BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ………../……… BỘ NỘI VỤ …./….
1
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ THỊ THU TRANG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG KHU DU LỊCH CÁT BÀ, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
2
HÀ NỘI, NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ………../……… BỘ NỘI VỤ …./….
3
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ THỊ THU TRANG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG KHU DU LỊCH CÁT BÀ, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG Mã số: 60 34 04 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG THÀNH LÊ
4
HÀ NỘI, NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Ngoài sự hướng dẫn, giúp đỡ của TS.Đặng Thành Lê, luận văn này là sản
phẩm của quá trình tìm tòi, nghiên cứu và trình bày của tác giả. Mọi số liệu,
quan điểm, quan niệm, kết luận của các tài liệu và các nhà nghiên cứu khác được
trích dẫn theo đúng quy định. Vì vậy, tác giả luận văn xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu của riêng mình.
Hà Nội, ngày 22 tháng 6 năm 2017 Tác giả Lê Thị Thu Trang
5
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn khoa
học TS. Đặng Thành Lê đã tận tâm giúp đỡ, chỉ bảo trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thiện luận văn thạc sỹ chuyên ngành chính sách công công.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Khoa Sau đại học, các khoa, ban
và các thầy cô Học viện Hành chính Quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi cho em
hoàn thành đề tài luận văn cao học này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến Sở Du lịch, Sở Nội vụ thành phố Hải
Phòng, Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải đã giúp đỡ em trong việc chuẩn bị, thu
thập tài liệu.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đồng nghiệp, những người đã hết lòng động viên,
khích lệ em trong quá trình thực hiện luận văn.
Hà Nội, ngày 22 tháng 6 năm 2017 Tác giả Lê Thị Thu Trang
6
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 7. Kết cấu của luận văn Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách phát triển du lịch bền vững
1 1 3 6 7 7 8 9 10
10
10
1.1. KHÁI NIỆM CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
19
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
21
1.1.2. Chính sách phát triển du lịch bền vững
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ- XÃ HỘI
24 1.3. NỘI DUNG CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
27
26 1.4. CÁC YÊU CẦU ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
27
1.5. KINH NGHIỆM TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
30
1.5.1. Kinh nghiệm quốc tế
1.5.2. Kinh nghiệm trong nước
1.5.3. Một số bài học có thể vận dụng đối với phát triển du lịch bền
Tiểu kết chương 1
35
7
33 vững tại khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng
Chương 2: Thực trạng chính sách phát triển du lịch bền vững tại Khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng
36
36
36
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHU DU LỊCH CÁT BÀ, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
37
2.1.1. Vị trí địa lý, địa hình, khí hậu
39
2.1.2. Tài nguyên thiên thiên
2.2. KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TẠI KHU DU LỊCH CÁT BÀ, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
39
2.2.1. Cơ sở pháp lý xây dựng chính sách phát triển du lịch bền
vững tại khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng
39
41
2.2.2. Nội dung chính sách phát triển du lịch bền vững Khu du lịch
Cát Bà, thành phố Hải Phòng 2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TẠI KHU DU LỊCH CÁT BÀ, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG THÔNG QUA PHÂN TÍCH SWOT
55
2.3.1. Điểm mạnh
57
2.3.2. Điểm yếu
2.3.3. Cơ hội 69
2.3.4. Thách thức 70
71
Tiểu kết chương 2
72
2.3.3. Nguyên nhân của điểm yếu
73 73
75
74
Chương 3: Một số định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển du lịch bền vững tại Khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng 3.1. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KHU DU LỊCH CÁT BÀ 3.2. MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TẠI KHU DU LỊCH CÁT BÀ, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRONG THỜI GIAN TỚI 3.3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỨNG KHU DU LỊCH CÁT BÀ
75
3.3.1. Xây dựng chính sách phát triển du lịch bền vững Khu du lịch Cát Bà cần đặt trong mối quan hệ với Quy hoạch du lịch Cát Bà và các quy hoạch ngành liên quan theo mục tiêu bền vững
79
3.3.2. Cần nhấn mạnh tới công tác tuyên truyền, quảng bá, các
8
hoạt động xúc tiến du lịch
3.3.3. Cần tập trung hơn vào các giải pháp nhằm bảo vệ tài nguyên 79 thiên nhiên và môi trường tự nhiên
3.3.4. Đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật 80
3.3.5. Đào tạo nguồn nhân lực 82
Tiểu kết chương 3
84
3.3.6. Tăng cường liên kết du lịch và phát triển sản phẩm du lịch Cát Bà 83
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 85
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 87
88 TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Tăng trưởng kinh tế là một trong những chỉ tiêu quan trọng của chính
sách điều hành kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia. Do đó, việc xác định được vai
trò của những nhân tố đóng góp cho tăng trưởng là rất cần thiết nhằm giúp
nhà quản lý hoạch định chính sách hiệu quả, đảm bảo tăng trưởng bền vững
trong dài hạn. Trong cấu thành tăng trưởng kinh tế của một quốc gia bao gồm
đóng góp của nhiều thành phần như vốn, lao động và các ngành dịch vụ. Một
trong những ngành dịch vụ đóng vai trò then chốt phải kể đến là du lịch. Theo
Stefan Franz Schubert (2011) ngành du lịch đóng góp vào tăng trưởng của
quốc gia thông qua nhiều kênh khác nhau. Thứ nhất, du lịch thu hút số lượng
lớn lao động, tạo ra việc làm qua đó sẽ cải thiện thu nhập của người lao động.
Thứ hai, du lịch sẽ kích thích xây dựng mới cơ sở hạ tầng và tăng cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực. Thứ ba, du lịch là một kênh phổ
biến để khuếch tán kiến thức công nghệ, gia tăng nghiên cứu phát triển và
tích lũy vốn con người. Thứ tư, quốc gia phát triển du lịch sẽ thu về một
9
lượng lớn ngoại tệ, qua đó giảm gánh nặng trong việc thanh toán hàng hóa
nhập khẩu phục vụ trong sản xuất và tiêu dùng [1,11]
Ở Việt Nam, trong thời gian qua, nhận thức được tầm quan trọng của du
lịch, nhà nước đã ban hành chính sách phát triển du lịch hướng tới phát triển
bền vững. Nhờ vậy, du lịch Việt Nam đã có nhiều khởi sắc. Theo Báo cáo
thường niên Travel&Tourism Economic Impact 2016 Viet Nam của Hội đồng
Du lịch và Lữ hành thế giới công bố hồi tháng 3/2016 với mức 6,6% đóng
góp cho GDP, du lịch Việt Nam đứng thứ 40/184 nước về quy mô đóng góp
trực tiếp vào GDP và xếp thứ 55/184 nước về quy mô tổng đóng góp vào
GDP quốc gia. Cụ thể, tổng đóng góp của du lịch vào GDP Việt Nam, bao
gồm cả đóng góp trực tiếp, gián tiếp và đầu tư công là 584.884 tỷ đồng
(tương đương 13,9% GDP). Trong đó, đóng góp trực tiếp của du lịch vào
GDP là 279.287 tỷ đồng (tương đương 6,6% GDP). Với những đóng góp
trên, du lịch thực sự có khả năng làm thay đổi bộ mặt kinh tế của nước ta.
[2,34]
Thành Phố Hải Phòng với nhiều tiềm năng về du lịch cũng đã ban hành
chính sách phát triển du lịch từ rất sớm nhằm khai thác tối đa tiềm năng, lợi
thế của thành phố, nhất là về cảnh quan thiên nhiên, tài nguyên nhân văn,
đảm bảo môi trường sinh thái, đa dạng các loại hình và sản phẩm du lịch, thu
hút đầu tư, tăng nhanh tỷ trọng du lịch trong tổng GDP của thành phố; tạo
việc làm, nâng cao dân trí; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và đặc thù văn hóa
địa phương, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, ngành và toàn dân phát
triển du lịch, góp phần thúc đẩy chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Trong các điểm du lịch ở Hải Phòng, Cát Bà được coi như viên ngọc
quý, là điểm đến được nhiều du khách lựa chọn. Vì vậy, UBND thành phố
Hải Phòng cũng đã xây dựng chính sách phát triển du lịch Cát Bà gắn với du
lịch bền vững. Đề án Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch bền vững quần đảo Cát
10
Bà đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 được cũng thông qua vào năm 2014.
Đây là một cú hích cho du lịch Cát Bà phát triển với mục tiêu đưa Cát Bà trở thành
điểm du lịch xanh đẳng cấp quốc tế, xứng đáng với vị thế và tiềm năng của đảo
ngọc; trong đó chú trọng đến chất lượng tăng trưởng du lịch, phát triển du lịch quần
đảo Cát Bà trở thành động lực kinh tế cho phát triển kinh tế - xã hội của thành phố
Hải Phòng và đồng bằng sông Hồng; khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế;
phát triển các sản phẩm du lịch chất lượng và dịch vụ đặc trưng; ưu tiên phát triển
du lịch cao cấp kết hợp hài hòa với du lịch đại chúng để đáp ứng nhu cầu đa dạng
của thị trường; bảo tồn và tôn tạo các giá trị tài nguyên; phát triển du lịch gắn liền
với bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội… Nghị quyết số 16 -NQ/TW
của Ban thường vụ Thành uỷ Hải Phòng cũng xác định “Xây dựng Cát Bà trở thành
một trung tâm du lịch sinh thái của cả nước và quốc tế”.
Tuy nhiên, trên thực tế, chính sách phát triển du lịch bền vững tại Cát
Bà vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn khi triển khai trong thực tế.
Mục tiêu và giải pháp của chính sách này vẫn chưa tạo ra động lực phát triển
du lịch bền vững tại địa phương. Chính vì vậy, là một người con của Cát Bà,
học viên đã lựa chọn hướng nghiên cứu “Chính sách phát triển du lịch bền
vững khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng” để thực hiện.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
2.1. Hướng nghiên cứu về du lịch
Du lịch đang là một trong những lĩnh vực thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Cho đến nay, có
nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới nội dung phát triển du lịch.
Giáo trình “Kinh tế du lịch”, GS.TS.Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh
Hòa, Trường Đại học Kinh tế quốc dân 2008 đề cập tới những vấn đề về du
lịch dưới góc độ kinh tế như khái niệm, vai trò, mối quan hệ giữa du lịch và
phát triển kinh tế- xã hội.
11
Cuốn sách “Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam” của TS.Phạm
Trung Lương (chủ biên), NXB Giáo dục 2000 bên cạnh việc cung cấp những
vấn đề lí luận cơ bản về du lịch đã phân tích, đánh giá thực trạng của du lịch
Việt Nam về điểm mạnh, điểm yếu, các cơ hội và thách thức đặt ra.
Đề án “Phát triển du lịch biển, đảo và vùng ven biển Việt Nam đến năm
2020” của Viện Nghiên cứu phát triển du lịch xác định rõ các định hướng
phát triển chủ yếu của du lịch biển trong mối quan hệ với Chiến lược phát
triển du lịch Việt Nam; với các mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế biển;
đảm bảo khai thác có hiệu quả những tiềm năng và lợi thế về du lịch biển gắn
với việc đảm bảo an ninh quốc phòng và phù hợp với xu thế hội nhập của
Việt Nam với khu vực và quốc tế.
Theo đó, ở Việt Nam, du lịch biển có vai trò đặc thù và vị trí quan trọng trong
chiến lược phát triển du lịch của cả nước. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam
đến năm 2010 và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định 7 khu vực trọng điểm ưu tiên
phát triển du lịch, trong số đó đã có tới 5 khu vực là thuộc dải ven biển. Mặc dù cho
đến nay, nhiều tiềm năng đặc sắc của du lịch biển, đặc biệt là hệ thống đảo, bao
gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chưa được đầu tư khai thác một cách
tương xứng, cho dù ở dải ven biển hiện đã có tới 70% các khu, điểm du lịch trong
cả nước, hàng năm thu hút khoảng 48-65% lượng khách du lịch.Thu nhập từ hoạt
động du lịch biển chiếm tỷ trọng cao trong thu nhập du lịch Việt Nam. Đồng thời
phát triển du lịch biển là một nhiệm vụ quan trọng nhằm đẩy mạnh phát kinh tế
biển Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 27/2007/NQ-CP ngày 30/5/2007 của
Chính phủ nhằm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã cung cấp cơ sở lý luận về du lịch, làm
nền tảng để học viên xây dựng hệ thống lý thuyết về chính sách phát triển du lịch.
2.2. Hướng nghiên cứu về chính sách phát triển du lịch bền vững
12
Đi sâu phân tích các chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam nói chung
và phát triển du lịch bền vững nói riêng có thể kể tới đề tài nghiên cứu khoa
học cấp cơ sở “Tổng quan hệ thống chính sách phát triển du lịch Việt Nam”
do TS.Hồ Thị Kim Thoa làm chủ nhiệm, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch,
2014. Theo đánh giá của nhóm tác giả, xuất phát từ tính chất của ngành du
lịch là một ngành liên ngành, liên vùng và có tính xã hội cao, các chính sách
đối với ngành du lịch vì thế cũng mang tính phức tạp và đa dạng. Các chính
sách phát triển du lịch không chỉ có những chính sách nội bộ trong ngành mà
còn có sự tham gia của nhiều ngành khác có liên quan vì bản thân du lịch
không thể tự phát triển du lịch nếu không có sự tham gia, hỗ trợ của các
ngành khác. Tuy nhiên, các chính sách phát triển du lịch Việt Nam hiện nay
vẫn còn thiếu tính đồng bộ và chưa có hệ thống, chưa có một cái nhìn tổng
thể để có thể nhận thấy được những mặt ưu và nhược điểm của các chính sách
đối với phát triển du lịch hiện nay.
Ngoài ra, có thể kể tới một số công trình nghiên cứu về chính sách phát
triển bền vững du lịch ở các địa phương như:
- Tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Đak Lak theo
hướng bền vững, Luận văn thạc sĩ của học viên Mai Thị Thùy Dung, ĐH Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh 2007;
- Phát triển du lịch tỉnh Bình Định theo hướng bền vững, Luận văn thạc
sỹ của học viên Trương Thị Thu, ĐH Đà Nẵng 2011;
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Phát triển bền vững du lịch biển Nha
Trang- Khánh Hòa, tổ chức tại Nha Trang tháng 1/2013…
- Đề xuất giải pháp phát triển bền vững du lịch sinh thái Phú Yên.
Nguyễn Trần Liên Hương, Viện Môi trường và Tài nguyên, 2009.
Các công trình nghiên cứu này tập trung phân tích, đánh giá thực trạng phát
triển du lịch theo hướng bền vững ở các địa phương khác nhau ở Việt Nam.
2.3. Hướng nghiên cứu về du lịch bền vững tại khu du lịch Cát Bà
13
Đi sâu phân tích, đánh giá tiềm năng, thực trạng du lịch Hải Phòng, có
thể kể tới một số công trình sau:
- Du lịch Hải Phòng- Thực trạng, phương hướng và giải pháp, Luận văn
thạc sĩ kinh tế của Phạm Thị Khánh Ngọc, 1999
- Phát triển du lịch ở Hải Phòng trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Luận
văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Trần Ngọc Hương, 2012
- Hướng dẫn du lịch Hải Phòng, Sở Văn hóa- thể thao và du lịch, NXB
Hải Phòng (2015). Cuốn sách khổ nhỏ (10 x 15cm), 124 trang như một cuốn
sổ tay thuận tiện, hữu ích với khách du lịch, giúp họ dễ dàng tra cứu, nhanh
chóng hiểu biết về miền đất, hòa nhập với nhịp sống, phong tục tập quán của
người Hải Phòng.
- Đề tài NCKH cấp Bộ "Đánh giá tác động của hoạt động du lịch đến tài
nguyên, môi trường khu vực Hải Phòng – Quảng Ninh", Viện Nghiên cứu
phát triển du lịch 2004. Theo đó, khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh là một
trong 7 trọng điểm phát triển du lịch của cả nước cần được tập trung đầu tư
phát triển. Đối với trọng điểm này, khu vực Hạ Long - Cát Bà đóng một vai
trò đặc biệt có tính chất là hạt nhân cơ bản và sẽ được ưu tiên quy hoạch phát
triển thành một khu du lịch biển lớn có tầm cỡ quốc tế ở nước ta. Đề tài đã hệ
thống được những tài nguyên du lịch chủ yếu ở khu vực Hải Phòng – Quảng
Ninh cũng như đã tổng quan được hiện trạng phát triển du lịch ở khu vực Hải
Phòng - Quảng Ninh đến thời điểm nghiên cứu (2004), trong đó xác định được
những loại hình du lịch/hoạt động du lịch có khả năng gây những tác động đến
tài nguyên, môi trường du lịch như hoạt động xây dựng phát triển các khu du
lịch; hoạt động tham quan du lịch ở các khu bảo tồn thiên nhiên,cảnh quan gắn
với văn hoá, lễ hội ở khu vực vịnh Hạ Long, Cát Bà và Đồ Sơn.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã giúp học viên xây dựng hệ thống
cơ sở lý luận cũng như đánh giá được thực trạng du lịch và du lịch bền vững
14
tại khu du lịch Cát Bà thành phố Hải Phòng. Tuy nhiên, hiện chưa có công
trình nào nghiên cứu đầy đủ chính sách phát triển du lịch bền vững tại khu du
lịch Cát Bà- Hải Phòng.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn là nghiên cứu chính sách phát
triển du lịch bền vững tại khu du lịch Cát Bà - thành phố Hải Phòng dựa trên
hệ thống lý luận về chính sách công, từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm
hoàn thiện chính sách này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nói trên, học viên thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách công, chính sách phát triển du
lịch bền vững.
- Đánh giá nội dung chính sách phát triển du lịch bền vững tại khu du lịch
Cát Bà, thành phố Hải Phòng.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chính sách phát triển
du lịch bền vững tại khu du lịch Cát Bà.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chính sách phát triển du lịch bền vững
tại khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: đề tài thu thập tài liệu phục vụ cho việc đánh giá nội dung
chính sách phát triển du lịch bền vững tại khu du lịch Cát Bà- Hải Phòng từ
năm 2009 cho đến nay.
- Về không gian: nghiên cứu tại thị trấn Cát Bà và các xã: Trân Châu;
Việt Hải; Phù Long; Gia Luận; Hiền Hào; Xuân Đám.
15
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ đạo là
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, học viên sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể sau đây:
5.2.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách và các văn bản pháp luật
của Đảng, Nhà nước, của thành phố Hải Phòng liên quan tới đề tài nghiên cứu
là chính sách phát triển du lịch bền vững tại khu du lịch Cát Bà nhằm xây
dựng hệ thống lý thuyết của đề tài.
Ngoài ra, học viên cũng tìm kiếm các bài báo, luận văn, luận án, các bài
viết có liên quan nhằm bổ sung cho hệ thống cơ sở lý luận của đề tài.
5.2.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra xã hội học
Nhằm cung cấp các bằng chứng có tính thuyết phục để đánh giá chính
sách phát triển du lịch bền vững tại khu du lịch Cát Bà, học viên sử dụng
phương pháp điều tra xã hội học để thu thập ý kiến của các bên có liên quan
tới chính sách trong thực tế.
Mẫu nghiên cứu gồm có 200 khách thể, bao gồm:
- Cán bộ, công chức, viên chức tại Sở Du lịch, Sở Nội vụ thành phố Hải
Phòng, UBND huyện Cát Hải;
- Khách du lịch tới Cát Bà;
- Người dân địa phương đang sinh sống tại Khu du lịch Cát Bà.
Tác giả khảo sát dựa trên bảng hỏi được thiết kế phù hợp với nội dung
đánh giá chính sách phát triển du lịch bền vững khu du lịch Cát Bà trong thời
gian từ tháng 3 đến tháng 4/2017 (có thể xem bảng hỏi tại Phụ lục 1),
16
- Phương pháp thống kê
Các tài liệu thống kê đảm bảo giá trị pháp lý được sử dụng triệt để phục
vụ cho việc nghiên cứu. Nguồn số liệu được thu thập, tổng hợp, xử lý dựa vào
kết quả các cuộc điều tra, các báo cáo của Sở Du lịch thành phố Hải Phòng,
của UBND thành phố Hải Phòng; UBND huyện Cát Hải nhằm gia tăng giá trị
thực tiễn của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Xây dựng hệ thống cơ sở lý luận của đề tài bao gồm chính sách, du lịch,
chính sách phát triển du lịch bền vững với những nội dung cơ bản là khái niệm,
vai trò, mối quan hệ giữa chính sách phát triển du lịch và các chính sách kinh
tế- xã hội …
- Đánh giá được nội dung chính sách phát triển du lịch bền vững tại thành
phố Hải Phòng bao gồm mục tiêu và các giải pháp dựa trên các phương pháp
điều tra có độ tin cậy cao và dựa trên các tài liệu thu thập được.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách phát triển du lịch
bền vững tại khu du lịch Cát Bà trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn “Chính sách phát triển du lịch bền vững khu du lịch Cát
Bà, thành phố Hải Phòng” được nghiên cứu thông qua 3 chương (ngoài
phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục):
- Chương 1. Cơ sở l ý luận về chính sách phát triển du lịch bền vững.
- Chương 2. Thực trạng chính sách phát triển du lịch bền vững tại khu
du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng.
- Chương 3. Một số định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách
phát triển du lịch bền vững tại khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải
Phòng.
17
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ Ý LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
1.1. Khái niệm chính sách phát triển du lịch bền vững
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
Ra đời vào những năm 1950, với cuốn sách Khoa học chính sách: sự phát
triển gần đây về phạm vi và phương pháp (Harold D. Lasswell và Daniel
Lerner), Bài Định hướng chính sách (Harold D. Lasswell) đã đặt nền móng cho
khoa học chính sách. Khoa học chính sách công phát triển nhanh chóng từ giữa
những năm 60 của thế kỷ XX, nổi bật nhất là một loạt công trình của Yehezkel
Dror. Khác với những ngành khoa học xã hội truyền thống, hoạt động nghiên
cứu chính sách công định hướng đề ra những giải pháp cụ thể cho các vấn đề
thực tế. Việc nghiên cứu chính sách công không chỉ hiểu rõ những vấn đề lý
thuyết, mà cao hơn là nhằm vận dụng lý thuyết và bằng chứng thực tiễn để thiết
kế, triển khai và đánh giá chính sách, từ đó cải thiện điều kiện sống của người
dân ở các quốc gia.
Theo James Anderson: "Chính sách là một quá trình hành động có mục đích
theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan
tâm". Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc khác nhau:
Chính sách của Liên hiệp quốc, chính sách của một đảng, chính sách của Chính
phủ, chính sách của chính quyền địa phương, chính sách của một bộ, chính sách
của một tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, chính sách của một doanh nghiệp…
Các tổ chức, các doanh nghiệp, các hiệp hội, đoàn thể… có thể đề ra những
chính sách riêng biệt để áp dụng trong phạm vị một tổ chức, doanh nghiệp, hiệp
hội hay đoàn thể đó. Các chính sách này nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra
cho mỗi tổ chức, chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó, vì vậy, chúng
mang tính chất riêng biệt và được coi là những "chính sách tư", tuy trên thực tế
khái niệm "chính sách tư" hầu như không được sử dụng.
18
1.1.1.1. Chính sách công
Những chính sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy
nhà nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng được gọi là
chính sách công. Khoa học chính sách nghiên cứu các chính sách nói chung,
nhưng tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu các chính sách công nhằm mục
tiêu nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Thomas R. Dye lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công,
song định nghĩa này lại được nhiều học giả tán thành. Theo ông, "chính sách
công là cái mà Chính phủ lựa chọn làm hay không làm". Ba mặt quan trọng của
định nghĩa này là:
Thứ nhất, không giống như các định nghĩa khác, nó không bàn luận về "mục
tiêu" hay "mục đích" của chính sách. Các chính sách là các chương trình hành động
riêng biệt; việc áp dụng các chính sách không có nghĩa là tất cả những ai đồng tình
với chính sách sẽ có cùng một mục đích như nhau. Trên thực tế, một số chính sách
ra đời không phải vì sự nhất trí về mục tiêu, mà bởi vì nhiều nhóm người khác nhau
đồng tình với chính sách đó với nhiều nguyên do khác nhau.
Thứ hai, định nghĩa của Dye thừa nhận rằng, các chính sách phản ánh sự
lựa chọn làm hay không làm. Việc quyết định không làm có thể cũng quan trọng
như việc quyết định làm. Điều này hoàn toàn hợp lý trong trường hợp Chính phủ
ra quyết định không can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, một điểm được nhấn mạnh ở đây là các chính sách không chỉ là
những đề xuất của Chính phủ về một vấn đề nào đó, mà cũng là cái được thực hiện
trên thực tế. Nói cách khác, định nghĩa của Dye về những cái mà Chính phủ làm
hoặc không làm, chứ không phải là cái mà họ muốn làm hoặc lập kế hoạch để làm.
Wiliam N. Dunn cho rằng "chính sách công là một kết hợp phức tạp những
sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động,
do các cơ quan nhà nước hay các quan chức nhà nước đề ra". Ông dùng thuật
ngữ "sự lựa chọn" – đây là điểm đáng lưu ư để tránh sự nhầm lẫn giữa chính
sách với các khái niệm khác như quyết định hành chính.
19
B. Guy Peter đưa ra định nghĩa: "chính sách công là toàn bộ các hoạt động
của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công
dân". Định nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và thực thi chính sách công
là Nhà nước, đồng thời nhấn mạnh tác động của chính sách công đến đời sống
của người dân với tư cách là một cộng đồng.
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau:
"chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính
sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể
nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính
chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…". Định nghĩa này
không làm rõ được thực chất của chính sách, chỉ đưa ra một cách hiểu chung
chung là những chuẩn tắc để thực hiện đường lối, nhiệm vụ trong một thời gian
nhất định và trên những lĩnh vực cụ thể. Định nghĩa như vậy không chỉ nói về
chính sách, mà có thể hiểu là bất kỳ một kế hoạch, một hoạt động nào đó.
Cuốn Giáo trình Hoạch định và phân tích chính sách công của Học viện Hành
chính Quốc gia, NXB Khoa học và Kĩ thuật 2008 của TS.Nguyễn Hữu Hải (chủ
biên) đã xác định "chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với
các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức
khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển"[9,45]. Khái niệm này đã bao quát
được các đặc trưng cơ bản của chính sách công, vừa thể hiện được bản chất của
Tuy có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về chính sách công như đã nêu
trên, song điều đó không có nghĩa là chính sách công mang những bản chất khác
nhau. Thực ra, tùy theo quan niệm của mỗi tác giả mà các định nghĩa đưa ra nhấn
mạnh vào đặc trưng này hay đặc trưng khác của chính sách công. Những đặc
trưng này phản ánh chính sách công từ các góc độ khác nhau, song chúng đều
hàm chứa những nét đặc thù thể hiện bản chất của chính sách công, bao gồm:
Một là, chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước. Nếu chủ thể ban
hành các "chính sách tư" có thể là các tổ chức tư nhân, các đoàn thể chính trị – 20
công cụ chính sách với tư cách là công cụ định hướng của nhà nước.
xă hội, cũng như các cơ quan trong bộ máy nhà nước để điều tiết hoạt động
trong phạm vi tổ chức, đoàn thể hay cơ quan riêng biệt đó thì chủ thể ban hành
chính sách công chỉ có thể là các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Vấn đề ở đây
là các cơ quan trong bộ máy nhà nước vừa là chủ thể ban hành chính sách công,
vừa là chủ thể ban hành "chính sách tư". Sự khác biệt là ở chỗ các "chính sách
tư" do các cơ quan nhà nước ban hành là những chính sách chỉ nhằm giải quyết
những vấn đề thuộc về nội bộ cơ quan đó, không có hiệu lực thi hành bên ngoài
phạm vi cơ quan.
Hai là, các quyết định này là những quyết định hành động, có nghĩa là
chúng bao gồm cả những hành vi thực tiễn. Chính sách công không chỉ thể hiện
dự định của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó, mà còn bao gồm
những hành vi thực hiện các dự định nói trên. Chính sách công trước hết thể hiện
dự định của các nhà hoạch định chính sách nhằm làm thay đổi hoặc duy trì một
hiện trạng nào đó. Song, nếu chính sách chỉ là những dự định, dù được ghi thành
văn bản thì nó vẫn chưa phải là một chính sách. Chính sách công cần phải bao gồm
các hành vi thực hiện những dự định nói trên và đưa lại những kết quả thực tế.
Ba là, chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong
đời sống kinh tế – xă hội theo những mục tiêu xác định. Chính sách công là một
quá trình hành động nhằm giải quyết một vấn đề nhất định. Khác với các loại
công cụ quản lý khác như chiến lược, kế hoạch của Nhà nước là những chương
t nh hành động tổng quát bao quát một hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế – xã hội, đặc
điểm của chính sách công là chúng được đề ra và được thực hiện nhằm giải
quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống xã
hội. Chính sách công chỉ xuất hiện trước khi đó đã tồn tại hoặc có nguy cơ chắc
chắn xuất hiện một vấn đề cần giải quyết.
Bốn là, chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau. Các
quyết định này có thể bao gồm cả luật, các quyết định dưới luật, thậm chí cả
những tư tưởng của các nhà lãnh đạo thể hiện trong lời nói và hành động của họ.
21
Song, chính sách không đồng nghĩa với một đạo luật riêng biệt hay một văn bản
nào đó. Chính sách là một chuỗi hay một loạt các quyết định cùng hướng vào
việc giải quyết một vấn đề chính sách, do một hay nhiều cấp khác nhau trong bộ
máy nhà nước ban hành và thực thi trong một thời gian dài. Một chính sách có
thể được thể chế hóa thành các văn bản pháp luật để tạo căn cứ pháp lý cho việc
thực thi, song nó còn bao gồm những phương án hành động không mang tính bắt
buộc, mà có tính định hướng, kích thích phát triển.
Tóm lại, chính sách công là tập hợp các quyết định quản lý do các chủ thể
khác nhau trong bộ máy nhà nước ban hành nhằm giải quyết các vấn đề công
cộng nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng.
Trước thế kỷ XIX, du lịch là hiện tượng của xã hội, đi du lịch chủ yếu
những người giàu có, nó bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là đi một vòng.
Du lịch gắn liền với nghỉ ngơi, giải trí, tuy nhiên do hoàn cảnh, thời gian và khu
vực khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau nên khái niệm du lịch
cũng không giống nhau.
Khái niệm về du lịch theo quan điểm rộng rãi hiện nay được Hội nghị quốc
tế về thống kê du lịch ở Ottawa - Canada tháng 6 năm 1991 đưa ra: "Du lịch là
hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở
thường xuyên của mình) trong khoảng thời gian đã được tổ chức du lịch quy
định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động
kiếm tiền trong phạm vi của vùng tới thăm".
Khái niệm về du lịch được sử dụng rộng rãi hiện nay thường dựa vào sự chuyển
động của con người trên một khoảng cách nơi xuất phát và nơi đến, thời gian và mục
đích chuyến đi. Vì vậy, thuật ngữ du lịch là chuyển động của con người đã được Tổ
chức Du lịch Thế giới và các nước Mỹ, Anh, Canada, Úc, chấp thuận . Nhưng điều
này gây ra những khó khăn về thông tin thống kê cho các học giả khi sử dụng để
phát triển cơ sở dữ liệu, mô tả hiện tượng du lịch và phân tích nó.
22
1.1.1.2. Du lịch
Định nghĩa trong Từ điển Bách khoa về Du lịch (Viện hàn lâm): Du lịch là
tập hợp các hoạt động tích cực của con người nhằm thực hiện một dạng hành
trình, là một công nghiệp liên kết nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du
lịch… Du lịch là cuộc hành trình mà một bên là người khởi hành với mục đích đó
được chọn trước và một bên là những công cụ làm thỏa mãn các nhu cầu của họ.
Khái niệm về du lịch theo Luật Du lịch năm 2005 quy định "Du lịch là các
hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường
xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng
trong khoảng thời gian nhất định”.
Khái niệm về du lịch bao gồm khái niệm các yếu tố dưới đây:
- Khách du lịch: Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch,
trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.
Khách du lịch là những người đi du lịch với mục đích là luôn muốn khám phá
thế giới tự nhiên, xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu về tâm lý và tinh thần. Vì vậy,
khách du lịch thường quan tâm sản phẩm du lịch nơi họ đến. Nên vấn đề khai
thác tài nguyên, tổ chức các dịch vụ tại các điểm du lịch là một trong yếu tố
quan trọng để khách du lịch sẽ quyết định đến việc lựa chọn điểm đến và các
hoạt động du lịch trong chuyến đi của họ.
- Hoạt động du lịch: trên cơ sở mục đích của khách du lịch có thể thấy. Hoạt
động du lịch là hoạt động của khách du lịch, của tổ chức, cá nhân kinh doanh du
lịch, của cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch.
Trong hoạt động du lịch các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho khách du lịch là
những nhà kinh doanh họ coi du lịch là một cơ hội lớn để thu lợi bằng việc cung
cấp hàng hoá và dịch vụ mà thị trường du khách yêu cầu. Chính phủ của các nước,
những nhà chính trị coi hoạt động du lịch là yếu tố thiết yếu đối với nền kinh tế
thông qua các khoản thuế từ chi tiêu của du khách và gắn liền với thu nhập của
người dân. Dân cư tại điểm du lịch là người dân địa phương tại các điểm du lịch họ
thường coi du lịch như một nhân tố văn hoá và việc làm.
23
Với cách hiểu trên đây cho thấy du lịch là tổng thể những hiện tượng và
những mối quan hệ phát sinh từ sự tác động qua lại lẫn nhau giữa khách du lịch,
những nhà kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa
phương trong quá trình thu hút và lưu giữ khách du lịch. Bản chất của du lịch là
“ngành kinh tế dịch vụ”. Dịch vụ du lịch là một loại hình dịch vụ nhằm thoả mãn
nhu cầu cho khách du lịch trong suốt thời gian đi du lịch. Du lịch một mặt mang
ý nghĩa thông thường việc đi lại của con người với mục đích nghỉ ngơi giải trí
mặt khác, du lịch là hoạt động gắn chặt với kết quả kinh tế, sản xuất, tiêu thụ do
chính nó tạo ra.
1.1.1.3. Phát triển bền vững
Trên nhiều diễn đàn và văn kiện của cộng đồng quốc tế cũng như trong
các chính sách, chương trình hành động của các quốc gia, vấn đề phát triển
bền vững đang nổi lên như một trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn
nhân loại.
Phát triển được hiểu là một quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố
cấu thành khác nhau về kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, văn hoá… Phát
triển là xu hướng tự nhiên tất yếu của thế giới vật chất nói chung, của xã hội
loài người nói riêng.
Khái niệm bền vững ở đây được hiểu là tỷ lệ sử dụng một tài nguyên
không vượt quá tỷ lệ bổ sung tài nguyên đó. Sử dụng bền vững tồn tại khi nhu
cầu về một tài nguyên thấp hơn cung cấp mới hay sự phân phối và tiêu dùng
một tài nguyên được giữ ở mức thấp hơn sản lượng bền vững tối đa.
Thuật ngữ "Phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào
năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội
Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội
dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới
phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và
sự tác động đến môi trường sinh thái học".
24
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo
Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường và
Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát
triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà
không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai..." . Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển
kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ.
Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển của Liên
hợp quốc được tổ chức ở Ri-ô đơ Gia-nê-rô đề ra Chương trình nghị sự toàn
cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là: “Một sự
phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến
khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”. Theo đó, ba trụ cột
phát triển bền vững được xác định là:
Thứ nhất, bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền vững là
phát triển nhanh và an toàn, chất lượng;
Thứ hai, bền vững về mặt xã hội là công bằng xã hội và phát triển con
người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã
hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức
khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh;
Thứ ba, bền vững về sinh thái môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường sống.
Hình 1.1. Quan niệm về phát triển bền vững
25
Hệ xã hội Phát triển
bền vững
Hệ kinh tế Hệ tự nhiên
Nguồn: Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh, Quản lý môi trường cho sự phát
triển bền vững, NXB ĐHQG Hà Nội 2010
Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế đã
đạt được sự thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững
trở thành mục tiêu thiên niên kỷ.
Ở Việt Nam, chủ đề phát triển bền vững cũng đã được chú ý nhiều trong
giới nghiên cứu cũng như những nhà hoạch định đường lối, chính sách. Quan
niệm về phát triển bền vững thường được tiếp cận theo hai khía cạnh:
Một là, phát triển bền vững là phát triển trong mối quan hệ duy trì những
giá trị môi trường sống, coi giá trị môi trường sinh thái là một trong những
yếu tố cấu thành những giá trị cao nhất cần đạt tới của sự phát triển.
Hai là, phát triển bền vững là sự phát triển dài hạn, cho hôm nay và cho
mai sau; phát triển hôm nay không làm ảnh hưởng tới mai sau.
Trong mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững được
định nghĩa: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế
hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các
thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế,
bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”. Đây là định nghĩa có tính tổng
26
quát, nêu bật những yêu cầu và mục tiêu trọng yếu nhất của phát triển bền
vững, phù hợp với điều kiện và tình hình ở Việt Nam.
1.1.2. Chính sách phát triển du lịch bền vững
Sự tăng trưởng nhanh chóng của du lịch là một nguyên nhân dẫn đến suy
thoái môi trường ở các vùng du lịch: ô nhiễm khí và nước do xả thải quá khả
năng tự làm sạch của môi trường, thay đổi cảnh quan để xây dựng cơ sở hạ
tầng; ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh học, mất giá đồng tiền, xung đột về lợi
ích xã hội vào mùa du lịch, tệ nạn xã hội bùng phát, xói mòn bản sắc văn hóa
bản địa... Trước những vấn đề tiêu cực đặt ra, Tổ chức du lịch thế giới (WTO)
và các nhà nghiên cứu đã tìm kiếm một giải pháp nhằm bảo đảm sự phát triển
hài hòa giữa phát triển du lịch với bảo vệ môi trường. Du lịch bền vững ra đời
trong thập kỷ 90 nhằm giải quyết những vấn đề đòi hỏi nêu trên.
Theo World conservation Union 1996, “Du lịch bền vững là việc di
chuyển và tham quan đến các vùng tự nhiên một cách có trách nhiệm với môi
trường để tận hưởng và đánh giá cao tự nhiên (và tất cả những đặc điểm văn
hóa kèm theo, có thể là trong quá khứ và hiện tại) theo cách khuyến cáo về
bảo tồn, có tác động thấp từ du khách và mang lại lợi ích cho sự tham gia
chủ động về kinh tế xã hội của cộng đồng địa phương”
Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO) đã đưa ra định nghĩa: "Du lịch bền vững
là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm
bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai”.
Tại Việt Nam, “Du lịch bền vững” là một khái niệm còn khá mới mẻ. Đã
có một số công trình nghiên cứu về phát triển du lịch trên khía cạnh bền
vững. Mặc dù còn những quan điểm chưa thật sự thống nhất về khái niệm
phát triển du lịch bền vững, cho đến nay đa số ý kiến các chuyên gia trong
lĩnh vực du lịch và các lĩnh vực có liên quan khác ở Việt Nam đều cho rằng:
“Phát triển du lịch bền vững là một hoạt động khai thác một cách có quản lí
các giá trị tự nhiên và nhân văn nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của khách
27
du lịch, có quan tâm đến lợi ích kinh tế dài hạn trong khi vẫn đảm bảo sự
đóng góp cho bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên, duy trì được sự toàn
vẹn văn hóa để phát triển hoạt động du lịch trong tương lai; cho công tác bảo
vệ môi trường và góp phần nâng cao mức sống của cộng đồng địa phương”.
Tuy có nhiều khái niệm về du lịch bền vững nhưng tập trung lại nó phải
có những nội dung chủ yếu sau đây:
- Giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường tự nhiên và môi
trường nhân văn. Du lịch phải thân thiện với môi trường.
- Đảm bảo lợi ích nhiều mặt của cộng đồng dân cư địa phương. Tăng thu
nhập cho địa phương.
- Phải có trách nhiệm về phát triển du lịch hôm nay và cả mai sau. Vì
vậy du lịch bền vững đồng nghĩa với du lịch trách nhiệm.
Du lịch bền vững có 3 hợp phần chính, đôi khi được ví như “ba chân”
(International Ecotourism Society, 2004):
Thân thiện môi trường. Du lịch bền vững có tác động thấp đến nguồn lợi
tự nhiên. Nó giảm thiểu các tác động đến môi trường (động thực vật, các sinh
cảnh sống, nguồn lợi sống, sử dụng năng lượng và ô nhiễm …) và cố gắng có
lợi cho môi trường.
Gần gũi về xã hội và văn hoá. Nó không gây hại đến các cấu trúc xã hội
hoặc văn hoá của cộng đồng nơi mà chúng được thực hiện. Thay vào đó thì
nó lại tôn trọng văn hoá và truyền thống địa phương. Khuyến khích các bên
liên quan (các cá nhân, cộng đồng, nhà điều hành tour, và quản lý chính
quyền) trong tất cả các giai đoạn của việc lập kế hoạch, phát triển và giám sát,
giáo dục các bên liên quan về vai trò của họ.
Có kinh tế. Nó đóng góp về mặt kinh tế cho cộng đồng và tạo ra những
thu nhập công bằng và ổn định cho cộng đồng địa phương cũng như càng
nhiều bên liên quan khác càng tốt.
28
Chính sách phát triển du lịch bền vững theo tác giả, là hệ thống các
quyết định quản lý của các cơ quan nhà nước nhằm đáp ứng các nhu cầu
hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo những khả năng đáp
ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai.
1.2. Vị trí, vai trò của chính sách phát triển du lịch bền vững đối với sự phát triển
kinh tế- xã hội
Phát triển du lịch bền vững là một vấn đề phức hợp và mang nhiều ý
nghĩa hơn chỉ là một cơ hội tạo thu nhập. Với xu thế tăng dần tỉ trọng ngành
công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỉ trọng ngành nông nghiệp, ngành du lịch
đang ngày càng chiếm giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu GDP của các quốc
gia, trong đó có Việt Nam.
Chính phủ nhiều quốc gia đã xác định chính sách phát triển du lịch bền
vững có vai trò quan trọng trong hệ thống các chính sách kinh tế- xã hội, là
động lực phát triển của nhiều nước.
Xây dựng và thực hiện có hiệu quả chính sách phát triển du lịch bền
vững sẽ có tác động tích cực tới toàn bộ nền kinh tế, cụ thể:
- Giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập quốc dân. Du lịch là
một ngành kinh tế mang tính tổng hợp, liên ngành, liên vùng và xã hội hoá.
Do vậy công việc phát triển du lịch góp phần thúc đẩy các nền kinh tế khác
phát triển thông qua việc đáp ứng các sản phẩm du lịch phục vụ nhu cầu của
khách du lịch như: phương tiện vận chuyển, thông tin liên lạc, cấp điện, cấp
nước…Thu nhập từ du lịch sẽ đóng góp vào việc nâng cao đời sống vật chất
cũng như tinh thần của người dân địa phương thông qua các hoạt động du lịch
góp phần đô thị hoá các địa phương có điểm du lịch.
- Góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập
cho một cộng đồng địa phương thông qua cung cấp các sản phẩm du lịch phục
vụ nhu cầu của khách.
29
- Góp phần cải thiện cơ sở vật chất hạ tầng và dịch vụ du lịch: Phát triển
du lịch kéo theo các dịch vụ đi kèm góp phần cải thiện về cơ sở hạ tầng và
dịch vụ xã hội cho địa phương như : thông tin liên lạc, y tế, đường giao thông,
các khu vui chơi giải trí…do có các dự án về du lịch kéo theo các dự án khác
đầu tư về cơ sở hạ tầng tới khách du lịch.
- Tạo điều kiện giao lưu văn hoá giữa các vùng, các cộng đồng và quốc
tế. Việc phát triển du lịch tạo ra cơ hội giao lưu văn hoá của người dân trong
vùng và các địa phương trong cả nước với người nước ngoài thông qua giao
tiếp với khách du lịch. Phát triển du lịch làm rút ngắn khoảng cách về cơ sở
hạ tầng cũng như nhận thức của người dân địa phương. Những tác động về văn
hoá của du lịch làm thay đổi cả hệ thống nhận thức đó là tư cách cá nhân, quan
hệ gia đình, lối sống tập thể, hành vi đạo đức, nghi lễ truyền thống….qua tiếp
xúc trực tiếp hay gián tiếp của người dân địa phương với du khách.
Tuy nhiên, trong thực tế, khi triển khai thực hiện chính sách phát triển du
lịch bền vững cũng có thể gặp phải một số vấn đề cần giải quyết:
- Ảnh hưởng tới kết cấu dân số (số lượng, thành phần) theo ngành nghề
do nhu cầu về nhân lực và sức hút thu nhập từ du lịch. Du lịch phát triển sẽ
thu hút một lượng lớn lao động từ các ngành nghề khác đặc biệt là ngành
nông nghiệp khiến cho lực lượng sản xuất lương thực ngày càng giảm đi đáng
kể nhất là khu vực hay vùng có điểm du lịch. Hiện tượng nhập cư của lao
động du lịch, các nhà kinh doanh du lịch từ nơi khác đến và vấn đề di cư của
người dân địa phương trong khu du lịch nhằm giải phóng mặt bằng để xây
dựng cơ sở du lịch cũng gây ra nhiều vấn đề khác nhau như: mâu thuẫn giữa
người dân địa phương với những nhà đầu tư, mâu thuẫn với dân lao động du
lịch nhập cư tìm kiếm việc làm…
- Tạo áp lực lên cơ sở hoạt động du lịch: Do tính mùa vụ của hoạt động
du lịch cho nên vào thời kỳ cao điếm số lượng khách đến cũng như nhu cầu
sinh hoạt của du khách có thể vượt quá mức khả năng đáp ứng về dịch vụ 30
công cộng và cơ sở hạ tầng của người dân địa phương như còn ùn tắc giao
thông, các nhu cầu về cung cấp nước, năng lượng, xử lý chất thải vượt quá
khả năng của địa phương nơi diễn ra hoạt động du lịch.
- An ninh và trật tự an toàn xã hôi bị đe dọa: Du lịch ngày càng phát
triển càng thu hút đông đảo du khách cả nội địa và quốc tế. Nhiều đối tượng
khách đến cùng đến một điểm hoặc địa phương nên khó kiểm soát được hết
hoạt động của khách. Do vậy các tệ nạn phát sinh do nhu cầu của khách như
nạn mại dâm, cờ bạc, ma tuý và tranh dành khách giữa người dân địa phương.
- Thay đổi phương thức tiêu dùng. Việc phát triển du lịch đã làm tăng
thu nhập cũng như mức sống của người dân địa phương, làm tăng sức mua
đồng thời cũng làm tăng giá cả hàng hoá nguyên liệu và thực phẩm. Điều này
thể hiện rõ nhất ở sự chi tiêu thoải mái của khách du lịch làm giá cả các mặt
hàng trong khu vực bị đẩy lên làm ảnh hưởng tới cơ cấu tiêu dùng của nơi có
các hoạt động du lịch, đặc biệt là những người có thu nhập thấp.
- Chuẩn mực xã hội bị thay đổi trong một số trường hợp làm suy thoái
văn hoá truyền thống.
- Tăng nguy cơ mắc bệnh lây truyền xã hội: Du lịch gắn liền với việc tiếp
xúc giữa người dân địa phương với khách du lịch, do vậy sự thâm nhập của
các dòng khách khác về địa lý chủng tộc sẽ kéo theo nguy cơ lan truyền các
loại bệnh khác nhau (bệnh đường ruột, bệnh ngoài da, bệnh lây truyền qua
đường tình dục..). Ngoài ra ô nhiễm môi trường như rác thải, nước bẩn…sẽ
làm ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng địa phương.
Ở Việt Nam, nhấn mạnh tới tầm quan trọng của chính sách phát triển du
lịch, ngày 16/1/2017, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã ký ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về phát triển du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn. Theo đó, sự phát triển của ngành Du lịch đã và đang
góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn
31
và phát huy giá trị di sản văn hóa, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm,
nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá
hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Tuy nhiên, nếu phát triển du lịch
một cách cực đoan, không quan tâm tới bảo vệ môi trường thì sau một
khoảng thời gian nhất định, tăng trưởng du lịch sẽ không đạt được.
1.3. Nội dung của chính sách phát triển du lịch bền vững
1.3.1. Mục tiêu
Để chính sách phát triển du lịch bền vững đạt được hiệu quả, cần hướng
tới việc đảm bảo đạt được 3 mục tiêu cơ bản sau:
- Đảm bảo sự phát triển bền vững về kinh tế: Đảm bảo sự tăng trưởng,
phát triển ổn định lâu dài về mặt kinh tế của du lịch, góp phần tích cực vào
phát triển kinh tế của quốc gia và cộng đồng.
- Đảm bảo sự bền vững về tài nguyên và môi trường: Thể hiện ở việc sử
dụng hợp lý các tiềm năng tài nguyên và điều kiện môi trường. Việc khai
thác, sử dụng tài nguyên du lịch cho phát triển cần được quản lý sao cho
không chỉ thoả mãn nhu cầu hiện tại mà còn đảm bảo cho nhu cầu phát triển
du lịch qua nhiều thế hệ. Bên cạnh đó trong quá trình phát triển, các tác động
của hoạt động du lịch đến môi trường sẽ được hạn chế đi đôi với những đóng
góp cho nỗ lực tôn tạo tài nguyên, bảo vệ môi trường.
- Đảm bảo sự bền vững về xã hội: Theo đó sự phát triển du lịch có những
đóng góp cụ thể cho phát triển văn hóa, đảm bảo sự công bằng trong phát
triển, xóa đói giảm nghèo.
32
Hình 1.2. Tam giác mục tiêu phát triển du lịch bền vững
TAM GIÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
Phát triển kinh tế
MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
Bảo vệ tài nguyên du lịch
Phát triển văn hóa, thực hiện công bằng
Nguồn: Du lịch bền vững, Nguyễn Đình Hòe – Vũ Văn Hiếu (2001), NXB Đại học sư phạm Hà Nội
1.3.2. Giải pháp
Để đảm bảo đạt được 3 mục tiêu cơ bản trên, việc thực hiện chính sách
phát triển du lịch bền vững cần đồng thời kết hợp nhiều giải pháp với nhau.
Trong đó, các giải pháp cần được ưu tiên thực hiện bao gồm:
- Sử dụng nguồn tài nguyên một cách bền vững.
- Giảm tiêu thụ quá mức và xả thải nhằm giảm chi phí khôi phục các suy
thái môi trường, nâng cao chất lượng du lịch.
- Phát triển phải gắn liền với bảo tồn tính đa dạng.
- Phát triển du lịch lồng ghép với quy hoạch phát triển của địa phương,
quốc gia.
33
- Đẩy mạnh các hoạt động phát triển kinh tế địa phương cũng như hạn
chế tối thiểu thiệt hại môi trường.
- Thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương.
- Tăng cường sự trao đổi tham khảo ý kiến cộng đồng địa phương và các
chủ thể có liên quan đảm bảo tính lâu dài trong giải quyết các vấn đề liên
quan đến hoạt động du lịch.
- Đào tạo đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ trong hoạt
động du lịch, nhằm cải thiện các sản phẩm du lịch.
- Phát huy trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin cho du khách một
cách đầy đủ để nâng cao sự tôn trọng của du khách đến môi trường tự nhiên,
xã hội và văn hóa khu du lịch.
- Triển khai các hoạt động nghiên cứu nhằm giải quyết có hiệu quả các
vấn đề đảm bảo lợi ích cho các chủ thể liên quan.
1.4. Các yêu cầu đối với chính sách phát triển du lịch bền vững
Để chính sách phát triển du lịch bền vững đạt được hiệu quả, cần phải
phải tiếp cận và thực hiện một cách toàn diện, hài hoà các yêu cầu sau:
Thứ nhất, liên quan tới hệ sinh thái. Phát triển du lịch phải chú ý đến
việc duy trì các hệ thống trợ giúp cuộc sống (đất, nước, không khí và cây
xanh), bảo vệ sự đa dạng và ổn định của các loài và các hệ sinh thái. Cơ sở
hạ tầng, cơ sở vật chất – kỹ thuật phải được thiết kế, tổ chức phù hợp với điều
kiện cho phép (giới hạn) của môi trường. Vì điều kiện của môi trường thay
đổi theo không gian và thời gian, phát triển du lịch phải phù hợp với điều
kiện môi trường ở mỗi vùng khác nhau.
Thứ hai, về hiệu quả. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn và lao động bỏ ra
trong hoạt động kinh doanh du lịch. Hiệu quả liên quan đến việc đánh giá các
phương thức, biện pháp đo lường chi phí, thời gian, lợi ích của cá nhân xã hội
34
thu được thông qua hoạt động du lịch. Việc này đòi hỏi quy mô và sự ổn định
thích hợp của các thị trường du lịch.
Thứ ba, công bằng: Bình đẳng và thừa nhận các nhu cầu cá nhân, hộ gia
đình, các nhóm xã hội, giữa thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai, giữa con người
và thiên nhiên.
Thứ tư, về bản sắc văn hoá: Bảo vệ và duy trì chất lượng cuộc sống,
các truyền thống văn hoá đặc sắc như tôn giáo, nghệ thuật và thể chế. Du
lịch phải tăng cường bảo vệ văn hoá thông qua chính sách du lịch văn hoá.
Thứ năm, về cộng đồng: Cộng đồng địa phương tham gia vào quá trình
du lịch một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua hoạt động đầu tư kinh
doanh du lịch và các hoạt động khác có liên quan như công nghiệp, thủ công
mỹ, nông nghiệp…
Thứ sáu, cân bằng: Phát triển du lịch phải tạo được sự liên kết, cân đối
và hài hoà giữa kinh tế và môi trường, giữa nông nghiệp và du lịch, giữa các
loại hình du lịch liên ngành để tạo hiệu quả tổng hợp.
Thứ bảy, phát triển: Khai thác các tiềm năng làm tăng khả năng cải
thiện chất lượng cuộc sống. Tăng trưởng là kết quả của sự phát triển, nhưng
không đồng nghĩa với sự khai thác triệt để và phá huỷ môi trường.
1.5. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế về chính sách phát triển du lịch bền
vững
1.5.1. Kinh nghiệm quốc tế
1.5.1.1. Xây dựng mô hình du lịch bền vững của cộng đồng Châu Âu
(Ecomost: european Community Models of Sustainable Tourism)
Mô hình Ecomost được xây dựng thử nghiệm tại Mallorka, Tây Ban
Nha. Đây là một trung tâm du lịch lớn nhất châu Âu. Mallorka phát triển
được là nhờ du lịch, 50% thu nhập nhờ du lịch cuối tuần. Để khắc phục tình
trạng suy thoái của ngành du lịch ở Mallorka, một chương trình nghiên cứu
35
xây dựng mô hình du lịch bền vững đã được tiến hành. Theo mô hình
ECOMOST, phát triển du lịch bền vững cần gắn kết ba mục tiêu chủ yếu là:
- Bền vững về mặt sinh thái: Bảo tồn sinh thái và đa dạng sinh học, phát
triển du lịch cần phải tôn trọng khả năng tải của hệ sinh thái.
- Bền vững về mặt văn hoá xã hội: Bảo tồn được bản sắc văn hóa xã hội
muốn vậy mọi người quyết định phải có sự tham gia của cộng đồng.
- Bền vững về mặt kinh tế: Đảm bảo hiệu quả kinh tế và quản lý tốt tài
nguyên sao cho tài nguyên có thể tiếp tục phục vụ cho các thế hệ tương lai.
Bốn yêu cầu chính nhằm duy trì khu du lịch:
- Dân số cần được duy trì hợp lý và giữ vững bản sắc văn hoá;
- Cảnh quan cần duy trì được sự hấp dẫn du khách;
- Không làm gì gây hại cho sinh thái;
- Có một cơ chế hành chính hiệu quả. Cơ chế này phải nhằm vào thực
hiện các nguyên tắc, phát triển bền vững, đảm bảo thực thi mọi kế hoạch hiệu
quả và tổng hợp cho phép sự tham gia của cộng đồng vào hoạch định các
chính sách du lịch.
ECOMOST đã chia nhỏ các mục tiêu của du lịch bền vững thành các thành
tố và sau đó các thành tố được nhận diện và cách đánh giá qua các chỉ thị:
- Thành tố văn hoá xã hội: Dân số phù hợp, bảo tồn hiệu quả kinh tế và
bảo tồn bản sắc văn hoá.
- Thành tố du lịch: Thoả mãn du khách và các nhà kinh doanh tour du
lịch, bảo trì và hiện đại hoá điều kiện ăn ở giải trí.
- Thành tố sinh thái: Khả năng tải, bảo tồn cảnh quan, sự quan tâm đến
môi trường.
- Thành tố chính sách: Đánh giá được chất lượng du lịch chính sách định
hướng sinh thái, quy hoạch vùng, sự tham gia của cộng đồng và các nhóm
quyền lực trong quá trình quy hoạch.
36
ECOMOST xây dựng một kế hoạch hành động cụ thể trong đó chia các
hành động dựa vào mức độ ưu tiên và xác định rõ trách nhiệm của các cá
nhân và các tổ chức liên quan.
1.5.1.2. Xây dựng mô hình du lịch bền vững tại Làng HIGASHI,
OKINAWA, Nhật Bản
Làng Higashi, thuộc đảo Okianawa, Nhật Bản có diện tích 82 km2, trong đó
có 73% diện tích là rừng nhiệt đới. Làng Higashi có dân số 1.900 người; ngành
nghề chủ yếu của cư dân địa phương là làm du lịch, nông nghiệp trồng dứa, xoài,
màu lương thực…
Tài nguyên thiên nhiên nổi bật là có 10ha rừng ngập mặn, vườn hoa đỗ quyên
có hơn 5.000 cây và một số loài động vật quý hiếm được coi là tài sản quốc gia
Nhật Bản là: Chim Gallorallus Okinawa thuộc họ Gà nước, Chim Sapheopipo
Noguchii thuộc họ Gõ Kiến, Bọ cánh cứng Cheirotonus Jambar. Mỗi năm, Làng
Higashi đón trung bình khoảng 300.000 khách du lịch.
Hoạt động du lịch của làng gồm:
- Du lịch tham quan ngắm cảnh trong làng;
- Du lịch xanh: Trải nghiệm làm nông nghiệp, nghỉ trọ nhà dân (home stay);
Nội dung chương trình du lịch:
Khách du lịch khi đến làng được đón tiếp tại trụ sở tổ chức Hiệp hội xúc tiến
du lịch của làng để được giới thiệu và kết nối các hoạt động du lịch tại thôn. Khách
du lịch được sẽ được tham gia Lễ nhập Làng do Hiệp hội tổ chức (lễ gặp mặt giới
thiệu giữa người khách du lịch và người dân địa phương nơi khách du lịch đến ở).
Sau lễ đón nhập làng, khách du lịch được các gia đình đón về lưu trú và tham gia
các hoạt động du lịch trải nghiệm tại gia đình. Ngày thứ 2, khách du lịch được đi
tham quan du lịch theo chương trình tour du lịch theo chương trình (thăm quan
rừng ngập mặn, ngắm vườn hoa đỗ quyên, thăm các bãi biển, phong cảnh), các gia
đình có trách nhiệm đưa, đón khách du lịch đi tham quan phong cảnh do Hiệp hội
xúc tiến du lịch của Làng tổ chức chung cho toàn bộ khách du lịch, thăm quan nhà
37
trưng bày của làng (giống như một viện bảo tàng nhỏ về lịch sử, phong tục tập
quán, sinh hoạt của người dân địa phương và tài nguyên du lịch của làng). Những
ngày tiếp theo, khách du lịch tham gia các hoạt động du lịch xanh, trải nghiệm làm
nông nghiệp như làm đất, thu hoạch nông sản, cho gia súc ăn…Một điểm đáng chú
ý, là khách du lịch khi đến ở trọ tại gia đình được sinh hoạt chung như thành viên
trong gia đình, từ sinh hoạt đến làm việc.
Sau 2 đến 3 ngày hoặc có thể lâu hơn (theo chương trình tua) khách du lịch
được gia đình người dân đưa trở lại trụ sở tổ chức Hiệp hội xúc tiến du lịch của
Làng để trở về. Sau lễ chia tay và chụp ảnh lưu niệm, khách du lịch được các công
ty Lữ hành đón trở về.
Kinh nghiệm thành công:
- Du lịch cộng đồng do người dân làm chủ;
- Chia sẻ lợi ích hài hòa các công ty du lịch, tổ chức xúc tiến du lịch và người
dân địa phương;
- Du lịch gắn với hoạt động giáo dục môi trường;
1.5.2. Kinh nghiệm trong nước
1.5.2.1. Xây dựng chính sách phát triển du lịch bền vững theo hướng
dựa vào cộng đồng ở Hội An, Quảng Nam
Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững và chất lượng dựa trên các
giá trị văn hóa và sinh thái hiện có… là hướng phát triển ngành kinh tế du lịch ở
Hội An trong những năm qua..
Theo hướng phát triển, chính quyền thành phố chủ trương đẩy mạnh du lịch
cộng đồng, tạo điều kiện để người dân được hưởng lợi ngay trên chính di sản của
mình. Những năm gần đây, thành phố đã cho phát triển nhiều loại hình dịch vụ lưu
trú trong dân. Loại hình homestay hiện nay rất phát triển, kể cả các biệt thự du lịch
ở các vùng ven. Sắp tới, thành phố sẽ mở rộng hơn nữa những quy định để tạo điều
kiện tối đa cho các chủ hộ kinh doanh cũng như các doanh nghiệp có điều kiện đầu
tư phát triển mạnh hơn nữa loại hình này nhằm đem lại lợi ích cho nhiều người
dân”. Trong năm, đã có 217 cơ sở với gần 890 phòng lưu trú được đưa vào hoạt
38
động, nâng tổng số cơ sở hiện có lên hơn 430 cơ sở với gần 7.600 phòng. Công tác
quản lý trên lĩnh vực này luôn được chỉ đạo thường xuyên, kịp thời điều chỉnh
hướng không gian phát triển phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương.
Năm 2017, Hội An tiếp tục mở rộng không gian du lịch cộng đồng tại các
vùng quê, làng nghề các khu vực nông thôn, hải đảo cùng với sự đa dạng và làm
phong phú thêm các sản phẩm du lịch văn hóa, sinh thái. Trong bối cảnh cạnh tranh
ngày càng cao, du lịch Hội An sẽ gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng
bền vững, chất lượng.
1.5.2.2. Phát triển du lịch bền vững ở thành phố Hồ Chí Minh
Với mục tiêu tăng cường xúc tiến đầu tư, quảng bá đầu tư, thương mại, du lịch
để giới thiệu hình ảnh Thành phố Hồ Chí Minh với các nước trên thế giới, nhằm
thu hút khách du lịch và tìm kiếm cơ hội đầu tư, chính quyền thành phố đã chú
trọng phát triển du lịch bền vững gắn với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa dân tộc; giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường; bảo đảm an ninh, quốc phòng,
trật tự an toàn xã hội...
Với vị trí nằm ở trung tâm có mạng lưới giao thông đường bộ, hàng không và
đường thủy, Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những cầu nối giữa Việt Nam và
quốc tế. Với lịch sử hơn 300 năm tuổi, có nhiều tài nguyên du lịch hấp dẫn, đặc biệt
là tài nguyên du lịch nhân văn như: di tích lịch sử địa đạo Củ Chi, Dinh Thống
Nhất, bảo tàng Chứng tích chiến tranh, di tích lịch sử văn hoá Nhà thờ Đức Bà, Nhà
hát Thành phố và các trung tâm giải trí như Công viên văn hoá Đầm Sen, khu du
lịch Suối Tiên, hệ du lịch sinh thái biển Cần Giờ… Thành phố Hồ Chí Minh là một
trong những địa phương dẫn đầu về việc thu hút khách du lịch. Những năm 2006 –
2010, lượng khách du lịch quốc tế đến Thành phố tăng bình quân 15% năm, năm
2000 - năm đầu tiên của chương trình hành động quốc gia về du lịch - khách quốc
tế đến thành phố là 1.100.000 lượt đến năm 2006 đã đạt 2.350.000 lượt và năm
2010 đạt 3,1 triệu lượt khách quốc tế, chiếm hơn 60% tổng lượt khách quốc tế đến
Việt Nam. Khách du lịch nội địa tăng đều đặn hàng năm, ngay cả trong thời kỳ chịu
tác động của suy thoái kinh tế với tỷ lệ từ 20 đến 30%/năm. Doanh thu ngành du
39
lịch Thành phố tăng bình quân 30%/ năm: năm 2006 đạt 16.200 tỷ đồng, đến năm
2010 đã là 41.000 tỷ đồng, chiếm 45% tổng doanh thu du lịch cả nước và đóng góp
5,5% GDP của Thành phố.
Lượng du khách đến Thành phố ngày càng tăng càng đặt ra cho ngành du lịch
những cơ hội và thách thức để duy trì và phát triển bền vững. Từ điều kiện cụ thể
của địa phương, những năm qua, theo hướng phát triển du lịch bền vững, Đảng bộ
Thành phố đã chủ trương: “Đưa ngành du lịch thành phố thực sự là một ngành công
nghiệp với sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh với các trung tâm du lịch
của các nước trong khu vực”, coi du lịch là thế mạnh và là một trong những ngành
kinh tế mũi nhọn, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Chương trình số
05-CTr/TU, về “Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế (giai đoạn 2006 -
2010)” đã lập kế hoạch một cách cẩn thận, nhằm thực hiện mục tiêu: “Xây dựng
chiến lược phát triển thương hiệu du lịch của Thành phố; liên kết với các tỉnh,
thành xây dựng và phát triển các khu du lịch đạt chuẩn quốc tế. Tập trung đầu tư cơ
sở hạ tầng và hệ thống khách sạn của Thành phố, xây dựng sản phẩm du lịch có lợi
thế cạnh tranh, tăng cường công tác quảng bá xúc tiến vào các thị trường trọng
điểm, gắn với mở rộng hợp tác liên kết và kêu gọi đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực”.
Theo đó, việc tăng cường xúc tiến đầu tư, quảng bá đầu tư, thương mại, du
lịch để giới thiệu hình ảnh Thành phố với các nước trên thế giới, nhằm thu hút
khách du lịch tới Thành phố và tìm kiếm cơ hội đầu tư, từ đó tranh thủ vốn của các
nhà đầu tư nước ngoài phát triển kinh tế Thành phố nói chung cũng như đầu tư
thương mại du lịch nói riêng được quan tâm. Đặc biệt là việc chú trọng phát triển
du lịch bền vững gắn với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; giữ
gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường; bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã
hội; đảm bảo hài hòa tương tác giữa khai thác phát triển du lịch với bảo vệ giá trị
tài nguyên tự nhiên và nhân văn để vừa làm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch,
vừa tạo cơ sở động lực cho sự phát triển kinh tế của Thành phố được thực hiện
đồng bộ.
Trong đó, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được quan tâm đặc
40
biệt. Bằng nguồn vốn đầu tư của Trung ương cũng như nguồn vốn địa phương,
Thành phố đã ưu tiên đầu tư và hoàn thiện các công trình hỗ trợ cho tuyến du lịch
đường Rừng Sác, tuyến đường vành đai Tân Sơn Nhất, xây dựng cầu Phú Mỹ,
đường hầm Thủ Thiêm, xây dựng Công viên Lịch sử Văn hoá các dân tộc... Ngành
du lịch đã đa dạng hóa sản phẩm du lịch, tăng cường, củng cố và cải thiện chất
lượng các sản phẩm du lịch đã có; tiếp tục nâng cao chất lượng các điểm tham quan
có sức thu hút cao như: Khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi, hội trường Thống Nhất,
Bảo tàng Chứng tích chiến tranh, Bưu điện thành phố, Nhà thờ Đức Bà, hệ thống
các chùa… Đồng thời xây dựng các sản phẩm mới và mang tính đặc thù như: Triển
khai đề án khu phố đi bộ ở quận 1 tại đường Đồng Khởi - Nguyễn Huệ; xây dựng
tuyến du lịch tham quan khu phố Đông y quận 5 kết hợp với nhà hàng thực dưỡng.
Chú trọng các sản phẩm du lịch liên tuyến, liên vùng, với khu vực phụ cận và ra
các nước như Campuchia, Thái Lan, Xingapo… Chủ trương phát triển du lịch bền
vững đúng hướng của Đảng bộ Thành phố cùng với sự nỗ lực phấn đấu của toàn
ngành đã mang lại kết quả đáng khích lệ cho sự phát triển du lịch của Thành phố
Hồ Chí Minh.
1.5.3. Một số bài học có thể vận dụng đối với phát triển du lịch bền
vững tại khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng
Từ những mô hình phát triển du lịch bền vững ở một số quốc gia, đã rút ra
một số bài học có thể vận dụng đối với Cát Bà như sau:
- Nâng cao nhận thức về phát triển du lịch bền vững cho các chủ thể liên quan.
Du lịch - ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, việc phát triển du lịch góp phần nâng
cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy, phát triển du lịch bền
vững có nghĩa nó sẽ kéo theo sự phát triển chung về kinh tế, xã hội và môi trường.
- Phát triển du lịch bền vững theo hướng cộng đồng là cách đóng góp vào
phát triển du lịch bền vững ở địa phương các hoạt động như: giao lưu, trao đổi, học
hỏi kinh nghiệm. Đây là con đường ngắn nhất đưa lý luận vào thực tiễn. Việc tham
gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch không chỉ giúp họ tăng thêm
thu nhập, cải thiện đời sống mà sẽ làm tăng ý thức trách nhiệm của cộng đồng với
41
sự phát triển của du lịch bởi lúc này quyền lợi của họ đã gắn liền với sự phát triển
du lịch. Họ sẽ là người có trách nhiệm hơn với việc bảo vệ môi trường, tài nguyên
du lịch, chăm lo đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Đa dạng hoá sản phẩm và các loại hình du lịch, nâng cao chất lượng để đạt
tiêu chuẩn quốc tế; nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch bền vững. Hiện nay du
lịch bền vững đang đứng trước một thử thách là cần phát triển các sản phẩm du lịch
có chất lượng, có khả năng thu hút cao song không làm ảnh hưởng xấu đến môi
trường thiên nhiên và văn hóa bản địa.
- Đào tạo các hướng dẫn viên và diễn giải viên du lịch bền vững là một trong
những nguyên tắc có tính chất then chốt đối với sự phát triển bền vững của du lịch.
Chú trọng đào tạo hướng dẫn viên, diễn giải viên là người bản địa, vì họ là những
người có hiểu biết sâu sắc về lịch sử, phong tục tập quán, văn hóa bản địa và tài
nguyên du lịch, có tâm huyết xây dựng quê hương. Họ sẽ là những người chuyển
tải một cách rõ ràng nhất về giá trị của tài nguyên thiên nhiên, thông tin du lịch và
văn hóa, tập quán bản địa đến với du khách trong quá trình thực hiện hướng dẫn du
lịch. Diễn giải viên, hướng dẫn viên du lịch được xem là linh hồn của đoàn khách,
sứ giả của doanh nghiệp, của địa phương và đất nước để đón tiếp và phục vụ khách
du lịch, là người chịu trách nhiệm chủ yếu trong công việc giới thiệu cho khách du
lịch các di sản văn hóa, các di tích lịch sử, các lễ hội truyền thống. Do đó, đòi hỏi
người hướng dẫn chuyên môn cao, kiến thức rộng, có trình độ ngoại ngữ và tâm
huyến với nghề, có ý thức cao trong hoạt động bảo vệ môi trường và tuyên truyền
giáo dục bảo vệ môi trường.
Tiểu kết chương 1
Như vậy có thể thấy, cùng với xu hướng giảm tỉ trọng của ngành nông nghiệp,
tăng dần tỉ trọng của ngành công nghiệp và đặc biệt là của ngành dịch vụ, ở các
quốc gia trên thế giới có tiềm năng phát triển du lịch, trong đó có Việt Nam, du lịch
đang dần chiếm ưu thế. Để phát huy được thế mạnh đó, chính phủ các nước đã và
đang hình thành chính sách phát triển du lịch bền vững với tư cách là một bộ phận
của hệ thống chính sách kinh tế- xã hội. Với việc nghiên cứu vai trò, nội dung, các
42
yêu cầu của chính sách phát triển du lịch bền vững cũng như kinh nghiệm của một
số quốc gia và địa phương liên quan tới chính sách này, luận văn đã tổng quan được
cơ sở lí thuyết liên quan tới chính sách phát triển du lịch bền vững. Đây là tiền đề
để tác giả nghiên cứu và đánh giá thực trạng chính sách phát triển du lịch bền vững
43
tại Khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
TẠI KHU DU LỊCH CÁT BÀ, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1. Khái quát chung về Khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng
2.1.1. Vị trí địa lý, địa hình, khí hậu
- Vị trí địa lý, địa hình:
Khu du lịch Cát Bà bao gồm khu Dự trữ Sinh quyển Cát Bà, Vườn quốc gia
Cát Bà và quần đảo Long Châu, thuộc huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Khu
du lịch Cát Bà cách thành phố Hải Phòng 45 km về phía Đông và cách thủ đô Hà
Nội 150km về phía Đông - Nam. Phía Bắc và phía Đông giáp Vịnh Hạ Long; phía
Nam giáp Vịnh Bắc Bộ; phía Tây giáp đảo Cát Hải.
- Địa hình:
Khu du lịch Cát Bà có diện tích là 33.670 ha, bao gồm 13.478 ha đất tự nhiên
và 20.192 ha mặt biển và được bảo vệ bởi Vùng đệm rộng lớn nằm ở phía Tây Bắc
và Tây Nam với diện tích là 13000 ha, bao gồm 3.984 ha đất tự nhiên và 9016 ha
mặt nước. Phần lớn diện tích Khu du lịch Cát Bà là đảo đá vôi. Địa hình đặc trưng
là các vách dốc đứng lởm chởm tai mèo, các đỉnh, chóp của các khối núi đá vôi
hiểm trở với các hang động trong các khối núi đá vôi. Các thung lũng karst hẹp bị
bao quanh bởi dãy núi kéo dài chủ yếu theo phương Tây Bắc - Đông Nam. Các
tùng, áng khoét sâu vào bờ đảo. Các bãi triều bùn rộng lớn và khá bằng phẳng, trên
bề mặt bãi phát triển rừng ngập mặn tươi tốt. Các bãi cát vỏ vôi sinh vật và mảnh
cành san hô.
Khu du lịch Cát Bà có đặc trưng đa dạng sinh học cao với chức năng là Vườn
quốc gia và Khu Dự trữ sinh quyển thế giới Cát Bà, có nhiều kiểu rừng mưa nhiệt
đới xanh quanh năm (Hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi, rừng ngập nước ngọt, rừng
ngập mặn), còn có 1045,2 ha rừng nguyên sinh trên đảo đá vôi lớn nhất của Việt
Nam, với nhiều loài quý hiếm, trong đó Voọc Đầu Trắng là đặc hữu và biểu tượng
44
của đảo. Vùng triều và biển xung quanh đảo có khu hệ động thực vật phong phú,
cạnh ngư trường đánh bắt hải sản lớn.
Khu du lịch Cát Bà thuộc ven bờ Hải Phòng có khí hậu vừa mang đặc điểm
chung của đồng bằng Bắc Bộ, vừa có những đặc điểm vi khí hậu của một đảo đá
vôi ven biển, với đặc điểm cơ bản vùng nhiệt đới có mùa đông lạnh. Là đảo ven
bờ, khu vực còn chịu sự chi phối của biển dưới tác động của gió biển - đất làm
điều hoà khí hậu, tạo nên mùa đông ấm hơn và mùa hè mát hơn so với đất liền.
- Khí hậu:
Chất lượng nước biển Cát Bà thuộc loại tốt. Nhiệt độ nước biển thay đổi trong khoảng 15oC đến 31oC, oxy hòa tan từ 5,12mg/l - 7,27 mg/l. pH của nước biển biến
đổi trong một khoảng khá hẹp, từ 7,9 đến 8,3. Độ muối dao động từ 19‰ đến 34‰.
Hàm lượng kim loại nặng trong nước nằm trong giới hạn cho phép.
2.1.2. Tài nguyên thiên thiên
Khu du lịch Cát Bà có 388 hòn đảo lớn, nhỏ được bao phủ bởi thực vật nhiệt
đới. Do còn lưu giữ được vẻ hoang sơ hài hòa giữa cảnh quan rừng xanh và biển
xanh như một miền ký ức sống động về lịch sử hình thành và phát triển của trái đất
còn lưu giữ được - Khu du lịch Cát Bà được biết đến với tên gọi thân thương là
“Cát Bà - Đảo Ngọc”.
Khu du lịch Cát Bà là nơi hệ sinh thái đa dạng nổi bật toàn cầu với nhiều hệ
sinh thái (7 hệ sinh thái) như: rừng mưa nhiệt đới trên núi đá vôi, hang - động, rừng
ngập mặn, bãi triều, hồ nước mặn, động thực vật đáy mềm và các rạn san hô rộng
lớn.
Khu du lịch Cát Bà còn là trung tâm đa dạng sinh học cao của thế giới có giá trị
toàn cầu được Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) xếp loại. Tiêu biểu là sự có
mặt của 3.860 loài thực vật và động vật trên cạn và dưới biển. Có tới 130 loài được xác
định là các loài quý hiếm, được đưa vào sách đỏ Việt Nam và thế giới, trong đó có 76
loài nằm trong dach mục quý hiếm của IUCN, 21 loài đặc hữu. Đặc biệt loài Voọc Cát
Bà (Trachypithecus poliocephalus) là loài đặc hữu, hiện nay chỉ còn một quần thể với
63 cá thể phân bố duy nhất ở Cát Bà. Voọc Cát Bà cùng với một số loài thực vật và
45
động vật được IUCN xếp hạng ở cấp cực kỳ nguy cấp.
Khu hệ sinh vật biển của Khu du lịch Cát Bà cũng hết sức phong phú. Cho
đến nay, đã phân loại được 177 loài san hô, trong đó có 166 loài san hô cứng (hard
coral) và 11 loài còn lại thuộc các nhóm các bộ san hô bò (Stolonifera), san hô
mềm (Alcyonaria), san hô sừng (Gorgonacea). Bên cạnh đó, vùng biển Cát Bà còn
là nơi sinh sống và phát triển của 196 loài cá biển (marine fish), 102 loài rong biển
(alga), 131 loài động vật phù du (zooplankton), 400 loài thực vật phù du
(Phytoplankton) và 658 loài động vật đáy (zoobenthos).
Khu du lịch Cát Bà có 388 hòn đảo lớn nhỏ, đã hình thành lên các quần thể
vịnh biển đẹp và cảnh quan thơ mộng thu hút hàng trăm nghìn lượt khách du lịch
đến thăm quan các năm như: vịnh Cát Bà, Vịnh Lan Hạ, Khu vực đảo Long Châu.
Đan giữa các vịnh hình thành lên các bãi tắm tự nhiên. Theo thống kê hiện có 40
bãi tắm (bãi triều cát) lớn nhỏ, trong đó có các bãi tắm đẹp là bãi tắm Cát Cò I, Cát
Cò 2, Cát Cò 3, bãi Cát Dứa, bãi Ba Trái Đào...
Hang động ở Cát Bà mà một dạng sinh cảnh tiêu biểu của địa hình karst. Hơn
thế nữa, hệ thống hang động ở Cát Bà rất độc đáo do nó chứa đựng cả hang trên cạn
và hang dưới biển. Các loài động vật phổ biến ở hang động là dơi, chân bụng và
côn trùng. Đặc biệt, các hang động ở Cát Bà còn là nơi có nhiều di chỉ khảo cổ
quan trọng. Quần đảo Cát Bà cò nhiều hệ thống hang động đẹp, kỳ thú. Là địa điểm
thu hút nhiều du khách đến thăm quan. Hiện nay, có 4 hang, động đang được vào
khai thác du lịch đó là: Động Thiên Long, Hang Đá Hoa, Động Trung, Hang Quân
Y.
Với những giá trị vô cùng quý báu về đa dạng sinh học như trên, Khu du lịch
Cát Bà đã được Chính phủ Việt Nam ra quyết định lập Vườn quốc gia năm 1984;
Khu bảo tồn biển quốc gia năm 2010; Danh lam thắng cảnh - di tích quốc gia đặc
biệt cấp quốc gia năm 2013 và được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển
thế giới năm 2004. Hiện nay Hồ sơ đề cử Quần đảo Cát Bà là Di sản thiên nhiên
Thế giới đã được hoàn thiện trình lên Thủ tướng Chính phủ đề xem xét gửi đến
46
UNESCO vào thời điểm thích hợp.
2.2. Khái quát về chính sách phát triển du lịch bền vững tại Khu du lịch Cát
Bà, thành phố Hải Phòng
2.2.1. Cơ sở pháp lý xây dựng chính sách phát triển du lịch bền vững tại
khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng
Chính sách phát triển du lịch bền vững tại khu du lịch Cát Bà, thành phố
Hải Phòng được xây dựng dựa trên các văn bản sau:
- Luật Du lịch số 44/2005/QH11 ngày 14/06/2005;
- Nghị định số 92/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày
01/06/2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch;
- Nghị định số 180/2013/NĐ- CP của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 92/2007/NĐ- CP quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Du lịch;
- Quyết định số 201/2013//QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành
ngày 22/01/2013 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
- Quyết định số 271/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành
ngày 27/11/2006 về việc phê duyệt “Điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế- xã hội thành phố Hải Phòng đến năm 2020”;
- Quyết định số 1448/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành
ngày 16/09/2009 về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng
thành phố Hải Phòng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050;
- Quyết định số 142/2008/QĐ-UBND của UBND thành phố Hải Phòng
ban hành ngày 17/01/2008 về việc phê duyệt “Rà soát, điều chỉnh, bổ sung
quy hoạch tổng thể phát triển du lịch thành phố Hải Phòng đến năm 2020”;
2.2.2. Nội dung chính sách phát triển du lịch bền vững Khu du lịch
Cát Bà, thành phố Hải Phòng
2.2.2.1. Mục tiêu
47
- Phát triển du lịch bền vững tại Khu du lịch Cát Bà phải trở thành động
lực kinh tế cho phát triển kinh tế- xã hội của thành phố Hải Phòng và vùng
đồng bằng sông Hồng.
- Khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế so sánh về nguồn lực du
lịch, tạo ra được sự khác biệt về sản phẩm du lịch để nâng cao tính cạnh tranh
của du lịch Cát Bà trong mối quan hệ gắn kết phát triển du lịch với Đồ Sơn,
Hạ Long, Vân Đồn và các trung tâm du lịch khác ở vùng đồng bằng sông
Hồng và cả nước, khu vực và quốc tế.
- Phát triển Cát Bà trở thành đảo “Ngọc bích” nơi du khách sẽ có những
trải nghiệm tốt nhất về các giá trị sinh thái- cảnh quan toàn cầu; nơi nỗ lực
bảo gồm sẽ được hỗ trợ bởi những công nghệ “xanh” hiện đại và những hoạt
động dựa trên nguyên tắc của du lịch bền vững mà nòng cốt là du lịch sinh
thái và du lịch cộng đồng.
- Bảo tồn và tôn tạo các giá trị tài nguyên. Phát triển du lịch phải chú
trọng bảo tồn các giá trị mang tầm quốc tế về sinh thái, đa dạng sinh học, về
cảnh quan môi trường, giá trị địa chất cũng như các giá trị di sản văn hóa, lịch
sử cho phát triển du lịch bền vững ở Cát Bà.
2.2.2.2. Các giải pháp
Một là, nâng cao nhận thức về du lịch. Nhận thức đúng về du lịch, đặc
biệt là du lịch bền vững đối với phát triển kinh tế, gắn với bảo tồn và phát
triển cộng đồng thông qua hoạt động tọa đàm, tập huấn, tham quan học tập,
thông tin sẽ tạo ra sự đồng thuận.
Hai là, giải pháp về quản lý. Cần thành lập các cơ quan chuyên trách
phát triển du lịch tại Cát Bà. Trong đó tổ chức bộ máy quản lý bao gồm:
- Sở Du lịch: Chủ trì phối hợp với các Sở, ban, ngành thành phố và
UBND huyện Cát Hải chỉ đạo việc thực hiện chính sách phát triển bền vững
khu lịch Cát Bà.
48
- Sở Kế hoạch và Đầu tư: chủ trì, phối hợp với Sở Văn hóa Thể thao và
Du lịch, UBND huyện Cát Hải xây dựng các chính sách đặc thù nhằm thu hút
vốn đầu tư phát triển du lịch.
- UBND huyện Cát Hải: quản lý việc thực hiện chính sách phát triển bền
vững khu lịch Cát Bà.
Ba là, giải pháp về cơ chế, chính sách. Cần thực hiện đồng bộ chính
sách phát triển du lịch bền vững với các chính sách khác như chính sách thuế,
chính sách thu hút vốn đầu tư, chính sách bảo vệ môi trường…
Bốn là, giải pháp về quảng bá và tiếp thị du lịch, trong đó, cần nâng cao
năng lực của Trung tâm xúc tiến du lịch Hải Phòng.
Năm là, giải pháp về phát triển nguồn nhân lực, nhấn mạnh tới đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao năng lực, tay nghề, kĩ năng của lao động du lịch tại Cát Bà.
Sáu là, giải pháp về tài chính, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để
phát triển du lịch bền vững tại Cát Bà.
Bảy là, giải pháp liên kết phát triển du lịch với các lãnh thổ khác nhau
nhằm cho phép khai thác lợi thế tương đối của nhau về tài nguyên du lịch, về
vị trí trong giao thông, về hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật và các nguồn lực
khác cho phát triển du lịch.
2.3. Đánh giá chung về chính sách phát triển du lịch bền vững Khu du
lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng thông qua phân tích swot
2.3.1. Điểm mạnh
2.3.1.1. Đã xác định mục tiêu phát triển du lịch gắn với bảo vệ môi trường
và bảo tồn các giá trị văn hóa- lịch sử tại Khu du lịch Cát Bà.
Cụ thể, về phát triển du lịch với mục tiêu Cát Bà trở thành viên ngọc xanh, bộ
mặt du lịch nơi đây đã có nhiều khởi sắc. Mục tiêu trên được xây dựng dựa trên
những tiềm năng có sẵn tại đây.
Thứ nhất, về tài nguyên du lịch nhân văn
Đạt được kết quả này một phần cũng do Cát Bà được thiên nhiên ưu đãi với
49
nhiều hệ thống di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh thu hút được khách du lịch.
Hiện nay đảo Cát Bà có 11 di tích được xếp hạng, trong đó có 3 di tích được
xếp hạng di tích cấp quốc gia: (1) Di tích lịch sử văn hóa Bác Hồ về thăm Làng cá,
Di tích khảo cổ Cái Bèo (2) và Quần đảo Cát Bà được xếp hạng là Di tích quốc gia
đặc biệt - Danh lam thắng cảnh (3) và 8 di tích được xếp hạng cấp thành phố là
(1)Di tích lịch sử kháng chiến Đình, xã Trân Châu, (2) Di tích Đồn Cổ, xã Xuân
Đám, (3) Di tích lịch sử văn hóa xã Phù Long, (4) Di tích lịch sử Đình - Chùa Gia
Lộc, (5) Di tích lịch sử - văn hóa Đình Nghĩa Lộ, (6) Di tích lịch sử văn hóa Cụm
đình chùa Văn Chấn, xã Văn Phong, (7), Di tích lịch sử văn hóa Chùa Hòa Hy, thị
trấn Cát Hải, (8) Di tích lịch sử văn hóa Đình Hoàng Châu, xã Hoàng Châu...
Bên cạnh các di tích được xếp hạng, trên đảo Cát Bà còn có một số đình chùa
tuy chưa được xếp hạng song hàng năm thu hút đông khách du lịch và nhân dân địa
phương đến thăm quan, vãn cảnh và hành hương như: Chùa Thiên Ứng, Chùa Linh
Ứng xã Trân Châu, Đền Áng Ván, Đền Tùng Rinh thị trấn Cát Bà, Đền Hiền Hào,
xã Hiền Hào, Đền Bến, xã Gia Luận, Hệ thống đền, miếu xã Xuân Đám, Pháo đài
Thần Công đỉnh cao 177, thị trấn Cát Bà...
Cùng với hệ thống các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, Cát Bà còn có rất
nhiều các lễ hội gắn với văn hóa biển. Các làng, xã trên đảo Cát Bà nằm giáp biển
nên các hoạt động Lễ hội của cư dân vùng đảo Cát Bà mang đặc trưng văn hóa tâm
linh của người dân vùng biển như: chèo thuyền, đua thuyền là sinh hoạt văn hoá,
hội đua thuyền chính là ngày hội xuống nước của các làng chài Cát Hải. Chính ở
nơi đầu sóng ngọn gió, với sức sống, tinh thần lao động sáng tạo, người dân ở đây
đã để lại những giá trị văn hoá độc đáo. Ngoài các lễ hội xuân đầu năm gắn với các
hoạt động tín ngưỡng tâm linh đầu năm tại các đền, chùa còn có một số lễ hội
truyền thống được tổ chức hàng năm thu hút đông đảo du khách và nhân dân tham
gia là Lễ hội làng cá Cát Bà, Lễ hội cầu ngư của nhân dân thị trấn Cát Hải; lễ hội
Xa Mã, xã Hoàng Châu...
Lễ hội Làng cá Cát Bà gắn với sự kiện kỷ niệm ngày Bác Hồ về thăm Làng cá
và Kỷ niệm ngày Truyền thống ngành thủy sản Việt Nam được tổ chức vào dịp
50
31.3 và ngày 01.4 dương lịch hàng năm. Lễ hội được tổ chức với nhiều hoạt động
văn hóa truyền thống đặc trưng của người dân vùng biển là đua thuyền rồng, đua
thuyền thúng, lễ cầu ngư, rước nước, rước kiệu và nhiều hoạt động văn hóa, văn
nghệ khác.
Lễ hội cầu ngư thị trấn Cát Hải là lễ hội truyền thống lâu đời của nhân dân thị
trấn Cát Hải và các xã lân cận, được tổ chức vào ngày 21 tháng Giêng hàng năm.
Lễ hội được tổ chức với các hoạt động như: lễ tế Thủy Thần Long Vương, cầu cho
mưa thuận, gió hòa, mùa biển bội thu. Vào ngày lễ hội diễn ra, nhân dân trong xã
có tục làm bánh trôi nước để thờ cúng thần linh, tổ tiên và mời bạn bè, du khách ở
xa đến chơi thưởng thức.
Lễ hội Xa Mã xã Hoàng Châu vào ngày 10 tháng 6 âm lịch là hoạt động lễ hội
tâm linh lâu đời của nhân dân xã Hoàng Châu. Lễ hội với hoạt động trò thi kéo ngựa
chiến hay còn gọi là xa mã (rước kiệu) diễn ra giữa trai tráng trong làng. Lễ hội là dịp
để nhân dân trong xã thờ cúng thần hoàng làng, đồng thời để thanh niên trai tráng
trong làng thể hiện sức mạnh trai tráng và tinh thần thượng của võ dân tộc trong đấu
tranh làm chủ thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm. Nhìn chung các Lễ hội ở cư dân
vùng đảo Cát Bà tuy không nhiều song là những lễ hội có nhiều dấu ấn đặc sắc và thu
hút đông đảo khách du lịch và nhân dân tham gia.
Thứ hai, về nguồn nhân lực hoạt động trong ngành du lịch
Đảo Cát Bà có dân số năm 2015 là 16.456 người, trong đó có 12.539 người
trong độ tuổi lao động. Đây được xem là thời điểm dân số lý tưởng của đảo Cát Bà.
Qua số liệu thống kê có thể thấy dân số Cát Bà là dân số trẻ, có số người trong độ
tuổi lao động ở tỷ lệ cao. Cát Bà có nguồn nhân lực dồi dào để phục vụ cho hoạt
động du lịch. Theo kinh nghiệm tại Nhật Bản dân số trẻ là tài nguyên lao động quý
giá, tạo sinh khí, động lực cho du lịch Cát Bà phát triển.
Hiện nay, mỗi năm du lịch Cát Bà thu hút từ 3.000 đến 3.500 lao động trực
tiếp. Vào những tháng cao điểm, số lao động trực tiếp làm việc trong ngành du lịch
khoảng 5.000 lao động, đủ sức tải phục vụ cho khoảng 12.000 lượt khách du
51
lịch/ngày.
0.17%
3.73% 1.10%
Dưới 15
45.03%
Từ 15 - 34
Từ 35 - 55
49.97%
Từ 55 - 60
Trên 60
Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Cát Hải, 2015
Hình 2.1. Biểu đồ cơ cấu độ tuổi lao động du lịch Cát Bà
Về cơ cấu độ tuổi: Theo kết quả điều tra lao động trong ngành du lịch Cát Bà
năm 2015, cho thấy lao động của du lịch Cát Bà là lao động trẻ, có khoảng 45% lao
động có tuổi đời từ 15 đến 34 tuổi, có gần 50% lao động có độ tuổi từ 35 đến 55, còn
lại là độ tuổi trên 55 và dưới 15.
Thứ ba, về cơ sở vật chất, tài chính
Kết cấu hạ tầng như đường giao thông, điện, nước, bưu chính, viễn thông là
những điều kiện không thể thiếu được trong quá trình khai thác tài nguyên phục vụ
du lịch.
Trong những năm gần đây, hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật: đường giao
thông, điện nước được đầu tư và ngày càng hoàn thiện. Nhiều dự án đầu tư về cơ sở
hạ tầng kỹ thuật được đầu tư và đưa vào sử dụng đã tạo đà thuận lơi phục vụ phát
triển du lịch Cát Bà, tiêu biểu như: Dự án đường xuyên đảo Đình vũ - Cát Hải - Cát
Bà, dự án đường Cát Cò 3 - Gia Luận; dự án mở rộng mặt bằng khu Trung tâm du
lịch; các dự án cung cấp nước ngọt về thị trấn Cát Bà, dự án tuyến phà Gia Luận -
Tuần Châu, Dự án điện lưới quốc gia 35KV ra đảo Cát Hải…và hiện nay Nhà nước
đang triển khai các dự án Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng và dự án đường ô tô cầu
52
Tân Vũ - Lạch Huyện trên địa bàn huyện Cát Hải. Các dự án đầu tư đem đến cho
Cát Bà một diện mạo mới, ngày càng văn minh, hiện đại, bước đầu tạo nên vóc
dáng của một đô thị du lịch hiện đại, một trung tâm du lịch sinh thái của cả nước và
quốc tế nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế biển để phục vụ phát triển
kinh tế.
Bảng 2.1.Thống kê cơ sở vật chất trong phục vụ du lịch giai đoạn 2009 - 2015
Stt
Các chỉ tiêu
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
2009
2011
2013
2014
2015
1.
Tổng số khách sạn, nhà nghỉ
112
122
148
154
165
1.1 Khách sạn 4 sao
0
0
0
0
01
1.2 Khách sạn 3 sao
0
01
03
03
03
1.3 Khách sạn 2 sao
12
13
13
14
15
1.4 Khách sạn 1 sao
08
09
09
10
13
Tổng số phòng nghỉ
1.985
2.234
2.531
2.769
3.060
2.
Tổng số giường nghỉ
4.050
4.500
4.942
5.315
5.803
3.
71
56
60
69
68
Xe ô tô
4
40
63
57
55
77
Tàu du lịch
5
31
33
40
45
55
Tổng số nhà hàng (gồm cả bè nổi)
6
Tổng số lao động phục vụ du lịch
2.400
2.750
3.000
3.300
3.500
7
Nguồn Phòng Văn hóa Thông tin thể thao và Du lịch huyện Cát Hải
Số lượng các khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng và phương tiện vận tải du lịch
tăng nhanh về số lượng và chất lượng dịch vụ trong những năm gần đây. Năm
2009, đảo Cát Bà có 112 khách sạn, nhà nghỉ với 1.985 phòng nghỉ và 31 nhà hàng.
Qua từng năm, số lượng khách sạn và nhà nghỉ, nhà hàng đều được tăng nhanh.
Một số khách sạn được đầu tư, nâng cấp mở rộng quy mô diện tích sử dụng, tăng số
phòng nghỉ. Tính đến hết năm 2015, du lịch Cát Bà có tổng số 165 khách sạn và
nhà nghỉ với tổng số 3.060 phòng nghỉ và 5.803 giường.
Nhìn chung, Khu vực đảo Cát Bà có 55 nhà hàng kinh doanh chuyên biệt.
Ngoài ra, tại hầu hết các khách sạn, nhà nghỉ đều phục vụ ăn, uống tại khách sạn
với các món ăn từ bình dân đến các món đặc sản. Phần lớn các nhà hàng trên địa
53
bàn đảo Cát Bà đã được ngành y tế cấp giấy chứng nhận đủ vệ sinh.
Nhiều nhà hàng, khách sạn đã được gắn biểu tượng Dự trữ Sinh quyển Thế
giới, thể hiện đạt chuẩn về dịch vụ của cơ sở kinh doanh. Qua điều tra phỏng vấn
người địa phương, hơn 70% câu trả lời đều cho rằng hiện tại Cát Bà có đủ cơ sở lưu
trú và nhà hàng để phục vụ nhu cầu ăn nghỉ của khách.
Số phương tiện tham gia hoạt động du lịch - dịch vụ trên địa bàn tăng cả về số
lượng và chất lượng.
Về đường bộ: Huyện Cát Hải có 119,125 km đường bộ, trong đó có 28,04 km
đường tỉnh, 48,38 km đường huyện và 29,5 km đường xã. Hệ thống giao thông
đường tỉnh, huyện được rải nhựa, toàn bộ hệ thống đường giao thông xã và liên xã
được bê tông hóa. Hệ thống đường giao thông cơ bản đáp ứng yêu cầu phục vụ dân
sinh và phục vụ du lịch. Các tuyến đường giao thông chính là:
- Đường du lịch ven biển từ thị trấn Cát Bà đến Cái Viềng qua các xã Trân
Châu, Xuân Đám, Hiền Hào, Phù Long dài trên 30 km. Đây là tuyến đường du lịch
kết hợp dân sinh, là tuyến giao thông chính của huyện Cát Hải.
- Cầu Tân Vũ- Lạch Huyện vừa được thông xe kĩ thuật vào tháng 5/2017 đã
tạo thuận lợi cho phát triển du lịch Cát Bà.
- Tuyến đường Cát Bà - Gia Luận - Tuần Châu tuyến đường đạt tiêu chuẩn
54
đường giao thông miền núi cấp, dài 24 km.
- Tuyến đường Vườn Quốc gia Cát Bà - Cái viềng 14km; tuyến đường này nối
với tuyến đường du lịch ven biển từ thị trấn Cát Bà đến Cái Viềng tạo thành tuyến
giao thông thứ 2 từ Hải Phòng đi đến trung tâm du lịch Cát Bà.
Về đường thủy:
Do điều kiện đặc thù là đảo nên giao thông đường thủy là giao thông được khá
nhiều du khách ưu thích. Giao thông đường thủy đến với Cát Bà bao gồm các
tuyến: Bến Bính - thị trấn Cát Bà; Hải Phòng - Cát Hải - Cát Bà đi qua 2 phà Đình
Vũ - Ninh Tiếp và Bến Gót - Cái Viềng; Gia Luận - Tuần Châu; Liên vận kết hợp
chạy liên thông bằng xe ô tô và tàu thủy tuyến Hải Phòng - Cát Bà.
Đội tàu vận tải du lịch đã phát triển theo hướng hiện đại và hoạt động có hiệu
quả. Chủ các phương tiện đã tích cực chủ động đóng mới, nâng cấp các phương tiện
phục vụ đa dạng nhu cầu du lịch của du khách, nhiều phương tiện đã có buồng cho
khách lưu trú qua đêm, tham quan và thưởng thức ẩm thực trên vịnh.
Về đường hàng không: Tại đỉnh cao 177, cách Trung tâm thị trấn Cát Bà 1
km có một sân bay trực thăng bảo đảm đầy đủ yêu cầu về kỹ thuật để các máy bay
trực thăng hoạt động an toàn. Hiện nay, sân bay trực thăng này vẫn đang được sử
dụng.
Thứ tư, về cấp điện
Từ năm 2008, dự án đường giây tải điện 35 KV đã hoàn thành và đưa điện
lưới quốc gia về Cát Bà, tạo ra đông lực thúc đẩy ngành du lịch Cát Bà phát triển.
Hiện nay dự án đường dây tải điện 110kv Chợ Rộc (Quảng Ninh) - Cát Bà đang
được gấp rút hoàn thành, sẽ bảo đảm nguồn cung cấp điện ổn định cho khu vực đảo
Cát Bà.
Thứ năm, về cấp nước
Nước sử dụng cho khu vực Cát Bà hiện nay chủ yếu là nước ngầm được khai
thác tại đảo Cát Bà và nước tại các suối trên đảo Cát Bà. Tuy nhiên nguồn nước
cung cấp hiện nay chưa bảo đảm đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng và phục vụ du
lịch.
Hiện nay, trên địa bàn huyện có 4 hồ chứa nước ngọt, trong đó có 01 hồ chứa
55
đã hoàn thành và đưa vào sử dụng với dung tích hồ chứa từ 250.000m đến
280.000m3; có 03 hồ chứa đang được triển khai xây dựng tại xã Trân Châu, Xã
Xuân Đám và xã Phù Long theo Quyết định số 439/QĐ-TTg ngày 03/01/2009 của
Thủ tướng Chính phủ. Theo thiết kế các dự án, sau khi hoàn thành, tổng dung tích
các hồ chứa nước ngọt trên đảo Cát Bà là 1.024.850 m3. Toàn bộ những hồ chứa
nước này sẽ bảo đảm cung cấp đầy đủ nước cho sản xuất, sinh hoạt và kinh doanh
của khu vực đảo Cát Bà.
Thứ sáu, về bưu chính, viễn thông
100% các xã, thị trấn khu vực đảo Cát Bà có điểm Bưu điện văn hoá, có nhà
văn hóa xã. Hệ thống các mạng điện thoại viễn thông phát triển mạnh mẽ với nhiều
dịch vụ tiện ích cho người sử dụng, nhất là các dịch vụ của mạng điện thoại di
động. Hiện nay, mạng di động Vinaphone, Mobile phone và mạng Viettel đã được
phủ sóng toàn bộ trên địa bàn đảo Cát Bà. Hệ thống đường truyền cáp quang
internet tốc độ cao được kết nối đến Cát Bà, bảo đảm cung cấp đầy đủ các dịch vụ
sử dụng internet cho người sử dụng.
Từ năm 2013, tại trung tâm du lịch Cát Bà được lắp đặt WiFi tốc độ cao miễn
phí cho người sử dụng.
Về chỉ tiêu máy điện thoại: Từ năm 2009 đến nay, dân cư khu vực đảo Cát Bà
đã đạt chỉ tiêu 30 máy điện thoại/ 100 dân.
Thứ bảy, về dịch vụ chăm sóc y tế
Việc cung cấp các dịch vụ y tế ở Cát Bà còn hạn chế. Khu vực đảo Cát Bà có
1 bệnh viện (Bệnh viện Đa khoa Cát Bà), nên việc chăm sóc sức khoẻ ở tuyến ban
đầu cho người dân chủ yếu thông qua các trạm xá ở thị trấn và các xã.
Thứ tám, về nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch
- Nguồn vốn ngân sách: Từ năm 2006 đến nay, trên địa bàn thành phố Hải
Phòng có 17 dự án thuộc nguồn vốn ngân sách với tổng số vốn 622,294 tỉ đồng đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng công cộng phục vụ du lịch, trong đó gần 50% là đầu tư
vào Khu du lịch Cát Bà.
- Nguồn vốn ngoài ngân sách: có 19/34 dự án đầu tư vào thành phố được triển
56
khai ở khu du lịch Cát Bà với số vốn đăng ký đầu tư 52.559,857 tỉ đồng và 173,5
triệu USD. Các lĩnh vực đầu tư chủ yếu là khách sạn, nhà hàng, khu nghỉ dưỡng,
khu vui chơi giải trí, sân golf...
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: có 15 dự án đầu tư vào du lịch từ
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn 931,54 triệu USD.
Thứ chín, về quảng bá du lịch
Hoạt động quảng bá du lịch Cát Bà đã được quan tâm với nhiều hình
thức đa dạng.
- Xây dựng sản phẩm du lịch mới và tạo dựng thương hiệu du lịch
Loại hình du lịch cơ bản của Cát Bà được lựa chọn và tập trung đầu tư và
phát triển trong thời gian qua là du lịch sinh thái biển kết hợp với du lịch nghỉ
dưỡng, thể thao; du lịch cộng đồng; du lịch hội nghị, hội thảo và văn hóa, lễ hội.
- Về phương thức quảng bá du lịch
Thực hiện theo phương pháp truyền thống: phát hành tập gấp, áp phích,
bài thuyết minh tour du lịch, đĩa hình, sách hướng dẫn du lịch, bản đồ du
lịch… bằng nhiều thứ tiếng;
Duy trì và nâng cấp website du lịch, truyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng trong nước và quốc tế.
Với mục tiêu khai thác tiềm năng du lịch, du lịch Cát Bà đóng góp lớn đối với
sự phát triển của du lịch Hải Phòng, là cực quan trọng góp phần thúc đẩy du lịch
Hải Phòng phát triển. Năm 2011, khách du lịch đến Hải Phòng đạt 4.172.000 lượt
(có 558.000 khách quốc tế) trong đó khách du lịch đến Cát Bà là 1.203.000 lượt (
có 310.000 lượt khách quốc tế). Năm 2015, khách du lịch đến Hải Phòng đạt
4.500.000 lượt (568.000 khách quốc tế), trong đó khách du lịch đến Cát Bà là
1.324.000 lượt (có 340.000 lượt khách quốc tế).
Qua số liệu thống kê cho thấy số khách du lịch đến Cát Bà trung bình chiếm
khoảng 30% tổng số khách du lịch đến với thành phố Hải Phòng, song số khách
quốc tế đến Cát Bà hàng năm chiếm trên 60% tổng số khách quốc tế đến Hải
Phòng. Để du lịch Hải Phòng vươn ra tầm quốc tế thì du lịch thành phố Hải Phòng
57
cần đặt du lịch Cát Bà vào vị trí trung tâm.
Bên cạnh đó, với vị trí tự nhiên, Cát Bà còn là cầu nối giữa hai thành phố Hải
Phòng - Quảng Ninh và là một trong ba trung tâm du lịch lớn của khu vực là Cát Bà
- Đồ Sơn - Hạ Long.
Bảng 2.2. Cơ cấu các ngành kinh tế của huyện Cát Hải giai đoạn 2009- 2015 (%)
Nội dung
Năm 2009 Năm 2011 Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015
Tỷ trọng ngành du lịch - dịch vụ 63,4 64 66 67 68,4
Tỷ trọng ngành CN - xây dựng 13,2 13 16 17 16,8
Tỷ trọng ngành nông nghiệp 23,4 23 18 16 14,8
Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Cát Hải
Du lịch là ngành kinh tế trung tâm của huyện Cát Hải, ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu kinh tế xã hội của huyện Cát Hải. Du lịch đóng góp lớn vào
tổng giá trị sản phẩm của cơ cấu kinh tế huyện Cát Hải.
Qua bảng thống kê 2.2 cho thấy: Tỷ trọng ngành du lịch tăng dần đều qua các
năm, năm 2009 tỷ trọng ngành du lịch là 63,4% thì đến năm 2015,tỷ trọng ngành
du lịch chiếm 68,4% cơ cấu kinh tế của huyện. Tỷ trọng ngành du lịch đóng góp
Nông nghiệp 19%
Công nghiệp, xây dựng 15%
Du lịch - dịch vụ 66%
bình quân 65,7% trong cơ cấu kinh tế của huyện.
Biểu đồ 2.2. Tỷ trọng bình quân GDP các ngành kinh tế huyện Cát Hải giai đoạn 2009 – 2015
Du lịch với vị trí là ngành kinh tế trung tâm có tác động thúc đẩy các ngành
kinh tế khác của huyện Cát Hải phát triển, nhất là các ngành khai thác, nuôi trồng
hải sản và nông nghiệp. Du lịch phát triển thu hút ngày càng đông du khách đến với
Cát Bà, qua đó đòi hỏi phải có thêm nguồn thực phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng 58
của du khách. Để đáp ứng nhu cầu về thực phẩm phục vụ du lịch thì các ngành khai
thác và nuôi trồng hải sản và nông nghiệp cũng phát triển. Đầu ra cho sản phẩm
nông nghiệp và hải sản được bảo đảm. Các sản phẩm của nông nghiệp, ngư nghiệp
như: hải sản, nông sản được các nhà, hàng, khách sạn trên địa bàn thu mua làm nguyên
liệu chế biến món ăn phục vụ khách du lịch.
Bên cạnh các nhu cầu về ăn, nghỉ thì nhu cầu về vui chơi, giải trí, thể thao, giao lưu,
cung ứng các dịch vụ y tế cũng là những nhu cầu của số đông khách du lịch, do đó tác
Quần đảo di sản Cát Bà - Khu dự trữ sinh quyển thế giới - Danh lam thắng
cảnh di tích quốc gia đặc biệt với những giá trị tài nguyên du lịch tự nhiên
phong phú, hấp dẫn, giá trị đặc biệt mang tính toàn cầu được đông đảo du khách
trong và ngoài nước yêu thích. Trong giai đoạn 2009 - 2015, du lịch Cát Bà đã
có bước phát triển tích cực trên lộ trình trở thành một trung tâm du lịch sinh thái
Quốc gia và hướng đến quốc tế sau năm 2017.
động thúc đẩy các hoạt động vui chơi, giải trí, thể thao, y tế phát triển.
Bảng 2.3: Thống kê kết quả hoạt động kinh doanh du lịch Cát Bà giai đoạn 2009 - 2015
Thực hiện qua các năm
TT
Chỉ tiêu
Năm 2009 Năm 2011
Năm 2013 Năm 2014
Năm 2015
Đơn vị tính
1.
Tổng số lượt khách
1.005.000
1.203.000
1.335.000
1.324.000
L/k
1.126.500
1.1 Khách quốc tế
L/k
286.200
303.500
310.000
320.500
340.400
1.2 Khách nội địa
L/k
718.800
823.000
893.000
1.014.500
983.600
2.
Tỷ.đồng
335,4
369,8
541,0
590,7
587,9
3
%
132,2%
112%
106,8%
111%
99,17%
4
%
63,4%
64%
66%
67%
68,4%
Tổng doanh thu từ DL-DV Tốc độ tăng trưởng lượng khách Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành du lịch trong cơ cấu ngành kinh tế
Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Cát Hải
Năm 2009, du lịch Cát Bà đạt mốc đón một triệu khách du lịch trong một
năm. Đánh dấu một bước phát triển của du lịch Cát Bà. Từ năm 2009 đến năm
2015, mỗi năm du lịch Cát Bà đều đón trên một triệu khách du lịch trong đó có
trung bình là 26,17 % là khách du lịch quốc tế. Du lịch dịch vụ đóng góp tỷ lệ 59
lớn trong tổng giá trị sản xuất theo cơ cấu ngành kinh tế của huyện Cát Hải.
Bảng 2.4. Thống kê số lượng khách du lịch thành phố Hải Phòng giai đoạn 2009 – 2015
Thực hiện qua các năm
Đơn
TT
Chỉ tiêu
vị
Năm 2009 Năm 2011
Năm 2013 Năm 2014
Năm 2015
tính
Tổng
số
lượt
1.
L/k
4.003.000 4.075.000
4.228.000
4.500.000
4.921.000
khách
1.1 Khách quốc tế
L/k
593.000
546.000
564.000
568.000
568.000
1.2 Khách nội địa
L/k
3.410.000 3.529.000
3.664.000
3.932.000
4.353.000
Nguồn: Cổng thông tin điện tử thành phố Hải Phòng
- Du lịch Cát Bà ngày càng khẳng định vị thế là ngành kinh tế trung tâm
của huyện Cát Hải.
Quần đảo Cát Bà với những giá trị đặc biệt toàn cầu về đa dạng sinh học,
mỹ học, cấu trúc địa chất, địa mạo và di chỉ khảo cổ học …được đông đảo du
khách trong nước và quốc tế biết đến là một trong những trung tâm du lịch sinh
thái hấp dẫn nhất của đất nước và hướng đến quốc tế.
Từ năm 2009, mỗi năm du lịch Cát Bà đón trên một triệu khách du lịch,
trong đó có trung bình 26% là khách quốc tế. Doanh thu từ hoạt động du lịch -
dịch vụ bình quân đạt 484,9 tỷ đồng. Ngành du lịch - dịch vụ đóng góp bình
quân 66,6% trong cơ cấu tổng giá trị sản xuất của huyện Cát Hải. Tỷ trọng nhóm
ngành du lịch - dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của huyện Cát Hải ngày càng tăng
cao từ 63,4% năm 2009 đến năm 2015 tăng lên 68,4%.
Du lịch đã đã đóng góp lớn cho thu ngân sách của huyện Cát Hải. Số thu
ngân sách từ du lịch năm sau cao hơn năm trước. Trung bình mỗi năm, thu ngân
sách từ du lịch đạt trên 27.122 triệu đồng, trong đó có trên 17.199 triệu đồng thu
thuế ngoài quốc doanh. Năm 2015, số thu ngân sách từ du lịch đạt 41.243 triệu
đồng, bằng 50% kế hoạch thu ngân sách của huyện Cát Hải trong năm 2015.
Điều đáng phấn khởi bởi nguồn thu ngân sách từ du lịch là nguồn thu có tính ổn
định cao. Thu từ du lịch đã góp phần quan trọng trong việc điều tiết ngân sách 60
chi cho đầu tư các dự án phát triển kinh tế, hạ tầng giao thông, kỹ thuật và chi
cho sự nghiệp văn hóa, xã hội của huyện Cát Hải.
Bảng 2.5. Thống kế số thu ngân sách từ du lịch giai đoạn 2009 – 2015
Triệu đồng
Thực hiện qua các năm
Số
Chỉ tiêu
TT
2009
2011
2013
2014
2015
1 Thu thuế ngoài quốc doanh
8.636
10.854
18.883
19.359
28.267
2 Thu thuế từ du lịch
3.454
4.342
6.609
6.776
7.076
3 Thu phí tham quan
983
2.635
3.795
3.887
4 Tổng cộng
14.099
18.189
30.138
31.942
41.243
Nguồn: Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện Cát Hải
Du lịch phát triển đã thúc đẩy các ngành nông nghiệp, thủy sản, công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển. Các sản phẩm nông nghiệp, thuỷ sản
được sản xuất và tiêu thụ thuận lợi hơn.
Các dự án đầu tư về hạ tầng du lịch đã góp phần làm thay đổi diện mạo,
cảnh quan của huyện, đồng thời vừa phục vụ phát triển du lịch, vừa phục vụ dân
sinh của nhân dân trên địa bàn thị trấn Cát Bà. Du lịch đã tạo ra số thu cho ngân
sách, lợi nhuận cho các doanh nghiệp và thu nhập của nhân dân địa phương. Du
lịch đã góp phần từng bước cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân trên địa bàn đảo Cát Bà.
2.3.1.2. Đã quan tâm tới mục tiêu bảo vệ môi trường và tôn tạo di tích lịch
sử, văn hóa
Du lịch là ngành kinh tế trung tâm của đảo Cát Bà nói riêng và huyện Cát
Hải nói chung. Phát triển du lịch Cát Bà bền vững vừa là mục tiêu vừa là động
lực phát triển kinh tế - xã hội của huyện Cát Hải. Phát triển du lịch gắn với bảo
tồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa là trách
nhiệm của chính quyền và nhân dân các xã, thị trấn trên đảo Cát Bà. Đây là một
điểm mạnh trong chính sách phát triển du lịch tại địa bàn. Trên thực tế, xây
dựng chính sách phát triển du lịch nhưng gắn với bảo vệ môi trường và tôn tạo
di tích lịch sử là một yêu cầu rất khó khăn.
61
Với tiềm năng, lợi thế về phát triển du lịch sinh thái, trong những năm qua
việc phát triển du lịch ở đảo Cát Bà được gắn chặt với các hoạt động bảo vệ môi
trường và bảo tồn và phát huy các di tích lịch sử văn hóa. Nhận thức của các cấp
chính quyền, cộng đồng dân cư về những giá trị của Quần đảo Cát Bà và ý nghĩa
của việc bảo vệ môi trường Quần đảo Cát Bà trong cộng đồng ngày càng được
nâng lên. Bảo vệ môi trường được xem là tiêu chí hàng đầu trong việc triển khai
các dự án đầu tư trên địa bàn; mọi dự án đầu tư, kinh doanh vào địa bàn đảo Cát
Bà đều phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường của các cơ quan có thẩm
quyền phê duyệt. Chính quyền huyện Cát Hải có chủ trương không chấp nhận
các dự án phát triển công nghiệp trên địa bàn thị trấn Cát Bà. Công tác bảo vệ
rừng, bảo vệ các hệ sinh thái và nguồn lợi thủy sản được triển khai hiệu quả với
nhưng việc làm cụ thể như: thực hiện tiếp giảm 50% số ô lồng nuôi trồng hải sản
trên vịnh Lan Hạ vì gây ô nhiễm môi trường; trồng bổ sung rừng; phá bỏ bờ đê bao
đầm, hồ nuôi trồng thủy sản khu vực rừng ngập mặn xã Phù Long để hoàn trả, phục
hồi môi trường tự nhiên; Tổ chức các cuộc thi cấp huyện về tìm hiểu về giá trị tài
nguyên thiên nhiên Quần đảo Cát Bà; Tổ chức ngày toàn dân chung tay vì quần
đảo Cát Bà xanh, sạch, đẹp; triển khai các dự án bảo vệ nguồn lợi thủy sản ven bờ.
Đi đôi với bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, hoạt động bảo vệ, tôn tạo các di tích
lịch sử văn hóa cũng được triển khai thực hiện có hiệu quả. Tiếp tục bảo vệ và đưa
vào khai thác các điểm di tích lịch sử văn hóa phục vụ khách tham quan, du lịch
như: Di chỉ khảo cổ Bến Bèo, Pháo đài Thần Công, Hang Quân Y…Hoàn thiện các
thủ tục hồ sơ và đề nghị nhà nước và thành phố Hải Phòng xếp hạng nhiều di tích
lịch sử có giá trị như: Di tích lịch sử văn hóa Bác Hồ về thăm Làng cá, Di tích khảo
cổ Cái Bèo, Di tích quốc gia đặc biệt - Danh lam thắng cảnh Quần đảo Cát Bà...
Đặc biệt hiện nay hồ sơ đề cử công nhận Cát Bà là di sản thiên thiên thế giới đã
được hoàn thiện và đang được Chính phủ xem xét để gửi đến UNESCO vào thời
2.3.1.3. Mục tiêu chính sách phát triển du lịch bền vững Khu du lịch Cát
62
điểm thích hợp.
Bà đã gắn chặt với phát triển văn hóa, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân.
Du lịch Cát Bà phát triển là điều kiện thuận lợi để phát triển văn hóa, giải
quyết việc làm và nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân. Mỗi năm
ngành du lịch thu hút trên 3.500 lao động làm việc, vào những tháng cao điểm
có đến 5.000 lao động làm việc trong lĩnh vực du lịch Cát Bà. Bên cạnh đó, du
lịch cũng có tác động thúc đẩy các ngành, nghề kinh tế khác phát triển qua đó
cũng tạo thêm việc làm và thu nhập cho người dân.
Du lịch phát triển là điều kiện thuận lợi để mở rộng giao lưu các nền văn
hóa của các dân tộc trong nước và văn hóa các nước trên thế giới thông qua
những người khách du lịch. Du lịch phát triển cũng là điều kiện để cộng đồng địa
phương được tiếp cận với nhiều thành tựu khoa học tiên tiến và các giá trị văn hóa
tiến bộ của các nước, các dân tộc trên thế giới thông qua khách du lịch đến Cát Bà.
Mặt khác do yêu cầu của phát triển du lịch và nhiều công trình dự án hạ
tầng kỹ thuật được đầu tư nhằm phục vụ du lịch, đồng thời phục vụ dân sinh.
Các dịch vụ văn hóa, văn nghệ, y tế, giáo dục cũng có điều kiện để cải thiện và
nâng cao. Phát triển du lịch Cát Bà là điều kiện để tổ chức và nâng tầm quy mô
của các lễ hội gắn với việc tổ chức các sự kiện du lịch. Ở đảo Cát Bà, huyện Cát
Hải, Lễ hội Làng Cá thường được tổ chức gắn với sự kiện khai trương du lịch
vào dịp ngày 31/3 đến ngày 01/4 hàng năm.
2.3.1.4. Phát triển du lịch còn hướng tới góp phần tăng cường hợp tác và
hội nhập quốc tế đã được đề ra trong mục tiêu của chính sách
Phát triển du lịch đã góp phần tăng cường sự hợp tác và hội nhập quốc tế.
Hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế được thực hiện thông qua hoạt động của các
tổ chức phi chính phủ, các quốc gia, vùng lãnh thổ trong các khuôn khổ hợp tác
quốc tế về những vấn đề liên quan đến phát triển du lịch và bảo vệ các giá trị tài
nguyên thiên nhiên Quần đảo Cát Bà. Quần đảo Cát Bà với những giá trị tàu
nguyên thiên nhiên đặc hữu mang tính toàn cầu đã thu hút sự quan tâm của
nhiều tổ chức quốc tế, các tổ chức truyền thông, các cơ quan thông tấn, báo chí
63
trong nước và quốc tế đã góp phần thúc đẩy quá trình hợp tác quốc tế của huyện
đảo Cát Hải nói riêng và thành phố Hải Phòng nói chung. Trên bình diện Quốc
tế, Quần đảo Cát Bà được xem như biểu tượng của thành phố Hải Phòng. Mặt
khác, phát triển du lịch là điều kiện quan trọng để thu hút sự quan tâm và thiện cảm
của cộng đồng quốc tế đối với các vấn đề quốc tế của Việt Nam, trong đó có vấn đề
ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với việc bảo vệ chủ quyền biển đảo Quần đảo
Cát Bà.
Bên cạnh đó du lịch là phương thức hiệu quả nhất trong việc phát triển các
hoạt động đối ngoại nhân dân. Thông qua du lịch, nhân dân bản địa có sự tiếp
xúc, đối thoại, giao lưu với du khách quốc tế, qua đó tăng cường sự hiểu biết,
tình cảm hữu nghị lẫn nhau giữa dân tộc Việt Nam với bạn bè quốc tế. Sự hiếu
khách, thân thiện của cư dân Cát Bà và đội ngũ nhân viên hoạt động ở du lịch
Cát Bà góp phần tạo nên những ấn tượng, tình cảm tốt đẹp của mỗi người khách
quốc tế đối với Thành phố Hải Phòng và đất nước.
Rất hài
Không hài
Rất không
Ý kiến
Dịch vụ
Hài lòng
lòng
hài lòng
lòng
khác
Toàn chuyên đi
40
2
1
0,33
56,66
Phong cảnh
58,66
2
0,66
0,33
38,33
Môi trường
51,33
6,66
1
0,33
40,66
Quà lưu niệm
11,66
25,33
3
3
57
Giao thông
22,66
10,33
2,33
0,667
64
Dich vụ giải trí, thể thao
32,33
9
2,33
2,33
54
Món ăn
31
9,33
2,33
0
57,33
Phong ngủ
33
4,66
0,66
1
60,66
Chất lượng của nhân viên
35,66
6,66
2,33
0
55,33
Các tour du lịch
30,33
8
1
2
58,66
Môi trường an ninh
41,33
2,33
0
0,333
56
Sự thân thiện của cư dân
42,66
3,33
0,33
0,66
53
*Nguồn: Tác giả
64
Bảng 2.6 Bảng tổng hợp điều tra về mức độ hài lòng đối với các dịch vụ du lịch Cát Bà (%)
Với 200 phiếu khảo sát với đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức, khách
du lịch và người dân địa phương về mức độ hài lòng đối với các dịch vụ du lịch Cát
Bà, số lượng người hài lòng chiếm tỉ lệ khá cao (khoảng từ 38 đến trên 60%). Điều
này cho thấy chính sách phát triển du lịch bền vững Cát Bà đã có những tác động
tích cực tới bức tranh du lịch nơi đây.
2.3.2. Điểm yếu
2.3.2.1. Mục tiêu phát triển du lịch gắn với phát triển bền vững đã được xây
dựng nhưng chưa được hiện thực hóa trong thực tế
Một là, về Quy hoạch phát triển du lịch
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện Cát Hải được xây
dựng và phê duyệt vào năm 2004. Qua 10 năm thực hiện, do sự tác động của nhiều
nguyên nhân nên đến nay một số nội dung quy hoạch không còn phù hợp, đòi hỏi
cần điều chỉnh, bổ sung quy hoạch làm căn cứ để hoạch định chiến lược, giải pháp
và lựa chọn các mục tiêu ưu tiên cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện Cát Hải
cũng sự phát triển du lịch Cát Bà.
Xây dựng và hoàn thiện quy hoạch phát triển du lịch Cát Bà bền vững là căn
cứ để xây dựng chiến lược, kế hoạch tổng thể và giải pháp phát triển du lịch Cát
Bà; đồng thời là điều kiện kiên quyết để phát triển du lịch Cát Bà bền vững trong
tương lai. Ngày 05 tháng 12 năm 2014, UBND thành phố Hải Phòng đã ban hành
Quyết định 2732/QĐ-UBND phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch bền
vững quần đảo Cát Bà đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020” với mục tiêu phát
triển du lịch tại Cát Bà phải trở thành động lực kinh tế cho phát triển kinh tế- xã hội
của thành phố Hải Phòng và cho phát triển du lịch ở vùng đồng bằng sông Hồng và
duyên hải Đông Bắc.
Du lịch là ngành kinh tế liên quan đến tổng thể các lĩnh vực của đời sống xã
hội, do đó để phát triển du lịch ngoài việc xây dựng các quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội, quy hoạch du lịch cần xây dựng quy hoạch ngành liên quan
để bảo đảm sự phát triển hài hòa, bền vững của du lịch. Đối với Cát Bà, đó là các
quy hoạch về nuôi trồng hải sản, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch kiến trúc không
65
gian đô thị, quy hoạch về địa điểm xử lý rác thải, chất thải...
Hai là, về chất lượng nguồn nhân lực
2%
9%
5%
Chưa qua đào tạo
8%
Đã qua ĐT nhưng không có chứng chỉ
Sơ cấp nghề
76%
Trung cấp
Đại học, cao đẳng
Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Cát Hải, 2015
Hình 2.3. Biểu đồ cơ cấu trình độ lao động du lịch Cát Bà
Mặc dù số lượng nhân lực làm việc trong ngành du lịch ở Cát Bà chiếm tỉ lệ
lớn, tuy nhiên chất lượng của lao động hoạt động trong ngành nhìn chung còn hạn
chế; số lao động đã qua đào tạo đạt tỷ lệ thấp. Có 76% lao động chưa qua đào tạo,
8% lao động đã qua đào tạo nhưng không có chứng chỉ, 5% trình độ là sơ cấp, 9%
trình độ là trung cấp, còn lại là trình độ đại học, cao đẳng. Chất lượng lao động
thấp, là nguyên nhân dẫn đến chất lượng dịch vụ lao động Cát Bà còn hạn chế.
Ba là, về cơ sở vật chất, tài chính
Mặc dù số lượng khách sạn về cơ bản đáp ứng được nhu cầu của du khách,
nhưng chất lượng các khách sạn ở du lịch Cát Bà còn thấp, số lượng khách sạn đạt
chuẩn chưa nhiều; có 32 khách sạn đạt tiêu chuẩn 1 đến 4 sao. Hầu hết các khách
sạn, cơ sở kinh doanh lưu trú tại Cát Bà do tư nhân quản lý đều có giấy phép kinh
doanh, chấp hành tốt chính sách thuế đối với nhà nước. Các khách sạn, nhà nghỉ
trên địa bàn nhiều về số lượng nhưng chủ yếu vẫn là cơ sở có quy mô nhỏ, phần lớn
chỉ từ 10 đến 30 phòng. Các cơ sở lưu trú đạt chất tiêu chuẩn từ một sao trở lên ít
về số lượng. Bên cạnh đó, còn một số những cơ sở xây dựng từ nhiều năm trước
66
nên đang bị xuống cấp, kinh doanh kém hiệu quả, chất lượng phục vụ kém.
Ngoài hệ thống khách sạn và nhà hàng ăn uống, các cơ sở dịch vụ vui chơi,
giải trí ở Cát Bà hầu như rất nghèo làn, chất lượng không cao. Khách du lịch đến
Cát Bà chủ yếu để tham quan và ngắm cảnh, hoạt động vui chơi, giải trí phục vụ
khách du lịch ở Cát Bà vào ban đêm còn rất hạn chế. Hiện nay, vào buổi tối khách
du lịch chủ yếu tham gia các hoạt động: mua quà lưu niệm, đi dạo bằng xe đạp
quanh khu du lịch, hát karaoke, nghe nhạc ở các quán bar, vũ trường hoặc trải
nghiệm các dịch vụ mát xa, tẩm quất… Khu vực trung tâm du lịch Cát Bà hiện có
17 cơ sở kinh doanh karaoke, 06 quán bar (trong đó có 02 vũ trường nhỏ) và 06 cơ
sở kinh doanh dịch vụ mát xa.
Về vận chuyển, mặc dù đa dạng các loại hình đường bộ, đường thủy, tuy
nhiên, vào những ngày cao điểm mùa hè thì số lượng phương tiện tàu, xe trên đảo
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại của du khách, đặc biệt là qua hai tuyến phà
Đình Vũ - Ninh Tiếp, Bến Gót - Cái Viềng còn mất quá nhiều thời gian gây tâm lý
khó chịu cho du khách. Các hãng tàu, xe chưa có sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất
nhau về thời gian chạy, thường hay tập trung vào một thời điểm nên xảy ra tình
trạng lúc thì thiếu phương tiện, lúc thì thiếu khách.
Bốn là, về dịch vụ y tế: các trạm xá ở đảo không chỉ thiếu về đội ngũ cán bộ y
tế mà các trang thiết bị khám chữa bệnh cũng rất nghèo nàn
2.3.2.2. Các giải pháp phát triển du lịch đã được xây dựng cụ thể trong
chính sách, song chưa giúp du lịch Cát Bà phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi
thế hiện có
So sánh với du lịch Hạ Long thì du lịch Cát Bà có nhiều điểm tương đồng về
tài nguyên thiên nhiên, địa lý, khí hậu và sản phẩm du lịch. Nếu Hạ Long được du
khách trong và ngoài nước biết đến là một Di sản thiên nhiên thế giới với những giá
trị ngoại hạng mang tính toàn cầu về thẩm mỹ, địa chất, sinh học và văn hoá - lịch
sử, vịnh Hạ Long gắn liền với thành phố Hạ Long thì Cát Bà cũng được biết đến là
Khu dự trữ sinh quyển thế giới với những giá trị đặc biệt mang tính toàn cầu về đa
dạng sinh học, mỹ học, cấu trúc địa chất, địa mạo và di chỉ khảo cổ học. Song việc
khai thác các tiềm năng, lợi thế cho phát triển du lịch Cát Bà so với Hạ Long còn
67
nhiều hạn chế.
So sách các chỉ tiêu về số lượng khách và doanh thu giữa du lịch Cát Bà và du
lịch Hạ Long ta nhận thấy các chỉ tiêu của du lịch Cát Bà rất hạn chế. Năm 2009,
tổng số khách du lịch đến Cát Bà đạt 1.005.000 lượt, bằng 36,34% so với số khách
du lịch đến Hạ Long; doanh thu từ hoạt động du lịch đạt 335 tỷ đồng bằng 23,94%
doanh thu du lịch Hạ Long. Năm 2015, số khách du lịch đến Cát Bà đạt 1.324.000
lượt khách du lịch bằng 27,76% tổng số khách du lịch đến Hạ Long; doanh thu đạt
587,9 tỷ đồng bằng 24,24% doanh thu du lịch Hạ Long.
Biểu 2.7. Số liệu so sánh về du lịch Cát Bà và du lịch Hạ Long giai đoạn 2009 – 2015
Đơn vị
Du lịch Cát Bà Du lịch Hạ Long Cát Bà/
Hạ Long
Năm
Tổng số khách
2.765.000
1.005.000
36,34%
Số khách quốc tế
1.422.000
286.000
20,11%
Năm 2009
Khách trong nước
1.344.000
718.000
53,42%
Doanh thu
1.399 tỷ đồng
335 tỷ đồng
23,94%
Tổng số khách
3.500.000
1.126.500
32,18%
Số khách quốc tế
1.800.000
303.000
16,83%
Năm 2011
Khách trong nước
1.700.000
823.000
48,41%
Doanh thu
1.944 tỷ đồng
370 tỷ đồng
19,03%
Tổng số khách
4.031.000
1.203.000
29,84%
Số khách quốc tế
2.063.000
310.000
15,03%
Năm 2013
Khách trong nước
1.968.000
893.000
45,37%
Doanh thu
2.236 tỷ đồng
541 tỷ đồng
24,19%
Tổng số khách
4.323.000
1.335.000
30,88%
Số khách quốc tế
2.345.000
320.000
13,64%
Năm 2014
Khách trong nước
1.978.000
1.015.000
51,31%
Doanh thu
2412 tỷ đồng
598 tỷ đồng
24,79%
Tổng số khách
4.768.000
1.324.000
27,76%
Số khách quốc tế
2.464.000
340400
13,81%
Năm 2015
Khách trong nước
2.304.000
983600
42,69%
Doanh thu
2.425 tỷ đồng
587,9 tỷ đồng
24,24%
68
*Nguồn: Tổng hợp từ các Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của TP Hạ Long và
của huyện Cát Hải
Năm 2009
Năm 2011
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
5,000,000 4,500,000 4,000,000 3,500,000 3,000,000 2,500,000 2,000,000 1,500,000 1,000,000 500,000 0
Du lịch Cát Bà
Du lịch Hạ Long
Hình 2.4. Biểu đồ so sánh số lượng khách du lịch Cát Bà
và du lịch Hạ Long giai đoạn 2009 - 2015
2500
2000
Năm 2009
1500
Năm 2011
Năm 2013
1000
Năm 2014
Năm 2015
500
0
Du lịch Cát Bà
Du lịch Hạ Long
ĐVT: Tỷ đồng
Hình 2.5: Biểu đồ so sánh doanh thu từ du lịch Cát Bà
và du lịch Hạ Long giai đoạn 2009 - 2015
.
Các sản phẩm du lịch của huyện Cát Hải đơn điệu, thiếu hấp dẫn, chủ yếu là
các sản phẩm du lịch sinh thái như tắm biển, tham quan rừng, vịnh, đảo... còn thiếu
các sản phẩm du lịch cao cấp, khu vui chơi giải trí tổng hợp có chất lượng cao.
Du lịch Cát Bà còn thiếu những dịch du lịch và các khu nghỉ dưỡng cao cấp.
69
Trong tổng số 165 khách sạn, nhà nghỉ chỉ có 01 khách sạn đạt tiêu chuẩn 4 sao,
còn lại là 31 khách sạn đạt tiêu chuẩn từ 1 đến 3 sao. Chất lượng dịch vụ du lịch
còn thấp.
Theo kết quả điều tra về mức độ hài lòng về các sản phẩm và dịch vụ Cát Bà
năm 2012 của Chi cục Thống kê huyện Cát Hải, trong số 635 khách du lịch được
hỏi có 37,1% cho rằng dịch vụ du lịch Cát Bà chưa phong phú.
2.3.2.3. Chính sách phát triển du lịch bền vững Khu du lịch Cát Bà chưa gắn với
quy hoạch, chiến lược phát triển du lịch tại địa bàn trong tương lai dài hạn.
Do đó, các cơ quan quản lý nhà nước không tính toán được sức tải không gian và
giới hạn “đỏ” của sự phát triển, vì vậy, chưa có biện pháp để xác định được sức tải du
lịch Cát Bà để có pháp khắc phục những hạn chế cho phù hợp. Trong năm 2016,
Trung tâm Xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch thành phố Hải Phòng đã được thành
lập với mục tiêu tạo ra diện mạo mới cho du lịch Hải Phòng nói chung và du lịch Cát
Bà nói riêng thông qua xúc tiến, kêu gọi các nhà đầu tư.
Du lịch Cát Bà hoạt động còn mang nặng tính thời vụ; đông khách du lịch đến
vào mùa hè nhưng vắng về mùa đông.
Năm
Th.1
Th.2
Th.3
Th.4
Th.5
Th.6
Th.7
Th.8
Th. 9 Th.10 Th.11 Th.12
Bảng 2.8. Thống kê tổng số lượng khách du lịch qua các tháng giai đoạn 2009 – 2015 Số khách du lịch qua từng tháng (Lượt khách) Tổng
cộng
2009
32.000
47.000
37.000
85.000
112.000
209.000
190.000
105.000
65.000
28.000
45.000
50.000
1.005.000
2011
30.000
45.000
32.000
60.000
123.000
249.000
255.000
160.000
75.000
27.000
33.900
36.600
1.126.500
2013
28.000
28.000
35.000
78.000
142.000
201.000
277.000
150.000
118.000
42.000
49.500
54.500
1.203.000
2014
40.000
45.000
30.000
67.000
164.000
235.000
310.000
154.000
123.000
48.000
54.200
64.800
1.335.000
2015
42.000
47.000
33.000
87.000
190.000
255.000
325.000
84.000
93.000
52.000
56.000
60.000
1.324.000
Tổng
172.000
212.000
167.000
377.000
731.000
1.149.000
1.357.000
653.000
474.000
197.000
238.600
265.900
5.993.500
cộng
2,87%
3,54%
2,79%
6,29%
12,19%
19,17%
22,64%
9,39%
7,91%
3,29%
3,98%
4,44%
100%
%
*Nguồn: Phòng Văn hóa TTTT và Du lịch huyện Cát Hải
70
Hình 2.6. Đồ thị biểu diễn tổng số lượng khách du lịch đến Cát Bà
qua các tháng giai đoạn 2009 – 2015
Qua phân tích bẳng thống kê số khách du lịch đến Cát Bà chia cho từng tháng
giai đoạn 2009- 2015 cho thấy khách du lịch đến Cát Bà chủ yếu từ tháng 4 cho đến
tháng 9 hàng năm. Khách du lịch đến Cát Bà đông nhất vào các tháng 6 (19,17%),
tháng 7 (22,64%) và ít nhất là vào tháng 1 (2,87%), tháng 3 (2,79). Các tháng 4, 5,
8 và tháng 9 khách đến du lịch Cát Bà ở mức trung bình đạt từ 6 đến 12%. Các
tháng còn là tháng 2, tháng 10,11 và tháng 12 khách du lịch đến không đáng kể,
chủ yếu là khách ngoại quốc.
Tuy nhiên có một điểm rất đáng chú ý là mặc dù khách du lịch đến ít vào các
tháng mùa đông song lại là tháng có khách du lịch quốc tế đến nhiều nhất trong
năm. Theo biểu thống kê khách du lịch quốc tế cho thấy tháng 12 là tháng có số
lượng khách du lịch quốc tế đến Cát Bà đông nhất (12,78%), tháng 11 đứng thứ 2
chiếm 11,78%, các tháng 1, 2, 3, 4, 9 và tháng 10 đều đạt từ trên 7% đến 10%. Các
tháng mùa hè 4,5,6 và tháng 7 số lượng khách quốc tế đến Cát Bà ít hơn so các
tháng còn lai. Song qua phân tích biểu đồ thống kê cho thấy khách du lịch quốc tế
đến Cát Bà có biên độ giao động không lớn, được trải đều qua các tháng.
71
Bảng 2.9: Thống kê tổng số lượng khách quốc tế qua các tháng
giai đoạn 2009 - 2015
Năm
Số khách du lịch qua từng tháng (lượt khách) Tổng
Th.1
Th.2
Th.3
Th.4
Th.5
Th.6
Th.7
Th.8
Th. 9
Th.10
Th.11
Th.12
cộng
2009
20.000
38.000
24.000
30.000
23.000
21.200
20.000
15.000
15.000
18.000
30.000
32.000
286.200
2011
20.000
33.000
20.000
27.000
20.000
18.500
18.000
18.500
35.500
26.500
32.700
33.800
303.500
2013
20.000
20.000
24.000
25.000
18.000
31.500
18.200
18.500
27.700
30.500
37.700
38.900
310.000
2014
29.500
27.500
20.500
21.700
20.800
17.700
18.400
20.500
26.800
30.500
40.100
46.500
320.500
2015
29.800
29.300
22.800
23.700
26.800
18.500
19.300
20.300 24.700
33.500
43.400
48.300
340.400
Tổng
cộng
119.300
147.800
111.300
127.400
108.600
107.400
93.900
92.800
129.700
139.000
183.900
199.500
1.560.600
Tỷ lệ %
7,64%
9,47%
7,25%
8,16%
6,94%
6,88%
6,02%
5,94%
8,30%
8,90%
11,78%
12,78%
100%
* Nguồn: Phòng Văn hóa TTTT và Du lịch
Hình 2.7. Đồ thị biểu diễn lượng khách du lịch quốc tế đến Cát Bà giai
đoạn 2009 – 2015
Sự biến động khách du lịch trong nước tỷ lệ thuận với sự biến động của tổng
số khách du lịch. Số khách du lịch trong nước đến Cát Bà đông nhất vào tháng 7
chiếm 28,50%, tiếp đến là các tháng 6 chiếm 23,50%, tiếp theo lần lượt là các
72
tháng 5 là 14,04%, tháng 8 là 12,64%, tháng 9 là 7,54%, tháng 4 là 5,63%. Các
tháng còn lại vào mùa đông (1,2,3,10,11,12) khách du lịch trong nước đến Cát Bà
không đáng kể từ 1,23 đến 1,50%.
Qua phân tích bảng thống kê số lượng khách du lịch đến Cát Bà chia cho các
tháng trong năm cho thấy du lịch Cát Bà chia ra làm hai mùa rõ rệt. Khách đến
đông vào thời điểm mùa hè (từ tháng 4 đến tháng 9) và ít về mùa đông (từ tháng
1,2,3 và tháng 10,11 và tháng 12). Nguyên nhân của việc này là do du lịch Cát Bà
là du lịch sinh thái tắm biển nên du khách đến Cát Bà đông vào mùa hè chủ yếu là
khách trong nước đến để du lịch nghỉ mát và tắm biển vào mùa hè. Do đó, khiến
lượng khách du lịch đến Cát Bà tăng cao vào các tháng mùa hè. Vào mùa đông
khách du lịch trong nước ít đi du lịch, do thời tiết lạnh, song đây lại là thời điểm
khách du lịch quốc tế đến Cát Bà đông hơn cả. Do đó, việc thu hút khách du lịch
Quốc tế đến với Cát Bà chính là giải pháp cho hoạt động du lịch vào mùa đông của
du lịch Cát Bà.
Bảng 2.10: Thống kê tổng số lượng khách trong nước qua các tháng
giai đoạn 2009 - 2015
*ĐVT: lượt khách
Năm
Th.1
Th.2
Th.3
Th.4
Th.5
Th.6
Th.7
Th.8
Th. 9 Th.10 Th.11 Th.12
Số khách du lịch qua từng tháng Tổng
cộng
2009
12.000
9.000
13.000
55.000
89.000
187.800
170.000
90.000
50.000
10.000
15.000
18.000
718.800
2011
10.000
12.000
12.000
33.000
103.000
230.500
237.000
141.500
39.500
500
1.200
2.800
823.000
2013
8.000
8.000
11.000
53.000
124.000
169.500
258.800
131.500
90.300
11.500
11.800
15.600
893.000
2014
10.500
17.500
9.500
45.300
143.200
217.300
291.600
133.500
96.200
17.500
14.100
18.300
1.014.500
2015
12.200
17.700
10.200
63.300
163.200
236.500
305.700
63.700
68.300
18.500
12.600
11.700
983.600
Tổng
cộng
52.700
64.200
55.700
249.600
622.400
1.041.600
1.263.100
560.200
344.300
58.000
54.700
66.400
4.432.900
Tỷ lệ %
1,19%
1,45%
1,26%
5,63%
14,04%
23,50%
28,50%
12,64%
7,54%
1,30%
1,23%
1,50%
100%
* Nguồn: Phòng Văn hóa TTTT và Du lịch huyện Cát Hải
73
Hình 2.8 .Đồ thị biểu diễn lượng khách du lịch trong nước đến Cát Bà
qua các tháng giai đoạn 2009 - 2015
Giao thông đi lại khó khăn, chi phí cho các nhu cầu cơ bản khi đến du lịch
Cát Bà đắt hơn so với các trung tâm du lịch trong khu vực. Giao thông là vấn đề
bất lợi và hạn chế của du lịch Cát Bà. Hiện nay, khách du dến Cát Bà chủ yếu đi
bằng 3 tuyến đường chính.
Một là, tuyến đường bộ Đình Vũ - Cát Hải - Cát Bà, đi qua tuyến phà là tuyến
phà Đình Vũ - Ninh Tiếp và Bến Gót - Cái Viềng. Chiều dài hành trình từ trung
tâm thành phố đến Cát Bà khoảng 55 km; Tổng thời gian đi từ trung tâm thành phố
Hải Phòng đến Cát Bà khoảng 03 giờ.
Hai là, Tuyến Phà Tuần Châu - Gia Luận - Cát Bà. Chiều dài hành trình
khoảng 30 km; thời gian hành trình 02h.
Ba là, Tuyến đường Thủy từ Bến Bính đi Cát Bà bằng tàu cao tốc; chiều dài
hành trình khoảng 41 km; thời gian hành trình khoảng 01 giờ.
Việc di chuyển từ trung tâm thành phố đến Cát Bà hoặc từ Tuần Châu (Hạ
74
Long) về đến Cát Bà dù tuyến đường không dài song thời gian hành trình tốn nhiều
thời gian. Mặt khác, vào các mùa cao điểm du lịch các tháng hè, tình trạng quá tải
khách thường xuyên xảy ra, nên các doanh nghiệp và các đơn vị kinh doanh vận tải
không đáp ứng yêu cầu đi lại của nhân, nhất là hai việc di chuyển bằng đường bộ
tuyến Cát Bà - Cát Hải - Hải Phòng qua hai phà Đình Vũ - Ninh Tiếp và Bến Gót -
Cái Viềng và Tuyến đường Cát Bà - Tuần Châu qua phà Gia Luận - Tuần Châu.
Vào những ngày cao điểm khách đi đường bộ qua hai tuyến phà phà Đình Vũ -
Ninh Tiếp và Bến Gót - Cái Viềng và Tuyến đường Cát Bà - Tuần Châu thường
phải đợi phà từ 1 đến 4 giờ nên gây tâm lý bức xúc và phản cảm cho khách du lịch.
Mặt khác cước phí giao thông đi Cát Bà so với một số trung tâm du lịch khác
đắt hơn 2 lần. Theo số liệu điều tra chi tiêu khách du lịch năm 2012 của Chi Cục
Thống kê huyện Cát Hải, mức cước phí trung bình cho một khách du lịch đến Cát
Bà tính từ thành phố Hải Phòng là 262.000 đồng cho cả 2 chiều. Nếu tính cho giá
thực tế năm 2013 ta được như sau:
Chi phí cước phí giao trung bình năm 2013 cho khách du lịch = Chi phí cước
phí năm 2012 + Chi phí cước phí năm 2012 x chỉ số CPI 2013.
= 262.000 + 262.000 x 6,04% = 278.000 đồng/2 lượt = 139.000 đồng.
Qua khảo sát thực tế giá vé phương tiện vận chuyển hành khách tuyến Cát Bà
- Hải Phòng cho thấy giá vé thấp nhất là 130.000đ/người/lượt và giá vé cao nhất
220.000đ/người/lượt. Ngoài ra, khi khách du lịch đến Cát Bà họ muốn di chuyển
trong nội bộ đảo Cát Bà khi đi tham quan du lịch họ phải chi thêm tiền mua vé xe
buýt hoặc đi xe ôm. Do đó khiến chi phí cho việc đi lại đến Cát Bà cũng tăng cao
hơn so với nhiều trung tâm du lịch khác trong khu vực.
Bảng 2.11: Bảng giá vé tàu, xe tuyến Cát Bà - Hải Phòng và ngược lại
Số
Công ty kinh doanh vận
Giá vé/
Hình thức vận
Thời gian hành
TT
chuyển hành khách
người/ lượt
chuyển
trình
Công ty Cổ phần vận tải và
Liên vận Xe ô tô
130.000đ
1
du lịch Cát Bà
- Tàu - Xe ô tô
Công ty cổ phần Phát triển
Liên vận Tàu -
150.000đ
2
02 giờ 15 phút
Hải Phòng
Xe ô tô
75
02 giờ 00 phút
Công ty Cổ phần Vận Tải và
3
200.000đ
Tàu tốc hành
Du lịch Hải Phòng
Công ty Cổ phần khu du
4
220.000đ
Tàu tốc hành
01 giờ 00 phút
lịch đảo Cát Bà
*Nguồn: Tác giả
50 phút
Nếu so sánh từ thời gian hành trình và chi phí từ Hà Nội đi đến một số trung
tâm du lịch khu vực miền Bắc và đến Cát Bà cho ta thấy rõ vấn đề giao thông đã
và đang là vấn đề thách thức của du lịch Cát Bà. Với khoản cách là 150 km từ Hà
Nội đi Cát Bà, thời gian hành trình là 5 giờ, dài gấp 1,66 lần so với thời gian đi Hạ
Long - Quảng Ninh và 2,5 lần thời gian đi Tràng An - Ninh Bình. Cước phí giao
thông từ Hà Nội đi Cát Bà bình quân mất 209.000 đồng, đắt gấp 2 lần cước phí đi
thành phố Hạ Long và Khu du lịch Trang An - Ninh Bình.
Bảng 2.12: Bảng so sáng độ dài, chi phí và thời gian hành trình từ Hà Nội
đi một số điểm trung tâm du lịch và Cát Bà
Thời gian hành trình
Tuyến giao thông
Độ dài
Cước phí
trung bình
150 km
5 giờ
209.000
HN - HP - Cát Bà
150 km
3 giờ
100.000đ
HP - TP Hạ Long
100km
2 giờ
100.000đ
HN - Khu du lịch Tràng An - Ninh Bình
*Nguồn: Tác giả
+ Chí phí Giao thông Hà Nội - Cát Bà = Chí phí tuyến HN - HP + Chi phí
HP - Cát Bà = 70.000 + 139.000 = 209.000 đ.
Cước phí giao thông đến Cát Bà đắt gấp 2 lần so với đi Hạ Long, Quảng Ninh
và Tràng An - Ninh Bình khiến chi phí chi cho nhu cầu cơ bản của khách du lịch
khi đi Cát Bà tăng cao hơn khi đến tham quan các Trung tâm du lịch trong khu vực
miền Bắc.
2.3.2.4. Chính sách phát triển du lịch bền vững Khu du lịch Cát Bà được dự
báo được những hệ lụy về xã hội và môi trường khi đẩy nhanh tốc độ phát triển du
76
lịch.
Việc phát triển du lịch tại Quần đảo Cát Bà khiến khoảng cách giàu nghèo
trong giai tầng dân cư ngày càng gia tăng. Những người được hưởng lợi ích từ du
lịch có điều kiện phát triển và trở nên giàu có, khiến khoảng cách về thu nhập của
người hưởng lợi ích từ du lịch và những người lao động không được hưởng lợi ích
từ lao động gia tăng. Mặt khác, do tác động của du lịch nên giá cả hàng hóa dịch vụ
tăng cao trong mùa du lịch, khiến những người lao động hưởng lương (công chức,
viên chức, người lao động ...) và một bộ phận nông dân, ngư dân phải chịu tác động
của việc tăng giá hàng hóa dịch vụ tiêu dùng. Do đó, dẫn đến tiềm ẩn nguy cơ về mâu
thuẫn xã hội, gây mất ổn định giữa những người hưởng lợi từ du lịch và những người
lao động, người hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Đây là yếu tố đe dọa đến việc
phát triển bền vững xã hôi của du lịch Cát Bà.
Mặt khác, ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm môi trường trên biên trên các
vịnh thuộc Quần đảo Cát Bà là rất đáng quan ngại, đe dọa đến sự phát triển bền
vững của huyện.
2.3.3. Cơ hội
Quần đảo Cát Bà được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới
năm 2004. Năm 2013, Quần đảo Cát Bà được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt -
Danh lam thắng cảnh Quần đảo Cát Bà, Quần đảo Cát Bà có phần lớn diện tích là
Vườn Quốc Gia, Khu bảo tồn biển. Những danh hiệu này là công cụ hữu hiệu để
quảng bá du lịch Cát Bà đến với du khách trong nước và quốc tế.
Phát triển du lịch Cát Bà bền vững nhận được sự quan tâm đầu tư, ủng hộ
lớn của các tổ chức quốc tế, Chính phủ, TP Hải Phòng. Nhiều dự án đầu tư đã và
đang được triển khai đầu tư trên địa bàn đảo Cát Bà.
Quần đảo Cát Bà có vị trí thuận lợi nằm trong tam giác tăng trưởng năng
động nhất khu vực miền Bắc là Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Quần đảo Cát
Bà có vị trí liền kề với hai trung tâm du lịch Đồ Sơn và Hạ Long, đặc biệt là nằm
kề vịnh Hạ Long - Di sản thiên nhiên thế giới, một thương hiệu du lịch mạnh đã
được được đông đảo du khách trong nước và Quốc tế biết đến. Đây là điều kiện để
thuận lợi để liên kết du lịch và thu hút khách du lịch theo “dòng chảy” khách du
77
lịch giữa các trung tâm du lịch.
2.3.4. Thách thức
- Du lịch Cát Bà phát triển tự phát, thiếu các quy hoạch quản lý ngành và quy
hoạch không gian đô thị, do đó, việc phát triển đô thị du lịch thiếu mỹ quan, không
tương xứng với định hướng là trung tâm du lịch sinh thái của cả nước và quốc tế.
Do đó dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý nhà nước về du lịch và bảo vệ tài
nguyên môi trường.
- Chưa xây dựng được chiến lược phát triển du lịch qua từng giai đoạn, dài
hạn, trung hạn và ngắn hạn. Do đó chưa có giải pháp phát triển cho du lịch được
hiệu quả.
- Hoạt động quảng bá du lịch không có tính kế hoạch, còn mang tính cục bộ.
Các cơ quan chức năng chưa làm tốt công tác phổ biến thông tin du lịch và quảng
bá tài nguyên du lịch tịch tại chỗ, trực quan. Du khách chưa được tư vấn kịp thời và
cung cấp đầy đủ về thông tin du lịch.
- Du lịch Cát Bà còn mang nặng tính thời vụ, do đó dẫn đến lãnh phí nguồn
lực đầu tư xã hội. Các khách sạn, nhà nghỉ và các cơ sở du lịch chỉ hoạt động chủ
yếu và mùa hè, và hoạt động cầm chừng vào mùa đông, do đó, dẫn đến lãng phí về
cơ sở vật chất của cơ sở kinh doanh du lịch do không có thu nhập vào mùa đông
nhưng chi phí bảo dưỡng, khấu hao, nhất là hao mòn vô hình về cơ sở vật chất vẫn
tiếp diễn. Giao thông đi lại cách trở, khó khăn.
- Cơ chế phân chia lợi ích từ du lịch giữa các doanh nghiệp, chính quyền và
cộng đồng dân cư địa phương còn bất cập, do đó không động viên, khuyến khích
cộng đồng dân cư, nhất là cộng đồng dân cư các xã, thị trấn sinh sống ở vùng đệm
Vườn Quốc gia tích cực tham gia bảo vệ môi trường và bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên. Tình trạng săn bắt chim, thú, khai thác gỗ chưa được khắc phục triệt để.
Phần lớn cư dân sinh sống tại các xã vùng đệm của Vườn Quốc gia Cát Bà chưa
được hưởng lợi ích trực tiếp từ hoạt động du lịch.
- Du lịch Cát Bà chịu sự cạnh tranh trực tiếp của du lịch Hạ Long.
- Quần đảo Cát Bà chịu ảnh hưởng sâu sắc của biến đổi khí hậu, nước biển
78
dâng và bão và triều cường. Mùa du lịch Cát Bà vào mùa hè, nhưng mùa hè cũng là
mùa của Bão, nếu bão xảy ra nhiều sẽ ảnh hưởng đến việc thu hút khách du lịch
đến với Cát Bà.
- Biến đổi và suy thoái tài nguyên môi trường biển do tác động của các dự án
đầu tư ở khu vực quần đảo Cát Bà, nhất là sự tác động do việc xây dựng dự án
Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng.
2.3.5. Nguyên nhân của điểm yếu
2.3.5.1. Nguyên nhân chủ quan
- Nhận thức của xã hội đối với vai trò phát triển du lịch nói chung và phát
triển du lịch bền vững nói riêng còn hạn chế, quản lý nhà nước về du lịch còn thụ
động, thiếu chuyên nghiệp.
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với ngành du lịch thiếu tính ổn định,
chưa phát huy hiệu lực, hiệu quả; quản lý liên ngành, liên vùng còn hạn chế. Không
có tổ chức quản lý du lịch ở cấp huyện, dẫn đến sự thiếu hụt về thông tin quản lý và
các biện pháp cần thiết để thực hiện quản lý nhà nước.
Sự phối hợp các ngành, các cấp chưa được thường xuyên trong việc quản lý
các hoạt động xung quanh và trong các khu, điểm tham quan du lịch, nên nhiều
hoạt động dịch vụ tự phát gay mất trật tự, mỹ quan, không phù hợp theo quy hoạch
phát triển du lịch.
- Trình độ năng lực cán bộ quản lý, điều hành tour còn hạn chế, chưa tạo được
nhiều thiện cảm đối với du khách trong và ngoài nước đến với Cát Bà.
2.3.5.2. Nguyên nhân khách quan
Ngành Du lịch chịu tác động tiêu cực của những bất ổn chính trị, xung đột,
khủng bố, dịch bệnh, thiên tai, khủng hoảng kinh tế- tài chính của các quốc gia
trong khu vực và các thị trường truyền thống.
Sự cạnh tranh giữa các địa phương có sự tương đồng về nguồn tài nguyên và
loại hình du lịch đã ảnh hưởng trực tiếp đến các dòng khách truyền thống của Cát
Bà. Các sản du lịch còn trùng lắp với các địa phương trong vùng, chưa thực hiện
các giải pháp để đa dạng hóa sản phẩm tạo sản phẩm đặc thù riệng biệt, thị trường
còn hạn hẹp. Đầu tư còn giới hạn và trình độ năng lực của nguồn nhân lực chưa đáp
79
ứng kịp yêu cầu đổi mới, phát triển ngành.
Môi trường ô nhiễm, giá cả không được quản lý… cũng tác động tới du lịch
Cát Bà.
Tiềm năng du lịch khá phong phú, nhưng vốn đầu tư khai thác thiếu, biện
pháp huy động vốn, kêu gọi đầu tư chưa kịp thời để động viên mọi nguồn vốn, mọi
thành phần kinh tế tham gia.
Công tác xúc tiến du lịch chưa được đẩy mạnh, chưa đi vào chiều sâu và chưa
nhắm đến các thị trường mục tiêu. Chưa phối hợp các tổ chức cũng như cung cấp
thông tin cần thiết hỗ trợ các doanh nghiệp tìm biện pháp đẩy mạnh thực hiện trực
tiếp kinh doanh lữ hành quốc tế, nên dù lượng khách tăng cao mà hiệu quả không
cao.
Tiểu kết chương 2
Qua những nội dung đã nghiên cứu ở chương 2 và căn cứ vào thực trạng chính
sách phát triển du lịch bền vững Khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng, có thể
đưa ra một số kết luận sau:
- Việc phát triển du lịch bền vững ở Khu du lịch Cát Bà trong những năm gần
đây đã có những đóng góp tích cực về mặt kinh tế, góp phần nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân địa phương.
- Tuy nhiên sự phát triển du lịch một cách mạnh mẽ cũng gây ra những tác
động tiêu cực tới tài nguyên, môi trường và đời sống xã hội của người dân địa
phương, phát triển du lịch chưa đi cùng với bảo vệ môi trường. Đó là dấu hiệu của
phát triển du lịch chưa bền vững.
Đây là cơ sở để tác giả nghiên cứu và tìm ra các cách thức và giải pháp
nhằm hoàn thiện chính sách phát triển du lịch bền vững Khu du lịch Cát Bà
trong tương lai.
80
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
TẠI KHU DU LỊCH CÁT BÀ, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
3.1. Quan điểm phát triển bền vững Khu du lịch Cát Bà
- Phát triển du lịch Cát Bà bền vững vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội của huyện Cát Hải nói riêng và thành phố Hải Phòng
nói chung. Phát triển du lịch Cát Bà trở thành ngành kinh tế trung tâm của huyện
Cát Hải.
- Đa dạng các loại hình và sản phẩm du lịch, thu hút đầu tư, tăng nhanh tỷ
trọng du lịch trong tổng GDP. Phát triển du lịch Cát Bà theo hướng chú trọng về
chất lượng tăng trưởng. Khai thác có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế so sánh về tài
nguyên du lịch, tạo tính khác biệt về các sản phẩm du lịch để nâng cao tính cạnh
tranh của Du lịch Cát Bà với các trung tâm du lịch trong khu vực Bắc Bộ và cả
nước.
- Ưu tiên phát triển các sản phẩm du lịch chất lượng cao, đồng thời phát triển
du lịch đại chúng để đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách; từng bước nâng cao
chất lượng, hiệu quả của du lịch Cát Bà.
- Phát triển du lịch đi đôi với bảo tồn và tôn tạo tài nguyên thiên nhiên và
phát triển văn hóa, nâng cao thu nhập, giải quyết sinh kế cho nhân dân địa phương.
Phát triển du lịch phải chú trọng bảo tồn các giá trị tài nguyên thiên nhiên mang
tính toàn cầu về sinh thái, đa dạng sinh học, cảnh quan môi trường và bảo tồn phát
triển các giá trị về văn hóa, lịch sử của cộng đồng dân cư vùng quần đảo Cát Bà.
- Quan tâm và chia sẻ lợi ích từ hoạt động du lịch cho cộng đồng dân cư, tạo
điều kiện để cộng đồng cư dân địa phương tham gia vào các hoạt động du lịch,
khuyến khích cộng đồng dân cư địa phương có trách nhiệm bảo vệ và bảo tồn tài
nguyên du lịch.
- Phát triển du lịch phải gắn liền với các yêu cầu bảo đảm an ninh biển đảo, an
81
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
3.2. Mục tiêu, định hướng phát triển du lịch bền vững tại Khu du lịch Cát Bà,
thành phố Hải Phòng trong thời gian tới
3.2.1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng đảo Cát Bà trở thành một trung tâm du lịch sinh thái rừng - núi -
biển - đảo của cả nước và quốc tế. Phát triển đảo Cát Bà trở thành điểm đến du lịch
xanh đẳng cấp quốc tế, nơi du khách có được những trải nghiêm tốt nhất và các giá
trị sinh thái - cảnh quan thiên nhiên mang tính đặc hữu toàn cầu.
3.2.2. Mục tiêu cụ thể
Phấn đấu đến năm 2020, du lịch Cát Bà đón 1.500.000 lượt khách, trong đó
có 500.000 lượt khách quốc tế. Đến năm 2020, du lịch Cát Bà đón khoảng
2.400.000 lượt khách, trong đó có khoảng 900.000 lượt khách quốc tế.
Phấn đấu đến năm 2015, du lịch Cát Bà có 4.700 buồng nghỉ, trong đó có
420 buồng nghỉ đạt tiêu chuẩn từ 4 đến 5 sao; 1050 buồng nghỉ đạt từ 1 đến 3 sao.
Đến năm 2030, du lịch Cát Bà có 6.200 buồng nghỉ, trong đó có 750 buồng nghỉ
đạt tiêu chuẩn từ 4 đến 5 sao, 2100 buồng nghỉ đạt từ 1 đến 3 sao.
Phấn đấu đến năm 2020, du lịch Cát Bà thu hút 6.100 lao động, trong đó có 3.200
lao động trực tiếp, 2.900 lao động gián tiếp; đến năm 2030, du lịch Cát Bà thu hút 10.400
lao động, trong đó có 5.000 lao động trực tiếp và 5.400 lao động gián tiếp.
Tổng thu từ khách du lịch đạt 1.050 tỷ đồng vào năm 2020 và 2.240 tỷ đồng
vào năm 2050.
Đến năm 2020, hoàn thiện và đưa vào sử dụng một số dự án đầu tư về du lịch Cát
Bà như: hoàn thiện hệ thống hạ tầng giao thông cầu, phà, cảng, bến tàu du lịch; nhà máy
xử lý rác thải, các hồ chứa nước ngọt, đường điện 110 kv từ nguồn vốn ngân sách. Huy
động nguồn xã hội hóa đầu tư hoàn thiện dự án khu đô thị du lịch Cái Giá, Khu nghỉ
dưỡng cao cấp và sân golf Xuân Đám...; xây dựng các tuyến cáp treo du lịch; triển khai dự
án đường motoray Cát Bà - Vườn Quốc gia.
3.2.3. Phương hướng phát triển bền vững du lịch Cát Bà
- Phát triển du lịch Cát Bà trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Cát Bà cùng
82
với Đồ Sơn, Hạ Long trở thành một trong những trung tâm du lịch của cả nước và
Quốc tế. Quần đảo Cát Bà trở thành khu kinh tế - du lịch, động lực phát triển mạnh
của thành phố và khu vực.
- Phát triển du lịch cao cấp kết hợp hài hòa với du lịch đại chúng.
- Phát triển du lịch bền vững gắn chặt với bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa dân tộc; giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường. Phát triển du lịch Cát Bà có bản
sắc riêng, tạo sự khác biệt về sản phẩm du lịch với thương hiệu Cát Bà Đảo ngọc
thuần khiết với thiên nhiên hoang sơ, nơi hội tụ những giá trị toàn cầu về sinh thái -
cảnh quan; là cửa đến không gian di sản thế giới ở vùng Duyên hải Đông Bắc; có
sức hấp dẫn mạnh ở Việt Nam và quốc tế.
- Xây dựng Quần đảo Cát Bà trở thành điểm đến du lịch xanh, trung tâm du
lịch đẳng cấp thế giới, xứng đáng với vị thế, tiềm năng, giá trị vốn có.
3.3. Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển du lịch bền
vững Khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng
3.3.1. Xây dựng chính sách phát triển du lịch bền vững Khu du lịch Cát
Bà cần đặt trong mối quan hệ với Quy hoạch du lịch Cát Bà và các quy hoạch
ngành liên quan theo mục tiêu bền vững
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện Cát Hải được xây
dựng và phê duyệt vào năm 2004. Qua 10 năm thực hiện, do sự tác động của nhiều
nguyên nhân nên đến nay một số nội dung quy hoạch không còn phù hợp, đòi hỏi
cần điều chỉnh, bổ sung quy hoạch làm căn cứ để hoạch định chiến lược, giải pháp
và lựa chọn các mục tiêu ưu tiên cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện Cát Hải
cũng sự phát triển du lịch Cát Bà.
Xây dựng và hoàn thiện quy hoạch phát triển du lịch Cát Bà bền vững là căn
cứ để xây dựng chiến lược, kế hoạch tổng thể và giải pháp phát triển du lịch Cát
Bà; đồng thời là điều kiện kiên quyết để phát triển du lịch Cát Bà bền vững trong
tương lai.
Du lịch là ngành kinh tế liên quan đến tổng thể các lĩnh vực của đời sống xã
hội, do đó để phát triển du lịch ngoài việc xây dựng các quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội, quy hoạch du lịch cần xây dựng quy hoạch ngành liên quan
83
để bảo đảm sự phát triển hài hòa, bền vững của du lịch. Đối với Cát Bà, đó là các
quy hoạch về nuôi trồng hải sản, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch kiến trúc không
gian đô thị, quy hoạch về địa điểm xử lý rác thải, chất thải...
Về nguyên tắc xây dựng quy hoạch du lịch Quần đảo Cát Bà
- Quy hoạch du lịch Quần đảo Cát Bà phải phù hợp với Quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của huyện Cát Hải; Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành
phố Hải Phòng; phù hợp với mục tiêu “Xây dựng đảo Cát Bà trở thành trung tâm du
lịch sinh thái của cả nước và quốc tế” đã được nêu ra trong Nghị quyết 16 của Ban
thường vụ Thành ủy về xây dựng và phát triển huyện Cát Hải đến năm 2020.
- Quy hoạch phải bảo đảm kết hợp hài hòa giữa việc vận dụng lý luận, kiến
thức khoa học, tầm nhìn của các chuyên gia và điều kiện thực tiễn của địa phương.
Quy hoạch phải có tính công khai trong quá trình lập và công bố quy hoạch. Bảo
đảm tính khả thi trong thực hiện quy hoạch.
- Quy hoạch du lịch Quần đảo Cát Bà trở thành một trung tâm du lịch “xanh”
đẳng cấp quốc tế. Quy hoạch phải dựa trên các nguyên tắc về phát triển bền vững là
phát triển du lịch gắn kết chặt chẽ với bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và cải thiện
sinh kế và nâng cao mức sống của người dân địa phương. Quy hoạch bảo đảm phù
hợp với việc bảo tồn, phát triển TNDL và môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá, lịch sử của địa phương, phát triển sinh kế và nâng cao mức sống cho cộng
đồng dân cư. Bảo đảm tính khả thi, cân đối giữa cung và cầu du lịch. Phát huy thế
mạnh để tạo ra sản phẩm du lịch đặc thù của các địa phương nhằm sử dụng hợp lý,
hiệu quả TNDL.
Nội dung quy hoạch Cát Bà và quy hoạch cụ thể các vùng, khu, tuyến,
điểm du lịch
Nội dung của quy hoạch phải xác định rõ vị trí, vai trò và lợi thế của du lịch
Cát Bà trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện Cát Hải và du lịch thành phố Hải
Phòng; phân tích, đánh giá tiềm năng, hiện trạng TNDL, thị trường du lịch, các
nguồn lực phát triển du lịch; xác định các quan điểm mục tiêu, tính chất quy mô
phát triển cho từng khu vực quy hoạch; đưa ra được các dự báo các chỉ tiêu và luận
chứng các phương án phát triển du lịch; xác định các danh mục các khu vực dự án
84
ưu tiên đầu tư, nhu cầu sử dụng đất, vốn đầu tư, nguồn nhân lực cho du lịch ở từng
khu vực; đánh giá được tác động môi trường, tính toán các yếu tố để bảo vệ được
TNDL và môi trường; xây dựng các cơ chế chính sách phù hợp để quản lý phát
triển du lịch theo quy hoạch.
* Quy hoạch các vùng du lịch:
Quy hoạch thị trấn Cát Bà thành đô thị du lịch văn minh hiện đại. Nơi tập
trung các khách sạn, nhà nghỉ, các khu nghỉ dưỡng du lịch, trung tâm thương mại,
nhà hàng, cửa hàng bán hàng lưu niệm.
Quy hoạch phát triển các trung du lịch cộng đồng, du lịch xanh và du lịch
sinh thái tại các xã Việt Hải, Phù Long, Xuân Đám, Gia Luận, Thôn Liên Minh, xã
Trân Châu và Làng chài trên vịnh Bến Bèo, vịnh Lan Hạ.
Quy hoạch Vườn Quốc gia trở thành một trung tâm du lịch sinh thái, nghỉ
dưỡng và chữa bệnh và trung tâm giáo dục bảo vệ môi trường.
* Quy hoạch phát triển các loại hình du lịch:
- Du lịch tham quan: Quần đảo Cát Bà có cảnh quan thiên nhiên đẹp và kỳ
vĩ, do đó, mỗi điểm đến, mỗi làng, xã trên đảo Cát Bà đều là điểm đến tham quan
ngắm cảnh hấp dẫn, trong đó tập trung quy hoạch tham quan ngắm cảnh vịnh thuộc
quần đảo Cát Bà; tham quan các điểm cao như Pháo đài Thần Công, Đỉnh Cao
vọng, Rừng Kim Giao; tham quan hệ thống các hang, động như: Động Hoa Cương
(Gia Luận), Động Thiên Long (xã Phù Long), Hang Quân y (Trân Châu), Động
Trung Trang (Vườn Quốc Gia); Quần đảo Long Châu và Ngọn Hải Đăng, đảo Long
Châu.
- Du lịch sinh thái: Phát triển chủ yếu ở khu vực Vườn Quốc gia Cát Bà với
các điểm đến chính là: Rừng kim giao, đỉnh Ngự Lâm, Mây Bầu, Ao ếch, Làng
Việt Hải, Rừng ngập mặt xã Phù Long, khu vực Giỏ Cùng trên vịnh Lan Hạ...
- Du lịch nghỉ dưỡng: Điểm đến là các bãi tắm Cát Cò I, Cát Cò II, Cát Cò 3,
Cát Dứa, Cát Ông, Năm Cát...
- Du lịch cộng đồng: Điểm đến là các làng Việt Hải, Phù Long, Gia Luận,
Xuân Đám, Thôn Liên Minh xã Trân Châu..
- Du lịch thể thao, mạo hiểm: với các hoạt động chủ yếu là chơi thể thao,
85
Leo núi, lặn biển: Điểm đến là khu nghỉ dưỡng sân golf Xuân Đám, khu vực xã
Viêt Hải, Nam Cát, Ba Trái đào, Đảo Long Châu...
- Du lịch văn hóa, tâm linh, lễ hội : Lễ hội Làng Cá 31.3; Lễ hội cầu ngư thị
trấn Cát Hải 21 tháng giêng; lễ hội Xa Mã Hoàng châu 10.6; hệ thống các đền, chùa
trên đảo: Đền Hiền Hào, Đền Gia Luận, Đền Xuân Đám, Chùa Linh Ứng…
Về quản lý và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển du lịch
Sau khi Quy hoạch du lịch Cát Bà được phê duyệt, Ủy ban nhân dân huyện Cát
Hải có trách nhiệm công bố, cung cấp thông tin về quy hoạch để các tổ chức cá nhân
liên quan triển khai thực hiện và tham gia giám sát việc thực hiện quy hoạch.
Việc thực hiện các dự án phát triển du lịch, dự án có ảnh hưởng đến việc khai thác
và phát triển tài nguyên du lịch. Do đó, các dự án đầu tư vào địa bàn Quần đảo Cát Bà
phải phù hợp với quy hoạch đã được UBND thành phố phê duyệt, các dự án thực hiện
phải có ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương và các Sở, Ngành chức
năng của thành phố có liên quan để bảo đảm kiểm soát chặt chẽ quy hoạch theo cơ chế
giữa quản lý theo chuyên ngành và quản lý tại địa phương.
Trong quá trình cấp phép đầu tư các dự án, tuân thủ và thực hiện nghiêm theo
quy hoạch. Tuân thủ nghiêm mục đích sử dụng đất dành cho các phân khu chức năng
theo quy hoạch, hạn chế việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo quy hoạch đã
được duyệt. Xác định rõ từng khu đất dành cho các công trình kết cấu hạ tầng du lịch,
cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch trong các khu, tuyến điểm du lịch theo quy hoạch đã
được phê duyệt, quyết định và công bố. Không giao, cho thuê đất đối với dự án đầu tư
trái quy hoạch, dự án đầu tư có ảnh hưởng tiêu cực đến TNDL và môi trường. Tăng
cường tuyên truyền, hướng dẫn để mọi tổ chức cá nhân và cộng đồng dân cư có trách
nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh quy hoạch phát triển du lịch đã được phê duyệt. Xử lý
nghiêm những trường hợp vi phạm quy hoạch phát triển du lịch.
3.3.2. Cần nhấn mạnh tới công tác tuyên truyền, quảng bá, các hoạt động
xúc tiến du lịch
Đây là một trong những giải pháp cần được ưu tiên đối với chính sách này vì
phát triển du lịch gắn với bền vững còn chưa được nhiều người dân biết tới.
- Tăng cường công tác quảng bá du lịch trên hệ thống các cơ quan thông tin đại
86
chúng trong nước và quốc tế. Đầu tư nâng cấp trang website của du lịch Cát Bà
(www.catba.com.vn) theo nhiều thứ tiếng như: tiếng Việt, tiếng Anh, Tiếng Nhật,
Tiếng Trung..). Đăng tải cụ thể, đầy đủ thông tin trên về du lịch Cát Bà trên trang
website du lịch Cát Bà để du khách dễ dàng truy cập và tìm hiểu thông tin như:
+ Thông tin về tài nguyên du lịch, cảnh quan thiên nhiên; các tour, tuyến,
điểm tham quan du lịch, các cơ sở lưu trú, khu nghỉ dưỡng, nhà hàng, các bãi tắm,
hang động...
+ Thông tin về giao thông đi và đến: khoảng cách, đường đi, các loại phương
tiện, tuyến vận chuyển, ngày giờ hoạt động của tàu, xe ...
+ Thông tin về các tài nguyên du lịch nhân văn (di tích lịch sử văn hóa, đền,
chùa, miếu) và văn hóa bản địa.
+ Thông tin về các trung tâm thông tin, lực lượng hỗ trợ khách du lịch, cứu
hộ, cứu nạn, cảnh sát, bệnh viện....
+ Thông tin về giá cả hàng hóa, dịch vụ, hàng lưu niệm, ẩm thực....
3.3.3. Cần tập trung hơn vào các giải pháp nhằm bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên và môi trường tự nhiên
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi
trường; lựa chọn những thông điệp ý nghĩa để tuyên truyền trực quan. Tổ chức tốt
các hoạt động truyền thông nhân các sự kiện môi trường và các cuộc thi tìm hiểu về
môi trường và tài nguyên du lịch Cát Bà. Nghiên cứu và đưa chương trình giáo dục
môi trường và tìm hiểu giá trị tài nguyên thiên nhiên Quần đảo Cát Bà vào chương
trình học tập ngoại khóa của học sinh các trường học phổ thông trên địa bàn huyện.
Kinh nghiệm về tuyên truyền bảo vệ môi trường có hiệu quả nhất là tuyên truyền
cho trẻ em để tạo lan tỏa trong gia đình và xã hội.
- Triển khai thực hiện nghiêm các quy định về Luật bảo vệ và phát triển
rừng, Luật bảo vệ môi trường, Luật bảo vệ đa dạng sinh học và các văn bản pháp
luật về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học. Thực hiện nghiêm các
cam kết, điều quốc tế về bảo vệ môi trường Quần đảo Cát Bà và quy chế quản lý
Khu dự trữ sinh quyển Quần đảo Cát Bà.
- Tăng cường hoạt động tuần tra, kiểm soát và bảo vệ rừng; đấu tranh, ngăn
87
chặn và xử lý nghiêm các đối tượng săn, bắt động vật, khai thác lâm sản trái phép;
đấu tranh, kiểm tra, xử lý các nhà hàng, các tụ điểm mua bán, chế biến thức ăn có
nguồn gốc từ động vật hoang dã; tổ chức chiến dịch toàn dân bài trừ, tố giác các đối
tượng săn bắt, buôn bán, vận chuyển động vật hoang dã và sử dụng thức ăn có
nguồn gốc từ động vật hoang dã trên địa bàn huyện.
- Khuyến khích ứng dụng phát triển và sử dụng công nghệ tiết kiệm năng
lượng, năng lượng sạch, thân thiện với môi trường trong các cơ sở dịch vụ, du lịch.
Khuyến khích phát triển các loại hình, sản phẩm du lịch có trách nhiệm với môi
trường, nhất là du lịch sinh thái, du lịch xanh.
3.3.4. Đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật
- Tiếp tục ưu tiên đầu tư nâng cấp hệ thống hạ tầng du lịch. Tranh thủ sự hỗ
trợ nguồn vốn của Trung ương và thành phố để đầu tư, nâng cấp, mở rộng các công
trình hạ tầng kỹ thuật, giao thông như: Đường xuyên đảo, bến tàu du lịch, nâng cấp
các tuyến phà Bến Gót - Cái Viềng, Gia Luận - Tuần Châu. Khuyến khích và tạo
điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư tham gia đầu tư kinh doanh du lịch tại Cát Bà.
- Xây dựng cơ chế khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài (vốn FDI) vào du lịch Cát Bà, nhất là mời gọi các tập đoàn
kinh doanh du lịch có uy tín trong khu vực và thế giới để học tập kinh nghiệm quản
lý, nghiệm vụ và kết hợp đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ.
- Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn Trung ương theo Quyết định 439/QĐ-TTg
ngày 03/01/2009 của Thủ tướng Chính phủ để đầu tư và đưa vào sử dụng các hồ
chứa nước ngọt Phù Long, Trân Châu, Xuân Đám và Việt Hải ...phục vụ sinh hoạt
của nhân dân và du lịch
- Đầu tư và đưa vào vận hành hệ thống đường dây tải điện 110 kv Chợ rộc
Cát Bà.
- Đầu tư xây dựng nhà máy xử lý rác, lò đốt rác và hệ thống các công trình
xử lý nước thải trên đảo Cát Bà.
- Xây dựng hệ thống xe buýt thân thiện với môi trường hoạt động vận tải
hành khách trong phạm vi đảo. Nghiên cứu xây dựng tuyến đường mono rail xuyên
đảo Phù Long - Vườn Quốc gia Cát Bà - Trung tâm du lịch Cát Bà. Tiến tới loại bỏ
88
hoàn toàn phương tiện giao thông tư nhân vào đảo Cát Bà. Xây dựng Cát Bà trở
thành trung tâm du lịch có hệ thống giao thông công cộng hiện đại, tạo cho Cát Bà
một không gian giao thông khác biệt, một hòn đảo du lịch sinh thái không có tiếng
còi xe ô tô, không sử dụng phương tiện giao thông tư nhân trên các tuyến du lịch.
Mọi phương tiện tư nhân đến Cát Bà sẽ được để lại bãi xe đầu mối khu vực Bến
Gót, đảo Cát Hải và bãi xe đảo Tuần Châu; khách du lịch sau khi lên đảo Cát Bà sẽ sử
dụng hệ thống se buýt công cộng thân thiện với môi trường trên đảo Cát Bà.
- Tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp, nhà đầu tư xây dựng các khách
sạn, các khu nghỉ dưỡng cao cấp, các khu vui chơi giải trí. Phấn đấu đến năm 2015
có 420 buồng nghỉ đạt tiêu chuẩn từ 4 đến 5 sao. Đến năm 2020, du lịch Cát Bà có
có 750 buồng nghỉ đạt tiêu chuẩn từ 4 đến 5 sao. Ưu tiên xây dựng các trung tâm
nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe kết hợp du lịch, trung tâm thương mại... Phát triển
đội tàu du lịch theo hướng nâng cao chất lượng, dịch vụ.
- Đầu tư tôn tạo các điểm di tích lịch sử văn hóa, các khu di chỉ khảo cổ học
thành một điểm đến du lịch. Xây dựng Nhà văn hóa và Thông tin huyện Cát Hải để
trưng bày, giới thiệu về lịch sử phát triển, văn hóa bản địa và tài nguyên thiên
nhiên, điểm đến du lịch huyện Cát Hải. Đầu tư xây dựng nhà văn hóa các xã phát
triển du lịch công đồng theo hướng kết hợp giữa công năng sử dụng hoạt động văn
hóa địa phương và bảo tàng giới thiệu lịch sử, phong tục, tập quán, văn hoa bản địa
của cư dân và tài nguyên du lịch. Xây dựng Nhà văn hóa và Trung tâm thông tin
huyện Cát Hải và Nhà văn hóa các xã trở thành một điểm tham quan trong các tour
du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng. Việc xây dựng và sắp đặt, giới thiệu trong các
nhà văn hóa cần nghiên cứu thấu đáo, thực hiện nghiêm túc và thuê đơn vị tư vấn,
các họa sỹ để thực hiện.
- Khi cấp phép các dự án đầu tư trên địa bàn khu vực Cát Bà, chính quyền
thành phố và của huyện Cát Hải cần tính tới việc giành diện tích đất cho đầu tư xây
dựng các công trình phúc lợi và sinh hoạt cộng đồng, công viên, sân vận động,
quảng trường, nơi sinh hoạt tập thể của cộng đồng.
3.3.5. Đào tạo nguồn nhân lực
Căn cứ bảng phân tích thực trạng lao động du lịch Cát Bà có thể nói, đào tạo
89
nguồn nhân lực cho du lịch Cát Bà là một yêu cầu đòi hỏi thiết thực, cấp bách. Để
đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho du lịch, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp
để đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng lao động của du lịch Cát Bà, cụ
thể như sau:
- Lựa chọn cán bộ có năng lực cử đi tham gia đào tạo chuyên sâu về du lịch;
xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý du lịch có phẩm chất và năng lực, có tư duy hệ
thống, có cách tiếp cận với những ý tưởng mới, sáng tạo và có tâm huyết, trách
nhiệm, đủ sức tham mưu cho lãnh đạo chính quyền địa phương thực hiện một cách
hiệu quả công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn.
- Tổ chức điều tra nhu cầu lao động trong ngành du lịch. Phối hợp với các
doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ du
lịch (lễ tân, buồng, bàn, nấu ăn), ngoại ngữ cho đội ngũ lao động trong ngành du
lịch tại Cát Bà, qua đó góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch Cát Bà.
- Mở các lớp dạy về kỹ năng, nghiệp vụ du lịch cho những người dân trực
tiếp tham gia làm du lịch cộng đồng.
- Ưu tiên cho đào tạo hướng dẫn viên và diễn giải viên du lịch, chú trọng đào
tạo hướng dẫn viên, diễn giải viên là người dân bản địa; nâng cao chất lượng và tính
chuyên nghiệp của đội ngũ hướng dẫn viên, diễn giải viên. Đào tạo diễn giải viên là
yêu cầu bắt buộc đối với việc phát triển du lịch sinh thái và du lịch xanh...
- Tổ chức các cuộc thi về tay nghề, nghiệp vụ du lịch như đầu bếp giỏi, lễ tân
giỏi, bartender giỏi...để qua đó khuyến khích lực lượng lao động tự học tập, sáng
tạo, nâng cao tay nghề, nghiệp vụ du lịch. Khuyến khích các doanh nghiệp tự đào
tạo và liên kết đào tạo tay nghề, nghiệp vụ về du lịch.
- Yêu cầu các doanh nghiệp khi tuyển dụng lao động làm việc trong ngành
du lịch bắt buộc phải qua đào tạo về nghiệp vụ du lịch.
3.3.6. Tăng cường liên kết du lịch và phát triển sản phẩm du lịch Cát Bà
Do du lịch là hoạt động có tính chất liên vùng và xã hội hóa cao, do đó phát
triển du lịch đòi hỏi phải đẩy mạnh các hoạt động liên kết. Đối với du lịch Cát Bà
một yêu cầu có tính bắt buộc là phải đẩy mạnh các hoạt động liên kết với các trung
tâm du lịch Hạ Long, Vân Đồn, Đồ Sơn... trong việc khai thác tài nguyên, bảo tồn
90
và quảng lý tài nguyên du lịch, xây dựng sản phẩm du lịch, xúc tiến quảng bá điểm
đến, đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp các dịch vụ giao thông vận tải, nghỉ dưỡng.
Đồng thời, liên kết với các công ty lữ hành, doanh nghiệp trong và ngoài nước
trong việc xúc tiến quảng bá, phát triển sản phẩm du lịch và tổ chức các tour, tuyến
du lịch.
Đẩy mạnh các hoạt động liên kết trong việc thu hút khách du lịch đến với
Cát Bà. Bản thân các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh du lịch, các cơ quan chức
năng xúc tiến du lịch Cát Bà cần đẩy mạnh các hoạt động tiên kết và tạo mối quan
hệ gắn bó với các doanh nghiệp lữ hành ở Hải Phòng, Hà Nội, Hạ Long và Đồ Sơn
trong việc marketing, thu hút khách du lịch và tổ chức các tour du lịch liên kết đến
với Cát Bà cũng như các trung tâm du lịch trong khu vực liên kết.
Đề nghị Tổng cục Du lịch hỗ trợ, giúp đỡ địa phương trong việc tổ chức các
hoạt động xúc tiến, liên kết, thu hút khách du lịch quốc tế bằng các hình thức như:
tổ chức các hội nghị các doanh nghiệp Lữ hành, đăng cai giới thiệu và mời các
công ty lữ hành quốc tế ở các thị trường truyền thống đến khảo sát, tham quan tại
Cát Bà.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về chính sách phát triển du lịch bền vững và
đánh giá thực trạng thực hiện chính sách tại Khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải
Phòng, tác giả đã xây dựng một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách này trong tương lai tại địa bàn nghiên cứu. Có rất nhiều biện pháp được
tác giả nghiên cứu và xây dựng như:
- Xây dựng chính sách phát triển du lịch bền vững Khu du lịch Cát Bà cần
đặt trong mối quan hệ với Quy hoạch du lịch Cát Bà và các quy hoạch ngành liên
quan theo mục tiêu bền vững
- Cần nhấn mạnh tới công tác tuyên truyền, quảng bá, các hoạt động xúc tiến
du lịch
- Cần tập trung hơn vào các giải pháp nhằm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và
môi trường tự nhiên
91
- Đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật
- Đào tạo nguồn nhân lực
- Tăng cường liên kết du lịch và phát triển sản phẩm du lịch Cát Bà
Để phát triển du lịch bền vững tại Khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng
thông qua xây dựng chính sách có hiệu quả, các biện pháp này cần được thực hiện
đồng bộ, có sự tham gia của các bên có liên quan.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Quần đảo Cát Bà có diện tích tự nhiên là 33.670 ha, bao gồm 13.478 ha đất
tự nhiên và 20.192 ha mặt biển. Quần đảo Cát bà có 388 hòn đảo, lớn nhỏ, trong đó
có đảo lớn nhất là đảo Cát Bà. Quần đảo Cát Bà có những giá trị đặc biệt về tài
nguyên du lịch sinh thái như: hệ sinh thái biển, rừng nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng
ngập mặn, hệ thống hang động núi đá vôi...được đánh giá là nơi hội tụ đầy đủ các
hệ sinh thái tiêu biểu của Việt Nam. Ngoài ra, Quần đảo Cát Bà là nơi lưu giữ
nhiều di chỉ khảo cổ học có giá trị, tiêu biểu nhất là di chỉ Cái Bèo.
Ngày nay, Cát Bà đã và đang được đông đảo du khách và bạn bè trong nước
và quốc tế biết đến là quần đảo có những giá trị đặc biệt về đa dạng sinh học, mỹ
học, cấu trúc địa chất, địa mạo và di chỉ khảo cổ học, tạo lên hình ảnh Quần đảo
Cát Bà là một trong những điểm du lịch sinh thái hấp dẫn nhất của cả nước.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, du lịch Cát Bà cũng đang phải
đối diện với nhiều thách thức, tiềm ẩn nguy cơ tác động tiêu cực đến phát triển du
lịch bền vững của du lịch Cát Bà. Nhận thức về điều đó, nên tác giả mạnh dạn
nghiên cứu thực trạng du lịch Cát Bà giai đoạn 2009 – 2015 để xây dựng mục tiêu,
phương hướng và đề ra giải pháp phát triển bền vững du lịch Cát Bà trong thời gian
92
tới.
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ thì khả năng tổng hợp, bao quát toàn diện
những vấn đề mang tính vĩ mô liên quan đến phát triển du lịch bền vững Cát Bà
chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết, song với tâm huyết của mình, tác giả mong
muốn luận văn sẽ đóng góp nhất định vào việc phát triển bền vững du lịch Cát Bà.
Qua nghiên cứu đề tài luận văn này, tác giả xin đề nghị:
- Đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố thành lập Trung tâm Môi trường Quần
đảo Cát Bà trực thuộc huyện Cát Hải để làm nhiệm vụ theo dõi, đánh giá, tổng hợp
thông tin và tham mưu xây dựng kế hoạch bảo vệ môi trường về tài nguyên thiên
thiên và môi trường Quần đảo Cát Bà; đồng thời làm nhiệm vụ là đầu mối thống
nhất tiếp nhận các dự án từ các các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước về
bảo vệ môi trường; thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, tổ chức các hoạt động truyền
thông môi trường và tổ giáo dục môi trường cho các trường học trong và ngoài
huyện Cát Hải đến học tập, tìm hiểu về môi trường.
- Thành lập Ban Quản lý Khu bảo tồn biển Cát Bà theo Quyết định số
742/QĐ-TTg của Thủ tướng Phính phủ.
- Đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố, huyện Cát Hải kiên quyết không giao
đất cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các dự án du lịch nghỉ dưỡng trên các
đảo, bãi cát nằm trong các vịnh Bến Bèo và vịnh Lan Hạ. Không đồng ý cho triển
khai các dự án du lịch thuộc diện tích Vườn Quốc gia Cát Bà trên các đảo thuộc các
Vịnh Bến Bèo và vịnh Lan Hạ. Có kế hoạch di dời các cơ sở kinh doanh lưu trú ra
khỏi khu vực vịnh Bến Bèo, Vịnh Lan Hạ. Bởi việc đầu tư xây dựng các dự án nghỉ
dưỡng trên các đảo nằm trong các vịnh Lan Hạ làm phá vỡ cảnh quan môi trường
vịnh Lan Hạ, ảnh hưởng đến môi trường do các cơ sở lưu trú trên xả xuống biển;
các cơ sở này không đảm bảo các yêu cầu về an toàn, y tế cho du khách. Mặt khác,
các cơ quan chức năng khó kiểm soát hoạt động của các tổ chức và cá nhân do địa
bàn cách trở, tiềm ẩn nhiều nguy cơ về an ninh trật tự và đe dọa trực tiếp đến yêu
93
cầu phát triển bền vững của du lịch Cát Bà.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Phát triển du lịch bền vững tại Khu du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng,
94
Nội san Khoa Hành chính học, tháng 3/2017
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1996), Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Hà
Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2007), Nghị quyết số 09/NQ-TƯ
ngày 9/2/2007 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội.
3. Ban thường vụ Thành ủy Hải Phòng, Thông báo số 82- TB/TU ngày
04/8/2012 sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết 09 – NQ/TU ngày 22/11/2006
của Ban thường vụ Thành ủy về phát triển du lịch Hải Phòng giai đoạn 2006
– 2010 định hướng đến 2020, Hải Phòng.
4. Ban thường vụ Thành ủy Hải Phòng, Nghị Quyết số 09-NQ/TU ngày
22/11/2016 của Ban thường vụ Thành ủy về phát triển du lịch Hải Phòng giai
đoạn 2006 – 2010 định hướng đến năm 2020, Hải Phòng.
5. Câu lạc bộ hưu trí du lịch Thành phố Hải Phòng(2005), 50 năm du lịch hải
Phòng, NXB Hải Phòng, Hải Phòng.
6. Chính phủ, Nghị định 92/2007/NĐ-CP ngày 1/6/2007 của Chính phủ về
việc hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều tại Luật Du lịch, Hà Nội.
7. Cục xúc tiến Việt Nam(2002), Sản phẩm và làng nghề Việt Nam, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa, Giáo trình Kinh tế du lịch,
Trường Đại học Kinh tế quốc dân 2008, Hà Nội.
9. Nguyễn Hữu Hải (chủ biên), Giáo trình Hoạch định và phân tích chính
sách công, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2008.
10. Hội đồng lịch sử Thành phố Hải Phòng (1990), Địa chí Hải Phòng-tập
1, Sở Văn hóa thông tin Hải Phòng, Hải Phòng.
11. Hội đồng lịch sử Thành phỗ Hải Phòng (1993), Lược khảo đường phố Hải
95
Phòng, NXB Hải Phòng, Hải Phòng.
12. Trần Ngọc Hương, Phát triển du lịch ở Hải Phòng trong bối cảnh hội
nhập quốc tế, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, 2012.
13. Phạm Trung Lương (chủ biên), Tài nguyên và môi trường du lịch
Việt Nam, NXB Giáo dục 2000, Hà Nội.
14. Lê Chi Mai, Những vấn đề cơ bản về chính sách và qui trình chính
sách, NXB Đại học Quốc gia, thành phố Hồ Chí Minh, 2001.
15. Phạm Thị Khánh Ngọc, Du lịch Hải Phòng- Thực trạng, phương
hướng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế của, 1999.
16. Quốc hội, Hiến pháp 2013.
17. Quốc hội, Luật Du lịch (44/2005/QH11 ngày 15/6/2005).
18. Trần Đức Thanh (2005), Nhập môn khoa học du lịch , NXB ĐHQG, Hà Nội
19. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011
của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
20. Hồ Thị Kim Thoa, đề tài NCKH cấp Bộ “Tổng quan hệ thống chính
sách phát triển du lịch Việt Nam”, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch 2014,
Hà Nội.
21. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 2163/QĐ-TTg ngày 30/12/2013
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “ Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
vùng Đồng Bằng số Hồng và Duyên hải Đông Bắc đến năm 2020 tầm nhìn
đến năm 2030”.
22. Trần Mạnh Thường(2005), Việt Nam Văn hóa & Du lịch, NXB Thông tấn,
Hà Nội.
23. Tạ Duy Trinh, Du Lịch Hải Phòng (Guide book), NXB Hải Phòng,
Hải Phòng 2001.
24. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng, Báo cáo số 239/BC –UBND
ngày 06/11/2015 Báo cáo tiềm năng du lịch và định hướng phát triển du lịch
của thành phố Hải Phòng, Hải Phòng.
96
25. Bùi Thị Hải Yến (2009), Tuyến điểm du lịch Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
CÁC TRANG WEB
www.haiphong.gov.vn
www.vi.wikipedia.org
www.dulichhaiphong.gov.vn
www. diemtinviet.com
www.diendankienthuc.net
BẢNG CÂU HỎI ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ SỬ DỤNG CÁC DỊCH VỤ DU LỊCH TẠI KHU DU LỊCH CÁT BÀ, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Để phục vụ nghiên cứu đề tài “Chính sách phát triển du lịch bền vững Khu
du lịch Cát Bà, thành phố Hải Phòng”, nhóm nghiên cứu mong muốn khảo sát nhu
cầu của quý anh/chị liên quan tới chính sách này. Các câu hỏi dưới đây chỉ nhằm
phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Rất mong sự hợp tác của quý anh/chị.
1. Anh/chị đến từ đâu:
2. Anh/chị bao nhiêu tuổi (đánh dấu X vào ô tương ứng)
Dưới 31-35 36-40 41-45 46-50 51-55 56-60 Trên 60
31
3. Giới tính (đánh dấu X vào ô tương ứng): 97
Nam Nữ
4.Dân tộc (đánh dấu X vào ô tương ứng):
Dân tộc kinh Dân tộc thiểu số
5. Tôn giáo (đánh dấu X vào ô tương ứng):
Không Khác
Bạn bè
Đồng nghiệp
6. Đây là lần thứ bao nhiêu anh/chị đến Cát Bà: 7.Anh/chị thường đi du lịch với ai?
Gia đình
Người yêu
Một mình
Khác ………………………………………
8. Mục đích của anh/chị đến đây là
Du lịch thuần túy Thăm người thân Công tác Học tập Dự hội nghị Lý do khác (ghi rõ)………………….
9. Anh/chị thường lưu lại Cát Bà bao lâu?
......................................................................................................................................
10. Anh/chị biết đến Khu du lịch Cát Bà thông qua kênh thông tin nào? (đánh dấu x
vào ô tương ứng)
Báo, tạp chí
98
Ti vi
Radio
Bạn bè, người thân, đồng nghiệp
Tờ rơi
Đại lý du lịch
Internet
Sách hướng dẫn du lịch
11. Anh/chị vui lòng có biết đánh giá của mình về các hoạt động du lịch tại Khu
du lịch Cát Bà
Rất Rất hài Hài Không hài Ý kiến Dịch vụ không hài lòng lòng lòng khác lòng
Toàn chuyên đi
Phong cảnh
Môi trường
Quà lưu niệm
Giao thông
Dich vụ giải trí, thể thao
Món ăn
Phong ngủ
Chất lượng của nhân viên
Các tour du lịch
Môi trường an ninh
Sự thân thiện của cư dân
12. Anh/chị hãy sắp xếp các loại hình du lịch sau đây tại Khu du lịch Cát Bà theo
thứ tự ưu tiên từ thấp đến cao?
Chỉ tiêu
99
Tham quan làng nghề
Du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Cát Bà
Tham gia các họat động thường nhật của người địa phương (câu cá, thẻ mực,…)
Tham gia các lễ hội truyền thống
Tham quan các thắng cảnh thiên nhiên
Mua sắm hàng lưu niệm
Họat động khác (ghi rõ)…….....................................
13. Anh/chị có đề nghị gì để phát triển du lịch nơi đây? ......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
CẢM ƠN VÌ SỰ HỢP TÁC CỦA ANH/CHỊ
DANH MỤC BẢNG
Tên bảng Trang Bảng
2.1 Bảng 2.1.Thống kê cơ sở vật chất trong phục vụ du lịch giai đoạn 45
2009 - 2015
2.2. Bảng 2.2. Cơ cấu các ngành kinh tế của huyện Cát Hải 50
giai đoạn 2009- 2015
100
2.3 Bảng 2.3: Thống kê kết quả hoạt động kinh doanh du lịch Cát 51
Bà giai đoạn 2009 - 2015
Bảng 2.4. Thống kê số lượng khách du lịch thành phố Hải Phòng giai đoạn 2009 – 2015
Bảng 2.5. Thống kế số thu ngân sách từ du lịch giai đoạn 2009 – 2015
2.4 52
2.5 56
60
2.6 Bảng 2.6 Bảng tổng hợp điều tra về mức độ hài lòng của khách du lịch đối với các dịch vụ du lịch Cát Bà (%)
2.7 Biểu 2.7. Số liệu so sánh về du lịch Cát Bà và du lịch Hạ Long 61
giai đoạn 2009 – 2015
2.8 Bảng 2.8. Thống kê tổng số lượng khách du lịch 62
qua các tháng giai đoạn 2009 - 2015
2.9 Bảng 2.9: Thống kê tổng số lượng khách quốc tế qua các 64
thánggiai đoạn 2009 - 2015
2.10 Bảng 2.10: Thống kê tổng số lượng khách trong nước qua các 65
tháng giai đoạn 2009 - 2015
2.11 Bảng 2.11: Bảng giá vé tàu, xe tuyến Cát Bà - Hải Phòng và 67
ngược lại
68
2.12. Bảng 2.12: Bảng so sáng độ dài, chi phí và thời gian hành trình từ Hà Nội đi một số điểm trung tâm du lịch và Cát Bà
DANH MỤC HÌNH
Hình Tên hình Trang
1.1 Hình 1.1. Quan niệm về phát triển bền vững 18
1.2 Hình 1.2. Tam giác mục tiêu phát triển du lịch bền vững 25
101
2.1 Hình 2.1. Biểu đồ cơ cấu độ tuổi lao động du lịch Cát Bà 44
2.2 Hình 2.2. Tỷ trọng bình quân GDP các ngành kinh tế 50
huyện Cát Hải giai đoạn 2009 – 2015
2.3 Biểu đồ 2.3. Biểu đồ cơ cấu trình độ lao động du lịch Cát Bà 58
và du lịch Hạ Long giai đoạn 2009 - 2015
2.5 Hình 2.4. Biểu đồ so sánh số lượng khách du lịch Cát Bà 61
giai đoạn 2009 - 2015
2.6 Hình 2.5: Biểu đồ so sánh doanh thu từ du lịch Cát Bà và du lịch Hạ Long 61
2.7 Hình 2.6. Đồ thị biểu diễn tổng số lượng khách du lịch đến Cát 63
Bà qua các tháng giai đoạn 2009 – 2015
2.8 Hình 2.7. Đồ thị biểu diễn lượng khách du lịch quốc tế đến Cát 64
Bà giai đoạn 2009 – 2015
2.9 Hình 2.8 .Đồ thị biểu diễn lượng khách du lịch trong nước đến 66
102
Cát Bà qua các tháng giai đoạn 2009 - 2015