
1
LỜI DẪN
Những năm cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng
hoảng toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của bộ phận lớn làm thay
đổi cơ bản cục diện chính trị của thế giới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản tận
dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
nên đã thích nghi và vẫn tiếp tục phát triển.
Trật tự thế giới hai cực tan dã, quan hệ quốc tế chuyển dần từ đối đầu
sang đối thoại, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá
trong tiến trình hội nhập toàn cầu. Hoà bình, ổn định hợp tác để phát triển
ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các quốc gia. Toàn cầu hoá về kinh
tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia,kinh tê được ưu
tiên phát triển và trở thành chủ đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Trước bối cảnh quốc tế và xu thế chung của thế giới đang diễn ra như
vậy, các quốc gia đều phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình để
thích ứng với tình hình mới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Chính sách
đối ngoại là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của
Việt Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh. Được khởi xướng từ năm 1986 và sau hơn 10 năm thực hiện, chính
sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần không nhỏ
đến sự phát triển của đất nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nhân tố
quốc tế, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đưa Việt Nam
thoát khỏi khủng hoảng và đi lên.
Chính sách đối ngoại đổi mới là một trong những mốc đánh dấu thành
tựu to lớn của Việt Nam trong thế kỷ XX, tạo tiền đề cho Việt Nam vững
bước đi vào thế kỷ XXI. Với lý do đó cùng với ham muốn được tìm hiểu
chính sách đối ngoại đổi mới và quan hệ quốc tế của Việt Nam giai đoạn này,

2
em mạnh dạn chọn đề tài “Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới”
làm chuyên đề thực tập.
Đây là đề tài rất rộng lớn, cho nên bài viết này không tránh khỏi những
thiếu sót hạn chế. Mong được sự thông cảm, giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các
thầy cô và các bạn.

3
CHƯƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI
CỦA VIỆT NAM
1.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI NHỮNG NĂM 80 VÀ ĐẦU THẬP KỶ 90
Từ nửa năm sau những năm 80, quan hệ Xô - Mỹ đã thực sự chuyển từ
đối đầu sang đối thoại. Để giải quyết các vấn đề tranh chấp, Xô - Mỹ đã tiến
hành nhiều cuộc gặp thượng đỉnh giữa Ri-Gan và Goóc-Ba-Chốp, giữa Busơ
và GoócBachốp. Qua đó có nhìêu văn kiện được ký kết trên các lĩnh vực kinh
tế thương mại, văn hoá, khoa học kỹ thuật, nhưng quan trọng nhất là việc ký
kết hiệp ước thủ tiêu tên lửa tầm trung ở Châu Âu năm 1987 (gọi tắt là INF).
Cũng từ năm 1987, hai nước Mỹ và Liên Xô đã thoả thuận giảm một bước
quan trọng cuộc chạy đua vũ trang, từng bước chấm dứt cuộc diện “Chiến
tranh lạnh”, cùng hợp tác với nhau giải quyết các cụ tranh chấp và xung đột
quốc tế.
Cuối năm 1989, tại cuộc gặp không chính thức giữa Busơ và Gooc-Ba-
Chốp tại đảo Manta, hai nước Xô - Mỹ đã chính thức tuyên bố chấm dứt cuộc
“chiến tranh lanh” kéo dài trên 40 năm giữa hai nước này.
Mối quan hệ giữa 5 nước lớn: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, là
5 thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ có vai trò quan tọng trong
việc duy trì hoà bình, an ninh và trật tự thế giới đã được thiết lập lên. Trong
“chiến tranh lạnh” mặc dù là 5 nước lớn nhưng vẫn chỉ là thế “hai cực” Xô -
Mỹ đối đầu nhau. Mối quan hệ giữa 5 nước lớn sau năm 1989 đã chuyển từ
“hai cực” đối đầu sang đối thoại, hợp tác với nhau trong việc giải quyết những
tranh chấp và xung đột quốc tế, tiêu biểu như cuộc chiến trung vùng vịch
Pecxic (1991), và việc giải quyết các cuộc xung đột vũ trang ở nhiều khu vực
trên thế giới.
Sau sự kiện xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, dẫn đến
khối quân sự Vac-Sa-Va tự giải thể (1/7/1991) và Hội đồng tương trợ kinh tế
(SEV) ngừng hàng hoạt động (28/6/1991). Xã hội chủ nghĩa tạm lâm vào
thoái trào, việc Liên Xô sụp đổ bắt đầu từ khủng hoảng về đường lối chiến

4
lược do nhận thức sai lầm về đường lối đối ngoại như việc Liên Xô thoả
thuận với Mỹ về việc giải quyết vấn đề Apganictan, Campuchia, những thoả
thuận nhượng bộ đó không có lợi cho các cách mạng thế giới. Liên Xô còn
thực hiện chính sách “không can thiệp” vào vấn đề thống nhất nước Đức và
các nước Đông Âu, chính sách không thực hiện những cam kết với các đồng
minh cũ của Liên Xô (ngừng viện trợ cho Cuba, Việt Nam, Mông Cổ)1.
Những ngượng bộ đó được các phương Tây, nhất là Mỹ ngày các khai thác
triệt để, để làm giảm thế cân bằng về sức mạnh vũ khí hạt nhân với Mỹ và
làm suy giảm sức mạnh và vị trí của Liên Xô có ở khắp các khu vực trên thế
giới.
Còn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương kinh tế phát triển rất năng
động, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định như xung
đột ở Triều Tiên, tranh chấp quần đảo Cu-Rin giữa Nhật Bản và Liên Xô,
tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải ở biển Đông và căng thẳng ở eo biển
Đài Loan...
Trong khu vực Đông Nam Á cũng chứa đựng nhiều nguy cơ xung đột
bất ổn, trong đó vấn đề Campuchia. Những phản ứng từ của các ASEAN,
Trung Quốc và các nước phương Tây khác cho rằng Việt Nam xâm lược
Campuchia, họ tiến hành các hoạt động làm cho tình hình khu vực thêm căng
thẳng. Trung Quốc cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam và đưa quân vào
Việt Nam gây nên cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc nước ta. Một số nước
ASEAN cô lập nước ta ở các diễn đàn, tổ chức quốc tế... Về phía Việt Nam,
chúng ta trước sau vẫn khẳng định việc đưa quân vào Campuchia là giúp đỡ
nhân dân Campuchia đánh đuổi bọn diệt chủng PonPốt đem lại hoà bình cho
nhân Campuchia.
Cùng với những biến đổi trong tình hình an ninh, chính trị, cộng đồng
thế giới cũng đang đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu cấp bách mà
không có một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được cho nên cần phải
1

5
có sự hợp tác đa phương trong các công việc quốc tế như: bảo vệ môi trường,
bùng nổ dân số, phòng chống bệnh tật hiểm nghèo và nạn khủng bố.
Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển như
vũ bão và được gọi là nền văn minh hậu công nghiệp hay nền văn minh trí
tuệ. ảnh hưởng của nó ngày càng tác động sâu hơn vào đời sống kinh tế xã
hội, nhất là trong sản xuất. Các phát minh khoa học mà nội dung cơ bản là
cách mạng về công nghệ thông tin, sinh học, năng lượng, vật liệu mới... tiếp
tục phát triển nhanh với trình độ cao, làm tăng nhanh lực lượng sản xuất, thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền sản xuất và
đời sống xã hội, làm cho tính chất tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày
càng gia tăng mạnh mẽ. Cuộc cách mạng trên đã tác động sâu sắc đến quan hệ
quốc tế, thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế và toàn cầu hoá. Nó vừa là thời cơ
nhưng cũng là thách thức rất lớn đối với các nước, là điểm mà bất cứ nước
nào cũng không thể bỏ qua khi xây dựng đường lối, xác định phương hướng
và mục tiêu phát triển. các nước đều đứng trước những cơ hội để phát triển,
nhưng do ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường... thuộc về các nước tư bản chủ
nghĩa và các công ty xuyên quốc gia nên các nước chậm phát triển đang đứng
trước những thử thách to lớn. Trong tình hình đó nếu các nước không nắm bắt
được cơ hội, tranh thủ những khả năng mới để phát triển thì sẽ bị tụt hậu.
Ngược lại nếu nước nào biết đón trước, khai thác được thời cơ, nỗ lực
phấn đấu thì sẽ có thể vượt lên một cách nhanh chóng. Cuộc cạnh tranh kinh
tế thương mại, khoa học công nghệ diễn ra gay gắt trên phạm vi toàn thế giới.
Tóm lại, hoà bình ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành
đòi hỏi búc xúc của các dân tốc và quốc gia trên thế giới. Các nước giành ưu
tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với
việc tăng cường sức mạnh tổng hợp mỗi nước.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ đối với việc hoạch định chính sách đối
ngoại của các nước cũnh như ở Việt Nam. Kiến định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện lịch sử mới, Đảng và Nhà nước ta khởi