BỘ GIÁO DỤC VÀ ðÀO TẠO
TRƯỜNG ðẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ----------------------------------------
V
NGUYỄN THỤY GIANG THỦY
PHƯƠNG PHÁP KHAI THÁC CÁC KIẾN THỨC
VĂN HỌC SỬ TRONG ðỌC – HIỂU VĂN BẢN
VĂN HỌC LỚP 11 - CHƯƠNG TRÌNH CƠ BẢN
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ðÀO TẠO
TRƯỜNG ðẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ----------------------------------------
NGUYỄN THỤY GIANG THỦY
PHƯƠNG PHÁP KHAI THÁC CÁC KIẾN THỨC
VĂN HỌC SỬ TRONG ðỌC – HIỂU VĂN BẢN
VĂN HỌC LỚP 11 - CHƯƠNG TRÌNH CƠ BẢN
Chuyên ngành: Lí luận và Phương pháp dạy học Văn
Mã số: 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THANH BÌNH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ðẦU .......................................................................................................1
CHƯƠNG 1 - KIẾN THỨC VĂN HỌC SỬ TRONG CHƯƠNG TRÌNH
NGỮ VĂN THPT......................................................................................16
1.1.1 Vị trí, vai trò của kiến thức văn học sử trong chương trình Ngữ văn THPT...16
1.1.2 ðặc ñiểm của kiến thức văn học sử trong chương trình Ngữ văn THPT ........19
1.1.3 Mục tiêu, nội dung của kiến thức văn học sử trong chương trình Ngữ văn
THPT ..........................................................................................................26
1.1.4 Nguyên tắc dạy học văn học sử trong chương trình Ngữ văn THPT..............29
1.1 Những vấn ñề chung .................................................................................16
1.2 Hệ thống kiến thức văn học sử cơ bản trong chương trình Ngữ văn
1.2.1 Kiến thức chung về lịch sử phát triển của văn học Việt Nam ........................32
1.2.2 Kiến thức về các thời kỳ, giai ñoạn văn học..................................................34
1.2.3 Kiến thức về tác gia, tác giả văn học.............................................................35
1.2.4 Kiến thức về các tác phẩm văn học...............................................................36
THPT (kiểu bài văn học sử)......................................................................32
CHƯƠNG 2 - PHƯƠNG PHÁP KHAI THÁC CÁC KIẾN THỨC VĂN
HỌC SỬ TRONG ðỌC – HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC ........................38
2.1 Tình hình giảng dạy các kiến thức văn học sử trong chương trình Ngữ
2.1.1 Tình hình giảng dạy văn học sử nói chung....................................................38
văn THPT ..................................................................................................38
2.1.2 Thực tiễn khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc - hiểu văn bản văn học hiện nay......................................................................................................42
2.2 Phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc – hiểu văn
2.2.1 Các kiến thức văn học sử cần ñược khai thác trong ñọc - hiểu văn bản văn học Ngữ văn 11..................................................................................................45
2.2.2 Phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc – hiểu văn bản văn học lớp 11 ...................................................................................................45
bản văn học Ngữ văn lớp 11 .....................................................................44
2.3 Hiệu quả, tác dụng của phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc – hiểu văn bản văn học.............................................................85
CHƯƠNG 3 - THỰC NGHIỆM ......................................................................87
3.1.1 Mục ñích thực nghiệm..................................................................................87
3.1.2 Yêu cầu thực nghiệm....................................................................................87
3.1 Mục ñích, yêu cầu thực nghiệm................................................................87
3.2.1 Thời gian thực nghiệm..................................................................................88
3.2.2 Tổ chức thực nghiệm....................................................................................88
3.2 Thời gian và tổ chức thực nghiệm ............................................................88
3.3.1 Yêu cầu chuẩn bị ..........................................................................................89
3.3.2 Giáo án.........................................................................................................91
3.3 Giáo án thực nghiệm.................................................................................89
3.4 Xử lý kết quả thực nghiệm .....................................................................112
3.5.1 ðánh giá từ kết quả kiểm tra kiến thức của học sinh ................................... 115
3.5.2 ðánh giá từ những nhận xét, góp ý của giáo viên về giờ dạy thực nghiệm .. 115
3.5 Kết luận chung về thực nghiệm..............................................................115
KẾT LUẬN ...............................................................................................117
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................121
PHỤ LỤC..................................................................................................127
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT VIẾT TẮT VIẾT ðẦY ðỦ
1. THPT Trung học phổ thông
2. THCS Trung học cơ sở
3. SGK Sách giáo khoa
4. SGV Sách giáo viên
5. GV Giáo viên
6. HS Học sinh
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1 : Kết quả kiểm tra bài Hầu Trời – Tản ðà
(lớp thực nghiệm)……………………………………..112
Bảng 2 : Kết quả kiểm tra bài Hầu Trời – Tản ðà
(lớp ñối chứng)…………………………………………113
Bảng 3 : Tổng hợp và so sánh kết quả kiểm tra của lớp dạy
thực nghiệm và ñối chứng…………………………….114
1
MỞ ðẦU
1. Lí do chọn ñề tài
Là một trong những môn học quan trọng hàng ñầu của chương trình
giảng dạy phổ thông, văn học luôn hướng con người ñến chân - thiện - mĩ ñể
tâm hồn mỗi chúng ta cảm thấy yêu hơn cuộc sống, nhân loại. Không những
thế, văn học còn cho chúng ta thấy rõ từng bước ñi, nhịp ñập, hơi thở của
lịch sử xuyên suốt qua từng chặng ñường, từng thời kỳ, từng giai ñoạn với
những nấc thăng trầm khác nhau. Chính vì vậy mà trong công việc dạy học
văn, việc khai thác và truyền thụ các kiến thức, hiện tượng văn học trong mối
quan hệ gắn bó với lịch sử, thời ñại là một vấn ñề mang ý nghĩa phương pháp
luận rất quan trọng .
Hiện nay, một số giáo viên thường có xu hướng coi trọng phần ñọc –
hiểu văn bản mà xem nhẹ hoặc bỏ qua các bài khái quát, các phần mục tìm
hiểu tác giả, tác phẩm, hoặc những kiến thức ñó nếu có thì cũng chỉ ñược
nhắc ñến một cách qua loa, sơ sài, không liên hệ với phần văn bản và cũng
không phục vụ cho việc ñọc - hiểu văn bản.
ðọc – hiểu văn bản văn học thực chất là phương pháp tiếp nhận nghệ
thuật ngôn từ bằng sự cảm thụ trực tiếp, là sự hiểu thấu ngôn ngữ và là sự
phân tích, phát hiện ý nghĩa sâu xa trong văn bản. Mục ñích của ñọc – hiểu là
hình thành và duy trì những ấn tượng nghệ thuật ñể học sinh tiếp tục ñi sâu
vào nội dung tư tưởng và hình thức ngôn ngữ tác phẩm. Theo tinh thần này,
ñọc – hiểu văn ở trung học phổ thông chính là toàn bộ quá trình tiếp nhận,
giải mã các văn bản văn học tiêu biểu cho các thể loại ở từng giai ñoạn lịch
sử văn học, qua ñó cung cấp và hình thành ở học sinh những kiến thức cơ
bản về lịch sử văn học, lí luận văn học, tác giả và tác phẩm văn học, làm nền
tảng ñể từng bước xây dựng văn hóa ñọc cho học sinh.
2
Những tri thức văn học sử sẽ cung cấp cho học sinh những hiểu biết về
văn học theo quan ñiểm ñồng ñại và lịch ñại, giúp các em hiểu hơn quá trình
phát triển của lịch sử văn học dân tộc. Tri thức về văn học sử cùng với tri
thức lí luận văn học sẽ nâng tri thức văn học của học sinh lên cấp ñộ khái
quát và góp phần rèn luyện cho học sinh kỹ năng tư duy văn học, khả năng
ứng dụng tri thức, tự mình phát triển, hoàn thiện tri thức. Ngoài ra, những
kiến thức văn học sử có thể bồi dưỡng và phát triển tình cảm yêu nước, tình
yêu nhân loại cho học sinh khi các em ñược học các bài về các tác gia, tác
giả có tên tuổi, tiêu biểu trong chương trình phổ thông, từ Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến… ñến Nguyễn ðình Chiểu, Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh,…
“Giờ giảng văn học sử không thể chỉ quan tâm ñến việc truyền thụ kiến
thức văn chương mà coi nhẹ nguồn tư tưởng tình cảm cao quí vốn là những
tài sản vô giá của dân tộc ta”. [32, tr. 11]
Quan ñiểm xây dựng chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới hiện
nay là : một mặt theo truyền thống (dựa vào tiến trình văn học), mặt khác có
ñiểm mới là theo thể loại. Các giai ñoạn văn học từ thế kỉ X ñến hết thế kỉ
XVII có : thơ, phú, nghị luận, sử kí và truyện. Các giai ñoạn văn học từ thế
kỉ XVIII ñến hết thế kỉ XIX có : thơ, ngâm khúc, truyện thơ. Cấu trúc
chương trình này ñã ñặt ra cho chúng ta một loạt các câu hỏi liên quan :
- Việc nhấn mạnh vào tiêu chí thể loại có ñảm bảo kiến thức và thật sự
mở rộng diện ñọc, tăng thêm tri thức về văn hiến Việt Nam (như mục tiêu
sách giáo khoa ñã ñặt ra) cho học sinh hay chưa, một khi có khá nhiều thể
loại không cần thiết ñược ñưa vào bắt buộc học sinh phải học?
- Nên phân loại dựa trên tiêu chí tiến trình lịch sử như sách giáo khoa
trước ñể phần văn học sử trở thành một siêu kiến thức quan trọng không
kém phần ñọc – hiểu văn bản hay cần chú trọng nhấn mạnh ñến thể loại ñể
thuận lợi cho việc làm văn nghị luận của học sinh ?
3
- Có chắc rằng, tri thức văn học sử cũng như lí luận văn học một khi
nằm trong văn bản, ñược lồng ghép vào văn bản sẽ có tác dụng và phục vụ
ñạt hiệu quả như mong muốn ?
Thiết nghĩ, dù có phân loại dựa theo tiêu chí nào thì người dạy vẫn cần
phải biết cân nhắc, kết hợp hài hoà giữa các kiến thức, các nội dung bài
giảng, phải biết khai thác các yếu tố lịch sử văn học, khai thác các giá trị của
văn bản và phải làm sao lồng ghép các kiến thức văn học sử vào quá trình
ñọc – hiểu văn bản cho thật hiệu quả. ðồng thời, cần phải thấy ñược sự hiện
diện của bóng dáng văn học sử ở mỗi thời kỳ trong từng tiết học, giờ học ñọc
– hiểu văn bản.
Dạy văn là cung cấp cho học sinh những tri thức về ñọc - hiểu cũng
như những tri thức về lí luận văn học và lịch sử văn học. Nhất là khi chương
trình buộc phải tích hợp ñọc - hiểu với lịch sử văn học thì công việc giảng
dạy, cung cấp kiến thức cho các em lại càng khó khăn hơn. Trong khi ñó,
phương pháp dạy lịch sử văn học hiện nay còn nhiều ngộ nhận, lúng túng,
bất cập, chưa ñược giải ñáp...
Kiến thức văn học sử không chỉ tập trung thể hiện ở các dạng bài khái
quát mà còn hiện hữu trong các tác phẩm. Vì vậy, phương pháp khai thác
kiến thức văn học sử có cả ở hai dạng : một dạng ñược thể hiện rõ thông qua
các bài khái quát về tác gia, tác giả, tác phẩm, thời kỳ, giai ñoạn văn học ;
một dạng tiềm ẩn trong các văn bản bằng những kí hiệu, hình tượng, ngôn từ
nghệ thuật. Với dạng kiến thức còn tiềm ẩn này, chúng ta cần phải có
phương pháp khai thác phù hợp, khoa học. Bởi lẽ, bất kỳ một văn bản hay
một tác phẩm ñược viết ra bao giờ cũng dựa theo những lập trường, quan
ñiểm, quan niệm về hoàn cảnh lịch sử, xã hội nhất ñịnh. Cho nên, hầu như
khi tìm hiểu chúng, ta không thể bỏ qua kiến thức văn học sử và lí luận văn
học.
Thử hình dung nếu ta phân tích tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam
Cao hay bất kỳ một tác phẩm nào khác chẳng hạn, ñôi lúc ta vô tình hay hữu
4
ý bỏ qua quá trình tìm hiểu hoàn cảnh ra ñời của tác phẩm ấy cũng như quan
ñiểm lập trường sáng tác của nhà văn thì có lẽ sẽ mất ñi nhiều giá trị và
không thể hiểu hết những gì thời ñại ñã qua, những gì mà người nghệ sĩ dụng
công gởi gắm ñến bạn ñọc. Mặt khác, chúng ta sẽ không thấy ñược hơi thở,
nhịp ñập, tư duy của thời ñại - có thể nó ñã xảy ra trong quá khứ ñến nay chỉ
còn vang bóng hoặc có thể ñang tiếp diễn ở hiện tại hoặc dự ñịnh xảy ra
trong tương lai sắp tới…
Tác phẩm văn chương là sản phẩm của một thời ñại lịch sử, của mỗi cá
nhân tác giả. Từ những kinh nghiệm thực tế cuộc sống, xã hội, kinh tế, chính
trị, văn hoá…, mỗi cá nhân tác giả theo lập trường, quan ñiểm, lí tưởng của
thời ñại sáng tạo nên những tác phẩm gởi ñến bạn ñọc như những bức thông
ñiệp. Người nghệ sĩ sáng tác văn chương từ thời ñại mình, cho thời ñại mình
và cho cả thời ñại mai sau.
Cuối cùng, có thể nói việc dạy văn học khi dựa trên những quan niệm,
tư tưởng mang tính lịch sử của tác giả cũng như bối cảnh, hoàn cảnh lịch sử
ra ñời của tác phẩm sẽ ñồng thời dạy cho học sinh tinh thần truyền thống
của lịch sử dân tộc, lịch sử ñất nước hào hùng. Các em sẽ cảm thấy tự hào,
yêu hơn lịch sử văn chương nghệ thuật của quê hương, ñất nước mình.
Dù ñã có nhiều người nghiên cứu, bàn luận về tri thức văn học sử nói
chung và nội dung tri thức văn học sử ở trường phổ thông nói riêng nhưng có
lẽ vấn ñề khai thác chúng trong quá trình ñọc – hiểu văn bản cụ thể lại hiếm
ñược ñề cập. Do ñó, người viết cảm thấy ñây chính là một trong những mảng
ñề tài còn ñang mở rộng ñể chúng ta có thể ñi vào khám phá và tìm hiểu.
Trong sự hiểu biết có giới hạn, người viết chỉ dám hy vọng một ñiều là
tất cả những gì tiếp thu, học hỏi ñược từ kinh nghiệm của các thầy cô, bạn
bè, ñồng nghiệp và từ thực tế, sách vở, kinh nghiệm bản thân sẽ góp phần
mang lại hướng nhìn mới, diện mạo mới vào việc khai thác các kiến thức
văn học sử trong ñọc – hiểu văn bản Ngữ văn 11 - chương trình chuẩn.
5
2. Lịch sử vấn ñề
Văn chương hình thành, tồn tại và phát triển trong một dòng chảy, như
một dòng chảy. Nó là sự kết tinh, kế thừa giữa truyền thống và hiện ñại. Văn
chương nghệ thuật không bao giờ ngưng ñọng. Có khi nó phải trải qua những
thác ghềnh, những con sóng lớn dữ dội, nhưng có khi lại trôi ñi một cách
phẳng lặng, bình yên. “Thầy giáo dạy lịch sử văn chương là người có ý thức
về dòng chảy ñó, biết nó bắt nguồn từ ñâu (…) ñể biết khi nào dòng chảy văn
chương lại ñổ dốc, khi nào lại có chiều ngưng ñọng, tỏa rộng” [32, tr.9].
Quả thật, văn học sử có ñặc ñiểm và sức mạnh riêng trong môn văn ở
trường trung học phổ thông. Kiến thức văn học sử như là kiến thức “giao
thoa” giữa khoa học và nghệ thuật, ñồng thời văn học sử còn là kiến thức có
tính hệ thống ña chiều, tính bao hàm, khái quát về ngoại diên và nội hàm của
tri thức,…
Với những ñặc ñiểm trên, tri thức văn học sử ở trường trung học phổ
thông xứng ñáng ñể chúng ta khai thác và vận dụng một cách nghiêm túc,
hiệu quả.
Liên quan về ñề tài này ñã có không ít các công trình ñề cập ñến trên cả
hai phương diện nghiên cứu văn học sử và giảng dạy văn học sử. Tuy nhiên
trong khuôn khổ cho phép của ñề tài người viết chỉ giới thiệu một số công
trình nghiên cứu, giảng dạy tiêu biểu ñể xác ñịnh rõ hơn quan ñiểm cũng
như cơ sở lí luận, phương pháp luận cho ñề tài.
2.1 Nói về công trình nghiên cứu văn học sử, ñầu tiên phải kể ñến cuốn
Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm. Nội dung cuốn sách gồm
hai phần : phần 1 – lược khảo về văn học lịch sử Việt Nam, phần 2 – trích
lục những bài thơ văn cổ kim. Mặc dù ñã xuất bản cách ñây rất lâu nhưng
cho ñến nay nhiều kiến giải trong ñó vẫn ñược các nhà nghiên cứu quan tâm
tìm hiểu….
6
Hiện nay một trong những công trình nghiên cứu ñề cập khá ñầy ñủ về
phương pháp luận nghiên cứu văn học sử là cuốn Phương pháp luận nghiên
cứu văn học (Chương 4 – Phương pháp luận văn học sử ) của Giáo sư
Phương Lựu. Công trình ñã ñề cập ñến một số nguyên tắc chung về việc
nhận thức lịch sử văn học, từ ñó xác ñịnh không gian, thời gian văn học sử.
Tác giả nêu ra luận ñiểm khá nổi bật : “Tác phẩm văn học là những tế bào
của văn học sử, nó ñặt cơ sở cho những mối liên hệ bản chất nhất, cơ bản
nhất với nhiều hiện tượng văn học khác như nhà văn, khuynh hướng, trào
lưu, loại thể, bạn ñọc.” [38, tr. 270].
Tiếp ñến phải kể ñến công trình nghiên cứu của Viện Thông tin Khoa
học Xã hội Văn học sử - Những quan niệm mới - Những tiếp cận mới, giới
thiệu một số vấn ñề lí luận và kinh nghiệm của các học giả trong nước và
nước ngoài, ñặc biệt là những quan ñiểm mang tính phương pháp luận của cố
viện sĩ D.S. Likhachev trong quá trình nghiên cứu và biên soạn văn học sử.
D.S. Likhachev ñề cập những quan ñiểm mang tính phương pháp luận trong
quá trình nghiên cứu và biên soạn văn học sử. Ông ñưa ra sơ ñồ chung của
công trình nghiên cứu văn học ñầy ñủ phải ñược xây dựng theo những giai
ñoạn :
1. Nghiên cứu lịch sử văn bản của tác phẩm và trên cơ sở ñó phát hiện
ra những ý ñồ của tác giả, sự tiến hoá của chúng, mức ñộ hoàn chỉnh của
chúng,…
2. Nghiên cứu cá nhân tác giả, sự sáng tác của anh ta và vị trí của tác
phẩm trong sự tiến hóa ñó về sáng tác.
3. Nghiên cứu các kết quả của giai ñoạn thứ nhất trong văn cảnh của
thời ñại (những phong cách thống trị, những thị hiếu, những tiềm năng tư
tưởng, môi trường văn học, những cuộc tranh luận,…)
Bên cạnh những công trình vừa nêu, người viết cũng hết sức quan tâm
ñến việc làm rõ những khái niệm, bình diện cơ bản của phương pháp nghiên
cứu văn học sử thông qua một số bài nghiên cứu chuyên sâu. Ví dụ, nói về
7
mục ñích, nhiệm vụ nghiên cứu của văn học sử, trong bài viết Những giới
hạn của lịch sử văn học của Trương ðăng Dung có nêu : “Lịch sử văn học
không nhằm mục ñích mô tả, hoàn toàn theo trật tự thời gian, các tác phẩm
văn học nằm rải rác ñây ñó, mà chủ yếu là phát hiện ra những mối quan hệ,
những tương ñồng và khác biệt giữa các tác phẩm, ñưa ra các sự kiện văn
học biệt lập vào quá trình chung. Theo ñó, chỉ có những tác phẩm văn học
tồn tại nối tiếp nhau về mặt thời gian. Công việc của nhà nghiên cứu lịch sử
văn học, bề ngoài cũng giống nhà sử học là phục chế lại quá khứ, gợi lại một
thời ñại ñã qua bằng các cứ liệu lịch sử…” [7, tr.58-59].
Lâu nay, có người vẫn cho rằng nghiên cứu lịch sử văn học là một công
việc nghiêm ngặt, bất biến và theo những nguyên tắc cố ñịnh. Nhưng thật ra,
Viết sử văn học - một công việc luôn phải ñổi mới, Nguyễn Văn Dân có viết :
“Thực tế là so với lí luận văn học và phê bình văn học, lịch sử văn học ñã ñi
ñến chỗ có tầm hoạt ñộng rộng lớn hơn ; nó có liên qua ñến rất nhiều lĩnh
vực, bao quát một không gian rộng lớn cả về chiều dọc lẫn chiều ngang và
không thể bỏ qua các diễn biến của xã hội. Thậm chí trên một phương diện
nhất ñịnh lịch sử văn học còn phải thâu tóm cả lý luận và phê bình văn học.”
[65, tr.11].
ðể bổ sung cho vấn ñề vừa nêu trên, Trần Thanh Nam còn ñưa ra Cách
nhìn mới về những vấn ñề văn học sử Việt Nam, nội dung có ñoạn viết như
sau : “Vào những năm gần ñây trong tất cả các lĩnh vực của ñời sống xã hội
ñang diễn ra một sự ñổi mới toàn diện, nhằm hiện ñại hoá ñất nước và nhanh
chóng ñưa nuớc ta theo kịp các nước phát triển trong khu vực và thế giới.
Trong lĩnh vực nghiên cứu văn học nói chung và văn học sử nói riêng chúng
ta ñã mạnh dạn gạt bỏ những quan ñiểm lỗi thời, hẹp hòi và ñưa ra những
nhận ñịnh mới, những ñánh giá mới phù hợp với xu thế mới của thời ñại”
như sự ñổi mới về nhận thức phân kỳ văn học, ñổi mới phương pháp nghiên
cứu văn học cổ,…[42, tr.141].
8
Với tác giả Hoài Nam, khi bàn về vấn ñề nghiên cứu văn học sử ñã
mạnh dạn nêu lên quan ñiểm mạnh mẽ của mình là cần phải Viết lại văn học
sử Việt Nam. ”ðọc các công trình văn học sử Việt Nam ñã có, dễ thấy việc
nghiên cứu văn học ñược ñóng khung chỉ ở bản thân văn học. Và ñây là
nguyên nhân chủ yếu ñưa ñến ấn tượng rằng công việc của người viết văn
học sử chỉ khảo tả và bình tán về các trào lưu, khuynh hướng, tác giả, tác
phẩm” [65, tr.15]. Rõ ràng, ñây là một quan ñiểm tiến bộ trong nghiên cứu
văn học sử. Kiến thức văn học sử ñược nghiên cứu phải ñược mở rộng ở
nhiều phạm vi, lĩnh vực và ñặt trong nhiều mối quan hệ…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu văn học sử bấy lâu nay ñã phần
nào thể hiện tính thời sự, cấp bách, cần thiết của vấn ñề. Việc nghiên cứu văn
học sử ở bất kỳ mọi thời ñại cần phải xác ñịnh ñược mục ñích, nhiệm vụ
cũng như cần phải có một thái ñộ, quan ñiểm nghiên cứu ñúng ñắn, khoa học
và một tư duy nghiên cứu ñổi mới, nhạy bén ñể viết về lịch sử văn học…
2.2 Về phương diện giảng dạy văn học sử có các công trình tiêu biểu
sau :
Trước hết chúng tôi muốn nhắc ñến cuốn Phương pháp dạy học văn của
Giáo sư Phan Trọng Luận. Tác giả biên soạn khá công phu, rõ ràng, tỉ mỉ về
các vấn ñề liên quan ñến tri thức văn học sử từ những ñặc ñiểm, tác dụng ñến
những nguyên tắc, phương pháp và các kiểu bài. ðây là cuốn sách có thể
xem như một cơ sở, phương pháp luận cho việc giảng dạy các kiến thức văn
học sử ở trường trung học phổ thông. Ngay từ phần ñầu (Vị trí môn văn học
sử trong chương trình văn học ở trường phổ thông ), tác giả ñã xác ñịnh :
“Những tri thức về lịch sử văn học giúp cho học sinh hiểu quá trình phát
triển của lịch sử văn học dân tộc (…). Môn văn học sử cung cấp cho học sinh
những hiểu biết về văn học theo quan ñiểm ñồng ñại và lịch ñại. Chương
trình văn học sử ở phổ thông trung học có nhiệm vụ nâng cao, hệ thống hoá
kiến thức văn học sử ở phồ thông cơ sở lên một bước” [28, tr.210]. Ở chỗ
khác (Phương pháp dạy văn học sử trên quan ñiểm hiện ñại ) lại “chú ý ñặc
9
biệt ñến chức năng của văn học trong nhà trường và yếu tố học phát triển
như một cơ sở tâm lí học của việc dạy văn học sử (…). Yêu cầu cơ bản của
ñổi mới phương pháp dạy học văn hiện nay là chuyển từ phương pháp thông
tin tiếp thụ sang phương pháp học sáng tạo. Phương pháp mới phê phán lối
dạy áp ñặt, ñưa kết luận có sẵn cho học sinh ở các bài giảng văn học sử” [28,
tr.246]. Bên cạnh ñó, tác giả còn nêu ra một số phương pháp giảng dạy văn
học sử ở trường THPT như : Phương pháp diễn giảng, phương pháp ñặt câu
hỏi, phương pháp nghiên cứu, phương pháp trực quan, phương pháp sử
dụng sách giáo khoa, phương pháp trần thuật và kể chuyện có nghệ
thuât…Những vấn ñề mà tác giả nêu ra rất hữu ích, cần thiết và chúng ta có
thể học hỏi ñược nhiều kinh nghiệm, ñặt biệt về phương pháp dạy học các
kiểu bài văn học sử một cách khoa học, hiệu quả. Tuy vậy, giáo sư vẫn có
lời nhận xét thêm rằng : “Cho ñến nay trên các tư liệu về khoa học phương
pháp dạy văn, chưa có một ñịnh nghĩa sự phân loại về phương pháp dạy lịch
sử văn học” hay như : “Việc phân loại các kiểu bài văn học sử ñến nay vẫn
chưa thật sự xác ñịnh. Bản thân sự sắp xếp trật tự kiểu bài của chương trình
sách giáo khoa trong nhiều năm qua luôn luôn có sự thay ñổi” [28, tr.252]…
Dưới góc ñộ và phạm vi nghiên cứu của ñề tài, cuốn Giáo trình
phương pháp giảng dạy văn học xuất bản cách ñây hơn 30 năm chỉ nói ñến
“Vấn ñề diễn giải trong một bài văn học sử”, “Vấn ñề sử dụng sách giáo
khoa”, “Cách ghi bảng và hướng dẫn học sinh ghi chép”.
Rõ ràng, kiến thức văn học sử còn nhiều vấn ñề ñể chúng ta khai thác.
Không chỉ ở việc nghiên cứu, giảng dạy hay phân loại mà thực tế lâu nay
việc khai thác, vận dụng chúng trong quá trình ñọc hiểu văn bản nhìn chung
chưa có phương pháp dạy học cụ thể, cho dù công việc nghiên cứu về nó lại
có khá nhiều công trình ñược ñề cập. Từ ñây có một vấn ñề ñặt ra là công
việc nghiên cứu và giảng dạy văn học sử chưa thật sự thống nhất ñồng bộ và
chưa có sự liên hệ gắn kết…
10
Liên quan ñến ñề tài nghiên cứu của mình, ñồng thời ñề xác ñịnh
hướng ñi ñúng trong cách viết và hy vọng góp phần làm sáng tỏ quan ñiểm,
cũng như phương pháp giảng dạy, người viết khác có liê quan trực tiếp hoặc
gián tiếp ñến vấn ñề. Chẳng hạn :
Trong bài viết Phương pháp nghiên cứu tiểu sử nhà văn trong giảng
dạy văn học nước ngoài của TS. Trần Thanh Bình có nêu rằng : “Mặc dù tiểu
sử nhà văn chưa phải là một ñối tượng nghiên cứu ñộc lập nhưng không vì
thế mà chúng ta có thể bỏ qua hay xem nhẹ vấn ñề” [2, tr. 404]. Ở ñây tác giả
ñã nêu lên những ñặc ñiểm cơ bản nhất của phương pháp nghiên cứu tiểu sử
nhà văn trong chương trình giảng dạy văn học nước ngoài ở trường phổ
thông như giới thiệu khái quát những ñặc ñiểm cơ bản của thời ñại, lựa chọn
tư liệu tiểu sử ñể xây dựng bài giảng.,… “Tiểu sử nhà văn không ñược trình
bày thành một phần ñộc lập mà ñược hoà vào quá trình phân tích tác phẩm ;
và ñến lượt mình, tác phẩm không chỉ ñược khảo sát như một thành tựu nghệ
thuật mà còn ñược xem xét như một sự kiện trong tiểu sử nhà văn” [2, tr.
415].
Bài viết của Nguyễn Phương Mai (Tạp chí Khoa học Giáo dục số 28,
2008) khi nhìn nhận về vấn ñề Giảng dạy tác gia văn học ở trường THPT ñã
phân biệt giữa tác gia văn học và tác giả văn học, ñồng thời ñưa ra những
kiến thức cơ bản cần cung cấp cho học sinh khi dạy bài tác gia văn học ở
trường phổ thông và phương pháp thực hiện bài dạy tác gia văn học (phương
pháp dạy học tích hợp và phương pháp dạy học tích cực)…Hai phương pháp
dạy học này ñang ñược phổ biến ở một số trường trung học phổ thông hiện
nay, không chỉ áp dụng cho kiến thức văn học sử mà cho cả những kiến thức
khác (lí luận văn học, văn học nước ngoài, tiếng Việt,…).
Ngoài ra trong một số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
tiêu biểu như : giáo trình Phương pháp luận dạy văn học, Z. Ia Rez (chủ
biên), Phương pháp giảng dạy ở trường phổ thông của V. A. Nhicônxki
cũng có nhiều ý kiến ñáng chú ý liên quan ñến phương pháp giảng dạy văn
11
học sử. ðây là những tài liệu dịch nhưng lại có một vị trí hết sức quan trọng
trong lịch sử xây dựng và phát triển phương pháp dạy học văn.
Giáo trình của Z. Ia Rez hướng dẫn các biện pháp ñể dạy “Phần mở ñầu
của việc ñọc tác phẩm” hoặc ñể dạy “Tiểu sử nhà văn”… Rez cho rằng :
“Một trong những nhiệm vụ của việc nghiên cứu tiểu sử nhà văn trong nhà
trường là chỉ ra cho ñược người nghệ sĩ ñã ñưa vào tác phẩm của mình
những ấn tượng nào về cuộc sống và nghệ thuật và ñưa chúng vào như thế
nào” [51, tr.171-172]. “Nghiên cứu tiểu sử nhà văn phải gây cho học sinh
mối quan tâm ñến nhân cách của nhà văn, ñến những tìm tòi về mặt tư tưởng
ñược phản ánh trong sáng tác. Tiểu sử và quá trình sáng tác của nhà văn
chính là chìa khoá ñể giải quyết những vấn ñề phức tạp của việc phân tích tác
phẩm văn học trong nhà trường” [51, tr.175]. Bên cạnh ñó, ông còn nêu ra
các hình thức có ý nghĩa phương pháp trong vịêc nghiên cứu tiểu sử nhà văn
(giáo viên phải thường xuyên ñặt các em trước một nhiệm vụ nào ñó cần giải
quyết, tạo ñiều kiện cho học sinh tiếp xúc vói nhà văn, tự mình tranh luận và
nói chuyện với ông ta,…)
Trong khi ñó, cuốn Phương pháp giảng dạy ở trường phổ thông của
V. A. Nhicônxki nhắc ñến các nguyên tắc và phương pháp giảng văn chương
và giảng dạy lịch sử văn học, tác giả ñề cập riêng một số biện pháp ñể dạy
các ñề tài tổng quát (tương tự như dạy giai ñoạn văn học sử)…
Tuy nhiên, vấn ñề khai thác các kiến thức văn học sử ứng dụng vào
phần ñọc – hiểu văn bản cụ thể trong từng khối lớp dường như chưa ñược
nhiều công trình nghiên cứu khoa học cũng như các khóa luận, luận văn tốt
nghiệp và các bài báo ñề cập, hoặc có ñề cập thì cũng chỉ mang nội dung
khái quát, ña phần nghiêng về mặt lí thuyết và có tính luận ñề. Nhìn chung,
nó thường làm cơ sở, nền tảng cho người giảng dạy tham khảo, nghiên cứu
ñể góp phần mở rộng nội dung bài giảng của mình.
Từ những vấn ñề vừa nêu ở phần trên, chúng tôi nhận thấy việc nghiên
cứu về kiến thức văn học sử mặc dù ñã chú ý cách ñây rất lâu nhưng về mặt
12
phương pháp giảng dạy chúng còn nhiều hạn chế, ñặc biệt là việc vận dụng
khai thác các yếu tố văn học sử trong quá trình ñọc - hiểu văn bản rất hiếm
ñược chú ý.
Qua thực tế nghiên cứu và giảng dạy, chúng tôi hy vọng những công
trình nghiên cứu, giảng dạy văn học sử về sau sẽ ngày càng nhiều và luôn
luôn ñược ñổi mới cập nhật, luôn luôn có sự gắn kết trong mối liên hệ biện
chứng, bổ sung cho nhau. Nghĩa là giữa việc nghiên cứu và giảng dạy văn
học sử nói riêng, kiến thức văn học nói chung cần phải ñảm bảo tính liên kết,
khoa học và hệ thống.
3. Mục ñích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các kiến thức văn học sử trong quá trình ñọc hiểu văn bản,
chú ý khai thác các kiến thức văn học sử ñể phục vụ, minh họa các nhận ñịnh,
quan ñiểm, thuật ngữ, khái niệm, ñặc ñiểm,… trong các bài học khái quát.
ðồng thời, làm sáng tỏ, khắc sâu nội dung kiến thức của những văn bản ñược
học.
- Góp phần tìm hiểu tác phẩm trong dòng chảy của lịch sử văn học dân
tộc, qua ñó, cảm thấy tự hào hơn về lịch sử văn học nước nhà.
- Thấy ñược tác dụng và hiệu quả của phương pháp khai thác các kiến
thức văn học sử trong quá trình ñọc hiểu các dạng văn bản hiện nay.
4. ðối tượng và phạm vi nghiên cứu
- ðối tượng nghiên cứu : SGK Ngữ văn 11; SGV Ngữ văn 11 và các tài
liệu tham khảo có liên quan ñến ñề tài...
- Nghiên cứu những kiến thức văn học sử trong chương trình sách giáo
khoa Ngữ văn hiện hành.
- Nghiên cứu tình hình và ñề xuất giải pháp cải tiến, ñổi mới phương
pháp khai thác các yếu tố văn học sử trong ñọc - hiểu văn bản cụ thể ở trường
THPT...
13
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp : ñược sử dụng ñể nghiên cứu lịch sử
vấn ñề và phát hiện rút ra những kết luận cần thiết về cơ sở lí luận thông qua
việc tìm hiểu các tư liệu, giáo trình, tạp chí, các bài nghiên cứu thuộc các lĩnh
vực Lí luận văn học, Tâm lí học, Giáo dục học, Phương pháp dạy học văn,…có
liên quan trực tiếp ñến phạm vi ñề tài.
- Phương pháp so sánh, ñối chiếu : ñược sử dụng trong quá trình triển
khai nội dung ñề tài ; dùng ñể so sánh, ñối chiếu các sự vật - hiện tượng một
cách khách quan, ñạt hiệu quả.
- Phương pháp ñiều tra, khảo sát : ñược sử dụng ñể thu thập những tư liệu
thực tế về tình hình dạy học văn ñang diễn ra ở trường THPT Dân Lập An ðông
và một số trường THPT khác trên ñịa bàn TP. Hồ Chí Minh có liên quan trực
tiếp ñến nhiệm vụ nghiên cứu của ñề tài.
- Phương pháp thống kê : ñược sử dụng ñể xử lí các số liệu thu thập trong
quá trình khảo sát, bổ sung cho phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm ñạt tới
những kết luận chính xác, khách quan.
- Phương pháp thực nghiệm : dùng thực nghiệm các giáo án ñề xuất ñể
kiểm nghiệm khả năng ứng dụng của ñề tài vào quá trình dạy học ñọc hiểu văn
bản văn học.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của ñề tài nghiên cứu
- Thấy ñược tầm quan trọng của việc khai thác các kiến thức văn học sử
trong quá trình dạy ñọc hiểu văn bản cụ thể.
- Một số ñề xuất có tính ñịnh hướng ñổi mới trong phương pháp khai thác
kiến thức văn học sử khi dạy ñọc - hiểu văn bản.
- Xây dựng thử nghiệm một số mô hình cho phép khai thác các yếu tố văn
học sử một cách hiệu quả nhất
7. Cấu trúc của luận văn
14
Ngoài các phần Mở ñầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần
chính văn của Luận văn gồm 104 trang, chia làm ba chương.
- Chương thứ nhất : Kiến thức văn học sử trong chương trình Ngữ
văn THPT
Nội dung chương một chủ yếu giới thiệu những vấn ñề chung về kiến
thức văn học sử trong chương trình Ngữ văn THPT. ðó là những kiến thức khái
quát về vị trí, vai trò, ñặc ñiểm, cấu tạo của kiến thức văn học sử cũng như các
nguyên tắc dạy học văn học sử trong chương trình Ngữ văn THPT. Bên cạnh ñó,
người viết còn nêu ra hệ thống kiến thức văn học sử cơ bản trong chương trình
sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành.
Nhìn chung, nội dung chương một chỉ là những vấn ñề mang tính chất lí
thuyết nhưng là cơ sở lí luận ñể chúng tôi vận dụng triển khai trong chương hai
một cách rõ ràng, cụ thể hơn…
- Chương thứ hai : Phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử
trong chương trình Ngữ văn THPT
Nội dung chương hai ñược xác ñịnh là phần cơ bản, trọng tâm nhất của
luận văn, chủ yếu ñi sâu vào cách thức khai thác, vận dụng kiến thức văn học sử
như thế nào trong quá trình ñọc - hiểu các văn bản cụ thể thật hiệu quả. Bên
cạnh cách thức khai thác, người viết còn nhận xét tình hình giảng dạy văn học sử
nói chung ở trường THPT bấy lâu nay - có khá nhiều vấn ñề ñể chúng ta nhìn
nhận lại một cách khách quan và thực tế hơn.
Thực chất, nội chung chương hai sẽ minh hoạ cho những lí thuyết, những
quan ñiểm lí luận mà chương một ñã ñề cập.
- Chương thứ ba : Thực nghiệm sư phạm
Là chương mang tính chất kiểm nghiệm, ñánh giá tính khả thi của ñề tài.
Trong chương ba có ñưa ra một mô hình giáo án mẫu thuộc văn bản thơ trong
chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 2 cho phép khai thác các yếu tố
văn học sử một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên ñây chỉ là một mô hình thử
nghiệm, tuỳ vào mỗi thể loại văn bản ở từng khối lớp mà chúng ta sẽ ñịnh
15
hướng, tổ chức cho học sinh khai thác những kiến thức văn học sử khác nhau.
Không nhất thiết phải tuân theo những công thức cố ñịnh, sẵn có mà ñòi hỏi phải
biết phối hợp giữa tất cả các kiến thức có trong văn bản…
16
CHƯƠNG 1 - KIẾN THỨC VĂN HỌC SỬ TRONG CHƯƠNG
TRÌNH NGỮ VĂN THPT
1.1 Những vấn ñề chung
1.1.1 Vị trí, vai trò của kiến thức văn học sử trong chương trình
Ngữ văn THPT
Kiến thức văn học sử trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THPT
hết sức phong phú, ña dạng, có khả năng cung cấp cho học sinh một vốn hiểu
biết về lịch sử phát triển văn học dân tộc, bao gồm những tác giả, tác phẩm
tiêu biểu cho từng thời kỳ, giai ñoạn phát triển của nền văn học dân tộc cùng với
các ñề tài, thể loại, ngôn ngữ, quan ñiểm sáng tác,…
Trong chương trình, học sinh chỉ ñược học trực tiếp một số tác giả tiêu
biểu, chọn lọc. Nhưng qua sự hướng dẫn của giáo viên, qua bài giảng, sách vở,
giáo trình, các em sẽ làm quen với hàng trăm tên tuổi nhà văn, nhà thơ nổi tiếng
trong và ngoài nước. Vốn tri thức văn học này là hành trang cơ bản, tối thiểu cần
thiết cho ñời sống văn hoá một công dân.
Từ những sự kiện, hiện tượng văn học sử cụ thể trong từng thời kỳ giai
ñoạn khác nhau, học sinh sẽ ý thức ñược sự phát triển không ngừng vươn lên
của nền văn học dân tộc, sự phát triển của ngôn ngữ tiếng Việt và sự giàu ñẹp
của nền văn hoá giàu truyền thống yêu nước, tinh thần nhân văn cao cả trong
mấy ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Cũng qua các kiến thức văn học sử ñược học ở trường, học sinh sẽ cảm
nhận và ý thức ñược những ñóng góp quý giá của dân tộc vào kho tàng văn học
chung của nhân loại. Các em sẽ cảm thấy tự hào hơn về nền văn học nước nhà
với bản sắc hết sức ñặc trưng, riêng biệt của nó. ðó là kết quả của quá trình ñấu
tranh, phát triển và tiếp thu có chọn lọc mọi thành tựu của nền văn hoá nhân
loại.
17
Bên cạnh ñó, văn học sử còn góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho
học sinh. Văn học là một dòng chảy không ngừng, là tấm gương phản chiếu ñời
sống muôn màu muôn vẻ. Nó là sự kết tinh, kế thừa những giá trị tinh thần quý
báu có từ ngàn ñời. Chính vì vậy, giờ dạy văn không thể là những giờ dạy khô
khan, nhàm chán, mà là những giờ học giúp các em cảm thấy yêu hơn tiếng mẹ
ñẻ, tự hào hơn về những truyền thống dựng nước, giữ nước của ông cha ñể tiếp
bước làm giàu thêm di sản văn hoá dân tộc, ñưa xã hội tiến lên và hướng tới hội
nhập quốc tế.
Văn học nâng cao phẩm giá dân tộc và phẩm giá con người. Muốn biết
dân tộc ñó phát triển, trưởng thành như thế nào, ta không chỉ dựa vào nền kinh
tế, văn hóa, chính trị, xã hội ñể ñánh giá mà phải dựa vào những giá trị tinh thần
vô giá có ñược của dân tộc ñó.
Trong dòng chảy của lịch sử văn học Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa nhân ñạo như hai truyền thống gắn chặt với nhau, ñã trở thành tư
tưởng - nghệ thuật bao trùm. Dạy văn học sử Việt Nam ở trường phổ thông
không thể không ñặt lên hàng ñầu nhiệm vụ giáo dục. Chúng ta phải ý thức
thường xuyên cho học sinh lòng yêu nước và lòng nhân ái – hai nét cốt lõi và
gắn chặt với nhau của tâm hồn, tình cảm Việt Nam.
Kiến thức văn học sử ở trường phổ thông còn có khả năng rèn luyện tư
duy logic và tư duy hình tượng cho học sinh. Tư duy logic và tư duy hình tượng
rất cần thiết cho việc tiếp nhận tri thức văn chương, ñặc biệt ñối với tri thức văn
học sử nói riêng. Trong các tiết học của từng kiểu bài văn học sử, học sinh sẽ
ñược rèn luyện các kỹ năng như : phân tích, tổng hợp, cụ thể hoá, khái quát hoá,
ghi nhớ, suy luận, ñối chiếu, so sánh, hệ thống hoá, trích dẫn, minh hoạ,… ñể từ
ñó, vận dụng vào quá trình ñọc – hiểu các dạng văn bản. Ngoài ra, giờ học lịch
sử văn chương trong nhà trường còn hình thành ở học sinh thói quen tự nghiên
cứu và “làm việc với sách giáo khoa” như : xác ñịnh các luận ñiểm chính của bài
học, hệ thống hoá các luận cứ, luận chứng, các thuật ngữ, phạm trù, ñịnh nghĩa,
18
khái niệm cơ bản của bài học, nhận biết mối liên hệ trước sau và tầm quan trọng
của bài học.
Hầu như các kỹ năng trên hiện rất ít giáo viên quan tâm khi dạy các kiểu
bài văn học sử. Chúng ta phải tập cho các em tìm hiểu các sự kiện của thời ñại,
phân loại các sự kiện ñó, ñể mà rút ra các nhận ñịnh về thời ñại làm cơ sở cho
việc phân tích văn học. Ngược lại, yêu cầu các em dẫn chứng về mặt nhận ñịnh
văn học sử là tập cho các em kỹ năng cụ thể hoá. Từ các chi tiết ñược phân tích
về mặt tác phẩm, ta cũng có thể dùng phần khái quát hoá làm nhận ñịnh chung
về tác phẩm cho học sinh…Ví dụ :
- Vì sao văn học trung ñại từ thế kỷ XVIII ñến hết thế kỷ XIX xuất hiện
trào lưu nhân ñạo chủ nghĩa? Hãy chỉ ra những biểu hiện phong phú, ña dạng
của nội dung nhân ñạo trong giai ñoạn này?
- Vì sao văn học hiện ñại từ ñầu thế kỷ XX ñến Cách mạng tháng Tám
1945 lại diễn ra quá trình hiện ñại hóa? và xuất hiện nhiều trào lưu, xu hướng
văn học (lãng mạn, hiện thực)?
Ngoài ra, kiến thức văn học sử trong chương trình góp phần giúp học
sinh hình thành quan ñiểm và phương pháp phân tích, ñánh giá các hiện tượng
văn học một cách khoa học
Bất kỳ một vấn ñề nào, khi ñánh giá, phân tích phải ñặt chúng trong mối
quan hệ biện chứng của nó. ðể ñánh giá một thời kỳ, giai ñoạn văn học nhất
thiết phải ñặt nó trong hoàn cảnh, môi trường ñã sản sinh ra nó. Chẳng hạn, khi
nói về tác giả, không chỉ nói ñến cuộc ñời, sự nghiệp, quan ñiểm một cách
chung chung mà ñiều quan trọng hơn là phải biết phân tích chúng như một tổng
thể về ñề tài, chủ ñề, thi pháp, ngôn ngữ, phong cách,… và tác dụng của nó ñối
với xã hội ñương thời như thế nào, có ý nghĩa giáo dục ra sao? Cần phân tích sao
cho nhà văn ấy thật sự nổi bật, tiêu biểu về cá tính, phong cách, sự nghiệp sáng
tạo trong giai ñoạn mà các em sẽ tìm hiểu.
19
Cũng như khi phân tích tác phẩm, ñòi hỏi trước hết là tìm hiểu nguồn
gốc, mục ñích, quan ñiểm, hoàn cảnh sáng tác. Sau ñó mới ñi vào việc phân tích
giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Cuối cùng là ñánh giá tác dụng của
nó ñối với xã hội ñương thời và hiện nay như thế nào.
Phân tích, ñánh giá các hiện tượng văn học sử ñòi hỏi không chỉ có cái
nhìn lịch ñại, mà cần có cái nhìn ñồng ñại, gắn liền lịch sử văn chương dân tộc
với lịch sử văn chương thế giới, làm cho học sinh nâng cao tầm hiểu biết của
mình.
Nhìn chung, kiến thức văn học sử trong chương trình THPT có vị trí và
vai trò hết sức quan trọng. Các kiến thức văn học ñó không chỉ gói gọn dăm ba
câu chữ trong sách hay vài dòng, vài trang mà chúng là những kiến thức mang
tính hệ thống, xuyên suốt cả một quá trình lịch sử lâu dài, không ngừng kế thừa,
phát huy và chọn lọc. Chính vì vậy, người giáo viên ñứng lớp phải luôn trao
dồi, cập nhật ñầy ñủ những kiến thức văn học sử ñể kịp thời ñưa ñến những
thông tin cần thiết, bổ ích cho học sinh.
1.1.2 ðặc ñiểm của kiến thức văn học sử trong chương trình Ngữ
văn THPT
Kiến thức văn học sử trong chương trình Ngữ văn THPT là những kiến
thức có tính giao thoa giữa khoa học và nghệ thuật, có quan hệ tương tác ở
nhiều bình diện và là những kiến thức bao hàm, nhiều cấp ñộ, vận ñộng trong
dòng chảy tiến bộ của văn học.
Khái niệm giao thoa ñược hiểu là trong kiến thức khoa học có yếu tố
nghệ thuật, trong tư duy lí luận có tư duy nghệ thuật, trong cảm nhận lí tính có
cảm tính. Các yếu tố này có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau ñể tạo nên hiệu
quả thẩm mĩ khi tiếp nhận.
Nói ñến tri thức mang tính khoa học là nói ñến hệ thống các ñịnh nghĩa,
khái niệm, nhận ñịnh văn học sử về giai ñoạn, thời kỳ, thể loại, tác gia, tác
20
phẩm, có khi bao gồm cả tri thức lịch sử, ñịa lý, văn hoá, xã hội, nghệ
thuật,…Bài Khái quát văn học Việt Nam từ ñầu thế kỷ XX ñến Cách mạng tháng
Tám năm 1945 – SGK Ngữ văn 11, tập 1 ñã ñưa ra hàng loạt các khái niệm,
thuật ngữ mà giai ñoạn văn học trước chưa từng xuất hiện như hiện ñại hoá văn
học, cách mạng hóa văn học, văn học giao thời, văn học công khai, văn học
không công khai, văn học lãng mạn, văn học hiện thực, phong trào Thơ mới, …
Chính những thuật ngữ vừa nêu ñã thể hiện tính văn học sử rất rõ, bởi
nó chỉ có thể xuất hiện ở giai ñoạn này mà không thể xuất hiện ở những giai
ñoạn khác. Ví như khái niệm hiện ñại hoá chỉ có thể xuất hiện trong giai ñoạn
ñầu thế kỷ XX ñến 1945 là do bối cảnh lịch sử. Từ ñầu thế kỷ XX, văn hoá Việt
Nam dần dần thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa phong kiến Trung Hoa, bắt ñầu
mở rộng tiếp xúc với văn hoá phương Tây mà chủ yếu là văn hoá Pháp. Luồng
văn hoá mới thông qua tầng lớp trí thức Tây học ngày càng thấm sâu vào ý thức
và tâm hồn người cầm bút cũng như người ñọc sách. ðến ñầu thế kỷ XX, chữ
quốc ngữ ñã thay thế chữ Hán, chữ Nôm trong nhiều lĩnh vực tạo ñiều kiện
thuận lợi cho dân chúng tiếp xúc,…Những nhân tố vừa nêu ñã tạo ñiều kiện cho
nền văn học Việt Nam ñổi mới, phát triển theo hướng hiện ñại hoá và có thể hội
nhập với nền văn học hiện ñại thế giới…
Nói ñến tri thức mang tính nghệ thuật là nói ñến nghệ thuật minh họa cho
văn học sử bằng tác phẩm. Chẳng hạn, ñể nói về “cái tôi” cá nhân trong giai
ñoạn văn học 1930 – 1945, chương trình SGK Ngữ văn 11, tập 2 dẫn ra một số
tác phẩm thuộc thể loại thơ tiêu biểu như : Hầu Trời (Tản ðà), Vội vàng (Xuân
Diệu), Tràng giang (Huy Cận), ðây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử),…“Cái tôi” cá
nhân thời kỳ này thức tỉnh, trỗi dậy mạnh mẽ ở bộ phận thanh niên trí thức sau
hàng trăm năm bị kìm hãm. Chính “cái tôi” cá nhân này là một trong những
ñộng lực tạo nên sự phát triển với một tốc ñộ hết sức nhanh chóng và những
thành tựu rực rỡ của văn học Việt Nam nửa ñầu thế kỷ XX theo hướng hiện ñại
hoá…
21
Dạy văn học sử không chỉ suy lí mà ñòi hỏi có cả sự cảm thụ nghệ thuật
một cách toàn diện, phải toát lên ñược cái “hồn” của tác phẩm, phải tạo sự rung
ñộng ở học sinh. Có như vậy mới ñảm bảo tính ñặc trưng của môn học thiên về
nghệ thuật hơn các môn khoa học xã hội khác.
Khái niệm tính hệ thống ña chiều của kiến thức văn học sử ñược thể hiện
ở mối quan hệ tương tác nhiều bình diện.
Ở phương diện lịch ñại, chú ý sự phát triển theo thời gian của các sự vật,
hiện tượng, chú ý ñến ñộng lực vận ñộng của quá trình, các niên ñại của hiện
tượng, tính chất biên niên của sự phát triển, tính kế thừa và cách tân của lịch sử
văn học.
Ở phương diện ñồng ñại, ñó là mối quan hệ với các hiện tượng kinh tế,
văn hoá, xã hội trong cùng thời gian và cả với các hiện tượng văn học sử của
các nước khác cũng trong cùng thời gian ñó. Ngoài ra, ñó còn là mối quan hệ
tương quan của các hiện tượng văn học khác nhau trong cùng thời ñiểm, kể cả
hiện tượng ý thức xã hội. Xã hội chi phối văn học và văn học có tác ñộng trở lại
ñối với xã hội. Tuy nhiên, không phải xã hội nào thì có nền văn học ấy, nghĩa là
có sự phát triển không tương xứng. Chẳng hạn xã hội Việt Nam trong giai ñoạn
thế kỷ XVIII, XIX với chế ñộ phong kiến suy tàn, thối nát, kinh tế trì trệ nhưng
văn học thời kỳ này lại phát triển vượt bật với sự xuất hiện nhiều gương mặt nhà
văn, nhà thơ nổi tiếng : Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn
ðình Chiểu,…Có thể xem, giai ñoạn văn học thế kỷ này là một giai ñoạn văn
học phát triển “hoàng kim” trong dòng chảy tiến bộ chung của nền văn học trung
ñại – kéo dài ngót mười thế kỷ.
Về phương diện ñồng ñại, ngoài mối quan hệ với các tác gia, tác giả, và
mối quan hệ giữa các tác phẩm văn học cùng thời, còn có mối quan hệ giữa tác
phẩm văn học trong nước với các tác phẩm văn học nước ngoài. Vì thế, khi học
22
sử thi Vệt Nam ta cần so sánh, ñối chiếu với sử thi Ấn ðộ. Dạy thần thoại Việt
Nam cũng cần so sánh với thần thoại Hy Lạp,…
Bên cạnh tính giao thoa, tính hệ thống ña chiều, kiến thức văn học sử còn
thể hiện tính bao hàm (tích hợp) và cấp ñộ. Tri thức văn học sử ở trường phổ thông nhìn chung, có 3 cấp ñộ : Khái quát các giai ñoạn (cid:1) các tác gia tiêu biểu (cid:1) các tác phẩm tiêu biểu.
Chương trình trước ñây, mối quan hệ giữa kiến thức khái quát và cụ thể
phần lớn ñược xây dựng thành mô hình 1 với nhiều cấp ñộ : cấp ñộ khái quát
toàn bộ - cấp ñộ khái quát thời kỳ - cấp ñộ khái quát thể loại (hoặc xu hướng,
giai ñoạn, chặng ñường nhỏ) - cấp ñộ khái quát tác giả - cấp ñộ khái quát tác
phẩm - cấp ñộ ñoạn trích.
ðối với chương trình Ngữ văn ñược cải cách, kiến thức khái quát và cụ
thể ñược rút ngắn thành mô hình 2 : khái quát giai ñoạn – khái quát tác giả -
khái quát tác phẩm. Ví dụ: Giai ñoạn văn học XX – 1945 – tác giả Nam Cao –
tác phẩm Chí Phèo,…
Phổ biến nhất là mô hình 3 : khái quát giai ñoạn – các tác phẩm (ñoạn
trích). Ví dụ: Giai ñoạn văn học XX - 1945 với một số tác phẩm tiêu biểu : Hai
ñứa trẻ, Chữ người tử tù, Hạnh phúc của một tang gia (trích Số ñỏ), Chí
Phèo,…
Rõ ràng, mô hình trong chương trình trước ñây mặc dù cụ thể, chi tiết
nhưng do nhiều cấp ñộ khá phức tạp, học sinh khó hình dung, khó nắm bắt các
vấn ñề. Có lẽ, mô hình 2, 3 hợp lí hơn khi giảm ñi những cấp ñộ không cần thiết.
“Nghiên cứu tính sư phạm của kiến thức văn học sử về mặt cấp ñộ, ta còn
thấy văn học sử ở cấp ñộ trung học cơ sở khác với cấp ñộ trung học phổ thông.
Ở cấp ñộ trung học cơ sở, ñó là ñi từ cụ thể ñến khái quát thấp. Ở cấp ñộ trung
23
học phổ thông, khái quát thấp ñược nâng lên khái quát cao rồi lại ñi ñến cụ thể”
[32, tr.20].
ðối với các lớp phổ thông cơ sở, do chương trình giảng dạy chưa ñặt ra
các yêu cầu về những kiến thức lịch sử, lí luận văn học, cũng như chưa ñòi hỏi
học sinh phải phân tích, vận dụng các kiến thức ấy vào quá trình ñọc hiểu một
cách ñầy ñủ và phức tạp nên mức ñộ nghiên cứu ở mức khái quát thấp. Còn ñối
với các lớp, nhất là các lớp cuối cấp phổ thông trung học, do yêu cầu ñặt ra là :
học sinh phải ñược trang bị những kiến thức cơ bản về lí luận và lịch sử văn
học, phải có những hiểu biết nhất ñịnh về tác giả, tác phẩm, thể loại, thời kỳ văn
học, phải hình thành ñược thế giới quan, nhân sinh quan và xác ñịnh ñược vị trí
của mình trong xã hội,…vấn ñề nghiên cứu, vận dụng những kiến thức văn học
sử sẽ mang cấp ñộ khái quát cao, chứa ñựng dung lượng lớn hơn và mang tính
chất hoàn chỉnh hơn.
Kiến thức văn học sử còn là kiến thức mang tính tích hợp. Bởi lẽ, thông
qua ñó, chúng ta có thể kết hợp dạy lí luận văn học. “Văn học sử là trữ liệu cho
những khái quát lí luận văn học. Còn những khái niệm lí luận văn học là những
kiến thức văn học sử ñã ñựơc nâng lên tầm khái quát hoá cao hơn, lí luận văn
học trở lại ñịnh hướng cho văn học sử” [28, tr.222]. Tính chất này ñòi hỏi từng
bài dạy văn học sử phải hướng ñến những khái quát nhỏ về lí luận văn học ñược
phân phối trong từng bài trên cơ sở các mục tiêu lí luận văn học ñã quy ñịnh
trong chương trình. Trong chương trình ñổi mới lần này, các kiến thức lí luận
văn học ñược hình thành rải rác qua từng văn bản cụ thể. Trước ñó, kiến thức
này ñược khái quát cao hơn qua các giờ lí luận văn học dành riêng ñược phân
phối ở cuối năm học.
Những thuật ngữ, khái niệm văn học như : bi kịch, thể loại, ngôn ngữ, ñề
tài,…ñứng ở một góc ñộ nào ñó là thuộc lĩnh vực lí luận nhưng xét trong tiến
trình phát triển của lịch sử văn học thì chúng lại thể hiện tính văn học sử rất rõ
nét. Có những thể loại từng xuất hiện trong giai ñoạn văn học trung ñại : hịch,
24
cáo, chiếu, biểu,…nhưng ñến giai ñoạn văn học hiện ñại hầu như không ñược
vận dụng và ñến nay không còn nữa mà thay vào ñó là những thể loại khác.
Cùng là nội dung kêu gọi kháng chiến cứu quốc nhưng Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến của Hồ Chí Minh sẽ khác với lời kêu gọi trong Hịch tướng sĩ của
Trần Quốc Tuấn. Cùng là thể kí nhưng Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác
khác với Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Vũ trung tuỳ bút của Phạm
ðình Hổ khác với tuỳ bút của Nguyễn Tuân…
Lí luận vừa là công cụ giúp cho giáo viên phân tích văn học sử, vừa là
mục ñích cần ñạt của bài dạy văn học sử. Lí luận văn học ñược vận dụng ñồng
thời cũng là ñích khái quát về mặt lí luận văn học của bài văn học sử. Không
nắm vững tác phẩm ở mức ñộ chỉnh thể hoặc ở mức ñộ phân tích thì không thể
khắc sâu các nhận ñịnh văn học sử. ðồng thời, các kết luận văn học sử thường
là các chủ ñề làm văn nghị luận văn học. Trong quá trình ñó, các em sẽ ñược rèn
luyện cách dùng từ, ñặt câu, dựng ñoạn,…
Tính chất tích hợp của văn học sử còn thể hiện thông qua mối quan hệ
mật thiết với tiếng Việt. Quan hệ mật thiết giữa môn văn học và môn tiếng Việt
cần ñược thể hiện trong việc giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh
THPT. Quan hệ giữa văn học sử và tiếng Việt là quan hệ hỗ trợ, bổ sung : khi
tìm hiểu phân tích một tác phẩm sự ñóng góp của một xu hướng, bộ phận văn
học không thể không nói ñến sự ñóng góp của nó vào sự phát triển của ngôn
ngữ dân tộc, sự ra ñời và phát triển của các ñề tài và loại thể. Chẳng hạn, xu
hướng văn học lãng mạn giai ñoạn 30 – 45 thường tìm ñến các ñề tài về tình
yêu, về thiên nhiên và quá khứ, thể hiện khát vọng vượt lên trên cuộc sống hiện
tại chật chội tù túng, dung tục, tầm thường, chú trọng diễn tả những cảm xúc
mạnh mẽ, những tương phản gay gắt trong tâm hồn con người,…
Tính chất tích hợp giúp cho việc dạy học văn học sử có ý nghĩa quan
trọng trong việc dạy học văn nói chung. Dạy văn học sử quán triệt tính tích hợp
ñòi hỏi sự nghiên cứu công phu, sáng tạo nội dung và phương pháp dạy học.
25
Giới văn học sử Trung Quốc cũng ñều thống nhất nêu cao khẩu hiệu “sử luận
kết hợp”. Theo giáo sư Phương Lựu, cụ thể là “Dĩ luận ñái sử” (lấy lí luận ñể
dẫn dắt lịch sử), “Luận tòng sử xuất” ( lí luận toát ra từ lịch sử)…
Ngoài ra kiến thức văn học sử trong chương trình còn thể hiện tính liên
cấp. Văn học sử ở cấp THPT với văn học sử ở cấp THCS là mối quan hệ vừa
ñồng tâm vừa ñường thẳng. Quan hệ ñồng tâm là tiếp tục khẳng ñịnh lại giá trị
các tri thức cơ bản về văn học sử ở cấp cơ sở vừa nâng cao mở rộng và hệ thống
hoá lại, nâng cao về tính khái quát, mở rộng về diện hiểu biết,…Quan hệ ñường
thẳng là nó cần phải cung cấp thêm các tri thức cơ bản mới, nằm trong các cấu
trúc mới mà học sinh cấp THCS chưa ñược học.
Ví dụ : Ở cấp THCS, sau khi học xong về văn học dân gian, học sinh ñã
biết các ñặc ñiểm của văn học dân gian (tính truyền miệng, tính diễn xướng, tính
dị bản) và một số thể loại (ca dao, tục ngữ, thần thoại, truyền thuyết,…). Sang
cấp THPT - cụ thể lớp 10, nhiệm vụ dạy văn học sử ở bài này phải là :
- Khẳng ñịnh lại bản chất xã hội và các ñặc trưng của văn học dân gian,
thể loại.
- Mở rộng sự hiểu biết về văn học dân gian của các dân tộc trong cộng
ñồng Việt Nam
- Nâng cao tính khái quát về ñặc trưng : Văn học dân gian còn là loại văn
học nghệ thuật tổng hợp, ñồng thời còn là loại nghệ thuật ngôn từ, là những sáng
tác tập thể của nhân dân,…
- Hệ thống hoá kiến thức : ðặc trưng kết cấu, thể loại, vai trò và giá trị
trong nền văn học, kỹ năng và cách tiếp cận một tác phẩm văn học dân gian,…
Nhìn chung ñặc ñiểm chương trình văn học sử ở THPT khá ña dạng. Có ý
thức ñược ñặc ñiểm của chương trình, giáo viên mới có kế hoạch chủ ñộng trong
từng tiết học…
26
1.1.3 Mục tiêu, nội dung của kiến thức văn học sử trong chương
trình Ngữ văn THPT
Bộ SGK Ngữ văn THPT hiện hành ñược “xây dựng như một chỉnh thể
văn hoá mở trong nhiều quan hệ...” [34, tr.4]. Theo tinh thần ñổi mới của
chương trình giáo dục phổ thông “hệ thống tri thức văn học ñược cấu trúc một
cách hợp lí trên các phương diện lịch sử và loại thể. Trình tự lịch sử văn học dân
tộc vẫn ñược chú ý trong sự ñối sánh với văn học nước ngoài. Song tiêu chí loại
thể ñược chú trọng hơn so với chương trình cũ” [34, tr.4]. Tiếp tục quan tâm ñến
sự phát triển của loại thể, SGV Ngữ văn 11 có bổ sung thêm: “…Khi tiếp cận
các văn bản văn học, chúng ta tiếp tục quan tâm ñến sự phát triển của loại thể.
Nhưng không nên chỉ chú trong loại thể mà coi nhẹ phát triển về lịch sử. Ở
THPT cần cung cấp cho học sinh những tri thức khái quát và hệ thống về văn
học. Kiến thức có tính lịch sử rất cần thiết cho sự hình thành thói quen và khả
năng tư duy tổng hợp ở học sinh. Mỗi văn bản ñược nhìn từ góc ñộ loại thể lại
cần ñược ñặt vào hệ thống lịch sử…” [35, tr.4].
Rõ ràng, cấu trúc chương trình cải cách lần này có sự thay ñổi, lịch sử
văn học không còn là cơ sở ñộc tôn. Vì vậy chúng ta cần phải khai thác các kiến
thức văn học sử một cách hệ thống, khoa học, cụ thể trong quá trình ñọc hiểu
văn bản ñể bù ñắp cho sự không ñộc tôn ñó. Những kiến thức trong bài khái quát
về thời kỳ, giai ñoạn, tác gia, tác phẩm là tiền ñề tạo cơ sở cho việc ñọc hiểu các
văn bản. Ngược lại, khi ñọc hiểu các văn bản trên tinh thần khắc sâu các kiến
thức văn học sử sẽ góp phần làm sáng tỏ các nhận ñịnh, luận ñiểm…
Mặc dù, chương trình cải cách lần này không xem nhẹ tri thức văn học
sử, nhưng so với chương trình cải cách lần trước (Văn học chỉnh lí hợp nhất
2000) thì nó có phần “giảm tải” hơn. “Chương trình Ngữ văn THPT hướng chủ
yếu vào ñọc văn chứ không phải văn học sử, tri thức văn học sử chủ yếu chỉ giúp
cho ñọc văn có căn cứ về ngữ cảnh lịch sử” [34, tr.9].
27
- Kiến thức khái quát và kiến thức cụ thể trong chương trình văn học sử
THPT :
Số tiết khái quát về thời kỳ, giai ñoạn văn học, về tác giả, tác phẩm so với
chương trình trước giảm ñi ñáng kể. Cụ thể, lớp 11 chỉ còn 2 tác gia : Nam Cao,
Nguyễn ðình Chiểu (bớt ñi Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu)…Tuy nhiên, phần tri
thức về các tác gia có phần cô ñọng, ngắn gọn hơn - hầu như không có bài học
riêng về tác gia mà chúng là một phần của tác phẩm. Ví dụ học tác gia Nam Cao
gộp chung với giảng dạy tác phẩm Chí Phèo…
Các bài khái quát về tác phẩm (giới thiệu tác phẩm) cũng giới hạn. Ví dụ,
trước ñây, SGK Văn học lớp 11 có giới thiệu tác phẩm Lục Vân Tiên của
Nguyễn ðình Chiểu, SGK Ngữ văn hiện nay không có, các em chỉ tiếp xúc với
một trích ñoạn ngắn (Lẽ ghét thương)…Số tác giả và số lượng tác phẩm văn học
nước ngoài thay ñổi, ñược chọn cũng không nhiều. Số tiết dành cho văn học
nước ngoài (lớp 11 chỉ có 10 tiết)…
- Kiến thức văn học sử ñược phân kỳ theo những giai ñoạn lớn, mang
nhiều ý nghĩa lịch sử văn học:
Chương trình Ngữ văn THPT hiện hành quan niệm : lịch sử chính trị và
lịch sử văn học có quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không nên ñồng nhất hai
vấn ñề ñó. “Nên chú ý nêu lên những ñặc ñiểm về quan hệ giữa ngôn ngữ với
dân tộc, về tư tưởng nghệ thuật, về phong cách, về thi pháp,…mang tính chất
thời ñại và cá nhân ở mỗi thời kỳ, khiến cho thời kỳ trước ñược phân biệt với
thời kỳ sau” [28, tr.216]. Theo ñó, văn học sử Việt Nam ñược chia thành hai
dòng : văn học dân gian và văn học viết. Văn học viết ñược chia thành ba thời
kỳ lớn, ñó là:
(cid:1) Văn học từ thế kỷ X ñến hết thế kỷ XIX.
(cid:1) Văn học từ ñầu thế kỷ XX ñến Cách mạng tháng Tám năm 1945.
28
(cid:1) Văn học từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 ñến hết thế kỷ XX.
Văn học từ thế kỷ X ñến hết thế kỷ XIX ñược gọi là “văn học trung ñại”.
Hai thời kỳ tiếp theo, tuy mỗi thời kỳ có một số ñặc ñiểm riêng, song ñều nằm
trong xu hướng hiện ñại hoá chung nên ñược gọi là “văn học hiện ñại”.
Cũng phải nói là sự phân loại trên có tính tương ñối, nhất là ở bước
chuyển tiếp từ văn học trung ñại sang văn học hiện ñại, trên thực tế có giai ñoạn
giao thời khoảng ba mươi năm ñầu thế kỷ XX. Trong giai ñoạn ñó cái cũ và cái
mới giao tranh, nhưng xu thế chung là cái mới thắng lợi. Do vậy, có thể coi giai
ñoạn giao thời này thuộc về văn học hiện ñại.
Sự phân kỳ ở ñây ñã kết hợp ñược căn cứ xã hội của văn học và các quy
luật phát triển nội tại của văn hóa. Văn học từ 1945 trở về sau rõ ràng là nền văn
học hoàn toàn mới, nền văn học ñặt dưới sự lãnh ñạo của ðảng, phục vụ cho
cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lịch sử văn học ở ñây gần như trùng khít
hoàn toàn với chế ñộ chính trị xã hội, với nhu cầu thẩm mĩ của quần chúng, với
những biến ñổi trong quan ñiển nghệ thuật cũng như hoạt ñộng sáng tác.
- Phân kỳ văn học sử chú ý ñến thể loại trong từng thời kỳ văn học
Chương trình và SGK Ngữ văn ñược cải cách lần này không chỉ tuyển
chọn những áng văn chương nghệ thuật mà còn có thêm những bản văn nhật
dụng, nghị luận xã hội,…ðây là một khuynh hướng xây dựng chương trình Ngữ
văn hiện nay của nhiều nước tiên tiến. Có nước còn ñặt vấn ñề tuyển chọn cả
những văn bản truyền hình, báo chí hằng ngày (dĩ nhiên mức ñộ như thế nào vẫn
là chuyện cần bàn thêm). Tri thức văn học không phải là những tri thức lý thuyết
biệt lập mà gắn bó một cách tuần tự, có hệ thống với tiếng Việt và kĩ năng làm
văn. Hạn chế của chương trình cũ chỉ quan tâm ñến khối lượng thông tin văn
học mà ít quan tâm ñến hệ thống kỹ năng cần hình thành cho học sinh sau ba
năm học phổ thông. Chương trình lần này ñã coi trọng hai kỹ năng ðọc và Làm
văn như hai trục chính ðó là một bước tiến trong nhận thức về kỹ năng văn học
29
cho học sinh. Những phần ñồng tâm ñã học ở THCS ñược cân nhắc kĩ ñể không
trùng lặp mà còn liền mạch theo một hệ thống hoàn chỉnh.
1.1.4 Nguyên tắc dạy học văn học sử trong chương trình Ngữ văn
THPT
Bất kỳ một môn học nào cũng cần có nguyên tắc dạy học ñặc trưng của
môn học ấy. Dạy học bộ môn Văn ngoài các nguyên tắc dạy học chung cũng cần
có những nguyên tắc của nó : phải gắn với ñời sống, phải biết phát huy vai trò
chủ thể của học sinh, phải chú ý ñến mối liên hệ giữa các phân môn khác,…Trên
cơ sở ñó, dạy học kiến thức văn học sử có những nguyên tắc nhất ñịnh sau:
1.1.4.1. Dạy học văn học sử phải giúp học sinh nhận biết ñược quá
trình lịch sử phát triển văn học dân tộc
ðây là một trong những nguyên tắc ñặc trưng, không thể bỏ qua trong
quá trình dạy học các kiến thức văn học sử, nguyên tắc này sẽ giúp chúng ta
phân biệt ñược với việc dạy lí luận văn học và tác phẩm văn học.
Muốn học sinh nắm vững nguyên tắc này, ñòi hỏi phải biết liên kết các
sự kiện, hiện tượng trong hệ thống, ñồng thời phải biết kết hợp chặt chẽ với
nguyên tắc ñồng ñại thường ñược vận dụng khi phân tích tình hình văn học giai
ñoạn, sự nghiệp nhà văn, giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Ví dụ : Quá trình phát triển của văn học Việt Nam gắn chặt với lịch sử,
văn hoá, xã hội của ñất nước. Trong hơn mười thế kỷ phát triển, văn học Việt
Nam không ngừng kế thừa, tiếp thu những tinh hoa của văn học nhân loại và ñạt
ñược thành tựu to lớn với những tác gia có tên tuổi như Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du, Hồ Chí minh,…
Từ văn học trung ñại (thế kỷ X ñến thế kỷ XIX) sang văn học hiện ñại
(ñầu thế kỷ XX ñến nay) có sự ñổi mới ñáng kể. Ví dụ : Về tác giả : xuất hiện
ñội ngũ nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp, lấy việc viết văn, sáng tác thơ làm nghề
nghiệp. Về thể loại : thơ mới, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch nói,…dần dần thay
30
thế hệ thống thể loại cũ, tuy một vài thể loại cũ của văn học trung ñại vẫn còn
tồn tại, song không còn ñóng vai trò chủ ñạo. Về thi pháp : hệ thống thi pháp
mới thay thế hệ thống thi pháp cũ. Lối viết ước lệ, sùng cổ, phi ngã của văn học
trung ñại không còn phù hợp; lối viết hiện thực, ñề cao cá tính sáng tạo, ñề cao
“cái tôi” cá nhân dần ñược khẳng ñịnh. Tiêu biểu lối viết này có Tản ðà, Xuân
Diệu, Hàn Mặc Tử và hàng loạt các nhà văn nhà thơ khác…
1.1.4.2. Dạy học văn học sử phải kết hợp thường xuyên việc rèn luyện
các năng lực, kỹ năng, thao tác cho học sinh
ðó là sự giải thích, phân tích, tổng hợp, so sánh, ñánh giá, ñối
chiếu,…khi tiếp nhận các kiến thức văn học sử. Thực hiện nguyên tắc này có tác
dụng rèn luyện năng lực tự học, tự nghiên cứu của học sinh, giúp các em biết
cách tiếp nhận luận ñiểm của văn học sử và hiểu bài, nhớ bài một cách có hệ
thống. Ví dụ :
Sau khi học xong giai ñoạn văn học từ ñầu thế kỷ XX ñến năm 1945,
chúng ta có thể yêu cầu học sinh ñánh giá lại giai ñoạn văn học này có ñặc ñiểm
gì mới và nổi bật so với giai ñoạn trước ñó ? (rèn kỹ năng so sánh, ñánh giá).
Hoặc cũng có thể ñặt những câu hỏi : Vì sao có thể gọi văn học Việt Nam
30 năm ñầu thế kỷ XX (từ 1900 ñế 1930) là văn học giai ñoạn giao thời ? (rèn
kỹ năng giải thích, phân tích vấn ñề).
1.1.4.3. Dạy học văn học sử phải biết kết hợp với các tri thức văn học
khác
Thực hiện nguyên tắc trên sẽ tạo nên sức mạnh của bộ môn, cũng chính là
quán triệt dạy văn học sử mang tính hệ thống, tính liên môn.
Lí luận văn học là công cụ ñể phân tích giai ñoạn văn học (nội dung, hình
thức, tác ñộng,..), tác gia văn học (phong cách sáng tạo, thể loại, trường phái,..).
Một khi nắm vững kiến thức lí luận ta dễ dàng phân tích các nhận ñịnh, khái
31
niệm văn học sử và ngược lại kiến thức văn học sử sẽ khắc sâu sự nhận thức lí
luận.
Ví dụ : Dùng kiến thức lí luận, sự hiểu biết về giá trị nội dung, nghệ thuật
của tác phẩm ñể có thể phân tích một tác phẩm văn học cụ thể trong chương
trình. Tiêu biểu là, khi phân tích các tác phẩm của Nam Cao, luôn hiện rõ giá trị
nhân ñạo và hiện thực ; tác phẩm của Vũ Trọng Phụng nổi bật giá trị hiện thực ;
tác phẩm của Thạch Lam thiên về xu hương lãng mạn có pha lẫn chất hiện
thực,…
Các luận ñiểm, các tổng kết văn học sử thường là các ñề tài ứng dụng văn
học sử trong tập làm văn…Chẳng hạn : Tìm hiểu về chủ nghĩa yêu nước, chủ
nghĩa nhân ñạo ñược thể hện thông qua một số tác phẩm ñược học…
1.1.4.4. Dạy học văn học sử phải ñạt ñược yêu cầu giáo dục truyền
thống văn học và truyền thống dân tộc
Truyền thống văn học Việt Nam nổi bật hai chủ ñề : yêu nước và nhân
ñạo gắn chặt với nhau qua từng thời kỳ lịch sử với truyền thống ñấu tranh dựng
nước và giữ nước của nhân dân ta. Dạy văn học sử theo ñúng yêu cầu tiếp nhận,
ñúng nguyên tắc sẽ mang lại hiệu quả giáo dục ở học sinh. Cần tận dụng quá
trình văn học từ thế kỷ X ñến thế kỷ XV ñể giảng dạy truyền thống yêu nước
chống phong kiến xâm lược. Văn học từ sau thế kỷ XV ñến ñầu thế kỷ XIX là
cơ sở giáo dục truyền thống nhân văn. Văn hoc từ ñầu thế kỷ XX ñến 1945 phát
huy truyền thống nhân văn trong văn học. ðành rằng tư tư tưởng yêu nước và
nhân văn ở mỗi giai ñoạn không tách rời nhau.
Dạy văn học sử biết kết hợp các nguyên tắc trên sẽ giúp các em hiểu sâu
hơn giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm…
32
1.2 Hệ thống kiến thức văn học sử cơ bản trong chương trình
Ngữ văn THPT (kiểu bài văn học sử)
Kiến thức văn học sử trong chương trình THPT là những kiến thức ñược
sắp xếp có hệ thống và chọn lọc. ðó là kiến thức chung về lịch sử phát triển của
văn học Việt Nam, kiến thức về các thời kỳ, giai ñoạn văn học, kiến thức về các
tác gia, tác giả văn học, kiến thức về các tác phẩm văn học và kiến thức về thể
loại văn học…
1.2.1 Kiến thức chung về lịch sử phát triển của văn học Việt Nam
- Kiến thức chung về lịch sử phát triển của văn học Việt Nam trong
chương trình THPT là những kiến thức văn học sử mang tính khái quát cao
nhất. ðó là các kiến thức khái quát về : các bộ phận hợp thành, quá trình phát
triển, con người Việt Nam qua văn học. Trước ñây, phần con người Việt Nam
qua văn học ñược thay bằng phần ñặc ñiểm lịch sử của sự phát triển.
Văn học Việt Nam có hai bộ phận hợp thành : văn học dân gian và văn
học viết. Trong bộ phận văn học viết có hai thời kỳ văn học lớn : văn học trung
ñại và văn học hiện ñại.
Kiến thức này ñã ñưa ra nhiều luận ñiểm khái quát: “Văn học Việt Nam
là sản phẩm tinh thần của tất cả các dân tộc cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. ðó là
một nền văn học thống nhất trong sự ña dạng. Bên cạnh những ñặc trưng chung,
văn học của mỗi vùng, miền, mỗi tộc người lại có những bản sắc riêng làm
phong phú cho nền văn học của toàn dân tộc”…[34, tr.6].
Sự khái quát về quá trình phát triển của nền văn học ñã xác ñịnh lại một
cách tổng quan các thời kỳ phát triển quá trình phát triển của văn học Việt Nam
gắn chặt với lịch sử chính trị, văn hóa, xã hội của ñất nước. Nhìn tổng quát văn
học Việt Nam trải qua ba thời kỳ lớn :
- Văn học từ thế kỷ X ñến hết thế kỷ XIX.
33
- Văn học từ ñầu thế kỷ XX ñến Cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Văn học từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 ñến hết thế kỷ XX.
ðồng thời, cái nhìn tổng quan ấy cho phép nêu bật các ñặc ñiểm cơ bản
về nguồn gốc của văn học từng thời kỳ : “Văn học Việt Nam từ thế kỷ X ñến hết
thế kỷ XIX hình thành và phát triển trong bối cảnh văn hoá, văn học vùng ðông
Á, ðông Nam Á ; có quan hệ giao lưu với nhiều nền văn học khu vực, ñặc biệt
là văn học Trung Quốc”. “Hai thời kỳ sau tuy có một số ñặc ñiểm riêng biệt
nhưng ñều nằm trong một xu hướng phát triển chung của quá trình hiện ñại hoá
văn học nên có thể gọi chung là văn học hiện ñại”…[34, tr.7].
Lịch sử phát triển của văn học Việt Nam khẳng ñịnh lại những truyền
thống lớn của văn học dân tộc, ñó là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân ñạo.
Nhìn chung văn học Việt Nam là một nền văn học không chỉ luôn thay
ñổi, luôn vận ñộng, tiến triển mà còn là một nền văn học tiến bộ không ngừng,
ñậm ñà bản sắc, không lẫn với bất kỳ nền văn học nào khác.
Con người Việt Nam qua văn học cũng có thay ñổi trong lịch sử. Không
hề có con người trừu tượng mà chỉ có con người tồn tại trong bốn mối qua hệ cơ
bản: quan hệ với thế giới tự nhiên, quan hệ với quốc gia dân tộc, quan hệ với xã
hội, quan hệ với bản thân). Mối quan hệ này chi phối các nội dung chính văn
học, ảnh hưởng ñến việc xây dựng hình tượng văn học.
- Là kiểu kiến thức không thiên về minh họa, chú ý xác ñịnh khái niệm,
thuật ngữ, luận ñiểm cơ bản mang tính khái quát. Chúng ta dễ dàng bắt gặp các
khái niệm như: văn học dân tộc, văn học viết, văn học dân gian, văn học chữ
Hán, văn học chữ Nôm,…các thuật ngữ : nhân ñạo, nhân văn, hiện ñại hóa, dân
tộc hóa, tinh hoa văn học, ước lệ, phi ngã,…
34
Hầu hết các khái niệm, thuật ngữ trên ñều ñược trình bày theo hướng diễn
dịch một cách sáng tỏ, nên học sinh dễ dàng tiếp thu nếu giáo viên biết gợi mở
tốt.
1.2.2 Kiến thức về các thời kỳ, giai ñoạn văn học
- Là kiến thức có phạm vi bao quát rộng (ít nhất là 30 năm) với các kiến
thức khái quát cao, ñặc biệt rất phong phú về kiến thức cụ thể, cách trình bày
kết hợp giữa ñồng ñại và lịch ñại.
Phạm vi bao quát thời kỳ văn học sử chứa ñựng một lượng tư liệu khá
phong phú về quá trình phát triển của văn học cũng như về giá trị nội dung và
nghệ thuật ñạt ñược ở mỗi thời kỳ văn học.
Tính khái quát tuy không cao như ở bài Tổng quan nhưng tư liệu minh
họa rất ña dạng. Ví dụ : Bài khái quát văn học Việt Nam từ thế kỷ X ñến hết thế
kỷ XIX, ñược chia bốn giai ñoạn, ở mỗi giai ñoạn ñược minh họa bằng nhiều tác
phẩm, tác giả tiêu biểu, có khi minh họa ở cấp xu hướng, trào lưu, có khi minh
họa cấp tác giả, tác phẩm.
Hầu hết các kiến thức khái quát về thời kỳ trong chương trình ñều có
phần giới thiệu khái quát hoàn cảnh lịch sử, tình hình văn học bao gồm cả nội
dung và hình thức văn học nhưng cách viết ở mỗi thời kỳ lại khác nhau. Có bài
kết hợp phần hoàn cảnh lịch sử với phần tình hình văn học từng giai ñoạn (bài
Khái quát văn học từ thế kỷ X ñến thế kỷ XIX). Có bài phân tích diện mạo văn
học theo tiến trình thời gian,…Nhìn chung, cách trình bày hết sức linh hoạt.
-Kiến thức về thời kỳ văn học sử có khả năng giáo dục cho học sinh. Kiến
thức văn học sử về thời kỳ ñặt trong nhiều mối quan hệ, cho nên tình hình văn
học Việt Nam ñược phân tích ở nhiều mối quan hệ khác nhau. Qua ñó, ta có thể
giáo dục cho học sinh quan ñiểm về mối quan hệ qua lại trong văn học cũng như
ngoài xã hội. Mặt khác, ta còn giáo dục các em truyền thống yêu nước, niềm tự
35
hào dân tộc và tinh thần nhân ñạo, nhân văn cao cả trải dài qua từng thời kỳ, giai
ñoạn văn học…
- Kiến thức về thời kỳ văn học sử có quan hệ logic với kiến thức khái
quát tác giả, tác phẩm. Những kiến thức khái quát về thời kỳ dù ở bất cứ thời kỳ
nào cũng ñều phải thông qua kiến thức khái quát về tác giả ñể ñi ñến kiến thức
khái quát về tác phẩm. Chúng ta có thể hình dung mô hình sau:
Kiến thức khái quát về thời kỳ
(cid:1)
Kiến thức khái quát về tác giả
(cid:1)
Kiến thức khái quát về tác phẩm
(cid:1)
ðọc - hiểu văn bản
1.2.3 Kiến thức về tác gia, tác giả văn học
- Nhắc ñến kiến thức về tác gia thông thường hay ñề cập ñến phần cuộc
ñời, sự nghiệp, quan ñiểm sáng tác, phong cách, và giá trị ñóng góp của tác gia
ñó trong tiến trình phát triển lịch sử văn học Việt Nam. Nội dung bài dạy tác gia
văn học bao giờ cũng ñược tiến hành gồm hai phần chính : cuộc ñời và sự
nghiệp văn học. ðây là hai nội dung quan trọng, không thể thiếu trong mỗi bài
dạy tác gia văn học.
- Kiến thức khái quát về tác gia trong chương trình THPT chiếm ưu thế
so với kiến thức văn học sử khác về số lượng bài học. Các tác gia ñược giảng
dạy ở trường phổ thông hiện nay là : Nguyễn Trãi, Nguyễn Du (lớp 10), Nguyễn
ðình Chiểu, Nam Cao (lớp 11), Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Tố Hữu (lớp
12).
36
- Một số tác gia trong chương trình thuộc hai thời kỳ văn học khác nhau
nhưng ñược xếp vào một thời kỳ nhất ñịnh. ðó là tác gia Nam Cao, tác gia
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, tác gia Tố Hữu. Chẳng hạn, sự nghiệp sáng tác
của Nam Cao thật sự ñược bắt ñầu từ năm 1941 với truyện ngắn có tầm vóc lớn
– Chí Phèo. Con ñường sáng tác của ông chia làm hai thời kỳ rõ rệt trước và sau
Cách mạng tháng Tám. Ở mỗi thời kỳ, Nam Cao ñều có những cống hiến xuất
sắc. Tác gia Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ñược xếp vào giai ñoạn văn học
1930 – 1945 là một dụng ý, dù sau Cách mạng tháng Tám, Bác vẫn sáng tác,…
- Kiến thức về tác gia trong chương trình là những kiến thức quan
trọng, có tác dụng giáo dục ñối với học sinh. Giáo dục các em những nhân cách,
quan ñiểm sống tốt ñẹp vì mỗi tác gia là những tấm gương giàu trí tuệ, tâm hồn.
- Kiến thức về tác gia trong chương trình mang tinh cụ thể - khái quát.
Cụ thể là vì tác gia ñó có ý nghĩa minh họa cho các nhận ñịnh khái quát về thời
kỳ… Còn khái quát bài học về tác gia lại cần ñược minh họa qua bài học về tác
phẩm hay ñoạn trích. Kiến thức về tác gia cho phép chúng ta tiếp cận gần với
ñọc - hiểu văn bản. Ngược lại, khi tiếp cận kỹ lưỡng văn bản ta càng hiểu thêm
về cuộc ñời, sự nghiệp, quan ñiểm của họ hơn.
Tóm lại, những yếu tố chứa ñựng trong bài khái quát về tác gia là hết sức
ña dạng và phong phú. Các bài học về tác gia cung cấp một khối lượng lớn
thông tin văn học. Yêu cầu và tác dụng ñào tạo của nó ñòi hỏi giáo viên phải học
hỏi, tích luỹ nhiều kiến thức về tác gia ngoài chương trình SGK. “Bài học về
tiểu sử (tác gia) chính là bài học của cuộc sống theo ý nghĩa ñầy ñủ nhất của nó”
( Nikolski).
1.2.4 Kiến thức về các tác phẩm văn học
- So với các kiến thức văn học sử khác, kiến thức về tác phẩm văn học ở
cấp ñộ thấp nhất, gần với giảng văn. Kiểu bài học coi tác phẩm như một hiện
tượng văn học sử trong chương trình Ngữ văn THPT là kiểu bài nghiên cứu, giới
37
thiệu các tác phẩm lớn, tiêu biểu cho tác gia, cho thời ñại. Chẳng hạn, tác phẩm
Truyện Kiều (Nguyễn Du) trong chương trình Ngữ văn 10…
Học tác phẩm có tính văn học sử là sự tiếp nhận toàn bộ tác phẩm, không
phải ñi sâu vào chi tiết, không phải theo quy luật cảm thụ như giảng văn mà là
phân tích có tính khái quát từ cốt truyện ñến giá trị nội dung, nghệ thuât và cuối
cùng là các kết luận chung về giá trị, vị trí tác phẩm.
- Số lượng về tác phẩm ñược học như văn học sử trong chương trình hiện
nay rất ít. Trong chương trình hiện nay, chỉ có hai tác phẩm học như văn học sử
gắn liền với tác gia. ðó là tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và tác phẩm
Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh. Lẽ ra phải cho học sinh tiếp cận nhiều tác
phẩm hơn vì ñây là một kiểu bài quan trọng, mang nhiều tính chất giáo dục.
(cid:2) Kết luận :
Nội dung của chương một nhìn chung mang tính chất lý thuyết, khái quát.
Nó sẽ ñược triển khai vận dụng cụ thể trong chương hai. Các hệ thống kiến thức
văn học sử về thời kỳ, giai ñoạn, tác gia, tác phẩm văn học,…tạm gọi các kiểu
bài văn học sử ñã có khá nhiều công trình nghiên cứu bàn luận. Do ñó, trong
luận văn của mình người viết không ñi sâu tìm hiểu nội dung của kiến thức này
mà chủ yếu khai thác chúng trong quá trình ñọc hiểu văn bản ñể thấy ñược sự
phát triển không ngừng ñi lên của lịch sử văn học dân tộc, thấy ñược hơi thở,
nhịp ñập, bước ñi của thời ñại và góp phần hiểu hơn giá trị tác phẩm ; ñồng thời
xem những văn bản ñược lựa chọn ñể học trong chương trình ñã ñảm bảo nội
dung kiến thức, thể hiện rõ những ñặc ñiểm, minh họa những luận ñiểm …như
trong phần bài khái quát ñã nêu.
38
CHƯƠNG 2 - PHƯƠNG PHÁP KHAI THÁC CÁC KIẾN
THỨC VĂN HỌC SỬ TRONG ðỌC – HIỂU VĂN BẢN VĂN HỌC
2.1 Tình hình giảng dạy các kiến thức văn học sử trong
chương trình Ngữ văn THPT
2.1.1 Tình hình giảng dạy văn học sử nói chung
Bấy lâu nay, kiến thức văn học sử ở trường phổ thông còn nhiều ngộ
nhận, chưa quan tâm ñúng mực, ñặc biệt trong quá trình giảng dạy nhiều giáo
viên có thái ñộ xem nhẹ hoặc bỏ qua chúng. ða số họ chỉ thích giảng dạy các
văn bản tác phẩm có sẵn hơn là giảng dạy những kiến thức liên quan ñến văn
học sử.
Bình tâm nhìn vào thực trạng giảng dạy văn học của nước nhà hiện nay,
chúng ta không thể không thừa nhận một bước tụt hậu khá dài về nhận thức
cũng như thực hành sư phạm so với bước ñi của một số nước tiên tiến, nhất là so
với yêu cầu chiến lược của thời ñại công nghệ thông tin hiện nay. Tình trạng ñó
hình như càng nặng nề hơn trong giảng dạy văn học nói chung.
ðã từ lâu vẫn ñang diễn ra tình hình dạy văn chỉ cần biết ñến văn bản văn
chương, chỉ quan tâm ñến nghệ thuật và tài năng khám phá cho sâu chỗ ñộc ñáo
của tác phẩm văn chương ñể rồi tìm ra những thủ pháp hình thức lôi cuốn học
sinh cảm thông, ñồng ñiệu với những gì người giáo viên ñã tìm tòi phát hiện
ñược mà không cần quan tâm ñến những kiến thức ngoài văn bản, “siêu văn
bản”.
Văn bản không phải là ñối tượng ñộc nhất cho sự khám phá của giáo viên
mà ít ra văn bản ấy phải ñược ñặt trong mối quan hệ tương tác vốn có của nó.
ðó là mối quan hệ giữa tác phẩm với tác giả, giữa tác phẩm với giáo viên và tác
phẩm với bạn ñọc - học sinh.
39
Theo thói quen của không ít giáo viên, thường khi dạy các bài khái quát
về thời kỳ, giai ñoạn và tác gia văn học, họ gần như chỉ biết bám sát vào sách, ít
huy ñộng các dẫn chứng bên ngoài, dạy bài nào chỉ biết bài nấy, thiếu minh họa
cần thiết ñể cụ thể hoá những kiến thức khái quát trong bài học, bài giảng,
thường sa vào tóm tắt các ý chính trong SGK, ít khi ñược phân tích minh hoạ
thỏa ñáng. ðiều này dĩ nhiên do thời lượng có hạn nhưng cái chính là do vốn
hiểu biết của giáo viên còn hạn chế. Kết quả là các luận ñểm, nhận ñịnh khoa
học về kiến thức văn học sử trở nên giáo ñiều, khô khan, thiếu thuyết phục, hấp
dẫn, khó ñọng lại ở người học những gì cần ñọng lại sau một bài văn học sử.
Bên cạnh ñó, phương pháp dạy rất dễ dãi, chủ yếu thuyết trình và “ñộc
diễn”, giáo viên sẵn sàng yêu cầu học sinh gạch trong sách những chỗ ñược cho
là quan trọng, sau ñó lướt nhanh, tập trung vào việc ñọc - hiểu văn bản. Tất
nhiên, lối dạy này cũng có những mặt tích cực của nó một khi giáo viên có ý
muốn nhấn mạnh vào phần văn bản và chỉ phù hợp ở một số tác giả, tác phẩm.
Trong khi ñó, ña số tác gia ñược chọn trong chương trình ñể học là những tên
tuổi, tiêu biểu cho từng thời kỳ văn học. Chính vì vậy, chúng ta cần phải chú ý
ñến cách giảng nhiều hơn ñể tránh sự sai lầm cứ tuân theo những nguyên tắc
chung chung cố ñịnh và mang tính áp ñặt. Hầu hết, ở mỗi kiểu bài văn học sử
ñều có những cách dạy riêng. Cụ thể, dạy tiểu sử Nguyễn Trãi sẽ khác cách dạy
tiểu sử Nguyễn Du hay tiểu sử Hồ Chí Minh, dạy bài khái quát giai ñoạn văn
học thế kỷ X – XIX sẽ khác với bài khái quát giai ñoạn văn học thế kỷ XX -
1975,…
Trách nhiệm, lòng nhiệt tình của giáo viên cũng là một nhân tố tác ñộng
ñến việc tiếp thu môn văn của các em. Hiện nay, nhiều học sinh chán học môn
văn là do lời giảng của giáo viên chỉ ñơn thuần từ sách vở, chỉ bám sát vào
những trang giáo án mà thiếu ñi cái nhìn thực tế khách quan cũng như kinh
nghiệm cuộc sống của bản thân.
40
Thực tế giảng dạy bộ môn Văn hiện nay có sự “lệch pha” với môn Sử.
Bằng chứng là hầu như năm nào dạy lớp 10 chúng tôi cũng gặp phải tình trạng
học sinh sai kiến thức trầm trọng về văn học sử, chỉ hỏi riêng phần bối cảnh lịch
sử lại có những câu trả lời như : Ngô Quyền ñánh quân Nguyên Mông, Lê Lợi
chiến thắng quân Minh trên sông Bạch ðằng, Nguyễn Trãi thay mặt Trần Hưng
ðạo viết Bình Ngô ñại cáo,…Biết bao nhiêu chuyện “cười ra nước mắt”! Và
ngay cả trên chương trình truyền hình cả nước, một giảng viên trường ðại học
Sư phạm cũng sai kiến thức trầm trọng khi hỏi về nhóm Tự lực văn ñoàn…Còn
việc học sinh nhầm lẫn tên thật, quê quán, tên cha, tên mẹ,…của các tác gia
ñược học là chuyện thường ngày, không thể tránh khỏi.
Ở chương trình lớp 12, các em khi học phần văn học 1945 – 1975 rất lúng
túng khi diễn ñạt ý nghĩa, giá trị của tác phẩm với hiện thực. Hỏi ra mới biết
phần lịch sử các em chưa học tới. Tình trạng này làm cho các em học môn văn
như bơi trong lời giảng của thầy cô. Nếu chúng ta không khái quát hoàn cảnh
lịch sử xã hội thì coi như mảng kiến thức ñó bị bỏ trống. Các em không nắm
ñược giai ñoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, xây dựng Chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc,…nên khi viết văn trình bày lại kiến thức rất lúng túng. Nhiều khi
chúng ta dạy văn phải lấn sân sang dạy sử, làm mất thời gian, cháy giáo án.
Trong khi ñó, số tiết ưu tiên phần kiến thức văn học sử trong sách giáo khoa lại
ít. Mỗi lần lên lớp phải cân ño ñong ñếm dung lượng thời gian cho phù hợp.
ðiều ñáng nói nữa là hiện nay xã hội hiện ñại có tác ñộng không nhỏ ñối
với học sinh phổ thông. Các em có thể nói vanh vách về tiểu sử một ca sĩ, người
mẫu, diễn viên ñiện ảnh nhưng lại ấp úng khi nói về tiểu sử Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du,…Rõ ràng, giữa nội dung môn văn với thực tế cuộc sống cũng có ñộ
chênh khá lớn. Khi các em ra trường hầu như không mấy học sinh vận dụng
những ñiều ñược giảng ñể áp dụng vào thực tế cuộc sống, ñôi khi có tình trạng
phê phán ngược trở lại thầy cô…
41
Nhìn một cách tổng thể từ quá trình nghiên cứu, biên soạn sách giáo khoa
ñến quá trình giảng dạy môn Văn nói chung bấy lâu nay, mặc dù ñã chỉnh sửa
khá nhiều lần nhưng vẫn còn thiếu sót, hạn chế. “Tác phẩm văn chương ñược
trích giảng trong SGK hiện nay hình như thiếu chất văn, thầy còn không cảm thụ
nổi huống chi trò” (một ñộc giả trên mạng). Chương trình, SGK thay ñổi nhiều
lần gây xáo trộn lớn (mỗi lần thay sách là mỗi lần thay ñổi nội dung, cải cách về
phương pháp). Thời gian chuyển giao nội dung và phương pháp dù dài hay ngắn
ñều là thử thách không nhỏ ñối với giáo viên. Chương trình chỉ có một và mang
tính pháp lệnh, chưa có chương trình phù hợp cho các khu vực ñối tượng học
sinh, các loại hình trường. “Lẽ ra nên có khung chương trình chuẩn, tuỳ ñối
tượng, khu vực mà ñiều chỉnh nội dung giảng dạy cụ thể thì mới mong việc dạy
học thật sự hiệu quả” [56, tr.31]
ðã vậy, phương pháp lên lớp của không ít giáo viên còn theo lối mòn, cũ
kỹ, thiếu “chất lửa” trong lời giảng, xem học trò như những bình chứa kiến thức.
Phần ñông giáo viên phổ thông dạy kiến thức văn học sử còn ñơn ñiệu, thiếu khả
năng phân tích, so sánh tổng hợp các sự vật ; chỉ bằng lòng với kiến thức ít ỏi,
trong SGK, SGV nên hiểu biết nông cạn về tác giả, tác phẩm.
Bên cạnh ñó, khi giảng dạy giáo viên chưa có biện pháp giám sát việc
chuẩn bị bài, ñọc bài, học bài của học sinh. Nhiều giáo viên thường phàn nàn
học sinh không ñọc tác phẩm, ñặc biệt những tác phẩm văn xuôi nhưng họ cũng
thú nhận không biết làm cách nào ñể khích lệ và giám sát việc tự học, tự ñọc bài
ở nhà của học sinh. ðại ña số giáo viên dạy văn ñều có ý thức tạo cho học sinh
thói quen và năng lực tự học, tinh thần chủ ñộng tích cực, nuôi dưỡng niềm
hứng thú trong học văn. Nhưng nhìn chung họ thường tỏ ra lúng túng, thậm chí
bất lực trong việc thực hiện những mong muốn của mình.
42
2.1.2 Thực tiễn khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc - hiểu
văn bản văn học hiện nay
2.1.2.1. Về phía giáo viên Theo ñánh giá của nhiều chuyên gia quản lí chất lượng dạy học văn, số
ñông giáo viên chưa có cách vận dụng các kiến thức văn học sử một cách hợp lí
vào quá trình dạy ñọc hiểu văn bản, hoặc chưa biết cách vận dụng như thế nào
cho thật sự nhuần nhuyễn ñể tránh ñi những sơ sài, ñơn ñiệu, nhàm chán, khô
khan, máy móc, thiếu khả năng liên tưởng tưởng tượng, phân tích, so sánh tổng
hợp các kiến thức văn học sử ñã giảng dạy.
Ví dụ : Khi dạy về “cái tôi” cá nhân trong thơ mới, giáo viên chỉ biết
ñến thơ mới mà không liên hệ với “cái tôi” trong thơ văn trước ñó hay sau này.
Hay như khi dạy học các tác phẩm Chí Phèo, ðôi mắt của Nam Cao, phần ñông
giáo viên thường chủ yếu dừng lại ở việc phân tích hình tượng nhân vật Chí
Phèo, nhân vật Hoàng, rồi ñưa ra những nhận ñịnh ñánh giá về giá trị hiện thực,
nhân ñạo của tác phẩm…mà không có dẫn chứng cụ thể. Nếu có cách dạy tốt về
tác phẩm (khắc họa, nhấn ñậm sắc thái văn học sử) thì khi ñược gợi nhắc, hướng
dẫn, học sinh có thể nhớ ra ñược những kiến thức liên quan về tác giả. Chẳng
hạn : từ làng Vũ ðại (Chí Phèo) mà nhớ ra làng ðại Hoàng – quê Nam Cao, từ
bi kịch số phận của Chí mà hiểu thêm số phận người nông dân trong sáng tác
của ông, từ giá trị hiện thực, giá trị nhân ñạo mà nhớ về quan ñiểm nghệ thuật
tiến bộ trong giai ñoạn 1930 - 1945…Hay như khi dạy các bài thơ của Tản ðà,
Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử có trong chương trình, chúng ta phải hướng
dẫn học sinh tìm ra những nét ñặc sắc tiêu biểu của phong trào thơ mới về ñề
tài, nội dung cũng như quan ñiểm nghệ thuật,…ñồng thời thấy ñược sự biểu hiện
ña dạng của từng “cái tôi” cá nhân tác giả trong giai ñoạn văn học từ ñầu thế kỷ
XX ñến năm 1945…
Trong thực tế dạy học văn, phần lớn giáo viên chỉ ñi sâu tìm hiểu các yếu
tố trong văn bản, còn yếu tố ngoài văn bản như : tác giả, hoàn cảnh sáng tác, thể
43
loại, bút pháp thể hiện,…thì không ñược quan tâm ñúng mức vì họ nghĩ rằng
việc tìm hiểu yếu tố trong văn bản ñể ñọc hiểu văn bản mới quan trọng. Nhận
thức này xuất phát từ quan ñiểm hạn chế của một số người, họ cho rằng, trong
ñề thi thường hay yêu cầu học sinh phân tích văn bản cụ thể, hiếm khi yêu cầu
các em nhận thức hay ñánh giá về những nhận ñịnh, luận ñiểm mang tính chất
văn học sử…
Hơn nữa, trong quá trình giảng dạy một số giáo viên dạy theo sở thích,
sở trường của mình. Một số người thích dạy thơ, số khác thích dạy văn
xuôi,…cho nên quá trình vận dụng cũng tùy hứng, không ñịnh hướng trước. Ví
dụ : Dạy tác phẩm thơ phân tích rất kỹ ngôn ngữ, thể loại nhưng khi dạy tác
phẩm văn xuôi thì vấn ñề ngôn ngữ không ñược chú ý quan tâm mà thay vào ñó
chỉ là những lời nhận xét chung chung khái quát ( ngôn ngữ kể chuyện linh
hoạt, ñặc sắc ; xây dựng nhân vật tiêu biểu, ñiển hình,…)
Tất nhiên, chúng ta không thể phủ nhận tài năng của một bộ phận giáo
viên khá giỏi, giàu kinh nghiệm, nhiều năm trong nghề, vẫn nuôi ñược ñam mê,
tâm huyết với sự nghiệp văn chương và nghề dạy văn chương nghệ thuật. Hầu
như tất cả các giờ dạy của họ khá thành công, hiệu quả và hấp dẫn.
2.1.2.2. Về phía học sinh ða phần học sinh chưa biết cách vận dụng các kiến thức văn học sử vào
quá trình ñọc hiểu văn bản. Theo khảo sát và thực tế giảng dạy, phần ñông học
sinh cho rằng kiến thức văn học sử không mấy quan trọng, cho nên không nhất
thiết phải vận dụng chúng vào quá trình ñọc hiểu. Hầu như trong quá trình ñọc
hiểu văn bản các em chỉ ñọc hiểu phần “nổi” của văn bản, phần “chìm” thường
không ñọc ñược. Trong khi ñó, hiểu phần chìm mới quan trọng vì ñằng sau lớp
ngôn từ, hình tượng là những thông ñiệp mà người nghệ sĩ muốn gởi ñến bạn
ñọc ñể cùng ñồng cảm chia sẻ và hiểu hơn về thời ñại.
44
Do học sinh chưa nắm ñược những kiến thức cơ bản trong các bài giảng
văn học sử nên khó vận dụng vào phần ñọc hiểu văn bản cụ thể. Nếu có vận
dụng thì vận dụng sai, chưa hợp lí, sa ñà, lan man. ðiều này thể hiện rõ trong
quá trình các em làm văn. Ví dụ : khi viết mở bài, có em nêu hết phần tiểu sử
của tác giả (tên thật, quê quán, năm sinh năm mất, thậm chí tên cha mẹ tác
giả,…), trong khi ñó, phần thân bài khi yêu cầu bàn về quan ñiểm sáng tác của
nhà văn thì các em lại viết sơ sài, có em lẫn lộn qua ñề tài sáng tác,…
Nhiều em không có khả năng phân tích, so sánh tổng hợp trong quá trình
ñọc hiểu. Chẳng hạn : khi phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo-
Nam Cao) - ñiển hình cho bi kịch người nông dân Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám, ñáng ra các em phải biết liên hệ với những tác phẩm ñã học cùng
viết về ñề tài này như Lão Hạc, Lang Rận, Tư cách mõ,… chẳng hạn, nhưng ña
phần học sinh chỉ dừng lại ở hình tượng Chí. Hay như phân tích thơ Xuân Diệu
chỉ biết ñến nhà thơ Xuân Diệu mà không chú ý ñến những nhà thơ mới khác
trong phong trào thơ mới ñược học trước ñó…
2.2 Phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong
ñọc – hiểu văn bản văn học Ngữ văn lớp 11
Phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc – hiểu văn
bản văn học trong quan niệm của chúng tôi thực chất là cách thức tiếp cận và
vận dụng các kiến thức văn học sử ñã học vào quá trình ñọc hiểu các thể loại
văn bản (có thể khai thác yếu tố thời ñại, hoàn cảnh lịch sử, quan ñiểm sáng tác
của tác giả hoặc khai thác các yếu tố liên quan ñến ñề tài, thể loại ngôn ngữ,
nhân vật hoặc cũng có thể các khái niệm, thuật ngữ,…mang tính văn học sử).
Cách khai thác kiến thức này sẽ giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức ñã
học, ñồng thời sẽ mở rộng nội dung kiến thức và phạm vi diện ñọc, nâng cao
tầm hiểu biết và mức ñộ cảm thụ ở học sinh…
ðể khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc - hiểu các dạng văn bản
ñạt chất lượng, hiệu quả cao, ñòi hỏi người ñứng lớp phải chủ ñộng, tích cực và
45
ñề ra những phương pháp, biện pháp thật phù hợp với từng thể loại, nội dung
bài dạy và từng ñối tượng tiếp nhận cũng như môi trường dạy học.
2.2.1 Các kiến thức văn học sử cần ñược khai thác trong ñọc - hiểu
văn bản văn học Ngữ văn 11
Kiến thức văn học sử trong chương trình phong phú, ña dạng. Nó ñược
thể hiện thông qua các bài học văn học sử và trong các văn bản. Luận văn chủ
yếu hướng ñến việc khai thác các kiến thức văn học sử trong các văn bản, tất
nhiên những kiến thức này có mối liên hệ chặt chẽ với bài học văn học sử vì mỗi
bài học văn học sử sẽ là những kiến thức khái quát chung về bối cảnh lịch sử xã
hội, về nội dung, hình thức, về thành tựu ñặc sắc,…của từng thời kỳ, giai ñoạn,
từng tác giả, tác phẩm sẽ ñược triển khai cụ thể trong các văn bản ñược học sau
ñó.
Kiến thức văn học sử ñược khai thác trong văn bản bao gồm : các thuật
ngữ, khái niệm (hiện ñại hoá, cái tôi cá nhân, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa
nhân ñạo,…), bút pháp ( lãng mạn, hiện thực,…) liên quan ñến giai ñoạn văn
học ñầu thế kỷ XX ñến Cách mạng tháng Tám 1945 ; ñề tài ñược thể hiện ; thể
loại, ngôn ngữ ; cách xây dựng hình tượng nhân vật ; quan ñiểm nghệ thuật
;…Tất cả những kiến thức vừa nêu sẽ ñược ñặt vào tiến trình vận ñộng phát
triển của lịch sử văn học dân tộc ñể làm rõ hơn những ñặc ñiểm của văn bản cần
ñọc – hiểu.
2.2.2 Phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc –
hiểu văn bản văn học lớp 11
2.2.2.1. Khai thác về vấn ñề thuật ngữ, khái niệm mang tính văn học
sử
ðể khai thác các thuật ngữ, khái niệm mang tính văn học sử trong quá
trình ñọc – hiểu văn bản, trước hết chúng ta cần ñịnh hướng các thuật ngữ,
khái niệm cần ñược khai thác trong văn bản, ñồng thời phải nắm rõ những ñặc
46
ñiểm cơ bản, những chi tiết quan trọng, nổi bật trong từng khái niệm, ñịnh nghĩa
sẽ ñược triển khai.
Ở bài Khái quát văn học Việt Nam từ ñầu thế kỷ XX ñến Cách mạng
tháng Tám năm 1945 trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1 có nêu ra hàng
loạt các khái niệm, thuật ngữ, luận ñiểm, nhận ñịnh mang tính văn học sử. Nổi
bật và ñặc trưng hơn cả là những khái niệm, thuật ngữ như : hiện ñại hóa, cái tôi
cá nhân, phong trào thơ mới, chủ nghĩa hiện thực (xu hướng hiện thực), chủ
nghĩa lãng mạn (xu hướng lãng mạn),…
Khái niệm hiện ñại hoá xuất hiện trong văn học Việt Nam từ ñầu thế kỷ
XX ñến Cách mạng tháng Tám 1945. Hiện ñại hoá văn học là một yêu cầu
khách quan của thời ñại. Nó là một bộ phận, một phương diện quan trọng của
công cuộc hiện ñại hoá nền văn hoá Việt Nam nói chung. Hiện ñại hoá văn học
còn là nhu cầu tinh thần và thẩm mĩ mới của xã hội.
Sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1, trang 83 ñịnh nghĩa : Hiện ñại hóa là
quá trình làm cho văn học thoát ra khỏi hệ thống thi pháp văn học trung ñại và
ñổi mới theo hình thức văn học phương Tây có thể hội nhập với nền văn học
hiện ñại thế giới.
Hiện ñại hoá văn học diễn ra trên mọi mặt, ở nhiều phương diện. Trước
hết là sự thay ñổi quan niệm về văn học : từ văn chương chở ñạo, thơ nói chí của
thời kỳ văn học trung ñại chuyển sang quan niệm văn chương như một hoạt
ñộng nghệ thuật ñi tìm và sáng tạo cái ñẹp : “Văn chương không cần ñến những
người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu ñưa cho. Văn chương chỉ dung
nạp ñược những người biết ñào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi,
và sáng tạo những cái gì chưa có” (ðời thừa – Nam Cao) ; từ văn chương ñể
“răn ñời” sang văn chương ñể “hiểu ñời”, ñể nhận thức, khám phá hiện thực.
Cũng Nam Cao – một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc trong giai ñoạn
này ñã mạnh dạn nêu ra quan ñiểm sáng tác của mình : người cầm bút không
47
ñược “trốn tránh” sự thực, mà hãy “cứ ñứng trong lao khổ, mở hồn ra ñón lấy tất
cả những vang ñộng của ñời…”.
Trong truyện ngắn Trăng sáng, ông lại viết : “Chao ôi ! Nghệ thuật không
cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể
chỉ là tiếng ñau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”.
Quả thật, ñây là những quan ñiểm nghệ thuật tiến bộ và bắt nguồn từ thực
tế cuộc sống cũng như bối cảnh lịch sử xã hội thời bấy giờ. Chính thời ñại ñã
buộc nhà văn Nam Cao và một số nhà văn khác không thể khoanh tay ñứng
ngoài cuộc, không ñược phép trốn tránh sự thực. ðó là ý thức, trách nhiệm của
người cầm bút ñương thời.
Và cũng từ ñây, văn học không còn tình trạng “văn sử triết bất phân” như
trước nữa, văn học thoát ra khỏi những quan niệm thẩm mĩ và hệ thống thi pháp
văn học trung ñại (tính quy phạm chặt chẽ, hệ thống ước lệ tượng trưng dày ñặc,
tính chất sùng cổ, phi ngã,…). Ví như khi miêu tả thiên nhiên, trong thơ xưa
hiếm gặp sự nhân cách hoá thiên nhiên, nhưng ñến giai ñoạn hiện ñại 1930 –
1945 - tiêu biểu phong trào thơ mới, thiên nhiên có những cách miêu tả táo bạo,
mới lạ. ðặc biệt trong thơ Xuân Diệu, thi nhân ñã gán cho thiên nhiên những
tâm tư, hành ñộng rất “người” một cách tự nhiên, chân thật, hợp lí :
- Rặng liễu ñìu hiu ñứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.
- Những luồng run rẩy rung rinh lá
ðôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
(ðây mùa thu tới )
Quá trình hiện ñại hoá văn học còn ñược thể hiện ở sự biến ñổi của các
thể loại văn học (thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn) và xuất hiện những thể loại văn
48
học mới (kịch nói, phóng sự, phê bình văn học). Chương trình Ngữ văn 11- bộ
cơ bản ñã tuyển chọn một số tác phẩm thuộc các thể loại mang tính hiện ñại như
Về thơ (thơ mới) có các văn bản : Hầu trời (Tản ðà), Vội vàng (Xuân
Diệu), Tràng giang (Huy Cận), ðây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử).
Về truyện ngắn có các văn bản : Hai ñứa trẻ (Thạch Lam), Chữ người tử
tù (Nguyễn Tuân), Chí Phèo (Nam Cao).
Về tiểu thuyết có văn bản : Hạnh phúc của một tang gia (trích Số ñỏ – Vũ
Trọng Phụng).
Về kịch có văn bản : Vĩnh biệt Cửu Trùng ðài (trích Vũ Như Tô - Nguyễn
Huy Tưởng)
...
Việc tuyển chọn một số văn bản trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 ñể thể
hiện những nội dung trong bài Khái quát giai ñoạn ñầu thế kỷ XX ñến 1945 là
tạm ổn, phù hợp với một số luận ñiểm, khái niệm và thuật ngữ ñã nêu trong phần
bài trước ñó. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, giáo viên ñứng lớp phải biết
liên hệ, mở rộng thêm một số tác phẩm, và cũng có thể nhắc lại các tác phẩm
ñã học ở cấp trung học cơ sở viết cùng giai ñoạn này. Chẳng hạn, dạy học văn
bản Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, ta nên liên hệ với văn bản Lão Hạc hay Tắt
ñèn của Ngô Tất Tố… vì những tác phẩm này ñều thể hiện ñề tài về số phận
con người, ñặc biệt số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội thực dân
phong kiến thối nát ñầy rẫy những áp bức, bất công.
Bên cạnh ñó, dạy ñọc hiểu các văn bản văn học hiện ñại cần phải thấy sự
hiện ñại hoá về mặt ngôn ngữ. Văn bản Vội vàng của Xuân Diệu là một trong
những ví dụ tiêu biểu nhất. Nhà thơ ñã ñem những cảm xúc tươi nguyên, hạnh
phúc gieo vào lòng người với hình ảnh thật ngọt ngào : Tháng giêng ngon như
một cặp môi gần,… và kiểu ngôn ngữ ñặc biệt mới lạ, có phần táo bạo, phá cách
49
: Ta muốn (tắt, buộc, ôm, riết, say, thâu, cắn)…Xuân Diệu còn khát khao muốn
chiếm giữ và ñoạt quyền cả tạo hoá (muốn tắt nắng ñể cho màu ñừng nhạt mất,
muốn buộc gió ñể cho hương ñừng bay ñi)…
Hiện ñại hoá không chỉ là vấn ñề về hình thức mà còn là vấn ñề về nội
dung văn học. Xã hội Việt Nam từ ñầu thế kỷ XX ñến năm 1945 ñã ñặt ra biết
bao vấn ñề về ñất nước, về cuộc sống, con người và nghệ thuật mà ở những thời
kỳ trước ñó chưa từng có, ñòi hỏi văn học thời kỳ mới phải ñáp ứng. Thành ra
hiện ñại hoá trước hết là chuyện nội dung, bao gồm tư tưởng tình cảm, cách
nhìn, cách cảm, cách nghĩ,… của người nghệ sĩ trước hiện thực ñời sống, con
người và nghệ thuật. Chính nội dung tư tưởng ñã tạo ra những ñặc ñiểm, những
dấu ấn riêng và tạo ra sự khác biệt của văn học từ ñầu thế kỷ XX ñến năm 1945
so với văn học thời kỳ trung ñại. Chẳng hạn, cũng nói về ñất nước, các nhà thơ
thời kỳ trung ñại không thể không gắn nước với vua vì chủ nghĩa tôn quân ñã trở
thành tư tưởng chung của thời ñại và thường bị bi phối bởi tư tưởng nho giáo
quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. Còn thời kỳ văn học này, nước gắn liền
với dân : “Dân là dân nước, nước là nước dân” (Phan Bội Châu). Còn khi nói
ñến con người, văn học thời kỳ trung ñại chủ yếu chỉ nói tới con người xã hội,
con người công dân vì tinh thần phi ngã, vô ngã ñã thành ñặc trưng trong quan
niệm về con người của thời ñại ñó. Ở thời kỳ mới này, các nhà văn, nhà thơ
không chỉ nói tới con người xã hội, con người công dân mà còn nói tới con
người trên tinh thần giai cấp, con người tự nhiên, con người cá nhân cá thể và
con người với ñời sống tâm linh. ðọc thơ Hàn Mặc Tử, ta dễ dàng bắt gặp thế
giới con người với ñời sống tâm linh hết sức rõ nét, một con người cảm thấy lạc
lõng giữa cảnh thực và hư : Áo em trắng quá nhìn không ra/ Ở ñây sương khói
mờ nhân ảnh…(ðây thôn Vĩ Dạ). Còn ñối với Xuân Diệu, ta lại bắt gặp con
người hết sức tự nhiên trong thơ, luôn dám thổ lộ tất cả nỗi lòng, tình yêu ñối
với thi nhân là khu vườn ñầy màu sắc, ñủ mọi cung bật tình cảm, khi thì dịu
dàng, ñằm thắm, có phần e ấp : Em bước ñiềm nhiên không vướng chân / Anh ñi
lững ñững chẳng theo gần (Thơ duyên) ; khi thì giục giã, hốt hoảng, vội vàng, lo
50
sợ : Ta muốn tắt nắng ñi / Cho màu ñừng nhạt mất/ Tôi muốn buộc gió lại / Cho
hương ñừng bay ñi…Xuân ñương tới, nghĩa là xuân ñương qua / Xuân còn non,
nghĩa là xuân sẽ già / Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất ( Vội vàng)…
Nhìn chung, hiện ñại hoá diễn ra trên mọi mặt của hoạt ñộng văn học,
làm biến ñổi toàn diện và sâu sắc diện mạo nền văn học Việt Nam, có thể hoà
nhịp với văn học thế giới.
Theo quá trình vận ñộng của lịch sử, văn học cũng có những bước ñổi
mới không ngừng, ñến một thời gian nhất ñịnh nào ñó cái mới sẽ ra ñời thay thế
cái cũ lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp. Hiện ñại hoá văn học là một quá
trình như thế bởi nó chỉ có thể xuất hiện trong giai ñoạn văn học này mà không
hề xuất hiện trong giai ñoạn văn học trước ñây.
Thông qua việc chúng ta khai thác một khái niệm tiêu biểu hiện ñại hoá
ñược học trong bài Khái quát giai ñoạn văn học Việt Nam từ ñầu thế kỷ XX ñến
Cách mạng tháng Tám năm 1945 ñể vận dụng vào quá trình ñọc - hiểu các văn
bản cụ thể sẽ làm cho kiến thức văn học sử ñã học trước ñó ñược củng cố, mở
rộng. Các em sẽ biết ñược ñặc ñiểm hiện ñại hoá trong giai ñoạn văn học này có
gì ñặc sắc, tiêu biểu và chúng ñược thể hiện như thế nào trong các văn bản ñược
lựa chọn ñể học về mặt thể loại, ngôn ngữ cũng như các giá trị về mặt nội dung,
hình thức khác…Cụ thể hơn, trong khi tìm hiểu văn bản, giáo viên phải chỉ cho
học sinh tính hiện ñại thể hiện trong các văn bản của các tác giả. Có như vậy,
học sinh sẽ nhớ lâu, nhớ kỹ những nội dung kiến thức ñược học, ñồng thời tạo
cơ hội ñể các em trao ñổi thảo luận và tự rèn luyện các thao tác, kỹ năng
trong việc ñọc - hiểu các thể loại văn bản một cách hoàn chỉnh nhất.
Ý thức ñược việc làm trên, chúng ta sẽ loại trừ phần nào khả năng học
sinh học bài nào chỉ biết ñến bài nấy, thiếu sự suy luận, gắn kết, liên hệ giữa các
kiến thức khái quát - cụ thể ñược học, cũng như sẽ tránh ñược sự thụ ñộng,
khuôn mẫu trong quá trình tìm hiểu văn bản. Quan trọng hơn cả là học sinh sẽ
51
có ý thức ñối với tất cả các kiến thức ñược học ở các dạng bài khái quát mang
tính văn học sử trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay…
Bên cạnh ñó, khi khai thác chúng ta cũng cần phải chỉ cho học sinh thấy
ñược quá trình vận ñộng và phát triển của lịch sử văn học dân tộc bằng cách
phân tích, giải thích, liên hệ, so sánh, ñối chiếu với các sự vật, hiện tượng
trước ñó và sau này nhằm làm rõ những nội dung ñược triển khai ; ñồng thời
củng cố, khắc sâu các kiến thức ñã học cũng như minh họa cho những nội
dung kiến thức ñã học ở phần bài khái quát.
“Cái tôi” cá nhân cũng là một khái niệm mang tính văn học sử rất rõ
trong quá trình tìm hiểu các văn bản ở giai ñoạn ñầu thế kỷ XX ñến 1945. Chỉ
cần nhìn vào một khái niệm này cũng có thể chỉ cho học sinh thấy ñược sự vận
ñộng phát triển của văn học Việt Nam khi ñặt chúng trong mối liên hệ ñồng ñại
và lịch ñại, cụ thể trong mối liên hệ so sánh với giai ñoạn trước ñó và sau này.
Thật ra, cái tôi cá nhân ñã manh nha xuất hiện, bắt ñầu cựa quậy từ cuối
thế kỷ XVIII ñầu thế kỷ XIX trong các sáng tác của Phạm Thái, Nguyễn Du, Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,…Nhưng do hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ chưa
có ñủ ñiều kiện cho nên cái tôi ấy chưa ñủ sức phá vỡ ñược tính quy phạm chặt
chẽ của văn chương thời kỳ trung ñại. ðến khi Tản ðà xuất hiện, “cái tôi” cá
nhân ñược khẳng ñịnh mạnh mẽ hơn qua những vần thơ phóng túng, dạt dào tình
cảm, tràn ñầy cảm xúc. Khai thác triệt ñể những thể ñiệu tự do nhất trong thơ cổ
bao gồm cả những ñiệu hát dân gian như lục bát, ca dao, hát nói, hát xẩm,…hồn
thơ phóng khoáng của Tản ðà như muốn bứt khỏi những ràng buộc tù túng của
văn chương cổ, tạo nên những vần thơ phóng túng, tự do, nhưng ông vẫn không
ñủ sức sáng tạo nên một hình thức hoàn toàn mới cho thơ.
Văn bản Hầu Trời của Tản ðà ñược lựa chọn trong chương trình sách
giáo khoa Ngữ văn 11 ñể minh hoạ rõ cho một cái tôi “ngông” của người nghệ
sĩ, tự ý thức về tài năng, về giá trị ñích thực của mình và khao khát ñược khẳng
52
ñịnh mình giữa cuộc ñời. Với bài thơ Hầu Trời, Tản ðà ñã mang ñến một
nguồn gió mới, thổi phòng những ước mơ ñược vươn cao, vươn xa hơn thoát
khỏi vòng giam hãm nặng nề của chế ñộ thực dân phong kiến ñương thời ñầy
rẫy ngang trái, xót ñau. Người trí thức có lương tri không thể chấp nhận nhập
cuộc, nhưng chống lại nó thì không phải ai cũng ñủ dũng khí ñể làm. Bất bình
nhưng bất lực, người ta chỉ có thể mong ước thoát li, làm thơ ñể giải sầu. Thơ
Tản ðà thời này “ñã nói lên ñúng cái sầu bàng bạc trong ñất nước, tiềm tàng
trong tim gan người ta” (Xuân Diệu). Thi nhân ñẽ vẽ một bức tranh rất chân thật
và cảm ñộng về chính cuộc ñời mình và cuộc ñời nhiều nhà văn, nhà thơ khác.
Nhưng Tản ðà lại khác người ở chỗ, ngay từ ñầu những năm 20 ñã dám mạnh
dạn thể hiện “cái tôi” của mình với “cái buồn mơ màng, cái xúc cảm chơi vơi”
(Xuân Diệu), với khát vọng thiết tha ñi tìm một cõi tri âm ñể có thể khẳng ñịnh
tài năng, phẩm giá ñích thực của mình, bởi chẳng thể nào trông ñợi ở “cõi trần
nhem nhuốc bao nhiêu sự” này. Cái “ngông” của ông cũng là ở ñó.
Cái “ngông” của Tản ðà có sự gặp gỡ với cái “ngông” của Nguyễn Công
Trứ (Bài ca ngất ngưởng), của Cao Bá Quát (Sa hành ñoản ca). ðặc biệt, cái
“ngông” của Tản ðà gặp lại khá nhiều so với Nguyễn Công Trứ, cũng là một ý
thức rất cao về tài năng bản thân dám nói tự nhiên với các ñối tượng như Trời,
Tiên, Bụt ; dám phô bày toàn bộ con người vươn trên cả thiên hạ, như khiêu
khích cả thiên hạ. Tuy nhiên, ta vẫn nhận ra những ñiểm khác : “ngông” của Tản
ðà vượt ra khỏi cái bó buộc mình với trách nhiệm vua tôi, vấn ñề này dường
như không còn là chuyện hệ trọng nữa, mặc dù không phải như thế là sống vô
trách nhiệm với xã hội. Cái tài mà nhà thơ muốn khoe không phải là chuyện trị
nước bình thiên hạ mà là cái tài văn chương.
Có thể thấy, Tản ðà ñã tìm ñược hướng ñi ñúng ñắn ñể khẳng ñịnh mình
giữa lúc thơ phú nhà nho ñang ñi dần tới dấu chấm hết. Nhìn chung, thơ Tản ðà
chưa mới (ở thể loại, ngôn từ, hình ảnh,…) nhưng những dấu hiệu ñổi mới theo
hướng hiện ñại hoá ñã khá ñậm nét. Có thể nói, ông ñã bắt một nhịp cầu nối hai
53
thời ñại thi ca Việt Nam. Bởi thế, tác giả Thi nhân Việt Nam ñã mời anh hồn Tản
ðà ra ñể chứng giám Hội Tao ñàn của thế kỉ XX.
ðến với văn bản Vội vàng của Xuân Diệu, ta cũng bắt gặp “cái tôi”
hoàn toàn mới lạ - một cái tôi của một tâm hồn yêu ñời, yêu sống ñến cuồng
nhiệt. Nhưng ñằng sau những tình cảm ấy, có cả một quan niệm nhân sinh mới
chưa thấy trong thơ ca truyền thống. Ngay phần mở ñầu bài thơ, Xuân Diệu ñã
khẳng ñịnh mạnh mẽ cái tôi cá nhân hết sức táo bạo, như muốn ñoạt quyền cả
tạo hoá mà ñây lại là ñiều cấm kị nhất trong thơ xưa. Xuân Diệu mê hoặc người
ñọc bằng cử chỉ của thi sĩ chứ không phải bằng thái ñộ “ngông”, phóng túng.
Nhà thi sĩ cảm nhận thời gian trôi ñi bằng ánh sáng, màu sắc, hương thơm khiến
cho người ñọc cảm nhận ñược niềm say mê yêu ñời, lạc quan của nhà thi sĩ chứ
không phải nỗi tuyêt vọng. Cũng chính nội lực mạnh mẽ ñó, ñã phá vỡ hết
những khuôn sáo ước lệ của “thơ cũ”. Không còn ñâu là số chữ, số câu, niêm
luật nghiêm ngặt của thơ ðường. Những hình ảnh, thanh âm của cuộc sống tràn
vào thơ một cách tự nhiên, hồn nhiên như nhịp ñiệu thời gian :
Của ong bướm này ñây tuần tháng mật ;
Này ñây hoa của ñồng nội xanh rì ;
Này ñây lá của cành tơ phơ phất ;
Của yến anh này ñây khúc tình si ;
…
Có lẽ, sự thèm khát vô biên của Xuân Diệu không chỉ là tận hưởng cuộc
sống mà còn hướng ñến sự giao cảm với tuổi trẻ nên ñại từ “Tôi” chuyển thành
ñại từ “Ta”. Sự biến hoá ấy dường như diễn ra trong vô thức :
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt ñầu mơn mởn ;
54
Ta muốn riết mây ñưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều.
Bài thơ Vội vàng ñược chọn trong chương trình phần nào chứng tỏ Xuân
Diệu là nhà thơ “mới nhất trong phong trào thơ mới” (Hoài Thanh). Ông ñã ñem
ñến cho thơ ca ñương thời một sức sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ
thuật ñầy sáng tạo. “ðó là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu trước cách
mạng - giao cảm hết mình với cuộc ñời trần thế, với mùa xuân và tuổi trẻ, muốn
buộc thời gian ngưng lại những giây phút hiện tại ; thể hiện sự cách tân về thi
pháp : coi con người giữa tuổi trẻ là chuẩn mực của cái ñẹp” [33, tr.182].
Bên cạnh Tản ðà, Xuân Diệu, nhà thơ Hàn Mặc Tử, Huy Cận cũng góp
phần thể hiện cái tôi của mình qua các bài ðây thôn Vĩ Dạ, Tràng giang. Nói
chung, cái tôi cá nhân cá thể của mỗi thi nhân trong phong trào thơ mới ñã góp
phần ñẩy nhanh quá trình hiện ñại hoá văn học nước nhà.
ðến giai ñoạn văn học cách mạng, văn học kháng chiến , “cái tôi” như
trên không còn xuất hiện, thay vào ñó là “cái tôi” của tập thể, cộng ñồng - một
cái tôi ñầy ý thức trách nhiệm trước thời cuộc (Từ ấy, Ta ñi tới của Tố Hữu).
Khi ñược giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng ñịnh quan niệm mới về lẽ sống là sự
gắn bó hài hoà giữa “cái tôi” cá nhân và ‘cái ta” chung của mọi người. Với bài
thơ Từ ấy, Tố hữu ñã vượt qua giới hạn của “cái tôi” cá nhân ñể sống chan hoà
với mọi người : Tôi buộc lòng tôi với mọi người / ðể tình trang trải với trăm
nơi…Nhà thơ ñể tâm hồn mình trải rộng với cuộc ñời, ñồng cảm sâu xa với
những quần chúng lao khổ ñể phấn ñấu vì mục tiêu chung giải phóng dân tộc,
giải phóng ñất nước thoát khỏi xiềng xích nô lệ. Có thể hiểu, khi “cái tôi” chan
hoà trong “cái ta”, khi cá nhân hoà mình vào một tập thể cùng lí tưởng thì sức
mạnh của mỗi người sẽ ñược nhân lên gấp bội.
55
Nhìn chung, Tố Hữu ñã ñặt mình giữa dòng ñời và trong môi trường rộng
lớn của quần chúng lao khổ, ở ñấy nhà thơ tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới
không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của
những trái tim. Qua ñó, Tố Hữu cũng khẳng ñịnh mối quan hệ sâu sắc giữa văn
học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.
Việc ñưa bài thơ Từ ấy vào chương trình là sự sắp xếp phù hợp, ñúng
ñắn, vì ñây là một tác phẩm tiêu biểu của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca cách
mạng 1900 – 1945 nói chung. Tương tự việc ñưa bài Mộ (Chiều tối) của Hồ Chí
Minh cũng là một hợp lí. Bài thơ ñậm sắc thái cổ ñiển ở thi tứ “chiều”, “mây”,
“chim” nhưng có sắc thái mới là hình ảnh cô gái xóm núi xây ngô, bếp than ửng
hồng trong ñêm tối thể hiện cái nhìn lạc quan, trân trọng cuộc sống của tác giả.,
một phong thái ung dung, tự chủ và nghị lực kiên cường vượt lên hoàn cảnh
khắc nghiệt, tối tăm. Tính hiện ñại thể hiện ở việc miêu tả con người như là
trung tâm của bức tranh thiên nhiên, ở mạch thơ vận ñộng hướng về sự sống và
ánh sáng.
Rõ ràng, khi khai thác yếu tố “cái tôi” theo dòng lịch sử, ta thấy có sự vận
ñộng biến ñổi không ngừng. Giai ñoạn văn học trung ñại “cái tôi” bắt ñầu manh
nha xuất hiện ñấu tranh chống những luân lí, lễ giáo phong kiến cổ hủ ñể giải
phóng cá nhân, giành quyền hưởng hạnh phúc, ñặc biệt trong lĩnh vực tình yêu,
hôn nhân, gia ñình. Nhưng phải ñến Tản ðà - bắt ñầu bước sang giai ñoạn văn
học hiện ñại, “cái tôi” ấy mới thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết, với sự thức tỉnh
của ý thức cá nhân và khát vọng vượt lên trên cuộc sống thực tại chật chội tù
túng, dung tục, tầm thường… “Những năm 30 của thế kỷ này ñã chứng kiến một
cuộc lột xác văn học : một “thời ñại chữ tôi” (chữ của Hoài Thanh) – “cái tôi”
bộc lộ tự do, trực tiếp, thành thực thành “chữ tôi”. Cái tôi tự cảm trong thơ mới
lãng mạn, cái tôi tự nghiệm trong một số tác phẩm văn học hiện thực phê phán,
và một phần nào ñó, cái tôi tự thú trong tự truyện ñầu tiên.” [20, tr.148].
56
Nhưng ñến giai ñoạn thời kháng chiến (1945 -1975) và trước ñổi mới
(1975 – 1986) không còn là “cái tôi”cá nhân riêng lẻ mà là “cái tôi” tập thể,
cộng ñồng, gắn với trách nhiệm và nghĩa vụ ñối với dân tộc ñồng bào, non sông
ñất nước…Nhìn chung không phải là một giai ñoạn thuận lợi cho sự phát triển
dòng văn học khai thác ñời sống cá nhân riêng lẻ như giai ñoạn trước ñó. ðiều
này có những nguyên nhân của nó. Ở chỗ một thời ñại có những biến cố vĩ ñại
của lịch sử dân tộc không chấp nhận cái tôi ñời tư. Cả thế hệ dường như có
chung một một số phận, một cuộc ñời : sống và chết vì dân tộc,…Thế nên số
phận cá nhân, lịch sử nhân cách con người với tư cách là một thực thể duy nhất
sẽ không phải là chủ ñề ñược quan tâm cũng như ñược cổ vũ.
Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ ác liệt, hoà chung cùng số
phận dân tộc, nhà văn Nguyên Ngọc ñã viết Rừng xà nu như là tiếng nói của
lịch sử và thời ñại, gắn liền với những sự vận ñộng, những biến cố có ý nghĩa
trọng ñại ñối với toàn dân. Những bức tranh thiên nhiên hay những hình tượng
anh hùng trong tác phẩm, chung quy ñều là sự kết tinh cho những lí tưởng cáo
quý nhất của cộng ñồng. Rừng xà nu không chỉ là biểu tượng của con người ở
làng Xô Man hẻo lánh mà nhà văn muốn từ một làng Xô Man cụ thể ñể vươn tới
những khái quát rộng lớn hơn. Do ñó, Rừng xà nu có thể là biểu tượng của Tây
Nguyên, của cả miền Nam, và hơn nữa của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ
chiến ñấu chống ñế quốc, thực dân ñau thương nhưng quyết làm tất cả ñể giành
sự sống cho Tổ quốc mình….
Bước sang thời kỳ ñổi mới (1986 ñến nay), khi ñất nước trải qua một
bước ngoặt lớn, tạo nên những biến ñộng dữ dội trong ñời sống và ý thức xã hội,
thì kéo theo ñó là những thay ñổi về mặt nhận thức. Xã hội giao lưu, cơ chế mở
cửa, con người ñược nhìn nhận không chỉ trong quan hệ với cái sống cái chết mà
còn trong quan hệ với tất cả những mối quan hệ phức tạp khác của cuộc sống
ñời thường…thì những nhân vật trên trang sách cũng như chính cái tôi của
người nghệ sĩ cũng lên tiếng, ñược nhìn nhận như một thực thể không trùng lắp
57
với chính mình. Ở thời kỳ này, hoạt ñộng tự nhận thức, tự ñánh giá phê bình của
con người ñã trở thành một chủ ñề tập trung, trong ñó không thể không nói ñến
sự nhận thức của chính con người nhà văn. Và ñây là một quá trình không bao
giờ kết thúc.
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn ñầu tiên của thời kỳ
ñổi mới ñã ñi sâu khám phá sự thật ñời sống ở ñạo ñức thế sự. Khi làm cho
người ñọc ý thức về sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều
mối quan hệ xã hội phức tạp, chằng chịt thì văn chương ñã ít nhiều ñáp ứng
ñược nhu cầu nhìn nhận và hoàn thiện nhiều mặt của nhân cách con người.
Truyện Chiếc thuyền ngoài xa là phát hiện về ñời sống và con người theo hướng
ñó. Một người ñàn bà bị chồng hành hạ vô lí nhưng không bao giờ muốn từ bỏ
kẻ ñộc ác ñấy, những chiến sĩ từng giái phóng miền Nam nhưng không thể giải
thoát một người ñàn bà bất hạnh,…ðấy là những minh chứng sinh ñộng cho
cách nhìn của Nguyễn Minh Châu trong thời kỳ ñổi mới. Chính ông từng khẳng
ñịnh : “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách ñơn giản, và nhà văn cần
phấn ñấu ñể ñào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử” [36, tr.64].
Qua thực tế cho thấy, khai thác sự phát triển của “cái tôi” như một yếu tố
văn học sử sẽ giúp cho ñọc - hiểu các văn bản cụ thể, rõ ràng, chi tiết và hiệu
quả hơn. Học sinh sẽ ñến gần với các giá trị nội dung, nghệ thuật của văn
bản. Học sinh sẽ không cảm thấy xa lạ với những gì mà các em ñã tìm hiểu
trước ñó. Các em sẽ ý thức ñược rằng “cái tôi” cá nhân luôn có sự vận ñộng,
phát triển. Trong từng thời kỳ, giai ñoạn lịch sử văn học, “cái tôi” cá nhân của
mỗi nghệ sĩ sẽ thể hiện khác nhau, thậm chí ngay trong một tác giả “cái tôi”
cũng có sự biến ñổi theo từng tâm trạng, cảm xúc cho phù hợp với tình hình
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của nước nhà. Vì thế khi khai thác yếu tố “cái
tôi” như một khái niệm mang tính văn học sử, chúng ta không chỉ tìm hiểu ở sự
biểu hiện qua loa, sơ sài mà phải gắn chúng vào từng thời kỳ, giai ñoạn phát
triển ñể làm nổi bật những ñặc ñiểm, biểu hiện của chúng...
58
2.2.2.2. Khai thác về vấn ñề bút pháp Văn chương lãng mạn ra ñời trong khoảng thời gian từ năm 1932 ñến
năm 1945 ñánh dấu một cuộc cách mạng trong văn học Việt Nam, thay ñổi hệ
thống tư tưởng thời phong kiến. Trước kia cái tôi cá nhân không có ñịa vị trong
văn học và xã hội. Cá nhân thể hiện như một hình ảnh tượng trưng và bị hoà tan
trong cái chung. Trong nền văn chương trung ñại tính cách phi ngã ngự trị hầu
hết tác phẩm văn học Việt Nam. Ngay cả những nhà thơ lớn như Nguyễn Du,
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến,…cũng chỉ
nói ñến cái tôi một cách sơ sài, mờ nhạt, ước lệ.
Chúng ta có thể tìm thấy mầm mống của xu hướng văn học lãng mạn
trong thơ, văn, từ khúc của Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Dương Lâm, ðào
Tấn… Trong văn học Việt Nam giai ñoạn giao thời (1900 -1930) ñã xuất hiện
những tác phẩm có tính chất lãng mạn. ðó là Khối tình con của Tản ðà, Giọt lệ
thu của Tương Phố, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách,…Nhưng phải ñến ñầu
những năm 30 của thế kỷ XX, hoàn cảnh văn hoá xã hội ở Việt Nam mới ñầy ñủ
những ñiều kiện chín muồi ñể chủ nghĩa lãng mạn ra ñời. Và phải ñến năm
1932, chủ nghĩa lãng mạn mới thực sự xuất hiện trong văn học Việt Nam với
những tên tuổi như Thế Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Nhất Linh,
Khái Hưng, Hoàng ðạo, Thạch Lam, Nguyễn Tuân,…
Tác phẩm Hai ñứa trẻ của Thạch Lam ñược viết nghiêng về bút pháp
lãng mạn bởi các nhà văn lãng mạn thường tìm kiếm những giá trị cao ñẹp trong
những cảnh ñời bình thường, thậm chí tầm thường, tăm tối ; khám phá cái cao cả
ở những con người, những số phận bị ruồng bỏ, chà ñạp. Không bị ràng buộc
bởi môi trường và hoàn cảnh, các nhà văn lãng mạn tin tưởng vào khả năng vượt
qua giới hạn con người. Họ miêu tả cuộc sống trong sự vận ñộng và thấm nhuần
khát vọng vươn tới lý tưởng.
Hai ñứa trẻ của Thạch Lam miêu tả bức tranh của một phố huyện nhỏ
nghèo nàn, tiêu ñiều, xơ xác. Nơi ấy có biết bao số phận con người như chị Tí,
59
gia ñình bác Xẩm, bác phở Siêu, bà cụ Thi và chị em Liên - An,…sống trong
cảnh ñời tăm tối. Ban ngày, Chị Tí ñi mò cua bắt tép; tối ñến chị mới dọn cái
hàng nước…Chị chả kiếm ñược bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng
từ chập tối cho ñế ñêm. Gia ñình bác Xẩm sống lây lất bằng nghề hát xẩm, ngồi
trên manh chiếu, cái thau sắt trắng ñể trước mặt, bác chưa hát vì chưa có khách
nghe…Bác Siêu bán phở ế ẩm vì món quà của bác là một thứ quà xa xỉ, nhiều
tiền ñối với người dân phố huyện…Bà cụ Thi - một bà già hơi ñiên với tiếng
cười u uẩn, xót xa,…Gia ñình Liên - An do bố mẹ mất việc ở Hà Nội nên phải
về quê ở, mẹ giao cho hai chị em trông coi cái của hàng tạp hoá nhỏ xíu,…Mặc
dù sống trong những cảnh ñời tăm tối, cơ cực, vất vả nhưng ở một góc nhìn, nhà
văn Thạch Lam gởi vào tâm hồn hai ñứa trẻ những ước mơ, khát vọng về cuộc
sống tốt ñẹp hơn tuy còn mơ hồ. Chuyến tàu ñêm như ñã ñem một chút thế giới
khác ñi qua. Một thế giới khác hẳn, ñối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn
ñèn của chị Tí và ánh lửa bác Siêu…”.
Văn chương lãng mạn ñã thỏa mãn nhu cầu tự do sáng tác và phát huy
bản ngã của người làm văn học nghệ thuật. “Sự xuất hiện ý thức về cái tôi cá
nhân là một bước tiến quan trọng trong hành trình tư tưởng và nghệ thuật của
nhân loại, bởi vì sáng tạo nghệ thuật mang tính ñặc thù”. Cho nên sự giải phóng
bản ngã, giải phóng cái tôi của chủ thể sẽ phát huy khả năng sáng tạo của nghệ
sĩ, làm xuất hiện nhiều phong cách cá nhân ñộc ñáo.
Về thơ ca có Thế Lữ với hồn thơ rộng mở, Lưu Trọng Lư mơ màng, Huy
Thông hùng tráng, Nguyễn Nhược Pháp trong sáng, Huy Cận ảo não, Nguyễn
Bính quê mùa, Chế Lan Viên huyền bí và Xuân Diệu tha thiết, rạo rực, băn
khoăn…
Thơ Tố Hữu cũng rất lãng mạn nhưng là lãng mạn cách mạng. Thơ ông
khẳng ñịnh cái tôi cá nhân ñược giải phóng về mặt tình cảm, cảm xúc và trí
tưởng tượng. Nhưng thơ Tố Hữu không bi quan, trái lại luôn thể hiện tinh thần
60
lạc quan chiến thắng với niềm tin chắc thắng ở tương lai tươi sáng của cách
mạng…
Trong văn xuôi, cái tôi khinh bạc, lãng tử thể hiện qua tập Tuỳ bút của
Nguyễn Tuân và tập truyện ngắn Vang bóng một thời, tiêu biểu là truyện Chữ
người tử tù. Nhân vật người tử tù (Huấn Cao) biết mình sắp chết nhưng tư thế
vẫn hiên ngang bất khuất, ñồng thời là người có tài (viết chữ ñẹp) và có tâm cao
thượng trong sáng. Ông là một kẻ tử tù chống lại triều ñình, nhưng lại ñược viên
quản ngục nể trọng, kính phục và khát khao có ñược nét chữ ông Huấn treo
trong nhà coi như “báu vật” ở ñời,…Thông qua nhân vật này, nhà văn ñã bày tỏ
thái ñộ bất hoà sâu sắc với xã hội ñương thời, không chịu vứt bỏ lương tâm,
chạy theo danh lợi, cố giữ “thiên lương” và “sự trong sạch của tâm hồn”.
Với những thành tựu to lớn của thời kỳ văn học 1932 – 1945 các nhà văn
lãng mạn và những người làm văn học nghệ thuật cùng thời ñã tạo ñược trào lưu
văn chương lãng mạn có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam.
Văn chương lãng mạn, văn chương hiện thực dù có những ñiểm khác
nhau về khuynh hướng tư tưởng và cảm hứng, nhưng không nên có sự ñối lập
tuyệt ñối. Có nhiều nhà văn sáng tác theo hai khuynh hướng như Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Thanh Tịnh,…Trong thực tế, cả hai xu
hướng này luôn ở trong quá trình chuyển hoá, ảnh hưởng qua lại, không ñối lập
nhau về giá trị. Ở xu hướng văn học nào cũng có những cây bút ñầy tài năng và
những tác phẩm xuất sắc.
Tiêu biểu cho xu hướng văn học hiện thực phải kể ñến tên tuổi của nhà
văn Nam Cao với tác phẩm Chí Phèo ñược học trong chương trình Ngữ văn 11.
Tác phẩm ñã phô bày hiện thực xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám
1945 ñầy rẫy những bất công, thối nát. Một anh Chí hiền lành như ñất, khoẻ
mạnh, ñược việc và từng mớ ước có một gia ñình nho nhỏ - chồng cày thuê, vợ
cuốc mướn,… sau mấy năm ở tù về, trở thành kẻ lưu manh tha hoá, mất nhân
61
hình lẫn nhân tính, một con vật người không hơn không kém, một con quỹ dữ
của làng Vũ ðại ai ai cũng xa lánh. Chí ngày càng trượt dài trên dốc cuộc ñời
trong những cơn say triền miên…Bằng ngòi bút hiện thực, nhà văn Nam Cao ñã
kết án sâu sắc xã hội bạo tàn phá cả thể xác và linh hồn người nông dân lao
ñộng, ñồng thời ông vẫn phát hiện và khẳng ñịnh bản chất lương thiện, ñẹp ñẽ ở
họ ngay trong khi họ bị vùi dập tới mất cả hình người, tính người.
Nam Cao thể hiện tài tình và chân thật tâm lí người nông dân cũng như
người trí thứ tiểu tư sản trước Cách mạng tháng Tám. Cuộc sống của họ ngột
ngạt, bế tắc, ñói khổ, dằn vặt triền miên. Tâm hồn của họ luôn cuồn cuộn những
xung ñột bi kịch. Họ khao khát sống có ích, sống có ý nghĩa ñích thực của một
Con Người. Nhưng xã hội cũ không cho họ quyền sống như vậy. Hoặc họ phải
cam chịu (Dì Hảo, Ở hiền,…), hoặc phải dũng cảm, quyết liệt tìm lấy cái chết
(Lão Hạc, Chí Phèo, Lang Rận,…). Chí Phèo quyết liệt ñòi lại quyền làm người
“Tao muốn làm người lương thiện…”.
Trong một xã hội còn bọn cường hào, ác bá như Bá Kiến, Lí Cường,
Nghị Hách, Nghị Quế, Nghị Lại thì người lao ñộng khó có thể sống lương
thiện, khó có thể mưu cầu ñược hạnh phúc ñích thực và ñầy ñủ.
Chính những vấn ñề sâu sắc mà nhà văn Nam Cao ñặt ra trong tác phẩm
Chí Phèo và ở một số tác phẩm khác, ta nhận thấy chiều sâu của một ngòi bút
nhân ñạo chủ nghĩa thật ñáng trân trọng, một cái nhìn hiện thực sắc bén, chân
thật, một tài năng sáng tạo thật mãnh liệt.
Nam Cao thuộc vào số những nhà văn ñã ñọc ñược và nhận ra ñược cái
thâm trầm ở Chekhov, ở Dostoievski. Ngòi bút kể chuyện ñời ñã không còn
dừng lại ở sự mô tả những biểu hiện trái tai gai mắt bề ngoài. Sự bất hòa, sự kết
án xã hội ñương thời ở Nam Cao ñã ñi vào nguyên tắc nên có thể bộc lộ ra một
cách ôn tồn và nhỏ nhẹ, ñẩy tính quyết liệt ẩn sâu vào trong. Ở các trang viết của
mình, Nam Cao ñã nhìn thấy và chỉ cho người ñọc thấy cái xã hội ñọng trong nô
62
lệ và lạc hậu xứ mình, cái xã hội ñẳng cấp, bất công và phi nhân ấy ñã làm tha
hoá, biến dạng biến chất con người ta như thế nào.
Viết sau và ñi tiếp dòng văn tả thực xã hội của những Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, chủ nghĩa hiện thực ở Nam Cao ñã tỉnh táo
ñến mức không còn ảo tưởng, không còn sự ve vuốt nào hết. Phần lớn các nhân
vật nông dân ở tác phẩm của ông ñều ñã hoặc ñang bị bần cùng hóa, lưu manh
hóa, suy ñồi về nhân tính, nhân cách. Phần lớn ñám nhân vật tiểu trí thức ở sáng
tác của ông ñều ñang bị dằng xé giữa sự mưu cầu miếng cơm manh áo và sự bảo
vệ phẩm giá con người mình, ñều ñang day dứt vì thấy ñời mình “sẽ mốc lên, sẽ
rỉ ñi, sẽ mòn ra ” và mình “sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống”. Tư
tưởng nhân ñạo chủ nghĩa trong văn chương Nam Cao không thuộc kiểu một
tình thương mênh mông vỗ về, an ủi, mà là một ñòi hỏi nghiêm khắc : ở mức
thấp, ñó là ñòi hỏi con người hiểu biết chính mình và hoàn cảnh sống quanh
mình, nhận cho ra tình trạng bị tha hóa, biến dạng biến chất, coi sự tự ý thức này
là cơ sở cho việc hành ñộng cải tạo hoàn cảnh sống ở mức cao hơn, ñó là ñòi hỏi
việc tạo ñiều kiện ñể phát triển “tận ñộ ”, hết mức những năng lực vốn có ở mỗi
con người, coi phát triển năng lực con người là tiền ñề của sự hoàn thiện nhân
cách.
Bên cạnh hiện thực nông thôn, ñoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
(trích Số ñỏ) của Vũ Trọng Phụng còn cho ta thấy hiện thực của lối sống thành
thị chạy theo ñồng tiền, thời thượng, ñua ñòi, a dua theo lối sống văn minh rởm
lố lăng ñồi bại ñương thời ñể mà ñánh mất ñi những tình cảm, ñạo ñức vốn có
của con người. Vì ñồng tiền mà ñám con cháu mau chóng mong người thân của
mình qua ñời sớm ñể ñược chia gia tài. Cũng vì ñồng tiền mà có thể phá vỡ
những luân thường ñạo lí truyền thống tốt ñẹp có từ ngàn ñời…Nói tóm lại, sức
mạnh của ñồng tiền có thể chi phối tất cả.
Tiểu thuyết Số ñỏ ñược viết năm1936. ðây là năm ñầu của Mặt trận Dân
chủ ðông Dương, không khí ñấu tranh dân chủ sôi nổi… Chế ñộ kiểm duyệt
63
sách báo khắt khe của thực dân tạm thời bãi bỏ. Bối cảnh ấy ñã tạo ñiều kiện cho
nhà văn phát huy cao ñộ những mặt tích cực và ñạt ñược những thành tựu rực rỡ.
Số ñỏ là tác phẩm tiêu biểu nhất của Vũ Trọng Phụng và ñược ñánh giá vào loại
xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam, kể từ khi có chữ quốc ngữ., thể hiện trình
ñộ tiểu thuyết già dặn, bút pháp châm biếm ñặc biệt sắc sảo. Vũ Trọng Phụng
góp một vị trí qua trọng trong tiến trình phát triển lịch sử văn học Việt Nam.
Qua một chuỗi vận ñỏ của nhân vật Xuân Tóc ðỏ, Vũ Trọng Phụng ñã
thể hiện chân thực một hiện tượng phổ biến trong xã hội nhố nhăng ñương thời,
một kẻ bất tài, bịp bợm cũng có thể trở thành một trí thức, một “anh hùng cứu
quốc”, một mụ me Tây dâm ñãng cũng có thể ñược bằng Tiết hạnh khả phong !
Từ ñó, người ñọc có thể nghĩ tới sân khấu chính trị ñương thời vốn không ít
những kẻ tai to mặt lớn thực chất chỉ là những Xuân Tóc ðỏ. Và khi nào xã hội
còn nhố nhăng, thì khi ñó ắt sẽ còn những Xuân Tóc ðỏ. Dĩ nhiên, trong sự ñảo
lộn quay cuồng ấy, biết bao người có ñức, có tài ñã gặp số ñen. Do ñó, nhà văn
mặc dù chỉ mới phê phán xã hội thành thị ở phương diện sinh hoạt ñạo ñức,
nhưng Số ñỏ có ý nghĩa thời sự và tính chiến ñấu khá rõ. ðó cũng là một trong
những lí do ñể tác phẩm này có thể lựa chọn vào chương trình học chính thức,
bởi lẽ những gì mà tác giả nêu ra ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Thật ra, các cụm từ văn chương lãng mạn (chủ nghĩa lãng mạn, bút pháp
lãng mạn), văn chương hiện thực (chủ nghĩa hiện thực, bút pháp hiện thực) chỉ
có trong hệ thống khái niệm lí luận văn học. Nhưng ở một góc ñộ lịch sử phát
triển văn học, nó lại thể hiện tính văn học sử rất rõ. Ở chỗ trong giai ñoạn trước
ñó chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực chưa hình thành các trào lưu, xu
hướng rõ rệt, nếu có cũng chưa thể bộc lộ một cách mạnh mẽ quyết liệt ñược.
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Khuyến,… cũng ñã từng lên
án, phê phán, vạch trần xã hội ñương thời. Ví như trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du, nhà thơ ñã tố cáo xã hội buôn thịt bán người, chạy theo ñồng tiền
chà ñạp nhân phẩm, ñạo ñức tốt ñẹp người phụ nữ (Có ba trăm lạng việc này
64
mới xong) nhưng một mình Nguyễn Du hay Hồ Xuân Hương không thể hình
thành những trào lưu, xu hướng ñược. Chỉ có tốc ñộ phát triển mau lẹ về số
lượng lẫn chất lượng ; chỉ có sự thay ñổi bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội ; nhu
cầu thưởng thức bạn ñọc mở rộng và cũng chỉ có quá trình hiện ñại hoá trong
giai ñoạn văn học ñầu thế kỷ XX ñến năm 1945… mới bùng nổ các trào lưu, xu
hướng văn học cụ thể.
Chính việc khai thác một số vấn ñề bút pháp trên sẽ cho chúng ta thấy
ñược tính chất tích hợp giữa kiến thức lí luận và kiến thức văn học sử trong quá
trình ñọc hiểu văn bản. Sự tích hợp ở ñây ñược hiểu là : trong kiến thức lí luận ta
có thể triển khai các kiến thức văn học sử. Và ñến lượt mình, kiến thức văn học
sử sau khi ñược phân tích sẽ góp phần làm rõ các khái miệm, thuật ngữ ñã ñược
học trước ñó (như ñã phân tích ở phần trên).
Với việc chúng ta khai thác một số kiến thức liên quan về mặt bút pháp
trong quá trình vận ñộng phát triển của lịch sử văn học dân tộc và xem chúng
như một yếu tố văn học sử sẽ ñồng thời tạo ñiều kiện thuận lợi cho sự ñịnh
hướng ñúng giá trị hình thức nghệ thuật của các văn bản. Bên cạnh ñó, học sinh
sẽ thấy ñược những cách viết khác nhau của từng tác giả trong từng thời
kỳ, giai ñoạn…Cùng là bút pháp hiện thực nhưng hiện thực trong cách viết của
Nam Cao sẽ khác với hiện thực mà Ngô Tất Tố muốn thể hiện, cùng là bút pháp
lãng mạn nhưng lãng mạn trong thơ Xuân Diệu sẽ khác xa với lãng mạn trong
thơ Tố Hữu,…
Bấy lâu nay, thường khi khai thác vấn ñề về bút pháp, ña phần giáo viên
thường chỉ ñưa ra những nhận xét chung chung, khái quát kiểu như : Nam Cao
là một nhà văn hiện thực bậc thầy ; Vũ Trọng Phụng là một cây bút trào phúng
xuất sắc. Tất nhiên những nhận xét kiểu như thế sẽ làm cho quá trình ñọc - hiểu
không thông suốt, thấu ñáo, rõ ràng. Nhưng một khi chúng ta biết cách khai thác
chúng xem như một yếu tố văn học sử cần thiết phải triển khai trong các văn
65
bản sẽ làm cho quá trình tiếp thu, cảm nhận của học sinh ñược nâng cao, mở
rộng…
2.2.2.3. Khai thác về vấn ñề ñề tài Nhiều người cho rằng, ñề tài cũng như ngôn ngữ và thể loại trước hết là
những khái niệm thuộc lĩnh vực lí luận văn học. Tuy nhiên, trong luận văn này
người viết mạnh dạn khai thác tìm hiểu ñề tài dưới góc ñộ mang tính văn học sử
ñể thấy sự vận ñộng phát triển không ngừng trong dòng chảy tiến bộ của lịch sử
văn học dân tộc, qua ñó, góp phần làm cho hoạt ñộng ñọc - hiểu văn bản ñược
ñịnh hướng chính xác hơn.
ðề tài - một trong những nội dung thể hiện khá phong phú, ña dạng ở
giai ñoạn văn học hiện ñại. Bài Khái quát giai ñoạn văn học ñầu thế kỷ XX ñến
1945 có nêu : Xu hướng văn học lãng mạn thường tìm ñến các ñề tài về tình yêu,
về thiên nhiên và quá khứ, thể hiện khát vọng vượt lên trên cuộc sống thực tại
chật chội tù túng, dung tục, tầm thường. Còn văn học hiện thực tập trung vào
việc phơi bày thực trạng bất công, thối nát của xã hội ñương thời, ñồng thời ñi
sâu phản ánh tình cảnh khốn khổ của các tầng lớp nhân dân bị áp bức bốc lột
với một thái ñộ cảm thông sâu sắc.
Liên quan ñến kiến thức về ñề tài ñược nhìn nhận dưới góc ñộ tri thức
văn học sử, khi khai thác chúng ta cũng cần phải chỉ ra những sự ñổi mới,
khác biệt, những nét ñặc sắc trong cách thể hiện ở từng văn bản thuộc mỗi
giai ñoạn, thời kỳ khác nhau. ðề tài cũng gắn liền với yếu tố lịch sử và thời
ñại.
Do yếu tố thời ñại, lịch sử xã hội,…chi phối nên ñề tài văn học ít nhiều
cũng bị ảnh hưởng và có sự ñổi mới ñáng kể theo thời gian, không gian. Nổi
bật là sự ñổi mới về tư duy và cách viết. Không bị gò bó vào các tư tưởng ý thức
hệ phong kiến, không bị chi phối vào khuôn mẫu có sẵn, không phụ thuộc vào
thể thơ hay niêm luật,…Các nhà thơ mới có cách sáng tạo riêng trong việc dùng
66
từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp, ñiệu của câu thơ trong mỗi bài, cũng như việc phá
vỡ tính ước lệ, phi ngã…
Trong thơ xưa, thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái ñẹp của
con người : Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên ñẹp / Mây, gió, trăng, hoa, tuyết núi
sông. (Hồ Chí Minh). Và hay như Nàng Kiều ñược Nguyễn Du ví ñôi mắt trong
như làn nước mùa thu, nét mày thanh như sắc núi mùa xuân ; khiến cho hoa
ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Còn cái ñẹp phúc hậu của Thuý Vân thì
ñược ví như khuôn trăng ñầy dặn, nét ngài nở nang / Hoa cười ngọc thốt ñoan
trang / Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. Tuy nhiên, ñến với Xuân Diệu,
quan niệm chuẩn mực của cái ñẹp là thiên nhiên ñã ñược thay thế bởi quan niệm
chuẩn mực của cái ñẹp là con người. Bằng cặp mắt “xanh non”, “biếc rờn”,
Xuân Diệu ñã nhìn cuộc ñời và vạn vật có nhiều ñiểm khác so với các nhà thơ
cũ. Thiên nhiên và con người gần gũi bình dị quanh ta bỗng nhiên ñược ông phát
hiện ra biết bao ñiều mới lạ, ñáng yêu, ñáng quý.
Liễu là hình ảnh quen thuộc trong thơ trung ñại nhưng thường chỉ ñược
miêu tả trong vẻ ñẹp mềm mại thướt tha vốn có “Lơ thơ tơ liễu buông mành” ...
hoặc ñược sử dụng như một ước lệ nghệ thuật chỉ những người con gái ñẹp “liễu
yếu ñào tơ” theo quan niệm lấy thiên nhiên làm chuẩn mực vẻ ñẹp con người.
Trong cách cảm nhận mới mẻ của Xuân Diệu, khi con người mới thực sự
là chuẩn mực cho cái ñẹp thì liễu mùa thu hiện lên trong dáng vẻ, tâm trạng của
một giai nhân, trong ñó, “rặng liễu ñìu hiu” là dáng buồn, tơ liễu thướt tha là tóc
buồn, lá liễu là ngàn hàng lệ nhỏ... Liễu tựa một người con gái buồn hiu hắt và
ñẹp kiêu sa.
Mùa thu là mùa buồn, tuy thường là nỗi buồn man mác có cái vẻ ñẹp và
cái nên thơ riêng của nó. Thực ra ñây là một cảm hứng rất tự nhiên và có tính
truyền thống về mùa thu của thơ ca nhân loại (Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản
ðà... cũng như ðỗ Phủ, Bạch Cư Dị...). Bài ðây mùa thu tới cũng nằm trong
67
truyền thống, nhưng cảnh thu của thơ Xuân Diệu có cái mới, cái riêng của nó.
Ấy là chất trẻ trung tươi mới ñược phát hiện qua con mắt “xanh non” của tác
giả, là sức sống của tuổi trẻ và tình yêu, là cái cảm giác cô ñơn “run rẩy” của cái
tôi cá nhân biểu hiện niềm khao khát giao cảm với ñời.
Hay như việc miêu tả về tình yêu ñôi lứa. ðối với Xuân Diệu là phải Mau
với chứ vội vàng lên với chứ / Em em ơi tình non sắp già rồi (Vội vàng). Yêu là
chết trong lòng một ít (Yêu)…Làm sao sống ñược mà không yêu / Không nhớ
không thương một kẻ nào…
ðối với Nguyễn Bính, bằng cách nói ví von mộc mạc và duyên dáng trữ
tình, ông ñã thổ lộ tình yêu của mình : Thôn ðoài ngồi nhớ thôn ðông / Một
người chín nhớ mười mong một người / Gió mưa là bệnh của giời / Tương tư là
bệnh của tôi yêu nàng. (Tương tư ). Chữ “tôi” xuất hiện trong bài thơ thật ñáng
yêu. Thôn ðoài với thôn ðông là nơi nhà “Nàng” và nhà “Tôi” ñang ở. Cách sử
dụng hoán dụ - nhân hoá kết hợp với thành ngữ và nghệ thuật phân hợp số từ - vị
ngữ (chín, mười, nhớ mong = chín nhớ mười mong) làm cho lời thơ trở nên bình
dị mà hồn nhiên, ñằm thắm. Nỗi “chín nhớ mười mong một người” không chỉ
ñầy ắp, da diết trong lòng chàng trai ña tình mà còn tràn ngập cả xóm thôn, cả
thôn ðông lẫn thôn ðoài. Yêu nàng tôi tương tư ñã thành “bệnh”, thật ñáng
thương,… cũng như bệnh nắng mưa của trời vậy. Cách so sánh “bệnh giời” với
bệnh tương tư “của tôi yêu nàng”, Nguyễn Bính ñã diễn tả một cách hồn nhiên,
thú vị về nỗi buồn tương tư trong tình yêu là lẽ tự nhiên, là tất yếu. Yêu thì
mong ñược gần nhau, mà xa thì nhớ; yêu lắm nên nhớ nhiều ; càng nhớ mong thì
càng tương tư. Tương tư là một nét ñẹp của tình yêu nên khác gì “Nắng mưa là
bệnh của giời”....
Còn thi sĩ Hàn Mặc Tử ñầy bí ẩn với những vần thơ tình yêu nồng nàn
tha thiết nhưng ñầy thất vọng bi quan trong cuộc ñời trần thế, mọi thứ ñều mờ
ảo, không phân biệt ñược ñâu là cõi hư, ñâu là cõi thực. Sẽ không thể giải thích
ñược ñầy ñủ hiện tượng Hàn Mặc Tử nếu chỉ vận dụng thi pháp của chủ nghĩa
68
lãng mạn và ảnh hưởng của Kinh thánh. Chúng ta cần nghiên cứu thêm lý luận
của chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực. Trong những bài thơ siêu
thực của Hàn Mặc Tử, người ta không phân biệt ñược hư và thực, sắc và không,
thế gian và xuất thế gian, cái hữu hình và cái vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ
thể và khách thể, thế giới cảm xúc và phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn lẫn,
mọi lôgic bình thường trong tư duy và ngôn ngữ, trong ngữ pháp và thi pháp bị
ñảo lộn bất ngờ. Nhà thơ ñã có những so sánh ví von, những ñối chiếu kết hợp lạ
kỳ, tạo nên sự ñộc ñáo ñầy kinh ngạc và kinh dị ñối với người ñọc.…
Các nhà văn lãng mạn ñã cảm nhận và miêu tả những nỗi niềm, tâm
trạng, cảm xúc yêu ñương phong phú, tinh vi và chân thực chưa từng có trong
những giai ñoạn trước ñó. Có thể nói, với nguồn cảm hứng ñặc biệt dành cho
tình yêu, ñến văn học lãng mạn, tình yêu mới ñích thực là tình yêu trần thế và sự
giao cảm tuyệt ñối cả thể xác lẫn tâm hồn.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể nhận ra rằng ở bất kỳ một văn bản
thơ nào khi ñọc - hiểu phải nêu bật ñược ñề tài, nội dung, tư tưởng mà tác giả
thể hiện ñể làm nổi bật phong cách viết từng cá nhân nhà thơ. Cùng là một ñề
tài nhưng mỗi tác giả sẽ có những cách viết khác nhau. Kiến thức văn học sử
trong cách dạy khai thác ñề tài là ở ñiểm này. ðôi lúc, ñề tài sẽ gắn liền với tên
tuổi của họ. Ví như khi nhắc ñến Xuân Diệu, trước tiên chúng ta sẽ nghĩ ngay
ñến ñề tài về tình yêu, hay như Nguyễn Bính sẽ nghĩ ñến ñề tài về chốn chân quê
ñơn sơ, mộc mạc,…
Dạy các văn bản thuộc thể văn xuôi cũng cần cho các em thấy ñuợc sự
ñổi khác trong cách thể hiện ñề tài.
Chẳng hạn : Cùng viết về ñề tài số phận con người trong xã hội, văn học
trung ñại giai ñoạn ñầu thế kỷ XVIII ñến cuối thế kỷ XIX thường miêu tả số
phận bất hạnh của người phụ nữ sống trong lễ giáo phong kiến với những thành
kiến, ñịnh luật khắt khe, ràng buộc. Họ phải gánh chịu nhiều bất hạnh, ñắng cay,
69
sống cô ñơn, lẻ loi,… (Cung oán ngâm - Nguyễn Gia Thiều, Chinh phụ ngâm –
ðoàn Thị ðiểm, ðặng Trần Côn, Truyện Kiều - Nguyễn Du, Thơ của Hồ Xuân
Hương, Bà Huyện Thanh Quan,…).
Còn số phận con người trong văn học hiện ñại trước Cách mạng Tháng
Tám, ña phần thường viết về tầng lớp nhân dân lao ñộng nghèo khổ, bị áp bức
bốc lột ñến tận xương tuỷ, rơi vào những bi kịch không lối thoát. Viết về mảng
ñề tài này, chủ yếu tập trung vào các thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng
sự,…
Chí Phèo (Truyện ngắn Chí Phèo - Nam Cao) – bi kịch của người nông
bị lưu manh tha hoá…vì nguyên nhân vô cớ bị ñẩy vào tù, trở thành tay sai cho
kẻ thù, bị kẻ thù lợi dụng mà hắn không hề hay biết. Hắn dần dần rơi vào bi kịch
bị tha hoá và bị từ chối, cự tuyệt quyền làm người. Ở hình tượng nhân vật Chí là
một chuỗi tình huống cho ta thấy cái hiện thực thảm khốc của ñời sống nhân dân
nghèo trong xã hội làng Vũ ðại ngày ấy – chính là xã hội thực dân phong kiến
thu nhỏ trước cách mạng. Nhưng cũng ñồng thời cho thấy sức sống mãnh liệt
của nhân tính. Càng bị ñẩy vào cảnh nghèo khổ, bế tắc, cùng cực, càng trượt dài
trên dốc tha hoá, những người lao ñộng vốn lương thiện như Chí Phèo càng khát
khao trở về cuộc sống lương thiện, khao khát ñược sống cho ra mặt người. Ở
ñây, sự tha hoá, sự trở về với bản tính lương thiện của Chí ñiều mang tính quy
luật, ñược nhà văn miêu tả, thể hiện như những quy luật.
Văn bản Chí Phèo ñược chọn ñể giảng là phù hợp, tiêu biểu cho ñề tài
viết về số phận người nông dân trước Cách mạng tháng Tám trong các sáng tác
của nhà văn Nam Cao. ðồng thời cũng tiêu biểu cho cách viết không hề trốn
tránh sự thực, dám nhìn thẳng vào hiện thực ñể phơi bày những bất công, thối
nát.
Chí Phèo - kết tinh những thành công của Nam Cao trong ñề tài nông
dân và là một kiệt tác trong nền văn xuôi trước Cách mạng. Khác với ña số
70
truyện ngắn khác, Chí Phèo vừa phản ánh xã hội nông thôn trên bình diện ñấu
tranh giai cấp vừa thể hiện vấn ñề con người bị tha hóa. Qua hình tượng Chí
Phèo, một trường hợp nông dân lưu manh hóa, Nam Cao không những ñã miêu
tả sâu sắc, cảm ñộng chính sách ñày ñọa của người nông dân bị ñè nén bóc lột
ñến cùng cực, mà còn dõng dạc khẳng ñịnh nhân phẩm của họ trong khi họ bị xã
hội vùi dập ñến mất cả hình người, tính người…
Và phải nói, con người trong văn học hiện ñại ñược thể hiện ở nhiều khía
cạnh. Con người với cái tôi cá nhân cá thể, tự ý thức trách nhiệm ; con người
với cuộc sống cơm áo gạo tiền ; con người với những tấn bi kịch dai dẳng, bế tắc
; con người với ước mơ, khát khao và hoài bão,…
Nhân vật Hộ (ðời thừa – Nam Cao), ñược học trong sách Ngữ văn 11,
tập 1, chương trình nâng cao cũng nói về số phận con người nhưng là số phận
người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng - một ñề tài chưa từng xuất hiện trong
nền văn học trước ñó.
Nếu như ở Truyện Kiều của Nguyễn Du, người ñọc gặp bi kịch của kiếp
“tài hoa bạc mệnh”. Ở Chí Phèo của Nam Cao là bi kịch của những khát khao
lương thiện. Và cũng với Nam Cao ta lại gặp ở ðời thừa tấn bi kịch tinh thần
của người tri thức với tư tưởng nhân ñạo mới mẻ, ñộc ñáo của nhà văn lớn Nam
Cao.
Phải có những hiểu biết sâu sắc về tâm tư tình cảm con người thì Nam
Cao mới viết ñược những dòng ñầy cảm xúc về văn sĩ Hộ. Dường như những
day dứt trong cuộc ñời ông - cuộc ñời văn sĩ khổ ải – ñã nhập vào những suy tư
của Hộ, ñã nhập vào tấn bi kịch tinh thần của Hộ. Có người nói, Hộ chính là
hình ảnh của nhà văn Nam Cao thời kì trước Cách mạng. Tôi không hoàn toàn
nghĩ thế. Nam Cao ñã có thể bị cơm áo ghì chặt nhưng Nam Cao hơn hẳn Hộ ;
ông ñã biết vượt lên trên những lo toan ấy ñể biến giấc mơ thành hiện thực. Ông
ñã viết những lời văn hay nhất, ñẹp nhất về cuộc ñời những kiếp lầm than và
71
chắc chắn Nam Cao không phải ñỏ mặt khi thấy tên mình sau những tác phẩm
như Chí Phèo, ðời thừa… Bởi chính ñó là giấc mơ văn chương nẩy nở.
Có thể tự tin mà nói rằng với ðời thừa, Nam Cao ñã bộc lộ ñược tư tưởng
nhân ñạo mới mẻ, ñộc ñáo của mình khi viết những dòng bi kịch về Hộ. Kinh
nghiệm và vốn sống ñã cho ông viết những ñiều có sức rung ñộng, lay chuyển
lòng người. ðó chính là nhờ tư tưởng nhân ñạo mới mẻ, ñộc ñáo của nhà văn
Nam Cao. Nhân ñạo ở sự ca ngợi khát vọng ñẹp ñẽ của Hộ, nhân ñạo ở sự cảm
thông sâu sắc với người tri thức…
Qua bi kịch tinh thần của Hộ, Nam Cao ñã bộc lộ ñược sự cảm thông,
trân trọng bao kiếp người lao khổ trong cuộc ñời này. Nam Cao ñã kế thừa tư
tưởng truyền thống nhân ñạo của cha ông. Nhà văn không “phản ánh ñể phản
ánh” mà sau những câu chữ tưởng như lãnh ñạm, thờ ơ chính là một trái tim
nhiệt thành, sôi nổi - một trái tim của tình nghĩa, một “hiện thực vị hiện thực”.
Khi ñọc - hiểu phải khắc sâu yếu tố thời ñại, lịch sử ñể thấy quá trình vận
ñộng phát triển không ngừng vươn lên của nền văn học nước nhà, ñặc biệt ñể
thấy ñược sự ñổi mới và sự chi phối bởi yếu tố lịch sử, thời ñại trong mỗi văn
bản.
2.2.2.4. Khai thác về vấn ñề thể loại, ngôn ngữ
Không chỉ có ñề tài ñổi mới mà ở thể loại, ngôn ngữ cũng có sự cách tân
ñáng kể trong giai ñoạn văn học ñầu thế kỷ XX ñến 1945 ñể theo kịp với tiến
trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc, trong khu vực và trên thế giới.
Nguyễn ðình Chú ñã viết: “Lịch sử văn học, xét cho cùng là lịch sử cách
tân văn học” Theo quan niệm của ông thì có hai mức ñộ cách tân : cách tân
trong nội bộ một phạm trù văn học và cách tân có ý nghĩa chuyển từ phạm trù
văn học này sang phạm trù văn học khác. Sự thay ñổi phạm trù văn học là sự
cách tân có tính chất ñồng bộ, toàn diện về lực lượng sáng tác, về công chúng
72
văn học, về phương diện văn học, về phương thức tồn tại của văn học, về quan
niệm nghệ thuật, về ñề tài, về ngôn ngữ, về thể loại, thể tài cùng với hệ thống thi
pháp. Thực hiện những ñiều ñó không thể trong một thời gian một sớm một
chiều mà ñòi hỏi phải qua một quá trình khá gay go và phức tạp. Chúng ta có
thể xem 30 năm ñầu thế kỉ XX là chặng ñường ñầu của sự cách tân văn học.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, ñây là giai ñoạn duy nhất có hiện tượng
ñan xen hai yếu tố cũ và mới trong sáng tác của một tác giả, có khi trong cùng
một tác phẩm. Hai yếu tố cũ và mới ở cả hai phương diện nội dung và nghệ
thuật ñược kết hợp nhuần nhuyễn và phổ biến trên khắp các thể loại, tạo ra
những giá trị ñặc biệt, không thể xếp vào kho tàng văn học trung ñại mà cũng
chưa thể công nhận là một tác phẩm văn học hiện ñại. Và ñây là một kiến thức
văn học sử mà giáo viên cần phải lưu ý trong quá trình tìm hiểu văn bản.
Trước hết, chúng ta thử tìm hiểu trường hợp nội dung mới thể hiện trong
những hình thức cũ. ðây là trường hợp phổ biến ở dòng văn học yêu nước và
cách mạng. ðể ñạt mục ñích phục vụ cho hoạt ñộng chính trị, các tác giả của
dòng văn học này ñã tập trung thể hiện những nội dung mới trong những hình
thức nghệ thuật chưa có gì thay ñổi. Người ta bắt ñầu nói tới những tư tưởng yêu
nước mới. Yêu nước và trung quân không còn ñi ñôi với nhau, yêu nước gắn
liền với hoạt ñộng ñấu tranh giải phóng dân tộc, bảo tồn “nòi giống” và phát
triển xã hội theo con ñường cách mạng dân chủ tư sản. Lần ñầu tiên trong lịch
sử dân tộc Việt Nam, tư tưởng dân chủ, dân quyền ñược ñưa ra, ñược khẳng
ñịnh, ñược xem là mục tiêu của phong trào cách mạng. Vấn ñề xây dựng nền
học thuật mới, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng là nội dung hoàn toàn
mới mẻ. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam, chủ nghĩa anh hùng ñược xác
lập phổ biến rộng rãi như giai ñoạn này...
Tất cả những nội dung trên ñều ñược thể hiện trong những thể loại văn
học của nhà nho trước kia. Chữ Hán là phương tiện phổ biến ñể chuyển tải các
73
nội dung nói trên. Văn xuôi nặng tính chất biền ngẫu hãy còn thông dụng ñối với
các nhà chí sĩ cách mạng thời này. Người sáng tác có ý thức ñưa vấn ñề mới vào
văn học với mục ñích tuyên truyền vận ñộng cách mạng. Nói cách khác, họ rất
chú ý việc ñổi mới nội dung nhưng chưa hề quan tâm vào việc ñổi mới nghệ
thuật (hình thức)
Phan Bội Châu là một tác gia tiêu biểu cho dòng văn học yêu nước và
cách mạng giai ñoạn này. Sáng tác của ông biểu hiện vai trò là dấu nối của hai
thời ñại, hai nền văn học cũ và mới. Ông xuất thân từ một nhà nho, thông thạo
lối văn cử tử, từng ñược mệnh danh “hay chữ nhất nước Nam”. Ông lại là người
có vốn kiến thức về văn học dân gian. Nói như thế ñể thấy rằng ảnh hưởng của
văn học cũ ñối với ông rất sâu ñậm. Khi bước vào hoạt ñộng chính trị, ông ñã
sáng tác văn chương ñể phục vụ cho phong trào cách mạng. ðó là những sáng
tác có nội dung mới mẻ. Ông cũng là người sáng tác nhiều, lâu dài và liên tục,
hiệu quả tuyên truyền cũng cao. Nhưng Phan Bội Châu chỉ dừng lại ở sự cách
tân nghệ thuật sáng tác cũ. Là người rất nhiệt tình trong việc lên án văn chương
cử tử, cố gắng tìm mọi cách ñể tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn ñối với quần chúng.
Ông ñã thể nghiệm ngòi bút trên khắp các thể loại, từ văn chương phú lục của
nhà nho ñến tiểu thuyết, truyện ngắn của nền văn học hiện ñại. Phan Bội Châu
có ý thức hướng ñến nền văn học hiện ñại nhưng vì chưa hiểu ñầy ñủ về nó nên
ông không thể tiến xa hơn nữa.
Văn chương của Phan Bội Châu tiêu biểu cho thời kì chuyển biến của văn
học, có tính chất giao thời. Sáng tác của ông là sự từ giã cái cũ, tìm ñường ñến
cái mới. Phan Bội Châu chưa vượt qua ñược truyền thống nghệ thuật của
phương ðông. Lí tưởng thẩm mĩ, ngôn ngữ văn học của ông rất dân tộc, rất hợp
với công chúng ñương thời nhưng cũng sớm trở thành lạc hậu trước sự ra ñời và
phát triển của nền văn học mới. Phan Bội Châu ñã thể hiện những tư tưởng mới
trong các hình thức nghệ thuật cũ. Thơ văn ông còn ở tình trạng “bình cũ rượu
mới”. Lưu biệt khi xuất dương (Xuất dương lưu biệt) là một ví dụ tiêu
74
biểu. “ðây là bài thơ trực tiếp bộc lộ chí khí, hoài bão của tác giả, ít nhiều gần
gũi với loại thơ nói chí phổ biến trong văn học thời trung ñại như Chí làm trai
của Nguyễn Công Trứ, nhưng tâm hồn và ý chí con người thì ñã mang nhiều dấu
ấn của thời ñại mới. ðó là gan ruột, là tâm huyết mà tác giả muốn gởi gắm cho
ñời. Ông ñã thể nghiệm nó bằng chính cuộc ñời mình trước khi biểu hiện trong
văn chương”. [35, tr.6].
Không chỉ ở văn học cách mạng mà cả văn học hợp pháp, các hình thức
nghệ thuật cũ vẫn ñược sử dụng trong sáng tác. ðông Hồ, Tương Phố, Hoàng
Ngọc Phách ñã thổ lộ tình cảm riêng tư, thầm kín của mình bằng những hình ảnh
cũ kĩ, thông qua các bài thơ ðường cổ kính, xen giữa những câu văn xuôi,
những câu văn biền ngẫu. Họ ñã thổi vào văn chương hợp pháp bấy giờ một nỗi
buồn mênh mông, da diết. Nó mới so với những nỗi buồn trong thơ trước ñây
nhưng cũng chưa phải là nỗi buồn của các nhà thơ lãng mạn ở giai ñoạn 1930 -
1945. Chất sầu thảm bi thương ñược gợi lên ở ñây và sự tấn công vào thế giới
bên trong của con người, trong sáng tác của họ ñã chuẩn bị cho sự ra ñời của
Thơ mới về sau
Ở giai ñoạn ñầu thế kỉ XX, có một số tác giả do tiếp thu ảnh hưởng của
văn học phương Tây, từ công tác dịch thuật họ ñã chuyển dần sang phỏng tác
theo các tác phẩm văn học Pháp. Họ ñi ñến viết tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch.
ðó là những thể loại mới - thể loại văn học hiện ñại. Họ ñã từ bỏ văn chương
chữ Hán, tránh dùng những ñiển cố, ñiển tích, ñưa lời ăn tiếng nói của nhân dân
vào trong sáng tác văn học. Họ cố gắng vượt khỏi những ước lệ khắt khe khi xây
dựng thế giới nhân vật. Có thể nói rằng, về mặt nghệ thuật, họ ñã có những ñổi
mới ñáng kể, mặc dù không tránh khỏi những hạn chế nhất ñịnh. ðiều muốn nói
ở ñây là trong lớp vỏ có phần mới mẻ ấy, họ vẫn tiếp tục thể hiện những nội
dung cũ kĩ, thậm chí bị xem là lạc hậu lỗi thời. Trong ba mươi năm ñầu thế kỉ,
có nhiều nhà tiểu thuyết Nam bộ, có cả những nhà viết kịch ở Bắc bộ tiếp tục thể
hiện những vấn ñề ñạo lí trong sáng tác của mình. Tuy nhiên, ñạo lí ñó có phần
75
nào vượt ra ngoài quan niệm của Nho giáo và tiến gần ñến ñạo lí bình dân của
người lao ñộng.
Khi viết tiểu thuyết, các tác giả Nam bộ như Nguyễn Chánh Sắt (Nghĩa
hiệp kì duyên), Tân Dân Tử (Giọt máu chung tình), ñặc biệt là Hồ Biểu Chánh ,
ñều bị chi phối bởi khuynh hướng ñạo lí. Tác phẩm của Hồ Biểu Chánh sở dĩ
chiếm lĩnh ñược ñông ñảo ñộc giả là vì ñạo lí ñược ông nói ñến là ñạo lí ở ñời,
ñạo lí bình dân, truyền thống, vừa tầm. Hơn nữa, vấn ñề ñạo lí ñó lại ñược thể
hiện trong thể loại tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ, có cốt truyện khác hẳn
tiểu thuyết cổ ñiển, lấy ñề tài từ trong cuộc sống người lao ñộng. Thế giới nhân
vật xuất hiện trong tác phẩm là những con người chân lấm tay bùn, chất phác,
hiền lành như Trần Văn Sửu (Cha con nghĩa nặng) ; có thể là những thầy thông,
thầy kí hách dịch ham tiền như thầy thông Phong (Thầy thông ngôn) ; cũng có
thể là những tên ñịa chủ gian ác, những hương chức hội tề xấu xa ở ñịa phương
như Vĩnh Thái (Khóc thầm) hay hương quản Sum (Cha con nghĩa nặng)...
Không chỉ có con người ở nông thôn mà còn bao gồm cả nhân vật thành thị. Có
thể nói rằng, thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của ông rất ña dạng và phong
phú. ðó là một ñổi mới ñáng kể và cũng là một thành công lớn của Hồ Biểu
Chánh.
Hồ Biểu Chánh ñã ñưa vào trong tác phẩm của mình những chi tiết ñời
thường và ñã sử dụng ngôn ngữ bình dân, giản dị trong sáng tác. ðó là những
yếu tố chưa từng xuất hiện trong văn chương trung ñại. Mặc dù Hồ Biểu Chánh
còn nhiều hạn chế trong nghệ thuật nhưng vẫn có thể khẳng ñịnh ông là “cây bút
sáng giá” của giai ñọan 1912- 1932 bởi ông ñã ñạt ñược những tiến bộ về nghệ
thuật. Chính ông là người xây nền, tạo móng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện ñại.
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là sự kết hợp những yếu tố cũ (nội dung) với
những ñổi mới ñáng kể (nghệ thuật). Chính vì sự kết hợp này ñã ñáp ứng ñược
yêu cầu ñổi mới của công chúng ñương thời. Bởi vì nó chỉ là hiện tượng của thời
kì chuyển tiếp cho nên chỉ sau 20 năm, nó ñã trở nên lạc hậu trước sự ra ñời của
76
tiểu thuyết Tự Lực Văn ðoàn, tiểu thuyết của dòng văn học hiện thực phê phán
1930- 1945.
Kịch là một loại hình nghệ thuật sân khấu rất mới, có giá trị văn học, chỉ
xuất hiện từ khi có sự du nhập của nền văn hóa phương Tây. Một số tác giả tiêu
biểu thời này như Vũ ðình Long, Nam Xương ñã dùng thể loại hoàn toàn mới
mẻ này ñể phản ánh hiện thực xã hội ñương thời. ðời sống của các gia ñình
phong kiến bị phá sản, sự hư hỏng của con người trong xã hội tư sản, hiện tượng
lai căng mất gốc...Tuy nhiên, mọi vấn ñề ñược các ông ñưa lên sân khấu ñể bóc
trần sự thật, ñể phê phán hay ñả kích ñều xuất phát từ lập trường ñạo lí, nhằm
củng cố nền luân lí cổ truyền của dân tộc. Cho nên, chưa thể xem nội dung ñó là
hoàn toàn mới lạ. Khán giả ñương thời hưởng ứng nồng nhiệt bởi những vấn ñề
hãy còn xưa cũ ấy ñược thể hiện trong một hình thức rất mới
Sự kết hợp hai yếu tố cũ và mới trong cả hai phương diện nội dung và
nghệ thuật là hiện tượng phổ biến nhất trong văn học giai ñoạn ñầu thế kỉ XX.
Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là một tác phẩm tiêu biểu mang nhiều yếu tố
pha tạp hai giá trị truyền thống và hiện ñại. Hoàng Ngọc Phách ñã ñể cho hai
nhân vật Tố Tâm và ðạm Thuỷ giằng co giữa hai con ñường : chạy theo tình yêu
tự do hay chấp nhận lễ giáo phong kiến. Và ñể cho cả hai ñều có những giấc mơ
yêu ñương, ñầy chất lãng mạn…
Trong tác phẩm Tố Tâm, người tuân thủ ñạo ñức truyền thống ñã không
có hạnh phúc trong chế ñộ ñại gia ñình phong kiến, mà người muốn sống hết
mình cho tình yêu tự do cũng không thể ñón nhận hạnh phúc trong tình yêu. Cả
ñôi ñường ñều không thể trọn vẹn, con người bị lâm vào thế bế tắc. Nguyên
nhân bắt nguồn từ trạng thái lưỡng phân, giao thời của xã hội. Hoàng Ngọc
Phách ñã ñem cái tôi tư sản ñặt bên cạnh lễ giáo phong kiến và ông chỉ nói ñến
cái tôi trong thế cạnh tranh với ñạo ñức phong kiến. Trường hợp của Hoàng
Ngọc Phách là trường hợp tiêu biểu và phổ biến ở giai ñoạn ñầu thế kỉ XX. Tố
77
Tâm là tác phẩm ñược sáng tác bằng phương pháp lắp ghép nghệ thuật viết văn
của nhà nho (văn biền ngẫu, văn xuôi xen kẽ với văn vần, ngôn ngữ bóng bẩy...)
với nghệ thuật sáng tác của người nghệ sĩ hiện ñại (văn tiểu thuyết, kết cấu mới,
kết thúc không có hậu, khai thác yếu tố ñời tư của nhân vật). Chính sự lắp ghép
và pha tạp các yếu tố cũ, mới ñã làm cho Tố Tâm vừa thể hiện chất hiện ñại
nhưng vẫn mang dáng dấp truyền thống.
Nhìn chung, văn học giai ñoạn này còn rất nhiều tác phẩm, tác giả có sự
kết hợp như trên, tạo nên những giá trị văn học có tính chất trung gian giữa
truyền thống và hiện ñại.
Có thể khẳng ñịnh rằng trong lịch sử văn học Việt Nam, ñây là giai ñoạn
duy nhất có sự tồn tại ñan xen. Các giá trị truyền thống ñược ñặt cạnh một số
thành tựu hiện ñại và luôn trong thế cạnh tranh nhau. Tuy nhiên, hiện tượng
trung gian trong văn học chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn. Do ñó, khi dạy
ñọc - hiểu các văn bản ở giai ñoạn giao thời này, giáo viên phải hết sức lưu ý
tính ñan xen giữa các yếu tố nội dung và hình thức của văn bản ñể chỉ ra nét
ñặc sắc, sự khác biệt, cũng như những hạn chế, tích cực của mỗi văn bản…Từ
ñó, học sinh dễ dàng tìm hiểu văn bản một cách ñúng hướng và khách quan hơn.
Văn học giai ñoạn 1900 - 1930 có xu hướng tiến gần ñến hiện ñại. ðối
với người cầm bút thời này, văn học hiện ñại là khu vườn quyến rũ ñầy những
hoa thơm cỏ lạ. Phát hiện ra nó là một chuyện, nhưng ñến với nó là một chuyện
khác. ðối với các nhà văn, nhà thơ thời này, quan niệm thẩm mĩ có thay ñổi, thế
giới quan và nhân sinh quan ñã khác trước nhưng họ chưa ñược trang bị chu ñáo
về mặt lí luận. Họ ñã ñến với văn học hiện ñại trong sự nhận thức chưa ñược
trọn vẹn về mọi phương diện. ðiều này ñã làm hạn chế khả năng sáng tác của
họ. Họ không thể bỏ qua sự dung hoà truyền thống và hiện ñại. Thói quen cũ và
ý thức mới tạo nên những biến dạng trong nghệ thuật sáng tác của rất nhiều tác
giả thời này. Nhìn chung, trong 30 năm ñầu thế kỉ XX, do tác ñộng của nhiều
78
nguyên nhân khách quan và chủ quan, các tác giả ñã lắp ghép một cách máy
móc cái truyền thống và hiện ñại khi sáng tác. Hạn chế ñó mang tính tất yếu của
một giai ñoạn chuyển biến trong lịch sử văn học từ phạm trù văn học trung ñại
sang phạm trù văn học hiện ñại.
ðến giai ñoạn văn học 1930 – 1945, các nhà văn, nhà thơ tiếp tục ñưa
công cuộc cách tân lên một tầm cao mới, có thể nói là chín muồi, ñặc biệt trong
việc cách tân thể loại và ngôn ngữ.
Xuân Diệu ñã tìm ñến cách diễn ñạt của ngôn ngữ khác với trước ñây.
Nhà thơ Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp và ñổi mới chính
ngôn ngữ, lối nói sẵn có của tiếng Việt : Hơn một loài hoa ñã rụng cành / Trong
vườn sắc ñỏ rũa màu xanh / Những luồng run rẩy rung rinh lá / ðôi nhánh khô
gầy xương mỏng manh.
Có lẽ trước Xuân Diệu không mấy ai nói "hơn một loài", "sắc ñỏ rũa",
"những luồng run rẩy"...Trong tư duy ngôn ngữ của người Việt, “hơn một loài”
có thể hiểu là nhiều loài. "Sắc ñỏ rũa màu xanh" có thể hiểu là màu ñỏ, màu úa
vàng của cây lá mùa thu ngày càng nhiều, lấn dần màu xanh, làm cho lá cây màu
xanh bị rũa, rụng dần ñi từng tí một. Còn Những luồn run rẩy rung rinh lá là
một câu thơ chứa ñựng nhiều biện pháp tu từ, vừa lặp phụ âm “r”, vừa dùng ñảo
ngữ, vừa trộn lẫn cảm giác do cách kết hợp trực tiếp loại từ "luồng" với ñảo ngữ
"run rẩy rung rinh lá" khiến cho người ñọc thơ như có thể cảm giác ñược cả cái
run rẩy rùng mình vì ớn lạnh của chính tâm hồn nhà thơ. Xuân Diệu có tài tả rét,
trong Nguyệt cầm, trong Lời kỹ nữ... và ñặc biệt trong ðây mùa thu tới. ðúng ra
thi sĩ có tài cảm nhận cái rét mướt lạnh lẽo theo ñiệu tâm hồn riêng của mình.
Cũng như ở những câu thơ trên, ñây là một câu thơ mới mẻ, ñầy ấn tượng.
Xuân Diệu là một nhà thơ rất mới về nhiều phương diện nhưng trước hết
là phương diện ngôn từ. Nhiều cách ñặt câu dùng từ của ông nay ñã trở thành
79
quen thuộc và phổ biến ñối với người Việt Nam nhưng hồi Xuân Diệu mới xuất
hiện, ñấy là một cuộc cách tân mạnh dạn…
Truyện ngắn và tiểu thuyết ở giai ñoạn này ñược viết theo lối mới, khác
xa với cách viết trong văn học cổ, từ cách xây dựng nhân vật ñến nghệ thuật kể
chuyện và ngôn ngữ nghệ thuật. Tiểu thuyết chương hồi hầu như không còn xuất
hiện. Các nhà văn thời kỳ này ñã khắc họa khá thành công những tính cách ñiển
hình. Chẳng hạn :
Chị Dậu trong Tắt ñèn của Ngô Tất Tố là một nhân vật ñiển hình của một
môi truờng xã hội thực dân phong kiến, của một dân tộc “ñói nghèo trong rơm
rạ” (Chế Lan Viên) trong gông cùm nô lệ, suốt cuộc ñời chỉ sống trong cực khổ
không thấy một ngày thậm chí một giờ ñược hạnh phúc, ñó là dân tộc Việt Nam.
Một dân tộc luôn ñau khổ, luôn bị chèn ép, song ý chí phấn ñấu, sức mạnh tự vệ
có thể bùng nổ. Chị Dậu dịu dàng chân thật, chỉ biết ban phát tình yêu cho
chồng, tình thương vô bờ bến cho con nhưng cũng có thể quật ngã bọn cường
hào khi ñi ñến ñường cùng giành sự sống.
Và Chí Phèo, Chí không những là nhân vật ñiển hình của một xã hội mà
Chí còn là ñiển hình nhân loại. Mâu thuẫn trong tác phẩm giữa cái thiện và cái
ác, mâu thuẫn giữa “con quỷ” và “con người”, mâu thuẫn giữa sự tuyệt quyền
làm người và khát khao ñược hoà ñồng với con người bình thường, lương
thiện... ðó là bi kịch của con người trên trái ñất này chứ không dừng lại ở anh
Chí Phèo của một làng quê bé nhỏ. Mối tình của Rômêô và Julliet không chỉ là
một câu chuyện tình bi ái ở Anh, ở Ý trong tác phẩm Sếchxpia mà ñó là giọt lệ
ñau ñớn của nhà văn khóc cho vạn cuộc tình trên ñời này, ở ñâu ñấy trên trái ñất
này có nhiều, rất nhiều cuộc tình bi thương như thế...
Hơn hẳn các nhà văn trước năm 30, tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng ñã xông
xáo, táo bạo, lột mặt nạ dơ dáy của xã hội thực dân nửa phong kiến. Và ông xuất
hiện như một khắc tinh của xã hội ñồng tiền .
80
Vũ Trọng Phụng ñạt ñược thành công lớn về nghệ thuật tiểu thuyết phóng
sự, là xây dựng ñược những một số ñiển hình sinh ñộng bất hủ về xã hội tư sản
thành thị Việt Nam lúc bấy giờ. Những sáng tác của ông mang ý nghĩa xã hội
sâu sắc, tuy nhiên sự phê phán ñồng tiền trở nên gay gắt trừu tượng, mất ñi ý
nghĩa, vì không nhằm mục ñích chính trị, và ñã có ý kiến chỉ trích lối văn của
Vũ Trọng Phụng. Có người e ngại lối văn của Vũ Trọng Phụng “miêu tả quá ñà
nhồi nhét quá mức cảnh dâm uế vào bất cứ ñâu làm cho người ñọc mù mị trong
cân não ghê sợ” hoặc “rung ñộng một cách bệnh hoạn, bi kịch về mặt thú tính
của con người”.
Nhất Chi Mai cũng không ngần ngại phê phán Vũ Trọng Phụng “là một
nhà văn xã hội kì quặc, nhìn thế giới bằng cặp kính ñen có một bộ óc cũng ñen
và một nguồn văn càng ñen nữa”. Nhưng Vũ Trọng Phụng ñã không ngần ngại,
mạnh mẽ, bảo vệ quan ñiểm của mình. Ông vạch ra sự khác biệt giữa hai trường
phái lãng mạn và hiện thực trong cách nhìn nhận ñời sống xã hội, trong cách
miêu tả hiện thực và con người. Ông dõng dạc tuyên bố tôi và các nhà văn cùng
chí hướng với tôi , muốn tiểu thuyết là sự thực ở ñời, các ông muốn tiểu thuyết
tùy thời chỉ nói cái gì thiên hạ thích nghe, nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ
muốn nói cái gì ñúng sự thật, thành ra nguy hiểm, vì sự thật mất lòng.
Và khẳng ñịnh mục ñích của văn tả chân : cất tiếng nói khám phá xã hội
bất công, mục nát xấu xa phản tiến bộ, trong ñó lòng lương thiện thường bị bóc
lột, ñè nén, bị bần cùng và tha hóa. Bên cạnh ñó tầng lớp trên thì ăn chơi trác
tán, xa hoa, phè phỡi, lố lăng. Ông cho rằng xã hội ñương thời với những vết
thương trầm trọng, thối rữa ñến tận xương tủy, như thế thì có gì phải giấu giếm ?
Phải vạch trần chân tướng xấu xa của nó, phanh phui ung nhọt của nó, chỉ ra sự
bất công và nỗi thống khổ tràn lan, dày vò con người. Từ ñó làm cho dân chúng
căm hờn phỉ nhổ tệ nạn bất công mà ñấu tranh cho sự công bình và những ñiều
tốt ñẹp ñó há phải sứ mệnh cao ñẹp của văn chương tả thực hay sao?.
Với quan niệm văn chương nghệ thuât như vậy, Vũ Trọng Phụng là một
nhà văn tiến bộ, có sự ñóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam hiện ñại. Ông
81
có thể coi là người ñặt nền móng vững chắc cho thể loại phóng sự Việt Nam và
không ngừng phát triển về tiểu thuyết .
Với tất cả những gì Vũ Trọng Phụng ñóng góp cho văn học Việt Nam,
ông xứng ñáng là nhà văn tiêu biểu cho thế kỉ XX. Văn học là tiếng kêu khắc
khoải của con người trước thực tế ñời sống không bao giờ cảm thấy bằng lòng
và thật sự không bao giờ hiểu hết.
Về mặt nghệ thuât, với ngòi bút ñặc biệt tài năng, một bản lĩnh nghệ
thuật kiên cường, Vũ Trọng Phụng ñã tiếp bước cho sự phát triển của văn xuôi
Việt Nam hiện ñại. Kế thừa và phát huy những thành tựu của thế hệ ñi trước, bắt
ñầu từ Nguyễn Trọng Quản (Thầy Lazarô Phiền), Hồ Biểu Chánh với hàng loạt
tiểu thuyết mang sắc thái Nam Bộ, Tản ðà với những tác phẩm vừa hiện thực
vừa lãng mạn, ñến Lê Hoằng Lưu, Bửu ðình, Hoàng Ngọc Phách, ñây là thế hệ
những người ñi tiên phong tìm ñường cho văn xuôi chữ quốc ngữ. Rồi ñến Vũ
Trọng Phụng - tác giả của Giông tố, Số ñỏ ...ñã thật sự ñưa tiểu thuyết Việt Nam
lên một tầm cao mới, ñáp ứng ñược quá trình hiện ñại hóa văn học nước nhà…
Rõ ràng trong những hoàn cảnh lịch sử xã hội khác nhau, thể loại, ngôn
ngữ văn học cũng sẽ thay ñổi cho phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử
văn học dân tộc. Thời ñại buộc các nhà văn, nhà thơ phải viết khác ñi, không
phải cứ giậm chân như thế mãi. Những truyện ngắn, tiểu thuyết những năm ñầu
thế kỷ XX của Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách,… sẽ
khác xa với truyện ngắn, tiểu thuyết của Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng
Phụng,… về mặt hình thức cũng như nội dung tư tưởng. ðó là quy luật phát triển
tất yếu của lịch sử. Bước ñi của văn học không thể tách rời lịch sử.
Vì thế khi ñọc - hiểu văn bản không phải chỉ căn cứ một cách ñơn thuần
vào thể loại mà giáo viên còn cần phải xác ñịnh : thể loại ñó ở giai ñoạn lịch sử
văn học nào ? Trong giai ñoạn ñó có gì ñặc sắc, nổi bật ?... Từ ñó, xác ñịnh
hướng tìm hiểu văn bản một cách ñúng ñắn, khách quan và có cơ sở khoa học.
82
Việc nhận ñịnh sai lầm hoặc chưa biết rõ về thể loại của văn bản sẽ dễ
dàng dẫn ñến việc chúng ta hiểu sai về chúng. Quả thật, ñây là ñiều mà giáo viên
ñứng lớp hết sức quan tâm lưu ý khi truyền ñạt các kiến thức cho học sinh.
2.2.2.5. Khai thác về vấn ñề nhân vật Theo thói quen, không ít giáo viên, khi phân tích tác phẩm văn xuôi
thường hay chú ý phân tích hình tượng nhân vật (tác phẩm Chí Phèo phân tích
nhân vật Chí, Bá Kiến ; Hai ñứa trẻ phân tích nhân vật Liên hay chị em Liên
An, Chữ nguời tử tù phân tích nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục,…). Thực
tế mà nói, “nhân vật là nơi giải quyết hết thảy các vấn ñề trong tác phẩm” (Tô
Hoài). Học sinh phổ thông khi học xong tác phẩm mà phân tích ñược nhân vật
chính thì cũng là ñáng quý. Nhưng nếu khi nào chúng ta cũng bằng lòng như vậy
thì việc dạy học ñọc hiểu tác phẩm vốn ñặc sắc phong phú trở nên nghèo nàn,
ñơn ñiệu, sơ lược.
Cũng như việc khai thác các thuật ngữ, khái niệm, ñề tài, ngôn ngữ, thể
loại và một số các kiến thức khác. Người giáo viên ñứng lớp nếu có phương
pháp dạy tốt về tác phẩm (khai thác nhấn mạnh, khắc họa rõ nét sắc thái văn
học sử) trong quá trình ñọc hiểu văn bản. Từ việc phân tích hình tượng nhân
vật, học sinh sẽ ñược mở rộng và nhớ ra những kiến thức liên quan về tác giả,
thời kỳ, giai ñoạn, phong cách sáng tác, quan ñiểm nghệ thuật,…
ðến với văn bản Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, từ hình tượng nhân
vật Huấn Cao, ta lại thấy bóng dáng thấp thoáng của tác giả - một nghệ sĩ suốt
ñời, ñi tìm và ca ngợi cái ñẹp. Trong tác phẩm vẻ ñẹp của Huấn Cao thể hiện ở
nét tính cách tài hoa, khí phách và tâm cao thượng trong sáng. Huấn Cao không
chỉ là người có tài mà còn có tâm, có “thiên lương” cao ñẹp. Huấn Cao không
chỉ có thái ñộ hiên ngang, bất khuất, không sợ chết, coi khinh tiền bạc mà còn
có tấm lòng yêu quý cái thiện, cảm ñộng trước “thiên lương” của viên quản
ngục (sẵn lòng cho chữ khi hiểu rõ thiện căn và sở thích cao quý của ông ta) ;
83
biết sợ cái việc thiếu chút nữa mình “phụ mất tấm lòng trong thiên hạ”. ðó là hai
mặt thống nhất trong một nhân cách lớn.
Cảm nhận vẻ ñẹp của Huấn Cao, chúng ta hiều hơn quan ñiểm nghệ thuật
tiến bộ của ông. ðó là cái tài phải ñi ñôi với cái tâm, cái ñẹp và cái thiện không
thể tách rời nhau. ðồng thời, cũng ở hình tượng nhân vật Huấn Cao, ta dễ dàng
nhận thấy quan niệm của Nguyễn Tuân về con người. Nhất là người có ñức, có
tài phải giúp nước, ñem hết nhiệt tâm của mình ñể cho ñất nước ñược tự do,
nhân dân ấm no, hạnh phúc. Con người phải biết trân trọng những vẻ ñẹp về
nhân cách, phẩm giá cũng như tâm hồn. Dù trong hoàn cảnh éo le nhưng vẫn
luôn giữ ñược ñức tính cao ñẹp, anh dũng, kiên cường, bất khuất. Dù thế nào ñi
nữa vẫn phải giữ ñúng truyền thống của dân tộc…
Với tác phẩm Chí Phèo, từ hình tượng nhân vật Chí mà nhớ ra biết bao số
phận người nông dân khác trước Cách mạng tháng Tám 1945 - những số phận
hẩm hiu bị áp bức nhiều nhất. Họ càng nhịn nhục, hiền lành thì càng bị chà ñạp
phũ phàng. Nam Cao ñặc biệt ñi sâu vào những trường hợp con người bị lăng
nhục một cách ñộc ác, bất công, mà xét ñến cùng chẳng qua chỉ vì họ nghèo ñói,
khốn khổ. Ông bênh vực quyền sống và nhân phẩm của những con người bất
hạnh bị xã hội ñẩy vào tình cảnh nhục nhã. Bênh cạnh Chí Phèo còn có những
Binh Chức, Năm Thọ,…cũng cùng chịu chung số phận như vậy. Chí Phèo chỉ là
một hiện tượng mang tính ñiển hình cho thời ñại mà nhà văn muốn thể hiện khi
sống dưới chế ñộ thực dân phong kiến, người nông dân phải chịu một cổ hai
tròng (từ khi sinh ra, ñi ở tù cho ñến lúc chết)…
Nếu như ở Lão Hạc, nhà văn ñặt nhân vật vào một tình huống cùng quẫn,
buộc phải lựa chọn giữa sinh tồn và nhân cách ; lão Hạc cuối cùng ñã lựa chọn
cái chết ñể giữ gìn nhân cách làm cha thì ở Chí Phèo, nhà văn ñặt nhân vật vào
một tình huống cùng quẫn khác. Sự tiếp nối giữa hai trạng thái tinh thần say và
tỉnh, giữa hai chặng của bi kịch số phận : bị tha hoá và bị từ chối quyền làm
người ở hình tượng Chí là một chuỗi tình huống cho thấy cái hiện thực thảm
84
khốc của ñời sống nông dân nghèo trong xã hội làng Vũ ðại ngày ấy. Như vậy,
nếu lão Hạc chấp nhận sự bần cùng và dùng cái chết ñể giữ lấy phần sống cho
con, cùng tư cách làm người của mình, thì Chí Phèo lại bằng sự thức tỉnh nhân
tính và bằng cái chết của mình ñã cho ta thấy cái giá của nhân cách và lương
thiện quí và ñắt ñến mức nào.
Liên hệ truyện ngắn Tắt ñèn – Ngô Tất Tố, chị Dậu vì xuất sưu của chồng
và em chồng mà chồng chị bị ñánh, bị trói, con chị bị bán, bản thân ñi ở vú lại
còn chịu bao nỗi tủi nhục ñế cuối tác phẩm, tiền ñồ vẫn cứ “tối ñen như mực”.
Số phận của Chí Phèo, lão Hạc, chị Dậu,…là những số phận ñiển hình
cho tầng lớp nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Hay như dạy ñọc hiểu văn bản nước ngoài Người trong bao của Sêkhốp,
thông qua hình tượng nhân vật Bêlicốp ñể hiểu hơn những vấn ñề mà nhà văn
muốn ñặt ra trong xã hội nước Nga bấy giờ. Xã hội ñang ngạt thở trong bầu
không khí chuyên chế nặng nề cuối thế kỷ XIX. Môi trường xã hội ấy ñã ñẻ ra
lắm kiểu người kỳ quái như vậy. Người trong bao không chỉ cảnh báo tầng lớp
trí thức Nga mà còn dành cho nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Tác phẩm không
chỉ phê phán báo ñộng về thực tại ñương thời nước Nga mà còn báo ñộng về
một châu Âu bảo thủ, trì trệ, tự mãn với cái ñã lỗi thời, lạc hậu…
Nhìn chung, việc khai thác nhân vật trong tác phẩm, nếu nhấn mạnh yếu
tố văn học sử sẽ cho người ñọc thấy ñược bóng dáng tác giả, quan ñiểm nghệ
thuật cũng như hoàn cảnh, thời ñại…
Tóm lại, ñể khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc hiểu văn bản
văn học cụ thể, trước tiên chúng ta phải xác ñịnh các yếu tố văn học sử tiêu
biểu cần ñược khai thác trong mỗi văn bản. Bên cạnh ñó, chúng ta phải tạo cho
học sinh ghi nhớ các kiến thức văn học sử ñã học ñể vận dụng vào quá trình
ñọc hiểu văn bản. ðồng thời, trong quá trình khai thác các kiến thức ấy, ñòi hỏi
phải biết giải thích, phân tích, so sánh, ñối chiếu, liên tưởng, mở rộng,…các
85
nội dung ñề cập liên quan cả ở giai ñoạn trước và sau ñể nhận biết sự ñổi mới,
ñặc ñiểm khác biệt của từng tác giả, giai ñoạn văn học, ñồng thời thấy rõ từng
bước ñi, nhịp ñập của lịch sử văn học dân tộc xuyên suốt trong từng chặng
ñường phát triển. Và hơn hết là làm sáng tỏ những giá trị nội dung và nghệ
thuật của văn bản ñược khai thác trong chương trình…
2.3 Hiệu quả, tác dụng của phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc – hiểu văn bản văn học
Với việc vận dụng, khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc - hiểu
văn bản cụ thể sẽ giúp học sinh củng cố, ghi nhớ và khắc sâu các kiến thức trong
các bài học văn học sử ñã học trước ñó một cách có hệ thống. Các em sẽ ý thức
ñược quá trình vận ñộng phát triển không ngừng của lịch sử văn học dân tộc
trong mỗi thời kỳ, giai ñoạn phát triển. Ra ñời và phát triển trong những ñiều
kiện lịch sử xã hội rất ñặc biệt, dân tộc ta ñã tìm ra con ñường ñi thích hợp ñể
sinh tồn, phát triển theo những quy luật riêng ñể dân tộc hoá, dân chủ hoá, hiện
ñại hoá và thành công một cách ñẹp ñẽ.
Mỗi tác phẩm ñược học sẽ mang những ñặc trưng tiêu biểu cho từng thời
kỳ văn học nên công việc khai thác các kiến thức văn học sử ở ñây là ñể minh
hoạ cho những nội dung trong phần bài khái quát ñã nêu ra có thật phù hợp,
khoa học hay còn có những ñiều cần thảo luận, chỉnh sửa. Kiến thức văn học sử
luôn luôn ñược lĩnh hội như một sự kết hợp giữa nhận ñịnh khái quát và tư liệu
minh hoạ khả năng khái quát. Yêu cầu minh hoạ của văn học sử là chọn những
dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu và toàn diện.
Bên cạnh ñó, khai thác các kiến thức văn học sử còn giúp học sinh có
nhiều khả năng rèn luyện kỹ năng tư duy : phân tích - tổng hợp, so sánh, liên
tưởng, ñối chiếu, cụ thể hoá, khái quát hoá, ghi nhớ và suy luận,…Tập cho các
em tìm hiểu, phân tích những sự kiện của thời ñại làm cơ sở cho việc phân tích
ñánh giá các sự kiện văn học.
86
(cid:2)Kết luận :
Giai ñoạn văn học từ ñầu thế kỷ XX – 1945 là một trong những giai ñoạn
phát triển rực rỡ với nhiều tên tuổi tác giả nổi tiếng, nhiều tác phẩm có giá trị.
Cùng với sự thay ñổi của nền kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội, văn học trong
giai ñoạn này cũng có những bước chuyển mình ñáng kể và luôn gắn liền với sự
ñổi thay của thời ñại. ðiều này thật ñúng với ý kiến của một nhà nghiên cứu
Trung Quốc – Tào ðạo Hoành : “Lịch sử văn học là một bộ phận, một khía cạnh
của lịch sử xã hội. Quá trình phát triển của lịch sử văn học có mối liên hệ gắn
chặt không thể tách rời với toàn bộ lịch sử xã hội”…Chính vì thế, khi ñọc - hiểu
văn bản chúng ta cần chú ý ñến sự vận ñộng phát triển của văn học trong từng
thời kỳ, giai ñoạn khác nhau ñể thấy từng bước ñi, nhịp ñâp của lịch sử. Và hơn
hết là ñể chỉ cho học sinh nhận thức rõ các giá trị của các kiến thức văn học sử
hiện diện trong các văn bản ñược lựa chọn ñể học có gì ñặc sắc, tiêu biểu cần
phải khai thác…
87
CHƯƠNG 3 - THỰC NGHIỆM
3.1 Mục ñích, yêu cầu thực nghiệm
3.1.1 Mục ñích thực nghiệm
Khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc hiểu văn bản văn học
ở trường phổ thông là một việc làm cần thiết nhằm củng cố, khắc sâu các
kiến thức ñã học, ñồng thời thấy ñược sự vận ñộng phát triển của lịch sử văn
học dân tộc, ñồng thời giúp cho việc ñọc - hiểu văn bản ñựơc ñịnh hướng
chính xác hơn…Tuy nhiên việc vận dụng những kiến thức ấy vào quá trình
giảng dạy các văn bản cụ thể có ñảm bảo tính khả thi và hiệu quả hay không
là ñiều mà người viết muốn kiểm nghiệm qua thực tế.
Trong quá trình thực nghiệm vận dụng phương pháp khai thác các
kiến thức văn học sử trong ñọc hiểu văn bản văn học cụ thể, nguời viết có
ñiều kiện một lần nữa thẩm ñịnh lại tính ñúng ñắn, khả năng ứng dụng cũng
như mức ñộ khả thi của ñề tài… Chính vì vậy, viêc thực nghiệm không chỉ
có ý nghĩa ñối với người viết trong quá trình thực hiện ñề tài mà còn mang ý
nghĩa phương pháp luận ñánh giá khả năng ứng dụng của phương pháp khai
thác ñã nêu. Trong quá trình giảng dạy ở nhà trường phổ thông.
3.1.2 Yêu cầu thực nghiệm
3.1.2.1. Về chọn ñịa bàn và học sinh thực nghiệm
Người viết chọn học sinh của hai trường THPT thuộc hai ñịa bàn
khác nhau
1 - Trường THPT DL An ðông – Quận 5 – TPHCM
2 - Trường THPT Chu Văn An – Phan Rang Tháp Chàm – Ninh
Thuận
Chọn hai trường trên là chọn thực nghiệm trên nhiều ñối tượng học
sinh ở hai môi trường khác nhau. ðây là những ñịa bàn mà học sinh có sự
88
chênh lệch về vốn sống, trình ñộ văn hoá, tâm lý nhận thức, khả năng tư duy
và ñiều kiện học tập,…
Vì chọn thực nghiệm trên những ñối tượng học sinh ở hai môi
trường khác nhau nên kết quả nhận thức, tiếp thu, giải quyết vấn ñề của học
sinh cũng khác nhau. ðiều này tạo cơ sở ñể ñánh giá tính khả thi, khả năng
vận dụng của phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc hiểu
văn bản văn học và cho phép rút ra ñược những kinh nghiệm, nhận xét khách
quan.
3.1.2.2. Về chọn bài thực nghiệm
Người viết chọn một văn bản thơ nằm trong học kỳ II : Văn bản
Hầu Trời của Tản ðà
3.2 Thời gian và tổ chức thực nghiệm
3.2.1 Thời gian thực nghiệm
Thời gian thực nghiệm bắt ñầu học kỳ II ở 2 trường THPT nói trên.
3.2.2 Tổ chức thực nghiệm
Sau khi liên hệ với hai trường, chúng tôi xây dựng kế hoạch thực
nghiệm như sau :
- Người viết luận văn trực tiếp ñứng lớp giảng dạy thực nghiệm văn
bản ñã chọn có dự giờ góp ý của tổ trưởng bộ môn mỗi trường.
- Ở mỗi trường THPT tiến hành thực nghiệm trên hai lớp. Như vậy
tổng số lớp sẽ dạy thực nghiệm ở hai trường là bốn lớp, gồm khoảng trên 180
học sinh tham gia.
- Sau tiết dạy thực nghiệm học sinh ñược kiểm tra trắc nghiệm kiến
thức của tiết học. Và ñể kết quả ñược khách qua, chính xác hơn, trắc nghiệm
này cũng sẽ ñược tiến hành kiểm tra ở một số lớp không thực nghiệm
89
phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử. Chúng tôi sẽ thu thập, xử lý
và ñối chiếu kết quả ñể ñánh giá.
- Kết quả thực nghiệm ñược ñánh giá trên cơ sở bài thu hoạch của
học sinh và những ý kiến nhận xét, góp ý của giáo viên trong tổ bộ môn của
hai trường thực nghiệm.
- Công việc thực nghiệm ñuợc tiến hành bắt ñầu từ cuối tháng 12,
sau khi học sinh thi kết thúc học kỳ I. Tác phẩm thực nghiệm ñược dạy ở
hai lớp khác nhau của mỗi trường. Các lớp không lựa chọn dạy còn lại ở mỗi
trường sẽ làm lớp ñối chứng. Nhờ ñó, việc ñánh giá kiến thức giờ dạy sẽ
chính xác và khách quan hơn.
3.3 Giáo án thực nghiệm
3.3.1 Yêu cầu chuẩn bị
3.3.1.1. ðối với giáo viên
ðể tiến hành một giờ dạy văn bản văn học nói chung, giờ dạy văn
bản thơ theo phương pháp khai thác nhấn mạnh kiến thức văn học sử nói
riêng, người giáo viên phải có một quá trình chuẩn bị công phu, bao gồm hai
việc chính : tìm hiểu tác phẩm và soạn giáo án.
● Tìm hiểu tác phẩm
Bao gồm các việc sau:
- Tìm hiểu những tư liệu lịch sử - xã hội liên quan ñến việc khai thác
các kiến thức cần triển khai.
- Tìm ñọc những bài viết của những nhà nghiên cứu, phê bình,... có
liên quan ñến văn bản.
- Tìm hiểu những văn bản cùng thể hiện nội dung cần ñề cập của
chính tác giả và của các nhà thơ khác.
90
- Xác ñịnh mục ñích, yêu cầu và hướng phân tích.
● Soạn giáo án
ðiều quan trọng nhất ñối với giáo viên trước giờ lên lớp là công việc
soạn giáo án. Nếu không có giáo án hoặc giáo án có nhưng chuẩn bị sơ sài,
giáo viên sẽ lúng túng trong giờ dạy. Giáo án bao giờ cũng thể hiện một cách
cụ thể quan ñiểm dạy học, phương pháp lên lớp, cấu tạo giờ dạy, nội dung
kiến thức cần truyền ñạt. Một giáo án theo tinh thần ñổi mới hiện nay là một
giáo án trong ñó có sự kết hợp hữu cơ giữa giáo viên và học sinh trên lớp ; sự
vận dụng nhuần nhuyễn, hài hoà các phương pháp, biện pháp tiến hành… ñể
từ ñó dẫn dắt học sinh tìm tòi, khám phá, hình thành các ñơn vị kiến thức của
bài.
3.3.1.2. ðối với học sinh
Chủ thể học sinh chiếm một vai trò quan trọng trong tiến trình dạy
học, cho dù sự chuẩn bị của giáo viên có công phu ñến ñâu mà học sinh
không chuẩn bị thì ý tưởng của giáo viên (mục ñích, yêu cầu ñặt ra trong bài)
khó thành hiện thực. Do vậy, giáo viên phải hướng dẫn học sinh soạn bài
trước ở nhà cho tiết học sắp tới thông qua câu hỏi gợi ý của giáo viên và một
số câu hỏi hướng dẫn học bài trong SGK. ðây là bước ñầu tiên giúp học sinh
thâm nhập tác phẩm, chuẩn bị tham gia phân tích và tiếp thu bài giảng trên
lớp. Trong quá trình soạn bài, học sinh phải ñọc tác phẩm một cách nghiêm
túc, tìm hiểu và nắm một số từ ngữ, câu văn cần thiết, trả lời các câu hỏi
trong SGK và các câu hỏi do giáo viên yêu cầu thêm. Qua sự chuẩn bị này,
học sinh sẽ nắm ñược một phần nội dung của tác phẩm. ðiều này sẽ giúp ích
rất nhiều cho học sinh khi tham gia phân tích tác phẩm dưới sự tổ chức,
hướng dẫn của giáo viên. Soạn bài kỹ là ñiều kiện giúp học sinh tìm hiểu
những giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm một cách tốt hơn.
91
Hướng dẫn học sinh soạn bài ở nhà là ñiều quan trọng và cần thiết.
Nó ảnh hưởng rất lớn ñến quá trình dạy và học, học sinh hiểu bài, nắm vững
kiến thức, giáo viên hứng thú say ê, tạo không khí lớp học sinh ñộng, sôi
nổi,…và kết quả giờ học sẽ ñạt chất lượng cao như mong muốn.
3.3.2 Giáo án
Dựa vào những lý thuyết của phương pháp khai thác các kiến thức
văn học sử, những yêu cầu ñặt ra cũng như cách thức vận dụng chúng vào
quá trình ñọc hiểu văn bản ñã trình bày ở phần trên, thông qua quá trình
chuẩn bị tìm hiểu các văn bản trong SGK Ngữ văn 11, người viết chọn văn
bản Hầu Trời của Tản ðà ñể minh hoạ.
Dưới ñây là giáo án giảng dạy văn bản Hầu Trời ñược tiến hành theo
cách thức vận dụng khai thác các kiến thức văn học sử, ñồng thời cùng kết
hợp với một số cách thức (phương pháp) khai thác các kiến thức khác. ðây
cũng là giáo án ñã ñược tiến hành giảng dạy thực nghiệm tại trường THPT.
92
Bài: HẦU TRỜI
Tản ðà
A. Mục tiêu cần ñạt :
- Học sinh cảm nhận ñược tâm hồn lãng mạn, ñộc ñáo của thi sĩ Tản ðà
(tư tưởng thoát li, ý thức về “cái tôi”, cá tính “ngông”) và những dấu hiệu ñổi
mới theo hướng hiện ñại của thơ ca Việt Nam vào ñầu những năm 20 của thế kỷ
XX (về thể thơ, cảm hứng, tư tưởng).
- Học sinh thấy ñược giá trị nội dung và nghệ thuật ñặc sắc của thơ Tản
ðà trong bước ñầu ñổi mới thơ ca theo hướng hiện ñại.
- Học sinh biết nhận thức bản thân với tư cách chủ thể giữa cõi nhân gian
này.
B. Phương tiện thực hiện :
- Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 11, tập 2.
- Sách thiết kế Ngữ văn 11, tập 2.
- Tài liệu tham khảo :
+ Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Giáo dục, 2000.
+ Tuyển tập Tản ðà, NXB Văn học, Hà Nội, 1986. (Lời giới thiệu của
Xuân Diệu)…
C. Cách thức tiến hành :
Tổ chức giờ dạy học theo cách kết hợp các hình thức : trả lời các câu hỏi,
trao ñổi, thảo luận theo nhóm…
93
D. Tiến trình dạy học :
- Kiểm tra bài cũ : Bài Nghĩa của câu
- Bài mới : Giáo viên có thể giới thiệu về bài thơ Hầu Trời vài nét ñể gợi
cảm hứng cho học sinh.
Thơ Tản ðà thường hay nói về cảnh trời. ðiều ñó ñã trở thành môtíp
nghệ thuật có tính truyền thống trong thơ ông. Ông tự coi mình là một trích tiên,
tức là vị tiên trên trời bị ñày xuống hạ giới vì tội “ngông”. Có lúc chán ñời ông
Muốn làm thằng cuội ñể cùng với chị Hằng “Tựa nhau trông xuống thế gian
cười”. Có lúc mơ màng ông muốn theo gót Lưu Thần, Nguyễn Triệu Lạc bước
vào chốn Thiên thai. Táo bạo hơn, ông còn mơ thấy mình ñược lên Thiên ñình,
hội ngộ với những mỹ nhân cổ kim như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi ;
cùng ñàm ñạo chuyện văn chương, thế sự với các bậc tiền bối như Nguyễn Trãi,
ðoàn Thị ðiểm, Hồ Xuân Hương,…. Ông còn viết thư hỏi Giời và bị Giời
mắng…bài Hầu Trời là một khoảnh khắc trong cả chuỗi cảm hứng lãng mạn ñó.
94
Phương pháp
Nội dung cần ñạt
- Trước khi ñi vào phân tích văn bản
chúng ta cần tìm hiểu một vài nét về tác
I. Tìm hiểu chung :
giả, tác phẩm.
1. Tác giả
- GV gọi HS ñọc phần Tiểu dẫn SGK/12,
sau ñó trả lời câu hỏi:
- Tản ðà (1889 – 1939), tên thật
Nguyễn Khắc Hiếu
1. Dựa vào phần Tiểu dẫn SGK/trang 12,
- Quê hương: tỉnh Sơn Tây (nay em hãy giới thiệu một vài nét chính về tác
thuộc tỉnh Hà Tây) giả Tản ðà ?
- ðể khắc sâu kiến thức văn học sử, GV
có thể giải thích, mở rộng và chốt lại một
- Con người :
+ Sinh ra và lớn lên trong
số ý lớn cần ghi nhớ:
buổi giao thời
+ “Người của hai thế kỷ”(Hoài +Tản ðà mang ñầy ñủ tính chất “con
Thanh) người của hai thế kỷ” kể cả về học vấn, lối
sống và sự nghiệp văn chương. Xuất thân + Học chữ Hán từ nhỏ nhưng trong gia ñình quan lại phong kiến nhưng về sau chuyển sang sáng tác văn lại sống theo phương thức của lớp tiểu tư chương quốc ngữ. sản thành thị “Bán văn buôn chữ kiếm tiền
- Phong cách thơ văn: tiêu”; học chữ Hán từ nhỏ nhưng lại sớm
chuyển sang sáng tác bằng chữ quốc ngữ + “Cái tôi” lãng mạn, bay và rất ham học hỏi ñể theo kịp thời ñại, là bổng, vừa phóng khoáng, ngông nhà nho nhưng ít chịu khép mình trong nghênh, vừa cảm thông, ưu ái. khuôn phép nho gia, sáng tác văn chương
+ Có thể xem thơ văn ông như
95
chủ yếu vẫn theo thể loại cũ nhưng nguồn một gạch nối giữa hai thời ñại văn
cảm xúc lại rất mới mẻ,…Tất cả những yếu học của dân tộc: trung ñại và hiện
tố trên ảnh hưởng không nhỏ ñến cá tính ñại.
sáng tạo của thi sĩ.
+ Thơ văn của ông có thể xem như một
gạch nối giữa hai thời ñại văn học dân tộc:
trung ñại và hiện ñại. “Trên Hội Tao ñàn,
chỉ tiên sinh là người của hai thế kỷ. Tiên
sinh sẽ ñại biểu cho một lớp người ñể
chứng giám công việc lớp người kế tiếp. Ở
ñịa vị ấy, còn có ai xứng ñáng hơn tiên
sinh. (…) Tiên sinh ñã cùng chúng tôi chia
sẻ một nỗi khát vọng thiết tha, nỗi thoát
vọng thoát li ra ngoài cái tù túng, cái giả
dối, cái khô khan của khuôn sáo. (…) Tiên
sinh ñã dạo những bản ñàn mở ñầu cho
một cuộc hoà nhạc tân kì ñương ắp sửa”
(Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh, Hoài
Chân)
2.Hãy kể tên các tác phẩm tiêu biểu của
2. Tác phẩm
tác giả tản ðà ?
(1916, 1918)
- Thơ : Khối tình con I ,II
(1916, 1932)
- Truyện : Giấc mộng con I,II
- Tự truyện : Giấc mộng lớn
96
(1928)
- Thơ và văn xuôi : Còn chơi
(1921)
…
3. Văn bản Hầu Trời
3. Em hãy nêu xuất xứ của văn bản Hầu
- Trong tập Còn chơi (1921)
Trời ? a. Xuất xứ :
- Bài thơ ra ñời vào thời ñiểm
khuynh hướng lãng mạn ñã khá ñâm
nét trong văn chương thời ñại. Xã
hội thực dân nửa phong kiến tù hãm,
u uất, ñầy những cảnh ngang trái,
xót ñau.
4. ðã ñọc văn bản ở nhà, theo em bố cục
b. Bố cục : 3 phần của văn bản này có thể chia làm mấy
phần, nêu nội dung ý nghĩa của từng - Phần 1: Giới thiệu về câu
phần? chuyện (từ “ðêm qua…” ñến “…lạ
lùng”).
- Phần 2: Thi nhân ñọc thơ cho
Trời và Chư tiên nghe (từ “Chư
- GV hướng dẫn học sinh ñọc diễn cảm,
tiên…” ñến “…chợ Trời”).
- Phần 3: Thi nhân trò chuyện
phân biệt lời thoại với lời kể, lột tả ñược
với trời (từ “Trời lại phê cho…”
tinh thần phóng túng, pha chút ngông
ñến “…sương tuyết”.
97
nghênh, dí dỏm của Tản ðà.
c. ðọc, giải thích tù khó
(ðọc phần chữ to của văn bản
- Sau khi ñọc xong, cho HS tóm tắt câu
và phần chú thích)/ trang 13 → 16)
chuyện. ðại ý nội dung câu chuyện như
sau:
d. T óm tắt :
(HS tự tóm tắt vào vở)
Bài thơ có cấu tứ là một câu chuyện nhỏ.
ðó là chuyện thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu,
Tản ðà lên hầu Trời, ñọc thơ cho Trời và
chư tiên nghe.Trời và chư tiên tấm tắc
khen hay và hỏi chuyện. Tác giả ñã ñem
những chi tiết rất thực về thơ và chuyện
cuộc ñời mình, ñặc biệt là cảnh nghèo khó
của người sáng tác văn chương hạ giới kể
cho Trời nghe. Trời cảm ñộng, thấu hiểu
- ðể hiểu hơn về nội dung thơ văn của
Tản ðà, chúng ta ñi vào tìm hiểu phần
ñọc - hiểu văn bản. Cho 1 HS ñọc lại khổ
tình cảnh, nỗi lòng thi sĩ.
I. ðọc - hiểu văn bản
thơ thứ nhất và trả lời những câu hỏi:
1. Giới thiệu câu chuyện
5.Câu chuyện xảy ra vào lúc nào ? Và nói
- Câu chuyện xảy ra vào “ñêm về việc gì ?
qua” (ðêm qua chẳng biết có hay
không)
(cid:2) gợi khoảnh khắc yên tĩnh,
vắng lặng
98
- Chuyện kể về một giấc mơ
ñược lên cõi tiên (Thật ñược lên tiên
-sướng lạ lùng)
- Nhân vật trữ tình là tác giả,
6. Nhân vật trữ tình ở ñây là ai? Mang mang tâm trạng (Chẳng phải hoảng
tâm trạng gì ? hốt, khôn gmơ mòng)
- Biện pháp nghệ thuật:
7. Nhận xét biện pháp nghệ thuật ñược tác + ðiệp từ : “thật” ( Thật hồn!
giả sử dụng trong khổ 1? Thật phách! Thật thân thể! Thật
ñược lên tiên!…)
(cid:3) nhấn mạnh tâm trạng, cảm
xúc của thi nhân.
+ Câu cảm thán (cid:3) bộc lộ cảm
xúc bàng hoàng.
+ Câu khẳng ñịnh (cid:3) dường
như lật lại vấn ñề : mơ mà như tỉnh,
hư mà như thực.
- Cách giới thiệu trên ñã gợi cho 8. Với cách giới thiệu như vậy ñã ñã gợi ngưòi ñọc về tứ thơ lãng mạn nhưng cho người ñọc cảm giác như thế nào về cảm xúc là có thật. Tác giả muốn câu chuyện sắp kể ? người ñọc cảm nhận cái “hồn cốt”
trong cõi mộng , mộng mà như tỉnh,
hư mà như thực.
(cid:4) Ngay khổ thơ thứ nhất người 9.Từ ñó ta thấy ñược gì về “cái tôi” cá ñọc cảm nhận ñược một “cái tôi” cá
99
nhân ñầy chất lãng mạn, bay bổng nhân của thi sĩ Tản ðà ?
pha lẫn với nét “ngông” trong phong
- GV mở rộng kiến thức văn học sử
ñược khai thác ñể minh hoạ bài Khái
quát trước ñó khi ñề cập ñến thuật ngữ
“cái tôi” cá nhân. Có thể liên tưởng, so
sánh ñến “cái tôi” cá nhân trong văn học
trung ñại:
cách thơ văn của thi nhân.
Thật ra “cái tôi” ấy ñã manh nha xuất
hiện, bắt ñầu cựa quậy từ cuối thế kỷ
XVIII ñầu thế kỷ XIX trong các sáng tác
của Phạm Thái, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Công Trứ,…Nhưng do
hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ chưa có ñủ
ñiều kiện cho nên cái tôi ấy chưa ñủ sức
phá vỡ ñược tính quy phạm chặt chẽ của
văn chương thời kỳ trung ñại. ðến khi
Tản ðà xuất hiện, “cái tôi” cá nhân ñược
khẳng ñịnh mạnh mẽ hơn qua những vần
thơ phóng túng, dạt dào tình cảm, tràn
ñầy cảm xúc.
Cái tôi cá nhân của Tản ðà là cái tôi của
một nhà nho tài tử. Nó chỉ có thể xuất
hiện trong giai ñoạn văn học này và trước
ñó (thời Nguyễn Công Trứ, Cao Bá
Quát,…, giai ñoạn về sau không còn xuất
100
- ðể hiểu hơn về cái tôi cá nhân của nhà
thơ, chúng ta ñi vào tìm hiểu ñoạn thơ
hiện cái tôi kiểu này…
2. Thi nhân ñọc thơ cho Trời và
thứ 2.
Chư tiên nghe
- Goi HS ñọc lại ñoạn 2, sau ñó cho biết:
-Yêu cầu HS tìm dẫn chứng trong SGK
10. Thái ñộ của thi nhân khi ñọc thơ như a. Thái ñộ của thi nhân khi ñọc thơ thế nào ? và việc thi nhân nói về tác phẩm
của mình
ðọc hết văn vần sang văn xuôi
- Thi nhân ñọc rất cao hứng,
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
sảng khoái và có phần tự ñắc ðương cơn ñắc chí ñọc ñã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.
…
- Thi nhân kể tường tận, chi tiết Hai quyển Khối tình văn thuyết lí về các tác phẩm của mình:
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết
11.Qua ñó, em có nhận xét gì về giọng ñọc - Giọng ñọc: ña dạng, hóm hỉnh, của tác giả ? Và sự thể hiện cái tôi cá nhân ngông nghênh, có phần tự ñắc… ở ñây ?
Thi nhân rất ý thức về tài năng thơ văn
của mình và cũng là người táo bạo, dám
ñường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. (cid:2) Cái tôi cá nhân ý thức về tài
101
Ông cũng rất “ngông” khi tìm ñến tận năng thơ văn của mình
trời ñể khẳng ñịnh tài năng thơ văn của (Liên hệ Cao Bá Quát, Nguyễn mình trước Ngọc hoàng Thượng ñế và Công Trứ, Trần Tế Xương,…) chư tiên. Cái ngông trong văn chương
thường biểu hiện thái ñộ phản ứng của
người nghệ sĩ tài hoa có cốt cách, tâm
hồn, không muốn chấp nhận sự bằng
phẳng, sự ñơn ñiêụ, nên thường tự ñề cao
phóng ñại cá tính của mình. ðó là niềm
khao khát chân thành trong tâm hồn thi
-Khai thác kiến thức văn học sử. Ở ñây ta có thể yêu cầu HS liên hệ, so sánh với
tác giả Cao Bá Quát, Nguyễn công Trứ,
Trần Tế Xương,… khi nói về cái tôi
ngông nghênh, kiêu bạt, hào hoa.
sĩ.
Cái “ngông” của Tản ðà có sự gặp gỡ
với cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
(Bài ca ngất ngưởng), của Cao Bá Quát
(Sa hành ñoản ca). ðặc biệt, cái “ngông”
của Tản ðà gặp lại khá nhiều so với
Nguyễn Công Trứ, cũng là một ý thức rất
cao về tài năng bản thân dám nói tự nhiên
với các ñối tượng như Trời, Tiên, Bụt ;
dám phô bày toàn bộ con người vươn trên
cả thiên hạ, như khiêu khích cả thiên hạ.
Tuy nhiên, ta vẫn nhận ra những ñiểm
khác : “ngông” của Tản ðà vuợt ra khỏi
102
cái bó buộc mình với trách nhiệm vua tôi,
vấn ñề này dường như không còn là
chuyện hệ trọng nữa, mặc dù không phải
như thế là sống vô trách nhiệm với xã hội.
Cái tài mà nhà thơ muốn khoe không phải
là chuyện trị nước bình thiên hạ mà là cái
tài văn chương.
12. Thái ñộ của người nghe thơ (Trời và
-Thái ñộ của Trời: khen: Trời nghe, trời
Chư tiên) ra sao ? b. Thái ñộ của người nghe thơ
- Thái ñộ của Trời: khen, tán
cũng lấy làm hay, tán thưởng: Trời nghe
-Thái ñộ của chư tiên:
Tâm
như
nở
dạ,
cơ
lè
lưỡi
trời cũng bật buồn cười”,khẳng ñịnh cái thưởng và khẳng ñịnh tài năng của tài của người ñọc thơ: Trời lại phê cho người ñọc thơ. văn thật tuyệt/ Văn trần như thế chắc có ít
Hằng Nga, Chúc nữ chau ñôi mày
- Thái ñộ của chư tiên: xúc
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai ñứng
ðọc xong một bài cùng vỗ
tay”
“Nở dạ”: mở mang nhận thức ñược
nhiều cái hay.
“Lè lưỡi”: văn hay làm người nghe ñến
bất ngờ! “Chau ñôi mày” văn hay làm
người nghe phải suy nghĩ tưởng tượng.
Lắng tai ñứng: ñứng ngây ra ñể nghe. Tác
giả viết tiếp hai câu thơ:
ñộng, hâm mộ và tán thưởng.
103
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn
Anh gánh lên ñây bán chợ trời
Những phản ứng về mặt tâm lí của Trời
và các vị chư tiên ñan xen vào nhau làm
cho cảnh ñọc thơ diễn ra thật sôi nổi, hào
hứng, linh hoạt.. Người ñọc thơ hay mà
tâm lí người nghe thơ cũng thấy hay!
(cid:3) Người nghe rất ngưỡng mộ
khiến người ñọc bài thơ này cũng như bị
tài năng thơ văn của tác giả
cuốn hút vào câu chuyện ñọc thơ ấy, cũng
(cid:4) Cả ñoạn thơ mang ñậm chất lãng
cảm thấy “ñắc ý”, “sướng lạ lùng”!
mạn và thể hiện tư tưởng thoát li
-Gọi HS ñọc tiếp ñoạn còn lại trong
SGK
trước thời cuộc.
13. Khi trò chyện với Trời, thi nhân kể gì 3. Thi nhân trò chuyện với về hoàn cảnh của mình cho Trời nghe?
Trời
- Yêu cầu tìm dẫn chứng trong SGK
a. Thi nhân kể về hoàn cảnh Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn của mình
Quê ở Á châu về ðịa cầu - Thi nhân kể họ tên, quê quán:
Sông ðà núi Tản nước Nam Việt. (cid:3) Cách kể họ tên trong thơ văn
-Tạo cho HS khai thác kiến thức văn
càng khẳng ñịnh hơn về “cái tôi” cá
nhân.
học sử bằng cách nhớ lại một số tác giả
trước ñây ñã xưng danh tính của mình
như thế nào trong thơ văn. Sự xưng danh
104
tính của Tản ðà có ý nghĩa như thế nào?
So với các danh sĩ khác:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên Hạ hà nhân khấp Tố Như
(Nguyễn Du - ðọc Tiểu Thanh kí)
Hoặc:
Ông Hi Văn tài bộ ñã vào lồng
(Nguyễn Công Trứ – Bài ca ngất ngưởng)
Hay:
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
(Hồ Xuân Hương – Mời trầu)
Tản ðà giới thiệu về mình, với nét riêng:
+Tách tên họ của mình
+Nói rõ quê quán, châu lục, hành tinh
Nói rõ ñể trời hiểu Nguyễn Khắc Hiếu (ý
thể hiện cái tôi cá nhân) và thể hiện lòng tự
tôn , tự hào về dân tộc mình “sông ðà núi
Tản nước Nam Việt” ...
14.Thi nhân kể về cuộc sống của mình
như thế nào? Qua những lời thơ ấy, ta - Thi nhân kể về cuộc sống:
cảm nhận ñược gì về cuộc sống thực tại Cuộc sống nghèo khó, túng của thi nhân lúc bấy giờ? thiếu. Thân phận nhà văn bị rẻ rúng,
- Yêu cầu tìm dẫn chứng trong SGK. coi thường. Ở trần gian thi nhân
không tìm ñược tri âm nên phải lên
105
tận cõi Trời ñể thoả nguyện nỗi Kể về cuộc sống:
lòng. Cảnh ngèo khó / Trần gian thước ñất
(cid:2) ðó cũng chính là hiện thực
cũng không có / Văn chương hạ giới rẻ
cuộc sống của người nghệ sĩ trong như bèo / Kiếm ñược ñồng lãi thực rất
khó / Kiếm ñược thời ít tiêu thời nhiều / xã hội bấy giờ - một cuộc sống cơ
cực, tủi hổ, không tấc ñất cắm dùi, Làm mãi quanh năm chẳng ñủ tiêu….
thân phận rẻ rúng, làm chẳng ñủ ăn
- Khai thác kiến thức văn học sử:
(cid:2) Tác giả cho người ñọc thấy ( Liên hệ cuộc ñời của nhà văn Nam Cao một bức tranh rất chân thực và cảm và cuộc ñời thật của Tản ðà) ñộng về chính cuộc sống của mình
Từ cách kể chuyện trên, ta thấy ñược
và cuộc ñời nhiều nhà văn nhà thơ
quan niệm tiến bộ, mới mẻ của tác giả
về nghề văn lúc bấy giờ:
khác.
(cid:4) Cảm hứng hiện thực bao trùm
- Qua ñó, GV có thể nói thêm quan
niệm của Tản ðà về nghề văn:
cả ñoạn thơ này.
Văn chương là một nghề, nghề kiếm sống.
Có kẻ bán, người mua, có chuyện thuê,
mượn, ñắt, rẻ, vốn, lãi... Quả là bao nhiêu
chuyện hành nghề văn chương! một quan
niệm mới mẻ lúc bấy giờ.
Nhờ trời văn con còn bán ñược
Anh gánh lên ñây bán chợ trời
Vốn liếng còn một bụng văn ñó
Giấy người, mực người, thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm ñược ñồng lãi thực là khó .
106
15. Trời giao cho thi nhân nhiệm vụ gì? b. Trách nhiệm và khát vọng
Và nhiệm vụ Trời giao cho có ý nghĩa của thi nhân
như thế nào? - Nhiệm vụ của Trời giao:
Theo Tản ðà, con người phải có “thiên truyền bá “thiên lương” (ñọc chú
lương” gồm: “lương tri” (khả năng nhận thích 2/SGK.tr 15).
thức cuộc sống);“lương năng” (khả năng (cid:3) Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản ðà làm việc tốt); “lương tâm” (ñạo ñức tốt) lãng mạn nhưng không hoàn toàn
thoát li cuộc sống. Ông vẫn ý thức 16. Từ ñó, ta thấy thi nhân Tản ðà mong
về nghĩa vụ, trách nhiệm với ñời ñể muốn, khát khao ñiều gì?
ñem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc
hơn.
- Thi nhân khát khao ñược gánh vác việc ñời. (cid:3) ðó cũng là cách tự
khẳng ñịnh mình trước thời cuộc.
- Khát vọng ý thức sáng tạo
trong nghề văn.
(cid:3) Người viết văn phải có nhận thức
phong phú, phải viết ñược nhiều thể
loại: thơ, truyện, văn, triết lí, dịch
thuật (ña dạng về thể loại).
(cid:4) Cảm hứng lãng mạn và hiện 17. Vậy cảm hứng bao trùm cả ñoạn thơ ? thực ñan xen khắng khít trong thơ
văn của Tản ðà.
- Khai thác kiến thức văn học sử.
Chúng ta có thể cho HS thảo luận, bàn
107
thêm về cảm hứng lãng mạn và cảm
hứng hiện thực xuất hiện trong văn học
ñầu thế kỷ XX so với giai ñoạn trước -
thời kỳ văn học trung ñại và giai ñoạn
văn học 30 - 45 sau này ñược thể hiện
như thế nào? (nếu có thời gian)
Văn học trung ñại, chủ nghĩa lãng mạn,
chủ nghĩa hiện thực chưa thành trào lưu,
xu hướng. Trong văn học giai ñoạn giao
thời (1900 -1930) ñã xuất hiện những tác
phẩm có tính chất lãng mạn. ðó là Khối
tình con của Tản ðà, Giọt lệ thu của
Tương Phố, Tố Tâm của Hoàng Ngọc
Phách,…Nhưng phải ñến ñầu những năm
30 của thế kỷ XX, hoàn cảnh văn hoá xã
hội ở Việt Nam mới ñầy ñủ những ñiều
kiện chín muồi ñể chủ nghĩa lãng mạn ra
ñời. Và phải ñến năm 1932, chủ nghĩa
lãng mạn mới thục sự xuất hiện trong văn
học Việt Nam với những tên tuổi như Thế
Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn
Bính, Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng ðạo,
*Tiểu kết: Thạch Lam, Nguyễn Tuân,…
- Cái tôi cá nhân biểu hiện trong
bài thơ:
+ Hư cấu chuyện hầu Trời ñể
giãi bày cảm xúc cá phóng khoáng
108
của con người cá nhân.
+ Nhà thơ nói ñược nhiều về tài
năng của mình.
+ Thể hiện quan niệm về nghề
văn
+ Cách tấu trình với trời về
nguồn gốc của mình.
- Cảm hứng lãng mạn và hiện
thực ñan xen nhau, trong bài thơ.
(lãng mạn: ñoạn nhà thơ lên hầu
Trời ; hiện thực: ñoạn nhà thơ kể về
cuộc sống của chính mình), khẳng
ñịnh vị trí thơ Tản ðà là “gạch nối
của hai thời ñại thi ca”
II. Tổng kết
1. Nội dung
18. Nhận xét giá trị nội dung và nghệ
Bài thơ thể hiện cái tôi cá nhân
thuật của văn bản ñược học?
-GV nhấn mạnh kiến thức văn học sử
ngông nghênh, kiêu bạt, hào hoa và
cái tôi cô ñơn bế tắc trước thời cuộc
Nhân vật trữ tình bộc lộ ý thức cá nhân,
tạo nên cái “ngông” riêng của Tản ðà:
Nội dung: - một cái ngông hết sức riêng biệt.
+Tự cho mình văn hay ñến mức trời cũng
phải tán thưởng.
109
+Tự ý thức, không có ai ñáng là kẻ tri âm
với mình ngoài trời và các chư tiên! Những
áng văn của mình chỉ có trời mới hiểu và
phê bình ñược.
+Tự xem mình là một “Trích tiên” bị ñày
xuống hạ giới vì tội ngông!
+Nhận mình là người nhà trời, trời sai
2. Nghệ thuật
xuống ñể thi hành nhiệm vụ “thiên lương”
- Ngôn ngữ thơ tinh tế chọn Nghệ thuật: lọc, gợi cảm, không cách ñiệu, ước
Lối kể dân giã, giọng ñiệu khôi hài
lệ, dân giã, giọng ñiệu khôi hài.
+ Có nhiều câu chuyện về người trần gặp
tiên, nhưng Hầu Trời vẫn có cái mới, cái
lạ cuốn hút người ñọc, câu chuyện trời
nghe thơ!
+ Nhân vật trữ tình với trời và các chư
tiên, có quan hệ thân mật. (Chư tiên gọi
nhà thơ bằng anh! )
+ Người trời biểu hiện cảm xúc như con
người: lè lưỡi, chau ñôi mày, lắng tai
Cách dùng
từ có nhiều
thú vị:
ñứng, vỗ tay, bật buồn cười, tranh nhau - Cách dùng từ có nhiều thú vị, dặn... gần với phong cách sinh hoạt.
- Cảm xúc bộc lộ thoải mái, tự Từ dùng nôm na như văn nói, phù hợp với
nhiên, phóng túng. sự hư cấu của nhà thơ. Văn dài hơi tốt ran
cung mây.Văn ñã giàu thay, lại lắm lời. - Thể thơ thất ngôn trường thiên Trời nghe trời cũng bật buồn cườ., Kiếm
110
ñược thời ít, tiêu thìn hiều. Lo ăn lo mặc khá tự do…
hết ngày tháng. (cid:4) Có thể thấy nhà thơ ñã tìm
ñược hướng ñi ñúng ñắn của mình
giữa lúc thơ phú nhà nho ñang ñi
dần ñến dấu chấm hết. Nhìn chung
thơ Tản ðà chưa mới nhưng những
dấu hiệu ñổi mới theo hướng hiện
ñại khá ñậm nét.
* Củng cố kiến thức
- Cái “ngông”: thể hiện ý thức cao về tài năng của bản thân, nhất là tài năng về
văn chương. Cái “ngông” này góp phần làm nên cái mới, cái hay của bài thơ.
- Tính chất giao thời trong nghệ thuật thơ Tản ðà, tính chất bình dân trong lối
kể chuyện; giọng ñiệu khôi hài; cách dùng từ ñể làm nổi bật cái tôi tài hoa
- Những nét mới về thi pháp so với thơ ca trung ñại.
*Luyện tập
So sánh thái ñộ “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ và cái “ngông”
của Tản ðà.
- Giống nhau:
+ Cả hai tác giả ñều ý thức rất cao về tài năng bản thân, coi mình vượt lên trên
thiên hạ. Phô bày toàn bộ con người mình trước mặt thiên hạ, như muốn giỡn mặt :
thiên hạ. “ðạc ngựa bò vàng ñeo ngất ngưởng” - Nguyễn Công Trứ; “Thiên tiên ở
lại, trích tiên xuống”- Tản ðà.
111
+ Coi trời, tiên, bụt như con người nên có cách nói giao tiếp như con người.
- Khác nhau:
+ Cái “ngông”của Tản ðà tự do, phóng túng hơn, không vướng bận về “nghĩa
vua tôi cho vẹn ñạo sơ chung” như Nguyễn Công Trứ.
+ Tản ðà khẳng ñịnh cái tài thuộc lĩnh vực văn chương ; Nguyễn Công Trứ
muốn “ngất ngưởng” vượt lên trên thiên hạ, muốn hoà mình vào triết lí vô vi trong
cách sống coi thường danh lợi, ñược, mất, khen, chê trong cuộc ñời…
* Dặn dò
- Nắm vững, hiểu rõ kiến thức trọng tâm bài học.
- Xem thêm phần luyện tập
- Soạn bài tiếp theo : Nghĩa của câu
112
3.4 Xử lý kết quả thực nghiệm
Bảng 1 : Kết quả kiểm tra bài Hầu Trời – Tản ðà (lớp thực nghiệm)
Xếp loại
Số
Trường
Lớp
bài
G(9- 10) K (7 – 8) TB (5 -6) Y (3 – 4) K (1 – 2)
KT SL % SL % SL % SL % SL %
43
11
24
4
3
1
6.9
25.6
55.8
9.3
THPT.DL
11A1
2.3
46
17
30
5
2
2
4.3
36.9
65.2
10.9
T
AN ðÔNG
11A2
4.3
N
48
5
25
16
2
0
10.4
52.1
33.3
4.2
11A5
0
THPT
CHU
46
3
22
16
3
2
6.5
47.8
34.8
6.5
11A6
4.3
VĂNAN
113
Bảng 2 : Kết quả kiểm tra bài Hầu Trời – Tản ðà (lớp ñối
chứng)
Số
Xếp loại
Trường
Lớp
bài
G(9- 10) K (7 – 8) TB (5 -6) Y (3 – 4) K (1 – 2)
KT SL % SL % SL % SL % SL %
42
10
21
7
4
0
0
23.8
50.0
16.7
9.5
THPT.DL
11A3
46
16
18
9
2
1
2.1
34.8
39.1
19.6
4.3
ð
AN ðÔNG
11A4
45
19
20
4
1
1
2.2
42.2
44.4
8.9
2.2
C
THPT
11A7
CHU
45
17
18
5
3
2
4.4
37.8
40.0
11.1
6.7
11A8
VĂNAN
114
Bảng 3 : Tổng hợp và so sánh kết quả kiểm tra của lớp dạy
thực nghiệm và ñối chứng
Thực nghiệm
ðối chứng
Tỉ lệ ñạt của bài thực
nghiệm
(163 bài)
(178 bài)
Loại
Số
%
Số
%
Tăng >
Số
%
Giảm <
lượng
lượng
lượng
4
>
9
13
7.1
2.2
4.9
Giỏi
62
>
13
75
41.0
34.8
6.2
Khá
77
>
9
86
47.0
43.2
3.8
TB
25
<
11
14
7.65
14.0
6.3
Yếu
10
<
5
5
2.73
5.6
2.9
Kém
115
3.5 Kết luận chung về thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm là căn cứ quan trọng ñể ñánh giá khả năng ứng
dụng của ñề tài. Do ñó việc thực nghệm và ñánh giá kết quả thực nghiệm là
rất quan trọng. ðể ñánh giá tính khả thi của ñề tài chúng tôi dựa vào việc
nhận xét ñánh giá kết quả bài kiểm tra của học sinh và việc nhận xét, ñánh
giá, rút kinh nghiệm của giáo viên về giờ dạy thực nghiệm.
Thực nghiệm chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, số lượng có
hạn,…cho nên kết luận chưa thể phản ánh hết những ñặc ñiểm, tính chất, nội
dung của việc dạy học văn hiện nay.
Chúng tôi không coi trọng thực nghiệm là cơ sở duy nhất ñể khẳng
ñịnh tính ưu việt, khả thi của giáo án thực nghiệm nhưng là cơ sở ñể tham
khảo.
Giáo án này sẽ còn phụ thuộc vào năng lực sư phạm của giáo viên
cũng như ñối tượng học sinh và các phương tiện, môi trường dạy học cụ
thể…
3.5.1 ðánh giá từ kết quả kiểm tra kiến thức của học sinh
Nhìn vào 3 bảng so sánh kết quả kiểm tra của học sinh lớp dạy thực
nghiệm và lớp ñối chứng, ta thấy kết quả bài thực nghiệm hơn hẳn bài ñối
chứng. Tỉ lệ bài ñạt khá giỏi cao hơn 11.1% và tỉ lệ bài yếu kém thấp hơn
9.2%. Với kết quả này, phần nào chứng tỏ giờ dạy học văn bản văn học có
vận dụng việc khai thác các kiến thức văn học sử cho kết quả khả quan hơn,
góp phần làm cho giờ dạy ñạt hiệu quả, chất lượng.
3.5.2 ðánh giá từ những nhận xét, góp ý của giáo viên về giờ dạy
thực nghiệm
3.5.2.1. Về phía người dạy :
Người dạy có sự ñầu tư, liên hệ, mở rộng các kiến thức cho bài
giảng, ñã biết dựa trên cơ sở nội dung, mục ñích, yêu cầu của tài liệu giảng
116
dạy và ñặc ñiểm của từng ñối tượng học sinh ñể lựa chọn và vận dụng việc
khai thác các kiến thức văn học sử trong quá trình tìm hiểu văn bản cụ thể.
Quá trình khai thác các kiến thức văn học sử cùng với việc phối hợp
khai thác một số kiến thức khác trong ñọc hiểu văn bản có tác dụng tích cực
trong vệc giúp học sinh củng cố, khắc sâu các kiến thức văn học sử ñã học
và hiểu hơn về lịch sử văn học dân tộc trong từng thời kỳ, giai ñoạn phát
triển.
Giáo viên biết lựa chọn các vấn ñề khai thác phù hợp với nội dung
kiến thức bài giảng…Biết cách dẫn dắt học sinh vận dụng khai thác các yếu
tố văn học sử ñể hiểu hơn giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản ñựơc
học.
3.5.2.2. Về phía người học :
Do hạn chế thời gian trên lớp nên phần vận dụng khai thác các kiến
thức văn học sử ở học sinh có hạn chế, chủ yếu do giáo viên diễn giảng, liên
hệ. mở rộng vấn ñề. Học sinh có tích cực tham gia vào bài giảng nhưng các
em chưa ñược tranh luận, trình bày những suy nghĩ của mình một cách sôi
nổi, quyết liệt.
Trong quá trình tiếp nhận kiến thức một số học sinh ban ñầu còn tỏ
ra lúng túng (nhất là khi cho các em thảo luận) nhưng sau ñó tỏ ra quen dần.
Một số thích thú với kiến thức ñược giáo viên liên hệ, so sánh, mở rộng.
Với những ñiều ñã ñạt ñược có thể khẳng ñịnh tính khả thi, khách
quan và khả năng vận dụng khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc hiểu
văn bản văn học ở trường THPT là việc làm tích cực, hiệu quả.
117
KẾT LUẬN
1. Bên cạnh các kiến thức khác, văn học sử là một trong những kiến thức
ñáng ñể chúng ta quan tâm, tìm hiểu trong quá trình giảng dạy văn bản văn học ở
trường phổ thông. Những tri thức về lịch sử văn học giúp cho học sinh hiểu quá
trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc…Những tri thức văn học sử ở PTCS
mới ở mức ñộ sơ giản, chưa phải nhất loạt sắp xếp theo trình tự lịch sử, chỉ sắp xếp
từ ñơn giản ñến phức tạp, phù hợp với trình ñộ nhận thức của học sinh. Ở PTCS
chưa có giờ riêng về tri thức văn học sử. Các tri thức này chỉ ñược khái quát qua
bài ôn tập về văn học sử ở từng giai ñoạn. Chương trình văn học sử ở PTTH có
nhiệm vụ nâng cao, hệ thống hóa kiến thức văn học sử ở PTCS lên một bước. Chính
vì vậy, việc khai thác các kiến thức văn học sử ở bậc THPT cần ñược chú trọng hơn
nhằm góp phần nâng cao, phát triển và hoàn thiện tri thức ở học sinh.
2. Phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc – hiểu văn bản
văn học thực ra chỉ là cách thức vận dụng các kiến thức văn học sử ñã và ñang học
vào quá trình phân tích tác phẩm văn học một cách có hiệu quả, chất lượng.
Bản chất của quá trình phân tích tác phẩm văn chương là cảm thụ tác phẩm,
tức là tự mình khám phá, ngẫm nghĩ ñể thắm thía cái hay, cái ñẹp của tác phẩm.
Thông qua các giờ dạy học tác phẩm văn học, giáo viên sẽ ñịnh hướng cho học sinh
cách làm một bài văn nghị luận, cách liên tưởng, so sánh, mở rộng vấn ñề và rèn
luyện khả năng tư duy, khả năng vận dụng các kiến thức,…
3. Từ những yêu cầu về phương pháp dạy học văn, ta thấy việc khai thác các
kiến thức văn học sử trong ñọc – hiểu văn bản văn học là một cách thức khai thác
hữu hiệu, phù hợp với yêu cầu ñổi mới sách giáo khoa hiện nay cũng như sự ñổi
mới về phương pháp tiếp nhận văn bản.
Thực tế cho thấy, khi giảng dạy các tác phẩm văn học có nhấn mạnh, khắc
sâu các kiến thức văn học sử, giáo viên dễ dàng ñịnh hướng, dẫn dắt học sinh tìm
118
tòi, khám phá các giá trị nội dung, nghệ thuật cũng như quan ñiểm nghệ thuật,
phong cách sáng tạo của mỗi tác giả trong từng thời kỳ, giai ñoạn khác nhau.
Khi vận dụng khai thác các kiến thức văn học sử vào quá trình dạy học một
văn bản văn học lớp 11, trước hết giáo viên phải nắm thật vững nội dung các kiến
thức văn học sử ñã giảng dạy trước ñó trong các phần bài khái quát về từng thời kỳ,
giai ñoạn, từng tác giả, tác phẩm, ñặc biệt là các thuật ngữ, khái niệm, ñịnh nghĩa,
luận ñiểm ñến các ñề tài, thể loại, ngôn ngữ, quan ñiểm nghệ thuật,…tiêu biểu nổi
bật. Khi tiến hành ñọc – hiểu các văn bản cụ thể, thông qua lời giảng, các câu hỏi,
sự gợi ý,…giáo viên sẽ ñịnh hướng, dẫn dắt học sinh khai thác từng kiến thức có
trong mỗi bài (không nhất thiết phải khai thác hết tất cả các kiến thức văn học sử vì
ở mỗi bài luợng kiến thức này không hoàn toàn giống nhau). Tùy vào mỗi văn bản
mà giáo viên sẽ cân nhắc ñể lí giải, phân tích, so sánh, liên hệ, mở rộng các kiến
thức văn học sử cho phù hợp.
4. Qua thực tế giảng dạy, nhất là các giờ dạy thực nghiệm gần ñây, nếu
chúng ta chú ý khắc sâu các kiến thức văn học sử trong quá trình ñọc – hiểu văn
bản một cách tích cực sẽ nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ dạy (thông qua số
liệu thực tế từ kết quả thực nghiệm). Tuy nhiên, ở nhà trường phổ thông ñây không
phải là kiến thức duy nhất, chủ yếu mà bênh cạnh nó còn có nhiều kiến thức khác
cũng cần phối hợp khai thác.
Thật ra, ña số các giáo viên giảng dạy chưa ñược cung cấp một phương pháp
khai thác kiến thức văn học sử phù hợp nên việc khai thác các kiến thức ấy ở nhà
trường phổ thông chưa thật sự phổ biến rộng rãi và quan tâm ñúng mực. Quả lại,
thực tế giảng dạy còn nhiều khó khăn và hạn chế là ñiều không thể tránh khỏi.
Qua một số lần thăm dò ý kiến, giáo viên thường ñề cập ñến những khó
khăn như sau : thời gian giảng dạy trên lớp hạn chế ; kiến thức bài học quá nhiều ;
học sinh học yếu, chậm tiếp thu ; một số giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức,
ñịnh hướng học sinh ; một số dạy theo sở trường, sở thích,…Chính vì vậy, việc tổ
119
chức, hướng dẫn học sinh vận dụng các kiến thức văn học sử ñã học vào quá trình
tìm hiểu văn bản ñòi hỏi giáo viên ñứng lớp phải có kiến thức và năng lực bao quát,
nhất ñịnh trong mỗi tiết dạy.
5. Chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay ñã phân chia lại cấu
trúc chương trình : “ Hệ thống tri thức văn học ñược cấu trúc một cách hợp lí trên
các phương diện lịch sử và loại thể. Trình tự lịch sử văn học dân tộc vẫn ñược chú ý
trong sự ñối sánh với văn học nước ngoài. Song tiêu chí loại thể ñược chú trọng hơn
so với chương trình cũ” [34, tr 4]. Rõ ràng, cấu trúc chương trình cải cách lần này
có sự thay ñổi, lịch sử văn học không còn là cơ sở sắp xếp duy nhất. Vì vậy chúng
ta cần phải mạnh dạn khai thác các kiến thức văn học sử một cách hệ thống, khoa
học, cụ thể trong quá trình ñọc hiểu văn bản ñể bù ñắp cho sự sắp xếp ñó. Những
kiến thức trong bài khái quát về thời kỳ, giai ñoạn, tác gia, tác phẩm là tiền ñề tạo
cơ sở cho việc ñọc hiểu các văn bản. Ngược lại, khi ñọc hiểu các văn bản trên tinh
thần khắc sâu các kiến thức văn học sử sẽ góp phần làm sáng tỏ các nhận ñịnh, luận
ñiểm…trong bài khái quát.
Chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành ñòi hỏi tính kế thừa và
tính liên môn, tích hợp. Do ñó, việc vận dụng các kiến thức văn học sử vào quá
trình ñọc – hiểu các tác phẩm văn học cũng cần ñảm bảo ñược ñiều này. Nghĩa là
các nội dung ñược nêu ra khai thác phải thể hiện ñược tính kế thừa, liên hệ với
những nội dung kiến thức ñã học ở các bài trước và ở cả các lớp dưới. Chẳng hạn
khi tìm hiểu văn bản Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, giáo viên có thể liên hệ với
các tác phẩm ñã học lớp dưới như tác phẩm Lão Hạc (Nam Cao), Tắt ñèn (Ngô Tất
Tố), Bước ñường cùng (Nguyễn Công Hoan),…nhằm giúp học sinh phát hiện ra cái
nhìn mới mẻ, khác lạ của Nam Cao khi cùng viết về ñề tài người nông dân. Hay như
khi nói về cái tôi trong phong trào thơ mới, chúng ta cần cho học sinh liên hệ với
giai ñoạn trước ñó (giai ñoạn văn học trung ñại thế kỷ XVIII – XIX) ñể xem cái tôi
ñó thể hiện, phát triển ra sao trong những ñiều kiện lịch sử xã hội khác nhau…Mặt
khác, các kiến thức ñược vận dụng khai thác trong giờ dạy ñòi hỏi phải biết cân
120
nhắc lựa chọn ñể ñảm bảo tính liên môn, tức cần tích hợp với các kiến thức khác
như kiến thức lí luận văn học, tiếng Việt, nghị luận văn học,…Ví dụ khi học xong
văn bản Hầu Trời (Tản ðà), chúng ta có thể yêu cầu học sinh viết một ñoạn văn
ngắn cảm nhận về cái tôi ngông của thi sĩ Tản ðà ñể rèn luyện kỹ năng làm văn
nghị luận, ñồng thời rèn luyện kỹ năng lập luận, phân tích, mở rộng, liên hệ các kiến
thức ñã học…và một lần nữa củng cố, khắc sâu hơn các kiến thức văn học nói
chung, văn học sử nói riêng.
121
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn ðức Ân (1997), Dạy học giảng văn ở phổ thông, Nxb Tổng
hợp, ðồng Tháp.
2. Trần Thanh Bình (2006), “Phương pháp nghiên cứu tiểu sử nhà văn
trong giảng dạy văn học nước ngoài”, Niên giám Văn học, Hội
Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP HCM, Nxb Văn hoá Sài
Gòn.
3. Nguyễn Viết Chữ (2001), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương
theo loại thể, Nxb ðại học Quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn ðình Chú, Trần Hữu Tá (Chủ biên, 2000), Văn học 11, Tập 1
(Sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000), Nxb Giáo dục.
5. Nguyễn Hữu Chương (1965), Nâng cao hiệu quả giờ lên lớp, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb
Khoa học Xã hội.
7. Trương ðăng Dung (2001), “Những giới hạn của lịch sử văn học”,
Văn học sử, những quan niệm mới - những tiếp cận mới, Trung
tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Thông tin
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
8. Trương Dĩnh (1963), Một số kinh nghiệm giảng dạy văn học ở phổ
thông, Nxb Giáo dục, Hà Hội.
9. Hồ Ngọc ðại (1983), Tâm lí học ñại cương, Nxb Giáo dục.
122
10. Trần Thanh ðạm (1971), Vấn ñề dạy học tác phẩm văn chương – văn
học theo loại thể, Nxb Giáo dục, Hà Hội.
11. Hà Minh ðức (1971), Nhà văn và tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội.
12. Hà Minh ðức (1995), Lý luận dạy học, Nxb Giáo dục.
13. Dương Quảng Hàm (1943), Việt Nam văn học sử yếu, Hà Nội.
14. Lê Bá Hán, Trần ðình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên, 1992), Từ
ñiển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường Viết
Văn Nguyễn Du, Hà Nội.
16. ðỗ ðức Hiểu (1993), ðổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học Xã
hội và Nxb Mũi Cà Mau.
17. Nguyễn Trọng Hoàn (2003), Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học
tác phẩm văn chương, Nxb Giáo dục.
18. ðỗ Kim Hồi (1997), Nghĩ từ công việc dạy văn, Nxb Giáo dục.
19. Nguyễn Thanh Hùng (2005), Hiểu văn dạy văn, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
20. Phạm Ngọc Lan (2006), “Tự truyện và sự thể hiện cái tôi cá nhân
trong văn học Việt Nam hiện ñại”, Niên giám Văn học, Hội
Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP HCM, Nxb Văn hoá Sài
Gòn.
21. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc ñổi mới, Nxb Hội Nhà Văn,
Hà Nội.
22. Phan Trọng Luận (1962), Mấy vấn ñề giảng dạy văn học sử, Nxb
Giáo dục.
123
23. Phan Trọng Luận (viết chung, 1963), Giảng dạy văn học sử, Nxb
Giáo dục.
24. Phan Trọng Luận (1977), Phân tích tác phẩm văn học trong nhà
trường, Nxb Giáo dục.
25. Phan Trọng Luận (1978), Con ñường nâng cao hiệu quả giờ dạy văn,
Nxb Giáo dục.
26. Phan Trọng Luận (1983), Cảm thụ văn học, Nxb Giáo dục.
27. Phan Trọng Luận (1999), ðổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở
trường trung học phổ thông, Nxb Giáo dục.
28. Phan Trọng Luận (Chủ biên, 1999), Phương pháp dạy học văn, Nxb
ðại học Quốc gia, Hà Nội.
29. Phan Trọng Luận (2002), Xã hội văn học nhà trường, Nxb ðại học
Quốc gia, Hà Nội.
30. Phan Trọng Luận (2002), Văn học giáo dục thế kỷ XXI, Nxb ðại học
Quốc gia, Hà Nội.
31. Phan Trọng Luận (2002), Văn học - Bạn ñọc sáng tạo, Nxb ðại học
Quốc gia, Hà Nội.
32. Phan Trọng Luận (Chủ biên, 2003), Phương pháp dạy học văn, Tập
2, Nxb ðại học Sư Phạm.
33. Phan Trọng Luận, Trần ðình Sử (ñồng Chủ biên, 2007), Tài liệu bồi
dưỡng giáo viên Ngữ văn 11, Nxb Giáo dục.
34. Phan Trọng Luận (Tổng Chủ biên, 2006), Sách giáo khoa, Sách giáo
viên Ngữ văn lớp 10, Bộ cơ bản, Tập 1,2, Nxb Giáo dục.
124
35. Phan Trọng Luận (Tổng Chủ biên, 2007), Sách giáo khoa, Sách giáo
viên Ngữ văn lớp 11, Bộ cơ bản, Tập 1,2, Nxb Giáo dục.
36. Phan Trọng Luận (Tổng Chủ biên, 2008), Sách giáo khoa, Sách giáo
viên Ngữ văn lớp 12, Bộ cơ bản, Tập 1,2, Nxb Giáo dục.
37. Phương Lựu (Chủ biên, 1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
38. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb
ðại học Sư Phạm.
39. Nguyễn ðăng Mạnh (1993), Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học
lớp 11, Nxb Giáo dục.
40. Nguyễn ðăng Mạnh (1994), Con ñường ñi vào thế giới nghệ thuật
của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
41. Mai Xuân Miên (2007), “Nghiên cứu lý luận và phương pháp dạy
học văn - Những thành tựu và hướng phát triển”, 30 năm nghiên
cứu và giảng dạy, Khoa Ngữ văn ðại học Quy Nhơn, Nxb Giáo
dục.
42. Trần Thanh Nam (2001), “Cách nhìn mới về những vấn ñề văn học
sử Việt Nam”, Văn học sử, những quan niệm mới - những tiếp
cận mới, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia,
Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội.
43. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tái
bản), Tập 1, 2,3, Nxb ðồng Tháp.
44. Phùng Quý Nhâm, Lâm Vinh (1994), Tiếp cận văn học, Trường ðại
học Sư Phạm TP HCM.
125
45. ðoàn Thị Kim Nhung, Hoàng Thị Minh Hảo (2007), Hệ thống câu
hỏi trắc nghiệm và tự luận Ngữ văn 11, Tập 2, Nxb ðại học
Quốc gia TP HCM.
46. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học Việt Nam, Văn học hiện ñại giao
lưu gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội.
47. V. A. Nhikônxki (1978), Phương pháp dạy học văn ở nhà trường
phổ thông, (Ngọc Toàn, Bùi Lê dịch), Nxb Giáo dục.
48. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện ñại, Tập 1, 2, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
49. Nguyễn Ngọc Quang (1989), Lý luận dạy học ñại cương, Tập 2,
Trường Cán Bộ Quản Lí Giáo Dục Trung Ương 1.
50. Nguyễn Huy Quát, Hoàng Hữu Bội (2001), Một số vấn ñề về phương
pháp dạy học văn trong nhà trường, Nxb Giáo dục.
51. Z. Ia. Rez (chủ biên, 1983), Phương pháp luận dạy học văn học,
(Phan Thiều dịch), Nxb Giáo dục.
52. Lê Văn Siêu (2006), Văn học sử Việt Nam, Nxb Văn học.
53. Trần ðình Sử (1993), Một số vấn ñề thi pháp học hiện ñại, Bộ Giáo
Dục và ðào Tạo, Vụ Giáo viên, Hà Nội.
54. Hoài Thanh – Hoài Chân (1988), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học.
55. Nguyễn Thành Thi (2004), Kiểm tra và ñánh giá thành quả học tập
(môn Văn) của học sinh bằng trắc nghiệm khách quan, Trường
ðại học Sư Phạm TP HCM.
126
56. Nguyễn Thành Thi (2006), Dạy học tác giả - tác phẩm văn học Việt
Nam hiện ñại (1930 – 1945) ở trường ðHSP và THPT (ðề tài
Khoa học cấp Bộ), Trường ðại học Sư Phạm TP HCM.
57. ðỗ Lai Thuý (1992), Con mắt thơ, Nxb Lao ñộng, Hà Nội.
58. ðỗ Lai Thuý (2004), Sự ñỏng ñảnh của phương pháp, Nxb Văn hoá
Thông tin, Tạp chí Văn nghệ, Hà Nội.
59. ðỗ Ngọc Thống, Tài liệu chuyên ñề : ðọc - hiểu văn bản Ngữ văn ở
trường THPT, Lưu hành nội bộ, 2007.
60. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, TP HCM.
61. Trịnh Xuân Vũ (1995), Văn chương và phương pháp giảng dạy văn
chương, ðại học Sư Phạm.
62. L. X. Vygótxki (1981), Tâm lí học nghệ thuật, Nxb Khoa học Xã hội.
63. Lê Trí Viễn (1987), ðặc ñiểm lịch sử văn học Việt Nam, Nxb ðH &
THCN, Hà Nội.
64. Lê Trí Viễn (1998), Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam,
Nxb Giáo dục.
65. Tạp chí và báo :
- Nghiên cứu văn học (số 4/2005, ...)
- Tạp chí văn học (số 1/1997, 2/1997, số 9/2003…)
- Khoa học giáo dục (số 28/2008,…)
127
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC I
ðỀ KIỂM TRA DÀNH CHO HỌC SINH
(Về kiến thức sau tiết học văn bản Hầu Trời)
Thời gian làm bài : 60 phút
II. Phần trắc nghiệm (3 ñiểm) :
ðọc các câu hỏi, trả lời bằng cách ñánh dấu (x) vào trước chữ cái
ñúng nhất cho mỗi câu hỏi.
1. Bài thơ Hầu Trời in trong tập ?
A. Khối tình con I (1916) C. Còn chơi (1917)
B. Khối tình con II (1918) D. Thơ Tản ðà (1925)
2. Bài Hầu Trời của Tản ðà sử dụng yếu tố gì nhiều nhất ?
A. Nghị luận C. Miêu tả
B. Tự sự D. Thuyết Minh
3. Cảm hứng chủ ñạo của bài thơ Hầu Trời là :
A. Cảm hứng lãng mạn C. Cảm hứng lãng mạn và hiện
thực
B. Cảm hứng hiện thực D. Chưa thể hiện rõ
4. Biểu hiện cái tôi cá nhân trong thơ văn Tản ðà là cái tôi của :
128
A. Giai cấp tiểu tư sản C. Nhà nho tài tử
B. Giai cấp tư sản D. Tầng lớp trí thức Tây học
5. Về mặt nghệ thuật, bài thơ Hầu Trời có gì mới và hay ?
A. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên, gần với ñời sống
B. Thể thơ khá tự do, không bị ràng buộc vào khuôn mẫu
C. Cảm xúc bộc lộ tự nhiên, thoải mái, phóng túng
D. Tất cả 3 ý trên
6. Bài thơ Hầu Trời là tác phẩm tiêu biểu cho giai ñoạn nào của văn
học Việt Nam từ ñấu thế kỷ XX ñến Cách mạng tháng Tám 1945?
A. Giai ñoạn I C. Giai ñoạn III
B. Giai ñoạn II D. Cả 3 giai ñoạn
7. Tản ðà viết và thành công ở nhiều thể loại, nhưng làm nên một
Tản ðà nổi tiếng trước hết là thể :
A. Truyện C. Truyện thơ
B. Thơ D. Thơ văn xuôi
8. Các thể loại văn học ñược nhắc ñến trong bài Hầu Trời ?
A. Văn vần, văn xuôi, văn thuyết lí, văn tuyên truyền
B. Văn vần, văn thuyết lí, văn xuôi, hát nói
C. Văn vần, văn xuôi, văn thuyết lí, văn chơi
D. Văn xuôi, văn vần, hát nói, văn chơi
129
9. Qua những lời kể trong bài Hầu Trời, có thể thấy ñược ñiều gì về
tính cách và tâm hồn thi sĩ ?
A. Tản ðà ý thức ñược về tài năng của mình, và cũng là người táo
bạo dám ñường hoàng bộc lộ bản ngã cái tôi ñó.
B. Tản ðà là người rất ngông khi tìm ñến tận Trời ñể khẳng ñịnh
tài năng của mình trước Ngọc Hoàng Thượng ñế và chư tiên.
C. Giữa chốn văn chương hạ giới rẻ như bèo, thân phận nhà văn
nhà thơ bị rẻ rúng, khinh bỉ, phải lên tận cõi Trời mới có thể thỏa
nguyện.
D. Cả 3 lựa chọn trên.
10. Bài thơ Hầu Trời của Tản ðà thể hiện rõ nhất ñiều gì ?
A. Kể lại cuộc gặp gỡ và chia tay ñầy xúc ñộng giữa nhân vật trữ
tình với Trời và chư tiên.
B. Nỗi buồn cá nhân trước sự thay ñổi thời cuộc, phải tìm ñến cái
hư vô.
C. Thể hiện cái tôi phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị ñích
thực của mình và khao khát ñược khẳng ñịnh mình giữa cuộc ñời.
D. Trần tình với Trời về tình cảnh khốn khó của giới văn sĩ và thực
hành thiên lương ở hạ giới.
11. ðế khuyết trong câu Thiên môn ñế khuyết có nghĩa là gì ?
A. Lầu canh cửa ở cung vua hoặc cung trời
B. Cung vua còn khuyết
C. Cửa trời
130
D. Tên gọi của một dải sao trên trời
12. Câu nào dưới ñây chưa ñúng khi nhận xét về thi sĩ Tản ðà ?
A. Là người của hai thế kỷ
B. Là người thứ nhất có can ñảm làm thi sĩ
C. Là người sống trong buổi giao thời
D. Là người chịu khép mình trong khuôn phép nho gia
III. Phần tự luận (7 ñiểm)
Em hiểu gì về cái ngông của thi sĩ Tản ðà ñược thể hiện trong
bài thơ Hầu Trời.
131
PHỤ LỤC II
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN GIÁO VIÊN
(Về việc vận dụng kiến thức văn học sử trong quá trình giảng dạy
văn bản văn học ở trường phổ thông)
Họ và tên GV :…………………………………………….
Dạy lớp : ……… Trường :……………………………….
Xin quý thầy cô vui lòng trả lời các câu hỏi dưới ñây bằng cách
ñánh dấu (x) vào câu trả lời mà thầy cô cho phù hợp nhất.
1. Thầy cô có quan tâm ñến kiến thức văn học sử trong quá trình giảng dạy văn bản
văn học ở trường phổ thông ?
Có Không
2. ðể có một giờ dạy ñạt hiệu quả, theo thầy cô yếu tố nào ñóng vai trò quyết ñịnh
nhất ?
Kiến thức bài học ñảm bảo và mở rộng
Lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp
Sự hứng thú, lòng nhiệt tình của giáo viên
Sự tham gia tích cực của học sinh
3. Trong quá trình giảng dạy các văn bản văn học, thầy cô thường quan tâm khai
thác các kiến thức nào ?
Kiến thức văn học sử
132
Kiến thức lí luận văn học
Kến thức khác
Kết hợp tất cả các kiến thức
4. Theo thầy cô việc khai thác các kiến thhức văn học sử trong quá trình giảng dạy
ñọc - hiểu các văn bản văn học cụ thể có nhất thiết phải quan tâm ?
Có Không
5. Thầy cô thường gặp phải những khó khăn gì trong quá trình vận dụng các kiến
thức văn học sử vào việc ñọc – hiểu các văn bản văn học ?
Thời gian dạy trên lớp hạn chế
Kiến thức bài học quá nhiều
GV lúng túng trong việc ñịnh hướng cho HS
Học sinh học yếu, chậm tiếp thu
6. Thầy cô có cho rằng phương pháp khai thác các kiến thức văn học sử trong ñọc –
hiểu văn bản văn học có vai trò tích cực trong việc củng cố, khắc sâu các kiến
thức văn học sử ñã học ?
Có Không
7. Trước khi giảng dạy một văn bản văn học, thầy cô có chú ý ñến việc khai thác và
mở rộng các kiến thức văn học sử ?
Có Không
133
8. Trước khi giảng dạy một văn bản văn học, thầy cô có yêu cầu học sinh chuẩn bị
bài ở nhà (ngoài những câu hỏi trong sách giáo khoa) hay không ?
Có Không
134
KẾT QUẢ PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN GIÁO VIÊN
Số lượng phiếu : 100
STT Nội dung thăm dò Kết quả trả lời SL %
Thầy cô có quan tâm ñến Có 82 82
kiến thức văn học sử trong 1 quá trình giảng dạy văn bản
18 18 văn học ở trường phổ thông
? Không
Kiến thức bài học ñảm bảo và 23 23
mở rộng ðể có một giờ dạy ñạt hiệu
quả, theo thầy cô yếu tố nào Lựa chọn phương pháp giảng 46 46 2 ñóng vai trò quyết ñịnh nhất dạy phù hợp
? Sự hứng thú, lòng nhiệt tình của 18 18
giáo viên
Sự tham gia tích cực của học 13 13
sinh
Trong quá trình giảng dạy Kiến thức văn học sử 4 4
các văn bản văn học, thầy
cô thường quan tâm khai Kiến thức lí luận văn học 3 3
3 thác các kiến thức nào ? Kiến thức văn học nước ngoài 0 0
Kết hợp tất cả các kiến thức 93 93
135
Theo thầy cô việc khai thác Có 78 78
các kiến thức văn học sử 4 trong quá trình giảng dạy
ñọc - hiểu các văn bản văn Không 22 22 học ở trường phổ thông có
nhất thiết phải quan tâm ?
Thầy cô thường gặp phải Thời gian dạy trên lớp hạn chế 45 45
những khó khăn gì trong 5 Kiến thức bài học quá nhiều 38 38 quá trình vận dụng các kiến
thức văn học sử vào việc GV lúng túng trong việc ñịnh 7 7
ñọc – hiểu các văn bản văn hướng cho HS
học ? Học sinh học yếu, chậm tiếp thu 10 10
Thầy cô có cho rằng phương Có 96 96
pháp khai thác các kiến thức 6 văn học sử trong ñọc – hiểu
văn bản văn học có vai trò Không 4 4 tích cực trong việc củng cố,
khắc sâu các kiến thức văn
học sử ñã học ?
Trước khi giảng dạy một Có 87 87
văn bản văn học, thầy cô có 7 chú ý ñến việc khai thác và Không 13 13
mở rộng các kiến thức văn
học sử ?
136
Trước khi giảng dạy một Có 98 98
văn bản văn học, thầy cô có 8 yêu cầu học sinh chuẩn bị
bài ở nhà (ngoài những câu
Không 2 2 hỏi trong sách giáo khoa)
hay không ?
137
PHỤ LỤC III
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HỌC SINH
(Về việc vận dụng kiến thức văn học sử trong quá trình ñọc –
hiểu văn bản văn học ở trường phổ thông)
Họ và tên HS :…………………………………………….
Học lớp : ……… Trường :……………………………….
Các em (HS) vui lòng trả lời những câu hỏi dưới ñây bằng cách
ñánh dấu x vào câu trả lời mà mình thấy phù hợp nhất.
1 – Các em có quan tâm, ñể ý ñến các kiến thức văn học sử trong quá
trình ñọc – hiểu văn bản văn học ở trường phổ thông ?
Có Không
2 – Các em thường gặp phải những khó khăn gì trong quá trình tìm
hiểu và vận dụng các kiến thức văn học sử vào việc ñọc – hiểu các văn bản
văn học ở trường phổ thông ?
Kiến thức bài học quá nhiều
Chưa biết cách tìm hiểu, vận dụng
Giáo viên chưa nhiệt tình
Thời gian học trên lớp có giới hạn
3 – Trước khi học một văn bản, các em có ñọc bài, chuẩn bị bài theo
yêu cầu, hướng dẫn của giáo viên hay không ?
Có Không
138
4 – Trong quá trình ñọc – hiểu văn bản văn học nói chung, các em
cảm thấy khó tiếp thu kiến thức nào nhất?
Kiến thức lí luận văn học
Kiến thức văn học sử
Kiến thức văn học nước ngoài
Tất cả ba kiến thức trên
5 – Các em nắm ñược khoảng bao nhiêu phần trăm về kiến thức văn
học sử ñã học ở trường phổ thông ?
Khoảng trên ñưới 30%
Khoảng trên ñưới 50%
Khoảng trên ñưới 70%
Khoảng trên ñưới 90%
6 – Các em có cho rằng kiến thức văn học sử ở trường phổ thông có
vai trò tích cực, góp phần rèn luyện và giáo dục ñạo ñức nhân cách ở học
sinh ?
Có Không
7 – Những khó khăn thường gặp khi vận dụng khai thác các kiến thức
văn học sử trong ñọc – hiểu các văn bản văn học cụ thể :
Khó phát hiện ra các kiến thức văn học sử cần khai thác
Khó tìm dẫn chứng ñể so sánh, liên hệ và mở rộng
Khó xây dựng thành hệ thống khoa học
Tất cả ba ý trên
139
KẾT QUẢ PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HỌC SINH
Số lượng phiếu : 100
STT Nội dung thăm dò Kết quả trả lời SL %
Các em có quan tâm, ñể ý Có 44 44
ñến các kiến thức văn học 1 sử trong quá trình ñọc –
hiểu văn bản văn học ở Không 56 56 trường phổ thông ?
Các em thường gặp phải Kiến thức bài học quá nhiều 20 20
những khó khăn gì trong 2 Chưa biết cách tìm hiểu, vận 63 63 quá trình tìm hiểu và vận dụng dụng các kiến thức văn học
Giáo viên chưa nhiệt tình 5 5 sử vào việc ñọc – hiểu các
văn bản văn học ở trường Thời gian học trên lớp có giới 12 12 phổ thông ? hạn
Trước khi học một văn bản, Có 61 61
các em có ñọc bài, chuẩn bị 3 bài theo yêu cầu, hướng dẫn Không 39 39
của giáo viên hay không ?
Trong quá trình ñọc – hiểu Kiến thức lí luận văn học 21 21
văn bản văn học nói chung, 4 Kiến thức văn học sử 15 15 các em cảm thấy khó tiếp
Kiến thức văn học nước ngoài 12 12
140
thu kiến thức nào nhất? Tất cả ba kiến thức trên 52 52
Các em nắm ñược khoảng Khoảng trên ñưới 30% 50 50
bao nhiêu phần trăm về kiến 5 Khoảng trên ñưới 50% 32 32 thức văn học sử ñã học ở
Khoảng trên ñưới 70% 14 14 trường phổ thông ?
Khoảng trên ñưới 90% 4 4
Các em có cho rằng kiến Có 87 87
thức văn học sử ở trường 6 phổ thông có vai trò tích Không 13 13 cực, góp phần rèn luyện và
giáo dục ñạo ñức nhân cách
ở học sinh?
Khó phát hiện ra các kiến thức Những khó khăn thường 7 7
gặp khi vận dụng khai thác văn học sử cần khai thác 7 các kiến thức văn học sử Khó tìm dẫn chứng ñể so sánh, 9 9 trong ñọc – hiểu các văn bản liên hệ và mở rộng văn học cụ thể :
Khó xây dựng thành hệ thống 6 6
khoa học
Tất cả ba ý trên 78 78