Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế trạng trại tỉnh Đồng Nai
lượt xem 6
download
Mục đích nghiên cứu của Luận văn này nhằm đề xuất một số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế trạng trại tỉnh Đồng Nai
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - - PHÙNG ANH ĐỨC PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2015
- BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - - PHÙNG ANH ĐỨC PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở TỈNH ĐỒNG NAI CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHẠM VĂN SƠN HÀ NỘI - 2015
- 2 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Chính trị quốc gia CTQG Hà Nội HN Nhà xuất bản NXB Uỷ ban nhân dân UBND Kinh tế trang trại KTTT
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TỈNH ĐỒNG NAI 10 1.1. Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế trang trại tỉnh Đồng Nai 10 1.2. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Đồng Nai trong những năm qua 31 Chương 2 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TỈNH ĐỒNG NAI TRONG THỜI GIAN TỚI 57 2.1. Những quan điểm cơ bản phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới 57 2.2. Một số giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Đồng Nai trong những năm tới 66 KẾT LUẬN 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83 PHỤ LỤC 87
- 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trang trại - một loại hình sản xuất nông nghiệp xuất hiện sớm trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới. Ở Việt Nam, kinh tế trang trại cũng được hình thành và trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nhưng kinh tế trang trại chỉ thật sự trở thành loại hình sản xuất chủ chốt và có vị trí quan trọng trong nền nông nghiệp Việt Nam, nhất là từ khi Đảng ta chủ trương thực hiện đường lối đổi mới đất nước. Kinh tế trang trại có vai trò rất quan trọng trong khai thác có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền vững; đồng thời tạo thêm việc làm tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo; phân công lại lao động ở nông thôn, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Thực tế đó khẳng định tính ưu việt vượt trội của kinh tế trang trại - một hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh chủ yếu của nền nông nghiệp hàng hóa nước ta. Tỉnh Đồng Nai một trong các tỉnh thuộc vùng miền Đông Nam bộ. Về địa giới, Đồng Nai giáp tỉnh Bình Thuận ở phía đông, Lâm Đồng về phía Đông bắc; phía Tây bắc giáp Bình Phước, tây giáp Bình Dương, Tây nam giáp thành phố Hồ Chí Minh và phía Nam giáp Bà Rịa-Vũng Tàu. Là địa bàn cửa ngõ phía Bắc của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, do đó Đồng Nai có lợi thế để mở rộng giao lưu hợp tác và phát triển với các tỉnh trong khu vực và cả nước. Đồng Nai là địa phương có nhiều thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp và kinh tế trang trại của Tỉnh, nhất là khu vực nông thôn, với nguồn lao động dồi dào và có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Tỉnh Uỷ, UBND tỉnh đã có nhiều chủ trương, chính sách thiết thực tạo môi trường thuận lợi cho phát triển KTTT ở Tỉnh.
- 4 Tuy nhiên, trong thời gian qua kinh tế trang trại tỉnh Đồng Nai phát triển còn mang tính tự phát, chưa bền vững, những kết quả đạt được trong phát triển KTTT chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Điều này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế trang trại đến việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn làm căn cứ cho việc xác định và triển khai các giải pháp phát triển kinh tế trang trại của tỉnh Đồng Nai cũng còn tồn tại những hạn chế, bất cập. Bởi vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, luận giải làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về phát triển kinh tế trang trại làm căn cứ để xác định các quan điểm và giải pháp phù hợp, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Đồng Nai đáp ứng yêu cầu đặt ra là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Với lý do đó, tác giải lựa chọn vấn đề “Phát triển kinh tế trạng trại tỉnh Đồng Nai” làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Kinh tế trang trại và phát triển kinh tế trang trại có ý nghĩa quan trọng trong góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước nói chung, phát triển nông nghiệp nói riêng theo hướng sản xuất hàng hóa. Bởi vậy, đã có nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu đề cập đến kinh tế trang trại và phát triển kinh tế trang trại ở các khía cạnh khác nhau. Trong đó, đáng chú ý một số tài liệu, công trình tiêu biểu sau: Trước hết phải kể đến các công trình nghiên cứu chung về nông nghiệp – nông dân – nông thôn Việt Nam từ thời kỳ đổi mới, bao gồm: Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 - 2002) của tác giải Nguyễn Sinh Cúc; Về chính sách đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay của tác Trần Thị Minh Châu, xuất bản năm 2007; Nông dân làm giàu của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, xuất bản năm 2010; Chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp ở nước ta hiện nay của tác giả Đoàn Xuân Thủy, xuất bản
- 5 năm 2011; Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011 – 2020 của tác giả Nguyễn Thị Tố Quyên xuất bản năm 2012... Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, phân tích các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, khảo sát đánh giá thực trạng bằng phương pháp khoa học kết hợp định lượng và định tính, các tác giả đã luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó có kinh tế trang trại, từ đó đề ra những định hướng và giải pháp cho phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung, kinh tế trang trại ở Việt Nam nói riêng. Tiếp đến là các công trình nghiên cứu có tính chất chuyên khảo về kinh tế trang trại và phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam như: Tư liệu về kinh tế trang trại do Trần Văn Các chủ biên, năm 2000. Đây được coi là tác phẩm chuyên khảo đầu tiên đề cập một cách tương đối hoàn chỉnh về kinh tế trang trại Việt Nam. Tác phẩm được trình bày dưới dạng kỷ yếu, trong đó tổng hợp có hệ thống các chủ trương, chính sách định hướng của Đảng, Nhà nước qua 141 bài nghiên cứu, báo cáo của các nhà nghiên cứu và quản lý kinh tế về phát triển kinh tế trang trại ở nước ta. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Đình Hương, Nxb CTQG, Hà Nội. 2000. Trong đó, tác giả đã phân tích và đánh giá những thành tựu, hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam dưới góc độ kinh tế ngành, đồng thời đưa ra những giải pháp mang tầm vĩ mô nhằm chỉ đạo phát triển kinh tế trang trại nước ta trong thời gian tới. Làm giàu bằng kinh tế trang trại – mô hình kinh tế trang trại trẻ của Trần Kiên và Phúc Kỳ, Nxb Thanh niên, năm 200l. Trong công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã đưa ra quan điểm riêng về kinh tế trang trại cùng con đường, cách thức, biện pháp để làm giàu bằng kinh tế trang trại và phát triển kinh tế trang trại trong tình hình mới.
- 6 Kinh tế trang trại với xóa đói giảm nghèo của tác giả Ngô Đức Cát, ấn hành năm 2004. Thông qua khảo sát thực trạng, quy mô của kinh tế trang trại và tìm hiểu các nguyên nhân khách quan về kinh tế - xã hội, năng lực và điều kiện chủ quan của các hộ nông dân, tác giả đã phân tích mối quan hệ qua lại giữa tình trạng đói nghèo với sự phát triển kinh tế trang trại và đi đến khẳng định: vai trò của kinh tế trang trại không chỉ tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn mà còn có vai trò quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Kinh tế trang trại ở Việt Nam phân tích từ góc độ địa lý kinh tế và sinh thái, năm 2009 của tác giả Nguyễn Viết Thịnh. Với phương pháp tiếp cận mới, phân tích sự phát triển kinh tế trang trại trên cơ sở so sánh với nguồn lực về đất đai, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, sinh thái của Việt Nam, tác giả đã đưa ra những số liệu, luận chứng về thành tựu và những tồn tại trong phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam. Từ đó, tác giả đề xuất một giải pháp một số chính sách, giải pháp về kinh tế - xã hội nhằm thúc đẩy loại hình kinh tế này phát triển bền vững. Bên cạnh đó, do sản xuất nông nghiệp nói chung, kinh tế trang trại nói riêng ở mỗi vùng, tiểu vùng, các địa phương có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội, nên cũng có những đặc điểm riêng biệt. Vì vậy, ngoài các công trình với không gian nghiên cứu chung trên phạm vi cả nước, còn có các đề tài, bài viết nghiên cứu về kinh tế trang trại và phát triển kinh tế trang trại trong phạm vi vùng hoặc địa phương, như: Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ Kinh tế trang trại miền Đông Nam bộ - thực trang và xu hướng phát triển đến năm 2005 của Phân viện Thành phố Hồ Chí Minh – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh công bố năm 1999. Kỷ yếu tập hợp 16 bài viết của các học giả trong nước liên quan đến vấn đề lý luận, quá trình hình thành và thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở miền Đông Nam bộ. Trên cơ sở đánh giá các nguyên nhân khách quan, chủ quan,
- 7 những yếu tố tác động về kinh tế - xã hội, các tác giả đề cập xu hướng phát triển kinh tế trang trại ở miền Đông Nam bộ trong giai đoạn 2000-2005. Đáng lưu ý, với ý nghĩa khoa học và thời sự của kinh tế trang trại nên đã có khá nhiều luận văn, khóa luận tốt nghiệp các chuyên ngành kinh tế chính trị, kinh tế nông nghiệp, địa lý học, lịch sử,… chọn phát triển kinh tế trang trại của một địa phương làm đề tài nghiên cứu. Trong đó, phải kể đến số lượng đáng kể các luận văn nghiên cứu về thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trạng trên địa bàn các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn, Gia Lai, Bình Thuận, Hưng Yên,…Trong đó, nghiên cứu về kinh tế trang trại Đồng Nai có: Ngô Thị Bích Thuận Phân tích kinh tế trang trại tỉnh Đồng Nai từ góc độ địa lý kinh tế - xã hội, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Địa lý học, năm 2010. Trong luận văn, cùng với việc phân tích thực trạng trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu của ngành Địa lý học, tác giả đã đánh giá các nhân tố (chủ yếu là các nhân tố kinh tế - xã hội liên quan đến đất đai, điều kiện tự nhiên) tác động đến hiệu quả sản xuất của một số loại hình trang trại chủ yếu tại tỉnh Đồng Nai. Qua đó, đề xuất một số kiến nghị trong việc hoạch định các chính sách nhằm phát huy tốt các nguồn lực về địa lý, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại ở Đồng Nai. Ngoài ra, còn một số bài báo viết về sự phát triển, kết quả kinh doanh, những khó khăn vướng mắc trong hoạt động sản xuất của các loại hình trang trại trồng cây ăn quả, trang trại chăn nuôi… ở Đồng Nai, tiêu biểu như: Đồng Nai - kinh tế trang trại đang khởi sắc của Trung tâm tin học Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đăng trên báo Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp, số tháng 2 năm 2008; Vấn đề tích tụ đất làm trang trại của tác giả Nguyễn Thương trên Báo Đồng Nai năm 2008; Kinh tế trang trại: Mũi nhọn trong phát triển nông nghiệp ở Xuân Lộc (2014) trên trang web điện tử tỉnh Đồng Nai v.v…
- 8 Qua các thống kê trên cho thấy, các công trình nghiên cứu về kinh tế trang trại Việt Nam khá phong phú với các cấp độ và hướng tiếp cận khác nhau. Các công trình đã nêu ra và đều mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của kinh tế trang trại để tìm ra hướng đi, đề xuất những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc để phát huy vai trò của kinh tế trang trại trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của đất nước nói chung trên phạm vi từng địa phương nói riêng. Tuy nhiên, kinh tế trang trại ở Đồng Nai – một tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, giàu tiềm năng cho phát triển kinh tế trang trại và thực tế đã, đang là một trong những địa phương có sự phát triển mạnh của kinh tế trang trại, nhưng cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Đồng Nai dưới góc độ kinh tế chính trị. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích: Trên cơ sở luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn phát triển kinh tế trang trại, luận văn đề xuất một số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới. * Nhiệm vụ - Làm rõ quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại. - Phân tích, đánh giá đúng thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Đồng Nai thời gian qua. - Đề xuất một số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài * Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu phát triển kinh tế trang trại.
- 9 * Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Đồng Nai. Phạm vi khảo sát đánh giá thực trạng được thực hiện chủ yếu từ năm 2000 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài * Cơ sở lý luận Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế, trong đó có kinh tế nông nghiệp; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học về kinh tế trang trại và phát triển kinh tế trang trại là cơ sở lý luận của đề tài. * Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác – Lênin (trừu tượng hóa khoa học) và các phương pháp khác như: kết hợp lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa của đề tài Góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế trang trại nói chung, kinh tế trang trại ở tỉnh Đồng Nai nói riêng. Qua đó, góp phần cung cấp thêm cứ liệu khoa học có ý nghĩa tham khảo và khuyến nghị với Đảng bộ, chính quyền và các ban, ngành tỉnh Đồng Nai trong xác định chủ trương, chính sách và các giải pháp phát triển kinh tế trang trại . Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn kinh tế chính trị ở các trường đại học, cao đẳng. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn được kết cấu gồm: Mở đầu; 2 chương (4 tiết); kết luận; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
- 10 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TỈNH ĐỒNG NAI 1.1. Cơ sở lý luận về phát triển kinh tế trang trại tỉnh Đồng Nai 1.1.1. Quan niệm, vai trò và các loại hình kinh tế trang trại * Quan niệm về trang trại và kinh tế trang trại Quan niệm về trang trại Trang trại là thuật ngữ gắn liền với hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trên một diện tích đủ lớn với quy mô gia đình là chủ yếu để tạo ra sản phẩm hàng hoá cung cấp cho xã hội phù hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường. Trang trại ngày nay có nhiều mặt cùng tồn tại: Về mặt kinh tế, nói lên các hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm hàng hoá đem lại thu nhập cao và nhiều lợi nhuận; về mặt xã hội, trang trại là một tổ chức cơ sở của xã hội, quan hệ giữa các thành viên của hộ trang trại, giữa chủ trang trại và người làm thuê là đan xen nhau; về mặt môi trường, trang trại có mối quan hệ thể hiện trên nhiều mặt rất đa dạng và gắn bó chặt chẽ với nhau, đồng thời có tác động qua lại nhiều mặt, nhiều chiều của hệ kinh tế sinh thái - nhân văn trong vùng. Trên thực tế người ta thường chú ý về mặt kinh tế của trang trại nhiều hơn mặt xã hội và môi trường. Điều này cũng dễ hiểu vì kinh tế là nội dung cơ bản, là cốt lõi của trang trại. Từ những vấn đề trên có thể hiểu: Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông nghiệp (bao gồm cả nông, lâm, ngư nghiệp) mà tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập; sản xuất được tiến hành với quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất tập trung đủ lớn cùng phương thức tổ chức quản lý sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ để sản xuất ra các loại sản phẩm hàng hoá phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường.
- 11 Tuy nhiên, cần phải thấy rằng các hình thức tổ chức sản xuất tập trung trong nông nghiệp dựa trên sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể như các nông, lâm trường quốc doanh, các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp không thuộc khái niệm trang trại. Quan niệm về kinh tế trang trại Kinh tế trang trại, một hình thức tổ chức sản xuất đã xuất hiện từ thời phong kiến trong lịch sử phát triển của nhân loại, dưới dạng các điền trang, thái ấp ở châu Á hay lãnh địa của các lãnh chúa châu Âu. Do sự khác nhau về qui mô, hình thức tổ chức và tính chất sở hữu, quan niệm về kinh tế trang trại vẫn còn hạn chế, thậm chí tồn tại những cách hiểu đánh đồng kinh tế trang trại với kinh tế hộ; hay kinh tế trang trại là hình thực sản xuất đơn thuần trong lĩnh vực nông nghiệp. Quan niệm hạn chế về kinh tế trang trại biểu hiện cụ thể trong sử dụng các thuật ngữ “farm” (tiếng Anh), “ferme” (tiếng Pháp) hoặc “Oepma” (tiếng Nga),… để chỉ trang trại, với cách hiểu chung là cơ sở sản xuất nông nghiệp gắn với hộ gia đình nông dân. Từ các công trình nghiên cứu về kinh tế trang trại cho thấy, đây là loại hình sản xuất chuyển từ tự túc khép kín của hộ tiểu nông vươn lên sản xuất hàng hóa, tiếp cận với thị trường, từng bước thích nghi với kinh tế thị trường cạnh tranh; sự hình thành kinh tế trang trại gắn liền với quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp; mô hình kinh tế trang trại được coi là phù hợp và đạt hiệu quả cao trong sản xuất nông nghiệp. Vai trò của kinh tế trang trại được K. Marx nêu rõ qua trường hợp phát triển nông nghiệp của nước Anh. Ông cho rằng, sự phát triển thuận lợi của các hình thức sản xuất nông nghiệp ở nước Anh không phải là do các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các trang trại gia đình. Từ quan điểm đó, K. Marx khái quát đặc trưng của kinh tế trang trại: “người chủ trang trại sau mỗi vụ sản xuất bán toàn bộ sản phẩm làm ra và mua vào tất cả các vật tư cần thiết kể cả thóc giống”.[41, tr.9]
- 12 Qua quá trình thực tế, quan điểm về kinh tế trang trại được phát triển đầy đủ thêm ở các nước phát triển như Mỹ, Anh và một số nước châu Á (Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản,…). Họ quan niệm “trang trại là loại hình sản xuất nông – lâm - ngư nghiệp của hộ gia đình nông dân sau khi phá vỡ vỏ bọc sản xuất tự cấp, tự túc khép kín của hộ tiểu nông, vươn lên sản xuất nông sản hàng hóa, tiếp cận với thị trường, từng bước thích nghi với nền kinh tế cạnh tranh”[40, tr.9]. Ở Việt Nam, cũng đồng nhất với các quan niệm trên, các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều khái niệm về kinh tế trang trại. Theo tác giả Lê Trọng “kinh tế trang trại bao gồm kinh tế nông trại, lâm trại, ngư trại là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất nông nghiệp xã hội, bao gồm một số người lao động nhất định, được các chủ trang trại trang bị những tư liệu sản xuất nhất định để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với nền kinh tế thị trường có sự bảo hộ của Nhà nước” [12, tr.244]. Tác giả Trần Hữu Quan cho rằng “trang trại là hình thức sản xuất nông nghiệp dựa trên cơ sở lao động và đất đai của gia đình là chủ yếu có tư cách pháp nhân, tự chủ sản xuất kinh doanh và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, có chức năng là sản xuất nông sản hàng hóa, tạo ra nguồn thu nhập chính cho gia đình và đáp ứng nhu cầu cho xã hội” [12, tr.244]. Viện Kinh tế Nông nghiệp quan niệm “trang trại là một loại hình sản xuất nông nghiệp hàng hóa của hộ. Do một người làm chủ có khả năng đón nhận những cơ hội thuận lợi từ huy động thêm nguồn vốn và lao động, trang bị tư liệu sản xuất, lựa chọn công nghệ sản xuất thích hợp, tiến hành tổ chức sản xuất và dịch vụ những sản phẩm theo yêu cầu thị trường nhằm thu lợi nhuận cao” [14]. Như vậy, mặc dù diễn đạt có sự khác nhau, song nhìn chung quan niệm về kinh tế trang trại là khá đồng nhất về các đặc trưng cơ bản của loại hình kinh tế này. Các khái niệm đều xác định, kinh tế trang trại là một trong những hình
- 13 thức tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Kinh tế trang trại là một cấp độ trong quá trình phát triển của kinh tế hộ từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa nên về cơ bản dựa trên nền tảng kinh tế hộ nhưng khác hẳn về chất so với kinh tế hộ. Sự phát triển của kinh tế trang trại là hoạt động tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu bởi yếu tố đầu tư vốn, khoa học kĩ thuật công nghệ và năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, nhằm đáp ứng các yêu cầu của thị trường. Trên cơ sở các quan niệm và thực tế phát triển kinh tế trang trại ở nước ta, năm 2000, Chính phủ ban hành nghị quyết về kinh tế trang trại, đã thống nhất nhận thức: “kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản”[17]. Từ những nội dung trên có thể quan niệm: KTTT là một phạm trù kinh tế, chỉ một loại hình kinh tế hàng hóa trong nông, lâm, ngư nghiệp; phản ánh tổng hợp các mối quan hệ trong quá trình tổ chức lại sản xuất, phân công lại lao động của những hộ nông dân từ sản xuất tự cấp, tự túc, phân tán nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn; đó là quá trình khai thác, sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất để tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa đáp ứng nhu cầu thị trường nhằm cải thiện, nâng cao đời sống người nông dân. Từ nhận thức trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê đã đưa ra các tiêu chí để một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được xác định là trang trại: Một là, giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ bình quân từ 40 triệu đồng/năm đối với các tỉnh phía Bắc và duyên hải miền Trung) và từ 50 triệu đồng/năm với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên; Hai là, qui mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế. Cụ thể:
- 14 “Đối với trang trại trồng trọt: Trồng cây hàng năm có từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung; từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên. Trang trại trồng cây lâu năm: Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung; từ 5 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên. Trang trại trồng hồ tiêu từ 0,5 ha trở lên. Trang trại lâm nghiệp: Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước. Đối với trang trại chăn nuôi: Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò,... : Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên; chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên. Chăn nuôi gia súc: lợn, dê,…: Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với lợn 20 con trở lên, đối với dê, cừu từ 100 con trở lên; chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn sữa) dê thịt từ 200 con trở lên. Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng,... có thường xuyên từ 2000 con trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi). Trang trại nuôi trồng thuỷ sản: Diện tích mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản có từ 2 ha trở lên (riêng đối với nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên). Đối với các loại sản phẩm nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có tính chất đặc thù như: trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong, giống thuỷ sản và thuỷ hải sản, thì tiêu chí xác định là giá trị sản lượng hàng hóa (tiêu chí 1)” [8]. Đến năm 2011, nhằm phù hợp với sự phát triển của sản xuất kinh tế trang trại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có sự điều chỉnh tiêu chí kinh tế trang trại. Theo đó, đối với cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất tổng hợp phải đạt: thứ nhất, có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu là 3,1 ha đối với vùng Đông Nam bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long và 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại. Thứ hai, giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu
- 15 đồng/năm. Đối với cơ sở chăn nuôi phải đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ 1.000 triệu đồng/năm trở lên. Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp phải có diện tích tối thiểu 31 ha và giá trị sản lượng hàng hóa bình quân đạt 500 triệu đồng/năm trở lên. [9] Từ quan niệm cho thấy các đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại, gồm: Thứ nhất, trang trại là một trong hình thức tổ chức sản xuất cụ thể của nông, lâm nghiệp. Ngoài trang trại, trong nông nghiệp còn rất nhiều hình thức tổ chức sản xuất như hộ nông dân, các nông trường quốc doanh, các hợp tác xã nông nghiệp, các liên doanh sản xuất... Thứ hai, trang trại là đơn vị sản xuất hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp là chủ yếu (theo nghĩa rộng bao gồm cả lâm nghiệp và thuỷ sản), kết hợp với hoạt động chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Thứ ba, mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu của xã hội và thích ứng với thị trường. Thứ tư, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của chủ thể độc lập. Trang trại hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ lựa chọn phương hướng sản xuất, quyết định kĩ thuật và công nghệ... đến tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm.... Thứ năm, chủ trang trại là người có ý chí và có năng lực tổ chức quản lý, có kinh nghiệm, kiến thức nhất định về sản xuất kinh doanh nông nghiệp và thường là người trực tiếp quản lý trang trại. Thứ sáu, tổ chức quản lý sản xuất của trang trại tiến bộ hơn, trang trại có nhu cầu cao hơn nông hộ về ứng dụng tiến bộ kĩ thuật và thường xuyên tiếp cận thị trường. Các đặc trưng của kinh tế trang trại cũng được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kế Việt Nam xác định tại Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000: “Mục đích sản xuất của trang trại là
- 16 sản xuất nông, lâm, thủy sản hàng hóa với qui mô lớn. Mức độ tập trung hóa và chuyên môn hóa các điều kiện và yếu tố sản xuất cao hơn hẳn so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở qui mô sản xuất như: đất đai, số lượng gia súc, lao động, giá trị nông lâm thủy sản hàng hóa. Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành sản xuất, biết áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất; sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài sản xuất hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ”[7, tr.1]. * Các loại hình kinh tế trang trại Thực tế phát triển hiện nay đã xuất hiện nhiều loại hình kinh tế trang trại vượt ra khỏi quy mô hộ gia đình, cũng như có những mô hình kinh tế trang trại ngoài nông nghiệp. Cụ thể, dựa vào qui mô, hình thức tổ chức và tính chất sở hữu, người ta đã phân loại kinh tế trang trại thành nhiều loại hình khác nhau. Thứ nhất, dựa vào quy mô sản xuất, có trang trại quy mô nhỏ, quy mô vừa và quy mô lớn. Thứ hai, theo cơ cấu thu nhập, có hai loại hình trang trại: Trang trại thuần nông là những trang trại có cơ cấu thu nhập dựa hoàn toàn hoặc phần lớn vào sản xuất nông nghiệp và trang trại ngoài nông nghiệp là những trang trại có thu nhập chủ yếu ngoài nông nghiệp. Thứ ba, theo cơ cấu sản xuất, có trang trại kinh doanh tổng hợp, kết hợp nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp như ở các nước châu Á, kết hợp nông nghiệp với lâm nghiệp như các nước Bắc Âu; và trang trại chuyên môn hóa, như ở các nước có nông nghiệp phát triển đến trình độ cao (Mỹ, Canada,…), tập trung sản xuất nông sản hay lâm sản làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Thứ tư, theo hình thức tổ chức quản lý bao gồm các loại hình trang trại: Trang trại gia đình là kiểu trang trại độc lập sản xuất kinh doanh do người chủ hộ hay một người thay mặt gia đình đứng ra quản lý và thuê lao động khi cần.
- 17 Trang trại liên doanh do 2-3 trang trại gia đình hợp lại thành trang trại lớn với năng lực sản xuất và sức cạnh tranh lớn hơn. Trong đó, mỗi trang trại thành viên vẫn có quyền tự chủ điều hành sản xuất. Trang trại hợp doanh kiểu cổ phần là loại trang trại có quy mô lớn, thực hiện chuyên môn hóa sản xuất, sử dụng lao động làm thuê là chủ yếu. Có hai loại hợp doanh nông nghiệp: hợp doanh gia đình và hợp doanh phi gia đình. Thứ năm, theo hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, hình thức phổ biến hiện nay vẫn là người chủ trang trại sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất, từ đất đai, công cụ máy móc đến chuồng trại, kho bãi. Tuy nhiên, cũng tồn tại các chủ trang trại chỉ sở hữu một phần tư liệu sản xuất, còn lại phải đi thuê của người khác. Hay, chủ trang trại hoàn toàn không có tư liệu sản xuất mà phải đi thuê toàn bộ cơ sở của một trang trại hoặc của nhà nước, không chỉ máy móc, thiết bị, kho bãi, chuồng trại mà cả đất đai, mặt nước, rừng cây,…. Thứ sáu, theo phương thức điều hành sản xuất, tồn tại phổ biến là các trang trại do các chủ trang trại sống cùng gia đình ngay tại trang trại hoặc vùng nông thôn mà trang trại của họ hiện hữu và trực tiếp điều hành, cũng như trực tiếp lao động sản xuất. Song ở các nước phát triển, xuất hiện loại hình trang trại mà ở đó, chủ trang trại và gia đình không sống ở trang trại hay vùng nông thôn nhưng vẫn trực tiếp điều hành trang trại và trực tiếp lao động sản xuất. Hoặc chủ trang trại sống và làm việc ở thành phố, gián tiếp điều hành sản xuất thông qua người quản lý và đội ngũ lao động làm thuê. Như vậy, thực tế đã làm xuất hiện các loại hình trang trại mà ở đó yếu tố kinh tế hộ và sản xuất nông nghiệp không phải là yếu tố chủ yếu quyết định sự phát triển của kinh tế trang trại. * Vai trò của kinh tế trang trại Mặc dù còn có những quan niệm khác nhau, nhưng vai trò của kinh tế trang trại luôn được đánh giá cao trong hoạt động sản xuất của các quốc gia. Năm 1998, Ủy ban Quốc gia về trang trại nhỏ (NCFS) của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) đã đánh giá vai trò của trang trại thông qua những
- 18 giá trị đóng góp của loại hình sản xuất này đối với cộng đồng trên một số nội dung như: Tính đa dạng, các trang trại chứa đựng tính đa dạng của quan hệ sở hữu, của hệ thống canh tác, của cảnh quan môi trường, của sự đa dạng sinh học, của văn hóa và các giá trị truyền thống. Sự phát triển của các trang trại góp phần làm tăng tính đa dạng sinh học, làm tăng sự hấp dẫn của phong cảnh nông thôn và làm mở rộng không gian sống. Lợi ích về môi trường ,trang trại có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra những lợi ích môi trường cho xã hội. Việc đầu tư vào các trang trại này sẽ cung cấp cho chính phủ một sự chia sẻ trong cương vị quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia. Trao quyền hợp pháp và chịu trách nhiệm cộng đồng,các trang trại mang lại cho người nông dân một ý nghĩa lớn hơn đối với trách nhiệm cá nhân và cảm giác được kiểm soát cuộc sống của chính mình, đặc điểm này không dễ có được đối với công nhân trong các nhà máy. Những chủ trang trại hoạt động dựa vào những doanh nghiệp và các cơ sở cung cấp dịch vụ tại địa phương để đáp ứng các nhu cầu của mình. Điều này có tác dụng rất lớn trong việc tạo ra cơ hội để mang lại lợi ích lớn hơn đối với cộng đồng và hạnh phúc của bản thân những người trong trang trại. Ngược lại, những chủ trang trại ở địa phương sẽ tự cảm thấy phải có trách nhiệm cao hơn trong việc kiểm soát bất cứ hoạt động tiêu cực nào mà nó có thể gây ra tác hại đối với cộng đồng. Bổn phận của gia đình, trang trại có bổn phận nuôi dưỡng những đứa trẻ lớn lên và thu nhận những giá trị truyền thống. Những kỹ năng canh tác đã trải qua từ thế hệ này đến thế hệ khác dưới cấu trúc sở hữu gia đình. Khi những đứa trẻ không tiếp tục làm nông, những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm canh tác có thể sẽ bị mất. Trong những cộng đồng canh tác truyền thống, trang trại gia đình là trung tâm để duy trì cộng đồng và để tăng cường
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
123 p | 844 | 193
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 621 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 36 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 20 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 19 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 10 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 11 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 11 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn