BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH _________________________ ĐINH ĐỨC DUY

VẤN ĐỀ CAMPUCHIA TRONG QUAN HỆ THÁI LAN VIỆT NAM 1979-1991

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ PHỤNG HOÀNG Thành Phố Hồ Chí Minh - 2009

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả luận văn xin cam đoan với Hội đồng khoa học cùng đọc giả, đây là

công trình nghiên cứu của bản thân. Các chứng cứ và số liệu làm cơ sở được trình

bày trong luận văn là do chính bản thân sưu tầm, sắp xếp, đánh giá mang tính trung

thực và chưa được công bố đầy đủ như thế trong bất cứ công trình nghiên cứu nào

khác.

Các nội dung trích dẫn trong luận văn đều có nguồn gốc cụ thể, mang tính

khoa học. Các tài liệu tham khảo để hoàn thành luận văn đều được vinh diện trong

công trình này.

Với danh dự của người nghiên cứu, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước

sự cam đoan của mình.

Tác giả luận văn

ĐINH ĐỨC DUY

LỜI CẢM ƠN

Để có thể hoàn thành được luận văn với đề tài Vấn đề Campuchia trong

quan hệ Thái Lan - Việt Nam (1979 – 1991), tôi chân thành cám ơn TS. Lê Phụng

Hoàng đã trực tiếp hướng dẫn nhiệt tình để tôi hoàn thành luận văn này. Cám ơn

PGS. TS Ngô Minh Oanh và các giảng viên đã truyền thụ kiến thức và có những gợi

ý quý báu cho tôi trong cả quá trình học tập.

Cám ơn sự giúp đỡ nhiệt thành của Thượng tá Nguyễn Đình Khán, cám ơn

đơn vị công tác Trường THPT Bình Phú và gia đình đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi

hoàn thành nhiệm vụ của mình.

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN : Hiệp hội các nước Đông Nam Á

(Association of Southeast Asian Nations)

CGDK : Chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ.

(Coalition Government of Democratic Kampuchea).

IMC : Cuộc gặp gỡ không chính thức về Campuchia.

(Informal Meeting on Cambodia)

JIM : Cuộc gặp gỡ không chính thức ở Jakarta.

(Jakarta Informal Meeting)

PICC : Hội nghị quốc tế Paris giải quyết vấn đề Campuchia.

(Paris International Conference on Cambodia).

SNC : Hội đồng dân tộc tối cao Campuchia.

(Supereme National Council)

UNHCR: Cao ủy Liên Hợp Quốc về vấn đề người tị nạn.

(United Nations High Commissioner for Refugees).

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam là nước láng giềng của Thái Lan, hai nước cùng nằm trong khu vực

Đông Nam Á thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, đều chịu ảnh hưởng lớn của

Phật giáo đồng thời có một nền văn minh nông nghiệp lâu đời và rất phong phú.

Lịch sử của mối quan hệ lâu đời giữa hai nước Thái Lan – Việt Nam đã chứng

kiến rất nhiều giai đoạn thăng trầm, phức tạp và chịu sự chi phối của nhiều nhân tố.

Hai nước đã từng xảy ra xung đột với nhau, vào thế kỉ XVIII Thái Lan từng đem

quân xâm lược Việt Nam và thất bại dưới tay Nguyễn Huệ. Trong giai đoạn nửa

cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, do tranh giành phạm vi ảnh hưởng trong

khu vực, cụ thể là ở Cao Miên và Ai Lao dẫn đến mối quan hệ hai nước nhiều lúc

trở nên rất căng thẳng và thậm chí nhiều lần xung đột với nhau.

Lịch sử đã minh chứng, trong mối quan hệ giữa Thái Lan – Việt Nam có nhiều

vấn đề mâu thuẫn và sự hiểu lầm gây ảnh hưởng xấu không chỉ đến quan hệ giữa

hai nước mà còn ảnh hưởng đến cả khu vực. Trong những năm 60 và 70 của thế kỉ

XX, Thái Lan trở thành đồng minh thân cận của Mĩ trong cuộc chiến tại Việt Nam,

không chỉ cho Mĩ xây dựng các căn cứ quân sự trên lãnh thổ mình, Thái Lan còn

trực tiếp đưa quân sang tham chiến ở Việt Nam. Giai đoạn 1979 - 1991 mối quan hệ

Thái Lan – Việt Nam trở nên rất căng thẳng xung quanh vấn đề Campuchia. Chính

vấn đề này dẫn đến những mâu thuan, hiểu lầm, ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ hai

nước, tác động không tốt đến sự phát triển của hai nước nói riêng cũng như sự ổn

định và phát triển của cả khu vực Đông Nam Á nói chung.

Lịch sử luôn tôn trọng hiện thực khách quan, tuy không phải hiện thực khách

quan nào cũng phải nói, nhưng khi đã nói cần phải nói đúng hiện thực khách quan.

Nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu quá khứ để hiểu thực tại và có cái nhìn viễn minh

cho tương lai. Do vậy, chúng tôi cố gắng tái hiện lại lịch sử sao cho tiệm cận với

hiện thực khách quan để công trình nghiên cứu có giá trị cho thực tiễn.

Hiện nay, hai nước Thái Lan và Việt Nam là thành viên của tổ chức ASEAN

cùng nhau hợp tác để thúc đẩy đất nước phát triển, xây dựng một Đông Nam Á hòa

bình, ổn định và thịnh vượng. Nghiên cứu mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam xung

quanh vấn đề Campuchia sẽ giúp chúng ta rút ra được nhiều bài học bổ ích, tránh

những yeu tố tiêu cực và sai lầm. Phát huy hơn nữa những yếu tố tích cực nhằm thắt

chặt tình đoàn kết hữu nghị giữa hai nước trong xu thế phát triển chung của khu vực

và thế giới. Vì lợi ích của hai dân tộc, vì ổn định và phát triển trong khu vực. Đặc

biệt, trong hoàn cảnh thế giới và khu vực đang có xu thế hội nhập ngày càng diễn ra

mạnh mẽ, trong đó khối ASEAN đang có những bước tiến nhằm tiến tới hội nhập

sâu rộng hơn.

Riêng bản thân tôi nhận thấy, đây là một nội dung thú vị mà tôi rất quan tâm. Để

có một đất nước Campuchia hòa bình, ổn định và phát triển như ngày nay có sự

đóng góp không ít xương máu của người thân tôi nói riêng và các chiến sĩ Việt Nam

nói chung.

Qua nghiên cứu đề tài này, giúp tôi hiểu biết thêm về vấn đề Campuchia, về đất

nước, văn hoá, con người và lịch sử của Thái Lan và mối quan hệ đầy thăng trầm

của Việt Nam với người láng giềng Thái Lan. Đặc biệt giúp tôi hiểu biết thêm

những vấn đề phức tạp trong các mối quan hệ quốc tế. Qua đó giúp cho quá trình

học tập, nghiên cứu và giảng dạy của tôi đạt kết quả tốt hơn.

2. Lịch sử vấn đề

Luận văn cao học Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai

đoạn 1979 – 1991 được nghiên cứu và viết dựa trên cơ sở chính là các tài liệu gốc

của cả hai phía Thái Lan và Việt Nam.

Các tài liệu gốc phía Việt Nam phản ánh đầy đủ quan điểm, lập trường của Việt

Nam về vấn đề Campuchia cũng như đối với Thái Lan được thể hiện qua các thông

cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước Việt Nam, Lào và

Campuchia họp luân phiên hàng năm bắt đầu từ tháng 1/1980 – 8/1986 được đăng

tải đầy đủ trên Báo Nhân dân. Các thông cáo chung đã thể hiện khá rõ lập trường

của Việt Nam về vấn đề Campuchia liên quan đến quan hệ Việt Nam và Thái Lan

như vấn đề người tị nạn, đòi Thái Lan chấm dứt hợp tác với Trung Quốc trong việc

tiếp tay cho Khmer đỏ, xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan, kêu gọi Thái

Lan chấm dứt hành động dung túng cho thế lực Khmer đỏ và việc tìm giải pháp cho

vấn đề Campuchia.

Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam cũng được đề cập một

phần trong các công trình nghiên cứu của một số tác giả khi nghiên cứu các công

trình khoa học nhưng có ít nhiều liên quan đến vấn đề này. Có thể kể đến, Nguyễn

Tương Lai (2001) với Quan hệ Việt Nam – Thái Lan trong những năm 90, NXB

Khoa học Xã hội – Hà Nội, tác giả đứng trên lập trường của Việt Nam có đề cập

đến vấn đề Campuchia gây tác động không tốt đến quan hệ Việt Nam – Thái Lan

nhưng để hiểu sự tác động do những yếu tố cụ thể nào cần phải nghiên cứu thêm để

làm rõ; Trịnh Diêu Thìn – Thanyathit Sripana (2006) với Việt kiều Thái Lan trong

mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam NXB Khoa học Xã hội – Hà Nội cũng có đề cập

đến vấn đề Campuchia gây ảnh hưởng không tốt đến chính sách của chính phủ Thái

Lan đối với Việt kiều tại Thái Lan, tuy nhiên đây chỉ là một trong những nhân tố

ảnh hưởng xấu đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam, còn rất nhiều nhân tố khác liên

quan cần phải nghiên cứu. Trong luận văn thạc sĩ đề tài Quan hệ Campuchia – Việt

Nam từ 1985 đến 2006 của Nguyễn Quang Thuần (2007) đứng trên lập trường của

Việt Nam tác giả có đề cập đến vấn đề Campuchia với lập luận không có vấn đề

Campuchia nên chưa thấy được bản chất phức tạp của vấn đề này. Luận án tiến sĩ

Quan hệ Việt Nam – Thái Lan (1976 - 2004) của tác giả người Thái Lan Thananan

Boonwana, đứng trên lập trường của Thái Lan, tác giả có dành một phần nội dung

nói đến vấn đề này. Trong đó tác giả xem việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia

là vấn đề chính ảnh hưởng đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam. Thực tế cần phải

nghiên cứu trên nhiều mặt có cái nhìn đa diện mới hiểu hết tính chất phức tạp của

vấn đề Campuchia cũng như sự tác động cụ thể đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam.

TS. Lê Phụng Hoàng với Lịch sử quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á từ sau chiến tranh

thế giới thứ hai đến cuối chiến tranh lạnh, tác giả dành trọn chương X để nói về vấn

đề Campuchia trong đó có đề cập đến lập trường, quan điểm của Thái Lan và Việt

Nam xung quanh vấn đề này. Tuy nhiên để làm rõ tác động của vấn đề Campuchia

đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam cần phải nghiên cứu chuyên sâu để làm rõ thêm

nhiều vấn đề liên quan đến mối quan hệ hai nước. Bên cạnh đó còn có một số công

trình khác có đề cập một phần đến vấn đề này như Clack D. Neher and Politic in

Southeast Asia, Rochester; Frederic A Moritz and The refugee people of VietNam,

Chiritian Science Monitor…

Ngoài ra các thông tin về vấn đề Campuchia trong đó thỉnh thoảng có đề cập đến

tác động của vấn đề này trong quan hệ Thái Lan - Việt Nam có thể tìm thấy qua báo

chí và các phương tiện thông tin như: Bưu điện Bangkok (Bangkok Post), Đài BBC,

The Times, Reuter, Le Matin, Le Figaro, Christian Science Monitor, NewsYork

Times, Newsweek, USIS, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, Báo

Nhân dân và các bản dịch của TTXVN trong các tập tài liệu Tham khảo Đặc biệt.

Phần tài liệu gốc phía Thái Lan có thể kể đến Association of Southeast, Joint

Press Release of The first Asean, Ministerial Meeting, Bangkok, 8 August 1967;

Joint Communique of The Second Asean, Ministerial Meeting Jakarta, 6 – 7 August

1968; Joint Communique of The Third Asean, Ministerial Meeting Cameron

Highlands, 16 – 17 December 1969; Joint Communique of The Fourth Asean,

Ministerial Meeting Manila, 12 – 13 March 1971; Joint Communique of The Fifth

Asean, Ministerial Meeting Singapore, 13 – 14 March 1972; Joint Communique of

The Sixth Asean, Ministerial Meeting Pattaya, 16 – 18 April 1973; Joint

Communique of The Seventh Asean, Ministerial Meeting Jakarta, 7 – 9 May 1974;

Joint Communique of The Eighth Asean, Ministerial Meeting Kuala Lumpur, 13 –

15 March 1975; Joint Communique of The Ninth Asean, Ministerial Meeting

Manila, 24 – 26 June 1976; Joint Communique of The Tenth Asean, Ministerial

Meeting Singapore, 5 – 8 July 1977; Joint Press Release of The Eleventh Asean,

Ministerial Meeting Pattaya, 14 – 16 June 1978; Joint Communique of The Twelfth

Asean, Ministerial Meeting Bali, 28 – 30 June 1979; Joint Communique of The

Thirteenth Asean, Ministerial Meeting Kuala Lumpur, 25 – 26 June 1980; Joint

Communique of The Fourteenth Asean, Ministerial Meeting Manila, 17 – 18 June

1981; Joint Communique of The Fifteenrth Asean, Ministerial Meeting Singapore,

14 – 16 June 1982; Joint Communique of The Sixteeth Asean, Ministerial Meeting

Bangkok, 24 – 25 June 1983; Joint Communique of The Seventeenrth Asean,

Ministerial Meeting Jakarta, 9 – 10 July 1984; Joint Communique of The Eiteenrth

Asean, Ministerial Meeting Kuala Lumpur, 9 July 1985; Joint Communique of The

Ninteenrth Asean, Ministerial Meeting Manila, 23 –28 June 1986; Joint

Communique of The Twentienth Asean, Ministerial Meeting Singapore, 15 – 16

June 1987; Joint Communique of The 21st Asean, Ministerial Meeting Bangkok, 4 –

5 July 1988; Joint Communique of The 22nd Asean, Ministerial Meeting Bandar

Seri Begawan, 3 – 4 July 1989; Joint Communique of The 23rd Asean, Ministerial

Meeting Jakarta, 24 – 25 July 1990; Joint Communique of The twenty-fourth Asean,

Ministerial Meeting kuala Lumpur, 19 – 20 July 1991: http://www.aseansec.org.

Đây là các thông cáo chung của Hội nghị cấp Bộ trưởng các nước ASEAN họp luân

phiên diễn ra hàng năm từ 1967 đến 1991 và được xem là loại tài liệu gốc bằng

tiếng Anh hết sức quý giá cho quá trình nghiên cứu. Trong đó có những thông cáo

chung từ năm 1979 – 1991 thể hiện rõ quan điểm, lập trường của Thái Lan nói

riêng, các nước ASEAN nói chung về vấn đề Campuchia cũng như đối với Việt

Nam xung quanh vấn đề này. Các thông cáo cũng đề cập đến những nội dung cụ thể

xung quanh vấn đề Campuchia có tác động đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam như:

Vấn đề người tị nạn, xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan, Thái Lan lên án

Việt Nam xâm phạm lãnh thổ Thái Lan, đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và

tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia.

Do đó việc tập hợp, đánh giá để hiểu vấn đề là nhiệm vụ cần thiết của người

nghiên cứu. Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả cố gắng sưu tầm tất cả những tài liệu

liên quan trong phạm vi có thể rồi sắp xếp, nghiên cứu nhằm làm rõ hơn vấn đề

Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai đoạn 1979 – 1991 đồng thời

cũng mong có thể rút ra được những giá trị khoa học phục vụ cho thực tiễn.

3. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm kiểm chứng khả năng học tập và nghiên

cưu của chính tác giả, đây cũng là bài thu hoạch bổ ích kết thúc chương trình đào

tạo sau đại học. Thông qua đây, bản thân tác giả muốn phát huy khả năng nghiên

cứu, tìm tòi và sáng tạo trong nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của mình, thể hiện

việc học và hành gắn liền với nhau. Qua đó giúp tác giả biết thêm được nhiều kiếm

thức bổ ích cho bản thân để phục vụ tốt hơn cho công tác giảng dạy của mình. Đề

tài cũng góp phần tìm hiểu và làm sáng tỏ thêm những nội dung liên quan đến vấn

đề Campuchia ảnh hưởng đến mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong giai đoạn

1979 – 1991 để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm giúp mối quan hệ Thái Lan

và Việt Nam ngày càng phát triển.

4. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính là tác động của vấn đề Campuchia đến mối quan

hệ Thái Lan – Việt Nam trong khoảng thời gian từ 1979 – 1991. Trong đó luận văn

cố gắng làm rõ được những vấn đề mấu chốt để làm nổi bật bản chất của những vấn

đề cần nghiên cứu.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở lấy những tài liệu gốc làm cơ sở chính để nghiên cứu và tham

khảo một số công trình khác của các nhà nghiên cứu có liên quan cũng như phỏng

vấn một số nhân chứng từng sống và chiến đấu tại Campuchia. Tác giả muốn

nghiên cứu một cách đa chiều, cố gắng đi sâu vào tìm hiểu bản chất của vấn đề

Campuchia và những tác động đến mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam từ 1979 -

1991.

6. Giới hạn đề tài

Để người đọc có cái nhìn sâu sắc hơn về quan hệ Thái Lan – Việt Nam, tác

giả dành Chương 1 để giới thiệu về quan hệ Thái Lan – Việt Nam từ 1967 – 1979

trong đó có giới thiệu khái quát về quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong lịch sử và

mối quan hệ Thái Lan –Việt Nam kể từ khi Thái Lan là thành viên của tổ chức

ASEAN (1967) cho đến khi diễn ra vấn đề Campuchia (1979).

Chương 2: Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai đoạn

1979 – 1986 và Chương 3: Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam

giai đoạn 1986 – 1991. Sở dĩ tác giả chọn mốc 1986 để kết thúc Chương 2 và mở

đầu cho Chương 3 bởi chính lúc này thái độ của Thái Lan đối với Việt Nam bắt đầu

thay đổi. Ngược lại, Việt Nam cũng bắt đầu thay đổi thái độ của mình đó là chấp

nhận một giải pháp chính trị cho việc giải quyết toàn diện cuộc xung đột tại

Campuchia. Mốc 1991 là lúc vấn đề Campuchia được giải quyết bằng biện pháp

chính trị với vai trò của Liên Hợp Quốc.

7. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở tài liệu gốc cùng các loại tài liệu

liên quan và các chứng cứ khoa học để tiếp cận đối tượng với mục đích tiệm cận với

hiện thực. Áp dụng phương pháp logic, phương pháp sử học so sánh, phương pháp

định lượng, phương pháp liên ngành, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp

nghiên cứu quan hệ quốc tế…Với các kĩ thuật cơ bản như tìm, đọc, phân loại,

nghiên cứu, đánh giá, phân tích và tổng hợp để từ đó rút ra những luận cứ khoa học

có giá trị cho thực tiễn và giáo dục. Việc nghiên cứu chắc hẳn không tránh khỏi

thiếu sót, mong quý thầy cô và các đọc giả đóng góp ý kiến để việc nghiên cứu các

đề tài lần sau đạt kết quả tốt hơn.

8. Bố cục của luận văn

Chương 1 : Khái quát quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai đoạn 1967 – 1979.

Chương 2 : Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai

đoạn 1979 – 1986.

Chương 3 : Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam

giai đoạn 1986 – 1991.

Chương 1

KHÁI QUÁT QUAN HỆ THÁI LAN – VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 1967 – 1979

1.1. Quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong lịch sử cho đến năm 1967

Để hiểu mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam được sâu sắc hơn chúng tôi xin

điểm qua một vài nét về mối quan hệ hai nước trong lịch sử để thấy được sự thăng

trầm và phức tạp trong quan hệ của hai nước láng giềng này. Thái Lan và Việt Nam

xét về yếu tố địa lý là rất gần gũi nhau, cả hai nước đều có những nét ảnh hưởng

chung của thời tiết, khí hậu và cũng chính từ đó tạo nên những yếu tố văn hoá rất

tương đồng. Hơn nữa xét về nguồn gốc, cư dân hai nước có mối quan hệ rất gần gũi

(nguồn gốc Mônggôlôít Phương Nam) trên lãnh thổ Việt Nam cũng có người Thái

sinh sống và ngược lại. Nói đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam là nói đến một

khoảng thời gian dài với biet bao sự kiện, biến cố thăng trầm trong mối quan hệ

này.

Quan hệ giữa hai nước Thái Lan (lúc đó gọi là Xiêm) – Việt Nam đã có từ rất

lâu đời, theo sách Đại Việt sử kí toàn thư, ở thế kỉ XI dưới thời nhà Lý đã có các

thuyền buôn người Thái đến Vân Đồn dâng phẩm vật để được buôn bán. Trãi qua

nhiều thế kỷ, lịch sử đã chứng kiến mối quan hệ hai nước xảy không ít biến cố.

Trong khoảng thời gian nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, quan hệ giữa

Thái Lan với các chúa Nguyễn ở Đàng trong không ít lần xảy ra xung đột và đụng

độ với nhau. Sau khi nền thống trị của chúa Nguyễn bị phong trào Tây Sơn lật đổ,

nhân cơ hội đó Thái Lan đem quân sang xâm lược Việt Nam nhưng đã bị Nguyễn

Huệ đánh bại trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút (1785). Sau khi Nguyễn Anh đánh

bại phong trào Tây Sơn và lập nên triều Nguyễn (1802) mối quan hệ hai nước Thái

– Việt nhìn chung là hòa hiếu nhưng đến cuối thời Minh Mạng và Thiệt Trị hai

nước Thái – Việt thường hay xảy ra xung đột với nhau. Trong những nguyên nhân

dẫn đến xung đột, rất nhiều lần xuất phát từ việc hai bên tranh giành ảnh hưởng với

nhau ở Cao Miên (Campuchia).

Nửa cuối thế kỷ XIX khi Việt Nam bị Pháp xâm lược và áp đặt ách đô hộ thì

mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam về mặt nhà nước xem như tạm thời gián đoạn,

nhưng mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam vẫn diễn ra với nhiều hình thức khác

nhau. Trong khi Thái Lan ra sức học hỏi phương Tây để canh tân đất nước và thực

hiện chính sách ngoại giao rất khôn khéo là lấy nước lớn kiềm chế nước lớn, ngả

theo chiều gió giúp Thái Lan trở thành nước duy nhất ở Đông Nam Á cơ bản vẫn

giữ vững được nền độc lập của mình. Ngược lại, Việt Nam phải ra sức chống lại ách

đô hộ của thực dân Pháp.

Năm 1910 Trại Cày ở Thái Lan chính thức đón nhận hơn 50 thanh niên Việt

Nam du học trong phong trào Đông du bị Nhật trục xuất trở về, ngoài ra còn tiếp

nhận thêm một số thanh niên là dân lao động từ Thượng Hải theo Phan Bội Châu

vào để gây dựng cơ sở. Hoạt động của Phan Bội Châu tại Thái Lan đã được Bộ

trưởng Quốc phòng Komphagia của Thái Lan giúp đỡ khi ông sống ở bản Đông

Phichit trong thung lũng Chaophonaya ở phía bắc Bangkok. Tuy nhiên, năm 1915

Thái Lan kí với Pháp bản cam kết trao trả cho Pháp một số chiến sĩ Việt Nam hoạt

động trong phong trào vận động yêu nước của Việt kiều tại Thái Lan trong đó có

Trần Hữu Lục, Hoàng Trọng Mậu mà sau đó đã bị Pháp giết hại. Phong trào hoạt

động yêu nước của Việt kiều Thái Lan với chi hội Việt Nam Quang phục hội làm

trung tâm rơi vào tình thế hết sức khó khăn tuy vẫn tồn tại nhưng tạm thời lắng

xuống.

Năm 1921 Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Phạm Hồng Thái cũng từ Thái Lan

sang Trung Quốc cùng những người của phong trào Duy Tân ở đây thành lập tổ

chức Tâm Tâm xã. Đến 1925 Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã phái người về

Thái Lan tổ chức hội Thân ái nhằm tập hợp kiều bào đoàn kết để giác ngộ cách

mạng. Từ 1926 trở đi, hội Thân ái lần lượt được tổ chức ở Udon là trung tâm của

cuộc vận động Việt Kiều ở Thái Lan, ngoài ra còn có Sakon, Nakhon Phanom. Mối

quan hệ Thái Lan – Việt Nam ở đầu thế kỉ XX còn được thể hiện thông qua những

hoạt động cách mạng của Nguyễn Ai Quốc ở Thái Lan được sự đồng tình ủng hộ

của người Việt Nam ở Thái Lan và một bộ phận nhân dân Thái Lan.

Thực tế trên đất Thái Lan những năm đầu của thế kỉ XX đã có nhiều người

Việt là binh lính của Nguyễn Anh cư ngụ tiếp đó là đồng bào ở các tỉnh Nghệ An,

Hà Tĩnh, Quảng Trị... do không chịu hợp tác với chính quyền Pháp, một số lo ngại

bị bắt sau các phong trào cách mạng yêu nước cũng vượt biên giới sang Lào rồi đến

Thái Lan. Đồng bào Việt kiều ở Thái Lan lúc đó có khoảng 2 vạn người gồm người

lương nhưng cũng có một số người theo đạo Kito, phần lớn họ có tinh thần yêu

nước và ủng hộ các phong trào như Cần Vương, Duy Tân hoặc Đông Du. Sau khi

các phong trào này thất bại, một số nhà hoạt động yêu nước đã tạm lánh sang Thái

Lan như Ngô Quảng, Thần Sơn, Đặng Tử Kính, Phan Bội Châu mang tư tưởng trú

ngụ ở Thái Lan để chiêu binh rồi về nước đánh Pháp nên chưa có các hoạt động

tuyên truyền và tổ chức kiều bào quy mô như Nguyễn Ai Quốc sau này. Chỉ khi tổ

chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ai Quốc thành lập (6/1925) mới

có chủ trương tuyên truyền và tổ chức kiều bào để làm cơ sở nối liền phong trào

cách mạng trong và ngoài nước. Khi còn hoạt động ở Trung Quốc, Nguyễn Ai Quốc

đã sớm có kế hoạch sang Thái Lan hoạt động nên cử Hồ Tùng Mậu qua đó nắm tình

hình để gây dựng cơ sở ở vùng Đông Bắc Thái Lan mà bản Mạy thuộc tỉnh Nakhon

Phanom (cách Băng Cốc khoảng 600 km về phía Đông Bắc) là căn cứ tiêu biểu.

Khoảng 1928 – 1929 ở Thái Lan, Nguyễn Ai Quốc có tên là Thầu Chín hoạt động

bí mật, giữ kín tung tích đồng thời được bà con Việt Kiều, sư sãi và một bộ phận

nhân dân Thái Lan đùm bọc. Tại Thái Lan, Nguyễn Ai Quốc cho xuất bản tờ báo

Thân ái (trên cơ sở tiền thân là tờ báo Đồng thanh do Đặng Thúc Hứa sáng lập)

nhằm thức tỉnh và kêu gọi tinh thần yêu nước của các kiều bào Việt Nam ở Thái

Lan.

Nguyễn Ai Quốc chủ trương mở rộng tổ chức, củng cố cơ sở cần thiết, tuyên

truyền giáo dục kiều bào, tôn trọng phong tục tập quán và giữ luật pháp của người

Thái, đồng thời làm cho quần chúng Thái Lan có cảm tình với cách mạng Việt

Nam. Ông chủ trương xin chính phủ Thái Lan lập trường học cho con em Việt kiều,

khuyến khích mọi người học tiếng Thái và chữ quốc ngữ. Nhà trường ở Uđon là

trường đầu tiên do chính phủ Thái Lan cho phép xây dựng và sau đó các trường

Việt kiều ở Sakon, Nakhon Phanom cũng lần lượt được xây dựng. Buổi sáng trẻ em

Việt kiều học chữ Thái theo chương trình của của nhà nước Thái và buổi chiều học

chữ quốc ngữ. Các trường học không chỉ thu hút con em người Việt học mà còn thu

hút con em của người Thái vào học ngày càng đông, ông cũng kêu gọi những người

trong cơ quan hợp tác cùng học chữ Thái. Nguyễn Ai Quốc cho rằng, Việt Nam là

thuộc địa bị Pháp cai trị còn Thái Lan là nửa thuộc địa bị Pháp bắt kí nhiều điều ước

bất bình đẳng. Với điều ước bất bình đẳng Lomiađovin mà Pháp bắt chính phủ Thái

Lan kí trong đó có điều khoản quy định người và hàng hoá của Pháp được đưa vào

khoảng 25 km trong đất Thái Lan một cách tự do mà không phải nộp thuế rồi từ đó

họ đi sâu vào nội địa Thái Lan tự do đi lại và cư trú với tiền nộp mỗi năm chỉ có 4

bạt thuế thân. Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng khi mới thành lập (6/1925) đã

xác định vai trò và vị trí quan trọng của Thái Lan và Việt kiều ở Thái Lan đối với

cách mạng Việt Nam. Từ 1926 – 1929 các chi bộ của Hội Việt Nam Cách mạng

thanh niên được tổ chức ở những nơi có Việt kiều tập trung tại các tỉnh Đông bắc

Thái Lan với 5 chi bộ.

Trong chiến tranh thế giới thứ II, tiếp tục đường lối ngoại giao ngả theo chiều

gió, luôn thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo có lợi cho mình. Thái Lan trở

thành đồng minh của phát xít Nhật, lãnh thổ Thái Lan trở thành căn cứ quân sự của

Nhật nhằm tiếp tay cho mưu đồ bá chủ châu Á của Nhật. Để phục vụ cho mục đích

chiến lược của mình, phát xít Nhật xây dựng con đường sắt nối Mianma với Thái

Lan băng qua những vùng rưng núi hiểm trở. Ngày 16/9/1942 con đường được khởi

công và hoàn thành ngày 17/10/1943 tại Konkuita (Kanchanbury – Thái Lan) với

chiều rộng khoảng 1m và dài khoảng 415km. Để xây dựng con đường này, phát xít

Nhật với sự ủng hộ của chính phủ Thái Lan đã “sử dụng các tù binh bắt được của

phe Đồng Minh khoảng 68.000 người và khoảng 200.000 dân phu châu Á. Họ phải

lao động vất vã với điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn, bị đối xử tàn bạo và thiên

nhiên vô cùng khắc nghiệt, nên khi xây dựng xong con đường có khoảng 16.000 tù

binh bị chết và khoảng hơn 100.000 dân phu châu Á bỏ xác ở đây” [86, tr.12].

Đáng chú ý trong đó có rất nhiều người Việt bị bắt sang đây làm phu và không có

ngày trở lại. Để tưởng nhớ những người đã ngã xuống khi xây dựng con đường này,

hiện nay tại Kanchanabury có nhiều tên đường mang tên nước có người ngã xuống

trong đó có tên VietNam Road.

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc tạo nên cục diện mới cho Thái Lan và

Việt Nam. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời phải đương đầu với nhiều khó

khăn để bao vệ thành quả cách mạng bởi sau đó thực dân Pháp trở lại xâm lược và

nhân dân Việt Nam phải tiến hành cuộc kháng chiến trường kì (1946 - 1954). Trong

khi đó vì là đồng minh của Nhật trong chiến tranh thế giới thứ hai, Thái Lan rất

hoang mang khi nghe tin Nhật đầu hàng Đồng Minh. Điều làm Thái Lan lo lắng là

phải rút khỏi cuộc chiến như thế nào để khỏi chịu sự trừng phạt của các nước Đồng

Minh. Trước tình hình đó, chính phủ thân Nhật Phibun Xongkhram bị lật đổ

(9/1945) và một chính phủ mới do Seni Pramot, người từ Mĩ t rở về đứng đầu

“Phong trào Thái tự do” thành lập. Đây là một chính phủ thân Mĩ nên lợi dụng cơ

hội này Mĩ tiến hành gạt dần sự ảnh hưởng của Anh, Pháp để dần chi phối Thái

Lan. Động thái tạo thiện chí đồng minh của Mĩ là công nhận Thái Lan không phải là

nước đồng minh của phát xít mà là nước bị phát xít Nhật chiếm đóng và cần được

giải phóng.

Tháng 3/1946 phái dân chủ tiến bộ giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử ở

Thái Lan và chính phủ Thủ tướng Priđi Phanomyong được thành lập. Chính phủ

mới đã có những động thái tích cực trong mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam. Chính

sách ngoại giao tích cực của chính phủ Thái Lan là ủng hộ phong trào giải phóng

dân tộc ở Đông Nam Á và đặc biệt có rất nhiều thiện cảm với cách mạng Việt Nam.

Ngày 7/7/1946 quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng kí thư giới thiệu đại diện

chính phủ Việt Nam tại Thái Lan sau đó Cơ quan đại diện chính phủ Việt Nam Dân

chủ Cộng hoà đã hoạt động tại Băng Cốc (từ tháng 8/1946 đến tháng 6/1951).

Chính phủ Thái Lan đã cho Việt Nam đặt cơ quan đại diện tại Băng Cốc và được

hưởng quy chế ngoại giao. Thái Lan còn cho Việt Nam được phép lập phòng thông

tin tại Băng Cốc tạo cho Việt Nam có thêm một con đường liên hệ với thế giới điều

đó có ý nghĩa rất quan trọng cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Tháng

1/1948 phái đoàn chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Phạm Ngọc Thạch dẫn

đầu sang thăm Thái Lan nhằm thúc đẩy hơn nữa trong moi quan hệ hai nước. Tháng

2/1948 Việt Nam cử 10 cán bộ vượt Trường Sơn sang Băng Cốc để tăng cường cho

cơ quan đại diện và tăng cường mối quan hệ với các đoàn thể quốc tế tại Thái Lan.

Tuy nhiên, mối quan hệ giữa hai nước Thái Lan – Việt Nam trở nên xấu đi khi

Phibun Xongkhram lật đổ chính phủ của Thủ tướng Priđi Phanomyong. Chính phủ

Phibun Xongkhram trở lại nắm quyền và công khai lập trường chống cộng sản,

công nhận chính quyền Bảo Đại do Pháp lập nên và đặt quan hệ ngoại giao với

chính phủ Bảo Đại ở cấp Đại sứ. Nghiêm trọng hơn, Bộ nội vụ Thái Lan còn cử đại

diện đến gặp đại diện của phụ trách cơ quan phái viên của chính phủ Việt Nam Dân

chủ Cộng hoà tại Thái Lan là ông Nguyễn Đức Quỳ để yêu cầu chấm dứt các hoạt

động tuyên truyền chống Pháp trên lãnh thổ Thái Lan. Tháng 12/1951 cơ quan đại

diện của Thông tấn xã Việt Nam ở Băng Cốc phải chấm dứt mọi hoạt động và phải

chuyển sang Rangun (Mianma), sự kiện này nhắc nhở mọi người nhớ lại phong trào

Đông Du khi trước ở Nhật, đây chính là âm mưu về ngoại giao của kẻ thù nhằm cô

lập cách mạng Việt Nam. Chính phủ Thái Lan còn ban hành Luật chống cộng sản

(9/1952) đồng thời tiến hành đàn áp các Việt kiều yêu nước, thu hẹp phạm vi cư trú

của họ và dồn nhiều Việt kiều đến một số đồn điền ở Miền Nam Thái Lan. Trước

tình hình đó, chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã ra kháng nghị lên án hành

động khủng bố người Việt của chính phủ Thái Lan.

1954 Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ và rút

quan khỏi Việt Nam, trong khi Thái Lan dần trở thành một đồng minh chiến lược

rất thân cận với Mĩ ở Đông Nam Á. Suốt thời kì Việt Nam chống Mĩ, quan hệ Thái

Lan và Việt Nam là quan hệ thù địch vì ngoài thể chế chinh trị và ý thức hệ khác

nhau, Thái Lan còn là đồng minh thân thiết với kẻ thù của nhân dân Việt Nam. Thái

Lan rất tích cực giúp đỡ Mĩ, trở thành bàn đạp cho Mĩ trong cuộc chiến Việt Nam.

Chính quyền Thái Lan trong khi không công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

nhưng lại công nhận và hợp tác với chính phủ của Bảo Đại và sau đó là Việt Nam

Cộng hoa của Ngô Đình Diệm.

Trong những năm dài Mĩ tiến hành Chiến tranh lạnh với chính sách chống

cộng sản trong khi Thái Lan là đồng minh thân cận của Mĩ nên chịu ảnh hưởng rất

lớn. Giữa Thái Lan – Việt Nam nảy sinh những mâu thuẫn trên nhiều mặt như chính

trị, ngoại giao và quân sự. Dưới tác động đó, chính phủ Thái Lan tiến hành nhiều

chính sách thiếu thiện chí đối với Việt kiều. Ngày 4/6/1957 Thái Lan cử một phái

đoàn đến Sài Gòn nhằm bàn kế hoạch đưa khoảng 40.000 người Việt ở Thái Lan về

Miền Nam Việt Nam. Ngoài ra, chính phủ Thái Lan còn trục xuất 43. 000 người

Việt Nam đến vùng rừng sâu nước độc ở Kòrạt và việc làm này đồng nghĩa với việc

dồn họ đến chổ chết. Trước thái độ đối xử phân biệt và đàn áp đối với người Việt

của chính phủ Thái Lan, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phản đối mạnh mẽ

đồng thời lên án chính sách khủng bố Việt kiều của chính phủ Thái Lan. Cộng đồng

người Việt tại Thái Lan cũng đoàn kết đấu tranh chống lại âm mưu của chính phủ

Thái Lan trong việc đưa Việt kiều về cho chính phủ Ngô Đình Diệm. Sự phản đối

và tinh thần đấu tranh mạnh mẽ của bà con Việt kiều buộc chính phủ Thái Lan phải

đồng ý để Hội Chữ thập đỏ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hội Chữ thập đỏ Thái

Lan kí kết văn bản Hiệp định về vấn đề đưa Việt kiều ở Thái Lan hồi hương

(14/8/1959). Sau gần 5 năm thực hiện hiệp định (1959 - 1964) đã có 75 chuyến tàu

đưa khoảng 45.033 Việt kiều hồi hương đến cảng Hải Phòng nhưng đến 1965 thì bị

tạm hoãn vì lý do máy bay Mĩ oanh tạc Miền Bắc.

Sự ủng hộ của Chính phủ Thái Lan đối với Mĩ trong cuộc chiến tại Việt Nam

thể hiện rất rõ bằng cách đưa quân lính Thái Lan sang chiến trường Miền Nam cùng

với lính quân đội Sài Gòn chống lại cuộc chiến đấu thống nhất đất nước của Việt

Nam. Tháng 5/1966 Thái Lan viện trợ cho chính quyền Sài Gòn 2 tàu chiến, 2 máy

bay quân sự để tỏ thái độ thiện chí là đồng minh hết lòng ủng hộ Mĩ trong cuộc

chiến ở Việt Nam. Trong suốt hai thập niên 50, 60 của thế kỉ XX chính phủ Thái

Lan theo đuổi chính sách chống cộng sản làm cho mối quan hệ Thái Lan – Việt

Nam luôn có những mâu thuẫn và đối đầu với nhau.

1.2. Quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong giai đoạn 1967 – 1976

Ngày 8/8/1967 Thái Lan cùng Indonexia, Malaixia, Singapo, Philippin thành

lập tổ chức ASEAN (Association of Southeast Asian Nations) tại Băng Cốc với

mục đích tăng cường liên kết nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội,

phát triển văn hóa, tăng cường hợp tác giúp đỡ lẫn nhau nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn

định trong khu vực và hợp tác để tạo thêm sức mạnh nhằm tránh sự chi phối của các

nước lớn. Quan hệ giữa các nước ASEAN hình thành các nguyên tắc có đi có lại,

không đối đầu, thân thiện, không tuyên truyền tố cáo nhau qua báo chí và giữ gìn

đoàn kết cũng như bản sắc chung của tổ chức. Tuy vậy, Thái Lan vẫn theo đuổi

chính sách ủng hộ Mĩ trong cuộc chiến tại Việt Nam với nhiều mục đích trong đó có

quyền lợi sát sườn là tranh thủ sự ủng hộ của Mĩ để xây dựng và phát triển đất

nước. Thực tế, tiền viện trợ của Mĩ đổ vào Thái Lan tăng lên hàng năm đặc biệt là

khi Mĩ càng dính sâu vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Cụ thể, “1950 – 1956 là 17.5

triệu đôla thì trong thời gian 1957 – 1965 là 36.75 triệu. Nhưng đáng chú ý là sau

1965, khi Thái Lan tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam con số này tăng rất

nhanh: 1966 – 50 triệu đôla, 1967 – 77 triệu, 1968 – 100 triệu” [77, tr. 138]. Đến

1969 con số viện trợ đã lên tới 278 triệu đô la. Mặt khác, Thái Lan cũng muốn

thông qua Mĩ để cản phá ý thức hệ cộng sản từ Việt Nam vì sợ đến một lúc nào đó

sẽ lan sang nước mình. Trong chính sách đối nội, Thái Lan tiếp tục đàn áp các Việt

kiều nghi ngờ có mối quan hệ mật thiết với cộng sản Việt Nam. Chính phủ Thái Lan

tiếp tục sử dụng những chính sách cứng rắn đối với cộng đồng người Việt Nam tại

Thái Lan vì cho rằng, một số Việt kiều theo cộng sản và liên kết với cộng sản Thái

Lan để chống lại chính phủ Thái Lan nên họ kiểm soát rất gắt gao và các cuộc bắt

bớ thường xảy ra khi có sự tình nghi. A. Sripan – một phóng viên của tờ Bưu điện

Thái Lan (Bangkok post) đã từng phỏng vấn mẹ mình – bà Supap Spicer sinh tại

Ubon, một nhân chứng từng sống và chứng kiến xã hội Thái Lan trong những năm

chiến tranh xảy ra Việt Nam nói về cảm nghĩ thật của bà cũng như cảm nghĩ chung

của người dân Thái Lan. Bà cho rằng, “đa số người dân trong khu vực bà sinh sống

đều có cách nghĩ không thiện cảm với Việt cộng Việt Nam thông qua lời tuyên

truyền của chính phủ. Các cuộc biểu tình của người Việt ở vùng Đông Bắc Thái

Lan phản đối chính phủ Thái Lan tham chiến ở Việt Nam và sự hiện diện của quân

đội Mĩ ở Thái Lan nhưng đã bị chính phủ Thái Lan dùng vòi rồng và các phương

tiện trấn áp. Thái độ của người dân Thái Lan với người Việt ở Thái Lan cũng trở

nên ngày càng xa lấn” [102, tr.1]. Sau khi chứng kiến cả một giai đoạn lịch sử bà

Supap Spicer đi đến kết luận “đa số người dân đều bị chính phủ lừa dối về chiến

tranh Việt Nam và Việt cộng cũng không bị cô lập, không đe doạ đến chủ quyền

Thái Lan như bà và mọi người từng nghĩ trước đây” [102, tr.2].

Thực tế Mỹ đã viện trợ quân sự cho Thái Lan đồng thời xây dựng trên đất Thái

Lan nhiều căn cứ quân sự để phục vụ cho cuộc chiến của mình ở Việt Nam, trong

đó xây dựng 6 sân bay quân sự là Utapao, Tacli, Khorat, Ubon, Nakonphanom và

Uđontali. Một phần các máy bay chiến lược và chiến thuật của Mĩ cất cánh ở đây

sang bắn phá miền Bắc Việt Nam trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ

nhất (1965 - 1968), lần thứ hai (1969 - 1972). Nghiêm trọng nhất là trong 12 ngày

đêm cuối 1972 máy bay Mĩ đã gây biết bao đau thương và mất mát cho nhân dân

Việt Nam. Quân Mỹ đóng ở Thái Lan lúc đong lên đến 58.000 người (1969) bao

gồm 45.000 phi công và nhân viên phục vụ, 12.000 lính bộ binh và 1000 lính hải

quân.

Ngoài ra, Thái Lan còn trở thành trung tâm giải trí cho quân Mĩ đồn trú ở Việt

Nam sau khi đánh trận xong. Để đáp ứng cho nhu cầu vui chơi của lính Mĩ và thu

nguồn lợi từ dịch vụ này, các vùng xa xôi ở Miền Bắc Thái Lan, thuốc phiện đã

được trồng để phục vụ cho nhu cầu cua lính Mĩ. Bên cạnh đó lĩnh vực “công nghiệp

mại dâm” được chính phủ Thái Lan khai thác tối đa trong nhu cầu phục vụ cho lính

Mĩ để thu lợi. Trong những năm 60 – 70 trung bình có khoảng 4,3 triệu người Thái

Lan ở Băng Cốc và những nơi khác của Thái Lan phục vụ trong các trung tâm giải

trí giành cho quân đội Mĩ. Ngành công nghiệp giải trí giúp cho bộ mặt một số vùng

quê ở Thái Lan đặc biệt ở vùng Đông Bắc có sự chuyển mình rất mạnh mẽ trong

việc đi lên theo hướng công nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề thuốc phiện và mại dâm

cũng gây ra những hệ luỵ cho Thái Lan sau khi quân Mĩ rút khỏi Việt Nam. Nạn

nghiện thuốc và đại dịch AIDS phát triển trong những năm 80 để lại hệ luỵ rất lớn

cho chính sách thu lợi vội vàng và thiếu trách nhiệm xã hội của chính phủ Thái Lan.

Từ năm 1966 đến 1972 Thái Lan đã đưa sang Miền Nam một sư đoàn và một

trung đoàn với quân số gần 14.300 quân. Trong đó bao gồm, 12.000 lính thuộc quân

đoàn Báo đen và 2.300 lính thuộc sư đoàn Rắn hổ mang sau đó tăng lên 5.000 quân

(1968). Trong thời gian Thái Lan tham chiến tại Việt Nam, rất nhiều phong trào

biểu tình của nhân dân phản đối chính phủ và đòi rút quân về nước. Đặc biệt, từ

năm 1965 Mặt trận yêu nước Thái Lan xuất hiện với chủ trương đấu tranh vũ trang

chống chế độ độc tài quân sự. Các phong trào đấu tranh du kích nổ ra ở nhiều nơi

nêu khẩu hiệu chống Mĩ, cải thiện dân sinh và dân chủ. Phong trào du kích còn có

hành động ủng hộ cách mạng Việt Nam, tiêu biểu là sự kiện họ tấn công vào sân

bay Uđontani (8/1968) nhằm phản đối Mĩ dùng không quân phá hoại Việt Nam.

Sau thất bại trong Chiến tranh cục bộ Mĩ chuyển sang chiến lược “Việt Nam

hoá chiến tranh” đồng thời cho rút dần quân Mĩ về nước. Trong khi đó, dưới áp lực

của phong trào đấu tranh của nhân dân cũng buộc Thái Lan rút dần quân của mình

về nước. Tháng 8/1970 Thái Lan bàn đến việc rút quân và đến tháng 4/1972 thì rút

toàn bộ quân Thái Lan khỏi Việt Nam.

Rõ ràng, mặc dù chính phủ Thái Lan thực hiện đường lối đối ngoại thân Mĩ

và tham chiến ở Việt Nam gây ra những hành động làm tổn thương rất lớn mối quan

hệ giữa hai nước. Trong chính sách đối nội, chính phủ Thái Lan tiếp tục đàn áp các

Việt kiều yêu nước và cưỡng ép họ về Miền Nam Việt Nam vi phạm nghiêm trọng

Hiệp ước đã kí kết năm 1959, phớt lờ sự phản đối của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam

và quốc tế. Để biện hộ cho hành động đó của mình, chính phủ Thái Lan cho rằng,

sở dĩ họ làm vậy là lo sợ lực lượng cộng sản Việt Nam xâm nhập vào Thái Lan

thông qua cộng đồng người Việt sống ở vùng Đông Bắc Thái Lan và đe doạ an ninh

của họ. Thái độ của giới cầm quyền Thái Lan với cái nhìn phiếm diện và cực đoan

đối với những người cộng sản Việt Nam một phần là do sức ép từ bên ngoài. Nhà

chính trị học Thái Lan Kthirarit từng nhận xét: “Kể từ chiến tranh thế giới thứ II ,

Thái Lan và Mỹ chia sẻ tư tưởng về mối đe dọa của Chủ nghĩa Cộng sản. Yếu tố đó

trở thành hòn đá tảng của các quan hệ Mỹ – Thái Lan”[83, tr.228-229].

Trong lịch sử quan hệ Thái Lan – Việt Nam đã có những mâu thuẫn và đến

giai đoạn này mâu thuẫn được đẩy lên một bước mới mang tính chất thời đại và suy

cho cùng vẫn là xuất phát từ sự tranh chấp ảnh hưởng giữa hai cường quốc Xô – Mĩ

mà trong đó những nước nhỏ như Việt Nam và Thái Lan khó tránh khỏi vòng xoáy

của sự tác động. Trong đó việc chọn lựa hướng đi phụ thuộc vào đặc điểm riêng của

từng nước. Ảnh hưởng này không chỉ riêng một nước nào đó nhằm thoả mãn khát

vọng mở rộng bờ cõi, đất đai như trong thời phong kiến mà chính là ảnh hưởng của

ý thức hệ trong đó mỗi nước đứng ở mỗi bên chiến tuyến đối địch với nhau. Không

thể phủ nhận trong lịch sử mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam có những lúc hoà hiếu

nhưng thời gian mâu thuẫn căng thẳng cũng không ít. Ngay trong lịch sử Thái Lan

khi giảng dạy ở nhà trường khi đề cập đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam cũng chỉ

đề cập đến những cuộc chiến giữa hai nhà nước Xiêm La – Đại Việt.

Trong thời kì Chiến tranh lạnh, các sách báo và phương tiện thông tin đại

chúng của Thái Lan luôn tô vẽ một cách thái quá về chủ nghĩa cộng sản, họ gây cho

người Thái tâm trạng lo sợ về cái gọi là “hiểm hoạ cộng sản” từ Việt Nam sẽ lan

sang Thái Lan. Chính phủ Thái Lan đã thành công phần nào trong việc đưa quần

chúng nhân dân Thái Lan có cái nhìn không thiện cảm với Việt Nam để biện hộ cho

những hành động của họ. Để dân Thái tin rằng, việc Thái Lan trở thành căn cứ quân

sự của Mĩ và Thái Lan trực tiếp đưa quân tham chiến tại Việt Nam là một điều cần

phải làm vì an ninh và chủ quyền của Thái Lan. Tất cả những hiểu biết của dân

chúng chỉ là mối lo về anh ninh của Thái Lan đang bị Chủ nghĩa Cộng sản ở Việt

Nam đe doạ.

Về phía Việt Nam do phải tập trung toàn bộ sức người, sức của cho cuộc

kháng chiến chống Pháp trước đó và sau đó là cuộc kháng chiến chống Mĩ nên tất

yếu không có thời gian tìm hiểu nhiều về Thái Lan. Việc tìm hiểu tuy còn hạn chế

nhưng cũng đủ cho người Việt Nam nhận ra rằng, chính sách thù địch của chính

quyền Thái Lan với vị trí là đồng minh đắc lực của Mĩ tại Đông Nam Á, sự ủng hộ

cuộc chiến của Mĩ tại Việt Nam sẽ giúp chính phủ Thái Lan nhận thêm được nhiều

đồng dollar viện trợ và nhiều đơn đặt hàng của Mĩ. Trong khi người dân Thái Lan

thì hoàn toàn bị bưng bít trước những chính sách tuyên truyền tinh vi của chính

phủ.

Các máy bay Mĩ xuất phát từ các căn cứ quân sự của Thái Lan sang ném

bom Việt Nam và sự hiện diện của quân đội Thái Lan tại Việt Nam cùng với mâu

thuẫn về thể chế chính trị Tư bản chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa nên lúc bấy giờ

Thái Lan cũng coi Việt Nam là kẻ thù nguy hiểm của mình và ngược lại. Đây chính

là nguyên nhân chính dẫn đến những nghi ngờ và trở ngại cho quan hệ giữa Thái

Lan và Việt Nam sau này. Sau khi Mĩ thất bại tại Việt Nam và rút quân, Thái Lan

rất lo sợ về một cuộc trả thù của Cộng sản Việt Nam đối với mình.

Trong những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, Thái Lan gặp rất nhiều

khó khăn về chính trị và kinh tế. Giai đoạn này Thái Lan thực hiện kế hoạch phát

triển kinh tế – xã hội trong điều kiện rất khó khăn, đầu tư nước ngoài vào Thái Lan

giảm sút, viện trợ kinh tế của Mĩ giảm đi trông thấy, khủng hoảng năng lượng thế

giới ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế Thái Lan làm đời sống nhân dân giảm sút nghiêm

trọng. Nhân dân Thái Lan cho rằng, những hậu quả trên do chính phủ độc tài quân

sự thực hiện chính sách đối ngoại thân Mĩ gây ra. Thêm vào đó là thất bại của Mĩ ở

Việt Nam càng có dịp để phong trào chống đường lối theo đuôi Mĩ của chính phủ

Thái Lan bùng nổ. Từ tháng 10/1973 đã có một cuộc nổi dậy mạnh mẽ của học sinh

– sinh viên Thái Lan nổ ra đòi quyền dân chủ, đòi cải cách kinh tế, chính trị, giáo

dục và xét lại chính sách đối ngoại thân Mĩ. Phong trào này đã được đông đảo các

tầng lớp nhân dân ủng hộ dẫn đến sự sụp đổ của chính phủ độc tài quân sự chấm dứt

thời kì thống trị của các tướng lĩnh quân sự kéo dài hơn một phần tư thế kỉ. Một

chính phủ dân sự được lập nên do giáo sư Sania Thamasac làm thủ tướng tạo một

không khí chính trị cởi mở hơn ở Thái Lan. Chính phủ mới của Thái Lan không thể

phớt lờ lời kêu gọi của học sinh và sinh viên Thái Lan trong việc điều chỉnh đường

lối ngoại giao đối với Việt Nam nói riêng và ba nước Đông Dương nói chung. Một

luồng tư tưởng mới xuất hiện là Thái Lan cần phải học cách sống chung với các

nước láng giềng dù cho họ có theo thể chế cộng sản chứ không nên có thái độ thù

địch với họ. Điều này một lần nữa chứng tỏ sự linh hoạt của Thái Lan trong chính

sách đối ngoại của mình với đặc điểm cơ bản của chính sách đối ngoại thể hiện sự

mềm dẻo và linh động không mất lòng ai hay ngả theo chiều gió.

Ngày 19/3/1975 trước khi Miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng, Thủ

tướng Thái Lan Seni Pramot đã tuyên bố “Chính phủ Thái Lan sẽ xúc tiến quan hệ

ngoại giao với các nước láng giềng, tích cực ủng hộ mọi hợp tác trong các lĩnh vực

ngoại giao với các nước ASEAN, đồng thời tăng cường nổ lực tìm kiếm, móc nối

quan hệ với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”[73, tr.72]. Đây là một động thái

chứng tỏ sự thay đổi trong chính sách ngoại giao của Thái Lan đối với Việt Nam. Ở

đây không chỉ đơn thuần là sức ép từ dư luận trong nước mà thực tế Thái Lan thấy

được sự thất bại của Mĩ ở Việt Nam đã đến gần và một Việt Nam thống nhất tất yếu

sẽ do Cộng sản kiểm soát với tiềm lực quân sự có thể xem là mạnh nhất Đông Nam

A lúc bấy giờ nên việc tiếp tục giữ thái độ thù địch như trước kia là không có lợi

cho Thái Lan. Thái Lan bắn tiếng muốn nối lại quan hệ bình thường với Việt Nam

rõ ràng là có lợi cho Thái Lan trong việc tạo sự ổn định trong và ngoài nước để tập

trung giải quyết bầu không khí chính trị phức tạp ở nước mình, đồng thời xốc dậy

nền kinh tế đang trên đà suy thoái và mở ra cơ hội làm ăn trong tương lai cho Thái

Lan với khu vực Đông Dương đầy hứa hẹn.

1.3. Quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong giai đoạn 1976 – 1979

Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, nước Cộng hoà

XHCN Việt Nam ra đời và nhiệm vụ hàng đầu của Việt Nam là làm sao mở rộng

quan hệ hợp tác quốc tế để tranh thủ sự ủng hộ trong việc hàn gắn vết thương chiến

tranh quá lớn. Việt Nam tích cực tham gia Hiệp ước Bali (2/1976) nhằm thể hiện

thiện chí của mình trong việc bắt tay hợp tác với các nước trong khu vực. Mặt khác,

không thể phủ nhận vai trò to lớn của Thái Lan trong tổ chức ASEAN với chủ

trương hướng tới việc xây dựng một Đông Nam Á hoà bình, ổn định, hợp tác và

phát triển.

Trong khối ASEAN, Thái Lan là nước không chỉ gần gũi với Việt Nam về

mặt địa lý mà còn về lịch sử, văn hoá, xã hội và phong cách làm ăn truyền thống.

Thái Lan và Việt Nam còn có chung khí hậu nhiệt đới gió mùa và có một nền văn

minh nông nghiệp rất phong phú. Trong quá trình phát triển văn hoá, hai nước có

nhiều yếu tố rất tương đồng. Ngoài ra, Thái Lan có cả giai đoạn dài xây dựng và

phát triển đất nước nên những kinh nghiệm đó Việt Nam có thể học hỏi để áp dụng

có chọn lọc phù hợp với điều kiện Việt Nam nhằm thu ngắn khoảng cách với các

nước trong khu vực.

Chiến tranh Việt Nam kết thúc không chỉ có Thái Lan điều chỉnh lại chính

sách ngoại giao cho phù hợp mà chính Việt Nam cũng phải điều chỉnh lại chính

sách ngoại giao của mình cho phù hợp với xu thế và nguyện vọng chung của khu

vực và thế giới nhằm tiến tới hoà bình, hợp tác cùng phát triển trong khu vực.

Những thiện chí hợp tác của Việt Nam dần đánh tan đám mây nghi ngờ của Thái

Lan và một số các nước khác trong khu vực. Để khẳng định điều đó, ngày 5/7/1976

Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh ra tuyên bố 4 điểm về đối ngoại

của chính phủ Việt Nam gồm có “Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn

vẹn lãnh thổ của các nước; Cam kết không để lãnh thổ của mình cho bất kì nước

ngoài nào sử dụng để chống lại nước khác; Thiết lập quan hệ láng giềng tốt đẹp,

hợp tác kinh tế, trao đổi văn hoá với các nước; Ra sức hợp tác nhiều mặt với các

nước.”[73, tr.69]. Tiếp đó là chuyến thăm của phái đoàn ngoại giao Việt Nam sang

các nước ASEAN (1/1976) trong đó có Thái Lan.

Những tuyên bố trên của Việt Nam làm Thái Lan phần nào yên tâm Việt

Nam sẽ không trả đũa về quân sự đối với những hành động mà họ gây ra cho Việt

Nam trong quá khứ. Như vậy, cả Việt Nam và Thái Lan đều gặp nhau ở một điểm là

mong muốn thiết lập mối quan hệ láng giềng thân thiện để có điều kiện hợp tác

nhằm thúc đẩy đất nước phát triển. Tuy nhiên, không phải tất cả những mâu thuẫn

và mối nghi ngờ giữa hai bên trong ngày một, ngày hai có thể hoàn toàn bị xoá bỏ

nên hai bên đã có những bước đi rất dè chừng và thận trọng đối với nhau.

Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước, Thái Lan chủ động mời một phái

đoàn ngoại giao Việt Nam sang thăm Thái Lan. Nhận lời mời, ngày 22/5/1975 phái

đoàn Bộ Ngoại giao Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phan Hiền đẫn đầu

sang thăm Thái Lan và đàm phán với Thủ tướng Thái Lan Seni Pramot để dọn

đường cho việc thiết lập mối quan hệ ngoại giao giưa hai nước. Đối với Thái Lan,

sự khác biệt về ý thức hệ cũng quan trọng nhưng không phải là nhân tố quyết định

tất cả trong đường lối ngoại giao của họ. Nếu nói “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong

đường lối đối ngoại của Thái Lan thì cái bất biến đó là quyền lợi quốc gia – dân tộc

và cơ hội để phát triển đất nước, để thực hiện cái bất biến đó phương pháp thực hiện

của họ rất vạn biến. Điều đó dễ dàng nhận thấy trong chiến tranh Việt Nam, Thái

Lan trở thành đồng minh chiến lược của Mỹ để kiếm những món lợi và những

khoản viện trợ béo bở. Ngược lại khi Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc chiến

tranh, Thái Lan đã chủ động xích lại gần Việt Nam để tạo sự ổn định trong khu vực

nhằm giúp Thái Lan có điều kiện tốt trong phát triển kinh tế. Đặc biệt khi Thái Lan

thấy thị trường Đông Dương thực sự có nhiều hứa hẹn cho sự đầu tư phát triển của

kinh tế Thái Lan.

Trong quá trình tiến tới bình thường hóa quan hệ Thái Lan – Việt Nam hàng

loạt vấn đề mà hai bên đưa ra đàm phán có một số vấn đề còn gây tranh cãi chưa

thống nhất được là vấn đề Việt kiều tại Thái Lan. Vấn đề Việt kiều vẫn luôn là một

trọng tâm đem ra bàn bạc giữa hai chính phủ và có tác động rất lớn đến mối quan hệ

của hai nước. Tuy lúc này, mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam được cải thiện và

chính sách của chính phủ Thái Lan đối với Việt kiều có phần nới lỏng nhưng vấn đề

cơ bản như việc cấp thẻ căn cuớc, hay cho phép nhập quốc tịch vẫn chưa được sửa

đổi. Chính phủ Thái Lan cho dù qua nhiều đời Thủ tướng vẫn không có cái nhìn

thực sự thiện cảm với Việt kiều. Công bằng mà nói, cộng đồng người Việt ở Thái

Lan đã có những đóng góp nhất định vào công cuộc xây dựng cho xã hội Thái Lan

đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế và văn hoá. Tuy vậy, Việt kiều tại Thái Lan vẫn

mang mặc cam, thiếu tin tưởng vào chính sách của chính phủ Thái Lan. Một vấn đề

khác cũng không kém phần gay cấn là Việt Nam đòi Thái Lan bàn giao những máy

bay, tàu chiến, quân trang, quân dụng và vũ khí do ngụy quyền Sài Gòn cất dấu ở

các kho của Thái Lan. Thái Lan đề nghị việc giải quyết vấn đề Việt kiều cần phải có

thời gian còn những phương tiện chiến tranh mà nguỵ quyền Sài Gòn cất giấu ở

Thái Lan thì không thể trả lại cho Việt Nam được vì cả Mĩ và Việt Nam đều tuyên

bố có quyền sở hữu nên Thái Lan rất khó xử. Thái Lan nhận trông coi cẩn thận số

tài sản này và chỉ trả lại khi có sự nhất trí giữa phía Mĩ và Việt Nam. Một vấn đề

nữa cũng tranh luận không kém phần gay cấn là Việt Nam đòi Thái Lan phải bồi

thường chiến tranh vì đã cho Mĩ sử dụng Thái Lan làm căn cứ quân sự để máy bay

Mĩ ném bom phá hoại Việt Nam. Trong khi Thái Lan cho rằng, sở dĩ Thái Lan là

như vậy bởi vì Việt Nam từng ủng hộ Đảng Cộng sản Thái Lan. Những vấn đề trên

tranh luận hết sức gay cấn, cuối cùng hai bên đi đến nhất trí gác lại những vướng

mắc không nên để ảnh hưởng đến việc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa

hai nước bởi vì đây chính là cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề từ trước đến nay

một cách bài bản và theo hướng tích cực hơn.

Với những cố gắng của hai chính phủ trong việc từng bước tiến tới bình

thường hóa quan hệ, ngày 6/8/1976 Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan Phichay

Rattacun tới Hà Nội cùng hội đàm với Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy

Trinh. Hai bên cùng kí Hiệp định thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Vương quốc

Thái Lan và Cộng hoà XHCN Việt Nam. Hiệp định này có một ý nghĩa rất quan

trọng thể hiện quyết tâm và thiện chí của hai nước trong việc tạm gác lại những bất

đồng để hướng tới xây dựng mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai bên. Tuy

vậy, Thái Lan vẫn còn dè chừng bởi vì những nghi kị về Cộng sản Việt Nam của

chính phủ Thái Lan mà đặc biệt là giới quân sự không thể ngày một, ngày hai có thể

dễ dàng xoá bỏ được. Tuy nhiên việc kí kết hiệp định thiết lập quan hệ ngoại Thái

Lan – Việt Nam là một sự kiện đáng khen ngợi và cần phát huy. Mặc dù tính mong

manh của hiệp định này không phải là không có vì thực tế lúc đó tình hình chính trị

của Thái Lan là rất rối ren và phức tạp.

Ngày 6/10/1976 đúng hai tháng sau khi Hiệp ước thiết lập quan hệ ngoại

giao Thái Lan và Việt Nam được kí kết, phái quân sự tiến hành đảo chính lật đổ

chính quyền dân sự của thủ tương Seni Pramot đồng thời đưa Thanim Krayvichien,

một người không mấy thiện cảm về cộng sản lên làm thủ tướng Thái Lan. Hiệp định

thiết lập quan hệ ngoại giao Thái Lan – Việt Nam đi vào thực tế chưa bao lâu đã có

nguy cơ bị phá vỡ. Quan hệ Thái Lan – Việt Nam một lần nữa có nguy cơ trở nên

bế tắc và căng thẳng. Tuy nhiên, năm 1977 thủ tướng mới của Thái Lan Kriangsak

Chomanan có chính sách đối ngoại mềm dẻo theo truyền thống đối ngoại của Thái

Lan. Ngoài việc tăng cường mối quan hệ với cả ba cường quốc Mĩ – Liên Xô –

Trung Quốc, ông còn có những động thái tích cực trong việc thiết lập quan hệ ngoại

giao với Việt Nam mà chính quyền Seni Pramot đã đặt nền tảng cơ sở. Không

những thế, quan hệ ngoại giao của Thái Lan và Việt Nam thời kì này được nâng lên

một bước mới với việc các cán bộ ngoại giao cấp cao của hai bên gặp gỡ và trao đổi

nhiều vấn đề hợp tác. Đặc biệt, ngày 28/9/1977 tại trụ sở của Liên Hợp Quốc, Ngoại

trưởng Thái Lan Uppađi Pcharigiankun đã có cuộc gặp gỡ và hội đàm với Bộ

trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh. Hai bên nhất trí sẽ thiết lập quan

hệ ngoại giao thông qua sứ quán của hai chính phủ tại Viêng Chăn (Lào). Sau đó

liên tiếp có nhiều cuộc gặp gỡ của phái đoàn ngoại giao hai bên tại Viêng Chăn

(Lào).

Ngày 2/12/1977 Thái Lan và Việt Nam tuyên bố thông cáo chung về bình

thường hoá quan hệ ngoại giao Thái Lan – Việt Nam. Ngày 13/12/1977 nhận lời

mời của chính phủ Thái Lan, phái đoàn ngoại giao Việt Nam do ông Nguyễn Xuân

dẫn đầu sang thăm Thái Lan nhằm bàn thảo về việc chuẩn bị địa điểm đặt Sứ quán

Việt Nam tại Băng Cốc.

Với những bước đi tích cực của hai bên đã tạo ra những điều kiện tích cực

cho mối quan hệ hợp tác giữa hai nước. Ngày 27/12/1977 Thứ trưởng Bộ giao

thông vận tải Thái Lan sang thăm Việt Nam nhằm chuẩn bị cho việc kí kết Hiệp

định về hành không giữa hai nước. Ngày 9/1/1978 Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam

Nguyễn Duy Trinh cũng chính thức sang thăm Thái Lan, sau hai ngày đàm phán,

hai bên đã đi đến quyết định chính thức đặt Đại sứ quán Thái Lan tại Hà Nội và

ngược lại là sứ quán Việt Nam tại Băng Cốc. Hai bên ký hai hiệp định quan trọng là

Hiệp định thương mại – hợp tác kinh tế – khoa học kĩ thuật và Hiệp định hàng

không. Tháng 9/1978 mối quan hệ tiến triển tốt đẹp giữa Thái Lan – Việt Nam được

đánh dấu bằng chuyến thăm Thái Lan của Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng.

Trong cuộc hội đàm giữa Thủ tướng Kriangsak Chomanan và Thủ tướng Phạm Văn

Đồng, hai bên đã thống nhất được một số vấn đề quan trọng đồng thời thúc đẩy

quan hệ hợp tác giữa hai nước trên nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, giao thông –

vận tải, thương nghiệp, khoa học – kĩ thuật…

Tuy nhiên từ cuối 1978 đầu 1979 xung đột giữa lưc lượng Polpot và Việt

Nam ngày càng mở rộng và sau đó Việt Nam đưa quân sang Campuchia giúp đỡ

nhân dân Campuchia tiêu diệt lực lượng Polpot, đồng thời Thái Lan thực hiện

những hành động giúp đỡ tàn quân Polpot làm cho mối quan hệ Thái Lan – Việt

Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng và diễn biến theo chiều hướng rất xấu. Những

bước đi chập chững dần thiết lập quan hệ hợp tác tốt đẹp của hai nước đã bị phá

sản, thay vào đó là mối quan hệ căng thẳng và nghi kị lẫn nhau. Điều đó không chỉ

ảnh hưởng xấu đến quan hệ hai nước mà còn cả khu vực Đông Nam Á.

TIỂU KẾT.

Mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong lịch sử đã chứng minh cho chúng ta

thấy tính chất phức tạp và chịu tác động bởi nhiều yếu tố dẫn đến mối quan hệ của

hai nước láng giềng này diễn ra rất thăng trầm. Nếu ví mối quan hệ Thái Lan – Việt

Nam như một biểu đồ thì đó chính là biểu đồ hình Sin để chỉ mối quan hệ không ổn

định của hai nước. Chính sách đối ngoại của Thái Lan từ trước đến nay cho dù qua

các đời thủ tướng có những phương pháp thực hiện khác nhau, nhưng truyền thống

đối ngoại mềm dẻo vẫn không mất đi. Thái Lan biết lựa chiều để hạn chế tối đa

những bất lợi nhằm phát huy cái có lợi, tất cả đều hướng tới mục tiêu xây dựng và

phát triển đất nước phồn thịnh. Cái hay trong chính sách của Thái Lan ở chỗ, họ cố

gắng tìm đủ mọi cách để đất nước không bị cuốn vào những điểm nóng trước tình

hình thế giới luôn diễn biến phức tạp. Nếu một số nước trên thế giới tự hào vì mình

đã đánh thắng được những đế quốc, phát xít lớn thì người Thái cũng có cái tự hào

riêng của họ vì không phải đánh nhau ác liệt với đế quốc, phát xít nào cả và tất

nhiên trong đó người được lợi nhất vẫn là nhân dân vì không phải hy sinh nhiều

xương máu.

Trong giai đoạn Việt Nam chống Pháp, mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam đã

có thời kỳ tiến triển rất tốt, Thái Lan đã từng có thiện chí giúp đỡ khi cho Việt Nam

thiết lập cơ quan đại diện ngoại giao trên đất nước họ (1946 - 1951). Nhưng rồi vì

quyền lợi của đất nước mình, Thái Lan đã hy sinh mối quan hệ với người láng giềng

nhỏ để bắt tay với đế quốc Pháp và trục xuất cơ quan đại diện ngoại giao của chính

phủ Việt Nam khỏi Thái Lan đồng thời công nhận chính phủ Bảo Đại do Pháp lập

nên. Dễ dàng nhận thấy hành động của Thái Lan khi bắt tay với Pháp, Thái Lan sẽ

được lợi nhiều hơn là thiết lập mối quan hệ thân thiện với Việt Nam – nước đang

trong tình trạng chiến tranh và nghèo khổ.

Đến giai đoạn Việt Nam chống Mĩ, một lần nữa vì quyền lợi của đất nước

mình Thái Lan lại thực hiện chính sách đối ngoại thân Mĩ, tiếp tay cho Mĩ trong

cuộc chiến tại Việt Nam. Vấn đề Thái Lan tiếp tay cho Mĩ chống lại cuộc chiến đấu

của nhân dân Việt Nam có rất nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, Thái Lan là nước quân

chủ nhưng xây dựng đất nước theo con đường TBCN, trong khi Việt Nam lại quyết

tâm xây dựng đất nước theo con đường XHCN đó chính là sự khác biệt rất lớn về ý

thức hệ chính trị. Thứ hai, trong khi giai đoạn 1954 – 1975 thế giới đang trong thế

hai cực đối đầu nhau kịch liệt, tùy theo mức độ, điều kiện, các nước nhỏ như Thái

Lan, Việt Nam khi đã xác định thể chế chính trị trong con đường xây dựng đất nước

chắc hẳn không thể nào tránh khỏi sự chi phối của các nước lớn. Do vậy khi Thái

Lan chọn thiết lập quan hệ thân thiện với Mĩ thì không thể nào có mối quan hệ tốt

đẹp với Việt Nam được khi mà hai nước Việt – Mĩ xem nhau là kẻ thù trực tiếp.

Thứ ba, khi trở thành đồng minh của Mĩ sẽ giúp Thái Lan có được những khoản

viện trợ lớn để đầu tư phát triển đất nước, sẽ được Mĩ đảm bảo về an ninh để yên

tâm phát triển kinh tế. Thái Lan thường biết lựa chiều, họ luôn cố gắng lựa chọn

nhằm đem lại cho họ nhiều quyền lợi và giảm thiểu thiệt hại nhất khi đứng trước

những lựa chọn mang tính quyết định.

1975 Sau khi Việt Nam kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, Thái

Lan là người chủ động đánh tiếng muốn nối lại quan hệ với Việt Nam. Một lần nữa

Thái Lan lại có sự lựa chọn khôn khéo trong chọn bên để hợp tác có lợi cho mình.

Mĩ đã thất bại, rút quân đồng thời các khoản viện trợ cũng bị cắt giảm. Việc bình

thường hóa quan hệ với Việt Nam sẽ giúp Thái Lan tạo được sự ổn định trong khu

vực để tập trung phát triển kinh tế. Thái Lan cũng nhận thấy Đông Dương là một thì

trường hứa hẹn mà họ có thể khai thác tốt cho sự phát triển kinh tế của mình.

“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong chính sách đối ngoại của Thái Lan, cái bất

biến chính là quyền lợi quốc gia dân tộc của người Thái, cái vạn biến chính là

phương pháp để thực hiện cái bất biến đó. Do nguyên tắc đó mà mối quan hệ Thái

Lan và Việt Nam trong suốt cả một thời gian dài rất thăng trầm trước tình hình thế

giới có nhiều biến động, khi sự đối đầu Đông – Tây trong giai đoạn quyết liệt là

điều dễ hiểu. Nguyên tắc trong phương pháp thực hiện để đem đến thành công cho

người thích ứng thời cuộc là không có bất kỳ nguyên tắc nào và người Thái đã vận

dụng tốt điều đó. Một lần nữa có thể khẳng định, mối quan hệ thăng trầm giữa Thái

Lan – Việt Nam chịu sự tác động của nhiều nhân tố và một trong những nhân tố tác

động lớn đó chính là sự đối đầu Xô – Mĩ, TBCN – XHCN trong Chiến tranh lạnh.

Chương 2

VẤN ĐỀ CAMPUCHIA

TRONG QUAN HỆ THÁI LAN – VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 1979 – 1986

2.1. Bối cảnh lịch sử và nguồn gốc của vấn đề Campuchia

Sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng

lợi (30/4/1975), những mâu thuẫn giữa Campuchia Dân chủ với Cộng hòa XHCN

Việt Nam ngày càng trở nên trầm trọng, thế lực Polpot – Ieng Xari liên tục gây hấn

ở biên giới Tây Nam của Việt Nam. Tháng 5/1975 quân Khmer đỏ tấn công vào

Tây Ninh, đảo Phú Quốc và hành quyết hàng trăm người ở đảo Thổ Chu đe dọa

nghiêm trọng an ninh chủ quyền của Việt Nam.

Để giải quyết những bất đồng giữa hai nước, tháng 6/1975 nhận lời mời của

chính phủ Việt Nam, Polpot dẫn đầu phái đoàn chính phủ Campuchia Dân chủ sang

thăm Việt Nam nhằm giải quyết những bất đồng và mâu thuẫn giữa hai nước. Cuộc

hội đàm giữa Polpot với chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thất

bại phần lớn do thái độ thiếu thiện chí của Polpot và hai bên không tìm ra được biện

pháp khả thi để giải quyết bất đồng. Trong khi tình hình xung đột biên giới ngày

càng leo thang, Việt Nam nhiều lần gởi thư thúc giục thực hiện các cuộc gặp gỡ với

mong muốn đàm phán với Campuchia Dân chủ nhằm thực hiện một giải pháp chính

trị cho sự xung đột. Đặc biệt trong tháng 8/1975 người đứng đầu Đảng Cộng sản

Việt Nam Lê Duẫn thực hiện chuyến thăm Campuchia nhằm tháo gỡ những mâu

thuẫn giữa hai bên. Nhưng rất tiếc những thiện chí hòa bình của Việt Nam đã bị thế

lực Polpot – Ieng Xari đáp lại với thái độ thờ ơ thiếu thiện chí. Ngược lại Polpot

cùng các tay chân của ông ta họp bàn và đi đến chủ trương chống Việt Nam đến

cùng và quyết định cho thành lập 15 sư đoàn để tấn công Việt Nam.

Năm 1977 Campuchia Dân chủ tuyên bố cắt đứt mọi quan hệ với Việt Nam,

rút hết các nhân viên ngoại giao ở Việt Nam về nước đồng thời yêu cầu các nhân

viên ngoại giao Việt Nam phải rút khỏi Campuchia. Năm 1978 lực lượng Polpot

thực hiện nhiều cuộc xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam ở Đồng Tháp, An Giang,

Kiên Giang, Tây Ninh, khu vực Tây Nguyên và gây ra nhiều vụ thảm sát đối với

nhiều dân thường Việt Nam.

Nguy hiểm hơn thế lực Polpot – Ieng Xari được Trung Quốc ủng hộ và tăng

cường viện trợ về quân sự. Hành động công khai của Trung Quốc nhằm đáp trả việc

Việt Nam – Liên Xô kí Hiệp ước hữu nghị và hợp tác (3/11/1978) là cử ông Uông

Đông Hưng – Uy viên bộ Chính trị ĐCS Trung Quốc thăm Campuchia (4/11/1078)

nhằm khẳng định sự ủng hộ cho Polpot trong cuộc xung đột với Việt Nam. Bên

cạnh đó bắt đầu từ ngày 5/11/1978 Đặng Tiểu Bình thăm các nước ASEAN, kêu gọi

các nước này cùng Trung Quốc thành lập mặt trận chung chống Liên Xô – Việt

Nam kèm theo đó Đặng Tiểu Bình cũng hứa hẹn những khoản viện trợ cho các

nước ASEAN, đặc biệt là dành cho Thái Lan.

Ngày 13/12/1978 Khmer đỏ huy động khoảng 10 sư đoàn tấn công xâm lược

Việt Nam trên toàn tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia. Quân đội Việt Nam đã

chặn đứng cuộc tiến công của lực lượng Polpot, tiêu diệt bộ phận quân Khmer đỏ và

đẩy lùi các cuộc tấn công lấn chiếm. Trước đó Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước

Campuchia thành lập (3/12/1978) đã lên tiếng kêu gọi toàn dân đứng lên chống chế

độ diệt chủng Polpot – Ieng Xari, đồng thời mong muốn “quân tình nguyện Việt

Nam giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đổ lực lượng Polpot – Ieng Xari để cứu

nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng” [4, T.5]. Đáp lại lời yêu cầu đó và

cũng để bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia đất nước, Bộ chính trị Việt Nam

quyết định mở chiến dịch phản công biên giới Tây Nam với quy mô lớn nhằm đánh

sập hoàn toàn lực lượng Polpot, giải phóng nhân dân Campuchia khỏi chế độ diệt

chủng. Để thực hiện chiến dịch, Việt Nam huy động số lượng lớn phương tiện chiến

tranh cùng lực lượng quân đội hùng hậu bao gồm lực lượng của Quân đoàn 2, Quân

đoàn 3, Quân đoàn 4, Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu 9, Đoàn 901 không quân,

Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 và Lữ đoàn hải quân đánh bộ 101… kết hợp với lực

lượng của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia mở cuộc tấn công tổng

lực vào Campuchia. Tuy gặp phải sự kháng cự khá quyết liệt của lực lượng Khmer

đỏ nhưng với quân số và vũ khí vượt trội, quân đội Việt Nam liên tục đánh bại các

cuộc kháng cự của quân Khmer đỏ tại Takeo, Battambang, Siem Reap, Ratanakiri,

Mondolkiri, Kompong Cham...

Ngày 7/1/1979 Quân đội Việt Nam cùng lực lượng của Mặt trận Đoàn kết

dân tộc cứu nước Campuchia tiến vào giải phóng hoàn toàn Phnom Penh đánh dấu

sự sụp đổ hoàn toàn sự cai trị tàn bạo của chính quyền Polpot – Ieng Xari. Tàn quân

Khmer đỏ chạy đến khu vực biên giới Campuchia – Thái Lan, thậm chí vượt sang

đất Thái Lan để xây dựng các vùng “đất thánh” và nhận được sự hậu thuẫn của

Thái Lan, Trung Quốc, Mĩ để chống chính quyền cách mạng.

Trước đó ngày 5/1/1979 với 66 đại biểu của Mặt trận dân tộc cứu nước

Campuchia được triệu tập tại Mimot và đi tới thống nhất thành lập Đảng Nhân dân

Cách mạng Campuchia. Sau khi Phnom Penh được giải phóng (7/1/1979) Hội đồng

Cách mạng Campuchia (xem như Chính phủ lâm thời) được thành lập do Heng

Samrin làm Chủ tịch. Ngày 18/2/1979 đại diện của Hội đồng Cách mạng

Campuchia Heng Samrin kí với Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng Hiệp ước

hòa bình, hữu nghị và hợp tác có giá trị trong vòng 25 năm, theo đó mong muốn

quân đội Việt Nam tiếp tục ở lại để giúp nhân dân và Chính phủ Cách mạng

Campuchia loại trừ sự quay lại của Khmer đỏ và giúp Campuchia tái thiết đất nước.

Hiệp ước cũng khẳng định “Cộng hòa XHCN Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân

Campuchia kiên trì chính sách quan hệ hữu nghị, láng giềng tốt với Thái Lan và

các nước khác ở Đông Nam Á, tích cực góp phần vào hòa bình, ổn định và phồn

vinh của khu vực Đông Nam châu Á”[10, tr.4]. Mùa xuân 1981 hiến pháp mới của

Campuchia được công bố, bầu cử toàn quốc cũng được tiến hành nhằm chọn các đại

biểu quốc hội và thành lập chính phủ mới trong đó Heng Samrin được bầu làm Chủ

tịch nước, Pexovan được bầu làm Phó chủ tịch phụ trách bộ Quốc phòng và Husen

được bầu làm Bộ trưởng Ngoại giao.

Chính quyền mới của Campuchia được Việt Nam, Liên Xô, Cuba, các nước

XHCN ở Đông Âu công nhận. Trong khi Mĩ, Trung Quốc, các nước phương Tây,

Thái Lan và các nước ASEAN khác xem chính quyền Heng Samrin là tay sai của

Việt Nam và tiếp tục công nhận chính phủ Polpot. Chính vấn đề Campuchia đã làm

nảy sinh những bất đồng mới giữa Thái Lan – Việt Nam. Như trên đã trình bày, khi

Việt Nam đưa quân vào Campuchia thì quan hệ Thái Lan – Việt Nam ngày càng

xấu đi, lập trường của Thái Lan và Việt Nam ngày càng khác xa nhau. Trong khi

Việt Nam công nhận vào giúp đỡ chính quyền Cộng hòa Nhân dân Campuchia, xem

đây là đại diện hợp pháp cho nhân dân Campuchia. Việt Nam xem việc quân đội

mình đóng tại Campuchia là vấn đề bình thường vì có sự chấp thuận của chính phủ

Cộng hòa Nhân dân Campuchia để ngăn chặn thế lực Polpot – Ieng Xari quay trở lại

nắm quyền và góp phần gìn giữ sự ổn định trong khu vực. Ngược lại, Thái Lan xem

chính quyền Polpot là đại diện cho Campuchia đồng thời lên án Việt Nam đưa quân

vào Campuchia là nguyên nhân chính làm cho tình hình khu vực căng thẳng và đe

dọa đến an ninh Thái Lan. Mặt khác vấn đề Campuchia còn chịu ảnh hưởng của

những vấn đề liên quan khác trong quan hệ quốc tế. Các nước lớn như Mĩ, Liên Xô,

Trung Quốc tìm cách can thiệp vào vấn đề Campuchia nhằm thể hiện sức mạnh

cũng như tầm ảnh hưởng của mình. Từ đó, lôi kéo các nước khác hình thành nên hai

phe đối địch nhau. Vấn đề Campuchia lúc này không còn là chuyện của Campuchia,

Việt Nam hay Thái Lan nữa mà bị đẩy lên thành vấn đề toàn cầu đồng thời không

thoát khỏi cái bóng của sự đối đầu trong Chiến tranh lạnh.

Khi tìm hiểu nguồn gốc của vấn đề Campuchia không thể xem xét vấn đề

trên khía cạnh đơn tuyến mà phải đặt trong hoàn cảnh và diễn biến chung của tình

hình quốc tế cũng như mối quan hệ giữa các cường quốc mới thấy hết tính chất

phức tạp của vấn đề này. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt

Nam kết thúc thắng lợi, cục diện quan hệ quốc cũng có nhiều diễn biến phức tạp.

Trong khi thế lực của Mĩ có giảm sút đôi chút sau thất bại ở Việt Nam buộc phải

hạn chế sự có mặt của mình ở một số khu vực trên thế giới trong đó có khu vực

Đông Nam Á, nhưng Mĩ không muốn khu vực này rơi vào tầm ảnh hưởng của Liên

Xô hoặc Trung Quốc nên tìm nhiều phương cách để đối phó. Chiến tranh lạnh bước

vào giai đoạn mới, tuy bản chất vấn đề vẫn chưa thay đổi nhưng cách thức thực hiện

của hai phe (TBCN và XHCN) có nhiều thay đổi đó chính là việc hai cực Xô – Mĩ

đã chuyển sang đối thoại với nhau nhiều hơn. Trong khi đó, một số mối quan hệ

được xem là truyền thống tốt đẹp trong chiến tranh ngày càng xấu đi và trở thành

thù địch mà điển hình là quan hệ Trung Quốc – Việt Nam. Một trong những nguyên

nhân làm cho quan hệ Trung – Việt xấu đi chính là mâu thuẫn giữa Trung Quốc và

Liên Xô chưa được cải thiện trong khi Trung Quốc cho rằng, Việt Nam ngày càng

ngả về phía Liên Xô. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn xem Việt Nam có vị trí

chiến lược rất quan trọng, luôn muốn Việt Nam phụ thuộc vào mình trong tất cả

mọi vấn đề, kể cả việc muốn cuộc chiến tranh Việt Nam chống Mĩ kéo dài để Trung

Quốc đạt được mục đích làm Mĩ suy yếu. Do đó khi Việt Nam không thực hiện theo

đúng ý đồ của họ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc thực hiện những kế sách gây tổn

hại lớn trong quan hệ hai nước. Trung Quốc từng bước bắt tay với Mĩ để chống

Liên Xô và thực hiện những chính sách gây ảnh hưởng xấu đến cách mạng Việt

Nam, đến mối quan hệ Trung - Việt. Quan hệ thù địch giữa Trung Quốc và Việt

Nam được đẩy lên đỉnh điểm khi Trung Quốc cho quân tấn công Việt Nam vào

tháng 2/1979.

Trái ngược với quan hệ Việt – Trung, quan hệ Việt – Xô ngày càng gắn bó

thắm thiết. Ngày 3/11/1978 Việt Nam – Liên Xô kí Hiệp ước hữa nghị có giá trị 25

năm, trong hiệp định khẳng định “trong trường hợp một nước nào đó rơi vào mục

tiêu xâm lược hoặc bị đe dọa, hai thành viên sẽ bàn bạc với nhau nhằm loại trừ sự

đe dọa và thực hiện biện pháp cùng nhau bảo vệ hòa bình và an ninh của hai

nước”[50, tr.82]. Bên cạnh đó Liên Xô tăng cường viện trợ cho Việt Nam những

gói viện trợ hàng triệu rúp, Việt Nam thực sự trở thành đồng minh chiến lược của

Liên Xô ở khu vực Đông Nam Á.

Đối với Thái Lan, việc Mĩ thất bại trong cuộc chiến tại Việt Nam làm Thái

Lan thay đổi chiến lược đối ngoại của mình, ít phụ thuộc vào Mĩ hơn. Thái Lan thực

hiện các bước đi ngoại giao mang tính độc lập hơn, trong đó có việc từng bước thực

hiện các bước đi trong quan hệ với Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô. Quan hệ giữa

các nước trong tổ chức ASEAN được đẩy mạnh hơn sau Hiệp ước Bali (1976)

nhằm đưa tổ chức này ngày càng lớn mạnh hơn, liên kết và độc lập hơn trước sự

ảnh hưởng của các cường quốc lớn. Quan điểm của Thái Lan là “Phát triển mối

quan hệ với các cường quốc một cách cân bằng, phù hợp với lợi ích quốc gia, đồng

thời hợp tác về các mặt kinh tế, khoa học kĩ thuật với các nước đang và đã phát

triển, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường”[77, tr.161]. Giới lãnh đạo

Thái Lan cũng thấy được tiềm năng to lớn của các nước Đông Dương mà Thái Lan

có thể hợp tác để làm giàu cho mình như nguồn nhân công rẻ, thị trường tiêu thụ

hàng hóa …

Trong khi đó vấn đề bình thường hóa quan hệ Mĩ – Việt Nam gặp những khó

khăn qua ba vòng đàm phán tại Pháp (vòng 1: ngày 3 – 4/5/1977; vòng 2: ngày 2 –

3/6/1977; vòng 3: ngày 19 – 20/12/1977) giữa phái đoàn của Việt Nam do Thứ

trưởng ngoại giao Phan Hiền dẫn đầu hội đàm với phái đoàn Mĩ do R. Holbrooke

dẫn đầu cuối cùng đã đi đến ngõ cụt do bất đồng giữa hai bên khá lớn. Phía Mĩ đòi

bình thường hóa vô điều kiện, ý không chấp nhận những điều kiện Việt Nam đưa ra,

Mĩ đưa ra yêu cầu hai nước sẽ thiết lập văn phòng liên lạc tại Hà Nội và Oashinton

gắn với việc giúp Mĩ tìm kiếm lính Mĩ mất tích tại Việt Nam. Trong khi Việt Nam

gắn vấn đề bình thường hóa với việc Mĩ “Bỏ cấm vận và lập quan hệ ngoại giao

đầy đủ, Mĩ viện trợ cho Việt Nam 3,25 tỉ USD như đã hứa”[70, tr.361]. Đến năm

1978 Mĩ cũng đặt việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam gắn với việc Việt

Nam không được xâm chiếm Campuchia, vấn đề người tị nạn, Việt Nam không

được quá phụ thuộc vào Liên Xô. Những yêu cầu Mĩ đưa ra đã bị Việt Nam bác bỏ,

đàm phán bình thường hóa quan hệ Việt – Mĩ hoàn toàn thất bại và phải đợi cho đến

1995.

Ngược lại quan hệ Mĩ – Trung có những chuyển biến tích cực. Sau thất bại

trong cuộc chiến tại Việt Nam, nhìn thấy tầm ảnh hưởng của Liên Xô ngày càng lớn

ở nhiều khu vực trên thế đặc biệt ở Đông Nam Á, Mĩ quyết định đẩy nhanh quá

trình bình thường hóa và phát triển mối quan hệ với Trung Quốc nhằm lôi kéo đồng

minh và tạo thêm sức mạnh trong cuộc đối đầu với Liên Xô. Đây cũng là một trong

những nguyên nhân làm cho việc đàm phán bình thường thường hóa quan hệ Việt –

Mĩ bị cản trở vì rõ ràng để làm hài lòng Trung Quốc, Mĩ không thể một sớm một

chiều xích lại gần Việt Nam được. Mĩ đã chọn Trung Quốc. Tổng thống Mĩ Carter

từng khẳng định “Bước đi với Trung Quốc có tầm quan trọng tối cao, cho nên sau

vài tuần đánh giá, tôi quyết định trì hoãn cố gắng về Việt Nam cho đến khi kí hiệp

định của chúng ta ở Bắc Kinh” [70, tr.365]. Để thể hiện quyết tâm bình thường hóa

quan hệ với Trung Quốc, Mĩ cử Ngoại trưởng Cyrus Vance thăm Bắc Kinh

(23/8/1978) để thúc đẩy mối quan hệ hai nước. Những bước đi của Mĩ được chính

quyền Trung Quốc hết sức hoan nghênh, thậm chí để tỏ rõ thiện chí của mình, một

nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc còn mạnh miệng tuyên bố “Trung Quốc là

NATO phương Đông”. Ngày 15/12/1978 Mĩ và Trung Quốc ra thông cáo chung

chính thức công nhận nhau đồng thời thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức bắt

đầu từ ngày 1/1/1979. Từ ngày 29/1 đến 4/2/1979 nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng

Tiểu Bình chính thức thăm Mĩ đánh dấu mối quan hệ Trung – Mĩ bình thường hóa.

Đến đầu những năm 80 ba nước lớn Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc đã có sự

điều chỉnh chiến lược của mình đó là vừa đấu tranh vừa hòa hoãn, kiềm chế lẫn

nhau nhằm tập trung vào phát triển kinh tế. Trong đó vấn đề Campuchia được đưa

vào chương trình nghị sự trong hội đàm giữa các nước lớn. Tháng 10/1982 tại Bắc

Kinh, đàm phán bình thường hóa quan hệ Trung Quốc – Liên Xô trong đó Trung

Quốc nêu ra một trong những trở ngại lớn cho việc bình thường hóa quan hệ hai

nước đó chính là vấn đề Campuchia đồng thời Trung Quốc đưa ra bản yêu sách 5

điểm về vấn đề Campuchia cho Liên Xô. Nội dung chính của bản yêu sách bao gồm

“1. Liên Xô chấm dứt ủng hộ Việt Nam xâm lược Campuchia; 2. Việt Nam tuyên bố

rút hết quân khỏi Campuchia. Đàm phán bình thường hóa quan hệ Trung – Việt sẽ

bắt đầu sau khi những đơn vị quân Việt Nam đầu tiên rút; 3. Trung Quốc có những

biện pháp cải thiện quan hệ với Liên Xô; 4. Lập chính phủ liên hiệp Campuchia đại

diện cho tất cả các phe phái ở Campuchia. Đảm bảo quốc tế ho một nước

Campuchia độc lập và không liên kết”[51, tr.29]. Ngày 1/3/1983 Trung Quốc cho

công khai 5 điểm trên, chủ ý thực của Trung Quốc là sử dụng vấn đề Campuchia để

mặc cả với Liên Xô nhưng chưa có thiện chí giải quyết vấn đề vì Trung Quốc cho

rằng ghìm chân Việt Nam càng lâu sẽ càng có lợi cho mục đích của họ.

Trong giai đoạn 1979 – 1986 cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật có những

bước phát triển như vũ bão, khoa học – kĩ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực

tiếp. Các nước TBCN không ngừng áp dụng khoa học – kĩ thuật vào trong sản xuất

và cuộc sống, thu được những thành quả rất khả quan trong việc phát triển đất nước.

Ngược lại, Liên Xô và các nước XHCH rơi vào cuộc khủng hoảng ngày càng trầm

trọng, kinh tế sụt giảm và mâu thuẫn xã hội ngày càng diễn biến phức tạp. Trong

tình hình đó, năm 1985 M. Goocbachop lên nắm quyền đồng thời tiến hành cuộc cải

tổ toàn diện. Bên cạnh đó, tình hình thế giới trong giai đoạn này xu thế hội nhập

khu vực và thế giới diễn ra rất mạnh mẽ, sự ra đời và liên kết của các tổ chức khu

vực ngày một phát triển mạnh, trong đó tiêu biểu là sự hội nhập sâu rộng của tổ

chức EU.

Tóm lại, tình hình thế giới giai đoạn 1979 – 1986 bên cạnh việc xuất hiện

những yếu tố tích cực vẫn còn đó những diễn biến hết sức phức tạp, ẩn chứa nhiều

vấn đề nguy hiểm cho hòa bình thế giới. Năm 1979 vấn đề Campuchia xảy ra, sự

phức tạp của vấn đề này được đẩy lên không còn là vấn đề riêng của Việt Nam,

Campuchia hay Thái Lan mà trở thành một vấn đề toàn cầu đẩy cuộc Chiến tranh

lạnh sang một giai đoạn mới, trong đó cực Mĩ – Trung Quốc và đồng minh của họ

đối đầu với cực Liên Xô – Việt Nam và những đồng minh của mình. Hầu như trong

giai đoạn 1979 – 1991 những vấn đề quan hệ quốc tế có liên quan đến Việt Nam,

Thái Lan, Campuchia cũng như quan hệ Thái Lan – Việt Nam đều ít nhiều có dính

dáng đến vấn đề Campuchia.

2.2. Lập trường của Thái Lan và Việt Nam xung quanh vấn đề Campuchia

2.2.1. Lập trường đối lập và nguy cơ đối đầu giữa Thái Lan – Việt Nam

xung quanh vấn đề Campuchia (1979 – 1980).

Nếu trong giai đoạn 1976 – 1978 mối quan hệ Thái Lan và Việt Nam có

những chuyển biến tích cực trong việc xích lại gần nhau thì từ cuối 1978 – 1979

mối quan hệ hai nước bắt đầu xuất hiện lập trường đối lập và những nguy cơ dẫn

đến đối đầu xung quanh vấn đề Campuchia. Việt Nam đưa quân vào Campuchia lật

đổ chế độ diệt chủng và thỏa thuận với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia

tiếp tục sự hiện diện của quân đội Việt Nam tại Campuchia để ngăn chặn sự quay

lại của chế độ Polpot – Ieng Xari, đồng thời giúp nhân dân Campuchia có điều kiện

tái thiết đất nước, điều đó làm chính phủ Thái Lan mà đặc biệt là giới quân sự Thái

Lan hết sức lo lắng. Thêm vào đó, sự tăng cường tuyên truyền của chính phủ Trung

Quốc khi cho rằng, Việt Nam có ý định lập Liên bang Đông Dương và sẽ xâm lược

Thái Lan càng làm cho Thái Lan có lý do để lo sợ hơn. Một lần nữa cái gọi là “sự

trả thù của cộng sản Việt Nam” lại có dịp bùng phát trong tư tưởng của giới cầm

quyền Thái Lan. Mặt khác, chính phủ Thái Lan vẫn luôn luôn xem Việt Nam là đối

thủ cạnh tranh lớn của họ ở trong khu vực nhất là sau khi nhân dân Việt Nam kết

thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ và có trong tay một tiềm lực quân sự

hùng mạnh, được báo chí phương Tây xem là không có đối thủ trong khu vực Đông

Nam Á nếu xét về khía cạnh này.

Năm 1975 – 1978 thế lực lượng Polpot – Ieng Xari liên tục gây hấn ở biên

giới Tây Nam Việt Nam và sau đó mở cuộc tấn công quy mô lớn vào biên giới Việt

Nam, giới quân sự Thái Lan xem đó là biện pháp hữu hiệu mà chính phủ

Campuchia Dân chủ gián tiếp giúp Thái Lan làm cho Việt Nam suy yếu. Dù trên

thực tế, chính phủ Vương quốc Thái Lan không ưa gì chính quyền Campuchia Dân

chủ, nhưng do những tính toán về quyền lợi và an ninh của mình, Thái Lan vẫn

ngầm ủng hộ những hành động của Polpot – Ieng Xari đối với Việt Nam. Tuy vậy

lúc đầu trong mọi phát biểu, giới cầm quyền Thái Lan vẫn tuyên bố rất ngoại giao

rằng, Thái Lan vẫn giữ lập trường trung lập của mình đối với cuộc xung đột giữa

Campuchia Dân chủ và CHXHCN Việt Nam.

Trong cuộc xung đột với lực lượng Khmer đỏ, quân đội nhân dân Việt Nam

không chỉ đập tan các cuộc chống phá của lực lượng Polpot – Ieng Xari mà còn kết

hợp với lực lượng của Mặt trận Đoàn kết dân tộc Cứu nước Campuchia tấn công lật

đổ ách thống trị của thế lực Polpot – Ieng Xari, giải phóng Phnompenh và thành lập

chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia do ông Heng Samrin đứng đầu. Điều này

trái ngược hoàn toàn với mong muốn của chính phủ Thái Lan. Việt Nam giúp nhân

dân Campuchia lật đổ chế độ Polpot và giúp Campuchia thành lập chính phủ mới

không chỉ thể hiện sức mạnh quân sự của Việt Nam mà còn thể hiện ưu thế của Việt

Nam trong khu vực đặc biệt là tầm ảnh hưởng lớn đối với chế độ mới thành lập ở

Campuchia. Khi Việt Nam mới đưa quân vào Campuchia, chính phủ Thủ tướng

Kriangsak Chomanan vẫn tuyên bố Thái Lan trung lập với cuộc xung đột tại

Campuchia, nhưng bắt đầu từ đây giữa Thái Lan – Việt Nam bắt đầu xuất hiện

những quan điểm đối lập xung quanh vấn đề Campuchia.

Cuối năm 1978 do vấn đề Campuchia và Việt Nam đưa quân vào Campuchia

đã làm chi tiêu quân sự của Thái Lan chiếm khoảng ¼ ngân sách quốc gia, đây là

một khoản chi không nhỏ chút nào đối với ngân sách Thái Lan trong giai đoạn khó

khăn. Các tùy viên quân sự Thái Lan lên tiếng khẳng định, sở dĩ chi phí quân sự

tăng nhanh như vậy vì Thái Lan lo sợ có thể xảy ra những vụ đụng chạm dữ dội có

thể xảy ra với Việt Nam khi tình hình Campuchia ngày một đi theo quỹ đạo mà

Thái Lan không hề mong muốn. Sự lo sợ của Thái Lan càng tăng lên khi Việt Nam

– Liên Xô kí Hiệp ước tương trợ (3/11/1978). Thái Lan cho rằng, với sự giúp đỡ của

Liên Xô sẽ làm cho Việt Nam sẽ mạnh hơn về mặt quân sự và có thể đe doạ trực

tiếp đến họ. Để đối phó với tình hình trên, ngân sách cho các hợp đồng mua vũ khí

Mĩ của Thái Lan đạt tới 30 triệu USD (1978).

Một trong những vấn đề dẫn đến quan hệ đối lập giữa Thái Lan – Việt Nam

chính là việc Thái Lan hợp tác với Trung Quốc và không ngừng tiếp tế cho Khmer

đỏ. Từ khi xung đột giữa Campuchia Dân chủ – Việt Nam ngày một leo thang,

những chuyến hàng viện trợ của Trung Quốc qua trung gian Thái Lan cho Khmer

đỏ cũng không ngừng tăng lên. Riêng tháng 9/1978 bốn tàu biển Trung Quốc đã bốc

lên cảng Congpongxom (tây Nam Campuchia) “500 xe tăng, 300 đại bác, 4000 tấn

đạn dược và bộc phá, 6 máy bay chiến đấu, 2 máy bay ném bom, 4 tốc hạm và nhiều

máy kéo”[14, tr.4]. Chính phủ Trung Quốc đã có những tính toán từ trước trong

việc muốn dùng Thái Lan làm nơi trung chuyển hàng tiếp tế cho Khmer đỏ. Tháng

11/1978 Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình thăm Thái Lan trong đó đưa ra

yêu cầu Thái Lan cho máy bay Campuchia Dân chủ đi qua bầu trời Thái Lan. Trung

Quốc còn mong muốn Thái Lan để cho họ sử dụng căn cứ hải quân Sattahip trong

vịnh Thái Lan. Không giấu diếm với báo chí, Đặng Tiểu Bình tiết lộ chuyến đi của

ông đến Thái Lan là Trung Quốc đang giúp duy trì cuộc chiến đấu cho Khmer đỏ

bằng cách tiếp tế qua đường Thái Lan. Để đạt được mục tiêu thuyết phục Thái Lan

cho Trung Quốc trung chuyển hàng hóa tiếp tế cho Khmer đỏ, Đặng Tiểu Bình đã

đưa ra những lời hứa hẹn kèm theo. Lợi dụng giai đoạn này, kinh tế Thái Lan gặp

phải không ít khó khăn trong đó có tình trạng khan hiếm dầu lửa, Trung Quốc xoáy

sâu vào vấn đề này để buộc Thái Lan phải cấu kết chặt chẽ hơn với mức người Thái

mong muốn. Chỉ khi nào Thái Lan bằng lòng để cho Trung Quốc tái trang bị cho

lực lượng Khơme đỏ thông qua các căn cứ không quân cũ của Mĩ ở Takli thuộc

miền Trung Thái Lan và trở thành trạm trung chuyển cho việc tiếp tế vũ khí thì

những khối lượng dầu mỏ đã được hứa hẹn sẽ được chuyển giao cho Thái Lan.

Trong cuộc hội đàm giữa Phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình với Thủ tướng Kriangsak

Chomanan hai bên đã đạt được thỏa thuận trong đó Thái Lan sẽ trở thành trạm trung

chuyển để Trung Quốc tiếp tế cho Khmer đỏ nhằm giúp lực lượng này có đủ sức

chống lại quân đội Việt Nam. Đổi lại Thái Lan được Trung Quốc giành cho những

ưu đãi trong các hợp đồng buôn bán, cụ thể “Trung Quốc cấp cho Thái Lan 600.000

tấn dầu thô, 240.000 tấn dầu dùng cho động cơ Diesel với giá ưu đãi, Trung Quốc

sẽ thu mua 1,6 tỉ bath nông sản của Thái Lan”[84, tr.2]. Thái Lan và Trung Quốc

cũng nhất trí 29 công trình hợp tác đồng thời tiến tới kí kết hiệp định hợp tác tổng

quát về khoa học – kĩ thuật giữa hai nước. Một thỏa thuận kèm theo để Thái Lan

chấp nhận trở thành trạm trung chuyển viện trợ của Trung Quốc cho Khmer đỏ là

Trung Quốc cam kết thôi ủng hộ các lực lượng chống đối chính phủ Thái Lan ở

vùng Đông Bắc nước này.

Trong khi đó cuộc xung đột giữa quân đội Việt Nam và lực lượng Polpot

diễn ra ngày càng ác liệt, để chiến sự không ảnh hưởng đến lãnh thổ Thái Lan, ngay

từ tháng 1/1979 giữa Thái Lan và Việt Nam có sự thỏa thuận, quân đội Việt Nam sẽ

tôn trọng một khoảng cách đường biên giới chung Campuchia – Thái Lan 20km gọi

là “dãi đất cấm” để khỏi đặt Thái Lan vào tình thế khó xử.

Để đối phó với vấn đề Việt Nam đưa quân vào Campuchia, Thái Lan tích

cực chạy đua vũ trang và tìm kiếm đồng minh ủng hộ. Tháng 2/1979 chuyến đi của

Thủ tướng Thái Lan Kriangsak Chomanan đến Châu Âu và Mĩ nhằm tìm sự ủng hộ

đối với họ xung quanh vấn đề Campuchia đồng thời tìm kiếm những hợp đồng mua

vũ khí hiện đại để trang bị cho quân đội Thái Lan. Sau cuộc chiến tranh tại Việt

Nam kết thúc các khoản viện trợ về quân sự không hoàn lại của Mĩ cho Thái Lan đã

chấm dứt, bây giờ Thái Lan chỉ có thể đàm phán để thực hiện các hợp đồng mua

bán vũ khí với Mĩ và yêu cầu được trả dần. Thủ tướng Kriangsak Chomanan cũng

muốn Mĩ nhượng lại cho Thái Lan số vũ khí ước chừng khoảng 11 triệu USD của

Mĩ hiện còn tồn đọng tại các kho của Thái Lan trong chiến tranh Việt Nam mà

không phải trả tiền. Trong chuyến thăm Mĩ, đường lối đối ngoại mềm dẻo của Thái

Lan được Thủ tướng Kriangsak Chomanan vận dụng rất linh hoạt. Trong tất cả các

cuộc họp báo, Thủ tướng Kriangsak Chomanan luôn tuyên bố Thái Lan trung lập

đối với cuộc xung đột tại Campuchia. Tuyên bố lập trường trung lập của Thái Lan

không phải là thiện chí chân thực mà chỉ nhằm xem vấn đề sẽ đi đến đâu, đồng thời

cũng nghe ngóng phản ứng của các nước lớn cũng như dư luận quốc tế trước khi có

phản ứng chính thức về vấn đề này.

Trái ngược hoàn toàn với tuyên bố trung lập trên, trong cuộc hội đàm với

tổng thống Mĩ, Thủ tướng Kriangsak Chomanan khẳng định “Rất lo ngại về vấn đề

Campuchia đặc biệt là sự đe doạ của phía Việt Nam với an ninh Thái Lan nên ưu

tiên hàng đầu của Thái Lan là sắp xếp các lực lượng quốc phòng đồng thời mong

muốn Mĩ gấp rút bán vũ khi và chuyển gấp cho Thái Lan càng sớm càng tốt để Thái

Lan có thể đối phó khi tình hình xấu nhất”[94, tr.11]. Vũ khí Thái Lan đặt mua của

Mĩ gồm các loại trang bị cho các lực lượng cả lục quân, hải quân, không quân trong

đó đáng chú ý có máy bay chiến đấu hiện đại F5. Đồng thời để giúp đỡ Thái Lan,

Mĩ sẽ cho một đội ngũ cố vấn để hướng dẫn về kĩ thuật cho quân đội Thái Lan. Thủ

tướng Kriangsak Chomanan cũng thuyết phục Mĩ thực hiện lại cam kết bảo vệ chủ

quyền anh ninh của Thái Lan như trước khi khối SEATO giải thể. Đáp lại yêu cầu

của Thủ tướng Kriangsak Chomanan, Tổng thống Mĩ Carter đã hứa “Cam kết sâu

sắc với sự toàn vẹn lãnh thổ, tự do và an ninh của Thái Lan. Tổng thống Carter

cũng dự tính yêu cầu Quốc hội Mĩ tán thành việc chuyển cho Thái Lan số vũ khí trị

giá trên 11 triệu USD tồn kho từ hồi chiến tranh Việt Nam cho chính phủ Thái Lan,

đồng thời hứa chuyển giao nhanh máy bay chiến đấu hiện đại F5 và các loại vũ khí

tối tân khác cho Thái Lan”[97, tr.13]. Trong cuộc trả lời báo chí, người phát ngôn

của Bộ quốc phòng Mĩ – Tướng Pinck cũng cho rằng “Việt Nam có máy bay MIG

của Nga nên Thái Lan cần có máy bay hiện đại để chuẩn bị đối phó với họ”[95,

tr.15]. Mặc dù đã giải thể khối SEATO và Mĩ đã hạn chế sự có mặt của mình ở khu

vực Đông Nam Á, nhưng trước việc xuất hiện vấn đề Campuchia, Mĩ vẫn không

muốn Liên Xô hoặc Trung Quốc chiếm ưu thế trong vấn đề này nên việc cam kết

ủng hộ Thái Lan nhằm khẳng định với các cường quốc khác rằng, ảnh hưởng của

Mĩ ở khu vực này thực tế chưa hề suy giảm.

Thủ tướng Kriangsak Chomanan cho rằng, xung đột tại Campuchia có sự

tham gia của Việt Nam ngay cửa ngõ gần biên giới Thái Lan làm cho Thái Lan thực

sự lo lắng, do đó Thái Lan phải chuẩn bị sẵn sàng để đối phó. Thủ tướng Kriangsak

Chomanan cũng khẳng định, mức độ lo ngại như thế nào tuỳ thuộc vào mức độ

chiến sự diễn ra tại Campuchia. Điều làm Thái Lan rất lo lắng là việc thành lập Mặt

trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia. Thái Lan cho rằng, “Mặt trận này là

sản phẩm của Hà Nội và là yếu tố làm cho tình hình Đông Nam Á không ổn

định”[101, tr.5]. Mặt khác, chính phủ Kriangsak Chomanan vẫn để ngõ một khả

năng để khi cần có thể đàm phán với Việt Nam. Bằng chứng rõ nhất là ngày

2/2/1979 Đại sứ Thái Lan tại Việt Nam, Coxon Xitthavanon thay mặt chính phủ

Thái Lan trao cho Việt Nam một số lượng lương thực và thực phẩm để khắc phục lũ

lụt đồng thời vẫn tiếp tục bán lương thực và trao đổi hàng hóa với Việt Nam.

Do sức ép từ giới quân sự trong nước, từ sự tác động của vấn đề Campuchia

cũng như sự chi phối của Mĩ và Trung Quốc, chính phủ Thái Lan đã quyết định

những khoản đầu tư lớn cho quân đội và tích cực tìm đồng minh ủng hộ nhằm sẳn

sàng đối phó với Việt Nam. Khi nổ ra vấn đề Campuchia, Thái Lan trở thành nơi có

vị trí chiến lược quan trọng mà các nhà lãnh đạo các nước lớn quan tâm thăm viếng.

Các nước ASEAN cũng xem sự hiện diện của quân đội Việt Nam tại

Campuchia sẽ chứa đựng những nguy cơ xung đột lan rộng. Riêng Singapore

khẳng định sự ủng hộ nhiệt thành giành cho Thái Lan và nhấn mạnh rằng, bất kì sự

leo thang quân sự nào ở Campuchia hay bất kì sự xâm nhập nào vào lãnh thổ Thái

Lan đều sẽ bị xem là hành động trực tiếp đe dọa đến an ninh các nước ASEAN.

Thái độ lên án mạnh mẽ trên của ASEAN đối với Việt Nam không phải hoàn toàn

các nước ASEAN muốn đối đầu quyết liệt ngay với Việt Nam mà vẫn để ngõ những

khả năng hội đàm trực tiếp với Việt Nam để giải quyết vấn đề. Các nước ASEAN

cũng kêu gọi một giải pháp chính trị ở Campuchia và bày tỏ thái độ sẳn sàng đàm

phán trực tiếp với Việt Nam để tìm giải pháp.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn và nguy cơ đối đầu giữa

hai nước Thái Lan – Việt Nam là việc Thái Lan hợp tác với Trung Quốc để tiếp tế

cho Khmer đỏ, hành động này bị Việt Nam và chính phủ Cộng hòa Nhân dân

Campuchia kịch liệt phản đối. Ngày 27/2/1979 người phát ngôn Bộ ngoại giao

Campuchia lên án Trung Quốc dùng đất Thái Lan chống chính phủ Cộng hòa Nhân

dân Campuchia. Trong đó khẳng định, “gần đây Thái Lan cho Trung Quốc dùng

đảo Kut làm bàn đạp đưa vũ khí, lương thực vào đất liền tiếp tế cho Polpot. Tàu

thuyền đánh cá Thái Lan liên tục vi phạm vùng biển Campuchia, tạo điều kiện thực

hiện việc tiếp tế lén lút đó. Thái Lan dung túng cho bọn Lon Nol, In Tam, từ Thái

Lan xâm nhập quấy phá vùng Preh Vihear và một số nơi khác thuộc Campuchia.

Mặc dù chính phủ Thái Lan phủ nhận nhưng rõ ràng bọn phản động Trung Quốc và

tay sai đã sử dụng đất Thái Lan để tiến hành những hoat động chống lại nước Cộng

hòa Nhân dân Campuchia”[11, tr.4]. Chính phủ Việt Nam và chính phủ Cộng hòa

Nhân dân Campuchia khẳng định, hành động hợp tác với Trung Quốc của Thái Lan

để tiếp tay cho các thế lực chống chính phủ là không phù hợp với chính sách trung

lập đối với tình hình Campuchia mà nhà cầm quyền Thái Lan tuyên bố, không phù

hợp với lợi ích của nhân dân Thái Lan, xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và

an ninh của Campuchia, làm tổn thương đến quan hệ truyền thống giữa hai nước

Thái Lan – Campuchia. Việt Nam mong muốn Thái Lan hãy vì quan hệ hữu nghị

láng giềng tốt đẹp giữa hai nước, vì hòa bình và ổn định khu vực mà có những biện

pháp thích đáng để chấm dứt và ngăn chặn những hành động xâm phạm chủ quyền

và an ninh của Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Đồng thời cảnh báo, nếu hành động

đó tiếp tục và dẫn đến những hậu quả đáng tiếc thì phía Thái Lan sẽ phải chịu trách

nhiệm.

Tuy vậy, đối với vấn đề này Thái Lan vẫn một mực phủ nhận khi phát biểu

trước báo giới. Trong chuyến thăm Mĩ (tháng 2/1979) khi một số phóng viên hỏi,

Thủ tướng Kriangsak Chomanan nghĩ sao khi ông Đặng Tiểu Bình thăm Thái Lan

có nói rằng con đường tiếp tế duy nhất cho Ponpol là qua Thái Lan? Thủ tướng

Kriangsak Chomanan né tránh và trả lời rất ngoại giao rằng, “đó không phải là vấn

đề bất kì ai có thể đưa ra lời tuyên bố hay phát biểu thay cho Thái Lan. Dù đó là

Phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình hay bất kì ai khác vì đó là vấn đề cần có mức độ

thích hợp với tình hình. Chính phủ Thái Lan triệt để giữ đúng nguyên tắc không can

thiệp vào công việc nội bộ của nước khác”[94, tr.11]. Bộ ngoại giao Thái Lan cũng

một mực khẳng định việc Thái Lan trở thành con đường tiếp tế từ bên ngoài vào

cho Khmer đỏ chỉ là chuyện phỏng đoán.

Để phản đối hành động của Thái Lan hợp tác với Trung Quốc tiếp tế cho

Khmer đỏ, Việt Nam đã nhiều lần chính thức lên án vấn đề này. Tháng 3/1979 Đại

sứ VN tại Liên Hợp Quốc lên án Thái Lan và các nước ASEAN ủng hộ Mĩ trong

chiến tranh Đông Dương đó là món nợ của Thái Lan và ASEAN với Đông Dương

nhưng Việt Nam sẵn sàng bỏ qua quá khứ vì lợi ích hòa bình, ổn định ở Đông Nam

Á. Các nước ASEAN nên nhìn về tương lai, đừng nên đi vào con đường sai lầm thứ

hai, cấu kết với bọn phản động Bắc Kinh chống lại nhân dân Việt Nam, Lào,

Campuchia. Đồng thời khẳng định, Việt Nam sẳn sàng cùng Thái Lan và ASEAN

phấn đấu xây dựng Đông Nam Châu Á thành khu vực hòa bình, độc lập, tự do,

trung lập, ổn định và phồn vinh.

Từ khi thế lực Polpot tại Campuchia bị lật đổ, Thái Lan trở nên một địa bàn

chiến lược quan trọng để Trung Quốc có thể giup đỡ cho Khmer Đỏ tiếp tục cuộc

chiến chống lại Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Năm 1979 Đặng Tiểu

Bình có những cuộc tiếp xúc bí mật với Ieng Xari, đồng thời cử Gừng Giao – Uy

viên Bộ chính trị cùng Thứ trưởng ngoại giao Hàn Niệm Long sang Bangkok để hội

đàm với Thủ tướng Thái Lan Kriangsak Chomanan tại căn cứ không quân Utapao

nhằm bàn cụ thể về việc tiếp tế cho Khmer đỏ. Sau khi Việt Nam liên minh với Liên

Xô và việc quân đội Việt Nam vào Campuchia, Thái Lan tìm kiếm đồng minh

chống Việt Nam và đồng ý để Trung Quốc dùng lãnh thổ Thái Lan để tiếp tế cho

Khmer đỏ.

Từ khi thế lực Polpot – Ieng Xari đã bị quân đội Việt Nam và quân của Mặt

trận Dân tộc giải phóng Campuchia đánh đổ đã chạy sang biên giới Campuchia -

Thái Lan thiết lập các vùng “đất thánh” để chống lại quân đội Việt Nam và Cộng

hòa Nhân dân Campuchia, từ đó các chuyến tàu viện trợ của Trung Quốc được ngụy

trang như chở hàng dân sự cập bến Thái Lan thường xuyên hơn. Bộ ngoại giao Việt

Nam đã nhiều lần lên án Thái Lan về vấn đề này, trong đó khẳng định “Nhà cầm

quyền Thái Lan để cho bọn bành trướng Bắc Kinh và đế quốc Mĩ sử dụng lãnh thổ

của mình làm căn cứ để tiếp tế vũ khí, lương thực và thuốc men cho các lực lượng

phản động. Để lãnh thổ Thái Lan làm nơi cư trú, huấn luyện quân đội để chống tiến

hành một cuộc xâm lược và tiến hành chiến tranh tâm lý chống Campuchia”[20,

tr.4].

Lập trường, quan điểm, cách nhìn nhận vấn đề Campuchia trái ngược nhau đã

dẫn đến nhiều vấn đề mâu thuẫn nảy sinh giữa hai nước Thái Lan và Việt Nam xung

quanh vấn đề này. Trong đó vấn đề xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan là

một trong những vấn đề nổi cộm tác động xấu đến mối quan hệ hai nước. Khi

Khmer đỏ bị lật đổ và sau đó bị quân đội Việt Nam cùng quân đội Cộng hòa Nhân

dân Campuchia truy đuổi đến sát biên giới Campuchia – Thái Lan và để tránh sự

truy kích, một bộ phận lớn lực lượng Khmer đỏ đã vượt biên giới sang đất Thái Lan

để xây dựng các vùng “đất thánh” ở đây nhằm chống lại quân đội Việt Nam và

chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Kể từ đó khu vực biên giới Campuchia

– Thái Lan thường xuyên xảy ra những cuộc xung đột mà hai bên thường là đổ lỗi

cho nhau. Lập trường của Thái Lan cho rằng, sở dĩ có những cuộc xung đột tại biên

giới Campuchia – Thái Lan nguyên nhân chính là do quân đội Việt Nam chiếm

đóng Campuchia. Ngược lại, Việt Nam cho rằng nguyên nhân chính dẫn đến các

cuộc đụng độ tại khu vực biên giới Campuchia – Thái Lan là do chính phủ Thái Lan

dung túng tiếp tay cho Khmer đỏ và các thế lực Khmer khác chống đối chính phủ

Cộng hòa Nhân dân Campuchia.

Từ tháng 3 – 5/1979 khi bắt đầu nổ ra những trận đụng độ ác liệt tại các khu

vực biên giới Campuchia – Thái Lan, quân đội Việt Nam và quân đội Cộng hòa

Nhân dân Campuchia đã giáng cho tàn quân Khmer đỏ những đòn chí mạng buộc

lực lượng này lùi sát về biên giới Campuchia và nhảy qua đất Thái Lan. Như trên đã

trình bày, giới quân sự Thái Lan luôn lo sợ về sự tấn công của Việt Nam vào Thái

Lan do đó quân đội Thái Lan đặt trong tình trạng báo động dọc biên giới. Thái Lan

lo các trận giao chiến tràn sang nước mình, lo các cuộc hành quân truy kích vượt

biên giới của Việt Nam đuổi theo Khmer đỏ chạy sang lãnh thổ họ. Theo giới quân

sự Thái Lan, Việt Nam đã triển khai 10 sư đoàn của họ ở miền Tây Bắc Campuchia

dọc theo biên giới Campuchia – Thái Lan nhằm đè bẹp các cuộc kháng cự của

Khmer đỏ ở dãi núi Cardamones nhưng cũng với chủ tâm đe dọa Thái Lan. Trong

mùa khô 1979 Thái Lan nhiều lên án các lực lượng quân đội Việt Nam đã tiến sâu

vào “dãi đất cấm” 12km sát biên giới Thái Lan, các thiết giáp của Việt Nam tiến rất

nhanh tới vài chổ gần biên giới Thái Lan. Thủ tướng Thái Lan Kriangsak

Chomanan đã thông báo cho đại sứ Việt Nam tại Thái Lan là Hoàng Bảo Sơn biết,

“nếu các lực lượng quân đội Việt Nam tiến quá gần biên giới Thái Lan thì an ninh

Thái Lan coi như bị đe dọa”[88, tr.16].

Vấn đề xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan thực sự trở thành một

vấn đề nóng có tác động rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến mối quan hệ hai nước

Thái Lan và Việt Nam. Rất nhiều lần Thái Lan thông qua phương tiện thông tin báo

chí, thông qua Hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN lên án quân đội Việt Nam

vượt biên giới sang Thái Lan để truy quét lực lượng Khmer đỏ và không ít lần đụng

độ với lính biên giới Thái Lan. Thái Lan lo lắng về an ninh của mình bị đe dọa khi

lực lượng Việt Nam tiến vào Campuchia làm mất khu vực đệm lịch sử giữa Thái

Lan và Việt Nam đồng thời Việt Nam đưa quân sát mép biên giới Thái Lan khi đuổi

theo các lực lượng Khơme đỏ. Tháng 4 – 5/1979 hơn 5 vạn lính Khơme đỏ được

phép di chuyển trên 70 km trên lãnh thổ Thái Lan để chạy trốn mũi tiến công của

Việt Nam sau đó quay lại Campuchia để chiến đấu. Tuy các nhà lãnh đạo Thái Lan

vẫn luôn khẳng định họ hành động như vậy trên cơ sở nhân đạo. Trong khi chính

phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia và Việt Nam lên án những hành động đó là tiếp

tay cho lực lượng Polpot của chính phủ Thái Lan, xem đó là nguyên nhân chính gây

nên tình trạng căng thẳng cho Campuchia và khu vực Đông Nam Á.

Thái độ đối lập của Chính phủ Thái Lan đối vơi Việt Nam xung quanh vấn

đề Campuchia dần dần lộ rõ. Thái Lan cho rằng, quân Việt Nam còn ở lại

Campuchia sẽ đe dọa an ninh chủ quyền của họ nên Thái Lan phản đối Việt Nam

chiếm đóng Campuchia và đòi Việt Nam rút quân về nước. Lập trường của Thái

Lan được thể hiện thông qua các bản tuyên bố của Bộ Ngoại giao chính phủ Thái

Lan ở Liên Hợp Quốc và trong Hội nghị Bộ trưởng ASEAN diễn ra tại Indonexia

(1979) và tại Malaixia (1980). Đồng thời Thái Lan cũng muốn tăng cường mạnh

tiềm lực quân sự để đối phó với Việt Nam, bởi theo như lập luận của giới quân sự

Thái Lan thì sau khi Việt Nam giải quyết xong lực lượng Khmer đỏ có thể tràn sang

Thái Lan.

Sự lo lắng của Thái Lan về cái gọi là “Việt Nam sẽ lập Liên bang Đông

Dương và xâm lược Thái Lan” xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, do chính

sach tuyên truyền quy mô của Trung Quốc có sự giúp sức của Mĩ trong vấn đề này.

Thứ hai, thực tế thái độ, lập trường của chính phủ Thái Lan đối với Việt Nam thể

hiện sự không tin cậy và có sự hoài nghi rất lớn, họ không tin tưởng những tuyên bố

không xâm phạm chủ quyền Thái Lan của Việt Nam. Thứ ba, theo các nhà phân

tích nước ngoài thì cho dù Mĩ có chuyển giao bao nhiêu vũ khí cho Thái Lan đi nữa

Thái Lan vẫn thua kém Việt Nam nếu hai bên đụng độ trên chiến trường nếu xét

toàn bộ cục diện.

Do vậy, một mặt Thái Lan tích cực lên án Việt Nam chiếm đóng Campuchia,

kêu gọi các đồng minh ủng hộ và Liên Hợp Quốc can thiệp. Chính phủ Thái Lan

còn gấp rút thực hiện chính sách đầu tư phát triển lực lượng quân đội hùng mạnh.

Những hành động của chính phủ Thái Lan trong việc tìm kiếm đồng minh chiến

lược và các hợp đồng mua vũ khí cho thấy, chính phủ Thái Lan thực sự đã chuẩn bị

để đối phó với Việt Nam trong tình huống xấu nhất là hai bên đụng độ nhau.

Việc quân đội Việt Nam tiếp tục ở lại Campuchia sau khi đã giúp nhân dân

Campuchia lật đổ được chế độ Polpot – Ieng Xari gặp phải sự phản đối của Mĩ,

Trung Quốc và các nước ASEAN. Chính phủ Thái Lan cũng tỏ ra lo lắng khi Mặt

trận Đoàn kết dân tộc Cứu nước Campuchia được thành lập. Thái Lan cho đây là

hoạt động có sự phối hợp chặt chẽ với nhà cầm quyền Việt Nam nhằm uy hiếp Thái

Lan. Thái Lan khẳng định, cuộc xung đột tại Campuchia đã làm cho từng dòng

người tị nạn ở Campuchia đổ vào Thái Lan đây chính là vấn đề gây nên một gánh

nặng đối với ngân sách chính phủ họ. Mặt khác, xung quanh vấn đề này cũng nảy

sinh sự nghi ngờ và những mâu thuẫn giữa Thái Lan – Việt Nam. Theo tin từ Bộ

Ngoại giao Thái Lan khẳng định, trong mùa khô 1979 có khoảng 15.000 quân

Khmer đỏ chạy sang Thái Lan những ngày gần đây cùng với gần 40.000 thường dân

chạy trốn cuộc xung đột tại Campuchia.

Vấn đề người tị nạn xuất phát từ nhiều nguyên nhân, một phần lo sợ chạy

trốn cuộc chiến, phần vì đói và phần khác cũng do chính sách ép buộc của lực lượng

Polpot bắt nhân dân phải đi theo họ nhằm tránh các cuộc pháo kích và truy đuổi của

quân cách mạng. Chính từ vấn đề người tị nạn và việc Thái Lan cho Khmer đỏ lập

căn cứ trên lãnh thổ của mình đã làm phát sinh những căng thẳng và nghi ngơ giữa

hai nước Thái Lan – Việt Nam. Xuất phát từ suy nghĩ và lập trường khác nhau nên

Thái Lan và Việt Nam đã có những hướng đi, cách giải quyết vấn đề trái ngược

nhau và từ đó gây ra những mâu thuẫn. Thái Lan cho rằng, Mặt trận Đoàn kết dân

tộc Cứu nước ở Campuchia là sản phẩm của Việt Nam cùng với việc quân đội Việt

Nam đóng tại Campuchia là nguyên nhân chính gây nên tình trạng các dòng người

tị nạn chạy sang Thái Lan. Đây chính là một trong những yếu tố làm cho tình hình ở

Đông Nam Á không ổn định, đồng thời đe dọa an ninh và chủ quyền của Thái Lan.

Như phần trên đã trình bày, chủ ý thật sự của Thái Lan là mong muốn khôi phục

nguyên trạng như trước khi chính phủ Polpot bị lật đổ. Xuất phát từ chủ ý đó, Thái

Lan tuy không chính thức thức thừa nhận nhưng trên thực tế đã dung túng cho lực

lượng Khơme đỏ, lãnh thổ Thái Lan sát biên giới Campuchia trở thành căn cứ của

lực lượng Polot ẩn dưới hình thức “trại tị nạn” để từ đó vũ khí từ bên ngoài được

đưa vào giúp lực lượng Khơme đỏ chống lại chính phủ Cộng hòa Nhân dân

Campuchia.

Lập trường của Thái Lan có tác động rất lớn đến quan điểm của các nước

ASEAN khác, trong dự thảo nghị quyết mà ASEAN đưa ra Hội đồng Bảo an

(4/3/1979) đã “yêu cầu rút hết quân đội nước ngoài khỏi bán đảo Đông Dương và

kêu gọi các bên xung đột dừng mọi hoạt động thù địch” [70, tr.377]. Trong khi đó

giới quân sự Thái Lan đòi chính phủ có thái độ cứng rắn hơn và không đồng tình

với tuyên bố trung lập của chính phủ Thủ tướng Kriangsak Chomanan.

Trong tháng 4 -5/1979 xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan tiếp tục

diễn ra, có hàng ngàn lính Khmer đỏ cùng hàng vạn thường dân tiếp tục chạy sang

Thái Lan. Thái Lan khẳng định, vì lý do nhân đạo Hội chữ thập đỏ Thái Lan đã lập

những trung tâm y tế dọc theo biên giới để giúp những người tị nạn đó hoặc giúp

những người bị thương khi chiến đấu. Nhưng thực tế, Thái Lan đã ngầm ủng hộ

Khmer đỏ để cho lực lượng này qua biên giới và xây dựng các căn cứ quân sự để

chống lại chính phủ Cộng hòa nhân dân Campuchia và quân đội Việt Nam. Không

những thế Thái Lan còn giúp đỡ lực lượng Khmer đỏ về lương thực và chăm sóc y

tế. Ngay cựu hoàng Campuchia Norodom Xihanouk cũng từng có những nhận xét

về chính sách của chính phủ Thái Lan. Tháng 5/1979 trong cuộc phỏng vấn báo giới

phương Tây, Norodom Xihanouk cho rằng “Thái Lan tiến hành một chính sách lèm

nhèm. Thái Lan sẽ trả giá đắt về chính sách của họ đối với Khmer đỏ, những người

được họ nhắm mắt làm ngơ cho vượt qua biên giới Thái Lan để chạy trốn trước

cuộc tiến công của quân Việt Nam” [61, tr.3].

Thái độ bất đồng của Thái Lan đối với Việt Nam về vấn đề Campuchia đã

được Thái Lan công khai thể hiện trong bản tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng các

Meeting) họp từ ngày 28 đến 30/7/1979 tại Bali (Indonexia). Thái Lan và các nước

nước ASEAN lần thứ 12 ((Joint Communique Of The Twelfth ASEAN Ministerial

ASEAN đã lên án Việt Nam đưa quân vào Campuchia là can thiệp vào công việc

nội bộ của Campuchia, gây ra vấn đề người tị nạn và đe đọa an ninh chủ quyền của

Thái Lan. Thông cáo nêu rõ “Vấn đề sử dụng vũ lực của các bên đối lập ở khu vực

này đe dọa độc lập, chủ quyền của Campuchia. Khẳng định lập trường là người

Campuchia phải tự quyết định tương lai của mình. Chấm dứt việc gây trở ngại hoặc

gây ảnh hưởng từ sức mạnh bên ngoài và yêu cầu Campuchia phải buộccác lực

lượng quân đội bên ngoài ngay lập tức rút khỏi Campuchia” [114, tr.27]. Ngày

10/10/1979 đại diện Bộ ngoại giao Thái Lan đọc diễn văn tại Liên Hợp Quốc chính

thức lên án Việt Nam đưa quan vào Campuchia đe dọa an ninh không chỉ của Thái

Lan mà còn đe đọa an ninh các nước trong khu vực. Để đối phó với tình hình, Thái

Lan tăng ngân sách cho quân sự lên đến 50 triệu USD (1980) điều đó cũng đồng

nghĩa chi phí cho phát triển kinh tế của Thái Lan sẽ giảm sút.

Trái ngược hoàn toàn với lập trường của chính phủ Thái Lan, chính phủ Việt

Nam khẳng định, chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia là đại diện hợp pháp

cho nhân dân Campuchia. Việt Nam cho rằng, tình hình hiện nay ở Campuchia là

không thể đảo ngược và không có vấn đề Campuchia. Việt Nam phủ nhận lập luận

của Trung Quốc, Thái Lan và một số nước, khẳng định mình không can thiệp vào

công việc nội bộ của Campuchia và không có chuyện đe dọa đến hòa bình và an

ninh ở Đông Nam Á. Việt Nam kịch liệt lên án Thái Lan, Trung Quốc và Mĩ đã tiếp

tay cho các thế lực phản động để phá hoại độc lập chủ quyền của Campuchia và lợi

dụng Liên Hợp Quốc nhằm phát động chiến dịch tìm “giải pháp chính trị” để làm

thay đổi tình hình ở Campuchia. Lập trường của Việt Nam được khẳng định rõ

trong thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước Đông Dương

lần thứ 1 diễn ra ngày 5/1/1980 tại Campuchia trong đó nêu rõ “Dự thảo nghị quyết

về cái gọi là tình hình Campuchia do các nước ASEAN đưa ra và được Đại hội

đồng bảo an Liên Hợp Quốc thông qua cũng như Hội nghị Bộ trưởng các nước

ASEAN mới đây bàn về vấn đề Campuchia là những hành động chống lại quyền tự

quyết của nhân dân Campuchia”[17, tr.4]. Thông cáo cũng khẳng định các nước

Campuchia, Lào, Việt Nam sẳn sàng thảo luận để ký kết tay đôi với Thái Lan,

Xingaopre, Malaixia, Philippin, Indonexia, Miến Điện hiệp ước không xâm phạm

lẫn nhau và thảo luận những biện pháp nhằm đưa Đông Nam Á trở thành khu vực

hòa bình, tự do và trung lập.

Thực tế trong cuộc xung đột tại Campuchia đã có hàng trăm lượt với hàng

ngàn người tị nạn chạy sang Thái Lan. Theo ước tính của UNHCR (United Nations

High Commissioner for Refugees) thì con số người tị nạn chạy sang Thái Lan

khoảng 250.000 người, trong khi theo chính phủ Thái Lan là 500.000 người. Công

bằng mà nói, vấn đề người tị nạn đã gây cho Thái Lan lúng túng và ảnh hưởng

không nhỏ đến ngân sách của chính phủ Thái. Người phát ngôn Bộ ngoại giao Thái

Lan khẳng định rằng, nếu không dùng vũ lực chống làn sóng người thảm hại này,

chỉ còn một cách cho họ quá cảng. Trong khi thế lực Polpot liên tục gặp phải thất

bại phải dạt dần tới sát biên giới Thái Lan, dọc theo con đường chạy dài từ cực Bắc

Campuchia đến phía Nam ở Poipet thuộc Campuchia vượt biên giới sang Arany

Aprathet thuộc Thái Lan. Quân Polpot đã đóng quay lưng về phía biên giới Thái

Lan hoặc vượt biên giới sang đất Thái Lan nhưng không hề có ý định trở thành dân

tị nạn.

Lập trường, hành động của Thái Lan và Việt Nam xung quanh vấn đề người

tị nạn là đối lập với nhau. Thái Lan cho rằng, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc

từng dòng người tị nạn chạy sang nước mình chính là việc Việt Nam can thiệp quân

sự vào Campuchia. Theo tuyên bố của Thái Lan và các nước ASEAN thì “Việt Nam

phải chịu trách nhiệm chính về việc người di cư trái luật và cần phải có thái độ dứt

khoát trong việc giải quyết nguồn gốc vấn đề…Nguyên nhân sâu chính là do sự can

thiệp của lực lượng vũ trang nước ngoài và chiến sự ở Campuchia ”[114, tr.27].

Theo Thái Lan thì Việt Nam cần đóng vai trò lớn trong đó có điều kiện tiên

quyết để giải quyết vấn đề chính là việc rút hoàn toàn quân đội Việt Nam khỏi

Campuchia để cho người Campuchia quyền tự quyết. Ngược lại Việt Nam cho rằng,

Thái Lan lợi dụng vấn đề người tị nạn để tiến hành những hành động giúp đỡ lực

lượng Polpot chống lại sự hồi sinh của nhân dân Campuchia. Giới cầm quyền Thái

Lan mà nhất là giới quân sự không hề giấu diếm việc họ hy vọng lực lượng Khmer

đỏ sẽ vẫn tiếp tục tồn tại và trở thành một đối thủ mạnh của Việt Nam. Rõ ràng Thái

Lan lo ngại Việt Nam tìm cách giành ưu thế ở khu vực này hơn là về tính chất tàn

bạo của chế độ Polpot trước đây ở Campuchia.

Một thực tế không thể phủ nhận, tại các trại tị nạn trên đất Thái Lan, lực

lượng Khmer đỏ và Khmer Sreid đã tuyển mộ rất nhiều binh lính sau khi được huấn

luyện và trang bị đã trở lại Campuchia để chống lại chế độ Cộng hòa Nhân dân

Campuchia. Tham vọng trước mắt của Trung Quốc và Thái Lan là bảo đảm cho

quân Khơme đỏ bị nguy khốn ở Campuchia tồn tại, tham vọng lâu dài là thành lập

một mặt trận thống nhất có cơ sở rộng rãi gồm những người Khơme dân tộc chủ

nghĩa chống lại Việt Nam.

Thái Lan lên tiếng đòi Liên Hợp Quốc cần có vai trò lớn hơn và thực hiện

những hành động kịp thời hơn trong việc giải quyết vấn đề người tị nạn. Năm 1980

tại Bangkok Thủ tướng Kriangsak Chomanan khẳng định, các nước ASEAN cùng

đề nghị Liên Hiệp Quốc triệu tập một hội nghị về Campuchia. Giải pháp này được

Tây Âu, Mĩ và, Trung Quốc tán thành nhưng Việt Nam và Liên Xô không đồng ý.

Theo Thái Lan và ASEAN thì “cần phải có sự quyết tâm của cộng đồng quốc tế để

tìm ra giải pháp, đặc biệt là phải giải quyết nguồn gốc vấn đề…Yêu cầu cộng đồng

quốc tế lên tiếng thuyết phục Việt Nam chấm dứt sự nhập cư”[114, tr.28].

Lập trường đối lập và những căng thẳng trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam

xung quanh vấn đề Campuchia thể hiện sự bất đồng quan điểm của hai bên trong rất

nhiều vấn đề liên quan như: Thái Lan lên án Việt Nam xâm lược Campuchia và

chạy đua vũ trang để chuẩn bị đối phó Việt Nam; Vấn đề người tị nạn và việc Thái

Lan cho các lực lượng Khmer chống đối chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia

sử dụng lãnh thổ của mình làm căn cứ; Vấn đề Thái Lan hợp tác với Trung Quốc

tiếp tế cho Khmer đỏ; Xung đột tại khu vực biên giới Campuchia – Thái Lan; Thái

Lan lên án Việt Nam xâm phạm chủ quyền của họ và ngược lại Việt Nam lên án

Thái Lan phá hoại nền hòa bình và xâm phạm chủ quyền Campuchia. Tất cả những

vấn đề trên tác động rất lớn đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam, sự manh nha của

những quan hệ giao hảo trước đó đã tiêu tan và thay vào đó là thái độ nghi ngờ, đối

lập và dẫn đến nguy cơ đối đầu giữa hai nước. Sự đối đầu giữa hai nước đã trở

thành hiện thực khi thủ tướng có đường lối đối ngoại khá mềm dẻo của Thái Lan

Kriangsak Chomanan được thay thế bằng Prem Tinsulanond người có thái độ cứng

rắn và không mấy thiện cảm với Việt Nam.

2.2.2. Thái Lan và Việt Nam công khai đối đau xung quanh vấn đề

Campuchia (1980 – 1986)

Năm 1980 chính phủ Thái Lan qua nhiều canh thông tin chính thức lên án

Việt Nam chiếm đóng Campuchia và xâm phạm biên giới Thái Lan. Giới quân sự

Thái Lan còn thổi bùng cái gọi là “sự đe doạ của Việt Nam” và đòi hỏi chính phủ

Thái Lan phải có chính sách cứng rắn. Trước sức ép trong nước mà đặc biệt từ giới

quân sự cộng với sức ép từ Mĩ, Trung Quốc, Thủ tướng Kriangsak Chomanan buộc

phải từ chức (2/1980) và nhường chổ cho Prem Tinsulanond, người có tư tưởng

chống cộng và sẳn sàng có những chính sách cứng rắn hơn người tiền nhiệm. Với

chính sách của Thủ tướng Prem Tinsulanond, Thái Lan từ bỏ tuyên bố trung lập để

chuyển sang công khai đối đầu với Việt Nam về những vấn đề liên quan đến cuộc

xung đột tại Campuchia có ảnh hưởng đến quyền lợi và anh ninh của Thái Lan. Mối

quan hệ đối đầu giữa hai nước Thái Lan – Việt Nam liên quan đến các vấn đề như:

Thái Lan lên án Việt Nam xâm lược Campuchia và chạy đua vũ trang để chuẩn bị

đối phó Việt Nam; Vấn đề người tị nạn và việc Thái Lan cho các lực lượng Khmer

chống đối chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia sử dụng lãnh thổ của mình

làm căn cứ; Vấn đề Thái Lan hợp tác với Trung Quốc tiếp tế cho Khmer đỏ; Xung

đột tại khu vực biên giới Campuchia – Thái Lan; Thái Lan lên án Việt Nam xâm

phạm chủ quyền của họ và ngược lại Việt Nam lên án Thái Lan phá hoại nền hòa

bình và xâm phạm chủ quyền Campuchia.

Từ tháng 3/1980 Thái Lan cho rằng, người tị nạn từ Campuchia tràn qua là

gánh nặng cho ngân sách của mình nên quân đội Thái Lan tìm cách xua đuổi một bộ

phận về nước. Nhưng chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia xem đây là chính

sách mới của chính phủ Thái Lan biện minh cho việc giúp đỡ tàn quân Polpot trở lại

Campuchia để phá hoại. Cộng hòa Nhân dân Campuchia còn cho rằng, không ít lần

các đơn vị quân đội Thái Lan đã vi phạm lãnh thổ của Campuchia. Theo đánh giá

của chính phủ Việt Nam và chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia thì hành

động của Thái Lan trong việc giúp đỡ tàn quân Polpot nằm trong âm mưu chung

của Trung Quoc và Mĩ muốn lợi dụng mùa mưa để giành những thắng lợi quân sự

nhằm biện minh cho vị thế hợp pháp của lực lượng Polpot ở Liên Hợp Quốc.

Ngày 25 đến 26/6/1980 Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 13

tại Kuala Lumpur (Joint Communique Of The Thirteenth ASEAN Ministerial

Meeting Kuala Lumpur) đưa ra bản thông cáo chung trong đó Thái Lan và các nước

ASEAN đưa ra những lời lẽ gay gắt trong đó lên án quân đội Việt Nam vượt biên

giới Campuchia – Thái Lan xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Thái

Lan. Tuy nhiên, đại diện của Indonexia và Malaixia vẫn duy trì ý định đối thoại với

Việt Nam, trong đó Bộ trưởng ngoại giao Malaixia nhấn mạnh “sẽ tiếp tục đối thoại

với Việt Nam và tin rằng đây là vấn đề quan trọng cho nổ lực của ASEAN trong

việc tìm ra giải pháp hòa bình cho vấn đề Campuchia”[115, tr.31]. Với vấn đề

Campuchia, Hội nghị công bố dự án thành lập trên phần lãnh thổ Thái Lan giáp

ranh với biên giới Campuchia một khu vực “hòa bình và an ninh” với sự có mặt

của quân lính Thái Lan và các trại tị nạn người Campuchia, còn trên phần lãnh thổ

Campuchia giáp ranh biên giới Thái Lan thì thành lập “khu phi quân sự”. Những

người dự hội nghị đòi rút quân đội nước ngoài ra khỏi Campuchia càng sớm càng

tốt và giải giáp các bên xung đột tại Campuchia sau khi quân đội nước ngoài rút đi.

ASEAN bác bỏ đề nghị của các nước Đông Dương về việc triệu tập hội nghị vùng

với lý do không chỉ các nước trong vùng có dính líu đến cuộc xung đột tại

Campuchia. Thái Lan và các nước ASEAN cũng nhất quyết đòi các nước Đông

Dương tham dự hội nghị quốc tế về Campuchia sẽ được triệu tập ở NewYork

(1981) theo nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc. Cùng với động thái đó,

Thái Lan ngày càng liên minh chặt chẽ với Trung Quốc và Mĩ. Những hành động

đó của Thái Lan được Mĩ và Trung Quốc hết sức hoan nghênh và để đáp lại thiện

chí của Thái Lan, Mĩ và Trung Quốc cam kết “Hiện giờ Bắc Kinh và Washinhton

tuyên bố sẳn sàng thực hiện những cam kết của mình với Thái Lan. Nói tóm lại, tiến

hành can thiệp quân sự…”[70, tr.379 - 380] trong trường hợp Việt Nam xâm lược

Thái Lan.

Để đảm bảo cho an ninh của mình, Thái Lan đề nghị xây dựng một khu vực

an toàn hay một vùng hòa bình phi quân sự cho những người tị nạn Campuchia

ngay trên lãnh thổ Campuchia và đặt dưới sự giám sát của Liên Hợp Quốc. Chính

phủ Thái Lan cũng bác bỏ thẳng thừng mọi khả năng tiến hành đàm phán dù trực

tiếp hay gián tiếp với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia vì cho rằng, nếu

đàm phán với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia tức là đã gián tiếp thừa

nhận tính hợp pháp của chính phủ này.

Trên thực tế Thái Lan không ưa gì chính quyền Campuchia Dân chủ, bởi

dưới thời Polpot còn nắm quyền, Thái Lan – Campuchia không ít lần xảy ra xung

đột với nhau, nhưng Thái Lan vẫn muốn lợi dụng thế lực này để cản phá và làm suy

yếu Việt Nam. Sự sụp đổ của Campuchia Dân chủ không chỉ làm tan hy vọng của

Thái Lan muốn dùng Campuchia dân chủ làm chướng ngại vật làm Việt Nam suy

yếu mà còn góp phần tăng cường uy lực của Việt Nam trong khu vực. Điều đó làm

Thái Lan hết sức lo lắng, do vậy Thái Lan cố gắng làm đủ mọi cách để phục hồi vị

thế mà Thái Lan cho là có lợi cho mình nhất như trước khi Polpot bị lật đổ. Để đạt

được mục đích đó, Thái Lan lên án sự hiện diện của quân đội Việt Nam đe dọa đến

nền an ninh của nước mình và đòi giải quyết ngay vấn đề Campuchia. Thái Lan một

mặt tích cực giúp đỡ lực lượng Khmer đỏ chống Việt Nam, mặt khác kêu gọi sự

giúp đỡ của Trung Quốc, Mĩ và các tổ chức quốc tế gây sức ép lên Việt Nam nhằm

sớm đạt được mục đích của mình.

Những tuyên bố trong thông cáo chung của Hội nghị cấp bộ trưởng các nước

ASEAN lần thứ 13 đã thể hiện rõ lập trường của Thái Lan và các nước ASEAN

trong đó thể hiện sự đối lập và đối đầu với Việt Nam xung quanh vấn đề

Campuchia, điều đó báo hiệu những mâu thuẫn và căng thẳng trong quan hệ giữa

ASEAN với ba nước Đông Dương mà trước hết là quan hệ giữa Thái Lan – Việt

Nam.

Trên thực tế, lập trường của các nước ASEAN về vấn đề Campuchia xuất

hiện nhiều vấn đề phức tạp. Chính vấn đề Campuchia đã làm cho nội bộ các nước

ASEAN có nguy cơ phân hóa, trong khi Thái Lan và Singapore có cùng quan điểm

với nhau, tức la lên án Việt Nam xâm chiếm Campuchia và kêu gọi quốc tế có

những giải pháp mạnh buộc Việt Nam rút quân vô điều kiện. Indonesia và Malaisia

có thái độ ôn hòa hơn, là vẫn để ngõ những khả năng đối thoại trực tiếp với Việt

Nam để giải quyết vấn đề này. Mục đích của ASEAN, Mĩ và Trung Quốc đối với

vấn đề Campuchia không chỉ là việc đòi phục hồi quyền tự quyết của nhân dân

Campuchia mà chủ yếu là ngăn chặn việc mở rộng ảnh hưởng của Việt Nam - nước

bị Mĩ, Thái Lan và Trung Quốc xem là đồng minh thân cận của Liên Xô. Theo họ,

việc chặn đứng tầm ảnh hưởng của Việt Nam làm cho Việt Nam thất bại cũng có

nghĩa làm cho Liên Xô thất bại, đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự hình

thành liên minh ASEAN – Mĩ – Trung Quốc chống Liên Xô – Việt Nam. Tuy

nhiên, giữa ASEAN – Mĩ – Trung Quốc cũng có những bất đồng không nhỏ. Trong

đó Mĩ và đặc biệt là ASEAN không muốn nhân vấn đề Campuchia để Trung Quốc

lợi dụng mở rộng phạm vi ảnh hưởng của họ ở khu vực này.

Sự hợp tác giữa Thái Lan với Trung Quốc để tiếp tay cho các lực lượng

Khmer chống chính phủ là một trong những vấn đề trực tiếp gây ra sự đối đầu trong

quan hệ giữa Thái Lan – Việt Nam. Năm 1980 trong cuộc trả lời báo giới, Thứ

trưởng Trung Quốc Hàn Niệm Long cho biết, lực lượng Khmer khoảng 2000 do In

Tam dẫn đầu được huấn luyện tại Thái Lan sẽ sớm vượt biên giới vào Campuchia

cùng lực lượng Polpot chống lại chính quyền Phnom Penh. Đáp lại tuyên bố đó,

Việt Nam lên tiếng mạnh mẽ phản đối chính sách của Thái Lan trong đó Việt Nam

khẳng định “điều khó hiểu đối với dư luận là thái độ của nhà cầm quyền Thái Lan,

với lòng trung thực chúng ta vẫn cố gắng tin rằng, chính phủ Thái Lan sẽ thực hiện

chính sách trung lập thật sự như họ nói. Nhưng sau những hành động tiếp tay cho

Trung Quốc để cứu vãn Polpot mà chúng ta đã có dịp vạch rõ, lần này Thái Lan

cho phép In Tam sử dụng đất Thái Lan mộ quân để tiếp sức cho tàn quân Polpot

chống lại nhân dân Campuchia. Cần khẳng định đây là một sự việc nghiêm trọng,

một hành động trực tiếp chống lại nhân dân Campuchia.”[61, tr.4].

Thông qua cảng Bangkok của Thái Lan, Trung Quốc đã thực hiện nhiều

chuyến hàng viện trợ cho lực lượng Khmer đỏ và các lực lượng Khmer khác chống

đối chính phủ Heng Samrin. Trong 6 tháng đầu năm 1980 để chuẩn bị cho những

hoạt động chống phá chính phủ trong mùa mưa của lực lượng Polpot, Trung Quốc

“đã chuyển cho bọn phản động Khmer hơn 6000 tấn vũ khí và lương thực”[27,

tr.1]. Từ 1980 theo thỏa thuận giữa Thái Lan và Trung Quốc “hàng quân sự Trung

Quốc đóng giả thành hàng dân dụng, tàu Trung Quốc chuyển đến cảng Bangkok

giao cho quân đội Thái Lan chuyển đi Ubon và chuyển cho bọn tàn quân Polpot.

Thái Lan vận chuyển cho Trung Quốc bình quân mỗi tháng 500 tấn vũ khí – lương

thực tiếp tế cho Khmer đỏ”[27, tr.1]. Sự hợp tác của Thái Lan đối với Trung Quốc

về vấn đề này chặt chẽ đến mức Thái Lan còn thiết lập một Ủy ban đặc biệt chuyên

lo tiếp tế. Các chuyến hàng viện trợ của Trung Quốc trung chuyển sang Thái Lan

gồm thuốc men, vũ khí (súng cối 100, B40.5, B62, Mìn 65A1, 65A2…) đạn dược,

quân trang, quân dụng, lương thực…) được chuyển đến cho lực lượng Polpot và các

lực lượng Khmer chống đối khác đang hiện diện tại biên giới Thái Lan –

Campuchia.

Đáp lại lập trường và những tuyên bố của Thái Lan, từ 1980 Bộ ngoại giao

Việt Nam thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các diễn đàn trong Hội

nghị Bộ trưởng ngoại giao liên tục lên án Thái Lan về việc cho phép vũ khí, đạn

dược và đồ tiếp tế của Trung Quốc quá cảng sang Thái Lan để vào Campuchia.

Trong đó khẳng định, các hoạt động sai lầm đó của các nhà đương cục Thái Lan

trực tiếp xâm phạm lợi ích của nhân dân Campuchia và Việt Nam, đi ngược với

chính sách trung lập mà nhà cầm quyền Thái Lan thường tuyên bố. Các hành động

ấy cũng không phù hợp với ước vọng và các lợi ích của nhân dân. Thái Lan trở

thành một căn cứ cho chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh để họ xâm nhập, can thiệp

và phá hoại những nước khác. Chính phủ Việt Nam tiếp tục khẳng định lập trường

của mình là chống Khmer đỏ để góp phần xóa bỏ nguy cơ bùng nổ đe dọa nền độc

lập của Thái Lan, đe dọa hòa bình và ổn định ở khu vực Đông Nam Á. Việt Nam

cũng không quên tố cáo chính phủ Thái Lan đã có những chiến dịch báo chí phù

hợp với luận điệu và hành động của Trung Quốc nhằm gây căng thẳng trong mối

quan hệ láng giềng giữa hai nước.

Có quá nhiều bất đồng giữa hai nước Thái Lan – Việt Nam xung quanh

những vấn đề liên quan đến cuộc xung đột tại Campuchia. Trong đó việc Thái Lan

cấu kết với Trung Quốc để tiếp tế cho lực lượng Khmer đỏ càng làm cho mối quan

hệ hai nước trở nên xấu thêm. Bởi Khmer đỏ và Trung Quốc là hai lực lượng đã gây

ra cuộc xung đột tại biên giới Tây Nam Việt Nam và biên giới Đông bắc Việt Nam.

Do vậy, việc Thái Lan liên kết với Trung Quốc giúp đỡ Khmer đỏ chống lại Việt

Nam là một vấn đề mà Việt Nam không thể nào chấp nhận được, điều đó có nghĩa

Thái Lan đã công khai trực tiếp đối đầu với Việt Nam. Hành động đối đầu của Thái

Lan còn thể hiện ở việc thông qua diễn đàn tại Hội nghị Bộ trưởng các nước

ASEAN và Liên Hợp Quốc cũng như với báo chí, Thái Lan lên án Việt Nam rất

nhiều lần lấy cớ truy đuổi lực lượng Polpot đã xâm nhập vào lãnh thổ của họ. Thái

Lan cho rằng, những hành động của Việt Nam đe dọa đến an ninh chủ quyền của

Thái Lan và làm cho khu vực trở nên căng thẳng. Ngày 21/2/1980 tại cuộc họp báo

hàng tháng ở Bangkok, người phát ngôn của Bộ tư lệnh tối cao Thái Lan – tướng

Xom Cataphan tuyên bố “Kể từ đầu năm nay, các lực lượng do Việt Nam lãnh đạo

đã 8 lần xâm nhập lãnh thổ Thái Lan. Ngày 4/2/1980 có 2000 quân Việt Nam vào

sâu nội địa Thái Lan tại bản Lan tỉnh Chantaburi”[19, tr.4].

Liên quan đến vấn đề Campuchia trong đó có việc Thái Lan kêu gọi Liên Hợp

Quốc cần có trách nhiệm hơn nữa trong vấn đề người tị nạn. Ngày 26 – 27/5/1980

Liên Hợp Quốc tổ chức cuộc họp tại Giơnevơ (Thụy Sĩ) do Tổng thư kí Liên Hợp

Quốc Kurt Waldheim chủ trì có sự tham gia của Thái Lan, Cao ủy Liên Hợp Quốc

về người tị nạn (UNHCR) và Cơ quan nhân đạo của chính phủ Cộng hòa Nhân dân

Campuchia. Trong hội đàm, Tổng thư kí Kurt Waldheim đã đưa ra giải pháp gồm 5

nguyên tắc để thực hiện các biện pháp nhân đạo và giải quyết vấn đề người tị nạn.

Năm nguyên tắc bao gồm “1. Tăng cường khẩn cấp các nhân viên quốc tế về người

tị nạn đến các ngôi làng của Thái Lan để nhanh chóng đưa những người tị nạn đi

định cư; 2. Ngay lập tức cải thiện tình hình an ninh tại các trại tị nạn dọc biên giới

nhằm đảm bảo tính mạng cho thường dân Campuchia; 3. Cử ông Robert Jackson –

người có kinh nghiệm đứng đầu chương trình nhân đạo nhằm phối hợp với văn

phòng Thủ tướng Thái Lan để viện trợ cho những người Campuchia dọc biên giới

Thái Lan; 4. Thiết lập chương trình xác minh, kiểm soát để đảm bảo an toàn, minh

bạch và có hiệu quả cho hàng cứu trợ; 5. Thiết lập văn phòng ủy nhiệm của tổ chức

cứu trợ Liên Hợp Quốc tại Campuchia đồng thời trao cho họ thẩm quyền và tính cơ

động trong việc giải quyết vấn đề”[115, tr.34]. Thực hiện kịp thời cứu trợ nhân đạo,

hổ trợ y tế và đưa đi định cư ở một nước thứ ba. Tháng 7 đến tháng 8/1980 trong

chuyến viếng thăm Đông Nam Á trong đó có Thái Lan và Việt Nam, Tổng thư kí

Liên hợp Quốc Kurt Waldheim đã tận mắt thấy tính chất nghiêm trọng của tình hình

người tị nạn ở Thái Lan. Số người chạy trốn Khơme đỏ hoặc chạy trốn tình hình

chiến sự sang Thái Lan là rất đông. Ông yêu cầu Liên Hợp Quốc, các nước trong

khu vực giúp đỡ Thái Lan nhiều hơn nhằm giải quyết vấn đề người tị nạn trong đó

yêu cầu một số nước ASAEN khác phải cho dân tị nạn đến cư trú. Ông Kurt

Waldheim nhắc nhở các nhà lãnh đạo Thái Lan rằng, hiến chương nhân quyền cấm

xua đuổi dân tị nạn để phản đối hành động xua đuổi những nhóm người tị nạn mà

Thái Lan nghi ngờ có tay chân của Việt Nam hoặc chính phủ Heng Samrin cài vào.

Ngày 2/8/1980 Tổng thư kí Liên Hợp Quốc Kurt Waldheim thăm Việt Nam

nhằm tìm giải pháp cho vấn đề Campuchia trong đó có vấn đề người tị nạn. Tuy

nhiên yêu cầu can thiệp của Liên Hợp Quốc không được Việt Nam đồng ý vì Việt

Nam luôn cho rằng Liên Hợp Quốc chỉ thực hiện những hành động có lợi cho Mĩ,

Trung Quốc và Thái Lan mà thôi. Chính phủ Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân

Campuchia cũng phản đối hành động xua đuổi những người tị nạn và cho rằng,

hành động xua đuổi những người tị nạn trở lại Campuchia thực chất là đưa lực

lượng Khmer đỏ trở lại và gài tình báo của Thái Lan vào để chống phá sự hồi sinh

của Campuchia. Đồng thời lên tiếng tố cáo “Nhà cầm quyền Thái Lan thực tế đã

cam thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia, xâm phạm độc lập, chủ quyền

Campuchia, làm tổn hại đến tình hữu nghị, quan hệ láng giềng tốt giữa hai nước

Campuchia - Thái Lan là sự tiếp tay cho âm mưu bành trướng của bọn phản động

Bắc Kinh”[20, tr.4].

Lập trường và hành động của hai bên có sự khác biệt rất lớn trong vấn đề

người tị nạn Campuchia và vấn đề lực lượng Khmer đỏ chạy sang Thái Lan thiết lập

các căn cứ chống lại chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Thái Lan vẫn tuyên

bố không có chuyện họ giúp đỡ cho lực lượng Khmer sử dụng đất của mình để thiết

lập các căn cứ. Nhưng thực tế, Thái Lan đã để cho các lực lượng Khmer chống đối

chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia sử dụng lãnh thổ của mình làm căn cứ.

Theo suy nghĩ của mình, Thái Lan vẫn muốn giúp đỡ tất cả những lực lượng có khả

năng kìm hãm việc Việt Nam đặt bàn tay lên Campuchia ngay sát nách họ. Về vấn

đề người tị nạn, phía Thái Lan cho rằng, nguyên nhân chính gây nên tình trạng từng

dòng người tị nạn chạy sang Thái Lan và các nước ASEAN chính là việc Việt Nam

đưa quân đội vào Campuchia. Đồng thời giải thích, việc những người Campuchia

trở về quê là do mong muốn hồi hương tự nguyện. Mặt khác Thái Lan yêu cầu, để

giải quyết dứt điểm vấn đề này thì Việt Nam cần rút quân khỏi Campuchia và để

cho người Campuchia quyền tự quyết. Lập trường trên của Thái Lan bị phía Việt

Nam hoàn toàn bác bỏ, Việt Nam cho rằng chính sự giúp đỡ của Thái Lan đối với

lực lượng Polpot và các lực lượng Khmer chống đối khác là nguyên nhân gây nên

tình hình căng thẳng và bất ổn cho Campuchia nói riêng và khu vực Đông Nam Á

nói chung. Thái Lan thực hiện cái gọi là hồi hương tự nguyện thực chất là đe đậy

hành động đưa các lực lượng Khmer chống đối chính phủ trở lại phá hoại nền hòa

bình và sự hồi sinh của Campuchia.

Lập trường của Thái Lan và các nước ASEAN đối vơi Việt Nam xung quanh

vấn đề Campuchia tiếp tục được nêu lên trong thông cáo chung của Hội nghị Ban

thường trực ASEAN diễn ra đầu tháng 8/1980 tại Manila. Thông cáo khẳng định,

nguyên nhân chính gây ra tình hình căng thẳng hiện nay ở Đông Nam Á chính là

việc Việt Nam tiếp tục chiếm đóng Campuchia. Hội nghị đã đưa ra yêu sách đòi

Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia và để cho nhân dân nước này quyền tự

quyết. Lập trường của Thái Lan và ASEAN về vấn đề Campuchia là trái ngược

hoàn toàn với Việt Nam. Các nước ASEAN quả quyết rằng, chính sự can thiệp quân

sự của Việt Nam vào Campuchia và hành động chiếm đóng của Việt Nam là nguyên

nhân chính gây ra tình trạng căng thẳng, không ổn định trong khu vực Đông Nam Á

và nguy cơ chính đối với an ninh và ổn định của Thái Lan nói riêng và các nước

trong khu vực nói chung. ASEAN thẳng thừng từ chối công nhận chính quyền Cộng

hòa Nhân dân Campuchia. Theo quan điểm của ASEAN thì “con đường dẫn đến

bình thường hóa quan hệ giữa các nước ASEAN và Đông Dương được khởi đầu

bằng việc giải quyết vấn đề Campuchia, tức Việt Nam phải rút quân khỏi

Campuchia và trả lại cho nhân dân nước này quyền tự quyết” [70, tr.385]. trong

các Hội nghị Bộ trưởng tiếp theo diễn ra tại Philipin (1981), Singapore (1982), Thái

Lan (1983), Indonexia (1984), Malaixia (1985), Philippin (1986) các nước ASEAN

tiếp tục khẳng định và giữ vững lập trường đó.

Để đáp lại quan điểm của Thái Lan và ASEAN, ngày 26/8/1980 Bộ ngoại

giao Việt Nam công bố lập trường, quan điểm của mình về các nguyên nhân tình

trạng căng thẳng ở Đông Nam Á cũng nhằm giải thích sự nghi ngại của Thái Lan về

những hành động của mình. Việt Nam khẳng định “Không có mối đe dọa đến Thái

Lan từ Việt Nam, chỉ có vấn đề Trung Quốc đã thông đồng với chủ nghĩa đế quốc

Mĩ chống lại nhân dân Đông Dương…Chìa khóa để giải quyết cái gọi là vấn đề

Campuchia là Trung Quốc phải chấm dứt chính sách thù địch chống lại nhân dân

Đông Dương, đó cũng là con đường dẫn đến một nền hòa bình lâu dài và ổn định ở

Đông Nam Á”[70, tr.381]. Rõ ràng lập trường của Việt Nam khẳng định những bất

ổn về an ninh ở Đông Nam Á và nguyên nhân sâu xa dẫn đến cuộc xung đột tại

Campuchia là do âm mưu của các nhà cầm quyền Trung Quốc muốn khu vực này

bất ổn để dễ bề khống chế. Việt Nam cho rằng, âm mưu của Trung Quốc thực chất

là muốn “giành cho được Đông Nam Châu Á, bao gồm cả Việt Nam, Thái Lan,

Malaixia, Xingapore…để có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô – Đông Âu”[18,

tr.2]. Đối với việc Thái Lan và các nước ASEAN lên án Việt Nam chiếm đóng

Campuchia một cách bất hợp pháp, Việt Nam một lần nữa khẳng định “Sự có mặt

của quân đội nhân dân Việt Nam trên đất nước Campuchia là theo đề nghị của Hội

đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia để cùng với quân đội và nhân dân

Campuchia bảo vệ những thành quả cách mạng giành được. Điều đó hết sức cần

thiết, phù hợp với nguyện vọng nhân dân, phù hợp với luật pháp quốc tế và Hiến

chương Liên Hợp Quốc”[17, tr.4].

Lập trường của Việt Nam đưa ra không được Thái Lan, ASEAN tán đồng do

đó họ tiếp tục vận động Liên Hợp Quốc tiếp tục công nhận chính quyền Polpot,

đồng thời không quên kêu gọi Mĩ và Trung Quốc ủng hộ. Do đó, tại kì họp thứ 35

của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (tháng 11/1980) đã thông qua Nghị quyết 35/6

theo đó kéo dài quyền đại diện của chính quyền Polpot tại Liên Hợp Quốc thêm một

năm nữa và kêu gọi thành lập một hội nghị quốc tế nhằm thảo luận để đưa ra một

giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia. Tất nhiên, Nghị quyết 35/6 gặp

phải sự phản đối quyết liệt từ Việt Nam và chính phủ Cộng hòa Nhân dân

Campuchia. Ngày 28/2/1981 Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước Đông Dương

khẳng định, phản đối triệu tập hội nghị quốc tế về Campuchia đồng thời đề xuất

sáng kiến hội nghị vùng giữa các nước Đông Dương và ASEAN (dự kiến vào thang

3/1981). Theo Việt Nam sau khi các nước Đông Dương và ASEAN đã kí được hiệp

định về hòa bình và on định ở Đông Nam Á sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế chỉ để

công nhận kết quả này. Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước Đông Dương tiếp

tục khẳng định, nguyên nhân cơ bản gây nên tình hình căng thẳng và bất ổn ở Đông

Nam Á nói chung và Campuchia nói riêng đều xuất phát từ chính sách thù địch của

Trung Quốc chống lại nhân dân ba nước Đông Dương. Trong các tuyên bố và phát

biểu, Việt Nam luôn khẳng định không hề có ý định xâm lược Thái Lan cũng không

hề có ý định thành lập Liên bang Đông Dương để đáp lại luận điệu của Trung Quốc

luôn tuyên bố Việt Nam sẽ xâm lược Thái Lan và thành lập Liên bang Đông

Dương. Việt Nam cũng kêu gọi, vấn đề chính của các nước Đông Nam Á lúc này

phải chống lại chính sách bá quyền nước lớn của Trung Quốc. Đồng thời khẳng

định sự có mặt của quân đội Việt Nam tại Campuchia là bất đắc dĩ nhưng trước mắt

là vô cùng cần thiết cho hòa bình và ổn định cho nhân dân Campuchia.

Trong những vấn đề dẫn đến sự đối đầu giữa Thái Lan – Việt Nam xung

quanh vấn đề Campuchia thì vấn đề xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan là

một trong những vấn đề rất nổi cộm. Thái Lan nhiều lần lên án Việt Nam lấy cớ

truy đuổi lực lượng Polpot để xâm phạm lãnh thổ và đe dọa an ninh của họ. Không

chỉ có vậy Thái Lan còn dùng các biện pháp trừng phạt kinh tế để gây khó khăn cho

Việt Nam. Ngày 8/7/1980 Thứ trưởng thương nghiệp Thái Lan Chayapon tuyên bố

đình chỉ xuất khẩu tất cả các mặt hàng sang Việt Nam nhằm trả đũa việc quân đội

Việt Nam vượt qua biên giới Thái Lan, đồng thời ra lệnh bốc hàng ra khỏi 2 tàu

nhận hàng của Việt Nam tại cảng Bangkok và cảng Coocxichang (Chonburin).

Ngày 26/7/1980 Tại Hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN lần thứ 13 tại Malaixia,

Thái Lan và các nước ASEAN đã ra tuyên bố “lên án hành động xâm lược của Việt

Nam đe dọa Thái Lan và sự xâm nhập vào lãnh thổ Thái Lan của quân đội Việt

Nam. Yêu cầu quân đội Việt Nam rút toàn bộ khỏi Campuchia để cho người

Campuchia quyền tự quyết. Chấm dứt mọi hoạt động cam thiệp vào công việc nội

bộ của các nước Đông Nam Á”[115, tr.32].

Theo Thái Lan thì tháng 6/1980 quân Việt Nam xâm nhập lãnh thổ Thái Lan

tại làng Nonmaccun, xâm nhập Sadeng vào tháng 1/1981 và làng Nongchan vào

tháng 1/1983 tất cả đều thuộc tỉnh Prachin Buri và đụng độ với lính biên giới Thái

Lan, gây một số thương vong cho hai bên. Tuy nhiên sau khi nghiên cứu kỹ bản đồ

Thái Lan, cá nhân tác giả nghi ngờ tính trung thực của ba sự kiện trên, bởi thực tế

tỉnh Prachin Buri chỉ cách thủ đô Bangkok khoảng hơn 100km về phía Đông và

cách rất xa biên giới Thái Lan – Campuchia. Bên cạnh đó, Việt Nam luôn khẳng

định với dư luận quốc tế không có ý định tấn công Thái Lan, Việt Nam cũng đã cam

kết với Tổng thư kí Liên Hiệp Quốc khi ông này viếng thăm Việt Nam (1980) là

Việt Nam chỉ có những ý định hoà bình đối với các nước láng giềng ASEAN. Thủ

tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã giải thích nguyên nhân Việt Nam đưa quân vào

Campuchia rằng “Campuchia là một trường hợp đặc biệt dựa trên cơ sở mối liên hệ

lịch sử giữa hai nước và sự khiêu khích của Polpot”[1, tr.6]. Do đó, việc quân Việt

Nam xâm nhập vào ba làng của tỉnh Prachin Buri cách thủ đô Bangkok không xa

mấy như Thái Lan nêu trên là hầu như ít có khả năng xảy ra. Việc Thái Lan cố đưa

ra những bằng chứng như vậy nhằm để thuyết phục dư luận quốc tế là vấn đề an

ninh của Thái Lan đã bị Việt Nam đe dọa tới mức nghiêm trọng nhằm tranh thủ sự

ủng hộ. Tháng 3/1984 Thái Lan lại tiếp tục lên án Việt Nam xâm nhập lãnh thổ Thái

Lan tại làng Samrong Ket thuộc tỉnh Sisaket nhằm tiêu diệt quân Khmer đỏ và đụng

độ với lính biên giới Thái Lan. Không chỉ có lên án qua các phương tiện thông tin,

trong mùa khô vào tháng 4/1983 và tháng 5/1984 Bộ Ngoại giao Thái Lan đã gởi 2

bức công hàm cho Đại sứ quán Việt Nam tại BangKok để lên án Việt Nam bắn rơi

máy bay trinh sát và pháo kích vào lãnh thổ Thái Lan làm chết và bị thương dân

làng của họ. Trong năm 1985 Thái Lan tiếp tục lên án Việt Nam xâm nhập các làng

Taveng thuộc tỉnh Surin.

Thái Lan nhiều lần lên án Việt Nam lấy lý do tiêu diệt các lực lượng Khmer

chống chính phủ Heng Samrin đã xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ đã làm cho mối

quan hệ Thái Lan và Việt Nam ngày một xấu đi. Đấu tranh chính trị thông qua các

diễn đàn của hai bên ngày càng quyết liệt hơn. Trong khi đó ngược lại, chính phủ

Cộng hòa Nhân dân Campuchia và Việt Nam không chỉ lên án Thái Lan dung túng,

tiếp tế cho Khmer đỏ mà còn nhiều lần xâm phạm lãnh thổ Campuchia. Cộng hòa

Nhân dân Campuchia và Việt Nam khẳng định “Gần như hàng ngày, pháo từ lãnh

thổ Thái Lan bắn sang lãnh thổ Campuchia và máy bay quân sự Thái Lan xâm

phạm vùng trời Campuchia. Những hoạt động xâm phạm nói trên ngày càng mở

rộng, việc làm của nhà cầm quyền Thái Lan nhằm đổi trắng thay đen nhưng không

thể che đậy sự thật là chính họ xâm phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ

của Campuchia”[20, tr.4]. Cộng hòa Nhân dân Campuchia và Việt Nam còn lên án

tàu thuyền Thái Lan xâm phạm lãnh hải Campuchia, máy bay L19, phản lực CH47,

F5 của Thái Lan nhiều lần xâm phạm vùng trời Campuchia, pháo và rốc két từ Thái

Lan bắn sang Battambang, Siemriep, Poipet, Preh Vihear gây cho Campuchia nhiều

thiệt hại về người và của. Việt Nam và chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia

tuyên bố “Những lời thanh minh gần đây của nhà cầm quyền Thái lan không che

dấu được sự thật là những hành động đó xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của

Campuchia và rõ ràng là nhằm yểm trợ cho bọn tàn quân Polpot – Iêng Xari” [22,

tr.4]. Việt Nam yêu cầu Thái Lan phải có những biện pháp nhằm chấm dứt ngay

mọi hành động tương tự, triệt để tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Campuchia vì

tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước. Nếu những hành động trên còn tiếp diễn

thì nhà cầm quyền Thái Lan phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi hậu quả do họ

gây ra.

Trong khi đó ngược lại, chính phủ Thái Lan đưa ra chính sách 3 điểm trái

ngược hoàn toàn với lập trường của Việt Nam. Chính sách 3 điểm của Thái Lan bao

gồm: Thứ nhất, trả lại tất cả những người Campuchia về nước họ. Thứ hai, cho phép

quân đội cho phép quân đội hai bên chạy vào lãnh thổ Thái Lan để tránh bị tiêu diệt.

Thứ ba, chống lại việc truy kích bằng vũ lực của hai bên. Ai cũng có thể hiểu, chính

sách 3 điểm của Thái Lan rõ ràng là chỉ có lợi cho lực lượng Khmer đỏ và các lực

lượng Khmer khác chống chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia đồng thời ngụy

biện cho những hành động dung túng của họ. Chính sách 3 điểm cũng công khai

chống lại những quan điểm và hành động của chính phủ Việt Nam đối với vấn đề

xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan.

Những xung đột ở chiến trường đôi lúc có những diễn biến phát sinh mà

chính phủ chưa chắc đã kiem soát kịp đặc biệt là xung đột ở khu vực biên giới vô

cùng nhạy cảm. Những đợt đạn pháo bắn nhầm chổ, những cuộc tập kích chớp

nhoáng chưa rõ thực hư do ai gây ra cũng có thể gây nên những phản ứng trái

ngược của hai bên nhất là khi quan điểm hai bên đối nghịch với nhau. Do vậy trong

giai đoạn 1980 – 1986 vấn đề xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan là một

trong những vấn đề nổi cộm tác động rất xấu đến mối quan hệ Thái Lan và Việt

Nam.

Ngày 13 – 15/7/1981 Hội nghị quốc tế về Campuchia với 80 nước tham dự

diễn ra tại New York (Mĩ) đưa ra nghị quyết đòi rút hết quân đội nước ngoài khỏi

Campuchia, ngừng bắn, giải giáp các bên xung đột, thành lập Ủy ban quản lý và

tiến hành bầu cử tự do dưới sự giám sát của Liên Hợp Quốc. Thái độ của chính phủ

Cộng hòa Nhân dân Campuchia và Việt Nam đối với hội nghị New York là lên án

kịch liệt. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia khẳng định, một nghị quyết

như thế về Campuchia là không cần thiết vì không có vấn đề Campuchia. Trong khi

Việt Nam cho rằng, nghị quyết đưa ra tại Hội nghị New York là “Âm mưu phá hoại

sự hồi sinh của Campuchia, mở đường cho bè lũ Polpot và những kẻ phản động

Khmer khác quay lại xứ sở này”[70, tr.384 - 385]. Đồng thời lên án nghị quyết hội

nghị New York nhằm xóa mờ đi âm mưu của Trung Quốc và Mĩ trong việc đe dọa

an ninh và hòa bình ở Đông Nam Á.

Về vấn đề Việt Nam thật sự có tấn công Thái Lan hay không? Theo giới

phân tích Thái Lan “trước mắt một cuộc chạm trán lớn giữa hai nước ít có khả

năng xảy ra chừng nào lực lượng của Polpot chưa bị tiêu diệt hoàn toàn”[97,

tr.13]. Do đó đòi hỏi chính phủ Thái Lan phải có những chính sách để ủng hộ lực

lượng Khmer đỏ xem đây là giải pháp tốt nhất để kìm chân và làm Việt Nam suy

yếu. Thực tế Việt Nam không hề có ý định tấn công Thái Lan, chính Bộ ngoại giao

Việt Nam đã nhiều lần tuyên bố xác định lập trường về vấn đề này. Trả lời các hãng

thông tấn báo chí, Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch nhiều lần

khẳng định “Việt Nam chống Khmer đỏ là góp phần xóa bỏ nguy cơ bùng nổ đe dọa

nền độc lập, hòa bình, ổn định của Thái Lan và khu vực. Việt Nam mong muốn cùng

tồn tại trong hòa bình với Thái Lan”[66, tr.1]. Không chỉ có Việt Nam khẳng định

mà trước đó chính Liên Xô, đồng minh chiến lược với Việt Nam cũng khẳng định

với Thủ tướng Kriangsak Chomanan nhân chuyến thăm của ông đến Liên Xô (tháng

4/1979). Trong cuộc hội đàm hai bên, Thủ tướng Liên Xô Kossygin khẳng định

“Không thể có chuyện Việt Nam xâm lược Thái Lan hay có mưu đồ chiếm lĩnh Thái

Lan”[88, tr.13]. Lập trường của Việt Nam luôn khẳng định trong tất cả các tuyên bố

là không bao giờ có chuyện Việt Nam xâm lược Thái Lan. Đồng thời, Việt Nam và

Cộng hòa Nhân dân Campuchia quả quyết “kiên trì chính sách quan hệ hữu nghị,

láng giềng tốt đẹp với Thái Lan và các nước đông Nam châu Á, tích cực góp phần

vào hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực Đông Nam Á” [10, tr.3].

Từ 1980 – 1986 Lập trường của Thái Lan đối với vấn đề Campuchia cũng

như đối với Việt Nam vẫn chưa thay đổi. Có nghĩa Thái Lan vẫn lên án Việt Nam

chiếm đóng Campuchia, đe dọa an ninh, chủ quyền của họ và tích cực tìm kiếm

đồng minh, chạy đua vũ trang nhằm chuẩn bị đối phó với Việt Nam. Hầu như hàng

tháng Thái Lan đều tổ chức các cuộc biểu tình lên án Việt Nam chiếm đóng

Campuchia và xâm phạm lãnh thổ Thái Lan. Để phục vụ cho mục đích đó, Thái Lan

cho xuất bản Sách trắng ngoại giao (1980) và thông qua các tuyên bố chung của

Hội nghị Bộ trường ASEAN để lên án Việt Nam và khẳng định lập trường của

mình. Thái Lan còn chạy đua vũ trang để chuẩn bị đối đầu với Việt Nam trong đó

số tiền chi tiêu mua vũ khí đạt con số kỷ lục 107 triệu USD (1985).

Những tố cáo của chính phủ Thái Lan bị chính phủ Cộng hòa XHCN Việt

Nam và Cộng hòa Nhân dân Campuchia bác bỏ, ngược lại còn tố cáo Thái Lan giúp

đỡ các thế lực Khmer phản động chống nhân dân Campuchia và can thiệp vào công

việc nội bộ của Campuchia, lập trường của Việt Nam thể hiện rõ trong tuyên bố Bị

vong lục (1980) và trong các tuyên bố chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao

Campuchia, Lào, Việt Nam từ 1980 - 1986.

Trong giai đoạn 1980 – 1986, chính vấn đề Campuchia là nguyên nhân chủ

yếu làm cho mối quan hệ hai nước Thái Lan và Việt Nam ngày càng trở nên xấu đi,

những nghi ngờ và lập trường rất khác xa nhau đã đẩy những mâu thuẫn trở nên

trầm trọng và tác động không nhỏ đến tình hình khu vực. Qua tìm hiểu cho thấy,

không thể phủ nhận sự thay đổi chính sách và việc thể hiện đường lối ngoại giao đối

đầu của Thái Lan với Việt Nam có sự tác động không nhỏ của các cường quốc bên

ngoài mà tiêu biểu là Trung Quốc và Mĩ.

Tóm lại, trong giai đoạn này, lập trường của Việt Nam về vấn đề Campuchia

tỏ ra rất cương quyết, Việt Nam một mực khẳng định vấn đề căng thẳng, bất ổn, đe

dọa an ninh và hòa bình ở Đông Nam Á là do chính sách bành trướng, phá hoại của

Trung Quốc có sự giúp sức của Mĩ chống lại các nước Đông Dương nói riêng và

Đông Nam Á nói chung mà minh chứng cụ thể nhất là tiếp tay cho Khmer đỏ và các

thế lực phản động khác. Quân đội Việt Nam có mặt tại Campuchia là cần thiết,

không đe dọa đến an ninh, chủ quyền của Thái Lan cũng như bất kì nước ASEAN

nào. Trái lại, còn góp phần làm ổn định an ninh, đem lại hòa bình cho Campuchia

nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung. Ngăn chặn sự quay lại của chế độ

Polpot, giúp nhân dân Campuchia tái thiết đất nước thành công. Bên cạnh lập

trường cứng rắn, Việt Nam cũng hé mở khả năng rút bớt quân khỏi Campuchia khi

tình hình Campuchia dần ổn định. Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia,

Lào, Việt Nam (7/7/1982) diễn ra ở TP. Hồ Chí Minh đã đi đến thỏa thuận Việt

Nam sẽ rút bớt một số quân khỏi biên giới Campuchia – Thái Lan. Hội nghị cấp cao

Việt Nam – Lào – Campuchia (23/2/1983) ở Viên Chăn đã đưa ra tuyên bố sẽ rút

một số quân Việt Nam khỏi Campuchia và tất cả quân tình nguyện Việt Nam sẽ rút

hết về nước khi mối đe dọa của các thế lực Khmer phản động đối với chính phủ

Cộng hòa Nhân dân Campuchia chấm dứt. Việt Nam cũng nhiều lần tái khẳng định

mong muốn chiến sự chấm dứt càng sớm càng tốt, không muốn chiến tranh kéo dài

và “muốn giữ gìn mối quan hệ, muốn làm cho biên giới Thái Lan – Campuchia có

hòa bình ổn định và muốn Việt Nam và Thái Lan sớm có quan hệ hữu nghị”[51,

tr.39].

Vấn đề Campuchia đã đẩy mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam trượt dốc theo

chiều hướng ngày càng xấu đi. Lập trường, quan điểm và thái độ khác biệt của Thái

Lan đối với Việt Nam trong những vấn đề liên quan đến cuộc xung đột tại

Campuchia đã dẫn đến những hành động trái ngược nhau. Có quá nhiều yếu tố tác

động xấu từ cuộc xung đột tại Campuchia đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam từ đó

dẫn đến sự đối đầu trong quan hệ hai nước.

TIỂU KẾT

Trong giai đoạn mà sự đối đầu Đông – Tây vẫn còn căng thẳng, sự chi phối

của hai cực Xô – Mĩ đối với phần còn lại của thế giới vẫn còn rất lớn thì một vấn đề

xảy ra như cuộc xung đột tại Campuchia sẽ trở nên phức tạp hơn rất nhiều khi có sự

tham gia của các cường quốc đối lập. Cuộc “chiến tranh lạnh” vẫn có sự tác động

không nhỏ đến cuộc xung đột tại Campuchia.

Xung quanh vấn đề Campuchia giai đoạn 1979 – 1986 có quá nhiều nhân tố

tác động xấu đến mối quan hệ giữa Thái Lan – Việt Nam. Nếu xem quan hệ Thái

Lan – Việt Nam là một biểu đồ hình Sin thì đây chính là giai đoạn biểu thị điểm

thấp nhất hiển thị trong biểu đồ. Xuất phát từ quan điểm khác nhau, thái độ, lập

trường và góc độ nhìn nhận vấn đề Campuchia khác nhau, dẫn đến hậu quả là cách

giải quyết vấn đề có sự khác biệt rất lớn đẩy mối quan hệ hai nước trượt dốc dẫn

đến sự đối đầu.

Theo lập trường của Thái Lan thì nguồn gốc của tất cả các nguyên nhân gây

khó khăn cho Thái Lan và các nước trong khu vực như vấn đề người tị nạn, xung

đột tại biên giới Thái Lan - Campuchia, an ninh chủ quyền của Thái Lan bị đe dọa

đều xuất phát từ nguyên nhân Việt Nam chiếm đóng trái phép Campuchia và dựng

lên chính phủ thân Việt Nam do Heng Samrin đứng đầu. Thái Lan còn nhiều lần tố

cáo Việt Nam lấy cớ truy đuổi tàn quân Polpot để xâm nhập trái phép lãnh thổ của

họ đồng thời tích cực chạy đua vũ trang và tìm kiếm đồng minh để đối phó. Ngược

lại Việt Nam cho rằng, chính việc Thái Lan bắt tay với Trung Quốc tiếp tế cho

Khmer đỏ và các thế lực Khmer phản động khác là nguyên nhân gây nên tình trạng

bất ổn ở Campuchia cũng như trong khu vực. Bên cạnh đó Việt Nam còn lên án

Thái Lan có chính sách thù địch đối với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia

và nhiều lần xâm phạm lãnh thổ Campuchia.

Lập trường đối lập dẫn đến sự đối đầu của hai nước trong giai đoạn này còn

tác động không tốt đến mối quan hệ của các nhóm nước trong khu vực Đông Nam

Á. Một thực tế không thể phủ nhận là lập trường khác biệt và đối đầu của hai nước

Thái Lan – Việt Nam chịu tác động không nhỏ của các cường quốc đối lập mà cụ

thể ở đây là Liên Xô, Mĩ và Trung Quốc.

Trong khi lập trường của các nước lớn đối lập chưa thay đổi thì lập trường,

quan điểm của Thái Lan và Việt Nam khó có cơ hội đổi thay. Trong giai đoạn này

(1979 - 1986) Thái Lan vẫn kiên quyết giữ vững lập trường đòi Việt Nam rút quân

vô điều kiện khỏi Campuchia, để cho người Campuchia quyền tự quyết và tổ chức

hội nghị quốc tế để giải quyết vấn đề Campuchia. Ngược lại Việt Nam vẫn khẳng

định tình hình Campuchia hiện giờ là không thể thay đổi và không thể đảo ngược.

Việt Nam xem sự hiện diện của quân đội mình tại Campuchia là một việc làm hợp

pháp bởi đã có sự chấp thuận của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia để giữ

gìn và duy trì hòa bình không chỉ cho đất nước Campuchia mà còn cho các nước

khác trong khu vực.

Trong việc tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia, phương pháp

của hai bên cũng có sự khác biệt rất lớn. Thái Lan ủng hộ giải pháp về một hội nghị

quốc tế để giải quyết vấn đề Campuchia trong đó Liên Hợp Quốc phải đóng vai trò

chính. Trong khi Việt Nam chỉ chấp nhận một hội nghị vùng gồm các nước Đông

Nam Á và các bên Campuchia để giải quyết vấn đề đồng thời không chấp nhận một

hội nghị quốc tế về Campuchia cũng như không chấp nhận vai trò chính của Liên

Hợp Quốc.

Theo quy luật, một khi xuất hiện mâu thuẫn đối kháng mà hai bên không tìm

được điểm chung cũng như không thể toàn quyền quyết định vấn đề thì mâu thuẫn

đó sẽ bộc lộ hết bản chất của nó và chắc chắn khi đã tích lũy đủ lượng sẽ dẫn đến sự

thay đổi về chất tức là lúc mâu thuẫn sẽ được giải quyết để thúc đẩy sự phát triển.

Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong giai đoạn 1979 – 1986

này cũng là một trường hợp tương tự.

Có thể khẳng định, chính vấn đề Campuchia đã gây ra những tổn thất rất lớn

cho không chỉ Việt Nam, Campuchia mà còn cho cả Thái Lan. Sự tác động của vấn

đề này ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình xây dựng đất nước giàu mạnh của cả Thái

Lan và Việt Nam. Mặt khác còn ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển cũng như

mối quan hệ của các nước trong khu vực. Do đó sớm giải quyết vấn đề Campuchia

không chỉ có lợi cho Thái Lan và Việt Nam mà còn cho cả các nước trong khu vực.

Chương 3

VẤN ĐỀ CAMPUCHIA TRONG QUAN HỆ THÁI LAN –

VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 1991.

3.1. Bối cảnh lịch sử và những nhân tố tác động đến đường lối đối ngoại của

Thái Lan – Việt Nam

Trong nửa cuối những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có nhiều

biến động dẫn đến những thay đổi chóng vánh mà nếu các quốc gia dân tộc không

bắt kịp có thể gây ra những hậu quả khôn lường. Bối cảnh thế giới đang đặt ra

những vấn đề cấp thiết đòi hỏi các nước cần có sự liên kết hợp tác mới giải quyết có

hiệu quả. Trước tình hình đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra cho mỗi nước cần phải có

những sự thay đổi mạnh mẽ, quyết tâm cải cách để đưa đất nước phát triển. Trong

khi các nước đi theo con đường TBCN rất thành công trong việc tổ chức và sắp xếp

lại nền kinh tế, áp dụng mạnh mẽ khoa học – kĩ thuật vào sản xuất đem lại những

kết quả vượt bậc thúc đẩy đất nước ngày càng phát triển. Ngược lại Liên Xô và các

nước XHCN rơi vào một cuộc khủng hoảng toàn diện và đặt đất nước vào một tình

thế hết sức hiểm nghèo trước sự tồn vong của thể chế chính trị. Mô hình, cơ chế tập

trung bao cấp vốn đã tồn tại nhiều thiếu sót đến giai đoạn này càng bộc lộ rõ hơn,

kinh tế suy sụp, chính trị rối loạn và nhân dân nhiều nước mất lòng tin vào chính

quyền.

Trong tình hình đó, tháng 3/1985 M. Goocbachop được Ủy ban Trung ương

Đảng Cộng sản Liên Xô bầu làm Tổng bí thư thay ông C.U. Trecnenco vừa qua đời.

Việc M. Goocbachop lên nắm quyền được nhiều người kỳ vọng sẽ có nhiều thay

đổi lớn lao trong việc lãnh đạo đất nước. Lên nắm quyền, M. Goocbachop tiến hành

ngay một cuộc cải tổ toàn diện, quy mô trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống trong

đó tiêu biểu là lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Ngoài việc sắp xếp lại cơ cấu kinh tế,

kêu gọi thu hút vốn đầu tư nước ngoài và những cải cách chính trị nhằm tập trung

quyền lực để phục vụ toi đa cho chính sách cải tổ. M. Goocbachop còn thực hiện

những chính sách đối ngoại rất cởi mở khác hẳn với những người lãnh đạo tiền

nhiệm trước đó nhằm thu hút vốn đầu tư và hợp tác kinh tế trong đó có việc xích lại

gần hơn với Mĩ và Trung Quốc. Sau khi nhậm chức hơn một năm, ngày 28/7/1986

M. Goocbachop đọc diễn văn tại Vladivodstock công bố những nét chính trong

chính sách đối ngoại của mình, trong đó có việc khẳng định sẽ tích cực thực hiện

việc chấm dứt xung đột tại biên giới Xô – Trung, bình thường hóa quan hệ Xô –

Trung và giải quyết vấn đề Campuchia. M. Goocbachop còn thực hiện những bước

đi ngoại giao táo bạo nhằm nhanh chóng bình thường hóa mối quan hệ với Mĩ, đặc

biệt là những cuộc tiếp xúc giữa M. Goocbachop với các tổng thống Mĩ là Reegan

và Bush nhằm cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược và chấm dứt chạy đua vũ trang

để tập trung ngân sách nhiều hơn cho phát triển kinh tế.

Trước tình hình thế giới có nhiều thay đổi, Mĩ cũng điều chỉnh chiến lược

của mình cho phù hợp với tình hình. Nhận thấy việc chạy đua vũ trang với Liên Xô

trong những năm qua đã ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách phát triển kinh tế của

Mĩ, trong khi đó Nhật Bản và Tây Âu ngày càng vươn lên mạnh mẽ trong lĩnh vực

kinh tế và khoa học – kĩ thuật đã có một số mặt vượt Mĩ. Mĩ – Xô tiến hành các

cuộc đàm phán cấp cao nhằm giải quyết những bất đồng để tiến tới hợp tác với

nhau. Điều đó rõ ràng không chỉ có lợi cho Mĩ, Liên Xô mà còn có lợi cho tình hình

thế giới. Xu thế đối thoại, hợp tác và những giải pháp chính trị dần thắng thế trước

xu thế đối đầu về quân sự – chính trị. Rõ ràng trước tình thế mới đã mở ra một

hướng đi quan trọng cho việc thực hiện một giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề

Campuchia có các bên liên quan tham gia.

Việc M. Goocbachop lên nắm quyền ở Liên Xô đồng thời thay đổi chính

sách đối ngoại đã gây cho Việt Nam không ít những lo lắng vì trước đây Liên Xô

luôn ủng hộ Việt Nam về mọi mặt, Liên Xô còn là nước viện trợ cho Việt Nam

nhiều nhất. Song song với việc thay đổi chính sách đối ngoại, Liên Xô còn cắt giảm

dần các khoản viện trợ cho Việt Nam. Trong giai đoạn này Việt Nam rơi vào khủng

hoảng lớn về kinh tế, vấn đề Campuchia giải quyết chưa xong trong khi vì vấn đề

này Việt Nam bị nhiều nước trên thế giới cô lập. Việc thay đổi chính sách đối ngoại

của Liên Xô không chỉ làm cho Việt Nam càng khó khăn hơn về kinh tế mà còn gây

khó khăn cho Việt Nam trong quan hệ đối ngoại vì rõ ràng trước đó Việt Nam luôn

xem Liên Xô là “thành trì” bảo vệ CNXH, là “hòn đá tảng” trong quan hệ và bảo

đảm an ninh cho mình. Trước tình hình đó, Việt Nam không thể ngồi yên mà phải

tự vận động để giải quyết những khó khăn của mình bằng việc đổi mới về chính

sách kinh tế và quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa trong đó có việc từng

bước xích lại gần hơn trong quan hệ với Trung Quốc, ASEAN và các nước châu Á

khác. Trong đó vấn đề tiên quyết để Việt Nam đạt được mục đích thay đổi chính

sách đối ngoại là phải nhanh chóng giải quyết vấn đề Campuchia.

Trước việc các nước lớn thay đổi đường lối đối ngoại, vấn đề đối thoại đang

trở thành xu thế phổ biến, Thái Lan cũng đã nhanh chóng thích nghi trong việc điều

chỉnh chiến lược của mình. Một mặt tiếp tục thắt chặt quan hệ với các đồng minh

của mình như Mĩ, Nhật. Mặt khác, Thái Lan nhanh chóng thực hiện chính sách

ngoại giao đa phương hóa bằng cách tích cực hơn trong việc tiếp xúc, hợp tác với

Liên Xô và nhiều nước khác mà trước đây Thái Lan chưa quan tâm nhiều. Bên cạnh

đó, Thái Lan cũng bật đèn xanh với những động thái gợi mở để đối thoại trực tiếp

với Việt Nam nhằm tiến tới giải quyết vấn đề Campuchia.

Có thể khẳng định, vấn đề Campuchia là một trở ngại lớn trong việc tiến tới

bình thường hóa của các nước liên quan có lập trường đối lập. Vấn đề Campuchia

không chỉ có ảnh hưởng đến việc bình thường hóa quan hệ Trung Quốc – Việt

Nam, Thái Lan – Việt Nam mà còn ảnh hường đến quan hệ Liên Xô – Trung Quốc

trong đó có việc Trung Quốc đưa yêu cầu bình thường hóa với Liên Xô gắn với việc

Liên Xô phải có biện pháp buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia.

Vấn đề Campuchia như trên đã trình bày có sự tham gia của rất nhiều bên,

nhiều phe phái trong đó có thể kể đến nhóm các nước lớn như Trung Quốc, Liên

Xô, Mĩ; các nươc ASEAN, Thái Lan, Việt Nam; chính phủ Cộng hòa Nhân dân

Campuchia và các bên Campuchia khác. Trong khi bối cảnh quốc tế trong giai đoạn

1986 – 1991 có nhiều biến chuyển rất phức tạp trong đó chiến tranh lạnh đi vào giai

đoạn cuối, các nước lớn như Liên Xô, Mĩ, Trung Quốc có những điều chỉnh chiến

lược để thích nghi với thực tế đó là từ chỗ đối đầu chuyển sang đối thoại, hòa hoãn,

song phương và đa phương. Chính sự thay đổi đó đã tác động rất lớn đến các nước

Đông Nam Á, đặc biệt là mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam, ba nước Đông Dương

và ASEAN cũng dần chuyển từ đối đầu sang đối thoại.

Đến cuối những năm 80 công cuộc đổi mới toàn diện do M. Goocbachop

khởi xướng ở Liên Xô thu được kết quả không như mong muốn, tình hình đất nước

khủng hoảng ngày càng trầm trọng, sự mất đoàn kết, mất tin tưởng vào chính phủ

ngày càng lớn. Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX cho đến 1991 mô hình XHCN

ở các nước Đông Âu và Liên Xô lần lượt sụp đổ. CNXH ở Liên Xô sụp đổ, thế giới

hai cực không còn, Mĩ cố gắng vươn lên nhằm bá chủ thế giới và mong muốn thực

hiện thế giới một cực. Các cường quốc khác cũng ra sức vươn lên nhằm hình thành

thế giới đa cực, trong đó có Trung Quốc. Bên cạnh đó cùng với sự phát triển như vũ

bảo của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật và việc đa dạng hóa, đa phương hóa

các mối quan hệ quốc tế trở nên quan trọng. Tình hình thế giới cũng nảy sinh nhiều

vấn đề cấp thiết (dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, nóng lên của trái đất…) mà một

quốc gia riêng lẻ không thể giải quyết được, đòi hỏi cần có sự phối hợp hành động.

Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến xu thế đối thoại và hợp tác ngày

một chiếm ưu thế.

Năm 1989 sự kiện Thiên An Môn tại Trung Quốc có tác động không nhỏ đến

mối quan hệ Trung – Mĩ. Trước khi chưa xảy ra sự kiện này, Trung Quốc và Mĩ

luôn sát cánh và cùng chung quan điểm trong những vấn đề liên quan đến vấn đề

Campuchia. Tuy nhiên sau sự kiện Thiên An Môn, Mĩ đã công khai chỉ trích Trung

Quốc vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Thêm vào đó việc Trung Quốc kiểm soát

Quota hàng nhập khẩu vào Mĩ cũng như việc Mĩ nghi ngờ Trung Quốc có mối quan

hệ buôn bán vũ khí với Iran đã làm cho quan hệ Mĩ – Trung xấu đi. Điều này có lợi

cho Việt Nam trong việc giải quyết vấn Campuchia, từ việc có thái độ lập lờ về việc

giải quyết vấn đề chính trị Campuchia thì nay Mĩ tuyên bố phải loại bỏ Polpot

không để cho thế lực này quay lại và kêu gọi đối thoại trực tiếp với chính phủ Việt

Nam và chính phủ Hunsen để tiến tới giải quyết vấn đề chính trị cho Campuchia.

Rõ ràng bối cạnh quốc tế nêu trên đã tác động không nhỏ đến lập trường của

tất cả các nước và các bên liên quan đến vấn đề Campuchia. Trước xu thế hòa hoãn,

đối thoại là ưu tiên đã mở ra một hướng đi tiến tới một giải pháp chính trị toàn diện

cho vấn đề Campuchia cũng như cải thiện mối quan hệ của tất cả các nước liên

quan.

3.2. Lập trường của Thái Lan và Việt Nam xung quanh vấn đề Campuchia

3.2.1. Thái Lan và Việt Nam thu hẹp những bất đồng xung quanh việc

giải quyết vấn đề Campuchia (1986 – 1989)

Có thể khẳng định giai đoạn nửa cuối những năm 80 trong vấn đề

Campuchia vẫn còn nhiều bất đồng giữa lập trường của Thái Lan và Việt Nam.

Trong đó Thái Lan vẫn tiếp tục lên án Việt Nam chiếm đóng trái phép Campuchia,

vi phạm hiến chương Liên Hợp Quốc, lên án Việt Nam xâm phạm lãnh thổ Thái

Lan. Thái Lan vẫn xem sự hiện diện của quân đội Việt Nam ở Campuchia là nguyên

nhân gây nên tình trạng bất ổn cho khu vực và đe dọa an ninh của Thái Lan. Thái

Lan và các nước ASEAN tiếp tục biểu lộ thái độ lo lắng về việc vẫn tiếp diễn vấn

đề người tị nạn kể từ ngày Việt Nam đưa quân vào Campuchia đồng thời kêu gọi

cần phải để cho người Campuchia tự quyết định số phận của mình. Theo Thái Lan,

để giải quyết tận gốc vấn đề Campuchia, Việt Nam cần phải chấm dứt ngay sự can

thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia và xem đó là hành động đe dọa hòa bình,

ổn định ở khu vực Đông Nam Á cũng như gây nguy hiểm cho hòa bình thế giới.

Thái Lan – ASEAN khẳng định lập trường về 1 kế hoạch lâu dài và sáng

kiến về một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia là rút toàn bộ quân nước

ngoài khỏi Campuchia, trả lại độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và trung lập

không liên kết cho Campuchia, để người Campuchia quyền tự quyết và tăng cường

vai trò của cộng đồng quốc tế trong việc giải quyết vấn đề Campuchia. Thái Lan –

ASEAN kêu gọi vì độc lập cho Campuchia cần phải có sự tiếp xúc gián tiếp hoặc

trực tiếp giữa Việt Nam với chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ (CGDK -

Coalition Government of Democratic Kampuchea).

Thái Lan vẫn cho rằng, Việt Nam tiếp tục theo đuổi chính sách quân sự trong

việc giải quyết vấn đề Campuchia trong đó có những hiềm khích trong những mục

tiêu quân sự giữa biên giới Campuchia – Thái Lan. Quân đội Việt Nam vẫn tiếp tục

các hoạt động quân sự nhằm vào dân thường trong các trại tị nạn gần biên giới, vi

phạm chủ quyền và lãnh thổ của Thái Lan. Ngày 29/5/1986 người phát ngôn Bộ

Ngoại giao Thái Lan lên án Việt Nam đã pháo kích vào trại thường dân Campuchia

tại Khaoyai được đặt dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc nằm sâu trong lãnh thổ

Thái Lan 4 km, kết quả đem lại những cái chết, bị thương cho những người

Campuchia vô tội cũng như những người Thái sống gần biên giới trong đó có 11

người chết và 50 người bị thương. Thái Lan còn lên án Việt Nam thả mìn xuống

khu vực gần biên giới gây nguy hiểm cho hàng trăm cuộc sống của người

Campuchia và người Thái đồng thời kêu gọi Việt Nam ngừng phóng lựu đạn đồng

thời thúc giục cộng đồng quốc tế đưa ra yêu cầu cho Việt Nam chấm dứt những

hành động trên.

Các nước ASEAN cũng biểu lộ sự ủng hộ cao độ cho những hoạt động và

lập trường của Thái Lan đồng thời bày tỏ sự đoàn kết với Thái Lan. Thái Lan và

ASEAN xem “hành động rút quân của Việt Nam khỏi Campuchia trong tháng

5/1986 chỉ là một bộ phận nhỏ như là sự luân phiên nhằm qua mặt cộng đồng quốc

tế cũng như chính bản thân người Campuchia và Việt Nam” [121, tr.74]. Trong

tuyên bố chung của hội nghị Bộ trưởng ASEAN tại Phipipin (1986), các nước

ASEAN bày tỏ việc họ lo lắng về hoàn cảnh của những người Campuchia sống

dưới sự chiếm đóng của Việt Nam khi phải làm việc ở những vùng có chiến tranh

đó chính là nguyên nhân khiến nhiều dân thường bị chết hoặc bị thương. Họ cũng

cho rằng, vấn đề nhân khẩu Campuchia có thể thay đổi khi có quá nhiều người Việt

Nam đến định cư lâu dài tại Campuchia.

Thái Lan khẳng định, tiếp tục ủng hộ chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân

chủ (CGDK) của chủ tịch N. Sihanouk là sự sống còn mang tính quyết định cho

người Campuchia trong cuộc đấu tranh giành độc lập, chủ quyền, trung lập và

không liên kết cho Campuchia. Thái Lan ủng hộ N. Sihanouk trong việc kêu gọi hòa

hợp dân tộc giữa các phe phái chính trị ở Campuchia là yếu tố cần thiết đem lại độc

lập và chủ quyền cho Campuchia. Tiếp tục hợp tác với chính phủ Liên hợp

Campuchia Dân chủ trong vấn đề chính trị, ngoại giao và quân sự. Thái Lan yêu cầu

cộng đồng quốc tế ủng hộ chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ nhằm tăng số

phiếu bầu về nghị quyết cho Campuchia tại cuộc họp Đại hội đồng lần thứ 40 và

ủng hộ nghị quyết về Campuchia nhằm phản đối hành động chiến tranh của Việt

Nam tại Campuchia.

Thái Lan và ASEAN còn cho rằng, các vị trí đóng quân và đặt vũ khí chiến

lược của Việt Nam ở Campuchia vẫn không có gì thay đổi, họ lấy làm tiếc vì Việt

Nam không có giải pháp chính trị nào cho vấn đề Campuchia. Thái Lan hy vọng

lãnh đạo mới ở Việt Nam sẽ tỏ giải pháp thiện chí nhằm tìm ra giải pháp cho vấn đề

chính trị ở Campuchia. Kêu gọi cộng đồng quốc tế và tất cả các nước kể cả Liên Xô

thúc giục Việt Nam giải quyết hòa bình cho vấn đề Campuchia.

Những tuyên bố và hành động trên của Thái Lan và các nước ASEAN cho

thấy, thực chất mâu thuẫn giữa Thái Lan và ASEAN với Việt Nam vẫn còn khá lớn.

Lập trường và quan điểm của Thái Lan đối với vấn đề Campuchia cũng như đối với

Việt Nam cơ bản vẫn chưa có sự thay đổi nhiều.

Về phía Việt Nam, sự kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng

Cộng sản Việt Nam (ngày 15/12/1986) không chỉ nhằm mục đích giải quyết những

vấn đề khó khăn mà còn đánh dấu mốc quan trọng trong việc thay đổi lập trường

của Việt Nam về vấn đề Campuchia. Việt Nam thường gọi đây là đại hội của trí tuệ

và đổi mới tư duy, đặc biệt là đổi mới tư duy kinh tế và tư duy đối ngoại. Đại hội đã

xác định được nhiều vấn đề then chốt nhằm đưa Việt Nam vượt ra khỏi tình hình

khó khăn để tiếp tục tiến lên CNXH. Đại hội khẳng định thực hiện đường lối đối

ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác phát triển với chính sách ngoại giao rộng

mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Trong đó khẳng định

những thành tựu đạt được trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cùng với sự

tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào, Campuchia và

các nước anh em khác trong cộng đồng XHCN. Đại hội bàn rất nhiều đến chính

sách đối ngoại trong đó khẳng định tiếp tục tăng cường hoạt động trên lĩnh vực đối

ngoại, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại vì sự nghiệp dân tộc và

nghĩa vụ quốc tế. Đấu tranh giữ vững hòa bình ở Đông Dương, góp phần gìn giữ

hòa bình ở Đông Nam Á, ở châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới. Phát triển

và củng cố quan hệ đặc biệt giữa ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, đoàn kết, tôn

trọng độc lập, chủ quyền của mỗi nước và hợp tác toàn diện với Liên Xô là “hòn đá

tảng” trong chính sách ngoại giao. Đại hội còn khẳng định Việt Nam sẳn sàng làm

bạn với tất cả các nước trên thế giới trên tinh thần bình đẳng, bảo đảm độc lập, chủ

quyền và tôn trọng lẫn nhau. Đặc biệt trong đại hội này, Việt Nam thể hiện quyết

tâm sẳn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ giữa Việt Nam

với Trung Quốc, bình thường hóa quan hệ và khôi phục tình hữu nghị giữa hai

nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.

Văn kiện Đại hội khẳng định mạnh mẽ “Việt Nam sẳn sàng đàm phán với Trung

Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hóa quan

hệ giữa hai nước vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình và ổn định ở Đông

Nam Á”[43, tr4]. Liên Xô cũng cho rằng, việc Việt Nam và Trung Quốc bình

thường hóa mối quan hệ và hợp tác với nhau mới có thể giải quyết trọn vẹn vấn đề

Campuchia. Trước đó Tổng bí thư Liên Xô, M. Goocbachop đã khẳng định tình

hình Campuchia không thể giải quyết ở một thủ đô nào xa xôi mà phải được giải

quyết giữa hai nước láng giềng Trung Quốc – Việt Nam. Do đó, vấn đề bình thường

hóa quan hệ Việt – Trung cũng là một trong những nhân tố góp phần giải quyết vấn

đề Campuchia bởi đây là hai nước có ảnh hưởng lớn trong vấn đề này.

Việc thúc đẩy mối quan hệ với các nước ASEAN mà đặc biệt là Thái Lan

cũng được đại hội quan tâm. Trong báo cáo chính trị của Đại hội VI cũng khẳng

định sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi nhằm tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau

với Vương quốc Thái Lan trong đó vấn đề ưu tiên hàng đầu là là nối lại đàm phán

hai nước nhằm tiến tới bình thường hóa quan hệ hai nước. Việt Nam cũng khẳng

định sẳn sàng hợp tác với Trung Quốc, Thái Lan và cộng đồng quốc tế nhằm tiến

tới một giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia. Đồng thời Việt Nam

khẳng định tiếp tục rút quân khỏi Campuchia và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mĩ

vì hòa bình và ổn định ở Đông Nam Á.

Có thể khẳng định, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng

sản Việt Nam đã bước đầu có những định hướng để tháo gỡ được những khó khăn,

đặc biệt những nội dung nêu ra trong đại hội này đã tạo đà cho Việt Nam thực hiện

chính sách cởi mở hơn trong việc đa dạng hóa, đa phương hóa trong các mối quan

hệ quốc tế. Điều đó khẳng định chính phủ Việt Nam đã có sự thay đổi rất lớn trong

chính sách đối ngoại của mình, đây cũng chính là một nhân tối hết sức quan trọng

để góp phần giải quyết thành công vấn đề Campuchia.

Lập trường của Thái Lan tiếp tục được khẳng định trong thông cáo chung

của Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 20 diễn ra tại Singapore (15 - 16/7/1987)

lên án Việt Nam chiếm các ngọn đồi tại Chongbocgia của Thái Lan cũng như việc

“Việt Nam vào ngày 31/3/1987 đã pháo kích vào trại số 2 dưới sự bảo trợ của Liên

Hợp Quốc nằm trong lãnh thổ Thái Lan làm chết 7 người Campuchia và nhiều

người bị thương kết tội Việt Nam tấn công quân sự vào lãnh thổ Thái Lan và nạn

nhân không chỉ có dân thường Campuchia mà còn có dân thường Thái Lan sống

gần biên giới”[122, tr.85]. Đồng thời kêu gọi một giải pháp chính trị toàn diện ở

Campuchia trên cơ sở triệt thoái hoàn toàn lực lượng nước ngoài, khôi phục toàn

vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của nhân dân Campuchia dưới sự bảo trợ của Liên

Hợp Quốc, “tiến tới hòa giải dân tộc ở Campuchia và kêu gọi Việt Nam chấp nhận

nền độc lập, trung lập và không liên kết của Campuchia” [122, tr.84]. Thái

Lan và các nước ASEAN hoan nghênh cộng đồng quốc tế trong việc ủng hộ chính

phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ và ủng hộ nghị quyết về tình hình Campuchia tại

kỳ họp Đại hội đồng Liên Hợp Quốc lần thứ 41 trong đó tiếp tục phản đối Việt Nam

chiếm đóng trái phép Campuchia. Ngược lại chính phủ Việt Nam cũng tố cáo Thái

Lan cho máy bay xâm phạm vùng trời và bắn pháo vào lãnh thổ Campuchia.

Tình hình thế giới vào đầu nửa cuối những năm 80 của thế kỷ XX có nhiều

biến đổi và tác động không nhỏ đến lập trường, quan điểm của Thái Lan và Việt

Nam về vấn đề Campuchia đặc biệt là sự tác động của các nước lớn. Năm 1987

Liên Xô có những bước đi ngoại giao nhằm nhanh chóng giải quyết vấn đề

Campuchia tiêu biểu là chuyến thăm quan trọng của Bộ trưởng Ngoại giao

Shevardnadze đến các nước ASEAN trong đó có Thái Lan. Liên Xô và các nước

ASEAN đã đưa ra được những thông cáo chung trong đó khẳng định các bên sẽ tích

cực tìm kiếm một giải pháp chính trị đạt được sự đồng thuận của các bên cho vấn đề

Campuchia. Trong hội đàm với Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Shevardnadze, Thủ

tướng Thái Lan Chatichai Choonhavan khẳng định lập trường của Thái Lan mong

muốn nhanh chóng có một giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia

trong đó yêu cầu nhanh chóng rút toàn bộ quân đội nước ngoài khỏi Campuchia, để

cho người Campuchia quyền tự quyết nhằm tiến tới xây dựng một nước Campuchia

thống nhất và trung lập.

Bên cạnh đó, Liên Xô kêu gọi Việt Nam cần phải có những bước đi nhanh

chóng để giải quyết vấn đề Campuchia. Tháng 5/1987 Tổng bí thư Đảng Cộng sản

Việt Nam Nguyễn Văn Linh thực hiện chuyến thăm đến Liên Xô, trong cuộc hội

đàm với Tổng bí thư M. Goocbachop hai bên đã bàn rất nhiều đến vấn đề

Campuchia và cuối cùng đi đến nhất trí vấn đề nội bộ của Campuchia phải do chính

người Campuchia quyết định đồng thời thực hiện một giải pháp chính trị chú ý đến

vấn đề của các nước và các bên liên quan.

Chịu tác động không nhỏ từ sự thay đổi trên, kể từ 1987 mối quan hệ

ASEAN – Việt Nam có nhiều biến đổi theo chiều hướng tích cực và việc giải quyết

vấn đề Campuchia có chuyển biến khả quan, trong đó có việc Philippin tuyên bố

Việt Nam hiện nay không còn là mối đe dọa với họ nữa đồng thời khẳng định,

không phản đối việc Việt Nam mong muốn gia nhập ASEAN. Ngay cả Singapore

nước có lập trường cứng rắn từng nhiều lần lên án Việt Nam cũng có những phát

biểu thiện chí tin tưởng vào thái độ của chính phủ Việt Nam. Nếu trong giai đoạn

giai đoạn 1979 – 1986 chính phủ Thái Lan có tiếng nói rất lớn chi phối chủ yếu đến

đường lối đối ngoại của ASEAN trong vấn đề Campuchia thì nay trước sự thay đổi

của tình hình thế giới và sự thay đổi lập trường của Việt Nam, vai trò của Thái Lan

đã không còn là trung tâm như trước kia. Từ 1986 trở đi Indonexia nổi lên là nước

đóng vai trò trong việc thúc đẩy bình thường hóa quan hệ ASEAN – Việt Nam cũng

như thúc đẩy những giải pháp chính trị cho Campuchia.

Có thể khẳng định kể từ năm 1987 mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam nói

riêng, ASEAN – Việt Nam nói chung có những cải thiện rõ rệt, điều này xuất phát

từ thiện chí của hai bên nhưng có thể khẳng định việc tình hình thế giới có những

biến đổi và sự thay đổi lập trường của Việt Nam về vấn đề Campuchia cũng như

việc đổi mới chính sách đối ngoại của Việt Nam là nhân tố then chốt dẫn đến sự

biến đổi này. Việt Nam tuyên bố rút quân khỏi Campuchia đồng thời thực hiện từng

đợt rút quân khỏi Campuchia và ủng hộ một giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề

Campuchia. Điều đó cho thấy lập trường của Thái Lan và Việt Nam nói riêng,

ASEAN và Việt Nam nói chung đã có những nhân tố tương đồng để cùng đi đến

giải quyết những bất đồng lớn giữa hai bên.

Bắt đầu từ 1987 mối quan hệ giữa ASEAN – Việt Nam chuyển dần từng

bước từ tình trạng đối đầu sang đối thoại vừa hợp tác nhưng vừa đấu tranh cùng tồn

tại trong hòa bình, tiêu biểu là mối quan hệ của Indonexia – Việt Nam. Tháng

7/1987 Bộ trưởng Ngoại giao Indonexia Mokta Kusumaatmadja đến thăm Việt Nam

và hội đàm với các nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Nam, hai bên đi đến thống nhất sẽ

tổ chức “Tiệc rượi Jakarta” để các nước liên quan và các bên đối lập ở Campuchia

lần đầu tiên có cơ hội tiếp xúc với nhau nhằm tháo gỡ những bất đồng và tiến tới

một hội nghị quốc tế với một giải pháp toàn diện về chính trị cho vấn đề

Campuchia. Tiếp đó với vai trò lớn của Indonexia cuộc gặp gỡ JIM 1 (Jakarta

Informal Meeting 1), đã góp phần tạo thời cơ để tiến tới một giải pháp chính trị toàn

diện cho vấn đề Campuchia đồng thời tạo cơ hội cho các nước ASEAN và các nước

Đông Dương tiến tới giải quyết các vấn đề liên quan.

Năm 1988 tân Thủ tướng Thái Lan Chatichai Choonhavan tuyên bố “hãy

xem Đông Dương là thị trường chứ không phải là chiến trường” điều đó đồng

nghĩa với việc Thái Lan độc lập hơn trong chính sách đối ngoại của mình và dần

tách khỏi chính sách đối đầu mà Trung Quốc tác động lên họ bấy lâu nay. Thủ

tướng Chatichai Choonhavan kêu gọi vì quyền lợi của các nước Đông Nam Á cần

phải giải quyết vấn đề Campuchia sớm chừng nào hay chừng đó và tình hình hiện

nay đã có đủ điều kiện để đi đến những thỏa thuận. Thủ tướng Chatichai

Choonhavan cũng tuyên bố đẩy mạnh hơn nữa trong mối quan hệ với Việt Nam

bằng cách kêu gọi các doanh nghiệp hợp tác đầu tư và thúc đẩy buôn bán với Việt

Nam. Ông Chatichai Choonhavan cũng lên kế hoạch thăm Lào và giải quyết bất

đồng giữa hai nước, đây được xem là một trong những động thái thân thiện với Việt

Nam vì rõ ràng Thái Lan biết Lào là một trong những đồng minh anh em thân cận

vơi Việt Nam. Bên cạnh đó Việt Nam và chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia

tuyên bố công khai việc rút quân đội Việt Nam, ấn định thời hạn rút quân đồng thời

tiếp tục đấu tranh chống các hành động việc trợ của nước ngoài cho Khmer đỏ. Việt

Nam đã có thiện chí trong việc cố gắng hết sức mình để tạo thuận lợi cho tiến trình

đàm phán bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, Liên Xô – Trung

Quốc và Việt Nam – Thái Lan. Tuy nhiên, không thể phủ nhận quan hệ Thái Lan –

Việt Nam liên quan đến vấn đề Campuchia không thể không chịu sự tác động của

các nước lớn mà tiêu biểu ở đây là Liên Xô, Mĩ và Trung Quốc.

Trong tuyên bố chung của hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN lần thứ 21

tại Bangkok (4/7/1988) Thái Lan và các nước ASEAN tiếp tục yêu cầu Việt Nam

công nhận độc lập, trung lập và không liên kết của Campuchia. Kêu gọi các đảng

phái ở Campuchia hợp tác nhiều hơn với N. Sihanouk trong việc tìm kiếm giải pháp

chính trị cho Campuchia.

Từ ngày 25 – 28 /7/1988 Hội nghị JIM 1 diễn ra tại Bogor (Indonesia) có sự

tham gia của các nước ASEAN, Việt Nam, Lào và các bên xung đột tại Campuchia

nhằm tiến tới tìm một giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia. Tại hội

nghị này bất đồng giữa Thái Lan – Việt Nam vẫn còn khá lớn, trong đó ASEAN và

Thái Lan yêu cầu giải giáp quân đội của các bên tham gia thay vào đó là lực lượng

gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc. Ngược lại lập trường của Việt Nam và chính

phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia lại không chấp nhận vai trò của lực lượng gìn

giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc đồng thời yêu cầu giữ nguyên trạng tình hình hiện

nay tại Campuchia trước khi tiến hành bầu cử và loại bỏ hoàn toàn vai trò của

Polpot. Tuy vậy, Hội nghị JIM 1 cũng đạt được những kết quả khả quan để làm cơ

sở tiền đề cho những giải pháp chính trị toàn diện nhằm giải quyết vấn đề

Campuchia sau này. Trong tuyên bố chung của hội nghị đã khẳng định, Việt Nam

rút quân khỏi Campuchia phải được tiến hành song song với một giải pháp chính trị

toàn diện, ấn định thời gian cụ thể và đặt dưới sự giám sát của cộng đồng quốc tế.

Ngăn chặn chế độ Polpot quay lại nắm quyền, chấm dứt sự cam thiệp từ bên ngoài

vào công việc nội bộ của Campuchia và chấm dứt việc cung cấp vũ khí cho các bên

xung đột tại Campuchia.

Thông qua những diễn tiến mới trong quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ

Thái Lan – Việt Nam nói riêng, đặc biệt qua hội nghị JIM 1 cho thấy, mặc dù Thái

Lan và Việt Nam vẫn còn nhiều bất đồng xung quanh việc giải quyết vấn đề

Campuchia song hai nước đã có nhiều cố gắng để thu hẹp những bất đồng mà bản

tuyên bố chung của hội nghị JIM 1 là một minh chứng rõ nhất.

Tuy hai nước Thái Lan và Việt Nam đã cố gắng thu hẹp những bất đồng

nhưng những mâu thuẫn khá lớn giữa hai bên đối với việc giải quyết vấn đề

Campuchia vẫn phải đòi hỏi hai nước cần có những cố gắng tích cực hơn. Thứ nhất,

chủ ý của Thái Lan là muốn Liên Hợp Quốc có vai trò lớn hơn trong việc giải quyết

vấn đề Campuchia cũng như giao việc giữ gìn hòa bình và an ninh tại Campuchia

cho lực lượng quân đội Liên Hợp Quốc trong khi ngược lại Việt Nam lại không

đồng ý với chủ trương đó của Thái Lan. Thứ hai, Thái Lan yêu cầu Việt Nam phải

nhanh chóng rút hết quân khỏi Campuchia, nhưng Việt Nam gắn việc rút quân của

mình với việc Thái Lan không được để cho các lực lượng Khmer chống đối sử dụng

đất của mình làm căn cứ để phá hoại hòa bình của Campuchia đồng thời chấm dứt

viện trợ của nước ngoài cho Polpot thông qua Thái Lan trong khi đó vấn đề này lại

liên quan đến Trung Quốc nên không thể giải quyết ngay được. Thứ ba, Việt Nam

ủng hộ việc giữ nguyên hiện trạng tức không được giải tán chính quyền Cộng hòa

Nhân dân Campuchia trong khi Thái Lan ủng hộ chính phủ lâm thời bốn bên do N.

Xihanouk đứng đầu.

Xu thế đối thoại để đi đến giải quyết vấn đề Campuchia bằng một biện pháp

chính trị đồng thời từng bước tiến tới bình thường hóa quan hệ Thái Lan – Việt

Nam là một quá trình hết sức sức khó khăn trong suốt những năm 80 của thế kỷ

XX. Để tiếp tục khẳng định thiện chí hợp tác của mình tháng 5/1988 Bộ Ngoại giao

Việt Nam ra tuyên bố rút quân đợt 7 gồm 50.000 quân đồng thời rút luôn bộ Tư

lệnh quân tình nguyện, số quân còn lại sẽ rút lui một khoảng cách biên giới

Campuchia – Thái Lan khoảng 30 km. Tuy vậy Thái Lan lại bày tỏ sự hoài nghi về

việc rút quân của Việt Nam vì không có sự giám sát của Liên Hợp Quốc do Việt

Nam vẫn chưa chấp nhận vai trò chính của Liên Hợp Quốc trong việc giải quyết vấn

đề Campuchia.

Một điểm đáng lưu ý là trong giai đoạn này là Mĩ ngày càng có những tác

động tích cực hơn trong việc giải quyết vấn đề Campuchia. Để thúc đẩy thêm một

bước trong việc giải quyết vấn đề Campuchia, tháng 7/1988 Ngoại trưởng Mĩ G.

Shultz thực hiện chuyến thăm một loạt các nước ASEAN trong đó có Thái Lan. Qua

các cuộc hội đàm, Ngoại trưởng G. Shultz và Ngoại trưởng các nước ASEAN đi

đến nhất trí là không để cho Khmer đỏ tạo ưu thế quân sự nhằm lấp khoảng trống

sau khi Việt Nam rút quân. Rõ ràng lập trường đó của Mĩ đã tác động rất lớn đến

không chỉ Thái Lan mà còn tác động đến Trung Quốc và một phần làm Việt Nam

hài lòng. Đồng thời bắt đầu báo hiệu sự khai tử cho thế lực Polpot vì đã đến lúc họ

không còn giá trị lợi dụng và nguy cơ bị cô lập rồi tan rã đang dần trở thành hiện

thực.

Mối quan hệ Thái Lan dần dần “tan băng” và lập trường hai bên dần thu hẹp

khi tân thủ tướng Thái Lan Chatichai Choonhavan đang cố gắng thực hiện những

bước đi để khẳng định chủ trương “hãy xem Đông Dương là thị trường chứ không

phải là chiến trường” mở ra một hướng đi mới trong quan hệ giữa Thái Lan – Việt

Nam. Kể từ đó Thái Lan thực hiện những động thái tích cực trong việc từng bước

nối lại quan hệ với Việt Nam nhất là việc tiến tới những hợp tác về kinh tế. Điều đó

có nghĩa hai bên cũng sẽ hợp tác tích cực hơn trong việc giải quyết vấn đề

Campuchia.

3.2.2. Thái Lan và Việt Nam tham gia giải quyết thành công vấn đề

Campuchia (1989 - 1991)

Tiếp nối những bước đi tích cực của cộng đồng quốc tế và các nước liên

quan trong việc giải quyết vấn đề Campuchia. Ngày 6/1/1989 trong buổi mit tinh kỷ

niệm 10 năm ngày lật đổ chế độ diệt chủng Polpot tại PhnomPenh, người đứng đầu

chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia ông Heng Samrin đã tuyên bố

“Campuchia và Việt Nam đã thỏa thuận là nếu có giải pháp chính trị thì quân Việt

Nam sẽ rút hết, chậm nhất là vào tháng 9/1990”[51, tr.55]. Tham dự trong buổi lễ

long trọng này còn có Tổng bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh.

Ông Nguyễn Văn Linh cũng phát biểu khẳng định “Việt Nam hoàn toàn nhất trí với

Campuchia là sẽ rút toàn bộ quân Việt Nam còn lại vào cuối tháng 9/1990. Việc rút

hết quân phải song song với việc chấm dứt viện trợ nước ngoài, chấm dứt việc sử

dụng lãnh thổ nước ngoài chống Campuchia và tiến hành dưới sự kiểm soát quốc

tế”[51, tr.56].

Song song với những tuyên bố thiện chí của Việt Nam, ngày 9/1/1989 Ngoại

trưởng Thái Lan Siddhi Savetsila đến Hà Nội và sau đó là chuyến thăm Thái Lan

của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch. Thông qua đó, hai nước

Thái Lan – Việt Nam mong muốn tìm ra những điểm tương đồng nhằm giải quyết

những bất đồng xung quanh vấn đề Campuchia.

Bên cạnh những bước đi ngoại giao tích cực với Thái Lan, Việt Nam còn

tăng cường thực hiện các bước đi nhằm nhanh chóng bình thường hóa quan hệ với

Trung Quốc bởi đây chính là nhân tố quan trọng nhằm góp phần giải quyết vấn đề

Campuchia. Các cuộc tiếp xúc giữa Bộ Ngoại giao Việt Nam và Trung Quốc diễn ra

nhiều hơn. Tuy vậy lập trường của Việt Nam và Trung Quốc trong việc giải quyết

vấn đề Campuchia vẫn còn nhiều mâu thuẫn. Phía Trung Quốc khẳng định Liên Xô,

Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan là những nước có liên quan đến vấn đề

Campuchia nên cần có sự hợp tác và thỏa thuận với nhau về chính quyền lâm thời

bốn bên tại Campuchia do N. Sihanouk lãnh đạo mới có thể giải quyết trọn vẹn vấn

đề Campuchia. Trung Quốc đòi giải tán hoàn toàn chính phủ Cộng hòa Nhân dân

Campuchia và ủng hộ chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ do N. Sihahouk

lãnh đạo trong đó Khmer đỏ có một chỗ đứng chính trị. Đáng chú ý là lập trường

này của Trung Quốc không thấy Liên Xô có động thái phản đối nào. Trong khi phía

Việt Nam kiên quyết loại trừ lực lượng Polpot ra khỏi tiến trình hòa hợp dân tộc,

qua đó cho thấy quan điểm của Việt Nam và Liên Xô đã không còn đồng nhất như

xưa.

Nối tiếp những động thái tích cực tại Hội nghị JIM 1 về vấn đề Campuchia,

tháng 2/1989 cũng tại Jakarta khai mạc hội nghị JIM 2 (Jakarta Informal Meeting

2). Trong tuyên bố chung của hội nghị đã khẳng định, Việt Nam rút hết quân khỏi

Campuchia trước ngày 30/9/1989, chấm dứt sự can thiệp và viện trợ vũ khí từ bên

ngoài cho các phe phái ở Campuchia đồng thời tìm giải pháp ngăn chặn sự quay lại

của chế độ diệt chủng Polpot. Các bên ngừng bắn, thỏa thuận một giải pháp chính

trị toàn diện và tổng tuyển cử dưới sự giám sát của quốc tế. Xây dựng một nước

Campuchia độc lập, chủ quyền, hòa bình và không liên kết phải được các bên

Campuchia giải quyết bằng con đường đàm phán. Có thể khẳng định nối tiếp JIM 1

thì JIM 2 là một thành công lớn của Việt Nam và đặc biệt những bất đồng trong lập

trường giữa Thái Lan – Việt Nam đã được thu hẹp rất nhiều đồng thời chứng minh

hai nước đã hợp tác tích cực và có thiện chí hơn trong việc giải quyết vấn đề

Campuchia.

Tuy nhiên bất lợi lớn nhất của Việt Nam lúc này là việc Liên Xô và Trung

Quốc đang tích cực đàm phán để nhanh chóng bình thường hóa quan hệ và thúc đẩy

hợp tác giữa hai cường quốc này, trong khi lập trường của Trung Quốc về giải quyết

vấn đề Campuchia lại có nhiều mâu thuẫn với Việt Nam. Để đổi lấy việc bình

thường hóa và hợp tác với Trung Quốc, Liên Xô có thể hy sinh quyền lợi của Việt

Nam trong vấn đề Campuchia. Do vậy Việt Nam quyết định đi trước một bước,

ngày 5/4/1989 Bộ ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố khẳng định rút hoàn toàn quân

khỏi Campuchia vô điều kiện vào tháng 9/1989 mà không cần đợi một giải pháp

chính trị. Việt Nam cũng tuyên bố sẽ không đưa quân trở lại Campuchia cho dù

trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Phối hợp với tuyên bố của Việt Nam, chính phủ Cộng hòa Nhân dân

Campuchia cũng đổi tên thành Quốc gia Campuchia (30/4/1989) và tuyên bố trung

lập vĩnh viễn. Bên cạnh đó từ ngày 2 – 3/5/1989 trong cuộc gặp tại Jakarta giữa N.

Sihanuok, Hunsen và Son Sann đã đi đến thống nhất sẽ thành lập Hội đồng dân tộc

tối cao hòa giải ( SNC - Supereme National Cuncil) do N. Sihanuok đứng đầu để

đảm nhiệm tổ chức bầu cử.

Ngày 30/7/1989 Hội nghị quốc tế nhằm tìm giải pháp chính trị cho vấn đề

Campuchia diễn ra tại Pari có sự tham gia của đại diện Ban thư ký Liên Hợp Quốc,

Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc, ASEAN, Việt Nam, Lào, Australia, Canada,

Ấn Độ, Zimbabwe, Nhật Bản và phái đoàn Campuchia gồm 4 bên. Thông qua

những vấn đề bàn bạc trong hội nghị, Thái Lan và Việt Nam cùng các nước tham

gia chấp nhận giải pháp “Rút quân đội nước ngoài, lập bộ máy quốc tế kiểm soát,

ngăn ngừa nội chiến, chấm dứt viện trợ quân sự cho các bên Campuchia, không để

lực lượng Polpot chiếm chính quyền sau khi Việt Nam rút quân, đảm bảo quy chế

độc lập, trung lập và không liên kết”[70, tr.416].

Nếu mâu thuẫn giữa Thái Lan – Việt Nam xuất phát từ nhiều nguyên nhân,

thì bất đồng lớn nhất của các nước ASEAN với Việt Nam là vấn đề quân đội Việt

Nam chiếm đóng Campuchia. Do đó trong nhiều năm, thông qua diễn đàn tại hội

nghị bộ trưởng các nước ASEAN đã nhiều lần lên án vấn đề này. Họ đòi Việt Nam

rút quân để cho người Campuchia quyền tự quyết và thực hiện một giải pháp chính

trị cho vấn đề Campuchia. Những mong muốn đó của ASEAN đến nay đã được

Việt Nam đáp ứng, các nước ASEAN thấy được thiện chí của Việt Nam nên có

những bước đi ngoại giao xích lại với Việt Nam, đây cũng là một trong những

nguyên nhân quan trọng góp phần nhanh chóng giải quyết vấn đề Campuchia.

Thông qua các diễn đàn giữa ASEAN với Việt Nam như JIM 1, JIM 2 giúp các

nước ASEAN hiểu thêm về Việt Nam và điều đó đồng nghĩa sức ép từ Trung Quốc

đối với họ xung quanh vấn đề Việt Nam chiếm đóng Campuchia sẽ bị hạn chế, nhất

là khi Việt Nam tuyên bố sẽ rút hết quân khỏi Campuchia và để cho người

Campuchia quyền tự quyết.

Bên cạnh đó, sự thay đổi thái độ của Liên Xô và Mĩ trong vấn đề Campuchia

cũng tác động không nhỏ đến lập trường của các nước ASEAN và Thái Lan. Cả Mĩ

và Liên Xô cuối cùng đã đi đến nhất trí loại bỏ Polpot không để cho quay trở lại

nắm quyền sau khi Việt Nam rút quân, đàm phán trực tiếp với Việt Nam và chính

phủ Hunsen để tiến tới một giải pháp chính trị đối với vấn đề Campuchia. Trước

những động thái đó rõ ràng các nước ASEAN không có lý do gì để từ chối đàm

phán với Việt Nam nhất là khi những vấn đề đàm phán liên quan đến những quyền

lợi sát sườn cho họ nhằm mở ra cơ hội thúc đẩy sư hợp tác để phát triển kinh tế.

Trong thông cáo chung tại hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN lần thứ 22

tại Bruney (3 - 4/7/1989) đã ghi nhận “lời tuyên bố của Việt Nam trong việc rút hết

quân đội khỏi Campuchia vào 30/9/1989 là một sự phát triển tích cực. Các nước

ASEAN nhấn mạnh việc nhất trí với Việt Nam là rút quân phải gắn liền với giải

pháp chính trị toàn diện bao gồm những vấn đề bên ngoài, bên trong của vấn đề

Campuchia. Đồng thời khẳng định, cần phải có sự kiểm soát quốc tế trước việc rút

quân của Việt Nam và cần có lực lượng gìn giữ hòa bình ở Campuchia trong khi

chờ đợi tổng tuyển cử”[124, tr.100].

Thái Lan và các nước ASEAN cũng kêu gọi các đảng phái ở Campuchia nên

sử dụng các biện pháp mềm dẻo và tích cực trong việc tìm kiếm giải pháp chính trị

toàn diện, đẩy mạnh đối thoại giữa các đảng phái để mở đường cho quá trình hòa

giải dân tộc và hoan nghênh N. Sihanouk trở lại vị trí quốc trưởng Campuchia. Mặt

khác, Thái Lan kêu gọi Việt Nam nhận lại những người tị nạn không đủ tiêu chuẩn

đi định cư tại các nước thứ 3.

Lập trường của hai nước Thái Lan – Việt Nam xích lại gần nhau hơn khi

tháng 9/1989 Việt Nam rút hoàn toàn quân khỏi Campuchia trước thời hạn một năm

và từ năm 1990 trở đi quan hệ Thái Lan – Việt Nam có những bước chuyển mình

phát triển đi theo chiều hướng tích cực, trong đó những chuyến thăm của các nhà

lãnh đạo cấp cao hai nước diễn ra thường xuyên hơn.

Những vấn đề tồn đọng giữa Thái Lan – Việt Nam tiếp tục được Thái Lan

tìm biện pháp tháo gỡ, đáng chú ý nhất là ngày 15/6/1990 trong chuyến thăm Mĩ,

Thủ tướng Thái Lan Chatichai Choonhavan phát biểu với báo giới rằng “Thái Lan

không thể ngăn chặn Trung Quốc cung cấp vũ khí cho phe Polpot, có một cách đơn

giản để chấm dứt việc đó là Mĩ và Nhật Bản, hai nước buôn bán chủ yếu với Trung

Quốc hãy gây sức ép”[70, tr.424]. Không đợi lâu sau động thái đó của Thái Lan,

ngày 16/6/1990 Ngoại trưởng Mĩ James Baker công bố chính sách mới của Mĩ đối

với vấn đề Campuchia trong đó khẳng định ngăn chặn thế lực Polpot quay lại nắm

quyền, đối thoại với Việt Nam để tháo gỡ những vấn đề tồn đọng trong vấn đề

Campuchia, tiếp xúc với chính quyền ông Hunsen và không công nhận vai trò đại

diện của Polpot tại Liên Hợp Quốc. Tuyên bố của Mĩ rõ ràng là có sức nặng rất lớn

trong việc tác động không chỉ đến chính sách đối ngoại của ASEAN, Thái Lan mà

còn tác động ngay cả Trung Quốc. Đến đây Trung Quốc có vẻ buông ý định trong

việc đòi một vị trí chính trị cho thế lực Polpot trong chính quyền mới.

Tiếp theo đó trong tuyên bố chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao

ASEAN lần thứ 23 tại Indonesia (24 – 25/7/1990) cũng thống nhất một giải pháp

chính trị toàn diện cho Campuchia cần phải thực hiện bằng hội nghị Pari về

Campuchia (PICC – Paris International Conference on Cambodia). Kêu gọi các bên

Campuchia tích cực chuẩn bị cho cuộc gặp mặt không chính thức bàn về vấn đề

Campuchia tại Jakarta từ ngày 26/2 đến 1/3/1990. Đồng thời xem đây là giải pháp

làm sống lại quá trình đàm phán sau khi gián đoạn tại hội nghị PARI (PICC) vào

ngày 30/7/1989.

Như vậy trong giai đoạn này, lập trường của Thái Lan và Việt Nam đã có

những nhân tố tương đồng đó là cùng mong muốn thực hiện giải pháp chính trị cho

vấn đề Campuchia với một hội nghị quốc tế, thống nhất việc rút quân đội Việt Nam

khỏi Campuchia. Bên cạnh đó, vẫn còn một số tồn đọng đó là việc Việt Nam yêu

cầu Thái Lan không được cho các lực lượng phá hoại nền hòa bình của Campuchia

dùng lãnh thổ của mình làm căn cứ để chống phá. Việt Nam ủng hộ giữ nguyên

trạng tình hình, không được giải tán chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia,

không tán thành chính phủ lâm thời 4 bên do N. Shihanouk đứng đầu và hạn chế lực

lượng gìn giữ hòa bình ở Campuchia. Trong khi đó Thái Lan lại ủng hộ chủ trương

giải tán lực lượng các bên và thành lập một chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do N.

Shihanouk đứng đầu đồng thời để lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế bảo đảm an

ninh cho Campuchia.

Đến tháng 9/1990 quan điểm của Thái Lan và Việt Nam xích lại gần nhau

thêm một bước khi Thái Lan khẳng định lập trường của mình là không để cho các

phái Khmer đối lập dùng lãnh thổ và hoạt động gây nội chiến ở Campuchia hay vận

chuyển vũ khí trái phép cho các phe phái này. Có thể khẳng định trong việc giải

quyết vấn đề Campuchia các nước lớn như Mĩ, Trung Quốc, Liên Xô có vai trò rất

lớn trong việc quyết định các vấn đề then chốt nhưng cũng không thể phủ định vai

trò không nhỏ của Thái Lan và Việt Nam trong việc từng bước thu hẹp bất đồng để

đi đến góp phần tham gia giải quyết thành công vấn đề chính trị cho Campuchia.

15g30 ngày 23/10/1991 Sau khi Ủy ban phối hợp đã hoàn thành lần cuối các

văn kiện, Hội nghị quốc tế về Campuchia khai mạc trọng thể tại PARI. Tham dự hội

nghị có sự tham gia của đại diện 19 nước, đoàn đại biểu Campuchia do N.

Xihanouk dẫn đầu và đoàn đại biểu 18 nước khác gồm: Bruney, Australia, Canada,

Trung Quốc, Mĩ, Pháp, An Độ, Indonexia, Nhật, Lào, Malaixia, Philippin, Anh,

Xingapore, Thái Lan, Liên Xô, Việt Nam, Nam Tư với hai đồng chủ tịch hội nghị là

Pháp và Indonesia. Sau lời khai mạc của hai đồng chủ tịch là Pháp và Indonexia sau

đó phó Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ahmed đọc bản trình bày về tình hình chuẩn bị

triển khai việc thi hành hiệp định sẽ được ký kết. Thay mặt đồng chủ tịch, Ngoại

trưởng Pháp Levitte biểu thị cảm ơn thiện chí hợp tác của các nước đặc biệt là Việt

Nam. Hội nghị đi đến nhất trí và ký 4 văn kiện trong đó bao gồm: Hiệp định về một

giải pháp chính trị toàn bộ cho cuộc xung đột tại Campuchia; Hiệp định về chủ

quyền, độc lập, toàn vẹn, bất khả xâm phạm lãnh thổ, trung lập và thống nhất của

Campuchia; Tuyên bố về phục hồi và tái thiết Campuchia và Định ước cuối cùng.

Khi vấn đề Campuchia được giải quyết cũng là lúc quan hệ Thái Lan – Việt

Nam ngày một ấm lên, việc trao đổi và thăm viếng của lãnh đạo hai bên diễn ra

thường xuyên hơn. Có thể kể đến chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Anna

Panyarasun (1992), chuyến thăm của Thái tử Maha Vichyra Loncon (1993)…

Ngược lại, phía Việt Nam có thể kể đến các chuyến thăm Thái Lan của Chủ tịch

Hội đồng bộ trưởng Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo, Bộ trưởng

Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng nội vụ Mai Chí Thọ. Song song với đó

kim ngạch buôn bán giữa hai nước tăng nhanh, xuất khẩu của Việt Nam sang Thái

Lan từ 78,1 triệu USD (1992) lên tới 2252,2 triệu USD (1996) và ngược lại xuất

khẩu từ Thái lan sang Việt Nam tăng từ 14,2 triệu USD (1992) lên tới 3892,8 triệu

USD (1996).

TIỂU KẾT

Kể từ 1986 trở đi tình hình thế giới có nhiều thay đổi so với trước đó, sự thay

đổi lớn nhất chính là việc các nước lớn từ chổ đối đầu chuyển sang đối thoại với

nhau đã tác động không nhỏ đến quan hệ các nước còn lại trong đó quan hệ Thái

Lan – Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Mặc dù trong giai đoạn này, bất

đồng giữa Thái Lan và Việt Nam vẫn còn tồn tại nhưng tình hình đã hé mở những

hướng giải quyết, đồng thời Thái Lan và Việt Nam rất tích cực trong việc thu hẹp

những bất đồng để cùng nhau góp phần giải quyết vấn đề Campuchia.

Tình hình thế giới trong giai đoạn 1986 – 1991 có những thuận lợi nhưng

cũng ẩn chứa những bất lợi đối với Việt Nam. Bất lợi lớn nhất chính là việc Liên

Xô dưới sự lãnh đạo của M. Goocbachop đã thay đổi chính sách đối ngoại của họ,

trong đó Việt Nam hiện nay không còn là sự ưu tiên hành đầu như trước kia. Trong

khi Việt Nam từ trước đến nay vẫn xem Liên Xô là “hòn đá tảng” trong mối quan

hệ của mình, do vậy khi Liên Xô thay đổi chính sách đối ngoại đã có tác động

không nhỏ đến Việt Nam. Trước tình hình đó Việt Nam tự tháo gỡ khó khăn cho

mình, tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI đã đưa ra đường lối đổi mới kinh

tế, đổi mới chính sách đối ngoại theo hướng đa phương hóa và sẳn sàng làm bạn với

tất cả các nước trên thế giới. Sự thay đổi chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng là

một trong những nhân tố then chốt góp phần giải quyết vấn đề Campuchia. Bên

cạnh đó, Thái Lan cũng thích ứng rất nhanh trước sự thay đổi của tình hình thế giới

và sự thay đổi của các mối quan hệ quốc tế. Thái Lan tích cực thực hiện chính sách

đa dạng hóa trong quan hệ ngoại giao, ngoài việc tiếp tục thắt chặt quan hệ với các

đồng minh truyền thống, Thái Lan còn nhanh chóng thúc đẩy mối quan hệ với Liên

Xô và nhiều nước khác. Riêng đối với Việt Nam, Thái Lan đã phát đi những tín

hiệu nhằm xoa dịu mối quan hệ hai nước để dần dần đi đến nối lại quan hệ bình

thường hóa giữa hai bên. Đáng chú nhất là tuyên bố của Thủ tướng tướng Thái Lan

Chatichai Choonhavan rằng “hãy xem Đông Dương là thị trường chứ không phải là

chiến trường”. Việc đổi mới chính sách đối ngoại của Thái Lan cũng là một trong

những nhân tố góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề Campuchia.

Từ những thay đổi nêu trên Thái Lan và Việt Nam dần dần đã tìm được

những điểm tương đồng với nhau xung quanh việc giải quyết vấn đề Campuchia.

Việt Nam không còn xem vấn đề Campuchia là không thể đảo ngược nữa, cả hai

nước Thái Lan – Việt Nam đã tìm được điểm tương đồng trong việc thống nhất phải

tổ chức một hội nghị quốc tế để giải quyết trọn vẹn vấn đề Campuchia. Việt Nam đã

tuyên bố rút quân và ấn định thời gian cụ thể cho việc rút toàn bộ quân đội khỏi

Campuchia, điều đó không chỉ có Thái Lan mà các nước ASEAN cũng hoan

nghênh. Hai nước cũng tích cực giải quyết những bất đồng xung quanh vấn đề Việt

Nam gắn việc rút quân với việc Thái Lan không để lãnh thổ cho các thế lực Khmer

phản động làm căn cứ chống phá nền hòa bình của Campuchia cũng như không để

cho nước ngoài sử dụng lãnh thổ Thái Lan làm nơi trung chuyển tiếp tế cho các lực

lượng Khmer phản động.

Việc Thái Lan và các nước ASEAN cùng gặp gỡ với Việt Nam, Lào và các

bên xung đột tại Campuchia ở Jakarta thể hiện thiện chí rất lớn của họ đối với Việt

Nam trong việc giải quyết vấn đề Campuchia. Còn nhớ giai đoạn trước, Việt Nam

không chấp nhận một hội nghị quốc tế để giải quyết vấn đề Campuchia và chỉ chấp

nhận hội nghị vùng tức là chỉ có những nước trong khu vực Đông Nam Á và các

bên liên quan ở Campuchia. Do vậy, Hội nghị JIM 1, JIM 2 đã đáp ứng phần nào

mong muốn trên của Việt Nam bởi trong hội nghị này rõ ràng chỉ có các nước trong

khu vực Đông Nam Á và các bên Campuchia tham gia.

Dưới sự tác động của các cường quốc cũng như tình hình thực tế cụ thể tại

Campuchia cùng những thiện chí của Thái Lan và Việt Nam cuối cùng vấn đề

Campuchia cũng được giải quyết. Việt Nam tuyên bố đơn phương rút toàn bộ quân

khỏi Campuchia và Thái Lan tuyên bố không để lãnh thổ mình cho bất cứ thế lực

Khmer nào làm căn cứ để chống phá hòa bình đồng thời cũng không để cho ai lợi

dụng để tiếp tế cho các thế lực này. Sự tích cực của Thái Lan và Việt Nam đã góp

phần không nhỏ đưa đến thành công của hội nghị PARI về Campuchia với việc các

nước tham gia ký kết 4 văn kiện quan trọng đem lại hòa bình, độc lập, chủ quyền và

tạo cơ hội cho Campuchia có điều kiện tái thiết đất nước.

KẾT LUẬN

1. Lịch sử đã chứng kiến mối quan hệ đầy thăng trầm của hai người láng

giềng Thái Lan – Việt Nam. Nếu ví mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam như một biểu

đồ thì đó chính là biểu đồ hình Sin để chỉ sự thăng trầm và không ổn định trong mối

quan hệ của hai nước. Trong truyền thống đối ngoại của mình, Thái Lan luôn thể

hiện sự khôn khéo, mềm dẻo cần thiết, điều đó giúp Thái Lan là nước duy nhất ở

Đông Nam Á cơ bản vẫn giữ được nền độc lập của mình trước sự xâm lược của

thực dân phương Tây đồng thời đứng vững trước biết bao biến cố và thăng trầm của

lịch sử. Nếu nói “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong chính sách đối ngoại của Thái

Lan, cái bất biến chính là quyền lợi của quốc gia, dân tộc Thái và cái vạn biến chính

là phương pháp để giữ cho được cái bất biến đó. Chính việc Thái Lan sử dụng chính

sách đối ngoại ngả theo chiều gió nên đã tác động không nhỏ đến mối quan hệ Thái

Lan – Việt Nam và đây cũng là một trong những nguyên nhân làm mối quan hệ hai

nước diễn ra rất thăng trầm. Trong giai đoạn Việt Nam kháng chiến chống Pháp

(1945 – 1954), Thái Lan vì những khoản viện trợ và hợp đồng làm ăn với Pháp nên

sẵn sàng từ bỏ mối quan hệ với Việt Nam khi họ trục xuất cơ quan đại diện ngoại

giao Việt Nam khỏi Thái Lan. Tiếp đến trong giai đoạn Việt Nam chống Mĩ (1955 –

1975) Thái Lan tiếp tục bắt tay với Mĩ chống lại cách mạng Việt Nam, đổi lại Thái

Lan được Mĩ viện trợ và cam kết bảo đảm an ninh cho Thái Lan. Năm 1979 xảy ra

vấn đề Campuchia, Thái Lan và Việt Nam tiếp tục đối đầu nhau ở hai chiến tuyến.

Thái Lan hiểu rằng, ngoài nguyên nhân lo sợ Việt Nam tấn công và đe dọa an ninh

của mình thì chính sách đối đầu của Thái Lan đối với Việt Nam chắc chắn sẽ nhận

được sự ủng hộ và viện trợ của các cường quốc như Mĩ và Trung Quốc và khi đặt

lên “bàn cân” người Thái xem có lợi hơn là hợp tác với Việt Nam.

2. Sau khi tìm hiểu một giai đoạn sóng gió trong mối quan hệ Thái Lan –

Việt Nam, thông qua nghiên cứu và đánh giá những sự kiện, nhiều vấn đề mập mờ

đã được làm sáng tỏ. Trong đề tài Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt

Nam (1979 - 1991) có thể khẳng định, vấn đề Campuchia chính là nhân tố quan

trọng chi phối mối quan hệ của hai người láng giềng Thái Lan – Việt Nam. Theo

quan điểm của Thái Lan và các nước ASEAN thì vấn đề Campuchia chính là việc

Việt Nam đưa quân vào chiếm đóng trái phép Campuchia từ đó gây nên tình trạng

các dòng người tị nạn, xung đột tại khu vực biên giới Campuchia – Thái Lan, đe

dọa đến an ninh, chủ quyền của Thái Lan và gây bất ổn cho khu vực. Việt Nam

không dùng thuật ngữ: vấn đề Campuchia, vì Việt Nam cho rằng, nguyên nhân tình

hình bất ổn ở Campuchia chính là việc Thái Lan đã cấu kết với Trung Quốc để tiếp

tế, dung túng cho hoạt động chống phá của Khmer đỏ và các thế lực Khmer phản

động khác. Trong chương II của Luận văn có dành một phần để cố gắng làm rõ vấn

đề này, vấn đề Campuchia ở đây bao gồm nguồn gốc đầu tiên chính là hành động

gây hấn, xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ và đe dọa an ninh Việt Nam của chính

quyền Polpot sau đó là việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia và Thái Lan hợp

tác với Trung Quốc tiếp tay cho Khmer đỏ cùng với sự can thiệp của các cường

quốc đối lập trên thế giới. Chính vì vậy mà vấn đề Campuchia tỏ ra phức tạp hơn rất

nhiều. Do đó sẽ không thể hiểu hết vấn đề Campuchia nếu không nghiên cứu thật

khách quan và đa chiều.

3. Vấn đề Campuchia ở đây là một phần không thể tách rời của chiến tranh

lạnh, sự đối đầu Đông – Tây, đối đầu Liên Xô – Mĩ và Trung Quốc. Do vậy suốt

thời gian dài khi mà mối quan hệ giữa các cường quốc đối lập chưa được cải thiện

thì việc giải quyết vấn đề Campuchia vẫn bế tắc, vấn đề Campuchia chỉ được giải

quyết khi các cường quốc đối lập đã thay đổi thái độ từ đối đầu chuyển sang đối

thoại với nhau. Qua vấn đề Campuchia cho thấy, các quốc gia nhỏ trên thế giới

thường gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn đường lối đối ngoại. Do đó việc lựa

chiều, chọn hướng đi phù hợp và cẩn trọng là điều vô cùng cần thiết khi đứng trước

những lựa chọn mang tính quyết định liên quan đến quyền lợi và vận mệnh của

quốc gia dân tộc. Qua vấn đề Campuchia, bản thân Việt Nam và Campuchia là hai

nước thiệt hại về người và của nhiều nhất trong khi Thái Lan cũng vì vấn đề

Campuchia mà ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của đất nước. Do đó tất cả các nước

mà đặc biệt là những nước láng giềng cần thiết phải có tư duy viễn minh, sự bình

tâm trong việc quyết định các vấn đề đối ngoại nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sự

lợi dụng của các nước nước lớn trong việc đạt được mục tiêu của họ.

4. Quá trình toàn cầu hóa và xu thế đối thoại cũng có một tác động rất lớn

đến quá trình giải quyết vấn đề Campuchia. Không chỉ có các nước lớn (Mĩ, Liên

Xô, Trung Quốc…) đối thoại với nhau để cùng tháo gỡ những vướng mắc nhằm

tiến tới hợp tác với nhau mà các nước khác trên thế giới cũng tích cực vận động

theo xu thế này. Các nước ASEAN thấy rằng, không thể có được sự phát triển kinh

tế bền vững khi mà khu vực vẫn còn chiến tranh và xung đột. Các nước ASEAN

cũng nhận thấy, chính vấn đề Campuchia đã níu chân họ trong quá trình phát triển.

Trong khi nhìn qua thấy EU đang có những bước phát triển mạnh mẽ với sự hội

nhập ngày càng sâu rộng hơn đồng thời đem lại những hiệu quả tích cực trong phát

triển kinh tế và khoa học – kĩ thuật. ASEAN hiểu rằng, muốn có sự hợp tác khu vực

bền vững và sự phát triển mạnh mẽ cần phải nhanh chóng giải quyết vấn đề

Campuchia. Nhưng để làm được việc đó cần phải có sự thương lượng và hợp tác

với Việt Nam. Ngược lại trước tình hình thế giới có nhiều thay đổi, Việt Nam thấy

sự cần thiết phải hợp tác và xích lại gần hơn với các nước trong khu vực mà đặc biệt

là các nước ASEAN. Để làm được việc đó Việt Nam cần có sự phối hợp chặt chẽ

với các nước để nhanh chóng giải quyết vấn đề Campuchia. Xuất phát từ quyền lợi

sát sườn của mình, ASEAN nói chung, Thái Lan nói riêng cùng với Việt Nam hiểu

rằng, cần phải có sự hợp tác với nhau trong việc giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy

sự phát triển. Có thể khẳng định, xu thế toàn cầu hóa chính là “đòn bẩy” hất bay

“tảng đá” (vấn đề Campuchia) cản đường trong tiến trình tiến tới hợp tác, hội nhập

vì hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực Đông Nam Á.

5. Hiện nay Thái Lan và Việt Nam cùng nằm trong tổ chức ASEAN hai nước

hợp tác với nhau trên nhiều lĩnh vực, kim ngạch buôn bán hai bên cũng không

ngừng tăng. Thái Lan và Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình

phát triển và hội nhập sâu rộng của ASEAN. Tuy nhiên giữa hai nước cần phải hợp

tác với nhau sâu rộng hơn nữa trong việc thúc đẩy kim ngạch buôn bán và trao đổi

khoa học – kĩ thuật đặc biệt trong lĩnh vực mà hai nước có thế mạnh như nông

nghiệp. Tuy tình hình khu vực và thế giới không còn căng thẳng như trước nhưng

vẫn còn đó những tiềm ẩn có thể ảnh hưởng xấu đến an ninh và hòa bình trong khu

vực trong đó vấn đề biển Đông vẫn là điểm nóng và có những diễn tiến phức tạp.

Do đó qua vấn đề Campuchia chắc chắn hai quốc gia láng giềng này đã rút ra được

những bài học xương máu để từ đó có thể khắc phục những nhược điểm tránh

không để cho lặp lại trong tương lai. Hai nước cần phát huy nhiều hơn nữa những

ưu điểm để đưa mối quan hệ ngày càng phát triển bền vững. Sự tăng cường hợp tác

của Thái Lan và Việt Nam không chỉ giúp tình hình khu vực thêm ổn định mà còn

có vai trò quyết định không nhỏ đến sự phát triển và hội nhập sâu rộng hơn của tổ

chức ASEAN trong tương lai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tiếng Việt

1. Allan Barker (1979), Vấn đề phòng thủ chung ASEAN, Reuter, Tài liệu tham

khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

2. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (2008), Chiến dịch phản công biên giới Tây

– Nam Việt Nam, http://vi.wikipedia.org/wiki/ChiVi%E1.

3. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (2008), Cộng hòa nhân dân Campuchia,

http://vi.wikipedia.org/wiki/Kampuchea.

4. Ban khoa giáo Đài Truyền hình TP. Hồ Chí Minh (2009), VCD Máu và Hoa –

Tập 5.

5. Đỗ Thanh Bình (2008), Bốn mươi năm ASEAN – Thành tựu về an ninh chính

trị, Trang tin tức sự kiện, ĐH Sư phạm – Hà Nội.

6. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Mở rộng quan hệ đối ngoại của

Đảng trong tình hình mới, http://www.tapchicongsan.org.vn?.

7. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam,

http://tiengviet/tulieuvankien /details. asp?.

8. Báo Nhân dân (1979), Đại sứ Hà Văn Lâu đọc tham luận tại Hội đồng Bảo an

Liên Hợp Quốc, ngày 16/1(8988), tr. 4.

9. Báo Nhân dân (1979), Tiếp nhận quà tặng của Vương quốc Thái Lan, ngày

3/2(9005), tr. 4.

10. Báo Nhân dân (1979), Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác Việt Nam –

Campuchia, ngày 19/2(9021), tr. 1.

11. Báo Nhân dân (1979), Người phát ngôn Bộ ngoại giao Campuchia lên án Trung

Quốc sử dụng lãnh thổ Thái Lan chống Campuchia, ngày 1/3(9031), tr. 4.

12. Báo Nhân dân (1979), Người phát ngôn Bộ ngoại giao Campuchia lên án Thái

Lan xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Campuchia, ngày 17/4(9078), tr.4.

13. Báo Nhân dân (1979), N. Xihanouk trả lời tuần báo Châu Á, ngày 23/4(9084),

tr. 4.

14. Báo Nhân dân (1979), Cố vấn Trung Quốc thú nhận Bắc Kinh đưa ồ ạt vũ khí

vào Campuchia, ngày 4/5(9094), tr. 4.

15. Báo Nhân dân (1979), Bài trả lời phỏng vấn TTXVN của Nguyễn Cơ Thạch,

ngày 3/7(9154), tr. 4.

16. Báo Nhân dân (1979), Bộ ngoại giao Campuchia ra tuyên bố về Thông cáo

chung của Hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN, ngày 8/7(9160), tr. 4.

17. Báo Nhân dân (1980), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao

các nước Campuchia – Lào – Việt Nam lần I, ngày 8/1(9342), tr 1-4.

18. Báo Nhân dân (1980), Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm

qua, ngày 5/10(9247), tr. 2.

19. Báo Nhân dân (1980), Bác bỏ tuyên bố của người phát ngôn Bộ tư lệnh tối cao

quân đội Thái Lan, ngày 23/2(9385), tr. 4.

20. Báo Nhân dân (1980), Thái Lan xâm phạm lãnh thổ và bầu trời Campuchia,

ngày 23/2(9393), tr. 4.

21. Báo Nhân dân (1980), Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch kết thúc chuyến

thăm chính thức Vương quốc Thái Lan, ngày 24/5(9476), tr. 1.

22. Báo Nhân dân (1980), Người phát ngôn Bộ ngoại giao Campuchia: Âm mưu

xấu xa của kế hoạch “hồi hương tự nguyện” người Campuchia, ngày

15/6(9498), tr. 4.

23. Báo Nhân dân (1980), Bộ ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố về tình hình căng

thẳng ở biên giới Campuchia – Thái Lan, ngày 28/6(9514), tr. 4.

24. Báo Nhân dân (1980), Vết xe đo, ngày 8/7(9521), tr. 4.

25. Báo Nhân dân (1980), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao

Lào – Campuchia – Việt Nam lần II, ngày 18/7(9531), tr. 1-4.

26. Báo Nhân dân (1980), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao

Lào – Campuchia – Việt Nam lần II, ngày 19/7(9532), tr. 1-4.

27. Báo Nhân dân (1980), Campuchia công bố Bị vong lục về tình hình căng thẳng

hiện nay ở biên giới Campuchia – Thái Lan, ngày 2/8(9546), tr.1-4.

28. Báo Nhân dân (1981), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao

Lào – Campuchia – Việt Nam lần III, ngày 29/2(9727), tr. 1-4.

29. Báo Nhân dân (1981), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao

Lào – Campuchia – Việt Nam lần IV, ngày 15/7(9863), tr. 1-4.

30. Báo Nhân dân (1982), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao

Lào – Campuchia – Việt Nam lần V, ngày 18/2(10070), tr. 1-4.

31. Báo Nhân dân (1982), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao

Lào – Campuchia – Việt Nam lần VI, ngày 8/7(10210), tr. 1-4.

31. Báo Nhân dân (1983), Thông cáo chung của Hội nghị thượng đỉnh Lào –

Campuchia – Việt Nam, ngày 24/2(10436), tr. 1-4.

33. Báo Nhân dân (1983), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao

Lào – Campuchia – Việt Nam lần VII, ngày 2/7(10564), tr. 1-4.

34. Báo Nhân dân (1984), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao

Lào – Campuchia – Việt Nam lần VIII, ngày 30/1(10716), tr. 1-4.

35. Báo Nhân dân (1984), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao

Lào – Campuchia – Việt Nam lần IX, ngày 4/7(10870), tr. 1-4.

36. Báo Nhân dân (1985), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao

Việt Nam – Lào – Campuchia lần X, ngày 19/1(11160), tr. 1-4.

37. Báo Nhân dân (1985), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao

Việt Nam – Lào – Campuchia lần XI, ngày 22/8(11374), tr. 1-4.

38. Báo Nhân dân (1985), Chủ tịch Trung Quốc Lý Tiên Niệm thăm Thái Lan,

ngày 18/3(11216), tr. 4.

39. Báo Nhân dân (1986), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao

Việt Nam – Lào – Campuchia lần XII, ngày 25/1(11528), tr. 1-4.

40. Báo Nhân dân (1986), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao

Việt Nam – Lào – Campuchia lần XIII, ngày 19/8(11731), tr. 1-4.

41. Báo Nhân dân (1986), Đồng chí Hunsen gởi thư cho Tổng thư ký Liên Hợp

Quốc tố cáo Thái Lan gây xung đột ở vùng biên giới Campuchia – Thái

Lan, ngày 9/11(11813), tr. 4.

42. Báo Nhân dân (1986), Quan hệ Việt Nam – Thái Lan, ngày 29/11(11832), tr.

4.

43. Báo Nhân dân (1986), Báo cáo chính trị của Bộ chính trị Ban chấp hành

Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 16/12(11849), tr. 1.

44. Báo Nhân dân (1987), Bắc Kinh bán vũ khí cho Bangkok để chống nhân dân

Campuchia, ngày 28/4(11980), tr. 4.

45. Báo Nhân dân (1987), Thái Lan xâm phạm chủ quyền Campuchia, ngày

3/8(12077), tr. 4.

46. Báo Nhân dân (1987), Ba nước Đông Dương bác bỏ nội dung thông cáo Hội

nghị ASEAN tại Bangkok, ngày 29/8(12102), tr. 1.

47. Báo Nhân dân (1987), Sẽ rút về nước thêm một bộ phận quân tình nguyện Việt

Nam tại Campuchia, ngày 12/10(12145), tr. 1.

48. Báo Nhân dân (1987), Hunxen gặp gỡ N. Xihanouk để bàn việc hòa hợp dân

tộc, ngày 19/12(12213), tr. 1.

49. Báo Nhân dân (1991), Khai mạc hội nghị quốc tế PARI về Campuchia, ngày

24/10(13466), tr. 4.

50. Thananan Boonwanna (2008), Quan hệ Việt Nam – Thái Lan (1976 - 2004),

Luận án Tiến sĩ, TP. Hồ Chí Minh.

51. Trần Quang Cơ (2008), Hồi kí, http://www.dcvblogs.com.

52. Hoàng Dung (2008), Chiến tranh Đông Dương III, http://vnthuquan.net.

53. Đinh Đức Duy (2008), Phỏng vấn Nhân chứng từng chiến đấu tại Campuchia,

Thượng sĩ Nguyễn Văn Bon thuộc Trung tâm thông tin - Mặt trận 479

Xiêm Riệp.

54. Đinh Đức Duy (2008), Phỏng vấn Nhân chứng từng chiến đấu tại Campuchia,

Thượng sĩ Hoàng Văn Hân thuộc Trung đoàn bộ binh 10 – Sư 305 – Mặt

trận 479 Xiêm Riệp.

55. Đinh Đức Duy (2008), Phỏng vấn Nhân chứng từng chiến đấu tại Campuchia,

Trung sĩ Đinh Như Hòa thuộc tiểu đoàn trinh sát 7 - Sư 305 – Mặt trận

479 Xiêm Riệp.

56. Đinh Đức Duy (2008), Phỏng vấn Nhân chứng từng chiến đấu tại Campuchia,

Thượng sĩ Phạm Hữu Hoạch thuộc tiểu đoàn 1 - Sư 302 – Mặt trận 479

Xiêm Riệp.

57. Đinh Đức Duy (2008), Phỏng vấn Nhân chứng từng chiến đấu tại Campuchia,

Trung sĩ Bùi Thanh Quang thuộc Tiểu đoàn 1 – Sư 9 – Quân đoàn 4 – Mặt

trận 979 Battambang.

58. Đinh Đức Duy (2008), Phỏng vấn Nhân chứng từng chiến đấu tại Campuchia,

Thượng sĩ Nguyễn Văn Quý thuộc Tiểu đoàn 4 – Trung đoàn 174 – Sư 5 –

Quân khu 7 – Mặt trận 479 Xiêm Riệp.

59. Đinh Đức Duy (2008), Phỏng vấn Nhân chứng từng chiến đấu tại Campuchia,

Thượng úy Đào Văn Thọ chính trị viên Tiểu đoàn bộ binh 2 – Trung đoàn

8 – Sư đoàn 339 – Mặt trận 979 Battambang.

60. Đinh Đức Duy (2000), Quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong giai đoạn nửa

cuối thế kỉ XVII đến nửa đầu thế kỉ XIX, Khóa luận tốt nghiệp – Khoa Lịch

sử Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

61. Đặc phái viên tại báo Le Matin tại Bắc Kinh (1979), Nguy cơ đi đến một sự

đối đầu giữa Việt Nam và Thái Lan, Le Matin, Tài liệu tham khảo đặc

biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

62. Huy Đức (2007), Chiến tranh, http://www.diendan.org/vietnam/chientranh.

63. Frederic A. Moritz (1979), Thái Lan ngã sang phái Trung Quốc để được che

chở, Christian Science Monitor, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN –

TP.Hồ Chí Minh.

64. Francois Nivolon (1979), Campuchia tình hình tuyệt vọng với Khơme đỏ, Le

Figaro, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

65. Francois Nivolon (1979), Cuộc khủng hoảng Đông Dương – Thất bại một nửa

đối với WALDHEIM, Le Figaro, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN –

TP.Hồ Chí Minh.

66. Francois Nivolon (1979), Phỏng vấn Nguyễn Cơ Thạch, Le Figaro, Tài liệu

tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

67. Francois Nivolon (1979), Thái Lan tiếp tục trục xuất người Camppuchia, Le

Figoro, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

68. Halim Serradj (1979), Đấu tranh chính trị – tư tưởng và tinh thần dân tộc,

Revolution A. Fricaine, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí

Minh.

69. Henry Kamm (1979), Hồi hương cưỡng bức, NewsYork Times, Tài liệu tham

khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

70. Lê Phụng Hoàng (2008), Lịch sử quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á từ sau chiến

tranh thế giới thứ hai đến cuối chiến tranh lạnh, Tủ sách ĐHSP TP. Hồ Chí

Minh.

71. Đào Minh Hồng (2008), Về vai trò của Thái Lan trong ASEAN, Trường ĐH

KHXH&NV TP. Hồ Chí Minh.

72. Quế Lai (1999), Thái Lan truyền thống và hiện đại, NXB Thanh Niên.

73. Nguyễn Tương Lai (2001), Quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong những

năm 90, NXB Khoa học Xã hội – Hà Nội.

74. Louis Wiznitzer (1979), Thùng thuốc súng Đông Nam Á, USIS, Tài liệu tham

khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

75. Mark Frankland (1980), Campuchia một đấu trường kiểu như Balkan, Tài liệu

tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

76. Nhóm phóng viên The Observer tại Bang Kok (1979), Tại sao người Thái ủng

hộ Bắc Kinh, The Observer, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ

Chí Minh.

77. Vũ Dương Ninh (1994), Lịch sử Vương quốc Thái Lan, NXB Giáo Dục.

78. James Pringle (1979), Chạy trốn vì kinh hoàng, Newsweek, Tài liệu tham khảo

đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

79. Richard Nation (1979), Thái Lan đấu tranh để giữ vững trung lập, Far Easter

Economic Review, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí

Minh.

80. R.P.Paringaux (1979), Chính phủ mới sẽ phải xem xét lại chính sách làm dịu

tình hình trong quan hệ với các nước cộng sản láng giềng, Le Monde, Tài

liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

81. R.P.Paringaux (1979), Đàn áp và chạy trốn, Le Monde, Tài liệu tham khảo

đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

82. R.P.Paringaux (1979), Sự có mặt của quân đội Việt Nam trên biên giới

Campuchia làm các giới quân sự Thái Lan lo lắng, Le Monde, Tài liệu

tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

83. Lê Văn Quang (1995), Lịch sử vương quốc Thái Lan, NXB TP.Hồ

Chí Minh.

84. Saito (1978), Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình thăm Thái Lan,

Asahi Shimbun, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí

Minh.

85. Nguyễn Xuân Sơn – Thái Văn Long (1997), Quan hệ đối ngoại của các nước

ASEAN, NXB Khoa học Xã hội – Hà Nội.

86. Nguyễn Viễn Sự (2007), “Cầu sông Kwai và tuyến đường sắt tử thần”, Báo

Pháp Luật – TP.HCM ngày 13/12(229/1499) và ngày 14/12(230/1500), tr.

12.

http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtq3m3237nmn2ntnmn31n343.

87. Tiền Kì Tham (2008), Hồi kí, dịch giả Dương Quốc Anh.

88. Theh Chongkhadikij (1979), Phương trình Campuchia, Bang Kok Post, Tài

liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

89. The Aurore (1979), Tình hình căng thẳng càng tăng ở biên giới, Tài liệu tham

khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

90. The Bangkok Post (1979), Quan điểm của Thanat Khoman, Tài liệu tham

khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

91. The Bangkok post (1979), Kế hoạch đưa người Campuchia chạy sang Thái

Lan trở lại Campuchia, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí

Minh.

92. The Economist (1979), Đông Dương những biên giới dễ xâm nhập, Tài liệu

tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

93. The BBC (1979), Thái Lan tăng cường cho lực lượng quân sự, Tài liệu tham

khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

94. The USIA (1979), Cuộc họp báo của Kriang Sak tại Oashinton, Tài liệu tham

khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

95. The USIA (1979), Trợ lý ngoại trưởng Mĩ Holbrooke phủ nhận Mĩ có thay đổi

trong chính sách Đông A, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ

Chí Minh.

96. The Le Figoro (1979), Thái Lan bị lôi cuốn vào mớ bòng bong Đông Dương,

Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

97. The Times (1979), Thái Lan trong thế cờ Đông Nam Á, Tài liệu tham khảo đặc

biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

98. Trịnh Diêu Thìn & Thanyathip Sripana (2006), Việt kiều Thái Lan trong mối

quan hệ Thái Lan – Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội – Hà Nội.

99. Nguyễn Quang Thuần (2007), Quan hệ Campuchia – Việt Nam từ 1985 đến

2006, Luận văn thạc sĩ Lịch Sử, TP. Hồ Chí Minh.

100. Tony Davis (1979), Quan hệ Campuchia – Thái Lan – Việt Nam, Asia Weeks,

Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

101. TTXVN – PARI (1978), Vấn đề người tị nạn Đông Dương, Tài liệu tham khảo

đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.

B. Tiếng Anh

102. Asripan (2007), “Thailand Girls talk to the Vietnammes War”, Bangkok Post.

103. Association of Southeast (2008), Joint Press Release of The first Asean,

Ministerial Meeting Bangkok, 8 August 1967, http://www.aseansec.org.

104. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Second Asean,

Ministerial Meeting Jakarta, 6 – 7 August 1968, http://www.aseansec.org.

105. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Third Asean,

Ministerial Meeting Cameron Highlands, 16 – 17 December 1969.

http://www.aseansec.org.

106. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Fourth Asean,

Ministerial Meeting Manila, 12–13 March 1971, http://www.aseansec.org.

107. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Fifth Asean Ministerial

Meeting Singapore, 13 – 14 April 1972, http://www.aseansec.org.

108. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Sixth Asean Ministerial

Meeting Pattaya, 16 – 18 April 1973, http://www.aseansec.org.

109. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Seventh Asean

Ministerial Meeting Jakarta, 7 – 9 May 1974,http://www.aseansec.org.

110. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Eighth Asean Ministerial

Meeting Kuala Lumpur, 13–15 May 1975, http://www. aseansec. org.

111. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Ninth Asean

Ministerial Meeting Manila, 24 – 26 June 1976, http://www.aseansec.org.

112. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Tenrth Asean

Ministerial Meeting Singapore, 5 – 8 July 1977, http://www.aseansec.org.

113. Association of Southeast (2008), Joint Press Release of The Eleventh Asean,

Ministerial Meeting Pattaya, 14 – 16 June 1978, http://www. Aseansec.org.

114. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Twelfth Asean

Ministerial Meeting Bali, 28 – 30 June 1979,http://www.aseansec.org.

115. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Thirteenth Asean,

Ministerial Meeting Kuala Lumpur, 25 – 26 June 1980,

http://www. aseansec. org.

116. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Fourteenth Asean,

Ministerial Meeting Manila, 17 – 18 June 1981, http://www.aseansec. org.

117. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Fifteenrth Asean,

Ministerial Meeting Singapore, 14 – 16 June 1982, http://www.aseansec. org.

118. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Sixteeth Asean Ministerial

Meeting Bangkok, 24 – 25 June 1983, http://www.aseansec.org.

119. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Seventeenrth Asean,

Ministerial Meeting Jakarta, 9 – 10 July 1984, http://www.aseansec. org.

120. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Eiteenrth Asean,

Ministerial Meeting Kuala Lumpur, 9 July 1985, http://www.aseansec. org.

121. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Ninteenrth Asean,

Ministerial Meeting Manila, 23 – 28 June 1986, http://www.aseansec.

org.

122. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Twentienth Asean,

Ministerial Meeting Manila, 15 – 16 June 1987, http://www.aseansec.

org.

123. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The 21st Asean

Ministerial Meeting Manila, 4 – 5 July 1988, http://www.aseansec.org.

124. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The 22nd Asean

Ministerial Meeting Manila, 3 – 4 July 1989, http://www.aseansec.org.

125. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The 23rd Asean

Ministerial Meeting Manila, 24 – 25 July 1990, http://www.aseansec.org.

126. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Twenty fourth

Asean, Ministerial Meeting Manila, 19 – 20 July 1991,

http://www.aseansec.org.

127. Clack D. Neher (1987), Politic in Southeast Asia, Rochester.

128. Frederic A Moritz (1978), The refugee people of VietNam, Chiritian Science

Monitor.

129. Pandey BN, South and Autheast Asia 1945 – 1979, Problems and Policies,

Lon Don.

130. WHKMLA (2007), History of Thailand 1967–1973,

http://zum.de/whkmla/region/seasia/thai19671973.html.

131. Wyatt P.K (1982), Thailand – A Short history, New Haven and London.

PHỤ LỤC 1

TỘI ÁC CỦA CHẾ ĐỘ POLPOT

http://i607.photobucket.com/albums/tt152/h0rr0rphoto/images1086997_cam1.jpg

Nguồn (http://forum.eplay.vn/zero/showthread.php?t=57675)

Trên cánh đồng chết ở Campuchia

Tội ác chồng chất của chế độ Polpot

Nguồn (http://forum.eplay.vn/zero/showthread.php?t=57675)

Nguồn:(http://forum.eplay.vn/zero/showthread.php?t=57675).

Bia tưởng niệm những người bị chế độ Polpot giết hại

Nguồn:(http://forum.eplay.vn/zero/showthread.php?t=57675).

Tra tấn dã man phụ nữ và trẻ em

PHỤ LỤC 2

HÌNH ẢNH QUÂN ĐỘI VIỆT NAM TẠI CAMPUCHIA

Nguồn (http://www.vapa.org.vn/vie/modules.php?name=News&file=save&sid=3416)

Quân Việt Nam – dân Campuchia thân thiết và gần gũi (Svay Rieng 1979)

Đài tưởng niệm

quân tình nguyện

Việt Nam tại PhnomPenh. Ảnh VA

Nguồn (http://vietnamnet.vn/chinhtri/2009/01/822673/)

Chiến dịch phản công biên giới Tây Nam 12/1978 - 1/1979

(Nguồn: http://vi.wikipedia.org)

Xe tăng T54 của Việt Nam rút về nước năm 1988.

(Nguồn: http://vi.wikipedia.org).