ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
TRẦN THỊ THU HÀ
DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN TUÂN
TRONG CHƢƠNG TRÌNH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THEO HƢỚNG TIẾP CẬN LIÊN VĂN BẢN
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN
HÀ NỘI – 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
TRẦN THỊ THU HÀ
DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN TUÂN
TRONG CHƢƠNG TRÌNH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THEO HƢỚNG TIẾP CẬN LIÊN VĂN BẢN
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC (BỘ MÔN NGỮ VĂN) MÃ SỐ: 8 14 01 11
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Khánh Thành
HÀ NỘI – 2018
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tác giả xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình,
tâm huyết của các thầy cô giáo, cán bộ đang công tác và giảng dạy tại trường
Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện tốt nhất cho tác
giả được học tập, được nghiên cứu mở mang kiến thức, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS. Trần Khánh Thành, người
thầy đã thắp lên trong tác giả ngọn lửa say mê nghiên cứu khoa học, tận tình
hướng dẫn tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu, hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các đồng nghiệp và các em học
sinh trường THPT Nguyễn Huệ - TP Nam Định đã tạo điều kiện, nhiệt tình
giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và thực nghiệm đề tài.
Qua đây, tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn gia đình, người thân và các
bạn lớp cao học LL&PPDH Ngữ văn (2015-2017) đã dành cho tác giả sự
quan tâm khích lệ, động viên trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Mặc dù đã cố gắng, nhưng luận văn khó tránh khỏi thiếu sót. Tác giả
rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu từ phía thầy cô giáo và các bạn
đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2017
Tác giả
Trần Thị Thu Hà
- i -
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Viết tắt Chữ viết đầy đủ
1. BGH Ban giám hiệu
2. CNXH Chủ nghĩa xã hội
3. ĐC Đối chứng
4. GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
5. GV Giáo viên
6. HS Học sinh
7. KHXH&NV Khoa học xã hội và nhân văn
8. LL&PPDH Lí luận và phương pháp dạy học
9. LVB Liên văn bản
10. Nxb Nhà xuất bản
11. PGS Phó giáo sư
12. PPDH Phương pháp dạy học
13. THPT Trung học phổ thông
14. TN Thực nghiệm
15. TPVH Tác phẩm văn học
16. TP Thành phố
17. TS Tiến sĩ
18. XHCN Xã hội chủ nghĩa
- ii -
MỤC LỤC
Lời cảm ơn ......................................................................................................... i Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt.............................................................. ii Mục lục ............................................................................................................. iii Danh mục các bảng ........................................................................................... v Danh mục các biểu đồ ...................................................................................... vi MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 8 6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 8 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ............. 9 1.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................. 9 1.1.1. Khái niệm liên văn bản ........................................................................... 9 1.1.2. Liên văn bản từ quan niệm kinh điển đến hậu hiện đại ........................ 11 1.1.3. Quan hệ liên văn bản và nhiệm vụ liên văn bản ................................... 13 1.1.4. Dạy học văn theo hướng tiếp cận liên văn bản ..................................... 15 1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 18 1.2.1. Vài nét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân và các tác phẩm của Nguyễn Tuân được dạy trong chương trình THPT ......................................... 18 1.2.2. Khảo sát thực trạng dạy học văn nói chung và dạy tác phẩm Chữ người tử tù, Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân nói riêng ............................... 28 CHƢƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN TUÂN TRONG CHƢƠNG TRÌNH THPT THEO HƢỚNG TIẾP CẬN LIÊN VĂN BẢN ........................................................................ 36 2.1. Định hướng dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong chương trình THPT theo hướng tiếp cận liên văn bản ......................................................... 36 2.1.1. Dạy học tác phẩm trong thế liên văn bản với thời đại, bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh sáng tác........................................................................................... 36 2.1.2. Dạy học tác phẩm trong thế liên văn bản với mã văn hóa trong tác phẩm ......................................................................................................................... 38 2.1.3. Dạy học tác phẩm trong sự liên văn bản với văn bản văn học, văn bản thuộc các loại hình sáng tác khác .................................................................... 48 2.1.4. Sự pha trộn thể loại ở các sáng tác của Nguyễn Tuân trong chương trình THPT ............................................................................................................... 63 2.2. Đề xuất các giải pháp dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân theo hướng tiếp cận liên văn bản ............................................................................ 71 2.2.1. Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc hiểu sáng tạo ............................ 71 2.2.2. Phương pháp hướng dẫn học sinh so sánh, đối chiếu .................. ........73 2.2.3. Phương pháp nêu vấn đề ....................................................................... 75
- iii -
2.2.4. Phương pháp thảo luận nhóm................................................................ 78 2.2.5. Phương pháp trực quan ......................................................................... 81 2.2.6. Phương pháp dạy học theo dự án .......................................................... 82 CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ............................................... 85 3.1. Mục đích, nhiệm vụ thực nghiệm ............................................................ 85 3.2. Thời gian, đối tượng, địa bàn thực nghiệm .............................................. 85 3.3. Tiến trình thực nghiệm ............................................................................. 86 3.3.1. Nội dung thực nghiệm ........................................................................... 86 3.3.2. Tổ chức thực nghiệm............................................................................. 86 3.3.3. Thiết kế dạy học .................................................................................... 87 3.4. Kết quả thực nghiệm .............................................................................. 104 3.4.1. Tiến hành kiểm tra .............................................................................. 104 3.4.2. Kết quả kiểm tra .................................................................................. 105 3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm ............................................................... 106 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................. 109 1. Kết luận ..................................................................................................... 109 2. Khuyến nghị .............................................................................................. 110 Danh mục các công trình khoa học đã công bố của tác giả có liên quan đến luận văn ......................................................................................................... 111 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 112 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 115
- iv -
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Thông tin về các lớp thực nghiệm và lớp đối chứng..........................86
Bảng 3.2. Tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm 12A2
và lớp đối chứng 12A6.........................................................................................105
Bảng 3.3. Tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm 12A3
và lớp đối chứng 12A4.........................................................................................105
- v -
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Biểu đồ so sánh kết quả kiểm tra lớp 12A6 và 12A2……....106
Biểu đồ 3.2. Biểu đồ so sánh kết quả kiểm tra lớp 12A4 và 12A3……....106
- vi -
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong những năm gần đây, thực tế dạy học Văn nhất là ở các
trường trung học phổ thông, vai trò hành dụng của môn Ngữ văn với tư cách
là môn học công cụ chưa phát huy đúng mức, khả năng vận dụng tri thức của
học sinh còn nhiều hạn chế, chưa khơi dậy khả năng sáng tạo của học sinh.
Điều đó dẫn đến một thực trạng đáng buồn, học sinh tỏ ra thờ ơ với việc học
văn, không nhận thấy tầm quan trọng của môn học này trong cuộc sống, đây
là điều mà những nhà giáo dục không khỏi băn khoăn, trăn trở. Môn Ngữ văn
vừa là một môn khoa học vừa là một môn nghệ thuật. Để cảm thụ và hiểu tác
phẩm văn chương thì người đọc cần có những hiểu biết nhất định về văn hóa,
văn học, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội đặc biệt tri thức văn hóa - tri thức
nền tảng sẽ là cơ sở để người đọc tự mình khám phá tác phẩm, đến với hình
tượng văn học, với thế giới nghệ thuật của nhà văn. Do vậy, việc cần thiết với
mỗi nhà giáo dục hiện nay là cần cung cấp tri thức nền tảng, tri thức công cụ,
tri thức phương pháp để các em có khả năng tự học, tự đọc, tự sáng tạo.
1.2. Bước sang thế kỉ XX, đời sống văn học phương Tây trở nên phong
phú đa dạng với nhiều trường phái lý thuyết. Sự ra đời của khái niệm về văn
bản được đã làm thay đổi quan niệm của các nhà nghiên cứu về tác phẩm văn
học, cấu trúc tác phẩm, về vị trí của tác giả văn học. Nửa cuối thế kỉ XX, khái
niệm tính liên văn bản gắn với tên tuổi các nhà nghiên cứu F.Saussure,
Bakhtin, đặc biệt là Julia Kristeva đã trở thành mối quan tâm của nhiều nhà lí
luận trên thế giới. Việc nghiên cứu lý thuyết văn học phương Tây ở Việt Nam
đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong đó có lí thuyết liên văn bản. Các
vấn đề lý luận mà trước thời kì đổi mới bị lãng quên nay được các nhà nghiên
cứu xem xét lại một cách khách quan và khoa học. Tuy nhiên, những thành
tựu đó lại chưa thật sự được vận dụng phổ biến vào dạy học Ngữ văn trong
chương trình phổ thông. Nhiều giáo viên vận dụng lý thuyết liên văn bản một
cách tự phát mà không biết mình đang vận dụng nên chưa phát huy hết hiệu
- 1 -
quả của việc dạy học Ngữ văn theo hướng tiếp cận liên văn bản. Trong khi đó,
thực tế cho thấy người giáo viên Ngữ văn muốn học sinh yêu mến môn học
của mình trước hết cần khơi gợi ở các em khát khao khám phá, sáng tạo, mở
rộng tầm hiểu biết ở nhiều lĩnh vực, dạy học theo hướng tiếp cận liên văn bản
sẽ là một trong những hướng khả thi nhất.
1.3. Nguyễn Tuân là một tác giả văn học lớn được học trong chương
trình phổ thông, tác phẩm của ông được học xuyên suốt từ lớp 11 đến lớp 12.
Ông bước vào nghề văn như để chơi ngông với thiên hạ và cũng là một nhà
văn nổi tiếng bởi phong cách tài hoa uyên bác, đề cao tuyệt đối cái thật, cái
đẹp trong cuộc sống. Tác phẩm của ông luôn hấp dẫn bạn đọc bởi cách kể
chuyện, cách xây dựng hình tượng nghệ thuật, cách sử dụng ngôn ngữ độc
đáo. Đặc biệt, Nguyễn Tuân luôn có ý thức liên văn bản trong các sáng tác
của mình, các tác phẩm của ông luôn thấm đẫm chất văn hóa, đem đến cho
người đọc những rung cảm thẩm mỹ, những tri thức uyên bác. Truyện ngắn
Chữ người tử tù, tùy bút Người lái đò Sông Đà là hai trong những tác phẩm
xuất sắc chứa nhiều tri thức văn hóa, liên văn bản tiêu biểu cho phong cách
Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Từ những lí do trên cùng với việc việc khảo sát sơ bộ các công trình
nghiên cứu, bài viết của các tác giả về các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong
nhà trường, chúng tôi chúng tôi mạnh dạn khai thác đề tài: Dạy học các tác
phẩm của Nguyễn Tuân trong chƣơng trình Trung học phổ thông theo
hƣớng tiếp cận liên văn bản, hi vọng đề tài góp phần phát huy tính tích cực
và tạo hứng thú yêu thích môn Văn ở học sinh.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu việc giảng dạy tác phẩm của Nguyễn Tuân
Là một trí thức Tây học song trên trang viết của Nguyễn Tuân người ta
nhận thấy ở ông có một sự giao thoa giữa tính thời sự của hiện đại và chất cổ
kính của quá khứ. Đến với các tác phẩm của Nguyễn Tuân người đọc như
được bước vào viện bảo tàng của cái đẹp. Việc nghiên cứu về Nguyễn Tuân
- 2 -
và các tác phẩm của ông đã xuất hiện tương đối nhiều. Ở đây, chúng tôi chỉ
xin phép điểm đến những tài liệu chúng tôi sử dụng để nghiên cứu đề tài này:
Người có công đầu trước hết phải kể đến trước hết là Nguyễn Đăng
Mạnh. Trong Giáo trình Văn học Việt Nam 1945 - 1975, cuộc đời và sự
nghiệp Nguyễn Tuân được trình bày một cách hệ thống, khoa học.
Nhà văn Hà Văn Đức, tác giả Chương XXII: Nguyễn Tuân trong Giáo
trình Văn học Việt Nam 1900 - 1945, đã đánh giá Nguyễn Tuân ở nhiều góc
nhìn, nhiều hướng tiếp cận, đặc biệt quan tâm đến những yếu tố tích cực và
tiến bộ trong sáng tác Nguyễn Tuân trước cách mạng [13].
Tác giả Hoài Anh trong Nguyễn Tuân - về tác gia, tác phẩm nhìn
Nguyễn Tuân “một nghệ sĩ đi tìm cái Đẹp”, “chính sự tìm về những nét đẹp
của dân tộc ấy, đã khiến Nguyễn Tuân trở về với lòng Dân tộc, với Quê
hương” [25, tr.188].
Năm 2007, tác giả Bùi Thị Anh Chung giới thiệu luận văn Phong cách
Nguyễn Tuân qua Tuỳ bút Kháng chiến. Sau khi khảo sát vấn đề phong cách
nhà văn, đặc trưng của thể tài tuỳ bút, Bùi Thị Anh Chung đã xây dựng hệ
thống các luận điểm về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân [12].
Luận án tiến sĩ Ngô Minh Hiền - Viện Văn học với đề tài Văn xuôi
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hoá (2009) đã chỉ
ra tầng sâu các giá trị văn hoá trong văn xuôi Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ
Ngọc Tường [16].
Đứng về góc độ phương pháp dạy học, đã có đề tài nghiên cứu cách
dạy học tùy bút sông Đà như: Luận văn thạc sĩ Phạm Thị Thu Thủy Thể kí và
việc giảng dạy thể kí ở nhà trường phổ thông (Đại học sư phạm TP Hồ Chí
Minh, 2009); Luận văn thạc sĩ Đinh Thị Phương Thảo Giảng dạy tác phẩm kí
trong nhà trường phổ thông qua Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân và
Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường (Đại học Giáo dục -
Đại học quốc gia Hà Nội, 2010); Luận văn thạc sĩ Trần Thị Anh Đào Dạy học
tác phẩm kí trong chương trình Ngữ Văn 12, trung học phổ thông theo phong
- 3 -
cách nghệ thuật tác giả (2012); Luận văn thạc sĩ Nguyễn Quang Bình (Đại
học Giáo dục - Đại học quốc gia Hà Nội, 2014) Vận dụng quan điểm tiếp cận
đồng bộ tác phẩm văn chương vào dạy tùy bút Người lái đò Sông Đà của
Nguyễn Tuân nhằm đưa ra một cách tiếp cận khi dạy tác phẩm kí ở nhà
trường phổ thông. Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu tác phẩm theo
hướng tiếp cận liên văn bản.
Với tác phẩm Chữ người tử tù là một trong những truyện ngắn xuất sắc,
tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, cũng có
nhiều công trình nghiên cứu như: Tác giả Văn Tâm trong bài viết Về truyện
ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân tập trung khai thác tác phẩm trên
phương diện tinh thần dân tộc ở các khía cạnh: Bậc thầy ngôn ngữ, thái độ
luyến tiếc quá khứ, trân trọng ngôn ngữ dân tộc...[34, tr.381]. Tác giả Hà Bình
Trị với bài viết Thầy chữ Nguyễn Tuân [38, tr.408] ngợi ca nghệ thuật sử
dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Tuân.
Luận văn thạc sĩ của một số tác giả cũng đi vào nghiên cứu tác phẩm
này như: Luận văn Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân cho học sinh lớp 11 của tác giả Trần Thị Hồng Bắc (Luận văn
thạc sĩ - Đại học Giáo dục - Đại học quốc gia Hà Nội) nhằm giúp học sinh
hiểu được cái hay của tác phẩm Chữ người tử tù từ tầng cấu trúc ngôn từ đến
tầng cấu trúc hình tượng nghệ thuật cũng như tầng cấu trúc vị nhân sinh thông
qua các kĩ năng đọc chính xác, đọc phân tích, đọc sáng tạo và kĩ năng đọc tích
lũy. Bước đầu học sinh được rèn luyện kĩ năng đọc hiểu tác phẩm văn chương.
Luận văn Hướng dẫn học sinh trung học phổ thông đọc hiểu văn bản
Chữ người tử tù theo đặc trưng thi pháp chủ nghĩa lãng mạn của tác giả Bùi
Thị Hạnh Châm (Luận văn thạc sĩ đại học Giáo dục - Đại học quốc gia Hà
Nội) nhằm đề xuất phương pháp học cụ thể thích hợp khi đọc hiểu văn bản
này theo đặc trưng thi pháp chủ nghĩa lãng mạn. Ngoài ra, còn có luận văn
của Trần Quốc Khả với đề tài: Tổ chức đối thoại trong dạy học Chữ người tử
tù (Luận văn thạc sĩ - Đại học Giáo dục - Đại học quốc gia Hà Nội); Luận văn
- 4 -
Xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề trong dạy học tác phẩm văn xuôi lãng
mạn 1930-1945 cho học sinh lớp 11 của học viên Nguyễn Thị Loan (Đại học
Giáo dục - Đại học quốc gia Hà Nội)...tiếp cận văn bản này ở các hướng khác
nhau.
Qua khảo sát sơ bộ, chúng tôi thấy có nhiều công trình nghiên cứu về
Nguyễn Tuân và các tác phẩm của ông trong nhà trường, các bài viết đều có
một cái nhìn khá sâu sắc về tác giả hay về một vấn đề, khía cạnh của tác
phẩm, nhưng chưa có đề tài nào bàn cụ thể dạy học tác phẩm của Nguyễn
Tuân theo hướng tiếp cận liên văn bản. Do đó, những tài liệu trên đây sẽ là cơ
sở quan trọng để chúng tôi triển khai đề tài này.
2.2. Những nghiên cứu văn học và dạy học tác phẩm văn học theo lý thuyết
liên văn bản
Trong hơn hai chục năm gần đây, lí thuyết liên văn bản đã từng bước
được giới thiệu ở Việt Nam cùng với cấu trúc luận, giải cấu trúc và hậu hiện
đại. Trước hết là những bài viết của Hoàng Trinh tập tiểu luận Ký hiệu, nghĩa
và phê bình văn học (1993), tiếp đến là một số bài viết của Trần Đình Sử giới
thiệu về những cống hiến của M.Bakhtin và tính đối thoại và phức điệu trong
tiểu thuyết (in trong tập tiểu luận Lí luận và phê bình văn học, 1996). Đỗ Đức
Hiểu trong Thi pháp hiện đại (2000) đã đề cập khá trực tiếp về liên văn bản.
Những công trình dịch thuật về liên văn hiện bản: Các khái niệm và
thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ
XX (I.P Ilin và E.A Tzurganova chủ biên) nhóm tác giả Đào Tuấn Ảnh - Trần
Hồng Vân - Lại Nguyên Ân dịch năm 2003, Bản mệnh của lí thuyết - Văn
chương và sự cảm nghĩ thông thường của Antoine Compagnon (Lê Hồng Sâm
và Đặng Anh Đào dịch năm 2006), Liên văn bản - sự xuất hiện của khái niệm
về lịch sử và lý thuyết của vấn đề của L.P.Rjanskaya (Ngân Xuyên dịch, năm
2007), công trình Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại của Liviu Petrescu (Lê
Nguyên Cẩn dịch 2013) Văn bản - Liên văn bản - Lý thuyết liên văn bản của
G.K. Kosikov (Lã Nguyên dịch 2017)...
- 5 -
Cụ thể và có hệ thống nhất là bài viết của Nguyễn Minh Quân như Liên
văn bản - sự triển hạn đến vô cùng của tác phẩm văn học (2001); Nguyễn
Nam Điểm qua mấy hướng tiếp cận liên văn bản ở nước ngoài (2011); Các
bài tiểu luận của Nguyễn Văn Thuấn: Tiếp cận thể loại từ góc độ liên văn
bản: Chủ nghĩa hình thức Nga - Mikhail Bakhtin - Gerard Genette (2012);
Dẫn luận ngắn về lý thuyết liên văn bản (2013), gần đây là bài viết của Lê
Huy Bắc Liên văn bản hay tiếp nhận của tiếp nhận (2015).
Các bài viết nghiên cứu trường hợp cụ thể: Liên văn bản trong Cây đàn
ghita của Lorca (Lê Huy Bắc); Yếu tố liên văn bản trong tiểu thuyết lịch sử
Giàn thiêu của Võ Thị Hảo (Nguyễn Văn Hùng); Liên văn bản trong tiểu
thuyết Chân dung cát của Inrasara (Nguyễn Thị Quỳnh Hương); Các hình
thức liên văn bản trong tiểu thuyết của Pau Auster của Nguyễn Thị Thanh
Hiếu, tác giả Lê Thị Thúy Hằng Nguyên lý đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam
từ 1986 đến 2016 (Luận án tiến sĩ ngành Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam-
Trường Đại học Khoa học - Đại học Huế); Truyện ngắn Hồ Anh Thái từ góc
nhìn liên văn bản của Nguyễn Văn Thành (Luận văn thạc sĩ KHXH&NV tại Đại
học Đà Nẵng, năm 2013); Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Thuấn với đề tài
Liên văn bản trong sáng tác của nguyễn Huy Thiệp (Học viện Khoa học Xã
hội-Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 2013); Luận văn thạc sĩ của Đỗ
Thị Vui với đề tài Dạy học văn học trung đại - Ngữ văn 10 theo hướng liên
văn bản (Trường Đại học Giáo dục- Đại học Quốc gia Hà Nội- 2013). Luận
văn thạc sĩ Nguyễn Thị Châm Dạy học truyện ngắn sau 1975 theo hướng tiếp
cận liên văn bản (Trường Đại học Giáo dục- 2015); Đề tài: Vận dụng kĩ thuật
liên văn bản trong dạy đọc hiểu văn bản văn học ở trường trung học phổ
thông của tác giả Nguyễn Thị Hoa (Trường Đại học Vinh, 2014); Đề tài: Vận
dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học các tác phẩm thơ mới trong chương
trình Ngữ văn 11- THPT của Phạm Thị Bích Phượng (Trường Đại học Giáo
dục- 2015). Đặc biệt bài viết Về việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy
học Ngữ văn ở trường phổ thông của tác giả Phan Huy Dũng [38, tr.393-415]
- 6 -
đã đưa ra những định hướng vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy học
văn hiện nay.
Các bài nghiên cứu cùng các luận văn, luận án là minh chứng cho việc
vận dụng lý thuyết liên văn bản để nghiên cứu tác giả, tác phẩm đang thu hút
mạnh mẽ giới nghiên cứu phê bình văn học đương đại trong những năm gần
đây. Tiếp cận văn bản từ lí thuyết liên văn bản đã mở ra một hướng tiếp cận
mới, nó kích thích quá trình tìm hiểu khoa học và khám phá thế giới văn hóa
của người đọc, từ đó mở ra vỉa tầng giá trị mới cho tác phẩm văn chương. Từ
đó, chúng tôi có cơ sở để lựa chọn đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Đề xuất các biện pháp để dạy học các tác phẩm
của Nguyễn Tuân trong chương trình Ngữ văn THPT theo hướng tiếp cận liên
văn bản, nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề cơ sở lí luận của đề tài.
+ Tìm hiểu thực trạng dạy Chữ người tử tù, Người lái đò Sông Đà của
Nguyễn Tuân trong chương trình Ngữ văn THPT hiện nay.
+ Đề xuất biện pháp, phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận LVB.
+ Thiết kế giáo án, dạy thực nghiệm đoạn trích Người lái đò Sông Đà có
vận dụng các phương pháp, biện pháp cách thức theo hướng tiếp cận liên văn
bản để kiểm chứng tính khả thi của đề tài.
+ Đánh giá kết quả nghiên cứu qua thực nghiệm sư phạm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Việc dạy học tác phẩm Chữ người tử tù, Người
lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân trong chương trình Ngữ văn THPT theo
hướng tiếp cận liên văn bản.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong đề tài này, chúng tôi chỉ dừng lại ở một số
biện pháp tiếp cận LVB mà chúng tôi cho là có ưu thế với việc phát huy tính
tích cực, sáng tạo của HS trong giờ dạy học tác phẩm Chữ người tử tù, Người
- 7 -
lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân trong chương trình Ngữ văn lớp 11, lớp 12
THPT.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Trong nhóm phương pháp này
chúng tôi tập trung vào hai phương pháp chính: phương pháp phân tích và
tổng hợp lý thuyết, phương pháp nghiên cứu lịch sử. Chúng tôi nghiên cứu tài
liệu lý luận, các bài báo khoa học, luận án, luận văn... có liên quan đến đến lý
thuyết liên văn bản, tổng hợp rút ra các kết luận cần thiết phục vụ cho việc
nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp điều tra kết hợp thống kê: Thông qua GV và HS ở
trường THPT, chúng tôi thu thập, thống kê các thông tin ở lớp thực nghiệm và
đối chứng, sử dụng một số phương pháp như lập bảng, vẽ đồ thị, thống kê để
đánh giá kết quả thực nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm: Thực nghiệm những biện pháp, phương
pháp dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân theo hướng tiếp cận liên văn bản
thông qua các tiết dạy bài Người lái đò Sông Đà nhằm rèn luyện tính chủ
động, sáng tạo cho học sinh và so sánh kết quả thực nghiệm với kết quả thực
trạng ban đầu chưa thực nghiệm, để đo mức độ thành công của đề tài.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương.
CHƢƠNG 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
CHƢƠNG 2: Một số biện pháp dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân
trong chƣơng trình THPT theo hƣớng tiếp cận liên văn bản
CHƢƠNG 3: Thực nghiệm sƣ phạm
- 8 -
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Khái niệm liên văn bản
Liên văn bản là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong các
lý thuyết văn học thế giới từ nửa sau thế kỷ XX đến nay, có sức hấp dẫn đặc
biệt với các nhà nghiên cứu phê bình văn học trên thế giới và ở cả nước ta.
Đầu thế kỉ XX, khái niệm văn bản được phát hiện đã làm thay đổi hẳn quan
niệm về tác phẩm văn học, cấu trúc, vị trí và vai trò của tác giả và độc giả.
Nhưng đến nửa cuối thế kỉ XX, khái niệm tính LVB ra đời “thay đổi hẳn nội
hàm khái niệm văn bản để cuối cùng cả hai cơ hồ trở thành hai từ đồng
nghĩa: không có một văn bản nào không phải là một liên văn bản và ngược
lại, không có một liên văn bản nào không tồn tại như một văn bản...” [29].
Thuật ngữ tính liên văn bản (intertextuality) xuất hiện đầu tiên J.
Kristeva sử dụng trong một tham luận đọc tại xêmina do R. Barthes chủ trì
vào mùa thu năm 1966. Bài báo Bakhtin, lời nói, đối thoại và tiểu thuyết được
công bố sau đó (1967). Trong bài báo này, Kristeva đã đặt ra thuật ngữ tính
liên văn bản để thay thế cho quan niệm về tính đối thoại/tính liên chủ thể
(subjectivity/ intersubjectivity) của Mikhail Bakhtin. Đây không phải là sự
chuyển dịch ngôn ngữ mà là sự luận giải nguyên tắc đối thoại của Bakhtin
theo tinh thần giải cấu trúc (deconstruction). Kristeva cho rằng: “bất kì văn
bản nào cũng được cấu trúc như là sự ghép mảnh của các trích dẫn; bất kì
văn bản nào cũng là sự hấp thụ và chuyển đổi của các văn bản khác” [7,
tr.19]. Theo bà, một văn bản mới không phải là một khách thể mang tính cá
nhân, cô lập, tự trị mà là sản phẩm của một sự biên tập văn bản văn hóa - lịch
sử. Nói cách khác, không có văn bản tồn tại độc lập như một sự sáng tạo tuyệt
đối mà luôn luôn phải chịu sự tác động của văn bản văn hóa, trong đó chứa
đựng ít nhiều những cấu trúc ý thức hệ và quyền lực qua các hình thức diễn
- 9 -
ngôn khác nhau. Kristeva quy cho văn bản trong giới hạn của hai trục: trục
ngang kết nối giữa tác giả và người đọc văn bản, trục dọc kết nối giữa văn bản
với các văn bản khác.
Nhóm Tel Quel đứng đầu là Philippe Soller ủng hộ nhiệt tình lý thuyết
Kristeva song lại chỉ nhận được sự tiếp đón dè dặt của giới trí thức Pháp thời
kì đó. Người có công lớn đưa lý thuyết liên văn bản dần thâm nhập sâu vào
đời sống nghiên cứu văn học là R. Barthes. Theo R.Barthes “Mỗi văn bản là
một liên văn bản; những văn bản khác có mặt trong nó ở những cấp độ khác
nhau, giữa những hình thái ít nhiều nhận thấy được: những văn bản của văn
hóa trước đó và những văn bản của văn hóa thực tại chung quanh. Mỗi văn
bản đều như là một tấm vải mới được dệt bằng những trích dẫn cũ. Những
đoạn của các mã văn hóa, các định thức, các cấu trúc nhịp điệu, những mảnh
vụn biệt ngữ xã hội ... - tất cả đều bị văn bản ngốn nuốt và đều bị hòa trộn
trong văn bản, bởi vì trước văn bản và xung quanh nó bao giờ cũng tồn tại
ngôn ngữ” [18, tr.444 - 445]. Với lập luận trên, R.Barthes đưa lại cách nhìn
mới có tính nền tảng về văn bản, văn bản không bao giờ tồn tại độc lập, tự trị,
khép kín mà tồn tại trong không gian đa chiều, nơi có rất nhiều văn bản va
đập và xáo trộn vào nhau mà không một cái nào là gốc cả. Trong nhiều năm,
R. Barthes đã tiếp tục nghiên cứu phát triển một cách độc đáo những luận
điểm cơ bản của lý thuyết liên văn bản trong cuốn S/Z (1970), và tiểu luận, ví
như Từ tác phẩm đến văn bản (1971), Văn bản (lí luận văn bản) (1973),
Khoái cảm văn bản (1973). Từ đây lý thuyết liên văn bản đã thực sự được
giới phê bình quan tâm nghiên cứu. Tiếp sau đó có quan điểm của Michael
Riffaterre, G.Genette, Harold Bloom... đưa ra những cách nhìn khác về tính
liên văn bản, nhưng ở họ đều có điểm thống nhất khái niệm liên văn bản
giống R.Barthes về cơ bản, họ đều có nhận thức chung rằng bất kì văn bản
nào đều có mối quan hệ với văn bản khác ra đời trước đó.
Dựa vào những khái niệm trên, chúng tôi xin đưa ra quan niệm: Liên
văn bản là sự đồng hiện của hai hay nhiều văn bản trong một văn bản ra đời
- 10 -
trước đó hoặc cùng thời, được tác giả tạo lập bằng ý thức hoặc vô thức.
Người đọc tiếp nhận trong thực tiễn giao tiếp nghệ thuật bằng vốn sống trải
nghiệm và tri thức của bản thân họ, từ đó các giá trị văn hóa sẽ không ngừng
nảy sinh từ văn bản.
1.1.2. Liên văn bản từ quan niệm kinh điển đến hậu hiện đại
Tính liên văn bản của văn bản có từ lâu, từ các loại hình nghệ thuật cổ
xưa, vì bản chất nghệ thuật không chỉ là mô phỏng đời sống mà còn mô
phỏng (tái tạo) từ văn bản này đến văn bản khác (từ văn bản thể loại này văn
bản sang thể loại khác, từ loại hình nghệ thuật này sang loại hình nghệ thuật
khác). Trên thực tế, có nhiều mối liên hệ trực tiếp giữa văn bản này với một
hay nhiều văn bản khác trên những bình diện khác nhau. Trong thời kỳ trung
đại việc sử dụng điển cố, vay mượn cốt truyện, sử dụng lại các motif khá phổ
biến. Vì vậy, khi lưu hành văn bản văn học cho hậu thế người ta phải chú giải
rất nhiều về các điển cố, giải mã các biểu tượng văn hóa và hình thành một
công việc khảo cứu trong nghiên cứu văn học.
Từ thực tế của tính liên văn bản đã hình thành một số hướng nghiên cứu
như: nghiên cứu ảnh hưởng (influence study), nghiên cứu cội nguồn (source
study), nghiên cứu so sánh (comparative study). Các hướng nghiên cứu này
có tham vọng chỉ ra văn bản gốc có ảnh hưởng/dính líu đến các văn bản khác,
từ đó tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa các văn bản.
Thuật ngữ tính liên văn bản được đặt ra trong bối cảnh cấu trúc luận
(structuralism) đang bị đả phá tại Pháp vào nửa cuối những năm sáu mươi của
thế kỷ XX. Những nhà nghiên cứu văn học như Derrida, Roland Barthes,
Micheal Foucault, Philippe Sollers chống lại tư tưởng cấu trúc luận, phủ nhận
sự biểu nghĩa ổn định của cấu trúc. Họ cho rằng, cái được biểu đạt thực chất
cũng là cái biểu đạt và họ đề nghị một cấu trúc mới: cái biểu đạt/cái biểu đạt.
Trở lại quan niệm của F.Saussure về kí hiệu ngôn ngữ, ông cho rằng
mỗi kí hiệu ngôn ngữ có hai mặt không thể tách rời, đó là cái biểu đạt và cái
được biểu đạt. Cái biểu đạt là hình ảnh - âm thanh, cái được biểu đạt là khái
- 11 -
niệm của kí hiệu. Cái được biểu đạt không phải là “sự vật” mà chỉ là quan
niệm của chúng ta về sự vật. Như vậy, sự quy chiếu kí hiệu ngôn ngữ với thực
tại chỉ là ảo tưởng của người đọc. Sự quy chiếu của kí hiệu ngôn ngữ hướng
tới hệ thống ngôn ngữ chứ không phải hướng tới thế giới sự vật bên ngoài.
Michael Riffaterre đã phát triển luận điểm này trong đọc văn bản. Khi đọc
văn bản văn học, bạn đọc trước hết cần phải “vượt qua chướng ngại mô
phỏng”, vượt qua giai đoạn đối chiếu ngôn từ và sự vật để bước vào chặng
thứ hai: “đọc theo tinh thần phát hiện”, khám phá những đơn vị kí hiệu và
những cấu trúc cô đúc sản sinh ý nghĩa và chủ đề của văn bản theo cách thức
phi tuyến tính, phi quy chiếu [36]. Theo đó, “ngôn từ thơ được xác lập giữa từ
và văn bản, hay giữa văn bản này với văn bản khác”, tức là đọc một văn bản
thơ, người đọc cần phải cảm nhận bằng những kiến thức vốn có về văn bản,
đồng thời phải thấy được mối liên hệ giữa văn bản ấy với những văn bản ra
đời trước, cùng thời và thậm chí sau nó. Theo hệ quy chiếu này, mỗi văn bản
đều chịu sự chi phối của vũ trụ gồm nhiều văn bản khác và khi đọc văn bản
cần đặt nó trong mạng lưới rộng lớn của nhiều văn hóa để nhận diện nó như là
kết quả của một quá trình tương tác.
Như vậy quan niệm truyền thống, liên văn bản được hiểu như là một
thủ pháp nghệ thuật văn học xác định: trích dẫn, ám chỉ, bình giải, nhại, bắt
chước, vay mượn. Nghĩa là, từ văn bản gốc và xu hướng sử dụng văn bản gốc,
sẽ có các liên văn bản. Theo quan niệm của các nhà hậu hiện đại, liên văn bản
được hiểu như một thuộc tính bản thể của mọi văn bản “bất kỳ văn bản nào
cũng là liên văn bản” (R. Barthes), là sự xóa nhòa ranh giới giữa các văn bản
của các tác giả riêng rẽ, giữa văn bản văn học cá nhân và văn bản vĩ mô của
truyền thống, giữa các văn bản thuộc các thể loại và loại hình khác nhau, giữa
văn bản và độc giả, và cuối cùng, giữa các văn bản và hiện thực. Như vậy,
liên văn bản mô tả không phải hiện tượng văn học, mà một quy luật khách
quan nào đấy của sự tồn tại của loài người nói chung.
- 12 -
1.1.3. Quan hệ liên văn bản và nhiệm vụ liên văn bản
* Những kiểu tương tác chủ yếu của quan hệ liên văn bản
Như đã trình bày ở trên, thực chất lí thuyết liên văn bản là lý giải về
đặc trưng của văn bản mà trọng tâm là các mối quan hệ của văn bản. Không
có văn bản nào tồn tại độc lập, tự trị, mỗi văn bản đều là hệ quả của những
quan hệ, tồn tại trong quan hệ với mạng lưới văn bản rộng lớn. Tùy thuộc vào
quan điểm và hướng tiếp cận mà các nhà nghiên cứu đưa ra những kiểu quan
hệ khác nhau. Có hai hướng tiếp cận tiêu biểu về tính liên văn bản là hướng
tiếp cận từ cấu trúc luận và hướng tiếp cận từ giải cấu trúc.
Kế thừa những thành tựu của cấu trúc luận, nhà nghiên cứu người Pháp
G.Genette trong cuốn Palimpsestes (Văn học bậc nhì - 1982), ông đề cập đến
khái niệm xuyên văn bản gồm 5 kiểu tương tác sau:
- Intertextualité (liên văn bản) - sự cùng hiện diện trong một văn bản
của hai hay nhiều văn (trích dẫn, điển tích, đạo văn…)
- Paratextualité (cận văn bản) như là quan hệ giữa văn bản với phụ đề,
lời nói đầu, đề bạt, đề từ…
- Métatextualité (siêu văn bản) như sự chú giải hoặc viện dẫn văn bản
trước đó một cách có phê phán.
- Architextualité (kiến trúc văn bản) được hiểu như mối quan hệ thể
loại giữa các văn bản. Kiến trúc văn bản không chỉ liên quan đến “tầm đón
đợi” về mặt thể loại của độc giả khi tiếp xúc với văn bản mà còn liên quan
đến hành vi sáng tạo văn bản của nhà văn. Chính Genette cũng lưu ý là bản
thân kiến trúc văn bản không phải là những “phạm trù riêng biệt và thuần
túy” mà là “sự va chạm, tương tác và chồng lấn lên nhau” giữa các thể loại
- Hypertextualité (ngoa dụ văn bản): như sự cười cợt hay giễu nhại của
văn bản này đối với văn bản khác [1].
Liên văn bản có ba hình thức biểu hiện là: trích dẫn, đạo văn, và ám
chỉ. Trong đó trích dẫn, đạo văn là phân biệt cùng một hình thức đó là sự vay
mượn câu chữ của một văn bản có sẵn để kiến tạo một sản phẩm mới mang ý
- 13 -
đồ hoàn toàn mới. Tuy trung thành với chủ nghĩa cấu trúc nhưng ông đã có
cách nhìn mới. Theo ông liên văn bản là quan hệ xác thực, có ý thức, có kiểm
chứng, có chủ ý của tác giả.
Roland Barthes với hướng tiếp cận từ hậu cấu trúc đã chỉ ra những đặc
điểm cơ bản của văn bản như: sự đa bội, phi trung tâm, phi tầng bậc, phi cấu
trúc, tính đa nguyên, đa trị, tính phân mảnh, phi tuyến tính, phi hoàn kết…
Như vậy văn bản hậu cấu trúc là tổ hợp các yếu tố không đồng nhất
được gắn kết không hẳn bằng các quan hệ ẩn dụ và nhân quả mà chủ yếu bằng
các quan hệ hoán dụ, được đan bện bằng vô số mã văn hóa. Theo Barthes, mã
văn hóa là “viễn tưởng của những những trích dẫn, là ảo ảnh được đan dệt từ
các cấu trúc”; “các đơn vị được chúng tạo thành chẳng phải là gì khác ngoài
những mảnh nhỏ của một cái gì đó đã được đọc, đã được thực hiện, đã được
trải nghiệm: mã là vết tích của những cái đã ấy” [19, tr.383].
* Các nhiệm vụ liên văn bản
Theo Laurent Jenny, trong bài Chiến lược của hình thức (1976), để
nghiên cứu lí thuyết về liên văn bản có ít nhất ba nhiệm vụ được đặt ra :
- Giới hạn chính đối tượng của lí thuyết liên văn bản, phát hiện các mối
liên hệ trực tiếp, hiển nhiên và có thể chứng minh giữa các văn bản có sự dịch
chuyển ít hay nhiều một văn bản này sang văn bản khác.
- Nghiên cứu bình diện quan hệ của lí thuyết liên văn bản - đó là “tổng
thể các quan hệ với những văn bản khác được tìm thấy bên trong văn bản”
(vấn đề văn bản trong văn bản);
- Nghiên cứu văn bản trong mối quan hệ với các văn bản khác, đây
không phải là sự cộng gộp hay đặt cạnh nhau một cách cơ học, mà là sự xử lí,
tinh chế tích cực thành một chỉnh thể thống nhất: tác phẩm - liên văn bản sẽ
kéo toàn bộ tập hợp các văn bản được nó hấp thụ vào một đầu mối ý nghĩa
thống nhất [19, tr.388].
Với tính liên văn bản, mọi văn bản đều trở thành bất quyết và bất định;
cái gọi là bản sắc văn bản cũng như những thẩm quyền vốn gắn liền với văn
- 14 -
bản từ xưa đến nay đều bị đặt thành nghi vấn. Văn bản hiện đại đã vượt ra
mọi định chế và quan niệm trước đây về văn bản. Nhờ có liên văn bản mà
trong mỗi văn bản lại có sự đồng hiện những yếu tố của các bản bản khác,
điều đó đã chi phối cấu trúc nội tại và ngoại tại của văn bản văn học. Bản ngã
tác giả hòa trộn phức hợp khó có sự phân biệt rạch ròi, và không tồn tại một
tác giả cố định cho một văn bản nhất định, về bản chất. Nếu như văn bản
truyền thống chỉ bó hẹp trong sách in, chủ yếu là một công trình ngôn ngữ với
sự kết hợp giữa các yếu tố từ vựng và một ít các yếu tố phi từ vựng, từ các
dấu câu đến cách trình bày trên trang giấy như cách ngắt dòng hay cách sắp
dòng, cách thức sáng tác... được quy định rõ ràng. Thì nay những quy định đó
sụp đổ: Ranh giới của các thể loại văn học và phi văn học, cũng như giữa các
thể loại văn học với nhau trở nên mờ nhòa. Sự xâm lấn giữa hình thức văn
xuôi và thơ, giữa tự sự với trữ tình, giữa đặc tính của tự sự, miêu tả, biểu cảm,
nghị luận... ngày càng phổ biến.
Văn bản này được tạo sinh từ ngữ cảnh của các văn bản kia và đồng
thời cũng trở thành ngữ cảnh cho các văn bản khác làm cơ sở kiến trúc hay
diễn dịch do đó văn bản có tính đa tầng. Đồng thời vì khả năng liên văn bản
của nó phụ thuộc những yếu tố bên trong và bên ngoài nên văn bản luôn dang
dở, luôn tồn tại các khoảng không cần được bổ sung giá trị bằng phản ứng của
việc các văn bản hòa trộn và lúc ý thức liên văn bản vận hành trong người viết
lẫn người đọc. Do đó, văn bản luôn vận động, tiềm năng về nghĩa của văn bản
liên tục phát sinh, luôn di chuyển phức hợp xung quanh khoảng trống, bên
dưới mạch ngầm và tràn phủ trong không gian của các kết nối văn bản khác,
sản sinh ra những hệ giá trị mới, thậm chí cả những kiểu văn bản mới.
1.1.4. Dạy học văn theo hướng tiếp cận liên văn bản
Thông thường khi tiếp nhận một tác phẩm văn học, chúng ta luôn cố
gắng tìm hiểu cắt nghĩa tác phẩm và xem xét tác phẩm đó có hay, hấp dẫn hay
không. Và một tâm lý mà đã trở thành thói quen là chỉ quan tâm đến ấn tượng
về tác phẩm làm điểm xuất phát để lý giải vì sao tác phẩm hay, có ý nghĩa.
- 15 -
Điều đó dẫn tới việc người đọc khi đọc hiểu, phân tích tác phẩm thoát li văn
bản và chỉ dựa vào ấn tượng ban đầu. Theo tác giả Trần Đình Sử ngôn ngữ
của tác phẩm chi phối sự cảm thụ ý nghĩa tác phẩm tức là ý nghĩa tác phẩm do
ngữ cảnh hạn định. Ngữ cảnh bao gồm các quy tắc ngôn ngữ của tác phẩm,
bối cảnh văn hóa, xã hội của người đọc và tác giả, cùng mọi thứ liên quan tới
tác phẩm, tác giả, người đọc. Cái khó chính là ở đây. Chúng ta không bao giờ
có thể nắm bắt được hết mọi ngữ cảnh và do đó không bao giờ có thể hiểu hết
mọi cung bậc ý nghĩa tác phẩm. Do đó, để hiểu tác phẩm chúng ta phải nắm
được toàn bộ ngữ cảnh, nhưng ngữ cảnh trực tiếp đầu tiên là các quy tắc ngôn
ngữ của văn bản mà tối thiểu phải hiểu ý nghĩa của các từ, các câu, đoạn và
nghĩa của toàn bài. Mặt khác một tác phẩm hay cũng sẽ do ngôn từ gợi ra.
Tuy nhiên khi đọc một tác phẩm người đọc bằng vốn văn hóa, hiểu biết, kinh
nghiệm, vốn sống... của mình để cảm thụ tác phẩm, thậm chí “bởi vì người
đọc tham gia vào việc hoàn thành tác phẩm, cho nên khi đọc văn bản tác
phẩm họ không giản đơn là chỉ đọc văn bản, mà đọc cả sự cảm thụ của chính
mình, họ thường phân tích cả sự cảm thụ của mình mà không biết” [31].
Theo lí thuyết tiếp nhận, tác phẩm văn học luôn là một hệ thống mở.
Điều đó có nghĩa là cùng một tác phẩm văn học nhưng mỗi người đọc khi tiếp
nhận sẽ có những cảm nhận khác nhau tuỳ theo tâm trạng và nhận thức của
họ. Học sinh cũng là một bạn đọc và do vậy các em cũng sẽ có những cảm
nhận của riêng mình đối với tác phẩm được học. Nếu giáo viên cảm nhận thay
hay gò ép các em theo cảm nhận chủ quan của mình thì vô tình đã triệt tiêu
mất khả năng tư duy sáng tạo, khả năng tưởng tượng vô cùng phong phú ở
các em.
Liên văn bản là một lí thuyết có ý nghĩa như một phương pháp đọc văn
bản, trọng tâm của nó chuyển tới chủ thể tiếp nhận. Trong mục từ Liên văn
bản (Bách khoa thư về chủ nghĩa hậu hiện đại) do David Clippinger thực hiện
ngay từ dòng đầu tiên đã khẳng định: “Liên văn bản là phương pháp đọc một
văn bản dựa vào văn bản khác mà sự soi sáng được chia sẻ qua việc cộng
- 16 -
hưởng tư tưởng và văn bản; là sự xác nhận rằng mọi văn bản và tư tưởng đều
tồn tại trong thiết chế quan hệ đa chiều. Thuật ngữ “liên văn bản” ngụ ý cả
phương pháp đọc song hành văn bản để khám phá những điểm tương đồng và
khác biệt cũng như tin rằng mọi văn bản và tư tưởng đều là một bộ phận và
một phần trong tấm dệt các mối quan hệ văn bản, tư tưởng xã hội và lịch sử.
Nhìn chung, liên văn bản đưa ra cú đột phá quan trọng vào những quan điểm
trước đó về văn bản như một khối tự trị tách biệt về tư tưởng và lịch sử. Đọc
liên văn bản vì vậy phải vượt qua rào cản cực đoan và thách thức sự bất khả
xâm phạm từng được thừa nhận về thể loại bằng cách chứng minh rằng mọi
văn bản và tư tưởng đều hấp thu từ những ngọn nguồn tư tưởng tương tự” [3,
tr.23]. Việc tiếp cận văn bản theo hướng LVB tức là dạy các em biết cách đọc
LVB là hướng đổi mới đã, đang và được áp dụng ở nhiều trường phổ thông.
Trong bài viết Về việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy học Ngữ
văn ở trường phổ thông, tác giả Phan Huy Dũng đã chỉ rõ những ý nghĩa của
việc vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy ngữ văn ở trường phổ thông:
Đưa hoạt động dạy văn thoát khỏi tình trạng sơ cứng về phương pháp; Góp
thêm cứ liệu cho việc xác định tính đặc thù của dạy học tích hợp ở môn Văn;
Làm giàu kiến thức văn, văn hóa, và bồi đắp khả năng sáng tạo cho HS [38,
tr.397-400-402]. Dạy học văn theo hướng tiếp cận LVB sẽ là một hướng đi
đúng khi đọc hiểu văn bản GV xuất phát từ văn bản và khai thác triệt để vốn
kinh nghiệm, vốn sống, hiểu biết của HS. Và việc đầu tiên để học viên tiếp
cận tác phẩm theo hướng liên văn bản không gì khác chính là phải hiểu bối
cảnh, ngữ cảnh của tác phẩm, đặt tác phẩm trong mối quan hệ với các văn bản
khác, các yếu tố khác theo chiều lịch đại hay đồng đại. Hay nói dễ hiểu hơn
việc soạn văn ở nhà các em sẽ cần đọc nhiều tài liệu hơn, biết tự đánh giá,
khái quát, có lẽ đó cũng là một con đường đổi mới học văn hiện nay. Học sinh
được tự mình đối thoại với tác phẩm, với nhà văn theo cách riêng của mình.
Như thế, cá tính sáng tạo của HS sẽ được khẳng định, được chắp cánh. Mối
quan hệ giữa tác giả - văn bản - độc giả là một yêu cầu không thể thiếu trong
- 17 -
dạy học văn, học sinh sẽ từng bước trở thành đồng sáng tạo của tác giả, nghĩa
là phát huy tối đa khả năng sáng tạo, làm chủ của HS trong mỗi giờ học.
Nghĩa là chúng ta đang đưa HS về vai trò người học là trung tâm của quá
trình dạy học (một yêu cầu đổi mới trọng tâm hiện nay). Lý thuyết liên văn
bản cho thấy việc “khai sinh ra người đọc” tạo nên tính đối thoại giữa tác giả -
người đọc. Mỗi người đọc sẽ tạo ra cho mình một văn bản phái sinh. Văn bản
giờ đây không chỉ đơn giản là một cuốn sách, một bài viết trên giấy mà có thể
là một bức tranh, một bản nhạc, một tác phẩm điện ảnh, hay một đường link
internet... Xem tác phẩm đang giảng dạy trong chuỗi liên văn bản mới sẽ góp
phần mở rộng ý nghĩa văn bản cũng như trường liên tưởng cho người học, từ
đó tạo hứng thú, yêu thích văn chương, phát triển năng lực cảm thụ, năng lực
sáng tạo của HS.
Dạy học văn theo hướng liên văn bản, giáo viên cần phải có một phông
văn hóa, vốn kiến thức văn học sâu rộng, năng lực nắm bắt và giải mã các ký
hiệu, những kiến thức thu nhận trong quá trình sống, trong môi trường văn
hóa và khả năng liên tưởng mạnh mẽ để định hướng HS kiến giải tác phẩm
theo quan điểm riêng của các em. Giáo viên còn cần có tầm bao quát rộng rãi
đối với những tri thức thuộc nhiều lĩnh vực, các loại hình sáng tác không
thuộc phạm trù văn học như: điện ảnh, âm nhạc, hội họa,…Theo tác giả Phan
Huy Dũng người giáo viên còn cần hiểu được những quyền lực văn hóa chi
phối hoạt động sáng tạo của nhà văn, để từ đó có những vận dụng linh hoạt
trong bài học [38, tr.408].
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Vài nét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân và các tác phẩm của
Nguyễn Tuân được dạy trong chương trình THPT
Nguyễn Tuân là một nhà văn có vị trí hàng đầu trong làng văn Việt Nam
hiện đại. Đọc văn ông, người đọc không chỉ có khoái cảm thẩm mỹ từ nghệ
thuật ngôn từ mà còn được bồi dưỡng thêm tri thức về nhiều lĩnh vực như âm
nhạc, hội họa, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh...Sáng tác của ông tồn tại vừa
- 18 -
như những giá trị thẩm mỹ độc lập vừa là những gợi ý, kích thích khả năng
tìm tòi, sáng tạo nên các giá trị mới. Nguyễn Tuân đến với văn học không
sớm như một vài hiện tượng đặc biệt của văn học Việt Nam, nhưng ông được
đánh giá là người có đời văn trọn vẹn hiếm có.
1.2.1.1. Phong cách độc đáo của nhà văn Nguyễn Tuân
Phong cách nghệ thuật của nhà văn biểu hiện ở việc thông qua những
hình tượng nghệ thuật độc đáo và những phương thức, phương tiện biểu hiện
đặc thù, in đậm dấu ấn cá nhân mà đem đến cho người đọc một cái nhìn mới
mẻ về cuộc sống. Phong cách nghệ thuật được hình thành nhờ sự lặp đi lặp lại
một số yếu tố thuộc phạm trù nội dung và hình thức một cách có thẩm mĩ,
xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của tác giả. Nguyễn Tuân quan niệm “là người
lỗi lạc, sống một cách đặc biệt, không giống ai và không cho ai bắt chước
được mình, chết là mang cả cái bản chính đi chứ không để lại một bản sao
nguyên cảo nào”[13, tr.601]. Có lẽ, cái Nguyễn Tuân sợ mất đi nhất chính là
phong cách, cá tính của mình.
Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định: “Hạt nhân của phong cách
nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông”. Chơi “ ngông”
không phải chỉ đơn thuần là làm khác người, khác đời. Người chơi ngông
muốn dựa vào tài hoa, sự lịch lãm và nhân cách hơn đời để đặt mình lên trên
thiên hạ. Cái thú chơi “ ngông” của Nguyễn Tuân là như vậy, Nguyễn Tuân
có thể chơi “ngông” được trong văn chương nghệ thuật vì ông là một cây bút
độc đáo, tài hoa, uyên bác.
Trước và sau Cách mạng ở Nguyễn Tuân vẫn thống nhất ở việc quan
sát, nhìn ngắm mọi vật, mọi hiện tượng, con người ở phương diện tài hoa,
thẩm mỹ. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống
cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá mĩ thuật. Những thú vui
như uống trà, thả thơ, chơi chữ, uống rượu, rồi ngay đến đao phủ, ăn cắp...
cũng được nâng lên thành nghệ thuật. Đặc biệt, ông tiếp cận con người ở
phương diện thẩm mĩ, các nhân vật của Nguyễn Tuân đều là những con người
- 19 -
tài hoa nghệ sĩ trong lĩnh vực của mình. Nếu Nguyễn Minh Châu trong cuộc
đời sáng tác của mình cố đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong mỗi người thì
Nguyễn Tuân qua từng trang viết của mình, ông cố gắng đi tìm chất tài hoa
nghệ sĩ trong mỗi con người mà mình miêu tả. Trong Chuyến xe tình, nhà
văn phát biểu “Mỹ thuật vốn không là bà con với luân lý của thời đại. Một
thằng ăn cắp đã trở nên đẹp đẽ vô cùng khi hắn cắt túi người ta rất gọn, rất
nhanh” [33, tr.11]. Với phát biểu này, Nguyễn phủ nhận yếu tố đạo đức, luân
lý có trong nghệ thuật. Nguyễn Tuân nhìn con người dưới góc độ của phạm
trù Mỹ học, ông giải thích bản chất của con người thông qua việc lý tưởng
hoá cái đẹp. Như Phan Cự Đệ nhận xét “Nguyễn Tuân đi vào dĩ vãng với thái
độ của một người đi tìm những cảm giác lạ, đi tìm một cái đẹp thuần tuý của
nghệ thuật” [25, tr.233]. Ông lấy tiêu chí thẩm mỹ để đánh giá cho nên một
người đao phủ, một người uống trà, một người đánh bạc, một người thợ
mộc...trong trang văn của Nguyễn Tuân, họ trở thành nghệ sĩ. Kiểu nhân vật
tài hoa nghệ sĩ được tập trung chủ yếu trong tập Vang bóng một thời: đó là
Huấn Cao - một nghệ sĩ tài hoa với nghệ thuật thi pháp, đồng thời là một trang
anh hùng nghĩa liệt, Ông miêu tả Bát Lê với lối Chém treo ngành rất nhanh,
rất ngọt hay ngón đòn “ném bút chì” chuẩn xác của Những kẻ bất đắc chí như
những nghệ sĩ tài hoa trong nghề đao phủ, trộm cướp. Nguyễn Tuân là nhà
văn của cái đẹp. Cái đẹp của ông trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 là cái
đẹp “hoài niệm”, “hoài cổ” nó đối lập với thực tại còn cái đẹp của ông sau
Cách mạng tháng 8 hiện hình giữa đời thường và không đối lập với thực tại,
ông tìm chất tài hoa ở con người lao động bình dị, đời thường. Trong Người
lái đò Sông Đà, ta thấy hiện lên không phải là một ông lái đò bình thường mà
là một nghệ sĩ trong nghề sông nước, như một nhạc sĩ thiên tài chỉ huy dàn
nhạc trên con thuyền để vượt lên bản trường ca sóng nước ào ạt kia.
Sự tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân còn được thể hiện ở việc ông
nhìn sự vật, quan sát sự vật bằng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác
nhau: tri thức văn hoá, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc, điện ảnh…Ông có khả
- 20 -
năng vận dụng các thủ pháp của các lĩnh vực nghệ thuật khác vào trong trang
viết của mình. Trong Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân mang đến trang văn của
mình với góc nhìn của nghệ thuật thứ bảy khi ông lia ống kính bao quát toàn
cảnh rồi quay cận cảnh từng người, từng chi tiết một. Thủ pháp điện ảnh đã
góp phần đắc lực khắc họa cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Trong tùy
bút Người lái đò Sông Đà, với con mắt của một nhà hội họa, Nguyễn Tuân
cho người đọc cảm nhận màu nước Sông Đà một cách tinh tế nhất. Cuộc giao
chiến giữa ông lái đò và thác nước hiện lên sống động dưới con mắt chiến
lược quân sự của nhà văn. Có khi lại sử dụng kiến thức âm nhạc, hội họa để
có một cái nhìn sự vật ở nhiều góc độ... Để có được những trang viết như thế,
Nguyễn Tuân phải có một tầm tri thức, kiến văn sâu rộng, sự am hiểu tường
tận về văn hoá cổ truyền, vốn kiến thức về các môn nghệ thuật.
Ông không thích những cái gì bằng phẳng, nhợt nhạt, khuôn phép. Ông
là nhà văn của những tính cách độc đáo, những tình cảm mãnh liệt. Thiên
nhiên trong những trang văn của ông thật hùng vĩ, dữ dội, hiểm trở, lắm thác
nhiều ghềnh, phải thật dữ tợn như “thủy quái” sông Đà... Đằng sau những
trang viết đầy chất “ngông” ấy là một tình yêu tha thiết với thiên nhiên, đất
nước, con người. Sau cách mạng ông sẵn sàng đi đến mọi miền tổ quốc không
phải vì khỏa lấp cảm giác thiếu quê hương như trước cách mạng mà ông
muốn đi tìm “thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc” và “chất vàng mười
đã qua thử lửa của con người lao động” Tây Bắc. Ðến với những trang viết
của ngòi bút tài hoa ấy người đọc thấy say sưa trước cảnh, tình và kho tri thức
phong phú được bày biện một cách đẹp đẽ. Có thể nói sau năm 1945, cảm
quan thời đại gắn với cái nhìn khám phá và chinh phục. Mỗi trang viết là
những lời ca hát, ngợi ca non sông đất nước tươi đẹp, ngợi ca con người sức
mạnh vô song có khả năng kì diệu có thể chinh phục, cải tạo thiên nhiên, cho
ta cảm giác yêu mến, tự hào về dân tộc mình, về thời đại mình đang sống.
Một đặc điểm không thể không nhắc tới khi nói về phong cách nghệ
thuật của nhà văn Nguyễn Tuân sử dụng là thứ ngôn từ giàu chất tạo hình,
- 21 -
gợi nhiều liên tưởng nhất. Theo Vũ Ngọc Phan “Chỉ người ưa suy xét đọc
Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để
người nông nổi thưởng thức”. Người đọc thực sự cảm thấy thú vị với mỗi
phát hiện ẩn đằng sau câu chữ thần kì như: lòng “biệt nhỡn liên tài” của viên
quản ngục trong Chữ người tử tù, cách ngụy trang bằng hoa đào, đuổi đánh
giặc trong rừng đào anh bộ đội Tây Bắc, cái đẹp của chữ, của chiếc lư đồng,
của cây đào, của dòng sông đà… Trong Chữ người tử tù ông sử dụng ngôn
ngữ rất cổ kính, bác học: “Phiến trát, lạc khoan, pháp trường, bút con…”.
Những từ ngữ ấy được Nguyễn Tuân sử dụng một cách nhuần nhuyễn, linh
hoạt, tạo âm vang ngàn xưa vọng lại - âm vang của một thời xa vắng. Trong
Người lái đò Sông Đà, người đọc được thưởng thức một loạt ngôn từ mới mẻ,
sáng tạo, mang bản sắc riêng: “lặng tờ, bờ tiền sử, nỗi niềm cổ tích, thơ
ngộ…”. Các câu văn Nguyễn Tuân giàu nhạc điệu, co duỗi nhịp nhàng.
Nguyễn Tuân đến với thể loại tùy bút như một cơ duyên, một lối văn
“độc tấu” như để dành riêng cho ông. “Tuỳ bút Nguyễn Tuân thường hết sức
phóng khoáng, linh hoạt, có lượng thông tin cao”[13, tr.612] hấp dẫn người
đọc. Văn tuỳ bút của Nguyễn Tuân biến đổi rất linh hoạt. Mạch văn tuôn chảy
theo dòng cảm xúc hết sức thoải mái, kết hợp nhuần nhị giữa tính chất ký và
yếu tố truyện, chất tự sự và trữ tình, sự vận dụng sáng tạo ưu thế của các
ngành nghệ thuật với một kho ngôn từ tiếng Việt phong phú, linh hoạt. Tính
chất đa nghĩa của những thiên tùy bút Nguyễn Tuân cũng là một mặt mạnh
trong phong cách nghệ thuật của ông. Đọc tùy bút Nguyễn Tuân phải nghiền
ngẫm, suy nghĩ, phải có cùng một tư duy nghệ thuật với nhà văn thì mới cảm
nhận hết được cái hay, cái đẹp của nó. Nói như Hà Văn Đức tùy bút Nguyễn
Tuân giống như một khối ru-bic, mà nhìn ở mặt nào, khía cạnh nào người đọc
cũng nhìn thấy sự toả sáng cả.
1.2.1.2. Tập Vang bóng một thời và truyện ngắn Chữ người tử tù
- 22 -
Vang bóng một thời là tập truyện đầu tay của Nguyễn Tuân ra đời những
năm 1939 - 1940, là tác phẩm được đánh giá “gần đạt tới sự toàn mĩ ” tiêu biểu
cho sáng tác trước Cách mạng của ông. Tập truyện là một trong ba đề tài chính
của Nguyễn Tuân trước Cách mạng (chủ nghĩa xê dịch, vẻ đẹp vang bóng một
thời và cuộc sống trụy lạc). 12 truyện ngắn trong Vang bóng một thời đã làm
sống lại những phong tục tập quán dân tộc, những thú chơi tao nhã gắn liền
với những ông nghè, ông cử thất thế song vẫn giữ thói quen thanh cao, lịch
lãm trong xã hội có nhiều nhiễu nhương.
Thế giới nhân vật trong Vang bóng một thời chủ yếu là lớp nhà Nho
cuối mùa, là những con người tài hoa, bất đắc chí. Gặp lúc Hán học suy vi,
sống giữa buổi “Tây Tàu nhố nhăng”, những con người này, mặc dù buông
xuôi bất lực nhưng vẫn mâu thuẫn sâu sắc với xã hội đương thời. Trân trọng
mình, kẻ tài hoa, tài tử luôn tự khu biệt mình khỏi thế giới hiện tại, không để
cái thanh cao đẹp đẽ của mình lẫn vào đám ồn ào, cái rối ren của xã hội phàm
tục. Họ lấy cái ngông nghênh của mình để đối lập với xã hội phàm tục; phô
diễn lối sống đẹp, thanh cao của mình như một thái độ phản ứng trật tự xã hội
đương thời. Cụ Phủ trong Thả thơ phảng phất nét giống với nhân vật ông Đồ
trong bài thơ cùng tên của Vũ Đình Liên. Cả hai đã trở thành lớp người của
quá khứ, trở nên lạc lõng giữa hiện tại, họ phải đem cái tài hoa ra phục vụ
đám đông quanh mình để mưu sinh. Dù cuộc sống khó khăn, họ vẫn trân
trọng những nét đẹp văn hóa, gìn giữ danh tiết và phẩm giá của mình. Cụ Kép
trong truyện Hương cuội lại có sở thích uống rượu, ngâm thơ và chơi hoa lan.
Tìm cho mình một lối sống thanh cao trong lúc thời cuộc rối ren, đó cũng là
cách để những nhà nho này giữ gìn nhân cách, đồng thời thể hiện khao khát
gìn giữ những giá trị văn hóa đẹp đẽ của cha ông. Hình ảnh cụ Ấm trong
Chén trà sương, một con người mang cả “phong thái một triết nhân ngồi rình
bước đi của thời gian”, với sở thích uống trà tàu cầu kỳ trà được pha vào ấm
“nước pha trà không gì thơm lành bằng cái thứ nước đọng trên lá sen. Mỗi lá
sen chỉ có một ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ uống một ấm.” [32,
- 23 -
tr.104], và được đưa lên môi là quá trình tạo tác kết hợp của cả lễ nghi và ý
nghĩa nhân sinh cao quý. Con người ấy mang cả sự cổ kính và thành kính
trong không khí thời đại xưa vào cái thú vừa uống trà vừa ngâm thơ. Cùng
chung sở thích đó là nhân vật sư cụ Đồi Mai và ông Sáu trong Những chiếc
ấm đất. Cụ Thượng Nam Ninh cùng người con thứ là ông Cử Hai say mê với
việc làm đèn kéo quân cho trẻ chơi trăng ngày rằm Trung thu trong Một cảnh
thu muộn. Họ đã để cả tài năng, tâm huyết của mình vào một thú chơi vừa
dân dã vừa cầu kì đang dần mai một. Viết về thú chơi tao nhã, cầu kì, Nguyễn
Tuân như đang làm người đọc được sống lại với một phong tục đẹp của người
Tràng An. Những hình ảnh như ông Phủ, ông Nghè, ông Ấm, ông Cử ... là các
nhà nho cuối mùa, dù có thất thế nhưng họ vẫn sống cuộc sống nhàn hạ, thanh
tao và biết giữ gìn, chắt chiu cái đẹp trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
Với phong cách độc đáo, Nguyễn Tuân tạo dựng trong trang viết của
mình những nghệ sĩ tài hoa trong ngành nghề của họ. Thế giới nhân vật trong
Vang bóng một thời còn là những người nghệ sĩ tài hoa, tài tử. Nếu như trong
tiểu thuyết Lều chõng, Ngô Tất Tố nhìn chế độ khoa cử mục nát, bi kịch của
nhà nho có tài với ánh mắt của một nhà văn hiện thực phê phán, Nguyễn Tuân
nhìn họ ở góc độ thẩm mỹ để thấy được những giá trị văn hóa tinh thần dân
tộc bị mai một trước biến thiên của lịch sử. Đó là cuộc sống những người thợ
mộc làng Tràng Thôn trong truyện Trên đỉnh non Tản với cái tràng, cái đục
của mình đã trở nên nức tiếng khắp vùng. Bởi sự tài hoa, điêu luyện trong
nghề mà hai lần đích thân Thần Non Tản đến tận nhà mời hiệp thợ của cụ phó
Sần lên đỉnh non Tản để sửa chữa lại đền Thượng do những lần vua Thủy
dâng nước lên chọc phá để trả mối hận tình. “Nét chạm tỉ mỉ công phu gấp
mấy lần công thợ điêu khắc ở các đền đài ở dưới núi. Họ chia nhau ra mà
chạm, người thì tỉa hình thư kiếm, quạt và phất trần, kẻ thì gọt dáng tù và với
túi roi hoặc là túi thơ cùng bầu rượu, cái nọ ghép vào với cái kia thành một
bộ đôi bằng những sợi cẩm đới nét dẻo như tung bay được” [32, tr.142-143].
Ở Chém treo ngành, Nguyễn Tuân đã viết về tài chém treo ngành của một kẻ
- 24 -
làm nghề đao phủ tên là Bát Lê. Nguyễn Tuân miêu tả Bát Lê như một nghệ sĩ
múa kiếm tài nghệ có một không hai trong nghề của y: “Bát Lê múa lượn giữa
hai hàng tử tù và múa hát đến đâu thì những cái đầu tội nhân bị quỳ kia chẻ
gục đến đấy” [32, tr.15].
Trong thế giới nhân vật của Vang bóng một thời, ông Huấn Cao trong
Chữ người tử tù nổi bật lên như một nhân vật đẹp nhất (Tác phẩm được dạy
trong chương trình Ngữ văn 11- tập 1). Con người ấy là một nghệ sĩ thư pháp,
một trang anh hùng dũng liệt, có khí phách hiên ngang, có thiên lương trong
sáng, ông đang bị giam ở nhà ngục tỉnh Sơn để chờ ngày ra pháp trường. Một
con người mà “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng
khuất”. Kẻ liên tài oái oăm thay lại là viên coi ngục, y ngưỡng mộ, bất chấp
tính mạng để biệt đãi người tù đặc biệt này, ao ước xin được chữ ông Huấn.
Trong đêm cuối cùng trước ngày ra pháp trường, cảm động trước tấm lòng, sở
nguyện cao quý của viên quản ngục, Huấn Cao đã dành những giây phút cuối
cùng của đời mình viết tặng chữ viên quản ngục. Cái đẹp có sức cảm hóa con
người, hướng con người tới ánh sáng của thiên lương, của đạo đức. Hình
tượng người anh hùng Huấn Cao là hình mẫu tiêu biểu cho quan niệm của
Nguyễn Tuân về cái đẹp, về con người lý tưởng trước Cách mạng tháng Tám.
1.2.1.3. Tùy bút Người lái đò Sông Đà
Nguyễn Tuân đã từng thử bút ở nhiều thể loại song với phong cách độc
đáo, cá tính riêng cùng mẫn cảm của người nghệ sĩ, ông đến với tùy bút, một
thể loại đậm chất trữ tình của ký cho phép bộc lộ tư tưởng chủ quan của người
viết khi phản ánh hiện thực khách quan. Theo từ điển thuật ngữ văn học “Ký
là một tên gọi chung cho một nhóm thể tài nằm ở phần giao nhau giữa văn
học và ngoài văn học (báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu các loại...) chủ
yếu là văn xuôi tự sự gồm các thể như bút ký, hồi ký, hồi ký, du ký, phóng sự,
kí sự, nhật kí, tùy bút...” [2, tr.176]. Đây là thể loại tương đối tự do, linh hoạt
trong phản ánh và biểu hiện, có khả năng truyền tải cảm xúc, suy nghĩ của
người viết, nó cũng đòi hỏi người viết cần phải có một cá tính, bản lĩnh riêng
- 25 -
trong cách cảm nhận cuộc đời. Nguyễn Tuân đến với tùy bút như một cơ
duyên. Vương Trí Nhàn trong Nguyễn Tuân - Tên tuổi còn mãi với thể tùy
bút, ông chỉ ra theo Từ điển bách khoa văn học của Liên Xô trước đây định
nghĩa: “Tuỳ bút (essai - tiếng Pháp) là tác phẩm văn xuôi cỡ nhỏ và có cấu
trúc tự do, biểu thị những ấn tượng và suy nghĩ cá nhân về những sự việc,
những vấn đề cụ thể và hoàn toàn không tính tới việc đưa ra cách giải thích
cố định và đầy đủ về đối tượng” [27]. Trong một cuốn từ điển khác, người ta
còn nói rõ thêm: “Được gọi là tuỳ bút, là những tác phẩm mà ở đó nổi lên
trên bình diện thứ nhất những phẩm chất riêng, cốt cách riêng của tác giả.
Chỉ những người muốn làm rõ cái giọng điệu độc đáo của riêng mình, những
người thích tự biểu hiện, tự phân tích, đồng thời là những bút pháp vừa giàu
chất hình tượng, vừa có khả năng viết chặt chẽ như châm ngôn - những người
đó mới đi vào tuỳ bút” [27]. Cốt cách ngang tàng, độc đáo không chịu kiêng
nể một ai của Nguyễn Tuân có lẽ chỉ tùy bút chịu được ông, và quả thực với
thể tùy bút, ông đã đem đến khúc độc tấu tài hoa khẳng định bản ngã, tài năng
sáng tạo độc đáo của riêng mình.
Sau Cách mạng, ta gặp một Nguyễn Tuân hoàn toàn mới so với trước
đó. Giọng điệu văn chương trở nên sôi nổi tin yêu, tràn ngập một tình cảm
chân thành đến hồn nhiên đối với quê hương đất nước, với Cách mạng và
kháng chiến. Cảm quan khám phá, chinh phục thiên nhiên của Nguyễn Tuân
dường như hòa quyện chặt chẽ với tình yêu Tổ quốc, tình yêu con người và
cuộc sống khiến cho những trang viết của ông sau năm 1945 dạt dào cảm xúc
thăng hoa ngợi ca đất nước. Nguyễn Tuân như chuếnh choáng say sưa trước
niềm hạnh phúc vô biên ấy. Ông vốc từng vốc lớn chất liệu hiện thực và bày
biện một cách hết sức tài hoa, tinh vi lên trang viết để thiết đãi cả nhân dân
mình. Hàng loạt tùy bút đặc sắc ra đời trong mạch cảm hứng ấy: Phở, Cây Hà
Nội...
Tùy bút Người lái đò Sông Đà in lần đầu có tên là Sông Đà, trích trong
tập tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân được in lần đầu vào năm 1960, lần thứ
- 26 -
hai năm 1978. Sông Đà bao gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ phác thảo, là
tác phẩm của nhà văn trong chuyến đi thực tế lên Tây Bắc vào 10/1958, giai
đoạn Đảng và Nhà nước đang tiến hành xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc.
Đây là tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám
của Nguyễn Tuân. “Nó nói rằng ngòi bút ấy đã đạt tới độ chín mới về tư
tưởng và nghệ thuật” (Nguyễn Đăng Mạnh).
Qua tùy bút Người lái đò Sông Đà Nguyễn Tuân đã cho người đọc ngỡ
ngàng, say mê khám phá và thưởng thức từ vẻ đẹp vừa hung dữ vừa thơ
mộng, trữ tình của con sông Đà, đến vẻ đẹp bình dị, tài hoa nghệ sĩ của ông
lái đò - một tay lái ra hoa vượt thạch trận sông Đà. Cảnh vật và con người
được nhìn qua con mắt mĩ thuật, tài hoa của Nguyễn Tuân. Đồng thời đây
cũng là một áng văn đẹp cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc,
cùng tài năng của Nguyễn Tuân để tái tạo những kì công của tạo hóa và
những kì tích lao động của con người trong công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa. Đằng sau những trang hoa Tây Bắc ấy là tấm lòng yêu tổ quốc, niềm tự
hào về vẻ đẹp đất nước, niềm cảm kích, phấn khởi trước những con người lao
động trong chế độ xã hội mới. Trong Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân
rưng rưng một niềm tự hào: “Gặp lại những đồng chí Tây Bắc cũ lúc này
đang làm kế hoạch, đang làm công trường, làm ruộng, làm nương xã hội chủ
nghĩa ở Tây Bắc, tôi đi sâu vào một số tiểu sử cuộc đời hoạt động ở Tây Bắc
mà tôi cứ nghĩ rằng đấy là những thỏi vàng của một khối vàng xã hội chủ
nghĩa Đảng ta đem đầu tư vào Tây Bắc” [33, tr.269]. Những trang văn của
Nguyễn Tuân nổi lên một hình tượng Tổ quốc Việt Nam giàu có, tuyệt vời,
tuyệt đỉnh. Tác phẩm như một dòng thác lớn thanh âm ngôn ngữ, cảm xúc, tư
tưởng được khơi đúng nguồn mạch chính, hệt con sông Ðà “hung bạo và trữ
tình”, chảy băng băng qua vùng Tây Bắc hùng vĩ và ngạo nghễ với thời gian.
Ðọc tác phẩm ta thấy trữ lượng cái Ðẹp, chất “vàng mười” của đất nước và
con người Việt Nam trong cuộc sống mới quả là nhiều vô kể. Cánh cửa tâm
hồn tài hoa, lãng tử của Nguyễn Tuân như mở toang cái Đẹp ùa vào.
- 27 -
1.2.2. Khảo sát thực trạng dạy học văn nói chung và dạy tác phẩm Chữ
người tử tù, Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân nói riêng
1.2.2.1. Thực trạng dạy văn nói chung
Ngữ văn vừa là môn học công cụ vừa là môn học nghệ thuật có đặc thù
riêng, là lĩnh vực thẩm mĩ của sáng tạo cá nhân, mỗi tác phẩm văn chương
không chỉ đem lại thông tin mà còn là một hệ thống tín hiệu thẩm mĩ đòi hỏi sự
khám phá, liên tưởng của người đọc. Trong những năm gần đây, mặc dù được
sự quan tâm của xã hội, môn Ngữ văn luôn là một trong những môn học quan
trọng ở nhà trường phổ thông, song học sinh lại không yêu mến môn môn
Ngữ văn, ít lựa chọn khối thi có môn Văn, thậm chí là không muốn học môn
Văn (nếu không phải do Bộ giáo dục quy định môn thi bắt buộc trong kì thi
THPT Quốc gia thì có lẽ số lượng HS đăng kí môn học này sẽ rất ít). Học
sinh không tự nghiên cứu, thậm chí không đọc tác phẩm để tìm hiểu, khám
phá mà chủ yếu chép lại và dựa vào gợi ý hướng dẫn của các sách tham khảo,
văn mẫu...Vậy đâu là nguyên nhân của tình trạng trên? Câu trả lời có lẽ mỗi
chúng ta đều thấy rất rõ từ nhiều năm nay.
- Có lẽ điều đầu tiên mà ai cũng nhận thấy đó chính là phương pháp
dạy học còn nhiều hạn chế. Không phải ngẫu nhiên mà Bộ GD& ĐT luôn tập
huấn công tác chuyên môn, yêu cầu mỗi GV phải tự học tập, tự bồi dưỡng,
luôn luôn đổi mới phương pháp giảng dạy. Lâu nay, nhiều giáo viên đang còn
dạy học theo cách cũ, vẫn là dạy TPVH chỉ bó hẹp trong phạm vi văn bản văn
học, ít hướng dẫn cho HS thói quen, kĩ năng liên hệ, mở rộng sang những vấn
đề khác có liên quan. Dường như người giáo viên chú trọng quá nhiều đến
văn bản, mà quên mất nhu cầu tự khám phá, tự cảm thụ của HS. Vì thế, học
sinh luôn là người “lắng nghe” chứ không phải là người “nhập cuộc”, dẫn tới
HS gần như bị tê liệt về cảm xúc, về hứng thú học tập và trở nên thụ động,
lười suy nghĩ. Giáo viên vẫn còn thuyết giảng nhiều dẫn đến tình trạng HS ít
được làm việc, ít có cơ hội bày tỏ chính kiến của bản thân; những kiến thức
ngoài văn bản, những cách hiểu riêng của cá nhân HS ít được GV quan tâm
- 28 -
tới. Một số giáo viên lại lại dạy văn như nhà nghiên cứu văn học: tập trung
phân tích quá sâu về tâm lí, về kĩ thuật ngôn từ, về phương pháp sáng
tác…như những sinh viên khoa Văn, nhiều HS chán nản nhất là những HS thi
khối A, B, các em sợ phải học Văn.
- Một hạn chế nữa của quá trình dạy học môn Ngữ Văn là cả giáo viên
và học sinh đều tồn tại tâm lý học để thi, dẫn đến tình trạng học nhồi nhét,
thậm chí HS chỉ học thuộc lòng các bài cô phân tích để an toàn khi đi thi. Quy
trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh chưa được hợp lí, chưa
vừa sức, chưa có tác dụng tạo động lực cho học sinh học tập. Thầy cô giáo
chủ yếu kiểm tra trí nhớ của HS chưa chú trọng vào việc phát huy năng lực
cho HS. Bên cạnh đó, việc chấm, sửa bài cho học sinh cũng còn nhiều thiếu
sót. Giáo viên trả bài cho học sinh không đúng thời gian quy định, thường là
lâu hơn quy định, sửa bài không cụ thể, chi tiết. Phần lớn điểm số cho bài làm
của học sinh thường ở mức trung bình, khá, rất ít điểm giỏi. Mặc dù có nhiều
đổi mới song việc kiểm tra đánh giá vẫn chưa đem lại hứng thú và động cơ
học tập cho HS.
- Theo lí thuyết kiến tạo, chúng ta hiểu rõ học sinh phải là chủ thể tích
cực xây dựng nên kiến thức cho bản thân mình dựa trên những kiến thức hoặc
kinh nghiệm đã có từ trước. Giáo viên chỉ là người tổ chức, điều khiển, HS tự
biến kiến thức của thầy cung cấp, tài liệu đọc được để biến thành kiến thức
của bản thân, có như thế HS mới nhớ lâu được bài học. Nếu chỉ học vẹt thì sẽ
mau chóng quên luôn. Nhưng chính cách dạy như trên cũng dẫn đến hệ quả
kéo theo là cách học của HS học thụ động, học máy móc; không có kĩ năng
đọc hiểu văn bản, không thể đọc hiểu những văn bản tương tự. Học sinh chưa
biết vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống, thiếu sáng tạo và
không biết cách tự học, thiếu động cơ học tập.
- Một nguyên nhân khách quan không thể không nhắc tới đó chính là
chúng ta đang ở thế kỉ XXI, kỉ nguyên của công nghệ thông tin, kĩ thuật số...
Học sinh thay vì đến thư viện đọc sách, các em có thể tự tìm tài liệu trên máy
- 29 -
tính, điện thoại smarphone của mình. Nhưng có một hiện trạng các em lại
online để lướt facebook, buôn chuyện trên zalo, hay các trang mạng xã hội
khác... Học sinh hình thành thói quen ỉ lại, lười đọc sách, chỉ chờ đợi thụ động
bài giảng của GV, không có động cơ học tập. Hơn nữa, do sự hội nhập toàn
cầu đại đa số HS chỉ muốn học các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế,
điều này đã ảnh hưởng đến nhận thức của phụ huynh, của HS về những môn
học thời thượng như: Toán, Lý, Hoá, Ngoại ngữ, các môn học các em có thể
đi du học thuận lợi, hoặc ra trường dễ xin việc.
Trong những năm gần đây, Bộ GD&ĐT liên tục đổi mới với mong
muốn đào tạo những công dân toàn cầu, có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng
những đòi hỏi của thời đại mới. Bộ và Sở giáo dục đã triển khai nhiều chương
trình tập huấn cho GV, cán bộ cốt cán về đổi mới phương pháp dạy học
nhưng chưa có nhiều GV đổi mới, chịu khó đầu tư mà phần lớn chỉ được thể
hiện ở các tiết hội giảng, còn bình thường vẫn chưa đổi mới.
1.2.2.2. Thực trạng dạy các tác phẩm của Nguyễn Tuân
Ở chương trình Ngữ văn THPT chương trình chuẩn, HS được tiếp cận
hai tác phẩm của Nguyễn Tuân: Truyện ngắn Chữ người tử tù (Trích Vang
bóng một thời) ở lớp 11 và tùy bút Người lái đò sông Đà (trích Tùy bút Sông
Đà) ở lớp 12. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế giảng dạy ở trường THPT
Nguyễn Huệ (TP Nam Định), chúng tôi nhận thấy thực trạng sau:
* Thực trạng hoạt động dạy- học truyện ngắn Chữ người tử tù
Tác phẩm Chữ người tử tù là một tác phẩm hay nhưng khó cảm thụ.
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách tài hoa, uyên bác, để hiểu tác phẩm
của ông không hề dễ, kiến thức trong tác phẩm khá rộng bao gồm nhiều lĩnh
vực như: lịch sử, văn hóa, văn học, xã hội. Đặc biệt cách xây dựng nhân vật
mang tính lí tưởng hóa, các từ Hán Việt xuất hiện với tần số lớn, không gian
nghệ thuật của tác phẩm gợi về một thời xa xưa xa lạ với HS hiện nay. Tuỳ
vào quan điểm, năng lực của giáo viên và của học sinh, giáo viên khai thác tác
phẩm theo nhiều cách khác nhau, dưới đây là hai hướng khai thác tiêu biểu:
- 30 -
Hướng thứ nhất: Giáo viên đã khai thác “bổ dọc”, phân tích theo trình tự:
nhân vật Huấn Cao, nhân vật viên quản ngục, nghệ thuật đặc sắc của truyện.
Hướng thứ hai: khai thác theo hướng “bổ ngang”, tiến hành phân tích truyện
theo trình tự ba đoạn truyện: Trước khi Huấn Cao đến nhà lao; Khi Huấn Cao
bị giải đến nhà lao; Cảnh cho chữ - cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Nhìn
chung các em hiểu được những kiến thức cơ bản về tác giả Nguyễn Tuân,
kiến thức tối thiểu về văn bản Chữ người tử tù: Ba vẻ đẹp của Huấn Cao,
nghệ thuật đặc sắc của văn bản: Tình huống độc đáo, thủ pháp tương phản,
đối lập, xây dựng nhân vật, ngôn ngữ…Đây mới chỉ là kiến thức ở dạng tái
hiện, chưa thể hiện được nhiều những khám phá mang tính sáng tạo của bản
thân, chưa cảm nhận tác phẩm một cách sâu sắc đúng bản chất.
Một hiện trạng dễ nhận thấy trong nhiều giờ dạy giáo viên chỉ tập trung
ở các nội dung chính như: Hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhân vật quản
ngục hay cảnh cho chữ, (tầng hình tượng) tuy nhiên cũng tiếp cận một cách
sơ sài mang tính chiếu lệ. Các kiến thức học sinh được trang bị chỉ mang tính
đối phó với thi cử. Thậm chí chỉ đưa ra một vài ý cơ bản rồi thuyết trình
nhưng không hề bám sát vào ngôn từ của văn bản. Có giáo viên cứ bay bổng
với những lời bình sáo rỗng mà xa rời hoàn toàn hệ thống ngôn từ của văn
bản. Bởi vậy rất nhiều các từ ngữ cổ giàu giá trị của tác phẩm mà HS không
hề biết đến, thậm chí có nhiều em còn hiểu sai về mặt nghĩa của nó. Còn ở
tầng tư tưởng ý vị nhân sinh của tác phẩm thì rất nhiều GV bỏ qua, nếu có thì
vài câu nói qua loa như đưa vào phần tổng kết chứ chưa coi đó là một phần
quan trọng khi khám phá tác phẩm.
Còn khi tiếp nhận tác phẩm nhiều học sinh chỉ nói một cách sáo rỗng,
không đưa ra được các câu văn để chứng minh cho từng nét đẹp của nhân vật.
Thậm chí có những học sinh còn băn khoăn, nhầm lẫn việc trích dẫn những
câu nói về nhân vật Huấn Cao và quản ngục ở đoạn văn trong phần đầu của
tác phẩm. Nhất là các em thường bỏ luôn “cảnh cho chữ” không đưa vào khi
cảm nhận về vẻ đẹp của hai nhân vật này…Và không ít học sinh còn hiểu sai
- 31 -
các từ Hán Việt trong các câu văn khi nói về nhân vật. Chẳng hạn như: nhất
sinh, chu tất, xin bái lĩnh, xin lĩnh ý… Đối với các em, quan niệm về cái đẹp
và quan niệm sống mà Nguyễn Tuân muốn gửi gắm qua hai nhân vật trên
dường như quá xa lạ và không thể chỉ ra được.
* Thực trạng hoạt động dạy- học tùy bút Người lái đò sông Đà
Dạy tùy bút luôn là thách thức đối với giáo viên, nhất là dạy tác phẩm
của bậc thầy ngôn từ Nguyễn Tuân thì càng khó khăn. Thực tế cho thấy cả
thầy và trò đều rất ngại dạy và học tác phẩm Người lái đò Sông Đà - văn bản
dài, ngôn từ rất khó hiểu. Đoạn trích Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân
có dung lượng khá dài nhưng theo phân phối chương trình chỉ có hai tiết dạy
học. Học sinh dường như rất khó hình dung hai bên bờ đá sông Đà, mặt ghềnh
Hát lóng, cảnh thạch trận sông… Giáo viên rất khó khăn để bật lên được đặc
trưng thể loại tùy bút, phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác của Nguyễn
Tuân qua nghệ thuật ngôn từ, quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp…
Đa phần để phục vụ cho đi thi THPT quốc gia, học sinh đều nắm được
hai nét tính cách nổi bật của dòng sông Đà: hung bạo và trữ tình, cũng như vẻ
đẹp của ông lão lái đò: trí dũng, gan dạ và tài hoa song để thấy được đặc trưng
riêng của thể kí Nguyễn Tuân thì các em chưa hiểu rõ. Trong khi đó đề thi
THPT quốc gia có những đề so sánh hai đoạn văn
Ví dụ : Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn văn sau:
“Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình ... mỗi độ thu
về” (Trích Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB
Giáo dục, 2009, tr.191)
“Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường
Sơn,... như người Huế thường miêu tả” (Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông -
Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2009, tr. 198)
Học sinh vô cùng lúng túng khi làm những đề kiểu này, các em không
có kiến thức nền để so sánh, bởi ở nhà các thầy cô chỉ dạy các em vẻ đẹp hình
tượng sông Đà, sông Hương và chia theo luận điểm.
- 32 -
Một bài kí với dung lượng kiến thức lớn, thời lượng chương trình ít,
không dễ truyền tải đến HS nên nhiều GV dạy tác phẩm này qua cho xong
trong khi để giảng một bài kí đòi hỏi ở người giáo viên một sự chuẩn bị rất
chu đáo, cẩn thận. Thể kí, với nghệ thuật chân chất, xác thực của nó, đòi hỏi
người viết kí phải có một vốn sống phong phú và một trình độ kĩ thuật già
dặn. Do đó, giảng một bài kí, giáo viên cần phải am hiểu nhiều mặt đời sống
xã hội, có vốn sống, vốn hiểu biết rộng không thể chỉ nói chung chung. Giáo
viên có tâm huyết thì mới truyền cảm hứng cho HS thực sự yêu thích những
bài học này.
1.2.2.3. Thực trạng dạy học văn theo hướng tiếp cận LVB hiện nay
Trong những năm gần đây những định hướng đổi mới phương pháp,
nội dung dạy học của Bộ GD&ĐT đã phần nào phát huy tác dụng. Đề án
chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 sẽ xây dựng nhằm lấy người học
là trung tâm, giáo viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn và tạo những tình
huống có vấn đề để khuyến khích học sinh tích cực tham gia vào các hoạt
động học tập. Bằng sự tự nguyện chính học sinh sẽ tự khám phá, phát hiện
năng lực của bản thân, rèn luyện khả năng tự học, phát huy những kiến thức,
kỹ năng đã tích lũy được để phát triển. Do đó, dạy học văn theo hướng tiếp
cận mới như hướng tiếp cận LVB được quan tâm. Những giáo viên Ngữ văn
THPT tâm huyết với nghề đã lặng thầm và đổi mới cách dạy học văn, góp
phần đổi thay mối quan hệ giữa người dạy và người học, góp phần đổi mới tư
duy của học sinh về văn học và cuộc sống. Các thầy cô đã giúp cho HS học
được cách tư duy tổng thể về thế giới, tìm ra mối tương quan đa chiều giữa
mọi vấn đề của cuộc sống của văn học nghệ thuật, đặc biệt là sự góp mặt của
nhiều tác phẩm đương đại Việt Nam và thế giới. Việc vận dụng lý thuyết liên
văn bản khi dạy học văn đem lại những thành công bước đầu. Nhiều giáo viên
đã ý thức vận dụng liên văn bản một cách tự giác, phát huy được tính tích cực,
chủ động của HS trong giờ học. Giáo viên để HS liên hệ những kiến thức
- 33 -
ngoài văn bản, thậm chí sân khấu hóa văn học, HS tỏ ra rất hào hứng với cách
dạy mới.
Ví dụ như: Dạy học tác phẩm Đời thừa của nhà văn Nam Cao theo các
thao tác liên tưởng, so sánh từ gần đến xa; Vận dụng kỹ thuật liên văn bản
trong dạy bài Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu; Vận dụng kĩ
thuật liên văn bản khi dạy bài Đàn ghi-ta của Lorca...
Tuy nhiên, số giáo viên vận dụng được như trên chưa nhiều, đa phần
giáo viên Ngữ văn THPT hiện đang sử dụng kỹ thuật liên văn bản trong dạy
đọc hiểu văn bản văn học ở một cấp độ thấp.
- Do quan niệm cũ vẫn coi văn bản là một thể độc lập nên giáo viên
mới chỉ liên văn bản một cách vô thức qua việc trích dẫn, thực hiện một thao
tác so sánh, liên tưởng hay xếp chồng văn bản một manh mún, thiếu hệ thống.
Ví dụ như khi dạy tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, các thầu cô
liên hệ với bài thơ Ông đồ - Vũ Đình Liên khi nói đến nghệ thuật thi pháp và
chỉ ra được một nét đẹp văn hóa đã bị mai một nhưng lại chưa đặt được thi
pháp ấy trong hệ thống tác phẩm Vang bóng một thời thực trạng xã hội trước
1945...; Dạy đoạn trích Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm), GV cũng ý thức liên
hệ với những bài ca dao liên quan nhưng lại chỉ quan tâm riêng lẻ từng bài mà
chưa đặt trong hệ thống...
- Như đã nói ở phần thực trạng dạy học văn nói chung, quan điểm “lấy
người học là trung tâm” của Bộ GD&ĐT chủ trương đề cao vai trò của người
học, lấy HS làm trung tâm của mọi hoạt động. Tuy nhiên, chủ trương này vẫn
chưa thực sự hiệu quả ở các bậc học. Giáo viên tuy có đổi mới (cho HS thảo
luận, phát vấn...) nhưng vẫn trên tinh thần cô định hướng, cô giảng, trò ghi bài
và học thuộc những điều cô cho ghi để đi thi. Học sinh xa rời văn bản mà chỉ
tiếp xúc văn bản qua lời bình của thầy cô, vô hình chung giáo viên đã lấy mất
đi quyền đồng sáng tạo của HS với tác giả.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin nếu được coi như một trong
những thao tác vận dụng kỹ thuật liên văn bản vào dạy học đọc hiểu văn bản
- 34 -
văn học sẽ hiệu quả hơn. Qua thực tế chúng tôi nhận thấy trong quá trình
giảng bài, đa phần GV ứng dụng công nghệ thông tin, tranh ảnh, videoclip
phóng sự, nhạc... vào bài dạy nhưng chưa đạt hiệu quả cao. Nguyên nhân là
do quan niệm chúng chỉ đơn thuần là phương tiện.
Ví dụ: Dạy đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Trích Số Đỏ của
Vũ Trọng Phụng, GV sẽ cho HS xem đoạn phim cảnh chuẩn bị đám tang hoặc
cảnh hạ huyệt. Dạy Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, GV nào cũng trình
chiếu clip bài hát phổ nhạc hoặc ngâm thơ Đây thôn Vĩ Dạ, nhưng GV cũng
chỉ đưa ra nhằm mục đích minh họa sống động không hơn không kém... Nếu
GV nắm chắc được lí thuyết liên văn bản chắc chắn việc ứng dụng công nghệ
thông tin sẽ hiệu quả hơn rất nhiều.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Qua cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài, chúng tôi nhận thấy việc
dạy các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong chương trình THPT là hoàn toàn
khả thi. Trong thời đại công nghệ thông tin, những lí thuyết nghiên cứu- phê
bình văn học mới như thuyết kiến tạo, liên văn bản... Người giáo viên cần
phải nắm vững để có những ứng dụng phù hợp hướng dẫn HS. Cách tiếp cận
tác phẩm văn học theo hướng liên văn bản sẽ phát huy khả năng liên tưởng,
tưởng tượng, năng lực giải quyết vấn đề của cả GV và HS. Các em học sinh
sẽ tự kiến tạo tri thức trong bộ não của mình. Chúng tôi mạnh dạn đề xuất dạy
các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong chương trình THPT nói riêng và dạy
các tác phẩm văn học nói chung theo hướng tiếp cận liên văn bản với mong
muốn đạt hiệu quả tốt nhất.
- 35 -
CHƢƠNG 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN
TUÂN TRONG CHƢƠNG TRÌNH THPT THEO HƢỚNG TIẾP CẬN
LIÊN VĂN BẢN
2.1. Định hƣớng dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong chƣơng
trình THPT theo hƣớng tiếp cận liên văn bản
2.1.1. Dạy học tác phẩm trong thế liên văn bản với thời đại, bối cảnh lịch
sử, hoàn cảnh sáng tác
Thời đại chính là cơ sở, là nền tảng bồi đắp nên những tâm hồn lớn,
những nhà văn, nhà thơ lớn. Mặt khác, nhà văn, nhà thơ phải biết đời sống xã
hội của thời đại, phải sống, thấu hiểu những thăng trầm lịch sử, những biến cố
để từ đó biến nó thành nguồn cảm hứng cho sáng tác của mình. Lịch sử với
những biến thiên thăng trầm của nó sẽ còn đọng lại trong tâm hồn, lối sống,
ngôn ngữ, cách ứng xử của mỗi cá nhân, chúng ta tiếp nhận nó một cách vô
thức và có ý thức. Để tiếp cận một tác phẩm văn học, người học cần nắm rõ
những ảnh hưởng của thời đại, bối cảnh lịch sử và gần hơn là hoàn cảnh sáng
tác của tác phẩm đó.
Xã hội Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ XX, những giá trị truyền
thống được định hình và phát triển trong xã hội phong kiến nay không còn là
rường cột của xã hội, niềm tin của con người bị sụp đổ trước những ảnh
hưởng của văn hóa phương Tây. Là một trí thức giàu tinh thần dân tộc,
Nguyễn Tuân đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khổ sở, có lúc bế tắc,
tuyệt vọng. Nếu như các nhà văn mới đi vào xu hướng trụy lạc, siêu thoát, thần
bí, hình thức chủ nghĩa (Vũ Hoàng Chương, Huy Cận, nhóm Xuân Thu nhã tập)
thì Nguyễn Tuân tìm hướng đi riêng cho mình: tìm cái đẹp còn sót lại từ quá khứ
với tập truyện Vang bóng một thời. Trước những cong vênh, lệch chuẩn đời
sống, Nguyễn Tuân tìm về một thế giới thanh khiết, quá khứ trở thành cõi đời
âm vọng của những giá trị tốt lành song cũng là một thế giới một đi không trở
lại. Dạy tác phẩm Chữ người tử tù, người dạy nhất định phải gắn với bối cảnh
- 36 -
lịch sử, hoàn cảnh sáng tác của văn bản này, mới có thể hiểu không khí cổ
kính mà nhà văn cố tạo ra. Giữa cái xã hội “ối a ba phèng”, nhà văn vin vào
hình tượng hào quang của người anh hùng lẫm liệt cầm đầu quân phiến loạn
chống lại triều đình - Huấn Cao - như là một phương tiện để chống lại xã hội
đương thời.
Tùy bút Sông Đà là áng văn giúp ta nhận ra hình ảnh một Nguyễn Tuân
đã trở nên mới hơn hẳn so với chính ông trước đó. Khi đã xấp xỉ ngũ tuần
người nghệ sĩ này vẫn chưa nguội tắt lòng ham mê đi đến những chân trời
mới lạ. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám, cùng hai cuộc kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ đã tác động một cách sâu sắc đến tinh thần dân
tộc vốn tồn tại mãnh liệt trong tâm hồn Nguyễn Tuân. Năm 1958, Đảng và
Nhà nước ta phát động phong trào khai hoang, phát triển kinh tế ở vùng cao,
biến những mảnh đất nơi đây thành miền đất hứa. Các văn nghệ sĩ lên các
vùng xa xôi của tổ quốc để tìm cảm hứng sáng tác theo phong trào “văn nghệ
sỹ - đi và viết”. Hàng loạt thanh niên rời bỏ quê hương nô nức, phấn khởi lên
Miền Tây nghèo khó với một tinh thần hăng hái, phấn chấn, tin yêu vào công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
“Ôi miền Tây, ở dưới xuôi sao nghe nói ngại ngùng
Mà lúc ra đi lửa trong lòng vẫn cháy
Tuổi hai mươi khi hứng đời đã thấy
Thì xa xôi mấy cũng lên đường”
(Lên Miền Tây- Bùi Minh Quốc)
Theo tác giả Trần Thiện Khanh, trong cuốn Chiều chiều, Tô Hoài kể
sau 1945 có một phong trào đi thực tế: “Tô Hoài về nông thôn dạy nông dân
đấu địa chủ. Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng… lên Điện Biên. Kim Lân
vác xà beng đi đào sông bên Bắc Hưng Hải” [20]. Mỗi nhà văn tự tìm cho
mình một hướng tiếp cận hiện thực để “phá hồn thơ”, để có cảm hứng sáng
tác. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng vác ba lô lên với Tây Bắc - mẹ của hồn thơ,
đến với cội nguồn thơ ca nghệ thuật, tiếp nhận luồng gió mới thời đại để có
- 37 -
những kiệt tác để đời. Tuy nhiên, có thể thấy, để hoàn thành tác phẩm này,
Nguyễn Tuân đã tích lũy vốn sống dồi dào, vốn kiến thức phong phú về Tây
Bắc từ rất lâu. Nguyễn Tuân đặt chân lần đầu tiên lên Tây Bắc vào năm 1948,
năm 1949 ông tiếp tục cùng Trung đoàn Thủ đô và đại đoàn 308 dự chiến
dịch sông Thao mùa hè và chiến dịch đường 4 mùa đông, sau đó hàng năm
Nguyễn Tuân lại đều đặn lên Tây Bắc, đến năm 1958, 1959 ông mới ở lại dài
ngày với các địa danh như Điện Biên, Tuần Giáo, Hoàng Liên Sơn, Lai
Châu...Đến với Người lái đò Sông Đà, khi gắn bài học với thời đại, bối cảnh
lịch sử, hoàn cảnh ra đời tác phẩm, người đọc mới có thể thực sự cảm nhận
được sự thay đổi trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Thế giới tinh thần của nhà
văn tràn ngập niềm vui, niềm lạc quan về cuộc kháng chiến và xây dựng đất
nước, về cuộc sống mới đang từng ngày, từng giờ đổi mới.
2.1.2. Dạy học tác phẩm trong thế liên văn bản với mã văn hóa trong tác
phẩm
Nguyễn Tuân là một trong số không nhiều nhà văn hiện đại Việt Nam
đã tạo được dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc bằng những tác phẩm đậm
chất văn hóa. Với kiến thức uyên bác về nhiều ngành nghệ thuật, tài năng đa
dạng, tâm hồn nhạy cảm đặc biệt là tấm lòng tha thiết với đất nước, dân tộc,
Nguyễn Tuân đã tạo nên một thế giới nghệ thuật thật độc đáo. Ở đó, thiên
nhiên, con người, tâm hồn dân tộc cùng hòa nhịp trong nhịp trầm sâu văn hóa.
Dạy học tác phẩm của Nguyễn Tuân cần phải liên văn bản với lớp trầm tích
văn hóa bao phủ quanh tác phẩm của ông là một trong những hướng khai thác
tác phẩm hiệu quả.
2.1.2.1. Truyền thống, lịch sử từ góc nhìn văn hóa
Trong các trang viết của Nguyễn Tuân, chúng ta dễ dàng nhận thấy lịch
sử được nhìn dưới lăng kính văn hóa, nhà văn dùng lịch sử để tái hiện hiện
thực nhất là các sáng tác trước Cách mạng tháng Tám - 1945. Nhà văn đã làm
sống dậy cả một bảo tàng về cái đẹp, một thế giới của những người tài tử, tài
hoa, thế giới mà họ được quyền bộc lộ hết tài năng, nhân cách cao cả của
- 38 -
mình. Tác giả Hoàng Như Mai đã nhận xét:“Mở cuốn Vang bóng một thời,
người ta tưởng như mở hai cánh cửa bước vào một nhà bảo tàng văn hóa dân
tộc, nơi đó trưng bày những hiện vật của một thời xưa”. Tình yêu quốc hồn
quốc túy dân tộc, cảm quan phương Đông cùng với cái tôi tài hoa nghệ sĩ
khiến Nguyễn Tuân tạo dựng cả một môi trường văn hóa riêng, một thế giới
lý tưởng với những giá trị cổ truyền được lưu giữ.
Hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù được lấy từ
nguyên mẫu là ông giáo thụ Cao Bá Quát dạy học đất Sơn Tây bán sơn địa sỏi
đá từ trăm năm trước. Một người anh hùng có bản lĩnh, có khí phách, đã từng
đứng về phía nhân dân, khởi nghĩa chống lại triều đình nhưng thất bại: Gặp
lúc vùng Sơn Tây bị hạn nặng, lại có nạn châu chấu làm cho mùa màng mất
sạch, đời sống người dân hết sức đói khổ. Phần thì phẫn chí, phần thì thương
dân, khoảng cuối năm 1854, Cao Bá Quát tham gia lãnh đạo (tự lãnh chức
Quốc sư) cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Lương (Sơn Tây), do Lê Duy Cự làm “Minh
chủ”, nhưng do bị bại lộ, lực lượng mỏng nên thất bại, ông bị hi sinh, vua Tự
Đức lệnh cho đem thủ cấp của nghịch Quát bêu và rao khắp các tỉnh Bắc Kỳ
rồi giã nhỏ quăng xuống sông.
Nhưng có thể thấy nguyên mẫu của xã hội xứ Đoài thời ông Huấn
(triều đại Thuận Trị, Tự Đức) thì lại chính là hoàn cảnh xã hội Việt Nam
trước mắt người đang sáng tác Vang bóng một thời. Viết truyện ngắn Chữ
người tử tù để “dĩ cổ vi kim” (lấy xưa nói nay) là một dụng ý khá rõ ràng của
tác giả: Tâm sự bất đắc chí, bất mãn, phản kháng chế độ xã hội thực dân
phong kiến đương thời.
Trong Chữ người tử tù, nhà văn còn thể hiện thái độ luyến tiếc một nhã
thú văn hoá cổ truyền đang lụi tàn dần trong xã hội thời Tây: nghệ thuật thư
pháp. Nghệ thuật Thư pháp được thể hiện bằng chữ Hán (chữ Nho), sử dụng
bút lông, mực tàu, giấy và nghiên mài mực hay còn gọi là “văn phong tứ
bảo”. Ở Nhật Bản người ta gọi nghệ thuật viết chữ đẹp là Thư đạo, ở Hàn
Quốc người ta gọi là Nghệ thư, ở Trung Quốc và Việt Nam gọi là Thư pháp.
- 39 -
Nghệ thuật Thư pháp tiếng Việt được đánh dấu từ những năm 50 - 60 của thế
kỷ XX. Chúng ta vẫn không quên hình ảnh ông Đồ trong mỗi độ tết đến xuân
về. Hình ảnh ông Đồ xuất hiện để cho chữ mọi người - nét chữ sang trọng, có
hồn và được treo gian giữa của ngôi nhà. Cái tài, cái tâm của ông Đồ già
muốn gửi gắm.“Hoa tay thảo những nét. Như phượng múa rồng bay”(Vũ
Đình Liên). Chỉ có những người có tâm sáng mới cho ra những nét bút tài
hoa. Qua nét chữ, có thể đoán được tính cách của mỗi con người. Nên khi thể
hiện chữ viết cũng cần sự tập trung để mỗi câu chữ là một lời tâm sự, sự trải
lòng mình. Những nét chữ ấy được vẽ bằng trí tuệ và những rung động của
trái tim. Mỗi chữ viết kết tụ tinh hoa và tâm huyết của người nghệ sĩ, thể hiện
nhân cách và bản lĩnh khao khát của người viết. Viết chữ đẹp là một sáng tạo
nghệ thuật, người viết chữ đẹp trở thành người nghệ sĩ. Một trong các danh sĩ
Bắc Hà về thư pháp chính là Cao Chu Thuần (1808 - 1855) được suy tôn:
“Thần Siêu, Thánh Quát” và “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán”. Một con
người có nhân cách “Một đời chỉ cúi trước hoa mai” (Nhất sinh đê thủ bái mai
hoa). Người nghệ sĩ - anh hùng trong thực tế lịch sử và lung linh trong huyền
thoại, là cơ sở để Nguyễn Tuân sáng tạo nên hình tượng nhân vật Huấn Cao
trong Chữ người tử tù. Tìm được một nguyên mẫu xứng đáng, ngòi bút lãng
mạn của Nguyễn Tuân mặc sức tung hoành. Con người tài hoa ấy chẳng
những có tài bẻ khóa, vượt ngục mà con có tài “viết chữ rất nhanh và đẹp”
nổi tiếng cả tỉnh Sơn. Bao nhiêu người trong đó có viên quản ngục đã từng ao
ước “có được chữ của Huấn Cao mà treo là một báu vật trên đời”. Thế
nhưng không dễ gì xin được chữ của ông “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc
hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ...”[10, tr.113]. Xây dựng hình
tượng Huấn Cao, nhà văn đã làm nổi bật lên một nhân cách cao vời vợi. Với
Huấn Cao ông quan niệm hành vi cho chữ là một hoạt động sáng tạo nghệ
thuật. Bởi thế cho nên chỉ khi hiểu được tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên
quản ngục, ông mới quyết định cho chữ. Cảnh cho chữ phi thường diễn ra
trong chốn ngục tù: “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có
- 40 -
tiếng mõ trên trạm canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra
trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi
phân chuột phân gián” [10, tr. 113]. Trong cảnh tượng lạ lùng này, viên quản
ngục – người nắm quyền uy, thì “Khúm núm”, tay “run run” bưng chậu mực.
Còn Huấn Cao, tên tử tù sắp bị chém đầu thì “cổ đeo gông, chân vướng
xiềng”, “đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”
ung dung, đĩnh đạc biết bao! Dường như trong giờ phút thiêng liêng ấy không
còn là người tử tù lĩnh án chém mà là một người nghệ sĩ tài ba đang dồn hết
tâm huyết vào từng nét chữ, sáng tạo cái đẹp. Động tác khoan thai, bình tĩnh
“thay bút con, đề xong lạc khoản”. Ông lắng mình trong mùi thơm chậu mực
“Thoi mực thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm của chậu
mực bốc lên không”. Ông thả hoài bão trong những dòng chữ, nét chữ tươi
tắn thể hiện cái chí của một đời ngang dọc. Mùi thơm của chậu mực hay
chính là sự tinh khiết của thiên lương con người. Có thể thấy rằng người tù đã
sống trọn vẹn với nghệ thuật cái đẹp bỏ qua cái tăm tối nhơ nhuốc, u ám của
nhà tù. Và trong giây phút sinh thành cái đẹp, hình tượng người tù uy nghi
đẹp đẽ chính là người sáng tạo ra cái đẹp.
Tác giả xây dựng một ngục quan biết nung nấu sở nguyện hết sức thánh
thiện, cao đẹp, bản thân ông ta lại biết giữ gìn đến cùng thái độ tôn kính rất
mực trước thiên lương và thư pháp kiệt xuất của ông Huấn. Với hình tượng
Huấn Cao, viên quan ngục, Nguyễn Tuân như đã cất lên khúc vãn ca đối với
một mảng văn hóa truyền thống mà đến thời của Nguyễn lại “vang bóng”
(nhiều sinh hoạt văn hoá cổ truyền đáng quý khác cũng chung số phận). Giai
điệu vãn ca ấy ngậm nghĩa oán hờn thế cục “Tây Tầu nhố nhăng” đã phạm tội
đối với văn hoá Việt.
2.1.2.2. Thiên nhiên từ góc nhìn văn hóa
Với Nguyễn Tuân thiên nhiên được coi là thế giới tinh thần, thể hiện
cảm quan của mình. Trước năm 1945, những trang viết về thiên nhiên của
Nguyễn Tuân không đơn thuần chỉ là tả cảnh mà ông viết về nó như một nhu
- 41 -
cầu được khẳng định cái tôi của mình trong xã hội. Nguyễn Tuân coi thiên
nhiên như chốn ẩn dật tinh thần, là sự thể hiện độc đáo lương tâm, trách
nhiệm của người nghệ sĩ đối với các giá trị xã hội. Được sinh ra trong gia đình
nhà Nho, những kiến thức cùng những quan niệm đạo đức của chế độ phong
kiến chắc chắn có ảnh hưởng đến Nguyễn Tuân. Ông am hiểu sâu sắc lối sống
an nhiên tự tại, tôn trọng tự nhiên của cha ông từ đó Nguyễn Tuân đã tạo cho
mình một con đường riêng để ẩn dật tinh thần, một phương thức hữu hiệu để
khẳng định nhân cách độc lập của bản ngã, bảo vệ văn hóa của riêng mình,
khẳng định sự tồn tại của mình bằng sự đối lập với xã hội đương thời.
“Nguyễn Tuân trở về với thiên nhiên là để thực hiện khao khát thoát khỏi
những tầm thường, tủn mủn của cuộc đời hiện hữu trong khi những lệch vênh,
biến dạng của các chuẩn mực trong bối cảnh văn hóa mới vẫn hiện ra trước
mắt, cụ thể, nặng nề và nghiệt ngã. Nguyễn Tuân trốn vào thiên nhiên mà vẫn
thấu nỗi đời”.[16, tr.23]. Trong Vang bóng một thời, thiên nhiên còn như một
nơi để ông bộc bạch thái độ day dứt, tiếc nuối, buồn đau của mình trước
những giá trị đẹp đẽ của cuộc đời đang mất đi. Thiên nhiên hiện lên như một
bức họa cổ đẹp, tao nhã, lãng mạn, nên thơ nhưng có màu sắc trầm, u mặc,
trong và lạnh và buồn. Đó là vầng trăng trên sông “Vừng trăng mười bốn lúc
chếch về đoài đã in một cục bóng thẫm và dài lên mặt con sông trắng và lạnh
như thỏi thiếc vừa nguội” (Thả thơ) [32, tr.35]. Hình ảnh vầng trăng trên
sông tỏa lan cùng tiếng ngâm thơ làm thành một sân khấu có sự hòa phối của
âm thanh và ánh sáng đong đầy cảm xúc trong lòng người, dường như ẩn
trong đó một sự tiếc nuối, hoài vọng. Đó còn là ánh nắng “Ánh nắng già dặn
buổi trưa nung đốt mặt cánh đồng dưới chân đồi, làm rung rinh lớp không khí
bốc từ mặt đất và giống như vệt khói nhờ nhờ, vờn qua những màu xanh bóng
loáng của một dãy xóm làng cây cối im lìm” (Những chiếc ấm đất) [33,
tr.69], sư cụ chùa Đồi Mai gửi vào đó nỗi niềm tiếc thương cho một kiếp
chúng sinh vướng phải vòng nghiệp chướng. Hình ảnh mùa mưa dầm tháng
chín trong truyện Báo oán vừa tả thật cảnh vùng quê chiêm trũng, vừa gợi nỗi
- 42 -
ai oán, buồn thương: “Mùa mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt nước mắt
triền miên than vãn của kỳ thất tịch còn sót lại mãi đến bây giờ”. Hay đó là
tâm trạng của của kẻ cảm thấy bất an trước nguy cơ vườn Túy lan vắng chủ
“Sau cái đêm dữ dội ấy, cây cỏ nơi Túy lan trang đều một loạt ủ rũ như để
tang cho người thiên cổ. Tơ liễu khóc mưa, tóc tùng reo gió, bóng tre lìa bụi,
đều ngậm một cái tình buồn trước cái hương trời lăn lóc khoảnh vườn
hoang” [33, tr.18-19]... Hay cảnh đêm trong Chữ người tử tù đầy sức ám ảnh
“Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh,
ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng
kiểng và mõ đều đặn thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm
sương, vẳng từ một làng xa đưa lại mấy tiếng chó cắn ma. Trong khung cửa
sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú,
một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời không định.
Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên
nhiều nhiều”[10, tr.109]. Cảnh thiên nhiên lạnh đến rùng mình. Đó chính là
khoảng thời gian trong những ngày trước khi ông Huấn Cao - một con người
tài hoa, khí phách hiên ngang, thiên lương trong sáng sắp phải từ biệt vũ trụ.
Viết những dòng văn ấy, dường như nhà văn thấm vào mỗi câu chữ nỗi xót
xa, tiếc nuối một anh hùng cái thế một thời. Nguyễn Tuân không bị tách ra
khỏi không gian văn hóa của mình, song ông không thể hòa hợp cùng với xã
hội đương thời, ông tìm cho mình một cõi sống khác. Sự hiện diện của thiên
nhiên trong tâm thức văn hóa của Nguyễn Tuân giúp ông tìm được cõi để giãi
bày, thể hiện tâm hồn, nhân cách của mình.
Sau Cách mạng tháng 8/1945, thiên nhiên trong văn Nguyễn Tuân lại là
môi trường sống vĩ đại, rất thực và cụ thể để ông bộc lộ tình yêu nồng nàn với
đất nước tráng lệ. Trong tâm thức văn hóa của Nguyễn Tuân, thiên nhiên là
một công trình nghệ thuật vô giá của tạo hóa. Thiên nhiên được quy chiếu
trong cảm quan thời đại gắn với cái nhìn khám phá, chinh phục. Cuộc sống
mới đang nở hoa nên những trang hoa của Nguyễn Tuân cũng dạt dào cảm
- 43 -
xúc. Dù ở giữa lòng Hà Nội, mỏm Lũng Cú, hay vùng đất mũi Cà Mau, đến
Cô Tô hay lên vùng Tây Bắc, Nguyễn Tuân đều xúc động khi khám phá được
sự kì diệu của thiên nhiên. Đến với Tây Bắc nhà văn đưa đến cho người đọc
những cảm nhận thú vị, độc đáo. Trong Người lái đò Sông Đà, sông Đà hiện
lên như một sinh thể có tên tuổi, lai lịch, đặc điểm tính cách, với những nét
hùng vũ, hoang dại, hung bạo, dữ dằn, là mối đe dọa với con người nhưng
đồng thời lại hiện lên mềm mại, dịu dàng. Hình ảnh thiên nhiên trong cái nhìn
khám phá, cách tạo hình đầy ấn tượng: cảnh đá bờ sông dựng thành vách,
quãng mặt ghềnh Hát Loóng, quãng Tà Mường Vát, thác nước....Ta còn bắt
gặp ở đó dòng chảy văn hóa tính nữ của người Việt cùng cách cảm nhận tôn
vinh vẻ đẹp phụ nữ của văn hóa phương Tây kết hợp hài hòa trong ý thức văn
hóa, trong tâm hồn nhà văn. “Con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình ,
đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo
tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”[9, tr.191]. Người đọc
được chiêm ngưỡng một dòng sông êm ái, dịu dàng, hiền hoà, thơ mộng gợi
bao cảm hứng trữ tình, cảm hứng thơ với các du khách. Con sông Đà đối với
nhà văn đã trở thành người bạn rất đỗi thân thiết, trở thành cố nhân, nên khi đi
xa lâu ngày gặp lại cảm thấy vui: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng
giòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”[9, tr.191].
Người bạn cố nhân ấy tính khí thất thường thoắt dịu dàng rồi bỗng chốc cáu
bẳn tính...Yếu tố nữ tính ấy cũng hiện diện nhiều trong những trang viết khác
của Nguyễn Tuân làm nên nét mềm mại, duyên dáng bên cạnh những nét vẽ
gân guốc, cứng cỏi.
2.1.2.3. Bài học nhân sinh từ văn hóa tiếp nhận tác phẩm
Qua mỗi một tác phẩm nghệ thuật nhà văn luôn muốn gửi gắm đến bạn
đọc một thông điệp cuộc sống. Càng là các nghệ sĩ lớn thì bài học nhân sinh
được truyền tải càng có ý nghĩa sâu xa.Với đặc trưng phản ánh cuộc sống
bằng hình tượng cảm quan sinh động và cụ thể, mang dấu ấn chủ quan của
người nghệ sĩ, văn học là tấm gương phản chiếu xã hội, là sản phẩm của sự
- 44 -
nhận thức thẩm mỹ của chủ thể sáng tạo. Hình tượng nghệ thuật chỉ có giá trị
khi nghệ sĩ dùng nó để miêu tả và bảo vệ cái đẹp, lên án cái xấu, tác động đến
cảm xúc của công chúng, định hướng thẩm mỹ và định hướng nhân cách cho
công chúng. Với ý nghĩa đó, văn học là một phương tiện quan trọng dùng ảnh
hưởng của nó hướng con người đến Chân, Thiện, Mỹ. Song để ảnh hưởng đến
mức cao nhất, văn học không thể tác động một cách chung chung, trừu tượng
mà cần tạo nên những kinh nghiệm, những tấm gương về tư cách người,
những điển hình văn học bất hủ. Arixtốt đề cao sự thanh lọc hóa tâm hồn của
con người, J.Locke nói đến sự phản tỉnh, Hêghen đề cập quá trình tự nhân đôi
của con người qua tác động của thế giới nghệ thuật. Ở đề tài này tôi muốn đi
sâu hơn vào quá trình con người tự làm mình tốt lên, hoàn thiện hơn dưới sự
tác động của văn học. “Cái đẹp cứu rỗi nhân loại” (Đôxtôiépxki), văn học đã
cứu rỗi con người.
Độc giả dễ dàng nhận thấy những bài học nhân sinh mà mà tác giả gửi
gắm ở tác phẩm Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân. Trong những giây phút
thiêng liêng của cảnh cho chữ, ta thấy có một sự thay bậc đổi ngôi, người tù
thì đường hoàng, ung dung, thanh thản trong khi viên quản ngục và thầy thơ
lại đại diện cho công lý thì lại “khúm núm”, “run run bưng chậu mực”. Đó là
những cử chỉ của sự ngưỡng vọng, thán phục , lòng kính mến, tôn thờ cái đẹp,
tôn thờ người nghệ sĩ văn hóa. Không chỉ thế, người đọc còn nhận ra những
giá trị văn hóa có sức cảm hóa khiến con người sống tốt đẹp hơn. Trong tự
thuật Nhà Nguyễn, Nguyễn Tuân khẳng định: “Đứng trước một cái chân tài
thì người khinh bạc đến đâu cũng trở nên trung hậu”. Huống chi người quản
ngục, viên thơ lại - là những người có nghĩa khí và biết trọng nghĩa khí.
Ông Huấn được ngợi ca ở cả cái tài và cái tâm. Cái tâm của ông Huấn rực
rỡ, chiếu sáng lên toàn bộ cuộc đời ông, chi phối hành động lớn nhỏ của ông.
Trong đời thường, trừ chỗ tri kỉ, ít khi ông cho chữ. Ông cho chữ viên quản
ngục không phải để trả ơn người đã biệt đãi mình, đã dâng rượu thịt cho mình
trong những này ảm đạm cuối cùng. Ông cho chữ viên quản ngục vì cảm
- 45 -
động và trân trọng một nhân cách cao quý: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn
liên tài của các người...”[10, tr.113]. Với Huấn Cao việc phụ một tấm lòng
trong thiên hạ là điều không thể tha thứ cho mình được. Ông đã đem tấm lòng
tri âm để đáp lại một bậc tri kỉ. Một lẽ sống hiện ra: Sống là phải xứng đáng
với những tấm lòng, phụ một tấm lòng cao đẹp của người khác là không thể
tha thứ.
Trong giây phút cuối của đời mình ông dành thời gian viết chữ tặng viên
quan ngục. Ta xúc động trước những lời khuyên chân thành của Huấn Cao
“ta khuyên thầy quản nên chuyển chốn ở đi, chỗ này không phải là nơi để
treo một bức lụa trắng... cái đời lương thiện đi”[10, tr.114]. Lời khuyên ấy
cùng với tấm lụa trắng, dòng chữ kia, ánh sáng từ thiên lương Huấn Cao đã có
sức soi rọi, tỏa sáng, viên quản ngục, thấy thơ lại trong phút chốc bừng tỉnh,
như được giáo hóa. Cái phần thiện, phần tốt đẹp, những thanh âm trong trẻo
bấy lâu nay bị khuất lấp, trong giây phút đặc biệt này được khơi gợi, bừng
sáng lên. Ta hiểu sau cái cúi đầu vái tạ và giọt nước mắt kia thì viên quản
ngục và thầy thơ lại chắc chắn sẽ tìm được cái đời lương thiện. Cảnh cho chữ
đâu phải là một cảnh cho chữ bình thường mà là một cuộc thọ giáo thiêng
liêng, một cuộc chuyển giao nhân cách. Ánh sáng văn hóa, ánh sáng cái đẹp
đã làm rung động, cải tạo những gì đang vươn tới nó.
Huấn Cao là một hình tượng đẹp với bóng dáng lồng lộng, đầy khí
phách và tài hoa trong tác phẩm của Nguyễn Tuân. Xây dựng nhân vật Huấn
Cao - một người vừa có tài, vừa có tâm, hiên ngang bất khuất trước cái ác, cái
xấu nhưng mềm lòng trước cái thiện, cái đẹp, Nguyễn Tuân thể hiện quan
điểm thẩm mĩ của nhà văn. Với ông, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời
nhau, một nhân cách đẹp bao giờ cũng là sự thống nhất giữa cái tâm và cái tài.
Đây là một quan điểm thẩm mĩ tiến bộ.
Một nhân vật hướng thiện không thể không nhắc đến chính là viên quản
ngục. Tuy không là nghệ sĩ, không làm nghệ thuật, lại chọn nghề tiểu lại giữ
tù nhưng viên quản ngục là người có tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt ham mê thư
- 46 -
pháp, biết quý trọng cái đẹp cái tài. Trước khi là quản ngục, ông ta cũng là
người đèn sách, “biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền”. Là người lương thiện,
tử tế, lại có chữ thánh hiền bồi đắp cho “thiên lương” nảy nở tốt đẹp, ông ta
yêu đến say mê cái đẹp. Sống trong cảnh đề lao - nơi ngự trị của bóng tối, cái
ác, cái xấu, viên quản ngục vẫn ôm ấp trong lòng mình một sở nguyện "là có
một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn
Cao viết". Một nhân vật đáng quý được Nguyễn Tuân coi là “một thanh âm
trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”.
Cùng với thầy thơ lại, viên quản ngục được xây dựng vừa tô đậm vẻ đẹp lí
tưởng, lung linh như huyền thoại của Huấn Cao vừa thể hiện vẻ đẹp của một
con người được cái thiện dẫn đường, mong muốn một hi vọng không lầm
đường lạc lối. Qua nhân vật, nhà văn muốn gửi gắm quan niệm về con người
và cái đẹp. Theo Nguyễn, trong mỗi con người đều có một người nghệ sĩ, đều
ẩn chứa tâm hồn yêu cái đẹp, cái tài; mỗi con người đều có thiên lương và
phần thiên thần. Nhà văn cũng cho rằng: Có khi, có lúc, cái đẹp tồn tại trong
môi trường của cái ác, cái xấu, nhưng nó không vì thế mà lụi tàn, trái lại, nó
càng mạnh mẽ và bền bỉ.
Tùy bút Người lái đò Sông Đà lại mang đến cho ta niềm tin về sức
mạnh của người lao động, những con người bình dị mà Nguyễn Tuân gọi là
“chất vàng mười đã qua thử lửa” của mảnh đất Tây Bắc. Ông đò hiện lên với
vẻ đẹp trí dũng, thông minh, dũng cảm, tài ba, là một tay lái ra hoa trên dòng
sông Đà. Con người có sức mạnh của ý chí, nghị lực phi thường có thể vượt
qua những phong ba bão táp của cuộc đời. Hình ảnh ông đò trong trận chiến
trên sông Đà đem đến cho người đọc cảm hứng yêu đời, tin yêu cuộc sống.
Dù cuộc đời không bằng phẳng nhưng nếu có ý chí, chúng ta sẽ vượt qua một
cách êm đẹp, chinh phục thử thách cũng chính là một cách để khẳng định
mình. Sông Đà bài binh bố trận thử thách lòng người. Khi sông Đà tung ra
miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng
đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn
- 47 -
không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền
vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết
thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng
sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Ông lái đò chỉ
có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường
như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái.
Ông lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm
thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn
lao, kì vĩ, trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên
cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh hung bạo của thiên nhiên.
Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc mà nhà văn
Nguyễn Tuân kiếm tìm.
2.1.3. Dạy học tác phẩm trong sự liên văn bản với văn bản văn học, văn
bản thuộc các loại hình sáng tác khác
Việc đọc liên văn bản luôn đòi hỏi, kích thích sự sáng tạo của độc giả,
người GV cần tạo cho HS nhu cầu tìm hiểu tính liên văn bản bằng cách tự làm
giàu vốn sống của mình. M.Foucault- một nhà lý thuyết gia từng nhấn mạnh:
“Những biên giới của một cuốn sách không bao giờ rõ ràng[...] thực chất,
cuốn sách bị trói chặt vào một mạng nhện các trích dẫn từ nhiều cuốn sách
khác, những văn bản khác, hay những dòng văn lắng lại trong ký ức thu nhận
được, trong nhiều quá trình đọc trước đây” (Dẫn theo Nguyễn Minh Quân)
[29].Trong khi đó, theo lý thuyết liên văn bản quan niệm văn bản đã được mở
rộng, không còn giới hạn trong sách vở mà được thể hiện dưới nhiều hình,
nhiều loại hình khác nhau: hội họa, điện ảnh, điêu khắc, âm nhạc…Chúng ta
thấy rõ ràng, mỗi văn bản tồn tại trong sự liên hệ với văn bản khác, có thể
xuất hiện trước đó hoặc cùng thời và thực tế thì văn bản lệ thuộc vào những
văn bản khác còn nhiều hơn vào chính người tạo ra nó. Với hai tác phẩm của
Nguyễn Tuân được dạy trong chương trình, nếu tinh ý chúng ta dễ dàng nhận
thấy tính liên văn bản này.
- 48 -
2.1.3.1. Liên văn bản với sự hiện diện một văn bản hay nhiều văn bản trong
văn bản
Trong Người lái đò Sông Đà ở lời đề từ của tùy bút, nhà văn đã mượn
câu thơ mang cấu trúc cảm thán để bộc lộ những xúc cảm đang trào dâng
mãnh liệt trong lòng: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông” (Wladyslaw
Broniewski- Ba Lan). Nguyễn Tuân muốn ca ngợi Sông Đà như một công
trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa đã ban tặng cho con người. Và bài tùy
bút này của ông cũng như một công trình nghệ thuật ngôn từ - một sáng tạo
độc đáo tài hoa mà Nguyễn Tuân tặng lại cho đời. Đồng thời, cũng ngay từ
đầu tác phẩm tác giả đã gợi dẫn lại hai câu thơ Nguyễn Quang Bích: “Chúng
thủy giai đông tẩu. Đà giang độc Bắc lưu”. Khi tất cả dòng sông đều chảy về
hướng đông, riêng con sông Đà lại chảy về hướng Bắc. Nguyễn Tuân muốn
bộc lộ sự uyên bác tài hoa của mình: dùng văn thơ nhìn con sông như một nhà
địa lí để thấy được hướng chảy của nó. Một con sông đầy cá tính gặp một nhà
văn phong cách cũng rất lạ mà Nguyễn Đăng Mạnh đã đóng đanh trong một
chữ “ngông” và trên diễn đàn văn chương Việt Nam xuất hiện những áng văn
tuyệt bút viết về sông nước. Nguyễn Tuân tìm về với dòng sông của câu đồng
dao thần thoại “Núi cao sông hãy còn dài- Năm năm báo oán đời đời đánh
ghen”. Trong ánh mắt của mọi người từ xa xưa dòng sông Đà hung bạo dữ
dằn, đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc, phản ứng
giận dữ vô cớ với người lái đò sông Đà. Nhưng dưới con mắt của người nghệ
sĩ tài hoa Nguyễn Tuân thì hung bạo dữ dội cũng là một nét đẹp riêng biệt của
dòng Đà giang, của mảnh đất Tây Bắc bên cạnh vẻ thơ mộng trữ tình. Vẻ đẹp
ấy gợi cho ta nhớ đến con đường hành quân Tây Tiến “Dốc lên khúc khuỷu,
dốc thăm thẳm- Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” dữ dằn, đáng sợ,
nguy hiểm nhưng lại cũng rất mềm mại, nên thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa
khơi”(Tây Tiến- Quang Dũng).
Đến với sông Đà trong văn Nguyễn Tuân, người đọc không thể nào
quên được những hình ảnh hung bạo, dữ dội của sông Đà: cảnh đá bờ sông,
- 49 -
dựng vách thành, quãng mặt ghềnh Hát Loóng, những hút nước tại quãng Tà
Mường Vát...Đặc biệt khi mô tả sông Đà với “diện mạo và tâm địa của kẻ thù
số 1” Nguyễn Tuân dành hẳn một đoạn văn dài tả mặt đá “nhăn nhúm ngỗ
ngược” cách bố trí trận địa “ba hàng” “tiền vệ” “hậu vệ” (như trong bóng đá)
boongke pháo đài (quân sự). Nhà văn đã vận dụng những kiến thức về quân
sự, võ thuật, địa lí, thậm chí cả điện ảnh... cùng những câu văn ngắn, nhiều
động từ, nhiều thanh trắc để cuộc chiến của ông lái đò và thác dữ sông Đà
hiện lên sống động trên trang sách. Liên tưởng về âm thanh cũng là nét độc
đáo của Nguyễn Tuân khi gợi lên không khí của trận thủy chiến: Tác giả dùng
tri thức về âm nhạc với bản hợp âm náo loạn, kinh khiếp của thác dữ: “Tiếng
nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu
khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”[8, tr.187]… Ta
nghe như có ánh lửa bùng bùng như trận Xích Bích (trong Tam Quốc) hoặc
gợi cách đánh của Khổng Minh - Mạnh Hoạch dùng hoả công tạo được một
không gian nghệ thuật cho tác phẩm. Khi miêu tả trận chiến Nguyễn Tuân
chia ra làm ba keo đấu giữa con người với dòng sông. Trước khi vào trận là
màn xưng tên tuổi như kiểu giao chiến trong truyện Trung Hoa. Ta như đang
xem trận đấu võ tự do xem đấu vật: có đá thúc gối vào bụng và hông có
miếng hiểm độc của võ vật như “bóp hạ bộ” (đòn cấm trong võ vật) đòn tỉa
đòn âm. Hoặc vòng thứ hai hình ảnh cưỡi lên ngọn sóng hùm beo của ông đò
gợi ta liên tưởng đến hình ảnh Triệu Tử Long ở trận Đương Dương một mình
xông trận cứu A Đẩu... Nguyễn Tuân nhìn thấy sự hung bạo của con sông Đà
không chỉ tập trung ở thác dữ, ở luồng chết, ở vực xoáy. Ông còn nhìn thấy sự
hung bạo ấy ở những quãng sông huyền bí, hoang vu đặt giữa điệp trùng của
núi rừng Tây Bắc. Miêu tả sự hung bạo của Sông Đà, cũng chính là thừa nhận
đó là một dòng sông có nhiều tiềm lực mà con người có thể khai thác. Trong
bài Bài ca mùa xuân 1961, Tố Hữu cũng đã viết:
"Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy
- 50 -
Hỏi đâu thác nhảy cho điện xoay chiều"
Hơn hai thập kỉ sau lúc tác giả viết kí Sông Đà thì dòng sông Đà đã
dần bị chinh phục để có được ánh sáng rực rỡ hôm nay trên cả nước. Sông Đà
hiện lên là một sinh thể có tính cách và cả ngôn ngữ. Vẻ hung bạo ấy là nét
riêng của sông Đà mà không dòng sông nào trên mảnh đất Việt Nam có được.
Ngòi bút của Nguyễn Tuân còn tập trung vào để miêu tả cái vẻ đẹp
lãng mạn, thơ mộng của dòng sông Đà, nhất là đoạn sông ở phần hạ lưu. Một
Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân thơ mộng, lãng mạn, trữ
tình, vô cùng kiều diễm. Nguyễn Tuân cảm nhận con sông Đà như một áng
tóc của người thiếu nữ vô cùng lãng mạn, trữ tình, mĩ lệ “con Sông Đà tuôn
dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo
đốt nương xuân”[9, tr.191]. Những câu văn khiến ta liên tưởng mái tóc chị
Hoài (trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân từng có một tập tùy bút
Tóc chị Hoài ông say sưa miêu tả mái tóc đẹp của người thiếu nữ: “Chị Hoài
mỗi lúc vừa nằm xuống rất nhẹ nhàng thì cả một mớ tóc trần cuốn rất chắc ấy
đổ tung xuống như một trận mưa rào đen nhánh. Rồi mớ tóc mây dài như một
sải rưỡi ôm lấy gáy, ấp lấy bả vai”. [33, tr.93]. Ông ca ngợi mái tóc đẹp của
một người phụ nữ đẹp như là tiêu chuẩn của cái đẹp). Vẻ đẹp mềm mại ấy nay
được gắn với dòng sông Đà nó mới thân thương, gần gũi biết bao. Nguyễn
Tuân chủ yếu sử dụng kiến thức du lịch, kiến thức lịch sử, kiến thức văn học
với câu văn vươn dài ra như nhịp chèo khoan thai của thuyền tôi trôi trên sông
Đà. Có đến mười bốn câu văn Nguyễn Tuân kết thúc toàn với thanh bằng để
tạo cảm giác mênh mang mềm mại. “Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu
nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”[9, tr.192],
gợi ta nhớ đến cuộc chia tay của Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên giữa mùa hoa
khói “Giữa màu hoa khói Châu Dương xuôi dòng” (Hoàng Hạc lâu tống
Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng) - Lý Bạch. Những áng thơ Đường thi
được nhà văn trích dẫn đem đến cho người đọc cảm giác chìm đắm vào không
- 51 -
khí cổ kính, Đường thi, nhưng không mang nỗi buồn của cảnh chia tay của
những người bạn cố nhân, mà lại mang niềm thú vị tinh nghịch, câu văn như
ngậm thơ, ngậm họa.
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ...”[9,
tr.191]. Rõ ràng ta có thể thấy đây chẳng khác nào những câu thơ rất đẹp viết
bằng văn xuôi, cứ nhẹ nhàng, sâu lắng và cả một chút dư ba. Một không gian
nghệ thuật “lặng tờ” như ru “ông khách Sông Đà” vào giấc mộng phiêu du.
Cái ý “lặng tờ” được nhấn đi nhấn lại như ướp hương rừng gió núi vào hồn
người mà lắng nghe, mà cảm nhận, mà thưởng ngoạn. Ngược thời gian một
thiên niên kỉ về trước, hai tiếng “lặng tờ” dẫn người đọc trở về với “mấy trăm
năm thấp thoáng mộng bình yên” ( Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm). Đã
có cái “phẳng lặng tờ” của con sông trong cổ thi: “Trắng xóa tràng giang
phẳng lặng tờ” nên mới có cái “lặng tờ” êm như ru của sông Đà mà Nguyễn
Tuân cảm mến. Nó đã làm tiền đề để từ trong sâu thẳm tâm hồn của mình,
người nghệ sĩ tài ba Nguyễn Tuân xuất thần hai câu văn đẹp như một điệp
khúc của thơ ca: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên
như một nỗi niềm cổ tích”.[9, tr.191]. Đó chính là những vần thơ rất đẹp mà
Nguyễn Tuân đã đề lên sóng nước sông Đà. Ta có cảm giác như đoạn thơ
như bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi. Ta ngỡ ngàng như gặp lại phong cách
nghệ thuật này trước cách mạng ta chỉ có ở nhà văn Thạch Lam với lối viết
truyện không mâu thuẫn, không kịch tính, không gay cấn, truyện như một bài
thơ trữ tình viết bằng văn xuôi.
Nguyễn Tuân đã chọn câu thơ hết sức trữ tình của nhà thơ quê hương
sông Đà, sống hết lòng với sông Đà: Câu thơ của Tản Đà “Dải sông Đà bọt
nước lênh bênh- Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “Một người tình nhân
không quen biết”. Một tứ thơ xưa đọng lại nơi quãng sông càng làm tăng chất
thơ. Chưa có thi sĩ nào viết nhiều và viết hay về núi Tản sông Đà như Nguyễn
Khắc Hiếu. Nguyễn Tuân coi sông Đà là “cố nhân”, nên lấy thơ thi sĩ Tản Đà
mà ngâm vịnh, mà ngắm cảnh đẹp Đà giang, hỏi có còn nhã thú nào bằng?
- 52 -
Tản Đà có 3 bài thơ trường thiên cùng chung một giọng điệu: Thư đưa người
tình nhân không quen biết (1918), Thư trách người tình nhân không quen biết
(1921), Thư lại trách người tình nhân không quen biết (1926). Nguyễn Tuân
chỉ trích 2 câu trong bài thơ thứ hai, trích 2 câu hay nhất, đích đáng nhất, lại
vừa hợp cảnh, hợp tình. Việc trích dẫn thơ Tản Đà ở đây còn mang một ý
nghĩa “tri âm”. “Rượu ngon không có bạn hiền” để cùng nhau “đối tửu”, mơ
màng tâm tình và thưởng ngoạn “dải sông Đà bọt nước lênh bênh...”. Nhờ
vậy, đoạn văn bỗng dậy lên hơi thở nồng ấm, quấn quýt của tình người, tình
yêu. Câu thơ ấy hòa với những câu văn đẹp như thơ của Nguyễn Tuân đã “đề
thơ” vào sóng nước Đà giang như khẳng định sự tồn tại của một sinh thể có
hồn, coi sông Đà như một bạn đồng hành? Thế là bao nhiêu những vần thơ
của các bậc tao nhân mặc khách chợt ùa về trong tâm hồn của nhà văn
Nguyễn Tuân. Tình đã nồng cho nên những câu văn tiếp theo chất chứa cảm
xúc “nhớ thương”, “lắng nghe những giọng nói êm êm”. Những câu văn đẹp
như những vần thơ ấy cứ sống mãi trong tâm trí người đọc.
Dạy truyện ngắn Chữ người tử tù, người dạy có thể dễ dàng nhận thấy
một hệ thống từ Hán Việt, văn liệu cổ được sử dụng một cách nhuần nhị, hài
hòa. Có lẽ trong nền văn học hiện đại Việt Nam, chúng ta sẽ còn rất khó khăn
để tìm kiếm một nhà văn đặc biệt như Nguyễn Tuân, người biết sử dụng khéo
léo vốn quí của dân tộc và nhân loại để tạo nên vẻ đẹp trang trọng và sự uyên
bác cho ngôn ngữ nghệ thuật của mình. Khi dạy truyện ngắn này, ta có thể
liên văn bản ngay đến bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên khi nói đến nghệ
thuật thi pháp, nói đến tài viết chữ đẹp của Huấn Cao “Chữ ông Huấn Cao
đẹp lắm, vuông lắm”. Người xưa nói trong văn có nhạc có họa, điều đó đúng
với truyện ngắn này. Chính nhà văn Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại
khẳng định các cảnh tượng đất trời và đời sống trong Vang bóng một thời là:
“Có thể làm đầu đề cho những họa sĩ nào ưa vẽ những cảnh đặc Việt Nam”
[37, tr.384]. Ví như đoạn vào truyện: “Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt
đầu thu không.[...] Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen
- 53 -
thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn
trụt xuống phía chân giời không định. Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống
thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu thanh âm phức
tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn
từ biệt vũ trụ”[10, tr.109]... Một đoạn văn mà như “vẽ trước mắt người đọc
một họa phẩm bay bướm tài hoa”, “mỗi câu văn như nốt nhạc trầm bổng
trong một bản đàn, tạo nên âm hưởng u hoài, ngân vang trong lòng người
đọc " [37, tr.411]. Đặc biệt cảnh cho chữ được tạc dựng bằng nghệ thuật điện
ảnh, hội họa, điêu khắc... Mỗi hình ảnh hiện lên sống động trong lòng người
đọc. Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một
đoạn phim quay chậm. Ống kính điện ảnh tài hoa đầu tiên từ bao quát toàn
cảnh trại giam tỉnh Sơn đến cận cảnh là buồng giam ông Huấn, từ từ lướt qua
cảnh chật chội, tối tăm, bẩn thỉu của buồng giam, một bó đuốc tẩm dầu rồi thu
hẹp lại quay ba mái đầu chụm lại trên từng con chữ. Cuối cùng là quay cận
cảnh từng người, từng chi tiết một. Thủ pháp điện ảnh đã góp phần đắc lực
thể hiện “cái đẹp cứu rối thế giới”. Bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật
kết hợp ngôn ngữ Hán Việt, hình ảnh cổ kính tạo không khí cổ xưa. Bút pháp
dựng cảnh, dựng người, thủ pháp tương phản đạt đến độ điêu luyện, hình ảnh
Huấn Cao hiện lên như khắc như tạc trước mắt người đọc.
Hai chữ “thiên lương” dùng trong truyện ngắn giúp ta liên văn bản với
các tác phẩm của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Cả Nguyễn Tuân và Tản Đà
cùng quan niệm: cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiên lương. Con người
được gọi là đẹp thì trước hết phải có thiên lương. Cái thiên lương ấy, cái
lương thiện thiên phú ấy, vốn được tạo hóa ban cho cùng với hình hài sơ sinh
của con người, và con người phải gìn giữ nuôi lớn nó. Trong Khối tình Tản
Đà cho rằng “loài người hơn loài khác cái thiên lương”. Ông nhận xét về giá
trị của thiên lương đối với con người một cách hóm hỉnh mà sâu sắc: “Thế
giới mỗi ngày được tiến hoá là nhờ có thiên lương của những người hơn
người; những người được hơn người là nhờ có thiên lương hơn người”. Với
- 54 -
Nguyễn Tuân thiên lương là cái đáng quý trọng nhất của con người “Đối với
Nguyễn Tuân, cho dù hình sắc có hoàn hảo đến đâu mà tâm hồn không sáng,
thiên lương không lành vững thì cũng không thể coi là đẹp được”. Hai chữ
thiên lương ấy hiện rõ ở hai nhân vật Huấn Cao, viên quản ngục (Chữ người
tử tù). Hành động “vái tên tù một vái” của viên quản ngục là cái cúi đầu cao
cả, làm nên nhân cách con người. Trân trọng thiên lương, Nguyễn Tuân còn
nhắc đến trong nhiều tác phẩm của mình như: Ông huyện Thạch Thành (Gỡ
cái vạ vịt) và cụ Thượng (Đèn đêm thu) cũng là những con người đáng trọng.
Ông viết về vẻ đẹp tâm hồn của họ với niềm vui, phấn khởi nhận ra con
người với vẻ đẹp của thiên lương không thể bị vẩn đục vì hoàn cảnh tăm tối.
Hình ảnh Huấn Cao trong cảnh cho chữ gợi ta nhớ đến Giăng Van-
giăng trong Người cầm quyền khôi phục uy quyền - đoạn hay nhất của bộ tiểu
thuyết Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô. Trong đó kẻ có quyền bắt
bớ, đánh đập, xúc phạm con người một cách không thương tiếc là thanh tra
mật thám Gia-ve đã bị khuất phục trước ánh sáng của chủ nghĩa nhân đạo, của
ánh hào quang tỏa ra từ Giăng Van-giăng, người hắn truy tìm bao lâu nay.
Một sự thay bậc đổi ngôi chưa từng thấy đã diễn ra trong nhà ngục tỉnh Sơn.
Hai cảnh tượng giống nhau và khác ở bản chất của Gia-ve và quản ngục.
Chúng ta thấy rõ trước ánh sáng của cái đẹp, cái cao cả, cường quyền cũng bị
khuất phục, cái đẹp đăng quang và “cứu vớt con người” (Đôt-xtôi-ep-xki)
2.1.3.2. Dạy học tác phẩm trong thể liên văn bản mở rộng trường liên tưởng
cùng chủ đề văn bản
Dạy truyện ngắn Chữ người tử tù người dạy có thể liên văn bản với đề
tài người tài hoa nghệ sĩ trước cách mạng trong sáng tác của Nguyễn Tuân
và các tác giả khác. Chữ người tử tù là truyện ngắn tiêu biểu cho tập truyện
Vang bóng một thời - một tác phẩm viết về đề tài: Cái Đẹp đến nay chỉ còn
“vang bóng”. Truyện ngắn có cùng chung mạch cảm hứng viết về những
người tài hoa, nghệ sĩ, cái đẹp quá khứ. Văn Tâm đã rất có lí khi cho rằng:
Nguyễn Tuân đã “làm cái việc của một người khơi lại đống tro tàn của dĩ
- 55 -
vãng, tìm lại cái đẹp của ngày qua đã một thời vang bóng”.[34, tr.382].
Người ta có cảm tưởng Nguyễn Tuân đang vẽ lên một bức tranh thuỷ mặc về
những con người đang đi lượm lặt những nhành hoa cuối mùa để chống lại xã
hội Âu hoá, cái xã hội đang huỷ hoại nền văn hoá cổ truyền của dân tộc.
Nguyễn Tuân là một nhà văn có cái Tôi độc đáo, khác người. Ông chịu
ảnh hưởng của nhiều luồng tư tưởng khác nhau. Về triết học, ông ảnh hưởng
của triết học Niezsche về quan niệm con người siêu đẳng, về văn học, ông ảnh
hưởng của nhà văn Pháp A.Gide khi đề cao vai trò của cá nhân với cộng đồng
xã hội, trong quan điểm về cuộc đời và con người, Nguyễn Tuân tiếp cận tư
tưởng Lão Trang một cách sâu sắc và ảnh hưởng từ người cha - cụ Tú kép
Nguyễn An Lan xem cuộc đời như một cuộc chơi. Trước cách mạng, trước
những biến cố thời cuộc, sóng gió cuộc đời, nhân vật chính trong các sáng tác
của Nguyễn Tuân chủ yếu là các nhà nho cuối mùa, lớp người tài hoa tài tử
nhưng “sinh lầm thế kỉ” lạc lõng giữa cuộc đời. Bên cạnh lớp nhà Nho sống
thanh bạch nhàn nhã trầm tĩnh, ông quan tâm nhiều hơn đến lớp người tài hoa,
nghệ sĩ - kiểu nhân vật này như tấm gương phản chiếu chính người nghệ sĩ tài
hoa Nguyễn Tuân. Biết yêu quý cái đẹp, luôn tìm cái đẹp trong mọi ngóc
ngách của đời sống đã trở thành mục đích trong suốt cuộc đời cầm bút của
nhà văn. Trong truyện Đánh thơ, ông kể về cuộc sống của Mộng Liên, Mộng
Huyền, Mộng Thu: “Bằng cái sắc, bằng tiếng ca, bằng tài tiểu xảo, bằng cái
duyên lúc kín đáo, lúc lộ liễu, ba người đàn bà đẹp đã thừa tô điểm cho xứ
Huế trong một thời”[33, tr.47]. Những kẻ sống bằng tình yêu nghệ thuật đã
tiêu tan cả cơ nghiệp, cả đời mình vào giọng hát, tiếng đàn, vào thanh sắc
cuộc đời. Trong Chiếc lư đồng mắt cua, Nguyễn Tuân đã kể về cuộc sống
của những kiếp tài tử, giang hồ như nhân vật Tôi, ông Thông Phu, cô Đào
Tâm… Họ là những con người tài hoa, lỡ bước sa chân vào cuộc sống trụy lạc
nhưng bản chất là những lương thiện và khao khát có một cuộc sống tốt đẹp.
Những con người ấy có tài, trọng tài và trọng tình, yêu quý cái nếp thanh cao,
đẹp đẽ của mình, những con người đã tạo ra “Cái đạo của người tài tử”, sống
- 56 -
hết mình vì nghệ thuật. Nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù hiện lên
với cả ba vẻ đẹp của Tài, Dũng, Tâm.
Cùng viết về đề tài người tài hoa có nhân cách, GV có thể liên văn bản
với các văn bản văn học trong chương trình phổ thông như với hình tượng
nhân vật Ngô Tử Văn trong Chuyện chức Phán Sự đền Tản Viên (Nguyễn
Dữ) “Kẻ sẽ không lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của
trời”, dù bản thân có phải chịu thiệt thòi nhưng quyết làm theo lẽ phải, chiến
đấu đến cùng bảo vệ quyền lợi cho người tốt, trừ hại cho dân. Cũng có thể
liên văn bản với hình tượng Vũ Nhƣ Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
(Nguyễn Huy Tưởng), cả Vũ Như Tô và Huấn Cao đều là những người nghệ
sĩ tài năng, tâm huyết, tạo ra cái đẹp, có khát vọng cống hiến cho đời, có khí
phách, ngạo nghễ trước cường quyền. Họ đều có một số phận bi kịch không
được trọng dụng tài năng trong một xã hội phong kiến thối nát. Qua nhân vật,
mỗi nhà văn bộc lộ quan điểm của mình về cái đẹp, mối quan hệ giữa nghệ
thuật và cuộc đời. Cùng đặt trong trường liên tưởng ấy, GV có thể dẫn dắt
giới thiệu về nhân vật Lorca trong Đàn ghita của Lorca (Thanh Thảo) mà các
em sẽ được học trong chương trình lớp 12. Một nghệ sĩ tài năng, một chiến sĩ
cách mạng vĩ đại của đất nước Tây Ban Nha đã anh dũng hi sinh trước âm
mưu của bọn phản động phát xít Phrăngcô. Cũng có thể mở rộng liên văn bản
cùng văn học giai đoạn này (1930- 1945) có nhiều nhà văn viết về lớp người
cũ này bằng nhiều cách tiếp cận và thế giới quan đa dạng như: Nhà Nho (Chu
Thiên), Thanh đạm (Nguyễn Công Hoan), đặc biệt là tiểu thuyết Lều chõng
(Ngô Tất Tố). “Trong tác phẩm của mình, Ngô Tất Tố đứng trên lập trường
của một nhà văn hiện thực phê phán đã ném ra một bức tranh màu xám với
những đường nét tối sẫm về chế độ khoa cử mục nát dưới triều Nguyễn, đồng
thời miêu tả tấn bi kịch đau xót của những nhà nho có tài trong xã hội phong
kiến” [26, tr.55]. Nhưng rõ ràng nhà văn Nguyễn Tuân đã tạo dấu ấn độc đáo
khi viết Chữ người tử tù, người đọc thực sự cảm thấy sống lại trong bảo tàng
- 57 -
cái đẹp, ngưỡng mộ trước những con người có nhân, trí, dũng, trước những vẻ
đẹp thời “vang bóng”.
Khi dạy Người lái đò Sông Đà giáo viên có thể LVB với các tác phẩm
có cùng chủ đề ngợi ca công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta dễ
dàng nhận thấy một tình yêu quê hương xứ sở nồng nàn tha thiết, dù lúc sông
Đà hung dữ hay lãng mạn. Ông đã kì công để chứng minh Đà giang không
phải là sông đen như cái tên Tây láo lếu thực dân Pháp đặt cho dòng sông Đà
“Mùa xuân nước sông Đà xanh màu xanh ngọc bích”. Mỗi độ xuân về, nước
sông lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Ông nhìn
sông Đà như một cố nhân, một người tình chưa quen biết. Tình yêu nồng nàn
ấy ông gửi gắm vào vào thiên nhiên Tây Bắc giống như nhà thơ Chế Lan Viên
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”. (Tiếng hát con tàu)
Tình yêu ấy ông dành trọn vẹn hơn cho con người Tây Bắc. Ông lái đò
không phải là một tay lái đơn thuần mà còn là một tay lái ra hoa. Để chinh
phục được con sông Đà hung bạo, ông đò Lai Châu đã bộc lộ mình là một
người có tính cách phi thường như “chim hải âu chỉ quen đối đầu với sóng
dữ”. Ông chỉ thích lướt sóng lướt thuyền trên đoạn thác dữ. Ông cũng đã từng
tâm sự: “Lái thuyền trên dòng sông Đà ở quãng sông không có sóng rất dễ dại
chân tay và rất dễ buồn ngủ”. Mười năm đối với đời của một con người không
phải thời gian dài. Thế nhưng trong suốt mười năm ấy, ngày nào ông cũng
phải cưỡi thác sông Đà như cưỡi hổ, phải đối mặt với những trùng vi thạch
trận; ngày nào ở nơi ấy ranh giới giữa sự sống và cái chết cũng vô cùng mỏng
manh. Như vậy, một người thích đương đầu với sóng gió, thích đương đầu với
gian khổ hi sinh, ông đò Lai Châu thực sự là một con người có tính cách phi
thường, một trí nhớ siêu phàm, khỏe mạnh, khéo léo. Trong trận chiến trên
sông Đà, ông lái đò hiện lên dũng mãnh như một dũng tướng thuở xưa. Cuộc
- 58 -
chiến giữa ông đò và thạch trận Sông Đà không chỉ về sức mạnh mà quan
trọng hơn đó còn là cuộc đấu trí nên đòi hỏi nắm chắc quy luật phục kích binh
pháp để phá trận khiến người đọc có thể liên tưởng bát quái trận đồ Khổng
Minh. Ông thực sự là người nghệ sĩ trên sông nước. Lái thuyền trên dòng
sông Đà hung bạo, tay lái của ông vẫn ra hoa nhưng điều quan trọng mà ta
cần phải bàn đến đó là ông chính là bông hoa đẹp trong vườn hoa xã hội chủ
nghĩa. Có lẽ đây là bức chân dung chân thực nhất về vẻ đẹp của con người
mới XHCN, những con người sống rất âm thầm, giản dị, sẵn sàng trở thành
một hậu phương lớn của một miền Bắc để sau này chi viện cho tiền tuyến lớn
ở miền Nam thành đồng Tổ quốc. Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân tìm thấy chủ
nghĩa anh hùng ngay trong đời của những người dân bình thường thời hiện
đại, ông viết nhiều về anh bộ đội, chị dân quân, anh du kích... Đó là những
con người anh hùng ngay trong đời bình thường, những con người rất bình dị.
Ông đò Lai Châu là một nhân vật như vậy - một con người bình thường như
muôn nghìn người dân Tây Bắc khác. Nhân vật ông lái đò gợi cho ta liên
tưởng tới anh thanh niên không tên trong Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành
Long. Nhân vật này chỉ hiện ra trong chốc lát ghi nhận lại một ấn tượng, một
ký họa chân dung về anh rồi dường như anh lại khuất lấp vào trong mây mù
bạt ngàn và cái lặng lẽ muôn thuở của Sa Pa. Anh sống một mình trên núi cao
hai nghìn sáu trăm mét, công việc của anh là đo đạc, theo dõi, làm các việc
phục vụ cho dự báo thời tiết hằng ngày. Nhưng ở anh có những phẩm chất, lối
sống, suy nghĩ đẹp đáng quý, đáng trân trọng. Họ rất bình dị nhưng cũng lại
thầm lặng cống hiến cho đất nước mà như Nguyễn Khoa Điềm đã viết trong
Đất nước - Trích trường ca Mặt đường khát vọng
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
- 59 -
Ca ngợi những người lao động vô danh ấy, nhà văn Nguyễn Tuân
muốn ngợi ca cuộc sống mới, con người mới trong công cuộc xây dựng
XHCN ở miền Bắc nước ta những năm 60 của thế kỉ XX. Nếu như chị Đào
trong Mùa lạc của Nguyễn Khải, nhà văn khai thác cuộc sống hồi sinh của chị
ở nông trường Điện Biên. Người phụ nữ bất hạnh “ tối đâu là nhà, ngã đâu là
giường” đã tìm được hạnh phúc mới ở ngay trên mảnh đất từng là chiến
trường đau thương năm xưa. Thì nhà văn Nguyễn Tuân lại khai thác người lao
động ở góc độ tài hoa nghệ sĩ. Những con người ấy đang sống và chiến đấu,
dựng xây đất nước
“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con trai, con gái bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận”
(Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm)
Hướng sáng tác này của nhà văn Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng
Tám cũng là một sự đóng góp cho đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam
giai đoạn 1945-1975: nền văn học hướng đến đại chúng, hình thành một quan
niệm mới đất nước của nhân dân (Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm). Trước
Cách mạng Nguyễn Tuân là một nhà văn lãng mạn, viết về những nhà nho
cuối mùa, một thời vang bóng, nhưng sau Cách mạng, dưới sự soi rọi ánh
sáng của Đảng, Nguyễn Tuân tin yêu cuộc đời, ông tìm chất tài hoa nghệ sĩ ở
nhân loại đại chúng. Ông đã thực sự tìm được chất “vàng mười” của đất nước
và con người Việt Nam trong cuộc sống mới. Nhà văn hướng về nhân dân lao
động, nhìn cuộc sống mới ngập tràn niềm vui, niềm kiêu hãnh, tự hào.
2.1.3.3. Dạy học tác phẩm trong thể liên văn bản với phong cách, quan niệm
về cái đẹp, liên văn bản trong thể loại sáng tác của nhà văn
Khi dạy tác phẩm Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân, giáo viên
cần có sự liên văn bản với Chữ người tử tù và ngược lại để thấy được sự
thống nhất trong phong cách của Nguyễn Tuân, sự thay đổi trong quan niệm
- 60 -
của Nguyễn Tuân về cái Đẹp trước và sau Cách mạng Tháng Tám. Ta thấy
một Nguyễn Tuân luôn say mê truy tìm vẻ đẹp độc đáo của con người và cuộc
sống. Ông thường miêu tả những cảnh đẹp tuyệt mỹ, tuyệt đích; Cái uyên bác
của Nguyễn Tuân thể hiện rõ ở những hiểu biết sâu sắc về nhiều lĩnh vực
khoa học, nghệ thuật được ông đưa vào ngôn ngữ trong văn của mình. Trước
Cách mạng Nguyễn Tuân chỉ tìm cái đẹp ở một thời vang bóng, ở những con
người đặc tuyển. Nguyễn Tuân luôn bị ám ảnh bởi những mẫu hình con người
quá khứ, ông tìm vẻ đẹp ở quá khứ vàng son nay chỉ còn vang bóng, ở những
người tài hoa, bất đắc chí. Nhưng sau Cách mạng, ông lại tìm thấy vẻ đẹp ở
những con người lao động bình dị, tìm cái đẹp ở ngay hiện tại, ở tương lai.
Ông dành giọng khinh bạc để tố cáo tội ác của kẻ thù dân tộc, những mặt tiêu
cực của xã hội. Hình tượng ông lái đò và hình tượng nhân vật Huấn Cao đều
được Nguyễn Tuân xây dựng như những nhân vật tài hoa nghệ sĩ. Ông Huấn
Cao là một kẻ tài hoa sinh nhằm thời loạn, một anh hùng vùng vẫy nhưng vẫn
mềm mại bút hoa. Tài viết chữ của ông đã trở thành một cái gì đó như là
huyền thoại trong lòng nhân dân. Nét chữ vuông vắn ấy là tính cách thẳng
ngay của bậc anh hùng, đồng thời lại có sự mềm mại của một ông đồ hay chữ,
một nghệ sĩ thực thụ. Người tù Huấn Cao có khí phách anh hùng, tài hoa hơn
người trong từng nét chữ làm cho quản ngục kính nể, phải cúi đầu. Tìm vẻ
đẹp ở con người quá khứ, Nguyễn Tuân muốn bày tỏ thái độ của mình với xã
hội đương thời. Đến hình tượng ông lái đò thì chúng ta dễ dàng nhận thấy ông
lái đò tuy là người lao động bình thường nhưng có thể coi là một nghệ sĩ trong
nghệ thuật leo ghềnh vượt thác. Con người trong văn Nguyễn Tuân bao giờ
cũng đẹp với vẻ tài hoa nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Với Nguyễn
Tuân những người bình thường khi thực hiện những công việc bình thường
trong phạm vi nghề nghiệp của mình nếu đạt tới một trình độ tinh xảo, nhuần
nhuyễn, khéo léo mà người khác khó lòng theo kịp thì được coi là một người
tài hoa. Ông lái đò trong Người lái đò Sông Đà là một tay lái ra hoa trong
- 61 -
nghệ thuật vượt thác, leo ghềnh. Người lao động bình dị ấy đang từng ngày
từng giờ đem sức lực và trí tuệ xây dựng quê hương, đất nước.
Mỗi một nhà văn trên thi đàn văn chương Việt Nam khẳng định vị trí
của mình bằng một mảnh đất nghệ thuật. Gặp mảnh đất ấy, ngòi bút của
người nghệ sĩ thăng hoa. Nếu nhắc đến Nguyễn Thi ta phải nhắc đến mảnh
đất Nam Bộ; nếu nhà văn Nguyên Ngọc cả đời trung thành với mảnh đất đỏ
bazan, với tiếng cồng chiêng âm vang và hạt bụi vàng lóng lánh; Nhắc đến
Kim Lân là một nhà văn cả đời đi về với đất, với người, với nông thôn thuần
hậu thì nhắc đến Nguyễn Tuân, ta phải nhắc đến thể loại tùy bút.
Không phải chỉ đến Nguyễn Tuân ta mới bắt gặp thể loại tùy bút,
nhưng Nguyễn Tuân đã mang đến một thế giới mới cho thiên tùy bút Sông Đà
của mình. Cùng viết về thể kí chúng ta có thể nhớ đến kí của Vũ Trọng
Phụng, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng... Trong chương trình phổ thông có thể
nhắc đến Vũ Trung tùy bút- Phạm Đình Hổ; Vào phủ chúa Trịnh (Trích
Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác) hay Những ngày đầu tiên của nước Việt
Nam mới (hồi kí Những năm tháng không thể nào quên - Võ Nguyên Giáp...
Nhưng với tạng viết văn riêng, nhà văn Nguyễn Tuân tìm đến với thể loại tùy
bút như một sự tất yếu nhằm thỏa mãn phong cách tự do phóng túng và ý thức
sâu sắc về cái tôi cá nhân của mình.“Nhìn từ góc độ văn hóa, Nguyễn Tuân
không chỉ kế thừa văn hóa quá khứ đã được thể hiện qua Thượng kinh kí sự
của Lê Hữu Trác, Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ mà quan trọng hơn,
ông còn chọn ngay cái chất tự do trong bản chất thể loại của nó như một cách
hữu hiệu để thể hiện những khát vọng tự do của tâm hồn mình”[16, tr.144].
Chúng ta thấy rõ ràng tùy bút của Lê Hữu Trác, Phạm Đình Hổ chủ yếu là ghi
chép, thể hiện thái độ quan phương của một nhóm người đối với vấn đề mình
quan sát thì tùy bút của Nguyễn Tuân lại là sự thể hiện cao độ ý thức cá nhân
mình, thể hiện bản ngã, khả năng sáng tạo độc đáo của mình. Nguyễn Tuân
đến với tùy bút “như một sự sáng tạo, phát hiện mới về một hình thức để cảm
tri thế giới” [16, tr.145].
- 62 -
Cùng là nhà văn có phong cách tài hoa uyên bác nhưng kí Ai đã đặt tên
cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại có nhiều khác biệt với kí của
Nguyễn Tuân. Hai tác giả đều huy động kiến thức địa lí, lịch sử, văn hoá sâu
rộng, đều thể hiện cái tôi trữ tình khi khám phá vẻ đẹp của những con sông
quê hương đất nước, kết đọng trong đó tình yêu xứ sở. Tuỳ bút Nguyễn Tuân
giàu chất kí, chất truyện. Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu chất trữ
tình - chất tuỳ bút. Cùng có phong cách tài hoa uyên bác, nhưng Nguyễn Tuân
tài hoa kiêu bạc, Hoàng Phủ Ngọc Tường tài hoa sâu lắng. Nguyễn Tuân đến
với sông Đà như đến với một sự thử thách để bộc lộ cái Tôi độc đáo tài hoa,
thể hiện cảm hứng mãnh liệt trước cái đẹp, cái khác thường phi thường thì
Hoàng Phủ Ngọc Tường đến với sông Hương như một sự tương giao linh
diệu của một tâm hồn Huế, gắn bó tha thiết với dòng sông với xứ Huế, với
chiều sâu văn hoá của đất quê hương. Nguyễn Tuân là phù thuỷ ngôn từ, câu
chữ co duỗi nhịp nhàng, giàu giá trị tạo hình, dựng cảnh tả người đặc sắc.
Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu liên tưởng, tưởng tượng, lối văn đậm chất thơ,
thiên về thể hiện cảm xúc suy ngẫm mang chiều sâu văn hoá. Sự khác biệt ấy
làm nét riêng độc đáo của mỗi nhà văn. Nhà văn Nguyễn Tuân đến với thể
loại tùy bút như cá gặp nước, thỏa sức vẫy vùng cái tôi nghệ sĩ đầy bản lĩnh,
cá tính của mình.
2.1.4. Sự pha trộn thể loại ở các sáng tác của Nguyễn Tuân trong chương
trình THPT
2.1.4.1. Sự xâm nhập của tùy bút, chất kịch, chất trữ tình trong truyện ngắn
Chúng ta đều biết Nguyễn Tuân nổi tiếng trên văn đàn như một nhà tuỳ
bút xuất sắc. Bắt đầu từ Một chuyến đi, ngòi bút Nguyễn Tuân đã tỏ ra bén
duyên với thể loại này, thể loại được coi là lối chơi độc tấu của riêng ông.
Nhưng nói thế có lẽ vẫn chưa đủ, không phải chỉ tuỳ bút, cả truyện ngắn, tiểu
thuyết lẫn phóng sự của Nguyễn Tuân đều mang hơi hướng tuỳ bút. Hình như
chất tuỳ bút đã thấm vào máu của ông, để mỗi dòng ông viết ra đều ít nhiều
mang dấu ấn ấy.
- 63 -
Qua thực tế khảo sát, chúng tôi nhận thấy chất tùy bút ít nhiều thẩm
thấu trong mỗi trang truyện ngắn. Chúng tôi cũng thấy đồng quan điểm với tác
giả Trương Quốc Vinh (Đại học An Giang) khi cho rằng, chất tùy bút đã có
sức mạnh ảnh hưởng tới truyện ngắn của Nguyễn Tuân, từ giọng điệu, kết cấu
tác phẩm đến nghệ thuật thể hiện cái tôi tài hoa của nhà văn. Truyện ngắn của
Nguyễn Tuân dù thường được kể ở ngôi ba, nhưng có thể nói, hiếm khi trong
các sáng tác của ông chỉ có duy nhất một giọng tự sự khách quan, mà luôn xen
kẽ giọng bình luận, triết lí luôn vang lên khi công khai khi ẩn sau mỗi câu chữ,
lời thoại của nhân vật. Dường như ở truyện ngắn nào tác giả cũng có xen vào
những cảm nhận, những suy ngẫm của mình về con người và cuộc đời. Chính
điều đó làm cho người đọc hình dung ngay chất tùy bút - đặc trưng trong sáng
tác của người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân. Ở mỗi truyện ngắn nhà văn giãi
bày một tâm trạng, một triết lí sống và một lối viết tài hoa chỉ có ở Nguyễn
Tuân. Chất tùy bút ấy được bộc lộ trong các truyện ngắn, truyện dài thậm chí
là tiểu thuyết, phóng sự như Khoa thi cuối cùng, Thiếu quê hương, Ngọn đèn
dầu lạc... Ở truyện ngắn Chữ người tử tù, chúng ta thấy rõ nhà văn đưa ra một
triết lí nhân văn nhà văn muốn nhắn nhủ đến bạn đọc:“thầy Quản nên tìm về
nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến
chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến
nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”[10, tr.114]. Muốn chơi chữ phải giữ
lấy thiên lương, trước khi đến với cái đẹp của nghệ thuật phải giữ trọn cái đẹp
của thiên lương, cái đẹp không tách rời cái thiện, chơi chữ đâu chỉ là chuyện
chữ nghĩa mà còn là chuyện cách sống, chuyện văn hóa...
Không chỉ ở giọng điệu, xét về đặc điểm kết cấu, nhiều truyện ngắn của
Nguyễn Tuân còn cho thấy rõ khuynh hướng: nhà văn thông qua việc xây
dựng tình huống độc đáo, xây dựng nhân vật (đặc biệt là nhóm tài hoa nghệ sĩ)
để thể hiện sự tài hoa, uyên bác của mình. Thuộc kiểu này, tiêu biểu là trường
hợp các truyện trong tập Vang bóng một thời: Hương cuội, Những chiếc ấm
đất, Một đám bất đắc dĩ, Đánh thơ... Trong Chữ người tử tù nhà văn để cho
- 64 -
nhân vật Huấn Cao xuất hiện trong ánh hào quang của cái đẹp tỏa rạng (cảnh
cho chữ đêm trước ngày ra pháp trường). Nhà văn đưa người đọc đến với nghệ
thuật thi pháp - một nét văn hóa cổ truyền, “một cảnh tượng chưa từng có”
được diễn ra ở nơi chốn đặc biệt, những nét chữ như phượng múa rồng bay nói
lên hoài bão tung hoành của đời một con người được một người tù - nghệ sĩ
sáng tạo ra. Cách dựng tình huống cũng vô cùng bất ngờ, cảnh cho chữ vốn
diễn ra nơi thanh sạch, cao khiết, nhưng ở đây lại diễn ra ở chốn lao tù “tường
đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”, mối quan hệ giữa hai
người cho chữ và xin chữ lại ở vị thế xã hội đối lập nhau... Qua truyện ngắn
Chữ người tử tù, người đọc cảm nhận rõ chất tài hoa nghệ sĩ của chính tác giả.
Nhà văn viết về Huấn Cao (nguyên mẫu Cao Bá Quát) với một tấm lòng
ngưỡng mộ, trân trọng. Đằng sau hình ảnh đó là tấm lòng yêu nước thầm kín,
một Nguyễn Tuân luôn khao khát tìm về với những giá trị truyền thống của
văn hóa dân tộc, tâm sự tiếc nuối một nét văn hóa cổ truyền bị mai một, một
con người luôn thiết tha gắn bó với quê hương, đất nước. Có thể thấy rõ “dưới
ảnh hưởng của tư duy tùy bút, thể truyện ngắn đến Nguyễn Tuân đã thật sự trở
thành “Thánh địa của cái Tôi” (từ dùng của Trần Thanh Hà) mà nhìn vào đó,
dù ở góc độ nào ta cũng thấy chỉ có duy nhất mỗi Nguyễn và riêng Nguyễn”
[41, tr.143].
Đọc truyện ngắn của Nguyễn Tuân trước cách mạng, chúng tôi còn
nhận thấy, chất kịch, chất kí sự, và đặc biệt là chất trữ tình, chất thơ- đặc
trưng của thể loại thơ - bàng bạc trong tác phẩm. Trong khuôn khổ bài viết
này, chúng tôi chỉ xin trình bày một số nét về sự ảnh hưởng của thơ đến truyện
ngắn của Nguyễn Tuân. Truyện ngắn - trữ tình hóa là loại hình truyện ngắn
tiêu biểu giai đoạn 1930-1945 mà các nhà văn lãng mạn có thế mạnh nhất,
trong đó có cả nhà văn Nguyễn Tuân. Ở truyện ngắn Chữ người tử tù, chúng
tôi cũng phát hiện chất thơ ấy. Trước hết ở cốt truyện, tuy nhà văn đặt hai
nhân vật Huấn Cao, viên quản ngục trong quan hệ xã hội đối lập, nhưng nhà
văn không nhằm tô đậm điều đó cũng như không nhằm xây dựng những tính
- 65 -
cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình mà lại tập trung chủ yếu vào vấn đề
giác ngộ, sự bừng ngộ của con người trước ánh sáng của thiên lương, sự cảm
động, hạnh phúc của con người khi vươn tới cái đẹp, cái thiện. Nhân vật viên
quản ngục xuất hiện trong tác phẩm ngay từ đầu đã luôn mang trong mình tâm
nguyện có được chữ ông Huấn Cao treo trong nhà, tâm nguyện ấy theo ông từ
khi đọc vỡ sách thánh hiền. Chính vì thế mà nay có được ông Huấn Cao trong
tay (Huấn Cao bị giải vào nhà ngục tỉnh Sơn), thì ông băn khoăn giữa việc làm
tròn bổn phận với triều đình thì tức là chà đạp lên chính sở nguyện của mình,
tức là chà đạp lên lẽ sống của bản thân. Nhưng nếu sống theo sở nguyện, làm
tròn tấc lòng với người tri kỉ thì sẽ chống lại triều đình, chính bản thân ông
cũng sẽ bị nguy hiểm tính mạng. Chính tấm lòng biệt nhỡn liên tài ấy đã khiến
Huấn Cao cảm động. Và “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đã diễn ra
ngay tại nhà ngục tỉnh Sơn, ở những giây phút ấy cái tài, cái tâm đang hòa
nhập làm một để cái đẹp được thăng hoa. Bút pháp trữ tình lãng mạn được
phát huy cao độ, thủ pháp tương phản được sử dụng hiệu quả cao giữa ánh
sáng với bóng tối, cao thượng và thấp hèn, cái đẹp và cái ác, cái xấu. Không
còn kẻ tử tù, cai ngục mà chỉ còn là những người tri âm, tri kỉ. Tất cả đều
ngưỡng vọng vươn tới cái đẹp lung linh, cái thiện, cái thiên lương cao cả.
Chính vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Huấn Cao và nhân vật viên quản ngục đã
làm ánh lên chất thơ cho tác phẩm. Chất thơ ấy cũng lắng đọng lại ở những
phiến đoạn miêu tả thiên nhiên. Người đọc thực sự đem đến cho người đọc
những trang thơ đẹp ở ngay cả những cảnh vật rất đỗi bình dị, đời thường.
“Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời
lốm đốm, tinh tú, một ngôi sao hôm nhấp nháy như muốn tụt xuống phía chân
giời không định”.[10, tr.109]. Cái nhịp điệu buồn buồn, kéo dài văng vẳng
một nỗi tiếc nuối như thấm vào câu văn. Cảnh đẹp nhưng lại mang trong ấy
chút nuối tiếc không thành lời. Câu văn giàu nhịp điệu và âm vang ngân lên
khiến ta có cảm tưởng “Đọc lên nó ngân sâu như những tiếng đàn trầm” (chữ
dùng của Vũ Ngọc Phan). Giữa không gian nhà tù “chật hẹp, ẩm ướt, tường
- 66 -
đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián” tối tăm sẽ chẳng có cảnh
gì đẹp. Thế nhưng bằng đôi mắt nghệ sĩ, Nguyễn Tuân đã khám phá ra cái đẹp
tinh tế, đầy chất thơ ở chốn bòng tối ngự trị này. Không gian nhà tù trở thành
nơi cho chữ thiêng liêng, gợi không khí của thời tiền sử với “ánh sáng đỏ rực”
của bó đuốc toả sáng đỏ cả không gian, khói toả bốc lên mờ ảo, huyền bí. Ta
cũng bắt gặp ở truyện ngắn này những biện pháp tu từ liên tưởng, so sánh,
tương phản, ẩn dụ ... giàu sức gợi như trong thơ. Khuôn mặt của viên quản
ngục hiện lên dịu dàng với hình ảnh ẩn dụ: “Ở đấy, giờ chỉ còn mặt nước ao
xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”, những liên tưởng đầy sáng tạo thú vị
“Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính
cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi
ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật
đều hỗn loạn xô bồ”[10, tr.109].
Truyện ngắn Nguyễn Tuân nói chung và Chữ người tử tù nói riêng còn
đặc biệt gần với thơ ở chỗ: mỗi sáng tác của ông như một ẩn dụ, một ẩn dụ kết
đọng ý thơ gắn liền với những chiêm nghiệm nhân sinh, những bài học có giá
trị giáo dục sâu sắc. Như đã trình bày ở mục 2.1.2.3, cái đẹp có thể sản sinh
nơi bóng tối ngự trị nhưng nó không thể sống chung với cái ác, cái đẹp có sức
cảm hóa con người. Qua hành động vái lạy của viên quản ngục cùng dòng
nước mắt rỉ vào kẽ miệng, nhà văn khẳng định niềm tin vào bản tính lương
thiện của con người, dù trong hoàn cảnh nào con người cũng luôn vươn tới
chân, thiện, mĩ. Đây là chiều sâu giá trị nhân văn của tác phẩm.
2.1.4.2. Sự xâm nhập của yếu tố truyện, kí, chất thơ trong tùy bút
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nguyễn Tuân với các tác phẩm
tùy bút, bút kí có giá trị nghệ thuật đã khẳng định thế mạnh của mình ở thể
loại này: Đường vui (1946), Tình chiến dịch (1950), Tùy bút kháng chiến
(1955), Tùy bút kháng chiến và hòa bình (1956), Sông Đà (1960), Hà Nội ta
đánh Mĩ giỏi ( 1972)...
- 67 -
Tùy bút Sông Đà như một bản tình ca mà nhà văn dành cho con người
và mảnh đất Tây Bắc. Một đặc điểm dễ dàng nhận thấy đó chính là sự xâm
nhập của thể loại truyện trong mỗi trang tùy bút của Nguyễn Tuân mà
Nguyên Ngọc gọi là “một thứ tùy bút tiểu thuyết”. Qua khảo sát, chúng tôi
nhận thấy các tác phẩm tùy bút của Nguyễn Tuân đều có nội dung, nhân vật,
tình tiết, sự kiện độc đáo. Các nhân vật hiện lên sống động với những đặc
điểm về tính cách, tâm trạng tiêu biểu cho một lớp người, một bộ phận trong
xã hội (mặc dù chưa mang nét điển hình). Ở tùy bút của ông, cái tôi bản ngã
giống như trong truyện, tiểu thuyết thường thấy được thể hiện một cách rõ nét
ở nhiều nhân vật. Nghệ thuật dựng cảnh, dựng truyện, khắc họa tâm lí nhân
vật được nhà văn khai thác triệt để các thủ pháp so sánh, liên tưởng, tưởng
tượng. Trong Người lái đò Sông Đà cảnh sông Đà dàn thạch trận hiện lên sống
động như một sinh thể có suy nghĩ, tâm địa, mưu mô quỷ kế. Mặc dù thể loại
tùy bút nhưng người đọc hồi hộp theo dõi cuộc chiến của ông đò trên sông một
cách chăm chú để biết diễn biến cuộc chiến, giống như ngồi đọc một thiên tiểu
thuyết thời Minh Thanh - Trung Quốc. Với nghệ thuật liên tưởng, so sánh,
nhân hóa, một sông Đà vừa hung bạo, dữ dội, hùng vĩ, lại vừa lãng mạn, nên
thơ hiện lên trước mắt người đọc. Đọc những câu văn miêu tả tiếng thác nước
“như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa
nổ lửa”; “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc
ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói...”; “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như
bạc rơi thoi” [9, tr.187-191-192] một bản nhạc ấn tượng hay một bức họa với
gam màu độc đáo.
Điểm độc đáo của tùy bút Nguyễn Tuân mà ta dễ dàng phát hiện ra đó
chính là chất bút kí (dường như ranh giới giữa tùy bút và bút kí trong sáng tác
của Nguyễn Tuân có sự mờ nhòe ranh giới) thậm chí có pha cả chất du kí hay
phóng sự điều tra. Trong giới hạn bài viết này chúng tôi chỉ xin dừng lại ở sự
xâm nhập của thể bút kí với tùy bút Nguyễn Tuân. Đặc trưng của bút kí là
- 68 -
chất hiện thực, ghi chép sự thật và thông tin chính xác, trong khi đó tùy bút
thiên nhiều về cảm xúc, theo mạch tâm tư, suy tưởng của nhà văn, đậm chất
trữ tình. Ở tùy bút Người lái đò Sông Đà nói riêng và tùy bút của Nguyễn
Tuân nói chung, chúng ta nhận thấy chất kí sự luôn đan xen. Qua mỗi trang
tùy bút người đọc được tiếp cận với một lượng thông tin lớn. Với một kho
kiến thức khổng lồ về truyền thống, lịch sử, địa lí, khoa học, sự am hiểu nhiều
ngành nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã đem đến cho người đọc khoái cảm thực sự
khi đọc những trang tùy bút của ông. Nhà văn luôn tìm hiểu cặn kẽ đối tượng
mình viết. Trong Cầu ma, Nguyễn Tuân viết về cầu Hiền Lương một cách cặn
kẽ giống như nhà văn tận mắt, tận tay đếm từng nhịp cầu “Cầu có bảy nhịp,
cộng lại chỉ có 178 mét, và ván cầu tổng cộng chỉ có 894 miếng ván”. Thậm
chí ông còn đếm được bên nửa cầu Bắc giữ nhiều tấm ván hơn nửa cầu Nam.
Ông viết về đàn ong làm mật với một sự tính toán chuẩn xác, để có mỗi giọt
mật thì ong phải mất 2.700.000 chuyến đi với tổng cộng đường bay 8.000.000
cây số và thậm chí ông còn thấy 5 vạn thứ hoa tỏa ra trong nửa lít mật ong. Sự
cặn kẽ chi tiết ấy được tiếp tục thể hiện rõ trong Người lái đò Sông Đà, ông
nắm chắc cả nguồn gốc lịch sử, địa lí của con sông. Ông chính xác đến tỉ mỉ
đi dọc sông Đà, đếm và chép được 73 cái thác có tên, cả những cái tên lạ lùng
ta chưa từng nghe tới đậm chất Tây Bắc như thác Hát Nó Kéo, Hát Soong Pút,
Hát Soong Mon, Mó Nàng, rồi những cái tên như ghềnh Hát Loóng, quãng Tà
Mường Vát ấy lại trở nên quen thuộc với người đọc qua những trang tùy bút
Nguyên Tuân. Tùy bút của Nguyễn Tuân cung cấp tri thức, lượng thông tin
cao, rất gần với thể loại bút kí, phóng sự.
Chất thơ, chất trữ tình không thể không nhắc đến trong tùy bút
Nguyễn Tuân, khi miêu tả vẻ đẹp trữ tình của sông Đà (Người lái đò Sông
Đà), nhà văn đã viết lên một bài thơ trữ tình bằng văn xuôi. Dưới ngòi bút tài
hoa bậc thầy của Nguyễn Tuân, ông lái đò hiện lên như một nghệ sĩ trên chiếc
thuyền thơ của mình. Chất thơ lai láng trong mỗi câu văn, không gian dường
như lắng đọng trong vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà “bờ sông Đà, bãi sông
- 69 -
Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”, nhà văn như thả từng tiếng nhạc
xuống dòng sông. Hai chữ “sông Đà” điệp lại cuối mỗi vế câu đẳng lập như
nhịp ngân lên của niềm say mê, khát khao của Nguyễn Tuân. Nhà văn như
muốn chìm đắm trong thiên nhiên để thỏa thuê ngắm nhìn cảnh vật. “Thuyền
tôi trôi trên sông Đà” câu văn sao êm ái như câu thơ dường như cảm xúc, tâm
hồn tác giả đọng mãi nơi đây. Điệp khúc “thuyền tôi trôi” lặp lại nhiều lần
như một một sự trùng điệp của cảm xúc - một điều thường gặp trong thơ:
“thuyền tôi trôi qua một nương ngô”, “thuyền tôi trôi trên dải sông Đà”. Dãy
thanh bằng nhẹ nhàng, sâu lắng khiến ta tưởng con thuyền tâm tư của người
đọc cũng cũng xuôi lặng theo dòng tâm tư của nhà văn. Những hình ảnh nõn
nà, tràn đầy sức sống, vừa thực vừa mơ, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn
búp”, hình ảnh “đàn hươu” hiện lên trước mắt khiến người đọc như được lạc
bước vào thế giới cổ tích, huyền thoại thuở nào. Một cảm giác của sự thanh
tân, tinh khiết, nhựa sống căng tràn, xanh non mỡ màng " nhú", “nõn búp”
“búp cỏ” “áng cỏ sương” bao trùm đoạn thơ bằng văn xuôi. Nếu như Xuân
Diệu “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá” thì Nguyễn Tuân đưa người đọc đến
với không gian đẫm sương đêm của một buổi sáng mùa xuân tinh khôi hay
cũng chính là mùa xuân của lòng người ngập tràn niềm vui. Tâm hồn thơ của
Nguyễn Tuân như lắng đọng để lắng nghe những âm thanh vui tươi của thiên
nhiên, của sự sống trỗi dậy trong lá ngô non, búp cỏ non. Hình ảnh “con hươu
thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” thơ mộng cùng tiếng đập nước
của cá làm đàn hươu vụt biến mất khiến cho những dòng tùy bút thẫm đẫm
chất thơ tuyệt diệu. Mỗi câu văn đều mang chất nhạc và chất họa. Nguyễn
Tuân không chỉ nghe trong hiện tại những âm thanh đồng vọng của quá khứ,
miền cổ tích nào đó, mà còn nghe được cả âm thanh của tương lai - tiếng còi
xúp lê xe lửa. Trong hoàn cảnh chưa có chuyến tàu đi Phú Thọ - Yên Bái -
Lai Châu, câu văn của tác giả Vang bóng một thời lại như một tiếng reo náo
nức trước công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc. Thực tại cuộc sống mới đã
cho nhà văn những dự cảm về tương lai, niềm tin vững chắc vào chế độ mới.
- 70 -
2.2. Đề xuất các giải pháp dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân theo
hƣớng tiếp cận liên văn bản
Từ việc chỉ ra các định hướng dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân
theo hướng tiếp cận LVB, chúng tôi nhận thấy các hướng nghiên cứu cần có
các giải pháp để thực hiện đề tài hiệu quả nhất. Do đó, chúng tôi mạnh dạn đề
xuất vận dụng sáng tạo một số phương pháp sau mà chúng tôi cho là có ưu thế
hơn cả. Gồm có phương pháp hướng dẫn HS học tập (hướng dẫn HS đọc sáng
tạo, hướng dẫn HS so sánh, đối chiếu) và phương pháp dạy của giáo viên
(phương pháp nêu vấn đề, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp trực
quan, phương pháp dạy học theo dự án).
2.2.1. Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc hiểu sáng tạo
Vận dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy học văn có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong việc giúp HS khám phá giá trị tác phẩm. Ngay cả nhà văn
cũng không thể hành xử độc quyền trong thế giới nghệ thuật của mình do đó
người đọc (cả GV, HS) với kinh nghiệm, tri thức bản thân, vốn sống mà tiếp
nhận văn bản theo những hướng khác nhau. Điều quan trọng là người giáo
viên giúp HS có những công cụ để lĩnh hội, cảm hiểu văn bản, làm sống dạy
hình tượng của tác phẩm rồi từng bước chuyển hình tượng nghệ thuật ấy vào
kho tri thức tri thức của bản thân.
Có thể thấy một giờ giảng văn dù giáo viên có vận dụng phương pháp
hiện đại nào cũng không thể bỏ qua việc đọc sáng tạo văn bản. Việc đọc là
con đường hiệu quả để học sinh thâm nhập, tiếp cận tác phẩm văn chương.
Đây là phương pháp chính, phương pháp trọng tâm để đọc hiểu các tác phẩm
của Nguyễn Tuân theo hướng tiếp cận liên văn bản. Phan Trọng Luận đã xem
việc đọc vô cùng quan trọng, đọc để hiểu rõ ý định mà nhà văn muốn gửi gắm
đến độc giả. Tư tưởng, tình cảm của tác giả được gửi gắm trong mỗi hình
tượng nghệ thuật, để khám phá được các hình tượng nghệ thuật thì cần phải
bóc dần các tầng, các lớp ngôn ngữ của văn bản. Nhờ hoạt động này mà học
sinh có thể hình thành và phát huy những năng lực cảm thụ, những rung động
- 71 -
thẩm mĩ, dần dần thâm nhập sâu vào thế giới nghệ thuật.
Có nhiều hình thức đọc nhưng để vận dụng lý thuyết LVB trong bài
dạy Chữ người tử tù, Người lái đò Sông Đà người giáo viên cần rèn cho học
sinh khả năng đọc sáng tạo tác phẩm. Trong hoạt động đọc sáng tạo giáo viên
không chỉ hướng dẫn HS đọc văn bản đơn thuần mà còn từ văn bản HS có thể
khái quát giá trị văn bản, liên văn bản với một hệ thống văn bản khác. Học
sinh cần vận dụng những kiến thức văn hóa vốn có để hiểu ý nghĩa của các
hành động nhân vật, ý nghĩa tư tưởng của truyện, ý vị nhân sinh của tác phẩm.
Với tác phẩm Chữ người tử tù, học sinh cần thấy được những đặc điểm
điều kiện của thú vui chơi nghệ thuật thi pháp nay bị đảo lộn trong tác phẩm,
tưởng vô lí nhưng hoàn toàn có lí. Bởi trong tác phẩm thầy thơ lại với tấm
lòng “biệt nhỡn liên tài” còn Huấn Cao đáp lại một “tấm lòng trong thiên hạ”
mà một cảnh tượng xưa nay chưa từng có diễn ra trong nhà giam chật hẹp, ẩm
ướt, nơi mà cái xấu, cái ác đang ngự trị. Đọc văn bản học sinh phải tự mình
chỉ ra ý vị nhân sinh qua hình tượng nhân vật. Nguyễn Tuân ca ngợi tài hoa
của Huấn Cao đồng thời thể hiện sự kính trọng và ngưỡng mộ những bậc tài
hoa, trân trọng nghệ thuật thư pháp cổ truyền. Qua việc ca ngợi thiên lương và
khí phách của Huấn Cao, tác giả còn muốn thể hiện một quan niệm nghệ thuật
tiến bộ. Cái đẹp đích thực hoàn toàn xa lạ với thói phàm tục; cái đẹp không
bao giờ làm nô lệ cho quyền lực hay tiền bạc. Việc Huấn Cao cho chữ quản
ngục là để cứu vớt một người lương thiện ra khỏi đám bùn nhơ, cố gắng nâng
đỡ một thiên lương cho lành vững. Ở đây cái tài và cái tâm được hòa vào
nhau; cái đẹp phải có khả năng chiến thắng cái ác, cái xấu và có khả năng hóa
giải con người.Với nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân cũng tỏ rõ một quan
niệm sống của mình. Người nghệ sĩ chân chính phải hội tụ: tài hoa, khí phách
và thiên lương. Tác giả đề cao con người có nhân cách, có tâm, con người
sống cần có một tấm lòng và vì một tấc lòng trong thiên hạ.
Với một tác phẩm tùy bút như Người lái đò Sông Đà thì việc đọc sáng
tạo lại càng quan trọng. Giáo viên ngoài việc yêu cầu HS đọc diễn cảm để
- 72 -
từng bước thâm nhập vào thế giới tác phẩm, thì đọc sáng tạo cần phát huy để
HS phát triển năng lực sáng tạo, năng lực tri giác ngôn ngữ nghệ thuật, năng
lực liên tưởng... Tùy bút của Nguyễn Tuân giàu chất nhạc, chất họa, kết hợp
tri thức nhiều ngành khoa học nên khi đọc đến đoạn miêu tả vẻ đẹp dữ dội của
sông Đà, GV có thể cho HS tưởng tượng kể lại bức tranh cuộc vượt thác của
ông lái đò sông Đà. Học sinh sẽ hình dung ra một trận thủy chiến, có binh
pháp, có bài binh bố trận rõ ràng (thậm chí HS còn có thể liên hệ với Tam
quốc). Hay khi nói đến sông Đà trữ tình, giáo viên vẫn yêu cầu đọc diễn cảm
một đoạn ngắn trước để cảm nhận vẻ đẹp sông Đà, sau đó yêu cầu đọc sáng
tạo. Học sinh sẽ có cơ hội phát huy những cảm xúc thẩm mỹ, khả năng liên
văn bản của mình, tức là giáo viên sẽ đánh thức mọi trữ lượng tri thức vốn có
của HS sẽ không bị bỏ quên mà được vận dụng triệt để. Với thể loại tùy bút,
cái tôi phóng khoáng tự do của Nguyễn Tuân được dịp tung hoành thì sử dụng
phương pháp đọc sáng tạo HS cũng được dịp sống cùng không khí tác phẩm
của nhà văn. Giáo viên cho học sinh tưởng tượng lại cảnh hai bên sông Đà khi
nhìn từ máy bay hay đi thuyền trên sông, HS sẽ được dịp lục lại trong kho tri
thức của mình liên văn bản với các tác phẩm của Nguyễn Tuân trước cách
mạng khi nói về cái đẹp hay với những tác phẩm cùng thể loại (như Kí Ai đã
đặt tên cho dòng sông). Giáo viên cũng có nhiều đất để định hướng giúp HS
có một cái nhìn sâu sắc về phong cách của nhà văn Nguyễn Tuân.
2.2.2. Phương pháp hướng dẫn học sinh so sánh, đối chiếu
Việc sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu rất cần thiết khi dạy học
tác phẩm theo hướng tiếp cận liên văn bản. Học sinh từ một văn bản gốc trong
sgk, nhưng phải hiểu rõ một văn bản ấy nhưng tồn tại trong nó rất nhiều văn
bản khác. So sánh đối chiếu sẽ làm sáng rõ vẻ độc đáo, riêng biệt, hiểu sâu
sắc, chính xác hơn tác phẩm văn học mình đang tìm hiểu. Người dạy có thể
hướng HS so sánh với các tác phẩm cùng thể loại (truyện ngắn, kí, trường
ca...), cùng giai đoạn sáng tác, cùng trào lưu văn học (văn học hiện thực, văn
học lãng mạn, văn học cách mạng...), để thấy những đặc sắc riêng trong ngòi
- 73 -
bút của từng nhà văn. Ví dụ: so sánh chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm Chí
Phèo - Nam Cao với Tắt đèn của Ngô Tất Tố, để thấy được chủ nghĩa nhân
đạo mới mẻ được thể hiện trong Chí Phèo, nhà văn quan tâm đến con đường
lưu manh hóa, tha hóa của người nông dân. Có thể so sánh với các tác phẩm
khác giai đoạn (trước và sau 1945, trước và sau 1975). Trong nhiều trường
hợp có thể so sánh với chính các sáng tác của chính nhà văn, nhà thơ qua các
thời kì khác nhau từ đó HS có thể thấy được sự chuyển biến trong phong cách
nghệ thuật, trong quan niệm sáng tác của nhà văn. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý
tránh lạm dụng biện pháp này một cách tùy tiện sẽ phản tác dụng. Bài dạy vô
hình chung chỉ là những liên tưởng so sánh một cách kiên cưỡng, bất hợp lí.
Giáo viên cần vận dụng một cách linh hoạt, có cơ sở khoa học xác đáng, so
sánh đúng chỗ, đúng lúc để mang lại hiệu quả sử dụng nhất, góp phần phát
triển khả năng liên tưởng, phát huy năng lực cảm thụ thẩm mỹ của học sinh.
Đối với truyện ngắn Chữ người tử tù, người dạy có thể đặt ra những
câu hỏi: Hãy cho biết ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm Chữ người tử tù
của Huấn Cao và Hai đứa trẻ của Thạch Lam có điểm gì tương đồng và khác
biệt? Câu hỏi này có thể kiểm tra kiến thức của bài học trước, đồng thời kiểm
tra khả năng vận dụng sáng tạo kiến thức đã có của HS để giải quyết vấn đề
mới. Học sinh sẽ liên văn bản với các tác phẩm trong cùng giai đoạn sáng tác
(văn học lãng mạn 1930-1945). Từ đó, học sinh thấy được điểm giống nhau
trong sáng tác của các nhà văn lãng mạn chủ nghĩa (thủ pháp tương phản),
đồng thời nhận ra sự khác biệt cơ bản làm nên phong cách của mỗi nhà văn.
Giáo viên trong quá trình dạy cũng cần có sự so sánh truyện ngắn này
với các tác phẩm trong tập Vang bóng một thời để thấy sự thống nhất trong
quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám, nhân vật
là lớp người tài hoa, tài tử không gặp thời. Việc so sánh này sẽ giúp HS mở
rộng trường liên tưởng, rèn cho HS kĩ năng liên văn bản trong quá trình làm
văn trong các bài viết sau này.
- 74 -
Tùy bút Người lái đò Sông Đà việc vận dụng phương pháp so sánh, đối
chiếu rất cần trong việc khẳng định phong cách nghệ thuật của chính nhà văn
chuyển biến sau cách mạng. Giáo viên hướng dẫn HS so sánh với các tác
phẩm của Nguyễn Tuân trước cách mạng, nhà văn đã nhìn cuộc đời mới trong
ánh mắt tin yêu, tin tưởng XHCN, thổi luồng gió mới vào những sáng tác của
ông, và Người lái đò Sông Đà là một minh chứng cho sự chuyển biến
đó...Giáo viên có thể dùng câu hỏi: Qua hai tác phẩm của Nguyễn Tuân trong
chương trình THPT, em có nhận xét gì về sự ổn định và phát triển trong
phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân? Giáo viên yêu cầu HS tìm
những tác phẩm cùng đề tài ngợi ca công cuộc CNXH của các nhà văn, nhà
thơ. Việc trả lời câu hỏi này sẽ giúp cho HS tự chủ được kiến thức, kết nối
được những tri thức ngoài văn bản, tự mình có ý thức bồi bổ tri thức.
Giáo viên cũng có thể cho HS so sánh với các tác phẩm kí các em đã
được học (Vũ trung tùy bút - Phạm Đình Hổ, Vào phủ chúa Trịnh - Lê Hữu
Trác), thậm chí có thể gợi dẫn đến bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông -
Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ được học ngay sau bài dạy này. Việc so sánh để
thấy đặc trưng riêng của thể tùy bút của Nguyễn Tuân, mang yếu tố truyện kí,
vừa mang chất thơ, chất trữ tình. Nếu như kí của Phạm Đình Hổ, Lê Hữu Trác
thiên về ghi chép tỉ mỉ chân thực, thể hiện thái độ của một nhóm người về vấn
đề thì Nguyễn Tuân lại thể hiện cao độ ý thức cá nhân, cái tôi rất mực tài hoa,
phóng khoáng của mình.
2.2.3. Phương pháp nêu vấn đề
Dạy học nêu vấn đề là một hệ thống tình huống có vấn đề liên kết với
nhau và phức tạp dần lên, qua giải quyết các tình huống đó học sinh với sự
giúp đỡ của thầy cô sẽ nắm được nội dung của môn học, cách thức học môn
học đó và phát triển cho mình những đức tính cần thiết để sáng tạo trong khoa
học và trong cuộc sống. Vấn đề: là một sự việc, một hiện tượng, một khái
niệm, một hiện trạng tồn tại khách quan mà ta gặp phải trong tư duy và hành
động. Vấn đề này có thể ta chưa biết hoặc biết rất ít về nó. Ở đây, giáo viên
- 75 -
cần xây dựng được hệ thống câu hỏi nêu vấn đề vận dụng kiến thức liên văn
bản. Câu hỏi nêu vấn đề là những câu hỏi chứa đựng các tình huống có vấn
đề, là câu hỏi phải đựng mâu thuẫn giữa cái HS đã biết và cái chưa biết, câu
hỏi không quá dễ hay quá khó, phải có khả năng kích thích sự tìm hiểu của
HS. Học sinh phải vận dụng sáng tạo những tri thức đã có để giải quyết vấn
đề đặt ra trong câu hỏi.
Một tình huống được coi là có vấn đề khi thỏa mãn ba điều kiện sau:
Tồn tại một vấn đề; Gợi nhu cầu nhận thức; Gợi niềm tin vào khả năng của
bản thân. Sử dụng những câu hỏi nêu vấn đề là việc giáo viên từng bước dẫn
dắt HS khám phá và nắm bắt vấn đề, cho nên những câu hỏi nêu vấn đề phải
có sự định hướng từng bước, mỗi câu hỏi là dấu mốc trong quá trình khám
phá, câu hỏi trước mở ra câu hỏi sau, câu hỏi sau bổ sung cho câu hỏi trước
tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Khi xây dựng câu hỏi ngoài việc đảm bảo
nội dung kiến thức cơ bản, chính xác của bài học thì cần đảm bảo tính vừa sức
và tác động đến vùng trí tuệ gần nhất của học sinh, tức là phải phù hợp với
trình độ đối tượng nhưng phải phát huy được nhu cầu tìm hiểu của HS.
*Ở tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân ngoài việc cung cấp
cho học sinh những tri thức văn hóa cho học sinh, giáo viên cũng cần xây
dựng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, khám phá văn bản. Dựa
trên những yêu cầu trên, để hướng dẫn HS đọc hiểu văn bản Chữ người tử tù
theo hướng tiếp cận LVB, chúng tôi sử dụng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề sau:
- Ấn tượng đầu tiên về nhân vật Huấn Cao được giới thiệu ở đầu tác phẩm là
gì? Qua tài năng đó em có nhận xét gì về nhân vật Huấn Cao?
- Em có cảm nhận gì về câu nói của Huấn Cao với viên quản ngục: “Thiếu 1
chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” (Lối sống).
- Khi được Huấn Cao cho chữ hành động của viên quản ngục “vái tên tử tù
một vái”, em có suy nghĩ gì về hành động này? (Câu hỏi này khiến HS có sự
lý giải giữa sự cúi đầu hèn hạ và cái cúi đầu làm nên nhân cách cao thượng.
Học sinh hoặc giáo viên dẫn HS liên văn bản với Cao Bá Quát, với Những
- 76 -
người khốn khổ của V. Huy gô)
- Theo em, qua nhân vật viên quản ngục, Nguyễn Tuân muốn thể hiện những
suy nghiệm nào về con người và cái đẹp? (Học sinh cần liên văn bản xã hội
cùng những kiến thức bản thân để trả lời câu hỏi trên)
- Ban đầu Nguyễn Tuân đặt tên cho tác phẩm là Dòng chữ cuối cùng nhưng
khi được tuyển in trong tập Vang bóng một thời tác giả lại đổi tên thành Chữ
người tử tù. Hãy lý giải vì sao tác giả lại đổi tên truyện như vậy?
- Nhà văn muốn gửi đến bạn đọc thông điệp gì qua cảnh cho chữ trong chữ
người tử tù?
Người giáo viên cần vận dụng linh hoạt các kiểu câu hỏi đặc biệt là các
câu hỏi mở, để học sinh có nhiều cơ hội nói lên những suy nghĩ của mình, rèn
luyện khả năng tư duy, năng lực giải quyết vấn đề của học sinh
GV cũng có thể đưa câu hỏi dưới dạng ý kiến như:
- Có ý kiến cho rằng cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và viên quản ngục lại là
một cuộc gặp gỡ bất ngờ, thú vị, em có suy nghĩ gì về ý kiến trên?
- Có người cho rằng : Huấn Cao không chỉ là một nghệ sĩ thư pháp mà còn là
một trang anh hùng dũng liệt, có khí phách hiên ngang, bất khuất. Ý kiến của
em như thế nào?
Cũng có thể đặt câu hỏi theo dạng thức giả định: Nếu em là viên quản
ngục, em sẽ hành động như thế nào khi biết tin Huấn Cao sẽ bị giải lên kinh
xử tử? hay Trong hoàn cảnh lao tù sáng hôm sau ra pháp trường, nếu em là
Huấn Cao em có cho chữ viên quản ngục không? Vì sao? Đặt học sinh vào
tình huống giả định này, HS có thể liên văn bản đời sống, văn hóa, xã hội, từ
đó rèn luyện cách ứng xử, phát triển nhân cách, bồi bổ những giá trị văn hóa
cho bản thân HS. Có thể nói những câu hỏi chứa đựng tình huống có vấn đề
sẽ giúp HS kết nối những cái đã biết với điều còn băn khoăn để giải quyết, từ
đó hình thành tri thức mới ở HS.
* Đối với đoạn trích Người lái đò Sông Đà, là một bài học khó đối với
học sinh, việc đưa ra câu hỏi có vấn đề vận dụng kiến thức liên văn bản sẽ
- 77 -
giúp HS chủ động nắm kiến thức, huy động được kiến thức đã có của bản
thân. Giáo viên có thể sử dụng những câu hỏi có vấn đề như:
- Sự chuyển biến về quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân sau cách mạng
được biểu hiện như thế nào trong đoạn trích? Hoặc có thể dùng câu hỏi:
Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, ông lái đò ở đây có
phải là một ngoại lệ?
- Trong đoạn trích, tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân thể hiện như thế nào?
Khi trả lời câu hỏi này, học sinh buộc phải huy động kiến thức về
phong cách, quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trước cách mạng thì mới
thấy được điểm khác biệt, sự chuyển biến của Nguyễn Tuân sau cách mạng.
Học sinh sẽ liên văn bản với chính tác phẩm Chữ người tử tù và một số tác
phẩm trong Vang bóng một thời làm dẫn chứng minh họa.
- Nguyễn Tuân đã rất dụng công, dành nhiều tâm sức, tài năng để miêu tả
sông Đà với những đặc tính và vẻ đẹp riêng không lẫn với bất kì con sông
nào. Theo em, tại sao nhà văn lại phải vất vả như vậy?
Học sinh cần phải liên văn bản với hoàn cảnh lịch sử, xã hội để có thể
trả lời: thời kì miền Bắc tập trung xây dựng CNXH, Tây Bắc trở thành miền
đất hứa, phong trào các nhà văn lên vùng cao xây dựng kinh tế mới...GV cũng
có thể cung cấp thêm cho HS những văn bản cùng chủ đề ngợi ca CNXH
trong giai đoạn này.
- Em có suy nghĩ gì về thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm đến độc giả
qua chiến thắng của ông lái đò? Câu hỏi này có thể sử dụng cho HS trao đổi
thảo luận, HS sẽ dùng những tri thức xã hội để kiến giải cho câu hỏi trên. (Sự
chiến thắng của ý chí con người không chịu khuất phục trước thiên nhiên).
2.2.4. Phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp thảo luận nhóm hay dạy học theo nhóm là một phương
pháp giảng dạy trong đó người dạy sẽ tổ chức người học thành những nhóm
nhỏ để thực hiện các hoạt động như: thảo luận, đóng vai, giải quyết vấn đề,...
Mỗi thành viên không chỉ có trách nhiệm thực hiện các hoạt động của nhóm
- 78 -
mà còn phải có trách nhiệm hợp tác, giúp đỡ các thành viên trong nhóm hoàn
thành các nhiệm vụ được giao. Giáo viên bằng kinh nghiệm giảng dạy của
mình hỗ trợ HS trong quá trình các em làm việc nhóm. Giáo viên không làm
thay HS mà chỉ là người tổ chức, điều khiển, kích thích và là người tạo môi
trường giáo dục tốt nhất để HS hoạt động.
Việc tiến hành trao đổi thảo luận sẽ tạo ra môi trường học tập dân chủ,
cởi mở để học sinh bộc lộ suy nghĩ, khả năng tiếp nhận của mình. Vai trò tích
cực, chủ độngcủa người học không chỉ được phát huy trong những hoạt động
cảm thụ mang đậm màu sắc cá nhân ở từng HS mà còn thúc đẩy trong những
hoạt động hợp tác, cùng góp sức, sẻ chia. Sử dụng hình thức thảo luận nhóm
là một trong những biện pháp quan trọng, tạo điều kiện cho người học có thể
đối thoại với nhà văn, đối thoại với thầy cô, đối thoại với bạn bè trong nhóm,
trong lớp. Việc trao đổi thảo luận theo nhóm sẽ phát huy năng lực hợp tác
trong làm việc nhóm, năng lực sáng tạo, khả năng tự lập của học sinh, tăng
cường động cơ học tập; làm nảy sinh những hứng thú mới; kích thích sự giao
tiếp, sẻ chia tư tưởng, nguồn lực và đáp án giải quyết vấn đề; tăng cường kỹ
năng xã hội như thái độ, cách biểu đạt.
Một nhóm muốn hoạt động hiệu quả cần phải có cơ cấu tổ chức chặt
chẽ. Cơ cấu của nhóm gồm: Một nhóm trưởng có trách nhiệm tổ chức, điều
hành mọi hoạt động của nhóm, nhóm trưởng có thể do các thành viên trong
nhóm bầu lên hoặc do GV chỉ định. Một nhóm phó (nếu quy mô nhóm lớn) để
thay thế, hỗ trợ nhóm trưởng khi nhóm trưởng vắng mặt. Một thư ký để ghi
chép nội dung, diễn biến các cuộc họp, thảo luận của nhóm, thư ký có thể
được thay đổi theo từng cuộc họp nhóm hoặc cố định từ đầu đến cuối. Nhóm
phải quy định rõ trách nhiệm cụ thể của từng vị trí trong nhóm, xây dựng mối
quan hệ gắn kết giữa các thành viên trong nhóm. Phần trả lời của nhóm,
không phải là kết quả làm việc của một vài HS khá, giỏi trong nhóm hay của
nhóm trưởng mà là sự tổng hợp ý kiến của các thành viên trong nhóm.
Trong khi dạy tác phẩm Chữ người tử tù, giáo viên có thể tổ chức cho HS
- 79 -
thảo luận về các hình tượng nhân vật, có thể đưa ra những câu hỏi thảo luận
sau dưới dạng câu hỏi có vấn đề:
- Huấn Cao là 1 nghệ sĩ thư pháp tức là người kết tinh, lưu giữ vẻ đẹp của
truyền thống văn hóa truyền thống dân tộc, qua hình tượng Huấn Cao, em có
suy nghĩ gì về điều được nhà văn gửi gắm?
- Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhà văn muốn thể hiện quan điểm như
thế nào về một con người có nhân cách cao cả?
- Đọc đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ (chú ý không gian, thời gian, tư thế con
người, trật tự nhà tù), và hãy giải thích vì sao tác giả lại coi đây là một cảnh
tượng xưa nay chưa từng có?
- Với việc khắc hoạ hình tượng Huấn Cao và tập trung bút lực đặc tả cảnh cho
chữ, Nguyễn Tuân muốn thể hiện tư tưởng gì?
Đoạn trích Người lái đò Sông Đà HS sẽ có nhiều cơ hội làm việc nhóm,
bởi với thời lượng bài dạy ngắn (2 tiết), nếu cứ giảng lần lượt từng phần một
sẽ chỉ như cưỡi ngựa xem hoa, do đó, GV cần đưa ra những câu hỏi thảo luận
làm việc theo nhóm, đại diện nhóm trình bày, GV chỉ khái quát lại. Giao
nhiệm vụ cho mỗi nhóm: Một nhóm chuẩn bị về vẻ đẹp hung bạo, dữ dội của
sông Đà, một nhóm chuẩn bị về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà. Hoặc
có thể chia nhỏ hơn trong vẻ đẹp hùng vĩ, chia mỗi nhóm tìm hiểu một khía
cạnh: sự hùng vĩ của cảnh đá bờ sông, quãng mặt ghềnh Hát Loóng, hút nước
sông Đà, thác đá sông Đà. Trong mỗi nhiệm vụ, giáo viên cần đưa ra một số
câu hỏi định hướng cho mỗi nhóm. Việc cả nhóm làm việc, nhận xét nhau sẽ
phát huy tối đa năng lực hợp tác của HS.
Trong quá trình dạy, giáo viên cần có những câu hỏi thảo luận (những
câu hỏi có vấn đề) kích thích sự sáng tạo tìm hiểu của HS:
- Nguyễn Tuân trước cách mạng là một nhà văn duy mĩ, điều đó có đúng với
tác phẩm này không, ý kiến của em?
- Theo em trong trận thủy chiến trên sông Đà, điều gì làm nên chiến thắng của
ông lái đò? Từ đó, em có suy nghĩ gì về quan niệm vẻ đẹp của con người
- 80 -
trong những trang viết của Nguyễn Tuân sau cách mạng có gì thay đổi so với
trước cách mạng?
- Hay câu hỏi, em có suy nghĩ gì về chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và
chất vàng mười đã qua thử lửa của con người Tây Bắc?
- Tác phẩm Người lái đò Sông Đà đã cung cấp cho em lượng thông tin lớn
như thế nào? (Đề mở phát huy năng lực sáng tạo của học sinh).
2.2.5. Phương pháp trực quan
Việc sử dụng các hình ảnh trực quan đặc biệt ứng dụng công nghệ
thông tin phong phú, đa dạng sẽ tạo được bầu không khí học tập sôi nổi, thỏa
mãn nhu cầu tìm hiểu thực tế của học sinh khiến cho tri thức mới của học sinh
sẽ có chiều sâu hơn. Đây là phương pháp giúp người học có thể liên văn bản
với văn bản điện ảnh hiệu quả nhất.Tuy nhiên việc sử dụng phương pháp này
cũng tránh lạm dụng khi đưa vào bài giảng quá nhiều hình ảnh sẽ dẫn tới việc
phân tán nội dung bài học, làm mất đi khả năng tư duy của các em và mất thời
gian tiết học.
Với tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân trong quá trình dạy
cũng có thể sử dụng phương pháp trực quan tạo hứng thú cho học sinh. Ví dụ
GV có thể sưu tầm một số hình ảnh về tập Vang bóng một thời, những thú vui
tao nhã được khắc họa trong tập truyện (thời lượng ngắn), các hình ảnh thi
pháp, các bức hoành phi, câu đối, các chữ được treo trong nhà theo cách viết
ngày xưa và theo cách sử dụng hiện nay. Từ đó sẽ giúp HS có một cái nhìn
toàn diện hơn về việc lưu giữ những giá trị văn hóa cổ truyền. Giáo viên có
thể cung cấp những hình ảnh minh họa: người tù đeo gông đang viết
chữ...Việc sử dụng hình ảnh trực quan này giúp HS hình dung rõ hơn cảnh
tượng xưa nay chưa từng có, hiểu được giá trị nhân sinh ẩn sau tác phẩm.
Với Người lái đò Sông Đà thì việc ứng dụng công nghệ thông tin sẽ đạt
hiệu quả cao. Sông Đà độc đáo là dòng sông duy nhất chảy theo hướng Bắc,
dòng sông với cá tính độc đáo ấy phù hợp với cá tính sáng tạo của nhà văn
Nguyễn Tuân. Do đó khi dạy bài học này, giáo viên có thể dùng clip tư liệu
- 81 -
minh họa hình ảnh về sông Đà, phóng sự cuộc sống của người dân làm ăn,
sinh sống bên sông. Cũng có thể chiếu bản đồ thủy trình sông Đà qua địa
phận Việt Nam, một số hình ảnh sông Đà với những hút nước, trận địa đá trên
sông, hình ảnh sông Đà từ trên máy bay nhìn xuống... những hình ảnh minh
họa này giúp HS hình dung rõ hơn vẻ đẹp hung bạo, dữ dội, cũng như thơ
mộng, trữ tình của Sông Đà.
2.2.6. Phương pháp dạy học theo dự án
Dạy học dự án là một phương pháp hay một hình thức dạy học tích
cực, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết
hợp giữa lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Để
hoàn thành các dự án được giao, người học phải thực sự nỗ lực bằng sự huy
động vốn kiến thức sẵn có để giải quyết những nhiệm vụ cao hơn trong thực
tiễn, HS phải tự lực trong toàn bộ quá trình học tập. Người học thông qua việc
học qua trực tiếp làm việc, tiếp cận đối tượng mà có những hiểu biết nhất
định. Kết thúc dự án, người học phải có sản phẩm trình bày. Việc đánh giá HS
phải đánh giá cả quá trình tham gia hoạt động từ việc xác định mục đích, kế
hoạch đến thực hiện, kết quả dự án.... Trong quá trình hoạt động, giáo viên chỉ
là người định hướng, tư vấn mà không làm thay HS, HS thực sự trở thành
những người chủ động thực sự trong những nhiệm vụ được giao. Dạy học
theo dự án sẽ giúp cho HS có nhiều cơ hội phát huy năng lực tự học, tự thu
thập và xử lí thông tin, đặc biệt là khả năng sáng tạo trong việc giải quyết các
vấn đề thực tế cuộc sống.
Vận dụng phương pháp này trong dạy học văn là một trong những bước
đi đổi mới hiện nay, giáo viên có thể dễ dàng vận dụng lý thuyết liên văn bản
vào bài dạy (liên văn bản xã hội, văn hóa, liên văn bản với các văn bản thuộc
các loại hình nghệ thuật khác, liên văn bản với văn bản văn học)
Khi dạy các tác phẩm Nguyễn Tuân theo phương pháp dạy học dự án,
cũng cần căn cứ vào tình hình cụ thể của nhà trường và đối tượng HS để có
thể áp dụng phương pháp này. Đối với truyện ngắn Chữ người tử tù, giáo viên
- 82 -
có thể đưa ra một dự án mang tên: Cảnh cho chữ - một cuộc chuyển giao nhân
cách. Chia lớp thành các nhóm với các nhiệm vụ sau:
- Nhóm 1: Tưởng tượng mình là nhà văn Nguyễn Tuân nói chuyện về việc tạo
dựng tình huống truyện
- Nhóm 2: Đóng vai họa sĩ vẽ bức tranh “Cảnh tượng xưa nay chưa từng có”
- Nhóm 3: Đóng vai nhân vật trong truyện
*Với Người lái đò Sông Đà, GV có thể gợi ý dự án hoặc cũng có thể
cho HS lựa chọn dự án: Chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và chất vàng
mười qua thử lửa của con người Tây Bắc.
GV giao nhiệm vụ cụ thể cho các nhóm:
- Nhóm 1: Phóng viên phỏng vấn nhà văn Nguyễn Tuân về sự ổn định và thay
đổi trong phong cách của ông trước và sau cách mạng tháng Tám.
- Nhóm 2: Đóng vai nhiếp ảnh gia từng có bộ ảnh về sông Đà đạt giải thưởng
kể lại hành trình đi dọc con sông Đà tìm tư liệu (hoặc có thể trong vai nhà
lịch sử, địa lý đi tìm hiểu thủy trình sông Đà)
- Nhóm 3: Trong vai một nhà xã hội học tìm hiểu về cuộc sống của những
người dân Tây Bắc bên dòng sông Đà
Việc vận dụng phương pháp này sẽ phát huy khả năng liên văn bản rất
lớn, cả GV (trong vai trò là chuyên gia) và HS sẽ có một cuộc hành trình tìm
hiểu sâu sắc văn bản văn học từ các góc nhìn khác nhau. Tuy nhiên, tùy điều
kiện mới có thể áp dụng được phương pháp này bởi dạy học theo dự án tốn
nhiều thời gian, công sức chuẩn bị, cũng như cần những điều kiện về cơ sở
vật chất nhất định.
Trên đây là một số biện pháp, phương pháp chính chúng tôi đề xuất để
dạy các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong chương trình THPT theo hướng tiếp
cận liên văn bản. Để dạy hiệu quả tôi thiết nghĩ ngoài các phương pháp trên
cần vận dụng linh hoạt các phương pháp như giảng bình, phát vấn... Trong
một giờ giảng văn dù là áp dụng phương pháp đổi mới cũng không thể thiếu
lời bình của GV hoặc GV trao quyền cho HS được đọc và bình một đoạn văn
- 83 -
tâm đắc. Với hai tác phẩm của Nguyễn Tuân được trích dạy trong nhà trường
có nhiều đoạn văn có thể đưa ra những lời bình làm điểm nhấn cho bài dạy.
Ví dụ: cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục, cảnh quản ngục cúi lạy người
tù với dòng nước mắt... hay cảnh sông Đà yên ả hiền hòa với mái tóc buông
dài gợi ta nhớ đến tóc chị Hoài trong những trang văn Nguyễn Tuân trước
cách mạng. Hay như cảnh hai bên bờ sông Đà, ta cảm tưởng như cảnh của
một chốn cổ tích nào đó hiện về...Có những lời bình ấy, cả thầy và trò mới
thực sự sống trong không khí văn chương. Phương pháp phát vấn truyền
thống cũng cần phối hợp linh hoạt để tránh việc hoạt động nhóm làm không
khí bị loãng. GV cần chủ động trong lựa chọn các phương pháp, biện pháp để
bài dạy đạt hiệu quả cao nhất, kích thích sự hứng thú cũng như sự sáng tạo
của HS trong giờ học.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Hai tác phẩm của Nguyễn Tuân được lựa chọn đưa vào chương trình
Ngữ văn THPT là hai tác phẩm tiêu biểu cho hai giai đoạn sáng tác trước và
sau cách mạng, thể hiện rõ nét tài hoa, nghệ sĩ, tài năng uyên bác của nhà văn
Nguyễn Tuân. Việc giảng dạy hai tác phẩm này theo hướng tiếp cận liên văn
bản sẽ là một hướng đi mở, tạo điều kiện cho cả giáo viên và học sinh được
sáng tạo, tự làm giàu vốn kiến thức của mình.
Qua khảo sát thực tiễn giảng dạy, chúng tôi đưa ra những hướng liên
văn bản ở hai văn bản này: Dạy học tác phẩm trong thế LVB với thời đại, bối
cảnh lịch sử, hoàn cảnh sáng tác; Dạy học tác phẩm trong thế LVB với mã văn
hóa trong tác phẩm; Dạy học tác phẩm trong sự LVB với văn bản văn học, văn
bản thuộc các loại hình sáng tác khác; Sự pha trộn thể loại ở các sáng tác của
Nguyễn Tuân trong chương trình THPT. Từ đó, chúng tôi xin đưa ra một số
giải pháp để dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân nói riêng và dạy học văn
nói chung theo hướng tiếp cận liên văn bản mà chúng tôi cho là khả thi.
- 84 -
CHƢƠNG 3
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Mục đích, nhiệm vụ thực nghiệm
Trong nghiên cứu khoa học, thực nghiệm có vai trò rất quan trọng. Do
đó khi nghiên cứu về khả năng dạy các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong nhà
trường theo hướng tiếp cận liên văn bản, chúng tôi tiến hành dạy thực nghiệm
đoạn trích Người lái đò Sông Đà với đối tượng HS lớp 12 trường THPT
Nguyễn Huệ - Nam Định, để kiểm tra tính đúng đắn, tính khả thi cũng như
hiệu quả sư phạm của các phương pháp đã được đề xuất ở chương 2.
So sánh, đối chiếu giáo án, giờ dạy, kết quả thực nghiệm với giờ dạy
hiện tại của GV và HS từ đó đưa ra những kết luận có giá trị thực tiễn và
khoa học. Chúng tôi cũng tiếp thu ý kiến phản hồi từ phía GV và HS trong
quá trình thực nghiệm để điều chỉnh, sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện những đề
xuất đổi mới về cách khai thác tác phẩm, cách tổ chức hoạt động dạy học cho
HS. Đây sẽ là gợi ý để người nghiên cứu có thể tiếp tục suy nghĩ về dạy học
các tác phẩm khác theo hướng tiếp cận liên văn bản trong quá trình giảng dạy
sau này.
3.2. Thời gian, đối tƣợng, địa bàn thực nghiệm
- Thời gian: năm học 2017- 2018. Theo phân phối chương trình của
Bộ GD&ĐT, đoạn trích này được dạy ở tuần 16 (tiết 46, 47). Để kịp tiến độ
luận văn, chúng tôi đã kiến nghị và được ban giám hiệu trường THPT
Nguyễn Huệ đã cho phép đẩy dạy văn bản này vào tuần 1 của tháng 10.
- Địa bàn: Học sinh khối 12 của trường THPT Nguyễn Huệ - Nam
Định
- Để tiến hành thực nghiệm chúng tôi chọn đối tượng là học sinh khối
12 của trường THPT Nguyễn Huệ - TP Nam Định. Lớp12A2, 12A3 là hai lớp
thực nghiệm, lớp 12A4, 12A6 là hai lớp đối chứng. Số HS tham gia là 172 HS
thuộc các lớp 12A2, 12A3, 12A4, 12A6. Đây là các lớp có ý thức học tập tốt,
lực học tương đối đồng đều nhau, cả bốn lớp đều đáp ứng đủ các yêu cầu về
- 85 -
cơ sở vật chất. Để có kết quả thực nghiệm khách quan nhất, chúng tôi mời
thêm cô Cao Thị Thu trực tiếp dạy hai lớp (12A2, 12A6), mời một số thầy cô
trong tổ Văn dự giờ và rút kinh nghiệm.
Bảng 3.1. Thông tin về các lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
Lớp thực nghiệm Lớp đối chứng
Lớp Sĩ số Giáo viên dạy Lớp Sĩ số Giáo viên dạy
12A2 43 Cao Thị Thu 12A6 42 Cao Thị Thu
12A3 44 Trần Thị Thu Hà 12A4 43 Trần Thị Thu Hà
3.3. Tiến trình thực nghiệm
3.3.1. Nội dung thực nghiệm
Là giáo viên trực tiếp đứng lớp, chúng tôi ý thức rõ để rèn luyện và
phát huy khả năng liên văn bản của HS trong học văn cần cả một quá trình
rèn luyện thường xuyên, liên tục trong quá trình giảng dạy. Song để đánh
giá quá trình dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong nhà trường,
chúng tôi lựa chọn dạy đoạn trích Người lái đò Sông Đà (Ngữ văn 12), HS
có một vốn kiến thức, vốn sống tương đối để việc liên vận dụng liên văn
bản thuận lợi hơn.
3.3.2. Tổ chức thực nghiệm
* Để thực nghiệm đạt hiệu quả cao, chúng tôi tiến hành một số công việc
trước như sau:
- Lên kế hoạch thực nghiệm: Xin phép BGH, chọn lớp, liên hệ với GV chủ
nhiệm, GV bộ môn, gặp HS lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
- Trao đổi với GV cùng dạy thực nghiệm giáo án với các điểm mới tiếp cận
liên văn bản, thống nhất dạy lớp đối chứng theo giáo án cũ không quan tâm
nhiều đến liên văn bản, dạy lớp thực nghiệm theo giáo án mới.
- Điều tra cơ bản: Bằng nhiều hình thức như quan sát, phiếu điều tra, trực
tiếp phỏng vấn học sinh, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn. Mục đích
- 86 -
để nắm bắt được những đặc điểm tâm lý của học sinh, tạo môi trường
tương tác thuận lợi trong quá trình thực nghiệm.
- Khâu chuẩn bị: Hướng dẫn HS soạn bài, sưu tầm các tư liệu liên
quan như: tranh ảnh, âm nhạc, phim liên quan đến tác giả Nguyễn Tuân và
tác phẩm Người lái đò Sông Đà (HS sẽ trình bày ở đầu tiết 1)
* Dạy lớp thực nghiệm và lớp đối chứng; Dự giờ đồng nghiệp dạy
thực nghiệm, đối chứng. Rút kinh nghiệm và đánh giá qua bài kiểm tra tại
lớp.
3.3.3. Thiết kế dạy học
Thiết kế giáo án đoạn trích Người lái đò sông Đà
Tiết 46, 47 Đọc văn
NGƢỜI LÁI ĐÕ SÔNG ĐÀ (Trích)
Nguyễn Tuân
A/ MỤC TIÊU CẦN ĐẠT: Giúp HS
1.Kiến thƣ́ c: Giúp HS thấy được + Vẻ đẹp đa dạng của con sông Đà (hung ba ̣o, trữ tình) và người lái đò (trí
dũng, tài hoa) trên trang văn củ a Nguyễn Tuân
+ Vốn từ ngữ dồi dào , biến hóa; câu văn đa da ̣ng , nhiều tầng, giàu hình ảnh và nhịp điệu; những ví von so sánh, liên tưở ng, tưở ng tươ ̣ng đô ̣c đáo bất ngờ 2. Kĩ năng: Đo ̣c - hiểu tù y bú t theo đă ̣c trưng thể loa ̣i 3. Thái độ: Đồng cảm, trân tro ̣ng tình yêu sự đắm say củ a Nguyễn Tuân đối vớ i thiên nhiên và con ngườ i lao đô ̣ng ở miền Tây Bắc Tổ quốc 4. Phát triển năng lực:
- Năng lực đọc hiểu văn bản kí hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975
- Năng lực tạo lập văn bản nghị luận về kí hiện đại Việt Nam giai đoạn
1945-1975
- Năng lực cảm thụ thẩm mĩ.
- Các năng lực khác: năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực
sáng tạo, năng lực tự quản bản thân, năng lực sử dụng công nghệ thông tin…
- 87 -
B. THIẾ T KẾ BÀ I HỌC
I. Chuẩn bị của GV và HS
1. Giáo viên:
+ Phương pháp, kĩ thuật dạy học: kết hợp đọc sáng tạo, nêu vấn đề, làm việc
nhóm giảng bình, đàm thoại gợi mở, so sánh đối chiếu...
+ Phương tiện : SGK, SGV, giáo án, tài liệu tham khảo, bài nghiên cứu, phân
tích, bình giảng về tác phẩm. Tìm các tài liệu liên quan có thể liên văn bản với
tác phẩm Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân. Sưu tầm những bức tranh,
ảnh về sông Đà hoặc vẽ hình tượng dòng sông Đà.
Sử dụng máy chiếu, máy tính, các video clip minh họa
2. Học sinh: Đọc, tìm toàn văn bản Người lái đò Sông Đà của Nguyễn
Tuân và đọc đoạn trích văn bản trong SGK. Soạn bài theo hệ thống câu hỏi
gợi ý trong SGK.
II. Tổ chƣ́ c hoa ̣t đô ̣ng da ̣y ho ̣c * Hoạt động trải nghiệm:
Ổn định lớp.
Kiểm tra bài cũ: Kiểm tra trong quá trình học bài mới
Tạo tâm thế cho HS tiếp nhận bài học mới.
GV cho HS chơi một trò chơi khởi động nhỏ: Hãy kể tên và đọc những bài
thơ nhắc đến dòng sông mà em biết?
Chia lớp làm 2 đội chuẩn bị trong 3 phút sau đó đại diện trình bày, đội nào
thắng sẽ được thưởng điểm cộng vào tổ tính vào cuối ngày.
Lời vào bài: Mỗi dòng sông quê hương luôn là nguồn sáng tạo vô bờ bến
của các nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ: con sông thân thương trong thơ Tế Hanh,
một dòng sông Hồng gợn tràng giang buồn điệp điệp trong thơ Huy Cận, một
dòng Vàm Cỏ Đông anh dũng, kiên cường trong thơ Hoài Vũ đã được nhạc sĩ
Trương Quang Lục phổ nhạc thành bài hát ngân vang trong lòng bao thế hệ.
Và có một nhà văn cũng đã để hồn để phách vào những dòng sông quê hương,
đó chính là nhà văn Nguyễn Tuân. Nhiều dòng sông nước đất Việt đã chảy
- 88 -
trên những trang văn đẹp của ông. Hôm nay, cô trò chúng ta sẽ cùng đến với
tùy bút Người lái đò Sông Đà, một trong những trang hoa mà nhà văn Nguyễn
Tuân dành tặng cho thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Hoạt động hình thành kiến thức:
Phát triển năng lực đọc hiểu, năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh
Hoạt động 1: GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu về tác giả và tác phẩm.
PPDH: trực quan, thuyết trình, phát vấn, sử dụng công nghệ thông tin
Hoạt động của GV, Nội dung liên văn Nội dung cần đạt HS bản (LVB)
- GV: chia lớp thành I. Đọc hiểu khái quát
2 nhóm và tiến hành 1. Tác giả Nguyễn Tuân
giao nhiệm vụ cách ( 1910-1987)
ngày dạy một tuần. - Là một trí thức yêu nước, có
Giao nhiệm vụ cho 2 tinh thần dân tộc.
nhóm trưởng yêu cầu - Là con người có cá tính
HS tìm hiểu sưu tầm mạnh mẽ và phóng khoáng,
những tài liệu có liên say mê “chủ nghĩa xê dịch”,
quan đến tác giả, tác thích thú với những biểu hiện
phẩm, đọc trọn vẹn mạnh mẽ, phi thường của
văn bản Người lái đò thiên nhiên và con người.
Sông Đà - Có phong cách tài hoa, uyên GV định hướng HS
Nhiệm vụ cụ thể của bác, vận dụng tri thức của LVB với thời đại, bối
từng nhóm: nhiều bộ môn khoa học khác cảnh lịch sử, hoàn
+ Nhóm 1: Tìm hiểu nhau để miêu tả, khám phá cảnh sáng tác: LVB
những nét chính về đối tượng. Nguyễn Tuân còn với bài Khái quát
tác giả Nguyễn Tuân là một nhà văn bậc thầy trong văn học Việt Nam
(cuộc đời, con người, việc sử dụng ngôn ngữ. 1945-cuối thế kỉ XX
- 89 -
phong cách nghệ chặng đường giai 2. Tùy bút "Người lái đò
thuật). Sưu tầm đoạn 1955-1964 Sông Đà"
những thông tin, tư 2.1. Hoàn cảnh sáng tác Năm 1958, Đảng và
liệu, tranh ảnh, video - Người lái đò Sông Đà là Nhà nước ta phát
về Nguyễn Tuân một áng văn đẹp được trích động phong trào
+ Nhóm 2: Tìm hiểu trong tập tuỳ bút Sông Đà khai hoang, phát
về thể loại tùy bút và (1960) triển kinh tế ở vùng
hoàn cảnh sáng tác - Đây là kết quả chuyến đi cao, biến những
của tác phẩm Người thực tế của Nguyễn Tuân lên mảnh đất Tây Bắc
lái đò Sông Đà; Sưu vùng núi cao Tây Bắc năm thành miền đất hứa.
tầm những thông tin 1958. Sông Đà gồm 15 tùy Các văn nghệ sĩ lên
tư liệu, tranh ảnh, vi bút và một bài thơ ở dạng các vùng xa xôi của
deo và tùy bút Người phác thảo. tổ quốc để tìm cảm
lái đò Sông Đà. hứng sáng tác theo
GV: Mỗi nhóm thuyết phong trào “văn
trình 3 phút, GV yêu nghệ sỹ - đi và viết”.
cầu HS nhận xét và “Ôi miền Tây, ở dưới
rút ra những nét chính xuôi sao nghe nói
về tác giả, tác phẩm. ngại ngùng
HS: Đại diện nhóm Mà lúc ra đi lửa
1trình bày trong lòng vẫn cháy
Nhóm 1: Sử dụng Tuổi hai mươi khi
mấy chiếu trình bày 2.2. Thể loại tùy bút hứng đời đã thấy
về tác giả Nguyễn - Là tác phẩm văn xuôi tự sự Thì xa xôi mấy cũng
Tuân nhỏ, thuộc loại hình kí, ghi lên đường”
GV khái quát, đại chép chân thật, chính xác sự (Lên Miền Tây- Bùi
diện nhóm 2 trình bày kiện nhưng lại có cấu trúc tự Minh Quốc)
Nhóm 2: Sử dụng do, phóng túng
- 90 -
máy chiếu giới thiệu - Thể hiện rất rõ cái tôi cá
chung về hoàn cảnh nhân, hiện tượng đời sống
sáng tác, giới thiệu về được phản ánh qua cái nhìn
Tây Bắc và song Đà chủ quan của nhà văn.
- HS: Lắng nghe phần - Ngôn ngữ giàu hình ảnh,
trình bày của nhóm nhạc điệu, chất trữ tình.
bạn và nhận xét
- GV: chốt lại và
chiếu slide phần I.
Hoạt động 2: Hƣớng dẫn HS đọc văn bản
Phát triển năng lực đọc hiểu, năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mỹ
PPDH: Đọc sáng tạo, nêu vấn đề, phát vấn
GV hướng dẫn HS II. Đọc hiểu văn bản
đọc văn bản. GV gọi * Đọc văn bản
HS đọc và nêu ấn - Hình tượng Sông Đà: được
tượng của bản thân nhà văn cảm nhận như một
GV: chọn 2 đoạn : sinh thể sống động với hai
Đoạn 1: “Còn xa lắm nét tính cách: dữ dằn, hung
mới đến...lượn được” bạo và thơ mộng, trữ tình.
nên đọc khúc chiết, - Hình tượng ông lái đò là
mạch lạc, có khí thế, một tay lái ra hoa trí dũng,
không khí cuộc chiến tài ba, dũng cảm
căng thẳng, dữ dội - Cách sử dụng ngôn từ độc
Đoạn 2: “Con sông đáo của nhà văn
Đà tuôn dài ... thượng
nguồn Tây Bắc” nên
đọc chậm, trầm lắng,
da diết, mang nỗi hoài
- 91 -
niệm sâu xa.
HS: thực hiện yêu cầu
Hoạt động 3: Hƣớng dẫn HS đọc hiểu chi tiết văn bản
Phát triển năng lực đọc hiểu, năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mỹ
PPDH: Đọc sáng tạo, phát vấn, nêu vấn đề, thảo luận nhóm, thuyết trình
Thao tác 1: Hướng LVB với văn bản văn * Đọc hiểu chi tiết văn bản
dẫn HS tìm hiểu hình học (sự hiện diện văn 1. Hình tƣợng Sông Đà
tượng Sông Đà - Trước hết lời đề từ bản văn học khác
GV: Lời đề từ của “Chúng thuỷ giai Đông tẩu. trong văn bản): thơ
Nguyễn Quang Bích Đà giang độc Bắc lưu”. Lời Nguyễn Quang Bích
cho em hiểu gì về thơ của Nguyễn Quang Bích - Liên văn bản với
sông Đà? đã nhắc nhở người đọc về phong cách nhà văn
HS phát biểu nêu cảm tính chất độc đáo, khác biệt Một con sông có cá
nhận về sông Đà qua của dòng sông Đà. Một con tính độc đáo. Khi tất
câu thơ sông đầy cá tính gặp một cả dòng sông đều chảy
GV: Vẻ đẹp hung nhà văn phong cách cũng rất về hướng đông, riêng
bạo, dữ dội của Sông lạ mà giáo sư Nguyễn Đăng con sông Đà lại chảy
Đà đã được nhà văn Mạnh đã đóng đanh trong về hướng Bắc. Điều
khắc họa qua những một chữ “ngông”. này gắn với cá tính
khía cạnh nào? sáng tạo của Nguyễn
GV chiếu hình ảnh 1.1. Sông Đà hung bạo, dữ Tuân
những hút nước, thác dội
nước sông Đà * Bờ sông dựng thành vách:
HS: Hình tượng Sông - Nghệ thuật so sánh: vách
Đà ở các khía cạnh: đá chẹt lòng sông như một
Cảnh đá bên bờ sông; cái yết hầu, có đoạn thắt lại.
Cảnh sóng nước ở - Đặc biệt “Ngồi trong
mặt ghềnh Hát khoang đò... tắt phụt đèn
- 92 -
Loóng; Cảnh hút điện”, nhà văn đã sử dụng
nước ở quãng Tà nhiều giác quan để miêu tả,
Mường Vát; Cảnh cộng với sự so sánh mới mẻ,
thác nước, thạch trận độc đáo. Vách thành dựng
trên sông đứng gợi sự hiểm trở hùng
vĩ, dữ dội.
* Sự dữ dằn của sông Đà:
sóng nước mặt ghềnh Hát
Loóng, những hút nước ghê
sợ, thác đá dữ dằn. Sông Đà
được nhân hóa như một - LVB với văn bản
GV: Để khắc họa một nhân vật đáng sợ chuyên đi thuộc các loại hình
cách ấn tượng hình đòi nợ: “nước xô đá... tóm sáng tác khác: LVB
ảnh con sông Đà hung được qua đấy”, có lúc lại với các tri thức khoa
bạo, Nguyễn Tuân đã gào thét điên cuồng, ghê sợ, học của các ngành
sử dụng những biện nghe như “van xin”, “khiêu nghề: giao thông, điện
pháp nghệ thuật, khích”, “chế nhạo”...=> ảnh, địa lí, quân sự,
những tri thức khoa hoang dại, sức mạnh kì vĩ. bóng đá, điện ảnh, hội
học nào? - Nguyễn Tuân đã miêu tả họa ... để khắc họa sự
HS: Phát biểu những hút nước phơi bày hung bạo, dữ dội của
toàn bộ sự ghê gớm, độc ác, dòng sông Đà
người đọc có cảm giác Sông
Đà như một thứ thủy quái
khổng lồ. Lấy hình ảnh “ô
tô sang số nhấn ga” trên
“quãng đường mượn cạp ra
ngoài bờ vực” để ví von với
cách chèo thuyền. Tưởng
- 93 -
tượng về cú lia ngược của
chiếc máy quay từ đáy cái
hút nước sông Đà. Thậm trí
dùng lửa để tả nước, lấy GV cho HS thảo luận
nhóm nhỏ (2 bàn một rừng tả sông => chơi ngông
nhóm) trong 3': Sự trong nghệ thuật
hung bạo của Sông Đà - GV mở rộng liên văn * Dữ dội nhất là thạch
được tập trung biểu bản với văn bản văn trận trên sông Đà
hiện qua hình ảnh - Nhân hoá mỗi hòn đá nư học: Ta nghe như có
nào? Em có ấn tượng một tên lính thủy hung hãn ánh lửa bùng bùng
gì về cách viết của + Mặt hòn đá ngỗ ngược, như trận Xích Bích
nhà văn? nhăn nhúm, méo mó (trong Tam Quốc)
Đại diện các nhóm trả + Sông Đà đã giao việc cho hoặc gợi cách đánh
lời mỗi hòn: đám tảng, đám của Khổng Minh -
HS: Ông đã vận dụng hòn, hàng tiền vệ, bong ke, Mạnh Hoạch dùng hoả
vốn tri thức, vốn ngôn pháo đài… công tạo được một
ngữ đa thanh để làm +Bèn nhổm cả dậy, hất hàm không gian nghệ thuật
cho sự hung tợn mà thách thức cho tác phẩm.
kỳ vĩ của Sông Đà + Bệ vệ, oai phong, lẫm liệt - LVB với văn bản văn
sống dậy, hiện hình, Sông như một loài thuỷ học: tiềm lực thủy
gào thét trên những quaí khổng lồ, khôn ngoan, điện sông Đà mà con
hàng chữ viết. mưu trí, nham hiểm, hung ác người có thể khai thác.
GV mở rộng: liên văn có diện mạo có tâm địa như Trong bài Bài ca mùa
bản HS lắng nghe và một thứ kẻ thù số một của xuân 1961, Tố Hữu
ghi chép con người cũng đã viết: “Sông
GV chuyển slide, * Nghệ thuật sử dụng từ Đà, sông Lô, sông
chiếu hình ảnh dòng ngữ: Hồng, sông Chảy. Hỏi
sông Đà êm đềm từ - Quân sự: Dàn thạch trận, đâu thác nhảy cho
- 94 -
trên cao nhìn xuống bong ke, pháo đài điện xoay chiều”.
GV hỏi: Em có nhận - Võ thuật: Đá trái, thúc gối,
xét gì về lời đề từ mở đánh đòn tỉa, đánh đòn
đầu tùy bút? âm…
- Thể thao: Tiền vệ, hậu vệ… HS phát biểu:
Nguyễn Tuân muốn Sử dụng tri thức liên
ca ngợi Sông Đà như nghành để miêu tả sự dữ dội
một công trình nghệ của dòng sông, đồng thời
thuật tuyệt vời của tạo cũng khẳng định tiềm năng
hóa đã ban tặng cho thủy điện có thể được khai
con người. thác ở đây.
GV: Nhà văn đã nhìn 1.2. Dòng sông thơ mộng,
ngắm sông Đà từ trữ tình: - LVB với văn bản
những góc độ nào? * Nguyễn Tuân bắt mạch văn học:
cảm xúc của mình từ một + Nhóm 1: Từ trên GV chia nhóm thảo
luận, yêu cầu liên văn câu thơ trữ tình của Vla-đi- cao nhìn xuống sông
bản trong câu trả lời xláp Brô-ni-ép-xki nhà thơ Đà hiện lên như áng
Nhóm 1: Từ trên máy cách mạng Ba Lan (1897 - tóc của cô gái Tây
bay nhìn xuống Sông 1962): “Đẹp vậy thay, tiếng Bắc, gợi ta nhớ đến
Đà hiện lên như thế hát trên dòng sông”. Nguyễn mái tóc chị Hoài
nào? Cách miêu tả Tuân đưa ta đi trên một con (trước Cách mạng
dòng sông Đà ta đã thuyền lướt trên mặt sông tháng Tám, Nguyễn
gặp ở tác phẩm nào mà lòng tự cất lên tiếng hát. Tuân từng có một tập
của Nguyễn Tuân? *Dòng sông thơ ấy được nhà tùy bút Tóc chị Hoài).
Nhóm 2: Khi ở rừng văn khắc họa ở nhiều góc + Nhóm 2: Sông Đà
ra, ánh mắt nhìn sông độ, nhiều chiều, hiện lên được nhìn như một cố
Đà của nhà văn như sống động duyên dáng, đầy nhân. Câu văn gợi ta
thế nào? chất thơ: nhớ đến cuộc chia tay
- 95 -
Nhóm 3: Sông Đà của Lý Bạch và Mạnh -Từ trên máy bay nhìn
hiện lên như thế nào Hạo Nhiên giữa mùa xuống:
khi nhà văn đi thuyền + Hình dáng: một dòng sông hoa khói Lý Bạch.
trên sông? uốn lượn được so sánh “sợi Nhóm 3:
dây thừng ngoằn nghèo” + Ngược thời gian Các nhóm thảo luận
3', đại diện phát biểu, “Con Sông Đà tuôn dài như một thiên niên kỉ về
liên văn bản với văn áng tóc...nương xuân”, trước, hai tiếng “lặng
bản văn học và các Sông Đà hiện lên như mái tờ” dẫn người đọc trở
loại hình nghệ thuật tóc của người thiếu nữ kiều về với “mấy trăm
khác diễm và xuân sắc đậm sắc năm thấp thoáng
GV nhận xét và bổ màu Tây Bắc thơ mộng, dịu mộng bình yên”
sung phần trả lời của dàng (Hoàng Cầm). Đã có
các nhóm + Màu sắc dòng nước lại cái “phẳng lặng tờ”
được ngắm nhìn ở nhiều của con sông trong cổ
thời gian, không gian khác thi: “Trắng xóa tràng
nhau. giang phẳng lặng tờ” GV thuyết giảng:
Nguyễn Tuân chủ yếu Mùa xuân: Xanh ngọc bích nên mới có cái “lặng
sử dụng kiến thức du Mùa thu: lừ lừ chín đỏ tờ” êm như ru của
lịch, kiến thức lịch sử, Chưa bao giờ thấy dòng sông Đà mà Nguyễn
kiến thức văn học với Sông Đà là đen Tuân cảm mến.
câu văn vươn dài ra =>Nghệ thuật liên tưởng + Dòng nước sông Đà
như nhịp chèo khoan tương đồng mới lạ độc đáo: còn làm ta nhớ đến
thai của thuyền tôi so sánh nước sông với da câu thơ của Nguyễn
trôi trên sông Đà. Có mặt người uống rượu. Nước Trãi thuở nào: “Bóng
đến mười bốn câu văn sông Đà hiện lên rõ nét và thác hình trâm ngọc.
Nguyễn Tuân kết thúc gợi cảm, biến hoá kỳ ảo. Tác Gương sông áng tóc
toàn với thanh bằng giả còn gửi vào dòng sông huyền”. (Núi Dục
để tạo cảm giác mênh lòng yêu mến, tự tôn dân Thúy).
- 96 -
mang mềm mại tộc.
- Khi ở rừng ra: Nhìn Sông
Đà như một cố nhân, cái
đằm đằm ấm ấm thân quen
và nhất chất thơ ngấm vào
cảnh sắc thiên nhiên, đó là
cái nắng tháng ba Đường thi
trong thơ Lý Bạch khiến nhà
văn vui sướng khi gặp lại
=> Cái tính gắn bó của - Sự xâm nhập chất
người nghệ sĩ với dòng sông trữ tình trong tùy bút:
Tây Bắc Ta có cảm giác như
đoạn thơ như bài thơ - Đi thuyền trên sông-
trữ tình viết bằng văn Sông Đà hiện lên hết sức
xuôi gần với phong đa dạng, nên thơ
+ Vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, cách nhà văn Thạch
thanh bình “thuyền tôi trôi Lam với lối viết
trên sông Đà”. Một không truyện không mâu
gian nghệ thuật “lặng tờ” thuẫn, không kịch
như ru “ông khách Sông tính, không gay cấn,
Đà” vào giấc mộng phiêu truyện như một bài
GV nêu vấn đề: du. thơ trữ tình viết bằng
Nguyễn Tuân đã rất + Vẻ đẹp mang dấu tích lịch văn xuôi.
dụng công, dành nhiều sử cha ông “Bờ sông hoang
tâm sức, tài năng để dại như một bờ tiền sử...”
miêu tả sông Đà với + Vẻ đẹp tươi mới tràn trề
những đặc tính và vẻ nhựa sống qua các từ: nhú,
đẹp riêng không lẫn nõn búp, búp cỏ, đẫm sương
- 97 -
với bất kì con sông đêm...sự sống căng tràn hay
nào. Theo anh (chị), lòng xuân của nhà văn trao
tại sao nhà văn lại gửi cảnh vật, xóa nhòa ranh
phải vất vả như vậy? giới dòng sông thực và dòng
sông thơ GV cho HS thảo
+ Khát vọng đổi mới đi lên luận nhóm nhỏ theo
ở Tây Bắc: thèm tiếng còi bàn
Đại diện phát biểu, xúp lê xe lửa
GV bổ sung =>Bằng trí tưởng tượng
phong phú, quan sát bằng HS thảo luận và
nhiều giác quan, liên tưởng phát biểu:
- Nhà văn kín đáo thể độc đáo, sáng tạo ngôn từ,
hiện tình yêu thiên sự tài hoa đã đem lại những
nhiên đất nước trang tuyệt bút về vẻ thơ
- Dòng sông Đà gắn mộng, trữ tình của sông Đà.
với liền với cá tính - Với Nguyễn Tuân sông Đà
sáng tạo của nhà văn được coi như một sản phẩm
Nguyễn Tuân, nhà văn vô giá của tạo hóa, là chất
ưa những cảm giác vàng của thiên nhiên Tây
mạnh, luôn đi tìm Bắc. Qua những trang văn,
thực đơn cho các giác nhà văn kín đáo thể hiện
quan tình yêu tổ quốc.
Thao tác 2: Hướng 2. Hình tƣợng ông lái đò -
dẫn HS tìm hiểu nhân tay lái ra hoa
vật ông lái đò (chiếu Khái quát:
hình ảnh ông đò trên - Ông lái đò xuất hiện trong
sông) cuộc chiến đấu ác liệt không
GV: Ông lái đò xuất cân sức với bầy thủy quái
- 98 -
hiện như thế nào Sông Đà
trong đoạn trích? Qua - Ông là người dũng cảm,
việc chuẩn bị bài ở mưu trí, tài hoa nghệ sĩ
nhà, em có ấn tượng trong nghề nghiệp của mình
sâu sắc gì về ông lái *Ngƣời lái đò mƣu trí, tài
đò? ba trong cuộc chiến với
HS: phát biểu sông Đà
- Sông Đà với 3 vòng vây GV thuyết giảng
thêm: Ông lái đò thạch trận đe dọa. Lúc thì - LVB với văn bản
chạc ngoài 70, đây là “có bốn cửa tử một cửa sinh văn học: Gợi ta nghĩ
người lao động bình nằm lập lờ phía tả ngạn”. đến hình ảnh Triệu Tử
thường trong vô số Lúc lại “Tăng thêm nhiều Long ở trận Đương
những người khác. cửa tử để đánh lừa”. Có lúc Dương một mình
Chân dung ông được lại “ít cửa hơn, phải trái đều xông trận cứu A Đẩu
chạm khắc chân thực là luông chết cả”. Dòng
đến thô nháp: tay ông sông phơi bày sự hung bạo,
lêu nghêu như cái nó thay đổi chiến thuật liên
sào, chân khuỳnh tục: “phối hợp với đá, nước
khuỳnh, giọng nói ồn thác reo hò làm thanh viện”,
ào, nhãn giới vòi “đánh đòn tỉa, đòn âm,
vọi... đánh hồi lùng”...
- Ông lái đò: Hai tay giữ mái - Sự xâm nhập của -GV nêu vấn đề liên
văn bản: Trong cuộc chèo, nén vết thương, kẹp yếu tố truyện trong
chiến với sông Đà chặt cuống lái; tiếng chỉ huy tùy bút: theo dõi cuộc
tính cách của ông đò ngắn gọn, tỉnh táo. Có lúc chiến của ông đò như
hiện lên như thế nào? ông đổi chiến thuật, nắm đọc một thiên tiểu
Hình tượng ông lái đò chắc binh pháp, nắm chặt thuyết thời Minh
trong cuộc chiến bờm sóng, ghì cương lái, Thanh - Trung Quốc
- 99 -
khiến em liên tưởng bám luồng nước phóng vào
đến hình ảnh nào cửa sinh, đứa thì ông tránh
trong văn học và cuộc mà rảo bơi chèo, đứa thì ông
sống? đè sấn mà chặt đôi ra
HS suy nghĩ, phát => Dũng cảm, bình tĩnh, tự
biểu, vận dụng các tin, ông trở thành một vị
kiến thức chuẩn bị dũng tướng biến cán chèo
liên văn bản trong các trong tay thành một thứ vũ
câu trả lời. khí phá ải diệt thành
* Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ: GV cho HS phát vấn
các câu hỏi - Ông đò nhỏ bé với những LVB với ngành nghề
- Nghệ thuật tả trận động tác điêu luyện, chuẩn khác: Ta như đang
đánh của Nguyễn xác “nắm chặt lấy bờm sóng xem trận đấu võ tự do
Tuân? đúng luồng rồi, ông đò ghì xen đấu vật
- Qua trận đánh, em lấy cương lái, mà lái miết
hiểu gì về ông đò? một đường chéo về phía cửa
HS phát biểu cá nhân đá”.
GV: Không chỉ mưu - Đặc biệt ở vòng 3, kĩ năng
trí, dũng cảm, ông đò đạt đến mức tinh tường,
còn hiện lên là một chuẩn mực trong từng hành
người nghệ sĩ tài hoa. động: “Vút, vút”, “thuyền
Vẻ đẹp ấy của ông đò như mũi tên tre, xuyên
thể hiện như thế nào? nhanh qua hơi nước” lái
Hình ảnh ông đò gợi con thuyền vượt của tử, đi
nhắc em đến nhân vật đúng của sinh
văn học nào? => Người nghệ sĩ điêu
GV định hướng liên luyện ngay trong công việc
văn bản hàng ngày, biến công việc - LVB: Nhân vật ông
- 100 -
GV nêu câu hỏi có mưu sinh thành công việc lái đò gợi cho ta liên
vấn đề cho HS thảo nghệ thuật cao cường. tưởng tới anh thanh
luận: - Ông còn hiện lên với tư thế niên không tên trong
Theo em trong trận ung dung tự tại trong cuộc Lặng lẽ Sa Pa của
thủy chiến trên sông sống đời thường, không bàn Nguyễn Thành Long.
Đà, điều gì làm nên thêm lời nào về chiến thắng Đất nước của Nguyễn
chiến thắng của ông đã qua => vẻ đẹp bình dị, Khoa Điềm
lái đò? khiêm nhường, thầm lặng
Thảo luận ngắn: Em nhưng đầy trí tuệ và sức
có suy nghĩ gì về mạnh,
quan niệm vẻ đẹp của * Điều làm nên chiến thắng
con người trong của ông đò chính là sự dũng
những trang viết của cảm, ngoan cường, sự tài trí
Nguyễn Tuân sau thông minh, hiểu biết và
cách mạng có gì thay bằng cả vốn sống, kinh
đổi so với trước cách nghiệm của bản thân
mạng? -Trước Cách mạng, Nguyễn
HS chia nhóm thảo Tuân tìm vẻ đẹp ở lớp - Liên văn bản với
luận, đại diện phát người đặc tuyển. Sau Cách văn bản văn học: các
biểu, các nhóm nhận mạng, cảm quan khám phá, tác phẩm trước Cách
xét và bổ sung chinh phục thiên nhiên của mạng của Nguyễn
Nguyễn Tuân hòa quyện Vang bóng một thời
Gv gọi HS trả lời và chặt chẽ với tình yêu Tổ và tác phẩm Chữ
khái quát thêm: Sau quốc, tình yêu con người và người tử tù
Cách mạng, Nguyễn cuộc Qua ông đò, Nguyễn
Tuân phát hiện ra Tuân muốn khẳng định,
điều phi thường trong ngợi ca những người lao
những con người bình động vô danh, bình dị đã và
- 101 -
thường. Ông đã tái đang hàng ngày hàng giờ
tạo những kì công của làm nên kì tích, góp phần
tạo hóa và những kì dựng xây đất nước.
tích lao động của con
người trong công
cuộc xây dựng XHCN
GV: Qua đoạn trích, - HS liên văn bản 3. Đặc trƣng tùy bút
em có ấn tượng gì về trong thể loại sáng Nguyễn Tuân qua đoạn
những trang tùy bút tác: với những tác trích
của Nguyễn Tuân so - Với cá tính, phong cách phẩm kí đã học : Vũ
với những tác phẩm độc đáo, Nguyễn Tuân chọn Trung tùy bút- Phạm
kí em được học và chất tự do trong bản chất thể Đình Hổ, Vào phủ
biết đến? loại để thể hiện cao độ cái chúa Trịnh- Lê Hữu
HS phát biểu cá nhân tôi cá nhân, cá tính sáng tạo Trác. Kí Ai đã đặt tên
của mình cho dòng sông của
- Tùy bút của Nguyễn Tuân Hoàng Phủ Ngọc
đậm chất truyện kí, chất thơ, Tường (Bài học sau
chất trữ tình trong mỗi trang sẽ giải đáp)
tùy bút.
*Hoạt động thực hành: Phát triển năng lực làm việc cá nhân, khả năng
khái quát, tạo lập văn bản
PPDH: Cá nhân làm việc, phát vấn
- GV hƣớng dẫn HS III. Tổng kết:
*Thể hiện sự tài hoa uyên tổng kết.
GV: Khái quát giá trị bác của Nguyễn Tuân trong
nội dung của tác việc dùng chữ nghĩa để tái
phẩm? tạo những kì công của tạo
GV: Tài năng nghệ hoá và những kì tích lao
- 102 -
thuật và phong cách động của con người.
nghệ thuật của *Nguyễn Tuân luôn nhìn
Nguyễn Tuân thể hiện nhận và miêu tả thiên nhiên
như thế nào qua tác con người ở phương diện
phẩm này? văn hóa mĩ thuật, tài hoa
nghệ sĩ. Sử dụng kiến thức HS suy nghĩ phát
của nhiều ngành nghề tạo biểu cá nhân
GV khái quát nên những trang văn độc
đáo
- Sử dụng hệ thống ngôn từ
phong phú, giàu hình ảnh,
giàu nhạc điệu, biến đổi linh
hoạt kết hợp các biện pháp
tu từ linh hoạt.
Hoạt động ứng dụng: Phát triển năng lực tạo lập văn bản, đặc biệt là viết
sáng tạo cho học sinh.
PPDH: Thảo luận nhóm, cá nhân làm việc
GV hƣớng dẫn HS
LT
GV cho HS thảo luận
các câu hỏi sau và
trình bày vào vở (gọi
chấm 2 HS) 1. Kho tri thức khổng lồ về - Sự xâm nhập chất kí
truyền thống, lịch sử, địa lí, trong tùy bút của Sử dụng máy chiếu
1. Tác phẩm Người lái khoa học, nghệ thuật... Nguyễn Tuân
đò Sông Đà đã cung 2. HS viết thành đoạn văn - Liên văn bản với
cấp cho em lượng nêu suy nghĩ của cá nhân, phong cách nhà văn
thông tin lớn như thế lưu ý: Thiên nhiên là một kì Nguyễn Tuân
- 103 -
nào? Cho ví dụ . công của tạo hóa cần biết
2. Em có suy nghĩ gì trân trọng nâng niu
về chất vàng của thiên - Với Nguyễn Tuân bất cứ
nhiên Tây Bắc và chất người nào, làm công việc gì
vàng mười đã qua thử tinh thông giỏi giang thì đều
lửa của con người Tây được nâng lên tầm nghệ sĩ
Bắc? - Thể hiện tình cảm gắn bó,
HS quan sát câu hỏi sâu nặng của tác giả với
chiếu trên máy, thảo cảnh vật Tây Bắc, với con
luận nhóm, thư kí ghi người quê hương đất nước.
biên bản, các thành
viên triển khai phần
viết thành văn vào vở
ghi
Hoạt động bổ sung
- Đọc thêm các tác phẩm tùy bút của Nguyễn Tuân trên báo, internet, ....
- Bài mới: Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận
Chuẩn bị bài tập 1,2
3.4. Kết quả thực nghiệm
3.4.1. Tiến hành kiểm tra
Chúng tôi tiến hành kiểm tra ở cả 4 lớp thực nghiệm và đối chứng bằng
hai bài kiểm tra, một bài kiểm tra kiến thức đọc hiểu văn bản (15ph) và một
bài tự luận (60 phút)
* Bài kiểm tra đọc hiểu (15ph)
Đọc đoạn văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
“Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt....thạch trận trên sông” (Trích Người
lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, Nxb Giáo dục, 2009,
tr.188)
1. Văn bản trên sử dụng các phương thức biểu đạt nào?
- 104 -
2. Hãy chỉ ra các biện pháp tu từ tác giả sử dụng trong văn bản trên và nêu tác
dụng ?
3. Tác giả đã sử dụng tri thức của các ngành nghệ thuật nào?
4. Nhà văn nhìn nhận sông Đà có tiềm năng kinh tế gì, qua đó nhà văn thể hiện
quan điểm gì với thiên nhiên, quê hương, đất nước?
* Đề kiểm tra tự luận (60ph)
“Thứ vàng mười đã qua thử lửa” của con người Tây Bắc được Nguyễn
Tuân khám phá trong tùy bút Người lái đò sông Đà qua hình tượng người lái
đò sông Đà. Từ đó, anh /chị hãy chỉ ra những ổn định và phát triển trong quan
niệm về con người của nhà văn Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng 8
năm 1945.
3.4.2. Kết quả kiểm tra
Bảng 3.2. Tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm 12A2
và lớp đối chứng 12A6
Số Đề Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm
Lớp HS kiểm tra yếu
ĐC 12A6 42 15 phút 6(14.3%) 13(31%) 19(45.2%) 4(9.5%)
TN 12A2 43 15 phút 14(32.5%) 20(46.5%) 7(16.3%) 2(4.7%)
ĐC 12A6 42 60 phút 3(7.1%) 15(35.7%) 17(40.5%) 7(16.7%)
TN 12A2 43 60 phút 7(16.3%) 20(46.5%) 13(30.2%) 3(7%)
Bảng 3.3. Tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm 12A3
và lớp đối chứng 12A4
Số Đề Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm
Lớp HS kiểm tra yếu
ĐC 12A4 43 15 phút 8(18.6%) 15(34.9%) 15(34.9%) 5(11.6%)
TN 12A3 44 15 phút 16(36.3%) 20(45.5%) 7(15.9%) 1(2.3%)
ĐC 12A4 43 60 phút 4(9.3%) 10(23.3%) 21(48.8%) 8(18,6%)
TN 12A3 44 60 phút 10(22.7%) 21(47.8%) 10(22.7%) 3(6.8%)
- 105 -
Căn cứ vào bảng tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng, chúng tôi lập biểu đồ cột so sánh kết quả kiểm tra ở hai bài kiểm
tra 15 phút và 60 phút như sau:
Biểu đồ 3.1. Biểu đồ so sánh kết quả kiểm tra lớp 12A6 và 12A2
Biểu đồ 3.2. Biểu đồ so sánh kết quả kiểm tra lớp 12A4 và 12A3
3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm
Qua kết quả thực nghiệm của hai nhóm lớp, chúng tôi nhận thấy rõ
ràng chất lượng các bài kiểm tra của hai lớp thực nghiệm tốt hơn các lớp đối
chứng. Cụ thể: Ở bài kiểm tra 15 phút (đọc - hiểu kết hợp nghị luận ngắn),
HS các lớp thực nghiệm (12A2, 12A3) có tỉ lệ HS đạt điểm khá giỏi cao hơn
lớp đối chứng. Lớp 12A2 đạt 79% điểm giỏi, điểm khá, trong khi điểm yếu
chỉ có 4,7%; Lớp 12A3 đạt 81,8% điểm khá, giỏi, điểm yếu 2,2%. Trong khi
đó ở lớp đối chứng, HS lớp 12A6 đạt 45,3% khá, giỏi, tỉ lệ điểm TB 45,2%,
- 106 -
yếu 9,5%; tỉ lệ này cũng tương tự ở lớp 12A4: Điểm TB: 34,9%; điểm yếu
11,6%. Dạng bài đọc hiểu này các em đã được luyện nhiều, các câu hỏi bám
sát nội dung cơ bản của bài học, HS dễ dàng đạt điểm TB, tuy nhiên HS lớp
đối chứng chưa nắm vững kiến thức cơ bản của bài học do đó tỉ lệ điểm khá
giỏi còn thấp. Điều này được khắc phục ở lớp thực nghiệm, HS trả lời ngắn
gọn, đủ ý, tỏ ra hiểu sâu sắc vấn đề hơn nên điểm khá giỏi cao hơn.
Bài kiểm tra 60 phút được biên soạn theo hướng kiểm tra khả năng
nắm kiến thức văn bản theo hướng tiếp cận liên văn bản đã thể hiện rất rõ sự
chênh lệch giữa hai nhóm lớp. Tỉ lệ hoc sinh đạt điểm khá giỏi ở lớp thực
nghiệm cao hơn hẳn lớp đối chứng, lớp 12A2 đạt 62,8%, lớp 12A3 đạt
70,5%, đa phần HS làm được bài. Vẫn có học sinh bị điểm yếu ở các lớp thực
nghiệm chỉ phản ánh ý thức học của một bộ phận HS. Học sinh các lớp thực
nghiệm tỏ ra bước đầu khả năng liên văn bản trong bài viết, văn viết linh
hoạt, sâu sắc, sáng tạo.
Có thể thấy việc vận dụng hướng tiếp cận liên văn bản, HS có thể nắm
chắc kiến thức cơ bản, đồng thời huy động tất cả những kiến thức liên quan
để hiểu bài học. Điều này giúp các em nhớ bài sâu hơn, có trường liên tưởng
tốt hơn. Đề kiểm tra chúng tôi đưa ra có tích hợp liên văn bản, HS các lớp
thực nghiệm tỏ ra đáp ứng được các yêu cầu của đề về cơ bản. Các em đạt
mức TB và khá một cách dễ dàng, những HS có tố chất tỏ ra có sức bật với
các điểm giỏi nhiều hơn. Đa phần những bài điểm trung bình và kém đều do
HS nắm không chắc kiến thức nên trả lời lơ mơ, thậm chí có HS không hiểu
văn bản viết gì. Khi dạy học vận dụng lí thuyết liên văn bản, chúng tôi thấy
số HS không nắm được văn bản đã giảm hơn so với cách dạy thông thường.
Kết hợp với việc dự giờ trong giờ dạy của cô Cao Thị Thu, ý kiến phản
hồi của của các thầy cô trong tổ Văn, ý kiến của HS tham gia thực nghiệm,
chúng tôi nhận thấy, các giờ dạy thực nghiệm, HS tỏ ra sôi nổi, hào hứng
hơn. Có thể là do các em được mở rộng trường liên tưởng, được vận dụng
những kiến thức mình có vào bài học, lại được cô mở rộng liên văn bản tới
- 107 -
các vấn đề các em chưa từng nghĩ tới. Các hoạt động nhóm tỏ ra có hiệu quả,
đặc biệt là phần trình bày việc chuẩn bị ở nhà, HS rất phấn khởi khi bài của
nhóm được trình chiếu.
Như vậy, kết quả thực nghiệm đã khẳng định tính khả thi của việc vận
dụng lý thuyết liên văn bản trong dạy tác phẩm Nguyễn Tuân trong nhà
trường: Học sinh khắc sâu được kiến thức cơ bản, có nhiều cơ hội hiểu sâu
vấn đề. Học sinh mạnh dạn, chủ động trong việc tiếp nhận cũng như trong
trao đổi, thảo luận, trình bày ý kiến của mình, tạo không khí học tập tích cực,
sôi nổi trong lớp học. Các em tự rèn luyện các kỹ năng, năng lực giao tiếp,
hợp tác ngay trong quá trình học. Chúng tôi thiết nghĩ đó là những thành
công bước đầu của việc vận dụng liên văn bản trong quá trình dạy văn nói
chung và dạy các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong nhà trường nói riêng.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Trên cơ sở nghiên cứu các cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn, chúng tôi đã
mạnh dạn đề xuất một số giải pháp, phương pháp tiếp cận các tác phẩm của
Nguyễn Tuân trong chương trình THPT với mong muốn góp phần vào việc
đổi mới dạy- học văn, đem lại hứng thú cho mỗi giờ học. Ở chương 3, chúng
tôi tiến hành dạy thực nghiệm đoạn trích Người lái đò Sông Đà của Nguyễn
Tuân trên đối tượng HS của 4 lớp 12 có lực học và điều kiện cơ sở vật chất
tương đối ngang bằng, chia làm hai nhóm đối chứng và thực nghiệm do bản
thân người làm đề tài dạy và mời thêm một giáo viên cùng tổ có trình độ
tương đương dạy. Kết quả thu được rất khả quan, khẳng định chúng tôi đã đi
đúng hướng. Chúng tôi biết để có thể rèn luyện cho HS khả năng liên văn bản
trong học văn cần có thời gian nhất định, nhưng với một bài dạy nhỏ, chúng
tôi vẫn hi vọng góp một phần nhỏ bé rèn luyện kĩ năng liên văn bản ở HS cấp
THPT.
- 108 -
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận Trong những năm đầu thế kỉ XXI, việc vận dụng các lý thuyết tiếp cận
trong dạy học văn trở nên khá phổ biến, trong đó vận dụng lý thuyết liên văn
bản được nhiều nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu. Trong nhà trường, qua
khảo sát chúng tôi nhận thấy, việc vận dụng lý thuyết này vừa mang tính tự
phát vừa mang tính tự giác và chưa phát huy hết ưu điểm của hướng tiếp cận
này. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi cũng không có kì vọng nghiên
cứu việc vận dụng lý thuyết liên văn bản trong toàn bộ chương trình Ngữ văn,
mà chỉ nghiên cứu trong phạm vi các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong nhà
trường. Chúng tôi hi vọng những giải pháp, hướng tiếp cận đưa ra sẽ là những
tư liệu tham khảo hữu ích, những gợi ý hướng triển khai có hiệu quả khi vận
dụng lý thuyết này trong dạy học văn trong nhà trường phổ thông. HS cấp
THPT với vốn kiến thức sẵn có, chúng tôi tin tưởng là việc vận dụng lý thuyết
liên văn bản trong dạy học văn sẽ phát huy các thế mạnh của hướng tiếp cận.
Đề tài dạy các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong chương trình THPT
theo hướng tiếp cận liên văn bản mà chúng tôi lựa chọn như một thể nghiệm
làm rõ hơn cách thức tổ chức dạy học Ngữ văn theo hướng tiếp cận LVB
nhằm giúp HS chủ động, sáng tạo trong lĩnh hội tri thức, tự kiến tạo kiến thức
bằng chính kinh nghiệm, vốn hiểu biết của bản thân. Ở chương 1, luận văn
nghiên cứu những vấn đề lí luận liên quan đến liên văn bản, cùng các cơ sở
thực tiễn của đề tài. Ở chương 2, chúng tôi đưa ra định hướng tiếp cận các tác
phẩm của Nguyễn Tuân trong chương trình THPT theo hướng LVB. Từ đó,
đề xuất các giải pháp chung dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân theo
hướng tiếp cận LVB. Ở chương 3, chúng tôi lựa chọn đoạn trích Người lái đò
Sông Đà để tiến hành dạy thực nghiệm và thu được những kết quả khả quan.
Kết quả khảo sát đã khẳng định tính đúng đắn, khả thi, khoa học của hướng
tiếp cận này. Chúng tôi mong muốn đề tài nghiên cứu khoa học này sẽ được
đưa vào áp dụng trong nhà trường THPT để GV được tiếp cận với một hướng
- 109 -
giảng dạy đổi mới, đồng thời là một gợi ý giúp các đồng nghiệp có những cơ
sở khoa học để tiến hành dạy học Văn có vận dụng lý thuyết LVB. Tuy nhiên,
để đạt hiệu quả cao nhất người thầy trước tiên cần có cả Tâm, Tài, Tầm, thực
sự yêu nghề mến trẻ và khát vọng đổi mới thì mới có thể thổi hồn vào bài
giảng và đem lại cho HS niềm đam mê, yêu thích môn văn học.
2. Khuyến nghị
Trong xu thế chung của thời đại, những môn khoa học tự nhiên lên
ngôi, tình trạng HS thờ ơ, chán học văn, thì việc giúp HS yêu môn Văn là
một thách thức và luôn đòi hỏi khả năng sáng tạo của mỗi GV trực tiếp đứng
lớp. Để góp phần vào việc nâng cao hiệu quả dạy các tác phẩm của Nguyễn
Tuân trong chương trình THPT nói riêng và việc dạy văn nói chung, chúng
tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
- Để dạy một tác phẩm văn chương theo hướng tiếp cận liên văn bản
thì bản thân mỗi GV cần tự trang bị cho mình một hệ thống lí luận cũng như
kiến thức liên văn bản, cập nhật c ác thông tin, các tri thức để vận dụng cụ thể
vào mỗi bài giảng. Hướng tiếp cận này là một trong những hướng đi khoa
học, hiệu quả, thiết thực trong giảng dạy. Các tổ chuyên môn cần trao đổi,
thảo luận những bài học khó, đưa ra nhưng cách tiếp cận liên văn bản phù
hợp, hiệu quả.
- Mỗi học sinh cần được theo dõi trong quá trình học tập, giáo viên cần
tổng hợp điểm kiểm tra cá nhân, nhóm, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, sự
tiến bộ của mỗi HS trong hồ sơ theo dõi từng cá nhân học sinh.
- Học sinh cần chủ động lựa chọn phương pháp tự học phù hợp và hiệu
quả, tự kiến tạo tri thức cho bản thân qua các hoạt động học tập, biết vận
dụng sáng tạo kiến thức vào thực tiễn học tập.
- Nhà trường và giáo viên cần tạo một môi trường sư phạm tương
tác, tạo điều kiện để HS có cơ hội tự học, tự trải nghiệm, phát huy tối đa
năng lực của HS.
- 110 -
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
1. Trần Thị Thu Hà (2016), “Dạy học tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân theo hướng tích hợp văn hóa”, Kỷ yếu Hội nghị nghiên cứu khoa học
học viên sau đại học năm 2016, Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia
Hà Nội, tr. 372-375.
2. Trần Thị Thu Hà (2017), “Dạy học các tác phẩm của Nguyễn Tuân trong
Chương trình THPT theo hướng tiếp cận liên văn bản”, Tạp chí Dạy và học
ngày nay (9-2017), tr. 40-43.
- 111 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Tuấn Ảnh (2007), “Những yếu tố Hậu hiện đại trong văn xuôi Việt
Nam qua so sánh với văn xuôi Nga” http://vietvan.vn/vi/bvct/id1485
2. Lại Nguyên Ân (2003), 150 Thuật Ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà
Nội.
3. M. Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch),
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
4. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp tiểu thuyết Doxtoiepxki, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
5. Diệp Quang Ban (2012), Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo của văn bản,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Lê Huy Bắc (2013), Văn học hậu hiện đại lí thuyết và tiếp nhận, Nxb Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
7. Lê Huy Bắc (2015), Liên văn bản hay tiếp nhận của tiếp nhận, Tạp chí
Nghiên cứu Khoa học số 7, Đại học Sư phạm, Hà Nội
8. Trần Thị Hồng Bắc (2013), Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu tác phẩm Chữ
người tử tù của Nguyễn Tuân cho học sinh lớp 11, Luận văn thạc sĩ Trường ĐH Giáo dục
9. Bộ GD&ĐT (2012), Ngữ văn 12, Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Bộ GD&ĐT (2012), Ngữ văn 11, Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Bùi Thị Hạnh Châm (2014), Hướng dẫn học sinh THPT đọc hiểu văn
bản Chữ người tử tù theo đặc trưng thi pháp chủ nghĩa lãng mạn, Luận văn
thạc sĩ Trường Đại học Giáo dục
12. Bùi Thị Anh Chung (2007), Phong cách Nguyễn Tuân qua tuỳ bút
Kháng chiến, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hƣợu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung,
Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức (1997), Giáo trình Văn học Việt Nam 1900-1945,
Nxb Giáo dục.
14. Hà Văn Đức (1996), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Nxb Giáo
- 112 -
dục.
15. Nguyễn Văn Hùng (2012), “Yếu tố liên văn bản trong tiểu thuyết lịch sử
Giàn thiêu của Võ Thị Hảo”, Tạp chí khoa học, Đại học Huế,( 7)
16. Ngô Minh Hiền (2009), Văn xuôi Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc
Tường từ góc nhìn văn hoá, Luận án tiến sĩ - Viện Văn học
17. Nguyễn Thị Hoa (2014), Vận dụng kĩ thuật liên văn bản trong dạy đọc
hiểu văn bản văn học ở trường THPT, Luận văn thạc sĩ trường Đại học Vinh
18. I.P Ilin và E. A Tzurganova (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các
trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20, do Đào Tuấn
Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
19. G.K.Koshikov, Văn bản – liên văn bản – lý thuyết liên văn bản (2017) (in
trong Lý luận văn học- những vấn đề hiện đại), Lã Nguyên tuyển dịch, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr. 355 -391
20. Trần Thiện Khanh (2009), “Xung quanh chuyện đi thực tế của nhà văn”,
http://www.vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/
21. Thụy Khuê (2004), “Thi pháp Nguyễn Tuân”, Hợp Lưu, (75),tr 5-42
22. Phan Trọng Luận (2008), Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 11 tập 1, Nxb
Giáo dục.
23. Phan Trọng Luận (2008), Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 12 tập 1, Nxb
Giáo dục.
24. Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên (1990), Văn học Việt Nam 1945 – 1975, tập
2, Nxb Giáo dục.
25. Tôn Thảo Miên (2001), Nguyễn Tuân- về tác gia tác phẩm, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
26. Phạm Thị Hồng Ngọc (2015), Đề tài quá khứ trong sáng tác của Nguyễn
Tuân trước Cách mạng, Luận văn thạc sĩ Đại học KHXH& NV- ĐH Quốc gia
Hà Nội.
27. Vƣơng Trí Nhàn (1997), “Nguyễn Tuân- Tên tuổi còn mãi với thể tùy
bút”, http://www.viet-studies.net/VTNhan/VTNhan_Chuong10.htm
- 113 -
28. Phạm Thị Bích Phƣợng (2014), Vận dụng lý thuyết liên văn bản vào dạy
học các tác phẩm Thơ mới trong chương trình Ngữ Văn 11- THPT, Luận văn
thạc sĩ Trường ĐH Giáo dục.
29. Nguyễn Minh Quân (2001), “Liên văn bản- sự triển hạn đến vô cùng của
tác phẩm văn học”, https://phebinhvanhoc.com.vn/
30. Nguyễn Hƣng Quốc (2005), “Văn bản và liên văn bản”
http://www.tienve. org/home/literature/
31. Trần Đình Sử (2014), “Ngôn ngữ, liên văn bản với việc đọc hiểu văn bản
thơ” https://trandinhsu.wordpress.com/2014/05/07/
32. Nguyễn Tuân (2002), Vang bóng một thời, Nxb Văn học, Hà Nội.
33. Nguyễn Tuân (2012), Nguyễn Tuân tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội
34. Lƣu Khánh Thơ tuyển chọn (2005), Văn học trong nhà trường tác giả và
tác phẩm, Nxb Đại học Sư phạm
35. Nguyễn Văn Thuấn (2013), Liên văn bản trong sáng tác của nguyễn Huy
Thiệp, Luận án tiến sĩ, HV KHXH-Viện Hàn lâm Khoa học xã hội VN.
36. Nguyễn Văn Thuấn (2013), “Dẫn luận ngắn về lý thuyết liên văn bản”,
http://phebinhvanhoc.com.vn/
37. Nhiều tác giả (2006), Bình luận văn chương văn học trong nhà trường,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
38. Nhiều tác giả (2014), Văn học và ngôn ngữ những góc nhìn mới. Nxb Đại
học Vinh.
39. Đỗ Thị Vui (2013), Dạy học văn học trung đại - Ngữ văn 10 theo hướng
liên văn bản, Luận văn thạc sĩ Trường Đại học Giáo dục
40. Trƣơng Hoàng Vinh (2013), “Bút kí Nguyễn Tuân từ góc nhìn tương tác
thể loại”, Tạp chí khoa học, ( 44), tr 128-127
41. Trƣơng Hoàng Vinh (2016), “Tương tác thể loại trong truyện ngắn
Nguyễn Tuân”, Tạp chí khoa học, (8(86), tr 140-151.
- 114 -
PHỤ LỤC
MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA CÔ, TRÒ TRƢỜNG THPT NGUYỄN HUỆ
Học viên cùng HS lớp 12A3
- 115 -
- 116 -
- 117 -
Cô Cao Thị Thu cùng HS lớp 12A2
- 118 -
- 119 -