BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN THÚY PHƯỢNG
LỆ KHẢO THÍ, KHẢO KHÓA DƯỚI THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI - NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN THÚY PHƯỢNG
LỆ KHẢO THÍ, KHẢO KHÓA DƯỚI THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8 34 04 03
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Hòa
HÀ NỘI - NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả trình bày trong
Luận văn là trung thực và được tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc. Những kết quả
nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước đã được tiếp thu một cách chân thực, cẩn trọng, có
trích dẫn nguồn cụ thể trong Luận văn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả Luận văn
Trần Thúy Phượng
LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả nghiên cứu của cá nhân, nhưng tôi không thể hoàn thành nếu không
nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô, các nhà khoa học, các nhà quản lý. Tôi xin chân thành
bày tỏ lòng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Thu Hòa đã tận tình chỉ bảo,
dạy dỗ và trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện Luận văn. Xin được cảm ơn các anh chị nhân viên
Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia, Thư viện Quốc gia đã luôn nhiệt tình giúp đỡ, cung
cấp tư liệu và các thông tin hữu ích cho việc thực hiện Luận văn.
Xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa Sau Đại học – Học viện Hành chính Quốc
gia đã tận tình hướng dẫn và tạo điều kiện để tôi hoàn thiện thủ tục, hồ sơ Luận văn. Đặc biệt
tôi xin cảm ơn gia đình – những người thân đã luôn bên tôi, động viên, khích lệ và là chỗ dựa
vững chắc để tôi cố gắng vươn lên hoàn thành Luận văn.
Xin được chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ....................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 9
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 11
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của nghiên cứu .................................................................. 14
7. Kết cấu của Luận văn ..................................................................................................... 15
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ QUAN LẠI VÀ LỆ KHẢO THÍ, KHẢO KHÓA THỜI PHONG KIẾN Ở VIỆT NAM .............................................. 16
1.1. Các khái niệm liên quan ............................................................................................ 16
1.1.1. Khái niệm quan lại .................................................................................................... 16
1.1.2. Khái niệm chế độ quan lại ......................................................................................... 18
1.1.3. Lệ khảo thí, khảo khóa .............................................................................................. 19
1.2. Sơ lược về chế độ quan lại và lệ khảo thí, khảo khóa thời phong kiến ở Việt Nam . 21
1.2.1. Sơ lược về chế độ quan lại ........................................................................................ 21
1.2.1.1.Chế độ tuyển chọn quan lại ...................................................................................... 21
1.2.1.2.Chế độ sử dụng quan lại ........................................................................................... 25
1.2.2. Sơ lược về lệ khảo thí, khảo khóa ............................................................................. 32
1.3. Tính kế thừa có chọn lọc của lịch sử hành chính ...................................................... 36
1.3.1. Quy luật của tính kế thừa lịch sử ............................................................................... 36
1.3.2. Học hỏi và kế thừa có chọn lọc chế độ quan lại trong lịch sử .................................. 38
1.3.2.1.Sự kế thừa chế độ quan lại của các triều đại phong kiến Việt Nam ........................ 38
1.3.2.2.Học hỏi kinh nghiệm chế độ quan lại của các triều đại phong kiến Trung Quốc .... 41
Tiểu kết chương 1:.............................................................................................................. 48
CHƯƠNG 2: LỆ KHẢO THÍ, KHẢO KHÓA DƯỚI THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG (1460 – 1497)............................................................................................................................ 49
2.1. Bối cảnh lịch sử và sự cần thiết ban hành lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông ..................................................................................................................................... 49
2.1.1. Bối cảnh lịch sử thời Lê sơ ....................................................................................... 49
2.1.2. Sự cần thiết ban hành lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông .................. 52
2.1.2.1.Xuất phát từ yêu cầu của cuộc cải cách hành chính thời Lê Thánh Tông ............... 52
2.1.2.2 . Xuất phát từ mục đích cải cách đội ngũ quan lại dưới thời Lê Thánh Tông .............. 58
2.2. Nội dung lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông ................................... 60
2.2.1. Mục đích thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa ................................................................ 60
2.2.1.1. Làm cơ sở để thực hiện các chế độ sử dụng quan lại .............................................. 60
2.2.1.2. Nâng cao ý thức đạo đức đội ngũ quan lại triều đình ............................................. 63
2.2.2. Kỳ hạn thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa .................................................................... 64
2.2.3. Tiêu chí thực hiện lệ khảo thí, khỏa khóa .................................................................. 66
2.2.4. Đối tượng thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa ............................................................... 68
2.2.5. Trách nhiệm thi hành lệ khảo thí, khảo khóa ............................................................. 69
2.2.6. Xử lý kết quả sau khảo thí, khảo khóa ....................................................................... 71
2.2.7. Việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông ....................... 72
2.3. Đánh giá thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông ................... 76
Tiểu kết chương 2:.............................................................................................................. 81
CHƯƠNG 3: NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................... 83
3.1. Công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay ......................................... 83
3.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức và việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay ........................................................................................................................................ 83
3.1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức .................................................................................. 83
3.1.1.2. Việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay .......................................... 84
3.1.2. Thực trạng công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay .................... 88
3.1.2.1. Những kết quả đạt được trong công tác đánh giá cán bộ, công chức ..................... 88
3.1.2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong công tác đánh giá cán bộ, công chức .................. 91
3.2. Những giá trị tham khảo từ lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông ....101
3.2.1. Coi trọng việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức, coi đó là hoạt động tối cần thiết để đảm bảo chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ............................................................101
3.2.2. Chú trọng việc xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật đảm bảo việc đánh giá cán bộ, công chức nghiêm ngặt, chặt chẽ, có hiệu lực hiệu quả ..................102
3.2.3. Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy thực hiện công tác đánh giá cán bộ, công chức hoạt động độc lập ...............................................................................................................104
3.2.4. Coi trọng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, đánh giá ..105
3.2.5. Xác định rõ mục tiêu, đối tượng, kỳ hạn và biện pháp thực hiện đánh giá cán bộ, công chức ...........................................................................................................................106
3.2.6. Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá rõ ràng, cụ thể; dễ đo lường, kiểm chứng .....108
3.2.7. Xử lý và sử dụng hiệu quả kết quả đánh giá cán bộ, công chức ..............................110
3.3. Một số kiến nghị cho công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay .....111
3.3.1. Kiến nghị đối với các nghiên cứu tiếp theo .............................................................111
3.3.2. Kiến nghị đối với cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền .....................................112
3.3.3. Kiến nghị đối với đơn vị đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức .............................114
3.3.4. Kiến nghị đối với cán bộ, công chức .......................................................................115
Tiểu kết chương 3:............................................................................................................117
KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 118
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ........................................ 122
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 123
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay……………... 93
Biểu đồ 3.2: Tinh thần và trách nhiệm làm việc của cán bộ, công chức ở Việt Nam
hiện nay……………………………………………………………………………….. 94
Biểu đồ 3.3: Việc đánh giá đạo đức công vụ đối với cán bộ, công chức ở Việt Nam
hiện nay……………………………………………………………………………….. 95
Biểu đồ 3.4: Việc tổ chức các kỳ thi sát hạch năng lực chuyên môn dành cho cán bộ,
công chức ở Việt Nam hiện nay………………………………………………………. 95
Biểu đồ 3.5: Việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay…………………. 97
Biểu đồ 3.6: Sự tương đồng giữa việc bố trí công tác và trình độ chuyên môn, năng
lực thực tế của cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay………………………………. 99
Biểu đồ 3.7: Mục đích việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện
nay…………………………………………………………………………………….. 100
Biểu đồ 3.8: Sự cần thiết phải học hỏi việc đánh giá tinh thần trách nhiệm, sự mẫn cán
dưới thời Lê Thánh Tông vào việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay… 109
Biểu đồ 3.9: Sự cần thiết sử dụng kết quả đánh giá cán bộ, công chức làm cơ sở thực
hiện các chế độ, chính sách khác đối với cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay…… 110
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử nước ta phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, theo đó mỗi giai đoạn tùy
thuộc vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử, chế độ chính trị, điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau
mà có cách thức quản lý khác nhau. Cho đến đầu thế kỷ XX, lịch sử hành chính nước ta đã
trải qua 10 cuộc cải cách, đổi mới lớn (theo cuốn Mười cuộc cải cách đổi mới trong lịch sử
Việt Nam của tác giả Văn Tạo). Mỗi cuộc cải cách, đổi mới hướng đến một mục tiêu cụ thể
khác nhau, nhưng đều được thực hiện nhằm cải tổ lại cách thức tổ chức và hoạt động của
bộ máy hành chính nhà nước, giúp việc quản lý đất nước được thực hiện hiệu quả hơn.
Nhiều triều đại phong kiến đã nhận thức được vai trò của đội ngũ quan lại đối với sự phát
triển hưng thịnh của đất nước, do vậy các cuộc cải cách, đổi mới gắn liền với cách tân chế
độ quan lại rất được quan tâm, chú trọng.
Triều Lê sơ (1428-1527) là triều đại được đánh giá có nhiều thành tựu trong quá
trình cách tân và phát triển đất nước nhất, được coi là đỉnh cao phát triển của chế độ phong
kiến Việt Nam. Cải cách hành chính được thực hiện toàn diện, mạnh mẽ và thành công nhất
dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497). Trong suốt 38 năm trị vì đất nước, Lê Thánh
Tông đã sửa sang được nhiều việc chính trị, mở mang sự học hành, chỉnh đốn các việc quân
sự, đánh dẹp các quốc gia mở rộng bờ cõi, khiến cho nước Nam bấy giờ văn minh hơn và
lẫy lừng một phương, kể từ xưa đến nay chưa bao giờ cường thịnh như vậy. Lê Thánh Tông
đã tập trung vào việc xây dựng một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền vững chãi,
xây dựng và ban hành Bộ Luật Hồng Đức – bộ luật đầu tiên của Việt Nam có quy định đầy
đủ và chặt chẽ hơn so với Luật lệ của các nước láng giềng thời bấy giờ, đưa Bộ Luật Hồng
Đức trở thành khung pháp lý cho toàn bộ hoạt động của quan lại trong triều cũng như người
dân Đại Việt. Bằng việc kết hợp giữa pháp trị và đức trị, Lê Thánh Tông đã gây dựng và
phát triển đội ngũ quan lại và trọng dụng nhân tài cống hiến cho đất nước, góp phần tạo ra
một trật tự quy củ trong việc quản lý và sử dụng đội ngũ quan lại.
Việc đánh giá nhân tài nói chung và kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại trong triều
nói riêng là một trong những hoạt động được vua Lê nhận thấy vô cùng quan trọng và cần
kíp để đưa Đại Việt trở nên ngày càng thịnh vượng. Chính vì lẽ đó, trong quá trình thực
hiện cải cách hành chính, Lê Thánh Tông đã thực hiện cải cách toàn diện, đồng bộ trên các
2
lĩnh vực, và tập trung nhiều hơn vào cải cách chế độ quan lại, nổi bật lên trong những chính
sách được ban hành và áp dụng đó là lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Thông qua lệ khảo thí, khảo khóa, Lê Thánh Tông muốn đánh giá chính xác năng lực và
phẩm hạnh của đội ngũ quan lại nhằm lựa chọn kẻ sĩ người tài phục vụ cho đất nước; đồng
thời cũng để loại bỏ những người đã làm quan mà không cố gắng nỗ lực hết mình vì dân vì
nước. Bằng việc thể chế hóa các quy định của triều đình, ban hành Bộ Luật Hồng Đức và
các chính sách thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, Lê Thánh Tông đã có một cường quốc
hưng thịnh được các triều đại sau học tập và noi theo. Đó luôn là cơ sở, là nền tảng, là bài
học quý báu để những nhà lãnh đạo hiện nay rút ra bài học trong quá trình xây dựng, cách
tân đổi mới đất nước.
Khổng Tử - nhà tư tưởng lỗi lạc của Trung Quốc thời xưa cho rằng, biết “ôn cố tri
tân” – học hỏi từ lịch sử để mở mang hơn ở hiện tại, thì có thể làm bậc thầy trong thiên hạ.
Nhìn lại và đánh giá những thành tựu và hạn chế đã trải qua trong các giai đoạn lịch sử, rút
ra bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng và phát triển đất nước nói chung, đội ngũ quan
lại nói riêng là một hoạt động có ý nghĩa kế thừa quan trọng khi nghiên cứu về lệ khảo thí,
khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Hiện nay, việc đánh giá cán bộ, công chức ở nước ta được thực hiện đều đặn vào
tháng 12 hàng năm, riêng đối với các cơ sở giáo dục công lập được thực hiện đánh giá công
chức vào thời điểm kết thúc năm học (thường vào ngày 01 tháng 7 hàng năm). Việc đánh
giá cán bộ, công chức nhằm xếp hạng cán bộ, công chức; từ đó tạo cơ sở để bố trí, sử dụng,
đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp, quy hoạch, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các chính
sách khác đối với cán bộ, công chức. Nhận thức được vai trò quan trọng của đội ngũ cán
bộ, công chức trong việc xây dựng đất nước, Đảng xác định lấy chất lượng, hiệu quả hoàn
thành nhiệm vụ làm căn cứ chủ yếu để đánh giá cán bộ. Sau Đại hội XII của Đảng, ngày 04
tháng 8 năm 2017 Bộ Chính trị đã ban hành hai quy định: Quy định số 89-QĐ/TW, “Quy
định khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp”, Quy định số 90-QĐ/TW, “Quy định tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh
giá cán bộ diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý” nhằm định
hướng việc đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Trên cơ sở đó, Chính phủ cũng ban
3
hành hệ thống Nghị định quy định chi tiết hơn về việc đánh giá công chức đang làm việc
trong bộ máy nhà nước. Để thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đã đề ra, cần
kết hợp giữa tri thức khoa học hành chính hiện đại, học tập kinh nghiệm cải cách hành chính
từ lịch sử nước mình và các quốc gia phát triển trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia có
điều kiện hoàn cảnh tương xứng; với tinh hoa truyền thống trong cải cách hành chính của
lịch sử dân tộc, từ đó, xây dựng một nền hành chính vừa hiện đại vừa mang bản sắc riêng.
Đánh giá cán bộ, công chức hiện nay ở nước ta đã đạt được những thành tựu khá tốt,
song cần nhìn lại những quy chuẩn đã được đặt ra dưới thời Lê Thánh Tông để nâng cao
hơn nữa hiệu quả của việc đánh giá. Bằng niềm say mê với lịch sử nước nhà, đặc biệt là
lịch sử cải cách hành chính, với sự quan tâm về việc đánh giá cán bộ, công chức của nước
ta hiện nay, tôi quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời
vua Lê Thánh Tông và bài học kinh nghiệm cho đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam
hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Quản lý công của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Lịch sử hành chính là một trong những đề tài được nhiều nhà khoa học nghiên cứu,
nhằm đúc rút những bài học kinh nghiệm quý giá của ông cha ta trong quá trình cai trị đất
nước. Những bài học này giúp cho việc xây dựng và ban hành hệ thống chính sách, pháp
luật hiện nay được tốt hơn. Có rất nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ và góc độ khác
nhau về những nội dung liên quan đến đề tài Luận văn. Dưới đây, Luận văn xin giới thiệu
tổng quan một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, từ đó chỉ ra những nội dung
đã được nghiên cứu trong các công trình đó, những nội dung chưa sáng rõ, cụ thể cần tiếp
tục đặt ra để nghiên cứu và đúc rút thành bài học kinh nghiệm có thể vận dụng nhằm nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý cán bộ, công chức; góp phần quản lý và sử dụng đội ngũ cán
bộ, công chức hiệu quả hơn ở Việt Nam hiện nay.
Một là, nhóm các bộ sử ghi chép lịch sử thời Lê
Phan Huy Chú với Lịch triều hiến chương loại chí được coi là một bách khoa toàn
thư về khoa học xã hội của Việt Nam, đó là một tài liệu quý báu cho công tác nghiên cứu
và xây dựng các khoa học xã hội. Lịch triều hiến chương loại chí với 49 quyển chia ra thành
10 bộ môn nghiên cứu khác nhau. Trong tất cả các bộ môn nghiên cứu, Phan Huy Chú tập
trung nghiên cứu các sự kiện từ triều Lê trở về trước, thường chú trọng nghiên cứu đặc biệt
4
về triều Lê, còn triều Nguyễn thì ông không nhắc đến. Bộ sách nghiên cứu tường tận và cụ
thể từ tình hình địa lý, lịch sử địa lý; tiểu sử vua chúa, quan lại, nho sĩ, tướng sĩ; đến lịch
sử chế độ quan liêu; lễ nghi triều đình; từ chế độ khoa cử đến chế độ thuế khóa, tài chính;
từ tình hình pháp luật, tổ chức quân sự đến các chính sách và nghi lễ ngoại giao, lịch sử
ngoại giao của triều Lê. Những vấn đề lịch sử liên quan nhà Lê được cuốn sách ghi chép
lại một cách khoa học và chính xác, góp phần tái hiện chân thực lịch sử nước ta đương thời.
Năm 1977, Viện sử học và Nhà xuất bản văn hóa – thông tin cho ra mắt cuốn Lê
triều quan chế do Phạm Văn Liệu dịch và chú giải. Lê triều quan chế viết khá toàn diện và
chi tiết về bộ máy nhà nước và chế độ quan lại dưới thời Hồng Đức (1471 – 1497) đời Lê
Thánh Tông; ngoài ra sách cũng nêu quan chế của các triều trước, như niên hiệu Kiên Trung
(1225-1231) triều Trần Thái Tông, niên hiệu Thuận Thiên (1428-1433) triều Lê Thái Tổ,
niên hiệu Thiệu Bình (1434-1440) triều Lê Thái Tông, và cả niên hiệu Quang Thuận (1460
– 1470) – niên hiệu đất nước trong những năm đầu Lê Thánh Tông trị vì. Cuốn sách được
xác định biên soạn sớm nhất vào khoảng cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, tập trung
nghiên cứu về quan chế ở nước ta thời trung đại và cung cấp nhiều chi tiết mà các cuốn
sách khác từng chép về quan chế thời Lê còn chưa đề cập đến hoặc đề cập đến nhưng chưa
cụ thể, chi tiết.
Năm 1993, NXB Văn hóa Thông tin lần đầu tiên phát hành bộ chính sử Đại Việt sử
ký toàn thư – bộ biên niên sử ghi chép từ thời đại truyền thuyết Kinh Dương Vương năm
2879 trước công nguyên đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê và là bộ chính sử
Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, do nhiều đời sử quan trong Sử
quán triều Hậu Lê biên soạn. Bộ sử bắt đầu được Ngô Sĩ Liên – một vị sử quan làm việc
trong Sử quán dưới thời vua Lê Thánh Tông biên soạn dựa trên sự chỉnh lý và bổ sung hai
bộ quốc sử Việt Nam trước đó cùng mang tên Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Phan Phu
Tiên. Hoàn thành vào niên hiệu Hồng Đức thứ 10 (1479), bộ sử mới gồm 15 quyển, ghi lại
lịch sử Việt Nam từ một thời điểm huyền thoại là năm 2879 trước công nguyên đến năm
1427 khi nhà Hậu Lê được thành lập và mang tên Đại Việt sử ký toàn thư. Sau đó, dù đã
hoàn thành, Đại Việt sử ký toàn thư không được khắc in để ban hành rộng rãi mà tiếp tục
được nhiều đời sử quan trong Quốc sử quán sửa đổi, bổ sung và phát triển thêm. Khoảng
niên hiệu Cảnh Trị đời vua Lê Huyền Tông, chúa Trịnh Tạc hạ lệnh cho một nhóm văn
5
quan, đứng đầu là Tham tụng Phạm Công Trứ, sửa chữa bộ quốc sử của Ngô Sĩ Liên, đồng
thời sai biên soạn tiếp lịch sử Việt Nam từ năm 1428 đời vua Lê Thái Tổ đến năm 1662 đời
vua Lê Thần Tông nhà Hậu Lê. Bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, gồm 23 quyển, được đem
khắc in để phát hành nhưng công việc chưa xong, phải bỏ dở. Khoảng niên hiệu Chính Hòa
đời vua Lê Hy Tông, chúa Trịnh Căn lại hạ lệnh cho một nhóm văn quan, đứng đầu là Tham
tụng Lê Hy, tiếp tục khảo đính bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, đồng thời biên soạn tiếp
lịch sử Việt Nam từ năm 1663 đời vua Lê Huyền Tông đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông
nhà Hậu Lê. Bộ quốc sử này lấy tên là Đại Việt sử ký toàn thư, theo đúng tên mà sử gia
Ngô Sĩ Liên cách đó gần hai thế kỷ đã đặt cho bộ sử của ông, gồm 25 quyển, được khắc in
toàn bộ và phát hành thành công vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa năm thứ 18 đời
vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép những nhân vật và sự kiện lịch sử qua các triều đại
cô đọng và chi tiết. Bộ sử được Ngô Sĩ Liên – quan dưới thời Lê Thánh Tông biên soạn nên
không những ghi chép được những mốc lịch sử quan trọng trong thời Lê mà còn có sự chính
xác, khách quan của một vị sử quan trong Sử quán bấy giờ. Cuốn biên niên sử vừa có giá
trị cho ngành sử học, vừa có giá trị cho các ngành khoa học xã hội khác nữa. Cho đến nay,
khi tìm hiểu về lịch sử Việt Nam, không học giả nào có thể không nhắc đến Đại Việt sử ký
toàn thư như một di sản lịch sử vẫn còn nguyên vẹn.
Đại Việt thông sử trong Lê Quý Đôn toàn tập là một cuốn sử ghi chép lại lịch sử thời
Lê, còn gọi là Lê triều thông sử. Theo GS. Dương Quảng Hàm, Lê Quý Đôn thật là một
nhà bác học ở đời Lê mạt: một tay ông đã biên tập, trứ thuật rất nhiều sách. Tuy tác phẩm
của ông đã thất lạc ít nhiều, nhưng những bộ còn lưu lại cũng là một cái kho tài liệu để khảo
cứu về lịch sử, địa dư và văn hóa của nước Việt... Cuốn sử được viết trong giai đoạn Lê
Quý Đôn ở nhà dạy học và viết sách, và hoàn thành vào năm 1749 gồm 30 quyển. Tuy
nhiên, cho đến hiện nay chỉ còn truyền lại 3 phần với 15 quyển – tức là chỉ khoảng một
nửa. Đại Việt thông sử là bộ sử được viết theo thể kỷ truyện, chỉ có phần Bản kỷ là chép
theo lối biên niên, chép từ thời vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi) đến vua Lê Cung Hoàng. Với
lối viết trải theo các mốc thời gian, Lê Quý Đôn đã điểm lại khái quát những sự kiện lịch
sử về chính trị, quân sự, trị quốc,… diễn ra dưới triều Lê, cung cấp cái nhìn tổng quan về
lịch sử triều Lê cho người đọc.
6
Năm 2011, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản cuốn Lịch sử Việt
Nam – từ nguồn gốc đến năm 1884 do GS. Nguyễn Phan Quang và TS. Võ Xuân Đàn chủ
biên. Cuốn sách trình bày cô đọng, súc tích về lịch sử nước nhà từ nền văn hóa sơ khai, trải
qua cả nghìn năm dựng nước và giữ nước đến những ngày trước cuộc xâm lược của Thực
dân Pháp. Lịch sử nhà Lê được ghi chép lại một cách cẩn thận và cụ thể trong cuốn sách,
từ bối cảnh lịch sử, việc phục hồi và phát triển nền kinh tế đến việc xây dựng và thực hiện
có quy củ, nền nếp các chế độ đối với đất nước. Với gần 500 trang sách ghi chép lại lịch sử
hàng nghìn năm của đất nước, cuốn thông sử đã đưa ra những sự kiện lịch sử quan trọng,
giúp người đọc dễ dàng tiếp cận và nắm bắt thông tin.
Hai là, nhóm các công trình nghiên cứu ngày nay về cải cách hành chính và chế
độ quan lại, chế độ cán bộ, công chức
Trong cuốn Sử học và hiện thực, Tập II: “10 cuộc cải cách đổi mới trong lịch sử
Việt Nam” của GS. Văn Tạo xuất bản năm 2000 có bài: “Cải cách hành chính thời Lê
Thánh Tông - xây dựng một nhà nước phong kiến thịnh trị”. Trong bài viết này tác giả đánh
giá cuộc cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông là một trong ba cuộc cải cách
hành chính nổi bật nhất trong lịch sử hành chính Việt Nam. GS. Văn Tạo phân tích khá sâu
sắc các nguyên nhân dẫn đến cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông và một số
lĩnh vực mà vị vua anh minh này đã thực hiện trong 38 năm trị vì của mình: phân cấp quản
lý đất đai, xây dựng bộ máy hành chính. Song những nội dung cải cách quan chế chưa được
tác giả đi sâu nghiên cứu.
Một công trình nghiên cứu có tầm cỡ về mặt khoa học phải kể đến là cuốn sách “Lê
Thánh Tông (1442 - 1497): Con người và sự nghiệp” bao gồm 33 báo cáo khoa học, trong
đó có nhiều báo cáo liên quan đến việc thực hiện cải cách, đổi mới dưới triều vua Lê Thánh
Tông. Đây là tập hợp các báo cáo khoa học tại cuộc Hội thảo khoa học về con người và sự
nghiệp của vua Lê Thánh Tông nhân dịp kỷ niệm 500 năm ngày mất của ông (năm 1997),
do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn phối hợp với Trường Đại học Sư phạm
(thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), Viện Sử học, Viện Triết học, Viện nghiên cứu nhà nước
và pháp luật... tổ chức. Các báo cáo tại Hội thảo đã đưa ra những nhận thức mới, những
kiến giải mới về cuộc đời và sự nghiệp của vị vua anh minh Lê Thánh Tông. Trong đó có
các bài viết như: Chức danh xã trưởng dưới thời Lê Thánh Tông của PGS.TS. Nguyễn
7
Quang Ngọc; Cải cách hệ thống quan lại địa phương dưới triều Lê Thánh Tông của TS.
Nguyễn Hoàng Anh; Vài nét về sự thay đổi hành chính và tổ chức chính quyền địa phương
dưới triều Lê Thánh Tông của PGS.TS. Nguyễn Đức Nhuệ... Các bài viết này đề cập đến
một số lĩnh vực mà vua Lê Thánh Tông đã tiến hành cải cách trong những năm trị vì của
ông, nổi bật nhất là cải cách tổ chức bộ máy hành chính.
TS. Bùi Huy Khiên với cuốn Những bài học từ hai cuộc cải cách hành chính dưới
triều vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mệnh xuất bản năm 2011. Cuốn sách gồm 3 chương
được trình bày rõ ràng và chi tiết. Nội dung của cuốn sách ngoài việc nêu lên tính tất yếu
và khách quan của việc phải thực hiện cải cách hành chính đối với mọi nhà nước, mọi thời
đại; nhận xét, đánh giá một số cuộc cải cách trong lịch sử Việt Nam để tìm ra những quy
luật chung, những thành công cũng như rào cản trong việc thực hiện cải cách; cuốn sách
còn khái quát về hoàn cảnh lịch sử trước cải cách, sau đó tập trung chính vào nội dung cải
cách bộ máy và cải cách quan chế. Thông qua việc nghiên cứu nội dung chính của 2 cuộc
cải cách, cuốn sách đã đưa ra một số bài học kinh nghiệm mang tính tổng kết nhằm góp
phần thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính hiện tại ở nước ta.
Ngoài ra, tác giả Nguyễn Thị Thu Hòa có đề tài nghiên cứu khoa học cấp Khoa,
Khoa Hành chính học – Học viện Hành chính năm 2010 Những bài học quản lý hành chính
nhà nước Việt Nam trong lịch sử; Nguyễn Thanh Lương có bài viết “Từ cuộc cải cách hành
chính của Lê Thánh Tông suy nghĩ về cải cách hành chính nước ta hiện nay” đăng trên Tạp
chí Giáo dục lý luận số 5 - 2008; Nguyễn Hoài Văn với bài “Kinh nghiệm sử dụng người
tài, xây dựng đội ngũ quan lại thời Lê Thánh Tông” đăng trên Tạp chí Lý luận Chính trị số
5 - 2013. Trong những bài viết trên, các tác giả đã đề cập đến lệ khảo thí, khảo khóa được
thực hiện dưới triều Lê Thánh Tông như một quy định bắt buộc nhằm kiểm tra, đánh giá
đội ngũ quan lại đang phục vụ công việc triều chính, tạo cơ sở cho việc thăng, giáng và
thưởng phạt đối với đội ngũ quan lại.
8
Ba là, nhóm các công trình nghiên cứu trực tiếp về lệ khảo thí, khảo khóa dưới
thời Lê sơ
Có nhiều bài viết đăng trên tạp chí nghiên cứu về việc thực hiện cải cách hành chính
mà trọng tâm là việc thực hiện cải cách chế độ kiểm tra, giám sát đội ngũ quan lại dưới
triều Lê Thánh Tông, như bài Phép khảo khóa của nhà nước phong kiến Đại Việt của tác
giả Bùi Quý Lộ in trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 12 - 1995. Bài viết giới thiệu khái lược
về lệ khảo khóa của các triều đại tiêu biểu như Lê sơ, nhà Nguyễn và ý nghĩa của phép khảo
khóa trong việc xây dựng đội ngũ quan lại. Bài Khảo thí, khảo khóa thời Lê và việc thực
hiện đánh giá năng lực, đạo đức cán bộ, công chức ngày nay của ThS Nguyễn Thị Thu
Hòa in trên Tạp chí Quản lý Nhà nước số 236 - 2015. Bài viết tập trung cung cấp một số
thông tin về nội dung chế độ khảo khóa, khảo thí và đưa ra một số kinh nghiệm tham khảo
cho việc thực hiện đánh giá năng lực, đạo đức cán bộ, công chức ngày nay.
Bài Từ lệ khảo khóa quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông suy nghĩ về công tác
đánh giá cán bộ công chức của TS. Bùi Huy Khiên trong Tạp chí Tổ chức nhà nước số 5 -
2015 và bài Chế độ khảo khóa quan chức của nhà nước phong kiến Hậu Lê của ThS. Vũ
Thị Yến in trong tạp chí Tổ chức nhà nước số 9 - 2017 đều đề cập đến những nội dung của
chế độ khảo khóa và rút ra một số kinh nghiệm cho công tác đánh giá cán bộ, công chức
nước ta hiện nay. Những bài đăng trên đã nghiên cứu khá cụ thể về bối cảnh thực hiện phép
khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông nói riêng và nhà nước phong kiến nói
chung. Qua việc đi sâu nghiên cứu, các tác giả đã liên hệ đến việc đánh giá năng lực, đạo
đức cán bộ, công chức ngày nay nhằm tìm ra phương thức đánh giá cán bộ, công chức phù
hợp nhất.
Như vậy, các cuốn sách, nghiên cứu trên đã tập trung nghiên cứu chuyên sâu về từng
khía cạnh, từng giai đoạn cụ thể trong lịch sử và đã được công bố, có những đóng góp lớn
về học thuật, là nguồn tư liệu quý giá cho những nhà nghiên cứu khác, những người quan
tâm đến vấn đề này. Tuy nhiên, phần lớn những tài liệu trên chỉ tập trung nghiên cứu về cải
cách tổ chức bộ máy hành chính và chế độ quan lại nói chung, chỉ đề cập đến một phần nhỏ
của lệ khảo thí, khảo khóa chứ chưa đi sâu nghiên cứu về chế độ này. Luận văn sẽ tập trung
nghiên cứu về lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông – một đề tài với hướng
tiếp cận mới, không trùng lắp với các công trình đã công bố.
9
Trên cơ sở các nội dung nghiên cứu đã được đề cập tại các công trình nghiên cứu
nói trên về cải cách bộ máy hành chính và chế độ quan lại thời Lê sơ, đề tài: ““Lệ khảo thí,
khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông và bài học kinh nghiệm cho đánh giá cán bộ, công
chức ở Việt Nam hiện nay” sẽ nghiên cứu một số điểm mới chưa được đề cập và đi sâu
nghiên cứu, như: nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận về quan lại và chế độ quan lại
thời phong kiến; tái hiện lại một cách có hệ thống, khách quan và chân thực về lệ khảo thí,
khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông; nghiên cứu để nhìn nhận, phân tích, đánh giá tình
hình thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông trong mối liên hệ chặt
chẽ với việc đánh giá cán bộ, công chức ngày nay, gợi mở những giá trị tham khảo và gắn
những giá trị tham khảo đó với hoạt động quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức
hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu việc xây dựng và thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới
thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị
trong việc xây dựng và thực hiện đánh giá cán bộ, công chức; đáp ứng yêu cầu xây dựng
và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu về lệ khảo thí, khảo khóa, việc đánh giá và sử dụng quan lại (thăng – giáng,
phân công, bố trí công việc) quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông;
- Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa trong mối liên hệ chặt
chẽ với công tác đánh giá cán bộ, công chức hiện nay; đúc rút bài học kinh nghiệm đối với
việc hoàn thiện thể chế đánh giá cán bộ, công chức; góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu của hoạt động quản lý và sử dụng cán bộ, công chức.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa đối với đội ngũ
quan lại từ trung ương đến địa phương dưới triều Lê Thánh Tông (1460 – 1497) trong sự
tham chiếu với những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác đánh giá cán bộ, công chức ở
Việt Nam hiện nay.
10
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi tài liệu nghiên cứu:
Đề tài Luận văn nghiên cứu về lịch sử hành chính có sử dụng hệ thống các nguồn
tài liệu như sau:
- Các bộ biên niên sử ghi chép lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ theo sự kiện lịch sử,
nhân vật lịch sử, chính sách nhà nước: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử,…
- Văn bản pháp luật, quy định, quy chế dưới triều Lê như: Lê Triều hình luật; Lê triều
quan chế;…
- Văn bản pháp luật hiện hành quy định về Cán bộ, Công chức: Luật Cán bộ, Công
chức 2008, Nghị định số 56/2015/NĐ-CP do Chính Phủ ban hàng ngày 09 tháng 6 năm
2015 về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số 88/2017/NĐ-CP
do Chính Phủ ban hành ngày 27 tháng 7 năm 2017 về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của chính phủ về đánh giá và
phân loại cán bộ, công chức, viên chức;…
- Luận văn cũng sử dụng các tài liệu thứ cấp – hệ thống tài liệu đã được nghiên cứu
của các tác giả về triều Lê sơ nói chung, Lê Thánh Tông nói riêng, như: Lịch Triều hiến
chương loại chí (Phan Huy Chú), Lê Thánh Tông – Con người và sự nghiệp (Nguyễn Quang
Ngọc); Sử học và hiện thực (Văn Tạo), Những bài học từ hai cuộc cải cách hành chính dưới
triều Vua Lê Thánh Tông và Vua Minh Mệnh (Bùi Huy Khiên)… cùng với những Luận
văn, luận án, đề tài khoa học, bài báo, bài đăng tạp chí và các cuốn sách khác.
Phạm vi nội dung nghiên cứu:
- Khảo thí là khoa thi không theo chính kỳ, không định học vị nhằm tuyển chọn nhân
tài ra làm quan hoặc phân định trình độ của quan lại nói chung. Khảo khóa là kỳ thi được
tổ chức định kì 3 năm, 6 năm, 9 năm dành cho tất cả quan văn, quan võ trong triều nhằm
kiểm tra xem xét đạo đức, tư cách, trình độ, năng lực của đội ngũ quan lại trong triều; trên
cơ sở đó thực hiện việc bố trí, sắp xếp quan lại phù hợp. Luận văn tập trung nghiên cứu lệ
khảo thí, khảo khóa đối với đội ngũ quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông.
11
Phạm vi thời gian nghiên cứu:
- Thời gian nghiên cứu tập trung từ năm 1460 – 1497 là 38 năm trị vì Đại Việt của Lê
Thánh Tông với Niên hiệu Quang Thuận (1460 – 1469) và niên hiệu Hồng Đức (1470 –
1497)
- Đồng thời, đề tài nghiên cứu về công tác đánh giá cán bộ, công chức hiện nay ở Việt
Nam nhằm liên hệ, so sánh, đối chiếu, rút ra bài học kinh nghiệm.
Phạm vi không gian nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu lệ khảo thí, khảo khóa từ cấp chính quyền trung ương
đến địa phương trên địa bàn lãnh thổ quốc gia Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận:
- Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác – Lênin để nghiên cứu, phản ánh sự kiện lịch sử một cách khách quan, trung
thực; xem xét sự vận động của chúng trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau, trong sự vận
động và phát triển liên tục của lịch sử. Mỗi giai đoạn lịch sử chịu sự ảnh hưởng khác nhau
từ điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nên quá trình nghiên cứu về lệ khảo thí, khảo khóa
dưới thời vua Lê Thánh Tông Luận văn đặt chúng trong bối cảnh lịch sử để xem xét, phân
tích. Bên cạnh đó, Luận văn cũng sử dụng phương pháp logic để luận giải quan hệ biện
chứng giữa những quy định chặt chẽ của pháp luật với việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa
và hiệu quả của việc áp dụng thông lệ trong quá trình sử dụng, quản lý đội ngũ quan lại
triều Lê Thánh Tông.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đây là một đề tài về lịch sử hành chính nên việc
nghiên cứu các tài liệu lịch sử là vô cùng quan trọng. Song Luận văn không dừng lại ở việc
sử dụng phương pháp mô tả lịch sử mà kết hợp cùng với phương pháp sử liệu học, thu phập
tài liệu nhằm tái tạo lịch sử một cách chân thực nhất.
- Phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp logic: Luận văn có sử
dụng phương pháp thống kê các số liệu về chế độ sử dụng quan lại, các số liệu tổng hợp
trên tài liệu sơ cấp và thứ cấp nhằm đánh giá vấn đề nghiên cứu trong tổng quan lịch sử và
theo quy luật phát triển khách quan.
12
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp để đưa ra lý luận về tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài và ý nghĩa sâu sắc của
việc nghiên cứu những tài liệu về lệ khảo thí, khảo khóa đối với giai đoạn hiện nay. Đồng
thời, Luận văn cũng phân tích những nội dung liên quan chế độ quan lại nói chung được áp
dụng dưới thời vua Lê Thánh Tông, từ đó làm rõ những thành công và tồn tại hạn chế của
việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa đương thời nhằm so sánh, tham chiếu lịch sử và sử
dụng tối đa phương pháp này trong việc đưa ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho
việc đánh giá cán bộ, công chức trong giai đoạn hiện nay.
Phương pháp tổng hợp còn được sử dụng để tóm lược nội dung, đánh giá tổng quan
nội dung của từng phần, từng chương và kết luận cho toàn Luận văn.
- Phương pháp khảo sát thực tế và xử lý số liệu: Dựa vào mục đích nghiên cứu, thời
gian nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, học viên đã tiến hành phát phiếu điều
tra khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức tại các cơ quan nhà nước, nhằm tìm hiểu
về thực trạng công tác đánh giá cán bô, công chức hiện nay.
Về địa bàn khảo sát: Dựa trên địa bàn và tính dễ tiếp cận các đối tượng để lựa chọn
mẫu phiếu, tiến hành thăm dò ý kiến của đội ngũ cán bộ, công chức trong cơ quan hành
chính nhà nước các cấp.
Các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương gồm: Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội
vụ, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Văn hóa –
thể thao và du lịch,…
Các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh gồm có: Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn,
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Lạng Sơn, Sở Nội vụ tỉnh Lạng Sơn, Sở Giao
thông Vận tải tỉnh Thái Nguyên, Sở Tư pháp tỉnh Hòa Bình.
Cơ quan hành chính nhà nước cấp huyện gồm có: Ủy ban nhân dân huyện Hữu Lũng
– tỉnh Lạng Sơn, Ủy ban nhân dân huyện Chi Lăng – tỉnh Lạng Sơn, Ủy ban nhân dân
huyện Lạng Giang – tỉnh Bắc Giang, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Lạng Giang – tỉnh
Bắc Giang, Phòng Nội vụ huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn, Phòng Văn hóa – Thể thao và
du lịch Thành phố Lạng Sơn – tỉnh Lạng Sơn, Phòng Tài Chính – Kế hoạch Thành phố
Lạng Sơn – tỉnh Lạng Sơn.
13
Cơ quan hành chính nhà nước cấp xã gồm có: Ủy ban nhân dân xã Sơn Hà – huyện
Hữu Lũng – tỉnh Lạng Sơn, Ủy ban nhân dân xã Mai Pha – Thành phố Lạng Sơn – tỉnh
Lạng Sơn, Ủy ban nhân dân xã Quang Thịnh – huyện Lạng Giang – tỉnh Bắc Giang.
Về đối tượng phát phiếu khảo sát: đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ
quan hành chính nhà nước thuộc địa bàn khảo sát, bao gồm các chuyên viên cao cấp, chuyên
viên chính, chuyên viên, cán sự và nhân viên hiện đang công tác tại cơ quan thực hiện điều
tra khảo sát.
Về thời gian thực hiện điều tra khảo sát: việc thăm dò ý kiến cán bộ, công chức được
tiến hành từ tháng 01 năm 2019 đến tháng 02 năm 2020. Thời điểm này các cơ quan nhà
nước mới hoàn thiện viêc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức hàng năm; do đó việc tiếp
cận đối tượng thăm dò ý kiến sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.
Về số lượng phiếu khảo sát: Theo thống kê của Bộ Nội vụ, tổng biên chế công chức
hưởng lương từ ngân sách nhà nước năm 2019 của các cơ quan, tổ chức hành chính nhà
nước, cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, biên chế công chức dự phòng và biên
chế của các Hội có tính chất đặc thù hoạt động trong phạm vi cả nước là 259.598 biên chế
(không bao gồm biên chế của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng; biên chế công chức trong các
đơn vị sự nghiệp công lập và cán bộ, công chức cấp xã). Trong đó, các cơ quan, tổ chức
hành chính thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức do Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ thành lập mà không phải là đơn vị sự nghiệp công lập là 105.189 biên
chế; các cơ quan, tổ chức hành chính thuộc cơ quan của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh, cấp huyện là 151.906 biên chế; các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước
ngoài 1.068 biên chế; các Hội có tính chất đặc thù hoạt động trong phạm vi cả nước là 686
biên chế; và 749 biên chế là công chức dự phòng.
Theo Phụ lục 3 về Thống kê số lượng biên chế cán bộ, công chức tại các đơn vị thực
hiện khảo sát, tổng số cán bộ, công chức trong các đơn vị được tiến hành khảo sát là 29.387
biên chế. Tổng số biên chế thuộc các đơn vị thực hiện khảo sát chiếm 11,32% so với tổng
biên chế trong cả nước. Với số phiếu phát ra là 400 phiếu trên tổng số 29.387 tổng biên chế
của các đơn vị thực hiện khảo sát, lượng phiếu khảo sát tương đương với 1,35% tổng số
lượng cán bộ, công chức hành chính hiện nay đang làm việc trong các đơn vị tiến hành
14
khảo sát. Trong đó, tổng số phiếu phát ra là 400 phiếu, tổng số phiếu thu về là 387 phiếu,
số phiếu hợp lệ là 382 phiếu, số phiếu không hợp lệ là 5 phiếu.
Về xử lý kết quả khảo sát: Luận văn sử dụng phương pháp thống kê và phần mềm
tin học Microsoft excel để tổng hợp và xử lý kết quả khảo sát. Kết quả khảo sát được tính
theo tỷ lệ phần trăm tổng số phiếu hợp lệ thu về (Phụ lục 1, 2; tr1,4).
- Phương pháp so sánh: Để đánh giá mức độ thành công hay hạn chế của việc thực
hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới triều Lê Thánh Tông, Luận văn sử dụng phương pháp so
sánh để đối chiếu với các triều đại trước và sau đó. Luận văn cũng sử dụng phương pháp
so sánh để tham chiếu lịch sử với hiện tại, so sánh giữa bối cảnh lịch sử, thể chế, mục tiêu
và cách thức thực hiện lệ khảo thí khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông và việc đánh giá cán
bộ, công chức hiện nay. Thông qua đó, Luận văn phân tích những điểm khác biệt để đưa ra
những bài học lịch sử có giá trị vận dụng được trong quá trình thực hiện đánh giá cán bộ,
công chức hiện nay.
- Các phương pháp nghiên cứu khác: Đề tài còn mang tính liên ngành vì có liên quan
đến ngành sử học, hành chính học nên sử dụng các phương pháp nghiên cứu xã hội học,
hành chính học như: phương pháp hành chính so sánh, phương pháp tiếp cận quy phạm
pháp luật,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của nghiên cứu
Ý nghĩa lý luận:
- Phân tích và chứng minh về sự cần thiết của mọi nhà nước, mọi thời đại trong việc
đẩy mạnh sự phát triển của kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó việc xây dựng được đội ngũ
quan lại với hệ thống chính sách hợp lý là một trong những nhiệm vụ thiết yếu. Từ đó lý
giải vì sao các vị vua thời xưa dành sự quan tâm lớn đến việc thể chế hóa quy định nhà
nước, và đưa hoạt động nhà nước vào khuôn khổ pháp luật.
- Đề tài đưa ra một số nhận xét, đánh giá về tác động và hiệu quả của việc áp dụng
thực thi chính sách sử dụng quan lại nói chung, lệ khảo thí, khảo khóa nói riêng trong lịch
sử, từ đó đưa ra sự ảnh hưởng đến đội ngũ quan lại nói riêng và toàn bộ nền hành chính nhà
nước nói chung. Thông qua đó có thể khẳng định rằng, để một quốc gia phát triển cần có
một đội ngũ quan lại có đức có tài, kèm theo đó là chế độ chính sách dành cho quan lại phải
cụ thể, rõ ràng, công khai, minh bạch.
15
- Nghiên cứu đề tài chỉ rõ sự thành công của quá trình cải cách hành chính thời Lê sơ
nói chung và chính sách đối với chế độ quan lại, đặc biệt là lệ khảo thí, khảo khóa trong
việc sử dụng quan lại dưới thời vua Lê Thánh Tông nói riêng. Từ đó gợi ra những bài học
kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho quá trình cải cách hành chính hiện nay nói chung,
đánh giá nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú thêm những kiến thức về
đánh giá đội ngũ quan lại trong lịch sử hành chính nhà nước Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Đưa ra những bài học kinh nghiệm giúp quá trình ban hành chính sách và công tác
quản lý, đánh giá cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay đạt hiệu quả hơn;
- Đề tài nghiên cứu là cơ sở cho quá trình xây dựng, ban hành, thực thi các chính sách
về đánh giá cán bộ, công chức, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,
quản lý hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, lựa chọn được người tài, bố trí sắp xếp đúng
người đúng việc.
7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn “Lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông và bài học kinh nghiệm
cho đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay” được triển khai với bố cục gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về chế độ quan lại và lệ khảo thí, khảo khóa thời
phong kiến ở Việt Nam
Chương 2: Lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497)
Chương 3: Những bài học kinh nghiệm cho công tác đánh giá cán bộ, công chức ở
Việt Nam hiện nay
16
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ QUAN LẠI VÀ LỆ KHẢO THÍ,
KHẢO KHÓA THỜI PHONG KIẾN Ở VIỆT NAM
1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm quan lại
Với nhiều tác giả và nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, ở Việt Nam và trên thế
giới hiện nay có nhiều cách giải thích khái niệm “quan lại”.
Ở nước ngoài, nguồn gốc của từ “quan lại” là từ “mandarin” trong tiếng Pháp, từ
nay được vay mượn từ từ “mandarim” trong ngôn ngữ của người Bồ Đào Nha xuất hiện
năm 1581. Theo tiếng Bồ Đào Nha, “quan” dùng để chỉ các viên chức đứng đầu các cấp
hành chính, các cơ quan chức năng trong bộ máy chính quyền ở Mã Lai, Trung Quốc và
Việt Nam từ năm 1514. Theo Từ điển lịch sử của ngôn ngữ Pháp, “mandarim” là biến dạng
của từ “mandar” với nghĩa là “ra lệnh, tống đạt”, gốc chữ Phạn “mantrin” qua trung gian
tiếng Mã Lai “mantari” có nghĩa “cố vấn Nhà nước”. Từ này xuất hiện trong tiếng Pháp với
nghĩa “cố vấn của Vua, của quan thượng thư”; ở châu Á từ đó có ý nghĩa hiện tại là “viên
chức cao cấp” được dùng ở Trung Quốc, Đông Dương hay Triều Tiên từ năm 1604. Như
vậy, chỉ những người làm quan mới được gọi là “quan lại” chứ không phải tất cả những
người làm việc trong bộ máy nhà nước phong kiến đều được gọi là “quan lại”.
Ở Việt Nam, theo Sổ tay từ ngữ lịch sử - Quan chế thì “quan” là những người làm
việc trong bộ máy nhà nước phong kiến, thực dân từ cấp trung ương đến cấp địa phương
(trấn – tỉnh – phủ – huyện), có phẩm hàm, tước vị, chức sắc, được tuyển bổ chủ yếu bằng
đường khoa cử hoặc bảo cử [13; tr175]. “Lại” (còn gọi là lại viên, lại sử, lại điển, liên thuộc,
thuộc lại, thư lại, thông lại) là viên chức làm việc trong các cơ quan (nha môn) ở triều đình
hoặc các cấp trấn (nếu ở thời Nguyễn là tỉnh), phủ, huyện; có nhiệm vụ thảo giấy tờ, thư
trái, công văn. Lại có thể chuyển thành quan nếu có công lao và thành tích làm việc [13;
tr130].
Theo Từ điển Tiếng Việt, khái niệm “quan lại” do hai thuật ngữ “quan” và “lại” hợp
thành. “Quan” là viên chức có quyền hành trong bộ máy nhà nước phong kiến, thực dân
[29; tr799]. “Lại” gọi chung là viên chức sơ cấp chuyên làm việc bàn giấy trong bộ máy
nhà nước phong kiến [29; tr689].
17
Theo Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, “quan lại” là những người giữ các chức
vụ từ cấp huyện trở lên trong bộ máy nhà nước phong kiến và thuộc địa. Những người điều
hành gọi chung là quan; những người thừa hành gọi chung là lại.
Theo Từ điển Hán Việt, “quan lại” chỉ những kẻ cai trị trong nhà nước phong kiến
nhưng vẫn có sự phân biệt chủ yếu trong bộ máy hành chính giữa “quan” (viên chức chịu
trách nhiệm) với “lại” (kẻ thừa hành).
Có thể thấy rằng, quan niệm chung của nhiều tài liệu, nhiều tác giả cho rằng “quan”
là những người giữ cương vị chỉ huy, điều khiển công việc, trị dân; còn “lại” là những người
thừa hành công việc, giúp quan. Quan do vua tuyển chọn, chỉ định, bổ dụng; là người đứng
đầu trong nha môn; là người quản lý, lãnh đạo. Lại là viên chức thừa hành, là nhân viên
dưới quyền của quan; là người do triều đình hoặc quan lựa chọn, mang tính ổn định để phục
vụ cho công việc vận hành bộ máy hành chính nhà nước phong kiếm. Việc phân biệt “quan”
– “lại” rất quan trọng, có ý nghĩa trong việc thiết lập cơ chế tổ chức và hoạt động của bộ
máy; giới hạn quyền và nghĩa vụ cũng như phạm vi trách nhiệm các đối tượng này.
Khi nhắc đến “quan lại” trong nhà nước phong kiến, các nhà nghiên cứu thường
nhắc đến ba yếu tố: chức quan, phẩm hàm, tước vị. Hàm, phẩm trật, chức, tước để chỉ chức
danh và ngạch bậc của từng chức danh, phân chia cao thấp theo thứ bậc. Chức quan là chức
vụ cụ thể của người làm quan, bao gồm nhiệm vụ của người làm quan phải thi hành ở cương
vị mà mình phụ trách. Ví dụ: chức quan Thượng thư các bộ, Tả Hữu thị lang các bộ, Đô
ngự sử, Hàn lâm Đại học sĩ,… Tước vị là danh hiệu khen thưởng của triều đình, thường
tương đương với từng chức quan, song có khi phẩm tước cao mà chức lại thấp hoặc ngược
lại. Phẩm hàm là cấp bậc cao thấp của quan lại. Phẩm cấp các quan thường được xếp theo
chín bậc từ nhất phẩm đến cửu phẩm; mỗi phẩm lại chia ra làm hai trật: chánh và tòng, cộng
lại thành 18 trật. Hàm thì có hàm Tản quan và Huân hàm. Hàm Tản quan là loại chức danh
cho các quan làm danh hiệu vinh dự, chỉ có hàm, không có nhiêm vụ hay thực quyền. Các
hàm Tản quan cũng có sự phân biệt cao thấp như hàm “Đại Phu” cao hơn hàm “Lang”, hàm
“Thượng tướng quân” cao hơn hàm “Đại tướng quân”. Huân hàm là danh hiệu vinh dự
phong cấp theo công trạng và chỉ phong tặng cho những công thần như Thượng Trụ Quốc,
Chính Trị Thượng Khanh, Thượng Hộ Quân,…
18
Tựu chung lại, khái niệm “quan lại” được hiểu như sau: Quan lại là những người
làm việc trong bộ máy nhà nước quân chủ phong kiến, trong đó “quan” là những
người có phẩm hàm, tước vị, chức vụ được tuyển chọn bằng nhiều phương pháp khác
nhau như: khoa cử, tiến cử, tập ấm,…; còn “lại” là những người được tuyển chọn vào
làm công việc cụ thể nào đó trong các nha môn từ triều đình đến cấp huyện để giúp
việc cho quan.
1.1.2. Khái niệm chế độ quan lại
Chế độ quan lại – hay còn gọi là quan chế, là một trong những nội dung thiết yếu
của các triều đại quân chủ phong kiến trong việc kiến tạo bộ máy nhà nước, xây dựng đường
lối, chủ trương, thực hiện chính sách của vua và triều đình. Sổ tay từ ngữ lịch sử - quan chế
định nghĩa: “Quan chế là những quy định về cách tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của hệ
thống các cơ quan và quan chức từ trung ương đến địa phương của triều đình phong kiến
nói chung” [13; tr175].
Trong Bách khoa toàn thư (mở Wikipedia) thì quan chế là hệ thống định chế pháp
luật được áp dụng dưới thời phong kiến. Còn cuốn Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông đưa
ra khái niệm ngắn gọn “quan chế là chế độ tổ chức quan lại thời phong kiến” [22; tr342].
Như vậy, chế độ quan lại không chỉ là những quy định pháp luật riêng rẽ đối với
quan lại mà còn bao gồm cả việc xây dựng, vận hành theo những quy định chính trị, pháp
luật và đạo đức nhất định; được thể hiện qua những nguyên tắc về tuyển chọn, sử dụng, đào
tạo, quản lý, kiểm tra, sát hạch, chế độ trách nhiệm chính trị, trách nhiệm đạo đức, chế độ
đãi ngộ, chế độ khen thưởng và xử phạt. Cụ thể hơn, chế độ quan lại bao gồm một quy
trình từ tổ chức đến thực hiện các quy định về đào tạo, tuyển chọn, sử dụng quan lại
mà các triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện nhằm xây dựng một đội ngũ quan lại
cho bộ máy hành chính nhà nước (trong sử dụng lại có phân công, sắp xếp bố trí quan
lại; luân chuyển, giản thải; kiểm tra, giám sát; chế độ đãi ngộ và thưởng, phạt quan
lại,…) Chế độ quan lại phản ánh trình độ tổ chức, tầm nhìn, sự sáng tạo, canh tân hay bảo
thủ, trì trệ của một chế độ với thời đại mà yêu cầu lịch sử, đất nước giai đoạn đương thời
đặt ra. Khảo thí, khảo khóa là hoạt động nằm trong chế độ quan lại; là hoạt động kiểm tra,
đánh giá việc thực hiện công vụ của đội ngũ quan lại trong triều.
19
1.1.3. Lệ khảo thí, khảo khóa
Trong Từ điển Tiếng Việt, “Lệ” được hiểu là điều quy định có từ lâu năm trở thành
nền nếp, mọi người cứ theo thế mà làm; là điều được lặp đi lặp lại nhiều lần, tự nhiên đã
thành thói quen [29; tr562].
Theo cuốn Từ điển từ ngữ lịch sử phổ thông, “Lệ” được hiểu là những quy định có
tính tập thể về một việc gì đó để bắt mọi người thực hiện [22; tr264]. Trong nhà nước phong
kiến, Vua chúa phong kiến chủ yếu ban hành những quy định dưới dạng lệnh, khẩu lệnh,
chiếu chỉ, dụ, lệ,… bắt buộc thực hiện trong toàn bộ vùng lãnh thổ của mình, có tính chất
tương tự như hệ thống pháp luật ngày nay. Như vậy, có thể thấy rằng, trước khi pháp luật
được ban hành thành văn bản, triều đình phong kiến ban hành quy định dưới dạng lệnh,
chiếu chỉ, dụ, lệ,… để đảm bảo tính bắt buộc và thống nhất trong việc thực hiện quy định
chung của nhà nước. Do vậy, “Lệ” dưới thời phong kiến được hiểu tương tự như “pháp
luật” hiện nay.
Theo cuốn Sổ tay từ ngữ lịch sử – Quan chế, “Khảo thí” là khoa thi không theo chính
kỳ, không định học vị nhằm tuyển chọn nhân tài ra làm quan hoặc phân định trình độ của
quan lại nói chung; “khảo khóa” là kỳ thi kiểm tra xem xét đạo đức, tư cách, trình độ, năng
lực của đội ngũ quan lại trong triều [13; tr120].
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, “khảo khóa là hình thức sát hạch định kì các
quan lại về năng lực và phẩm chất trong các vương triều phong kiến Việt Nam” [42; tr493]
Thời hạn khảo khóa thay đổi theo từng triều đại và triều vua (có thể từ 1 đến 15 năm một
lần). Thời Lê – Trịnh phổ biến là ba năm, chia thành hai giai đoạn: sơ khảo (xét công trạng
hàng năm) và thông khảo (sau ba năm). Cấp trên xem xét cấp dưới. Bộ Lại là cơ quan quyết
định kết quả khảo khóa. Trường hợp đặc cách, không cần phải đợi đến niên hạn. Tiêu chuẩn
xét duyệt thường dựa vào việc hoàn thành trách nhiệm (thuế hộ đủ hay thiếu), năng lực cai
trị (việc kiện tụng ít hay nhiều), tín nhiệm của dân chúng (nhân dân yêu mến hay kêu ca),
phẩm chất đạo đức (không mắc lỗi hay mắc lỗi, thanh liêm hay tham nhũng). Thời Lý, xếp
các quan chức thành các hạng: người có văn học, người có nết tốt, người siêng năng. Thời
Lê – Trịnh, chia thành 3 bậc: thượng (tốt), trung (trung bình), hạ (xấu). Căn cứ vào kết quả
xếp loại, quyết định thưởng phạt với các hình thức: thăng chức (từ 1 đến 2 bậc), thưởng
tiền, biếm giảng (từ 1 đến 2 bậc), đổi đến nơi ít việc, buộc về hưu, bãi chức… [42; tr493].
20
Theo Đại từ điển tiếng việt, “khảo” là kiểm tra, tra cứu để xem xét [45; tr888];
“khóa” là kì thi, thời gian ấn định cho một nhiệm kỳ công tác, học tập [45; tr907]. Do đó,
khảo khóa quan lại là xem xét, đánh giá toàn bộ hoạt động trong một thời gian nhất định
giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước phong kiến.
Trong Từ điển Hán Nôm, “khảo thí” được hiểu là một tổ chức thi cử để kiểm tra,
đánh giá kiến thức, kỹ năng, năng lực, hay thái độ bằng một quy trình chặt chẽ.
Tóm lại, có thể hiểu rằng, lệ khảo thí, khảo khóa thực chất là việc đánh giá, xem
xét trình độ hiểu biết, quan điểm trị quốc và hiệu quả công việc của quan lại theo định
kì, theo khóa. Trong đó “khảo thí” là khoa thi không theo chính kỳ, không định học
vị nhằm tuyển chọn nhân tài ra làm quan hoặc phân định trình độ của quan lại nói
chung; “khảo khóa” là kỳ thi kiểm tra xem xét đạo đức, tư cách, trình độ, năng lực
của đội ngũ quan lại trong triều [13; tr120].Có thể hiểu một cách đơn giản nhất, khảo thí
là một khoa thi không chi dành cho những người đang làm quan mà còn dành cho các học
sĩ, nhằm mục đích vừa để đánh giá trình độ của quan lại, vừa để lựa chọn kẻ sĩ làm quan
phục vụ triều đình; còn khảo khóa là những kỳ thi được thực hiện theo kì hạn cụ thể với
mục đích chính là sát hạch đội ngũ quan lại đang làm việc trong triều đình. Thông qua các
kỳ khảo thí, khảo khóa sẽ thấy rõ kết quả thực hiện công việc của quan lại trong thực tế để
đánh giá đạo đức, tư cách và trình độ, năng lực của quan lại. Quan lại là cánh tay nối dài
của triều đình đến các địa phương, lựa chọn được người xứng đáng để nhận trách nhiệm và
chịu trách nhiệm với công việc thực hiện cần phải dựa vào cả trình độ năng lực và phẩm
chất đạo đức. Quá trình làm quan khó tránh khỏi sự thay đổi về tư duy, nhận thức; đồng
thời cũng có nhiều cám dỗ và sự tha hóa; việc đánh giá, xem xét quan lại định kì là cần
thiết. Lệ khảo thí, khảo khóa nhằm đánh giá ưu khuyết điểm, sai phạm của quan lại; qua đó
xác định tài năng và đức độ của quan lại, vừa để làm căn cứ thưởng – phạt và điều chuyển
quan lại; vừa để nhắc nhở quan lại cần phải tận tâm hơn với trách nhiệm của mình trong thi
hành công vụ.
Như vậy, việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa trong nhà nước phong kiến cũng
tương tự như hoạt động đánh giá cán bộ, công chức trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
Nói đến phép khảo khóa, trong Lịch triều hiến chương loại chí – Tập I, Phan Huy
Chú có bình luận: “Giao cho trách nhiệm một địa phương và tính mạng của nhân dân mà
21
để mặc cho họ dựa dẫm lui tới, lấy đầy xe mang về, thế thì không để tiếng xấu cho quan
trường mà làm đau khổ cho dân, thì ít cũng thấy vậy. Cho nên chính sách yên dân chẳng gì
hơn việc chấn chỉnh quan trường, tất phải khảo công, để xét rõ người hơn người kém mà
thăng giáng cho rõ ràng thì liêm sỉ riêng đường, chính hóa đi khắp. Việc cốt yếu cho nước
thịnh trị của bậc đế vương, không vượt qua điều ấy được” [3; tr102].
1.2. Sơ lược về chế độ quan lại và lệ khảo thí, khảo khóa thời phong kiến ở
Việt Nam
1.2.1. Sơ lược về chế độ quan lại
1.2.1.1. Chế độ tuyển chọn quan lại
Trong tuyển chọn, các triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện nhiều phương pháp
để lựa chọn được quan lại. Các hình thức tuyển chọn quan lại đều được thực hiện công
minh, chính trực nhằm không bỏ sót, không dùng nhầm người. Tùy từng triều đại mà cách
lựa chọn nhân tài mỗi thời một khác. Ngoài chế độ tập ấm có từ thời xưa và chế độ khoa
cử đặt ra từ triều Lý thì các triều Trần, Lê còn có chế độ tiến cử và bảo cử, phàm các quan
to ai cũng phải cử một người có tài đức hoặc người có danh vọng để triều đình bổ dụng.
Chế độ nhiệm tử (tập ấm)
Nhiệm tử (hay còn gọi là tập ấm) là hình thức tuyển chọn quan lại xuất hiện sớm
nhất ở nước ta, trở thành một tập quán chính trị theo kiểu “con vua thì lại làm vua”. Ấm là
phúc đức, ân huệ của cha ông ta để lại [29; tr17]. “Tập ấm là việc gia ân của vua đối với
con cháu của các quan lại có công tích, sau khi chết tùy cào chức tước, phẩm trật của cha
ông mà được cấp bằng ấm sinh, ấm thụ, ấm tôn để đào tạo làm quan, thường là có kỳ hạn”
[13; tr204].
Theo lệ này, con cháu nhờ vào ân trạch của cha ông mà được tuyển bổ vào một chức
quan nào đó. Trường hợp không có con trai thì được phép nhận nuôi một người thân thích
trong họ để cho hưởng tập ấm. Ví dụ, thời Lê sơ, năm 1460 ra sắc chỉ cho các quan trong
ngoài rằng: “Viên nào con đáng được tập ấm mà không có con trai thì cho nuôi con người
thân thích cùng họ, chỉ được 1 người tập ấm” [5; tr391]; năm 1478 định lệ bổ dụng con
cháu quan viên. Phàm cháu trưởng các tước công, hầu, bá, tử, nam và con trưởng quan văn
võ nhị, tam phẩm thì bổ làm tản quan tứ, ngũ, lục, thất, bát, phẩm. Gián hoặc có người ít
22
tuổi chăm học thì tuyển vào Sùng văn quán, Lại bộ chọn bổ làm các chức điển nghĩa, tư
huấn [3; tr674].
Các triều Lý, Trần có lệ thừa ấm, hễ con các quan thì lại được bổ làm quan. Ở triều
Lê vẫn có lệ thừa ấm, có khoa nhiệm tử, cốt lấy con các quan mà bổ dụng. Triều Nguyễn
cũng có lệ tập ấm, phàm quan chính nhất phẩm thì còn được tập ấm theo hàng tùng lục, gọi
là ấm thọ, đó là bậc cao nhất; còn bậc thấp nhất thì các quan tùng ngũ được một người con
tập ấm gọi là ấm sinh. Tuy nhiên, phép thế tập ở nước ta không giống như phép thế tập của
quý tộc các nước châu Âu diễn ra trong thời gian dài, vì lệ tập ấm ở nước ta thời phong kiến
chỉ hưởng được một hai đời... Thực tế cho thấy rằng, chế độ tập ấm ở Việt Nam thời phong
kiến chỉ có tính chất như một phần thưởng để động viên quan lại, chứ không phải nguồn
chính để tuyển dụng người vào bộ máy nhà nước.
Chế độ khoa cử (thi cử)
Trong các con đường vào quan trường thời phong kiến thì chế độ khoa cử là chủ yếu
nhất và rộng rãi nhất. Chế độ này bắt đầu được đặt ra từ triều Lý và kéo dài đến khi chế độ
phong kiến suy vong. Thời gian đầu, việc tổ chức các kỳ thi còn chưa ổn định. Thời nhà Lý
khoảng 12 năm mới có một khoa thi được tổ chức. Đến năm Kỷ Hợi (1239) đời Trần Thái
Tông, lệ thi mới được định 7 năm diễn ra một lần. Sang nhà Lê đời vua Thái Tông đã đổi
lại 3 năm một kỳ thi. Khoa cử được chấp nhận và thực hiện suốt cả một thời kỳ Hậu Lê cho
tới cuối thời nhà Nguyễn.
Mỗi khoa thi thời phong kiến gồm 3 cấp là: thi Hương, thi Hội và thi Đình. Thi
Hương là thi ở các địa phương. Thi Hội là về kinh đô. Sau khi đỗ thi Hội thì được vào sân
rồng của vua thi với đề bài có thể do đích thân vua soạn – đây là kỳ thi Đình. Việc tổ chức
các khoa thi thời phong kiến đều nhằm mục đích chung là lựa chọn nhân tài cống hiến cho
sự phát triển của quốc gia; tuy nhiên các khoa thi được thực hiện khác nhau giữa các vương
triều từ thời gian thực hiện, đối tượng thực hiện đến người tổ chức thực hiện các khoa thi
đó. Nhìn chung, nội dung các đề thi thường hỏi về ý nghĩa kinh sách Nho giáo, thi làm thơ
phú, trình bày quan điểm về đạo trị nước… Những người đỗ thi Hội trở lên được gọi là
Tiến sĩ và có thể được bổ dụng các chức quan cao cấp trong triều đình.
Chế độ khoa cử bắt đầu từ năm 1075 đời vua Lý Nhân Tông. Dưới thời Lý, khoa cử
chủ yếu là chế khoa – những khoa thi mở bất thường theo chiếu chỉ của nhà vua (suốt 216
23
năm triều Lý chỉ tổ chức có 6 kỳ thi). Đến triều Lê, khoa cử chủ yếu là thường khoa (mở
theo thông lệ). Triều Lê sơ dùng khoa cử với mục đích tuyển chọn đội ngũ quan lại có đức
có tài: “Muốn có được nhân tài, trước hết phải lựa chọn kẻ sĩ, mà phép lựa chọn kẻ sĩ trước
hết phải lấy thi cử làm đầu. Nhà nước ta từ thuở xưa loạn lạc, người anh tài như lá mùa
thu, bậc tuấn kiệt như sao buổi sớm. Thái Tổ buổi đầu dựng nước, mở mang nhà học, dùng
cỗ Thái lao để tế Khổng Tử, rất mực sùng Nho, trọng đạo. Nhưng vì nước mới dựng nên
chưa kịp đặt khoa thi. Trẫm nối theo chí hướng người xưa, lo được nhân tài để thỏa lòng
mong đợi” [5; tr319]. Nhà Lê sơ – triều đại đầu tiên trong lịch sử phong kiến đã lần lượt
ban hành các thể lệ, nguyên tắc về thi cử, trở thành chế độ của Nhà nước: “Nay định rõ thể
lệ khoa thi, kỳ thi: Bắt đầu từ năm Thiệu Bình thứ 5 (1438), thi hương ở các đạo, năm thứ
6, thi hội ở sảnh đường tại kinh đô. Từ đấy về sau, cứ 3 năm một lần thi lớn, coi đó làm quy
định lâu dài, người nào thi đỗ đều được ban danh hiệu tiến sĩ xuất thân…” [5; tr319]. Trong
suốt 100 năm, với nguyên tắc “hữu giáo vô loài”, triều Lê sơ đã xây dựng đội ngũ quan lại
bằng khoa bảng nổi trội hơn các giai đoạn phong kiến trước và sau đó, cả về chất lẫn lượng.
Thời Lê sơ tổ chức được 31 khoa thi (với 1007 tiến sĩ) trong tổng số 182 khoa thi (với 2898
tiến sĩ) của cả thời kỳ lịch sử phong kiến.
Khoa cử tiếp tục được thực hiện trong các triều đại về sau, khoa thi cuối cùng diễn
ra ở Bắc Kỳ năm 1915 và Trung Kỳ năm 1918 triều Khải Định nhà Nguyễn. Trong gần
1000 năm chế độ khoa cử phong kiến Việt Nam, đã có hàng ngàn vị Tiến sĩ và 55 Trạng
nguyên được ghi danh, thể hiện rõ ràng con đường khoa cử là con đường rộng rãi để các sĩ
phu bước vào quan trường hành đạo giúp đời.
Chế độ tiến cử - bảo cử
Chế độ tiến cử và bảo cử thực chất tương tự như nhau chỉ khác về hình thức. Tiến
cử là bản thân người tự tiến cử thấy mình có đủ tài năng, đức độ, đáp ứng được yêu cầu của
công việc thì cự tiến cử mình. Triều đình quyết định chọn lấy người tài đức hơn hẳn mà
không cứ vào thân phận. Bảo cử (hay còn gọi là được tiến cử) là một người muốn ra làm
quan cần phải có người khác (có danh vọng, đang làm quan trong triều) giới thiệu và chịu
trách nhiệm đảm bảo về tài đức của người mình tiến cử trước triều đình.
Theo lệ này, những người tài đức có nguyện vọng gánh vác công việc chung sẽ đươc
nhà vua trọng dụng mà không phải trải qua bất cứ kỳ thi hay sát hạch nào. Điều này rất
24
quan trọng và có ý nghĩa to lớn nhằm khắc phục kịp thời việc thiếu người làm việc trong
bộ máy nhà nước, nhất là trong giai đoạn mới lập nên triều đại, hay trong những hoàn cảnh
xã hội biến động, còn nhiều rối ren không thể tổ chức khoa cử. Với việc bảo đảm bằng uy
tín và trách nhiệm của người tiến cử, người được tiến cử phải là những người có tài năng,
đức độ thực sự, đã có kinh nghiệm quan trường cũng như khả năng thực tế đáp ứng được
yêu cầu công việc đặt ra.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép: “Tiến cử người hiền tài, loại bỏ kẻ bất
tiếu, đó là việc lớn của chính trị. Cho nên, dùng người tài không lưỡng lự, bỏ kẻ gian không
chần chừ… Kể từ nay, các nha môn trong ngoài, nếu có ai liêm khiết, có tài, trung thực
đáng khen thưởng cất nhắc, cùng những kẻ tham lận bỉ ổi, không làm nổi việc, đều phải xét
rõ sự thực, kê tên tâu lên. Ai dám a dua theo nhau, hay vì thù riêng, trao đổi đút lót, mà xếp
đặt không đúng thì sẽ bị trị tội nặng không tha” [5; tr532].
Ngay khi vừa phục hồi nền độc lập cho đất nước, năm 1429, vua Lê Thái Tổ đã
xuống chiếu định rằng các đại thần từ tam phẩm trở lên có bổn phận tiến cử người hiền tài
“hoặc ở trong triều, hoặc ở thôn quê, hoặc đã làm quan, hoặc chưa làm quan…Nếu cử
được người có tài bực trung thì thăng tước hai bậc, nếu cử được người tài đức đều giỏi,
hơn hết mọi người, thì tất được thưởng hậu…” [6; tr72].
Đến thời Lê Thánh Tông, việc tiến cử hay bảo cử được quản lý chặt chẽ bằng luật.
Điều 174 Bộ luật Hồng Đức: “Người bảo cử phải lập hồ sơ về người được bảo cử trình lên
Lại bộ xét. Các quan đứng đầu các nha, môn có chức khuyết, đề cử người mình thấy xứng
đáng với chức đó về Bộ lại. Các quan ở Lại khoa và Ngự sử đài đều ghi chép bản đề nghị
đó, nếu sau này người được đề cử tỏ ra không xứng đáng thì người đề cử sẽ bị trị tội”. Bộ
luật cũng quy định mức hình phạt đối với những ai bảo cử quan lại không xứng chức:
"Những người làm nhiệm vụ cử người mà không cử được người giỏi thì bị biếm hoặc bị
phạt theo luật nặng nhẹ; nếu vì tình riêng hoặc lấy tiền mà bảo cử thì xử tội nặng thêm hai
bậc” [33; tr87].
Từ đời Hồng Đức đến thời Lê Trung Hưng, việc bảo cử được hoàn thiện thêm. Năm
1671, vua Lê Huyền Tông định rằng các quan nhị phẩm có thể tiến cử bốn người, quan từ
lục phẩm đến bát phẩm được tiến cử hai người, tên được kê khai giao cho bộ Lại xét tuyển.
25
Sang thời Nguyễn, dưới triều Minh Mạng, nhà vua rất chú trọng đến lệ bảo cử, đã
ban hành những qui định cụ thể như: các Thượng thư (chánh nhị phẩm) được tiến cử người
giữ chức Bố chánh (chánh tam phẩm); Tham tri lục bộ và Phó Đô ngự sử (cùng tòng nhị
phẩm) được tiến cử người giữ chức Án sát (chánh tứ phẩm); Thị lang lục bộ (chánh tam
phẩm) và ấn quan tam phẩm được tiến cử người giữ chức Tri phủ (tòng ngũ phẩm), đồng
Tri phủ (chánh lục phẩm)… Nhiều quan lại thuộc diện có quyền tiến cử nhưng ngần ngại,
không dám tiến cử vì sợ nhầm người, sẽ bị khiển phạt. Mặt khác, tiến cử những người bất
tài, vô hạnh (không có đức) cũng sẽ bị trừng phạt. Điều này cũng đã từng xảy ra: năm 1836,
khi phủ Hoài Đức khuyết chức Tri phủ, Tham tri bộ Hộ là Vũ Đức Khuê tiến cử người quen
biết là Tri huyện Tô Ngọc Huyền vào chức này. Khoa đạo thấy Ngọc Huyền không phải là
người trong sạch, cẩn trọng mà Đức Huyền cũng cố tiến cử, bèn hặc tấu vua. Vua Minh
Mạng ban chỉ sai Đức Khuê tâu rõ lại, sau thấy tờ tấu có nhiều chỗ chống chế gượng gạo,
không nhận lỗi, liền giao cho bộ Hình bàn xử. Cuối cùng Đức Khuê đang từ hàm tòng nhị
phẩm, bị giáng 3 cấp xuống làm Lang trung, hàm chánh tứ phẩm [15].
1.2.1.2. Chế độ sử dụng quan lại
Phân công, sắp xếp bố trí quan lại
Trong lịch sử phong kiến nước ta, các vương triều đã đặt ra các chức quan, tuyển
chọn và phân công nhiệm vụ trong triều đình. Mỗi triều đại lại có tổ chức bộ máy triều đình
và địa phương; chức tước, phẩm cấp dành cho quan lại khác nhau. Tuy vậy, các chức quan
chưa thực sự được giao nhiệm vụ rõ ràng cụ thể. Cho đến triều Lê, với cuộc cải cải hành
chính lớn và dụ Hiệu định quan chế của Lê Thánh Tông, ông đã cải cách lại bộ máy chính
quyền trung ương, quy định rõ chức trách của đội ngũ quan lại. Lê Thánh Tông không
những chỉ định rõ những phẩm cấp dành cho quan lại, nhiệm vụ của các tự, các khoa mà
ông còn quy định rõ cơ cấu tổ chức của từng bộ, từng khoa với những chức danh cụ thể.
Phan Huy Chú có bình: “Từ đời Trần trở về trước, chức nào giữ việc gì, không thể khảo
cứu rõ được. Đại khái bộ, viện, sảnh, cục đều có chức việc, nhưng xem ở sử thì sơ lược
không đủ căn cứ. Duy từ đời Lê về sau, mỗi đời có quy tắc đặt thêm, chức ty đều có phân
biệt, mới có chứng cứ để tham khảo” [3: tr573]. Các nhà sử học thường lấy chế độ phân bổ
và sắp xếp quan lại triều Lê như một cơ sở lịch sử để tìm hiểu về việc tổ chức bộ máy quan
26
lại trong triều đình thời xưa. “Vậy nay chép từ đời Diên Ninh triều Lê trở xuống, kế đến chế
độ do các đời sửa sang thêm, rồi về trước cũng có thể do đó mà suy” [3; tr573].
Các triều đại phong kiến Việt Nam thường dựa vào tiêu chí dân số để quy định về
số lượng quan lại. Thời vua Lê Thánh Tông quy định: từ 500 hộ trở lên có 5 xã trưởng; 300
hộ có 4 xã trưởng; 100 hộ có 2 xã trưởng, dưới 60 hộ cử 1 xã trưởng. Năm 1839 thời vua
Minh Mạng thứ 20, lấy số lượng và nhu cầu công việc là tiêu chí cơ bản để quyết định biên
chế, phân bổ số quan lại, các chức trách của quan, lại dần được chuyên môn hóa. Trong chỉ
dụ vua Minh Mạng năm 1831 có viết “Bắc thành 11 trấn rất rộng... việc nhiều, các địa
phương ấy các việc quân dân, kiện tụng, tiền lương, thuế khóa, thực là bề bộn. Cần phải
chiểu theo địa hạt chia người coi giữ có chuyên trách”. Nói theo ngôn ngữ ngày nay thì
người xưa đã dựa vào việc để định số lượng người chứ không phải dựa vào lượng người để
định việc, đã áp dụng chế độ “công vụ theo việc làm” [16].
Bên cạnh đó, pháp luật phong kiến Việt Nam còn áp dụng “Luật hồi tỵ” đối với quan
lại bắt đầu từ triều Lê sơ, sau đó triều Nguyễn có thêm những quy định chặt chẽ và rõ ràng
hơn. “Hồi tỵ” nghĩa là tránh ra, hay lánh đi. Theo đó, những người có quan hệ huyết thống,
đồng hương, thầy trò, bạn bè không được cùng làm quan hay làm việc ở một địa phương,
công sở. Nội dung chính của “hồi tỵ” là: quan lại không được lấy vợ, kết làm thông gia với
người ở nơi mình cai quản; không đưa quan lại về quê hương, bản quán nhậm trị; quan lại
không được tậu đất, vườn, ruộng, nhà tại nơi cai quản; quan lại không được lấy người cùng
quê làm người giúp việc; người có quan hệ thầy trò, bạn bè không được làm việc tại cùng
một nơi. Trong Chiếu tháng 9 năm 1488 của Hồng Đức có quy định việc sắp đặt quan lại
tránh quan hệ họ hàng: “Khi xét đặt xã trưởng, hễ là anh em ruột, con chú bác và bác cháu,
cậu cháu với nhau thì chỉ có một người làm xã trưởng, không được cùng làm để gây mối tệ
bè phái hùa nhau”. Những quy định này nhằm tạo nên một chế độ quan lại liêm chính,
không bị chi phối bởi quan hệ họ hàng, dòng tộc, làng – xã mà làm sai lệch việc công hay
tham nhũng.
Thời vua Minh Mạng quy định: quan vào chầu triều mà bàn đến việc có liên quan
đến địa phương mình thì phải tránh mặt. Lại dịch ở tất cả các nha môn, hễ có bố con, anh
em ruột, anh em con chú bác cùng làm phải đổi nơi khác (trừ Thái y viện không hồi tỵ, vì
nghề thuốc nên cha truyền con nối). Lại dịch ở các nha mà người cùng làng cũng phải đổi
27
đi nơi khác, lại ở huyện nào thì không được làm ở đấy. Người làm quan không được làm
quan ở chính quán, trú quán, quê vợ, thậm chí nơi lúc nhỏ đi học. Đây chính là chế độ bảo
đảm cho sự khách quan, trung thực trong giải quyết các công việc của nhà nước, tránh thiên
vị, nể nang, hay thù oán, làm mất tính khách quan khi đưa ra các quyết định.
Luân chuyển, giản thải quan lại
Đối với đội ngũ “quan”, nhà nước phong kiến Việt Nam áp dụng chế độ thuyên
chuyển, điều động; nhưng “lại” thì giữ ổn định, áp dụng chế độ "quan khứ nha tồn” – “quan”
thì thực hiện luân chuyển điều động giữa các vùng, còn “nha” (tức “lại”), thì giữ ổn định
tại vùng đó. Để tạo môi trường mới, phát huy được tính năng động, sáng tạo của người làm
quan, đồng thời để tránh những trì trệ, hoặc kéo bè, kéo cánh, phe phái, tham nhũng, nhà
nước phong kiến Việt Nam đã áp dụng chế độ thuyên chuyển các quan. Nhưng việc thuyên
chuyển chỉ thuần túy là thuyên chuyển về không gian, địa điểm làm quan, mà không chuyển
tính chất công việc làm quan, ví dụ quan tri phủ ở phủ này chuyển đi làm tri phủ ở phủ
khác, hoặc làm tri huyện.
Chế độ luân chuyển quan lại, theo sử cũ có từ thời Ngô Quyền. Sau chiến thắng Bạch
Đằng năm 938, Ngô Quyền xưng vương, những quan lại thân cận được phân phong về các
địa phương cai trị. Hoạt động luân chuyển quan lại dưới thời Lý trở nên rõ ràng, diễn ra đa
chiều hơn các thời kỳ trước đó. Việc luân chuyển có thể diễn ra đối với từng vị trí ở trung
ương, có thể là sự điều động từ trung ương xuống địa phương và ngược lại. Các địa phương
quan trọng đều do quan lại cao cấp ở trung ương điều về, sau một khoảng thời gian lại được
điều động về kinh, kèm theo đó thường là sự gia phong chức tước. Hoạt động thăng giáng
diễn ra bình thường, có công được phong, có tội bị giáng, thậm chí bị cách hết mọi chức
tước, nhưng sau đó lại vẫn có thể được phục hồi như cũ. Dưới thời Trần, việc luân chuyển
quan lại diễn ra thường xuyên hơn, được thực hiện bằng các quy định cụ thể của Nhà nước.
Dưới thời Lê Thái Tổ, do không được kế thừa trực tiếp tổ chức bộ máy nhà nước
của triều đại trước, nên ngay sau khi giành được độc lập, công tác xếp đặt quan lại được
tiến hành khẩn trương. Đến thời Lê Thánh Tông, việc luân chuyển quan lại được xác lập
thành một chính sách rõ ràng. Năm Quang Thuận thứ 8 (1467), Lê Thánh Tông quy định
“người nhận chức ở tại nơi biên giới xa phải đủ 9 năm mới được đổi về các huyện dưới
kinh” [5; tr242]. Đến đầu năm sau (1468), thể lệ điều động quan lại giữa các địa phương
28
được sửa lại, theo đó, những quan viên nhậm chức biên cương xa xôi, nếu hoàn thành nhiệm
vụ thì “đủ hạn 6 năm thì cho chuyển về nơi đất lành” còn nếu không hoàn thành nhiệm vụ
thì “lại phải bổ đi miền biên cương xa, đủ 6 năm nữa mới được quyết định lại” [5; tr423].
Việc điều động quan địa phương một mặt đảm bảo chính sách đãi ngộ thỏa đáng, mặt khác
cũng chú trọng luân chuyển liên tục để tránh sự cát cứ lộng hành. Chính yếu tố này góp
phần làm vững mạnh, trong sạch bộ máy quan lại dưới thời Lê Thánh Tông, một yếu tố góp
phần vào sự hùng mạnh của quốc gia Đại Việt thời kỳ này.
Quan lại nếu không đáp ứng được nhu cầu của nhà nước, hoặc bất tài đều bị bãi. Lệ
thải quan viên gồm 3 điều ban bố vào năm Hồng Đức thứ 9 (1478) chỉ rõ, quan viên nếu
“hèn kém... đần độn bỉ ổi, không làm nổi việc” thì “đều bắt phải nghỉ việc”; chọn người “có
tài năng, kiến thức, quen thạo việc mà bổ vào thay”. Những quan xét người hay dở mà sai
sự thực thì “Ngự sử đài, Lục khoa, Hiến ty kiểm xét hoặc tâu để trị tội” [5; tr472].
Khi thấy bộ máy quan lại phình to, tốn kém thì vua chủ trương giảm bớt bằng cách
tiến hành rà soát đội ngũ quan lại, những ai đã từng phạm tội, hối lộ, đã bị xử biếm, giáng...
mà còn đang đương chức thì cho thôi việc, để triệt quan tham nhũng, cho bớt lộc. Lê Thánh
Tông thực hiện chế độ nghỉ việc đối với quan lại lớn tuổi, thể hiện trong sắc chỉ ngay từ
năm thứ ba sau khi lên ngôi “các quan viên văn võ làm việc đến 65 muốn nghỉ việc, các lại
điển, giám sinh, nho sinh, sinh đồ tuổi từ 60 trở lên muốn về làm dân, thì đều cho người đó
nộp đơn ở Lại bộ”. Điều này vừa thể hiện sự đãi ngộ của triều đình, vừa tạo cơ hội để trẻ
hoá, nâng cao chất lượng đội ngũ quan lại.
Kiểm tra, giám sát quan lại
Việc thực hiện kiểm tra, giám sát nhằm đánh giá đội ngũ quan lại trong lịch sử phong
kiến được thực hiện bắt đầu từ triều Lý. “Lý Anh Tông, năm Đại Định thứ 23 (1162), khảo
khóa các quan văn võ, không có tội lỗi thì được thăng trật, cứ 9 năm một khóa, định làm
phép thường. Cao Tông, năm Trinh Phù thứ 4 (1179), xét công các quan, lấy những người
văn học tài cán làm một loại, những người tài cao nết tốt, biết suốt việc xưa nay làm một
loại, những người không thông văn học mà siêng năng tài cán làm một loại, sai trị dân
quản dân. Quan đều đáng tài, không có nhũng lạm” [3; tr692]. Dưới triều Lý, lần đầu tiên
trong lịch sử phong kiến nước ta thực hiện khảo công (sau gọi là khảo khóa) đội ngũ quan
lại với niên hạn 9 năm một lần.
29
Nhà Trần cũng rất chú trọng xây dựng các cơ quan kiểm tra, giám sát đội ngũ quan
lại. Ở Triều đình có Ngự sử đài – cơ quan thực hiện chức năng giám sát; bên cạnh đó còn
có các Đăng văn kiểm sát viện và các quan Gián nghị đại phu. Các ngạch quan xử án gọi
là Kiểm pháp quan được lựa chọn trong số những quan lại thanh liêm. Sau chiến tranh
chống quân Nguyên – Mông, triều Trần còn tăng cường thêm bộ phận kiểm tra, giám sát ở
các phủ, lộ, đặt thêm các Ty liêm phóng.
Bằng việc thực hiện chế độ khảo công các triều đại đánh giá và xem xét năng lực,
trình độ, thái độ của đội ngũ quan lại trong triều. “Trần Thái Tông, năm Thiên Ứng Chính
Bình thứ 15 (1246), xét quan văn võ trong ngoài, 15 năm một lần xét, định 10 năm gia tước
một cấp, 15 năm gia chức một bậc. Quan nào khuyết thì lấy chức chánh kiêm chức phó;
chánh phó đều khuyết thì lấy quan khác thay thế, đợi đủ niên hạn mới cho thực thụ” [3;
tr692].
Đến thời vua Lê Thánh Tông, hệ thống cơ quan thực hiện giám sát dày đặc, với cơ
chế chặt chẽ và biện pháp quyết liệt nên việc thực hiện kiểm tra, giám sát đem lại hiệu quả
cao hơn. Với cách thức tổ chức bộ máy hành chính nhà nước gồm Lục bộ, Lê Thánh Tông
cho lập ra Lục khoa và Ngự sử đài để thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát công việc Lục
bộ. Lục khoa gắn liền với công việc của Lục bộ là: Lại khoa, Lễ khoa, Hộ khoa, Binh khoa,
Hình khoa và Công khoa. Hệ thống cơ quan Ngự sử đài gồm Ngự sử đài ở trung ương và
Giám sát ngự sử ở 13 thừa tuyên. Với các cơ quan kiểm tra, giám sát như vậy ông đã kiểm
tra, giám sát chặt chẽ bộ máy hành chính ở tất cả các cấp.
Bộ máy kiểm tra, giám sát dưới triều vua Lê Thánh Tông thực hiện nhiệm vụ can
gián nhà vua, giám sát việc làm của các quan; xem xét việc xử các vụ án và tham gia tuyển
chọn đội ngũ quan lại. Việc tuyển chọn quan lại do Bộ Lại chịu trách nhiệm chính, Ngự sử
đài xem xét, kiểm tra. Trong quá trình làm việc, quan lại Thừa ty, Hiến ty xét công, tội các
quan phủ, huyện để trình lên Bộ Lại sau khi thực hiện việc khảo khoá tại các địa phương,.
Ngự sử đài xét công, tội của của quan lại các xứ.
Khảo thí, khỏa khóa là một biện pháp tiến hành nhằm thực hiện kiểm tra, giám sát
quan lại được nhiều vương triều thực hiện trong thời phong kiến. Đây là cách thức kiểm tra
trình độ, năng lực, kiến thức, kỹ năng và phẩm chất đạo đức của đội ngũ quan lại mang lại
hiệu lực, hiệu quả cao trong quá trình đội ngũ quan lại thực hiện nhiệm vụ. Dưới thời Lê
30
Thánh Tông, kết quả khảo thí, khảo khóa còn là cơ sở cho việc thực hiện các chế độ thăng
– giáng, thưởng – phạt quan lại trong triều. Do vậy, lệ khảo thí, khảo khóa được thực hiện
đều đặn theo niên hạn ba năm một lần.
Như vậy, dưới triều Lê Thánh Tông, việc thực hiện cải cách hành chính không chỉ
làm hoàn thiện hơn bộ máy nhà nước, quy định cụ thể, rõ ràng chức năng, nhiệm vụ từng
cơ quan, bộ phận mà còn đặt ra những chế độ quan lại nghiêm ngặt, nhất là trong việc thực
hiện kiểm tra, giám sát quan lại. Việc kiểm tra, giám sát quan lại được Vua Lê Thánh Tông
đặc biệt quan tâm bằng việc định ra phép khảo khóa, khảo thí để đánh giá trình độ, năng
lực, phẩm chất quan lại theo niên hạn, lấy đó làm cơ sở thăng giáng chức quan và ban bổng
lộc.
Sau triều Lê Thánh Tông, các triều đại về sau cũng theo lệ thực hiện lệ khảo thí,
khảo khóa để kiểm tra, giám sát nhằm đánh giá thường xuyên trình độ, năng lực và phẩm
chất của đội ngũ quan lại trong triều. Tuy vậy, mỗi triều đại có niên hạn và cách thức cũng
như nội dung thực hiện khảo thí, khảo khóa khác nhau.
Chế độ đãi ngộ và thưởng, phạt quan lại
“Lệ bổng lộc buổi đầu nhà Trần, cấp bậc chưa tường, nói là theo thứ lớp ban cấp,
quy chế cũng không khảo được” [3; tr643]. Từ triều vua Lê Thánh Tông trở đi, bổng lộc
của quan lại được quy định theo chức tước, phẩm hàm và theo khối lượng công việc, trả
lương theo việc làm và công trạng. Bên cạnh chế độ tiền lương, các triều đình phong kiến
còn áp dụng chế độ tiền “dưỡng liêm”, để cấp cho những viên quan cai trị gần dân như tri
phủ, tri huyện, nhằm khuyến khích “đức thanh liêm”, nhưng không phải cấp đồng đều cho
tất cả tri phủ, tri huyện.
Ngoài tiền bổng lộc, quan lại còn được cấp một số đất làm vườn mà chủ yếu là “lộc
điền”. “Phàm những người hoàng tộc, các quan văn, quan võ, và phụ nữ quan đều được
nhà vua định thể lệ cấp cho ruộng, bãi đất trồng dâu, tiền mặt thay thế cho đầm (hồ hoặc
đầm) và thổ trách vườn ao, đều có đẳng cấp khác nhau. Những người được ban cấp sau
khi chết phải chiêu sổ đã cấp trả lại quan. Nếu người nào có tài đức công lao được vua đặc
ân ban cho ruộng đất thế nghiệp để truyền cho con cháu, thì lúc bấy giờ sẽ xin chỉ chuẩn
của nhà vua, không phải là thể lệ thường hành”[36; tr37]. Chính sách ban cấp lộc điền triều
Lê sơ được ban hành thành quy chế hoàn chỉnh vào năm 1477 dưới thời vua Lê Thánh
31
Tông, quy định theo phẩm hàm và chức tước, quan phẩm càng cao thì càng được cấp nhiều
đất.
Cùng với những đãi ngộ quan lại về vật chất, triều Lê sơ còn chú trọng dành cho
quan lại nhiều đặc ân, đặc quyền và nhiều cơ hội thăng tiến (thăng thưởng phẩm cấp, chức
tước). Quan lại mẫn cán, được thăng thưởng, khi tuổi cao sẽ được hưởng lệ trí sĩ – gia
phong tước, bậc, tôn vinh trước triều đình, cho hưởng nguyên bổng lộc và về quê nghỉ ngơi
an dưỡng. Những quan chức tài năng, thẳng thắn, công minh, thanh liêm và cần mẫn không
những khi sống được trọng dụng, thăng chức mà khi chết còn được nhà nước truy phong,
truy tặng danh hiệu, chức tước, được vua sức cho dân một số làng thờ phụng làm thành
hoàng…
Triều Lý, 9 năm quan lại được thăng trật một lần, dựa vào việc “xét công các quan,
lấy người văn học tài cán làm một loại, những người tài cao nết tốt biết suốt việc xưa nay
làm một loại, những người không thông văn học mà siêng năng tài cán làm một loại, sai trị
quản dân”; triều Trần “15 năm một lần xét, định 10 năm gia tước một cấp, 15 năm gia chức
một bực. Quan nào khuyết thì lấy chức chánh kiêm chức phó, chánh phó đều khuyết thì lấy
quan khác thay thế, đợi đủ niên hạn xét công mới cho thực thụ” [3; tr692]. Đến triều Lê sơ,
lệ cứ ba năm một lần sơ khảo, sáu năm tái khảo và chín năm thông khảo định công thăng
thưởng. Lệ này được quy định rõ ràng trong lệ khảo khóa triều Lê.
Chế độ quan lại thời phong kiến còn chú trọng đến trách nhiệm của các quan lại
trong việc thừa hành công vụ. Trong Quốc triều Hình luật – Luật Hồng Đức được ban hành
dưới thời vua Lê Thánh Tông, có nhiều quy định mang tính chất trừng trị nghiêm khắc như:
phạt do để chậm trễ chiếu chỉ, công văn giấy tờ (Điều 23), quan do vô tình dùng dằng để lỡ
việc, nếu việc nhỏ xử tội biếm, công việc hàng tháng xử tội đồ, việc lớn tức là công việc
hàng năm xử tội lưu (Điều 136). Ngoài ra còn có các quy định khác: đối với quan tại chức,
không đến nơi làm việc mà không có lý do thì bị xử phạt biếm hoặc bãi chức (Điều 4), nếu
ở sở làm việc mà ngồi không đúng phép sẽ bị xử tội biếm hoặc phạt tiền (Điều 23).
Dưới triều vua Minh Mạng việc thưởng, phạt rất nghiêm minh, quan lại có công thì
được ban thưởng lớn, có tội đều bị xử phạt nghiêm minh, điển hình như, năm 1838 vua
Minh Mạng đã cách chức Thượng thư Bộ Lễ về lỗi không kiểm tra, đôn đốc để người dưới
32
quyền không trông nom, bảo quản đồ thờ trong nhà Thế miếu, để bọn Giám thủ đánh tráo
từ vàng thật thành vàng giả.
Tóm lại, dưới thời phong kiến ở Việt Nam, chế độ tuyển chọn và sử dụng quan lại
có nhiều sự kế thừa và phát triển giữa các triều đại. Càng về sau, các vương triều càng chú
ý hơn đến việc trọng dụng nguồn nhân tài sẵn có của đất nước, các chế độ đối với quan lại
càng có nhiều ưu ái và đãi ngộ tốt hơn, giúp đội ngũ quan lại hạn chế được phần nào nạn
hối lộ, tham ô, tham nhũng, tập trung vào thực hiện công việc triều chính được giao. Trong
những chế độ đối với quan lại, chế độ kiểm tra, giám sát bằng lệ khảo thí, khảo khóa là hoạt
động nhận được nhiều sự quan tâm nhất. Đội ngũ quan lại ngày càng được kiểm tra, giám
sát thường xuyên theo những quy định nghiêm ngặt, chặt chẽ của lệ khảo thí, khảo khóa.
Như vậy, có thể thấy rõ hiệu quả của việc kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại với việc nâng
cao chất lượng đội ngũ quan lại trong triều thời bấy giờ.
1.2.2. Sơ lược về lệ khảo thí, khảo khóa
Các triều đại phong kiến Việt Nam đều nhận thức rất rõ về tầm quan trọng quyết
định sự thịnh suy của quốc gia là do đội ngũ quan lại tốt hay kém. Người làm quan đương
nhiên là phải có đức, có tài; chức quan càng cao thì đòi hỏi về đức, tài càng lớn. Với nhận
thức sâu sắc về vai trò thiết yếu của đội ngũ quan lại, các triều đại phong kiến đã sớm đưa
việc khảo xét năng lực của quan lại từ trung ương đến địa phương trở thành một hoạt động
cần thiết. Hoạt động khảo xét năng lực quan lại định kì nhằm đánh giá, xem xét phẩm chất
đạo đức, năng lực của từng quan lại, trên cơ sở đó thực hiện thăng thưởng những người có
đạo đức, nhân cách, trách nhiệm công vụ và có công, đồng thời biếm phạt những quan lại
vô đức, vô tài.
Chế độ khảo công của nước ta bắt đầu được thực hiện từ đời vua Lý Thái Tông
(1051). Sau đó đến đời vua Lý Anh Tông, năm Đại Định thứ 23 (1162) áp dụng chế độ sát
hạch lại (khảo khóa) đối với quan văn – quan võ; không có tội lỗi thì được thăng trật, cứ 9
năm làm một khóa, định làm thông lệ. Năm 1179, Lý Cao Tông thực hiện khảo xét công
trạng các quan, phân ra các nhóm đánh giá khác nhau, tùy trao chức vụ. Cụ thể: “lấy những
người văn học tài cán làm một loại, những người tài cao nết tốt, biết suốt việc xưa nay làm
một loại, nhưng người không thông văn học mà siêng năng tài cán làm một loại, sai trị dân
quản dân. Quan đều đáng tài, không có nhũng lạm” [3; tr692]. Điểm mới trong quá trình
33
sử dụng quan lại của thời Lý là triều đình biết phân loại các quan lại để khảo xét và trao
chức vụ phù hợp với năng lực của từng người.
Thời Trần thực hiện việc khảo khóa theo lệ “xét quan văn võ trong ngoài, 15 năm
một lần xét, định 10 năm gia tước một cấp, 15 năm gia chức một bực. Quan nào khuyết thù
lấy chức chánh kiêm chức phó; chánh phó đều khuyết thì lấy quan khác thay thế; đợi đủ
niên hạn xét công mới cho thực thụ” [3; tr692]. Đối tượng thực hiện khảo khóa là các quan
văn võ ở địa phương. Khảo khóa thời Trần được thực hiện trên các tiêu chí về đức hạnh,
trung hiếu và tài cán. Như vậy, dưới thời Trần, để thực hiện chính sách đối với quan lại
(điều động, luân chuyển) cần phải trải qua một quy trình đánh giá, xem xét năng lực làm
việc trong thời gian dài. Phan Huy Chú bình luận về khảo khóa thời Lý – Trần “Phép khảo
khóa đời Lý đời Trần, niên hạn đều chậm lâu. Nhà Lý lấy 9 năm làm một khóa, còn là phép
đời xưa. Đến như nhà Trần lấy 15 năm một lần xét, thì chậm trễ quá” [3; tr692].
Nhìn chung, thời Lý – Trần đã có biện pháp thường xuyên để kiểm tra nhân cách,
năng lực quan lại; sự thưởng phạt, thăng giáng trong sử dụng quan lại cũng rất được quan
tâm. Nếu như ở thời Lý, quan lại chỉ được "giao dân một vùng làm thuộc dịch cày cấy, đánh
cá lấy lợi” (nghĩa là quan lại chỉ được hưởng lợi từ kết quả lao động của người dân nơi
mình cai quản) thì thời Trần bắt đầu có lương bổng và quan lại được phụ thêm một khoản
nào đó. [40; tr123]. Chế độ thưởng phạt thời Lý – Trần còn đơn giản, đôi khi phụ thuộc vào
tình cảm chủ quan của Vua, nhưng nói chung là nghiêm phép nước và công bằng.
Thời Lê sơ (1428 – 1527) việc thực hiện chế độ quan lại và lệ khảo khóa đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Năm 1428 Lê Thái Tổ đã ra chỉ dụ cho các đại thần xét các quan làm
việc trong ngoài. “Bậc nhất là văn võ tài cán làm việc nhanh, bậc nhì là biết chữ tài cán
làm việc nhanh, bậc ba là viết chữ chân chữ thảo và tính toán giỏi. Ngoài ra không vào ba
bậc trên thì cho cả vào một bậc” [3; tr693]. Năm 1434, Lê Thái Tông ra chỉ dụ cho các
chức hành khiển năm đạo và các chức tổng quản tuyên úy các trấn về nhiệm vụ sát hạch
quan lại dưới quyền: “Công trạng của các quan lộ, trấn, huyện thì giao cho hành khiển bản
đạo sát hạch, của tướng hiệu các trấn thì giao cho tổng quản và tuyên úy bản đạo sát hạch,
của các quan sảnh, viện, cục thì giao cho thiếu bảo, hữu bật sát hạch của các quan nội điện
tả hữu ban thì giao cho áp nha hữu ban và Nội mật viện sát hạch, đều chia làm 3 bậc, cốt
cho rõ ràng xác đáng, không được thiên tư, điên đảo” [3; tr693].
34
Việc khảo xét năng lực cùng tính liêm khiết, mẫn cán của quan lại là cơ sở để thăng,
giáng hoặc thải loại quan lại. Việc này đã được Lê Thánh Tông định thành luật lệ chặt chẽ.
Năm 1470, Lê Thánh Tông định lệnh khảo khoá quan viên dưới quyền cai quản; năm 1478
định lệnh giảm thải những quan lại hèn kém không làm được việc và chọn người có tài chí
bổ thay vào; năm 1488 ban lệ khảo khoá cứ 3 năm một lần sơ khảo (xét kỳ đầu), 9 năm
thông khảo (xét cả lại) rồi mới thi hành thăng, giáng; năm 1489 ra sắc chỉ định rõ, người
nào chưa đủ hạn khảo khoá mà già cả không làm nổi thì việc lựa thải về, người nào dám
chạy vạy thì theo luật trị tội. Tất cả các quan chức đều phải chịu khảo khoá để đánh giá hiệu
quả, chất lượng công việc của mỗi người. Những quan lười biếng, bỉ ổi, yếu hèn, nếu là con
cháu công thần thì bãi chức sung quân nhờ vậy mà tệ tham nhũng giảm đi đáng kể.
Lệ khảo khóa quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông đã được xây dựng quy củ, thực
hiện nghiêm minh, công bằng và có hiệu quả lớn đối với việc củng cố bộ máy hành chính
nhà nước. Lê Hiến Tông tiếp tục thực hiện lệ này để cai trị đất nước. Liên tục trong hai năm
1498, 1499 nhà vua ban hành các văn bản quy định rõ việc khảo khóa và khẳng định rõ
mục đích quan trọng của việc khảo khóa, không chỉ để phân biệt người hay kẻ dở, tỏ rõ
việc khuyên răn mà còn truất người hèn, thăng người giỏi…
Đến thời Lê Trung Hưng, sau khủng hoảng chính trị, nhà nước Lê – Trịnh được thiết
lập ở Đàng ngoài vẫn tiếp tục thực hiện lệ khảo khóa nhằm đánh giá, xem xét năng lực,
phẩm chất quan lại trong triều đình. Nhiều triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện lệ khảo
khóa và đặt ra thời hạn khảo khoá dài ngắn khác nhau. “Từ Trung hưng về sau, lệ khảo
khóa thăng giáng, niên hạn không giống nhau. Như từ đời Đức Long, Cảnh Trị trở về trước,
cứ đến cuối năm xét công kỳ hạn cấp bách quá. Đầu đời Chính Hòa mới định 3 năm làm
một khóa. Từ năm thứ 6 về sau lại theo phép thăng giáng 9 năm của đời Hồng Đức. Đến
thời Vĩnh Thịnh, Bảo Thái lại lấy 3 năm mà định đoạt. Đại khái là theo chính sách đương
thời rộng hay ngặt mà đặt ra niên hạn khảo khóa” [3; tr699].
Nhà Nguyễn – triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam thực hiện việc
tuyển chọn và đánh giá chất lượng quan lại cũng rất bài bản, nhất là dưới thời vua Minh
Mệnh. Minh Mệnh dùng người dựa chủ yếu trên cơ sở đánh giá tài năng; luôn coi trọng
công tác kiểm tra, khảo xét nặng lực quan lại các cấp. Nếu là người có tài, cho dù là con
cháu của những người làm quan như trường hợp dòng họ Phan Huy ở Sài Sơn (Hà Tây)
35
ông vẫn trọng dụng. Còn những người không có tài năng, mặc dù là người thân cận, gần
gũi, ông cũng không trọng dụng và tha thứ khi có lỗi lầm. Nâng lên thành quy chế trong
chính sách quan lại, đó là chế độ khảo khoá hay khảo công, tức là việc xét thành tích của
các quan viên theo định kì, theo khoá. Cứ 3 năm một lần, quan lại các cấp phải làm một
bản lý lịch tự trình bày công trạng và khuyết điểm để nhà nước đánh giá quá trình làm việc
của họ; trên cơ sở đó thăng thưởng những người mẫn cán, có năng lực và có công; biếm
phạt những quan lại kém năng lực. Đánh giá để bổ dụng và đánh giá để thăng giáng có sự
khác nhau. Đánh giá quan lại đương chức chủ yếu dựa vào thành tích và năng lực thực tế
của người làm quan trong mối quan hệ với đời sống nhân dân nơi họ phụ trách; coi trọng
sự đánh giá của nhân dân với quan hơn là giữa các quan với nhau; đánh giá của cấp trên
với cấp dưới cần tiến hành một cách định kì, thường xuyên và đi vào thực chất. Đây là một
động lực thúc đẩy quan lại phấn đấu và là cơ chế kìm hãm nạn tham nhũng.
Phan Huy Chú có nhận định rằng, “Phép khảo khóa của nhà Lê rất là tinh mật, từ
khi khai quốc thì rất rõ ở đời Hồng Đức, từ khi Trung hưng về sau thì rất nghiêm ở Chính
Hòa, Vĩnh Thịnh. Người thanh liêm chăm chỉ tất được khen thưởng, người hèn kém thì tức
truất bỏ. Các quan cố gắng, chính sự sáng sửa, cho nên nói đến đời trị, ở trước thì đời
Hồng Đức là hơn cảm mà ở sau Trung hưng thì đời Chính Hòa, Vĩnh Thịnh là thịnh nhất.
Thực là vì có đủ phép thưởng phạt vậy.” [3; tr700].
Như vậy, chế độ khảo khóa thời phong kiến ở nước ta bắt nguồn từ thời Lý (thế kỷ
XI). Thời hạn khảo khóa thay đổi theo từng triều đại và triều vua (có thể từ 1 đến 15 năm
một lần). Thời Lê – Trịnh phổ biến là 3 năm, chia thành hai giai đoạn: sơ khảo (xét công
trạng hàng năm) và thông khảo (sau ba năm). Cấp trên xem xét cấp dưới. Bộ Lại là cơ quan
quyết định kết quả khảo khóa. Trường hợp đặc cách, không cần phải đợi đến niên hạn. Tiêu
chuẩn xét duyệt thường dựa vào việc hoàn thành trách nhiệm (thuế hộ đủ hay thiếu), năng
lực cai trị (việc kiện tụng ít hay nhiều), tín nhiệm của dân chúng (nhân dân yêu mến hay
kêu ca), phẩm chất đạo đức (không mắc lỗi hay mắc lỗi, thanh liêm hay tham nhũng). Thời
Lý, xếp các quan chức thành các hạng: người có văn học, người có nết tốt, người siêng
năng. Thời Lê – Trịnh, chia thành 3 bậc: thượng (tốt), trung (trung bình), hạ (xấu). Căn cứ
vào kết quả xếp loại, quyết định thưởng phạt với các hình thức: thăng chức (từ 1 đến 2 bậc),
thưởng tiền, biếm giảng (từ 1 đến 2 bậc), đổi đến nơi ít việc, buộc về hưu, bãi chức.. [42;
36
tr493]. Trường hợp có công hay phạm tội lớn thì không cần phải đợi đến niên hạn. Chế độ
khảo khóa của nhà nước phong kiến Đại Việt đã đóng vai trò quan trọng trong việc chấn
chỉnh tinh thần trách nhiệm đội ngũ quan lại trong thi hành công vụ. Triều đại nào thực hiện
tốt phép khảo khóa thì thịnh trị, thời đại nào buông lỏng thì nhanh chóng gặp hạn chế trong
quản lý quan lại triều đình.
1.3. Tính kế thừa có chọn lọc của lịch sử hành chính
1.3.1. Quy luật của tính kế thừa lịch sử
“Kế thừa” là khái niệm được sử dụng phổ biến trong nhiều ngành khoa học khác
nhau trong đó có khoa học hành chính. Theo Từ điển Tiếng Việt, “kế thừa” được hiểu là
việc thừa hưởng, giữ gìn và tiếp tục phát huy (đối với những thứ có giá trị tinh thần) [29;
tr486]. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng, khái niệm kế thừa không đứng riêng mình nó
mà thường đi cùng với khái niệm “phát triển”, đây là hai khái niệm được sử dụng song hành
để bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau.
Trong khoa học hành chính nói chung và lịch sử hành chính nói riêng, kế thừa là sự
bảo tồn và duy trì những đặc điểm, đặc tính ưu việt của một chế độ, một chính sách có trong
chế độ và chính sách mới. Kế thừa là mối liên hệ tất yếu, khách quan giữa cái mới và cái
cũ trong quá trình phát triển, là một trong những nét cơ bản nhất của sự phát triển mọi ngành
khoa học, trong đó có khoa học hành chính. Phát triển không chỉ là sự bảo tồn mà còn là sự
mở rộng, bổ sung, sự hoàn thiện và nâng cao những đặc điểm, đặc tính vốn có trong mỗi
chế độ, chính sách. Như vậy, để phát triển lịch sử hành chính luôn cần có sự kế thừa, tức là
bảo tồn, duy trì những đặc điểm, đặc tính ưu việt vốn có của một chế độ, chính sách; trên
cơ sở đó mở rộng, nâng cao trình độ; còn phát triển chính là sự kế thừa đạt đến độ hoàn
thiện, thể hiện tính tích cực nhất.
Trong lịch sử nhận thức khoa học, các hình thức kế thừa và phát triển của lý thuyết
khoa học rất đa dạng: có những lý thuyết mới là sự bổ sung, hoàn thiện các lý thuyết cũ; có
lý thuyết mới là sự mở rộng một lý thuyết cũ; nhưng cũng có lý thuyết mới là sự kết hợp
của hai lý thuyết đối lập nhau... Đối với lịch sử hành chính, mỗi chế độ, chính sách mới ở
mỗi triều đại được ban hành đều được xây dựng dựa trên sự bổ sung, hoàn thiện một hoặc
nhiều chế độ, chính sách của các triều đại trước; hoặc dựa trên cơ sở sự thiếu hụt chế độ,
37
chính sách của các triều đại trước để xây dựng chế độ, chính sách mới nhằm đảm bảo quá
trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Tính kế thừa trong lịch sử có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng và
phát triển đất nước qua mỗi giai đoạn khác nhau. Mỗi triều đại mới được xây dựng không
bao giờ loại bỏ hoàn toàn những chế độ, chính sách cũ mà triều đại trước đã sử dụng mà
bao giờ cũng kế thừa những mặt tích cực của triều đại cũ vẫn còn phù hợp. Trên cơ sở kế
thừa những chế độ, chính sách của triều đại cũ; các triều đại mới không ngừng bổ sung và
hoàn thiện chế độ, chính sách đó cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử đương thời
của triều đại mình nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển hưng thịnh quốc gia.
Thật vậy, trong lịch sử khoa học hành chính, tư tưởng xây dựng nhà nước pháp
quyền được xuất hiện từ thời cổ đại được nhiều quốc gia kế thừa và phát triển cho đến ngày
nay. Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà tư tưởng đã nêu lên những khía cạnh này hay khía cạnh
khác của nhà nước pháp quyền và mong muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền với khát
vọng về một mẫu hình nhà nước lý tưởng, nơi con người được hưởng cuộc sống thái bình
trong sự quan tâm của nhà nước. Sang thời phong kiến, nhiều quốc gia vẫn cố gắng xây
dựng nhà nước pháp quyền thông qua việc xây dựng và thể hiện các quan điểm về pháp
luật, nhà nước, đạo đức trong thuyết đức trị và pháp trị. Đến thời kỳ cách mạng dân chủ tư
sản, những tư tưởng quý báu đó đã được áp dụng ở các mức độ, phạm vi khác nhau ở nhiều
nước tư sản. Cho đến ngày nay, xu thế chung của nhiều quốc gia trên thế giới đang theo
đuổi vẫn là xây dựng nhà nước pháp quyền. Việt Nam ta đã và đang hướng tới xây dựng
một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với việc thượng tôn pháp luật, mọi hoạt động
đều chịu sự kiểm soát và điều chỉnh của pháp luật nhằm tạo ra một khung pháp lý đồng bộ,
thống nhất trong cả nước và một nhà nước tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người
trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, một nhà nước có quan hệ bình đẳng pháp lý và trách
nhiệm với mỗi cá nhân.
Thực tiễn trong tổ chức nhà nước ta thời kỳ phong kiến, mặc dù những nhân tố về
nhà nước pháp quyền không đậm nét như các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới,
song vẫn tồn tại đủ để nhận thấy quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta đã
được hình thành và liên tục xây dựng, củng cố qua thời gian. Hưng Đạo Đại Vương Trần
Quốc Tuấn được lịch sử ghi nhận với tư tưởng thượng sách giữ nước bằng đường lối chính
38
trị “khoan dân” - phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đây được coi là đỉnh
cao của tư tưởng dân tộc với việc coi trọng nhân dân trong thời bình để xây dựng một xã
hội yên bình, thịnh trị. Sang thời vua Lê Thánh Tông, trên lập trường dân tộc và yêu nước,
đường lối trị quốc kết hợp với lễ trị và pháp trị, ông đặc biệt quan tâm đến đời sống vật chất
của nhân dân. Thêm vào đó, dựa vào lý luận Nho giáo, Lê Thánh Tông đã xây dựng một
thiết chế và hệ thống pháp luật được coi là hoàn chỉnh nhất trong lịch sử phong kiến với
đỉnh cao là sự thành công của việc ban hành và thực thi Bộ luật Hồng Đức. Như vậy, tư
tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền đã manh nha tồn tại qua các triều đại và được các vị
vua dành sự quan tâm đặc biệt. Sự kế thừa tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền đến
thời vua Lê Thánh Tông đã được phát triển cao độ, điển hình là sự ra đời của pháp luật –
một sản phẩm của xã hội văn minh lần đầu tiên được người Việt Nam biết đến. Kể từ sau
thời vua Lê Thánh Tông, các triều đại có sự học hỏi, kế thừa và phát triển hệ thống pháp
luật nhằm tạo hành lang pháp lý, giúp quản lý nhà nước thêm phần thống nhất và chặt chẽ.
Tựu chung lại, có thể thấy rằng, những chế độ, chính sách đúng đắn, phù hợp, góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước giống như một cánh tay hỗ trợ đắc lực
cho các vương triều sẽ được kế thừa, phát triển, trường tồn cùng thời gian. Ngược lại, những
chế độ, chính sách không hợp lý, không hiệu quả sẽ được sửa đổi hoặc thậm chí là loại bỏ;
nhường chỗ cho những chế độ, chính sách khác phù hợp hơn với nhu cầu quản lý nhà nước.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, mỗi giai đoạn, mỗi nhà nước luôn tiếp thu, học hỏi
những kinh nghiệm để kế thừa và phát huy, góp phần đưa đất nước đạt đến độ phát triển
cực thịnh sớm nhất.
1.3.2. Học hỏi và kế thừa có chọn lọc chế độ quan lại trong lịch sử
1.3.2.1. Sự kế thừa chế độ quan lại của các triều đại phong kiến Việt Nam
Mặc dù lịch sử kéo dài hơn 1000 năm Bắc thuộc, sống dưới ách thống trị của thực
dân phương Bắc, nhưng nhân dân ta chưa bao giờ lệ thuộc hoàn toàn vào chế độ thực dân.
Ngay từ khi giành lại được một phần đất nước, triều đình đã xây dựng các chế độ chính trị
và chế độ quan lại phù hợp với sự phát triển của kinh tế - xã hội bấy giờ, tạo niềm tin cho
dân chúng về một đất nước mới, một chính quyền mới. Trải qua nhiều cuộc đấu tranh thực
hiện cách tân đổi mới đất nước, chính sách quan lại dưới sự cai quản của các dòng tộc ngày
các phát triển.
39
Ngay từ khi Lý Công Uẩn lên ngôi trị vì, ông đã thay triều đại Tiền Lê trước đó bằng
một triều đại nhân đức, khoan từ. Ông xây dựng lại hệ thống tổ chức bộ máy hành chính
nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương, bắt đầu dành sự quan tâm và xây dựng
các Đài – cơ quan giám sát, kiểm tra đạo đức của Vua và đội ngũ quan lại trong triều đình.
Mặc dù bộ máy nhà nước lúc này đơn giản nhưng đã được sắp xếp quy củ hơn giai đoạn
trước. Chính sách tuyển chọn và sử dụng quan lại dưới thời Lý cũng được chú trọng hơn.
Năm 1070, Lý Công Uẩn cho xây dựng Văn Miếu để thờ Khổng Tử - nhà Nho giáo lỗi lạc
Trung Quốc bấy giờ; năm 1076 thành lập Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên ở nước
ta, và mở khoa thi minh kinh bác học đầu tiên để lựa chọn kẻ sĩ. Chế độ đãi ngộ quan lại
dưới triều Lý vẫn còn sơ sài: quan lại chưa được cấp lương, đại thần cũng không được ban
thưởng thường xuyên,… Mãi đến năm 1162, dưới thời Lý Anh Tông, kỳ khảo công (sau
gọi là khảo khóa) đầu tiên mới được quy định và thực hiện theo niên hạn 9 năm một lần
nhằm đánh giá chất lượng của đội ngũ quan văn – quan võ trong triều, nếu không có lỗi thì
được phong trật. Có thể thấy rằng, lần đầu tiên trong lịch sử chế độ quan lại thời phong
kiến, triều đình chú trọng đến chất lượng đội ngũ quan lại và tiến hành khảo công nhằm
đánh giá chính xác năng lực của quần thần trong triều.
Sang đến thời Trần, nhà nước phong kiến quý tộc được xây dựng theo hướng quan
liêu (“quan” là hệ thống cai trị hoàn bị bao gồm các chức vụ và các cơ quan có quyền ra
quyết định; “liêu” là bộ phận tham mưu giúp việc chuyên trách) – nghĩa là một bộ máy nhà
nước được phân chia theo thứ bậc, có sự phân công, phân nhiệm cụ thể trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ được giao. Chính sách quan lại dưới thời Trần không có nhiều điểm nhấn so
với các triều đại trước, bởi triều Trần xây dựng nhà nước theo hướng quý tộc nên nhiệm tử
để lựa chọn quan lại là chủ yếu; thi cử tổ chức 7 năm một lần song cũng chỉ dành cho con
của quan lại và quý tộc, hạn chế đối tượng dự thi; các chức vụ cấp cao đều nằm trong tay
quý tộc và có lương bổng,… Duy chỉ có việc ban cấp Thái ấp điền trang (quan lại được ban
hành ruộng đất) là điểm mạnh của nhà Trần bấy giờ. Dưới thời Trần, chế độ kiêm chức và
thực hiện khảo công cũng diễn ra. Tuy vậy, khảo công dưới thời Trần thực hiện theo niên
hạn khá dài (15 năm một lần) nên chỉ mang tính chất hình thức về kiểm tra, đánh giá đội
ngũ quan lại mà thôi. Thực chất, do xây dựng một nhà nước quý tộc của nhà Trần nên đội
40
ngũ quan lại đều là hoàng thân quốc thích, dòng dõi quan lại quý tộc, nên nhà Trần không
chú trọng nhiều đến việc thực hiện khảo công, để niên hạn khảo công khá dài.
Nhận thấy được những ưu điểm và hạn chế của từng triều đại khác nhau trong quá
trình xây dựng nhà nước và thực hiện chính sách quan lại, đến thời Lê sơ việc xây dựng và
ban hành chính sách, chế độ trong nhà nước đã có nhiều sự thay đổi. Lê Thánh Tông xây
dựng lại một nhà nước quân chủ chuyên chế đề cao quyền lực vô hạn của nhà vua; ban hành
các chính sách về kinh tế – văn hóa – xã hội thức thời, giải quyết cơ bản nhu cầu của người
dân bấy giờ. Nhà Lê tồn tại khoảng 360 năm song chỉ cực thịnh trong khoảng 100 năm đầu
tiên là thời kỳ Lê sơ, nổi bật là khoảng thời gian ngay sau cuộc cải cách hành chính của Lê
Thánh Tông. Với sự học hỏi, kế thừa và phát triển các chính sách quan lại của các triều đại
trước, sự tinh anh trong nhận thức về tình hình đất nước, Lê Thánh Tông đã thực hiện một
cuộc cải cách hành chính hiệu quả. Khi tiến hành cải cách hành chính, ông chú trọng vào
việc cách tân lại tổ chức bộ máy nhà nước; phân công cụ thể, rõ ràng quyền hạn, trách
nhiệm và chức năng của từng cơ quan, từng chức quan trong triều đình; ban hành Luật pháp
và hệ thống chế độ, chính sách mới; đưa các hoạt động trong nước thành lệ và buộc thực
hiện theo đúng quy định đã đề ra,… Quan trọng hơn cả, cùng với việc xây dựng một nhà
nước quân chủ chuyên chế, vua Lê Thánh Tông nhận thấy đội ngũ quan lại trong triều đình
cần phải là những người có thực tài, trung thực, và làm việc có hiệu quả. Thêm vào đó,
bằng việc tuyển chọn quan lại chủ yếu qua con đường khoa cử, cần phải thường xuyên đánh
giá lại trình độ, kỹ năng và phẩm chất đạo đức của đội ngũ quan lại, kể cả những người đã
làm quan lâu năm thì mới có được đội ngũ quan lại vừa đủ đức vừa đủ tài. Trên cơ sở đó,
lệ khảo thí, khảo khóa được vua Lê Thánh Tông đặc biệt quan tâm. Dưới thời vua Lê Thánh
Tông, lần đầu tiên việc khảo khóa được quy định thành một lệ, buộc phải thực hiện đúng
niên hạn đã đề ra là 3 năm. Vua cũng ra nhiều sắc, lệnh, chỉ, dụ để đưa việc thực hiện lệ
khảo thí, khảo khóa vào nền nếp, trở thành một hoạt động kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan
lại không thể thiếu được trong quá trình quản lý và sử dụng đội ngũ quan văn quan võ trong
triều đình.
Khi thời Lê sơ chấm dứt, nhà Mạc và triều Lê Trung Hưng do phải tiến hành chinh
phạt lẫn nhau nên chỉ chú trọng nhiều về việc củng cố quân đội, bộ máy nhà nước và các
chính sách quản lý nhà nước hầu như được duy trì giống như thời Lê sơ. Cả nhà Mạc và
41
triều Lê Trung Hưng đều thực hiện chính sách tuyển chọn quan lại chủ yếu thông qua khoa
cử, với việc tổ chức kỳ thi 3 năm một lần, các triều đại này đã lựa chọn được đội ngũ quan
lại khá chất lượng. Tuy nhiên, do nhà Mạc có chính sách sử dụng quan lại khá bao dung và
cởi mở ngay cả trong thời loạn lạc nên không thể tránh khỏi nạn tham ô tham nhũng trong
đội ngũ quan lại.
Vì lẽ đó, đến thời chúa Trịnh, chế độ khảo hạch một lần nữa được chú trọng hơn cả
để kiểm tra quan lại thường xuyên, những quan viên nào không đủ năng lực sẽ bị giáng
chức hoặc thải hồi để tuyển lựa những người xứng đáng. Các triều đại tiếp theo, do chỉ chú
ý đến lượng mà không quan tâm về chất nên kỹ năng, kiến thức đội ngũ quan lại có phần
giảm sút. Sang đến thời Nguyễn, chế độ tuyển chọn và sử dụng quan lại được tập trung và
chú ý hơn. Với việc xây dựng tổ chức và hoạt động của nhà nước theo Bộ luật Gia Long,
nhà Nguyễn ban hành và thực thi các chính sách nghiêm ngặt và hiệu quả hơn. Đặc biệt,
chính sách đào tạo, tuyển dụng, bổ nhiệm và các chế độ đối với sử dụng quan lại được xây
dựng khá quy củ, cụ thể và chặt chẽ.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, chế độ quan lại qua các triều đại phong kiến nước
ta luôn có sự kế thừa và học hỏi từ những triều đại đi trước. Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn
cảnh của mỗi vương triều mà sự kế thừa được tiếp nhận và phát triển là khác nhau.
1.3.2.2. Học hỏi kinh nghiệm chế độ quan lại của các triều đại phong kiến Trung
Quốc
Trong quá trình xây dựng và cách tân đất nước, nhiều triều đại phong kiến nước ta
có sự học hỏi kinh nghiệm trị quốc và đưa ra chính sách đối với việc quản lý nhà nước nói
chung, quản lý quan lại nói riêng từ các quốc gia khác trên thế giới. Song bởi Việt Nam có
cả 1000 năm chịu sự đô hộ của thực dân phương Bắc, chịu nhiều ảnh hưởng từ nền văn hóa
– xã hội phương Bắc, nên thực tế sau khi dành lại được nền độc lập tự chủ và xây dựng nhà
nước quân chủ phong kiến độc lập, nền văn hóa – xã hội nước ta đã lựa chọn và kế thừa có
chọn lọc các chế độ, chính sách phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước. Trung Quốc
là một trong những quốc gia có bề dày lịch sử phong kiến lớn nhất với nhiều kinh nghiệm
quản lý và sử dụng quan lại.
Hơn 2000 năm lịch sử phong kiến, từ thời Tần đến thời Thanh, chế độ quan lại
Trung Quốc trải qua nhiều thay đổi giữa các triều đại. Khác với việc có nhiều năm bị đô hộ
42
như Đại Việt thời phong kiến, Trung Hoa cổ đại và phong kiến đã là một trong những quốc
gia rộng lớn và có tiềm năng, tiềm lực về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Có ý kiến cho rằng Chính quyền triều Lê là kết quả của quá trình tiếp nhận sáng tạo
có sàng lọc, gọt đẽo từ mô hình bộ máy Trung Hoa, thích dụng với điều kiện thực tế của
Việt Nam [1; tr84]. Thực tế cho thấy, chế độ quan lại của Trung Quốc có nhiều thay đổi
giữa các triều đại, các triều đại sau thực hiện nhiều cách tân hơn so với các triều đại trước.
Có thể tóm lược một số đặc điểm về quan chế Trung Quốc dưới thời phong kiến đã được
Đại Việt ta học hỏi như sau:
Về tổ chức bộ máy quan lại
Trung Quốc thời cổ đại, quyền lực tối cao của nhà vua được xác lập, nghĩa là nhà
nước hoạt động theo chế độ quân chủ chuyên chế, mọi quyền lực đều tập trung vào tay vua.
Vua được đề là “Thiên Tử” (con trời), được tuyên truyền là làm vua theo “Thiên mệnh”
(mệnh Trời). Chế độ này kéo dài đến hết cả thời phong kiến của Trung Quốc. Để xây dựng
và củng cố chế độ quân chủ chuyên chế, tập trung quyền lực vào tay hoàng đế, nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của các vương triều là phải xây dựng bộ máy chính quyền trung ương
thành một tập đoàn thống trị mạnh, có đủ khả năng giúp đỡ hoàng đế trong mọi công việc.
Dưới thời Tần, Hán, các nhà vua đều lập “Tam Công” gồm: Thừa tướng, Thái úy và
Ngự sử đại phu. Đây là 3 trưởng quan cao nhất thực hiện nhiệm vụ trông coi các công việc
chính trị, quân sự và giám sát. Thừa tướng (còn gọi là Tể tướng, Tướng quốc) thực chất chỉ
là một viên quan đứng đầu các quan văn, Thái úy là người đứng đầu quan võ. Địa vịa của
Thừa tướng và Thái úy ngang hàng nhau. Địa vị của Ngự sử đại phu tuy có thấp hơn Thừa
tướng và Thái úy nhưng cũng thuộc hàng “Tam Công”, lại nắm trong tay quyền giám sát
đội ngũ quan lại nên có thế lực lớn. Ba chức vụ này kiềm chế lẫn nhau trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ được giao.
Thực tế, Thừa tướng vẫn là vị quan lớn nhất “đứng dưới một người, đứng trên vạn
người”. Trong lịch sử thường xảy ra mâu thuẫn giữa quyền lực nhà vua với quyền lực của
Thừa tướng.
Đến thời Tùy, Đường, Tống, chức vụ Thừa tướng vẫn còn tồn tại trong cơ cấu các
vị quan trọng yếu của triều đình. Tuy nhiên, vai trò của Thừa tướng đã dần được thay đổi.
Sang thời Minh, lúc đầu cũng đặt chức Thừa tướng, nhưng Minh Thái Tổ Chu Nguyên
43
Chương nhận thấy quyền lực của Thừa tướng có thể đe dọa quyền lực của Hoàng đế nên
năm 1380 đã giết bỏ Thừa tướng thời đó, đồng thời xóa bỏ chức Thừa tướng. Sau khi xóa
bỏ Thừa tướng, ông cho thành lập Ngũ phủ, Lục bộ để kiềm chế đối trọng lẫn nhau, mọi
công việc đều do triều đình nắm giữ. Kế thừa chính sách của nhà Minh, nhà Thanh cũng
không đặt chức Thừa tướng trong suốt thời gian cầm quyền. Như vậy, chế độ quân chủ
chuyên chế trung ương tập quyền được củng cố cao độ, quyền lực tập trung chủ yếu vào
tay vua.
Học hỏi cách thức tổ chức bộ máy quan lại dưới thời phong kiến Trung Quốc, Đại
Việt ta dưới thời phong kiến cũng lập ra các Bộ quản lý. Hơn cả, thời Lê sơ lập ra Lục bộ
và quy định cụ thể trách nhiệm của từng bộ, khá giống với cách thức tổ chức bộ máy quan
lại dưới thời Minh. Mặc dù tên gọi có nhiều thay đổi giữa các triều đại, nhiệm vụ cũng có
nhiều sự khác biệt, nhưng có thể thấy được cách thức tổ chức cơ bản giống với triều Minh
của Trung Quốc. Bên cạnh đó, ngay từ khi hình thành nhà nước phong kiến, các vị vua
Trung Quốc đã chú trọng đến chức quan thực hiện chức năng giám sát đội ngũ quan lại
triều đình. “Ngự sử đại phu” được xếp vào hàng “Tam Công” của triều đình, là một trong
ba chức vụ cao nhất của triều đình, mặc dù địa vị không cao nhất nhưng lại nắm trong tay
thế lực đặc biệt. Có thể thấy rằng, phong kiến Đại Việt ta thời đó, ngay từ thời Lý đã đặt ra
chức Ngự sử đài – chức quan thực hiện chức năng giám sát hoạt động công vụ trong triều
đình. Những triều đại về sau, Ngự sử đài có thể được thay đổi về tên gọi, cách thức tổ chức
và hoạt động, song lại được giao thêm những nhiệm vụ quan trọng hơn và tổ chức chặt chẽ
hơn từ trung ương đến địa phương.
Về chế độ tuyển bổ quan lại
Trong thời cổ đại, ở Trung Quốc từng tồn tại nhiều chế độ tuyển bổ quan lại khác
nhau, như chế độ thế tập (giống với chế độ tập ấm sau này, cha truyền con nối); chế độ
dưỡng sĩ (vua lựa chọn những người có tài năng, nuôi dưỡng họ để bổ nhiệm làm quan khi
cần); chế độ quân công (chọn người có công trong chiến trận để làm quan); chế độ khách
khanh (lựa chọn người tài ở nước khác đảm nhận chức vụ quan trọng ở nước mình). Sang
thời phong kiến, hệ thống quan lại ở Trung Quốc được tuyển dụng bằng hai phương thức
chủ yếu là chiêu mộ và khoa cử. Chế độ chiêu mộ người tài làm quan đã có nguồn gốc từ
thời cổ đại, nhưng chế độ này đặc biệt phát triển và trở thành chế độ tuyển dụng chủ yếu
44
thời Lưỡng Hán. Chế độ khoa cử cũng được sử dụng ở các triều đại dưới thời phong kiến
để tuyển chọn quan lại.
Thời Ngụy, Tần, Nam – Bắc triều lại thực hiện chế độ “Cửu phẩm trung chính” để
tuyển chọn quan lại. Theo chế độ này, triều đình đặt ở mỗi quận một Trung chính, mỗi châu
một Đại Trung chính. Trung chính thực hiện chức năng phỏng vấn, sát hạch những người
tài, đức ở địa phương mình phụ trách sau đó chia ra làm 9 bậc. Cứ sau 3 năm thì Trung
chính sẽ tiến hàng khảo sát, chuyển lên các cơ quan kiểm soát ở Trung ương để tuyển dụng.
Giống như một cách thức tiến cử, “Cửu phẩm trung chính” tồn tại đến cuối thời Nam – Bắc
triều thì suy yếu dần.
Đến thời Tùy, vua bãi bỏ chế độ “Cửu phẩm trung chính”, chỉ thực hiện chế độ khoa
cử để tuyển chọn quan lại. Do vậy, chế độ khoa cử dần trở thành một phương thức chủ yếu
để tuyển chọn quan lại cho triều đình. Trong suốt thời gian tồn tại chế độ khoa cử dưới chế
độ phong kiến Trung Quốc, mặc dù có không ít lần thay đổi về nhiều phương diện để phù
hợp với từng triều đại song chế độ khoa cử vẫn được đề cao thực hiện.
So với hầu hết các chế độ tuyển bổ quan lại khác, chế độ khoa cử dưới thời phong
kiến Trung Quốc thể hiện rõ được nhiều ưu điểm để thực hiện xuyên suốt qua nhiều triều
đại khác nhau. Nhìn lại lịch sử nước nhà, có thể thấy rằng, dưới triều Lý, Trần, mặc dù khoa
cử đã được thực hiện, song tuyển bổ quan lại qua chế độ tập ấm, nhiệm tử được sử dụng
chủ yếu. Đến thời Lê sơ, nhận thấy những hạn chế của chế độ tập ấm, nhiệm tử; đồng thời
học hỏi kinh nghiệm thực hiện tuyển chọn quan lại của Trung Quốc, các vị vua bắt đầu ưu
tiên chế độ khoa cử hơn trước. Chế độ phong kiến Trung Quốc và Đại Việt ta thời bấy giờ
có điểm tương đồng nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau, các vị vua dưới thời Lê sơ đã
linh họat và sáng tạo vận dụng chế độ khoa cử trong việc lựa chọn quan lại, phù hợp với
điều kiện thực tế đất nước.
Về chính sách sử dụng quan lại
Trung Quốc thời phong kiến cũng xây dựng nhiều chính sách sử dụng quan lại mang
lại hiệu quả, như là: phong tước và ban cấp đất đai cho con cháu trong hoàng tộc, công thần
thân tín để làm chỗ dựa cho triều đình; thưởng phạt đội ngũ quan lại công minh; giám sát
chặt chẽ đội ngũ quan lại,… Đáng chú ý trong chính sách sử dụng quan lại Trung Quốc là
chế độ giám sát quan lại được thực hiện nghiêm minh.
45
Chế độ giám sát quan lại ở Trung Quốc xuất hiện từ thời Tiền Tần (khoảng những
năm 300 đầu công nguyên), Ngự sử đại phu – bộ phận thực hiện chức năng giám sát được
xây dựng thành một cơ cấu riêng, có nhiệm vụ giám sát quan lại trong quận. Bên cạnh đó,
cơ cấu giám sát quan lại dưới thời Tần được xây dựng đầy đủ từ trung ương xuống địa
phương, thực hiện cơ chế giám sát với toàn bộ đội ngũ quan lại của triều đình.
Thời Hán, Đường, Tống, dần dần bộ máy giám sát quan lại được tổ chức chặt chẽ
hơn trước đó. Bằng việc chia nhà nước ra thành các châu, đạo việc giám sát được thực hiện
nghiêm ngặt hơn. Châu, đạo thời bấy giờ không phải là một cấp hành chính mà là một khu
vực giám sát. Việc giám sát được các quan trong Ngự sử đài chia nhau thực hiện từ trung
ương xuống địa phương một cách chặt chẽ.
Việc giám sát được thực hiện thông qua các đợt kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại
định kì. Dưới thời Tống, đánh giá quan lại được thực hiện mỗi năm một lần, sau 3 lần đánh
giá sẽ đưa ra quyết định thăng hoặc giáng chức, thêm thưởng hoặc bị phạt nếu như không
đạt yêu cầu. Nếu quan lại nào không thường xuyên tham gia thực hiện việc đánh giá, khảo
sát sẽ không có cơ sở để thực hiện thăng chức thường xuyên; một số quan lại không được
tín nhiệm có thể không được tham gia đánh giá. Việc tổ chức kiểm tra, đánh giá đội ngũ
quan lại được thực hiện bởi sự kết hợp giữa cấp trên và cấp dưới, đồng thời có sự tham
chiếu của cơ quan phụ trách chính việc giám sát là Ngự sử đài. Để đánh giá, giám sát hiệu
quả, mỗi quan viên phải thực hiện một bài thi, đồng thời sẽ được đánh giá hiệu quả hoạt
động thực tế tại nơi mình làm quan. Mỗi quan viên nắm quyền đều phải theo dõi và ghi
chép lại quá trình làm việc của cấp dưới mình quản lý. Đến kì đánh giá, những ghi chép
này sẽ được kiểm tra lại bởi cấp trên của người đánh giá bằng việc cử người đi kiểm tra lại
tình hình thực tế. Bên cạnh đánh giá quan lại qua bài thi và hiệu quả hoạt động, nhà Tống
còn chú trọng đánh giá về tư cách, phẩm chất đạo đức của đội ngũ quan lại và chất lượng
cuộc sống nhân dân nơi quan viên nắm quyền, cụ thể: quan lại đó có làm việc có siêng
năng, trung thực hay không; có hiếu thảo với dân, vì dân phục vụ hay không; có tham lam
tầm thường hay không;… người dân nơi vị quan đó cai quản có cuộc sống ấm no, đầy đủ
không; tệ nạn xã hội trên địa bàn tăng hay giảm; chất lượng đời sống nhân dân được cải
thiện tốt hơn hay có chiều hướng xấu đi,... Sau khi kiểm tra và đánh giá, đội ngũ quan lại
sẽ được chia thành 3 cấp khác nhau dựa trên kết quả đánh giá mà họ đạt được: cấp cao nhất
46
là những người có thành tích chính trị xuất sắc, đạt được nhiều kết quả trong việc xây dựng
nhà nước; cấp thứ hai là những người làm việc chỉ mang lại kết quả bình thường, không có
gì xuất chúng; cấp thứ ba là những người làm việc cẩu thả, không đến nơi đến chốn, không
hoàn thành công việc được giao.
Dựa trên cơ sở thực hiện kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại trong triều đình, nhà
Tống thực hiện việc thăng giáng chức quan phù hợp; khen thưởng hoặc trừng phạt quan
viên nghiêm khắc bằng hình thức tự thôi việc hoặc buộc thôi việc; bổ nhiệm vị trí quản lý
tương xứng với năng lực và phẩm chất đạo đức quan lại,… Việc thực hiện đánh giá quan
lại mỗi năm tạo cơ sở cho đội ngũ quan lại không ngừng cố gắng, góp phần phát triển đất
nước. Sử dụng kết quả kiểm tra, đánh giá quan lại làm cơ sở cho việc thăng giáng chức, ra
quyết định thưởng, phạt quan lại giúp nâng cao hiệu quả làm việc, thúc đẩy đội ngũ quan
lại luôn cố gắng để hoàn thiện bản thân, đạt được quyền cao chức trọng.
Thời Minh, Ngự sử đài – cơ quan thực hiện chức năng giám sát được đổi tên thành
Đô sát viện, nắm quyền giám sát quan lại và có quyền tham gia xét xử những vụ án lớn. Để
giám sát quan lại các địa phương, nhà Minh đặt ra 13 đạo giám sát ngự sử theo 13 khu vực
hành chính. Xây dựng chức danh “Tuần án ngự sử” thực hiện tuần tra giám sát các địa
phương. Tuần án ngự sử tuy phẩm hàm không cao nhưng quyền lực rất lờn. Bên cạnh việc
xây dựng đội ngũ giám sát ở địa phương, thời Minh đặt ra 6 khoa thực hiện giám sát quan
viên của 6 bộ tương ứng. Mỗi khoa lập một người quản lý chung gọi là “Cấp sự trung”. Bộ
máy giám sát quan lại của thời Minh được tăng cường hơn những thời trước nhiều, đặc biệt,
nó giúp hoàng đế kiểm soát Lục bộ một cách chặt chẽ hơn. Sang triều Thanh, về cơ bản đại
thể giống triều Minh, chỉ có tên gọi của người đứng đầu Đô sát viện thay đổi. Đồng thời,
do số lượng đơn vị hành chính tăng lên, nên nhà Thanh đặt ra 22 đạo giám sát ngự sử.
Các triều đại sau triều Tống sau khi xây dựng hệ thống giám sát quan lại cũng thực
hiện việc kiểm tra, giám sát quan lại song kỳ hạn đánh giá khác nhau. Tuy vậy, những năm
cuối nhà Tống (khoảng những năm 1019), cũng có thời thăng chức cho quan lại dựa trên
thâm niên làm việc của quan viên, do vậy đội ngũ quan lại làm việc không mang lại hiệu
quả. Nhiều vị quan mong muốn quay lại chế độ quan lại thời Tống ban đầu đã xây dựng và
thực hiện, đó là thiết lập đội ngũ quan trong – ngoài thực hiện giám sát, kiểm tra thường
xuyên; dùng kỳ thi để đánh giá chất lượng đội ngũ quan lại, thông qua đó làm cơ sở thăng
47
giáng và thưởng phạt nhằm tăng cường trách nhiệm cho đội ngũ quan lại triều đình, thúc
đẩy đất nước phát triển.
Như vậy, chế độ giám sát dưới thời phong kiến Trung Quốc được hình thành ngay
từ những triều đại quân chủ chuyên chế đầu tiên, nhằm kiểm soát quyền lực của đội ngũ
quan lại và điều hòa mâu thuẫn trong xã hội. Càng những triều đại về sau, chế độ và cách
thức thực hiện giảm sát quan lại thông qua việc kiểm tra, đánh giá càng được chú trọng
thực hiện hơn, bảo đảm được chất lượng của đội ngũ quan lại trong triều; đồng thời củng
cố vững chắc quyền lực tối cao của nhà nước tập trung vào tay vua, đảm bảo chế độ trung
ương tập quyền, đề cao hoàng quyền. Chế độ phong kiến Việt Nam đã nhanh chóng vận
dụng và học hỏi cách kiểm soát quyền lực, kiểm tra, đánh giá từ phong kiến Trung Quốc
vào quá trình quản lý đội ngũ quan lại của mình. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, khi các
triều đại thành lập đã chú trọng việc xây dựng các cơ quan thực hiện chức năng giám sát,
bộ máy giám sát quan lại được hoàn thiện và quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Tại
thời Lý, Trần trong lịch sử phong kiến Việt Nam, việc giám sát được coi là công việc trọng
yếu và cần thiết song chưa có cơ chế và cách thức tổ chức hoạt động việc giám sát tốt nhất.
Sang thời Lê sơ, cải cách hành chính được vua Lê Thánh Tông thực hiện, bộ máy thực hiện
chức năng đánh giá, giám sát cùng cơ chế thực hiện đã được tập trung cải tiến thêm một
bước mới dựa trên những thành quả của bộ máy từ triều đại trước, việc học hỏi có chọn lọc
từ chế độ quan lại của quốc gia có nét văn hóa tương đồng.
Có thể thấy rằng, dưới thời Lê Thánh Tông, việc thực hiện chế độ quan lại nói chung
và lệ khảo thí, khảo khóa nói riêng là kết quả của việc học hỏi và kế thừa những thành tựu
từ các triều đại trong nước và ngoài nước, dựa vào cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa của đất
nước đương thời. Việc quản lý và sử dụng quan lại dưới triều Lê sơ đạt đến đỉnh cao trong
quản lý đội ngũ quan lại thời phong kiến, tạo tiền đề cho các triều đại sau kế thừa và phát
triển.
48
Tiểu kết chương 1:
Quan lại là những người làm việc trong bộ máy nhà nước quân chủ phong kiến, trong
đó “quan” là những người có phẩm hàm, tước vị, chức vụ được tuyển chọn bằng nhiều
phương pháp khác nhau như: khoa cử, tiến cử, tập ấm,…; còn “lại” là những người được
tuyển chọn vào làm công việc cụ thể nào đó trong các nha môn từ triều đình đến cấp huyện
để giúp việc cho quan. Chế độ quan lại bao gồm một quy trình từ tổ chức đến thực hiện các
quy định về đào tạo, tuyển chọn, sử dụng quan lại mà các triều đại phong kiến Việt Nam
thực hiện nhằm xây dựng một đội ngũ quan lại cho bộ máy hành chính nhà nước. Trong
những chế độ đối với quan lại, lệ khảo thí khảo khóa là một chế độ được chú trọng đặc biệt
dưới thời Lê sơ nhằm đảm bảo trình độ, năng lực và phẩm hạnh của đội ngũ quan lại.
Lệ khảo thí, khảo khóa thực chất là việc đánh giá, xem xét trình độ hiểu biết, quan
điểm trị quốc và hiệu quả công việc của quan lại theo định kì, theo khóa. Trong đó “khảo
thí” là khoa thi không theo chính kỳ, không định học vị nhằm tuyển chọn nhân tài ra làm
quan hoặc phân định trình độ của quan lại nói chung; “khảo khóa” là kỳ thi kiểm tra xem
xét đạo đức, tư cách, trình độ, năng lực của đội ngũ quan lại trong triều.
Triều vua Lê Thánh Tông đã xây dựng được một đội ngũ quan lại dựa trên nền tảng
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vô cùng thuận lợi. Để có được đội ngũ quan lại đủ đức đủ
tài, phục vụ cho việc xây dựng và phát triển đất nước, lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê
Thánh Tông đã dần được hoàn thiện. Mặc dù đã được nhiều triều đại phong kiến trước thực
hiện, song chưa có triều đại nào đưa lệ khảo thí, khảo khóa trở thành một thông lệ thường
niên và buộc phải thực hiện. Lê Thánh Tông đã định lại phép khảo khóa, đưa ra những quy
định cơ bản về lệ khảo thí, khảo khóa và tổ chức thực hiện tốt nhất trong lịch sử phong kiến.
Để xây dựng được chế độ quan lại nói chung và lệ khảo thí, khảo khóa nói riêng, Lê
Thánh Tông đã kế thừa những thành quả từ chế độ quan lại trong nước và ngoài nước, đặc
biệt là chế độ giám sát của quốc gia lân cận có nét văn hóa, chính trị tương đồng với nước
ta bấy giờ (Trung Quốc) để tạo ra những chính sách mang bản sắc riêng của vương triều
mình. Trên những cơ sở, nền tảng đó, Lê Thánh Tông đã xây dựng và thực hiện lệ khảo thí,
khảo khóa rất tốt, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ quan lại, đưa đất nước nhanh
chóng ổn định và phát triển cường thịnh.
49
CHƯƠNG 2
LỆ KHẢO THÍ, KHẢO KHÓA DƯỚI THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG
(1460 – 1497)
2.1. Bối cảnh lịch sử và sự cần thiết ban hành lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời
Lê Thánh Tông
2.1.1. Bối cảnh lịch sử thời Lê sơ
Không giống các triều đại khác là kế thừa chuyển giao quyền lực cho nhau, thời Lê
sơ được thành lập bởi một cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài 10 năm – đó là khởi nghĩa
Lam Sơn. Khởi nghĩa Lam Sơn chống lại quân xâm lược nhà Minh do Lê Lợi – một địa
chủ ở Thọ Xuân, Thanh Hóa đứng lên triệu tập quân sĩ. Ban đầu, cuộc khởi nghĩa chỉ có 18
vị anh hùng áo vải; trải qua 10 năm trường kỳ gian khổ, khi kết thúc khởi nghĩa đã có 221
vị anh hùng kiên cường và trung thành chiến đấu, giành lại độc lập dân tộc.
Năm 1428, Lê Lợi chính thức lên ngôi hoàng đế ở Đông Kinh (Thăng Long ngày
nay), khôi phục tên nước Đại Việt, mở đầu triều đại Lê sơ. 221 quân sĩ cùng chiến đấu với
Lê Lợi đến ngày giành độc lập trở thành 221 quan chức cơ bản nhất trong triều đình, được
nắm giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy đầu tiên của nhà Lê. Họ là đội ngũ quan lại
xuất thân từ các võ tướng trong chiến trận, là những vị tướng rất tài năng.
Trải qua các triều vua Lê sau đó, đất nước Đại Việt dần được phục hồi và phát triển
trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và giáo dục. Đặc biệt triều vua Lê
Thánh Tông với việc thực hiện cải cách hành chính, là triều đại phát triển rực rỡ nhất. Chưa
bao giờ đời sống của muôn dân lại được no đủ, yên vui, thái bình như dưới thời trị vì của
Lê Thánh Tông.
Có thể khái quát tình hình Đại Việt trong suốt 100 năm dưới thời Lê sơ qua những
điểm nổi bật sau đây:
Về chính trị
Sau khi đánh tan quan xâm lược nhà Minh, uy tín và vị thế của triều Lê được nâng
lên, nhân dân hết lòng ủng hộ. Các công thần mưu lược ra sức cùng vua Lê khôi phục và
phát triển thể chế quân chủ trung ương tập quyền. Trong 100 năm tồn tại của triều Lê sơ
trải qua 10 đời vua, triều Lê sơ trải qua những dấu mốc quan trọng:
50
- Từ năm 1428 đến 1460 là thời kỳ hậu chiến nên đời sống chính trị cũng như
các thiết chế về tổ chức bộ máy chưa thực sự phát triển mạnh;
- Giai đoạn 1460 đến 1497 là thời kỳ trị vì của vua Lê Thánh Tông, cũng là
giai đoạn cực thịnh trên tất cả các lĩnh vực không chỉ của riêng nhà Lê sơ mà của hơn 1000
năm phong kiến nước ta;
- Giai đoạn 1498 đến 1527 là giai đoạn nhà Lê sơ rơi vào trạng thái suy vong.
Bộ Luật Quốc triều hình luật của nhà Lê đã được hoàn thành trong thời Lê Thánh
Tông, khi ông lấy niên hiệu là Hồng Đức nên còn được gọi là Bộ luật Hồng Đức. Với bộ
luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khai thuộc loại sớm nhất trên
thế giới. Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm Nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc
biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hóa các hoạt động của một nhà nước phong
kiến, với truyền thống nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Bộ luật có nội dung chính là bảo vệ
quyền lợi của vua và hoàng tộc; bảo vệ quyền lợi của quan lại và giai cấp thông trị địa chủ
phong kiến. Những quy định về trách nhiệm của hệ thống quan lại và một số nội dung khác
nhằm thực hiện quản lý đất nước theo pháp luật, xây dựng nhà nước quân chủ trung ương
tập quyền vững mạnh. Đây là thời kỳ các Hoàng đế nhà Lê nắm trọn được quyền hành trong
tay, cũng là thời kỳ cực thịnh của chế độ phong kiến Việt Nam.
Về kinh tế
Lê Thái Tổ cho 25 vạn lính trong tổng số 35 vạn lính của nhà nước về quê làm ruộng
sau chiến tranh để sớm phục hồi và phát triển nền nông nghiệp. Nhà Lê kêu gọi dân phiêu
tán trở về quê cũ làm ăn, đặt ra các chức quan phụ trách các vấn đề về nông nghiệp như:
Khuyến nông sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ và định lại chính sách chia ruộng đất công làng xã
(gọi là phép Quân điền); cấm giết trâu bò bừa bãi, cấm điều động dân phu trong mùa cấy
gặt. Triều Lê còn đẩy mạnh việc lập đồn điền và khẩn hoang nhằm khai thác vùng đất mới.
Nhờ những chính sách tích cực của nhà Lê với nông nghiệp, đời sống nhân dân trong nước
đã được đảm bảo phần nào.
Bên cạnh đó, kinh tế công nghiệp và thương nghiệp cũng được triều Lê sơ đặc biệt
quan tâm. Nhiều ngành nghề mới được phát triển tại Kinh đô Đông Kinh sầm uất. Các
ngành nghề thủ công truyền thống ở các làng xã như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc
đồng, rèn sắt, làm đồ gốm,… ngày càng phát triển hơn. Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp
51
nổi tiếng ra đời. Triều đình khuyến khích lập chợ mới, ban hành luật cụ thể về việc thành
lập chợ và họp chợ. Việc buôn bán với nước ngoài cũng được duy trì và kiểm soát chặt chẽ.
Về xã hội và giáo dục đào tạo
Trong xã hội, giai cấp nông dân chiếm đa số và sống chủ yếu ở vùng nông thôn, đây
là giai cấp bị bóc lột và nghèo khổ trong xã hội. Họ có rất ít hoặc không có ruộng đất nên
phải cày ruộng đất công nộp tô thuế, đi phục dịch cho nhà nước (đi lính, đi phu…) hoặc
cày cấy thuê cho địa chủ, quan lại và nộp một phần hoa lợi cho chủ ruộng. Cùng với sự
phát triển của công nghiệp và thương nghiệp, tầng lớp thương nhân và thợ thủ công ngày
càng đông hơn. Họ phải nộp thuế cho nhà nước và không được xã hội phong kiến coi trọng.
Nô tì là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội; bao gồm cả người Việt, người Hoa và dân tộc
ít người. Pháp luật nhà Lê hạn chế nghiêm ngặt việc bán mình làm nô tì hoặc bức dân tự do
làm nô tì. Do vậy, số lượng nô tì giảm dần. Nhờ những chính sách thúc đẩy kinh tế, cuộc
sống của nhân dân được ổn định, dân số ngày càng tăng, nhiều làng mới được thành lập.
Các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam nhận xét rằng, Đại Việt thời kỳ này đã trở thành một
quốc gia có uy thế trong khu vực Đông Nam Á [27; tr116-130].
Giáo dục, đào tạo là lĩnh vực được triều Lê dành sự quan tâm đặc biệt. Ngay sau khi
lên ngôi, Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc Tử giám ở Đông Kinh, mở trường học các lộ, mở
khoa thi Minh kinh và cho phép người nào có học đều được dự thi. Đa số dân đều có thể đi
học, đi thi, trừ những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát [26; tr62]. Ở các đạo – phủ có trường
công. Nhà nước tuyển chọn người vừa có đức vừa có tài làm thầy giáo. Nội dung chính của
việc học tập, thi cử là sách của nhà Nho. Tuy vậy, 30 năm sau khi giành độc lập, triều Lê
sơ vẫn rơi vào tình trạng khủng hoảng “nhân tài”. Do vậy, các phương thức tuyển chọn
quan lại đã được thực hiện như một biện pháp cấp bách hàng đầu. Trong đó, phương thức
thi tuyển là chủ yếu. Những quy chế về học hành triều Lê mở rộng hơn các thời trước,
không cấm con em nhà thường dân đi học như thời Lý. Lê Thánh Tông khởi xướng và lần
đầu tiên cho lập bia tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc tử giám vào năm 1484. Các đời vua sau này
tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia vinh danh mới. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới
trong giáo dục và khoa cử, Lê Thánh Tông đẩy mạnh việc phát triển giáo dục, đào tạo nhân
tài. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học, Quốc Tử giám… là những cơ quan
văn hóa – giáo dục lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí chứa sách, đặc biệt đã sáng lập
52
Hội Tao Đàn với những nhà văn hóa có tiếng thời bấy giờ mà Lê Thánh Tông là Tao Đàn
là chủ soái. Việc thi cử, học tập được tiến hành thường xuyên và số lượng người đỗ đạt,
thành danh cao nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Như vậy, kể từ năm 1428, triều Lê đã bắt tay vào khôi phục kinh tế, xây dựng thể
chế, bộ máy nhà nước, tạo nền tảng cho sự phát triển rực rỡ của một triều đại suốt 100 năm
sau đó. Có thể nói, triều Lê sơ là một triều đại hưng thịnh nhất suốt 1000 năm lịch sử phong
kiến Việt Nam ở tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa, xã hội,…
Để đạt được đến đỉnh cao của thiết chế quân chủ phong kiến đương thời như vậy là nhờ
một phần không nhỏ công lao của Lê Thánh Tông khi thực hiện cuộc cải cách hành chính
trong khoảng thời gian ông trị vì.
2.1.2. Sự cần thiết ban hành lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông
2.1.2.1. Xuất phát từ yêu cầu của cuộc cải cách hành chính thời Lê Thánh Tông
Cuộc cải cách hành chính Lê Thánh Tông hướng đến bao gồm việc cải cách tổ chức
bộ máy và cải cách chế độ quan lại – hai nội dung trọng yếu để củng cố nền hành chính nhà
nước vững mạnh, góp phần xây dựng nhà nước phát triển hơn. Lệ khảo thí, khảo khóa được
ban hành trước hết vì mục đích chung, đó là yêu cầu của việc thực hiện cải cách hành chính
dưới thời Lê Thánh Tông.
Mỗi cuộc cải cách hành chính trong lịch sử phong kiến nước ta đều do những yếu tố
kinh tế, xã hội thúc đẩy và mỗi cuộc cải cách đều có một bối cảnh lịch sử cụ thể. Mâu thuẫn,
khủng hoảng, nền hành chính yếu kém là những yếu tố thúc đẩy sự ra đời của các cuộc cải
cách hành chính. Sự thành công hay thất bại của các cuộc cải cách hành chính phần nhiều
phụ thuộc vào bối cảnh của cải cách, biện pháp tiến hành cải cách và vai trò của người đề
xướng và thực hiện cải cách đó.
Cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông diễn ra trong hoàn cảnh rất khó
khăn, mâu thuẫn và khủng hoảng trong triều đình trầm trọng, nhưng với tài năng kiệt xuất,
vua Lê Thánh Tông đã thực hiện cải cách hành chính thành công, đưa xã hội Việt Nam phát
triển về mọi mặt.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông
bắt nguồn từ sự yếu kém của bộ máy hành chính từ thời vua Lê Thái Tổ đến vua Lê Nhân
Tông. Đội ngũ quan lại cốt cán triều đình từ thời vua Lê Thái Tổ là những võ tướng từ cuộc
53
khởi nghĩa Lam Sơn trở về. Xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể trong khởi nghĩa Lam Sơn, các
võ tướng này đều không có những yêu cầu về trình độ, tài năng để xây dựng và phát triển
đất nước, phục vụ cho việc trị nước trị quốc. Khi đã và đang xây dựng đất nước, yêu cầu
về trình độ và khả năng của quan lại trong thời bình đã thay đổi, bộ máy hành chính đã xây
dựng trước đó không còn phù hợp nữa, đặt ra yêu cầu phải thực hiện cải cách hành chính.
Tuy nhiên, cải cách hành chính dưới thời Lê Thánh Tông không chỉ bắt nguồn từ
nguyên nhân đó, trên thực tế cuộc cải cách này còn bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa, mà
từ Lê Thái Tổ đến Lê Nhân Tông tuy các nhà vua này cũng muốn làm, nhưng chưa thực
hiện được. Cụ thể là:
Thứ nhất, do khủng hoảng thiết chế chính trị từ cuối thời Trần
Khủng hoảng thiết chế chính trị diễn ra từ cuối thời Trần với yêu cầu thay thế thiết
chế chính trị phong kiến quý tộc Phật giáo bằng thiết chế chính trị phong kiến quan liêu
Khổng giáo. Vua Hồ Quý Ly cũng đã cố gắng thực hiện sự thay đổi này trong suốt thời
gian trị vì của mình những vẫn chưa thực hiện được. Khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ cũng đã
cố gắng giải quyết khủng hoảng thiết chế chính trị nói trên. Sử cũ có ghi: “Khi lên ngôi,
vua đã ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức,
thành lập phủ huyện, thu thập sách vở, mở mang trường học, có thể nói là có mưu kế xa
rộng, mở mang cơ nghiệp” [5; tr221].
Dưới triều Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông tư tưởng chính trị vẫn lấy Nho giáo làm
quốc giáo. Điều đó đã được vua Lê Thánh Tông khẳng định: “Thái Tổ ta trước, ban đầu
dựng nước, mở mang học hiệu, dùng cỗ Thái lao để tế Khổng Tử, rất mực sùng Nho, trọng
đạo” [5; tr320].
Thứ hai, đó là sự yếu kém của bộ máy hành chính nhà nước, sự tha hóa của đội
ngũ quan lại triều đình
Đất nước rộng lớn đã được thống nhất, vua Lê Thái Tổ mới chia làm 4 đạo, đến vua
Lê Thái Tông chia làm 5 đạo. Cấp trung gian còn quá nhiều, chức năng, nhiệm vụ các cấp
hành chính chưa rõ ràng. Các cấp trung gian như phủ, lộ, trấn... đã gây khó khăn cho việc
quản lý của triều đình. Còn sách, xã, trang là cấp ngang với cấp xã hay cấp dưới xã vẫn
chưa được xác định và thống nhất trong cả nước.
54
Trong khi kinh tế - xã hội phát triển đang cần có bộ máy hành chính nhà nước nhà
phong kiến trung ương tập quyền thì bộ máy hành chính lại tỏ ra yếu kém, phân tán, hoạt
động kém hiệu lực, hiệu quả.
Đội ngũ quan lại lộng hành, tha hoá, biến chất. Sự tha hoá đó thể hiện ở một số mặt
sau:
- Số quý tộc công thần được tặng phong từ sau cuộc kháng chiến chống quân Minh
nảy sinh tư tưởng xả hơi, cạy thế cạy quyền, ngày càng tha hoá. Không ít người có chức
quyền trong bộ máy hành chính chuyển sang hưởng thụ, tham nhũng, hối lộ. Nhiều quan
đại thần đua nhau huy động sức lính, của dân để xây dựng lâu đài, dinh thự cho mình. Thái
uý Lê Thụ cưới vợ cho con mà “những kẻ cầu tiến đạt đua nhau đem cúng của cải để mong
được phú quý, khiến cho các thứ gấm thêu, lĩnh là, vóc lụa ở hàng phố hết nhẵn” [9; 99].
Năm 1429, khi cho các quan văn võ nghị bàn việc lớn của đất nước, vua Lê Thái Tổ đã phải
thốt lên rằng: "Không có ai chịu hết lòng với việc nước, chỉ ham nghĩ phú quý mà thôi" [5;
tr109].
Hàng ngũ quan lại dưới triều vua Lê Nhân Tông, như Trung Hưng ký nhận xét: “Tể
thần như Lê Sũng, Lê Sát thì dốt đặc, Chưởng binh như Lê Duyên, Lê Luyện thì mù tịt…,
phường dốt đặc như ong nổi dậy, kẻ xiểm nịnh được nghe theo, bọn đạo bút được bổ
dụng…” [9; 100].
Số tích cực như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lưu Nhân Chú... đều bị cô lập hoặc
sát hại.
- Bọn quần thần như Lê Sát, Lê Ngân, Lê Thụ, Lê Soạn... ngày càng lộng hành. Quyền
lực nhà nước bị phân tán, chế độ phong kiến tập quyền bị đe doạ nghiêm trọng.
- Các quần thần ghen ghét, vu cáo, sát hại lẫn nhau. Nhà vua hoặc bất lực, hoặc thiếu
sáng suốt, công minh. Vụ sát hại đại công thần Nguyễn Trãi là một ví dụ. Tư đồ Lê Sát là
chủ mưu sát hại các quan đầu triều, nhưng đến khi vua Lê Thái Tông nhận ra thì đã quá
muộn. Khi bãi chức Lê Sát, vua Lê Thái Tông xuống chiếu mà dụ rằng: “Lê Sát chuyên
quyền nắm giữ việc nước, ghen ghét bậc hiền tài, giết Nhân Chú để hòng ra oai, truất Trịnh
Khả bắt người ta phải phục, bãi chức của Ư Đài khiến đình thần không còn ai dám nói, đuổi
Cầm Hổ ra biên giới cho gián quan phải bịt miệng im hơi” [5; tr332].
55
- Nạn hà hiếp dân và ăn hối lộ diễn ra phổ biến trong đội ngũ quan lại. Những vấn nạn
đó diễn ra tệ hại đến nỗi vua Lê Thái Tông đã phải ra lệnh chỉ nêu rõ: “Nay các khanh
không kính giữ phép công, người giữ tiền bạc, sổ sách của cả nước thì chậm trễ hoặc gây
khó dễ. Thuế đáng thu hay đáng miễn thì không chịu phê tâu dứt khoát để làm khổ dân.
Người coi quan thì không thương dân đau khổ, còn kẻ coi dân thì chỉ vụ lợi riêng, không lo
nuôi dưỡng dân, tha cho người giầu, bắt tội người nghèo, xử kiện không công bằng, chỉ gây
bè phái lo hối lộ, làm việc không siêng năng, chỉ thích ăn uống, nhậu nhẹt” [5; tr332].
Trong điều kiện đó, vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông đã thực hiện một số biện pháp để
kiểm tra, giám sát quan lại, tổ chức thi tuyển, tiến cử người hiền tài nhưng đều không mang
lại kết quả. Việc tiến cử người hiền tài, sau nhiều lần vua nhắc nhở, thúc giục mới được
thực hiện nhưng những người được tiến cử lại qua sự thẩm định của chính các viên quan
đại thần thoái hoá nên vẫn không thể tiến cử được người hiền tài. Có lần, Thái hậu nhân
danh vua Lê Thái Tông đã phải chua xót mà nói rằng: "Những người mà các người tiến cử,
những lời mà các ngươi tâu lên chả lẽ ta lại không biết hay sao? Những lời của các ngươi
tâu lên chẳng có mưu kế gì có thể dùng được. Những kẻ mà các ngươi tiến cử đều là bọn
tầm thường dung tục" [5; tr267].
- Sự nghiệp thống nhất quốc gia bị đe doạ nghiêm trọng. Mặc dầu khi lên ngôi vua Lê
Thái Tông đã muốn củng cố sự thống nhất quốc gia bằng việc cùng các quan văn, võ trong
triều, tế cáo trời đất, cùng nhau “giết ngựa trắng lấy máu ăn thề”, nhưng mưu đồ phân chia
quyền lực giữa các tộc thiểu số vẫn liên tiếp diễn ra. Năm 1435, tù trưởng châu Ngọc Ma,
Nghệ An; năm 1441, tù trưởng châu Thuận Mỗi, Sơn La; năm 1446, tù trưởng huyện Thu
Vật, Tuyên Quang... thi nhau nổi dậy làm phản. Đó là thời vua Lê Thái Tông. Đến thời vua
Lê Nhân Tông và thời Lê Nghi Dân tình hình này còn nghiêm trọng hơn rất nhiều.
- Nội bộ suy yếu, giặc ngoại xâm được dịp tràn đến. Ở phía Nam và suốt dọc bờ biển
phía Đông, từ Bắc chí Nam, giặc Chiêm Thành kéo đến cướp phá tàn sát dân Việt. Ở vùng
biên giới phía Bắc, bọn xâm lược bành trướng xúi giục, chia rẽ, lôi kéo một số tù trưởng
phản động nổi lên chống lại triều đình, đem đất, đem dân dâng nộp cho chúng. Nhiều vùng
lãnh thổ của đất nước đã rơi vào tay giặc. Nguy cơ mất nước vì nạn ngoại xâm càng ngày
càng lớn dần, mâu thuẫn nội bộ ngày càng gay gắt.
56
Thứ ba, khủng hoảng cung đình là nguyên nhân trực tiếp khiến vua Lê Thánh
Tông phải tiến hành cải cách hành chính.
Sau đại thắng quân Minh, tưởng chừng như đất nước mãi mãi đi lên mà không còn
có trở lực nào có thể ngăn cản nổi, không kẻ thù xâm lược nào dám đụng đến nước Đại Việt
nữa. Nhưng thực tế lại không hoàn toàn như vậy. Ngay trong những năm đầu trị vì của vua
Lê Lợi - ông vua đầu tiên của triều Lê (1428 - 1433) đã xuất hiện những mầm mống của
khủng hoảng. Nguy cơ ngoại xâm tạm yên, mối hoạ trong nước đã bắt đầu âm ỉ. Nguyễn
Chích, Lưu Nhân Chú, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Nguyễn Trãi - những đại công
thần ấy của triều Lê, những người đã từng nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử cùng vua Lê
Lợi trong kháng chiến, nay vẫn giữ tròn đạo trung với vua, lần lượt đều bị khép vào tội tử
hình vì những lý do khác nhau.
Vua Lê Lợi chết, Lê Thái Tông nối ngôi. Vua Lê Thái Tông đã làm cho tình hình
đất nước ngày càng lún sâu vào cuộc khủng hoảng. Vua Lê Thái Tông thiếu bản lĩnh lại ưa
thích xu nịnh. Xung quanh vua Lê Thái Tông là những quan lại đầy mưu mô, xảo quyệt.
Những ai giám can ngăn vua làm điều trái đều bị mất chức, bị lưu đầy hoặc bị giết hại.
Vua Lê Thái Tông chết, Bang Cơ lên ngôi vua khi vẫn còn rất nhỏ. Nguyễn Thị Anh
buông rèm ngồi trị nước thay con. Người đàn bà mưu mô, xảo quyệt, lắm tham vọng này
đã cùng với anh trai mình là Nguyễn Phù Lộ và bọn nịnh quan, lập thành phe phái, chi phối,
lũng đoạn mọi công việc của triều đình. Họ không từ bất cứ thủ đoạn nham hiểm nào để
đàn áp, thủ tiêu những người không cùng phe cánh. Chốn triều đình, người có đức, có tài
bị ức hiếp hoặc vô hiệu hoá; bọn bất tài, thất đức tha hồ tác ai, tác quái, quấy đảo ở triều
đình và các cấp hành chính.
Năm 1459, Lê Nghi Dân - con cả vua Lê Thái Tông, bị cha truất quyền kế vị, nửa
đêm cùng với những người thân tín đột nhập hoàng thành giết em ruột mình là Bang Cơ,
tức vua Lê Nhân Tông và Hoàng Thái Hậu - mẹ Bang Cơ rồi tự xưng làm vua. Nghi Dân ở
ngôi vua được 8 tháng. Do tính tình hung bạo, sa đoạ, nên các quan trong triều rất oán giận.
Tháng 6 năm 1459, đảo chính xảy ra tại cung đình, Nghi Dân cùng bọn tay chân của y đều
bị giết chết.
Khắc Xương là con thứ ba của vua Lê Thái Tông được tôn lên ngôi vua. Vốn là
người yếu đuối, Khắc Xương lo sợ cho tính mạng của mình nên một mực từ chối ngồi vào
57
ngai vàng. Các quan tiến bộ trong triều quyết định rước người con út của vua Lê Thái Tông
là Lê Tư Thành về kinh đô và tôn ông lên làm vua, năm ấy ông mới 18 tuổi.
Như vậy, với những nguyên nhân đã nêu trên, dựa trên những điều kiện sẵn có của
Đại Việt bấy giờ, Lê Thánh Tông quyết định thực hiện một cuộc cải cách hành chính đất
nước. Trước những tồn tại mà thực tế đặt ra, ông đã thực hiện cuộc cải cách hành chính này
trên hai nội dung chủ yếu, đó là cải cách bộ mày hành chính và cải cách chế độ quan lại.
Bộ máy nhà nước phong kiến thời Lê Thái Tổ còn quá nhiều tầng nấc, chưa có quy
củ rõ ràng. Tính cách tạm thời và phân tán quyền lực của bộ máy thời bấy giờ chỉ thích ứng
với hoàn cảnh xã hội sau chiến tranh còn khá lỏng lẻo. Trải qua các đời vua, bộ máy nhà
nước cơ bản được đặt ra khá hoàn thiện, nhưng lại chưa có cơ cấu tổ chức và quy chế hoạt
động cụ thể. Khi lên ngôi, Lê Thánh Tông đã từng bước tiến hành những cải cách sâu sắc
làm cho bộ máy hành chính nhà nước ngày càng hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; đưa đất
nước đi dần vào thế ổn định và từng bước phát triển một cách vững chắc. Ông đã kiên trì
cải cách bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương theo những mục tiêu:
- Gọn, nhẹ mà có hiệu lực;
- Chọn được những người thực sự có tài, có đức để bổ dụng làm quan;
- Loại bỏ kịp thời bọn tham quan, ô lại, những quan lại không xứng chức.
Với những mục tiêu cụ thể để thực hiện cải cách bộ máy nhà nước, bộ máy hành
chính dưới triều Lê Thánh Tông là bộ máy điều hành có cơ cấu hoàn chỉnh hơn tất cả những
bộ máy quản lý của các triều đại trước đó. Nó gọn nhẹ nhưng hoạt động có hiệu quả cao.
Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ hỗ trợ, giám sát lẫn nhau giữa các bộ phận trong bộ máy
nhà nước được phân định tương đối rõ ràng, không có hiện tượng chồng chéo lẫn nhau.
Quan niệm về sự cần thiết phải có đội ngũ quan lại chuyên nghiệp, trung thành với
triều đại của mình thể hiện rất rõ trong các chiếu dụ của vua Lê Thánh Tông. Ông đã dành
rất nhiều thời gian, tâm huyết của mình để tạo dựng một đội ngũ quan lại giúp việc đáp ứng
được tiêu chuẩn “hiền - tài”. Cơ sở pháp lý quan trọng nhất để cải cách quan chế và triển
khai các biện pháp hình thành đội ngũ quan lại là bản dụ Hiệu định quan chế (Hoàng triều
quan chế) của vua Lê Thánh Tông và nhiều văn bản khác như: Lệ khảo khoá năm 1470,
Sắc chỉ năm 1480, Điều lệnh năm 1485, Chiếu chỉ năm 1487… và đặc biệt là vào năm 1483
58
ông cho ban bố Bộ luật Hồng Đức, trong đó có nhiều điều khoản quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của quan lại.
Chế độ quan lại dưới triều Lê Thánh Tông được cải cách khá toàn diện, từ việc tuyển
chọn, đào tạo; kiểm tra, giám sát đến việc khen thưởng và xử phạt đội ngũ quan lại triều
đình đều được Lê Thánh Tông quan tâm. Để đội ngũ quan lại triều đình phát huy được hết
tài năng, đức độ của họ trong thi hành nhiệm vụ, Lê Thánh Tông đã tỏ ra rất nghiêm khắc
và chặt chẽ trong việc đặt ra những lệ mới và tiến hành các biện pháp hữu hiệu để kiểm tra,
giám sát đội ngũ quan lại các cấp. Để khuyến khích và bắt buộc các lại, quan đương chức
phải luôn trau dồi năng lực, đạo đức và loại bỏ kịp thời những quan lại thoái hoá, biến chất,
vua Lê Thánh Tông đặt ra lệ “Khảo thí” và “Khảo khoá” quan lại.
2.1.2.2. Xuất phát từ mục đích cải cách đội ngũ quan lại dưới thời Lê Thánh Tông Việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa mục đích chính là nhằm kiểm tra, đánh giá
trình độ, năng lực và phẩm hạnh của đội ngũ quan lại trong triều đình từ trung ương đến
địa phương. Tùy vào từng triều đại mà mục đích, niên hạn, tiêu chí thực hiện khảo thí, khảo
khóa được thực hiện khác nhau. Nhận thức được vai trò đặc biệt của việc thực hiện lệ khảo
thí, khảo khóa; dưới thời Lê Thánh Tông, lệ khảo thí, khảo khóa được xây dựng hoàn chỉnh
và thực hiện như một lệ không thể bỏ qua. Có thể nói rằng, mục đích cụ thể của việc thực
hiện lệ khảo thí, khảo khóa chính là phục vụ cho việc thực hiện cải cách đội ngũ quan lại
dưới thời Lê Thánh Tông.
Việc ban hành và thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa là tối quan trọng và cần thiết để
thực hiện mục đích cải cách đội ngũ quan lại vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, khảo thí, khảo khóa thường xuyên giúp hạn chế những vấn đề còn tồn tại
từ việc tuyển chọn quan lại bằng chế độ khoa cử. Triều Lê sơ thực hiện khoa cử rộng khắp
với tất cả các đối tượng, từ kẻ giàu đến người nghèo, từ nam đến nữ, từ những người trong
kinh đến những người là thường dân ngoại đạo,… tất cả mọi người chỉ cần là người được
xã trưởng xác nhận về tư cách, đạo đức và không thuộc vào đối tượng: người phạm vào tội
thập ác, con nhà phường hát. So với các triều đại trước, triều Lê sơ đã mạnh dạn mở rộng
khoa cử đến tất cả các đối tượng. Cứ 3 năm một lần các khoa thi được mở ra để lựa chọn
người tài. Mặc dù đã có những quy chế kiểm soát hoạt động tuyển chọn quan lại qua con
đường khoa cử chặt chẽ và nghiêm minh hơn so với các triều đại trước, song giai đoạn đầu
59
thực hiện chế độ khoa cử mở rộng vẫn còn tồn tại vấn nạn mua quan, thi hộ,… Mãi sau đó,
những quy định hà khắc, chặt chẽ được ban hành mới làm giảm phần nào những vấn nạn
tồn tại trong chế độ khoa cử.
Để hạn chế việc mua quan, bán chức, thi hộ, đưa – nhận hối lội,… vua Lê Thánh
Tông cần có một biện pháp để thực hiện kiểm tra, giám sát chất lượng về cả đức và tài đội
ngũ quan lại, kể cả đối với người vừa mới thi đỗ các kỳ thi hay đã làm quan lâu năm. Lệ
khảo thí, khảo khóa vì thế được xây dựng và triển khai thực hiện rộng khắp, đối với tất cả
các quan lại, không kể phẩm trật, vị trí làm việc.
Thứ hai, khảo thí, khảo khóa đánh giá phẩm hạnh của đội ngũ quan lại, hạn chế sự
tha hóa về phẩm chất đạo đức của đội ngũ quan lại trong triều đình. Việc quan lại trong
triều đình, đặc biệt là những vị quan đại thần được giao nhiều quyền hạn có những hành vi
tham nhũng, nhận hối lộ, hà hiếp bóc lột dân chúng, không tôn trọng nhân dân,… tồn tại
dưới thời phong kiến là một điều không khó để nhận thấy. Những vấn nạn này nhiều đến
mức vua Lê Thái Tông đã phải ra lệnh chỉ nêu rõ: “Nay các khanh không kính giữ phép
công, người giữ tiền bạc, sổ sách của cả nước thì chậm trễ hoặc gây khó dễ. Thuế đáng thu
hay đáng miễn thì không chịu phê tâu dứt khoát để làm khổ dân. Người coi quan thì không
thương dân đau khổ, còn kẻ coi dân thì chỉ vụ lợi riêng, không lo nuôi dưỡng dân, tha cho
người giầu, bắt tội người nghèo, xử kiện không công bằng, chỉ gây bè phái lo hối lộ, làm
việc không siêng năng, chỉ thích ăn uống, nhậu nhẹt” [5; tr332].
Để đánh giá đúng phẩm hạnh và hạn chế sự tha hóa về phẩm chất đạo đức của đội
ngũ quan lại trong tiều đình, vua Lê Thánh Tông thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa theo niên
hạn 3 năm với đội ngũ quan lại. Song khác với những triều đại khác chỉ chú trọng kiểm tra
và đánh giá trình độ kiến thức của đội ngũ quan lại, Lê Thánh Tông đã tập trung hơn vào
việc đánh giá tư cách, phẩm chất đạo đức của đội ngũ quan lại, thông qua việc đánh giá về
đời sống nhân dân nơi quan viên cai quản, sự mẫn cán của quan lại, thái độ làm việc có
được lòng dân hay không,…
Thứ ba, việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa giúp xây dựng một đội ngũ quan lại
chất lượng từ trung ương đến địa phương, góp phần thực hiện cải cách hành chính nhà nước
được thực hiện hiệu quả. Với mục đích xây dựng lực lượng thực hiện cải cách hành chính
nhà nước từ trung ương đến địa phương, góp phần đưa Đại Việt phong kiến đạt đến sự phát
60
triển cực thịnh, vua Lê Thánh Tông nhận thấy rõ vai trò và những đóng góp của đội ngũ
quan lại. Bất kể là quan văn hay quan võ, ở trung ương hay địa phương đều cần có những
chính sách phù hợp để động viên, khích lệ tinh thần đội ngũ quan lại.
Trong lịch sử thực hiện các cuộc cải cách, đổi mới thời phong kiến trước cuộc cải
cách hành chính được thực hiện bởi vua Lê Thánh Tông, các triều đại khác cũng đã từng
thực hiện những cuộc cải cách, đổi mới trên nhiều phương diện và nội dung khác nhau: cải
cách hành chính dưới thời Khúc Hạo, Lý Công Uẩn thực hiện đổi mới đất nước, Trần Thủ
Độ đổi mới toàn diện xã hội, hay Hồ Quý Ly thực hiện cải cách xã hội. Mỗi cuộc cải cách,
đổi mới đều đạt được những thành công nhất định với việc xây dựng và phát triển đất nước.
Song có thể thấy rằng, những cuộc cải cách đổi mới trước Lê Thánh Tông vẫn chưa được
thực hiện một cách hiệu quả nhất, bởi chỉ tập trung cải cách, đổi mới các cơ chế, chính sách
mà chưa tập trung cách tân đội ngũ tổ chức và thực hiện các chính sách đó. Ngay như cuộc
cải cải hành chính của Khúc Hạo, mặc dù đã quan tâm đến tổ chức lại bộ máy nhà nước;
cải cách cơ chế hành chính; đặt thêm chức quan để trông coi, quản lý các xã (trước đó chính
quyền đô hộ chưa bao giờ đặt ra các chức xã quan để quản lý các xã) nhưng chưa đi sâu
quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, các chức quan; đồng thời cũng chưa
chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ quan lại đủ đức đủ tài thực hiện cải cách hành chính
đồng bộ và thống nhất cho triều đình. Do vậy, cải cách hành chính của Khúc Hạo dù đã
đem lại sự vững vàng và ổn định hơn cho đất nước song chưa đưa đất nước đạt đến sự phát
triển hưng thịnh được như cải cách của Lê Thánh Tông. Bằng việc chú trọng vào cải cách
chế độ quan lại; chú trọng kiểm tra, đánh giá chất lượng đội ngũ quan lại đang làm việc từ
trung ương đến địa phương, vua Lê Thánh Tông đã gây dựng được một nguồn lực vừa đủ
đức vừa đủ tài, một nguồn nhân lực lớn mạnh, góp phần tạo nên thành công của cuộc cải
cách hành chính nhà nước đương thời nói chung và nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng
đội ngũ quan lại nói riêng.
2.2. Nội dung lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông
2.2.1. Mục đích thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa
2.2.1.1. Làm cơ sở để thực hiện các chế độ sử dụng quan lại
Kết quả của các kỳ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông trước tiên
được lấy làm cơ sở để đánh giá quan lại theo từng hạng, bậc; từ đó thực hiện các chế độ sử
61
dụng đối với quan lại. Tùy thuộc vào kết quả của kỳ khảo thí, khảo khóa đã đạt được mà
các quan lại có thể sẽ được thăng quan, thăng thưởng, hay giáng chức; được tuyển bổ hoặc
bị luân chuyển đến vùng khác hay giản thải; nhiều quan lại có thể đổi ngạch đang đảm
nhiệm… sao cho phù hợp với năng lực thực tế của các quan lại.
Tháng 2 năm 1478, vua Lê Thánh Tông ra sắc chỉ cho ba ty Đô, Thừa, Hiến các xứ
rằng: “Xét các quan lại trong bộ thuộc của mình, người nào liêm khiết hay tham ô, chuyên
cần hay lười biếng, cùng các quan Nho học dạy dỗ nhân tài, hàng năm có người được sung
cống sĩ hay không, nhiều hay ít, đều ghi tên tâu lên để định việc thăng hay giáng” [5; tr471].
- Kết quả khảo khóa làm cơ sở để thực hiện chế độ thăng thưởng, ví dụ như: “Quan
viên nào không phải kẻ phạm tội bị giáng chức nếu đã đủ lệ khảo khóa thì cho được thăng
chức như lệ quan viên các xứ. Nếu khảo khóa là xứng chức thì chỉ được thăng lên Thừa ty
bản xứ, không được chuyển đổi về chỗ gần…” [5; tr502]. Chiếu năm 1496 có quy định:
“Giám sinh, nho sinh, học sinh, án lại, lại viên các nha môn thi hội đã trúng nhiều kỳ làm
việc lâu năm, biết việc, siêng năng và có quân công thì ban đầu được trao các chức Tri
huyện, Tri châu, Huyện thừa, Đồng tri châu, Thủ lĩnh, tự ban; đủ 3 năm không phạm lỗi gì
thì mới cho thực thụ; sau 6 năm không phạm lỗi thì Tri huyện, Tri châu được thăng bổ Viên
ngoại lang; Huyện thừa, Đồng tri châu, Tri hạ, Điển hạ, Tự ban được bổ các chức Tư vụ,
Chủ sự, Thôi quan, Đô quan; đủ 6 lần khoá không phạm lỗi thì Viên ngoại lang, Đồng tri
phủ mới được thăng làm tri phủ” [5; tr515].
- Trong quá trình làm việc, nếu có vị trí nào bị khuyết cần chọn bổ cũng được lựa
chọn dựa trên việc khảo khóa để tuyển bổ: “Thừa ty, Hiến sát là những phương diện quan,
trách nhiệm đã tôn, quyền uy cũng trọng, khi tuyển bổ phải dùng người tốt. Nếu bị khuyết:
Tham nghị thì dùng quan từ lục phẩm trở lên: có tài năng kiến thức và uy tín, nhậm chức
đủ 4 lần khảo khóa trở lên; Hiến sát thì dùng quan các nha môn, khoa đài, Quốc tử giám,
Lục tự mà thanh liêm, sáng suốt, từng trải đủ 4 lần khảo khóa trở lên được mọi người suy
tôn ca ngợi, theo lệ mà tuyển bổ…” [5; tr496].
- Sau kỳ khảo khóa, dựa vào năng lực công tác có thể được quyết định đổi ngạch:
“Năm ấy (năm 1496) có sắc chỉ cho chỉ huy các vệ ty túc trực làm việc đủ hạn 4 lần khảo
khóa trở lên, có người nào giữ công chăm việc, không tội lỗi, thì trưởng quan của vệ xét
thực làm tờ trình lên, Lại bộ theo chỗ khuyết mà đổi bổ sang văn chức” [3; tr567]; hoặc
62
thuyên chuyển vị trí công tác: “Các quan viên nhận chức ở vùng đất độc hại đã đủ hai lần
khảo khóa trở lên mà xứng đáng với chức vụ, không có tội lỗi, thì Lại bộ xét thực rồi điều
chuyển về chỗ đất lành” [5; tr480].
- Kết quả khảo thí, khảo khóa làm cơ sở để tiến hành chế độ giản thải quan lại. Việc
tổ chức khoa thi lấy đỗ nhiều tiến sĩ làm cho bộ máy quan lại ngày càng phình to, tốn kém.
Do vậy, vua có chủ trương giảm bớt bằng cách tiến hành rà soát quan lại: “Trưởng quan
theo đạo công xét kỹ những quan viên dưới quyền giản hoặc có người hèn kém bỉ ổi không
thể làm việc được giao bộ Lại xét thực đều bắt về hưu. Lại chọn người từng trải làm được
có tài khí kiến thức thông thạo mà thay bổ vào” [9; tr178]. Ngay cả chức danh xã trưởng
tại các địa phương cũng được vua đưa ra quy định thực hiện chế độ khảo hạch, giám sát để
giản thải một cách nghiêm khắc: “Quan phủ huyện châu theo phép công mà phúc khám,
không câu nệ là xã chính, xã sử hay xã tư cứ người nào làm việc cẩn thận chu đáo nên giữ
lại, còn người nào gian tham bỉ ổi không biết chức đều tinh giản cho về, các hạng già lão
ốm đau đều hoàn làm dân” [9; tr178]. Năm 1467 dưới triều Lê Thánh Tông, “khảo thi và
sa thải bọn Đông cung thị giảng là Vũ Nguyên Tiềm và Tạ Bưu ở Phụng Nghi đường” [5;
tr423].
Phép khảo thí và khảo khóa được thực hiện nghiêm ngặt, các quan lại dưới triều vua
Lê Thánh Tông không một ai nghĩ rằng khi đã được phong quan thì sẽ được làm quan suốt
đời. Họ luôn đứng trước nguy cơ bị bãi chức nếu như tài năng và đức độ không đáp ứng.
Việc thực hiện khảo thí, khảo khóa quan lại vừa là động lực vừa là áp lực kích thích sự rèn
luyện thường xuyên của quan lại cả về khả năng và đức hạnh để được đánh giá là xứng
chức. Tháng 3 năm 1479, ra sắc chỉ rằng: “Các quan viên lười biếng, bì ổi, đê tiện, yếu hèn,
nếu là con cháu công thần thì bãi chức bắt về làm dân, nếu là còn cháu thường dân thì bãi
chức sung quân” [5; tr475]
Năm 1480 ông cũng quy định rõ: “Hình quan và các quan thừa hiến phủ, huyện các
xứ xét xử án kiện, lấy của đút thì nhiều, giữ lẽ công thì ít, có trường hợp để ứ đọng văn án
đến 3, 4 năm; có trường hợp nha môn trên dưới đùn đẩy lẫn nhau, đổi trắng thay đen, cho
trái làm phải, gian trá trăm cách, lý ngay không được tỏ bày, oan trái nhiều, sầu than lắm,
đến nỗi hạn hán xảy ra luôn, Triều thần phải công bằng mà lựa chọn hoặc sa thải hình
63
quan và quan thừa hiến phủ huyện các xứ để đều được người giỏi, xét xử đung lẽ, phải tâu
lên để thi hành” [5; tr481].
Như vậy, mục đích đầu tiên của việc thực hiện chế độ khảo khóa là để làm căn cứ
thưởng, phạt quan lại (thăng giáng chức tước phẩm hàm hoặc cấp thêm bổng lộc), vừa để
làm căn cứ chọn bổ, điều chuyển quan lại cho phù hợp với năng lực và nhu cầu công việc,
vừa để giản thải quan lại.
2.2.1.2. Nâng cao ý thức đạo đức đội ngũ quan lại triều đình
Lê Thánh Tông lên ngôi vua giữa lúc tình hình chính trị đất nước đang rơi vào khủng
hoảng nghiêm trọng, ông đã chứng kiến những hành vi của bọn tham quan ô lại bạo ngược
cậy quyền cậy thế, vơ vét tận đáy của cái của lương dân. Cho nên trong cải cách nền hành
chính quốc gia, ông cho rằng, cải cách quan lại đóng vai trò chủ yếu. Với quan điểm: “Trăm
quan là nguồn gốc của trị, loạn. Quan có đức, có tài thì nước trị. Quan vô đức, kém tài thềm,
bậc dẫn đến họa loạn”. Để sử dụng đội ngũ quan lại sao cho phù hợp nhất, cần phải biết
được đâu là người hay, kẻ dở, trong trăm quan ai là người có thực tài, mẫn cán, yêu nước
thương dân, ai là người vô tài, vô đức, làm thì láo mà báo cáo thì hay, nhũng nhiễu dân
chúng… Trên cơ sở đó, việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa thường xuyên giúp nhắc nhở
quan lại phải tận tâm hơn với trách nhiệm của mình, kích thích sự rèn luyện thường xuyên
của quan lại cả về năng lực và đức hạnh để đáp ứng với yêu cầu thực tế, gắn trách nhiệm
của quan lại với việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
Tháng 11 năm 1471, khi ra chỉ dụ về việc cấm để chậm các kì khảo khóa vua Lê
Thánh Tông có nói rằng: “Phéo khảo khóa cốt để phân biệt người hay kẻ dở, nâng cao hiệu
quả trị nước” [5; tr458]. Đối với quan lại, Lê Thánh Tông không chỉ yêu cầu tài năng mà
còn cần phải đáp ứng yêu cầu về đạo đức. Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên của triều Hậu
Lê đưa ra nội dung khảo khóa về tư cách đạo đức. Vì vậy, người làm quan cần phải giữ gìn
và nâng cao đạo đức thể hiện trong mối quan hệ với bản thân quan lại, với công việc. Để
đáp ứng được yêu cầu của các kỳ khảo khóa, các quan lại không còn cách nào khác ngoài
việc giữ gìn phẩm cách người quân tử và nâng cao đạo đức công vụ. Trong công cuộc cải
cách hành chính, Lê Thánh Tông chú ý nhất là vấn đề cải cách con người, đề cao thực tài
và tâm đức của người làm quan trong hoạt động công vụ thì mới làm cho đất nước phát
triển được, những chính sách của nhà vua mới có thể thực hiện được triệt để. Vì vậy, để tìm
64
ra được người tài năng đức độ, thấy được kẻ kém cỏi, quan tham đồng thời luôn thúc giục
quan lại nâng cao đạo đức công vụ không có cách nào khác ngoài việc thực hiện chế độ
khảo khóa quan lại thường xuyên.
Khảo thí cũng được thực hiện đúng theo niên hạn, thực hiện trên cả phương diện
trình độ kiến thức và thái độ làm việc. Mỗi một vị quan khi được cân nhắc về việc thăng
chức hay chọn bổ đều phải căn cứ vào kết quả của những kỳ khảo thí, khảo khóa gần nhất.
Thậm chí, có những vị trí cần phải xét đến 4 kỳ khảo thí mới được. Khi nhắc đến việc khảo
thí chức huấn đạo ở các phủ, Lê Thánh Tông có lời: “Nếu khuyết viên huấn đạo nào thì sai
quan sở tại chọn giám sinh các đường và lại viên các nha môn, người nào thi hội trúng các
kỳ đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, lại có hạnh kiểm, học vấn, từ 35 tuổi trở lên, theo như lệ năm
trước, khảo thi 4 kỳ đều đỗ thì mới cho làm” [5; tr411].
Như vậy, cả việc thực hiện khảo thí và khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông đều trở
thành cơ sở để áp dụng các chế độ quan lại khác đối với đội ngũ quan lại. Trên cơ sở thực
hiện khảo thí, khảo khóa theo niên hạn đã định, đội ngũ quan lại tích cực trau dồi và rèn
luyện kiến thức, kỹ năng cũng như phẩm chất đạo đức, góp phần nâng cao ý thức đạo đức
trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao của mình.
2.2.2. Kỳ hạn thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa
Lệ khảo thí được thực hiện theo niên hạn 3 năm một lần. Cứ 3 năm một lần, các
quan lại đương chức từ quan nhất phẩm đến cửu phẩm, cả quan văn lẫn quan võ, từ trong
kinh đến ngoài đạo đều phải trải qua khảo thí. Ngay cả đối với những người đã đỗ trong
các kỳ thi Đình, được bổ làm quan, đến kỳ khảo thí cũng phải khảo thí. Người thi đỗ được
xét ban thưởng hoặc thăng chức. Lại, quan không thi đỗ liền bị giáng cấp hoặc bãi chức,
binh lính không thi đỗ thì bị thải hồi, bất kể quân hay tướng.
Việc khảo thí dưới triều vua Lê Thánh Tông như một ngày hội của tất cả các quan
lại trong kinh, ngoài đạo. Mọi quan lại, binh lính trong công việc thường ngày đều ra sức
cố gắng rèn luyện, đợi đến ngày khảo thí để trổ tài. Tinh thần “trung quân ái quốc” của đội
ngũ quan lại cũng do vậy mà luôn được duy trì. Không một lại, quan nào, binh lính nào
muốn để mình bị bãi chức, bị thải hồi vì thi hỏng, thi trượt trong các kỳ khảo thí này.
Vua Lê Thánh Tông kiểm tra đức, tài bằng lệ khảo khóa. Sau khi đã nhậm chức từ
đủ 3 năm trở lên, các lại, quan tham gia một kỳ khảo khóa để kiểm tra khả năng và tinh
65
thần trách nhiệm. Vua xuống dụ: “Phép khảo khóa cốt để phân biệt người hay, kẻ dở, nâng
cao hiệu quả trị nước… Nay nha môn trong ngoài các ngươi, người nào nhậm chức đã đủ
3 năm, phải báo ngay lên quan trên không được để chậm. Nếu quá một trăm ngày mà không
kê dánh sách gửi đi, thì tính số người chậm mỗi người phải phạt 1 quan tiền, kẻ nào theo
tình riêng mà dung túng đều phải trị tội cả” [5; tr458].
Khảo khóa không chỉ nhằm kiểm tra, đánh giá công tích hay sai lầm của các quan
lại để thăng giáng, mà còn nhằm chuyển đổi nơi nhiệm sở một cách hợp lý, có tính chất
tưởng lệ. Năm 1480, Vua từng ban lệnh: “Các quan viên nhận chức ở vùng đất độc hại đã
đủ hai lần khảo khóa trở lên mà xứng đáng với chức vụ, không có tội lỗi thì Lại bộ xét thực,
rồi điều về chỗ đất lành.” [5; tr423].
Lệ khảo khóa tuy đã được tiến hành từ thời Lý nhưng chưa thành quy chế. Đến năm
Hồng Đức thứ 19 (1488), qua khảo khóa đem lại hiệu quả thiết thực, nhà vua mới định ra
“Lệ khảo khóa”. Lệ khảo khóa dưới triều Vua Lê Thánh Tông gồm 4 điểm cơ bản, trong
đó điểm 1 quy định: “Phép khảo khóa: 3 năm sơ khảo, 6 năm tái khảo, 9 năm thông khảo
rồi mới tiến hành thăng giáng” [5; tr504]. Cụ thể là:
Sơ khảo
Cứ ba năm một lần, các quan trên phải kiểm tra, đánh giá quan lại dưới quyền – đây
là kỳ sơ khảo. Lại, quan nào chăm lo đến dân, được dân ủng hộ, trong hạt ít người lưu vong,
an ninh ổn định, kinh tế phát triển thì được cho là xứng chức. Ngược lại, lại, quan nào
nhũng nhiễu, đục khoét, tư túi, làm bậy, trong hạt nhiều người phải lưu vong, hay xảy ra
trộm cướp, giết người thì bị coi là không xứng chức.
Nếu trong khi làm quan mà phạm tội bị xử phạt thì không chờ hết 3 năm mới khảo
khóa, họ bị coi là không xứng chức. Lại, quan nào bị quan trên nhận xét là không xứng
chức thì ngay lập tức bị bãi chức, giáng chức hoặc bị trừng phạt theo tội đã phạm phải.
Sau khi sơ khảo, nếu ai được nhận xét là xứng chức thì sẽ được tiếp tục giữ chức vụ
của mình đang đảm nhiệm. Nếu bị coi là người không xứng chức thì sẽ bị cách chức. Theo
lệ này 6 năm thực hiện tái khảo. Việc xét công, phân loại quan lại, ngoài các tiêu chuẩn
niên hạn, ông còn yêu cầu quan lại phải đảm bảo hai yếu tố là đạo đức và năng lực. Một
quan lại không thể chỉ có hoặc đạo đức, hoặc năng lực mà phải đảm bảo đầy đủ 2 yếu tố để
có thể phục vụ triều đình, phục vụ dân chúng.
66
Thông khảo
Lại, quan nào đã qua 3 năm đầu tiên với kì sơ khảo, 3 năm tiếp theo với kì tái khảo,
đến lần thứ 3 (9 năm) thì được thông khảo. Trưởng quan đánh giá, nhận xét công việc trong
cả 9 năm của người chịu thông khảo kèm theo lời đề nghị rồi trình lên Bộ Lại để xem xét
việc thăng, giáng. Quan từ nhị phẩm trở lên thì Bộ lại tâu lên nhà vua quyết định, từ nhị
phẩm trở xuống thì Bộ Lại quyết định. Nếu ai có tài đặt biệt được đặc chỉ của nhà vua thì
không nhất thiết phải theo lệ khảo khóa như quy định: Nếu có người tài năng kỳ lạ, được
lệnh đặc cách thăng bổ thì không câu nệ vào lệ này [5; 504-505]. Đó là việc thăng, còn việc
giáng thì: “Các quan viên lười biếng, bì ổi, đê tiện, yếu hèn, nếu là con cháu công thần thì
bãi chức bắt về làm dân, nếu là còn cháu thường dân thì bãi chức sung quân” [5; tr475].
Như vậy, so với các triều đại trước, dưới triều Lê sơ, vua Lê Thánh Tông đã định rõ
lệ khảo thí với niên hạn 3 năm một lần; khảo khóa thực hiện 3 năm sơ khảo, 6 năm tái khảo
và 9 năm thông khảo. Với việc định ra niên hạn khảo thí, khảo khóa cụ thể, vua Lê Thánh
Tông yêu cầu thực hiện “không được để chậm” kỳ khảo thí, khảo khóa nào; giúp chất lượng
đội ngũ quan lại triều đình từ trung ương đến địa phương ngày một nâng cao hơn trước. 3
năm là một khoảng thời gian không quá dài, nhưng cũng không phải là thời gian ngắn, niên
hạn này đủ để quan lại triều đình rèn luyện và học hỏi thêm được nhiều kiến thức, kỹ năng
và trau dồi thêm phẩm hạnh, dễ dàng vượt qua các kỳ khảo thí, khảo khóa theo lệnh vua
đặt ra.
2.2.3. Tiêu chí thực hiện lệ khảo thí, khỏa khóa
Ngay từ thời Trần, Trần Thủ Độ đã coi trọng việc tuyển dụng quan, lại qua thi cử,
khảo sát. Đến Lê Thánh Tông, ông vẫn coi trọng, đặc biệt là khảo về học vấn: “… các chức
đội lại thì Hộ bộ khảo sát những người am hiểu về viết chữ và tính toán trong các cục, ty,
sở, ai đỗ thì bổ vào.” [5; tr469].
Nội dung khảo thí được quy định rõ ràng cho quan văn và quan võ. Quan văn thì
giải kinh nghĩa, làm thơ phú, viết kế sách trị nước an dân (thực chất đây là một bài văn theo
yêu cầu, đề bài do nhà vua đích thân ra và trực tiếp chấm); quan võ thì thi dàn trận, bắn
cung, võ nghệ, đua ngựa, đua thuyền, dàn quân, chiến thuật.
Nội dung lệ khảo khóa được thực hiện chú trọng vào 2 tiêu chí, đó là: thành tích
công việc đã đạt được và được lòng dân nơi cai quản hay không. Năm 1470, vua Lê Thánh
67
Tông có chỉ rõ: “Trưởng quan các nha môn trong khoài khi khảo khóa các quan viên trong
phạm vi cai quản thì phải xét kỹ thành tích trong công việc mà viên đó đã làm. Nếu quả là
có lòng chăm nom yêu thương, được nhân dân yêu mến, và trong nơi cai quản ít kẻ trốn
tránh, thì mới là xứng chức. Nếu vơ vét, quấy nhiễu, gây tệ riêng tư và trong nơi cai quản
có nhiều người trốn tránh thì là không xứng chức” [5; tr447].
Tiêu chí đầu tiên và cơ bản nhất để đánh giá quan lại là năng lực hoạt động thực tiễn,
mức độ hoàn thành và những thành tích đạt được trong công việc được giao, tức là có hoàn
thành nhiệm vụ, công vụ hay không? Có bê trễ công việc hay để sai sót hay không?
Tiêu chí thứ hai Lê Thánh Tông chú trọng hơn cả; đó là khảo xét về tư cách đạo đức.
Tiêu chí này lấy tư tưởng thương yêu dân, đức thanh liêm, chính trực trong công việc làm
tiêu chuẩn để nhận xét thành tích quan lại. Tiêu chí đánh giá tài năng, đức độ, sự mẫn cán
của quan lại căn cứ vào kết quả làm việc của các vị quan lại tại nơi nhậm chức có duy trì
được làng xã trù phú, giữ gìn thuần phong mỹ tục, có để xảy ra nạn trộm cướp hoành hành,
đặc biệt nhân dân có được hưởng cuộc sống yên vui an lạc… hay không?
Vua Lê Thánh Tông đã có lần chỉ dụ cho quan lại các địa phương với những lời lẽ
như sau: “Bọn các ngươi giữ trọng trách ở địa phương, thương yêu dân là trách nhiệm. Thế
mà không biết thể theo lòng nhân của triều đình yêu nuôi dân chúng… Nay Sứ ty và phủ
huyện các ngươi phải mau mau đi xem xét những nơi núi chằm, bờ biển trong hạt, chỗ nào
địa hình có thể khơi đắp sông ngòi, đê dập để làm ruộng, chỗ nào hùm sói làm hại, cường
hào thao túng, phong tục kiêu bạc, sinh dân đau khổ. Tóm lại mọi việc lợi nên làm, mọi
mối hại nên bỏ, trong hạn một trăm ngày phải tâu trình cụ thể… Nếu thấy vẫn còn việc lợi
nên làm, mối hại nên bỏ mà các ngươi chưa nói tới thì quan phủ huyện phải bãi chức, sung
quân, quan thừa ty bị giáng chức” [5; tr310 - 311].
Cùng với đó, điều 284 Bộ luật Hồng Đức cũng quy định trách nhiệm của các quan
ty như sau: “Các quan ty làm việc ở ngoài, nếu không biết làm việc lợi, trừ việc hại để trăm
dân họ phải phiêu bạt đi nơi khác, hộ khẩu bị hao hụt, thì xử tội bãi chức hay tội đồ” [33;
tr112].
Lê Thánh Tông hiểu rõ tiêu chí về tư cách đạo đức của quan lại trong triều đình đối
với nhân dân địa phương đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đánh giá quan lại.
Chính những người dân dưới quyền cai quản của vị quan, lại mới phản ánh rõ ràng và trung
68
thực nhất thái độ làm việc của quan lại, xem đã tậm tâm vì dân hay chưa. Ông ra lệnh chỉ
cho đại thần và các quan văn võ, đại ý là: “Từ nay về sau, coi quân, trị dân, hay làm việc
gì đều nên hết lòng công bằng, yêu thương quân dân, không được riêng tây, nếu không sửa
đổi lỗi lầm nhất định bị trị tội nặng” [5; tr324].
2.2.4. Đối tượng thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa
Chế độ “khảo thí” và “khảo khoá” quan lại dưới triều Lê sơ có nhiều điểm khác biệt
so với chế độ kiểm tra, giám sát đã được thực hiện ở các triều đại trước đó. Chế độ kiểm
tra, giám sát trước đó lấy công vụ làm đối tượng và kết quả kiểm tra, giám sát chỉ góp phần
đánh giá quan lại, nhằm đảm bảo hiệu lực các chính lệnh của nhà vua. Chế độ “khảo thí”
và “khảo khoá” dưới triều các ông lấy quan lại làm đối tượng giám sát, với mục đích tái lựa
chọn quan lại.
Mọi quan lại đang tại chức từ nhất phẩm đến cửu phẩm, cả văn lẫn võ, từ trong kinh
đến ngoài đạo, dù đỗ đại khoa hay mới được bổ nhiệm… không một đối tượng nào được
miễn trừ, lẩn tránh thực hiện việc khảo thí. Kể cả đối với con cháu các quan viên đang còn
đi học cũng cần tham gia khảo thí. Năm Hồng Đức thứ 12 (1481) ông có ra lệnh rằng
“Khảo thi con cháu các quan viên, hỏi về làm văn, viết chữ, làm toán” [5; tr487]. Như vậy,
khảo thí ngoài thực hiện đối với tất cả các quan lại trong triều đình để xem xét, đánh giá
trình độ, phẩm hạnh của đội ngũ quan lại; vua Lê Thánh Tông còn thực hiện khảo thí với
con cháu các quan viên, nhằm đánh giá trình độ, năng lực học tập từ thuở nhỏ của con cháu
các quan lại, sớm tìm kiếm nhân tài phục vụ triều đình.
Khảo khóa cũng được thực hiện đối với toàn bộ quan lại trong triều đình từ trung
ương đến địa phương, bất kể giữ vị trí nào, nếu đã nhậm chức từ đủ 3 năm trở lên phải tham
gia khảo khóa. “Nay nha môn trong ngoài các ngươi, người nào nhậm chức đã đủ 3 năm,
phải báo ngay lên quan trên không được để chậm” [5; tr458]. Việc thực hiện khảo khóa
đối với cả con cháu các công thần trong triều đình đã hạn chế được nhược điểm của cách
thức tuyển dụng quan lại bằng con đường nhiệm tử, đảm bảo cho đội ngũ quan lại trong
triều đình phải luôn cố gắng làm việc, giữ gìn phẩm hạnh và thanh danh của bản thân.
Tóm lại, đối tượng thực hiện khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông là
toàn bộ đội ngũ quan lại của triều đình từ trung ương đến địa phương, từ quan văn đến quan
võ, không kể bất cứ vị trí nào.
69
2.2.5. Trách nhiệm thi hành lệ khảo thí, khảo khóa
Để thực hiện tốt lệ khảo thí, khảo khóa dưới triều vua Lê Thánh Tông, ông đã thực
hiện cải cách lại bộ máy hành chính nhà nước, chú trọng xây dựng và hoàn thiện các cơ
quan thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát quan lại trong triều – đội ngũ trực tiếp chịu
trách nhiệm thi hành lệ khảo thí, khảo khóa. Ngự sử đài là cơ quan chuyên làm công việc
giám sát ở triều đình, can gián nhà vua, đàn hặc các quan lại nhằm giữ gìn kỷ cương phép
nước. Ngự sử đài xét lỗi, đàn hặc mọi quan lại văn, võ, điều tra đơn thư của người dân,
duyệt xét các án tử. Hệ thống các cơ quan Ngự sử đài gồm có Ngự sử đài ở trung ương và
13 giám sát Ngự sử ở 13 thừa tuyên - tương ứng với 13 tỉnh ngày nay. Bên cạnh Ngự sử
đài, Lê Thánh Tông lập ra Lục khoa – cơ quan giám sát công việc của Lục bộ.
Vua Lê Thánh Tông chia cả nước làm 13 đạo thừa tuyên. Các thừa tuyên trở thành
những đơn vị hành chính trung gian thống nhất về quy mô và tên gọi. Ông không đặt chức
quan đứng đầu các thừa tuyên mà đứng đầu mỗi thừa tuyên đặt ra 3 ty: Thừa ty, Đô ty và
Hiến ty với nhiệm vụ: Thừa ty: chuyên trông coi các công việc hành chính, hộ tịch, thuế
khoá; Đô ty: quản lý việc binh, giữ gìn an ninh trong các thừa tuyên; Hiến ty: phụ trách
công việc thi hành pháp luật và xử án. Các ty tại thừa tuyên vừa là cơ quan quản lý, vừa là
cơ quan phối hợp với trưởng quan phụ trách các ty thực hiện giám sát, kiểm tra hoạt động
quan viên dưới quyền.
Trưởng quan phụ trách ty chịu trách nhiệm thực hiện trực tiếp công việc khảo thí,
khảo khóa – nhận xét, đánh giá các quan lại dưới quyền cai quản của mình. Theo Lê triều
quan chế, thời Hồng Đức quy định trách nhiệm khảo khóa cụ thể: “Các quan viên là Đô
đốc ngũ phủ, Đô chỉ huy, Đoán sự thuộc hai vệ Cẩm y và Kim ngô. Hiệu điểm ba ty Điện
tiền, Đề đốc hiệu lực ở vệ Thần vũ và Đề lĩnh quân vụ ở tứ thành cùng các quan ở Ngự sử
đài sáu bộ, Đường thượng quan Quốc tử giám, Đông các Hàn lâm viện trung thư giám,
Thái y viện, thiên hòa cung, Cửu tiên cung thị chiếu, Tông nhân phủ, Cung sư phủ và Xuân
phường, mỗi quan chức ấy làm việc đủ ba năm khảo khóa thì quan nha môn đó đem cả
công việc đã làm trong chức nhiệm rồi có phạm lỗi hay không khai rõ cả ra các ý do rồi
gửi lên cho Cai khoa thu nhận và đối chiếu, đợi đủ chín năm, phân loại ra mà tâu lên một
thể, còn việc tiến hành thăng chức hay giáng chức là do tự ở trên quyết định.
70
Các sở quan Tráng sĩ, Thiên hộ thuộc hai vệ Cẩm y và Kim ngô thì theo sự khảo
hạch của các quan ty; quan các sở Tuần tượng và Mã nhàn thì theo sự khảo hạch của quan
bản vệ, rồi tất cả chuyển lên vệ Cẩm-Kim khảo hạch. Còn quan ty Cẩm y, Kim ngô cùng
các ty Du nỗ, Thần uy, Thần tý, các quan vệ Mã nhàn, Tuần tượng thì theo quan vệ Cẩm y,
Kim ngô khảo hạch, chuyển lên Binh khoa khảo hạch rồi phân loại tâu lên một thể và
chuyển cho bộ Lại. Sáu bậc Ngự sử đài lục bộ, Quốc tử giám thông chánh sứ, các nha môn
thuộc phủ Phụng thiên sở thuộc cai quan đều cho Đường thượng quan khảo hạch rồi gửi
lên bộ Lại khảo hạch, còn quan sáu bậc, Thông chánh sứ ty và Trưởng quan phủ Phụng
Thiên thì đều theo quan bộ Lại khảo hạch để thi hành một thể…”[20;tr109]
Những người có trách nhiệm thi hành lệ khảo khóa cần phải là người đạt yêu cầu
như: công bằng, trung thực, có năng lực, xem xét thật kỹ các việc làm của quan viên cấp
dưới. Năm 1470, Lê Thánh Tông định lệ khảo khoá quan lại nơi cai quản và có nêu rõ:
“Trưởng quan các nha môn trong ngoài khi khảo khoá các quan viên trong phạm vi cai
quản thì phải xét kỹ thành tích trong công việc mà viên đó đã làm” [5; tr447]. Mặt khác,
trưởng quan các môn là người nắm thẩm quyền thực hiện việc khảo khóa phải nêu cao tinh
thần trách nhiệm của mình, đồng thời phải công bằng trong đánh giá quan viên cấp dưới:
“quan phụ trách đem công việc đã làm trong các kỳ khảo trước sau cùng lời xét định, tùy
theo chức quan cao thấp hoặc tâu lên, hoặc gửi lên Lại bộ giữ, Lại bộ tham chiếu trước
sau, nhiều việc, ít việc mà khảo theo lệ để thi hành. Nha môn nào gian trá, bịa đặt công
lao, che giấu tội lỗi mà quan phụ trách không xét ra, che giấu, dung túng cho nhau, thì Lại
bộ xét rõ đưa ra hỏi tội”; “Trưởng quan các nha môn trong ngoài khi khảo khóa các quan
viên trong phạm vi cai quản của mình phải công bằng mà xét duyệt, phải xem xét kỹ lưỡng
thành tích trong công việc mà các quan viên đó đã làm” [3; tr99] và có răn: “Những viên
quan xét người hay dở mà sai sự thật thì Ngự sử đài, Lục khoa, Hiến Ty kiểm xét hoặc tâu
để trị tội” [5; tr473].
Ngoài ra, tùy thuộc vào việc quan viên thuộc quyền cai quản của vị quan lại nào,
vua Lê Thánh Tông cũng đều chỉ rõ những chức quan chịu trách nhiệm thực hiện khảo khóa
trực tiếp, phối hợp với hai ty Thừa, Hiến để thực hiện khảo thí, khảo khóa công bằng, chính
trực. Năm Hồng Đức thứ 12 (1481) vua Lê Thánh Tông có xuống lệnh rằng: “quan các vệ,
ty, sở Tráng sĩ, Thần vũ, Hiệu lực, Điện tiền, Ngũ phủ, Mã nhàn, Thuần tượng trong kinh,
71
các quan vệ, sở, phủ, châu, huyện bên ngoài nếu có người đẽo khoét quân lính, mọt hại
nhân dân, chỉ chăm làm lợi cho nhà mình, không nghĩ đến phép nước, ở trong thì đường
quan là các Chỉ huy, Đề đốc, Kiểm điểm, Đô đốc và các quan Đoán sự, Kinh lịch; bên
ngoài thì hai ty Thừa, Hiến đều phải công bằng xét xử, tham khảo dư luận của mọi người,
người nào trước kia có nhũng lạm, tuy không có chứng cứ thực, nhưng mọi người đều biết;
cùng là người nào liêm khiết, không mắc thói tham ô, kê ra từng loại tâu lên cả, trao cho
Gián sát ngự sử ở đạo đó thẩm tra lại, làm bản tâu lên, sẽ khu xử để tỏ rõ khuyến khích và
trừng phạt” [5; tr486].
Như vậy, trưởng quan các ty – người đứng đầu các ty phụ trách trực tiếp việc thực
hiện khảo thí, khảo khóa đối với đội ngũ quan lại dưới quyền cai quản của mình. Bên cạnh
việc các vị quan quản lý trực tiếp thực hiện khảo thí, khảo khóa với quan lại dưới quyền
của mình, ở trung ương luôn có những cơ quan tham chiếu, đối chiếu lại thực tế xem việc
kiểm tra, đánh giá đã xác thực hay chưa, như là: Ngự sử đài, Lục khoa, các Bộ có liên quan,
các ty tại địa phương,… Các cơ quan thực hiện việc kiểm tra, giám sát và đánh giá đội ngũ
quan lại trong triều đình được tổ chức rộng khắp từ trung ương đến địa phương, tạo ra một
hệ thống các cơ quan chịu trách nhiệm thi hành, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc
đánh giá quan lại.
2.2.6. Xử lý kết quả sau khảo thí, khảo khóa
Sau mỗi kỳ khảo thí, kết quả được chia làm 3 bậc: bậc 1: là những quan lại có tài
cán, văn võ song toàn, làm việc nhanh, hiệu quả; bậc 2: là những quan lại biết chữ, tính
toán giỏi; bậc 3: là những quan lại chỉ biết chữ. Dựa vào đánh giá quan lại sau mỗi lần khảo
thí, nhà Lê phân bổ quan lại của các bậc vào các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương sao cho hợp lý. Người đỗ thì được phân công công việc, thưởng áo, tiền, thăng
chức, tước. Còn người không đỗ thì bị giáng chức hoặc bãi chức; binh lính thì bị thải hồi
hoặc bắt phục dịch các công việc nặng nhọc khác.
Còn kết quả mỗi kỳ khảo khóa, quan lại được chia làm 3 loại, đó là: xứng chức, bình
thường và không xứng chức. Quan lại nào được nhận xét là xứng chức thì được thăng chức
theo lệ. Quan lại nào bị quan trên nhận xét là không xứng chức thì lập tức bị bãi chức, bị
giáng chức hoặc bị trừng phạt theo tội lỗi phạm phải. Người có biệt tài, được đặc chỉ thăng
bổ thì không phải theo lệ ấy mà có thể làm sớm hơn so với quy định.
72
Sau mỗi kỳ khảo thí, khảo khóa, đội ngũ quan lại đều được chia làm các loại tương
ứng với những gì đã thể hiện sau khi thực hiện khảo thí, khảo khóa. Dựa trên kết quả của
các kỳ khảo thí, khảo khóa, vua và các quan cấp trên thực hiện việc thăng, giáng hoặc giản
thải theo đúng quy định.
2.2.7. Việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông
Tháng 6 năm 1428, ngay khi vừa mới lên ngôi trị vì, Lê Lợi đã ra lệnh chỉ cho các
đại thần khảo xét các quan trong ngoài: hạng nhất là những người có tài văn võ, tháo vát,
tinh nhanh; hạng nhì là những người biết chữ tháo vát, tinh nhanh; hạng ba là những người
viết tính, viết thảo, làm tính; ngoài ra những người không được xếp thành hạng nào thì kẻ
riêng thành một hàng [5; tr296]. Tuy nhiên việc thực hiện khảo xét đối với các quan viên
trong triều đình chưa được thực hiện thường xuyên và theo niên hạn.
Đến năm 1464, sau 4 năm Lê Thánh Tông lên ngôi, ông đã bắt đầu xây dựng quy
chế khảo khóa làm một nội dung trong cải cách hành chính của mình. Nhận thức rõ vai trò
của nhân dân trong việc xây dựng đất nước, vua Lê Thái Tông từng có lệnh rằng: “Đạo
làm tôi cốt yếu có hai điều. Trên thì yêu vua, dưới thì yêu dân. Yêu vua phải hết lòng trung,
yêu dân phải hết lòng thành, thế thôi…” [5; tr311].
Năm 1471, vua Lê Thánh Tông có ra sắc chỉ nói rõ “Các chức quan văn, võ trong
kinh (trung quan cũng thế), người nào mới được bổ thí chức (chức vụ không chính thức)…
sau ba năm mà xứng chức và không phạm lỗi gì thì được thăng cấp cho thực thụ (được
nhận chính thức). Người nào không xứng chức thì đuổi về làm các hạng quân sắc cũ. Nếu
là người có tài năng lỗi lạc được bổ dụng theo đặc ân, thì không phải theo lệ này…” [5;
tr456].
Đồng thời để đảm bảo chất lượng đội ngũ quan lại trong triều đình, ông cũng ra dụ
cấm để chậm kỳ khảo khóa: “Phép khảo khóa cốt để phân biệt người hay kẻ dở, nâng cao
hiệu quả trị nước. Đời Đường Ngu, ba năm một kỳ xét công để thăng giáng. Nhà Thành
Chu ba năm một lần xét để định thưởng phạt. Nay nha môn trong ngoài các ngươi, người
nào nhậm chức đã đủ 3 năm, phải báo ngay lên quan trên không được để chậm. Nếu quá
một trăm ngày mà không kê dánh sách gửi đi, thì tính số người chậm mỗi người phải phạt
1 quan tiền, kẻ nào theo tình riêng mà dung túng đều phải trị tội cả” [5; tr458].
73
Cuối năm 1478, cùng với việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa hàng năm như đã
định, Lê Thánh Tông định lệnh lựa thải quan viên với 3 điều: “1. Bậc trưởng quan các nha
môn văn chức trong ngoài, đều phải công bằng xét kỹ các quan viên dưới quyền mình, nếu
có kẻ hèn kém… và những tên đần độn bỉ ổi, không làm nổi việc, đáng phải cho nghỉ, thì
làm bản tâu lên, giao cho Lại bộ xét thực, đều bắt phải nghỉ việc; lại chọn người đã từng
làm việc có tài năng, kiến thức, quen thạo việc mà bổ vào thay. 2. Bậc trưởng quan các nha
môn quản quân trong ngoài, phải công bằng xét kỹ các quan vệ sở dưới quyền mình, nếu
có kẻ nào mỏi mệt hèn kém… cùng những tên đê tiện bỉ ổi, không có tài cán, không làm nổi
việc, đáng cho về nghỉ, thì làm bản tâu lên, giao cho Lại bộ xét thực, hoặc đổi đi chỗ ít việc,
hoặc bắt nghỉ việc; lại chọn những người đã từng quan chinh chiến, có tài năng, kiến thức
làm được việc mà bổ vào thay. 3. Trưởng quan các nha môn cần lựa thải thì phải công
bằng sáng suốt, không được theo sự ưa ghét riêng của mình để khi làm công việc ấy được
mọi người thành tâm tin phục. Nếu xét người hay dở mà sai sự thực thì Lục khoa, Ngự sử
đài, Hiến ty kiểm xét hoặc tâu để trị tội” [5; tr472-473].
Năm Hồng Đức thứ 10 (1479), định lệ khảo khóa quan viên dưới quyền cai quản.
Yêu cầu “Trưởng quan các nha môn trong khoài khi khảo khóa các quan viên trong phạm
vi cai quản thì phải xét kỹ thành tích trong công việc mà viên đó đã làm. Nếu quả là có lòng
chăm nom yêu thương, được nhân dân yêu mến, và trong nơi cai quản ít kẻ trốn tránh, thì
mới là xứng chức. Nếu vơ vét, quấy nhiễu, gây tệ riêng tư và trong nơi cai quản có nhiều
người trốn tránh thì là không xứng chức” [5; tr447].
Năm Hồng Đức thứ 11 (1480) vua đã ra sắc chỉ rằng: “Phép khảo khóa đã có lệ sẵn,
cốt để phân biệt người hay dở, tỏ rõ việc khuyên răn. Nay Lại bộ và quan các nha môn
trong ngoài, nên theo đúng lệ mà làm để khuyến khích mọi người. Nếu dám nhu nhơ bỏ
phép như trước kia, thì khoa phụ trách kiểm xét nêu lên, theo luật mà trị tội” [4, tr482].
Cùng năm đó, ông cũng ra lệnh “Các quan viên nhận chức ở vùng đất độc hại đã đủ
hai lần khảo khóa trở lên mà xứng đáng với chức vụ, không có tội lỗi, thì Lại bộ xét thực
rồi điều chuyển về chỗ đất lành” [5; tr480]. Đây là sự ưu tiên đối với các quan lại nhận
chức ở các vùng khó khăn, bởi vua hiểu được sự khó khăn của quan lại khi cai quản tại
những địa phương xa xôi, gặp khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội. Nếu ở những vùng
74
đất như vậy mà vẫn giữ được nét liêm khiết làm quan thì được ưu tiên sau hai kỳ khảo khóa
được chuyển về vùng đất lành để phát triển chức nghiệp hơn nữa.
Giữa năm 1485 Lê Thánh Tông định lệ khảo thí cho nghiêm ngặt để miễn tuyển.
Ông ra sắc chỉ cho quan hai ty Thừa, Hiến các xứ rằng: “Trước đây, khảo thí để miễn tuyển,
có nhiều kẻ mang sách, thi hộ, số đỗ đến hơn vạn người, rất là nhũng lạm. Kể từ nay, các
xứ khảo thí hạng nói trên, phải lấy người biết chữ, hay văn. Đến khi thi phúc hạnh mà còn
có kẻ bỏ quyển trắng hay bất thành văn lý thì cho các quan đề điệu, giám thí, tuần xước
niêm phong quyển thi ấy lại tâu lên. Nếu từ 1 người đến 4, 5 người như vậy thì quan Thừa,
Hiến phải xử biếm chức hoặc bãi chức, còn bản thân người đó thì xử tội đồ làm lính”. [5;
tr495]. Bên cạnh đó, ông cũng ra sắc chỉ quy định rõ điều kiện tiêu chuẩn để bổ dụng một
số chức vụ quan trọng: “…Tham nghị thì dùng quan từ lục phẩm trở lên: có tài năng kiến
thức và uy tín, nhậm chức đủ 4 lần khảo khóa trở lên; Hiến sát thì dùng quan các nha môn,
khoa đài, Quốc tử giám, Lục tự mà thanh liêm, sáng suốt, từng trải đủ 4 lần khảo khóa trở
lên được mọi người suy tôn ca ngợi, theo lệ mà tuyển bổ. Nếu dám lấy tình riêng, tuyển bổ
bậy những kẻ phẩm trật thấp, tại chức ít ngày để đến nỗi dư luận không hay, việc dân sinh
tệ thì Lại khóa xét hỏi trị tội” [5; tr496].
Lê Thánh Tông đã ban hành lệ khảo khóa vào những ngày cuối năm 1488 với việc
quy định chi tiết, cụ thể việc thi hành lệ khảo khóa. Trong Đại việt sử lý toàn thư có ghi
chép nội dung của phép khảo khóa như sau:
1- Phép khảo khóa: 3 năm sơ khảo, 6 năm tái khảo, 9 năm thông khảo rồi mới tiến
hành thăng giáng.
2- Hoàng thân nội, ngoại và con cháu các khai quốc công thần cùng là những võ quan
trước đã bổ quan, sau có quân công, nhậm chức đủ hạn khảo khóa, xứng chức, theo lệ được
thăng lên nhất, nhị phẩm thì Lại bộ làm danh sách, xin lệnh chỉ, nếu được lệnh thì cho
thăng như lệ. Nếu là con nhà dân, từ chân trắng được bổ nhiệm quan chức, hoặc từ chân
trắng do có chiến công được làm quan, nhậm chức đủ hạn, khảo khóa xứng chức đáng
được thăng cấp thì chỉ cho thăng đến tam phẩm, không được nhất, nhị phẩm.
3- Trong 9 năm, nếu đã được thăng cấp do lập công khác, tới kỳ thông khảo, lại xứng
chức, đáng được thăng đến nhị nhẩm trở lên thì Lại bộ làm bản tâu lên để nhận lệnh, còn
từ tam phẩm trở xuống thì cứ theo lệ mà thi hành.
75
4- Quan các nha môn tại chức đủ ba kỳ khảo khóa phải khai trình đầy đủ những việc
đã làm trong nhiệm kỳ, có phạm lỗi gì hay không. Trưởng quan phụ trách phải công bằng
mà xét duyệt, tính bắt đầu từ ngày được bổ nhiệm. Thí quan đủ 3 năm được thực thụ thì
được coi là qua kỳ sơ khảo. Trong khi tại chức mà có phạm lỗi thì không được khảo khóa,
cùng là người không phải do quân công mà được thăng đặc cách, thì từ khi phạm lỗi và
đặc cách thăng cấp đó, lại tính là kỳ sơ khảo. Kê rõ từng hạng xứng chức, bình thường,
không xứng chức để định việc khảo khóa.
Lại khai rõ công việc đã làm, có phạm lỗi gì không, để trình lên quan phụ trách nha
môn xét duyệt, rồi gửi cho Lại bộ giữ để xét. Đợi đủ 9 năm qua kỳ thông khảo, quan phụ
trách trình lên tất cả những công việc trước sau mà viên ấy đã làm qua mỗi kỳ khảo khóa
trong thời gian nhậm chức và những lời nhận xét khi khảo khóa, tùy theo quan chức lớn
hay nhỏ, có thể gửi để tâu lên, hoặc gửi để giữ lại. Lại bộ tham chiếu các lần khảo trước
sau, tại nơi phức tạp hay đơn giản, theo đúng lệ, làm bản tâu lên để thi hành. Nha môn nào
có kẻ gian trá, bịa khai công lao, tài cán, giấu giếm tội lỗi mà quan phụ trách không biết
tra xét, dối trá bao che, dung túng cho nhau, thì Lại bộ phải điều tra tường tận để gửi lên
xét hỏi. Nếu có người tài năng kỳ lạ, được lệnh đặc cách thăng bổ thì không câu nệ vào lệ
này [5; 504-505].
Năm 1490, ra sắc chỉ rằng: “Các văn nho chỉ huy ở các vệ, ty, người nào túc trực
phục vụ đủ hạn khảo khóa trở lên mà quả giữ phép công làm được việc, không phạm lỗi thì
trưởng quan vệ đó xét thực làm bản trình lên, Lại bộ chiếu chỗ khuyết mà đổi bổ văn chức.
Người nào chưa đủ hạn khảo khóa lại giá kém, không làm nổi việc hộ vệ, thì lựa thải về.
Người nào còn có thể dùng được thì đổi bổ. Kẻ nào dám chạy vạy cầu cạnh thì trị tội theo
luật để ngăn chặn thói cầu may của kẻ sĩ [5; tr507].
Năm 1495, ông xuống chiếu nhằm yêu cầu đội ngũ quan lại phải đáp ứng được điều
kiện về thể lực thì mới tiếp tục được giữ vị trí của mình: “Quan viên nào bị ốm tới 3 tháng
thì không được dự khảo khóa” [5; tr512]. Nếu không đủ sức khỏe làm việc thì không đủ
điều kiện để khảo khóa.
Năm 1496, xuống chiếu quy định việc tiến chức thăng quan phải qua nhiều khắt khe
ví dụ như: “… đủ 3 năm không phạm lỗi gì thì mới cho thực thụ; sau 6 năm không phạm
lỗi gì thì Tri huyện, Tri châu được thăng bổ Viên ngoại lang; Huyện thừa, Đồng tri châu,
76
Tri hạ, Điển hạ, Tự ban được bổ các chức Tư vụ, Chủ sự, Thôi quan, Đô quan; đủ 6 lần
khảo khóa không phạm lỗi thì Viên ngoại lang, Đồng tri phủ mới được thăng làm tri phủ”
[5; tr515].
Như vậy, trong suốt 38 năm trị vì đất nước, Lê Thánh Tông đã liên tục đưa ra dụ,
sắc, lệnh để ngày một hoàn thiện hơn quy định về khảo thí, khảo khóa đội ngũ quan lại triều
đình. Bằng những quy định nghiêm ngặt, chặt chẽ và rõ ràng, ông đã xây dựng được thể
chế thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời mình trị vì tốt nhất.
2.3. Đánh giá thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông
Việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông đã đem lại hiệu
quả tích cực trong quá trình xây dựng các chế độ và sử dụng đội ngũ quan lại trong triều
đình. Nhờ việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa thường xuyên, ông đã xây dựng được một
nhà nước với đội ngũ quan lại mẫn cán, trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của công
cuộc cải cách hành chính thời bấy giờ, đưa Đạt Việt đạt đến đỉnh cao của một nhà nước
quân chủ phong kiến mà chưa có triều đại nào làm được. Việc thực hiện lệ khảo thí, khảo
khóa đã đạt được những thành quả nhất định phải kể đến, cụ thể là:
Thứ nhất, vua Lê Thánh Tông đã tập trung thể chế hóa lệ khảo thí, khảo khóa ngay
từ những năm đầu tiên lên ngôi trị vì đất nước. Bằng việc quy định thành lệ với mục đích,
đối tượng, tiêu chí và niên hạn thực hiện cụ thể, rõ ràng; lệ khảo thí, khảo khóa lần đầu tiên
trở thành một trong những yêu cầu bắt buộc phải thực hiện đối với đội ngũ quan lại làm
việc trong triều đình từ trung ương đến địa phương. Song song với việc đặt ra những quy
định về lệ khảo thí, khảo khóa, vua Lê Thánh Tông cũng sắp xếp, tổ chức lại bộ máy nhà
nước với hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát từ trung ương đến
các địa phương phù hợp, đảm bảo thực hiện hiệu quả việc đánh giá của lệ khảo thí, khảo
khóa đối với đội ngũ quan lại trong cả nước. Đưa lệ khảo thí, khảo khóa trở thành một trong
những quy định buộc phải thực hiện đối với đội ngũ quan lại thể hiện rõ sự quan tâm của
vua Lê Thánh Tông đến việc kiểm tra, giám sát chất lượng đội ngũ quan lại đang làm việc;
đồng thời nhấn mạnh vai trò của đội ngũ quan lại trong quá trình xây dựng và cách tân đất
nước.
Trong quá trình xây dựng đất nước, vua Lê Thánh Tông thường ban hành sắc chỉ,
dụ, lệnh chỉ rõ tiêu chí của các kỳ khảo thí, khảo khóa; trách nhiệm của các bên tham gia
77
thực hiện khảo khóa; các đối tượng cần được khảo khóa phải chủ động khai báo khi đã đủ
thời gian 3 năm – đã đến kỳ khảo khóa của mình; các chủ thể đánh giá phải có năng lực,
công bằng, chính trực. Lê Thánh Tông cũng quy định rõ chế tài xử phạt nếu để chậm việc
khảo khóa, nghiêm khắc trị tội đối với những trường hợp gian dối, bịa công lao hay che
giấu tội lỗi; quy định niên hạn khảo khóa rõ ràng, đảm bảo việc khảo khóa hình thành nên
một chế định lâu dài. Những quy định này vừa mang tính khuôn mẫu để các quan lại nhìn
vào mà thực hiện, vừa đảm bảo cho khảo thí, khảo khóa được thực hiện nghiêm minh, chặt
chẽ.
Thứ hai, mục đích việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa để đánh giá quan lại dưới
triều vua Lê Thánh Tông được đặt ra rõ ràng. Vua Lê Thánh Tông đã thực hiện đánh giá
thường xuyên đối với đội ngũ quan lại về cả trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức, thái
độ làm việc của quan lại. Trên cơ sở kết quả khảo thí, khảo khóa, thực hiện các chính sách
sử dụng quan lại khác sao cho phù hợp với trình độ, năng lực và phẩm hạnh của từng vị
quan lại. Khác với các triều đại trước chỉ thực hiện kiểm tra, đánh giá quan lại nhằm mục
đích đảm bảo hiệu lực chính lệnh của vua đặt ra, vua Lê Thánh Tông kiểm tra, đánh giá
quan lại bằng hình thức khảo thí, khảo khóa nhằm tái chọn bổ đội ngũ quan lại, giản thải
những vị trí còn nhiều yếu kém, tạo động lực cho đội ngũ quan lại luôn cố gắng phấn đấu
và rèn luyện bản thân.
Thứ ba, tiêu chí đánh giá của lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông
được quy định cụ thể, dễ xác định. Ngoài việc kiểm tra trình độ, năng lực bằng các bài thi
kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn đối với quan lại; ông còn chú trọng thêm một nội
dung đánh giá vô cùng đặc biệt, đó là sự mẫn cán, tài năng đức độ của quan lại hướng đến
sự hài lòng của người dân nơi quan viên đó đang cai quản. Những tiêu chí được đưa ra để
đánh giá trong lệ khảo thí, khảo khóa được xác định khá dễ dàng. Ví thử như về mức độ
hoàn thành công việc được giao, các quan cấp trên cai quản trực tiếp cũng là người trực
tiếp theo dõi, giám sát cấp dưới và thực hiện đánh giá; đồng thời quan lại cấp trên cũng là
người giám sát thường xuyên và trực tiếp với cấp dưới của mình, nên dễ dàng đưa ra đánh
giá xác thực về việc quan viên nơi mình cai quản có bê trễ hay thực hiện công việc sai sót
ở đâu hay không. Còn đối với tiêu chí đánh giá tư cách đạo đức quan lại, sự phản ánh trực
tiếp của người dân về tác phong, thái độ làm việc của quan lại trong quá trình cai quản là
78
một trong những yếu tố thực tế nhất đánh giá chính xác tư cách đạo đức quan lại; bên cạnh
đó, chất lượng cuộc sống của nhân dân và sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương nơi quan
viên cai quản là câu trả lời rõ ràng cho việc quan viên đó có trách nhiệm như thế nào với
địa bàn được giao quản lý.
Với quan điểm “quan chi phụ mẫu”, quan lại khi tại chức cần nêu cao bổn phận coi
dân như con mình, tức là phải coi trọng dân, thương dân, lo cho dân chúng,… Kết thúc kỳ
khảo khóa, quan lại chỉ được cho là xứng chức khi dân chúng tại nơi mình cai quản có đời
sống ấm no, không bỏ đi xứ khác, trong vùng ít xảy ra trộm cắp, mất mùa; quan lại được
nhân dân yêu mến,… Quan lại dưới thời Lê Thánh Tông được tuyển bổ không chỉ cần có
tài mà còn phải có cả đức để cai quản dân chúng, chăm lo cho đời sống của nhân dân. Nhân
dân xứ nào cũng no đủ thì đất nước mới phát triển mà thịnh vượng.
Thứ tư, đối tượng áp dụng việc kiểm tra, đánh giá bằng lệ khảo thí, khảo khóa dưới
triều Lê Thánh Tông là toàn bộ đội ngũ quan lại triều đình, thể hiện sự quan tâm, sát sao
của triều đình với chất lượng thực tế của đội ngũ quan lại. Khác với các triều đại trước coi
công vụ là đối tượng kiểm tra, đánh giá thì Lê Thánh Tông lại quyết định lựa chọn toàn bộ
đội ngũ quan lại là đối tượng thực hiện kiểm tra, đánh giá thường xuyên. Do đó, có thể thấy
rõ nhận thức của Lê Thánh Tông bấy giờ đã vô cùng thức thời và tân tiến. Ông hiểu được
rằng, để nền công vụ đất nước hoạt động tốt, điều cần thiết hơn cả là có một đội ngũ quan
lại đủ đức đủ tài, mẫn cán, chăm lo được cho đời sống của nhân dân trong vùng. Để cải
cách hành chính được thực hiện có hiệu quả, đội ngũ quan lại phải được kiểm tra, đánh giá
thường xuyên để tạo động cơ, thúc đẩy quan lại không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ
bản thân, trau dồi ý thức đạo đức.
Thứ năm, việc đưa ra kỳ hạn khảo thí, khảo khóa theo niên hạn 3 năm một lần buộc
đội ngũ quan lại luôn học hỏi, không ngừng phấn đấu, thường xuyên rèn luyện bản thân.
Ba năm là khoảng thời gian đủ để thí quan tập sự những công việc ở cương vị mới, sử dụng
kiến thức có được để vận dụng vào công việc thực tế. Đồng thời, ba năm cũng là khoảng
thời gian đủ để quan trên có thể theo dõi, nhận xét được quan viên dưới quyền mình cai
quản, đưa ra quyết định thăng giáng, chọn bổ vào những vị trí phù hợp nhất. So với các
triều đại trước chỉ thực hiện khảo thí, khảo khóa khi cần hoặc với niên hạn dài (khoảng 10
đến 15 năm) thì lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông được quy định chính xác
79
thời hạn khảo khóa để đặt ra mốc thời gian cụ thể, giúp hiền tài có cơ hội thể hiện bản thân,
mà kẻ gian lại khó có thể thực hiện được sai phạm tại vị trí việc làm đang đảm nhiệm. 3
năm khảo thí, khảo khóa một lần vừa là động lực vừa lá áp lực cho đội ngũ quan lại triều
đình, ngoài thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, đội ngũ quan lại phải không ngừng tìm tòi,
học hỏi thêm kiến thức, rèn luyện và tu dưỡng nhân phẩm của mình.
Thứ sáu, việc thực hiện khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông diễn ra nghiêm
ngặt, chặt chẽ, đúng niên hạn đã đem lại hiệu quả cao trong việc đánh giá và sử dụng đội
ngũ quan lại. Nếu như các triều đại trước thực hiện khảo thí, khảo khóa chỉ nhằm đảm bảo
hiệu lực chính lệnh của vua, không để đánh giá thực lực quan lại, không tạo áp lực cho quan
lại mỗi kì đánh giá, khiến cho quan lại trì trệ trong quá trình làm việc thì dưới thời Lê Thánh
Tông lại hoàn toàn khác. Ông quy định cụ thể, chặt chẽ và nghiêm minh, giúp cho việc thực
hiện khảo thí, khảo khóa đạt được hiệu quả tốt, góp phần không nhỏ vào việc tìm kiếm nhân
tài, chọn bổ nhân tài phục vụ đất nước. Sau mỗi kỳ khảo thí, khảo khóa, các quan lại đều
có cơ hội thăng quan tiến chức, nhận thêm bổng lộc, được giữ một vị trí khác phù hợp với
năng lực bản thân hơn; hoặc sẽ bị giáng chức, điều chuyển vị trí khác, thậm chí là sa thải
nếu như không đạt yêu cầu tại vị trí đang đảm nhiệm.
Thứ bảy, kết quả các kỳ khảo thí, khảo khóa được sử dụng hiệu quả trong việc làm
cơ sở để ban hành các chính sách sử dụng khác cho đội ngũ quan lại. Vua Lê Thánh Tông
là một người đặc biệt chú trọng cải cách chế độ quan lại trong triều đình hơn các triều đại
trước. Nhận thức rõ được vai trò của đội ngũ quan lại trong việc xây dựng và phát triển đất
nước, vua Lê Thánh Tông thường xuyên thực hiện khảo thí, khảo khóa để kiểm tra, đánh
giá chất lượng đội ngũ quan lại theo kỳ hạn 3 năm một lần. Trên cơ sở kết quả các kỳ khảo
thí, khảo khóa có được, vua Lê Thánh Tông ban hành chính sách sử dụng đội ngũ quan lại
tương ứng với thành tích mỗi người. Theo đó, có quan lại được thăng chức, thăng thưởng
hoặc giáng chức; có quan lại bị sa thải, buộc thôi việc do không hoàn thành nhiệm vụ, hoặc
tham ô, nhũng nhiễu của dân; có quan lại được luân chuyển đến địa phương khác để giữ
chức quan phù hợp hơn với trình độ, năng lực phẩm hạnh của mình;… tất cả các quan viên
đều được áp dụng những chế độ đãi ngộ khác nhau, tùy thuộc vào năng lực vị quan đó thể
hiện trong bài khảo thí, khảo khóa; đồng thời phụ thuộc vào chất lượng đời sống và sự phản
ánh thực tế của quần chúng nhân dân nơi quan viên đang cai quản. Không giống với các
80
triều đại trước, việc thực hiện khảo khóa, khảo thí chỉ đơn thuần để đánh giá trình độ, năng
lực của đội ngũ quan lại; dưới thời vua Lê Thánh Tông, kết quả của kỳ khảo thí, khảo khóa
quan lại còn được sử dụng làm cơ sở để thực hiện các chế độ khác với đội ngũ quan lại
trong triều đình. Nhờ đó, đội ngũ quan lại có động lực để luôn cố gắng vươn lên, đạt được
kết quả tốt trong bài thi về trình độ, năng lực tại các kỳ khảo thí, khảo khóa; chăm lo đời
sống nhân dân tốt hơn, hạn chế tối đa nạn tham nhũng, cửa quyền với quần chúng nhân dân.
Tựu chung lại, có thể đánh giá việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa đối với đội ngũ
quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông là hoạt động đã đạt được nhiều thành tựu trong quá
trình quản lý và sử dụng đội ngũ quan lại. Nhờ việc ban hành cụ thể, thực hiện đúng nội
dung, niên hạn, xử lý kết quả khảo thí, khảo khóa đúng với quy định đã đề ra, vua Lê Thánh
Tông đã xây dựng cho mình được một đội ngũ quan lại có chất lượng, làm việc hiệu quả,
công tâm bằng cả đức và tài. Nhờ đó, dưới những năm trị vì của ông, những hoạt động cải
cách, cách tân đất nước được triển khai, thực hiện nhanh chóng, mang lại một kết quả cao,
gây dựng Đại Việt vững mạnh.
81
Tiểu kết chương 2:
Với một thế kỷ tồn tại, triều Lê sơ là triều đại đưa đất nước đạt đến thời kỳ hưng
thịnh nhất của phong kiến Việt Nam ta. Bằng cuộc cải cách hành chính toàn diện của vua
Lê Thánh Tông, nhiều phương diện của đất nước đã có sự thay đổi rõ rệt. Bộ máy nhà nước
đã được cách tân khá quy củ so với nhiều quốc giá châu Á đương thời; đội ngũ quan lại
vững mạnh hơn bao giờ hết, tạo tiền đề chắc chắn cho sự phát triển lâu dài của cả triều đại.
Lên nắm quyền ở tuổi 18, khi đất nước có nhiều biến động về chính trị, kinh tế, xã
hội, vua Lê Thánh Tông đã dần thực hiện những cải cách, đổi mới cho đất nước, phục hồi
nền kinh tế, phát triển xã hội, đặc biệt là gây dựng thể chế chính trị quân chủ chuyên chế
phong kiến vững mạnh. Để làm được điều này, vua Lê Thánh Tông đã chú trọng việc cải
cách hành chính nhà nước, mà trọng tâm là xây dựng đội ngũ quan lại vừa hồng vừa chuyên
như một nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc cải cách đất nước. Nhận thức rõ
được vai trò đóng góp to lớn của đội ngũ quan lại đối với việc xây dựng đất nước, ông dành
nhiều thời gian và công sức xây dựng nên chế độ quan lại phù hợp với tình hình bấy giờ,
tạo động lực cho đội ngũ quan lại luôn phấn đấu rèn luyện bản thân, cống hiến cho đất
nước. Một trong những biện pháp được vua Lê Thánh Tông chú trọng nhất đó là ban hành
và thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa nhằm kiểm tra, đánh giá trình độ năng lực, phẩm chất
đạo đức của đội ngũ quan lại.
Mục đích quan trọng của việc thực hiện khảo thí, khảo khóa không chỉ để phân biệt
người hay kẻ dở, tỏ rõ việc khuyên răn mà còn truất người hèn, thăng người giỏi,.. Kết quả
các kỳ khảo thí, khảo khóa đều được dùng làm cơ sở để thăng thưởng, giáng chức, luân
chuyển hoặc giản thải quan lại; tạo cơ sở chính xác cho việc giữ người và dùng người của
vua Lê Thánh Tông. Do vậy, dưới thời vua Lê Thánh Tông trị vì, quan lại xuất sắc luôn
được thăng tiến, còn kẻ yếu kém, tham lam nhanh chóng phải lui về làm thường dân.
Khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông tập trung vào 2 nội dung chính –
là 2 nhân tố quan trọng tạo nên một vị quan lớn, đó là đức và tài. Nội dung khảo thí được
quy định rõ: quan văn thì giải kinh nghĩa, làm thơ phú, viết kế sách trị nước an dân; quan
võ thì thi dàn trận, bắn cung, võ nghệ, đua ngựa, đua thuyền, dàn quân, chiến thuật. Còn lệ
khảo khóa được thực hiện chú trọng vào 2 tiêu chí, đó là: thành tích công việc đã đạt được
và lòng dân nơi cai quản hay không. Vua Lê Thánh Tông không những kiểm tra trình độ
82
năng lực của đội ngũ quan lại qua bài thi trong mỗi kỳ khảo thí, khảo khóa; mà ông còn
xem xét, kiểm tra về phẩm chất và tư cách đạo đức của mỗi vị quan thông qua việc đánh
giá về đời sống nhân dân nơi quan viên cai quản, sự mẫn cán của quan lại, thái độ làm việc
có được lòng dân hay không,…
Khảo thí quan lại được thực hiện theo niên hạn 3 năm một lần. Còn phép khảo khóa
thực hiện mỗi 3 năm, chia ra làm 3 kỳ, đó là “3 năm sơ khảo, 6 năm tái khảo, 9 năm thông
khảo rồi mới tiến hành thăng giáng”. Theo đó, các quan trên phải tiến hành khảo xét quan
dưới quyền cai quản của mình. Lại quan nào đã qua 3 năm thì tiến hành sơ khảo, 6 năm tái
khảo và đến lần thứ ba (9 năm) thì được thông khảo. Mọi quan lại trong triều đình từ trung
ương đến địa phương đều phải tham gia các kỳ khảo thí, khảo khóa; không kể quan văn hay
quan võ, ở phẩm trật cao hay thấp,…
Xét đến cùng, chế độ quản lý và sử dụng quan lại dưới thời Lê Thánh Tông là một
chế độ tương đối hoàn chỉnh, vừa tạo động lực cho quan lại phấn đấu, vừa thúc đẩy sự cạnh
tranh minh bạch trong quan trường. Chế độ quan lại đạt được thành tựu như vậy là nhờ một
phần không nhỏ của việc ban hành và sử dụng lệ khảo thí, khảo khóa đúng niên hạn, mục
đích và nội dung khảo thí, khảo khóa rõ ràng. Vua Lê Thánh Tông đã xây dựng được một
đội ngũ quan lại vừa có đức, vừa có tài, mẫn cán với công việc, luôn tuân thủ pháp luật, tạo
nguồn lực vững mạnh trong công cuộc thực hiện cải cách, đổi mới đất nước.
83
CHƯƠNG 3
NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức và việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt
Nam hiện nay
3.1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức
Hiện nay, vẫn chưa có khái niệm thống nhất về cán bộ, công chức cho tất cả các
quốc gia trên thế giới. Ở Nhật Bản, công chức là những nhân viên nhậm chức trong bộ máy
chính phủ trung ương, các ngành tư pháp, quốc hội, quân đội, nhà trường, bệnh viện công
lập, xí nghiệp quốc doanh… Ở Pháp chia làm ba loại là công chức trong ngạch hành chính
nhà nước, công chức thuộc các công sở tự quản và công chức thuộc cộng đồng lãnh thổ
trực thuộc cơ quan chính quyền địa phương. Ở Anh thì quan niệm chỉ những người làm
trong ngành hành chính mới được gọi là công chức; nhân viên chính trị, tư pháp, quân đội
đều không được gọi là công chức. Ở Mỹ, công chức chỉ là những người thực thi công vụ
trong ngành hành chính…
Ở Việt Nam, theo khoản 1, 2 Điều 4 Luật Cán bộ Công chức năm 2008 quy định:
“1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức
danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là
cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện),
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Theo Luật Cán bộ Công chức sửa đổi bổ sung năm 2019 có hiệu lực từ ngày 01 tháng
7 năm 2020, khái niệm Công chức được hiểu là:
“2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức
vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn
vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công
nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan,
84
hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.”[53].
Như vậy, ở nước ta hiện nay, cán bộ được hiểu phải là công dân Việt Nam, được bầu
cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan, tổ chức, đơn
vị thuộc trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; hưởng lương từ ngân sách nhà nước; có đủ tư
cách đạo đức, phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn phù hợp,… Công chức cũng phải
là công dân Việt Nam, phải là người được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào ngạch, chức danh,
chức vụ trong cơ quan, tổ chức, đơn vị trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; thuộc biên chế nhà
nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; là người có trình độ chuyên môn phù hợp với
ngạch, chức danh, chức vụ.
3.1.1.2. Việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay
Nhận thức được vai trò của việc đánh giá cán bộ, công chức có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình xây dựng và phát triển chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, từ Đại hội VI
của Đảng, Đảng ta đã xác định rõ tư tưởng chỉ đạo trong việc đánh giá đội ngũ cán bộ, công
chức. Cụ thể như sau:
Nghị quyết Trung ương 6 khoá VI đã có những nội dung bổ sung quan trọng về công
tác đánh giá cán bộ, trong đó có nêu: “Quan điểm về phẩm chất và năng lực của cán bộ,
và về đánh giá cán bộ đã có bước tiến mới khi khẳng định phải “thống nhất tiêu chuẩn về
phẩm chất và năng lực cán bộ, về đánh giá cán bộ trong công cuộc đổi mới”, “không có
tiêu chuẩn phẩm chất và năng lực chung chung”, “cần đề ra chủ trương cụ thể hoá tiêu
chuẩn cán bộ cho từng chức danh”; “Cụ thể hoá chủ trương dân chủ hoá công tác cán bộ:
Việc sắp xếp, bố trí, đề bạt cán bộ phải theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Đổi mới
quy chế tuyển chọn và đề bạt cán bộ. Kết hợp việc nhận xét, đánh giá của tổ chức đảng,
của thủ trưởng đơn vị với việc lấy ý kiến của quần chúng, bỏ phiếu tín nhiệm, bầu cử hoặc
thi tuyển”. Như vậy, ngay trong những ngày đầu tiên đất nước tiến hành cải cách, Đảng đã
quan tâm đến việc thống nhất và đưa ra những tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá cán bộ, công
tác cán bộ phải được thực hiện kết hợp với việc đánh giá, nhận xét cán bộ từ quần chúng
nhân dân và các cơ quan, tập thể để có kết quá đánh giá khách quan, xác thực nhất.
Các kỳ Đại hội Đảng kế tiếp cũng nhận thức được việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức trong sạch, vững mạnh là vấn đề then chốt để thực hiện xây dựng và đổi mới đất
85
nước. Đại hội XII, tổng kết 30 năm đổi mới, trên cơ sở khẳng định tiếp tục hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững
mạnh, chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có nội dung: “Hoàn thiện
tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xác định rõ
quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính. Rà soát, sửa đổi, bổ sung
chính sách đối với cán bộ, công chức theo hướng khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; lấy bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài” nhằm
đưa ra định hướng về việc xây dựng và ban hành hệ thống chính sách đối với đội ngũ cán
bộ, công chức sao cho có thể tạo điều kiện làm việc tốt và thu hút cán bộ, công chức làm
việc, cống hiến trong bộ máy nhà nước.
Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thông Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19 tháng
5 năm 2018 “về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Tình hình kiểm tra, giám sát được đánh giá
tổng quan: “Công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm thực hiện
có hiệu quả hơn; kỷ cương, kỷ luật được tăng cường. Việc xử lý kịp thời, nghiêm minh một
số tổ chức, cá nhân vi phạm đã góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn tiêu
cực, làm trong sạch một bước đội ngũ cán bộ, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước”. Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế yếu kém, cần chú
trọng thực hiện những định hướng mà Đảng vạch ra. Nghị quyết đã đưa ra quan điểm, mục
tiêu, giải pháp đồng bộ, toàn diện về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến
lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Để cụ thể hóa những chủ trương, định hướng của Đảng ta về việc xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, hệ thống pháp luật về Cán bộ, Công chức ra đời,
đưa ra những quy định tổng quát cần thực hiện đối với việc tuyển dụng và sử dụng đội ngũ
cán bộ, công chức trong cả nước.
Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 2-L/CTN ngày 26 tháng 02 năm 1998
về cán bộ, công chức – lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt Nam đưa ra những quy
định cụ thể về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Pháp lệnh đưa ra cách hiểu cơ bản về
86
cán bộ, công chức; quyền và nghĩa vụ cơ bản của cán bộ, công chức; cùng với đó là các
chính sách về tuyển dụng, sử dụng, khen thưởng – kỷ luật đội ngũ cán bộ, công chức Nhà
nước một cách khá đầy đủ và hệ thống. Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 đánh dấu
bước ngoặt đầu tiên trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước khi Đảng và Nhà nước
dành sự quan tâm đặc biệt đến hoạt động công vụ và lợi ích, nghĩa vụ của cán bộ, công
chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình.
Đất nước đổi mới với sự thay đổi nhanh chóng của chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, năm 2003 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thực hiện sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Cán
bộ, Công chức năm 1998 cho phù hợp với tình hình hiện tại. Ủy ban Thường vụ Quốc hội
ban hành Pháp lệnh số 11/2003/PL-UBTVQH11 ngày 29 tháng 4 năm 2003 về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998.
Đến năm 2008, cùng với sự thay đổi của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và các đạo luật có liên quan, Quốc Hội xây dựng và ban hành Luật Cán bộ, công
chức năm 2008. Trong đó, đưa ra những quy định cơ bản về cán bộ, công chức; quyền và
nghĩa vụ của cán bộ, công chức; những điều cán bộ, công chức được làm và không được
làm; cơ chế tuyển dụng và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức một cách thống nhất trong
cả nước. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 có hiệu lực bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm
2010 cùng các văn bản hướng dẫn thực hiện đã tạo cơ sở pháp lý đổi mới cơ chế tuyển
dụng, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, nâng ngạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá và khen
thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, góp phần từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
chuyên nghiệp, trong sạch, vững mạnh.
Theo đó, khoản 1 Điều 28 Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 có quy định việc đánh
giá cán bộ hiện nay bao gồm 5 nội dung chính:“a) Chấp hành đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; b) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác
phong và lề lối làm việc; c) Năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ; d)
Tinh thần trách nhiệm trong công tác; đ) Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.”. Đồng
thời, thời hạn thực hiện việc đánh giá cán bộ cũng được đưa ra ngay sau đó, tạo cơ sở để
thực hiện đánh giá đúng thời hạn: “Việc đánh giá cán bộ được thực hiện hàng năm, trước
khi bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, quy hoạch, điều động, đào tạo, bồi dưỡng, khi kết thúc
nhiệm kỳ, thời gian luân chuyển”
87
Điều 56 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2019 đưa ra những
tiêu chí để thực hiện đánh giá công chức, bao gồm 6 nội dung: “a) Chấp hành đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, tổ
chức, đơn vị; b) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc; c)
Năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; d) Kết quả thực hiện nhiệm vụ theo quy định
của pháp luật, theo kế hoạch đề ra hoặc theo công việc cụ thể được giao; tiến độ và chất
lượng thực hiện nhiệm vụ. Việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phải gắn với vị trí việc
làm, thể hiện thông qua công việc, sản phẩm cụ thể; đ) Tinh thần trách nhiệm và phối hợp
trong thực hiện nhiệm vụ; e) Thái độ phục vụ nhân dân, doanh nghiệp đối với những vị trí
tiếp xúc trực tiếp hoặc trực tiếp giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp” [53].
Những công chức giữ vị trí lãnh đạo, quản lý còn phải được đánh giá thêm với các
nội dung là: “a) Kế hoạch làm việc và kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được
giao lãnh đạo, quản lý; việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của cá nhân phải gắn với
kết quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp phụ trách. Mức xếp loại
chất lượng của cá nhân không cao hơn mức xếp loại chất lượng của cơ quan, tổ chức, đơn
vị trực tiếp phụ trách; b) Tiến độ, chất lượng các công việc được giao; c) Năng lực lãnh
đạo, quản lý; d) Năng lực tập hợp, đoàn kết” [53].
Khoản 3 Điều 56 sửa đổi bổ sung có quy định thời hạn đánh giá công chức: “Đánh
giá hàng năm; đánh giá trước khi thực hiện xét nâng ngạch, nâng lương trước thời hạn, bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại, quy hoạch, điều động; đánh giá trước khi kết thúc thời gian luân
chuyển, biệt phái” [53].
Kết quả đánh giá cán bộ, công chức được phân loại rõ ràng. Sau khi đánh giá, cán
bộ, công chức sẽ được xếp vào 1 trong 4 mức sau:
a) Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ;
b) Hoàn thành tốt nhiệm vụ;
c) Hoàn thành nhiệm vụ;
d) Không hoàn thành nhiệm vụ.
Kết quả xếp loại chất lượng cán bộ, công chức được lưu vào hồ sơ cán bộ, công chức
thông báo đến cán bộ, công chức được đánh giá và công khai trong cơ quan, tổ chức, đơn
vị nơi cán bộ, công chức đó công tác.
88
Trường hợp cán bộ 02 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền miễn nhiệm, cho thôi làm nhiệm vụ.
Trường hợp công chức 02 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ được quy định
rõ: a) Cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền cho thôi việc đối với công chức có 02 năm
liên tiếp được xếp loại chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ; b) Công chức giữ
chức vụ lãnh đạo, quản lý có 02 năm không liên tiếp trong thời hạn bổ nhiệm được xếp loại
chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ thì bố trí công tác khác hoặc không bổ nhiệm
lại; c) Công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong 03 năm có 02 năm không liên
tiếp được xếp loại chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ ở vị trí việc làm đang đảm
nhận thì bố trí vào vị trí việc làm có yêu cầu thấp hơn.” (Theo Điều 29, Điều 58 Luật Cán
bộ, công chức 2008 sửa đổi, bổ sung 2019) [53].
Như vậy, việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay được thực hiện hàng năm nhằm
đánh giá, xếp loại đội ngũ cán bộ, công chức theo từng mức độ khác nhau được hiểu tương
tự như việc kiểm tra, đánh giá quan lại thông qua lệ khảo thí, khảo khóa thời xưa.
3.1.2. Thực trạng công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay
3.1.2.1. Những kết quả đạt được trong công tác đánh giá cán bộ, công chức
Thứ nhất, công tác đánh giá cán bộ, công chức nhận được nhiều sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước. Ngay từ những ngày đầu thực hiện công cuộc đổi mới và cách tân đất
nước, Đảng ta đã luôn quan tâm đến công tác cán bộ; việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức vừa có đức, vừa có tài là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự
thành bại của cuộc cải cách.
Đại hội VI của Đảng đã khẳng định: “những thành tựu và nguyên nhân của những
thành tựu chủ yếu bắt nguồn từ đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị đã được thử thách,
luôn luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, thông suốt và chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, ham học hỏi, năng động, sáng
tạo, có kiến thức quản lý kinh tế, xã hội, có tính tổ chức và kỷ luật cao. Đó là những cán bộ
có đạo đức cách mạng và phong cách lãnh đạo tốt, trước hết là có ý thức tập thể, dân chủ
đi đôi với tính quyết đoán, có ý thức trách nhiệm, có tác phong sâu sát thực tế, gần gũi quần
chúng, quan tâm đến con người, gương mẫu trong lối sống, đoàn kết và động viên được
nhiệt tình lao động của cán bộ và nhân dân” [7; tr27]. Đại hội cũng nghiêm túc chỉ rõ
89
“những sai lầm, nguyên nhân của những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong công tác lãnh
đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và
công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân” [7; tr133].
Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, Đảng ban hành Nghị quyết số 03-NQ/HNTW
ngày 18 tháng 6 năm 1997 “về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh”, Nghị quyết khẳng định: Cán bộ là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Nghị quyết chỉ ra 5 bài
học kinh nghiệm về công tác cán bộ, trong đó có nội dung: “có quan điểm và phương pháp
đánh giá, sử dụng cán bộ một cách khách quan, khoa học, công tâm. Xử lý tốt các mối quan
hệ giữa đức và tài, quyền hạn và trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích, giai cấp và dân tộc, tiêu
chuẩn và cơ cấu, năng lực thực tế và bằng cấp, cán bộ đương chức và cán bộ về hưu... phù
hợp với yêu cầu của mỗi loại cán bộ”. Trên cơ sở đó, Đảng đưa ra quan điểm chỉ đạo để
xây dựng đội ngũ cán bộ chất lượng cho đất nước.
Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở tiêu
chuẩn, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu;
có phương pháp khoa học, khách quan, công tâm, theo quy trình chặt chẽ, phát huy dân
chủ, dựa vào tập thể và nhân dân để tuyển chọn cán bộ. Đổi mới, trẻ hoá đội ngũ cán bộ
lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển”.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ...
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước... Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công
tác cán bộ... trong đó có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để
có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức... Đổi mới bầu cử
trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ... để lựa chọn những người có bản
lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu”.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện cơ bản hệ thống thể chế về đánh giá và quản lý đội
ngũ cán bộ, công chức trong cả nước. Dưới sự chỉ đạo của Đảng về chủ trương, đường lối,
90
Nhà nước ta đã cụ thể hóa tư tưởng chỉ đạo của Đảng bằng hệ thống thể chế dần hoàn thiện.
Nếu như trước đây, những quy định về cán bộ, công chức chỉ được điều chỉnh bằng Pháp
lệnh do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành, thì từ năm 2008 đến nay, Luật Cán bộ, công
chức đã được Quốc hội ban hành nhằm điều chỉnh những hoạt động liên quan đến quản lý
và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức trong cả nước. Để Luật Cán bộ, công chức dễ dàng
thực hiện, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các Nghị định nhằm đưa ra những quy định cụ
thể hóa Luật đã đề ra, như là: Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 về
chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã và những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Nghị định số 21/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng
3 năm 2010 về quản lý biên chế công chức; Nghị định số 110/2015/NĐ-CP ngày 29 tháng
10 năm 2015 về sửa đổi, bổ sung một số điều trong Nghị định số 21/2010/NĐ-CP; Nghị
định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 03 năm 2010 quy định về tuyển dụng, sử dụng và
quản lý công chức; Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính
Phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số 88/2017/NĐ-CP
ngày 27 tháng 7 năm 2017 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về đánh giá và phân loại cán
bộ, công chức, viên chức;…
Bằng việc ban hành Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và ban hành những Nghị định
hướng dẫn thực hiện đối với từng nội dung trong Luật, hệ thống thể chế về quản lý và đánh
giá đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta đang dần được hoàn thiện, bao quát được quá trình
quản lý đội ngũ cán bộ, công chức; góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức.
Thứ ba, việc đánh giá cán bộ, công chức bám sát quan điểm, nguyên tắc của Đảng,
ngày càng đi vào nền nếp và đạt được những kết quả quan trọng. Các nghị quyết, kết luận,
chỉ thị Đảng ban hành đã được tổ chức thực hiện sâu rộng trong cả nước. Các quy trình về
công tác cán bộ ngày càng được thực hiện chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch, khoa
học và dân chủ hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức mới được quan tâm,
từng bước gắn với chức danh, với quy hoạch và sử dụng cán bộ. Chủ trương luân chuyển
kết hợp với bố trí một số chức danh lãnh đạo không là người địa phương đạt được kết quả
bước đầu. Công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm thực hiện có
91
hiệu quả hơn; kỷ cương, kỷ luật được tăng cường. Việc xử lý kịp thời, nghiêm minh một số
tổ chức, cá nhân vi phạm đã góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn tiêu cực,
làm trong sạch một bước đội ngũ cán bộ, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân
dân đối với Đảng, Nhà nước [25; tr1].
Thứ tư, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức dần được nâng lên. Hiện nay, đội ngũ
cán bộ, công chức đã trưởng thành hơn, có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững
vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng,
rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc
trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán bộ cấp chiến lược
có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định
đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Hầu hết cán bộ lãnh đạo lực
lượng vũ trang được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, trung thành với Đảng, sẵn sàng
chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân. Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say mê
nghiên cứu, có đóng góp tích cực cho đất nước. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh
nghiệp nhà nước thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, tổ chức sản xuất, kinh doanh có
hiệu quả [25; tr1].
3.1.2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong công tác đánh giá cán bộ, công chức
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc đánh giá cán bộ, công chức ở nước ta vẫn
còn tồn tại một số hạn chế cần phải thẳng thắn nhìn nhận như sau:
Một là, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh. Hiện nay, việc ban hành Luật và các
văn bản dưới Luật có sự chênh lệch về thời gian với độ trễ khá dài, khiến cho nhiều Luật
mặc dù đã được ban hành song việc đưa vào tổ chức thực hiện còn lúng túng do chưa có
Nghị định hướng dẫn thực hiện. Những văn bản dưới Luật thường ban hành rất chậm, thậm
chí có văn bản dưới luật còn diễn giải trái ngược với nội dung văn bản luật gốc. Chủ nhiệm
Uỷ ban pháp luật của Quốc hội Vũ Đức Khiển cho biết: Bộ Luật hình sự của Việt Nam có
hiệu lực từ tháng 7/2000, sau 5 năm mới ban hành được 14/24 văn bản hướng dẫn thi hành.
92
Bộ Luật dân sự cũng tương tự, đã 10 năm nhưng mới ban hành được 50 văn bản, còn 20
văn bản chưa được hướng dẫn thi hành (Báo Tuổi trẻ, ngày 23/11/2005).
Bên cạnh đó, quy định trong các văn bản luật còn thiếu sự đồng bộ giữa các bộ luật
với nhau; có quy định chồng chéo, mâu thuẫn; lại có những điều pháp luật không quy định
đến. Nhiều lỗ hổng trong ban hành pháp luật khiến cho hệ thống pháp luật dù đang được
cố gắng để hoàn thiện song vẫn có nhiều người “lách luật”. Thêm vào đó, luật ở nước ta
thường đưa ra những quy định “cấm”, “không được phép”, “không được làm”,… nhưng lại
chưa đưa ra chế tài xử lý cụ thể: nếu như cán bộ, công chức làm những việc pháp luật không
cho phép thì sẽ bị xử lý như thế nào, mức xử lý ở từng mức độ vi phạm ra sao. Do vậy, mặc
dù có những điều đã được quy định trong pháp luật khá cụ thể, nhưng vì thiếu đi chế tài xử
lý nên không có tính răn đe đối với cán bộ, công chức trong quá trình thi hành nhiệm vụ
của mình.
Hai là, hệ thống những tiêu chí để đánh giá cán bộ, công chức khó đánh giá chính
xác, còn mang tính định tính. Việc đánh giá cán bộ, công chức được thực hiện dựa trên các
tiêu chí quy định tại điều 28 và điều 56 Luật Cán bộ, công chức năm 2008. Cán bộ được
đánh giá dựa trên 5 nội dung chính:“a) Chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước; b) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và
lề lối làm việc; c) Năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ; d) Tinh thần
trách nhiệm trong công tác; đ) Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.”. Công chức được
thực hiện đánh giá trên 6 nội dung cơ bản, đó là: “a) Chấp hành đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; b) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,
tác phong và lề lối làm việc; c) Năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; d) Tiến độ và
kết quả thực hiện nhiệm vụ; đ) Tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm
vụ; e) Thái độ phục vụ nhân dân”. Ngoài ra, những công chức giữ vị trí lãnh đạo, quản lý
còn phải được đánh giá thêm 3 nội dung là: “a) Kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức,
đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý; b) Năng lực lãnh đạo, quản lý; c) Năng lực tập hợp,
đoàn kết công chức”. Trong những tiêu chí đánh giá trên, tiêu chí về kết quả thực hiện
nhiệm vụ được giao là tiêu chí có thể lượng hóa để đánh giá sát thực nhất; những tiêu chí
còn lại đều khó đánh giá chính xác, chưa được lượng hóa trong các nghị định hướng dẫn
thi hành để đánh giá sát thực.
93
Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính Phủ về đánh giá
và phân loại cán bộ, công chức, viên chức là nghị định quy định chi tiết về việc đánh giá và
phân loại cán bộ, công chức sau đánh giá; song Nghị định cũng không cụ thể hóa, định
lượng hóa các nội dung đánh giá cán bộ, công chức đã nêu ở trên, mà quy định: “Nội dung
đánh giá cán bộ thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Luật Cán bộ, công chức”;
“Nội dung đánh giá công chức thực hiện theo quy định tại Khoản 1 và 2 Điều 56 Luật Cán
bộ, công chức”. Như vậy, trong cả Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định hướng
dẫn thi hành việc đánh giá cán bộ, công chức đều chỉ đưa ra những tiêu chí đánh giá định
tính, không cụ thể hóa, định lượng các tiêu chí đánh giá. Việc sử dụng các tiêu chí đánh giá
định tính như vậy khó có thể đánh giá được chính xác được chất lượng thực tế của đội ngũ
cán bộ, công chức.
42%
58%
Phù hợp Chưa phù hợp, chưa sát thực tế
Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4
Biểu đồ 3.1: Tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay
Dựa trên khảo sát đã thực hiện, biểu đồ trên thể hiện rõ kết quả về tiêu chí đánh giá
cán bộ, công chức hiện nay. Khảo sát cho thấy, cán bộ, công chức đang làm việc cũng đã
nhận ra được bất cập từ những tiêu chí thực hiện đánh giá hàng năm. Kết quả khảo sát chỉ
ra có 57,85% cán bộ, công chức nhận thấy tiêu chí thực hiện đánh giá cán bộ, công chức
94
hiện tại là chưa phù hợp, chưa sát với thực tế về năng lực và điều kiện làm việc thực tế.
Song cũng có những cán bộ, công chức cảm thấy hài lòng với việc đánh giá hiện nay, cho
rằng đánh giá như vậy là phù hợp, và dễ dàng có thể tìm được người thực tài. Từ kết quả
trên, có thể thấy rằng, hiện nay việc đánh giá cán bộ, công chức thực tế vẫn chưa thực sự
mang lại hiệu quả cao; đội ngũ cán bộ, công chức còn khá mơ hồ về những nội dung đang
được đưa ra để đánh giá mình hàng năm.
22%
23%
55%
Tinh thần trách nhiệm cao Đùn đẩy trách nhiệm công vụ
Quan liêu, cửa quyền
Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4
Biểu đồ 3.2: Tinh thần và trách nhiệm làm việc của cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay
Bằng biểu đồ trên, có thể thấy kết quả khảo sát cũng chỉ ra rõ rằng, việc đánh giá với
những tiêu chí như hiện nay là chưa thực sự chính xác và hiệu quả. Bởi theo diễn biến của
việc quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, hàng năm không có quá nhiều người xếp
loại không hoàn thành nhiệm vụ hay hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực.
Song thực tế từ kết quả khảo sát chỉ ra có đến 211 người trên tổng số 382 người được hỏi
(chiếm 55,24%) cho rằng cán bộ, công chức hiện nay làm việc với tinh thần trách nhiệm
không cao, đùn đẩy trách nhiệm công vụ là phổ biến, và 87/382 người đánh giá cán bộ,
công chức hiện nay vẫn còn thái độ quan liêu, cửa quyền trong khi làm việc. Khảo sát được
95
thực hiện với các cán bộ, công chức đang làm việc trong bộ máy nhà nước song kết quả lại
khá khách quan khi nói đến tinh thần trách nhiệm làm việc.
Thường xuyên Thường xuyên
Không thưởng xuyên Không thường xuyên
Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4
Biểu đồ 3.3: Việc đánh giá đạo đức công vụ Biểu đồ 3.4: Việc tổ chức các kỳ thi sát hạch
đối với cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện năng lực chuyên môn dành cho cán bộ, công
nay chức ở Việt Nam hiện nay
Qua biểu đồ 3.3 và 3.4 được lập dựa trên kết quả thực hiện khảo sát, có thể đưa ra
nhận xét, việc đánh giá như hiện nay mặc dù được thực hiện thường xuyên song lại không
chú trọng vào việc đánh giá năng lực chuyên môn của cán bộ, công chức tại từng vị trí nên
chưa đạt hiệu quả cao. Kết quả khảo sát thực hiện trên 382 người cho rằng có 75,92% cán
bộ, công chức được đánh giá đạo đức công vụ định kì, song lại có đến 65,92% cán bộ, công
chức không thường xuyên tham gia các kỳ thi sát hạch năng lực chuyên môn tại cơ quan,
tổ chức đang công tác. Điều này khẳng định rõ việc đánh giá cán bộ, công chức với những
tiêu chí và cách thức thực hiện như hiện nay chưa phản ảnh rõ thực tế quá trình làm việc và
năng lực, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức.
96
Ba là, việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức còn mang tính hình thức, cào bằng,
mang nặng ý chí chủ quan và cảm tính, chưa khách quan, công bằng, sát thực. Việc đánh
giá cán bộ, công chức thực hiện hàng năm như một thông lệ khá đơn giản để thực hiện.
Song trong quá trình thực hiện việc đánh giá, vẫn còn tồn tại tình trạng nể nang, né tránh
trách nhiệm, ngại va chạm và dân chủ hình thức trong đánh giá cán bộ vẫn còn khá phổ
biến trong các cơ quan nhà nước hiện nay. Thêm vào đó, không ít trường hợp đánh giá cán
bộ, công chức còn chủ quan, cảm tính, dễ người dễ ta, cục bộ địa phương hoặc bị các mối
quan hệ cá nhân, quan hệ xã hội khác chi phối,… Do vậy, trên thực tế, mặc dù thực hiện
hàng năm nhưng việc đánh giá lại chưa phản ánh chính xác phẩm chất, năng lực của đội
ngũ cán bộ, công chức, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng chung của công tác quản
lý cán bộ, công chức.
Các cán bộ, công chức được đánh giá dựa theo trình tự, thủ tục được quy định tại
Điều 10 và Điều 17 Nghị định số 56/2015/NĐ-CP về đánh giá và phân loại cán bộ, công
chức. Theo đó, mỗi cán bộ, công chức trước tiên sẽ làm báo cáo tự đánh giá kết quả công
tác theo nhiệm vụ được giao; sau đó cán bộ, công chức trình bày báo cáo tự đánh giá tại
cuộc họp của cơ quan, tổ chức mình; dựa trên báo cáo tự đánh giá của cá nhân cán bộ, công
chức, những người tham dự cuộc họp đóng góp ý kiến, ý kiến đóng góp được ghi vào biên
bản cuộc họp và thông qua vào cuối buổi họp đánh giá. Như vậy, với những tiêu chí đã đưa
ra như trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã quy định, việc đánh giá chủ yếu dựa trên
việc tự đánh giá của mỗi cá nhân, có sự đóng góp của đồng nghiệp và các cá nhân, cơ quan
quản lý cấp trên. Song có một câu hỏi đặt ra là, liệu rằng mỗi cán bộ, công chức sau khi tập
trung để thực hiện báo cáo tự đánh giá kết quả công tác của mình có còn thực sự chú trọng
đến việc đồng nghiệp và cấp dưới (không phải cấp dưới được quản lý trực tiếp) đã thực
hiện nhiệm vụ được giao của họ như thế nào để đưa ra những nhận xét, đóng góp chính
xác, khách quan hay không?
Chỉ có cấp ủy đảng cùng cấp nơi cán bộ, công chức công tác thực hiện đóng góp ý
kiến bằng văn bản cho bản báo cáo tự đánh giá về kết quả thực hiện nhiệm vụ của mỗi cán
bộ, công chức đó. Còn đối với các thành phần khác tham dự cuộc họp không được pháp
luật quy định hình thức đóng góp ý kiến là gì. Do vậy, lại có thêm vấn đề đặt ra rằng, nếu
97
để mọi người tham dự cuộc họp đóng góp ý kiến bằng cách phát biểu ý kiến thì có thể thu
được ý kiến chính xác và chân thành từ những người đóng góp hay không?
Công bằng, khách quan 37%
Mang tính hình thức 63%
Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4
Biểu đồ 3.5: Việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay
Dựa trên kết quả khảo sát và Biều đồ 3.5 (minh họa bên trên) có gần 63% số người
được hỏi cho rằng việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay còn mang tính hình thức, chưa
chú trọng hiệu quả. Trong khi đối tượng thực hiện khảo sát chủ yếu là đội ngũ cán bộ, công
chức làm việc trong các cơ quan nhà nước mà kết quả lại có đến gần hai phần ba tổng số
người được hỏi nhận định việc đánh giá mang nặng tính hình thức, đặt ra những câu hỏi
lớn cho các nhà quản lý cần phải giải quyết. Đó là, việc đánh giá cán bộ, công chức hiện
nay có thực sự hiệu quả hay không? Nếu không thì có cần tiếp tục thực hiện nữa hay hủy
bỏ? Nếu tiếp tục thực hiện thì cần thay đổi như thế nào để đem lại hiệu quả?
Bốn là, quá trình thực hiện đánh giá cán bộ, công chức tại nhiều cơ quan, địa phương
còn hạn chế và lúng túng. Mặc dù đã có quy định về những tiêu chí đánh giá cán bộ, công
chức song việc tổ chức thực hiện đánh giá còn nhiều bất cập, nhất là đối với việc đánh giá
cán bộ, công chức giữ vị trí lãnh đạo, quản lý. Nhiều cán bộ, công chức chuẩn bị bản báo
cáo tự đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao còn sơ sài, chưa đánh giá cụ thể về
98
phẩm chất, tư tưởng và kết quả thực hiện công tác cá nhân; chưa gắn liền với việc thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Thêm vào
đó, quy trình thực hiện đánh giá cán bộ, công chức mặc dù đã được quy định tại Nghị định
số 56/2015/NĐ-CP về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức song vẫn có những cơ quan,
địa phương thực hiện chưa chặt chẽ. Những ý kiến đóng góp của các cá nhân trong cơ quan
hay đại diện các cơ quan có liên quan còn chung chung, chưa chỉ ra rõ những hạn chế,
khuyết điểm còn tồn tại của cán bộ, công chức đang được đánh giá. Nhiều cán bộ, công
chức hiện nay vẫn còn nhầm lẫn giữa kiểm điểm, đánh giá, phân loại Đảng viên với kiểm
điểm, phân loại, đánh giá cán bộ, công chức; nhầm lẫn giữa phiếu đánh giá và phân loại
của cán bộ với công chức…
Năm là, kết quả của việc đánh giá cán bộ, công chức chưa được sử dụng có hiệu quả
trong quản lý đội ngũ cán bộ, công chức. Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 56/2015/NĐ-CP về
đánh giá và phân loại cán bộ, công chức có quy định về việc sử dụng kết quả đánh giá cán
bộ, công chức, viên chức: “1. Kết quả đánh giá là căn cứ quan trọng để bố trí, sử dụng,
đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp, quy hoạch, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các chính
sách khác đối với cán bộ, công chức, viên chức”. Kèm theo đó, tại khoản 2 có đề cập đến
việc sử dụng cán bộ, công chức theo quy định tại Luật Cán bộ, công chức năm 2008. Tuy
nhiên, theo quy định trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã nêu, mới chỉ có việc miễn
nhiệm, cho thôi làm nhiệm vụ, bố trí công tác khác cho cán bộ, công chức được quy định
rõ, cụ thể là: “Cán bộ 02 năm liên tiếp hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng
lực hoặc có 02 năm liên tiếp, trong đó 01 năm hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về
năng lực và 01 năm không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bố trí
công tác khác. Cán bộ 02 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền miễn nhiệm, cho thôi làm nhiệm vụ”; Công chức cũng được quy định tương tự
như vậy. Như vậy, có thể thấy rằng, trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định
hướng dẫn thi hành liên quan đến việc đánh giá cán bộ, công chức, mới chỉ đưa ra những
điều kiện về kết quả đánh giá làm cơ sở thực hiện các chính sách liên quan đến miễn nhiệm,
cho thôi làm nhiệm vụ, bố trí công tác khác cho cán bộ, công chức; chứ chưa đưa ra những
điều kiện cụ thể về kết quả đánh giá làm cơ sở sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch
99
hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp, quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển,
khen thưởng, kỷ luật,…
Phù hợp
Chưa phù hợp
Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4
Biểu đồ 3.6: Sự tương đồng giữa việc bố trí công tác và trình độ chuyên môn, năng lực thực
tế của cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay
Theo kết quả điều tra khảo sát thực tế và biểu đồ 3.6 minh họa bên trên về việc bố
trí công việc cho cán bộ, công chức đã phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ, năng lực của
cá nhân mỗi người hay chưa, có 51,83% số người được hỏi cho rằng việc bố trí công việc
hiện nay là chưa phù hợp với chuyên môn và năng lực thực tế của cán bộ, công chức. Phiếu
điều tra có nhắc đến năng lực “thực tế” của cán bộ, công chức, nghĩa là không quá quan
tâm đến trình độ của cán bộ, công chức được đánh giá dựa trên bằng cấp như thế nào, mà
tập trung vào việc mỗi cán bộ, công chức thể hiện như thế nào trong quá trình làm việc:
giải quyết công việc có hiệu quả hay không; có khả năng hoàn thành những công việc được
giao hay không,… Mặc dù không có sự chênh lệch nhiều giữa ý kiến cho rằng việc sắp xếp,
bố trí công việc đã phù hợp và chưa phù hợp với chuyên môn, năng lực thực tế của cán bộ,
công chức hiện nay, song có thể thấy vẫn còn những khoảng trống cần giải quyết liên quan
100
đến việc sắp xếp, bố trí công việc cho cán bộ, công chức; vẫn phải giải quyết câu chuyện
xử lý kết quả đánh giá cán bộ, công chức hiện nay như thế nào cho hợp lý với trình độ
chuyên môn, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức đang có.
Sáu là, mục đích thực hiện đánh giá cán bộ, công chức hàng năm chưa được xác
định rõ ràng. Trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định 56/2015/NĐ-CP của
Chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức có đưa ra những quy định
khá chi tiết về nguyên tắc, căn cứ, thời điểm, nội dung, trình tự thủ tục đánh giá cán bộ,
công chức; các tiêu chí để phân loại xếp loại đánh giá cán bộ, công chức,… Song điều thiết
yếu nhất là mục đích của việc đánh giá là gì thì lại chưa đề cập đến. Việc đánh giá và phân
loại kết quả đánh giá được sử dụng vào mục đích gì, hoặc: phân loại đánh giá cán bộ, công
chức sau đó thực hiện chế độ chính sách gì với cán bộ, công chức chưa được nhắc đến.
27%
73%
Rõ ràng, đảm bảo hiệu quả Chưa rõ ràng, mang tính hình thức
Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4
Biểu đồ 3.7: Mục đích việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay
Biểu đồ 3.7 và kết quả khảo sát thực hiện cho biết, có đến 284 trong tổng số 382
người được hỏi (chiếm 73,56%) cho rằng, mục đích việc thực hiện đánh giá cán bộ, công
chức hiện nay còn chưa rõ ràng, mang tính hình thức nhiều. Thực tế cũng chỉ rõ, bởi mục
đích đánh giá cán bộ, công chức hàng năm chưa được chỉ ra rõ nên việc thực hiện đánh giá
101
chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, phân loại đánh giá cán bộ, công chức cũng chưa
phát huy tác dụng của từng thứ hạng mà cán bộ, công chức được xếp loại; chưa tạo động
lực cũng như sự thúc đẩy phấn đấu và phát triển bản thân cho mỗi cán bộ, công chức trong
bộ máy nhà nước được đánh giá.
Tóm lại, việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay mặc dù đã được thực hiện thường
xuyên trong các cơ quan nhà nước song vẫn còn tồn tại nhiều bất cập từ những quy định
trong thể chế đến thực tế thực hiện. Những hạn chế của việc đánh giá cán bộ, công chức
hiện nay chủ yếu xuất phát từ tâm lý bệnh thành tích và tính cả nể của cán bộ, công chức
trong việc đánh giá và tự đánh giá. Do đó, trong tiến trình thực hiện công cuộc cách tân đất
nước, cần chú trọng hơn việc quản lý đội ngũ cán bộ, công chức nhằm xây dựng một nguồn
nhân lực chất lượng cao, góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, cường thịnh. Để công tác
đánh giá cán bộ, công chức thực hiện tốt hơn, cần có sự nhìn nhận lại lịch sử nước nhà và
học hỏi kinh nghiệm, vận dụng linh hoạt sáng tạo vào điều kiện hiện tại.
3.2. Những giá trị tham khảo từ lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh
Tông
3.2.1. Coi trọng việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức, coi đó là hoạt động
tối cần thiết để đảm bảo chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
Trong suốt quá trình nắm ngôi, vua Lê Thánh Tông đã đưa ra hàng loạt quy định về
các chế độ liên quan đến việc quản lý và sử dụng đội ngũ quan lại, từ việc tuyển chọn, bổ
nhiệm, đến việc luân chuyển, đào tạo – bồi dưỡng, kiểm tra – giám sát, định lệ giản thải,
lương bổng,… Trong đó, ông dành nhiều khoản quy định về lệ khảo thí, khảo khóa – biện
pháp thực hiện kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại triều đình. Sự quan tâm sát sao của vua
Lê Thánh Tông đến việc kiểm tra, đánh giá quan lại chính là sự chú trọng đặc biệt đến chất
lượng đội ngũ quan lại trong triều đình. Nhờ có sự quan tâm đó, ông đã xây dựng được một
đội ngũ quan lại vừa có đức, vừa có tài, luôn tuân thủ đúng quy định pháp luật đã được Nhà
nước đặt ra, chấp hành nghiêm minh quy định đã có. Thời vua Lê Thánh Tông đã tổ chức
khá hoàn chỉnh bộ máy thực hiện kiểm tra, đánh giá quan lại từ trung ương đến địa phương,
phối hợp chặt chẽ với nhau trong công tác kiểm tra, đánh giá nhằm lựa chọn được đội ngũ
quan lại chất lượng nhất. Những quy định về lệ khảo thí, khảo khóa không ngừng được bổ
sung và hoàn thiện, quy định rõ mục đích, nội dung, kỳ hạn, đối tượng thực hiện, trách
102
nhiệm tổ chức thực hiện, xử lý và sử dụng kết quả cho các chế độ khác đối với quan lại đều
được nhà vua quy định rõ ràng, nghiêm ngặt. Có thể thấy rõ, nhận thức được tầm quan trọng
của đội ngũ quan lại, vua Lê Thánh Tông rất coi trọng việc đánh giá chất lượng đội ngũ
quan lại, nhằm lựa chọn ra những quan lại tài đức vẹn toàn nhất giữ phẩm trật cao, cống
hiến cho công cuộc cải cách nhà nước bấy giờ.
Ngày nay việc đánh giá cán bộ, công chức mặc dù được thực hiện hàng năm song
lại chỉ mang tính hình thức, khá hời hợt về nội dung, mục đích thực hiện cũng chưa thực sự
rõ ràng, kết quả sau đánh giá chưa phản ánh đúng thực trạng công tác và kiến thức kỹ năng
của đội ngũ cán bộ, công chức và cũng chưa được sử dụng làm cơ sở để thực hiện chế độ
khác đối với cán bộ, công chức. Do vậy, theo kinh nghiệm lịch sử, hiện nay Đảng và Nhà
nước ta cần đổi mới và nâng cao nhận thức về việc đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức
hàng năm; cần hiểu rõ tầm quan trọng và cần thiết của đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng
vừa chuyên, đủ đức đủ tài trong tiến trình cải cách toàn diện đất nước. Trong bất kỳ hoạt
động nào của đất nước, nguồn nhân lực có chất lượng tốt luôn là nhân tố then chốt quyết
định sự thành công. Vậy nên, chỉ khi coi trọng việc kiểm tra, đánh giá thì chất lượng cán
bộ, công chức mới được nâng lên và nhanh chóng hoàn thiện; đội ngũ cán bộ, công chức
trong bộ máy nhà nước mới được củng cố vững chắc; việc thực hiện cải cách hành chính –
kinh tế – xã hội của đất nước mới có thể diễn ra suôn sẻ, thuận lợi, gặt hái được nhiều thành
công.
3.2.2. Chú trọng việc xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp
luật đảm bảo việc đánh giá cán bộ, công chức nghiêm ngặt, chặt chẽ, có hiệu lực hiệu
quả
Dưới thời Lê sơ, đặc biệt là vua Lê Thánh Tông, pháp luật Đại Việt bấy giờ đã được
hoàn thiện với Bộ Luật Hồng Đức – bộ Luật hoàn chỉnh đầu tiên trong lịch sử phong kiến
nước ta. Bộ luật Hồng Đức giống như một bộ tổng luật, toàn bộ kỷ cương phép nước của
quốc gia Đại Việt đều được đúc kết trong một bộ luật với 13 chương và 722 điều cụ thể.
Bộ luật Hồng Đức không những là bộ luật hoàn chỉnh nhất mà còn là bộ luật tiến bộ nhất
của xã hội Việt Nam dưới thời phong kiến. Nhà sử học Phan Huy Chú đánh giá bộ luật như:
“cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân”.
103
Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, chưa có vị vua nào lại ban hành sắc chỉ,
lệnh, dụ… nhiều, cụ thể và tỷ mỷ như vua Lê Thánh Tông. Chỉ tính riêng các sắc chỉ do
nhà vua ban hành đã lên tới con số hàng trăm. Cùng với số lượng lớn các văn bản pháp luật
ban hành dưới triều đại mình, ông còn cho tập hợp nhiều văn bản được ban hành trong các
triều đại trước, hợp thành 3 tập Hội điển để các quan lại trông coi pháp luật tiện sử dụng,
đó là: Thiên Nam dư hạ tập; Quốc triều thư khế thể thức; Hồng Đức thiện chính thư [8;
tr89].
Bên cạnh đó, trong quá trình quản lý đội ngũ quan lại, vua Lê Thánh Tông còn xây
dựng và ban hàng Lê Triều quan chế. Cuốn sách này quy định cụ thể về các chức tước,
phẩm trật cho từng loại quan văn quan võ trong triều; quy định về thông tư, điều lệ về việc
phong ấm cho hoàng thân quốc thích, tước công hầu bá tử nam và các quan viên văn võ;
đồng thời đưa ra thể thức tiến hành phong ấm, phép khảo hạch các quan, sửa đổi tên gọi
quan chức,…
Có thể thấy rằng, dưới thời Lê Thánh Tông, văn bản pháp luật và các chỉ, dụ, lệnh
hay các tài liệu khác có liên quan đến việc thực hiện chế độ quan lại đều được xây dựng
khá hoàn chỉnh thành một hệ thống, tạo nên tính thống nhất từ trung ương cho đến các địa
phương. Ngay từ khi lên ngôi, vua Lê Thánh Tông đã nhận thức rõ, việc xây dựng đồng bộ
và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quản lý đội ngũ cán bộ, công chức nói chung
và đánh giá cán bộ, công chức nói riêng là công việc quan trọng và cần kíp, phải thực hiện
càng sớm càng tốt.
Theo kinh nghiệm đó, ngày nay, trước hạn chế về sự thiếu đồng bộ và thống nhất
của hệ thống văn bản pháp luật của nước ta, cần có những biện pháp kịp thời nhằm xây
dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật. Bởi chỉ có hoàn thiện hệ thống văn
bản pháp luật – khung hành lang pháp lý tối quan trọng, tối cần thiết của Nhà nước mới có
tiền đề để xây dựng và hoàn thiện những chính sách khác, đặt biệt là những chính sách liên
quan đến quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay. Việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật, chính sách về quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức là hoạt
động quan trọng, tạo nền tảng vững chắc cho việc đảm bảo việc quản lý cán bộ, công chức
nói chung và kiểm tra, đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng trở nên nghiêm ngặt,
chặt chẽ hơn bao giờ hết. Mọi công việc đều phải thực hiện dựa trên cơ sở quy định pháp
104
luật trong đó có hoạt động kiểm tra, đánh giá cán bộ, công chức, do đó thúc đẩy tính hiệu
lực của hệ thống pháp luật và chính sách đã ban hành. Bên cạnh đó, khi pháp luật đảm bảo
hiệu lực thi hành sẽ mang lại tính hiệu quả cao trong quá trình thực hiện, góp phần gây
dựng một đội ngũ cán bộ, công chức chất lượng, vững mạnh cho bộ máy nhà nước.
3.2.3. Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy thực hiện công tác đánh giá cán bộ,
công chức hoạt động độc lập
Dưới thời vua Lê Thánh Tông, khi bắt tay thực hiện công cuộc cải cách hành chính
nhà nước, công việc đầu tiên và quan trọng nhất cần thực hiện là cải tổ bộ máy hành chính
nhà nước. Khi hoàn thiện lại tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, vua Lê Thánh Tông đã
chú trọng xây dựng bộ máy kiểm tra, giám sát bao quát toàn bộ hệ thống nhà nước và các
cấp hành chính. Để thực hiện việc kiểm tra, giám sát công việc của Lục bộ, nhà vua cho lập
ra Lục khoa và Ngự Sử đài. Cũng từ thời vua Lê Thánh Tông cơ chế kiểm tra, giám sát
được thực hiện bởi Hiến sát sứ ty: Hiến sát điều tra và đàn hặc những việc làm trái phép,
xét duyệt công trạng các quan lại trong địa hạt mình quản lý. Quan lại ở địa phương còn bị
giám sát bởi chính quan cấp trên trực tiếp.
Song song với việc hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước thực hiện kiểm tra, giám
sát đội ngũ quan lại, vua Lê Thánh Tông cũng trao quyền cho các cơ quan và chức quan
thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát. Ví dụ như, quan Ngự sử được giao các chức năng,
nhiệm vụ như:
- Can gián nhà vua, kiểm tra, giám sát việc làm của đội ngũ quan lại;
- Xem xét việc xét xử các vụ án;
- Kiểm tra, giám sát việc tuyển chọn, đánh giá đội ngũ quan lại;
- Kiểm tra, giám sát các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình.
Cơ chế kiểm tra, giám sát được thực hiện độc lập nhưng có sự phối hợp thống nhất
theo quy định pháp luật đã đề ra. Các quan khoa, đài không trực thuộc người đứng đầu cơ
quan mà họ được giao tiến hành kiểm tra, giám sát. Các quan thanh tra làm việc một cách
độc lập, không phụ thuộc vào các đối tượng chịu sự giám sát của họ. Thay vào đó, các quan
thanh tra chỉ phải chịu trách nhiệm trước nhà vua – nếu lời hặc tâu của họ không đúng sự
thật thì chỉ vua mới có quyền đưa ra phán xét. Mỗi cơ quan thực hiện kiểm tra, giám sát
105
đều hoạt động độc lập, không chịu bất cứ một sức ép nào, kể cả trong quá trình điều tra, xét
xử và trong quá trình khảo khoá quan lại.
Như vậy, khi thực hiện cải cách cho Đại Việt bấy giờ, vua Lê Thánh Tông không
những quan tâm đến việc tổ chức và sắp xếp lại tổ chức bộ máy cho hoàn chỉnh mà còn chú
ý đến việc phân công rõ chức năng, nhiệm vụ đối với từng vị trí của các quan; tạo nên một
hệ thống bộ máy thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát độc lập, tính chuyên quyền cao,
góp phần xây dựng một bộ máy nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương.
Thực tế hiện nay thấy rõ sự phụ thuộc của các cơ quan thanh tra nhà nước vào các
cơ quan quản lý nhà nước các cấp về cả nhân sự, tổ chức, kinh phí, chương trình, kế hoạch
thanh tra cũng như xử lý kết quả thanh tra. Điều này ảnh hưởng lớn đến tính độc lập và chủ
động trong hoạt động thanh tra giữa các cơ quan.
Bằng kinh nghiệm cải cách từ thời Lê Thánh Tông, việc thực hiện cải cách hành
chính nhà nước ta cần chú trọng hơn nữa vào nội dung cải cách tổ chức bộ máy hành chính
nhà nước, nhất là bộ máy thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát ở nước ta hiện tại. Dưới
thời Lê Thánh Tông, bộ máy kiểm tra, giám sát không là bộ phận hợp thành bên trong của
hệ thống quyền lực đang cần phải kiểm tra, giám sát mà nó đứng bên ngoài để kiểm tra,
giám sát. Vì thế, bộ máy kiểm tra, giám sát có khả năng kiểm tra, giám sát được toàn bộ hệ
thống quyền lực nhà nước. Bộ máy thực hiện hoạt động kiểm tra, thanh tra cũng cần được
phân cấp, phân quyền rõ ràng; tạo cơ chế phối hợp thống nhất giữa các cơ quan kiểm tra,
giám sát, có như vậy mới có thể kiểm tra, đánh giá có hiệu lực, hiệu quả được.
3.2.4. Coi trọng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra,
đánh giá
Để đánh giá đội ngũ quan lại các cấp dưới thời phong kiến, đội ngũ quan lại làm
công tác khảo thí, khảo khóa được tuyển chọn rất kỹ càng. Vua Lê Thánh Tông không chỉ
quan tâm đến chất lượng đội ngũ quan lại các cấp mà còn đặc biệt chú trọng đến chất lượng
đội ngũ quan lại thực hiện công tác kiểm tra, đánh giá từ trung ương đến địa phương, đó là
các quan Ngự sử. Tiêu chuẩn để các ông tuyển chọn vào các chức quan Ngự sử thường cao
hơn các chức quan khác. Các quan Ngự sử giữ “phong hoá, pháp độ, chức danh rất trọng”
nên đều được tuyển dụng trong số các quan có tiếng là tài giỏi, chính trực, thanh liêm. Thời
vua Lê Thánh Tông các quan Ngự sử phải là những quan lại đã giữ chức đủ 4 lần khảo khoá
106
(nghĩa là đã làm quan được 12 năm). Chức quan Đô ngự sử thời đó có phẩm trật và bổng
lộc cao, đứng hàng thứ ba, chỉ sau chức Tam thái và Tam thiếu [9; tr27].
Việc trải qua khoa cử và đứng trong hàng ngũ quan lại của triều đình dưới thời Lê
sơ đã khó rồi, để trở thành người nắm quyền khảo hạch quan viên dưới quyền của mình lại
càng khó hơn khi quan Ngự sử phải trải qua ít nhất 4 lần khảo khóa – kinh nghiệm làm
quan ít nhất 12 năm trong triều đình. Bằng việc quy định về thời gian làm việc, trình độ và
phẩm hạnh của quan lại qua 4 lần khảo khóa, vua Lê Thánh Tông có thể chắc chắn lựa chọn
được viên quan Ngự sử đầy đủ kinh nghiệm quan trường, đủ đức đủ tài để kiểm tra, đánh
giá quan viên dưới quyền một cách khách quan, chính xác và công tâm nhất.
Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, đánh giá ở nước
ta hiện nay có trình độ hiểu biết pháp luật để vận dụng trong thực tiễn còn hạn chế, trình độ
chuyên môn giữa những người thực hiện cùng một nhiệm vụ chưa đồng đều, năng lực thực
hiện công việc còn nhiều lúng túng, chưa khoa học,… Có những người tuổi đời còn rất trẻ
đã tham gia vào đội ngũ công chức thực hiện chức năng kiểm tra, đánh giá các cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác khiến cho công tác tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế, do hiểu biết
của nhiều công chức trẻ còn hạn hẹp, chưa được tiếp xúc nhiều với thực tiễn cuộc sống,…
Do đó, cần phải học hỏi những kinh nghiệm từ việc lựa chọn đội ngũ quan lại có kinh
nghiệm làm việc, đủ đức đủ tài trở thành người chịu trách nhiệm thi hành lệ khảo thí, khảo
khóa đối với các quan viên khác trong lịch sử cải cách của Lê Thánh Tông. Trong quá trình
xây dựng chính sách quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức ngày nay, cần coi trọng
hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, đánh giá. Có như vậy
mới có thể xây dựng đồng bộ đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng, góp phần xây dựng
một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh.
3.2.5. Xác định rõ mục tiêu, đối tượng, kỳ hạn và biện pháp thực hiện đánh giá
cán bộ, công chức
Ngay từ những ngày đầu nắm quyền, vua Lê Thánh Tông đã xác định rõ việc đánh
giá đội ngũ quan lại trong triều đình là một trong những việc cần kíp phải thực hiện càng
sớm càng tốt. Do đó, ông chú trọng hoàn thiện những quy định cụ thể liên quan đến việc
thực hiện kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại thông qua các kỳ khảo thí và khảo khóa. Theo
đó, ông xác định rõ mục tiêu của việc thực hiện khảo thí, khảo khóa (làm cơ sở để thực hiện
107
các chính sách khác đối với quan lại và nâng cao ý thức đạo đức cho đội ngũ quan lại); đối
tượng thực hiện khảo thí, khảo khóa là toàn bộ quan lại trong triều đình; quy định cụ thể về
kỳ hạn khảo thí, khảo khóa (3 năm một lần), nếu ai đủ 3 năm công tác mà không khai báo
cụ thể để tham gia khảo thí, khảo khóa sẽ bị phạt; tiêu chí và cách thức thực hiện kiểm tra,
đánh giá thông qua khảo thí, khảo khóa cũng được vua Lê Thánh Tông ban hành tỉ mỉ. Việc
xác định rõ mục tiêu, đối tượng, kỳ hạn và biện pháp thực hiện kiểm tra, đánh giá đội ngũ
quan lại ngay từ đầu giúp định hướng rõ hơn các công việc cần làm sau đó cho công tác
đánh giá, như là: việc triển khai thực hiện các kỳ khảo thí, khảo khóa cần được tổ chức như
thế nào; nội dung những tiêu chí đánh giá là gì; ai là người trực tiếp tiến hành đánh giá,…
Đồng thời, thông qua những mục tiêu, kỳ hạn và cách thực hiện khảo thí, khảo khóa được
công khai rộng rãi, đội ngũ quan lại triều đình có thêm động lực để rèn luyện bản thân, thúc
đẩy cùng phát triển lẫn nhau.
Học hỏi kinh nghiệm từ việc thực hiện khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh
Tông, ngày nay để làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, cần xác định rõ mục tiêu đánh giá là gì; việc đánh giá nhằm mục đích có liên quan
đến chất lượng cán bộ, công chức như thế nào để việc thực hiện đánh giá mang lại hiệu quả
hơn. Bên cạnh đó, xem xét những đối tượng đang được thực hiện đánh giá hàng năm hiện
nay đã đầy đủ và có cần thiết đánh giá hay không. Đồng thời cân nhắc lại kỳ hạn đánh giá
cán bộ, công chức; có chăng nên thử nghiệm kỳ hạn 3 năm đánh giá một lần thay vì đánh
giá hàng năm như hiện nay. Bởi 3 năm là khoảng thời gian không ngắn nhưng cũng đủ dài
để dễ dàng nhận xét và đánh giá xác đáng năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công
chức xem họ có thực sự cố gắng trau dồi và vươn lên sau một quá trình làm việc và học tập
hay không. Khi được hỏi về việc học hỏi kinh nghiệm thời Lê sơ tổ chức đánh giá cán bộ,
công chức hiện nay theo kỳ hạn 3 năm, có 75,92% người được hỏi cho rằng nên học hỏi
việc tổ chức đánh giá 3 năm một lần hơn là việc giữ nguyên kỳ hạn đánh giá như hàng năm
hiện nay; đồng thời việc tổ chức đánh giá trình độ năng lực cũng nên được tổ chức thường
xuyên với niên hạn 3 năm một lần như kỳ khảo thí đã được thực hiện tại thời Lê sơ với
734,08% người được hỏi cho rằng đó là công việc cần thiết thực hiện.
Như vậy, việc xác định rõ mục tiêu, đối tượng, kỳ hạn và biện pháp tiến hành đánh
giá cán bộ, công chức góp phần định hướng cụ thể và chi tiết đích đến phải đạt được, và
108
hướng đi sao cho đúng. Chỉ khi có định hướng đúng đắn và kế hoạch thực hiện cụ thể thì
việc đánh giá mới được triển khai hiệu quả, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
trong bộ máy nhà nước.
3.2.6. Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá rõ ràng, cụ thể; dễ đo lường, kiểm
chứng
Vua Lê Thánh Tông không chỉ quan tâm đến việc đánh giá đội ngũ quan lại dựa trên
trình độ kiến thức, khả năng làm việc mà còn đặc biệt chú trọng đến phẩm chất đạo đức,
thái độ làm việc và đối xử với nhân dân tại nơi quan viên nắm quyền. Khác với những triều
đại trước đó chỉ tiến hành khảo khóa quan lại dựa trên những bài thi kiến thức, thời Lê
Thánh Tông khảo khóa quan lại dựa trên hai tiêu chí, đó là: thành tích công việc đã đạt
được và có được lòng dân nơi cai quản hay không. Tiêu chí đầu tiên là cơ bản nhất để đánh
giá quan lại là năng lực hoạt động thực tiễn, mức độ hoàn thành và những thành tích đạt
được trong công việc được giao, tức là có hoàn thành nhiệm vụ, công vụ hay không? Có bê
trễ công việc hay để sai sót hay không? Tiêu chí thứ hai được vua Lê Thánh Tông chú trọng
hơn cả; đó là tiêu chí đánh giá về tư cách đạo đức quan lại. Tiêu chí này lấy tư tưởng thương
yêu dân, đức thanh liêm, chính trực trong công việc làm tiêu chuẩn để nhận xét thành tích
quan lại. Tiêu chí đánh giá tài năng, đức độ, sự mẫn cán của quan lại căn cứ vào kết quả
làm việc của các vị quan lại tại nơi nhận chức có duy trì được làng xã trù phú, giữ gìn thuần
phong mỹ tục, có để xảy ra nạn trộm cướp hoành hành, đặc biệt nhân dân có được hưởng
cuộc sống yên vui an lạc… hay không? Cả hai tiêu chí bắt buộc phải thực hiện khảo khóa
đều là những tiêu chí rất rõ ràng, cụ thể, dễ dàng kiểm chứng, xác nhận bằng thực tế, khó
có thể đánh giá sai lệch bởi được phản ánh rất rõ ràng qua sự ổn định và phát triển của vùng
mà quan viên đang cai quản và sự phản hồi từ phía quần chúng nhân dân.
Hiện nay những tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức ở nước ta khó có thể xác thực
và đánh giá chính xác, còn mang tính chất định tính là nhiều, chỉ có tiêu chí về mức độ hoàn
thành công việc là dễ lượng hóa chính xác nhất. Thêm vào đó, ngoài việc đánh giá những
nội dung liên quan đến công việc cần giải quyết trực tiếp hàng ngày của cán bộ, công chức;
cần chú ý đánh giá tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, công chức qua việc chăm sóc đời
sống người dân tại địa phương.
109
28%
72%
Cần thiết Không cần thiết
Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4
Biểu đồ 3.8: Sự cần thiết phải học hỏi việc đánh giá tinh thần trách nhiệm, sự mẫn cán dưới
thời Lê Thánh Tông vào việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay
Biểu đồ 3.8 cùng với kết quả khảo sát xã hội học chỉ ra rằng, có đến 70,42% cán bộ,
công chức được hỏi cho rằng nên thực hiện đánh giá tinh thần trách nhiệm, sự “mẫn cán”
của đội ngũ cán bộ, công chức căn cứ vào kết quả “chăm sóc” dân chúng của cán bộ, công
chức đó: địa phương quản lý mà làng xóm trù phú, thuần phong mỹ tục được duy trì, nạn
trộm cắp không hoành hành, nhân dân được hưởng cuộc sống yên vui, an lạc… thì được
đánh giá là thanh liêm, quan tâm chăm sóc nhân dân. Do vậy, cần học hỏi thêm kinh nghiệm
từ việc thực hiện lệ khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông, đưa ra những tiêu chí đánh giá cụ
thể và rõ ràng hơn, đồng thời dễ dàng khảo sát lại bằng thực tế. Với cách đánh giá cán bộ,
công chức hàng năm bằng hệ thống các tiêu chí được quy định trong Luật Cán bộ, công
chức năm 2008, có thể ban hành Nghị định hướng dẫn thực hiện việc đánh giá với những
quy định cụ thể hơn, dễ xác thực và lượng hóa hơn trong nội hàm từng tiêu chí để việc đánh
giá được thực hiện chính xác và xác thực, góp phần đánh giá đúng năng lực, trình độ và
thái độ làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay; nâng cao hiệu quả quản lý đội
ngũ cán bộ, công chức.
110
3.2.7. Xử lý và sử dụng hiệu quả kết quả đánh giá cán bộ, công chức
Vua Lê Thánh Tông đã xây dựng một hệ thống quan chế nghiêm minh và cụ thể,
trong đó chỉ rõ việc đánh giá đội ngũ quan lại triều đình và xếp thành 3 bậc khác nhau. Dựa
trên cơ sở các bậc quan lại được xếp loại sau đánh giá, ông áp dụng các chính sách quan lại
bằng cách thực hiện việc thăng thưởng hay giáng chức quan lại đó, luân chuyển, giản thải
hoặc bổ nhiệm vị trí cho phù hợp với năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức thực tế của
họ. Việc xử lý và sử dụng kết quả đánh giá đội ngũ quan lại dưới triều Lê Thánh Tông trở
thành một mục tiêu, động lực cho đội ngũ quan lại phấn đấu và rèn luyện bản thân ngày
càng hoàn thiện về cả đức và tài của mỗi quan viên.
Không cần thiết
Cần thiết
Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4
Biểu đồ 3.9: Sự cần thiết sử dụng kết quả đánh giá cán bộ, công chức làm cơ sở thực hiện
các chế độ, chính sách khác đối với cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay
Tiếp thu có chọn lọc việc xử lý và sử dụng kết quả đánh giá đội ngũ quan lại dưới
thời Lê sơ, việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay cần đưa ra kết quả chính xác, khách
quan, công bằng để sử dụng làm cơ sở để thực hiện các chế độ, chính sách khác đối với cán
bộ, công chức trong quá trình quản lý. Trong khi thực hiện điều tra khảo sát, phiếu điều tra
có hỏi: “Thời Lê Thánh Tông dựa vào kết quả của các kỳ khảo thí, khảo khóa để xác định,
thực hiện việc thăng, giáng và thưởng phạt đối với đội ngũ quan lại trong triều. Theo
111
Anh/Chị, kết quả đánh giá cán bộ, công chức hiện nay có cần được sử dụng làm cơ sở để
thực hiện các chế độ sử dụng cán bộ, công chức khác hay không?”. Có đến 310 trong tổng
số 382 người được hỏi đồng ý với quan điểm: “Rất cần thiết, phải sử dụng kết quả đánh giá
cán bộ, công chức làm cơ sở cho việc thăng giáng và thưởng phạt cán bộ công chức mới
đem lại công bằng, hiệu quả”. Với khoảng 81% số người được hỏi đồng ý với việc sử dụng
kết quả của kỳ kiểm tra, đánh giá vào việc thực hiện các chế độ chính sách khác của cán
bộ, công chức hiện nay; có thể thấy rằng việc học hỏi kinh nghiệm của cha ông ta cho công
tác đánh giá cán bộ, công chức là vô cùng cần thiết.
Thực tế chỉ ra rằng, mặc dù pháp luật đề cập đến việc sử dụng kết quả đánh giá cán
bộ, công chức; song những kết quả đánh giá này chưa được sử dụng hiệu quả trong việc bố
trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp, quy
hoạch, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật và các chính
sách khác. Để xử lý và sử dụng có hiệu quả hơn kết quả đánh giá đội ngũ cán bộ, công
chức; cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, đưa ra những quy
định và hướng dẫn cụ thể cho việc xử lý và sử dụng hiệu quả kết quả đánh giá cán bộ, công
chức. Có như vậy mới tạo được cơ sở pháp luật, hành lang pháp lý thực hiện hoạt động
đánh giá cán bộ, công chức. Từ đó, tạo động lực phấn đấu cho cán bộ, công chức luôn cố
gắng rèn luyện trình độ kiến thức, trau dồi phẩm chất đạo đức, cố gắng hoàn thiện bản thân
để luôn đạt được kết quả tốt nhất sau mỗi kỳ kiểm tra, đánh giá. Chỉ có sử dụng kết quả
đánh giá cán bộ, công chức hiệu quả mới tạo được tiền đề việc đánh giá cán bộ, công chức
được thực hiện thêm phần khách quan, công bằng và hiệu quả hơn.
3.3. Một số kiến nghị cho công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện
nay
3.3.1. Kiến nghị đối với các nghiên cứu tiếp theo
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã trải qua nhiều thăng
trầm, từ những cuộc kháng chiến chống giặc giữ nước, đến những cuộc cải cách, đổi mới
trong lịch sử xây dựng nước nhà,… Tất cả những sự kiện lịch sử ấy đều là những nguồn tư
liệu sinh động chứa đựng những bài học, kinh nghiệm về công cuộc dựng nước và giữ nước
của cả dân tộc. Nguồn tư liệu ấy cần được truyền bá, giáo dục cho thế hệ trẻ hôm nay để họ
tự hào với những chiến thắng oanh liệt của dân tộc ta; đồng thời nhắc nhở họ luôn nêu cao
112
ý thức cảnh giác cách mạng, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Những
tư liệu này cần được tiếp tục nghiên cứu giúp chúng ta hiểu rõ những giá trị lịch sử mà cha
ông ta đã để lại, để từ đó rút ra những giá trị, những bài học quý báu có thể vận dụng vào
thực tiễn, đặc biệt trong quá trình quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay.
Luận văn “Lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông và bài học kinh
nghiệm cho đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay” đã tập trung tìm hiểu và
đánh giá việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông nhằm kiểm
tra, đánh giá đội ngũ quan lại từ trung ương đến địa phương và khẳng định đó là một bài
học quý giá, vượt qua những khác biệt về thời đại làm nền tảng vững chắc cho việc đánh
giá cán bộ, công chức ngày nay. Tuy vậy, đó mới chỉ là một nghiên cứu nhỏ vì việc nghiên
cứu lịch sử hành chính nhằm rút ra kinh nghiệm cho công cuộc cải cách hành chính nói
chung và quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng còn rất nhiều nội dung mà
Luận văn chưa có đủ điều kiện và thời gian để tiếp cận sâu hơn.
Những kinh nghiệm về chính sách sử dụng quan lại, đánh giá đội ngũ quan lại dưới
triều vua Minh Mệnh; về việc kế thừa chính sách sử dụng và đánh giá quan lại của các quốc
gia trong khu vực và trên thế giới;… là những bài học có giá trị trong công cuộc cải cách
việc quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. Đây là những vấn đề rộng mà
trong thời gian tới, cần có thêm nhiều nghiên cứu đi sâu tìm hiểu hơn.
3.3.2. Kiến nghị đối với cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền
Để thực hiện tốt quá trình đánh giá cán bộ, công chức, các cơ quan nhà nước và các
cấp chính quyền cần có những thay đổi nhất định nhằm thực hiện đánh giá cán bộ, công
chức đạt hiệu quả tốt hơn. Có thể tham khảo một vài kiến nghị như sau:
Những kiến nghị về công việc cần thực hiện trước khi đánh giá cán bộ, công
chức
Hoàn thiện hệ thống văn bản quy định, hướng dẫn công tác đánh giá; cụ thể hóa tiêu
chí đánh giá trong đó chú trọng tiêu chuẩn gắn với mô tả công việc, chức danh của từng
cán bộ. Việt Nam là một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với tinh thần thượng tôn
pháp luật, quyền lực của nhà nước là tối cao, tất cả hoạt động đều được pháp luật điều
chỉnh. Hệ thống văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý cho mọi hoạt động diễn trong
trong tất cả các lĩnh vực quản lý và đời sống xã hội. Để thực hiện việc đánh giá cán bộ,
113
công chức có hiệu quả hơn, cần quan tâm đặc biệt hơn nữa đến việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật, nhất là những văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện công tác đánh giá
cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay. Khi xây dựng văn bản về đánh giá cán bộ, công
chức, cần cụ thể hóa những tiêu chí đánh giá bằng hệ thống tiêu chí định lượng gắn với
từng vị trí việc làm để quá trình đánh giá thêm phần xác thực. Có như vậy mới đánh giá
chính xác, lựa chọn được nhân tài đóng góp cho quá trình xây dựng đất nước.
Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh cho mỗi vị trí việc làm. Mặc dù pháp luật
chỉ quy định khung pháp lý chung cho việc đánh giá cán bộ, công chức; song hệ thống các
văn bản hướng dẫn thi hành cần phải cụ thể hóa hệ thống tiêu chí này sao phù hợp với từng
vị trí, chức danh. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi mô hình công vụ từ mô hình
chức nghiệp sang mô hình vị trí việc làm. Dù đề án mới đang được triển khai ở những giai
đoạn đầu tiên, song cần có tầm nhìn xa hơn trong việc đánh giá cán bộ, công chức tương
ứng với từng vị trí việc làm để khi hoàn thiện đề án mô hình vị trí việc làm, không mất thêm
thời gian chờ đợi để xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá.
Những kiến nghị về công việc cần thực hiện trong khi đánh giá cán bộ, công
chức
Thực hiện đánh giá công khai, công bằng, nghiêm minh, chính trực, khách quan, dân
chủ. Việc đánh giá hiện nay vẫn còn tồn tại một số hạn chế về việc nể nang, đánh giá mang
tính hình thức,… Do vậy, trong quá trình thực hiện đánh giá, các cơ quan nhà nước và các
cấp chính quyền địa phương, cần nêu cao tinh thần đánh giá công bằng, nghiêm minh, khách
quan, dân chủ để việc đánh giá mang lại kết quả trung thực, đánh giá đúng người đúng việc.
Coi trọng sự đóng góp của quần chúng nhân dân, lắng nghe phản hồi từ nhân dân.
Nhân dân là những người thường xuyên tiếp xúc với đội ngũ cán bộ, công chức đặc biệt là
đối với chính quyền địa phương. Quần chúng nhân dân sẽ là những chủ thể đưa ra đánh giá
chân thực và khách quan nhất, bởi họ hiểu rõ cán bộ, công chức là “công bộc” của dân, nên
nếu hài lòng hoặc không hài lòng, người dân sẽ phản ánh xác thực nhất về thái độ và cách
giải quyết công việc của cán bộ, công chức đang làm việc trên địa phương. Coi trọng và
lắng nghe những phản hồi từ nhân dân là một trong những nguồn thông tin có thể dùng để
xem xét và đánh giá quá trình công tác của cán bộ, công chức. Chú trọng hơn những đóng
góp từ quần chúng nhân dân giúp đánh giá cán bộ, công chức thêm phần chính xác hơn.
114
Những kiến nghị về công việc cần thực hiện sau khi đánh giá cán bộ, công chức
Sử dụng kết quả đánh giá hiệu quả vào công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức.
Hiện nay mặc dù có quy định về việc sử dụng kết quả đánh giá vào việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm, điều chuyển, khen thưởng, kỷ luật,… đối với cán bộ, công chức ở từng mức độ đạt
được của kết quả đánh giá; tuy vậy các văn bản hướng dẫn lại chưa đưa ra những quy phạm
chung để các cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương thực hiện thống nhất. Mỗi cơ
quan nhà nước và các cấp chính quyền có thể căn cứ vào quy định pháp luật cùng tình hình
thực tế đẻ đề xuất việc sử dụng kết quả đánh giá cán bộ, công chức sao cho đạt hiệu quả
nhất trong việc quản lý nguồn nhân lực.
3.3.3. Kiến nghị đối với đơn vị đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Các đơn vị đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là cái nôi tạo ra đội ngũ cán bộ,
công chức vừa hồng vừa chuyên. Trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng không những chú
trọng đến việc tăng cường kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức
mà còn cần phải quan tâm đến việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp. “Cần, kiệm, liêm, chính”
“chí công vô tư” là những đức tính cần có và vô cùng quan trọng đối với mỗi người cán bộ,
công chức làm việc trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Thái độ làm việc, kỹ năng
giao tiếp và giải quyết công việc,… là những kỹ năng mềm thường được thể hiện tùy theo
cá tính từng người. Song nếu được chú trọng đào tạo, bồi dưỡng có thể xây dựng được một
đội ngũ cán bộ công chức có kỹ năng giao tiếp tốt, giải quyết công việc nhanh chóng và
hiệu quả với thái độ làm việc thăng say, tích cực.
Trong chương trình thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, cần xây dựng
chương trình đan xen giữa lý thuyết về chuyên môn với kỹ năng làm việc, đạo đức nghề
nghiệp để quá trình đào tạo, bồi dưỡng vừa toàn diện vừa không nhàm chán, thu hút được
cán bộ, công chức tích cực tham gia. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cũng nên thực hiện
những biện pháp giảng dạy, hướng dẫn và kiểm tra có sự tích hợp với các phương tiện hiện
đại để cán bộ, công chức không cảm thấy gò bó trong quá trình tiếp thu kiến thức. Việc xây
dựng và ban hành những cơ chế mới, phù hợp với nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công
chức là việc mà các cơ sở đào tạo cần chú trọng xây dựng, nhằm tăng cường hiệu quả đào
tạo, bồi dưỡng hơn nữa, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức lớn mạnh về cả đức
và tài.
115
Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo bồi dưỡng cần đánh giá đúng vai trò, giá trị của môn
học liên quan đến Lịch sử Hành chính nhà nước Việt Nam, nhận thức đúng đắn về những
giá trị tham khảo cho quá trình quản lý cán bộ, công chức nói chung và việc đánh giá đội
ngũ cán bộ, công chức nói riêng từ những bài học trong lịch sử. Do vậy, các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng cần đưa ra chuẩn mực về hệ thống giáo trình, chương trình và phương pháp giảng
dạy phù hợp, trong đó có môn Lịch sử Hành chính Nhà nước Việt Nam; tiến đến xây dựng
hệ thống giáo trình, chương trình và phương pháp giảng dạy về lịch sử hành chính của một
số quốc gia khác trên thế giới, lấy đó làm cơ sở nền tảng cho việc so sánh đối chiếu để rút
ra bài học kinh nghiệm giữa thời xưa và nay, giữa truyền thống và hiện đại, giữa trong nước
và quốc tế.
3.3.4. Kiến nghị đối với cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức ngày nay cần học tập cha ông ta trong lịch sử, phải luôn tự mình
không ngừng học tập, rèn luyện năng lực chuyên môn đạo đức, lối sống cá nhân. Về phẩm
chất cá nhân, phải có phẩm chất đạo đức tốt, thực hiện nhiệm vụ cách mạng một cách trung
thực, không vụ lợi; có lối sống trong sạch, cần cù, sáng tạo, có ý chí vươn lên; có thái độ
cư xử đúng mực và luôn biết phê bình và tự phê bình. Cùng với đó, mỗi cán bộ, công chức
phải nâng cao tinh thần học tập lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần của mỗi người. Đồng thời, vận dụng
những tư tưởng đạo đức đã học tập một cách sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Về trình độ kiến thức, mỗi cán bô, công chức cần phải chủ động
nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng làm việc của bản thân sao cho phù hợp với vị trí việc
làm đang đảm nhiệm, tích cực tham gia vào các khóa học đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến
thức chuyên môn nghiệp vụ. Khi các cơ quan, tổ chức mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng, mỗi
cán bộ, công chức cần chủ động tham gia nếu thấy phù hợp với trình độ chuyên môn, đáp
ứng nhu cầu phát triển con đường chức nghiệp cá nhân. Chủ động, tích cực tham gia đào
tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức
và kỹ năng làm việc cho cán bộ, công chức. Trong công tác tại cơ quan, tổ chức, phải làm
việc và cống hiến hết mình với tinh thần tận tụy, nhiệt tình để xây dựng một tập thể vững
mạnh; phải trung thực, công bằng trong việc đánh giá và tự đánh giá công tác thực hiện; có
thái độ lịch sự, nhã nhặn với đồng nghiệp và cấp trên, cấp dưới. Đối với công chúng và xã
116
hội, phải biết phục vụ nhân dân với thái độ công bằng, tin cậy, không lợi dụng chức quyền
để trục lợi, đề cao giá trị đạo đức, sự hướng thiện của con người, ngăn ngừa, hạn chế sự sa
sút, suy thoái đức.
117
Tiểu kết chương 3:
Từ hệ thống khái niệm về cán bộ, công chức và những nhận thức chung về việc đánh
giá cán bộ, công chức; sau khi đối chiếu với khái niệm quan lại, chế độ quan lại và việc
thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa đội ngũ quan lại, có thể khẳng định rằng cán bộ, công chức
ngày nay chính là quan lại thời xưa, và khái niệm đánh giá cán bộ, công chức ngày nay
tương đương với lệ khảo thí, khảo khóa đội ngũ quan lại thời xưa. Trên cơ sở lý luận đã
đưa ra, Luận văn đã đưa ra thực trạng của việc đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức đang
được thực hiện theo hệ thống pháp luật hiện hành. Từ đó, đối chiếu với việc thực hiện lệ
khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông để đúc rút những bài học kinh nghiệm
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện tại của đất nước.
Thứ nhất, để có thể thực hiện tốt việc đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức – nguồn
nhân lực để xây dựng và phát triển quốc gia, Đảng và Nhà nước cần phải thay đổi và nâng
cao nhận thức hơn nữa về việc đánh giá cán bộ, công chức để định hướng chủ trương, đường
lối và xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, điều chỉnh việc đánh giá cán bộ, công chức.
Thứ hai, cần chú trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy thực
hiện công tác đánh giá cán bộ, công chức và đặc biệt coi trọng chất lượng của đội ngũ trực
tiếp làm công tác đánh giá, bởi họ là những người nhìn nhận và xác định về trình độ kiến
thức và phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức một cách trực tiếp.
Thứ ba, để việc đánh giá trở nên hiệu quả thì những quy định pháp luật liên quan
đến mục tiêu, kỳ hạn, hệ thống tiêu chí đánh giá, xử lý và sử dụng kết quả sau đánh giá cần
nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện để tạo hành lang pháp lý cho việc đánh giá. Pháp luật
có quy định cụ thể, tường tận và nghiêm minh thì mới tạo nền tảng và cơ sở vững chắc cho
việc tổ chức thực hiện hiệu quả.
Từ những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc học hỏi lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời
vua Lê Thánh Tông, Luận văn đã mạnh dạn đưa ra những kiến nghị dưới góc nhìn cá nhân
đối với các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền; các đơn vị đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức và đối với trực tiếp cán bộ, công chức góp phần xây dựng một quá trình đánh
giá hoàn thiện hơn, thúc đẩy sự hình thành và phát triển một hệ thống cán bộ, công chức
vững mạnh.
118
KẾT LUẬN
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng
thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh
không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc
gia làm công việc cần thiết...” Câu nói của nhà giáo Thân Nhân Trung – Tiến sĩ triều Lê
không chỉ có ý nghĩa trong xã hội Lê sơ mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Bởi vậy, việc
lựa chọn và sử dụng nhân tài nhằm tạo ra một đội ngũ quan lại tài năng, đức độ, đảm đương
và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao để phục vụ cho đất nước luôn là mối quan tâm hàng
đầu của Nhà nước trong mọi thời đại.
Lịch sử hành chính nước ta đã chứng minh rằng, chính sách tuyển bổ và sử dụng
quan lại dưới triều Lê sơ, đặc biệt là thời vua Lê Thánh Tông đã có nhiều điểm ưu việt, trở
thành khuôn phép để các triều đại sau đó noi theo. Triều Lê sơ nói chung và vua Lê Thánh
Tông nói riêng đã xây dựng và tổ chức một bộ máy nhà nước vững mạnh, một chính sách
quản lý quan lại chặt chẽ nổi bật là lệ khảo thí, khảo khóa – biện pháp kiểm tra, đánh giá
đội ngũ quan lại, góp phần tạo nên một trật tự điều hành quy củ, một hệ thống quan lại vững
chắc, trở thành “khuôn vàng thước ngọc” cho các đời sau học tập. Những giá trị đó luôn là
cơ sở, nền tảng, là bài học quý giá để các thế hệ sau này rút kinh nghiệm, kế thừa và phát
triển. Với mục đích tập trung nghiên cứu việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới triều
vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) để rút ra những bài học có giá trị trong việc kiểm tra,
đánh giá cán bộ, công chức, Luận văn đã hoàn thành những nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản
sau:
1. Hệ thống hóa các vấn đề chung về chế độ quan lại, lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời
phong kiến ở nước ta, bao gồm:
Thứ nhất, hệ thống hóa các khái niệm “quan lại” và “chế độ quan lại”, đề xuất khái
niệm lại chung nhất như sau: Quan lại là những người làm việc trong bộ máy nhà nước
quân chủ phong kiến, trong đó “quan” là những người có phẩm hàm, tước vị, chức vụ được
tuyển chọn bằng nhiều phương pháp khác nhau như: khoa cử, tiến cử, tập ấm,…; còn “lại”
là những người được tuyển chọn vào làm công việc cụ thể nào đó trong các nha môn từ
triều đình đến cấp huyện để giúp việc cho quan. Khái niệm chế độ quan lại bao gồm một
quy trình từ tổ chức đến thực hiện các quy định về đào tạo, tuyển chọn, sử dụng quan lại
119
mà các triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện nhằm xây dựng một đội ngũ quan lại cho
bộ máy hành chính nhà nước (trong sử dụng lại có phân công, sắp xếp bố trí quan lại; luân
chuyển, giản thải; kiểm tra, giám sát; chế độ đãi ngộ và thưởng, phạt quan lại,…).
Thứ hai, tóm tắt chế độ quan lại và lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời phong kiến ở
Việt Nam. Theo đó, Luận văn đề cập đến các chế độ quan lại như chế độ tuyển dụng, các
chế độ sử dụng quan lại (bao gồm: phân công và sắp xếp, luân chuyển và giản thải, kiểm
tra và giám sát đội ngũ quan lại) trong thời phong kiến. Từ đó tập trung vào chế độ kiểm
tra và giám sát quan lại thông qua lệ khảo thí, khảo khóa. Thông lệ này mặc dù đã được tổ
chức thực hiện từ thời Lý song chưa có quy định rõ ràng nên chưa thực hiện thường xuyên:
Nhà Lý lấy 9 năm làm một khóa, nhà Trần lấy 15 năm một lần xét. Thời hạn này được đánh
giá là “chậm trễ quá”. Đến thời Lê sơ, việc thực hiện chế độ quan lại đã có nhiều chuyển
biến tích cực. Đặc biệt, lệ khảo thí, khảo khóa quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông đã
được xây dựng quy củ, thực hiện nghiêm minh, công bằng và có hiệu quả lớn đối với việc
củng cố bộ máy hành chính nhà nước. Các triều đại về sau lấy chế độ quan lại và lệ khảo
thí, khảo khóa đã ban hành dưới thời Lê Thánh Tông làm nền tảng cho việc xây dựng và áp
dụng các chính sách đối với quan lại, song niên hạn đánh giá mỗi giai đoạn một khác.
Thứ ba, chỉ rõ chính sách quan lại và việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa ở nước
ta có sự học hỏi, kế thừa có chọn lọc từ chế độ quan lại của các triều đại trước trong nước
và nước ngoài, mà điển hình là của Trung Quốc. Chế độ quan lại trong nước ta những ngày
đầu bắt đầu chế độ phong kiến còn nhiều hạn chế và thiếu sót, do các vua quan tập trung
xây dựng và củng cố quân đội bảo vệ đất nước. Càng về sau các triều đại càng chú trọng
đến việc cải cách và thực hiện tốt hơn chế độ quan lại nhằm tạo nền tảng vững chắc để xây
dựng quốc gia hưng thịnh. Bên cạnh việc học hỏi và kế thừa những thành tựu của các triều
đại trong lịch sử phong kiến Đại Việt, chế độ quan lại nước ta còn có sự kế thừa có chọn
lọc chế độ quan lại phong kiến Trung Quốc. Về tổ chức bộ máy quan lại, chế độ tuyển bổ
và sử dụng quan lại đều có những nét khá tương đồng với Trung Quốc hơn 2000 năm lịch
sử phong kiến. Ngự sử đại phu – bộ phận thực hiện chức năng giám sát đã được xây dựng
từ ngay những năm đầu tiên của chế độ phong kiến Trung Quốc, càng về triều đại sau càng
được hoàn thiện hơn. Việc thực hiện kiểm tra, đánh giá quan lại dưới thời Tống ở Trung
Quốc khoảng những năm đầu thế kỷ XII cũng diễn ra 3 năm một lần, đánh giá quan lại dựa
120
trên việc thực hiện một bài thi và hiệu quả hoạt động thực tế của mỗi quan viên. Trên cơ sở
kết quả đánh giá quan lại, nhà Tống thực hiện việc thăng giáng chức quan phù hợp; khen
thưởng hoặc trừng phạt quan viên nghiêm khắc bằng hình thức tự thôi việc hoặc buộc thôi
việc; bổ nhiệm vị trí quản lý tương xứng với năng lực và phẩm chất đạo đức quan lại,…
Đây là một chế độ kiểm tra, giám sát quan lại khá hoàn thiện, được phong kiến Việt Nam
tiếp thu có sáng tạo và vận dụng linh hoạt vào điều kiện thực tế.
2. Tìm hiểu về lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497), và
Luận văn khẳng định chế độ kiểm tra, đánh giá quan lại dưới thời Lê Thánh Tông là một
chế độ tương đối hoàn chỉnh, vừa tạo động lực cho quan lại phấn đấu, vừa thúc đẩy sự cạnh
tranh minh bạch trong quan trường. Với bối cảnh lịch sử đầy khủng hoảng, triều Lê sơ được
thiết lập từ một cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài 10 năm. Nhưng ngay từ những ngày đầu
thành lập, triều Lê sơ đã bắt tay vào khôi phục kinh tế, xây dựng thể chế, bộ máy nhà nước,
tạo nền tảng cho sự phát triển rực rỡ của một triều đại suốt 100 năm tồn tại của thời Lê sơ.
Để trở thành một triều đại hưng thịnh nhất suốt 1000 năm lịch sử phong kiến Việt Nam,
cuộc cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông đã được triển khai thực hiện khá
thành công. Cải cách tập trung vào việc xây dựng và tổ chức lại hệ thống tổ chức bộ máy
nhà nước và chú trọng cải cách chế độ quan lại. Điểm sáng trong quá trình cải cách của vua
Lê Thánh Tông là việc ban hành lệ khảo thí, khảo khóa – chính sách đánh giá đội ngũ quan
lại khá hoàn chỉnh so với các triều đại trước đó.
Theo đó, lệ khảo thí, khảo khóa được thực hiện nhằm 2 mục đích chính, đó là: làm
cơ sở thực hiện các chế độ sử dụng quan lại và góp phần nâng cao ý thức đạo đức của đội
ngũ quan lại trong triều. Tất cả quan lại trong triều đình đều phải tham gia thực hiện các kỳ
khảo thí, khảo khóa khi đã đủ thời gian làm việc là 3 năm. Với kỳ hạn thực hiện khảo thí 3
năm một lần, khảo khóa thực hiện theo 3 kỳ: 3 năm sơ khảo, 6 năm tái khảo và 9 năm thông
khảo; nội dung các kỳ khảo thí, khảo khóa được quy định rõ ràng. Với kỳ khảo thí, quan
văn thì giải kinh nghĩa, làm thơ phú, viết kế sách trị nước an dân; quan võ thì thi dàn trận,
bắn cung, võ nghệ, đua ngựa, đua thuyền, dàn quân, chiến thuật. Kỳ khảo khóa chú trọng
đánh giá 2 nội dung là thành tích công việc đã đạt được và được lòng dân nơi cai quản hay
không; nghĩa là đánh giá toàn diện về cả trình độ, kiến thức, kỹ năng của quan lại để xử lý
công việc được giao và tư cách, phẩm chất đạo đức khi làm quan. Lệ khảo thí, khảo khóa
121
ban hành kèm theo việc quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân thực hiện
kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại và việc xử lý, sử dụng kết quả đánh giá quan lại trong
việc thực hiện các chính sách khác đối với quan lại. Từ những nội dung trên, Luận văn đưa
ra những đánh giá khách quan về việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê
Thánh Tông, có sự đối chiếu với những triều đại khác trong lịch sử phong kiến để thấy
được sự hoàn thiện của chính sách được ban hành dưới triều Lê Thánh Tông.
3. Luận văn đã phân tích, đánh giá việc kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại dưới triều
Lê Thánh Tông trong mối liên hệ chặt chẽ với việc đánh giá cán bộ, công chức ngày nay.
Trên cơ sở tìm hiểu về cán bộ, công chức và việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam
hiện nay qua tư tưởng của Đảng cùng pháp luật của Nhà nước, Luận văn đánh giá khách
quan thực trạng của việc đánh giá cán bộ, công chức đang được thực hiện. Từ những kết
quả đạt được và hạn chế còn tồn tại trong công tác đánh giá cán bộ, công chức, Luận văn
gợi mở những bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo đúc rút từ lệ khảo thí, khảo khóa
dưới thời vua Lê Thánh Tông làm cơ sở khoa học cho việc đánh giá cán bộ, công chức hiện
nay ở Việt Nam; định hướng cho việc tiếp thu, kế thừa giá trị lịch sử hành chính một cách
có chọn lọc và khách quan nhất. Để những bài học, những giá trị tham khảo ấy phục vụ cho
nhiệm vụ đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức; có thể ứng dụng vào thực tiễn góp phần nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay; Luận văn cũng đưa ra những kiến nghị
đối với các cơ quan, tổ chức thực hiện đánh giá; các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức và cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước.
122
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
STT Tên công trình nghiên cứu Tạp chí đăng tải
Khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông và Tạp chí Khoa học thời đại
1 bài học kinh nghiệm cho đánh giá cán bộ, công chức Bình Phước số 47, 2019, tr50-
ở Việt Nam hiện nay 53.
123
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
1. Phạm Đức Anh (2014), Biến đổi của Mô hình tổ chức nhà nước ở Việt Nam (thế kỷ
X – XIX), Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia – Trường Đại học Khoa học Xã hội
& Nhân văn;
2. Dương Duy Bằng (2009), “Mấy đặc điểm của quan chế Trung Quốc thời phong
kiến”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (số 5), tr53-64;
3. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập I, Nxb Sử học, Hà Nội;
4. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập, II, Nxb Sử học, Hà
Nội;
5. Đại Việt sử ký toàn thư (1998), tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
6. Đại Việt sử ký toàn thư (1998), tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội;
8. Lê Quý Đôn (1978), Đại Việt thông sử, Bản dịch của Viện Sử học trong Lê Quý Đôn
toàn tập, tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
9. Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn phối hợp với Trường Đại học Sư phạm, Viện
sử học, Viện Triết học, Viên Nghiên cứu nhà nước và pháp luật (1997), Lê Thánh Tông,
con người và sự nghiệp, Hội thảo Khoa học, Nxb Tư pháp;
10. Nguyễn Thị Thu Hòa (2018), Chế độ quan lại triều Lê sơ (1428 – 1527) và những
giá trị tham khảo cho cải cách chế độ công vụ, công chức ở Viêt Nam hiện nay, Luận án
Tiễn sĩ Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội;
11. Nguyễn Thị Thu Hòa (2015), “Khảo thí, khảo khóa thời Lê và việc thực hiện đánh
giá năng lực, đạo đức cán bộ, công chức ngày nay”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, (số 236),
tr21-25;
12. Nguyễn Thị Thu Hòa (2010), Những bài học quản lý hành chính nhà nước Việt Nam
trong lịch sử, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp khoa, Khoa Hành chính học – Học viện Hành
chính;
13. Phạm Văn Hảo (2008), Sổ tay từ ngữ lịch sử - Quan chế, Nxb Khoa học xã hội;
124
14.
Thái Hoàng, Bùi Quý Lộ (1995), “Thanh tra, giám sát và khảo xét quan lại thời
phong kiến ở nước ta”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (số 6), tr26-31;
15. https://www.facebook.com/TimHieuVeChienTranhVietNamVietNamWar/posts/12
97279893676260/. Truy cập ngày 06/02/2020;
16. http://tcnn.vn/news/detail/38987/Tuyen_dung_su_dung_quan_lai_thoi_phong_kie
n_Viet_Nam_va_mot_so_goi_moall.html. Truy cập ngày 08/02/2020;
17. TS. Nguyễn Thị Việt Hương (2008), “Kinh nghiệm xây dựng và sử dụng đội ngũ
quan lại trong nền hành chính Việt Nam thời kỳ phong kiến”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, (số 11), tr19-27;
18. Bùi Huy Khiên (2011), Những bài học từ hai cuộc cải cách hành chính dưới triều
Vua Lê Thánh Tông và Vua Minh Mệnh, NXB Lao động, Hà Nội;
19. Bùi Huy Khiên (2015), “Từ lệ khảo khóa quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông suy
nghĩ về công tác đánh giá cán bộ công chức”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (số 5), tr37-40;
20. Bùi Huy Khiên (2004), “Tuyển chọn, kiểm tra, giám sát công chức dưới triều Lê
Thánh Tông”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 3), tr11-17;
Lê Triều quan chế, (1977), Viện sử học và Nhà xuất bản văn hóa thông tin; 21.
Phan Ngọc Liên (2007), Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nxb Đại học Quốc 22.
gia, Hà Nội;
23. Bùi Quý Lộ (1995), “Phép khảo khóa của nhà nước phong kiến Đại Việt”, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, (số 12), tr12-17;
24. Nguyễn Thanh Lương (2008), “Từ cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông suy
nghĩ về cải cách hành chính nước ta hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (số 5), tr46-50;
25. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các
cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
26. Đặng Kim Ngọc (1997), Chế độ đào tạo và tuyển dụng quan chức thời Lê (1428 –
1527), Luận án PGS khoa học lịch sử, L6341 Thư viện Quốc gia, Hà Nội;
27. Nguyễn Quang Ngọc (2006), Tiến trình Lịch sử Việt Nam (Chương IV: Việt Nam
thế kỷ XV), Nxb Giáo dục, Hà Nội;
125
28. Nguyễn Ngọc Nhuận (2006), Một số văn bản điển chế và pháp luật Việt Nam, tập 1
(từ TK XV đến XVIII), Nxb KHXH, Hà Nội;
29. Hoàng Phê (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng;
30. Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn (2011), Lịch sử Việt Nam – từ nguồn gốc đến
năm 1884, NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh;
31. Hoàng Thị Kim Quế (2013), Quan chế dưới triều vua Lê Thánh Tông và giá trị kế
thừa trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN, Tập 29, số 2, tr28-34;
32. Lê Minh Quốc (2010), Những nhà cải cách Việt Nam, NXB Trẻ, Hà Nội;
33. Quốc triều hình luật (1991), Nxb Pháp lý, Hà Nội;
34. Quy định số 89-QĐ/TW ngày 04 tháng 8 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng về Khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp;
35. Quy định số 90-QĐ/TW ngày 04 tháng 8 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng về Tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý;
36. Trương Hữu Quýnh (2009), Chế độ ruộng đất và một số vấn đề lịch sử Việt Nam,
Nxb Thế giới, Hà Nội;
37. Văn Tạo (2000), Mười cuộc cải cách đổi mới trong lịch sử Việt Nam, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội;
38. Văn Tạo (2008), Sử học với hiện thực xã hội và cải cách đổi mới, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
39. Lê Đức Tiết (1997), Lê Thánh Tông – vị vua anh minh nhà các tân xuất sắc, NXB
Quân đội nhân dân, Hà Nội;
40. Nguyễn Phú Trọng – Trần Xuân Sầm (2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
41. Võ Văn Tuyển, Nguyễn Thị Thu Hòa (2014), Tổng quan về lịch sử hành chính nhà
nước Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
42. Từ điển bách khoa Việt Nam tập 2 (2002), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội;
126
43. Nguyễn Hoài Văn (2013), “Kinh nghiệm sử dụng người tài, xây dựng đội ngũ quan
lại thời Lê Thánh Tông”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (số 5), tr mấy;
44. Nguyễn Hoài Văn (2012), Chính sách đào tạo sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông
và công tác cán bộ hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội;
45. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa – thông tin.
Tài liệu nước ngoài
46. 祝丰年 (2007), 宋代官吏制度(Chế độ quan lại đời nhà Tống),北京: 中国社会
Các văn bản quy phạm pháp luật
47. Luật Cán bộ, công chức (2008) – Luật số 22/2008/QH12 ngày 13 tháng 11 năm 2008
do Quốc hội ban hành;
48. Pháp lệnh Cán bộ, Công chức (1998) – Pháp lệnh số 2-L/CTN của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội;
49. Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 (2003);
50. Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính Phủ về đánh giá
và phân loại cán bộ, công chức, viên chức;
51. Nghị định số 88/2017/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2017 của Chính Phủ về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của chính
phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức;
52. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức
(2019) – Luật số 52/2019/QH14 ngày 25 tháng 11 năm 2019 do Quốc hội ban bành;
1
PHỤ LỤC 1
MẪU PHIẾU KHẢO SÁT VỀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ VIỆC
THỰC HIỆN LỆ KHẢO THÍ, KHẢO KHÓA THỜI LÊ THÁNH TÔNG
Để trả lời câu hỏi, đề nghị Anh/Chị vui lòng đánh dấu vào ô tương ứng với câu
trả lời mà ông bà cho là đúng nhất.
I. Thực trạng việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay
Câu 1: Cơ quan Anh/Chị đã và đang công tác?
B – Cơ quan địa phương cấp tỉnh A – Cơ quan Trung ương
C – Cơ quan địa phương cấp huyện D – Cơ quan cấp xã
Câu 2: Ngạch Anh/Chị đã và đang đảm nhiệm?
A – Chuyên viên cao cấp C – Chuyên viên
B – Chuyên viên chính D – Cán sự/ Nhân viên
Câu 3: Theo Anh/Chị, việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay:
A – Rất công bằng, khách quan
B – Chỉ mang tính hình thức
Câu 4: Theo Anh/Chị, các tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức hiện nay:
A – Phù hợp với năng lực và điều kiện làm việc thực tế của cán bộ công chức, dễ dàng tìm
được người thực tài
B – Không phù hợp, chưa sát với năng lực và thực tế công việc
Câu 5: Theo Anh/Chị, mục đích việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức hiện nay:
A – Rõ ràng, đảm bảo thực hiện đem lại hiệu quả
B – Chưa thực sự rõ ràng, việc đánh giá còn mang tình hình thức nhiều
Câu 6: Theo Anh/Chị, việc bố trí công việc đã phù hợp với chuyên môn, năng lực thực
tế của cán bộ, công chức hiện nay chưa?
A – Phù hợp
B – Chưa phù hợp
2
Câu 7: Theo Anh/Chị, tinh thần và trách nhiệm làm việc của cán bộ, công chức trong
các cơ quan nhà nước hiện nay:
A – Có tinh thần trách nhiệm cao
B – Hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm công vụ là phổ biến
C – Quan liêu, cửa quyền
Câu 8: Cơ quan Anh/Chị có thường xuyên tổ chức đánh giá đạo đức công vụ định kì
đối với cán bộ, công chức không?
A – Thường xuyên
B – Không thường xuyên
Câu 9: Cơ quan Anh/Chị có thường xuyên tổ chức các kỳ thi sát hạch năng lực chuyên
môn đối với cán bộ, công chức không?
A – Thường xuyên
B – Không thường xuyên
II. Những giá trị của lệ khảo thí, khảo khóa thời Lê sơ đối với việc đánh giá
cán bộ, công chức hiện nay
Câu 10: Theo lệ khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông, định kì 3 năm, 6 năm, 9 năm
đều thực hiện kiểm tra, đánh giá trình độ, năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ
công chức. Theo Anh/Chị có nên thực hiện đánh giá cán bộ công chức hiện nay theo
định kì như vậy không?
A – Có
B – Không
Câu 11: Tiêu chí khảo khóa thời Lê Thánh Tông đối với quan lại là đánh giá tinh thần
trách nhiệm, sự mẫn cán của quan lại căn cứ vào kết quả “chăm sóc” dân chúng của
các vị quan đó. Nơi quan lại trị nhậm mà làng xóm trù phú, thuần phong mỹ tục được
duy trì, nạn trộm cắp không hoành hành, nhân dân được hưởng cuộc sống yên vui, an
lạc… thì vị quan đó được đánh giá là thanh liêm, mẫn cán, hết lòng vì dân, có tinh
thần trách nhiệm cao. Theo Anh/Chị, những tiêu chí khảo khóa đó có cần thiết để thực
hiện đối với việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay không?
A – Cần thiết
B – Không cần thiết
3
Câu 12: Các kỳ khảo thí (thi kiểm tra trình độ năng lực) được nhà Lê sơ tổ chức
thường xuyên 3 năm một lần dành cho đội ngũ quan lại trong triều đình và địa
phương. Theo Anh/Chị, việc thường xuyên tổ chức các kỳ kiểm tra trình độ năng lực
có cần thiết đối với cán bộ, công chức hiện nay không?
A – Cần thiết
B – Không cần thiết
Câu 13: Thời Lê Thánh Tông dựa vào kết quả của các kỳ khảo thí, khảo khóa
để xác định, thực hiện việc thăng, giáng và thưởng phạt đối với đội ngũ quan lại trong
triều. Theo Anh/Chị, kết quả đánh giá cán bộ, công chức hiện nay có cần được sử
dụng làm cơ sở để thực hiện các chế độ sử dụng cán bộ, công chức khác hay không?
A – Rất cần thiết, phải sử dụng kết quả đánh giá cán bộ, công chức làm cơ sở cho
việc thăng giáng và thưởng phạt cán bộ công chức mới đem lại công bằng, hiệu quả
B – Không cần thiết
Câu 14: Theo Anh/Chị, những bài học lịch sử mà cha ông ta để lại về cách đánh
giá, kiểm tra năng lực và trình độ đội ngũ quan lại có giá trị với công việc hiện tại của
mình không?
A – Có giá trị
B – Ít giá trị
C – Không có giá trị
Câu 15: Các ý kiến khác của Anh/Chị về những bài học kinh nghiệm từ lệ khảo
thí, khảo khóa đối với quan lại dưới triều Lê sơ đối với việc đánh giá, xem xét đội ngũ
cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
Xin chân thành cảm ơn Anh/Chị đã tham gia khảo sát!
4
PHỤ LỤC 2
Kết quả tổng hợp phiếu khảo sát
Tổng số phiếu phát ra: 400 phiếu
Tổng số phiếu thu về: 387 phiếu
Tổng số phiếu hợp lệ: 382 phiếu
Tổng
Tỷ lệ
STT Nội dung
số
(%)
Cơ quan Anh/Chị đã và đang công tác?
Cơ quan trung ương
A
97
25.06
Cơ quan địa phương cấp tỉnh
B
89
1
23.00
Cơ quan địa phương cấp huyện
C
132
34.10
Cơ quan cấp xã
D
64
17.84
Ngạch Anh/Chị đã và đang đảm nhiệm?
Chuyên viên cao cấp
A
45
11.78
Chuyên viên chính
B
76
2
19.90
Chuyên viên
C
210
54.97
Cán sự/ Nhân viên
D
51
13.35
Theo Anh/Chị, việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay:
A
143
Rất công bằng, khách quan
37.43
3
B
239
Chỉ mang tính hình thức
62.57
Theo Anh/Chị, các tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức hiện nay:
Phù hợp với năng lực và điều kiện làm việc thực tế
A
của cán bộ công chức, dễ dàng tìm được người thực
161
42.15
4
tài
Không phù hợp, chưa sát với năng lực và thực tế
221
B
57.85
công việc
5
Theo Anh/Chị, mục đích việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức hiện nay:
A
Rõ ràng, đảm bảo thực hiện đem lại hiệu quả
103
26.96
5
Chưa thực sự rõ ràng, việc đánh giá còn mang tình
B
284
73.35
hình thức nhiều
Theo Anh/Chị, việc bố trí công việc đã phù hợp với chuyên môn, năng lực
thực tế của cán bộ, công chức hiện nay chưa?
6
A
Phù hợp
184
48.17
B
Chưa phù hợp
198
51.83
Theo Anh/Chị, tinh thần và trách nhiệm làm việc của cán bộ, công chức
trong các cơ quan nhà nước hiện nay:
A
Có tinh thần trách nhiệm cao
84
21.99
7
B
Hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm công vụ là phổ biến
211
55.24
C
Quan liêu, cửa quyền
87
22.77
Cơ quan Anh/Chị có thường xuyên tổ chức đánh giá đạo đức công vụ định kì
đối với cán bộ, công chức không?
8
A
Thường xuyên
290
75.92
B
Không thường xuyên
92
24.08
Cơ quan Anh/Chị có thường xuyên tổ chức các kỳ thi sát hạch năng lực
chuyên môn đối với cán bộ, công chức không?
9
A
Thường xuyên
134
34.08
B
Không thường xuyên
248
65.92
Theo lệ khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông, định kì 3 năm, 6 năm, 9 năm
đều thực hiện kiểm tra, đánh giá trình độ, năng lực và phẩm chất của đội ngũ
cán bộ công chức. Theo Anh/Chị có nên thực hiện đánh giá cán bộ công
10
chức hiện nay theo định kì như vậy không?
290
A
Có
75.92
92
B
Không
24.08
6
Tiêu chí khảo khóa thời Lê Thánh Tông đối với quan lại là đánh giá tinh thần
trách nhiệm, sự mẫn cán của quan lại căn cứ vào kết quả “chăm sóc” dân
chúng của các vị quan đó. Nơi quan lại trị nhậm mà làng xóm trù phú, thuần
phong mỹ tục được duy trì, nạn trộm cắp không hoành hành, nhân dân được
hưởng cuộc sống yên vui, an lạc… thì vị quan đó được đánh giá là thanh
11
liêm, mẫn cán, hết lòng vì dân, có tinh thần trách nhiệm cao. Theo Anh/Chị,
những tiêu chí khảo khóa đó có cần thiết để thực hiện đối với việc đánh giá
cán bộ, công chức hiện nay không?
269
A
Cần thiết
70.42
Không cần thiết
113
B
29.58
Các kỳ khảo thí (thi kiểm tra trình độ năng lực) được nhà Lê sơ tổ chức
thường xuyên 3 năm một lần dành cho đội ngũ quan lại trong triều đình và
địa phương. Theo Anh/Chị, việc thường xuyên tổ chức các kỳ kiểm tra trình
12
độ năng lực có cần thiết đối với cán bộ, công chức hiện nay không?
283
A
Cần thiết
74.08
Không cần thiết
99
B
25.92
Thời Lê Thánh Tông dựa vào kết quả của các kỳ khảo thí, khảo khóa để xác
định, thực hiện việc thăng, giáng và thưởng phạt đối với đội ngũ quan lại
trong triều. Theo Anh/Chị, kết quả đánh giá cán bộ, công chức hiện nay có
cần được sử dụng làm cơ sở để thực hiện các chế độ sử dụng cán bộ, công
chức khác hay không?
13
Rất cần thiết, phải sử dụng kết quả đánh giá cán bộ,
công chức làm cơ sở cho việc thăng giáng và thưởng
310
A
81.15
phạt cán bộ công chức mới đem lại công bằng, hiệu
quả
B
Không cần thiết
72
18.85
7
Theo Anh/Chị, những bài học lịch sử mà cha ông ta để lại về cách đánh giá,
kiểm tra năng lực và trình độ đội ngũ quan lại có giá trị với công việc hiện
tại của mình không?
14
A
Có giá trị
258
67.54
B
Ít giá trị
75
19.63
C
Không có giá trị
49
12.83
Các ý kiến khác của Anh/Chị về những bài học kinh
nghiệm từ lệ khảo thí, khảo khóa đối với quan lại dưới
0
0
15
triều Lê sơ đối với việc đánh giá, xem xét đội ngũ cán bộ,
công chức ở Việt Nam hiện nay:
8
PHỤ LỤC 3
THỐNG KÊ TỔNG SỐ BIÊN CHẾ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC THEO CÁC ĐƠN VỊ
THỰC HIỆN KHẢO SÁT
Đơn vị tính: người
STT Cơ quan/ Tỉnh, Thành phố Tổng số cán bộ, công chức
1 Bộ Khoa học và Công nghệ 455
2 Bộ Nội vụ 429
3 Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thông 518
4 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 502
5 Tỉnh Bắc Giang 7.018
6 Tỉnh Hòa Bình 6.469
7 Tỉnh Lạng Sơn 6.519
8 Tỉnh Thái Nguyên 6.807
9 Văn phòng Chính phủ 670
Tổng số: 29.387