BỘ GIÁO DỤC VÀ ðÀO TẠO

TRƯỜNG ðẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ----------------------------------------

V

NGUYỄN THỤY GIANG THỦY

PHƯƠNG PHÁP KHAI THÁC CÁC KIẾN THỨC

VĂN HỌC SỬ TRONG ðỌC – HIỂU VĂN BẢN

VĂN HỌC LỚP 11 - CHƯƠNG TRÌNH CƠ BẢN

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2009

BỘ GIÁO DỤC VÀ ðÀO TẠO

TRƯỜNG ðẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ----------------------------------------

NGUYỄN THỤY GIANG THỦY

PHƯƠNG PHÁP KHAI THÁC CÁC KIẾN THỨC

VĂN HỌC SỬ TRONG ðỌC – HIỂU VĂN BẢN

VĂN HỌC LỚP 11 - CHƯƠNG TRÌNH CƠ BẢN

Chuyên ngành: Lí luận và Phương pháp dạy học Văn

Mã số: 60 14 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRẦN THANH BÌNH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2009

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

MỞ ðẦU .......................................................................................................1

CHƯƠNG 1 - KIẾN THỨC VĂN HỌC SỬ TRONG CHƯƠNG TRÌNH

NGỮ VĂN THPT......................................................................................16

1.1.1 Vị trí, vai trò của kiến thức văn học sử trong chương trình Ngữ văn THPT...16

1.1.2 ðặc ñiểm của kiến thức văn học sử trong chương trình Ngữ văn THPT ........19

1.1.3 Mục tiêu, nội dung của kiến thức văn học sử trong chương trình Ngữ văn

THPT ..........................................................................................................26

1.1.4 Nguyên tắc dạy học văn học sử trong chương trình Ngữ văn THPT..............29

1.1 Những vấn ñề chung .................................................................................16

1.2 Hệ thống kiến thức văn học sử cơ bản trong chương trình Ngữ văn

1.2.1 Kiến thức chung về lịch sử phát triển của văn học Việt Nam ........................32

1.2.2 Kiến thức về các thời kỳ, giai ñoạn văn học..................................................34

1.2.3 Kiến thức về tác gia, tác giả văn học.............................................................35

1.2.4 Kiến thức về các tác phẩm văn học...............................................................36

THPT (kiểu bài văn học sử)......................................................................32

CHƯƠNG 2 - PHƯƠNG PHÁP KHAI THÁC CÁC KIẾN THỨC VĂN

HỌC SỬ TRONG ðỌC – HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC ........................38

2.1 Tình hình giảng dạy các kiến thức văn học sử trong chương trình Ngữ

2.1.1 Tình hình giảng dạy văn học sử nói chung....................................................38

văn THPT ..................................................................................................38

2.1.2 Thực tiễn khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc - hiểu văn bản văn học hiện nay......................................................................................................42

2.2 Phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc – hiểu văn

2.2.1 Các kiến thức văn học sử cần ñược khai thác trong ñọc - hiểu văn bản văn học Ngữ văn 11..................................................................................................45

2.2.2 Phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc – hiểu văn bản văn học lớp 11 ...................................................................................................45

bản văn học Ngữ văn lớp 11 .....................................................................44

2.3 Hiệu quả, tác dụng của phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc – hiểu văn bản văn học.............................................................85

CHƯƠNG 3 - THỰC NGHIỆM ......................................................................87

3.1.1 Mục ñích thực nghiệm..................................................................................87

3.1.2 Yêu cầu thực nghiệm....................................................................................87

3.1 Mục ñích, yêu cầu thực nghiệm................................................................87

3.2.1 Thời gian thực nghiệm..................................................................................88

3.2.2 Tổ chức thực nghiệm....................................................................................88

3.2 Thời gian và tổ chức thực nghiệm ............................................................88

3.3.1 Yêu cầu chuẩn bị ..........................................................................................89

3.3.2 Giáo án.........................................................................................................91

3.3 Giáo án thực nghiệm.................................................................................89

3.4 Xử lý kết quả thực nghiệm .....................................................................112

3.5.1 ðánh giá từ kết quả kiểm tra kiến thức của học sinh ................................... 115

3.5.2 ðánh giá từ những nhận xét, góp ý của giáo viên về giờ dạy thực nghiệm .. 115

3.5 Kết luận chung về thực nghiệm..............................................................115

KẾT LUẬN ...............................................................................................117

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................121

PHỤ LỤC..................................................................................................127

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT VIẾT TẮT VIẾT ðẦY ðỦ

1. THPT Trung học phổ thông

2. THCS Trung học cơ sở

3. SGK Sách giáo khoa

4. SGV Sách giáo viên

5. GV Giáo viên

6. HS Học sinh

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 1 : Kết quả kiểm tra bài Hầu Trời – Tản ðà

(lớp thực nghiệm)……………………………………..112

Bảng 2 : Kết quả kiểm tra bài Hầu Trời – Tản ðà

(lớp ñối chứng)…………………………………………113

Bảng 3 : Tổng hợp và so sánh kết quả kiểm tra của lớp dạy

thực nghiệm và ñối chứng…………………………….114

1

MỞ ðẦU

1. Lí do chọn ñề tài

Là một trong những môn học quan trọng hàng ñầu của chương trình

giảng dạy phổ thông, văn học luôn hướng con người ñến chân - thiện - mĩ ñể

tâm hồn mỗi chúng ta cảm thấy yêu hơn cuộc sống, nhân loại. Không những

thế, văn học còn cho chúng ta thấy rõ từng bước ñi, nhịp ñập, hơi thở của

lịch sử xuyên suốt qua từng chặng ñường, từng thời kỳ, từng giai ñoạn với

những nấc thăng trầm khác nhau. Chính vì vậy mà trong công việc dạy học

văn, việc khai thác và truyền thụ các kiến thức, hiện tượng văn học trong mối

quan hệ gắn bó với lịch sử, thời ñại là một vấn ñề mang ý nghĩa phương pháp

luận rất quan trọng .

Hiện nay, một số giáo viên thường có xu hướng coi trọng phần ñọc –

hiểu văn bản mà xem nhẹ hoặc bỏ qua các bài khái quát, các phần mục tìm

hiểu tác giả, tác phẩm, hoặc những kiến thức ñó nếu có thì cũng chỉ ñược

nhắc ñến một cách qua loa, sơ sài, không liên hệ với phần văn bản và cũng

không phục vụ cho việc ñọc - hiểu văn bản.

ðọc – hiểu văn bản văn học thực chất là phương pháp tiếp nhận nghệ

thuật ngôn từ bằng sự cảm thụ trực tiếp, là sự hiểu thấu ngôn ngữ và là sự

phân tích, phát hiện ý nghĩa sâu xa trong văn bản. Mục ñích của ñọc – hiểu là

hình thành và duy trì những ấn tượng nghệ thuật ñể học sinh tiếp tục ñi sâu

vào nội dung tư tưởng và hình thức ngôn ngữ tác phẩm. Theo tinh thần này,

ñọc – hiểu văn ở trung học phổ thông chính là toàn bộ quá trình tiếp nhận,

giải mã các văn bản văn học tiêu biểu cho các thể loại ở từng giai ñoạn lịch

sử văn học, qua ñó cung cấp và hình thành ở học sinh những kiến thức cơ

bản về lịch sử văn học, lí luận văn học, tác giả và tác phẩm văn học, làm nền

tảng ñể từng bước xây dựng văn hóa ñọc cho học sinh.

2

Những tri thức văn học sử sẽ cung cấp cho học sinh những hiểu biết về

văn học theo quan ñiểm ñồng ñại và lịch ñại, giúp các em hiểu hơn quá trình

phát triển của lịch sử văn học dân tộc. Tri thức về văn học sử cùng với tri

thức lí luận văn học sẽ nâng tri thức văn học của học sinh lên cấp ñộ khái

quát và góp phần rèn luyện cho học sinh kỹ năng tư duy văn học, khả năng

ứng dụng tri thức, tự mình phát triển, hoàn thiện tri thức. Ngoài ra, những

kiến thức văn học sử có thể bồi dưỡng và phát triển tình cảm yêu nước, tình

yêu nhân loại cho học sinh khi các em ñược học các bài về các tác gia, tác

giả có tên tuổi, tiêu biểu trong chương trình phổ thông, từ Nguyễn Trãi,

Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến… ñến Nguyễn ðình Chiểu, Nguyễn Ái Quốc –

Hồ Chí Minh,…

“Giờ giảng văn học sử không thể chỉ quan tâm ñến việc truyền thụ kiến

thức văn chương mà coi nhẹ nguồn tư tưởng tình cảm cao quí vốn là những

tài sản vô giá của dân tộc ta”. [32, tr. 11]

Quan ñiểm xây dựng chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới hiện

nay là : một mặt theo truyền thống (dựa vào tiến trình văn học), mặt khác có

ñiểm mới là theo thể loại. Các giai ñoạn văn học từ thế kỉ X ñến hết thế kỉ

XVII có : thơ, phú, nghị luận, sử kí và truyện. Các giai ñoạn văn học từ thế

kỉ XVIII ñến hết thế kỉ XIX có : thơ, ngâm khúc, truyện thơ. Cấu trúc

chương trình này ñã ñặt ra cho chúng ta một loạt các câu hỏi liên quan :

- Việc nhấn mạnh vào tiêu chí thể loại có ñảm bảo kiến thức và thật sự

mở rộng diện ñọc, tăng thêm tri thức về văn hiến Việt Nam (như mục tiêu

sách giáo khoa ñã ñặt ra) cho học sinh hay chưa, một khi có khá nhiều thể

loại không cần thiết ñược ñưa vào bắt buộc học sinh phải học?

- Nên phân loại dựa trên tiêu chí tiến trình lịch sử như sách giáo khoa

trước ñể phần văn học sử trở thành một siêu kiến thức quan trọng không

kém phần ñọc – hiểu văn bản hay cần chú trọng nhấn mạnh ñến thể loại ñể

thuận lợi cho việc làm văn nghị luận của học sinh ?

3

- Có chắc rằng, tri thức văn học sử cũng như lí luận văn học một khi

nằm trong văn bản, ñược lồng ghép vào văn bản sẽ có tác dụng và phục vụ

ñạt hiệu quả như mong muốn ?

Thiết nghĩ, dù có phân loại dựa theo tiêu chí nào thì người dạy vẫn cần

phải biết cân nhắc, kết hợp hài hoà giữa các kiến thức, các nội dung bài

giảng, phải biết khai thác các yếu tố lịch sử văn học, khai thác các giá trị của

văn bản và phải làm sao lồng ghép các kiến thức văn học sử vào quá trình

ñọc – hiểu văn bản cho thật hiệu quả. ðồng thời, cần phải thấy ñược sự hiện

diện của bóng dáng văn học sử ở mỗi thời kỳ trong từng tiết học, giờ học ñọc

– hiểu văn bản.

Dạy văn là cung cấp cho học sinh những tri thức về ñọc - hiểu cũng

như những tri thức về lí luận văn học và lịch sử văn học. Nhất là khi chương

trình buộc phải tích hợp ñọc - hiểu với lịch sử văn học thì công việc giảng

dạy, cung cấp kiến thức cho các em lại càng khó khăn hơn. Trong khi ñó,

phương pháp dạy lịch sử văn học hiện nay còn nhiều ngộ nhận, lúng túng,

bất cập, chưa ñược giải ñáp...

Kiến thức văn học sử không chỉ tập trung thể hiện ở các dạng bài khái

quát mà còn hiện hữu trong các tác phẩm. Vì vậy, phương pháp khai thác

kiến thức văn học sử có cả ở hai dạng : một dạng ñược thể hiện rõ thông qua

các bài khái quát về tác gia, tác giả, tác phẩm, thời kỳ, giai ñoạn văn học ;

một dạng tiềm ẩn trong các văn bản bằng những kí hiệu, hình tượng, ngôn từ

nghệ thuật. Với dạng kiến thức còn tiềm ẩn này, chúng ta cần phải có

phương pháp khai thác phù hợp, khoa học. Bởi lẽ, bất kỳ một văn bản hay

một tác phẩm ñược viết ra bao giờ cũng dựa theo những lập trường, quan

ñiểm, quan niệm về hoàn cảnh lịch sử, xã hội nhất ñịnh. Cho nên, hầu như

khi tìm hiểu chúng, ta không thể bỏ qua kiến thức văn học sử và lí luận văn

học.

Thử hình dung nếu ta phân tích tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam

Cao hay bất kỳ một tác phẩm nào khác chẳng hạn, ñôi lúc ta vô tình hay hữu

4

ý bỏ qua quá trình tìm hiểu hoàn cảnh ra ñời của tác phẩm ấy cũng như quan

ñiểm lập trường sáng tác của nhà văn thì có lẽ sẽ mất ñi nhiều giá trị và

không thể hiểu hết những gì thời ñại ñã qua, những gì mà người nghệ sĩ dụng

công gởi gắm ñến bạn ñọc. Mặt khác, chúng ta sẽ không thấy ñược hơi thở,

nhịp ñập, tư duy của thời ñại - có thể nó ñã xảy ra trong quá khứ ñến nay chỉ

còn vang bóng hoặc có thể ñang tiếp diễn ở hiện tại hoặc dự ñịnh xảy ra

trong tương lai sắp tới…

Tác phẩm văn chương là sản phẩm của một thời ñại lịch sử, của mỗi cá

nhân tác giả. Từ những kinh nghiệm thực tế cuộc sống, xã hội, kinh tế, chính

trị, văn hoá…, mỗi cá nhân tác giả theo lập trường, quan ñiểm, lí tưởng của

thời ñại sáng tạo nên những tác phẩm gởi ñến bạn ñọc như những bức thông

ñiệp. Người nghệ sĩ sáng tác văn chương từ thời ñại mình, cho thời ñại mình

và cho cả thời ñại mai sau.

Cuối cùng, có thể nói việc dạy văn học khi dựa trên những quan niệm,

tư tưởng mang tính lịch sử của tác giả cũng như bối cảnh, hoàn cảnh lịch sử

ra ñời của tác phẩm sẽ ñồng thời dạy cho học sinh tinh thần truyền thống

của lịch sử dân tộc, lịch sử ñất nước hào hùng. Các em sẽ cảm thấy tự hào,

yêu hơn lịch sử văn chương nghệ thuật của quê hương, ñất nước mình.

Dù ñã có nhiều người nghiên cứu, bàn luận về tri thức văn học sử nói

chung và nội dung tri thức văn học sử ở trường phổ thông nói riêng nhưng có

lẽ vấn ñề khai thác chúng trong quá trình ñọc – hiểu văn bản cụ thể lại hiếm

ñược ñề cập. Do ñó, người viết cảm thấy ñây chính là một trong những mảng

ñề tài còn ñang mở rộng ñể chúng ta có thể ñi vào khám phá và tìm hiểu.

Trong sự hiểu biết có giới hạn, người viết chỉ dám hy vọng một ñiều là

tất cả những gì tiếp thu, học hỏi ñược từ kinh nghiệm của các thầy cô, bạn

bè, ñồng nghiệp và từ thực tế, sách vở, kinh nghiệm bản thân sẽ góp phần

mang lại hướng nhìn mới, diện mạo mới vào việc khai thác các kiến thức

văn học sử trong ñọc – hiểu văn bản Ngữ văn 11 - chương trình chuẩn.

5

2. Lịch sử vấn ñề

Văn chương hình thành, tồn tại và phát triển trong một dòng chảy, như

một dòng chảy. Nó là sự kết tinh, kế thừa giữa truyền thống và hiện ñại. Văn

chương nghệ thuật không bao giờ ngưng ñọng. Có khi nó phải trải qua những

thác ghềnh, những con sóng lớn dữ dội, nhưng có khi lại trôi ñi một cách

phẳng lặng, bình yên. “Thầy giáo dạy lịch sử văn chương là người có ý thức

về dòng chảy ñó, biết nó bắt nguồn từ ñâu (…) ñể biết khi nào dòng chảy văn

chương lại ñổ dốc, khi nào lại có chiều ngưng ñọng, tỏa rộng” [32, tr.9].

Quả thật, văn học sử có ñặc ñiểm và sức mạnh riêng trong môn văn ở

trường trung học phổ thông. Kiến thức văn học sử như là kiến thức “giao

thoa” giữa khoa học và nghệ thuật, ñồng thời văn học sử còn là kiến thức có

tính hệ thống ña chiều, tính bao hàm, khái quát về ngoại diên và nội hàm của

tri thức,…

Với những ñặc ñiểm trên, tri thức văn học sử ở trường trung học phổ

thông xứng ñáng ñể chúng ta khai thác và vận dụng một cách nghiêm túc,

hiệu quả.

Liên quan về ñề tài này ñã có không ít các công trình ñề cập ñến trên cả

hai phương diện nghiên cứu văn học sử và giảng dạy văn học sử. Tuy nhiên

trong khuôn khổ cho phép của ñề tài người viết chỉ giới thiệu một số công

trình nghiên cứu, giảng dạy tiêu biểu ñể xác ñịnh rõ hơn quan ñiểm cũng

như cơ sở lí luận, phương pháp luận cho ñề tài.

2.1 Nói về công trình nghiên cứu văn học sử, ñầu tiên phải kể ñến cuốn

Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm. Nội dung cuốn sách gồm

hai phần : phần 1 – lược khảo về văn học lịch sử Việt Nam, phần 2 – trích

lục những bài thơ văn cổ kim. Mặc dù ñã xuất bản cách ñây rất lâu nhưng

cho ñến nay nhiều kiến giải trong ñó vẫn ñược các nhà nghiên cứu quan tâm

tìm hiểu….

6

Hiện nay một trong những công trình nghiên cứu ñề cập khá ñầy ñủ về

phương pháp luận nghiên cứu văn học sử là cuốn Phương pháp luận nghiên

cứu văn học (Chương 4 – Phương pháp luận văn học sử ) của Giáo sư

Phương Lựu. Công trình ñã ñề cập ñến một số nguyên tắc chung về việc

nhận thức lịch sử văn học, từ ñó xác ñịnh không gian, thời gian văn học sử.

Tác giả nêu ra luận ñiểm khá nổi bật : “Tác phẩm văn học là những tế bào

của văn học sử, nó ñặt cơ sở cho những mối liên hệ bản chất nhất, cơ bản

nhất với nhiều hiện tượng văn học khác như nhà văn, khuynh hướng, trào

lưu, loại thể, bạn ñọc.” [38, tr. 270].

Tiếp ñến phải kể ñến công trình nghiên cứu của Viện Thông tin Khoa

học Xã hội Văn học sử - Những quan niệm mới - Những tiếp cận mới, giới

thiệu một số vấn ñề lí luận và kinh nghiệm của các học giả trong nước và

nước ngoài, ñặc biệt là những quan ñiểm mang tính phương pháp luận của cố

viện sĩ D.S. Likhachev trong quá trình nghiên cứu và biên soạn văn học sử.

D.S. Likhachev ñề cập những quan ñiểm mang tính phương pháp luận trong

quá trình nghiên cứu và biên soạn văn học sử. Ông ñưa ra sơ ñồ chung của

công trình nghiên cứu văn học ñầy ñủ phải ñược xây dựng theo những giai

ñoạn :

1. Nghiên cứu lịch sử văn bản của tác phẩm và trên cơ sở ñó phát hiện

ra những ý ñồ của tác giả, sự tiến hoá của chúng, mức ñộ hoàn chỉnh của

chúng,…

2. Nghiên cứu cá nhân tác giả, sự sáng tác của anh ta và vị trí của tác

phẩm trong sự tiến hóa ñó về sáng tác.

3. Nghiên cứu các kết quả của giai ñoạn thứ nhất trong văn cảnh của

thời ñại (những phong cách thống trị, những thị hiếu, những tiềm năng tư

tưởng, môi trường văn học, những cuộc tranh luận,…)

Bên cạnh những công trình vừa nêu, người viết cũng hết sức quan tâm

ñến việc làm rõ những khái niệm, bình diện cơ bản của phương pháp nghiên

cứu văn học sử thông qua một số bài nghiên cứu chuyên sâu. Ví dụ, nói về

7

mục ñích, nhiệm vụ nghiên cứu của văn học sử, trong bài viết Những giới

hạn của lịch sử văn học của Trương ðăng Dung có nêu : “Lịch sử văn học

không nhằm mục ñích mô tả, hoàn toàn theo trật tự thời gian, các tác phẩm

văn học nằm rải rác ñây ñó, mà chủ yếu là phát hiện ra những mối quan hệ,

những tương ñồng và khác biệt giữa các tác phẩm, ñưa ra các sự kiện văn

học biệt lập vào quá trình chung. Theo ñó, chỉ có những tác phẩm văn học

tồn tại nối tiếp nhau về mặt thời gian. Công việc của nhà nghiên cứu lịch sử

văn học, bề ngoài cũng giống nhà sử học là phục chế lại quá khứ, gợi lại một

thời ñại ñã qua bằng các cứ liệu lịch sử…” [7, tr.58-59].

Lâu nay, có người vẫn cho rằng nghiên cứu lịch sử văn học là một công

việc nghiêm ngặt, bất biến và theo những nguyên tắc cố ñịnh. Nhưng thật ra,

Viết sử văn học - một công việc luôn phải ñổi mới, Nguyễn Văn Dân có viết :

“Thực tế là so với lí luận văn học và phê bình văn học, lịch sử văn học ñã ñi

ñến chỗ có tầm hoạt ñộng rộng lớn hơn ; nó có liên qua ñến rất nhiều lĩnh

vực, bao quát một không gian rộng lớn cả về chiều dọc lẫn chiều ngang và

không thể bỏ qua các diễn biến của xã hội. Thậm chí trên một phương diện

nhất ñịnh lịch sử văn học còn phải thâu tóm cả lý luận và phê bình văn học.”

[65, tr.11].

ðể bổ sung cho vấn ñề vừa nêu trên, Trần Thanh Nam còn ñưa ra Cách

nhìn mới về những vấn ñề văn học sử Việt Nam, nội dung có ñoạn viết như

sau : “Vào những năm gần ñây trong tất cả các lĩnh vực của ñời sống xã hội

ñang diễn ra một sự ñổi mới toàn diện, nhằm hiện ñại hoá ñất nước và nhanh

chóng ñưa nuớc ta theo kịp các nước phát triển trong khu vực và thế giới.

Trong lĩnh vực nghiên cứu văn học nói chung và văn học sử nói riêng chúng

ta ñã mạnh dạn gạt bỏ những quan ñiểm lỗi thời, hẹp hòi và ñưa ra những

nhận ñịnh mới, những ñánh giá mới phù hợp với xu thế mới của thời ñại”

như sự ñổi mới về nhận thức phân kỳ văn học, ñổi mới phương pháp nghiên

cứu văn học cổ,…[42, tr.141].

8

Với tác giả Hoài Nam, khi bàn về vấn ñề nghiên cứu văn học sử ñã

mạnh dạn nêu lên quan ñiểm mạnh mẽ của mình là cần phải Viết lại văn học

sử Việt Nam. ”ðọc các công trình văn học sử Việt Nam ñã có, dễ thấy việc

nghiên cứu văn học ñược ñóng khung chỉ ở bản thân văn học. Và ñây là

nguyên nhân chủ yếu ñưa ñến ấn tượng rằng công việc của người viết văn

học sử chỉ khảo tả và bình tán về các trào lưu, khuynh hướng, tác giả, tác

phẩm” [65, tr.15]. Rõ ràng, ñây là một quan ñiểm tiến bộ trong nghiên cứu

văn học sử. Kiến thức văn học sử ñược nghiên cứu phải ñược mở rộng ở

nhiều phạm vi, lĩnh vực và ñặt trong nhiều mối quan hệ…

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu văn học sử bấy lâu nay ñã phần

nào thể hiện tính thời sự, cấp bách, cần thiết của vấn ñề. Việc nghiên cứu văn

học sử ở bất kỳ mọi thời ñại cần phải xác ñịnh ñược mục ñích, nhiệm vụ

cũng như cần phải có một thái ñộ, quan ñiểm nghiên cứu ñúng ñắn, khoa học

và một tư duy nghiên cứu ñổi mới, nhạy bén ñể viết về lịch sử văn học…

2.2 Về phương diện giảng dạy văn học sử có các công trình tiêu biểu

sau :

Trước hết chúng tôi muốn nhắc ñến cuốn Phương pháp dạy học văn của

Giáo sư Phan Trọng Luận. Tác giả biên soạn khá công phu, rõ ràng, tỉ mỉ về

các vấn ñề liên quan ñến tri thức văn học sử từ những ñặc ñiểm, tác dụng ñến

những nguyên tắc, phương pháp và các kiểu bài. ðây là cuốn sách có thể

xem như một cơ sở, phương pháp luận cho việc giảng dạy các kiến thức văn

học sử ở trường trung học phổ thông. Ngay từ phần ñầu (Vị trí môn văn học

sử trong chương trình văn học ở trường phổ thông ), tác giả ñã xác ñịnh :

“Những tri thức về lịch sử văn học giúp cho học sinh hiểu quá trình phát

triển của lịch sử văn học dân tộc (…). Môn văn học sử cung cấp cho học sinh

những hiểu biết về văn học theo quan ñiểm ñồng ñại và lịch ñại. Chương

trình văn học sử ở phổ thông trung học có nhiệm vụ nâng cao, hệ thống hoá

kiến thức văn học sử ở phồ thông cơ sở lên một bước” [28, tr.210]. Ở chỗ

khác (Phương pháp dạy văn học sử trên quan ñiểm hiện ñại ) lại “chú ý ñặc

9

biệt ñến chức năng của văn học trong nhà trường và yếu tố học phát triển

như một cơ sở tâm lí học của việc dạy văn học sử (…). Yêu cầu cơ bản của

ñổi mới phương pháp dạy học văn hiện nay là chuyển từ phương pháp thông

tin tiếp thụ sang phương pháp học sáng tạo. Phương pháp mới phê phán lối

dạy áp ñặt, ñưa kết luận có sẵn cho học sinh ở các bài giảng văn học sử” [28,

tr.246]. Bên cạnh ñó, tác giả còn nêu ra một số phương pháp giảng dạy văn

học sử ở trường THPT như : Phương pháp diễn giảng, phương pháp ñặt câu

hỏi, phương pháp nghiên cứu, phương pháp trực quan, phương pháp sử

dụng sách giáo khoa, phương pháp trần thuật và kể chuyện có nghệ

thuât…Những vấn ñề mà tác giả nêu ra rất hữu ích, cần thiết và chúng ta có

thể học hỏi ñược nhiều kinh nghiệm, ñặt biệt về phương pháp dạy học các

kiểu bài văn học sử một cách khoa học, hiệu quả. Tuy vậy, giáo sư vẫn có

lời nhận xét thêm rằng : “Cho ñến nay trên các tư liệu về khoa học phương

pháp dạy văn, chưa có một ñịnh nghĩa sự phân loại về phương pháp dạy lịch

sử văn học” hay như : “Việc phân loại các kiểu bài văn học sử ñến nay vẫn

chưa thật sự xác ñịnh. Bản thân sự sắp xếp trật tự kiểu bài của chương trình

sách giáo khoa trong nhiều năm qua luôn luôn có sự thay ñổi” [28, tr.252]…

Dưới góc ñộ và phạm vi nghiên cứu của ñề tài, cuốn Giáo trình

phương pháp giảng dạy văn học xuất bản cách ñây hơn 30 năm chỉ nói ñến

“Vấn ñề diễn giải trong một bài văn học sử”, “Vấn ñề sử dụng sách giáo

khoa”, “Cách ghi bảng và hướng dẫn học sinh ghi chép”.

Rõ ràng, kiến thức văn học sử còn nhiều vấn ñề ñể chúng ta khai thác.

Không chỉ ở việc nghiên cứu, giảng dạy hay phân loại mà thực tế lâu nay

việc khai thác, vận dụng chúng trong quá trình ñọc hiểu văn bản nhìn chung

chưa có phương pháp dạy học cụ thể, cho dù công việc nghiên cứu về nó lại

có khá nhiều công trình ñược ñề cập. Từ ñây có một vấn ñề ñặt ra là công

việc nghiên cứu và giảng dạy văn học sử chưa thật sự thống nhất ñồng bộ và

chưa có sự liên hệ gắn kết…

10

Liên quan ñến ñề tài nghiên cứu của mình, ñồng thời ñề xác ñịnh

hướng ñi ñúng trong cách viết và hy vọng góp phần làm sáng tỏ quan ñiểm,

cũng như phương pháp giảng dạy, người viết khác có liê quan trực tiếp hoặc

gián tiếp ñến vấn ñề. Chẳng hạn :

Trong bài viết Phương pháp nghiên cứu tiểu sử nhà văn trong giảng

dạy văn học nước ngoài của TS. Trần Thanh Bình có nêu rằng : “Mặc dù tiểu

sử nhà văn chưa phải là một ñối tượng nghiên cứu ñộc lập nhưng không vì

thế mà chúng ta có thể bỏ qua hay xem nhẹ vấn ñề” [2, tr. 404]. Ở ñây tác giả

ñã nêu lên những ñặc ñiểm cơ bản nhất của phương pháp nghiên cứu tiểu sử

nhà văn trong chương trình giảng dạy văn học nước ngoài ở trường phổ

thông như giới thiệu khái quát những ñặc ñiểm cơ bản của thời ñại, lựa chọn

tư liệu tiểu sử ñể xây dựng bài giảng.,… “Tiểu sử nhà văn không ñược trình

bày thành một phần ñộc lập mà ñược hoà vào quá trình phân tích tác phẩm ;

và ñến lượt mình, tác phẩm không chỉ ñược khảo sát như một thành tựu nghệ

thuật mà còn ñược xem xét như một sự kiện trong tiểu sử nhà văn” [2, tr.

415].

Bài viết của Nguyễn Phương Mai (Tạp chí Khoa học Giáo dục số 28,

2008) khi nhìn nhận về vấn ñề Giảng dạy tác gia văn học ở trường THPT ñã

phân biệt giữa tác gia văn học và tác giả văn học, ñồng thời ñưa ra những

kiến thức cơ bản cần cung cấp cho học sinh khi dạy bài tác gia văn học ở

trường phổ thông và phương pháp thực hiện bài dạy tác gia văn học (phương

pháp dạy học tích hợp và phương pháp dạy học tích cực)…Hai phương pháp

dạy học này ñang ñược phổ biến ở một số trường trung học phổ thông hiện

nay, không chỉ áp dụng cho kiến thức văn học sử mà cho cả những kiến thức

khác (lí luận văn học, văn học nước ngoài, tiếng Việt,…).

Ngoài ra trong một số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài

tiêu biểu như : giáo trình Phương pháp luận dạy văn học, Z. Ia Rez (chủ

biên), Phương pháp giảng dạy ở trường phổ thông của V. A. Nhicônxki

cũng có nhiều ý kiến ñáng chú ý liên quan ñến phương pháp giảng dạy văn

11

học sử. ðây là những tài liệu dịch nhưng lại có một vị trí hết sức quan trọng

trong lịch sử xây dựng và phát triển phương pháp dạy học văn.

Giáo trình của Z. Ia Rez hướng dẫn các biện pháp ñể dạy “Phần mở ñầu

của việc ñọc tác phẩm” hoặc ñể dạy “Tiểu sử nhà văn”… Rez cho rằng :

“Một trong những nhiệm vụ của việc nghiên cứu tiểu sử nhà văn trong nhà

trường là chỉ ra cho ñược người nghệ sĩ ñã ñưa vào tác phẩm của mình

những ấn tượng nào về cuộc sống và nghệ thuật và ñưa chúng vào như thế

nào” [51, tr.171-172]. “Nghiên cứu tiểu sử nhà văn phải gây cho học sinh

mối quan tâm ñến nhân cách của nhà văn, ñến những tìm tòi về mặt tư tưởng

ñược phản ánh trong sáng tác. Tiểu sử và quá trình sáng tác của nhà văn

chính là chìa khoá ñể giải quyết những vấn ñề phức tạp của việc phân tích tác

phẩm văn học trong nhà trường” [51, tr.175]. Bên cạnh ñó, ông còn nêu ra

các hình thức có ý nghĩa phương pháp trong vịêc nghiên cứu tiểu sử nhà văn

(giáo viên phải thường xuyên ñặt các em trước một nhiệm vụ nào ñó cần giải

quyết, tạo ñiều kiện cho học sinh tiếp xúc vói nhà văn, tự mình tranh luận và

nói chuyện với ông ta,…)

Trong khi ñó, cuốn Phương pháp giảng dạy ở trường phổ thông của

V. A. Nhicônxki nhắc ñến các nguyên tắc và phương pháp giảng văn chương

và giảng dạy lịch sử văn học, tác giả ñề cập riêng một số biện pháp ñể dạy

các ñề tài tổng quát (tương tự như dạy giai ñoạn văn học sử)…

Tuy nhiên, vấn ñề khai thác các kiến thức văn học sử ứng dụng vào

phần ñọc – hiểu văn bản cụ thể trong từng khối lớp dường như chưa ñược

nhiều công trình nghiên cứu khoa học cũng như các khóa luận, luận văn tốt

nghiệp và các bài báo ñề cập, hoặc có ñề cập thì cũng chỉ mang nội dung

khái quát, ña phần nghiêng về mặt lí thuyết và có tính luận ñề. Nhìn chung,

nó thường làm cơ sở, nền tảng cho người giảng dạy tham khảo, nghiên cứu

ñể góp phần mở rộng nội dung bài giảng của mình.

Từ những vấn ñề vừa nêu ở phần trên, chúng tôi nhận thấy việc nghiên

cứu về kiến thức văn học sử mặc dù ñã chú ý cách ñây rất lâu nhưng về mặt

12

phương pháp giảng dạy chúng còn nhiều hạn chế, ñặc biệt là việc vận dụng

khai thác các yếu tố văn học sử trong quá trình ñọc - hiểu văn bản rất hiếm

ñược chú ý.

Qua thực tế nghiên cứu và giảng dạy, chúng tôi hy vọng những công

trình nghiên cứu, giảng dạy văn học sử về sau sẽ ngày càng nhiều và luôn

luôn ñược ñổi mới cập nhật, luôn luôn có sự gắn kết trong mối liên hệ biện

chứng, bổ sung cho nhau. Nghĩa là giữa việc nghiên cứu và giảng dạy văn

học sử nói riêng, kiến thức văn học nói chung cần phải ñảm bảo tính liên kết,

khoa học và hệ thống.

3. Mục ñích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu các kiến thức văn học sử trong quá trình ñọc hiểu văn bản,

chú ý khai thác các kiến thức văn học sử ñể phục vụ, minh họa các nhận ñịnh,

quan ñiểm, thuật ngữ, khái niệm, ñặc ñiểm,… trong các bài học khái quát.

ðồng thời, làm sáng tỏ, khắc sâu nội dung kiến thức của những văn bản ñược

học.

- Góp phần tìm hiểu tác phẩm trong dòng chảy của lịch sử văn học dân

tộc, qua ñó, cảm thấy tự hào hơn về lịch sử văn học nước nhà.

- Thấy ñược tác dụng và hiệu quả của phương pháp khai thác các kiến

thức văn học sử trong quá trình ñọc hiểu các dạng văn bản hiện nay.

4. ðối tượng và phạm vi nghiên cứu

- ðối tượng nghiên cứu : SGK Ngữ văn 11; SGV Ngữ văn 11 và các tài

liệu tham khảo có liên quan ñến ñề tài...

- Nghiên cứu những kiến thức văn học sử trong chương trình sách giáo

khoa Ngữ văn hiện hành.

- Nghiên cứu tình hình và ñề xuất giải pháp cải tiến, ñổi mới phương

pháp khai thác các yếu tố văn học sử trong ñọc - hiểu văn bản cụ thể ở trường

THPT...

13

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích, tổng hợp : ñược sử dụng ñể nghiên cứu lịch sử

vấn ñề và phát hiện rút ra những kết luận cần thiết về cơ sở lí luận thông qua

việc tìm hiểu các tư liệu, giáo trình, tạp chí, các bài nghiên cứu thuộc các lĩnh

vực Lí luận văn học, Tâm lí học, Giáo dục học, Phương pháp dạy học văn,…có

liên quan trực tiếp ñến phạm vi ñề tài.

- Phương pháp so sánh, ñối chiếu : ñược sử dụng trong quá trình triển

khai nội dung ñề tài ; dùng ñể so sánh, ñối chiếu các sự vật - hiện tượng một

cách khách quan, ñạt hiệu quả.

- Phương pháp ñiều tra, khảo sát : ñược sử dụng ñể thu thập những tư liệu

thực tế về tình hình dạy học văn ñang diễn ra ở trường THPT Dân Lập An ðông

và một số trường THPT khác trên ñịa bàn TP. Hồ Chí Minh có liên quan trực

tiếp ñến nhiệm vụ nghiên cứu của ñề tài.

- Phương pháp thống kê : ñược sử dụng ñể xử lí các số liệu thu thập trong

quá trình khảo sát, bổ sung cho phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm ñạt tới

những kết luận chính xác, khách quan.

- Phương pháp thực nghiệm : dùng thực nghiệm các giáo án ñề xuất ñể

kiểm nghiệm khả năng ứng dụng của ñề tài vào quá trình dạy học ñọc hiểu văn

bản văn học.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của ñề tài nghiên cứu

- Thấy ñược tầm quan trọng của việc khai thác các kiến thức văn học sử

trong quá trình dạy ñọc hiểu văn bản cụ thể.

- Một số ñề xuất có tính ñịnh hướng ñổi mới trong phương pháp khai thác

kiến thức văn học sử khi dạy ñọc - hiểu văn bản.

- Xây dựng thử nghiệm một số mô hình cho phép khai thác các yếu tố văn

học sử một cách hiệu quả nhất

7. Cấu trúc của luận văn

14

Ngoài các phần Mở ñầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần

chính văn của Luận văn gồm 104 trang, chia làm ba chương.

- Chương thứ nhất : Kiến thức văn học sử trong chương trình Ngữ

văn THPT

Nội dung chương một chủ yếu giới thiệu những vấn ñề chung về kiến

thức văn học sử trong chương trình Ngữ văn THPT. ðó là những kiến thức khái

quát về vị trí, vai trò, ñặc ñiểm, cấu tạo của kiến thức văn học sử cũng như các

nguyên tắc dạy học văn học sử trong chương trình Ngữ văn THPT. Bên cạnh ñó,

người viết còn nêu ra hệ thống kiến thức văn học sử cơ bản trong chương trình

sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành.

Nhìn chung, nội dung chương một chỉ là những vấn ñề mang tính chất lí

thuyết nhưng là cơ sở lí luận ñể chúng tôi vận dụng triển khai trong chương hai

một cách rõ ràng, cụ thể hơn…

- Chương thứ hai : Phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử

trong chương trình Ngữ văn THPT

Nội dung chương hai ñược xác ñịnh là phần cơ bản, trọng tâm nhất của

luận văn, chủ yếu ñi sâu vào cách thức khai thác, vận dụng kiến thức văn học sử

như thế nào trong quá trình ñọc - hiểu các văn bản cụ thể thật hiệu quả. Bên

cạnh cách thức khai thác, người viết còn nhận xét tình hình giảng dạy văn học sử

nói chung ở trường THPT bấy lâu nay - có khá nhiều vấn ñề ñể chúng ta nhìn

nhận lại một cách khách quan và thực tế hơn.

Thực chất, nội chung chương hai sẽ minh hoạ cho những lí thuyết, những

quan ñiểm lí luận mà chương một ñã ñề cập.

- Chương thứ ba : Thực nghiệm sư phạm

Là chương mang tính chất kiểm nghiệm, ñánh giá tính khả thi của ñề tài.

Trong chương ba có ñưa ra một mô hình giáo án mẫu thuộc văn bản thơ trong

chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 2 cho phép khai thác các yếu tố

văn học sử một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên ñây chỉ là một mô hình thử

nghiệm, tuỳ vào mỗi thể loại văn bản ở từng khối lớp mà chúng ta sẽ ñịnh

15

hướng, tổ chức cho học sinh khai thác những kiến thức văn học sử khác nhau.

Không nhất thiết phải tuân theo những công thức cố ñịnh, sẵn có mà ñòi hỏi phải

biết phối hợp giữa tất cả các kiến thức có trong văn bản…

16

CHƯƠNG 1 - KIẾN THỨC VĂN HỌC SỬ TRONG CHƯƠNG

TRÌNH NGỮ VĂN THPT

1.1 Những vấn ñề chung

1.1.1 Vị trí, vai trò của kiến thức văn học sử trong chương trình

Ngữ văn THPT

Kiến thức văn học sử trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THPT

hết sức phong phú, ña dạng, có khả năng cung cấp cho học sinh một vốn hiểu

biết về lịch sử phát triển văn học dân tộc, bao gồm những tác giả, tác phẩm

tiêu biểu cho từng thời kỳ, giai ñoạn phát triển của nền văn học dân tộc cùng với

các ñề tài, thể loại, ngôn ngữ, quan ñiểm sáng tác,…

Trong chương trình, học sinh chỉ ñược học trực tiếp một số tác giả tiêu

biểu, chọn lọc. Nhưng qua sự hướng dẫn của giáo viên, qua bài giảng, sách vở,

giáo trình, các em sẽ làm quen với hàng trăm tên tuổi nhà văn, nhà thơ nổi tiếng

trong và ngoài nước. Vốn tri thức văn học này là hành trang cơ bản, tối thiểu cần

thiết cho ñời sống văn hoá một công dân.

Từ những sự kiện, hiện tượng văn học sử cụ thể trong từng thời kỳ giai

ñoạn khác nhau, học sinh sẽ ý thức ñược sự phát triển không ngừng vươn lên

của nền văn học dân tộc, sự phát triển của ngôn ngữ tiếng Việt và sự giàu ñẹp

của nền văn hoá giàu truyền thống yêu nước, tinh thần nhân văn cao cả trong

mấy ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Cũng qua các kiến thức văn học sử ñược học ở trường, học sinh sẽ cảm

nhận và ý thức ñược những ñóng góp quý giá của dân tộc vào kho tàng văn học

chung của nhân loại. Các em sẽ cảm thấy tự hào hơn về nền văn học nước nhà

với bản sắc hết sức ñặc trưng, riêng biệt của nó. ðó là kết quả của quá trình ñấu

tranh, phát triển và tiếp thu có chọn lọc mọi thành tựu của nền văn hoá nhân

loại.

17

Bên cạnh ñó, văn học sử còn góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho

học sinh. Văn học là một dòng chảy không ngừng, là tấm gương phản chiếu ñời

sống muôn màu muôn vẻ. Nó là sự kết tinh, kế thừa những giá trị tinh thần quý

báu có từ ngàn ñời. Chính vì vậy, giờ dạy văn không thể là những giờ dạy khô

khan, nhàm chán, mà là những giờ học giúp các em cảm thấy yêu hơn tiếng mẹ

ñẻ, tự hào hơn về những truyền thống dựng nước, giữ nước của ông cha ñể tiếp

bước làm giàu thêm di sản văn hoá dân tộc, ñưa xã hội tiến lên và hướng tới hội

nhập quốc tế.

Văn học nâng cao phẩm giá dân tộc và phẩm giá con người. Muốn biết

dân tộc ñó phát triển, trưởng thành như thế nào, ta không chỉ dựa vào nền kinh

tế, văn hóa, chính trị, xã hội ñể ñánh giá mà phải dựa vào những giá trị tinh thần

vô giá có ñược của dân tộc ñó.

Trong dòng chảy của lịch sử văn học Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước và

chủ nghĩa nhân ñạo như hai truyền thống gắn chặt với nhau, ñã trở thành tư

tưởng - nghệ thuật bao trùm. Dạy văn học sử Việt Nam ở trường phổ thông

không thể không ñặt lên hàng ñầu nhiệm vụ giáo dục. Chúng ta phải ý thức

thường xuyên cho học sinh lòng yêu nước và lòng nhân ái – hai nét cốt lõi và

gắn chặt với nhau của tâm hồn, tình cảm Việt Nam.

Kiến thức văn học sử ở trường phổ thông còn có khả năng rèn luyện tư

duy logic và tư duy hình tượng cho học sinh. Tư duy logic và tư duy hình tượng

rất cần thiết cho việc tiếp nhận tri thức văn chương, ñặc biệt ñối với tri thức văn

học sử nói riêng. Trong các tiết học của từng kiểu bài văn học sử, học sinh sẽ

ñược rèn luyện các kỹ năng như : phân tích, tổng hợp, cụ thể hoá, khái quát hoá,

ghi nhớ, suy luận, ñối chiếu, so sánh, hệ thống hoá, trích dẫn, minh hoạ,… ñể từ

ñó, vận dụng vào quá trình ñọc – hiểu các dạng văn bản. Ngoài ra, giờ học lịch

sử văn chương trong nhà trường còn hình thành ở học sinh thói quen tự nghiên

cứu và “làm việc với sách giáo khoa” như : xác ñịnh các luận ñiểm chính của bài

học, hệ thống hoá các luận cứ, luận chứng, các thuật ngữ, phạm trù, ñịnh nghĩa,

18

khái niệm cơ bản của bài học, nhận biết mối liên hệ trước sau và tầm quan trọng

của bài học.

Hầu như các kỹ năng trên hiện rất ít giáo viên quan tâm khi dạy các kiểu

bài văn học sử. Chúng ta phải tập cho các em tìm hiểu các sự kiện của thời ñại,

phân loại các sự kiện ñó, ñể mà rút ra các nhận ñịnh về thời ñại làm cơ sở cho

việc phân tích văn học. Ngược lại, yêu cầu các em dẫn chứng về mặt nhận ñịnh

văn học sử là tập cho các em kỹ năng cụ thể hoá. Từ các chi tiết ñược phân tích

về mặt tác phẩm, ta cũng có thể dùng phần khái quát hoá làm nhận ñịnh chung

về tác phẩm cho học sinh…Ví dụ :

- Vì sao văn học trung ñại từ thế kỷ XVIII ñến hết thế kỷ XIX xuất hiện

trào lưu nhân ñạo chủ nghĩa? Hãy chỉ ra những biểu hiện phong phú, ña dạng

của nội dung nhân ñạo trong giai ñoạn này?

- Vì sao văn học hiện ñại từ ñầu thế kỷ XX ñến Cách mạng tháng Tám

1945 lại diễn ra quá trình hiện ñại hóa? và xuất hiện nhiều trào lưu, xu hướng

văn học (lãng mạn, hiện thực)?

Ngoài ra, kiến thức văn học sử trong chương trình góp phần giúp học

sinh hình thành quan ñiểm và phương pháp phân tích, ñánh giá các hiện tượng

văn học một cách khoa học

Bất kỳ một vấn ñề nào, khi ñánh giá, phân tích phải ñặt chúng trong mối

quan hệ biện chứng của nó. ðể ñánh giá một thời kỳ, giai ñoạn văn học nhất

thiết phải ñặt nó trong hoàn cảnh, môi trường ñã sản sinh ra nó. Chẳng hạn, khi

nói về tác giả, không chỉ nói ñến cuộc ñời, sự nghiệp, quan ñiểm một cách

chung chung mà ñiều quan trọng hơn là phải biết phân tích chúng như một tổng

thể về ñề tài, chủ ñề, thi pháp, ngôn ngữ, phong cách,… và tác dụng của nó ñối

với xã hội ñương thời như thế nào, có ý nghĩa giáo dục ra sao? Cần phân tích sao

cho nhà văn ấy thật sự nổi bật, tiêu biểu về cá tính, phong cách, sự nghiệp sáng

tạo trong giai ñoạn mà các em sẽ tìm hiểu.

19

Cũng như khi phân tích tác phẩm, ñòi hỏi trước hết là tìm hiểu nguồn

gốc, mục ñích, quan ñiểm, hoàn cảnh sáng tác. Sau ñó mới ñi vào việc phân tích

giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Cuối cùng là ñánh giá tác dụng của

nó ñối với xã hội ñương thời và hiện nay như thế nào.

Phân tích, ñánh giá các hiện tượng văn học sử ñòi hỏi không chỉ có cái

nhìn lịch ñại, mà cần có cái nhìn ñồng ñại, gắn liền lịch sử văn chương dân tộc

với lịch sử văn chương thế giới, làm cho học sinh nâng cao tầm hiểu biết của

mình.

Nhìn chung, kiến thức văn học sử trong chương trình THPT có vị trí và

vai trò hết sức quan trọng. Các kiến thức văn học ñó không chỉ gói gọn dăm ba

câu chữ trong sách hay vài dòng, vài trang mà chúng là những kiến thức mang

tính hệ thống, xuyên suốt cả một quá trình lịch sử lâu dài, không ngừng kế thừa,

phát huy và chọn lọc. Chính vì vậy, người giáo viên ñứng lớp phải luôn trao

dồi, cập nhật ñầy ñủ những kiến thức văn học sử ñể kịp thời ñưa ñến những

thông tin cần thiết, bổ ích cho học sinh.

1.1.2 ðặc ñiểm của kiến thức văn học sử trong chương trình Ngữ

văn THPT

Kiến thức văn học sử trong chương trình Ngữ văn THPT là những kiến

thức có tính giao thoa giữa khoa học và nghệ thuật, có quan hệ tương tác ở

nhiều bình diện và là những kiến thức bao hàm, nhiều cấp ñộ, vận ñộng trong

dòng chảy tiến bộ của văn học.

Khái niệm giao thoa ñược hiểu là trong kiến thức khoa học có yếu tố

nghệ thuật, trong tư duy lí luận có tư duy nghệ thuật, trong cảm nhận lí tính có

cảm tính. Các yếu tố này có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau ñể tạo nên hiệu

quả thẩm mĩ khi tiếp nhận.

Nói ñến tri thức mang tính khoa học là nói ñến hệ thống các ñịnh nghĩa,

khái niệm, nhận ñịnh văn học sử về giai ñoạn, thời kỳ, thể loại, tác gia, tác

20

phẩm, có khi bao gồm cả tri thức lịch sử, ñịa lý, văn hoá, xã hội, nghệ

thuật,…Bài Khái quát văn học Việt Nam từ ñầu thế kỷ XX ñến Cách mạng tháng

Tám năm 1945 – SGK Ngữ văn 11, tập 1 ñã ñưa ra hàng loạt các khái niệm,

thuật ngữ mà giai ñoạn văn học trước chưa từng xuất hiện như hiện ñại hoá văn

học, cách mạng hóa văn học, văn học giao thời, văn học công khai, văn học

không công khai, văn học lãng mạn, văn học hiện thực, phong trào Thơ mới, …

Chính những thuật ngữ vừa nêu ñã thể hiện tính văn học sử rất rõ, bởi

nó chỉ có thể xuất hiện ở giai ñoạn này mà không thể xuất hiện ở những giai

ñoạn khác. Ví như khái niệm hiện ñại hoá chỉ có thể xuất hiện trong giai ñoạn

ñầu thế kỷ XX ñến 1945 là do bối cảnh lịch sử. Từ ñầu thế kỷ XX, văn hoá Việt

Nam dần dần thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa phong kiến Trung Hoa, bắt ñầu

mở rộng tiếp xúc với văn hoá phương Tây mà chủ yếu là văn hoá Pháp. Luồng

văn hoá mới thông qua tầng lớp trí thức Tây học ngày càng thấm sâu vào ý thức

và tâm hồn người cầm bút cũng như người ñọc sách. ðến ñầu thế kỷ XX, chữ

quốc ngữ ñã thay thế chữ Hán, chữ Nôm trong nhiều lĩnh vực tạo ñiều kiện

thuận lợi cho dân chúng tiếp xúc,…Những nhân tố vừa nêu ñã tạo ñiều kiện cho

nền văn học Việt Nam ñổi mới, phát triển theo hướng hiện ñại hoá và có thể hội

nhập với nền văn học hiện ñại thế giới…

Nói ñến tri thức mang tính nghệ thuật là nói ñến nghệ thuật minh họa cho

văn học sử bằng tác phẩm. Chẳng hạn, ñể nói về “cái tôi” cá nhân trong giai

ñoạn văn học 1930 – 1945, chương trình SGK Ngữ văn 11, tập 2 dẫn ra một số

tác phẩm thuộc thể loại thơ tiêu biểu như : Hầu Trời (Tản ðà), Vội vàng (Xuân

Diệu), Tràng giang (Huy Cận), ðây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử),…“Cái tôi” cá

nhân thời kỳ này thức tỉnh, trỗi dậy mạnh mẽ ở bộ phận thanh niên trí thức sau

hàng trăm năm bị kìm hãm. Chính “cái tôi” cá nhân này là một trong những

ñộng lực tạo nên sự phát triển với một tốc ñộ hết sức nhanh chóng và những

thành tựu rực rỡ của văn học Việt Nam nửa ñầu thế kỷ XX theo hướng hiện ñại

hoá…

21

Dạy văn học sử không chỉ suy lí mà ñòi hỏi có cả sự cảm thụ nghệ thuật

một cách toàn diện, phải toát lên ñược cái “hồn” của tác phẩm, phải tạo sự rung

ñộng ở học sinh. Có như vậy mới ñảm bảo tính ñặc trưng của môn học thiên về

nghệ thuật hơn các môn khoa học xã hội khác.

Khái niệm tính hệ thống ña chiều của kiến thức văn học sử ñược thể hiện

ở mối quan hệ tương tác nhiều bình diện.

Ở phương diện lịch ñại, chú ý sự phát triển theo thời gian của các sự vật,

hiện tượng, chú ý ñến ñộng lực vận ñộng của quá trình, các niên ñại của hiện

tượng, tính chất biên niên của sự phát triển, tính kế thừa và cách tân của lịch sử

văn học.

Ở phương diện ñồng ñại, ñó là mối quan hệ với các hiện tượng kinh tế,

văn hoá, xã hội trong cùng thời gian và cả với các hiện tượng văn học sử của

các nước khác cũng trong cùng thời gian ñó. Ngoài ra, ñó còn là mối quan hệ

tương quan của các hiện tượng văn học khác nhau trong cùng thời ñiểm, kể cả

hiện tượng ý thức xã hội. Xã hội chi phối văn học và văn học có tác ñộng trở lại

ñối với xã hội. Tuy nhiên, không phải xã hội nào thì có nền văn học ấy, nghĩa là

có sự phát triển không tương xứng. Chẳng hạn xã hội Việt Nam trong giai ñoạn

thế kỷ XVIII, XIX với chế ñộ phong kiến suy tàn, thối nát, kinh tế trì trệ nhưng

văn học thời kỳ này lại phát triển vượt bật với sự xuất hiện nhiều gương mặt nhà

văn, nhà thơ nổi tiếng : Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn

ðình Chiểu,…Có thể xem, giai ñoạn văn học thế kỷ này là một giai ñoạn văn

học phát triển “hoàng kim” trong dòng chảy tiến bộ chung của nền văn học trung

ñại – kéo dài ngót mười thế kỷ.

Về phương diện ñồng ñại, ngoài mối quan hệ với các tác gia, tác giả, và

mối quan hệ giữa các tác phẩm văn học cùng thời, còn có mối quan hệ giữa tác

phẩm văn học trong nước với các tác phẩm văn học nước ngoài. Vì thế, khi học

22

sử thi Vệt Nam ta cần so sánh, ñối chiếu với sử thi Ấn ðộ. Dạy thần thoại Việt

Nam cũng cần so sánh với thần thoại Hy Lạp,…

Bên cạnh tính giao thoa, tính hệ thống ña chiều, kiến thức văn học sử còn

thể hiện tính bao hàm (tích hợp) và cấp ñộ. Tri thức văn học sử ở trường phổ thông nhìn chung, có 3 cấp ñộ : Khái quát các giai ñoạn (cid:1) các tác gia tiêu biểu (cid:1) các tác phẩm tiêu biểu.

Chương trình trước ñây, mối quan hệ giữa kiến thức khái quát và cụ thể

phần lớn ñược xây dựng thành mô hình 1 với nhiều cấp ñộ : cấp ñộ khái quát

toàn bộ - cấp ñộ khái quát thời kỳ - cấp ñộ khái quát thể loại (hoặc xu hướng,

giai ñoạn, chặng ñường nhỏ) - cấp ñộ khái quát tác giả - cấp ñộ khái quát tác

phẩm - cấp ñộ ñoạn trích.

ðối với chương trình Ngữ văn ñược cải cách, kiến thức khái quát và cụ

thể ñược rút ngắn thành mô hình 2 : khái quát giai ñoạn – khái quát tác giả -

khái quát tác phẩm. Ví dụ: Giai ñoạn văn học XX – 1945 – tác giả Nam Cao –

tác phẩm Chí Phèo,…

Phổ biến nhất là mô hình 3 : khái quát giai ñoạn – các tác phẩm (ñoạn

trích). Ví dụ: Giai ñoạn văn học XX - 1945 với một số tác phẩm tiêu biểu : Hai

ñứa trẻ, Chữ người tử tù, Hạnh phúc của một tang gia (trích Số ñỏ), Chí

Phèo,…

Rõ ràng, mô hình trong chương trình trước ñây mặc dù cụ thể, chi tiết

nhưng do nhiều cấp ñộ khá phức tạp, học sinh khó hình dung, khó nắm bắt các

vấn ñề. Có lẽ, mô hình 2, 3 hợp lí hơn khi giảm ñi những cấp ñộ không cần thiết.

“Nghiên cứu tính sư phạm của kiến thức văn học sử về mặt cấp ñộ, ta còn

thấy văn học sử ở cấp ñộ trung học cơ sở khác với cấp ñộ trung học phổ thông.

Ở cấp ñộ trung học cơ sở, ñó là ñi từ cụ thể ñến khái quát thấp. Ở cấp ñộ trung

23

học phổ thông, khái quát thấp ñược nâng lên khái quát cao rồi lại ñi ñến cụ thể”

[32, tr.20].

ðối với các lớp phổ thông cơ sở, do chương trình giảng dạy chưa ñặt ra

các yêu cầu về những kiến thức lịch sử, lí luận văn học, cũng như chưa ñòi hỏi

học sinh phải phân tích, vận dụng các kiến thức ấy vào quá trình ñọc hiểu một

cách ñầy ñủ và phức tạp nên mức ñộ nghiên cứu ở mức khái quát thấp. Còn ñối

với các lớp, nhất là các lớp cuối cấp phổ thông trung học, do yêu cầu ñặt ra là :

học sinh phải ñược trang bị những kiến thức cơ bản về lí luận và lịch sử văn

học, phải có những hiểu biết nhất ñịnh về tác giả, tác phẩm, thể loại, thời kỳ văn

học, phải hình thành ñược thế giới quan, nhân sinh quan và xác ñịnh ñược vị trí

của mình trong xã hội,…vấn ñề nghiên cứu, vận dụng những kiến thức văn học

sử sẽ mang cấp ñộ khái quát cao, chứa ñựng dung lượng lớn hơn và mang tính

chất hoàn chỉnh hơn.

Kiến thức văn học sử còn là kiến thức mang tính tích hợp. Bởi lẽ, thông

qua ñó, chúng ta có thể kết hợp dạy lí luận văn học. “Văn học sử là trữ liệu cho

những khái quát lí luận văn học. Còn những khái niệm lí luận văn học là những

kiến thức văn học sử ñã ñựơc nâng lên tầm khái quát hoá cao hơn, lí luận văn

học trở lại ñịnh hướng cho văn học sử” [28, tr.222]. Tính chất này ñòi hỏi từng

bài dạy văn học sử phải hướng ñến những khái quát nhỏ về lí luận văn học ñược

phân phối trong từng bài trên cơ sở các mục tiêu lí luận văn học ñã quy ñịnh

trong chương trình. Trong chương trình ñổi mới lần này, các kiến thức lí luận

văn học ñược hình thành rải rác qua từng văn bản cụ thể. Trước ñó, kiến thức

này ñược khái quát cao hơn qua các giờ lí luận văn học dành riêng ñược phân

phối ở cuối năm học.

Những thuật ngữ, khái niệm văn học như : bi kịch, thể loại, ngôn ngữ, ñề

tài,…ñứng ở một góc ñộ nào ñó là thuộc lĩnh vực lí luận nhưng xét trong tiến

trình phát triển của lịch sử văn học thì chúng lại thể hiện tính văn học sử rất rõ

nét. Có những thể loại từng xuất hiện trong giai ñoạn văn học trung ñại : hịch,

24

cáo, chiếu, biểu,…nhưng ñến giai ñoạn văn học hiện ñại hầu như không ñược

vận dụng và ñến nay không còn nữa mà thay vào ñó là những thể loại khác.

Cùng là nội dung kêu gọi kháng chiến cứu quốc nhưng Lời kêu gọi toàn quốc

kháng chiến của Hồ Chí Minh sẽ khác với lời kêu gọi trong Hịch tướng sĩ của

Trần Quốc Tuấn. Cùng là thể kí nhưng Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác

khác với Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Vũ trung tuỳ bút của Phạm

ðình Hổ khác với tuỳ bút của Nguyễn Tuân…

Lí luận vừa là công cụ giúp cho giáo viên phân tích văn học sử, vừa là

mục ñích cần ñạt của bài dạy văn học sử. Lí luận văn học ñược vận dụng ñồng

thời cũng là ñích khái quát về mặt lí luận văn học của bài văn học sử. Không

nắm vững tác phẩm ở mức ñộ chỉnh thể hoặc ở mức ñộ phân tích thì không thể

khắc sâu các nhận ñịnh văn học sử. ðồng thời, các kết luận văn học sử thường

là các chủ ñề làm văn nghị luận văn học. Trong quá trình ñó, các em sẽ ñược rèn

luyện cách dùng từ, ñặt câu, dựng ñoạn,…

Tính chất tích hợp của văn học sử còn thể hiện thông qua mối quan hệ

mật thiết với tiếng Việt. Quan hệ mật thiết giữa môn văn học và môn tiếng Việt

cần ñược thể hiện trong việc giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh

THPT. Quan hệ giữa văn học sử và tiếng Việt là quan hệ hỗ trợ, bổ sung : khi

tìm hiểu phân tích một tác phẩm sự ñóng góp của một xu hướng, bộ phận văn

học không thể không nói ñến sự ñóng góp của nó vào sự phát triển của ngôn

ngữ dân tộc, sự ra ñời và phát triển của các ñề tài và loại thể. Chẳng hạn, xu

hướng văn học lãng mạn giai ñoạn 30 – 45 thường tìm ñến các ñề tài về tình

yêu, về thiên nhiên và quá khứ, thể hiện khát vọng vượt lên trên cuộc sống hiện

tại chật chội tù túng, dung tục, tầm thường, chú trọng diễn tả những cảm xúc

mạnh mẽ, những tương phản gay gắt trong tâm hồn con người,…

Tính chất tích hợp giúp cho việc dạy học văn học sử có ý nghĩa quan

trọng trong việc dạy học văn nói chung. Dạy văn học sử quán triệt tính tích hợp

ñòi hỏi sự nghiên cứu công phu, sáng tạo nội dung và phương pháp dạy học.

25

Giới văn học sử Trung Quốc cũng ñều thống nhất nêu cao khẩu hiệu “sử luận

kết hợp”. Theo giáo sư Phương Lựu, cụ thể là “Dĩ luận ñái sử” (lấy lí luận ñể

dẫn dắt lịch sử), “Luận tòng sử xuất” ( lí luận toát ra từ lịch sử)…

Ngoài ra kiến thức văn học sử trong chương trình còn thể hiện tính liên

cấp. Văn học sử ở cấp THPT với văn học sử ở cấp THCS là mối quan hệ vừa

ñồng tâm vừa ñường thẳng. Quan hệ ñồng tâm là tiếp tục khẳng ñịnh lại giá trị

các tri thức cơ bản về văn học sử ở cấp cơ sở vừa nâng cao mở rộng và hệ thống

hoá lại, nâng cao về tính khái quát, mở rộng về diện hiểu biết,…Quan hệ ñường

thẳng là nó cần phải cung cấp thêm các tri thức cơ bản mới, nằm trong các cấu

trúc mới mà học sinh cấp THCS chưa ñược học.

Ví dụ : Ở cấp THCS, sau khi học xong về văn học dân gian, học sinh ñã

biết các ñặc ñiểm của văn học dân gian (tính truyền miệng, tính diễn xướng, tính

dị bản) và một số thể loại (ca dao, tục ngữ, thần thoại, truyền thuyết,…). Sang

cấp THPT - cụ thể lớp 10, nhiệm vụ dạy văn học sử ở bài này phải là :

- Khẳng ñịnh lại bản chất xã hội và các ñặc trưng của văn học dân gian,

thể loại.

- Mở rộng sự hiểu biết về văn học dân gian của các dân tộc trong cộng

ñồng Việt Nam

- Nâng cao tính khái quát về ñặc trưng : Văn học dân gian còn là loại văn

học nghệ thuật tổng hợp, ñồng thời còn là loại nghệ thuật ngôn từ, là những sáng

tác tập thể của nhân dân,…

- Hệ thống hoá kiến thức : ðặc trưng kết cấu, thể loại, vai trò và giá trị

trong nền văn học, kỹ năng và cách tiếp cận một tác phẩm văn học dân gian,…

Nhìn chung ñặc ñiểm chương trình văn học sử ở THPT khá ña dạng. Có ý

thức ñược ñặc ñiểm của chương trình, giáo viên mới có kế hoạch chủ ñộng trong

từng tiết học…

26

1.1.3 Mục tiêu, nội dung của kiến thức văn học sử trong chương

trình Ngữ văn THPT

Bộ SGK Ngữ văn THPT hiện hành ñược “xây dựng như một chỉnh thể

văn hoá mở trong nhiều quan hệ...” [34, tr.4]. Theo tinh thần ñổi mới của

chương trình giáo dục phổ thông “hệ thống tri thức văn học ñược cấu trúc một

cách hợp lí trên các phương diện lịch sử và loại thể. Trình tự lịch sử văn học dân

tộc vẫn ñược chú ý trong sự ñối sánh với văn học nước ngoài. Song tiêu chí loại

thể ñược chú trọng hơn so với chương trình cũ” [34, tr.4]. Tiếp tục quan tâm ñến

sự phát triển của loại thể, SGV Ngữ văn 11 có bổ sung thêm: “…Khi tiếp cận

các văn bản văn học, chúng ta tiếp tục quan tâm ñến sự phát triển của loại thể.

Nhưng không nên chỉ chú trong loại thể mà coi nhẹ phát triển về lịch sử. Ở

THPT cần cung cấp cho học sinh những tri thức khái quát và hệ thống về văn

học. Kiến thức có tính lịch sử rất cần thiết cho sự hình thành thói quen và khả

năng tư duy tổng hợp ở học sinh. Mỗi văn bản ñược nhìn từ góc ñộ loại thể lại

cần ñược ñặt vào hệ thống lịch sử…” [35, tr.4].

Rõ ràng, cấu trúc chương trình cải cách lần này có sự thay ñổi, lịch sử

văn học không còn là cơ sở ñộc tôn. Vì vậy chúng ta cần phải khai thác các kiến

thức văn học sử một cách hệ thống, khoa học, cụ thể trong quá trình ñọc hiểu

văn bản ñể bù ñắp cho sự không ñộc tôn ñó. Những kiến thức trong bài khái quát

về thời kỳ, giai ñoạn, tác gia, tác phẩm là tiền ñề tạo cơ sở cho việc ñọc hiểu các

văn bản. Ngược lại, khi ñọc hiểu các văn bản trên tinh thần khắc sâu các kiến

thức văn học sử sẽ góp phần làm sáng tỏ các nhận ñịnh, luận ñiểm…

Mặc dù, chương trình cải cách lần này không xem nhẹ tri thức văn học

sử, nhưng so với chương trình cải cách lần trước (Văn học chỉnh lí hợp nhất

2000) thì nó có phần “giảm tải” hơn. “Chương trình Ngữ văn THPT hướng chủ

yếu vào ñọc văn chứ không phải văn học sử, tri thức văn học sử chủ yếu chỉ giúp

cho ñọc văn có căn cứ về ngữ cảnh lịch sử” [34, tr.9].

27

- Kiến thức khái quát và kiến thức cụ thể trong chương trình văn học sử

THPT :

Số tiết khái quát về thời kỳ, giai ñoạn văn học, về tác giả, tác phẩm so với

chương trình trước giảm ñi ñáng kể. Cụ thể, lớp 11 chỉ còn 2 tác gia : Nam Cao,

Nguyễn ðình Chiểu (bớt ñi Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu)…Tuy nhiên, phần tri

thức về các tác gia có phần cô ñọng, ngắn gọn hơn - hầu như không có bài học

riêng về tác gia mà chúng là một phần của tác phẩm. Ví dụ học tác gia Nam Cao

gộp chung với giảng dạy tác phẩm Chí Phèo…

Các bài khái quát về tác phẩm (giới thiệu tác phẩm) cũng giới hạn. Ví dụ,

trước ñây, SGK Văn học lớp 11 có giới thiệu tác phẩm Lục Vân Tiên của

Nguyễn ðình Chiểu, SGK Ngữ văn hiện nay không có, các em chỉ tiếp xúc với

một trích ñoạn ngắn (Lẽ ghét thương)…Số tác giả và số lượng tác phẩm văn học

nước ngoài thay ñổi, ñược chọn cũng không nhiều. Số tiết dành cho văn học

nước ngoài (lớp 11 chỉ có 10 tiết)…

- Kiến thức văn học sử ñược phân kỳ theo những giai ñoạn lớn, mang

nhiều ý nghĩa lịch sử văn học:

Chương trình Ngữ văn THPT hiện hành quan niệm : lịch sử chính trị và

lịch sử văn học có quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không nên ñồng nhất hai

vấn ñề ñó. “Nên chú ý nêu lên những ñặc ñiểm về quan hệ giữa ngôn ngữ với

dân tộc, về tư tưởng nghệ thuật, về phong cách, về thi pháp,…mang tính chất

thời ñại và cá nhân ở mỗi thời kỳ, khiến cho thời kỳ trước ñược phân biệt với

thời kỳ sau” [28, tr.216]. Theo ñó, văn học sử Việt Nam ñược chia thành hai

dòng : văn học dân gian và văn học viết. Văn học viết ñược chia thành ba thời

kỳ lớn, ñó là:

(cid:1) Văn học từ thế kỷ X ñến hết thế kỷ XIX.

(cid:1) Văn học từ ñầu thế kỷ XX ñến Cách mạng tháng Tám năm 1945.

28

(cid:1) Văn học từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 ñến hết thế kỷ XX.

Văn học từ thế kỷ X ñến hết thế kỷ XIX ñược gọi là “văn học trung ñại”.

Hai thời kỳ tiếp theo, tuy mỗi thời kỳ có một số ñặc ñiểm riêng, song ñều nằm

trong xu hướng hiện ñại hoá chung nên ñược gọi là “văn học hiện ñại”.

Cũng phải nói là sự phân loại trên có tính tương ñối, nhất là ở bước

chuyển tiếp từ văn học trung ñại sang văn học hiện ñại, trên thực tế có giai ñoạn

giao thời khoảng ba mươi năm ñầu thế kỷ XX. Trong giai ñoạn ñó cái cũ và cái

mới giao tranh, nhưng xu thế chung là cái mới thắng lợi. Do vậy, có thể coi giai

ñoạn giao thời này thuộc về văn học hiện ñại.

Sự phân kỳ ở ñây ñã kết hợp ñược căn cứ xã hội của văn học và các quy

luật phát triển nội tại của văn hóa. Văn học từ 1945 trở về sau rõ ràng là nền văn

học hoàn toàn mới, nền văn học ñặt dưới sự lãnh ñạo của ðảng, phục vụ cho

cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lịch sử văn học ở ñây gần như trùng khít

hoàn toàn với chế ñộ chính trị xã hội, với nhu cầu thẩm mĩ của quần chúng, với

những biến ñổi trong quan ñiển nghệ thuật cũng như hoạt ñộng sáng tác.

- Phân kỳ văn học sử chú ý ñến thể loại trong từng thời kỳ văn học

Chương trình và SGK Ngữ văn ñược cải cách lần này không chỉ tuyển

chọn những áng văn chương nghệ thuật mà còn có thêm những bản văn nhật

dụng, nghị luận xã hội,…ðây là một khuynh hướng xây dựng chương trình Ngữ

văn hiện nay của nhiều nước tiên tiến. Có nước còn ñặt vấn ñề tuyển chọn cả

những văn bản truyền hình, báo chí hằng ngày (dĩ nhiên mức ñộ như thế nào vẫn

là chuyện cần bàn thêm). Tri thức văn học không phải là những tri thức lý thuyết

biệt lập mà gắn bó một cách tuần tự, có hệ thống với tiếng Việt và kĩ năng làm

văn. Hạn chế của chương trình cũ chỉ quan tâm ñến khối lượng thông tin văn

học mà ít quan tâm ñến hệ thống kỹ năng cần hình thành cho học sinh sau ba

năm học phổ thông. Chương trình lần này ñã coi trọng hai kỹ năng ðọc và Làm

văn như hai trục chính ðó là một bước tiến trong nhận thức về kỹ năng văn học

29

cho học sinh. Những phần ñồng tâm ñã học ở THCS ñược cân nhắc kĩ ñể không

trùng lặp mà còn liền mạch theo một hệ thống hoàn chỉnh.

1.1.4 Nguyên tắc dạy học văn học sử trong chương trình Ngữ văn

THPT

Bất kỳ một môn học nào cũng cần có nguyên tắc dạy học ñặc trưng của

môn học ấy. Dạy học bộ môn Văn ngoài các nguyên tắc dạy học chung cũng cần

có những nguyên tắc của nó : phải gắn với ñời sống, phải biết phát huy vai trò

chủ thể của học sinh, phải chú ý ñến mối liên hệ giữa các phân môn khác,…Trên

cơ sở ñó, dạy học kiến thức văn học sử có những nguyên tắc nhất ñịnh sau:

1.1.4.1. Dạy học văn học sử phải giúp học sinh nhận biết ñược quá

trình lịch sử phát triển văn học dân tộc

ðây là một trong những nguyên tắc ñặc trưng, không thể bỏ qua trong

quá trình dạy học các kiến thức văn học sử, nguyên tắc này sẽ giúp chúng ta

phân biệt ñược với việc dạy lí luận văn học và tác phẩm văn học.

Muốn học sinh nắm vững nguyên tắc này, ñòi hỏi phải biết liên kết các

sự kiện, hiện tượng trong hệ thống, ñồng thời phải biết kết hợp chặt chẽ với

nguyên tắc ñồng ñại thường ñược vận dụng khi phân tích tình hình văn học giai

ñoạn, sự nghiệp nhà văn, giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Ví dụ : Quá trình phát triển của văn học Việt Nam gắn chặt với lịch sử,

văn hoá, xã hội của ñất nước. Trong hơn mười thế kỷ phát triển, văn học Việt

Nam không ngừng kế thừa, tiếp thu những tinh hoa của văn học nhân loại và ñạt

ñược thành tựu to lớn với những tác gia có tên tuổi như Nguyễn Trãi, Nguyễn

Du, Hồ Chí minh,…

Từ văn học trung ñại (thế kỷ X ñến thế kỷ XIX) sang văn học hiện ñại

(ñầu thế kỷ XX ñến nay) có sự ñổi mới ñáng kể. Ví dụ : Về tác giả : xuất hiện

ñội ngũ nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp, lấy việc viết văn, sáng tác thơ làm nghề

nghiệp. Về thể loại : thơ mới, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch nói,…dần dần thay

30

thế hệ thống thể loại cũ, tuy một vài thể loại cũ của văn học trung ñại vẫn còn

tồn tại, song không còn ñóng vai trò chủ ñạo. Về thi pháp : hệ thống thi pháp

mới thay thế hệ thống thi pháp cũ. Lối viết ước lệ, sùng cổ, phi ngã của văn học

trung ñại không còn phù hợp; lối viết hiện thực, ñề cao cá tính sáng tạo, ñề cao

“cái tôi” cá nhân dần ñược khẳng ñịnh. Tiêu biểu lối viết này có Tản ðà, Xuân

Diệu, Hàn Mặc Tử và hàng loạt các nhà văn nhà thơ khác…

1.1.4.2. Dạy học văn học sử phải kết hợp thường xuyên việc rèn luyện

các năng lực, kỹ năng, thao tác cho học sinh

ðó là sự giải thích, phân tích, tổng hợp, so sánh, ñánh giá, ñối

chiếu,…khi tiếp nhận các kiến thức văn học sử. Thực hiện nguyên tắc này có tác

dụng rèn luyện năng lực tự học, tự nghiên cứu của học sinh, giúp các em biết

cách tiếp nhận luận ñiểm của văn học sử và hiểu bài, nhớ bài một cách có hệ

thống. Ví dụ :

Sau khi học xong giai ñoạn văn học từ ñầu thế kỷ XX ñến năm 1945,

chúng ta có thể yêu cầu học sinh ñánh giá lại giai ñoạn văn học này có ñặc ñiểm

gì mới và nổi bật so với giai ñoạn trước ñó ? (rèn kỹ năng so sánh, ñánh giá).

Hoặc cũng có thể ñặt những câu hỏi : Vì sao có thể gọi văn học Việt Nam

30 năm ñầu thế kỷ XX (từ 1900 ñế 1930) là văn học giai ñoạn giao thời ? (rèn

kỹ năng giải thích, phân tích vấn ñề).

1.1.4.3. Dạy học văn học sử phải biết kết hợp với các tri thức văn học

khác

Thực hiện nguyên tắc trên sẽ tạo nên sức mạnh của bộ môn, cũng chính là

quán triệt dạy văn học sử mang tính hệ thống, tính liên môn.

Lí luận văn học là công cụ ñể phân tích giai ñoạn văn học (nội dung, hình

thức, tác ñộng,..), tác gia văn học (phong cách sáng tạo, thể loại, trường phái,..).

Một khi nắm vững kiến thức lí luận ta dễ dàng phân tích các nhận ñịnh, khái

31

niệm văn học sử và ngược lại kiến thức văn học sử sẽ khắc sâu sự nhận thức lí

luận.

Ví dụ : Dùng kiến thức lí luận, sự hiểu biết về giá trị nội dung, nghệ thuật

của tác phẩm ñể có thể phân tích một tác phẩm văn học cụ thể trong chương

trình. Tiêu biểu là, khi phân tích các tác phẩm của Nam Cao, luôn hiện rõ giá trị

nhân ñạo và hiện thực ; tác phẩm của Vũ Trọng Phụng nổi bật giá trị hiện thực ;

tác phẩm của Thạch Lam thiên về xu hương lãng mạn có pha lẫn chất hiện

thực,…

Các luận ñiểm, các tổng kết văn học sử thường là các ñề tài ứng dụng văn

học sử trong tập làm văn…Chẳng hạn : Tìm hiểu về chủ nghĩa yêu nước, chủ

nghĩa nhân ñạo ñược thể hện thông qua một số tác phẩm ñược học…

1.1.4.4. Dạy học văn học sử phải ñạt ñược yêu cầu giáo dục truyền

thống văn học và truyền thống dân tộc

Truyền thống văn học Việt Nam nổi bật hai chủ ñề : yêu nước và nhân

ñạo gắn chặt với nhau qua từng thời kỳ lịch sử với truyền thống ñấu tranh dựng

nước và giữ nước của nhân dân ta. Dạy văn học sử theo ñúng yêu cầu tiếp nhận,

ñúng nguyên tắc sẽ mang lại hiệu quả giáo dục ở học sinh. Cần tận dụng quá

trình văn học từ thế kỷ X ñến thế kỷ XV ñể giảng dạy truyền thống yêu nước

chống phong kiến xâm lược. Văn học từ sau thế kỷ XV ñến ñầu thế kỷ XIX là

cơ sở giáo dục truyền thống nhân văn. Văn hoc từ ñầu thế kỷ XX ñến 1945 phát

huy truyền thống nhân văn trong văn học. ðành rằng tư tư tưởng yêu nước và

nhân văn ở mỗi giai ñoạn không tách rời nhau.

Dạy văn học sử biết kết hợp các nguyên tắc trên sẽ giúp các em hiểu sâu

hơn giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm…

32

1.2 Hệ thống kiến thức văn học sử cơ bản trong chương trình

Ngữ văn THPT (kiểu bài văn học sử)

Kiến thức văn học sử trong chương trình THPT là những kiến thức ñược

sắp xếp có hệ thống và chọn lọc. ðó là kiến thức chung về lịch sử phát triển của

văn học Việt Nam, kiến thức về các thời kỳ, giai ñoạn văn học, kiến thức về các

tác gia, tác giả văn học, kiến thức về các tác phẩm văn học và kiến thức về thể

loại văn học…

1.2.1 Kiến thức chung về lịch sử phát triển của văn học Việt Nam

- Kiến thức chung về lịch sử phát triển của văn học Việt Nam trong

chương trình THPT là những kiến thức văn học sử mang tính khái quát cao

nhất. ðó là các kiến thức khái quát về : các bộ phận hợp thành, quá trình phát

triển, con người Việt Nam qua văn học. Trước ñây, phần con người Việt Nam

qua văn học ñược thay bằng phần ñặc ñiểm lịch sử của sự phát triển.

Văn học Việt Nam có hai bộ phận hợp thành : văn học dân gian và văn

học viết. Trong bộ phận văn học viết có hai thời kỳ văn học lớn : văn học trung

ñại và văn học hiện ñại.

Kiến thức này ñã ñưa ra nhiều luận ñiểm khái quát: “Văn học Việt Nam

là sản phẩm tinh thần của tất cả các dân tộc cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. ðó là

một nền văn học thống nhất trong sự ña dạng. Bên cạnh những ñặc trưng chung,

văn học của mỗi vùng, miền, mỗi tộc người lại có những bản sắc riêng làm

phong phú cho nền văn học của toàn dân tộc”…[34, tr.6].

Sự khái quát về quá trình phát triển của nền văn học ñã xác ñịnh lại một

cách tổng quan các thời kỳ phát triển quá trình phát triển của văn học Việt Nam

gắn chặt với lịch sử chính trị, văn hóa, xã hội của ñất nước. Nhìn tổng quát văn

học Việt Nam trải qua ba thời kỳ lớn :

- Văn học từ thế kỷ X ñến hết thế kỷ XIX.

33

- Văn học từ ñầu thế kỷ XX ñến Cách mạng tháng Tám năm 1945.

- Văn học từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 ñến hết thế kỷ XX.

ðồng thời, cái nhìn tổng quan ấy cho phép nêu bật các ñặc ñiểm cơ bản

về nguồn gốc của văn học từng thời kỳ : “Văn học Việt Nam từ thế kỷ X ñến hết

thế kỷ XIX hình thành và phát triển trong bối cảnh văn hoá, văn học vùng ðông

Á, ðông Nam Á ; có quan hệ giao lưu với nhiều nền văn học khu vực, ñặc biệt

là văn học Trung Quốc”. “Hai thời kỳ sau tuy có một số ñặc ñiểm riêng biệt

nhưng ñều nằm trong một xu hướng phát triển chung của quá trình hiện ñại hoá

văn học nên có thể gọi chung là văn học hiện ñại”…[34, tr.7].

Lịch sử phát triển của văn học Việt Nam khẳng ñịnh lại những truyền

thống lớn của văn học dân tộc, ñó là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân ñạo.

Nhìn chung văn học Việt Nam là một nền văn học không chỉ luôn thay

ñổi, luôn vận ñộng, tiến triển mà còn là một nền văn học tiến bộ không ngừng,

ñậm ñà bản sắc, không lẫn với bất kỳ nền văn học nào khác.

Con người Việt Nam qua văn học cũng có thay ñổi trong lịch sử. Không

hề có con người trừu tượng mà chỉ có con người tồn tại trong bốn mối qua hệ cơ

bản: quan hệ với thế giới tự nhiên, quan hệ với quốc gia dân tộc, quan hệ với xã

hội, quan hệ với bản thân). Mối quan hệ này chi phối các nội dung chính văn

học, ảnh hưởng ñến việc xây dựng hình tượng văn học.

- Là kiểu kiến thức không thiên về minh họa, chú ý xác ñịnh khái niệm,

thuật ngữ, luận ñiểm cơ bản mang tính khái quát. Chúng ta dễ dàng bắt gặp các

khái niệm như: văn học dân tộc, văn học viết, văn học dân gian, văn học chữ

Hán, văn học chữ Nôm,…các thuật ngữ : nhân ñạo, nhân văn, hiện ñại hóa, dân

tộc hóa, tinh hoa văn học, ước lệ, phi ngã,…

34

Hầu hết các khái niệm, thuật ngữ trên ñều ñược trình bày theo hướng diễn

dịch một cách sáng tỏ, nên học sinh dễ dàng tiếp thu nếu giáo viên biết gợi mở

tốt.

1.2.2 Kiến thức về các thời kỳ, giai ñoạn văn học

- Là kiến thức có phạm vi bao quát rộng (ít nhất là 30 năm) với các kiến

thức khái quát cao, ñặc biệt rất phong phú về kiến thức cụ thể, cách trình bày

kết hợp giữa ñồng ñại và lịch ñại.

Phạm vi bao quát thời kỳ văn học sử chứa ñựng một lượng tư liệu khá

phong phú về quá trình phát triển của văn học cũng như về giá trị nội dung và

nghệ thuật ñạt ñược ở mỗi thời kỳ văn học.

Tính khái quát tuy không cao như ở bài Tổng quan nhưng tư liệu minh

họa rất ña dạng. Ví dụ : Bài khái quát văn học Việt Nam từ thế kỷ X ñến hết thế

kỷ XIX, ñược chia bốn giai ñoạn, ở mỗi giai ñoạn ñược minh họa bằng nhiều tác

phẩm, tác giả tiêu biểu, có khi minh họa ở cấp xu hướng, trào lưu, có khi minh

họa cấp tác giả, tác phẩm.

Hầu hết các kiến thức khái quát về thời kỳ trong chương trình ñều có

phần giới thiệu khái quát hoàn cảnh lịch sử, tình hình văn học bao gồm cả nội

dung và hình thức văn học nhưng cách viết ở mỗi thời kỳ lại khác nhau. Có bài

kết hợp phần hoàn cảnh lịch sử với phần tình hình văn học từng giai ñoạn (bài

Khái quát văn học từ thế kỷ X ñến thế kỷ XIX). Có bài phân tích diện mạo văn

học theo tiến trình thời gian,…Nhìn chung, cách trình bày hết sức linh hoạt.

-Kiến thức về thời kỳ văn học sử có khả năng giáo dục cho học sinh. Kiến

thức văn học sử về thời kỳ ñặt trong nhiều mối quan hệ, cho nên tình hình văn

học Việt Nam ñược phân tích ở nhiều mối quan hệ khác nhau. Qua ñó, ta có thể

giáo dục cho học sinh quan ñiểm về mối quan hệ qua lại trong văn học cũng như

ngoài xã hội. Mặt khác, ta còn giáo dục các em truyền thống yêu nước, niềm tự

35

hào dân tộc và tinh thần nhân ñạo, nhân văn cao cả trải dài qua từng thời kỳ, giai

ñoạn văn học…

- Kiến thức về thời kỳ văn học sử có quan hệ logic với kiến thức khái

quát tác giả, tác phẩm. Những kiến thức khái quát về thời kỳ dù ở bất cứ thời kỳ

nào cũng ñều phải thông qua kiến thức khái quát về tác giả ñể ñi ñến kiến thức

khái quát về tác phẩm. Chúng ta có thể hình dung mô hình sau:

Kiến thức khái quát về thời kỳ

(cid:1)

Kiến thức khái quát về tác giả

(cid:1)

Kiến thức khái quát về tác phẩm

(cid:1)

ðọc - hiểu văn bản

1.2.3 Kiến thức về tác gia, tác giả văn học

- Nhắc ñến kiến thức về tác gia thông thường hay ñề cập ñến phần cuộc

ñời, sự nghiệp, quan ñiểm sáng tác, phong cách, và giá trị ñóng góp của tác gia

ñó trong tiến trình phát triển lịch sử văn học Việt Nam. Nội dung bài dạy tác gia

văn học bao giờ cũng ñược tiến hành gồm hai phần chính : cuộc ñời và sự

nghiệp văn học. ðây là hai nội dung quan trọng, không thể thiếu trong mỗi bài

dạy tác gia văn học.

- Kiến thức khái quát về tác gia trong chương trình THPT chiếm ưu thế

so với kiến thức văn học sử khác về số lượng bài học. Các tác gia ñược giảng

dạy ở trường phổ thông hiện nay là : Nguyễn Trãi, Nguyễn Du (lớp 10), Nguyễn

ðình Chiểu, Nam Cao (lớp 11), Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Tố Hữu (lớp

12).

36

- Một số tác gia trong chương trình thuộc hai thời kỳ văn học khác nhau

nhưng ñược xếp vào một thời kỳ nhất ñịnh. ðó là tác gia Nam Cao, tác gia

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, tác gia Tố Hữu. Chẳng hạn, sự nghiệp sáng tác

của Nam Cao thật sự ñược bắt ñầu từ năm 1941 với truyện ngắn có tầm vóc lớn

– Chí Phèo. Con ñường sáng tác của ông chia làm hai thời kỳ rõ rệt trước và sau

Cách mạng tháng Tám. Ở mỗi thời kỳ, Nam Cao ñều có những cống hiến xuất

sắc. Tác gia Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ñược xếp vào giai ñoạn văn học

1930 – 1945 là một dụng ý, dù sau Cách mạng tháng Tám, Bác vẫn sáng tác,…

- Kiến thức về tác gia trong chương trình là những kiến thức quan

trọng, có tác dụng giáo dục ñối với học sinh. Giáo dục các em những nhân cách,

quan ñiểm sống tốt ñẹp vì mỗi tác gia là những tấm gương giàu trí tuệ, tâm hồn.

- Kiến thức về tác gia trong chương trình mang tinh cụ thể - khái quát.

Cụ thể là vì tác gia ñó có ý nghĩa minh họa cho các nhận ñịnh khái quát về thời

kỳ… Còn khái quát bài học về tác gia lại cần ñược minh họa qua bài học về tác

phẩm hay ñoạn trích. Kiến thức về tác gia cho phép chúng ta tiếp cận gần với

ñọc - hiểu văn bản. Ngược lại, khi tiếp cận kỹ lưỡng văn bản ta càng hiểu thêm

về cuộc ñời, sự nghiệp, quan ñiểm của họ hơn.

Tóm lại, những yếu tố chứa ñựng trong bài khái quát về tác gia là hết sức

ña dạng và phong phú. Các bài học về tác gia cung cấp một khối lượng lớn

thông tin văn học. Yêu cầu và tác dụng ñào tạo của nó ñòi hỏi giáo viên phải học

hỏi, tích luỹ nhiều kiến thức về tác gia ngoài chương trình SGK. “Bài học về

tiểu sử (tác gia) chính là bài học của cuộc sống theo ý nghĩa ñầy ñủ nhất của nó”

( Nikolski).

1.2.4 Kiến thức về các tác phẩm văn học

- So với các kiến thức văn học sử khác, kiến thức về tác phẩm văn học ở

cấp ñộ thấp nhất, gần với giảng văn. Kiểu bài học coi tác phẩm như một hiện

tượng văn học sử trong chương trình Ngữ văn THPT là kiểu bài nghiên cứu, giới

37

thiệu các tác phẩm lớn, tiêu biểu cho tác gia, cho thời ñại. Chẳng hạn, tác phẩm

Truyện Kiều (Nguyễn Du) trong chương trình Ngữ văn 10…

Học tác phẩm có tính văn học sử là sự tiếp nhận toàn bộ tác phẩm, không

phải ñi sâu vào chi tiết, không phải theo quy luật cảm thụ như giảng văn mà là

phân tích có tính khái quát từ cốt truyện ñến giá trị nội dung, nghệ thuât và cuối

cùng là các kết luận chung về giá trị, vị trí tác phẩm.

- Số lượng về tác phẩm ñược học như văn học sử trong chương trình hiện

nay rất ít. Trong chương trình hiện nay, chỉ có hai tác phẩm học như văn học sử

gắn liền với tác gia. ðó là tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và tác phẩm

Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh. Lẽ ra phải cho học sinh tiếp cận nhiều tác

phẩm hơn vì ñây là một kiểu bài quan trọng, mang nhiều tính chất giáo dục.

(cid:2) Kết luận :

Nội dung của chương một nhìn chung mang tính chất lý thuyết, khái quát.

Nó sẽ ñược triển khai vận dụng cụ thể trong chương hai. Các hệ thống kiến thức

văn học sử về thời kỳ, giai ñoạn, tác gia, tác phẩm văn học,…tạm gọi các kiểu

bài văn học sử ñã có khá nhiều công trình nghiên cứu bàn luận. Do ñó, trong

luận văn của mình người viết không ñi sâu tìm hiểu nội dung của kiến thức này

mà chủ yếu khai thác chúng trong quá trình ñọc hiểu văn bản ñể thấy ñược sự

phát triển không ngừng ñi lên của lịch sử văn học dân tộc, thấy ñược hơi thở,

nhịp ñập, bước ñi của thời ñại và góp phần hiểu hơn giá trị tác phẩm ; ñồng thời

xem những văn bản ñược lựa chọn ñể học trong chương trình ñã ñảm bảo nội

dung kiến thức, thể hiện rõ những ñặc ñiểm, minh họa những luận ñiểm …như

trong phần bài khái quát ñã nêu.

38

CHƯƠNG 2 - PHƯƠNG PHÁP KHAI THÁC CÁC KIẾN

THỨC VĂN HỌC SỬ TRONG ðỌC – HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC

2.1 Tình hình giảng dạy các kiến thức văn học sử trong

chương trình Ngữ văn THPT

2.1.1 Tình hình giảng dạy văn học sử nói chung

Bấy lâu nay, kiến thức văn học sử ở trường phổ thông còn nhiều ngộ

nhận, chưa quan tâm ñúng mực, ñặc biệt trong quá trình giảng dạy nhiều giáo

viên có thái ñộ xem nhẹ hoặc bỏ qua chúng. ða số họ chỉ thích giảng dạy các

văn bản tác phẩm có sẵn hơn là giảng dạy những kiến thức liên quan ñến văn

học sử.

Bình tâm nhìn vào thực trạng giảng dạy văn học của nước nhà hiện nay,

chúng ta không thể không thừa nhận một bước tụt hậu khá dài về nhận thức

cũng như thực hành sư phạm so với bước ñi của một số nước tiên tiến, nhất là so

với yêu cầu chiến lược của thời ñại công nghệ thông tin hiện nay. Tình trạng ñó

hình như càng nặng nề hơn trong giảng dạy văn học nói chung.

ðã từ lâu vẫn ñang diễn ra tình hình dạy văn chỉ cần biết ñến văn bản văn

chương, chỉ quan tâm ñến nghệ thuật và tài năng khám phá cho sâu chỗ ñộc ñáo

của tác phẩm văn chương ñể rồi tìm ra những thủ pháp hình thức lôi cuốn học

sinh cảm thông, ñồng ñiệu với những gì người giáo viên ñã tìm tòi phát hiện

ñược mà không cần quan tâm ñến những kiến thức ngoài văn bản, “siêu văn

bản”.

Văn bản không phải là ñối tượng ñộc nhất cho sự khám phá của giáo viên

mà ít ra văn bản ấy phải ñược ñặt trong mối quan hệ tương tác vốn có của nó.

ðó là mối quan hệ giữa tác phẩm với tác giả, giữa tác phẩm với giáo viên và tác

phẩm với bạn ñọc - học sinh.

39

Theo thói quen của không ít giáo viên, thường khi dạy các bài khái quát

về thời kỳ, giai ñoạn và tác gia văn học, họ gần như chỉ biết bám sát vào sách, ít

huy ñộng các dẫn chứng bên ngoài, dạy bài nào chỉ biết bài nấy, thiếu minh họa

cần thiết ñể cụ thể hoá những kiến thức khái quát trong bài học, bài giảng,

thường sa vào tóm tắt các ý chính trong SGK, ít khi ñược phân tích minh hoạ

thỏa ñáng. ðiều này dĩ nhiên do thời lượng có hạn nhưng cái chính là do vốn

hiểu biết của giáo viên còn hạn chế. Kết quả là các luận ñểm, nhận ñịnh khoa

học về kiến thức văn học sử trở nên giáo ñiều, khô khan, thiếu thuyết phục, hấp

dẫn, khó ñọng lại ở người học những gì cần ñọng lại sau một bài văn học sử.

Bên cạnh ñó, phương pháp dạy rất dễ dãi, chủ yếu thuyết trình và “ñộc

diễn”, giáo viên sẵn sàng yêu cầu học sinh gạch trong sách những chỗ ñược cho

là quan trọng, sau ñó lướt nhanh, tập trung vào việc ñọc - hiểu văn bản. Tất

nhiên, lối dạy này cũng có những mặt tích cực của nó một khi giáo viên có ý

muốn nhấn mạnh vào phần văn bản và chỉ phù hợp ở một số tác giả, tác phẩm.

Trong khi ñó, ña số tác gia ñược chọn trong chương trình ñể học là những tên

tuổi, tiêu biểu cho từng thời kỳ văn học. Chính vì vậy, chúng ta cần phải chú ý

ñến cách giảng nhiều hơn ñể tránh sự sai lầm cứ tuân theo những nguyên tắc

chung chung cố ñịnh và mang tính áp ñặt. Hầu hết, ở mỗi kiểu bài văn học sử

ñều có những cách dạy riêng. Cụ thể, dạy tiểu sử Nguyễn Trãi sẽ khác cách dạy

tiểu sử Nguyễn Du hay tiểu sử Hồ Chí Minh, dạy bài khái quát giai ñoạn văn

học thế kỷ X – XIX sẽ khác với bài khái quát giai ñoạn văn học thế kỷ XX -

1975,…

Trách nhiệm, lòng nhiệt tình của giáo viên cũng là một nhân tố tác ñộng

ñến việc tiếp thu môn văn của các em. Hiện nay, nhiều học sinh chán học môn

văn là do lời giảng của giáo viên chỉ ñơn thuần từ sách vở, chỉ bám sát vào

những trang giáo án mà thiếu ñi cái nhìn thực tế khách quan cũng như kinh

nghiệm cuộc sống của bản thân.

40

Thực tế giảng dạy bộ môn Văn hiện nay có sự “lệch pha” với môn Sử.

Bằng chứng là hầu như năm nào dạy lớp 10 chúng tôi cũng gặp phải tình trạng

học sinh sai kiến thức trầm trọng về văn học sử, chỉ hỏi riêng phần bối cảnh lịch

sử lại có những câu trả lời như : Ngô Quyền ñánh quân Nguyên Mông, Lê Lợi

chiến thắng quân Minh trên sông Bạch ðằng, Nguyễn Trãi thay mặt Trần Hưng

ðạo viết Bình Ngô ñại cáo,…Biết bao nhiêu chuyện “cười ra nước mắt”! Và

ngay cả trên chương trình truyền hình cả nước, một giảng viên trường ðại học

Sư phạm cũng sai kiến thức trầm trọng khi hỏi về nhóm Tự lực văn ñoàn…Còn

việc học sinh nhầm lẫn tên thật, quê quán, tên cha, tên mẹ,…của các tác gia

ñược học là chuyện thường ngày, không thể tránh khỏi.

Ở chương trình lớp 12, các em khi học phần văn học 1945 – 1975 rất lúng

túng khi diễn ñạt ý nghĩa, giá trị của tác phẩm với hiện thực. Hỏi ra mới biết

phần lịch sử các em chưa học tới. Tình trạng này làm cho các em học môn văn

như bơi trong lời giảng của thầy cô. Nếu chúng ta không khái quát hoàn cảnh

lịch sử xã hội thì coi như mảng kiến thức ñó bị bỏ trống. Các em không nắm

ñược giai ñoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, xây dựng Chủ nghĩa xã hội

ở miền Bắc,…nên khi viết văn trình bày lại kiến thức rất lúng túng. Nhiều khi

chúng ta dạy văn phải lấn sân sang dạy sử, làm mất thời gian, cháy giáo án.

Trong khi ñó, số tiết ưu tiên phần kiến thức văn học sử trong sách giáo khoa lại

ít. Mỗi lần lên lớp phải cân ño ñong ñếm dung lượng thời gian cho phù hợp.

ðiều ñáng nói nữa là hiện nay xã hội hiện ñại có tác ñộng không nhỏ ñối

với học sinh phổ thông. Các em có thể nói vanh vách về tiểu sử một ca sĩ, người

mẫu, diễn viên ñiện ảnh nhưng lại ấp úng khi nói về tiểu sử Nguyễn Trãi,

Nguyễn Du,…Rõ ràng, giữa nội dung môn văn với thực tế cuộc sống cũng có ñộ

chênh khá lớn. Khi các em ra trường hầu như không mấy học sinh vận dụng

những ñiều ñược giảng ñể áp dụng vào thực tế cuộc sống, ñôi khi có tình trạng

phê phán ngược trở lại thầy cô…

41

Nhìn một cách tổng thể từ quá trình nghiên cứu, biên soạn sách giáo khoa

ñến quá trình giảng dạy môn Văn nói chung bấy lâu nay, mặc dù ñã chỉnh sửa

khá nhiều lần nhưng vẫn còn thiếu sót, hạn chế. “Tác phẩm văn chương ñược

trích giảng trong SGK hiện nay hình như thiếu chất văn, thầy còn không cảm thụ

nổi huống chi trò” (một ñộc giả trên mạng). Chương trình, SGK thay ñổi nhiều

lần gây xáo trộn lớn (mỗi lần thay sách là mỗi lần thay ñổi nội dung, cải cách về

phương pháp). Thời gian chuyển giao nội dung và phương pháp dù dài hay ngắn

ñều là thử thách không nhỏ ñối với giáo viên. Chương trình chỉ có một và mang

tính pháp lệnh, chưa có chương trình phù hợp cho các khu vực ñối tượng học

sinh, các loại hình trường. “Lẽ ra nên có khung chương trình chuẩn, tuỳ ñối

tượng, khu vực mà ñiều chỉnh nội dung giảng dạy cụ thể thì mới mong việc dạy

học thật sự hiệu quả” [56, tr.31]

ðã vậy, phương pháp lên lớp của không ít giáo viên còn theo lối mòn, cũ

kỹ, thiếu “chất lửa” trong lời giảng, xem học trò như những bình chứa kiến thức.

Phần ñông giáo viên phổ thông dạy kiến thức văn học sử còn ñơn ñiệu, thiếu khả

năng phân tích, so sánh tổng hợp các sự vật ; chỉ bằng lòng với kiến thức ít ỏi,

trong SGK, SGV nên hiểu biết nông cạn về tác giả, tác phẩm.

Bên cạnh ñó, khi giảng dạy giáo viên chưa có biện pháp giám sát việc

chuẩn bị bài, ñọc bài, học bài của học sinh. Nhiều giáo viên thường phàn nàn

học sinh không ñọc tác phẩm, ñặc biệt những tác phẩm văn xuôi nhưng họ cũng

thú nhận không biết làm cách nào ñể khích lệ và giám sát việc tự học, tự ñọc bài

ở nhà của học sinh. ðại ña số giáo viên dạy văn ñều có ý thức tạo cho học sinh

thói quen và năng lực tự học, tinh thần chủ ñộng tích cực, nuôi dưỡng niềm

hứng thú trong học văn. Nhưng nhìn chung họ thường tỏ ra lúng túng, thậm chí

bất lực trong việc thực hiện những mong muốn của mình.

42

2.1.2 Thực tiễn khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc - hiểu

văn bản văn học hiện nay

2.1.2.1. Về phía giáo viên Theo ñánh giá của nhiều chuyên gia quản lí chất lượng dạy học văn, số

ñông giáo viên chưa có cách vận dụng các kiến thức văn học sử một cách hợp lí

vào quá trình dạy ñọc hiểu văn bản, hoặc chưa biết cách vận dụng như thế nào

cho thật sự nhuần nhuyễn ñể tránh ñi những sơ sài, ñơn ñiệu, nhàm chán, khô

khan, máy móc, thiếu khả năng liên tưởng tưởng tượng, phân tích, so sánh tổng

hợp các kiến thức văn học sử ñã giảng dạy.

Ví dụ : Khi dạy về “cái tôi” cá nhân trong thơ mới, giáo viên chỉ biết

ñến thơ mới mà không liên hệ với “cái tôi” trong thơ văn trước ñó hay sau này.

Hay như khi dạy học các tác phẩm Chí Phèo, ðôi mắt của Nam Cao, phần ñông

giáo viên thường chủ yếu dừng lại ở việc phân tích hình tượng nhân vật Chí

Phèo, nhân vật Hoàng, rồi ñưa ra những nhận ñịnh ñánh giá về giá trị hiện thực,

nhân ñạo của tác phẩm…mà không có dẫn chứng cụ thể. Nếu có cách dạy tốt về

tác phẩm (khắc họa, nhấn ñậm sắc thái văn học sử) thì khi ñược gợi nhắc, hướng

dẫn, học sinh có thể nhớ ra ñược những kiến thức liên quan về tác giả. Chẳng

hạn : từ làng Vũ ðại (Chí Phèo) mà nhớ ra làng ðại Hoàng – quê Nam Cao, từ

bi kịch số phận của Chí mà hiểu thêm số phận người nông dân trong sáng tác

của ông, từ giá trị hiện thực, giá trị nhân ñạo mà nhớ về quan ñiểm nghệ thuật

tiến bộ trong giai ñoạn 1930 - 1945…Hay như khi dạy các bài thơ của Tản ðà,

Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử có trong chương trình, chúng ta phải hướng

dẫn học sinh tìm ra những nét ñặc sắc tiêu biểu của phong trào thơ mới về ñề

tài, nội dung cũng như quan ñiểm nghệ thuật,…ñồng thời thấy ñược sự biểu hiện

ña dạng của từng “cái tôi” cá nhân tác giả trong giai ñoạn văn học từ ñầu thế kỷ

XX ñến năm 1945…

Trong thực tế dạy học văn, phần lớn giáo viên chỉ ñi sâu tìm hiểu các yếu

tố trong văn bản, còn yếu tố ngoài văn bản như : tác giả, hoàn cảnh sáng tác, thể

43

loại, bút pháp thể hiện,…thì không ñược quan tâm ñúng mức vì họ nghĩ rằng

việc tìm hiểu yếu tố trong văn bản ñể ñọc hiểu văn bản mới quan trọng. Nhận

thức này xuất phát từ quan ñiểm hạn chế của một số người, họ cho rằng, trong

ñề thi thường hay yêu cầu học sinh phân tích văn bản cụ thể, hiếm khi yêu cầu

các em nhận thức hay ñánh giá về những nhận ñịnh, luận ñiểm mang tính chất

văn học sử…

Hơn nữa, trong quá trình giảng dạy một số giáo viên dạy theo sở thích,

sở trường của mình. Một số người thích dạy thơ, số khác thích dạy văn

xuôi,…cho nên quá trình vận dụng cũng tùy hứng, không ñịnh hướng trước. Ví

dụ : Dạy tác phẩm thơ phân tích rất kỹ ngôn ngữ, thể loại nhưng khi dạy tác

phẩm văn xuôi thì vấn ñề ngôn ngữ không ñược chú ý quan tâm mà thay vào ñó

chỉ là những lời nhận xét chung chung khái quát ( ngôn ngữ kể chuyện linh

hoạt, ñặc sắc ; xây dựng nhân vật tiêu biểu, ñiển hình,…)

Tất nhiên, chúng ta không thể phủ nhận tài năng của một bộ phận giáo

viên khá giỏi, giàu kinh nghiệm, nhiều năm trong nghề, vẫn nuôi ñược ñam mê,

tâm huyết với sự nghiệp văn chương và nghề dạy văn chương nghệ thuật. Hầu

như tất cả các giờ dạy của họ khá thành công, hiệu quả và hấp dẫn.

2.1.2.2. Về phía học sinh ða phần học sinh chưa biết cách vận dụng các kiến thức văn học sử vào

quá trình ñọc hiểu văn bản. Theo khảo sát và thực tế giảng dạy, phần ñông học

sinh cho rằng kiến thức văn học sử không mấy quan trọng, cho nên không nhất

thiết phải vận dụng chúng vào quá trình ñọc hiểu. Hầu như trong quá trình ñọc

hiểu văn bản các em chỉ ñọc hiểu phần “nổi” của văn bản, phần “chìm” thường

không ñọc ñược. Trong khi ñó, hiểu phần chìm mới quan trọng vì ñằng sau lớp

ngôn từ, hình tượng là những thông ñiệp mà người nghệ sĩ muốn gởi ñến bạn

ñọc ñể cùng ñồng cảm chia sẻ và hiểu hơn về thời ñại.

44

Do học sinh chưa nắm ñược những kiến thức cơ bản trong các bài giảng

văn học sử nên khó vận dụng vào phần ñọc hiểu văn bản cụ thể. Nếu có vận

dụng thì vận dụng sai, chưa hợp lí, sa ñà, lan man. ðiều này thể hiện rõ trong

quá trình các em làm văn. Ví dụ : khi viết mở bài, có em nêu hết phần tiểu sử

của tác giả (tên thật, quê quán, năm sinh năm mất, thậm chí tên cha mẹ tác

giả,…), trong khi ñó, phần thân bài khi yêu cầu bàn về quan ñiểm sáng tác của

nhà văn thì các em lại viết sơ sài, có em lẫn lộn qua ñề tài sáng tác,…

Nhiều em không có khả năng phân tích, so sánh tổng hợp trong quá trình

ñọc hiểu. Chẳng hạn : khi phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo-

Nam Cao) - ñiển hình cho bi kịch người nông dân Việt Nam trước Cách mạng

tháng Tám, ñáng ra các em phải biết liên hệ với những tác phẩm ñã học cùng

viết về ñề tài này như Lão Hạc, Lang Rận, Tư cách mõ,… chẳng hạn, nhưng ña

phần học sinh chỉ dừng lại ở hình tượng Chí. Hay như phân tích thơ Xuân Diệu

chỉ biết ñến nhà thơ Xuân Diệu mà không chú ý ñến những nhà thơ mới khác

trong phong trào thơ mới ñược học trước ñó…

2.2 Phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong

ñọc – hiểu văn bản văn học Ngữ văn lớp 11

Phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc – hiểu văn

bản văn học trong quan niệm của chúng tôi thực chất là cách thức tiếp cận và

vận dụng các kiến thức văn học sử ñã học vào quá trình ñọc hiểu các thể loại

văn bản (có thể khai thác yếu tố thời ñại, hoàn cảnh lịch sử, quan ñiểm sáng tác

của tác giả hoặc khai thác các yếu tố liên quan ñến ñề tài, thể loại ngôn ngữ,

nhân vật hoặc cũng có thể các khái niệm, thuật ngữ,…mang tính văn học sử).

Cách khai thác kiến thức này sẽ giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức ñã

học, ñồng thời sẽ mở rộng nội dung kiến thức và phạm vi diện ñọc, nâng cao

tầm hiểu biết và mức ñộ cảm thụ ở học sinh…

ðể khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc - hiểu các dạng văn bản

ñạt chất lượng, hiệu quả cao, ñòi hỏi người ñứng lớp phải chủ ñộng, tích cực và

45

ñề ra những phương pháp, biện pháp thật phù hợp với từng thể loại, nội dung

bài dạy và từng ñối tượng tiếp nhận cũng như môi trường dạy học.

2.2.1 Các kiến thức văn học sử cần ñược khai thác trong ñọc - hiểu

văn bản văn học Ngữ văn 11

Kiến thức văn học sử trong chương trình phong phú, ña dạng. Nó ñược

thể hiện thông qua các bài học văn học sử và trong các văn bản. Luận văn chủ

yếu hướng ñến việc khai thác các kiến thức văn học sử trong các văn bản, tất

nhiên những kiến thức này có mối liên hệ chặt chẽ với bài học văn học sử vì mỗi

bài học văn học sử sẽ là những kiến thức khái quát chung về bối cảnh lịch sử xã

hội, về nội dung, hình thức, về thành tựu ñặc sắc,…của từng thời kỳ, giai ñoạn,

từng tác giả, tác phẩm sẽ ñược triển khai cụ thể trong các văn bản ñược học sau

ñó.

Kiến thức văn học sử ñược khai thác trong văn bản bao gồm : các thuật

ngữ, khái niệm (hiện ñại hoá, cái tôi cá nhân, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa

nhân ñạo,…), bút pháp ( lãng mạn, hiện thực,…) liên quan ñến giai ñoạn văn

học ñầu thế kỷ XX ñến Cách mạng tháng Tám 1945 ; ñề tài ñược thể hiện ; thể

loại, ngôn ngữ ; cách xây dựng hình tượng nhân vật ; quan ñiểm nghệ thuật

;…Tất cả những kiến thức vừa nêu sẽ ñược ñặt vào tiến trình vận ñộng phát

triển của lịch sử văn học dân tộc ñể làm rõ hơn những ñặc ñiểm của văn bản cần

ñọc – hiểu.

2.2.2 Phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc –

hiểu văn bản văn học lớp 11

2.2.2.1. Khai thác về vấn ñề thuật ngữ, khái niệm mang tính văn học

sử

ðể khai thác các thuật ngữ, khái niệm mang tính văn học sử trong quá

trình ñọc – hiểu văn bản, trước hết chúng ta cần ñịnh hướng các thuật ngữ,

khái niệm cần ñược khai thác trong văn bản, ñồng thời phải nắm rõ những ñặc

46

ñiểm cơ bản, những chi tiết quan trọng, nổi bật trong từng khái niệm, ñịnh nghĩa

sẽ ñược triển khai.

Ở bài Khái quát văn học Việt Nam từ ñầu thế kỷ XX ñến Cách mạng

tháng Tám năm 1945 trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1 có nêu ra hàng

loạt các khái niệm, thuật ngữ, luận ñiểm, nhận ñịnh mang tính văn học sử. Nổi

bật và ñặc trưng hơn cả là những khái niệm, thuật ngữ như : hiện ñại hóa, cái tôi

cá nhân, phong trào thơ mới, chủ nghĩa hiện thực (xu hướng hiện thực), chủ

nghĩa lãng mạn (xu hướng lãng mạn),…

Khái niệm hiện ñại hoá xuất hiện trong văn học Việt Nam từ ñầu thế kỷ

XX ñến Cách mạng tháng Tám 1945. Hiện ñại hoá văn học là một yêu cầu

khách quan của thời ñại. Nó là một bộ phận, một phương diện quan trọng của

công cuộc hiện ñại hoá nền văn hoá Việt Nam nói chung. Hiện ñại hoá văn học

còn là nhu cầu tinh thần và thẩm mĩ mới của xã hội.

Sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1, trang 83 ñịnh nghĩa : Hiện ñại hóa là

quá trình làm cho văn học thoát ra khỏi hệ thống thi pháp văn học trung ñại và

ñổi mới theo hình thức văn học phương Tây có thể hội nhập với nền văn học

hiện ñại thế giới.

Hiện ñại hoá văn học diễn ra trên mọi mặt, ở nhiều phương diện. Trước

hết là sự thay ñổi quan niệm về văn học : từ văn chương chở ñạo, thơ nói chí của

thời kỳ văn học trung ñại chuyển sang quan niệm văn chương như một hoạt

ñộng nghệ thuật ñi tìm và sáng tạo cái ñẹp : “Văn chương không cần ñến những

người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu ñưa cho. Văn chương chỉ dung

nạp ñược những người biết ñào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi,

và sáng tạo những cái gì chưa có” (ðời thừa – Nam Cao) ; từ văn chương ñể

“răn ñời” sang văn chương ñể “hiểu ñời”, ñể nhận thức, khám phá hiện thực.

Cũng Nam Cao – một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc trong giai ñoạn

này ñã mạnh dạn nêu ra quan ñiểm sáng tác của mình : người cầm bút không

47

ñược “trốn tránh” sự thực, mà hãy “cứ ñứng trong lao khổ, mở hồn ra ñón lấy tất

cả những vang ñộng của ñời…”.

Trong truyện ngắn Trăng sáng, ông lại viết : “Chao ôi ! Nghệ thuật không

cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể

chỉ là tiếng ñau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”.

Quả thật, ñây là những quan ñiểm nghệ thuật tiến bộ và bắt nguồn từ thực

tế cuộc sống cũng như bối cảnh lịch sử xã hội thời bấy giờ. Chính thời ñại ñã

buộc nhà văn Nam Cao và một số nhà văn khác không thể khoanh tay ñứng

ngoài cuộc, không ñược phép trốn tránh sự thực. ðó là ý thức, trách nhiệm của

người cầm bút ñương thời.

Và cũng từ ñây, văn học không còn tình trạng “văn sử triết bất phân” như

trước nữa, văn học thoát ra khỏi những quan niệm thẩm mĩ và hệ thống thi pháp

văn học trung ñại (tính quy phạm chặt chẽ, hệ thống ước lệ tượng trưng dày ñặc,

tính chất sùng cổ, phi ngã,…). Ví như khi miêu tả thiên nhiên, trong thơ xưa

hiếm gặp sự nhân cách hoá thiên nhiên, nhưng ñến giai ñoạn hiện ñại 1930 –

1945 - tiêu biểu phong trào thơ mới, thiên nhiên có những cách miêu tả táo bạo,

mới lạ. ðặc biệt trong thơ Xuân Diệu, thi nhân ñã gán cho thiên nhiên những

tâm tư, hành ñộng rất “người” một cách tự nhiên, chân thật, hợp lí :

- Rặng liễu ñìu hiu ñứng chịu tang

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.

- Những luồng run rẩy rung rinh lá

ðôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.

(ðây mùa thu tới )

Quá trình hiện ñại hoá văn học còn ñược thể hiện ở sự biến ñổi của các

thể loại văn học (thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn) và xuất hiện những thể loại văn

48

học mới (kịch nói, phóng sự, phê bình văn học). Chương trình Ngữ văn 11- bộ

cơ bản ñã tuyển chọn một số tác phẩm thuộc các thể loại mang tính hiện ñại như

Về thơ (thơ mới) có các văn bản : Hầu trời (Tản ðà), Vội vàng (Xuân

Diệu), Tràng giang (Huy Cận), ðây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử).

Về truyện ngắn có các văn bản : Hai ñứa trẻ (Thạch Lam), Chữ người tử

tù (Nguyễn Tuân), Chí Phèo (Nam Cao).

Về tiểu thuyết có văn bản : Hạnh phúc của một tang gia (trích Số ñỏ – Vũ

Trọng Phụng).

Về kịch có văn bản : Vĩnh biệt Cửu Trùng ðài (trích Vũ Như Tô - Nguyễn

Huy Tưởng)

...

Việc tuyển chọn một số văn bản trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 ñể thể

hiện những nội dung trong bài Khái quát giai ñoạn ñầu thế kỷ XX ñến 1945 là

tạm ổn, phù hợp với một số luận ñiểm, khái niệm và thuật ngữ ñã nêu trong phần

bài trước ñó. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, giáo viên ñứng lớp phải biết

liên hệ, mở rộng thêm một số tác phẩm, và cũng có thể nhắc lại các tác phẩm

ñã học ở cấp trung học cơ sở viết cùng giai ñoạn này. Chẳng hạn, dạy học văn

bản Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, ta nên liên hệ với văn bản Lão Hạc hay Tắt

ñèn của Ngô Tất Tố… vì những tác phẩm này ñều thể hiện ñề tài về số phận

con người, ñặc biệt số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội thực dân

phong kiến thối nát ñầy rẫy những áp bức, bất công.

Bên cạnh ñó, dạy ñọc hiểu các văn bản văn học hiện ñại cần phải thấy sự

hiện ñại hoá về mặt ngôn ngữ. Văn bản Vội vàng của Xuân Diệu là một trong

những ví dụ tiêu biểu nhất. Nhà thơ ñã ñem những cảm xúc tươi nguyên, hạnh

phúc gieo vào lòng người với hình ảnh thật ngọt ngào : Tháng giêng ngon như

một cặp môi gần,… và kiểu ngôn ngữ ñặc biệt mới lạ, có phần táo bạo, phá cách

49

: Ta muốn (tắt, buộc, ôm, riết, say, thâu, cắn)…Xuân Diệu còn khát khao muốn

chiếm giữ và ñoạt quyền cả tạo hoá (muốn tắt nắng ñể cho màu ñừng nhạt mất,

muốn buộc gió ñể cho hương ñừng bay ñi)…

Hiện ñại hoá không chỉ là vấn ñề về hình thức mà còn là vấn ñề về nội

dung văn học. Xã hội Việt Nam từ ñầu thế kỷ XX ñến năm 1945 ñã ñặt ra biết

bao vấn ñề về ñất nước, về cuộc sống, con người và nghệ thuật mà ở những thời

kỳ trước ñó chưa từng có, ñòi hỏi văn học thời kỳ mới phải ñáp ứng. Thành ra

hiện ñại hoá trước hết là chuyện nội dung, bao gồm tư tưởng tình cảm, cách

nhìn, cách cảm, cách nghĩ,… của người nghệ sĩ trước hiện thực ñời sống, con

người và nghệ thuật. Chính nội dung tư tưởng ñã tạo ra những ñặc ñiểm, những

dấu ấn riêng và tạo ra sự khác biệt của văn học từ ñầu thế kỷ XX ñến năm 1945

so với văn học thời kỳ trung ñại. Chẳng hạn, cũng nói về ñất nước, các nhà thơ

thời kỳ trung ñại không thể không gắn nước với vua vì chủ nghĩa tôn quân ñã trở

thành tư tưởng chung của thời ñại và thường bị bi phối bởi tư tưởng nho giáo

quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. Còn thời kỳ văn học này, nước gắn liền

với dân : “Dân là dân nước, nước là nước dân” (Phan Bội Châu). Còn khi nói

ñến con người, văn học thời kỳ trung ñại chủ yếu chỉ nói tới con người xã hội,

con người công dân vì tinh thần phi ngã, vô ngã ñã thành ñặc trưng trong quan

niệm về con người của thời ñại ñó. Ở thời kỳ mới này, các nhà văn, nhà thơ

không chỉ nói tới con người xã hội, con người công dân mà còn nói tới con

người trên tinh thần giai cấp, con người tự nhiên, con người cá nhân cá thể và

con người với ñời sống tâm linh. ðọc thơ Hàn Mặc Tử, ta dễ dàng bắt gặp thế

giới con người với ñời sống tâm linh hết sức rõ nét, một con người cảm thấy lạc

lõng giữa cảnh thực và hư : Áo em trắng quá nhìn không ra/ Ở ñây sương khói

mờ nhân ảnh…(ðây thôn Vĩ Dạ). Còn ñối với Xuân Diệu, ta lại bắt gặp con

người hết sức tự nhiên trong thơ, luôn dám thổ lộ tất cả nỗi lòng, tình yêu ñối

với thi nhân là khu vườn ñầy màu sắc, ñủ mọi cung bật tình cảm, khi thì dịu

dàng, ñằm thắm, có phần e ấp : Em bước ñiềm nhiên không vướng chân / Anh ñi

lững ñững chẳng theo gần (Thơ duyên) ; khi thì giục giã, hốt hoảng, vội vàng, lo

50

sợ : Ta muốn tắt nắng ñi / Cho màu ñừng nhạt mất/ Tôi muốn buộc gió lại / Cho

hương ñừng bay ñi…Xuân ñương tới, nghĩa là xuân ñương qua / Xuân còn non,

nghĩa là xuân sẽ già / Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất ( Vội vàng)…

Nhìn chung, hiện ñại hoá diễn ra trên mọi mặt của hoạt ñộng văn học,

làm biến ñổi toàn diện và sâu sắc diện mạo nền văn học Việt Nam, có thể hoà

nhịp với văn học thế giới.

Theo quá trình vận ñộng của lịch sử, văn học cũng có những bước ñổi

mới không ngừng, ñến một thời gian nhất ñịnh nào ñó cái mới sẽ ra ñời thay thế

cái cũ lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp. Hiện ñại hoá văn học là một quá

trình như thế bởi nó chỉ có thể xuất hiện trong giai ñoạn văn học này mà không

hề xuất hiện trong giai ñoạn văn học trước ñây.

Thông qua việc chúng ta khai thác một khái niệm tiêu biểu hiện ñại hoá

ñược học trong bài Khái quát giai ñoạn văn học Việt Nam từ ñầu thế kỷ XX ñến

Cách mạng tháng Tám năm 1945 ñể vận dụng vào quá trình ñọc - hiểu các văn

bản cụ thể sẽ làm cho kiến thức văn học sử ñã học trước ñó ñược củng cố, mở

rộng. Các em sẽ biết ñược ñặc ñiểm hiện ñại hoá trong giai ñoạn văn học này có

gì ñặc sắc, tiêu biểu và chúng ñược thể hiện như thế nào trong các văn bản ñược

lựa chọn ñể học về mặt thể loại, ngôn ngữ cũng như các giá trị về mặt nội dung,

hình thức khác…Cụ thể hơn, trong khi tìm hiểu văn bản, giáo viên phải chỉ cho

học sinh tính hiện ñại thể hiện trong các văn bản của các tác giả. Có như vậy,

học sinh sẽ nhớ lâu, nhớ kỹ những nội dung kiến thức ñược học, ñồng thời tạo

cơ hội ñể các em trao ñổi thảo luận và tự rèn luyện các thao tác, kỹ năng

trong việc ñọc - hiểu các thể loại văn bản một cách hoàn chỉnh nhất.

Ý thức ñược việc làm trên, chúng ta sẽ loại trừ phần nào khả năng học

sinh học bài nào chỉ biết ñến bài nấy, thiếu sự suy luận, gắn kết, liên hệ giữa các

kiến thức khái quát - cụ thể ñược học, cũng như sẽ tránh ñược sự thụ ñộng,

khuôn mẫu trong quá trình tìm hiểu văn bản. Quan trọng hơn cả là học sinh sẽ

51

có ý thức ñối với tất cả các kiến thức ñược học ở các dạng bài khái quát mang

tính văn học sử trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay…

Bên cạnh ñó, khi khai thác chúng ta cũng cần phải chỉ cho học sinh thấy

ñược quá trình vận ñộng và phát triển của lịch sử văn học dân tộc bằng cách

phân tích, giải thích, liên hệ, so sánh, ñối chiếu với các sự vật, hiện tượng

trước ñó và sau này nhằm làm rõ những nội dung ñược triển khai ; ñồng thời

củng cố, khắc sâu các kiến thức ñã học cũng như minh họa cho những nội

dung kiến thức ñã học ở phần bài khái quát.

“Cái tôi” cá nhân cũng là một khái niệm mang tính văn học sử rất rõ

trong quá trình tìm hiểu các văn bản ở giai ñoạn ñầu thế kỷ XX ñến 1945. Chỉ

cần nhìn vào một khái niệm này cũng có thể chỉ cho học sinh thấy ñược sự vận

ñộng phát triển của văn học Việt Nam khi ñặt chúng trong mối liên hệ ñồng ñại

và lịch ñại, cụ thể trong mối liên hệ so sánh với giai ñoạn trước ñó và sau này.

Thật ra, cái tôi cá nhân ñã manh nha xuất hiện, bắt ñầu cựa quậy từ cuối

thế kỷ XVIII ñầu thế kỷ XIX trong các sáng tác của Phạm Thái, Nguyễn Du, Hồ

Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,…Nhưng do hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ chưa

có ñủ ñiều kiện cho nên cái tôi ấy chưa ñủ sức phá vỡ ñược tính quy phạm chặt

chẽ của văn chương thời kỳ trung ñại. ðến khi Tản ðà xuất hiện, “cái tôi” cá

nhân ñược khẳng ñịnh mạnh mẽ hơn qua những vần thơ phóng túng, dạt dào tình

cảm, tràn ñầy cảm xúc. Khai thác triệt ñể những thể ñiệu tự do nhất trong thơ cổ

bao gồm cả những ñiệu hát dân gian như lục bát, ca dao, hát nói, hát xẩm,…hồn

thơ phóng khoáng của Tản ðà như muốn bứt khỏi những ràng buộc tù túng của

văn chương cổ, tạo nên những vần thơ phóng túng, tự do, nhưng ông vẫn không

ñủ sức sáng tạo nên một hình thức hoàn toàn mới cho thơ.

Văn bản Hầu Trời của Tản ðà ñược lựa chọn trong chương trình sách

giáo khoa Ngữ văn 11 ñể minh hoạ rõ cho một cái tôi “ngông” của người nghệ

sĩ, tự ý thức về tài năng, về giá trị ñích thực của mình và khao khát ñược khẳng

52

ñịnh mình giữa cuộc ñời. Với bài thơ Hầu Trời, Tản ðà ñã mang ñến một

nguồn gió mới, thổi phòng những ước mơ ñược vươn cao, vươn xa hơn thoát

khỏi vòng giam hãm nặng nề của chế ñộ thực dân phong kiến ñương thời ñầy

rẫy ngang trái, xót ñau. Người trí thức có lương tri không thể chấp nhận nhập

cuộc, nhưng chống lại nó thì không phải ai cũng ñủ dũng khí ñể làm. Bất bình

nhưng bất lực, người ta chỉ có thể mong ước thoát li, làm thơ ñể giải sầu. Thơ

Tản ðà thời này “ñã nói lên ñúng cái sầu bàng bạc trong ñất nước, tiềm tàng

trong tim gan người ta” (Xuân Diệu). Thi nhân ñẽ vẽ một bức tranh rất chân thật

và cảm ñộng về chính cuộc ñời mình và cuộc ñời nhiều nhà văn, nhà thơ khác.

Nhưng Tản ðà lại khác người ở chỗ, ngay từ ñầu những năm 20 ñã dám mạnh

dạn thể hiện “cái tôi” của mình với “cái buồn mơ màng, cái xúc cảm chơi vơi”

(Xuân Diệu), với khát vọng thiết tha ñi tìm một cõi tri âm ñể có thể khẳng ñịnh

tài năng, phẩm giá ñích thực của mình, bởi chẳng thể nào trông ñợi ở “cõi trần

nhem nhuốc bao nhiêu sự” này. Cái “ngông” của ông cũng là ở ñó.

Cái “ngông” của Tản ðà có sự gặp gỡ với cái “ngông” của Nguyễn Công

Trứ (Bài ca ngất ngưởng), của Cao Bá Quát (Sa hành ñoản ca). ðặc biệt, cái

“ngông” của Tản ðà gặp lại khá nhiều so với Nguyễn Công Trứ, cũng là một ý

thức rất cao về tài năng bản thân dám nói tự nhiên với các ñối tượng như Trời,

Tiên, Bụt ; dám phô bày toàn bộ con người vươn trên cả thiên hạ, như khiêu

khích cả thiên hạ. Tuy nhiên, ta vẫn nhận ra những ñiểm khác : “ngông” của Tản

ðà vượt ra khỏi cái bó buộc mình với trách nhiệm vua tôi, vấn ñề này dường

như không còn là chuyện hệ trọng nữa, mặc dù không phải như thế là sống vô

trách nhiệm với xã hội. Cái tài mà nhà thơ muốn khoe không phải là chuyện trị

nước bình thiên hạ mà là cái tài văn chương.

Có thể thấy, Tản ðà ñã tìm ñược hướng ñi ñúng ñắn ñể khẳng ñịnh mình

giữa lúc thơ phú nhà nho ñang ñi dần tới dấu chấm hết. Nhìn chung, thơ Tản ðà

chưa mới (ở thể loại, ngôn từ, hình ảnh,…) nhưng những dấu hiệu ñổi mới theo

hướng hiện ñại hoá ñã khá ñậm nét. Có thể nói, ông ñã bắt một nhịp cầu nối hai

53

thời ñại thi ca Việt Nam. Bởi thế, tác giả Thi nhân Việt Nam ñã mời anh hồn Tản

ðà ra ñể chứng giám Hội Tao ñàn của thế kỉ XX.

ðến với văn bản Vội vàng của Xuân Diệu, ta cũng bắt gặp “cái tôi”

hoàn toàn mới lạ - một cái tôi của một tâm hồn yêu ñời, yêu sống ñến cuồng

nhiệt. Nhưng ñằng sau những tình cảm ấy, có cả một quan niệm nhân sinh mới

chưa thấy trong thơ ca truyền thống. Ngay phần mở ñầu bài thơ, Xuân Diệu ñã

khẳng ñịnh mạnh mẽ cái tôi cá nhân hết sức táo bạo, như muốn ñoạt quyền cả

tạo hoá mà ñây lại là ñiều cấm kị nhất trong thơ xưa. Xuân Diệu mê hoặc người

ñọc bằng cử chỉ của thi sĩ chứ không phải bằng thái ñộ “ngông”, phóng túng.

Nhà thi sĩ cảm nhận thời gian trôi ñi bằng ánh sáng, màu sắc, hương thơm khiến

cho người ñọc cảm nhận ñược niềm say mê yêu ñời, lạc quan của nhà thi sĩ chứ

không phải nỗi tuyêt vọng. Cũng chính nội lực mạnh mẽ ñó, ñã phá vỡ hết

những khuôn sáo ước lệ của “thơ cũ”. Không còn ñâu là số chữ, số câu, niêm

luật nghiêm ngặt của thơ ðường. Những hình ảnh, thanh âm của cuộc sống tràn

vào thơ một cách tự nhiên, hồn nhiên như nhịp ñiệu thời gian :

Của ong bướm này ñây tuần tháng mật ;

Này ñây hoa của ñồng nội xanh rì ;

Này ñây lá của cành tơ phơ phất ;

Của yến anh này ñây khúc tình si ;

Có lẽ, sự thèm khát vô biên của Xuân Diệu không chỉ là tận hưởng cuộc

sống mà còn hướng ñến sự giao cảm với tuổi trẻ nên ñại từ “Tôi” chuyển thành

ñại từ “Ta”. Sự biến hoá ấy dường như diễn ra trong vô thức :

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt ñầu mơn mởn ;

54

Ta muốn riết mây ñưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều.

Bài thơ Vội vàng ñược chọn trong chương trình phần nào chứng tỏ Xuân

Diệu là nhà thơ “mới nhất trong phong trào thơ mới” (Hoài Thanh). Ông ñã ñem

ñến cho thơ ca ñương thời một sức sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ

thuật ñầy sáng tạo. “ðó là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu trước cách

mạng - giao cảm hết mình với cuộc ñời trần thế, với mùa xuân và tuổi trẻ, muốn

buộc thời gian ngưng lại những giây phút hiện tại ; thể hiện sự cách tân về thi

pháp : coi con người giữa tuổi trẻ là chuẩn mực của cái ñẹp” [33, tr.182].

Bên cạnh Tản ðà, Xuân Diệu, nhà thơ Hàn Mặc Tử, Huy Cận cũng góp

phần thể hiện cái tôi của mình qua các bài ðây thôn Vĩ Dạ, Tràng giang. Nói

chung, cái tôi cá nhân cá thể của mỗi thi nhân trong phong trào thơ mới ñã góp

phần ñẩy nhanh quá trình hiện ñại hoá văn học nước nhà.

ðến giai ñoạn văn học cách mạng, văn học kháng chiến , “cái tôi” như

trên không còn xuất hiện, thay vào ñó là “cái tôi” của tập thể, cộng ñồng - một

cái tôi ñầy ý thức trách nhiệm trước thời cuộc (Từ ấy, Ta ñi tới của Tố Hữu).

Khi ñược giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng ñịnh quan niệm mới về lẽ sống là sự

gắn bó hài hoà giữa “cái tôi” cá nhân và ‘cái ta” chung của mọi người. Với bài

thơ Từ ấy, Tố hữu ñã vượt qua giới hạn của “cái tôi” cá nhân ñể sống chan hoà

với mọi người : Tôi buộc lòng tôi với mọi người / ðể tình trang trải với trăm

nơi…Nhà thơ ñể tâm hồn mình trải rộng với cuộc ñời, ñồng cảm sâu xa với

những quần chúng lao khổ ñể phấn ñấu vì mục tiêu chung giải phóng dân tộc,

giải phóng ñất nước thoát khỏi xiềng xích nô lệ. Có thể hiểu, khi “cái tôi” chan

hoà trong “cái ta”, khi cá nhân hoà mình vào một tập thể cùng lí tưởng thì sức

mạnh của mỗi người sẽ ñược nhân lên gấp bội.

55

Nhìn chung, Tố Hữu ñã ñặt mình giữa dòng ñời và trong môi trường rộng

lớn của quần chúng lao khổ, ở ñấy nhà thơ tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới

không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của

những trái tim. Qua ñó, Tố Hữu cũng khẳng ñịnh mối quan hệ sâu sắc giữa văn

học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.

Việc ñưa bài thơ Từ ấy vào chương trình là sự sắp xếp phù hợp, ñúng

ñắn, vì ñây là một tác phẩm tiêu biểu của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca cách

mạng 1900 – 1945 nói chung. Tương tự việc ñưa bài Mộ (Chiều tối) của Hồ Chí

Minh cũng là một hợp lí. Bài thơ ñậm sắc thái cổ ñiển ở thi tứ “chiều”, “mây”,

“chim” nhưng có sắc thái mới là hình ảnh cô gái xóm núi xây ngô, bếp than ửng

hồng trong ñêm tối thể hiện cái nhìn lạc quan, trân trọng cuộc sống của tác giả.,

một phong thái ung dung, tự chủ và nghị lực kiên cường vượt lên hoàn cảnh

khắc nghiệt, tối tăm. Tính hiện ñại thể hiện ở việc miêu tả con người như là

trung tâm của bức tranh thiên nhiên, ở mạch thơ vận ñộng hướng về sự sống và

ánh sáng.

Rõ ràng, khi khai thác yếu tố “cái tôi” theo dòng lịch sử, ta thấy có sự vận

ñộng biến ñổi không ngừng. Giai ñoạn văn học trung ñại “cái tôi” bắt ñầu manh

nha xuất hiện ñấu tranh chống những luân lí, lễ giáo phong kiến cổ hủ ñể giải

phóng cá nhân, giành quyền hưởng hạnh phúc, ñặc biệt trong lĩnh vực tình yêu,

hôn nhân, gia ñình. Nhưng phải ñến Tản ðà - bắt ñầu bước sang giai ñoạn văn

học hiện ñại, “cái tôi” ấy mới thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết, với sự thức tỉnh

của ý thức cá nhân và khát vọng vượt lên trên cuộc sống thực tại chật chội tù

túng, dung tục, tầm thường… “Những năm 30 của thế kỷ này ñã chứng kiến một

cuộc lột xác văn học : một “thời ñại chữ tôi” (chữ của Hoài Thanh) – “cái tôi”

bộc lộ tự do, trực tiếp, thành thực thành “chữ tôi”. Cái tôi tự cảm trong thơ mới

lãng mạn, cái tôi tự nghiệm trong một số tác phẩm văn học hiện thực phê phán,

và một phần nào ñó, cái tôi tự thú trong tự truyện ñầu tiên.” [20, tr.148].

56

Nhưng ñến giai ñoạn thời kháng chiến (1945 -1975) và trước ñổi mới

(1975 – 1986) không còn là “cái tôi”cá nhân riêng lẻ mà là “cái tôi” tập thể,

cộng ñồng, gắn với trách nhiệm và nghĩa vụ ñối với dân tộc ñồng bào, non sông

ñất nước…Nhìn chung không phải là một giai ñoạn thuận lợi cho sự phát triển

dòng văn học khai thác ñời sống cá nhân riêng lẻ như giai ñoạn trước ñó. ðiều

này có những nguyên nhân của nó. Ở chỗ một thời ñại có những biến cố vĩ ñại

của lịch sử dân tộc không chấp nhận cái tôi ñời tư. Cả thế hệ dường như có

chung một một số phận, một cuộc ñời : sống và chết vì dân tộc,…Thế nên số

phận cá nhân, lịch sử nhân cách con người với tư cách là một thực thể duy nhất

sẽ không phải là chủ ñề ñược quan tâm cũng như ñược cổ vũ.

Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ ác liệt, hoà chung cùng số

phận dân tộc, nhà văn Nguyên Ngọc ñã viết Rừng xà nu như là tiếng nói của

lịch sử và thời ñại, gắn liền với những sự vận ñộng, những biến cố có ý nghĩa

trọng ñại ñối với toàn dân. Những bức tranh thiên nhiên hay những hình tượng

anh hùng trong tác phẩm, chung quy ñều là sự kết tinh cho những lí tưởng cáo

quý nhất của cộng ñồng. Rừng xà nu không chỉ là biểu tượng của con người ở

làng Xô Man hẻo lánh mà nhà văn muốn từ một làng Xô Man cụ thể ñể vươn tới

những khái quát rộng lớn hơn. Do ñó, Rừng xà nu có thể là biểu tượng của Tây

Nguyên, của cả miền Nam, và hơn nữa của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ

chiến ñấu chống ñế quốc, thực dân ñau thương nhưng quyết làm tất cả ñể giành

sự sống cho Tổ quốc mình….

Bước sang thời kỳ ñổi mới (1986 ñến nay), khi ñất nước trải qua một

bước ngoặt lớn, tạo nên những biến ñộng dữ dội trong ñời sống và ý thức xã hội,

thì kéo theo ñó là những thay ñổi về mặt nhận thức. Xã hội giao lưu, cơ chế mở

cửa, con người ñược nhìn nhận không chỉ trong quan hệ với cái sống cái chết mà

còn trong quan hệ với tất cả những mối quan hệ phức tạp khác của cuộc sống

ñời thường…thì những nhân vật trên trang sách cũng như chính cái tôi của

người nghệ sĩ cũng lên tiếng, ñược nhìn nhận như một thực thể không trùng lắp

57

với chính mình. Ở thời kỳ này, hoạt ñộng tự nhận thức, tự ñánh giá phê bình của

con người ñã trở thành một chủ ñề tập trung, trong ñó không thể không nói ñến

sự nhận thức của chính con người nhà văn. Và ñây là một quá trình không bao

giờ kết thúc.

Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn ñầu tiên của thời kỳ

ñổi mới ñã ñi sâu khám phá sự thật ñời sống ở ñạo ñức thế sự. Khi làm cho

người ñọc ý thức về sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều

mối quan hệ xã hội phức tạp, chằng chịt thì văn chương ñã ít nhiều ñáp ứng

ñược nhu cầu nhìn nhận và hoàn thiện nhiều mặt của nhân cách con người.

Truyện Chiếc thuyền ngoài xa là phát hiện về ñời sống và con người theo hướng

ñó. Một người ñàn bà bị chồng hành hạ vô lí nhưng không bao giờ muốn từ bỏ

kẻ ñộc ác ñấy, những chiến sĩ từng giái phóng miền Nam nhưng không thể giải

thoát một người ñàn bà bất hạnh,…ðấy là những minh chứng sinh ñộng cho

cách nhìn của Nguyễn Minh Châu trong thời kỳ ñổi mới. Chính ông từng khẳng

ñịnh : “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách ñơn giản, và nhà văn cần

phấn ñấu ñể ñào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử” [36, tr.64].

Qua thực tế cho thấy, khai thác sự phát triển của “cái tôi” như một yếu tố

văn học sử sẽ giúp cho ñọc - hiểu các văn bản cụ thể, rõ ràng, chi tiết và hiệu

quả hơn. Học sinh sẽ ñến gần với các giá trị nội dung, nghệ thuật của văn

bản. Học sinh sẽ không cảm thấy xa lạ với những gì mà các em ñã tìm hiểu

trước ñó. Các em sẽ ý thức ñược rằng “cái tôi” cá nhân luôn có sự vận ñộng,

phát triển. Trong từng thời kỳ, giai ñoạn lịch sử văn học, “cái tôi” cá nhân của

mỗi nghệ sĩ sẽ thể hiện khác nhau, thậm chí ngay trong một tác giả “cái tôi”

cũng có sự biến ñổi theo từng tâm trạng, cảm xúc cho phù hợp với tình hình

chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của nước nhà. Vì thế khi khai thác yếu tố “cái

tôi” như một khái niệm mang tính văn học sử, chúng ta không chỉ tìm hiểu ở sự

biểu hiện qua loa, sơ sài mà phải gắn chúng vào từng thời kỳ, giai ñoạn phát

triển ñể làm nổi bật những ñặc ñiểm, biểu hiện của chúng...

58

2.2.2.2. Khai thác về vấn ñề bút pháp Văn chương lãng mạn ra ñời trong khoảng thời gian từ năm 1932 ñến

năm 1945 ñánh dấu một cuộc cách mạng trong văn học Việt Nam, thay ñổi hệ

thống tư tưởng thời phong kiến. Trước kia cái tôi cá nhân không có ñịa vị trong

văn học và xã hội. Cá nhân thể hiện như một hình ảnh tượng trưng và bị hoà tan

trong cái chung. Trong nền văn chương trung ñại tính cách phi ngã ngự trị hầu

hết tác phẩm văn học Việt Nam. Ngay cả những nhà thơ lớn như Nguyễn Du,

Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến,…cũng chỉ

nói ñến cái tôi một cách sơ sài, mờ nhạt, ước lệ.

Chúng ta có thể tìm thấy mầm mống của xu hướng văn học lãng mạn

trong thơ, văn, từ khúc của Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Dương Lâm, ðào

Tấn… Trong văn học Việt Nam giai ñoạn giao thời (1900 -1930) ñã xuất hiện

những tác phẩm có tính chất lãng mạn. ðó là Khối tình con của Tản ðà, Giọt lệ

thu của Tương Phố, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách,…Nhưng phải ñến ñầu

những năm 30 của thế kỷ XX, hoàn cảnh văn hoá xã hội ở Việt Nam mới ñầy ñủ

những ñiều kiện chín muồi ñể chủ nghĩa lãng mạn ra ñời. Và phải ñến năm

1932, chủ nghĩa lãng mạn mới thực sự xuất hiện trong văn học Việt Nam với

những tên tuổi như Thế Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Nhất Linh,

Khái Hưng, Hoàng ðạo, Thạch Lam, Nguyễn Tuân,…

Tác phẩm Hai ñứa trẻ của Thạch Lam ñược viết nghiêng về bút pháp

lãng mạn bởi các nhà văn lãng mạn thường tìm kiếm những giá trị cao ñẹp trong

những cảnh ñời bình thường, thậm chí tầm thường, tăm tối ; khám phá cái cao cả

ở những con người, những số phận bị ruồng bỏ, chà ñạp. Không bị ràng buộc

bởi môi trường và hoàn cảnh, các nhà văn lãng mạn tin tưởng vào khả năng vượt

qua giới hạn con người. Họ miêu tả cuộc sống trong sự vận ñộng và thấm nhuần

khát vọng vươn tới lý tưởng.

Hai ñứa trẻ của Thạch Lam miêu tả bức tranh của một phố huyện nhỏ

nghèo nàn, tiêu ñiều, xơ xác. Nơi ấy có biết bao số phận con người như chị Tí,

59

gia ñình bác Xẩm, bác phở Siêu, bà cụ Thi và chị em Liên - An,…sống trong

cảnh ñời tăm tối. Ban ngày, Chị Tí ñi mò cua bắt tép; tối ñến chị mới dọn cái

hàng nước…Chị chả kiếm ñược bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng

từ chập tối cho ñế ñêm. Gia ñình bác Xẩm sống lây lất bằng nghề hát xẩm, ngồi

trên manh chiếu, cái thau sắt trắng ñể trước mặt, bác chưa hát vì chưa có khách

nghe…Bác Siêu bán phở ế ẩm vì món quà của bác là một thứ quà xa xỉ, nhiều

tiền ñối với người dân phố huyện…Bà cụ Thi - một bà già hơi ñiên với tiếng

cười u uẩn, xót xa,…Gia ñình Liên - An do bố mẹ mất việc ở Hà Nội nên phải

về quê ở, mẹ giao cho hai chị em trông coi cái của hàng tạp hoá nhỏ xíu,…Mặc

dù sống trong những cảnh ñời tăm tối, cơ cực, vất vả nhưng ở một góc nhìn, nhà

văn Thạch Lam gởi vào tâm hồn hai ñứa trẻ những ước mơ, khát vọng về cuộc

sống tốt ñẹp hơn tuy còn mơ hồ. Chuyến tàu ñêm như ñã ñem một chút thế giới

khác ñi qua. Một thế giới khác hẳn, ñối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn

ñèn của chị Tí và ánh lửa bác Siêu…”.

Văn chương lãng mạn ñã thỏa mãn nhu cầu tự do sáng tác và phát huy

bản ngã của người làm văn học nghệ thuật. “Sự xuất hiện ý thức về cái tôi cá

nhân là một bước tiến quan trọng trong hành trình tư tưởng và nghệ thuật của

nhân loại, bởi vì sáng tạo nghệ thuật mang tính ñặc thù”. Cho nên sự giải phóng

bản ngã, giải phóng cái tôi của chủ thể sẽ phát huy khả năng sáng tạo của nghệ

sĩ, làm xuất hiện nhiều phong cách cá nhân ñộc ñáo.

Về thơ ca có Thế Lữ với hồn thơ rộng mở, Lưu Trọng Lư mơ màng, Huy

Thông hùng tráng, Nguyễn Nhược Pháp trong sáng, Huy Cận ảo não, Nguyễn

Bính quê mùa, Chế Lan Viên huyền bí và Xuân Diệu tha thiết, rạo rực, băn

khoăn…

Thơ Tố Hữu cũng rất lãng mạn nhưng là lãng mạn cách mạng. Thơ ông

khẳng ñịnh cái tôi cá nhân ñược giải phóng về mặt tình cảm, cảm xúc và trí

tưởng tượng. Nhưng thơ Tố Hữu không bi quan, trái lại luôn thể hiện tinh thần

60

lạc quan chiến thắng với niềm tin chắc thắng ở tương lai tươi sáng của cách

mạng…

Trong văn xuôi, cái tôi khinh bạc, lãng tử thể hiện qua tập Tuỳ bút của

Nguyễn Tuân và tập truyện ngắn Vang bóng một thời, tiêu biểu là truyện Chữ

người tử tù. Nhân vật người tử tù (Huấn Cao) biết mình sắp chết nhưng tư thế

vẫn hiên ngang bất khuất, ñồng thời là người có tài (viết chữ ñẹp) và có tâm cao

thượng trong sáng. Ông là một kẻ tử tù chống lại triều ñình, nhưng lại ñược viên

quản ngục nể trọng, kính phục và khát khao có ñược nét chữ ông Huấn treo

trong nhà coi như “báu vật” ở ñời,…Thông qua nhân vật này, nhà văn ñã bày tỏ

thái ñộ bất hoà sâu sắc với xã hội ñương thời, không chịu vứt bỏ lương tâm,

chạy theo danh lợi, cố giữ “thiên lương” và “sự trong sạch của tâm hồn”.

Với những thành tựu to lớn của thời kỳ văn học 1932 – 1945 các nhà văn

lãng mạn và những người làm văn học nghệ thuật cùng thời ñã tạo ñược trào lưu

văn chương lãng mạn có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam.

Văn chương lãng mạn, văn chương hiện thực dù có những ñiểm khác

nhau về khuynh hướng tư tưởng và cảm hứng, nhưng không nên có sự ñối lập

tuyệt ñối. Có nhiều nhà văn sáng tác theo hai khuynh hướng như Nguyễn Công

Hoan, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Thanh Tịnh,…Trong thực tế, cả hai xu

hướng này luôn ở trong quá trình chuyển hoá, ảnh hưởng qua lại, không ñối lập

nhau về giá trị. Ở xu hướng văn học nào cũng có những cây bút ñầy tài năng và

những tác phẩm xuất sắc.

Tiêu biểu cho xu hướng văn học hiện thực phải kể ñến tên tuổi của nhà

văn Nam Cao với tác phẩm Chí Phèo ñược học trong chương trình Ngữ văn 11.

Tác phẩm ñã phô bày hiện thực xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám

1945 ñầy rẫy những bất công, thối nát. Một anh Chí hiền lành như ñất, khoẻ

mạnh, ñược việc và từng mớ ước có một gia ñình nho nhỏ - chồng cày thuê, vợ

cuốc mướn,… sau mấy năm ở tù về, trở thành kẻ lưu manh tha hoá, mất nhân

61

hình lẫn nhân tính, một con vật người không hơn không kém, một con quỹ dữ

của làng Vũ ðại ai ai cũng xa lánh. Chí ngày càng trượt dài trên dốc cuộc ñời

trong những cơn say triền miên…Bằng ngòi bút hiện thực, nhà văn Nam Cao ñã

kết án sâu sắc xã hội bạo tàn phá cả thể xác và linh hồn người nông dân lao

ñộng, ñồng thời ông vẫn phát hiện và khẳng ñịnh bản chất lương thiện, ñẹp ñẽ ở

họ ngay trong khi họ bị vùi dập tới mất cả hình người, tính người.

Nam Cao thể hiện tài tình và chân thật tâm lí người nông dân cũng như

người trí thứ tiểu tư sản trước Cách mạng tháng Tám. Cuộc sống của họ ngột

ngạt, bế tắc, ñói khổ, dằn vặt triền miên. Tâm hồn của họ luôn cuồn cuộn những

xung ñột bi kịch. Họ khao khát sống có ích, sống có ý nghĩa ñích thực của một

Con Người. Nhưng xã hội cũ không cho họ quyền sống như vậy. Hoặc họ phải

cam chịu (Dì Hảo, Ở hiền,…), hoặc phải dũng cảm, quyết liệt tìm lấy cái chết

(Lão Hạc, Chí Phèo, Lang Rận,…). Chí Phèo quyết liệt ñòi lại quyền làm người

“Tao muốn làm người lương thiện…”.

Trong một xã hội còn bọn cường hào, ác bá như Bá Kiến, Lí Cường,

Nghị Hách, Nghị Quế, Nghị Lại thì người lao ñộng khó có thể sống lương

thiện, khó có thể mưu cầu ñược hạnh phúc ñích thực và ñầy ñủ.

Chính những vấn ñề sâu sắc mà nhà văn Nam Cao ñặt ra trong tác phẩm

Chí Phèo và ở một số tác phẩm khác, ta nhận thấy chiều sâu của một ngòi bút

nhân ñạo chủ nghĩa thật ñáng trân trọng, một cái nhìn hiện thực sắc bén, chân

thật, một tài năng sáng tạo thật mãnh liệt.

Nam Cao thuộc vào số những nhà văn ñã ñọc ñược và nhận ra ñược cái

thâm trầm ở Chekhov, ở Dostoievski. Ngòi bút kể chuyện ñời ñã không còn

dừng lại ở sự mô tả những biểu hiện trái tai gai mắt bề ngoài. Sự bất hòa, sự kết

án xã hội ñương thời ở Nam Cao ñã ñi vào nguyên tắc nên có thể bộc lộ ra một

cách ôn tồn và nhỏ nhẹ, ñẩy tính quyết liệt ẩn sâu vào trong. Ở các trang viết của

mình, Nam Cao ñã nhìn thấy và chỉ cho người ñọc thấy cái xã hội ñọng trong nô

62

lệ và lạc hậu xứ mình, cái xã hội ñẳng cấp, bất công và phi nhân ấy ñã làm tha

hoá, biến dạng biến chất con người ta như thế nào.

Viết sau và ñi tiếp dòng văn tả thực xã hội của những Nguyễn Công

Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, chủ nghĩa hiện thực ở Nam Cao ñã tỉnh táo

ñến mức không còn ảo tưởng, không còn sự ve vuốt nào hết. Phần lớn các nhân

vật nông dân ở tác phẩm của ông ñều ñã hoặc ñang bị bần cùng hóa, lưu manh

hóa, suy ñồi về nhân tính, nhân cách. Phần lớn ñám nhân vật tiểu trí thức ở sáng

tác của ông ñều ñang bị dằng xé giữa sự mưu cầu miếng cơm manh áo và sự bảo

vệ phẩm giá con người mình, ñều ñang day dứt vì thấy ñời mình “sẽ mốc lên, sẽ

rỉ ñi, sẽ mòn ra ” và mình “sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống”. Tư

tưởng nhân ñạo chủ nghĩa trong văn chương Nam Cao không thuộc kiểu một

tình thương mênh mông vỗ về, an ủi, mà là một ñòi hỏi nghiêm khắc : ở mức

thấp, ñó là ñòi hỏi con người hiểu biết chính mình và hoàn cảnh sống quanh

mình, nhận cho ra tình trạng bị tha hóa, biến dạng biến chất, coi sự tự ý thức này

là cơ sở cho việc hành ñộng cải tạo hoàn cảnh sống ở mức cao hơn, ñó là ñòi hỏi

việc tạo ñiều kiện ñể phát triển “tận ñộ ”, hết mức những năng lực vốn có ở mỗi

con người, coi phát triển năng lực con người là tiền ñề của sự hoàn thiện nhân

cách.

Bên cạnh hiện thực nông thôn, ñoạn trích Hạnh phúc của một tang gia

(trích Số ñỏ) của Vũ Trọng Phụng còn cho ta thấy hiện thực của lối sống thành

thị chạy theo ñồng tiền, thời thượng, ñua ñòi, a dua theo lối sống văn minh rởm

lố lăng ñồi bại ñương thời ñể mà ñánh mất ñi những tình cảm, ñạo ñức vốn có

của con người. Vì ñồng tiền mà ñám con cháu mau chóng mong người thân của

mình qua ñời sớm ñể ñược chia gia tài. Cũng vì ñồng tiền mà có thể phá vỡ

những luân thường ñạo lí truyền thống tốt ñẹp có từ ngàn ñời…Nói tóm lại, sức

mạnh của ñồng tiền có thể chi phối tất cả.

Tiểu thuyết Số ñỏ ñược viết năm1936. ðây là năm ñầu của Mặt trận Dân

chủ ðông Dương, không khí ñấu tranh dân chủ sôi nổi… Chế ñộ kiểm duyệt

63

sách báo khắt khe của thực dân tạm thời bãi bỏ. Bối cảnh ấy ñã tạo ñiều kiện cho

nhà văn phát huy cao ñộ những mặt tích cực và ñạt ñược những thành tựu rực rỡ.

Số ñỏ là tác phẩm tiêu biểu nhất của Vũ Trọng Phụng và ñược ñánh giá vào loại

xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam, kể từ khi có chữ quốc ngữ., thể hiện trình

ñộ tiểu thuyết già dặn, bút pháp châm biếm ñặc biệt sắc sảo. Vũ Trọng Phụng

góp một vị trí qua trọng trong tiến trình phát triển lịch sử văn học Việt Nam.

Qua một chuỗi vận ñỏ của nhân vật Xuân Tóc ðỏ, Vũ Trọng Phụng ñã

thể hiện chân thực một hiện tượng phổ biến trong xã hội nhố nhăng ñương thời,

một kẻ bất tài, bịp bợm cũng có thể trở thành một trí thức, một “anh hùng cứu

quốc”, một mụ me Tây dâm ñãng cũng có thể ñược bằng Tiết hạnh khả phong !

Từ ñó, người ñọc có thể nghĩ tới sân khấu chính trị ñương thời vốn không ít

những kẻ tai to mặt lớn thực chất chỉ là những Xuân Tóc ðỏ. Và khi nào xã hội

còn nhố nhăng, thì khi ñó ắt sẽ còn những Xuân Tóc ðỏ. Dĩ nhiên, trong sự ñảo

lộn quay cuồng ấy, biết bao người có ñức, có tài ñã gặp số ñen. Do ñó, nhà văn

mặc dù chỉ mới phê phán xã hội thành thị ở phương diện sinh hoạt ñạo ñức,

nhưng Số ñỏ có ý nghĩa thời sự và tính chiến ñấu khá rõ. ðó cũng là một trong

những lí do ñể tác phẩm này có thể lựa chọn vào chương trình học chính thức,

bởi lẽ những gì mà tác giả nêu ra ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

Thật ra, các cụm từ văn chương lãng mạn (chủ nghĩa lãng mạn, bút pháp

lãng mạn), văn chương hiện thực (chủ nghĩa hiện thực, bút pháp hiện thực) chỉ

có trong hệ thống khái niệm lí luận văn học. Nhưng ở một góc ñộ lịch sử phát

triển văn học, nó lại thể hiện tính văn học sử rất rõ. Ở chỗ trong giai ñoạn trước

ñó chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực chưa hình thành các trào lưu, xu

hướng rõ rệt, nếu có cũng chưa thể bộc lộ một cách mạnh mẽ quyết liệt ñược.

Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Khuyến,… cũng ñã từng lên

án, phê phán, vạch trần xã hội ñương thời. Ví như trong Truyện Kiều của

Nguyễn Du, nhà thơ ñã tố cáo xã hội buôn thịt bán người, chạy theo ñồng tiền

chà ñạp nhân phẩm, ñạo ñức tốt ñẹp người phụ nữ (Có ba trăm lạng việc này

64

mới xong) nhưng một mình Nguyễn Du hay Hồ Xuân Hương không thể hình

thành những trào lưu, xu hướng ñược. Chỉ có tốc ñộ phát triển mau lẹ về số

lượng lẫn chất lượng ; chỉ có sự thay ñổi bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội ; nhu

cầu thưởng thức bạn ñọc mở rộng và cũng chỉ có quá trình hiện ñại hoá trong

giai ñoạn văn học ñầu thế kỷ XX ñến năm 1945… mới bùng nổ các trào lưu, xu

hướng văn học cụ thể.

Chính việc khai thác một số vấn ñề bút pháp trên sẽ cho chúng ta thấy

ñược tính chất tích hợp giữa kiến thức lí luận và kiến thức văn học sử trong quá

trình ñọc hiểu văn bản. Sự tích hợp ở ñây ñược hiểu là : trong kiến thức lí luận ta

có thể triển khai các kiến thức văn học sử. Và ñến lượt mình, kiến thức văn học

sử sau khi ñược phân tích sẽ góp phần làm rõ các khái miệm, thuật ngữ ñã ñược

học trước ñó (như ñã phân tích ở phần trên).

Với việc chúng ta khai thác một số kiến thức liên quan về mặt bút pháp

trong quá trình vận ñộng phát triển của lịch sử văn học dân tộc và xem chúng

như một yếu tố văn học sử sẽ ñồng thời tạo ñiều kiện thuận lợi cho sự ñịnh

hướng ñúng giá trị hình thức nghệ thuật của các văn bản. Bên cạnh ñó, học sinh

sẽ thấy ñược những cách viết khác nhau của từng tác giả trong từng thời

kỳ, giai ñoạn…Cùng là bút pháp hiện thực nhưng hiện thực trong cách viết của

Nam Cao sẽ khác với hiện thực mà Ngô Tất Tố muốn thể hiện, cùng là bút pháp

lãng mạn nhưng lãng mạn trong thơ Xuân Diệu sẽ khác xa với lãng mạn trong

thơ Tố Hữu,…

Bấy lâu nay, thường khi khai thác vấn ñề về bút pháp, ña phần giáo viên

thường chỉ ñưa ra những nhận xét chung chung, khái quát kiểu như : Nam Cao

là một nhà văn hiện thực bậc thầy ; Vũ Trọng Phụng là một cây bút trào phúng

xuất sắc. Tất nhiên những nhận xét kiểu như thế sẽ làm cho quá trình ñọc - hiểu

không thông suốt, thấu ñáo, rõ ràng. Nhưng một khi chúng ta biết cách khai thác

chúng xem như một yếu tố văn học sử cần thiết phải triển khai trong các văn

65

bản sẽ làm cho quá trình tiếp thu, cảm nhận của học sinh ñược nâng cao, mở

rộng…

2.2.2.3. Khai thác về vấn ñề ñề tài Nhiều người cho rằng, ñề tài cũng như ngôn ngữ và thể loại trước hết là

những khái niệm thuộc lĩnh vực lí luận văn học. Tuy nhiên, trong luận văn này

người viết mạnh dạn khai thác tìm hiểu ñề tài dưới góc ñộ mang tính văn học sử

ñể thấy sự vận ñộng phát triển không ngừng trong dòng chảy tiến bộ của lịch sử

văn học dân tộc, qua ñó, góp phần làm cho hoạt ñộng ñọc - hiểu văn bản ñược

ñịnh hướng chính xác hơn.

ðề tài - một trong những nội dung thể hiện khá phong phú, ña dạng ở

giai ñoạn văn học hiện ñại. Bài Khái quát giai ñoạn văn học ñầu thế kỷ XX ñến

1945 có nêu : Xu hướng văn học lãng mạn thường tìm ñến các ñề tài về tình yêu,

về thiên nhiên và quá khứ, thể hiện khát vọng vượt lên trên cuộc sống thực tại

chật chội tù túng, dung tục, tầm thường. Còn văn học hiện thực tập trung vào

việc phơi bày thực trạng bất công, thối nát của xã hội ñương thời, ñồng thời ñi

sâu phản ánh tình cảnh khốn khổ của các tầng lớp nhân dân bị áp bức bốc lột

với một thái ñộ cảm thông sâu sắc.

Liên quan ñến kiến thức về ñề tài ñược nhìn nhận dưới góc ñộ tri thức

văn học sử, khi khai thác chúng ta cũng cần phải chỉ ra những sự ñổi mới,

khác biệt, những nét ñặc sắc trong cách thể hiện ở từng văn bản thuộc mỗi

giai ñoạn, thời kỳ khác nhau. ðề tài cũng gắn liền với yếu tố lịch sử và thời

ñại.

Do yếu tố thời ñại, lịch sử xã hội,…chi phối nên ñề tài văn học ít nhiều

cũng bị ảnh hưởng và có sự ñổi mới ñáng kể theo thời gian, không gian. Nổi

bật là sự ñổi mới về tư duy và cách viết. Không bị gò bó vào các tư tưởng ý thức

hệ phong kiến, không bị chi phối vào khuôn mẫu có sẵn, không phụ thuộc vào

thể thơ hay niêm luật,…Các nhà thơ mới có cách sáng tạo riêng trong việc dùng

66

từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp, ñiệu của câu thơ trong mỗi bài, cũng như việc phá

vỡ tính ước lệ, phi ngã…

Trong thơ xưa, thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái ñẹp của

con người : Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên ñẹp / Mây, gió, trăng, hoa, tuyết núi

sông. (Hồ Chí Minh). Và hay như Nàng Kiều ñược Nguyễn Du ví ñôi mắt trong

như làn nước mùa thu, nét mày thanh như sắc núi mùa xuân ; khiến cho hoa

ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Còn cái ñẹp phúc hậu của Thuý Vân thì

ñược ví như khuôn trăng ñầy dặn, nét ngài nở nang / Hoa cười ngọc thốt ñoan

trang / Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. Tuy nhiên, ñến với Xuân Diệu,

quan niệm chuẩn mực của cái ñẹp là thiên nhiên ñã ñược thay thế bởi quan niệm

chuẩn mực của cái ñẹp là con người. Bằng cặp mắt “xanh non”, “biếc rờn”,

Xuân Diệu ñã nhìn cuộc ñời và vạn vật có nhiều ñiểm khác so với các nhà thơ

cũ. Thiên nhiên và con người gần gũi bình dị quanh ta bỗng nhiên ñược ông phát

hiện ra biết bao ñiều mới lạ, ñáng yêu, ñáng quý.

Liễu là hình ảnh quen thuộc trong thơ trung ñại nhưng thường chỉ ñược

miêu tả trong vẻ ñẹp mềm mại thướt tha vốn có “Lơ thơ tơ liễu buông mành” ...

hoặc ñược sử dụng như một ước lệ nghệ thuật chỉ những người con gái ñẹp “liễu

yếu ñào tơ” theo quan niệm lấy thiên nhiên làm chuẩn mực vẻ ñẹp con người.

Trong cách cảm nhận mới mẻ của Xuân Diệu, khi con người mới thực sự

là chuẩn mực cho cái ñẹp thì liễu mùa thu hiện lên trong dáng vẻ, tâm trạng của

một giai nhân, trong ñó, “rặng liễu ñìu hiu” là dáng buồn, tơ liễu thướt tha là tóc

buồn, lá liễu là ngàn hàng lệ nhỏ... Liễu tựa một người con gái buồn hiu hắt và

ñẹp kiêu sa.

Mùa thu là mùa buồn, tuy thường là nỗi buồn man mác có cái vẻ ñẹp và

cái nên thơ riêng của nó. Thực ra ñây là một cảm hứng rất tự nhiên và có tính

truyền thống về mùa thu của thơ ca nhân loại (Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản

ðà... cũng như ðỗ Phủ, Bạch Cư Dị...). Bài ðây mùa thu tới cũng nằm trong

67

truyền thống, nhưng cảnh thu của thơ Xuân Diệu có cái mới, cái riêng của nó.

Ấy là chất trẻ trung tươi mới ñược phát hiện qua con mắt “xanh non” của tác

giả, là sức sống của tuổi trẻ và tình yêu, là cái cảm giác cô ñơn “run rẩy” của cái

tôi cá nhân biểu hiện niềm khao khát giao cảm với ñời.

Hay như việc miêu tả về tình yêu ñôi lứa. ðối với Xuân Diệu là phải Mau

với chứ vội vàng lên với chứ / Em em ơi tình non sắp già rồi (Vội vàng). Yêu là

chết trong lòng một ít (Yêu)…Làm sao sống ñược mà không yêu / Không nhớ

không thương một kẻ nào…

ðối với Nguyễn Bính, bằng cách nói ví von mộc mạc và duyên dáng trữ

tình, ông ñã thổ lộ tình yêu của mình : Thôn ðoài ngồi nhớ thôn ðông / Một

người chín nhớ mười mong một người / Gió mưa là bệnh của giời / Tương tư là

bệnh của tôi yêu nàng. (Tương tư ). Chữ “tôi” xuất hiện trong bài thơ thật ñáng

yêu. Thôn ðoài với thôn ðông là nơi nhà “Nàng” và nhà “Tôi” ñang ở. Cách sử

dụng hoán dụ - nhân hoá kết hợp với thành ngữ và nghệ thuật phân hợp số từ - vị

ngữ (chín, mười, nhớ mong = chín nhớ mười mong) làm cho lời thơ trở nên bình

dị mà hồn nhiên, ñằm thắm. Nỗi “chín nhớ mười mong một người” không chỉ

ñầy ắp, da diết trong lòng chàng trai ña tình mà còn tràn ngập cả xóm thôn, cả

thôn ðông lẫn thôn ðoài. Yêu nàng tôi tương tư ñã thành “bệnh”, thật ñáng

thương,… cũng như bệnh nắng mưa của trời vậy. Cách so sánh “bệnh giời” với

bệnh tương tư “của tôi yêu nàng”, Nguyễn Bính ñã diễn tả một cách hồn nhiên,

thú vị về nỗi buồn tương tư trong tình yêu là lẽ tự nhiên, là tất yếu. Yêu thì

mong ñược gần nhau, mà xa thì nhớ; yêu lắm nên nhớ nhiều ; càng nhớ mong thì

càng tương tư. Tương tư là một nét ñẹp của tình yêu nên khác gì “Nắng mưa là

bệnh của giời”....

Còn thi sĩ Hàn Mặc Tử ñầy bí ẩn với những vần thơ tình yêu nồng nàn

tha thiết nhưng ñầy thất vọng bi quan trong cuộc ñời trần thế, mọi thứ ñều mờ

ảo, không phân biệt ñược ñâu là cõi hư, ñâu là cõi thực. Sẽ không thể giải thích

ñược ñầy ñủ hiện tượng Hàn Mặc Tử nếu chỉ vận dụng thi pháp của chủ nghĩa

68

lãng mạn và ảnh hưởng của Kinh thánh. Chúng ta cần nghiên cứu thêm lý luận

của chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực. Trong những bài thơ siêu

thực của Hàn Mặc Tử, người ta không phân biệt ñược hư và thực, sắc và không,

thế gian và xuất thế gian, cái hữu hình và cái vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ

thể và khách thể, thế giới cảm xúc và phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn lẫn,

mọi lôgic bình thường trong tư duy và ngôn ngữ, trong ngữ pháp và thi pháp bị

ñảo lộn bất ngờ. Nhà thơ ñã có những so sánh ví von, những ñối chiếu kết hợp lạ

kỳ, tạo nên sự ñộc ñáo ñầy kinh ngạc và kinh dị ñối với người ñọc.…

Các nhà văn lãng mạn ñã cảm nhận và miêu tả những nỗi niềm, tâm

trạng, cảm xúc yêu ñương phong phú, tinh vi và chân thực chưa từng có trong

những giai ñoạn trước ñó. Có thể nói, với nguồn cảm hứng ñặc biệt dành cho

tình yêu, ñến văn học lãng mạn, tình yêu mới ñích thực là tình yêu trần thế và sự

giao cảm tuyệt ñối cả thể xác lẫn tâm hồn.

Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể nhận ra rằng ở bất kỳ một văn bản

thơ nào khi ñọc - hiểu phải nêu bật ñược ñề tài, nội dung, tư tưởng mà tác giả

thể hiện ñể làm nổi bật phong cách viết từng cá nhân nhà thơ. Cùng là một ñề

tài nhưng mỗi tác giả sẽ có những cách viết khác nhau. Kiến thức văn học sử

trong cách dạy khai thác ñề tài là ở ñiểm này. ðôi lúc, ñề tài sẽ gắn liền với tên

tuổi của họ. Ví như khi nhắc ñến Xuân Diệu, trước tiên chúng ta sẽ nghĩ ngay

ñến ñề tài về tình yêu, hay như Nguyễn Bính sẽ nghĩ ñến ñề tài về chốn chân quê

ñơn sơ, mộc mạc,…

Dạy các văn bản thuộc thể văn xuôi cũng cần cho các em thấy ñuợc sự

ñổi khác trong cách thể hiện ñề tài.

Chẳng hạn : Cùng viết về ñề tài số phận con người trong xã hội, văn học

trung ñại giai ñoạn ñầu thế kỷ XVIII ñến cuối thế kỷ XIX thường miêu tả số

phận bất hạnh của người phụ nữ sống trong lễ giáo phong kiến với những thành

kiến, ñịnh luật khắt khe, ràng buộc. Họ phải gánh chịu nhiều bất hạnh, ñắng cay,

69

sống cô ñơn, lẻ loi,… (Cung oán ngâm - Nguyễn Gia Thiều, Chinh phụ ngâm –

ðoàn Thị ðiểm, ðặng Trần Côn, Truyện Kiều - Nguyễn Du, Thơ của Hồ Xuân

Hương, Bà Huyện Thanh Quan,…).

Còn số phận con người trong văn học hiện ñại trước Cách mạng Tháng

Tám, ña phần thường viết về tầng lớp nhân dân lao ñộng nghèo khổ, bị áp bức

bốc lột ñến tận xương tuỷ, rơi vào những bi kịch không lối thoát. Viết về mảng

ñề tài này, chủ yếu tập trung vào các thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng

sự,…

Chí Phèo (Truyện ngắn Chí Phèo - Nam Cao) – bi kịch của người nông

bị lưu manh tha hoá…vì nguyên nhân vô cớ bị ñẩy vào tù, trở thành tay sai cho

kẻ thù, bị kẻ thù lợi dụng mà hắn không hề hay biết. Hắn dần dần rơi vào bi kịch

bị tha hoá và bị từ chối, cự tuyệt quyền làm người. Ở hình tượng nhân vật Chí là

một chuỗi tình huống cho ta thấy cái hiện thực thảm khốc của ñời sống nhân dân

nghèo trong xã hội làng Vũ ðại ngày ấy – chính là xã hội thực dân phong kiến

thu nhỏ trước cách mạng. Nhưng cũng ñồng thời cho thấy sức sống mãnh liệt

của nhân tính. Càng bị ñẩy vào cảnh nghèo khổ, bế tắc, cùng cực, càng trượt dài

trên dốc tha hoá, những người lao ñộng vốn lương thiện như Chí Phèo càng khát

khao trở về cuộc sống lương thiện, khao khát ñược sống cho ra mặt người. Ở

ñây, sự tha hoá, sự trở về với bản tính lương thiện của Chí ñiều mang tính quy

luật, ñược nhà văn miêu tả, thể hiện như những quy luật.

Văn bản Chí Phèo ñược chọn ñể giảng là phù hợp, tiêu biểu cho ñề tài

viết về số phận người nông dân trước Cách mạng tháng Tám trong các sáng tác

của nhà văn Nam Cao. ðồng thời cũng tiêu biểu cho cách viết không hề trốn

tránh sự thực, dám nhìn thẳng vào hiện thực ñể phơi bày những bất công, thối

nát.

Chí Phèo - kết tinh những thành công của Nam Cao trong ñề tài nông

dân và là một kiệt tác trong nền văn xuôi trước Cách mạng. Khác với ña số

70

truyện ngắn khác, Chí Phèo vừa phản ánh xã hội nông thôn trên bình diện ñấu

tranh giai cấp vừa thể hiện vấn ñề con người bị tha hóa. Qua hình tượng Chí

Phèo, một trường hợp nông dân lưu manh hóa, Nam Cao không những ñã miêu

tả sâu sắc, cảm ñộng chính sách ñày ñọa của người nông dân bị ñè nén bóc lột

ñến cùng cực, mà còn dõng dạc khẳng ñịnh nhân phẩm của họ trong khi họ bị xã

hội vùi dập ñến mất cả hình người, tính người…

Và phải nói, con người trong văn học hiện ñại ñược thể hiện ở nhiều khía

cạnh. Con người với cái tôi cá nhân cá thể, tự ý thức trách nhiệm ; con người

với cuộc sống cơm áo gạo tiền ; con người với những tấn bi kịch dai dẳng, bế tắc

; con người với ước mơ, khát khao và hoài bão,…

Nhân vật Hộ (ðời thừa – Nam Cao), ñược học trong sách Ngữ văn 11,

tập 1, chương trình nâng cao cũng nói về số phận con người nhưng là số phận

người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng - một ñề tài chưa từng xuất hiện trong

nền văn học trước ñó.

Nếu như ở Truyện Kiều của Nguyễn Du, người ñọc gặp bi kịch của kiếp

“tài hoa bạc mệnh”. Ở Chí Phèo của Nam Cao là bi kịch của những khát khao

lương thiện. Và cũng với Nam Cao ta lại gặp ở ðời thừa tấn bi kịch tinh thần

của người tri thức với tư tưởng nhân ñạo mới mẻ, ñộc ñáo của nhà văn lớn Nam

Cao.

Phải có những hiểu biết sâu sắc về tâm tư tình cảm con người thì Nam

Cao mới viết ñược những dòng ñầy cảm xúc về văn sĩ Hộ. Dường như những

day dứt trong cuộc ñời ông - cuộc ñời văn sĩ khổ ải – ñã nhập vào những suy tư

của Hộ, ñã nhập vào tấn bi kịch tinh thần của Hộ. Có người nói, Hộ chính là

hình ảnh của nhà văn Nam Cao thời kì trước Cách mạng. Tôi không hoàn toàn

nghĩ thế. Nam Cao ñã có thể bị cơm áo ghì chặt nhưng Nam Cao hơn hẳn Hộ ;

ông ñã biết vượt lên trên những lo toan ấy ñể biến giấc mơ thành hiện thực. Ông

ñã viết những lời văn hay nhất, ñẹp nhất về cuộc ñời những kiếp lầm than và

71

chắc chắn Nam Cao không phải ñỏ mặt khi thấy tên mình sau những tác phẩm

như Chí Phèo, ðời thừa… Bởi chính ñó là giấc mơ văn chương nẩy nở.

Có thể tự tin mà nói rằng với ðời thừa, Nam Cao ñã bộc lộ ñược tư tưởng

nhân ñạo mới mẻ, ñộc ñáo của mình khi viết những dòng bi kịch về Hộ. Kinh

nghiệm và vốn sống ñã cho ông viết những ñiều có sức rung ñộng, lay chuyển

lòng người. ðó chính là nhờ tư tưởng nhân ñạo mới mẻ, ñộc ñáo của nhà văn

Nam Cao. Nhân ñạo ở sự ca ngợi khát vọng ñẹp ñẽ của Hộ, nhân ñạo ở sự cảm

thông sâu sắc với người tri thức…

Qua bi kịch tinh thần của Hộ, Nam Cao ñã bộc lộ ñược sự cảm thông,

trân trọng bao kiếp người lao khổ trong cuộc ñời này. Nam Cao ñã kế thừa tư

tưởng truyền thống nhân ñạo của cha ông. Nhà văn không “phản ánh ñể phản

ánh” mà sau những câu chữ tưởng như lãnh ñạm, thờ ơ chính là một trái tim

nhiệt thành, sôi nổi - một trái tim của tình nghĩa, một “hiện thực vị hiện thực”.

Khi ñọc - hiểu phải khắc sâu yếu tố thời ñại, lịch sử ñể thấy quá trình vận

ñộng phát triển không ngừng vươn lên của nền văn học nước nhà, ñặc biệt ñể

thấy ñược sự ñổi mới và sự chi phối bởi yếu tố lịch sử, thời ñại trong mỗi văn

bản.

2.2.2.4. Khai thác về vấn ñề thể loại, ngôn ngữ

Không chỉ có ñề tài ñổi mới mà ở thể loại, ngôn ngữ cũng có sự cách tân

ñáng kể trong giai ñoạn văn học ñầu thế kỷ XX ñến 1945 ñể theo kịp với tiến

trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc, trong khu vực và trên thế giới.

Nguyễn ðình Chú ñã viết: “Lịch sử văn học, xét cho cùng là lịch sử cách

tân văn học” Theo quan niệm của ông thì có hai mức ñộ cách tân : cách tân

trong nội bộ một phạm trù văn học và cách tân có ý nghĩa chuyển từ phạm trù

văn học này sang phạm trù văn học khác. Sự thay ñổi phạm trù văn học là sự

cách tân có tính chất ñồng bộ, toàn diện về lực lượng sáng tác, về công chúng

72

văn học, về phương diện văn học, về phương thức tồn tại của văn học, về quan

niệm nghệ thuật, về ñề tài, về ngôn ngữ, về thể loại, thể tài cùng với hệ thống thi

pháp. Thực hiện những ñiều ñó không thể trong một thời gian một sớm một

chiều mà ñòi hỏi phải qua một quá trình khá gay go và phức tạp. Chúng ta có

thể xem 30 năm ñầu thế kỉ XX là chặng ñường ñầu của sự cách tân văn học.

Trong lịch sử văn học Việt Nam, ñây là giai ñoạn duy nhất có hiện tượng

ñan xen hai yếu tố cũ và mới trong sáng tác của một tác giả, có khi trong cùng

một tác phẩm. Hai yếu tố cũ và mới ở cả hai phương diện nội dung và nghệ

thuật ñược kết hợp nhuần nhuyễn và phổ biến trên khắp các thể loại, tạo ra

những giá trị ñặc biệt, không thể xếp vào kho tàng văn học trung ñại mà cũng

chưa thể công nhận là một tác phẩm văn học hiện ñại. Và ñây là một kiến thức

văn học sử mà giáo viên cần phải lưu ý trong quá trình tìm hiểu văn bản.

Trước hết, chúng ta thử tìm hiểu trường hợp nội dung mới thể hiện trong

những hình thức cũ. ðây là trường hợp phổ biến ở dòng văn học yêu nước và

cách mạng. ðể ñạt mục ñích phục vụ cho hoạt ñộng chính trị, các tác giả của

dòng văn học này ñã tập trung thể hiện những nội dung mới trong những hình

thức nghệ thuật chưa có gì thay ñổi. Người ta bắt ñầu nói tới những tư tưởng yêu

nước mới. Yêu nước và trung quân không còn ñi ñôi với nhau, yêu nước gắn

liền với hoạt ñộng ñấu tranh giải phóng dân tộc, bảo tồn “nòi giống” và phát

triển xã hội theo con ñường cách mạng dân chủ tư sản. Lần ñầu tiên trong lịch

sử dân tộc Việt Nam, tư tưởng dân chủ, dân quyền ñược ñưa ra, ñược khẳng

ñịnh, ñược xem là mục tiêu của phong trào cách mạng. Vấn ñề xây dựng nền

học thuật mới, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng là nội dung hoàn toàn

mới mẻ. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam, chủ nghĩa anh hùng ñược xác

lập phổ biến rộng rãi như giai ñoạn này...

Tất cả những nội dung trên ñều ñược thể hiện trong những thể loại văn

học của nhà nho trước kia. Chữ Hán là phương tiện phổ biến ñể chuyển tải các

73

nội dung nói trên. Văn xuôi nặng tính chất biền ngẫu hãy còn thông dụng ñối với

các nhà chí sĩ cách mạng thời này. Người sáng tác có ý thức ñưa vấn ñề mới vào

văn học với mục ñích tuyên truyền vận ñộng cách mạng. Nói cách khác, họ rất

chú ý việc ñổi mới nội dung nhưng chưa hề quan tâm vào việc ñổi mới nghệ

thuật (hình thức)

Phan Bội Châu là một tác gia tiêu biểu cho dòng văn học yêu nước và

cách mạng giai ñoạn này. Sáng tác của ông biểu hiện vai trò là dấu nối của hai

thời ñại, hai nền văn học cũ và mới. Ông xuất thân từ một nhà nho, thông thạo

lối văn cử tử, từng ñược mệnh danh “hay chữ nhất nước Nam”. Ông lại là người

có vốn kiến thức về văn học dân gian. Nói như thế ñể thấy rằng ảnh hưởng của

văn học cũ ñối với ông rất sâu ñậm. Khi bước vào hoạt ñộng chính trị, ông ñã

sáng tác văn chương ñể phục vụ cho phong trào cách mạng. ðó là những sáng

tác có nội dung mới mẻ. Ông cũng là người sáng tác nhiều, lâu dài và liên tục,

hiệu quả tuyên truyền cũng cao. Nhưng Phan Bội Châu chỉ dừng lại ở sự cách

tân nghệ thuật sáng tác cũ. Là người rất nhiệt tình trong việc lên án văn chương

cử tử, cố gắng tìm mọi cách ñể tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn ñối với quần chúng.

Ông ñã thể nghiệm ngòi bút trên khắp các thể loại, từ văn chương phú lục của

nhà nho ñến tiểu thuyết, truyện ngắn của nền văn học hiện ñại. Phan Bội Châu

có ý thức hướng ñến nền văn học hiện ñại nhưng vì chưa hiểu ñầy ñủ về nó nên

ông không thể tiến xa hơn nữa.

Văn chương của Phan Bội Châu tiêu biểu cho thời kì chuyển biến của văn

học, có tính chất giao thời. Sáng tác của ông là sự từ giã cái cũ, tìm ñường ñến

cái mới. Phan Bội Châu chưa vượt qua ñược truyền thống nghệ thuật của

phương ðông. Lí tưởng thẩm mĩ, ngôn ngữ văn học của ông rất dân tộc, rất hợp

với công chúng ñương thời nhưng cũng sớm trở thành lạc hậu trước sự ra ñời và

phát triển của nền văn học mới. Phan Bội Châu ñã thể hiện những tư tưởng mới

trong các hình thức nghệ thuật cũ. Thơ văn ông còn ở tình trạng “bình cũ rượu

mới”. Lưu biệt khi xuất dương (Xuất dương lưu biệt) là một ví dụ tiêu

74

biểu. “ðây là bài thơ trực tiếp bộc lộ chí khí, hoài bão của tác giả, ít nhiều gần

gũi với loại thơ nói chí phổ biến trong văn học thời trung ñại như Chí làm trai

của Nguyễn Công Trứ, nhưng tâm hồn và ý chí con người thì ñã mang nhiều dấu

ấn của thời ñại mới. ðó là gan ruột, là tâm huyết mà tác giả muốn gởi gắm cho

ñời. Ông ñã thể nghiệm nó bằng chính cuộc ñời mình trước khi biểu hiện trong

văn chương”. [35, tr.6].

Không chỉ ở văn học cách mạng mà cả văn học hợp pháp, các hình thức

nghệ thuật cũ vẫn ñược sử dụng trong sáng tác. ðông Hồ, Tương Phố, Hoàng

Ngọc Phách ñã thổ lộ tình cảm riêng tư, thầm kín của mình bằng những hình ảnh

cũ kĩ, thông qua các bài thơ ðường cổ kính, xen giữa những câu văn xuôi,

những câu văn biền ngẫu. Họ ñã thổi vào văn chương hợp pháp bấy giờ một nỗi

buồn mênh mông, da diết. Nó mới so với những nỗi buồn trong thơ trước ñây

nhưng cũng chưa phải là nỗi buồn của các nhà thơ lãng mạn ở giai ñoạn 1930 -

1945. Chất sầu thảm bi thương ñược gợi lên ở ñây và sự tấn công vào thế giới

bên trong của con người, trong sáng tác của họ ñã chuẩn bị cho sự ra ñời của

Thơ mới về sau

Ở giai ñoạn ñầu thế kỉ XX, có một số tác giả do tiếp thu ảnh hưởng của

văn học phương Tây, từ công tác dịch thuật họ ñã chuyển dần sang phỏng tác

theo các tác phẩm văn học Pháp. Họ ñi ñến viết tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch.

ðó là những thể loại mới - thể loại văn học hiện ñại. Họ ñã từ bỏ văn chương

chữ Hán, tránh dùng những ñiển cố, ñiển tích, ñưa lời ăn tiếng nói của nhân dân

vào trong sáng tác văn học. Họ cố gắng vượt khỏi những ước lệ khắt khe khi xây

dựng thế giới nhân vật. Có thể nói rằng, về mặt nghệ thuật, họ ñã có những ñổi

mới ñáng kể, mặc dù không tránh khỏi những hạn chế nhất ñịnh. ðiều muốn nói

ở ñây là trong lớp vỏ có phần mới mẻ ấy, họ vẫn tiếp tục thể hiện những nội

dung cũ kĩ, thậm chí bị xem là lạc hậu lỗi thời. Trong ba mươi năm ñầu thế kỉ,

có nhiều nhà tiểu thuyết Nam bộ, có cả những nhà viết kịch ở Bắc bộ tiếp tục thể

hiện những vấn ñề ñạo lí trong sáng tác của mình. Tuy nhiên, ñạo lí ñó có phần

75

nào vượt ra ngoài quan niệm của Nho giáo và tiến gần ñến ñạo lí bình dân của

người lao ñộng.

Khi viết tiểu thuyết, các tác giả Nam bộ như Nguyễn Chánh Sắt (Nghĩa

hiệp kì duyên), Tân Dân Tử (Giọt máu chung tình), ñặc biệt là Hồ Biểu Chánh ,

ñều bị chi phối bởi khuynh hướng ñạo lí. Tác phẩm của Hồ Biểu Chánh sở dĩ

chiếm lĩnh ñược ñông ñảo ñộc giả là vì ñạo lí ñược ông nói ñến là ñạo lí ở ñời,

ñạo lí bình dân, truyền thống, vừa tầm. Hơn nữa, vấn ñề ñạo lí ñó lại ñược thể

hiện trong thể loại tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ, có cốt truyện khác hẳn

tiểu thuyết cổ ñiển, lấy ñề tài từ trong cuộc sống người lao ñộng. Thế giới nhân

vật xuất hiện trong tác phẩm là những con người chân lấm tay bùn, chất phác,

hiền lành như Trần Văn Sửu (Cha con nghĩa nặng) ; có thể là những thầy thông,

thầy kí hách dịch ham tiền như thầy thông Phong (Thầy thông ngôn) ; cũng có

thể là những tên ñịa chủ gian ác, những hương chức hội tề xấu xa ở ñịa phương

như Vĩnh Thái (Khóc thầm) hay hương quản Sum (Cha con nghĩa nặng)...

Không chỉ có con người ở nông thôn mà còn bao gồm cả nhân vật thành thị. Có

thể nói rằng, thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của ông rất ña dạng và phong

phú. ðó là một ñổi mới ñáng kể và cũng là một thành công lớn của Hồ Biểu

Chánh.

Hồ Biểu Chánh ñã ñưa vào trong tác phẩm của mình những chi tiết ñời

thường và ñã sử dụng ngôn ngữ bình dân, giản dị trong sáng tác. ðó là những

yếu tố chưa từng xuất hiện trong văn chương trung ñại. Mặc dù Hồ Biểu Chánh

còn nhiều hạn chế trong nghệ thuật nhưng vẫn có thể khẳng ñịnh ông là “cây bút

sáng giá” của giai ñọan 1912- 1932 bởi ông ñã ñạt ñược những tiến bộ về nghệ

thuật. Chính ông là người xây nền, tạo móng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện ñại.

Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là sự kết hợp những yếu tố cũ (nội dung) với

những ñổi mới ñáng kể (nghệ thuật). Chính vì sự kết hợp này ñã ñáp ứng ñược

yêu cầu ñổi mới của công chúng ñương thời. Bởi vì nó chỉ là hiện tượng của thời

kì chuyển tiếp cho nên chỉ sau 20 năm, nó ñã trở nên lạc hậu trước sự ra ñời của

76

tiểu thuyết Tự Lực Văn ðoàn, tiểu thuyết của dòng văn học hiện thực phê phán

1930- 1945.

Kịch là một loại hình nghệ thuật sân khấu rất mới, có giá trị văn học, chỉ

xuất hiện từ khi có sự du nhập của nền văn hóa phương Tây. Một số tác giả tiêu

biểu thời này như Vũ ðình Long, Nam Xương ñã dùng thể loại hoàn toàn mới

mẻ này ñể phản ánh hiện thực xã hội ñương thời. ðời sống của các gia ñình

phong kiến bị phá sản, sự hư hỏng của con người trong xã hội tư sản, hiện tượng

lai căng mất gốc...Tuy nhiên, mọi vấn ñề ñược các ông ñưa lên sân khấu ñể bóc

trần sự thật, ñể phê phán hay ñả kích ñều xuất phát từ lập trường ñạo lí, nhằm

củng cố nền luân lí cổ truyền của dân tộc. Cho nên, chưa thể xem nội dung ñó là

hoàn toàn mới lạ. Khán giả ñương thời hưởng ứng nồng nhiệt bởi những vấn ñề

hãy còn xưa cũ ấy ñược thể hiện trong một hình thức rất mới

Sự kết hợp hai yếu tố cũ và mới trong cả hai phương diện nội dung và

nghệ thuật là hiện tượng phổ biến nhất trong văn học giai ñoạn ñầu thế kỉ XX.

Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là một tác phẩm tiêu biểu mang nhiều yếu tố

pha tạp hai giá trị truyền thống và hiện ñại. Hoàng Ngọc Phách ñã ñể cho hai

nhân vật Tố Tâm và ðạm Thuỷ giằng co giữa hai con ñường : chạy theo tình yêu

tự do hay chấp nhận lễ giáo phong kiến. Và ñể cho cả hai ñều có những giấc mơ

yêu ñương, ñầy chất lãng mạn…

Trong tác phẩm Tố Tâm, người tuân thủ ñạo ñức truyền thống ñã không

có hạnh phúc trong chế ñộ ñại gia ñình phong kiến, mà người muốn sống hết

mình cho tình yêu tự do cũng không thể ñón nhận hạnh phúc trong tình yêu. Cả

ñôi ñường ñều không thể trọn vẹn, con người bị lâm vào thế bế tắc. Nguyên

nhân bắt nguồn từ trạng thái lưỡng phân, giao thời của xã hội. Hoàng Ngọc

Phách ñã ñem cái tôi tư sản ñặt bên cạnh lễ giáo phong kiến và ông chỉ nói ñến

cái tôi trong thế cạnh tranh với ñạo ñức phong kiến. Trường hợp của Hoàng

Ngọc Phách là trường hợp tiêu biểu và phổ biến ở giai ñoạn ñầu thế kỉ XX. Tố

77

Tâm là tác phẩm ñược sáng tác bằng phương pháp lắp ghép nghệ thuật viết văn

của nhà nho (văn biền ngẫu, văn xuôi xen kẽ với văn vần, ngôn ngữ bóng bẩy...)

với nghệ thuật sáng tác của người nghệ sĩ hiện ñại (văn tiểu thuyết, kết cấu mới,

kết thúc không có hậu, khai thác yếu tố ñời tư của nhân vật). Chính sự lắp ghép

và pha tạp các yếu tố cũ, mới ñã làm cho Tố Tâm vừa thể hiện chất hiện ñại

nhưng vẫn mang dáng dấp truyền thống.

Nhìn chung, văn học giai ñoạn này còn rất nhiều tác phẩm, tác giả có sự

kết hợp như trên, tạo nên những giá trị văn học có tính chất trung gian giữa

truyền thống và hiện ñại.

Có thể khẳng ñịnh rằng trong lịch sử văn học Việt Nam, ñây là giai ñoạn

duy nhất có sự tồn tại ñan xen. Các giá trị truyền thống ñược ñặt cạnh một số

thành tựu hiện ñại và luôn trong thế cạnh tranh nhau. Tuy nhiên, hiện tượng

trung gian trong văn học chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn. Do ñó, khi dạy

ñọc - hiểu các văn bản ở giai ñoạn giao thời này, giáo viên phải hết sức lưu ý

tính ñan xen giữa các yếu tố nội dung và hình thức của văn bản ñể chỉ ra nét

ñặc sắc, sự khác biệt, cũng như những hạn chế, tích cực của mỗi văn bản…Từ

ñó, học sinh dễ dàng tìm hiểu văn bản một cách ñúng hướng và khách quan hơn.

Văn học giai ñoạn 1900 - 1930 có xu hướng tiến gần ñến hiện ñại. ðối

với người cầm bút thời này, văn học hiện ñại là khu vườn quyến rũ ñầy những

hoa thơm cỏ lạ. Phát hiện ra nó là một chuyện, nhưng ñến với nó là một chuyện

khác. ðối với các nhà văn, nhà thơ thời này, quan niệm thẩm mĩ có thay ñổi, thế

giới quan và nhân sinh quan ñã khác trước nhưng họ chưa ñược trang bị chu ñáo

về mặt lí luận. Họ ñã ñến với văn học hiện ñại trong sự nhận thức chưa ñược

trọn vẹn về mọi phương diện. ðiều này ñã làm hạn chế khả năng sáng tác của

họ. Họ không thể bỏ qua sự dung hoà truyền thống và hiện ñại. Thói quen cũ và

ý thức mới tạo nên những biến dạng trong nghệ thuật sáng tác của rất nhiều tác

giả thời này. Nhìn chung, trong 30 năm ñầu thế kỉ XX, do tác ñộng của nhiều

78

nguyên nhân khách quan và chủ quan, các tác giả ñã lắp ghép một cách máy

móc cái truyền thống và hiện ñại khi sáng tác. Hạn chế ñó mang tính tất yếu của

một giai ñoạn chuyển biến trong lịch sử văn học từ phạm trù văn học trung ñại

sang phạm trù văn học hiện ñại.

ðến giai ñoạn văn học 1930 – 1945, các nhà văn, nhà thơ tiếp tục ñưa

công cuộc cách tân lên một tầm cao mới, có thể nói là chín muồi, ñặc biệt trong

việc cách tân thể loại và ngôn ngữ.

Xuân Diệu ñã tìm ñến cách diễn ñạt của ngôn ngữ khác với trước ñây.

Nhà thơ Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp và ñổi mới chính

ngôn ngữ, lối nói sẵn có của tiếng Việt : Hơn một loài hoa ñã rụng cành / Trong

vườn sắc ñỏ rũa màu xanh / Những luồng run rẩy rung rinh lá / ðôi nhánh khô

gầy xương mỏng manh.

Có lẽ trước Xuân Diệu không mấy ai nói "hơn một loài", "sắc ñỏ rũa",

"những luồng run rẩy"...Trong tư duy ngôn ngữ của người Việt, “hơn một loài”

có thể hiểu là nhiều loài. "Sắc ñỏ rũa màu xanh" có thể hiểu là màu ñỏ, màu úa

vàng của cây lá mùa thu ngày càng nhiều, lấn dần màu xanh, làm cho lá cây màu

xanh bị rũa, rụng dần ñi từng tí một. Còn Những luồn run rẩy rung rinh lá là

một câu thơ chứa ñựng nhiều biện pháp tu từ, vừa lặp phụ âm “r”, vừa dùng ñảo

ngữ, vừa trộn lẫn cảm giác do cách kết hợp trực tiếp loại từ "luồng" với ñảo ngữ

"run rẩy rung rinh lá" khiến cho người ñọc thơ như có thể cảm giác ñược cả cái

run rẩy rùng mình vì ớn lạnh của chính tâm hồn nhà thơ. Xuân Diệu có tài tả rét,

trong Nguyệt cầm, trong Lời kỹ nữ... và ñặc biệt trong ðây mùa thu tới. ðúng ra

thi sĩ có tài cảm nhận cái rét mướt lạnh lẽo theo ñiệu tâm hồn riêng của mình.

Cũng như ở những câu thơ trên, ñây là một câu thơ mới mẻ, ñầy ấn tượng.

Xuân Diệu là một nhà thơ rất mới về nhiều phương diện nhưng trước hết

là phương diện ngôn từ. Nhiều cách ñặt câu dùng từ của ông nay ñã trở thành

79

quen thuộc và phổ biến ñối với người Việt Nam nhưng hồi Xuân Diệu mới xuất

hiện, ñấy là một cuộc cách tân mạnh dạn…

Truyện ngắn và tiểu thuyết ở giai ñoạn này ñược viết theo lối mới, khác

xa với cách viết trong văn học cổ, từ cách xây dựng nhân vật ñến nghệ thuật kể

chuyện và ngôn ngữ nghệ thuật. Tiểu thuyết chương hồi hầu như không còn xuất

hiện. Các nhà văn thời kỳ này ñã khắc họa khá thành công những tính cách ñiển

hình. Chẳng hạn :

Chị Dậu trong Tắt ñèn của Ngô Tất Tố là một nhân vật ñiển hình của một

môi truờng xã hội thực dân phong kiến, của một dân tộc “ñói nghèo trong rơm

rạ” (Chế Lan Viên) trong gông cùm nô lệ, suốt cuộc ñời chỉ sống trong cực khổ

không thấy một ngày thậm chí một giờ ñược hạnh phúc, ñó là dân tộc Việt Nam.

Một dân tộc luôn ñau khổ, luôn bị chèn ép, song ý chí phấn ñấu, sức mạnh tự vệ

có thể bùng nổ. Chị Dậu dịu dàng chân thật, chỉ biết ban phát tình yêu cho

chồng, tình thương vô bờ bến cho con nhưng cũng có thể quật ngã bọn cường

hào khi ñi ñến ñường cùng giành sự sống.

Và Chí Phèo, Chí không những là nhân vật ñiển hình của một xã hội mà

Chí còn là ñiển hình nhân loại. Mâu thuẫn trong tác phẩm giữa cái thiện và cái

ác, mâu thuẫn giữa “con quỷ” và “con người”, mâu thuẫn giữa sự tuyệt quyền

làm người và khát khao ñược hoà ñồng với con người bình thường, lương

thiện... ðó là bi kịch của con người trên trái ñất này chứ không dừng lại ở anh

Chí Phèo của một làng quê bé nhỏ. Mối tình của Rômêô và Julliet không chỉ là

một câu chuyện tình bi ái ở Anh, ở Ý trong tác phẩm Sếchxpia mà ñó là giọt lệ

ñau ñớn của nhà văn khóc cho vạn cuộc tình trên ñời này, ở ñâu ñấy trên trái ñất

này có nhiều, rất nhiều cuộc tình bi thương như thế...

Hơn hẳn các nhà văn trước năm 30, tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng ñã xông

xáo, táo bạo, lột mặt nạ dơ dáy của xã hội thực dân nửa phong kiến. Và ông xuất

hiện như một khắc tinh của xã hội ñồng tiền .

80

Vũ Trọng Phụng ñạt ñược thành công lớn về nghệ thuật tiểu thuyết phóng

sự, là xây dựng ñược những một số ñiển hình sinh ñộng bất hủ về xã hội tư sản

thành thị Việt Nam lúc bấy giờ. Những sáng tác của ông mang ý nghĩa xã hội

sâu sắc, tuy nhiên sự phê phán ñồng tiền trở nên gay gắt trừu tượng, mất ñi ý

nghĩa, vì không nhằm mục ñích chính trị, và ñã có ý kiến chỉ trích lối văn của

Vũ Trọng Phụng. Có người e ngại lối văn của Vũ Trọng Phụng “miêu tả quá ñà

nhồi nhét quá mức cảnh dâm uế vào bất cứ ñâu làm cho người ñọc mù mị trong

cân não ghê sợ” hoặc “rung ñộng một cách bệnh hoạn, bi kịch về mặt thú tính

của con người”.

Nhất Chi Mai cũng không ngần ngại phê phán Vũ Trọng Phụng “là một

nhà văn xã hội kì quặc, nhìn thế giới bằng cặp kính ñen có một bộ óc cũng ñen

và một nguồn văn càng ñen nữa”. Nhưng Vũ Trọng Phụng ñã không ngần ngại,

mạnh mẽ, bảo vệ quan ñiểm của mình. Ông vạch ra sự khác biệt giữa hai trường

phái lãng mạn và hiện thực trong cách nhìn nhận ñời sống xã hội, trong cách

miêu tả hiện thực và con người. Ông dõng dạc tuyên bố tôi và các nhà văn cùng

chí hướng với tôi , muốn tiểu thuyết là sự thực ở ñời, các ông muốn tiểu thuyết

tùy thời chỉ nói cái gì thiên hạ thích nghe, nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ

muốn nói cái gì ñúng sự thật, thành ra nguy hiểm, vì sự thật mất lòng.

Và khẳng ñịnh mục ñích của văn tả chân : cất tiếng nói khám phá xã hội

bất công, mục nát xấu xa phản tiến bộ, trong ñó lòng lương thiện thường bị bóc

lột, ñè nén, bị bần cùng và tha hóa. Bên cạnh ñó tầng lớp trên thì ăn chơi trác

tán, xa hoa, phè phỡi, lố lăng. Ông cho rằng xã hội ñương thời với những vết

thương trầm trọng, thối rữa ñến tận xương tủy, như thế thì có gì phải giấu giếm ?

Phải vạch trần chân tướng xấu xa của nó, phanh phui ung nhọt của nó, chỉ ra sự

bất công và nỗi thống khổ tràn lan, dày vò con người. Từ ñó làm cho dân chúng

căm hờn phỉ nhổ tệ nạn bất công mà ñấu tranh cho sự công bình và những ñiều

tốt ñẹp ñó há phải sứ mệnh cao ñẹp của văn chương tả thực hay sao?.

Với quan niệm văn chương nghệ thuât như vậy, Vũ Trọng Phụng là một

nhà văn tiến bộ, có sự ñóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam hiện ñại. Ông

81

có thể coi là người ñặt nền móng vững chắc cho thể loại phóng sự Việt Nam và

không ngừng phát triển về tiểu thuyết .

Với tất cả những gì Vũ Trọng Phụng ñóng góp cho văn học Việt Nam,

ông xứng ñáng là nhà văn tiêu biểu cho thế kỉ XX. Văn học là tiếng kêu khắc

khoải của con người trước thực tế ñời sống không bao giờ cảm thấy bằng lòng

và thật sự không bao giờ hiểu hết.

Về mặt nghệ thuât, với ngòi bút ñặc biệt tài năng, một bản lĩnh nghệ

thuật kiên cường, Vũ Trọng Phụng ñã tiếp bước cho sự phát triển của văn xuôi

Việt Nam hiện ñại. Kế thừa và phát huy những thành tựu của thế hệ ñi trước, bắt

ñầu từ Nguyễn Trọng Quản (Thầy Lazarô Phiền), Hồ Biểu Chánh với hàng loạt

tiểu thuyết mang sắc thái Nam Bộ, Tản ðà với những tác phẩm vừa hiện thực

vừa lãng mạn, ñến Lê Hoằng Lưu, Bửu ðình, Hoàng Ngọc Phách, ñây là thế hệ

những người ñi tiên phong tìm ñường cho văn xuôi chữ quốc ngữ. Rồi ñến Vũ

Trọng Phụng - tác giả của Giông tố, Số ñỏ ...ñã thật sự ñưa tiểu thuyết Việt Nam

lên một tầm cao mới, ñáp ứng ñược quá trình hiện ñại hóa văn học nước nhà…

Rõ ràng trong những hoàn cảnh lịch sử xã hội khác nhau, thể loại, ngôn

ngữ văn học cũng sẽ thay ñổi cho phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử

văn học dân tộc. Thời ñại buộc các nhà văn, nhà thơ phải viết khác ñi, không

phải cứ giậm chân như thế mãi. Những truyện ngắn, tiểu thuyết những năm ñầu

thế kỷ XX của Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách,… sẽ

khác xa với truyện ngắn, tiểu thuyết của Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng

Phụng,… về mặt hình thức cũng như nội dung tư tưởng. ðó là quy luật phát triển

tất yếu của lịch sử. Bước ñi của văn học không thể tách rời lịch sử.

Vì thế khi ñọc - hiểu văn bản không phải chỉ căn cứ một cách ñơn thuần

vào thể loại mà giáo viên còn cần phải xác ñịnh : thể loại ñó ở giai ñoạn lịch sử

văn học nào ? Trong giai ñoạn ñó có gì ñặc sắc, nổi bật ?... Từ ñó, xác ñịnh

hướng tìm hiểu văn bản một cách ñúng ñắn, khách quan và có cơ sở khoa học.

82

Việc nhận ñịnh sai lầm hoặc chưa biết rõ về thể loại của văn bản sẽ dễ

dàng dẫn ñến việc chúng ta hiểu sai về chúng. Quả thật, ñây là ñiều mà giáo viên

ñứng lớp hết sức quan tâm lưu ý khi truyền ñạt các kiến thức cho học sinh.

2.2.2.5. Khai thác về vấn ñề nhân vật Theo thói quen, không ít giáo viên, khi phân tích tác phẩm văn xuôi

thường hay chú ý phân tích hình tượng nhân vật (tác phẩm Chí Phèo phân tích

nhân vật Chí, Bá Kiến ; Hai ñứa trẻ phân tích nhân vật Liên hay chị em Liên

An, Chữ nguời tử tù phân tích nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục,…). Thực

tế mà nói, “nhân vật là nơi giải quyết hết thảy các vấn ñề trong tác phẩm” (Tô

Hoài). Học sinh phổ thông khi học xong tác phẩm mà phân tích ñược nhân vật

chính thì cũng là ñáng quý. Nhưng nếu khi nào chúng ta cũng bằng lòng như vậy

thì việc dạy học ñọc hiểu tác phẩm vốn ñặc sắc phong phú trở nên nghèo nàn,

ñơn ñiệu, sơ lược.

Cũng như việc khai thác các thuật ngữ, khái niệm, ñề tài, ngôn ngữ, thể

loại và một số các kiến thức khác. Người giáo viên ñứng lớp nếu có phương

pháp dạy tốt về tác phẩm (khai thác nhấn mạnh, khắc họa rõ nét sắc thái văn

học sử) trong quá trình ñọc hiểu văn bản. Từ việc phân tích hình tượng nhân

vật, học sinh sẽ ñược mở rộng và nhớ ra những kiến thức liên quan về tác giả,

thời kỳ, giai ñoạn, phong cách sáng tác, quan ñiểm nghệ thuật,…

ðến với văn bản Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, từ hình tượng nhân

vật Huấn Cao, ta lại thấy bóng dáng thấp thoáng của tác giả - một nghệ sĩ suốt

ñời, ñi tìm và ca ngợi cái ñẹp. Trong tác phẩm vẻ ñẹp của Huấn Cao thể hiện ở

nét tính cách tài hoa, khí phách và tâm cao thượng trong sáng. Huấn Cao không

chỉ là người có tài mà còn có tâm, có “thiên lương” cao ñẹp. Huấn Cao không

chỉ có thái ñộ hiên ngang, bất khuất, không sợ chết, coi khinh tiền bạc mà còn

có tấm lòng yêu quý cái thiện, cảm ñộng trước “thiên lương” của viên quản

ngục (sẵn lòng cho chữ khi hiểu rõ thiện căn và sở thích cao quý của ông ta) ;

83

biết sợ cái việc thiếu chút nữa mình “phụ mất tấm lòng trong thiên hạ”. ðó là hai

mặt thống nhất trong một nhân cách lớn.

Cảm nhận vẻ ñẹp của Huấn Cao, chúng ta hiều hơn quan ñiểm nghệ thuật

tiến bộ của ông. ðó là cái tài phải ñi ñôi với cái tâm, cái ñẹp và cái thiện không

thể tách rời nhau. ðồng thời, cũng ở hình tượng nhân vật Huấn Cao, ta dễ dàng

nhận thấy quan niệm của Nguyễn Tuân về con người. Nhất là người có ñức, có

tài phải giúp nước, ñem hết nhiệt tâm của mình ñể cho ñất nước ñược tự do,

nhân dân ấm no, hạnh phúc. Con người phải biết trân trọng những vẻ ñẹp về

nhân cách, phẩm giá cũng như tâm hồn. Dù trong hoàn cảnh éo le nhưng vẫn

luôn giữ ñược ñức tính cao ñẹp, anh dũng, kiên cường, bất khuất. Dù thế nào ñi

nữa vẫn phải giữ ñúng truyền thống của dân tộc…

Với tác phẩm Chí Phèo, từ hình tượng nhân vật Chí mà nhớ ra biết bao số

phận người nông dân khác trước Cách mạng tháng Tám 1945 - những số phận

hẩm hiu bị áp bức nhiều nhất. Họ càng nhịn nhục, hiền lành thì càng bị chà ñạp

phũ phàng. Nam Cao ñặc biệt ñi sâu vào những trường hợp con người bị lăng

nhục một cách ñộc ác, bất công, mà xét ñến cùng chẳng qua chỉ vì họ nghèo ñói,

khốn khổ. Ông bênh vực quyền sống và nhân phẩm của những con người bất

hạnh bị xã hội ñẩy vào tình cảnh nhục nhã. Bênh cạnh Chí Phèo còn có những

Binh Chức, Năm Thọ,…cũng cùng chịu chung số phận như vậy. Chí Phèo chỉ là

một hiện tượng mang tính ñiển hình cho thời ñại mà nhà văn muốn thể hiện khi

sống dưới chế ñộ thực dân phong kiến, người nông dân phải chịu một cổ hai

tròng (từ khi sinh ra, ñi ở tù cho ñến lúc chết)…

Nếu như ở Lão Hạc, nhà văn ñặt nhân vật vào một tình huống cùng quẫn,

buộc phải lựa chọn giữa sinh tồn và nhân cách ; lão Hạc cuối cùng ñã lựa chọn

cái chết ñể giữ gìn nhân cách làm cha thì ở Chí Phèo, nhà văn ñặt nhân vật vào

một tình huống cùng quẫn khác. Sự tiếp nối giữa hai trạng thái tinh thần say và

tỉnh, giữa hai chặng của bi kịch số phận : bị tha hoá và bị từ chối quyền làm

người ở hình tượng Chí là một chuỗi tình huống cho thấy cái hiện thực thảm

84

khốc của ñời sống nông dân nghèo trong xã hội làng Vũ ðại ngày ấy. Như vậy,

nếu lão Hạc chấp nhận sự bần cùng và dùng cái chết ñể giữ lấy phần sống cho

con, cùng tư cách làm người của mình, thì Chí Phèo lại bằng sự thức tỉnh nhân

tính và bằng cái chết của mình ñã cho ta thấy cái giá của nhân cách và lương

thiện quí và ñắt ñến mức nào.

Liên hệ truyện ngắn Tắt ñèn – Ngô Tất Tố, chị Dậu vì xuất sưu của chồng

và em chồng mà chồng chị bị ñánh, bị trói, con chị bị bán, bản thân ñi ở vú lại

còn chịu bao nỗi tủi nhục ñế cuối tác phẩm, tiền ñồ vẫn cứ “tối ñen như mực”.

Số phận của Chí Phèo, lão Hạc, chị Dậu,…là những số phận ñiển hình

cho tầng lớp nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945.

Hay như dạy ñọc hiểu văn bản nước ngoài Người trong bao của Sêkhốp,

thông qua hình tượng nhân vật Bêlicốp ñể hiểu hơn những vấn ñề mà nhà văn

muốn ñặt ra trong xã hội nước Nga bấy giờ. Xã hội ñang ngạt thở trong bầu

không khí chuyên chế nặng nề cuối thế kỷ XIX. Môi trường xã hội ấy ñã ñẻ ra

lắm kiểu người kỳ quái như vậy. Người trong bao không chỉ cảnh báo tầng lớp

trí thức Nga mà còn dành cho nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Tác phẩm không

chỉ phê phán báo ñộng về thực tại ñương thời nước Nga mà còn báo ñộng về

một châu Âu bảo thủ, trì trệ, tự mãn với cái ñã lỗi thời, lạc hậu…

Nhìn chung, việc khai thác nhân vật trong tác phẩm, nếu nhấn mạnh yếu

tố văn học sử sẽ cho người ñọc thấy ñược bóng dáng tác giả, quan ñiểm nghệ

thuật cũng như hoàn cảnh, thời ñại…

Tóm lại, ñể khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc hiểu văn bản

văn học cụ thể, trước tiên chúng ta phải xác ñịnh các yếu tố văn học sử tiêu

biểu cần ñược khai thác trong mỗi văn bản. Bên cạnh ñó, chúng ta phải tạo cho

học sinh ghi nhớ các kiến thức văn học sử ñã học ñể vận dụng vào quá trình

ñọc hiểu văn bản. ðồng thời, trong quá trình khai thác các kiến thức ấy, ñòi hỏi

phải biết giải thích, phân tích, so sánh, ñối chiếu, liên tưởng, mở rộng,…các

85

nội dung ñề cập liên quan cả ở giai ñoạn trước và sau ñể nhận biết sự ñổi mới,

ñặc ñiểm khác biệt của từng tác giả, giai ñoạn văn học, ñồng thời thấy rõ từng

bước ñi, nhịp ñập của lịch sử văn học dân tộc xuyên suốt trong từng chặng

ñường phát triển. Và hơn hết là làm sáng tỏ những giá trị nội dung và nghệ

thuật của văn bản ñược khai thác trong chương trình…

2.3 Hiệu quả, tác dụng của phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc – hiểu văn bản văn học

Với việc vận dụng, khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc - hiểu

văn bản cụ thể sẽ giúp học sinh củng cố, ghi nhớ và khắc sâu các kiến thức trong

các bài học văn học sử ñã học trước ñó một cách có hệ thống. Các em sẽ ý thức

ñược quá trình vận ñộng phát triển không ngừng của lịch sử văn học dân tộc

trong mỗi thời kỳ, giai ñoạn phát triển. Ra ñời và phát triển trong những ñiều

kiện lịch sử xã hội rất ñặc biệt, dân tộc ta ñã tìm ra con ñường ñi thích hợp ñể

sinh tồn, phát triển theo những quy luật riêng ñể dân tộc hoá, dân chủ hoá, hiện

ñại hoá và thành công một cách ñẹp ñẽ.

Mỗi tác phẩm ñược học sẽ mang những ñặc trưng tiêu biểu cho từng thời

kỳ văn học nên công việc khai thác các kiến thức văn học sử ở ñây là ñể minh

hoạ cho những nội dung trong phần bài khái quát ñã nêu ra có thật phù hợp,

khoa học hay còn có những ñiều cần thảo luận, chỉnh sửa. Kiến thức văn học sử

luôn luôn ñược lĩnh hội như một sự kết hợp giữa nhận ñịnh khái quát và tư liệu

minh hoạ khả năng khái quát. Yêu cầu minh hoạ của văn học sử là chọn những

dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu và toàn diện.

Bên cạnh ñó, khai thác các kiến thức văn học sử còn giúp học sinh có

nhiều khả năng rèn luyện kỹ năng tư duy : phân tích - tổng hợp, so sánh, liên

tưởng, ñối chiếu, cụ thể hoá, khái quát hoá, ghi nhớ và suy luận,…Tập cho các

em tìm hiểu, phân tích những sự kiện của thời ñại làm cơ sở cho việc phân tích

ñánh giá các sự kiện văn học.

86

(cid:2)Kết luận :

Giai ñoạn văn học từ ñầu thế kỷ XX – 1945 là một trong những giai ñoạn

phát triển rực rỡ với nhiều tên tuổi tác giả nổi tiếng, nhiều tác phẩm có giá trị.

Cùng với sự thay ñổi của nền kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội, văn học trong

giai ñoạn này cũng có những bước chuyển mình ñáng kể và luôn gắn liền với sự

ñổi thay của thời ñại. ðiều này thật ñúng với ý kiến của một nhà nghiên cứu

Trung Quốc – Tào ðạo Hoành : “Lịch sử văn học là một bộ phận, một khía cạnh

của lịch sử xã hội. Quá trình phát triển của lịch sử văn học có mối liên hệ gắn

chặt không thể tách rời với toàn bộ lịch sử xã hội”…Chính vì thế, khi ñọc - hiểu

văn bản chúng ta cần chú ý ñến sự vận ñộng phát triển của văn học trong từng

thời kỳ, giai ñoạn khác nhau ñể thấy từng bước ñi, nhịp ñâp của lịch sử. Và hơn

hết là ñể chỉ cho học sinh nhận thức rõ các giá trị của các kiến thức văn học sử

hiện diện trong các văn bản ñược lựa chọn ñể học có gì ñặc sắc, tiêu biểu cần

phải khai thác…

87

CHƯƠNG 3 - THỰC NGHIỆM

3.1 Mục ñích, yêu cầu thực nghiệm

3.1.1 Mục ñích thực nghiệm

Khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc hiểu văn bản văn học

ở trường phổ thông là một việc làm cần thiết nhằm củng cố, khắc sâu các

kiến thức ñã học, ñồng thời thấy ñược sự vận ñộng phát triển của lịch sử văn

học dân tộc, ñồng thời giúp cho việc ñọc - hiểu văn bản ñựơc ñịnh hướng

chính xác hơn…Tuy nhiên việc vận dụng những kiến thức ấy vào quá trình

giảng dạy các văn bản cụ thể có ñảm bảo tính khả thi và hiệu quả hay không

là ñiều mà người viết muốn kiểm nghiệm qua thực tế.

Trong quá trình thực nghiệm vận dụng phương pháp khai thác các

kiến thức văn học sử trong ñọc hiểu văn bản văn học cụ thể, nguời viết có

ñiều kiện một lần nữa thẩm ñịnh lại tính ñúng ñắn, khả năng ứng dụng cũng

như mức ñộ khả thi của ñề tài… Chính vì vậy, viêc thực nghiệm không chỉ

có ý nghĩa ñối với người viết trong quá trình thực hiện ñề tài mà còn mang ý

nghĩa phương pháp luận ñánh giá khả năng ứng dụng của phương pháp khai

thác ñã nêu. Trong quá trình giảng dạy ở nhà trường phổ thông.

3.1.2 Yêu cầu thực nghiệm

3.1.2.1. Về chọn ñịa bàn và học sinh thực nghiệm

Người viết chọn học sinh của hai trường THPT thuộc hai ñịa bàn

khác nhau

1 - Trường THPT DL An ðông – Quận 5 – TPHCM

2 - Trường THPT Chu Văn An – Phan Rang Tháp Chàm – Ninh

Thuận

Chọn hai trường trên là chọn thực nghiệm trên nhiều ñối tượng học

sinh ở hai môi trường khác nhau. ðây là những ñịa bàn mà học sinh có sự

88

chênh lệch về vốn sống, trình ñộ văn hoá, tâm lý nhận thức, khả năng tư duy

và ñiều kiện học tập,…

Vì chọn thực nghiệm trên những ñối tượng học sinh ở hai môi

trường khác nhau nên kết quả nhận thức, tiếp thu, giải quyết vấn ñề của học

sinh cũng khác nhau. ðiều này tạo cơ sở ñể ñánh giá tính khả thi, khả năng

vận dụng của phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc hiểu

văn bản văn học và cho phép rút ra ñược những kinh nghiệm, nhận xét khách

quan.

3.1.2.2. Về chọn bài thực nghiệm

Người viết chọn một văn bản thơ nằm trong học kỳ II : Văn bản

Hầu Trời của Tản ðà

3.2 Thời gian và tổ chức thực nghiệm

3.2.1 Thời gian thực nghiệm

Thời gian thực nghiệm bắt ñầu học kỳ II ở 2 trường THPT nói trên.

3.2.2 Tổ chức thực nghiệm

Sau khi liên hệ với hai trường, chúng tôi xây dựng kế hoạch thực

nghiệm như sau :

- Người viết luận văn trực tiếp ñứng lớp giảng dạy thực nghiệm văn

bản ñã chọn có dự giờ góp ý của tổ trưởng bộ môn mỗi trường.

- Ở mỗi trường THPT tiến hành thực nghiệm trên hai lớp. Như vậy

tổng số lớp sẽ dạy thực nghiệm ở hai trường là bốn lớp, gồm khoảng trên 180

học sinh tham gia.

- Sau tiết dạy thực nghiệm học sinh ñược kiểm tra trắc nghiệm kiến

thức của tiết học. Và ñể kết quả ñược khách qua, chính xác hơn, trắc nghiệm

này cũng sẽ ñược tiến hành kiểm tra ở một số lớp không thực nghiệm

89

phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử. Chúng tôi sẽ thu thập, xử lý

và ñối chiếu kết quả ñể ñánh giá.

- Kết quả thực nghiệm ñược ñánh giá trên cơ sở bài thu hoạch của

học sinh và những ý kiến nhận xét, góp ý của giáo viên trong tổ bộ môn của

hai trường thực nghiệm.

- Công việc thực nghiệm ñuợc tiến hành bắt ñầu từ cuối tháng 12,

sau khi học sinh thi kết thúc học kỳ I. Tác phẩm thực nghiệm ñược dạy ở

hai lớp khác nhau của mỗi trường. Các lớp không lựa chọn dạy còn lại ở mỗi

trường sẽ làm lớp ñối chứng. Nhờ ñó, việc ñánh giá kiến thức giờ dạy sẽ

chính xác và khách quan hơn.

3.3 Giáo án thực nghiệm

3.3.1 Yêu cầu chuẩn bị

3.3.1.1. ðối với giáo viên

ðể tiến hành một giờ dạy văn bản văn học nói chung, giờ dạy văn

bản thơ theo phương pháp khai thác nhấn mạnh kiến thức văn học sử nói

riêng, người giáo viên phải có một quá trình chuẩn bị công phu, bao gồm hai

việc chính : tìm hiểu tác phẩm và soạn giáo án.

● Tìm hiểu tác phẩm

Bao gồm các việc sau:

- Tìm hiểu những tư liệu lịch sử - xã hội liên quan ñến việc khai thác

các kiến thức cần triển khai.

- Tìm ñọc những bài viết của những nhà nghiên cứu, phê bình,... có

liên quan ñến văn bản.

- Tìm hiểu những văn bản cùng thể hiện nội dung cần ñề cập của

chính tác giả và của các nhà thơ khác.

90

- Xác ñịnh mục ñích, yêu cầu và hướng phân tích.

● Soạn giáo án

ðiều quan trọng nhất ñối với giáo viên trước giờ lên lớp là công việc

soạn giáo án. Nếu không có giáo án hoặc giáo án có nhưng chuẩn bị sơ sài,

giáo viên sẽ lúng túng trong giờ dạy. Giáo án bao giờ cũng thể hiện một cách

cụ thể quan ñiểm dạy học, phương pháp lên lớp, cấu tạo giờ dạy, nội dung

kiến thức cần truyền ñạt. Một giáo án theo tinh thần ñổi mới hiện nay là một

giáo án trong ñó có sự kết hợp hữu cơ giữa giáo viên và học sinh trên lớp ; sự

vận dụng nhuần nhuyễn, hài hoà các phương pháp, biện pháp tiến hành… ñể

từ ñó dẫn dắt học sinh tìm tòi, khám phá, hình thành các ñơn vị kiến thức của

bài.

3.3.1.2. ðối với học sinh

Chủ thể học sinh chiếm một vai trò quan trọng trong tiến trình dạy

học, cho dù sự chuẩn bị của giáo viên có công phu ñến ñâu mà học sinh

không chuẩn bị thì ý tưởng của giáo viên (mục ñích, yêu cầu ñặt ra trong bài)

khó thành hiện thực. Do vậy, giáo viên phải hướng dẫn học sinh soạn bài

trước ở nhà cho tiết học sắp tới thông qua câu hỏi gợi ý của giáo viên và một

số câu hỏi hướng dẫn học bài trong SGK. ðây là bước ñầu tiên giúp học sinh

thâm nhập tác phẩm, chuẩn bị tham gia phân tích và tiếp thu bài giảng trên

lớp. Trong quá trình soạn bài, học sinh phải ñọc tác phẩm một cách nghiêm

túc, tìm hiểu và nắm một số từ ngữ, câu văn cần thiết, trả lời các câu hỏi

trong SGK và các câu hỏi do giáo viên yêu cầu thêm. Qua sự chuẩn bị này,

học sinh sẽ nắm ñược một phần nội dung của tác phẩm. ðiều này sẽ giúp ích

rất nhiều cho học sinh khi tham gia phân tích tác phẩm dưới sự tổ chức,

hướng dẫn của giáo viên. Soạn bài kỹ là ñiều kiện giúp học sinh tìm hiểu

những giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm một cách tốt hơn.

91

Hướng dẫn học sinh soạn bài ở nhà là ñiều quan trọng và cần thiết.

Nó ảnh hưởng rất lớn ñến quá trình dạy và học, học sinh hiểu bài, nắm vững

kiến thức, giáo viên hứng thú say ê, tạo không khí lớp học sinh ñộng, sôi

nổi,…và kết quả giờ học sẽ ñạt chất lượng cao như mong muốn.

3.3.2 Giáo án

Dựa vào những lý thuyết của phương pháp khai thác các kiến thức

văn học sử, những yêu cầu ñặt ra cũng như cách thức vận dụng chúng vào

quá trình ñọc hiểu văn bản ñã trình bày ở phần trên, thông qua quá trình

chuẩn bị tìm hiểu các văn bản trong SGK Ngữ văn 11, người viết chọn văn

bản Hầu Trời của Tản ðà ñể minh hoạ.

Dưới ñây là giáo án giảng dạy văn bản Hầu Trời ñược tiến hành theo

cách thức vận dụng khai thác các kiến thức văn học sử, ñồng thời cùng kết

hợp với một số cách thức (phương pháp) khai thác các kiến thức khác. ðây

cũng là giáo án ñã ñược tiến hành giảng dạy thực nghiệm tại trường THPT.

92

Bài: HẦU TRỜI

Tản ðà

A. Mục tiêu cần ñạt :

- Học sinh cảm nhận ñược tâm hồn lãng mạn, ñộc ñáo của thi sĩ Tản ðà

(tư tưởng thoát li, ý thức về “cái tôi”, cá tính “ngông”) và những dấu hiệu ñổi

mới theo hướng hiện ñại của thơ ca Việt Nam vào ñầu những năm 20 của thế kỷ

XX (về thể thơ, cảm hứng, tư tưởng).

- Học sinh thấy ñược giá trị nội dung và nghệ thuật ñặc sắc của thơ Tản

ðà trong bước ñầu ñổi mới thơ ca theo hướng hiện ñại.

- Học sinh biết nhận thức bản thân với tư cách chủ thể giữa cõi nhân gian

này.

B. Phương tiện thực hiện :

- Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 11, tập 2.

- Sách thiết kế Ngữ văn 11, tập 2.

- Tài liệu tham khảo :

+ Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Giáo dục, 2000.

+ Tuyển tập Tản ðà, NXB Văn học, Hà Nội, 1986. (Lời giới thiệu của

Xuân Diệu)…

C. Cách thức tiến hành :

Tổ chức giờ dạy học theo cách kết hợp các hình thức : trả lời các câu hỏi,

trao ñổi, thảo luận theo nhóm…

93

D. Tiến trình dạy học :

- Kiểm tra bài cũ : Bài Nghĩa của câu

- Bài mới : Giáo viên có thể giới thiệu về bài thơ Hầu Trời vài nét ñể gợi

cảm hứng cho học sinh.

Thơ Tản ðà thường hay nói về cảnh trời. ðiều ñó ñã trở thành môtíp

nghệ thuật có tính truyền thống trong thơ ông. Ông tự coi mình là một trích tiên,

tức là vị tiên trên trời bị ñày xuống hạ giới vì tội “ngông”. Có lúc chán ñời ông

Muốn làm thằng cuội ñể cùng với chị Hằng “Tựa nhau trông xuống thế gian

cười”. Có lúc mơ màng ông muốn theo gót Lưu Thần, Nguyễn Triệu Lạc bước

vào chốn Thiên thai. Táo bạo hơn, ông còn mơ thấy mình ñược lên Thiên ñình,

hội ngộ với những mỹ nhân cổ kim như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi ;

cùng ñàm ñạo chuyện văn chương, thế sự với các bậc tiền bối như Nguyễn Trãi,

ðoàn Thị ðiểm, Hồ Xuân Hương,…. Ông còn viết thư hỏi Giời và bị Giời

mắng…bài Hầu Trời là một khoảnh khắc trong cả chuỗi cảm hứng lãng mạn ñó.

94

Phương pháp

Nội dung cần ñạt

- Trước khi ñi vào phân tích văn bản

chúng ta cần tìm hiểu một vài nét về tác

I. Tìm hiểu chung :

giả, tác phẩm.

1. Tác giả

- GV gọi HS ñọc phần Tiểu dẫn SGK/12,

sau ñó trả lời câu hỏi:

- Tản ðà (1889 – 1939), tên thật

Nguyễn Khắc Hiếu

1. Dựa vào phần Tiểu dẫn SGK/trang 12,

- Quê hương: tỉnh Sơn Tây (nay em hãy giới thiệu một vài nét chính về tác

thuộc tỉnh Hà Tây) giả Tản ðà ?

- ðể khắc sâu kiến thức văn học sử, GV

có thể giải thích, mở rộng và chốt lại một

- Con người :

+ Sinh ra và lớn lên trong

số ý lớn cần ghi nhớ:

buổi giao thời

+ “Người của hai thế kỷ”(Hoài +Tản ðà mang ñầy ñủ tính chất “con

Thanh) người của hai thế kỷ” kể cả về học vấn, lối

sống và sự nghiệp văn chương. Xuất thân + Học chữ Hán từ nhỏ nhưng trong gia ñình quan lại phong kiến nhưng về sau chuyển sang sáng tác văn lại sống theo phương thức của lớp tiểu tư chương quốc ngữ. sản thành thị “Bán văn buôn chữ kiếm tiền

- Phong cách thơ văn: tiêu”; học chữ Hán từ nhỏ nhưng lại sớm

chuyển sang sáng tác bằng chữ quốc ngữ + “Cái tôi” lãng mạn, bay và rất ham học hỏi ñể theo kịp thời ñại, là bổng, vừa phóng khoáng, ngông nhà nho nhưng ít chịu khép mình trong nghênh, vừa cảm thông, ưu ái. khuôn phép nho gia, sáng tác văn chương

+ Có thể xem thơ văn ông như

95

chủ yếu vẫn theo thể loại cũ nhưng nguồn một gạch nối giữa hai thời ñại văn

cảm xúc lại rất mới mẻ,…Tất cả những yếu học của dân tộc: trung ñại và hiện

tố trên ảnh hưởng không nhỏ ñến cá tính ñại.

sáng tạo của thi sĩ.

+ Thơ văn của ông có thể xem như một

gạch nối giữa hai thời ñại văn học dân tộc:

trung ñại và hiện ñại. “Trên Hội Tao ñàn,

chỉ tiên sinh là người của hai thế kỷ. Tiên

sinh sẽ ñại biểu cho một lớp người ñể

chứng giám công việc lớp người kế tiếp. Ở

ñịa vị ấy, còn có ai xứng ñáng hơn tiên

sinh. (…) Tiên sinh ñã cùng chúng tôi chia

sẻ một nỗi khát vọng thiết tha, nỗi thoát

vọng thoát li ra ngoài cái tù túng, cái giả

dối, cái khô khan của khuôn sáo. (…) Tiên

sinh ñã dạo những bản ñàn mở ñầu cho

một cuộc hoà nhạc tân kì ñương ắp sửa”

(Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh, Hoài

Chân)

2.Hãy kể tên các tác phẩm tiêu biểu của

2. Tác phẩm

tác giả tản ðà ?

(1916, 1918)

- Thơ : Khối tình con I ,II

(1916, 1932)

- Truyện : Giấc mộng con I,II

- Tự truyện : Giấc mộng lớn

96

(1928)

- Thơ và văn xuôi : Còn chơi

(1921)

3. Văn bản Hầu Trời

3. Em hãy nêu xuất xứ của văn bản Hầu

- Trong tập Còn chơi (1921)

Trời ? a. Xuất xứ :

- Bài thơ ra ñời vào thời ñiểm

khuynh hướng lãng mạn ñã khá ñâm

nét trong văn chương thời ñại. Xã

hội thực dân nửa phong kiến tù hãm,

u uất, ñầy những cảnh ngang trái,

xót ñau.

4. ðã ñọc văn bản ở nhà, theo em bố cục

b. Bố cục : 3 phần của văn bản này có thể chia làm mấy

phần, nêu nội dung ý nghĩa của từng - Phần 1: Giới thiệu về câu

phần? chuyện (từ “ðêm qua…” ñến “…lạ

lùng”).

- Phần 2: Thi nhân ñọc thơ cho

Trời và Chư tiên nghe (từ “Chư

- GV hướng dẫn học sinh ñọc diễn cảm,

tiên…” ñến “…chợ Trời”).

- Phần 3: Thi nhân trò chuyện

phân biệt lời thoại với lời kể, lột tả ñược

với trời (từ “Trời lại phê cho…”

tinh thần phóng túng, pha chút ngông

ñến “…sương tuyết”.

97

nghênh, dí dỏm của Tản ðà.

c. ðọc, giải thích tù khó

(ðọc phần chữ to của văn bản

- Sau khi ñọc xong, cho HS tóm tắt câu

và phần chú thích)/ trang 13 → 16)

chuyện. ðại ý nội dung câu chuyện như

sau:

d. T óm tắt :

(HS tự tóm tắt vào vở)

Bài thơ có cấu tứ là một câu chuyện nhỏ.

ðó là chuyện thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu,

Tản ðà lên hầu Trời, ñọc thơ cho Trời và

chư tiên nghe.Trời và chư tiên tấm tắc

khen hay và hỏi chuyện. Tác giả ñã ñem

những chi tiết rất thực về thơ và chuyện

cuộc ñời mình, ñặc biệt là cảnh nghèo khó

của người sáng tác văn chương hạ giới kể

cho Trời nghe. Trời cảm ñộng, thấu hiểu

- ðể hiểu hơn về nội dung thơ văn của

Tản ðà, chúng ta ñi vào tìm hiểu phần

ñọc - hiểu văn bản. Cho 1 HS ñọc lại khổ

tình cảnh, nỗi lòng thi sĩ.

I. ðọc - hiểu văn bản

thơ thứ nhất và trả lời những câu hỏi:

1. Giới thiệu câu chuyện

5.Câu chuyện xảy ra vào lúc nào ? Và nói

- Câu chuyện xảy ra vào “ñêm về việc gì ?

qua” (ðêm qua chẳng biết có hay

không)

(cid:2) gợi khoảnh khắc yên tĩnh,

vắng lặng

98

- Chuyện kể về một giấc mơ

ñược lên cõi tiên (Thật ñược lên tiên

-sướng lạ lùng)

- Nhân vật trữ tình là tác giả,

6. Nhân vật trữ tình ở ñây là ai? Mang mang tâm trạng (Chẳng phải hoảng

tâm trạng gì ? hốt, khôn gmơ mòng)

- Biện pháp nghệ thuật:

7. Nhận xét biện pháp nghệ thuật ñược tác + ðiệp từ : “thật” ( Thật hồn!

giả sử dụng trong khổ 1? Thật phách! Thật thân thể! Thật

ñược lên tiên!…)

(cid:3) nhấn mạnh tâm trạng, cảm

xúc của thi nhân.

+ Câu cảm thán (cid:3) bộc lộ cảm

xúc bàng hoàng.

+ Câu khẳng ñịnh (cid:3) dường

như lật lại vấn ñề : mơ mà như tỉnh,

hư mà như thực.

- Cách giới thiệu trên ñã gợi cho 8. Với cách giới thiệu như vậy ñã ñã gợi ngưòi ñọc về tứ thơ lãng mạn nhưng cho người ñọc cảm giác như thế nào về cảm xúc là có thật. Tác giả muốn câu chuyện sắp kể ? người ñọc cảm nhận cái “hồn cốt”

trong cõi mộng , mộng mà như tỉnh,

hư mà như thực.

(cid:4) Ngay khổ thơ thứ nhất người 9.Từ ñó ta thấy ñược gì về “cái tôi” cá ñọc cảm nhận ñược một “cái tôi” cá

99

nhân ñầy chất lãng mạn, bay bổng nhân của thi sĩ Tản ðà ?

pha lẫn với nét “ngông” trong phong

- GV mở rộng kiến thức văn học sử

ñược khai thác ñể minh hoạ bài Khái

quát trước ñó khi ñề cập ñến thuật ngữ

“cái tôi” cá nhân. Có thể liên tưởng, so

sánh ñến “cái tôi” cá nhân trong văn học

trung ñại:

cách thơ văn của thi nhân.

Thật ra “cái tôi” ấy ñã manh nha xuất

hiện, bắt ñầu cựa quậy từ cuối thế kỷ

XVIII ñầu thế kỷ XIX trong các sáng tác

của Phạm Thái, Nguyễn Du, Hồ Xuân

Hương, Nguyễn Công Trứ,…Nhưng do

hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ chưa có ñủ

ñiều kiện cho nên cái tôi ấy chưa ñủ sức

phá vỡ ñược tính quy phạm chặt chẽ của

văn chương thời kỳ trung ñại. ðến khi

Tản ðà xuất hiện, “cái tôi” cá nhân ñược

khẳng ñịnh mạnh mẽ hơn qua những vần

thơ phóng túng, dạt dào tình cảm, tràn

ñầy cảm xúc.

Cái tôi cá nhân của Tản ðà là cái tôi của

một nhà nho tài tử. Nó chỉ có thể xuất

hiện trong giai ñoạn văn học này và trước

ñó (thời Nguyễn Công Trứ, Cao Bá

Quát,…, giai ñoạn về sau không còn xuất

100

- ðể hiểu hơn về cái tôi cá nhân của nhà

thơ, chúng ta ñi vào tìm hiểu ñoạn thơ

hiện cái tôi kiểu này…

2. Thi nhân ñọc thơ cho Trời và

thứ 2.

Chư tiên nghe

- Goi HS ñọc lại ñoạn 2, sau ñó cho biết:

-Yêu cầu HS tìm dẫn chứng trong SGK

10. Thái ñộ của thi nhân khi ñọc thơ như a. Thái ñộ của thi nhân khi ñọc thơ thế nào ? và việc thi nhân nói về tác phẩm

của mình

ðọc hết văn vần sang văn xuôi

- Thi nhân ñọc rất cao hứng,

Hết văn thuyết lí lại văn chơi

sảng khoái và có phần tự ñắc ðương cơn ñắc chí ñọc ñã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.

- Thi nhân kể tường tận, chi tiết Hai quyển Khối tình văn thuyết lí về các tác phẩm của mình:

Hai Khối tình con là văn chơi

Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết

11.Qua ñó, em có nhận xét gì về giọng ñọc - Giọng ñọc: ña dạng, hóm hỉnh, của tác giả ? Và sự thể hiện cái tôi cá nhân ngông nghênh, có phần tự ñắc… ở ñây ?

Thi nhân rất ý thức về tài năng thơ văn

của mình và cũng là người táo bạo, dám

ñường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. (cid:2) Cái tôi cá nhân ý thức về tài

101

Ông cũng rất “ngông” khi tìm ñến tận năng thơ văn của mình

trời ñể khẳng ñịnh tài năng thơ văn của (Liên hệ Cao Bá Quát, Nguyễn mình trước Ngọc hoàng Thượng ñế và Công Trứ, Trần Tế Xương,…) chư tiên. Cái ngông trong văn chương

thường biểu hiện thái ñộ phản ứng của

người nghệ sĩ tài hoa có cốt cách, tâm

hồn, không muốn chấp nhận sự bằng

phẳng, sự ñơn ñiêụ, nên thường tự ñề cao

phóng ñại cá tính của mình. ðó là niềm

khao khát chân thành trong tâm hồn thi

-Khai thác kiến thức văn học sử. Ở ñây ta có thể yêu cầu HS liên hệ, so sánh với

tác giả Cao Bá Quát, Nguyễn công Trứ,

Trần Tế Xương,… khi nói về cái tôi

ngông nghênh, kiêu bạt, hào hoa.

sĩ.

Cái “ngông” của Tản ðà có sự gặp gỡ

với cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ

(Bài ca ngất ngưởng), của Cao Bá Quát

(Sa hành ñoản ca). ðặc biệt, cái “ngông”

của Tản ðà gặp lại khá nhiều so với

Nguyễn Công Trứ, cũng là một ý thức rất

cao về tài năng bản thân dám nói tự nhiên

với các ñối tượng như Trời, Tiên, Bụt ;

dám phô bày toàn bộ con người vươn trên

cả thiên hạ, như khiêu khích cả thiên hạ.

Tuy nhiên, ta vẫn nhận ra những ñiểm

khác : “ngông” của Tản ðà vuợt ra khỏi

102

cái bó buộc mình với trách nhiệm vua tôi,

vấn ñề này dường như không còn là

chuyện hệ trọng nữa, mặc dù không phải

như thế là sống vô trách nhiệm với xã hội.

Cái tài mà nhà thơ muốn khoe không phải

là chuyện trị nước bình thiên hạ mà là cái

tài văn chương.

12. Thái ñộ của người nghe thơ (Trời và

-Thái ñộ của Trời: khen: Trời nghe, trời

Chư tiên) ra sao ? b. Thái ñộ của người nghe thơ

- Thái ñộ của Trời: khen, tán

cũng lấy làm hay, tán thưởng: Trời nghe

-Thái ñộ của chư tiên:

Tâm

như

nở

dạ,

lưỡi

trời cũng bật buồn cười”,khẳng ñịnh cái thưởng và khẳng ñịnh tài năng của tài của người ñọc thơ: Trời lại phê cho người ñọc thơ. văn thật tuyệt/ Văn trần như thế chắc có ít

Hằng Nga, Chúc nữ chau ñôi mày

- Thái ñộ của chư tiên: xúc

Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai ñứng

ðọc xong một bài cùng vỗ

tay”

“Nở dạ”: mở mang nhận thức ñược

nhiều cái hay.

“Lè lưỡi”: văn hay làm người nghe ñến

bất ngờ! “Chau ñôi mày” văn hay làm

người nghe phải suy nghĩ tưởng tượng.

Lắng tai ñứng: ñứng ngây ra ñể nghe. Tác

giả viết tiếp hai câu thơ:

ñộng, hâm mộ và tán thưởng.

103

Chư tiên ao ước tranh nhau dặn

Anh gánh lên ñây bán chợ trời

Những phản ứng về mặt tâm lí của Trời

và các vị chư tiên ñan xen vào nhau làm

cho cảnh ñọc thơ diễn ra thật sôi nổi, hào

hứng, linh hoạt.. Người ñọc thơ hay mà

tâm lí người nghe thơ cũng thấy hay!

(cid:3) Người nghe rất ngưỡng mộ

khiến người ñọc bài thơ này cũng như bị

tài năng thơ văn của tác giả

cuốn hút vào câu chuyện ñọc thơ ấy, cũng

(cid:4) Cả ñoạn thơ mang ñậm chất lãng

cảm thấy “ñắc ý”, “sướng lạ lùng”!

mạn và thể hiện tư tưởng thoát li

-Gọi HS ñọc tiếp ñoạn còn lại trong

SGK

trước thời cuộc.

13. Khi trò chyện với Trời, thi nhân kể gì 3. Thi nhân trò chuyện với về hoàn cảnh của mình cho Trời nghe?

Trời

- Yêu cầu tìm dẫn chứng trong SGK

a. Thi nhân kể về hoàn cảnh Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn của mình

Quê ở Á châu về ðịa cầu - Thi nhân kể họ tên, quê quán:

Sông ðà núi Tản nước Nam Việt. (cid:3) Cách kể họ tên trong thơ văn

-Tạo cho HS khai thác kiến thức văn

càng khẳng ñịnh hơn về “cái tôi” cá

nhân.

học sử bằng cách nhớ lại một số tác giả

trước ñây ñã xưng danh tính của mình

như thế nào trong thơ văn. Sự xưng danh

104

tính của Tản ðà có ý nghĩa như thế nào?

So với các danh sĩ khác:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên Hạ hà nhân khấp Tố Như

(Nguyễn Du - ðọc Tiểu Thanh kí)

Hoặc:

Ông Hi Văn tài bộ ñã vào lồng

(Nguyễn Công Trứ – Bài ca ngất ngưởng)

Hay:

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương mới quệt rồi

(Hồ Xuân Hương – Mời trầu)

Tản ðà giới thiệu về mình, với nét riêng:

+Tách tên họ của mình

+Nói rõ quê quán, châu lục, hành tinh

Nói rõ ñể trời hiểu Nguyễn Khắc Hiếu (ý

thể hiện cái tôi cá nhân) và thể hiện lòng tự

tôn , tự hào về dân tộc mình “sông ðà núi

Tản nước Nam Việt” ...

14.Thi nhân kể về cuộc sống của mình

như thế nào? Qua những lời thơ ấy, ta - Thi nhân kể về cuộc sống:

cảm nhận ñược gì về cuộc sống thực tại Cuộc sống nghèo khó, túng của thi nhân lúc bấy giờ? thiếu. Thân phận nhà văn bị rẻ rúng,

- Yêu cầu tìm dẫn chứng trong SGK. coi thường. Ở trần gian thi nhân

không tìm ñược tri âm nên phải lên

105

tận cõi Trời ñể thoả nguyện nỗi Kể về cuộc sống:

lòng. Cảnh ngèo khó / Trần gian thước ñất

(cid:2) ðó cũng chính là hiện thực

cũng không có / Văn chương hạ giới rẻ

cuộc sống của người nghệ sĩ trong như bèo / Kiếm ñược ñồng lãi thực rất

khó / Kiếm ñược thời ít tiêu thời nhiều / xã hội bấy giờ - một cuộc sống cơ

cực, tủi hổ, không tấc ñất cắm dùi, Làm mãi quanh năm chẳng ñủ tiêu….

thân phận rẻ rúng, làm chẳng ñủ ăn

- Khai thác kiến thức văn học sử:

(cid:2) Tác giả cho người ñọc thấy ( Liên hệ cuộc ñời của nhà văn Nam Cao một bức tranh rất chân thực và cảm và cuộc ñời thật của Tản ðà) ñộng về chính cuộc sống của mình

Từ cách kể chuyện trên, ta thấy ñược

và cuộc ñời nhiều nhà văn nhà thơ

quan niệm tiến bộ, mới mẻ của tác giả

về nghề văn lúc bấy giờ:

khác.

(cid:4) Cảm hứng hiện thực bao trùm

- Qua ñó, GV có thể nói thêm quan

niệm của Tản ðà về nghề văn:

cả ñoạn thơ này.

Văn chương là một nghề, nghề kiếm sống.

Có kẻ bán, người mua, có chuyện thuê,

mượn, ñắt, rẻ, vốn, lãi... Quả là bao nhiêu

chuyện hành nghề văn chương! một quan

niệm mới mẻ lúc bấy giờ.

Nhờ trời văn con còn bán ñược

Anh gánh lên ñây bán chợ trời

Vốn liếng còn một bụng văn ñó

Giấy người, mực người, thuê người in

Mướn cửa hàng người bán phường phố

Văn chương hạ giới rẻ như bèo

Kiếm ñược ñồng lãi thực là khó .

106

15. Trời giao cho thi nhân nhiệm vụ gì? b. Trách nhiệm và khát vọng

Và nhiệm vụ Trời giao cho có ý nghĩa của thi nhân

như thế nào? - Nhiệm vụ của Trời giao:

Theo Tản ðà, con người phải có “thiên truyền bá “thiên lương” (ñọc chú

lương” gồm: “lương tri” (khả năng nhận thích 2/SGK.tr 15).

thức cuộc sống);“lương năng” (khả năng (cid:3) Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản ðà làm việc tốt); “lương tâm” (ñạo ñức tốt) lãng mạn nhưng không hoàn toàn

thoát li cuộc sống. Ông vẫn ý thức 16. Từ ñó, ta thấy thi nhân Tản ðà mong

về nghĩa vụ, trách nhiệm với ñời ñể muốn, khát khao ñiều gì?

ñem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc

hơn.

- Thi nhân khát khao ñược gánh vác việc ñời. (cid:3) ðó cũng là cách tự

khẳng ñịnh mình trước thời cuộc.

- Khát vọng ý thức sáng tạo

trong nghề văn.

(cid:3) Người viết văn phải có nhận thức

phong phú, phải viết ñược nhiều thể

loại: thơ, truyện, văn, triết lí, dịch

thuật (ña dạng về thể loại).

(cid:4) Cảm hứng lãng mạn và hiện 17. Vậy cảm hứng bao trùm cả ñoạn thơ ? thực ñan xen khắng khít trong thơ

văn của Tản ðà.

- Khai thác kiến thức văn học sử.

Chúng ta có thể cho HS thảo luận, bàn

107

thêm về cảm hứng lãng mạn và cảm

hứng hiện thực xuất hiện trong văn học

ñầu thế kỷ XX so với giai ñoạn trước -

thời kỳ văn học trung ñại và giai ñoạn

văn học 30 - 45 sau này ñược thể hiện

như thế nào? (nếu có thời gian)

Văn học trung ñại, chủ nghĩa lãng mạn,

chủ nghĩa hiện thực chưa thành trào lưu,

xu hướng. Trong văn học giai ñoạn giao

thời (1900 -1930) ñã xuất hiện những tác

phẩm có tính chất lãng mạn. ðó là Khối

tình con của Tản ðà, Giọt lệ thu của

Tương Phố, Tố Tâm của Hoàng Ngọc

Phách,…Nhưng phải ñến ñầu những năm

30 của thế kỷ XX, hoàn cảnh văn hoá xã

hội ở Việt Nam mới ñầy ñủ những ñiều

kiện chín muồi ñể chủ nghĩa lãng mạn ra

ñời. Và phải ñến năm 1932, chủ nghĩa

lãng mạn mới thục sự xuất hiện trong văn

học Việt Nam với những tên tuổi như Thế

Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn

Bính, Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng ðạo,

*Tiểu kết: Thạch Lam, Nguyễn Tuân,…

- Cái tôi cá nhân biểu hiện trong

bài thơ:

+ Hư cấu chuyện hầu Trời ñể

giãi bày cảm xúc cá phóng khoáng

108

của con người cá nhân.

+ Nhà thơ nói ñược nhiều về tài

năng của mình.

+ Thể hiện quan niệm về nghề

văn

+ Cách tấu trình với trời về

nguồn gốc của mình.

- Cảm hứng lãng mạn và hiện

thực ñan xen nhau, trong bài thơ.

(lãng mạn: ñoạn nhà thơ lên hầu

Trời ; hiện thực: ñoạn nhà thơ kể về

cuộc sống của chính mình), khẳng

ñịnh vị trí thơ Tản ðà là “gạch nối

của hai thời ñại thi ca”

II. Tổng kết

1. Nội dung

18. Nhận xét giá trị nội dung và nghệ

Bài thơ thể hiện cái tôi cá nhân

thuật của văn bản ñược học?

-GV nhấn mạnh kiến thức văn học sử

ngông nghênh, kiêu bạt, hào hoa và

cái tôi cô ñơn bế tắc trước thời cuộc

Nhân vật trữ tình bộc lộ ý thức cá nhân,

tạo nên cái “ngông” riêng của Tản ðà:

Nội dung: - một cái ngông hết sức riêng biệt.

+Tự cho mình văn hay ñến mức trời cũng

phải tán thưởng.

109

+Tự ý thức, không có ai ñáng là kẻ tri âm

với mình ngoài trời và các chư tiên! Những

áng văn của mình chỉ có trời mới hiểu và

phê bình ñược.

+Tự xem mình là một “Trích tiên” bị ñày

xuống hạ giới vì tội ngông!

+Nhận mình là người nhà trời, trời sai

2. Nghệ thuật

xuống ñể thi hành nhiệm vụ “thiên lương”

- Ngôn ngữ thơ tinh tế chọn Nghệ thuật: lọc, gợi cảm, không cách ñiệu, ước

Lối kể dân giã, giọng ñiệu khôi hài

lệ, dân giã, giọng ñiệu khôi hài.

+ Có nhiều câu chuyện về người trần gặp

tiên, nhưng Hầu Trời vẫn có cái mới, cái

lạ cuốn hút người ñọc, câu chuyện trời

nghe thơ!

+ Nhân vật trữ tình với trời và các chư

tiên, có quan hệ thân mật. (Chư tiên gọi

nhà thơ bằng anh! )

+ Người trời biểu hiện cảm xúc như con

người: lè lưỡi, chau ñôi mày, lắng tai

Cách dùng

từ có nhiều

thú vị:

ñứng, vỗ tay, bật buồn cười, tranh nhau - Cách dùng từ có nhiều thú vị, dặn... gần với phong cách sinh hoạt.

- Cảm xúc bộc lộ thoải mái, tự Từ dùng nôm na như văn nói, phù hợp với

nhiên, phóng túng. sự hư cấu của nhà thơ. Văn dài hơi tốt ran

cung mây.Văn ñã giàu thay, lại lắm lời. - Thể thơ thất ngôn trường thiên Trời nghe trời cũng bật buồn cườ., Kiếm

110

ñược thời ít, tiêu thìn hiều. Lo ăn lo mặc khá tự do…

hết ngày tháng. (cid:4) Có thể thấy nhà thơ ñã tìm

ñược hướng ñi ñúng ñắn của mình

giữa lúc thơ phú nhà nho ñang ñi

dần ñến dấu chấm hết. Nhìn chung

thơ Tản ðà chưa mới nhưng những

dấu hiệu ñổi mới theo hướng hiện

ñại khá ñậm nét.

* Củng cố kiến thức

- Cái “ngông”: thể hiện ý thức cao về tài năng của bản thân, nhất là tài năng về

văn chương. Cái “ngông” này góp phần làm nên cái mới, cái hay của bài thơ.

- Tính chất giao thời trong nghệ thuật thơ Tản ðà, tính chất bình dân trong lối

kể chuyện; giọng ñiệu khôi hài; cách dùng từ ñể làm nổi bật cái tôi tài hoa

- Những nét mới về thi pháp so với thơ ca trung ñại.

*Luyện tập

So sánh thái ñộ “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ và cái “ngông”

của Tản ðà.

- Giống nhau:

+ Cả hai tác giả ñều ý thức rất cao về tài năng bản thân, coi mình vượt lên trên

thiên hạ. Phô bày toàn bộ con người mình trước mặt thiên hạ, như muốn giỡn mặt :

thiên hạ. “ðạc ngựa bò vàng ñeo ngất ngưởng” - Nguyễn Công Trứ; “Thiên tiên ở

lại, trích tiên xuống”- Tản ðà.

111

+ Coi trời, tiên, bụt như con người nên có cách nói giao tiếp như con người.

- Khác nhau:

+ Cái “ngông”của Tản ðà tự do, phóng túng hơn, không vướng bận về “nghĩa

vua tôi cho vẹn ñạo sơ chung” như Nguyễn Công Trứ.

+ Tản ðà khẳng ñịnh cái tài thuộc lĩnh vực văn chương ; Nguyễn Công Trứ

muốn “ngất ngưởng” vượt lên trên thiên hạ, muốn hoà mình vào triết lí vô vi trong

cách sống coi thường danh lợi, ñược, mất, khen, chê trong cuộc ñời…

* Dặn dò

- Nắm vững, hiểu rõ kiến thức trọng tâm bài học.

- Xem thêm phần luyện tập

- Soạn bài tiếp theo : Nghĩa của câu

112

3.4 Xử lý kết quả thực nghiệm

Bảng 1 : Kết quả kiểm tra bài Hầu Trời – Tản ðà (lớp thực nghiệm)

Xếp loại

Số

Trường

Lớp

bài

G(9- 10) K (7 – 8) TB (5 -6) Y (3 – 4) K (1 – 2)

KT SL % SL % SL % SL % SL %

43

11

24

4

3

1

6.9

25.6

55.8

9.3

THPT.DL

11A1

2.3

46

17

30

5

2

2

4.3

36.9

65.2

10.9

T

AN ðÔNG

11A2

4.3

N

48

5

25

16

2

0

10.4

52.1

33.3

4.2

11A5

0

THPT

CHU

46

3

22

16

3

2

6.5

47.8

34.8

6.5

11A6

4.3

VĂNAN

113

Bảng 2 : Kết quả kiểm tra bài Hầu Trời – Tản ðà (lớp ñối

chứng)

Số

Xếp loại

Trường

Lớp

bài

G(9- 10) K (7 – 8) TB (5 -6) Y (3 – 4) K (1 – 2)

KT SL % SL % SL % SL % SL %

42

10

21

7

4

0

0

23.8

50.0

16.7

9.5

THPT.DL

11A3

46

16

18

9

2

1

2.1

34.8

39.1

19.6

4.3

ð

AN ðÔNG

11A4

45

19

20

4

1

1

2.2

42.2

44.4

8.9

2.2

C

THPT

11A7

CHU

45

17

18

5

3

2

4.4

37.8

40.0

11.1

6.7

11A8

VĂNAN

114

Bảng 3 : Tổng hợp và so sánh kết quả kiểm tra của lớp dạy

thực nghiệm và ñối chứng

Thực nghiệm

ðối chứng

Tỉ lệ ñạt của bài thực

nghiệm

(163 bài)

(178 bài)

Loại

Số

%

Số

%

Tăng >

Số

%

Giảm <

lượng

lượng

lượng

4

>

9

13

7.1

2.2

4.9

Giỏi

62

>

13

75

41.0

34.8

6.2

Khá

77

>

9

86

47.0

43.2

3.8

TB

25

<

11

14

7.65

14.0

6.3

Yếu

10

<

5

5

2.73

5.6

2.9

Kém

115

3.5 Kết luận chung về thực nghiệm

Kết quả thực nghiệm là căn cứ quan trọng ñể ñánh giá khả năng ứng

dụng của ñề tài. Do ñó việc thực nghệm và ñánh giá kết quả thực nghiệm là

rất quan trọng. ðể ñánh giá tính khả thi của ñề tài chúng tôi dựa vào việc

nhận xét ñánh giá kết quả bài kiểm tra của học sinh và việc nhận xét, ñánh

giá, rút kinh nghiệm của giáo viên về giờ dạy thực nghiệm.

Thực nghiệm chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, số lượng có

hạn,…cho nên kết luận chưa thể phản ánh hết những ñặc ñiểm, tính chất, nội

dung của việc dạy học văn hiện nay.

Chúng tôi không coi trọng thực nghiệm là cơ sở duy nhất ñể khẳng

ñịnh tính ưu việt, khả thi của giáo án thực nghiệm nhưng là cơ sở ñể tham

khảo.

Giáo án này sẽ còn phụ thuộc vào năng lực sư phạm của giáo viên

cũng như ñối tượng học sinh và các phương tiện, môi trường dạy học cụ

thể…

3.5.1 ðánh giá từ kết quả kiểm tra kiến thức của học sinh

Nhìn vào 3 bảng so sánh kết quả kiểm tra của học sinh lớp dạy thực

nghiệm và lớp ñối chứng, ta thấy kết quả bài thực nghiệm hơn hẳn bài ñối

chứng. Tỉ lệ bài ñạt khá giỏi cao hơn 11.1% và tỉ lệ bài yếu kém thấp hơn

9.2%. Với kết quả này, phần nào chứng tỏ giờ dạy học văn bản văn học có

vận dụng việc khai thác các kiến thức văn học sử cho kết quả khả quan hơn,

góp phần làm cho giờ dạy ñạt hiệu quả, chất lượng.

3.5.2 ðánh giá từ những nhận xét, góp ý của giáo viên về giờ dạy

thực nghiệm

3.5.2.1. Về phía người dạy :

Người dạy có sự ñầu tư, liên hệ, mở rộng các kiến thức cho bài

giảng, ñã biết dựa trên cơ sở nội dung, mục ñích, yêu cầu của tài liệu giảng

116

dạy và ñặc ñiểm của từng ñối tượng học sinh ñể lựa chọn và vận dụng việc

khai thác các kiến thức văn học sử trong quá trình tìm hiểu văn bản cụ thể.

Quá trình khai thác các kiến thức văn học sử cùng với việc phối hợp

khai thác một số kiến thức khác trong ñọc hiểu văn bản có tác dụng tích cực

trong vệc giúp học sinh củng cố, khắc sâu các kiến thức văn học sử ñã học

và hiểu hơn về lịch sử văn học dân tộc trong từng thời kỳ, giai ñoạn phát

triển.

Giáo viên biết lựa chọn các vấn ñề khai thác phù hợp với nội dung

kiến thức bài giảng…Biết cách dẫn dắt học sinh vận dụng khai thác các yếu

tố văn học sử ñể hiểu hơn giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản ñựơc

học.

3.5.2.2. Về phía người học :

Do hạn chế thời gian trên lớp nên phần vận dụng khai thác các kiến

thức văn học sử ở học sinh có hạn chế, chủ yếu do giáo viên diễn giảng, liên

hệ. mở rộng vấn ñề. Học sinh có tích cực tham gia vào bài giảng nhưng các

em chưa ñược tranh luận, trình bày những suy nghĩ của mình một cách sôi

nổi, quyết liệt.

Trong quá trình tiếp nhận kiến thức một số học sinh ban ñầu còn tỏ

ra lúng túng (nhất là khi cho các em thảo luận) nhưng sau ñó tỏ ra quen dần.

Một số thích thú với kiến thức ñược giáo viên liên hệ, so sánh, mở rộng.

Với những ñiều ñã ñạt ñược có thể khẳng ñịnh tính khả thi, khách

quan và khả năng vận dụng khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc hiểu

văn bản văn học ở trường THPT là việc làm tích cực, hiệu quả.

117

KẾT LUẬN

1. Bên cạnh các kiến thức khác, văn học sử là một trong những kiến thức

ñáng ñể chúng ta quan tâm, tìm hiểu trong quá trình giảng dạy văn bản văn học ở

trường phổ thông. Những tri thức về lịch sử văn học giúp cho học sinh hiểu quá

trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc…Những tri thức văn học sử ở PTCS

mới ở mức ñộ sơ giản, chưa phải nhất loạt sắp xếp theo trình tự lịch sử, chỉ sắp xếp

từ ñơn giản ñến phức tạp, phù hợp với trình ñộ nhận thức của học sinh. Ở PTCS

chưa có giờ riêng về tri thức văn học sử. Các tri thức này chỉ ñược khái quát qua

bài ôn tập về văn học sử ở từng giai ñoạn. Chương trình văn học sử ở PTTH có

nhiệm vụ nâng cao, hệ thống hóa kiến thức văn học sử ở PTCS lên một bước. Chính

vì vậy, việc khai thác các kiến thức văn học sử ở bậc THPT cần ñược chú trọng hơn

nhằm góp phần nâng cao, phát triển và hoàn thiện tri thức ở học sinh.

2. Phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc – hiểu văn bản

văn học thực ra chỉ là cách thức vận dụng các kiến thức văn học sử ñã và ñang học

vào quá trình phân tích tác phẩm văn học một cách có hiệu quả, chất lượng.

Bản chất của quá trình phân tích tác phẩm văn chương là cảm thụ tác phẩm,

tức là tự mình khám phá, ngẫm nghĩ ñể thắm thía cái hay, cái ñẹp của tác phẩm.

Thông qua các giờ dạy học tác phẩm văn học, giáo viên sẽ ñịnh hướng cho học sinh

cách làm một bài văn nghị luận, cách liên tưởng, so sánh, mở rộng vấn ñề và rèn

luyện khả năng tư duy, khả năng vận dụng các kiến thức,…

3. Từ những yêu cầu về phương pháp dạy học văn, ta thấy việc khai thác các

kiến thức văn học sử trong ñọc – hiểu văn bản văn học là một cách thức khai thác

hữu hiệu, phù hợp với yêu cầu ñổi mới sách giáo khoa hiện nay cũng như sự ñổi

mới về phương pháp tiếp nhận văn bản.

Thực tế cho thấy, khi giảng dạy các tác phẩm văn học có nhấn mạnh, khắc

sâu các kiến thức văn học sử, giáo viên dễ dàng ñịnh hướng, dẫn dắt học sinh tìm

118

tòi, khám phá các giá trị nội dung, nghệ thuật cũng như quan ñiểm nghệ thuật,

phong cách sáng tạo của mỗi tác giả trong từng thời kỳ, giai ñoạn khác nhau.

Khi vận dụng khai thác các kiến thức văn học sử vào quá trình dạy học một

văn bản văn học lớp 11, trước hết giáo viên phải nắm thật vững nội dung các kiến

thức văn học sử ñã giảng dạy trước ñó trong các phần bài khái quát về từng thời kỳ,

giai ñoạn, từng tác giả, tác phẩm, ñặc biệt là các thuật ngữ, khái niệm, ñịnh nghĩa,

luận ñiểm ñến các ñề tài, thể loại, ngôn ngữ, quan ñiểm nghệ thuật,…tiêu biểu nổi

bật. Khi tiến hành ñọc – hiểu các văn bản cụ thể, thông qua lời giảng, các câu hỏi,

sự gợi ý,…giáo viên sẽ ñịnh hướng, dẫn dắt học sinh khai thác từng kiến thức có

trong mỗi bài (không nhất thiết phải khai thác hết tất cả các kiến thức văn học sử vì

ở mỗi bài luợng kiến thức này không hoàn toàn giống nhau). Tùy vào mỗi văn bản

mà giáo viên sẽ cân nhắc ñể lí giải, phân tích, so sánh, liên hệ, mở rộng các kiến

thức văn học sử cho phù hợp.

4. Qua thực tế giảng dạy, nhất là các giờ dạy thực nghiệm gần ñây, nếu

chúng ta chú ý khắc sâu các kiến thức văn học sử trong quá trình ñọc – hiểu văn

bản một cách tích cực sẽ nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ dạy (thông qua số

liệu thực tế từ kết quả thực nghiệm). Tuy nhiên, ở nhà trường phổ thông ñây không

phải là kiến thức duy nhất, chủ yếu mà bênh cạnh nó còn có nhiều kiến thức khác

cũng cần phối hợp khai thác.

Thật ra, ña số các giáo viên giảng dạy chưa ñược cung cấp một phương pháp

khai thác kiến thức văn học sử phù hợp nên việc khai thác các kiến thức ấy ở nhà

trường phổ thông chưa thật sự phổ biến rộng rãi và quan tâm ñúng mực. Quả lại,

thực tế giảng dạy còn nhiều khó khăn và hạn chế là ñiều không thể tránh khỏi.

Qua một số lần thăm dò ý kiến, giáo viên thường ñề cập ñến những khó

khăn như sau : thời gian giảng dạy trên lớp hạn chế ; kiến thức bài học quá nhiều ;

học sinh học yếu, chậm tiếp thu ; một số giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức,

ñịnh hướng học sinh ; một số dạy theo sở trường, sở thích,…Chính vì vậy, việc tổ

119

chức, hướng dẫn học sinh vận dụng các kiến thức văn học sử ñã học vào quá trình

tìm hiểu văn bản ñòi hỏi giáo viên ñứng lớp phải có kiến thức và năng lực bao quát,

nhất ñịnh trong mỗi tiết dạy.

5. Chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay ñã phân chia lại cấu

trúc chương trình : “ Hệ thống tri thức văn học ñược cấu trúc một cách hợp lí trên

các phương diện lịch sử và loại thể. Trình tự lịch sử văn học dân tộc vẫn ñược chú ý

trong sự ñối sánh với văn học nước ngoài. Song tiêu chí loại thể ñược chú trọng hơn

so với chương trình cũ” [34, tr 4]. Rõ ràng, cấu trúc chương trình cải cách lần này

có sự thay ñổi, lịch sử văn học không còn là cơ sở sắp xếp duy nhất. Vì vậy chúng

ta cần phải mạnh dạn khai thác các kiến thức văn học sử một cách hệ thống, khoa

học, cụ thể trong quá trình ñọc hiểu văn bản ñể bù ñắp cho sự sắp xếp ñó. Những

kiến thức trong bài khái quát về thời kỳ, giai ñoạn, tác gia, tác phẩm là tiền ñề tạo

cơ sở cho việc ñọc hiểu các văn bản. Ngược lại, khi ñọc hiểu các văn bản trên tinh

thần khắc sâu các kiến thức văn học sử sẽ góp phần làm sáng tỏ các nhận ñịnh, luận

ñiểm…trong bài khái quát.

Chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành ñòi hỏi tính kế thừa và

tính liên môn, tích hợp. Do ñó, việc vận dụng các kiến thức văn học sử vào quá

trình ñọc – hiểu các tác phẩm văn học cũng cần ñảm bảo ñược ñiều này. Nghĩa là

các nội dung ñược nêu ra khai thác phải thể hiện ñược tính kế thừa, liên hệ với

những nội dung kiến thức ñã học ở các bài trước và ở cả các lớp dưới. Chẳng hạn

khi tìm hiểu văn bản Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, giáo viên có thể liên hệ với

các tác phẩm ñã học lớp dưới như tác phẩm Lão Hạc (Nam Cao), Tắt ñèn (Ngô Tất

Tố), Bước ñường cùng (Nguyễn Công Hoan),…nhằm giúp học sinh phát hiện ra cái

nhìn mới mẻ, khác lạ của Nam Cao khi cùng viết về ñề tài người nông dân. Hay như

khi nói về cái tôi trong phong trào thơ mới, chúng ta cần cho học sinh liên hệ với

giai ñoạn trước ñó (giai ñoạn văn học trung ñại thế kỷ XVIII – XIX) ñể xem cái tôi

ñó thể hiện, phát triển ra sao trong những ñiều kiện lịch sử xã hội khác nhau…Mặt

khác, các kiến thức ñược vận dụng khai thác trong giờ dạy ñòi hỏi phải biết cân

120

nhắc lựa chọn ñể ñảm bảo tính liên môn, tức cần tích hợp với các kiến thức khác

như kiến thức lí luận văn học, tiếng Việt, nghị luận văn học,…Ví dụ khi học xong

văn bản Hầu Trời (Tản ðà), chúng ta có thể yêu cầu học sinh viết một ñoạn văn

ngắn cảm nhận về cái tôi ngông của thi sĩ Tản ðà ñể rèn luyện kỹ năng làm văn

nghị luận, ñồng thời rèn luyện kỹ năng lập luận, phân tích, mở rộng, liên hệ các kiến

thức ñã học…và một lần nữa củng cố, khắc sâu hơn các kiến thức văn học nói

chung, văn học sử nói riêng.

121

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn ðức Ân (1997), Dạy học giảng văn ở phổ thông, Nxb Tổng

hợp, ðồng Tháp.

2. Trần Thanh Bình (2006), “Phương pháp nghiên cứu tiểu sử nhà văn

trong giảng dạy văn học nước ngoài”, Niên giám Văn học, Hội

Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP HCM, Nxb Văn hoá Sài

Gòn.

3. Nguyễn Viết Chữ (2001), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương

theo loại thể, Nxb ðại học Quốc gia, Hà Nội.

4. Nguyễn ðình Chú, Trần Hữu Tá (Chủ biên, 2000), Văn học 11, Tập 1

(Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000), Nxb Giáo dục.

5. Nguyễn Hữu Chương (1965), Nâng cao hiệu quả giờ lên lớp, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

6. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb

Khoa học Xã hội.

7. Trương ðăng Dung (2001), “Những giới hạn của lịch sử văn học”,

Văn học sử, những quan niệm mới - những tiếp cận mới, Trung

tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Thông tin

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

8. Trương Dĩnh (1963), Một số kinh nghiệm giảng dạy văn học ở phổ

thông, Nxb Giáo dục, Hà Hội.

9. Hồ Ngọc ðại (1983), Tâm lí học ñại cương, Nxb Giáo dục.

122

10. Trần Thanh ðạm (1971), Vấn ñề dạy học tác phẩm văn chương – văn

học theo loại thể, Nxb Giáo dục, Hà Hội.

11. Hà Minh ðức (1971), Nhà văn và tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội.

12. Hà Minh ðức (1995), Lý luận dạy học, Nxb Giáo dục.

13. Dương Quảng Hàm (1943), Việt Nam văn học sử yếu, Hà Nội.

14. Lê Bá Hán, Trần ðình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên, 1992), Từ

ñiển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

15. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường Viết

Văn Nguyễn Du, Hà Nội.

16. ðỗ ðức Hiểu (1993), ðổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học Xã

hội và Nxb Mũi Cà Mau.

17. Nguyễn Trọng Hoàn (2003), Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học

tác phẩm văn chương, Nxb Giáo dục.

18. ðỗ Kim Hồi (1997), Nghĩ từ công việc dạy văn, Nxb Giáo dục.

19. Nguyễn Thanh Hùng (2005), Hiểu văn dạy văn, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

20. Phạm Ngọc Lan (2006), “Tự truyện và sự thể hiện cái tôi cá nhân

trong văn học Việt Nam hiện ñại”, Niên giám Văn học, Hội

Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP HCM, Nxb Văn hoá Sài

Gòn.

21. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc ñổi mới, Nxb Hội Nhà Văn,

Hà Nội.

22. Phan Trọng Luận (1962), Mấy vấn ñề giảng dạy văn học sử, Nxb

Giáo dục.

123

23. Phan Trọng Luận (viết chung, 1963), Giảng dạy văn học sử, Nxb

Giáo dục.

24. Phan Trọng Luận (1977), Phân tích tác phẩm văn học trong nhà

trường, Nxb Giáo dục.

25. Phan Trọng Luận (1978), Con ñường nâng cao hiệu quả giờ dạy văn,

Nxb Giáo dục.

26. Phan Trọng Luận (1983), Cảm thụ văn học, Nxb Giáo dục.

27. Phan Trọng Luận (1999), ðổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở

trường trung học phổ thông, Nxb Giáo dục.

28. Phan Trọng Luận (Chủ biên, 1999), Phương pháp dạy học văn, Nxb

ðại học Quốc gia, Hà Nội.

29. Phan Trọng Luận (2002), Xã hội văn học nhà trường, Nxb ðại học

Quốc gia, Hà Nội.

30. Phan Trọng Luận (2002), Văn học giáo dục thế kỷ XXI, Nxb ðại học

Quốc gia, Hà Nội.

31. Phan Trọng Luận (2002), Văn học - Bạn ñọc sáng tạo, Nxb ðại học

Quốc gia, Hà Nội.

32. Phan Trọng Luận (Chủ biên, 2003), Phương pháp dạy học văn, Tập

2, Nxb ðại học Sư Phạm.

33. Phan Trọng Luận, Trần ðình Sử (ñồng Chủ biên, 2007), Tài liệu bồi

dưỡng giáo viên Ngữ văn 11, Nxb Giáo dục.

34. Phan Trọng Luận (Tổng Chủ biên, 2006), Sách giáo khoa, Sách giáo

viên Ngữ văn lớp 10, Bộ cơ bản, Tập 1,2, Nxb Giáo dục.

124

35. Phan Trọng Luận (Tổng Chủ biên, 2007), Sách giáo khoa, Sách giáo

viên Ngữ văn lớp 11, Bộ cơ bản, Tập 1,2, Nxb Giáo dục.

36. Phan Trọng Luận (Tổng Chủ biên, 2008), Sách giáo khoa, Sách giáo

viên Ngữ văn lớp 12, Bộ cơ bản, Tập 1,2, Nxb Giáo dục.

37. Phương Lựu (Chủ biên, 1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

38. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb

ðại học Sư Phạm.

39. Nguyễn ðăng Mạnh (1993), Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học

lớp 11, Nxb Giáo dục.

40. Nguyễn ðăng Mạnh (1994), Con ñường ñi vào thế giới nghệ thuật

của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

41. Mai Xuân Miên (2007), “Nghiên cứu lý luận và phương pháp dạy

học văn - Những thành tựu và hướng phát triển”, 30 năm nghiên

cứu và giảng dạy, Khoa Ngữ văn ðại học Quy Nhơn, Nxb Giáo

dục.

42. Trần Thanh Nam (2001), “Cách nhìn mới về những vấn ñề văn học

sử Việt Nam”, Văn học sử, những quan niệm mới - những tiếp

cận mới, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia,

Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội.

43. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tái

bản), Tập 1, 2,3, Nxb ðồng Tháp.

44. Phùng Quý Nhâm, Lâm Vinh (1994), Tiếp cận văn học, Trường ðại

học Sư Phạm TP HCM.

125

45. ðoàn Thị Kim Nhung, Hoàng Thị Minh Hảo (2007), Hệ thống câu

hỏi trắc nghiệm và tự luận Ngữ văn 11, Tập 2, Nxb ðại học

Quốc gia TP HCM.

46. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học Việt Nam, Văn học hiện ñại giao

lưu gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội.

47. V. A. Nhikônxki (1978), Phương pháp dạy học văn ở nhà trường

phổ thông, (Ngọc Toàn, Bùi Lê dịch), Nxb Giáo dục.

48. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện ñại, Tập 1, 2, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

49. Nguyễn Ngọc Quang (1989), Lý luận dạy học ñại cương, Tập 2,

Trường Cán Bộ Quản Lí Giáo Dục Trung Ương 1.

50. Nguyễn Huy Quát, Hoàng Hữu Bội (2001), Một số vấn ñề về phương

pháp dạy học văn trong nhà trường, Nxb Giáo dục.

51. Z. Ia. Rez (chủ biên, 1983), Phương pháp luận dạy học văn học,

(Phan Thiều dịch), Nxb Giáo dục.

52. Lê Văn Siêu (2006), Văn học sử Việt Nam, Nxb Văn học.

53. Trần ðình Sử (1993), Một số vấn ñề thi pháp học hiện ñại, Bộ Giáo

Dục và ðào Tạo, Vụ Giáo viên, Hà Nội.

54. Hoài Thanh – Hoài Chân (1988), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học.

55. Nguyễn Thành Thi (2004), Kiểm tra và ñánh giá thành quả học tập

(môn Văn) của học sinh bằng trắc nghiệm khách quan, Trường

ðại học Sư Phạm TP HCM.

126

56. Nguyễn Thành Thi (2006), Dạy học tác giả - tác phẩm văn học Việt

Nam hiện ñại (1930 – 1945) ở trường ðHSP và THPT (ðề tài

Khoa học cấp Bộ), Trường ðại học Sư Phạm TP HCM.

57. ðỗ Lai Thuý (1992), Con mắt thơ, Nxb Lao ñộng, Hà Nội.

58. ðỗ Lai Thuý (2004), Sự ñỏng ñảnh của phương pháp, Nxb Văn hoá

Thông tin, Tạp chí Văn nghệ, Hà Nội.

59. ðỗ Ngọc Thống, Tài liệu chuyên ñề : ðọc - hiểu văn bản Ngữ văn ở

trường THPT, Lưu hành nội bộ, 2007.

60. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, TP HCM.

61. Trịnh Xuân Vũ (1995), Văn chương và phương pháp giảng dạy văn

chương, ðại học Sư Phạm.

62. L. X. Vygótxki (1981), Tâm lí học nghệ thuật, Nxb Khoa học Xã hội.

63. Lê Trí Viễn (1987), ðặc ñiểm lịch sử văn học Việt Nam, Nxb ðH &

THCN, Hà Nội.

64. Lê Trí Viễn (1998), Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam,

Nxb Giáo dục.

65. Tạp chí và báo :

- Nghiên cứu văn học (số 4/2005, ...)

- Tạp chí văn học (số 1/1997, 2/1997, số 9/2003…)

- Khoa học giáo dục (số 28/2008,…)

127

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC I

ðỀ KIỂM TRA DÀNH CHO HỌC SINH

(Về kiến thức sau tiết học văn bản Hầu Trời)

Thời gian làm bài : 60 phút

II. Phần trắc nghiệm (3 ñiểm) :

ðọc các câu hỏi, trả lời bằng cách ñánh dấu (x) vào trước chữ cái

ñúng nhất cho mỗi câu hỏi.

1. Bài thơ Hầu Trời in trong tập ?

A. Khối tình con I (1916) C. Còn chơi (1917)

B. Khối tình con II (1918) D. Thơ Tản ðà (1925)

2. Bài Hầu Trời của Tản ðà sử dụng yếu tố gì nhiều nhất ?

A. Nghị luận C. Miêu tả

B. Tự sự D. Thuyết Minh

3. Cảm hứng chủ ñạo của bài thơ Hầu Trời là :

A. Cảm hứng lãng mạn C. Cảm hứng lãng mạn và hiện

thực

B. Cảm hứng hiện thực D. Chưa thể hiện rõ

4. Biểu hiện cái tôi cá nhân trong thơ văn Tản ðà là cái tôi của :

128

A. Giai cấp tiểu tư sản C. Nhà nho tài tử

B. Giai cấp tư sản D. Tầng lớp trí thức Tây học

5. Về mặt nghệ thuật, bài thơ Hầu Trời có gì mới và hay ?

A. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên, gần với ñời sống

B. Thể thơ khá tự do, không bị ràng buộc vào khuôn mẫu

C. Cảm xúc bộc lộ tự nhiên, thoải mái, phóng túng

D. Tất cả 3 ý trên

6. Bài thơ Hầu Trời là tác phẩm tiêu biểu cho giai ñoạn nào của văn

học Việt Nam từ ñấu thế kỷ XX ñến Cách mạng tháng Tám 1945?

A. Giai ñoạn I C. Giai ñoạn III

B. Giai ñoạn II D. Cả 3 giai ñoạn

7. Tản ðà viết và thành công ở nhiều thể loại, nhưng làm nên một

Tản ðà nổi tiếng trước hết là thể :

A. Truyện C. Truyện thơ

B. Thơ D. Thơ văn xuôi

8. Các thể loại văn học ñược nhắc ñến trong bài Hầu Trời ?

A. Văn vần, văn xuôi, văn thuyết lí, văn tuyên truyền

B. Văn vần, văn thuyết lí, văn xuôi, hát nói

C. Văn vần, văn xuôi, văn thuyết lí, văn chơi

D. Văn xuôi, văn vần, hát nói, văn chơi

129

9. Qua những lời kể trong bài Hầu Trời, có thể thấy ñược ñiều gì về

tính cách và tâm hồn thi sĩ ?

A. Tản ðà ý thức ñược về tài năng của mình, và cũng là người táo

bạo dám ñường hoàng bộc lộ bản ngã cái tôi ñó.

B. Tản ðà là người rất ngông khi tìm ñến tận Trời ñể khẳng ñịnh

tài năng của mình trước Ngọc Hoàng Thượng ñế và chư tiên.

C. Giữa chốn văn chương hạ giới rẻ như bèo, thân phận nhà văn

nhà thơ bị rẻ rúng, khinh bỉ, phải lên tận cõi Trời mới có thể thỏa

nguyện.

D. Cả 3 lựa chọn trên.

10. Bài thơ Hầu Trời của Tản ðà thể hiện rõ nhất ñiều gì ?

A. Kể lại cuộc gặp gỡ và chia tay ñầy xúc ñộng giữa nhân vật trữ

tình với Trời và chư tiên.

B. Nỗi buồn cá nhân trước sự thay ñổi thời cuộc, phải tìm ñến cái

hư vô.

C. Thể hiện cái tôi phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị ñích

thực của mình và khao khát ñược khẳng ñịnh mình giữa cuộc ñời.

D. Trần tình với Trời về tình cảnh khốn khó của giới văn sĩ và thực

hành thiên lương ở hạ giới.

11. ðế khuyết trong câu Thiên môn ñế khuyết có nghĩa là gì ?

A. Lầu canh cửa ở cung vua hoặc cung trời

B. Cung vua còn khuyết

C. Cửa trời

130

D. Tên gọi của một dải sao trên trời

12. Câu nào dưới ñây chưa ñúng khi nhận xét về thi sĩ Tản ðà ?

A. Là người của hai thế kỷ

B. Là người thứ nhất có can ñảm làm thi sĩ

C. Là người sống trong buổi giao thời

D. Là người chịu khép mình trong khuôn phép nho gia

III. Phần tự luận (7 ñiểm)

Em hiểu gì về cái ngông của thi sĩ Tản ðà ñược thể hiện trong

bài thơ Hầu Trời.

131

PHỤ LỤC II

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN GIÁO VIÊN

(Về việc vận dụng kiến thức văn học sử trong quá trình giảng dạy

văn bản văn học ở trường phổ thông)

Họ và tên GV :…………………………………………….

Dạy lớp : ……… Trường :……………………………….

Xin quý thầy cô vui lòng trả lời các câu hỏi dưới ñây bằng cách

ñánh dấu (x) vào câu trả lời mà thầy cô cho phù hợp nhất.

1. Thầy cô có quan tâm ñến kiến thức văn học sử trong quá trình giảng dạy văn bản

văn học ở trường phổ thông ?

Có Không

2. ðể có một giờ dạy ñạt hiệu quả, theo thầy cô yếu tố nào ñóng vai trò quyết ñịnh

nhất ?

Kiến thức bài học ñảm bảo và mở rộng

Lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp

Sự hứng thú, lòng nhiệt tình của giáo viên

Sự tham gia tích cực của học sinh

3. Trong quá trình giảng dạy các văn bản văn học, thầy cô thường quan tâm khai

thác các kiến thức nào ?

Kiến thức văn học sử

132

Kiến thức lí luận văn học

Kến thức khác

Kết hợp tất cả các kiến thức

4. Theo thầy cô việc khai thác các kiến thhức văn học sử trong quá trình giảng dạy

ñọc - hiểu các văn bản văn học cụ thể có nhất thiết phải quan tâm ?

Có Không

5. Thầy cô thường gặp phải những khó khăn gì trong quá trình vận dụng các kiến

thức văn học sử vào việc ñọc – hiểu các văn bản văn học ?

Thời gian dạy trên lớp hạn chế

Kiến thức bài học quá nhiều

GV lúng túng trong việc ñịnh hướng cho HS

Học sinh học yếu, chậm tiếp thu

6. Thầy cô có cho rằng phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc –

hiểu văn bản văn học có vai trò tích cực trong việc củng cố, khắc sâu các kiến

thức văn học sử ñã học ?

Có Không

7. Trước khi giảng dạy một văn bản văn học, thầy cô có chú ý ñến việc khai thác và

mở rộng các kiến thức văn học sử ?

Có Không

133

8. Trước khi giảng dạy một văn bản văn học, thầy cô có yêu cầu học sinh chuẩn bị

bài ở nhà (ngoài những câu hỏi trong sách giáo khoa) hay không ?

Có Không

134

KẾT QUẢ PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN GIÁO VIÊN

Số lượng phiếu : 100

STT Nội dung thăm dò Kết quả trả lời SL %

Thầy cô có quan tâm ñến Có 82 82

kiến thức văn học sử trong 1 quá trình giảng dạy văn bản

18 18 văn học ở trường phổ thông

? Không

Kiến thức bài học ñảm bảo và 23 23

mở rộng ðể có một giờ dạy ñạt hiệu

quả, theo thầy cô yếu tố nào Lựa chọn phương pháp giảng 46 46 2 ñóng vai trò quyết ñịnh nhất dạy phù hợp

? Sự hứng thú, lòng nhiệt tình của 18 18

giáo viên

Sự tham gia tích cực của học 13 13

sinh

Trong quá trình giảng dạy Kiến thức văn học sử 4 4

các văn bản văn học, thầy

cô thường quan tâm khai Kiến thức lí luận văn học 3 3

3 thác các kiến thức nào ? Kiến thức văn học nước ngoài 0 0

Kết hợp tất cả các kiến thức 93 93

135

Theo thầy cô việc khai thác Có 78 78

các kiến thức văn học sử 4 trong quá trình giảng dạy

ñọc - hiểu các văn bản văn Không 22 22 học ở trường phổ thông có

nhất thiết phải quan tâm ?

Thầy cô thường gặp phải Thời gian dạy trên lớp hạn chế 45 45

những khó khăn gì trong 5 Kiến thức bài học quá nhiều 38 38 quá trình vận dụng các kiến

thức văn học sử vào việc GV lúng túng trong việc ñịnh 7 7

ñọc – hiểu các văn bản văn hướng cho HS

học ? Học sinh học yếu, chậm tiếp thu 10 10

Thầy cô có cho rằng phương Có 96 96

pháp khai thác các kiến thức 6 văn học sử trong ñọc – hiểu

văn bản văn học có vai trò Không 4 4 tích cực trong việc củng cố,

khắc sâu các kiến thức văn

học sử ñã học ?

Trước khi giảng dạy một Có 87 87

văn bản văn học, thầy cô có 7 chú ý ñến việc khai thác và Không 13 13

mở rộng các kiến thức văn

học sử ?

136

Trước khi giảng dạy một Có 98 98

văn bản văn học, thầy cô có 8 yêu cầu học sinh chuẩn bị

bài ở nhà (ngoài những câu

Không 2 2 hỏi trong sách giáo khoa)

hay không ?

137

PHỤ LỤC III

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HỌC SINH

(Về việc vận dụng kiến thức văn học sử trong quá trình ñọc –

hiểu văn bản văn học ở trường phổ thông)

Họ và tên HS :…………………………………………….

Học lớp : ……… Trường :……………………………….

Các em (HS) vui lòng trả lời những câu hỏi dưới ñây bằng cách

ñánh dấu x vào câu trả lời mà mình thấy phù hợp nhất.

1 – Các em có quan tâm, ñể ý ñến các kiến thức văn học sử trong quá

trình ñọc – hiểu văn bản văn học ở trường phổ thông ?

Có Không

2 – Các em thường gặp phải những khó khăn gì trong quá trình tìm

hiểu và vận dụng các kiến thức văn học sử vào việc ñọc – hiểu các văn bản

văn học ở trường phổ thông ?

Kiến thức bài học quá nhiều

Chưa biết cách tìm hiểu, vận dụng

Giáo viên chưa nhiệt tình

Thời gian học trên lớp có giới hạn

3 – Trước khi học một văn bản, các em có ñọc bài, chuẩn bị bài theo

yêu cầu, hướng dẫn của giáo viên hay không ?

Có Không

138

4 – Trong quá trình ñọc – hiểu văn bản văn học nói chung, các em

cảm thấy khó tiếp thu kiến thức nào nhất?

Kiến thức lí luận văn học

Kiến thức văn học sử

Kiến thức văn học nước ngoài

Tất cả ba kiến thức trên

5 – Các em nắm ñược khoảng bao nhiêu phần trăm về kiến thức văn

học sử ñã học ở trường phổ thông ?

Khoảng trên ñưới 30%

Khoảng trên ñưới 50%

Khoảng trên ñưới 70%

Khoảng trên ñưới 90%

6 – Các em có cho rằng kiến thức văn học sử ở trường phổ thông có

vai trò tích cực, góp phần rèn luyện và giáo dục ñạo ñức nhân cách ở học

sinh ?

Có Không

7 – Những khó khăn thường gặp khi vận dụng khai thác các kiến thức

văn học sử trong ñọc – hiểu các văn bản văn học cụ thể :

Khó phát hiện ra các kiến thức văn học sử cần khai thác

Khó tìm dẫn chứng ñể so sánh, liên hệ và mở rộng

Khó xây dựng thành hệ thống khoa học

Tất cả ba ý trên

139

KẾT QUẢ PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HỌC SINH

Số lượng phiếu : 100

STT Nội dung thăm dò Kết quả trả lời SL %

Các em có quan tâm, ñể ý Có 44 44

ñến các kiến thức văn học 1 sử trong quá trình ñọc –

hiểu văn bản văn học ở Không 56 56 trường phổ thông ?

Các em thường gặp phải Kiến thức bài học quá nhiều 20 20

những khó khăn gì trong 2 Chưa biết cách tìm hiểu, vận 63 63 quá trình tìm hiểu và vận dụng dụng các kiến thức văn học

Giáo viên chưa nhiệt tình 5 5 sử vào việc ñọc – hiểu các

văn bản văn học ở trường Thời gian học trên lớp có giới 12 12 phổ thông ? hạn

Trước khi học một văn bản, Có 61 61

các em có ñọc bài, chuẩn bị 3 bài theo yêu cầu, hướng dẫn Không 39 39

của giáo viên hay không ?

Trong quá trình ñọc – hiểu Kiến thức lí luận văn học 21 21

văn bản văn học nói chung, 4 Kiến thức văn học sử 15 15 các em cảm thấy khó tiếp

Kiến thức văn học nước ngoài 12 12

140

thu kiến thức nào nhất? Tất cả ba kiến thức trên 52 52

Các em nắm ñược khoảng Khoảng trên ñưới 30% 50 50

bao nhiêu phần trăm về kiến 5 Khoảng trên ñưới 50% 32 32 thức văn học sử ñã học ở

Khoảng trên ñưới 70% 14 14 trường phổ thông ?

Khoảng trên ñưới 90% 4 4

Các em có cho rằng kiến Có 87 87

thức văn học sử ở trường 6 phổ thông có vai trò tích Không 13 13 cực, góp phần rèn luyện và

giáo dục ñạo ñức nhân cách

ở học sinh?

Khó phát hiện ra các kiến thức Những khó khăn thường 7 7

gặp khi vận dụng khai thác văn học sử cần khai thác 7 các kiến thức văn học sử Khó tìm dẫn chứng ñể so sánh, 9 9 trong ñọc – hiểu các văn bản liên hệ và mở rộng văn học cụ thể :

Khó xây dựng thành hệ thống 6 6

khoa học

Tất cả ba ý trên 78 78