LUẬN VĂN:
NÂNG CAO VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN
TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC
VĂN HOÁ DÂN TỘC MƯỜNG
TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
Chương1
NHÂN TỐ CHỦ QUAN
VỚI VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC
1.1. Nhân tố chủ quan, điều kiện khách quan và bản sắc văn hoá dân tộc.
1.1.1. Khái niệm: “nhân tố chủ quan”, “điều kiện khách quan”.
“Nhân tố chủ quan” “điều kiện khách quan” là những khái niệm được hình thành
và phát triển trong quá trình nghiên cứu hoạt động thực tiễn của con người. Đây những
khái niệm chủ yếu khái quát mối quan hệ giữa hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo
giới tự nhiên của con người. Trong quá trình hoạt động, tác động và cải tạo giới tự nhiên;
con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Do vậy, việc xác định cái
ĐKKQ, cái NTCQ chỉ mang tính chất tương đối, nhất thiết phải tìm hiểu các
khái niệm liên quan tới hoạt động của con người, như khái niệm “chủ thể”, “khách thể”,
“chủ quan”, “khách quan”.
** Về khái niệm: “chủ thể”, “khách thể”.
Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa rất nhiều cách hiểu định
nghĩa khác nhau về hai phạm trù này:
quan điểm cho rằng: “Chủ thể con người (cá nhân hoặc nhóm) tiến hành hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn” [65, tr.92].
Hoặc: “Chủ thể con người ý thức, ý chí, và đối lập với khách thể bên ngoài”
[66, tr.192].
Con người với cách chủ thể, con người thực tiễn, con người hành động, với
đặc trưng cơ bản là năng lực hoạt động sáng tạo nhằm cải tạo khách thể (tự nhiên, xã hội)
chỉ trong quá trình nhận thức, cải tạo giới tự nhiên và cải tạo đời sống hội thì con
người mới bộc lộ mình với cách chthể của lịch sử. Khi nói tới khái niệm “chủ
thể”, V.I.Lênin viết:
“Khái niệm ấy (= con người) khuynh hướng tự mình thực hiện mình, tự cho
mình, qua bản thân mình, một tính khách quan trong thế giới khách quan và tự hoàn thiện
(tự thực hiện) mình” [29, tr.288].
Từ các quan niệm đã nêu trên, thể hiểu: Chủ thể - đó con người với những
cấp độ khác nhau (cá nhân, nhóm, giai cấp) đã đang thực hiện một quá trình hoạt
động nhằm cải tạo khách thể tương ứng.
Với cách hiểu khái niệm “chủ thể”như vậy thì chỉ thể quan niệm: Khách thể
tất cả những gì mà chủ thể hướng vào nhằm nhận thức và cải tạo nó.
Như vậy, không phải tất cả hiện thực khách quan đều khách thể mà chỉ những
hiện thực khách quan mà con người hướng tới nhận thức và cải tạo mới trở thành khách
thể; tuỳ mức độ xác định chủ thể nhận thức, cải tạo thế giới khách quan ai mới thể
xác định được khách thể tương ứng. Khách thể thể những hiện tượng, quá trình
thuộc giới tự nhiên, cũng thể những do con người tạo ra nhờ hoạt động lao động
sản xuất vật chất, những yếu tố hội, những quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị - xã
hội v.v…
Khách thể và chủ thể có mối quan hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau, mặt này
tiền đề tương tác của mặt kia, con người chỉ trở thành chthể khi hoạt động c
động vào thế giới khách quan, biến thế giới khách quan ấy thành khách thể của quá trình
hoạt động thực tiễn của mình. Chủ thể nhận thức cải tạo một cách chủ động sáng tạo
khách thể theo mục đích của mình; nhưng chính khách thể bị tác động lại quy định chủ
thể. Bởi lẽ, khách thể tồn tại độc lập với chủ thể luôn vận động theo những quy luật
vốn của nó, chỉ khi nào chủ thể nhận thức, hành động phù hợp với quy luật vận động
của khách thể, khi đó hoạt động của chủ thể mới đem lại hiệu quả tích cực.
** Về khái niệm: “cái chủ quan”, “cái khách quan”.
Đây hai khái niệm nói lên những thuộc tính chung của chủ thể khách thể được
bộc lộ trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Những thuộc tính, tính chất,
yếu tố tồn tại ngoài chủ thể, phụ thuộc vào chthể cái chủ quan; những tính chất, yếu
tố tồn tại ngoài chủ thể, không phụ thuộc vào chủ thể cái khách quan; nhưng giữa cái
khách quan cái chquan luôn tồn tại mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại
chuyển hoá lẫn nhau. vậy, khi nói về khái niệm “cái chủ quan” có học giả cho rằng:
“Chủ quan ý thức của chủ thể[29, tr.92]. Hoặc: “Chủ quan những gì thuộc vchỉ
đạo hoạt động của chủ thể” [48, tr.192].
Chúng tôi đồng ý kiến với quan điểm thứ 2. Tuy nhiên, khi xem xét toàn bộ hoạt
động của con người những sản phẩm của hoạt động đó thì thấy rằng: chúng bao giờ
cũng chứa đựng những dấu ấn của cái chủ quan; nhưng không thể coi tất cả những cái
mang dấu ấn chủ quan (nhất những dấu ấn thuộc những sản phẩm nằm ngoài chủ thể)
thuộc về cái chủ quan. Hơn nữa, cái chủ quan cũng không đơn thuần chỉ ý thức như
một số học giả quan niệm, cái chủ quan còn bao gồm cả yếu tố thể lực, yếu tố tinh
thần như: tri thức, tình cảm, ý chí v.v…của con người, chính cả bản thân hoạt động
của họ. Như vậy, thể nói: cái chquan tất cả những thuộc về chủ thể phụ
thuộc vào chủ thể.
Trong những hoạt động cụ thể, khi chủ thể c động lên khách thể biến đổi
theo mục đích của mình không phải lúc nào chủ thể hoạt động cũng dùng tất cả những
năng lực, phẩm chất, yếu tố vốn của mình, thể chỉ huy động một phần, một bộ
phận các yếu tố tạo thành cái chủ quan trong quá trình tương tác với khách thể, cái đó gọi
là nhân tố chủ quan.
Nói cách khác, nhân tố chủ quan những thuộc về chủ thể, tham gia trực tiếp
vào quá trình hoạt động của chủ thể, cũng như bản thân hoạt động đó.
Do vậy, sẽ là sai lm nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với tất cả các yếu tố tạo thành
cái chủ quan, hoặc đồng nhất nhân tố chủ quan với ý thức của chủ thể. Vì “yếu tố” là khái
niệm chỉ các bộ phận cấu thành sự vật hiện ợng, còn “nhân tố” là khái niệm chỉ cái trực
tiếp tham gia vào hoạt động của chủ thể; NTCQ ch một bộ phận của cái chủ quan
được chủ thể huy động sử dụng trực tiếp trong quá trình tác động lên khách thể cụ thể.
Cho nên, nếu đồng nhất nhân tố chủ quan với cái chủ quan, hoặc với ý thức của chủ th
sẽ là không đầy đủ và không làm rõ được đặc trưng của nhân tố chủ quan như là những gì
thuộc về hoạt động của chủ thể, NTCQ không phải là ý thức nói chung của chủ thể, mà là
ý thức trực tiếp chỉ đạo hoạt động của chủ thể. Ngoài các yếu tố của chủ thể như năng lực
thể chất, ý thức chỉ đạo định hướng hoạt động thực tiễn, thì NTCQ còn bao m cả
bản thân hoạt động đó nữa, nếu thiếu hoạt động của con người thì không thể thay đổi hiện
thực và không thể trở thành NTCQ. Đề cập đến vấn đề này, C.Mác viết:
“Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được gì hết. Muốn thực hiện được tư tưởng
cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [37, tr.12].
Khái niệm NTCQ cũng không đồng nhất với khái niệm nhân tố con người. Nhân t
con người là tất cả những gì thuộc về con người (mọi mặt của con người) trong hoạt động
cải tạo thế giới (tự nhiên, hội cả bản thân con người). NTCQ phạm vi xem t
hẹp hơn nhân tố con người, vì nó chỉ thể hiện vai trò của chủ thể trong một hoạt động xác
định.
Các nguyên triết học mác xít chỉ con người vừa sản phẩm của hoàn cảnh
nhưng đồng thời cũng chủ thể của hoàn cảnh. Do đó, khi đặt trong mối quan hệ chung
nhất, đối diện với tự nhiên chúng ta khái niệm con người. Khi đặt con người trong
trạng thái tích cực hoạt động trước một đối tượng cần nhận thức và cải tạo theo mục đích
nhất định, lúc đó có khái niệm chủ thể và đối lập với nó là khái niệm khách thể.
Về phạm tcái khách quan, cũng rất nhiều cách hiểu và quan điểm khác nhau,
ý kiến quy phạm trù khách quan về phạm trù vật chất, ý kiến cho rằng cái khách
quan bao hàm cả hiện tượng ý thức…Trên thực tế, muốn khẳng định cái gì là khách quan
phải đặt trong mối quan hệ giữa chủ thể khách thể. Không thể đồng nhất cái khách
quan với hiện thực khách quan hay thế giới vật chất, vì chỉ những hiện tượng ý thức
tồn tại bên ngoài ý thức và ý chí của chủ thể, bị chủ thể tác động biến đổi, thì ý thức y
đóng vai trò là khách thể.
Như vậy: Cái khách quan tất cả những tồn tại ngoài chủ thể không phụ
thuộc vào ý thức, ý chí của chủ thể.
Cái khách quan bao gồm cả những yếu tố vật chất yếu tố tinh thần. Nhưng trong
hoạt động thực tiễn của chủ thể không phải toàn bộ cái khách quan đều đóng vai trò
khách thể, chỉ một bộ phận của cái khách quan tham gia vào hoạt động của chủ
thể, trở thành khách thể chịu tác động của chủ thể trong một thời điểm, hoàn cảnh nhất
định. Một bộ phận ấy (có thể những yếu tố vật chất như: môi trường tự nhiên, quan
hệ chính trị- xã hội, hoặc là yếu tố tinh thần như: ý thức xã hội lạc hậu cần cải tạo…). Đó
chính là điều kiện khách quan.
Khi nói tới khái niệm ĐKKQ, các học giả cũng đưa ra rất nhiều cách tiếp cận kc
nhau như: “Là những tạo n một hoàn cảnh hiện thực…”, “Là một phần của i
khách quan…”, nhưng tất cả những quan điểm đó đều thống nhất bản một điểm, đó
là: “tồn tại không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của chủ thể chi phối hoạt động của chủ
thể” [dẫn theo 60, tr.12].
thể nói: ĐKKQ tổng thể những mặt, những nhân tố tạo nên hoàn cảnh hiện
thực.Trong đó chủ thể sống và thực hiện mọi hoạt động ở những thời điểm nhất định.