BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THÚY PHƯỢNG

LỆ KHẢO THÍ, KHẢO KHÓA DƯỚI THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG

VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ,

CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

HÀ NỘI - NĂM 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THÚY PHƯỢNG

LỆ KHẢO THÍ, KHẢO KHÓA DƯỚI THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG

VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 8 34 04 03

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Hòa

HÀ NỘI - NĂM 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả trình bày trong

Luận văn là trung thực và được tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc. Những kết quả

nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước đã được tiếp thu một cách chân thực, cẩn trọng, có

trích dẫn nguồn cụ thể trong Luận văn.

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Tác giả Luận văn

Trần Thúy Phượng

LỜI CẢM ƠN

Luận văn là kết quả nghiên cứu của cá nhân, nhưng tôi không thể hoàn thành nếu không

nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô, các nhà khoa học, các nhà quản lý. Tôi xin chân thành

bày tỏ lòng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Thu Hòa đã tận tình chỉ bảo,

dạy dỗ và trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện Luận văn. Xin được cảm ơn các anh chị nhân viên

Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia, Thư viện Quốc gia đã luôn nhiệt tình giúp đỡ, cung

cấp tư liệu và các thông tin hữu ích cho việc thực hiện Luận văn.

Xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa Sau Đại học – Học viện Hành chính Quốc

gia đã tận tình hướng dẫn và tạo điều kiện để tôi hoàn thiện thủ tục, hồ sơ Luận văn. Đặc biệt

tôi xin cảm ơn gia đình – những người thân đã luôn bên tôi, động viên, khích lệ và là chỗ dựa

vững chắc để tôi cố gắng vươn lên hoàn thành Luận văn.

Xin được chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................. 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ....................................................................... 3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 9

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 9

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ............................................................. 11

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của nghiên cứu .................................................................. 14

7. Kết cấu của Luận văn ..................................................................................................... 15

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ QUAN LẠI VÀ LỆ KHẢO THÍ, KHẢO KHÓA THỜI PHONG KIẾN Ở VIỆT NAM .............................................. 16

1.1. Các khái niệm liên quan ............................................................................................ 16

1.1.1. Khái niệm quan lại .................................................................................................... 16

1.1.2. Khái niệm chế độ quan lại ......................................................................................... 18

1.1.3. Lệ khảo thí, khảo khóa .............................................................................................. 19

1.2. Sơ lược về chế độ quan lại và lệ khảo thí, khảo khóa thời phong kiến ở Việt Nam . 21

1.2.1. Sơ lược về chế độ quan lại ........................................................................................ 21

1.2.1.1.Chế độ tuyển chọn quan lại ...................................................................................... 21

1.2.1.2.Chế độ sử dụng quan lại ........................................................................................... 25

1.2.2. Sơ lược về lệ khảo thí, khảo khóa ............................................................................. 32

1.3. Tính kế thừa có chọn lọc của lịch sử hành chính ...................................................... 36

1.3.1. Quy luật của tính kế thừa lịch sử ............................................................................... 36

1.3.2. Học hỏi và kế thừa có chọn lọc chế độ quan lại trong lịch sử .................................. 38

1.3.2.1.Sự kế thừa chế độ quan lại của các triều đại phong kiến Việt Nam ........................ 38

1.3.2.2.Học hỏi kinh nghiệm chế độ quan lại của các triều đại phong kiến Trung Quốc .... 41

Tiểu kết chương 1:.............................................................................................................. 48

CHƯƠNG 2: LỆ KHẢO THÍ, KHẢO KHÓA DƯỚI THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG (1460 – 1497)............................................................................................................................ 49

2.1. Bối cảnh lịch sử và sự cần thiết ban hành lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông ..................................................................................................................................... 49

2.1.1. Bối cảnh lịch sử thời Lê sơ ....................................................................................... 49

2.1.2. Sự cần thiết ban hành lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông .................. 52

2.1.2.1.Xuất phát từ yêu cầu của cuộc cải cách hành chính thời Lê Thánh Tông ............... 52

2.1.2.2 . Xuất phát từ mục đích cải cách đội ngũ quan lại dưới thời Lê Thánh Tông .............. 58

2.2. Nội dung lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông ................................... 60

2.2.1. Mục đích thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa ................................................................ 60

2.2.1.1. Làm cơ sở để thực hiện các chế độ sử dụng quan lại .............................................. 60

2.2.1.2. Nâng cao ý thức đạo đức đội ngũ quan lại triều đình ............................................. 63

2.2.2. Kỳ hạn thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa .................................................................... 64

2.2.3. Tiêu chí thực hiện lệ khảo thí, khỏa khóa .................................................................. 66

2.2.4. Đối tượng thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa ............................................................... 68

2.2.5. Trách nhiệm thi hành lệ khảo thí, khảo khóa ............................................................. 69

2.2.6. Xử lý kết quả sau khảo thí, khảo khóa ....................................................................... 71

2.2.7. Việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông ....................... 72

2.3. Đánh giá thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông ................... 76

Tiểu kết chương 2:.............................................................................................................. 81

CHƯƠNG 3: NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................... 83

3.1. Công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay ......................................... 83

3.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức và việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay ........................................................................................................................................ 83

3.1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức .................................................................................. 83

3.1.1.2. Việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay .......................................... 84

3.1.2. Thực trạng công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay .................... 88

3.1.2.1. Những kết quả đạt được trong công tác đánh giá cán bộ, công chức ..................... 88

3.1.2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong công tác đánh giá cán bộ, công chức .................. 91

3.2. Những giá trị tham khảo từ lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông ....101

3.2.1. Coi trọng việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức, coi đó là hoạt động tối cần thiết để đảm bảo chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ............................................................101

3.2.2. Chú trọng việc xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật đảm bảo việc đánh giá cán bộ, công chức nghiêm ngặt, chặt chẽ, có hiệu lực hiệu quả ..................102

3.2.3. Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy thực hiện công tác đánh giá cán bộ, công chức hoạt động độc lập ...............................................................................................................104

3.2.4. Coi trọng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, đánh giá ..105

3.2.5. Xác định rõ mục tiêu, đối tượng, kỳ hạn và biện pháp thực hiện đánh giá cán bộ, công chức ...........................................................................................................................106

3.2.6. Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá rõ ràng, cụ thể; dễ đo lường, kiểm chứng .....108

3.2.7. Xử lý và sử dụng hiệu quả kết quả đánh giá cán bộ, công chức ..............................110

3.3. Một số kiến nghị cho công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay .....111

3.3.1. Kiến nghị đối với các nghiên cứu tiếp theo .............................................................111

3.3.2. Kiến nghị đối với cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền .....................................112

3.3.3. Kiến nghị đối với đơn vị đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức .............................114

3.3.4. Kiến nghị đối với cán bộ, công chức .......................................................................115

Tiểu kết chương 3:............................................................................................................117

KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 118

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ........................................ 122

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 123

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1: Tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay……………... 93

Biểu đồ 3.2: Tinh thần và trách nhiệm làm việc của cán bộ, công chức ở Việt Nam

hiện nay……………………………………………………………………………….. 94

Biểu đồ 3.3: Việc đánh giá đạo đức công vụ đối với cán bộ, công chức ở Việt Nam

hiện nay……………………………………………………………………………….. 95

Biểu đồ 3.4: Việc tổ chức các kỳ thi sát hạch năng lực chuyên môn dành cho cán bộ,

công chức ở Việt Nam hiện nay………………………………………………………. 95

Biểu đồ 3.5: Việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay…………………. 97

Biểu đồ 3.6: Sự tương đồng giữa việc bố trí công tác và trình độ chuyên môn, năng

lực thực tế của cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay………………………………. 99

Biểu đồ 3.7: Mục đích việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện

nay…………………………………………………………………………………….. 100

Biểu đồ 3.8: Sự cần thiết phải học hỏi việc đánh giá tinh thần trách nhiệm, sự mẫn cán

dưới thời Lê Thánh Tông vào việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay… 109

Biểu đồ 3.9: Sự cần thiết sử dụng kết quả đánh giá cán bộ, công chức làm cơ sở thực

hiện các chế độ, chính sách khác đối với cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay…… 110

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Lịch sử nước ta phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, theo đó mỗi giai đoạn tùy

thuộc vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử, chế độ chính trị, điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau

mà có cách thức quản lý khác nhau. Cho đến đầu thế kỷ XX, lịch sử hành chính nước ta đã

trải qua 10 cuộc cải cách, đổi mới lớn (theo cuốn Mười cuộc cải cách đổi mới trong lịch sử

Việt Nam của tác giả Văn Tạo). Mỗi cuộc cải cách, đổi mới hướng đến một mục tiêu cụ thể

khác nhau, nhưng đều được thực hiện nhằm cải tổ lại cách thức tổ chức và hoạt động của

bộ máy hành chính nhà nước, giúp việc quản lý đất nước được thực hiện hiệu quả hơn.

Nhiều triều đại phong kiến đã nhận thức được vai trò của đội ngũ quan lại đối với sự phát

triển hưng thịnh của đất nước, do vậy các cuộc cải cách, đổi mới gắn liền với cách tân chế

độ quan lại rất được quan tâm, chú trọng.

Triều Lê sơ (1428-1527) là triều đại được đánh giá có nhiều thành tựu trong quá

trình cách tân và phát triển đất nước nhất, được coi là đỉnh cao phát triển của chế độ phong

kiến Việt Nam. Cải cách hành chính được thực hiện toàn diện, mạnh mẽ và thành công nhất

dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497). Trong suốt 38 năm trị vì đất nước, Lê Thánh

Tông đã sửa sang được nhiều việc chính trị, mở mang sự học hành, chỉnh đốn các việc quân

sự, đánh dẹp các quốc gia mở rộng bờ cõi, khiến cho nước Nam bấy giờ văn minh hơn và

lẫy lừng một phương, kể từ xưa đến nay chưa bao giờ cường thịnh như vậy. Lê Thánh Tông

đã tập trung vào việc xây dựng một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền vững chãi,

xây dựng và ban hành Bộ Luật Hồng Đức – bộ luật đầu tiên của Việt Nam có quy định đầy

đủ và chặt chẽ hơn so với Luật lệ của các nước láng giềng thời bấy giờ, đưa Bộ Luật Hồng

Đức trở thành khung pháp lý cho toàn bộ hoạt động của quan lại trong triều cũng như người

dân Đại Việt. Bằng việc kết hợp giữa pháp trị và đức trị, Lê Thánh Tông đã gây dựng và

phát triển đội ngũ quan lại và trọng dụng nhân tài cống hiến cho đất nước, góp phần tạo ra

một trật tự quy củ trong việc quản lý và sử dụng đội ngũ quan lại.

Việc đánh giá nhân tài nói chung và kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại trong triều

nói riêng là một trong những hoạt động được vua Lê nhận thấy vô cùng quan trọng và cần

kíp để đưa Đại Việt trở nên ngày càng thịnh vượng. Chính vì lẽ đó, trong quá trình thực

hiện cải cách hành chính, Lê Thánh Tông đã thực hiện cải cách toàn diện, đồng bộ trên các

2

lĩnh vực, và tập trung nhiều hơn vào cải cách chế độ quan lại, nổi bật lên trong những chính

sách được ban hành và áp dụng đó là lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông.

Thông qua lệ khảo thí, khảo khóa, Lê Thánh Tông muốn đánh giá chính xác năng lực và

phẩm hạnh của đội ngũ quan lại nhằm lựa chọn kẻ sĩ người tài phục vụ cho đất nước; đồng

thời cũng để loại bỏ những người đã làm quan mà không cố gắng nỗ lực hết mình vì dân vì

nước. Bằng việc thể chế hóa các quy định của triều đình, ban hành Bộ Luật Hồng Đức và

các chính sách thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, Lê Thánh Tông đã có một cường quốc

hưng thịnh được các triều đại sau học tập và noi theo. Đó luôn là cơ sở, là nền tảng, là bài

học quý báu để những nhà lãnh đạo hiện nay rút ra bài học trong quá trình xây dựng, cách

tân đổi mới đất nước.

Khổng Tử - nhà tư tưởng lỗi lạc của Trung Quốc thời xưa cho rằng, biết “ôn cố tri

tân” – học hỏi từ lịch sử để mở mang hơn ở hiện tại, thì có thể làm bậc thầy trong thiên hạ.

Nhìn lại và đánh giá những thành tựu và hạn chế đã trải qua trong các giai đoạn lịch sử, rút

ra bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng và phát triển đất nước nói chung, đội ngũ quan

lại nói riêng là một hoạt động có ý nghĩa kế thừa quan trọng khi nghiên cứu về lệ khảo thí,

khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông.

Hiện nay, việc đánh giá cán bộ, công chức ở nước ta được thực hiện đều đặn vào

tháng 12 hàng năm, riêng đối với các cơ sở giáo dục công lập được thực hiện đánh giá công

chức vào thời điểm kết thúc năm học (thường vào ngày 01 tháng 7 hàng năm). Việc đánh

giá cán bộ, công chức nhằm xếp hạng cán bộ, công chức; từ đó tạo cơ sở để bố trí, sử dụng,

đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp, quy hoạch, bổ

nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các chính

sách khác đối với cán bộ, công chức. Nhận thức được vai trò quan trọng của đội ngũ cán

bộ, công chức trong việc xây dựng đất nước, Đảng xác định lấy chất lượng, hiệu quả hoàn

thành nhiệm vụ làm căn cứ chủ yếu để đánh giá cán bộ. Sau Đại hội XII của Đảng, ngày 04

tháng 8 năm 2017 Bộ Chính trị đã ban hành hai quy định: Quy định số 89-QĐ/TW, “Quy

định khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo,

quản lý các cấp”, Quy định số 90-QĐ/TW, “Quy định tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh

giá cán bộ diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý” nhằm định

hướng việc đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Trên cơ sở đó, Chính phủ cũng ban

3

hành hệ thống Nghị định quy định chi tiết hơn về việc đánh giá công chức đang làm việc

trong bộ máy nhà nước. Để thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đã đề ra, cần

kết hợp giữa tri thức khoa học hành chính hiện đại, học tập kinh nghiệm cải cách hành chính

từ lịch sử nước mình và các quốc gia phát triển trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia có

điều kiện hoàn cảnh tương xứng; với tinh hoa truyền thống trong cải cách hành chính của

lịch sử dân tộc, từ đó, xây dựng một nền hành chính vừa hiện đại vừa mang bản sắc riêng.

Đánh giá cán bộ, công chức hiện nay ở nước ta đã đạt được những thành tựu khá tốt,

song cần nhìn lại những quy chuẩn đã được đặt ra dưới thời Lê Thánh Tông để nâng cao

hơn nữa hiệu quả của việc đánh giá. Bằng niềm say mê với lịch sử nước nhà, đặc biệt là

lịch sử cải cách hành chính, với sự quan tâm về việc đánh giá cán bộ, công chức của nước

ta hiện nay, tôi quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời

vua Lê Thánh Tông và bài học kinh nghiệm cho đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam

hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Quản lý công của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Lịch sử hành chính là một trong những đề tài được nhiều nhà khoa học nghiên cứu,

nhằm đúc rút những bài học kinh nghiệm quý giá của ông cha ta trong quá trình cai trị đất

nước. Những bài học này giúp cho việc xây dựng và ban hành hệ thống chính sách, pháp

luật hiện nay được tốt hơn. Có rất nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ và góc độ khác

nhau về những nội dung liên quan đến đề tài Luận văn. Dưới đây, Luận văn xin giới thiệu

tổng quan một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, từ đó chỉ ra những nội dung

đã được nghiên cứu trong các công trình đó, những nội dung chưa sáng rõ, cụ thể cần tiếp

tục đặt ra để nghiên cứu và đúc rút thành bài học kinh nghiệm có thể vận dụng nhằm nâng

cao hiệu lực, hiệu quả quản lý cán bộ, công chức; góp phần quản lý và sử dụng đội ngũ cán

bộ, công chức hiệu quả hơn ở Việt Nam hiện nay.

Một là, nhóm các bộ sử ghi chép lịch sử thời Lê

Phan Huy Chú với Lịch triều hiến chương loại chí được coi là một bách khoa toàn

thư về khoa học xã hội của Việt Nam, đó là một tài liệu quý báu cho công tác nghiên cứu

và xây dựng các khoa học xã hội. Lịch triều hiến chương loại chí với 49 quyển chia ra thành

10 bộ môn nghiên cứu khác nhau. Trong tất cả các bộ môn nghiên cứu, Phan Huy Chú tập

trung nghiên cứu các sự kiện từ triều Lê trở về trước, thường chú trọng nghiên cứu đặc biệt

4

về triều Lê, còn triều Nguyễn thì ông không nhắc đến. Bộ sách nghiên cứu tường tận và cụ

thể từ tình hình địa lý, lịch sử địa lý; tiểu sử vua chúa, quan lại, nho sĩ, tướng sĩ; đến lịch

sử chế độ quan liêu; lễ nghi triều đình; từ chế độ khoa cử đến chế độ thuế khóa, tài chính;

từ tình hình pháp luật, tổ chức quân sự đến các chính sách và nghi lễ ngoại giao, lịch sử

ngoại giao của triều Lê. Những vấn đề lịch sử liên quan nhà Lê được cuốn sách ghi chép

lại một cách khoa học và chính xác, góp phần tái hiện chân thực lịch sử nước ta đương thời.

Năm 1977, Viện sử học và Nhà xuất bản văn hóa – thông tin cho ra mắt cuốn Lê

triều quan chế do Phạm Văn Liệu dịch và chú giải. Lê triều quan chế viết khá toàn diện và

chi tiết về bộ máy nhà nước và chế độ quan lại dưới thời Hồng Đức (1471 – 1497) đời Lê

Thánh Tông; ngoài ra sách cũng nêu quan chế của các triều trước, như niên hiệu Kiên Trung

(1225-1231) triều Trần Thái Tông, niên hiệu Thuận Thiên (1428-1433) triều Lê Thái Tổ,

niên hiệu Thiệu Bình (1434-1440) triều Lê Thái Tông, và cả niên hiệu Quang Thuận (1460

– 1470) – niên hiệu đất nước trong những năm đầu Lê Thánh Tông trị vì. Cuốn sách được

xác định biên soạn sớm nhất vào khoảng cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, tập trung

nghiên cứu về quan chế ở nước ta thời trung đại và cung cấp nhiều chi tiết mà các cuốn

sách khác từng chép về quan chế thời Lê còn chưa đề cập đến hoặc đề cập đến nhưng chưa

cụ thể, chi tiết.

Năm 1993, NXB Văn hóa Thông tin lần đầu tiên phát hành bộ chính sử Đại Việt sử

ký toàn thư – bộ biên niên sử ghi chép từ thời đại truyền thuyết Kinh Dương Vương năm

2879 trước công nguyên đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê và là bộ chính sử

Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, do nhiều đời sử quan trong Sử

quán triều Hậu Lê biên soạn. Bộ sử bắt đầu được Ngô Sĩ Liên – một vị sử quan làm việc

trong Sử quán dưới thời vua Lê Thánh Tông biên soạn dựa trên sự chỉnh lý và bổ sung hai

bộ quốc sử Việt Nam trước đó cùng mang tên Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Phan Phu

Tiên. Hoàn thành vào niên hiệu Hồng Đức thứ 10 (1479), bộ sử mới gồm 15 quyển, ghi lại

lịch sử Việt Nam từ một thời điểm huyền thoại là năm 2879 trước công nguyên đến năm

1427 khi nhà Hậu Lê được thành lập và mang tên Đại Việt sử ký toàn thư. Sau đó, dù đã

hoàn thành, Đại Việt sử ký toàn thư không được khắc in để ban hành rộng rãi mà tiếp tục

được nhiều đời sử quan trong Quốc sử quán sửa đổi, bổ sung và phát triển thêm. Khoảng

niên hiệu Cảnh Trị đời vua Lê Huyền Tông, chúa Trịnh Tạc hạ lệnh cho một nhóm văn

5

quan, đứng đầu là Tham tụng Phạm Công Trứ, sửa chữa bộ quốc sử của Ngô Sĩ Liên, đồng

thời sai biên soạn tiếp lịch sử Việt Nam từ năm 1428 đời vua Lê Thái Tổ đến năm 1662 đời

vua Lê Thần Tông nhà Hậu Lê. Bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, gồm 23 quyển, được đem

khắc in để phát hành nhưng công việc chưa xong, phải bỏ dở. Khoảng niên hiệu Chính Hòa

đời vua Lê Hy Tông, chúa Trịnh Căn lại hạ lệnh cho một nhóm văn quan, đứng đầu là Tham

tụng Lê Hy, tiếp tục khảo đính bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, đồng thời biên soạn tiếp

lịch sử Việt Nam từ năm 1663 đời vua Lê Huyền Tông đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông

nhà Hậu Lê. Bộ quốc sử này lấy tên là Đại Việt sử ký toàn thư, theo đúng tên mà sử gia

Ngô Sĩ Liên cách đó gần hai thế kỷ đã đặt cho bộ sử của ông, gồm 25 quyển, được khắc in

toàn bộ và phát hành thành công vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa năm thứ 18 đời

vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép những nhân vật và sự kiện lịch sử qua các triều đại

cô đọng và chi tiết. Bộ sử được Ngô Sĩ Liên – quan dưới thời Lê Thánh Tông biên soạn nên

không những ghi chép được những mốc lịch sử quan trọng trong thời Lê mà còn có sự chính

xác, khách quan của một vị sử quan trong Sử quán bấy giờ. Cuốn biên niên sử vừa có giá

trị cho ngành sử học, vừa có giá trị cho các ngành khoa học xã hội khác nữa. Cho đến nay,

khi tìm hiểu về lịch sử Việt Nam, không học giả nào có thể không nhắc đến Đại Việt sử ký

toàn thư như một di sản lịch sử vẫn còn nguyên vẹn.

Đại Việt thông sử trong Lê Quý Đôn toàn tập là một cuốn sử ghi chép lại lịch sử thời

Lê, còn gọi là Lê triều thông sử. Theo GS. Dương Quảng Hàm, Lê Quý Đôn thật là một

nhà bác học ở đời Lê mạt: một tay ông đã biên tập, trứ thuật rất nhiều sách. Tuy tác phẩm

của ông đã thất lạc ít nhiều, nhưng những bộ còn lưu lại cũng là một cái kho tài liệu để khảo

cứu về lịch sử, địa dư và văn hóa của nước Việt... Cuốn sử được viết trong giai đoạn Lê

Quý Đôn ở nhà dạy học và viết sách, và hoàn thành vào năm 1749 gồm 30 quyển. Tuy

nhiên, cho đến hiện nay chỉ còn truyền lại 3 phần với 15 quyển – tức là chỉ khoảng một

nửa. Đại Việt thông sử là bộ sử được viết theo thể kỷ truyện, chỉ có phần Bản kỷ là chép

theo lối biên niên, chép từ thời vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi) đến vua Lê Cung Hoàng. Với

lối viết trải theo các mốc thời gian, Lê Quý Đôn đã điểm lại khái quát những sự kiện lịch

sử về chính trị, quân sự, trị quốc,… diễn ra dưới triều Lê, cung cấp cái nhìn tổng quan về

lịch sử triều Lê cho người đọc.

6

Năm 2011, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản cuốn Lịch sử Việt

Nam – từ nguồn gốc đến năm 1884 do GS. Nguyễn Phan Quang và TS. Võ Xuân Đàn chủ

biên. Cuốn sách trình bày cô đọng, súc tích về lịch sử nước nhà từ nền văn hóa sơ khai, trải

qua cả nghìn năm dựng nước và giữ nước đến những ngày trước cuộc xâm lược của Thực

dân Pháp. Lịch sử nhà Lê được ghi chép lại một cách cẩn thận và cụ thể trong cuốn sách,

từ bối cảnh lịch sử, việc phục hồi và phát triển nền kinh tế đến việc xây dựng và thực hiện

có quy củ, nền nếp các chế độ đối với đất nước. Với gần 500 trang sách ghi chép lại lịch sử

hàng nghìn năm của đất nước, cuốn thông sử đã đưa ra những sự kiện lịch sử quan trọng,

giúp người đọc dễ dàng tiếp cận và nắm bắt thông tin.

Hai là, nhóm các công trình nghiên cứu ngày nay về cải cách hành chính và chế

độ quan lại, chế độ cán bộ, công chức

Trong cuốn Sử học và hiện thực, Tập II: “10 cuộc cải cách đổi mới trong lịch sử

Việt Nam” của GS. Văn Tạo xuất bản năm 2000 có bài: “Cải cách hành chính thời Lê

Thánh Tông - xây dựng một nhà nước phong kiến thịnh trị”. Trong bài viết này tác giả đánh

giá cuộc cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông là một trong ba cuộc cải cách

hành chính nổi bật nhất trong lịch sử hành chính Việt Nam. GS. Văn Tạo phân tích khá sâu

sắc các nguyên nhân dẫn đến cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông và một số

lĩnh vực mà vị vua anh minh này đã thực hiện trong 38 năm trị vì của mình: phân cấp quản

lý đất đai, xây dựng bộ máy hành chính. Song những nội dung cải cách quan chế chưa được

tác giả đi sâu nghiên cứu.

Một công trình nghiên cứu có tầm cỡ về mặt khoa học phải kể đến là cuốn sách “Lê

Thánh Tông (1442 - 1497): Con người và sự nghiệp” bao gồm 33 báo cáo khoa học, trong

đó có nhiều báo cáo liên quan đến việc thực hiện cải cách, đổi mới dưới triều vua Lê Thánh

Tông. Đây là tập hợp các báo cáo khoa học tại cuộc Hội thảo khoa học về con người và sự

nghiệp của vua Lê Thánh Tông nhân dịp kỷ niệm 500 năm ngày mất của ông (năm 1997),

do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn phối hợp với Trường Đại học Sư phạm

(thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), Viện Sử học, Viện Triết học, Viện nghiên cứu nhà nước

và pháp luật... tổ chức. Các báo cáo tại Hội thảo đã đưa ra những nhận thức mới, những

kiến giải mới về cuộc đời và sự nghiệp của vị vua anh minh Lê Thánh Tông. Trong đó có

các bài viết như: Chức danh xã trưởng dưới thời Lê Thánh Tông của PGS.TS. Nguyễn

7

Quang Ngọc; Cải cách hệ thống quan lại địa phương dưới triều Lê Thánh Tông của TS.

Nguyễn Hoàng Anh; Vài nét về sự thay đổi hành chính và tổ chức chính quyền địa phương

dưới triều Lê Thánh Tông của PGS.TS. Nguyễn Đức Nhuệ... Các bài viết này đề cập đến

một số lĩnh vực mà vua Lê Thánh Tông đã tiến hành cải cách trong những năm trị vì của

ông, nổi bật nhất là cải cách tổ chức bộ máy hành chính.

TS. Bùi Huy Khiên với cuốn Những bài học từ hai cuộc cải cách hành chính dưới

triều vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mệnh xuất bản năm 2011. Cuốn sách gồm 3 chương

được trình bày rõ ràng và chi tiết. Nội dung của cuốn sách ngoài việc nêu lên tính tất yếu

và khách quan của việc phải thực hiện cải cách hành chính đối với mọi nhà nước, mọi thời

đại; nhận xét, đánh giá một số cuộc cải cách trong lịch sử Việt Nam để tìm ra những quy

luật chung, những thành công cũng như rào cản trong việc thực hiện cải cách; cuốn sách

còn khái quát về hoàn cảnh lịch sử trước cải cách, sau đó tập trung chính vào nội dung cải

cách bộ máy và cải cách quan chế. Thông qua việc nghiên cứu nội dung chính của 2 cuộc

cải cách, cuốn sách đã đưa ra một số bài học kinh nghiệm mang tính tổng kết nhằm góp

phần thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính hiện tại ở nước ta.

Ngoài ra, tác giả Nguyễn Thị Thu Hòa có đề tài nghiên cứu khoa học cấp Khoa,

Khoa Hành chính học – Học viện Hành chính năm 2010 Những bài học quản lý hành chính

nhà nước Việt Nam trong lịch sử; Nguyễn Thanh Lương có bài viết “Từ cuộc cải cách hành

chính của Lê Thánh Tông suy nghĩ về cải cách hành chính nước ta hiện nay” đăng trên Tạp

chí Giáo dục lý luận số 5 - 2008; Nguyễn Hoài Văn với bài “Kinh nghiệm sử dụng người

tài, xây dựng đội ngũ quan lại thời Lê Thánh Tông” đăng trên Tạp chí Lý luận Chính trị số

5 - 2013. Trong những bài viết trên, các tác giả đã đề cập đến lệ khảo thí, khảo khóa được

thực hiện dưới triều Lê Thánh Tông như một quy định bắt buộc nhằm kiểm tra, đánh giá

đội ngũ quan lại đang phục vụ công việc triều chính, tạo cơ sở cho việc thăng, giáng và

thưởng phạt đối với đội ngũ quan lại.

8

Ba là, nhóm các công trình nghiên cứu trực tiếp về lệ khảo thí, khảo khóa dưới

thời Lê sơ

Có nhiều bài viết đăng trên tạp chí nghiên cứu về việc thực hiện cải cách hành chính

mà trọng tâm là việc thực hiện cải cách chế độ kiểm tra, giám sát đội ngũ quan lại dưới

triều Lê Thánh Tông, như bài Phép khảo khóa của nhà nước phong kiến Đại Việt của tác

giả Bùi Quý Lộ in trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 12 - 1995. Bài viết giới thiệu khái lược

về lệ khảo khóa của các triều đại tiêu biểu như Lê sơ, nhà Nguyễn và ý nghĩa của phép khảo

khóa trong việc xây dựng đội ngũ quan lại. Bài Khảo thí, khảo khóa thời Lê và việc thực

hiện đánh giá năng lực, đạo đức cán bộ, công chức ngày nay của ThS Nguyễn Thị Thu

Hòa in trên Tạp chí Quản lý Nhà nước số 236 - 2015. Bài viết tập trung cung cấp một số

thông tin về nội dung chế độ khảo khóa, khảo thí và đưa ra một số kinh nghiệm tham khảo

cho việc thực hiện đánh giá năng lực, đạo đức cán bộ, công chức ngày nay.

Bài Từ lệ khảo khóa quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông suy nghĩ về công tác

đánh giá cán bộ công chức của TS. Bùi Huy Khiên trong Tạp chí Tổ chức nhà nước số 5 -

2015 và bài Chế độ khảo khóa quan chức của nhà nước phong kiến Hậu Lê của ThS. Vũ

Thị Yến in trong tạp chí Tổ chức nhà nước số 9 - 2017 đều đề cập đến những nội dung của

chế độ khảo khóa và rút ra một số kinh nghiệm cho công tác đánh giá cán bộ, công chức

nước ta hiện nay. Những bài đăng trên đã nghiên cứu khá cụ thể về bối cảnh thực hiện phép

khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông nói riêng và nhà nước phong kiến nói

chung. Qua việc đi sâu nghiên cứu, các tác giả đã liên hệ đến việc đánh giá năng lực, đạo

đức cán bộ, công chức ngày nay nhằm tìm ra phương thức đánh giá cán bộ, công chức phù

hợp nhất.

Như vậy, các cuốn sách, nghiên cứu trên đã tập trung nghiên cứu chuyên sâu về từng

khía cạnh, từng giai đoạn cụ thể trong lịch sử và đã được công bố, có những đóng góp lớn

về học thuật, là nguồn tư liệu quý giá cho những nhà nghiên cứu khác, những người quan

tâm đến vấn đề này. Tuy nhiên, phần lớn những tài liệu trên chỉ tập trung nghiên cứu về cải

cách tổ chức bộ máy hành chính và chế độ quan lại nói chung, chỉ đề cập đến một phần nhỏ

của lệ khảo thí, khảo khóa chứ chưa đi sâu nghiên cứu về chế độ này. Luận văn sẽ tập trung

nghiên cứu về lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông – một đề tài với hướng

tiếp cận mới, không trùng lắp với các công trình đã công bố.

9

Trên cơ sở các nội dung nghiên cứu đã được đề cập tại các công trình nghiên cứu

nói trên về cải cách bộ máy hành chính và chế độ quan lại thời Lê sơ, đề tài: ““Lệ khảo thí,

khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông và bài học kinh nghiệm cho đánh giá cán bộ, công

chức ở Việt Nam hiện nay” sẽ nghiên cứu một số điểm mới chưa được đề cập và đi sâu

nghiên cứu, như: nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận về quan lại và chế độ quan lại

thời phong kiến; tái hiện lại một cách có hệ thống, khách quan và chân thực về lệ khảo thí,

khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông; nghiên cứu để nhìn nhận, phân tích, đánh giá tình

hình thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông trong mối liên hệ chặt

chẽ với việc đánh giá cán bộ, công chức ngày nay, gợi mở những giá trị tham khảo và gắn

những giá trị tham khảo đó với hoạt động quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức

hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

 Mục đích nghiên cứu:

Đề tài tập trung nghiên cứu việc xây dựng và thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới

thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị

trong việc xây dựng và thực hiện đánh giá cán bộ, công chức; đáp ứng yêu cầu xây dựng

và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước.

 Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Tìm hiểu về lệ khảo thí, khảo khóa, việc đánh giá và sử dụng quan lại (thăng – giáng,

phân công, bố trí công việc) quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông;

- Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa trong mối liên hệ chặt

chẽ với công tác đánh giá cán bộ, công chức hiện nay; đúc rút bài học kinh nghiệm đối với

việc hoàn thiện thể chế đánh giá cán bộ, công chức; góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ

cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu của hoạt động quản lý và sử dụng cán bộ, công chức.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

 Đối tượng nghiên cứu:

Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa đối với đội ngũ

quan lại từ trung ương đến địa phương dưới triều Lê Thánh Tông (1460 – 1497) trong sự

tham chiếu với những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác đánh giá cán bộ, công chức ở

Việt Nam hiện nay.

10

 Phạm vi nghiên cứu:

 Phạm vi tài liệu nghiên cứu:

Đề tài Luận văn nghiên cứu về lịch sử hành chính có sử dụng hệ thống các nguồn

tài liệu như sau:

- Các bộ biên niên sử ghi chép lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ theo sự kiện lịch sử,

nhân vật lịch sử, chính sách nhà nước: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử,…

- Văn bản pháp luật, quy định, quy chế dưới triều Lê như: Lê Triều hình luật; Lê triều

quan chế;…

- Văn bản pháp luật hiện hành quy định về Cán bộ, Công chức: Luật Cán bộ, Công

chức 2008, Nghị định số 56/2015/NĐ-CP do Chính Phủ ban hàng ngày 09 tháng 6 năm

2015 về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số 88/2017/NĐ-CP

do Chính Phủ ban hành ngày 27 tháng 7 năm 2017 về sửa đổi, bổ sung một số điều của

Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của chính phủ về đánh giá và

phân loại cán bộ, công chức, viên chức;…

- Luận văn cũng sử dụng các tài liệu thứ cấp – hệ thống tài liệu đã được nghiên cứu

của các tác giả về triều Lê sơ nói chung, Lê Thánh Tông nói riêng, như: Lịch Triều hiến

chương loại chí (Phan Huy Chú), Lê Thánh Tông – Con người và sự nghiệp (Nguyễn Quang

Ngọc); Sử học và hiện thực (Văn Tạo), Những bài học từ hai cuộc cải cách hành chính dưới

triều Vua Lê Thánh Tông và Vua Minh Mệnh (Bùi Huy Khiên)… cùng với những Luận

văn, luận án, đề tài khoa học, bài báo, bài đăng tạp chí và các cuốn sách khác.

 Phạm vi nội dung nghiên cứu:

- Khảo thí là khoa thi không theo chính kỳ, không định học vị nhằm tuyển chọn nhân

tài ra làm quan hoặc phân định trình độ của quan lại nói chung. Khảo khóa là kỳ thi được

tổ chức định kì 3 năm, 6 năm, 9 năm dành cho tất cả quan văn, quan võ trong triều nhằm

kiểm tra xem xét đạo đức, tư cách, trình độ, năng lực của đội ngũ quan lại trong triều; trên

cơ sở đó thực hiện việc bố trí, sắp xếp quan lại phù hợp. Luận văn tập trung nghiên cứu lệ

khảo thí, khảo khóa đối với đội ngũ quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông.

11

 Phạm vi thời gian nghiên cứu:

- Thời gian nghiên cứu tập trung từ năm 1460 – 1497 là 38 năm trị vì Đại Việt của Lê

Thánh Tông với Niên hiệu Quang Thuận (1460 – 1469) và niên hiệu Hồng Đức (1470 –

1497)

- Đồng thời, đề tài nghiên cứu về công tác đánh giá cán bộ, công chức hiện nay ở Việt

Nam nhằm liên hệ, so sánh, đối chiếu, rút ra bài học kinh nghiệm.

 Phạm vi không gian nghiên cứu:

Luận văn tập trung nghiên cứu lệ khảo thí, khảo khóa từ cấp chính quyền trung ương

đến địa phương trên địa bàn lãnh thổ quốc gia Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

 Phương pháp luận:

- Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ

nghĩa Mác – Lênin để nghiên cứu, phản ánh sự kiện lịch sử một cách khách quan, trung

thực; xem xét sự vận động của chúng trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau, trong sự vận

động và phát triển liên tục của lịch sử. Mỗi giai đoạn lịch sử chịu sự ảnh hưởng khác nhau

từ điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nên quá trình nghiên cứu về lệ khảo thí, khảo khóa

dưới thời vua Lê Thánh Tông Luận văn đặt chúng trong bối cảnh lịch sử để xem xét, phân

tích. Bên cạnh đó, Luận văn cũng sử dụng phương pháp logic để luận giải quan hệ biện

chứng giữa những quy định chặt chẽ của pháp luật với việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa

và hiệu quả của việc áp dụng thông lệ trong quá trình sử dụng, quản lý đội ngũ quan lại

triều Lê Thánh Tông.

 Phương pháp nghiên cứu cụ thể:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đây là một đề tài về lịch sử hành chính nên việc

nghiên cứu các tài liệu lịch sử là vô cùng quan trọng. Song Luận văn không dừng lại ở việc

sử dụng phương pháp mô tả lịch sử mà kết hợp cùng với phương pháp sử liệu học, thu phập

tài liệu nhằm tái tạo lịch sử một cách chân thực nhất.

- Phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp logic: Luận văn có sử

dụng phương pháp thống kê các số liệu về chế độ sử dụng quan lại, các số liệu tổng hợp

trên tài liệu sơ cấp và thứ cấp nhằm đánh giá vấn đề nghiên cứu trong tổng quan lịch sử và

theo quy luật phát triển khách quan.

12

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng

hợp để đưa ra lý luận về tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài và ý nghĩa sâu sắc của

việc nghiên cứu những tài liệu về lệ khảo thí, khảo khóa đối với giai đoạn hiện nay. Đồng

thời, Luận văn cũng phân tích những nội dung liên quan chế độ quan lại nói chung được áp

dụng dưới thời vua Lê Thánh Tông, từ đó làm rõ những thành công và tồn tại hạn chế của

việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa đương thời nhằm so sánh, tham chiếu lịch sử và sử

dụng tối đa phương pháp này trong việc đưa ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho

việc đánh giá cán bộ, công chức trong giai đoạn hiện nay.

Phương pháp tổng hợp còn được sử dụng để tóm lược nội dung, đánh giá tổng quan

nội dung của từng phần, từng chương và kết luận cho toàn Luận văn.

- Phương pháp khảo sát thực tế và xử lý số liệu: Dựa vào mục đích nghiên cứu, thời

gian nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, học viên đã tiến hành phát phiếu điều

tra khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức tại các cơ quan nhà nước, nhằm tìm hiểu

về thực trạng công tác đánh giá cán bô, công chức hiện nay.

Về địa bàn khảo sát: Dựa trên địa bàn và tính dễ tiếp cận các đối tượng để lựa chọn

mẫu phiếu, tiến hành thăm dò ý kiến của đội ngũ cán bộ, công chức trong cơ quan hành

chính nhà nước các cấp.

Các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương gồm: Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội

vụ, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Văn hóa –

thể thao và du lịch,…

Các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh gồm có: Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn,

Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Lạng Sơn, Sở Nội vụ tỉnh Lạng Sơn, Sở Giao

thông Vận tải tỉnh Thái Nguyên, Sở Tư pháp tỉnh Hòa Bình.

Cơ quan hành chính nhà nước cấp huyện gồm có: Ủy ban nhân dân huyện Hữu Lũng

– tỉnh Lạng Sơn, Ủy ban nhân dân huyện Chi Lăng – tỉnh Lạng Sơn, Ủy ban nhân dân

huyện Lạng Giang – tỉnh Bắc Giang, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Lạng Giang – tỉnh

Bắc Giang, Phòng Nội vụ huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn, Phòng Văn hóa – Thể thao và

du lịch Thành phố Lạng Sơn – tỉnh Lạng Sơn, Phòng Tài Chính – Kế hoạch Thành phố

Lạng Sơn – tỉnh Lạng Sơn.

13

Cơ quan hành chính nhà nước cấp xã gồm có: Ủy ban nhân dân xã Sơn Hà – huyện

Hữu Lũng – tỉnh Lạng Sơn, Ủy ban nhân dân xã Mai Pha – Thành phố Lạng Sơn – tỉnh

Lạng Sơn, Ủy ban nhân dân xã Quang Thịnh – huyện Lạng Giang – tỉnh Bắc Giang.

Về đối tượng phát phiếu khảo sát: đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ

quan hành chính nhà nước thuộc địa bàn khảo sát, bao gồm các chuyên viên cao cấp, chuyên

viên chính, chuyên viên, cán sự và nhân viên hiện đang công tác tại cơ quan thực hiện điều

tra khảo sát.

Về thời gian thực hiện điều tra khảo sát: việc thăm dò ý kiến cán bộ, công chức được

tiến hành từ tháng 01 năm 2019 đến tháng 02 năm 2020. Thời điểm này các cơ quan nhà

nước mới hoàn thiện viêc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức hàng năm; do đó việc tiếp

cận đối tượng thăm dò ý kiến sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.

Về số lượng phiếu khảo sát: Theo thống kê của Bộ Nội vụ, tổng biên chế công chức

hưởng lương từ ngân sách nhà nước năm 2019 của các cơ quan, tổ chức hành chính nhà

nước, cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, biên chế công chức dự phòng và biên

chế của các Hội có tính chất đặc thù hoạt động trong phạm vi cả nước là 259.598 biên chế

(không bao gồm biên chế của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng; biên chế công chức trong các

đơn vị sự nghiệp công lập và cán bộ, công chức cấp xã). Trong đó, các cơ quan, tổ chức

hành chính thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức do Chính phủ,

Thủ tướng Chính phủ thành lập mà không phải là đơn vị sự nghiệp công lập là 105.189 biên

chế; các cơ quan, tổ chức hành chính thuộc cơ quan của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh, cấp huyện là 151.906 biên chế; các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước

ngoài 1.068 biên chế; các Hội có tính chất đặc thù hoạt động trong phạm vi cả nước là 686

biên chế; và 749 biên chế là công chức dự phòng.

Theo Phụ lục 3 về Thống kê số lượng biên chế cán bộ, công chức tại các đơn vị thực

hiện khảo sát, tổng số cán bộ, công chức trong các đơn vị được tiến hành khảo sát là 29.387

biên chế. Tổng số biên chế thuộc các đơn vị thực hiện khảo sát chiếm 11,32% so với tổng

biên chế trong cả nước. Với số phiếu phát ra là 400 phiếu trên tổng số 29.387 tổng biên chế

của các đơn vị thực hiện khảo sát, lượng phiếu khảo sát tương đương với 1,35% tổng số

lượng cán bộ, công chức hành chính hiện nay đang làm việc trong các đơn vị tiến hành

14

khảo sát. Trong đó, tổng số phiếu phát ra là 400 phiếu, tổng số phiếu thu về là 387 phiếu,

số phiếu hợp lệ là 382 phiếu, số phiếu không hợp lệ là 5 phiếu.

Về xử lý kết quả khảo sát: Luận văn sử dụng phương pháp thống kê và phần mềm

tin học Microsoft excel để tổng hợp và xử lý kết quả khảo sát. Kết quả khảo sát được tính

theo tỷ lệ phần trăm tổng số phiếu hợp lệ thu về (Phụ lục 1, 2; tr1,4).

- Phương pháp so sánh: Để đánh giá mức độ thành công hay hạn chế của việc thực

hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới triều Lê Thánh Tông, Luận văn sử dụng phương pháp so

sánh để đối chiếu với các triều đại trước và sau đó. Luận văn cũng sử dụng phương pháp

so sánh để tham chiếu lịch sử với hiện tại, so sánh giữa bối cảnh lịch sử, thể chế, mục tiêu

và cách thức thực hiện lệ khảo thí khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông và việc đánh giá cán

bộ, công chức hiện nay. Thông qua đó, Luận văn phân tích những điểm khác biệt để đưa ra

những bài học lịch sử có giá trị vận dụng được trong quá trình thực hiện đánh giá cán bộ,

công chức hiện nay.

- Các phương pháp nghiên cứu khác: Đề tài còn mang tính liên ngành vì có liên quan

đến ngành sử học, hành chính học nên sử dụng các phương pháp nghiên cứu xã hội học,

hành chính học như: phương pháp hành chính so sánh, phương pháp tiếp cận quy phạm

pháp luật,…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của nghiên cứu

 Ý nghĩa lý luận:

- Phân tích và chứng minh về sự cần thiết của mọi nhà nước, mọi thời đại trong việc

đẩy mạnh sự phát triển của kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó việc xây dựng được đội ngũ

quan lại với hệ thống chính sách hợp lý là một trong những nhiệm vụ thiết yếu. Từ đó lý

giải vì sao các vị vua thời xưa dành sự quan tâm lớn đến việc thể chế hóa quy định nhà

nước, và đưa hoạt động nhà nước vào khuôn khổ pháp luật.

- Đề tài đưa ra một số nhận xét, đánh giá về tác động và hiệu quả của việc áp dụng

thực thi chính sách sử dụng quan lại nói chung, lệ khảo thí, khảo khóa nói riêng trong lịch

sử, từ đó đưa ra sự ảnh hưởng đến đội ngũ quan lại nói riêng và toàn bộ nền hành chính nhà

nước nói chung. Thông qua đó có thể khẳng định rằng, để một quốc gia phát triển cần có

một đội ngũ quan lại có đức có tài, kèm theo đó là chế độ chính sách dành cho quan lại phải

cụ thể, rõ ràng, công khai, minh bạch.

15

- Nghiên cứu đề tài chỉ rõ sự thành công của quá trình cải cách hành chính thời Lê sơ

nói chung và chính sách đối với chế độ quan lại, đặc biệt là lệ khảo thí, khảo khóa trong

việc sử dụng quan lại dưới thời vua Lê Thánh Tông nói riêng. Từ đó gợi ra những bài học

kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho quá trình cải cách hành chính hiện nay nói chung,

đánh giá nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng.

- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú thêm những kiến thức về

đánh giá đội ngũ quan lại trong lịch sử hành chính nhà nước Việt Nam.

 Ý nghĩa thực tiễn:

- Đưa ra những bài học kinh nghiệm giúp quá trình ban hành chính sách và công tác

quản lý, đánh giá cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay đạt hiệu quả hơn;

- Đề tài nghiên cứu là cơ sở cho quá trình xây dựng, ban hành, thực thi các chính sách

về đánh giá cán bộ, công chức, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,

quản lý hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, lựa chọn được người tài, bố trí sắp xếp đúng

người đúng việc.

7. Kết cấu của Luận văn

Luận văn “Lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông và bài học kinh nghiệm

cho đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay” được triển khai với bố cục gồm 3

chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về chế độ quan lại và lệ khảo thí, khảo khóa thời

phong kiến ở Việt Nam

Chương 2: Lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497)

Chương 3: Những bài học kinh nghiệm cho công tác đánh giá cán bộ, công chức ở

Việt Nam hiện nay

16

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ QUAN LẠI VÀ LỆ KHẢO THÍ,

KHẢO KHÓA THỜI PHONG KIẾN Ở VIỆT NAM

1.1. Các khái niệm liên quan

1.1.1. Khái niệm quan lại

Với nhiều tác giả và nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, ở Việt Nam và trên thế

giới hiện nay có nhiều cách giải thích khái niệm “quan lại”.

Ở nước ngoài, nguồn gốc của từ “quan lại” là từ “mandarin” trong tiếng Pháp, từ

nay được vay mượn từ từ “mandarim” trong ngôn ngữ của người Bồ Đào Nha xuất hiện

năm 1581. Theo tiếng Bồ Đào Nha, “quan” dùng để chỉ các viên chức đứng đầu các cấp

hành chính, các cơ quan chức năng trong bộ máy chính quyền ở Mã Lai, Trung Quốc và

Việt Nam từ năm 1514. Theo Từ điển lịch sử của ngôn ngữ Pháp, “mandarim” là biến dạng

của từ “mandar” với nghĩa là “ra lệnh, tống đạt”, gốc chữ Phạn “mantrin” qua trung gian

tiếng Mã Lai “mantari” có nghĩa “cố vấn Nhà nước”. Từ này xuất hiện trong tiếng Pháp với

nghĩa “cố vấn của Vua, của quan thượng thư”; ở châu Á từ đó có ý nghĩa hiện tại là “viên

chức cao cấp” được dùng ở Trung Quốc, Đông Dương hay Triều Tiên từ năm 1604. Như

vậy, chỉ những người làm quan mới được gọi là “quan lại” chứ không phải tất cả những

người làm việc trong bộ máy nhà nước phong kiến đều được gọi là “quan lại”.

Ở Việt Nam, theo Sổ tay từ ngữ lịch sử - Quan chế thì “quan” là những người làm

việc trong bộ máy nhà nước phong kiến, thực dân từ cấp trung ương đến cấp địa phương

(trấn – tỉnh – phủ – huyện), có phẩm hàm, tước vị, chức sắc, được tuyển bổ chủ yếu bằng

đường khoa cử hoặc bảo cử [13; tr175]. “Lại” (còn gọi là lại viên, lại sử, lại điển, liên thuộc,

thuộc lại, thư lại, thông lại) là viên chức làm việc trong các cơ quan (nha môn) ở triều đình

hoặc các cấp trấn (nếu ở thời Nguyễn là tỉnh), phủ, huyện; có nhiệm vụ thảo giấy tờ, thư

trái, công văn. Lại có thể chuyển thành quan nếu có công lao và thành tích làm việc [13;

tr130].

Theo Từ điển Tiếng Việt, khái niệm “quan lại” do hai thuật ngữ “quan” và “lại” hợp

thành. “Quan” là viên chức có quyền hành trong bộ máy nhà nước phong kiến, thực dân

[29; tr799]. “Lại” gọi chung là viên chức sơ cấp chuyên làm việc bàn giấy trong bộ máy

nhà nước phong kiến [29; tr689].

17

Theo Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, “quan lại” là những người giữ các chức

vụ từ cấp huyện trở lên trong bộ máy nhà nước phong kiến và thuộc địa. Những người điều

hành gọi chung là quan; những người thừa hành gọi chung là lại.

Theo Từ điển Hán Việt, “quan lại” chỉ những kẻ cai trị trong nhà nước phong kiến

nhưng vẫn có sự phân biệt chủ yếu trong bộ máy hành chính giữa “quan” (viên chức chịu

trách nhiệm) với “lại” (kẻ thừa hành).

Có thể thấy rằng, quan niệm chung của nhiều tài liệu, nhiều tác giả cho rằng “quan”

là những người giữ cương vị chỉ huy, điều khiển công việc, trị dân; còn “lại” là những người

thừa hành công việc, giúp quan. Quan do vua tuyển chọn, chỉ định, bổ dụng; là người đứng

đầu trong nha môn; là người quản lý, lãnh đạo. Lại là viên chức thừa hành, là nhân viên

dưới quyền của quan; là người do triều đình hoặc quan lựa chọn, mang tính ổn định để phục

vụ cho công việc vận hành bộ máy hành chính nhà nước phong kiếm. Việc phân biệt “quan”

– “lại” rất quan trọng, có ý nghĩa trong việc thiết lập cơ chế tổ chức và hoạt động của bộ

máy; giới hạn quyền và nghĩa vụ cũng như phạm vi trách nhiệm các đối tượng này.

Khi nhắc đến “quan lại” trong nhà nước phong kiến, các nhà nghiên cứu thường

nhắc đến ba yếu tố: chức quan, phẩm hàm, tước vị. Hàm, phẩm trật, chức, tước để chỉ chức

danh và ngạch bậc của từng chức danh, phân chia cao thấp theo thứ bậc. Chức quan là chức

vụ cụ thể của người làm quan, bao gồm nhiệm vụ của người làm quan phải thi hành ở cương

vị mà mình phụ trách. Ví dụ: chức quan Thượng thư các bộ, Tả Hữu thị lang các bộ, Đô

ngự sử, Hàn lâm Đại học sĩ,… Tước vị là danh hiệu khen thưởng của triều đình, thường

tương đương với từng chức quan, song có khi phẩm tước cao mà chức lại thấp hoặc ngược

lại. Phẩm hàm là cấp bậc cao thấp của quan lại. Phẩm cấp các quan thường được xếp theo

chín bậc từ nhất phẩm đến cửu phẩm; mỗi phẩm lại chia ra làm hai trật: chánh và tòng, cộng

lại thành 18 trật. Hàm thì có hàm Tản quan và Huân hàm. Hàm Tản quan là loại chức danh

cho các quan làm danh hiệu vinh dự, chỉ có hàm, không có nhiêm vụ hay thực quyền. Các

hàm Tản quan cũng có sự phân biệt cao thấp như hàm “Đại Phu” cao hơn hàm “Lang”, hàm

“Thượng tướng quân” cao hơn hàm “Đại tướng quân”. Huân hàm là danh hiệu vinh dự

phong cấp theo công trạng và chỉ phong tặng cho những công thần như Thượng Trụ Quốc,

Chính Trị Thượng Khanh, Thượng Hộ Quân,…

18

Tựu chung lại, khái niệm “quan lại” được hiểu như sau: Quan lại là những người

làm việc trong bộ máy nhà nước quân chủ phong kiến, trong đó “quan” là những

người có phẩm hàm, tước vị, chức vụ được tuyển chọn bằng nhiều phương pháp khác

nhau như: khoa cử, tiến cử, tập ấm,…; còn “lại” là những người được tuyển chọn vào

làm công việc cụ thể nào đó trong các nha môn từ triều đình đến cấp huyện để giúp

việc cho quan.

1.1.2. Khái niệm chế độ quan lại

Chế độ quan lại – hay còn gọi là quan chế, là một trong những nội dung thiết yếu

của các triều đại quân chủ phong kiến trong việc kiến tạo bộ máy nhà nước, xây dựng đường

lối, chủ trương, thực hiện chính sách của vua và triều đình. Sổ tay từ ngữ lịch sử - quan chế

định nghĩa: “Quan chế là những quy định về cách tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của hệ

thống các cơ quan và quan chức từ trung ương đến địa phương của triều đình phong kiến

nói chung” [13; tr175].

Trong Bách khoa toàn thư (mở Wikipedia) thì quan chế là hệ thống định chế pháp

luật được áp dụng dưới thời phong kiến. Còn cuốn Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông đưa

ra khái niệm ngắn gọn “quan chế là chế độ tổ chức quan lại thời phong kiến” [22; tr342].

Như vậy, chế độ quan lại không chỉ là những quy định pháp luật riêng rẽ đối với

quan lại mà còn bao gồm cả việc xây dựng, vận hành theo những quy định chính trị, pháp

luật và đạo đức nhất định; được thể hiện qua những nguyên tắc về tuyển chọn, sử dụng, đào

tạo, quản lý, kiểm tra, sát hạch, chế độ trách nhiệm chính trị, trách nhiệm đạo đức, chế độ

đãi ngộ, chế độ khen thưởng và xử phạt. Cụ thể hơn, chế độ quan lại bao gồm một quy

trình từ tổ chức đến thực hiện các quy định về đào tạo, tuyển chọn, sử dụng quan lại

mà các triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện nhằm xây dựng một đội ngũ quan lại

cho bộ máy hành chính nhà nước (trong sử dụng lại có phân công, sắp xếp bố trí quan

lại; luân chuyển, giản thải; kiểm tra, giám sát; chế độ đãi ngộ và thưởng, phạt quan

lại,…) Chế độ quan lại phản ánh trình độ tổ chức, tầm nhìn, sự sáng tạo, canh tân hay bảo

thủ, trì trệ của một chế độ với thời đại mà yêu cầu lịch sử, đất nước giai đoạn đương thời

đặt ra. Khảo thí, khảo khóa là hoạt động nằm trong chế độ quan lại; là hoạt động kiểm tra,

đánh giá việc thực hiện công vụ của đội ngũ quan lại trong triều.

19

1.1.3. Lệ khảo thí, khảo khóa

Trong Từ điển Tiếng Việt, “Lệ” được hiểu là điều quy định có từ lâu năm trở thành

nền nếp, mọi người cứ theo thế mà làm; là điều được lặp đi lặp lại nhiều lần, tự nhiên đã

thành thói quen [29; tr562].

Theo cuốn Từ điển từ ngữ lịch sử phổ thông, “Lệ” được hiểu là những quy định có

tính tập thể về một việc gì đó để bắt mọi người thực hiện [22; tr264]. Trong nhà nước phong

kiến, Vua chúa phong kiến chủ yếu ban hành những quy định dưới dạng lệnh, khẩu lệnh,

chiếu chỉ, dụ, lệ,… bắt buộc thực hiện trong toàn bộ vùng lãnh thổ của mình, có tính chất

tương tự như hệ thống pháp luật ngày nay. Như vậy, có thể thấy rằng, trước khi pháp luật

được ban hành thành văn bản, triều đình phong kiến ban hành quy định dưới dạng lệnh,

chiếu chỉ, dụ, lệ,… để đảm bảo tính bắt buộc và thống nhất trong việc thực hiện quy định

chung của nhà nước. Do vậy, “Lệ” dưới thời phong kiến được hiểu tương tự như “pháp

luật” hiện nay.

Theo cuốn Sổ tay từ ngữ lịch sử – Quan chế, “Khảo thí” là khoa thi không theo chính

kỳ, không định học vị nhằm tuyển chọn nhân tài ra làm quan hoặc phân định trình độ của

quan lại nói chung; “khảo khóa” là kỳ thi kiểm tra xem xét đạo đức, tư cách, trình độ, năng

lực của đội ngũ quan lại trong triều [13; tr120].

Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, “khảo khóa là hình thức sát hạch định kì các

quan lại về năng lực và phẩm chất trong các vương triều phong kiến Việt Nam” [42; tr493]

Thời hạn khảo khóa thay đổi theo từng triều đại và triều vua (có thể từ 1 đến 15 năm một

lần). Thời Lê – Trịnh phổ biến là ba năm, chia thành hai giai đoạn: sơ khảo (xét công trạng

hàng năm) và thông khảo (sau ba năm). Cấp trên xem xét cấp dưới. Bộ Lại là cơ quan quyết

định kết quả khảo khóa. Trường hợp đặc cách, không cần phải đợi đến niên hạn. Tiêu chuẩn

xét duyệt thường dựa vào việc hoàn thành trách nhiệm (thuế hộ đủ hay thiếu), năng lực cai

trị (việc kiện tụng ít hay nhiều), tín nhiệm của dân chúng (nhân dân yêu mến hay kêu ca),

phẩm chất đạo đức (không mắc lỗi hay mắc lỗi, thanh liêm hay tham nhũng). Thời Lý, xếp

các quan chức thành các hạng: người có văn học, người có nết tốt, người siêng năng. Thời

Lê – Trịnh, chia thành 3 bậc: thượng (tốt), trung (trung bình), hạ (xấu). Căn cứ vào kết quả

xếp loại, quyết định thưởng phạt với các hình thức: thăng chức (từ 1 đến 2 bậc), thưởng

tiền, biếm giảng (từ 1 đến 2 bậc), đổi đến nơi ít việc, buộc về hưu, bãi chức… [42; tr493].

20

Theo Đại từ điển tiếng việt, “khảo” là kiểm tra, tra cứu để xem xét [45; tr888];

“khóa” là kì thi, thời gian ấn định cho một nhiệm kỳ công tác, học tập [45; tr907]. Do đó,

khảo khóa quan lại là xem xét, đánh giá toàn bộ hoạt động trong một thời gian nhất định

giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước phong kiến.

Trong Từ điển Hán Nôm, “khảo thí” được hiểu là một tổ chức thi cử để kiểm tra,

đánh giá kiến thức, kỹ năng, năng lực, hay thái độ bằng một quy trình chặt chẽ.

Tóm lại, có thể hiểu rằng, lệ khảo thí, khảo khóa thực chất là việc đánh giá, xem

xét trình độ hiểu biết, quan điểm trị quốc và hiệu quả công việc của quan lại theo định

kì, theo khóa. Trong đó “khảo thí” là khoa thi không theo chính kỳ, không định học

vị nhằm tuyển chọn nhân tài ra làm quan hoặc phân định trình độ của quan lại nói

chung; “khảo khóa” là kỳ thi kiểm tra xem xét đạo đức, tư cách, trình độ, năng lực

của đội ngũ quan lại trong triều [13; tr120].Có thể hiểu một cách đơn giản nhất, khảo thí

là một khoa thi không chi dành cho những người đang làm quan mà còn dành cho các học

sĩ, nhằm mục đích vừa để đánh giá trình độ của quan lại, vừa để lựa chọn kẻ sĩ làm quan

phục vụ triều đình; còn khảo khóa là những kỳ thi được thực hiện theo kì hạn cụ thể với

mục đích chính là sát hạch đội ngũ quan lại đang làm việc trong triều đình. Thông qua các

kỳ khảo thí, khảo khóa sẽ thấy rõ kết quả thực hiện công việc của quan lại trong thực tế để

đánh giá đạo đức, tư cách và trình độ, năng lực của quan lại. Quan lại là cánh tay nối dài

của triều đình đến các địa phương, lựa chọn được người xứng đáng để nhận trách nhiệm và

chịu trách nhiệm với công việc thực hiện cần phải dựa vào cả trình độ năng lực và phẩm

chất đạo đức. Quá trình làm quan khó tránh khỏi sự thay đổi về tư duy, nhận thức; đồng

thời cũng có nhiều cám dỗ và sự tha hóa; việc đánh giá, xem xét quan lại định kì là cần

thiết. Lệ khảo thí, khảo khóa nhằm đánh giá ưu khuyết điểm, sai phạm của quan lại; qua đó

xác định tài năng và đức độ của quan lại, vừa để làm căn cứ thưởng – phạt và điều chuyển

quan lại; vừa để nhắc nhở quan lại cần phải tận tâm hơn với trách nhiệm của mình trong thi

hành công vụ.

Như vậy, việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa trong nhà nước phong kiến cũng

tương tự như hoạt động đánh giá cán bộ, công chức trong giai đoạn hiện nay của nước ta.

Nói đến phép khảo khóa, trong Lịch triều hiến chương loại chí – Tập I, Phan Huy

Chú có bình luận: “Giao cho trách nhiệm một địa phương và tính mạng của nhân dân mà

21

để mặc cho họ dựa dẫm lui tới, lấy đầy xe mang về, thế thì không để tiếng xấu cho quan

trường mà làm đau khổ cho dân, thì ít cũng thấy vậy. Cho nên chính sách yên dân chẳng gì

hơn việc chấn chỉnh quan trường, tất phải khảo công, để xét rõ người hơn người kém mà

thăng giáng cho rõ ràng thì liêm sỉ riêng đường, chính hóa đi khắp. Việc cốt yếu cho nước

thịnh trị của bậc đế vương, không vượt qua điều ấy được” [3; tr102].

1.2. Sơ lược về chế độ quan lại và lệ khảo thí, khảo khóa thời phong kiến ở

Việt Nam

1.2.1. Sơ lược về chế độ quan lại

1.2.1.1. Chế độ tuyển chọn quan lại

Trong tuyển chọn, các triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện nhiều phương pháp

để lựa chọn được quan lại. Các hình thức tuyển chọn quan lại đều được thực hiện công

minh, chính trực nhằm không bỏ sót, không dùng nhầm người. Tùy từng triều đại mà cách

lựa chọn nhân tài mỗi thời một khác. Ngoài chế độ tập ấm có từ thời xưa và chế độ khoa

cử đặt ra từ triều Lý thì các triều Trần, Lê còn có chế độ tiến cử và bảo cử, phàm các quan

to ai cũng phải cử một người có tài đức hoặc người có danh vọng để triều đình bổ dụng.

 Chế độ nhiệm tử (tập ấm)

Nhiệm tử (hay còn gọi là tập ấm) là hình thức tuyển chọn quan lại xuất hiện sớm

nhất ở nước ta, trở thành một tập quán chính trị theo kiểu “con vua thì lại làm vua”. Ấm là

phúc đức, ân huệ của cha ông ta để lại [29; tr17]. “Tập ấm là việc gia ân của vua đối với

con cháu của các quan lại có công tích, sau khi chết tùy cào chức tước, phẩm trật của cha

ông mà được cấp bằng ấm sinh, ấm thụ, ấm tôn để đào tạo làm quan, thường là có kỳ hạn”

[13; tr204].

Theo lệ này, con cháu nhờ vào ân trạch của cha ông mà được tuyển bổ vào một chức

quan nào đó. Trường hợp không có con trai thì được phép nhận nuôi một người thân thích

trong họ để cho hưởng tập ấm. Ví dụ, thời Lê sơ, năm 1460 ra sắc chỉ cho các quan trong

ngoài rằng: “Viên nào con đáng được tập ấm mà không có con trai thì cho nuôi con người

thân thích cùng họ, chỉ được 1 người tập ấm” [5; tr391]; năm 1478 định lệ bổ dụng con

cháu quan viên. Phàm cháu trưởng các tước công, hầu, bá, tử, nam và con trưởng quan văn

võ nhị, tam phẩm thì bổ làm tản quan tứ, ngũ, lục, thất, bát, phẩm. Gián hoặc có người ít

22

tuổi chăm học thì tuyển vào Sùng văn quán, Lại bộ chọn bổ làm các chức điển nghĩa, tư

huấn [3; tr674].

Các triều Lý, Trần có lệ thừa ấm, hễ con các quan thì lại được bổ làm quan. Ở triều

Lê vẫn có lệ thừa ấm, có khoa nhiệm tử, cốt lấy con các quan mà bổ dụng. Triều Nguyễn

cũng có lệ tập ấm, phàm quan chính nhất phẩm thì còn được tập ấm theo hàng tùng lục, gọi

là ấm thọ, đó là bậc cao nhất; còn bậc thấp nhất thì các quan tùng ngũ được một người con

tập ấm gọi là ấm sinh. Tuy nhiên, phép thế tập ở nước ta không giống như phép thế tập của

quý tộc các nước châu Âu diễn ra trong thời gian dài, vì lệ tập ấm ở nước ta thời phong kiến

chỉ hưởng được một hai đời... Thực tế cho thấy rằng, chế độ tập ấm ở Việt Nam thời phong

kiến chỉ có tính chất như một phần thưởng để động viên quan lại, chứ không phải nguồn

chính để tuyển dụng người vào bộ máy nhà nước.

 Chế độ khoa cử (thi cử)

Trong các con đường vào quan trường thời phong kiến thì chế độ khoa cử là chủ yếu

nhất và rộng rãi nhất. Chế độ này bắt đầu được đặt ra từ triều Lý và kéo dài đến khi chế độ

phong kiến suy vong. Thời gian đầu, việc tổ chức các kỳ thi còn chưa ổn định. Thời nhà Lý

khoảng 12 năm mới có một khoa thi được tổ chức. Đến năm Kỷ Hợi (1239) đời Trần Thái

Tông, lệ thi mới được định 7 năm diễn ra một lần. Sang nhà Lê đời vua Thái Tông đã đổi

lại 3 năm một kỳ thi. Khoa cử được chấp nhận và thực hiện suốt cả một thời kỳ Hậu Lê cho

tới cuối thời nhà Nguyễn.

Mỗi khoa thi thời phong kiến gồm 3 cấp là: thi Hương, thi Hội và thi Đình. Thi

Hương là thi ở các địa phương. Thi Hội là về kinh đô. Sau khi đỗ thi Hội thì được vào sân

rồng của vua thi với đề bài có thể do đích thân vua soạn – đây là kỳ thi Đình. Việc tổ chức

các khoa thi thời phong kiến đều nhằm mục đích chung là lựa chọn nhân tài cống hiến cho

sự phát triển của quốc gia; tuy nhiên các khoa thi được thực hiện khác nhau giữa các vương

triều từ thời gian thực hiện, đối tượng thực hiện đến người tổ chức thực hiện các khoa thi

đó. Nhìn chung, nội dung các đề thi thường hỏi về ý nghĩa kinh sách Nho giáo, thi làm thơ

phú, trình bày quan điểm về đạo trị nước… Những người đỗ thi Hội trở lên được gọi là

Tiến sĩ và có thể được bổ dụng các chức quan cao cấp trong triều đình.

Chế độ khoa cử bắt đầu từ năm 1075 đời vua Lý Nhân Tông. Dưới thời Lý, khoa cử

chủ yếu là chế khoa – những khoa thi mở bất thường theo chiếu chỉ của nhà vua (suốt 216

23

năm triều Lý chỉ tổ chức có 6 kỳ thi). Đến triều Lê, khoa cử chủ yếu là thường khoa (mở

theo thông lệ). Triều Lê sơ dùng khoa cử với mục đích tuyển chọn đội ngũ quan lại có đức

có tài: “Muốn có được nhân tài, trước hết phải lựa chọn kẻ sĩ, mà phép lựa chọn kẻ sĩ trước

hết phải lấy thi cử làm đầu. Nhà nước ta từ thuở xưa loạn lạc, người anh tài như lá mùa

thu, bậc tuấn kiệt như sao buổi sớm. Thái Tổ buổi đầu dựng nước, mở mang nhà học, dùng

cỗ Thái lao để tế Khổng Tử, rất mực sùng Nho, trọng đạo. Nhưng vì nước mới dựng nên

chưa kịp đặt khoa thi. Trẫm nối theo chí hướng người xưa, lo được nhân tài để thỏa lòng

mong đợi” [5; tr319]. Nhà Lê sơ – triều đại đầu tiên trong lịch sử phong kiến đã lần lượt

ban hành các thể lệ, nguyên tắc về thi cử, trở thành chế độ của Nhà nước: “Nay định rõ thể

lệ khoa thi, kỳ thi: Bắt đầu từ năm Thiệu Bình thứ 5 (1438), thi hương ở các đạo, năm thứ

6, thi hội ở sảnh đường tại kinh đô. Từ đấy về sau, cứ 3 năm một lần thi lớn, coi đó làm quy

định lâu dài, người nào thi đỗ đều được ban danh hiệu tiến sĩ xuất thân…” [5; tr319]. Trong

suốt 100 năm, với nguyên tắc “hữu giáo vô loài”, triều Lê sơ đã xây dựng đội ngũ quan lại

bằng khoa bảng nổi trội hơn các giai đoạn phong kiến trước và sau đó, cả về chất lẫn lượng.

Thời Lê sơ tổ chức được 31 khoa thi (với 1007 tiến sĩ) trong tổng số 182 khoa thi (với 2898

tiến sĩ) của cả thời kỳ lịch sử phong kiến.

Khoa cử tiếp tục được thực hiện trong các triều đại về sau, khoa thi cuối cùng diễn

ra ở Bắc Kỳ năm 1915 và Trung Kỳ năm 1918 triều Khải Định nhà Nguyễn. Trong gần

1000 năm chế độ khoa cử phong kiến Việt Nam, đã có hàng ngàn vị Tiến sĩ và 55 Trạng

nguyên được ghi danh, thể hiện rõ ràng con đường khoa cử là con đường rộng rãi để các sĩ

phu bước vào quan trường hành đạo giúp đời.

 Chế độ tiến cử - bảo cử

Chế độ tiến cử và bảo cử thực chất tương tự như nhau chỉ khác về hình thức. Tiến

cử là bản thân người tự tiến cử thấy mình có đủ tài năng, đức độ, đáp ứng được yêu cầu của

công việc thì cự tiến cử mình. Triều đình quyết định chọn lấy người tài đức hơn hẳn mà

không cứ vào thân phận. Bảo cử (hay còn gọi là được tiến cử) là một người muốn ra làm

quan cần phải có người khác (có danh vọng, đang làm quan trong triều) giới thiệu và chịu

trách nhiệm đảm bảo về tài đức của người mình tiến cử trước triều đình.

Theo lệ này, những người tài đức có nguyện vọng gánh vác công việc chung sẽ đươc

nhà vua trọng dụng mà không phải trải qua bất cứ kỳ thi hay sát hạch nào. Điều này rất

24

quan trọng và có ý nghĩa to lớn nhằm khắc phục kịp thời việc thiếu người làm việc trong

bộ máy nhà nước, nhất là trong giai đoạn mới lập nên triều đại, hay trong những hoàn cảnh

xã hội biến động, còn nhiều rối ren không thể tổ chức khoa cử. Với việc bảo đảm bằng uy

tín và trách nhiệm của người tiến cử, người được tiến cử phải là những người có tài năng,

đức độ thực sự, đã có kinh nghiệm quan trường cũng như khả năng thực tế đáp ứng được

yêu cầu công việc đặt ra.

Trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép: “Tiến cử người hiền tài, loại bỏ kẻ bất

tiếu, đó là việc lớn của chính trị. Cho nên, dùng người tài không lưỡng lự, bỏ kẻ gian không

chần chừ… Kể từ nay, các nha môn trong ngoài, nếu có ai liêm khiết, có tài, trung thực

đáng khen thưởng cất nhắc, cùng những kẻ tham lận bỉ ổi, không làm nổi việc, đều phải xét

rõ sự thực, kê tên tâu lên. Ai dám a dua theo nhau, hay vì thù riêng, trao đổi đút lót, mà xếp

đặt không đúng thì sẽ bị trị tội nặng không tha” [5; tr532].

Ngay khi vừa phục hồi nền độc lập cho đất nước, năm 1429, vua Lê Thái Tổ đã

xuống chiếu định rằng các đại thần từ tam phẩm trở lên có bổn phận tiến cử người hiền tài

“hoặc ở trong triều, hoặc ở thôn quê, hoặc đã làm quan, hoặc chưa làm quan…Nếu cử

được người có tài bực trung thì thăng tước hai bậc, nếu cử được người tài đức đều giỏi,

hơn hết mọi người, thì tất được thưởng hậu…” [6; tr72].

Đến thời Lê Thánh Tông, việc tiến cử hay bảo cử được quản lý chặt chẽ bằng luật.

Điều 174 Bộ luật Hồng Đức: “Người bảo cử phải lập hồ sơ về người được bảo cử trình lên

Lại bộ xét. Các quan đứng đầu các nha, môn có chức khuyết, đề cử người mình thấy xứng

đáng với chức đó về Bộ lại. Các quan ở Lại khoa và Ngự sử đài đều ghi chép bản đề nghị

đó, nếu sau này người được đề cử tỏ ra không xứng đáng thì người đề cử sẽ bị trị tội”. Bộ

luật cũng quy định mức hình phạt đối với những ai bảo cử quan lại không xứng chức:

"Những người làm nhiệm vụ cử người mà không cử được người giỏi thì bị biếm hoặc bị

phạt theo luật nặng nhẹ; nếu vì tình riêng hoặc lấy tiền mà bảo cử thì xử tội nặng thêm hai

bậc” [33; tr87].

Từ đời Hồng Đức đến thời Lê Trung Hưng, việc bảo cử được hoàn thiện thêm. Năm

1671, vua Lê Huyền Tông định rằng các quan nhị phẩm có thể tiến cử bốn người, quan từ

lục phẩm đến bát phẩm được tiến cử hai người, tên được kê khai giao cho bộ Lại xét tuyển.

25

Sang thời Nguyễn, dưới triều Minh Mạng, nhà vua rất chú trọng đến lệ bảo cử, đã

ban hành những qui định cụ thể như: các Thượng thư (chánh nhị phẩm) được tiến cử người

giữ chức Bố chánh (chánh tam phẩm); Tham tri lục bộ và Phó Đô ngự sử (cùng tòng nhị

phẩm) được tiến cử người giữ chức Án sát (chánh tứ phẩm); Thị lang lục bộ (chánh tam

phẩm) và ấn quan tam phẩm được tiến cử người giữ chức Tri phủ (tòng ngũ phẩm), đồng

Tri phủ (chánh lục phẩm)… Nhiều quan lại thuộc diện có quyền tiến cử nhưng ngần ngại,

không dám tiến cử vì sợ nhầm người, sẽ bị khiển phạt. Mặt khác, tiến cử những người bất

tài, vô hạnh (không có đức) cũng sẽ bị trừng phạt. Điều này cũng đã từng xảy ra: năm 1836,

khi phủ Hoài Đức khuyết chức Tri phủ, Tham tri bộ Hộ là Vũ Đức Khuê tiến cử người quen

biết là Tri huyện Tô Ngọc Huyền vào chức này. Khoa đạo thấy Ngọc Huyền không phải là

người trong sạch, cẩn trọng mà Đức Huyền cũng cố tiến cử, bèn hặc tấu vua. Vua Minh

Mạng ban chỉ sai Đức Khuê tâu rõ lại, sau thấy tờ tấu có nhiều chỗ chống chế gượng gạo,

không nhận lỗi, liền giao cho bộ Hình bàn xử. Cuối cùng Đức Khuê đang từ hàm tòng nhị

phẩm, bị giáng 3 cấp xuống làm Lang trung, hàm chánh tứ phẩm [15].

1.2.1.2. Chế độ sử dụng quan lại

 Phân công, sắp xếp bố trí quan lại

Trong lịch sử phong kiến nước ta, các vương triều đã đặt ra các chức quan, tuyển

chọn và phân công nhiệm vụ trong triều đình. Mỗi triều đại lại có tổ chức bộ máy triều đình

và địa phương; chức tước, phẩm cấp dành cho quan lại khác nhau. Tuy vậy, các chức quan

chưa thực sự được giao nhiệm vụ rõ ràng cụ thể. Cho đến triều Lê, với cuộc cải cải hành

chính lớn và dụ Hiệu định quan chế của Lê Thánh Tông, ông đã cải cách lại bộ máy chính

quyền trung ương, quy định rõ chức trách của đội ngũ quan lại. Lê Thánh Tông không

những chỉ định rõ những phẩm cấp dành cho quan lại, nhiệm vụ của các tự, các khoa mà

ông còn quy định rõ cơ cấu tổ chức của từng bộ, từng khoa với những chức danh cụ thể.

Phan Huy Chú có bình: “Từ đời Trần trở về trước, chức nào giữ việc gì, không thể khảo

cứu rõ được. Đại khái bộ, viện, sảnh, cục đều có chức việc, nhưng xem ở sử thì sơ lược

không đủ căn cứ. Duy từ đời Lê về sau, mỗi đời có quy tắc đặt thêm, chức ty đều có phân

biệt, mới có chứng cứ để tham khảo” [3: tr573]. Các nhà sử học thường lấy chế độ phân bổ

và sắp xếp quan lại triều Lê như một cơ sở lịch sử để tìm hiểu về việc tổ chức bộ máy quan

26

lại trong triều đình thời xưa. “Vậy nay chép từ đời Diên Ninh triều Lê trở xuống, kế đến chế

độ do các đời sửa sang thêm, rồi về trước cũng có thể do đó mà suy” [3; tr573].

Các triều đại phong kiến Việt Nam thường dựa vào tiêu chí dân số để quy định về

số lượng quan lại. Thời vua Lê Thánh Tông quy định: từ 500 hộ trở lên có 5 xã trưởng; 300

hộ có 4 xã trưởng; 100 hộ có 2 xã trưởng, dưới 60 hộ cử 1 xã trưởng. Năm 1839 thời vua

Minh Mạng thứ 20, lấy số lượng và nhu cầu công việc là tiêu chí cơ bản để quyết định biên

chế, phân bổ số quan lại, các chức trách của quan, lại dần được chuyên môn hóa. Trong chỉ

dụ vua Minh Mạng năm 1831 có viết “Bắc thành 11 trấn rất rộng... việc nhiều, các địa

phương ấy các việc quân dân, kiện tụng, tiền lương, thuế khóa, thực là bề bộn. Cần phải

chiểu theo địa hạt chia người coi giữ có chuyên trách”. Nói theo ngôn ngữ ngày nay thì

người xưa đã dựa vào việc để định số lượng người chứ không phải dựa vào lượng người để

định việc, đã áp dụng chế độ “công vụ theo việc làm” [16].

Bên cạnh đó, pháp luật phong kiến Việt Nam còn áp dụng “Luật hồi tỵ” đối với quan

lại bắt đầu từ triều Lê sơ, sau đó triều Nguyễn có thêm những quy định chặt chẽ và rõ ràng

hơn. “Hồi tỵ” nghĩa là tránh ra, hay lánh đi. Theo đó, những người có quan hệ huyết thống,

đồng hương, thầy trò, bạn bè không được cùng làm quan hay làm việc ở một địa phương,

công sở. Nội dung chính của “hồi tỵ” là: quan lại không được lấy vợ, kết làm thông gia với

người ở nơi mình cai quản; không đưa quan lại về quê hương, bản quán nhậm trị; quan lại

không được tậu đất, vườn, ruộng, nhà tại nơi cai quản; quan lại không được lấy người cùng

quê làm người giúp việc; người có quan hệ thầy trò, bạn bè không được làm việc tại cùng

một nơi. Trong Chiếu tháng 9 năm 1488 của Hồng Đức có quy định việc sắp đặt quan lại

tránh quan hệ họ hàng: “Khi xét đặt xã trưởng, hễ là anh em ruột, con chú bác và bác cháu,

cậu cháu với nhau thì chỉ có một người làm xã trưởng, không được cùng làm để gây mối tệ

bè phái hùa nhau”. Những quy định này nhằm tạo nên một chế độ quan lại liêm chính,

không bị chi phối bởi quan hệ họ hàng, dòng tộc, làng – xã mà làm sai lệch việc công hay

tham nhũng.

Thời vua Minh Mạng quy định: quan vào chầu triều mà bàn đến việc có liên quan

đến địa phương mình thì phải tránh mặt. Lại dịch ở tất cả các nha môn, hễ có bố con, anh

em ruột, anh em con chú bác cùng làm phải đổi nơi khác (trừ Thái y viện không hồi tỵ, vì

nghề thuốc nên cha truyền con nối). Lại dịch ở các nha mà người cùng làng cũng phải đổi

27

đi nơi khác, lại ở huyện nào thì không được làm ở đấy. Người làm quan không được làm

quan ở chính quán, trú quán, quê vợ, thậm chí nơi lúc nhỏ đi học. Đây chính là chế độ bảo

đảm cho sự khách quan, trung thực trong giải quyết các công việc của nhà nước, tránh thiên

vị, nể nang, hay thù oán, làm mất tính khách quan khi đưa ra các quyết định.

 Luân chuyển, giản thải quan lại

Đối với đội ngũ “quan”, nhà nước phong kiến Việt Nam áp dụng chế độ thuyên

chuyển, điều động; nhưng “lại” thì giữ ổn định, áp dụng chế độ "quan khứ nha tồn” – “quan”

thì thực hiện luân chuyển điều động giữa các vùng, còn “nha” (tức “lại”), thì giữ ổn định

tại vùng đó. Để tạo môi trường mới, phát huy được tính năng động, sáng tạo của người làm

quan, đồng thời để tránh những trì trệ, hoặc kéo bè, kéo cánh, phe phái, tham nhũng, nhà

nước phong kiến Việt Nam đã áp dụng chế độ thuyên chuyển các quan. Nhưng việc thuyên

chuyển chỉ thuần túy là thuyên chuyển về không gian, địa điểm làm quan, mà không chuyển

tính chất công việc làm quan, ví dụ quan tri phủ ở phủ này chuyển đi làm tri phủ ở phủ

khác, hoặc làm tri huyện.

Chế độ luân chuyển quan lại, theo sử cũ có từ thời Ngô Quyền. Sau chiến thắng Bạch

Đằng năm 938, Ngô Quyền xưng vương, những quan lại thân cận được phân phong về các

địa phương cai trị. Hoạt động luân chuyển quan lại dưới thời Lý trở nên rõ ràng, diễn ra đa

chiều hơn các thời kỳ trước đó. Việc luân chuyển có thể diễn ra đối với từng vị trí ở trung

ương, có thể là sự điều động từ trung ương xuống địa phương và ngược lại. Các địa phương

quan trọng đều do quan lại cao cấp ở trung ương điều về, sau một khoảng thời gian lại được

điều động về kinh, kèm theo đó thường là sự gia phong chức tước. Hoạt động thăng giáng

diễn ra bình thường, có công được phong, có tội bị giáng, thậm chí bị cách hết mọi chức

tước, nhưng sau đó lại vẫn có thể được phục hồi như cũ. Dưới thời Trần, việc luân chuyển

quan lại diễn ra thường xuyên hơn, được thực hiện bằng các quy định cụ thể của Nhà nước.

Dưới thời Lê Thái Tổ, do không được kế thừa trực tiếp tổ chức bộ máy nhà nước

của triều đại trước, nên ngay sau khi giành được độc lập, công tác xếp đặt quan lại được

tiến hành khẩn trương. Đến thời Lê Thánh Tông, việc luân chuyển quan lại được xác lập

thành một chính sách rõ ràng. Năm Quang Thuận thứ 8 (1467), Lê Thánh Tông quy định

“người nhận chức ở tại nơi biên giới xa phải đủ 9 năm mới được đổi về các huyện dưới

kinh” [5; tr242]. Đến đầu năm sau (1468), thể lệ điều động quan lại giữa các địa phương

28

được sửa lại, theo đó, những quan viên nhậm chức biên cương xa xôi, nếu hoàn thành nhiệm

vụ thì “đủ hạn 6 năm thì cho chuyển về nơi đất lành” còn nếu không hoàn thành nhiệm vụ

thì “lại phải bổ đi miền biên cương xa, đủ 6 năm nữa mới được quyết định lại” [5; tr423].

Việc điều động quan địa phương một mặt đảm bảo chính sách đãi ngộ thỏa đáng, mặt khác

cũng chú trọng luân chuyển liên tục để tránh sự cát cứ lộng hành. Chính yếu tố này góp

phần làm vững mạnh, trong sạch bộ máy quan lại dưới thời Lê Thánh Tông, một yếu tố góp

phần vào sự hùng mạnh của quốc gia Đại Việt thời kỳ này.

Quan lại nếu không đáp ứng được nhu cầu của nhà nước, hoặc bất tài đều bị bãi. Lệ

thải quan viên gồm 3 điều ban bố vào năm Hồng Đức thứ 9 (1478) chỉ rõ, quan viên nếu

“hèn kém... đần độn bỉ ổi, không làm nổi việc” thì “đều bắt phải nghỉ việc”; chọn người “có

tài năng, kiến thức, quen thạo việc mà bổ vào thay”. Những quan xét người hay dở mà sai

sự thực thì “Ngự sử đài, Lục khoa, Hiến ty kiểm xét hoặc tâu để trị tội” [5; tr472].

Khi thấy bộ máy quan lại phình to, tốn kém thì vua chủ trương giảm bớt bằng cách

tiến hành rà soát đội ngũ quan lại, những ai đã từng phạm tội, hối lộ, đã bị xử biếm, giáng...

mà còn đang đương chức thì cho thôi việc, để triệt quan tham nhũng, cho bớt lộc. Lê Thánh

Tông thực hiện chế độ nghỉ việc đối với quan lại lớn tuổi, thể hiện trong sắc chỉ ngay từ

năm thứ ba sau khi lên ngôi “các quan viên văn võ làm việc đến 65 muốn nghỉ việc, các lại

điển, giám sinh, nho sinh, sinh đồ tuổi từ 60 trở lên muốn về làm dân, thì đều cho người đó

nộp đơn ở Lại bộ”. Điều này vừa thể hiện sự đãi ngộ của triều đình, vừa tạo cơ hội để trẻ

hoá, nâng cao chất lượng đội ngũ quan lại.

 Kiểm tra, giám sát quan lại

Việc thực hiện kiểm tra, giám sát nhằm đánh giá đội ngũ quan lại trong lịch sử phong

kiến được thực hiện bắt đầu từ triều Lý. “Lý Anh Tông, năm Đại Định thứ 23 (1162), khảo

khóa các quan văn võ, không có tội lỗi thì được thăng trật, cứ 9 năm một khóa, định làm

phép thường. Cao Tông, năm Trinh Phù thứ 4 (1179), xét công các quan, lấy những người

văn học tài cán làm một loại, những người tài cao nết tốt, biết suốt việc xưa nay làm một

loại, những người không thông văn học mà siêng năng tài cán làm một loại, sai trị dân

quản dân. Quan đều đáng tài, không có nhũng lạm” [3; tr692]. Dưới triều Lý, lần đầu tiên

trong lịch sử phong kiến nước ta thực hiện khảo công (sau gọi là khảo khóa) đội ngũ quan

lại với niên hạn 9 năm một lần.

29

Nhà Trần cũng rất chú trọng xây dựng các cơ quan kiểm tra, giám sát đội ngũ quan

lại. Ở Triều đình có Ngự sử đài – cơ quan thực hiện chức năng giám sát; bên cạnh đó còn

có các Đăng văn kiểm sát viện và các quan Gián nghị đại phu. Các ngạch quan xử án gọi

là Kiểm pháp quan được lựa chọn trong số những quan lại thanh liêm. Sau chiến tranh

chống quân Nguyên – Mông, triều Trần còn tăng cường thêm bộ phận kiểm tra, giám sát ở

các phủ, lộ, đặt thêm các Ty liêm phóng.

Bằng việc thực hiện chế độ khảo công các triều đại đánh giá và xem xét năng lực,

trình độ, thái độ của đội ngũ quan lại trong triều. “Trần Thái Tông, năm Thiên Ứng Chính

Bình thứ 15 (1246), xét quan văn võ trong ngoài, 15 năm một lần xét, định 10 năm gia tước

một cấp, 15 năm gia chức một bậc. Quan nào khuyết thì lấy chức chánh kiêm chức phó;

chánh phó đều khuyết thì lấy quan khác thay thế, đợi đủ niên hạn mới cho thực thụ” [3;

tr692].

Đến thời vua Lê Thánh Tông, hệ thống cơ quan thực hiện giám sát dày đặc, với cơ

chế chặt chẽ và biện pháp quyết liệt nên việc thực hiện kiểm tra, giám sát đem lại hiệu quả

cao hơn. Với cách thức tổ chức bộ máy hành chính nhà nước gồm Lục bộ, Lê Thánh Tông

cho lập ra Lục khoa và Ngự sử đài để thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát công việc Lục

bộ. Lục khoa gắn liền với công việc của Lục bộ là: Lại khoa, Lễ khoa, Hộ khoa, Binh khoa,

Hình khoa và Công khoa. Hệ thống cơ quan Ngự sử đài gồm Ngự sử đài ở trung ương và

Giám sát ngự sử ở 13 thừa tuyên. Với các cơ quan kiểm tra, giám sát như vậy ông đã kiểm

tra, giám sát chặt chẽ bộ máy hành chính ở tất cả các cấp.

Bộ máy kiểm tra, giám sát dưới triều vua Lê Thánh Tông thực hiện nhiệm vụ can

gián nhà vua, giám sát việc làm của các quan; xem xét việc xử các vụ án và tham gia tuyển

chọn đội ngũ quan lại. Việc tuyển chọn quan lại do Bộ Lại chịu trách nhiệm chính, Ngự sử

đài xem xét, kiểm tra. Trong quá trình làm việc, quan lại Thừa ty, Hiến ty xét công, tội các

quan phủ, huyện để trình lên Bộ Lại sau khi thực hiện việc khảo khoá tại các địa phương,.

Ngự sử đài xét công, tội của của quan lại các xứ.

Khảo thí, khỏa khóa là một biện pháp tiến hành nhằm thực hiện kiểm tra, giám sát

quan lại được nhiều vương triều thực hiện trong thời phong kiến. Đây là cách thức kiểm tra

trình độ, năng lực, kiến thức, kỹ năng và phẩm chất đạo đức của đội ngũ quan lại mang lại

hiệu lực, hiệu quả cao trong quá trình đội ngũ quan lại thực hiện nhiệm vụ. Dưới thời Lê

30

Thánh Tông, kết quả khảo thí, khảo khóa còn là cơ sở cho việc thực hiện các chế độ thăng

– giáng, thưởng – phạt quan lại trong triều. Do vậy, lệ khảo thí, khảo khóa được thực hiện

đều đặn theo niên hạn ba năm một lần.

Như vậy, dưới triều Lê Thánh Tông, việc thực hiện cải cách hành chính không chỉ

làm hoàn thiện hơn bộ máy nhà nước, quy định cụ thể, rõ ràng chức năng, nhiệm vụ từng

cơ quan, bộ phận mà còn đặt ra những chế độ quan lại nghiêm ngặt, nhất là trong việc thực

hiện kiểm tra, giám sát quan lại. Việc kiểm tra, giám sát quan lại được Vua Lê Thánh Tông

đặc biệt quan tâm bằng việc định ra phép khảo khóa, khảo thí để đánh giá trình độ, năng

lực, phẩm chất quan lại theo niên hạn, lấy đó làm cơ sở thăng giáng chức quan và ban bổng

lộc.

Sau triều Lê Thánh Tông, các triều đại về sau cũng theo lệ thực hiện lệ khảo thí,

khảo khóa để kiểm tra, giám sát nhằm đánh giá thường xuyên trình độ, năng lực và phẩm

chất của đội ngũ quan lại trong triều. Tuy vậy, mỗi triều đại có niên hạn và cách thức cũng

như nội dung thực hiện khảo thí, khảo khóa khác nhau.

 Chế độ đãi ngộ và thưởng, phạt quan lại

“Lệ bổng lộc buổi đầu nhà Trần, cấp bậc chưa tường, nói là theo thứ lớp ban cấp,

quy chế cũng không khảo được” [3; tr643]. Từ triều vua Lê Thánh Tông trở đi, bổng lộc

của quan lại được quy định theo chức tước, phẩm hàm và theo khối lượng công việc, trả

lương theo việc làm và công trạng. Bên cạnh chế độ tiền lương, các triều đình phong kiến

còn áp dụng chế độ tiền “dưỡng liêm”, để cấp cho những viên quan cai trị gần dân như tri

phủ, tri huyện, nhằm khuyến khích “đức thanh liêm”, nhưng không phải cấp đồng đều cho

tất cả tri phủ, tri huyện.

Ngoài tiền bổng lộc, quan lại còn được cấp một số đất làm vườn mà chủ yếu là “lộc

điền”. “Phàm những người hoàng tộc, các quan văn, quan võ, và phụ nữ quan đều được

nhà vua định thể lệ cấp cho ruộng, bãi đất trồng dâu, tiền mặt thay thế cho đầm (hồ hoặc

đầm) và thổ trách vườn ao, đều có đẳng cấp khác nhau. Những người được ban cấp sau

khi chết phải chiêu sổ đã cấp trả lại quan. Nếu người nào có tài đức công lao được vua đặc

ân ban cho ruộng đất thế nghiệp để truyền cho con cháu, thì lúc bấy giờ sẽ xin chỉ chuẩn

của nhà vua, không phải là thể lệ thường hành”[36; tr37]. Chính sách ban cấp lộc điền triều

Lê sơ được ban hành thành quy chế hoàn chỉnh vào năm 1477 dưới thời vua Lê Thánh

31

Tông, quy định theo phẩm hàm và chức tước, quan phẩm càng cao thì càng được cấp nhiều

đất.

Cùng với những đãi ngộ quan lại về vật chất, triều Lê sơ còn chú trọng dành cho

quan lại nhiều đặc ân, đặc quyền và nhiều cơ hội thăng tiến (thăng thưởng phẩm cấp, chức

tước). Quan lại mẫn cán, được thăng thưởng, khi tuổi cao sẽ được hưởng lệ trí sĩ – gia

phong tước, bậc, tôn vinh trước triều đình, cho hưởng nguyên bổng lộc và về quê nghỉ ngơi

an dưỡng. Những quan chức tài năng, thẳng thắn, công minh, thanh liêm và cần mẫn không

những khi sống được trọng dụng, thăng chức mà khi chết còn được nhà nước truy phong,

truy tặng danh hiệu, chức tước, được vua sức cho dân một số làng thờ phụng làm thành

hoàng…

Triều Lý, 9 năm quan lại được thăng trật một lần, dựa vào việc “xét công các quan,

lấy người văn học tài cán làm một loại, những người tài cao nết tốt biết suốt việc xưa nay

làm một loại, những người không thông văn học mà siêng năng tài cán làm một loại, sai trị

quản dân”; triều Trần “15 năm một lần xét, định 10 năm gia tước một cấp, 15 năm gia chức

một bực. Quan nào khuyết thì lấy chức chánh kiêm chức phó, chánh phó đều khuyết thì lấy

quan khác thay thế, đợi đủ niên hạn xét công mới cho thực thụ” [3; tr692]. Đến triều Lê sơ,

lệ cứ ba năm một lần sơ khảo, sáu năm tái khảo và chín năm thông khảo định công thăng

thưởng. Lệ này được quy định rõ ràng trong lệ khảo khóa triều Lê.

Chế độ quan lại thời phong kiến còn chú trọng đến trách nhiệm của các quan lại

trong việc thừa hành công vụ. Trong Quốc triều Hình luật – Luật Hồng Đức được ban hành

dưới thời vua Lê Thánh Tông, có nhiều quy định mang tính chất trừng trị nghiêm khắc như:

phạt do để chậm trễ chiếu chỉ, công văn giấy tờ (Điều 23), quan do vô tình dùng dằng để lỡ

việc, nếu việc nhỏ xử tội biếm, công việc hàng tháng xử tội đồ, việc lớn tức là công việc

hàng năm xử tội lưu (Điều 136). Ngoài ra còn có các quy định khác: đối với quan tại chức,

không đến nơi làm việc mà không có lý do thì bị xử phạt biếm hoặc bãi chức (Điều 4), nếu

ở sở làm việc mà ngồi không đúng phép sẽ bị xử tội biếm hoặc phạt tiền (Điều 23).

Dưới triều vua Minh Mạng việc thưởng, phạt rất nghiêm minh, quan lại có công thì

được ban thưởng lớn, có tội đều bị xử phạt nghiêm minh, điển hình như, năm 1838 vua

Minh Mạng đã cách chức Thượng thư Bộ Lễ về lỗi không kiểm tra, đôn đốc để người dưới

32

quyền không trông nom, bảo quản đồ thờ trong nhà Thế miếu, để bọn Giám thủ đánh tráo

từ vàng thật thành vàng giả.

Tóm lại, dưới thời phong kiến ở Việt Nam, chế độ tuyển chọn và sử dụng quan lại

có nhiều sự kế thừa và phát triển giữa các triều đại. Càng về sau, các vương triều càng chú

ý hơn đến việc trọng dụng nguồn nhân tài sẵn có của đất nước, các chế độ đối với quan lại

càng có nhiều ưu ái và đãi ngộ tốt hơn, giúp đội ngũ quan lại hạn chế được phần nào nạn

hối lộ, tham ô, tham nhũng, tập trung vào thực hiện công việc triều chính được giao. Trong

những chế độ đối với quan lại, chế độ kiểm tra, giám sát bằng lệ khảo thí, khảo khóa là hoạt

động nhận được nhiều sự quan tâm nhất. Đội ngũ quan lại ngày càng được kiểm tra, giám

sát thường xuyên theo những quy định nghiêm ngặt, chặt chẽ của lệ khảo thí, khảo khóa.

Như vậy, có thể thấy rõ hiệu quả của việc kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại với việc nâng

cao chất lượng đội ngũ quan lại trong triều thời bấy giờ.

1.2.2. Sơ lược về lệ khảo thí, khảo khóa

Các triều đại phong kiến Việt Nam đều nhận thức rất rõ về tầm quan trọng quyết

định sự thịnh suy của quốc gia là do đội ngũ quan lại tốt hay kém. Người làm quan đương

nhiên là phải có đức, có tài; chức quan càng cao thì đòi hỏi về đức, tài càng lớn. Với nhận

thức sâu sắc về vai trò thiết yếu của đội ngũ quan lại, các triều đại phong kiến đã sớm đưa

việc khảo xét năng lực của quan lại từ trung ương đến địa phương trở thành một hoạt động

cần thiết. Hoạt động khảo xét năng lực quan lại định kì nhằm đánh giá, xem xét phẩm chất

đạo đức, năng lực của từng quan lại, trên cơ sở đó thực hiện thăng thưởng những người có

đạo đức, nhân cách, trách nhiệm công vụ và có công, đồng thời biếm phạt những quan lại

vô đức, vô tài.

Chế độ khảo công của nước ta bắt đầu được thực hiện từ đời vua Lý Thái Tông

(1051). Sau đó đến đời vua Lý Anh Tông, năm Đại Định thứ 23 (1162) áp dụng chế độ sát

hạch lại (khảo khóa) đối với quan văn – quan võ; không có tội lỗi thì được thăng trật, cứ 9

năm làm một khóa, định làm thông lệ. Năm 1179, Lý Cao Tông thực hiện khảo xét công

trạng các quan, phân ra các nhóm đánh giá khác nhau, tùy trao chức vụ. Cụ thể: “lấy những

người văn học tài cán làm một loại, những người tài cao nết tốt, biết suốt việc xưa nay làm

một loại, nhưng người không thông văn học mà siêng năng tài cán làm một loại, sai trị dân

quản dân. Quan đều đáng tài, không có nhũng lạm” [3; tr692]. Điểm mới trong quá trình

33

sử dụng quan lại của thời Lý là triều đình biết phân loại các quan lại để khảo xét và trao

chức vụ phù hợp với năng lực của từng người.

Thời Trần thực hiện việc khảo khóa theo lệ “xét quan văn võ trong ngoài, 15 năm

một lần xét, định 10 năm gia tước một cấp, 15 năm gia chức một bực. Quan nào khuyết thù

lấy chức chánh kiêm chức phó; chánh phó đều khuyết thì lấy quan khác thay thế; đợi đủ

niên hạn xét công mới cho thực thụ” [3; tr692]. Đối tượng thực hiện khảo khóa là các quan

văn võ ở địa phương. Khảo khóa thời Trần được thực hiện trên các tiêu chí về đức hạnh,

trung hiếu và tài cán. Như vậy, dưới thời Trần, để thực hiện chính sách đối với quan lại

(điều động, luân chuyển) cần phải trải qua một quy trình đánh giá, xem xét năng lực làm

việc trong thời gian dài. Phan Huy Chú bình luận về khảo khóa thời Lý – Trần “Phép khảo

khóa đời Lý đời Trần, niên hạn đều chậm lâu. Nhà Lý lấy 9 năm làm một khóa, còn là phép

đời xưa. Đến như nhà Trần lấy 15 năm một lần xét, thì chậm trễ quá” [3; tr692].

Nhìn chung, thời Lý – Trần đã có biện pháp thường xuyên để kiểm tra nhân cách,

năng lực quan lại; sự thưởng phạt, thăng giáng trong sử dụng quan lại cũng rất được quan

tâm. Nếu như ở thời Lý, quan lại chỉ được "giao dân một vùng làm thuộc dịch cày cấy, đánh

cá lấy lợi” (nghĩa là quan lại chỉ được hưởng lợi từ kết quả lao động của người dân nơi

mình cai quản) thì thời Trần bắt đầu có lương bổng và quan lại được phụ thêm một khoản

nào đó. [40; tr123]. Chế độ thưởng phạt thời Lý – Trần còn đơn giản, đôi khi phụ thuộc vào

tình cảm chủ quan của Vua, nhưng nói chung là nghiêm phép nước và công bằng.

Thời Lê sơ (1428 – 1527) việc thực hiện chế độ quan lại và lệ khảo khóa đã có nhiều

chuyển biến tích cực. Năm 1428 Lê Thái Tổ đã ra chỉ dụ cho các đại thần xét các quan làm

việc trong ngoài. “Bậc nhất là văn võ tài cán làm việc nhanh, bậc nhì là biết chữ tài cán

làm việc nhanh, bậc ba là viết chữ chân chữ thảo và tính toán giỏi. Ngoài ra không vào ba

bậc trên thì cho cả vào một bậc” [3; tr693]. Năm 1434, Lê Thái Tông ra chỉ dụ cho các

chức hành khiển năm đạo và các chức tổng quản tuyên úy các trấn về nhiệm vụ sát hạch

quan lại dưới quyền: “Công trạng của các quan lộ, trấn, huyện thì giao cho hành khiển bản

đạo sát hạch, của tướng hiệu các trấn thì giao cho tổng quản và tuyên úy bản đạo sát hạch,

của các quan sảnh, viện, cục thì giao cho thiếu bảo, hữu bật sát hạch của các quan nội điện

tả hữu ban thì giao cho áp nha hữu ban và Nội mật viện sát hạch, đều chia làm 3 bậc, cốt

cho rõ ràng xác đáng, không được thiên tư, điên đảo” [3; tr693].

34

Việc khảo xét năng lực cùng tính liêm khiết, mẫn cán của quan lại là cơ sở để thăng,

giáng hoặc thải loại quan lại. Việc này đã được Lê Thánh Tông định thành luật lệ chặt chẽ.

Năm 1470, Lê Thánh Tông định lệnh khảo khoá quan viên dưới quyền cai quản; năm 1478

định lệnh giảm thải những quan lại hèn kém không làm được việc và chọn người có tài chí

bổ thay vào; năm 1488 ban lệ khảo khoá cứ 3 năm một lần sơ khảo (xét kỳ đầu), 9 năm

thông khảo (xét cả lại) rồi mới thi hành thăng, giáng; năm 1489 ra sắc chỉ định rõ, người

nào chưa đủ hạn khảo khoá mà già cả không làm nổi thì việc lựa thải về, người nào dám

chạy vạy thì theo luật trị tội. Tất cả các quan chức đều phải chịu khảo khoá để đánh giá hiệu

quả, chất lượng công việc của mỗi người. Những quan lười biếng, bỉ ổi, yếu hèn, nếu là con

cháu công thần thì bãi chức sung quân nhờ vậy mà tệ tham nhũng giảm đi đáng kể.

Lệ khảo khóa quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông đã được xây dựng quy củ, thực

hiện nghiêm minh, công bằng và có hiệu quả lớn đối với việc củng cố bộ máy hành chính

nhà nước. Lê Hiến Tông tiếp tục thực hiện lệ này để cai trị đất nước. Liên tục trong hai năm

1498, 1499 nhà vua ban hành các văn bản quy định rõ việc khảo khóa và khẳng định rõ

mục đích quan trọng của việc khảo khóa, không chỉ để phân biệt người hay kẻ dở, tỏ rõ

việc khuyên răn mà còn truất người hèn, thăng người giỏi…

Đến thời Lê Trung Hưng, sau khủng hoảng chính trị, nhà nước Lê – Trịnh được thiết

lập ở Đàng ngoài vẫn tiếp tục thực hiện lệ khảo khóa nhằm đánh giá, xem xét năng lực,

phẩm chất quan lại trong triều đình. Nhiều triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện lệ khảo

khóa và đặt ra thời hạn khảo khoá dài ngắn khác nhau. “Từ Trung hưng về sau, lệ khảo

khóa thăng giáng, niên hạn không giống nhau. Như từ đời Đức Long, Cảnh Trị trở về trước,

cứ đến cuối năm xét công kỳ hạn cấp bách quá. Đầu đời Chính Hòa mới định 3 năm làm

một khóa. Từ năm thứ 6 về sau lại theo phép thăng giáng 9 năm của đời Hồng Đức. Đến

thời Vĩnh Thịnh, Bảo Thái lại lấy 3 năm mà định đoạt. Đại khái là theo chính sách đương

thời rộng hay ngặt mà đặt ra niên hạn khảo khóa” [3; tr699].

Nhà Nguyễn – triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam thực hiện việc

tuyển chọn và đánh giá chất lượng quan lại cũng rất bài bản, nhất là dưới thời vua Minh

Mệnh. Minh Mệnh dùng người dựa chủ yếu trên cơ sở đánh giá tài năng; luôn coi trọng

công tác kiểm tra, khảo xét nặng lực quan lại các cấp. Nếu là người có tài, cho dù là con

cháu của những người làm quan như trường hợp dòng họ Phan Huy ở Sài Sơn (Hà Tây)

35

ông vẫn trọng dụng. Còn những người không có tài năng, mặc dù là người thân cận, gần

gũi, ông cũng không trọng dụng và tha thứ khi có lỗi lầm. Nâng lên thành quy chế trong

chính sách quan lại, đó là chế độ khảo khoá hay khảo công, tức là việc xét thành tích của

các quan viên theo định kì, theo khoá. Cứ 3 năm một lần, quan lại các cấp phải làm một

bản lý lịch tự trình bày công trạng và khuyết điểm để nhà nước đánh giá quá trình làm việc

của họ; trên cơ sở đó thăng thưởng những người mẫn cán, có năng lực và có công; biếm

phạt những quan lại kém năng lực. Đánh giá để bổ dụng và đánh giá để thăng giáng có sự

khác nhau. Đánh giá quan lại đương chức chủ yếu dựa vào thành tích và năng lực thực tế

của người làm quan trong mối quan hệ với đời sống nhân dân nơi họ phụ trách; coi trọng

sự đánh giá của nhân dân với quan hơn là giữa các quan với nhau; đánh giá của cấp trên

với cấp dưới cần tiến hành một cách định kì, thường xuyên và đi vào thực chất. Đây là một

động lực thúc đẩy quan lại phấn đấu và là cơ chế kìm hãm nạn tham nhũng.

Phan Huy Chú có nhận định rằng, “Phép khảo khóa của nhà Lê rất là tinh mật, từ

khi khai quốc thì rất rõ ở đời Hồng Đức, từ khi Trung hưng về sau thì rất nghiêm ở Chính

Hòa, Vĩnh Thịnh. Người thanh liêm chăm chỉ tất được khen thưởng, người hèn kém thì tức

truất bỏ. Các quan cố gắng, chính sự sáng sửa, cho nên nói đến đời trị, ở trước thì đời

Hồng Đức là hơn cảm mà ở sau Trung hưng thì đời Chính Hòa, Vĩnh Thịnh là thịnh nhất.

Thực là vì có đủ phép thưởng phạt vậy.” [3; tr700].

Như vậy, chế độ khảo khóa thời phong kiến ở nước ta bắt nguồn từ thời Lý (thế kỷ

XI). Thời hạn khảo khóa thay đổi theo từng triều đại và triều vua (có thể từ 1 đến 15 năm

một lần). Thời Lê – Trịnh phổ biến là 3 năm, chia thành hai giai đoạn: sơ khảo (xét công

trạng hàng năm) và thông khảo (sau ba năm). Cấp trên xem xét cấp dưới. Bộ Lại là cơ quan

quyết định kết quả khảo khóa. Trường hợp đặc cách, không cần phải đợi đến niên hạn. Tiêu

chuẩn xét duyệt thường dựa vào việc hoàn thành trách nhiệm (thuế hộ đủ hay thiếu), năng

lực cai trị (việc kiện tụng ít hay nhiều), tín nhiệm của dân chúng (nhân dân yêu mến hay

kêu ca), phẩm chất đạo đức (không mắc lỗi hay mắc lỗi, thanh liêm hay tham nhũng). Thời

Lý, xếp các quan chức thành các hạng: người có văn học, người có nết tốt, người siêng

năng. Thời Lê – Trịnh, chia thành 3 bậc: thượng (tốt), trung (trung bình), hạ (xấu). Căn cứ

vào kết quả xếp loại, quyết định thưởng phạt với các hình thức: thăng chức (từ 1 đến 2 bậc),

thưởng tiền, biếm giảng (từ 1 đến 2 bậc), đổi đến nơi ít việc, buộc về hưu, bãi chức.. [42;

36

tr493]. Trường hợp có công hay phạm tội lớn thì không cần phải đợi đến niên hạn. Chế độ

khảo khóa của nhà nước phong kiến Đại Việt đã đóng vai trò quan trọng trong việc chấn

chỉnh tinh thần trách nhiệm đội ngũ quan lại trong thi hành công vụ. Triều đại nào thực hiện

tốt phép khảo khóa thì thịnh trị, thời đại nào buông lỏng thì nhanh chóng gặp hạn chế trong

quản lý quan lại triều đình.

1.3. Tính kế thừa có chọn lọc của lịch sử hành chính

1.3.1. Quy luật của tính kế thừa lịch sử

“Kế thừa” là khái niệm được sử dụng phổ biến trong nhiều ngành khoa học khác

nhau trong đó có khoa học hành chính. Theo Từ điển Tiếng Việt, “kế thừa” được hiểu là

việc thừa hưởng, giữ gìn và tiếp tục phát huy (đối với những thứ có giá trị tinh thần) [29;

tr486]. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng, khái niệm kế thừa không đứng riêng mình nó

mà thường đi cùng với khái niệm “phát triển”, đây là hai khái niệm được sử dụng song hành

để bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau.

Trong khoa học hành chính nói chung và lịch sử hành chính nói riêng, kế thừa là sự

bảo tồn và duy trì những đặc điểm, đặc tính ưu việt của một chế độ, một chính sách có trong

chế độ và chính sách mới. Kế thừa là mối liên hệ tất yếu, khách quan giữa cái mới và cái

cũ trong quá trình phát triển, là một trong những nét cơ bản nhất của sự phát triển mọi ngành

khoa học, trong đó có khoa học hành chính. Phát triển không chỉ là sự bảo tồn mà còn là sự

mở rộng, bổ sung, sự hoàn thiện và nâng cao những đặc điểm, đặc tính vốn có trong mỗi

chế độ, chính sách. Như vậy, để phát triển lịch sử hành chính luôn cần có sự kế thừa, tức là

bảo tồn, duy trì những đặc điểm, đặc tính ưu việt vốn có của một chế độ, chính sách; trên

cơ sở đó mở rộng, nâng cao trình độ; còn phát triển chính là sự kế thừa đạt đến độ hoàn

thiện, thể hiện tính tích cực nhất.

Trong lịch sử nhận thức khoa học, các hình thức kế thừa và phát triển của lý thuyết

khoa học rất đa dạng: có những lý thuyết mới là sự bổ sung, hoàn thiện các lý thuyết cũ; có

lý thuyết mới là sự mở rộng một lý thuyết cũ; nhưng cũng có lý thuyết mới là sự kết hợp

của hai lý thuyết đối lập nhau... Đối với lịch sử hành chính, mỗi chế độ, chính sách mới ở

mỗi triều đại được ban hành đều được xây dựng dựa trên sự bổ sung, hoàn thiện một hoặc

nhiều chế độ, chính sách của các triều đại trước; hoặc dựa trên cơ sở sự thiếu hụt chế độ,

37

chính sách của các triều đại trước để xây dựng chế độ, chính sách mới nhằm đảm bảo quá

trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Tính kế thừa trong lịch sử có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng và

phát triển đất nước qua mỗi giai đoạn khác nhau. Mỗi triều đại mới được xây dựng không

bao giờ loại bỏ hoàn toàn những chế độ, chính sách cũ mà triều đại trước đã sử dụng mà

bao giờ cũng kế thừa những mặt tích cực của triều đại cũ vẫn còn phù hợp. Trên cơ sở kế

thừa những chế độ, chính sách của triều đại cũ; các triều đại mới không ngừng bổ sung và

hoàn thiện chế độ, chính sách đó cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử đương thời

của triều đại mình nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển hưng thịnh quốc gia.

Thật vậy, trong lịch sử khoa học hành chính, tư tưởng xây dựng nhà nước pháp

quyền được xuất hiện từ thời cổ đại được nhiều quốc gia kế thừa và phát triển cho đến ngày

nay. Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà tư tưởng đã nêu lên những khía cạnh này hay khía cạnh

khác của nhà nước pháp quyền và mong muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền với khát

vọng về một mẫu hình nhà nước lý tưởng, nơi con người được hưởng cuộc sống thái bình

trong sự quan tâm của nhà nước. Sang thời phong kiến, nhiều quốc gia vẫn cố gắng xây

dựng nhà nước pháp quyền thông qua việc xây dựng và thể hiện các quan điểm về pháp

luật, nhà nước, đạo đức trong thuyết đức trị và pháp trị. Đến thời kỳ cách mạng dân chủ tư

sản, những tư tưởng quý báu đó đã được áp dụng ở các mức độ, phạm vi khác nhau ở nhiều

nước tư sản. Cho đến ngày nay, xu thế chung của nhiều quốc gia trên thế giới đang theo

đuổi vẫn là xây dựng nhà nước pháp quyền. Việt Nam ta đã và đang hướng tới xây dựng

một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với việc thượng tôn pháp luật, mọi hoạt động

đều chịu sự kiểm soát và điều chỉnh của pháp luật nhằm tạo ra một khung pháp lý đồng bộ,

thống nhất trong cả nước và một nhà nước tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người

trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, một nhà nước có quan hệ bình đẳng pháp lý và trách

nhiệm với mỗi cá nhân.

Thực tiễn trong tổ chức nhà nước ta thời kỳ phong kiến, mặc dù những nhân tố về

nhà nước pháp quyền không đậm nét như các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới,

song vẫn tồn tại đủ để nhận thấy quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta đã

được hình thành và liên tục xây dựng, củng cố qua thời gian. Hưng Đạo Đại Vương Trần

Quốc Tuấn được lịch sử ghi nhận với tư tưởng thượng sách giữ nước bằng đường lối chính

38

trị “khoan dân” - phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đây được coi là đỉnh

cao của tư tưởng dân tộc với việc coi trọng nhân dân trong thời bình để xây dựng một xã

hội yên bình, thịnh trị. Sang thời vua Lê Thánh Tông, trên lập trường dân tộc và yêu nước,

đường lối trị quốc kết hợp với lễ trị và pháp trị, ông đặc biệt quan tâm đến đời sống vật chất

của nhân dân. Thêm vào đó, dựa vào lý luận Nho giáo, Lê Thánh Tông đã xây dựng một

thiết chế và hệ thống pháp luật được coi là hoàn chỉnh nhất trong lịch sử phong kiến với

đỉnh cao là sự thành công của việc ban hành và thực thi Bộ luật Hồng Đức. Như vậy, tư

tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền đã manh nha tồn tại qua các triều đại và được các vị

vua dành sự quan tâm đặc biệt. Sự kế thừa tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền đến

thời vua Lê Thánh Tông đã được phát triển cao độ, điển hình là sự ra đời của pháp luật –

một sản phẩm của xã hội văn minh lần đầu tiên được người Việt Nam biết đến. Kể từ sau

thời vua Lê Thánh Tông, các triều đại có sự học hỏi, kế thừa và phát triển hệ thống pháp

luật nhằm tạo hành lang pháp lý, giúp quản lý nhà nước thêm phần thống nhất và chặt chẽ.

Tựu chung lại, có thể thấy rằng, những chế độ, chính sách đúng đắn, phù hợp, góp

phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước giống như một cánh tay hỗ trợ đắc lực

cho các vương triều sẽ được kế thừa, phát triển, trường tồn cùng thời gian. Ngược lại, những

chế độ, chính sách không hợp lý, không hiệu quả sẽ được sửa đổi hoặc thậm chí là loại bỏ;

nhường chỗ cho những chế độ, chính sách khác phù hợp hơn với nhu cầu quản lý nhà nước.

Trong quá trình xây dựng và phát triển, mỗi giai đoạn, mỗi nhà nước luôn tiếp thu, học hỏi

những kinh nghiệm để kế thừa và phát huy, góp phần đưa đất nước đạt đến độ phát triển

cực thịnh sớm nhất.

1.3.2. Học hỏi và kế thừa có chọn lọc chế độ quan lại trong lịch sử

1.3.2.1. Sự kế thừa chế độ quan lại của các triều đại phong kiến Việt Nam

Mặc dù lịch sử kéo dài hơn 1000 năm Bắc thuộc, sống dưới ách thống trị của thực

dân phương Bắc, nhưng nhân dân ta chưa bao giờ lệ thuộc hoàn toàn vào chế độ thực dân.

Ngay từ khi giành lại được một phần đất nước, triều đình đã xây dựng các chế độ chính trị

và chế độ quan lại phù hợp với sự phát triển của kinh tế - xã hội bấy giờ, tạo niềm tin cho

dân chúng về một đất nước mới, một chính quyền mới. Trải qua nhiều cuộc đấu tranh thực

hiện cách tân đổi mới đất nước, chính sách quan lại dưới sự cai quản của các dòng tộc ngày

các phát triển.

39

Ngay từ khi Lý Công Uẩn lên ngôi trị vì, ông đã thay triều đại Tiền Lê trước đó bằng

một triều đại nhân đức, khoan từ. Ông xây dựng lại hệ thống tổ chức bộ máy hành chính

nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương, bắt đầu dành sự quan tâm và xây dựng

các Đài – cơ quan giám sát, kiểm tra đạo đức của Vua và đội ngũ quan lại trong triều đình.

Mặc dù bộ máy nhà nước lúc này đơn giản nhưng đã được sắp xếp quy củ hơn giai đoạn

trước. Chính sách tuyển chọn và sử dụng quan lại dưới thời Lý cũng được chú trọng hơn.

Năm 1070, Lý Công Uẩn cho xây dựng Văn Miếu để thờ Khổng Tử - nhà Nho giáo lỗi lạc

Trung Quốc bấy giờ; năm 1076 thành lập Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên ở nước

ta, và mở khoa thi minh kinh bác học đầu tiên để lựa chọn kẻ sĩ. Chế độ đãi ngộ quan lại

dưới triều Lý vẫn còn sơ sài: quan lại chưa được cấp lương, đại thần cũng không được ban

thưởng thường xuyên,… Mãi đến năm 1162, dưới thời Lý Anh Tông, kỳ khảo công (sau

gọi là khảo khóa) đầu tiên mới được quy định và thực hiện theo niên hạn 9 năm một lần

nhằm đánh giá chất lượng của đội ngũ quan văn – quan võ trong triều, nếu không có lỗi thì

được phong trật. Có thể thấy rằng, lần đầu tiên trong lịch sử chế độ quan lại thời phong

kiến, triều đình chú trọng đến chất lượng đội ngũ quan lại và tiến hành khảo công nhằm

đánh giá chính xác năng lực của quần thần trong triều.

Sang đến thời Trần, nhà nước phong kiến quý tộc được xây dựng theo hướng quan

liêu (“quan” là hệ thống cai trị hoàn bị bao gồm các chức vụ và các cơ quan có quyền ra

quyết định; “liêu” là bộ phận tham mưu giúp việc chuyên trách) – nghĩa là một bộ máy nhà

nước được phân chia theo thứ bậc, có sự phân công, phân nhiệm cụ thể trong quá trình thực

hiện nhiệm vụ được giao. Chính sách quan lại dưới thời Trần không có nhiều điểm nhấn so

với các triều đại trước, bởi triều Trần xây dựng nhà nước theo hướng quý tộc nên nhiệm tử

để lựa chọn quan lại là chủ yếu; thi cử tổ chức 7 năm một lần song cũng chỉ dành cho con

của quan lại và quý tộc, hạn chế đối tượng dự thi; các chức vụ cấp cao đều nằm trong tay

quý tộc và có lương bổng,… Duy chỉ có việc ban cấp Thái ấp điền trang (quan lại được ban

hành ruộng đất) là điểm mạnh của nhà Trần bấy giờ. Dưới thời Trần, chế độ kiêm chức và

thực hiện khảo công cũng diễn ra. Tuy vậy, khảo công dưới thời Trần thực hiện theo niên

hạn khá dài (15 năm một lần) nên chỉ mang tính chất hình thức về kiểm tra, đánh giá đội

ngũ quan lại mà thôi. Thực chất, do xây dựng một nhà nước quý tộc của nhà Trần nên đội

40

ngũ quan lại đều là hoàng thân quốc thích, dòng dõi quan lại quý tộc, nên nhà Trần không

chú trọng nhiều đến việc thực hiện khảo công, để niên hạn khảo công khá dài.

Nhận thấy được những ưu điểm và hạn chế của từng triều đại khác nhau trong quá

trình xây dựng nhà nước và thực hiện chính sách quan lại, đến thời Lê sơ việc xây dựng và

ban hành chính sách, chế độ trong nhà nước đã có nhiều sự thay đổi. Lê Thánh Tông xây

dựng lại một nhà nước quân chủ chuyên chế đề cao quyền lực vô hạn của nhà vua; ban hành

các chính sách về kinh tế – văn hóa – xã hội thức thời, giải quyết cơ bản nhu cầu của người

dân bấy giờ. Nhà Lê tồn tại khoảng 360 năm song chỉ cực thịnh trong khoảng 100 năm đầu

tiên là thời kỳ Lê sơ, nổi bật là khoảng thời gian ngay sau cuộc cải cách hành chính của Lê

Thánh Tông. Với sự học hỏi, kế thừa và phát triển các chính sách quan lại của các triều đại

trước, sự tinh anh trong nhận thức về tình hình đất nước, Lê Thánh Tông đã thực hiện một

cuộc cải cách hành chính hiệu quả. Khi tiến hành cải cách hành chính, ông chú trọng vào

việc cách tân lại tổ chức bộ máy nhà nước; phân công cụ thể, rõ ràng quyền hạn, trách

nhiệm và chức năng của từng cơ quan, từng chức quan trong triều đình; ban hành Luật pháp

và hệ thống chế độ, chính sách mới; đưa các hoạt động trong nước thành lệ và buộc thực

hiện theo đúng quy định đã đề ra,… Quan trọng hơn cả, cùng với việc xây dựng một nhà

nước quân chủ chuyên chế, vua Lê Thánh Tông nhận thấy đội ngũ quan lại trong triều đình

cần phải là những người có thực tài, trung thực, và làm việc có hiệu quả. Thêm vào đó,

bằng việc tuyển chọn quan lại chủ yếu qua con đường khoa cử, cần phải thường xuyên đánh

giá lại trình độ, kỹ năng và phẩm chất đạo đức của đội ngũ quan lại, kể cả những người đã

làm quan lâu năm thì mới có được đội ngũ quan lại vừa đủ đức vừa đủ tài. Trên cơ sở đó,

lệ khảo thí, khảo khóa được vua Lê Thánh Tông đặc biệt quan tâm. Dưới thời vua Lê Thánh

Tông, lần đầu tiên việc khảo khóa được quy định thành một lệ, buộc phải thực hiện đúng

niên hạn đã đề ra là 3 năm. Vua cũng ra nhiều sắc, lệnh, chỉ, dụ để đưa việc thực hiện lệ

khảo thí, khảo khóa vào nền nếp, trở thành một hoạt động kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan

lại không thể thiếu được trong quá trình quản lý và sử dụng đội ngũ quan văn quan võ trong

triều đình.

Khi thời Lê sơ chấm dứt, nhà Mạc và triều Lê Trung Hưng do phải tiến hành chinh

phạt lẫn nhau nên chỉ chú trọng nhiều về việc củng cố quân đội, bộ máy nhà nước và các

chính sách quản lý nhà nước hầu như được duy trì giống như thời Lê sơ. Cả nhà Mạc và

41

triều Lê Trung Hưng đều thực hiện chính sách tuyển chọn quan lại chủ yếu thông qua khoa

cử, với việc tổ chức kỳ thi 3 năm một lần, các triều đại này đã lựa chọn được đội ngũ quan

lại khá chất lượng. Tuy nhiên, do nhà Mạc có chính sách sử dụng quan lại khá bao dung và

cởi mở ngay cả trong thời loạn lạc nên không thể tránh khỏi nạn tham ô tham nhũng trong

đội ngũ quan lại.

Vì lẽ đó, đến thời chúa Trịnh, chế độ khảo hạch một lần nữa được chú trọng hơn cả

để kiểm tra quan lại thường xuyên, những quan viên nào không đủ năng lực sẽ bị giáng

chức hoặc thải hồi để tuyển lựa những người xứng đáng. Các triều đại tiếp theo, do chỉ chú

ý đến lượng mà không quan tâm về chất nên kỹ năng, kiến thức đội ngũ quan lại có phần

giảm sút. Sang đến thời Nguyễn, chế độ tuyển chọn và sử dụng quan lại được tập trung và

chú ý hơn. Với việc xây dựng tổ chức và hoạt động của nhà nước theo Bộ luật Gia Long,

nhà Nguyễn ban hành và thực thi các chính sách nghiêm ngặt và hiệu quả hơn. Đặc biệt,

chính sách đào tạo, tuyển dụng, bổ nhiệm và các chế độ đối với sử dụng quan lại được xây

dựng khá quy củ, cụ thể và chặt chẽ.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, chế độ quan lại qua các triều đại phong kiến nước

ta luôn có sự kế thừa và học hỏi từ những triều đại đi trước. Tùy thuộc vào điều kiện, hoàn

cảnh của mỗi vương triều mà sự kế thừa được tiếp nhận và phát triển là khác nhau.

1.3.2.2. Học hỏi kinh nghiệm chế độ quan lại của các triều đại phong kiến Trung

Quốc

Trong quá trình xây dựng và cách tân đất nước, nhiều triều đại phong kiến nước ta

có sự học hỏi kinh nghiệm trị quốc và đưa ra chính sách đối với việc quản lý nhà nước nói

chung, quản lý quan lại nói riêng từ các quốc gia khác trên thế giới. Song bởi Việt Nam có

cả 1000 năm chịu sự đô hộ của thực dân phương Bắc, chịu nhiều ảnh hưởng từ nền văn hóa

– xã hội phương Bắc, nên thực tế sau khi dành lại được nền độc lập tự chủ và xây dựng nhà

nước quân chủ phong kiến độc lập, nền văn hóa – xã hội nước ta đã lựa chọn và kế thừa có

chọn lọc các chế độ, chính sách phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước. Trung Quốc

là một trong những quốc gia có bề dày lịch sử phong kiến lớn nhất với nhiều kinh nghiệm

quản lý và sử dụng quan lại.

Hơn 2000 năm lịch sử phong kiến, từ thời Tần đến thời Thanh, chế độ quan lại

Trung Quốc trải qua nhiều thay đổi giữa các triều đại. Khác với việc có nhiều năm bị đô hộ

42

như Đại Việt thời phong kiến, Trung Hoa cổ đại và phong kiến đã là một trong những quốc

gia rộng lớn và có tiềm năng, tiềm lực về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Có ý kiến cho rằng Chính quyền triều Lê là kết quả của quá trình tiếp nhận sáng tạo

có sàng lọc, gọt đẽo từ mô hình bộ máy Trung Hoa, thích dụng với điều kiện thực tế của

Việt Nam [1; tr84]. Thực tế cho thấy, chế độ quan lại của Trung Quốc có nhiều thay đổi

giữa các triều đại, các triều đại sau thực hiện nhiều cách tân hơn so với các triều đại trước.

Có thể tóm lược một số đặc điểm về quan chế Trung Quốc dưới thời phong kiến đã được

Đại Việt ta học hỏi như sau:

 Về tổ chức bộ máy quan lại

Trung Quốc thời cổ đại, quyền lực tối cao của nhà vua được xác lập, nghĩa là nhà

nước hoạt động theo chế độ quân chủ chuyên chế, mọi quyền lực đều tập trung vào tay vua.

Vua được đề là “Thiên Tử” (con trời), được tuyên truyền là làm vua theo “Thiên mệnh”

(mệnh Trời). Chế độ này kéo dài đến hết cả thời phong kiến của Trung Quốc. Để xây dựng

và củng cố chế độ quân chủ chuyên chế, tập trung quyền lực vào tay hoàng đế, nhiệm vụ

quan trọng hàng đầu của các vương triều là phải xây dựng bộ máy chính quyền trung ương

thành một tập đoàn thống trị mạnh, có đủ khả năng giúp đỡ hoàng đế trong mọi công việc.

Dưới thời Tần, Hán, các nhà vua đều lập “Tam Công” gồm: Thừa tướng, Thái úy và

Ngự sử đại phu. Đây là 3 trưởng quan cao nhất thực hiện nhiệm vụ trông coi các công việc

chính trị, quân sự và giám sát. Thừa tướng (còn gọi là Tể tướng, Tướng quốc) thực chất chỉ

là một viên quan đứng đầu các quan văn, Thái úy là người đứng đầu quan võ. Địa vịa của

Thừa tướng và Thái úy ngang hàng nhau. Địa vị của Ngự sử đại phu tuy có thấp hơn Thừa

tướng và Thái úy nhưng cũng thuộc hàng “Tam Công”, lại nắm trong tay quyền giám sát

đội ngũ quan lại nên có thế lực lớn. Ba chức vụ này kiềm chế lẫn nhau trong quá trình thực

hiện nhiệm vụ được giao.

Thực tế, Thừa tướng vẫn là vị quan lớn nhất “đứng dưới một người, đứng trên vạn

người”. Trong lịch sử thường xảy ra mâu thuẫn giữa quyền lực nhà vua với quyền lực của

Thừa tướng.

Đến thời Tùy, Đường, Tống, chức vụ Thừa tướng vẫn còn tồn tại trong cơ cấu các

vị quan trọng yếu của triều đình. Tuy nhiên, vai trò của Thừa tướng đã dần được thay đổi.

Sang thời Minh, lúc đầu cũng đặt chức Thừa tướng, nhưng Minh Thái Tổ Chu Nguyên

43

Chương nhận thấy quyền lực của Thừa tướng có thể đe dọa quyền lực của Hoàng đế nên

năm 1380 đã giết bỏ Thừa tướng thời đó, đồng thời xóa bỏ chức Thừa tướng. Sau khi xóa

bỏ Thừa tướng, ông cho thành lập Ngũ phủ, Lục bộ để kiềm chế đối trọng lẫn nhau, mọi

công việc đều do triều đình nắm giữ. Kế thừa chính sách của nhà Minh, nhà Thanh cũng

không đặt chức Thừa tướng trong suốt thời gian cầm quyền. Như vậy, chế độ quân chủ

chuyên chế trung ương tập quyền được củng cố cao độ, quyền lực tập trung chủ yếu vào

tay vua.

Học hỏi cách thức tổ chức bộ máy quan lại dưới thời phong kiến Trung Quốc, Đại

Việt ta dưới thời phong kiến cũng lập ra các Bộ quản lý. Hơn cả, thời Lê sơ lập ra Lục bộ

và quy định cụ thể trách nhiệm của từng bộ, khá giống với cách thức tổ chức bộ máy quan

lại dưới thời Minh. Mặc dù tên gọi có nhiều thay đổi giữa các triều đại, nhiệm vụ cũng có

nhiều sự khác biệt, nhưng có thể thấy được cách thức tổ chức cơ bản giống với triều Minh

của Trung Quốc. Bên cạnh đó, ngay từ khi hình thành nhà nước phong kiến, các vị vua

Trung Quốc đã chú trọng đến chức quan thực hiện chức năng giám sát đội ngũ quan lại

triều đình. “Ngự sử đại phu” được xếp vào hàng “Tam Công” của triều đình, là một trong

ba chức vụ cao nhất của triều đình, mặc dù địa vị không cao nhất nhưng lại nắm trong tay

thế lực đặc biệt. Có thể thấy rằng, phong kiến Đại Việt ta thời đó, ngay từ thời Lý đã đặt ra

chức Ngự sử đài – chức quan thực hiện chức năng giám sát hoạt động công vụ trong triều

đình. Những triều đại về sau, Ngự sử đài có thể được thay đổi về tên gọi, cách thức tổ chức

và hoạt động, song lại được giao thêm những nhiệm vụ quan trọng hơn và tổ chức chặt chẽ

hơn từ trung ương đến địa phương.

 Về chế độ tuyển bổ quan lại

Trong thời cổ đại, ở Trung Quốc từng tồn tại nhiều chế độ tuyển bổ quan lại khác

nhau, như chế độ thế tập (giống với chế độ tập ấm sau này, cha truyền con nối); chế độ

dưỡng sĩ (vua lựa chọn những người có tài năng, nuôi dưỡng họ để bổ nhiệm làm quan khi

cần); chế độ quân công (chọn người có công trong chiến trận để làm quan); chế độ khách

khanh (lựa chọn người tài ở nước khác đảm nhận chức vụ quan trọng ở nước mình). Sang

thời phong kiến, hệ thống quan lại ở Trung Quốc được tuyển dụng bằng hai phương thức

chủ yếu là chiêu mộ và khoa cử. Chế độ chiêu mộ người tài làm quan đã có nguồn gốc từ

thời cổ đại, nhưng chế độ này đặc biệt phát triển và trở thành chế độ tuyển dụng chủ yếu

44

thời Lưỡng Hán. Chế độ khoa cử cũng được sử dụng ở các triều đại dưới thời phong kiến

để tuyển chọn quan lại.

Thời Ngụy, Tần, Nam – Bắc triều lại thực hiện chế độ “Cửu phẩm trung chính” để

tuyển chọn quan lại. Theo chế độ này, triều đình đặt ở mỗi quận một Trung chính, mỗi châu

một Đại Trung chính. Trung chính thực hiện chức năng phỏng vấn, sát hạch những người

tài, đức ở địa phương mình phụ trách sau đó chia ra làm 9 bậc. Cứ sau 3 năm thì Trung

chính sẽ tiến hàng khảo sát, chuyển lên các cơ quan kiểm soát ở Trung ương để tuyển dụng.

Giống như một cách thức tiến cử, “Cửu phẩm trung chính” tồn tại đến cuối thời Nam – Bắc

triều thì suy yếu dần.

Đến thời Tùy, vua bãi bỏ chế độ “Cửu phẩm trung chính”, chỉ thực hiện chế độ khoa

cử để tuyển chọn quan lại. Do vậy, chế độ khoa cử dần trở thành một phương thức chủ yếu

để tuyển chọn quan lại cho triều đình. Trong suốt thời gian tồn tại chế độ khoa cử dưới chế

độ phong kiến Trung Quốc, mặc dù có không ít lần thay đổi về nhiều phương diện để phù

hợp với từng triều đại song chế độ khoa cử vẫn được đề cao thực hiện.

So với hầu hết các chế độ tuyển bổ quan lại khác, chế độ khoa cử dưới thời phong

kiến Trung Quốc thể hiện rõ được nhiều ưu điểm để thực hiện xuyên suốt qua nhiều triều

đại khác nhau. Nhìn lại lịch sử nước nhà, có thể thấy rằng, dưới triều Lý, Trần, mặc dù khoa

cử đã được thực hiện, song tuyển bổ quan lại qua chế độ tập ấm, nhiệm tử được sử dụng

chủ yếu. Đến thời Lê sơ, nhận thấy những hạn chế của chế độ tập ấm, nhiệm tử; đồng thời

học hỏi kinh nghiệm thực hiện tuyển chọn quan lại của Trung Quốc, các vị vua bắt đầu ưu

tiên chế độ khoa cử hơn trước. Chế độ phong kiến Trung Quốc và Đại Việt ta thời bấy giờ

có điểm tương đồng nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau, các vị vua dưới thời Lê sơ đã

linh họat và sáng tạo vận dụng chế độ khoa cử trong việc lựa chọn quan lại, phù hợp với

điều kiện thực tế đất nước.

 Về chính sách sử dụng quan lại

Trung Quốc thời phong kiến cũng xây dựng nhiều chính sách sử dụng quan lại mang

lại hiệu quả, như là: phong tước và ban cấp đất đai cho con cháu trong hoàng tộc, công thần

thân tín để làm chỗ dựa cho triều đình; thưởng phạt đội ngũ quan lại công minh; giám sát

chặt chẽ đội ngũ quan lại,… Đáng chú ý trong chính sách sử dụng quan lại Trung Quốc là

chế độ giám sát quan lại được thực hiện nghiêm minh.

45

Chế độ giám sát quan lại ở Trung Quốc xuất hiện từ thời Tiền Tần (khoảng những

năm 300 đầu công nguyên), Ngự sử đại phu – bộ phận thực hiện chức năng giám sát được

xây dựng thành một cơ cấu riêng, có nhiệm vụ giám sát quan lại trong quận. Bên cạnh đó,

cơ cấu giám sát quan lại dưới thời Tần được xây dựng đầy đủ từ trung ương xuống địa

phương, thực hiện cơ chế giám sát với toàn bộ đội ngũ quan lại của triều đình.

Thời Hán, Đường, Tống, dần dần bộ máy giám sát quan lại được tổ chức chặt chẽ

hơn trước đó. Bằng việc chia nhà nước ra thành các châu, đạo việc giám sát được thực hiện

nghiêm ngặt hơn. Châu, đạo thời bấy giờ không phải là một cấp hành chính mà là một khu

vực giám sát. Việc giám sát được các quan trong Ngự sử đài chia nhau thực hiện từ trung

ương xuống địa phương một cách chặt chẽ.

Việc giám sát được thực hiện thông qua các đợt kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại

định kì. Dưới thời Tống, đánh giá quan lại được thực hiện mỗi năm một lần, sau 3 lần đánh

giá sẽ đưa ra quyết định thăng hoặc giáng chức, thêm thưởng hoặc bị phạt nếu như không

đạt yêu cầu. Nếu quan lại nào không thường xuyên tham gia thực hiện việc đánh giá, khảo

sát sẽ không có cơ sở để thực hiện thăng chức thường xuyên; một số quan lại không được

tín nhiệm có thể không được tham gia đánh giá. Việc tổ chức kiểm tra, đánh giá đội ngũ

quan lại được thực hiện bởi sự kết hợp giữa cấp trên và cấp dưới, đồng thời có sự tham

chiếu của cơ quan phụ trách chính việc giám sát là Ngự sử đài. Để đánh giá, giám sát hiệu

quả, mỗi quan viên phải thực hiện một bài thi, đồng thời sẽ được đánh giá hiệu quả hoạt

động thực tế tại nơi mình làm quan. Mỗi quan viên nắm quyền đều phải theo dõi và ghi

chép lại quá trình làm việc của cấp dưới mình quản lý. Đến kì đánh giá, những ghi chép

này sẽ được kiểm tra lại bởi cấp trên của người đánh giá bằng việc cử người đi kiểm tra lại

tình hình thực tế. Bên cạnh đánh giá quan lại qua bài thi và hiệu quả hoạt động, nhà Tống

còn chú trọng đánh giá về tư cách, phẩm chất đạo đức của đội ngũ quan lại và chất lượng

cuộc sống nhân dân nơi quan viên nắm quyền, cụ thể: quan lại đó có làm việc có siêng

năng, trung thực hay không; có hiếu thảo với dân, vì dân phục vụ hay không; có tham lam

tầm thường hay không;… người dân nơi vị quan đó cai quản có cuộc sống ấm no, đầy đủ

không; tệ nạn xã hội trên địa bàn tăng hay giảm; chất lượng đời sống nhân dân được cải

thiện tốt hơn hay có chiều hướng xấu đi,... Sau khi kiểm tra và đánh giá, đội ngũ quan lại

sẽ được chia thành 3 cấp khác nhau dựa trên kết quả đánh giá mà họ đạt được: cấp cao nhất

46

là những người có thành tích chính trị xuất sắc, đạt được nhiều kết quả trong việc xây dựng

nhà nước; cấp thứ hai là những người làm việc chỉ mang lại kết quả bình thường, không có

gì xuất chúng; cấp thứ ba là những người làm việc cẩu thả, không đến nơi đến chốn, không

hoàn thành công việc được giao.

Dựa trên cơ sở thực hiện kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại trong triều đình, nhà

Tống thực hiện việc thăng giáng chức quan phù hợp; khen thưởng hoặc trừng phạt quan

viên nghiêm khắc bằng hình thức tự thôi việc hoặc buộc thôi việc; bổ nhiệm vị trí quản lý

tương xứng với năng lực và phẩm chất đạo đức quan lại,… Việc thực hiện đánh giá quan

lại mỗi năm tạo cơ sở cho đội ngũ quan lại không ngừng cố gắng, góp phần phát triển đất

nước. Sử dụng kết quả kiểm tra, đánh giá quan lại làm cơ sở cho việc thăng giáng chức, ra

quyết định thưởng, phạt quan lại giúp nâng cao hiệu quả làm việc, thúc đẩy đội ngũ quan

lại luôn cố gắng để hoàn thiện bản thân, đạt được quyền cao chức trọng.

Thời Minh, Ngự sử đài – cơ quan thực hiện chức năng giám sát được đổi tên thành

Đô sát viện, nắm quyền giám sát quan lại và có quyền tham gia xét xử những vụ án lớn. Để

giám sát quan lại các địa phương, nhà Minh đặt ra 13 đạo giám sát ngự sử theo 13 khu vực

hành chính. Xây dựng chức danh “Tuần án ngự sử” thực hiện tuần tra giám sát các địa

phương. Tuần án ngự sử tuy phẩm hàm không cao nhưng quyền lực rất lờn. Bên cạnh việc

xây dựng đội ngũ giám sát ở địa phương, thời Minh đặt ra 6 khoa thực hiện giám sát quan

viên của 6 bộ tương ứng. Mỗi khoa lập một người quản lý chung gọi là “Cấp sự trung”. Bộ

máy giám sát quan lại của thời Minh được tăng cường hơn những thời trước nhiều, đặc biệt,

nó giúp hoàng đế kiểm soát Lục bộ một cách chặt chẽ hơn. Sang triều Thanh, về cơ bản đại

thể giống triều Minh, chỉ có tên gọi của người đứng đầu Đô sát viện thay đổi. Đồng thời,

do số lượng đơn vị hành chính tăng lên, nên nhà Thanh đặt ra 22 đạo giám sát ngự sử.

Các triều đại sau triều Tống sau khi xây dựng hệ thống giám sát quan lại cũng thực

hiện việc kiểm tra, giám sát quan lại song kỳ hạn đánh giá khác nhau. Tuy vậy, những năm

cuối nhà Tống (khoảng những năm 1019), cũng có thời thăng chức cho quan lại dựa trên

thâm niên làm việc của quan viên, do vậy đội ngũ quan lại làm việc không mang lại hiệu

quả. Nhiều vị quan mong muốn quay lại chế độ quan lại thời Tống ban đầu đã xây dựng và

thực hiện, đó là thiết lập đội ngũ quan trong – ngoài thực hiện giám sát, kiểm tra thường

xuyên; dùng kỳ thi để đánh giá chất lượng đội ngũ quan lại, thông qua đó làm cơ sở thăng

47

giáng và thưởng phạt nhằm tăng cường trách nhiệm cho đội ngũ quan lại triều đình, thúc

đẩy đất nước phát triển.

Như vậy, chế độ giám sát dưới thời phong kiến Trung Quốc được hình thành ngay

từ những triều đại quân chủ chuyên chế đầu tiên, nhằm kiểm soát quyền lực của đội ngũ

quan lại và điều hòa mâu thuẫn trong xã hội. Càng những triều đại về sau, chế độ và cách

thức thực hiện giảm sát quan lại thông qua việc kiểm tra, đánh giá càng được chú trọng

thực hiện hơn, bảo đảm được chất lượng của đội ngũ quan lại trong triều; đồng thời củng

cố vững chắc quyền lực tối cao của nhà nước tập trung vào tay vua, đảm bảo chế độ trung

ương tập quyền, đề cao hoàng quyền. Chế độ phong kiến Việt Nam đã nhanh chóng vận

dụng và học hỏi cách kiểm soát quyền lực, kiểm tra, đánh giá từ phong kiến Trung Quốc

vào quá trình quản lý đội ngũ quan lại của mình. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, khi các

triều đại thành lập đã chú trọng việc xây dựng các cơ quan thực hiện chức năng giám sát,

bộ máy giám sát quan lại được hoàn thiện và quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Tại

thời Lý, Trần trong lịch sử phong kiến Việt Nam, việc giám sát được coi là công việc trọng

yếu và cần thiết song chưa có cơ chế và cách thức tổ chức hoạt động việc giám sát tốt nhất.

Sang thời Lê sơ, cải cách hành chính được vua Lê Thánh Tông thực hiện, bộ máy thực hiện

chức năng đánh giá, giám sát cùng cơ chế thực hiện đã được tập trung cải tiến thêm một

bước mới dựa trên những thành quả của bộ máy từ triều đại trước, việc học hỏi có chọn lọc

từ chế độ quan lại của quốc gia có nét văn hóa tương đồng.

Có thể thấy rằng, dưới thời Lê Thánh Tông, việc thực hiện chế độ quan lại nói chung

và lệ khảo thí, khảo khóa nói riêng là kết quả của việc học hỏi và kế thừa những thành tựu

từ các triều đại trong nước và ngoài nước, dựa vào cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa của đất

nước đương thời. Việc quản lý và sử dụng quan lại dưới triều Lê sơ đạt đến đỉnh cao trong

quản lý đội ngũ quan lại thời phong kiến, tạo tiền đề cho các triều đại sau kế thừa và phát

triển.

48

Tiểu kết chương 1:

Quan lại là những người làm việc trong bộ máy nhà nước quân chủ phong kiến, trong

đó “quan” là những người có phẩm hàm, tước vị, chức vụ được tuyển chọn bằng nhiều

phương pháp khác nhau như: khoa cử, tiến cử, tập ấm,…; còn “lại” là những người được

tuyển chọn vào làm công việc cụ thể nào đó trong các nha môn từ triều đình đến cấp huyện

để giúp việc cho quan. Chế độ quan lại bao gồm một quy trình từ tổ chức đến thực hiện các

quy định về đào tạo, tuyển chọn, sử dụng quan lại mà các triều đại phong kiến Việt Nam

thực hiện nhằm xây dựng một đội ngũ quan lại cho bộ máy hành chính nhà nước. Trong

những chế độ đối với quan lại, lệ khảo thí khảo khóa là một chế độ được chú trọng đặc biệt

dưới thời Lê sơ nhằm đảm bảo trình độ, năng lực và phẩm hạnh của đội ngũ quan lại.

Lệ khảo thí, khảo khóa thực chất là việc đánh giá, xem xét trình độ hiểu biết, quan

điểm trị quốc và hiệu quả công việc của quan lại theo định kì, theo khóa. Trong đó “khảo

thí” là khoa thi không theo chính kỳ, không định học vị nhằm tuyển chọn nhân tài ra làm

quan hoặc phân định trình độ của quan lại nói chung; “khảo khóa” là kỳ thi kiểm tra xem

xét đạo đức, tư cách, trình độ, năng lực của đội ngũ quan lại trong triều.

Triều vua Lê Thánh Tông đã xây dựng được một đội ngũ quan lại dựa trên nền tảng

kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vô cùng thuận lợi. Để có được đội ngũ quan lại đủ đức đủ

tài, phục vụ cho việc xây dựng và phát triển đất nước, lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê

Thánh Tông đã dần được hoàn thiện. Mặc dù đã được nhiều triều đại phong kiến trước thực

hiện, song chưa có triều đại nào đưa lệ khảo thí, khảo khóa trở thành một thông lệ thường

niên và buộc phải thực hiện. Lê Thánh Tông đã định lại phép khảo khóa, đưa ra những quy

định cơ bản về lệ khảo thí, khảo khóa và tổ chức thực hiện tốt nhất trong lịch sử phong kiến.

Để xây dựng được chế độ quan lại nói chung và lệ khảo thí, khảo khóa nói riêng, Lê

Thánh Tông đã kế thừa những thành quả từ chế độ quan lại trong nước và ngoài nước, đặc

biệt là chế độ giám sát của quốc gia lân cận có nét văn hóa, chính trị tương đồng với nước

ta bấy giờ (Trung Quốc) để tạo ra những chính sách mang bản sắc riêng của vương triều

mình. Trên những cơ sở, nền tảng đó, Lê Thánh Tông đã xây dựng và thực hiện lệ khảo thí,

khảo khóa rất tốt, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ quan lại, đưa đất nước nhanh

chóng ổn định và phát triển cường thịnh.

49

CHƯƠNG 2

LỆ KHẢO THÍ, KHẢO KHÓA DƯỚI THỜI VUA LÊ THÁNH TÔNG

(1460 – 1497)

2.1. Bối cảnh lịch sử và sự cần thiết ban hành lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời

Lê Thánh Tông

2.1.1. Bối cảnh lịch sử thời Lê sơ

Không giống các triều đại khác là kế thừa chuyển giao quyền lực cho nhau, thời Lê

sơ được thành lập bởi một cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài 10 năm – đó là khởi nghĩa

Lam Sơn. Khởi nghĩa Lam Sơn chống lại quân xâm lược nhà Minh do Lê Lợi – một địa

chủ ở Thọ Xuân, Thanh Hóa đứng lên triệu tập quân sĩ. Ban đầu, cuộc khởi nghĩa chỉ có 18

vị anh hùng áo vải; trải qua 10 năm trường kỳ gian khổ, khi kết thúc khởi nghĩa đã có 221

vị anh hùng kiên cường và trung thành chiến đấu, giành lại độc lập dân tộc.

Năm 1428, Lê Lợi chính thức lên ngôi hoàng đế ở Đông Kinh (Thăng Long ngày

nay), khôi phục tên nước Đại Việt, mở đầu triều đại Lê sơ. 221 quân sĩ cùng chiến đấu với

Lê Lợi đến ngày giành độc lập trở thành 221 quan chức cơ bản nhất trong triều đình, được

nắm giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy đầu tiên của nhà Lê. Họ là đội ngũ quan lại

xuất thân từ các võ tướng trong chiến trận, là những vị tướng rất tài năng.

Trải qua các triều vua Lê sau đó, đất nước Đại Việt dần được phục hồi và phát triển

trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và giáo dục. Đặc biệt triều vua Lê

Thánh Tông với việc thực hiện cải cách hành chính, là triều đại phát triển rực rỡ nhất. Chưa

bao giờ đời sống của muôn dân lại được no đủ, yên vui, thái bình như dưới thời trị vì của

Lê Thánh Tông.

Có thể khái quát tình hình Đại Việt trong suốt 100 năm dưới thời Lê sơ qua những

điểm nổi bật sau đây:

 Về chính trị

Sau khi đánh tan quan xâm lược nhà Minh, uy tín và vị thế của triều Lê được nâng

lên, nhân dân hết lòng ủng hộ. Các công thần mưu lược ra sức cùng vua Lê khôi phục và

phát triển thể chế quân chủ trung ương tập quyền. Trong 100 năm tồn tại của triều Lê sơ

trải qua 10 đời vua, triều Lê sơ trải qua những dấu mốc quan trọng:

50

- Từ năm 1428 đến 1460 là thời kỳ hậu chiến nên đời sống chính trị cũng như

các thiết chế về tổ chức bộ máy chưa thực sự phát triển mạnh;

- Giai đoạn 1460 đến 1497 là thời kỳ trị vì của vua Lê Thánh Tông, cũng là

giai đoạn cực thịnh trên tất cả các lĩnh vực không chỉ của riêng nhà Lê sơ mà của hơn 1000

năm phong kiến nước ta;

- Giai đoạn 1498 đến 1527 là giai đoạn nhà Lê sơ rơi vào trạng thái suy vong.

Bộ Luật Quốc triều hình luật của nhà Lê đã được hoàn thành trong thời Lê Thánh

Tông, khi ông lấy niên hiệu là Hồng Đức nên còn được gọi là Bộ luật Hồng Đức. Với bộ

luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khai thuộc loại sớm nhất trên

thế giới. Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm Nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo việc

biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hóa các hoạt động của một nhà nước phong

kiến, với truyền thống nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Bộ luật có nội dung chính là bảo vệ

quyền lợi của vua và hoàng tộc; bảo vệ quyền lợi của quan lại và giai cấp thông trị địa chủ

phong kiến. Những quy định về trách nhiệm của hệ thống quan lại và một số nội dung khác

nhằm thực hiện quản lý đất nước theo pháp luật, xây dựng nhà nước quân chủ trung ương

tập quyền vững mạnh. Đây là thời kỳ các Hoàng đế nhà Lê nắm trọn được quyền hành trong

tay, cũng là thời kỳ cực thịnh của chế độ phong kiến Việt Nam.

 Về kinh tế

Lê Thái Tổ cho 25 vạn lính trong tổng số 35 vạn lính của nhà nước về quê làm ruộng

sau chiến tranh để sớm phục hồi và phát triển nền nông nghiệp. Nhà Lê kêu gọi dân phiêu

tán trở về quê cũ làm ăn, đặt ra các chức quan phụ trách các vấn đề về nông nghiệp như:

Khuyến nông sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ và định lại chính sách chia ruộng đất công làng xã

(gọi là phép Quân điền); cấm giết trâu bò bừa bãi, cấm điều động dân phu trong mùa cấy

gặt. Triều Lê còn đẩy mạnh việc lập đồn điền và khẩn hoang nhằm khai thác vùng đất mới.

Nhờ những chính sách tích cực của nhà Lê với nông nghiệp, đời sống nhân dân trong nước

đã được đảm bảo phần nào.

Bên cạnh đó, kinh tế công nghiệp và thương nghiệp cũng được triều Lê sơ đặc biệt

quan tâm. Nhiều ngành nghề mới được phát triển tại Kinh đô Đông Kinh sầm uất. Các

ngành nghề thủ công truyền thống ở các làng xã như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc

đồng, rèn sắt, làm đồ gốm,… ngày càng phát triển hơn. Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp

51

nổi tiếng ra đời. Triều đình khuyến khích lập chợ mới, ban hành luật cụ thể về việc thành

lập chợ và họp chợ. Việc buôn bán với nước ngoài cũng được duy trì và kiểm soát chặt chẽ.

 Về xã hội và giáo dục đào tạo

Trong xã hội, giai cấp nông dân chiếm đa số và sống chủ yếu ở vùng nông thôn, đây

là giai cấp bị bóc lột và nghèo khổ trong xã hội. Họ có rất ít hoặc không có ruộng đất nên

phải cày ruộng đất công nộp tô thuế, đi phục dịch cho nhà nước (đi lính, đi phu…) hoặc

cày cấy thuê cho địa chủ, quan lại và nộp một phần hoa lợi cho chủ ruộng. Cùng với sự

phát triển của công nghiệp và thương nghiệp, tầng lớp thương nhân và thợ thủ công ngày

càng đông hơn. Họ phải nộp thuế cho nhà nước và không được xã hội phong kiến coi trọng.

Nô tì là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội; bao gồm cả người Việt, người Hoa và dân tộc

ít người. Pháp luật nhà Lê hạn chế nghiêm ngặt việc bán mình làm nô tì hoặc bức dân tự do

làm nô tì. Do vậy, số lượng nô tì giảm dần. Nhờ những chính sách thúc đẩy kinh tế, cuộc

sống của nhân dân được ổn định, dân số ngày càng tăng, nhiều làng mới được thành lập.

Các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam nhận xét rằng, Đại Việt thời kỳ này đã trở thành một

quốc gia có uy thế trong khu vực Đông Nam Á [27; tr116-130].

Giáo dục, đào tạo là lĩnh vực được triều Lê dành sự quan tâm đặc biệt. Ngay sau khi

lên ngôi, Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc Tử giám ở Đông Kinh, mở trường học các lộ, mở

khoa thi Minh kinh và cho phép người nào có học đều được dự thi. Đa số dân đều có thể đi

học, đi thi, trừ những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát [26; tr62]. Ở các đạo – phủ có trường

công. Nhà nước tuyển chọn người vừa có đức vừa có tài làm thầy giáo. Nội dung chính của

việc học tập, thi cử là sách của nhà Nho. Tuy vậy, 30 năm sau khi giành độc lập, triều Lê

sơ vẫn rơi vào tình trạng khủng hoảng “nhân tài”. Do vậy, các phương thức tuyển chọn

quan lại đã được thực hiện như một biện pháp cấp bách hàng đầu. Trong đó, phương thức

thi tuyển là chủ yếu. Những quy chế về học hành triều Lê mở rộng hơn các thời trước,

không cấm con em nhà thường dân đi học như thời Lý. Lê Thánh Tông khởi xướng và lần

đầu tiên cho lập bia tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc tử giám vào năm 1484. Các đời vua sau này

tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia vinh danh mới. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới

trong giáo dục và khoa cử, Lê Thánh Tông đẩy mạnh việc phát triển giáo dục, đào tạo nhân

tài. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái học, Quốc Tử giám… là những cơ quan

văn hóa – giáo dục lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí chứa sách, đặc biệt đã sáng lập

52

Hội Tao Đàn với những nhà văn hóa có tiếng thời bấy giờ mà Lê Thánh Tông là Tao Đàn

là chủ soái. Việc thi cử, học tập được tiến hành thường xuyên và số lượng người đỗ đạt,

thành danh cao nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Như vậy, kể từ năm 1428, triều Lê đã bắt tay vào khôi phục kinh tế, xây dựng thể

chế, bộ máy nhà nước, tạo nền tảng cho sự phát triển rực rỡ của một triều đại suốt 100 năm

sau đó. Có thể nói, triều Lê sơ là một triều đại hưng thịnh nhất suốt 1000 năm lịch sử phong

kiến Việt Nam ở tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa, xã hội,…

Để đạt được đến đỉnh cao của thiết chế quân chủ phong kiến đương thời như vậy là nhờ

một phần không nhỏ công lao của Lê Thánh Tông khi thực hiện cuộc cải cách hành chính

trong khoảng thời gian ông trị vì.

2.1.2. Sự cần thiết ban hành lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông

2.1.2.1. Xuất phát từ yêu cầu của cuộc cải cách hành chính thời Lê Thánh Tông

Cuộc cải cách hành chính Lê Thánh Tông hướng đến bao gồm việc cải cách tổ chức

bộ máy và cải cách chế độ quan lại – hai nội dung trọng yếu để củng cố nền hành chính nhà

nước vững mạnh, góp phần xây dựng nhà nước phát triển hơn. Lệ khảo thí, khảo khóa được

ban hành trước hết vì mục đích chung, đó là yêu cầu của việc thực hiện cải cách hành chính

dưới thời Lê Thánh Tông.

Mỗi cuộc cải cách hành chính trong lịch sử phong kiến nước ta đều do những yếu tố

kinh tế, xã hội thúc đẩy và mỗi cuộc cải cách đều có một bối cảnh lịch sử cụ thể. Mâu thuẫn,

khủng hoảng, nền hành chính yếu kém là những yếu tố thúc đẩy sự ra đời của các cuộc cải

cách hành chính. Sự thành công hay thất bại của các cuộc cải cách hành chính phần nhiều

phụ thuộc vào bối cảnh của cải cách, biện pháp tiến hành cải cách và vai trò của người đề

xướng và thực hiện cải cách đó.

Cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông diễn ra trong hoàn cảnh rất khó

khăn, mâu thuẫn và khủng hoảng trong triều đình trầm trọng, nhưng với tài năng kiệt xuất,

vua Lê Thánh Tông đã thực hiện cải cách hành chính thành công, đưa xã hội Việt Nam phát

triển về mọi mặt.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông

bắt nguồn từ sự yếu kém của bộ máy hành chính từ thời vua Lê Thái Tổ đến vua Lê Nhân

Tông. Đội ngũ quan lại cốt cán triều đình từ thời vua Lê Thái Tổ là những võ tướng từ cuộc

53

khởi nghĩa Lam Sơn trở về. Xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể trong khởi nghĩa Lam Sơn, các

võ tướng này đều không có những yêu cầu về trình độ, tài năng để xây dựng và phát triển

đất nước, phục vụ cho việc trị nước trị quốc. Khi đã và đang xây dựng đất nước, yêu cầu

về trình độ và khả năng của quan lại trong thời bình đã thay đổi, bộ máy hành chính đã xây

dựng trước đó không còn phù hợp nữa, đặt ra yêu cầu phải thực hiện cải cách hành chính.

Tuy nhiên, cải cách hành chính dưới thời Lê Thánh Tông không chỉ bắt nguồn từ

nguyên nhân đó, trên thực tế cuộc cải cách này còn bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa, mà

từ Lê Thái Tổ đến Lê Nhân Tông tuy các nhà vua này cũng muốn làm, nhưng chưa thực

hiện được. Cụ thể là:

Thứ nhất, do khủng hoảng thiết chế chính trị từ cuối thời Trần

Khủng hoảng thiết chế chính trị diễn ra từ cuối thời Trần với yêu cầu thay thế thiết

chế chính trị phong kiến quý tộc Phật giáo bằng thiết chế chính trị phong kiến quan liêu

Khổng giáo. Vua Hồ Quý Ly cũng đã cố gắng thực hiện sự thay đổi này trong suốt thời

gian trị vì của mình những vẫn chưa thực hiện được. Khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ cũng đã

cố gắng giải quyết khủng hoảng thiết chế chính trị nói trên. Sử cũ có ghi: “Khi lên ngôi,

vua đã ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức,

thành lập phủ huyện, thu thập sách vở, mở mang trường học, có thể nói là có mưu kế xa

rộng, mở mang cơ nghiệp” [5; tr221].

Dưới triều Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông tư tưởng chính trị vẫn lấy Nho giáo làm

quốc giáo. Điều đó đã được vua Lê Thánh Tông khẳng định: “Thái Tổ ta trước, ban đầu

dựng nước, mở mang học hiệu, dùng cỗ Thái lao để tế Khổng Tử, rất mực sùng Nho, trọng

đạo” [5; tr320].

Thứ hai, đó là sự yếu kém của bộ máy hành chính nhà nước, sự tha hóa của đội

ngũ quan lại triều đình

Đất nước rộng lớn đã được thống nhất, vua Lê Thái Tổ mới chia làm 4 đạo, đến vua

Lê Thái Tông chia làm 5 đạo. Cấp trung gian còn quá nhiều, chức năng, nhiệm vụ các cấp

hành chính chưa rõ ràng. Các cấp trung gian như phủ, lộ, trấn... đã gây khó khăn cho việc

quản lý của triều đình. Còn sách, xã, trang là cấp ngang với cấp xã hay cấp dưới xã vẫn

chưa được xác định và thống nhất trong cả nước.

54

Trong khi kinh tế - xã hội phát triển đang cần có bộ máy hành chính nhà nước nhà

phong kiến trung ương tập quyền thì bộ máy hành chính lại tỏ ra yếu kém, phân tán, hoạt

động kém hiệu lực, hiệu quả.

Đội ngũ quan lại lộng hành, tha hoá, biến chất. Sự tha hoá đó thể hiện ở một số mặt

sau:

- Số quý tộc công thần được tặng phong từ sau cuộc kháng chiến chống quân Minh

nảy sinh tư tưởng xả hơi, cạy thế cạy quyền, ngày càng tha hoá. Không ít người có chức

quyền trong bộ máy hành chính chuyển sang hưởng thụ, tham nhũng, hối lộ. Nhiều quan

đại thần đua nhau huy động sức lính, của dân để xây dựng lâu đài, dinh thự cho mình. Thái

uý Lê Thụ cưới vợ cho con mà “những kẻ cầu tiến đạt đua nhau đem cúng của cải để mong

được phú quý, khiến cho các thứ gấm thêu, lĩnh là, vóc lụa ở hàng phố hết nhẵn” [9; 99].

Năm 1429, khi cho các quan văn võ nghị bàn việc lớn của đất nước, vua Lê Thái Tổ đã phải

thốt lên rằng: "Không có ai chịu hết lòng với việc nước, chỉ ham nghĩ phú quý mà thôi" [5;

tr109].

Hàng ngũ quan lại dưới triều vua Lê Nhân Tông, như Trung Hưng ký nhận xét: “Tể

thần như Lê Sũng, Lê Sát thì dốt đặc, Chưởng binh như Lê Duyên, Lê Luyện thì mù tịt…,

phường dốt đặc như ong nổi dậy, kẻ xiểm nịnh được nghe theo, bọn đạo bút được bổ

dụng…” [9; 100].

Số tích cực như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lưu Nhân Chú... đều bị cô lập hoặc

sát hại.

- Bọn quần thần như Lê Sát, Lê Ngân, Lê Thụ, Lê Soạn... ngày càng lộng hành. Quyền

lực nhà nước bị phân tán, chế độ phong kiến tập quyền bị đe doạ nghiêm trọng.

- Các quần thần ghen ghét, vu cáo, sát hại lẫn nhau. Nhà vua hoặc bất lực, hoặc thiếu

sáng suốt, công minh. Vụ sát hại đại công thần Nguyễn Trãi là một ví dụ. Tư đồ Lê Sát là

chủ mưu sát hại các quan đầu triều, nhưng đến khi vua Lê Thái Tông nhận ra thì đã quá

muộn. Khi bãi chức Lê Sát, vua Lê Thái Tông xuống chiếu mà dụ rằng: “Lê Sát chuyên

quyền nắm giữ việc nước, ghen ghét bậc hiền tài, giết Nhân Chú để hòng ra oai, truất Trịnh

Khả bắt người ta phải phục, bãi chức của Ư Đài khiến đình thần không còn ai dám nói, đuổi

Cầm Hổ ra biên giới cho gián quan phải bịt miệng im hơi” [5; tr332].

55

- Nạn hà hiếp dân và ăn hối lộ diễn ra phổ biến trong đội ngũ quan lại. Những vấn nạn

đó diễn ra tệ hại đến nỗi vua Lê Thái Tông đã phải ra lệnh chỉ nêu rõ: “Nay các khanh

không kính giữ phép công, người giữ tiền bạc, sổ sách của cả nước thì chậm trễ hoặc gây

khó dễ. Thuế đáng thu hay đáng miễn thì không chịu phê tâu dứt khoát để làm khổ dân.

Người coi quan thì không thương dân đau khổ, còn kẻ coi dân thì chỉ vụ lợi riêng, không lo

nuôi dưỡng dân, tha cho người giầu, bắt tội người nghèo, xử kiện không công bằng, chỉ gây

bè phái lo hối lộ, làm việc không siêng năng, chỉ thích ăn uống, nhậu nhẹt” [5; tr332].

Trong điều kiện đó, vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông đã thực hiện một số biện pháp để

kiểm tra, giám sát quan lại, tổ chức thi tuyển, tiến cử người hiền tài nhưng đều không mang

lại kết quả. Việc tiến cử người hiền tài, sau nhiều lần vua nhắc nhở, thúc giục mới được

thực hiện nhưng những người được tiến cử lại qua sự thẩm định của chính các viên quan

đại thần thoái hoá nên vẫn không thể tiến cử được người hiền tài. Có lần, Thái hậu nhân

danh vua Lê Thái Tông đã phải chua xót mà nói rằng: "Những người mà các người tiến cử,

những lời mà các ngươi tâu lên chả lẽ ta lại không biết hay sao? Những lời của các ngươi

tâu lên chẳng có mưu kế gì có thể dùng được. Những kẻ mà các ngươi tiến cử đều là bọn

tầm thường dung tục" [5; tr267].

- Sự nghiệp thống nhất quốc gia bị đe doạ nghiêm trọng. Mặc dầu khi lên ngôi vua Lê

Thái Tông đã muốn củng cố sự thống nhất quốc gia bằng việc cùng các quan văn, võ trong

triều, tế cáo trời đất, cùng nhau “giết ngựa trắng lấy máu ăn thề”, nhưng mưu đồ phân chia

quyền lực giữa các tộc thiểu số vẫn liên tiếp diễn ra. Năm 1435, tù trưởng châu Ngọc Ma,

Nghệ An; năm 1441, tù trưởng châu Thuận Mỗi, Sơn La; năm 1446, tù trưởng huyện Thu

Vật, Tuyên Quang... thi nhau nổi dậy làm phản. Đó là thời vua Lê Thái Tông. Đến thời vua

Lê Nhân Tông và thời Lê Nghi Dân tình hình này còn nghiêm trọng hơn rất nhiều.

- Nội bộ suy yếu, giặc ngoại xâm được dịp tràn đến. Ở phía Nam và suốt dọc bờ biển

phía Đông, từ Bắc chí Nam, giặc Chiêm Thành kéo đến cướp phá tàn sát dân Việt. Ở vùng

biên giới phía Bắc, bọn xâm lược bành trướng xúi giục, chia rẽ, lôi kéo một số tù trưởng

phản động nổi lên chống lại triều đình, đem đất, đem dân dâng nộp cho chúng. Nhiều vùng

lãnh thổ của đất nước đã rơi vào tay giặc. Nguy cơ mất nước vì nạn ngoại xâm càng ngày

càng lớn dần, mâu thuẫn nội bộ ngày càng gay gắt.

56

Thứ ba, khủng hoảng cung đình là nguyên nhân trực tiếp khiến vua Lê Thánh

Tông phải tiến hành cải cách hành chính.

Sau đại thắng quân Minh, tưởng chừng như đất nước mãi mãi đi lên mà không còn

có trở lực nào có thể ngăn cản nổi, không kẻ thù xâm lược nào dám đụng đến nước Đại Việt

nữa. Nhưng thực tế lại không hoàn toàn như vậy. Ngay trong những năm đầu trị vì của vua

Lê Lợi - ông vua đầu tiên của triều Lê (1428 - 1433) đã xuất hiện những mầm mống của

khủng hoảng. Nguy cơ ngoại xâm tạm yên, mối hoạ trong nước đã bắt đầu âm ỉ. Nguyễn

Chích, Lưu Nhân Chú, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Nguyễn Trãi - những đại công

thần ấy của triều Lê, những người đã từng nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử cùng vua Lê

Lợi trong kháng chiến, nay vẫn giữ tròn đạo trung với vua, lần lượt đều bị khép vào tội tử

hình vì những lý do khác nhau.

Vua Lê Lợi chết, Lê Thái Tông nối ngôi. Vua Lê Thái Tông đã làm cho tình hình

đất nước ngày càng lún sâu vào cuộc khủng hoảng. Vua Lê Thái Tông thiếu bản lĩnh lại ưa

thích xu nịnh. Xung quanh vua Lê Thái Tông là những quan lại đầy mưu mô, xảo quyệt.

Những ai giám can ngăn vua làm điều trái đều bị mất chức, bị lưu đầy hoặc bị giết hại.

Vua Lê Thái Tông chết, Bang Cơ lên ngôi vua khi vẫn còn rất nhỏ. Nguyễn Thị Anh

buông rèm ngồi trị nước thay con. Người đàn bà mưu mô, xảo quyệt, lắm tham vọng này

đã cùng với anh trai mình là Nguyễn Phù Lộ và bọn nịnh quan, lập thành phe phái, chi phối,

lũng đoạn mọi công việc của triều đình. Họ không từ bất cứ thủ đoạn nham hiểm nào để

đàn áp, thủ tiêu những người không cùng phe cánh. Chốn triều đình, người có đức, có tài

bị ức hiếp hoặc vô hiệu hoá; bọn bất tài, thất đức tha hồ tác ai, tác quái, quấy đảo ở triều

đình và các cấp hành chính.

Năm 1459, Lê Nghi Dân - con cả vua Lê Thái Tông, bị cha truất quyền kế vị, nửa

đêm cùng với những người thân tín đột nhập hoàng thành giết em ruột mình là Bang Cơ,

tức vua Lê Nhân Tông và Hoàng Thái Hậu - mẹ Bang Cơ rồi tự xưng làm vua. Nghi Dân ở

ngôi vua được 8 tháng. Do tính tình hung bạo, sa đoạ, nên các quan trong triều rất oán giận.

Tháng 6 năm 1459, đảo chính xảy ra tại cung đình, Nghi Dân cùng bọn tay chân của y đều

bị giết chết.

Khắc Xương là con thứ ba của vua Lê Thái Tông được tôn lên ngôi vua. Vốn là

người yếu đuối, Khắc Xương lo sợ cho tính mạng của mình nên một mực từ chối ngồi vào

57

ngai vàng. Các quan tiến bộ trong triều quyết định rước người con út của vua Lê Thái Tông

là Lê Tư Thành về kinh đô và tôn ông lên làm vua, năm ấy ông mới 18 tuổi.

Như vậy, với những nguyên nhân đã nêu trên, dựa trên những điều kiện sẵn có của

Đại Việt bấy giờ, Lê Thánh Tông quyết định thực hiện một cuộc cải cách hành chính đất

nước. Trước những tồn tại mà thực tế đặt ra, ông đã thực hiện cuộc cải cách hành chính này

trên hai nội dung chủ yếu, đó là cải cách bộ mày hành chính và cải cách chế độ quan lại.

Bộ máy nhà nước phong kiến thời Lê Thái Tổ còn quá nhiều tầng nấc, chưa có quy

củ rõ ràng. Tính cách tạm thời và phân tán quyền lực của bộ máy thời bấy giờ chỉ thích ứng

với hoàn cảnh xã hội sau chiến tranh còn khá lỏng lẻo. Trải qua các đời vua, bộ máy nhà

nước cơ bản được đặt ra khá hoàn thiện, nhưng lại chưa có cơ cấu tổ chức và quy chế hoạt

động cụ thể. Khi lên ngôi, Lê Thánh Tông đã từng bước tiến hành những cải cách sâu sắc

làm cho bộ máy hành chính nhà nước ngày càng hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; đưa đất

nước đi dần vào thế ổn định và từng bước phát triển một cách vững chắc. Ông đã kiên trì

cải cách bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương theo những mục tiêu:

- Gọn, nhẹ mà có hiệu lực;

- Chọn được những người thực sự có tài, có đức để bổ dụng làm quan;

- Loại bỏ kịp thời bọn tham quan, ô lại, những quan lại không xứng chức.

Với những mục tiêu cụ thể để thực hiện cải cách bộ máy nhà nước, bộ máy hành

chính dưới triều Lê Thánh Tông là bộ máy điều hành có cơ cấu hoàn chỉnh hơn tất cả những

bộ máy quản lý của các triều đại trước đó. Nó gọn nhẹ nhưng hoạt động có hiệu quả cao.

Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ hỗ trợ, giám sát lẫn nhau giữa các bộ phận trong bộ máy

nhà nước được phân định tương đối rõ ràng, không có hiện tượng chồng chéo lẫn nhau.

Quan niệm về sự cần thiết phải có đội ngũ quan lại chuyên nghiệp, trung thành với

triều đại của mình thể hiện rất rõ trong các chiếu dụ của vua Lê Thánh Tông. Ông đã dành

rất nhiều thời gian, tâm huyết của mình để tạo dựng một đội ngũ quan lại giúp việc đáp ứng

được tiêu chuẩn “hiền - tài”. Cơ sở pháp lý quan trọng nhất để cải cách quan chế và triển

khai các biện pháp hình thành đội ngũ quan lại là bản dụ Hiệu định quan chế (Hoàng triều

quan chế) của vua Lê Thánh Tông và nhiều văn bản khác như: Lệ khảo khoá năm 1470,

Sắc chỉ năm 1480, Điều lệnh năm 1485, Chiếu chỉ năm 1487… và đặc biệt là vào năm 1483

58

ông cho ban bố Bộ luật Hồng Đức, trong đó có nhiều điều khoản quy định về nhiệm vụ,

quyền hạn, trách nhiệm của quan lại.

Chế độ quan lại dưới triều Lê Thánh Tông được cải cách khá toàn diện, từ việc tuyển

chọn, đào tạo; kiểm tra, giám sát đến việc khen thưởng và xử phạt đội ngũ quan lại triều

đình đều được Lê Thánh Tông quan tâm. Để đội ngũ quan lại triều đình phát huy được hết

tài năng, đức độ của họ trong thi hành nhiệm vụ, Lê Thánh Tông đã tỏ ra rất nghiêm khắc

và chặt chẽ trong việc đặt ra những lệ mới và tiến hành các biện pháp hữu hiệu để kiểm tra,

giám sát đội ngũ quan lại các cấp. Để khuyến khích và bắt buộc các lại, quan đương chức

phải luôn trau dồi năng lực, đạo đức và loại bỏ kịp thời những quan lại thoái hoá, biến chất,

vua Lê Thánh Tông đặt ra lệ “Khảo thí” và “Khảo khoá” quan lại.

2.1.2.2. Xuất phát từ mục đích cải cách đội ngũ quan lại dưới thời Lê Thánh Tông Việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa mục đích chính là nhằm kiểm tra, đánh giá

trình độ, năng lực và phẩm hạnh của đội ngũ quan lại trong triều đình từ trung ương đến

địa phương. Tùy vào từng triều đại mà mục đích, niên hạn, tiêu chí thực hiện khảo thí, khảo

khóa được thực hiện khác nhau. Nhận thức được vai trò đặc biệt của việc thực hiện lệ khảo

thí, khảo khóa; dưới thời Lê Thánh Tông, lệ khảo thí, khảo khóa được xây dựng hoàn chỉnh

và thực hiện như một lệ không thể bỏ qua. Có thể nói rằng, mục đích cụ thể của việc thực

hiện lệ khảo thí, khảo khóa chính là phục vụ cho việc thực hiện cải cách đội ngũ quan lại

dưới thời Lê Thánh Tông.

Việc ban hành và thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa là tối quan trọng và cần thiết để

thực hiện mục đích cải cách đội ngũ quan lại vì những lý do sau đây:

Thứ nhất, khảo thí, khảo khóa thường xuyên giúp hạn chế những vấn đề còn tồn tại

từ việc tuyển chọn quan lại bằng chế độ khoa cử. Triều Lê sơ thực hiện khoa cử rộng khắp

với tất cả các đối tượng, từ kẻ giàu đến người nghèo, từ nam đến nữ, từ những người trong

kinh đến những người là thường dân ngoại đạo,… tất cả mọi người chỉ cần là người được

xã trưởng xác nhận về tư cách, đạo đức và không thuộc vào đối tượng: người phạm vào tội

thập ác, con nhà phường hát. So với các triều đại trước, triều Lê sơ đã mạnh dạn mở rộng

khoa cử đến tất cả các đối tượng. Cứ 3 năm một lần các khoa thi được mở ra để lựa chọn

người tài. Mặc dù đã có những quy chế kiểm soát hoạt động tuyển chọn quan lại qua con

đường khoa cử chặt chẽ và nghiêm minh hơn so với các triều đại trước, song giai đoạn đầu

59

thực hiện chế độ khoa cử mở rộng vẫn còn tồn tại vấn nạn mua quan, thi hộ,… Mãi sau đó,

những quy định hà khắc, chặt chẽ được ban hành mới làm giảm phần nào những vấn nạn

tồn tại trong chế độ khoa cử.

Để hạn chế việc mua quan, bán chức, thi hộ, đưa – nhận hối lội,… vua Lê Thánh

Tông cần có một biện pháp để thực hiện kiểm tra, giám sát chất lượng về cả đức và tài đội

ngũ quan lại, kể cả đối với người vừa mới thi đỗ các kỳ thi hay đã làm quan lâu năm. Lệ

khảo thí, khảo khóa vì thế được xây dựng và triển khai thực hiện rộng khắp, đối với tất cả

các quan lại, không kể phẩm trật, vị trí làm việc.

Thứ hai, khảo thí, khảo khóa đánh giá phẩm hạnh của đội ngũ quan lại, hạn chế sự

tha hóa về phẩm chất đạo đức của đội ngũ quan lại trong triều đình. Việc quan lại trong

triều đình, đặc biệt là những vị quan đại thần được giao nhiều quyền hạn có những hành vi

tham nhũng, nhận hối lộ, hà hiếp bóc lột dân chúng, không tôn trọng nhân dân,… tồn tại

dưới thời phong kiến là một điều không khó để nhận thấy. Những vấn nạn này nhiều đến

mức vua Lê Thái Tông đã phải ra lệnh chỉ nêu rõ: “Nay các khanh không kính giữ phép

công, người giữ tiền bạc, sổ sách của cả nước thì chậm trễ hoặc gây khó dễ. Thuế đáng thu

hay đáng miễn thì không chịu phê tâu dứt khoát để làm khổ dân. Người coi quan thì không

thương dân đau khổ, còn kẻ coi dân thì chỉ vụ lợi riêng, không lo nuôi dưỡng dân, tha cho

người giầu, bắt tội người nghèo, xử kiện không công bằng, chỉ gây bè phái lo hối lộ, làm

việc không siêng năng, chỉ thích ăn uống, nhậu nhẹt” [5; tr332].

Để đánh giá đúng phẩm hạnh và hạn chế sự tha hóa về phẩm chất đạo đức của đội

ngũ quan lại trong tiều đình, vua Lê Thánh Tông thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa theo niên

hạn 3 năm với đội ngũ quan lại. Song khác với những triều đại khác chỉ chú trọng kiểm tra

và đánh giá trình độ kiến thức của đội ngũ quan lại, Lê Thánh Tông đã tập trung hơn vào

việc đánh giá tư cách, phẩm chất đạo đức của đội ngũ quan lại, thông qua việc đánh giá về

đời sống nhân dân nơi quan viên cai quản, sự mẫn cán của quan lại, thái độ làm việc có

được lòng dân hay không,…

Thứ ba, việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa giúp xây dựng một đội ngũ quan lại

chất lượng từ trung ương đến địa phương, góp phần thực hiện cải cách hành chính nhà nước

được thực hiện hiệu quả. Với mục đích xây dựng lực lượng thực hiện cải cách hành chính

nhà nước từ trung ương đến địa phương, góp phần đưa Đại Việt phong kiến đạt đến sự phát

60

triển cực thịnh, vua Lê Thánh Tông nhận thấy rõ vai trò và những đóng góp của đội ngũ

quan lại. Bất kể là quan văn hay quan võ, ở trung ương hay địa phương đều cần có những

chính sách phù hợp để động viên, khích lệ tinh thần đội ngũ quan lại.

Trong lịch sử thực hiện các cuộc cải cách, đổi mới thời phong kiến trước cuộc cải

cách hành chính được thực hiện bởi vua Lê Thánh Tông, các triều đại khác cũng đã từng

thực hiện những cuộc cải cách, đổi mới trên nhiều phương diện và nội dung khác nhau: cải

cách hành chính dưới thời Khúc Hạo, Lý Công Uẩn thực hiện đổi mới đất nước, Trần Thủ

Độ đổi mới toàn diện xã hội, hay Hồ Quý Ly thực hiện cải cách xã hội. Mỗi cuộc cải cách,

đổi mới đều đạt được những thành công nhất định với việc xây dựng và phát triển đất nước.

Song có thể thấy rằng, những cuộc cải cách đổi mới trước Lê Thánh Tông vẫn chưa được

thực hiện một cách hiệu quả nhất, bởi chỉ tập trung cải cách, đổi mới các cơ chế, chính sách

mà chưa tập trung cách tân đội ngũ tổ chức và thực hiện các chính sách đó. Ngay như cuộc

cải cải hành chính của Khúc Hạo, mặc dù đã quan tâm đến tổ chức lại bộ máy nhà nước;

cải cách cơ chế hành chính; đặt thêm chức quan để trông coi, quản lý các xã (trước đó chính

quyền đô hộ chưa bao giờ đặt ra các chức xã quan để quản lý các xã) nhưng chưa đi sâu

quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, các chức quan; đồng thời cũng chưa

chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ quan lại đủ đức đủ tài thực hiện cải cách hành chính

đồng bộ và thống nhất cho triều đình. Do vậy, cải cách hành chính của Khúc Hạo dù đã

đem lại sự vững vàng và ổn định hơn cho đất nước song chưa đưa đất nước đạt đến sự phát

triển hưng thịnh được như cải cách của Lê Thánh Tông. Bằng việc chú trọng vào cải cách

chế độ quan lại; chú trọng kiểm tra, đánh giá chất lượng đội ngũ quan lại đang làm việc từ

trung ương đến địa phương, vua Lê Thánh Tông đã gây dựng được một nguồn lực vừa đủ

đức vừa đủ tài, một nguồn nhân lực lớn mạnh, góp phần tạo nên thành công của cuộc cải

cách hành chính nhà nước đương thời nói chung và nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng

đội ngũ quan lại nói riêng.

2.2. Nội dung lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông

2.2.1. Mục đích thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa

2.2.1.1. Làm cơ sở để thực hiện các chế độ sử dụng quan lại

Kết quả của các kỳ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông trước tiên

được lấy làm cơ sở để đánh giá quan lại theo từng hạng, bậc; từ đó thực hiện các chế độ sử

61

dụng đối với quan lại. Tùy thuộc vào kết quả của kỳ khảo thí, khảo khóa đã đạt được mà

các quan lại có thể sẽ được thăng quan, thăng thưởng, hay giáng chức; được tuyển bổ hoặc

bị luân chuyển đến vùng khác hay giản thải; nhiều quan lại có thể đổi ngạch đang đảm

nhiệm… sao cho phù hợp với năng lực thực tế của các quan lại.

Tháng 2 năm 1478, vua Lê Thánh Tông ra sắc chỉ cho ba ty Đô, Thừa, Hiến các xứ

rằng: “Xét các quan lại trong bộ thuộc của mình, người nào liêm khiết hay tham ô, chuyên

cần hay lười biếng, cùng các quan Nho học dạy dỗ nhân tài, hàng năm có người được sung

cống sĩ hay không, nhiều hay ít, đều ghi tên tâu lên để định việc thăng hay giáng” [5; tr471].

- Kết quả khảo khóa làm cơ sở để thực hiện chế độ thăng thưởng, ví dụ như: “Quan

viên nào không phải kẻ phạm tội bị giáng chức nếu đã đủ lệ khảo khóa thì cho được thăng

chức như lệ quan viên các xứ. Nếu khảo khóa là xứng chức thì chỉ được thăng lên Thừa ty

bản xứ, không được chuyển đổi về chỗ gần…” [5; tr502]. Chiếu năm 1496 có quy định:

“Giám sinh, nho sinh, học sinh, án lại, lại viên các nha môn thi hội đã trúng nhiều kỳ làm

việc lâu năm, biết việc, siêng năng và có quân công thì ban đầu được trao các chức Tri

huyện, Tri châu, Huyện thừa, Đồng tri châu, Thủ lĩnh, tự ban; đủ 3 năm không phạm lỗi gì

thì mới cho thực thụ; sau 6 năm không phạm lỗi thì Tri huyện, Tri châu được thăng bổ Viên

ngoại lang; Huyện thừa, Đồng tri châu, Tri hạ, Điển hạ, Tự ban được bổ các chức Tư vụ,

Chủ sự, Thôi quan, Đô quan; đủ 6 lần khoá không phạm lỗi thì Viên ngoại lang, Đồng tri

phủ mới được thăng làm tri phủ” [5; tr515].

- Trong quá trình làm việc, nếu có vị trí nào bị khuyết cần chọn bổ cũng được lựa

chọn dựa trên việc khảo khóa để tuyển bổ: “Thừa ty, Hiến sát là những phương diện quan,

trách nhiệm đã tôn, quyền uy cũng trọng, khi tuyển bổ phải dùng người tốt. Nếu bị khuyết:

Tham nghị thì dùng quan từ lục phẩm trở lên: có tài năng kiến thức và uy tín, nhậm chức

đủ 4 lần khảo khóa trở lên; Hiến sát thì dùng quan các nha môn, khoa đài, Quốc tử giám,

Lục tự mà thanh liêm, sáng suốt, từng trải đủ 4 lần khảo khóa trở lên được mọi người suy

tôn ca ngợi, theo lệ mà tuyển bổ…” [5; tr496].

- Sau kỳ khảo khóa, dựa vào năng lực công tác có thể được quyết định đổi ngạch:

“Năm ấy (năm 1496) có sắc chỉ cho chỉ huy các vệ ty túc trực làm việc đủ hạn 4 lần khảo

khóa trở lên, có người nào giữ công chăm việc, không tội lỗi, thì trưởng quan của vệ xét

thực làm tờ trình lên, Lại bộ theo chỗ khuyết mà đổi bổ sang văn chức” [3; tr567]; hoặc

62

thuyên chuyển vị trí công tác: “Các quan viên nhận chức ở vùng đất độc hại đã đủ hai lần

khảo khóa trở lên mà xứng đáng với chức vụ, không có tội lỗi, thì Lại bộ xét thực rồi điều

chuyển về chỗ đất lành” [5; tr480].

- Kết quả khảo thí, khảo khóa làm cơ sở để tiến hành chế độ giản thải quan lại. Việc

tổ chức khoa thi lấy đỗ nhiều tiến sĩ làm cho bộ máy quan lại ngày càng phình to, tốn kém.

Do vậy, vua có chủ trương giảm bớt bằng cách tiến hành rà soát quan lại: “Trưởng quan

theo đạo công xét kỹ những quan viên dưới quyền giản hoặc có người hèn kém bỉ ổi không

thể làm việc được giao bộ Lại xét thực đều bắt về hưu. Lại chọn người từng trải làm được

có tài khí kiến thức thông thạo mà thay bổ vào” [9; tr178]. Ngay cả chức danh xã trưởng

tại các địa phương cũng được vua đưa ra quy định thực hiện chế độ khảo hạch, giám sát để

giản thải một cách nghiêm khắc: “Quan phủ huyện châu theo phép công mà phúc khám,

không câu nệ là xã chính, xã sử hay xã tư cứ người nào làm việc cẩn thận chu đáo nên giữ

lại, còn người nào gian tham bỉ ổi không biết chức đều tinh giản cho về, các hạng già lão

ốm đau đều hoàn làm dân” [9; tr178]. Năm 1467 dưới triều Lê Thánh Tông, “khảo thi và

sa thải bọn Đông cung thị giảng là Vũ Nguyên Tiềm và Tạ Bưu ở Phụng Nghi đường” [5;

tr423].

Phép khảo thí và khảo khóa được thực hiện nghiêm ngặt, các quan lại dưới triều vua

Lê Thánh Tông không một ai nghĩ rằng khi đã được phong quan thì sẽ được làm quan suốt

đời. Họ luôn đứng trước nguy cơ bị bãi chức nếu như tài năng và đức độ không đáp ứng.

Việc thực hiện khảo thí, khảo khóa quan lại vừa là động lực vừa là áp lực kích thích sự rèn

luyện thường xuyên của quan lại cả về khả năng và đức hạnh để được đánh giá là xứng

chức. Tháng 3 năm 1479, ra sắc chỉ rằng: “Các quan viên lười biếng, bì ổi, đê tiện, yếu hèn,

nếu là con cháu công thần thì bãi chức bắt về làm dân, nếu là còn cháu thường dân thì bãi

chức sung quân” [5; tr475]

Năm 1480 ông cũng quy định rõ: “Hình quan và các quan thừa hiến phủ, huyện các

xứ xét xử án kiện, lấy của đút thì nhiều, giữ lẽ công thì ít, có trường hợp để ứ đọng văn án

đến 3, 4 năm; có trường hợp nha môn trên dưới đùn đẩy lẫn nhau, đổi trắng thay đen, cho

trái làm phải, gian trá trăm cách, lý ngay không được tỏ bày, oan trái nhiều, sầu than lắm,

đến nỗi hạn hán xảy ra luôn, Triều thần phải công bằng mà lựa chọn hoặc sa thải hình

63

quan và quan thừa hiến phủ huyện các xứ để đều được người giỏi, xét xử đung lẽ, phải tâu

lên để thi hành” [5; tr481].

Như vậy, mục đích đầu tiên của việc thực hiện chế độ khảo khóa là để làm căn cứ

thưởng, phạt quan lại (thăng giáng chức tước phẩm hàm hoặc cấp thêm bổng lộc), vừa để

làm căn cứ chọn bổ, điều chuyển quan lại cho phù hợp với năng lực và nhu cầu công việc,

vừa để giản thải quan lại.

2.2.1.2. Nâng cao ý thức đạo đức đội ngũ quan lại triều đình

Lê Thánh Tông lên ngôi vua giữa lúc tình hình chính trị đất nước đang rơi vào khủng

hoảng nghiêm trọng, ông đã chứng kiến những hành vi của bọn tham quan ô lại bạo ngược

cậy quyền cậy thế, vơ vét tận đáy của cái của lương dân. Cho nên trong cải cách nền hành

chính quốc gia, ông cho rằng, cải cách quan lại đóng vai trò chủ yếu. Với quan điểm: “Trăm

quan là nguồn gốc của trị, loạn. Quan có đức, có tài thì nước trị. Quan vô đức, kém tài thềm,

bậc dẫn đến họa loạn”. Để sử dụng đội ngũ quan lại sao cho phù hợp nhất, cần phải biết

được đâu là người hay, kẻ dở, trong trăm quan ai là người có thực tài, mẫn cán, yêu nước

thương dân, ai là người vô tài, vô đức, làm thì láo mà báo cáo thì hay, nhũng nhiễu dân

chúng… Trên cơ sở đó, việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa thường xuyên giúp nhắc nhở

quan lại phải tận tâm hơn với trách nhiệm của mình, kích thích sự rèn luyện thường xuyên

của quan lại cả về năng lực và đức hạnh để đáp ứng với yêu cầu thực tế, gắn trách nhiệm

của quan lại với việc thực hiện nhiệm vụ được giao.

Tháng 11 năm 1471, khi ra chỉ dụ về việc cấm để chậm các kì khảo khóa vua Lê

Thánh Tông có nói rằng: “Phéo khảo khóa cốt để phân biệt người hay kẻ dở, nâng cao hiệu

quả trị nước” [5; tr458]. Đối với quan lại, Lê Thánh Tông không chỉ yêu cầu tài năng mà

còn cần phải đáp ứng yêu cầu về đạo đức. Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên của triều Hậu

Lê đưa ra nội dung khảo khóa về tư cách đạo đức. Vì vậy, người làm quan cần phải giữ gìn

và nâng cao đạo đức thể hiện trong mối quan hệ với bản thân quan lại, với công việc. Để

đáp ứng được yêu cầu của các kỳ khảo khóa, các quan lại không còn cách nào khác ngoài

việc giữ gìn phẩm cách người quân tử và nâng cao đạo đức công vụ. Trong công cuộc cải

cách hành chính, Lê Thánh Tông chú ý nhất là vấn đề cải cách con người, đề cao thực tài

và tâm đức của người làm quan trong hoạt động công vụ thì mới làm cho đất nước phát

triển được, những chính sách của nhà vua mới có thể thực hiện được triệt để. Vì vậy, để tìm

64

ra được người tài năng đức độ, thấy được kẻ kém cỏi, quan tham đồng thời luôn thúc giục

quan lại nâng cao đạo đức công vụ không có cách nào khác ngoài việc thực hiện chế độ

khảo khóa quan lại thường xuyên.

Khảo thí cũng được thực hiện đúng theo niên hạn, thực hiện trên cả phương diện

trình độ kiến thức và thái độ làm việc. Mỗi một vị quan khi được cân nhắc về việc thăng

chức hay chọn bổ đều phải căn cứ vào kết quả của những kỳ khảo thí, khảo khóa gần nhất.

Thậm chí, có những vị trí cần phải xét đến 4 kỳ khảo thí mới được. Khi nhắc đến việc khảo

thí chức huấn đạo ở các phủ, Lê Thánh Tông có lời: “Nếu khuyết viên huấn đạo nào thì sai

quan sở tại chọn giám sinh các đường và lại viên các nha môn, người nào thi hội trúng các

kỳ đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, lại có hạnh kiểm, học vấn, từ 35 tuổi trở lên, theo như lệ năm

trước, khảo thi 4 kỳ đều đỗ thì mới cho làm” [5; tr411].

Như vậy, cả việc thực hiện khảo thí và khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông đều trở

thành cơ sở để áp dụng các chế độ quan lại khác đối với đội ngũ quan lại. Trên cơ sở thực

hiện khảo thí, khảo khóa theo niên hạn đã định, đội ngũ quan lại tích cực trau dồi và rèn

luyện kiến thức, kỹ năng cũng như phẩm chất đạo đức, góp phần nâng cao ý thức đạo đức

trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao của mình.

2.2.2. Kỳ hạn thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa

Lệ khảo thí được thực hiện theo niên hạn 3 năm một lần. Cứ 3 năm một lần, các

quan lại đương chức từ quan nhất phẩm đến cửu phẩm, cả quan văn lẫn quan võ, từ trong

kinh đến ngoài đạo đều phải trải qua khảo thí. Ngay cả đối với những người đã đỗ trong

các kỳ thi Đình, được bổ làm quan, đến kỳ khảo thí cũng phải khảo thí. Người thi đỗ được

xét ban thưởng hoặc thăng chức. Lại, quan không thi đỗ liền bị giáng cấp hoặc bãi chức,

binh lính không thi đỗ thì bị thải hồi, bất kể quân hay tướng.

Việc khảo thí dưới triều vua Lê Thánh Tông như một ngày hội của tất cả các quan

lại trong kinh, ngoài đạo. Mọi quan lại, binh lính trong công việc thường ngày đều ra sức

cố gắng rèn luyện, đợi đến ngày khảo thí để trổ tài. Tinh thần “trung quân ái quốc” của đội

ngũ quan lại cũng do vậy mà luôn được duy trì. Không một lại, quan nào, binh lính nào

muốn để mình bị bãi chức, bị thải hồi vì thi hỏng, thi trượt trong các kỳ khảo thí này.

Vua Lê Thánh Tông kiểm tra đức, tài bằng lệ khảo khóa. Sau khi đã nhậm chức từ

đủ 3 năm trở lên, các lại, quan tham gia một kỳ khảo khóa để kiểm tra khả năng và tinh

65

thần trách nhiệm. Vua xuống dụ: “Phép khảo khóa cốt để phân biệt người hay, kẻ dở, nâng

cao hiệu quả trị nước… Nay nha môn trong ngoài các ngươi, người nào nhậm chức đã đủ

3 năm, phải báo ngay lên quan trên không được để chậm. Nếu quá một trăm ngày mà không

kê dánh sách gửi đi, thì tính số người chậm mỗi người phải phạt 1 quan tiền, kẻ nào theo

tình riêng mà dung túng đều phải trị tội cả” [5; tr458].

Khảo khóa không chỉ nhằm kiểm tra, đánh giá công tích hay sai lầm của các quan

lại để thăng giáng, mà còn nhằm chuyển đổi nơi nhiệm sở một cách hợp lý, có tính chất

tưởng lệ. Năm 1480, Vua từng ban lệnh: “Các quan viên nhận chức ở vùng đất độc hại đã

đủ hai lần khảo khóa trở lên mà xứng đáng với chức vụ, không có tội lỗi thì Lại bộ xét thực,

rồi điều về chỗ đất lành.” [5; tr423].

Lệ khảo khóa tuy đã được tiến hành từ thời Lý nhưng chưa thành quy chế. Đến năm

Hồng Đức thứ 19 (1488), qua khảo khóa đem lại hiệu quả thiết thực, nhà vua mới định ra

“Lệ khảo khóa”. Lệ khảo khóa dưới triều Vua Lê Thánh Tông gồm 4 điểm cơ bản, trong

đó điểm 1 quy định: “Phép khảo khóa: 3 năm sơ khảo, 6 năm tái khảo, 9 năm thông khảo

rồi mới tiến hành thăng giáng” [5; tr504]. Cụ thể là:

Sơ khảo

Cứ ba năm một lần, các quan trên phải kiểm tra, đánh giá quan lại dưới quyền – đây

là kỳ sơ khảo. Lại, quan nào chăm lo đến dân, được dân ủng hộ, trong hạt ít người lưu vong,

an ninh ổn định, kinh tế phát triển thì được cho là xứng chức. Ngược lại, lại, quan nào

nhũng nhiễu, đục khoét, tư túi, làm bậy, trong hạt nhiều người phải lưu vong, hay xảy ra

trộm cướp, giết người thì bị coi là không xứng chức.

Nếu trong khi làm quan mà phạm tội bị xử phạt thì không chờ hết 3 năm mới khảo

khóa, họ bị coi là không xứng chức. Lại, quan nào bị quan trên nhận xét là không xứng

chức thì ngay lập tức bị bãi chức, giáng chức hoặc bị trừng phạt theo tội đã phạm phải.

Sau khi sơ khảo, nếu ai được nhận xét là xứng chức thì sẽ được tiếp tục giữ chức vụ

của mình đang đảm nhiệm. Nếu bị coi là người không xứng chức thì sẽ bị cách chức. Theo

lệ này 6 năm thực hiện tái khảo. Việc xét công, phân loại quan lại, ngoài các tiêu chuẩn

niên hạn, ông còn yêu cầu quan lại phải đảm bảo hai yếu tố là đạo đức và năng lực. Một

quan lại không thể chỉ có hoặc đạo đức, hoặc năng lực mà phải đảm bảo đầy đủ 2 yếu tố để

có thể phục vụ triều đình, phục vụ dân chúng.

66

Thông khảo

Lại, quan nào đã qua 3 năm đầu tiên với kì sơ khảo, 3 năm tiếp theo với kì tái khảo,

đến lần thứ 3 (9 năm) thì được thông khảo. Trưởng quan đánh giá, nhận xét công việc trong

cả 9 năm của người chịu thông khảo kèm theo lời đề nghị rồi trình lên Bộ Lại để xem xét

việc thăng, giáng. Quan từ nhị phẩm trở lên thì Bộ lại tâu lên nhà vua quyết định, từ nhị

phẩm trở xuống thì Bộ Lại quyết định. Nếu ai có tài đặt biệt được đặc chỉ của nhà vua thì

không nhất thiết phải theo lệ khảo khóa như quy định: Nếu có người tài năng kỳ lạ, được

lệnh đặc cách thăng bổ thì không câu nệ vào lệ này [5; 504-505]. Đó là việc thăng, còn việc

giáng thì: “Các quan viên lười biếng, bì ổi, đê tiện, yếu hèn, nếu là con cháu công thần thì

bãi chức bắt về làm dân, nếu là còn cháu thường dân thì bãi chức sung quân” [5; tr475].

Như vậy, so với các triều đại trước, dưới triều Lê sơ, vua Lê Thánh Tông đã định rõ

lệ khảo thí với niên hạn 3 năm một lần; khảo khóa thực hiện 3 năm sơ khảo, 6 năm tái khảo

và 9 năm thông khảo. Với việc định ra niên hạn khảo thí, khảo khóa cụ thể, vua Lê Thánh

Tông yêu cầu thực hiện “không được để chậm” kỳ khảo thí, khảo khóa nào; giúp chất lượng

đội ngũ quan lại triều đình từ trung ương đến địa phương ngày một nâng cao hơn trước. 3

năm là một khoảng thời gian không quá dài, nhưng cũng không phải là thời gian ngắn, niên

hạn này đủ để quan lại triều đình rèn luyện và học hỏi thêm được nhiều kiến thức, kỹ năng

và trau dồi thêm phẩm hạnh, dễ dàng vượt qua các kỳ khảo thí, khảo khóa theo lệnh vua

đặt ra.

2.2.3. Tiêu chí thực hiện lệ khảo thí, khỏa khóa

Ngay từ thời Trần, Trần Thủ Độ đã coi trọng việc tuyển dụng quan, lại qua thi cử,

khảo sát. Đến Lê Thánh Tông, ông vẫn coi trọng, đặc biệt là khảo về học vấn: “… các chức

đội lại thì Hộ bộ khảo sát những người am hiểu về viết chữ và tính toán trong các cục, ty,

sở, ai đỗ thì bổ vào.” [5; tr469].

Nội dung khảo thí được quy định rõ ràng cho quan văn và quan võ. Quan văn thì

giải kinh nghĩa, làm thơ phú, viết kế sách trị nước an dân (thực chất đây là một bài văn theo

yêu cầu, đề bài do nhà vua đích thân ra và trực tiếp chấm); quan võ thì thi dàn trận, bắn

cung, võ nghệ, đua ngựa, đua thuyền, dàn quân, chiến thuật.

Nội dung lệ khảo khóa được thực hiện chú trọng vào 2 tiêu chí, đó là: thành tích

công việc đã đạt được và được lòng dân nơi cai quản hay không. Năm 1470, vua Lê Thánh

67

Tông có chỉ rõ: “Trưởng quan các nha môn trong khoài khi khảo khóa các quan viên trong

phạm vi cai quản thì phải xét kỹ thành tích trong công việc mà viên đó đã làm. Nếu quả là

có lòng chăm nom yêu thương, được nhân dân yêu mến, và trong nơi cai quản ít kẻ trốn

tránh, thì mới là xứng chức. Nếu vơ vét, quấy nhiễu, gây tệ riêng tư và trong nơi cai quản

có nhiều người trốn tránh thì là không xứng chức” [5; tr447].

Tiêu chí đầu tiên và cơ bản nhất để đánh giá quan lại là năng lực hoạt động thực tiễn,

mức độ hoàn thành và những thành tích đạt được trong công việc được giao, tức là có hoàn

thành nhiệm vụ, công vụ hay không? Có bê trễ công việc hay để sai sót hay không?

Tiêu chí thứ hai Lê Thánh Tông chú trọng hơn cả; đó là khảo xét về tư cách đạo đức.

Tiêu chí này lấy tư tưởng thương yêu dân, đức thanh liêm, chính trực trong công việc làm

tiêu chuẩn để nhận xét thành tích quan lại. Tiêu chí đánh giá tài năng, đức độ, sự mẫn cán

của quan lại căn cứ vào kết quả làm việc của các vị quan lại tại nơi nhậm chức có duy trì

được làng xã trù phú, giữ gìn thuần phong mỹ tục, có để xảy ra nạn trộm cướp hoành hành,

đặc biệt nhân dân có được hưởng cuộc sống yên vui an lạc… hay không?

Vua Lê Thánh Tông đã có lần chỉ dụ cho quan lại các địa phương với những lời lẽ

như sau: “Bọn các ngươi giữ trọng trách ở địa phương, thương yêu dân là trách nhiệm. Thế

mà không biết thể theo lòng nhân của triều đình yêu nuôi dân chúng… Nay Sứ ty và phủ

huyện các ngươi phải mau mau đi xem xét những nơi núi chằm, bờ biển trong hạt, chỗ nào

địa hình có thể khơi đắp sông ngòi, đê dập để làm ruộng, chỗ nào hùm sói làm hại, cường

hào thao túng, phong tục kiêu bạc, sinh dân đau khổ. Tóm lại mọi việc lợi nên làm, mọi

mối hại nên bỏ, trong hạn một trăm ngày phải tâu trình cụ thể… Nếu thấy vẫn còn việc lợi

nên làm, mối hại nên bỏ mà các ngươi chưa nói tới thì quan phủ huyện phải bãi chức, sung

quân, quan thừa ty bị giáng chức” [5; tr310 - 311].

Cùng với đó, điều 284 Bộ luật Hồng Đức cũng quy định trách nhiệm của các quan

ty như sau: “Các quan ty làm việc ở ngoài, nếu không biết làm việc lợi, trừ việc hại để trăm

dân họ phải phiêu bạt đi nơi khác, hộ khẩu bị hao hụt, thì xử tội bãi chức hay tội đồ” [33;

tr112].

Lê Thánh Tông hiểu rõ tiêu chí về tư cách đạo đức của quan lại trong triều đình đối

với nhân dân địa phương đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đánh giá quan lại.

Chính những người dân dưới quyền cai quản của vị quan, lại mới phản ánh rõ ràng và trung

68

thực nhất thái độ làm việc của quan lại, xem đã tậm tâm vì dân hay chưa. Ông ra lệnh chỉ

cho đại thần và các quan văn võ, đại ý là: “Từ nay về sau, coi quân, trị dân, hay làm việc

gì đều nên hết lòng công bằng, yêu thương quân dân, không được riêng tây, nếu không sửa

đổi lỗi lầm nhất định bị trị tội nặng” [5; tr324].

2.2.4. Đối tượng thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa

Chế độ “khảo thí” và “khảo khoá” quan lại dưới triều Lê sơ có nhiều điểm khác biệt

so với chế độ kiểm tra, giám sát đã được thực hiện ở các triều đại trước đó. Chế độ kiểm

tra, giám sát trước đó lấy công vụ làm đối tượng và kết quả kiểm tra, giám sát chỉ góp phần

đánh giá quan lại, nhằm đảm bảo hiệu lực các chính lệnh của nhà vua. Chế độ “khảo thí”

và “khảo khoá” dưới triều các ông lấy quan lại làm đối tượng giám sát, với mục đích tái lựa

chọn quan lại.

Mọi quan lại đang tại chức từ nhất phẩm đến cửu phẩm, cả văn lẫn võ, từ trong kinh

đến ngoài đạo, dù đỗ đại khoa hay mới được bổ nhiệm… không một đối tượng nào được

miễn trừ, lẩn tránh thực hiện việc khảo thí. Kể cả đối với con cháu các quan viên đang còn

đi học cũng cần tham gia khảo thí. Năm Hồng Đức thứ 12 (1481) ông có ra lệnh rằng

“Khảo thi con cháu các quan viên, hỏi về làm văn, viết chữ, làm toán” [5; tr487]. Như vậy,

khảo thí ngoài thực hiện đối với tất cả các quan lại trong triều đình để xem xét, đánh giá

trình độ, phẩm hạnh của đội ngũ quan lại; vua Lê Thánh Tông còn thực hiện khảo thí với

con cháu các quan viên, nhằm đánh giá trình độ, năng lực học tập từ thuở nhỏ của con cháu

các quan lại, sớm tìm kiếm nhân tài phục vụ triều đình.

Khảo khóa cũng được thực hiện đối với toàn bộ quan lại trong triều đình từ trung

ương đến địa phương, bất kể giữ vị trí nào, nếu đã nhậm chức từ đủ 3 năm trở lên phải tham

gia khảo khóa. “Nay nha môn trong ngoài các ngươi, người nào nhậm chức đã đủ 3 năm,

phải báo ngay lên quan trên không được để chậm” [5; tr458]. Việc thực hiện khảo khóa

đối với cả con cháu các công thần trong triều đình đã hạn chế được nhược điểm của cách

thức tuyển dụng quan lại bằng con đường nhiệm tử, đảm bảo cho đội ngũ quan lại trong

triều đình phải luôn cố gắng làm việc, giữ gìn phẩm hạnh và thanh danh của bản thân.

Tóm lại, đối tượng thực hiện khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông là

toàn bộ đội ngũ quan lại của triều đình từ trung ương đến địa phương, từ quan văn đến quan

võ, không kể bất cứ vị trí nào.

69

2.2.5. Trách nhiệm thi hành lệ khảo thí, khảo khóa

Để thực hiện tốt lệ khảo thí, khảo khóa dưới triều vua Lê Thánh Tông, ông đã thực

hiện cải cách lại bộ máy hành chính nhà nước, chú trọng xây dựng và hoàn thiện các cơ

quan thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát quan lại trong triều – đội ngũ trực tiếp chịu

trách nhiệm thi hành lệ khảo thí, khảo khóa. Ngự sử đài là cơ quan chuyên làm công việc

giám sát ở triều đình, can gián nhà vua, đàn hặc các quan lại nhằm giữ gìn kỷ cương phép

nước. Ngự sử đài xét lỗi, đàn hặc mọi quan lại văn, võ, điều tra đơn thư của người dân,

duyệt xét các án tử. Hệ thống các cơ quan Ngự sử đài gồm có Ngự sử đài ở trung ương và

13 giám sát Ngự sử ở 13 thừa tuyên - tương ứng với 13 tỉnh ngày nay. Bên cạnh Ngự sử

đài, Lê Thánh Tông lập ra Lục khoa – cơ quan giám sát công việc của Lục bộ.

Vua Lê Thánh Tông chia cả nước làm 13 đạo thừa tuyên. Các thừa tuyên trở thành

những đơn vị hành chính trung gian thống nhất về quy mô và tên gọi. Ông không đặt chức

quan đứng đầu các thừa tuyên mà đứng đầu mỗi thừa tuyên đặt ra 3 ty: Thừa ty, Đô ty và

Hiến ty với nhiệm vụ: Thừa ty: chuyên trông coi các công việc hành chính, hộ tịch, thuế

khoá; Đô ty: quản lý việc binh, giữ gìn an ninh trong các thừa tuyên; Hiến ty: phụ trách

công việc thi hành pháp luật và xử án. Các ty tại thừa tuyên vừa là cơ quan quản lý, vừa là

cơ quan phối hợp với trưởng quan phụ trách các ty thực hiện giám sát, kiểm tra hoạt động

quan viên dưới quyền.

Trưởng quan phụ trách ty chịu trách nhiệm thực hiện trực tiếp công việc khảo thí,

khảo khóa – nhận xét, đánh giá các quan lại dưới quyền cai quản của mình. Theo Lê triều

quan chế, thời Hồng Đức quy định trách nhiệm khảo khóa cụ thể: “Các quan viên là Đô

đốc ngũ phủ, Đô chỉ huy, Đoán sự thuộc hai vệ Cẩm y và Kim ngô. Hiệu điểm ba ty Điện

tiền, Đề đốc hiệu lực ở vệ Thần vũ và Đề lĩnh quân vụ ở tứ thành cùng các quan ở Ngự sử

đài sáu bộ, Đường thượng quan Quốc tử giám, Đông các Hàn lâm viện trung thư giám,

Thái y viện, thiên hòa cung, Cửu tiên cung thị chiếu, Tông nhân phủ, Cung sư phủ và Xuân

phường, mỗi quan chức ấy làm việc đủ ba năm khảo khóa thì quan nha môn đó đem cả

công việc đã làm trong chức nhiệm rồi có phạm lỗi hay không khai rõ cả ra các ý do rồi

gửi lên cho Cai khoa thu nhận và đối chiếu, đợi đủ chín năm, phân loại ra mà tâu lên một

thể, còn việc tiến hành thăng chức hay giáng chức là do tự ở trên quyết định.

70

Các sở quan Tráng sĩ, Thiên hộ thuộc hai vệ Cẩm y và Kim ngô thì theo sự khảo

hạch của các quan ty; quan các sở Tuần tượng và Mã nhàn thì theo sự khảo hạch của quan

bản vệ, rồi tất cả chuyển lên vệ Cẩm-Kim khảo hạch. Còn quan ty Cẩm y, Kim ngô cùng

các ty Du nỗ, Thần uy, Thần tý, các quan vệ Mã nhàn, Tuần tượng thì theo quan vệ Cẩm y,

Kim ngô khảo hạch, chuyển lên Binh khoa khảo hạch rồi phân loại tâu lên một thể và

chuyển cho bộ Lại. Sáu bậc Ngự sử đài lục bộ, Quốc tử giám thông chánh sứ, các nha môn

thuộc phủ Phụng thiên sở thuộc cai quan đều cho Đường thượng quan khảo hạch rồi gửi

lên bộ Lại khảo hạch, còn quan sáu bậc, Thông chánh sứ ty và Trưởng quan phủ Phụng

Thiên thì đều theo quan bộ Lại khảo hạch để thi hành một thể…”[20;tr109]

Những người có trách nhiệm thi hành lệ khảo khóa cần phải là người đạt yêu cầu

như: công bằng, trung thực, có năng lực, xem xét thật kỹ các việc làm của quan viên cấp

dưới. Năm 1470, Lê Thánh Tông định lệ khảo khoá quan lại nơi cai quản và có nêu rõ:

“Trưởng quan các nha môn trong ngoài khi khảo khoá các quan viên trong phạm vi cai

quản thì phải xét kỹ thành tích trong công việc mà viên đó đã làm” [5; tr447]. Mặt khác,

trưởng quan các môn là người nắm thẩm quyền thực hiện việc khảo khóa phải nêu cao tinh

thần trách nhiệm của mình, đồng thời phải công bằng trong đánh giá quan viên cấp dưới:

“quan phụ trách đem công việc đã làm trong các kỳ khảo trước sau cùng lời xét định, tùy

theo chức quan cao thấp hoặc tâu lên, hoặc gửi lên Lại bộ giữ, Lại bộ tham chiếu trước

sau, nhiều việc, ít việc mà khảo theo lệ để thi hành. Nha môn nào gian trá, bịa đặt công

lao, che giấu tội lỗi mà quan phụ trách không xét ra, che giấu, dung túng cho nhau, thì Lại

bộ xét rõ đưa ra hỏi tội”; “Trưởng quan các nha môn trong ngoài khi khảo khóa các quan

viên trong phạm vi cai quản của mình phải công bằng mà xét duyệt, phải xem xét kỹ lưỡng

thành tích trong công việc mà các quan viên đó đã làm” [3; tr99] và có răn: “Những viên

quan xét người hay dở mà sai sự thật thì Ngự sử đài, Lục khoa, Hiến Ty kiểm xét hoặc tâu

để trị tội” [5; tr473].

Ngoài ra, tùy thuộc vào việc quan viên thuộc quyền cai quản của vị quan lại nào,

vua Lê Thánh Tông cũng đều chỉ rõ những chức quan chịu trách nhiệm thực hiện khảo khóa

trực tiếp, phối hợp với hai ty Thừa, Hiến để thực hiện khảo thí, khảo khóa công bằng, chính

trực. Năm Hồng Đức thứ 12 (1481) vua Lê Thánh Tông có xuống lệnh rằng: “quan các vệ,

ty, sở Tráng sĩ, Thần vũ, Hiệu lực, Điện tiền, Ngũ phủ, Mã nhàn, Thuần tượng trong kinh,

71

các quan vệ, sở, phủ, châu, huyện bên ngoài nếu có người đẽo khoét quân lính, mọt hại

nhân dân, chỉ chăm làm lợi cho nhà mình, không nghĩ đến phép nước, ở trong thì đường

quan là các Chỉ huy, Đề đốc, Kiểm điểm, Đô đốc và các quan Đoán sự, Kinh lịch; bên

ngoài thì hai ty Thừa, Hiến đều phải công bằng xét xử, tham khảo dư luận của mọi người,

người nào trước kia có nhũng lạm, tuy không có chứng cứ thực, nhưng mọi người đều biết;

cùng là người nào liêm khiết, không mắc thói tham ô, kê ra từng loại tâu lên cả, trao cho

Gián sát ngự sử ở đạo đó thẩm tra lại, làm bản tâu lên, sẽ khu xử để tỏ rõ khuyến khích và

trừng phạt” [5; tr486].

Như vậy, trưởng quan các ty – người đứng đầu các ty phụ trách trực tiếp việc thực

hiện khảo thí, khảo khóa đối với đội ngũ quan lại dưới quyền cai quản của mình. Bên cạnh

việc các vị quan quản lý trực tiếp thực hiện khảo thí, khảo khóa với quan lại dưới quyền

của mình, ở trung ương luôn có những cơ quan tham chiếu, đối chiếu lại thực tế xem việc

kiểm tra, đánh giá đã xác thực hay chưa, như là: Ngự sử đài, Lục khoa, các Bộ có liên quan,

các ty tại địa phương,… Các cơ quan thực hiện việc kiểm tra, giám sát và đánh giá đội ngũ

quan lại trong triều đình được tổ chức rộng khắp từ trung ương đến địa phương, tạo ra một

hệ thống các cơ quan chịu trách nhiệm thi hành, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc

đánh giá quan lại.

2.2.6. Xử lý kết quả sau khảo thí, khảo khóa

Sau mỗi kỳ khảo thí, kết quả được chia làm 3 bậc: bậc 1: là những quan lại có tài

cán, văn võ song toàn, làm việc nhanh, hiệu quả; bậc 2: là những quan lại biết chữ, tính

toán giỏi; bậc 3: là những quan lại chỉ biết chữ. Dựa vào đánh giá quan lại sau mỗi lần khảo

thí, nhà Lê phân bổ quan lại của các bậc vào các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa

phương sao cho hợp lý. Người đỗ thì được phân công công việc, thưởng áo, tiền, thăng

chức, tước. Còn người không đỗ thì bị giáng chức hoặc bãi chức; binh lính thì bị thải hồi

hoặc bắt phục dịch các công việc nặng nhọc khác.

Còn kết quả mỗi kỳ khảo khóa, quan lại được chia làm 3 loại, đó là: xứng chức, bình

thường và không xứng chức. Quan lại nào được nhận xét là xứng chức thì được thăng chức

theo lệ. Quan lại nào bị quan trên nhận xét là không xứng chức thì lập tức bị bãi chức, bị

giáng chức hoặc bị trừng phạt theo tội lỗi phạm phải. Người có biệt tài, được đặc chỉ thăng

bổ thì không phải theo lệ ấy mà có thể làm sớm hơn so với quy định.

72

Sau mỗi kỳ khảo thí, khảo khóa, đội ngũ quan lại đều được chia làm các loại tương

ứng với những gì đã thể hiện sau khi thực hiện khảo thí, khảo khóa. Dựa trên kết quả của

các kỳ khảo thí, khảo khóa, vua và các quan cấp trên thực hiện việc thăng, giáng hoặc giản

thải theo đúng quy định.

2.2.7. Việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông

Tháng 6 năm 1428, ngay khi vừa mới lên ngôi trị vì, Lê Lợi đã ra lệnh chỉ cho các

đại thần khảo xét các quan trong ngoài: hạng nhất là những người có tài văn võ, tháo vát,

tinh nhanh; hạng nhì là những người biết chữ tháo vát, tinh nhanh; hạng ba là những người

viết tính, viết thảo, làm tính; ngoài ra những người không được xếp thành hạng nào thì kẻ

riêng thành một hàng [5; tr296]. Tuy nhiên việc thực hiện khảo xét đối với các quan viên

trong triều đình chưa được thực hiện thường xuyên và theo niên hạn.

Đến năm 1464, sau 4 năm Lê Thánh Tông lên ngôi, ông đã bắt đầu xây dựng quy

chế khảo khóa làm một nội dung trong cải cách hành chính của mình. Nhận thức rõ vai trò

của nhân dân trong việc xây dựng đất nước, vua Lê Thái Tông từng có lệnh rằng: “Đạo

làm tôi cốt yếu có hai điều. Trên thì yêu vua, dưới thì yêu dân. Yêu vua phải hết lòng trung,

yêu dân phải hết lòng thành, thế thôi…” [5; tr311].

Năm 1471, vua Lê Thánh Tông có ra sắc chỉ nói rõ “Các chức quan văn, võ trong

kinh (trung quan cũng thế), người nào mới được bổ thí chức (chức vụ không chính thức)…

sau ba năm mà xứng chức và không phạm lỗi gì thì được thăng cấp cho thực thụ (được

nhận chính thức). Người nào không xứng chức thì đuổi về làm các hạng quân sắc cũ. Nếu

là người có tài năng lỗi lạc được bổ dụng theo đặc ân, thì không phải theo lệ này…” [5;

tr456].

Đồng thời để đảm bảo chất lượng đội ngũ quan lại trong triều đình, ông cũng ra dụ

cấm để chậm kỳ khảo khóa: “Phép khảo khóa cốt để phân biệt người hay kẻ dở, nâng cao

hiệu quả trị nước. Đời Đường Ngu, ba năm một kỳ xét công để thăng giáng. Nhà Thành

Chu ba năm một lần xét để định thưởng phạt. Nay nha môn trong ngoài các ngươi, người

nào nhậm chức đã đủ 3 năm, phải báo ngay lên quan trên không được để chậm. Nếu quá

một trăm ngày mà không kê dánh sách gửi đi, thì tính số người chậm mỗi người phải phạt

1 quan tiền, kẻ nào theo tình riêng mà dung túng đều phải trị tội cả” [5; tr458].

73

Cuối năm 1478, cùng với việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa hàng năm như đã

định, Lê Thánh Tông định lệnh lựa thải quan viên với 3 điều: “1. Bậc trưởng quan các nha

môn văn chức trong ngoài, đều phải công bằng xét kỹ các quan viên dưới quyền mình, nếu

có kẻ hèn kém… và những tên đần độn bỉ ổi, không làm nổi việc, đáng phải cho nghỉ, thì

làm bản tâu lên, giao cho Lại bộ xét thực, đều bắt phải nghỉ việc; lại chọn người đã từng

làm việc có tài năng, kiến thức, quen thạo việc mà bổ vào thay. 2. Bậc trưởng quan các nha

môn quản quân trong ngoài, phải công bằng xét kỹ các quan vệ sở dưới quyền mình, nếu

có kẻ nào mỏi mệt hèn kém… cùng những tên đê tiện bỉ ổi, không có tài cán, không làm nổi

việc, đáng cho về nghỉ, thì làm bản tâu lên, giao cho Lại bộ xét thực, hoặc đổi đi chỗ ít việc,

hoặc bắt nghỉ việc; lại chọn những người đã từng quan chinh chiến, có tài năng, kiến thức

làm được việc mà bổ vào thay. 3. Trưởng quan các nha môn cần lựa thải thì phải công

bằng sáng suốt, không được theo sự ưa ghét riêng của mình để khi làm công việc ấy được

mọi người thành tâm tin phục. Nếu xét người hay dở mà sai sự thực thì Lục khoa, Ngự sử

đài, Hiến ty kiểm xét hoặc tâu để trị tội” [5; tr472-473].

Năm Hồng Đức thứ 10 (1479), định lệ khảo khóa quan viên dưới quyền cai quản.

Yêu cầu “Trưởng quan các nha môn trong khoài khi khảo khóa các quan viên trong phạm

vi cai quản thì phải xét kỹ thành tích trong công việc mà viên đó đã làm. Nếu quả là có lòng

chăm nom yêu thương, được nhân dân yêu mến, và trong nơi cai quản ít kẻ trốn tránh, thì

mới là xứng chức. Nếu vơ vét, quấy nhiễu, gây tệ riêng tư và trong nơi cai quản có nhiều

người trốn tránh thì là không xứng chức” [5; tr447].

Năm Hồng Đức thứ 11 (1480) vua đã ra sắc chỉ rằng: “Phép khảo khóa đã có lệ sẵn,

cốt để phân biệt người hay dở, tỏ rõ việc khuyên răn. Nay Lại bộ và quan các nha môn

trong ngoài, nên theo đúng lệ mà làm để khuyến khích mọi người. Nếu dám nhu nhơ bỏ

phép như trước kia, thì khoa phụ trách kiểm xét nêu lên, theo luật mà trị tội” [4, tr482].

Cùng năm đó, ông cũng ra lệnh “Các quan viên nhận chức ở vùng đất độc hại đã đủ

hai lần khảo khóa trở lên mà xứng đáng với chức vụ, không có tội lỗi, thì Lại bộ xét thực

rồi điều chuyển về chỗ đất lành” [5; tr480]. Đây là sự ưu tiên đối với các quan lại nhận

chức ở các vùng khó khăn, bởi vua hiểu được sự khó khăn của quan lại khi cai quản tại

những địa phương xa xôi, gặp khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội. Nếu ở những vùng

74

đất như vậy mà vẫn giữ được nét liêm khiết làm quan thì được ưu tiên sau hai kỳ khảo khóa

được chuyển về vùng đất lành để phát triển chức nghiệp hơn nữa.

Giữa năm 1485 Lê Thánh Tông định lệ khảo thí cho nghiêm ngặt để miễn tuyển.

Ông ra sắc chỉ cho quan hai ty Thừa, Hiến các xứ rằng: “Trước đây, khảo thí để miễn tuyển,

có nhiều kẻ mang sách, thi hộ, số đỗ đến hơn vạn người, rất là nhũng lạm. Kể từ nay, các

xứ khảo thí hạng nói trên, phải lấy người biết chữ, hay văn. Đến khi thi phúc hạnh mà còn

có kẻ bỏ quyển trắng hay bất thành văn lý thì cho các quan đề điệu, giám thí, tuần xước

niêm phong quyển thi ấy lại tâu lên. Nếu từ 1 người đến 4, 5 người như vậy thì quan Thừa,

Hiến phải xử biếm chức hoặc bãi chức, còn bản thân người đó thì xử tội đồ làm lính”. [5;

tr495]. Bên cạnh đó, ông cũng ra sắc chỉ quy định rõ điều kiện tiêu chuẩn để bổ dụng một

số chức vụ quan trọng: “…Tham nghị thì dùng quan từ lục phẩm trở lên: có tài năng kiến

thức và uy tín, nhậm chức đủ 4 lần khảo khóa trở lên; Hiến sát thì dùng quan các nha môn,

khoa đài, Quốc tử giám, Lục tự mà thanh liêm, sáng suốt, từng trải đủ 4 lần khảo khóa trở

lên được mọi người suy tôn ca ngợi, theo lệ mà tuyển bổ. Nếu dám lấy tình riêng, tuyển bổ

bậy những kẻ phẩm trật thấp, tại chức ít ngày để đến nỗi dư luận không hay, việc dân sinh

tệ thì Lại khóa xét hỏi trị tội” [5; tr496].

Lê Thánh Tông đã ban hành lệ khảo khóa vào những ngày cuối năm 1488 với việc

quy định chi tiết, cụ thể việc thi hành lệ khảo khóa. Trong Đại việt sử lý toàn thư có ghi

chép nội dung của phép khảo khóa như sau:

1- Phép khảo khóa: 3 năm sơ khảo, 6 năm tái khảo, 9 năm thông khảo rồi mới tiến

hành thăng giáng.

2- Hoàng thân nội, ngoại và con cháu các khai quốc công thần cùng là những võ quan

trước đã bổ quan, sau có quân công, nhậm chức đủ hạn khảo khóa, xứng chức, theo lệ được

thăng lên nhất, nhị phẩm thì Lại bộ làm danh sách, xin lệnh chỉ, nếu được lệnh thì cho

thăng như lệ. Nếu là con nhà dân, từ chân trắng được bổ nhiệm quan chức, hoặc từ chân

trắng do có chiến công được làm quan, nhậm chức đủ hạn, khảo khóa xứng chức đáng

được thăng cấp thì chỉ cho thăng đến tam phẩm, không được nhất, nhị phẩm.

3- Trong 9 năm, nếu đã được thăng cấp do lập công khác, tới kỳ thông khảo, lại xứng

chức, đáng được thăng đến nhị nhẩm trở lên thì Lại bộ làm bản tâu lên để nhận lệnh, còn

từ tam phẩm trở xuống thì cứ theo lệ mà thi hành.

75

4- Quan các nha môn tại chức đủ ba kỳ khảo khóa phải khai trình đầy đủ những việc

đã làm trong nhiệm kỳ, có phạm lỗi gì hay không. Trưởng quan phụ trách phải công bằng

mà xét duyệt, tính bắt đầu từ ngày được bổ nhiệm. Thí quan đủ 3 năm được thực thụ thì

được coi là qua kỳ sơ khảo. Trong khi tại chức mà có phạm lỗi thì không được khảo khóa,

cùng là người không phải do quân công mà được thăng đặc cách, thì từ khi phạm lỗi và

đặc cách thăng cấp đó, lại tính là kỳ sơ khảo. Kê rõ từng hạng xứng chức, bình thường,

không xứng chức để định việc khảo khóa.

Lại khai rõ công việc đã làm, có phạm lỗi gì không, để trình lên quan phụ trách nha

môn xét duyệt, rồi gửi cho Lại bộ giữ để xét. Đợi đủ 9 năm qua kỳ thông khảo, quan phụ

trách trình lên tất cả những công việc trước sau mà viên ấy đã làm qua mỗi kỳ khảo khóa

trong thời gian nhậm chức và những lời nhận xét khi khảo khóa, tùy theo quan chức lớn

hay nhỏ, có thể gửi để tâu lên, hoặc gửi để giữ lại. Lại bộ tham chiếu các lần khảo trước

sau, tại nơi phức tạp hay đơn giản, theo đúng lệ, làm bản tâu lên để thi hành. Nha môn nào

có kẻ gian trá, bịa khai công lao, tài cán, giấu giếm tội lỗi mà quan phụ trách không biết

tra xét, dối trá bao che, dung túng cho nhau, thì Lại bộ phải điều tra tường tận để gửi lên

xét hỏi. Nếu có người tài năng kỳ lạ, được lệnh đặc cách thăng bổ thì không câu nệ vào lệ

này [5; 504-505].

Năm 1490, ra sắc chỉ rằng: “Các văn nho chỉ huy ở các vệ, ty, người nào túc trực

phục vụ đủ hạn khảo khóa trở lên mà quả giữ phép công làm được việc, không phạm lỗi thì

trưởng quan vệ đó xét thực làm bản trình lên, Lại bộ chiếu chỗ khuyết mà đổi bổ văn chức.

Người nào chưa đủ hạn khảo khóa lại giá kém, không làm nổi việc hộ vệ, thì lựa thải về.

Người nào còn có thể dùng được thì đổi bổ. Kẻ nào dám chạy vạy cầu cạnh thì trị tội theo

luật để ngăn chặn thói cầu may của kẻ sĩ [5; tr507].

Năm 1495, ông xuống chiếu nhằm yêu cầu đội ngũ quan lại phải đáp ứng được điều

kiện về thể lực thì mới tiếp tục được giữ vị trí của mình: “Quan viên nào bị ốm tới 3 tháng

thì không được dự khảo khóa” [5; tr512]. Nếu không đủ sức khỏe làm việc thì không đủ

điều kiện để khảo khóa.

Năm 1496, xuống chiếu quy định việc tiến chức thăng quan phải qua nhiều khắt khe

ví dụ như: “… đủ 3 năm không phạm lỗi gì thì mới cho thực thụ; sau 6 năm không phạm

lỗi gì thì Tri huyện, Tri châu được thăng bổ Viên ngoại lang; Huyện thừa, Đồng tri châu,

76

Tri hạ, Điển hạ, Tự ban được bổ các chức Tư vụ, Chủ sự, Thôi quan, Đô quan; đủ 6 lần

khảo khóa không phạm lỗi thì Viên ngoại lang, Đồng tri phủ mới được thăng làm tri phủ”

[5; tr515].

Như vậy, trong suốt 38 năm trị vì đất nước, Lê Thánh Tông đã liên tục đưa ra dụ,

sắc, lệnh để ngày một hoàn thiện hơn quy định về khảo thí, khảo khóa đội ngũ quan lại triều

đình. Bằng những quy định nghiêm ngặt, chặt chẽ và rõ ràng, ông đã xây dựng được thể

chế thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời mình trị vì tốt nhất.

2.3. Đánh giá thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông

Việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông đã đem lại hiệu

quả tích cực trong quá trình xây dựng các chế độ và sử dụng đội ngũ quan lại trong triều

đình. Nhờ việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa thường xuyên, ông đã xây dựng được một

nhà nước với đội ngũ quan lại mẫn cán, trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của công

cuộc cải cách hành chính thời bấy giờ, đưa Đạt Việt đạt đến đỉnh cao của một nhà nước

quân chủ phong kiến mà chưa có triều đại nào làm được. Việc thực hiện lệ khảo thí, khảo

khóa đã đạt được những thành quả nhất định phải kể đến, cụ thể là:

Thứ nhất, vua Lê Thánh Tông đã tập trung thể chế hóa lệ khảo thí, khảo khóa ngay

từ những năm đầu tiên lên ngôi trị vì đất nước. Bằng việc quy định thành lệ với mục đích,

đối tượng, tiêu chí và niên hạn thực hiện cụ thể, rõ ràng; lệ khảo thí, khảo khóa lần đầu tiên

trở thành một trong những yêu cầu bắt buộc phải thực hiện đối với đội ngũ quan lại làm

việc trong triều đình từ trung ương đến địa phương. Song song với việc đặt ra những quy

định về lệ khảo thí, khảo khóa, vua Lê Thánh Tông cũng sắp xếp, tổ chức lại bộ máy nhà

nước với hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát từ trung ương đến

các địa phương phù hợp, đảm bảo thực hiện hiệu quả việc đánh giá của lệ khảo thí, khảo

khóa đối với đội ngũ quan lại trong cả nước. Đưa lệ khảo thí, khảo khóa trở thành một trong

những quy định buộc phải thực hiện đối với đội ngũ quan lại thể hiện rõ sự quan tâm của

vua Lê Thánh Tông đến việc kiểm tra, giám sát chất lượng đội ngũ quan lại đang làm việc;

đồng thời nhấn mạnh vai trò của đội ngũ quan lại trong quá trình xây dựng và cách tân đất

nước.

Trong quá trình xây dựng đất nước, vua Lê Thánh Tông thường ban hành sắc chỉ,

dụ, lệnh chỉ rõ tiêu chí của các kỳ khảo thí, khảo khóa; trách nhiệm của các bên tham gia

77

thực hiện khảo khóa; các đối tượng cần được khảo khóa phải chủ động khai báo khi đã đủ

thời gian 3 năm – đã đến kỳ khảo khóa của mình; các chủ thể đánh giá phải có năng lực,

công bằng, chính trực. Lê Thánh Tông cũng quy định rõ chế tài xử phạt nếu để chậm việc

khảo khóa, nghiêm khắc trị tội đối với những trường hợp gian dối, bịa công lao hay che

giấu tội lỗi; quy định niên hạn khảo khóa rõ ràng, đảm bảo việc khảo khóa hình thành nên

một chế định lâu dài. Những quy định này vừa mang tính khuôn mẫu để các quan lại nhìn

vào mà thực hiện, vừa đảm bảo cho khảo thí, khảo khóa được thực hiện nghiêm minh, chặt

chẽ.

Thứ hai, mục đích việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa để đánh giá quan lại dưới

triều vua Lê Thánh Tông được đặt ra rõ ràng. Vua Lê Thánh Tông đã thực hiện đánh giá

thường xuyên đối với đội ngũ quan lại về cả trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức, thái

độ làm việc của quan lại. Trên cơ sở kết quả khảo thí, khảo khóa, thực hiện các chính sách

sử dụng quan lại khác sao cho phù hợp với trình độ, năng lực và phẩm hạnh của từng vị

quan lại. Khác với các triều đại trước chỉ thực hiện kiểm tra, đánh giá quan lại nhằm mục

đích đảm bảo hiệu lực chính lệnh của vua đặt ra, vua Lê Thánh Tông kiểm tra, đánh giá

quan lại bằng hình thức khảo thí, khảo khóa nhằm tái chọn bổ đội ngũ quan lại, giản thải

những vị trí còn nhiều yếu kém, tạo động lực cho đội ngũ quan lại luôn cố gắng phấn đấu

và rèn luyện bản thân.

Thứ ba, tiêu chí đánh giá của lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông

được quy định cụ thể, dễ xác định. Ngoài việc kiểm tra trình độ, năng lực bằng các bài thi

kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn đối với quan lại; ông còn chú trọng thêm một nội

dung đánh giá vô cùng đặc biệt, đó là sự mẫn cán, tài năng đức độ của quan lại hướng đến

sự hài lòng của người dân nơi quan viên đó đang cai quản. Những tiêu chí được đưa ra để

đánh giá trong lệ khảo thí, khảo khóa được xác định khá dễ dàng. Ví thử như về mức độ

hoàn thành công việc được giao, các quan cấp trên cai quản trực tiếp cũng là người trực

tiếp theo dõi, giám sát cấp dưới và thực hiện đánh giá; đồng thời quan lại cấp trên cũng là

người giám sát thường xuyên và trực tiếp với cấp dưới của mình, nên dễ dàng đưa ra đánh

giá xác thực về việc quan viên nơi mình cai quản có bê trễ hay thực hiện công việc sai sót

ở đâu hay không. Còn đối với tiêu chí đánh giá tư cách đạo đức quan lại, sự phản ánh trực

tiếp của người dân về tác phong, thái độ làm việc của quan lại trong quá trình cai quản là

78

một trong những yếu tố thực tế nhất đánh giá chính xác tư cách đạo đức quan lại; bên cạnh

đó, chất lượng cuộc sống của nhân dân và sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương nơi quan

viên cai quản là câu trả lời rõ ràng cho việc quan viên đó có trách nhiệm như thế nào với

địa bàn được giao quản lý.

Với quan điểm “quan chi phụ mẫu”, quan lại khi tại chức cần nêu cao bổn phận coi

dân như con mình, tức là phải coi trọng dân, thương dân, lo cho dân chúng,… Kết thúc kỳ

khảo khóa, quan lại chỉ được cho là xứng chức khi dân chúng tại nơi mình cai quản có đời

sống ấm no, không bỏ đi xứ khác, trong vùng ít xảy ra trộm cắp, mất mùa; quan lại được

nhân dân yêu mến,… Quan lại dưới thời Lê Thánh Tông được tuyển bổ không chỉ cần có

tài mà còn phải có cả đức để cai quản dân chúng, chăm lo cho đời sống của nhân dân. Nhân

dân xứ nào cũng no đủ thì đất nước mới phát triển mà thịnh vượng.

Thứ tư, đối tượng áp dụng việc kiểm tra, đánh giá bằng lệ khảo thí, khảo khóa dưới

triều Lê Thánh Tông là toàn bộ đội ngũ quan lại triều đình, thể hiện sự quan tâm, sát sao

của triều đình với chất lượng thực tế của đội ngũ quan lại. Khác với các triều đại trước coi

công vụ là đối tượng kiểm tra, đánh giá thì Lê Thánh Tông lại quyết định lựa chọn toàn bộ

đội ngũ quan lại là đối tượng thực hiện kiểm tra, đánh giá thường xuyên. Do đó, có thể thấy

rõ nhận thức của Lê Thánh Tông bấy giờ đã vô cùng thức thời và tân tiến. Ông hiểu được

rằng, để nền công vụ đất nước hoạt động tốt, điều cần thiết hơn cả là có một đội ngũ quan

lại đủ đức đủ tài, mẫn cán, chăm lo được cho đời sống của nhân dân trong vùng. Để cải

cách hành chính được thực hiện có hiệu quả, đội ngũ quan lại phải được kiểm tra, đánh giá

thường xuyên để tạo động cơ, thúc đẩy quan lại không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ

bản thân, trau dồi ý thức đạo đức.

Thứ năm, việc đưa ra kỳ hạn khảo thí, khảo khóa theo niên hạn 3 năm một lần buộc

đội ngũ quan lại luôn học hỏi, không ngừng phấn đấu, thường xuyên rèn luyện bản thân.

Ba năm là khoảng thời gian đủ để thí quan tập sự những công việc ở cương vị mới, sử dụng

kiến thức có được để vận dụng vào công việc thực tế. Đồng thời, ba năm cũng là khoảng

thời gian đủ để quan trên có thể theo dõi, nhận xét được quan viên dưới quyền mình cai

quản, đưa ra quyết định thăng giáng, chọn bổ vào những vị trí phù hợp nhất. So với các

triều đại trước chỉ thực hiện khảo thí, khảo khóa khi cần hoặc với niên hạn dài (khoảng 10

đến 15 năm) thì lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông được quy định chính xác

79

thời hạn khảo khóa để đặt ra mốc thời gian cụ thể, giúp hiền tài có cơ hội thể hiện bản thân,

mà kẻ gian lại khó có thể thực hiện được sai phạm tại vị trí việc làm đang đảm nhiệm. 3

năm khảo thí, khảo khóa một lần vừa là động lực vừa lá áp lực cho đội ngũ quan lại triều

đình, ngoài thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, đội ngũ quan lại phải không ngừng tìm tòi,

học hỏi thêm kiến thức, rèn luyện và tu dưỡng nhân phẩm của mình.

Thứ sáu, việc thực hiện khảo thí, khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông diễn ra nghiêm

ngặt, chặt chẽ, đúng niên hạn đã đem lại hiệu quả cao trong việc đánh giá và sử dụng đội

ngũ quan lại. Nếu như các triều đại trước thực hiện khảo thí, khảo khóa chỉ nhằm đảm bảo

hiệu lực chính lệnh của vua, không để đánh giá thực lực quan lại, không tạo áp lực cho quan

lại mỗi kì đánh giá, khiến cho quan lại trì trệ trong quá trình làm việc thì dưới thời Lê Thánh

Tông lại hoàn toàn khác. Ông quy định cụ thể, chặt chẽ và nghiêm minh, giúp cho việc thực

hiện khảo thí, khảo khóa đạt được hiệu quả tốt, góp phần không nhỏ vào việc tìm kiếm nhân

tài, chọn bổ nhân tài phục vụ đất nước. Sau mỗi kỳ khảo thí, khảo khóa, các quan lại đều

có cơ hội thăng quan tiến chức, nhận thêm bổng lộc, được giữ một vị trí khác phù hợp với

năng lực bản thân hơn; hoặc sẽ bị giáng chức, điều chuyển vị trí khác, thậm chí là sa thải

nếu như không đạt yêu cầu tại vị trí đang đảm nhiệm.

Thứ bảy, kết quả các kỳ khảo thí, khảo khóa được sử dụng hiệu quả trong việc làm

cơ sở để ban hành các chính sách sử dụng khác cho đội ngũ quan lại. Vua Lê Thánh Tông

là một người đặc biệt chú trọng cải cách chế độ quan lại trong triều đình hơn các triều đại

trước. Nhận thức rõ được vai trò của đội ngũ quan lại trong việc xây dựng và phát triển đất

nước, vua Lê Thánh Tông thường xuyên thực hiện khảo thí, khảo khóa để kiểm tra, đánh

giá chất lượng đội ngũ quan lại theo kỳ hạn 3 năm một lần. Trên cơ sở kết quả các kỳ khảo

thí, khảo khóa có được, vua Lê Thánh Tông ban hành chính sách sử dụng đội ngũ quan lại

tương ứng với thành tích mỗi người. Theo đó, có quan lại được thăng chức, thăng thưởng

hoặc giáng chức; có quan lại bị sa thải, buộc thôi việc do không hoàn thành nhiệm vụ, hoặc

tham ô, nhũng nhiễu của dân; có quan lại được luân chuyển đến địa phương khác để giữ

chức quan phù hợp hơn với trình độ, năng lực phẩm hạnh của mình;… tất cả các quan viên

đều được áp dụng những chế độ đãi ngộ khác nhau, tùy thuộc vào năng lực vị quan đó thể

hiện trong bài khảo thí, khảo khóa; đồng thời phụ thuộc vào chất lượng đời sống và sự phản

ánh thực tế của quần chúng nhân dân nơi quan viên đang cai quản. Không giống với các

80

triều đại trước, việc thực hiện khảo khóa, khảo thí chỉ đơn thuần để đánh giá trình độ, năng

lực của đội ngũ quan lại; dưới thời vua Lê Thánh Tông, kết quả của kỳ khảo thí, khảo khóa

quan lại còn được sử dụng làm cơ sở để thực hiện các chế độ khác với đội ngũ quan lại

trong triều đình. Nhờ đó, đội ngũ quan lại có động lực để luôn cố gắng vươn lên, đạt được

kết quả tốt trong bài thi về trình độ, năng lực tại các kỳ khảo thí, khảo khóa; chăm lo đời

sống nhân dân tốt hơn, hạn chế tối đa nạn tham nhũng, cửa quyền với quần chúng nhân dân.

Tựu chung lại, có thể đánh giá việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa đối với đội ngũ

quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông là hoạt động đã đạt được nhiều thành tựu trong quá

trình quản lý và sử dụng đội ngũ quan lại. Nhờ việc ban hành cụ thể, thực hiện đúng nội

dung, niên hạn, xử lý kết quả khảo thí, khảo khóa đúng với quy định đã đề ra, vua Lê Thánh

Tông đã xây dựng cho mình được một đội ngũ quan lại có chất lượng, làm việc hiệu quả,

công tâm bằng cả đức và tài. Nhờ đó, dưới những năm trị vì của ông, những hoạt động cải

cách, cách tân đất nước được triển khai, thực hiện nhanh chóng, mang lại một kết quả cao,

gây dựng Đại Việt vững mạnh.

81

Tiểu kết chương 2:

Với một thế kỷ tồn tại, triều Lê sơ là triều đại đưa đất nước đạt đến thời kỳ hưng

thịnh nhất của phong kiến Việt Nam ta. Bằng cuộc cải cách hành chính toàn diện của vua

Lê Thánh Tông, nhiều phương diện của đất nước đã có sự thay đổi rõ rệt. Bộ máy nhà nước

đã được cách tân khá quy củ so với nhiều quốc giá châu Á đương thời; đội ngũ quan lại

vững mạnh hơn bao giờ hết, tạo tiền đề chắc chắn cho sự phát triển lâu dài của cả triều đại.

Lên nắm quyền ở tuổi 18, khi đất nước có nhiều biến động về chính trị, kinh tế, xã

hội, vua Lê Thánh Tông đã dần thực hiện những cải cách, đổi mới cho đất nước, phục hồi

nền kinh tế, phát triển xã hội, đặc biệt là gây dựng thể chế chính trị quân chủ chuyên chế

phong kiến vững mạnh. Để làm được điều này, vua Lê Thánh Tông đã chú trọng việc cải

cách hành chính nhà nước, mà trọng tâm là xây dựng đội ngũ quan lại vừa hồng vừa chuyên

như một nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc cải cách đất nước. Nhận thức rõ

được vai trò đóng góp to lớn của đội ngũ quan lại đối với việc xây dựng đất nước, ông dành

nhiều thời gian và công sức xây dựng nên chế độ quan lại phù hợp với tình hình bấy giờ,

tạo động lực cho đội ngũ quan lại luôn phấn đấu rèn luyện bản thân, cống hiến cho đất

nước. Một trong những biện pháp được vua Lê Thánh Tông chú trọng nhất đó là ban hành

và thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa nhằm kiểm tra, đánh giá trình độ năng lực, phẩm chất

đạo đức của đội ngũ quan lại.

Mục đích quan trọng của việc thực hiện khảo thí, khảo khóa không chỉ để phân biệt

người hay kẻ dở, tỏ rõ việc khuyên răn mà còn truất người hèn, thăng người giỏi,.. Kết quả

các kỳ khảo thí, khảo khóa đều được dùng làm cơ sở để thăng thưởng, giáng chức, luân

chuyển hoặc giản thải quan lại; tạo cơ sở chính xác cho việc giữ người và dùng người của

vua Lê Thánh Tông. Do vậy, dưới thời vua Lê Thánh Tông trị vì, quan lại xuất sắc luôn

được thăng tiến, còn kẻ yếu kém, tham lam nhanh chóng phải lui về làm thường dân.

Khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông tập trung vào 2 nội dung chính –

là 2 nhân tố quan trọng tạo nên một vị quan lớn, đó là đức và tài. Nội dung khảo thí được

quy định rõ: quan văn thì giải kinh nghĩa, làm thơ phú, viết kế sách trị nước an dân; quan

võ thì thi dàn trận, bắn cung, võ nghệ, đua ngựa, đua thuyền, dàn quân, chiến thuật. Còn lệ

khảo khóa được thực hiện chú trọng vào 2 tiêu chí, đó là: thành tích công việc đã đạt được

và lòng dân nơi cai quản hay không. Vua Lê Thánh Tông không những kiểm tra trình độ

82

năng lực của đội ngũ quan lại qua bài thi trong mỗi kỳ khảo thí, khảo khóa; mà ông còn

xem xét, kiểm tra về phẩm chất và tư cách đạo đức của mỗi vị quan thông qua việc đánh

giá về đời sống nhân dân nơi quan viên cai quản, sự mẫn cán của quan lại, thái độ làm việc

có được lòng dân hay không,…

Khảo thí quan lại được thực hiện theo niên hạn 3 năm một lần. Còn phép khảo khóa

thực hiện mỗi 3 năm, chia ra làm 3 kỳ, đó là “3 năm sơ khảo, 6 năm tái khảo, 9 năm thông

khảo rồi mới tiến hành thăng giáng”. Theo đó, các quan trên phải tiến hành khảo xét quan

dưới quyền cai quản của mình. Lại quan nào đã qua 3 năm thì tiến hành sơ khảo, 6 năm tái

khảo và đến lần thứ ba (9 năm) thì được thông khảo. Mọi quan lại trong triều đình từ trung

ương đến địa phương đều phải tham gia các kỳ khảo thí, khảo khóa; không kể quan văn hay

quan võ, ở phẩm trật cao hay thấp,…

Xét đến cùng, chế độ quản lý và sử dụng quan lại dưới thời Lê Thánh Tông là một

chế độ tương đối hoàn chỉnh, vừa tạo động lực cho quan lại phấn đấu, vừa thúc đẩy sự cạnh

tranh minh bạch trong quan trường. Chế độ quan lại đạt được thành tựu như vậy là nhờ một

phần không nhỏ của việc ban hành và sử dụng lệ khảo thí, khảo khóa đúng niên hạn, mục

đích và nội dung khảo thí, khảo khóa rõ ràng. Vua Lê Thánh Tông đã xây dựng được một

đội ngũ quan lại vừa có đức, vừa có tài, mẫn cán với công việc, luôn tuân thủ pháp luật, tạo

nguồn lực vững mạnh trong công cuộc thực hiện cải cách, đổi mới đất nước.

83

CHƯƠNG 3

NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ, CÔNG

CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

3.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức và việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt

Nam hiện nay

3.1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức

Hiện nay, vẫn chưa có khái niệm thống nhất về cán bộ, công chức cho tất cả các

quốc gia trên thế giới. Ở Nhật Bản, công chức là những nhân viên nhậm chức trong bộ máy

chính phủ trung ương, các ngành tư pháp, quốc hội, quân đội, nhà trường, bệnh viện công

lập, xí nghiệp quốc doanh… Ở Pháp chia làm ba loại là công chức trong ngạch hành chính

nhà nước, công chức thuộc các công sở tự quản và công chức thuộc cộng đồng lãnh thổ

trực thuộc cơ quan chính quyền địa phương. Ở Anh thì quan niệm chỉ những người làm

trong ngành hành chính mới được gọi là công chức; nhân viên chính trị, tư pháp, quân đội

đều không được gọi là công chức. Ở Mỹ, công chức chỉ là những người thực thi công vụ

trong ngành hành chính…

Ở Việt Nam, theo khoản 1, 2 Điều 4 Luật Cán bộ Công chức năm 2008 quy định:

“1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức

danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính

trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là

cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện),

trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Theo Luật Cán bộ Công chức sửa đổi bổ sung năm 2019 có hiệu lực từ ngày 01 tháng

7 năm 2020, khái niệm Công chức được hiểu là:

“2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức

vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,

Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn

vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công

nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan,

84

hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng

lương từ ngân sách nhà nước.”[53].

Như vậy, ở nước ta hiện nay, cán bộ được hiểu phải là công dân Việt Nam, được bầu

cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan, tổ chức, đơn

vị thuộc trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; hưởng lương từ ngân sách nhà nước; có đủ tư

cách đạo đức, phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn phù hợp,… Công chức cũng phải

là công dân Việt Nam, phải là người được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào ngạch, chức danh,

chức vụ trong cơ quan, tổ chức, đơn vị trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; thuộc biên chế nhà

nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; là người có trình độ chuyên môn phù hợp với

ngạch, chức danh, chức vụ.

3.1.1.2. Việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Nhận thức được vai trò của việc đánh giá cán bộ, công chức có ý nghĩa quan trọng

trong quá trình xây dựng và phát triển chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, từ Đại hội VI

của Đảng, Đảng ta đã xác định rõ tư tưởng chỉ đạo trong việc đánh giá đội ngũ cán bộ, công

chức. Cụ thể như sau:

Nghị quyết Trung ương 6 khoá VI đã có những nội dung bổ sung quan trọng về công

tác đánh giá cán bộ, trong đó có nêu: “Quan điểm về phẩm chất và năng lực của cán bộ,

và về đánh giá cán bộ đã có bước tiến mới khi khẳng định phải “thống nhất tiêu chuẩn về

phẩm chất và năng lực cán bộ, về đánh giá cán bộ trong công cuộc đổi mới”, “không có

tiêu chuẩn phẩm chất và năng lực chung chung”, “cần đề ra chủ trương cụ thể hoá tiêu

chuẩn cán bộ cho từng chức danh”; “Cụ thể hoá chủ trương dân chủ hoá công tác cán bộ:

Việc sắp xếp, bố trí, đề bạt cán bộ phải theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Đổi mới

quy chế tuyển chọn và đề bạt cán bộ. Kết hợp việc nhận xét, đánh giá của tổ chức đảng,

của thủ trưởng đơn vị với việc lấy ý kiến của quần chúng, bỏ phiếu tín nhiệm, bầu cử hoặc

thi tuyển”. Như vậy, ngay trong những ngày đầu tiên đất nước tiến hành cải cách, Đảng đã

quan tâm đến việc thống nhất và đưa ra những tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá cán bộ, công

tác cán bộ phải được thực hiện kết hợp với việc đánh giá, nhận xét cán bộ từ quần chúng

nhân dân và các cơ quan, tập thể để có kết quá đánh giá khách quan, xác thực nhất.

Các kỳ Đại hội Đảng kế tiếp cũng nhận thức được việc xây dựng đội ngũ cán bộ,

công chức trong sạch, vững mạnh là vấn đề then chốt để thực hiện xây dựng và đổi mới đất

85

nước. Đại hội XII, tổng kết 30 năm đổi mới, trên cơ sở khẳng định tiếp tục hoàn thiện Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững

mạnh, chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có nội dung: “Hoàn thiện

tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xác định rõ

quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính. Rà soát, sửa đổi, bổ sung

chính sách đối với cán bộ, công chức theo hướng khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; lấy bản lĩnh

chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, đề bạt, bổ

nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài” nhằm

đưa ra định hướng về việc xây dựng và ban hành hệ thống chính sách đối với đội ngũ cán

bộ, công chức sao cho có thể tạo điều kiện làm việc tốt và thu hút cán bộ, công chức làm

việc, cống hiến trong bộ máy nhà nước.

Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã thông Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19 tháng

5 năm 2018 “về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm

chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Tình hình kiểm tra, giám sát được đánh giá

tổng quan: “Công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm thực hiện

có hiệu quả hơn; kỷ cương, kỷ luật được tăng cường. Việc xử lý kịp thời, nghiêm minh một

số tổ chức, cá nhân vi phạm đã góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn tiêu

cực, làm trong sạch một bước đội ngũ cán bộ, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và

nhân dân đối với Đảng, Nhà nước”. Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế yếu kém, cần chú

trọng thực hiện những định hướng mà Đảng vạch ra. Nghị quyết đã đưa ra quan điểm, mục

tiêu, giải pháp đồng bộ, toàn diện về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến

lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

Để cụ thể hóa những chủ trương, định hướng của Đảng ta về việc xây dựng đội ngũ

cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, hệ thống pháp luật về Cán bộ, Công chức ra đời,

đưa ra những quy định tổng quát cần thực hiện đối với việc tuyển dụng và sử dụng đội ngũ

cán bộ, công chức trong cả nước.

Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 2-L/CTN ngày 26 tháng 02 năm 1998

về cán bộ, công chức – lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt Nam đưa ra những quy

định cụ thể về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Pháp lệnh đưa ra cách hiểu cơ bản về

86

cán bộ, công chức; quyền và nghĩa vụ cơ bản của cán bộ, công chức; cùng với đó là các

chính sách về tuyển dụng, sử dụng, khen thưởng – kỷ luật đội ngũ cán bộ, công chức Nhà

nước một cách khá đầy đủ và hệ thống. Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 đánh dấu

bước ngoặt đầu tiên trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước khi Đảng và Nhà nước

dành sự quan tâm đặc biệt đến hoạt động công vụ và lợi ích, nghĩa vụ của cán bộ, công

chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình.

Đất nước đổi mới với sự thay đổi nhanh chóng của chính trị, kinh tế, văn hóa, xã

hội, năm 2003 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thực hiện sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Cán

bộ, Công chức năm 1998 cho phù hợp với tình hình hiện tại. Ủy ban Thường vụ Quốc hội

ban hành Pháp lệnh số 11/2003/PL-UBTVQH11 ngày 29 tháng 4 năm 2003 về sửa đổi, bổ

sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998.

Đến năm 2008, cùng với sự thay đổi của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa

Việt Nam và các đạo luật có liên quan, Quốc Hội xây dựng và ban hành Luật Cán bộ, công

chức năm 2008. Trong đó, đưa ra những quy định cơ bản về cán bộ, công chức; quyền và

nghĩa vụ của cán bộ, công chức; những điều cán bộ, công chức được làm và không được

làm; cơ chế tuyển dụng và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức một cách thống nhất trong

cả nước. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 có hiệu lực bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm

2010 cùng các văn bản hướng dẫn thực hiện đã tạo cơ sở pháp lý đổi mới cơ chế tuyển

dụng, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, nâng ngạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá và khen

thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, góp phần từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức

chuyên nghiệp, trong sạch, vững mạnh.

Theo đó, khoản 1 Điều 28 Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 có quy định việc đánh

giá cán bộ hiện nay bao gồm 5 nội dung chính:“a) Chấp hành đường lối, chủ trương, chính

sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; b) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác

phong và lề lối làm việc; c) Năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ; d)

Tinh thần trách nhiệm trong công tác; đ) Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.”. Đồng

thời, thời hạn thực hiện việc đánh giá cán bộ cũng được đưa ra ngay sau đó, tạo cơ sở để

thực hiện đánh giá đúng thời hạn: “Việc đánh giá cán bộ được thực hiện hàng năm, trước

khi bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, quy hoạch, điều động, đào tạo, bồi dưỡng, khi kết thúc

nhiệm kỳ, thời gian luân chuyển”

87

Điều 56 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2019 đưa ra những

tiêu chí để thực hiện đánh giá công chức, bao gồm 6 nội dung: “a) Chấp hành đường lối,

chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, quy định của cơ quan, tổ

chức, đơn vị; b) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc; c)

Năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; d) Kết quả thực hiện nhiệm vụ theo quy định

của pháp luật, theo kế hoạch đề ra hoặc theo công việc cụ thể được giao; tiến độ và chất

lượng thực hiện nhiệm vụ. Việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phải gắn với vị trí việc

làm, thể hiện thông qua công việc, sản phẩm cụ thể; đ) Tinh thần trách nhiệm và phối hợp

trong thực hiện nhiệm vụ; e) Thái độ phục vụ nhân dân, doanh nghiệp đối với những vị trí

tiếp xúc trực tiếp hoặc trực tiếp giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp” [53].

Những công chức giữ vị trí lãnh đạo, quản lý còn phải được đánh giá thêm với các

nội dung là: “a) Kế hoạch làm việc và kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được

giao lãnh đạo, quản lý; việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của cá nhân phải gắn với

kết quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp phụ trách. Mức xếp loại

chất lượng của cá nhân không cao hơn mức xếp loại chất lượng của cơ quan, tổ chức, đơn

vị trực tiếp phụ trách; b) Tiến độ, chất lượng các công việc được giao; c) Năng lực lãnh

đạo, quản lý; d) Năng lực tập hợp, đoàn kết” [53].

Khoản 3 Điều 56 sửa đổi bổ sung có quy định thời hạn đánh giá công chức: “Đánh

giá hàng năm; đánh giá trước khi thực hiện xét nâng ngạch, nâng lương trước thời hạn, bổ

nhiệm, bổ nhiệm lại, quy hoạch, điều động; đánh giá trước khi kết thúc thời gian luân

chuyển, biệt phái” [53].

Kết quả đánh giá cán bộ, công chức được phân loại rõ ràng. Sau khi đánh giá, cán

bộ, công chức sẽ được xếp vào 1 trong 4 mức sau:

a) Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ;

b) Hoàn thành tốt nhiệm vụ;

c) Hoàn thành nhiệm vụ;

d) Không hoàn thành nhiệm vụ.

Kết quả xếp loại chất lượng cán bộ, công chức được lưu vào hồ sơ cán bộ, công chức

thông báo đến cán bộ, công chức được đánh giá và công khai trong cơ quan, tổ chức, đơn

vị nơi cán bộ, công chức đó công tác.

88

Trường hợp cán bộ 02 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền miễn nhiệm, cho thôi làm nhiệm vụ.

Trường hợp công chức 02 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ được quy định

rõ: a) Cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền cho thôi việc đối với công chức có 02 năm

liên tiếp được xếp loại chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ; b) Công chức giữ

chức vụ lãnh đạo, quản lý có 02 năm không liên tiếp trong thời hạn bổ nhiệm được xếp loại

chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ thì bố trí công tác khác hoặc không bổ nhiệm

lại; c) Công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong 03 năm có 02 năm không liên

tiếp được xếp loại chất lượng ở mức không hoàn thành nhiệm vụ ở vị trí việc làm đang đảm

nhận thì bố trí vào vị trí việc làm có yêu cầu thấp hơn.” (Theo Điều 29, Điều 58 Luật Cán

bộ, công chức 2008 sửa đổi, bổ sung 2019) [53].

Như vậy, việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay được thực hiện hàng năm nhằm

đánh giá, xếp loại đội ngũ cán bộ, công chức theo từng mức độ khác nhau được hiểu tương

tự như việc kiểm tra, đánh giá quan lại thông qua lệ khảo thí, khảo khóa thời xưa.

3.1.2. Thực trạng công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

3.1.2.1. Những kết quả đạt được trong công tác đánh giá cán bộ, công chức

Thứ nhất, công tác đánh giá cán bộ, công chức nhận được nhiều sự quan tâm của

Đảng và Nhà nước. Ngay từ những ngày đầu thực hiện công cuộc đổi mới và cách tân đất

nước, Đảng ta đã luôn quan tâm đến công tác cán bộ; việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công

chức vừa có đức, vừa có tài là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự

thành bại của cuộc cải cách.

Đại hội VI của Đảng đã khẳng định: “những thành tựu và nguyên nhân của những

thành tựu chủ yếu bắt nguồn từ đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị đã được thử thách,

luôn luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, thông suốt và chấp hành

nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, ham học hỏi, năng động, sáng

tạo, có kiến thức quản lý kinh tế, xã hội, có tính tổ chức và kỷ luật cao. Đó là những cán bộ

có đạo đức cách mạng và phong cách lãnh đạo tốt, trước hết là có ý thức tập thể, dân chủ

đi đôi với tính quyết đoán, có ý thức trách nhiệm, có tác phong sâu sát thực tế, gần gũi quần

chúng, quan tâm đến con người, gương mẫu trong lối sống, đoàn kết và động viên được

nhiệt tình lao động của cán bộ và nhân dân” [7; tr27]. Đại hội cũng nghiêm túc chỉ rõ

89

“những sai lầm, nguyên nhân của những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong công tác lãnh

đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và

công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân” [7; tr133].

Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, Đảng ban hành Nghị quyết số 03-NQ/HNTW

ngày 18 tháng 6 năm 1997 “về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh”, Nghị quyết khẳng định: Cán bộ là

nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất

nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Nghị quyết chỉ ra 5 bài

học kinh nghiệm về công tác cán bộ, trong đó có nội dung: “có quan điểm và phương pháp

đánh giá, sử dụng cán bộ một cách khách quan, khoa học, công tâm. Xử lý tốt các mối quan

hệ giữa đức và tài, quyền hạn và trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích, giai cấp và dân tộc, tiêu

chuẩn và cơ cấu, năng lực thực tế và bằng cấp, cán bộ đương chức và cán bộ về hưu... phù

hợp với yêu cầu của mỗi loại cán bộ”. Trên cơ sở đó, Đảng đưa ra quan điểm chỉ đạo để

xây dựng đội ngũ cán bộ chất lượng cho đất nước.

Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở tiêu

chuẩn, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu;

có phương pháp khoa học, khách quan, công tâm, theo quy trình chặt chẽ, phát huy dân

chủ, dựa vào tập thể và nhân dân để tuyển chọn cán bộ. Đổi mới, trẻ hoá đội ngũ cán bộ

lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển”.

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ...

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước... Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công

tác cán bộ... trong đó có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để

có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức... Đổi mới bầu cử

trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ... để lựa chọn những người có bản

lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu

trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu”.

Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện cơ bản hệ thống thể chế về đánh giá và quản lý đội

ngũ cán bộ, công chức trong cả nước. Dưới sự chỉ đạo của Đảng về chủ trương, đường lối,

90

Nhà nước ta đã cụ thể hóa tư tưởng chỉ đạo của Đảng bằng hệ thống thể chế dần hoàn thiện.

Nếu như trước đây, những quy định về cán bộ, công chức chỉ được điều chỉnh bằng Pháp

lệnh do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành, thì từ năm 2008 đến nay, Luật Cán bộ, công

chức đã được Quốc hội ban hành nhằm điều chỉnh những hoạt động liên quan đến quản lý

và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức trong cả nước. Để Luật Cán bộ, công chức dễ dàng

thực hiện, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các Nghị định nhằm đưa ra những quy định cụ

thể hóa Luật đã đề ra, như là: Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 về

chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã và những

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Nghị định số 21/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng

3 năm 2010 về quản lý biên chế công chức; Nghị định số 110/2015/NĐ-CP ngày 29 tháng

10 năm 2015 về sửa đổi, bổ sung một số điều trong Nghị định số 21/2010/NĐ-CP; Nghị

định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 03 năm 2010 quy định về tuyển dụng, sử dụng và

quản lý công chức; Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính

Phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số 88/2017/NĐ-CP

ngày 27 tháng 7 năm 2017 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định

số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về đánh giá và phân loại cán

bộ, công chức, viên chức;…

Bằng việc ban hành Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và ban hành những Nghị định

hướng dẫn thực hiện đối với từng nội dung trong Luật, hệ thống thể chế về quản lý và đánh

giá đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta đang dần được hoàn thiện, bao quát được quá trình

quản lý đội ngũ cán bộ, công chức; góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công

chức.

Thứ ba, việc đánh giá cán bộ, công chức bám sát quan điểm, nguyên tắc của Đảng,

ngày càng đi vào nền nếp và đạt được những kết quả quan trọng. Các nghị quyết, kết luận,

chỉ thị Đảng ban hành đã được tổ chức thực hiện sâu rộng trong cả nước. Các quy trình về

công tác cán bộ ngày càng được thực hiện chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch, khoa

học và dân chủ hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức mới được quan tâm,

từng bước gắn với chức danh, với quy hoạch và sử dụng cán bộ. Chủ trương luân chuyển

kết hợp với bố trí một số chức danh lãnh đạo không là người địa phương đạt được kết quả

bước đầu. Công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm thực hiện có

91

hiệu quả hơn; kỷ cương, kỷ luật được tăng cường. Việc xử lý kịp thời, nghiêm minh một số

tổ chức, cá nhân vi phạm đã góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn tiêu cực,

làm trong sạch một bước đội ngũ cán bộ, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân

dân đối với Đảng, Nhà nước [25; tr1].

Thứ tư, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức dần được nâng lên. Hiện nay, đội ngũ

cán bộ, công chức đã trưởng thành hơn, có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững

vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng,

rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc

trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các

tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán bộ cấp chiến lược

có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý

tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định

đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Hầu hết cán bộ lãnh đạo lực

lượng vũ trang được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, trung thành với Đảng, sẵn sàng

chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân. Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say mê

nghiên cứu, có đóng góp tích cực cho đất nước. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh

nghiệp nhà nước thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, tổ chức sản xuất, kinh doanh có

hiệu quả [25; tr1].

3.1.2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong công tác đánh giá cán bộ, công chức

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc đánh giá cán bộ, công chức ở nước ta vẫn

còn tồn tại một số hạn chế cần phải thẳng thắn nhìn nhận như sau:

Một là, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh. Hiện nay, việc ban hành Luật và các

văn bản dưới Luật có sự chênh lệch về thời gian với độ trễ khá dài, khiến cho nhiều Luật

mặc dù đã được ban hành song việc đưa vào tổ chức thực hiện còn lúng túng do chưa có

Nghị định hướng dẫn thực hiện. Những văn bản dưới Luật thường ban hành rất chậm, thậm

chí có văn bản dưới luật còn diễn giải trái ngược với nội dung văn bản luật gốc. Chủ nhiệm

Uỷ ban pháp luật của Quốc hội Vũ Đức Khiển cho biết: Bộ Luật hình sự của Việt Nam có

hiệu lực từ tháng 7/2000, sau 5 năm mới ban hành được 14/24 văn bản hướng dẫn thi hành.

92

Bộ Luật dân sự cũng tương tự, đã 10 năm nhưng mới ban hành được 50 văn bản, còn 20

văn bản chưa được hướng dẫn thi hành (Báo Tuổi trẻ, ngày 23/11/2005).

Bên cạnh đó, quy định trong các văn bản luật còn thiếu sự đồng bộ giữa các bộ luật

với nhau; có quy định chồng chéo, mâu thuẫn; lại có những điều pháp luật không quy định

đến. Nhiều lỗ hổng trong ban hành pháp luật khiến cho hệ thống pháp luật dù đang được

cố gắng để hoàn thiện song vẫn có nhiều người “lách luật”. Thêm vào đó, luật ở nước ta

thường đưa ra những quy định “cấm”, “không được phép”, “không được làm”,… nhưng lại

chưa đưa ra chế tài xử lý cụ thể: nếu như cán bộ, công chức làm những việc pháp luật không

cho phép thì sẽ bị xử lý như thế nào, mức xử lý ở từng mức độ vi phạm ra sao. Do vậy, mặc

dù có những điều đã được quy định trong pháp luật khá cụ thể, nhưng vì thiếu đi chế tài xử

lý nên không có tính răn đe đối với cán bộ, công chức trong quá trình thi hành nhiệm vụ

của mình.

Hai là, hệ thống những tiêu chí để đánh giá cán bộ, công chức khó đánh giá chính

xác, còn mang tính định tính. Việc đánh giá cán bộ, công chức được thực hiện dựa trên các

tiêu chí quy định tại điều 28 và điều 56 Luật Cán bộ, công chức năm 2008. Cán bộ được

đánh giá dựa trên 5 nội dung chính:“a) Chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng và pháp luật của Nhà nước; b) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và

lề lối làm việc; c) Năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ; d) Tinh thần

trách nhiệm trong công tác; đ) Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.”. Công chức được

thực hiện đánh giá trên 6 nội dung cơ bản, đó là: “a) Chấp hành đường lối, chủ trương,

chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; b) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,

tác phong và lề lối làm việc; c) Năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; d) Tiến độ và

kết quả thực hiện nhiệm vụ; đ) Tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm

vụ; e) Thái độ phục vụ nhân dân”. Ngoài ra, những công chức giữ vị trí lãnh đạo, quản lý

còn phải được đánh giá thêm 3 nội dung là: “a) Kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức,

đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý; b) Năng lực lãnh đạo, quản lý; c) Năng lực tập hợp,

đoàn kết công chức”. Trong những tiêu chí đánh giá trên, tiêu chí về kết quả thực hiện

nhiệm vụ được giao là tiêu chí có thể lượng hóa để đánh giá sát thực nhất; những tiêu chí

còn lại đều khó đánh giá chính xác, chưa được lượng hóa trong các nghị định hướng dẫn

thi hành để đánh giá sát thực.

93

Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính Phủ về đánh giá

và phân loại cán bộ, công chức, viên chức là nghị định quy định chi tiết về việc đánh giá và

phân loại cán bộ, công chức sau đánh giá; song Nghị định cũng không cụ thể hóa, định

lượng hóa các nội dung đánh giá cán bộ, công chức đã nêu ở trên, mà quy định: “Nội dung

đánh giá cán bộ thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Luật Cán bộ, công chức”;

“Nội dung đánh giá công chức thực hiện theo quy định tại Khoản 1 và 2 Điều 56 Luật Cán

bộ, công chức”. Như vậy, trong cả Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định hướng

dẫn thi hành việc đánh giá cán bộ, công chức đều chỉ đưa ra những tiêu chí đánh giá định

tính, không cụ thể hóa, định lượng các tiêu chí đánh giá. Việc sử dụng các tiêu chí đánh giá

định tính như vậy khó có thể đánh giá được chính xác được chất lượng thực tế của đội ngũ

cán bộ, công chức.

42%

58%

Phù hợp Chưa phù hợp, chưa sát thực tế

Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4

Biểu đồ 3.1: Tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Dựa trên khảo sát đã thực hiện, biểu đồ trên thể hiện rõ kết quả về tiêu chí đánh giá

cán bộ, công chức hiện nay. Khảo sát cho thấy, cán bộ, công chức đang làm việc cũng đã

nhận ra được bất cập từ những tiêu chí thực hiện đánh giá hàng năm. Kết quả khảo sát chỉ

ra có 57,85% cán bộ, công chức nhận thấy tiêu chí thực hiện đánh giá cán bộ, công chức

94

hiện tại là chưa phù hợp, chưa sát với thực tế về năng lực và điều kiện làm việc thực tế.

Song cũng có những cán bộ, công chức cảm thấy hài lòng với việc đánh giá hiện nay, cho

rằng đánh giá như vậy là phù hợp, và dễ dàng có thể tìm được người thực tài. Từ kết quả

trên, có thể thấy rằng, hiện nay việc đánh giá cán bộ, công chức thực tế vẫn chưa thực sự

mang lại hiệu quả cao; đội ngũ cán bộ, công chức còn khá mơ hồ về những nội dung đang

được đưa ra để đánh giá mình hàng năm.

22%

23%

55%

Tinh thần trách nhiệm cao Đùn đẩy trách nhiệm công vụ

Quan liêu, cửa quyền

Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4

Biểu đồ 3.2: Tinh thần và trách nhiệm làm việc của cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Bằng biểu đồ trên, có thể thấy kết quả khảo sát cũng chỉ ra rõ rằng, việc đánh giá với

những tiêu chí như hiện nay là chưa thực sự chính xác và hiệu quả. Bởi theo diễn biến của

việc quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, hàng năm không có quá nhiều người xếp

loại không hoàn thành nhiệm vụ hay hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực.

Song thực tế từ kết quả khảo sát chỉ ra có đến 211 người trên tổng số 382 người được hỏi

(chiếm 55,24%) cho rằng cán bộ, công chức hiện nay làm việc với tinh thần trách nhiệm

không cao, đùn đẩy trách nhiệm công vụ là phổ biến, và 87/382 người đánh giá cán bộ,

công chức hiện nay vẫn còn thái độ quan liêu, cửa quyền trong khi làm việc. Khảo sát được

95

thực hiện với các cán bộ, công chức đang làm việc trong bộ máy nhà nước song kết quả lại

khá khách quan khi nói đến tinh thần trách nhiệm làm việc.

Thường xuyên Thường xuyên

Không thưởng xuyên Không thường xuyên

Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4

Biểu đồ 3.3: Việc đánh giá đạo đức công vụ Biểu đồ 3.4: Việc tổ chức các kỳ thi sát hạch

đối với cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện năng lực chuyên môn dành cho cán bộ, công

nay chức ở Việt Nam hiện nay

Qua biểu đồ 3.3 và 3.4 được lập dựa trên kết quả thực hiện khảo sát, có thể đưa ra

nhận xét, việc đánh giá như hiện nay mặc dù được thực hiện thường xuyên song lại không

chú trọng vào việc đánh giá năng lực chuyên môn của cán bộ, công chức tại từng vị trí nên

chưa đạt hiệu quả cao. Kết quả khảo sát thực hiện trên 382 người cho rằng có 75,92% cán

bộ, công chức được đánh giá đạo đức công vụ định kì, song lại có đến 65,92% cán bộ, công

chức không thường xuyên tham gia các kỳ thi sát hạch năng lực chuyên môn tại cơ quan,

tổ chức đang công tác. Điều này khẳng định rõ việc đánh giá cán bộ, công chức với những

tiêu chí và cách thức thực hiện như hiện nay chưa phản ảnh rõ thực tế quá trình làm việc và

năng lực, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức.

96

Ba là, việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức còn mang tính hình thức, cào bằng,

mang nặng ý chí chủ quan và cảm tính, chưa khách quan, công bằng, sát thực. Việc đánh

giá cán bộ, công chức thực hiện hàng năm như một thông lệ khá đơn giản để thực hiện.

Song trong quá trình thực hiện việc đánh giá, vẫn còn tồn tại tình trạng nể nang, né tránh

trách nhiệm, ngại va chạm và dân chủ hình thức trong đánh giá cán bộ vẫn còn khá phổ

biến trong các cơ quan nhà nước hiện nay. Thêm vào đó, không ít trường hợp đánh giá cán

bộ, công chức còn chủ quan, cảm tính, dễ người dễ ta, cục bộ địa phương hoặc bị các mối

quan hệ cá nhân, quan hệ xã hội khác chi phối,… Do vậy, trên thực tế, mặc dù thực hiện

hàng năm nhưng việc đánh giá lại chưa phản ánh chính xác phẩm chất, năng lực của đội

ngũ cán bộ, công chức, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng chung của công tác quản

lý cán bộ, công chức.

Các cán bộ, công chức được đánh giá dựa theo trình tự, thủ tục được quy định tại

Điều 10 và Điều 17 Nghị định số 56/2015/NĐ-CP về đánh giá và phân loại cán bộ, công

chức. Theo đó, mỗi cán bộ, công chức trước tiên sẽ làm báo cáo tự đánh giá kết quả công

tác theo nhiệm vụ được giao; sau đó cán bộ, công chức trình bày báo cáo tự đánh giá tại

cuộc họp của cơ quan, tổ chức mình; dựa trên báo cáo tự đánh giá của cá nhân cán bộ, công

chức, những người tham dự cuộc họp đóng góp ý kiến, ý kiến đóng góp được ghi vào biên

bản cuộc họp và thông qua vào cuối buổi họp đánh giá. Như vậy, với những tiêu chí đã đưa

ra như trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã quy định, việc đánh giá chủ yếu dựa trên

việc tự đánh giá của mỗi cá nhân, có sự đóng góp của đồng nghiệp và các cá nhân, cơ quan

quản lý cấp trên. Song có một câu hỏi đặt ra là, liệu rằng mỗi cán bộ, công chức sau khi tập

trung để thực hiện báo cáo tự đánh giá kết quả công tác của mình có còn thực sự chú trọng

đến việc đồng nghiệp và cấp dưới (không phải cấp dưới được quản lý trực tiếp) đã thực

hiện nhiệm vụ được giao của họ như thế nào để đưa ra những nhận xét, đóng góp chính

xác, khách quan hay không?

Chỉ có cấp ủy đảng cùng cấp nơi cán bộ, công chức công tác thực hiện đóng góp ý

kiến bằng văn bản cho bản báo cáo tự đánh giá về kết quả thực hiện nhiệm vụ của mỗi cán

bộ, công chức đó. Còn đối với các thành phần khác tham dự cuộc họp không được pháp

luật quy định hình thức đóng góp ý kiến là gì. Do vậy, lại có thêm vấn đề đặt ra rằng, nếu

97

để mọi người tham dự cuộc họp đóng góp ý kiến bằng cách phát biểu ý kiến thì có thể thu

được ý kiến chính xác và chân thành từ những người đóng góp hay không?

Công bằng, khách quan 37%

Mang tính hình thức 63%

Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4

Biểu đồ 3.5: Việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Dựa trên kết quả khảo sát và Biều đồ 3.5 (minh họa bên trên) có gần 63% số người

được hỏi cho rằng việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay còn mang tính hình thức, chưa

chú trọng hiệu quả. Trong khi đối tượng thực hiện khảo sát chủ yếu là đội ngũ cán bộ, công

chức làm việc trong các cơ quan nhà nước mà kết quả lại có đến gần hai phần ba tổng số

người được hỏi nhận định việc đánh giá mang nặng tính hình thức, đặt ra những câu hỏi

lớn cho các nhà quản lý cần phải giải quyết. Đó là, việc đánh giá cán bộ, công chức hiện

nay có thực sự hiệu quả hay không? Nếu không thì có cần tiếp tục thực hiện nữa hay hủy

bỏ? Nếu tiếp tục thực hiện thì cần thay đổi như thế nào để đem lại hiệu quả?

Bốn là, quá trình thực hiện đánh giá cán bộ, công chức tại nhiều cơ quan, địa phương

còn hạn chế và lúng túng. Mặc dù đã có quy định về những tiêu chí đánh giá cán bộ, công

chức song việc tổ chức thực hiện đánh giá còn nhiều bất cập, nhất là đối với việc đánh giá

cán bộ, công chức giữ vị trí lãnh đạo, quản lý. Nhiều cán bộ, công chức chuẩn bị bản báo

cáo tự đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao còn sơ sài, chưa đánh giá cụ thể về

98

phẩm chất, tư tưởng và kết quả thực hiện công tác cá nhân; chưa gắn liền với việc thực hiện

Nghị quyết Trung ương 4, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Thêm vào

đó, quy trình thực hiện đánh giá cán bộ, công chức mặc dù đã được quy định tại Nghị định

số 56/2015/NĐ-CP về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức song vẫn có những cơ quan,

địa phương thực hiện chưa chặt chẽ. Những ý kiến đóng góp của các cá nhân trong cơ quan

hay đại diện các cơ quan có liên quan còn chung chung, chưa chỉ ra rõ những hạn chế,

khuyết điểm còn tồn tại của cán bộ, công chức đang được đánh giá. Nhiều cán bộ, công

chức hiện nay vẫn còn nhầm lẫn giữa kiểm điểm, đánh giá, phân loại Đảng viên với kiểm

điểm, phân loại, đánh giá cán bộ, công chức; nhầm lẫn giữa phiếu đánh giá và phân loại

của cán bộ với công chức…

Năm là, kết quả của việc đánh giá cán bộ, công chức chưa được sử dụng có hiệu quả

trong quản lý đội ngũ cán bộ, công chức. Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 56/2015/NĐ-CP về

đánh giá và phân loại cán bộ, công chức có quy định về việc sử dụng kết quả đánh giá cán

bộ, công chức, viên chức: “1. Kết quả đánh giá là căn cứ quan trọng để bố trí, sử dụng,

đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp, quy hoạch, bổ

nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện các chính

sách khác đối với cán bộ, công chức, viên chức”. Kèm theo đó, tại khoản 2 có đề cập đến

việc sử dụng cán bộ, công chức theo quy định tại Luật Cán bộ, công chức năm 2008. Tuy

nhiên, theo quy định trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã nêu, mới chỉ có việc miễn

nhiệm, cho thôi làm nhiệm vụ, bố trí công tác khác cho cán bộ, công chức được quy định

rõ, cụ thể là: “Cán bộ 02 năm liên tiếp hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng

lực hoặc có 02 năm liên tiếp, trong đó 01 năm hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về

năng lực và 01 năm không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bố trí

công tác khác. Cán bộ 02 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức có

thẩm quyền miễn nhiệm, cho thôi làm nhiệm vụ”; Công chức cũng được quy định tương tự

như vậy. Như vậy, có thể thấy rằng, trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định

hướng dẫn thi hành liên quan đến việc đánh giá cán bộ, công chức, mới chỉ đưa ra những

điều kiện về kết quả đánh giá làm cơ sở thực hiện các chính sách liên quan đến miễn nhiệm,

cho thôi làm nhiệm vụ, bố trí công tác khác cho cán bộ, công chức; chứ chưa đưa ra những

điều kiện cụ thể về kết quả đánh giá làm cơ sở sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch

99

hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp, quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển,

khen thưởng, kỷ luật,…

Phù hợp

Chưa phù hợp

Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4

Biểu đồ 3.6: Sự tương đồng giữa việc bố trí công tác và trình độ chuyên môn, năng lực thực

tế của cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Theo kết quả điều tra khảo sát thực tế và biểu đồ 3.6 minh họa bên trên về việc bố

trí công việc cho cán bộ, công chức đã phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ, năng lực của

cá nhân mỗi người hay chưa, có 51,83% số người được hỏi cho rằng việc bố trí công việc

hiện nay là chưa phù hợp với chuyên môn và năng lực thực tế của cán bộ, công chức. Phiếu

điều tra có nhắc đến năng lực “thực tế” của cán bộ, công chức, nghĩa là không quá quan

tâm đến trình độ của cán bộ, công chức được đánh giá dựa trên bằng cấp như thế nào, mà

tập trung vào việc mỗi cán bộ, công chức thể hiện như thế nào trong quá trình làm việc:

giải quyết công việc có hiệu quả hay không; có khả năng hoàn thành những công việc được

giao hay không,… Mặc dù không có sự chênh lệch nhiều giữa ý kiến cho rằng việc sắp xếp,

bố trí công việc đã phù hợp và chưa phù hợp với chuyên môn, năng lực thực tế của cán bộ,

công chức hiện nay, song có thể thấy vẫn còn những khoảng trống cần giải quyết liên quan

100

đến việc sắp xếp, bố trí công việc cho cán bộ, công chức; vẫn phải giải quyết câu chuyện

xử lý kết quả đánh giá cán bộ, công chức hiện nay như thế nào cho hợp lý với trình độ

chuyên môn, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức đang có.

Sáu là, mục đích thực hiện đánh giá cán bộ, công chức hàng năm chưa được xác

định rõ ràng. Trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định 56/2015/NĐ-CP của

Chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức có đưa ra những quy định

khá chi tiết về nguyên tắc, căn cứ, thời điểm, nội dung, trình tự thủ tục đánh giá cán bộ,

công chức; các tiêu chí để phân loại xếp loại đánh giá cán bộ, công chức,… Song điều thiết

yếu nhất là mục đích của việc đánh giá là gì thì lại chưa đề cập đến. Việc đánh giá và phân

loại kết quả đánh giá được sử dụng vào mục đích gì, hoặc: phân loại đánh giá cán bộ, công

chức sau đó thực hiện chế độ chính sách gì với cán bộ, công chức chưa được nhắc đến.

27%

73%

Rõ ràng, đảm bảo hiệu quả Chưa rõ ràng, mang tính hình thức

Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4

Biểu đồ 3.7: Mục đích việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Biểu đồ 3.7 và kết quả khảo sát thực hiện cho biết, có đến 284 trong tổng số 382

người được hỏi (chiếm 73,56%) cho rằng, mục đích việc thực hiện đánh giá cán bộ, công

chức hiện nay còn chưa rõ ràng, mang tính hình thức nhiều. Thực tế cũng chỉ rõ, bởi mục

đích đánh giá cán bộ, công chức hàng năm chưa được chỉ ra rõ nên việc thực hiện đánh giá

101

chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, phân loại đánh giá cán bộ, công chức cũng chưa

phát huy tác dụng của từng thứ hạng mà cán bộ, công chức được xếp loại; chưa tạo động

lực cũng như sự thúc đẩy phấn đấu và phát triển bản thân cho mỗi cán bộ, công chức trong

bộ máy nhà nước được đánh giá.

Tóm lại, việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay mặc dù đã được thực hiện thường

xuyên trong các cơ quan nhà nước song vẫn còn tồn tại nhiều bất cập từ những quy định

trong thể chế đến thực tế thực hiện. Những hạn chế của việc đánh giá cán bộ, công chức

hiện nay chủ yếu xuất phát từ tâm lý bệnh thành tích và tính cả nể của cán bộ, công chức

trong việc đánh giá và tự đánh giá. Do đó, trong tiến trình thực hiện công cuộc cách tân đất

nước, cần chú trọng hơn việc quản lý đội ngũ cán bộ, công chức nhằm xây dựng một nguồn

nhân lực chất lượng cao, góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, cường thịnh. Để công tác

đánh giá cán bộ, công chức thực hiện tốt hơn, cần có sự nhìn nhận lại lịch sử nước nhà và

học hỏi kinh nghiệm, vận dụng linh hoạt sáng tạo vào điều kiện hiện tại.

3.2. Những giá trị tham khảo từ lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh

Tông

3.2.1. Coi trọng việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức, coi đó là hoạt động

tối cần thiết để đảm bảo chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

Trong suốt quá trình nắm ngôi, vua Lê Thánh Tông đã đưa ra hàng loạt quy định về

các chế độ liên quan đến việc quản lý và sử dụng đội ngũ quan lại, từ việc tuyển chọn, bổ

nhiệm, đến việc luân chuyển, đào tạo – bồi dưỡng, kiểm tra – giám sát, định lệ giản thải,

lương bổng,… Trong đó, ông dành nhiều khoản quy định về lệ khảo thí, khảo khóa – biện

pháp thực hiện kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại triều đình. Sự quan tâm sát sao của vua

Lê Thánh Tông đến việc kiểm tra, đánh giá quan lại chính là sự chú trọng đặc biệt đến chất

lượng đội ngũ quan lại trong triều đình. Nhờ có sự quan tâm đó, ông đã xây dựng được một

đội ngũ quan lại vừa có đức, vừa có tài, luôn tuân thủ đúng quy định pháp luật đã được Nhà

nước đặt ra, chấp hành nghiêm minh quy định đã có. Thời vua Lê Thánh Tông đã tổ chức

khá hoàn chỉnh bộ máy thực hiện kiểm tra, đánh giá quan lại từ trung ương đến địa phương,

phối hợp chặt chẽ với nhau trong công tác kiểm tra, đánh giá nhằm lựa chọn được đội ngũ

quan lại chất lượng nhất. Những quy định về lệ khảo thí, khảo khóa không ngừng được bổ

sung và hoàn thiện, quy định rõ mục đích, nội dung, kỳ hạn, đối tượng thực hiện, trách

102

nhiệm tổ chức thực hiện, xử lý và sử dụng kết quả cho các chế độ khác đối với quan lại đều

được nhà vua quy định rõ ràng, nghiêm ngặt. Có thể thấy rõ, nhận thức được tầm quan trọng

của đội ngũ quan lại, vua Lê Thánh Tông rất coi trọng việc đánh giá chất lượng đội ngũ

quan lại, nhằm lựa chọn ra những quan lại tài đức vẹn toàn nhất giữ phẩm trật cao, cống

hiến cho công cuộc cải cách nhà nước bấy giờ.

Ngày nay việc đánh giá cán bộ, công chức mặc dù được thực hiện hàng năm song

lại chỉ mang tính hình thức, khá hời hợt về nội dung, mục đích thực hiện cũng chưa thực sự

rõ ràng, kết quả sau đánh giá chưa phản ánh đúng thực trạng công tác và kiến thức kỹ năng

của đội ngũ cán bộ, công chức và cũng chưa được sử dụng làm cơ sở để thực hiện chế độ

khác đối với cán bộ, công chức. Do vậy, theo kinh nghiệm lịch sử, hiện nay Đảng và Nhà

nước ta cần đổi mới và nâng cao nhận thức về việc đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức

hàng năm; cần hiểu rõ tầm quan trọng và cần thiết của đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng

vừa chuyên, đủ đức đủ tài trong tiến trình cải cách toàn diện đất nước. Trong bất kỳ hoạt

động nào của đất nước, nguồn nhân lực có chất lượng tốt luôn là nhân tố then chốt quyết

định sự thành công. Vậy nên, chỉ khi coi trọng việc kiểm tra, đánh giá thì chất lượng cán

bộ, công chức mới được nâng lên và nhanh chóng hoàn thiện; đội ngũ cán bộ, công chức

trong bộ máy nhà nước mới được củng cố vững chắc; việc thực hiện cải cách hành chính –

kinh tế – xã hội của đất nước mới có thể diễn ra suôn sẻ, thuận lợi, gặt hái được nhiều thành

công.

3.2.2. Chú trọng việc xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp

luật đảm bảo việc đánh giá cán bộ, công chức nghiêm ngặt, chặt chẽ, có hiệu lực hiệu

quả

Dưới thời Lê sơ, đặc biệt là vua Lê Thánh Tông, pháp luật Đại Việt bấy giờ đã được

hoàn thiện với Bộ Luật Hồng Đức – bộ Luật hoàn chỉnh đầu tiên trong lịch sử phong kiến

nước ta. Bộ luật Hồng Đức giống như một bộ tổng luật, toàn bộ kỷ cương phép nước của

quốc gia Đại Việt đều được đúc kết trong một bộ luật với 13 chương và 722 điều cụ thể.

Bộ luật Hồng Đức không những là bộ luật hoàn chỉnh nhất mà còn là bộ luật tiến bộ nhất

của xã hội Việt Nam dưới thời phong kiến. Nhà sử học Phan Huy Chú đánh giá bộ luật như:

“cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân”.

103

Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, chưa có vị vua nào lại ban hành sắc chỉ,

lệnh, dụ… nhiều, cụ thể và tỷ mỷ như vua Lê Thánh Tông. Chỉ tính riêng các sắc chỉ do

nhà vua ban hành đã lên tới con số hàng trăm. Cùng với số lượng lớn các văn bản pháp luật

ban hành dưới triều đại mình, ông còn cho tập hợp nhiều văn bản được ban hành trong các

triều đại trước, hợp thành 3 tập Hội điển để các quan lại trông coi pháp luật tiện sử dụng,

đó là: Thiên Nam dư hạ tập; Quốc triều thư khế thể thức; Hồng Đức thiện chính thư [8;

tr89].

Bên cạnh đó, trong quá trình quản lý đội ngũ quan lại, vua Lê Thánh Tông còn xây

dựng và ban hàng Lê Triều quan chế. Cuốn sách này quy định cụ thể về các chức tước,

phẩm trật cho từng loại quan văn quan võ trong triều; quy định về thông tư, điều lệ về việc

phong ấm cho hoàng thân quốc thích, tước công hầu bá tử nam và các quan viên văn võ;

đồng thời đưa ra thể thức tiến hành phong ấm, phép khảo hạch các quan, sửa đổi tên gọi

quan chức,…

Có thể thấy rằng, dưới thời Lê Thánh Tông, văn bản pháp luật và các chỉ, dụ, lệnh

hay các tài liệu khác có liên quan đến việc thực hiện chế độ quan lại đều được xây dựng

khá hoàn chỉnh thành một hệ thống, tạo nên tính thống nhất từ trung ương cho đến các địa

phương. Ngay từ khi lên ngôi, vua Lê Thánh Tông đã nhận thức rõ, việc xây dựng đồng bộ

và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quản lý đội ngũ cán bộ, công chức nói chung

và đánh giá cán bộ, công chức nói riêng là công việc quan trọng và cần kíp, phải thực hiện

càng sớm càng tốt.

Theo kinh nghiệm đó, ngày nay, trước hạn chế về sự thiếu đồng bộ và thống nhất

của hệ thống văn bản pháp luật của nước ta, cần có những biện pháp kịp thời nhằm xây

dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật. Bởi chỉ có hoàn thiện hệ thống văn

bản pháp luật – khung hành lang pháp lý tối quan trọng, tối cần thiết của Nhà nước mới có

tiền đề để xây dựng và hoàn thiện những chính sách khác, đặt biệt là những chính sách liên

quan đến quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay. Việc xây dựng

và hoàn thiện pháp luật, chính sách về quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức là hoạt

động quan trọng, tạo nền tảng vững chắc cho việc đảm bảo việc quản lý cán bộ, công chức

nói chung và kiểm tra, đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng trở nên nghiêm ngặt,

chặt chẽ hơn bao giờ hết. Mọi công việc đều phải thực hiện dựa trên cơ sở quy định pháp

104

luật trong đó có hoạt động kiểm tra, đánh giá cán bộ, công chức, do đó thúc đẩy tính hiệu

lực của hệ thống pháp luật và chính sách đã ban hành. Bên cạnh đó, khi pháp luật đảm bảo

hiệu lực thi hành sẽ mang lại tính hiệu quả cao trong quá trình thực hiện, góp phần gây

dựng một đội ngũ cán bộ, công chức chất lượng, vững mạnh cho bộ máy nhà nước.

3.2.3. Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy thực hiện công tác đánh giá cán bộ,

công chức hoạt động độc lập

Dưới thời vua Lê Thánh Tông, khi bắt tay thực hiện công cuộc cải cách hành chính

nhà nước, công việc đầu tiên và quan trọng nhất cần thực hiện là cải tổ bộ máy hành chính

nhà nước. Khi hoàn thiện lại tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, vua Lê Thánh Tông đã

chú trọng xây dựng bộ máy kiểm tra, giám sát bao quát toàn bộ hệ thống nhà nước và các

cấp hành chính. Để thực hiện việc kiểm tra, giám sát công việc của Lục bộ, nhà vua cho lập

ra Lục khoa và Ngự Sử đài. Cũng từ thời vua Lê Thánh Tông cơ chế kiểm tra, giám sát

được thực hiện bởi Hiến sát sứ ty: Hiến sát điều tra và đàn hặc những việc làm trái phép,

xét duyệt công trạng các quan lại trong địa hạt mình quản lý. Quan lại ở địa phương còn bị

giám sát bởi chính quan cấp trên trực tiếp.

Song song với việc hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước thực hiện kiểm tra, giám

sát đội ngũ quan lại, vua Lê Thánh Tông cũng trao quyền cho các cơ quan và chức quan

thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát. Ví dụ như, quan Ngự sử được giao các chức năng,

nhiệm vụ như:

- Can gián nhà vua, kiểm tra, giám sát việc làm của đội ngũ quan lại;

- Xem xét việc xét xử các vụ án;

- Kiểm tra, giám sát việc tuyển chọn, đánh giá đội ngũ quan lại;

- Kiểm tra, giám sát các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình.

Cơ chế kiểm tra, giám sát được thực hiện độc lập nhưng có sự phối hợp thống nhất

theo quy định pháp luật đã đề ra. Các quan khoa, đài không trực thuộc người đứng đầu cơ

quan mà họ được giao tiến hành kiểm tra, giám sát. Các quan thanh tra làm việc một cách

độc lập, không phụ thuộc vào các đối tượng chịu sự giám sát của họ. Thay vào đó, các quan

thanh tra chỉ phải chịu trách nhiệm trước nhà vua – nếu lời hặc tâu của họ không đúng sự

thật thì chỉ vua mới có quyền đưa ra phán xét. Mỗi cơ quan thực hiện kiểm tra, giám sát

105

đều hoạt động độc lập, không chịu bất cứ một sức ép nào, kể cả trong quá trình điều tra, xét

xử và trong quá trình khảo khoá quan lại.

Như vậy, khi thực hiện cải cách cho Đại Việt bấy giờ, vua Lê Thánh Tông không

những quan tâm đến việc tổ chức và sắp xếp lại tổ chức bộ máy cho hoàn chỉnh mà còn chú

ý đến việc phân công rõ chức năng, nhiệm vụ đối với từng vị trí của các quan; tạo nên một

hệ thống bộ máy thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát độc lập, tính chuyên quyền cao,

góp phần xây dựng một bộ máy nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương.

Thực tế hiện nay thấy rõ sự phụ thuộc của các cơ quan thanh tra nhà nước vào các

cơ quan quản lý nhà nước các cấp về cả nhân sự, tổ chức, kinh phí, chương trình, kế hoạch

thanh tra cũng như xử lý kết quả thanh tra. Điều này ảnh hưởng lớn đến tính độc lập và chủ

động trong hoạt động thanh tra giữa các cơ quan.

Bằng kinh nghiệm cải cách từ thời Lê Thánh Tông, việc thực hiện cải cách hành

chính nhà nước ta cần chú trọng hơn nữa vào nội dung cải cách tổ chức bộ máy hành chính

nhà nước, nhất là bộ máy thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát ở nước ta hiện tại. Dưới

thời Lê Thánh Tông, bộ máy kiểm tra, giám sát không là bộ phận hợp thành bên trong của

hệ thống quyền lực đang cần phải kiểm tra, giám sát mà nó đứng bên ngoài để kiểm tra,

giám sát. Vì thế, bộ máy kiểm tra, giám sát có khả năng kiểm tra, giám sát được toàn bộ hệ

thống quyền lực nhà nước. Bộ máy thực hiện hoạt động kiểm tra, thanh tra cũng cần được

phân cấp, phân quyền rõ ràng; tạo cơ chế phối hợp thống nhất giữa các cơ quan kiểm tra,

giám sát, có như vậy mới có thể kiểm tra, đánh giá có hiệu lực, hiệu quả được.

3.2.4. Coi trọng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra,

đánh giá

Để đánh giá đội ngũ quan lại các cấp dưới thời phong kiến, đội ngũ quan lại làm

công tác khảo thí, khảo khóa được tuyển chọn rất kỹ càng. Vua Lê Thánh Tông không chỉ

quan tâm đến chất lượng đội ngũ quan lại các cấp mà còn đặc biệt chú trọng đến chất lượng

đội ngũ quan lại thực hiện công tác kiểm tra, đánh giá từ trung ương đến địa phương, đó là

các quan Ngự sử. Tiêu chuẩn để các ông tuyển chọn vào các chức quan Ngự sử thường cao

hơn các chức quan khác. Các quan Ngự sử giữ “phong hoá, pháp độ, chức danh rất trọng”

nên đều được tuyển dụng trong số các quan có tiếng là tài giỏi, chính trực, thanh liêm. Thời

vua Lê Thánh Tông các quan Ngự sử phải là những quan lại đã giữ chức đủ 4 lần khảo khoá

106

(nghĩa là đã làm quan được 12 năm). Chức quan Đô ngự sử thời đó có phẩm trật và bổng

lộc cao, đứng hàng thứ ba, chỉ sau chức Tam thái và Tam thiếu [9; tr27].

Việc trải qua khoa cử và đứng trong hàng ngũ quan lại của triều đình dưới thời Lê

sơ đã khó rồi, để trở thành người nắm quyền khảo hạch quan viên dưới quyền của mình lại

càng khó hơn khi quan Ngự sử phải trải qua ít nhất 4 lần khảo khóa – kinh nghiệm làm

quan ít nhất 12 năm trong triều đình. Bằng việc quy định về thời gian làm việc, trình độ và

phẩm hạnh của quan lại qua 4 lần khảo khóa, vua Lê Thánh Tông có thể chắc chắn lựa chọn

được viên quan Ngự sử đầy đủ kinh nghiệm quan trường, đủ đức đủ tài để kiểm tra, đánh

giá quan viên dưới quyền một cách khách quan, chính xác và công tâm nhất.

Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, đánh giá ở nước

ta hiện nay có trình độ hiểu biết pháp luật để vận dụng trong thực tiễn còn hạn chế, trình độ

chuyên môn giữa những người thực hiện cùng một nhiệm vụ chưa đồng đều, năng lực thực

hiện công việc còn nhiều lúng túng, chưa khoa học,… Có những người tuổi đời còn rất trẻ

đã tham gia vào đội ngũ công chức thực hiện chức năng kiểm tra, đánh giá các cơ quan, tổ

chức, cá nhân khác khiến cho công tác tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế, do hiểu biết

của nhiều công chức trẻ còn hạn hẹp, chưa được tiếp xúc nhiều với thực tiễn cuộc sống,…

Do đó, cần phải học hỏi những kinh nghiệm từ việc lựa chọn đội ngũ quan lại có kinh

nghiệm làm việc, đủ đức đủ tài trở thành người chịu trách nhiệm thi hành lệ khảo thí, khảo

khóa đối với các quan viên khác trong lịch sử cải cách của Lê Thánh Tông. Trong quá trình

xây dựng chính sách quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức ngày nay, cần coi trọng

hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác kiểm tra, đánh giá. Có như vậy

mới có thể xây dựng đồng bộ đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng, góp phần xây dựng

một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh.

3.2.5. Xác định rõ mục tiêu, đối tượng, kỳ hạn và biện pháp thực hiện đánh giá

cán bộ, công chức

Ngay từ những ngày đầu nắm quyền, vua Lê Thánh Tông đã xác định rõ việc đánh

giá đội ngũ quan lại trong triều đình là một trong những việc cần kíp phải thực hiện càng

sớm càng tốt. Do đó, ông chú trọng hoàn thiện những quy định cụ thể liên quan đến việc

thực hiện kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại thông qua các kỳ khảo thí và khảo khóa. Theo

đó, ông xác định rõ mục tiêu của việc thực hiện khảo thí, khảo khóa (làm cơ sở để thực hiện

107

các chính sách khác đối với quan lại và nâng cao ý thức đạo đức cho đội ngũ quan lại); đối

tượng thực hiện khảo thí, khảo khóa là toàn bộ quan lại trong triều đình; quy định cụ thể về

kỳ hạn khảo thí, khảo khóa (3 năm một lần), nếu ai đủ 3 năm công tác mà không khai báo

cụ thể để tham gia khảo thí, khảo khóa sẽ bị phạt; tiêu chí và cách thức thực hiện kiểm tra,

đánh giá thông qua khảo thí, khảo khóa cũng được vua Lê Thánh Tông ban hành tỉ mỉ. Việc

xác định rõ mục tiêu, đối tượng, kỳ hạn và biện pháp thực hiện kiểm tra, đánh giá đội ngũ

quan lại ngay từ đầu giúp định hướng rõ hơn các công việc cần làm sau đó cho công tác

đánh giá, như là: việc triển khai thực hiện các kỳ khảo thí, khảo khóa cần được tổ chức như

thế nào; nội dung những tiêu chí đánh giá là gì; ai là người trực tiếp tiến hành đánh giá,…

Đồng thời, thông qua những mục tiêu, kỳ hạn và cách thực hiện khảo thí, khảo khóa được

công khai rộng rãi, đội ngũ quan lại triều đình có thêm động lực để rèn luyện bản thân, thúc

đẩy cùng phát triển lẫn nhau.

Học hỏi kinh nghiệm từ việc thực hiện khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh

Tông, ngày nay để làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công

chức, cần xác định rõ mục tiêu đánh giá là gì; việc đánh giá nhằm mục đích có liên quan

đến chất lượng cán bộ, công chức như thế nào để việc thực hiện đánh giá mang lại hiệu quả

hơn. Bên cạnh đó, xem xét những đối tượng đang được thực hiện đánh giá hàng năm hiện

nay đã đầy đủ và có cần thiết đánh giá hay không. Đồng thời cân nhắc lại kỳ hạn đánh giá

cán bộ, công chức; có chăng nên thử nghiệm kỳ hạn 3 năm đánh giá một lần thay vì đánh

giá hàng năm như hiện nay. Bởi 3 năm là khoảng thời gian không ngắn nhưng cũng đủ dài

để dễ dàng nhận xét và đánh giá xác đáng năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công

chức xem họ có thực sự cố gắng trau dồi và vươn lên sau một quá trình làm việc và học tập

hay không. Khi được hỏi về việc học hỏi kinh nghiệm thời Lê sơ tổ chức đánh giá cán bộ,

công chức hiện nay theo kỳ hạn 3 năm, có 75,92% người được hỏi cho rằng nên học hỏi

việc tổ chức đánh giá 3 năm một lần hơn là việc giữ nguyên kỳ hạn đánh giá như hàng năm

hiện nay; đồng thời việc tổ chức đánh giá trình độ năng lực cũng nên được tổ chức thường

xuyên với niên hạn 3 năm một lần như kỳ khảo thí đã được thực hiện tại thời Lê sơ với

734,08% người được hỏi cho rằng đó là công việc cần thiết thực hiện.

Như vậy, việc xác định rõ mục tiêu, đối tượng, kỳ hạn và biện pháp tiến hành đánh

giá cán bộ, công chức góp phần định hướng cụ thể và chi tiết đích đến phải đạt được, và

108

hướng đi sao cho đúng. Chỉ khi có định hướng đúng đắn và kế hoạch thực hiện cụ thể thì

việc đánh giá mới được triển khai hiệu quả, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

trong bộ máy nhà nước.

3.2.6. Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá rõ ràng, cụ thể; dễ đo lường, kiểm

chứng

Vua Lê Thánh Tông không chỉ quan tâm đến việc đánh giá đội ngũ quan lại dựa trên

trình độ kiến thức, khả năng làm việc mà còn đặc biệt chú trọng đến phẩm chất đạo đức,

thái độ làm việc và đối xử với nhân dân tại nơi quan viên nắm quyền. Khác với những triều

đại trước đó chỉ tiến hành khảo khóa quan lại dựa trên những bài thi kiến thức, thời Lê

Thánh Tông khảo khóa quan lại dựa trên hai tiêu chí, đó là: thành tích công việc đã đạt

được và có được lòng dân nơi cai quản hay không. Tiêu chí đầu tiên là cơ bản nhất để đánh

giá quan lại là năng lực hoạt động thực tiễn, mức độ hoàn thành và những thành tích đạt

được trong công việc được giao, tức là có hoàn thành nhiệm vụ, công vụ hay không? Có bê

trễ công việc hay để sai sót hay không? Tiêu chí thứ hai được vua Lê Thánh Tông chú trọng

hơn cả; đó là tiêu chí đánh giá về tư cách đạo đức quan lại. Tiêu chí này lấy tư tưởng thương

yêu dân, đức thanh liêm, chính trực trong công việc làm tiêu chuẩn để nhận xét thành tích

quan lại. Tiêu chí đánh giá tài năng, đức độ, sự mẫn cán của quan lại căn cứ vào kết quả

làm việc của các vị quan lại tại nơi nhận chức có duy trì được làng xã trù phú, giữ gìn thuần

phong mỹ tục, có để xảy ra nạn trộm cướp hoành hành, đặc biệt nhân dân có được hưởng

cuộc sống yên vui an lạc… hay không? Cả hai tiêu chí bắt buộc phải thực hiện khảo khóa

đều là những tiêu chí rất rõ ràng, cụ thể, dễ dàng kiểm chứng, xác nhận bằng thực tế, khó

có thể đánh giá sai lệch bởi được phản ánh rất rõ ràng qua sự ổn định và phát triển của vùng

mà quan viên đang cai quản và sự phản hồi từ phía quần chúng nhân dân.

Hiện nay những tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức ở nước ta khó có thể xác thực

và đánh giá chính xác, còn mang tính chất định tính là nhiều, chỉ có tiêu chí về mức độ hoàn

thành công việc là dễ lượng hóa chính xác nhất. Thêm vào đó, ngoài việc đánh giá những

nội dung liên quan đến công việc cần giải quyết trực tiếp hàng ngày của cán bộ, công chức;

cần chú ý đánh giá tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, công chức qua việc chăm sóc đời

sống người dân tại địa phương.

109

28%

72%

Cần thiết Không cần thiết

Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4

Biểu đồ 3.8: Sự cần thiết phải học hỏi việc đánh giá tinh thần trách nhiệm, sự mẫn cán dưới

thời Lê Thánh Tông vào việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Biểu đồ 3.8 cùng với kết quả khảo sát xã hội học chỉ ra rằng, có đến 70,42% cán bộ,

công chức được hỏi cho rằng nên thực hiện đánh giá tinh thần trách nhiệm, sự “mẫn cán”

của đội ngũ cán bộ, công chức căn cứ vào kết quả “chăm sóc” dân chúng của cán bộ, công

chức đó: địa phương quản lý mà làng xóm trù phú, thuần phong mỹ tục được duy trì, nạn

trộm cắp không hoành hành, nhân dân được hưởng cuộc sống yên vui, an lạc… thì được

đánh giá là thanh liêm, quan tâm chăm sóc nhân dân. Do vậy, cần học hỏi thêm kinh nghiệm

từ việc thực hiện lệ khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông, đưa ra những tiêu chí đánh giá cụ

thể và rõ ràng hơn, đồng thời dễ dàng khảo sát lại bằng thực tế. Với cách đánh giá cán bộ,

công chức hàng năm bằng hệ thống các tiêu chí được quy định trong Luật Cán bộ, công

chức năm 2008, có thể ban hành Nghị định hướng dẫn thực hiện việc đánh giá với những

quy định cụ thể hơn, dễ xác thực và lượng hóa hơn trong nội hàm từng tiêu chí để việc đánh

giá được thực hiện chính xác và xác thực, góp phần đánh giá đúng năng lực, trình độ và

thái độ làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay; nâng cao hiệu quả quản lý đội

ngũ cán bộ, công chức.

110

3.2.7. Xử lý và sử dụng hiệu quả kết quả đánh giá cán bộ, công chức

Vua Lê Thánh Tông đã xây dựng một hệ thống quan chế nghiêm minh và cụ thể,

trong đó chỉ rõ việc đánh giá đội ngũ quan lại triều đình và xếp thành 3 bậc khác nhau. Dựa

trên cơ sở các bậc quan lại được xếp loại sau đánh giá, ông áp dụng các chính sách quan lại

bằng cách thực hiện việc thăng thưởng hay giáng chức quan lại đó, luân chuyển, giản thải

hoặc bổ nhiệm vị trí cho phù hợp với năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức thực tế của

họ. Việc xử lý và sử dụng kết quả đánh giá đội ngũ quan lại dưới triều Lê Thánh Tông trở

thành một mục tiêu, động lực cho đội ngũ quan lại phấn đấu và rèn luyện bản thân ngày

càng hoàn thiện về cả đức và tài của mỗi quan viên.

Không cần thiết

Cần thiết

Nguồn: Theo kết quả khảo sát, thống kê tại Phụ lục 2, tr4

Biểu đồ 3.9: Sự cần thiết sử dụng kết quả đánh giá cán bộ, công chức làm cơ sở thực hiện

các chế độ, chính sách khác đối với cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Tiếp thu có chọn lọc việc xử lý và sử dụng kết quả đánh giá đội ngũ quan lại dưới

thời Lê sơ, việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay cần đưa ra kết quả chính xác, khách

quan, công bằng để sử dụng làm cơ sở để thực hiện các chế độ, chính sách khác đối với cán

bộ, công chức trong quá trình quản lý. Trong khi thực hiện điều tra khảo sát, phiếu điều tra

có hỏi: “Thời Lê Thánh Tông dựa vào kết quả của các kỳ khảo thí, khảo khóa để xác định,

thực hiện việc thăng, giáng và thưởng phạt đối với đội ngũ quan lại trong triều. Theo

111

Anh/Chị, kết quả đánh giá cán bộ, công chức hiện nay có cần được sử dụng làm cơ sở để

thực hiện các chế độ sử dụng cán bộ, công chức khác hay không?”. Có đến 310 trong tổng

số 382 người được hỏi đồng ý với quan điểm: “Rất cần thiết, phải sử dụng kết quả đánh giá

cán bộ, công chức làm cơ sở cho việc thăng giáng và thưởng phạt cán bộ công chức mới

đem lại công bằng, hiệu quả”. Với khoảng 81% số người được hỏi đồng ý với việc sử dụng

kết quả của kỳ kiểm tra, đánh giá vào việc thực hiện các chế độ chính sách khác của cán

bộ, công chức hiện nay; có thể thấy rằng việc học hỏi kinh nghiệm của cha ông ta cho công

tác đánh giá cán bộ, công chức là vô cùng cần thiết.

Thực tế chỉ ra rằng, mặc dù pháp luật đề cập đến việc sử dụng kết quả đánh giá cán

bộ, công chức; song những kết quả đánh giá này chưa được sử dụng hiệu quả trong việc bố

trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp, quy

hoạch, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật và các chính

sách khác. Để xử lý và sử dụng có hiệu quả hơn kết quả đánh giá đội ngũ cán bộ, công

chức; cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, đưa ra những quy

định và hướng dẫn cụ thể cho việc xử lý và sử dụng hiệu quả kết quả đánh giá cán bộ, công

chức. Có như vậy mới tạo được cơ sở pháp luật, hành lang pháp lý thực hiện hoạt động

đánh giá cán bộ, công chức. Từ đó, tạo động lực phấn đấu cho cán bộ, công chức luôn cố

gắng rèn luyện trình độ kiến thức, trau dồi phẩm chất đạo đức, cố gắng hoàn thiện bản thân

để luôn đạt được kết quả tốt nhất sau mỗi kỳ kiểm tra, đánh giá. Chỉ có sử dụng kết quả

đánh giá cán bộ, công chức hiệu quả mới tạo được tiền đề việc đánh giá cán bộ, công chức

được thực hiện thêm phần khách quan, công bằng và hiệu quả hơn.

3.3. Một số kiến nghị cho công tác đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện

nay

3.3.1. Kiến nghị đối với các nghiên cứu tiếp theo

Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã trải qua nhiều thăng

trầm, từ những cuộc kháng chiến chống giặc giữ nước, đến những cuộc cải cách, đổi mới

trong lịch sử xây dựng nước nhà,… Tất cả những sự kiện lịch sử ấy đều là những nguồn tư

liệu sinh động chứa đựng những bài học, kinh nghiệm về công cuộc dựng nước và giữ nước

của cả dân tộc. Nguồn tư liệu ấy cần được truyền bá, giáo dục cho thế hệ trẻ hôm nay để họ

tự hào với những chiến thắng oanh liệt của dân tộc ta; đồng thời nhắc nhở họ luôn nêu cao

112

ý thức cảnh giác cách mạng, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Những

tư liệu này cần được tiếp tục nghiên cứu giúp chúng ta hiểu rõ những giá trị lịch sử mà cha

ông ta đã để lại, để từ đó rút ra những giá trị, những bài học quý báu có thể vận dụng vào

thực tiễn, đặc biệt trong quá trình quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay.

Luận văn “Lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông và bài học kinh

nghiệm cho đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay” đã tập trung tìm hiểu và

đánh giá việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông nhằm kiểm

tra, đánh giá đội ngũ quan lại từ trung ương đến địa phương và khẳng định đó là một bài

học quý giá, vượt qua những khác biệt về thời đại làm nền tảng vững chắc cho việc đánh

giá cán bộ, công chức ngày nay. Tuy vậy, đó mới chỉ là một nghiên cứu nhỏ vì việc nghiên

cứu lịch sử hành chính nhằm rút ra kinh nghiệm cho công cuộc cải cách hành chính nói

chung và quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng còn rất nhiều nội dung mà

Luận văn chưa có đủ điều kiện và thời gian để tiếp cận sâu hơn.

Những kinh nghiệm về chính sách sử dụng quan lại, đánh giá đội ngũ quan lại dưới

triều vua Minh Mệnh; về việc kế thừa chính sách sử dụng và đánh giá quan lại của các quốc

gia trong khu vực và trên thế giới;… là những bài học có giá trị trong công cuộc cải cách

việc quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. Đây là những vấn đề rộng mà

trong thời gian tới, cần có thêm nhiều nghiên cứu đi sâu tìm hiểu hơn.

3.3.2. Kiến nghị đối với cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền

Để thực hiện tốt quá trình đánh giá cán bộ, công chức, các cơ quan nhà nước và các

cấp chính quyền cần có những thay đổi nhất định nhằm thực hiện đánh giá cán bộ, công

chức đạt hiệu quả tốt hơn. Có thể tham khảo một vài kiến nghị như sau:

 Những kiến nghị về công việc cần thực hiện trước khi đánh giá cán bộ, công

chức

 Hoàn thiện hệ thống văn bản quy định, hướng dẫn công tác đánh giá; cụ thể hóa tiêu

chí đánh giá trong đó chú trọng tiêu chuẩn gắn với mô tả công việc, chức danh của từng

cán bộ. Việt Nam là một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với tinh thần thượng tôn

pháp luật, quyền lực của nhà nước là tối cao, tất cả hoạt động đều được pháp luật điều

chỉnh. Hệ thống văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý cho mọi hoạt động diễn trong

trong tất cả các lĩnh vực quản lý và đời sống xã hội. Để thực hiện việc đánh giá cán bộ,

113

công chức có hiệu quả hơn, cần quan tâm đặc biệt hơn nữa đến việc xây dựng và hoàn thiện

hệ thống pháp luật, nhất là những văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện công tác đánh giá

cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay. Khi xây dựng văn bản về đánh giá cán bộ, công

chức, cần cụ thể hóa những tiêu chí đánh giá bằng hệ thống tiêu chí định lượng gắn với

từng vị trí việc làm để quá trình đánh giá thêm phần xác thực. Có như vậy mới đánh giá

chính xác, lựa chọn được nhân tài đóng góp cho quá trình xây dựng đất nước.

 Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh cho mỗi vị trí việc làm. Mặc dù pháp luật

chỉ quy định khung pháp lý chung cho việc đánh giá cán bộ, công chức; song hệ thống các

văn bản hướng dẫn thi hành cần phải cụ thể hóa hệ thống tiêu chí này sao phù hợp với từng

vị trí, chức danh. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi mô hình công vụ từ mô hình

chức nghiệp sang mô hình vị trí việc làm. Dù đề án mới đang được triển khai ở những giai

đoạn đầu tiên, song cần có tầm nhìn xa hơn trong việc đánh giá cán bộ, công chức tương

ứng với từng vị trí việc làm để khi hoàn thiện đề án mô hình vị trí việc làm, không mất thêm

thời gian chờ đợi để xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá.

 Những kiến nghị về công việc cần thực hiện trong khi đánh giá cán bộ, công

chức

 Thực hiện đánh giá công khai, công bằng, nghiêm minh, chính trực, khách quan, dân

chủ. Việc đánh giá hiện nay vẫn còn tồn tại một số hạn chế về việc nể nang, đánh giá mang

tính hình thức,… Do vậy, trong quá trình thực hiện đánh giá, các cơ quan nhà nước và các

cấp chính quyền địa phương, cần nêu cao tinh thần đánh giá công bằng, nghiêm minh, khách

quan, dân chủ để việc đánh giá mang lại kết quả trung thực, đánh giá đúng người đúng việc.

 Coi trọng sự đóng góp của quần chúng nhân dân, lắng nghe phản hồi từ nhân dân.

Nhân dân là những người thường xuyên tiếp xúc với đội ngũ cán bộ, công chức đặc biệt là

đối với chính quyền địa phương. Quần chúng nhân dân sẽ là những chủ thể đưa ra đánh giá

chân thực và khách quan nhất, bởi họ hiểu rõ cán bộ, công chức là “công bộc” của dân, nên

nếu hài lòng hoặc không hài lòng, người dân sẽ phản ánh xác thực nhất về thái độ và cách

giải quyết công việc của cán bộ, công chức đang làm việc trên địa phương. Coi trọng và

lắng nghe những phản hồi từ nhân dân là một trong những nguồn thông tin có thể dùng để

xem xét và đánh giá quá trình công tác của cán bộ, công chức. Chú trọng hơn những đóng

góp từ quần chúng nhân dân giúp đánh giá cán bộ, công chức thêm phần chính xác hơn.

114

 Những kiến nghị về công việc cần thực hiện sau khi đánh giá cán bộ, công chức

 Sử dụng kết quả đánh giá hiệu quả vào công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức.

Hiện nay mặc dù có quy định về việc sử dụng kết quả đánh giá vào việc bổ nhiệm, miễn

nhiệm, điều chuyển, khen thưởng, kỷ luật,… đối với cán bộ, công chức ở từng mức độ đạt

được của kết quả đánh giá; tuy vậy các văn bản hướng dẫn lại chưa đưa ra những quy phạm

chung để các cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương thực hiện thống nhất. Mỗi cơ

quan nhà nước và các cấp chính quyền có thể căn cứ vào quy định pháp luật cùng tình hình

thực tế đẻ đề xuất việc sử dụng kết quả đánh giá cán bộ, công chức sao cho đạt hiệu quả

nhất trong việc quản lý nguồn nhân lực.

3.3.3. Kiến nghị đối với đơn vị đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Các đơn vị đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là cái nôi tạo ra đội ngũ cán bộ,

công chức vừa hồng vừa chuyên. Trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng không những chú

trọng đến việc tăng cường kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức

mà còn cần phải quan tâm đến việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp. “Cần, kiệm, liêm, chính”

“chí công vô tư” là những đức tính cần có và vô cùng quan trọng đối với mỗi người cán bộ,

công chức làm việc trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Thái độ làm việc, kỹ năng

giao tiếp và giải quyết công việc,… là những kỹ năng mềm thường được thể hiện tùy theo

cá tính từng người. Song nếu được chú trọng đào tạo, bồi dưỡng có thể xây dựng được một

đội ngũ cán bộ công chức có kỹ năng giao tiếp tốt, giải quyết công việc nhanh chóng và

hiệu quả với thái độ làm việc thăng say, tích cực.

Trong chương trình thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, cần xây dựng

chương trình đan xen giữa lý thuyết về chuyên môn với kỹ năng làm việc, đạo đức nghề

nghiệp để quá trình đào tạo, bồi dưỡng vừa toàn diện vừa không nhàm chán, thu hút được

cán bộ, công chức tích cực tham gia. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cũng nên thực hiện

những biện pháp giảng dạy, hướng dẫn và kiểm tra có sự tích hợp với các phương tiện hiện

đại để cán bộ, công chức không cảm thấy gò bó trong quá trình tiếp thu kiến thức. Việc xây

dựng và ban hành những cơ chế mới, phù hợp với nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công

chức là việc mà các cơ sở đào tạo cần chú trọng xây dựng, nhằm tăng cường hiệu quả đào

tạo, bồi dưỡng hơn nữa, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức lớn mạnh về cả đức

và tài.

115

Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo bồi dưỡng cần đánh giá đúng vai trò, giá trị của môn

học liên quan đến Lịch sử Hành chính nhà nước Việt Nam, nhận thức đúng đắn về những

giá trị tham khảo cho quá trình quản lý cán bộ, công chức nói chung và việc đánh giá đội

ngũ cán bộ, công chức nói riêng từ những bài học trong lịch sử. Do vậy, các cơ sở đào tạo,

bồi dưỡng cần đưa ra chuẩn mực về hệ thống giáo trình, chương trình và phương pháp giảng

dạy phù hợp, trong đó có môn Lịch sử Hành chính Nhà nước Việt Nam; tiến đến xây dựng

hệ thống giáo trình, chương trình và phương pháp giảng dạy về lịch sử hành chính của một

số quốc gia khác trên thế giới, lấy đó làm cơ sở nền tảng cho việc so sánh đối chiếu để rút

ra bài học kinh nghiệm giữa thời xưa và nay, giữa truyền thống và hiện đại, giữa trong nước

và quốc tế.

3.3.4. Kiến nghị đối với cán bộ, công chức

Cán bộ, công chức ngày nay cần học tập cha ông ta trong lịch sử, phải luôn tự mình

không ngừng học tập, rèn luyện năng lực chuyên môn đạo đức, lối sống cá nhân. Về phẩm

chất cá nhân, phải có phẩm chất đạo đức tốt, thực hiện nhiệm vụ cách mạng một cách trung

thực, không vụ lợi; có lối sống trong sạch, cần cù, sáng tạo, có ý chí vươn lên; có thái độ

cư xử đúng mực và luôn biết phê bình và tự phê bình. Cùng với đó, mỗi cán bộ, công chức

phải nâng cao tinh thần học tập lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần của mỗi người. Đồng thời, vận dụng

những tư tưởng đạo đức đã học tập một cách sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Về trình độ kiến thức, mỗi cán bô, công chức cần phải chủ động

nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng làm việc của bản thân sao cho phù hợp với vị trí việc

làm đang đảm nhiệm, tích cực tham gia vào các khóa học đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến

thức chuyên môn nghiệp vụ. Khi các cơ quan, tổ chức mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng, mỗi

cán bộ, công chức cần chủ động tham gia nếu thấy phù hợp với trình độ chuyên môn, đáp

ứng nhu cầu phát triển con đường chức nghiệp cá nhân. Chủ động, tích cực tham gia đào

tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức

và kỹ năng làm việc cho cán bộ, công chức. Trong công tác tại cơ quan, tổ chức, phải làm

việc và cống hiến hết mình với tinh thần tận tụy, nhiệt tình để xây dựng một tập thể vững

mạnh; phải trung thực, công bằng trong việc đánh giá và tự đánh giá công tác thực hiện; có

thái độ lịch sự, nhã nhặn với đồng nghiệp và cấp trên, cấp dưới. Đối với công chúng và xã

116

hội, phải biết phục vụ nhân dân với thái độ công bằng, tin cậy, không lợi dụng chức quyền

để trục lợi, đề cao giá trị đạo đức, sự hướng thiện của con người, ngăn ngừa, hạn chế sự sa

sút, suy thoái đức.

117

Tiểu kết chương 3:

Từ hệ thống khái niệm về cán bộ, công chức và những nhận thức chung về việc đánh

giá cán bộ, công chức; sau khi đối chiếu với khái niệm quan lại, chế độ quan lại và việc

thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa đội ngũ quan lại, có thể khẳng định rằng cán bộ, công chức

ngày nay chính là quan lại thời xưa, và khái niệm đánh giá cán bộ, công chức ngày nay

tương đương với lệ khảo thí, khảo khóa đội ngũ quan lại thời xưa. Trên cơ sở lý luận đã

đưa ra, Luận văn đã đưa ra thực trạng của việc đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức đang

được thực hiện theo hệ thống pháp luật hiện hành. Từ đó, đối chiếu với việc thực hiện lệ

khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông để đúc rút những bài học kinh nghiệm

phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện tại của đất nước.

Thứ nhất, để có thể thực hiện tốt việc đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức – nguồn

nhân lực để xây dựng và phát triển quốc gia, Đảng và Nhà nước cần phải thay đổi và nâng

cao nhận thức hơn nữa về việc đánh giá cán bộ, công chức để định hướng chủ trương, đường

lối và xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, điều chỉnh việc đánh giá cán bộ, công chức.

Thứ hai, cần chú trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy thực

hiện công tác đánh giá cán bộ, công chức và đặc biệt coi trọng chất lượng của đội ngũ trực

tiếp làm công tác đánh giá, bởi họ là những người nhìn nhận và xác định về trình độ kiến

thức và phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức một cách trực tiếp.

Thứ ba, để việc đánh giá trở nên hiệu quả thì những quy định pháp luật liên quan

đến mục tiêu, kỳ hạn, hệ thống tiêu chí đánh giá, xử lý và sử dụng kết quả sau đánh giá cần

nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện để tạo hành lang pháp lý cho việc đánh giá. Pháp luật

có quy định cụ thể, tường tận và nghiêm minh thì mới tạo nền tảng và cơ sở vững chắc cho

việc tổ chức thực hiện hiệu quả.

Từ những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc học hỏi lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời

vua Lê Thánh Tông, Luận văn đã mạnh dạn đưa ra những kiến nghị dưới góc nhìn cá nhân

đối với các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền; các đơn vị đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức và đối với trực tiếp cán bộ, công chức góp phần xây dựng một quá trình đánh

giá hoàn thiện hơn, thúc đẩy sự hình thành và phát triển một hệ thống cán bộ, công chức

vững mạnh.

118

KẾT LUẬN

“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng

thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh

không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc

gia làm công việc cần thiết...” Câu nói của nhà giáo Thân Nhân Trung – Tiến sĩ triều Lê

không chỉ có ý nghĩa trong xã hội Lê sơ mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Bởi vậy, việc

lựa chọn và sử dụng nhân tài nhằm tạo ra một đội ngũ quan lại tài năng, đức độ, đảm đương

và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao để phục vụ cho đất nước luôn là mối quan tâm hàng

đầu của Nhà nước trong mọi thời đại.

Lịch sử hành chính nước ta đã chứng minh rằng, chính sách tuyển bổ và sử dụng

quan lại dưới triều Lê sơ, đặc biệt là thời vua Lê Thánh Tông đã có nhiều điểm ưu việt, trở

thành khuôn phép để các triều đại sau đó noi theo. Triều Lê sơ nói chung và vua Lê Thánh

Tông nói riêng đã xây dựng và tổ chức một bộ máy nhà nước vững mạnh, một chính sách

quản lý quan lại chặt chẽ nổi bật là lệ khảo thí, khảo khóa – biện pháp kiểm tra, đánh giá

đội ngũ quan lại, góp phần tạo nên một trật tự điều hành quy củ, một hệ thống quan lại vững

chắc, trở thành “khuôn vàng thước ngọc” cho các đời sau học tập. Những giá trị đó luôn là

cơ sở, nền tảng, là bài học quý giá để các thế hệ sau này rút kinh nghiệm, kế thừa và phát

triển. Với mục đích tập trung nghiên cứu việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới triều

vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) để rút ra những bài học có giá trị trong việc kiểm tra,

đánh giá cán bộ, công chức, Luận văn đã hoàn thành những nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản

sau:

1. Hệ thống hóa các vấn đề chung về chế độ quan lại, lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời

phong kiến ở nước ta, bao gồm:

Thứ nhất, hệ thống hóa các khái niệm “quan lại” và “chế độ quan lại”, đề xuất khái

niệm lại chung nhất như sau: Quan lại là những người làm việc trong bộ máy nhà nước

quân chủ phong kiến, trong đó “quan” là những người có phẩm hàm, tước vị, chức vụ được

tuyển chọn bằng nhiều phương pháp khác nhau như: khoa cử, tiến cử, tập ấm,…; còn “lại”

là những người được tuyển chọn vào làm công việc cụ thể nào đó trong các nha môn từ

triều đình đến cấp huyện để giúp việc cho quan. Khái niệm chế độ quan lại bao gồm một

quy trình từ tổ chức đến thực hiện các quy định về đào tạo, tuyển chọn, sử dụng quan lại

119

mà các triều đại phong kiến Việt Nam thực hiện nhằm xây dựng một đội ngũ quan lại cho

bộ máy hành chính nhà nước (trong sử dụng lại có phân công, sắp xếp bố trí quan lại; luân

chuyển, giản thải; kiểm tra, giám sát; chế độ đãi ngộ và thưởng, phạt quan lại,…).

Thứ hai, tóm tắt chế độ quan lại và lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời phong kiến ở

Việt Nam. Theo đó, Luận văn đề cập đến các chế độ quan lại như chế độ tuyển dụng, các

chế độ sử dụng quan lại (bao gồm: phân công và sắp xếp, luân chuyển và giản thải, kiểm

tra và giám sát đội ngũ quan lại) trong thời phong kiến. Từ đó tập trung vào chế độ kiểm

tra và giám sát quan lại thông qua lệ khảo thí, khảo khóa. Thông lệ này mặc dù đã được tổ

chức thực hiện từ thời Lý song chưa có quy định rõ ràng nên chưa thực hiện thường xuyên:

Nhà Lý lấy 9 năm làm một khóa, nhà Trần lấy 15 năm một lần xét. Thời hạn này được đánh

giá là “chậm trễ quá”. Đến thời Lê sơ, việc thực hiện chế độ quan lại đã có nhiều chuyển

biến tích cực. Đặc biệt, lệ khảo thí, khảo khóa quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông đã

được xây dựng quy củ, thực hiện nghiêm minh, công bằng và có hiệu quả lớn đối với việc

củng cố bộ máy hành chính nhà nước. Các triều đại về sau lấy chế độ quan lại và lệ khảo

thí, khảo khóa đã ban hành dưới thời Lê Thánh Tông làm nền tảng cho việc xây dựng và áp

dụng các chính sách đối với quan lại, song niên hạn đánh giá mỗi giai đoạn một khác.

Thứ ba, chỉ rõ chính sách quan lại và việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa ở nước

ta có sự học hỏi, kế thừa có chọn lọc từ chế độ quan lại của các triều đại trước trong nước

và nước ngoài, mà điển hình là của Trung Quốc. Chế độ quan lại trong nước ta những ngày

đầu bắt đầu chế độ phong kiến còn nhiều hạn chế và thiếu sót, do các vua quan tập trung

xây dựng và củng cố quân đội bảo vệ đất nước. Càng về sau các triều đại càng chú trọng

đến việc cải cách và thực hiện tốt hơn chế độ quan lại nhằm tạo nền tảng vững chắc để xây

dựng quốc gia hưng thịnh. Bên cạnh việc học hỏi và kế thừa những thành tựu của các triều

đại trong lịch sử phong kiến Đại Việt, chế độ quan lại nước ta còn có sự kế thừa có chọn

lọc chế độ quan lại phong kiến Trung Quốc. Về tổ chức bộ máy quan lại, chế độ tuyển bổ

và sử dụng quan lại đều có những nét khá tương đồng với Trung Quốc hơn 2000 năm lịch

sử phong kiến. Ngự sử đại phu – bộ phận thực hiện chức năng giám sát đã được xây dựng

từ ngay những năm đầu tiên của chế độ phong kiến Trung Quốc, càng về triều đại sau càng

được hoàn thiện hơn. Việc thực hiện kiểm tra, đánh giá quan lại dưới thời Tống ở Trung

Quốc khoảng những năm đầu thế kỷ XII cũng diễn ra 3 năm một lần, đánh giá quan lại dựa

120

trên việc thực hiện một bài thi và hiệu quả hoạt động thực tế của mỗi quan viên. Trên cơ sở

kết quả đánh giá quan lại, nhà Tống thực hiện việc thăng giáng chức quan phù hợp; khen

thưởng hoặc trừng phạt quan viên nghiêm khắc bằng hình thức tự thôi việc hoặc buộc thôi

việc; bổ nhiệm vị trí quản lý tương xứng với năng lực và phẩm chất đạo đức quan lại,…

Đây là một chế độ kiểm tra, giám sát quan lại khá hoàn thiện, được phong kiến Việt Nam

tiếp thu có sáng tạo và vận dụng linh hoạt vào điều kiện thực tế.

2. Tìm hiểu về lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497), và

Luận văn khẳng định chế độ kiểm tra, đánh giá quan lại dưới thời Lê Thánh Tông là một

chế độ tương đối hoàn chỉnh, vừa tạo động lực cho quan lại phấn đấu, vừa thúc đẩy sự cạnh

tranh minh bạch trong quan trường. Với bối cảnh lịch sử đầy khủng hoảng, triều Lê sơ được

thiết lập từ một cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài 10 năm. Nhưng ngay từ những ngày đầu

thành lập, triều Lê sơ đã bắt tay vào khôi phục kinh tế, xây dựng thể chế, bộ máy nhà nước,

tạo nền tảng cho sự phát triển rực rỡ của một triều đại suốt 100 năm tồn tại của thời Lê sơ.

Để trở thành một triều đại hưng thịnh nhất suốt 1000 năm lịch sử phong kiến Việt Nam,

cuộc cải cách hành chính dưới triều vua Lê Thánh Tông đã được triển khai thực hiện khá

thành công. Cải cách tập trung vào việc xây dựng và tổ chức lại hệ thống tổ chức bộ máy

nhà nước và chú trọng cải cách chế độ quan lại. Điểm sáng trong quá trình cải cách của vua

Lê Thánh Tông là việc ban hành lệ khảo thí, khảo khóa – chính sách đánh giá đội ngũ quan

lại khá hoàn chỉnh so với các triều đại trước đó.

Theo đó, lệ khảo thí, khảo khóa được thực hiện nhằm 2 mục đích chính, đó là: làm

cơ sở thực hiện các chế độ sử dụng quan lại và góp phần nâng cao ý thức đạo đức của đội

ngũ quan lại trong triều. Tất cả quan lại trong triều đình đều phải tham gia thực hiện các kỳ

khảo thí, khảo khóa khi đã đủ thời gian làm việc là 3 năm. Với kỳ hạn thực hiện khảo thí 3

năm một lần, khảo khóa thực hiện theo 3 kỳ: 3 năm sơ khảo, 6 năm tái khảo và 9 năm thông

khảo; nội dung các kỳ khảo thí, khảo khóa được quy định rõ ràng. Với kỳ khảo thí, quan

văn thì giải kinh nghĩa, làm thơ phú, viết kế sách trị nước an dân; quan võ thì thi dàn trận,

bắn cung, võ nghệ, đua ngựa, đua thuyền, dàn quân, chiến thuật. Kỳ khảo khóa chú trọng

đánh giá 2 nội dung là thành tích công việc đã đạt được và được lòng dân nơi cai quản hay

không; nghĩa là đánh giá toàn diện về cả trình độ, kiến thức, kỹ năng của quan lại để xử lý

công việc được giao và tư cách, phẩm chất đạo đức khi làm quan. Lệ khảo thí, khảo khóa

121

ban hành kèm theo việc quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân thực hiện

kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại và việc xử lý, sử dụng kết quả đánh giá quan lại trong

việc thực hiện các chính sách khác đối với quan lại. Từ những nội dung trên, Luận văn đưa

ra những đánh giá khách quan về việc thực hiện lệ khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê

Thánh Tông, có sự đối chiếu với những triều đại khác trong lịch sử phong kiến để thấy

được sự hoàn thiện của chính sách được ban hành dưới triều Lê Thánh Tông.

3. Luận văn đã phân tích, đánh giá việc kiểm tra, đánh giá đội ngũ quan lại dưới triều

Lê Thánh Tông trong mối liên hệ chặt chẽ với việc đánh giá cán bộ, công chức ngày nay.

Trên cơ sở tìm hiểu về cán bộ, công chức và việc đánh giá cán bộ, công chức ở Việt Nam

hiện nay qua tư tưởng của Đảng cùng pháp luật của Nhà nước, Luận văn đánh giá khách

quan thực trạng của việc đánh giá cán bộ, công chức đang được thực hiện. Từ những kết

quả đạt được và hạn chế còn tồn tại trong công tác đánh giá cán bộ, công chức, Luận văn

gợi mở những bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo đúc rút từ lệ khảo thí, khảo khóa

dưới thời vua Lê Thánh Tông làm cơ sở khoa học cho việc đánh giá cán bộ, công chức hiện

nay ở Việt Nam; định hướng cho việc tiếp thu, kế thừa giá trị lịch sử hành chính một cách

có chọn lọc và khách quan nhất. Để những bài học, những giá trị tham khảo ấy phục vụ cho

nhiệm vụ đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức; có thể ứng dụng vào thực tiễn góp phần nâng

cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay; Luận văn cũng đưa ra những kiến nghị

đối với các cơ quan, tổ chức thực hiện đánh giá; các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức và cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước.

122

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

STT Tên công trình nghiên cứu Tạp chí đăng tải

Khảo thí, khảo khóa dưới thời vua Lê Thánh Tông và Tạp chí Khoa học thời đại

1 bài học kinh nghiệm cho đánh giá cán bộ, công chức Bình Phước số 47, 2019, tr50-

ở Việt Nam hiện nay 53.

123

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu trong nước

1. Phạm Đức Anh (2014), Biến đổi của Mô hình tổ chức nhà nước ở Việt Nam (thế kỷ

X – XIX), Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia – Trường Đại học Khoa học Xã hội

& Nhân văn;

2. Dương Duy Bằng (2009), “Mấy đặc điểm của quan chế Trung Quốc thời phong

kiến”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (số 5), tr53-64;

3. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập I, Nxb Sử học, Hà Nội;

4. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập, II, Nxb Sử học, Hà

Nội;

5. Đại Việt sử ký toàn thư (1998), tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;

6. Đại Việt sử ký toàn thư (1998), tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,

Nxb Sự thật, Hà Nội;

8. Lê Quý Đôn (1978), Đại Việt thông sử, Bản dịch của Viện Sử học trong Lê Quý Đôn

toàn tập, tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;

9. Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn phối hợp với Trường Đại học Sư phạm, Viện

sử học, Viện Triết học, Viên Nghiên cứu nhà nước và pháp luật (1997), Lê Thánh Tông,

con người và sự nghiệp, Hội thảo Khoa học, Nxb Tư pháp;

10. Nguyễn Thị Thu Hòa (2018), Chế độ quan lại triều Lê sơ (1428 – 1527) và những

giá trị tham khảo cho cải cách chế độ công vụ, công chức ở Viêt Nam hiện nay, Luận án

Tiễn sĩ Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội;

11. Nguyễn Thị Thu Hòa (2015), “Khảo thí, khảo khóa thời Lê và việc thực hiện đánh

giá năng lực, đạo đức cán bộ, công chức ngày nay”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, (số 236),

tr21-25;

12. Nguyễn Thị Thu Hòa (2010), Những bài học quản lý hành chính nhà nước Việt Nam

trong lịch sử, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp khoa, Khoa Hành chính học – Học viện Hành

chính;

13. Phạm Văn Hảo (2008), Sổ tay từ ngữ lịch sử - Quan chế, Nxb Khoa học xã hội;

124

14.

Thái Hoàng, Bùi Quý Lộ (1995), “Thanh tra, giám sát và khảo xét quan lại thời

phong kiến ở nước ta”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (số 6), tr26-31;

15. https://www.facebook.com/TimHieuVeChienTranhVietNamVietNamWar/posts/12

97279893676260/. Truy cập ngày 06/02/2020;

16. http://tcnn.vn/news/detail/38987/Tuyen_dung_su_dung_quan_lai_thoi_phong_kie

n_Viet_Nam_va_mot_so_goi_moall.html. Truy cập ngày 08/02/2020;

17. TS. Nguyễn Thị Việt Hương (2008), “Kinh nghiệm xây dựng và sử dụng đội ngũ

quan lại trong nền hành chính Việt Nam thời kỳ phong kiến”, Tạp chí Nhà nước và Pháp

luật, (số 11), tr19-27;

18. Bùi Huy Khiên (2011), Những bài học từ hai cuộc cải cách hành chính dưới triều

Vua Lê Thánh Tông và Vua Minh Mệnh, NXB Lao động, Hà Nội;

19. Bùi Huy Khiên (2015), “Từ lệ khảo khóa quan lại dưới triều vua Lê Thánh Tông suy

nghĩ về công tác đánh giá cán bộ công chức”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (số 5), tr37-40;

20. Bùi Huy Khiên (2004), “Tuyển chọn, kiểm tra, giám sát công chức dưới triều Lê

Thánh Tông”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 3), tr11-17;

Lê Triều quan chế, (1977), Viện sử học và Nhà xuất bản văn hóa thông tin; 21.

Phan Ngọc Liên (2007), Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nxb Đại học Quốc 22.

gia, Hà Nội;

23. Bùi Quý Lộ (1995), “Phép khảo khóa của nhà nước phong kiến Đại Việt”, Tạp chí

Nghiên cứu lịch sử, (số 12), tr12-17;

24. Nguyễn Thanh Lương (2008), “Từ cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông suy

nghĩ về cải cách hành chính nước ta hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (số 5), tr46-50;

25. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành

Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các

cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.

26. Đặng Kim Ngọc (1997), Chế độ đào tạo và tuyển dụng quan chức thời Lê (1428 –

1527), Luận án PGS khoa học lịch sử, L6341 Thư viện Quốc gia, Hà Nội;

27. Nguyễn Quang Ngọc (2006), Tiến trình Lịch sử Việt Nam (Chương IV: Việt Nam

thế kỷ XV), Nxb Giáo dục, Hà Nội;

125

28. Nguyễn Ngọc Nhuận (2006), Một số văn bản điển chế và pháp luật Việt Nam, tập 1

(từ TK XV đến XVIII), Nxb KHXH, Hà Nội;

29. Hoàng Phê (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng;

30. Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn (2011), Lịch sử Việt Nam – từ nguồn gốc đến

năm 1884, NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh;

31. Hoàng Thị Kim Quế (2013), Quan chế dưới triều vua Lê Thánh Tông và giá trị kế

thừa trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học

ĐHQGHN, Tập 29, số 2, tr28-34;

32. Lê Minh Quốc (2010), Những nhà cải cách Việt Nam, NXB Trẻ, Hà Nội;

33. Quốc triều hình luật (1991), Nxb Pháp lý, Hà Nội;

34. Quy định số 89-QĐ/TW ngày 04 tháng 8 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng về Khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo,

quản lý các cấp;

35. Quy định số 90-QĐ/TW ngày 04 tháng 8 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng về Tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung

ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý;

36. Trương Hữu Quýnh (2009), Chế độ ruộng đất và một số vấn đề lịch sử Việt Nam,

Nxb Thế giới, Hà Nội;

37. Văn Tạo (2000), Mười cuộc cải cách đổi mới trong lịch sử Việt Nam, NXB Khoa

học Xã hội, Hà Nội;

38. Văn Tạo (2008), Sử học với hiện thực xã hội và cải cách đổi mới, NXB Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

39. Lê Đức Tiết (1997), Lê Thánh Tông – vị vua anh minh nhà các tân xuất sắc, NXB

Quân đội nhân dân, Hà Nội;

40. Nguyễn Phú Trọng – Trần Xuân Sầm (2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao

chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội;

41. Võ Văn Tuyển, Nguyễn Thị Thu Hòa (2014), Tổng quan về lịch sử hành chính nhà

nước Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội;

42. Từ điển bách khoa Việt Nam tập 2 (2002), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội;

126

43. Nguyễn Hoài Văn (2013), “Kinh nghiệm sử dụng người tài, xây dựng đội ngũ quan

lại thời Lê Thánh Tông”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (số 5), tr mấy;

44. Nguyễn Hoài Văn (2012), Chính sách đào tạo sử dụng quan lại thời Lê Thánh Tông

và công tác cán bộ hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội;

45. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa – thông tin.

Tài liệu nước ngoài

46. 祝丰年 (2007), 宋代官吏制度(Chế độ quan lại đời nhà Tống),北京: 中国社会

Các văn bản quy phạm pháp luật

47. Luật Cán bộ, công chức (2008) – Luật số 22/2008/QH12 ngày 13 tháng 11 năm 2008

do Quốc hội ban hành;

48. Pháp lệnh Cán bộ, Công chức (1998) – Pháp lệnh số 2-L/CTN của Ủy ban Thường

vụ Quốc hội;

49. Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 (2003);

50. Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính Phủ về đánh giá

và phân loại cán bộ, công chức, viên chức;

51. Nghị định số 88/2017/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2017 của Chính Phủ về sửa đổi,

bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của chính

phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức;

52. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức

(2019) – Luật số 52/2019/QH14 ngày 25 tháng 11 năm 2019 do Quốc hội ban bành;

1

PHỤ LỤC 1

MẪU PHIẾU KHẢO SÁT VỀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ VIỆC

THỰC HIỆN LỆ KHẢO THÍ, KHẢO KHÓA THỜI LÊ THÁNH TÔNG

Để trả lời câu hỏi, đề nghị Anh/Chị vui lòng đánh dấu  vào ô  tương ứng với câu

trả lời mà ông bà cho là đúng nhất.

I. Thực trạng việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay

Câu 1: Cơ quan Anh/Chị đã và đang công tác?

B – Cơ quan địa phương cấp tỉnh A – Cơ quan Trung ương 

C – Cơ quan địa phương cấp huyện  D – Cơ quan cấp xã 

Câu 2: Ngạch Anh/Chị đã và đang đảm nhiệm?

A – Chuyên viên cao cấp  C – Chuyên viên 

B – Chuyên viên chính  D – Cán sự/ Nhân viên 

Câu 3: Theo Anh/Chị, việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay:

A – Rất công bằng, khách quan 

B – Chỉ mang tính hình thức 

Câu 4: Theo Anh/Chị, các tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức hiện nay:

A – Phù hợp với năng lực và điều kiện làm việc thực tế của cán bộ công chức, dễ dàng tìm

được người thực tài 

B – Không phù hợp, chưa sát với năng lực và thực tế công việc 

Câu 5: Theo Anh/Chị, mục đích việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức hiện nay:

A – Rõ ràng, đảm bảo thực hiện đem lại hiệu quả 

B – Chưa thực sự rõ ràng, việc đánh giá còn mang tình hình thức nhiều 

Câu 6: Theo Anh/Chị, việc bố trí công việc đã phù hợp với chuyên môn, năng lực thực

tế của cán bộ, công chức hiện nay chưa?

A – Phù hợp 

B – Chưa phù hợp 

2

Câu 7: Theo Anh/Chị, tinh thần và trách nhiệm làm việc của cán bộ, công chức trong

các cơ quan nhà nước hiện nay:

A – Có tinh thần trách nhiệm cao 

B – Hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm công vụ là phổ biến 

C – Quan liêu, cửa quyền 

Câu 8: Cơ quan Anh/Chị có thường xuyên tổ chức đánh giá đạo đức công vụ định kì

đối với cán bộ, công chức không?

A – Thường xuyên 

B – Không thường xuyên 

Câu 9: Cơ quan Anh/Chị có thường xuyên tổ chức các kỳ thi sát hạch năng lực chuyên

môn đối với cán bộ, công chức không?

A – Thường xuyên 

B – Không thường xuyên 

II. Những giá trị của lệ khảo thí, khảo khóa thời Lê sơ đối với việc đánh giá

cán bộ, công chức hiện nay

Câu 10: Theo lệ khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông, định kì 3 năm, 6 năm, 9 năm

đều thực hiện kiểm tra, đánh giá trình độ, năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ

công chức. Theo Anh/Chị có nên thực hiện đánh giá cán bộ công chức hiện nay theo

định kì như vậy không?

A – Có 

B – Không 

Câu 11: Tiêu chí khảo khóa thời Lê Thánh Tông đối với quan lại là đánh giá tinh thần

trách nhiệm, sự mẫn cán của quan lại căn cứ vào kết quả “chăm sóc” dân chúng của

các vị quan đó. Nơi quan lại trị nhậm mà làng xóm trù phú, thuần phong mỹ tục được

duy trì, nạn trộm cắp không hoành hành, nhân dân được hưởng cuộc sống yên vui, an

lạc… thì vị quan đó được đánh giá là thanh liêm, mẫn cán, hết lòng vì dân, có tinh

thần trách nhiệm cao. Theo Anh/Chị, những tiêu chí khảo khóa đó có cần thiết để thực

hiện đối với việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay không?

A – Cần thiết 

B – Không cần thiết 

3

Câu 12: Các kỳ khảo thí (thi kiểm tra trình độ năng lực) được nhà Lê sơ tổ chức

thường xuyên 3 năm một lần dành cho đội ngũ quan lại trong triều đình và địa

phương. Theo Anh/Chị, việc thường xuyên tổ chức các kỳ kiểm tra trình độ năng lực

có cần thiết đối với cán bộ, công chức hiện nay không?

A – Cần thiết 

B – Không cần thiết 

Câu 13: Thời Lê Thánh Tông dựa vào kết quả của các kỳ khảo thí, khảo khóa

để xác định, thực hiện việc thăng, giáng và thưởng phạt đối với đội ngũ quan lại trong

triều. Theo Anh/Chị, kết quả đánh giá cán bộ, công chức hiện nay có cần được sử

dụng làm cơ sở để thực hiện các chế độ sử dụng cán bộ, công chức khác hay không?

A – Rất cần thiết, phải sử dụng kết quả đánh giá cán bộ, công chức làm cơ sở cho

việc thăng giáng và thưởng phạt cán bộ công chức mới đem lại công bằng, hiệu quả 

B – Không cần thiết 

Câu 14: Theo Anh/Chị, những bài học lịch sử mà cha ông ta để lại về cách đánh

giá, kiểm tra năng lực và trình độ đội ngũ quan lại có giá trị với công việc hiện tại của

mình không?

A – Có giá trị 

B – Ít giá trị 

C – Không có giá trị 

Câu 15: Các ý kiến khác của Anh/Chị về những bài học kinh nghiệm từ lệ khảo

thí, khảo khóa đối với quan lại dưới triều Lê sơ đối với việc đánh giá, xem xét đội ngũ

cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay:

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………

Xin chân thành cảm ơn Anh/Chị đã tham gia khảo sát!

4

PHỤ LỤC 2

Kết quả tổng hợp phiếu khảo sát

Tổng số phiếu phát ra: 400 phiếu

Tổng số phiếu thu về: 387 phiếu

Tổng số phiếu hợp lệ: 382 phiếu

Tổng

Tỷ lệ

STT Nội dung

số

(%)

Cơ quan Anh/Chị đã và đang công tác?

Cơ quan trung ương

A

97

25.06

Cơ quan địa phương cấp tỉnh

B

89

1

23.00

Cơ quan địa phương cấp huyện

C

132

34.10

Cơ quan cấp xã

D

64

17.84

Ngạch Anh/Chị đã và đang đảm nhiệm?

Chuyên viên cao cấp

A

45

11.78

Chuyên viên chính

B

76

2

19.90

Chuyên viên

C

210

54.97

Cán sự/ Nhân viên

D

51

13.35

Theo Anh/Chị, việc đánh giá cán bộ, công chức hiện nay:

A

143

Rất công bằng, khách quan

37.43

3

B

239

Chỉ mang tính hình thức

62.57

Theo Anh/Chị, các tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức hiện nay:

Phù hợp với năng lực và điều kiện làm việc thực tế

A

của cán bộ công chức, dễ dàng tìm được người thực

161

42.15

4

tài

Không phù hợp, chưa sát với năng lực và thực tế

221

B

57.85

công việc

5

Theo Anh/Chị, mục đích việc thực hiện đánh giá cán bộ, công chức hiện nay:

A

Rõ ràng, đảm bảo thực hiện đem lại hiệu quả

103

26.96

5

Chưa thực sự rõ ràng, việc đánh giá còn mang tình

B

284

73.35

hình thức nhiều

Theo Anh/Chị, việc bố trí công việc đã phù hợp với chuyên môn, năng lực

thực tế của cán bộ, công chức hiện nay chưa?

6

A

Phù hợp

184

48.17

B

Chưa phù hợp

198

51.83

Theo Anh/Chị, tinh thần và trách nhiệm làm việc của cán bộ, công chức

trong các cơ quan nhà nước hiện nay:

A

Có tinh thần trách nhiệm cao

84

21.99

7

B

Hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm công vụ là phổ biến

211

55.24

C

Quan liêu, cửa quyền

87

22.77

Cơ quan Anh/Chị có thường xuyên tổ chức đánh giá đạo đức công vụ định kì

đối với cán bộ, công chức không?

8

A

Thường xuyên

290

75.92

B

Không thường xuyên

92

24.08

Cơ quan Anh/Chị có thường xuyên tổ chức các kỳ thi sát hạch năng lực

chuyên môn đối với cán bộ, công chức không?

9

A

Thường xuyên

134

34.08

B

Không thường xuyên

248

65.92

Theo lệ khảo khóa dưới thời Lê Thánh Tông, định kì 3 năm, 6 năm, 9 năm

đều thực hiện kiểm tra, đánh giá trình độ, năng lực và phẩm chất của đội ngũ

cán bộ công chức. Theo Anh/Chị có nên thực hiện đánh giá cán bộ công

10

chức hiện nay theo định kì như vậy không?

290

A

75.92

92

B

Không

24.08

6

Tiêu chí khảo khóa thời Lê Thánh Tông đối với quan lại là đánh giá tinh thần

trách nhiệm, sự mẫn cán của quan lại căn cứ vào kết quả “chăm sóc” dân

chúng của các vị quan đó. Nơi quan lại trị nhậm mà làng xóm trù phú, thuần

phong mỹ tục được duy trì, nạn trộm cắp không hoành hành, nhân dân được

hưởng cuộc sống yên vui, an lạc… thì vị quan đó được đánh giá là thanh

11

liêm, mẫn cán, hết lòng vì dân, có tinh thần trách nhiệm cao. Theo Anh/Chị,

những tiêu chí khảo khóa đó có cần thiết để thực hiện đối với việc đánh giá

cán bộ, công chức hiện nay không?

269

A

Cần thiết

70.42

Không cần thiết

113

B

29.58

Các kỳ khảo thí (thi kiểm tra trình độ năng lực) được nhà Lê sơ tổ chức

thường xuyên 3 năm một lần dành cho đội ngũ quan lại trong triều đình và

địa phương. Theo Anh/Chị, việc thường xuyên tổ chức các kỳ kiểm tra trình

12

độ năng lực có cần thiết đối với cán bộ, công chức hiện nay không?

283

A

Cần thiết

74.08

Không cần thiết

99

B

25.92

Thời Lê Thánh Tông dựa vào kết quả của các kỳ khảo thí, khảo khóa để xác

định, thực hiện việc thăng, giáng và thưởng phạt đối với đội ngũ quan lại

trong triều. Theo Anh/Chị, kết quả đánh giá cán bộ, công chức hiện nay có

cần được sử dụng làm cơ sở để thực hiện các chế độ sử dụng cán bộ, công

chức khác hay không?

13

Rất cần thiết, phải sử dụng kết quả đánh giá cán bộ,

công chức làm cơ sở cho việc thăng giáng và thưởng

310

A

81.15

phạt cán bộ công chức mới đem lại công bằng, hiệu

quả

B

Không cần thiết

72

18.85

7

Theo Anh/Chị, những bài học lịch sử mà cha ông ta để lại về cách đánh giá,

kiểm tra năng lực và trình độ đội ngũ quan lại có giá trị với công việc hiện

tại của mình không?

14

A

Có giá trị

258

67.54

B

Ít giá trị

75

19.63

C

Không có giá trị

49

12.83

Các ý kiến khác của Anh/Chị về những bài học kinh

nghiệm từ lệ khảo thí, khảo khóa đối với quan lại dưới

0

0

15

triều Lê sơ đối với việc đánh giá, xem xét đội ngũ cán bộ,

công chức ở Việt Nam hiện nay:

8

PHỤ LỤC 3

THỐNG KÊ TỔNG SỐ BIÊN CHẾ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC THEO CÁC ĐƠN VỊ

THỰC HIỆN KHẢO SÁT

Đơn vị tính: người

STT Cơ quan/ Tỉnh, Thành phố Tổng số cán bộ, công chức

1 Bộ Khoa học và Công nghệ 455

2 Bộ Nội vụ 429

3 Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thông 518

4 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 502

5 Tỉnh Bắc Giang 7.018

6 Tỉnh Hòa Bình 6.469

7 Tỉnh Lạng Sơn 6.519

8 Tỉnh Thái Nguyên 6.807

9 Văn phòng Chính phủ 670

Tổng số: 29.387