
Dương Văn Hùng - 037
1
LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế nước ta có nhiều thay đổi lớn, sự nghiệp công nghiệp hoá
và hiện đại hóa đất nước vẫn đang được tiếp tục thực hiện với nhiều thành
công rực rỡ. Tuy nhiên để tiếp tục thực hiện mục tiêu tăng gấp đôi tổng sản
lượng quốc dân đến năm 2000 mà Đảng ta đề ra, chúng ta cần phải có khoảng
250 ngàn tỉ đồng vốn đầu tư. Vì vậy, triển khai giải quyết vốn là vấn đề hết
sức cấp bách cho nền kinh tế.
Để có được số vốn lớn này, tốt hơn hết là vốn được huy động từ trong
nước qua kênh ngân sách và hệ thống tín dụng. Chính vì lẽ đó việc mở rộng
và nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của hệ thống ngân hàng
thương mại nói riêng và của hệ thống tín dụng nói chung rất được coi trọng
và được xem như là một trong những giải pháp chính nhằm nâng cao hiệu
quả kinh tế - xã hội của hệ thống tín dụng.
Nhìn vào tình hình huy động vốn của các tổ chức tín dụng tiêu biểu là
của các ngân hàng thương mại trong ngân hàng trong những thời gian vừa
qua, ta có thể thấy được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, tuy nhiên nó
cũng còn nhiều mặt tồn tại cần giải quyết và nâng cao hơn nữa hiệu quả của
công tác này.
Trên cơ sở lý luận được học tại trường và kinh nghiệm thực tiễn thu
được trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm và với
tư cách là một sinh viên tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề
này thông qua đề tài : “Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại
Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm”.
Qua đây, tôi cũng đưa ra một vài biện pháp và kiến nghị nhằm mở
rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động này tại Ngân hàng Công thương Hoàn
Kiếm.

Dương Văn Hùng - 037
2
Bài viết này được trình bầy làm 3 chương :
Phần I : Vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của
Ngân hàng thương mại.
Phần II : Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Công
thương Hoàn Kiếm.
Phần III : Một số biện pháp tăng cường huy động vốn tại
Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo
trong khoa Ngân hàng và nhất là thầy Nguyễn Văn Nam, đội ngũ cán bộ công
nhân viên Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, mà đặc biệt là sự giúp đỡ tận
tình của các cô chú, anh chị đang công tác tại phòng kinh doanh trong việc
làm quen với hoạt động của Ngân hàng và trong việc thu thập và tổng hợp số
liệu cho bài viết này.

Dương Văn Hùng - 037
3
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN
Đề tài :
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM.
PHẦN I
VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
I - KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
Ngân hàng là một trong những ngành công nghiệp lâu đời nhất. Trải
qua quá trình phát triển của xã hội loài người Ngân hàng và nghề Ngân hàng
không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Nếu như trong thời kỳ sơ khai
hoạt động của Ngân hàng chỉ giới hạn trong việc giữ hộ của cải hoặc thanh
toán hộ thì cho đến nay hoạt động của Ngân hàng đã được mở ra trên rất
nhiều các lĩnh vực với công nghệ ngày càng hoàn thiện. Thực tế nhiều năm
qua đã chứng tỏ cho thấy rằng : Ngân hàng là một ngành nghề không thể
thiếu được trong nền kinh tế, nó đóng vai trò làm môi giới, làm trung gian
cho sự gặp gỡ của cung và cầu tiền tệ, thông qua việc huy động vốn tạm thời
nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức trong xãa hội rồi cho vay lại đối với cá
nhân, các tổ chức đang có nhu cầu về vốn. Điều này góp phần đẩy mạnh tốc
độ quay vòng của vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, biền tiền nhàn rỗi vào
đầu tư sản xuất kinh doanh, tránh lãnh phí của cải vật chất cho xã hội. Qua đó
đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế mà tình hình hoạt động của Ngân hàng
phản ánh rất chính xác tình hình nền kinh tế, sự vững mạnh, phồn vinh hay
yếu kém của nền kinh tế được phản ánh rất rõ qua hoạt động của Ngân hàng.

Dương Văn Hùng - 037
4
Ngân hàng thương mại ra đời như một đứa con ưu tú nhất của nền kinh
tế hàng hoá và chính Ngân hàng thương mại đến lượt mình đã ghóp phần
quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Ngân hàng thương mại đầu tiên được thành lập vào năm 1782 và đã có
rất nhiều Ngân hàng được thành lập từ những năm 1800 đến nay vẫn đang
hoạt động chứng rỏ sức sống bền bỉ và sự tồn tại khách quan của các NHTM.
Trong các định chế tài chính thì NHTM là định chế quan trọng nhất vì nó giữ
phần lớn của xã hội.
Hệ thống NHTM : Bao gồm các NHTM Quốc doanh, NHTM cổ phần,
Ngân hàng tư nhân với chức năng chính là kinh doanh thông qua hoạt động
trung gian tài chính và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Hệ thống Ngân
hàng thương mại hoạt động dưới sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước thông
qua các quy chế, quy định về hoạt động và thông qua việc thực hiện các văn
bản, chế độ của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện các định hướng trong
chính sách tiền tệ tài chính của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống NHTM có nhữn đòn bẩy tác
động quan trọng đến sản xuất và lưu thông đó là : tiền mặt, tín dụng, lãi suất
... NHTM có một liên hệ vừa bao quát, vừa thâm nhập vào từng đơn vị cơ sở
của nền kinh tế.
NHTM đã có mạng lưới rộng khắp địa bàn sản xuất phân phối lưu
thông, tiêu dùng trong cả nước. Hơn thế nữa, nó còn có quan hệ rộng rãi và
có vai trò quan trọng về tiền tệ, tín dụng, thanh toán giữa nước ta với nước
ngoài.
Với mô hình tổ chức trên, hoạt động của NHTM bao gồm những nội
dung chủ yếu sau :

Dương Văn Hùng - 037
5
+ Tạo nguồn vốn thông qua các hoạt động như : huy động vốn nhàn rỗi
trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước dưới các hình
thức:
- Tiền quỹ tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền quỹ tiết kiệm không kỳ hạn.
- Phát hành kỳ phiếu Ngân hàng.
- Hậu tiền ký gửi
v.v...
Vay từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước : vay các Ngân hàng
Nhà nước, nhận vốn điều hoà trong hệ thống.
+ Sử dụng vốn tự có và vốn vay thông qua hoạt động tín dụng thực
hiện các dự án đầu tư dưới hình thức ghóp vốn hay mua trái phiếu kho bạc,
tài trợ xuất nhập khẩu, đầu tư kinh doanh bất động sản, kinh doanh vàng bạc
đá quý ...
+ Thực hiện các dịch vụ Ngân hàng : thanh toán hộ, thu hộ, bảo hành
thực hiện các dịch vụ tư vấn khách hàng.
Ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc tự chủ trong kinh
doanh, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, tuân thủ các chế độ, chính sách
của Ngân hàng Nhà nước và chính phủ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính
với Bộ Tài Chính, bảo toàn vốn và có lãi.
Thực tế đã chứng tỏ rằng, với mô hình tổ chức trên, thì đây là mô hình
tổ chức thích hợp nhất trong nền kinh tế thị trường, vì nó đáp ứng được đầy
đủ nhu cầu của nền kinh tế, đồng thời phát huy được hết sức mạnh sẵn có
trong mỗi NHTM và phát huy được hết vai trò của cả hệ thống NHTM nói
riêng và cả hệ thống Ngân hàng nói chung.

