giữa các thiết chế nội bộ của tổ chức TĐHCL.

2.1.3. Các yếu tố tác động đến tự chủ đại học ở Việt Nam

* Tác động của cơ chế, chính sách và thị trường giáo dục đến TCĐH

Tại Việt Nam hiện nay, cơ chế giáo dục đang được áp dụng là cơ chế quản lý

phi tập trung - định hướng thị trường, theo những mức độ khác nhau. Cơ chế này tác

động tới GDĐH và làm thay đổi từ quan niệm cho đến cơ chế vận hành chung của cả

nền GDĐH cũng như của từng TĐHCL. Cơ chế này thể hiện đặc trưng căn bản là sự

39

phân quyền mạnh từ trung ương xuống các địa phương và đến từng cơ sở GDĐH công

lập. Điều cần nhấn mạnh là chất lượng TCĐH của các TĐHCL chỉ đạt được khi cơ chế

giáo dục trở thành nhân tố thực thi, đồng thời cũng là giải pháp hữu ích và có tác dụng

kích thích, thúc đẩy cơ chế TCĐH của các trường cũng như hoạt động quản lý GDĐH

của cơ quan nhà nước đi vào thực chất, khả thi.

Cùng với cơ chế giáo dục thì chính sách giáo dục cũng có tác động sâu sắc

TCĐH. Chính sách giáo dục (education policy) được hiểu “là một hệ thống các quan

điểm, các mục tiêu của Nhà nước về giáo dục, cùng các phương hướng, giải pháp nhằm

thực hiện các mục tiêu đó trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển đất nước” [45].

Trong cấu trúc kinh tế - xã hội của một quốc gia, chính sách giáo dục vốn là một trong số

những chính sách xã hội cơ bản, với hàng loạt vai trò quan trọng, như định hướng, kiến

tạo, tạo nguồn lực, động lực và phát triển. Nhà nước sử dụng chính sách giáo dục làm công

cụ quản lý vĩ mô đối với hoạt động GDĐH. Vì vậy, trong mối quan hệ với TCĐH, chính

sách GDĐH có giá trị đặt nền móng cho sự định hướng căn bản từ phía Nhà nước đối với

các TĐHCL để nhà trường không đi chệch khỏi mục tiêu chung của GDĐH Việt Nam và

theo kịp xu hướng phát triển chung của giáo dục quốc gia và các nước trên thế giới.

Ở Việt Nam, chính sách chung là ngân sách nhà nước vẫn phải giữ vai trò chủ

yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho GDĐH. Chính sách chung của GDĐH Việt Nam

cũng mở rộng quy mô và đa dạng hóa trong GDĐH. Mặt khác, GDĐH phải đáp ứng

nhu cầu xã hội và thị trường lao động.

Cùng với cơ chế và chính sách giáo dục, vấn đề thị trường giáo dục nổi lên như

yếu tố tác động đa chiều đến TCĐH. Trong tiến trình xã hội hóa GDĐH, việc thừa

nhận tác động và sức ép của thị trường tới các sản phẩm đào tạo trong các trường là

một thực tế khách quan. Chính sức ép đó đã thúc đẩy hoạt động tự chủ của TĐHCL trở

lên linh hoạt, tiến gần hơn với thị trường, phù hợp, tương tác và mang lại lợi ích cho cả

TĐHCL và thị trường. Sự tác động hai chiều của mối quan hệ giữa thị trường GDĐH

và cơ chế TCĐH diễn ra theo hướng thị trường GDĐH cho các nhà trường nhận biết nó

cần gì, muốn gì để TĐHCL cung cấp sản phẩm đào tạo phù hợp và hưởng lợi ích. Còn

từ phía TĐHCL, với năng lực và cơ chế tự chủ của mình, đó là nơi cung cấp cho trị

trường nguồn nhân lực, kỹ thuật, công nghệ… để phát triển ngành nghề cũng như đáp

40

ứng yêu cầu liên tục có sự thay đổi của nền kinh tế và hoạt động thị trường. Do vậy,

đối với TCĐH, tác động của yếu tố thị trường GDĐH luôn là yếu tố động, có giá trị

thúc đẩy năng lực sáng tạo của nhà trường, đem lại động lực phát triển cho TĐHCL.

* Tác động của yếu tố QLNN về GDĐH đến TCĐH

“Quản lý nhà nước về giáo dục là thực hiện quyền lực công để điều hành, điều

chỉnh toàn bộ hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội, nhằm thực hiện mục tiêu

giáo dục của quốc gia” [19, tr. 118]. Nhận diện đầy đủ QLNN về giáo dục thì đó là

“quá trình thực hiện các chức năng và thẩm quyền của các cơ quan quyền lực nhà

nước, của bộ máy quản lý giáo dục từ trung ương đến địa phương, đối với các thành tố

của hệ thống giáo dục quốc dân, và các hoạt động giáo dục của xã hội nhằm đạt được

mục tiêu giáo dục quốc gia đã xác định” [19, tr. 119]. Về lý luận, QLNN tồn tại dưới

dạng một hệ thống, trong đó QLNN về GDĐH là một hệ thống bao gồm thể chế, cơ

chế quản lý; tổ chức, bộ máy quản lý và đội ngũ cán bộ, công chức quản lý GDĐH.

Trong quá trình vận hành hệ thống QLNN về GDĐH, các bộ phận của hệ thống quản lý

này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và trở thành yếu tố tác động theo cả hai hướng

tích cực và tiêu cực đến cơ chế TCĐH. Khi từng thành tố trong hệ thống đó vận hành

một cách thông suốt, phù hợp và hiệu quả thì cơ chế TCĐH có thêm nguồn lực và động

lực hỗ trợ, kích thích và thúc đẩy nó trở nên hiệu quả. Ngược lại, nếu một trong số các

thành tố của hệ thống QLNN về GDĐH có vấn đề, bất hợp lý hoặc trục trặc thì hệ

thống này sẽ trở thành vật cản, điểm nghẽn, cản trở các TĐHCL trong tiến trình thực

hiện TCĐH.

* Tác động của yếu tố mục tiêu tự chủ đến TCĐH

Mục tiêu của TCĐH là cụ thể hóa một phần quan trọng của mục tiêu chung về

giáo dục Việt Nam:

1) Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức,

sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; 2) Hình thành và bồi dưỡng nhân cách,

phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc; 3) Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, tăng cường hiệu quả và

thực hiện công bằng xã hội; 4) Đáp ứng yêu cầu dân trí, nhân lực, nhân tài

của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước; 5) Đáp ứng nhu cầu học

41

của mọi tầng lớp xã hội, tiến tới một xã hội học tập [67].

Để từng bước đạt được mục tiêu chung của GDĐT Việt Nam trong lĩnh vực

GDĐH, cần xác định mục tiêu chung của cơ chế TCĐH là tạo động lực cho sự phát

triển và nâng cao chất lượng nền GDĐH, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực trình độ cao

của đất nước theo chiều sâu, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thích ứng với thể

chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Mục tiêu này đặt ra yêu cầu đổi mới tư duy

và cơ chế QLNN, quản trị và quản lý các cơ sở GDĐH phải trở thành khâu đột phá.

Mục tiêu cụ thể của cơ chế TCĐH là giải phóng tư duy để tiếp cận tri thức

khoa học mới, tạo ra địa vị pháp lý mới cùng với sự năng động, nhạy bén của TĐHCL

khi hoạt động theo sự dẫn dắt của cơ chế thị trường và gắn với thị trường cung cấp dịch

vụ đào tạo đại học. Cần nhấn mạnh tính đúng đắn của việc xác định mục tiêu TCĐH,

bởi nếu xác định mục tiêu TCĐH chỉ gắn với ưu tiên mục tiêu tài chính, tức tự chủ là

tự đảm bảo nguồn thu, nhằm giải phóng gánh nặng cho ngân sách nhà nước và tự quản

lý nguồn thu để tự chi tiêu thì hệ lụy của việc xác định mục tiêu như vậy là cắt giảm

ngân sách đầu tư cho GDĐH, khởi động cuộc đua tăng học phí của các TĐHCL, trút

gánh nặng tài chính cho người học và xã hội, lâu dần có thể dẫn đến những biến dạng

trong cơ chế TCĐH, như: (i) Tuyệt đối hóa xu hướng thương mại hóa sản phẩm đào

tạo; (ii) tạo cạnh tranh không lành mạnh giữa các cơ sở đào tạo công lập; (iii) thâu tóm

quyền lực bên trong nhà trường, vi phạm dân chủ, thậm chí có thể dẫn đến việc tư nhân

hóa dể biến đổi bản chất công của các TĐHCL.

Tác động tích cực của yếu tố QLNN đối với cơ chế TCĐH còn được thể hiện ở

vấn đề thực hiện đầu tư cho GDĐH. “Trong nền kinh tế thị trường, đầu tư cho giáo dục là

đầu tư mang tính tiêu thụ trực tiếp, đầu tư mang tính sản xuất gián tiếp, đầu tư mang tính

tiêu thụ hữu hình, đầu tư mang tính sản xuất tiềm tàng, đầu tư mang tính tiêu thụ hiện tại,

đầu tư mang tính sản xuất của ngày mai, đầu tư mang tính tiêu thụ hữu hạn và đầu tư mang

tính sản xuất mở rộng” [67], Với cách tiếp cận nêu trên, một phần quan trọng trong hiệu quả

thực hiện TCĐH chịu sự tác động của yếu tố QLNN về đầu tư công đối với các TĐHCL

để Nhà nước và xã hội có thể thụ hưởng thành quả tích cực từ các hoạt động GDĐH.

* Tác động của yếu tố động lực giáo dục đến TCĐH

Động lực giáo dục có ý nghĩa quan trọng đối với TCĐH. Khi GDĐH có chức

42

năng tái sản xuất tri thức khoa học và sức lao động của mỗi người dân trong xã hội thì

động lực giáo dục thể hiện ở sự đầu tư của Nhà nước cho GDĐH, sự tôn trọng và tạo

điều kiện từ Nhà nước để TĐHCL phát huy tối đa năng lực tự chủ, làm cho các hoạt

động GDĐT có sức mạnh như đòn bẩy để mỗi nhà trường có sức bật vươn lên mạnh

mẽ trong tiến trình TCĐH. “Giao trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích phù hợp theo

nguyên tắc ngang giá, thực sự đảm bảo phân phối lợi ích công bằng, dân chủ và công

khai. Khuyến khích tính tiến thủ, sự sáng tạo của từng thày, cô giáo, cán bộ công nhân

viên và học sinh, sinh viên. Đưa cơ chế cạnh tranh vào quản lý nhà trường” [67 đều có

thể tạo ra động lực tích cực của cơ chế TCĐH đối với các TĐHCL ở Việt Nam.

* Tác động của yếu tố quản trị, lãnh đạo, quản lý đại học hiện đại, tiên tiến đối

với TCĐH

Quản trị đại học (University Governance) là tổng thể hợp thành của các thành

phần, cấu trúc và quá trình ra quyết định về GDĐH. Nó liên quan đến hệ thống GDĐH

và thể chế, tổ chức TĐHCL. Ở góc độ hệ thống, quản trị đại học đặt ra yêu cầu phải có

sự phân công, phối hợp của các cơ quan QLNN/Chính phủ/Tổ chức phi chính phủ với

TĐHCL và các bên liên quan. Quản trị đại học không chỉ bó hẹp bên trong TĐHCL mà

còn diễn ra ở cả bên ngoài nhà trường. Vì vậy, ở góc độ TĐHCL thì đây là quá trình

xây dựng và tập hợp các quy tắc, hệ thống nhằm quản lý và kiểm soát toàn bộ hoạt

động của nhà trường. Theo cách tiếp cận của quản trị đại học hiện đại thì quản trị đại

học là hình thức quản trị chia sẻ vì TĐHCL vốn là một tập thể phức hợp, được cấu

thành từ nhiều thành phần khác nhau (người học, người dạy, người quản lý…). Trong

hệ thống quản trị đại học Việt Nam hiện hành, vai trò của “tam giác quyền lực” (Đảng

ủy - HĐT - Hiệu trưởng) có ảnh hưởng mang tính quyết định đến hiệu lực, hiệu quả

hoạt động của tổ chức TĐHCL, trong đó, thiết chế có chức năng quản trị là HĐT sẽ phải

chịu trách nhiệm trước chủ thể QLNN về GDĐH, trước chính nhà trường, cộng đồng và

người học về sự tin cậy, tính thích ứng và hiệu quả chi phí quản lý thông qua việc phân

chia trách nhiệm, nguồn lực và kiểm soát tính hiệu lực và hiệu quả mọi hoạt động của

TĐHCL. Các chức năng của quản trị TĐHCL liên quan đến những vấn đề về hoạch định,

tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát, ứng với các cấp quản trị khác nhau và gắn với “mô hình

quản trị đại học hiện đại, chuyên nghiệp dưới sự quản lý của Nhà nước, ảnh hưởng thị

trường, sự tham gia dân chủ, công bằng, sáng tạo của các bên liên quan, nhằm nâng

43

cao chất lượng đào tạo và mở rộng cơ hội được giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu phát

triển bền vững đất nước” [69]. Trong cơ chế TCĐH, quản trị TĐHCL được xem là một

trong số yếu tố cốt lõi, sống còn để hiện thực hóa TCĐH vào đời sống của TĐHCL.

Trong mối quan hệ với hệ thống quản trị đại học thì hệ thống quản lý

(management) bao gồm các thành phần, cấu trúc và quá trình thực thi các quyết định đã

được thiết chế quản trị đưa ra. Trong TĐHCL, có cơ cấu đồng thời đảm nhiệm chức

năng của quản trị và quản lý, nghĩa là vừa tham gia vào quá trình ra quyết định, vừa

quản lý việc thực thi quyết định (Hiệu trưởng). Vậy nên hiệu lực, hiệu quả của quản lý

phụ thuộc rất nhiều vào sự phân định một cách hợp lý, công khai, minh bạch giữa quản

trị, quản lý và lãnh đạo.

Yếu tố lãnh đạo (leadership) vốn được xác định là hệ thống các thành phần,

cấu trúc và quá trình gây ảnh hưởng đến việc ra quyết định và thực thi quyết định của

nhà trường. Quản trị TĐHCL gắn liền với vị trí thẩm quyền lãnh đạo tối cao của HĐT

theo nghĩa xác định mục tiêu, đường lối, chủ trương và động viên, khuyến khích cộng

đồng giáo dục và các chủ thể liên quan thực hiện các cơ cấu nêu trên, tương hợp với vị

trí, chức năng, nhiệm vụ của từng vị trí công việc trong TĐHCL.

2.2. Trƣờng đại học công lập và tổ chức trƣờng đại học công lập trong

điều kiện tự chủ đại học ở Việt Nam

2.2.1. Khái niệm, đặc điểm của trường đại học công lập ở Việt Nam

Hiện nay, TĐH nói chung được hiểu là cộng đồng của những người theo đuổi

tri thức, tức giảng viên và sinh viên (Clark, 1994; Hetherington, 1953). TĐH là nơi

cung cấp kiến thức; trung tâm của quyền lực trí tuệ, “nơi bảo vệ quyền lực của mọi loại

tri thức và là một “trung tâm sáng tạo tri thức, xem xét lại mọi tri thức, phổ biến tri

thức, chuyển giao và ứng dụng tri thức” (Newman, 1959) [62]. Với tư cách tổ chức đại

học, “trường đại học đã thực hiện chức năng như một đơn vị sản xuất của nền kinh tế

thông qua việc đào tạo nhân lực có kỹ năng, phát triển công nghệ mới và tích lũy tri

thức chuyên môn, cũng như trang bị cho người học những phẩm chất năng lực cần thiết

nhằm đáp ứng yêu cầu của những lãnh vực chuyên môn cụ thể” [62]. TĐHCL là một

loại hình TĐH hiện đại.

Theo Bách khoa Toàn thư Việt Nam, TĐHCL là TĐH do Nhà nước (cấp trung

ương hoặc địa phương) đầu tư về kinh phí, cơ sở vật chất (đất đai, nhà cửa) và hoạt

44

động chủ yếu bằng kinh phí từ các nguồn tài chính công hoặc các khoản đóng góp phi

vụ lợi, được quản lý toàn diện mọi hoạt động bởi cơ quan QLNN. Cách tiếp cận này về

TĐHCL thể hiện rõ ràng và đầy đủ hình ảnh của một cơ sở GDĐH công lập, hoạt động

và vận hành theo mô hình Nhà nước kiểm soát (State controlled model). TĐHCL theo

cách hiểu này chủ yếu liên quan đến cơ sở, thẩm quyền thành lập, quản lý điều hành của

Nhà nước đối với cơ sở GDĐH công lập từ hai tư cách: (i) Chủ sở hữu tài sản công

trong TĐH do nhà nước thành lập; (ii) chủ thể thực thi thẩm quyền QLNN đối với TĐHCL.

Cách tiếp cận mới ở Việt Nam hiện nay về TĐHCL là “Cơ sở giáo dục đại học công lập do Nhà nước đầu tư, bảo đảm điều kiện hoạt động và là đại diện chủ sở hữu” [37].

Có sự thay đổi cơ bản trong định nghĩa này về TĐHCL, đó là tách biệt quyền sở hữu

của Nhà nước đối với khối tài sản đầu tư ban đầu (đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị

cung cấp cho TĐHCL) với quyền quản trị TĐHCL. Tư cách chủ sở hữu và đầu tư ban

đầu cơ sở vật chất cho TĐHCL chỉ là tiền để để Nhà nước thực hiện vai trò đại diện khi

tham gia vào HĐT với mục tiêu bảo vệ quyền sở hữu của Nhà nước. Tư cách này

không đồng nghĩa với việc Nhà nước thâu tóm toàn bộ việc vận hành hệ thống quản trị

TĐHCL. Việc thừa nhận tư cách giám sát của Nhà nước đối với vận hành hệ thống

quản trị, quản lý TĐHCL được thực hiện ở nội dung thẩm quyền QLNN về GDĐH,

còn việc thực hiện quyền của chủ sở hữu không dùng để chi phối, tác động tới quyền tự

chủ trong quản trị, quản lý TĐHCL. Về lý luận, đây là sự thay đổi quan niệm về

TĐHCL theo hướng tiệm cận với quan niệm hiện đại của các quốc gia trên thế giới.

Phù hợp với quan niệm nêu trên thì TĐHCL có một số đặc điểm cơ bản sau:

* Về tư cách chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với Nhà nước

TĐHCL là một loại hình thuộc hệ thống cơ sở GDĐH công lập. Tư cách chủ

thể quan hệ pháp luật của TĐHCL được xác lập dựa trên mối quan hệ về Quyền -

Nghĩa vụ - Trách nhiệm pháp lý - Trách nhiệm xã hội giữa Trường với Nhà nước và

các chủ thể liên quan. Trong quan hệ với TĐHCL, Nhà nước là bên chủ thể đại diện

cho Chủ sở hữu, Chủ đầu tư và chủ thể có thẩm quyền QLNN và thẩm quyền giám sát

cũng như có nghĩa vụ tạo các điều kiện đảm bảo để TĐHCL thực hiện quyền TCĐH

theo đúng cơ chế, chính sách giáo dục và quy định pháp về TCĐH.

Về phía TĐHCL, tư cách chủ thể cơ sở GDĐH công lập cho phép nhà trường

có quyền tự quyết định đối với mọi lĩnh vực hoạt động (học thuật, tổ chức, nhân sự, tài

45

chính, tài sản) và tương ứng với các quyền tự quyết định đó là TNGT trước Nhà nước,

trước các chủ thể liên quan về mọi mặt hoạt động. Vì chịu sự điều chỉnh của thể chế sở

hữu công về tài sản nên về nguyên tắc, TĐHCL phải tuân theo khuôn khổ thể chế của

các tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước trong mọi hoạt động về tài chính, đầu tư,

chẳng hạn như tuân thủ quy định của Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Ngân

sách... Mặt khác, mặc dù là đơn vị sự nghiệp công lập và sử dụng nguồn lực công về

đất đai, cơ sở vật chất hạ tầng, nhưng cơ chế TCĐH và xã hội hóa GDĐH đã khiến cho

các hoạt động của TĐHCL ngày càng phải dựa nhiều hơn vào học phí của người học.

Vì vậy, hoạt động của TĐHCL không thể không chịu sự tác động và chi phối của

nguyên tắc thị trường, với sức ép, áp lực cạnh tranh trên thị trường dịch vụ đào tạo đại

học. Đặc thù này của TĐHCL chứng minh rõ hơn sự cần thiết phải tách bạch giữa

quyền sở hữu với quyền quản trị TĐHCL.

Như vậy, một trong hai tư cách pháp lý của TĐHCL căn bản gắn với chức năng

cung cấp dịch vụ công (còn gọi là dịch vụ vì lợi ích chung toàn xã hội) của Nhà nước.

“Dịch vụ công (public service) là dịch vụ do Nhà nước cung cấp cho dân qua các tổ

chức nhà nước hay qua việc hỗ trợ tài chính cho các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân” [27].

Khi TĐHCL thay mặt Nhà nước để cung cấp dịch vụ công về GDĐH ra xã hội cũng đồng

nghĩa với việc Nhà nước không hoàn toàn phó mặc hệ thống giáo dục quốc gia cho thị

trường hay để nó tự xoay xở, vận hành theo quy luật thị trường. Trong GDĐH, vai trò của

Nhà nước thông qua tư cách của TĐHCL để thực hiện nhiệm vụ bổ sung cho những

khiếm khuyết của thị trường. Còn trên tư cách chủ thể đảm bảo điều kiện hoạt động của

nhà trường thì sự điều tiết, hỗ trợ của Nhà nước trong hoạt động TCĐH là để quá trình

tự chủ đó diễn ra trong khuôn khổ pháp luật và đáp ứng mục tiêu chung của GDĐH.

* Về cơ chế quản lý bộ máy tổ chức của TĐHCL

Với tư cách là đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực GDĐH, TĐHCL chịu

sự quản lý, kiểm tra, giám sát về tổ chức bộ máy cũng như các hoạt động hành chính

theo quy định của chính phủ/bộ/ngành/địa phương/tổ chức chính trị - xã hội. Tổ chức

bộ máy quản trị, quản lý, điều hành của TĐHCL tuy được thiết kế phù hợp với sứ

mạng, tầm nhìn của từng trường nhưng căn bản vẫn phải tuân thủ các quy định chung

của Luật chuyên ngành trong từng lĩnh vực và Luật GDĐH hiện hành. Đa số TĐHCL

vừa chịu sự quản lý, giám sát của cơ quan QLNN về GDĐH, vừa chịu sự quản lý của

46

bộ/ngành/địa phương/tổ chức chủ quản. Đặc điểm này làm cho phạm vi, mức độ,

không gian tự chủ của các TĐHCL khác nhau, mặc dù cùng chịu sự điều chỉnh của thể

chế pháp lý chung về TCĐH. Có thể nhận thấy khá rõ đặc điểm này trong cơ chế

TCĐH của không ít TĐHCL hiện nay, khi thể chế chung tuy đã có sự sửa đổi để việc

tự chủ của các trường, nhất là tự chủ về tổ chức bộ máy trở nên thực chất và rõ ràng

hơn, nhưng cơ chế chủ quản vẫn tạo ra những hạn chế tự chủ về tổ chức nhà trường.

Tại Việt Nam, TĐHCL hiện nay được thiết kế theo mô hình hai cấp: (1) Cấp

trường là cấp quản trị, quản lý và điều hành toàn bộ hoạt động của nhà trường, dưới sự

lãnh đạo của HĐT, sự chỉ đạo của Đảng ủy, sự điều hành quản lý của Hiệu trưởng và Ban

giám hiệu; (2) cấp khoa, phòng, trung tâm, có chức năng tham mưu, giúp việc, quản lý và

tổ chức thực hiện các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, cung cấp dịch vụ công theo

nhiệm vụ và nhu cầu xã hội. Trong cơ cấu của cấp khoa thì các bộ môn là lực lượng trực

tiếp triển khai nhiệm vụ học thuật trong các hoạt động đào tạo, khoa học, công nghệ và các

nhiệm vụ khác của cấp khoa, phòng, trung tâm và nhà trường. Trong điều kiện tự chủ về

tổ chức, mô hình nêu trên chứa đựng và đan xen nhiều mối quan hệ quản trị, quản lý và

văn hóa tổ chức vừa đa dạng, vừa phức tạp theo cả chiều ngang (quan hệ giữa Đảng ủy -

HĐT - Hiệu trưởng) và chiều dọc (quan hệ giữa các cấp quản trị, quản lý với các đơn vị

thuộc trường, như quan hệ giữa Ban giám hiệu với các khoa, phòng, trung tâm, bộ môn;

quan hệ giữa Đảng ủy với các Chi bộ thuộc cơ sở đảng của TĐHCL).

2.2.2. Khái niệm, đặc điểm của tổ chức trường đại học công lập ở Việt Nam

Về lý luận, tổ chức là một thuật ngữ đa nghĩa trong nhiều ngành khoa học.

Triết học định nghĩa tổ chức “là cơ cấu tồn tại của sự vật. Sự vật không thể tồn tại mà

không có một hình thức liên kết nhất định các yếu tố thuộc nội dung. Tổ chức vì vậy là

thuộc tính của bản thân các sự vật” [44].

Khoa học tổ chức và quản lý tổ chức định nghĩa tổ chức theo nghĩa hẹp là “tập

thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung hoặc nhằm đạt tới

một mục tiêu xác định của tập thể đó” [44]. Tương tự, lý thuyết quản trị công quan niệm,

để hình thành tổ chức phải có từ hai người trở lên (điều kiện về chủ thể) và các hoạt động

của họ được kết hợp với nhau một cách có ý thức. Và một cách nhìn khác về tổ chức là

“tập hợp của con người trong xã hội có phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ cấu

xác định; được hình thành và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định phù hợp với quy

47

định pháp luật nhằm gắn kết con người với nhau bởi những mục đích xác định và hành

động để đạt đến mục tiêu chung” [68]. Tiếp cận trực diện các khái niệm được đưa ra cho

thấy, nói đến tổ chức là nói đến yếu tố con người (nhân sự của tổ chức), vừa là chủ thể

vận hành tổ chức đó, vừa là đối tượng chịu sự quản lý của cơ quan/thiết chế có thẩm

quyền. Song tổ chức không phải là tập hợp của những cá nhân khác nhau về nhu cầu,

định hướng và năng lực hành động. Tổ chức là sự gắn kết của các cá nhân trong mục

tiêu, sứ mạng, tầm nhìn chung, trong nền tảng tinh thần chung (văn hóa tổ chức), trong

“sân chơi” chung (thể chế và thiết chế). Với cách hiểu này, khái niệm tổ chức TĐHCL

cần thỏa mãn được ba thành tố cơ bản, đó là các thiết chế và thể chế; các nguồn nhân

lực; văn hóa tổ chức. Các thành tố đó gắn với các mối quan hệ bên trong và bên ngoài

tổ chức TĐHCL, đan xen, ràng buộc, chi phối hoạt động tự chủ về tổ chức của trường.

Trong luận án này, khái niệm tổ chức TĐHCL được hiểu theo cả nghĩa rộng và

nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, tổ chức TĐHCL là một định chế chính trị, pháp lý, quản

trị công, phù hợp với đặc tính, bản chất của cơ sở GDĐH công lập, với văn hóa tổ

chức, sứ mạng, tầm nhìn nhà trường và yêu cầu đổi mới toàn diện nền GDĐH Việt

Nam. Với tư cách là một tổ chức, TĐHCL là một thực thể kinh tế, chính trị, xã hội, có

một cấu trúc và cơ chế hoạt động xác định, hoạt động theo một hoặc một số mục tiêu

chung, được hình thành và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật quốc gia và những quy

định của riêng mình [34]. Nội hàm khái niệm tổ chức TĐHCL theo nghĩa rộng đặt

trọng tâm vào tư cách là định chế chính trị, pháp lý, quản lý công.

Thuật ngữ định chế chính trị trong khái niệm tổ chức TĐHCL nhằm luận giải

về mối quan hệ lợi ích đa bên (Nhà trường; Nhà nước; Người học; Thị trường lao

động; Xã hội) tồn tại, duy trì và phát triển trong các hoạt động GDĐT của TĐHCL. Lợi

ích là yếu tố cốt lõi gắn kết các thành viên bên trong và bên ngoài của tổ chức TĐHCL.

Mối quan hệ lợi ích đó được xử lý hài hòa dựa trên các nguyên tắc và cơ chế vận hành

của quy luật thị trường, thẩm quyền của hệ thống QLNN về GDĐH và sự vận hành của

hệ thống quản trị, quản lý TĐHCL. Khi có sự thay đổi bản chất mối quan hệ QLNN về

GDĐH và quản trị, quản lý đại học từ tập trung, bao cấp của Nhà nước sang TCĐH thì

yếu tố chính trị hiểu theo nghĩa thiết lập và giải quyết mối quan hệ lợi ích đa bên chính

là một trong những điểm nhấn quan trọng bổ sung vào khái niệm tổ chức TĐHCL theo

nghĩa truyền thống (tức quan niệm TĐLCL đơn thuần là đơn vị sự nghiệp công lập

48

hoạt động vì phục vụ mục tiêu QLNN).

Thuật ngữ định chế pháp lý trong khái niệm tổ chức TĐHCL hướng đến các

yếu tố thể chế, thiết chế điều chỉnh và vận hành hệ thống tổ chức TĐHCL, nhằm luận

giải cho tư cách chủ thể của đơn vị sự nghiệp công lập, hoạt động trong lĩnh vực GDĐH

và là cơ sở để xác lập, duy trì và thực hiện quyền tự chủ về tổ chức của TĐHCL. Thẩm

quyền tự chủ về tổ chức mà Nhà nước phân cấp, ủy quyền cho TĐHCL, về bản chất là

phân cấp cho chính TĐHCL với tư cách của một tổ chức đại học do Nhà nước thành

lập, thể hiện ở quyền được tự quyết định việc thiết kế, tổ chức và vận hành cơ cấu, nguồn

nhân lực bên trong sao cho tương đồng và có đủ năng lực đảm nhiệm chức năng, nhiệm

vụ của một đơn vị dịch vụ công về GDĐH. Tương tự, thuật ngữ định chế quản lý công

trong khái niệm tổ chức TĐHCL nhằm luận giải về môi trường, văn hóa tổ chức, mục

tiêu, sứ mệnh, tầm nhìn của một tổ chức đại học theo lý luận truyền thống.

Như vậy, trên ba phương diện chính trị, pháp lý và quản lý công, tổ chức

TĐHCL được tiếp cận với tư cách pháp lý của một tổ chức đại học công lập trong

lĩnh vực GDĐH. Phải có tư cách đó thì tổ chức TĐHCL mới thỏa mãn yêu cầu và có

đủ năng lực tiếp nhận, thực hiện việc phân cấp, ủy quyền của Nhà nước để thiết kế và

vận hành hệ thống tổ chức nội bộ cùng nguồn nhân lực của mình, phù hợp với thẩm

quyền ra các quyết định quan trọng, có sự ảnh hưởng nhiều mặt đến lợi ích của các

bên trong TĐHCL.

Theo nghĩa hẹp, luận án tiếp cận khái niệm tổ chức TĐHCL là hệ thống thiết

chế và nguồn nhân lực thuộc nhà trường, được cơ cấu, xác định theo mục tiêu, sứ

mạng, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, phù hợp quy định pháp luật hiện hành về cơ sở

GDĐH công lập, đáp ứng năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động TCĐH. Với định

nghĩa này, tổ chức TĐHCL có những đặc điểm sau:

* Về mục tiêu

Tổ chức TĐHCL được thiết lập và vận hành hoạt động để đáp ứng yêu cầu

thực hiện mục tiêu chung về quản lý giáo dục của Nhà nước cũng như mục tiêu, sứ

mạng, tầm nhìn của TĐHCL trong điều kiện TCĐH. Mục tiêu của TĐHCL không bất

biến mà có thể được điều chỉnh, bổ sung, tùy thuộc vào sự phát triển về quy mô, tính

chất, chất lượng, hiệu quả hoạt động và các điều kiện, yêu cầu khách quan khác. Khi

vận hành theo cơ chế TCĐH thì mục tiêu là công cụ đo lường hiệu quả hoạt động của

49

hệ thống tổ chức nhà trường.

* Về cơ cấu

Cơ cấu của một TĐHCL thường bao gồm tổng hợp các thiết chế quản trị, quản

lý và các đơn vị chuyên môn thuộc/ trực thuộc khác nhau của trường, có mối liên hệ và

quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hóa và bố trí theo từng cấp, nhằm bảo

đảm thực hiện các chức năng quản trị, quản lý và phục vụ mục đích chung đã được xác

định của TĐHCL.

* Về quyền lực

Tổ chức TĐHCL được xem xét trên hai phương diện là thẩm quyền của nhà

trường và các điều kiện đảm bảo cho các quyết định của TĐHCL được thực thi. Cơ sở để

hình thành quyền lực của các cơ cấu tổ chức TĐHCL là quy định pháp luật của Nhà nước

và thể chế nội bộ của trường. Một TĐHCL bao gồm các thiết chế quản trị (HĐT); thiết

chế quản lý (Hiệu trưởng); các cấu trúc học thuật (Khoa, Bộ môn, Hội đồng Khoa học

và Đào tạo) và các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội khác. Nguyên tắc chi phối việc thực

thi quyền lực ở TĐHCL gồm cả ba hình thức: Tập quyền (như thẩm quyền của Hiệu

trưởng); phân quyền (sự phân cấp, ủy quyền của Nhà nước cho tổ chức TĐHCL thực

thi cơ chế TCĐH) và cộng đồng quyền lực (như cơ chế vận hành quyền lực của HĐT).

* Về nguồn lực

Xét đặc trưng nguồn lực của tổ chức TĐHCL, cần nhìn nhận trên đa phương

diện: Nguồn lực con người - Nguồn lực công nghệ - Nguồn lực vật chất - tài chính,

trong đó, nguồn lực con người có ý nghĩa quyết định sự thành bại của tổ chức TĐHCL.

Khi TĐHCL không còn điểm tựa hoàn toàn về tài chính công mà Nhà nước cấp để chi

trả cho hoạt động thường xuyên theo biên chế, nhưng nhiệm vụ vẫn phải hoàn thành và

đáp ứng nhu cầu khắt khe của việc cung cấp dịch vụ GDĐH ra thị trường ngày càng chịu

áp lực cạnh tranh quyết liệt thì vấn đề nguồn lực của tổ chức TĐHCL luôn là một trong

số vấn đề sống còn, nếu TĐHCL muốn có thể đủ sức đua đường dài trong cơ chế TCĐH.

* Về văn hóa

Văn hóa tổ chức là một trong số thành tố quan trọng, liên quan đến việc ra

quyết định ở TĐHCL. Trong bất cứ một TĐHCL nào, văn hóa “là những giá trị và

niềm tin của những người có liên quan đến nhà trường: Các nhà quản lý, giảng viên,

sinh viên, thành viên HĐT, nhân viên phục vụ; dựa trên truyền thống và những giao

50

tiếp bằng lời hoặc không lời” (Deal and Kennedy, 1982; Bartell, 2003) [41]. Thành tố văn

hóa TĐH được hình dung “là một tấm thảm thêu lớn, ở đó những niềm tin và thực tiễn

hoạt động của Hội đồng trường, các nhà quản lý cấp cao, giảng viên, cộng đồng ngoài

trường, các đối thủ cạnh tranh, và cả xã hội kết hợp đan dệt lại với nhau để định hình nên

hiệu quả hoạt động của nhà trường. Một sự hiểu biết mạnh mẽ và sâu sắc về truyền thống

và lịch sử là rất cần để một hệ thống xã hội học thuật thịnh vượng” [58]. Mọi thay đổi của

tổ chức TĐHCL từ cơ chế cũ sang cơ chế TCĐH đều liên quan trực tiếp tới những thay

đổi văn hóa nhà trường. Bên cạnh đó, sứ mạng của một TĐHCL là kết hợp giữa một

nền giáo dục tổng quát và chuẩn bị năng lực chuyên môn từ cấp cử nhân đến sau đại học.

TĐHCL lại là một môi trường tập thể, tập trung vào học tập, trong đó đội ngũ giảng viên,

nhân viên, sinh viên đa dạng và có chất lượng của nhà trường, có thể kết hợp giảng

dạy, nghiên cứu, sáng tạo và phục vụ cộng đồng (Rowan University, 2004). Triết lý mà

tất cả các TĐHCL hiện đại đều quan tâm là qua việc theo đuổi thách thức học thuật

trong môi trường tập trung vào việc học, những trải nghiệm giáo dục lý tưởng thu thập

được ở TĐH sẽ giúp sinh viên xây dựng bản thân mình thành một tổng thể nhân cách

hài hòa về trí tuệ, thể chất, cảm xúc, xã hội và văn hóa. Đây chính là nền tảng tinh thần,

đạo đức và khoa học để thay đổi thực chất về tổ chức TĐHCL trong môi trường

TCĐH. Những giá trị và niềm tin do tổ chức TĐHCL tạo ra được coi là có ảnh hưởng

lớn lao đối với quá trình ra quyết định của những thiết chế quyền lực trong TĐHCL, từ

đó có thể định hình cách xử sự của các cá nhân và mọi thiết chế thuộc tổ chức TĐHCL.

Tựu chung, tổ chức TĐHCL được tiếp cận theo hai tư cách: (1) Đơn vị sự

nghiệp công lập trong lĩnh vực GDĐH; (2) hệ thống các thiết chế gắn với quản trị,

quản lý TĐHCL, trong đó tồn tại một hệ thống bao gồm các khâu, các phần, các bộ

phận có mối liên hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau và thúc đẩy nhau phát triển

để đạt được mục tiêu chung của nhà trường. Hoạt động quản trị, quản lý TĐHCL là quá

trình xây dựng và tập hợp các quy tắc, hệ thống, nhằm vận hành và kiểm soát toàn bộ

hoạt động của nhà trường.

Đối với TĐHCL, sự thay đổi việc quản trị nhà trường để thích ứng với thay đổi

của QLNN về GDĐH là tất yếu khách quan. Cấu trúc quản trị TĐH bao gồm ba thành

tố là: Authority (Thẩm quyền); Accountability (Trách nhiệm giải trình); Decision

Making (Ra quyết định). Với ba thành tố này, việc quản trị nhà trường từ phương diện

51

tổ chức TĐHCL là quá trình xây dựng và duy trì các quy tắc, thể chế nhằm vận hành, quản

lý và kiểm soát toàn bộ hoạt động của nhà trường, với chính sách, phương thức, quy trình

do TĐHCL tự lựa chọn và áp dụng. Việc quản trị nhà trường vì vậy là sự gắn kết các

cấu trúc bên trong trường cũng như các khâu từ lãnh đạo, quản lý, điều hành đến kiểm

tra, đánh giá, thích ứng với mô hình kết hợp giữa quản lý “cứng” và quản lý “mềm”.

Quản lý “cứng” liên quan đến cấu trúc của tổ chức TĐHCL (chức năng, nhiệm

vụ, cơ cấu tổ chức) với những quy định, quy chế, các mối quan hệ về thẩm quyền (giữa

HĐT với Hiệu trưởng; giữa Hiệu trưởng với các đơn vị trong nhà trường và với cơ quan

QLNN về GDĐH) mà các chủ thể có liên quan phải tuân thủ. Quản lý “mềm” là quản

lý có tính tương tác giữa các chủ thể có liên quan (bao gồm cả với người học); từ lãnh

đạo, tới hành động và phối hợp; tương tác giữa nhà trường và xã hội, nhằm giúp cho các

hoạt động của TĐHCL được duy trì và hiệu quả, đạt được mục tiêu đã được xác định.

Tổng thể của quản lý “cứng” và quản lý “mềm” dựa trên nguyên tắc thượng tôn pháp luật,

quản trị chuyên nghiệp, minh bạch, dân chủ, hiệu quả nhưng linh hoạt và có TNGT.

2.2.3. Bản chất mối quan hệ phân cấp, ủy quyền của Nhà nước đối với

trường đại học công lập trong tự chủ về tổ chức ở Việt Nam

Trong hành trình của lịch sử đại học, các TĐH không ngừng phục vụ nhu cầu

của xã hội và Nhà nước nên việc tồn tại mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau giữa Nhà

nước và TĐH là tất yếu khách quan. Trong mối quan hệ này, địa vị pháp lý của Nhà

nước cho phép Nhà nước dễ dàng kiểm soát TĐH và TĐH không có vai trò hỗ trợ của

Nhà nước thì cũng khó thực hiện nhiệm vụ. Nghịch lý ở chỗ, mối quan hệ này khi liên

quan đến mục tiêu chung của Nhà nước và mục tiêu riêng của trường thường rất dễ

xung đột. Vì vậy, tính nhạy cảm của mối quan hệ này trong cơ chế TCĐH phải được tự

hạn chế ở bình diện trí tuệ, sự hợp tác và kiểm soát lẫn nhau. TĐHCL kiểm soát hoạt

động quản lý GDĐH của Nhà nước qua quyền lực của chân lý và trí tuệ. TĐHCL tiếp

nhận thẩm quyền giám sát của Nhà nước với tâm thế tin tưởng, tuân thủ đầy đủ, chặt

chẽ và trong khuôn khổ pháp luật, nhưng với điều kiện không có sự xâm phạm bất hợp

pháp lợi ích của trường từ bất cứ cá nhân, cơ quan có thẩm quyền nào của Nhà nước.

Về phía Nhà nước, việc thực hiện vai trò giám sát đối với TĐHCL thông qua

việc tạo dựng cơ chế để các trường thực hiện được sự độc lập nhân danh TCĐH. Nhà

nước giữ vai trò giám sát TĐHCL một cách toàn diện, trên phạm vi toàn lãnh thổ và

52

đối với toàn bộ hệ thống GDĐH. Vai trò và nhiệm vụ giám sát của Nhà nước đối với

hoạt động tự chủ của TĐHCL là một nhiệm vụ nặng nề. Việc hoàn thành nhiệm vụ này

đòi hỏi phải có một hệ thống quản lý tương thích, một cơ chế phù hợp và những con

người thực thi nhiệm vụ chuyên nghiệp, liêm chính, có sức thuyết phục đối với đội ngũ

giảng viên, những nhà khoa học của đủ mọi ngành nghề. Sự giám sát của Nhà nước để

ngăn ngừa sự tha hóa mà một TĐHCL khi hoạt động độc lập và tự chủ có thể gặp phải.

Sự giám sát đó nhằm bảo vệ để hoạt động GDĐT và quản trị, quản lý bộ máy không

chệch khỏi chức năng, nhiệm vụ, sứ mạng, tầm nhìn phát triển.

Để thực thi tốt vai trò của mình trong cơ chế TCĐH, Nhà nước cần tập trung

thực hiện các nhiệm vụ: (i) Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách quản lý và

phát triển hệ thống GDĐH trong điều kiện TCĐH; (ii) bảo đảm đầu tư của Nhà nước

gắn với đổi mới phương thức và cơ chế phát triển GDĐH phù hợp với xu thế chung của

thế giới và điều kiện cụ thể của Việt Nam, nâng cao hiệu quả đầu tư theo hướng đầu tư

có trọng tâm, trọng điểm, có tính cạnh tranh, gắn với kết quả, chất lượng, hiệu quả thực

hiện nhiệm vụ chuyên môn của TĐHCL; (iii) xây dựng, hoàn thiện và chỉ đạo thực

hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách xã hội trong GDĐH; đảm bảo công bằng, bình

đẳng và tạo động lực lành mạnh, hiệu quả trong phát triển GDĐH.

Để làm tốt vai trò đó trong quan hệ với TĐHCL, Nhà nước phải đổi mới mạnh mẽ

cơ chế quản lý GDĐH, tập trung vào ban hành hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để

QLNN về sứ mạng, mục tiêu, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, định hướng phát triển

GDĐH về quản lý chất lượng; xây dựng cơ chế quản lý sở hữu nhà nước phù hợp với cơ

chế TCĐH; bảo đảm vai trò kiểm tra, giám sát của cộng đồng; phát huy vai trò của đoàn thể,

tổ chức quần chúng, đặc biệt là các hội nghề nghiệp trong việc giám sát chất lượng GDĐH.

Trên tư cách chủ thể phân cấp, ủy quyền và tư cách chủ thể tiếp nhận sự phân

cấp ủy quyền, mối quan hệ giữa Nhà nước và TĐHCL là mối quan hệ tương hỗ, ràng

buộc với sự hiện hữu của một nghịch lý bắt buộc là TĐHCL vừa thuộc Nhà nước, vừa

độc lập với Nhà nước. Ở vế thứ nhất, TĐHCL phải tuân thủ sự quản lý của Nhà nước.

Ở vế thứ hai, TĐHCL độc lập với tư cách tổ chức đại học và với tư cách tiếp nhận sự

phân cấp, ủy quyền từ Nhà nước để tự chủ và có TNGT về quản trị, quản lý, điều hành

mọi hoạt động của tổ chức nhà trường. Trong tư cách tổ chức đại học, từng thành tố

bên trong của hệ thống tổ chức TĐHCL có được một sự tự chủ nhất định thuộc về bản

53

chất vốn có. Sự tự chủ này không được quan niệm là quyền đặt cạnh chủ quyền của

quốc gia, bởi TCĐH tuy là quyền của TĐHCL, nhưng là những quyền hữu hạn của một

định chế xã hội công lập, tồn tại và phát triển dưới sự bảo hộ, hỗ trợ và cho phép của

Nhà nước. Cần nhấn mạnh điều này để tránh làm biến dạng giá trị thực chất quyền tự

chủ về tổ chức của TĐHCL. Quyền tự chủ này của TĐHCL cần có sự kiểm tra và đảm

bảo sự quân bình ở hai cấp (nhà trường và lợi ích chung toàn xã hội) để lợi ích của Nhà

nước có thể đạt được và quyền lợi của công dân được bảo vệ. Nhà nước luôn phải giám

sát, đánh giá kết quả hoạt động của các trường và các trường phải có một bộ phận lãnh

đạo và quản trị (HĐT) nhằm bảo đảm những người quản lý điều hành nhà trường (đặc

biệt là Hiệu trưởng) sẽ chịu TNGT về việc đưa nhà trường đạt đến mục tiêu [57].

Ngoài ra, có những thẩm quyền và lĩnh vực mà Nhà nước không bao giờ được

giao cho bất kỳ chủ thể nào và nó có mối quan hệ đối với quyền tự chủ về tổ chức của

TĐHCL. Trong quản lý công đó là: (i) Xây dựng chính sách tổng thể, sự đồng thuận về

quy mô và định dạng của hệ thống GDĐH (như xác lập sự bình đẳng giữa hệ thống

GDĐH công và tư nhân, giữa những loại hình trường khác nhau trong hệ thống giáo

dục quốc gia; xác định chính sách về GDĐH…); (ii) lập kế hoạch chiến lược cho hệ

thống GDĐH quốc gia; (iii) điều tiết về tổng thể ngân sách dành cho GDĐH; (iv) phối

hợp với các bộ liên quan để giải quyết các vấn đề về GDĐH.

Tác động đối với quyền tự chủ về tổ chức của TĐHCL từ một số lĩnh vực mà

Nhà nước xác định không chia sẻ quyền lực cho các cơ sở GDĐH là để đảm bảo có sự

thống nhất, cân đối, phù hợp, hiệu quả của hệ thống GDĐH quốc gia theo sự quản lý vĩ

mô và mục tiêu chung của nhà nước. Về bản chất, đây vốn là chức năng mà Nhà nước

phải tự làm, không thể ủy quyền cũng như giao chủ thể khác làm thay. Điều này phản

ánh thực tế là mức độ tự chủ của các nhà trường thường có sự đan xen giữa những

quyền vốn có thuộc về TĐHCL và ý chí của Nhà nước, thông qua pháp luật và văn hóa

QLNN. Mức độ tự chủ thường trải nghiệm thực tế một thời gian dài, với nhiều quá

trình phát triển của pháp luật. Đó là những cơ chế được kiến tạo có kèm theo sự kiểm

chứng từ thực tiễn. Bên cạnh đó, không thể loại trừ vai trò tác động của yếu tố văn hóa

(ở cả cấp độ nhà trường, Nhà nước và xã hội) đối với sự vận hành của quyền lực và sự

kiểm soát. Điều này được thể hiện ngay trong thực tiễn tự chủ của TĐH ở nhiều quốc

gia, trong đó có những cách tiếp cận về tự chủ tổ chức TĐHCL được xem là đương

54

nhiên ở quốc gia này nhưng lại là không dễ dàng diễn ra ở quốc gia khác.

Nguyên lý cơ bản nằm sâu bên trong của quyền TCĐH là các trường hoạt động

tốt hơn khi được chủ động và tự kiểm soát vận mệnh của mình. TĐHCL sẽ luôn có

động cơ khuyến khích để tạo ra thay đổi nếu nhà trường khai thác và làm chủ được những

lợi ích trực tiếp trong sự tự chủ, với tinh thần dám hành động và dám chịu trách nhiệm.

Ngược trở lại, nếu TĐHCL chần chừ, thiếu quyết đoán, thiếu năng lực về quản trị bộ máy

thì sẽ bị các đối thủ cạnh tranh vượt qua. Trong cùng cơ chế TCĐH, những TĐHCL cùng

được trao quyền tự chủ để đáp ứng với những mục tiêu chính của Nhà nước theo cách

của mỗi trường sẽ luôn có cơ hội tự chọn đường đi khác nhau để cùng đạt đến mục tiêu.

Nếu các TĐHCL vẫn bị Nhà nước kiểm soát tập trung thì sự khác biệt này là không thể.

2.3. Những khía cạnh căn bản trong thực hiện tự chủ về tổ chức của

trƣờng đại học công lập ở Việt Nam

2.3.1. Khái niệm, nguyên tắc thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học

công lập ở Việt Nam

* Khái niệm thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

Thực hiện tự chủ về tổ chức TĐHCL là một trong bốn nội dung cốt lõi của

thực hiện TCĐH. Về bản chất, đó là cách mà TĐHCL phải chủ động trong việc áp

dụng cách thức quản trị hệ thống tổ chức bộ máy và quản trị nguồn lực bên trong sao

cho các quyết định được đưa ra cũng như việc hiện thực hóa các quyết định về tổ chức

có giá trị đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu, sứ mạng, tầm nhìn. Trong luận án này, khái

niệm thực hiện tự chủ về tổ chức được hiểu là hoạt động quản trị, quản lý tự chủ của

các thiết chế, bộ phận có thẩm quyền thuộc TĐHCL, trên cơ sở phạm vi, nội dung, giới

hạn công việc được Nhà nước phân cấp, ủy quyền, phù hợp với nguyên tắc, mục tiêu,

kế hoạch, nguồn lực và các phương thức xác định để hiện thực hóa sứ mạng, tầm nhìn

phát triển nhà trường và đổi mới GDĐH Việt Nam.

Nội hàm khái niệm thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL đề cập đến những

vấn đề cơ bản sau:

* Mục tiêu thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL.

Mục tiêu chung trong thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL là tái thiết lại

hệ thống tổ chức bộ máy theo hướng rà soát, sắp xếp, bổ sung, đổi mới từ cơ cấu tổ

chức cho đến các yếu tố nội tại của hệ thống quản trị, quản lý để một mặt đáp ứng yêu

55

cầu của cơ chế TCĐH, mặt khác tạo năng lực và năng lượng tích cực cho toàn hệ

thống, nhằm chuyển đổi thành công mô hình tổ chức và hoạt động của TĐHCL theo cơ

chế TCĐH.

Mục tiêu cụ thể trong thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL là đổi mới và tăng

cường năng lực tự chủ cho hệ thống tổ chức nhà trường; xây dựng và phát triển hệ thống

quản trị, quản lý nhà trường theo hướng hiện đại; xây dựng văn hóa tự chủ để tạo nguồn

nhân lực đáp ứng yêu cầu thực hiện tự chủ về hoạt động chuyên môn học thuật, nhân sự,

tài chính, tài sản; tạo môi trường và điều kiện để góp phần thực hiện thành công công cuộc

đổi mới toàn diện GDĐH Việt Nam cũng như sứ mạng, tầm nhìn phát triển nhà trường.

* Công cụ thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

Công cụ để thực hiện tự chủ về tổ chức gồm chính sách công và thể chế QLNN

về GDĐH. Với ý nghĩa là chính sách của Nhà nước đối với khu vực GDĐH công lập,

chính sách công được sử dụng để Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ và thực

hiện các hoạt động liên quan đến QLNN đối với các TĐHCL trong quá trình các

trường thực hiện quyền tự chủ về tổ chức. Đó là các quyết sách, quyết định chính trị

của Nhà nước trong chỉ đạo việc triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL.

Chính sách công này ở Việt Nam hiện nay là: (1) Một cơ chế tài chính phù hợp, hiệu

quả; (2) hành lang pháp lý thông thoáng, thuận lợi, tuân theo quy luật thị trường, tạo cơ

hội bình đẳng trong cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở GDĐH, không phân biệt

trong khu vực công lập hay ngoài công lập; (3) thực hiện việc kiểm soát chất lượng,

hiệu quả TCĐH của các trường bằng hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí và khung pháp luật

thống nhất, đồng bộ, từng bước mở rộng quyền tự chủ về tổ chức cho các TĐHCL.

Cùng với chính sách, hệ thống thể chế về TCĐH là công cụ thiết yếu để điều

chỉnh hoạt động TCĐH của các TĐHCL. Thể chế theo Douglass North (Nobel kinh tế

1993) là những ràng buộc mà con người tạo ra để định hướng cho những tương tác

giữa người với người. Thể chế là những “luật chơi trong một xã hội”. Nếu chúng làm

tốt thì sẽ khích lệ con người hành động theo hướng tạo ra những kết quả tốt đẹp và

ngược lại. Những luật chơi này bao gồm những thể chế chính thức (như pháp luật,

quyền sở hữu, cách thức tổ chức quyền lực nhà nước…) và những thể chế phi chính

thức (như những tục lệ, truyền thống, và chuẩn mực ứng xử trong xã hội). North cho

rằng, những thể chế không chính thức cũng rất quan trọng, chúng có ảnh hưởng đối với

56

sự thành công hay thất bại của những thể chế chính thức [49]. Hay như quan điểm của

Thorstein Veblen, “thể chế là tính quy chuẩn của hành vi hoặc các quy tắc xác định

hành vi trong những tình huống cụ thể, được các thành viên của một nhóm xã hội chấp

nhận và tuân thủ” [2]. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2003 coi thể chế là

những quy tắc và tổ chức, gồm cả các chuẩn mực không chính thức, phối hợp hành vi

con người. Hệ thống chuẩn mực không chính thức bao gồm từ lòng tin và các giá trị xã

hội (trong đó có những chuẩn mực lâu đời chi phối các hành vi xã hội) đến các cơ chế

và mạng lưới phối hợp không chính thức, còn hệ thống thể chế chính thức gồm các đạo

luật, các văn bản quy phạm pháp luật, thủ tục cũng như các chủ thể chịu trách nhiệm xây

dựng, sửa đổi, giải thích và thi hành các luật lệ, quy chế. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF)

hình dung “thể chế là cái tạo thành khung khổ trật tự cho các quan hệ của con người,

định vị cơ chế thực thi và giới hạn của các quan hệ giữa các bên tham gia tương tác;

là ý chí chung của cộng đồng xã hội trong việc xác lập trật tự, những quy tắc, những ràng buộc và các chuẩn mực, giá trị chung được mọi người chia sẻ” [61].

Với cách tiếp cận nêu trên, luận án quan niệm, thể chế thực hiện tự chủ về tổ

chức của TĐHCL (gọi tắt là thể chế) là tổng thể các quy định pháp luật do Nhà nước

ban hành; các quy định nội bộ của TĐHCL để xác lập tư cách pháp lý tự chủ về tổ

chức và cách thức thực hiện tư cách đó, đảm bảo hiệu quả thực hiện mục tiêu, sứ

mạng, tầm nhìn nhà trường và mục tiêu chung của GDĐH Việt Nam.

Ngoài ra, các công cụ về tài chính, về văn hóa tự chủ, chiến lược phát triển

cũng đóng vai trò quan trọng trong thực hiện tự chủ của TĐHCL. Trong số những công

cụ này thì văn hóa tự chủ quyết định tâm thế, thái độ và tính chịu trách nhiệm của từng

thành viên trong thiết chế quản trị, quản lý cũng như trong đơn vị học thuật, đơn vị

phục vụ đào tạo của nhà trường.

* Thiết chế thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

Nguyên lý chung, các thiết chế lãnh đạo, quản lý trong TĐHCL Việt Nam hiện

hành được vận hành theo nguyên tắc, Đảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối về chính trị,

tư tưởng trên cơ sở quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Sự lãnh đạo của

Đảng trong nhà trường thông qua nghị quyết của tổ chức Đảng, được chuyển hóa vào

các nghị quyết của HĐT và không làm giảm hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của HĐT.

Thiết chế HĐT trong TĐHCL lãnh đạo nhà trường với tư cách tổ chức quyền

57

lực cao nhất về quản trị đại học, đại diện cho chủ sở hữu và các bên có lợi ích liên

quan. Các quyết định do HĐT đưa ra vừa phải hài hòa lợi ích các bên theo hướng đa

mục tiêu, vừa phải chuẩn xác để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả, vừa phải có giá trị

liên tục cải thiện môi trường, chất lượng hoạt động của toàn hệ thống tổ chức. Tương

tự, để đạt được yêu cầu có sự tương hợp với sự lãnh đạo cao nhất về phía tổ chức đảng

và tổ chức quản trị TĐH thì thiết chế quản lý của Hiệu trường cùng với bộ máy quản lý

của mình phải đảm bảo thực hiện tốt chức năng tham mưu và tổ chức triển khai thực

hiện nghị quyết của Đảng ủy và HĐT.

Một nguyên lý rất cơ bản khác nhìn từ góc độ của quản lý công về GDĐH là

Nhà nước không thể trao quyền TCĐH cho một cá nhân (Hiệu trưởng) mà phải là cho

một tập thể lãnh đạo. Tập thể này phải thực sự là tổ chức quyền lực cao nhất trong

TĐHCL. Do đó, từ phương diện tổ chức TĐHCL, việc quản trị và quản lý hoạt động

GDĐT cần có hai thiết chế song song tồn tại là HĐT (để lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng,

chiến lược, tầm nhìn) và Hiệu trưởng (để quản lý, điều hành việc thực hiện định hướng,

chiến lược, mục tiêu, kế hoạch và tầm nhìn phát triển nhà trường đã được xác định).

HĐT thực quyền trong quản trị nhà trường và Hiệu trưởng thực quản lý hiệu quả các

hoạt động GDĐT của nhà trường được xác định là yếu tố cấu thành của một mô hình tự

chủ lý tưởng về tổ chức của các TĐHCL tại Việt Nam hiện nay.

Để đạt được điều này, HĐT cần bao gồm những người được bầu chọn, đại diện

cho các nhóm lợi ích khác nhau từ trong và ngoài TĐHCL, có liên quan đến hoạt động

GDĐH của nhà trường. HĐT được hình thành, duy trì và phát triển dựa trên quan hệ

bình đẳng về vị trí, quyền và nghĩa vụ, có cơ chế ra quyết định tập thể bằng nghị quyết

để quyết định những vấn đề quan trọng của TĐHCL. Chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai

trò, mối quan hệ và các vấn đề khác liên quan đến vận hành HĐT theo quy định của

pháp luật về GDĐH và quy chế tổ chức, hoạt động của TĐHCL. HĐT là cầu nối giữa

chủ sở hữu cộng đồng với nhà trường để đồng hành cùng Hiệu trưởng, người giữ vai

trò cầu nối giữa HĐT và mọi thành viên trong nhà trường.

Thiết chế Hiệu trưởng được thiết kế theo cấu trúc tập quyền, đan xen giữa các

quan hệ thứ bậc hành chính và quan hệ quản lý chuyên môn học thuật, tổ chức, nhân

sự, tài chính, tài sản, có đặc trưng là sự hiện hữu của quyền tự chủ và TNGT của cá

58

nhân các nhân sự trong cơ cấu của đơn vị thuộc tổ chức TĐHCL.

Ngoài hai thiết chế trên, trong hệ thống bộ máy của một TĐHCL thực hiện tự

chủ về tổ chức, vai trò của các đơn vị thuộc trường có ý nghĩa quyết định đối với quá

trình tổ chức triển khai thực hiện các quyết định của HĐT và Hiệu trưởng tới từng đơn

vị và mỗi cá nhân liên quan. Về mọi phương diện, đây là bộ phận có chức năng quản lý

trực tiếp tại cơ sở và trực tiếp chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả thực hiện tự

chủ của tổ chức nhà trường. Trong hệ thống quản trị TĐH, đơn vị chuyên môn và đơn

vị chức năng thuộc trường đóng vai trò là bộ phận không thể thiếu của cả hệ thống

TCĐH, bởi đó là nơi tạo ra năng lực và sức sống cho tổ chức trường đại học vận hành

theo cơ chế TCĐH.

* Nội dung thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

Nội dung hàng đầu đối với thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL là việc

tự chủ về xây dựng hệ thống thể chế nội bộ, trong đó văn bản mang tính chất là “Hiến

pháp” của TĐHCL chính là quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường. Cùng với

quy chế này, ở phương diện thực hiện tự chủ về tổ chức bộ máy, các TĐHCL còn phải

ban hành Quy chế hoạt động của HĐT. Hai văn bản pháp lý quan trọng này là sự thể

chế hóa và cụ thể hóa các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về TCĐH nói

chung, thực hiện tự chủ về tổ chức nói riêng vào điều kiện cụ thể của từng TĐHCL.

Nội dung thứ hai đối với thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL là tự quyết

đinh về cơ cấu tổ chức bộ máy của nhà trường; cơ cấu lao động; vị trí việc làm trong

phạm vi nội bộ của trường. Đối với TĐHCL, đây là một trong số nội dung thực hiện tự

chủ về tổ chức quan trọng được chủ thể quản lý trực tiếp phân cấp, ủy quyền cho tổ

chức TĐHCL theo quy định pháp luật hiện hành.

Một trong số nội dung thực hiện tự chủ về tổ chức quan trọng khác mà

TĐHCL được phân cấp là tự quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong cơ sở GDĐH

công lập, phù hợp với quy định của pháp luật. Đứng ở góc độ thực hiện tự chủ về tổ

chức bộ máy thì đó là quyền tự chủ liên quan đến việc xác định nhân sự cho HĐT và

người đại diện trước pháp luật của TĐHCL là Hiệu trưởng.

Riêng với nhóm TĐHCL đã tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư thì

việc thực hiện tự chủ về tổ chức còn bao gồm việc quyết định thành lập, tổ chức lại,

giải thể các đơn vị thuộc và trực thuộc trường theo Đề án tự chủ đã được cơ quan có

59

thẩm quyền phê duyệt, trên cơ sở bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và đáp

ứng các tiêu chí, điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật hiện hành về tự chủ

tổ chức của đơn vị sự nghiệp công lập.

* Hình thức thực hiện tự chủ về tổ chức

Hình thức thực hiện tự chủ về tổ chức là cách thức thể hiện ra bên ngoài những

nội dung của hoạt động tự chủ mà TĐHCL được giao trong lĩnh vực tổ chức bộ máy.

Nét đặc trưng của hình thức thực hiện tự chủ về tổ chức là những hình thức pháp lý liên

kết chặt chẽ với nhau trên cơ sở sự thống nhất của việc thực thi các chức năng thuộc

lĩnh vực tổ chức bộ máy của TĐHCL. Hình thức thực hiện tự chủ về tổ chức của

TĐHCL bao gồm:

Thứ nhất, ban hành quy chế tổ chức và hoạt động để điều chỉnh mọi mặt hoạt

động GDDT của nhà trường theo quy định pháp luật hiện hành và chức năng, nhiệm vụ

được giao. Cùng với đó, TĐHCL còn ban hành hệ thống văn bản có tính chất thể chế

nội bộ để điều chỉnh hoạt động quản trị, quản lý tổ chức bộ máy nhà trường (Quy chế

dân chủ cơ sở, Quy chế giảng viên, Quy chế thu chi nội bộ...).

Thứ hai, ban hành văn bản áp dụng quy chế tổ chức và hoạt động của trường,

như quy định về mối quan hệ giữa HĐT - Hiệu trưởng và Đảng ủy.

Thứ ba, áp dụng các biện pháp tổ chức trực tiếp, chẳng hạn như tái cơ cấu tổ

chức bộ máy nhà trường trong điều kiện triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức theo quy

định hiện hành và bối cảnh, điều kiện của từng trường.

Thứ tư, thực hiện các hoạt động có tính chất pháp lý, như thành lập HĐT, lựa

chọn, đề xuất chủ thể quản lý trực tiếp công nhận nhân sự Hiệu trưởng/Chủ tịch

HĐT/thành viên HĐT để bổ nhiệm các nhân sự đã qua quy trình công nhận theo thẩm

quyền của TĐHCL.

* Phương pháp thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

Phương pháp thực hiện quyền tự chủ về tổ chức được hiểu là cách thức tổ chức

thực hiện quyền tự chủ và giải quyết những vấn đề cụ thể phát sinh trong quá trình thực

hiện quyền tự chủ này của TĐHCL. Trong thực hiện tự chủ về tổ chức, TĐHCL có thể

áp dụng những phương pháp khác nhau, như ra quyết định tập thể của HĐT về các vấn

đề quan trọng, cốt yếu liên quan đến tổ chức nhà trường (quyết định về cơ cấu, thành

phần, số lượng thành viên HĐT; ban hành Tuyên bố về mục tiêu, sứ mạng, tầm nhìn,

60

giá trị cốt lõi của trường...). Tương tự, việc thực hiện tự chủ về tổ chức cũng hoàn toàn

có thể thông qua quyết định của Hiệu trưởng đối với ban hành kế hoạch công tác hàng

năm của trường sau khi có ý kiến đồng thuận của HĐT. Hoặc thực hiện tự chủ về tổ

chức của nhà trường thông qua văn bản giải trình theo quy định của HĐT, Hiệu trưởng

và đơn vị thuộc trường về các quyết định liên quan đến quyền lợi của các chủ thể tham

gia hoạt động GDĐT...

* Nguồn lực và phương thức thực hiện tự chủ về tổ chức

Yếu tố nguồn lực luôn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, vì đó không chỉ phản

ánh năng lực thực tế của TĐHCL trong thực hiện các quyết định liên quan đến lợi ích

và sự phát triển của cả một tổ chức đại học mà còn trực tiếp tác động đến quyền lợi và

sự sinh tồn của nhiều chủ thể liên quan. Nguồn lực để thực hiện tự chủ về tổ chức bao

gồm nguồn lực vật chất (tài chính, nguồn nhân lực, cơ cấu bộ máy phù hợp) và nguồn

lực tinh thần (văn hóa tự chủ).

Cùng với nguồn lực, yếu tố phương thức thực hiện tự chủ về tổ chức có mối

quan hệ chặt chẽ với mô hình tổ chức và quản trị, quản lý TĐHCL trong cơ chế TCĐH.

Vấn đề thiết lập, quản trị, quản lý và vận hành mô hình tổ chức nhà trường theo

phương thức nào thuộc quyền tự chủ của từng trường, nhưng phải trên cơ sở khung

pháp luật chung về TCĐH. Các TĐHCL Việt Nam hiện đang đối diện với những sự lựa

chọn khác nhau trong thực hiện tự chủ về tổ chức, chẳng hạn, thực hiện thực hiện tự

chủ thủ tục hay tự chủ thực chất. “Asbach phân biệt tự chủ về pháp lý (cechtliche

Souvcranitat) và tự chủ vật chất (materielle Souvcranitat). Ông cho rằng, sự tự chủ về

mặt pháp lý ngày càng được khẳng định và củng cố bởi các quy định pháp lý thì tự chủ

về vật chất ngày càng có những biến động phức tạp và trái chiều” [34]. Nhưng dù lựa

chọn theo hướng nào thì tự chủ về tổ chức không thể trở thành rào cản cho sự cải cách

và đổi mới toàn diện hệ thống GDĐH Việt Nam.

* Nguyên tắc thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

Nguyên tắc là tư tưởng chủ đạo và định hướng cơ bản, được thể hiện xuyên

suốt toàn bộ hoặc giai đoạn nhất định của quá trình TCĐH tại Việt Nam, đòi hỏi các

chủ thể QLNN về GDĐH và tổ chức TĐHCL phải tuân theo. Cơ sở xác định hệ nguyên

tắc thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL là các quy định pháp luật, nghị quyết của

61

Đảng và Nhà nước về TCĐH; bản chất mối quan hệ QLNN về GDĐH và quản trị

TĐHCL trong cơ chế TCĐH; yêu cầu hiện thực hóa mục tiêu, chất lượng, hiệu quả của

TCĐH và tự chủ về tổ chức TĐHCL.

- Nguyên tắc thứ nhất: Phân cấp toàn diện về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,

trách nhiệm và quyền lợi, song song với yêu cầu phối hợp hiệu quả trong triển khai

thực hiện tự chủ. Đây là nguyên tắc có ý nghĩa đảm bảo về cơ chế cho việc phân định

rõ không gian tự chủ mà các TĐHCL được thực hiện cũng như nghĩa vụ, trách nhiệm

của cả hai phía Nhà nước và TĐHCL. Nguyên tắc này có giá trị đảm bảo sự minh bạch,

dân chủ trong vận hành cơ chế TCĐH từ các cấp quản lý khác nhau. Cùng với phân

định không gian thực hiện tự chủ về tổ chức giữa TĐHCL và cơ quan quản lý trực tiếp,

nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc minh định quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm giữa các

bên trong quá trình vận hành hệ thống QLNN và hệ thống quản trị TĐHCL. Có như

vậy, khi xuất hiện tình huống, sự kiện có vấn đề (như trường hợp của Trường Đại học

Tôn Đức Thắng) thì việc giải quyết, khắc phục hoặc điều chỉnh cơ chế, chính sách

trong quá trình TCĐH mới kịp thời và hiệu quả.

- Nguyên tắc thứ hai: Tuân thủ thể chế TCĐH hiện hành. Nguyên tắc này giúp

cho việc xác định cơ cấu, chức năng quản trị, quản lý của từng thiết chế cũng như việc

vận hành hoạt động của tổ chức TĐHCL diễn ra thuận chiều, hiệu quả, tương thích với

các mặt tự chủ khác của nhà trường và hệ thống QLNN về GDĐH, góp phần đảm bảo

tính thống nhất, tương đồng về tổ chức và hoạt động của toàn hệ thống GDĐH công lập

trên phương diện chung của nền GDĐH Việt Nam hiện đại. Từ góc độ thể chế, nguyên

tắc này giúp cơ quan QLNN thực hiện tốt hoạt động hậu kiểm đối với chất lượng, hiệu

quả thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL một cách khách quan, tránh chủ quan, áp

đặt hoặc gây áp lực không cần thiết cho hệ thống tổ chức của TĐHCL.

- Nguyên tắc thứ ba: Minh bạch, dân chủ, hài hòa lợi ích của TĐHCL với lợi

ích của Nhà nước và các bên liên quan. Đây là nguyên tắc thể hiện bản chất của cơ chế

HĐT trong TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức. Trong điều kiện bộ máy tổ chức tự

quyết định và tổ chức thực hiện những quyết định liên quan đến lợi ích hợp pháp của

các bên trong hoạt động GDĐT của TĐHCL, nguyên tắc này ràng buộc từng chủ thể

QLNN và quản trị nhà trường có sự công khai về thông tin và cơ chế hoạt động của hệ

62

thống cung cấp dịch vụ công lập về GDĐH cho xã hội, đồng thời tạo thuận lợi để các

chủ thể liên quan thực hiện kênh giám sát mang tính độc lập với các kênh đánh giá,

đảm bảo chất lượng tự chủ của nhà trường hoặc cơ quan QLNN về GDĐH. Không thể

phủ nhận thực tế, khi hệ thống tổ chức của TĐHCL phù hợp và hoạt động hiệu quả, sẽ

khơi dậy và khuyến khích các hoạt động GDĐT phát triển, từ đó tạo ra nguồn vốn trí

tuệ, với ý nghĩa là lợi thế cạnh tranh của một TĐHCL trong thị trường GDĐT hiện đại.

Ngược lại, nó có thể phá hủy các giá trị truyền thống, cốt lõi của trường. Nguyên tắc

này đặt nền tảng lý luận, pháp lý cho việc thực hiện quyền tự chủ đi đôi với đảm bảo

tính công khai, minh bạch, dân chủ hóa trong mọi hoạt động của TĐHCL, hạn chế sự

cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi lạm quyền trong việc ban hành và thực

hiện các quyết định về tổ chức, quản trị, quản lý nhà trường.

- Nguyên tắc thứ tư: Thực hiện tự chủ gắn với TNGT. Thực hiện tự chủ gắn

với TNGT là nguyên tắc thiết lập và đảm bảo thực hiện quyền tự chủ đi đôi với nghĩa

vụ tự chủ, tức vừa chịu trách nhiệm về những quyết định do các thiết chế quản trị,

quản lý đưa ra, vừa phải thông tin, đối thoại và giải thích về tính có cơ sở, luận

chứng, khả thi và hiệu quả thực tế của các quyết định đó. Nguyên tắc này xuyên suốt

quá trình của tự chủ về tổ chức, ràng buộc các trường phải tuân thủ với ý nghĩa vừa là

thước đo năng lực tự chủ thực tế của các thiết chế quản trị, quản lý, vừa là điều kiện

đảm bảo để từng bước mở rộng quyền tự chủ về tổ chức đối với các TĐHCL. Ý nghĩa

của nguyên tắc này nhằm đảm bảo sự phù hợp, khoa học, khách quan trong vận hành

hệ thống tổ chức nhà trường, tránh tác động tiêu cực từ các khâu quản trị, quản lý nội

bộ cho đến kết nối ra bên ngoài với hệ thống cơ quan QLNN về GDĐH và cộng đồng

xã hội.

- Nguyên tắc thứ năm: Thường xuyên đổi mới, cải thiện chất lượng, hiệu quả,

hiện đại hóa hệ thống quản trị, quản lý nhà trường, phù hợp với mô hình GDĐH 4.0.

Không thể phủ nhận thực tế từ những năm 2000 đến nay, tác động to lớn, mạnh mẽ của

cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm cho sứ mạng của đại học trên toàn thế giới, trong đó

có các TĐHCL Việt Nam một sự đổi mới theo hướng tạo ra các giá trị mới, nhờ không

gian đổi mới sáng tạo, liên kết vạn vật, xuyên ngành và học tập mọi nơi. Với nhận diện

đó, mô hình tổ chức TĐHCL phải theo hướng tái cấu trúc và phát triển mới mô hình tổ

63

chức bộ máy quản trị, quản lý của nhà trường, chẳng hạn, tạo lập mô hình quản trị như

doanh nghiệp; mô hình quản trị đại học khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; mô hình liên kết

hiệu quả giữa ba bên là: Trường đại học - Chính phủ - Doanh nghiệp…

2.3.2. Mối quan hệ giữa thiết chế quản trị, thiết chế quản lý và tổ chức Đảng

trong trường đại học công lập ở Việt Nam

Mối quan hệ giữa HĐT và Hiệu trưởng là một trong những vấn đề lý luận căn

bản của thực hiện tự chủ về tổ chức TĐHCL. HĐT lãnh đạo về chiến lược và quản trị

nhà trường thông qua nghị quyết tập thể của HĐT, không tạo ra hệ quả gây áp lực tác

động trực tiếp đến bộ máy quản lý, điều hành của Hiệu trưởng. HĐT chịu trách nhiệm

trước cơ quan QLNN trực tiếp của TĐHCL và trước các bên liên quan về những quyết

định của HĐT nói riêng, của TĐHCL nói chung. Hiệu trưởng có trách nhiệm tổ chức

thực hiện các quyết định của HĐT theo quy định pháp luật và thể chế quản lý nội bộ

nhà trường. Hiệu trưởng chịu trách nhiệm trước tập thể HĐT về hoạt động quản lý,

điều hành nhà trường của mình và chịu trách nhiệm trước cơ quan QLNN trực tiếp theo

quy định pháp luật. Ranh giới thẩm quyền lãnh đạo, quản trị của HĐT và thẩm quyền

quản lý, điều hành của Hiệu trưởng chính là giới hạn phạm vi chức năng, nhiệm vụ của

từng thiết chế. Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi thiết chế này dựa trên cơ

sở quan hệ cộng sự, phối hợp, bình đẳng, nhưng phải tuân thủ cơ chế giám sát và đánh

giá phù hợp, do chính TĐHCL tự xây dựng chứ không theo quan hệ hành chính mệnh

lệnh trên - dưới. Sự độc lập của hai cơ chế HĐT và Hiệu trưởng được bảo đảm bởi quy

định của luật GDĐH hiện hành và quy chế tổ chức, hoạt động của mỗi TĐHCL. Do

đặc tính nêu trên mà vị trí Chủ tịch HĐT và Hiệu trưởng không thể do cùng một người

đảm nhiệm. Việc một cá nhân kiêm nhiệm đồng thời vị trí Chủ tịch HĐT và Hiệu

trưởng tất yếu dẫn đến trạng thái “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, trái với bản chất của HĐT là

cơ chế để thực hiện vai trò chống lạm quyền, chống sự thiếu dân chủ, thiếu minh bạch

trong hoạt động của bộ máy tổ chức TĐHCL khi đã được Nhà nước chuyển giao, phân

cấp, ủy quyền quản lý nhà trường. HĐT phải luôn là cơ chế có đủ năng lực để thay mặt

Nhà nước, thay mặt cộng đồng sở hữu của các bên liên quan thực hiện quyền lựa chọn,

đánh giá, giám sát hiệu quả hoạt động của Hiệu trưởng và bộ máy của nhà trường.

Ở Việt Nam, cơ chế hoạt động của HĐT và Hiệu trưởng liên quan đến tổ chức

Đảng trong các TĐHCL. Trong quan hệ lãnh đạo của Đảng ủy và HĐT thì sự lãnh đạo

64

của Đảng ủy là lãnh đạo toàn diện về chính trị, tư tưởng bên trong tổ chức TĐHCL

theo chức năng, nhiệm vụ được giao, theo quy định của Điều lệ Đảng Cộng sản Việt

Nam. Đảng ủy lãnh đạo HĐT cũng như hệ thống quản lý của Hiệu trưởng thông qua

Nghị quyết của Đảng ủy. Đảng ủy (đứng đầu là Bí thư Đảng ủy) chính là đại diện sự

lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng tại TĐHCL, giữ vai trò trung tâm trong việc lãnh đạo

về tư tưởng và chiến lược đối với hoạt động quản trị của HĐT và hoạt động quản lý

điều hành của Hiệu trưởng.

Bên cạnh sự lãnh đạo của Đảng ủy, sự lãnh đạo của HĐT là lãnh đạo của cơ

quan quyền lực cao nhất trong TĐHCL đối với các thiết chế bên trong và mối quan hệ

với bên ngoài. Việc phân định sự lãnh đạo của HĐT và tổ chức Đảng trong TĐHCL

được thực hiện theo hướng, Đảng ủy tạo ra sự hỗ trợ cho những quyết định đúng đắn

cũng như góp phần ngăn chặn quyết định không phù hợp của HĐT, từ đó tạo sự đồng

thuận cao trong nhà trường. Còn HĐT là một thiết chế quyền lực cao nhất, đưa ra

những quyết định quan trọng đối với sự phát triển của nhà trường trên tư cách pháp lý

của chủ thể quản trị hoạt động GDĐT của nhà trường. Nhiệm vụ trọng tâm của HĐT là

xây dựng chính sách, kế hoạch tổng thể, sử dụng chính sách làm công cụ để quản trị

nhà trường theo chủ trương của Đảng ủy. Các chính sách mà HĐT xây dựng bao gồm

hai loại là các mục tiêu cuối cùng cần đạt được và các giới hạn không được phép vượt

qua khi điều hành.

Trong thành viên của HĐT có sự tham gia của Bí thư Đảng ủy với tư cách

thành viên đương nhiên. Vị trí Bí thư Đảng ủy là cơ cấu nhân sự đại diện của tổ chức

Đảng tại HĐT, có trách nhiệm thông báo chủ trương, nghị quyết của Đảng ủy đối với

HĐT, với tính chất bảo đảm để nghị quyết của Đảng ủy được thực thi một cách đầy đủ

trước tiên bởi HĐT.

Từ nhận thức lý luận này, hiện có hai xu hướng để các TĐHCL lựa chọn mô

hình Chủ tịch HĐT. Xu hướng thứ nhất, Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch HĐT. Xu

hướng thứ hai, ba vị trí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐT và Hiệu trưởng do ba nhân sự

độc lập đảm nhiệm. Mỗi phương án thiết kế đều có điểm mạnh và hạn chế. Chẳng hạn,

ở phương án thứ nhất, việc tập trung quyền lãnh đạo toàn diện về chính trị, tư tưởng và

quyền lãnh đạo cơ quan quyền lực cao nhất của TĐHCL vào một vị trí nhân sự tạo

được sự thống nhất cao ở cấp lãnh đạo cao nhất từ cả hai phương diện, tổ chức đảng và

65

chính quyền, góp phần giảm thiểu sự phối hợp không hiệu quả giữa cơ cấu quản trị và

tổ chức Đảng. Nhưng mặt trái của cơ cấu này là tiềm ẩn sự lạm quyền khi đồng thời cả

hai bộ phận quyền lực tối cao của tổ chức Đảng và tổ chức quản trị nhà trường tập

trung vào một vị trí nhân sự. Với cơ cấu sử dụng nhân sự độc lập tại ba vị trí, điểm

mạnh là phát huy tối đa trí tuệ, năng lực, giá trị cống hiến của từng nhân sự cấp cao

trong trường, nhưng điểm hạn chế là nguy cơ về một sự phối hợp thiếu hiệu quả của ba

vị trí trong quá trình lãnh đạo, quản trị, quản lý trường. Vì vậy, dù là thiết kế hệ thống

quản trị, quản lý tổ chức nhà trường theo phương án nào thì yêu cầu cơ bản vẫn là các

thiết kế bên trong hệ thống tổ chức TĐHCL phải thể hiện được “năng lực tạo ra và duy

trì một cơ chế “đối trọng” để định hướng, quản trị và kiểm soát tốt nhất chất lượng,

hiệu quả mọi hoạt động giáo dục - đào tạo của nhà trường, đặt trong mối quan hệ với

những thiết chế điều hành khác, nhằm đáp ứng yêu cầu của tự chủ đại học” [60]. Sự

đối trọng này phải tuyệt đối không tạo thành sự đối lập, không thống nhất trong nhận

thức và hành động giữa HĐT với phần còn lại của cả hệ thống tổ chức TĐHCL. Giá trị

thực tế của sự đối trọng là để tạo ra vị thế cân bằng giữa quyền tự chủ và TNGT của

TĐHCL, đảm bảo dân chủ và minh bạch hóa mọi hoạt động của trường mà cộng đồng

xã hội và pháp luật đòi hỏi. Đó cũng nhằm hài hòa hóa lợi ích các bên trong môi trường

GDĐH, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của TĐHCL tại thị trường đào tạo đại

học trong nước, khu vực và quốc tế. Nó cũng góp phần kiến tạo và duy trì năng lực

cạnh tranh về thương hiệu TĐHCL với các cơ sở đào tạo đại học khác. Do đó, HĐT

tiềm ẩn hoặc dẫn đến sự đối kháng với các thiết chế khác của TĐHCL đều phải được

nhận diện là sự biến dạng về cơ chế hoạt động, phải kiên quyết loại bỏ ngay từ những

bước đi đầu tiên.

2.3.3. Vai trò của thực hiện tự chủ về tổ chức trong mối tương quan với thực

hiện các mặt tự chủ khác của trường đại học công lập ở Việt Nam

Tự chủ đại học của TĐHCL được thực hiện trên bốn mặt hoạt động cơ bản, đó là:

(1) Tự chủ về hoạt động chuyên môn học thuật, được hiểu là quyền của

TĐHCL tự quyết định các vấn đề liên quan đến nội dung học thuật, nghiên cứu khoa

học, giảng dạy (như tự chủ trong hoạt động tuyển sinh; tự chủ trong xây dựng và tổ

chức thực hiện chương trình đào tạo; tự chủ trong áp dụng mô hình đào tạo, đảm bảo

chất lượng đào tạo; tự chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ; hoạt động hợp tác

66

trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật...).

(2) Tự chủ về tổ chức là quyền tự quyết định của TĐHCL trong việc đưa ra các

quyết định về cơ cấu tổ chức và cơ chế ra quyết định về cách thức vận hành hệ thống

quản trị, quản lý tổ chức bộ máy và nguồn lực bên trong của TĐHCL.

(3) Tự chủ về nhân sự là quyền tự quyết định của TĐHCL trong việc tuyển

dụng, sử dụng, bố trí số lượng, cơ cấu trí việc làm và áp dụng chế độ đãi ngộ đối với

nguồn nhân lực của nhà trường.

(4) Tự chủ về tài chính và tài sản là quyền tự quyết định của TĐHCL trong

quản lý, phân bổ, huy động và sử dụng nguồn tài chính, tài sản một cách độc lập, minh

bạch, phù hợp với quy định pháp luật.

Về mọi phương diện, các mặt thực hiện tự chủ nêu trên của TĐHCL có mối quan

hệ biện chứng với nhau, trong đó, tự chủ thực hiện nhiệm vụ học thuật đóng vai trò nền

tảng để xác định mục tiêu, sứ mạng và tầm nhìn phát triển nhà trường. Dù phải đảm

bảo việc phát triển hài hòa tạo sự cân đối, thống nhất cần thiết cho toàn hệ thống giáo dục

quốc gia, nhưng về căn bản, chỉ có chính từng TĐHCL mới hiểu rõ sứ mạng, tầm nhìn

và định hướng phát triển của riêng nhà trường. Để trở thành TĐH theo định hướng nghiên

cứu, ứng dụng hay phối hợp cả nghiên cứu, ứng dụng thì quyền tự chủ trong hoạt động

chuyên môn học thuật sẽ quyết định sự lựa chọn của mỗi nhà trường. Sự lựa chọn đó ảnh

hưởng trực tiếp đến cơ cấu, mô hình tổ chức, quản trị, quản lý TĐHCL. Và ngược trở

lại, một cơ cấu tổ chức bộ máy phù hợp với hệ thống nguồn lực và mô hình, phương

thức quản trị, quản lý tiên tiến hiện đại là điều kiện tiên quyết để thực hiện sứ mạng,

tầm nhìn đó. Chính vì vậy, thực hiện tự chủ về tổ chức và nhân sự có ý nghĩa quyết

định đối với tính chất, chất lượng và hiệu quả của tự chủ thực hiện nhiệm vụ chuyên

môn về học thuật. Yếu tố con người luôn là yếu tố quyết định đối với sự thành công và

phát triển chung cho bất kỳ một tổ chức bộ máy nào và TĐHCL, cũng không là ngoại lệ.

Với một tổ chức đại học, có tư cách pháp nhân độc lập thì quyền tự chủ về tài

chính, tài sản là điều kiện đảm bảo về nguồn lực vật chất khi thực hiện nhiệm vụ

chuyên môn học thuật và tổ chức, nhân sự. Sự đảm bảo này một phần quan trọng

chứng tỏ năng lực thực tế của TĐHCL trong việc tự quyết định các mặt hoạt động

GDĐT và quản trị đại học. Song, so với tự chủ về tổ chức, nhân sự và chuyên môn học

thuật thì tự chủ về tài chính và tài sản không hoàn toàn có ý nghĩa quyết định đến việc

67

một TĐHCL có được Nhà nước giao quyền TCĐH hay không. Cơ sở lý luận của

TCĐH là xuất phát từ bản chất mối quan hệ QLNN giữa Nhà nước và cơ sở GDĐH

công lập về GDĐH và tư cách pháp lý của một tổ chức đại học công lập.

Từ nhận diện nêu trên cho thấy, việc xác định vị trí và vận hành không phù hợp

các mặt của TCĐH, ví dụ, ưu tiên tự chủ về tài chính cao hơn các mặt tự chủ khác, nhất là

đối với thực hiện tự chủ về tổ chức hoàn toàn có khả năng ảnh hưởng không tích cực tới hệ

thống quản trị nội bộ của nhà trường. Hiện nay, đối với cơ chế TCĐH ở Việt Nam, thước

đo mức độ, quy mô, phạm vi, năng lực tự chủ của TĐHCL vẫn đang căn cứ một phần khá

lớn vào mức độ tự lo về tài chính (chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển) để được Nhà

nước cho phép mở rộng tương ứng quyền tự chủ về thực hiện nhiệm vụ chuyên môn học

thuật và tự chủ về tổ chức, nhân sự. Thực tế này cần được sớm khắc phục, bởi thực chất,

phần cơ bản nhất của cơ chế tự chủ về tài chính đối với một cơ sở GDĐH công lập luôn

gắn với nguồn thu từ học phí và thu từ hoạt động đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu xã hội.

Do đó, hầu hết các TĐHCL đều tập trung vào giải pháp tăng nguồn thu sự nghiệp từ

nguồn thu học phí đối với người học để bảo đảm tự chủ 100% về chi thường xuyên. Việc

thực hiện tự chủ tài chính của các TĐHCL như hiện nay nếu tiếp tục kéo dài có khả năng

làm thay đổi bản chất tự chủ của TĐHCL, bởi so với TĐH tư thục, phần khác biệt thực

tế chủ yếu chỉ liên quan đến tài sản ban đầu là cơ sở vật chất mà Nhà nước đầu tư xây

dựng cho hệ thống các TĐHCL. Do đó, nếu TĐHCL hoàn toàn tự lo về tài chính và tài

sản thì cơ chế tự chủ về tài chính ắt sẽ đến thời điểm không có sự khác biệt giữa hệ

thống GDĐH công lập và tư thục. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng, sẽ không phù hợp

khi coi cơ chế tự chủ về tài chính đồng nhất với cơ chế tự lo về tài chính của TĐHCL.

Trên phương diện quản lý công, tổng nguồn thu của trường (phần của Nhà nước cấp và

phần huy động từ xã hội và người học…) với tư cách một tổ chức đại học công lập, có

tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, chịu trách nhiệm trước pháp luật thì

nhà trường có quyền tự chủ và chịu trách nhiệm trong sử dụng hiệu quả nguồn lực tài

chính theo quy định chung của Nhà nước và quy chế của trường, nhằm đạt được mục

tiêu phát triển và nâng cao chất lượng GDĐT. Quyền tự chủ về tài chính này của

TĐHCL không tất yếu dẫn đến việc Nhà nước hoàn toàn không còn trách nhiệm trong

việc đảm bảo cung cấp phần kinh phí quan trọng cho hoạt động của TĐHCL.

Việc TĐHCL phải “đánh đổi” quyền tự chủ về tổ chức, nhân sự và học thuật

68

bằng việc tự lo hoàn toàn về tài chính, tài sản (như thời gian qua ở Việt Nam) chính là

sự bất cập trong tư duy về TCĐH. Việc các TĐHCL thực hiện tự chủ về tài chính theo

cơ chế tự lo để chứng minh cho năng lực tự chủ của nhà trường là chưa phù hợp với

mối quan hệ biện chứng giữa các mặt TCĐH của TĐHCL. Ngay đối với các cơ sở

GDĐH được Nhà nước bao cấp 100% kinh phí thì trong quá trình hoạt động thực tế,

các trường đó vẫn cần phải xây dựng một cơ chế tự chủ về tài chính phù hợp và hiệu

quả, đồng bộ với tự chủ về thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và tự chủ về tổ chức, nhân

sự với tư cách là một đơn vị có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.

Sức ép tài chính hiện nay đối với hoạt động tự chủ của các TĐHCL về bản chất

đang chuyển từ Nhà nước sang TĐHCL và người học. Điều này vô hình chung trở

thành rào cản lớn của việc đẩy nhanh tiến độ tự chủ đối với các TĐHCL ở Việt Nam.

Như vậy, khi thực hiện TCDH thì điều quan trọng đối với mỗi TĐHCL là phải tiếp cận

và vận hành hợp lý các mặt của TCĐH.

2.3.4. Điều kiện để đảm bảo việc thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại

học công lập ở Việt Nam

Vấn đề điều kiện để đảm bảo cho việc thực hiện tự chủ về tổ chức đối với

TĐHCL cần được nhận diện từ hai phương diện là các điều kiện khách quan và điều

kiện chủ quan.

* Điều kiện về khách quan (liên quan đến bộ/ngành QLNN về GDĐH và các

Bộ trực tiếp quản lý TĐHCL)

Điều kiện thứ nhất, cần có sự thống nhất giữa nhận thức và hiệu quả thực hiện

chính sách, quy định pháp luật về tự chủ tổ chức của TĐHCL. Điều kiện này có ý

nghĩa quan trọng nhằm dần loại bỏ khoảng cách giữa cấp đề xuất, ban hành chính sách,

quy định pháp luật về tự chủ tổ chức của TĐHCL với cấp áp dụng và thực hiện các

chính sách, quy định pháp luật đó. Việc một bộ phận không nhỏ những chủ thể trực

tiếp đảm nhiệm chức năng QLNN về GDĐH nhận thức không theo kịp sự phát triển

của thể chế TCDH hiện hành đang là một thực tế. Điều này gây trở ngại cho không ít

TĐHCL. Đây được xác định là mặt trái của sự thay đổi cơ chế vận hành mối quan hệ

giữa Nhà nước và TĐHCL trong QLNN về GDĐH. Việc TĐHCL ngày càng được tự

quyết định các vấn đề về tổ chức bộ máy của mình khó tránh khỏi có mâu thuẫn với

thẩm quyền của chủ thể quản lý trực tiếp, vốn tồn tại suốt cả một thời gian dài trong cơ

69

chế quản lý bao cấp của Nhà nước về GDĐH. Nhận thức chưa theo kịp sự phát triển

của thể chế TCĐH hiện hành xét ở một góc độ nhất định cho thấy, việc chậm đổi mới

trong nhận thức nêu trên không khỏi có liên quan đến những lợi ích phát sinh trong vận

hành quyền lực công của quản trị nhà nước về GDĐH. Chính vì vậy, thay đổi nhận

thức của cả hệ thống QLNN về GDĐH để cặp nhật và phù hợp với cơ chế thực hiện tự

chủ về tổ chức của TĐHCL cũng chính là để loại bỏ lực cản trở việc triển khai thực

hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL trong thời gian tới.

Điều kiện thứ hai, cần có sự đồng bộ, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả của thể

chế điều chỉnh việc thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL. Đến thời điểm hiện tại,

các quy định pháp lý chuyên ngành điều chỉnh TCĐH, trong đó có thực hiện tự chủ về

tổ chức đã có những rà soát, sửa đổi, bổ sung căn bản liên quan đến xử lý các vấn đề

phát sinh trong thực tiễn thực hiện tại các TĐHCL, nhưng trên bình diện tổng thể, vẫn

còn những rào cản, trở ngại về thể chế. Vai trò của thể chế được xác định là điều kiện

tiên quyết để TĐHCL có thể hiện thực hóa quyền tự chủ của mình về tổ chức bộ máy,

do vậy, chừng nào thể chế liên quan (như Luật công chức, viên chức, Luật Ngân sách,

Luật đầu tư công, Luật lao động…) cùng với những quy định của Đảng về công tác cán

bộ chưa có sự thống nhất với thể chế chuyên ngành thì sự thực chất trong tự chủ về tổ

chức của TĐHCL vấn còn trở ngại trong thực tiễn thực hiện.

Điều kiện thứ ba, cần đổi mới quản trị nhà nước về GDĐH. Điều kiện này gắn

với nghĩa vụ công khai, minh bạch và thực thi TNGT của Nhà nước trong GDĐH.

Nghĩa vụ đó xuất phát từ học thuyết về chủ quyền nhân dân (thể hiện ở quyền của nhân

dân được tham gia “kiểm soát” quyền lực nhà nước) và những nguyên tắc cơ bản của

Nhà nước - Pháp quyền. Nhà nước khi cung cấp dịch vụ công cho xã hội thông qua các

định chế dịch vụ công lập của mình không thể không chịu sự giám sát của người dân

đối với chất lượng, hiệu quả của các dịch vụ đó. “Công khai và minh bạch là việc cơ

quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm công bố, cung cấp, thông tin chính thức về văn

bản, về tổ chức và hoạt động hoặc về các nội dung có liên quan trong việc thực hiện

nhiệm vụ một cách rõ ràng, ngay tình, trung thực” [40]. Với cách tiếp cận như vậy thì

đối với hệ thống quản lý công của bộ/ngành chức năng về GDĐH, TNGT trong hoạt

động QLNN về GDĐH vừa là trách nhiệm trong quản trị nhà nước và thực hiện các

dịch vụ công, vừa là trách nhiệm xã hội của chính Nhà nước trước người dân và xã hội

70

về hoạt động QLNN liên quan tới lợi ích chung của cộng đồng cũng như của toàn xã

hội. Công khai, minh bạch, thực hiện TNGT trong tổ chức và hoạt động của hệ thống

QLNN về GDĐH cũng là một phần cơ chế hoạt động của Chính phủ liêm chính, kiến

tạo, phát triển, phục vụ người dân và là điệu kiện cơ bản để bảo đảm cho TĐHCL có

thể thực hiện việc tự chủ về tổ chức một cách thực chất.

Điều kiện thứ tư, cần tăng cường năng lực, hiệu lực, hiệu quả công tác chỉ

đạo, điều hành của Chính phủ và công tác phối hợp liên bộ/ngành để chỉ đạo, kiểm tra,

giám sát, hỗ trợ TĐHCL triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức. Hiện nay, TCĐH tuy

không phải là vấn đề mới nổi lên trong vận hành hệ thống QLNN về GDDH nhưng lại

là vấn đề pháp lý, quản lý công mới được triển khai rộng rãi trên toàn hệ thống GDĐH

công lập Việt Nam. Vì vậy, việc thống nhất trong cách tiếp cận và chỉ đạo triển khai

thực hiện thể chế tự chủ về tổ chức cho các TĐHCL là vô cùng cần thiết để loại bỏ tình

trạng cùng là quy định pháp luật về HĐT, về Quy chế tổ chức và hoạt động của trường,

về thực hiện TNGT… theo Luật số 34, nhưng các trường lại thực hiện khá khác nhau

do các bộ/ngành có sự khác nhau trong chỉ đạo, điều hành. Cùng với đó, sự chỉ đạo

quyết liệt, kịp thời nhưng khoa học, thống nhất từ Chính phủ xuống tới các bộ/ngành

chức năng cũng như sự phối hợp ăn ý, hiệu quả, kịp thời giữa các bộ/ngành về đẩy

mạnh TCĐH tại các TĐHCL cũng góp phần đảm bảo để các trường khẩn trương thực

hiện các công việc cần phải làm trong thực hiện tự chủ về tổ chức, nhất là việc thành

lập, kiện toàn HĐT và rà soát, sửa đổi, hoàn thiện về thể chế quản trị, quản lý nội bộ,

vốn là điều kiện tiên quyết để thực hiện TCĐH ở Việt Nam.

* Điều kiện về chủ quan (liên quan đến TĐHCL)

Một là, phải thành lập HĐT. Đây là yêu cầu tiên quyết và cơ bản về cơ cấu tổ

chức bộ máy đối với một TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức. Điều kiện này thể hiện

sự cam kết của TĐHCL về tính minh bạch, hiệu quả trong vận hành hệ thống quản trị,

quản lý nhà trường. Điều kiện này đảm bảo có sự phân định rõ ràng thẩm quyền quản

trị và quản lý TĐHCL, tránh chồng chéo giữa hai quyền này nhằm đảm bảo việc thực

hiện các mặt TCĐH theo đúng mục tiêu, tính chất của từng lĩnh vực hoạt động tự chủ.

Thời gian qua, không ít HĐT đã khiến các bên liên quan đến TĐHCL và ngay chính

nhà trường có tâm lý nghi ngờ về tính hiệu lực, hiệu quả của HĐT. Vì vậy, điều kiện

71

đã thành lập HĐT cần được các TĐHCL trên cơ sở đánh giá, xem xét lại hiệu quả

hoạt động (đối với các trường đã thành lập HĐT trước khi Luật số 34 có hiệu lực) và

tổ chức nghiên cứu thực sự bài bản, khoa học để thành lập lại và thành lập mới (đối

với các trường chưa có HĐT theo đúng tiêu chuẩn, tiêu chí của thể chế hiện hành).

Hai là, ban hành và tổ chức thực hiện Quy chế tổ chức và hoạt động; Quy chế

tài chính; quy chế, quy trình, quy định quản lý nội bộ khác. Đối với thực hiện tự chủ về

tổ chức, đây là điều kiện cốt yếu. Trong thể chế TCĐH hiện nay, các vấn đề liên quan

đến tổ chức và vận hành tổ chức bộ máy TĐHCL đã căn bản được giao cho nhà trường,

như việc thành lập, tổ chức và hoạt động của thiết chế HĐT, Hiệu trưởng, các đơn vị

trực thuộc, mối quan hệ giữa các thành tố trong tổ chức nhà trường đều được xác định

bởi hệ thống thể chế nội bộ của TĐHCL. Do đó, điều kiện này vừa để chứng minh

năng lực thể chế của nhà trường, vừa đảm bảo để việc thực hiện tự chủ về tổ chức tuân

thủ quy định pháp luật chung và quy định nội bộ của nhà trường.

Ba là, xây dựng cơ chế thực hiện phân cấp tự chủ về tổ chức từ HĐT, Hiệu

trưởng xuống tới các đơn vị thuộc trường. Đây là điểm rất mới trong thể chế TCĐH

hiện nay (thuộc nội dung điều kiện thực hiện TCĐH đối với các TĐHCL theo Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH năm 2012) [37], là công việc thuộc quyền tự

chủ về tổ chức của các TĐHCL. Về pháp lý, đây là điều kiện mang tính bắt buộc trong

thực hiện tự chủ về tổ chức mà các trường phải thực hiện. Về lý luận và thực tiễn, điều

kiện này nhằm thay đổi tư duy, nhận thức của chính từng đơn vị cơ sở và từng cá nhân

khi coi TCĐH chỉ là công việc liên quan đến hoạt động quản trị, quản lý cấp trường.

Cần có sự nhận thức chung rằng, TCĐH liên quan đến lợi ích của từng cá nhân, đơn vị,

thiết chế trong hệ thống tổ chức nhà trường. Do đó phải sớm xây dựng và trang bị tâm

thế sẵn sàng, chủ động trong thực hiện quyền tự chủ đối với mọi cấp, mọi đơn vị và cá

nhân trong nhà trường TĐHCL để từ đó tạo nền tảng vững chắc cho việc xây dựng văn

hóa tự chủ trong TĐHCL.

Bốn là, thực hiện TNGT của TĐHCL từ cấp quản trị, quản lý cao nhất xuống

đến từng đơn vị trực thuộc và từng cá nhân trong nhà trường. Về phương diện lý luận,

TNGT trước các chủ thể liên quan theo quy định của pháp luật hiện hành là mặt thứ hai

của TCĐH và thực hiện tự chủ về tổ chức, “Theo một từ điển chuẩn mực trong tiếng

Anh (Oxford American Dictionari and Thesaurus, 1996. P. 12), “trách nhiệm giải trình” có

72

thể được hiểu như một từ đồng nghĩa với việc “chịu trách nhiệm, có thể trả lời được, có

thể giải thích được, hiểu được, nắm được và có thể diễn giải được”. Trách nhiệm giải

trình có vai trò rất quan trọng, vì nó góp phần làm sáng tỏ không những hiện trạng mà

cả sự phát triển của giáo dục đại học” [31]. Xét về bản chất thì TNGT là nghĩa vụ của

TĐHCL cung cấp và làm sáng tỏ những thông tin cho các bên có quyền lợi liên quan

đến hoạt động GDĐT của nhà trường hoặc những bên có khả năng bị ảnh hưởng bởi

những hoạt động GDĐT mà trường đang thực hiện. Xét về cơ cấu TNGT thì TĐHCL

có TNGT bên trong và TNGT bên ngoài. TNGT đối với bên ngoài là nghĩa vụ của

TĐHCL đối với những chủ thể hỗ trợ và đóng góp kinh phí, nguồn lực cho nhà trường,

còn TNGT bên trong là nghĩa vụ đối với mức độ, chất lượng, hiệu quả hoạt động của

các bộ phận khác nhau trong hệ thống tổ chức bộ máy của trường. Xét về nội dung của

TNGT thì TĐHCL có nghĩa vụ làm sáng tỏ, minh bạch hóa cơ chế TCĐH của nhà trường

trong thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính và tài sản.

Về căn bản, nội hàm TNGT theo hai phương diện cơ cấu và nội dung chính là nghĩa vụ

của TĐHCL báo cáo, làm sáng tỏ với các chủ thể liên quan về cách thức và hiệu quả của

việc sử dụng nguồn lực của trường vào các hoạt động GDĐT đạt chất lượng và phù hợp

với quy định pháp luật. Trong quản trị đại học hiện đại, TNGT của TĐHCL có thể được

tiếp cận theo nguyên lý 360 độ, tức giải trình hướng lên; giải trình hướng xuống; giải

trình hướng nội; giải trình hướng ngoại. Hướng lên là việc giải trình mang tính hành chính,

pháp lý và quy trình (là giải trình của Hiệu trưởng đối với HĐT và giải trình của HĐT

với chủ thể quản lý trực tiếp theo quy định pháp luật; giải trình của các đơn vị thuộc

trường với HĐT và Hiệu trưởng theo Quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường).

Hướng xuống là việc giải trình của thiết chế quản trị, quản lý với nhân sự trong trường,

như với viên chức, người lao động). Hướng nội là việc giải trình liên quan đến cách các

giảng viên, nhà khoa học, viên chức nhà trường thực hiện trách nhiệm, đạo đức nghề

nghiệp. Hướng ngoại là việc giải trình mang tính chất của sự đáp ứng với thị trường lao

động, việc làm và xã hội từ phía TĐHCL. Tất cả các hướng giải trình này phải cơ bản

đáp ứng các tiêu chí về sự phù hợp, công bằng, khả năng hồi đáp, đối thoại và gây dựng

lòng tin đối với cơ chế giải trình của TĐHCL. Và quan trọng hơn, việc thực thi TNGT

của TĐHCL phải gắn liền với đảm bảo chất lượng hoạt động GDĐT của nhà trường.

Việc thực hiện TCĐH với gốc lý luận là quyền tự do học thuật đều liên quan và

73

gắn chặt với từng cá nhân người dạy, người học, với từng cấp quản trị, quản lý nguồn

nhân lực trong nhà trường. Tự chủ về tổ chức theo cả hai phương diện quyền tự chủ và

nghĩa vụ thực thi quyền tự chủ trong các mối quan hệ bên trong và bên ngoài TĐHCL

không phải là công việc/thẩm quyền của riêng cấp quản trị, quản lý. Quyền và nghĩa vụ

thực hiện TCĐH và tự chủ về tổ chức phải được bắt đầu từ từng cá nhân, từng đơn vị

cơ sở trực thuộc TĐHCL. Thực hiện sự tự chủ và giải trình các quyết định liên quan đến tổ

chức nhà trường, số phận, địa vị pháp lý của từng con người, từng bộ phận trong hệ

thống tổ chức của từng TĐHCL phải được công khai, minh bạch và dân chủ hóa đến từng

cá nhân, đơn vị của nhà trường. Đây là tiêu chí/điều kiện để đánh giá năng lực/khả

năng vận hành hệ thống tổ chức/hệ thống quản trị, quản lý TĐHCL theo cơ chế TCĐH, do

vậy nó phải được hiện thực hóa vào thể chế quản trị, quản lý của các nhà trường.

Năm là, chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống quản trị đại học phù hợp

với mục tiêu, sứ mạng, tầm nhìn và đặc thù của nhà trường. Đối với sự phát triển của

một TĐHCL tự chủ về tổ chức, đây là một trong số điều kiện quyết định sự thành công

của thực hiện TCĐH trong điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế và cách mạng công

nghiệp 4.0. Những nguyên lý quản trị một tổ chức đại học hiện đại cần phải sớm được

thiết lập, như nguyên lý đa chiều đồng thuận; trao quyền hạn, trách nhiệm tới tận đơn

vị thuộc trường và từng cá nhân; tạo lập nhà trường là một hệ thống tự quản và coi

trọng tính tích cực, hữu ích của từng cá nhân trong tập thể… Cùng với đó, phát triển hệ

thống quản trị đại học thông minh, hiệu quả là sự lựa chọn tất yếu đối với mỗi nhà

trường. Muốn có hệ thống quản trị đại học thông minh, hiệu quả thì hệ thống tổ chức

bộ máy nhà trường cũng phải được tái cơ cấu theo hướng rà soát, sắp xếp, cấu trúc thực

sự khoa học, thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường GDĐH trong nước

và quốc tế. Nâng cấp về chất lượng, hiệu quả vận hành hệ thống quản trị đại học của

TĐHCL đặt ra yêu cầu cấp thiết về sử dụng, phát triển nguồn lực đào tạo, nguồn nhân

lực và nguồn lực vật chất khác; về phát triển kỹ năng quản trị nhà trường tiên tiến; về

ứng dụng tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và cách mạng công nghiệp 4.0 vào quản trị hệ

thống tổ chức bộ máy nhà trường.

Sáu là, đổi mới quản trị đại học phải gắn với kiểm soát, cải thiện chất lượng,

hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy nhà trường. Đối với các TĐHCL Việt Nam

hiện nay, đây chính là yêu cầu trọng tâm nhằm tạo sự bứt phá trong thực hiện tự chủ về

74

tổ chức. Từ nhiều năm qua, số lượng các TĐHCL quan tâm, đầu tư và tích cực tham

gia cơ chế kiểm định, đánh giá, xếp hạng chất lượng cơ sở GDĐH chưa tương xứng với

yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Chính vì vậy, việc đổi mới hệ thống quản trị đại học tại

TĐHCL phải đi liền với đầu tư mạnh cho kiểm định, đánh giá chất lượng tổ chức TĐH

vì điều này có ảnh hưởng và tác động trực tiếp tới hình ảnh, thương hiệu đào tạo của

một TĐHCL trên thị trường đào tạo trong nước và quốc tế.

2.3.5. Yếu tố tác động đến hiệu quả thực hiện tự chủ về tổ chức của trường

đại học công lập

Về căn bản thì hiệu quả thực hiện tự chủ về tổ chức là kết quả hoạt động tự chủ

của các thiết chế/đơn vị/bộ phận thuộc/trực thuộc cơ cấu tổ chức bộ máy của TĐHCL

đối với chức năng, nhiệm vụ được giao và theo quy định pháp luật hiện hành. Có nhiều

yếu tố tác động đến kết quả này, như yếu bên trong và bên ngoài; yếu tố trực tiếp và

gián tiếp; yếu tố chủ yếu và thứ yếu... Tổng hợp các yếu tố đó có thể nhận thấy có

những yếu tố chủ yếu tác động đến hiệu quả thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL:

Thứ nhất, đặt trong mối quan hệ với chủ thể quản lý tực tiếp TĐHCL thì đó

chính là yếu tố về năng lực, chất lượng của nền hành chính, thể hiện ở sự kết hợp hài

hòa các yếu tố thể chế chung về phân cấp, ủy quyền của chủ thể quản lý cho TĐHCL

trực thuộc; tổ chức bộ máy của chủ thể chủ quản; chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

thực hiện chức năng QLNN và nguồn lực tài chính công dành cho TĐHCL. Đây là yếu

tố có ảnh hưởng đa chiều đến hiệu quả thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL, bởi

yếu tố này có thể tạo ra động lực hoặc ngược trở lại, trở thành rào cản từ cơ chế

bộ/ngành chủ quản đối với quá trình tổ chức thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

(như đã phân tích về bản chất mối quan hệ phân cấp, ủy quyền của Nhà nước đối với

TĐHCL trong tự chủ về tổ chức ở Việt Nam tại mục 2.2.3 của luận án).

Thứ hai, yếu tố nội dung, phương thức lãnh đạo của thiết chế quản trị (HĐT)/

quản lý (Hiệu trưởng)/tổ chức cơ sở đảng (Đảng ủy) của TĐHCL; mô hình quản trị/

quản lý phù hợp; sự tham gia, phối hợp của các đơn vị/bộ phận thuộc trường/tổ chức

chính trị - xã hội trong nhà trường; cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát hợp lý,

hiệu quả giữa các thiết chế/đơn vị/tổ chức có liên quan trong nhà trường. Có thể nói,

đây là yếu tố thuộc nội lực bên trong của tổ chức TĐHCL, được xác định là yếu tố căn

75

bản, chủ yếu, tác động trực tiếp và có tính quyết định đến hiệu quả thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL. Hoạt động tự chủ về tổ chức của TĐHCL là hoạt động chịu sự chi

phối, tác động của rất nhiều yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và khi một yếu tố

thay đổi sẽ gây ra sự thay đổi của các yếu tố khác. Một sự phân công hợp lý trong nội

bộ hệ thống tổ chức, với xác định nhiệm vụ rõ ràng cho các thiết chế/đơn vị khác nhau

sẽ tạo được sự điều hoà, phối hợp cần thiết, nhằm bảo đảm thực hiện được mục tiêu

tổng thể của thực hiện tự chủ về tổ chức. Tương tự, hệ thống tổ chức TĐHCL luôn là

một chỉnh thể và mỗi một bộ phận là một phần của hệ thống đó. Cả hệ thống chỉ hoạt

động tốt khi mỗi bộ phận vừa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, vừa phối hợp tốt với

các bộ phận khác để hoàn thành được mục tiêu chung. Hơn thế nữa, khi cơ cấu tổ chức

hợp lý sẽ tránh được sự chồng chéo, vướng mắc, dễ dàng phối hợp, điều chỉnh công việc trong thực hiện nhiệm vụ và còn có thể tiết kiệm thời gian cũng như nguồn lực.

Thứ ba, sự tham gia/ủng hộ/đồng thuận của cộng đồng sư phạm/người học/

người sử dụng sản phẩm giáo dục đào tạo/xã hội đối với sứ mệnh, tầm nhìn và giá trị

cốt lõi của nhà trường. Nằm trong tổng thể chung của những yếu tố tác động đến thực

hiện TCĐH của TĐHCL, yếu tố này có tác động trực tiếp, lâu dài, thường xuyên đến

hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa tự chủ, văn hóa giải trình và trách nhiệm xã

hội của các bên liên quan đến hoạt động GDĐT của TĐHCL. Yếu tố này có giá trị là

chất keo gắn kết các chủ thể/các bộ phận/thiết chế của TĐHCL trong các mối quan bên

trong và bên ngoài nhà trường, đồng thời cũng là yếu tố góp phần làm nên thương hiệu

cho một tổ chức đại học hiện đại.

2.4. Kinh nghiệm thực hiện tự chủ về tổ chức của trƣờng đại học tại một

số quốc gia trên thế giới và hàm ý cho các trƣờng đại học công lập ở Việt Nam

2.4.1. Cách tiếp cận đối với tự chủ đại học và thực hiện tự chủ về tổ chức

của trường đại học công lập tại một số quốc gia trên thế giới

Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, TCĐH là một hệ giải pháp có cấu trúc

chặt chẽ nhằm cải thiện môi trường giáo dục để nâng cao chất lượng GDĐH. Bản thân

sự tự chủ không phải là một bảo đảm về chất lượng cao và ngược lại, không tự chủ thì

cũng không có nghĩa là ngăn trở các cải cách đối với GDĐH. Song, TCĐH luôn là

hướng đi tốt và thuận lợi cho các cải cách về GDĐH ở nhiều quốc gia. Theo “Magna

Charta Universitatum” - Đại Hiến chương các trường đại học (gọi tắt là Hiến chương),

“Trường đại học là một tổ chức tự chủ, ở vị trí trung tâm của các xã hội khác nhau bởi

76

địa lý và di sản lịch sử” [61]. Hiến chương khuyến cáo các quốc gia và các TĐH không

nên nhầm lẫn tự chủ với chủ quyền. Còn theo quan điểm các học giả châu Âu: “Trong

một môi trường cởi mở, cạnh tranh và biến động, tự chủ là điều kiện tiên quyết để các

trường đại học có thể đáp ứng nhu cầu thay đổi của xã hội và chịu hoàn toàn trách

nhiệm về sự đáp ứng đó” (Ủy ban Châu Âu 2005) [55]. Tuy nhiên, khi đề cập đến

những vấn đề gây tranh luận là tự chủ hoàn toàn hay không hoàn toàn, nhất là liên quan

đến tự chủ về tổ chức, các quan điểm cũng lưu ý đến một cách tiếp cận có tính chất

“đơn giản hóa và nguy hiểm” về tự chủ, đó là khi mà TCĐH lại được hiểu chỉ gồm hai

thái cực: Một là “Nhà nước kiểm soát hoàn toàn và không có tự chủ” và hai là “tự chủ

hoàn toàn và không có kiểm soát của Nhà nước” (Henkel 2007, tr. 96). Cả hai trạng

thái này về TCĐH đều không phù hợp với bản chất của TCĐH, bởi tự chủ mang tính

tương đối trong mối quan hệ giữa Nhà nước và TĐHCL. Tự chủ là chiến thắng, nhưng

không phải một lần và mãi mãi. “Tự chủ cần được hiểu là sự thương thuyết liên tục để

xác định tư cách của TĐH, là một quá trình chứ không phải là một đích đến” (Feel và

Glanz 2004, tr.39).

Có một thực tế ở nhiều quốc gia hiện nay, Nhà nước vẫn đang giữ lại cho mình

nhiều thẩm quyền, cho nên khoảng không gian tự chủ trong việc quản trị nội bộ dành

cho các TĐHCL tất yếu bị hạn chế so với mong muốn của các trường. Tình trạng Nhà

nước thiết kế trong luật chuyên ngành những quy định pháp luật liên quan đến các phần

việc cụ thể trong TCĐH của trường theo hướng quá chi tiết, cụ thể thường dẫn đến hệ

quả là thể chế điều chỉnh tự chủ nhanh chóng bị lạc hậu và có độ chênh đáng kể so với

thực tiễn. Điều này vô hình chung dẫn đến QLNN đối với TĐHCL thay vì hỗ trợ lại trở

thành lực cản với các trường, từ đó khó tránh khỏi việc làm giảm hiệu quả GDĐH.

Cũng do vậy mới có xu hướng đòi giao quyền tự chủ nhiều hơn cho các trường và buộc

Nhà nước phải xem xét, cân nhắc lại đâu là thẩm quyền thực sự nên thuộc về Nhà nước

và đâu là những thẩm quyền cần giao cho TĐHCL. Mặt khác, trong thực tiễn giải quyết

giao quyền tự chủ cho TĐHCL ở một số nước trên thế giới còn liên quan đến quan

điểm của “Lý thuyết ủy quyền” [54]. Điểm cốt yếu của lý thuyết này là để xem xét mối

quan hệ giữa Nhà nước và TĐHCL có thể được hình dung như cách ứng xử giữa các

chủ thể pháp luật trong một thỏa thuận hợp đồng, được thiết lập giữa bên ủy quyền (là

Nhà nước) và bên được ủy quyền (là TĐHCL). Điều mà các nhà nghiên cứu lý thuyết

77

này quan tâm là mối quan hệ giữa Nhà nước và TĐHCL có được thực hiện từ đầu đến

cuối hay không và các bên được ủy quyền có thực hiện các hành động cần thiết để tạo

ra kết quả mà bên ủy quyền mong đợi không (Moe 1984; Waterman & Meier 1998). Lý

thuyết ủy quyền còn phân tích hai vấn đề chính trong mối quan hệ giữa bên ủy quyền

và bên được ủy quyền là hoàn toàn có thể xảy ra xung đột về mục tiêu giữa bên ủy quyền

và bên được ủy quyền cũng như quan ngại về việc tồn tại thực tế không cân xứng về

thông tin cần nắm bắt và trao đổi giữa đôi bên, nhằm phục vụ cho yêu cầu QLNN đối

với TĐHCL. Do vậy, Kivistö (2005) đã lưu ý rằng ”tính chất vừa muốn lại vừa không

muốn, dai dẳng nhưng vẫn đang tiếp diễn của mối quan hệ ràng buộc giữa các chính

phủ và trường đại học rất phức tạp và đa chiều” (Jacobs và Van Der Ploeg, 2006) [54].

Cũng do bản chất bên ủy quyền là Nhà nước khó có thể kiểm soát đầy đủ mọi thông tin

và vấn đề thuộc hoạt động của TĐHCL nên việc bất cân bằng giữa mục tiêu chung của

Nhà nước với mục tiêu hoạt động GDĐH của nhà trường là hoàn toàn khó có thể tránh

khỏi. Vì vậy, Nhà nước cần TĐHCL phải có cơ chế công khai tính chịu trách nhiệm đối

với mọi hoạt động của trường trước Nhà nước và xã hội dưới hình thức TNGT.

Trong bối cảnh GDĐH hiện đại, các Chính phủ đã có thay đổi mạnh mẽ về quy

mô, cơ cấu, sắp xếp tài trợ và trọng tâm của TĐHCL để từng trường có thể giải quyết

tốt hơn nhu cầu của xã hội và cạnh tranh như các tổ chức có lợi nhuận trên thị trường

toàn cầu (Ansell 2008; Mạng lưới đổi mới đại học toàn cầu 2009; Jongbloed 2000b;

Jongbloed và Vossensteyn 2001). Trong thị trường cạnh tranh ngày nay, với sự nhấn

mạnh vào năng suất, Chính phủ yêu cầu các TĐH có năng suất kinh tế và hoàn thành

các mục tiêu được nêu trong kế hoạch chiến lược của Chính phủ (Lane & Kivistö

2008). Vì Chính phủ cung cấp cho TĐH nguồn tài chính từ thuế của người dân nên

cũng yêu cầu các bên được ủy quyền là TĐH phải đảm bảo có đầu ra có lợi và công

khai, minh bạch thông tin cho xã hội (Leruth, Paul & Premowder 2006). Có nhiều vấn

đề khác nhau từ tự chủ, TNGT, quản trị, áp lực thị trường đến việc thiếu vốn đã trở

thành tâm điểm trong các cuộc thảo luận về mối quan hệ giữa Chính phủ và TĐH

(Mạng lưới đổi mới đại học toàn cầu 2009; Kivistö 2005, 2008; Lane & Kivistö 2008).

Tiếp cận kinh nghiệm quốc tế trong thực hiện tự chủ về tổ chức của các

TĐHCL thường gắn với vấn đề mô hình quản trị đại học. Trong các mô hình tự chủ

hiện nay trên thế giới, có thể lưu ý hai mô hình cơ bản, đó là mô hình kiểu doanh

78

nghiệp (corporate model), thường được gọi là mô hình Anh - Mỹ và mô hình dịch vụ

dân sự (civil service model). Với mô hình theo kiểu doanh nghiệp, các cơ sở GDĐH

được quản lý như các công ty. Mỗi trường có một HĐT quyết định sứ mạng và định

hướng chiến lược của trường; phê duyệt ngân sách; chỉ định nhân sự quản lý cao cấp

như Hiệu trưởng, để Hiệu trưởng xây dựng bộ máy quản lý của mình. Còn ở mô hình

dịch vụ dân sự, các cơ sở GDĐH là những cánh tay đắc lực của Chính phủ, được bộ

chủ quản quản lý giáo chức là công chức, nhà trường chỉ khác các bộ phận khác của

Chính phủ là được cung cấp cơ chế để đảm bảo tự do học thuật. Theo mô hình này, các

bộ ngành quyết định về việc bổ nhiệm Hiệu trưởng, phân bổ ngân sách theo hạng mục,

phê duyệt cấu trúc chương trình, quá trình thi cử… Mặc dù vậy, nhà trường vẫn được

trao quyền tự do học thuật theo các cách thức khác nhau. Các mô hình hiện nay ở

Trung Quốc, Nhật Bản và nhiều quốc gia ở Đông Nam Á có thể được xem là các mô

hình “lai” của một hoặc hai mô hình trên [69].

Đối với một số quốc gia trong khu vực ASEAN, vấn đề triển khai đổi mới mô

hình tổ chức và hoạt động của TĐHCL theo hướng tự chủ đã được đề cập khá sớm so

với Việt Nam. Chẳng hạn, theo thông tin trong bài viết “Tự chủ đại học trong giai

đoạn chuyển đổi mô hình trường đại học: Kinh nghiệm của một số đại học trên thế giới và

hàm ý cho Việt Nam” của hai tác giả Đinh Văn Toàn và Hoàng Thị Cẩm Thương (Đại

học Vinh) [70] ngay từ năm 2005, chính phủ Singapore đã chấp thuận các Đại học

National University of Singapore (NUS), Nanyang Technological University (NTU) và

Singapore Management University trở thành các “Đại học tự chủ” theo đề nghị của

Ban Chỉ đạo Tài trợ, quản trị và TCĐH (University Autonomy, Governance and Funding

Steering Committee). Đây là quyết định có tính chiến lược được đưa ra từ phía Chính

phủ với mục tiêu nhằm thúc đẩy việc tạo ra sự khác biệt và định hướng chiến lược

riêng dựa trên thế mạnh của mỗi TĐH để đạt đến sự xuất sắc về học thuật và khởi

nghiệp. Hiện nay, hai trường này vẫn là hai trường hàng đầu của Quốc đảo Sư tử và

châu Á. Nhấn mạnh từ góc nhìn tự chủ về tổ chức thì đây là hai trường hoạt động theo

mô hình trường đại học khởi nghiệp với cơ chế doanh nghiệp phi lợi nhuận. Cùng với

tự chủ về tài chính, tự chủ về tổ chức bộ máy là yếu tố quyết định cho phép các trường

này trở nên linh hoạt hơn trong điều hành và tạo ra những bước đột phá trong khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo. Cũng theo hai tác giả nêu trên, một đơn cử khác về tự chủ tổ

79

chức TĐHCL mang lại thành công cho nhà trường là trường hợp của TĐH Twente

(UT), vốn dĩ là một trong 13 TĐHCL đầu tiên tại Hà Lan. Sau hơn 50 năm, hiện UT

được đánh giá là trường có mức độ khởi nghiệp cao nhất ở Hà Lan. UT tuyên bố sứ

mệnh là “trường đại học khởi nghiệp” (entrepreneurial university). Với cơ chế tự chủ

về tổ chức và quản trị, UT trao quyền chủ động hoàn toàn cho mỗi khoa, đơn vị trực

thuộc nhà trường trong triển khai các hoạt động. Điều này đã thúc đẩy các đơn vị thành

viên phát huy năng lực học thuật và nâng cao trách nhiệm trong tự chủ tài chính hiệu

quả. Hội đồng quản trị chỉ có 5 thành viên đều là bên ngoài. Chủ tịch được bổ nhiệm

bởi Bộ trưởng (dựa trên số liệu của 3 trường đại học Hà Lan). Tương tự, tại Na Uy, Hội

đồng quản trị có 11 thành viên (7 nội bộ và 4 bên ngoài) do Bộ trưởng chỉ định. Đây là

một trong những kinh nghiệm quốc tế mà các TĐHCL Việt Nam đang cần có để tái

thiết hệ thống tổ chức và quản trị tự chủ.

Ở Nhật Bản, ngay từ năm 2003, Nhà nước đã thông qua Luật Tập đoàn Đại học

Quốc gia, ghi nhận việc tất cả các TĐH quốc gia của nước này được tự chủ theo luật

định, với nhiều quyền lực hơn được giao cho Hiệu trưởng và HĐT. Còn ở Hàn Quốc,

GDĐH luôn được đánh giá là có đóng góp to lớn cho phát triển kinh tế đất nước. Khác

với nhiều quốc gia trên thế giới, “hệ thống GDĐH của Hàn Quốc được vận hành chủ

yếu bởi khu vực tư nhân. Các TĐH tư chiếm tới 85% tổng số TĐH” [30, tr. 80]. Thực

tế này cho thấy một ví dụ khá khác biệt, đó là vai trò của Nhà nước với tư cách là bên

cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực GDĐH khá thấp, nhưng không đồng nghĩa với

việc Nhà nước mất đi vai trò quản lý GDĐH của mình. Thay vì tác động, kiểm soát

trực tiếp các nhà trường, Nhà nước phát huy chức năng đảm bảo luật chơi trên thị

trường, tạo cơ hội và môi trường cho cạnh tranh trong thị trường dịch vụ GDĐH, nhất

là thông qua việc đảm bảo các tiêu chuẩn về chất lượng của dịch vụ GDĐH.

Ở Trung Quốc, khi bước vào cơ chế thị trường thì Nhà nước đã nhanh chóng

áp dụng chính sách và cơ chế trao quyền tự chủ cho các TĐHCL. Phân cấp và tự chủ

được luật hóa trong Luật chuyên ngành từ năm 1998. Phạm vi và nội dung tự chủ mà

nhà nước trao cho các TĐHCL khá toàn diện và điểm đáng chú ý là “các khoa trong

từng trường cũng được quyền tự chủ quyết định các vấn đề liên quan đến giảng dạy,

nghiên cứu, nhân sự và phân bổ tài lực” [30, tr. 83]. Tại nhiều trường, Chính phủ cho

phép TĐHCL được tự chủ hoàn toàn trong cơ cấu các đơn vị thuộc trường, nhưng vị trí

80

Chủ tịch/ Giám đốc/ Hiệu trưởng vẫn thuộc quyền quyết của Chính phủ.

Vương quốc Anh có mô hình quản trị kép với một Hội đồng khoa học và một

HĐT. HĐT là một cơ quan độc lập (thường có khoảng 25 thành viên) nhưng thường

bao gồm các nhân viên học thuật và đại diện sinh viên. Quyền hạn chính xác và thẩm

quyền ra quyết định cho mỗi cơ quan quản lý được quy định chi tiết trong điều lệ của

TĐH hoặc bởi Đạo luật cải cách giáo dục.

Tại Thụy Điển, Hội đồng Quản trị có đa số thành viên bên ngoài đến từ doanh

nghiệp, chính quyền địa phương, người trong ngành; thông thường 8 trong số 15 thành

viên hội đồng quản trị là bên ngoài. Hơn nữa, Chủ tịch Hội đồng quản trị cũng là một

thành viên bên ngoài được chỉ định bởi Chính phủ và không được thuê bởi TĐH.

Đối với tự chủ về lựa chọn người đứng đầu của TĐHCL ở châu Âu thì khá đa

dạng. Hiệu trưởng/quản lý điều hành của trường được chỉ định/lựa chọn bởi HĐT

hoặc được lựa chọn bởi cơ quan học thuật kiểu Hội đồng khoa học là hai cách tiếp

cận phổ biến như nhau. Tại 7 quốc gia, trong đó có Vương quốc Anh, Ireland, Đan

Mạch và Thụy Điển, quy trình chọn lọc được thực hiện bởi HĐT (thường bao gồm

các thành viên bên ngoài). Còn ở những quốc gia khác, như Pháp, Hungary, Slovakia

và Bồ Đào Nha, nhà lãnh đạo của TĐHCL được lựa chọn bởi một cơ quan quản lý

được bầu theo kiểu hội đồng khoa học. Nhìn chung thì ở châu Âu, các Hiệu trưởng/

người đứng đầu điều hành không được bổ nhiệm hoặc lựa chọn trực tiếp bởi các bộ

hoặc cơ quan chính phủ khác.

Về vấn đề tư cách pháp nhân của TĐHCL thì kinh nghiệm của một số nước

cho thấy, đây là khía cạnh quan trọng trong mối quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và nhà

trường. Giao tư cách pháp nhân độc lập cho các TĐHCL là một phương tiện để tăng

TCĐH. Pháp nhân độc lập trong giáo dục có thể thuộc các loại khác nhau. Họ có thể

được thành lập, do đó trở thành một công ty hoặc không hợp nhất. Ở Vương quốc Anh,

các tổ chức GDĐH là những thực thể độc lập, hợp pháp và có khả năng làm từ thiện.

Trường cũng có thể thành lập một công ty riêng (không phải tổ chức từ thiện), sau đó

sẽ chịu trách nhiệm trả thuế cho lợi nhuận của nó (OECD 2008: 70). Kể từ năm 2010,

các TĐHCL ở Phần Lan được coi là doanh nghiệp theo Luật công. Các TĐH cũng có

thể có tư cách Quỹ theo Luật Tư pháp.

Như vậy, nhìn từ góc độ kinh nghiệm của những TĐHCL khác nhau trên thế

81

giới, trong bối cảnh GDĐH hiện đại, Chính phủ các nước đều nhận thức rõ ràng thực tế

là Nhà nước không còn là chủ thể tốt duy nhất nắm toàn quyền về việc vận hành của

từng trường. Nhiệm vụ quản lý đó nên để cho TĐHCL tự lo liệu. Một khi Nhà nước

giao cho TĐHCL quyền tự chủ thì cũng có nghĩa là Nhà nước đã có sự công nhận rằng,

nhu cầu quản lý của từng TĐHCL là rất khác nhau. Tuy nhiên, TĐHCL không thể

được hưởng quyền tự chủ vô giới hạn, mà cần có sự kiểm tra cũng như sự quân bình ở

hai cấp để lợi ích của Nhà nước có thể đạt được và quyền lợi của công dân được bảo vệ.

Liên quan đến thiết chế quản trị đại học thì kinh nghiệm quốc tế cho thấy, có

hai mô hình HĐT mà các TĐHCL trên thế giới đã áp dụng. Mô hình thứ nhất là mô

hình mang tính chất của Hội đồng quản trị và mô hình thứ hai là mô hình gần giống vai

trò của Quốc hội để thực hiện chức năng quyết định những vấn đề quan trọng và chức

năng giám sát. Đa số các TĐHCL ở Hoa Kỳ, châu Âu, Singapore, Thái Lan… đều áp

dụng mô hình này. Ngược trở lại, với một số các quốc gia ở châu Âu, như Cộng hòa

Liên bang Đức thì HĐT hoạt động như vai trò Quốc hội. Nhưng dù theo mô hình nào

thì kinh nghiệm hoạt động của HĐT ở nhiều TĐHCL trên thế giới đều cho thấy, sự cần

thiết phải có HĐT để đảm bảo tính dân chủ trong mọi hoạt động của nhà trường, với sự

tham gia của mọi thành phần trong nhà trường vào quản trị hoạt động giáo dục của

nhà trường. Một kinh nghiệm quan trọng từ thực tiễn quốc tế là tiếng nói của cộng

đồng xã hội đối với các trường thông qua vai trò của các thành viên ngoài trường là

những người có uy tín, kinh nghiệm quản trị nổi bật, giúp cho trường quản trị hệ thống

tổ chức giáo dục của mình gần hơn với đòi hỏi của doanh nghiệp và xã hội.

2.4.2. Những gợi ý đối với thực hiện tự chủ về tổ chức của trường đại học

công lập ở Việt Nam

Thứ nhất, đối với thực hiện tự chủ về tổ chức thì việc rõ ràng trong phân vais

giữa hệ thống cơ quan QLNN về GDĐH và hệ thống quản trị TĐHCL được xác định là

nền móng cơ bản để tạo cơ chế thuận lợi, hiệu quả cho các TĐHCL thực hiện quyền tự

chủ về tổ chức. Sự phân vai này thể hiện qua các tiêu chuẩn, tiêu chí luật định và gần

như không có sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động quản trị nhà trường.

Thứ hai, để thực hiện hiệu quả tự chủ về tổ chức thì vấn đề đổi mới cơ chế, nâng

cao năng lực quản trị và quản lý của tổ chức TĐHCL theo hướng tiến tiến, hiện đại là điều

kiện sống còn. Xây dựng và phát triển văn hóa tự chủ từ cả hai phía Nhà nước và TĐHCL

82

là yếu tố có ý nghĩa to lớn trong việc thay đổi nhận thức và hành động thực tế.

Thứ ba, việc đổi mới mô hình, phương thức quản trị - quản lý tổ chức bộ máy.

Vấn đề này ở Việt Nam thời gian tới gắn chặt với yêu cầu, khả năng thực tế của các

trường trong việc đảm bảo hiện thực hóa các điều kiện để đạt tới sự tự chủ ngày càng

cao hơn về mọi lĩnh vực hoạt động GDĐH của nhà trường, trong đó có tự chủ về tổ

chức. Nền tảng căn bản mà các TĐHCL cần làm là phát triển tầm nhìn; định hướng

đúng mục tiêu; tái cơ cấu tổ chức, quản lý, quản trị, lãnh đạo và đầu tư sâu cho xây

dựng, phát triển văn hóa TCĐH.

Không ít sự lựa chọn dành cho các TĐHCL, chẳng hạn, hiện có những nghiên

cứu đề cập tới mô hình “Đại học khởi nghiệp”. Tổng hợp của tác giả Chang và cộng sự

(2016) cho thấy, trong cơ cấu của đại học khởi nghiệp, các doanh nghiệp và trung tâm

nghiên cứu, hợp tác với ngành công nghiệp là các cấu phần quan trọng để triển khai

hoạt động khởi nghiệp kinh doanh. Các doanh nghiệp thường là công ty được hình

thành từ ý tưởng, kết quả nghiên cứu, sáng tạo trong nhà trường, tiêu biểu là các spin-

off (Farsi và cộng sự, 2012). Bên cạnh đơn vị chuyên môn (khoa, bộ môn) và đơn vị

chức năng (phòng, ban) vốn có của các TĐH truyền thống, đại học khởi nghiệp có các

đơn vị, như văn phòng chuyển giao công nghiệp và vườn ươm khởi nghiệp” [70].

Ngoài mô hình này, nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng mô hình kiểu doanh

nghiệp (corporate model) cũng thường được gọi là mô hình Anh - Mỹ) và mô hình dịch

vụ dân sự (civil service model) (thường được xem là mô hình châu Âu lục địa) [43]

như đã nêu trên. Sự lựa chọn thực tế của các TĐHCL Việt Nam có thể theo những

hướng khác nhau, ví dụ như “mô hình lai ghép” của hai mô hình này.

Thứ tư, thực hiện hiệu quả, hợp lý quan hệ giữa TĐHCL và chủ thể chủ quản/

cơ quan QLNN về GDĐH. “Sự giám sát của Nhà nước có mục đích làm cân bằng trách

nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ và tăng cường lợi ích công với nhu cầu của từng

trường về quyền tự chủ và tự do học thuật” [26]. Cả Nhà nước và TĐHCL cùng những

chủ thể liên quan (người học, người sử dụng sản phẩm đào tạo, cộng đồng xã hội) nên

đều phải hành động một cách năng động, tích cực và quyết đoán để đạt tới đích đến là

đổi mới trạng thái, môi trường, cơ chế, chất lượng GDĐH đúng mục tiêu của toàn hệ

thống GDĐH quốc gia, phù hợp tầm nhìn phát triển TĐHCL và đáp ứng mong đợi của

83

người dân cũng như xã hội.

Kết luận chƣơng 2

Đối với TĐHCL, lý luận của thực hiện tự chủ về tổ chức cốt lõi nằm ở cơ chế

QLNN về GDĐH mang tính chất quản lý vĩ mô và giám sát bằng cách thức hậu kiểm,

tức thông qua quy chuẩn của thể chế và TNGT mà HĐT và các thiết chế chức năng của

TĐHCL thực hiện.

Về phía TĐHCL, quyền tự chủ về tổ chức là sự cân bằng giữa quyền năng tự

thân và thẩm quyền thay thế Nhà nước trong thực hiện chức năng quản trị đại học, đặt

trong tổng thể của cả hệ thống GDĐH Việt Nam. Việc thực hiện song trùng chức năng

quản lý của Nhà nước và chức năng tự chủ về tổ chức của một TĐHCL phải trên cơ sở

điều kiện nhất định. Giải quyết vấn đề đặt ra trong thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức

của TĐHCL hiện nay và trong thời gian tới có mối liên hệ mật thiết với tư duy lý luận

phù hợp về tự chủ tổ chức TĐHCL, đó là:

(1) Tự chủ về tổ chức của TĐHCL quyết định tính hiệu quả và chất lượng các

mặt tự chủ khác của mỗi nhà trường;

(2) Muốn đạt được thực chất trong thực hiện tự chủ về tổ chức thì TĐHCL

phải có cơ cấu hài hòa, phù hợp giữa cấu trúc bên trong và bên ngoài; xử lý hài hòa lợi

ích các bên liên quan trong hoạt động GDĐT. Điều kiện tiên quyết để làm được điều

này là trường phải có cơ cấu tổ chức, quản trị, quản lý tiên tiến, hiện đại, có khả năng

hội nhập cao, thân thiện với thị trường dịch vụ GDĐH và hệ thống QLNN về GDĐH.

(3) Các TĐHCL Việt Nam trong thời gian tới cần quyết liệt vượt qua rào cản

nhận thức lý luận, nhanh chóng hoàn thiện cơ cấu tổ chức, hệ thống quản trị, quản lý

84

nhà trường, đáp ứng yêu cầu từ thể chế TCĐH đã sửa đổi căn bản như hiện nay.

Chƣơng 3

THỰC TIỄN THỰC HIỆN TỰ CHỦ VỀ TỔ CHỨC

CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM

3.1. Hiện trạng chính sách và thể chế thực hiện tự chủ về tổ chức của

trƣờng đại học công lập ở Việt Nam

3.1.1. Về chính sách và thể chế chung

Tại Việt Nam, vấn đề tự chủ của các cơ sở GDĐH công lập đã được đề cập rõ

trong các văn bản của Đảng và Nhà nước. Quan điểm chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị

quyết số 14 NQ-CP ngày 02/11/2005 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học

Việt Nam, giai đoạn 2006 - 2020” (gọi tắt là Nghị quyết 14) là “chuyển các cơ sở giáo

dục đại học công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền

quyết định và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính”.

Tiếp theo Nghị quyết số 14, TCĐH và tự chủ về tổ chức TĐHCL tiếp tục được

đề cập ở một số nghị quyết, như Nghị quyết số 29 của Ban Chấp hành Trung ương tại

Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa XI, ngày 4/11/2013; Nghị quyết số 19/NQ-TW tại

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu, khóa XII ngày 25/10/2017 “Về tiếp tục

đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các

đơn vị sự nghiệp công lập”; Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 của Chính phủ

“Về Chương trình hành động của Chính phủ về thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-TW

ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương

khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”. Đây là những nghị quyết quan trọng về

cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thực hiện TCĐH tại Việt Nam. Riêng

việc thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL, các nghị quyết đều nhấn mạnh:

Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong quá

trình đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, gắn với đổi mới hệ thống

chính trị và cải cách hành chính, đồng thời có lộ trình và bước đi phù hợp,

có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết

85

thực tiễn để kịp thời bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách [14].

Có thể thấy, các nghị quyết của Đảng và Chính phủ đều đã nhất quán yêu cầu

“Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm

tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu

quả; giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công” [14]. Những

nội dung quan trọng này đã được thể chế hóa vào hệ thống quy định pháp luật về TCĐH

và thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL. Từ Luật Giáo dục năm 1998 (sửa đổi, bổ

sung năm 2005) đã có quy định đầu tiên về “tự chủ đại học”, tiếp đó, TCĐH được điều

chỉnh trong nhiều văn bản pháp luật quan trọng khác (Luật số 08/2012/QH13 - Luật

GDĐH năm 2012, gọi tắt là Luật số 08; Điều lệ Trường đại học ngày 10/12/2014 của

Thủ tướng Chính phủ, gọi tắt là Điều lệ năm 2014; Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày

25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ

máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, gọi tắt là Nghị định 43;

Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về quy định cơ chế tự chủ của

đơn vị sự nghiệp công lập”, gọi tắt là Nghị định 16). Về tổng thể, diện mạo của thể chế thực

hiện tự chủ về tổ chức tại Việt Nam trước thời điểm sửa đổi, bổ sung Luật số 08 như sau:

Bảng 3.1: Hiện trạng thể chế thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL ở Việt Nam

(Trước khi Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH năm

2012” - Luật số 34)

Đánh giá chung

Nội dung điều chỉnh Định danh pháp lý về TĐHCL

Luật GDĐH năm 2012 và luật liên quan TĐHCL thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất (Điều 7).

Luật Giáo dục năm 2005 - Do Nhà nước thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên. - Nhà trường thuộc mọi loại hình đều được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước (Điều 48).

Tiếp cận về tư cách pháp lý của TĐHCL theo hướng là tổ chức giáo dục công lập thuộc sở hữu nhà nước, dẫn tới không có sự phân biệt giữa sở hữu nhà nước đối với tài sản đầu tư ban đầu cho TĐHCL và tài sản TĐHCL, các chủ thể liên quan khác tích lũy được qua quá trình phát triển, do đó không phân biệt thẩm quyền, tư cách QLNN đối với tổ chức TĐHCL và tư cách quản trị, quản lý TĐHCL.

86

Đánh giá chung

Nội dung điều chỉnh Hội đồng trường

có giá

cấu

tổ

Luật Giáo dục năm 2005 Được xác định là tổ chức chịu trách nhiệm quyết định về phương hướng hoạt động, huy động và giám sát việc sử dụng các nguồn lực dành cho nhà trường, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục. - Các quyết định của HĐT trị khuyến nghị. - Thủ tục thành lập, cơ chức, quyền hạn và nhiệm vụ cụ thể được quy định lệ trong điều nhà trường (Điều 53).

Luật GDĐH năm 2012 và luật liên quan - Được xác định là tổ chức quản trị, đại diện quyền sở hữu của nhà trường. HĐT có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của thiết chế quản trị TĐHCL thông qua việc ban hành các quyết nghị về những lĩnh vực quan trọng của nhà trường, trong đó bao gồm việc quyết nghị về cơ cấu tổ chức, về việc thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể các tổ chức của TĐHCL. - Chủ tịch HĐT do thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm; tiêu chuẩn của chủ tịch HĐT như tiêu chuẩn của hiệu trưởng; thành viên khác của HĐT bao gồm các thành viên trong và ngoài nhà trường, nhưng không quy định buộc phải có đại diện của người học. - Nhiệm kỳ của hội đồng trường là 05 năm và theo nhiệm kỳ của hiệu trưởng; HĐT làm việc theo nguyên tắc tập thể, quyết định theo đa số. - Các vấn đề liên quan đến thủ tục thành lập, số lượng và cơ cấu thành viên; nhiệm vụ và quyền hạn của HĐT, chủ tịch, thư ký, các thành viên HĐT… được quy định trong Điều lệ nhà trường (Điều 16).

- Xác định bản chất địa vị pháp lý của HĐT là thiết chế quyền lực cao nhất trong TĐHCL, nhưng chưa đại diện cho quyền lợi của mọi chủ thể liên quan đến hoạt động GDĐT của trường vì: + Việc quy định HĐT đại diện cho chủ sở hữu của nhà trường sẽ dẫn đến cách tiếp cận: HĐT không phải là tổ chức đại diện cho lợi ích của người học, xã hội. Điều này không phù hợp, vì người học và xã hội là những bên liên quan trực tiếp, gián tiếp đến hoạt động GDĐT của TĐHCL. + Thành viên tham gia HĐT không có vai trò của người học. - HĐT không thực quyền vì: + Các quyết định của HĐT mang tính quyết nghị mà không có giá trị quyết định. + Việc quyết định các vấn đề quan trọng trong TĐHCL vẫn thuộc thẩm quyền của Hiệu trưởng. - Nhiệm kỳ của Chủ tịch HĐT theo nhiệm kỳ của Hiệu trưởng là trái ngược với bản chất địa vị pháp lý của HĐT và Hiệu trưởng. - Không rõ ràng về vị trí của HĐT trưởng và Hiệu TĐHCL trong hoạt động quản trị, quản lý TĐHCL.

87

Đánh giá chung

Nội dung điều chỉnh Hiệu trưởng

Luật Giáo dục năm 2005 - Địa vị pháp lý: Là người trách chịu nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm hoặc công nhận. - Tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn, thủ tục bổ nhiệm, công nhận Hiệu trưởng do Thủ tướng Chính phủ quy định (Điều 54)

- TĐHCL không được tự quyết định trong việc lựa chọn Hiệu trưởng. Đây là hạn chế đối với thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL Việt Nam. - Không có quy định rõ ràng về mối quan hệ giữa Hiệu trưởng và HĐT, dẫn tới HĐT hoạt động không hiệu quả và không thực quyền. - Thiếu vắng cơ chế kiểm tra, đánh giá của HĐT đối với chất lượng, hiệu quả lý, điều hành nhà quản trường của Hiệu trưởng.

Nội dung thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

Mô hình tổ chức cụ thể của các loại trường đại học do Chính phủ quy định (Khoản 3 Điều 42).

- Nội dung thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL chưa rõ ràng và bị ràng buộc bởi các quy định liên quan đến điều kiện về năng lực (chủ yếu là năng lực tự chủ về tài chính); kết quả xếp hạng và kiểm định chất lượng, nhưng lại bỏ qua điều kiện quan trọng về tổ chức là phải thành lập HĐT. - Không phân biệt rõ khái niệm TNGT và tự chịu trách nhiệm vốn thuộc khái niệm TCĐH.

tổ chức

trực

Luật GDĐH năm 2012 và luật liên quan - Địa vị pháp lý: Là người đại diện cho cơ sở GDĐH trước pháp luật, chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của trường; do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm hoặc công nhận. - Có chức năng ban hành các quy chế, quy định trong trường theo nghị quyết của HĐT; có thẩm quyền quyết định thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể các tổ chức của trường theo nghị quyết của HĐT; bổ nhiệm, bãi nhiệm và miễn nhiệm các chức danh trưởng, phó các tổ chức của TĐHCL. - Tổ chức thực hiện nghị quyết của HĐT. - TĐHCL được tự chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực về tổ chức, bảo đảm chất lượng GDĐH. - Có thể được thực hiện quyền tự chủ ở mức độ cao hơn, phù hợp với năng lực, kết quả xếp hạng và kết quả kiểm định chất lượng giáo dục (Điều 32). - TĐHCL được tự chủ về thành lập mới; về sáp nhập, giải thể các tổ chức sự nghiệp trực thuộc; quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể và quy chế hoạt động của thuộc các (Điều 6, Nghị định số 43). - Kết quả kiểm định chất lượng GDĐH được sử dụng làm căn cứ để thực hiện

88

Đánh giá chung

Nội dung điều chỉnh

Luật Giáo dục năm 2005

Mối quan hệ giữa TĐHCL và Nhà nước về GDĐH

Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục (Điều 12); TĐH được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp theo luật và điều lệ nhà trường về tổ chức bộ máy nhà trường (Điều 60).

Luật GDĐH năm 2012 và luật liên quan quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm (Điều 53). - Về cơ bản như Luật Giáo dục 2005. - Cơ sở GDĐH công lập khi cam kết tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi đầu tư được thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện (Điều 1, Nghị quyết số 77/NQ-CP, ngày 24/10/2014 về “Thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở GDĐH công lập, giai đoạn 2014 - 2017”).

Nội dung QLNN đối với tự chủ về tổ chức của trường đại học công lập

phủ

Nhà nước xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển GDĐH; ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về GDDH; tổ chức bộ máy quản lý GDĐH. thống nhất Chính phủ QLNN về GDĐH, trong đó Bộ Giáo dục và Đào tạo trách nhiệm chịu trước hiện thực Chính QLNN về GDĐH, các chủ thể khác thực hiện QLNN về GDĐH theo phân cấp (Điều 69).

Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục (khoản 6, Điều 99) ban hành điều lệ nhà trường, quy định về tổ chức và hoạt động (khoản 2 Điều 99); Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trước trách nhiệm Chính phủ thực hiện QLNN về giáo dục; Bộ, cơ quan ngang bộ, các chủ thể khác phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện QLNN về giáo dục theo thẩm quyền (Điều 100).

- Trong quan hệ với cơ quan QLNN, nhiều TĐHCL đồng thời phải chịu sự quản lý của hai hệ thống là cơ quan QLNN về GDĐH là Bộ Giáo dục và Đào tạo và cơ quan chủ quản, trong đó thực hiện tự chủ về tổ chức chịu sự quản lý chặt chẽ của cơ chế Bộ chủ quản nên về cơ bản, trừ các TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức theo Nghị Quyết số 77/NQ- CP. Từ góc độ thể chế, thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL Việt Nam là tự chủ trên quy định pháp luật, thiếu hiệu lực thực tế, mặc dù luật đã quy định. - Duy trì song hành hai hệ thống thẩm quyền là thẩm quyền QLNN của cơ quan quản lý chuyên ngành (Bộ Giáo dục và Đào tạo) và thẩm quyền của bộ/ ngành/ địa phương/ tổ chức chủ quản. Đối với TĐHCL, điều này buộc TĐHCL phải chịu sự quản lý, chỉ đạo song song của cả cơ chế quản lý chuyên môn và chủ quản, cản trở không nhỏ sự linh hoạt, kịp thời của các quyết định về quản trị, quản lý nhà trường. - Việc thực hiện tự chủ về tổ chức đối với TĐHCL vẫn chịu tác động lớn của cơ chế bộ chủ quản mà các trường quen gọi là cơ chế “xin - cho”.

89

Tổng hợp các quy định về thực hiện tự chủ tổ chức của TĐHCL giai đoạn

trước khi có Luật số 34, có thể rút ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, tiếp cận của Việt Nam về tư cách chủ sở hữu của Nhà nước đối với

TĐHCL giai đoạn này là chưa phù hợp, do không phân biệt tài sản Nhà nước đầu tư

ban đầu cho TĐHCL (đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, công nghệ…)

với tài sản mà TĐHCL sở hữu được qua quá trình thực hiện TCĐH (học phí; nguồn

tài trợ từ các tổ chức, cá nhân, xã hội; tri thức, công nghệ giáo dục thu được sự đóng

góp của cộng đồng học thuật đến từ các cơ sở giáo dục, tổ chức trong và ngoài

nước...) để được thể chế hóa, đảm bảo sự công bằng, minh bạch và hiệu quả trong

thực hiện TCĐH.

Thứ hai, việc duy trì cơ chế bộ chủ quản làm bó hẹp không gian, nội dung,

cách thức triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL.

Thứ ba, năng lực, điều kiện thực tế của các TĐHCL đang còn nhiều hạn chế,

nhất là liên quan thực quyền của HĐT trong vận hành hệ thống quản trị, đảm bảo để cơ

chế hoạt động của thiết chế này đúng với sứ mạng, tầm nhìn của cơ quan quyền lực cao

nhất trong TĐHCL.

Thứ tư, vấn đề phân cấp, ủy quyền, giải quyết chưa hợp lý mối quan hệ giữa

QLNN về GDĐH và quản trị, quản lý TĐHCL trong điều kiện thực hiện tự chủ về tổ

chức có sự ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả, chất lượng thực hiện tự chủ về tổ chức

của TĐHCL.

Về cơ bản, thuận lợi mà các TĐHCL có được từ thể chế TCĐH và tự chủ về tổ

chức của TĐHCL giai đoạn trước khi Luật 08 được sửa đổi, bổ sung là các chủ trương,

chính sách trong thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL đã được luật hóa, bước

đầu tạo khuôn khổ pháp lý để các TĐHCL có cơ sở rà soát lại hệ thống quản trị, quản

lý theo cơ chế TCĐH. Luật Giáo dục năm 2005 và Luật số 08 đã đặt nền móng cho giai

đoạn phát triển mới về tổ chức bộ máy của các TĐHCL, bước đầu thay đổi căn bản,

toàn diện QLNN về GDĐH và quản trị, quản lý nhà trường. Nhưng bên cạnh những

mặt tích cực nêu trên, hệ thống thể chế thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL

90

thời gian này cũng đã bộc lộ một số hạn chế, cụ thể:

Bảng 3.2: Một số hạn chế của thể chế thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

ở Việt Nam

(Giai đoạn trước khi Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

GDĐH năm 2012 - Luật số 34)

Nguyên nhân của hạn chế

Quy định hạn chế về thể chế

Rào cản trong thực tiễn thực hiện

Không phân định rõ

Tư duy về

Điều 7 (điểm a, khoản 2, Luật số 08).

ràng

thẩm

quyền

QLNN về GDĐH và

Trường đại học công lập

thẩm quyền quản trị, quản lý TĐHCH do đó nhà nước vẫn quyết định mọi hoạt động GDĐT của TĐHCL.

Các quy định gây mâu

thuẫn, không khả thi

Quan niệm HĐT là mô

Điều 16 và Điều 20 của Luật số 08.

về chức năng, nhiệm

hình quản trị

vụ, cách thức tổ chức,

đại học phù

hoạt động của HĐT

hợp với văn

hóa dân chủ

và Hiệu trưởng trong TĐHCL.

và pháp trị phương tây

Tác động đến hiệu quả thực hiện tại các TĐHCL - Thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL mang tính hình thức. - TĐHCL chậm đổi mới về tổ chức, hệ thống quản lý và quản trị nhà trường. - TĐHCL không được tự lựa chọn người đứng đầu hệ thống tổ chức nhà trường. - Số lượng các TĐHCL thành lập HĐT hạn chế, tư duy về tự chủ dừng lại ở cấp lãnh đạo nhà trường. - Thiếu vắng cơ chế hiệu quả để xử lý mối quan hệ giữa thiết chế HĐT và hiệu trưởng. - Thiếu vắng “văn hóa chất lượng” và “văn hóa tự chủ” trong TĐHCL.

Nhận diện

TĐHCL công lập khi

Quan niệm tự chủ tài chính là

không đầy đủ

cam kết tự bảo đảm

điều kiện để Nhà nước giao và

về mối quan

toàn bộ kinh phí hoạt

mở rộng tự chủ về tổ chức dẫn tới

hệ giữa các

động

chi

thường

cả cơ quan QLNN và các

xuyên và chi đầu tư

TĐHCL đều ứng xử với tự chủ

mặt TCĐH trong TĐHCL

Điều 1, Nghị quyết số 77/NQ-CP, ngày 24/10/2014 về “Thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở GDĐH

được thực hiện tự chủ,

về tổ chức theo tinh thần tự chủ

tự chịu trách nhiệm toàn diện.

công lập, giai đoạn 2014 - 2017”.

về tài chính và đầu tư để “đổi lấy” sự nới rộng quyền tự chủ về tổ chức. - TĐHCL dựa dẫm, ỷ lại, không quyết tâm đẩy mạnh việc thực hiện tự chủ về tổ chức nói riêng, TCĐH nói chung.

91

Những hạn chế về thể chế nói trên liên quan đến ba góc độ: Chưa đúng người;

chưa đúng vị trí, vai trò; chưa đúng việc. Luật số 08 và các luật liên quan mới dừng lại

ở mức độ ghi nhận TĐHCL có quyền tự chủ về tổ chức và việc thực hiện các quyền đó

thông qua thiết chế HĐT và Hiệu trưởng. Các quy định pháp luật quy định cơ chế thực

hiện các quyền đó lại chứa đựng những mâu thuẫn, thiếu thống nhất nên đã hình thành

một trạng thái pháp lý thiếu rõ ràng, minh bạch trong cơ chế tổ chức và hoạt động của

hai thiết chế này. Hạn chế về thể chế đó tạo thành vòng luẩn quẩn trong mối quan hệ

giữa TĐHCL và Nhà nước. Cụ thể, khi TĐHCL chưa có HĐT, tức chưa đủ năng lực thì

chưa được Nhà nước giao tự chủ về tổ chức. Khi chưa dược tự chủ về tổ chức thì

TCĐH đối với TĐHCL thực chất là tự chủ nửa vời, dẫn đến dù có HĐT thì cũng không

thực quyền. Nhiều TĐHCL trong thời gian này không muốn có HĐT trong hệ thống tổ

chức, mà nếu có thì sự hiện diện của HĐT lại trở lên quen thuộc với hình ảnh một “Hội

đồng tư vấn cho Hiệu trưởng”, hay còn gọi là “bánh xe thứ năm của cỗ xe lãnh đạo” [28]

bên cạnh bộ tứ Đảng ủy, chính quyền, công đoàn, đoàn thanh niên trong các TĐHCL.

Trạng thái pháp lý này không chỉ xảy ra tại Việt Nam. Thực tế trước đây, “ngay cả các

nước phát triển, thực hiện tự chủ toàn diện cũng đã trải qua quá trình hàng trăm năm

hoàn thiện cơ chế, nâng cao năng lực tự chủ của các trường để đạt được tự chủ toàn

diện và mức độ cao như ngày nay” [66].

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH (Luật số 34/2018/QH14,

gọi tắt là Luật 34) cùng với Nghị định số 99/2019/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật số 34 (gọi tắt là Nghị định 99) và Nghị định số

120/2020/NĐ-CP “Quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công

lập” (gọi tắt là Nghị định 120). Đã có sự sửa đổi, bổ sung căn bản những vấn đề pháp

lý liên quan đến thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL theo hướng đúng người, đúng vị

trí, vai trò và đúng việc. Đúng người được hiểu Nhà nước không quản trị nhà trường

thay cho các TĐHCL. Đúng vị trí, vai trò được nhìn nhận qua cơ chế thực quyền quản trị

của HĐT và thực quản lý hoạt động của bộ máy hành chính - chuyên môn học thuật của

Hiệu trưởng. Đúng việc được tiếp cận theo hướng quy định cơ chế chuyển giao quyền

92

quản trị từ Hiệu trưởng sang HĐT và phân cấp xuống tới các đơn vị thuộc trường,

Bảng 3.3: Hiện trạng thể chế thực hiện tự về chủ tổ chức của TĐHCL

đã được sửa đổi, bổ sung

Vấn đề từ thực tiễn thực hiện

Đánh giá tác động tới thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

Định danh tổ chức TĐHCL

Nội dung cần sửa đổi, bổ sung (Theo Luật GDĐH năm 2012 - Luật số 08 và văn bản pháp luật liên quan) TĐHCL thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất (khoản 2 Điều 7).

Kết quả sửa đổi, bổ sung (Theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH năm 2012 - Luật số 34 và các văn bản pháp luật liên quan) - TĐHCL do Nhà nước đầu tư, bảo đảm điều kiện hoạt động và là đại diện chủ sở hữu (khoản 2 Điều 7). - Trường công lập do Nhà nước đầu tư, bảo đảm điều kiện hoạt động và đại diện chủ sở hữu (khoản 1 Điều 47 Luật số 34). - Bổ sung cam kết của Nhà nước trong việc có chính sách đồng bộ để bảo đảm quyền tự chủ của cơ sở GDĐH gắn liền với TNGT (khoản 5 Điều 12 Luật số 34).

Hội đồng trường

Một số quy định tại nội dung Điều 16, Luật số 34: - HĐT là tổ chức quản trị, thực hiện quyền đại diện của chủ sở hữu và các bên có lợi ích liên quan. - Các quyết định của HĐT có giá trị pháp lý quyết định. - Chủ tịch HĐT do HĐT bầu và được cơ quan quản lý có thẩm quyền ra quyết định công nhận; Chủ tịch HĐT không kiêm nhiệm các chức vụ quản lý trong TĐH.

Một số quy định tại nội dung Điều 16 Luật số 08: - HĐT là tổ chức quản trị, đại diện quyền sở hữu của nhà trường. - Các quyết định do HĐT ban hành có giá trị pháp lý khuyến nghị. - Chủ tịch HĐT do thủ trưởng cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm. - Tiêu chuẩn, nhiệm kỳ của chủ tịch HĐT theo tiêu chuẩn và nhiệm kỳ của hiệu trưởng.

- Bỏ quy định TĐHCL thuộc sở hữu nhà nước đã tạo được sự phân biệt tư cách chủ sở hữu và tư cách quản trị TĐH. - Xác lập tư cách đại diện lợi ích các chủ thể liên quan đến hoạt động GDĐT của TĐHCL. - Tạo cơ sở pháp lý để sửa đổi, bổ sung đồng bộ các quy định pháp luật liên quan trong mối quan hệ với thể chế TCĐH và thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL. - Hài hòa lợi ích các bên liên quan và đảm bảo sự tham gia của các nhóm lợi ích trong HĐT. - Đảm bảo thực quyền quyết định của HĐT với sứ mạng của cơ quan lực cao nhất quyền trong TĐHCL. - Đảm bảo hiện thực hóa quyền tự quyết định về cơ cấu tổ chức và cách thức vận hành hoạt động của hệ thống quản trị, quản lý TĐHCL.

93

Vấn đề từ thực tiễn thực hiện

Đánh giá tác động tới thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

Nội dung cần sửa đổi, bổ sung (Theo Luật GDĐH năm 2012 - Luật số 08 và văn bản pháp luật liên quan)

- Loại bỏ sự bất hợp lý trong tiếp cận về vị trí của chủ tịch HĐT. - Đảm bảo thực hiện tự chủ thực chất về tổ chức của TĐHCL.

Kết quả sửa đổi, bổ sung (Theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH năm 2012 - Luật số 34 và các văn bản pháp luật liên quan) - Bãi bỏ quy định về tiêu chuẩn, nhiệm kỳ của Chủ tịch HĐT theo tiêu chuẩn và nhiệm kỳ của Hiệu trưởng; - Bổ sung quy định: + HĐT quyết định nhân sự Hiệu trưởng và chức danh quản lý khác của TĐHCL. + Quy chế tổ chức và hoạt động của TĐHCL do HĐT ban hành, theo đề nghị của hiệu trưởng. Trong nội dung Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phải có những quy định cơ bản về HĐT. - Thành lập HĐT là điều kiện bắt buộc để được giao cơ chế TCĐH nói chung và thực hiện tự chủ về tổ chức nói riêng. - Bổ sung và quy định chi tiết về các thành viên HĐT; quy trình, thủ tục thành lập, công nhận HĐT; công nhận, bãi nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch, các thành viên của HĐT; công nhận Hiệu trưởng của TĐHCL cụ thể hóa các “kịch bản” phù hợp cho các trường hợp thành lập mới, thành lập lại HĐT, thủ tục thay thế chủ tịch, thành viên HĐT trong các TĐHCL; thủ tục công nhận HĐT (Điều 7, Nghị định số 99).

94

Vấn đề từ thực tiễn thực hiện

Đánh giá tác động tới thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

Hiệu trưởng

Nội dung cần sửa đổi, bổ sung (Theo Luật GDĐH năm 2012 - Luật số 08 và văn bản pháp luật liên quan) Liên quan đến một số nội dung của Điều 20, Luật số 08: - Hiệu trưởng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm hoặc công nhận. - Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về Hiệu trưởng đúng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của thiết chế quản lý TĐHCL.

Kết quả sửa đổi, bổ sung (Theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH năm 2012 - Luật số 34 và các văn bản pháp luật liên quan) Liên quan đến một số nội dung của Điều 20, Luật số 34: - Hiệu trưởng do HĐT quyết định và được cơ quan quản lý có thẩm quyền công nhận. - Bãi bỏ quy định: + Bổ nhiệm Hiệu trưởng phải đáp ứng tiêu chuẩn đã tham gia quản lý cấp khoa, phòng của cơ sở GDĐH ít nhất 05 năm. + Thẩm quyền của Hiệu trưởng đối với nhiệm vụ, quyền hạn được ban hành các quy chế, quy định trong TĐHCL, định thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể các tổ chức thuộc trường theo đề nghị của HĐT. - Điều chỉnh quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hiệu trưởng đúng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của thiết chế quản lý TĐHCL theo sự lãnh đạo của HĐT. - Bổ sung quy định về thủ tục quyết định nhân sự Hiệu trưởng và công nhận Hiệu trưởng (Điều 7, Nghị định số 99). - Hiệu trưởng của TĐHCL không còn thuộc đối tượng công chức (Điều 1, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, Công chức và Luật Viên chức, Luật số 52/2019, ngày 25/11/2019).

- Trao quyền quyết định thiết chế Hiệu trưởng cho TĐHCL, đánh dấu sự mở rộng quyền tự chủ về tổ chức cho TĐHCL. - Tạo sự “chuyển giao quyền lực” giữa thiết chế quản lý sang thiết chế quản trị TĐHCL, để đảm bảo cơ chế vận hành quyền lực giữa thiết chế quản trị và quản lý trong TĐHCL theo đúng vị trí công việc của mỗi thiết chế trong thực hiện tự chủ về tổ chức. Quy định này có tác động đa chiều đến quá trình tái thiết tổ chức TĐHCL, trong đó có thể phát sinh những vấn đề về lựa chọn và cơ cấu vị trí Chủ tịch HĐT và vị trí Hiệu trưởng; xây dựng và hoàn thiện Quy chế tổ chức và hoạt động của TĐHCL; rà soát, sắp xếp lại các vị trí trong bộ máy quản lý của Hiệu trưởng; lựa chọn nhân sự của HĐT… Việc quy định Hiệu trưởng và phó hiệu trưởng không thuộc cơ cấu công chức nhà nước là cơ sở pháp lý để

95

Vấn đề từ thực tiễn thực hiện

Đánh giá tác động tới thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

Nội dung cần sửa đổi, bổ sung (Theo Luật GDĐH năm 2012 - Luật số 08 và văn bản pháp luật liên quan)

Kết quả sửa đổi, bổ sung (Theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH năm 2012 - Luật số 34 và các văn bản pháp luật liên quan)

Nội dung, điều kiện thực hiện tự chủ về tổ chức

- Quy định rõ về tự chủ và TNGT của TĐHCL. - Nội dung tự chủ về tổ chức của TĐHCL. - Mối quan hệ giữa các thiết chế quản trị, quản lý trong TĐHCL.

thành

tăng sự chủ động của TĐHCL trong việc lựa chọn nhân sự phù hợp cho vị trí này. - Các quy định được bổ sung về nội dung, điều kiện thực hiện tự chủ về tổ chức. - Cụ thể hóa các quy định còn chưa rõ ràng về quy trình, thủ tục, cách thức tiến hành các hoạt động nhằm hiện thực hóa quyền tự chủ về tổ chức của TĐHCL, tránh sự tùy tiện trong triển khai lập HĐT, sửa đổi, bổ sung thể chế quản trị nội bộ của TĐHCL. - Cùng với HĐT, các trường phải hoàn thiện quy chế tổ chức và hoạt động theo quy định của thể chế mới trong Luật số 34 để điều chỉnh và quản lý các mối quan hệ về thực hiện TCĐH và tổ chức tự chủ về TĐHCL.

- Chỉnh sửa lại quy định về TĐHCL thực hiện quyền tự chủ và TNGT theo quy định của pháp luật. - Bổ sung quy định về điều kiện thực hiện tự chủ tổ chức của TĐHCL: + Đã thành lập HĐT. + Đã ban hành một số thể chế nội bộ cơ bản, trong đó có quy chế tổ chức và hoạt động của TĐHCL. + Thực hiện phân quyền tự chủ và TNGT đến từng đơn vị, cá nhân trong trường. - Bổ sung quy định về nội dung thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL: + Quyền tự chủ trong ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức; + Quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong trường, phù hợp với quy định của pháp luật (Điều 32, Luật số 34). - Bổ sung định nghĩa: + Quyền tự chủ của TĐHCL là quyền được tự xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu; tự quyết định và có TNGT về hoạt động tổ chức trên cơ sở

96

Vấn đề từ thực tiễn thực hiện

Đánh giá tác động tới thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

Nội dung cần sửa đổi, bổ sung (Theo Luật GDĐH năm 2012 - Luật số 08 và văn bản pháp luật liên quan)

Kết quả sửa đổi, bổ sung (Theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH năm 2012 - Luật số 34 và các văn bản pháp luật liên quan) quy định của pháp luật và năng lực của trường. + TNGT là việc TĐHCL có trách nhiệm báo cáo, minh bạch thông tin đối với người học, xã hội, cơ quan quản lý có thẩm quyền, chủ sở hữu và các bên liên quan về việc tuân thủ quy định của pháp luật và thực hiện đúng quy định, cam kết của trường. (Điều 5, Luật số 34). - Bổ sung quy định TĐHCL phải ban hành, tổ chức thực hiện quy định nội bộ về tổ chức bộ máy (quy chế tổ chức và hoạt động với những nội dung cơ bản được luật quy định; quy chế làm việc của HĐT, mối quan hệ công tác giữa các HĐT, Hiệu trưởng và tổ chức đảng trong TĐHCL) (Điều 13, Luật số 34). - Bổ sung quyền tự chủ về tổ chức bộ máy của đơn vị sự nghiệp công lập (Điều 6, Nghị định Số: 120/2020/NĐ-CP, ngày 07 tháng 10 năm 2020, quy định về thành lập, tổ chức lại và giải thể đơn vị sự nghiệp công lập). Thay thế khái niệm bộ chủ quản bằng khái niệm cơ quan quản lý trực tiếp (Điều 7, Nghị định số 99).

QLNN đối với thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

- Nghiên cứu tiến tới xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản đối với thực hiện quyền tự chủ về tổ chức của TĐHCL.

Cơ quan quản lý trực tiếp chủ yếu vẫn là bộ chủ quản nên vẫn có sự tác động rất lớn đến TĐHCL.

97

Trong thể chế hiện hành, hàng loạt chính sách công quan trọng của Nhà nước

được ghi nhận, như ưu tiên về đất đai, thuế, tín dụng cho GDĐH; thực hiện xã hội hóa

GDĐH, bảo đảm quyền tự chủ của TĐHCL gắn liền với TNGT. Việc phân biệt rõ

quyền sở hữu nhà nước và thẩm quyền quản trị TĐHCL trong thể chế sửa đổi có ý

nghĩa giải quyết được đồng thời hai vấn đề pháp lý: (1) Tư cách đại diện của chủ sở

hữu nhà nước tham gia quản lý GDĐH; (2) tư cách chủ thể quản trị, quản lý TĐHCL

để có căn cứ pháp lý rõ ràng cho việc Nhà nước cử đại diện tham gia vào HĐT. Sự

tham gia của Nhà nước trong HĐT là để bảo vệ sự an toàn của tài sản nhà nước mà

không nhằm đến thực hiện quyền quyết định của chủ sở hữu theo đúng nghĩa của

quyền này, đồng thời thực hiện vai trò giám sát trực tiếp hoạt động quản trị TĐHCL.

Luật số 34 đã định nghĩa rõ hai khái niệm nền tảng của TCĐH là quyền tự chủ

và TNGT (tại điểm 11, 12 của Điều 4). TCĐH là quyền đồng thời là năng lực tự xác

định, tự lựa chọn, tự quyết định về mục tiêu, sứ mạng, tầm nhìn, chiến lược, kế hoạch

phát triển phù hợp với đặc thù của từng trường và mục tiêu phát triển chung của GDĐH

Việt Nam hiện đại. TCĐH là quyền tự quyết định trên cơ sở có TNGT phù hợp với quy

định pháp luật về các hoạt động GDĐH. TNGT theo cách tiếp cận của Luật số 34 đã tương

đồng với cách hiểu chung của đa số các TĐH trên thế giới. Trách nhiệm này là trách

nhiệm về chất lượng, hiệu quả của sản phẩm đào tạo mà trường đưa ra xã hội; là trách

nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập gánh vác thay Nhà nước trong tham gia vào hoạt

động cung cấp dịch vụ công. Đó cũng là trách nhiệm của các cấp quản lý, điều hành bộ

máy nhà trường trước quyền lợi của tập thể sư phạm và người lao động trong nhà trường.

Phù hợp với cách tiếp cận nêu trên về TCĐH, Luật số 34 xác định: “Cơ cấu tổ

chức cụ thể của TĐH, mối quan hệ và mức độ tự chủ của đơn vị thuộc, trực thuộc

trường đại học được quy định trong quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học”

(khoản 2 Điều 14). Điều này đánh dấu mức độ cao hơn trong phân cấp, ủy quyền từ

Nhà nước cho các TĐHCL để thực hiện quyền tự quyết định đối với các vấn đề về tổ

chức. Quyền tự chủ này gồm hai nội dung: (i) Tự quyết định về mô hình thể chế, số

lượng, vị trí các đơn vị thuộc, trực thuộc TĐHCL; (ii) nội dung các công việc và mức

98

độ được tự quyết định trong tổ chức thực hiện các quyền tự chủ và TNGT trong phân

cấp, ủy quyền từ cấp lãnh đạo, quản lý xuống tới các đơn vị thuộc trường. Vấn đề phân

cấp, ủy quyền tự chủ từ cấp trường xuống các đơn vị thuộc và trực thuộc thể hiện cách

tiếp cận mới của Luật số 34, đó là tôn trọng quyền tự do học thuật và bản chất vận hành

cơ chế TCĐH phải kết nối từ cấp trường xuống tới các đơn vị cơ sở của TĐHCL.

Các quy định về HĐT đã được Luật số 34 cơ bản chuẩn hóa một cách đồng bộ

và tổng thể. Luật xác định rõ HĐT là tổ chức thay mặt Nhà nước quản trị TĐHCL. Vị

trí này phản ánh ba thuộc tính cơ bản của HĐT: (1) Có quyền lực tối cao trong hệ

thống tổ chức trường; (2) có năng lực ra quyết định; (3) có năng lực thực hiện TNGT

theo quy định pháp luật về mọi hoạt động GDĐH của TĐHCL. HĐT của TĐHCL là

chủ thể đại diện cho quyền lợi của các bên liên quan trong hoạt động GDĐH. Tư cách

tổ chức quản trị, đại diện cho các bên liên quan và có quyền lực cao nhất của HĐT dựa

trên ba trụ cột là quyền quyết định, quyền ban hành và quyền giám sát. Ba trụ cột đó

được nhấn mạnh ở hai điểm cốt yếu: (i) Thẩm quyền ra quyết định đối với những lĩnh vực

và công việc quan trọng của nhà trường; (ii) thẩm quyền đối với việc lựa chọn, quyết

định, đề xuất công nhận nhân sự Hiệu trưởng - Người chịu trách nhiệm quản lý, điều

hành các hoạt động của cơ sở GDĐH theo quy định của pháp luật, quy chế tổ chức và

hoạt động của cơ sở GDĐH [37]. Hiện nay, để tránh tình trạng không thống nhất trong

triển khai thành lập HĐT tại các TĐHCL, Luật số 34 đã quy định cụ thể như sau:

Thứ nhất, ở những TĐHCL được thành lập mới thì việc thành lập HĐT do cơ

quan quản lý trực tiếp chỉ đạo, với bước đầu tiên là giao quyền Hiệu trưởng để nhân sự

này tham gia HĐT lâm thời, đồng thời tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Hiệu

trưởng cho đến khi có quyết định công nhận Hiệu trưởng chính thức. HĐT lâm thời của

trường do cơ quan quản lý trực tiếp quyết định về số lượng, cơ cấu thành viên, cách

thức, quy trình bầu các thành viên bầu, chủ tịch hội đồng và ra quyết định công nhận

chủ tịch và HĐT lâm thời. Thời gian hoạt động của HĐT lâm thời là tối đa không quá

1 năm, kể từ khi cơ quan quản lý trực tiếp ra quyết định công nhận. Sau thời gian đó,

HĐT chính thức sẽ phải được thành lập theo quy định của Luật số 34. Việc thành lập

HĐT mới do tập thể lãnh đạo (là Đảng ủy, chủ tịch HĐT, phó chủ tịch HĐT (nếu có),

99

hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng) chỉ đạo thực hiện theo quy định pháp luật.

Thứ hai, ở những TĐHCL đang hoạt động nhưng chưa có HĐT thì trong thời

hạn 6 tháng, kể từ thời điểm sau ngày 15/02/2020, khi Nghị định số 99 chính thức có

hiệu lực thi hành, tập thể lãnh đạo phải chỉ đạo thành lập HĐT.

Thứ ba, ở những TĐHCL đang hoạt động và đang có HĐT thì sẽ phân biệt

thành hai trường hợp. Trường hợp 1: Những trường tính đến thời điểm 15/02/2020, nhiệm

kỳ hoạt động của HĐT chỉ còn dưới 6 tháng thì nhà trường tiếp tục duy trì hoạt động của

Hội đồng này cho đến hết nhiệm kỳ. Song song với đó, tập thể lãnh đạo phải chỉ đạo thực

hiện quy trình thành lập HĐT của nhiệm kỳ kế tiếp theo quy định pháp luật hiện hành.

Trường hợp 2: Đến thời điểm ngày 15/02/2020, nếu nhiệm kỳ của HĐT còn từ 6 tháng trở

lên và HĐT này đã được thành lập theo đúng quy định của Luật số 34 và quy định của

Đảng tại thời điểm thành lập thì sẽ tiếp tục hoạt động đến hết nhiệm kỳ, với đầy đủ thẩm

quyền quyết định nhân sự hiệu trưởng và thực hiện các quyền, trách nhiệm khác theo quy

định của pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường. Còn trường hợp cũng tới

thời điểm ngày 15/02/2020, HĐT đã được thành lập nhưng chưa theo đúng quy định của

Luật số 34 và quy định của Đảng tại thời điểm thành lập thì trong thời hạn 6 tháng, tập

thể lãnh đạo phải chỉ đạo thực hiện quy trình thành lập HĐT của nhiệm kỳ mới để thay

thế HĐT chưa tuân thủ quy định của Luật số 34. Lưu ý với trường hợp này, cùng với việc

phải thành lập HĐT của nhiệm kỳ mới thì TĐHCL cũng bắt buộc phải rà soát, sửa đổi,

bổ sung quy chế tổ chức và hoạt động hiện có của nhà trường. Liên quan đến Hiệu

trưởng đương nhiệm hoặc mới được bổ nhiệm trước khi có HĐT nhiệm kỳ mới thì sau

khi thành lập lại HĐT của nhiệm kỳ mới, hội đồng này sẽ thực hiện quyền quyết định

đối với nhân sự hiệu trưởng. Kết quả thực hiện thẩm quyền quyết định, đề xuất công

nhận hiệu trưởng từ HĐT của nhiệm kỳ mới có thể dẫn tới hai tình huống: Hoặc Hiệu

trưởng đương nhiệm vẫn tiếp tục giữ vị trí; hoặc thay thế bằng nhân sự khác.

Về thủ tục pháp lý, trước khi kết thúc nhiệm kỳ ít nhất 30 ngày làm việc, tập

thể lãnh đạo có trách nhiệm hoàn thiện, gửi 01 bộ hồ sơ đề nghị công nhận HĐT, Chủ

tịch HĐT cho cơ quan quản lý trực tiếp để ra quyết định công nhận HĐT và chủ tịch

HĐT của nhiệm kỳ mới. Theo Nghị định số 99, trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ

khi nhận đủ hồ sơ đề nghị của TĐHCL, cơ quan quản lý trực tiếp ra quyết định công

100

nhận HĐT, Chủ tịch và các thành viên HĐT. Cơ quan quản lý trực tiếp có thể không

đồng ý công nhận HĐT hoặc Chủ tịch HĐT hay bất cứ thành viên nào của Hội đồng

nhưng phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Theo Luật số 34, thành phần của thành viên HĐT gồm thành viên bên trong và

thành viên bên ngoài TĐHCL; thành viên đương nhiên và thành viên bầu. Thành viên

đương nhiên bao gồm Bí thư cấp ủy, Hiệu trưởng, Chủ tịch Công đoàn và đại diện Ban

chấp hành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là người học của TĐHCL. Thành

viên bầu gồm đại diện giảng viên (chiếm tỷ lệ tối thiểu là 25% tổng số thành viên của

HĐT); đại diện viên chức và người lao động của trường. Theo quy định của Luật số 34,

thành viên bên ngoài TĐHCL chiếm tỷ lệ tối thiểu là 30% tổng số thành viên của HĐT,

với thành phần phù hợp với quy định tại điểm c, khoản 3 Điều 16 Luật số 34.

Luật hiện hành quy định, Hiệu trưởng do HĐT quyết định và được cơ quan quản

lý có thẩm quyền công nhận. Cùng với lựa chọn Hiệu trưởng, TĐHCL cần chú trọng xây

dựng cơ chế kiểm soát hợp lý quyền lực quản lý của Hiệu trưởng trong mối quan hệ với

HĐT và các đơn vị trực thuộc. Quá trình chuyển giao quyền lực theo cơ chế ngang với HĐT

và cơ chế dọc với các đơn vị thuộc trường mà Luật số 34 quy định cũng được đánh giá là

một trong những điểm “đột phá” trong thể chế tự chủ về tổ chức hiện nay của TĐHCL.

Liên quan đến thẩm quyền chung của Nhà nước, có hai quyền quan trọng là

công nhận (như đã nêu trên) và quyền giám sát việc tự chủ tổ chức tuân theo quy định

pháp luật của TĐHCL. Cơ quan có thẩm quyền QLNN thực hiện quyền giám sát đối

với việc tuân thủ quy định pháp luật chung và tuân thủ thể chế nội bộ do chính nhà

trường ban hành. Công cụ giám sát của Nhà nước ngoài thể chế hiện hành còn có cơ

quan kiểm định độc lập do Nhà nước quy định/công nhận.

3.1.2. Về thể chế nội bộ điều chỉnh việc thực hiện tự chủ về tổ chức của

trường đại học công lập ở Việt Nam

Xét về tính chất, các quy định liên quan đến nội dung này theo thể chế chung

được điều chỉnh bởi văn bản quản trị, quản lý nội bộ cao nhất của TĐHCL là quy chế

tổ chức và hoạt động của nhà trường. Quy chế này một mặt phải tiếp tục thể chế hóa

các quy định trong thể chế chung vào văn bản pháp lý nội bộ của trường, mặt khác phải

cụ thể hóa các quy định chung đó cho phù hợp với mục tiêu, sứ mạng, tầm nhìn và đặc

101

điểm riêng của từng TĐHCL.

Bảng 3.4: Hiện trạng thể chế nội bộ điều chỉnh thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

Nhận xét, đánh giá chung

Vấn đề cần đƣợc điều chỉnh

Nội dung quy định hiện hành của TĐHCL

QUY CHẾ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TĐHCL

1. Được quy định theo hướng kết hợp

1. Cơ bản phù hợp, nhưng

giữa quy định của thể chế chung trong

không có sự thay đổi so với

quy định về Quy chế tổ chức

1. Địa vị pháp lý, sứ mạng, tầm nhìn, giá trị cốt lõi

Luật số 34, pháp luật liên quan với đặc thù về phân tầng cơ sở đào tạo của trường.

2. Cơ cấu tổ chức,

2. Quy định phù hợp với cơ cấu tổ chức

và hoạt động của TĐHCL theo Luật số 08. 2. Cơ bản phù hợp, nhưng

nói chung của TĐHCL và theo đặc thù

không có sự thay đổi so với

chức năng, nhiệm vụ của nhà trường

quy định về quy chế tổ chức và hoạt động của TĐHCL theo Luật số 08.

của từng trường, với cơ cấu ít nhất từ ba cấp trở lên (bộ môn; khoa, phòng, trung tâm, viện nghiên cứu… thuộc trường; HĐT - Hiệu trưởng và ban giám hiệu; phân hiệu. Cơ cấu của

trường được xác định dựa trên mô hình

của cơ sở GDĐH công lập Việt Nam, theo quy định của Luật số 34, thuộc chủ thể quản lý trực tiếp về tổ chức và QLNN về chuyên môn học thuật, tài chính, nghiên cứu khoa học… 3. Quy định về HĐT cơ bản giống với

3. Tiếp cận theo hướng cụ thể

quy định của Luật số 34 và cụ thể hóa

hóa những quy định về HĐT

3. Hội đồng trường, các thành viên HĐT

những nội dung mà luật quy định thuộc

theo Điều 16, Luật số 08.

chức năng, thẩm quyền của TĐHCL.

Trong các quy định về HĐT, vai trò của chủ thể quản lý trực tiếp liên quan

Những quy định liên quan đến xác định phạm vi trách nhiệm của HĐT với thiết chế quản lý

đến thực hiện tự chủ về tổ chức vẫn rất

và tổ chức đảng trong TĐHCL

lớn, thể hiện ở quy định liên quan đến

chưa rõ ràng, chủ yếu được

trình tự, thủ tục thành lập, công nhận,

quy định tuẩn thủ pháp luật và

quy định của Đảng. Các quy định về TNGT của HĐT với cấp quản lý và ngược lại chưa

bãi miễn, miễn nhiệm Chủ tịch và thành viên HĐT. - Phần quy định về Chủ tịch HĐT do trao quyền tự chủ cho các TĐHCL nên có sự đa dạng về phương án thiết kế đối

cụ thể. Vấn đề phân cấp, ủy quyền về tổ chức từ cấp trường

102

Nhận xét, đánh giá chung

Vấn đề cần đƣợc điều chỉnh

Nội dung quy định hiện hành của TĐHCL với vị trí này, đơn cử, có trường thì

Chủ tịch HĐT đồng thời là Bí thư đảng

ủy như quy dịnh của Trường đại học

Luật Hà Nội; có trường thì Chủ tịch

xuống cấp đơn vị thuộc trường chưa được đề cập; - Có sự triển khai khác nhau về vị trí Chủ tịch HĐT ở các

HĐT không đồng thời là Bí thư đảng

TĐHCL do sự tiếp cận của

ủy mà Hiệu trưởng đồng thời là Bí thư

từng trường và chỉ đạo của chủ

thể quản lý trực tiếp các trường khác nhau.

đảng ủy như Trường đại học Lao động - Xã hội; cá biệt có trường ba vị trí Chủ tịch HĐT. - Phần quy định về mối quan hệ công tác của HĐT với cơ cấu bên trong (Đảng ủy - Hiệu trưởng) và bên ngoài (chủ thể chủ quản và các bộ/ngành/địa

phương) chủ yếu mang tính chất quy định chung.

4. Hiệu trưởng

4-5. Vẫn thiếu vắng những quy định cụ thể về TNGT của các

thiết chế theo cấp quản trị,

4. Tuân thủ các quy định của Luật số 34 về thiết chế Hiệu trưởng. 5. Quy định về TNGT được thiết kế trong quy chế theo một trong hai

quản lý; chưa thể hiện rõ ràng

5. Trách nhiệm giải trình

phương án (quy định giống Luật số 34

được quyền được tiếp cận

và lồng ghép trong quy định về chế độ

thông tin và giám sát hoạt

động về tự chủ tổ chức của các

bên, nhất là quy định về cơ chế

thông tin, báo cáo hàng năm, định kỳ như vẫn thực hiện từ trước tới nay).

6. Mối quan hệ

6. Trong quy chế đã thể hiện được đầy

đối thoại giữa TĐHCL với các chủ thể liên quan. 6. Quy định về mối quan hệ

của TĐHCL với các bên liên

quan và xã hội cơ bản đề cập

tới ở mức chung nhất, trên cơ

giữa TĐHCL với các bên liên quan và xã hội

đủ những quan hệ mà TĐHCL có trách nhiệm, nghĩa vụ phải phối hợp công tác, chịu sự QLNN về các hoạt động GDĐT và tổ chức. Các nguyên tắc chung về

sở quy định của Luật số 34 và một số luật liên quan.

quan hệ giữa TĐHCL với các bên được chú trọng quy định trong quy chế này.

103

Nhận xét, đánh giá chung

Vấn đề cần đƣợc điều chỉnh

Nội dung quy định hiện hành của TĐHCL

QUY CHẾ LÀM VIỆC CỦA HĐT TRONG TĐHCL

1. Nhiệm vụ, quyền hạn

2. Nguyên tắc và chế độ làm việc

3. Nhiệm vụ, quyền hạn của chủ tịch HĐT và thành viên HĐT 4. Mối quan hệ công tác

Các quy định được tiếp cận theo hướng cụ thể hóa vào điều kiện, đặc điểm, bối cảnh của từng trường nhưng cơ bản vẫn tuân thủ thể chế chung. Các quy định về tiêu chuẩn của chủ tịch HĐT và thành viên HĐT không có sự đột phá nhìn từ góc độ năng lực quản trị đội ngũ. Quy định về tiêu chuẩn thành viên HĐT vẫn bỏ ngỏ. Mối quan hệ công tác giữa HĐT với các thiết chế trong trường và chủ thể bên ngoài cơ bản theo luật, nhưng thiếu quy định về xác định trách nhiệm trong những trường hợp cụ thể, ví dụ liên quan đến các quyết định không phù hợp với quy định pháp luật hoặc lợi ích chung của nhà trường do HĐT đưa ra. Chưa chú trọng quy định về cơ chế giám sát và đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐT, hiệu trưởng và thiết chế quản lý khác.

Hiện trạng quy chế làm việc của HĐT được tiếp cận theo hướng quản lý hành chính nhiều hơn là hướng quản trị hiện đại cơ sở GDĐH công lập trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0, hội nhập quốc tế về GDĐH. Các quy định về mối quan hệ công tác giữa các thiết chế quản trị, quản lý và tổ chức đảng trong TĐHCL chưa làm rõ được vai trò của HĐT trong quá trình vận hành hệ thống tổ chức và quản trị nhà trường. Đặc biệt, trong công tác về tổ chức, mối quan hệ giữa HĐT và Đảng ủy vẫn chung chung, chưa rõ vai trò lãnh đạo của thiết chế quyền lực cao nhất trong nhà trường. Đây cũng phản ánh nét đặc thù của các TĐHCL Việt Nam khi quan hệ công tác không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa HĐT và hiệu trưởng mà còn liên quan đến vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong nhà trường.

Diện mạo thể chế nội bộ về thực hiện tự chủ tổ chức của các TĐHCL Việt

Nam thể hiện qua quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường và một số thể chế nội

bộ khác hiện có hai trạng thái: Thứ nhất, trường đã thành lập HĐT nhưng quy chế tổ

chức và hoạt động chưa cặp nhật theo theo Luật số 34. Thứ hai, đã thành lập HĐT, đã

ban hành quy chế tổ chức và hoạt động theo Luật số 34 nhưng vẫn thiếu những thay

đổi mang tính đột phá, chiến lược nhằm tái cấu trúc hệ thống tổ chức và quản trị nhà

trường để thực hiện tự chủ thực chất về tổ chức. Cả hai trạng thái này đều đặt ra yêu

104

cầu tiếp tục hoàn thiện về thể chế tự chủ của TĐHCL.

3.2. Thực tiễn triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức của các trƣờng đại

học công lập ở Việt Nam

3.2.1. Tình hình thực hiện tự chủ về tổ chức của những trường đại học công

lập hoạt động theo cơ chế của Nghị quyết số 77/NQ-CP năm 2014

* Kết quả đạt được

Thực tế triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức của 23 TĐHCL thuộc phạm vi

điều chỉnh của Nghị Quyết 77 NQ-CP năm 2014 cho thấy, các trường bước đầu đã đạt

một số kết quả tích cực và được xã hội công nhận. Về căn bản thì tự chủ về tổ chức đã

giúp trường trở lên chủ động và linh hoạt trong việc phân cấp các đơn vị thuộc trường

thực hiện quyền tự chủ trong hợp tác, nghiên cứu, đào tạo và các mặt hoạt động khác.

Cơ chế tự chủ đã tạo cơ hội cho các trường xây dựng thể chế nội bộ để vận hành và

quản lý nhà trường một cách hiệu quả hơn. “Tự chủ cho phép các trường đẩy mạnh quá

trình xã hội hóa giáo dục với nâng cấp hội trường, phòng họp, phòng học đáp ứng đầy

đủ điều kiện giảng dạy đạt chuẩn được trang thiết bị hiện đại. Tự chủ thúc đẩy các

trường liên kết với thị trường lao động, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa

học trong nhà trường, đảm bảo chất lượng đầu ra đáp ứng nhu cầu xã hội” [4, tr. 4].

Theo số liệu báo cáo của Bộ GDĐT năm 2017, đối với 10 trường thực hiện tự chủ trên

02 năm (Học viện Nông nghiệp; TĐH Hà Nội; TĐH Tài chính - Marketing; TĐH Công

nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh; TĐH Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh; TĐH Mở

Thành phố Hồ Chí Minh; TĐH Tôn Đức Thắng; TĐH Kinh tế quốc dân; TĐH Công

nghiệp thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh; TĐH Điện lực) thì quỹ phát triển sự

nghiệp đã tăng lên 977 tỷ đồng (trong năm 2015-2016 so với 568 tỷ đồng trước tự chủ

và tăng hơn gần 400 tỷ đồng so với mức tối thiểu qui định). Quỹ phúc lợi và quỹ ổn định

thu nhập đều có xu hướng giảm xuống, tỷ lệ giảm tương ứng là -17% và -14%. Một số

trường giảm nhiều nhất như TĐH Mở Thành phố Hồ Chí Minh giảm 25,5 tỷ đồng và

TĐH Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh giảm 21,8 tỷ đồng trong quỹ ổn định thu nhập

kể từ sau tự chủ [3, tr. 5-6]. Nhiều trường đã được thực hiện việc quyết định thành lập

mới, sáp nhập, chia, tách, giải thể; quy định chức năng, nhiệm vụ, quy chế hoạt động

của các tổ chức trực thuộc; quyết định cơ cấu và số lượng người làm việc; tuyển dụng

105

viên chức, nhân viên hợp đồng sau khi được HĐT thông qua. Tỷ lệ các trường có HĐT

cao gần gấp đôi so với tỷ lệ chung của toàn hệ thống các TĐHCL thời gian này, đặc biệt là

nhiều trường đã chú trọng việc nâng cao chất lượng nhân sự (nhất là chất lượng đội ngũ

giảng viên). Vì vậy, “số lượng cán bộ/giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư và học

vị từ thạc sĩ trở lên tại các trường đã tự chủ tăng lên đáng kể, từ 4.833 giảng viên có

trình độ từ thạc sĩ trở lên ở năm 2013 tăng lên đến 7045 tính đến tháng 6 năm 2017,

nghĩa là tăng 159,11% trong gần 4 năm thực hiện tự chủ” [3, tr. 4]. Đây là những kết

quả tích cực đối với các trường hoạt động theo cơ chế Nghị quyết 77/2014/NQ-CP.

* Khó khăn, vướng mắc trong thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL

hoạt động theo cơ chế của Nghị quyết 77/NQ-CP 2014 và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đạt được như đã nêu trên, việc triển khai thực hiện tự

chủ về tổ chức đối với nhóm TĐHCL này vẫn còn nhiều khó khăn và vướng mắc. Cụ

thể, một số trường còn chưa hoàn thiện cơ cấu tổ chức theo quy định, 4/12 trường tự

chủ trên 12 tháng chưa thành lập HĐT, chưa ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động

của HĐT (tính đến thời điểm Luật số 34 đã có hiệu lực); hình thức hoạt động của HĐT

chủ yếu bằng các cuộc họp, vai trò giám sát của HĐT khá mờ nhạt. Phần nhiều các

trường vẫn còn có xu hướng né tránh va chạm, chưa thực sự quyết liệt cải thiện bộ máy

tổ chức theo hướng tinh giản, gọn nhẹ [3, tr. 8]. Một số trường tuy được thí điểm đổi

mới cơ chế hoạt động nhưng không có nhiều biến chuyển vì chưa thực sự mạnh dạn đổi

mới toàn diện. Trong suốt quá trình thí điểm, phần lớn cách thức triển khai TCĐH ở

nhiều trường chưa đi đôi với đổi mới quản trị đại học tiên tiến và đảm bảo vai trò của

HĐT. Đây là những bất cập lớn về quản trị, quản lý nhà trường, khiến việc sử dụng

nguồn lực để thực hiện tự chủ còn chưa thực sự hiệu quả. Trên bình diện chung, việc

thực hiện TCĐH và tự chủ về tổ chức thiếu giá trị mang tính động lực để giúp các

trường phát huy khả năng chủ động, sáng tạo, nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường

cạnh tranh và đa dạng hóa các loại hình giáo dục nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.

Qua Báo cáo tổng hợp của Bộ GDĐT tại phiên họp Hội đồng Quốc gia Giáo

dục và Phát triển nhân lực tháng 11/2020 thì những hạn chế, khó khăn, vướng mắc

trong triển khai thực hiện TCĐH và tự chủ về tổ chức bộ máy đối với 23 trường theo

106

cơ chế của quyết định số 77/2014/NQ-CP là do một số nguyên nhân chủ yếu sau đây.

* Nguyên nhân của các khó khăn, vướng mắc.

Thứ nhất, do thời gian triển khai thí điểm theo Nghị quyết 77/2014/NQ-CP

ngắn, lại thiếu những hướng dẫn cụ thể về thực hiện quyền tự chủ cũng như phạm vi

các quyền này đối với các trường nên khó tránh khỏi có khó khăn trong thực tế triển

khai thực hiện. Ngay Chính phủ và các bộ chức năng cũng chưa có sự thống nhất giữa

các quyết định cho phép thực hiện cơ chế tự chủ dành cho mỗi trường, kết hợp với việc

có nhiều qui định, văn bản pháp lý chưa thay đổi kịp để hỗ trợ các trường nên việc tự

chủ bị vướng về thể chế. Đối với thực hiện tự chủ về tổ chức và quản trị hệ thống nhà

trường thì cũng chưa có văn bản hướng dẫn về tự chủ đối với các cơ sở GDĐH công

lập khi không có cơ quan chủ quản; thiếu quy định đầy đủ và rõ ràng về mối quan hệ

giữa Đảng ủy - HĐT - Hiệu trưởng.

Thứ hai, việc trao quyền TCĐH cho các trường thuộc nhóm này cũng chưa có

căn cứ, nguyên tắc thống nhất, đồng bộ, với các tiêu chí, tiêu chuẩn đưa ra một cách

tường minh, rõ ràng từ phía cơ quan QLNN về GDĐH hay chủ thể quản lý trực tiếp mà

chủ yếu dựa trên quy định của Luật số 08 và Đề án thí điểm tự chủ của từng trường

được Thủ tướng phê duyệt, nhất là không xuất phát trên một Đề án tổng thể áp dụng

chung cho các trường. Trên thực tế, việc thực hiện cơ chế TCĐH đối với nhóm các

trường này thực chất dựa trên cách triển khai và năng lực thực tế của từng trường.

Thứ ba, việc triển khai thực hiện tự chủ của các trường thiếu sự gắn kết với cơ

chế thực thi TNGT. Vẫn còn một bộ phận các trường thuộc nhóm này chưa nhận thức

đúng và đầy đủ về tự chủ; chưa đủ năng lực thực tế và thiếu sự sẵn sàng ngay từ trong

nội bộ của cả hệ thống quản trị, quản lý nhà trường nên khi bắt đầu triển khai vào thực

tế thực hiện tự chủ thì có những sự lúng túng ở nhiều phương diện, nhất là trong thực

hiện tự chủ về tổ chức. Ngoại lệ, còn hiện trượng có trường vẫn dựa vào lợi thế ngành,

dựa vào đội ngũ giảng viên bên ngoài và dùng nguồn lực bên ngoài để làm căn cứ xác

định tăng chỉ tiêu tuyển sinh cũng như tăng nguồn thu học phí; chưa chú trọng đúng

mức đến nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả thực hiện TCĐH.

Tất cả những nhận diện trên về thực tiễn triển khai thực hiện TCĐH nói chung

107

và tự chủ về tổ chức của TĐHCL nói riêng đối với nhóm các trường hoạt động theo cơ

chế của Nghị quyết 77/2014/NQ-CP được xác định là một trong số những căn cứ để rà

soát, sửa đổi, bổ sung quy định phù hợp với cơ chế TCĐH trong Luật số 34.

3.2.2. Tình hình triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức của những trường

đại học công lập không theo cơ chế của Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP

Việc đánh giá thực tiễn triển khai thực hiện tự chủ vè tổ chức của các TĐHCL

thuộc nhóm các trường không theo cơ chế của Nghị quyết 77/2014/NQ-CP được chia

thành hai giai đoạn (giai đoạn từ khi có Luật số 08 đến trước khi có Luật số 34 và giai

đoạn từ khi có Luật số 34 đến nay), cụ thể như sau:

Bảng 3.5: Thực tiễn triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL

không theo cơ chế của Nghị quyết 77/2014/NQ-CP

Giai đoạn từ Luật số 08

Giai đoạn từ khi có Luật số 34

Nội dung

đến trƣớc khi có Luật số 34

đến nay

Kết quả

- Việc quản trị nhà trường bước đầu có

- Cơ quan QLNN về GDĐH đã thể

đạt đƣợc

chuyển biến theo hướng quản trị hiện

hiện sự quyết tâm trong đẩy mạnh

đại (đổi mới quản lý hành chính, quản

TCĐH và tự chủ về tổ chức của các

trị nhân sự, triển khai việc tìm hướng

TĐHCL; từng bước triển khai việc rà

gắn kết với doanh nghiệp và giới

soát hệ thống thể chế hiện hành để bảo

nghiên cứu trong và ngoài nước);

đảm tương thích với Luật chuyên

ngành về TCĐH;

- Tỷ lệ giảng viên có bằng thạc sĩ trở

lên > 75%;

- Đã có sự nhận thức lại của đa số lãnh

- Có sự đầu tư nâng cao năng lực

đạo các TĐHCL trong thực hiện tự chủ

tổ chức bộ máy và nhân sự theo hướng

hoạch định chính sách, thiết kế chương

trình, theo dõi, đánh giá giáo dục đào

xác định lĩnh vực tự chủ này đóng vai

tạo.

trò then chốt trong quá trình triển khai

toàn diện TCĐH và quyết định hiệu

quả của tự chủ trong thực hiện nhiệm

vụ chuyên môn học thuật, tài chính và

tài sản.

- Các TĐHCL đang từng bước chủ

động rà soát, kiện toàn tổ chức bộ

máy; tập trung vào công việc thành lập

108

HĐT theo quy định của Luật số 34 và

Nghị định số 99; rà soát, sửa đổi, bổ

sung, ban hành mới thể chế quản trị,

quản lý nội bộ: “Tính đến ngày

30/10/2020, có 31/35 cơ sở GDĐH

trực thuộc Bộ GDĐT (4 đơn vị đang

tiến hành quy trình), 54 đơn vị ngoài

các trường thuộc Bộ Giáo dục và Đào

tạo đã thành lập HĐT theo luật số 34

trên tổng số 175 TĐHCL (81/175,

46,3%). Bộ GDĐT đang tiếp tục “đốc

thúc” các cơ quan quản lý trực tiếp các

cơ sở GDĐH để đến hết năm 2020, về

cơ bản các TĐHCL đều có HĐT” [52].

- Ở nhiều trường đã thành lập HĐT

theo Luật số 34 thì bước đầu đã rà

soát, sửa đổi, ban hành Quy chế tổ

chức và hoạt động của trường, quy chế

làm việc của HĐT (Phụ lục 1, 2, 3).

- Nhiều trường đã bắt đầu triển khai

việc rà soát, tổ chức, sắp xếp lại các

đơn vị thuộc trường theo quy định của

Luật

số

34, Nghị

định

số

120/2020/NĐ-CP, ngày 07 tháng 10

năm 2020, quy định về thành lập, tổ

chức lại và giải thể đơn vị sự nghiệp

công lập và chỉ đạo của Bộ quản lý

trực tiếp (Phụ lục 7).

- Một số TĐHCL đã đẩy nhanh quá

trình xã hội hóa GDĐH, đầu tư mạnh

để nâng cấp nguồn lực nhà trường trên

cả hai phương diện nguồn lực vật chất

và nguồn nhân lực.

109

1. Nhận thức, quan điểm trong thực hiện tự chủ về tổ chức vẫn chưa đầy đủ,

thống nhất từ cả hệ thống QLNN về GDĐH và các TĐHCL, Cụ thể: Việc triển

Khó khăn, vƣớng mắc, hạn chế

khai thực hiện tự chủ về tổ chức tại các TĐHCL còn nhiều bất cập, như các quy định thực hiện tự chủ về tổ chức giữa luật chuyên ngành và luật liên quan chưa đồng bộ; việc chỉ đạo, điều hành triển khai cơ chế tự chủ về tổ chức từ chủ thể

chủ quản đối với các TĐHCL còn chưa kịp thời, chưa thống nhất trên phạm vi toàn hệ thống QLNN về GDĐH; sự phối hợp giữa các bộ/ ngành/ địa phương liên quan đến việc thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL còn mang tính hình thức, thiếu hiệu quả; việc trao quyền tự chủ về tổ chức từ chủ thể quản lý

trực tiếp cho các TĐHCL còn chưa có căn cứ, nguyên tắc thống nhất. Đơn cử, liên quan đến nhân sự đại diện cho chủ sở hữu tham gia HĐT của TĐHCL thì mỗi bộ/ngành chủ quản lại có phương án khác nhau. Có Bộ chỉ cử một thành

viên, như Bộ Y tế, nhưng có Bộ/ngành lại cử đến 05 thành viên tham gia HĐT,

như Bộ Tư pháp (trong HĐT của Trường Đại học Luật Hà Nội), Tòa án nhân dân tối cao (trong HĐT của Học viện Tòa án). Và mặc dù đã có thành viên đại diện cho bộ/ngành quản lý trực tiếp TĐHCL tại thiết chế HĐT, nhưng trên thực

tế, mọi công tác tổ chức bộ máy của các trường vẫn phải qua thủ tục xin chủ

trương đối với bộ/ngành chủ quản trước khi các vấn đề được đưa ra xem xét, quyết định tại HĐT. Vì vậy, ngay tại các trường đã có HĐT và quy chế tổ chức và hoạt động theo thể chế TCĐH của Luật số 34 thì vấn đề thực hiện tự chủ về tổ chức

bộ máy vẫn chịu sự điều chỉnh, quản lý bởi các quy định của bộ chủ quản.

Thực tiễn này làm giảm đi một phần hoạt động tự chủ của HĐT trong các

TĐHCL hiện nay. Hay nói đúng hơn, các TĐHCL đang phải tăng thêm quy trình xử lý các vấn đề về tổ chức bộ máy. 2. Năng lực thực hiện tự chủ về tổ chức của một bộ phận không nhỏ các TĐHCL còn bất cập so với yêu cầu (thực lực và hiệu quả hoạt động quản trị của HĐT chưa đáp ứng yêu cầu; giải quyết mối quan hệ giữa các thiết chế quản

trị, quản lý và cơ sở Đảng còn hình thức, chủ yếu theo quy định chung, chưa

được cụ thể hóa vào điều kiện từng trường; chưa thực sự chú trọng tới chất

lượng, hiệu quả điều chỉnh hoạt động quản trị, quản lý của thể chế nội bộ; chưa có những thay đổi căn bản về mô hình và phương thức quản trị). 3. Năng lực quản lý, điều hành của nhiều cán bộ quản lý tại các nhà trường còn hạn chế; tính chuyên nghiệp chưa cao, làm việc dựa vào kinh nghiệm cá nhân, ít vận dụng khoa học quản lý giáo dục vào thực tiễn quản lý các hoạt động

GDĐT; chưa quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành để triển khai thực hiện cơ chế

tự chủ về tổ chức, thậm chí vẫn có tư tưởng bị động, ỷ lại vào sự hướng dẫn của chủ thể quản lý trực tiếp.

110

4. Tiềm lực tài chính nhiều TĐHCL thực hiện tự chủ còn chưa đủ mạnh để đảm bảo sự phát triển bền vững của nhà trường trong điều kiện tự chủ về tổ chức vì vẫn còn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu từ học phí và quy mô tuyển sinh mà chưa có những hướng đi mang tính đột phá.

5. Đa số các TĐHCL đã triển khai bước đầu việc thực hiện tự chủ về tổ chức đều gặp khó khăn trong việc hiện thực hóa TNGT.

6. Còn có những TĐHCL triển khai không đồng bộ các công việc liên quan đến

điều kiện đảm bảo cho thực hiện tự chủ về tổ chức, ví dụ thành lập HĐT theo

Luật số 34, nhưng Quy chế tổ chức và hoạt động vẫn chưa sửa đổi, ban hành theo Luật mới (như trường hợp của Trường Đại học Lao động - Xã hội). Do

việc thành lập HĐT là để đảm bảo trường không vi phạm quy định pháp luật

nên HĐT tuy được thành lập nhưng hiệu quả hoạt động còn thấp, thành viên HĐT còn chưa hiểu hết những công việc của HĐT.

7. Hầu hết các TĐHCL hiện đang lúng túng, chờ sự hướng dẫn của chủ thể quản lý trực tiếp đối với việc triển khai thực hiện Nghị định Số: 120/2020/NĐ-

Nguyên

CP, ngày 07 tháng 10 năm 2020, “Quy định về thành lập, tổ chức lại và giải thể đơn vị sự nghiệp công lập” vì Nghị định này có hiệu lực điều chỉnh trực tiếp đối với việc rà soát, tái cơ cấu lại tổ chức bộ máy của nhiều trường. - Các điều kiện bảo đảm triển khai hiệu quả việc thực hiện tự chủ về tổ chức

nhân

của các TĐHCL tại Việt Nam còn thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất và phối hợp

hiệu quả về nhiều phương diện (thể chế điều chỉnh TCĐH vẫn vừa làm vừa sửa

đổi, rà soát, bổ sung; chưa có đề án tổng thể triển khai trên quy mô toàn hệ

thống GDĐH công lập; nhiều TĐHCL đồng loạt triển khai thực hiện tự chủ về

tổ chức trong bối cảnh dựa dẫm vào hệ thống QLNN về GDĐH và chưa sẵn sàng về tâm thế cũng như về điều kiện mọi mặt cho thực hiện TCĐH). - Việc triển khai thực hiện cơ chế tự chủ về tổ chức của các TĐHCL ở Việt

Nam chưa bài bản, thiếu sự chủ động, năng động, sáng tạo trên cơ sở nhu cầu tự thân của mỗi trường. - Có sự không đồng đều về xuất phát điểm, năng lực thực tế của các TĐHCL

(Có khoảng cách đáng kể về cơ chế triển khai thực hiện TCĐH nói chung, tự

chủ về tổ chức nói riêng giữa nhóm 23 TĐHCL thực hiện tự chủ theo cơ chế của Quyết định 77/NQ-CP/2014 và các TĐHCL không thuộc cơ chế này); - Việc triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức đang còn nặng về hành chính hóa,

thiếu chiến lược, kế hoạch khoa học, khả thi từ cả hai cấp QLNN về GDĐH và quản trị, quản lý của từng TĐHCL.

111

3.3. Những vấn đề đặt ra trong thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức hiện

nay của các trƣờng đại học công lập ở Việt Nam

3.3.1. Đánh giá chung về thực tiễn thực hiện tự chủ tổ chức của các trường

đại học công lập ở Việt Nam hiện nay

Thực hiện cơ chế TCĐH nói chung và thực hiện tự chủ về tổ chức của hệ

thống GDĐH công lập ở Việt Nam đã trải qua một hành trình gần hai thập kỷ đổi

mới, với xuất phát điểm ban đầu có nhiều tương đồng và khác biệt so với nền GDĐH

của nhiều quốc gia trên thế giới. Cũng như các nước trên thế giới, việc chuyển đổi cơ

chế QLNN về GDĐH và quản trị đại học ở các TĐHCL Việt Nam xuất phát điểm từ

nhu cầu mở rộng quy mô đào tạo đại học của xã hội dẫn tới sự thay đổi tính chất hoạt

động GDĐH trong các nhà trường, thay đổi mối quan hệ giữa Nhà nước với các

TĐHCL trong vận hành cơ chế QLNN về GDĐH. Chính sự tương đồng này mà Việt

Nam đã rất tích cực tìm kiếm, tham khảo kinh nghiệm quốc tế đối với tư duy tiếp cận

về TCĐH để thiết kế khung thể chế chung điều chỉnh quá trình chuyển đổi sang cơ

chế TCĐH. Trong thực tiễn, tiến trình TCĐH ở Việt Nam diễn ra thận trọng, kết hợp

giữa nghiên cứu, thí điểm (như đã thực hiện với nhóm các cơ sở GDĐH hoạt động

theo Nghị quyết 77/2014) với triển khai trên toàn hệ thống GDĐH công lập khi đến

thời điểm thích hợp (từ sau khi Luật số 34 chính thức có hiệu lực). Đến nay, việc thực

hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL có thể đánh giá khái quát qua những nét căn

bản sau:

Thứ nhất, đã có sự quán triệt sâu sắc về đường lối, chính sách chuyển đổi

mô hình QLNN về GDĐH từ tập trung bao cấp sang TCĐH; thống nhất rà soát, tổng

kết, đánh giá để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện từng bước thể chế TCĐH

áp dụng cho các cơ sở GDĐH công lập; tháo gỡ căn bản những bất cập, vướng mắc,

hạn chế về thể chế gây ảnh hưởng đến việc thực hiện tự chủ về tổ chức của các cơ

sở GDĐH công lập. Một trong số kết quả tích cực của Luật số 34 là khắc phục cơ

bản những rào cản thể chế liên quan đến những vấn đề cốt lõi trong thực hiện tự chủ

về tổ chức của TĐHCL như: (i) Quy định rõ hơn, chuẩn xác hơn về địa vị pháp lý

112

của HĐT trong TĐHCL; (ii) thể chế hóa cụ thể cơ chế hoạt động của thiết chế quản

trị và quản lý TĐHCL, cơ chế chủ quản trong phân cấp/ủy để quyền đảm bảo quyền

tự chủ về tổ chức của TĐHCL; (iii) thể chế hóa phạm vi, nội dung quyền tự chủ về

tổ chức của TĐHCL; (iv) chuẩn xác điều kiện để thực hiện quyền tự chủ về tổ chức

của TĐHCL... Két quả này đảm bảo về mặt pháp lý hoạt động thực hiện tự chủ về tổ

chức của TĐHCL. Song, hạn chế của thể chế chung hiện nay là việc sửa đổi, bổ

sung về thể chế TCĐH vẫn thiếu sự đồng bộ, thiếu thống nhất giữa luật chuyên

ngành và pháp luật liên quan nên việc triển khai thực hiện của cả cơ quan QLNN về

GDĐH và các TĐHCL đều đang gặp những vướng mắc nhất định (như đã nêu ở

phần trên).

Thứ hai, những trải nghiệm thực tế từ thí điểm cơ chế TCĐH theo Nghị quyết

77/2014 của một số TĐHCL trong thời hạn 4 năm đã giúp cho các TĐHCL nhận ra

khá nhiều vấn đề mà các TĐHCL sẽ phải đối diện, phải giải quyết khi hoạt động

trong cơ chế TCĐH, như vấn đề cơ hội và thách thức từ TCĐH; vấn đề năng lực của

tổ chức bộ máy và hệ thống quản trị, quản lý nhà trường; vấn đề quyết tâm chính trị

và phương pháp lãnh đạo của các cấp/các đơn vị trong nhà trường; sự đồng thuận vào

cuộc của toàn hệ thống tổ chức nhà trường khi bắt buộc phải thay đổi nhận thức, ý

thức và hành động trước các yêu cầu mà cơ chế TCĐH đặt ra. Và một trong những

thay đổi lớn về thực hiện TCĐH, hiện nay đó là thực hiện tự chủ về tổ chức không

phải trên cơ sở sự “đánh đổi” bằng tự chủ hoàn toàn về tài chính. Tự chủ hiệu quả về

tổ chức sẽ thúc đẩy hiệu quả của tự chủ tài chính để mang lại sự phát triển đi lên về

đời sống và cơ sở vật chất cho các TĐHCL. Đây được nhấn mạnh là điểm thay đổi

cốt lõi về TCĐH giữa thời điểm ban hành Luật số 08 (với trọng tâm đặt vào giải

quyết vấn đề thực hiên tự chủ về tài chính của các TĐHCL) và thời điểm triển khai

thực hiện Luật số 34. Khi đồng loạt các trường phải thực hiện đồng thời các mặt

TCĐH thì thực hiện tự chủ về tổ chức đang có khá nhiều vấn đề/nhiệm vụ đặt ra đối

với TĐHCL. Theo quy định pháp luật hiện hành, các TĐHCL đều phải sớm hoàn

thiện điều kiện thực hiện tự chủ về tổ chức. Sự chậm chễ của nhà trường trong hoàn

thiện điều kiện pháp lý để thực hiện tự chủ về tỏ chức có thể dẫn đến những hệ quả

113

bất lợi cho nhà trường cả về trách nhiệm pháp lý cũng như những hệ lụy khác. Chính

vì vậy, hơn lúc nào hết, thời điểm hiện tại đang là thử thách không nhỏ mà các

TĐHCL phải quyết định lựa chọn thay đổi để thực hiện TCĐH hiệu quả hay là tụt

hậu, rút lui khỏi thị trường GDĐH đầy tính cạnh tranh quyết liệt, Trong bối cảnh như

vậy, tự chủ về tổ chức có ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả thực hiện các mặt tự

chủ khác, bởi nó có giá trị xây dựng và hoàn thiện nền tảng thể chế, thiết chế và quản

trị đại học hiện đại, phù hợp hơn đối với nhà trường, vốn là cơ sở nền tảng khi

chuyển đổi hoạt động GDĐT sang cơ chế TCĐH.

Thứ ba, điều kiện khách quan, chủ quan và năng lực thực tế của cả hai phía,

chủ thể chủ quản và TĐHCL trong đáp ứng yêu cầu, điều kiện, nội dung thực hiện tự

chủ về tổ chức của TĐHCL trong giai đoạn vừa qua, nhất là thời gian từ sau khi Luật

số 34 chính thức có hiệu lực đến nay đang phát sinh những khó khăn, vướng mắc, hạn

chế (đã nêu và phân tích, đánh giá tại các mục 3.2.1, 3.2.2). Bên cạnh đó, hầu hết các

TĐHCL (trừ các trường đã thí điểm cơ chế TCĐH theo Nghị quyết 77 và tiếp tục hoàn

thiện cơ chế thực hiện tự chủ về tổ chức theo thể chế hiện hành) đang phải nỗ lực xây

dựng, hoàn thiện căn bản lại hệ thống quản trị, quản lý và tổ chức bộ máy của nhà

trường. Hiện tại, đối với hầu hết các TĐHCL thì việc thực hiện tự chủ về chuyên môn

học thuật chịu sự QLNN của Bộ GDĐT, còn thực hiện tự chủ về tổ chức chịu sự quản

lý của bộ/ngành quản lý trực tiếp. Nói cách khác, gánh năng từ những khó khăn, thách

thức trong thực hiện TCĐH hầu như không giảm bớt, thậm chí có những vấn đề cu thể

còn phát sinh thêm. Vì vậy, trong thời gian tới, xác định rõ các nhiệm vụ trọng tâm

nhằm khắc phục, loại bỏ những khó khăn, vướng mắc và triển khai thực hiện hiệu quả

tự chủ về tổ chức của các TĐHCL là cực kỳ quan trọng.

3.3.2. Những vấn đề đặt ra đối với hệ thống quản lý nhà nước về giáo dục

đại học

Đến thời điểm hiện nay, có thể khẳng định, TCĐH là xu hướng tất yếu để đổi

mới GDĐH Việt Nam đồng thời cũng là phương thức quản trị tiên tiến để cải thiện và

nâng cao chất lượng GDĐH. Tuy còn có khó khăn, vướng mắc và hạn chế như đã nêu

trên, nhưng những kết quả mang lại của chủ trương thí điểm tự chủ theo Nghị quyết

114

77/2014/NQ-CP và bối cảnh chung của GDĐH trên thế giới thì TCĐH nói chung và

thực hiện tự chủ về tổ chức đối với các TĐHCL là tất yếu khách quan trong điều kiện

thay đổi căn bản cơ chế QLNN về GDĐH tại Việt Nam. Từ đây, cần xác định những

vấn đề trọng tâm đặt ra cho hệ thống QLNN về GDĐH trong chỉ đạo, quản lý việc thực

hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL như sau:

Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế chung điều chỉnh việc thực hiện tự

chủ về tổ chức của các TĐHCL. Các cơ quan QLNN về GDĐH (Bộ GDĐT và các Bộ

chức năng, như Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính…) phải chỉ đạo, rà soát, hoàn thiện thể chế,

chính sách để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật về TCĐH nói

chung và tự chủ về tổ chức của các TĐHCL nói riêng. Cùng với đó, nhu cầu hướng dẫn

và thống nhất trong cách tiếp cận, triển khai thực hiện trên toàn hệ thống QLNN và

quản trị đại học đối với Luật số 34, Nghị định số 99 và Nghị định số 120/2020/NĐ-CP

“Quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập” (gọi tắt là

Nghị định 120) đang đặt ra nhiều vấn đề cần được cụ thể hóa để các TĐHCL có thể

triển khai vào thực tiễn. Chẳng hạn, cần có sự thống nhất chung giữa các Bộ về thực thi

quyền công nhận đối với những đề xuất liên quan đến thiết chế quản trị (HĐT, Chủ tịch

HĐT, thành viên HĐT), thiết chế quản lý (công nhận nhân sự cho vị trí Hiệu trưởng)

và quyền tự chủ trong thiết lập hệ thống thể chế quản trị, quản lý nội bộ của các

TĐHCL. Đây là một trong số vấn đề nền tảng của thực hiện tự chủ về tổ chức đối với

TĐHCL, rất cần được minh định trong cách hiểu từ phía hệ thống các cơ quan QLNN

nói chung và các bộ quản lý trực tiếp các TĐHCL nói riêng.

Việc thực hiện trách nhiệm hướng dẫn, hỗ trợ của các chủ thể quản lý trực

tiếp các TĐHCL triển khai thực hiện thể chế tự chủ về tổ chức cần được đặc biệt

quan tâm. Đây đang là vấn đề thời sự tại các TĐHCL hiện nay. Hầu hết các TĐHCL

đang triển khai thành lập HĐT và đưa thiết chế này đi vào hoạt động thực tế đều có

những vướng mắc cần được tháo gỡ. Cụ thể, việc xác định ai là người đứng đầu

TĐHCL? Về vấn đề này, tuy đã có trả lời mang tính giải pháp tình thế của Bộ Nội vụ

đối với yêu cầu của một số Bộ (Bộ Y tế, Bộ GDĐT) (Phụ lục 6) nhưng về cơ bản, đó

115

vẫn là ý kiến thực hiện công tác phối hợp giữa các bộ ngành chứ chưa được quy định

cụ thể trong luật. Tương tự, vấn đề mô hình HĐT nào trong số hai mô hình như Quốc

hội hay Hội đồng quản trị là phù hợp đối với các trường? Tiếp đến, một số vấn đề

khác như: (1) Các định hướng lớn cần sự thống nhất trong việc cụ thể hóa các quy

định về HĐT tại Quy chế tổ chức và hoạt động của TĐHCL và quy chế hoạt động của

HĐT để đảm bảo thực quyền, thực hiệu quả cho hoạt động của HĐT mà không gây

chồng chéo về thẩm quyền giữa thiết chế HĐT và Hiệu trưởng cũng như không làm

cồng kềnh bộ máy của nhà trường; (2) vấn đề áp dụng mô hình Bí thư đảng ủy kiêm

Chủ tịch HĐT là bắt buộc hay tùy nghi đối với các TĐHCL trong triển khai thành lập

HĐT; (3) vấn đề hướng dẫn cụ thể từ bộ chức năng và bộ quản lý trực tiếp cho

TĐHCL về triển khai thực hiện quy Nghị định số 120/2020/NĐ-CP...

Thứ hai, tăng cường công tác chỉ đạo của các cơ quan QLNN về GDĐH đối

với các điều kiện đảm bảo chất lượng, các hoạt động kiểm định chất lượng cơ sở và

chương trình đào tạo, vì đây là một trong số các điều kiện để TĐHCL được giao và mở

rộng quyền TCĐH.

Thứ ba, khâu phối hợp của các bộ/ngành của Chính phủ với các TĐHCL trong

hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức, xử

lý vi phạm hoặc phối hợp với cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm vi phạm trong

lĩnh vực này (ví dụ, triển khai áp dụng xử lý vi phạm đối với các TĐHCL không thực

hiện TNGT, không thành lập HĐT theo quy định của pháp luật hiện hành) [5]. Hình

thành các tổ chức kiểm định, đánh giá độc lập về chất lượng dịch vụ đối với cơ sở

GDĐH vì đây chính là yếu tố thúc đẩy các TĐHCL coi trọng hơn chất lượng sản

phẩm đào tạo.

Thứ tư, có cơ chế giám sát việc tuân thủ pháp luật, thực hiện quy chế dân chủ

trong các hoạt động của các trường và TNGT của tổ chức/cá nhân người có thẩm

quyền. Giám sát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản của TĐHCL được xác định là

một trong số những vấn đề cần được quan tâm trong tiến trình triển khai thực hiện

TCĐH (trong đó có thực hiện tự chủ về tổ chức) tại Việt Nam trong thời gian tới từ

116

phương diện của QLNN về GDĐH.

3.3.3. Những vấn đề đặt ra cho các trường đại học công lập thực hiện tự chủ

về tổ chức

Đối với các TĐHCL hiện nay, việc triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức gắn

liền với những vấn đề trọng tâm và cấp bách như sau:

* Hoàn thiện thiết chế quản trị, quản lý nhà trường

Tại Việt Nam, nếu ở thời điểm trước khi có Luật số 34 thì cơ bản “không có chỗ

cho sự hiện diện quyền lực của Hội đồng trường với cơ quan quản lý nhà nước cấp trên,

trong trái tim, khối óc của cán bộ viên chức, người học hay đối tác, và vì thế, Hội đồng

trường không có vai trò gì trong việc đưa ra quyết định về công tác tổ chức…” [72].

Trong giai đoạn này, sự hiện diện của HĐT tại các TĐHCL chủ yếu liên quan đến các

trường thuộc nhóm hoạt động theo cơ chế của Nghị quyết 77/2014/NQ-CP. Ở thời điểm

hiện tại, việc khắc phục tình trạng nêu trên là một trong số nhiệm vụ trọng tâm đối với

thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL. Các trường cần chủ động hoàn thiện thiết chế

HĐT của mình theo hướng thực chất về quyền lực và hiệu quả về quản trị các mặt hoạt động

GDĐT. Muốn đạt được điều này, các vấn đề sau đây cần được quan tâm giải quyết:

(1) Vấn đề thực hiện chức năng của HĐT trong mối quan hệ với các cơ cấu tổ

chức quản lý của TĐHCL: Trong số các chức năng (đại diện cho quyền sở hữu của các

chủ thể liên quan; là cầu nối giữa trường và cộng đồng xã hội; thực hiện việc giám sát

các hoạt động của trường) mà HĐT phải đảm nhiệm thì hiện thực hóa chức năng định

hướng chiến lược và giám sát của HĐT được xác định là trọng tâm. Vấn đề này hiện

các trường đang có hai cách tiếp cận. Cách thứ nhất là theo quy định chung như Luật

số 34 chứ không cụ thể hóa trong quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường. Cách

tiếp cận thứ hai là quy định cụ thể về cơ chế báo cáo, giám sát của HĐT trong quy chế

tổ chức và làm việc của HĐT. Cả hai cách tiếp cận nêu trên đều gắn với một thực tế, có

ít nhất 60% thành viên HĐT đang thực hiện công việc đồng thời trên cả ba vị trí (đại

diện giảng viên tham gia HĐT; thành viên HĐT; lãnh đạo đơn vị thuộc TĐHCL). Hiệu

trưởng và các lãnh đạo đơn vị thuộc trường trong vai trò thành viên HĐT sẽ phải thực

117

thi chức năng giám sát hoạt động của chính mình. Vì vậy, phải có cơ chế và quy trình

chặt chẽ để từng thành viên HĐT có thể độc lập thực hiện vai trò giám sát của HĐT đối

với các hoạt động quản lý nhà trường của mình. Đây là một trong số vấn đề vừa mang

tính pháp lý, vừa mang tính thực tiễn mà công việc hoàn thiện thể chế, bộ máy tổ chức

nhà trường thực hiện tự chủ về tổ chức đặt ra.

Hiện các TĐHCL đang xử lý vấn đề thực hiện chức năng giám sát của HĐT

theo phương thức khác nhau. Có trường tự động áp dụng như quy định của Luật số 34.

Ngược lại cũng có trường áp dụng tương tự cơ chế giám sát của Quốc hội, với việc

sử dụng đa dạng các kênh giám sát (thông qua cơ chế báo cáo của Hiệu trưởng và

các đơn vị thuộc trường với HĐT; thông qua cơ chế thảo luận, chất vấn tại các

phiên họp của nhà trường và HĐT; thông qua vai trò của các tổ công tác để thực

hiện việc giám sát theo chuyên đề đối với những việc cần làm rõ). Theo quan điểm

của chúng tôi, áp dụng cơ chế giám sát theo phương thức tương tự của Quốc hội là

khá hiệu quả và chặt chẽ, có tác dụng tạo sự phòng ngừa cần thiết đối với những sai

phạm hoặc cố tình lạm dụng quyền lực trong quản lý, điều hành hệ thống quản trị và

quản lý nhà trường.

(2) Vấn đề cơ cấu của HĐT. Hiện nay, các trường đã thành lập HĐT đều tuân

thủ nghiêm quy định về số lượng thành viên HĐT là số lẻ, đảm bảo tối thiểu 30% là

thành viên bên ngoài với đại diện các thành phần như Luật số 34 quy định. Cá biệt vẫn

có trường không đưa đại diện đoàn thanh niên là học viên/sinh viên đang theo học tại

trường vào thành viên HĐT. Điều này là không phù hợp vì sinh viên/học viên hiện diện

ở HĐT không chỉ với tư cách người được đào tạo, mà còn có tư cách “khách hàng”

trong mối quan hệ bình đẳng với các chủ thể tham gia thị trường dịch vụ công. TĐHCL

phải có nghĩa vụ tạo điều kiện cho người học tham gia vào thiết chế quản trị nhà trường

để thiết chế này có thể lắng nghe được sự phản hồi, phản biện và đề xuất các yêu cầu

chính đáng từ phía người học (cũng chính là khách hàng của TĐHCL) đối với chất

lượng, hiệu quả dịch vụ mà nhà trường cung cấp ra xã hội.

Một vấn đề khác về cơ cấu HĐT là vấn đề thành phần tham gia HĐT. Theo

118

Luật số 34 và trên thực tế, thành phần tham gia HĐT được cơ cấu như sau:

Bảng 3.6: Tham chiếu cơ cấu thành viên của các trường tự chủ

theo Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP [32, tr. 112-113]

Nội dung

Cơ cấu thành viên

Số lƣợng

Tỷ lệ (%)

20

5,28

1. Chủ tịch Hội đồng trƣờng

4

1,06

- Bí thư

16

4,22

- Không là Bí thư

101

26,65

2. Thành viên đƣơng nhiên

6

1,58

- Hiệu trưởng là Bí thứ

13

3,43

- Hiệu trưởng

53

13,98

- Phó Hiệu trưởng

Thành viên bên trong trường

13

3,43

- Chủ tịch công đoàn

16

4,22

- Bí thư Đoàn thanh niên

40,53

154

3. Thành viên bầu đại diện giảng viên

152

40,11

- Lãnh đạo phòng/ban/khoa/viện/bộ môn

2

0,53

- Giảng viên không giữ chức vụ quản lý

4. Thành viên bên ngoài

104

27,44

20

5,58

- Đại diện cơ quan chủ quản

11

2,90

- Đại diện cơ quan QLNN

73

19,26

- Đại diện doanh nghiệp, tổ chức xã hội

Thành viên bên ngoài trường

379

100,00

Tổng cộng

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ website 20 TĐH tự chủ theo Nghị quyết số

77/2014/NQ-CP

Với tỉ lệ thành viên thuộc trường là 72,56% (tỷ lệ thành viên đương nhiên

31,9%, bao quát gần như 2/3 bộ máy quản lý của nhà trường và tỷ lệ đại diện cho

giảng viên không giữ chức vụ quản lý 0,33%) thì đây là mô hình HĐT hướng nội. Cơ

cấu này cho thấy rất nhiều thành viên HĐT cùng một lúc phải thực hiện nhiều vai trò

ở cả HĐT và bộ máy quản lý của trường. Tương tự, tỷ lệ thành viên bên ngoài

27,44%, tuy đã thể hiện có sự tham gia, đóng góp, đánh giá, giám sát từ cộng đồng xã

hội đối với hoạt động GDĐT của nhà trường, nhưng với cơ chế hoạt động theo hình

thức cuộc họp (trung bình 3 tháng/1 lần) và bản thân các thành viên bên ngoài phần

119

lớn là những người giữ vị trí lãnh đạo tại các tổ chức, cơ quan nên thời gian và công

sức đầu tư cho hoạt động tại HĐT trên tư cách thành viên hội đồng khó phát huy tối

đa sự cống hiến về ý tưởng, quyết sách chiến lược. Nhìn vào cơ cấu này, về pháp lý

hoàn toàn đúng nhưng trên phương diện quản trị đại học thì các TĐHCL vẫn tiếp tục

phải đầu tư xây dựng nguồn nhân lực bên ngoài để có thể đáp ứng thực chất các yêu

cầu về thành viên HĐT.

(3) Vấn đề thiết kế cơ cấu tổ chức của HĐT tại các TĐHCL hiện nay. HĐT

liệu có thể có thêm cơ cấu tổ chức dưới hình thức ban chuyên trách [47], ngoài cơ cấu

trong bộ máy quản lý của Hiệu trưởng mà luật quy định hay không? Theo quy định,

HĐT hoàn toàn có quyền sử dụng bộ máy tổ chức hiện có của nhà trường phục vụ cho

các hoạt động của Hội đồng. Vậy cần cơ cấu bộ máy của HĐT như thế nào là phù hợp

và hiệu quả? Chẳng hạn, cơ cấu tổ chức HĐT của Trường Đại học Y Hà Nội ngoài cơ

cấu như nhiều trường hiện nay còn có các Ban chuyên trách tư vấn và hỗ trợ của hoạt

động quản trị của Chủ tịch HĐT và HĐT. Các ban này được thiết kế theo hệ thống

ngang, đan xen với cơ cấu hành chính được thiết kế theo hệ thống dọc thuộc bộ máy

quản lý của trường. Về cơ bản, đến thời điểm hiện tại, cơ cấu của HĐT trong các

TĐHCL hiện đã có hai hướng tiếp cận. Mội là, theo cách Luật số 34 và Nghị định số 99

quy định. Hai là, chủ động mở rộng cơ cấu HĐT. Điều quan trọng, hướng mở rộng

trong thực hiện tự chủ về tổ chức của những trường đang thực hiện như nêu trên liệu có

phù hợp hay không? Đây là câu hỏi phát sinh từ thực tế chưa có sự giải đáp từ phía cơ

quan QLNN về GDĐH. Quan điểm của chúng tôi cho rằng, cần thận trọng với việc mở

rộng cơ cấu của HĐT theo cách làm như một số trường hiện nay, bởi trên thực tế, có

thể nhận diện ngay là sự cồng kềnh của hệ thống tổ chức của nhà trường; tiềm ẩn nguy

cơ xung đột quyền lực giữa hai hệ thống quản trị và quản lý. Theo chúng tôi, khi việc

mở rộng cơ cấu của HĐT đang ở trạng thái đơn lẻ thì chỉ là vấn đề nội bộ, nhưng nếu

hiện tượng đó được nhân rộng trong cả hệ thống các TĐHCL thì sẽ trở thành vấn đề

lớn của hệ thống GDĐH quốc gia. Bởi làm như hiện nay với một quy mô mở rộng ra

các TĐHCL thì mục tiêu tự chủ hướng tới một chất lượng giáo dục tốt hơn, giảm sức

120

ép tài chính, tổ chức lên nhà trường, xã hội và người học có thể sẽ khó đạt được.

(4) Vấn đề cơ cấu thành viên của HĐT. HĐT phải có tối thiểu 30% thành viên

bên ngoài nhà trường (gồm cả thành viên đại diện cho chủ thể quản lý trực tiếp

TĐHCL). Vậy các TĐHCL sẽ định hướng thành phần, tính chất, nhân sự cụ thể của

30% này như thế nào? Trong thực tế, một số trường như Trường Đại học Luật Hà Nội,

Học viện Tòa án có đến 5 nhân sự thuộc bộ/ngành chủ quản tham gia HĐT. Nhiều

trường khác thì bộ chủ quản chỉ cử 1 nhân sự với tư cách đại diện cho chủ sở hữu nhà

nước tham gia HĐT. Cùng một quy định pháp luật, nhưng các bộ quản lý trực tiếp lại

có sự khác nhau trong tiếp cận về cử đại diện tham gia HĐT của TĐHCL. Ngoài thành

viên này, nhiều trường hiện nay theo xu hướng nhân sự bên ngoài là cựu sinh viên đã

thành đạt, giữ các chủ vụ lãnh đạo, quản lý ở các ngành, nghề, đơn vị khác nhau, kết

hợp với lựa chọn một số chuyên gia các lĩnh vực liên quan đến ngành nghề đào tạo của

nhà trường. Những nhân sự này, nhìn về giá trị và chất lượng nguồn nhân lực thì rất

phù hợp, nhưng liệu bao nhiêu người trong số thành viên này có đủ thời gian, tâm

huyết để cống hiến cho nhà trường, để nắm bắt và thực hiện vai trò đánh giá hiệu quả

hoạt động của bộ máy quản lý của hiệu trưởng và chính hiệu trưởng? Thông thường,

một năm có 4 cuộc họp định kỳ của HĐT (trừ phát sinh nhu cầu họp đột xuất), vậy làm

thế nào để HĐT của TĐHCL có thể tận dụng tối đa công sức, trí tuệ và đóng góp của

các thành viên bên ngoài đối với quyết định quan trọng của HĐT? Đây cũng là thách

thức khách quan mà các TĐHCL phải đối diện để khắc phục tình trạng thành viên bên

ngoài tham gia HĐT cốt để đủ thành phần. Muốn vậy, khi cân nhắc cơ cấu thành viên

bên ngoài tham gia vào HĐT phải trên cơ sở tư duy tự chủ thực chất, thay vì tư duy

thành lập HĐT chỉ để đối phó với sự thay đổi của thể chế TCĐH.

(5) Vấn đề quy định về Chủ tịch HĐT. Một trong những vấn đề về Chủ tịch

HĐT mà các TĐHCL quan tâm là Chủ tịch HĐT có phải là người đứng đầu HĐT hay

không? Việc đảm bảo để “HĐT là cơ quan thực quyền cao nhất của trường đại học, Bí

thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng trường” [47] có tất yếu dẫn tới việc xác định, Chủ

tịch HĐT là người đứng đầu HĐT? Với cơ chế làm việc và quyết định tập thể, theo đa

121

số của HĐT, bằng công cụ nghị quyết có hiệu lực bắt buộc và thông qua phương thức các

cuộc họp thì vai trò người đứng đầu thiết chế này của chủ tịch HĐT sẽ được thực hiện như

thế nào? Chủ tịch HĐT là người chủ trì các phiên họp của HĐT và ra quyết định tập thể

như đã nêu hay là người chịu trách nhiệm cao nhất và sau cùng? Khi xuất hiện tình huống

các quyết định của HĐT có kết quả biểu quyết ngang nhau thì vai trò quyết định cuối cùng

của Chủ tịch HĐT có được hiểu như cơ chế quyết định của Đảng ủy, tức sẽ biểu quyết

theo quyết định của bên có Bí thư Đảng ủy hay không? Tất cả những câu hỏi nêu trên đều

xuất phát từ cách hiểu Chủ tịch HĐT có phải là người đứng đầu HĐT hay không. Hiện

đang có những tiếp cận khác nhau ở các TĐHCL. Có trường quy định rõ Chủ tịch HĐT là

người đứng đầu HĐT (như trường hợp của Trường Đại học Y Hà Nội), còn hướng khác

là không quy định. Quan điểm của chúng tôi là trong Luật số 34 và các văn bản pháp

luật liên quan hiện nay không quy định Chủ tịch HĐT là người đứng đầu HĐT không

phải do nguyên nhân có khoảng trống thể chế, mà xuất phát từ bản chất pháp lý của cơ

chế HĐT là làm việc và quyết định tập thể, theo đa số. Sự phân cấp, ủy quyền tự chủ về

tổ chức mà cơ quan QLNN giao cho TĐHCL không phải giao cho một cá nhân cụ thể

là Chủ tịch HĐT mà là tập thể đại diện cho lợi ích của các bên liên quan để bảo vệ

quyền lợi cho mọi nhóm lợi ích trong nhà trường. Thiết chế này không được thiết kế

theo nguyên lý tập quyền như thiết chế quản lý của Hiệu trưởng. Do đó, không cần

thiết phải quy định Chủ tịch HĐT là người đứng đầu HĐT.

Tương tự, vấn đề cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch HĐT

trong thể chế nội bộ của TĐHCL cũng đang được thực hiện theo những cách khác nhau ở

từng trường. Chẳng hạn, cách tiếp cận cụ thể hóa quyền hạn của Chủ tịch HĐT gần như

quyền hạn của Hiệu trưởng theo Luật số 08 trước đây, có bổ sung quy định phù hợp với

điều kiện hoạt động của HĐT. Ở cách tiếp cận này, Hiệu trưởng đương nhiệm chuyển

qua vị trí Chủ tịch HĐT kiêm Bí thư Đảng ủy nên đã thiết kế thể chế quản trị nội bộ

theo hướng mở rộng thẩm quyền của Chủ tịch HĐT và tạo cơ chế thực quyền mạnh cho

Chủ tịch HĐT bằng việc quy định Chủ tịch HĐT là người đứng đầu HĐT; HĐT có

thêm bộ phận giúp việc song song với sử dụng bộ máy quản lý của trường, nhằm tăng

122

cường việc tối ưu hóa thẩm quyền giám sát của HĐT đối với hoạt động quản lý của

Hiệu trưởng. Theo chúng tôi, cần có sự cân nhắc kỹ đối với hướng tiếp cận này, vì đó

tiềm ẩn nguy cơ tập trung quyền lực vào cá nhân thay cho quyền lực của tập thể HĐT.

(6) Vấn đề mối quan hệ giữa Đảng ủy - HĐT - Hiệu trưởng trong TĐHCL.

Quan hệ công tác giữa HĐT và Hiệu trưởng được xác định theo nguyên tắc, HĐT chỉ

đạo Hiệu trưởng bằng nghị quyết của HĐT. Hiệu trưởng có trách nhiệm thực hiện các

nghị quyết của HĐT và trong trường hợp nội dung nghị quyết không phù hợp thì có

quyền báo cáo Chủ tịch HĐT để giải quyết. Hiệu trưởng phải có TNGT các vấn đề

trước HĐT theo quy định. Quan hệ giữa HĐT và Đảng ủy được thực hiện theo quy

định của tổ chức Đảng tại các TĐHCL. Cụ thể, trên cơ sở nghị quyết của Đảng ủy,

HĐT thảo luận, ra quyết định phê duyệt và thực hiện việc giám sát thực hiện của các tổ

chức, cá nhân trong nhà trường. HĐT thực hiện vai trò chủ động trong quan hệ công

tác với Đảng ủy. Trường hợp giữa HĐT và Đảng ủy không thống nhất được phương án

giải quyết có thể báo cáo lên chủ thể trực tiếp quản lý nhà trường.

Ở các trường theo phương án nhất thể hóa vị trí Bí thư Đảng ủy với vị trí chủ

tịch HĐT thì việc xác định rõ ràng mối quan hệ giữa ba bên vẫn chưa thực sự sáng tỏ.

Trong quy định của thể chế nội bộ, các trường chủ yếu chỉ xác định các vấn đề chung

nhất dựa trên quy định pháp luật hiện hành và các quy định của Đảng, thiếu sự tường

minh và cụ thể về vai trò, trách nhiệm của từng Đảng ủy viên trong vị trí thành viên HĐT

đối với các khâu của công tác tổ chức, nhất là khi quyết định có sai phạm về tổ chức, liên

quan đến vị trí người đứng đầu tổ chức đảng và đứng đầu HĐT. Lằn ranh giữa sự lãnh đạo

về chính trị, tư tưởng của Đảng ủy với sự lãnh đạo về quản trị đại học của HĐT trong tổ

chức TĐHCL cần phải rõ ràng, cụ thể hơn về nhiệm vụ và trách nhiệm để củng cố và phát

triển nền tảng thể chế cho sự vận hành của từng thiết chế trong TĐHCL.

Với cơ chế quyết định tập thể theo đa số thì việc xác định trách nhiệm cá

nhân của từng thành viên trong HĐT đối với hiệu lực, hiệu quả của những quyết định

liên quan đến lợi ích chung của nhà trường như thế nào, nhất là trách nhiệm các thành

viên bên ngoài nhà trường trước Nhà nước, người học và xã hội về hiệu quả hoạt

động của HĐT cũng đang thiếu vắng trong thể chế nội bộ TĐHCL. Hiện thì các quy

123

định về HĐT hầu như xuôi chiều theo cách tư duy là bộ máy quản lý của Hiệu trưởng

và HĐT luôn hoạt động tốt. Nhưng trên thực tế, khi có sự cố (như trường hợp của

trường đại học Tôn Đức Thắng vừa qua) thì vấn đề xác định trách nhiệm của các bên

(Đảng ủy - HĐT - Hiệu trưởng) không thể không được lường trước. Vì vậy, vấn đề

này cần được quan tâm trong quá trình hoàn thiện bộ máy tổ chức của TĐHCL

* Củng cố, hoàn thiện thiết chế Hiệu trưởng

Đối với thiết chế này, sự khác biệt giữa hai giai đoạn trước và sau khi Luật số 34

được ban hành là thẩm quyền xác định, lựa chọn nhân sự để bầu/công nhận Hiệu

trưởng và địa vị pháp lý thực chất của Hiệu trưởng. Trước Luật số 34, dù được xác

định là thiết chế quản lý, điều hành tổ chức bộ máy TĐHCL trên cơ sở quyết nghị của

HĐT, nhưng do quy định chưa rõ ràng trong Luật số 08 về thẩm quyền của HĐT và

Hiệu trưởng nên thực quyền quản lý, điều hành và một phần quan trọng của thẩm

quyền quản trị nhà trường vẫn do Hiệu trưởng nắm giữ. Vì vậy, trong giai đoạn này,

thiết chế Hiệu trưởng có thực quyền quản trị hơn HĐT. Còn từ sau khi Luật số 34 và

Nghị định số 99 chính thức có hiệu lực, những thẩm quyền mang tính chất quyền lực

quản trị đại học được chuyển giao cho HĐT. Vì vậy, quyền lực của Hiệu trưởng

TĐHCL có sự chuyển giao theo chiều ngang (sang HĐT) và theo chiều dọc (xuống đến

các đơn vị thuộc trường). Cả hai dòng chuyển giao quyền lực này đều phụ thuộc vào sự

quyết liệt chỉ đạo từ chính chủ thể quản lý trực tiếp, từ tổ chức cơ sở đảng và tập thể

lãnh đạo TĐHCL. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, nhiều TĐHCL vẫn chưa hoàn

thành việc ban hành mới quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường. Ngay cả với các

trường đã ban hành quy chế tổ chức và hoạt động mới thì việc chuyển giao quyền lực

xuống đến các đơn vị thuộc quyền quản lý của Hiệu trưởng vẫn chưa được đề cập.

* Thực hiện TNGT, hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ của các TĐHCL; cập

nhật, công khai, kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về GDĐH theo quy định.

Hiện tại, cơ chế giải trình trong vận hành bộ máy quản trị của HĐT và quản lý

của Hiệu trưởng là nội dung chưa thực sự được quan tâm đề cập đầy đủ trong thể chế

nội bộ của các TĐHCL. Ở góc độ QLNN, vấn đề TNGT của TĐHCL được quan tâm

nhưng trong các quy định hiện hành của các trường lại là nội dung được quy định

124

chung chung, chưa được cụ thể hóa thành quy trình, thủ tục, nhất là đặt ra trách nhiệm

cụ thể của từng thiết chế. Thực chất, việc triển khai thực hiện TNGT hiện vẫn mang

đậm tính chất hành chính (tức giải trình của cấp chịu sự quản lý đối với cấp quản lý).

Giải trình theo cơ chế TCĐH như các TĐH trên thế giới còn quá mới đối với hầu hết

các TĐHCL của Việt Nam hiện nay.

* Đổi mới phương thức và nâng cao năng lực quản trị đại học

Với hầu hết các TĐHCL hiện nay thì đây là vấn đề cốt yếu, có ý nghĩa quan

trọng cho thành công và hiệu quả của thực hiện tự chủ về tổ chức. Những nghiên cứu

và thực tiễn thực hiện TCĐH trên thế giới cũng như thời gian qua ở Việt Nam đã cho

thấy một thực tế, không có phương thức quản trị đại học duy nhất áp dụng chung cho

tất cả các TĐHCL. Chỉ có nguyên lý chung là muốn thực sự có những thành tựu cho

TCĐH thì từng TĐHCL nhất thiết phải đổi mới phương thức quản trị nhà trường theo

hướng tiên tiến, hiện đại, đồng thời với từng bước nâng cao năng lực tự chủ cho toàn

hệ thống tổ chức bộ máy của nhà trường. Hiện nay, hệ thống quản trị TĐHCL ở Việt

Nam đang được vận hành như sau:

Bộ quản lý trực tiếp

Đảng ủy Trƣờng Đại học công lập

Tổ chức đảm bảo chất lƣợng

Cơ quan kiểm định chất lƣợng

Hội đồng trƣờng

Hiệu trƣởng

Phân hiệu

Phòng, ban

Khoa, bộ môn

125

Hình 3.1: Mô hình quản trị TĐHCL ở Việt Nam

Kết luận chƣơng 3

Giáo dục đại học Việt Nam đang ở năm cuối thực hiện Chiến lược phát triển

giáo dục thời kỳ 2011 - 2020, theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của

Thủ tướng Chính phủ. Đây cũng là dấu mốc để xây dựng chiến lược phát triển giáo dục

2021-2030. Việc xây dựng Chiến lược phát triển GDĐH Việt Nam thời gian tới rất cần

tạo ra đột phá trong TCĐH và ở góc độ các TĐHCL, tự chủ thực chất và hiệu quả về tổ

chức bộ máy chính là một trong số tiền đề cho sự đột phá đó. Thay đổi phương thức

QLNN về GDĐH và thay đổi về quản trị đại học được xác định là bước đi vững chắc

để các TĐHCL thực sự có được tầm nhìn mới về chất lượng GDĐH.

Đối với QLNN về GDĐH, cần có cam kết mạnh mẽ cho chính sách phát triển

GDĐH trong điều kiện TCĐH. Nhà nước cần nắm quyền chỉ đạo và điều tiết việc cung

cấp dịch vụ GDĐH nhưng trao quyền tự chủ rộng hơn cho các TĐHCL, nhất là trong

tự chủ về tổ chức bộ máy của nhà trường. Đối với quản trị tổ chức bộ máy TĐHCL,

thay đổi tư duy quản trị nhà trường chính là nền tảng quan trọng. Tựu chung, những

vấn đề đặt ra cho tự chủ về tổ chức của các TĐHCL Việt Nam hiện đã tiệm cận với

cách tiếp cận và thực tiễn tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó, sự thay đổi căn bản

nhất liên quan đến thực thi tự chủ đối với những quyết định về thiết chế và cơ chế quản

trị tổ chức bộ máy nhà trường, điều kiện để mở rộng cũng như tăng cường hơn sự tự

chủ về tổ chức của từng trường. So với nhiều quốc gia trên thế giới, sự hiện hữu của cơ

quan quản lý trực tiếp trong thực hiện quyền công nhận đối với công việc liên quan đến

HĐT, Hiệu trưởng vẫn mang nặng tính quản lý của cơ chế chủ quản trong thể chế sửa

đổi của Luật số 34 và Nghị định 99. Cùng với đó, sự chủ động, tạo đột phá trong thực

hiện cơ chế tự chủ về tổ chức của các TĐHCL Việt Nam đang diễn ra với tiến độ chậm

so với yêu cầu thể chế và thực tiễn hội nhập quốc tế về GDĐH. Nhiệm vụ của thời gian

tới là tiếp tục triển khai thực hiện quy định mới trong tự chủ về tổ chức để tạo ra nền

126

tảng mới cho TCĐH nói chung và tự chủ về tổ chức của TĐHCL nói riêng.

Chƣơng 4

CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN TỰ CHỦ VỀ TỔ CHỨC

CỦA TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM

4.1. Quan điểm và định hƣớng trong bảo đảm thực hiện tự chủ về tổ chức

của trƣờng đại học công lập ở Việt Nam

4.1.1. Quan điểm chung trong bảo đảm thực hiện tự chủ về tổ chức của

trường đại học công lập ở Việt Nam

Thứ nhất, đảm bảo sự nhất quán các quan điểm, chính sách lớn của Đảng và

Nhà nước đối với thực hiện quyền tự chủ về tổ chức của các TĐHCL. Đây là quan điểm

xuyên suốt một số các nghị quyết lớn của Đảng về chỉ đạo thực hiện cơ chế TCĐH ở

Việt Nam. Trước hết, về xác định nhiệm vụ quan trọng của các cơ sở GDDH trong

thực hiện TCĐH, Nghị quyết Trung ương số 29-NQ/TW đã chỉ rõ phải:

Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ,

thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục,

đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng… Phân định công tác quản lý nhà

nước với quản trị của cơ sở giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, nâng

cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo

dục, đào tạo [13].

Chủ trương lớn và nhất quán này có ý nghĩa đặt nền tảng chính sách, cơ chế

giáo dục cho nhiệm vụ và giải pháp QLNN về GDĐH trong điều kiện TCĐH, đồng

thời xác định vị trí, vai trò của các TĐHCL trong mối quan hệ phân cấp, phân quyền

với các cơ quan QLNN.

Cùng với Nghị quyết số 29-NQ/TW, Nghị quyết Trung ương số 19-NQ/TW ngày

25/10/2017 “Về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và

hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập” đã chỉ đạo rõ việc xác định nhiệm

vụ trọng tâm, trước mắt và lâu dài của các cơ quan QLNN về GDĐH cũng như các

TĐHCL là phải:

4. Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong quá

127

trình đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, gắn với đổi mới hệ thống

chính trị và cải cách hành chính, đồng thời có lộ trình và bước đi phù hợp,

có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết

thực tiễn để kịp thời bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách.

(5) Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyền tự chủ

và tự chịu trách nhiệm toàn diện về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,

nhân sự và tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập, phát huy vai trò giám sát

của người dân trong quá trình đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao

chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập [14].

Nghị quyết số 29 và Nghị quyết 19 đều tập trung vào vấn đề trọng tâm là đổi

mới, tăng cường năng lực của hệ thống tổ chức và năng lực quản lý, quản trị đơn vị sự

nghiệp công lập, bởi đó là yếu tố mang tính quyết định đến chất lượng, hiệu quả các

mặt TCĐH khác của các cơ sở GDĐH. Thực tiễn thời gian qua tại các TĐHCL đã cho

thấy, vấn đề năng lực hệ thống là một trong số điểm yếu chung của hệ thống GDĐH

công lập. Vì vậy, Nghị quyết số 19 đã định hướng đúng và trúng để các TĐHCL thực

sự có chuyển biến tích cực trong thực hiện tự chủ về tổ chức.

Bên cạnh các nghị quyết trung ương nêu trên, vấn đề bảo đảm hiệu quả thực

hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL hiện nay còn trên cơ sở yêu cầu hiện thực hóa

mục tiêu phát triển GDDH Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0. Điểm

cốt lõi của hệ thống GDĐH 4.0 là cung cấp cho xã hội, thị trường lao động và việc làm

nguồn nhân lực chất lượng cao, thân thiện với môi trường làm việc của thời đại số hóa,

bao gồm những con người có kỹ năng sống, phát triển và làm việc trong thế kỷ XXI.

Muốn đạt được mục tiêu này thì mô hình GDĐT của từng TĐHCL phải trở nên thông

minh, có khả năng kết nối bền vững và linh hoạt giữa Nhà trường - Nhà nước - Doanh

nghiệp để đưa học đường đến gần nhất có thể với thị trường lao động, qua đó mang lại

lợi ích thiết thực cho các chủ thể liên quan. Điều này đồng nghĩa với yêu cầu bức thiết

phải thay đổi, phát triển và hoàn thiện hệ thống quản trị, quản lý TĐHCL phù hợp với

điều kiện của GDĐH 4.0.

Thứ hai, bảo đảm thực hiện quyền tự chủ về tổ chức đi đôi với thực thi TNGT

128

của cả chủ thể QLNN về GDĐH và chính TĐHCL. Thực hiện tự chủ về tổ chức và thực

thi TNGT các vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của

TĐHCL trong mối quan hệ với cơ quan QLNN về GDĐH. Việc thực thi các quyết định

liên quan đến tổ chức bộ máy của TĐHCL luôn phải trên cơ sở đảm bảo sự công khai,

dân chủ, minh bạch hóa từ nội dung đến quy trình, phương thức vận hành hệ thống

QLNN về GDĐH và quản trị, quản lý nhà trường, nhất là tuân thủ sự thượng tôn pháp

luật trong các chính sách, quyết định của cả nhà nước và tổ chức nhà trường. Sự rõ

ràng, dân chủ cùng với một cơ chế mở, phù hợp về tổ chức và hoạt động của hệ thống

quản trị, quản lý chính là nền tảng quan trọng để TĐHCL có thể công khai, minh bạch

việc sử dụng nguồn lực trong phát triển tổ chức đến mọi chủ thể liên quan khi có yêu

cầu chính thức và phù hợp quy định pháp luật.

Ngoài ra, thực hiện tự chủ về tổ chức gắn với thực hiện TNGT cũng được xác

định vừa là thuộc tính vốn có của tổ chức đại học công lập trong cơ chế TCĐH, vừa là

nghĩa vụ của TĐHCL trước chủ thể QLNN về GDĐH. Bên cạnh trách nhiệm này của

TĐHCL, sự minh bạch, dân chủ và trách nhiệm xã hội của Nhà nước đối với hiệu lực,

hiệu quả tự chủ của TĐHCL cũng cần được đặt ra và đảm bảo thực hiện. Đây phải là

quan điểm được quán triệt chung trong triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL

trên thực tế cũng như trong chỉ đạo và quản lý của bộ chủ quản đối với TĐHCL.

Thứ ba, phải song hành giữa thực hiện tự chủ về tổ chức với đảm bảo chất

lượng cơ sở GDĐH của TĐHCL. Quan điểm này phải được cả hệ thống QLNN về

GDĐH và các TĐHCL thống nhất trong nhận thức và triển khai thực hiện, bởi mục tiêu

hướng tới của TCĐH nói chung và tự chủ về tổ chức của TĐHCL nói riêng là đưa

GDĐH Việt Nam cũng như GDĐT của các TĐHCL thay đổi thực sự cả về chất và

lượng. Cần thống nhất quan điểm đẩy mạnh công tác kiểm định và đảm bảo chất lượng

giáo dục, chú trọng việc giám sát, đánh giá của các tổ chức kiểm định chất lượng GDĐT.

Các TĐHCL đều phải có bộ phận chuyên trách làm công tác bảo đảm chất lượng giáo

dục để tham mưu cho lãnh đạo nhà trường thực hiện các hoạt động liên quan đến bảo

đảm chất lượng GDĐT, nhất là đối với công tác tự đánh giá, công khai các điều kiện bảo

đảm chất lượng và quan tâm phát triển văn hóa chất lượng bên trong của nhà trường.

Bên cạnh đó cũng khuyến khích các TĐHCL đăng ký đánh giá với các tổ chức kiểm

129

định chất lượng giáo dục độc lập, có uy tín ở trong và ngoài nước. Thực tế cho thấy:

Tới nay đã có 07 trường đại học được đánh giá ngoài và được công nhận

theo tiêu chuẩn đánh giá cơ sở giáo dục của Hội đồng Cấp cao về Đánh giá

nghiên cứu và giáo dục đại học Pháp (HCERES) và AUN-QA. Trong đó,

Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

được cả hai tổ chức trên công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục. Có

190 chương trình đào tạo được đánh giá ngoài và công nhận [4].

Đây là những kết quả tích cực mà nhiều TĐHCL đã đạt được thời gian qua để

có cơ sở cho việc vận dụng kinh nghiệm trong nước của các TĐHCL đang bắt đầu triển

khai toàn diện TCĐH, trong đó có tự chủ về tổ chức. Hơn nữa, trong bối cảnh đẩy

mạnh TCĐH thì việc quan trọng cần thực hiện đối với các trường là đẩy mạnh kiểm

định chất lượng, vì cùng với tăng cường tự chủ là tăng cường giám sát, tăng cường

công tác giải trình với xã hội, với hệ thống QLNN theo hướng quản lý chất lượng

thông qua hoạt động kiểm định. Về nguyên tắc, hiệu quả của thực hiện quyền tự chủ sẽ

được chỉ ra thông qua kiểm định chất lượng các hoạt động GDĐT của nhà trường.

Chính vì vậy, các TĐHCL phải dần coi kiểm định là nhu cầu tự thân, là một phần trong

hoạt động TCĐH. Còn các chủ thể quản lý phải sử dụng thật sự kênh kiểm định chất

lượng để vừa giám sát, vừa kịp thời hỗ trợ, điều hành các TĐHCL xử lý những hạn

chế, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện tự chủ về tổ chức.

4.1.2. Định hướng chung trong bảo đảm thực hiện tự chủ về tổ chức của

trường đại học công lập

Thứ nhất, việc thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL phải thực chất và hiệu

quả. Sự thực chất về mức độ, nội dung và sự hiệu quả trong quản trị, vận hành bộ máy

tổ chức nhà trường tùy thuộc rất nhiều vào tư duy hành động và năng lực nội tại của

từng trường để nắm bắt, khai thác và tận dụng cơ hội, điều kiện khách quan, chủ quan sẵn

có. Từng TĐHCL phải chủ động thay đổi, sắp xếp, củng cố, kiện toàn lại tổ chức bộ máy,

tạo nền tảng cho việc thiết lập một hệ thống quản trị, quản lý đại học hiện đại, tiên tiến,

phù hợp để thực hiện tự chủ về tổ chức. Đó là kết quả của quá trình từng trường chủ động

nghiên cứu, tìm tòi và ứng dụng mô hình quản trị, quản lý phù hợp, bởi mỗi nhóm trường

thuộc về một phân khúc thị trường GDĐH riêng, cần có lựa chọn và điều chỉnh riêng phù

130

hợp. Khi TCĐH nói chung và tự chủ về tổ chức nói riêng không hiệu quả, dẫn tới chất

lượng GDĐT kém sẽ có thể dẫn tới khả năng nhà trường buộc phải rời khỏi thị trường

đào tạo đại học, thậm chí dẫn tới hệ quả có thể phải giải thể một phần hoặc toàn bộ cơ

sở GDĐH công lập, vì QLNN theo cơ chế thị trường không cho phép Nhà nước tiếp

tục duy trì việc bao cấp cho những TĐHCL yếu kém, hoạt động không hiệu quả.

Thứ hai, việc thực hiện tự chủ về tổ chức phai đi đôi với đổi mới căn bản, toàn

diện mô hình và phương thức quản trị đại học trong nhà trường. Định hướng này được

hiểu là việc chuyển đổi tư duy quản trị và quản lý TĐHCL gắn với thực tiễn cuộc sống,

gắn với nhu cầu xã hội để cung cấp nguồn nhân lực phù hợp với thị trường lao động và

việc làm trong thế kỷ XXI. Hiện có những lựa chọn khác nhau về tư duy và mô hình quản

trị đại học, ví dụ như lựa chọn tư duy doanh nghiệp trong quản trị đại học tự chủ về tổ

chức. Đây là lựa chọn có thể tạo dựng cho TĐHCL nền tảng thể chế, văn hóa và hệ thống

quản trị vừa có tính chất đại học, vừa có tính chất mở, năng động, sáng tạo, linh hoạt của

tổ chức dịch vụ công, hoạt động trong thị trường dịch vụ GDĐH. Nó vừa đảm bảo sự độc

lập tương đối của một cơ sở GDĐH công lập, vừa đạt được sự tương thích với thị trường

dịch vụ GDĐH và mang lại giá trị tích cực cho xã hội. Khi có sự tương hợp nhất định giữa

TĐHCL với doanh nghiệp và các thực thể tham gia nền kinh tế thị trường thì sự tác động,

hỗ trợ ngược lại từ phía thị trường cho TĐHCL có thể bù đắp lại những khoảng trống về

tài chính khi mà Nhà nước cắt giảm cung cấp tài chính cho TĐHCL. Đây là yêu cầu để

TĐHCL nâng cao hơn năng lực tự chủ tài chính với ý nghĩa là công cụ và điều kiện đảm

bảo để thực hiện tự chủ về tổ chức một cách thực chất. Đứng ở vị trí giữa Nhà nước và thị

trường dịch vụ GDĐH, thực hiện tự chủ về tổ chức làm cho TĐHCL trở thành cầu nối

quan trọng để đạt được hệ thống dịch vụ công về GDĐH thân thiện/tương thích với thị

trường (doanh nghiệp và người dân). Áp dụng tư duy doanh nghiệp trong quản trị TĐHCL

là hướng đi đã được áp dụng khá phổ biến ở nhiều TĐH tự chủ cao trên thế giới, nhằm

mang lại đổi mới thực chất đối với hệ thống tổ chức TĐHCL. Việc lựa chọn tư duy doanh

nghiệp với hàm ý hướng đến xây dựng và phát triển TĐHCL đảm bảo chất lượng nguồn

nhân lực được đào tạo có khả năng đáp ứng yêu cầu xã hội; giải quyết bài toán về chi phí

đào tạo cho các TĐHCL; hỗ trợ công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ ở

TĐHCL; tạo cơ hội để các TĐHCL liên kết và hội nhập quốc tế; thực hiện trách nhiệm

131

xã hội của TĐHCL; hướng đến mục tiêu cá nhân khởi nghiệp và quốc gia khởi nghiệp.

Cùng với đó, các TĐHCL cũng cần chú trọng việc xây dựng và quản trị thương

hiệu đào tạo. Tương thích với tư duy doanh nghiệp trong quản trị đại học thì việc quản

trị thương hiệu đào tạo (bao gồm tên, biểu tượng, biểu trưng, slogan, tên miền, địa chỉ

website) thực chất là tạo dựng chỗ đứng của TĐHCL tại thị trường GDĐH trong nước

và quốc tế. Quản trị thương hiệu TĐHCL không ngoài các công việc thuộc chức năng,

thẩm quyền của tổ chức TĐHCL tự chủ (xây dựng mục tiêu sứ mạng, tầm nhìn, giá trị

cốt lõi; thực hiện trách nhiệm xã hội với những cam kết mạnh mẽ về chất lượng và môi

trường GDĐT thân thiện với người học, sáng tạo, nhân văn, khai phóng, dân tộc và hội

nhập). Thương hiệu TĐHCL tạo hình ảnh, vị thế và thể hiện sự khác biệt của mỗi nhà

trường trong cộng đồng các TĐH. Do vậy, nó là công việc quan trọng của thực hiện tự

chủ về tổ chức mà bất cứ TĐHCL nào cũng cần phải quan tâm.

Thứ ba, thực hiện tự chủ về tổ chức đối với TĐHCL phải trên cơ sở vận dụng

có chọn lọc kinh nghiệm trong nước và quốc tế về TCĐH, phù hợp với điều kiện cụ thể

của từng trường. Đây là định hướng được tiếp cận từ góc độ phát triển, vì trên bình

diện hội nhập quốc tế về GDĐH, nhiều TĐHCL của Việt Nam đang triển khai thực

hiện toàn diện TCĐH nên nhiều kinh nghiệm có giá trị từ các quốc gia thành công về

TCĐH sẽ được các TĐHCL Việt Nam khai thác, tận dụng. Ví dụ, ở nhiều nước châu

Âu đang cho thấy kinh nghiệm của quản trị nội bộ TĐH theo xu hướng chính là củng

cố cơ sở GDĐH như là các tổ chức được tích hợp tốt hơn, chứ không phải là một hệ

thống các khoa, đơn vị thành viên được ghép nối lỏng lẻo với sự lãnh đạo yếu kém ở

trung tâm (cấp university), điều kiện làm việc chuẩn hóa hơn, các cấu trúc quản lý

mạnh mẽ được thiết lập. Bên cạnh đó, kinh nghiệm từ nhiều quốc gia châu Âu là gia

tăng sự tham gia của các bên liên quan vào các cấu trúc quản trị TĐH, vừa với vai trò

tư vấn, vừa với vai trò đầy đủ trong quá trình ra quyết định.

Một kinh nghiệm quốc tế khác cần được các TĐHCL Việt Nam nghiên cứu,

đánh giá để nhận diện khả năng áp dụng, đó là lựa chọn nhân sự cho các vị trí quản trị,

quản lý. Một thực tế mà nhiều nước châu Âu đã rút ra là trong bối cảnh phát triển

GDĐH hiện nay, quản lý trường đại học không thể là công việc thứ hai được thực hiện

song song cùng với nhiệm vụ của giảng viên. Để mang lại hiệu quả và chất lượng thực

132

chất cho công việc quản trị, quản lý nhà trường thì cần đến nhân sự thực hiện hoạt

động này một cách toàn thời gian và với năng lực đặc biệt, tức phải do những nhân sự

được đào tạo bài bản về chuyên môn, kỹ năng quản trị, quản lý TĐH trong điều kiện

thực hiện TCĐH.

Hay như kinh nghiệm từ hệ thống GDĐH của Thái Lan cũng có giá trị tham

khảo tốt đối với các TĐHCL Việt Nam. Đó là việc lường trước mặt trái của HĐT, thiết

chế quản trị TĐH trong vai trò ra chính sách lớn cho hoạt động của nhà trường có thể

tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tham nhũng chính sách, gây ảnh hưởng đến lợi ích của các bên

liên quan trong TĐHCL.

Còn ở bình diện trong nước, kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thí điểm thực hiện

TCĐH đối với 23 TĐHCL hoạt động theo cơ chế của Nghị quyết số 77/2014 cần được

các TĐHCL nghiên cứu học tập những cách làm hay, hiệu quả cũng như nhận diện,

nắm bắt các bất cập, hạn chế để tránh lặp lại trong thực tiễn triển khai tại các trường. Ví

dụ như kinh nghiệm của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh thì

những nội dung liên quan đến tự chủ về tổ chức mà trường này quan tâm thực hiện đó

là đầu tư để xây dựng triết lý giáo dục, xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng, kiểm

định chất lượng, tận dụng mọi nguồn lực để tự chủ [12].

4.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện tự chủ về tổ chức của trƣờng đại học

công lập ở Việt Nam

4.2.1. Các giải pháp trong quản lý nhà nước đối với trường đại học công lập

thực hiện tự chủ về tổ chức

Theo quan điểm khoa học của chúng tôi, liên quan đến việc bảo đảm cho các

TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức trong thời gian tới thì Chính phủ và các bộ/ngành

chức năng cần quan tâm tới ba nhóm giải pháp lớn như sau:

* Nhóm giải pháp về đổi mới tư duy và phương thức QLNN đối với các

TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức

Thứ nhất, quyết liệt đổi mới tư duy lãnh đạo, quản lý, điều hành để việc thực

hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL đi vào nề nếp, quy trình, cách hành xử chuyên

nghiệp của cơ quan QLNN về GDĐH. Đây được xác định là giải pháp đầu tiên đối với

các cấp đề xuất, ban hành và chỉ đạo, điều hành việc áp dụng và thực hiện chính sách,

133

quy định pháp luật về thực hiện tự chủ tổ chức của các TĐHCL. Kinh nghiệm triển

khai thực hiện TCĐH trên thế giới cũng như ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, con

người là nhân tố quyết định sự thành công của tiến trình này. Sự hiện diện của nhân tố

con người trong hệ thống QLNN về GDĐH gắn liền với tư duy nhận thức và tư duy

hành động phù hợp/không phù hợp/thúc đẩy/cản trở việc thực hiện TCĐH. Một hệ

thống thể chế, chính sách hiệu quả và thông suốt là chưa đủ. Bên cạnh đó, còn cần sự

thông suốt trong nhận thức và hành động của cơ quan/tổ chức/cá nhân có chức năng

của hệ thống QLNN về GDĐH.

Thứ hai, đổi mới phương thức QLNN về GDĐH trong điều kiện thực hiện

TCĐH. Để thực hiện giải pháp này, các bộ/ngành chức năng cần tiếp tục thực hiện các

nội dung sau:

(1) Cần tổng kết thực tiễn thực hiện TCĐH của các TĐHCL ở Việt Nam thời

gian qua. Việc tổng kết không đơn thuần để phục vụ cho công tác rà soát, sửa đổi, bổ

sung Luật GDĐH như đã làm mà quan trọng hơn là để giúp hệ thống QLNN về GDĐH

đánh giá lại tiến trình này ở Việt Nam thời gian qua, từ đó có sự định vị xác thực hơn

những vấn đề cần làm và làm tốt hơn cũng như giải pháp để giải quyết thấu đáo, triệt

để những vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Việc tổng kết, đánh giá này phải thực chất, dựa

trên số liệu và tiêu chí cụ thể, kết hợp hỗ trợ hiệu quả từ các chuyên gia, tổ chức quốc

tế đã và đang đồng hành cùng Việt Nam về xây dựng cơ chế TCĐH. Việc đánh giá cần

áp dụng đồng thời các kênh đánh giá độc lập với kênh đánh giá của Chính phủ/địa

phương/tổ chức quản lý trực tiếp, trong đó ưu tiên chú trọng cơ chế tự đánh giá một

cách trung thực, thẳng thắn, công khai của chính các TĐHCL. Kết quả của việc tổng

kết, đánh giá cũng là nhằm tạo cơ hội để hệ thống QLNN về GDĐH và các cơ sở

GDĐH công lập loại trừ triệt để các căn nguyên do lịch sử cũng như căn nguyên từ cơ

chế hiện nay khiến TCĐH chưa hiệu quả. Tác dụng của việc tổng rà soát, đánh giá từ

các kênh khác nhau như vậy đối với các cơ quan QLNN về GDĐH là để nhận diện rõ

ràng vai trò tạo dựng thể chế; vai trò kiểm soát bằng tiêu chí, tiêu chuẩn pháp luật

chung, kết hợp với đánh giá, kiểm soát hoạt động GDĐT của các trường dựa trên kiểm

định, xếp hạng chất lượng sản phẩm đào tạo mà các trường cung cấp cho xã hội. Điều

này giúp loại bỏ dứt khoát sự can thiệp sâu của chủ thể quản lý trực tiếp và các cơ quan

134

QLNN đến quá trình thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL.

(2) Cần xây dựng quy định cụ thể, rõ ràng để điều chỉnh hiệu quả hơn việc

phối hợp giữa các bộ/ngành trong chỉ đạo, điều hành và quản lý hoạt động tự chủ về tổ

chức của cả hệ thống GDĐH công lập. Hiện nay, để thực hiện tốt vai trò đầu mối trong

xây dựng và triển khai Luật số 34 thì Bộ GDĐT phải có sự phối hợp tốt với Bộ Nội vụ

và các bộ chủ quản các TĐHCL để tránh việc các bộ chỉ đạo khác nhau về thực hiện tự

chủ tổ chức ở các trường, nhất là những chỉ đạo liên quan đến HĐT. Đối với bộ chủ

quản, cần phân định rõ ràng cơ chế chỉ đạo mang tính chuyên môn đặc thù của ngành

với chỉ đạo về tự chủ tổ chức, vốn đã có hành lang pháp lý để các trường triển khai

thực hiện thống nhất. Điều quan trọng hơn mà xã hội cũng như mọi cơ sở GDĐH công

lập mong đợi là việc thực hiện quyền công nhận đối với các thiết chế quản trị, quản lý

của các trường hiện do bộ chủ quản thực hiện không bị biến tướng trở thành những

Giấy phép con, gây trở ngại cho tự chủ về tổ chức của các trường.

(3) Lãnh đạo các bộ/ngành cần chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ

biến, tập huấn cho đội ngũ cán bộ, công chức đang đảm nhiệm các công việc liên quan

đến QLNN đối với các TĐHCL để đội ngũ này hiểu và nắm vững quy định hiện hành

về cơ chế TCĐH ở Việt Nam. Cần phải định kỳ tổ chức các khóa đào tạo về kiến thức

pháp luật trong thực hiện TCĐH; kỹ năng quản lý cơ sở GDĐH công lập tự chủ về tổ

chức; kỹ năng phối hợp trong QLNN về GDĐH giữa các bộ, ngành, địa phương; kỹ

năng tư vấn, hỗ trợ các TĐHCL trong công tác quản trị đại học... Việc đào tạo, bồi

dưỡng này một mặt nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn cho công chức làm việc

trong lĩnh vực quản lý TĐHCL, mặt khác cũng hướng đến sự chuyên nghiệp trong

QLNN về GDĐH ở cấp chính phủ. Sự chuyên nghiệp của đội ngũ công chức làm công

tác lãnh đạo, quản lý GDĐH là một trong số điều kiện cốt yếu để thay đổi chất lượng,

hiệu quả công tác QLNN về GDĐH trong điều kiện thực hiện tự chủ về tổ chức của hệ

thống cơ sở GDĐH công lập. Nó cũng góp phần giảm nhẹ gánh nặng của các trường

khi chuyển trạng thái hoạt động từ trông chờ, dựa dẫm vào Nhà nước sang tự quyết

định những vấn đề liên quan đến sự vận hành của toàn hệ thống quản trị nhà trường.

(4) Cần xây dựng “Bộ quy tắc ứng xử trong thực thi cơ chế tự chủ đại học”.

Vai trò của bộ quy tắc này là hướng dẫn cho cơ quan/công chức làm công tác QLNN

135

về GDĐH và người lãnh đạo/quản lý/giảng viên/viên chức TĐHCL những quy tắc ứng

xử cơ bản trong giáo tiếp và giải quyết công việc thuộc thẩm quyền, chức năng, nhiệm

vụ, trách nhiệm của từng chủ thể. Kinh nghiệm từ một số quốc gia có TĐHCL tự chủ

cao và có thành tựu xuất sắc đã chỉ ra rằng, khi ứng xử giữa Nhà nước và TĐH được

điều chỉnh bởi những quy tắc chuẩn mực thì môi trường thực hiện tự chủ về tổ chức

của nhà trường thực sự được đảm bảo. Điều đó mang lại lợi ích thiết thực cho người

học và xã hội.

* Nhóm giải pháp liên quan đến việc minh bạch, dân chủ và đồng bộ hóa môi

trường thể chế quốc gia để tạo sự thực chất trong thực hiện tự chủ về tổ chức của

các TĐHCL

Đối với nhóm giải pháp này, chúng tôi đề xuất:

(1) Cần thành lập “Ban chỉ đạo quốc gia về triển khai cơ chế tự chủ đại học tại

Việt Nam” (gọi tắt là Ban chỉ đạo). Sứ mạng của Ban chỉ đạo trong thời gian 5 năm tới

đây là giúp Chính phủ và cả hệ thống QLNN về GDĐH tiếp tục rà soát, tháo gỡ vướng

mắc, rào cản thể chế, từng bước tạo dựng môi trường TCĐH dân chủ, minh bạch và đồng

bộ ở cấp chính phủ/bộ/ngành/địa phương, đồng thời hỗ trợ, tư vấn về giải pháp pháp lý,

quản trị, kỹ thuật cho các cơ sở GDĐH công lập trong quá trình xây dựng thể chế nội

bộ, đổi mới mô hình, phương thức quản trị tiên tiến, hội nhập GDĐH 4.0. Sau thời gian

khá dài (từ khi Luật số 08 được ban hành cho đến thời điểm ban hành Luật số 34), cách

thức triển khai TCĐH và tự chủ về tổ chức theo kiểu “ném đá, dò đường” của cả hệ

thống QLNN về GDĐH lẫn các TĐHCL đã mang lại không ít khó khăn cho các cơ sở

GDĐH công lập. Vì vậy, từ bài học kinh nghiệm thời gian qua, đã đến lúc hệ thống

QLNN về GDĐH phải đồng hành cùng hệ thống các cơ sở GDĐH công lập để vượt

qua rào cản thể chế, vượt qua tư duy pháp lý truyền thống về GDĐH, mở lối, soi đường

cho các TĐHCL mạnh mẽ tiến bước trên con đường TCĐH, con đường được xác định

là chỉ có tiến, không thể lùi.

(2) Tiếp tục thực hiện việc rà soát, tháo gỡ những vướng mắc trong áp dụng

Luật chuyên ngành về thực hiện tự chủ tổ chức của TĐHCL, đặt trong mối quan hệ với

các quy định của Đảng và các luật chuyên ngành khác điều chỉnh công tác tự chủ về tổ

chức bộ máy tại các TĐHCL. Về nguyên tắc, nếu muốn TCĐH đi vào đời sống của các

136

cơ sở GDĐH công lập thì trước hết hệ thống thể chế quốc gia phải đáp ứng được yêu

cầu về tính minh bạch, dân chủ và đồng bộ hóa, tạo niềm tin và sức mạnh cho các

TĐHCL thực hiện tốt sứ mạng, tầm nhìn của mình.

(3) Cần có hướng dẫn cụ thể đối với việc áp dụng và thực hiện những quy định

của Luật số 34 tại các TĐHCL, nhất là đối với những quy định mà các trường đang

vướng mắc khi triển khai thực hiện trong thực tế. Chẳng hạn, liên quan đến đến việc

xác định về người đứng đầu TĐHCL trong điều kiện Luật số 34 không có quy định về

nội dung này. Tại Công văn số 110/BNV-CCVC ngày 8/01/2021 của Bộ Nội vụ gửi Bộ

GDĐT thì quan điểm của bộ chức năng cho rằng, căn cứ vào các quy định pháp luật

hiện hành của Việt Nam, người đứng đầu cơ sở GDĐH công lập hiện được xác định là

Hiệu trưởng. Theo chúng tôi, việc Bộ Nội vụ có công văn thể hiện quan điểm của bộ chức

năng về một số vấn đề nảy sinh trong quá trình triển khai thực hiện Luật số 34 là hết

sức cần thiết và kịp thời, nhưng trên phương diện QLNN, đây chỉ là giải pháp tình thế.

Tương tự, cũng cần có hướng dẫn cụ thể, thống nhất cách hiểu và thực hiện đối với

nhiều quy định khác trong Luật số 34, ví dụ, hướng dẫn cụ thể hóa quy định về tuổi

đảm nhiệm/tái cử vị trí Chủ tịch HĐT/Hiệu trưởng; cụ thể hóa quy định liên quan đến

việc xem xét, xử lý trách nhiệm của tập thể lãnh đạo TĐHCL khi chậm trễ/không triển

khai việc thành lập HĐT/không kịp thời ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của

nhà trường và HĐT theo Luật số 34; quy định cụ thể về giá trị pháp lý của quyền công

nhận/ không công nhận của chủ thể quản lý trực tiếp đối với đề xuất công nhận Chủ

tịch, thành viên HĐT và Hiệu trưởng của TĐHCL. Những nội dung này trong Luật số 34

hiện thiếu rõ ràng, do đó việc làm rõ những quy định này sẽ tạo cơ sở để TĐHCL chủ

động trong đề xuất và tự chịu trách nhiệm về tính đúng đắn, phù hợp của các quyết định

về quản trị, quản lý nhà trường. Với vai trò là Bộ được giao làm đầu mối trong rà soát, bổ

sung Luật số 34, Bộ GDĐT cần nhanh chóng tập hợp các vướng mắc hiện có về thể

chế từ phản ánh của các TĐHCL và các chủ thể liên quan để trình Chính phủ có

phương án tháo gỡ, qua đó tiếp tục hoàn thiện thể chế này một cách bài bản, không để

kéo dài tình trạng phát sinh đến đâu trả lời đến đó như hiện nay.

(4) Đề xuất Bộ Kế hoạch và Đầu tư tham mưu sửa đổi Luật Đầu tư công theo

137

hướng giao quyền tự chủ cho các TĐHCL trong công tác đầu tư, mua sắm từ nguồn thu

sự nghiệp của đơn vị; Bộ Tài chính tham mưu sửa đổi Luật quản lý, sử dụng tài sản

công theo hướng giao quyền tự chủ nhiều hơn cho các TĐHCL tự chủ trong quản lý, sử

dụng, cho thuê, liên doanh, liên kết bằng tài sản của trường; Bộ Nội vụ tham mưu sửa

đổi và bổ sung các quy định trong Luật Lao động, Luật Công chức, Luật Viên chức,

liên quan đến chính sách nhân sự trong các TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức, nhất

là liên quan đến chính sách bổ nhiệm, công nhận lãnh đạo TĐHCL.

(5) Tập trung xây dựng và triển khai thực hiện các quy định liên quan đến thẩm

quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm; cơ chế kiểm tra, giám sát, hỗ trợ, đánh giá; quy trình, thủ tục

giao quyền, phối hợp trong thực thi trách nhiệm quản lý của chủ thể quản lý trực tiếp đối

với TĐHCL. Điều mà các TĐHCL hiện đang khá băn khoăn là mối quan hệ giữa HĐT với

chủ thể quản lý trực tiếp trong điều kiện trường thực hiện tự chủ về tổ chức. Theo cơ chế

quản lý truyền thống, khi giải quyết các vấn đề về tổ chức bộ máy, thay vì như trước đây

phải báo cáo, giải trình và được phê duyệt bởi cơ quan có thẩm quyền của chủ thể quản lý

trực tiếp thì nay sẽ thực hiện như thế nào? Chẳng hạn, nếu hiểu trong HĐT đã có đại diện

của chủ thể quản lý trực tiếp đồng thời với tư cách đại diện sở hữu nhà nước tại cơ quan

quyền lực cao nhất của TĐHCL thì những quyết định về tổ chức của nhà trường (trừ

những vấn đề theo quy định hiện hành thuộc thẩm quyền công nhận của chủ thể chủ

quản) có cần tiếp tục duy trì song song cả cơ chế báo cáo, giải trình ở HĐT và cơ chế

báo cáo, xin chủ trương, ý kiến chỉ đạo từ chủ thể quản lý trực tiếp hay không? Trên

thực tế, nhiều trường để chắc chắn vẫn đang thực hiện việc báo cáo, giải trình ở cả hai

nơi là HĐT và chủ thể chủ quản (theo quy trình thủ tục quản lý hành chính). Thực

trạng này đang nối dài quy trình giải quyết công việc thuộc phạm vi tự chủ về tổ chức

của TĐHCL, rất cần phải sớm được tháo gỡ. Từ đây, phải có cơ chế để đảm bảo sự rõ

ràng, công khai, minh bạch và dân chủ hóa quy trình, thủ tục, nội dung, phạm vi, giới hạn

các chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền giao cho các TĐHCL; phạm vi, giới hạn, nội

dung công việc mà nhà trường phải phối hợp với chủ thể chủ quản trong quá trình thực

hiện tự chủ về tổ chức. Quan điểm của chúng tôi là sự hiện diện của chủ thể quản lý trực

tiếp đối với các TĐHCL hiện nay phải được hiểu thông qua vai trò và hoạt động hiệu

quả của thành viên đại diện cho chủ sở hữu nhà nước, đồng thời đại diện cho chức năng

138

QLNN tại thiết chế HĐT. Các chỉ đạo về tổ chức và nhiều chỉ đạo khác từ phía chủ thể

chủ quản phải thay đổi để không có sự song hành cả hai cơ chế mệnh lệnh hành chính

từ bộ chủ quản và cơ chế đại diện tại HĐT.

(6) Đề xuất giải pháp tiếp tục hoàn thiện chế độ, chính sách và đầu tư thích hợp

đối với lĩnh vực GDĐH công lập. Cụ thể, cần có tiêu chí sát thực hơn trong phân bổ

ngân sách cho GDĐH công lập một cách công bằng, hợp lý. Giai đoạn 5 năm tới, khi

việc triển khai cơ chế TCĐH ở Việt Nam còn nhiều vấn đề cần được quan tâm giải

quyết về phương diện lý luận, pháp lý và hiệu quả thực tế thì rất cần sự quan tâm của

Chính phủ trong việc đầu tư ngân sách cho hoạt động nghiên cứu ứng dụng đối với cơ

chế TCĐH tại hệ thống các cơ sở GDĐH công lập.

* Nhóm giải pháp về tăng cường thanh tra, giám sát và thực hiện TNGT của

Nhà nước đối với chất lượng, hiệu quả thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL

Đối với nhóm giải pháp này, chúng tôi kiến nghị các cơ quan QLNN về GDĐH

và các bộ/ngành chủ quản quan tâm thực hiện một số nội dung sau:

(1) Phải xác định rõ ràng, phù hợp TNGT từ cả hai phía, bộ/ngành chủ quản

và TĐHCL đối với chất lượng, hiệu quả thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL.

Nghiên cứu thực tiễn thể chế và thực hiện thể chế TCĐH ở Việt Nam cho thấy, hiện

cả hệ thống QLNN về GDĐH và TĐHCL đang thực hiện TNGT của nhà trường theo

cơ chế quản lý hành chính (giải trình của đối tượng quản lý với chủ thể quản lý),

nghĩa là mới thể hiện được một mặt của hoạt động này. Nhận thức chuẩn mực về

TCĐH là Nhà nước vẫn thực hiện thẩm quyền của chủ thể có chức năng giám sát,

đánh giá hiệu quả thực hiện tự chủ về tổ chức của các TĐHCL. Nói cách khác, quyết

định về tổ chức được thực hiện bởi HĐT vẫn có sự tác động theo những phương thức

khác nhau từ chủ thể quản lý trực tiếp. Vậy TNGT của chủ thể chủ quản về những

quyết định đó vẫn phải được đặt ra. Ví dụ, chủ thể quản lý trực tiếp không công nhận

một số nhân sự cho vị trí chủ chốt của HĐT (Chủ tịch HĐT, Hiệu trưởng hoặc một

trong số thành viên HĐT) mà nhà trường đề xuất thì chính cơ quan có chức năng của

chủ thể quản lý trực tiếp phải có TNGT trở lại với cộng đồng sư phạm, cộng đồng

những người làm khoa học của nhà trường. Luật số 34 đang tiếp cận vấn đề này ở góc

độ quyền của chủ thể quản lý trực tiếp. Chúng tôi cho rằng, giải trình không chỉ là

139

quyền mà còn là nghĩa vụ từ phía chủ thể quản lý trực tiếp TĐHCL. Điều nhận thức

này cũng xuất phát từ tư duy Chính phủ kiến tạo và hành động. Bên cạnh đó, tổ chức

TĐHCL có bản chất đặc thù so với các đơn vị sự nghiệp công lập khác của Nhà nước

ở chỗ, nơi đây tập hợp trí tuệ tập thể của những Nhà Giáo dục/Nhà Nghiên cứu,

những người mà công việc hàng ngày được thực hiện dựa trên tinh thần tự do học

thuật, công khai, dân chủ. Vì vậy, khi ý chí tập thể của cộng đồng này không nhận

được sự đồng thuận từ cấp quản lý có thẩm quyền thì quyền được nghe giải trình của

cộng đồng đó tất sẽ kích hoạt hệ thống giải trình từ phía chủ thể quản lý trực tiếp nhà

trường. Đây là sự thể hiện rõ ràng và thuyết phục nhất về tính công khai hóa, minh

bạch hóa và dân chủ hóa của cơ chế TCĐH.

(2) Xây dựng văn hóa trách nhiệm, văn hóa giải trình của những công chức/

lãnh đạo trong hệ thống cơ quan QLNN về GDĐH. Khi hệ thống tổ chức TĐHCL tự

chủ thực hiện theo mô hình quản trị tiên tiến, hiện đại thì “nguyên lý đa chiều đồng

thuận; trao quyền hạn, trách nhiệm cho nhà trường; tổ chức trường đại học công lập là

hệ thống tự quản; coi trọng tính tích cực của con người và luôn cải tiến nội bộ” [26]

cần được chính Nhà nước bảo đảm bằng văn hóa trách nhiệm, văn hóa giải trình của

những người làm công tác quản lý GDĐH. Các nguyên lý vượt trội này của hệ thống

quản trị đại học tự chủ về tổ chức là kết quả tất yếu của sự kết thúc mô hình QLNN

mang tính chất kiểm soát để chuyển sang mô hình Nhà nước giám sát. Nói cách khác,

xây dựng và thực hiện văn hóa trách nhiệm, văn hóa giải trình của chủ thể quản lý trực

tiếp TĐHCL là mặt thứ hai của xây dựng và thực hiện văn hóa tự chủ trong quản trị

TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức. Giải pháp này cũng là điều kiện tiên quyết để duy

trì và phát triển mối quan hệ hài hòa về lợi ích, hiệu quả trong giải quyết công việc

giữa chủ thể quản lý trực tiếp và TĐHCL trực thuộc. “Sự giám sát của Nhà nước có

mục đích làm cân bằng trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ và tăng cường lợi

ích công với nhu cầu của từng trường về quyền tự chủ và tự do học thuật” [26], sao cho

cả Nhà nước và TĐHCL cùng những chủ thể liên quan (người học, người sử dụng sản

phẩm đào tạo, cộng đồng xã hội) đều phải năng động, tích cực và quyết đoán để đổi

mới trạng thái, môi trường, cơ chế, chất lượng GDĐH theo mục tiêu chung của toàn hệ

thống GDĐH quốc gia, phù hợp tầm nhìn phát triển TĐHCL và đáp ứng mong đợi của

140

người dân cũng như xã hội.

(3) Tạo môi trường để tăng cường năng lực QLNN đối với các TĐHCL thực

hiện tự chủ về tổ chức thông qua việc nghiên cứu khả năng, điều kiện, phương thức

quản lý dựa vào nhà trường (SBM - School based management), vốn là một mô hình

quản lý đang được áp dụng rộng rãi ở các trường trên thế giới, đặc biệt là trong hệ

thống trường công. Ðặc điểm cơ bản của mô hình này là việc chuyển giao quyền lực

quản lý từ tập trung sang phi tập trung và ủy thác cho nhà trường, lấy nhà trường làm

cơ sở phân cấp quản lý. Có thể khái quát SBM thành công thức: SBM = tăng quyền tự

chủ, tự quản của nhà trường + Tăng sự tham gia của các bên liên quan. Những ai liên

quan và có mối quan hệ gần nhất, có trách nhiệm và ảnh hưởng nhiều nhất trong việc

thực hiện thì sẽ là những người ra quyết định [68].

(4) Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược phát triển GDĐH Việt Nam giai

đoạn tiếp theo (2020-2030), đồng thời không ngừng củng cố, phát triển hệ thống bảo

đảm và kiểm định chất lượng GDĐH; hoàn thiện môi trường thể chế; tăng cường công

tác kiểm tra, thanh tra; điều tiết vĩ mô cơ cấu và quy mô GDĐH, đáp ứng nhu cầu nhân

lực của đất nước trong từng thời kỳ.

(5) Tiếp tục hoàn thiện nội dung QLNN về GDĐH bao hàm việc xây dựng các

tiêu chuẩn chất lượng đào tạo, tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra chất lượng tổ

chức cơ sở GDĐH, nhất là chất lượng, hiệu quả quản trị, quản lý TĐHCL cũng phải

được đặt ra. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát phải được coi là một nội dung quan

trọng trong QLNN về GDĐH. Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, giám sát có tác dụng đảm

bảo để TĐHCL thực hiện đúng pháp luật và quy định của Nhà nước về GDĐH; phát

hiện, xử lý và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện, hành vi trái với quy định quản lý tổ

chức bộ máy ở các cơ sở GDĐH; cảnh báo và ngăn ngừa các hành vi tham nhũng, lạm

quyền, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của hệ thống GDĐH công lập. Đặc

biệt, trong quá trình quản lý, cần phải thống nhất và phân định rõ trách nhiệm trong

việc quản lý, giám sát, kiểm tra hoạt động của các TĐHCL. Chẳng hạn, áp dụng

phương thức kiểm tra chéo giữa các trường, để các trường vừa kiểm tra giám sát, vừa

học hỏi lẫn nhau, qua đó giúp các cơ sở GDĐH ngày càng hoàn thiện hơn trong tổ chức

141

và vận hành hệ thống tổ chức bộ máy của nhà trường.

4.2.2. Các giải pháp trong quản trị, quản lý trường đại học công lập thực

hiện tự chủ về tổ chức

Tương tự cách tiếp cận đối với những giải pháp đặt ra cho hệ thống QLNN về

GDDH trong điều kiện thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL, chúng tôi cho rằng, về

phía các nhà trường, thời gian tới cũng cần thực hiện tốt ba nhóm giải pháp lớn sau đây:

* Nhóm giải pháp về đổi mới tư duy, nguyên tắc quản trị, quản lý để thực hiện

hiệu quả tự chủ về tổ chức TĐHCL

Để hiện thực hóa nhóm giải pháp nêu trên, quan điểm khoa học của luận án là

các trường cần tập trung thực hiện hiệu quả các nội dung sau:

(1) Đổi mới thực sự về tư duy quản trị đại học tự chủ dựa trên cơ sở vận dụng

lý thuyết quản lý công mới (NPM - New public menistment) trong lĩnh vực GDĐH.

Bản chất cốt lõi của mô hình NPM là sự dịch chuyển chức năng cai trị truyền thống của

nền hành chính nhà nước sang chức năng phục vụ xã hội. Với những đặc trưng cơ bản:

(i) Lấy mục tiêu cao nhất là kết quả đầu ra và hiệu quả thực hiện; (ii) thúc đẩy cạnh

tranh bình đẳng trong việc cung cấp dịch vụ công; (iii) thực hiện quản lý trên cơ sở

phân cấp, giảm thiểu cấp quản lý trung gian. Quản lý công mới là cơ sở cho các

TĐHCL có thể thay đổi tư duy quản trị chiến lược nhà trường theo hướng “doanh

nghiệp hóa các đơn vị sự nghiệp” (corporatization), về bản chất chính là quá trình

chuyển đổi các tổ chức công thành những đơn vị tự chủ (freestanding). Vận dụng tư

duy của mô hình quản lý công mới cho phép hoạt động quản trị, điều hành tách khỏi sự

quản lý hành chính truyền thống trước đây. Việc áp dụng lý thuyết này trong khuôn

khổ mỗi TĐHCL trước hết phải được khẳng định bằng việc đổi mới tư duy quản trị,

quản lý nhà trường dựa trên sự quản lý theo kết quả đầu ra và năng lực thực hiện

(result-oriented and performance based). Mục tiêu cốt yếu của quản lý theo kết

quả (RBM - Results based management) là bảo đảm mọi nỗ lực của từng thành viên,

từng bộ phận trong tổ chức nhà trường và các quá trình đều đạt kết quả mong đợi.

RBM khi được áp dụng và vận hành tốt sẽ tạo ra thành tựu thực sự, nâng cao hiệu lực,

hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch và TNGT trong mọi hoạt động của trường.

142

Quyết tâm, quyết liệt đổi mới nhà trường theo tư duy quản lý dựa trên kết quả được xác

định là một giải pháp chiến lược lâu dài và thực sự hành động theo tư duy đó, bởi

“RBM là một phương thức quản lý mà thông qua đó, nhà quản lý xác định các kết quả

cần đạt được một cách cụ thể, rõ ràng và dài hạn, định hướng tất cả các nỗ lực và hoạt

động vào việc đạt được các kết quả một cách hiệu lực và hiệu quả” [70]. Giá trị tích

cực của tư duy quản lý theo kết quả kết hợp với năng lực thực tế của từng cơ cấu, từng

bộ phận, từng cá nhân trong nhà trường để việc vận hành hệ thống tổ chức nhà trường

có sự chú trọng vào đo lường và đánh giá được kết quả thực hiện mọi kế hoạch đã xác

định; chú trọng và liên tục cải thiện kết quả hoạt động; chú trọng đến sự phát triển liên

tục của tổ chức nhà trường, tức là đem lại sự phát triển liên tục và bền vững cho chính

TĐHCL; đảm bảo các hoạt động thường xuyên được công khai minh, minh bạch về

thông tin; coi trọng lợi ích và mối quan tâm của các bên liên quan đối với hoạt động

GDĐT của nhà trường. Với sự quyết liệt vận dụng tư duy chiến lược này, từng TĐHCL

sẽ thay đổi được vị thế từ phụ thuộc ở những mức độ khác nhau vào Nhà nước trở

thành một tổ chức đại học có thương hiệu và vị thế vững chắc trên thị trường GDĐH

trong nước, trong khu vực và trên thế giới.

(2) Áp dụng nguyên tắc quản trị mang lại sự thực chất cho tự chủ về tổ chức

của nhà trường. Ở một TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức thì ngoài nguyên tắc quản

trị nhà trường truyền thống, như nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, nguyên tắc

tuân thủ pháp luật, nguyên tắc tự chủ đi đôi với thực hiện TNGT thì nguyên tắc cốt yếu

là nguyên lý đa chiều đồng thuận, tức mọi quyết định, hoạt động quản trị nhà trường có

thể đạt tới mục tiêu bằng nhiều cách khác nhau, trong đó nhấn mạnh tới áp dụng hợp

lý, hiệu quả sự mềm dẻo, linh hoạt trong hành động và phối hợp hành động giữa các

thiết chế, bộ phận, chủ thể liên quan. Trong một TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức,

nguyên tắc trao quyền, trách nhiệm cho từng bộ phận thuộc trường phải được áp dụng

và tuân thủ, vì khi thực hiện nghiêm nguyên tắc này, bất kể vấn đề gì nảy sinh trong thực

tiễn hoạt động của nhà trường hoàn toàn có khả năng được giải quyết và khắc phục ngay

từ cơ sở, trong đó, cấp dưới sẽ không e ngại vấn đề nảy sinh và giải quyết vấn đề, từ đó

mới có thể tạo ra cơ chế hoạt động vừa có sự chủ động, vừa chú trọng hiệu quả cũng

143

như hình thành văn hóa khắc phục khó khăn trong vận hành hệ thống quản trị từ cơ sở.

Cùng với đó, một số nguyên tắc cơ bản khác cũng được coi là nền tảng để thực

hiện tự chủ về tổ chức, như nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất từ cơ sở lên đến các

thiết chế quản trị, quản lý cao nhất trong nhà trường; nguyên tắc coi trọng tính tích cực

của từng thành viên trong tổ chức nhà trường để đảm bảo phát triển nguồn nhân lực nội tại

và sự tham gia của mọi thành viên trong trường; nguyên tắc luôn cải tiến nội bộ từ

nguồn lực đến quy trình, thủ tục, cách thức quản trị, quản lý nguồn lực và vận hành bộ máy.

* Nhóm giải pháp tăng cường năng lực thực tiễn của hệ thống quản trị, quản

lý TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức

Theo quan điểm của chúng tôi tại luận án này, đề cập đến tăng cường năng lực

hệ thống tổ chức quản trị, quản lý của TĐHCL Việt Nam trong điều kiện thực hiện tự

chủ về tổ chức hiện nay là đề cập đến các giải pháp cốt yếu sau:

(1) Hoàn thiện hệ thống văn bản quản trị, quản lý nội bộ của TĐHCL. Đối với

cơ sở GDĐH công lập, quy phạm nội bộ là hệ thống các quy định do chính nhà trường

ban hành dựa trên khuôn khổ thể chế chung của Nhà nước, nhằm điều chỉnh các quan

hệ về tổ chức, quản trị, quản lý trong nội bộ trường cũng như quy định các quy tắc, quy

trình, thủ tục thiết lập, duy trì, phát triển các mối quan hệ với các chủ thể liên quan bên

ngoài nhà trường. Trong các mối quan hệ thuộc hệ thống bên trong và bên ngoài

trường, hệ thống văn bản nội bộ vừa là điều kiện để thực hiện tự chủ về tổ chức, vừa là

công cụ thể chế thống nhất mọi mặt hoạt động GDĐT của trường, phát huy dân chủ,

đảm bảo sự ổn định cũng như hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản trị, điều hành bộ

máy nhà trường. Hệ thống văn bản nội bộ cũng là công cụ thực hiện quyền, nghĩa vụ,

trách nhiệm giám sát, đánh giá, xử lý, giải trình các quyết định về tổ chức bộ máy mà

trường đã đưa ra. Đó cũng thể hiện sự chuyên nghiệp trong thể chế của một tổ chức đại

học tự chủ. Vì vậy, hoàn thiện và thường xuyên rà soát, đánh giá, cải thiện thể chế nội

bộ là giải pháp cần được các TĐHCL quan tâm triển khai thực hiện, trong đó, những

văn bản sau nhà trường phải quan tâm xây dựng, hoàn thiện:

- Quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường;

- Quy chế tổ chức, hoạt động của HĐT;

- Quy chế quản lý về tài chính, tài sản của trường;

144

- Quy chế về thực hiện dân chủ cơ sở trong nhà trường;

- Quy chế điều chỉnh các vấn đề về nguồn lực giảng viên và hoạt động GDĐT...

Hiện nay và thời gian hai năm tới, các TĐHCL cần đầu tư hoàn thiện Quy chế

tổ chức và hoạt động. Đây là khuôn khổ thể chế cơ bản điều chỉnh mọi mặt hoạt động

TCĐH của nhà trường, trong đó có quy định các vấn đề liên quan đến thực hiện tự chủ

về tổ chức. Một nội dung quan trọng được thể hiện qua quy chế là mô hình quản trị nhà

trường. Hiện trong các TĐHCL Việt Nam có sự khác nhau về lựa chọn và xác lập mô

hình quản trị tự chủ tổ chức, tập trung ở hai hướng chính là mô hình quản trị nhà

trường tự chủ về tổ chức một cách thực chất và mô hình quản trị tự chủ về tổ chức

không thực chất. Có sự tương đồng giữa mô hình thực hiện tự chủ thực chất về tổ chức

với mô hình quản trị nhà trường như quản trị doanh nghiệp. Đối với các TĐHCL theo

hướng này thì lựa chọn xu hướng phát triển TĐH khởi nghiệp đang được biết đến như

một hướng phát triển mới. Việc trở thành một TĐH khởi nghiệp liên quan đến một trong

những thách thức lớn đối với các TĐHCL đang tồn tại mô hình quản trị truyền thống,

đó là phải có cơ cấu và cơ chế hiệu quả để tích hợp được các hoạt động nghiên cứu

khoa học với hoạt động thương mại hóa (Chang và cộng sự, 2009). Theo Sporn (2001),

ngoài mạng lưới bên ngoài thì một loạt yếu tố nội bộ TĐH như tầm nhìn, mục tiêu, cơ

cấu tổ chức, quản lý, quản trị, lãnh đạo và văn hóa đều là thành tố cực kỳ quan trọng

đối với tự chủ về tổ chức của một TĐH khởi nghiệp. Và nền tảng căn bản để phát huy

sức mạnh nội lực của các yếu tố trên là giải pháp về xây dựng tư duy nuôi dưỡng, thúc

đẩy tinh thần doanh nghiệp, tinh thần khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo nhằm tạo động cơ

đổi mới trong tổ chức quản lý và phương thức vận hành hệ thống tổ chức nhà trường.

Nhiệm vụ của nhà trường là phải xây dựng được một môi trường giáo dục mở, năng

động, có nhiều “sân chơi” dành cho từ giảng viên đến sinh viên. Ở bên ngoài khuôn

viên nhà trường, trong mối quan hệ với thị trường lao động và việc làm thì doanh

nghiệp hoàn toàn có thể trở thành chặng đường thứ hai và là những bài kiểm tra thực tế

để cả người dạy và người học biết được nhà trường, sinh viên đang thiếu gì, cần gì để

đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn. Áp dụng tư duy doanh nghiệp vào quản trị TĐHCL cũng

chính là tạo cho hoạt động này một đích đến để người học xây dựng mục tiêu học tập

thiết thực. Áp dụng tư duy doanh nghiệp vào quản trị, vận hành hệ thống quản trị thực

145

hiện tự chủ về tổ chức TĐHCL phải gắn với:

- Thiết kế kế hoạch chiến lược của nhà trường (trong đó bao gồm kế hoạch

phát triển chương trình đào tạo) dựa trên nhu cầu doanh nghiệp (áp dụng phương pháp

đào tạo theo vấn đề, theo đặt hàng của doanh nghiệp và nhu cầu thị trường);

- Thành lập và xây dựng mạng lưới liên kết các bộ phận của TĐHCL (nhất là

cấp khoa, bộ môn trực thuộc) với doanh nghiệp liên quan, đồng thời xây dựng, phát

triển mạng lưới doanh nghiệp có các cựu sinh viên, có mối quan hệ với các lãnh đạo,

hoặc hình thành các trung tâm phát triển hợp tác với doanh nghiệp;

- Xây dựng bộ phận phát triển nghề nghiệp;

- Duy trì, phát triển cơ chế liên kết, hợp tác nghiên cứu giữa TĐHCL với doanh

nghiệp và chính quyền địa phương;

- Phân quyền quản lý trong nhà trường thông qua việc áp dụng phương thức

giao nhiệm vụ về từng bộ phận cơ sở của TĐHCL như khoa/bộ môn/từng cá nhân có

trách nhiệm;

- Thành lập doanh nghiệp thuộc khoa trong TĐHCL với việc cho phép các

khoa thành lập các đơn vị nghiên cứu trực thuộc/phòng thí nghiệm dịch vụ dưới sự

quản lý của khoa;

- Xây dựng cơ chế kiểm soát các hoạt động độc lập, tự chủ, thực hiện trách

nhiệm của các đơn vị trong nhà trường, đặt ra tiêu chuẩn, tiêu chí chặt chẽ để đánh giá

việc thực hiện nhiệm vụ, thực hiện sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm về công tác tổ chức

của các đơn vị trực thuộc, tăng cường công bố thông tin về quá trình và kết quả hoạt

động của nhà trường.

Như vậy, trên tinh thần đổi mới GDĐH của Đảng, Nhà nước cũng như kinh

nghiệm quốc tế và thực tiễn của thị trường GDĐH, áp dụng mô hình quản trị đại học

như quản trị doanh nghiệp đang chứng minh được sự thành công về TCĐH của nhiều

TĐH. Tuy nhiên, còn thực tế khác cũng cần được nhận diện, đó là nếu chỉ bằng cơ chế

hành chính hóa để chuyển ngay các TĐHCL từ mô hình quản trị hiện nay sang mô hình

quản trị như doanh nghiệp là phi thực tế. Bởi vì, quá trình lựa chọn hướng phát triển và

phương thức quản trị phù hợp đối với từng TĐHCL công lập còn phụ thuộc một phần

rất lớn vào sứ mạng, tầm nhìn, mục tiêu phát triển và năng lực nội sinh của mỗi trường.

146

Không thể áp đặt cơ học một mô hình chung cho mọi TĐHCL. Trái lại, chỉ có thể xuất

phát điểm từ môi trường thể chế chung để lấy đó làm khuôn khổ, chuẩn mực, tiêu chí

đảm bảo việc thực hiện tự chủ không chệch hướng GDĐH quốc gia. Do vậy, sự hoàn

thiện và thường xuyên cải thiện thể chế nội bộ được xác định là giải pháp quan trọng

hàng đầu để TĐHCL tăng cường năng lực thể chế, đáp ứng yêu cầu quản trị hiệu quả

một cơ sở GDĐH công lập thực hiện tự chủ về tổ chức.

(2) Tăng cường năng lực tổ chức và năng lực hành động thực tiễn của thiết chế

HĐT. Đây là giải pháp trọng tâm trước mắt cũng như về lâu dài đối với mỗi TĐHCL

thực hiện tự chủ về tổ chức. Trong cơ chế thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL, khi

tự chủ về pháp lý đã được Nhà nước ghi nhận và củng cố thông qua thể chế TCĐH đã

có sự rà soát, bổ sung cơ bản trong Luật số 34 hiện nay thì thực hiện tự chủ về tổ chức

là tất yếu, dù bao gồm cả cơ hội và thách thức với từng trường. Thực hiện tự chủ về tổ

chức trong thực tế phản ánh rõ việc các trường thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm

như thế nào và bằng cách nào, hiệu quả hay không hiệu quả. Những điều này phụ thuộc

một phần cơ bản vào vai trò và chất lượng hoạt động của HĐT. Trong bối cảnh đồng

loạt triển khai thực hiện việc thành lập HĐT ở nhiều TĐHCL hiện nay, vấn đề về thành

lập, củng cố, hoàn thiện về tổ chức và nâng cao năng lực hoạt động thực chất, hiệu quả

của HĐT được xác định là khâu quan trọng trong thực hiện tự chủ về tổ chức của

TĐHCL. Những nhiệm vụ cụ thể để tăng cường năng lực của HĐT bao gồm:

- Tiếp cận đúng đắn, khoa học và phù hợp đối với việc thành lập, tổ chức thực

hiện thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ quản trị và thực thi trách nhiệm giám sát, giải

trình của HĐT trong hệ thống tổ chức của TĐHCL. Về cấu trúc, ngoài việc tuân thủ

các quy định chung của Luật số 34, dù được tổ chức tương tự cơ chế Quốc hội hay cơ

chế Hội đồng quản trị của mô hình quản trị như doanh nghiệp thì HĐT đều phải đủ

mạnh và thực quyền, đúng với địa vị pháp lý của cơ quan quyền lực cao nhất thực hiện

quyền quản trị nhà trường trong mối quan hệ với Hiệu trưởng và bộ máy quản lý của

trường. Công cụ pháp lý để hiện thực hóa giải pháp này là trong quy chế tổ chức và

hoạt động của TĐHCL cũng như trong quy chế hoạt động của HĐT phải quy định cụ

thể, rõ ràng về cơ chế thực hiện thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của Chủ tịch HĐT

và HĐT; quy trình, thủ tục, điều kiện, tiêu chuẩn từng vị trí thành viên HĐT; cơ chế

147

duy trì, thực hiện mối quan hệ về thực thi thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ, trách

nhiệm của HĐT với các thiết chế và chủ thể liên quan. Đặc biệt, từ phương diện năng

lực và chất lượng hoạt động của HĐT, vấn đề chất lượng, cơ cấu nhân sự tham gia HĐT

cần được xác định là giải pháp căn bản có giá trị làm thay đổi đích thực năng lực nội

sinh của nhà trường trong điều kiện thực hiện tự chủ về tổ chức. Trong khuôn khổ quy

định chung của thể chế về HĐT của Luật số 34, vai trò của cấp ủy đảng, tập thể lãnh đạo,

cộng đồng sư phạm nhà trường mang tính quyết định đến năng lực thực tế của HĐT.

- Hoàn thiện và phát triển nhân sự của HĐT mà trước hết là vị trí Chủ tịch

HĐT. Về bản chất, Chủ tịch HĐT phải là nhân sự đáp ứng được yêu cầu là người bạn

của từ sinh viên đến giảng viên và các nhà khoa học; một người quản lý tốt trong tập

thể các thành viên quản trị; một người giỏi quản trị và phát triển các mối quan hệ trong

và ngoài TĐHCL; một hình ảnh mang lại sự thiện cảm đối với công chúng về một

TĐH đáng mơ ước; một người mạnh mẽ, nhạy cảm, biết nhìn nhận hợp lý về quá khứ

và tương lai và vững vàng ở vị trí hiện tại; là người nhìn xa, trông rộng nhưng có cơ sở

để biến ý tưởng thành hiện thực trong đời sống nhà trường. Những điều đó cần được

đặt trong mối quan hệ với các vai trò: (i) Điều hòa hợp lý các mối quan hệ lợi ích giữa

các chủ thể liên quan; (ii) sáng tạo ý tưởng để đem lại sự thay đổi tiến bộ cho nhà

trường; (iii) là người kiên cường phấn đấu vì sự hiệu quả khi thực hiện TCĐH và chất

lượng đào tạo của trường.

- Lựa chọn được các thành viên HĐT thực sự có năng lực, tâm huyết và tầm

nhìn hành động, đáp ứng yêu cầu về thành viên HĐT. Thành viên HĐT phải là người

có khả năng khái quát hóa để nhìn ra được bối cảnh lớn hơn, với một tầm nhìn xa hơn

về cả chiến lược cũng như trong tổ chức thực hiện. Những thành viên này cũng phải có

năng lực phân tích bối cảnh để có thể xem xét, đánh giá đúng vấn đề của nhà trường

trong mối tương quan với cả nhân tố bên trong lẫn bên ngoài. Họ là những người thực

hiện vai trò đánh giá con người và tương tác hiệu quả để lựa chọn đúng người đứng

đầu thiết chế quản trị, điều hành và có thể hợp tác được với những người đó. Khả năng

học hỏi cho phép thành viên HĐT có thể thay đổi cách suy nghĩ và hành động trên cơ

sở những thông tin mới, những thay đổi thường xuyên, bất thường của hoàn cảnh. Sự

hội tụ tố chất phù hợp với năng lực của người làm chiến lược mới có thể được cơ cấu

148

vào vị trí của một thành viên HĐT. Họ là người hoạch định chiến lược, xây dựng

nguyên tắc, định vị hệ thống giá trị và đánh giá, giám sát những hoạt động của chính

HĐT, của thiết chế Hiệu trưởng cũng như các bộ phận khác trong nhà trường. Như vậy,

xây dựng vị trí thành viên HĐT đối với một TĐHCL phải trên cơ sở nhân sự đó phải là

người hiểu rõ về thực tế nhà trường, về quản trị, quản lý TĐHCL, có đủ kiến thức để

vận hành một TĐH và làm thế nào để đạt được mục tiêu mà trường đã định. Không thể

đưa vào HĐT những người chỉ tham gia HĐT như một việc làm thiện nguyện, bởi như

vậy họ không bao giờ có thể gánh vác trọng trách là bộ não thông minh để lãnh đạo nhà

trường, càng không có đủ năng lực, thời gian để thẩm định hiệu quả, chất lượng quản

lý bộ máy nhà trường của Hiệu trưởng. Về bản chất, thành viên HĐT phải gắn kết lợi

ích cá nhân với lợi ích chung của trường. “Sẽ không có một mô hình hay một giải pháp

nào mang lại kết quả tốt nếu người trong cuộc không bắt đầu bằng một nhận thức đầy

đủ về bản chất, ý nghĩa, những ưu điểm và hạn chế, những điều kiện nào để có thể áp

dụng những mô hình hay giải pháp ấy” [28].

- Lựa chọn đúng nhân sự cho vị trí Hiệu trưởng là sự thể hiện rõ nhất năng lực

quản trị đối với một HĐT trong TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức. Ngoài yêu cầu

đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện mang tính thể chế chung của Luật số 34 thì nhân sự Hiệu

trưởng phải là một nhà quản lý thực sự sâu sắc được đặt tại thiết chế này, một người có

thể phát huy thế mạnh cá nhân và thể chế trong các mối quan hệ để mang lại lợi ích

thiết thực cho trường, người kết nối hiệu quả với các chủ thể của thị trường lao động,

việc làm. Đảm nhiệm vị trí của thiết chế quản lý TĐHCL trong bối cảnh luôn có nhiều

sự thay đổi khó đoán định trước của thế giới hiện đại, với sự đan xen nhiều mối quan

hệ lợi ích cực kỳ phức tạp, Hiệu trưởng hơn ai hết phải hiểu rõ vị trí này tiềm ẩn không

ít khó khăn, rủi ro, nguy hiểm. Vậy nên, bộ máy của Hiệu trưởng nên được quản lý

bằng sự đồng thuận, sau khi có tham vấn cần thiết từ các thiết chế thuộc tổ chức nhà

trường. Hiệu trưởng phải biết sử dụng và vận hành quyền lực một cách tinh tường, với

khả năng thương lượng, thuyết phục cao nhất có thể. Trong quản trị, quản lý TĐH,

thực chất sự căng thẳng về phát triển nguồn lực tổ chức không hẳn chỉ liên quan đến

việc phát triển giảng viên, mặc dù vẫn quan niệm giảng viên là máy cái trong bộ máy

nhà trường. Điều quan trọng đối với tổ chức TĐHCL là phát hiện, tìm và sử dụng hiệu

149

quả được nhân sự quản lý lão luyện. Do đó, vị trí Hiệu trưởng phù hợp với hệ thống thể

chế tự chủ về tổ chức hiện nay bên cạnh khả năng sáng tạo, còn rất cần khả năng điều

phối các mối quan hệ về lợi ích, vừa làm tốt vai trò của một ủy viên HĐT, vừa duy trì

và phát huy thế mạnh của sự hài hòa các mối quan hệ lợi ích trong cơ chế TCĐH. Với

tính chất của thiết chế quản lý, Hiệu trưởng ở trung tâm của các mối quan hệ nên cần

thiết phải có được những tố chất quan trọng, đó là óc phán đoán, bản lĩnh dũng cảm, sự

ngoan cường và tính chuyên nghiệp cao.

- Đảm bảo chất lượng của thành viên HĐT đến từ bên ngoài nhà trường. Đối

với TĐHCL, thành viên bên ngoài cần được đối xử như một nguồn tài nguyên có giá trị

đóng góp, cống hiến thực sự cho sự phát triển nhà trường. Cơ chế hoạt động, thu hút sự

tham gia của thành viên bên ngoài trong HĐT phải hợp lý về chế độ hội họp, cơ chế

đóng góp trí tuệ, sáng kiến, giải pháp quản trị, quản lý nhà trường, chế độ đãi ngộ

tương xứng với thực tế công sức đóng góp; cơ chế đánh giá, thay thế thành viên hoạt

động không hiệu quả…

(3) Giám sát quá trình chuyển giao quyền lực từ thiết chế Hiệu trưởng sang

thiết chế HĐT tại các TĐHCL cần được nhận diện là một giải pháp phải được triển

khai thực hiện thật tốt để tránh nảy sinh lỗi cơ chế trong vận hành hệ thống quyền lực

quản trị cao nhất của các trường. Từng thành viên trong tập thể đảng ủy, tập thể lãnh

đạo và cả hệ thống tổ chức nhà trường cần có sự giám sát đúng đắn quá trình thực hiện

việc chuyển giao quyền lực từ Hiệu trưởng sang HĐT, nhằm tránh phát sinh hiện tượng

vô hiệu hóa thực quyền của HĐT bằng việc quy định không cụ thể các cơ chế để vận

hành thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của HĐT trong thể chế nội bộ hoặc ngược lại,

mở rộng thẩm quyền của Chủ tịch HĐT theo cơ chế tập quyền.

(4) Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, quản lý, phối

hợp giữa HĐT với Đảng ủy và Hiệu trưởng trong TĐHCL. Cơ chế này phải phù hợp

với phương án thiết kế Chủ tịch HĐT kiêm Bí thư đảng ủy hoặc không kiêm Bí thư

đảng ủy. Theo quan điểm của người làm thực tiễn thì “quy định của Luật là đã khá rõ,

nhưng triển khai thực tế không đơn giản, nhận thức không đồng bộ cũng không làm

được, chủ quản không tin tưởng, mạnh dạn phân cấp theo luật thì cũng không làm

được, không đoàn kết cũng không làm được và không biết được vai trò thì dễ làm sai”

150

(Phụ lục 5). Vì vậy, chúng tôi nhận thấy, việc xây dựng “Bộ quy tắc ứng xử trong lãnh

đạo, chỉ đạo, điều hành và phối hợp công tác giữa Đảng ủy - Hội đồng trường - Hiệu

trưởng nhà trường” nên được coi là giải pháp lâu dài để minh bạch và hài hòa hóa các

mối quan hệ trong quản trị, quản lý và vận hành tổ chức bộ máy của TĐHCL.

(5) Xây dựng văn hóa tự chủ trong TĐHCL. Trong quản trị nhà trường, vai trò

nổi bật của văn hóa nằm ở giá trị là công cụ triển khai chiến lược, mục tiêu, sứ mạng,

tầm nhìn phát triển TĐHCL. Bất kỳ TĐHCL nào muốn phát triển đều phải thiết kế

được kế hoạch phát triển chiến lược bao gồm định hướng GDĐT cần thực hiện; nhận

diện rõ thị trường mục tiêu và định hướng hoạt động GDĐT, như sản phẩm, chất

lượng, giá cả và hệ thống dịch vụ đào tạo. Sau khi xây dựng kế hoạch chiến lược giáo

dục và đào tạo phù hợp thì mục tiêu kế hoạch có đạt được hay không phụ thuộc vào

hiệu quả triển khai thực hiện chiến lược. Trên thực tế, không ít TĐHCL không thành

công khi triển khai chiến lược do không tập hợp thống nhất được cộng đồng sư phạm

và các chủ thể liên quan trong nhà trường. Do chiến lược được thực hiện bởi tất cả mọi

thành viên, dù mỗi người tham gia với nhiệm vụ, cương vị khác nhau và sở hữu những

kỹ năng hành động không giống nhau. Từng thành viên là mắt xích trong hệ thống tổ

chức của nhà trường và để bộ máy đó hoạt động theo hướng đã định thì các mắt xích

phải ăn khớp với nhau. Điều này chỉ đạt được nếu TĐHCL có những quy tắc hành

động thống nhất để hướng dẫn, chi phối việc ra quyết định và hành động của mọi thành

viên trong tổ chức. Văn hóa trở thành “linh hồn” của những quy tắc hành động, với sự

cam kết cao nhất từ mọi chủ thể trong tổ chức TĐHCL.

Văn hóa quản trị TĐHCL tự chủ về tổ chức đặc biệt nhấn mạnh vai trò tự quản

của từng cá nhân, khích lệ tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm của từng người, từng

bộ phận/đơn vị trong toàn hệ thống. Chính vì vậy, xây dựng văn hóa quản trị, quản lý

TĐHCL tự chủ về tổ chức được xác định là giải pháp vô cùng quan trọng, bởi môi

trường văn hóa nhà trường có tác động quyết định đến tinh thần, thái độ, động cơ lao

động của các thành viên, giúp cho hệ thống tổ chức bộ máy TĐHCL trở thành một

cộng đồng làm việc trên tinh thần hợp tác, thân thiện và đầy ý chí tiến thủ.

(6) Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát nội bộ việc thực hiện tự chủ về tổ

chức của các TĐHCL. Có thể nhận thấy rất rõ rằng, công tác thanh tra, kiểm tra, giám

151

sát thực hiện TCĐH nói chung, thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL nói riêng giúp

cho việc phát hiện bất cập, chồng chéo trong các văn bản quản trị nội bộ của trường để

có giải pháp khắc phục, xử lý các vướng mắc nảy sinh trong quá trình triển khai thực

hiện thể chế tự chủ tại từng đơn vị trong nhà trường. Đối với môi trường học đường,

muốn đề cao và tôn trọng nguyên tắc, quy định, quy trình giải quyết các công việc của

hệ thống quản trị tự chủ thì hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát phải phát huy vai trò

của tấm chắn hữu hiệu để ngăn chặn, loại trừ những sai phạm trong mọi khâu tổ chức,

từ việc ra quyết định đến việc tổ chức thực hiện và giám sát việc thực hiện các quyết

định của hệ thống quản trị, quản lý nhà trường. Hoạt động này cần được thể chế hóa và

chuyên môn hóa trong tổ chức bộ máy của trường, nhất là hoạt động giám sát của HĐT

đối với mọi mặt tự chủ, từ cấp trường xuống tới cấp cơ sở. Hoạt động thanh tra, kiểm

tra, giám sát trong điều kiện thực hiện tự chủ về tổ chức phải được thực thi với ý nghĩa

là kênh phát hiện, xử lý, khắc phục, cải thiện nhanh chóng, hiệu quả những khiếm

khuyết từ tổ chức bộ máy và nguồn lực vật chất phục vụ cho hoạt động tự chủ của nhà

trường. Tăng cường kiểm tra, đôn đốc, kiểm soát, hỗ trợ việc thực hiện các nghị quyết

của HĐT cũng như các quy định khác của hệ thống quản trị, quản lý TĐHCL được xác

định là một nội dung quan trọng của văn hóa tự chủ mà các trường không thể coi nhẹ.

Có như vậy, mọi khâu trong bộ máy của một TĐHCL hoạt động trong điều kiện tự chủ

về tổ chức mới có sự thông suốt.

* Nhóm giải pháp về bảo đảm thực hiện TNGT của TĐHCL thực hiện tự chủ

về tổ chức.

Các kết quả nghiên cứu của nhiều công trình đã công bố cũng như những

nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của luận án đã cho thấy tầm quan trọng của nhóm

giải pháp về bảo đảm thực hiện TNGT đối với một TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ

chức. Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi tập trung đề xuất những nội dung sau

nhằm để hiện thực hóa nhóm giải pháp về bảo đảm thực hiện TNGT của TĐHCL thực

hiện tự chủ về tổ chức:

(1) Hiện thực hóa quy định về việc phân quyền tự chủ và TNGT đến đơn vị

thuộc trường (phòng/khoa chuyên môn) và từng cá nhân. Đây vừa là giải pháp tăng

cường năng lực thực hiện tự chủ của TĐHCL, vừa là điều kiện thể chế mà TĐHCL

152

phải tuân thủ theo quy định của Luật số 34. Mục đích của sự phân quyền và TNGT này

nhằm khai thác năng lực tổ chức hoạt động GDĐT của trường ngay từ hệ thống cơ sở.

Nguyên tắc chung thực hiện phân quyền và TNGT là toàn diện, quản lý theo mục tiêu,

kết quả thực hiện công việc và tôn trọng văn hóa tự chủ trong nhà trường. Cách thức

thực hiện phân quyền và TNGT cho đơn vị cơ sở và cá nhân trong các đơn vị đó là cấp

dưới được toàn quyền thực hiện trong phạm vi công việc được giao, chịu trách nhiệm

báo cáo, giải trình theo chức năng, nhiệm vụ, vị trí và nội dung được phân công. Về

thực hiện tự chủ tổ chức của đơn vị thì trưởng đơn vị được quyền đề nghị về vị trí việc

làm, về thành lập bộ môn thuộc khoa chuyên môn, bộ phận nghiệp vụ thuộc phòng

chức năng; đề nghị bổ nhiệm/bổ nhiệm lại viên chức do đơn vị quản lý.

(2) Nâng cao năng lực thực hiện giải trình của các thiết chế, đơn vị thuộc

trường. Với ý nghĩa chịu trách nhiệm có thể trả lời được, giải thích được, nắm và diễn

giải được các quyết định đã đưa ra, TNGT trong thực hiện tự chủ về tổ chức có ý nghĩa

vô cùng quan trọng, bởi trách nhiệm này không chỉ làm sáng tỏ được hiện trạng của

nhà trường mà còn cả hướng đi trong tương lai của mỗi tổ chức TĐHCL. Vì vậy, trách

nhiệm này của TĐHCL sẽ được tập trung vào hai hướng giải trình chính, đó là: (i) TNGT

bên ngoài và bên trong (giải trình ra bên ngoài đối với các chủ thể hỗ trợ, tài trợ và giải

trình bên trong của các thiết chế, bộ phận định kỳ hay đột xuất theo yêu cầu của HĐT

về các hoạt động thuộc chức năng từng bộ phận); (ii) TNGT mang tính pháp lý đối với các

chủ thể có thẩm quyền quản lý TĐHCL hoặc trách nhiệm khác theo quy định pháp luật

(giải trình đối với cơ quan thanh tra, kiểm toán...). Giải pháp tăng cường năng lực thực thi

TNGT của TĐHCL phải trên cơ sở của một số các tiêu chí cơ bản, như sự phù hợp, đánh

giá công bằng; tạo cơ hội và khả năng để phản hồi, đối thoại, giải trình; kích thích lòng tin

của cơ chế. Trong các tiêu chí trên, tiêu chí kích thích lòng tin của cơ chế được hình dung

là TĐHCL và nguồn lực, đội ngũ của nhà trường đáng được tin cậy, không cần có sự can

thiệp quá mức khi không có cơ sở để làm như vậy. Thực hiện tự chủ về tổ chức và thực

hiện TNGT là hai mặt của cơ chế TCĐH. Sự minh bạch về trách nhiệm trong thực hiện

TCĐH buộc các trường phải phát triển bằng chất lượng lâu dài thay vì bằng những giải

pháp ngắn hạn. Bài học kinh nghiệm quý báu từ các TĐHCL thực hiện tự chủ cho thấy,

mấu chốt của TCĐH là công khai, minh bạch thông tin gắn với TNGT. Cơ chế thực hiện

153

TNGT liên quan đến hai mặt của loại hình trách nhiệm gắn với bản chất của TCĐH, đó là

tính tự chịu trách nhiệm đối với các chủ thể liên quan và cơ chế công khai các kết quả, chất

lượng thực hiện TCĐH đối với chủ thể bên trong, bên ngoài TĐHCL. Ở góc độ trách

nhiệm, TĐHCL phải xác định các trách nhiệm đối với người học và xã hội, đó là đảm

bảo chất lượng GDĐH của nhà trường như đã cam kết, nhất là trách nhiệm sử dụng

hiệu quả và minh bạch kinh phí đóng góp của người học và xã hội. Từng TĐHCL phải

xác định rõ, một khi đã hoạt động trong thị trường giáo dục có định hướng đúng đắn và

cạnh tranh lành mạnh thì nhà trường phải chủ động xây dựng chiến lược, đội ngũ và cơ

sở vật chất phù hợp để cạnh tranh thu hút sự đầu tư từ Nhà nước cũng như từ các

nguồn khác, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của người học và xã

hội. Trong cơ chế TCĐH thì cả người học và người sử dụng lao động đều được đảm

bảo quyền tự do lựa chọn nên không thể áp dụng mức học phí không tương xứng với

chất lượng đào tạo. Trong cơ chế công khai, người học cũng như người sử dụng lao

động có điều kiện giám sát việc thực hiện các cam kết của các trường về mục tiêu đào

tạo, chuẩn đầu ra, chương trình đào tạo và các nguồn lực đảm bảo chất lượng đào tạo.

Một TĐH đưa sai thông tin công khai hay không thực hiện đúng cam kết đã công khai

sẽ tạo ra hệ lụy tiêu cực, cho thấy sự không hiệu quả về tổ chức và vận hành hệ thống

tổ chức nhà trường, gây ảnh hưởng đến quyền lợi học tập của xã hội, kể cả quyền lợi

chính đáng của cộng đồng giảng viên và viên chức, người lao động trong nhà trường.

Đối với Nhà nước và chính TĐHCL, mặt thứ nhất của TNGT là trách nhiệm đảm bảo

mọi hoạt động của nhà trường theo sứ mạng đã công bố và trong khuôn khổ của pháp

luật; trách nhiệm sử dụng kinh phí đầu tư của Nhà nước một cách hiệu quả và minh

bạch; trách nhiệm báo cáo và chịu sự giám sát của cơ quan QLNN; trách nhiệm phát

triển nhà trường một cách bền vững, giữ vững và nâng cao uy tín của trường vì quyền

lợi của tập thể đội ngũ cán bộ giáo viên cũng như sinh viên. Mặt thứ hai của TNGT là

cơ chế công khai thông tin liên quan đến hiệu quả thực hiện tự chủ về tổ chức và nghĩa

vụ, trách nhiệm của từng bộ phận thuộc cơ cấu tổ chức TĐHCL về những quyết định

trong vận hành hệ thống quản trị, quản lý nhà trường cần được thực hiện bài bản, khoa

học, nghiêm túc và quyết tâm chính trị cao nhất. Do là vấn đề mới trong cơ chế thực

hiện tự chủ về tổ chức nên các TĐHCL phải bắt đầu từ nền tảng căn bản là quy chế tổ

154

chức và hoạt động của nhà trường, trong đó thống nhất quy định:

- Về nguyên tắc thực hiện TNGT: Những nguyên tắc thực hiện TNGT phải

được tiếp cận đa góc độ, đó là tính chịu trách nhiệm, tính công khai, minh bạch, dân

chủ, do vậy việc giải trình phải trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của tổ chức và vận

hành hệ thống quản trị, quản lý TĐHCL (nguyên tắc trách nhiệm đi đôi với chức năng,

nhiệm vụ; tuân thủ quy định pháp luật hiện hành, quy chế tổ chức và hoạt động; công

khai, dân chủ, minh bạch và độc lập trong thực hiện nhiệm vụ). Khó khăn khi thực hiện

trách nhiệm này của TĐHCL đó là cơ chế quyết định tập thể, theo đa số trong ra quyết

định về tổ chức của HĐT. Trong các quyết định liên quan đến thực hiện tự chủ về tổ

chức của HĐT thì thiết chế Hiệu trưởng và vai trò của Bí thư đảng ủy đồng thời với tư

cách thành viên HĐT cần được làm rõ trong quy chế tổ chức và hoạt động, tránh tình

trạng đẩy trách nhiệm cho tập thể khi xảy ra khủng hoảng trong vận hành hệ thống

quản trị, quản lý nhà trường.

- Về phương pháp tiếp cận: Quy định đầy đủ, phù hợp về quy trình, nội dung,

phương thức giải trình; quy trình, nội dung, phương thức tiếp nhận phản hồi từ các chủ

thể liên quan bên trong và bên ngoài nhà trường; quy trình, nội dung, phương thức xử

lý, khắc phục, cải thiện chất lượng các quyết định đã ban hành; quy trình, nội dung,

phương thức xử lý trách nhiệm của từng thành viên liên quan trong vận hành hệ thống

quản trị, quản lý tổ chức TĐHCL.

- Về phân công, phân cấp trong thực hiện nhiệm vụ giải trình theo cơ chế định

kỳ, đột xuất: Mỗi TĐHCL cần phải rõ ràng, minh thị trong phân công, phân cấp thực

hiện nhiệm vụ này, công khai đến mọi chủ thể liên quan bên trong và bên ngoài nhà

trường để xây dựng và phát triển thành văn hóa giải trình, tránh cách làm đối phó, hình

thức và không thực chất, mất an toàn, an ninh, dễ dẫn đến những sai sót hoặc biến dạng

cơ chế thực thi quyền lực quản trị, quản lý nhà trường trong điều kiện thực hiện tự chủ

về tổ chức.

Từ việc hiểu về TNGT như trên, giải pháp tăng cường năng lực giải trình của

TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức đặt ra yêu cầu thiết lập được hệ thống TNGT. Ba

trụ cột cốt yếu của hệ thống này phải được hình thành trong cơ chế thực thi TNGT của

155

TĐHCL, đó là:

Bảng 4.1: Ba trụ cột trong hệ thống thực thi TNGT của TĐHCL

Chất lƣợng giải trình

Công cụ/ quyền lục của hệ thống

Niềm tin vào sự giải trình

1. Nội dung và chất lượng thông tin được cung cấp

1. Chuẩn mực hóa mục tiêu, nội dung, quy trình, phương thức giải trình.

Diễn giải nội hàm hệ thống

1. Giải trình để thấy được chất lượng đảm bảo và xứng đáng với sự tin cậy của các đối tượng liên quan bên trong và ngoài nhà trường.

2. Các giải trình có tác dụng thay đổi, cải thiện các giá trị và chuẩn mực của hoạt động GDĐT trong nhà trường.

giải trình của TĐHCL

2. Cơ cấu bộ máy, công chuyên cụ nghiệp thực thi hoạt động giải trình.

2. Đảm bảo độ tin cậy về mặt pháp lý đối với các thông tin, nội dung, chủ thể tham gia giải trình.

3. Chủ thể tham gia hoạt động giải trình.

3. Các chủ thể liên quan tiếp cận và sử dụng thông tin giải trình tương tác với mối quan tâm và yêu cầu của họ.

4. Các chủ thể quản lý sử dụng thông tin giải trình để cải thiện chất lượng QLNN về GDĐH.

Tựu chung, đổi mới GDĐH trong cơ chế TCĐH tại các TĐHCL để thích ứng

với những thay đổi chưa từng có trên mọi mặt của đời sống xã hội trong nước và quốc

tế, nhằm thích ứng tốt nhất với những yêu cầu mới về đào tạo nhân lực của cách mạng

công nghiệp 4.0 là cơ hội và thách thức to lớn đối với toàn hệ thống GDĐH công lập

Việt Nam. Là một phần quan trọng của hệ thống GDĐH công lập, việc đẩy mạnh

TCĐH chỉ có thể có thành tựu mới khi các TĐHCL thực sự nhận thức rõ lợi ích thiết

thực của cơ chế này trong môi trường quản lý công hiện đại để nhanh chóng triển khai

những giải pháp toàn diện như đã nêu trên. Trong số những giải pháp đó, có những giải

pháp mang tính thời điểm (như giải pháp về hoàn thiện và tăng cường năng lực thể chế

quản trị, quản lý nội bộ), nhưng cũng không ít giải pháp đòi hỏi sự đầu tư công phu và

lâu dài của từng TĐHCL trong từng lộ trình phát triển nhà trường (như những giải

pháp liên quan đến HĐT, Hiệu trưởng, văn hóa tự chủ...). Và để thực hiện TCĐH thành

công thì cải cách, đổi mới toàn diện hệ thống tổ chức bộ máy nhà trường trên cơ sở có

sự đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng thương hiệu, đảm bảo sinh viên ra trường có việc

làm, đội ngũ cán bộ giảng viên đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, một hệ thống quản

156

trị đại học tiên tiến luôn được xác định là mục tiêu hướng tới của mỗi nhà trường.

Kết luận chƣơng 4

Có được giải pháp tổng thể, đồng bộ, hữu dụng đối với một TĐHCL thực hiện

tự chủ về tổ chức từ hai góc nhìn QLNN về GDĐH và quản trị, quản lý nhà trường

đang là một trong những yêu cầu lớn đặt ra hiện nay. Những giải pháp song hành cần

triển khai từ cả phía cơ quan QLNN về GDĐH và các TĐHCL là giải pháp đối với

hoàn thiện thể chế, tăng cường năng lực quản lý của cơ quan chức năng thuộc bộ chủ

quản và tăng cường năng lực của thiết chế quản trị, quản lý thuộc TĐHCL; giải pháp

về xây dựng, phát triển mối quan hệ giữa bộ quản lý trực tiếp và TĐHCL thực hiện tự

chủ về tổ chức. Trọng tâm của các giải pháp này nhằm mang lại giá trị tích cực cho

thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL, tạo ra kết quả tự chủ thực chất thay vì tự chủ

hình thức như thời gian vừa qua. Những giải pháp nêu trên khi được quyết liệt triển

khai ở cả hai phía cơ quan QLNN về GDĐH và các trường sẽ góp phần nhanh chóng

loại bỏ không ít mẫu thuẫn có tính cơ chế vốn đã âm ỉ trong tiến trình TCĐH ở Việt

Nam thời gian qua. Những giải pháp được đưa ra dựa trên ba trụ cột chính của thực

hiện tự chủ về tổ chức đối với một TĐHCL:

(1) Môi trường thể chế thuận lợi, công khai hóa - minh bạch - dân chủ hóa;

(2) Nội lực đủ mạnh và hiệu quả để thực hiện quyền tự quyết định của TĐHCL;

(3) Đảm bảo mang tính cam kết từ chủ thể QLNN trong hiện thực hóa quyền tự

chủ đã phân cấp cho TĐHCL.

Đây là những giải pháp vừa có tính cấp bách, vừa lâu dài, vừa tổng thể, vừa cụ

thể và quan trọng hơn, cũng là giải pháp trọng tâm, chiến lược cần đặt ra cho các

157

TĐHCL thực hiện tự chủ về tổ chức ở Việt Nam trong thời gian tới.

KẾT LUẬN

Hiện nay, ở Việt Nam, TCĐH được tiếp cận rộng, hẹp khác nhau, nhưng tựu

chung, nội dung của TCĐH hiện được xác lập căn bản trong thể chế QLNN về GDĐH,

với sự ghi nhận quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước và các TĐHCL đối với

nhiệm vụ hiện thực hóa cơ chế TCĐH.

Thời gian qua, việc triển khai TCĐH ở Việt Nam đã từng bước đem lại kết quả

tích cực cho sự đổi mới, phát triển của hệ thống GDĐH công lập. Nhưng, thành tựu của

thực hiện TCĐH trong khối TĐHCL chưa như mong đợi của cả Nhà nước và chính

mỗi trường. Một lĩnh vực TCĐH còn nhiều vướng mắc cần tiếp tục tháo gỡ là lĩnh vực

thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL.

Bản chất của tự chủ về tổ chức gắn với mục đích, yêu cầu, nội dung việc phân

cấp, ủy quyền của Nhà nước cho TĐHCL trong thực hiện quyền quản trị, quản lý

TĐHCL. Làm gì để thực hiện tự chủ về tổ chức của TĐHCL đem lại hiệu quả và lợi

ích thiết thực cho mỗi trường luôn là công việc khó khăn khi phải thay đổi toàn diện từ

tư duy đến thể chế và cách thức vận hành hệ thống tổ chức nhà trường. Trong bối cảnh

TĐHCL vốn dĩ có quá nhiều năm gắn với cơ chế quản lý tập trung của Nhà nước nên

thực chất của việc thực hiện tự chủ về tổ chức đối với các TĐHCL chính là quá trình

tái thiết hệ thống tổ chức nhà trường, từ cấu trúc bộ máy đến nguồn lực và môi trường

quản lý công. Quá trình này không chỉ cần nỗ lực thay đổi từ các TĐHCL mà còn đòi

hỏi sự đồng hành của toàn hệ thống QLNN về GDĐH.

Qua nghiên cứu lý luận thực hiện tự chủ về tổ chức, thực tiễn môi trường thể

chế, QLNN về GDĐH và năng lực nội sinh của các TĐHCL trong triển khai thực hiện

tự chủ về tổ chức thời gian qua ở Việt Nam, luận án đề xuất một hệ giải pháp căn cơ,

khả thi, nhằm góp phần thay đổi hiện trạng thực hiện tự chủ về tổ chức của các

TĐHCL. Đây là những giải pháp đa dạng, trước mắt, lâu dài, phù hợp với lộ trình và

bước đi thực tế của các TĐHCL. Trong số các giải pháp để TĐHCL thực hiện tự chủ

về tổ chức hiệu quả hơn, giải pháp về hoàn thiện môi trường thể chế chung và thể chế

quản trị nội bộ; giải pháp đổi mới toàn diện hệ thống QLNN về GDĐH và đổi mới căn

158

bản hệ thống tổ chức nhà trường theo hướng quản trị tiên tiến có tầm quan trọng đặc

biệt, bởi vì, trong suốt những năm vừa qua, bài toán về giao quyền và đảm bảo thực

hiện quyền tự chủ về tổ chức của các TĐHCL ở Việt Nam thường bị đặt vào tình trạng

mở được nút thắt ở văn bản GDĐH nhưng vẫn chưa tháo gỡ kịp thời nút thắt tồn tại ở

văn bản pháp luật liên quan khác,

Những nghiên cứu của luận án đối với chủ đề thực hiện tự chủ về tổ chức của

TĐHCL tại Việt Nam ở thời điểm hiện nay có tính thời sự, bởi trên thực tế, những khó

khăn, vướng mắc mà các TĐHCL Việt Nam phải đối diện qua nhiều năm một phần cơ

bản liên quan đến lĩnh vực thực hiện tự chủ về tổ chức. Nghiên cứu của luận án cho

thấy một nghịch lý phản ánh bản chất của tự chủ về tổ chức của TĐHCL, đó là nhà

nước muốn cắt giảm sự hỗ trợ về tài chính cho TĐHCL, nhưng lại muốn giữ quyền

kiểm soát hoạt động về quản trị tổ chức và quản trị nguồn nhân lực của các trường.

Đây là tư duy cần được thay đổi trong mối quan hệ giữa Nhà nước với TĐHCL. Việc

thay đổi cách quan hệ đó sẽ mang lại sự nhận diện đúng đắn là thực hiện tự chủ về tổ

chức không chỉ là quyền, mà còn là nghĩa vụ và trách nhiệm của TĐHCL. Những

nghiên cứu lý luận đó qua soi chiếu với quy định hiện hành về thực hiện tự chủ tổ chức

và thực tiễn thực hiện sẽ giúp các chủ thể liên quan đến cơ chế TCĐH hiểu rõ, hiểu

đúng vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, kỹ năng thực hiện công việc của mỗi bên, phù

hợp với sự phân vai của cơ chế TCĐH.

Là quốc gia đi sau so với nhiều quốc gia trên thế giới trong áp dụng cơ chế

TCĐH với tính chất là phương thức để đổi mới GDĐH, các TĐHCL Việt Nam có

những thuận lợi căn bản khi tiếp cận với kinh nghiệm quốc tế, có thể rút ngắn thời gian

cũng như tiết kiệm nguồn lực trong triển khai cơ chế này ở Việt Nam. Điều cốt yếu đối

với các TĐHCL là phải có quyết tâm chính trị lớn, tâm thế hành động thực chất để thay

đổi tổ chức và hệ thống quản trị nhà trường theo hướng xây dựng và phát triển mô hình

GDĐH thông minh, hiệu quả, bền vững trong điều kiện kinh tế tri thức và hội nhập

cách mạng công nghiệp 4.0.

Có thể đúc rút lại rằng, các kết quả nghiên cứu của luận án đã trả lời được

những câu hỏi nghiên cứu mà luận án đã đặt ra và khẳng định vấn đề lựa chọn nghiên

cứu của luận án là phù hợp với chuyên ngành Quản lý công; có cơ sở khoa học và thực

159

tiễn thuyết phục.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Tuấn Hưng (2017), “Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo

dục đại học công lập tại Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghề Luật, (5), tr. 8-13.

2. Nguyễn Tuấn Hưng (2019), “Thực hiện tự chủ đối với trường đại học công lập theo

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018”, Tạp chí

Quản lý nhà nước, (279), tr. 50-54.

3. Nguyễn Tuấn Hưng (2020), “The university council in Vietnam‟s public higher

education institutions: Its nature, vision and actions”, (Hội đồng trường của các

trường đại học công lập tại Việt Nam: Bản chất, tầm nhìn và hành động), Tạp chí

Công Thương, (17), tr. 306-312.

4. Nguyễn Tuấn Hưng (2021), “Mối quan hệ giữa Đảng ủy với Hội đồng trường và Hiệu

160

trưởng trong các trường đại học công lập Việt Nam”, Tạp chí Nghề luật, (5), tr. 57-61.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT 1. Altbach Philip G., Reisberg Liz, Rumbley Laura E. (2017), Xu hướng giáo dục đại học toàn cầu theo vết một cuộc cách mạng học thuật, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội, Hà Nội.

2. Đinh Văn Ân, Lê Xuân Bá (chủ biên) (2006), Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Khoa

học và Kỹ thuật, Hà Nội.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2020), Báo cáo Thực hiện tự chủ đại học theo Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, Phiên họp Hội đồng

Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực tháng 11, Hà Nội.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2020), Công văn số 127/NGCBQLGD-CSNGCB về việc cung cấp thông tin tài liệu chuẩn bị bài tham luận của Bộ trưởng Bộ Giáo

dục và Đào tạo tại Hội thảo Giáo dục 2020 về tự chủ trong giáo dục đại học,

từ chính sách đến thực tiễn, Hà Nội.

5. Chính phủ (2014), Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 -

2017, Hà Nội.

6. Chính phủ (2014), Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014 của Thủ

tướng Chính phủ ban hành Điều lệ Trường đại học, Hà Nội.

7. Chính phủ (2019), Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định chi tiết

và hướng dẫn thi hành một số điều của luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

luật giáo dục đại học, Hà Nội.

8. Chính phủ (2020), Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập, Hà Nội. 9. Chính phủ (2021), Nghị định số 04/2021/NĐ-CP ngày 22/01/2021 quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, Hà Nội.

10. Cục Quản lý chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo (2020), Văn bản số 1531/QLCL- HCTH gửi Văn phòng Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực về

161

việc chuẩn bị Hội nghị chuyên đề về thực hiện tự chủ đại học, Hà Nội.

11. Nguyễn Văn Dân (2015), Diện mạo và phát triển của xã hội tri thức, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

12. Đỗ Văn Dũng (2020), Tham luận Tự chủ đại học trong thời kỳ hội nhập: Kinh

nghiệm từ trường đại học sư phạm kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh, Phiên

họp Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực tháng 11, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của

Bộ Chính trị về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu

cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của

Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất

lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, Hà Nội.

15. Greenwald Bruce C., Stiglitz Joseph E. (2017), Xây dựng xã hội học tập - Cách

tiếp cận mới cho tăng trưởng, phát triển và tiến bộ xã hội, Nxb Chính trị

Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

16. Nguyễn Thị Thu Hà (2012), Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại

học, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 17. Lương Văn Hải (2012), Vai trò Nhà nước trong mở rộng quyền tự chủ của các

trường đại học công lập Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học

Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

18. Nguyễn Văn Hậu (2015), Kỹ năng quản lý, tổ chức, Nxb Lao động, Hà Nội. 19. Nguyễn Mạnh Hùng, Trần Khánh Đức (đồng chủ biên) (2020), Quản trị nhà

trường thông minh 4.0 và xếp hạng đại học theo mô hình QS, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

20. Nguyễn Mậu Hùng (2019), “Mô hình quản trị và phương thức tự chủ của hệ thống

giáo dục đại học thế giới và khả năng ứng dụng đối với hệ thống giáo dục đại

học Việt Nam trong thời gian tới”, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia về thúc đẩy

quản trị và tự chủ đại học hướng đến thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số

162

điều của Luật Giáo dục đại học 2018, Thừa Thiên - Huế.

21. Phan Huy Hùng (2011), Quản lý nhà nước theo hướng đảm bảo quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm của các trường đại học ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Quản lý

Hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.

22. Jaspers Karl (2016), Ý niệm đại học, Nxb Hồng Đức, Hà Nội. 23. Kerr Clark (2013), Các công dụng của đại học, Nxb Tri thức, Hà Nội. 24. Tôn Thất Nhật Khánh, Nguyễn Hồng Quý (2018), “Giáo dục và đào tạo trong thời

kỳ cách mạng công nghiệp 4.0”, Kỷ yếu Hội thảo giáo dục đại học - chuẩn

hóa và hội nhập quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh.

25. Kiểm toán Nhà nước (2019), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Cơ chế tự chủ đối với các

trường đại học công lập - Vấn đề đặt ra và vai trò của kiểm toán nhà nước,

Hà Nội.

26. Phạm Thị Ly (2012), “Tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình: Quan hệ giữa nhà

nước, nhà trường và xã hội”, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ (tập 15). 27. Phạm Thị Lý (2011), “Xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục đại học”,

Tọa đàm Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công, đẩy mạnh

xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.

28. Phạm Thị Lý (2017), “Hội đồng trường trong vấn đề quản trị đại học ở Việt Nam”,

Tạp chí Khoa học Giáo dục (137).

29. Martin Hayden và cộng sự (2012), “Quy hoạch tổng thể hệ thống giáo dục đại học

Việt Nam”, Dự án Giáo dục đại học 2, Hà Nội.

30. Đinh Tuấn Minh (chủ biên) (2017), Báo cáo nghiên cứu kinh tế: Thị trường hóa

cung ứng các dịch vụ công tại Việt Nam, Nxb Tri thức, Hà Nội.

31. Nguyễn Hội Nghĩa (2020), “Bàn về trách nhiệm giải trình”, Kỷ yếu Hội thảo Giáo

dục 2020 về tự chủ trong giáo dục đại học, từ chính sách đến thực tiễn, Hà Nội. 32. Nguyễn Bá Nhâm, Lê Trung Thành (2020), “Vai trò của Hội đồng trường trong

quản trị đại học ở các cơ sở giáo dục đại học công lập thí điểm thực hiện cơ

chế tự chủ - tự chịu trách nhiệm theo Nghị quyết số 77/NQ-CP của Chính

phủ”, Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục 2020 về tự chủ trong giáo dục đại học, từ

163

chính sách đến thực tiễn, Hà Nội.

33. Phạm Phụ (2004), Về khuôn mặt mới của Giáo dục Đại học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 34. Nguyễn Văn Phúc (2020), “Sự tự chủ bền vững của các trường đại học nhìn từ lý thuyết tổ chức”, Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục 2020 về tự chủ trong giáo dục đại

học, từ chính sách đến thực tiễn, Hà Nội.

35. Quốc hội (2005), Luật Giáo dục, Hà Nội. 36. Quốc hội (2012), Luật Giáo dục đại học, Hà Nội. 37. Quốc hội (2018), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục đại học, Hà Nội. 38. Quốc hội (2019), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, Công chức

và Luật Viên chức, Hà Nội.

39. Rhodes Harold Trevor Frank (2009), Tạo dựng tương lai - Vai trò của các viện đại

học Hoa Kỳ, Nxb Văn hóa Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh.

40. Chu Hồng Thanh (2020), “Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước về giáo dục đại học”, Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục 2020 về tự

chủ trong giáo dục đại học, từ chính sách đến thực tiễn, Hà Nội.

41. Phan Lâm Thao (2016), Tác động của văn hóa tổ chức đến động lực làm việc của công nhân viên - Trường hợp các Trường Đại học tại Thành phố Hồ Chí

Minh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí

Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

42. Lâm Quang Thiệp (2012), “Hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục đại học công

lập ở nước ta”, Báo cáo thường niên giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

43. Lâm Quang Thiệp (2014), “Hệ thống quản trị thích hợp cho giáo dục đại học Việt

Nam”, Hội thảo Cải cách giáo dục đại học VED, Hà Nội.

44. Văn Tất Thu (2013), “Khoa học tổ chức và công tác tổ chức trong cải cách nền

hành chính”, Tạp chí Tổ chức nhà nước (1).

45. Nguyễn Thị Lệ Thúy, Bùi Thị Hồng Việt (chủ biên) (2012), Giáo trình Chính sách

Kinh tế - Xã hội (Chính sách công), Nxb Tài chính, Hà Nội.

46. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đại học và cao đẳng Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học,

164

Thành phố Hồ Chí Minh.

47. Trường Đại học Y Hà Nội (2021), Nghị quyết số 06/NQ-ĐHYHN ban hành Quy chế Tổ chức và hoạt động của Trường Đại học Y Hà Nội, nhiệm kỳ 2020 -

2025, Hà Nội.

48. Nguyễn Trọng Tuấn (2019), Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công lập ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội

Việt Nam, Hà Nội.

49. Phạm Thị Túy (2014), “Thể chế”, Tạp chí Lý luận chính trị (3). 50. Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2019), Phát triển giáo dục nghề nghiệp trong bối

cảnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hội nhập quốc tế, Kỷ yếu Hội thảo

Giáo dục Việt Nam 2019, Hà Nội.

51. Văn phòng Quốc hội (2017), Hoàn thiện chính sách pháp luật về Giáo dục đại học

ở Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.

52. Trần Đức Viên (2020), “Mối quan hệ giữa cơ quan chủ quản và trường đại học”, Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục 2020 về tự chủ trong giáo dục đại học, từ chính

sách đến thực tiễn, Hà Nội.

53. Zakaria Fareed (2017), Biện hộ cho một nền Giáo dục khai phóng, Nxb Hồng Đức,

Hà Nội.

TIẾNG ANH 54. Ahmad Abd Rahman, Farley Alan, Naidoo Moonsamy (2012), “Analysis of Government - University relationship from the perspective of Agency

Theory”, Journal of Education and Practice, 3(6).

55. Bruneau William, Grosjean Garnet, Schuetze Hans G. (2012), University

governance and reform - policy, fads, and experience in international

perspective, Palgrave Macmillan, United Kingdom.

56. Bugaian Larisa, Reilly John E., Turcan Romeo V. (2016), (Re)Discovering

university autonomy - The global market paradox of stakeholder and educational

values in higher education, Palgrave Macmillan, United States of America.

57. Fielden John (2008), Global trends in university governance, The World Bank,

165

The United States of America.

58. Fralinger Barbara, Olson Valerie (2007), “Organizational culture at the university level: A study using the OCAI instrument”, The Journal of College Teaching

and Learning, 4 (11).

59. Iwinska Julia, Matei Liviu (2019), University Autonomy - A practical Handbook,

Central European University Yehuda, Hungary.

60. Neave Guy (2012), The evaluative state, institutional autonomy and re-engineering

higher education in Western Europe - The Prince and his pleasure, Palgrave

Macmillan, United Kingdom.

61. Rectors of 80 European Universities (1988), Magna Charta Universitatum (The

Magna Charta of the European Universities) - Preamble, Fundamental

principles and the Means, Italy.

62. Shattock Michael (2006), Managing good governance in higher education, Open

University Press, McGraw - Hill Education, United Kingdom.

63. Schwab Klaus (2009), The Global Competitiveness Report 2009 - 2010, The World

Economic Report, Switzerland.

64. Su - Yan Pan (2009), University autonomy, the State, and social change in China,

Hong Kong University Press, Hong Kong.

65. The National Committee of Inquiry into Higher Education (1997), Dearing Report,

United Kingdom.

TÀI LIỆU TỪ INTERNET 66. Lê Hải An, Để đại học tự chủ toàn diện: Không còn khái niệm „cơ quan chủ quản‟, Báo Tuổi trẻ, https://tuoitre.vn/de-dai-hoc-tu-chu-toan-dien-khong-con-khai-

niem-co-quan-chu-quan-20190616222815299.htm, đăng ngày 17. 6.2019.

67. Đoàn Mạnh Cương, Đổi mới quản lý giáo dục Việt Nam trong nền kinh tế thị

trường, Trang thông tin điện tử Vụ Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch, http://daotao-vhttdl.vn/articledetail.aspx?articleid=453&sitepage

id=627, đăng ngày 18.01.2017.

68. Tạ Ngọc Hải, Khái niệm, phân loại và các đặc trưng cơ bản của tổ chức từ giác độ khoa học tổ chức nhà nước, Trang thông tin điện tử Viện Khoa học Tổ

166

chức Nhà nước, http://isos.gov.vn/danhmuc/Khai-niem-phan-loai-va-cac-dac-

trung-co-ban-cua-to-chuc-tu-giac-do-khoa-hoc-to-chuc-nha-nuoc-41866html,

đăng 06.02.2014.

69. Lê Văn Hòa, Quản lý theo kết quả trong khu vực công, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208562, đăng

ngày 01.4.2016.

70. Lê Ngọc Hùng, Đổi mới quản trị đại học ở Việt Nam: lý thuyết hệ thống và kiến

tạo mô hình hiện đại, chuyên nghiệp, Tạp chí Lý luận chính trị,

http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-bat/item/2880-doi-moi-quan-

tri-dai-hoc-o-viet-nam-ly-thuyet-he-thong-va-kien-tao-mo-hinh-hien-dai-

chuyen, đăng ngày 24.7.2019.

71. Đỗ Thị Bích Loan, Ðổi mới nhà trường bắt đầu từ mô hình quản lý, Báo Nhân dân tuần Online, https://nhandan.com.vn/doi-song-xa-hoi/oi-moi-nha- cuối

truong-bat-dau-tu-mo-hinh-quan-ly-579999, đăng ngày 07.3.2020. 72. Lâm Quang Thiệp, Tự chủ, tự do học thuật và trách nhiệm giải trình của đại học ở Việt Nam, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, https://giaoduc.net. vn/giao-

duc-24h/tu-chu-tu-do-hoc-thuat-va-trach-nhiem-giai-trinh-cua-dai-hoc-o-

viet-nam-post166437.gd, đăng ngày 18.3.2016.

73. Hoàng Thị Cẩm Thương, Đinh Văn Toàn, Tự chủ đại học trong giai đoạn chuyển

đổi mô hình trường đại học: Kinh nghiệm của một số đại học trên thế giới và

hàm ý cho Việt Nam, Tạp chí Công Thương, http://tapchicong thuong.vn/bai-

viet/tu-chu-dai-hoc-trong-giai-doan-chuyen-doi-mo-hinh-truong-dai-hoc-

kinh-nghiem-cua-mot-so-dai-hoc-tren-the-gioi-va-ham-y-cho-viet-nam-

72507.htm, đăng ngày 14.6.2020.

74. Trần Quốc Toản, Một số vấn đề về cơ chế tự chủ của các trường đại học, Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương, http://hdll.vn/vi/ nghien-cuu-

--trao-doi/mot-so-van-de-ve-co-che-tu-chu-cua-cac-truong-dai-hoc.html,

đăng ngày 13.12.2018.

75. Trần Đức Viên, Nhận thức về tự chủ đại học: Tự chủ khác với tự lo, Tạp chí Tia sáng, https://tiasang.com.vn/-doi-moi-sang-tao/Nhan-thuc-ve-tu-chu-dai-hoc-

167

Tu-chu-khac-voi-tu-lo-10830, đăng ngày 26.7.2017.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Quy chế làm việc của Hội đồng trường, Trường Đại học Luật Hà Nội

Phụ lục 2. Quy định về mối quan hệ giữa Đảng ủy, Hội đồng trường và Hiệu trưởng

Trường Đại học Luật Hà Nội

Phụ lục 3. Trích “Quy chế Tổ chức và hoạt động của Trường Đại học Y Hà Nội”

(Chương III. Điều 15 - 32. Hội đồng trường, Hiệu trưởng)

Phụ lục 4. Báo cáo chuyên đề: “Thực hiện tự chủ đại học theo Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của Luật Giáo dục đại học (Tài liệu phiên họp Hội đồng Quốc

gia Giáo dục và Phát triển nhân lực, tháng 11/2020).

Phụ lục 5. Một số bản phỏng vấn sâu liên quan đến nội dung thực hiện tự chủ về tổ

chức của Trường đại học công lập (thực hiện tại Trường Đại Luật Hà

Nội, Trường Đại học Lao động - Xã hội, Học viện Tòa án, Trường Đại

học Nội vụ)

Phụ lục 6. Công văn số 110/BNV-CCVC ngày 08/01/2021 của Bộ Nội vụ gửi Bộ

Giáo dục và Đào tạo về việc xác định người đứng đầu cơ sở giáo dục đại

học công lập

Phụ lục 7. Kế hoạch số 61/KH-BYT ngày 20/01/2021 của Bộ Y tế về việc triển khai

thực hiện Nghị định 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của Chính phủ

168

quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập

Phụ lục 1

169

Quy chế làm việc của Hội đồng trƣờng Trƣờng Đại học Luật Hà Nội

170

171

172

173

174

175

176

Phụ lục 2

Quy định về mối quan hệ giữa Đảng ủy, Hội đồng trƣờng

177

và Hiệu trƣởng Trƣờng Đại học Luật Hà Nội

178

179

180

181

Phụ lục 3

Trích “Quy chế Tổ chức và hoạt động của Trƣờng Đại học Y Hà Nội”

182

Chƣơng III. Điều 15 - 32. Hội đồng trƣờng, Hiệu trƣởng

183

184

185

186

187

188

189

190

191

192

193

194

195

196

197

198

199

200

201

202

203

204

205

206

207

208

209

210

Phụ lục 4 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ

THỰC HIỆN TỰ CHỦ ĐẠI HỌC THEO LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG

MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

(Tài liệu phiên họp Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực, tháng 11/2020)

I. Tự chủ đại học là xu hƣớng tất yếu của thế giới

Tự chủ đại học đã trải qua nhiều thế kỷ, gắn chặt với lịch sử ra đời và phát

triển của các trường đại học trên thế giới khi mối quan hệ giữa nhà nước và các trường

đại học có sự thay đổi, và được phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội,

văn hóa, giáo dục, và sự phát triển của thể chế nhà nước. Nếu như trong giai đoạn ban

đầu ra đời các trường đại học ở phương Tây, các trường đại học được coi như những

“Tháp ngà tri thức”, “Ngôi đề tri thức”, “Thánh đường tri thức” với chức năng chủ yếu

là sản sinh ra tri thức; hầu như có rất ít quan hệ trực tiếp đối với hoạt động của nhà

nước và sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi đó tính độc lập và tự chủ của các trường đại

học có thể được coi là rất cao. Khi trình độ phát triển kinh tế - xã hội được nâng cao lên

nhiều hơn, chức năng của giáo dục, nhất là GDĐH có sự thay đổi và phát triển về bản

chất: GDĐH không chỉ với chức năng sản xuất tri thức, nó đã thoát ra khỏi tháp ngà tri

thức để trở thành một ngành - lĩnh vực sản xuất dịch vụ, đào tạo nhân lực, cung cấp

công nghệ - kỹ thuật tiên tiến, cung cấp “đầu vào” cho mọi lĩnh vực và hoạt động chính

trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quản lý nhà nước…GDĐH đã liên quan và tác động hai

chiều trực tiếp đến hoạt động và phát triển của tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Những xu thế phát triển khách quan này đã và đang đưa đến quá trình “điều chỉnh” và

phát triển cơ chế tự chủ đại học theo hướng: Mô hình tự chủ hoàn toàn tiếp thu những

yếu tố phù hợp và hiệu quả của sự quản lý nhà nước, gia tăng hơn sự can thiệp của nhà

nước; ngược lại mô hình nhà nước quản lý tuyệt đối giảm dần sự can thiệp trực tiếp của

nhà nước, tiếp thu những yếu tố phù hợp để trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các

211

trường đại học. Cả hai xu hướng đó đưa đến hình thành mô hình tự chủ đại học hợp lý

và hiệu quả hơn, trong đó nhà nước chủ yếu đóng vai trò quản lý “giám sát - hướng

dẫn” (State - Supervising model). Chính điều này đã đặt ra những nhận thức và yêu cầu

mới về bản chất và nội dung khách quan của cơ chế tự chủ đại học. Đương nhiên việc

áp dụng cụ thể ở mỗi nước sẽ phụ thuộc vào điều kiện, trình độ phát triển và truyền

thống của mỗi nước.

Thế giới hiện nay đã nhìn nhận mô hình đại học tự chủ là phương thức quản trị

đại học tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo và là xu thế tất yếu của

xã hội phát triển.

Đối với Việt Nam, vấn đề tự chủ trong GDĐH trong thời gian vừa qua đã có

nhiều chuyển biến tích cực. Từ chỗ toàn thể hệ thống giáo dục đại học Việt Nam như

một trường đại học lớn, chịu sự quản lý nhà nước chặt chẽ về mọi mặt thông qua Bộ

GDĐT, các trường đại học đã dần được trao quyền tự chủ, thể hiện qua các văn bản

pháp quy của Nhà nước. Sự chuyển biến này không chỉ đến từ những đòi hỏi khách

quan và xu thế biến đổi của môi trường, của nền giáo dục thế giới mà còn được thúc

đẩy bởi các quy định trong nhiều văn bản, chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ

và Bộ GDĐT nhằm thúc đẩy và khẳng định quyền tự chủ của các trường như Nghị

quyết số 14/2005/NQ-CP (2005), Nghị quyết số 05-NQ/BCSĐ ngày 06/01/2010, Luật

Giáo dục (2005), Luật GDĐH (2012), Điều lệ trường đại học (2003), Nghị định số

130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử

dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước; Nghị định số

43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực

hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập,

Thông tư liên tịch của Bộ GDĐT và Bộ Nội vụ số 07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV

(2009), Chỉ thị số 296/CT-TTg (2010) và nhiều chính sách, văn bản hướng dẫn khác

cũng được các bộ, ngành ban hành. Trong đó, đặc biệt là Nghị quyết số 29-NQ/TW về

đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày

14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.

Trong đó, các trường được thực hiện quyền tự chủ ở mức độ cao phù hợp với năng lực,

212

kết quả xếp hạng và kiểm định chất lượng giáo dục trong các mặt hoạt động quan trọng

thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự; tài chính và tài sản; đào tạo, khoa học và công

nghệ; hợp tác quốc tế; bảo đảm chất lượng GDĐH.

1. Kết quả triển khai tự chủ đại học thực hiện Nghị quyết 77/NQ-CP ở

Việt Nam

Để cụ thể hóa các nội dung về quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường

đại học trong khung khổ pháp lý được quy định, đồng thời để thúc đẩy hoạt động tự

chủ đại học tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày

24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở GDĐH công lập

giai đoạn 2014-2017 (Nghị quyết 77).

Việc triển khai thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các trường

đại học công lập khuyến khích huy động và đa dạng hóa nguồn thu, sử dụng hợp lý,

hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng đào tạo đại học và giảm gánh nặng cho

Ngân sách nhà nước đồng thời không làm giảm cơ hội tiếp cận giáo dục đại học của

sinh viên nghèo, sinh viên là đối tượng chính sách. Đồng thời tạo động lực cho các

trường đại học cạnh tranh, khẳng định thương hiệu thông qua chất lượng đào tạo,

nghiên cứu khoa học.

Thực hiện Nghị quyết 77 từ tháng 10/2014 đến tháng 9/2017, Thủ tướng Chính

phủ đã ký quyết định phê duyệt Đề án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị

quyết 77 cho 23 học viện, trường đại học (sau đây gọi là trường) công lập trực thuộc

các Bộ, ngành Trung ương (trong đó có 4 trường vừa mới được giao quyết định tự chủ

từ tháng 7/2017).

1.1. Kết quả đạt được

Nghị quyết 77 đã tạo điều kiện các trường công lập khi cam kết tự đảm bảo

toàn bộ kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi đầu tư thì được thực hiện tự chủ về

tất cả các phương diện: đào tạo và nghiên cứu khoa học; tổ chức bộ máy và nhân sự; tài

chính; chính sách học bổng, học phí đối với sinh viên đối tượng chính sách; đầu tư,

mua sắm.

Thực tế cho thấy việc thực hiện tự chủ tại các trường bước đầu đã đạt được

213

một số kết quả đáng khích lệ, giúp giảm bớt các thủ tục hành chính, tăng tính chủ động,

linh hoạt trong tổ chức thực hiện các hoạt động của nhà trường. Mô hình thí điểm tự

chủ bước đầu được đánh giá tích cực, các trường đã có những thành tựu nhất định và

được xã hội công nhận, cụ thể:

* Đối với nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học: thực hiện thí điểm cơ chế

tự chủ cho phép nhà trường chủ động mở ngành và chương trình đào tạo theo nhu cầu

xã hội và trường có khả năng đào tạo tốt nhất; chủ động dừng và loại các ngành đào tạo

không phù hợp với nhu cầu người học/thị trường lao động; Xác định chỉ tiêu tuyển sinh

và tổ chức tuyển sinh theo đề án của Trường phù hợp với yêu cầu, lộ trình của Bộ

GDĐT; Quyết định chương trình đào tạo, bảo đảm chuẩn đầu ra Trường đã cam kết;

Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục và cam kết chuẩn chất lượng đầu ra theo quy

định; Quyết định liên kết đào tạo và nghiên cứu khoa học với các cơ sở đào tạo trong

- Giảm bớt thủ tục hành chính, thời gian mở ngành được rút ngắn hơn đã giúp

và ngoài nước. Nhờ đó:

các trường chủ động trong đào tạo, tận dụng cơ hội mở các ngành đào tạo mới đáp ứng

- Các trường tự chủ đã nhanh chóng thích ứng, thay đổi định hướng đào tạo ở

kịp thời nhu cầu nguồn nhân lực.

các hệ khác nhau, theo đó quy mô đào tạo chính quy đại trà giảm nhẹ, quy mô đào tạo

- Số đề tài khoa học công nghệ được phê duyệt tăng lên, trong đó phải kể đến

chương trình tiên tiến, chất lượng cao tăng nhanh.

là các đề tài cấp trường (từ 426 đề tài của năm 2013 đến 623 đề tài năm 2017), các bài

báo được đăng trên tạp chí trong nước và tạp chí chuyên môn nước ngoài (năm 2013

mới có 2.254 bài báo đăng ở tạp chí trong nước, 574 bài báo đăng ở tạp chí nước ngoài

nhưng đến năm 2017 đã có 2.836 bài báo đăng ở tạp chí trong nước, 1.437 bài báo

đăng ở tạp chí nước ngoài, với tỷ lệ tăng 151,1%). Sự gia tăng này thể hiện sự định

hướng rõ ràng về nghiên cứu khoa học cũng như tính chủ động của nhà trường trong

việc phân bổ và sử dụng ngân sách của trường cho nghiên cứu khoa học.

* Đối với công tác tổ chức bộ máy, nhân sự: Các trường được quyết định thành

lập mới, sáp nhập, chia, tách, giải thể; quy định chức năng, nhiệm vụ, quy chế hoạt

214

động của các tổ chức trực thuộc; Quyết định cơ cấu và số lượng người làm việc; tuyển

dụng viên chức, nhân viên hợp đồng sau khi được HĐT thông qua; ký kết hợp đồng

làm việc và hợp đồng lao động, quản lý, sử dụng và chấm dứt hợp đồng theo quy định

của pháp luật; Giao kết hợp đồng lao động với giảng viên, nhà khoa học là người nước

- Tỷ lệ các trường đại học tự chủ có HĐT cao gần gấp đôi so với tỷ lệ chung

ngoài để bảo đảm nhu cầu giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Nhờ đó:

- Các trường cũng đã chủ động tái cấu trúc lại bộ máy (thành lập mới, sáp

của toàn hệ thống các trường đại học.

nhập, chia, tách, giải thể, nâng cấp các đơn vị trong trường và tự quyết định chức năng,

nhiệm vụ, quy chế hoạt động của đơn vị trực thuộc), nâng cao chất lượng nhân sự (đặc

- Số lượng cán bộ/giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư và học vị từ thạc sĩ trở lên tại các trường đã tự chủ tăng lên đáng kể (từ 4.833 giáo viên có trình độ

biệt là chất lượng đội ngũ giảng viên).

từ thạc sĩ trở lên ở năm 2013 tăng lên đến 7.045 tính đến tháng 6 năm 2017, nghĩa là

tăng 159,11% trong gần 4 năm thực hiện tự chủ).

* Đối với tình hình tài chính: Các trường chủ động trong công tác xây dựng kế

hoạch tài chính và dự toán ngân sách ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; xây dựng quy chế

thu chi nội bộ của trường; quy chế quản lý, sử dụng tài sản công đảm bảo sử dụng tiết

kiệm, hiệu quả các nguồn kinh phí; Quyết định mức học phí bình quân (của chương

trình đại trà) tối đa bằng mức trần học phí do Nhà nước quy định tại Nghị định số

86/2015/NĐ-CP cộng với khoản chi thường xuyên ngân sách nhà nước cấp bình quân

cho mỗi sinh viên công lập trong cả nước; Quyết định mức học phí cụ thể (cao hoặc thấp

hơn mức học phí bình quân) đối với từng ngành, nghề, chương trình đào tạo theo nhu cầu

người học và chất lượng đào tạo, bảo đảm mức học phí bình quân trong nhà trường không

vượt quá giới hạn mức học phí bình quân tối đa nêu trên; thực hiện công khai mức học phí

cho người học trước khi tuyển sinh. Trên thực tế, các trường thu học phí đại trà bình

- Tổng của 10 trường thực hiện tự chủ trong 2 năm (gồm có: Học viện Nông nghiệp, Trường Đại học Hà Nội, Trường Đại học Tài chính - Marketing, Trường Đại học

quân trong khoảng 7-8tr/năm, còn trường tự chủ đc phép thu 15-17tr/năm. Nhờ đó:

215

Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh,

Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Tôn Đức Thắng, Trường

Đại học Kinh tế Quốc dân, Trường Đại học Công nghiệp thực phẩm Thành phố Hồ Chí

Minh và Trường Đại học Điện lực 1)đã được tổng kết, cho thấy các kết quả bước đầu như

sau: giai đoạn thí điểm tự chủ năm 2015-2016 là 7.765 tỷ đồng (không tính đầu tư xây

dựng cơ bản) so với giai đoạn trước khi tự chủ năm 2013-2014 là 6.660 tỷ đồng, tăng

16,6%, trong đó: (i) thu từ ngân sách nhà nước cấp giảm 16,51%; (ii) thu hoạt động sự

nghiệp từ thu học phí, lệ phí, thu sự nghiệp khác tăng 23,47%5; (iii) thu hoạt động sản

xuất kinh doanh dịch vụ (liên kết đào tạo với nước ngoài, đào tạo ngắn hạn, các hoạt

động tư vấn, nghiên cứu khoa học, dịch vụ hỗ trợ đào tạo và dịch vụ khác) giảm 0,17%.

9,000

8,000

7,000

6,000

5,000

6198

5020

4,000

3,000

2,000

1,000

1210

430

1208 359

-

Trước tự chủ (2013-2014)

Sau tự chủ (2015-2016)

Đơn vị: tỷ đồng

Hình 1. So sánh tổng thu của các trƣờng trƣớc và sau khi tự chủ

- Mức trích lập quỹ do các trường quyết định và được quy định cụ thể tại quy

Nguồn: Vụ KHTC tổng hợp từ báo cáo của các trường, 2017.

chế chi tiêu nội bộ của đơn vị, những vẫn đảm bảo trích tối thiểu 25% chênh lệch thu

chi cho Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp theo quy định.

Theo số liệu báo cáo của Bộ GDĐT năm 2017: Đối với 10 trường thực hiện tự

chủ trên 02 năm, Quỹ phát triển sự nghiệp đã tăng từ 568 tỷ đồng trước tự chủ lên 977

tỷ đồng trong năm 2015-2016, hơn gần 400 tỷ đồng so với mức tối thiểu qui định

216

(Chênh lệch thu chi năm 2015-2016 là 2,333 tỷ đồng).

Quỹ hỗ trợ sinh viên tăng hơn 10 lần, từ 18 tỷ đồng trước tự chủ lên 186 tỷ

đồng năm 2015-2016 trong đó chủ yếu đến từ khoản lãi gửi ngân hàng (133 tỷ). Nhờ có

cơ chế học phí mới, các trường có cơ hội và thuận lợi hơn trong thực hiện chính sách

học bổng, học phí (gia tăng học bổng, số xuất và số người được học bổng) đối với đối

tượng chính sách. Chính sách này góp phần đáng kể vào cung cấp học bổng và các điều

kiện hỗ trợ khác (miễn giảm học phí, hỗ trợ chỗ ở trong kí túc xá …) cho sinh viên khá

giỏi có hoàn cảnh khó khăn và đảm bảo không làm giảm cơ hội tiếp cận giáo dục đại

học của các sinh viên là đối tượng chính sách. Một số trường tiêu biểu như trường Đại

học Mở Thành phố Hồ Chí Minh đã bù toàn bộ chênh lệch học phí đối với đối tượng

chính sách và sinh viên nghèo đồng thời năm học 2015-2016 đã cấp 2.020 suất học

bổng cho sinh viên, trong đó khóa mới tuyển là 520 suất, nhà trường đã trích lập Quỹ

học bổng cho sinh viên trong năm học 2015- 2016 khoảng 12 tỷ đồng; trường Đại học

Tài chính - Marketing, trong năm học 2015- 2016 đã trích lập quỹ hỗ trợ sinh viên 3 tỷ

Trước tự chủ

Sau tự chủ

Tốc độ tăng (%)

1150%

1100

đồng và Quỹ học bổng khuyến khích học tập là 9 tỷ đồng.

927%

950%

900

750%

700

550%

500

350%

300

231%

100

150%

72%

Quỹ khen thưởng

-17% Quỹ phúc lợi

-100

-50%

-14% Quỹ ổn định thu nhập Quỹ phát triển sự nghiệp

Quỹ hỗ trợ sinh viên

Trích lập các Quỹ

Hình 2. Trích lập quỹ của các trƣờng trƣớc và sau tự chủ

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của các trường, 2017

Quỹ phúc lợi và quỹ ổn định thu nhập đều có xu hướng giảm xuống, tỷ lệ giảm

217

tương ứng là -17% và -14%. Một số trường giảm nhiều nhất như trường Đại học Mở

Thành phố Hồ Chí Minh giảm 25,5 tỷ đồng và trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ

- Tự chủ trong đầu tư mua sắm: Hoạt động đầu tư, mua sắm là một hoạt động

Chí Minh giảm 21,8 tỷ đồng trong quỹ ổn định thu nhập kể từ sau tự chủ.

quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nhà trường. Việc tự chủ khiến trường có

thể chủ động hơn trong việc huy động, sử dụng kinh phí từ quỹ trường để thực hiện các

chương trình, dự án đầu tư mua sắm; sử dụng tài sản, giá trị thương hiệu, cơ sở vật chất

- Thay đổi tích cực về chính sách học bổng và học phí đối với đối tượng chính sách: Về cơ bản, tự chủ, đặc biệt là tự chủ tài chính dẫn đến việc cắt giảm kinh phí đầu

của các trường để cho thuê, liên doanh, liên kết.

tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động của các cơ sở GDĐH. Nhiều trường trong

những năm đầu tự chủ thường gặp nhiều khó khăn về tài chính. Tuy nhiên, các trường

đại học tự chủ trên 2 năm vẫn đã và đang thực hiện đúng theo quy định của Luật Giáo

dục đại học với rất nhiều chế độ chính sách, học bổng và giảm học phí cho các đối

tượng chính sách. Đa phần các trường vẫn trích theo tỷ lệ 8% nguồn thu học phí đại

học chính quy để đầu tư lại cho sinh viên qua các chính sách học bổng, giảm học phí.

Các trường đều thực hiện hỗ trợ toàn bộ phần chênh lệch giữa mức học phí với mức

học phí được miễn, giảm theo quy định của Nhà nước đối với các sinh viên thuộc đối

tượng chính sách, hộ nghèo. Các trường cũng xây dựng và thực hiện chính sách học

bổng, khuyến khích học tập dành cho sinh viên học tập và nghiên cứu khoa học xuất

sắc, sinh viên nghèo hiếu học. Ngoài ra, hầu hết các trường đều dành phần lãi tiền gửi

ngân hàng làm quỹ học bổng cho sinh viên, nhằm giảm thiểu gánh nặng tài chính cho

sinh viên nghèo. Đồng thời, với cơ chế tự chủ, các trường có cơ hội kêu gọi tài trợ học

bổng từ các tập đoàn kinh tế lớn để hợp tác đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp.

03 khoản được tính trích lập vào quỹ khuyến khích sinh viên bao gồm (i) Quỹ

học bổng khuyến khích học tập theo mức 8% trên tổng thu học phí chính quy; (ii) Quỹ

hỗ trợ sinh viên từ chênh lệch thu chi và (iii) Lãi tiền gửi ngân hàng. Tổng trích lập quỹ

cho sinh viên năm 2016-2017 của 12 trường tự chủ trên 2 năm tháng lên tới 112 tỷ đồng.

1.2. Khó khăn, vướng mắc

Bên cạnh những kết quả đạt được đã nêu ở trên, việc triển khai thực hiện Nghị

218

quyết 77 cũng còn nhiều khó khăn và vướng mắc nhất định:

- Về thực hiện nhiệm vụ đào tạo: Một số trường chưa đảm bảo tiêu chí về cơ

sở vật chất như diện tích sàn xây dựng và tiêu chí sinh viên/giảng viên theo quy định

hoặc xác định chỉ tiêu hoặc tuyển sinh vượt chỉ tiêu; Số lượng các chương trình/ngành

đào tạo được mở mới trong vòng 2 năm qua khá lớn trong bối cảnh số lượng giảng viên

- Về công tác tổ chức bộ máy, nhân sự: Một số trường còn chưa hoàn thiện cơ

và cơ sở vật chất chưa cải thiện với tốc độ tương ứng,..

cấu tổ chức của nhà trường theo quy định, 4/12 trường tự chủ trên 12 tháng chưa thành

lập HĐT, chưa ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của HĐT, hình thức hoạt động

của HĐT chủ yếu bằng các cuộc họp, vai trò giám sát của HĐT khá mờ nhạt. Các

trường có xu hướng né tránh va chạm, chưa thực sự quyết liệt cải thiện bộ máy tổ chức

- Về tự chủ tài chính, tài sản:

theo hướng tinh giản, gọn nhẹ.

+ Tự chủ về tài chính đóng vai trò nền tảng để thực hiện hiệu quả và bền vững

các nội dung tự chủ khác. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều trường đại học chưa sẵn sàng

để tự chủ tài chính. Hiện nay cả nước mới chỉ có 23 cơ sở giáo dục đại học công lập

được Thủ tướng Chính phủ cho thí điểm tự chủ. Phần lớn các trường còn lại đang

chuẩn bị hoặc chưa chuẩn bị thực hiện tự chủ theo lộ trình của Chính phủ đã quy định.

Do ảnh hưởng bởi cơ chế cấp phát ngân sách theo kiểu “bình quân chủ nghĩa” nên

nhiều trường còn có tư tưởng trông chờ vào “bầu sữa ngân sách” của nhà nước. Vì vậy,

dẫn đến sự thụ động, thiếu linh hoạt và ít dám chịu trách nhiệm của các nhà quản lý

trong quản lý nhà trường nói chung và quản lý tài chính nói riêng.

+ Cơ cấu nguồn thu thiếu bền vững: Nguồn thu của các trường tự chủ đại học

hiện nay đa phần (trên 80%) nhờ vào tăng học phí và tăng quy mô đào tạo, các khoản

thu từ nghiên cứu khoa học, dịch vụ hay chuyển giao công nghệ, tư vấn doanh nghiệp

còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Mức tăng học phí phải tính toán tăng ở mức hợp lý để bảo đảm

tính cạnh tranh giữa các trường; đồng thời việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh cũng phải

đáp ứng điều kiện quy định của Bộ GDĐT nên nguồn thu từ học phí về lâu dài sẽ

không bền vững khi việc tuyển sinh gặp khó khăn.

+ Nghị quyết số 77/NQ-CP là quyết định thí điểm cho các trường được tự chủ

219

toàn diện, nhưng hiện cơ chế tự chủ của các trường vẫn đang gặp trở ngại về luật pháp

(Luật viên chức, Luật Đầu tư công, chi tiêu công, quản lý tài sản công…). Các trường

không thể làm khác các quy định về tuyển dụng, bổ nhiệm chuyên gia lớn tuổi, chuyên

gia nước ngoài làm quản lý chuyên môn trái với Luật công chức, viên chức; không thể

tự quyết định chi tiêu, đầu tư mua sắm khác với quy định của Luật Đầu tư công, Luật

- Việc thực hiện tự chủ của các trường chưa gắn với trách nhiệm giải trình (do

quản lý tài sản công…Đây là những vấn đề mâu thuẫn.

Nghị quyết 77 và các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tự chủ

không quy định rõ trách nhiệm giải trình, công khai minh bạch thông tin, cơ chế giám

sát việc triển khai các quyền tự chủ). Vì vậy, khi các trường mở ngành, xác định và

thực hiện chỉ tiêu, liên kết đào tạo trong và ngoài nước, tuyển dụng đội ngũ giảng viên

ngoài độ tuổi lao động … chưa báo cáo đầy đủ, kịp thời tới cơ quan chủ quản và cơ

quan quản lý ngành; một số trường chưa thành lập HĐT.

1.3. Nguyên nhân của các khó khăn, vướng mắc - Về cơ chế, chính sách

+ Giai đoạn triển khai thí điểm theo Nghị quyết 77 ngắn; thiếu hướng dẫn cụ

thể về thực hiện quyền tự chủ, phạm vi quyền của các trường trong thực hiện quyền tự

chủ và tự chịu trách nhiệm.

+ Chưa có sự thống nhất giữa các quyết định cho phép thực hiện cơ chế tự chủ

cho các trường.

+ Nhiều qui định, văn bản pháp lý chưa thay đổi kịp để hỗ trợ các trường tự chủ.

- Về tổ chức quản trị: Chưa có văn bản hướng dẫn về tự chủ đối với các cơ sở

GDĐH công lập khi không có cơ quan chủ quản. Thiếu quy định đầy đủ và rõ ràng về

mối quan hệ giữa Đảng ủy và HĐT.

Tự chủ đại học là xu hướng tất yếu của nền giáo dục hiện đại, là phương thức

quản trị tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đại học. Mặc dù còn một số hạn

chế, vướng mắc nhưng rõ ràng chủ trương thí điểm tự chủ theo Nghị quyết 77/NQ-CP

đã đạt được nhiều kết quả tích cực và được toàn xã hội ủng hộ. Trên cơ sở kết quả tổng

kết thí điểm thực hiện tự chủ nhằm giải quyết những tồn tại trong thực hiện thí điểm tự

220

chủ như trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH, cam kết về đảm bảo chất lượng đào

tạo, Bộ GDĐT đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật số

34/2018/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật GDĐH

sửa đổi); tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày

30/12/2019 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật GDĐH (Nghị định 99), trong đó quy định rõ về tự chủ trong

các hoạt động chuyên môn, tổ chức và nhân sự, tài chính tài sản… và đang được áp

dụng triển khai thực hiện trong toàn hệ thống giáo dục đại học.

2. Triển khai thực hiện tự chủ sau khi ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một

số điều của Luật GDĐH năm 2018

2.1. Quy định về tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH

Luật sửa đổi số 34/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH năm

2018 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy thực hiện tự chủ đại học, sử dụng hiệu quả

các nguồn lực để nâng cao chất lượng GDĐH, thực hiện hội nhập quốc tế và đáp ứng

tốt hơn nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, chất lượng cao cho nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Để triển khai thực hiện Luật, ngày 30/12/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị

định số 99/2019/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH, bao gồm 20 điều quy định các nội dung

mà Luật đã giao Chính phủ hướng dẫn.

Nghị định đã quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành những nội dung chính

căn bản, trong đã mở rộng phạm vi và nâng cao hiệu quả của tự chủ đại học, gắn chặt

giữa quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình, cụ thể:

a) Về quyền tự chủ: - Quyền tự chủ về hoạt động chuyên môn

Cơ sở GDĐH được quyền ban hành và tổ chức thực hiện các quy định nội bộ

về hoạt động tuyển sinh, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác trong nước và quốc

tế phù hợp quy định của pháp luật; xác định, công bố công khai phương thức, chỉ tiêu

tuyển sinh theo quy định của Bộ GDĐT; quyết định phương thức tổ chức và quản lý

221

đào tạo đối với các trình độ, hình thức đào tạo; xây dựng, thẩm định, ban hành chương

trình đào tạo phù hợp với quy định về Khung trình độ quốc gia Việt Nam, về chuẩn

chương trình đào tạo; thiết kế mẫu, in phôi, cấp phát, quản lý văn bằng, chứng chỉ phù

hợp với quy định của pháp luật; quyết định đào tạo từ xa, liên kết đào tạo trình độ đại

học theo hình thức vừa làm vừa học với cơ sở giáo dục trong nước đủ điều kiện theo

quy định của pháp luật; quyết định hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định tại

Điều 16 Nghị định này; quyết định các hoạt động hợp tác quốc tế quy định tại các

khoản 3, 5 và 6 Điều 44 của Luật GDĐH, phù hợp với quy định của pháp luật.

Về mở ngành đào tạo và liên kết đào tạo với nước ngoài: các TĐH đủ điều kiện

thực hiện quyền tự chủ thì được tự chủ mở ngành, liên kết đào tạo trình độ đại học; khi

đạt chuẩn kiểm định chất lượng chương trình đào tạo trình độ đại học thì được tự chủ

mở ngành đào tạo trình độ thạc sĩ ngành phù hợp; khi đạt chuẩn kiểm định chất lượng

chương trình đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ thì được tự chủ mở ngành đào tạo trình độ

tiến sĩ ngành phù hợp (trừ các ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe, đào tạo giáo viên, quốc

phòng, an ninh).

Các đại học được tự chủ ra quyết định mở ngành, liên kết đào tạo với nước

ngoài cho trường đại học thành viên và đơn vị đào tạo thuộc đại học khi đáp ứng điều

kiện quy định. Các trường đại học thành viên của đại học được tự chủ ra quyết định mở

ngành, liên kết đào tạo với nước ngoài khi đáp ứng điều kiện theo quy định và phù hợp

với quy chế tổ chức và hoạt động của đại học.

- Quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự:

Cơ sở GDĐH công lập thực hiện quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự

theo quy định của Luật GDĐH (đã sửa đổi bổ sung) và các quy định hiện hành về

thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập; về số lượng người làm việc

và vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập; có quyền tự chủ về tổ chức, bộ máy

và nhân sự để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhưng không được làm tăng số lượng

người làm việc hưởng lương, mức lương (bao gồm cả lương và phụ cấp) từ quỹ lương

do ngân sách nhà nước cấp.

Cơ sở GDĐH tư thục, cơ sở GDĐH tư thục hoạt động không vì lợi nhuận thực

222

hiện quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự theo quy định của Luật GDĐH (đã

sửa đổi bổ sung); có trách nhiệm công bố công khai về cơ cấu tổ chức, người đại diện

theo pháp luật trên trang thông tin điện tử của nhà trường;

Các cơ sở GDĐH phải ban hành, tổ chức thực hiện quy định nội bộ về tổ chức

bộ máy và nhân sự; thực hiện các quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự khác

theo quy định của Luật GDĐH (đã sửa đổi bổ sung) và pháp luật có liên quan. Việc

thành lập phân hiệu của cơ sở GDĐH, thành lập doanh nghiệp trực thuộc cơ sở GDĐH

- Quyền tự chủ về tài chính và tài sản:

thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành.

Cơ sở GDĐH công lập thực hiện quyền tự chủ về tài chính và tài sản theo quy

định của Luật GDĐH (đã sửa đổi bổ sung) và các quy định hiện hành về cơ chế tự chủ

của đơn vị sự nghiệp công lập. Cơ sở GDĐH tư thục, cơ sở GDĐH tư thục hoạt động

không vì lợi nhuận thực hiện quyền tự chủ về tài chính và tài sản theo quy định của

Luật GDĐH (đã sửa đổi bổ sung) và các quy định của pháp luật khác có liên quan;

được Nhà nước hỗ trợ phát triển phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước và các

quy định về đầu tư phát triển GDĐH. Các cơ sở GDĐH phải ban hành, tổ chức thực

hiện quy định nội bộ về tài chính và tài sản, thực hiện các quyền tự chủ về tài chính và

tài sản khác theo quy định của Luật GDĐH, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

- Đối với các trường ĐH đang thí điểm tự chủ theo Nghị quyết 77 của CP

GDĐH và pháp luật khác có liên quan.

Các cơ sở GDĐH công lập đang thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động

theo Nghị quyết số 77/NQ-CP thực hiện quyền tự chủ về hoạt động chuyên môn theo

các quy định chung.

Về quyền tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự, tài chính và tài sản thực hiện

theo các quy định của Luật GDĐH (đã sửa đổi bổ sung) và Nghị định này. Những nội

dung thí điểm khác đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong đề án thì được thực

hiện cho đến khi Chính phủ ban hành Nghị định mới về thành lập, tổ chức lại, giải thể

đơn vị sự nghiệp công lập, về số lượng người làm việc và vị trí việc làm trong đơn vị

223

sự nghiệp công lập; về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.

b) Trách nhiệm giải trình

Nghị định đã quy định cơ sở GDĐH phải thực hiện đầy đủ các quy định, yêu

cầu về chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất của chủ sở hữu và cơ quan QLNN có thẩm

quyền; chịu trách nhiệm trước các chủ thể hữu quan về việc bảo đảm chất lượng đào

tạo theo quy định của pháp luật, quy định nội bộ và cam kết của cơ sở GDĐH; thực

hiện công khai trên trang thông tin điện tử của cơ sở GDĐH các quy chế, quy định nội

bộ; danh sách giảng viên theo ngành, trình độ, chức danh và các điều kiện bảo đảm

chất lượng đào tạo khác; kết quả kiểm định, chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo; đề

án tuyển sinh, danh sách nhập học và tốt nghiệp hằng năm, quy mô đào tạo và tỷ lệ

sinh viên có việc làm trong 12 tháng tốt nghiệp; mẫu văn bằng, chứng chỉ, danh sách

cấp văn bằng, chứng chỉ hằng năm; chi phí đào tạo, mức thu học phí, mức thu dịch vụ

tuyển sinh và các khoản thu khác của người học cho từng năm học và dự kiến cả khóa

học; chế độ, chính sách miễn, giảm học phí, học bổng; quyết định mở ngành, quyết

định liên kết đào tạo cùng với chứng minh đủ điều kiện theo quy định; gửi thông báo,

quyết định tới Bộ GDĐT trong thời hạn 30 ngày, tính từ ngày thông báo hoặc ra quyết

định; thường xuyên cập nhật cơ sở dữ liệu của nhà trường lên hệ thống cơ sở dữ liệu

quốc gia về GDĐH; chịu trách nhiệm trước pháp luật về các văn bản đã ban hành, các

quyết định, các hoạt động tự chủ thực hiện; thực hiện chế độ báo cáo tài chính theo quy

định và công khai trên trang thông tin điện tử của cơ sở GDĐH, trừ những thông tin

thuộc danh mục bí mật Nhà nước….

c) Đánh giá sơ bộ kết quả triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

Luật GDĐH và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP

Luật số 34/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH và Nghị định

số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định chi tiết một số điều của Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật GDĐH đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các cơ sở

GDĐH tăng cường tự chủ, sáng tạo, cạnh tranh và phát triển, đáp ứng yêu cầu thị

trường và hội nhập quốc tế, đồng thời nâng cao hiệu quả tự chủ và trách nhiệm giải

224

trình của các cơ sở GDĐH.

* Kết quả đạt đƣợc: - Những tác động tới nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học

+ Mở ngành đào tạo: thủ tục hành chính được giảm bớt, thời gian mở ngành

được rút ngắn hơn đã giúp các trường chủ động trong đào tạo, tận dụng cơ hội mở các

ngành đào tạo mới đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của xã hội. Các

trường cũng tích cực thay đổi nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy tiên tiến,

tiếp cận với chuẩn đào tạo và chương trình đào tạo quốc tế.

+ Công tác tuyển sinh: Các trường tự chủ đã nhanh chóng thích ứng, thay đổi

định hướng đào tạo ở các hệ khác nhau. Quy mô đào tạo chính quy đại trà có phần suy

giảm trong khi quy mô đào tạo chương trình tiên tiến, chất lượng cao tăng nhanh.

+ Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học: Cùng với đào tạo, nghiên cứu khoa học là

nhiệm vụ trọng tâm không thể tách rời của trường. Trên cơ sở được giao quyền tự chủ,

các trường đã chủ động hơn trong việc quyết định hướng nghiên cứu và tham gia các

nhiệm vụ khoa học công nghệ. Đặc biệt, số lượng đề tài nghiên cứu khoa học cấp

trường tăng mạnh. Các công trình khoa học được đăng tải trên các tạp chí chuyên môn

- Tác động tới công tác tổ chức bộ máy, nhân sự: Tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự được đa số lãnh đạo các trường nhìn

nước ngoài tăng lên nhiều nhất.

nhận là khâu then chốt trong quá trình tự chủ của các trường đại học. Chính vì thế,

nhiều trường đã thông suốt việc tự chủ đại học phải gắn liền với đổi mới quản trị đại

học, trong đó cần thiết phải thực hiện ngay việc thành lập HĐT, tái cấu trúc lại bộ máy,

nâng cao chất lượng nhân sự trong mối tương quan với mục tiêu chiến lược, đồng thời

giúp nhà trường thích ứng tốt hơn với những thay đổi của môi trường và tạo nền tảng

- Tác động tới tình hình tài chính: Nhìn chung các trường đảm bảo được toàn bộ chi hoạt động thường xuyên, thực

phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai.

hiện trách nhiệm xã hội đối với người học, miễn giảm học phí cho các đối tượng chính

sách, trích lập quỹ học bổng khuyến khích theo quy định và đều có chênh lệch thu chi

225

lớn. Các trường đã trích lập quỹ đầu tư phát triển sự nghiệp, quỹ khen thưởng, phúc lợi,

ổn định thu nhập. Thu nhập của người lao động đã tăng lên rõ rệt so với thu nhập bình

quân giai đoạn trước. Đồng thời đã tạo điều kiện cho các trường chủ động trong công

tác xây dựng kế hoạch tài chính và dự toán ngân sách ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.

* Khó khăn, vƣớng mắc: - Hệ thống cơ sở chế chính sách vẫn chưa đồng bộ, các văn hướng dẫn triển

khai thực hiện vẫn đang từng bước hoàn thiện, thay thế hoặc sửa đổi để phù hợp với

- Một số trường chưa nhận thức sâu sắc về tự chủ đại học, chưa gắn tự chủ đại

điều kiện của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH.

học với quá trình đổi mới quản trị đại học; chưa chú trọng xây dựng chính sách chất

lượng, văn hóa chất lượng để khẳng định uy tín, là điều kiện để tồn tại và phát triển

- Tiềm lực tài chính các trường đại học tự chủ của Việt Nam chưa đủ mạnh để phát

trong tự chủ đại học.

triển bền vững, chủ yếu còn phụ thuộc vào nguồn thu từ học phí và quy mô tuyển sinh. - Năng lực quản lý, điều hành của một số cán bộ quản lý còn hạn chế, tính

chuyên nghiệp chưa cao, làm việc dựa vào kinh nghiệm cá nhân, ít vận dụng khoa học

quản lý giáo dục vào thực tiễn quản lý các cơ sở đào tạo; chưa quyết liệt trong công tác

chỉ đạo, điều hành để triển khai thực hiện cơ chế tự chủ trong trong các mặt hoạt động

của các cơ sở đào tạo.

2.2. Định hướng nhiệm vụ/ đề xuất giải pháp thực hiện trong thời gian tới

Tự chủ đại học là xu hướng tất yếu của nền giáo dục hiện đại, là phương thức

quản trị tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đại học. Mặc dù còn một số tồn

tại, hạn chế nhưng rõ ràng chủ trương thí điểm tự chủ theo Nghị quyết 77/NQ-CP đã

đạt được nhiều kết quả tích cực và được toàn xã hội ủng hộ.

Đối với những vấn đề tồn tại trong thực hiện thí điểm tự chủ như trách nhiệm

giải trình của cơ sở GDĐH, cam kết về đảm bảo chất lượng đào tạo và các điều kiện

thực hiện tự chủ đã được cụ thể hóa trong Luật số 34/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều

của Luật GDĐH và Nghị định 99. Tuy nhiên, vẫn còn vướng mắc ở các Luật chuyên

ngành mà hiện nay chưa giải quyết rốt ráo theo nguyện vọng của các trường, vì vậy, Bộ

226

GDĐT có một số nhiệm vụ, đề xuất giải pháp cần triển khai trong thời gian tới như sau:

a) Đối với Chính phủ: - Chỉ đạo rà soát, hoàn thiện thể chế chính sách để bảo đảm tính đồng bộ, thống

nhất trong hệ thống pháp luật về tự chủ. Đề nghị sớm ban hành các quy định của Chính

phủ hướng dẫn tự chủ liên quan, cụ thể:

+ Nghị định quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập

thay thế Nghị định 16 để các trường có căn cứ pháp lý đảm bảo khi triển khai, thực

hiện tự chủ về tài chính.

+ Nghị định của Chính phủ quy định về hoạt động khoa học và công nghệ

trong các cơ sở giáo dục đại học để quy định rõ ràng quyền và trách nhiệm về khoa học

và công nghệ của cơ sở GDĐH theo tinh thần tự chủ, những điểm đột phát nhằm giải

quyết triệt để bất cập về pháp lý, khơi thông, phát huy thế mạnh (nghiên cứu, chuyển

giao, vai trò vị trí) của cơ sở giáo dục đại học - là một trụ cột của phát triển kinh tế xã

- Triển khai, hướng dẫn phương thức nhà nước đặt hàng đào tạo, từng bước

hội của đất nước.

tiến tới phương thức đấu thầu đào đào từ nguồn kinh phí ngân sách nhà nước nhằm tạo

lập sân chơi cạnh tranh bình đẳng giữa các cơ sở GDĐH.

b) Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo - Rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định liên quan thực hiện

Luật và Nghị định 99/2019: Nghị định về Xử phạt vi phạm hành chính; 8 thông tư ban

hành quy chế tuyển sinh và đào tạo các trình độ, chuẩn chương trình các trình độ, mở

- Tiếp tục chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện Quyết định số 69/QĐ-TTg ngày

ngành, giáo trình…

15/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án nâng cao chất lượng GDĐH

giai đoạn 2019-2025, trong đó một số mục tiêu cụ thể đến năm 2025 được đặt ra là:

100% sinh viên tốt nghiệp đạt chuẩn đầu ra kể cả chuẩn trình độ ngoại ngữ, tin học, kỹ

năng mềm để sẵn sàng tham gia vào thị trường lao động. Phấn đấu 100% giảng viên

đại học có trình độ thạc sĩ hoặc tương đương trở lên, trong đó ít nhất 35% có trình độ

tiến sĩ; phấn đấu 100% cơ sở GDĐH (đủ điều kiện) thực hiện kiểm định chất lượng

227

giáo dục, trong đó khoảng 10% được kiểm định bởi các tổ chức kiểm định nước ngoài

có uy tín; trên 35% chương trình đào tạo được kiểm định trong nước hoặc nước ngoài,

- Tiếp tục sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định về quản lý chất lượng phù hợp

trong đó 100% chương trình đào tạo giáo viên ở tất cả các trình độ được kiểm định.

với quy định của các văn bản luật hiện hành và thực tiễn. Chỉ đạo đẩy mạnh công tác

bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục và công tác quản lý văn bằng chứng chỉ ở

các cơ sở GDĐH. Tăng cường kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo của

- Xây dựng phần mềm cơ sở dữ liệu quốc gia về GDĐH, phần mềm quản lý dữ

GDĐH; chú trọng việc giám sát, đánh giá các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục.

liệu quốc gia về văn bằng chứng chỉ, xây dựng chuẩn GDĐH để quản lý việc thực hiện

lĩnh vực quản lý chất lượng bảo đảm thực chất, hiệu quả và làm cơ sở cho các trường

- Chỉ đạo các cơ sở GDĐH tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng, các

thực hiện tự chủ và công cụ thực hiện thanh tra, kiểm tra các cơ sở GDĐH.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, tổ chức liên

hoạt động Kiểm định chất lượng đối với cơ sở và chương trình đào tạo.

quan tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện tự chủ của các cơ sở GDĐH;

- Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, kiên quyết xử lý nghiêm các trường

xử lý vi phạm hoặc phối hợp với cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm vi phạm.

hợp vi phạm,... Hình thành các tổ chức kiểm định, đánh giá độc lập về chất lượng dịch

vụ đối với cơ sở GDĐH.

c) Đối với các bộ, ngành

Đề nghị các bộ, ngành như Kiểm toán nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch

đầu tư, Bộ Nội vụ đồng thuận, ủng hộ ngành giáo dục thực hiện mạnh mẽ tự chủ đại

học thông qua cơ chế, chính sách và trong công tác thanh tra, kiểm toán.

+ Đề nghị Bộ Kế hoạch đầu tư tham mưu sửa đổi Luật Đầu tư công theo hướng

giao quyền tự chủ cho các trường trong công tác đầu tư, mua sắm từ nguồn thu sự

nghiệp của đơn vị.

+ Đề nghị Bộ Tài chính tham mưu sửa đổi Luật quản lý, sử dụng tài sản công

theo hướng giao quyền tự chủ nhiều hơn cho các cơ sở GDĐH công lập tự chủ trong

quản lý, sử dụng, cho thuê, liên doanh, liên kết bằng tài sản của đơn vị; Hoàn thiện

228

chính sách ưu đãi thuế đối với cơ sở GDĐH.

+ Đề nghị Bộ Nội vụ tham mưu sửa đổi và bổ sung các điều luật trong Luật

Lao động, Luật Công chức, Luật Viên chức liên quan đến chính sách nhân sự trong các

trường đại học tự chủ, đặc biệt là chính sách bổ nhiệm, công nhận lãnh đạo trường,

thuê tuyển, thù lao người lao động trong các cơ sơ giáo dục đại học tự chủ.

d) Đối với cơ quan quản lý trực tiếp - Đầu tư, định hướng TĐH phát triển thành Đại học (nếu đủ điều kiện), đẩy

- Cử đại diện tham gia HĐT của các cơ sở GDĐH trực tiếp quản lý; Chỉ đạo

mạnh tự chủ đại học tại các cơ sở GDĐH trực thuộc.

các cơ sở GDĐH trực tiếp quản lý thành lập mới hoặc kiện toàn HĐT theo quy định

của Luật GDĐH; Công nhận HĐT của các cơ sở GDĐH công lập.

- Phối hợp với Bộ GDĐT đôn đốc, giám sát quá trình thực hiện Luật. - Đầu tư, hỗ trợ các cơ sở GDĐH triển khai thực hiện Luật. đ) Đối với cơ sở GDĐH - Tổ chức phổ biến, triển khai thực hiện đồng bộ trong toàn trường các quy

- Xác định chiến lược, kế hoạch, định hướng phát triển; Ban hành quy chế tổ

định của Luật và Nghị định.

- Bồi dưỡng năng lực lãnh đạo, quản trị hiện đại cho các cán bộ chủ chốt; có cơ

chức và hoạt động, quy chế hoạt động của HĐT và các quy định nội bộ khác của trường.

- Phát triển hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong; kiểm định cơ sở, chương

chế phối hợp Đảng ủy - Ban Giám hiệu - HĐT.

- Thực hiện trách nhiệm giải trình, hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ, cập

trình và triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng

- Có cơ chế giám sát việc tuân thủ pháp luật, thực hiện quy chế dân chủ trong

nhật, công khai, kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về GDĐH theo quy định.

các hoạt động của TĐH và trách nhiệm giải trình của người có thẩm quyền; giám sát

việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản của TĐH.

- Truyền thông kết quả triển khai thực hiện Luật và Nghị định.

229

Phụ lục 5

Các bản phỏng vấn sâu đối với thành viên HĐT của một số TĐHCL

NỘI DUNG PHỎNG VẤN ĐỐI VỚI CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG TRƢỜNG - TRƢỜNG

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI (HLU) TRỰC THUỘC BỘ TƢ PHÁP

(Chủ đề phỏng vấn: Thực hiện quyền tự chủ về tổ chức

của Trường Đại học công lập ở Việt Nam)

Thông tin về ngƣời xin phỏng vấn - Họ và tên: NCS Nguyễn Tuấn Hưng - Đơn vị công tác: Phòng Tổ chức Cán bộ - Trường Đại học Y Hà Nội - Mục đích phỏng vấn: Thu thập dữ liệu thực tế phục vụ cho nhiệm vụ làm

Luận án Tiến sĩ, Chuyên ngành Quản lý công tại Học viện Hành chính Quốc gia

- Hiện đang là Nghiên cứu sinh (NCS) Khóa 15, Đợt 2, Chuyên ngành

Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.

Thông tin về ngƣời trả lời phỏng vấn - Họ và tên chuyên gia: TS. Chu Mạnh Hùng - Chức vụ: Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học

Luật Hà Nội

Nội dung phỏng vấn và trao đổi phỏng vấn

Nhằm thu thập thông tin cho luận án “Thực hiện tự chủ về tổ chức của

Trường Đại học công lập ở Việt Nam”, NCS mong muốn được tìm hiểu một số

thông tin liên quan đến việc thực hiện tự chủ về tổ chức của Nhà trường. Những ý

kiến, chia sẻ, trao đổi của Thầy sẽ giúp cho Luận án của NCS được thành công, qua

đó góp phần thúc đẩy việc thực hiện tự chủ về tổ chức của các Trường Đại học

công lập ở Việt Nam thời gian tới ngày càng hiệu quả và thực chất. Với mục đích

đó, NCS xin phép được nêu một số câu hỏi như sau:

Câu hỏi 1: Là Chủ tịch Hội đồng trường, xin Thầy cho biết, Hội đồng

trường hiện có vị trí và vai trò như thế nào trong tổ chức bộ máy của Trường Đại

học Luật Hà Nội?

Trả lời: Theo quy định của Luật Giáo dục đại học, đặc biệt là Luật GDĐH

230

sửa đổi, bổ sung, các trường đại học phải thực hiện thiết chế Hội đồng trường. Thực

hiện quy định đó, Bộ Tư pháp chỉ đạo Trường Đại học Luật Hà Nội thành lập HĐT.

Ngày 28/6/2019, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã quyết định công nhận HĐT của Trường

đại học Luật Hà Nội (HLU). Thứ nhất, theo quy định của Luật, HĐT trường - HLU

đại diện cho chủ sở hữu và các bên có liên quan. Chủ sở hữu của Trường là Bộ Tư

pháp. Với tính chất đó, HĐT đại diện cho chủ sở hữu, trực tiếp là đại diện cho Bộ

Tư pháp và các bên có liên quan, cộng đồng xã hội, doanh nghiệp, các tổ chức hành

nghề luật sư… Lý do là thành phần của HĐT Trường ĐH Luật Hà Nội có thành

phần bầu, có thành phần Bộ cử tham gia, có thành phần mời từ các đại diện của

cộng đồng xã hội. Với tính chất như vậy, về vị trí, HĐT là thiết chế lãnh đạo mới

của Trường. Trước đây, khi nói đến lãnh đạo của nhà trường, bao giờ cũng nói đến

Đảng ủy, Hiệu trưởng. Nhưng hiện nay, theo quy định của Luật số 34 và Quy chế

hoạt động của HLU, thiết chế lãnh đạo được xác định rất rõ là Đảng ủy, Hội đồng

trường và Ban giám hiệu, cụ thể là Hiệu trưởng.

Với tính chất như vậy, vai trò của HĐT được thể hiện trong suốt quá trình

hình thành và hoạt động của HĐT - HLU, nhưng có thể nói khái quát, thực hiện vai

trò đại diện chủ sở hữu, quyết định những vấn đề chiến lược của nhà trường. Việc

này HĐT của HLU đã thể hiện vai trò của mình trong khoảng thời gian chưa đầy một

năm vừa qua. Đặc biệt, sau khi thành lập lại theo Luật số 34, HĐT đã thể hiện rất rõ vai

trò. Ví dụ, HĐT đã ban hành hệ thống thể chế thuộc về xương sống của nhà trường,

như Quy chế tổ chức hoạt động của nhà trường, Quy chế dân chủ cơ sở, Chiến lược

phát triển nhà trường đến năm 2030. Nếu như trước đây, Quy chế tổ chức hoạt động

của nhà trường phụ thuộc vào cấp trên, hoặc như việc bổ nhiệm Phó Hiệu trưởng;

quyết định về phương hướng của tất cả mảng hoạt động của nhà trường, từ đào tạo,

nghiên cứu khoa học, danh mục vị trí việc làm… đều do bộ chủ quản quyết định thì

hiện nay, HĐT đã thực hiện các công việc này. Nghĩa là HĐT đã thể hiện được vai

trò của mình theo quy định của pháp luật và theo phân cấp của Bộ Tư pháp.

Câu hỏi 2: Từ thực tiễn thực hiện tự chủ của Trường Đại học Luật Hà Nội

hiện nay, xin Thầy chia sẻ những khó khăn, vướng mắc của Nhà trường nói riêng và

các trường đại học công lập thuộc bộ/ngành nói chung khi triển khai thực hiện tự

231

chủ đại học, trong đó có tự chủ về tổ chức của các cơ sở giáo dục đại học?

Trả lời: Nói đến câu chuyện tự chủ của HLU. Trường trực thuộc Bộ Tư

pháp, dưới sự quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hiện nay, Trường cũng đang

trên lộ trình tiến hành tự chủ. Vì vậy, có những điều Trường đã thực hiện được theo

nguyên tắc tự chủ, nhưng cũng có những nội dung Trường cũng đang trong quá

trình thực hiện các bước của tự chủ. Ví dụ hiện nay, Trường đã tự chủ toàn bộ chi

thường xuyên, vì tự chủ chi thường xuyên mà theo quy định được tự chủ về tổ chức

bộ máy và nhân sự. Trường đã thực hiện được công việc này. Và đồng thời, theo quy

định của Luật, Bộ Tư pháp đã giao quyền tự chủ rất mạnh, trong đó có tự chủ về tổ

chức bộ máy và nhân sự. Ví dụ, trước đây thành lập một khoa, hoặc sáp nhập các

đơn vị thuộc trường hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của Bộ. Còn từ khi có

HĐT, thực hiện theo Luật GDĐH sửa đổi, Bộ Tư pháp đã phân cấp cho trường, trực

tiếp là HĐT. HĐT trong thời gian vừa qua đã đổi tên, sáp nhập một số đơn vị theo

hướng thu gọn đầu mối để thực hiện Nghị quyết 19 về tinh giản biên chế và thu gọn

đầu mối. Khi bắt đầu thực hiện tự chủ đã có thuận lợi như vậy, đó là bám sát vào

quy định tự chủ của Luật số 34 các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, và

quan trọng là có sự định hướng và phân cấp của Bộ chủ quản.

Khó khăn vướng mắc chắc chắn là có trong quá trình lộ trình tự chủ, nhưng

với sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, Bộ chủ quản thì các khó khăn sẽ giảm dần. Thách

thức đặt ra là Trường ĐHCL, HĐT phải tự lo vấn đề phát triển của Nhà trường, khi

sự bao cấp giảm dần, thậm chí không còn. Thêm nữa, nói đến tự chủ đại học có bốn

lĩnh vực là tự chủ trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn về học thuật, tự chủ tổ

chức, nhân sự, tài chính - tài sản. Tự chủ trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn học

thuật hiện ở các trường không giống nhau. Các trường khoa học xã hội nhân văn,

nói đến luật là gắn với chính trị, cho nên dù tự chủ thế nào, tự do học thuật đến đâu

thì cũng không được đi chệch khỏi định hướng, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Tự chủ về tổ chức bộ máy, nhân sự thì các trường phải tuân thủ quy định pháp luật.

Nhưng trên thực tế, tự chủ về tổ chức của các trường không giống nhau, do sự phân

cấp của bộ ngành chủ quản không giống nhau. Luật quy định như thế nhưng thực tế

232

HĐT có làm được hay không phụ thuộc rất lớn vào sự phân cấp của chủ quản. Thứ

ba, tự chủ về tài chính và tài sản, về nguyên tắc là không còn bao cấp, không còn

vốn đầu tư của nhà nước mà phải tự lo. Nhưng vướng mắc là triển khai các quy định

liên quan đến tài chính, liên quan đến Luật quản lý tài sản công, Luật ngân sách, mà

theo quy định thì sử dụng 1 đồng cũng phải theo nguyên tắc. Trong khi tự chủ cho

phép trường được làm trong khuôn khổ. Việc sử dụng tài chính, tài sản được linh

hoạt hơn. Như vậy, có sự vướng mắc cả về mặt thể chế, vướng cả ở mặt nhìn nhận

vai trò của HĐT và phân cấp của Bộ chủ quản cho HĐT của các trường.

Liên quan đến khó khăn vướng mắc của Trường ĐHCL thuộc bộ, để tự chủ

đại học, trong đó có tự chủ về mặt tổ chức thì thực tế còn liên quan đến sự nhận

thức của tập thể lãnh đạo chính trường ĐHCL về vai trò của HĐT; quy định của

pháp luật; sự nhìn nhận đánh giá của bộ chủ quản. Nếu quy định của pháp luật được

triển khai thực hiện tốt, bản thân nhà trường xác định được vị trí vai trò của HĐT,

cộng thêm sự tin tưởng và phân cấp mạnh mẽ của bộ chủ quản thì các TĐHCL sẽ tháo

gỡ được những vướng mắc để thực hiện tự chủ, trong đó có tự chủ về mặt tổ chức.

Thực ra, trên thực tế, dù Luật GDĐH đã có quy định thành lập HĐT, hay

Hội đồng học viện, nhưng tất cả các trường ĐHCL vẫn chưa thực hiện được đầy đủ

theo quy định của Luật. Điều đó thể hiện ở chỗ chưa thành lập được HĐT thì việc

xác định tính chất, vị trí và vai trò của nó chắc chắn còn nhiều điều cần tiếp tục xem

xét. Chưa có nó thì khó nói gì về nó lắm, còn có nó rồi thì vì nó là mới, cho nên

phải định hình rõ vai trò của nó.

Câu hỏi 3: Trên cương vị công tác của mình, xin Thầy cho biết những kinh

nghiệm trong giải quyết mối quan hệ giữa Đảng ủy - Hội đồng trường - Hiệu trưởng?

Trả lời: Tôi có sự thuận khi đang là Bí thư, đồng thời là Chủ tịch HĐT.

Nhưng nếu như Chủ tịch HĐT mà không đảm nhiệm cương vị Bí thư Đảng ủy thì

thực sự vấn đề lại quay trở lại câu hỏi số 2, đó là vướng mắc gì trong hoạt động của

HĐT. Tôi có nói rằng nhận thức của lãnh đạo nhà trường về vị trí của HĐT. Thứ

nhất, theo luật số 34, thiết chế lãnh đạo nhà trường bây giờ có 3, như “kiềng ba

chân” là Đảng ủy, HĐT, Hiệu trưởng. Ba thiết chế này phải rất rõ về mặt tính chất,

233

chức năng, nhiệm vụ thì mới giải quyết được mối quan hệ. Thể hiện rõ như thế nào?

Đảng ủy lãnh đạo về công tác Đảng, lãnh đạo toàn diện và trực tiếp là về công tác

cán bộ, thông qua đường lối, chủ trương, nghị quyết. HĐT thực hiện chức năng đại

diện cho chủ sở hữu, thực hiện chức năng quản trị, cụ thể là xác định chiến lược

phát triển, những vấn đề lớn của nhà trường. Hiệu trưởng, rộng hơn là ban giám

hiệu là người thực hiện chức năng quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo để thực hiện nghị

quyết của Đảng ủy, cũng như chiến lược mà HĐT đã vạch ra. Nôm na thì Hiệu

trưởng điều hành công việc quản lý hành chính hàng ngày, liên quan đến công tác

quản lý nhà trường. Đó là chức năng của 3 thiết chế này. Khi xác định được rõ vai

trò, chức năng của ba thiết chế này thì phải xử lý mối quan hệ của nó, không để

“giẫm chân lên nhau”. Xử lý bằng cách ba thiết chế này thực hiện đúng vai của

mình. Đó là nguyên tắc. Còn để có cơ sở giải quyết mối quan hệ này thì phải xây

dựng quy chế phối hợp, hoặc rõ hơn là quy chế về mối quan hệ Đảng ủy - HĐT -

Hiệu trưởng. Phối hợp là ngang cấp, còn xử lý mối quan hệ sẽ là linh hoạt hơn.

Trong quy chế này sẽ xác định rõ Đảng ủy làm gì, Hiệu trưởng làm gì, HĐT làm gì.

Thứ ba, người đứng đầu của ba thiết chế này phải luôn nhìn chung về một hướng.

Có những đơn vị là 3 thiết chế, 3 người, còn thông thường là 2, Bí thư kiêm Chủ

tịch HĐT, nhưng về nguyên tắc là phải nhìn chung về một hướng. Bí thư và Chủ

tịch HĐT sẽ đại diện cho hai thiết chế để quyết những vấn đề lớn, còn Hiệu trưởng

sẽ đại diện cho thiết chế này, để quản lý nhà trường, trên nguyên tắc thống nhất.

Còn những gì trong thực tế cần có sự bàn bạc, trao đổi, các thiết chế này hoặc đại

diện các thiết chế này ngồi lại với nhau. Đó là cách thức vận hành và xây dựng sự

đoàn kết. Chính sự đoàn kết của đại diện cho các thiết chế này sẽ giúp xử lý mối

quan hệ giữa ba thiết chế. Đặc biệt, Đảng ủy phải làm được điều đó, là xây dựng

mối đoàn kết, làm tốt công tác chính trị, tư tưởng. Còn nếu mà không làm được điều

này thì giải quyết mối quan hệ này sẽ là khó. Cho nên, mối quan hệ này sẽ là từ

Đảng ủy, qua HĐT rồi đến Hiệu trưởng, và ngược lại, từ Hiệu trưởng, thông qua

HĐT đến Đảng ủy. Đó là sự thông suốt. Còn điều ngược lại sẽ xảy ra, đó chính là

cái mà buổi đầu thành lập HĐT sẽ phải xử lý mối quan hệ như vậy. Tại sao nói

234

được những điều này, chính từ kinh nghiệm thực tế của HLU, từng bước định hình,

xử lý mối quan hệ này. Xử lý được mối quan hệ này thì vô hình chung xác định

được vị trí, vai trò của HĐT. HĐT mới thì rất cần sự rõ ràng, minh bạch theo quy

định của luật pháp và có sự tin tưởng của cấp trên thì HĐT mới vận hành được. Còn

thành lập mà không để nó vận hành đúng theo quy định của Luật thì sẽ vô hình

chung làm mất đi vai trò của nó.

Câu hỏi 4: Theo quan điểm của Thầy, để bảo đảm hiệu quả của thực hiện

tự chủ về tổ chức ở các Trường Đại học công lập, vai trò của quản lý nhà nước và

vai trò tự chủ của cơ sở giáo dục đại học nên được thể hiện như thế nào thông qua

thiết chế Hội đồng trường?

Trả lời: Thứ nhất, theo Luật số 34, quản lý nhà nước tập trung vào hoạch

định chính sách, và tăng tự chủ của cơ sở GDĐH để các cơ sở GDĐH tự xây dựng

chiến lược phát triển cho mình. Đầu tiên là thực hiện NQ 29, quy định của Luật

GDĐH và các Luật có liên quan, và thực tế triển khai. Ba yếu tố này sẽ trả lời cho

vấn đề đặt ra, đó là quản lý nhà nước của các bộ/ ngành đối với các cơ sở GDĐH

công lập cần tập trung vào hoạch định chính sách để các trường tự chủ. Như vậy

những vấn đề cụ thể của nhà trường, của cơ sở GDĐH thì để chính cơ sở đó tự

quyết định lấy. Nhà nước, bộ ngành chủ quản sẽ không can thiệp sâu vào. Để giúp

cho quản lý nhà nước được đúng hướng, giúp cơ sở GDĐH thực hiện được tự chủ,

nhất thiết phải thành lập được HĐT, sau đó xác định được vai trò của thiết chế HĐT

thì mới giúp nhà trường tự chủ được. Ví dụ, nếu chưa có HĐT, các vấn đề của nhà

trường lãnh đạo cao nhất là Đảng ủy, còn trực tiếp quyết định là Hiệu trưởng, quản

lý, giám sát là bộ chủ quản. Sẽ có rất nhiều vấn đề nảy sinh nếu không có sự kiểm

soát tốt, nhất là khi chuyển sang tự chủ. Và thiết chế HĐT khi chuyển sang tự chủ

đại diện cho chủ sở hữu, quyết định vấn đề lớn nhưng một vai trò nữa là giám sát

Hiệu trưởng. Để điều chỉnh được trong khoản quy định của luật pháp, quyết định

của Hiệu trưởng đúng nghị quyết của Đảng, đúng pháp luật và dẫn dắt nhà trường

theo hướng tự chủ. HĐT phải làm được điều đó, thực hiện chức năng luật pháp đã

trao cho. Có như vậy thì mới thực hiện tự chủ được, còn không là chệch khỏi đường

235

ray. Còn không, quản lý nhà nước buông, không có cơ chế giám sát thì dẫn tới các

trường lệch hướng. Để đi đúng hướng, có sự giám sát thì cần có người thứ ba. Bây

giờ nhiều trường chưa thành lập HĐT thì tự chủ cái gì? Phải thành lập được HĐT,

xác định đúng vị trí, vai trò của nó, có như vậy nó mới quyết định được chiến lược,

mới giám sát được, nếu không thì rất khó.

Câu hỏi 5: Nếu cần phải đưa ra những kiến nghị đối với hệ thống quản lý

nhà nước về giáo dục đại học, theo Thầy, các Trường đại học công lập cần kiến

nghị những vấn đề gì để đảm bảo sự thực chất và hiệu quả cho triển khai thực hiện

tự chủ về tổ chức tại các Trường Đại học công lập hiện nay?

Trả lời: Tự chủ về mặt tổ chức, liên quan đến bộ máy, con người. Về mặt

nguyên tắc, bộ máy có tinh gọn, con người có chất lượng thì một tổ chức mới hoạt

động hiệu quả được. Từ đó cho thấy, một trường đại học nếu tổ chức bộ máy gọn nhẹ,

đội ngũ có chất lượng mới giúp nhà trường thực hiện tự chủ tốt. Với cơ sở GDĐH công

lập, có tự chủ thế nào cũng luôn phải nhớ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác

cán bộ. Vì vậy, trao quyền tự chủ cho các cơ sở ĐH công lập, nhưng Đảng, Bộ chủ

quản, và bản thân Đảng ủy của cơ sở cũng luôn phải nhất quán nguyên tắc, thực

hiện chức năng quản lý cán bộ phải bằng điều kiện, tiêu chuẩn cán bộ tại các khâu.

Quản lý không phải để kìm hãm mà là để các cán bộ thực hiện chức năng, nhiệm vụ

không đi chệch hướng.

Tổ chức bộ máy, HĐT của HLU giờ đây nhà trường chủ động rồi. Đổi tên

hay sáp nhập, thành lập mới đơn vị, HĐT chủ động quyết định. Nhưng để làm sao

có hiệu quả thực chất? Phải có sự đồng bộ về mặt thể chế; triển khai thực hiện các

quy định của Luật số 34 một cách nhất quán, có lộ trình. Thực tế, Luật quy định rồi,

nhưng có trường thành lập được ngay, có trường chưa thành lập được. Vậy chưa

thành lập được, lỗi một phần ở trường đó, nhưng còn có trách nhiệm của Bộ chủ

quản ra sao? Bộ chủ quản không chỉ đạo, không hướng dẫn thì bản thân trường trực

thuộc cũng khó để thành lập. Hướng dẫn, chỉ đạo cũng phải đúng quy định của Luật

về vị trí, cơ cấu, thành phần. Cho nên, bước đầu tiên phải đồng bộ về mặt thể chế

đã, thực hiện đúng quy định của luật. Thứ ba là bản thân các trường cũng phải nhận

236

thức về sứ mệnh, lịch sử của trường, bởi vì tự chủ là xu hướng tất yếu, không làm

trước thì cũng phải làm sau, dù buổi ban đầu có khó khăn, nhưng ngại khó mà

không làm thì rất khó đi theo xu hướng, thực hiện quy định của pháp luật, thậm chí

còn tiềm ẩn dấu hiệu sai luật. Ví dụ, tổ chức bộ máy về nguyên tắc trước đây là

thuộc quyền của bộ chủ quản, còn theo quy định mới thì giờ đây giao cho HĐT.

Tuy nhiên, bây giờ vẫn còn tồn tại quyết định của bộ A về việc thành lập khoa

thuộc trường B, liệu có phù hợp hay không trong bối cảnh tự chủ? Cái đó giờ đây

đã giao cho HĐT nhưng với trường chưa thành lập HĐT, Hiệu trưởng cũng không

được quyết điều đấy, thì giải quyết thế nào?

Tóm lại, các ý trao đổi xoay quanh ý rất cơ bản. Chưa có HĐT thì phải có,

có rồi phải xác định vai trò cho nó, từ xác định thì vận hành sao cho tốt bằng cách

xử lý mối quan hệ “kiềng ba chân” giữa HĐT - Đảng ủy - Hiệu trưởng. Cho nên,

quy định của Luật là đã khá rõ, nhưng triển khai thực tế không đơn giản, nhận thức

không đồng bộ cũng không làm được, chủ quản không tin tưởng, mạnh dạn phân

cấp theo luật thì cũng không làm được, không đoàn kết cũng không làm được và

không biết được vai trò thì dễ làm sai. Chẳng hạn, HĐT bây giờ thông qua một

quyết định tuyển sinh lớp A, lớp B là sai rồi, lấn sân nhau rồi, việc đó là thuộc về

Hiệu trưởng. HĐT chỉ quyết về chiến lược, hướng tuyển sinh… Khi được phân cấp,

trao quyền, đơn vị không thái quá, lạm dụng mà phải luôn ý thức mọi công việc

mình làm không được chệch hướng.

Xin trân trọng cảm ơn Thầy đã giúp đỡ NCS tiếp cận được với thực tiễn

quản trị và điều hành hoạt động của một trong những Trường Đại học đang cung

cấp nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực pháp luật cho đất nước. NCS

cam đoan những thông tin được Thầy cung cấp chỉ dùng vào việc làm sáng tỏ thêm

những vấn đề thực tiễn đang đặt ra tại Việt Nam hiện nay trong thực hiện tự chủ về

tổ chức của Trường Đại học công lập từ góc độ của nghiên cứu khoa học.

237

Xin trân trọng cảm ơn Thầy.

NỘI DUNG PHỎNG VẤN ĐỐI VỚI THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

(Chủ đề phỏng vấn: Thực hiện quyền tự chủ về tổ chức

của Trƣờng Đại học công lập ở Việt Nam)

Thông tin về ngƣời xin phỏng vấn - Họ và tên: NCS Nguyễn Tuấn Hưng - Đơn vị công tác: Phòng Tổ chức Cán bộ - Trường Đại học Y Hà Nội - Mục đích phỏng vấn: Thu thập dữ liệu thực tế phục vụ cho nhiệm vụ làm

Luận án Tiến sĩ, Chuyên ngành Quản lý công tại Học viện Hành chính Quốc gia

- Hiện đang là Nghiên cứu sinh (NCS) Khóa 15, Đợt 2, Chuyên ngành

Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.

Thông tin về ngƣời trả lời phỏng vấn - Họ và tên chuyên gia: PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu - Chức vụ: Phó hiệu trưởng, thành viên Hội đồng trường - Trường Đại học

Nội vụ. thuộc Bộ Nội vụ

Nội dung phỏng vấn và trao đổi phỏng vấn

Nhằm thu thập thông tin cho Luận án “Thực hiện tự chủ về tổ chức của

Trường Đại học công lập ở Việt Nam”, NCS mong muốn được tìm hiểu một số

thông tin liên quan đến việc thực hiện tự chủ về tổ chức của Nhà trường. Những ý

kiến, chia sẻ, trao đổi của Thầy sẽ giúp cho Luận án của NCS được thành công, qua

đó góp phần thúc đẩy việc thực hiện tự chủ về tổ chức của các Trường Đại học

công lập ở Việt Nam thời gian tới ngày càng hiệu quả và thực chất.

Với mục đích đó, NCS xin phép được nêu một số câu hỏi như sau:

Câu hỏi 1: Là thành viên Hội đồng trường, xin Thầy cho biết, Hội đồng

trường hiện có vị trí và vai trò như thế nào trong tổ chức bộ máy của Trường Đại

học Nội vụ?

Trả lời: Trường đại học Nội vụ Hà Nội được thành lập theo Quyết định số

2016/QĐ-TTg, ngày 14 tháng 11 năm 2011. Vị trí pháp lý của Trường là cơ sở

238

GDĐH công lập trực thuộc Bộ Nội vụ, chịu sự QLNN về GDĐH của Bộ Giáo dục

và Đào tạo. HĐT của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện có 19 thành viên trong và

ngoài trường. Theo quy định của pháp luật, HĐT của Trường đại học Nội vụ là thiết

chế có chức năng thực hiện quyền quản trị nhà trường. Từ khi thành lập đến nay,

HĐT bước đầu cũng đã thực hiện tốt chức năng của mình.

Câu hỏi 2: Xin Thầy chia sẻ những khó khăn, vướng mắc của Nhà trường

nói riêng và các trường đại học công lập thuộc Bộ/ngành nói chung khi triển khai thực

hiện TCĐH và tự chủ về tổ chức của các cơ sở giáo dục đại học công lập nói riêng?

Trả lời: Cũng như nhiều TĐHCL khác, những khó khăn vướng mắc của nhà

trường khi triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức cũng bao gồm một số vấn đề liên

quan đến việc rà soát, xây dựng và hoàn thiện thể chế nội bộ, tăng cường năng lực

của HĐT, vấn đề tổ chức lại bộ máy nhà trường theo Nghị định 120/NĐ-CP/2020.

Câu hỏi 3: Trên cương vị công tác của mình, xin Thầy cho biết về mối quan

hệ giữa Đảng ủy - Hội đồng trường - Hiệu trưởng?

Trả lời: Đây là mối quan hệ mà đứng trên phương diện pháp lý đã được thể

chế hóa trong cả Luật số 34 và trong thể chế quản trị nội bộ của TĐHCL. Vấn đề

nằm ở khâu thực tiễn áp dụng và triển khai thực hiện như thế nào trong nhà trường?

Quan điểm của tôi cho rằng, mối quan hệ này phải được xử lý và thực hiện trên cơ

sở quy định pháp luật, quy định của Đảng và tư duy quản trị hiệu quả của từng

trường. Khi mỗi vị trí đó tham gia vào hệ thống vận hành chung của toàn hệ thống

tổ chức nhà trường trên cơ sở thưởng tôn pháp luật, lợi ích chung của đất nước và

lợi ích chung của nhà trường và xã hội thì việc duy trì lợi ích nhóm, “quyền anh”,

“quyền tôi” giữa những thiết chế này sẽ không có cơ sở để tồn tại. Vậy nên mọi vấn

đề đặt ra trong mối quan hệ này đều nằm ở tiêu điểm căn cốt, đó là sự đồng thuận,

tinh thần đoàn kết, tính chuyên nghiệp và tuân thủ kỷ luật, kỷ cương, đúng người,

đúng việc, đúng vị trí. Đảng ủy lãnh đạo về chính trị, tư tưởng, phối hợp và thực

hiện quyền lực giám sát của tổ chức cơ sở đảng đối với HĐT và Hiệu trưởng. HĐT

lãnh đạo về chiến lược, sứ mạng, tầm nhìn, các quyết sách lớn tác động đến sự phát

triển, hưng thịnh của nhà trường thông qua các Nghị quyết có tính pháp lý cao nhất.

239

Sự lãnh đạo của HĐT nên thực hiện theo phương thức “nhúng mũi nhưng không thò

tay” vào hệ thống quản lý điều hành của Hiệu trưởng. Còn Hiệu trưởng và bộ máy

quản lý của Hiệu trưởng đương nhiên là tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng ủy

cũng như của HĐT và chịu trách nhiệm về kết quả, chất lượng của việc tổ chức thực

hiện đó. Thực ra, về nguyên lý thì đến nay các Trường đều đã nhận thức đúng -

trúng về mối quan hệ này, và khi đã nhận thức chuẩn mực thì tôi tin kết quả trong

thực tiễn triển khai sẽ này càng tốt hơn, hiệu quả hơn.

Câu hỏi 4: Theo quan điểm của Thầy, để bảo đảm hiệu quả của thực hiện

tự chủ về tổ chức ở các Trường Đại học công lập, vai trò của quản lý nhà nước và

vai trò tự chủ của cơ sở giáo dục đại học nên được thể hiện như thế nào thông qua

thiết chế Hội đồng trường?

Trả lời: Qua nghiên cứu về lý luận cũng như thực tiễn vận hành của HĐT

trong các TĐHCL hoạt động theo cơ chế của NQ số 77/NQ-CP/2014 cũng như

theo quy định của Luật số 34 thì về nguyên lý, càng có sự rõ ràng trong phân vai

giữa chức năng của cơ quan QLNN về GDDH, nhất là giữa bộ/ngành chủ quản với

TĐHCL thì càng tạo được sự thuận lợi cho các trường triển khai cơ chế này.

Chúng ta đều biết rằng, vấn đề tự chủ về tổ chức của TĐHCL tại Việt Nam hiện

nay chưa thể đặt ra vấn đề hoàn toàn “thoát ly” khỏi sự quản lý của bộ/ngành chủ

quản trong một sớm, một chiều, bởi mỗi một nền GDĐH của một quốc gia lại

cũng có những đặc thù riêng. Vì vậy, giải pháp tốt nhất mà cả phía chủ thể quản lý

trực tiếp và TĐHCL là cùng đồng hành, cùng phối hợp và hài hòa về lợi ích cũng

như mục tiêu chung của đổi mới GDĐH đất nước. Làm được điều đó cũng là bảo

đảm được lợi ích của chính TĐHCL

Câu hỏi 5: Nếu cần phải đưa ra những kiến nghị đối với hệ thống quản lý

nhà nước về giáo dục đại học, theo Thầy, các Trường đại học công lập cần kiến

nghị những vấn đề gì để đảm bảo sự thực chất và hiệu quả cho triển khai thực hiện

tự chủ về tổ chức tại các Trường Đại học công lập hiện nay?

Trả lời: Theo tôi, vấn đề triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức tại cac

TĐHCL ở thời điểm hiện tại đương nhiên không tránh khỏi những vướng mắc về

240

thể chế, về nguồn lực, về phương thức, về phối hợp, chỉ đạo, điều hành. Theo tôi

được biết, nhiều trường cũng đang nghiên cứu để đổi mới mô hình tổ chức và hoạt

động của nhà trường trong điều kiện đẩy nhanh TCĐH toàn diện. Vì vậy, rất cần sự

vào cuộc và đồng hành của từ Chính phủ cho đến các bộ/ngành chức năng cùng với

các cơ sở GDĐH công lập để rút ngắn lộ trình các trường phải vừa làm, vừa nghiên

cứu thử nghiệm. Trước mắt, một loạt các vướng mắc cần tháo gỡ của Luật số 34,

hay việc triển khai thực hiện Nghị định 120 NĐ-CP/2020 quy định về thành lập

mới, giải thể, sát nhập các đơn vị sự nghiệp công lập đang là những vấn đề “rất

nóng” đối với các TĐHCL triển khai thực hiện tự chủ về tổ chức cần được sự

hướng dẫn, chỉ đạo cụ thể của các bộ/ngành chức năng.

Còn về lâu dài, cũng cần đầu tư nghiên cứu để đổi mới, cải thiện và chuyên

nghiệp hơn nữa hoạt động chỉ đạo, quản lý của bộ/ngành chủ quản đối với việc thực

hiện tự chủ về tổ chức cũng như các mặt tự chủ khác tại các cơ sở GDĐH công lập.

Xin trân trọng cảm ơn Thầy đã giúp đỡ NCS tiếp cận được với thực tiễn

quản trị và điều hành hoạt động của một trong những Trường Đại học đang cung

cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. NCS cam đoan những thông tin

được Thầy cung cấp chỉ dùng vào việc làm sáng tỏ thêm những vấn đề thực tiễn

đang đặt ra tại Việt Nam hiện nay trong thực hiện tự chủ về tổ chức của Trường

Đại học công lập từ góc độ của nghiên cứu khoa học.

Xin trân trọng cảm ơn thầy.

NỘI DUNG PHỎNG VẤN ĐỐI VỚI

THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG TRƢỜNG - TRƢỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ

HỘI. (THUỘC BỘ LAO ĐỘNG THƢƠNG BÌNH - XÃ HỘI)

(Chủ đề phỏng vấn: Thực hiện quyền tự chủ về tổ chức

của Trường Đại học công lập ở Việt Nam)

Thông tin về ngƣời đề nghị phỏng vấn - Họ và tên: NCS Nguyễn Tuấn Hưng - Đơn vị công tác: Phòng Tổ chức Cán bộ - Trường Đại học Y Hà Nội - Hiện đang là Nghiên cứu sinh (NCS) Khóa 15, Đợt 2, Chuyên ngành

241

Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.

- Mục đích phỏng vấn: Thu thập dữ liệu thực tế phục vụ cho nhiệm vụ làm

Luận án Tiến sĩ, Chuyên ngành Quản lý công tại Học viện Hành chính Quốc gia

Thông tin về Ngƣời trả lời phỏng vấn - Họ và tên chuyên gia: TS. Khuất Thị Thu Hiền - Chức vụ: Trưởng khoa Luật - Trường Đại học Lao động - Xã hội

Nội dung phỏng vấn và trao đổi phỏng vấn

Nhằm thu thập thông tin cho Luận án “Thực hiện tự chủ về tổ chức của

Trường Đại học công lập ở Việt Nam”, NCS mong muốn được tìm hiểu một số

thông tin liên quan đến việc thực hiện tự chủ về tổ chức của Nhà trường. Những ý

kiến, chia sẻ, trao đổi của Thầy/Cô sẽ giúp cho Luận án của NCS được thành công,

qua đó góp phần thúc đẩy việc thực hiện tự chủ về tổ chức của các Trường Đại học

công lập ở Việt Nam thời gian tới ngày càng hiệu quả và thực chất.

Với mục đích đó, NCS xin phép được nêu một số câu hỏi như sau:

Câu hỏi 1: Là thành viên Hội đồng trường, xin Cô cho biết, Hội đồng

trường hiện có vị trí và vai trò như thế nào trong tổ chức bộ máy của Trường Đại

học Lao động - Xã hội?

Trả lời: Đối với trường đại học, Hội đồng trường có vị trí và vai trò quan

trọng trong quản trị đại học, là một kênh giám sát quan trọng trong thực hiện quyền

tự chủ của các trường đại học.

Hội đồng trường của trường Đại học Lao động - Xã hội là tổ chức quản trị

của Nhà trường, thực hiện quyền đại diện của chủ sở hữu và các bên có lợi ích liên

quan, quyết nghị chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển và quy chế về tổ chức

và hoạt động, phương hướng đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ… Hoạt

động của Hội đồng trường giúp giảm thủ tục hành chính, tăng tính chủ động, linh

hoạt của Nhà trường trong các hoạt động: đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổ chức bộ

máy, nhân sự, tài chính… Ở Trường Đại học Lao động - Xã hội, Hiệu trưởng nhà

trường đồng thời là Bí thư Đảng ủy, khác với một số TĐH Chủ tịch HĐT đồng thời

242

là Bí thư Đảng ủy.

Câu hỏi 2: Xin Cô chia sẻ những khó khăn, vướng mắc của Nhà trường nói

riêng và các trường đại học công lập thuộc Bộ/ngành nói chung khi triển khai thực

hiện tự chủ đại học và tự chủ về tổ chức của các cơ sở giáo dục đại học nói riêng?

Trả lời: Tự chủ đại học hiện nay hiện được nhiều người hiểu chưa toàn

diện, chủ yếu tiếp cận từ góc độ tự chủ tài chính, mà chưa quan tâm đến các nội

dung khác của tự chủ, như về tổ chức, nhân sự và học thuật. Biết rằng, trong tự chủ

đại học thì tự chủ về tài chính đóng vai trò nền tảng để thực hiện hiệu quả và bền vững

các nội dung tự chủ khác, nhưng tự chủ cần được một cách đầy đủ và toàn diện hơn.

Trong các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành về vấn đề này cũng chủ yếu

đề cập đến “một nhánh”, dựa vào căn cứ là mức độ tự bảo đảm kinh phí hoạt động để

phân loại và giao mức độ tự chủ cho các trường, chứ chưa xuất phát từ “gốc rễ” của tự

chủ để xây dựng căn cứ, nguyên tắc giao quyền tự chủ, mức độ tự chủ khác nhau phù

hợp với năng lực của từng trường về công tác tổ chức, nhân sự, quản trị, tiềm lực và

kinh nghiệm về đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ cũng như các

điều kiện cần thiết khác.Về tổ chức, hiện còn một số vướng mắc trong thực hiện

Luật Viên chức. Trường chưa tự chủ được về việc tuyển dụng và sa thải cán bộ,

giảng viên, chưa có quyền tự quyết và tự chịu trách nhiệm trong việc bổ nhiệm nhân

sự vào các vị trí trọng yếu.

Câu hỏi 3: Trên cương vị công tác của mình, xin Cô cho biết về mối quan

hệ giữa Đảng ủy - Hội đồng trường - Hiệu trưởng?

Trả lời: Mối quan hệ này hiện chưa rõ ràng. Vì vậy, cần có sự phân định cụ

thể hơn, trong đó Đảng ủy chỉ đạo phương hướng, Hội đồng trường đề ra định

hướng phát triển lâu dài, Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch phát triển trong 5 năm và

kế hoạch cụ thể từng năm. Hội đồng trường thông qua kế hoạch và giám sát việc

thực hiện kế hoạch của Hiệu trưởng.

Câu hỏi 4: Theo quan điểm của Cô, để bảo đảm hiệu quả của thực hiện tự

chủ về tổ chức ở các Trường Đại học công lập, vai trò của quản lý nhà nước và vai

trò tự chủ của cơ sở giáo dục đại học nên được thể hiện như thế nào thông qua thiết

243

chế Hội đồng trường?

Trả lời: Các trường cần rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của các phòng,

ban, đơn vị, tự chủ hoàn toàn trong công tác tổ chức, nhân sự đồng thời chịu trách

nhiệm trước các cơ quan nhà nước về các quyết định về tổ chức, nhân sự của mình.

Câu hỏi 5: Nếu cần phải đưa ra những kiến nghị đối với hệ thống quản lý

nhà nước về giáo dục đại học, theo Cô, các Trường đại học công lập cần kiến nghị

những vấn đề gì để đảm bảo sự thực chất và hiệu quả cho triển khai thực hiện tự

chủ về tổ chức tại các Trường Đại học công lập hiện nay?

Trả lời: Cần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về vấn đề này để tạo cơ

sở pháp lý vững chắc, đồng bộ, thống nhất. Bởi lẽ, mặc dù các trường đại học công

lập đã được giao tự chủ song thực tế hoạt động phải tuân theo rất nhiều văn bản

pháp luật đan xen, chống chéo như: Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật

Quản lý sử dụng tài sản công, Luật Xây dựng, Luật Viên chức, các luật về Thuế, về

tài chính và các Nghị định của Chính phủ… khiến việc tự chủ gặp nhiều khó khăn,

mang tính hình thức.

Đồng thời, phải tạo ra sự đồng thuận không những trong trường mà phải ở

các bên liên quan, tránh thói quen quản lý hành chính

Xin trân trọng cảm ơn Cô đã giúp đỡ NCS tiếp cận được với thực tiễn quản

trị và điều hành hoạt động của một trong những Trường Đại học đang cung cấp

nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. NCS cam đoan những thông tin được

Cô cung cấp chỉ dùng vào việc làm sáng tỏ thêm những vấn đề thực tiễn đang đặt

ra tại Việt Nam hiện nay trong thực hiện tự chủ về tổ chức của Trường Đại học

công lập từ góc độ của nghiên cứu khoa học.

244

Xin trân trọng cảm ơn Cô.

NỘI DUNG PHỎNG VẤN ĐỐI VỚI

THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG TRƢỜNG - HỌC VIỆN TÒA ÁN

(THUỘC TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO)

(Chủ đề phỏng vấn: Thực hiện quyền tự chủ về tổ chức

của trường đại học công lập ở Việt Nam)

Thông tin về ngƣời xin phỏng vấn - Họ và tên: NCS Nguyễn Tuấn Hưng - Đơn vị công tác: Phòng Tổ chức Cán bộ - Trường Đại học Y Hà Nội - Mục đích phỏng vấn: Thu thập dữ liệu thực tế phục vụ cho nhiệm vụ làm

Luận án Tiến sĩ, Chuyên ngành Quản lý công tại Học viện Hành chính Quốc gia

- Hiện đang là Nghiên cứu sinh (NCS) Khóa 15, Đợt 2, Chuyên ngành

Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia.

Thông tin về ngƣời trả lời phỏng vấn - Họ và tên chuyên gia: ThS. Phạm Như Hưng. - Chức vụ: Phó Giám đốc Học viện Tòa án - Thành viên Hội đồng Học

viện Tòa án, thuộc Học viện Tòa án.

Nội dung phỏng vấn và trao đổi phỏng vấn

Nhằm thu thập thông tin cho Luận án “Thực hiện tự chủ về tổ chức của

Trường Đại học công lập ở Việt Nam”, NCS mong muốn được tìm hiểu một số

thông tin liên quan đến việc thực hiện tự chủ về tổ chức của Nhà trường. Những ý

kiến, chia sẻ, trao đổi của Thầy sẽ giúp cho Luận án của NCS được thành công, qua

đó góp phần thúc đẩy việc thực hiện tự chủ về tổ chức của các Trường Đại học

công lập ở Việt Nam thời gian tới ngày càng hiệu quả và thực chất. Với mục đích

đó, NCS xin phép được nêu một số câu hỏi như sau:

Câu hỏi 1: Là thành viên Hội đồng trường, xin Thầy cho biết, Hội đồng trường

hiện có vị trí và vai trò như thế nào trong tổ chức bộ máy của Học viện Tòa án?

Trả lời: Hội đồng Học viện Tòa án là một thiết chế trong cơ cấu bộ máy

của Học viện Tòa án, được thành lập ngay sau khi Học viện Tòa án ra đời năm

245

2015, theo Quyết định số 1191/QĐ-TTg ngày 30/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ.

Mới đây, ngày 28/7/2020, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết

định thành lập Hội đồng Học viện Tòa án, nhiệm kỳ 2020-2025, theo đó, Hội đồng

Học viện Tòa án gồm 17 thành viên do TS. Nguyễn Trí Tuệ, Phó Chánh án Tòa án

nhân dân tối cao, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Học viện Tòa án làm Chủ tịch hội

đồng. Hội đồng Học viện là tổ chức quản trị, thực hiện quyền đại diện của chủ sở

hữu. Hội đồng Học viện là cơ quan thực quyền cao nhất của Học viện khi lãnh đạo

cấp trên là Bí thư đảng ủy kiêm Chủ tịch hội đồng Học viện. Hội đồng Học viện

thực hiện trách nhiệm và quyền hạn theo qui định tại Điều 16 Luật giáo dục đại học

sửa đổi năm 2018. Hội đồng Học viện là sản phẩm theo chủ trương phân cấp, giao

quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng phân định rõ việc quản

lý nhà nước với quản trị đơn vị sự nghiệp công lập và việc cung ứng dịch vụ sự

nghiệp công theo đơn đặt hàng của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu xã hội và thị trường

về đào tạo nguồn nhân lực.

Câu hỏi 2: Xin Thầy chia sẻ những khó khăn, vướng mắc của Nhà trường

nói riêng và các TĐHCL thuộc Bộ/ngành nói chung khi triển khai thực hiện tự chủ

đại học và tự chủ về tổ chức của các cơ sở giáo dục đại học nói riêng?

Trả lời: Quyền tự chủ là một cơ chế trong đổi mới giáo dục nói chung và

giáo dục đại học nói riêng. Đối với TĐHCL, quyền tự chủ không phải do Nhà

trường tự quyết mà là do cơ quan chủ quản giao, phân cấp. Theo qui định tại khoản

11 Điều 4 Luật số 34 thì “Quyền tự chủ là quyền của cơ sở giáo dục đại học được

tự xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu; tự quyết định và có

trách nhiệm giải trình về hoạt động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự, tài

chính, tài sản và hoạt động khác trên cơ sở quy định của pháp luật và năng lực của

cơ sở giáo dục đại học”. Tự chủ là cơ chế mới trong giáo dục và đi đôi với trách

nhiệm giải trình. Vì là cơ chế mới nên khi triển khai không thể tránh được một số

lúng túng, khó khăn, nhất là thói quen phụ thuộc vào cấp trên và ngân sách nhà

nước. Nội dung tự chủ đại học theo qui định của Luật GDĐH sửa đổi 2018 bao gồm

các lĩnh vực học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản và hoạt động khác. Để

246

đảm bảo tự chủ toàn bộ các lĩnh vực thì phải đảm bảo được tự chủ về tài chính (mục

3 Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017). Do vậy, việc tự chủ về tổ chức cũng

nằm trong phạm vi điều chỉnh này.

Câu hỏi 3: Trên cương vị công tác của mình, xin Thầy cho biết về mối quan

hệ giữa Đảng ủy - Hội đồng Học viện - Giám đốc?

Trả lời: Đảng ủy trong Trường đại học/Học viện có chức năng nhiệm vụ

theo Quy định số 97-QĐ/TW ngày 22/3/2004 của Ban Bí thư, theo đó Đảng ủy là

cơ quan lãnh đạo Đại học/Học viên, là “hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện

đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo thực

hiện có hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ, công tác của đơn vị; hoàn thành nghĩa

vụ đối với Nhà nước; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, đảng viên và

quần chúng; xây dựng đảng bộ, chi bộ và đơn vị vững mạnh”.

Thẩm quyền Hội đồng trường/học viện với chức năng quản trị bao gồm

nhiều việc mà trước đây thuộc thẩm quyền của Hiệu trưởng/Giám đốc hoặc cơ quan

chủ quản trường đại học. Hiện nay, thẩm quyền của Hội đồng trường/học viện được

quy định tại Điều 16 Luật GDĐH sửa đổi 2018. Thẩm quyền của Hiệu trưởng/Giám

đốc với chức năng quản lý, điều hành được qui định tại Điều 20 Luật GDĐH sửa

đổi 2018.

Mối quan hệ giữa Đảng ủy - Hội đồng Học viện - Hiệu trưởng/Giám đốc là

quan hệ Lãnh đạo - Quản trị - Quản lý, điều hành. Để thực hiện tốt các mối quan hệ

này, một mặt các cơ sở đào tạo phải thực hiện theo qui định của Đảng, Luật Giáo

dục, Luật Giáo dục đại học và các văn bản pháp luật liên quan. Mặt khác, các

trường nên qui định chi tiết trong Quy chế tổ chức và hoạt động của mình, phụ

thuộc vào mục tiêu, sứ mệnh, tổ chức nội bộ cụ thể của trường đại học, mối quan hệ

và mức độ tự chủ của mỗi đơn vị.

Câu hỏi 4: Theo quan điểm của Thầy, để bảo đảm hiệu quả của thực hiện

tự chủ về tổ chức ở các Trường Đại học công lập, vai trò của quản lý nhà nước và

vai trò tự chủ của cơ sở giáo dục đại học nên được thể hiện như thế nào thông qua

thiết chế Hội đồng trường?

Trả lời: Việc thực hiện tự chủ về tổ chức (bộ máy và nhân sự) ở các

247

Trường Đại học công lập phụ thuộc vào mức độ tự chủ của trường đó do cơ quan

chủ quản phê duyệt. Các trường đại học muốn thực hiện tự chủ về tổ chức thì trước

hết phải đáp ứng các điều kiện theo qui định tại Điều 32 Luật GDĐH sửa đổi 2018.

Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 13 Nghị định số 99/2019/NĐ-CP đã qui định chi tiết

hướng dẫn về các nội dung tự chủ về tổ chức của các trường đại học công lập.

Luật GDĐH sửa đổi 2018 đã qui định khá chi tiết vai trò quản trị đại học

của Hội đồng trường tại Điều 16 (trong đó một số thẩm quyền của cơ quan quản lý

nhà nước cấp trên và quyền hạn của Hiệu trưởng được chuyển cho Hội đồng

trường). Hội đồng trường quyết định những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của

mình và chịu trách nhiệm trước pháp luật và cơ quan quản lý. Còn thẩm quyền,

trách nhiệm của quản lý nhà nước về giáo dục đại học được qui định tại Điều 68, 69

của Luật.

Câu hỏi 5: Nếu cần phải đưa ra những kiến nghị đối với hệ thống quản lý

nhà nước về giáo dục đại học, theo Thầy, các Trường đại học công lập cần kiến

nghị những vấn đề gì để đảm bảo sự thực chất và hiệu quả cho triển khai thực hiện

tự chủ về tổ chức tại các Trường Đại học công lập hiện nay?

Trả lời: Luật GDĐH sửa đổi 2018 đã thể chế hóa chủ trương của Đảng theo

tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị Trung ương 8 Khóa XI về đổi mới căn

bản, toàn diện về giáo dục, đào tạo và Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội nghị Trung

ương 6 Khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất

lượng và hiệu quả của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Cơ chế tự chủ đại học đã được thiết lập, cơ quan quản lý nhà nước và các

trường đại học hãy làm công việc của mình để Luật GDĐH sửa đổi 2018 được áp

dụng triệt để trong thực tế. Việc tự chủ về tổ chức tại các trường đại học công lập đã

rất rõ ràng, Luật chỉ hạn chế các trường đại học được “tự chủ về tổ chức, bộ máy và

nhân sự để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhưng không được làm tăng số lượng

người làm việc hưởng lương, mức lương (bao gồm cả lương và phụ cấp) từ quỹ

lương do ngân sách nhà nước cấp” (điểm a khoản 2 Điều 13 NĐ 99/2019/NĐ-CP.

Như vậy, nếu các trường đại học tự chủ được vấn đề tài chính thì toàn quyền tự chủ

248

về tổ chức.

Nếu có kiến nghị thì chỉ tập trung yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền nhanh chóng thực hiện các nội dung công việc thuộc trách nhiệm quản lý nhà

nước theo qui định tại Điều 68, 69 Luật GDĐH sửa đổi 2018 nhằm tạo ra hành lang

pháp lý đồng bộ phù hợp với định hướng đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT.

Xin trân trọng cảm ơn Thầy đã giúp đỡ NCS tiếp cận được với thực tiễn

quản trị và điều hành hoạt động của một trong những Trường Đại học đang cung

cấp nguồn nhân lực tư pháp chất lượng cao cho đất nước. NCS cam đoan những

thông tin được Thầy cung cấp chỉ dùng vào việc làm sáng tỏ thêm những vấn đề

thực tiễn đang đặt ra tại Việt Nam hiện nay trong thực hiện tự chủ về tổ chức của

Trường Đại học công lập từ góc độ của nghiên cứu khoa học.

249

Xin trân trọng cảm ơn Thầy.

Phụ lục 6

Công văn số 110/BNV-CCVC ngày 08/01/2021 của Bộ Nội vụ gửi Bộ Giáo dục

250

và Đào tạo về việc xác định ngƣời đứng đầu cơ sở giáo dục đại học công lập

251

252

253

254

255

256

257

258

Phụ lục 7

Kế hoạch số 61/KH-BYT ngày 20/01/2021 của Bộ Y tế về việc triển khai

thực hiện Nghị định 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của Chính phủ quy định

259

về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập

260

261

262