
LUẬN VĂN:
Kiểm toán các khoản phải thu khách hàng
trong quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính
do Công ty kiểm toán và tư vấn tài chính
ACA Group thực hiện

LỜI MỞ ĐẦU
Trở thành thành viên chính thức thứ 150 của WTO vào 7/11/2006, Việt Nam đã có
nhiều thay đổi trong đường lối chính sách tạo môi trường pháp lý thông thoáng cho các
nhà đầu tư. Số lượng các công ty tăng lên không ngừng và sự phát triển của thị trường
chứng khoán trong thời gian tới dẫn đến nhu cầu công khai và lành mạnh hoá tài chính.
Chính điều này đã thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực kiểm toán - một lĩnh vực còn khá
non trẻ và đầy tiềm năng ở Việt Nam. Trải qua 16 năm phát triển tại Việt Nam, hệ thống
kiểm toán đã dần hoàn thiện, đạt đến trình độ chung của khu vực và thế giới.
Do sự phát triển của nền kinh tế, số lượng các khách hàng tìm đến công ty kiểm toán
ngày càng đa dạng với các mục đích khác nhau: kiểm toán trước khi cổ phần hoá, kiểm
toán trước khi giải thể, phá sản, sáp nhập... làm cho số lượng người sử dụng báo cáo kiểm
toán tăng lên rất nhiều. Báo cáo kiểm toán có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế xã
hội.
Để phát hành một Báo cáo kiểm toán Báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải kiểm
toán nhiều chu trình và khoản mục khác nhau. Trong đó các khoản phải thu thường phát
sinh với khối lượng lớn, ảnh hưởng đến nhiều khoản mục trên Báo cáo tài chính.
Trong điều kiện kinh doanh hiện nay, các doanh nghiệp cạnh tranh gay gắt về giá cả,
chính sách tín dụng, chiết khấu thương mại, hoa hồng… Vì vậy số lượng các khoản phải
thu rất lớn, và đối tượng đa dạng. Tuỳ thuộc vào ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh cũng
như chính sách tín dụng thương mại của từng công ty mà tỉ trọng các khoản phải thu
chiếm nhiều hay ít trong tổng tài sản. Nếu tỉ trọng này quá lớn có nghĩa là doanh nghiệp
đang bị chiếm dụng vốn, ngược lại nếu tỉ trọng nhỏ sẽ ảnh hưởng đến doanh số bán hàng,
lợi nhuận và thuế phải nộp. Hệ thống kiểm soát nội bộ của công ty không tốt sẽ dễ xảy ra
gian lận hoặc sai sót trong quá trình ghi nhận, thu hồi, lập dự phòng các khoản phải thu.
Xuất phát từ thực tế này đòi hỏi công ty kiểm toán phải có chương trình và thủ tục kiểm
toán các khoản phải thu theo tiêu chuẩn quốc tế đồng thời phù hợp với hệ thống luật
pháp, chuẩn mực kế toán Việt Nam.
Trong quá trình thực tập tại công ty kiểm toán và tư vấn tài chính ACA Group, kết
hợp với những kiến thức đã được học tại nhà trường, em nhận thấy kiểm toán các khoản
phải thu là một phần hành quan trọng và ảnh hưởng lớn đến nhiều khoản mục trên Báo
cáo tài chính. Vì vậy, em chọn đề tài: “Kiểm toán các khoản phải thu khách hàng

trong quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty kiểm toán và tư vấn tài
chính ACA Group thực hiện".
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có 3 phần:
Phần I. Lý luận chung về kiểm toán các khoản phải thu khách hàng trong quy
trình kiểm toán Báo cáo tài chính.
Phần II. Thực trạng kiểm toán các khoản phải thu khách hàng trong kiểm toán
Báo cáo tài chính tại Công ty kiểm toán và tư vấn tài chính.
Phần III. Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kiểm toán các khoản phải thu
khách hàng tại Công ty kiểm toán và tư vấn tài chính.
PHẦN I.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN CÁC KHOẢN PHẢI THU KHÁCH HÀNG
TRONG QUY TRÌNH KIỂM TOÁN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC KHOẢN PHẢI THU KHÁCH HÀNG
1. Khái quát các khoản phải thu và phân loại các khoản phải thu
Các khoản phải thu trên Báo cáo tài chính là một phần tài sản mà doanh nghiệp sẽ
thu được trong tương lai, do đó hạch toán đúng đắn các khoản phải thu là yêu cầu bắt
buộc đối với tất cả các doanh nghiệp.
Theo thông tư số 23/2005/TT-BTC ngày 30 tháng 03 năm 2005, các khoản phải thu
được phân loại thành các khoản phải thu ngắn hạn và dài hạn. Sự phân chia này căn cứ
vào thời gian thu hồi các khoản phải thu.
Ngoài ra, căn cứ vào nội dung của khoản phải thu, các khoản phải thu có thể được
chia thành 4 loại:
Phải thu khách hàng: là các khoản phải thu phát sinh trong quá trình cung cấp hàng
hóa, dịch vụ khi thời điểm bán háng và thu tiền diễn ra không đồng thời. Các khoản
phải thu khách hàng là loại tài sản của doanh nghiệp bị người mua chiếm dụng, doanh
nghiệp có trách nhiệm thu hồi trong tương lai.

Các khoản ứng trước cho người bán: là khoản phải thu mà doanh nghiệp ứng trước
cho người bán để mua hàng hóa, dịch vụ. Các khoản ứng trước cho người bán có thể
xem như phần đặt cọc để có được sự đảm bảo doanh nghiệp sẽ được cung cấp hàng
hóa, dịch vụ trong tương lai.
Các khoản phải thu nội bộ: là các khoản công nợ mà doanh nghiệp phải thu của cấp
trên hoặc đơn vị trực thuộc. Các khoản phải thu nội bộ chỉ phát sinh trong những
doanh nghiệp có phân cấp kinh doanh, quản lý và công tác kế toán.
Các khoản phải thu khác: Theo thông tư số 23, các khoản phải thu khác bao gồm:
tạm ứng nội bộ, các khoản kí cược, kí quỹ và các khoản phải thu khác.
- Tạm ứng nội bộ: là nghiệp vụ phát sinh trong nội bộ mỗi doanh nghiệp; quan hệ
thanh toán tạm ứng được xảy ra giữa doanh nghiệp với cán bộ nhân viên trong trường
hợp doanh nghiệp cho công nhân tạm ứng trước tiền hoặc vật tư để thực thi công vụ cho
kì kế toán.
- Các khoản thế chấp, kí cược, kí quỹ
Các khoản thế chấp: thường xảy ra trong hoạt động tín dụng. Khi người cho vay
không tín nhiệm khả năng thanh toán của người đi vay, họ có quyền yêu cầu bên đi vay
phải thế chấp tài sản để đảm bảo an toàn cho khoản cho vay.
Các khoản kí cược: xảy ra trong quan hệ thuê, mượn tài sản, bên cho thuê có quyền
yêu cầu bên thuê đặt cược một khoản tiền nhất định để đảm bảo sự an toàn cho tài sản.
Trường hợp tài sản cho thuê bị chiếm đoạt hoặc bị hư hỏng thì bên cho thuê có quyền thu
toàn bộ hoặc một phần tiền đặt cược tùy theo hợp đồng thỏa thuận từ trước.
Các khoản kí quỹ: thường xảy ra trong quan hệ thực hiện các hợp đồng kinh tế hoặc
giao nhận đại lý, đấu thầu. Thông thường trong quan hệ kinh tế, một bên không thực hiện
đúng nghĩa vụ của mình sẽ gây ra thiệt hại cho bên kia. Các khoản kí quỹ là khoản bồi
thường cho bên bị vi phạm khi có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế.
- Các khoản phải thu khác: bao gồm các khoản phải thu có tính chất phi hàng hóa
hoặc vãng lai như tiền phạt, tiền bồi thường của người vi phạm, khoản chi hộ tiền nhà,
điện nước cho công nhân viên, thu thập từ hoạt động tài chính chưa nhận được, các khoản
thu do đơn vị cho vay, mượn vật tư hay tiền vốn tạm thời…(Theo Giáo trình Kế toán tài
chính - Nhà xuất bản Thống kê (2005) - PGS.TS Ngô Thế Chi).
Theo thông tư 23/2005/TT-BTC, các khoản phải thu ngắn hạn là chỉ tiêu phản ánh
toàn bộ giá trị của các khoản phải thu khách hàng, trả trước cho người bán, phải thu nội

bộ, phải thu theo tiến độ kế hoạch hợp đồng xây dựng, các khoản phải thu khác có thời
hạn thanh toán dưới 1 năm hoặc 1 chu kì kinh doanh (sau khi trừ đi khoản phải thu khó
đòi).
Các khoản phải thu dài hạn là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ giá trị các khoản
phải thu dài hạn của khách hàng, các khoản phải thu nội bộ dài hạn và các khoản phải thu
dài hạn khác.
Các khoản phải thu khách hàng chỉ là một phần trong tổng số các khoản phải thu trên
Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Trong phạm vi đề tài này, em đi sâu vào nghiên
cứu các khoản phải thu khách hàng.
2. Bản chất của các khoản phải thu khách hàng
Các khoản phải thu khách hàng là các khoản thu từ bán hàng và cung cấp dịch vụ bị
người mua chiếm dụng, đây là hình thức tín dụng thương mại phổ biến trong điều kiện
cạnh tranh như hiện nay. Thời hạn, quy mô các khoản phải thu khách hàng tùy thuộc vào
chính sách tín dụng của doanh nghiệp và áp dụng với từng khách hàng.
Nợ phải thu khách hàng là khoản mục dễ xảy ra gian lận và sai sót, doanh nghiệp có
xu hướng khai tăng các khoản phải thu để tăng tài sản. Mặt khác, nợ phải thu khách hàng
được trình bày theo giá trị thuần có thể thực hiện được. Trích lập dự phòng phải thu khó
đòi thường dựa vào ước tính mang tính chủ quan nên có nhiều khả năng sai sót và khó
kiểm tra. Bản chất của khoản dự phòng các khoản phải thu khách hàng là làm tăng chi
phí quản lý doanh nghiệp trong kì lập dự phòng, làm giảm lợi nhuận của kì báo cáo. Các
doanh nghiệp cần tuân thủ nghiêm ngặt những điều khoản quy định của chế độ tài chính
hiện hành về những điều kiện lập dự phòng phải thu khó đòi.
Để xác định được chính xác giá trị thực của các khoản phải thu, doanh nghiệp phải
trích lập dự phòng hợp lý, tránh tình trạng số dư các khoản phải thu khách hàng trên
BCĐKT rất lớn nhưng trên thực tế nhiều khoản nợ không có khả năng thu hồi, dẫn đến
không phản ánh chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp.
3. Nguyên tắc ghi nhận các khoản phải thu khách hàng.
Theo “Chế độ kế toán doanh nghiệp” của Bộ Tài Chính, ban hành kèm theo quyết
định 15/2006/QĐ-BTC ngày 20 thàng 3 năm 2006 có đưa ra những nguyên tắc trong ghi