
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------------------------
NGUYỄN TIẾN HÙNG
ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG VÀ MỘT SỐ TÍNH CHẤT GỖ
CỦA CÁC LOÀI KEO VÙNG THẤP TẠI BA VÌ
Ở GIAI ĐOẠN 17 TUỔI
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. LÊ ĐÌNH KHẢ
Hà Nội - 2009

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Giống có vai trò rất quan trọng trong trồng rừng sản xuất. Sử dụng giống
được cải thiện kết hợp với các biện pháp lâm sinh đã làm tăng sản lượng và
chất lượng rừng trồng một cách đáng kể. Do vậy, muốn tăng năng suất và chất
lượng rừng trồng cũng như rút ngắn được chu kỳ kinh doanh thì việc chọn
giống theo các mục tiêu kinh tế luôn được đặt ra và đang được nhiều người
quan tâm. Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang triển khai các chương
trình trồng rừng kinh tế, việc chọn giống cây rừng cho năng suất và chất
lượng cao, phù hợp với các vùng trồng ở Việt Nam, là rất cần thiết và có ý
nghĩa thực tiễn rất lớn.
Khảo nghiệm loài và xuất xứ là một trong những khâu đầu tiên trong bất
kỳ một chương trình cải thiện giống cây rừng. Đây là việc chọn ra các loài và
xuất xứ phù hợp với mục tiêu kinh tế hoặc các mục tiêu khác và có đặc điểm
sinh thái phù hợp với từng vùng gây trồng cụ thể. Ngày nay, việc khảo nghiệm
xuất xứ đối với một loài cây có khả năng phân bố rộng (thông, bạch đàn và keo
acacia, vv.) đã mang tính quốc tế và được nhiều nước tham gia. Ở Việt Nam,
khảo nghiệm xuất xứ đã được các nhà khoa học người pháp năm 1930 nhập và
trồng thử một số loài thông và bạch đàn. Năm 1960 một số loài keo acacia đã
được trồng thử ở các tỉnh phía Nam. Đây là nhóm cây trồng có khả năng thích
ứng cao với các điều kiện lập địa từ đất đồng bằng giàu dinh dưỡng đến đất
trống, đồi núi trọc nghèo dinh dưỡng lẫn vùng cát khô hạn ven biển. Đây cũng là
là nhóm cây mà 98% số cây rễ có nốt sần có khả năng cố định đạm khí quyển,
nên có khả năng cải tạo đất cao và được dùng cho trồng rừng cải tạo đất, chống
sa mạc hóa, bảo vệ môi trường và phòng hộ đầu nguồn. Gỗ keo acacia được sử
dụng vào nhiều mục đích như nguyên liệu sản xuất bột giấy, ván dăm, gỗ dán,
gỗ ép, cũng như được dùng để sản xuất đồ mộc, ván sàn, dùng trong xây dựng và
làm củi đun, v.v

2
Nắm bắt được giá trị của các loài keo này từ năm 1990, Trung tâm
Nghiên cứu giống cây rừng đã tiến hành xây dựng một khu khảo nghiệm loài
và xuất xứ gồm các loài keo là Keo tai tượng (A. mangium), Keo lá tràm (A.
auriculiformis), Keo lá liềm (A. crassicarpa), Keo nâu (A. aulacocarpa) và
Keo quả xoắn (A. cincinnata) với 39 xuất xứ tại Ba Vì, Hà Nội. Khu khảo
nghiệm này được trồng năm 1990, đã được đánh giá các chỉ tiêu sinh trưởng ở
các giai đoạn 1 tuổi (Lê Đình Khả và Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1991), 4,5 tuổi
và 9 tuổi (Lê Đình Khả, và c.s, 2003)[10]. Tuy vậy, kết quả khảo nghiệm xuất
xứ chỉ có thể coi là chắc chắn khi cây đã đến tuổi phát triển ổn định, cung cấp
được sản phẩm vì thế đánh giá các chỉ tiêu sinh trưởng và chất lượng thân
cây, đặc biệt là khả năng chống mục ruột. Vì thế đánh giá ở giai đoạn 17 tuổi,
tuổi cao nhất được thực hiện đầu tiên ở nước ta, có ý nghĩa thiết thực trong
kinh doanh rừng gỗ lớn.
Ngoài ra, Keo tai tượng là loài đang được nhiều người quan tâm đến hiện
tượng mục ruột, một nhược điểm lớn của gỗ làm ảnh hưởng lớn đến khả năng
sử dụng gỗ của loài cây này nên cũng được đi sâu đánh giá kỹ hơn.
Nhằm mục đích đánh giá một cách tương đối toàn diện các loài và xuất
xứ keo acacia ở giai đoạn tuổi cao, góp phần định hướng kinh doanh rừng gỗ
lớn ở các tỉnh phía Bắc, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Đánh giá sinh
trưởng và một số tính chất gỗ của các loài keo vùng thấp tại Ba Vì ở giai
đoạn 17 tuổi”, trong đó có đi sâu đánh giá tỷ trọng gỗ và bệnh mục ruột của
Keo tai tượng.

3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm chung về vấn đề nghiên cứu
Bước đầu tiên trong bất kỳ một chương trình cải thiện giống cây rừng là
chọn loài và xuất xứ phù hợp với mục tiêu kinh tế và/hoặc phòng hộ được đặt
ra và có đặc điểm sinh thái phù hợp với từng vùng gây trồng cụ thể, để chọn
loài cây và xuất xứ phù hợp với từng vùng một cách chắc chắn phải tiến hành
một loạt các khảo nghiệm loài và xuất xứ (Lê Đình Khả, 2006)[11].
Khảo nghiệm loài là sự tập hợp các nguồn hạt của một số loài cây nhất
định theo mục tiêu kinh tế được đặt ra và xây dựng các khu khảo nghiệm so
sánh giống ở một số vùng sinh thái chính nhằm chọn ra một hoặc một số loài
cây thích hợp nhất cho mỗi vùng. Khảo nghiệm xuất xứ là bước tiếp sau khảo
nghiệm loài, là sự tập hợp nguồn hạt của những xuất xứ thuộc các vùng sinh
thái khác nhau trong những loài đã được xác định, xây dựng khảo nghiệm so
sánh giống nhằm tìm ra một hoặc một số xuất xứ tốt nhất, có tỷ lệ tồn tại lớn,
năng suất và chất lượng cao theo mục tiêu kinh tế và có khả năng phòng
chống sâu bệnh cũng như các điều kiện bất lợi khác. Trong một số trường
hợp, khi nhà chọn giống biết được một cách tương đối đầy đủ các thông tin
cần thiết về loài cây định chọn lọc, nghĩa là biết được khả năng cung cấp sản
phẩm kinh tế, vùng phân bố của loài, các yêu cầu sinh thái và khả năng chống
chịu của loài với các điều kiện bất lợi, thì việc khảo nghiệm loài được kết hợp
với khảo nghiệm xuất xứ trong cùng một lần và trên cùng một số địa điểm
nhất định. Những khảo nghiệm này được gọi là khảo nghiệm loài - xuất xứ.
Đây là phương thức khảo nghiệm rút ngắn được thời gian đi từ nghiên cứu
đến sản xuất và đang được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới.
Chỉ thông qua khảo nghiệm loài và xuất xứ nhà chọn giống mới biết
được một cách chắc chắn (mà không phải suy đoán) xuất xứ (nguồn giống)

4
thích hợp nhất để sử dụng cho một chương trình trồng rừng trên một vùng
sinh thái nhất định, đặc biệt là khi đưa cây từ nơi khác đến. Nhờ chọn lọc tự
nhiên trong một quá trình lâu dài mà cây rừng đã hình thành tính thích ứng
với các điều kiện địa lý - sinh thái nhất định, hình thành những biến dị di
truyền hết sức phong phú cả về hình thái, tập tính sinh trưởng và khả năng
chịu đựng. Loài có phạm vi phân bố càng rộng thì càng có nhiều biến dị di
truyền và do đó càng có nhiều khả năng để lựa chọn những biến dị di truyền
phù hợp với mục tiêu chọn giống ở từng khu vực. Khảo nghiệm loài và xuất
xứ chính là sự lợi dụng các biến dị di truyền có sẵn trong thiên nhiên một
cách có cơ sở khoa học, thông qua thực nghiệm gây trồng trong những điều
kiện mới. Đây là phương pháp chọn giống nhanh nhất và rẻ nhất. Chính vì thế
mà Zobel và Talbert, (1984)[54] đã cho rằng “bất luận kỹ thuật chọn giống
tinh vi như thế nào, tăng thu lớn nhất, nhanh nhất và rẻ nhất trong các chương
trình cải thiện giống cây rừng là sự bảo đảm sử dụng nguồn hạt thích hợp nhất
cho trồng rừng, đặc biệt là khi gây trồng cây ngoại lai”, “sử dụng xuất xứ
thích hợp là chìa khóa cho sự thành công của một chương trình trồng rừng cây
ngoại lai”.
Ở Việt Nam có hơn 15 loài keo acacia bản địa phân bố tại nhiều vùng
trong cả nước, song hầu hết đều ở dạng cây bụi hoặc dây leo, ít giá trị kinh tế,
nên việc nhập nội một số loài keo có giá trị kinh tế, sinh trưởng nhanh để
trồng khảo nghiệm nhằm chọn được loài và xuất xứ thích hợp với một số
vùng sinh thái chính của nước ta là hết sức cần thiết.
1.2. Khái quát chung về năm loài keo được khảo nghiệm
Các loài keo acacia, đặc biệt là các loài keo vùng thấp, là những loài có
diện tích trồng rừng lớn nhất ở nước ta. Có gần 40% diện tích trồng rừng ở
vùng đồi thấp hiện nay là Keo tai tượng và Keo lá tràm (Lê Đình Khả, và c.s,
2003)[10]. Trong khoảng 2 thập niên qua các loài keo vùng thấp được trồng

