LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực Bắc sông Hậu, đồng bằng sông Cửu Long
lượt xem 71
download
Trong xã hội hiện đại, thông tin trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với con người. Thông tin là yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội. Thông tin phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Nền sản xuất xã hội càng phát triển, trình độ văn minh càng cao thì nhu cầu thông tin càng lớn về số lượng và đòi hỏi về chất lượng, về tính nhanh nhạy kịp thời ngày càng cao hơn. Sự phát triển nhanh chóng, từng phút, từng giờ của các phương tiện thông...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực Bắc sông Hậu, đồng bằng sông Cửu Long
- LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực Bắc sông Hậu, đồng bằng sông Cửu Long
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xã hội hiện đại, thông tin trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với con người. Thông tin là yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội. Thông tin phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Nền sản xuất xã hội càng phát triển, trình độ văn minh càng cao thì nhu cầu thông tin càng lớn về số lượng và đòi hỏi về chất lượng, về tính nhanh nhạy kịp thời ngày càng cao hơn. Sự phát triển nhanh chóng, từng phút, từng giờ của các phương tiện thông tin đại chúng đã góp phần tạo nên một kỷ nguyên thông tin trên toàn cầu. Người ta đón nhận thông tin từ nhiều chiều và theo những cách thức khác nhau. Trong đó, phát thanh là một trong những phương tiện truyền thông đại chúng hữu hiệu nhất. Vô tuyến truyền thanh chỉ mới trở thành công cụ ưu việt cho truyền thông đại chúng các nước công nghiệp vào cuối những năm 20 và nhất là những năm 30 của thế kỷ XX. Con sóng ngầm mãnh liệt này vẫn bị xô đẩy bởi hai động lực trên trái đất là sự phát triển công nghiệp hoá và việc tuyên truyền chính trị hoặc thương mại. Phát thanh không có được cái già dặn như báo in, không hiện đại, hấp dẫn như truyền hình, nhưng nó đòi hỏi phải được hiểu ngay tức khắc và can dự trực tiếp vào các sự kiện chính trị nổi bật. Phát thanh ra đời tạo ra cuộc bùng nổ truyền thông đại chúng lần thứ hai. Thông tin trên phát thanh không bị giới hạn, ngăn cách bởi hàng rào địa lý, hải quan… mà ngay lập tức tác động đến hàng triệu người trên khắp hành tinh. Trước đây, nhiều nhà khoa học đã nhận định, thế kỷ XXI là thế kỷ của phát thanh. Quả thực, tại Việt Nam, sự phát triển hệ thống phát thanh từ trung ương đến địa phương đã làm cho đời sống báo chí trong nước ngày càng phong phú và sôi động. Công nghệ sản xuất các chương trình phát thanh trực tiếp (PTTT) xuất hiện phổ biến trong cả nước từ những năm 1997 tiếp tục khẳng định phát thanh còn đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội, là phương tiện thông tin - giải trí hấp dẫn có khả năng chia nhỏ đối tượng công chúng. Một minh chứng cụ thể là trong khi phần đông các tỉnh, thành chưa thực hiện được các chương trình truyền hình trực tiếp hàng ngày, nhưng phát thanh
- của chính địa phương đó lại tổ chức được đều đặn từ 30 phút đến 60 phút trực tiếp trong ngày như các Đài Hải Phòng, Hà Nội, Ninh Bình, Hà Tây... ở phía Bắc và các Đài Lâm Đồng, Đồng Tháp, Vĩnh Long... ở phía Nam. Bên cạnh chức năng chính là chuyển tải thông tin, hệ thống truyền thông đại chúng nói chung và phát thanh nói riêng còn có chức năng quan trọng là tuyên truyền và định hướng tư tưởng tình cảm, hình thành lối sống tích cực trong công chúng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định quan điểm: "Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản và phát hành sách trên tất cả các vùng, chú ý nhiều hơn đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số" [17, tr.214]. Trong quản lý hành chính cũng như về vị trí địa lý, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) gồm 13 tỉnh, thành phố, trong đó có 6 tỉnh Bắc sông Hậu (BSH). Đây là cách phân chia theo cụm thi đua của hệ thống phát thanh truyền hình (PT-TH) trong cả nước. Đó là các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh và Đồng Tháp, đều nằm ở phía bắc sông Hậu Giang. Cùng với phát thanh trên cả nước, trong những năm qua, phát thanh các tỉnh khu vực ĐBSCL, trong đó có các tỉnh BSH, đã có nhiều cố gắng thực hiện chức năng thông tin - giải trí, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển địa phương. Thế nhưng, trong xu thế phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông đại chúng trong cả nước, mặc dù có thế mạnh riêng nhưng phát thanh của các tỉnh này vẫn chưa thể chiếm ưu thế vượt trội trong khu vực. Riêng khu vực ĐBSCL, nhờ địa hình bằng phẳng, việc phủ sóng phát thanh và truyền hình khá thuận lợi. Người dân trong khu vực có thể tiếp cận được chương trình của nhiều đài địa phương khác nhau. Tuy nhiên, cũng như nhiều địa phương trong cả nước, ở khu vực này truyền hình được quan tâm đầu tư nhiều hơn do thu được nhiều lợi nhuận qua quảng cáo. Hơn nữa, do có những ưu thế vượt trội trong thông tin nên truyền hình luôn nhận được sự quan tâm, ưu ái của các cấp các ngành ở địa phương. Tình hình đó đã khiến cho không chỉ những người trực tiếp lãnh đạo, quản lý ở các Đài Phát thanh và Truyền hình (PT&TH) mà ngay cả những phóng viên (PV), biên
- tập viên (BTV) trực tiếp thực hiện sản xuất chương trình cũng quan tâm đến truyền hình nhiều hơn mà coi nhẹ phát thanh. Mặc dù cho đến nay, nếu so với các loại hình truyền thông đại chúng khác, phát thanh vẫn là loại hình có nhiều công chúng nhất, nhưng rõ ràng điều đó chưa đủ để cho loại hình này tiếp tục phát triển. Tình hình kể trên đã đặt phát thanh đài tỉnh vào cái thế phải thường xuyên cạnh tranh để khẳng định sự tồn tại của mình. Tuy nhiên, đến nay đây vẫn đang là một trong những vấn đề nan giải nhất mà những người làm phát thanh các tỉnh BSH và hầu hết những người đang làm phát thanh trong cả nước nói chung chưa tìm ra lời giải đáp thỏa đáng. Làm thế nào để phát thanh tiếp tục phát triển? Bằng cách nào để nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh? Phát thanh các tỉnh BSH sẽ đi theo hướng nào? Xuất phát từ những lý do đó, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài "Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực Bắc sông Hậu, đồng bằng sông Cửu Long" cho luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cùng với nền báo chí cả nước, báo chí khu vực ĐBSCL nói chung và các tỉnh BSH nói riêng có sự phát triển mạnh mẽ và có nhiều đóng góp quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của khu vực. Tuy nhiên, đến nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động báo chí ở khu vực này. Trong quá trình khảo sát các tư liệu liên quan để thực hiện luận văn này, chúng tôi thấy đến nay đã có một số công trình nghiên cứu ít, nhiều có liên quan đến đề tài của chúng tôi, cụ thể như sau: Về các công trình nghiên cứu, lý luận, giáo trình đã xuất bản thành sách đã có: - Cuốn chuyên luận Nghề báo nói của tác giả Nguyễn Đình Lương do Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành năm 1993. Nội dung sách gồm bảy phần, trong đó đã đề cập một cách tổng quát về đặc trưng, phương pháp, thể tài và những vấn đề thuộc về nguyên lý, kỹ năng và quy trình nghề báo phát thanh; phát thanh với thính giả v.v... - Tài liệu Hướng dẫn sản xuất chương trình phát thanh" của Lois Baird, Trường Phát thanh Truyền hình và Điện ảnh Ôxtrâylia, do Đài Tiếng nói Việt Nam (TNVN) dịch và lưu hành nội bộ năm 2000.
- - Giáo trình Báo chí phát thanh do 13 tác giả ở Phân viện Báo chí và Tuyên truyền và Đài TNVN viết (do Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành năm 2002) có tổng cộng 20 chương, đề cập một cách khá toàn diện về những vấn đề của phát thanh Việt Nam hiện đại. - Sách chuyên luận Sáng tạo tác phẩm báo chí của tác giả Đức Dũng (do Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành năm 2002) có chương 2 đề cập đến vấn đề "Nói và viết cho phát thanh, truyền hình". - Chuyên luận: Lý luận báo phát thanh của Đức Dũng (do Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành năm 2003) gồm 9 chương, trong đó đề cập đến những vấn đề của đặc trưng loại hình và các thể loại báo phát thanh. - Sách chuyên luận Các thể loại báo chí phát thanh (của V.V. Xmirnôp, Nga), được Nhà xuất bản Thông tấn dịch và phát hành năm 2004. - Hai tài liệu: Phát thanh - Truyền thanh nông thôn và Cẩm nang hướng dẫn phát thanh trực tiếp, (do Ban Địa phương và Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng nghiệp vụ phát thanh của Đài TNVN dịch và lưu hành nội bộ) đều đã được tái bản năm 2005. - Tài liệu: 261 phương pháp đào tạo phát thanh viên và người dẫn chương trình, (Học viện Truyền thông Bắc Kinh, Đoàn Như Trác biên dịch) đã được Đài TNVN phát hành năm 2005. - Giáo trình: Phát thanh trực tiếp, (do GS,TS. Vũ Văn Hiền và TS. Đức Dũng chủ biên) đã được Nhà xuất bản Lý luận chính trị in và phát hành năm 2007. Về các luận văn thạc sĩ có đề cập đến những vấn đề của báo chí phát thanh, truyền hình địa phương phía Nam, đến nay đã có một số công trình nghiên cứu sau: - Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Lâm Thiện Khanh (thực hiện năm 2003 tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền) có tiêu đề: Nâng cao chất lượng các tin tức thời sự sản xuất tại Đài truyền hình Cần Thơ. - Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Lê Thanh Trung (thực hiện năm 2004 tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền) có tiêu đề: Tính thuyết phục và hiệu quả của truyền hình trực tiếp ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
- - Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Dương Thị Thanh Thủy (thực hiện năm 2005 tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền) có tiêu đề: Tổ chức sản xuất chương trình thời sự truyền hình ở Đài Phát thanh và Truyền hình Đồng Tháp. - Luận văn Thạc sĩ Báo chí của Nguyễn Cẩm Nam (thực hiện năm 2005 tại Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội) có tiêu đề: Tác động của văn hóa bản địa Nam Bộ trong công tác tổ chức và tiếp nhận chương trình thời sự, văn hóa - xã hội trên các Đài truyền hình Đông Nam Bộ (2001-2006). - Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Phạm Thị Thanh Phương (thực hiện năm 2008 tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền) có tiêu đề: Hệ thống phát thanh, truyền hình các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Khóa luận chuyên ngành Báo chí của Nguyễn Văn Bảy, thực hiện năm 2009, với tiêu đề: Chương trình Thời sự phát thanh Đài Phát thanh và Truyền hình Bến Tre, đã đề cập và phân tích một cách có hệ thống chương trình thời sự phát thanh. Nhưng như tên gọi của nó, đề tài nghiên cứu này chỉ dừng lại ở phạm vi chương trình thời sự của một trong số sáu đài tỉnh thuộc khu vực BSH. Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào trực tiếp đề cập đến phát thanh cấp tỉnh ở khu vực BSH nói riêng và ở khu vực ĐBSCL nói chung. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là chất lượng các chương trình phát thanh tại các tỉnh thuộc khu vực BSH, được biểu hiện qua các yếu tố: nội dung, hình thức các chương trình và kể cả về chất lượng kỹ thuật. - Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi của đề tài được được giới hạn trong hoạt động sản xuất các chương trình phát thanh tại các đài PT&TH ở 6 tỉnh thuộc khu vực BSH gồm các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long và Đồng Tháp. Thời gian khảo sát được giới hạn từ tháng 6.2008 đến tháng 6.2009. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của luận văn này là chỉ ra những mặt thành công, hạn chế và tìm kiếm các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả chương trình phát thanh tại sáu đài cấp tỉnh BSH thuộc khu vực ĐBSCL.
- - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu nêu trên, tác giả luận văn cần phải hoàn thành những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: + Khảo sát, nghiên cứu những vấn đề của lý luận báo chí, truyền thông - đặc biệt là lý luận về báo chí phát thanh để rút ra những luận điểm khoa học phục vụ cho công việc nghiên cứu, khảo sát thực tế. + Khảo sát thực trạng sản xuất chương trình phát thanh tại sáu đài PT&TH cấp tỉnh khu vực BSH, qua đó khẳng định những thành công, chỉ ra những hạn chế trong các chương trình phát thanh của từng đài. + Tìm hiểu ý kiến của những người đang trực tiếp lãnh đạo, quản lý và đội ngũ PV, BTV làm phát thanh ở sáu đài cấp tỉnh khu vực BSH. + Thăm dò dư luận xã hội đối với công chúng phát thanh ở sáu tỉnh BSH. + Bước đầu nêu ra những giải pháp, khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh cấp tỉnh của các đài tỉnh BSH, ĐBSCL. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở các đường lối, chủ trương và các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về báo chí cách mạng Việt Nam. Những vấn đề cơ sở lý luận báo chí truyền thông nói chung và lý luận báo chí phát thanh nói riêng cũng được vận dụng như những cơ sở quan trọng trong quá trình nghiên cứu. - Phương pháp cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ vận dụng tổng hợp các phương pháp sau đây: + Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng để hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quan điểm báo chí nói chung và về lý luận báo chí phát thanh nói riêng. + Phương pháp khảo sát thực tế được sử dụng để khảo sát thực trạng hoạt động phát thanh đài tỉnh BSH. + Các phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh được sử dụng trong việc xem xét, đánh giá, phân tích các chương trình phát thanh ở các đài khảo sát, từ đó rút ra những kết luận khoa học cần thiết phục vụ cho các luận điểm được triển khai trong luận văn. + Các phương pháp điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu được sử dụng đối với
- công chúng (khoảng 600 phiếu) và những nhà quản lý, lãnh đạo, các PV, BTV phát thanh (khoảng 66 phiếu) tại các đài được khảo sát để từ đó thu thập những ý kiến thực tế, cung cấp cho việc triển khai các luận điểm khoa học cần thiết trong luận văn. Tất cả các phương pháp nêu trên đều có tác động tích cực và hiệu quả vào kết quả nghiên cứu. 6. Đóng góp mới của đề tài Đây là đề tài nghiên cứu khoa học đầu tiên về chất lượng các chương trình phát thanh ở các đài tỉnh BSH, ĐBSCL. Việc khẳng định những thành công, hạn chế và qua đó tìm ra nguyên nhân của những ưu điểm, nhược điểm trong các chương trình phát thanh được khảo sát cùng với những giải pháp, khuyến nghị được nêu ra cũng là những đóng góp mới của đề tài nghiên cứu này, có thể góp phần trực tiếp vào việc nâng cao chất lượng hoạt động của chương trình phát thanh đài tỉnh trong khu vực. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Về lý luận: Đề tài là sự vận dụng tổng hợp những kiến thức về lý luận báo chí, truyền thông đã được trang bị trong chương trình đào tạo thạc sĩ để giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn đời sống báo chí Việt Nam hiện đại. Nếu thực hiện thành công, đề tài nghiên cứu này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà trường và các trung tâm có đào tạo về phát thanh trong cả nước. - Về thực tiễn: Đây là đề tài đầu tiên khảo sát một cách có hệ thống về chất lượng các chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực BSH, ĐBSCL. Với những cứ liệu thực tế phong phú, luận văn có thể cung cấp các dữ liệu cần thiết để các cấp lãnh đạo, quản lý có chủ trương, định hướng quản lý, lãnh đạo, phù hợp đối với hoạt động quan trọng này. Bức tranh thực tế sinh động về các chương trình phát thanh đài tỉnh BSH có thể tạo ra những so sánh cần thiết cho các đài ở khu vực này có cơ sở tham khảo, đối chiếu và vận dụng để nâng cao chất lượng chương trình của mình. Đồng thời, luận văn còn có thể cung cấp dữ liệu thực tế, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu, xem xét để điều chỉnh, nâng cao chất lượng công tác tổ chức, điều hành,
- quản lý của lãnh đạo của các đài PT&TH không chỉ trong khu vực này mà trong toàn bộ ĐBSCL và trong cả nước. Việc nghiên cứu đề tài này cũng là cơ hội để tác giả luận văn có thể nâng cao kiến thức sau thời gian học cao học Báo chí tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 8. Bố cục của luận văn Trong luận văn này, ngoài Mở đầu, Kết luận, những nội dung chính sẽ được trình bày trong 3 chương, 6 tiết, 79 trang.
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT THANH CẤP TỈNH KHU VỰC BẮC SÔNG HẬU, ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM, THUẬT NGỮ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN 1.1.1. Một số thuật ngữ, khái niệm 1.1.1.1. Thuật ngữ phát thanh và báo phát thanh Chúng ta đều biết báo chí nói chung bao gồm báo in, báo phát thanh, báo truyền hình ( còn gọi là phát thanh, truyền hình) và các loại báo chí điện tử khác. Riêng báo phát thanh được hiểu như "một kênh truyền thông, một loại hình báo chí điện tử hiện đại mà đặc trưng cơ bản của nó là dùng thế giới âm thanh phong phú, sinh động để chuyển tải thông điệp nhờ sử dụng kỹ thuật sóng điện từ và hệ thống truyền thanh, tác động vào thính giác của người nghe" [30, tr.51]. Các nước phương Tây thường chia phát thanh thành các loại: đài phát thanh thương mại, đài phát thanh quảng cáo, đài phát thanh giáo dục, đài phát thanh chính trị xã hội… Thông thường, mỗi nước đều có hệ thống phát thanh của nhà nước để thực hiện những nhiệm vụ công cộng, phục vụ cho các mục đích chính trị, xã hội của chính phủ. Người ta còn gọi đó là đài phát thanh quốc gia hay đài phát thanh công cộng. Quy mô và phạm vi ảnh hưởng của các đài phát thanh tuỳ thuộc vào điều kiện chính trị của từng quốc gia cụ thể. Các đài phát thanh còn lại thuộc sở hữu tư nhân. Khuynh hướng chung ở các nước, phần lớn các đài phát thanh lớn đều tồn tại trong cơ cấu công ty hay tập đoàn truyền thông. Một số tổ chức tôn giáo, chính trị, xã hội cũng lập ra đài phát thanh. Ở Việt Nam, toàn bộ hệ thống phát thanh đều thuộc sở hữu nhà nước, do Chính phủ và Ủy ban nhân dân (UBND) các địa phương quản lý. Đài TNVN và các đài khu vực là đài phát thanh quốc gia. Các đài phát thanh địa phương bao gồm đài cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; đài cấp huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; cấp xã, phường, hợp tác xã, thị trấn, làng bản.... Riêng hai cấp huyện, thị và cấp xã, phường còn được gọi
- chung là: hệ thống đài cơ sở. 1.1.1.2. Thuật ngữ về kỹ thuật phát thanh Về mặt kỹ thuật, trước đây người ta chia phát thanh thành hai loại AM và FM. AM (Amplitude Modulation) là kỹ thuật điều biên được áp dụng trong phát thanh sóng dài, sóng trung và sóng ngắn. FM (Frequency Modulation) là kỹ thuật điều tần được áp dụng trong phát thanh sóng cực ngắn. Phần lớn các đài phát thanh AM có công suất máy phát lớn và tầm hoạt động xa hơn các đài FM. Tuy nhiên, chất lượng sóng của loại phát thanh này bị ảnh hưởng bởi nhiễu tĩnh. Đài FM phát sóng thẳng, hầu như không bị ảnh hưởng nhiều nên chất lượng tín hiệu rất tốt. Vì thế, nó truyền các chương trình âm thanh nổi tốt hơn các đài AM. Việc đầu tư cho các đài FM lại thấp. Tuy nhiên, đài FM có phạm vi phủ sóng nhỏ, chỉ thích hợp với các trung tâm đô thị lớn, các khu vực đông dân cư. Những năm 40 của thế kỷ XX, sự ra đời của sóng FM đánh dấu bước nhảy vọt thứ nhất với những ưu thế vượt trội so với AM. Chất lượng sóng và chi phí đầu tư, khai thác lại rẻ hơn, gọn nhẹ hơn. Để phát huy tối đa vùng phủ sóng và đảm bảo chất lượng, nhà sản xuất, quản lý phát thanh đã kết hợp hài hòa giữa sóng trung, sóng ngắn và cực ngắn FM. Ngày nay, các nước trên thế giới và ở Việt Nam đã chuyển sang sử dụng phát thanh số DAB (Digital Audio Broadcasting). Đây là bước nhảy vọt thứ hai của công nghệ phát thanh. Những năm cuối thế kỷ XX, sự phát triển của phát thanh số đã đưa kỹ thuật phát thanh sang một giai đoạn mới. Hiện nay, phát thanh số DAB đã đi vào cuộc sống. Phát thanh số đã khắc phục được những nhược điểm cơ bản của phát thanh truyền thống, như: can, nhiễu, méo, pha đinh trong truyền sóng, giao thoa. Đặc biệt là giải quyết được tình trạng chen chúc của giải tần số. Phát thanh số vượt trội hẳn về chất lượng âm thanh, hơn hẳn FM stereo và tương đương với đĩa CD. Phát thanh số còn có khả năng truyền dữ liệu bằng văn bản, ảnh, hình. Máy thu thanh số trở thành phương tiện đa năng giúp con người tiếp nhận nhiều thông tin khác nhau. "Có thể nói, phát thanh số là phát thanh có chất lượng sóng cao, không chỉ đáp ứng yêu cầu thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thưởng thức, giải trí của con người ngày càng cao, ngày càng khó tính" [30, tr.16].
- Tính đến năm 2000, trên thế giới có 30 nước phát thử và thường xuyên phát thanh kỹ thuật số. Singapore là nước đi đầu về phát thanh số ở khu vực Châu Á. Tuy nhiên, có hai vấn đề nan giải của phát thanh số trên thế giới là lựa chọn tiêu chuẩn thích hợp và sản xuất radio với giá phải chăng. Xu hướng của các nhà sản xuất là giảm đến mức tối đa giá thành radio số để người tiêu dùng có thể sử dụng rộng rãi. Hiện nay, ở Việt Nam, phần lớn các đài đều phát song song hai loại sóng FM và AM. Theo Qui hoạch truyền dẫn, phát sóng phát thanh, truyền hình đến năm 2020, "công nghệ số được áp dụng rộng rãi trong truyền dẫn, phát sóng phát thanh" [6, tr.3]. Vấn đề số hóa hệ thống kỹ thuật phát thanh Việt Nam đã được Đài TNVN quan tâm nghiên cứu từ những năm đầu thập kỷ chín mươi của thế kỷ XX. Cùng với việc thực hiện qui hoạch phủ sóng và áp dụng công nghệ phát thanh hiện đại, Đài TNVN đã từng bước trang bị và đưa vào sử dụng hệ thống sản xuất chương trình, hệ thống thu thập tin tức và truyền dẫn qua vệ tinh bằng kỹ thuật số. Nhiều đài địa phương đã năng động, tiếp cận nhanh và áp dụng có hiệu quả kỹ thuật DAB trong sản xuất chương trình. 1.1.1.3. Phương thức tác động của phát thanh Xét về phương thức tác động, phát thanh là loại hình báo chí sử dụng kỹ thuật sóng điện từ và hệ thống truyền thanh truyền đi âm thanh, trực tiếp tác động vào thính giác của đối tượng tiếp nhận. Để trả lời cho câu hỏi "Radio là gì?", tác giả Lois Baird trong cuốn sách Hướng dẫn sản xuất chương trình phát thanh (Trường Phát thanh, truyền hình và điện ảnh Australia) đã nêu và phân tích 11 đặc điểm của loại hình báo chí này. Đó là: - Radio có hình ảnh - Radio là thân thiện - Radio dễ tiếp cận và dễ mang - Radio là trực tiếp - Radio có ngôn ngữ riêng của mình - Radio có tính tức thời - Radio không đắt tiền - Radio có tính lựa chọn
- - Radio gợi lên cảm xúc - Radio làm công việc thông tin và giáo dục - Radio là âm nhạc Trong cuốn sách Lý luận báo phát thanh, tác giả Đức Dũng nêu ra các đặc điểm cơ bản của loại hình báo chí phát thanh như sau: - Tỏa sóng rộng: là sự quảng bá nhờ phủ sóng điện từ trên phạm vi rộng lớn với tốc độ tương đương tốc độ ánh sáng. Nhờ đó, phát thanh không có giới hạn về khoảng cách, vì thế nó mang tính xã hội hóa rất cao. - Thông tin nhanh, tiếp nhận đồng thời: Thông tin được truyền qua sóng điện từ và hệ thống truyền thanh có thể rút ngắn mọi khoảng cách ở phạm vi toàn cầu. Trong một số trường hợp, như tường thuật trực tiếp, cầu truyền thanh, phát thanh có thể ngay lập tức thông tin cho công chúng biết về sự việc ở chính thời điểm nó đang diễn ra. Mặt khác, thính giả cùng một lúc được nghe thông tin ở cùng một thời điểm, tiếp nhận cùng một lúc. - Thông tin phụ thuộc vào qui luật thời gian: Khác với khi đọc báo, người đọc có thể chủ động xem thông tin ở bất cứ trang nào. Với thính giả, họ bị phụ thuộc vào qui luật của quá trình thông tin trên radio. Họ phải nghe ch ương trình từ đầu tới cuối và hoàn toàn bị động. Nói cách khác, trong một chương trình phát thanh, thính giả chỉ được nghe mỗi thông tin phát ra một lần theo trình tự thời gian. - Sống động, riêng tư và thân mật: Đặc điểm này thể hiện rõ nhất khi so sánh phát thanh với báo in. Đối với phát thanh, công chúng được nghe thông tin qua giọng đọc của con người, bao gồm các kỹ năng về cao độ, cường độ, tiết tấu, ngữ điệu… Giọng nói tự nó đã có sức thuyết phục bởi tính chất sinh động, tạo ra sức hấp dẫn để thu hút thính giả đến với chương trình. Mặt khác, các chương trình phát thanh đều hướng đến số đông nhưng mỗi thính giả chỉ lắng nghe với tư cách cá nhân. - Sử dụng âm thanh tổng hợp, bao gồm lời nói, tiếng động, âm nhạc. Đây cũng là đặc trưng chung của báo điện tử (bao gồm cả phát thanh và truyền hình) trong tương quan so sánh với báo in. Truyền hình cũng có đầy đủ những đặc điểm trên, thậm chí có những đặc điểm còn thể hiện một cách đậm đặc hơn, sinh động hơn so với phát thanh.
- Tuy nhiên vẫn có những điểm khác biệt. Với truyền hình, hình ảnh luôn giữ vị trí số một, âm thanh chỉ có nhiệm vụ bổ trợ. Phát thanh, âm thanh quan trọng hơn. Phát thanh sử dụng âm thanh tổng hợp (lời nói, tiếng động, âm nhạc) tác động vào thính giác. Tác giả V.V. Xmirmốp, trong cuốn Các thể loại báo chí phát thanh, cho rằng: "sự cảm thụ thông tin ngôn ngữ bằng thính giác được làm cho phong phú thêm bằng tác động của trí tưởng tượng" [43, tr.17]. Như vậy, âm thanh "không chỉ là phương thức tác động duy nhất mà còn là đặc trưng cơ bản của phát thanh trong tương quan so sánh với các loại hình báo chí khác" [30, tr.84]. Như vậy, với đặc điểm là tác động trực tiếp đến người nghe bằng hệ thống âm thanh, phát thanh (radio) có nhiều lợi thế so với các loại hình truyền thông khác như báo in, báo hình, báo mạng điện tử. Radio có thể đến với công chúng ở mọi lúc mọi nơi, trên đồng ruộng, trên xe hay trong nhà… Mặt khác, giá thành của phương tiện này cũng rẻ hơn rất nhiều so với máy thu hình và ai cũng có thể trang bị cho mình một chiếc radio để làm bạn. 1.1.1.4. Khái niệm về chương trình phát thanh Chương trình phát thanh là sự tổ chức các tin tức, bài vở, tài liệu cùng các chất liệu khác trong phát thanh theo thời lượng nhất định, mục đích nhất quán và nhằm vào đối tượng công chúng cụ thể. "Thông thường một chương trình phát thanh mở đầu bằng nhạc hiệu và kết thúc bằng lời chào tạm biệt. Ngay sau nhạc hiệu là lời x ướng của phát thanh viên, chỉ ra tên hoặc đặc trưng của chương trình" [34, tr.117-118]. Trong thực tế, tùy theo tiêu chí phân loại, mỗi chương trình phát thanh có đối tượng tác động riêng, có nội dung phản ánh cũng như phương thức thực hiện riêng. Thính giả dễ dàng phân biệt chương trình phát thanh Thanh niên với Câu lạc bộ những người cao tuổi; chương trình Thời sự với Diễn đàn các vấn đề xã hội… Sự phân công và chuyên môn hóa trong quá trình lao động tạo ra cho các chương trình phát thanh có sự phân định rõ ràng. Quá trình tiếp nhận của công chúng gắn liền với các ch ương trình phát thanh. Người nghe có thể nắm bắt được thông tin thời sự một cách nhanh nhất qua chương trình thời sự và họ chờ đợi những hướng dẫn cụ thể qua chương trình chuyên đề. Một chương trình phát thanh thường có những đặc điểm sau đây:
- - Mở đầu bằng nhạc hiệu hoặc nhạc ch ương trình. Nhạc hiệu như một thông báo chính thức, giúp người nghe phân biệt đài phát thanh quốc gia này với quốc gia khác, tỉnh này với tỉnh khác. Nhạc chương trình để phân biệt các chương trình khác nhau của một đài. Người nghe sẽ nhận diện các chương trình phát thanh ngay từ phút đầu tiên thông qua nhạc hiệu hoặc nhạc chương trình. - Lời xướng của phát thanh viên, người dẫn chương trình: Lời xướng được dùng như một thông báo ngắn gọn cho tên của chương trình phát thanh. Các đài có cách lựa chọn riêng, lời xướng bao gồm các yếu tố, như: tên chương trình, địa chỉ của đài, tần số phát sóng... Sau lời xướng Đây là Đài Phát thanh Bến Tre - Tiếng nói của nhân dân quê hương Đồng khởi cùng với nhạc hiệu hào hùng của bài hát Tiểu Đoàn 307 vang lên, báo hiệu bắt đầu chương trình phát thanh của Đài PT&TH Bến Tre. - Cấu trúc của chương trình phát thanh: Mỗi chương trình phát thanh đều ổn định về cấu trúc. Với chương trình thời sự thường có 3 phần: tin - bài - tiết mục được phân chia bằng những đoạn nhạc cắt. Chương trình chuyên đề thường có hai phần trở lên và được phân cách bằng nhạc cắt. Với các chương trình có thời lượng lớn, số tiết mục có thể tăng. - Lời kết của chương trình hoặc lời chào thính giả. Cách chào và hẹn gặp lại tạo sự gắn kết thính giả với chương trình và duy trì sự chú ý của người nghe đối với vấn đề họ quan tâm. Trong thực tế đang tồn tại nhiều cách phân dạng các chương trình phát thanh. Theo tác giả Tạ Ngọc Tấn, "Căn cứ vào đặc điểm nội dung, mục đích thông tin và đối tượng người ta chia chương trình phát thanh thành 4 loại chính: chương trình tin tức, thời sự tổng hợp; chương trình chuyên đề; chương trình giải trí và chương trình giáo dục" [34, tr.118]. Việc phân loại các chương trình theo các tiêu chí đặc điểm nội dung, mục đích thông tin và đối tượng theo tác giả, "chỉ mang tính tương đối, dựa vào tính nổi trội của những đặc điểm cụ thể. Vì thế, ranh giới giữa các chương trình chỉ mang tính tương đối" [34, tr.119]. Trong chương X của cuốn Báo phát thanh, thạc sĩ Vũ Thuý Bình cho rằng: Nếu lấy tiêu chí là lĩnh vực phản ánh, sẽ có: Chương trình kinh tế, văn
- hóa, an ninh quốc phòng… Theo tiêu chí lứa tuổi sẽ có: Chương trình Thiếu nhi, Thanh niên, Câu lạc bộ người cao tuổi… Phân chia theo giới có Chương trình Thanh niên, Phụ nữ…Và nếu chia theo tính chất của thông tin và năng lực phản ánh sẽ có chương trình thời sự, chương trình chuyên đề [30, tr.219]. Dựa vào phương pháp và kỹ thuật sản xuất, người ta chia chương trình phát thanh thành ba loại: chương trình sản xuất tại studio; chương trình sản xuất trực tiếp tại hiện trường; chương trình kết hợp giữa studio và hiện trường. Ngoài ra, trong thực tế các đài phát thanh còn dành thời lượng cho quảng cáo, dưới các hình thức chương trình quảng cáo độc lập hoặc quảng cáo đơn lẻ phát xen giữa các chương trình hay kết hợp trong chương trình. 1.1.1.5. Công chúng phát thanh Công chúng phát thanh còn gọi là thính giả hoặc bạn nghe đài. "Khái niệm công chúng, bạn đọc, bạn nghe và xem đài nói chung được dùng để chỉ một nhóm lớn trong xã hội, nhưng thường ngày, người ta có thể dùng để chỉ cụ thể một người hay một nhóm nhỏ nào đó" [30, tr.95]. Công chúng phát thanh có thể được hiểu là nhóm lớn xã hội được chương trình phát thanh tác động, hoặc nhóm lớn mà chương trình phát thanh hướng tới để tác động. Có công chúng tiềm năng và công chúng thực tế, công chúng trực tiếp và công chúng gián tiếp. Công chúng tiềm năng là nhóm lớn xã hội mà chương trình nhắm vào, tác động lôi kéo... Nhưng trong thực tế, không phải tất cả các thành viên nhóm lớn xã hội mà chương trình nhắm vào đều tiếp nhận được các chương trình phát thanh. Hay nói cách khác, chỉ một phần trong nhóm lớn mà chương trình phát thanh hướng vào, tiếp nhận được sự tác động. Bộ phận ấy gọi là công chúng thực tế. Ở bình diện khác lại có công chúng trực tiếp và gián tiếp. Công chúng trực tiếp là những người trực tiếp tiếp nhận các chương trình phát thanh. Còn công chúng gián tiếp là những người được công chúng trực tiếp kể lại những thông điệp mà họ tiếp nhận qua các chương trình phát thanh. Do đó, các chương trình trên radio vừa nhắm vào những đối tượng cụ thể vừa nhắm vào quảng đại quần chúng. Chương trình phát thanh phụ nữ nhằm vào nhóm công chúng phụ nữ, nhưng kể cả nam giới cũng không phải vô tình nghe được mà nghe theo sở thích và nhu cầu.
- Người ta nói rằng, viên đạn có thể bắn mà không trúng đích nhưng sóng phát thanh đã phủ và có radio trong tay thì bất kỳ ai cũng có thể nghe được, chỉ có hai rào cản, đó là ngôn ngữ và năng lực của thính giác. Sản xuất chương trình phát thanh bao giờ cũng phải hướng đến công chúng. Nếu chương trình không hấp dẫn, không lôi kéo, không thuyết phục được người nghe thì họ tắt radio và làm việc khác. Do đó, công chúng phát thanh chính là người nuôi dưỡng chương trình phát thanh, là người đánh giá, thẩm định cuối cùng chất lượng chương trình phát sóng. Nói cách khác, công chúng phát thanh chính là đối tác của đài phát thanh. Mất công chúng thì đài không còn lý do để tồn tại. Chính vì thế, phải hiểu và phải nghiên cứu công chúng một cách thường xuyên và nghiêm túc. 1.1.2. Một số thuật ngữ, khái niệm trong tiêu đề của luận văn Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện Ngôn ngữ học, chất lượng là "cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc". Ví dụ: Nâng cao chất lượng giảng dạy. Đánh giá chất lượng sản phẩm. Theo Tự điển Tiếng Việt của Vĩnh Tịnh, chất lượng là "giá trị về mặt lợi ích, khác với số lượng. Bài giảng có chất lượng". Cũng theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện Ngôn ngữ học, nâng có nghĩa là "đưa lên cao" và "làm cho cao hơn trước, đưa lên mức cao hơn". Nâng cao theo Tự điển Tiếng Việt của Vĩnh Tịnh là "đưa lên mức cao. Nâng cao mức sinh hoạt ". Nâng cao chất lượng ở đây có nghĩa là làm cho giá trị của một sự vật, sự việc, một con người được nâng lên, đưa giá trị phẩm chất đó lên mức cao hơn. Như vậy, nâng cao chất lượng chương trình phát thanh là làm cho giá trị của chương trình được nâng lên mức cao hơn. Chương trình phát thanh là sản phẩm của báo chí truyền thông, do đó giá trị của chương trình phát thanh chính là sự tác động trực tiếp về nội dung tư tưởng, tạo ra sự lan toả thông tin, mang lại hiệu quả cao trong xã hội. Một tác phẩm báo chí hay bao giờ cũng là một tác phẩm báo chí có nội dung t ư tưởng tốt và hình thức thể hiện tốt. Công chúng tiếp nhận tác phẩm báo chí có nhu cầu thoả mãn sự hưởng thụ cái hay về nội dung tư tưởng và hình thức thể hiện. Nói cách khác, nâng cao chất lượng chương trình phát thanh chính là làm cho nội dung và hình thức thể hiện của chương trình ngày càng tốt hơn, hay hơn và thu hút sự quan tâm theo dõi của công chúng
- ngày càng nhiều hơn. Đài cấp tỉnh là một thuật ngữ quen thuộc ở nước ta. Thuật ngữ này dùng để chỉ một cấp nằm trong hệ thống truyền thanh 4 cấp, bao gồm: đài quốc gia, đài cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; đài truyền thanh cấp huyện, thị và đài truyền thanh cấp xã, phường, thị trấn. Hệ thống này thuộc sự quản lý của nhà nước từ trung ương đến địa phương. Trong đó, đài tỉnh thuộc sự quản lý của UBND tỉnh. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ đề cập đến chương trình phát thanh của các đài tỉnh thuộc khu vực BSH, ĐBSCL. Khu vực BSH, ĐBSCL bao gồm sáu tỉnh: Bến Tre, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Trà Vinh và Vĩnh Long. Các địa phương này đều nằm ở bờ bắc con sông Hậu Giang. Bắc sông Hậu không phải là cách phân chia theo địa giới hành chính mà chỉ là tên gọi của "Cụm thi đua số 8 trong ngành Phát thanh - Truyền hình cả nước" [4, tr.2-3]. Theo định kỳ, hàng năm cụm BSH tổ chức sơ kết hoạt động 6 tháng và hội nghị tổng kết cuối năm, bình xét thi đua, Đài TNVN, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài truyền hình kỹ thuật số đăng ký thi đua, tổ chức sơ kết, tổng kết phong trào thi đua, báo cáo với Bộ Thông tin và Truyền thông khen thưởng. Năm 2009, Giám đốc Đài PT&TH Long An là Cụm trưởng Cụm thi đua số 8. 1.1.3. Đặc điểm của khu vực Bắc sông Hậu, đồng bằng sông Cửu Long Đồng bằng sông Cửu Long là phần cuối cùng của lưu vực sông Mêkông, một trong những châu thổ rộng, phì nhiêu ở Đông Nam Á và thế giới. Toàn khu vực có diện tích đất tự nhiên 3.960.000 ha, bằng khoảng 12% diện tích đất tự nhiên của cả nước. Ngoài thuận lợi lớn là có đất đai màu mỡ, nước ngọt dồi dào, khí hậu hiền hoà, vùng đất này còn có bờ biển dài hơn 700 km, từ Gò Công tỉnh Tiền Giang đến Hà Tiên, Kiên Giang, với 8 tỉnh ven biển, hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ, thuận lợi cho phát triển kinh tế biển. Đây là vùng châu thổ thấp, được hình thành chủ yếu do phù sa của hai nhánh sông Tiền và sông Hậu (thuộc hạ lưu sông Mêkông) bồi đắp. Khi đổ ra biển chia thành 9 nhánh nên được gọi là sông Cửu Long. Sông Hậu Giang chia châu thổ ra hai vùng, gọi là Nam sông Hậu và Bắc sông Hậu. Nam sông Hậu gồm thành phố Cần Thơ và 6 tỉnh Hậu Giang, An Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, và Cà Mau (thành phố Cần Thơ và
- tỉnh Hậu Giang được tách ra từ tỉnh Cần Thơ cũ từ đầu năm 2004). Sáu tỉnh còn lại nằm ở bờ bắc con sông Hậu là Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long và Đồng Tháp. Hậu Giang là con sông phân lưu cấp I của hệ thống sông Mêkông, chảy theo hướng tây bắc - đông nam qua Châu Đốc, Long Xuyên tỉnh An Giang và Cần Thơ rồi đổ ra biển Đông qua ba cửa Định An, Bát Xắc và Tranh Đề. Sông dài 230km, tiêu khoảng 50% lượng nước hệ thống sông Mêkông. Nằm trong vùng khí hậu nóng ẩm quanh năm, vùng châu thổ này có hai mùa mưa nắng rõ rệt, là mùa khô và mùa nước nổi (mùa nước lũ). Vùng lũ bao gồm địa giới hành chính của 8 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Kiên Giang, Hậu Giang và thành phố Cần Thơ. Trong số này có ba tỉnh toàn bộ diện tích bị ngập lụt là Đồng Tháp, An Giang và Long An. ĐBSCL từ lâu đã được biết đến là một vùng đất quan trọng, vùng sản xuất lúa, cây ăn trái nhiệt đới và thuỷ sản hàng hoá lớn nhất nước. Hàng năm sản xuất hơn 50% lượng lúa, 90% lượng gạo xuất khẩu, 65% lượng thủy sản và 70% lượng trái cây của cả nước. Sản xuất nông nghiệp phát triển mau chóng trong thời gian qua đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế vùng, đồng thời góp phần ổn định kinh tế xã hội chung của đất nước. Bản đồ các tỉnh trong khu vực ĐBSCL
- Vùng đất này còn có vị trí khá độc đáo, ba mặt giáp biển, còn phía bắc giáp vùng kinh tế trọng điểm mà hạt nhân là Thành phố Hồ Chí Minh. Không gian kinh tế mở ấy đã và đang tạo ra cho vùng đất trẻ này những ưu thế, tiềm năng mới theo hướng phát triển công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp chế biến nông - thuỷ sản), kinh tế biển, ngoại thương, hàng hải, và cả du lịch. ĐBSCL còn nằm ngay trong khu vực có đường giao thông hàng hải lẫn hàng không quốc tế quan trọng, giữa Nam Á và Đông Á cũng như châu Úc và các quần đảo khác trong Thái Bình Dương. Đây là những thế mạnh tiềm tàng hết sức quan trọng cho giao lưu kinh tế,
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: “Nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng tại Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình”
89 p | 728 | 285
-
Luận văn: Nâng cao chất lượng tín dụng tiêu dùng tại Sở Giao Dịch I Ngân hàng Đầu tư Và Phát triển Việt Nam
10 p | 394 | 149
-
Luận văn: Nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn tại Công ty Tài chính Dầu khí
76 p | 270 | 76
-
Luận văn: Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Quảng An
94 p | 203 | 68
-
Luận văn Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay tại Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam
77 p | 152 | 41
-
Luận văn: "Nâng cao chất lượng giống cây trồng ở Công ty cổ phần giống cây trồng Thanh Hóa"
83 p | 233 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Sở giao dịch
121 p | 27 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Công ty Cổ phần Đầu tư Nước sạch Sông Đà
113 p | 31 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Tháng 8
126 p | 34 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao chất lượng nhân lực tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Eikoh Việt Nam
110 p | 23 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
119 p | 34 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng công chức cấp xã tại huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng
139 p | 19 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng công chức tại Tổng cục Quản lý thị trường
126 p | 25 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao chất lượng đội ngũ bác sĩ tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hưng Yên
132 p | 22 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch Hội An của tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2012 - 2020
89 p | 9 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao chất lượng marketing đối với sản phẩm bông băng gạc y tế của Tổng công ty cổ phần Y tế Danameco đến năm 2015
103 p | 7 | 4
-
Đề án tốt nghiệp Quản lý công: Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở Học viện An ninh nhân dân, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn 2024 -2030
80 p | 2 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao chất lượng cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Thành phố Nam Định
90 p | 1 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn