BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH -------------------- GIẢN THỊ KIM PHƯƠNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO LONG AN HAI MƯƠI NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2006)
Chuyên ngành : LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số : 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS. TS NGÔ MINH OANH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu trong luận văn là từ nhiều nguồn và tự điều tra. Đề tài nghiên
cứu, các kết luận của luận văn chưa được ai công bố trong bất cứ công
trình nào khác.
Tác giả luận văn
GI ẢN THỊ KIM PHƯƠNG
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bồi dưỡng thường xuyên BDTX :
BTVH : Bổ túc văn hóa
CB : Cán bộ
CĐSP : Cao đẳng sư phạm
CSVC : Cơ sở vật chất
CP : Chính phủ
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cữu Long
ĐTM : Đồng Tháp Mười
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
MN : Mầm non
MG : Mẫu giáo
NQ : Nghị quyết
NQTW : Nghị quyết Trung ương
KTTH – HN – DN : Kỹ thuật tổng hợp - Hướng nghiệp - Dạy nghề
PCGDTH : Phổ cập giáo dục tiểu học
PTTH : Phổ thông trung học
TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh
TH : Tiểu học
TXTA : Thị xã Tân An
THCS : Trung học cơ sở
THKT – KT : Trung học kinh tế - Kỹ thuật
Trung học Y tế THYT :
Trung học sư phạm THSP :
Sinh viên SV :
Xã hội chủ nghĩa XHCN :
Xóa mù chữ XMC :
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục và đào tạo (GD – ĐT) đã được Đảng và Nhà Nước ta xem và đặt vào
vị trí hàng đầu nhằm đưa đất nước phát triển ngay khi mới giành được chính quyền.
Như Bác Hồ đã từng nhắn nhũ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không,
dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm
châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của các em”, rõ ràng
giáo dục – đào tạo có vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng, phát triển
và bảo vệ tổ quốc.
Long An là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cữu Long (ĐBSCL), giữ một vị trí
chiến lược, là cửa ngõ vào thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) từ miền Tây Nam Bộ.
Có thể nói sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất, mặc
dù còn vấp nhiều khó khăn trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… nhưng
Long An vẫn từng bước khắc phục những khó khăn, hạn chế đó dần đưa tỉnh nhà tiến
lên góp phần cùng các tỉnh bạn đưa đất nước phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực đáng ghi nhận thì các mặt
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội … cũng bộc lộ một số hạn chế cần được khắc phục,
giải quyết. Đặc biệt là khi Long An nói riêng và cả nước nói chung bước vào công
cuộc đổi mới và hiện đại hóa.
Do đó, nghiên cứu về Giáo dục - đào tạo Long An, hai mươi năm đổi mới
(1986 – 2006) là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết vì không chỉ tái hiện lại
lịch sử của lĩnh vực giáo dục – đào tạo mà còn giúp rút ra một số bài học cần thiết,
góp phần định hướng cho công tác giáo dục – đào tạo Long An trong những năm tới,
khắc phục những thiếu sót và hạn chế của giáo dục – đào tạo trong thời gian vừa qua,
nhằm đưa giáo dục – đào tạo Long An phát triển, kề vai sát cánh cùng các tỉnh bạn
đưa giáo dục Việt Nam hòa nhập vào nền giáo dục Quốc tế, đồng thời đưa Việt Nam
từ một nước đang phát triển trở thành một nước phát triển mạnh về mọi mặt.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất, công
cuộc khôi phục và phát triển đất nước được tiến hành thì giáo dục – đào tạo cũng
được quan tâm nghiên cứu trong cả nước. Tiêu biểu như các công trình, các sách:
- Bộ giáo dục và đào tạo (1996), Các chủ trương đổi mới giáo dục – đào tạo
trong mười năm (1986 – 1996).
- Bộ giáo dục và đào tạo (1996), Tổng kết đánh giá mười năm đổi mới giáo
dục – đào tạo (1986 – 1996).
- Bộ giáo dục và đào tạo (1995), Các định hướng chiến lược phát triển giáo
dục – đào tạo từ nay đến năm 2020.
- Bộ giáo dục và đào tạo, Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI kinh
nghiệm của các quốc gia, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Phạm văn Giạng (2003), Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Minh Hạc (1998), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Đắc Hưng, Phan Xuân Dũng (2003), Nhân tài trong chiến lược phát
triển quốc gia, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Cảnh Toàn (2002), Bàn về giáo dục Việt Nam, Nxb Lao Động.
- Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục và đào tạo
nhân tài, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Những tài liệu trên, tuy không viết riêng về Long An nhưng qua đó đã cung
cấp cho người đọc những nhận định chung về tình hình giáo dục – đào tạo của Việt
Nam, trong đó có giáo dục – đào tạo Long An.
Các tác phẩm có liên quan đến tình hình giáo dục – đào tạo Long An như:
- Hội khoa học kinh tế Việt Nam, Trung tâm Thông tin và tư vấn phát triển
(2005), Giáo dục Việt Nam 1945 – 2005, T2 , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Thạch Phương, Lưu Quang Tuyến (chủ biên) (1989), Địa chí Long An, Nxb
Long An và Khoa học xã hội.
- Ủy ban Nhân dân tỉnh Long An (2004), Niên Giám Long An, Nxb Thông Tấn,
Hà Nội.
Tác phẩm Giáo dục Việt Nam 1945 – 2005, tập 2 đã khái quát lịch sử hình
thành và phát triển của giáo dục – đào tạo Long An, nêu ra những thành tựu đã đạt
được trong những năm gần đây, đồng thời đưa ra những chiến lược phát triển đến
năm 2010 và các giải pháp phát triển giáo dục – đào tạo Long An trong thời gian tới.
Với tác phẩm Địa chí Long An các tác giả đã nêu lên khái quát tình hình giáo
dục – đào tạo Long An từ thế kỷ XVII – 1985. Qua các giai đoạn: từ thế kỷ XVII –
1862; 1862 – 1945; 1945 – 1954; 1954 – 1975 và 1975 – 1985.
Ở mỗi giai đoạn đều có những đặc trưng riêng, nhưng bắt đầu từ khi có Đảng
lãnh đạo, tuy Long An nằm trong phần kiểm soát của địch, bị chi phối bỡi nền giáo
dục của địch nhưng cũng phát triển khá mạnh. Đã đào tạo ra một đội ngũ cán bộ có
phẩm chất chính trị, có lý tưởng và giàu nhiệt tình yêu nước. Họ không những bám
trường lớp trong mọi hoàn cảnh mà còn sẳn sàng đáp ứng những yêu cầu khác mà
cách mạng đòi hỏi. Đặc biệt khi đất nước được giải phóng, phải đối đầu với nhiều
khó khăn nhưng chính quyền cách mạng đã bắt tay ngay vào việc xây dựng sự nghiệp
giáo dục mới xã hội chủ nghĩa. Và mười năm sau giải phóng, giáo dục – đào tạo đã
góp phần quan trọng trong việc truyền thụ kiến thức cho nhân dân, đào tạo thế hệ trẻ
có phẩm chất đạo đức, có văn hóa, có trình độ chuyên môn … từng bước làm đổi mới
bộ mặt của tỉnh nhà.
Tác phẩm Niên Giám Long An 2002 – 2003 đã khái quát một cách sơ lược tình
hình giáo dục – đào tạo Long An sau khi giải phóng, đặc biệt đã nêu ra các mục tiêu
phát triển giáo dục – đào tạo đến năm 2010.
Ngoài ra, còn có một số công trình khác lưu hành nội bộ của Sở giáo dục – đào
tạo Long An như: Chương trình hành động thực hiện NQTW 02 và NQTU về giáo
dục và đào tạo (1997 – 2000), năm 1997; Quy hoạch phát triển giáo dục và đào tạo
tỉnh Long An đến 2010, năm 2002 …
Các tài liệu vừa nêu trên tuy có góp phần tái hiện lại một phần giáo dục – đào
tạo Long An, song chưa có tác phẩm nào, công trình nào đi sâu và trình bày đầy đủ
về giáo dục – đào tạo Long An, hai mươi năm đổi mới (1986 – 2006). Trên cơ sở tiếp
thu những thành quả đó, tác giả muốn góp phần vào việc thu thập, phân tích và khái
quát những thành tựu cũng như những hạn chế của giáo dục – đào tạo Long An trong
công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài “Giáo dục – đào tạo Long An, hai mươi năm đổi mới (1986 – 2006)”
nhằm khôi phục lại sự nghiệp giáo dục – đào tạo Long An trong những năm đổi mới
về các lĩnh vực, những đóng góp cũng như những hạn chế của giáo dục – đào tạo
Long An trong hai mươi năm qua, đồng thời trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp
nhỏ nhằm khắc phục những hạn chế và yếu kém mà ngành giáo dục – đào tạo Long
An nói riêng và của đất nước nói chung còn đang mắc phải. Đồng thời thông qua việc
tìm hiểu về lịch sử giáo dục – đào tạo để góp phần làm sáng tỏ hơn lịch sử phát triển
của Long An trong thời gian từ 1986 – 2006.
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là giáo dục – đào tạo Long An hai
mươi năm đổi mới và phát triển (1986 – 2006), thể hiện trên các mặt thành quả và
hạn chế của sự nghiệp giáo dục – đào tạo của tỉnh về các ngành, các bậc học, đồng
thời vạch ra một số biện pháp để khắc phục những mặt còn yếu kém, nhằm góp phần
đưa giáo dục – đào tạo Long An phát triển mạnh mẽ hơn.
Bên cạnh đó đề tài cũng dành một phần nhỏ để trình bày khái quát giáo dục –
đào tạo Long An thời gian trước đổi mới nhằm làm sáng tỏ hơn những đóng góp của
nền giáo dục tỉnh nhà trong thời kỳ đổi mới vào sự nghiệp đổi mới chung của đất
nước
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Phạm vi không gian nghiên cứu là tỉnh Long An với địa giới hành chính ở thời
điểm hiện nay (2006).
Phạm vi thời gian nghiên cứu là từ 1986 – 2006. Là mốc từ lúc bắt đầu đổi mới
đến hai mươi năm sau.
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Đề tài tập hợp, hệ thống những tài liệu cơ bản, đáng tin cậy để dựng lại bức
tranh toàn cảnh của GD - ĐT Long An hai mươi năm đổi mới (1986 – 2006).
- Đánh giá những thành tựu cũng như những hạn chế của GD - ĐT Long An
trong thời gian từ 1986 – 2006.
- Tổng kết hoạt động thực tiễn của GD - ĐT Long An, qua đó nêu lên một số
giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hơn mục tiêu phát triển GD - ĐT của tỉnh nhà.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Với đề tài này trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc phương pháp luận sử học Mác –
Lênin, phương pháp lịch sử và phương pháp logic, đồng thời tác giả cũng kết hợp các
phương pháp nghiên cứu của các khoa học liên ngành như phương pháp nghiên cứu
giáo dục, phương pháp phân tích, hệ thống hóa các tư liệu … để trình bày và giải
quyết các vấn đề khoa học mà đề tài đặc ra.
Bên cạnh đó, đây là một đề tài cụ thể của một địa phương nên tác giả còn sử
dụng phương pháp điền dã, khảo sát thực tiễn, phỏng vấn các cá nhân, cơ quan ban
ngành có liên quan để việc sưu tập tài liệu được đầy đủ và chuẩn xác hơn, từ đó giải
quyết vấn đề một cách khoa học và có độ tin cậy cao.
8. DỰ KIẾN CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Luận văn gồm có phần dẫn luận, ba chương và kết luận.
Chương 1. Khái quát giáo dục – đào tạo Long An thời kỳ trước đổi mới (1975
– 1985).
Chương 2. Giáo dục – đào tạo Long An mười năm đầu đổi mới (1986 – 1996)
Chương 3. Giáo dục – đào tạo Long An trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện
đại hóa (1996 – 2006)
CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO LONG
AN THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI (1975 – 1985)
1.1. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, XÃ HỘI TỈNH
LONG AN
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Long An hiện nay bao gồm phần lớn đất đai của tỉnh Chợ Lớn và Tân An cũ hợp thành. Có diện tích tự nhiên khoảng 4.491,87 km2, có tọa độ địa lý : 105o30’30” đến 106o47’02” kinh độ Đông , 10o23’40” đến 11o02’00” vĩ độ Bắc. Long
An bao gồm 1 thị xã và 13 huyện : Thị Xã Tân An, Cần Giuộc, Cần Đước, Bến Lức,
Thủ Thừa, Tân Trụ, Châu Thành, Đức Hòa, Đức Huệ, Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Mộc
Hóa, Vĩnh Hưng, Tân Hưng. Trong đó vùng Đồng Tháp Mười gồm 6 huyện là : một
phần Đức Huệ, Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Mộc Hóa, Vĩnh Hưng, Tân Hưng với diện
tích tự nhiên là 298.243ha, chiếm 66,4% diện tích toàn tỉnh, là vùng thường xuyên bị
ngập lụt, người dân phải sống chung với lũ, đời sống khá bấp bênh vất vã. Những
huyện còn lại là khu vực phát triển khá ổn định, đa dạng.
Long An có Đông giáp thành phố Hồ Chí Minh và sông Soài Rạp, Tây giáp
tỉnh Đồng Tháp, Nam giáp tỉnh Tiền Giang và Bắc giáp tỉnh Tây Ninh và tỉnh
Svâyriêng của nước Cộng hòa nhân dân Campuchia. Việt Nam và Campuchia có
đường biên giới chung dài 142km. Long An được xem là cửa ngõ đi vào TPHCM của
miền Tây Nam Bộ, là một địa bàn chiến lược quan trọng nối liền các tỉnh miền Đông
với các tỉnh miền Tây Nam Bộ.
Là tỉnh thuộc ĐBSCL, Long An rất thuận lợi trong việc phát triển buôn bán,
trao đổi với Campuchia và các nước thuộc khu vực Đông Nam Á. Với hệ thống sông
ngòi chằng chịt, Long An có điều kiện rất thuận lợi để phát triển giao thông thủy bộ.
Đặc biệt với 03 con sông lớn: Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây và sông Cần Giuộc (Rạch
Cát) đã tạo thành một mạng lưới giao thông thuận tiện đóng vai trò quan trọng về mặt
thủy lợi của tỉnh, là đầu mối giao thông quan trọng trong vùng ĐBSCL và vùng phát
triển kinh tế trọng điểm phía Nam. Ngoài ra, tỉnh còn có cửa sông Soài Rạp hướng ra
biển Đông nên rất thuận tiện cho việc phát triển công nghiệp và dịch vụ vận tải xuất
khẩu.
Ngoài những con sông lớn nêu trên, còn có hệ thống kênh rạch, sông ngòi
chằng chịt nối liền sông Tiền với sông Vàm Cỏ, đây chính là những con đường dẫn
tải và tiêu thụ nước quan trọng trong sản xuất cũng như cung cấp cho nhu cầu sinh
hoạt hàng ngày của cư dân.
Nhìn chung nước mặt của Long An không dồi dào, chất lượng nước còn hạn
chế nên chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất và đời sống. Trữ lượng nước ngầm
cũng vậy, chất lượng không đồng đều và tương đối kém. Tuy nhiên, tỉnh có nguồn
nước ngầm có nhiều khoáng chất hữu ít đang được khai thác và phục vụ sinh hoạt dân
cư trên cả nước (nước khoáng Lavie).
Ở Long An mùa mưa hàng năm bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, với lượng
mưa mỗi năm khác nhau. Lượng mưa trung bình hàng năm của Long An thuộc loại ít
ở Nam Bộ, do đó Long An thường rơi vào tình trạng thiếu nước ngọt vào những mùa
nắng. Cường độ mưa lớn làm xói mòn ở những vùng cao, mưa kết hợp với triều
cường làm ngập úng những vùng trũng hay còn gọi chung là vùng Đồng Tháp Mười
(ĐTM) gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của người dân, còn các
huyện ở ven biển có lượng mưa ít hơn hẳn những nơi khác.
Trong khi đó lượng nắng ở Long An cũng tương đối cao, một năm có khoảng 8
- 9 tháng nắng.
Hàng năm lũ đổ về Long An, đặc biệt là vùng ĐTM, bắt đầu từ tháng 8 và kéo
dài đến tháng 11, lũ đến chậm, không sâu nhưng thời gian ngâm lũ lâu gây ngập úng
và khó khăn trong sản xuất cũng như trong đời sống của nhân dân. Những năm trở lại
đây, thay vì đi tránh lũ thì Long An có chủ trương “sống chung với lũ” để tận dụng
và khai thác những lợi ít kinh tế mà lũ mang tới : lượng phù sa, tôm cá, rắn, lươn …
Long An có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng tháng khá cao, khoảng 27,0 – 27,9oC, tương đối ổn định. Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động trong khoảng 27,8 – 25,9oC.
Đất đai Long An được tạo thành phần lớn ở dạng phù sa bồi lắng lẫn nhiều tạp
chất hữu cơ nên đất có cấu tạo không chắc chắn, nhiều vùng đất bị mặn và chua phèn.
Do sự chi phối của những điều kiện hình thành khác nhau, đất đai Long An có thể
chia thành 06 nhóm chính: đất phù sa cổ, đất phù sa thông thường, đất phù sa nhiễm
mặn, đất phèn, đất phèn nhiễm mặn và đất than bùn [41, tr.14-15], trong đó đất mặn
và đất phèn chiếm tới 80% đã tạo nên một khó khăn lớn khó giải quyết cho người
nông dân.
Long An có địa hình đơn giản, bằng phẳng, thấp dần từ Bắc xuống Đông Bắc,
Nam xuống Tây Nam, bị chia cắt bỡi hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây
cùng với hệ thống kênh rạch chằng chịt, do đó phần lớn đất Long An bị ngập nước,
đặc biệt là vùng trũng ĐTM.
Về rừng, ở Long An chủ yếu là rừng tràm, bạch đàn. Rừng Tràm rất thích hợp
với nước mặn, là nơi cư trú và sinh trưởng của các loài động vật như rắn, ếch, trăn,
rùa … Nhiều khu rừng tràm trở thành những “vườn chim” thiên nhiên, với đủ loại
chim và rất nhiều ong mật đã sinh sống nơi đây. Năm 1976 diện tích rừng của Long
An là 93.902 ha, đến năm 1999 chỉ còn lại là 35.925,8 ha. Ngày nay nguồn tài
nguyên động thực vật của hệ sinh thái rừng tràm trên đất trũng phèn ở Long An bị
lạm dụng khai thác và tàn phá nặng nề, các khu rừng tràm nguyên sinh bị đốn sạch để
lấy gỗ xây dựng và làm chất đốt đã làm thay đổi nghiêm trọng môi trường sống, gây
ra những biến đổi về điều kiện sinh thái, ô nhiễm môi trường…do đó để khôi phục và
bảo vệ hệ sinh thái, tỉnh đã và đang có chủ trương khôi phục dần hệ sinh thái rừng
tràm.
Nguồn tài nguyên động vật ở Long An rất phong phú, nguồn lợi về rắn, rùa,
tôm, cá, chim … khá lớn. Là nguồn thức ăn chủ yếu của người dân vùng nông
nghiệp.
Long An có trử lượng khoảng 2,5 triệu tấn than bùn, là nguyên liệu khá tốt để
chế biến ra nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Than bùn ở Long An được đánh giá
có độ tro thấp, lượng khoáng cao, mùn cao có thể dùng làm chất đốt và phân bón.
Tuy nhiên việc khai thác than bùn sẽ đẩy nhanh quá trình ôxy hóa và thủy phân tạo ra
axit sunfuric gây độc hại đến cây trồng và môi trường sống.
Ngoài than bùn ra, Long An còn có mỏ đất sét, tuy nhiên số lượng không
nhiều, nhưng vẫn có thể đáp ứng nhu cầu làm vật liệu xây dựng.
1.1.2. Điều kiện xã hội
Cùng với làn sóng của các lưu dân vào khai phá vùng đất Nam Bộ, đến cuối
thế kỷ XIX lưu dân đến làm ăn sinh sống trên đất Long An ngày nay khá đông, công
cuộc khai phá đất đai, xây dựng quê hương đã có những bước tiến triển đáng kể. Cư
dân Long An sống chủ yếu bằng nghề nông, sản xuất nông nghiệp ngày càng phát
triển đã tạo điều kiện mở rộng phân công lao động, nhiều ngành nghề thủ công ra đời
nhằm đáp ứng nhu cầu địa phương và toàn miền.
Trong quá trình sống, sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên và sự áp bức bóc lột
của giai cấp cầm quyền, nhân dân Nam Bộ nói chung và nhân dân Long An nói riêng
đã đoàn kết chung sức với nhau tạo nên một sức mạnh vô bờ bến. Sự đoàn kết gắn bó
đó còn được thể hiện rõ nét qua hai cuộc chiến tranh chống Thực dân Pháp và Đế
quốc Mỹ, nhân dân Long An đã cùng nhân dân cả nước viết nên những trang sử hào
hùng của dân tộc bằng biết bao xương máu, mồ hôi và nước mắt, làm sáng ngời
truyền thống tự chủ và bất khuất của dân tộc ta.
Thực dân Pháp ngay từ khi đặt chân xâm lược nước ta, đã vấp phải sự chống
cự quyết liệt của nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Long An nói riêng. Khi
chúng đặt chân đến Gia Định, nhân dân Long An đã lập tức có mặt trên chiến trường
dưới sự chỉ huy của Lê Huy, Trần Thiện Chính. Khi thành Gia Định thất thủ, để ngăn
chặn giặc đánh rộng ra về hướng Tây Nam, nhân dân Long An đã tham gia vào việc
gấp rút xây dựng một tuyến phòng thủ gồm 06 đồn để ngăn chặn tàu giặc. Ở mặt
đường bộ từ Chợ Lớn qua Tân An xuống Mỹ Tho quân dân ta cũng triệt để phá hoại,
ngoài ra ở làng Tân Ân (Cần Đước) một đội nghĩa quân đã được thành lập chống
giặc. Nghĩa quân đã gây cho chúng nhiều trở ngại, điển hình là tháng 4/1861 địch bắt
đầu mở cuộc hành quân theo hướng Bảo Định, một toán dân dũng đã phục kích hai
bên bờ sông chặn đánh gây cho chúng nhiều tổn thất, phải mất 12 ngày chúng mới
tiến lại gần đến Mỹ Tho.
Sau khi Định Tường thất thủ, một phong trào võ trang chống Pháp nhanh
chóng lan ra trên đất Long An dưới sự lãnh đạo của Phạm Tiễn,Trịnh Quang Nghi,
Phan Văn Đạt, Trà Quý Bình….
Sau thất bại ở Đại đồn Chí Hòa, Long An trở thành địa bàn hoạt động chủ yếu
của nghĩa quân Trương Định, đồng thời Nguyễn Thông, Phan Chánh … cũng lui về
Tân An tiếp tục chống Pháp. Bên cạnh đó Long An cũng nổi danh với căn cứ Tháp
Mười của Võ Duy Dương, Bùi Quang Diệu … “ Cùng với nghĩa quân của họ Trương
hoạt động đánh địch trên địa bàn Long An còn có đội quân của Phạm Tấn Phát ở
vùng Gò Đen, đội quân của Bùi Quang Diệu ở Cần Đước, Cần Giuộc, đội quân của
Nguyễn Văn Trung ở vùng Tân Thạnh và đội quân của Nguyễn Văn Tiến ở vùng Tân
An, Cần Đước…” [47, tr.202].
Khi Pháp hoàn thành công cuộc xâm lược và tiến hành khai thác thuộc địa,
nhân dân Long An vẫn tiếp tục chống Pháp bằng nhiều hình thức khác nhau dù cuộc
chiến đó có khó khăn hơn, gian khổ hơn.
Sang đầu thế kỷ XX phong trào đấu tranh của nhân dân Nam Kỳ nói chung và
nhân dân Long An nói riêng đã chuyển sang một hình thức mới , đó là hình thức hội
kín “Thiên Địa hội”. So với nhiều nơi khác, hai tỉnh Chợ Lớn và Tân An cũ
là một trong những nơi hội kín phát triển khá mạnh, đặt biệt là phong trào hội kín của
Nguyễn An Ninh trong những năm 1921 – 1928 đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra
đời của các tổ chức tiền thân của Đảng sau này.
Khi Đảng Cộng sản ra đời, Long An đã nhanh chóng có Chi bộ Đảng. Dưới sự
lãnh đạo của Chi bộ Đảng, nhân dân Long An tiếp tục đứng lên đấu tranh. Đảng bộ
Tân An ngay khi mới thành lập đã thu hút được đông đảo nông dân tham gia, tổ chức
cho họ đấu tranh từ thấp đến cao như giảm tô, thuế, mít tinh biểu tình yêu cầu giảm
thuế …Mở đầu là cuộc đấu tranh của nhân dân Bến Lức (5.5.1930), tiếp theo là cuộc
biểu tình của nông dân Đức Hòa dưới sự lãnh đạo của Châu Văn Liêm (4.6.1930)…
sau đó là những cuộc đấu tranh biểu tình khác liên tiếp diễn ra.
Sang đầu năm 1931 phong trào đấu tranh tiếp tục phát triển mạnh, nổi bật nhất
là phong trào biểu tình của nông dân trồng mía đòi tăng giá mía, các chủ hãng đường
không được ép giá ( Bàu Trai) …
Có thể nói các cuộc đấu tranh của quần chúng nông dân dưới sự lãnh đạo của
các Đảng bộ Tân An và Chợ Lớn trong những năm 1930 – 1931đã góp phần xứng
đáng vào cao trào cách mạng chung của cả nước mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Vào giai đoạn 1936 – 1939 những chuyển biến của tình hình trong nước và thế
giới đã ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh của nhân dân ta nói chung và nhân dân
Long An nói riêng. Được sự chỉ đạo của Trung ương khi thời cơ đến, khắp nơi bùng
lên một phong trào đấu tranh, mở đầu bằng cuộc vận động tổ chức Đông Dương Đại
Hội. Ủy ban hành động tỉnh được thành lập khoảng giữa năm 1936, tiếp đó là sự ra
đời của hàng loạt Ủy ban hành động các xã …Phong trào đấu tranh như mít tinh, biểu
tình, in biểu ngữ, rãi truyền đơn đòi quyền dân sinh dân chủ diễn ra sôi nỗi. Đặc biệt
trong thời gian này Đảng bộ Tân An còn lập hiệu sách bán tài liệu công khai của
Đảng ở ga xe lửa Tân An, ngoài ra còn gầy dựng được một cơ sở in bí mật của Xứ ủy
trong rừng tràm Bắc Đông.
Có thể nói cuộc vận động Mặt trận dân chủ Đông Dương là một cao trào cách
mạng dân chủ rộng lớn, góp phần tạo ra những tiền đề mới cho phong trào cách mạng
giải phóng ở những thời kỳ tiếp theo.
Khi Khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ, tuy bị tổn thất nặng nề nhưng lực lượng còn
lại vẫn tiếp tục gầy dựng cơ sở Đảng. Khi Nhật - Pháp bắt tay nhau, đặt nhân dân ta
vào cảnh “một cổ hai tròng”, phong trào cách mạng của nhân dân Long An sau cuộc
khủng bố dần phục hồi và tiếp tục. Chấp hành quyết định của Xứ ủy Nam Kỳ lấy
ngày 23/8/1945 tiến hành khởi nghĩa thí điểm ở Tân An, Tân An gấp rút họp phân
công chuẩn bị. Ngày 21/8/1945 do có sự kiện bất ngờ xảy ra, Tỉnh ủy quyết định
chớp lấy thời cơ, hành động sớm và đã thành công rực rỡ góp phần vào thành công
chung của cả nước.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược lần thứ hai, Long An vấp phải
muôn vàn khó khăn nhưng vẫn tiếp tục duy trì, bảo vệ và che chở các cơ quan kháng
chiến, bên cạnh đó Long An còn là hành lang chiến lược nối liền căn cứ kháng chiến
giữa miền Đông và miền Tây, giữ vai trò như là một bàn đạp, hậu cứ của phong trào
cách mạng thành phố.
Sau 09 năm tiếp tục kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân Long An
đã tạo nên một vùng giải phóng rộng lớn, trên hầu hết các xã đều có Chi bộ Đảng.
Sau Hiệp dịnh Giơnevơ, Mỹ nhảy vào thay chân Pháp, Tỉnh ủy Long An chủ
trương tập kết ra Bắc, từ đây cuộc đấu tranh không phải bằng sức mạnh súng đạn mà
bằng sức mạnh của quần chúng yêu nước, sức mạnh của chính trị, nhiều hình thức
đấu tranh chính trị được kết hợp chặt chẽ với binh vận. Đi đôi với đấu trang chính trị,
lực lượng vũ trang của nhân dân Long An không ngừng lớn mạnh và đã góp phần
cùng nhân dân cả nước làm phá sản chiến lược Chiến tranh đặc biệt và quốc sách Ấp
chiến lược của Mỹ - Nguỵ. Vì nằm ở cửa ngõ phía Tây và Nam của Sài Gòn, Long
An trở thành trọng điểm số một của chiến lược Chiến tranh đặc biệt và sau đó là làm
thất bại chiến lược Chiến tranh cục bộ và Việt Nam hóa chiến tranh. Trong cuộc tổng
công kích tết Mậu Thân, Long An giữ một vị trí rất quan trọng mặc dù các đơn vị vũ
trang bị tổn thất lớn.
Trong cuộc tổng tiến công nổi dậy năm 1975 giành thắng lợi, giải phóng và
thống nhất đất nước quân và dân Long An đã góp phần không nhỏ.
Tóm lại, cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước của nhân dân
Long An là một cuộc đấu tranh toàn dân, toàn diện, là một quá trình đấu tranh liên
tục từ đấu tranh chính trị tiến tới khởi nghĩa, kết hợp khởi nghĩa với chiến tranh cách
mạng, kết hợp tiến công và nổi dậy, tiêu diệt và làm tan rã sinh lực địch, đánh bại
từng bước, giành thắng lợi từng phần, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Đó chính là
kết quả của đường lối chính trị và đường lối quân sự sáng suốt của Đảng, của lòng
yêu nước, của tinh thần hy sinh vô bờ bến của nhân dân cả nước nói chung và nhân
dân Long An nói riêng. Đảng bộ và nhân dân tỉnh Long An vô cùng tự hào và xứng
đáng với tám chữ vàng mà Trung ương đã trao tặng “Trung dũng kiên cường toàn
dân đánh giặc”.
Sự thay đổi đơn vị hành chính
Tỉnh Long An ngày nay bao gồm phần lớn đất của tỉnh Chợ Lớn và Tân An cũ
hợp lại. Từng là căn cứ địa kiên cường qua 02 cuộc kháng chiến trường kỳ chống
Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ.
Tỉnh Long An từ lúc hình thành đến nay đã trãi qua nhiều biến đổi lớn, sau
ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tỉnh Long An cũ đã hợp nhất với tỉnh Kiến
Tường thành tỉnh Long An hiện tại.
Sau ngày giải phóng, các huyện trong tỉnh cũng đã nhiều lần phân -
hợp: năm 1977, 02 huyện Bến Lức và Thủ Thừa hợp lại thành huyện Bến Thủ, Tân
Trụ và Châu Thành hợp lại thành huyện Tân Châu (1978 huyện Tân Châu đổi tên
thành Vàm Cỏ). Tháng 03 năm 1978 huyện Mộc Hóa tách thành 02 huyện mới là
Vĩnh Hưng và Mộc Hóa. Tháng 10 năm 1980 huyện Mộc Hóa mới lại chia thành 02
huyện Mộc Hóa và Tân Thạnh. Năm 1983 huyện Bến Thủ lại tách thành huyện Bến
Lức và Thủ Thừa như cũ, năm 1989 thành lập thêm huyện mới là Thạnh Hóa, huyện
Vàm Cỏ lại tách ra thành huyện Tân Trụ và Châu Thành…[39, tr.18].
Cho đến nay , Long An có 01 thị xã và 13 huyện, 08 phường, 15 thị trấn và 161
xã.
Dân cư
Dân cư long An trong quá trình hình thành và phát triển, do nhiều yếu tố khách
quan tác động đến nên có sự phát triển không đồng đều, đặc biệt là qua 02 cuộc chiến
tranh chống Pháp và chống Mỹ.
Theo tổng điều tra dân số sau đây cho thấy :
Đơn vị tính : người
Năm 1979 1989 1999 2002
949.200 1.120.204 1.306.202 1.364.355 Số người
Con số nêu trên thể hiện dân số ngày càng tăng, con số biến động này bao gồm phần tăng tự nhiên và tăng cơ giới. Mật độ dân số năm 2002 là 313 người/km2 , với tỷ
lệ tăng dân số tự nhiên là 13,04% [39, tr.19].
Năm 2002 dân số đô thị là 224.928 người (16,5%), ở nông thôn là 1.139.427
(83,5%). Cũng từ những con số trên cho thấy rằng dân số Long An phân bố không
đồng đều, đa số tập trung ở nông thôn, vùng sản xuất nông nghiệp, điều này cho thấy
ở Long An nông nghiệp vẫn giữ một vai trò vô cùng quan trọng.
Mật độ dân số giữa các vùng cũng còn chênh nhau khá cao. Khu vực phía Nam có mật độ 570 người/km2, còn ở phía Bắc là 144 người/km2. Nhờ chính sách giản dân
và điều phối dân cư xây dựng ĐTM từ năm 1979 – 1999 đã đưa được 44.301 hộ đến
định cư ở ĐTM với số người là 118.789.
Tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm khu vực phía Nam là 0,55%, phía Bắc
là 1,48%.
Năm 2002 Long An có 811.791 người trong độ tuổi lao động, chiếm 59,5%.
Trong đó lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân là 719.854 người, lao
động trong các ngành kinh tế nhà nước là 23.134 người, trong công nghiệp là 42.270
người và ngành GD – ĐT là 13.000 người.
Tính đến năm 2002 thì tỷ lệ nữ trội hơn nam, nữ chiếm tỷ lệ 51,22%, nam
chiếm tỷ lệ 48,88% [28, tr.19-20].
1.2. GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO LONG AN NHỮNG NĂM TRƯỚC ĐỔI MỚI
1.2.1. Vài nét về giáo dục – đào tạo Long An trước giải phóng (1945 –
1975)
1.2.1.1. Giáo dục – đào tạo Long An trong 09 năm chống Pháp (1945 –
1954)
Khi Pháp chiếm Nam Kỳ và tiến hành khai thác thuộc địa, chúng đã thực hiện
chính sách giáo dục nô dịch và đồng hóa với mục đích làm cho dân chúng Việt Nam
đại đa số bị mù chữ, dân càng dốt thì nhận thức càng thấp và càng dễ trị, GD – ĐT
Long An cũng không nằm ngoài phạm vi đó. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp lần
thứ hai này, trên đất Tân An, Chợ Lớn có 02 khu vực giáo dục khác nhau : vùng bị
tạm chiếm và vùng kháng chiến.
Trong vùng bị tạm chiếm, ở các thị xã, thị trấn và ven các con đường chiến
lược các trường học được khôi phục với các loại hình trường công lập, tư thục …
chương trình giảng dạy ở đây cả tự nhiên lẫn xã hội chủ yếu đều nhằm mục đích phục
vụ cho chính sách ngu dân nô dịch của thực dân. Chính vì thế mà giáo dục không
được đầu tư nhiều, chủ yếu chỉ đầu tư cho các ngành tiểu học (TH).
Còn ở trong vùng kháng chiến, sau khi ổn định tình hình, chính quyền cách
mạng cũng tiến hành xây dựng ngành giáo dục để đáp ứng nhu cầu học hành của
nhân dân. Tuy cơ sở vật chất nghèo nàn, trường lớp được làm bằng cây lá nhưng các
trường đều giảng dạy theo chương trình thống nhất do Sở giáo dục Nam Bộ biên
soạn.
Ở vùng tranh chấp, cách mạng ta tùy theo điều kiện từng nơi mà tranh thủ cài
người của cách mạng hoặc kêu gọi những thầy giáo có tinh thần yêu nước đưa những
quan điểm tiến bộ để cổ vũ tinh thần yêu nước một cách hợp pháp.
Một phong trào giáo dục mang tính quần chúng cao và tính cách mạng sâu
rộng là phong trào Bình dân học vụ, phong trào Bổ túc văn hóa (BTVH) trong cán bộ
và nhân dân. Cùng với cả nước sau Cách mạng tháng tám, Long An cũng bắt đầu tấn
công để diệt giặc dốt, một thứ giặc vô cùng nguy hiểm sau giặc ngoại xâm và giặc đói
vì nếu ta không làm được việc đưa dân thoát khỏi sự dốt nát thì sẽ thõa mãn được ý
đồ, âm mưu thâm độc của kẻ thù.
Khi phong trào Bình dân học vụ được phát động, đã nhận được sự ủng hộ của
đông đảo đồng bào, cán bộ, bộ đội. Họ học trưa, học tối, học lúc nghỉ ngơi, học lúc
hành quân … Lớp học không chỉ có trẻ nhỏ mà còn có cả ông già, bà lão… Cho nên
thành quả giáo dục lớn nhất trong giai đoạn này là phong trào BTVH chứ không phải
là giáo dục phổ thông dù giáo dục phổ thông cũng quan trọng không kém.
Có thể nói giáo dục hai tỉnh Tân An và Chợ Lớn trong thời kỳ này đã góp phần
có ý nghĩa trong việc nâng cao dân trí trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn gian khổ,
đưa ngành giáo dục Nam Bộ phát triển.
1.2.1.2. Giáo dục – đào tạo Long An trong giai đoạn chống Mỹ (1954 –
1975)
Trong thời kỳ này ở Nam Bộ có hai hệ thống giáo dục đối lập nhau là hệ thống
giáo dục của địch và hệ thống giáo dục của ta.
Là một tỉnh nằm sát Sài Gòn nên hệ thống giáo dục của địch ở Long An gắn
liền với các chính sách lớn: “tố cộng”, “ấp chiến lược”, “khu trù mật”…, các trường
học dạy theo chương trình mới của Bộ Giáo dục Quốc gia do các đoàn cố vấn văn
hóa giáo dục của Mỹ soạn thảo, ngoài chức năng chống lại cái gọi là “ý thức hệ cộng
sản”, đề cao chủ nghĩa “Quốc gia giả hiệu” còn nhằm từng bước loại bỏ những ảnh
hưởng của Pháp trong ngành giáo dục [49, tr.519]. Đồng thời qua giáo dục, chúng
muốn thông qua HS để nắm lấy cha mẹ HS, nhằm làm dịu sự đối lập của quần chúng
đối với chế độ tay sai. Chế độ giáo dục của chúng nhằm chuẩn bị cho thanh niên
trong vùng địch kiểm soát sung vào đội quân đánh thuê của Mỹ.
Bên cạnh hệ thống trường công, trong vùng địch kiểm soát còn có hệ thống
trường tư khá phát triển: Huỳnh Ngọc, Hưng Đạo …
Tuy nhiên việc phát triển giáo dục của địch ở Long An lệ thuộc rất nhiều vào
diễn biến của cuộc chiến tranh và tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến
trường. Trước năm 1960 giáo dục trong vùng địch tương đối ổn định, nhưng từ những
năm 1960 trở đi, giáo dục có nhiều biến động, hoạt động giáo dục chỉ thu hẹp trong
các thị xã, thị trấn và các ấp chiến lược hoặc khu trù mật.
Nôi dung giảng dạy trong các trường học dù ở bậc TH hoặc Trung học đều
mang tính lai căng, thực chất giáo dục trong thời gian này là một công cụ nô dịch,
ngu dân kiểu mới.
Nhưng không phải lúc nào địch cũng đạt được mục đích chúng đề ra, Long An
là một địa bàn chiến tranh ác liệt nên có sự đan xen giữa hai luồng tư tưởng yêu nước
và bán nước, tự do và nô lệ trong đội ngũ giáo viên, qua đó phong trào học sinh sinh
viên ở Long An cũng khá rầm rộ với những cuộc “xuống đường” chống bắt lính,
chống tham nhũng, chống quân sự hóa trường học… Đã có không ít con em nhân dân
Long An sau một thời gian đèn sách đã từ bỏ cuộc sống êm ấm của gia đình trong
vùng địch ra vùng kháng chiến cầm súng chống giặc. Đã xuất hiện những người con
tiêu biểu như : Mai Thị Non, Lê Thị Mai, Nguyễn Thị Cẩm, Nguyễn Thái Bình …
Còn ở trong vùng cách mạng là một nền giáo dục hoàn toàn khác với hệ thống
giáo dục của địch. Sau thời gian đầu khó khăn, năm 1964 với những điều kiện cho
phép ta đã tổ chức các lớp học, cung cấp sách vở, học cụ giải quyết nhu cấu học tập
cho con em đồng bào. Ở một số huyện Phòng giáo dục được thành lập, lúc này hầu
hết các xã đều có trường học. Nội dung giảng dạy theo chương trình cách mạng,
chống lại thứ giáo dục nô lệ của địch.
Tỉnh đã chọn một số thanh niên ở huyện, xã gửi đi đào tạo những lớp sư phạm
ngắn hạn rồi đưa về làm giáo viên nòng cốt cho phong trào, ngoài ra còn có một số
giáo viên là con em nhân dân Long An tập kết ra Bắc được đào tạo trong các ngành
sư phạm, tình nguyện trở về chiến đấu với đồng bào.
Đây là thời kỳ GD – ĐT Long An phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên cũng phụ
thuộc vào tình hình đấu tranh chính trị và quân sự trên chiến trường, có lúc giáo dục
gặp khó khăn do bị địch khủng bố gắt gao hoạt động của ngành bị thu hẹp.
Đội ngũ giáo viên là những người chiến sĩ trên trận tuyến đấu tranh văn hóa
với địch, họ vừa cầm phấn vừa cầm súng chống càn bảo vệ trường lớp và xóm làng
giải phóng. Họ làm việc không có lương, sống với dân được dân nuôi và được hưởng
một ít sinh hoạt phí do cơ quan cung cấp. Cuộc sống khó khăn nguy hiểm nhưng
nhiệt tình của họ đối với sự nghiệp giáo dục vẫn luôn sục sôi. Không ít giáo viên sáng
đi học lớp cao hơn, chiều đi dạy lớp thấp hơn, rất nhiều giáo viên đã hi sinh trên
đường đi công tác hoặc trong các trận chống càn, có không ít người bị địch bắt, tra
tấn …
Bên cạnh giáo dục phổ thông, ngành BTVH cũng được tiếp tục theo truyền
thống của phong trào Bình dân học vụ của thời chống Pháp. Người biết chữ dạy cho
người không biết chữ, tạo nên một phong trào “chia chữ” sôi nổi ở các cơ quan, họ
học ngày, học đêm, học ở các lán trại, học dưới hầm sâu, học trong trại điều dưỡng,
học trên đường đi công tác …
Bên cạnh đó, dù khó khăn nhưng ở cấp tỉnh cũng đã tổ chức những lớp học
BTVH tập trung cho một số đối tượng nhất định để nâng cao trình độ, năng lực cán
bộ nhằm đủ sức đảm đương những trọng trách cách mạng giao cho.
Có thể nói ở một chiến trường ác liệt và gian khổ, ngành GD – ĐT Long An đã
có những cống hiến rất đáng tự hào trong những năm chống Mỹ, ở cả 2 lĩnh vực giáo
dục phổ thông và BTVH đều phát triển đồng đều, góp phần nâng cao trình độ văn hóa
của cán bộ, chiến sĩ cũng như người dân trong vùng giải phóng, từ đó giúp họ đạt kết
quả cao hơn trong công tác, đồng thời làm nỗi bật tính ưu việt của nền giáo dục cách
mạng.
1.2.2. Khái quát giáo dục – đào tạo Long An mười năm trước đổi mới (1975
– 1985)
1.2.2.1. Bối cảnh tình hình
Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ, song
song với việc hàn gắn vết thương chiến tranh, Đảng và Nhà Nước ta đã tiến hành
ngay việc khôi phục và xây dựng sự nghiệp giáo dục.
Long An là tỉnh bị địch tập trung bom đạn đánh phá ác liệt trong suốt các cuộc
chiến tranh, sau ngày giải phóng lại phải tiếp tục chống chiến tranh Biên giới và liên
tiếp bị thiên tai, nên dù cố gắng hết sức, việc tổ chức học hành của Long An cũng chỉ
ở một chừng mực nhất định. Trong khi đó, chính quyền Ngụy quyền trước đó cũng
chỉ mở một số trường học ở các vùng thị xã, thị trấn, ven những đường giao thông
lớn … cho nên nạn thất học vẫn khá trầm trọng. Khoảng 200.000 trẻ em ở độ tuổi đi
học không được tới trường. Năm 1975 toàn tỉnh có khoảng 37.000 người từ 15 – 50
tuổi mù chữ. Do đó, sau ngày giải phóng, bên cạnh những tồn đọng cần giải quyết
ngay như ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, phục hồi sản xuất, ổn định đời
sống… thì chính quyền cách mạng đã bắt tay ngay vào việc xây dựng sự
nghiệp giáo dục mới Xã hội chủ nghĩa.
Việc đầu tiên phải tiến hành trong giáo dục là xóa bỏ hoàn toàn cơ cấu tổ chức,
nội dung và chương trình sách giáo khoa của chế độ cũ, thay thế bằng chương trình
và nội dung giảng dạy do Bộ giáo dục hướng dẫn. Đồng thời tổ chức học tập, cải tạo
đội ngũ giáo viên của chế độ cũ để lại, chọn những giáo viên có phẩm chất, năng lực,
đạo đức tốt để tiếp tục sử dụng họ, nhằm phục vụ yêu cầu của sự nghiệp giáo dục
cách mạng. Phần lớn giáo viên của chế độ cũ được chính quyền cách mạng ta cải tạo
và sử dụng, chỉ trừ những phần tử phản động mà cơ quan an ninh xác nhận là không
nên cho tiếp tục giảng dạy hoặc những phần tử có sinh hoạt không lành mạnh bị nhân
dân phản đối [47, tr.526].
Vấn đề xóa nạn mù chữ được đưa lên hàng đầu, nên sau khi tiếp quản 30
trường tiểu học và 3.800 giáo viên thì năm 1976 tỉnh đã tiến công vào mặt trận diệt
giặc dốt. Kết quả là đến tháng 9 năm 1976 nhiều huyện đã thanh toán xong giặc dốt,
đại bộ phận nhân dân đã biết chữ.
1.2.2.2. Những thành tựu và kết quả
Với nỗ lực của chính quyền cách mạng, chỉ trong một thời gian ngắn, một bộ
máy quản lý giáo dục mới từ cấp tỉnh đến các huyện, thị và các trường được thành lập
để điều hành mọi công việc. Thực hiện nghiêm túc “Học đi đôi với hành, giáo dục kết
hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội” nên chỉ trong vài năm sau
ngày giải phóng, chất lượng đào tạo học sinh có nhiều thay đổi, các hoạt động của
nhà trường ngày càng gắn liền với thực tiễn đời sống và sản xuất.
Một hệ thống trường lớp gồm bốn ngành học đã nhanh chóng được hình
thành. Trường lớp phổ thông phát triển đến tận xã, ấp, kể cả những vùng xa xôi, hẻo
lánh, những vùng căn cứ kháng chiến cũ. Xã nào cũng cố gắng có trường cấp II.
Trong năm học 1984 – 1985 từ con số HS là 100.000 trước ngày giải phóng đã tăng
lên con số 240.000 HS.
Giáo dục mẫu giáo (MG) cũng phát triển tương đối nhanh và đều, từ vài chục
HS trước giải phóng, đến năm 1985 đã có hơn 23.000 cháu.
Hệ thống trường BTVH được xây dựng và phát triển nhanh, đáp ứng được
phần lớn nhu cầu của nhân dân cũng như nhu cầu phát triển của sự nghiệp cách mạng
giai đoạn mới. Nhiều xã đã xây dựng được trường BTVH tập trung cấp I và II, nhiều
huyện có trường BTVH cấp III. Tính đến năm 1983, 132/142 xã, phường đều có
trường Trung học cơ sở (THCS), ¼ dân số trên địa bàn tỉnh đi học ở các bậc học với
các loại hình đào tạo khác nhau.
Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, không có giáo dục thì cũng không nói gì đến
kinh tế, văn hóa… nên từ rất sớm tỉnh đã đầu tư một khoảng ngân sách khá lớn vào
công tác đào tạo ngành, bao gồm giáo viên và cán bộ quản lý để đáp ứng kịp thời nhu
cầu phát triển giáo dục ở địa phương. Trong tỉnh đã thành lập 01 trường Sư phạm cấp
II, 01 trường Trung học sư phạm và 01 trường Cán bộ mẫu giáo.
Trong hơn 10 năm qua, các trường đã đào tạo hơn 8.000 giáo viên các cấp. Đội
ngũ giáo viên được thường xuyên bồi dưỡng về chính trị, văn hóa nghiệp vụ. Các
trường Trung học sư phạm, Sư phạm cấp II mỗi năm đào tạo gần 1.000 giáo viên cấp
TH, THCS và MG. Tính đến năm 1985, Long An đã có một đội ngũ giáo viên trên
10.000 người phục vụ ở các trường phổ thông và BTVH. Đã xuất hiện không ít
những tấm gương sáng trong ngành, lực lượng giáo viên dạy giỏi ngày càng tăng.
Trung bình hàng năm số học sinh tốt nghiệp Phổ thông trung học (PTTH) vào
các trường đại học trong nước là 12%, vào các trường trung học chuyên nghiệp, dạy
nghề là 46%, số còn lại cung cấp cho các ngành lao động sản xuất, các xí nghiệp
quốc doanh, phục vụ quốc phòng …
Một thành tích nổi bật của tỉnh là chỉ sau 1,5 năm được giải phóng, trong hoàn
cảnh muôn vàn khó khăn về kinh tế, phải đối phó với chiến tranh Biên giới Tây Nam
… Tỉnh Long An đã hoàn thành việc xóa mù chữ, được Quốc Hội tặng Huân chương
lao động hạng I.
Không dừng lại ở những kết quả đạt được, ngành Giáo dục Long An đã tiếp tục
thi hành nhiều biện pháp chống tái mù chữ, tiếp tục đẩy mạnh công tác BTVH, nhiều
công trình, nội dung giảng dạy mới thích ứng với từng lứa tuổi khác nhau, với từng
đối tượng khác nhau đã được áp dụng và mang lại nhiều hiệu quả thiết thực.
Trong thực tế, ngành GD – ĐT Long An sau 10 năm giải phóng đã góp một
phần quan trọng trong việc truyền thụ kiến thức cho nhân dân, đào tạo nên một thế hệ
trẻ có phẩm chất đạo đức, văn hóa, trình độ chuyên môn… Chuẩn bị cho quê hương
đất nước một đội ngũ tri thức trẻ có nhiệt tình, năng lực, chung vai gánh vác nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thông qua con đường BTVH, ngành GD – ĐT tỉnh nhà đã góp phần rất có ý
nghĩa để nâng cao trình độ kiến thức, năng lực chuyên môn cho cán bộ, nhân viên
nhà nước. Cái chữ đã len lõi vào từng gia đình ở nông thôn, giúp cho người dân có
điều kiện để tiếp thu văn hóa và khoa học kỹ thuật mới, từng bước biến đổi bộ mặt
của nông thôn, giúp họ vượt qua khó khăn, nghèo đói, xây dựng một cuộc sống văn
minh, ấm no và hạnh phúc.
Tuy nhiên, dù đã đạt được nhiều thành tích, nhưng ngành GD – ĐT Long An
vẫn còn vấp phải nhiều bất cập và thiếu sót như trình độ cán bộ giáo viên còn hạn
chế, vẫn còn tình trạng học 03 ca ở một số huyện, trang thiết bị, sách giáo khoa còn
thiếu thốn… Đặc biệt là chưa kết hợp được mối quan hệ giữa Gia đình – Nhà trường
– Xã hội nên tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng vẫn còn rất nhiều.
Thanh toán nạn mù chữ và BTVH:
Đơn vị tính : người
Nội dung 1976 1977 1978 1979 1980
Thanh toán nạn mù chữ
32.459 34.682 39.856 - - Số người đi học
10.371 33.664 35.022 - - Số người thoát mù chữ
Bổ túc văn hóa
12.747 26.634 23.143 22.192 39.511 Học ngoài giờ làm việc
7.075 18.353 22.832 21.844 39.110 Cấp I
4.635 7.811 311 348 401 Cấp II
1.037 470 - - - Cấp III
2.289 2.177 1.107 936 381 Học các lớp tập trung
821 1.102 709 707 331 Cấp I
1.158 927 398 229 50 Cấp II
310 148 - - - Cấp III
Nguồn: Cục thống kê Long An (1976 – 1980).
Học sinh phổ thông:
Đơn vị tính : người
Cấp học 1975-76 1976-77 1977-78 1978-79 1979-80
129.783 143.377 146.592 136.419 144.002 I
21.974 26.882 33.229 37.730 44.114 II
6.958 6.009 5.644 5.664 6.582 II
Tổng cộng 158.715 176.268 185.465 179.831 194.698
Nguồn : Cục thống kê Long An (1976 – 1980)
Giáo viên phổ thông:
Đơn vị tính : người
Cấp 1975-76 1976-77 1977-78 1978-79 1979-80
3.508 3.518 3.728 3.720 3.766 I
512 707 882 1.244 1.544 II
190 265 273 285 308 III
Nguồn: Cục thống kê Long An (1976 - 1980).
***
*****
Tỉnh Long An là một địa bàn chiến lược có vị trí quan trọng nối liền các tỉnh
miền Đông và miền Tây Nam Bộ, đã có những đóng góp lớn lao trong công cuộc đấu
tranh chống Thực dân pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược. Sau ngày đất nước được giải
phóng và thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính quyền, nhân dân Long An
cùng nhân dân cả nước, đương đầu với rất nhiều khó khăn ở tất cả các mặt : kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục … Đặc biệt là nhân dân Long An phải đối đầu với
chiến tranh Biên giới Tây Nam và liên tiếp bị thiên tai.
Dù phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, nhưng do xác định được tầm quan
trọng của giáo dục nên bên cạnh việc khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời
sống nhân dân … thì việc xây dựng và khôi phục GD – ĐT đã được đưa lên hàng
đầu cần làm ngay và đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, góp phần đưa Việt
Nam hòa nhập vào sự phát triển chung của thế giới.
Nội dung và chương trình sách giáo khoa cũ đã được thay thế bằng một
chương trình mới phù hợp với sự nghiệp giáo dục mới XHCN, đội ngũ GV của chế
độ cũ phần lớn được sử dụng để phục vụ yêu cầu hiện tại. Với nỗ lực đó, chỉ trong
một thời gian ngắn bộ mặt của GD – ĐT Long An đã có những thay đổi theo hướng
tích cực. Một hệ thống trường lớp gồm 04 ngành học được hình thành và đạt được
những kết quả đáng kể, đặc biệt là đã hoàn thành nhiệm vụ xóa mù chữ, đó là một kết
quả rất đáng trân trọng.
Trong 10 năm khôi phục và phát triển, GD – ĐT Long An đã đào tạo được một
đội ngũ GV có tay nghề vững vàng để đảm đương trọng trách giảng dạy ở các trường,
con số HS ở các trường từ MN đến PTTH dần dần ổn định. Sau 10 năm xây dựng và
củng cố, Long An đã đào tạo được một thế hệ trẻ có phẩm chất tốt, trình độ văn hóa,
chuyên môn cao góp phần chuẩn bị một đội ngũ tri thức trẻ cho đất nước.
Dù vậy, trong bước đầu khôi phục và phát triển, GD – ĐT Long An còn gặp
nhiều khó khăn, thiếu sót: trình độ GV còn hạn chế; CSVC nghèo nàn : ngân sách
đầu tư thấp, phòng ốc trường lớp tạm bợ, thiết bị dạy học không có; người dân chưa
nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của giáo dục nên còn thờ ơ trong việc đưa con
em đến trường …
Nhìn chung, trong những năm sau giải phóng, GD – ĐT Long An phát triển
chưa thật ổn định, nhưng đã xóa bỏ được nền giáo dục cũ, đồng thời xây dựng một
nền giáo dục mới theo định hướng XHCN.
Công tác PCGDTH – XMC, BTVH đã đạt được những thành tựu nhất định,
trong giáo dục phổ thông tuy chưa phát triển mạnh mẽ nhưng đã đáp ứng được phần
nào yêu cầu học tập của người dân.
Trong thời gian này, muốn GD – ĐT phát triển, đáp ứng được đầy đủ yêu cầu
hiện tại của tỉnh nhà, cần phải giúp cho người dân hiểu dúng đắn về tầm quan trọng
của giáo dục trong cuộc sống để họ tích cực tạo điều kiện cho con em tới trường,
Nhà Nước phải đầu tư vào giáo dục nhiều hơn nữa để thu hút một đội ngũ GV
có trình độ cao, giải quyết thỏa đáng được mức sống để GV an tâm công tác, đầu tư
vào việc nâng cao trình độ cho GV, quan tâm đầu tư về CSVC, mua sắm trang thiết bị
nhằm đáp ứng được tối thiểu yêu cầu dạy - học … Có như thế thì GD – ĐT của tỉnh
nhà sẽ đạt được kết quả cao hơn, đáp ứng được yêu cầu xây dựng đất nước sau một
thời gian dài bị chiến tranh tàn phá.
CHƯƠNG 2: GIÁO DỤC ĐÀO TẠO LONG AN MƯỜI NĂM
ĐẦU ĐỔI MỚI (1986 – 1996)
2.1. BỐI CẢNH TÌNH HÌNH
Giữa thập kỷ 80, trước đòi hỏi phải đổi mới, Việt Nam dần dần từ bỏ nền kinh
tế theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa thị trường.
Chính nền kinh tế thị trường đã làm cho Việt Nam trở nên năng động, tích cực và dần
thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế. Để đi cho đúng hướng, nhân dân Việt Nam nói
chung và nhân dân Long An nói riêng đã mày mò, tìm kím, lựa chọn con đường đi,
họ vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm. Để đi trên con đường đã chọn, nhân dân
Long An phải coi nền giáo dục quốc gia như một điểm nút quyết định sự đi lên của
toàn xã hội, vì vậy mà giáo dục trở thành quốc sách hàng đầu khi đi vào xây dựng
nền kinh tế thị trường. Nói giáo dục là quốc sách hàng đầu có nghĩa là giáo dục phải
được ưu tiên hàng đầu trong các chính sách quốc gia.
Có thể nói thời kỳ này có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển của đất
nước nói chung cũng như của tỉnh Long An nói riêng. Đây là thời kỳ tiến hành đường
lối đổi mới của Đảng, là thời kỳ đổi mới đã đưa đất nước, trong đó có ngành giáo dục
sang một giai đoạn phát triển mới với những tiến bộ vượt bậc. Trong quá trình
chuyển tiếp giữa cái cũ và cái mới đó, ngành GD – ĐT Long An không thể tránh khỏi
những biến động, khó khăn, lúng túng. Tuy nhiên, tập thể cán bộ, giáo viên đã cố
gắng tự điều chỉnh, áp dụng những giải pháp tình thế để thích ứng và dần tạo được sự
ổn định trong hệ thống giáo dục.
Quy mô GD – ĐT từng bước được củng cố, hầu hết các ngành học, bậc học sau
một thời gian lúng túng đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Trong 05 năm đầu
đổi mới, do hậu quả của chiến tranh và những sai sót chủ quan trong quá trình cải tạo
XHCN đối với kinh tế - xã hội nên có ảnh hưởng lớn đến giáo dục. Do nhiều thiếu sót
chủ quan trong tổ chức, điều hành và quản lý mà giáo dục Long An nói riêng và ở
ĐBSCL nói chung mắc phải mà GD – ĐT Long An trong những năm đầu đổi mới bị
sa sút, bất ổn định về qui mô phát triển cũng như hiệu quả, chất lượng giáo dục.
Tuy nhiên, từ năm 1991 trở đi GD - ĐT Long An dần dần khôi phục và phát
triển.
2.2. THÀNH TỰU
2.2.1. Định hướng phát triển
GD – ĐT được xem là quốc sách hàng đầu, cho nên trong vấn đề được ưu tiên
cho giáo dục cần đặc biệt xây dựng đội ngũ giáo viên, xây dựng cơ sở vật chất trường
lớp, đẩy mạnh chất lượng ở các cấp học, bậc học... Xác định được điều đó lãnh đạo
của tỉnh nhận thấy rằng phải cố gắng xóa bỏ các trường học tre lá tạm bợ, hạn chế
tình trạng học 03 ca, hạn chế tối đa việc thiếu giáo viên.
Vận động các gia đình đưa trẻ đến trường, tránh tình trạng để trẻ mù chữ. Tiếp
tục tiến hành xóa mù chữ, tiếp tục đào tạo giáo viên để cung cấp giáo viên cho các
ngành học, bậc học: MN, TH và THCS. Đồng thời đẩy mạnh việc đào tạo nghề để
đáp ứng nhu cầu tại chỗ cho địa phương.
Có như thế thì mới có thể đưa nền GD – ĐT Long An thoát ra khỏi sự khó
khăn và dần dần đáp ứng được yêu cầu mà Đảng và Nhà Nước đề ra, nhằm đưa đất
nước thoát khỏi khủng hoảng sau chiến tranh và hòa nhập vào trào lưu phát triển
chung của thế giới.
2.2.2. Những thành quả và hạn chế
Trong 10 năm tiến hành đổi mới về nhiều mặt, nền GD – ĐT Long An đã đạt
được những thành quả cũng như còn gặp nhiều hạn chế chưa vượt qua được trên các
cấp bậc học trong thời gian ngắn ngũi.
2.2.2.1. Giáo d ục mầm non
Trong thời gian đầu đổi mới, ở ĐBSCL nói chung và ở Long An nói riêng
mạng lưới nhà trẻ, MG rất mỏng, tốc độ phát triển rất chậm, phòng ốc không đạt
chuẩn, chật hẹp, số lượng trẻ ở mỗi lớp lớn do thiếu phòng vượt quá giới hạn cho phép rất nhiều (60 trẻ /30m2 ), ở vùng nông thôn phòng học chủ yếu bằng tre lá, trang
thiết bị, đồ chơi, học phẩm rất ít thậm chí không có, vệ sinh cũng không được đảm
bảo. Trong thời gian này tỷ lệ trẻ được đưa tới trường MN rất thấp (19,10%).
Tuy nhiên từ năm học 1993 – 1994 trở đi ngành MN đã có những chuyển biến
tích cực, hệ thống trường lớp được sắp xếp lại, các trường được quan tâm trang bị
CSVC để phục vụ cho nhu cầu dạy - học. Các hình thức trường lớp được đa dạng
hóa, trở nên phong phú hơn làm cho số lượng cũng như chất lượng của các trường
MN tăng.
Theo thống kê vào giữa năm học, toàn tỉnh từ năm 1986 – 1995 có số lượng
lớp học, học sinh và giáo viên như sau:
Năm Số lớp Số học sinh Số giáo viên
1986 971 20.030 1.020
1987 1067 29.009 1.208
1.231 30.145 1093 1988
1.223 25.667 1047 1989
1.022 20.388 855 1990
952 18.833 911 1991
921 17.750 790 1992
881 19.317 801 1993
887 20.557 796 1994
928 21.754 840 1995
Nguồn: Cục thống kê Long An.
Trong đó năm 1990 số huyện (thị) có nhiều lớp học nhất là Bến Lức với 119
lớp, 127 giáo viên và 3.278 HS; TXTA với 105 lớp, 162 giáo viên và 2802 HS… Còn
huyện có số lớp học thấp nhất là Vĩnh Hưng với 14 lớp, 19 giáo viên và 101 HS.
So với những năm trước đó, số lượng lớp cũng như số lượng HS ở năm 1990
giảm mạnh. Nếu so sánh với năm 1986 thì năm 1990 số lượng lớp học giảm 116 lớp,
HS giảm 7.642. Điều này chứng tỏ rằng ngành MN còn vấp nhiều điều bất cập, chưa
có những chuyển biến tích cực trong chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ, đặc biệt là
ở những vùng sâu, vùng ĐTM.
Tuy nhiên từ năm 1991 trở đi, dù số lượng lớp cũng như số lượng HS không
nhiều nhưng cũng tạm ổn định, không cách biệt nhiều lắm. Ví dụ, so sánh năm 1991
với năm 1995 thì sẽ thấy có sự chênh lệch không xa, số lớp giảm 71, HS tăng 2.921,
giáo viên giảm 24. Năm 1995 bình quân mỗi giáo viên phải đảm đương khoảng 1,1
lớp và 23,44 HS. Tình trạng thiếu giáo viên và phòng học vẫn còn tồn tại và là một
thách thức lớn đối với ngành GD – ĐT Long An. Đặc biệt từ năm học 1993 – 1994
quy mô ngành giáo dục MN phát triển ổn định, lớp MG 05 tuổi tăng nhanh. Qua quá
trình chăm sóc, nuôi dạy trẻ tuy tỷ lệ bệnh tật và suy dinh dưỡng có giảm nhưng suy
dinh dưỡng vẫn còn là mối lo ngại và chiếm tỷ lệ khá cao.
Hưởng ứng tích cực chủ trương nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, các
trường MN của tỉnh đã cố gắng dạy đủ, dạy đúng và đảm bảo nội dung chương trình
học. Ở các trường lớn, trường trọng tâm, các chuyên đề chống suy dinh dưỡng,
chuyên đề vui chơi, chuyên đề chăm sóc giáo dục vệ sinh, chuyên đề dạy chữ cái,
giáo dục âm nhạc … được xây dựng, củng cố và được đánh giá cao, có kết quả tốt.
Tuy nhiên ở những vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hầu hết các phòng học
đều không đạt chuẩn, phần lớn ở nông thôn phòng học được làm từ tre lá tạm bợ, đồ
chơi, đồ dùng dạy học hầu như không có.
Trước tình hình đó ngành MN dần tìm cách khắc phục những hạn chế, tích cực
đa dạng hóa các loại hình trường lớp, tiến hành đầu tư xây dựng cơ sở vật chất
…ngành giáo dục MN dần dần có những chuyển biến tích cực.
2.2.2.2. Giáo dục phổ thông
Ngay từ năm học 1986 – 1987 do xác định được vai trò và vị trí vô cùng quan
trọng của giáo dục trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội , xem phát triển giáo dục
là một phần của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, Đảng và chính quyền Long An đã
tích cực duy trì, củng cố, ổn định trường lớp nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả
đào tạo. Tuy nhiên hiệu quả đào tạo vẫn thấp. Từ năm học 1990 – 1991 thực hiện
chương trình quốc gia về PCGDTH – XMC, các trường TH xác định công tác
PCGDTH – XMC là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường, các loại
hình trường lớp được đa dạng hóa, tuy nhiên hiệu quả đào tạo vẫn còn thấp do chưa
thích ứng được với yêu cầu chuyển đổi kinh tế xã hội trong thời kỳ đầu đổi mới.
Chất lượng dạy - học ở các vùng trong tỉnh cũng có sự chênh lệch lớn, chất
lượng dạy - học ở những vùng thị trấn, thị xã thường cao hơn hẳn những vùng sâu,
vùng xa. Tình trạng thiếu giáo viên và giáo viên dạy sai kiến thức vẫn còn rất phổ
biến. Ở bậc THCS và PTTH lại vấp phải tình trạng quá tải cho cả thầy lẫn trò, nội
dung giảng dạy và học tập nặng nề lại thiếu thời gian thực hành và làm bài tập.
Dù vậy, GD – ĐT Long An vẫn cố gắng, chủ động thích ứng dần với cơ chế
thị trường để đưa giáo dục phát triển, số lượng HS và chất lượng giảng dạy dần thay
đổi theo chiều hướng tích cực, số lượng HS khá, giỏi tăng dần, tỷ lệ HS bỏ học, lưu
ban giảm hẳn.
Từ năm học 1993 – 1994 giáo dục phổ thông Long An đã triển khai tích cực và
có hiệu quả các chủ trương nhằm giữ vững và phát triển giáo dục, dù còn vấp phải
nhiều khó khăn nhưng thầy trò vẫn cố gắng dạy - học đúng mục đích, nội dung
chương trình sách giáo khoa, khôi phục nề nếp, kỷ cương trong nhà trường. Đầu năm
học 1995 – 1996 tỉnh thực hiện tốt ngày “Toàn dân đưa trẻ đến trường” làm số lượng
HS TH tăng lên rất đáng kể. Tuy nhiên, ở tỉnh tình trạng trẻ đi học muộn còn chiếm
tỷ lệ khá cao.
Trong thời gian đầu đổi mới này, giáo dục phổ thông tùy theo từng điều kiện
địa phương mà có sự kết hợp giữa trường cấp I, II hoặc cấp II, III.
Theo thống kê giữa năm học, từ năm 1986 – 1995 toàn tỉnh có số lượng lớp,
HS và giáo viên như sau:
Đơn vị tính : lớp/ người
Năm Lớp Học sinh Giáo viên
C I C II C III C I C II C III C I C II C III
1986 6.335 252 231.318 13.326 5.397 513
1987 6.810 284 237.215 13.423 8.002 540
1988 6.990 287 235.397 13.006 8.429 593
1989 6.990 241 221.330 9.056 8.456 582
1990 5.388 1.208 224 167.611 41.008 8.206 5.277 2.410 535
1991 5.643 1.182 190 170.673 40.997 6.277 5.630 2.294 454
1992 5.768 1.234 184 173.498 41.717 6.880 5.367 2.131 509
1993 5.711 1.295 205 171.782 45.697 7.877 5.238 2.284 454
1994 5.710 1.373 242 172.493 51.480 9.396 5.413 2.365 465
1995 2.417 1.648 285 168.782 67.162 12.774 5.393 2.650 489
Nguồn : Cục thống kê Long An.
Tính đến năm 1995, toàn tỉnh Long An có 316 trường phổ thông các cấp, tăng
89 trường so với năm 1986 (227 trường). Trong đó có 197 trường TH; 54 trường
THCS; 37 trường PTCS cấp I, II ; 26 trường trung học cấp II, III và 02 trường PTTH.
Cũng lấy mốc năm 1995, ở cấp I có 5.393 giáo viên/168.782 HS/2.417 lớp.
Thời kỳ này còn tồn tại nhiều loại hình trường, vấn đề tách nhập trường còn chồng
chéo, tình trạng thiếu giáo viên kéo dài, giáo viên chưa đạt chuẩn cao.
Do tình trạng thiếu giáo viên nên ngành Giáo dục phải điều động giáo viên
dạy thêm lớp, thêm giờ. Tuy có thể đáp ứng được nhu cầu trước mắt nhưng chất
lượng giảng dạy bị hạn chế.
Qua số liệu thống kê trên cho thấy số lượng HS TH ngày càng giảm, còn số
lượng HS THCS và PTTH tăng lên, đó cũng là một điều đáng mừng, thể hiện được
bước đầu thành công của nền GD – ĐT tỉnh nhà trong cuộc vận động HS đúng tuổi
đến trường.
Số lượng trường học ở các huyện (thị) liên tục có sự thay đổi theo chiều hướng
đi lên.
Đơn vị tính: trường
Huyện, thị 1990 1991 1992 1993 1994 1995
TXTA 24 22 18 21 22 22
Vĩnh Hưng 19 19 26 21 21 17
Mộc Hóa 15 15 14 14 16 15
Tân Thạnh 18 11 13 13 15 18
14 14 14 13 13 10 Thạnh Hóa
18 14 14 12 13 11 Đức Huệ
40 37 34 24 34 34 Đức Hòa
32 32 31 29 23 23 Bến Lức
32 32 31 27 28 28 Thủ Thừa
19 21 19 18 20 20 Tân Trụ
25 25 24 21 23 22 Châu Thành
29 30 29 27 29 29 Cần Đước
28 29 28 27 26 26 Cần Giuộc
Nguồn : Cục thống kê Long An.
Đặc biệt ở những vùng ĐTM, là vùng quanh năm ngập úng, nhưng vẫn duy trì
được tốt trường lớp, vẫn cho con em tới trường dù hoàn cảnh còn rất khó khăn. Đồng
thời cũng đã thể hiện được các cấp lãnh đạo của tỉnh đã rất quan tâm đến sự phát triển
của giáo dục tỉnh nhà.
2.2.2.3. Giáo dục trung học chuyên nghiệp và dạy nghề
Sau một thời gian củng cố và phát triển đất nước, để tạo nguồn nhân lực cho
GD – ĐT tỉnh nhà, những trường Sư phạm MN, THSP, CĐSP và Cán bộ quản lý
đóng vai trò chủ chốt.
Được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở GD – ĐT, các
cơ quan hữu quan mà các trường luôn cố gắng hoàn thành chỉ tiêu đào tạo do Sở GD
– ĐT đưa ra.
Trong thời gian này, số lượng giáo viên tương đối trẻ nhưng lại có nhiều kinh
nghiệm trong công tác giáo dục và quản lý.
Trong các trường Sư phạm, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức được
xem là một nhiệm vụ rất quan trọng. Trong mỗi đầu năm học các trường đều tổ chức
học tập nghị quyết của Đảng, tổ chức triển khai những chỉ thị của cấp trên…
Trong năm học 1989 – 1990, kết quả xếp loại văn hóa và đạo đức của SV
trường THSP như sau:
Đơn vị tính: %
Hệ Văn hóa Đạo đức
Khá Trung bình Yếu Khá Trung bình Yếu Tốt
82,8 5,8 55,8 7 0 37,2 9 + 3 11,4
75 1,3 56,1 1,3 0,4 42,2 12 + 2 23,7
[90, tr.4-5]
Cũng trong năm học này trường đã đào tạo 534 giáo sinh, trong đó hệ 9
+ 3 có 88 giáo sinh và hệ 12 + 2 có 448 giáo sinh. Còn về công tác bồi dưỡng, trong
năm học do yêu cầu cấp bách của phổ thông, nhà trường đã tiến hành bồi dưỡng 04
lớp giáo viên dạy cấp I với tổng số học viên là 173 phân bố ở các huyện, xã…
Cùng với trường THSP, trường CĐSP cũng luôn hoàn thành những kế hoạch
cũng như những chỉ tiêu mà Sở GD – ĐT giao cho. Trong năm học 1993 – 1994, kết
quả học tập của SV tương đối tốt, sang năm học 1994 – 1995 trường còn
cải tiến chương trình đào tạo của lớp riêng ĐTM hệ 9 + 3 chuyển thành hệ 9+ 2 nhằm
đáp ứng yêu cầu sử dụng và phù hợp với yêu cầu hiện có. Tuy nhiên số lượng giáo
sinh vào các trường sư phạm giảm hẳn, công tác tuyển sinh gặp nhiều khó khăn, mãi
đến những năm cuối, số lượng giáo sinh tăng dần nhưng chất lượng vẫn còn thấp.
Trường đã triển khai BDTX chu kỳ 1992 – 1996, đã nâng cao trình độ giáo viên, tác
động tích cực đến chất lượng giảng dạy ở MN và phổ thông.
Về dạy nghề, Trung tâm KTTH – HN – DN Long An được thành lập năm 1987
đã nổ lực vượt qua những khó khăn lớn về thiếu giáo viên, CSVC để tham gia việc
đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh. Dạy nghề cho HS phổ thông là một nhiệm vụ của
Trung tâm.
Sau 10 năm hoạt động, Trung tâm đã đạt được những thành quả như
sau:
Năm học Số HS HS tốt nghiệp Xếp loại
Giỏi Khá Trung bình
110 1987 – 88
446 1988 – 89
456 166 2 26 128 1989 – 90
845 367 14 145 208 1990 – 91
856 308 25 155 128 1991 – 92
484 342 44 157 141 1992 – 93
658 631 59 378 194 1993 – 94
326 285 55 151 79 1994 – 95
612 203 1995 - 96 1.426 1.077 262
[89, tr.5].
Bên cạnh đó việc dạy nghề cho thanh niên ngoài xã hội cũng đạt được những
kết quả đáng kể với các nghề : may, sửa chữa ô tô, sửa chữa xe gắn máy, đánh máy
chữ …
Nắm bắt được nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội theo nghị quyết của Đảng, kể
từ năm học 1994 – 1995 Trung tâm đã bắt đầu chiêu sinh hệ Trung học nghề trong
toàn tỉnh, vừa dạy văn hóa vừa dạy nghề cho HS. Từ năm 1991 chương trình dạy
nghề phổ thông được triển khai tại trường phổ thông và tại các trung tâm dạy nghề,
các trung tâm KT – HN – DN được chấn chỉnh, mở rộng, nhưng trang thiết bị v à
giáo viên vẫn thiếu trầm trọng. Các nghề cắt may, thêu, điện, nấu ăn được các trường
đưa vào giảng dạy. Đến năm học 1995 – 1996 việc dạy nghề phổ thông được tổ chức
rộng rãi trong các trường THCS và PTTH, do Bộ GD ban hành quyết định khuyến
khích HS học nghề phổ thông bằng cách cộng thêm điểm trong kỳ thi phổ thông
THCS và PTTH.
Trường Trung học Y tế Long An dù còn nhiều khó khăn nhưng vẫn cố gắng nổ
lực để hoàn thành những chỉ tiêu mà tỉnh giao cho trong việc đào tạo nguồn nhân lực
đang rất thiếu của tỉnh nhà. Trong giai đoạn đầu đổi mới cán bộ giảng dạy chủ yếu là
thỉnh giảng, chiêu sinh khó khăn, tình hình an ninh trong khu vực rất phức tạp. Dần
dần lực lượng CBGV thật sự hoàn thiện và vững mạnh, nhiều phong trào hội thi giáo
viên giỏi, HS giỏi được tổ chức đều đặn, chất lượng đào tạo được nâng lên rõ rệt.
2.2.2.4. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
GD – ĐT Long An trong thời gian này cũng nằm trong tình trạng chung của
GD – ĐT của vùng ĐBSCL. Tình trạng thiếu giáo viên vẫn còn kéo dài, đội ngũ
không đồng bộ, tỷ lệ đạt chuẩn chưa cao, tỷ lệ giáo viên trên chuẩn càng hiếm. Trong
ngành MN thiếu hụt nhiều là giáo viên nhà trẻ, phần lớn giáo viên chỉ được đào tạo
cấp tốc 2 – 3 tháng, thậm chí có người chưa qua trường lớp nào cả. Đội ngũ giáo viên
TH cũng thiếu trầm trọng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa.
Để khắc phục tình trạng thiếu giáo viên, ngành GD – ĐT đã đưa ra biện pháp
vận động giáo viên dạy thêm lớp, tăng giờ... tuy nhiên một hệ quả tất yếu là chất
lượng giảng dạy bị hạn chế rất nhiều.
Để khắc phục tình trạng giáo viên chưa đạt chuẩn, ngành GD – ĐT Long An đã
tiến hành chuẩn hóa, tuy rất cố gắng nhưng tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn vẫn còn thấp,
đặc biệt giáo viên TH dưới chuẩn còn rất nhiều, phần lớn trình độ của giáo viên TH là
9 + 1, 9 + 2 , 9 + 3. Do số lượng giáo viên thiếu nghiêm trọng nên ngay cả những
người không đủ tiêu chuẩn vẫn được đào tạo, bồi dưỡng hoặc tuyển thẳng vào làm
giáo viên. Chính vì chuẩn tuyển đầu vào thấp nên chất lượng đầu ra không cao.
Trong khi tình trạng thiếu hụt giáo viên chưa khắc phục được thì số HS tăng
quá nhanh càng làm cho tình trạng này ngày càng trầm trọng hơn.
Bên cạnh đó, một nguyên nhân được xem là rất quan trọng dẫn đến việc thiếu
giáo viên đó là thiếu chế độ chính sách đối với người làm công tác giáo dục, thu nhập
từ lương giáo viên rất thấp, không đủ cho mức sống tối thiểu, hơn nữa phần lớn giáo
viên sống bằng lương vì dù có dạy tăng giờ họ vẫn không được thêm tiền mà lại
không có thời gian làm kinh tế phụ, do đó cuộc sống của họ và gia đình ngày càng
khó khăn hơn. Chính vấn đề này cũng làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng giảng dạy,
nhất là ở những vùng sâu, vùng xa.
Chính vì không có chính sách thu hút nhân tài cũng như chế độ ưu đãi đối với
giáo viên vùng sâu, vùng xa cho nên ở những vùng này giáo viên luôn bị thiếu ở các
cấp. Rất nhiều giáo viên được đào tạo nhưng không theo được nghề, phải bỏ ngang
để lo tìm đường mưu sinh, cụ thể: năm học 1995 – 1996 trường CĐSP đào tạo cho ra
trường 200 giáo viên TH, thu nhận và đào tạo tiếp 400 SV, theo dự kiến số lượng
giáo viên này sẽ đáp ứng đủ yêu cầu, nhưng năm học 1994 – 1995 có 150 giáo viên
bỏ ngang và gần 100 giáo viên xin thôi việc cho nên cuối cùng dù cố gắng vẫn thiếu
170 giáo viên TH. Ngoài ra còn có tình trạng khá phổ biến là là giáo viên giỏi, giáo
viên ngoại ngữ chuyển sang làm nghề khác hoặc tăng cường dạy thêm làm ảnh hưởng
đến chất lượng giảng dạy, gây nên hiện tượng tiêu cực trong dạy - học.
Ở lĩnh vực dạy nghề vấn đề nan giải đặc ra cho các cấp chính quyền là tình
trạng thiếu giáo viên và yếu kém về chất lượng. Nguyên nhân chủ yếu là do cuộc
sống khó khăn và bị khống chế bỡi biên chế. Hầu như giáo viên không có điều kiện
cũng như không được tạo điều kiện để đi học nâng cao tay nghề, kiến thức. Cơ sở đào
tạo nghề còn quá ít.
Trong thời kỳ này còn tồn tại nhiều loại hình trường, vấn đề tách - nhập chồng
chéo khiến việc phân cấp quản lý rất phức tạp. Các trường TH, THCS, PTTH có
nhiều phân hiệu trong khi Ban giám hiệu lại thiếu. Chính vì vậy mà điều kiện làm
việc của cán bộ quản lý giáo dục từ cấp cơ sở đến cấp phòng, sở đều nặng nề, quá tải,
các cế độ chính sách, đãi ngộ còn bất hợp lý. Các cấp sở, phòng, trường đều chịu sự
quản lý chồng chéo của nhiều cơ quan, đồng thời phải đảm trách nhiều công việc nên
quản lý chất lượng kém. Trong giai đoạn này việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản
lý , giáo viên theo tiêu chuẩn và quy định của ngành gặp nhiều khó khăn.
2.2.2.5. Xây dựng cơ sở vật chất
Trong thời gian đầu đổi mới này ở ĐBSCL nói chung và ở Long An nói riêng
CSVC cho các trường học còn thiếu thốn rất nhiều đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa,
phần lớn trường lớp được làm bằng tre lá tạm bợ, có trường không thể học được vào
mùa mưa vì mái dột hoặc bị tốc mái. Mạng lưới nhà trẻ, mẫu giáo rất mỏng, tốc độ
phát triển chậm, phòng ốc phần lớn không đạt chuẩn, chật hẹp, ẩm thấp, do đó số
lượng các cháu ở mỗi lớp học rất đông, vượt qua giới hạn cho phép rất nhiều (60 cháu / 30 m2 ), trang thiết bị dạy và học không có, đồ chơi rất ít thậm chí không có, vệ sinh
cũng không đảm bảo.
Tuy nhiên từ năm học 1993 – 1994 trở đi ngành MN đã có nhiều chuyển biến
tích cực, hệ thống trường lớp được sắp xếp lại, các trường được quan tâm trang bị
CSVC để phục vụ cho nhu cầu dạy - học. Các hình thức trường lớp cũng được đa
dạng hóa trở nên phong phú hơn làm cho số lượng cũng như chất lượng của các
trường MN tăng.
Còn ở TH các lớp học phần lớn ngăn cách với nhau bằng những phên nứa tạm
bợ, nền đất ẩm thấp, sân trường lầy lội trơn trợt vào mùa mưa, hơn nữa trường lại ở
sát khu vực dân cư, không có tường rào nên rất ồn ào, có khi trâu bò đi luôn tuồn kêu
rống ầm ĩ trên sân trường.
Ở bậc THCS mặc dù được tập trung trang bị nhiều hơn ở bậc TH nhưng đa số
phòng ốc vẫn làm bằng tre lá. Trường PTTH thì có kiên cố hơn vì số lượng trường
PTTH ở mỗi huyện không nhiều. Dù vậy, ở các trường PTTH đa số vẫn là phòng cấp
bốn.
Ngoài phòng ốc ra, các trang thiết bị phục vụ cho việc dạy - học cũng rất thiếu
thốn, không có sân chơi, bãi tập, đồ dùng dạy học không có, phòng thí nghiệm cho
các môn học vật lý, hóa học, sinh học cũng rất hiếm, hơn nữa hóa chất cũng như các
dụng cụ thí nghiệm rất nghèo nàn, thư viện thiếu rất nhiều, sách không đáp ứng được
nhu cầu…Đa số các trường TH và THCS không có nhà vệ sinh, nếu có cũng rất sơ
sài và thiếu nước sạch.
Do thiếu thốn về mọi mặt như vậy nên tình trạng học 03 ca luôn tiếp diễn và là
nỗi bận tâm nhức nhối cho các ngành, các cấp. Năm học 1994 – 1995 số trường phổ
thông tre lá tạm bợ chiếm 38,00%, số trường học kiên cố rất ít, phần lớn những
trường học bán kiên cố, bàn học không đúng quy cách, bàn ghế hư hỏng nhiều. Năm
học học 1992 – 1993 một số trường PTTH được trang bị máy vi tính nhưng số lượng
rất ít, do đó hiệu quả sử dụng cho việc dạy - học rất thấp.
Tóm lại, trong 10 năm đầu đổi mới, bên cạnh những khó khăn về đội ngũ, GD
– ĐT Long An còn vấp phải những khó khăn thiếu thốn về CSVC và trang thiết bị
dạy - học, đặc biệt là ở vùng nông thôn, vùng ĐTM.
CSVC thiếu thốn, trang thiết bị dạy học quá ít và lạc hậu, thư viện ít, số lượng
đầu sách nghèo nàn, phần lớn là sách giáo khoa nhưng cũng không đáp ứng được nhu
cầu của HS, ngoài ra sách tham khảo hầu như không có.
2.2.2.6. Kết quả
Trong 10 năm tiến hành đổi mới, ngành GD – ĐT Long An đã đạt được những
kết quả cũng như những hạn chế sau:
Những mặt làm được
Đã sắp xếp lại mạng lưới trường lớp một cách phù hợp hơn theo hướng sử
dụng có hiệu quả cơ sở vật chất trường lớp, đội ngũ cán bộ giáo viên (CBGV), thực
hiện việc đa dạng hóa loại hình giảng dạy, hình thành cơ cấu hệ thống giáo dục mới.
6/14 huyện thị đã hoàn thành việc tách TH ra khỏi PTCS để hình thành bậc
TH riêng biệt. Ở bậc trung học, ngoài trường công lập đã hình thành hệ thống trường
bán công với 11 trường. Ở khối trường chuyên nghiệp, hình thành trường CĐSP đào
tạo nhiều hệ từ sự sáp nhập của các trường Sư phạm Mầm Non, Trung học sư phạm,
CĐSP và Cán bộ quản lý. Hình thành các Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp - Hướng
nghiệp - Dạy nghề (KTTH – HN – DN) cấp tỉnh và các huyện để mở rộng việc GD
nghề nghiệp cho HS và thanh niên ngoài xã hội.
Duy trì, ổn định và từng bước phát triển về qui mô, số lượng HS ở các ngành
học, bậc học, nhất là khối PTTH, chặn đứng được tình trạng giảm sút về mặt số
lượng. Tỷ lệ HS bỏ học ngày càng giảm dần.
Công tác phổ cập tiểu học - xóa mù chữ có những bước chuyển biến nhất định.
Đã có 113/182 xã, thị trấn và 6/14 huyện (thị) hoàn thành PCGDTH - XMC theo
chuẩn quốc gia, đó là các huyện : TXTA, Bến Lức, Tân Trụ, Đức Hòa, Cần Đước và
Châu Thành.
Hình thành mạng lưới trường lớp trọng điểm chất lượng, trường chuyên cấp
III, lớp chuyên cấp II, các lớp chọn ở các cấp nhằm đào tạo chất lượng mũi nhọn,
nhân tài.
Số HS giỏi cấp quốc gia mỗi năm có tăng lên. Năm học 1994 – 1995 có 31 HS
đạt giải toàn quốc (01 giải II, 05 giải III, 25 giải khuyến khích), tăng nhiều lần so với
những năm học trước. Chất lượng giáo dục TH tiếp tục ổn định, số lượng HS đậu vào
các trường đại học tăng lên.
Cơ sở vật chất trường lớp được tăng cường, bộ mặt nhiều trường học được đổi
mới, nhất là khu vực trường trọng điểm, khu vực vùng sâu.
Trong 05 năm đã xây dựng mới 1.268 phòng học từ cấp bốn trở lên, sửa chữa
gần 3.000 phòng học khác. Ngoài nguồn ngân sách của nhà nước là 24.089 tỷ đồng,
còn có nguồn địa phương và nhân dân đóng góp là 5.687 tỷ đồng và các nguồn khác
là 970 triệu đồng.
Các trang thiết bị như bàn ghế HS, bảng, sách giáo khoa, máy vi tính … cũng
được tăng cường, nếu so với năm học 1990 – 1991 thì cơ sở vật chất trường học đã
được cải thiện đáng kể.
Tình hình thực hiện công tác xây dựng CSVC trường học từ 1991
– 1995:
Đơn vị tính 1991 1992 1993 1994 1995
Xây mới Phòng 245 342 155 405 314
Sửa chữa Phòng 678 742 280 338 346
Ngân sách 2.192 6.224 5.833 11.825 13.509
Triệu đồng 1.350 1.147 1.200 2.670 3.045 Nhân dân
Như vậy, từ 1991 – 1995 tỉnh Long An đã xây mới 1.461 phòng học, sửa chữa
2.384 phòng với tổng số vốn là 49.706.000 đồng [102, tr.16].
Tuy nhiên so với yêu cầu, CSVC trường học còn nghèo nàn, nhiều phòng học
xây dựng bán kiên cố bị xuống cấp trầm trọng cần được xây dựng mới để thay thế.
Từng bước ổn định đội ngũ, đẩy mạnh chuẩn hóa bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.
Đã thực hiện việc đa dạng hóa loại hình đào tạo để kịp thời bổ sung giáo viên đang
thiếu, đồng thời chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán. Đẩy nhanh việc chuẩn
hóa đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. Tỷ lệ chuẩn hóa đạt được
là: cấp I : 51,9% ; cấp II : 79,4% ; cấp III : 94,2%. Kế hoạch BDTX chu kỳ 1992 –
1996 được thực hiện và dần sắp được hoàn thành.
Cuộc vận động xã hội hóa giáo dục đã xuất hiện những nhân tố mới, huy động
được các lực lượng xã hội tham gia xây dựng, phát triển sự nghiệp giáo dục địa
phương. Rõ nhất là kết quả trên các mặt : vận động HS, hạn chế tình trạng HS bỏ học,
đóng góp xây dựng CSVC trường lớp, khuyến khích HS giỏi, HS nghèo hiếu học,
giáo viên giỏi… qua việc xây dựng quỷ khuyến học, quỷ học bổng, quỷ bảo trợ tài
năng trẻ …
Những mặt hạn chế
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, công tác GD – ĐT còn vấp phải những
khó khăn, tồn tại :
- Công tác PCGDTH – XMC ở các huyện ĐTM và các xã vùng sâu thuộc Cần
Giuộc, Thủ Thừa gặp nhiều khó khăn, kết quả thực hiện không đạt được yêu cầu.
Luật phổ cập TH tuy đã được ban hành song hiệu lực thực hiện còn thấp. công tác
PCGDTH – XMC chưa trở thành phong trào quần chúng rộng rãi, Tình hình HS bỏ
học ở khu vực này còn cao.
- Chưa khắc phục được tình trạng thiếu giáo viên, nhất là giáo viên cấp I, giáo
viên ngoại ngữ (tiếng Anh), giáo viên các bộ môn kỹ thuật, nhạc, họa…Tuy có điều
chỉnh, nhưng đội ngũ giáo viên cấp II, III vẫn chưa đồng bộ. Đời sống giáo viên còn
gặp nhiều khó khăn, nhất là ở khu vực vùng sâu, vùng xa. Một điều rất dễ dàng nhận
ra là giáo viên rất ngại về vùng sâu, vùng xa vì điều kiện đi lại, CSVC trường lớp
cũng như đời sống còn quá nhiều khó khăn, do đó vùng sâu, vùng xa thiếu giáo viên
trầm trọng hơn những vùng khác trong tỉnh, có giáo viên được phân công nhận nhiệm
sở nhưng không thể bám trụ được vì lương giáo viên thấp mà điều kiện sống quá khó
khăn, hơn nữa sự không nhiệt tình trong việc đưa con em đến trường của các gia đình
nông dân đã khiến cho giáo viên đã nãn lòng càng nãn lòng hơn.
Chính tình trạng thiếu giáo viên đã ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và chất
lượng đào tạo. Đồng thời hiệu quả quản lý thấp do trình độ của cán bộ quản lý còn
hạn chế lại phải đảm nhận một lúc nhiều việc.
- Chất lượng giáo dục ở cấp I, ở các trường chuyên, lớp chuyên, lớp chọn,
trường trọng điểm được ổn định và có mặt nâng lên. Tuy nhiên chất lượng ở các
trường lớp đại trà chưa có chuyển biến rõ rệt.
Đạo đức ở một bộ phận HS, nhất là diện HS ở các trường bán công, HS yếu
kém ở một số trường công thuộc thị xã, thị trấn có biểu hiện chưa tốt, cần được nhà
trường, gia đình và xã hội quan tâm hơn nữa.
- Cơ sở dạy nghề còn quá mỏng, đội ngũ giáo viên dạy nghề thiếu cả về số
lượng lẫn chất lượng.
- Tốc độ xây dựng trường lớp những năm cuối của 10 năm đầu đổi mới có tăng
đáng kể, song do qui mô, số lượng trường lớp trong tỉnh quá lớn nên vẫn còn tình
trạng nhiều phòng học tre lá tạm bợ hoặc xây dựng bán kiên cố, vì thời gian quá lâu
nên đã xuống cấp trầm trọng cần được xây dựng lại.
Trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học còn nhiều thiếu thốn, không đồng
bộ, lạc hậu… nhất là đối với thiết bị phục vụ việc dạy nghề. Việc phát triển các loại
hình đào tạo nghề còn hạn chế.
***
*****
Với những thành quả và hạn chế về GD – ĐT Long An nêu trên, đã tạo cho
GD – ĐT Long An những thuận lợi và khó khăn nhất định trên con đường phát triển.
Trong 10 năm đầu tiến hành đổi mới (1986 – 1996), cùng với đổi mới về kinh
tế, GD – ĐT Long An cũng vừa đổi mới vừa học hỏi nhằm tìm ra giải pháp tối ưu để
đưa nền giáo dục tỉnh nhà phát triển. Sau thời gian đầu còn nhiều thiếu sót, từ những
năm học 1990 – 1991 trở đi GD – ĐT Long An trên các ngành học đều có những thay
đổi theo hướng tích cực : công tác PCGDTH – XMC đạt được kết quả rất khả quan,
cả 04 ngành học đều được quan tâm đầu tư về CSVC, làm cho số lượng trường, lớp
lẫn chất lượng dạy - học được nâng cao. Ở giáo dục MN hệ thống trường lớp được
sắp xếp lại, chất lượng nuôi dạy trẻ cũng thay đổi, tỷ lệ trẻ bị bệnh và suy dinh dưỡng
giảm đã tạo được lòng tin nơi các bậc phụ huynh, tuy nhiên tỷ lệ trẻ bệnh và suy dinh
dưỡng ở tỉnh vẫn còn ở mức cao, là mối lo ngại lớn cho các cấp lãnh đạo.
Ở bậc phổ thông, do được sự đầu tư về CSVC nên qui mô trường lớp có sự
thay đổi, chất lượng dạy - học được nâng cao, chất lượng dạy - học ở thị xã, thị trấn
thường cao hơn hẳn so với vùng nông thôn. Giáo dục nghề nghiệp cũng được quan
tâm đầu tư và đã đáp ứng phần nào yêu cầu nguồn nhân lực cho tỉnh nhà, tuy các
trường cố gắng hoàn thành chỉ tiêu được giao nhưng vẫn chưa đào tạo đủ nguồn nhân
lực để đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của tỉnh nhà. Đội ngũ GV được quan tâm chuẩn
hóa nâng cao trình độ, nhưng tình trạng thiếu GV và GV dưới chuẩn trong thời gian
này còn nhiều. Nội dung học tập chưa phù hợp , quá tải cho cả thầy lẫn trò ….CSVC
dù đã được quan tâm đầu tư vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu thực tế, phòng
học tạm bợ vẫn còn tồn tại.
Để khắc phục những hạn chế trên, GD – ĐT Long An trong thời gian này cần
phải :
- Đẩy mạnh đầu tư CSVC, trang thiết bị đồ dùng dạy - học cho các trường, đặc
biệt là các trường ở vùng sâu, vùng nông thôn.
- Cần phải quan tâm, có chính sách ưu đãi thích hợp cho người làm công tác
giáo dục.
- Phải quan tâm nâng cao đầu vào ở các trường sư phạm, để đào tạo được
những GV thật sự có năng lực, có trình độ đáp ứng được yêu cầu hiện tại của đất
nước.
- Phải tiến hành chuẩn hóa, cập nhật kiến thức cho đội ngũ GV, nâng cao trình
độ lý luận chính trị để có tư tưởng vững vàng làm tốt công tác giáo dục.
- Cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa Nhà trường – Gia đình – Xã hội để chất
lượng giáo dục được phát huy cao.
CHƯƠNG 3 : GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO LONG AN TRONG
THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA (1996 –
2006)
3.1. BỐI CẢNH TÌNH HÌNH
Đại Hội lần thứ VIII của Đảng (1996) đã quyết định đưa nước ta vào một thời
kỳ mới : thời kỳ Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Đảng ta đã chọn GD –
ĐT, khoa học và công nghệ làm “khâu đột phá” của thời kỳ mới, phát triển giáo dục
phải đi trước một bước so với phát triển kinh tế.
Chủ trương xã hội hóa giáo dục được đề ra từ NQTW 4 (khóa VII), tiếp tục
được khẳng định ở NQTW 2 (khóa VIII) và được cụ thể hóa bằng QĐ90/CP của
chính phủ về xã hội hóa trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội. Các văn
kiện trên là cơ sở pháp lý quan trọng để ngành giáo dục tổ chức triển khai, quán triệt
trong ngành và ngoài xã hội để tạo nên sự chuyển biến về nhận thức, hoạt động của
các ngành, các cấp, các lực lượng xã hội tham gia xây dựng, phát triển sự nghiệp giáo
dục.
Xác định chủ trương xã hội hóa giáo dục là con đường để phát triển giáo dục
trong tình hình nhu cầu học tập trong xã hội ngày càng tăng trong khi điều kiện để
đáp ứng cho nhu cầu đó có hạn, nên từ rất sớm ngành GD – ĐT trong tỉnh đã tập
trung triển khai, quán triệt chủ trương của Đảng đến các cấp quản lý trong ngành, đến
đội ngũ cán bộ, giáo viên các cấp. Hầu hết các huyện, xã đều triển khai, quán triệt
chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng, xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện
qua cơ chế Đại hội giáo dục các cấp.
3.2. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
- Thực hiện quyết định của Đại Hội Đảng lần thứ VIII, tiếp tục quán triệt
NQTW 4, NQ của Tỉnh ủy, tạo chuyển biến mới về nhận thức và hoạt động trong nội
bộ ngành và ngoài xã hội, nhằm đưa sự nghiệp GD – ĐT trong tỉnh tiến lên một bước
chuyển biến mới. Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục mới theo nghị định
90/CP của chính phủ bao gồm giáo dục MN, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên
nghiệp - dạy nghề, GDTX. Mở rộng việc đa dạng hóa các loại hình trường lớp ở các
ngành học, cấp học, tiếp tục phát triển về qui mô, số lượng một cách hợp lý trên địa
bàn tỉnh, huyện, xã.
Hoàn thành việc tách trường phổ thông cơ sở thành trường TH và trường
THCS vào năm 2000. Từng bước tách các trường cấp II – III có quy mô lớn thành
trường THCS và trường PTTH.
- Đẩy mạnh công tác PCGDTH – XMC trên cơ sở phát động phong trào quần
chúng rộng rãi. Phấn đấu hoàn thành PCGDTH – XMC ở phạm vi toàn tỉnh vào trước
năm 2000. Từng bước phổ cập cấp II ở khu vực thị xã, thị trấn có điều kiện.
- Xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục vùng sâu.
- Tạo chuyển biến mới về chất lượng giáo dục, chú trọng giáo dục đạo đức,
giáo dục nghề nghiệp cho HS. Hoàn chỉnh hệ thống trường chuyên, lớp chuyên, lớp
chọn, trường trọng điểm nhằm đào tạo nhân tài. Mở rộng việc dạy ngoại ngữ, tin học
phân ban theo chỉ đạo của Bộ.
Kiện toàn, củng cố hệ thống trường lớp công lập thuộc các ngành, cấp học, chú
trọng đầu tư xây dựng các trung tâm dạy nghề, trường dạy nghề của tỉnh để đủ sức
đào tạo cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho công
cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa của tỉnh. Củng cố, xây dựng các trung tâm
GDTX cấp tỉnh, huyện nhằm đáp ứng yêu cầu học tập của cán bộ và nhân dân, thực
hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí.
Phát triển hệ thống trường lớp dân lập, tư thục ở MN; trường lớp bán công, dân
lập ở phổ thông, trường tư ở PTTH; các cơ sở dạy nghề tư nhân ở những nơi có nhu
cầu và điều kiện.
Khắc phục tiêu cực trong dạy - học thêm. Kịp thời ngăn chặn các hiện tượng sử
dụng chất kích thích, gây nghiện, ma túy, phim ảnh, sách báo đồi trụy xâm nhập vào
nhà trường. Thục hiện giáo dục toàn diện trong các trường học, hết sức coi trọng giáo
dục chính trị, đạo đức, các môn khoa học tự nhiên – nhân văn, nhất là tiếng Việt, lịch
sử, địa lý, giáo dục công dân. Rèn luyện khả năng tư duy, sáng tạo và năng lực thực
hành cho HS.
- Khắc phục cơ bản tình trạng thiếu giáo viên. Đầu tư nâng cao chất lượng đào
tạo của trường Sư phạm. Có biện pháp tích cực chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
nhằm ổn định đội ngũ giáo viên. Đẩy mạnh tốc độ chuẩn hóa, nhất là đối với giáo
viên TH. Đề xuất chế độ thỏa đáng đối với giáo viên vùng sâu.
Kiện toàn bộ máy quản lý, giải quyết tình trạng thiếu giáo viên TH, giáo viên
ngoại ngữ. Từng bước đáp ứng nhu cầu giáo viên dạy nhạc - họa, tin học, kỹ thuật,
giáo dục công dân ở các trường học.
Hoàn thành kế hoạch bồi dưỡng giáo viên THCS, tiếp tục thực hiện kế hoạch
bồi dưỡng giáo viên TH và giáo viên MN. Triển khai chương trình BDTX chu kỳ
1996 – 2000 cho giáo viên các cấp.
Chú trọng phát triển Đảng trong trường học.
Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho giáo viên vùng sâu, vùng xa.
Đẩy mạnh phong trào đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật có trọng điểm và mang lại hiệu
quả. Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong xây dựng, tu
sửa trường lớp. Thu hẹp dần đến dứt điểm phòng học tre lá tạm thời, tăng cường
sách, trang thiệt bị phục vụ dạy và học. Xóa bỏ tình trạng học ngày 03 ca, xây dựng
hoàn chỉnh CSVC kỹ thuật cho trường CĐSP và trường trung học kỹ thuật.
Quy hoạch đất đai và khuôn viên trường học theo chuẩn quy định.
- Đẩy mạnh việc xã hội hóa giáo dục, nhân rộng các nhân tố mới ở phạm vi
toàn tỉnh để huy động sự đóng góp của toàn xã hội nhằm phát triển giáo dục.
- Tiếp tục cải tiến quản lý, thực hiện cải cách thủ tục hành chánh. Nâng cao
hiệu quả quản lý, chỉ đạo của các cấp. Củng cố, kiện toàn bộ máy quản lý chỉ đạo ở
cấp Sở, phòng. Hoàn thiện cơ chế quản lý sự nghiệp GD – ĐT trên cơ sở phân công,
phân cấp quản lý theo ngành. Thực hiện triệt để quản lý nhà nước đốI với GD – ĐT
trên địa bàn tỉnh.
Củng cố và tăng cường hệ thống thanh tra giáo dục các cấp, nâng cao hiệu quả
thanh tra, kiểm tra trong ngành GD – ĐT.
Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hóa, công tác thi đua khen thưởng, cải tiến
quản lý chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học trong ngành.
3.3. NHỮNG THÀNH QUẢ VÀ HẠN CHẾ
3.3.1. Giáo dục mầm non
Trong hơn 10 năm qua, giáo dục MN của tỉnh Long An đã đạt được những kết
quả khả quan, đáng khích lệ.
Năm học 1996 – 1997, 1997 – 1998 và những năm tiếp theo số lượng % các trẻ
trong độ tuổi được huy động đến trường ngày càng tăng, tuy tùy theo điều kiện của
từng huyện (thị) mà tỷ lệ tăng hoặc giảm, song việc ưu tiên phát triển trẻ 05 tuổi được
các địa phương chú ý tới. Năm học 2001 – 2002 các trường MN, MG trong tỉnh đã
tích cực triển khai thực hiện các chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ do Bộ GD - ĐT
ban hành. “Đổi mới hình thức tổ chức, chăm sóc giáo dục trẻ”, có biện pháp phòng
chống suy dinh dưỡng, nâng cao hiệu quả phổ biến, tuyên truyền về kiến thức nuôi
dạy trẻ ở cộng đồng. Hầu hết các trường MN, MG bán trú có tính khẩu phần ăn và
xây dựng thực đơn hàng ngày, hàng tuần. Qua đó chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở
nhiều trường MN, MG có những chuyển biến tích cực rõ rệt. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng
năm học 2001 – 2001 là 15,7%, giảm 2,4% so với đầu năm học; năm học 2002 –
2003 là 14,6%, giảm 23%so với đầu năm học ; còn sang năm học 2005 – 2006 tỷ lệ
trẻ suy dinh dưỡng chỉ còn 9,23%, giảm 4,4% so với đầu năm học.
Kết quả chăm sóc giáo dục trẻ 05 tuổi ở các trường lớp MG, MN cho thấy đã có
sự chuyển biến tốt về tâm lý, tri thức, khả năng để trẻ bước vào lớp 1.
Giáo dục MG ở nông thôn, vùng sâu có bước phát triển, về cơ bản trong năm
học 2001 – 2002 đã xóa xã trắng về MG.
Việc đa dạng hóa loại hình trường lớp ở khu vực thị xã, thị trấn được đẩy
mạnh. Đã thực hiện chuyển 10 trường MN công lập sang hình thức bán công, các lớp
MN tư thục, dân lập ở thị xã, thị trấn tăng rõ rệt. Số trẻ ở các trường lớp ngoài công
lập của tỉnh năm học 2001 – 2002 là 4.087 trẻ, đạt tỷ lệ 14,2% so với tổng số trẻ MN,
tăng 9,1% so với năm học trước.
Việc xây dựng hệ thống trường trọng điểm, trường đạt chuẩn nhằm nâng cao
chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ được chú trọng. Nếu trong năm học 2000 – 2001
ngành giáo dục MN có 09 trường đạt chuẩn cấp tỉnh thì năm học 2002 – 2003 con số
này tăng lên thành 19 trường. Riêng năm học 2005 – 2006 toàn tỉnh có 08
trường MN đạt chuẩn quốc gia, trong đó Tân Trụ: 03, Bến Lức : 02, Đức
Hòa : 02 và Mộc Hóa : 01.
Có thể nói trong hơn 10 năm qua, các trường MN đã từng bước thực hiện tốt
các chương trình giáo dục theo quy định và các chuyên đề trọng tâm trong công tác
chuyên môn như: nâng cao chất lượng giáo dục, dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm, nâng cao chất lượng làm quen văn học, làm quen chữ viết, đổi mới hình thức
chăm sóc, giáo dục trẻ.
Hoạt động giáo dục và chăm sóc trẻ còn được thực hiện thông qua các hoạt
động phong trào thi đua sôi nổi như các hội thi Bé kể chuyện, Bé đọc thơ, Bé làm nội
trợ giỏi, Liên hoan tiếng hát tuổi MN … Các hoạt động trên đã trở thành ngày hội của
các cháu, của giáo viên và các bậc phụ huynh HS, đồng thời có tác dụng lớn đến kết
quả tuyên truyền sâu rộng trong xã hội về giáo dục MN.
Tình hình phát triển giáo dục mầm non :
Đơ n vị tính: người
Năm học Nhà trẻ Mẫu giáo
Học sinh Giáo viên Học sinh Giáo viên
1996 - 1997 1.137 148 22.088 886
1997 - 1998 1.900 135 25.395 935
1998 - 1999 1.802 156 27.407 956
1999 - 2000 1.882 200 29.034 1.086
2000 - 2001 1.637 155 28.230 1.103
Nguồn: Số liệu giáo dục đầu năm học từ năm 1996 đến 2001
3.3.2. Giáo dục tiểu học
Trong vài năm tiếp tục tiến hành đổi mới, quy mô giáo dục TH ổn định. Cuộc
vận động “toàn dân đưa trẻ đến trường” đã được sự ủng hộ, hưởng ứng tích cực của
các địa phương, các ngành nên tỷ lệ huy động trẻ 06 tuổi đến trường ở hầu hết các
huyện đều đạt cao. Tỷ lệ chung của tỉnh là 97,7%.
Số trẻ 07 – 14 tuổi thất học, bỏ học được huy động ra lớp ngày càng nhiều, số
học sinh TH bỏ học giảm dần từ 3,6% năm học 1996 – 1997 xuống còn 3,1% năm
học 1997 – 1998. Công tác PCGDTH – XMC có chuyển biến tốt.
Tính đến tháng 4/1997 toàn tỉnh đã có 08 huyện (thị) với 149 xã (phường, thị
trấn) được công nhận đạt chuẩn quốc gia về PCGDTH – XMC. Tổng số trẻ trong độ
tuổi từ 06 – 14 là 256.708, trong đó 240.283 em đang học hoặc đã tốt nghiệp TH,
chiếm tỷ lệ 93,6%. Số trẻ ngoài trường là 16.425, chiếm tỷ lệ 6,4%. Tổng số người từ
15 – 35 là 432.534 người, trong đó có 395.456 người biết chữ, chiếm tỷ lệ 91,4%. Số
người mù chữ là 37.078, chiếm tỷ lệ 8,6%.
Mục tiêu của công tác PCGDTH – XMC của tỉnh là phấn đấu đến cuối năm
1998 toàn tỉnh sẽ hoàn thành PCGDTH – XMC. Căn cứ vào chuẩn mực quốc gia quy
định để được công nhận hoàn thành cấp tỉnh thì tỉnh phải đạt 90% trở lên số xã
(phường , thị trấn) hoàn thành PCGDTH – XMC. Để thực hiện kế hoạch này, trong
02 năm 1997, 1998 tỉnh sẽ phấn đấu đạt :
+ Năm 1997 : Công nhận thêm 14 đơn vị (xã, thị trấn), chia ra :
- Cần Giuộc : 03 (trong thời điểm này đã đạt 14/17 đơn vị).
- Đức Huệ : 03 ( 07/10).
- Thạnh Hóa : 03 (0/10).
- Vĩnh Hưng : 02 (03/10).
- Tân Hưng : (03 (01/11).
+ Năm 1998 : Công nhận thêm 09 đơn vị :
- Thạnh Hóa : 03.
- Vĩnh Hưng : 03.
- Tân Hưng : 03.
Như vậy nếu đạt được mục tiêu đề ra, thì đến cuối tháng 12/1998 toàn tỉnh sẽ
đạt 172/182. Chiếm tỷ lệ 94,5% [86, tr.10].
Với kế hoạch trên, tỉnh Long An đã hoàn thành công tác PCGDTH – XMC vào
thời điểm tháng 12/1998, được Bộ GD - ĐT về kiểm tra và ra quyết định công nhận
với kết quả:
- Số trẻ 14 tuổi tốt nghiệp TH : 25.440/ 28.686, đạt tỷ lệ : 88,68%.
- Số người 15 – 35 tuổi biết chữ : 44.242 / 444.081, đạt tỷ lệ : 94,6%.
- Số xã đạt chuẩn PCGDTH – XMC : 181/ 182 xã, chiếm tỷ lệ : 99,4% [80,
tr.4].
Trong những năm học tiếp theo, kết quả PCGDTH – XMC tiếp tục được củng
cố, nâng cao, tất cả 14/14 huyện (thị) trong tỉnh đều tiếp tục đạt chuẩn PCGDTH –
XMC.
Để đạt được những kết quả như trên, tỉnh đã củng cố lại Ban chỉ đạo PCGDTH
– XMC từ tỉnh, huyện đến xã (phường, thị trấn) đủ năng lực để hoạt động có hiệu
quả.
Chất lượng giáo dục toàn diện rất được tỉnh chú trọng, đến năm học 2000 –
2001, tất cả các trường TH đểu tổ chức dạy - học đủ 09 môn qui định, nghiêm túc
thực hiện “quy định về giảm tải nội dung học tập dành cho HS TH” theo quyết định
13/2000/QĐ – BGD & ĐT ngày 16/5/2000. Các mặt giáo dục sức khỏe, thể chất được
tăng cường. Chương trình nha học đường được thực hiện tốt. Tổ chức giáo dục thí
điểm trật tự an toàn giao thông.
Trước sự nổ lực đó chất lượng giáo dục toàn diện ở bậc TH có những chuyển
biến tích cực. Năm học 2002 – 2003 có 99/239 trường TH tổ chức dạy ngày 02 buổi
với tổng số 30.724 HS, đạt tỷ lệ 22,2%.
Phong trào đổi mới phương pháp dạy và học ở bậc TH được duy trì, phát triển
theo hướng nhẹ nhàng, tự nhiên có hiệu quả. Các hoạt động giáo dục đạo đức, truyền
thống, thể chất, thẩm mỹ được thực hiện khá tốt ở nhiều trường, nhất là ở những
trường đạt tiêu chuẩn trường tiên tiến.
Trong năm học 2002 – 2003 có thêm 10 trường TH đạt chuẩn quốc gia (năm
học 2000 – 2001 có 09 trường được công nhận), nâng tổng số trường đạt TH chuẩn
quốc gia trong tỉnh lên 28 trường ở 10/14 huyện (thị). Đến thời điểm hiện nay (2006),
toàn tỉnh đã có 37 trường TH ở 12/14 huyện (thị) đạt chuẩn quốc gia : Đức Hòa (09),
Tân Trụ (07), Bến Lức (06), Châu Thành (05), Mộc Hóa (02), Vĩnh Hưng (02),
TXTA (01), Thủ Thừa (01), Cần Đước (01), Cần Giuộc (01), Đức Huệ (01) và Tân
Hưng (01).
Có thể nói trong bao nhiêu năm cố gắng đổi mới, nền giáo dục ở bậc TH đã
phát triển khá toàn diện, đáp ứng được yêu cầu do Đảng và Nhà Nước ta đề ra.
Bên cạnh đó công tác giáo dục hòa nhập HS khuyết tật được thực hiện khá tốt.
Số HS TH phân theo huyện (Năm học 2000 – 2001) :
Đơn vị tính : học sinh
Huyện Tổng số Lớp 1 Lớp 2 Lớp 3 Lớp 4 Lớp 5
TXTA 10.875 1.977 2.255 2.088 2.201 2.334
Châu Thành 9.721 1.721 1.954 1.895 1.928 2.223
Tân Trụ 6.163 1.022 1.176 1.244 1.308 1.413
Thủ Thừa 9.726 1.794 1.884 1.851 2.035 2.158
Bến Lức 13.985 2.631 2.692 2.772 3.011 2.879
Cần Đước 16.989 3.288 3.339 3.264 3.624 3.474
Cần Giuộc 16.156 3.407 3.228 3.071 3.268 3.182
Đức Hòa 21.565 3.822 4.100 4.290 4.484 4.869
Đức Huệ 8.457 1.596 1.643 1.664 1.734 1.820
Thạnh Hóa 6.667 1.309 1.299 1.428 1.320 1.311
2.032 Tân Thạnh 11.213 2.231 2.356 2.371 2.223
Mộc Hóa 9.047 1.739 1.909 1.876 1.773 1.750
Vĩnh Hưng 5.955 1.219 1.285 1.179 1.183 1.089
Tân Hưng 5.935 1.405 1.272 1.254 1.064 940
Nguồn:Báo cáo số liệu thống kê giáo dục năm 2000 – 2001 của các huyện.
Hệ thống trường lớp được mở rộng, năm học 2005 – 2006 toàn tỉnh có 248
trường TH. Phần lớn trường TH và THCS được tách ra.
Trật tự kỷ cương, nền nếp quản lý, dạy và học ở các trường TH được thực hiện
khá tốt. Phong trào đổi mới phương pháp dạy - học được tiếp tục duy trì và phát triển.
Năm học 2000 – 2001 tỷ lệ HS khá giỏi đạt 67,4%, tỷ lệ HS yếu còn 3,5%, HS
giỏi cấp tỉnh có 305 em. Trong năm học 2002 – 2003 toàn tỉnh có 140 HS giỏi cấp
tỉnh. Nhiều huyện có hiệu quả giáo dục TH khá như : Đức Hòa (82,09%), Tân Trụ
(85,06%), Châu Thành (86,6%), TXTA (90%), Thủ Thừa (90,9%), Bến Lức (97,4%)
[83, tr.5].
Từ cuối năm học 2001 – 2002, hưởng ứng phong trào thay sách cấp I và cấp II,
tỉnh Long An đã kịp thời đưa giáo viên cốt cán đi tập huấn và phổ biến cho giáo viên
đứng lớp, đầu năm học 2006 – 2007 đã hoàn thành xong việc thay sách lới 5, hoàn
thành chương trình thay sách cấp I.
Trong năm học 2005 – 2006 kết quả đánh giá chương trình học tập của HS TH
như sau:
Tỷ lệ %
Khối Toán Tiếng Việt
Lớp GiỏI Khá Trung Bình Yếu Giỏi Khá Trung Bình Yếu
1 68,69 23,33 5,28 1,7 59,7 29,57 8,24 2,49
2 58,92 33,4 6,89 0,79 47,51 37,2 13,87 1,42
3 47,36 38,22 13,54 0,88 47,1 38,77 13,41 0,72
4 40,4 41,42 16,88 1,3 40,71 44,05 14,64 0,6
Như vậy, ở các khối lớp từ 1 – 4, tỷ lệ HS khá giỏi môn Toán và Tiếng việt
chiếm khoảng 80%, thể hiện được việc thay sách đã đáp ứng vừa sức cho các em HS
[88, tr.15].
3.3.3. Giáo dục trung học
Trong 10 năm qua quy mô HS phổ thông của tỉnh Long An tăng tương đối
nhanh. Các trường học thực hiện nghiêm túc chủ trương không tổ chức lớp chọn, lớp
chuyên ở THCS và PTTH.
Nhằm thực hiện việc phổ cập bậc THCS, nhiều địa phương đã có biện pháp
nâng cao chất lượng ở cấp II để hạn chế tỷ lệ HS lưu ban, bỏ học. Kỷ cương, nền nếp
của việc dạy - học ở các trường THCS và PTTH được tiếp tục củng cố, xây dựng.
Các hoạt động chính trị, đạo đức, pháp luật, giáo dục thể chất, phòng chống tệ nạn xã
hội, ma túy, giáo dục về an toàn giao thông được tăng cường. Tại các trường đã tổ
chức dạy đủ các môn học, đúng theo phân phối chương trình.
Hiện nay 100% trường THCS và PTTH trong tỉnh đều có dạy ngoại ngữ (tiếng
Anh), việc giảng dạy môn tin học cũng được chú trọng và mở rộng. Trong năm học
2005 – 2006, toàn tỉnh có 3/5 số trường PTTH dạy tin học chính khóa và 1/5 số
trường dạy tin học ngoại khóa, 28/120 trường THCS giảng dạy chương trình tin học
cho HS lớp 8, 9 [88, tr.6].
Phong trào đổi mới phương pháp dạy - học theo hướng phát huy tính tích cực,
năng động , sáng tạo, năng lực tự học của HS được tiếp tục đẩy mạnh, nhất là ở
THCS. Nhiều trường học có chú ý tăng cường sử dụng thiết bị dạy học và thực hiện
giảng dạy 100% các tiết thí nghiệm thực hành của các môn học theo đúng quy định
của Bộ.
Việc tổ chức phụ đạo HS yếu kém, bồi dưỡng HS khá giỏi được chú trọng,
nhất là đối với các lớp cuối cấp. Việc dạy thêm, học thêm được các trường học quản
lý tốt hơn.
Phong trào HS giỏi được chú trọng ở cả THCS và PTTH, khá toàn diện ở các
bộ môn văn hóa và các lĩnh vực văn nghệ, thể dục thể thao. Năm học 2002 – 2003
tỉnh có 24 HS lớp 12 đạt HS giỏi cấp toàn quốc (01 giải II, 07 giải III và 16 giải
khuyến khích). So với năm học 2001 – 2002 số HS giỏi toàn quốc tăng lên 05 giải.
Trường có nhiều HS đạt giải là PTTH Lê Quý Đôn, với 14 giải. Ngoài ra còn có
nhiều HS trong tỉnh đạt giải trong các kỳ thi quốc gia ở các lĩnh vực : Giải toán trên
máy tính Casio (06 giải), tin học (01 giải) …[85, tr.4].
Năm học 2005 – 2006 ở cấp quốc gia và khu vực có 22 HS giỏi về các bộ môn
văn hóa và 06 HS giỏi giải toán trên máy tính Casio cấp toàn quốc, 11 huy chương
vàng các loại ở các kỳ thi chọn lọc HS giỏi các tỉnh khu vực ĐBSCL.
Ở cấp tỉnh, nhiều HS được công nhận giỏi cấp tỉnh về các môn văn hóa, thực
hành Lý – Hóa – Sinh …[88, tr.6].
Việc tổ chức cho HS tham gia học và thi nghề cũng được tỉnh Long An đẩy
mạnh. Năm học 2002 – 2003 có 21.580 HS tham gia học và thi nghề theo đề chung
của toàn tỉnh, tỷ lệ HS bỏ học giữa chùng giảm đáng kể trong thời gian qua, công tác
phổ cập giáo dục THCS được quan tâm nhiều hơn, hiện toàn tỉnh có 162/188 xã
(phường, thị trấn) và 9/14 huyện (thị) đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS.
Đến nay, quy mô bậc PTTH tiếp tục tăng, song về tốc độ ở THCS có phần
chậm lại, có lẽ vì chủ trương kế hoạch hóa gia đình được người dân Long An chấp
hành khá tốt.
Năm học 1998 – 1999 toàn tỉnh có 83.348 HS THCS và 23.972 HS PTTH. Số
học sinh các loại hình ngoài công lập ở THCS không gia tăng do xu hướng một số địa
phương muốn công lập hóa để thực hiện phổ cập ngoài cấp II, trong khi đó ở PTTH,
quy mô bán công, dân lập tiếp tục gia tăng (8.437 HS, chiếm tỷ lệ 33,6% so với tổng
số HS PTTH) [80, tr.5].
Số HS THCS và PTTH phân theo huyện (Năm học 2000 – 2001)
Đơn vị tính : Học sinh
Huyện, thị Tổng số Lớp Lớp Lớp Lớp Lớp Lớp Lớp
6 7 8 9 10 11 12
TXTA 12.144 2.263 2.041 1.679 1.423 4.738 1.587 1.417
Châu Thành 9.962 2.137 1.727 1.668 1.412 3.018 1.054 865
Tân Trụ 6.237 1.364 1.190 978 895 1.810 589 525
Thủ Thừa 8.400 1.940 1.667 1.323 1.224 2.246 754 602
Bến Lức 12.447 2.772 2.307 1.781 1.539 4.048 1.367 1.133
Cần Đước 13.635 3.219 2.569 2.049 1.706 4.092 1.284 1.170
Cần Giuộc 11.510 3.020 2.252 1.833 1.539 2.866 876 782
Đức Hòa 18.830 4.527 4.095 3.117 2.614 4.477 1.374 1.057
Đức Huệ 5.922 1.555 1.307 987 855 1.218 379 285
Thạnh Hóa 4.065 1.143 885 649 598 790 253 170
Tân Thạnh 6.540 1.866 1.518 1.050 810 1.296 443 333
Mộc Hóa 5.336 1.672 1.164 770 633 1.097 360 208
Vĩnh Hưng 3.361 989 728 532 290 822 217 259
Tân Hưng 2.379 727 646 402 286 273 93 0
Nguồn: Báo cáo số liệu thống kê giáo dục năm 2000– 2001 của các huyện.
Bên cạnh đó, để tạo sự thuận lợi cho việc dạy - học, hệ thống trường được tiếp
tục sắp xếp lại cho phù hợp, tách một số trường cấp II, III có quy mô lớn thành
trường THCS và PTTH, phát triển theo hướng đa dạng hóa.
Năm học 1998 – 1999 số trường bán công , dân lập chiếm gần 50% so với tổng
số trường cấp II, III (10/21 trường). Trong tỉnh có 07 trường PTTH riêng, trong đó có
01 trường PTTH có hệ chuyên (Lê Quý Đôn).
Để tạo điều kiện học tập thuận lợi cho HS vùng sâu, ngành đã tiến hành xây
dựng khu kí túc xá cho HS ở một số trường THCS và PTTH thuộc các huyện vùng
sâu [80, tr.5].
GD – ĐT Long An trước sự quan tâm động viên và nổ lực của các cấp lãnh đạo
và CBGV nhà trường đã đạt được những kết quả khả quan.
Kết quả xét công nhận tốt nghiệp THCS năm học 2005 – 2006 đạt tỷ lệ
99,52%, PTTH đạt 88,8%, trong đó HS tốt nghiệp loại giỏi đạt 3,3%, khá đạt 15,68%.
Các trường có tỷ lệ HS đỗ cao như : PTTH Tân An (99,32%, Cấp II - IIIRạch Kiến
(99,17%), PTTH Cần Đước (98,82%), PTTH Lê Quý Đôn (98,81%) và cao nhất khối
bán công là trường PTTH Bán công Thủ Thừa (96,25%) [88, tr.6].
3.3.4. Giáo dục thường xuyên
GDTX hay còn gọi là giáo dục không chính quy, BTVH luôn có một vai trò
quan trọng trong sự nghiệp GD – ĐT. Số học viên học BTVH ngày càng tăng cả về
chất lẫn về lượng. Tháng 12/1998 tỉnh đã hoàn thành công tác PCGDTH - XMC, số
người biết chữ từ 15 – 35 tuổi đạt tỷ lệ 94,6%, số còn lại là 24.000 người mù chữ
hoặc chưa hoàn thành mức 03 XMC đang được tiếp tục vận động ra lớp, đồng thời
tỉnh cũng đã mở những lớp sau XMC để củng cố và nâng cao kết quả đạt được.
Giữ vững, nâng cao kết quả PCGDTH – XMC đã đạt được, năm 2000 tái công
nhận lại 14/14 huyện (thị), 183/183 xã (phường, thị trấn) đạt chuẩn PCGDTH –
XMC. Tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 – 35 đạt 95,13% [83,tr. 9].
Về BTVH : quy mô của BTVH có những bước phát triển do nhu cầu học tập
trong cán bộ, thanh niên gia tăng, quy mô giáo dục và nâng cao hiệu quả đào tạo
được mở rộng, năm học 2002 – 2003 kết quả tốt nghiệp THCS là 95,3%, PTTH là
87,8%, còn năm học 2005 – 2006 kết quả tốt nghiệp PTTH đạt 85,31%...
Bên cạnh đó Trung tâm GDTX đã và đang tiến hành đào tạo các hệ đại học tại
chức (Đại học kinh tế, Đại học sư phạm), hệ trung cấp các ngành tài chính - kế toán,
thuế … cho tỉnh.
Quản lý tốt các cơ sở dạy ngoại ngữ, tin học ngoài nhà trường. Năm học 2000
– 2001 toàn tỉnh có 43 cơ sở dạy ngoại ngữ và tin học được cấp phép hoạt động, đã
cấp 70 chứng chỉ tin học và 200 chứng chỉ ngoại ngữ trình độ A; 40 chứng chỉ tin học
và 80 chứng chỉ ngoại ngữ trình độ B [83, tr.9].
Kỷ cương, nền nếp dạy - học ở các Trung tâm BDTX, trường BTVH được tiếp
tục cải thiện và củng cố. Hệ thống Trung tâm BDTX cũng như trường lớp BTVH
tỉnh, huyện được củng cố, không có huyện nào không có trường BTVH.
Những năm gần đây, cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, trang thiết bị … được
tỉnh quan tâm đầu tư nhiều đã tạo được sự chuyển biến nhất định trong chất lượng
giáo dục ở các Trung tâm GDTX và các trường BTVH.
3.3.5. Giáo dục chuyên nghiệp - dạy nghề
Đến năm 2000 toàn tỉnh Long an có 01 trường CĐSP, 01 trường THYT, 01
trường THKT – KT, 01 trường Dạy nghề và một số Trung tâm xúc tiến việc làm ở
các huyện.
Chất lượng giáo dục chuyên nghiệp ngày càng được nâng lên, nội dung chương
trình, kế hoạch đào tạo được thực hiện nghiêm túc.
Trường CĐSP Long An hàng năm đảm nhận nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng giáo
viên cho các hệ MN, TH và THCS. Trường cố gắng củng cố, tăng cường kỷ cương,
CSVC, trang thiết bị cũng được quan tâm, từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả
đào tạo.
Bên cạnh đó trường còn tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, nhất là
những đề tài phục vụ cho đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, tích cực tham gia
bồi dưỡng thay sách giáo khoa từ lớp 1 – 9.
Trước những nỗ lực hết mình đó, trường CĐSP Long An ngày càng mở rộng
quy mô trường lớp, ngoài giảng dạy tại trường còn mở các lớp bồi dưỡng chuẩn hóa
tại các huyện. Năm học 1996 – 1997 đào tạo 998 HSSV chính quy, còn hệ bồi dưỡng
là 662 học viên. Năm học 1997 – 1998 số HSSV chính quy lên đến 1.371 và hệ bồi
dưỡng là 850….Năm học 2002 – 2003 do không có chỉ tiêu tuyển sinh nên SV hệ
chính quy giảm, chỉ còn 734 SV, riêng hệ bồi dưỡng tăng lên với 1.325 học viên. Đến
năm 2005 – 2006 SV hệ chính quy tăng lên 1.026 SV, hệ bồi dưỡng chỉ còn 329 học
viên, trong năm học này trường CĐSP Long An đã sắp hoàn thành nhiệm vụ bồi
dưỡng nâng chuẩn cho giáo viên MN và TH.
Trường Trung học kinh tế - kỹ thuật (THKT – KT), chủ yếu vẫn là đào tạo lái
xe, các nghề khác ít người học, các phương tiện thiết bị dạy - học lạc hậu không phù
hợp với thực tế. Năm học 2000 – 2001 dù còn nhiều hạn chế, song trường cũng đã hết
sức cố gắng mở 04 lớp đào tạo kế toán, 01 lớp sửa chữa ô tô với 120 học viên và tổ
chức các khóa học đào tạo lái xe [83, tr.10].
Vấn đề đặt ra là phải nhanh chóng đầu tư xây dựng trường THKT – KT để mở
rộng quy mô đào tạo do nhu cầu học nghề, học trung cấp cho học sinh sau THCS,
PTTH phát triển nhanh. Trong năm học 2005 – 2006 nhà trường tích cực nghiên cứu
để mở thêm ngành đào tạo mới: Kỹ thuật công nghệ may. Dù còn nhiều bất ổn, chưa
đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của tỉnh, nhưng trường THKT -KT đã có nhiều đóng
góp quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh nhà.
Bên cạnh đó các trung tâm KTTH – HN – DN tỉnh, huyện đã khắc phục khó
khăn, bố trí, sắp xếp tổ chức nhiều loại hình nghề cho HS học tập, từng bước nâng
cao chất lượng. Trong đó Trung tâm KTTH – HN – DN tỉnh dạy nghề phổ thông với
một số lượng tương đối lớn, đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Năm học 1996 – 1997
Trung tâm đào tạo 2.490 học viên, năm 2001 – 2002 đào tạo được 2.836 HV, năm
học 2005 – 2006 đào tạo 4.077 học viên [107], số lượng học viên mỗi năm một tăng.
mặc dù ở các huyện đã xây dựng các Trung tâm KTTH – HN – DN, chứng tỏ rằng
nhu cầu học nghề ngày càng tăng và tỉnh đang cố gắng đầu tư CSVC, trang thiết bị,
giáo viên …để đáp ứng nhu cầu ngày một lớn trên.
Trường THYT từ lực lượng ban đầu chủ yếu là thỉnh giảng, đến nay lực lượng
giáo viên đã lớn mạnh, toàn trường có 32 CB – GV – Công nhân viên với trình độ
như sau :
Đơn v ị tính : người
Sau đại học 05
Đại học 14
Trung học 07
Nhân viên phục vụ 06
Từ năm 1979 – 2004 trường đã đào tạo và cho tốt nghiệp:
Đơn vị tính: học sinh
Hệ đào tạo Học sinh ra trường
Mậu dịch viên 41
Dược tá 941
Hộ sinh sơ học 29
Hộ sinh trung học 439
Điều dưỡng trung học 583
Y sỹ chuyển sang điều dưỡng 27
Y sỹ chuyên khoa, Vệ sinh phòng dịch 138
Y sỹ chuyên khoa, Y học dân tộc 40
Y sỹ chuyên khoa sản nhi 218
Y sỹ đa khoa 1319
Trường THYT đã từng bước đáp ứng được yêu cầu của tỉnh với các ngành y tá,
điều dưỡng, hộ sinh … Chất lượng đào tạo ở các hệ có chuyển biến tốt. Năm học
2005 – 2006 trường tuyển sinh ngành điều dưỡng tại chức và chuẩn bị tuyển sinh các
ngành mới: Dược trung cấp, Y sĩ y học dân tộc … Hiện nay nhà trường đang chuẩn bị
mọi điều kiện về CSVC và đội ngũ giáo viên để trở thành trường Cao đẳng.
3.3.6. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
Quán triệt NQTW 2, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương các cấp và
ngành giáo dục đã quan tâm về nhiều mặt đến công tác xây dựng đội ngũ giáo viên
như : tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ, phát triển Đảng trong cán
bộ, giáo viên có biện pháp tích cực để khắc phục tình trạng thiếu giáo viên, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ, có những chính sách, chế độ cho giáo viên, đặc
biệt đối với giáo viên vùng sâu, vùng xa.
Năm học 1997 – 1998 toàn ngành có 135 giáo viên nhà trẻ, 817 giáo viên mẫu
giáo, 5.292 giáo viên TH, 2.862 giáo viên THCS, 580 giáo viên PTTH.
Tỷ lệ giáo viên trên lớp : TH (0.92), THCS ( 1.52), PTTH (1.61). So
với yêu cầu còn thiếu 286 giáo viên TH (chưa tính số giáo viên Nhạc - Họa còn thiếu
nhiều), 435 giáo viên THCS và 183 giáo viên PTTH.
Nguyên nhân chủ yếu thiếu giáo viên là do quy mô giáo dục liên tục tăng. Để
khắc phục tình trạng trên, ngành GD – ĐT Long An đã có nhiều biện pháp : tăng quy
mô đào tạo sư phạm, mở lớp riêng đào tạo giáo viên vùng ĐTM, áp dụng chế độ cử
tuyển, hợp đồng đào tạo giáo viên, hợp đồng dạy lại đối với những giáo viên bỏ việc
trước đây có lý do chính đáng, thực hiện chế độ dạy tăng giờ, tăng buổi, hợp đồng với
các trường đại học đào tạo SV ở các môn bị thiếu ở PTTH …
Việc bồi dưỡng chuẩn hóa được chú trọng, số giáo viên chuẩn hóa, đạt tiêu
chuẩn ngày càng nhiều. Đã hoàn thành nhiều lớp cử nhân TH, cử nhân Chính trị -
Giáo dục công dân, tiếp tục mở rộng đại học từ xa, đại học hóa giáo viên THCS …
Trong năm học 2000 – 2001 về cơ bản không còn tình trạng thiếu giáo viên ở
bậc TH (trừ Nhạc - Họa), còn ở bậc trung học, so với định mức quy định còn thiếu
trên 400 giáo viên THCS, 600 giáo viên PTTH, nhưng trong những năm tới tình trạng
thiếu giáo viên sẽ giảm dần đi.
Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBGV giai đoạn 1997 – 2000 [86,
tr.12].
Đơn vị tính : người
Giáo viên Kế hoạch đào tạo Bồi dưỡng chuẩn hóa
97 - 98 98 - 99 99 - 2000 97 - 98 98 – 99 99 - 2000
Nhà trẻ 70 40 40 28 28 28
MG 100 100 80 160 160 160
TH 450 450 450 700 700 700
THCS 460 450 450 100 50 50
Dạy nghề 80 60 60
trình độ ĐH
Cao học
CĐSP 08 08 08
PTTH 08 08 08
Công tác giáo dục chính trị trong đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên được tăng
cường. Hầu hết CB - GV được học tập, quán triệt các nghị quyết, chủ trương , đường
lối, chính sách của Đảng, nhà nước, học tập Luật giáo dục, Điều lệ nhà trường và các
văn bản pháp luật khác, nghe báo cáo tình hình thời sự trong nước và quốc tế … Từ
đó nhận thức về chính trị, xã hội được nâng lên. Tích cực phát triển đảng viên mới,
đến năm học 2005 – 2006 số đảng viên toàn ngành là 3.163 người [88, tr.8].
Chế độ, chính sách đối với giáo viên được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đời sống
giáo viên được cải thiện. Ở những vùng sâu, nhà tập thể dành cho giáo viên cũng
được quan tâm và xây dựng khang trang hơn để giáo viên an tâm công tác.
Kỷ cương, nền nếp trong công tác quản lý và dạy học ở cơ quan quản lý giáo
dục và cơ sở trường học được tiếp tục củng cố, quy chế làm việc, nội quy của cơ quan
được cải tiến, từng bước đáp ứng được tốt hơn yêu cầu đổi mới, các hiện tượng tiêu
cực trong ngành giáo dục về cơ bản đã được khắc phục.
Năm học 2005 – 2006 thực hiện chỉ thị 40/CT/TW của Ban Bí thư TW Đảng,
chỉ thị 27/CT/TU của Tỉnh ủy và kế hoạch số 2551/KH – UB của Ủy ban nhân dân
tỉnh về xây dựng chất lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý
giáo dục.
Trong thời gian qua ngành đã tiến hành rà soát, sắp xếp lại đội ngũ, bổ nhiệm
lại cán bộ quản lý giáo dục từ Sở đến Phòng Giáo dục và các trường học. Đồng thời
tiếp tục đào tạo, bổ sung thêm đội ngũ giáo viên các cấp.
Số lượng giáo viên các cấp :
Đơn vị tính : người
Năm học Giáo Giáo Giáo Giáo Giáo viên Giáo Giáo
viên viên viên viên dạy nghề viên viên
MN TH THCS PTTH THCN CĐ
1996-1997 1.034 5.417 2.759 517 16 29 94
1997-1998 1.070 5.292 2.862 580 16 29 99
1998-1999 1.112 5.308 2.960 632 15 32 105
1999-2000 1.036 5.402 3.110 752 14 29 110
2000-2001 1.258 5.612 3.436 810 14 30 95
Nguồn : Niên giám thống kê tỉnh Long An 1999, Cục thống kê, 7/2000
Hiện nay toàn ngành có trên 16.500 CB - GV, Công nhân viên.Cùng với việc
phấn đấu đảm bảo yêu cầu về số lượng, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên được tiếp tục chú trọng. Tỷ lệ giáo
viên đạt chuẩn và trên chuẩn được nâng lên :
Tỷ lệ %
Giáo viên Mầm Non Tiểu học THCS PTTH
Giáo viên đạt chuẩn 84,2 90,19 98,45 94,7
Giáo viên trên chuẩn 4,4 29,3 36 -
Toàn ngành hiện nay có 04 tiến sĩ, 23 thạc sĩ, đang đào tạo 02 tiến sĩ và 60 thạc
sĩ.
Tóm lại, trong 10 năm qua, đội ngũ CB - GV của tỉnh thường xuyên được bổ
sung, được bồi dưỡng, đào tạo theo hướng chuẩn hóa với số lượng ngày càng tăng,
từng bước nâng cao được hiệu quả giảng dạy. Tỉnh còn có nhiều cố gắng trong việc
xây dựng đội ngũ giáo viên vững mạnh cả về chính trị lẫn chuyên môn nghiệp vụ, kết
quả đã tạo ra một sự chuyển biến về chất lượng đào tạo ở các ngành học, cấp học.
Bên cạnh đó, lương của CB – GV, Công nhân viên cũng ngày càng được sắp
xếp hợp lý hơn, tạo điều kiện thuận lợi để họ hoàn thành nhiệm vụ ở mức tốt nhất.
3.3.7. Xây dựng cơ sở vật chất
Sau 10 năm tiếp tục đổi mới cho phù hợp với yêu cầu thực tế, CSVC và trang
thiết bị dạy học của các cấp, bậc học đã có những chuyển biến rõ rệt. Ngân sách nhà
nước đầu tư cho xây dựng cơ bản, ngân sách của các chương trình mục tiêu, ngân
sách của tỉnh dành cho giáo dục tăng, bên cạnh đó còn nhờ vốn vay, sự đóng góp của
dân, sự hỗ trợ của các tổ chức kinh tế xã hội và từ thiện trong, ngoài nước nên cơ sở
vật chất của nhà trường được tăng cường và nâng cấp một bước. Năm 1997 toàn tỉnh
đã xây mới 402 phòng học với kinh phí đầu tư 21,5 tỷ đồng và mua sắm bàn ghế,
trang thiết bị, sách … với tổng số vốn 3,1 tỷ đồng. Các huyện (thị) cũng tu sửa nhiều
phòng học từ quỷ xây dựng trường học.
Nhìn chung, CSVC trường lớp trong tỉnh tiếp tục đổi mới, khang trang hơn, số
phòng học xuống cấp, tre lá giảm dần. Năm học 1997 – 1998 không còn tình trạng
học 03 ca. Vệ sinh môi trường trường học được cải thiện đáng kể. Đến năm học 2002
– 2003 toàn tỉnh có trên 80% số phòng học từ cấp bốn trở lên.
Thực hiện quyết định 159/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh đã tiến hành
xây dựng đề án kiên cố hóa trường, lớp học và đang triển khai thực hiện. Với chương
trình kiên cố hóa trường học, tổng số phòng học theo kế hoạch xây dựng là 1.094
phòng, đến năm học 2005 – 2006 đã hoàn thành và đưa vào sử dụng 526 phòng, đang
thi công 346 phòng. Như vậy tổng số phòng học đã triển khai xây dựng là 872 phòng,
đạt 79% kế hoạch, số còn lại đang tiếp tục triển khai thực hiện.
Tổng số xây dựng cơ bản năm 2006 do Sở GD – ĐT làm chủ đầu tư là 32,3 tỷ
đồng, nhằm tiếp tục hoàn thành các chương trình trường Trung cấp Kinh tế kỹ thuật
tỉnh, các trường PTTH Nguyễn Thông, Đức Huệ, Cần Giuộc, Cần Đước, Cấp II – III
Tân Hưng, Trung tâm KTTH – HN – DN Tân Trụ, Trung tâm GDTX tỉnh và khởi
công xây dựng mới trường PTTH Lê Quý Đôn, PTTH Thủ Thừa
Ngân sách sự nghiệp giáo dục phổ thông chi cho sách và thiết bị trường học đạt
7,3%, nhìn chung thiết bị dạy học đã được tăng cường đáng kể, đáp ứng được yêu cầu
tối thiểu của dạy - học.
Năm 2005 – 2006 số thư viện đạt chuẩn và tiên tiến là 281 thư viện, đạt tỷ lệ
70,6%. Kinh phí bổ sung sách cho các thư viện trường học là 03 tỷ đồng với 320.000
bản sách. Trong năm học 2006 – 2007 thư viện điện tử đầu tiên của tỉnh sẽ được đưa
vào hoạt động.
Về thiết bị dạy học, kinh phí dành cho mua sắm thiết bị dạy học là 21,5 tỷ
đồng, trong đó mua sắm thiết bị cho lớp 4 và lớp 9 là 12,5 tỷ đồng.
Với chương trình đưa tin học vào nhà trường, trong mấy năm qua ngành đều
bố trí vốn để thực hiện chương trình mục tiêu này. Tính đến nay 100% cơ quan quản
lý giáo dục (Sở, Phòng), hầu hết các trường PTTH, một số trường TH và THCS được
trang bị máy vi tính. Nhiều trường PTTH nối mạng Internet, bước đầu góp phần tích
cực cho việc trao đổi thông tin giữa các cấp quản lý giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả
công tác quản lý, tạo điều kiện cho giáo viên truy cập thông tin, mở rộng kiến thức,
nâng cao chất lượng, nội dung bài giảng trên lớp.
3.3.8. Kết quả
Có thể nói sau 10 năm bước vào thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, dù
trong điều kiện còn nhiều khó khăn, nhưng GD – ĐT Long An đã đạt được những
thành quả rất đáng khích lệ, tuy nhiên cũng không thể tránh khỏi những mặt hạn chế
chưa khắc phục được.
Thành quả
Về giáo dục MN, quy mô giáo dục tiếp tục gia tăng, hệ thống trường lớp phát
triển mạnh, việc đa dạng hóa các loại hình trường lớp được đẩy mạnh, tỷ lệ trẻ được
huy động đến lớp tăng khá. Hiện nay toàn tỉnh có 138 trường, trong đó có 103 trường
MG , 33 trường MN và 02 Nhà trẻ. Về cơ bản đã xóa xã trắng về MG.
Số trẻ 05 tuổi ra lớp tăng nhanh, nhất là ở những khu vực các xã vùng nông
thôn, vùng sâu … do trường lớp ở những nơi này được quan tâm xây dựng, giáo viên
được tăng cường. Các trường lớp MN ngoài công lập ở khu vực thị xã, thị trấn tiếp
tục phát triển. Hiện toàn tỉnh có 11 trường bán công, 05 trường tư thục, 10 cơ sở MN
tư thục và 328 nhóm trẻ gia đình. Các địa phương có phong trào giáo dục MN khá
toàn diện như : Tân Trụ, Bến Lức, Tân Thạnh …
Về giáo dục phổ thông, hệ thống, mạng lưới trường lớp TH, THCS, PTTH tiếp
tục được điều chỉnh và phát triển theo định hướng quy hoạch phát triển giáo dục ở
từng địa phương.
Hiện nay toàn tỉnh có 248 trường TH, 110 trường THCS, 28 trường PTTH, 06
trường Cấp II – III. Trong đó có 11 trường PTTH bán công, 01 trường PTTH
tư thục, 01 trường nuôi dạy trẻ khuyết tật. Ngoài ra còn có 11 Trung tâm KTTH –
HN – DN thực hiện nhiệm vụ dạy nghề và hướng nghiệp cho học sinh trường phổ
thông.
Cũng như hầu hết các tỉnh trong cả nước và vùng ĐBSCL, trong 10 năm qua
quy mô HS phổ thông của tỉnh Long An tăng tương đối nhanh. Năm học 1990 –
1991 toàn tỉnh có 219.619 HS phổ thông thì đến năm 2000 – 2001 đã có 272.495 HS
phổ thông, trong đó HS THCS tăng 2,1 lần, HS PTTH tăng 5,4 lần, riêng HS TH
giảm 18.895 em (bình quân 1,1%/ năm), đó là do tỉnh đã thực hiện tốt kế hoạch hóa
gia đình những năm trước đây nên dân số tăng chậm lại và nhờ thực hiện tốt chương
trình PCGDTH – XMC nên tỷ lệ huy động HS đúng tuổi đến trường ngày càng tăng,
hơn nữa đã giảm đáng kể tỷ lệ HS lưu ban và bỏ học ở cấp học này.
Về GDTX, sau nhiều năm liên tục phấn đấu, đến nay toàn tỉnh có 15 Trung
tâm GDTX, 01 Trung tâm Ngoại ngữ - Tin học, 135 Trung tâm học tập cộng đồng.
Trong những năm qua, các Trung tâm GDTX huyện (thị) được củng cố một
bước về cơ sở vật chất, đội ngũ, tài chính, thiết bị dạy học, từ đó có điều kiện mở
rộng quy mô để đáp ứng nhu cầu học tập của người học.
Trong năm học 2005 – 2006 đã huy động được 1.310 học viên học chương
trình XMC, 2.578 học viên học THCS, 3.113 học viên học BTVH PTTH, 1.644 học
viên học chương trình đào tạo từ xa, 4.748 học viên học ngoại ngữ và 3.215 học viên
học tin học…
Về Giáo dục nghề nghiệp, hiện nay, tỉnh đang có 01 trường CĐSP và 02
trường Trung học chuyên nghiệp là Kinh tế kỹ thuật và Y tế, trong các năm học qua,
các trường đều thực hiện tốt kế hoạch được giao. Chất lượng tuyển sinh và đào tạo ở
các trường chuyên nghiệp ngày càng được nâng cao.
Hiện nay trường CĐSP có 1.415 SV, trong đó tuyển mới là 564 SV ở hệ đào
tạo chính quy và 213 học viên hệ bồi dưỡng.
Trường Trung học KTKT có 342 HS, trong đó tuyển mới 167 HS. Trường
Trung học Y tế có 1.426 HS, trong đó tuyển mới 673 HS. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao, các trường có nhiều cố gắng thực hiện đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp đào tạo…
Đội ngũ giáo viên không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của
mình thông qua việc thi đua “Dạy tốt - Học tốt”, các giáo viên đạt chuẩn và trên
chuẩn chiếm tỷ lệ khá cao. Bên cạnh đó, ngành cũng đã được đầu tư trang bị CSVC
để giáo viên làm tốt nhiệm vụ của mình.
Giáo dục cao đẳng và đại học trong thời gian này trên địa bàn tỉnh phát triển
nhanh, phương thức đào tạo linh hoạt nên thu hút một số lượng lớn người lao động và
thanh niên thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Ngoài phương thức đào tạo tập trung chính quy tại trường CĐSP Long An,
nhiều trường đại học trong cả nước đã mở lớp đào tạo đại học theo các hình thức tại
chức, từ xa, tự học có hướng dẫn tại Trung tâm GDTX tỉnh.
Trong những năm học qua, hoạt động thanh tra, kiểm tra tiếp tục được tăng
cường theo hướng đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả và phù hợp với thực tiễn và
yêu cầu về công tác quản lý. Trong năm học 2005 – 2006, Thanh tra Sở đã thanh tra
toàn diện 07 trường PTTH, 06 phòng giáo dục, kiểm tra chuyên đề đối với 14 đơn vị,
cơ sở giáo dục. Tiến hành kiểm tra hoạt động sư phạm của 245/1214 giáo viên PTTH
trực tiếp dạy lớp.
Kết quả xếp loại giáo viên đạt được là : tốt : 23,3% ; khá : 62,4% ; đạt yêu cầu
: 14,3%. Bên cạnh đó nhiều Phòng giáo dục, trường học cũng đã thực hiện tốt hoạt
động thanh tra, kiểm tra như : Phòng giáo dục Thủ Thừa , Tân Trụ , Thạnh Hóa ;
Trường PTTH Hậu Nghĩa ; Trung tâm GDTX Châu Thành, Bến Lức ; Trung tâm
KTTH – HN – DN Bến Lức…
Kết quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra trong những năm qua cho thấy bước
đầu đổi mới phương thức hoạt động thanh tra có hiệu quả, khắc phục được tình trạng
trùng lắp trong hoạt động kiểm tra, tạo sự thống nhất trong sự chỉ đạo, đánh giá cơ sở,
có tác động tích cực đối với cơ sở trong việc tuân thủ các quy chế, quy định trong
quản lý chuyên môn của ngành.
Quy mô của 03 cấp học (1997 – 2002):
Tỷ lệ : %
THCS PTTH Năm học TH
1997 - 1998 62,7 30,5 6,8
1998 – 1999 60,2 30,9 8,9
1999 – 2000 58,1 31,4 10,5
2000 – 2001 55,8 32,2 12
2001 - 2002 52,9 34,7 12,4
[86, tr.20].
Long An là tỉnh có một số huyện nằm trong vùng ngập lụt, vùng biên giới,
vùng sâu, vùng xa, mặt khác do phân bổ dân cư giữa các huyện và giữa các xã trong
một huyện có sự chênh lệch lớn cho nên quy mô học sinh các cấp cũng khác nhau.
Một số huyện có quy mô dân số lớn nên kéo theo quy mô HS lớn: Đức Hòa, Cần
đước, Cần Giuộc, Bến Lức, Tân Thạnh, TXTA; những huyện có quy mô HS thấp :
Tân Hưng, Vĩnh Hưng, Tân Trụ, Thạnh Hóa.
Kết quả chất lượng giáo dục THCS (2005 – 2006)
Tỷ lệ %
Hai mặt Khối 6 7 8 9
giáo dục Loại
Tốt 81.46 79.28 76.31 85.69
Khá 15.93 16.84 18.46 12.15
Hạnh Trung bình 2.41 3.63 4.65 2.11
kiểm Yếu 0.17 0.25 0.58 0.04
Kém 0.03 0 0 0.01
Giỏi 22.88 24.22 19.82 19.32
Khá 35.47 37.96 37.68 40.44
Trung bình 34.47 33.49 37.07 39.39
Học lực Yếu 6.72 4.09 5.3 0.8
Kém 0.43 0.23 0.13 0.04
Không XL 0.03 0.01 0 0.01
Kết quả chất lượng giáo dục THPT (2005 – 2006):
Tỷ lệ %
Công lập Bán công Tư thục Hai Khối
mặt Loại 10 11 12 10 11 12 10 11 12
Tốt 69.88 75.67 79.13 50.08 51.66 52.36 86.47 75.61 85
Khá 20.66 17.96 16.08 34.31 35.97 41.59 13.53 24.29 15
Hạnh TB 7.98 5.14 4.65 13.23 10.35 5.47 0 0 0
kiểm Yếu 1.48 1.23 0.11 2.38 2.01 0.57 0 0 0
0 0 0.03 0 0 0 0 0 0 Kém
Giỏi 7.87 9.85 7.56 1.12 1.41 0.61 0.59 0 0
Khá 30.22 32.02 30.88 13.6 17.21 10.16 6.47 21.95 17.5
Học 38.87 45.71 46.41 43.3 40.88 40.89 58.24 63.41 70 TB
Yếu 20.01 12.24 14.99 36.27 36.61 39.75 33.53 14.63 12.5 lực
Kém 2.98 0.14 0.16 5.71 3.89 8.58 1.18 0 0
KXL 0.06 0.04 0 0 0 0 0 0 0
Hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực mà GD – ĐT Long An đạt được trong 10 năm
qua, thì vẫn còn nhiều tồn tại chưa giải quyết được như : mạng lưới trường lớp các
cấp tuy có phát triển song chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển, nhất là ở bậc PTTH
và giáo dục chuyên nghiệp. Điều kiện CSVC để đảm bảo chương trình giáo dục toàn
diện như : sân chơi, bãi tập, phòng thí nghiệm thực hành … tuy được tăng cường
nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Ở các trường phổ thông tình trạng GV dạy
thêm còn tồn tại nhiều, tiêu cực trong dạy - học thêm tạo nên sự bất bình cho phụ
huynh HS, nếu không cho con em đi học thêm sẽ không theo kịp bạn bè (phần lớn là
đã học trước chương trình) và bị GV đặc biệt chú ý tới. Có những GV để buộc HS
đến lớp dạy thêm chỉ dạy một phần chương trình ở lớp, một phần dành lại để dạy ở
lớp học thêm nên buộc lòng các HS dù có đủ điều kiện kinh tế hay không cũng phải
ráng theo học, tạo nên gánh nặng lớn cho cha mẹ.
Giáo viên PTTH và cơ cấu giáo viên các cấp học chưa đồng bộ. Chất lượng
giáo dục ở một số trường ngoài công lập còn thấp, công tác quản lý ở nhiều trường
học còn thiếu sự chủ động, sáng tạo. Nguồn lực xã hội được huy động để đầu tư phát
triển giáo dục còn nhiều hạn chế.
***
******
Trong những năm cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI (1996 – 2006) GD – ĐT
Long An có những bước tiến vượt xa so với giai đoạn trước đó. Đó là nhờ sự quan
tâm sâu sát hơn của Đảng, Nhà Nước đến giáo dục. Các trường được đẩy mạnh đầu
tư về CSVC, mạng lưới trường lớp của các cấp học, bậc học khang trang hơn, trang
thiết bị dạy - học cũng được cải thiện.
Ở giáo dục MN chất lượng nuôi dạy tăng lên, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm
đáng kể, số lượng trẻ được đưa đến trường cũng tăng, hiện tại ở tỉnh không có xã nào
không có trường MG. Bên cạnh trường công thì trường bán công, tư thục cũng phát
triển mạnh, thu hút một lượng lớn trẻ đến trường nhằm giảm tải cho các trường công,
đồng thời giúp cải tiến, nâng cao chất lượng nuôi dạy trẻ. Hiện tại nhiều trường MG
đã được công nhận đạt chuẩn Quốc gia.
Ở giáo dục TH đã hoàn thành PCGDTH, không còn tình trạng học ngày 03 ca,
chất lượng dạy - học được nâng lên đáng kể, nhiều trường TH được công nhận đạt
chuẩn Quốc gia. Đặc biệt trong giai đoạn này, ngành Giáo dục đã tiến hành thay sách
ở bậc TH và THCS, với kết quả kiểm tra cho thấy việc thay sách đã đáp ứng phần nào
tính vừa sức cho HS.
Ở bậc trung học, chất lượng dạy - học được nâng lên rõ rệt, nhiều trường có HS
đạt HS giỏi cấp tỉnh, tỷ lệ HS bỏ học, lưu ban giảm hẳn. Tỷ lệ HS tốt nghiệp THCS
và PTTH khá cao.
GDTX – Giáo dục chuyên nghiệp cũng đạt được nhiều thành tựu, đáp ứng
được phần nào nhu cầu nâng cao tri thức của người dân. Chuẩn vào các trường
chuyên nghiệp được nâng cao nên chất lượng đầu ra cũng tăng lên.
Tuy nhiên trong giai đoạn này, GD – ĐT Long An vẫn còn nhiều điều bất cập.
Ở giáo dục MN vì lượng trẻ được đưa đến trường ngày càng nhiều nên các trường
công không đáp ứng kịp nhu cầu, nhiều gia đình đưa con em mình đến trường bán
công hoặc tư thục, học phí cao hơn trường công rất nhiều nhưng chất lượng nuôi dạy
vẫn không được cải thiện hơn những trường công. Hơn nữa ở những trường bán
công, tư thục, lượng trẻ được nhận vào nuôi dạy ở mỗi lớp rất đông , vượt quy định
rất nhiều, phòng ốc chật chội không thông thoáng, không có sân chơi cho các em.
Ở bậc phổ thông, nội dung chương trình tuy có nhiều sửa đổi nhưng vẫn còn
nhiều chỗ chưa hợp lý, vẫn còn quá tải đối với cả thầy lẫn trò, HS học nhiều nhưng
dàn trãi, không sâu do đó khá nhiều HS bị hỏng kiến thức.
Mối quan hệ giữa Gia đình – Nhà trường – Xã hội còn lỏng lẻo, rời rạc nên vẫn
còn tình trạng HS đi học nhưng không đến trường, đạo đức một bộ phận HS yếu kém.
Ở các trường chuyên nghiệp, ngoài những khó khăn về CSVC thì việc đưa GV
đi học nâng cao trình độ cũng rất nan giải vì chế độ hỗ trợ đi học quá thấp, GV phần
lớn đã quá tuổi … chất lượng dạy - học cũng không cao.
Để GD – ĐT Long An trong giai đoạn này có nhiều thay đổi theo chiều hướng
tích cực hơn nữa đòi hỏi ngành Giáo dục phải quan tâm hơn nữa đến việc đầu tư
CSVC cho các trường học, đẩy mạnh đầu tư có trọng điểm vào các trường học, đặc
biệt là ở MN cần phải xây dựng trường học ở những nơi thoáng mát, rộng , có nhiều
cây xanh, có hệ thống thoát nước để đảm bảo vệ sinh môi trường, không bị ngập
nước, sinh ra nhiều muỗi vào mùa mưa …
Ở TH , phòng học cần rộng rãi, thoáng mát, tránh tình trạng phòng học chật
chội, ẩm thấp, bàn ghế không đạt chuẩn, không phù hợp với vóc dáng của các em, hệ
thống đèn không tốt làm cho tình trạng HS bị cận thị ngày càng nhiều…
Trang bị đầy đủ phòng thí nghiệm cũng như dụng cụ lẫn hóa chất thí nghiệm ở
bậc THCS và PTTH.
Trang bị máy vi tính cho các trường phổ thông nên đảm bảo chất lượng, tránh
tình trạng nhiều trường nhận máy về chỉ để trang trí mà không sử dụng được.
Cần tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa Gia đình – Nhà trường – Xã hội để quá trình
giáo dục đạt được kết quả tốt hơn, tránh tình trạng đổ lỗi qua lại lẫn nhau, nhất là
trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn mà ma túy và HIV/AIDS xâm nhập mạnh vào học
đường.
Phải đầu tư, khuyến khích GV học tập nâng cao trình độ chuyên môn và quản
lý nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của giáo dục.
Hạn chế tối đa việc dạy thêm tràn lan nhằm giảm thiểu tiêu cực trong giáo dục.
Một trong những cách nhằm giảm việc GV dạy thêm là Nhà Nước ta phải quan tâm,
nâng cao đời sống vật chất cho GV bằng cách tăng lương và có chế độ chính sách ưu
đãi hợp lý.
KẾT LUẬN
Trong thời kỳ 1986 – 2006 GD – ĐT Việt Nam nói chung và GD – ĐT Long
An nói riêng chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần. Bước vào giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa, GD - ĐT dần
thoát khỏi tình trạng khó khăn, khủng hoảng trong những năm sau giải phóng thống
nhất đất nước, tạo tiền đề để GD – ĐT Long An chuyển sang một giai đoạn mới, giai
đoạn này đã đặt ra nhiều khó khăn, thử thách cho GD – ĐT Long An.
Trong thời gian 5 năm đầu đổi mới, GD – ĐT Long An đã gặp nhiều khó khăn:
tình trạng thiếu giáo viên quá nhiều, đội ngũ giáo viên chưa đồng bộ, chất lượng GD
không ổn định, đời sống của đại bộ phận giáo viên rất khó khăn, trình độ quản lý yếu
kém, CSVC trường lớp nghèo nàn, thiếu thốn … Những năm sau đó tình hình có
chuyển biến tốt hơn nhưng những khó khăn nêu trên vẫn còn tồn đọng.
Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng GD – ĐT Long An đã cố gắng sắp xếp lại
mạng lưới trường lớp cho phù hợp, chất lượng dạy - học cũng dần được nâng lên. Số
lượng HS ở các bậc học được duy trì ổn định, tỷ lệ HS bỏ học ngày càng giảm. Đặc
biệt sau thời gian đầu khó khăn, CSVC trường lớp được tăng cường, nhiều trường
học được tu bổ, sửa sang, thiết bị dạy - học cũng được trang bị tốt hơn.
Trong 10 năm đổi mới tiếp theo (1996 – 2006), GD – ĐT Long An đã đạt được
những thành quả rất khả quan. Quy mô giáo dục MN tăng, các hình thức trường lớp
được đẩy mạnh, số lượng trẻ đến trường tăng lên. Mạng lưới trường lớp TH, THCS,
PTTH được điều chỉnh và phát triển.
GDTX cũng được quan tâm, tăng cường trang bị CSVC, mở rộng quy mô, đáp
ứng được nhu cầu học tập của người học.
Giáo dục chuyên nghiệp cũng tăng cả về chất lượng đầu vào lẫn đầu ra, hoàn
thành tốt kế hoạch được giao, cung cấp cho tỉnh nhà một lượng lớn lao động có tay
nghề vững vàng.
Đội ngũ giáo viên phần lớn đạt chuẩn và trên chuẩn, chỉ còn một số ít giáo viên
chưa đạt chuẩn sẽ được tiếp tục chuẩn hóa trong những năm học tiếp theo.
Qua 20 năm đổi mới hệ thống GD – ĐT Long An dần hoàn thiện, mạng lưới
nhà trẻ, các trường MN được đa dạng hóa và xã hội hóa với các loại hình trường bán
công, tư thục… Mạng lưới trường phổ thông ở bậc TH và THCS được xây dựng ở
hầu khắp các xã từ thị xã, thị trấn đến vùng ĐTM , các vùng sâu, vùng xa. Các trường
PTTH cũng được đầu tư xây dựng ở khắp các huyện, trường chuyên được đặc biệt
quan tâm. Phòng học tre là tạm bợ và tình trạng học 03 ca đã được xóa bỏ.
Trong những năm gần đây, chế độ chính sách cho GV có thay đổi theo hướng
tích cực, lương có tăng lên, song, vẫn chưa đáp ứng cho GV một cuộc sống đầy đủ,
lương lên thì giá cả cũng tăng vọt theo, do đó tình trạng dạy thêm để trang trãi cho
cuộc sống vẫn còn tồn tại và là một mối lo cho ngành GD – ĐT. Có nhiều GV chỉ dạy
một phần kiến thức ở trong lớp, một phần bỏ dỡ để thu hút HS đến với lớp học thêm.
Chính những điều này gây bức xúc cho các bậc phụ huynh vì không phải HS nào
cũng có đủ điều kiện để đi học thêm.
Từ năm học 1992 – 1993 trở đi hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp
và dạy nghề dần được củng cố và hoàn thiện, hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn,
đã cung cấp cho tỉnh một nguồn nhân lực dồi dào, đáp ứng phần nào yêu cầu của tỉnh
nhà.
Tuy nhiên, GD – ĐT Long An vẫn còn nhiều tồn tại chưa giải quyết được, tình
trạng thiếu GV vẫn còn, nhiều môn thiếu GV như Nhạc, Mỹ thuật, Thể dục …nhưng
vẫn có những môn học bị thừa GV, mạng lưới trường lớp chưa đáp ứng kịp nhu cầu
phát triển, điều kiện CSVC cũng chưa đáp ứng được yêu cầu, dù được quan tâm đầu
tư. Đó là do trình độ quản lý yếu kém nên phân bổ ngân sách không hợp lý, chỗ cần
thì phân bổ ít, chỗ không cần thì lại phân bổ nhiều.
Ngành GD - ĐT Long An trong những năm qua đã đạt được những thành tựu
quan trọng và tiến bộ, tuy nhiên vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém và bất cập, chưa đáp
ứng kịp thời những đòi hỏi của công cuộc phát triển đất nước.
Sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa mở ra một bước ngoặc lớn trong lịch
sử đất nước, đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ sự nghiệp GD – ĐT, tạo nên những con
người mang đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc: kiên định, giữ vững nền độc lập, tự hào
dân tộc, yêu quê hương … phát triển đất nước theo lý tưởng XHCN, có trình độ khoa
học, công nghệ cao…
Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 2 (khóa VIII) đã giao nhiệm vụ:
trong thời gian tới phải tăng cường giảng dạy các bộ môn khoa học xã hội và nhân
văn, đưa việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh thành bộ môn của nhà trường, tăng
cường dạy và học tập tốt bộ môn Mác –Lênin. Ở tất cả các cấp bậc học phải dạy tốt,
học tốt quốc ngữ, quốc văn, quốc sử và địa lý Việt Nam. Thực hiện đủ số giờ dạy địa
phương học để từ đây giáo dục lòng yêu quê hương. Cùng gia đình giáo dục cho con
em tính người, tình người, tạo nên những con người có nhân cách Việt Nam đậm đà
bản sắc dân tộc [108, tr.109].
Để GD – ĐT Long An trong những năm tới thay đổi theo hướng tích cực, đào
tạo được những con người thật sự có tri thức, Đảng và chính quyền Long An cần
phải:
- Phải kết hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình – xã hội.
Người lớn làm gương cho trẻ em, thầy giáo làm gương cho HS, Đảng viên làm gương
cho quần chúng … Nhà trường phải là cái nôi ươm trồng tài năng, đồng thời cũng là
nơi có văn hóa nhất. Nhiệm vụ và mục tiêu cao nhất của giáo dục là dạy người, giáo
dục nhân cách, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục truyền thống dân tộc, truyền thống
cách mạng là nội dung xuyên suốt các bộ môn, các hoạt động và môi trường giáo dục.
- Để đào tạo nên những con người thật sự có tri thức, có nhân cách thì đội ngũ
giáo viên giữ vai trò quan trọng nhất, quyết định chất lượng giáo dục. Chính những
điều đó luôn đòi hỏi người giáo viên phải thật sự có tri thức sâu rộng và gương mẫu,
cần đưa nhiều giáo viên đi học nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ quản lý. Thời
đại ngày nay, với việc đổi mới phương pháp dạy - học, vai trò của người giáo viên là
khuyến khích sự chủ động, sáng tạo của HS thay vì cứ áp đặt tài liệu sách giáo khoa
buộc HS học.
Phải có chế độ chính sách hợp lý để nâng cao đời sống vật chất cho giáo viên,
tạo điều kiện thuận lợi để GV yên tâm công tác và nâng cao trình độ chuyên môn.
- Để tạo tiền đề, tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng GD – ĐT theo
hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến trong nước và trong khu vực, GD – ĐT Long An
cố gắng phấn đấu thoát khỏi tình trạng trì trệ, lạc hậu. Để làm được điều đó cần phải
ưu tiên đầu tư để củng cố vững chắc thành quả PCGDTH – XMC, xây dựng CSVC
trường học ở vùng lũ để HS không phải nghỉ học mùa lũ, tăng cường quy mô và chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực trong toàn tỉnh .
- Tỉnh cố gắng xây dựng hoàn chỉnh và phát triển hệ thống giáo dục MN trên
địa bàn, tập trung phát triển toàn diện và lành mạnh cho trẻ cả về sức khỏe, trí tuệ,
tình cảm. Có sự phối hợp gắn bó chặt chẽ giữa Nhà trường – Gia đình – Xã hội trong
công tác chăm sóc và nuôi dạy trẻ. Phổ biến rộng rãi phương pháp và kiến thức nuôi
dạt trẻ đến từng gia đình nhằm giảm tình trạng suy dinh dưõng và kém phát triển ở trẻ
em
Mở rộng hơn nữa hệ thống nhà trẻ và trường MG trên địa bàn dân cư, đặc biệt
là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa của tỉnh.
- Ở bậc phổ thông cần thực hiện giáo dục toàn diện về mọi mặt, xây dựng động
cơ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chủ động, tích cực, sáng tạo…
Giúp HS TH hình thành những cơ sở ban đầu để phát triển đúng đắn và lâu dài,
quan tâm đúng mức đến việc bồi dưỡng lòng ham học hỏi và các kỷ năng cơ bản để
học tập suốt đời. Cần phải cải thiện cơ hội nhập học cũng như kết quả học tập và chất
lượng giáo dục TH. Tổ chức học 02 buổi/ ngày ở những nơi có nhu cầu và điều kiện.
Cung cấp cho HS THCS học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu
về kỹ thuật và hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau THCS, tạo điều kiện để HS
tiếp tục học tập hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Hoàn thiện việc cung cấp cho HS PTTH học vấn phổ thông theo một chuẩn
thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng lực sở trường của HS ở một
mức độ nhất định, giúp HS có những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng nghiệp
để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng sau PTTH, để HS chọn ngành nghề
học tiếp hoặc tham gia lao động sản xuất.
- Với trung học chuyên nghiệp, cần mở rộng đào tạo kỹ thuật viên, nhân viên
nghiệp vụ có có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung cấp, dựa trên nền
tảng học vấn THCS và PTTH. Chú trọng đào tạo trình độ trung cấp cho các ngành
nông nghiệp, chế biển thủy sản, y tế, giáo viên MN, văn hóa, du lịch…
Phát triển các loại hình đào tạo nghề, nâng cao chất lượng đào tạo nghề gắng
với nâng cao ý thức, kỹ luật lao động và tác phong lao động hiện đại trên địa bàn tỉnh.
Mở rộng đào tạo công nhân kỹ thuật, chú trọng đào tạo công nhân lành nghề cho
những ngành kinh tế quan trọng của tỉnh và đào tạo công nhân cho xuất khẩu lao
động. Phát triển dạy nghề ngắn hạn, đặc biệt là ở vùng nông thôn nhằm thực hiện việc
chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các nghề khác. Thực hiện chương
trình phổ cập nghề, tin học và ngoại ngữ cho thanh niên trong tỉnh.
- Mở rộng quy mô đào tạo cao đẳng, đại học và sau đại học trên địa bàn tỉnh
nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực, trình độ cao cho sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện
đại hóa tỉnh nhà.
- Phải cố gắng phấn đấu để không còn tình trạng thiếu giáo viên ở các cấp, bậc
học và các bộ môn. Tăng tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn, phát triển đội ngũ
giáo viên giỏi, chuyên gia đầu ngành ở các tổ bộ môn có trình độ sau đại học. Hoàn
thiện cơ cấu tổ chức, chuyển hóa đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục các cấp …
- Xác định và thể chế hóa vai trò, chức năng của các cấp quản lý, tăng cường
bộ máy thanh tra quá trình GD – ĐT để đảm bảo thanh tra theo đúng quy định của
pháp luật.
Thực hiện phân cấp quản lý giáo dục một cách hợp lý nhằm đảm bảo quản lý
thống nhất GD – ĐT trên địa bàn tỉnh, đồng thời phát huy tính chủ động của các cơ
sở GD – ĐT .
- Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới trường MN và phổ thông đến từng huyện
(thị) trong toàn tỉnh. Quy hoạch mạng lưới trường lớp MN và phổ thông gắn liền với
quy hoạch cụm dân cư để thuận tiện cho việc đi lại và học tập của các HS, tránh tình
trạng trường học quá xa khu dân cư hoặc nằm trong khu dân cư quá đông đúc ồn ào
ảnh hưởng đến việc học tập của các em.
Đảm bảo trường học phải thoáng mát, sạch sẽ, không bị ngập lụt vào những
mùa mưa lũ, tránh tình trạng ngấp úng, đi lại khó khăn, nước tù đọng sinh ra muỗi,
dịch bệnh…
Mỗi địa bàn xã (phường) hoặc ở nơi thưa dân cư thì cụm xã (phường) có ít
nhất 01 trường TH và 01 trường THCS kiên cố. Ở mỗi huyện phải có ít nhất 01
trường PTTH kiên cố, có đủ trang thiết bị thí nghiệm, phòng thí nghiệm, phòng vi
tính, phòng học ngoại ngữ, thư viện …Tập trung đầu tư xây dựng trường học đạt
chuẩn quốc gia ở các cấp bậc học.
Hoàn thiện mạng lưới các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh.
Duy trì và củng cố các Trung tâm GDTX, Trung tâm KTHN – TH – DN của
tỉnh.
Hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các trường đại học , cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề trên toàn tỉnh. Để đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân
lực địa phương sẽ mở rộng trường CĐSP Long An thành trường cao đẳng Cộng đồng
hoặc thành trường đại học đa ngành thuộc tỉnh.
Khuyến khích các thành phần kinh tế mở các trung tâm dạy nghề ngắn hạn,
nhất là ở khu vực thị trấn các huyện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đức Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới
tương lai vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Phan Trọng Báu (1994), Giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb Khoa học xã hội.
3. Bộ giáo dục và đào tạo (1992), Chương trình chăm sóc – Giáo dục mẫu giáo
(từ 5 – 6 tuổi), tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội.
4. Bộ giáo dục và đào tạo (1996), Các chủ trương đổi mới giáo dục – đào tạo
trong mười năm (1986 – 1996).
5. Bộ giáo dục và đào tạo (1995), Các định hướng chiến lược phát triển giáo dục –
đào tạo từ nay đến năm 2020.
6. Bộ giáo dục và đào tạo, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục, Chiến lược phát
triển giáo dục trong thế kỷ XXI kinh nghiệm của các quốc gia, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ giáo dục và đào tạo (2004), Giáo dục đại học Việt Nam, Nxb
Giáo Dục.
8. Bộ giáo dục và đào tạo, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục (1998), Những vấn
đề về chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa – Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chiến lược phát triển Giáo
dục và Đào tạo, Nxb TP.Hồ Chí Minh.
9. Bộ giáo dục và đào tạo, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục (1998), Những vấn
đề chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa - Bối cảnh, xu hướng và động lực phát triển, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
10. Bộ giáo dục và đào tạo (1996), Tổng kết đánh giá mười năm đổi mới giáo dục
– đào tạo (1986 – 1996).
11. Bộ giáo dục và đào tạo, Phạm Minh Hạc (chủ biên), (1994), Kết quả nghiên
cứu về giáo dục – đào tạo (1991 – 1992), Hà Nội.
12. Cục thống kê Long An, Số liệu thống kê năm 1976.
13. Cục thống kê Long An, Số liệu thống kê năm 1979.
14. Cục thống kê Long An, Số liệu thống kê năm 1976 – 1980.
15. Cục Thống kê Long An, Số liệu thống kê năm 1981 – 1985.
16. Cục thống kê Long An, Niên Giám thống kê 1996.
17. Cục thống kê Long An, Số liệu thống kê năm 1997.
18. Lê Thanh Hoàng Dân (1970), Các vấn đề Giáo dục, Nxb Trẻ.
19. Phạm Tất Dong (chủ biên) (1995), Tri thức Việt Nam - Thực tiễn và triển
vọng, Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội.
20. Hồ Ngọc Đại (1991), Giải pháp giáo dục, Nxb Giáo Dục.
21. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ : Lịch sử cơ quan Bộ giáo dục và đào tạo
1945 – 1995, Từ Bộ Quốc gia giáo dục đến Bộ giáo dục và Đào tạo 1945
– 1995.
22. Phạm Văn Đồng (1979), Sự nghiệp giáo dục trong chế độ Xã hội chủ nghĩa,
Nxb Sự Thật, Hà Nội.
23. Phạm Văn Đồng (1999), Về vấn đề giáo dục – đào tạo, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
24. Lê Văn Giạng (2003), Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Nguyễn Công Giáp (1996), Giáo dục thường xuyên, hiện trạng và xu hướng
phát triển, Hà Nội.
26. Phạm Minh Hạc (1995), Giáo dục con người hôm nay và ngày mai, Nxb Giáo
Dục, Hà Nội.
27. Phạm Minh Hạc (1997), Giáo dục nhân cách, đào tạo nhân lực, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
28. Phạm Minh Hạc (1998), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Phạm Minh Hạc (1996), Mười năm đổi mới giáo dục, Nxb Giáo Dục, Hà Hội.
30. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ
phát triển xã hội, kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
31. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển văn hóa, gìn giữ bản sắc dân tộc, tiếp thu
tinh hoa nhân loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1992), Sơ thảo lịch sử giáo dục Việt Nam, Nxb
Giáo Dục, Hà Nội.
33. Phạm Minh Hạc (chủ biên) )1984), Về phổ cập giáo dục, Nxb Giáo Dục, Hà
Nội.
34. Đào Minh Hải, Minh Tiến (sưu tằm) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục, Nxb Lao Động, Hà Nội.
35. Nguyễn Văn Huyên (1990), Những bài nói và viết về giáo dục, Nxb Giáo
Dục.
36. Nguyễn Đắc Hưng, Phan Xuân Dũng (2003), Nhân tài trong chiến lược phát
triển quốc gia, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Hội khoa học kinh tế Việt Nam, Trung tâm thông tin và tư vấn phát triển
(2005), Giáo dục Việt Nam 1945 – 2005, T1,2, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
38. Vũ Ngọc Khánh (1985), Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945, Nxb
Giáo Dục, Hà Nội.
39. Phạm Thị Mỹ Linh (2004), Những chuyển biến kinh tế - xã hội của tỉnh Long
An từ năm 1986 – 2002. Luận văn thạc sĩ lịch sử. Đại học khoa
học xã hội và nhân văn, TP. Hồ Chí Minh.
40. Phan Trọng Luận (2002), Văn học giáo dục thế kỷ XXI, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
42. Đỗ Mười (1996), Phát triển giáo dục – đào tạo phục vụ đắc lực sự nghiệp
công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
43. Đỗ Văn Ninh (2001), Quốc Tử Giám trí tuệ Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
44. Nhiều tác giả (1995), Dạy và học trong những năm Nam Bộ kháng chiến 1945
– 1954, Nxb TP Hồ Chí Minh.
45. Nhiều tác giả (2002), Giáo dục Nam Bộ thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945
– 1954, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
46. Nguyễn Đắc Tiến (chủ biên ), (1996), Lịch sử Giáo Dục Việt Nam trước Cách
mạng thánh 8 – 1945, Nxb Giáo Dục.
47. Thạch Phương, Lưu Quang Tuyến (chủ biên)(1989), Địa chí Long An, Nxb
Long An và Khoa học xã hội.
48. Nguyễn Thành Phương (2006), Lịch sử phát triển giáo dục – đào tạo ở An
Giang (1975 – 2000), Luận án tiến sĩ Sử học, Đại học khoa học xã hội và
nhân văn, TP Hồ Chí Minh.
49. Nguyễn Q. Thắng (1993), Khoa cử và giáo dục Việt nam : Các sự kiện giáo
dục Việt Nam lược thảo, Nxb Văn hóa Thông tin , Hà Nội.
50. Nguyễn Q. Thắng (1998), Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
51. Nguyễn Cảnh Toàn (2002), Bàn về giáo dục Việt Nam, Nxb Lao Động.
52. Nguyễn Khánh Toàn (1995), Một số vấn đề của giáo dục Việt Nam, Nxb Giáo
Dục, Hà Nội.
53. Dương Thiệu Tống (2003), Suy nghĩ về giáo dục truyền thống và
hiện đại, Nxb Trẻ.
54. Giáo sư Hoàng Tụy (chủ biên) (2005), Cải cách và chấn hưng
giáo dục, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
55. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 1986.
56. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 1987.
57. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 1988.
58. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 1989.
59. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 1990.
60. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 1991.
61. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 1992.
62. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 1993.
63. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 1994.
64. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 1995.
65. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 1996.
66. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 1997.
67. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 1998.
68. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 1999.
69. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 2000.
70. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 2001.
71. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 2002.
72. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 2003.
73. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 2004.
74. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 2005.
75. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết và phương hướng nhiệm vụ năm 2006.
76. Sở giáo dục – đào tạo Long An (1995), Báo cáo tình hình 5 năm thực
hiện nghị quyết Đại Hội V Tỉnh Đảng Bộ, tài liệu lưu trữ.
77. Sở giáo dục – đào tạo Long An (1996), Báo cáo tình hình đầu năm học 1996 –
1997, tài liệu lưu trữ.
78. Sở giáo dục – đào tạo Long An (1997), Báo cáo tổng kết năm học 1996 –
1997, tài liệu lưu trữ.
79. Sở giáo dục – đào tạo Long An (1998), Báo cáo tổng kết năm học 1997 –
1998, tài liệu lưu trữ.
80. Sở giáo dục – đào tạo Long An (1999), Báo cáo tổng kết năm học 1998 –
1999, tài liệu lưu trữ.
81. Sở giáo dục – đào tạo Long An (2000), Báo cáo tổng kết 5 năm (1995 –
1999) về xã hội hóa Giáo dục, tài liệu lưu trữ.
82. Sở giáo dục – đào tạo Long An (2000), Báo cáo tổng kết năm học 1999 –
2000, tài liệu lưu trữ.
83. Sở giáo dục – đào tạo Long An (2001), Báo cáo tổng kết năm học 2000 –
2001, tài liệu lưu trữ.
84. Sở giáo dục – đào tạo Long An (2002), Báo cáo tổng kết năm học 2001– 2002,
tài liệu lưu trữ.
85. Sở giáo dục – đào tạo Long An (2003), Báo cáo tổng kết năm học 2002 –
2003, tài liệu lưu trữ.
86. Sở giáo dục – đào tạo Long An (2004), Báo cáo tổng kết năm học 2003 –
2004, tài liệu lưu trữ.
87. Sở giáo dục – đào tạo Long An (2005), Báo cáo tổng kết năm học 2004 –
2005, tài liệu lưu trữ.
88. Sở giáo dục – đào tạo Long An (2006), Báo cáo tổng kết năm học 2005 –
2006, tài liệu lưu trữ.
89.Sở giáo dục – đào tạo Long An, Trung Tâm KTTH – HN – DN Long
An, Tổng kết 10 năm thành lập TT. KTTH – HN – DN Long An
(05/01/1987 – 05/01/1997), tài liệu lưu trữ.
90. Sở giáo dục – đào tạo Long An, Trường Trung học sư phạm Long An (1990),
Báo cáo tổng kết năm học 1989 – 1990, tài liệu lưu trữ.
91. Sở giáo dục – đào tạo Long An, trường CĐSP Long An (1994), Báo
cáo tổng kết năm học 1993 – 1994, tài liệu lưu trữ.
92. Sở giáo dục – đào tạo Long An, trường CĐSP Long An (1995), Báo
cáo tổng kết năm học 1994 – 1995, tài liệu lưu trữ.
93. Sở giáo dục – đào tạo Long An, trường CĐSP Long An (1996), Báo
cáo tổng kết năm học 1995 – 1996, tài liệu lưu trữ.
94. Sở giáo dục – đào tạo Long An, trường CĐSP Long An (1997), Báo
cáo tổng kết năm học 1996 – 1997, tài liệu lưu trữ.
95. Sở giáo dục – đào tạo Long An, trường CĐSP Long An (1998), Báo
cáo tổng kết năm học 1997 – 1998, tài liệu lưu trữ.
96. Sở giáo dục – đào tạo Long An, trường CĐSP Long An (1999), Báo
cáo tổng kết năm học 1998 – 1999, tài liệu lưu trữ.
97. Sở giáo dục – đào tạo Long An, trường CĐSP Long An (2000), Báo
cáo tổng kết năm học 1999 – 2000, tài liệu lưu trữ.
98. Sở giáo dục – đào tạo Long An, trường CĐSP Long An (2001), Báo
cáo tổng kết năm học 2000 – 2001, tài liệu lưu trữ.
99. Sở giáo dục – đào tạo Long An, trường CĐSP Long An (2002), Báo
cáo tổng kết năm học 2001 – 2002, tài liệu lưu trữ.
100. Sở giáo dục – đào tạo Long An, trường CĐSP Long An (2003), Báo
cáo tổng kết năm học 2002 – 2003, tài liệu lưu trữ.
101. Sở giáo dục – đào tạo Long An, trường CĐSP Long An (2004), Báo
cáo tổng kết năm học 2003 – 2004, tài liệu lưu trữ.
102. Sở giáo dục – đào tạo Long An, trường CĐSP Long An (2005), Báo
cáo tổng kết năm học 2004 – 2005, tài liệu lưu trữ.
103. Sở giáo dục – đào tạo Long An, trường CĐSP Long An (2006), Báo
cáo tổng kết năm học 2005 – 2006, tài liệu lưu trữ.
104. Ủy ban nhân dân tỉnh Long An, Sở giáo dục – đào tạo (1997), Chương trình
hoạt động thực hiện NQ TW 2 và NQ Tỉnh Ủy về giáo dục và đào tạo
(1997 – 2000), tài liệu lưu trữ.
105. Ủy ban nhân dân tỉnh Long An, Sở giáo dục - đào tạo (2002), Quy
hoạch phát triển Giáo dục và Đào tạo tỉnh Long An đến năm 2010, tài liệu
lưu trữ.
106. Ủy ban nhân dân tỉnh Long An (2004), Niên Giám Long An, Nxb
thông Tấn, Hà Nội.
107. Trung Tâm KTTH – HN – DN Long An (2006), Bảng thống kê số
liệu học sinh, tài liệu lưu trữ.
108. Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục và đào tạo
nhân tài, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
PHỤ LỤC I. CÁC CHỈ SỐ QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC
NHÀ TRẺ TỈNH LONG AN
Năm 2005 2010 2015 2020
Dân số từ 0 – 2 tuổi 71767 69724 65170 62442
Tỷ lệ HS / Dân số 15 25 40 7
Tỷ lệ HS công lập / Tổng số HS 20 20 20 20
HS / Nhóm trẻ 10 10 10 10
Chỉ số HS / GV 10 10 10 10
Chỉ số nhóm / phòng học 1 1 1 1.3
Chi / HS công lập ( triệu đồng) 1.04 1.39 1.74 2.09
Tổng số HS 5024 10459 16293 24977
HS công lập 1005 2092 3259 4995
Tổng số nhóm trẻ 1049 1629 2498 502
Nhóm trẻ công lập 209 326 500 100
Tổng số GV 1046 1629 2498 502
GV công lập 209 326 500 100
Tổng số phòng học 1046 1629 2498 386
Phòng học công lập 209 326 500 77
1045 2907 5670 10440
10 15 15 15
3.5 3.5 3.5 3.5
50237 156879 244388 374652
Ngân sách công lập Diện tích trường học bình quân / HS (m2) Diện tích phòng học bình quân / HS (m2) Tổng diện tích trường học (m2) Tổng diện tích phòng học (m2) 17583 36605 57024 87419
Nguồn: UBND tỉnh, Sở GD & ĐT – Quy hoạch phát triển GD – ĐT tỉnh Long
An đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC II. CÁC CHỈ SỐ QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
MẪU GIÁO TỈNH LONG AN
Năm 2005 2010 2015 2020
Dân số 3 – 5 tuổi 69.308 68.829 66.313 62.105
Tỷ lệ HS / Dân số 55 65 75 80
Tỷ lệ HS mẫu giáo 5 tuổi / Dân số 5 tuổi 87 95 97 99
Tỷ lệ HS công lập / Tổng số HS 45 40 35 30
HS / Lớp 25 25 25 25
Chỉ số HS / GV 23 20 20 20
Chỉ số lớp / phòng học 1 1 1 1
0.91 1.26 1.61 1.96
1.5 1.5 1.5 1.5
Chi thường xuyên / HS công lập (triệu đ) Diện tích phòng học bình quân / HS (m2) Diện tích trường học bình quân / HS (m2) 10 15 15 15
Tổng số HS 38119 44739 49735 49684
HS mẫu giáo 5 tuổi 19660 21891 21750 20606
Tổng số lớp học 1525 1790 1989 1987
Tổng số GV 1657 2237 2487 2484
Tổng số phòng học 1525 1790 1989 1987
15610 22548 28026 29214
57179 67108 74602 74526
Ngân sách công lập (triệu đồng) Tổng diện tích phòng học (m2) Tổng diện tích trường học (m2) 381194 671083 746021 745260
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT – Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010 . Năm 2002.
PHỤ LỤC III. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
THỊ XÃ TÂN AN
Năm 2005 2010
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
9380 7353 4479 9333 7089 4433 Số HS
313 184 100 311 177 99 Số lớp
360 340 209 358 328 207 Số GV
313 184 100 311 177 99 Số phòng học
15 15 3 8 8 3
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 187600 147060 89580 186660 141780 88660
Năm 2015 2020
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
9765 7517 4494 9258 7765 4797 Số HS
326 188 100 309 194 107 Số lớp
374 348 210 355 359 224 Số GV
326 188 100 309 194 107 Số phòng học
15 15 8 3 8 3
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 195300 150340 89880 185160 155300 95940
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC IV. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
HUYỆN CHÂU THÀNH
2005 2010 Năm
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
8978 6593 4004 8660 6810 3981 Số HS
299 165 89 289 170 88 Số lớp
344 305 187 332 315 186 Số GV
299 165 89 289 170 88 Số phòng học
15 15 7 7 2 2
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 179560 131860 80080 173200 136200 79620
Năm 2015 2020
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
8609 7093 4504 8155 6964 4712 Số HS
287 177 100 272 174 105 Số lớp
330 328 210 313 322 220 Số GV
287 177 100 272 174 105 Số phòng học
15 15 7 3 3 7
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 172180 141860 90080 163100 139280 94240
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC V. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
HUYỆN TÂN TRỤ
2005 2010 Năm
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
5519 4177 2602 5326 4188 2418 Số HS
184 104 58 178 105 54 Số lớp
212 193 121 204 194 113 Số GV
184 104 58 178 105 54 Số phòng học
11 11 2 4 4 2
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 110380 83540 52040 106520 83760 48360
Năm 2015 2020
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
5295 4363 2770 5017 4283 2898 Số HS
177 109 62 167 107 64 Số lớp
203 202 129 192 198 135 Số GV
177 109 62 167 107 64 Số phòng học
11 11 2 5 5 2
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 105900 87260 55400 100340 85660 57960
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC VI. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
HUYỆN THỦ THỪA
2005 2010 Năm
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
7768 6640 3773 7494 5880 3813 Số HS
259 166 84 250 147 85 Số lớp
298 307 176 287 272 178 Số GV
259 166 84 250 147 85 Số phòng học
20 20 7 3 2 7
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 155360 132800 75460 149880 117600 76260
Năm 2015 2020
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
7527 6139 3890 7131 6090 4090 Số HS
251 153 86 238 152 91 Số lớp
289 284 182 273 282 191 Số GV
251 153 86 238 152 91 Số phòng học
20 20 7 3 7 3
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 150540 122780 77800 142620 121800 81800
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC VII. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
HUYỆN BẾN LỨC
2005 2010 Năm
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
11429 9713 5209 11022 8653 5557 Số HS
381 243 116 367 216 123 Số lớp
438 449 243 423 400 259 Số GV
381 243 116 367 216 123 Số phòng học
20 20 10 10 3 3
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 228580 194260 104180 220440 173060 111140
Năm 2015 2020
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
11070 9029 5723 10490 8955 6017 Số HS
369 226 127 350 224 134 Số lớp
242 418 267 402 414 281 Số GV
369 226 127 350 224 134 Số phòng học
10 20 20 10 4 4
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 221400 180580 114460 209800 179100 120340
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC VIII. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
HUYỆN CẦN ĐƯỚC
2005 2010 Năm
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
14660 11813 6059 14104 11102 6951 Số HS
489 295 135 470 278 154 Số lớp
562 546 283 541 513 324 Số GV
489 295 135 470 278 154 Số phòng học
18 12 12 18 4 5
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 293200 236260 121180 282080 222040 139020
Năm 2015 2020
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
14021 11553 7338 13285 11342 7676 Số HS
467 289 163 443 284 171 Số lớp
537 534 342 509 525 358 Số GV
467 289 163 443 284 171 Số phòng học
12 18 18 12 5 5
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 280420 231060 146760 265700 226840 153520
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC IX. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
HUYỆN CẦN GIUỘC
2005 2010 Năm
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
15575 11315 5530 14351 11799 7055 Số HS
519 283 123 478 295 157 Số lớp
597 523 258 550 546 329 Số GV
519 283 123 478 295 157 Số phòng học
19 12 12 19 4 3
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 311500 226300 110600 287020 235980 141100
Năm 2015 2020
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
13613 11750 7703 12893 11010 7699 Số HS
454 294 171 430 275 171 Số lớp
522 543 359 494 509 359 Số GV
454 294 171 430 275 171 Số phòng học
19 19 12 12 5 5
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 272260 235000 154060 257860 220200 153980
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC X. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
HUYỆN ĐỨC HÒA
2005 2010 Năm
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
17428 14668 8832 16774 13202 8350 Số HS
581 367 196 559 330 186 Số lớp
668 678 412 643 611 390 Số GV
581 367 196 559 330 186 Số phòng học
15 25 25 15 5
Số trường 5 Tổng diện tích trường (m2) 348560 293360 176640 335480 264040 167000
Năm 2015 2020
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
16676 13740 8725 15798 13490 9129 Số HS
556 344 194 527 337 203 Số lớp
639 635 407 606 624 426 Số GV
556 344 194 527 337 203 Số phòng học
25 15 15 25 6 5
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 333520 274800 174500 315960 269800 182580
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC XI. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
HUYỆN ĐỨC HUỆ
2005 2010 Năm
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
6399 5813 3057 5883 4839 3299 Số HS
213 145 68 196 121 73 Số lớp
245 269 143 226 224 154 Số GV
213 145 68 196 121 73 Số phòng học
10 10 5 2 5 2
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 127980 116260 61140 117660 96780 65980
Năm 2015 2020
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
5580 4817 3158 5287 4513 3155 Số HS
186 120 70 176 113 70 Số lớp
214 223 147 203 209 147 Số GV
186 120 70 176 113 70 Số phòng học
10 10 2 5 5 2
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 111600 96340 63160 105740 90260 63100
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC XII. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
HUYỆN THẠNH HÓA
2005 2010 Năm
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
5439 4673 2177 5312 4114 2707 Số HS
181 117 48 177 103 60 Số lớp
208 216 102 204 190 126 Số GV
181 117 48 177 103 60 Số phòng học
8 8 6 2 1 6
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 108780 93460 43540 106240 82280 54140
Năm 2015 2020
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
5432 4352 2725 5479 4410 2900 Số HS
81 109 61 183 110 64 Số lớp
208 201 127 210 204 135 Số GV
181 109 61 183 110 64 Số phòng học
8 8 6 2 2 6
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 108640 87040 54500 109580 88200 58000
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC XIII. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
HUYỆN TÂN THẠNH
2005 2010 Năm
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
7503 7855 3652 7216 5666 4237 Số HS
250 196 81 241 142 94 Số lớp
288 363 170 277 262 198 Số GV
250 196 81 241 142 94 Số phòng học
10 10 8 3 8 3
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 150060 157100 73040 144320 113320 84740
Năm 2015 2020
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
7246 5911 3746 6867 5862 3939 Số HS
242 148 83 229 147 88 Số lớp
278 273 175 263 271 184 Số GV
242 148 83 229 147 88 Số phòng học
10 10 8 3 8 3
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 144920 118220 74920 137340 117240 78780
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC XIV. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
HUYỆN MỘC HÓA
2005 2010 Năm
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
7120 6368 2986 6861 5385 3699 Số HS
237 159 66 229 135 82 Số lớp
273 295 139 263 249 173 Số GV
237 159 66 229 135 82 Số phòng học
13 13 7 2 3 7
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 142400 127360 59720 137220 107700 73980
Năm 2015 2020
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
7091 5606 3568 7151 5758 3763 Số HS
236 140 79 238 144 84 Số lớp
272 259 167 274 266 176 Số GV
236 140 79 238 144 84 Số phòng học
13 13 7 7 3 3
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 141820 112120 71360 143020 115160 75260
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC XV. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
HUYỆN VĨNH HƯNG
2005 2010 Năm
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
Số HS 4505 4235 1830 4390 3401 2472
Số lớp 150 106 41 146 85 55
Số GV 173 196 85 168 157 115
Số phòng học 150 106 41 146 85 55
6 4 1 6 4 2
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 90100 84700 36600 87800 68020 49440
Năm 2015 2020
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
Số HS 4489 3597 2251 4528 3645 2397
Số lớp 150 90 50 151 91 53
Số GV 172 166 105 174 169 112
Số phòng học 150 90 50 151 91 53
6 4 2 6 4 2
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 89780 71940 45020 90560 72900 47940
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC XVI. QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
HUYỆN TÂN HƯNG
2005 2010 Năm
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
5532 4321 1532 5206 4183 2739 Số HS
184 108 34 174 105 61 Số lớp
212 200 71 200 193 128 Số GV
184 108 34 174 105 61 Số phòng học
5 5 7 1 7 2
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 110640 86420 30640 104120 83660 54780
Năm 2015 2020
Bậc TH THCS PTTH TH THCS PTTH
5079 4274 2731 5121 4123 2808 Số HS
169 107 61 171 103 62 Số lớp
195 198 127 196 191 131 Số GV
169 107 61 171 103 62 Số phòng học
5 5 7 2 2 7
Số trường Tổng diện tích trường (m2) 101580 85480 54620 102420 82460 56160
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC XVII : DỰ BÁO SỐ LƯỢNG HỌC SINH
TIỂU HỌC TOÀN TỈNH NĂM 2007 – 2020
Năm Lớp 1 Lớp 2 Lớp 3 Lớp 4 Lớp 5 Tổng cộng
25523 24267 24599 24784 25118 124292 2007
25437 24988 23908 24357 24066 122755 2008
25336 24919 24597 23678 23650 122180 2009
25248 24821 24540 24332 22991 121932 2010
24946 24993 24695 24417 24112 123163 2011
24801 24697 24867 24571 24197 123132 2012
24658 24553 24574 24741 24349 122875 2013
24517 24411 24430 24452 24518 122328 2014
24392 24271 24289 24308 24232 121493 2015
24344 24148 24150 24168 24089 120898 2016
23982 24100 24027 24029 23950 120088 2017
23630 23743 23979 23907 23813 119072 2018
23290 23395 23626 23858 23692 117861 2019
22972 23058 23279 23509 23644 116461 2020
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC XVIII : DỰ BÁO SỐ LƯỢNG HỌC SINH THCS
TOÀN TỈNH NĂM 2007 – 2020
Lớp 9 Tổng cộng Lớp 6 Lớp 7 Năm Lớp 8
26114 101792 24438 25054 2007 26186
25607 100078 25145 24310 2008 25017
24469 97821 24127 24963 2009 24263
23729 96312 23700 24008 2010 24875
24864 96568 23031 24228 2011 24446
24447 96815 24141 23575 2012 24652
24648 97540 24233 24649 2013 24010
24013 98231 24385 24776 2014 25056
25046 99742 24554 24931 2015 25211
25208 99951 24272 25103 2016 25369
25365 99865 24127 24829 2017 25543
25539 99480 23988 24676 2018 25277
25276 98777 23851 24533 2019 25117
25117 98209 23729 24393 2020 24971
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.
PHỤ LỤC XIX : DỰ BÁO SỐ LƯỢNG HỌC SINH PTTH
TOÀN TỈNH NĂM 2007 – 2020
Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Tổng cộng Năm
21018 22574 19277 288953 2007
20695 22951 19510 285990 2008
21025 22525 19216 282768 2009
20652 21545 19515 279956 2010
21269 20828 20377 282205 2011
20566 21812 20989 283313 2012
21527 21457 20297 283695 2013
21180 21630 21241 284610 2014
21346 21079 20900 284559 2015
20807 21975 21060 284691 2016
21682 22123 20530 284288 2017
21832 22261 21390 284035 2018
21969 22413 21540 282560 2019
22119 22188 21675 280651 2020
Nguồn : UBND tỉnh, Sở GD & ĐT - Quy hoạch phát triển GD – ĐT Long An
đến năm 2010. Năm 2002.