BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Dương Thế Hiền

VÙNG ĐẤT AN GIANG TRONG CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG CỦA CHÍNH QUYỀN CHÚA NGUYỄN VÀ VUA NGUYỄN THỜI KÌ 1757 - 1867

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Dương Thế Hiền

VÙNG ĐẤT AN GIANG TRONG CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG CỦA CHÍNH QUYỀN CHÚA NGUYỄN VÀ VUA NGUYỄN THỜI KÌ 1757 - 1867

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 66 22 02 13

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN THỊ THANH THANH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện.

Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn chưa

từng công bố ở các công trình nghiên cứu khác.

Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm

Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học, quý thầy

cô Khoa Sử cùng tất cả các anh chị em học viên đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn

thành luận văn.

Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng và biết ơn đến Tiến sĩ Trần Thị Thanh

Thanh, Người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn cho tôi trong quá trình học tập,

nghiên cứu và thực hiện luận văn này.

Tôi cũng xin tỏ lòng tri ân ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang, Hội Sử học

tỉnh An Giang, Thư viện tỉnh An Giang đã tận tình giúp đỡ tôi về nguồn tư liệu.

Tuy chỉ được nghiên cứu trong thời gian ngắn, nhưng với sự giúp đỡ tận

tình của quý thầy cô, sự hỗ trợ của bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, sự cố gắng hết

sức mình, tôi đã có điều kiện tiếp thu được kiến thức và phương pháp nghiên

cứu vô cùng quý báu để hoàn thành luận văn này.

Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2014

Dương Thế Hiền

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ................................................................................................ 1

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ....................................................................................... 2

3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ........................................................................... 2

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ............................................................ 6

5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN ......................................................... 6

6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................... 7

7. BỐ CỤC LUẬN VĂN ................................................................................................. 8

Chương 1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA

CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG TRÊN VÙNG ĐẤT AN GIANG ................ 10

1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên An Giang .................................................................. 10

1.2. Đặc điểm hành chính - dân cư An Giang trước năm 1867 ..................................... 19

1.3. Vùng đất An Giang trong bối cảnh lịch sử trước năm 1757 .................................. 35

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................................ 50

Chương 2. AN GIANG TRONG CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG CỦA

CHÍNH QUYỀN CHÚA NGUYỄN THỜI KÌ 1757 – 1777 ............................ 52

2.1. Vùng đất An Giang trong quá trình các chúa Nguyễn làm chủ, củng cố và bảo vệ vùng lãnh thổ từ Tầm Phong Long đến Hà Tiên và quan hệ đối ngoại Đàng Trong - Chân Lạp - Xiêm La ...................................................................... 52

2.2.1. Lực lượng quốc phòng – tổ chức và phiên chế của quân đội chúa Nguyễn trên

vùng đất An Giang................................................ ....................................................... .73

2.2.2. Căn cứ quốc phòng - hệ thống phòng thủ trên vùng đất An Giang trước nguy cơ

xâm lấn từ phía Xiêm La và Chân Lạp. ........................................................................ 90

2.2.3. Hoạt động quốc phòng – những đặc điểm của quá trình thực thi nhiệm vụ chiến

lược trên vùng đất An Giang ........................................................................................ 94

2.2. Thế trận quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn tại vùng đất An Giang trong quá trình xác lập chủ quyền và quan hệ đối ngoại với Xiêm La và Chân Lạp ............................................................................................................... 73

2.3. Vùng đất An Giang trong quá trình khôi phục lực lượng của Nguyễn Ánh

chống lại Tây Sơn từ 1777 đến trước khi nhà Nguyễn thành lập (1802) ........... 101

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .............................................................................................. 107

Chương 3. AN GIANG TRONG CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG CỦA NHÀ

NGUYỄN THỜI KÌ 1802 – 1867 ..................................................................... 110

3.1. Vùng đất An Giang trong thời kì đầu triều Nguyễn từ 1802 đến 1867 ................ 110

3.2. Chính sách quốc phòng và hoạt động thực thi trên vùng đất An Giang của

3.2.1. Mối quan hệ Việt Nam - Chân Lạp - Xiêm La từ cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX và những chính sách quốc phòng mới trên vùng đất An Giang của chính quyền nhà Nguyễn..................................... ....................................................... 117

3.2.2. Tổ chức hoạt động của quân đội thời các vua Nguyễn trên vùng đất An Giang. ......... 133

3.2.3. Những hoạt động thực thi chính sách quốc phòng của chính quyền triều Nguyễn

trên vùng đất An Giang giai đoạn 1802 đến 1867............................................. ......... 154

vương triều Nguyễn trong thời kì 1802 - 1867 ................................................... 117

3.3. Ý nghĩa chiến lược của vùng đất An Giang trong thế trận quốc phòng biên

giới Tây Nam của chính quyền vua Nguyễn giai đoạn 1802 - 1867. ................. 180

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................................ 188

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 192

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 201

PHỤ LỤC ................................................................................................................... 207

1

MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Lịch sử Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc trước giặc

ngoại xâm. Tổ chức và hoạt động quốc phòng luôn được nhà nước Việt Nam đề cao,

nhất là chính sách quốc phòng tại những vùng biên cương, quan yếu.

Trong thời kì các chúa Nguyễn và vua Nguyễn, vấn đề quốc phòng trên vùng

biên giới Tây Nam Bộ, trong đó có An Giang bao gồm cả yếu tố an ninh, trật tự. Để

thực chiến lược đó, lực lượng quân đội đồn trú trở thành nhân tố quan trọng nhất, vừa

bảo vệ quốc gia trước các cuộc xâm lược từ phía Chân lạp và Xiêm La, vừa đảm

nhiệm công tác giữ gìn an ninh, trật tự cho công cuộc khai phá của các lưu dân, di dân,

góp phần to lớn vào sự hưng khởi của vùng đất này trong giai đoạn trước khi thực dân

Pháp xâm lược (1867).

Trên vùng đất Nam Bộ, An Giang có vị trí khá quan trọng với đường biên giới

án ngữ phía Tây Nam của tổ quốc tiếp giáp với Chân Lạp (Campuchia) dài khoảng

100 km, lại là nơi thường xuyên xảy ra tình hình bất ổn về chính trị và quân sự với các

nước láng giềng (Chân Lạp, Xiêm La) trong lịch sử. Vì vậy, ngay từ khi thụ đắc vùng

đất An Giang dưới tên gọi Tầm Phong Long, các chúa Nguyễn và sau này là triều

Nguyễn đã ra sức củng cố quốc phòng, bảo vệ vùng đất này nhằm tạo ra sự che chắn

cho cả vùng Nam Bộ ở phía sau. Từ đó, chúng ta dễ dàng nhận ra sự thiết yếu của

chính sách quốc phòng trên vùng đất này của các vương triều Việt Nam ngay từ khi

tiếp nhận chủ quyền trong lịch sử.

Với tình cảm của một người sinh ra và lớn lên trên vùng biên địa An Giang, lại

vừa làm công tác giảng dạy lịch sử tại địa phương, tôi mong muốn được nghiên cứu

lịch sử vùng đất quê hương trong tiến trình dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân

tộc, góp phần làm phong phú thêm những trang sử về vùng đất này.

Từ những phân tích trên, chúng tôi quyết định chọn và nghiên cứu đề tài “Vùng

đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua

Nguyễn thời kì 1757 - 1867” với mong muốn góp phần bổ sung tư liệu và nhận định

trong việc nghiên cứu lịch sử vùng đất Nam Bộ nói chung và lịch sử An Giang nói

2

riêng, cũng như mở rộng và nâng cao nhận thức cho người học trong quá trình giảng

dạy về nội dung này ở bậc đại học, cao đẳng và các trường trung học phổ thông.

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Việc nghiên cứu vấn đề “Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của

chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867” nhằm làm rõ và đóng

góp những nội dung sau:

- Phân tích đầy đủ những điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử của sự ra đời

chính sách quốc phòng trên vùng đất An Giang

- Chính sách quốc phòng và những hoạt động thực thi của chính quyền chúa

Nguyễn trên vùng đất An Giang từ 1757 đến 1777

- Đóng góp những tư liệu, phân tích về quá trình phục nghiệp của Nguyễn Ánh

trên vùng đất An Giang từ 1777 – 1802.

- Chính sách quốc phòng và những hoạt động thực thi của chính quyền triều

Nguyễn trên vùng đất An Giang từ 1802 đến 1867

- Góp thêm nhận định, đánh giá và kiến giải khoa học về vấn đề quốc phòng

trên vùng đất An Giang của thời kì chúa Nguyễn, triều Nguyễn.

- Kết quả nghiên cứu của đề tài đóng góp cơ sở khoa học cho việc nhận thức và

hoạch định chính sách quốc phòng của nhà nước ta trên vùng đất An Giang giai đoạn

hiện nay.

3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Các nguồn tài liệu có liên quan đến vùng đất An Giang trong thời kì 1757 -

1867 khá phong phú.

Đầu tiên phải kể đến là Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (1765 –

1825) được viết vào khoảng thế kỉ XIX dưới triều Gia Long (1802–1820) và được hiến

vào năm Minh Mạng thứ nhất (Canh Thìn, 1820) sau khi triều Nguyễn có chiếu tìm

kiếm và thu thập thư tịch cũ. Đây là một sử liệu quan trọng về Nam Bộ Việt Nam thời

nhà Nguyễn dưới hình thức địa phương chí. Vùng đất An Giang được đề cập đến trong

các mục về “Trấn Vĩnh Thanh”. Trong tác phẩm, những vấn đề về địa giới, khí hậu,

sông ngòi, núi non, thành quách, con người,... của trấn Vĩnh Thanh là nguồn tư liệu

đầu tiên về An Giang, mặc dù trấn Vĩnh Thanh có địa giới rộng gấp 5 lần tỉnh An

3

Giang hiện nay. Chính sách quốc phòng an ninh trên vùng đất An Giang được đề cập

thông qua các tư liệu về sự kiện, địa danh, công trình... trong tác phẩm nhưng chưa

được hệ thống hóa.

Bộ Đại Nam thực lục được vua Minh Mạng lệnh cho Quốc sử quán biên soạn

vào năm 1821. Đây là bộ sử chính thống được viết theo lối biên niên, gồm hai phần

Tiền biên và Chính biên. Đại Nam thục lục Tiền biên ghi chép lại giai đoạn lịch sử từ

năm 1558 (Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa) đến năm 1777 (đời chúa Nguyễn Phúc

Thuần – Nguyễn Huệ dẫn quân chiếm Gia Định). Đại Nam thực lục Chính biên chép

sự kiện từ năm 1777 (Nguyễn Ánh tìm cách khôi phục quyền lực) đến 1889 (vua Đồng

Khánh mất), sau này được soạn thêm đến năm 1925 (đời vua Khải Định). Bộ Đại Nam

thực lục ghi chép khá tường tận về tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, văn

hóa, giáo dục, ngoại giao, khí tượng,... Trong các nguồn tư liệu trên, có thể tìm thấy

những tư liệu về chính sách, hoạt động quốc phòng an ninh của chính quyền chúa

Nguyễn và vua Nguyễn tại vùng đất An Giang ở giai đoạn này, nhưng ở dạng liệt kê

và lẻ tẻ, chưa có sự phân tích, đánh giá, tổng hợp....để thấy rõ dưới góc độ một chiến

lược hoàn chỉnh.

Bộ Minh Mệnh chính yếu được Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn vào năm

1837, chủ yếu gồm những chỉ dụ của nhà vua và những sự kiện xảy ra trong triều

Minh Mệnh (1820-1840). Qua bộ sách, tài liệu gốc về cuộc chiến đấu giữ nước chống

lại quân Xiêm, cuộc đấu tranh chống cường quyền của nhân dân An Giang được viết

lại ở quyển XX, từ năm Minh Mệnh thứ năm (1824) đến năm Minh Mệnh thứ mười

tám (1837).

Địa bạ An Giang lần đầu tiên được lập vào ngày mùng 3 tháng 6 năm 1836

dưới triều Minh Mệnh thứ mười bảy (1836). Địa bạ An Giang có 43 tập, gồm địa bàn

các tỉnh Đồng Tháp, Cần Thơ, An Giang ngày nay. Đây là nguồn tư liệu quý báu để

tác giả luận văn có thể so sánh, đối chiếu những vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên

cứu như địa giới, biên giới...

Đại Nam nhất thống chí là bộ sách địa lý – lịch sử, được biên soạn vào năm Tự

Đức thứ hai mươi chín (1875) và hoàn thành vào khoảng năm 1881. Tỉnh An Giang

được viết trong quyển XXX, chia ra các mục như: ranh giới, hình thể tỉnh An Giang,

4

ranh giới các huyện, phủ, các cơ quan tấn sở trong bộ máy hành chính, thành trì, khí

hậu, núi sông, phong tục, hộ khẩu, thuế ruộng, nhà trạm, chợ quán, thổ sản, đê đập,

chùa miễu, nhân vật lịch sử... Đây là nguồn tư liệu quan trọng nhưng tỉnh An Giang

ngày xưa địa giới không trùng khớp với ngày nay nên trong nội dung luận văn, người

viết phải giải quyết những chi tiết phức tạp về địa danh, số liệu thống kê, xác định địa

bàn đang tìm hiểu thuộc hay không thuộc địa phận tỉnh An Giang hiện nay.

Các tài liệu cổ về vùng đất An Giang tuy phong phú song sự ghi chép còn quá

rời rạc, nội dung cần khai thác được xen lẫn với nhiều sự kiện khác, đòi hỏi sự tỉ mỉ và

công phu trong nghiên cứu vấn đề.

Trong thời hiện đại, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử vùng đất An

Giang hoặc đề cập đến tỉnh An Giang đã được công bố.

Thất Sơn mầu nhiệm của Nguyễn Văn Hầu, xuất bản năm 1955, đây là quyển

địa phương chí viết về vùng đất An Giang trong đó đi sâu nghiên cứu về lịch sư vùng

Thất Sơn (Bảy Núi), các tôn giáo như Bửu Sơn Kỳ Hương, Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu

Nghĩa. Hạn chế lớn nhất của tác phẩm này là mang màu sắc tôn giáo.

Tìm hiểu đất Hậu Giang của Sơn Nam xuất bản năm 1959, tác phẩm cung cấp

cái nhìn tổng quát về địa lý, lịch sử, văn hóa,... của vùng đất miền Hậu Giang trong đó

có An Giang từ thời Mạc Cửu khai phá đất Hà Tiên cuối thế kỉ XVII đến thời thực dân

Pháp sang xâm lược và đô hộ cuối thế kỉ XIX. Tuy nhiên, tác phẩm chưa trình bày rõ

ràng và có hệ thống chiến lược quốc phòng an ninh trên vùng đất này nói chung và An

Giang nói riêng.

Tân Châu xưa của Nguyễn Văn Kiềm và Huỳnh Minh, xuất bản năm 1964. Tác

phẩm đề cập đến vùng đất cù lao nổi tiếng Tân Châu, nơi định cư sớm của người Việt,

nơi chúa Nguyễn đặt đạo Tân Châu để quản lí vùng đất mới tiếp quản này. Tác phẩm

trình bày diện mạo vùng đất Tân Châu qua các mặt lịch sử, kinh tế, văn hóa,... từ năm

1757 đến 1963, tuy nhiên phần dành cho giai đoạn lịch sử 1757 đến 1867 rất ít.

Việt sử xứ Đàng Trong 1558 – 1777 (Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam)

của Phan Khoang, xuất bản năm 1967. Tác phẩm tập trung nghiên cứu quá trình Nam

tiến của dân tộc từ thời các chúa Nguyễn, tiến trình xác lập chủ quyền trên vùng đất

Nam Bộ trong đó có An Giang.

5

Thoại Ngọc Hầu và công cuộc khẩn hoang miền Hậu Giang của Nguyễn văn

Hầu được xuất bản năm 1973. Tác giả đã viết về cuộc đời và sự nghiệp của Thoại

Ngọc Hầu, trong đó dành một phần khá lớn viết về những công trình đào kênh, mở

đường, lập ấp ở An Giang của Thoại Ngọc Hầu vào giai đoạn cuối đời Gia Long đến

đầu thời Minh Mệnh. Qua tư liệu lịch sử này cho ta có cái nhìn chi tiết về những sự đột

phá trong chiến lược quốc phòng của chính quyền nhà Nguyễn trong giai đoạn này.

Lịch sử khẩn hoang miền Nam của Sơn Nam được xuất bản năm 1973, là tác

phẩm nghiên cứu sâu về lịch sử Nam Bộ từ thời chúa Nguyễn thế kỉ XVII đến thực

dân Pháp đô hộ những năm đầu thế kỉ XX, trong đó có những phần liên quan đến An

Giang, cũng như chiến lược quốc phòng an ninh của các chính quyền chúa Nguyễn,

triều Nguyễn trên vùng đất này.

Lịch sử An Giang của Sơn Nam xuất bản năm 1988, đây là tác phẩm mang tính

chất lịch sử địa phương trình bày lịch sử vùng đất An Giang từ khi mới sát nhập vào

lãnh thổ nước ta cho đến thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tác phẩm trình bày

khá tốt về những hoạt động, chính sách quốc phòng an ninh của chính quyền chúa

Nguyễn, triều Nguyễn trong giai đoạn 1757 đến 1867.

Luận văn Vùng đất An Giang thời kì 1757 – 1867 của Nguyễn Ngọc Thủy năm

2004, tác phẩm trình bày tổng quát về lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa,... ở vùng đất

An Giang từ 1757 đến 1867. Trong đó, tác giả có trình bày khái quát về chính sách và

công tác thực thi quốc phòng an ninh trên vùng đất này.

Địa chí An Giang do Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang tổ chức biên soạn và xuất

bản năm 2013, bộ sách đã thể hiện diện mạo của vùng đất An Giang một cách tổng

quát trên tất cả các lĩnh vực từ quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội,... Trong đó, những sử

liệu về chiến lược quốc phòng an ninh của chính quyền chúa Nguyễn, triều Nguyễn

cũng được thể hiện rải rác qua các sự kiện, nhân vật được đề cập trong tác phẩm.

Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng của Choi Byung Wook được xuất bản

năm 2011, tác giả đã trình bày khá sâu sắc về những hoạt động của chính quyền từ thời

Nguyễn sơ đến thời Minh Mạng trên đất Nam Bộ trong đó có An Giang. Trong đó,

Choi Byung Wook đã đi sâu vào phân tích những chính sách cai trị của vua Minh

6

Mạng ở vùng đất Nam Bộ. Ở phần I của tác phẩm có những chính sách mang tính liên

đới đến vùng đất An Giang trong đó có lĩnh vực quốc phòng an ninh.

Ngoài ra còn nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu về vùng đất Nam Bộ trong

đó có An Giang phải kể đến như: “Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ thế kỉ XVII,

XVIII, XIX” và “Lịch sử khai khẩn vùng đất Nam Bộ của giáo sư Huỳnh Lứu, Lược

sử vùng đất Nam Bộ của Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học

danh nhân Thoại Ngọc Hầu – Nguyễn Văn Thoại của Hội khoa học lịch sử Việt Nam

kết hợp với UBND thành phố Đà Nẵng và UBND tỉnh An Giang năm 2009, Hội thảo

Lịch sử An Giang, Hội thảo Nam Bộ và Nam Trung bộ thế kỷ XVII-XIX của Trường

Đại học Sư phạm....

Xét quá trình nghiên cứu vấn đề qua các công trình kể trên, người viết nhận

thấy chưa có một công trình nào đề cập trực tiếp đến lĩnh vực của đề tài hoặc nghiên

cứu chuyên sâu về chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn, vua Nguyễn

trên vùng đất An Giang từ 1757 đến 1867, như tên đề tài của luận văn này.

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Như được chỉ rõ trong tên đề tài, đối tượng nghiên cứu của luận văn là vùng đất

An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn

thời kì 1757 - 1867.

Trong thư tịch và duyên cách hành chính, vùng đất An Giang từ thời chúa

Nguyễn đến thời thực dân Pháp đô hộ có diện tích rất rộng, bao trùm lên các tỉnh Cần

Thơ, Sóc Trăng, An Giang và một phần tỉnh Đồng Tháp ngày nay (khoảng 15.000

km²). Phạm vi không gian của vấn đề nghiên cứu chỉ trong địa giới tỉnh An Giang

ngày nay (khoảng 3.406 km²).

Khoảng thời gian nghiên cứu được giới hạn từ năm 1757 khi vùng đất An

Giang chính thức trở thành một phần lãnh thổ nước ta đến năm 1867 khi thực dân

Pháp chiếm được trọn Nam Kỳ trong đó có tỉnh An Giang.

5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ có những đóng góp mới sau:

1. Qua sự phân tích, đánh giá, tổng hợp các nguồn sử liệu, luận văn góp phần hệ

thống hóa và làm sáng tỏ vị trí, vai trò chiến lược của vùng đất An Giang trong thế

7

trận quốc phòng biên giới Tây Nam, nội dung và hoạt động của chính quyền chúa

Nguyễn, triều Nguyễn trong chiến lược quốc phòng an ninh trên vùng đất An Giang từ

1757 đến 1867.

2. Luận văn góp phần bổ sung tư liệu, nhận định và kiến giải khoa học cho việc

nhận thức những kinh nghiệm và bài học lịch sử về chiến lược quốc phòng an ninh của

vùng đất phía nam nói chung và An Giang nói riêng, là nguồn tham khảo và là cơ sở

khoa học cho công tác quốc phòng an ninh của chính quyền địa phương An Giang

trong việc củng cố, bảo vệ biên giới Tây Nam của đất nước trong giai đoạn hiện nay.

3. Việc so sánh, đối chiếu giữa địa danh An Giang xưa và nay cũng là một đóng

góp của đề tài vào việc tìm hiểu quá trình lịch sử hình thành vùng đất An Giang, bổ

sung cho địa phương chí An Giang.

4. Luận văn là một tài liệu có ích phục vụ việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu

lịch sử địa phương An Giang cũng như lịch sử Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay.

6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện đề tài này, tác giả luận văn sử dụng những phương pháp sau:

Phương pháp tiếp cận hệ thống được sử dụng từ khâu chọn đề tài, xây dựng đề

cương và trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài, giúp tác giả tìm hiểu, tham khảo, nắm

bắt trong những tài liệu được công bố những nội dung liên quan đến vấn đề của luận

văn, xem xét vấn đề được đề cập, trình bày hoặc giải quyết đến đâu, để xác định “điểm

mới” và “những đóng góp mới” của đề tài, viết phần tổng quan về vấn đề nghiên cứu,

lịch sử vấn đề của luận văn...

Phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic được tác giả luận văn sử

dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu để có thể tìm hiểu các sự kiện, sự việc một

cách chi tiết, cụ thể trong sự ra đời, phát triển và kết thúc, trong hoàn cảnh, không

gian, thời gian xác định, làm cơ sở cho việc lựa chọn, xử lý, sắp xếp tư liệu theo tiến

trình thời gian, không gian một cách khoa học, để nhận định và khái quát quá trình lịch

sử của vấn đề, làm sáng tỏ vị trí, vai trò chiến lược quan trọng của vùng đất An Giang,

nội dung và hoạt động của chính quyền chúa Nguyễn, triều Nguyễn trong chiến lược

quốc phòng an ninh trên vùng đất An Giang từ 1757 đến 1867.

8

Phương pháp liên ngành được thực hiện trong quá trình khai thác nguồn tư liệu,

kế thừa kết quả nghiên cứu thuộc các ngành khoa học khác nhau như quân sự, địa lý

học và địa lý học lịch sử, khu vực học trong quan hệ quốc tế và quan hệ đối ngoại…

Các phương pháp trên được tác giả cố gắng vận dụng hợp lí trong luận văn để

đảm bảo được tính khoa học và góc độ nghiên cứu sử học của vấn đề.

7. BỐ CỤC LUẬN VĂN

Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ Lục, có 3 chương:

Chương 1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA CHÍNH

SÁCH QUỐC PHÒNG TRÊN VÙNG ĐẤT AN GIANG

1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên An Giang

1.2. Đặc điểm hành chính - dân cư An Giang trước năm 1867

1.3. Vùng đất An Giang trong bối cảnh lịch sử trước năm 1757

Chương 2. AN GIANG TRONG CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG CỦA CHÍNH

QUYỀN CHÚA NGUYỄN THỜI KÌ 1757 – 1777

2.1. Vùng đất An Giang trong quá trình các chúa Nguyễn làm chủ, củng cố và bảo vệ

vùng lãnh thổ từ Tầm Phong Long đến Hà Tiên và quan hệ đối ngoại Đàng Trong -

Chân Lạp - Xiêm La

2.2. Thế trận quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn tại vùng đất An Giang trong

quá trình xác lập chủ quyền và quan hệ đối ngoại với Xiêm La và Chân Lạp

2.2.1. Lực lượng quốc phòng – tổ chức và phiên chế của quân đội chúa

Nguyễn trên vùng đất An Giang

2.2.2. Căn cứ quốc phòng – hệ thống phòng thủ tại An Giang trước nguy cơ

xâm lấn từ phía Xiêm La và Chân Lạp

2.2.3. Hoạt động quốc phòng – những đặc điểm của quá trình thực thi nhiệm

vụ chiến lược trên vùng đất An Giang

2.3. Vùng đất An Giang trong quá trình khôi phục lực lượng của Nguyễn Ánh chống

lại Tây Sơn

Chương 3. AN GIANG TRONG CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG CỦA NHÀ

NGUYỄN THỜI KÌ 1802 – 1867

3.1. Vùng đất An Giang trong thời kì đầu triều Nguyễn từ 1802 đến 1867

9

3.2. Chính sách quốc phòng và hoạt động thực thi trên vùng đất An Giang của vương

triều Nguyễn trong thời kì 1802-1867

3.2.1. Mối quan hệ Việt Nam - Chân Lạp - Xiêm La từ cuối thế kỉ XVIII đến

nửa đầu thế kỉ XIX và những chính sách quốc phòng mới trên vùng đất An

Giang của chính quyền nhà Nguyễn

3.2.2. Tổ chức hoạt động của quân đội thời các vua Nguyễn trên vùng đất An

Giang

3.2.3. Những hoạt động thực thi của chính quyền triều Nguyễn từ Gia Long

đến Tự Đức trên vùng đất An Giang giai đoạn 1802 đến 1867

3.3. Ý nghĩa chiến lược của vùng đất An Giang trong thế trận quốc phòng biên giới

Tây Nam của chính quyền vua Nguyễn giai đoạn 1802 - 1867

10

Chương 1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG TRÊN VÙNG ĐẤT AN GIANG

1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên An Giang

* Về vị trí địa lý: An Giang có diện tích tự nhiên 3.424km2. Phía Bắc, Tây Bắc giáp Campuchia dài 104km(1), Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang 69km, phía Nam giáp tỉnh Cần Thơ

44km, phía Đông giáp tỉnh Đồng Tháp 107km [60, tr.25].

Điểm cực Bắc trên vĩ độ 10°57 (nay thuộc xã Khánh An, huyện An Phú), cực

Nam trên vĩ độ 10°12 (nay thuộc xã Thoại Giang, huyện Thoại Sơn), cực Tây trên

kinh độ 104°46 (nay thuộc xã Vĩnh Gia, huyện Tri Tôn), cực Đông trên kinh độ

105°35 (nay thuộc xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới). Chiều dài nhất theo hướng

Bắc - Nam 86km và Đông - Tây 87,2km [60, tr.25].

Theo vị trí hiện nay, phía Đông tỉnh An Giang giáp với tỉnh Đồng Tháp, giới

hạn bởi sông Tiền, kéo dài từ biên giới đến hết huyện Chợ Mới, theo sông Cái Tàu

Thượng (xã Hội An) từ Vàm ở sông Tiền thông qua sông Hậu quanh co 113km. Phía

Nam và Đông Nam giáp tỉnh Cần Thơ theo đường ranh quận Thốt Nốt dọc theo kênh

Cái Sắn dài 68km. Phía Tây Nam tiếp giáp tỉnh Kiên Giang từ đoạn giữa kênh Vĩnh Tế

ở biên giới xuyên qua vùng Tứ giác Long Xuyên đến kênh Cái Sắn, dài trên 70km.

Phía Bắc và Tây Bắc tiếp giáp với Campuchia kéo dài từ đoạn giáp với Kiên Giang

đến giáp giới tỉnh Đồng Tháp dài khoảng 100km, qua khu vực hành chính là Tri Tôn,

Tịnh Biên, Châu Đốc, An Phú và Tân Châu.

Chính vì vị trí này cho nên trước TK XX, vùng đất An Giang là địa bàn có vai

trò đặc biệt trong hoạt động giao thông vận chuyển và liên hệ nội vùng trong khắp khu

vực Nam Bộ cũng như trong lĩnh vực đối ngoại, quốc phòng liên quan đến các cửa ngõ

thông suốt sang Chân Lạp, Xiêm La và Biển Tây.

* Về địa hình:

An Giang có 2 dạng chính: đồng bằng (do phù sa sông Mê Kông tạo nên) và đồi

(1)Theo Hiệp ước hoạch định biên giới Việt Nam – Campuchia ký ngày 27/12/1985. (Tổng cục Địa chính khảo sát năm 1993 dài 94,8 km)

núi (vùng đồi núi Tri Tôn - Tịnh Biên – Thoại Sơn).

11

- Địa hình đồng bằng: có 2 loại chính là đồng bằng phù sa (chủ yếu là do sông

Tiền và sông Hậu tạo nên) và đồng bằng ven núi (kiểu sườn tích và kiểu đồng bằng

phù sa cổ).

- Địa hình đồi núi: gồm nhiều đỉnh có hình dạng, độ cao và độ dốc khác nhau

phân bố theo vành đai cánh cung kéo dài gần 100km. So với ngày nay thì dạng địa

hình đồi núi này khởi đầu từ xã Phú Hữu (huyện An Phú) kéo dài qua xã Vĩnh Tế,

phường Núi Sam (thành phố Châu Đốc), bao trùm lên gần hết diện tích hai huyện Tịnh

Biên và Tri Tôn, về tận xã Vọng Thê, thị trấn Óc Eo và xã Vọng Đông rồi kết thúc ở

thị trấn Núi Sập (huyện Thoại sơn).

Núi ở An Giang có thể chia ra làm 6 cụm và 2 núi độc lập:

- Sáu cụm núi của An Giang bao gồm: Cụm núi Sập (bao gồm 4 núi là Núi Sập,

núi Nhỏ, núi Bà và núi Cậu đều thuộc huyện Thoại Sơn ngày nay); cụm núi Ba Thê

(bao gồm 4 núi là núi Ba Thê, núi Tượng, núi Trọi và núi Chóc cùng trên địa bàn

huyện Thoại Sơn ngày nay); cụm núi Phú Cường (bao gồm 13 núi là núi Phú Cường,

núi Dài Năm Giếng (hay núi Dài nhỏ), núi Két, núi Rô, núi Đất Nhỏ, núi Đất Lớn, núi

Mo Tấu, núi Chùa, núi Trà Sư, núi Bà Vải, núi Bà Đắt, núi Cậu và núi Tà Nung phân

bố trên địa bàn huyện Thoại Sơn ngày nay); cụm núi Cấm (bao gồm 7 núi là núi Cấm,

núi Bà Đội, núi Nam Qui, núi Bà Khẹt, núi Tà Lọt, núi Ba Xoài và núi Cà Lanh phân

bố trên địa bàn 2 huyện Tịnh Biên và Tri Tôn ngày nay); cụm núi Dài (bao gồm 4 núi

là núi Dài, núi Tượng, núi Nước và núi Sà Lon đều thuộc huyện Tri Tôn ngày nay);

cụm núi Cô Tô (bao gồm 2 núi là núi Cô Tô và núi Tà Pạ đều thuộc huyện Tri Tôn

ngày nay) [60, tr.111].

- Hai núi độc lập là núi Nổi (nằm độc lập thuộc thị xã Tân Châu với độ cao

khoảng 10m và chu vi 320m) và núi Sam (đứng độc lập thuộc thành phố Châu Đốc với

độ cao 228m và chu vi 5.200m).

Ngoài đặc điểm trong mỗi cụm núi bao gồm nhiều núi liên kết hoặc đứng độc

lập, còn thấy ngay mỗi núi có nhiều đỉnh với độ cao thấp khác nhau. Núi Cấm là núi

có tới 6 đỉnh với độ cao từ 142m đến 705m, núi Dài là núi lớn thứ hai với 8 đỉnh cao

từ 134 đến 554m, núi Dài Năm Giếng có 5 đỉnh cao từ 135m đến 282m, núi Tượng có

2 đỉnh cao lần lượt là 112m và 266m [60, tr.111].

12

Các cụm núi Cấm, núi Dài, núi Phú Cường, núi Cô Tô liên kết nhau thành một dãy liên tục trải dài trên 35km và rộng 17km với diện tích gần 600km2, tạo thành vùng

Thất Sơn (Bảy Núi) với 7 ngọn núi đã đi vào lịch sử và huyền thoại là:

- Núi Cấm (Thiên Cấm Sơn),

- Núi Dài Năm Giếng (Ngũ Hồ Sơn)

- Núi Cô Tô (Phụng Hoàng Sơn),

- Núi Dài (Ngọa Long Sơn),

- Núi Tượng (Liên Hoa Sơn)

- Núi Két (Anh Vũ Sơn) - Núi Nước (Thủy Đài Sơn)(2)

Sự đa dạng bề mặt địa hình với những đồi núi khá hiểm trở xen giữa vùng đồng

bằng phù sa phì nhiêu màu mỡ đã tạo nên nét đặc thù của vùng đất An Giang như một

vùng bán sơn địa với nhiều ưu thế trong thiết lập hệ thống phòng thủ, căn cứ quốc

phòng, củng cố biên giới quốc gia.

* Về các con sông:

Trên lãnh thổ An Giang tương ứng với ngày nay có 5 con sông:

Sông Tiền và sông Hậu là hai nhánh sông lớn của hạ lưu sông Mê Kông được

phân lưu khi vào lãnh thổ Việt Nam. Sau Phnom Pênh về phía hạ lưu một ít, sông Mê

Kông chia thành hai nhánh, nhánh phía Đông chảy qua lãnh thổ Campuchia rồi vào

Việt Nam gọi là sông Tiền, nhánh phía Tây gọi là sông Hậu.

Sông Tiền chảy theo hướng tây bắc – đông nam, chảy qua các tỉnh An Giang,

Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh và Bến Tre, đổ ra Biển Đông theo 6 cửa

là Cửa Tiểu, Cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên và Cung Hầu. Đoạn chảy qua An

Giang dài khoảng 80km. Gia Định thành thông chí chép: “Sông Tiền (sông trước) ở

phía tây trấn, nguồn sông nầy ở phía bắc từ Ai Lao xuống Cao Miên đến Nam Vang,

theo hướng đông chảy đến Cầu Nôm, Tân Châu qua sông Đại Tuần trước trấn Vĩnh

Thanh đến Ba Lai, Mỹ Tho rồi chảy về nam ra hai cửa biển Đại, Tiểu, ấy là dòng

chính của sông lớn ban đầu. Ở sông Đại Tuần chảy xuống bến bờ chia ra 3 nhánh: một

nhánh qua phía đông trấn làm sông lớn Long Hồ, xuống phía nam ra cửa biển Cổ (2)Theo Võ Thành Phương (1984), Những Trang Sử Về An Giang, Nxb Văn Nghệ An Giang, An Giang.

13

Chiên; một nhánh là sông lớn Hàm Luông, về phía nam đến hai cửa biển Băng Côn và

Ngao Châu; một nhánh qua sông dưới Ba Lai đến Tiên Thủy, xuống phía nam ra cửa

biển Ba Lai. Thế nước ôm quanh cồn nọ, dựa vào bãi kia, có tới tám ngã ba sông,

nhiều nhánh đan xuyên qua Hậu Giang, trông xuống trấn Vĩnh Thanh như là một biển

sao, các ngôi sao đan xen nhau.” [4, tr.70]. Sông Tiền là ranh giới tự nhiên giữa An

Giang là tỉnh Đồng Tháp ngày nay, có độ uốn khúc lớn, được chia dòng rẽ nhánh ở

nhiều vị trí bởi các cù lao Cái Vừng, Cồn Cỏ, cù lao Long Khánh, cù lao Tây, cù lao

Ma và cù lao Giêng. Đối với An Giang, sông Tiền vừa là trục giao thông quan trọng,

con đường thủy ngắn nhất sang Campuchia, Thái Lan, cũng như là ngõ thủy lộ trung

tâm đến các vùng khác trong khu vực Nam Bộ, vừa là nguồn cung cấp nước và phù sa

lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long đảm bảo cho các hoạt động dân sinh và quân sự

nhất là trong buổi đầu mở và giữ đất, đồng thời cũng là con sông có chế độ dòng chảy

và diễn biến lòng sông phức tạp nhất [60, tr.121].

Sông Hậu có hướng chảy song song với sông Tiền, đi qua các tỉnh An Giang,

Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, đổ ra biển theo 3

cửa là Định An, Ba Thắc và Tranh Đề. Gia Định thành thông chí chép: “Hậu Giang

(sông sau) ở phía tây nam trấn. Thượng lưu sông từ phía đông thành Nam Vang (Cao

Miên), chảy xuống Châu Đốc, qua Mạt Cần Đăng; đổ xuống đồn Cường Oai ở Lấp Vò

rồi qua đồn thủ Trấn Giang, đến đạo Trấn Di, ra cửa biển Ba Thắc; nước dầm thấm

khắp cả ruộng vườn, bao hàm cả cồn bãi bờ bến, là nguồn thủy lợi rất lớn, lúa gạo cá

tôm dùng ăn không hết.”[4, tr.71]. Đoạn sông Hậu chảy qua trung tâm địa bàn tỉnh An

Giang cũng có độ uốn khúc lớn, lòng sông rộng, phân dòng rẽ nhánh ở nhiều chỗ bởi

các cù lao Vĩnh Trường, Khánh Hòa, Cồn Tiên, Bình Thủy, Bà Hòa, Mỹ Hòa Hưng và

Phó Ba, điều này tạo ra rất nhiều ngõ thủy lộ có mối liên hệ nhau tạo ra sự linh hoạt

trong di chuyển nội vùng. Đối với An Giang, sông Hậu là trục giao thông thủy xuyên

suốt trung tâm của tỉnh từ thượng nguồn về hạ lưu, là nguồn cung cấp nước và phù sa chủ yếu cho vùng trũng Tứ giác Long Xuyên(3) [60, tr.121], vừa mang giá trị kinh tế

(3)Tứ giác Long Xuyên là khu vực được định vị trong nội vùng của bốn địa điểm Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá và Hà Tiên.

lớn, vừa thuận lợi cho công tác quốc phòng nơi biên giới với Chân Lạp.

14

Sông Vàm Nao chảy ven thị trấn Phú Mỹ (huyện Phú Tân) và xã Kiến An (Chợ

Mới) ngày nay, nối liền sông Tiền và sông Hậu. Trong cuốn địa chí “Tân Châu xưa”,

có viết về Vàm Nao như sau: “Đúng theo cổ sử thì sông Vàm Nao xưa kia gọi “Hồi Oa

thủy” (nước xoáy tròn). Sở dĩ hiện trạng nầy mà có, thường khởi từ tháng 8 đến tháng

11 âm lịch, khi sông Cửu Long bắt đầu dâng lên, nước cuồn cuộn chảy như thác lũ;

những dòng nước xoáy to lớn nơi Vàm Nao ồ ạt đảo lộn liên tục làm cho sự lưu thông

trở nên khó khăn: người chưa từng kinh nghiệm trên dòng nước xoáy nguy hiểm lắm

lúc bị đắm thuyền.”[13, tr.149 -150]. Trải qua quá trình diễn biến đào xói để tự phát

triển, ngày nay sông Vàm Nao nằm gọn trong địa phận tỉnh An Giang, chảy theo

hướng đông bắc – tây nam, có chiều dài khoảng 6km, chiều rộng trung bình khoảng

700m với độ sâu trên 17m, có tác dụng cân bằng dòng chảy giữa sông Tiền và sông

Hậu [60, tr.122]. Chính những diễn biến phức tạp của dòng chảy trên sông Vàm Nao

đã tạo ưu thế rõ nét trong tác chiến của thủy quân trong các thời kì giữ nước đã qua.

Sông Bình Di và sông Châu Đốc: Tại xã Khánh Bình, huyện An Phú ngày nay,

sông Hậu chia dòng, nhánh hữu ngạn hẹp có độ rộng khoảng ¼ dòng chính gọi là sông

Bình Di. Sau một đoạn dài trên 10km, sông Bình Di chảy đến Vĩnh Hội Đông ngày

nay thì gặp sông Tà Keo và sông Châu Đốc. Bắc đầu từ ngã ba sông này, sông Châu

Đốc chảy đến địa phận thành phố Châu Đốc ngày nay thì nhập lưu trở lại sông Hậu,

dài 18km [60, tr.122]. Đây là đặc điểm khá đặc biệt tạo ra sự đặc trưng của hai con

sông, rất thích hợp cho công tác bố trí, tập kích quân giặc khi mới vừa vào lãnh thổ

nước ta trên tuyến sông Hậu.

Hệ thống sông ngòi trên vùng đất An Giang với hai nhánh chính là Tiền Giang

và Hậu Giang đã trở thành những thủy lộ huyết mạch kết nối An Giang với những

vùng đất khác của đất Nam Bộ cũng như thông tuyến dễ dàng đến vùng đất Chân Lạp

ở ngoài cương giới quốc gia, chính đặc điểm nổi bật ấy đã tạo ra ý thức phòng thủ và

hình thành nên những chiến lược quốc phòng trên vùng đất này góp phần quan trọng

trong chính sách quốc phòng của các chính quyền trước thế kỉ XX trên vùng biên giới

Tây Nam.

* Về các con rạch:

15

An Giang có hệ thống các con rạch tự nhiên rãi rác khắp địa bàn tỉnh với độ dài

từ vài km đến 30km. Các rạch trong khu vực giữa sông Tiền và sông Hậu thường lấy

nước từ sông Tiền chuyển sang sông Hậu. Các rạch nằm trong khu vực hữu ngạn sông

Hậu thì lấy nước từ sông Hậu chuyển vào sâu nội đồng vùng Tứ giác Long Xuyên.

Trong quá khứ, rạch tự nhiên ở An Giang khá nhiều. Nhưng trải qua thời gian

dài, số bị phù sa sông Tiền và sông Hậu chảy vào bồi lấp lâu thành đồng ruộng, số thì

được cải tạo lại thành dạng kinh đào, vì vậy, đến nay số còn lại không nhiều. Những

rạch lớn ở An Giang gồm rạch Mương Khai, rạch Cái Đầm, rạch Cái Tắc, rạch Ông

Chưởng (còn gọi là sông Lễ Công), rạch Cái Tàu Thượng, rạch Long Xuyên, rạch

Chắc Cà Đao, rạch Mặc Cần Dưng, rạch Cần Thảo. Trong số các rạch này thì rạch

Ông Chưởng và rạch Long Xuyên là hai rạch quan trọng vì khá dài, rộng và sâu hơn

các rạch còn lại, cũng như vị trí chiến lược của nó [60, tr.122].

* Về kênh đào:

Trong giai đoạn 1757 đến trước năm 1817, chúng ta hoàn toàn chưa thấy có tài

liệu nào nói về việc đào kênh của chính quyền hay dân cư ở An Giang. Nhưng đến giai

đoạn từ 1818 đến 1867, trên vùng đất An Giang chính quyền các vua Nguyễn đã lần

lượt cho đào đến 3 con kênh bao gồm: kênh Thoại Hà (1818), kênh Vĩnh Tế (1819 –

1824), kênh Vĩnh An (1843). Kênh Trà Sư cũng được cho là đào vào thời kì này

nhưng chưa tìm thấy nguồn tu liệu nào nói đến.

Hệ thống kênh đào trên vùng đất An Giang trước thế kỉ XX đã góp phần quan

trọng trong công cuộc bảo vệ tổ quốc cũng như trong sự phát triển vùng đất biên viễn

này trong buổi đầu khai phá.

* Về khí hậu:

- Mây: Ở An Giang lượng mây tương đối ít. Trong mùa khô do độ ẩm không

khí thấp nên có khi trời có mây nhưng vẫn rất nắng. Trong mùa mưa do độ ẩm cao nên

lượng mây thường nhiều hơn.

- Nắng: An Giang có mùa nắng chói chang, trở thành địa phương có số giờ

nắng trong năm lớn kỷ lục của cả nước.

- Nhiệt độ: Ở An Giang nhiệt độ trung bình hàng tháng không những cao mà

còn rất ổn định. Chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng trong mùa khô chỉ hơn kém nhau

16

khoảng 1,5° đến 3°; còn trong các tháng mùa mưa chỉ vào khoảng trên dưới 1° [60,

tr.134].

- Gió: Ở An Giang trong mùa khô, gió thịnh hành là Đông Bắc, còn vào mùa

mưa là gió Tây Nam – gió Tây Nam là gió có tần suất xuất hiện lớn nhất.

- Mưa: Ở An Giang mùa mưa thường bắt đầu vào tháng 5 và kết thúc vào tháng

11. Lượng mưa lớn lại trùng vào mùa nước lũ của sông Mê Kông nên đã gây ra tình

trạng úng tổ hợp với ngập lụt, chi phối đến nhiều hoạt động sản xuất và đời sống người

dân, cũng như hoạt động quốc phòng.

- Độ ẩm: Ở An Giang mùa có độ ẩm thấp thường bắt đầu từ tháng 12 và kéo dài

đến tháng 4 năm sau, nghĩa là mùa có độ ẩm thấp trùng với mùa khô trung bình 78%,

mùa mưa thật sự là một mùa ẩm ướt với độ ẩm trung bình 84% [60, tr.138].

Ngoài các yếu tố khí tượng nói trên, An Giang còn có các hiện tượng thời tiết

cần lưu ý như: lốc xoáy vòi rồng mưa đá, hạn Bà Chằn, ảnh hưởng của hiện tượng

Elnino và Lanina.

Khí hậu ở An Giang nằm trong dạng khí hậu chung của vùng đất Nam Bộ, tuy

nhiên vẫn mang những nét đặc trưng vốn có tạo nên sự khác biệt cho vùng đất này,

điều này tác động khá lớn đến đời sống của cư dân, lưu dân cũng như chế độ đóng

quân, đồn trú, hành quân của quân đội trong suốt chiều dài lịch sử.

* Về thủy văn:

- Dòng chảy mùa lũ:

Lũ đầu mùa: Bước sang tháng 7 và tháng 8 hàng năm thường có mưa to và dài

ngày, làm xuất hiện những trận lũ đầu mùa ở cả trung và hạ lưu sông Mê Kông.

Lũ lớn nhất trong năm: Khu vực phía trên Vàm Nao đa số lũ lớn nhất năm xảy

ra vào tháng 9 và 10, còn khu vực phía dưới Vàm Nao do ảnh hưởng của sự phân chia

nước và thủy triều nên lũ lớn nhất năm xảy ra muộn hơn khoảng từ 10 ngày đến 1

tháng.

Độ dốc lũ và cường suất lũ: Trên địa bàn An Giang, nhìn chung là vào đầu mùa

mưa nước sông lên nhanh, độ dốc lũ và cường suất lũ lớn nhất năm thường xuất hiện

vào thời kì này.

17

Thời gian lũ: Thời gian lũ lên và xuống ở An Giang khá dài. Những năm lũ lớn,

thời gian lũ lên từ 3 đến 4 tháng và lũ xuống gần 3 tháng. Năm lũ nhỏ có thời gian lũ

lên và xuống cũng tới gần 4 tháng.

- Dòng chảy mùa kiệt:

Mực nước thấp nhất hàng năm: Ở An Giang, mực nước thấp nhất năm có thể

xuất hiện vào tháng 4 hoặc đầu tháng 5. Do ảnh hưởng mạnh của thủy triều, nên mực

nước thấp nhất của năm cực kiệt cũng không chênh lệch nhiều so với năm kiệt ít.

Lưu lượng dòng chảy nhỏ nhất hàng năm: Ở An Giang, lưu lượng kiệt nhất năm

xuất hiện vào tháng 3 hoặc tháng 4. Tùy thuộc vào độ lớn lũ năm trước và cường độ

thủy triều năm sau, mà lưu lượng kiệt nhất hàng năm của sông Tiền và sông Hậu bị

dao động theo.

- Dòng chảy phù sa:

Cấp phối hạt: Phù sa sông Cửu Long qua hai mặt cắt Châu Đốc (sông Hậu) và

Tân Châu (sông Tiền) không chứa hạt to và vừa. Phù sa sông Tiền có độ đều mịn hơn

sông Hậu. Nhưng trong phù sa sông Hậu thành phần sét chiếm 34%, trong khi đó sông

Tiền chỉ có 16% [60, tr.152].

Thành phần hóa học: Thành phần hữu cơ của phù sa sông Cửu Long có nhiều

chất mùn, rất có lợi cho cây trồng và thành phần Silicat vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất (36%)

trong phù sa sông Cửu Long [60, tr.152].

- Hàm lượng và tổng lượng: Tổng lượng phù sa hàng năm của sông Tiền và

sông Hậu chảy qua hai mặt cắt Tân Châu và Châu Đốc tương đối lớn.

Chế độ thủy văn trên vùng đất An Giang mang tính đặc trưng rõ nét so với các

vùng đất khác ở Nam Bộ. Với diện tích ngập nước gần như toàn bộ bề mặt trừ vùng

(Thất Sơn) đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự đi lại của lưu dân, cư dân bằng những

phương tiện thủy truyền thống trên vùng đất An Giang trong buổi đầu khai phá, đặc

biệt điều này phát huy khá tốt sự cơ động của thủy binh Chúa Nguyễn và triều Nguyễn

trong giai đoạn trước thế kỉ XX trong quá trình thực thi chiến lược quốc phòng trên

vùng biên địa Tây Nam của tổ quốc.

18

* Về đất đai:

Có thể phân chia đất đai ở An Giang thành 3 nhóm chính: nhóm đất phèn, nhóm

đất phù sa, nhóm đất đồi núi .

- Nhóm đất phèn: Đất phèn ở An Giang phân bố nhiều ở vùng tiếp giáp với tỉnh

Kiên Giang, thuộc địa phận huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và một phần của Châu Phú, với

tổng diện tích khoảng 30.136 ha, trong đó Tri Tôn chiếm 67% [60, tr.175].

- Nhóm đất phù sa: Ở An Giang, nhóm đất phù sa chiếm 44,27% tổng diện tích

đất toàn tỉnh với khoảng 156.507 ha, chủ yếu phân bố ở các huyện Châu Thành, Châu

Phú, Phú Tân, An Phú, Tân Châu, Thoại Sơn, Chợ Mới và một phần của thành phố

Long Xuyên, thị xã Châu Đốc ngày nay [60, tr.180].

- Nhóm đất đồi núi: Đất đồi núi chủ yếu phân bố tại 2 huyện Tri Tôn và Tịnh

Biên, một phần nhỏ ở huyện Thoại Sơn (vùng Ba Thê). Tổng diện tích đất đồi núi ở

An Giang khoảng 29.320 ha, chiếm 8,6% tổng diện tích đất của tỉnh [60, tr.185].

Theo Nguyễn Đình Đầu thì tình hình ruộng đất ở An Giang năm 1836 ghi nhận

được như sau [60, tr.404]:

Toàn tỉnh An Giang đo đạt được 47.674ha trong đó diện tích sử dụng được là

47.409ha gồm đất dùng để canh tác 47.264ha và đất thổ cư 145ha, còn lại 265ha là đất

bỏ hoang.

Riêng 47.264ha đất sử dụng được thì có 35.489ha dùng để trồng lúa (75%), và

11.775ha đất vườn (25%). Có thể thấy, đất vườn chiếm diện tích bằng 1/3 đất ruộng.

Phủ Tuy Biên chiếm 16.553ha trong đó huyện Đông Xuyên có 12.330ha, huyện Tây

Xuyên là 4.223ha.

Cơ cấu ruộng đất thời bấy giờ ở An Giang chủ yếu có hai loại [60, tr.405]:

- Loại ruộng gò, ruộng cao, ruộng không tốt (gọi là sơn điền) chiếm tỉ lệ

96,35%.

- Loại ruộng cỏ, ruộng sâu, ruộng tốt (gọi là thảo điền) chỉ chiếm có 3,6%.

Sự đa dạng về các loại hình đất đai trên vùng đất An Giang tạo điều kiện thuận

lợi cho quá trình khẩn hoang lập làng, lập đồn điền trên những khu vực dễ khai phá rồi

tiến đến các vùng khó khai phá hơn của lưu dân, di dân cũng như chính quyền chúa

19

Nguyễn, triều Nguyễn trong sự nghiệp an dân giữ nước, phát triển vùng đất mới giai

đoạn trước thế kỉ XX.

Như vậy, về điều kiện tự nhiên, vùng đất An Giang có vị trí khá quan trọng, án

ngữ mặt biên giới phía Tây Nam của tổ quốc với nhiều dạng địa hình. Trong đó, đồi

núi chiếm diện tích tương đối lớn so với các vùng đất khác trong khu vực tạo ra thế

hiểm trở chiến lược trong công tác quốc phòng bảo vệ quốc gia. An Giang với hệ

thống sông, rạch, kênh đào chằn chịt tạo nhiều thuận lợi trong các mặt giao thông, kinh

tế, đặc biệt trong lĩnh vực quân sự,... Ngoài ra, An Giang có khí hậu và chế độ thủy

văn rất đặc trưng của vùng đồng bằng sông Cửu Long, điều này ảnh hưởng khá lớn

đến những người ở nơi khác đến, cần thời gian để họ thích nghi trong điều kiện tự

nhiên khó khăn của thời kì này.

1.2. Đặc điểm hành chính - dân cư An Giang trước năm 1867

*Về tổ chức hành chính – địa lý dân cư

An Giang là vùng đất biên địa rất quan yếu, luôn luôn đòi hỏi việc tổ chức quản

lý của chính quyền nhằm giữ nước và an dân. Qua các giai đoạn lịch sử, tổ chức và

duyên cách hành chính của An Giang liên tục thay đổi, tác động to lớn đến đời sống xã

hội và dân cư trên vùng đất này.

Tầm Phong Long trước thế kỷ XVIII là vùng đất rộng lớn từ biên giới Đại Việt-

Chân Lạp (Campuchia), chạy dọc theo sông Tiền và sông Hậu xuống tới Trà Vang

(Trà Vinh) và Ba Thắc (Sóc Trăng và Bạc Liêu). Bề ngang từ Hà Tiên sang đến đất

Tầm Bôn (Tân An) và từ Ba Thắc đến Tầm Bào (Vĩnh Long), Trấn Giang (Cần Thơ).

Sách Đại Nam nhất thống chí viết về An Giang như sau: “Xưa là đất Tầm Phong

Long, năm Đinh Sửu thứ 19 (1757) đời Thế Tông, quốc vương Chân Lạp Nặc Tôn

dâng đất này, đặt làm đạo Châu Đốc, vì đất ấy có nhiều chỗ bỏ hoang, đầu đời Gia

Long mộ dân đến ở gọi là Châu Đốc Tân Cương, đặt quản đạo, lệ vào tỉnh Vĩnh

Long”[47, tr.184]

Khi đất Tầm Phong Long thuộc quyền quản lý của chính quyền Đàng Trong,

việc tổ chức và quản lý vùng đất mới được Chúa Nguyễn lập tức thực hiện bằng cách

cất cử quan lại cai quản. Theo đó Nguyễn Cư Trinh và Trương Phước Du lập thành 3

đạo: Châu Đốc đạo, Tân Châu đạo, Đông Khẩu đạo (thuộc tỉnh Đồng Tháp ngày nay)

20

và được xác nhập vào châu Định Viễn, thuộc dinh Long Hồ (trấn lỵ đặt ở Vĩnh Long).

Các đạo Châu Đốc, Tân Châu, Đông Khẩu được tổ chức như một khu quân sự.

Thời Chúa Nguyễn đặt chức Quản đạo để trông coi mọi việc. Dưới đạo là các

thủ có một Đạo thủ cai quản.

Từ năm 1757 đến chính quyền chúa Nguyễn bị lật đổ năm 1777, sử sách không

thấy có ghi chép nào về sự thay đổi trong quản lý hành chính của vùng đất An Giang.

Từ năm 1777 đến 1802 là giai đoạn chiến tranh giữa thế lực họ Nguyễn Ánh với Tây

Sơn, vùng Nam Bộ bấy giờ thuộc phủ Gia Định. Từ năm 1789, Nguyễn Ánh tổ chức

lại việc cai trị đất Gia Định, chia ra làm 3 trấn: Biên Trấn (vùng Biên Hòa), Phiên Trấn

(Gia Định và Định Tường), Long Hồ (Vĩnh Long và An Giang). Năm 1800, Nguyễn

Ánh đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định. Về phía triều Tây Sơn (1786 – 1802),

không thấy sử ghi lại bất kỳ sự đo đạc hoặc thay đổi nào về quản lý hành chính của

vùng đất này [54, tr.59].

Dưới thời Gia Long (1802 – 1820), vùng đất An Giang được quản lý chặt chẽ

hơn. Năm 1808, vua Gia Long đổi Gia Định trấn thành Gia Định thành. Gia Định

thành thống quản 5 trấn: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên.

Vùng đất An Giang lúc bấy giờ thuộc trấn Vĩnh Thanh, trấn thủ là Lưu Phước Tường,

thủ phủ đặt ở Long Hồ.

Trấn Vĩnh Thanh gồm 1 phủ gọi là phủ Định Viễn, với 4 huyện là Vĩnh Bình,

Vĩnh An, Vĩnh Định và Tân An (bao gồm các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp,

Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh ngày nay). Căn cứ theo Gia Định thành thông chí của

Trịnh Hoài Đức cho thấy địa bàn An Giang xưa nằm trong 2 huyện Vĩnh An và Vĩnh

Định tức các vùng từ Châu Đốc, Long Xuyên xuống đến Cần Thơ, Sóc Trăng ngày

nay. Huyện Vĩnh An nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, huyện Vĩnh Định nằm ở phía

Nam sông Hậu kéo đến Sóc Trăng [4, tr.112-116].

Đến thời vua Minh Mạng (1820 – 1840), trong các năm 1831-1832, vua Minh

Mạng tiến hành tổ chức lại bộ máy quản lý chặt chẽ hơn trong cả nước mà ta hay gọi

là “cải cách Minh Mạng”. Về mặt hành chính, Minh Mạng bỏ các tổng trấn, đổi các

dinh, trấn thành tỉnh và đây là lần đầu tiên đơn vị hành chính tỉnh xuất hiện ở Việt

Nam [1, tr.210].

21

Theo đó, năm 1832, tỉnh An Giang được thành lập. Lúc bấy giờ, An Giang là

một tỉnh lớn, có vị trí chiến lược quan trọng trong quốc phòng nên đặt chức Tổng đốc

đứng đầu. Quan Tổng đốc giữ việc cai trị quân và dân, trong coi cả quan văn lẫn quan

võ, khảo hạch các quan lại. Chức Tổng đốc ở An Giang kiêm quản cả tỉnh Hà Tiên nên

gọi là Tổng đốc An Hà. Đại Nam thực lục chép: “đặc chức An Hà Tổng đốc, thống

lĩnh 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên” [47, tr.184]. Dưới Tổng đốc An Hà có Tuần phủ An

Giang giữ việc tuyên bố ân đức của nhà vua, phủ dụ yên dân, trông coi việc hành

chính, giáo dục, chấn hưng việc có lợi và trừ bỏ hủ tục. Dưới quyền của Tuần phủ An

Giang có hai ty [37, tr.438- 440]:

- Ty Bố chánh sứ (hay Phiên ty) phụ trách việc thuế, đinh điền và hộ tịch do

một viên Bố chánh sứ (gọi tắt là Bố chánh) điều khiển, có một thông phán, một kinh

lịch giúp việc.

- Ty Án sát sứ (hay Niết ty) coi việc hình án, do một viên án sát sứ (thường gọi

là quan Án sát) phụ trách, có một thông phán, kinh lịch phụ tá.

Bên cạnh đó, triều Nguyễn còn đặt chức Lãnh binh An Giang với chức trách cai

quản việc binh lính theo lệnh quan Tổng đốc An Hà.

Dưới tỉnh là phủ do Tri phủ đứng đầu, bấy giờ tỉnh An Giang có 2 phủ là Tuy

Biên và Tân Thành. Dưới phủ là huyện do Tri huyện đứng đầu, cả tỉnh có 4 huyện là

Tây Xuyên và Đông Xuyên (thuộc phủ Tuy Biên), Vĩnh An và Vĩnh Định (thuộc phủ

Tân Thành). Dưới huyện là tổng (gồm vài làng hợp lại), về tổ chức chính quyền sẽ do

Hội đồng kỳ dịch của làng xã chọn ra một Cai tổng và một Phó tổng để quản lý tổng

đó. Hội đồng kỳ dịch làng xã thời kì này ở An Giang là những người đứng ra lập làng,

có tên trong sổ bộ, chịu đóng thuế, giải quyết các việc của làng xã [54, tr.56]. Những

nhóm dân cư dần phát triển theo thời gian, hình thành nên các đơn vị hành chính là

lân, thôn, phường, làng, hoặc những ấp đông gọi là giáp (tương đương với làng). Các

vị trí then chốt về an ninh gọi là Điếm. Đối với dân mới đến chưa vào sổ bộ hoặc cư

ngụ tạm thời thì gom lại lập đơn vị mới gọi là tứ chiếng thôn, tứ chiếng điếm [60,

tr.223].

Nói về việc cách tổ chức hành chính trên của nhà Nguyễn, Đại Nam nhất thống

chí viết “ Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) lấy đất nầy cùng với huyện Vĩnh An, tỉnh

22

Vĩnh Long đặt làm phủ Tuy Biên và Tân Thành; đặt bốn huyện là Tây Xuyên, Phong

Phú, Đông Xuyên và Vĩnh An lập tỉnh An Giang, đặc chức An Hà Tổng đốc, thống

lĩnh 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên, lại đặt hai ty Bố chánh, Án sát” [47, tr.184]. Vì lý do

an ninh quốc phòng lỵ sở của tỉnh An Giang được đặt tại Châu Đốc là nơi quan yếu để

Tổng đốc An Hà trông quản 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên. Địa bàn tỉnh An Giang ngày

nay gần khớp với địa bàn hai huyện Đông Xuyên và Tây Xuyên xưa (tức phủ Tuy

Biên) [25, tr.162].

Đến năm 1835, Minh Mạng lại cho lấy đất Ba Thắc đặt thêm phủ Ba Xuyên,

với hai huyện là Phong Nhiêu và Phong Thạnh, tiếp đó lấy huyện Vĩnh Định của tỉnh

Vĩnh Long nhập vào tỉnh An Giang. Vậy tỉnh An Giang thời kì này có 3 phủ với 7

huyện [11, tr.67]. Năm 1840, phủ Tân Thành thêm huyện An Xuyên.

Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), tỉnh An Giang có thêm một phủ với một huyện

nữa là phủ Tĩnh Biên với huyện Hà Dương lấy từ tỉnh Hà Tiên. Năm 1844, phủ Tĩnh

Biên có thêm một huyện là Hà Âm cũng lấy từ tỉnh Hà Tiên.

Năm Tự Đức thứ 3 (1850), tỉnh An Giang bỏ đi phủ Tĩnh Biên, cho hai huyện

Hà Dương và Hà Âm của phủ này lệ vào phủ Tuy Biên. Bấy giờ, tỉnh An Giang có 3

phủ với 10 huyện. Bao gồm:

- Phủ Tuy Biên, ở phía Tây sông Hậu, từ biên giới xuống đến Cần Thơ ngày

nay, gồm 4 huyện là Tây Xuyên, Phong Phú, Hà Dương và Hà Âm.

- Phủ Tân Thành, ở giữa sông Tiền và sông Hậu, giáp tỉnh Vĩnh Long, gồm có 3

huyện là Đông Xuyên (trước thuộc phủ Tuy Biên), Vĩnh An và An Xuyên.

- Phủ Ba Xuyên, vùng Sóc Trăng kéo dài đến bờ Biển Đông, gồm có 3 huyện là

Phong Nhiêu, Phong Thịnh và Vĩnh Định.

Nói về những sự thay đổi trên, sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Năm Minh

Mạng ...thứ 16 lại lấy đất Ba Thắc đặt thêm phủ Ba Xuyên, đặt thêm huyện Phong

Nhiêu và Phong Thịnh và lấy huyện Vĩnh Định tỉnh Vĩnh Long; năm thứ 20 lại lấy

huyện An Xuyên lệ vào phủ Tân Thành. Năm Thiệu Trị thứ 2 trích phủ Tĩnh Biên

cùng huyện Hà Dương thuộc huyện Hà Tiên đổi lệ thuộc vào tỉnh; năm thứ 4 lại đem

huyện Hà Âm đổi vào lệ thuộc phủ Tĩnh Biên. Năm Tự Đức thứ 3 bỏ phủ Tĩnh Biên,

23

lấy hai huyện Hà Âm, Hà Dương lệ vào phủ Tuy Biên. Nay lãnh 3 phủ, 10 huyện ”

[47, tr.184].

Đây là giai đoạn ranh giới hành chính tỉnh An Giang rộng lớn nhất. Theo Đại

Nam nhất thống chí, viết vào thời vua Tự Đức (1875) ranh giới tỉnh An Giang được

quy định “Đông – Tây cách nhau 94 dặm, Nam – Bắc cách nhau 150 dặm, phía Đông

đến sông Tiền Giang giáp địa giới huyện Kiến phong, tỉnh Định Tường 48 dặm, phía

Tây đến địa giới 3 huyện Hà Châu, Long Xuyên, và Kiên Giang, tỉnh Hà Tiên 46 dặm,

phía Nam đến biển 108 dặm, phía Đông Nam đến địa giới 2 huyện Vĩnh Bình, Tuân

Nghĩa, tỉnh Vĩnh Long 196 dặm, phía Tây Nam đến địa giới tỉnh Hà Tiên 75 dặm, phía

Đông Bắc đến địa giới tỉnh Định Tường 26 dặm, phía Tây Bắc đến địa giới Cao Miên

44 dặm, từ tỉnh lỵ đến kinh 2.300 dặm”[47, tr.183]. Có thể hình dung tỉnh An Giang

thời kì này có vị trí phía Đông giáp hai tỉnh Vĩnh Long, Định Tường. Phía Tây giáp

tỉnh Hà Tiên, phía Nam giáp Biển Đông, phía Bắc Giáp Chân Lạp (Campuchia ngày

nay).

Đến năm 1849, Nguyễn Tri Phương tâu bày về việc thành tỉnh và các phủ thuộc

tỉnh An Giang nên dời đặt đi chỗ khác. Cụ thể, xin dời thành tỉnh đến thôn Long Sơn,

huyện Đông Xuyên, còn thành cũ để làm phủ lỵ Tuy Biên. Phủ lỵ An Biên thì dời

dựng ở bờ bên hữu sông Vĩnh Tế ở Giang Thành, liệu lượng đắp một con đường cái

[45, tr.132]. Tự Đức thấy được sự cần thiết của việc này với công cuộc quốc phòng

Tây Nam và phát triển vùng biên giới nên cho y theo lời, duy việc dời dựng thành tỉnh,

thành phủ, chuẩn cho thong thả hãy bàn đến [45, tr.132].

Trong suốt thời Nguyễn vùng đất An Giang đã trải qua các đời Tổng đốc An Hà

và Tuần phủ sau:

*Các Tổng đốc An Hà thời nhà Nguyễn:

- Trương Minh Giảng nhiệm kỳ: 1832 - 1836

- Lê Đại Cương nhiệm kỳ: 1836 - 1838 (bị cách chức)

- Trương Minh Giảng nhiệm kỳ: 1838 - 1840

- Dương Văn Phong nhiệm kỳ: 1840 - 1841 (bị cách chức)

24

- Nguyễn Văn Chương (tức Nguyễn Tri Phương) tuần phủ kiêm quyền hộ lý tổng đốc

1841

- Phạm Văn Điển nhiệm kỳ: 1841 - 1842 (bị bệnh rồi mất)

- Nguyễn Công Nhàn nhiệm kỳ: 1842 - 1844 (bị cách chức)

- Nguyễn Tri Phương (tứcNguyễn Văn Chương) nhiệm kỳ: 1844 - 1845

- Tôn Thất Bạch nhiệm kỳ: 1845 - 1847

- Doãn Uẩn nhiệm kỳ 1847-1850 (bị bệnh rồi mất)

- Cao Hữu Bằng (Cao Hữu Dực) nhiệm kỳ: 1850 - 1859 (bị bệnh rồi mất)

- Nguyễn Công Nhàn nhiệm kỳ: 1859 - 1861 (bị cách chức)

- Phan Khắc Thận nhiệm kỳ: 1861 - 1867 (khi Pháp chiếm An Giang)

*Các Tuần phủ An Giang thời nhà Nguyễn:

- Lê Đại Cương nhiệm kỳ: 1832 - 1836

- Dương Văn Phong nhiệm kỳ: 1838 - 1840

- Nguyễn Tri Phương nhiệm kỳ năm 1841

- Nguyễn Công Trứ nhiệm kỳ: 1842 - 1844

- Doãn Uẩn nhiệm kỳ: 1844 - 1847

- Cao Hữu Dực nhiệm kỳ: 1847 - 1850

- Phan Khắc Thận nhiệm kỳ: 1859 - 1861

Sự tổ chức và duyên cách hành chính cũng như cất cử quan lại của các chính

quyền chúa Nguyễn, vua Nguyễn trên vùng đất An Giang suốt thời kì 1757 – 1867 có

ảnh hưởng to lớn đến những biến chuyển kinh tế xã hội, dân cư đặc biệt là công cuộc

quốc phòng trên vùng đất bán sơn địa này.

*Về thành phần cư dân

Cộng đồng dân cư trên vùng đất An Giang trước thế kỉ XX gồm nhiều dân tộc,

mỗi dân tộc đều có quá trình lịch sử tồn tại khác nhau trên mảnh đất này. Trải qua

nhiều biến cố lịch sử, các dân tộc đã cùng khai phá, quần tụ và đứng cùng nhau nơi

25

biên địa Tây Nam với tư cách người dân Việt Nam trong việc bảo vệ và giữ vững chủ

quyền quốc gia.

Sinh sống trên vùng đất An Giang thời kì này chủ yếu là những di dân, lưu dân

người Việt. Thời điểm người Việt đến vùng đất An Giang chưa được sử sách ghi lại

một cách rõ ràng. Với những phương tiện đường thủy chủ yếu là thuyền buồm, ghe

bầu, những lưu dân người Việt từ miền ngoài Gia Định, kẻ trước người sau lần lượt

tiến vào vùng đất mới [19, tr.44] trong đó có An Giang. Người Việt đến An Giang

định cư, khai phá xuất thân từ nhiều nguồn gốc, thành phần khác nhau trong xã hội

Việt Nam bấy giờ. Theo các giai thoại, truyền thuyết dân gian và những vết tích còn để

lại, đã có một số nhóm người Việt phần lớn là những người nghèo khổ gốc miền Trung

nhất là vùng Ngũ Quảng vào đây từ rất lâu đển khai phá, sinh cơ lập nghiệp. Mặc dù

cuộc sống ban đầu gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm nhưng họ vẫn kiên trì tìm đất

sống. Họ cư trú rải rác dọc theo bờ sông Tiền và sông Hậu.

Chiến lược mở cõi về phương Nam của các chúa Nguyễn với chính sách cưỡng

bức di dân của chúa Nguyễn Phúc Tần và chính sách chiêu mộ di dân của chúa

Nguyễn Phúc Chu từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XVIII trên quy mô ngày càng lớn.

Nhờ các chính sách của Chúa Nguyễn mà công cuộc khai hoang mở mang bờ cõi

phương Nam của dân Việt ngày càng diễn ra nhanh chóng [60, tr.222].

Ở cù lao Giêng, có một địa danh xưa là bến đò Phủ Thờ. Phủ Thờ này là của họ

Nguyễn từ Bình Định vào, con cháu ngày nay ở vào đời thứ 7, thứ 8, cư ngụ kề nhau

đông đúc. Người Việt đi vào phương Nam lập nghiệp với cả gia đình cha mẹ, vợ con,

và khi đã đến thì không thể về vì quá xa, mặc khác, trên quê hương cũ điều kiện rất

khó khăn, đói khổ.

Ở vùng Châu Đốc, ông Lê Công Thoàn gốc Thanh Hóa đã vào khai hoang lập

ra ấp Châu Long (thành phố Châu Đốc ngày nay) vào thế kỉ XVIII... Gia tộc Lê Công

là một trong những nhóm di dân đến khai phá vùng Châu Đốc khoảng năm 1785 -

1837. Hiện con cháu đời thứ 7 còn sống và cư ngụ ở đây. Một gia tộc thứ 2 cũng đã có

công khai phá vùng Châu Đốc hoang sơ buổi ban đầu là dòng Nguyễn Khắc, thuộc

dòng con cháu của Nguyễn Văn Thoại. Hiện nay, gia đình cháu đời thứ 7 của ông vẫn

26

còn cư ngụ tại thị xã Châu Đốc. Năm 1783, ông Dương Văn Hóa lập ấp Bình Lâm (xã

Bình Thủy, huyện Châu Phú ngày nay) [60, tr.224].

Lưu dân ở vùng cù lao Ông Chưởng được gọi là dân “Hai huyện” (Phước Long

và Tân Bình) di cư từ vùng Đồng Nai – Gia Định vào đất An Giang. Họ được xem là

mẫu mực về thuần phong mỹ tục, giữ vững được nếp ăn, nếp nghĩ của người Việt. Từ

Chợ Mới đến Cái Hố theo lòng rạch Ông Chưởng, có một số gia đình cố cư, ông bà

của họ đến đây cư ngụ từ trước đời Gia Long, Minh Mạng hoặc lâu hơn (6 đời) [60,

tr.221].

Bên cạnh đó, chính quyền cũng khuyến khích những người có vật lực, tài lực

chiêu mộ dân đi khai phá đất hoang, góp phần tạo nên diện mạo mới cho vùng đất An

Giang trong thời kì này.

Một lực lượng khác, khá quan trọng được nói đến trong thành phần người Việt

khai phá đất An Giang là binh lính đồn trú và binh lính đồn điền. Từ thời chúa Nguyễn

Phúc Chu, khi Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược đã cho phép một số binh lính

được ở lại theo ven sông vùng Châu Phú, Châu Đốc, Tân Châu, Chợ Mới cùng với dân

ở đó cày cấy làm ăn, góp phần tạo nên bộ mặt hưng khởi của những vùng đất này cũng

như tạo nền tảng cho công tác quốc phòng của đất nước [60, tr.221].

Nguyễn Văn Hầu cũng cho biết ở đất An Giang buổi ban đầu “đã có một ít xóm

người Việt phần lớn là gia binh khai thác hoa màu quanh đó rồi dần về sau mới có dân

thường lập nghiệp” [8, tr.11]. Việc khai khẩn chung quanh các đồn, bảo của quân đội

Chúa Nguyễn nhằm tự túc lượng thực cho binh lính, giảm bớt một phần gánh nặng cho

chính quyền, tạo điều kiện cho các thôn ấp lẻ tẻ đó đây bấy giờ được lập nên xung

quanh các doanh trại.

Đến thời nhà Nguyễn, với chính sách lập đồn điền chiến lược ở vùng biên giới

Châu Đốc và Vĩnh Tế của tỉnh An Giang, binh lính được xem là lực lượng được dùng

đến đầu tiên vì “đây là nơi xa xôi thường bị chiến tranh đe dọa vì nằm trên đường tiến

của quân Xiêm khi chúng sang cướp nước ta” [19, tr.104] nhằm “đặt cơ sở bước đầu

cho việc khai phá đất đai dọc miền biên giới, nhất là góp phần vào công cuộc quốc

phòng” [19, tr.104]. Như lời tâu của Tôn Thất Phan: “Nay nên cho đóng quân đồn

27

điền, dựng kho thóc ở địa hạt tỉnh ấy (An Giang), một là để dự trù quân lương cho đủ, hai là để giữ việc biên phòng...”(4).

Từ năm 1817, việc di dân lập ấp ở An Giang có công đóng góp rất lớn của quan

trấn thủ Thoại Ngọc Hầu. Lúc bấy giờ nhiều nhà cửa của nông dân đã được dựng lên,

các đình chùa cũng bắt đầu xây cất. Năm 1818, theo lệnh triều đình, Nguyễn Văn

Thoại đốc suất đào kinh Đông Xuyên ra đến Rạch Giá, tạo điều kiện canh tác thuận lợi

cho dân khẩn hoang 2 bên bờ kênh. Sau đó, ông lại phụng lệnh vua đào tiếp kênh Vĩnh

Tế (1819 – 1824), tạo điều kiện vô cùng thuận lợi, phục vụ đắc lực cho chiến lược

quốc phòng cũng như công cuộc khẩn hoang và phát triển vùng biên địa An Giang thời

kì này.

Đào kênh Vĩnh Tế xong, Nguyễn Văn Thoại cho đắp con đường từ Châu Đốc

đến núi Sam, gọi là “Châu Đốc tân lộ kiều lương” nhờ đó mà dân từ Châu Đốc vào núi

Sam khẩn ruộng, lần hồi tiến đến khai phá vùng Tịnh Biên, Tri Tôn và các vùng lân

cận.

Có thể nói, khu vực quanh các đồn bảo, cũng như quanh các công trình quân sự

trong suốt từ thời chúa Nguyễn đến thời nhà Nguyễn nhất là vùng Châu Đốc, Vĩnh Tế,

binh lính trở thành một bộ phận quan trọng góp phần vào sự nghiệp khẩn hoang của cư

dân Việt trên vùng đất An Giang.

Trong số cư dân Việt đến khai phá trên đất An Giang trước thế kỉ XX, không

thể không kể đến những người tù phạm. Dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị, tội phạm

lưu đày phần lớn gom về vùng Châu Đốc, Vĩnh Tế để lập các xóm dọc bờ kênh, dần

dần hình thành nên các vùng dân cư [47, tr.194]. Đến thời Tự Đức, Nguyễn Tri

phương tiếp tục đề xuất cho tù phạm ở lục tỉnh Nam Kỳ về khai phá đất hoang thuộc

tỉnh An Giang trong các đồn điền chiến lược ở vùng Châu Đốc và ven bờ Vĩnh Tế

nhằm tạo ra nguồn lương thực cho quân đội vừa bám đất giữ biên cương, vừa ổn định

vùng biên viễn “những tù tội chính quán, ngụ quán ở 6 tỉnh (từ tội xử sung quân trở

xuống), không kể quan hay dân bị phạm tội, nếu có người nào ra sức tình nguyện triệu

(4)Theo Huỳnh Lứa trích từ Ban Hán Nôm (1978), Tài liệu Hán – Nôm về nghề nông cổ truyền Việt Nam, tập 1,Nxb: UBKHXHVN

mộ dân, lập làm 1 đội, hoặc 1 thôn đều đủ 50 người, thì cho phép làng, họ bảo nhận

28

cam kết, sẽ được tạm tha, cho đi chiêu mộ đủ số thì tha tội...”[45, tr.264]. Bên cạnh đó,

Nguyễn Tri Phương tiếp tục đề xuất “xin từ nay trở đi, phàm những tên can tội trộm,

cướp vặt và các tên du côn không rõ lai lịch ở 6 tỉnh Nam Kỳ mà tội chỉ mãn đồ (3

năm) trở xuống đều phát cho các đồn bảo tỉnh An Giang sai phái. Tên nào xin không

muốn lãnh thì lựu lại đồn điền làm lính, tùy tiện để khai khẩn cày cấy. Đợi số ruộng

khai khẩn được bao nhiêu, cho giữ làm sản nghiệp đời đời.”[54, tr.90]. Nhờ đó, những

làng xóm mới tiếp tục được hình thành.

Năm 1854, Nguyễn Tri Phương lại tấu xin: “Sai bộ Hình xét các tù tội sung

quân và tội lưu đã phát vãng đi từ Quảng Nam trở vào Nam, lấy 200 tên chia ghép vào

bảo Giang Thành ở Hà Tiên và 300 tên chia ghép vào 2 phủ Tĩnh Biên, Ba Xuyên

thuộc An Giang, để phòng giữ và khai khẩn ruộng, đất, nhưng đều cấp vốn cho chúng

nhận để làm việc khai khẩn. Đấy là theo lời tâu xin của Nguyễn Tri Phương” [45,

tr.306]. Tù phạm là lực lượng khá quan trọng dưới sự quản lý của quan binh đã góp

phần to lớn vào công cuộc khẩn hoang lập đồn điền, lập ấp ở An Giang trong giai đoạn

này. Như vậy, những vùng giáp giới như Châu Đốc, ven bờ Vĩnh Tế, phủ Tĩnh Biên

thuộc tỉnh An Giang là những nơi chủ yếu được chính quyền nhà Nguyễn đưa tù phạm

đến khai phá và sinh cơ lập nghiệp về sau, góp phần tạo ra bộ phận dân cư mới trên

vùng đất này.

Bên cạnh những lưu dân, di dân, binh lính và tù phạm đến khai phá lập làng,

một bộ phận không nhỏ những họ đạo Thiên Chúa giáo và các tín đồ Bửu Sơn Kỳ

Hương từ các vùng miền khác của đất nước cũng lần lượt đến vùng đất An Giang.

Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, nhiều chỉ dụ cấm truyền bá đạo Thiên Chúa được

ban hành. Một số giáo dân, giáo sĩ từ miền Trung vào vùng đất An Giang lánh nạn và

khẩn hoang tại Cái Đôi (xã Hòa Bình, huyện Chợ Mới ngày nay); cù lao Giêng (xã

Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới ngày nay) [60, tr.222]. Từ năm 1778, người theo đạo Thiên

Chúa lánh nạn kỳ thị tôn giáo của vua quan nhà Nguyễn từ miền ngoài đến định cư

khá sớm ở cù lao Giêng (1778), Bò Ót (1779) và Năng Gù (1845) đã làm tăng dân số

vùng đất An Giang ngay từ buổi đầu. Tại cù lao Giêng, từ đời Gia Long, lưu dân lập

được 4 thôn thuộc Toàn Đức, Phú Hưng, Mỹ Hưng, Toàn Đức Đông ngày nay [25,

tr.216].

29

Năm 1851, nhân cơ hội Kinh lược sứ Nam kỳ là Nguyễn Tri Phương khuyến

khích việc chiêu mộ dân đến khai hoang vùng biên giới, giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương

đưa người đến khẩn hoang vùng Thất Sơn, Láng Linh, Cái dầu và bên bờ sông Tiền.

Ông Đoàn Minh Huyên (giáo chủ) đã chia nhiều đoàn tín đồ đi khai khẩn: [8, tr.16-17]

- Đoàn thứ nhất vào Thất Sơn, bên chân núi Két, một nơi còn hoang vu. Đoàn

chia làm hai nhánh, một do cụ Bùi Văn Thân, tức tăng chủ Bùi Thiền Sư hướng dẫn;

và một đoàn do cụ Bùi Văn Tây, tức Đình Tây chỉ huy, cùng nhau góp sức lập nên các

trại ruộng Hưng Sơn và Xuân Sơn, sau này hợp thành xã Thới Sơn (Tịnh Biên) ngày

nay.

- Đoàn thứ hai do cụ Quản cơ Trần Văn Thành dẫn dắt. Đoàn này đến Láng

Linh, một vùng đầm lầy, thuộc huyện Châu Phú ngày nay để khai phá lập nên trại

ruộng Bửu Sơn Các.

- Đoàn thứ ba do Đặng Văn Ngoạn tức Đạo Ngoạn đưa dân về miền Cần Lố

(ngày nay thuộc tỉnh Đồng Tháp) khai phá.

- Đoàn thứ tư do cụ Nguyễn Văn Xuyến (Đạo Xuyến) đưa tín đồ về Cái Dầu

(Bình Long) thuộc huyện Châu Phú ngày nay khai phá.

Có thể nói, các luồng di dân vào An Giang chủ yếu là người miền Trung,

thường gọi là dân Ngũ Quảng, cùng những vùng khác như Biên Hoà, Gia Định, Mỹ

Tho... cũng đến khai khẩn đất hoang theo bờ các kênh xáng mới đào. Tất cả đã tạo ra

sự đa dạng trong nguồn gốc xuất thân, thành phần xã hội của những nhóm người Việt

đến khai phá, sinh cơ lập nghiệp trên vùng đất biên viễn An Giang trong suốt thời kì từ

1757 – 1867.

*Về các dân tộc bên cạnh người Việt suốt thời kì 1757 - 1867

Cư dân trên vùng đất An Giang bao gồm nhiều cộng đồng tộc người khác bên

cạnh người Việt trong suốt thời kì lịch sử 1757 – 1867. Một số tư liệu trước đây ghi

nhận như sau :

- Người Khmer: hầu hết đều sinh ra và lớn lên ở Việt Nam nên gọi là người

Việt gốc Khmer. An Giang là vùng đất được thụ đắc từ Chân Lạp nên người Khmer

sinh sống khá đông, tập trung nhiều ở các vùng tương đối cao và đồi núi, tương ứng

với địa bàn các huyện Tri Tôn, Tịnh Biên, Thoại Sơn, một phần huyện Châu Thành,

30

Châu Phú ngày nay. Người Khmer theo tín ngưỡng của hệ Phật giáo Nam Tông, sùng

bái đạo Phật, tôn kính sư sãi và sẵn sàng dâng cúng cho chùa những huê lợi do họ cực

nhọc làm ra để mong được phước cho kiếp sau. Người Khmer được xem là nhóm cư

dân đến trước người Việt. Họ đã di cư nhiều đợt đến vùng đất An Giang xưa. Từ thế kỉ

XII, những nông dân Khmer nghèo khổ, bỏ trốn sự bóc lột hà khắc cùng các loại thuế

khóa nặng nề của chính quyền phong kiến Chân Lạp đã tìm đến nơi đây. Tại đây họ

tập trung sinh sống trên các giồng đất cao, tổ chức thành khu vực cư trú có mối quan

hệ theo kết cấu dòng họ, gia đình. Đến năm 1431, quân Xiêm tấn công cướp phá Ang

Kor, để tránh khỏi sự cướp bóc tàn khốc của quân thù, nhiều nhóm người Khmer tiếp

tục di cư đến An Giang và các khu vực khác thuộc miền Tây Nam Bộ ngày nay [56,

tr.226].

Từ thế kỉ XV trở đi, vương quốc Chân Lạp bước vào giai đoạn suy yếu. Năm

1594, quân Xiêm đánh chiếm thủ đô Lovek (La Bích) của Chân Lạp. Đất nước bị

khống chế, hàng loạt người Khmer tiếp tục di cư về phía Nam Bộ trong đó có An

Giang. Tại đây, họ hòa nhập với người Khmer đến trước, tiếp tục khai phá đất hoang

thành đồng ruộng để tồn tại [56, tr.226].

Đến đất An Giang cũng như Nam Bộ để sinh sống, các nhóm Khmer đã sống

độc lập và không có quan hệ hành chính với bất kỳ một quốc gia nào thời kì đó. Do

sống tách biệt với người Khmer ở Chân Lạp trong thời gian dài, và chịu sự chi phối

mạnh của điều kiện tự nhiên và con người trên vùng đất này họ đã tạo nên một cộng

đồng người Khmer An Giang nói riêng và Nam Bộ nói chung có những đặc trưng về

cư trú, kinh tế, văn hóa - xã hội. Cộng đồng người Khmer đã có đóng góp không nhỏ

cho sự phát triển của vùng đất An Giang và công cuộc bảo vệ biên giới Tây Nam trong

thời kì này.

- Người Chăm và người Mã Lai: Từ năm 1756, sau khi cứu người Côn Man

(người Chăm) ở Chân Lạp bị Nặc Nguyên ức hiếp, Nguyễn Cư Trinh chiêu dụ họ về

với Đàng Trong, một phần đến Châu Giang định cư, một bộ phận đến đóng ở Tây Ninh(5). Tiếp đến, năm 1819, Thoại Ngọc Hầu trong quá trình huy động nhân lực để

đào kênh Vĩnh Tế từ Châu Đốc đến Hà Tiên đã chiêu mộ những người Chăm từ Chân (5)Theo Nguyễn Văn Hầu, Sự thôn thuộc đất Tầm Phong Long, sđd, tr. 10.

31

Lạp đến đào kênh. Trong những quãng nghỉ (1820) và sau khi con kênh được đào

xong (1824), họ được thưởng công và cấp đất sinh sống tại vùng Châu Giang nên còn

được gọi là Chăm Châu Giang [25, tr.71]. Năm 1820, quan thống đốc người Chăm ở

Cao Miên là Saet A Bubaca bị tố cáo là phiến loạn, bị vua Chân Lạp xử tử ở Ou dong.

Con ông và một số người khác nhờ sự che chở của người Chăm gốc Mã Lai ở đây, đã

trốn về trú ngụ tại Châu Đốc và được chính quyền Nguyễn cho về định cư tại Châu Giang và Khánh Hòa(6). Trong nhóm người Chăm này có một thành phần là người gốc

Malaysia, được gọi Chăm Chà-và (liên hệ tới đảo Java, do không phân biệt được người

Java tới từ Indonesia và người Mã Lai nên hai nhóm này được gọi chung là Java).

Người Chăm ở An Giang theo Hồi giáo chính thống nên còn được gọi là Chăm Islam.

Người Chăm Châu Giang rất siêng năng, tiết kiệm. Nhà cửa thường cất tương tự kiểu

Cao Miên, sàn cao, cách mặt đất từ 1,5m đến 2m. Họ đoàn kết với nhau rất chặt chẽ,

nên ít khi bị bọn trộm cướp dám quấy phá. Năm 1840, một bộ phận người Chăm giải ngũ đã đến cư ngụ tại khu vực thuộc xã Khánh Hòa huyện Châu Phú ngày nay(7).

Khoảng thời gian Nguyễn Tri Phương vào kinh lược Nam Kỳ, người Chăm ở ngang

chợ Châu Đốc (Đa Phước, Châu Phong ngày nay) cũng gom lại từng đội, do 1 viên

Hiệp quản người Chăm đứng đầu [25, tr.71]. Từ bên Chân Lạp, người Chăm rút về,

nương náu trong lãnh thổ Việt Nam để tránh loạn lạc do nội chiến bên Chân Lạp, rồi

định cư luôn trên vùng đất An Giang (Châu Ðốc, Tân Châu, An Phú ngày nay). Cộng

đồng người Chăm đã có sự đóng góp to lớn trong sự nghiệp quốc phòng biên giới cũng

như khai hoang mở đất phát triển vùng đất An Giang trong thời kì này.

- Người Hoa cũng có mặt ở An Giang trong thời kì đầu khai phá. Họ vốn có

nguồn gốc từ người Minh Hương ở khu vực Nông Nại, Chợ Lớn, Mỹ Tho theo chân

những quan binh triều đình, hoặc tự bỏ tiền đến khai phá những chỗ hoang vu mà triều

đình khuyến dụ, hoặc đến làm ăn buôn bán ở những nơi thương mại có điều kiện phát

triển như phía cù lao Tiêu Mộc, vùng Chợ Mới, Long Xuyên, Long Sơn (thuộc Tân

Châu), Châu Đốc... Ở nông thôn, những người Hoa bỏ tiền khai phá ruộng đất đã bị

Việt hóa, do sống cách biệt với cộng đồng của họ và cộng cư với người Việt trong (6)Theo Địa phương chí Châu Giang (1961 – 1963), Cục lưu trữ TW.2/TP.Hồ Chí Minh. (7)Theo Phan Văn Kiến (2012), Biên niên sử An Giang thời kỳ xác lập chủ quyền và khai phá đất An Giang của nhà Nguyễn (1700 – 1867), Tạp chí Văn hóa – Lịch sử số 87 – 06/2012, tr. 22.

32

cùng làng xóm. Còn phần lớn người Hoa kinh doanh, buôn bán nơi thị tứ thường sống

thành cộng đồng nhỏ giữa cộng đồng Việt nên vẫn giữ được ít nhiều những giá trị văn

hóa riêng. Trong thời kì này, công đồng người Hoa đã góp phần tạo nên sự hưng khởi

của các vùng thị tứ trên vùng đất An Giang, làm tăng thêm nguồn lực cho công cuộc

quốc phòng biên giới trên vùng đất này.

Như vậy, trong quá trình khai phá đất đai, quần tụ, sinh sống của các lưu dân, di

dân trên vùng đất An Giang, nhiều cá nhân, tổ chức (quân đội, binh lính), gia tộc, họ

đạo (Thiên Chúa), tín đồ (Bửu Sơn Kỳ Hương), đến từ nhiều vùng miền của đất nước

đã để lại dấu ấn đậm nét trong khu vực mà họ dựng nghiệp. Trong quá trình khai khá

vùng đất An Giang, bên cạnh người Việt, người Khmer, Hoa, Chăm cũng đã đóng góp

đáng kể cho sự phát triển của vùng đất này, đã tạo ra một diện mạo mới trong sự phân

bố dân cư trên vùng đất An giang suốt từ thời kì 1757 - 1867.

*Về sự phân bố dân cư trong quản lý hành chính

Vào thế kỷ XVII, XVIII, phía sông Hậu từ Châu Đốc xuống Năng Gù, dân cư

thưa thớt. Chỉ có vài khu vực tương đối cao như chợ Châu Đốc, Mỹ Đức, Cái

Dầu...dân đến ở khá đông. Họ cất nhà sàn để ở, mùa nước nổi khai thác cá linh, làm

lúa mùa, cuộc sống còn nghèo khổ. Từ xa xưa, vùng Chợ Thủ (nay thuộc huyện Chợ

Mới) là một điểm dân cư tập trung bên cạnh cù lao Giêng. Dân cư đông đảo, nhà cửa

khang trang. Chùa miếu được xây dựng làm nơi thờ tự, lễ bái của dân trong vùng. Từ

đây, từng lớp lưu dân đã ổn định và bắt đầu phân tán đi khai phá các vùng đất mới

khác như: Long Xuyên, Châu Đốc, Tân Châu,...[60, tr.222].

Trong bước đầu đến khai hoang vùng đất An Giang, sự phân bố dân cư diễn ra

một cách tự phát theo điều kiện sống. Ngoài ra, một số người có trình độ và tiền của

đứng ra chiêu mộ dân lập làng, để khai phá thêm các vùng đất còn hoang vu. Các vùng

đất mới khai phá dân cư quần tụ lại cất nhà quay mặt ra hướng sông, sau nhà là vườn,

sau vườn là ruộng đồng. Ở những nơi giáp nước hoặc ngã ba, ngã tư sông dân cư

thường tập trung đông đúc, dần dần hình thành nên các quán xá, hiệu buôn, chợ búa để

trao đổi mua bán, trên bến dưới thuyền.

Thời Gia Long, Minh Mạng, dân cư vùng An Giang còn ít, nhiều đất hoang

chưa có người khai thác. Dân xã, thôn được ghi vào sổ đinh là đàn ông, không ghi đàn

33

bà, trẻ con. Để thành lập một xã, chỉ cần vài người dân đinh đứng đơn, bảo đảm với

triều đình về nghĩa vụ thuế đinh, thuế điền. Người xin lập làng được quan phủ cấp cho

con dấu nhỏ, bằng gỗ (dân quen gọi là con mộc). Những người đi khai phá đến sau,

phần lớn là dân nghèo, dân lậu, xin khai khẩn vùng đất gọi là “hoang nhân chi địa”

(đất chưa khai phá). Năm Minh Mạng thứ 11 (1830), quan Tổng trấn Gia Định tâu:

“Đồn Châu Đốc mới lập được 41 làng, dân đinh chỉ hơn 800 người” [41, tr.88]. Như

vậy, nếu kể cả dân lậu, phụ nữ và trẻ em trong làng thì dân cư Châu Đốc lúc đó có thể

lên đến vài ngàn. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), ngạch hộ đinh ở An Giang là 25.645

người [47, tr.194]

Khi tỉnh An Giang mới thành lập năm 1832, dọc theo hữu ngạn sông Tiền, dân

cư khá đông, tập trung ở cù lao Ông Chưởng. Một số thôn, xã được thành lập. Riêng

cù lao Giêng tuy không rộng lắm, nhưng sanh kế dễ dàng, nên qui tụ được 4 thôn [25,

tr.216]. Phía hữu ngạn sông Hậu, dân cư thưa thớt. Từ biên giới Việt – Miên xuống

Long Xuyên chỉ có các làng Bình Thạnh Tây (đối diện Bình Thạnh Đông bây giờ),

Bình Đức, Mỹ Phước. Hai làng Bình Đức và Mỹ Phước gần kề nhau chỉ cách con rạch

Long Xuyên [60, tr.222].

Vùng An Giang gồm 2 khu vực mới và cũ riêng biệt:

- Phía Tân Châu, Ông Chưởng, Chợ Mới dễ canh tác, dân đến sinh sống từ lâu

nên rất đông đúc.

- Phía hữu ngạn sông Hậu, là vùng rừng núi hoang vu, đất khó canh tác, dân

thưa thớt, thường là làng mới lập.

Vùng đất cũ với vai trò hạt nhân về văn hóa, kinh tế là bệ phóng để dân tiến đến

khai phá vùng đất mới [25, tr.198].

Thời kì này, cánh đồng An Giang rộng lớn và hoang vu, hàng năm đều ngập

trong nước lũ nhiều tháng, cùng với mạng lưới sông rạch tự nhiên khá nhiều, việc đi

lại chủ yếu là bằng đường thủy trừ vùng Thất Sơn. Cho nên việc dân cư sinh sống dọc

theo các con sông, kênh, rạch là điều tự nhiên. Đây cũng là các tuyến tiếp nhận di dân.

Đầu thế kỷ XIX đã nhiều lần quân Xiêm xâm lấn nước ta. Hà Tiên, Châu Đốc

là những vùng bị thiệt hại trước tiên và nặng nề nhất. Năm 1833, giặc Xiêm tàn phá

dọc kênh Vĩnh Tế, chiếm Châu Đốc và tràn qua Tân Châu. Nhưng chỉ 5 năm sau dân

34

cư đã quy tụ trở lại, thành lập hàng chục thôn rải rác từ núi Sam dọc theo 2 bờ kênh

Vĩnh Tế về phía Hà Tiên [60, tr.224].

Vùng Châu Đốc là biên địa hiểm trở, mỗi người dân khẩn hoang là một lính thú

nơi biên cương vừa sản xuất vừa phải đối phó với giặc từ bên ngoài. Trong Gia Định

thành thông chí, mục thôn xã không ghi lại làng nào ở vùng “Châu Đốc Tân Cương”,

chỉ xác nhận từ biên giới tới biển Ba Thắc thành lập vẻn vẹn được một huyện là huyện

Vĩnh Định với 37 thôn xóm, chạy suốt theo hữu ngạn sông Hậu, với lời giải thích

“Huyện Vĩnh Định địa giới tuy rộng nhưng dân cư chưa đông nên chưa chia ra thành

tổng” [4, tr.455]. Một huyện mà chỉ có 37 thôn xóm là quá ít, nếu so với các huyện

đương thời như huyện Tân An (135 thôn), huyện Kiến Hoà (151 thôn).

Để củng cố công tác quản lý hành chính, kiểm tra và khuyến khích dân cư đến

lập nghiệp vùng hoang địa, nhà Nguyễn cho tiến hành lập làng, nhất là vùng biên

cương như Châu Đốc. Thủ tục xin lập làng tương đối dễ. Do đó, trước năm 1831, lưu

dân đã thành lập làng An Nông. Đến tháng 3 năm 1831, làng An Nông từ núi Chân

Tầm Lon tới núi Tà Béc còn nhiều đất hoang, một nhóm dân cư xin lập làng Phú

Cường tách ra từ làng An Nông, gồm 15 người đến ở (chỉ tính đàn ông)...[25, tr.87-

88].

Năm 1836, nhiều thôn hình thành ở vùng núi Sập (thuộc huyện Thoại Sơn ngày

nay) như Phú Hòa, Vĩnh Chánh, Vĩnh Phú, Vĩnh Thuận...[59, tr.36].

Nguyễn Tri Phương khi làm kinh lược sứ ở miền Nam, đã có sáng kiến lập đồn

điền biên giới nhằm ngăn giặc, yên dân, tập trung vùng Châu Đốc và Hà Tiên, đặc biệt

là ở vùng Vĩnh Tế.

Trịnh Hoài Đức trong Gia Định Thành thông chí ghi nhận sự hiện diện của

những người Việt đến sinh sống vùng Bảy Núi để tu hành, khai thác nguồn lợi thiên

nhiên, không làm giàu nhưng có thể sống qua ngày. Họ lập vườn cây ăn trái, trồng hoa

màu, tìm dược thảo, làm ruộng ở chân núi, bắt cá vào mùa hạn ở các ao đìa, sống hoà

nhập với người Khmer. Sau khi thành lập địa bộ, dân cư trong vùng đã lập được nhiều

thôn theo bờ kênh Vĩnh Tế như Vĩnh Tế Sơn thôn, Nhơn Hoà, An Qui, Thân Nhơn,

Vĩnh Bảo, Long Thạnh, Toàn Thạnh, Vĩnh Gia, Vĩnh Lạc. Phần lớn diện tích được

trồng khoai, trồng đậu, trong bộ điền gọi là vu đậu thổ (đất trồng hoa màu). Từ các

35

làng này mới thu hút nhiều lưu dân đến sinh sống, như làng Phú Cường. Năm Tự Đức

thứ 10 (1857), làng Châu Phú vẫn còn nhiều ruộng chưa khẩn, có 2 người dân đinh

đứng tên xin thành lập làng gọi là làng Châu Quới, tách từ làng Châu Phú ra, sau đó

thu hút được thêm 5 người dân lậu [60, tr.226].

Theo Quốc triều chính biên toát yếu của Quốc sử quán triều Nguyễn, năm 1847

tỉnh An Giang, số đinh theo báo cáo của Bộ Hộ có 22.998 người (cả nước Việt Nam khi đó số đinh chỉ có 1.024.388 người)(8).

Vào nửa sau thế kỷ XIX, nhất là sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam

Kỳ, chế độ đồn điền trì trệ. Quân lính trong các đồn điền chuyển sang chiến đấu chống

Pháp, nhà Nguyễn buộc phải chuyển sang hình thức doanh điền tiến hành thực hiện ở

các tỉnh. Các nhà doanh điền ở An Giang và Hà Tiên được thành lập. Đến năm 1866,

doanh điền sứ An Giang - Hà Tiên là Trần Hoàn và Phạm Hữu Chính báo cáo đã mộ

được 1.646 dân đinh, thành lập 149 thôn, khẩn được 8.333 mẫu ruộng [45, tr.990].

Năm 1862, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông, rồi năm 1867 chiếm luôn 3 tỉnh miền

Tây. Theo thống kê sơ bộ do y sĩ người Pháp Vantalon ghi lại trong chuyến đi trồng

trái (chủng đậu) năm 1881, dân số Long Xuyên là 88.631 người, Châu Đốc là 105.182

dân, phần lớn tập trung ở phía sông Tiền vùng Tân Châu, Chợ Mới [60, tr.227].

Như vậy, dân cư trên vùng đất An Giang trong thời kì này có sự thay đổi mạnh

mẽ. Từ chỗ những làng xóm thưa thớt người thì hơn một thế kỉ sau đã vượt lên hàng

trăm ngàn người, được phân bố rộng khắp các địa điểm, tập trung nhiều nhất là ở khu

vực Tân Châu, Chợ Mới, Châu Đốc, Long Xuyên.... Bên cạnh sự đa dạng về dân tộc,

cư dân An Giang còn có sự đa dạng về nguồn gốc, thành phần lưu dân, di dân đến

vùng đất này. Tất cả làm nên cộng đồng cư dân trên vùng đất An Giang qua các thời kì

lịch sử, góp phần quan trọng trong sự nghiệp quốc phòng của đất nước trên vùng biên

địa Tây Nam.

1.3. Vùng đất An Giang trong bối cảnh lịch sử trước năm 1757

*Vùng đất An Giang từ đầu công nguyên đến đầu thế kỉ XVII.

(8)Nhóm Nghiên cứu sử địa (1972), Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chánh biên toát yếu, Nxb Nhóm Nghiên cứu sử địa.

Từ thế kỉ I, vùng đất An Giang là lãnh thổ của vương quốc cổ - Phù Nam. Theo

36

thư tịch cổ và bi ký, lúc bấy giờ từ vùng đất Nam Bộ của Việt Nam sang đến Biển Hồ

của Campuchia có 7 liên minh bộ lạc của cư dân bản địa và một số thị tộc, bộ lạc sống

lẻ tẻ ở miền núi. Đứng đầu liên minh các thị tộc, bộ lạc này là một nữ chúa mà các sử

sách Trung Quốc đều gọi là Liễu Diệp. Khoảng thế kỷ I, một người Ấn Độ mà theo sử

sách Trung Hoa đó là Hỗn Điền đã đem quân đội theo đường biển tấn công vào vương

quốc của Liễu Diệp, lấy Liễu Diệp làm vợ, thay vợ làm vua đất nước này. Dần dần,

Hỗn Điền chinh phục các thị tộc, bộ lạc khác, lập ra nước Phù Nam. Theo Lương thư

ghi chép lại: “Liễu Diệp tuổi trẻ, khỏe mạnh như con trai… Người của Liễu Diệp

đông, thấy thuyền đến thì muốn bắt giữ. Hỗn Điền giương cung bắn, tên xuyên qua

bên mạn thuyền, đến theo những kẻ hầu. Liễu Diệp sợ hãi xin hàng. Hỗn Điền lấy Liễu

Diệp làm vợ rồi cai trị nước Phù Nam” [28, tr.241].

Vương quốc Phù Nam ra đời từ thế kỉ I sau CN, tồn tại và phát triển trong hơn 6

thế kỉ, đến thế kỉ VII thì suy vong. Quá trình hình thành, phát triển và suy vong của

vương quốc Phù Nam được chia làm ba giai đoạn sau:

- Giai đoạn 1 – giai đoạn sơ kì: từ thế kỉ I đến đầu thế kỉ thứ III

- Giai đoạn 2 – giai đoạn phát triển: từ đầu thế kỉ III đến đầu thế kỉ VI

- Giai đoạn 3 – giai đoạn suy vong: nửa đầu thế kỉ VI đến đầu thế kỉ VII

Như vậy từ thế kỉ I đến VII, lịch sử vùng đất An Giang gắn liền với vương quốc

Phù Nam, là một vùng đất nằm trong vương quốc Phù Nam rộng lớn, bao gồm cả vùng

Nam Bộ ngày nay của Việt Nam.

Sau thời gian dài phát triển và mở rộng, đến thế kỉ thứ VI, Phù Nam bắt đầu bộc

lộ sự suy yếu, khủng hoảng từ bên trong. Trong đế quốc Phù Nam các thuộc quốc

không ngừng lớn mạnh, trong đó Chân Lạp (Chenla) dần trở thành một thế lực lớn.

Chân Lạp là một quốc gia cổ được hình thành ở trung tâm bán đảo Đông Dương bởi

các dân tộc người Môn - Khmer vào khoảng nửa cuối thế kỷ V. Lãnh thổ ban đầu

tương ứng với phần đất miền Trung và Nam Lào cùng với vùng Đông - Bắc Thái Lan

ngày nay. Các vương quốc láng giềng xung quanh vào thời kì đó là Champa ở phía

Đông, Phù Nam ở phía Nam (là thuộc quốc của Phù Nam) và Pyn (Miến Điện -

Myanma) ở về phía Tây - Bắc. Mặc dù là thuộc quốc của Phù Nam, nhưng Chân Lạp

đã nhanh chóng phát triển thành một vương quốc độc lập vào thế kỷ VI và nhân sự suy

37

yếu của Phù Nam đã tấn công rồi chiếm lấy một phần lãnh thổ của đế chế này vào đầu

thế kỷ VII. Vua Phù Nam Rudruvarman (vị vua thứ 13 và là vị vua cuối cùng của

vương quốc Phù Nam) thất bại chạy về Naravanagara (còn gọi là Na Phất Na - một

kinh thành cổ nằm tại vùng Óc Eo - Ba Thê) và định đô ở đó một thời gian. Sách Tùy

thư chép rằng nước Chân Lạp ở về phía Tây Nam Lâm Ấp, nguyên là một chư hầu của

Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đã đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam.

Sách Tân Đường thư cho biết cụ thể hơn là vào đầu niên hiệu Trịnh Quán nhà Đường

(627 – 649): “Trong nước Phù Nam có thay đổi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc

Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về Na Phất Na”[28,

tr.249].

Cho đến khoảng từ năm 627 đến 649, dưới triều đại của vua Chân Lạp mới là

Isanavarman thì việc thôn tính vương quốc Phù Nam cơ bản hoàn thành. Phù Nam bị

sáp nhập hoàn toàn vào Chân Lạp. Do không quen với cuộc sống sông nước và thậm

chí không cần cuộc sống sông nước nên người Chân Lạp đã không định cư ở hải cảng

Óc Eo – đã được nhiều học giả cũng như giới khảo cổ chứng minh là một cảng thị quốc tế sầm uất bậc nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ (9).

Vương quốc Phù Nam tồn tại hơn 6 thế kỷ, trải qua liên tục 13 đời vua, thời

gian đó có thể sánh với độ dài của một triều đại phong kiến tập quyền ở Đông Nam Á

ở những thế kỷ tiếp sau đó. Trong suốt quá trình tồn tại, với những thành quả xây dựng

được về các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, Phù Nam đã khẳng định vị trí quan

trọng của mình như là đầu mối buôn bán Đông - Tây, giữ vững sự ổn định trong các

mối quan hệ quốc tế, xứng đáng là một “trung tâm liên kết thế giới” như lời nhận xét

của một học giả Nhật Bản. “Với những thành tựu, biểu hiện đó, quốc gia Phù Nam đã

vượt qua trình độ cơ sở để trở thành một vương quốc phát triển cao nhất Đông Nam Á

về mọi mặt trong thiên niên kỷ và nó xứng đáng có một vị trí quan trọng trong lịch sử

(9)Đô thị Óc Eo – BaThê là một khu vực ở quanh chân núi Ba Thê, nay thuộc xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang ngày nay. Dựa trên cơ sở phân tích các tư liệu di tích, L. Maleret cho rằng Óc Eo là một cảng thị, một trung tâm hoạt động mậu dịch, thương mại có vị trí quan trọng về kinh tế, văn hóa và cả về chính trị, một địa điểm trung chuyển rất thuận lợi của vương quốc cổ Phù Nam trên con đường mậu dịch quốc tế thời cổ đại.

thế giới” [26, tr.31].

38

Như vậy, từ chỗ một vùng đất thuộc Phù Nam - một quốc gia độc lập và hùng

mạnh, sau năm 627, vùng đất Nam Bộ trong đó có An Giang ngày nay đã bị phụ thuộc

vào Chân Lạp.Sau khi Chân Lạp đánh bại Phù Nam, trong một số sách Trung Quốc đã

xuất hiện tên gọi “Thuỷ Chân Lạp” để chỉ phần lãnh thổ Phù Nam trên vùng đất Nam

Bộ và phân biệt với vùng đất “Lục Chân Lạp”, tức là vùng đất gốc của Chân Lạp.

Từ đây vùng đất Nam Bộ nói chung và An Giang nói riêng được sáp nhập vào

lãnh thổ Chân Lạp. Nhưng trên thực tế, việc cai quản vùng lãnh thổ mới này đối với

Chân Lạp gặp nhiều khó khăn. Trước hết, với truyền thống quen khai thác các vùng

đất cao, dân số còn ít ỏi và thưa thớt, người Khmer khi đó khó có khả năng tổ chức

khai thác trên quy mô lớn một vùng đồng bằng mới bồi lấp, còn ngập nước và sình lầy.

Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Chân Lạp đòi hỏi rất nhiều thời

gian và sức lực. Việc cai trị xứ Thủy Chân Lạp vì vậy vẫn phải giao cho những người

thuộc dòng dõi Vua Phù Nam. Theo những tài liệu bi ký còn lại có thể thấy rằng, vào

thế kỷ VIII, tại vùng trung tâm của Phù Nam trước đây vẫn còn tồn tại một tiểu quốc

tên là Aninditapura, do một người dòng dõi Vua Phù Nam tên là Baladitya trị vì.[5,

tr.23-24].

Khi Phù Nam tan rã là lúc nhiều vương quốc nhỏ vốn là thuộc quốc hoặc chư

hầu cũ nổi lên thành những nước mạnh. Trong số đó có Srivijaya của người Java là

hùng mạnh nhất. Vào nửa sau thế kỷ VIII, quân đội nước này đã liên tục tấn công vào

các quốc gia trên bán đảo Đông Dương. Kết cục là Thủy Chân Lạp bị quân Java

chiếm. Cả vương quốc Chân Lạp gần như bị lệ thuộc vào Srivijaya. Cục diện này mãi

đến năm 802 mới kết thúc khi vua Jayavarman II đánh bại người Java, giải phóng

được đất nước, mở ra thời kì lịch sử mới trên vùng đất Thủy Chân Lạp trong đó có

vùng đất An Giang. Trong vòng một thế kỷ, vùng đất này lại nằm dưới quyền kiểm

soát của người Java [5, tr.24]. Các bộ phận dân cư ở Óc Eo – Ba Thê đã rời bỏ nơi đây

lưu lạc đến những vùng khác. Sự thịnh vượng của vùng đất An Giang với đại diện tiêu

(10)Có nhiều cách giải thích sự biến mất của cư dân Óc Eo – Ba Thê vào thế kỷ VII. Một cách lý giải được nhiều học giả trước đây thừa nhận: đó là một cuộc chiến của người Chân Lạp từ phía tây tràn xuống cướp bóc và tiêu

biểu là đô thị Óc Eo – Ba Thê bị quên lãng, vùi lấp theo thời gian giữa vùng đất nhiễm phèn rộng mênh mông(10).

39

Thời kì Angkor huy hoàng, thời kì thống nhất và thịnh đạt của Campuchia với

tâm điểm là vùng Tây Bắc (Siem Reap) với kinh đô là Yasodharapura. Có thể thấy, địa

điểm quần cư chủ yếu của người Khmer lúc bấy giờ là ở khu vực Angkor xa hẳn vùng

hạ lưu sông Mekong. Với dân số Khmer ít ỏi dù đang trong thời kỳ cực thịnh – thời kì

trị vì của vua Jayavarman VII (1181 – 1201) với “tổng số nhân khẩu chắn chắn không

thể lên tới con số một triệu người”[26, tr.122]. Khu vực Angkor rất trù phú với nền

kinh tế được miêu tả là “ruộng đất dư dật”, “gạo rất dễ tìm”. Vì điều kiện sống thuận

lợi nên việc cải tạo tự nhiên và khai khẩn đất hoang hầu như không thấy được nhắc

đến mà chỉ “tính thời tiết lúc nào lúa chín và nơi nào ngập nước thì tùy đó mà gieo

trồng”, “ngoài ra có một loại ruộng thiên nhiên lúa mọc thường xuyên không cần gieo

trồng” [26, tr.109]. Đó có thể là lý do quan trọng mà vùng đất thuộc Thủy Chân Lạp

trong đó có An Giang với nhiều rừng rậm, thú dữ, đầy hiểm nguy bị quên lãng trong

mấy thế kỉ.

Châu Đạt Quan, trong đoàn sứ giả Mông Cổ, đi đến vương quốc Angkor Khmer

vào thế kỷ XIII đã ghi lại trong quyển “Chân Lạp phong thổ ký” rằng:“... Từ đó, rời

Chiêm Thành, khi thuận gió, trong mười lăm ngày là có thể tới Chen-p’u (Chân

Bồ)...ta thấy mọi nơi um tùm các cây đan chen nhau trong khu rừng thấp, những cửa

sông rộng lớn của con sông (Mekong) chạy dài hàng trăm lí, bóng mát um tùm của

những gốc cổ thụ và cây mây leo quanh dài tạo thành nhiều chỗ trú ẩn xum xê. Tiếng

chim hót và tiếng thú vật kêu vang liên tục khắp nơi. Ở khoảng nửa đường trong

chuyến đi vào từ cửa sông, thình lình người ta mới thấy vùng đất mở ra với cánh đồng

hoang, không thấy có một gốc cây nào.... Hàng trăm hàng ngàn trâu rừng tựu họp từng

bầy ăn cỏ trong vùng nầy. Đi tiếp theo đó, là vùng đất cao dần trải dài hàng trăm lí. Từ

các khúc nối của các cây cây tre nầy có gai mọc và măng tre thì lại có vị rất đắng. Ở

chân trời chung quanh bốn phía có các dãy núi cao.” [64]. Dựa vào các chi tiết này, rất

diệt cư dân Óc Eo. Nhưng cách lý giải này chưa đủ thuyết phục bởi lẽ những bằng chứng khảo cổ cho thấy không có vết tích của những đổ vỡ do cướp phá, tại thủ phủ Óc Eo những vật quý hầu như còn nguyên vẹn cho đến khi L. Mallerete phát hiện. Một cuộc xâm lăng trên quy mô lớn nếu không chiếm đất cướp của thì với mục đích gì? Nhưng có lẽ lý do quan trọng nhất vén bức màng bí mật của suy vong và biến mất vai trò trong lịch sử của cảng thị cổ Óc Eo – Ba Thê một thời gian dài thuyết phục hơn cuộc xâm lăng của người Chân Lạp là lý thuyết về sự tác động tự nhiên của quá trình biển tiến và biển lùi.

có thể Châu Đạt Quan miêu tả đúng ngay vùng đất An Giang thời bấy giờ.

40

Bắt đầu từ cuối thế kỷ XIV, Chân Lạp phải đối phó với sự bành trướng của các

vương triều Xiêm từ phía Tây, đặc biệt là từ sau khi Vương triều Ayuthaya hình thành

vào giữa thế kỷ XIV. Trong suốt 78 năm (từ 1353 đến 1431), Ayuthaya và Chân Lạp

liên tiếp có chiến tranh, trong đó chủ yếu là những cuôc tiến công Chân Lạp từ phía

người Thái. Trong thời kì đó, có lúc kinh thành Angkor đã bị quân đội Ayuthaya

chiếm đóng.

Sang thế kỷ XVI, và nhất là thế kỷ XVII, do sự can thiệp của Xiêm, triều đình

Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc. Vương quốc này dần bước vào thời kì suy vong. Trong

bối cảnh như vậy, Chân Lạp hầu như không có khả năng kiểm soát đối với vùng đất

còn ngập nước ở phía Nam, vốn là địa phận của vương quốc Phù Nam. Trên thực tế,

khả năng kiểm soát và quản lý vùng đất này của vương triều Chân Lạp giảm sút dần.

[5, tr.25-26]

Từ đầu thế kỷ XVII, đã có lưu dân người Việt ở vùng đất Thuận - Quảng của

chúa Nguyễn đến Mô Xoài (Bà Rịa), Đồng Nai (Biên Hòa) khai khẩn đất hoang, lập ra

những làng người Việt đầu tiên trên vùng đất Nam Bộ.

Năm 1620, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả Công chúa Ngọc Vạn cho Quốc

vương Chân Lạp Chey Chettha IIlàm Hoàng hậu của Vương triều Chân Lạp. Sự việc

này cũng đã được Christofo Borri, một giáo sĩ người Ý sống tại thị trấn Nước Mặn

(nay thuộc huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định) vào các năm 1618 – 1622 ghi nhận.

Dưới sự bảo trợ của bà Hoàng hậu người Việt của Vương triều Chey Chettha II (1619

– 1627), cư dân Việt từ vùng Thuận - Quảng vào sinh sống làm ăn ở lưu vực sông

Đồng Nai ngày một đông thêm. Đây chính là cơ sở thuận lợi cho Chúa Nguyễn từng

bước hợp pháp hóa sự kiểm soát của mình một cách hòa bình đối với vùng đất đã được

người Việt khai khẩn. [5, tr.27- 28]

Năm 1623, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã thương lượng thành công với Quốc

vương Chân Lạp Chey Chettha II, tiến hành lập hai thương điếm ở Prei Nokor (tên gọi

cũ của Sài Gòn, vị trí tương ứng với Chợ Lớn hiện nay) và Kas Krobey (vùng Bến

Nghé xưa, vị trí tương ứng với Sài Gòn ngày nay) để thu thuế. Georges Maspéro trong

sách Đế quốc Khmer khảo cứu kỹ biên niên sử Khmer cho biết: “Nhà Vua mới lên

ngôi Chey Chettha II liền xây một cung điện ở Oudong (U Đông). Nơi đây ông long

41

trọng cử hành lễ cưới một công chúa con Vua An Nam. Bà này rất đẹp. Chẳng bao lâu,

bà có ảnh hưởng mạnh đến nhà Vua. Nhờ bà mà một sứ đoàn An Nam đã xin được

Chey Chettha cho phép lập thương điếm trong miền Nam Cao Miên, ở chính nơi ngày nay là Sài Gòn”(11).

Như vậy, đến đầu thế kỉ XVII, chính quyền Đàng Trong đã bước đầu thiết lập

được thực quyền của Đại Việt trên vùng đất “Thủy Chân Lạp”, mở đầu cho quá trình

mở cõi về phương Nam ở cấp độ chính quyền nhà nước, tạo tiền đề cho quá trình mở

đất và giữ đất của dân tộc ta về sau.

* Vùng đất An Giang từ đầu thế kỉ XVII đến năm 1757.

Từ đầu thế kỉ XVII trở về sau chứng kiến sự di dân mạnh mẽ của người Việt

đến khai phá và làm chủ vùng đất mới. Chính quyền các chúa Nguyễn đã thể hiện đầy

đủ tầm nhìn và nhận thức trong việc mở cõi về phương Nam bằng những chính sách và

hành động cụ thể. Từ đó mà vùng đất Nam Bộ dưới sự quản lý của chính quyền Đàng

Trong từng bước được hình thành.

Từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần (1620 – 1687), Nguyễn Phúc Chu (1675 –

1725) nhiều chính sách khuyến khích di dân đã được ban hành, cũng những biện pháp

quân sự thể hiện tinh thần bảo vệ thành quả khẩn hoang mà nhân dân Việt đã đạt được

nơi biên giới phương Nam.

Theo Đại Nam thực lục tiền biên, tháng 9 năm Mậu Tuất (năm 1658), vua nước

Chân Lạp là Nặc Ông Chân (Chan Ramathipati) xâm lấn đất đai của Chúa Nguyễn ở

vùng Mô Xoài (Bà Rịa), đã bị quan quân địa phương bắt giải về Phú Xuân. Chúa

Nguyễn Phúc Tần “tha tội cho và sai hộ tống về nước, khiến làm phiên thần hàng năm

nộp cống”.[39, tr.28-29]

Tư liệu trên xác nhận những hoạt động quan trọng đầu tiên của Chúa Nguyễn

trên con đường từng bước hình thành và bảo vệ chủ quyền của mình đối với vùng đất

miền Đông Nam Bộ trong những thập kỷ đầu và giữa thế kỷ XVII.

Cùng với các nhóm cư dân người Việt, trong thời gian này cũng xuất hiện một

(11)G. Maspéro (1904), L’empire Khmer, Histoire et documents, Phnom Penh, p61.(Dẫn theo Vũ Minh Giang, sđd, trang 28)

số nhóm người Hoa đến khai khẩn đất hoang và sinh sống làm ăn ở vùng đất Nam Bộ.

42

Trong hoàn cảnh nhà Thanh thay thế nhà Minh ở Trung Quốc, một số quan lại và quân

lính trung thành với triều đình nhà Minh vì không chấp nhận sự thống trị của nhà

Thanh đã vượt biển đến Đàng Trong tìm đất sinh sống và thúc đẩy nhanh hơn quá

trình khai phá vùng đất đồng bằng Nam Bộ. Sách Đại Nam thực lục chép: “Kỷ Mùi,

năm thứ 31 (1679), mùa Xuân, tháng Giêng, tướng cũ nhà Minh là Long Môn tổng

binh Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến, tổng binh Trần Thượng Xuyên và

phó tướng Trần An Bình đem hơn 3.000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển

Tư Dung và Đà Nẵng, tự trần là bô thần nhà Minh, nghĩa không chịu làm tôi nhà

Thanh, nên đến để xin làm tôi tớ. Bấy giờ bàn bạc rằng: “Phong tục, tiếng nói của họ

đều khác, khó bề sai dung, nhưng họ bị thế cùng bức bách đến đây thì không nỡ cự

tuyệt. Nay đất Đông Phố (tên cổ của Gia Định) nước Chân Lạp đồng ruộng phì nhiêu

nghìn dặm, triều đình chưa rỗi mà kinh lý, chi bằng nhân lấy sức của họ cho đến khai

khẩn để ở, làm một việc mà lợi ba điều. Chúa theo lời bàn, bèn sai đặt yến úy lạo khen

thưởng, trao cho quan chức khiến đến ở đất Đông Phố. Lại cáo dụ nước Chân Lạp rằng

như thế là có ý không để nước Chân Lạp ra ngoài. Bọn Ngạn Địch đến cửa Khuyết tạ

ơn để đi. Binh thuyền của Ngạn Địch và Hoàng Tiến vào cửa Lôi Lạp (nay thuộc đất

Gia Định) đến đóng ở Bàn Lân (nay thuộc Biên Hòa). Họ vỡ đất hoang, dựng phố xá,

thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây Dương, Nhật Bản, Chà Và đi lại tấp

nập…”.[39, tr.91]

Sách Đại Nam nhất thống chí, căn cứ vào các dấu tích hoạt động cụ thể đã cho

biết nhóm Trần Thượng Xuyên đến Biên Hoà “mở đất, lập phố”, còn nhóm Dương

Ngạn Địch đến Mỹ Tho “dựng nhà cửa, hợp người Kinh, người Di, kết thành làng

xóm. Sau đó dựng 9 trường biệt nạp là Quy An, Quy Hóa, Cảnh Dương, Thiên Mụ,

Gian Thảo, Hoàng Lạp, Tam Lạch, Bả Cạnh, Tân Thạnh cho dân lập ấp khai khẩn

ruộng đất cày cấy; lại lập thành trang, trại, man, nậu, nhân dân đều theo nghề nghiệp

của mình làm ăn để nộp thuế”. Như vậy, cùng với Sài Gòn – Gia Định, Biên Hòa và

Mỹ Tho cũng đã đang dần dần trở thành những trung tâm cư dân và kinh tế phát triển

dưới quyền cai trị của Chúa Nguyễn ở miền Đông và cả miền Tây Nam Bộ. [5, tr.30]

Cùng thời gian này, Mạc Cửu là người xã Lôi Quách, huyện Hải Khang, phủ

Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) cũng vì việc nhà Minh mất mà “để tóc chạy

43

sang phương Nam, đến nước Chân Lạp làm chức Ốc Nha, thấy phủ Sài Mạt ở nước ấy

có nhiều người buôn bán các nước tụ họp, bèn mở sòng gá bạc để thu thuế gọi là hoa

chi, lại được hố bạc chôn nên trở thành giàu. Nhân chiêu tập dân xiêu dạt đến các nơi

Phú Quốc, Cần Bột, Giá Khê, Lũng Kỳ, Hương Úc, Cà Mau (thuộc tỉnh Hà Tiên) lập

thành 7 xã, thôn” [39, tr. 122]. Mạc Cửu đã biến toàn bộ vùng đất Hà Tiên – Long

Xuyên - Bạc Liêu – Cà Mau (được gọi chung là Hà Tiên) thành khu vực cát cứ của

dòng họ mình, không còn lệ thuộc vào chính quyền Chân Lạp nữa. Hà Tiên vào thời

Mạc Cửu, là một mắt xích quan trọng ở phía đông vịnh Thái Lan, trên tuyến hàng hải

thương mại châu Á qua vịnh Thái Lan, men theo bờ Biển Đông Việt Nam lên Quảng

Châu, Trung Quốc hay đảo Luzon (Philippin).

Những sự kiện trên cho thấy trong thời kì này, vùng đất Nam Bộ đã trở thành

nơi tranh chấp ảnh hưởng và quyền bính giữa hai thế lực của Vương triều Chân Lạp và

Đàng Trong, trong đó vai trò của Chân Lạp ngày càng lu mờ, còn vai trò của Chúa

Nguyễn thì ngày càng được khẳng định, mở rộng và củng cố. Năm 1674, Vương triều

Chân Lạp bị chia thành Chính Quốc Vương (đóng ở U Đông) và Phó Quốc Vương

(đóng ở Sài Gòn), cả hai đều triều cống Chúa Nguyễn. Năm 1691, Phó Quốc Vương

Nặc Ông Nộn (Ang Non) qua đời và từ đó, vùng đất này không còn đại diện của

Vương triều Chân Lạp nữa.

Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh

lược vùng đất Đồng Nai. Trịnh Hoài Đức đã ghi chép lại sự kiện này trong Gia Định

thành thông chí như sau: “Mùa xuân năm Mậu Dần (1698), đời Vua Hiển tông Hiếu-

minh hoàng đế sai Thống suất Chưởngcơ Lễ thànhHầu Nguyễn HữuKính sang kinh

lược Cao Miên, lấy đất Nông Nại đặt làm Gia Định phủ, lấy xứ Đồng Nai làm huyện

Phúc Long (nay thăng làm phủ) dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay), lấy xứ

Sài Gòn làm huyện Tân Bình (nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên Trấn (tức dinh Gia

Định ngày nay), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội thuyền

thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất đai được nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ,

bèn chiêu mộ những người dân xiêu bạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở đông.

Thiết lập xã thôn, phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệ thuế

tô dung, làm sổ đinh điền. Lại lấy người Thanh đến buôn bán ở Trấn Biên lập thành xã

44

Thanh Hà, ở Phiên Trấn lập làm xã Minh Hương. Từ đó người Thanh ở buôn bán đều

thành dân hộ”.[39, tr.111]

Như vậy, Chúa Nguyễn đã xác lập quyền quản lý về mặt nhà nước đối với các

xứ Đồng Nai (huyện Phúc Long) – Sài Gòn (huyện Tân Bình), sáp nhập hẳn vào lãnh

thổ Đàng Trong, tổ chức các đơn vị hành chính và bộ máy chính quyền từ cấp dinh

trấn cho đến tận các thôn xã, thực thi quyền lực nhà nước trong việc quản lý đất đai,

hộ khẩu, thu thuế và trưng thu các nguồn lợi tự nhiên và thu thuế qua việc trao đổi với

thương nhân nước ngoài. Đến đây, Sài Gòn – Gia Định đã trở thành trung tâm hành

chính – chính trị và đang từng bước hình thành một trung tâm kinh tế và văn hóa của

vùng đất mới. Sự kiện năm 1698 là cột mốc quan trọng trong quá trình xác lập và thực

thi chủ quyền của chúa Nguyễn đối với vùng đất Nam Bộ.

Trong thời gian chúa Nguyễn xác lập chủ quyền trên đất Gia Định, vùng đất An

Giang đã có nhiều võ tướng hành quân lui tới. Năm Mậu Thìn (1688), “Phó tướng

Long Môn Hoàng Tiến giết chủ tướng là Dương Ngạn Địch ở cửa biển Mỹ Tho, tự

xưng là Phấn dũng hổ oai tướng quân, dời đồn sang Nan Khê (nay là Vàm Nao giữa

hai huyện Phú Tân và Chợ Mới của tỉnh An Giang), thủ hiểm đắp luỹ, đúc đại bác,

đóng chiến thuyền, thả quân đi cướp bóc. Vua chính nước Chân Lạp và Nặc Thu oán

giận, bèn mưu với bề tôi là Ốc nha Cống Sa bỏ việc triều cống và đắp ba luỹ Bích Đôi,

Cầu Nam và Nam Vang, rồi chằng xích sắt ngăn cửa sông, làm kế cố thủ. Vua thứ nhì

là Nặc Nộn (đang đóng ở Sài Gòn) biết mưu ấy, cho chạy báo với dinh Trấn Biên. Phó

tướng Mai Vạn Long liền gởi trạm dâng thư của Nặc Nộn”[39, tr.98]. Chúa Nguyễn

Phước Trăn nổi giận, bèn triệu các quan bàn việc xuất binh. Chúa quyết định “lấy Mai

Vạn Long làm thống binh, Nguyễn Thắng Long (Cai cơ Trấn Biên và con Nguyễn

Dương Lâm) và Nguyễn Tân Lễ là Tả – Hữu vệ trận, Thủ hợp Văn Vỵ làm tham mưu,

đem quân đánh Chân Lạp. Sai Hoàng Tiến làm Tiên phong, dưới quyền tiết chế của

Vạn Long” [39, tr.99]

Đến năm 1689, Thống binh Nguyễn Hữu Hào (anh ruột của Nguyễn Hữu Cảnh)

từng điều quân qua vùng này để sang Chân Lạp đánh dẹp thế lực Nặc Thu. Đại Nam

thực lục ghi: “Bấy giờ tướng sĩ Trấn Biên ở lâu ngày không lập được công gì, vì

Thống binh Mai Vạn Long lầm tin lời nói của Dao Luật đóng quân không tiến, lòng

45

quân do đó oán giận. Cai cơ Nguyễn Thắng Sơn đem tình trạng ấy tâu lên. Chúa cả

giận “Tức thì triệu quần thần chọn tướng khác thay. Chưởng cơ Hoằng Lược tiến cử

Cai cơ Nguyễn Hữu Hào (con Nguyễn Hữu Dật) là người trí dũng có thể dùng được.

Cháu bèn cho Hữu Hào làm Thống binh, văn chúc Hòa Tín làm tham mưu....Bãi chức

Vạn Long, cho làm thứ dân, giáng Văn Vị làm tướng thần lại.” [39, tr.102]. Cơ đội

thủy binh của Nguyễn Hữu Hào từng dừng quân ở khu vực Bình Mỹ, Mỹ Đức, cù lao

Bình Thủy (nằm trên sông Hậu, đoạn từ Long Xuyên lên Châu Đốc) [9, tr.142].

Mười năm sau, năm 1699, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh và

Phạm Cảm Long đem quân từ Quảng Nam, Bình Khang (Khánh Hòa) hợp với quân

của Nguyễn Hữu Khánh ở Trấn Biên đi đánh Nặc Thu (Ang Saur) đang cho quân cướp

bóc ở Bích Đôi, Nam Vang và Cầu Nam. Đại Nam thực lục chép: “Kỹ mão, năm 1699,

Nặc Thu nước Chân Lạp làm phản, đắp lũy ở Bích Đôi, Nam Vang và Cầu Nam, cướp

bóc dân buôn. Tướng quân Long Môn là Trần Thượng Xuyên đóng giữ Doanh Châu

(nay thuộc Vĩnh Long) đem việc báo lên.

Mùa đông, tháng 10, lại sai Nguyễn Hữu Kính làm Thống suất, Cai bạ Phạm

Cảm Long làm Tham mưu, Lưu thủ Trấn Biên là Nguyễn Hữu Khánh làm tiên phong,

lãnh quân hai dinh Bình Khang, Trấn Biên và thuộc binh 7 thuyền dinh Quảng Nam,

cùng với tướng sĩ Long Môn đi đánh” [39, tr.112]. Cơ đội thủy binh trên đường từ

Trấn Biên đến Tân Châu đã đóng quân ở những đồn thuộc xã Bình Mỹ, Bình Long,

Mỹ Đức [54, tr.36].

Năm 1700, sau khi thắng trận, buộc Nặc Thu đầu hàng, thủy binh từ Châu Đốc

xuôi xuống Vàm Nao để vào sông Tiền, rồi rẽ vào sông Lễ Công [9, tr.162]. Khi đến

cù lao Tiêu Mộc (nay là cù lao Ông Chưởng) báo tin thắng trận và chờ lệnh của Chúa

Nguyễn, Nguyễn Hữu Cảnh thấy sông Lễ Công lúc bấy giờ chỉ là con rạch nhỏ (đầu

bắc thông với sông Tiền, đầu nam thông với sông Hậu), thuyền ghe thường hay mắc

cạn. Để tiện việc đi lại, Nguyễn Hữu Cảnh đã cho đào nới rộng và sâu hơn, dân ở đây

nhớ ơn nên thường gọi là sông Ông Chưởng. Tại vùng này dọc hai bên bờ sông đều có

đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, lớn nhất là Dinh Ông do nhân dân xây dựng để tưởng nhớ

vị anh hùng mở đất. Ở khu vực này, Nguyễn Hữu Cảnh cho quân dừng lại ở Chân

Đùng (thuộc xã Long Kiến, huyện Chợ Mới ngày nay) để phủ dụ thổ quan “nên dễ dãi

46

với dân cư”, ân cần khuyên thổ dân nên cùng dân Việt lấy “đạo đức cư xử với nhau ôn

hòa đùng nên ganh ghét, kỳ thị gây gổ nhau làm chi...”. Lòng nhân ái của ông khiến

cho các chủng dân đều cảm phục [9, tr.170].

Trước sự đe dọa của Xiêm và sự yếu kém của Chân Lạp, cùng sự phát triển hết

sức nhanh chóng của khu vực Gia Định, năm 1708, Mạc Cửu đem toàn bộ vùng đất

đang cai quản về với Chúa Nguyễn. Sách Đại Nam thực lục chép sự kiện xảy ra vào

năm 1708: “Đến đây Cửu ủy cho người bộ thuộc là Trương Cầu và Lý Xã dâng thư xin

làm Hà Tiên trưởng. Chúa nhận cho, trao cho chức Tổng binh. Cửu xây dựng binh

ngũ, đóng ở Phương Thành, nhân dân ngày càng đến đông” [39, tr.122]. Tháng 4 năm

1711, Tổng binh trấn Hà Tiên Mạc Cửu đã đến cửa khuyết để tạ ơn và được chúa

Nguyễn Phúc Chu hậu thưởng.

Việc vùng đất Hà Tiên được sáp nhập vào lãnh thổ Đàng Trong là sự kiện đánh

dấu bước phát triển quan trọng trong quá trình mở rộng chủ quyền của chúa Nguyễn

trên vùng đất Nam Bộ. Đến đầu thế kỷ XVIII, chủ quyền Việt Nam đã mở rộng đến

tận Hà Tiên và mũi Cà Mau, bao gồm cả các hải đảo ngoài Biển Đông và Biển Tây.

Năm 1732, dinh Long Hồ được thành lập sau khi chúa Nguyễn Phúc Chu yêu

cầu vua Chân Lạp là Nặc Tha (Sotha II) nhượng hai phần đất Mésa (Mỹ Tho) và

Longhor (Vĩnh Long) cho chúa cai quản. Đây có thể xem là tiền đề trực tiếp, quan

trọng để hoàn chỉnh công cuộc mở mang lãnh thổ miền Tây Nam Bộ. Tuy các chúa

Nguyễn lúc nào cũng chú ý đến việc mở rộng cương giới phía Nam, nhất là sau khi

mặt Bắc đã tạm yên (1672) nhưng đến đây lãnh thổ Đàng Trong mới chỉ bao gồm

miền Đông Nam Bộ, Long Hồ cùng với đất Hà Tiên do họ Mạc trông coi, “còn các

vùng hoang vu như Lôi Lạp (Gò Công), Tầm Bôn (Tân An), Ba Thắc (Sóc Trăng, Bạc

Liêu), Trà Vang (Trà Vinh, Bến Tre), và đất Tầm Phong Long (cả miền Thất Sơn chạy

xuống Sa Đéc) vẫn thuộc người Cao Miên cố thủ” [8, tr.7].

Việc sáp nhập đất Hà Tiên (1708) vào lãnh thổ Đàng Trong ở phía Tây, sự thiết

đặt dinh Long Hồ (1732) và việc củng cố đất Gia Định, Đồng Nai ngày càng thêm

vững chắc ở phía Đông đã tạo ra gọng kìm khiến việc mở đất ở miền Tây Nam Bộ của

Chúa Nguyễn là một bước đi tất yếu. Có thế nói, hoàn cảnh lịch sử đã hết sức thuận lợi

47

cho Chúa Nguyễn có thể thu phục đất Tầm Phong Long còn lại để nối liền Gia Định và

Hà Tiên thành một dãy.

Mạc Thiên Tứ kế nghiệp Mạc Cửu không chỉ ra sức xây dựng và phát triển Hà

Tiên trở thành một trung tâm kinh tế phồn thịnh, mà còn nêu cao ý thức bảo vệ chủ

quyền với tư cách là người được giao trách nhiệm bảo vệ vùng biên giới cực Nam đất

nước. Sách Đại Nam thực lục cho biết vào năm 1739: “Nặc Bồn nước Chân Lạp lấn

Hà Tiên… Thiên Tứ đem hết quân bản bộ ra đánh, đuổi tới Sài Mạt, ngày đêm đánh

hăng, lương thực không tiếp kịp. Vợ là Nguyễn Thị đốc suất vợ lính vận lương đến

nuôi quân, quân không bị thiếu ăn, hăng hái cố đánh phá được quân Bồn. Tin thắng

trận báo lên, Chúa cả khen ngợi, đặc biệt cho Thiên Tứ chức Đô đốc tướng quân, ban

cho áo bào đỏ và mũ đai, phong Nguyễn Thị làm Phu nhân. Do đó, Chân Lạp không

dám nhòm ngó Hà Tiên nữa”.[39, tr.148].

Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi vương, tổ chức bộ máy hành

chính thống nhất, chia toàn bộ đất Đàng Trong thành 12 dinh và 1 trấn phụ thuộc. Các

dinh đều đặt Trấn thủ, Cai bạ và Ký lục để cai trị. Đứng đầu trấn là chức Đô đốc.

Riêng vùng đất Nam Bộ lúc ấy gồm 3 dinh là Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ và trấn

Hà Tiên.

Vào khoảng thời gian này, vương triều Chân Lạp lâm vào tình trạng nội bộ mâu

thuẫn, chia rẽ. Có thế lực muốn dựa hẳn vào Chúa Nguyễn, nhưng lại có thế lực muốn

chạy theo vua Xiêm. Các lực lượng đối địch luôn tìm mọi cơ hội để thôn tính lẫn nhau.

Sách Đại Nam thực lục cho biết vào năm Mậu Thìn (1748) “Nặc Tha (Satha II) nước

Chân Lạp lên ngôi Vua. Nặc Thâm từ nước Xiêm về, Tha không chịu nhận. Thâm cử

binh đánh. Tha chạy sang Gia Định. Thâm liền chiếm đất. Đến khi Thâm chết, con là

Đôn, Hiên, Yếm tranh nhau làm Vua…Mùa Hạ, tháng 6, Nặc Nguyên (Ang Tong)

nước Chân Lạp (con thứ hai Nặc Thâm) cùng Cao La Hâm và Ốc Đột Lục Man cầu

viện quân Xiêm về đánh Nạc Tha. Nạc Tha (Satha II) lại chạy sang Gia Định, rồi bị

bệnh chết. Nặc Nguyên (Ang Tong) làm vua nước ấy”[39, tr.155].

Sau khi lên ngôi vua Chân Lạp, năm 1753, Nặc Nguyên đã ỷ thế ức hiếp người

Côn Man (người Chăm) ở Chân Lạp. Tiếp đó, Nặc Nguyên lại cho thông sứ với chúa

Trịnh ở Đàng Ngoài với ý định hợp quân tiến đánh Đàng Trong. Được tin, từ cuối năm

48

1753, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã cử Thiện Chính và Nguyễn Cư Trinh điều khiển

quân Ngũ Dinh đi đánh Nặc Nguyên. Đại Nam thực lục chép: “Mùa đông, tháng

11(1753), sai Cai đội Thiện Chính làm Thống suất, Ký lục Nguyễn Cư Trinh làm

Tham mưu điều khiển quân năm dinh Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên

Trấn, Long Hồ sang đánh Chân Lạp...”[39, tr.158].

Năm 1754, Thiện Chính và Nguyễn Cư Trinh chia hai đường tiến đánh Nặc

Nguyên. Quân địch ở đồn Lô Yêm và bốn phủ Lôi Lạp, Tầm Bôn, Cầu Nam, Nam

Vang đều thất thủ xin hàng. Sau đó, các tướng chiêu dụ người Côn Man về với Đàng

Trong. Nặc Nguyên thất thế phải chạy trốn gần Vĩnh Long. Năm 1755, Thiện Chính

dẫn quân từ Chân Lạp về đồn Mỹ Tho. Sau đó, Thiện Chính lại lệnh cho khoảng 5.000

người Côn Man mới chiêu phục đem theo cả bộ lạc xuống đồn trú ở Bình Thành (nay

là Gò Vấp). Đoàn người Côn Man khi về đến vùng Vô Tà Ân (vùng Đồng Tháp Mười)

bất ngờ bị quân Nặc Nguyên tập kích. Người Côn Man dùng xe cộ làm thành lũy

chống đỡ, đồng thời cấp báo cho Thiện Chính để cầu viện binh. Thiện Chính do gặp

trở ngại đường rừng lầy lội, khó hành quân đã không thể tới ứng cứu. Nhận được tin

báo, Nguyễn Cư Trinh gấp rút cho quân đi cứu viện, đánh tan quân Chân Lạp rồi đưa

toàn bộ số người Côn Man này về định cư ở núi Bà Đen (thuộc tỉnh Tây Ninh hiện

nay). Sau đó, Nguyễn Cư Trinh tấu trình sự việc lên triều đình. Chúa tức giận triệu

Thiện Chính về, gián làm Cai đội. Chúa Nguyễn lập tức cử Trương Phước Du thống

suất quân đội, dùng người Côn Man làm hướng đạo, sang đánh Cầu Nam, Nam Vang

giết được mấy người Ốc Nha. Nặc Nguyên thua trận chạy về Hà Tiên nương tựa Đô

đốc Mạc Thiên Tứ [39, tr.164].

Năm 1755, Nặc Nguyên lại nhờ Mạc Thiên Tứ xin tha tội và xin dâng đất hai

phủ Tầm Bôn (Tân An), Lôi Lạp (Gò Công) để chuộc tội. Đại Nam thực lục chép:

“Nặc Nguyên nước Chân Lạp trình bày việc đánh cướp Côn Man là do tướng Chiêu

Chuỳ Ếch gây ra, nay xin hiến đất hai phủ Tầm Bôn, Lôi Lạp và nộp bù lễ cống còn

thiếu về ba năm trước để chuộc tội”. Mạc Thiên Tứ đem việc tâu lên, Chúa cùng các

quan bàn, ra lệnh bắt Chiêu Chuỳ Ếch đem nộp. Nặc Nguyên trả lời rằng, Ếch đã bị xử

tử rồi. Khiến bắt vợ con. Nguyên lại kiếm cớ xin tha. Chúa biết là nói dối, không y lời

xin. Nguyễn Cư Trinh kíp tâu rằng: “Từ xưa việc dụng binh chẳng qua là để diệt trừ

49

bọn đầu sỏ và mở mang thêm đất đai. Nặc Nguyên nay đã biết ăn năn xin hàng nộp

đất, nếu truy mãi lời nói dối ấy thì nó tất chạy trốn. Nhưng từ đồn dinh Gia Định đến

La Bích, đường xá xa xôi, nghìn rừng muôn suối, không tiện đuổi đến cùng. Muốn mở

mang đất đai cũng phải lấy hai phủ này trước để củng cố mặt sau của hai dinh. Nếu bỏ

gần cầu xa e rằng hình thế cách trở binh dân không liên tiếp, lấy được tuy dễ, mà giữ

thực là khó. Khi xưa mở mang phủ Gia Định, tất phải trước mở đất Hưng Phúc, rồi đến

đất Đồng Nai, khiến cho quan dân đông đủ, rồi sau mới tới Sài Gòn. Đó là cái kế tằm

ăn dần”[39, tr. 165-166]. Qua việc hiến kế và phân tích của Nguyễn Cư Trinh, Chúa

Nguyễn đã chấp nhận việc “lấy đất hai phủ ấy, ủy cho thần xem xét hình thế, đặt lũy

đóng quân, chia cấp ruộng đất cho quân và dân, vạch rõ địa giới, cho đặt lệ vào châu

Định Viễn để thu lấy toàn khu”[39, tr.166].

Như vậy, vùng đất An Giang đã trải qua một quá trình lịch sử với nhiều biến

động lớn lao từ một lãnh thổ thuộc vương quốc Phù Nam, đến thời kì nội thuộc Chân

Lạp cùng những biến đổi to lớn của tự nhiên đã thay đổi toàn bộ diện mạo vùng đất

này. Trong công cuộc khai phá đất đai về phương Nam, người Việt đã đặt chân đến và

biến vùng đất Nam Bộ trong đó có An Giang trở thành vùng đất trù phú song song với

quá trình xác lập chủ quyền của chính quyền chúa Nguyễn trên vùng đất này. Những

diễn biến lịch sử đến trước năm 1757 đã tạo nền tảng về chính trị và ngoại giao cho

Đại Việt hoàn thành diện mạo của vùng đất Nam Bộ như ngày nay.

50

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Vùng đất An Giang được biết đến như một vùng đất bán sơn địa với nhiều đặc

trưng về vị trí, địa hình, khí hậu, sông rạch, thủy văn, đất đại và dân cư. An Giang với

địa thế án ngữ phía Tây Nam của đất nước, được xác định là nơi có vị trí vô cùng

chiến lược của đất Nam Bộ xưa, tiếp giáp trực tiếp với phía Nam của Chân Lạp. Song

song đó, địa hình An Giang mang nét độc đáo mà ít có vùng đất nào có được với

những dải núi hiểm trở chen giữa những đồng bằng ngày càng được mở rộng, bên cạnh

những cù lao đất đai phí nhiêu mầu mở. Đây chính là cơ sở hình thành nên nhiều căn

cứ đóng trú của chính quyền chúa Nguyễn và nhà Nguyễn trong chiến lược quốc

phòng biên giới. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch trên vùng đất An Giang vừa mang yếu

tố tự nhiên vừa mang yếu tố nhân tạo. Sông Tiền và sông Hậu là hai sông tự nhiên rất

quan trọng vừa cung cấp phù sa và nước tưới cho các đồng bằng vừa mang những yếu

tố chiến lược phục vụ đắc lực chính sách quốc phòng biên giới Tây Nam của những

chính quyền Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược. Kênh Thoại Hà, Vĩnh Tế và

Vĩnh An là những công trình nhân tạo ra đời vào những thời điểm khác nhau vừa phục

vụ cho công cuộc khẩn hoang lập làng, phát triển vùng đất mới, vừa phục vụ hiệu quả

cho chiến lược quốc phòng chống giặc ngoại xâm nơi vùng đất địa đầu biên giới của

chính quyền nhà Nguyễn. Trong khi đó, khí hậu và chế độ thủy văn trên vùng đất An

Giang có những đặc điểm rất riêng biệt với độ ẩm cao quanh năm cũng như mùa lũ lụt

kéo dài hơn 6 tháng tạo ra những ưu thế về sự thích nghi và sự di chuyển trên vùng đất

biên địa này. Nhìn một cách tổng thể, điều kiện tự nhiên đem đến cho An Giang những

ưu thế mà ít có nơi nào có được.

Lịch sử vùng đất An Giang được biết đến như một bộ phận quan trọng của

vương quốc cổ Phù Nam (I – VII) với sự hiện diện của cảng thị cổ ở vùng Ba Thê –

Óc Eo. Sau khi Phù Nam bị Chân Lạp xâm chiếm vùng đất An Giang được đặt dưới sự

kiểm soát của Chân Lạp. Tuy nhiên, vùng Thủy Chân Lạp bao gồm cả An Giang

(tương ứng với Nam Bộ Việt Nam ngày nay) đã không được chính quyền Chân Lạp

chú ý khai thác, sự quản lý ngày càng lỏng lẻo dẫn đến vùng đất này rơi vào tình trạng

gần như vô chủ. Theo thời gian, những di dân, lưu dân người Việt dần dần có mặt tại

51

vùng Thủy Chân Lạp để khai phá, sinh cơ lập nghiệp. Từ đầu thế kỉ XVII đến năm

1757, chính quyền các chúa Nguyễn bằng nhiều biện pháp đã từng bước xác lập chủ

quyền trên vùng đất này. Năm 1757 là một móc thời gian đặc biệt đánh dấu sự xác

nhập của vùng đất Tầm Phong Long (bao gồm cả An Giang) vào lãnh thổ Đại Việt,

mở ra thời kì lịch sử mới trên vùng đất này, đồng thời kết thúc quá trình mở cõi về

phương Nam của dân tộc ta.

Việc tiếp thu vùng đất Tầm Phong Long là một trong những sự kiện đặc biệt

trong lịch sử dân tộc, nó vừa góp phần mở rộng cương vực của tổ quốc ta về phương

Nam, vừa đánh dấu kết thúc diễn trình Nam tiến của dân tộc ta trong 775 năm (982-

1757). Vùng đất An Giang bấy giờ là bộ phận phía Bắc của Tầm Phong Long đã chính

thức hòa nhập vào lãnh thổ nước ta. Từ đây, lịch sử An Giang bước vào một trang mới

với vai trò và tầm chiến lược quan trọng trong công cuộc phòng thủ và phát triển đất

nước ở khu vực phía Tây Nam của tổ quốc.

Việc Chúa Nguyễn thụ đắc đất Tầm Phong Long và liền sau đó Mạc Thiên Tứ

dâng vùng đất từ Giá Khê tới Cà Mau đã hoàn chỉnh diện mạo vùng đất Nam Bộ cơ

bản như ngày nay. Trong hoàn cảnh lịch sử mới, sự ra đời của các yếu tố mới buộc

chính quyền chúa Nguyễn phải có những bước đi phù hợp. Việc bang giao phía Nam

của Đàng Trong bấy giờ không chỉ là sự ứng đối của vùng Gia Định – Long Hồ với

Chân Lạp, khi Hà Tiên đã được giao hoàn toàn cho họ Mạc, mà đã có sự thay đổi hoàn

toàn, khi cả vùng đất phương Nam trở thành một khối thống nhất, một bộ phận gắn

liền thống thuộc của Đàng Trong.

Nhận thức đúng tình hình, sau khi tiếp quản vùng đất mới, Chúa Nguyễn lập

tức cất cử người đến cai quản, phân chia địa giới hành chính, cũng như thiết lập các

đạo mang tính chất phòng vệ, giữ gìn biên cương, phát triển vùng đất biên viễn của

Đàng Trong.

52

Chương 2. AN GIANG TRONG CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG CỦA CHÍNH QUYỀN CHÚA NGUYỄN THỜI KÌ 1757 – 1777

2.1. Vùng đất An Giang trong quá trình các chúa Nguyễn làm chủ, củng cố và

bảo vệ vùng lãnh thổ từ Tầm Phong Long đến Hà Tiên và quan hệ đối ngoại

Đàng Trong - Chân Lạp - Xiêm La

*Năm 1757 thời điểm mở đầu cho ý thức và hoạt động quốc phòng của

chính quyền chúa Nguyễn trên vùng đất An Giang.

Năm 1757, sau khi được chúa Nguyễn tha tội, Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc

Nhuận dâng hai phủ Trà Vinh và Ba Thắc (Sóc Trăng) để xin chúa Nguyễn Phúc

Khoát phong cho làm vua Chân Lạp. Sau đó, Nặc Nhuận bị người con rể là Nặc Hinh

giết và cướp ngôi. Con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên nương nhờ Mạc

Thiên Tứ. Thống suất Trương Phúc Du thừa kế sang đánh thắng Nặc Hinh. Nặc Hinh

chạy đến vùng Tầm Phong Xuy thì bị Ốc Nha Uông giết chết. Mạc Thiên Tứ tâu giúp

cho Nặc Tôn xin chúa Nguyễn phong vương. Sau đó, chúa Nguyễn phong cho Nặc

Tôn làm vua Chân Lạp. Để cảm tạ ân đức của chúa Nguyễn, Nặc Tôn dâng đất Tầm

Phong Long. Đại Nam thực lục chép: “Chúa bèn sắc tôn cho Nặc Tôn (Outey II) làm

vua nước Chân Lạp, sai Thiên Tứ cùng với tướng sĩ năm dinh hộ tống về nước. Nặc

Tôn (Outey II) bèn dâng đất Tầm Phong Long … Bấy giờ Nặc Tôn (Outey II) lại cắt

năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên

Tứ, Thiên Tứ hiến cho triều đình. Chúa cho lệ năm phủ ấy vào quản hạt Hà Tiên,

Thiên Tứ xin đặt Giá Khê làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long Xuyên, đều đặt

quan lại, chiêu dân cư, lập thôn ấp làm địa giới Hà Tiên ngày càng thêm rộng”[39,

tr.166-167].

Tại vùng đất An Giang nơi Nguyễn Cư Trinh nhiều phen hành quân chống giặc,

lại am hiểu vùng đất Tây Nam, nhiều lần thư từ qua lại với Mạc Thiên Tứ nên có rất

nhiều kinh nghiệm, cùng với nhãn quan của một nhà quân sự, chính trị, ông cùng

Trương Phước Du nghị tấu lên chúa Nguyễn Phúc Khoát đề xuất thành lập ba đạo có

tính chất quân sự - hành chính để quản lý vùng đất này. Đại Nam thực lục chép “(Trên

53

đất Tầm Phong Long) Lại đặt đạo Đông Khẩu ở xứ Sa Đéc, đạo Tân Châu ở Tiền

Giang, đạo Châu Đốc ở Hậu Giang, lấy quân dinh Long Hồ để trấn áp.” [39, tr.166].

Các đạo Châu Đốc và Tân Châu, Đông Khẩu cùng các đạo khác như Kiên

Giang (ở tại Rạch Giá), Long Xuyên (Cà Mau), đồn Hồng Ngự và đồn Tây Ninh do

người Côn Man trấn giữ tạo thành thế phòng thủ liên hoàn từ biên cương vào nội địa.

Như vậy, ngay từ khi thụ đắc đất Tầm Phong Long chúa Nguyễn đã cho thiết lập đơn

vị hành chính – quân sự đầu tiên trên vùng đất An Giang để tạo cơ sở về sau, khởi đầu

cho ý thức và hoạt động quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn trên vùng biên giới

Tây Nam.

Đến năm 1771, tình hình biên giới Tây Nam có những diễn biến mới, sau khi

khống chế Chân Lạp, quân Xiêm do Taksin (Trịnh Quốc Anh) thống lĩnh 2 vạn quân

thủy bộ bất ngờ tấn công chiếm lấy Hà Tiên rồi đánh sang Châu Đốc. Mạc Thiên Tứ

không giữ được Hà Tiên phải chạy về trấn giữ Trấn Giang (Cần Thơ) để chờ viện

binh. Đến năm 1772, chúa Nguyễn Phúc Thuần sai Nguyễn Cửu Đàm đem quân đi

đánh quân Xiêm. Trận đánh quyết định đã diễn ra tại sông Châu Đốc với sự tiếp ứng

của Tống Phước Hiệp, quân Xiêm bại trận phải rút chạy, đến đạo Đông Khẩu lại bị

quân của Nguyễn Hữu Nhơn phục kích thiệt hại rất nặng rồi chạy thục mạng về Hà

Tiên. Thừa thế, quân ta đánh thẳng lên thu phục phủ Nam Vang và La Vách rồi tiến

đánh thu hồi đất Hà Tiên (1773) đập tan ý chí xâm lược của quân Xiêm [39, tr. 175-

177]. Sự kiện này thể hiện tính hiệu quả và đúng đắn của chính sách quốc phòng mà

chính quyền chúa Nguyễn đã tạo ra trên vùng biên giới An Giang nói riêng và Tây

Nam Bộ nói chung.

Cũng trong năm 1771, phong trào nông dân Tây Sơn do ba anh em Nguyễn

Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo chống lại chính quyền Đàng Trong bùng nổ

ở vùng Tây Sơn (Bình Định) [37, tr.415]. Sự kiện này đã làm thay đổi hoàn toàn bộ

mặt chính trị của Đàng Trong về sau và xa hơn là đảo lộn toàn bộ trật tự quyền lực của

Đại Việt, làm nên một bối cảnh lịch sử mới cho chính sách quốc phòng của Đại việt ở

54

phía Nam(12).

Cho đến năm 1757, chính quyền chúa Nguyễn bằng những bước đi ngoại giao,

chính trị, quân sự hợp lý đã từng bước làm chủ vùng đất Nam Bộ. Năm 1757 được

xem là thời điểm kết thúc công cuộc mở đất về phía Nam của dân tộc Việt Nam. Trước

nhiều cơ hội và thách thức, chính quyền chúa Nguyễn đã có ý thức và thực hiện những

cơ sở quân sự phục vụ cho sự nghiệp quốc phòng vùng biên giới phía Tây Nam trên cơ

sở những quan hệ tương tác quyền lực với các nước láng giềng.

* Quan hệ đối ngoại với Xiêm La và Chân Lạp – cơ sở hình thành chính

sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn trên vùng đất An Giang

Sau khi thụ đắc đất Tầm Phong Long (1757) biên giới của vùng đất Nam Bộ ở

Đàng Trong đã nối liền một dải từ Mô Xoài, Biên Hòa qua Sài Gòn – Gia Định, Vĩnh

Long đến An Giang, Hà Tiên phía Nam đến tận Bạc Liêu, Cà Mau. Hoàn thành diện

mạo tương đối như ngày nay. Trong bối cảnh lịch sử mới với sự thay đổi về diện tích

cũng như tiếp thu thêm một vị trí chiến lược như đất Tầm Phong Long – một nơi trọng

địa mà người Chân Lạp giữ đến cuối cùng, chính quyền chúa Nguyễn đứng trước

những yêu cầu mới về quốc phòng nhằm bảo vệ những thành quả vừa đạt được.

Lúc bấy giờ tình hình Đàng Trong của chúa Nguyễn đã đi vào ổn định, chiến

tranh mạn Bắc với chúa Trịnh (Đàng Ngoài) đã lắng dịu hơn 80 năm. Công cuộc mở

cõi về phương Nam đã hoàn thành, vùng đất mới trở thành nơi trù phú cung cấp lượng

lớn lương thực cho khu vực miền Trung. Đàng Trong vào thời kì Võ vương Nguyễn

Phúc Khoát (1714 – 1765) tương đối ổn định. Có thể nói, Đàng Trong đã chuyển

hướng chiến lược phòng thủ biên giới về phương Nam trước sự diễn tiến lịch sử quan

trọng trong mối quan hệ tương tác quyền lực với hai quốc gia láng giềng là Chân Lạp

và Xiêm La. Đông Nam Á lục địa đến giữa thế kỉ XVIII là khu vực cát cứ với nhiều

quốc gia thường xuyên xung đột và tranh giành ảnh hưởng.

Đến thế kỉ XVIII, nước Xiêm vẫn không ổn định. Cuộc chiến tranh với Miến

Điện vẫn tiếp diễn, nội bộ nước Xiêm rối loạn và phân quyền. Tuy nhiên, việc can

thiệp vào Chân Lạp vẫn được tiếp tục để duy trì sự ảnh hưởng của họ ở bên ngoài. Đến (12)Trong bối cảnh đó, với quá trình ngày càng phát triển và mở rộng thế lực của phong trào Tây Sơn từ Quy Nhơn đến Bình Thuận, vùng đất Đàng Trong bị cắt đôi, chính quyền Đàng Trong rơi vào tình trạng tan rã và thất thủ vào năm 1777. Vai trò giữ vững quốc phòng, đánh đuổi ngoại xâm chuyển vào tay quân đội Tây Sơn.

55

năm 1767, Taksin (Trịnh Quốc Anh) một Hoa kiều đã lãnh đạo người Thái đánh bại

quân đô hộ Miến Điện giành độc lập và bắt đầu những tham vọng “bành trướng Đại

Xiêm” ra bên ngoài một cách mạnh mẽ. Bấy giờ người Xiêm không chỉ muốn chiếm

Chân Lạp mà họ còn muốn vươn tới vùng Gia Định giàu có của Đàng Trong. Trong

vòng một thế kỉ, người Thái đã 5 lần tấn công vào Chân Lạp. Từ đó, Chân Lạp bước

vào thời kì suy thoái và liên tục là vùng đất mà người Xiêm muốn đặt ảnh hưởng. Cho

đến cuối thế kỉ XVIII, về cơ bản, Xiêm La đã khống chế và thiết lập được chế độ bảo

hộ ở Chân Lạp. Các vua Chân Lạp từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX đều được

làm lễ tấn phong ở Băng Cốc.

Trong quan hệ với Đàng Trong, Xiêm muốn nâng cao vai trò trong khu vực

cũng như tranh giành ảnh hưởng ở Chân Lạp, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc

giao thương với Đông Bắc Á qua ngã Đàng Trong.

Xét về tổng thể, trong giai đoạn này Xiêm vẫn ở thế yếu so với Đàng Trong, vì

chiến tranh không chỉ đến từ một mặt phía đông là Chân Lạp mà một đối thủ rất nguy

hiểm đến từ phía Tây, Tây Bắc là Miến Điện. Xiêm đã có 109 năm chiến tranh với

Miến Điện (1549 - 1766), về phía Miến Điện có 9 cuộc tấn công xâm lược Xiêm. Nay

lại đối đầu với Đàng Trong, một quốc gia hùng mạnh trong khu vực không hề thua

kém Miến Điện.

Quan hệ giữa Đàng Trong - Xiêm đã ảnh hưởng lớn đến các nước trong khu

vực, đã biến Chân Lạp và Ai Lao trở thành chiến trường của Đàng Trong - Xiêm, buộc

các quốc gia này phải có chính sách hợp lý để không mất độc lập và chính sách này

cũng phải dựa vào thời thế, hoàn cảnh cụ thể lúc mạnh yếu của Đàng Trong và Xiêm.

Đối với Chân Lạp đến thế kỉ XVIII, tình hình tranh chấp quyền lực giữa các

nhóm hoàng thân diễn ra liên tục kéo theo nạn đao binh triền miên làm cuộc sống

người dân vô cùng cơ cực. Các nhóm hoàng thân Chân Lạp chia ra làm hai thế lực một

dựa vào Xiêm, một dựa vào Đàng Trong để đối chọi nhau. Mối quan hệ tay ba giữa

Đàng Trong - Chân Lạp - Xiêm La cũng bắt đầu có sự thay đổi.

Từ tháng 7 năm 1699, “Nặc Thu nước Chân Lạp làm phản, đắp các lũy Bích

Đôi, Nam Vang và Cầu Nam, cướp bóc dân buôn” [39, tr.112], đem quân chống với

quân chúa Nguyễn. Tháng 10 năm ấy, chúa “sai Nguyễn Hữu Kính làm thống suất, Cai

56

bạ Phạm Cảm Long làm tham mưu, Lưu thủ Trấn Biên là Ngô Hữu Khánh làm tiên

phong, lãnh quân hai dinh Bình Khang và Trấn Biên, và thuộc binh bảy thuyền dinh

Quảng Nam cùng với tướng sĩ Long Môn đi đánh” [39, tr.112]. Tháng 2 năm 1700,

Nguyễn Hữu Kính đem quân các đạo tiến vào nước Chân Lạp đóng ở Ngư Khê (Rạch

Giá), sai người dò xét thực hư. Tháng 3, Thống binh Trần Thượng Xuyên cùng quân

giặc đánh nhau luôn nhiều trận đều được. Khi quân ta đến lũy Bích Đôi và Nam Vang,

Nặc Thu đem quân đón đánh. Nguyễn Hữu Kính mặc nhung phục đứng trên đầu

thuyền, vung gươm vẫy cờ, đốc các quân đánh gấp, tiếng súng vang như sấm. Nặc Thu

cả sợ, bỏ thành chạy. Nặc Yêm mở cửa thành ra hàng. Nguyễn Hữu Kính vào thành,

vỗ yên dân chúng. Tháng 4, Nặc Thu đến cửa quân đầu hàng, xin nộp cống như cũ [39,

tr.112].

Nặc Thu phong cho con Nặc Nộn là Nặc Yêm làm quan chức Tham đích Sá

giao chùy và lại gả con gái cho [39, tr.167]. Sau Nặc Thu già yếu, truyền ngôi cho con

là Nặc Thâm. Nội bộ Chân Lạp trở nên bất hòa khi hai anh em Nặc Thâm và Nặc Yêm

nghi kị lẫn nhau. Để chống lại đối phương, cả hai đều tìm cho mình một chỗ dựa từ lực

lượng bên ngoài. Đây là cơ hội để Đàng Trong thể hiện uy lực của mình trên lãnh thổ

Chân Lạp và cũng là nguyên nhân dẫn đến mối quan hệ phức tạp với Xiêm La, nước

láng giềng cũng đang ôm mộng bá quyền trên đất nước Chân Lạp đang suy yếu.

Năm 1705, vì nghi ngờ Nặc Yêm có ý làm phản, Nặc Thâm bèn khởi binh đánh

Nặc Yêm. Nặc Thâm nhờ Xiêm La giúp, đem binh đánh Nặc Yêm. Nặc Yêm chạy

sang Gia Định cầu cứu. Chúa Nguyễn Phúc Chu “sai Chánh thống cai cơ Nguyễn Cửu

Vân lãnh quân thủy bộ Gia Định tiến đánh Nặc Thâm. Vân đến Sầm Khê gặp quân

Xiêm, đánh vỡ tan. Thâm cùng em là Nặc Tân chạy sang Xiêm. Nặc Yêm trở về thành

La Bích. Chân Lạp dẹp xong” [39, tr.118].

Từ năm 1711 đến 1715, Nặc Thâm ở Xiêm cứ thỉnh thoảng đem quân về đánh

Nặc Yêm. Nặc Yêm phải nhờ cậy quân chúa Nguyễn. Nhân đó, chúa Nguyễn bành

trướng uy lực của mình trên vùng duyên hải vịnh Xiêm La. Tháng 10 năm 1711, Nặc

Thâm từ Xiêm về cùng với Ốc nha Cao La Hâm mưu hại Nặc Yêm. Nặc Yêm sai Nặc

Xuy Bôn Bột chạy báo hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn xin cứu viện. Chúa Nguyễn

dụ cho Nguyễn Cửu Vân và Trần Thượng Xuyên rằng: “Nặc Yêm đó đã theo mệnh

57

xưng thần, nên phải an ủi, dung nạp. Nhưng Nặc Thâm là con Nặc Thu, mà Nặc Thu

không bỏ lệ triều cống, sao nỡ đem quân đi đánh được. Bọn khanh nên xem xét kĩ tình

hình bên địch, tùy cơ ứng biến, khiến cho Nặc Thâm bỏ mối thù oán mà Nặc Yêm

cũng được bảo toàn. Đó là thượng sách” [39, tr.120]. Như vậy, chiếu theo lời dụ trên,

có thể thấy, chúa Nguyễn thật tâm không muốn anh em Nặc Thâm bất hòa, cũng như

muốn xóa bỏ hiềm khích với Nặc Thâm; không hề lợi dụng lúc Chân Lạp có biến mà

đem quân đánh chiếm. Trong quan hệ với Chân Lạp, các chúa Nguyễn luôn tỏ ý khoan

dung, độ lượng. Năm 1713, biết Nặc Thu có ý làm phản, chúa lại sai đưa thư dụ: “Trời

đất đạo công cha, muôn vật đều được sống vui. Đế vương lượng cả bao dung nên giữ

gìn thân mục; duy nước Chân Lạp nhà ngươi thực là một nước phên dậu, từ triều đình

trước đã vâng mệnh lớn, từng phen phụng cống trước sân rồng; tới nay ta nối giữ cơ

đồ, lại xưng thần nơi cửa ngọc, như thế là sợ uy trời mà giữ nước, chỉ người trí giả mới

hay. Ta vốn quý lòng thành mà khen việc tốt, ban cho phẩm vật, để tỏ ơn thêm. Người

nên thể lòng ta, đừng quên thần phục, khiến biên cảnh nhờ đó mà tát mối can qua, cho

dân sinh nhờ đó mà yên vui đồng ruộng, trong ngoài được vô sự đời đời”. Nặc Thu

được thư, mưu làm phản bèn thôi [39, tr.128]. Năm 1714, quân của Nặc Thâm và Cao

La Hâm về lấy thành La Bích và dấy binh đánh Nặc Yêm rất gấp. Nặc Yêm sai người

sang Gia định cầu cứu. Quan đô đốc Phiên Trấn (Gia Định) là Trần Thượng Xuyên và

quan phó tướng Trấn Biên (Biên Hòa) là Nguyễn Cửu Phú phát binh sang đánh. Tháng

11 năm 1714, “phối hợp với tướng sĩ hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn, Nặc Yêm vây

Nặc Thu và Nặc Thâm ở trong thành La Bích. Cao La Hâm bỏ trốn. Nặc Thu đưa thư

xin chịu tội, nói vì Nặc Thâm tin dùng nịnh thần Cao La Hâm mà thành anh em không

hòa, gây nên mối loạn. Nay xin lập vua mới để khỏi giết hại nhân dân” [39, tr.131 -

132]. Chúa Nguyễn thấy Nặc Thu, Nặc Thâm cởi bỏ mối thù với Nặc Yêm thì lấy làm

mừng liền ra lệnh rút quân; còn việc xin lập vua mới thì đợi sau sẽ bàn [39, tr.132]. Dù

vậy, Nặc Thâm luôn muốn tìm cách lật đổ Nặc Yêm. Tháng giêng năm 1715, Nặc

Thâm ở thành La Bích cùng quẫn bèn phóng lửa đốt nhà cửa trong thành rồi ra cửa

Nam trốn đi. Nặc Thu sợ nên cũng trốn đến tháp Băng Thủy. Trần Thượng Xuyên và

Nguyễn Cửu Phú đốc quân vào thành La Bích, thu khí giới và sai Nặc Yêm mời Nặc

Thu đến để giảng hòa. Nặc Thu không dám ra và xin nhường ngôi cho Nặc Yêm [39,

58

tr.133]. Chúa Nguyễn thấy Nặc Thu đã đồng ý nhường ngôi, bèn phong cho Nặc Yêm

làm vua Chân Lạp. Đồng thời, vì không muốn cha con Nặc Thu giữ mối thâm thù với

Đại Việt mà tìm chỗ dựa ở lân bang Xiêm La, bèn đưa thư dụ Nặc Thu: “Đạo trời công

cha trùm muôn vật, mở hội đương cuối lúc ấm hàn, đạo vua hay ngăn giữ Man di, thì

đức nhân sau khi chinh phạt. Nước Chân Lạp của người là thuộc quốc của ta. Trước

liệt thánh đã gia ơn nuôi nấng, nay ta lại tỏ đức vỗ về. Vừa đây ngươi đem lòng phản

trắc, không nghĩ tới nghĩa thủy chung, cho nên ta sai tướng vâng lời, dấy binh hỏi tội.

Ngươi đã trốn vào rừng rú, không đất nương mình; sao chẳng biết chữa lại lỗi xưa để

đón lấy điều lành sắp tới, mà lại cá chuối chầu sao, hãy còn thiếu lễ, chuột con chấp

tay, chưa lấy thực tỉnh. Lại nhân gia giáo không nghiêm, đến nỗi trong nhà gây loạn.

Vả ta đối với Nặc Yêm, ơn sâu ấp trứng, đức rộng chở che, bất đắc dĩ phải dùng binh

bảo toàn thôi. Huống chi người với Nặc Yêm kết nghĩa nhân gia, tình như phụ tử, vả

tuổi đã già, lòng ta không nỡ. Ngươi nên trở về nước cho toàn cái ơn phụ tử, giữ được

vui vẻ vợ con. Ta đã sách lập Nặc Yêm làm vua nước ngươi, ngươi nên nhường ngôi

cho yên nhà yên nước, yên cả nhân dân, nếu hay đến chầu cửa khuyết, ta sẽ lấy lòng

thành hậu đãi. Vì bằng đường sá xa xôi, không thể đi được thì cũng tùy thích mà thôi”

[61, tr.136]. Lời lẽ trong thư tuy rất mềm mỏng nhưng cũng tỏ rõ uy lực của Chúa; vừa

tỏ ý khuyên bảo, cảm thông vừa thể hiện sự răn đe. Tuy Chúa cương quyết bảo vệ Nặc

Yêm, nhưng cũng vỗ về Nặc Thu, Nặc Thâm để mong làm dịu sự chống đối. Tuy bề

ngoài là giúp Nặc Yêm chống Nặc Thâm, nhưng thực chất, chúa Nguyễn chỉ muốn gạt

bỏ ảnh hưởng của Xiêm trên vùng đất Chân Lạp mà thôi. Chúa Nguyễn thực lòng

không muốn Nặc Thâm đối đầu với Đàng Trong; điều đó đồng nghĩa với việc Đàng

Trong không muốn đối đầu với Xiêm La. Tuy nhiên đây là việc khó xảy ra bởi cả

Đàng Trong và Xiêm La đều muốn tranh giành đất đai và độc chiếm ảnh hưởng trên một đất nước không còn khả năng tự bảo vệ mình là Chân Lạp(13).Chắc chắn lời vỗ về

của chúa Nguyễn không có hiệu quả nên năm 1715, Nặc Thâm mới đem quân Xiêm về

(13)Lê Thị Mỹ Trinh (2009), Quan hệ giữa Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Việt Nam, Trường Đại học Sư Phạm TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh, trang 137.

cướp phá Hà Tiên. Tổng binh Hà Tiên Mạc Cửu phải bỏ thành chạy. Nặc Thâm cướp

59

hết của cải đem đi. Mạc Cửu về Hà Tiên, đắp thành đất, đặt xích hậu xa để làm kế

phòng thủ [39, tr.135].

Tháng 4 năm 1715, Xiêm La sai người đưa thư trách Nặc Yêm gây hấn, lại có ý

muốn phát binh giúp Nặc Thâm. Lo Nặc Yêm binh lực không đủ dùng khi hữu sự,

chúa Nguyễn bèn cho tất cả khí giới bắt được và trả lại những người bị bắt trước đây,

lại giúp thêm khí giới để phòng bị [39, tr.133]. Cũng năm này, khi đạo quân của Nặc

Thâm có sự hỗ trợ của Xiêm tấn công Hà Tiên thì một đạo quân thứ hai của Xiêm La

tiến đánh Udong, Nặc Yêm chấp nhận thần phục vua Xiêm, trông mong với sự thần

phục Xiêm La để tăng cao được quyền uy đối với dân chúng khi quyền uy này đang bị

anh em Nặc Thâm tranh giành và phủ nhận. Như vậy, thời điểm này, Chân Lạp chấp

nhận thần phục cả Đàng Trong và Xiêm La.

Vương triều Chân Lạp lâm vào tình trạng nội bộ mâu thuẫn, chia rẽ ngày càng

sâu sắc. Một bộ phận cầm quyền muốn dựa hẳn vào chúa Nguyễn; bên cạnh đó, bộ

phận khác lại nương nhờ vào thế lực Xiêm La. Tình thế này khiến hai quốc gia láng

giềng Đại Việt - Xiêm La vì quyền lợi của mình bắt đầu đối đầu với nhau, luôn tìm

mọi cơ hội thuận lợi để triệt hạ lẫn nhau nhằm giành quyền ảnh hưởng trên đất Chân

Lạp.

Năm 1736, Nặc Yêm chết, Nặc Tha thỉnh mệnh với chúa Nguyễn phong mình

làm vua [39, tr.171]. Được sự ủng hộ của Vũ Vương, Nặc Tha lên ngôi ở La Bích

(Lovek, 1736 - 1748) nhưng sau đó, Nặc Thâm (chú của Tha), thua chạy trốn sang

Xiêm từ năm 1715, lại trở về đánh đuổi Nặc Tha chạy xuống Gia Định và cướp lấy

ngôi (1748). Nặc Thâm lên ngôi liền sai sứ vào kinh tiến cống chúa Nguyễn. Chúa

Nguyễn cũng chẳng mong gì hơn vì Nặc Thâm đã cởi bỏ mối thù, chấp nhận thần

phục. Còn Nặc Tha bất tài, không chống được Nặc Thâm, đành nằm lại Gia Định chờ

thời cơ. Song chẳng bao lâu, Thâm mất. Ba người con của Thâm là Đôn, Hiên, Yếm

tranh ngôi vua nổi loạn. Nhân đó, bầy tôi là Sô Liên Tốc nổi lên cướp phá Mỹ Tho. Để

bảo vệ Nặc Tha và ổn định tình hình vùng biên cương, Vũ Vương sai Nguyễn Hữu

Doãn làm Thống suất, đem binh đánh dẹp và lập Nặc Tha làm vua trở lại. Nhưng chỉ

vài tháng sau, Tha bị con của Thâm là Nặc Nguyên viện binh Xiêm về đánh (1750).

Tha bị thua, phải bỏ chạy sang Gia Định, cầu cứu với nước ta, nhưng việc chưa thành

60

thì Tha đã chết ở đấy. Đại Nam thực lục ghi: “(Năm 1748) chúa Nguyễn Phúc Khoát

sai Điều khiển Nguyễn Hữu Doãn đi đánh Chân Lạp dẹp yên. Trước là Nặc Tha (Satha

II) nước Chân Lạp lên ngôi vua. Nặc Thâm từ nước Xiêm về, Tha không chịu nhận.

Thâm cử binh đánh. Tha chạy sang Gia Định. Thâm liền chiếm đất. Đến khi Thâm

chết, con là Đôn, Hiên, Yếm tranh nhau làm vua… Mùa hạ, tháng 6, Nặc Nguyên

nước Chân Lạp cùng Cao La Hâm và Ốc Đột Lục Man cầu viện quân Xiêm về đánh

Nặc Tha. Nặc Tha lại chạy sang Gia Định, rồi bị bệnh chết. Nặc Nguyên làm vua nước

ấy” [39, tr.155].

Nặc Nguyên từ khi tranh được ngôi vua, ỷ thế dựa vào Xiêm La thường đem

binh lấn hiếp người Côn Man. Đồng thời, Nặc Nguyên muốn đánh chúa Nguyễn để

giành lại vùng Thủy Chân Lạp. Để thực hiện ý đồ đó, Nặc Nguyên cho đặt quan hệ

ngoại giao với chúa Trịnh Doanh (1740-1767), lập mưu đánh Vũ Vương. Nắm bắt

được ý đồ đó, không để Nặc Nguyên có cơ hội lấy lại những gì mà các chúa Nguyễn

đã dày công tạo dựng. Mùa đông năm 1753, lấy cớ bảo vệ dân Thuận Thành - con dân

Đại Việt, chúa Nguyễn sai Thiện Chính Hầu (khuyết tên) làm Thống suất và Nguyễn

Cư Trinh làm Tham mưu, điều khiển tướng sĩ năm dinh Bình Khang, Bình Thuận,

Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ sang đánh Nặc Nguyên. Để ngăn chặn Xiêm La lấy

cớ dụng binh ứng cứu Nặc Nguyên, gây bất lợi, chúa Nguyễn sai sứ giả đưa thư sang

Xiêm nói rằng: “Đấng vương giả dùng binh là để dẹp loạn, giết bạo, cho nên vua Văn

vương giận (Sơ sùng mật) bất kính, vua Tuyên vương đánh chiếm đất, đó là việc bất

đắc dĩ chứ không phải ưa thích chiến tranh. Nước Chân Lạp bé nhỏ kia là phiên thần

của nước ta, mà dám tụ họp côn đồ, dựa thế lấn nơi biên giới. Việc làm như thế dẫu

nước Xiêm cũng phải ghét vậy. Nay sai quan vô dẹp quân hỏi tội, chúng tốt ngóng mà

tan chạy, gián hoặc chúng có chạy sang nước Xiêm, tức thì nên bắt giao cho quân thứ,

đừng để kẻ bề tôi phản nghịch được trốn búa rìu” [39, tr.156]. Quân ta tiến đến Ngưu

Chữ (Bến Nghé), lập dinh trại, kén sĩ tốt, trù bị rất nhiều để làm kế khai cương thác

địa. Đến mùa hạ năm 1754, Thiện Chính và Cư Trinh chia quân tiến lên. Quân ta trẩy

đến đâu, giặc đều quy phục. Bốn phủ Lôi Lạp, Tầm Bôn, Cầu Nam, Nam Vang đều

hàng cả. Quân ta chiêu phục được người Côn Man theo về rất đông để tăng thanh thế.

Nặc Nguyên bị mất cả thành trì phải chạy trốn với một ít tàn binh xuống vùng Thất

61

Sơn, nhưng sau sợ họ Mạc và binh triều biết tin đánh úp hai mặt, lại bỏ chạy đến gần

Vĩnh Long; gặp mùa nước nổi, quân ta phải ngưng đánh đuổi. Mùa xuân năm 1755,

Thiện Chính từ Nam Vang rút binh về đồn Mỹ Tho, dẫn theo hơn một vạn người Côn

Man mới chiêu phục. Khi đến đất Vô Tà Ân, quân của Nặc Nguyên bất thình lình ra

đánh úp, chận bắt lại người Côn Man. Quân của Thiện Chính đi hậu tập bị mắc bụi

rậm, vũng lầy, không tiếp viện kịp. Nguyễn Cư Trinh mới đem binh đến cứu được lối năm ngàn người, vừa trai vừa gái rồi đem về trú ở núi Bà Đinh(14). Triều đình bắt tội

Thiện Chính về việc để thất cơ binh và làm mất dân mới về hàng, giáng ông từ chức

Thống suất xuống làm Cai đội, cho Trương Phúc Du vào thay thế. Trương Phúc Du

hiệp cùng Nguyễn Cư Trinh cho người Côn Man đi tiên phong đến đánh hai phủ Cầu

Nam và Nam Vang. Nặc Nguyên trận này thua to, binh tướng tan rã hết, cùng đường

phải chạy sang Hà Tiên, khẩn thiết yêu cầu Mạc Thiên Tứ giảng hòa với chúa Nguyễn,

xin dâng đất hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp và nộp bù lễ cống còn thiếu 3 năm trước để

chuộc tội, cùng để xin cho được về nước làm vua lại. Vũ Vương không cho, vì giận

Nặc Nguyên đã nhiều lần phản trắc. Nguyễn Cư Trinh thấy vậy dâng sớ tâu rằng: “Từ

xưa, sở dĩ dùng đến binh, chẳng qua là muốn giết đứa cừ khôi, mở mang bờ cõi mà

thôi. Nay Nặc Nguyên đã hối quá, biết nộp đất, hiến của. Nếu không cho nó hàng thì

nó sẽ chạy trốn; mà từ Gia Định đến La Bích, đường sá xa xôi, không tiện đuổi đánh.

Vậy muốn mở mang bờ cõi, chi bằng hãy lấy hai phủ ấy, giữ chặt phía sau cho hai

dinh (Phiên Trấn và Trấn Biên). Năm xưa, đi mở phủ Gia Định, trước phải mở phủ

Hưng Phúc (Biên Hòa), rồi mở đến phủ Lộc Dã (Đồng Nai) để quân dân đoàn tụ, rồi

sau mới mở đất Sài Côn. Đó là kế “tằm ăn dâu” đó. Nay từ Hưng Phúc đến Sài Côn

đường đi chỉ hai ngày, mà dân cư còn chưa yên tập, quân giữ cũng có đứa chưa khỏe;

phương chi từ Sài Côn đến Tầm Bôn, đường đi trong sáu ngày, thú binh trú phòng

thực sự chưa đủ. Thần thấy người Côn Man đánh đường bộ rất tài, quân Chân Lạp

cũng đã chột dạ. Nếu cho người Côn Man ở đấy, sai nó ngăn chống, cũng là kế hay.

Vậy nên xin cho nước Chân Lạp chuộc tội, lấy hai phủ ấy, cho thần xem xét hình thế,

(14)Tức núi Bà Đen thuộc xã Tân Thạnh, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh ngày nay.

đạt lũy đóng quân, cấp điền sản cho quân dân, chia địa giới, lấy châu Định Viễn để

62

thâu cả toàn bức” [39, tr.165-166]. Vũ Vương thấy lời tâu hữu lý nên thuận theo nhận

lấy hai phủ (1756) và cho Nặc Nguyên về nước.

Từ đây, với kế hoạch “tàm thực”, Nguyễn Cư Trinh cho người Côn Man mở đất

làm ruộng và người Việt dần dần lan ra nhiều nơi. Khi đó, hầu hết đất Thủy Chân Lạp

đã rải rác có dấu chân người Việt, duy có đất Tầm Phong Long vì có vị trí then chốt

của Thất Sơn, dân ta chưa tiến lên được.

Năm 1757, Nặc Nguyên qua đời. Vua kế là Nặc Nhuận hiến đất Trà Vang (Trà

Vinh, Bến Tre) và Ba Thắc (Sóc Trăng, Bạc Liêu ngày nay) để được chúa Nguyễn

phong vương [39, tr.166]. Chúa Nguyễn nhanh chóng sáp nhập thêm một vùng đất

mới. Nhưng chỉ một năm sau, Nặc Nhuận bị con rể là Nặc Hinh giết và cướp ngôi.

Người con của Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên. Thống suất Trương Phúc

Du thừa kế tiến đánh. Nặc Hinh chạy đến Tầm Phong Xuy bị quan Phiên là Ốc Nha

Uông giết chết. Mạc Thiên Tứ cưu mang Nặc Tôn, dâng sớ xin chúa Nguyễn phong

cho Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Chúa Nguyễn chấp thuận và sắc phong cho Nặc Tôn

làm vua nước Chân Lạp, sai Thiên Tứ cùng với tướng sĩ năm dinh hộ tống về nước. Để

đền ơn chúa Nguyễn, Nặc Tôn bèn dâng đất Tầm Phong Long. Phước Du và Cư Trinh

tâu xin dời dinh Long Hồ đến xứ Tầm Bào. Đồng thời, Nặc Tôn cắt năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh(15) để tạ ơn Mạc Thiên Tứ. Thiên Tứ

hiến cho triều đình (năm 1759). Chúa sáp nhập 5 phủ ấy vào Hà Tiên. Thiên Tứ xin

đặt Giá Khê làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long Xuyên, đều đặt quan lại,

chiêu dân cư, lập thôn ấp làm địa giới Hà Tiên ngày càng thêm rộng” [39, tr.166-167].

Đến thời điểm này, toàn vùng Nam Bộ tương ứng ngày nay đã thống thuộc lãnh thổ

Đại Việt ở Đàng Trong.

Từ năm 1771 trở đi, tính chất mối quan hệ của Đàng Trong đối với Chân Lạp

đã thay đổi. Đó không còn là quan hệ bình đẳng giữa hai nước. Quan hệ Đàng Trong

với Chân Lạp bắt đầu mang tính chất “nước nhỏ - nước lớn”, một mô hình quan hệ

được ảnh hưởng từ Trung Hoa. Chân Lạp phụ thuộc vào Đàng Trong; phải triều cống,

nhận sắc phong… Trong khi đó, Đàng Trong bắt đầu thi hành chính sách “bảo hộ” đối

với Chân Lạp. (15)Năm 1847, vua Thiệu Trị trả 5 phủ này về cho Chân Lạp.

63

Quan hệ này được xác lập trong bối cảnh phía nam Đàng Trong ngày càng

vững mạnh, có những ảnh hưởng quan trọng, chi phối đời sống chính trị của một bộ

phận giai cấp cầm quyền Chân Lạp. Trong khi đó, Chân Lạp ngày càng suy yếu, quyền

lực không còn tập trung, không còn khả năng tự chủ và đứng trước nguy cơ bị xâm

chiếm bất cứ lúc nào. Các vị Phiên vương không có khả năng lãnh đạo đất nước cũng

như không đủ sức bảo vệ ngai vàng của chính họ. Triều chính mục nát, những cuộc

chiến tương tàn tranh giành quyền lực liên tiếp nổ ra. Để bảo vệ quyền lợi của mình,

triệt hạ đối thủ, giới cầm quyền chia làm hai phe dựa vào hai thế lực phong kiến láng

giềng là Đàng Trong và Xiêm La.

Như vậy, chỉ sau hơn một thế kỷ, tính từ đầu thế kỷ XVII cho đến giữa thế kỷ

XVIII, các chúa Nguyễn đã làm chủ toàn bộ khu vực Nam Bộ và tạo được những ảnh

hưởng vô cùng quan trọng đối với Chân Lạp.

Quan hệ Đàng Trong - Xiêm là mối quan hệ không giới hạn giữa hai quốc gia,

liên quan đến bối cảnh quốc tế trong khu vực Đông Nam Á lục địa, địa bàn tranh chấp

chủ yếu là hai nước Chân Lạp, Ai Lao trên bán đảo Đông Dương, mối quan hệ này là

một trong những nguyên nhân dẩn đến sự suy yếu của Chân Lạp, Ai Lao và phải lệ

thuộc vào Đàng Trong hoặc Xiêm La.

Các chúa Nguyễn đã khống chế được người Xiêm trong việc tranh giành ảnh

hưởng ở Chân Lạp, các vị vua và hoàng thân Chân Lạp do chúa Nguyễn phong hoặc

theo chúa Nguyễn, đã được bênh vực một cách đắc lực. Và hễ Xiêm có đem quân vào

Chân Lạp thì chúa Nguyễn cũng không ngần ngại đem quân đến đây để tranh hùng.

Mặc dù có sự tranh chấp về vấn đề Chân Lạp, các chúa Nguyễn và vua Xiêm, triều A

Du Đà cũng như Trịnh Quốc Anh vẫn giữ hòa hảo, thường cử sứ giả qua lại, thư từ

hoặc tặng vật. Tài liệu còn ghi chép lại mấy bức thư trao đổi giữa triều đình Nguyễn và

Xiêm. Nhìn chung, vì lợi ích quốc gia, hai nước cũng khẳng định vị thế và vai trò của

mình trong khu vực, không nước nào chịu thua nước nào.

Mối quan hệ tay ba Đàng Trong - Chân Lạp - Xiêm La đã chi phối mạnh mẽ

chính sách quốc phòng cũng như chiến lược gây ảnh hưởng ra bên ngoài của Đàng

Trong và cả Xiêm. Trong khi đó, nước Chân Lạp vì trong nước chia rẽ, nội chiến liên

miên đã làm cho tiềm lực quốc gia suy yếu mất đi khả năng tự vệ trước hai thế lực

64

hùng mạnh Đàng Trong và Xiêm. Như một hệ quả tất yếu của thời kì đấu tranh phong

kiến “mạnh được, yếu thua”, Chân Lạp mất đi những vùng lãnh thổ từng kiểm soát

được khi đánh bại vương quốc Phù Nam.

So với Xiêm La, Đàng Trong của chúa Nguyễn đã đạt được nhiều thành quả

trong việc gây ảnh hưởng, khống chế và kiểm soát Chân Lạp. Vùng đất Nam Bộ từ Mô

Xoài đến Cà Mau mà chúa Nguyễn có được cũng là sự khao khát của người Xiêm.

Xiêm La vẫn cố gắng tăng cường ảnh hưởng và khống chế Chân Lạp hòng đánh bật

thế lực của chúa Nguyễn ra khỏi Chân Lạp rồi thiết lập một chế độ thống trị nơi đây,

làm bàn đạp vững chắc cho các cuộc tiến công vào lãnh thổ Đàng Trong để xâm lược

với tham vọng “bành trướng Đại Xiêm”.

Các chúa Nguyễn hoàn toàn nhìn thấy được tham vọng đó của người Xiêm và

việc đề ra một chiến lược phòng thủ quân Xiêm cũng như duy trì ảnh hưởng lên Chân

Lạp là điều kiện sống còn trên con đường phát triển đất nước ở vùng đất mới. Trọng

tâm của chiến lược đó là chính sách quốc phòng ở khu vực Tây Nam nơi giáp giới với

Chân Lạp và giáp lãnh hải với Xiêm. Về mặt chiến lược, trọng điểm của chính sách

quốc phòng đó nằm ở hai vùng đất An Giang và Hà Tiên. Trong khi Hà Tiên chủ yếu

phòng thủ quân Xiêm và Chân Lạp trên tuyến đường biển và một phần tuyến biên giới

đường bộ, thì An Giang là nơi trọng điểm của công cuộc phòng thủ trên bộ và nội

thủy. Đây là những tuyến phòng thủ đặc biệt quan trọng với đầy đủ những đặc điểm và

yếu tố chiến lược để thiết lập một hệ thống phòng thủ bảo vệ biên giới Tây Nam.

*Vai trò chiến lược của vùng đất An Giang trong thế trận quốc phòng biên

giới Tây Nam của chính quyền chúa Nguyễn

An Giang là vùng đất trọng địa biên thùy với nhiều yếu tố đặc trưng, giữ vai trò

hết sức quan trọng trong chiến lược quốc phòng của đất nước. Cùng với Hà Tiên, An

Giang án ngữ vùng biên giới Tây Nam của tổ quốc. Từ xa xưa, so với nhiều vùng đất

khác trong khu vực Nam Bộ, An Giang có vị trí quan trọng hơn hẳn. Trong cách nhìn

nhận từ chính quyền chúa Nguyễn tuy không trực tiếp nêu lên ý kiến, song những

chính sách và hoạt động trên của chính quyền này nơi đây đã thể hiện tất cả. Vùng đất

An Giang có ý nghĩa đặc biệt trong thế trận quốc phòng biên giới thời chúa Nguyễn.

65

Vùng đất An Giang là cửa ngõ đi vào lãnh thổ nước ta của sông Mê Kông –

con sông có vai trò và tác động to lớn nhất trên cả khu vực Nam Bộ. Sông Mê Kông

bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng (Trung Quốc) theo một hành trình dài chảy qua các

nước Lào, Myanma, Thái Lan, Campuchia và đổ ra Biển Đông ở trên lãnh thổ Việt

Nam qua chín cửa. Đoạn sông Mê Kông chảy qua địa phận nước ta dài khoảng 250km

được gọi là sông Cửu Long với hai nhánh sông chính là sông Tiền và sông Hậu. An

Giang với vùng đất địa đầu biên giới Châu Đốc và Tân Châu cũng là vùng đầu nguồn

của sông Cửu Long. Trực thủy lộ Cửu Long xuyên qua vùng Nam Bộ đến tận Biển

Đông, có thể ngược lên phía Campuchia (Chân Lạp) rồi đi Thái Lan (Xiêm La),...

Chính vì yếu tố địa lý tối quan trọng này mà sông Mê Kông - Cửu Long có sức ảnh

hưởng mạnh mẽ trong lịch sử các quốc gia Đông Nam Á lục địa. Do những đặc điểm

quan trọng đó mà việc kiểm soát sông Tiền và sông Hậu trở thành yếu tố tiên quyết

trong công cuộc khai phá vùng đất Nam Bộ xưa. Vùng đất An Giang trở thành trung

tâm thực thi chiến lược bảo vệ biên cương trên các tuyến thủy lộ trọng yếu thời các

chúa Nguyễn cũng như chi phối mạnh mẽ chính sách quốc phòng của chính quyền

chúa Nguyễn trên vùng biên giới Tây Nam.

Ngõ thủy lộ Tiền Giang chảy qua một vùng lãnh thổ rộng lớn từ biên giới Chân

Lạp chỗ địa phận An Giang, Đồng Tháp ngày nay rồi xuyên qua các tỉnh Tiền Giang,

Vĩnh Long, Bến Tre và Trà Vinh ngày nay rồi đổ ra Biển Đông ở 6 cửa chính là Cửa

Tiểu, Cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên và Cung Hầu. Sách Đại Nam nhất thống

chí viết: “... Sông Tiền Giang cách huyện Đông Xuyên hai dặm phát nguyên từ sông

Cửu Long ở Trung Quốc... chảy về phí đông nam qua địa phận tỉnh An Giang, bờ phí

nam là địa phận của tỉnh, bờ phía bắc là địa giới tỉnh Định Tường, giữa có bãi Long

Sơn, Tán Tụ và Chà Và, lại chảy quanh có 58 dặm chia làm kênh Thuận, lại chảy 9

dặm chia làm sông Lễ Công, lại chảy 10 dặm chia làm sông Tú Điền. Ở giữa nỗi lên

cồn bãi làm thành các bãi Doanh Châu, Tùng Sơn, Ngưu Châu, quanh co 29 dặm đến

huyện Vĩnh An, chia làm sông Hội An, sông Tân Đông, 42 dặm qua lị sở Tân Thành

làm thành sông Sa Đéc...” [47, tr. 199 – 200]. Phía đông sông Tiền là khu vực miền

Biên Hòa, Sài Gòn – Gia Đinh, Mỹ Tho Đại Phố với những trung tâm hành chính,

kinh tế, văn hóa,...quan trọng của đất Nam Bộ xưa. Trong buổi đầu mở đất và giữ đất,

66

sông Tiền được xem là ngõ thủy lộ trọng yếu thông suốt với hệ thống sông Vàm Cỏ -

Sài Gòn. Đây là đặc điểm thuận lợi để di chuyển từ phía Đông sang phía Tây của vùng

Nam Bộ, cũng như ngược lên phía bắc đến Chân Lạp, rồi qua Xiêm. Thực tế thì trong

suốt mấy trăm năm khai phá vùng đất Nam Bộ, trên sông Tiền đã từng chứng kiến

không biết bao nhiêu sự di chuyển của lưu dân, di dân Việt trên những chiếc thuyền,

xuồng, ghe lớn nhỏ để tiến đến những vùng đất còn hoang nhàn của vùng Thủy Chân

Lạp, cũng như những cuộc hành quân lớn nhỏ của các đội thủy binh. Sông Tiền với

người Chân Lạp và Xiêm thường là con đường thủy lý tưởng để hành quân xâm nhập

vào khu vực trung tâm trù phú Mỹ Tho, Sài Gòn của Nam Bộ. Còn đối với chính

quyền thời các chúa Nguyễn khi có việc cần thiết phải đến vùng biên viễn phía An

Giang, Hà Tiên hay khu vực phía Tây sông Hậu thì nhất thiết phải di chuyển qua tuyến

sông Tiền. Để vào được sông Tiền có thể đi từ ngã sông Sài Gòn qua sông Vàm Cỏ rồi

vô sông Tiền (nếu đi từ Gia Định) hoặc đi từ Biển Đông rồi theo các cửa sông ngược

lên phía biên giới (nếu đi miền Trung và miền Bắc).

Trong thời gian quản lý vùng đất An Giang ngay từ sau khi thụ đắc đất Tầm

Phong Long (1757), chính quyền các chúa Nguyễn đã thiết lập các đạo mang tính chất

quân sự - hành chính trên đất An Giang xưa là Tân Châu, Đông Khẩu (Sa Đéc) trên

sông Tiền để quản lý, giữ an ninh nơi con sông chiến lược này ngay từ khi vào lãnh

thổ nước ta. Hiểu rõ những mối hiểm họa đến từ bên ngoài có thể theo ngã sông Tiền,

ngay từ buổi đầu này chúa Nguyễn còn lập các đồn để hỗ trợ các đạo này như đồn

Hùng Ngự, Thủ Chiến Sai, Thủ Hùng Đạo. Đến khi quan hệ với Xiêm trở nên phức

tạp do tranh giành sự ảnh hưởng với Chân Lạp, chính quyền chúa Nguyễn càng tăng

cường sự có mặt của quân đội nơi đoạn đầu sông Tiền ngay phía Nam Chân Lạp. Bên

cạnh đó, năm 1787, Nguyễn Ánh khi từ Xiêm trở về cũng cho dựng đồn Hồi Oa trên

sông Tiền để phòng thủ. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: “nơi khúc sông này (Vàm

Nao) có đồn Hồi Oa. Vào năm 1787, chúa Nguyễn Phúc Ánh từ nước Thái Lan về,

liền hội binh ở đây để chống lại với quân Tây Sơn. Năm Tự Đức thứ 2 (1849) đốc thần

Doãn Uẩn phỏng tra việc cũ, cho dựng bia trên nền xưa, để ghi thắng tích”. [47, tr.

216]

67

Chính vị trí chiến lược của sông Tiền đã buộc chính quyền quản lý tạo ra một

hệ thống đạo, đồn, thủ, sở phòng thủ liên tục từ biên giới kéo dài gần 100km vào khu

vực trung tâm Nam Bộ. Trong đó, trên địa phận tỉnh An Giang xưa là nơi tập trung hầu

hết các căn cứ quân sự tiền tiêu đó. Như vậy, với vị trí chiến lược vô cùng quan trọng

đoạn sông Tiền qua lãnh thổ An Giang giữ vai trò như một con hào khổng lồ với hàng

loạt căn cứ quân sự bảo vệ, che chắn cho toàn bộ khu vực phía Đông và Đông Nam

(lấy sồng Tiền làm trục) trước những mối hiểm họa từ biên giới Chân Lạp và Xiêm La.

Trong chiến lược quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn, sông Tiền không những

là một hệ thống phòng thủ mà còn là một đường dẫn vô cùng thuận lợi liên kết khu

vực Tây Nam Bộ và Đông Nam Bộ thời bấy giờ. Tầm quan trọng của sông Tiền đã

được chính quyền chúa Nguyễn đánh giá đúng mức trong chiến lược phòng thủ

phương Nam.

Trên một hệ thống khác, ngõ thủy lộ Hậu Giang chảy từ biên giới Chân Lạp

xuyên qua vùng lãnh thổ trung tâm của An Giang rồi đổ vào các tỉnh Đồng Tháp, Cần

Thơ, Hậu Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng ngày nay, thông ra Biển Đông theo

3 cửa là Định An, Ba Thắc và Tranh Đề. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: “... Sông

Hậu Giang ở cách huyện Tây Xuyên (tỉnh An Giang thời nhà Nguyễn) 8 dặm về phía

Tây Bắc [tức là huyện lỵ Tây Xuyên cũng là tỉnh thành Châu Đốc nằm ở phía Tây Bắc

bờ sông Hậu]. Phát nguyên như sông Tiền Giang, đến phủ Nam Vang nước Cao Miên,

chia một nhánh về phía Tây Nam làm sông Hậu Giang. Phía Đông sông là địa phận

các huyện Đông Xuyên, Vĩnh An, An Xuyên (là các huyện của phủ Tân Thành tỉnh An

Giang thời nhà Nguyễn). Phía Tây là địa phận các huyện Tây Xuyên, Phong Phú, Vĩnh

Định, và Phong Thịnh (là các huyện thuộc 2 phủ Tuy Biên và Ba Xuyên tỉnh An Giang

nhà Nguyễn). Sông ở giữa địa phận của tỉnh...”[47, tr. 205]. Sông Hậu có vị trí chiến

lược chẳng kém sông Tiền, là ngõ thủy lộ quan trọng bật nhất, chi phối mạnh mẽ vùng

đất Tầm Phong Long xưa, cũng như cả khu vực phía Tây sông Hậu. Ngay từ buổi ban

đầu chúa Nguyễn đã cho thiết lập một đạo trọng yếu để bước đầu quản lý vùng đất vừa

tiếp quản cũng như tạo căn cứ tiền tiêu trong hệ thống phòng thủ phương Nam bên bờ

sông Hậu là đạo Châu Đốc. Trước những nguy cơ rất lớn đến từ Xiêm và Chân Lạp

trong công tác quốc phòng, cũng như giữ gìn trị an cho vùng đất mới, đồng thời là căn

68

cứ chống Tây Sơn trong giai đoạn Nguyễn Ánh phục nghiệp, chính quyền từ chúa

Nguyễn đến vua Nguyễn liên tục cho xây dựng, cũng cố các đồn, thủ nhằm hình thành

hệ thống căn cứ quân sự tương trợ nhau trên sông Hậu đồng thời liên kết với hệ thống

phòng thủ trên sông Tiền trong mục tiêu chung của đất nước. Trên đất An Giang xưa

từ đạo Châu Đốc theo sông Hậu đi về phía hạ lưu liên tiếp bắt gặp các đồn Châu

Giang, thủ Thuận Tấn (Thuận Phiếm), thủ Đông Xuyên, thủ Cường Thành, thủ Cường

Oai, thủ Trấn Giang (thuộc Cần Thơ ngày nay), thủ Trấn Di (thuộc Sóc Trăng ngày

nay), tất cả tạo ra sự liên hoàn, hiệp trợ nhau khi có biến, đồng thời giữ an ninh trật tự

phục vụ cho sự nghiệp khai hoang lập làng xưa. Sông Hậu giữ vai trò đặc biệt trong

chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn trên vùng đất An Giang. Giống

như sông Tiền ở phía Đông, sông Hậu như một con hào sâu với hệ thống đồn lũy liên

tiếp thủy bộ tương trợ cùng với những căn cứ khác phòng thủ vững chắc biên giới Tây

Nam, sẵn sàng hiệp trợ, chi viện cho mặt trân biển Tây khi hữu sự. Trong chính sách

quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn sông Hậu không chỉ là hệ thống phòng thủ

mà còn là nơi quyết chiến chiến lược của quân đội Đàng Trong để xoay chuyển cục

diện trên chiến trường, khởi đầu cho quá trình đuổi giặc ra khỏi bờ cõi mà cuộc chiến

năm 1771 với quân Xiêm là một điển hình.

Bên cạnh, hệ thống phòng thủ trên sông Tiền và sông Hậu, chính quyền chúa

Nguyễn bố trí phòng ngự trên sông Vàm Nao, một yếu địa mang tính chiến lược vừa

kết nối hai hệ thống phòng thủ lớn trên sông Tiền và sông Hậu vừa có những đặc điểm

thuận lợi cho việc tập kích quân địch từ nơi xa đến và liên lạc quân sự dễ dàng trên hai

mặt trận sông Tiền và sông Hậu. Sông Vàm Nao không những là chiếc cầu giữ liên lạc

mật thiết giữ sông Tiên và sông Hậu mà còn là yếu địa chiến lược của những trận tập

kích của quân ta trước kẻ thù xâm lược.

Có thể nói, vùng đất An Giang án ngữ ngõ thủy lộ chính yếu và quan trọng bật

nhất đất Nam Bộ - sông Cửu Long. Trên con sông này, với hai nhánh chính sông Tiền

và sông Hậu chính quyền các chúa Nguyễn đã không ngừng cho thiết lập các căn cứ

quân sự vừa đảm bảo an ninh, quốc phòng vừa khai hoang, lập làng phát triển vùng đất

mới. Hai hệ thống phòng ngự trên hai sông đã tạo thành thế trận phòng thủ biên giới

quốc gia khá vững chắc trước sức tấn công từ bên ngoài cũng như hỗ trợ tốt cho nhau

69

giữ gìn an ninh bên trong. Với yếu tố thủy, vùng đất An Giang giữ vị trí tuyến đầu

phòng thủ trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn.

Trong thời kì khai hoang, mở cõi về phương Nam của dân tộc Việt yếu tố địa lý

tự nhiên sông - núi có vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ thành quả đạt được

thông qua công tác quân sự dưới thời các chúa Nguyễn, vua Nguyễn. Vùng đất Nam

Bộ suốt từ thời vương quốc Phù Nam đến thế kỉ XIX, việc di chuyển trên các thủy lộ

trở thành thói quen bắt buột do các tuyến đường bộ rất khó mở phần vì lầy lội, phần vì

rừng núi ngăn trở rất khó đi... Từ đó có thể thấy, hai ngã sông Tiền và sông Hậu giữ

vai trò và mức độ tác động to lớn trong quá trình khai mở và giữ đất ở Nam Bộ xưa.

Trong kế hoạch gây ảnh hưởng lên Chân Lạp của chính quyền các chúa Nguyễn, hệ

thống phòng thủ trên sông Cửu Long có vai trò rất quan trọng. Đây cũng là con đường

hành quân đóng quân quan trọng từ thời xa xưa “năm 1177, vua Jaya Indravarman của

Champa nhân cơ hội triều đình Campuchia rối ren đã đem quân tấn công. Sau khi đánh

bộ binh không thành công, Champa đã dùng thủy quân ngược sông Mê Kông đến Biển

Hồ tấn công kinh đô Campuchia. Vua bị giết chết và thành phố bị cướp phá. Champa đã thiết lập chế độ cai trị và cướp bóc Campuchia trong 4 năm.”(16). Vị trí chiến lược

của vùng sông nước An Giang trở thành trọng tâm trong chiến lược quốc phòng Tây

Nam của nước ta suốt thời gian này.

Vùng đất An Giang mang đặc điểm bán sơn địa rất rõ nét với sự phân bố rộng

khắp của địa hình đồi núi. Trong đó, quan trọng không kém là vùng Thất Sơn với diện tích khoảng 600km2 địa hình đồi núi. Về mặt quân sự đây được xem là một ưu thế rất

lớn trong việc thiết lập thế trận phòng thủ và triển khai phản công. Vùng Thất Sơn như

một pháo đài thiên nhiên vô cùng kiên cố bên cạnh Chân Lạp và Xiêm La, án ngữ cả

vùng bờ biển Hà Tiên, Rạch Giá, làm tấm bình phong che chở cho cả khu vực phía

Tây Nam của Nam Bộ. Yếu tố hiểm địa của vùng núi non được các nhà quân sự từ cổ

chí kim thừa nhận và đánh giá rất cao trong việc điều binh khiển tướng. Trong lịch sử

Việt Nam không ít trường hợp đã lợi dụng triệt để địa hình đồi núi để giữ thế phòng

thủ và phản công chiến lược giành lấy thế thắng, có thể kể đến như Đinh Bộ Lĩnh (924

– 979) lợi dụng địa hình hiểm trở của động Hoa Lư mà xây dựng căn cứ buổi đầu dẹp (16)Theo Lương Ninh (2006), Vương quốc Champa, Nxb ĐHQG Hà Nội, tr. 103 – 104.

70

loạn 12 sứ quân, Lê Lợi (1385 – 1433) nhờ rừng núi Chí Linh mà 3 lần cố thủ thành

công tạo tiền đề duy trì lực lượng rồi phản công đánh bại quân đô hộ nhà Minh. Đó

được xem là yếu tố “địa lợi” trong binh pháp.

Chính quyền chúa Nguyễn có sự hiểu biết sâu sắc về vấn đề này. Năm Mậu

Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng được phong là Thái úy Đoan Quận Công giữ chức Trấn

thủ xứ Thuận Hoá (sau đảm nhận Tổng trấn 2 xứ Thuận – Quảng), với một quyền hạn

rộng lớn. Nguyễn Hoàng cho dựng dinh tại xã Ái Tử, huyện Vũ Xương (nay là huyện

Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị). Nguyễn Hoàng là một nhà quân sự, từng cầm quân ra

trận lập được nhiều công lớn với Chúa Trịnh nên không phải ngẫu nhiên mà chọn

vùng đất Thuận – Quảng để đựng nghiệp. Ông đã sớm nhìn thấy vị thế của vùng “đất

linh” là nơi hiểm yếu. Nguyễn Hoàng nhờ hiểu rõ sự quan trọng của núi non về mặt

chiến lược nên trước khi mất (1613) có dặn người con thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên

rằng: “Đất Thuận Quảng, phía Bắc có Hoành Sơn và Linh Giang (tức sông Gianh)

hiểm trở, phía Nam có Hải Vân và Thạch Bi (tức núi Bia Đá ở Phú Yên) rất vững bền.

Núi sẵn vàng, sẵn sắt, biển lắm cá, lắm muối, thật đúng là chỗ dụng võ của người anh

hùng. Nếu biết luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì có thể xây dựng cơ nghiệp

đến muôn đời. Ví bằng thế lực không chống nổi, thì cứ cố giữ vững đất đai để chờ cơ

hội, đừng bỏ qua lời dặn của ta.”[39, tr.37]. Lợi thế của vùng đất mới cùng những toan

tính tạo dựng cơ nghiệp cho dòng họ Nguyễn về sau, tách khỏi sự thống trị của vua Lê

- chúa Trịnh. Qua đó để thấy yếu tố địa hình hiểm trở quan trọng đến mức độ nào

trong tầm nhìn chiến lược gia truyền của các chúa Nguyễn.

Vùng Thất Sơn vừa có đồi núi để tạo thế phòng thủ, phản công lại vừa có đồng

bằng để canh tác nuôi quân. Đây chính là yếu tố tạo nên tính bền vững của căn cứ Thất

Sơn. Yếu tố địa lợi từ vùng rừng núi Thất Sơn trở thành lá chắn tự nhiên ngăn trở

những đợt địch họa từ bên ngoài vào trung tâm An Giang nói riêng và Nam Bộ nói

chung. Do đó, đối với chính quyền chúa Nguyễn việc kiểm soát và phát huy thế mạnh

của vùng đất chiến lược này không thể xem nhẹ trong ổn định và phòng thủ biên giới

Tây Nam. Ngay từ buổi đầu trong điều kiện vô cùng khó khăn, chính quyền chúa

Nguyễn đã cho thiết lập đồn Tĩnh Biên thuộc Thất Sơn để trong quản [7, tr.19] và giữ

liên lạc với các đồn Hùng Ngự và Tây Ninh trên tuyến đường bộ.

71

Trên lãnh thổ An Giang dọc theo biên giới với Chân Lạp, bên cạnh Thất Sơn thì

khu vực Châu Đốc cũng là một nơi tầm quan trọng không kém. Châu Đốc được xem là

nơi biên viễn phức tạp, khai phá muộn nhưng có địa thế chiến lược “tựa núi nhìn

sông”, “tiền tam giang, hậu thất lĩnh”, án ngữ hai đường thủy bộ thuận lợi từ Chân Lạp

vào nước ta. Từ Châu Đốc chạy dài qua Thất Sơn đến Hà Tiên tạo ra thế phòng thủ

liên hoàn trên tuyến đường bộ tiến vào khu vực Nam Bộ. Các đồn bảo được chính

quyền chúa Nguyễn cho thiết lập xuyên suốt từ Châu Đốc qua Hà Tiên với sự kết hợp

giữa bộ binh và thủy binh, linh hoạt trong chiến đấu. Vùng Châu Đốc không chỉ thuận

lợi cho việc phòng thủ ngăn giặc ngay khi mới vào nước ta mà còn là nơi yếu địa đặt

căn cứ điều hành, đảm bảo công tác chỉ huy nhanh chóng trong hệ thống phòng thủ

Tây Nam của chúa Nguyễn.

Có thể nói, mỗi vùng biên địa trên lãnh thổ An Giang là một mảng hệ thống

phòng thủ nhỏ giữ vai trò và chức năng riêng trong hệ thống phòng thủ lớn nơi vùng

biên giới với Chân Lạp. Mỗi hệ thống với đặc điểm hành quân tác chiến khác nhau

nhưng được kết hợp với nhau tạo ra sự đa dạng trong phòng thủ và linh hoạt trong

phản công địch dưới sự điều hành trực tiếp từ chính quyền chúa Nguyễn.

Trong cả hệ thống phòng thủ biên giới phía Tây Nam của chính quyền chúa

Nguyễn, vùng đất biên địa An Giang nằm tại vị trí trung tâm phòng thủ với bốn hệ

thống phòng thủ có sự liên hệ chặt chẽ với nhau đồng thời kết hợp, tương trợ hiệu quả

với hệ thống phòng thủ ven bờ biển Hà Tiên – Rạch Giá và hệ thống phòng thủ đường

bộ phía Hùng Ngự - Tây Ninh; mặc khác, lại được sự hậu thuẫn rất lớn từ các căn cứ

từ phía Nam như Đông Khẩu, Trấn Giang, Ba Thắc, Trấn Di, cũng như được chi viện

từ vùng Mỹ Tho, Gia Định, Biên Hòa và cả miền Trung.

Cũng chính đặc điểm này mà vùng đất An Giang thường là chiến trường chính

của những cuộc xung đột giữa nước ta với Xiêm và Chân Lạp, đồng thời là nơi hứng

chịu nhiều đợt địch họa cũng như là địa điểm quyết chiến chiến lược để gianh thế

thắng trong các cuộc chiến vệ quốc của quân dân Đàng Trong trước sự xâm lược của

kẻ thù.

Ở một khía cạnh khác, vị trí thuận lợi trong việc di chuyển từ Chân Lạp xuống

nước ta của An Giang tạo ra một đặc điểm thuận lợi trong công tác quốc phòng. Điều

72

này thể hiện ở việc An Giang tập trung một lượng lớn người Khmer và Chăm do

những biến động của lịch sử. Đây là nguồn lao động quan trọng trong việc xây dựng

các công trình phòng thủ biên giới, bổ sung tích cực vào các đội quân triều đình chống

giặc cũng như là lực lượng khai hoang lập ấp góp phần vào sự trù phú của vùng đất

mới. Chính quyền chúa Nguyễn nắm rất rõ điều này để lấy người Việt làm trung tâm

cho sự đoàn kết các dân tộc Khmer (Chân Lạp), Hoa, Chăm (Côn Man) trong công

cuộc bảo vệ biên giới và khai hoang phát triển vùng đất mới, thể hiện sự thích ứng linh

hoạt trong quản lý và bảo vệ vùng đất An Giang nói riêng và Tây Nam nói chung.

Vùng đất An Giang với vị trí chiến lược vốn có đóng vai trò trung tâm trong

chính sách quốc phòng không chỉ của chính quyền các chúa Nguyễn mà còn của các

chính quyền về sau. Theo đánh giá của Nguyễn Văn Hầu vùng đất An Giang quan

trọng bởi hai yếu tố “dãy Thất Sơn với gần 20 ngọn núi nằm về phía Tây Mótt Chrút

(Châu Đốc) là một địa lợi về mặt cứ hiểm quân sự, những nhánh sông Tiền và Hậu lưu

thông từ Phnom Penh ra biển phía nam lại là một thủy đạo thiết yếu về thương mại và

quốc phòng”[8, tr.3].

Nhìn một cách tổng thể, cách bố trí quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn

đã biến vùng đất An Giang thành một căn cứ quân sự kết hợp giữa những yếu tố tự

nhiên: thành lủy - Thất Sơn, hào sâu - Cửu Long, bên trong là vùng đồng bằng phì

nhiêu đủ sức cung cấp lượng lương thực lớn với những công trình quân sự nhân tạo

cũng như yếu tố con người trong sự hài hòa tạo nên sức mạnh to lớn trong thế trận

quốc phòng biên giới Tây Nam, đặt nền tảng cho hậu thế tiếp tục sự nghiệp vĩ đại này.

Dựa trên những lợi thế này năm 1789, Nguyễn Ánh quyết định chọn đất An Giang làm

căn cứ ban đầu cho khát vọng phục nghiệp, cũng như sau này nhà Nguyễn tiếp tục

thực thi chính sách quốc phòng trên những nên tảng đó. Tất cả đã viết nên những trang

sử hào hùng trên vùng đất An Giang.

73

2.2. Thế trận quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn tại vùng đất An Giang

trong quá trình xác lập chủ quyền và quan hệ đối ngoại với Xiêm La và Chân

Lạp

2.2.1. Lực lượng quốc phòng – tổ chức và phiên chế của quân đội

chúa Nguyễn trên vùng đất An Giang

Trong chính sách quốc phòng và chiến lược bảo vệ biên giới - lãnh thổ của chúa

Nguyễn, quân đội được xem là lực lượng nòng cốt. Tổ chức và hoạt động của quân đội

quốc phòng là nội dung chủ yếu của chiến lược phòng thủ biên giới, để lại dấu ấn đặc

biệt trong lịch sử phát triển của Đàng Trong cũng như trong quá trình khai phá và bảo

vệ những vùng đất mới đầy kỳ tích. Các chúa Nguyễn đã phát triển, mở rộng và duy trì

việc xây dựng và tổ chức lực lượng quân đội đủ sức đối đầu với mọi trở ngại từ Bắc

vào Nam.

Ngay từ buổi đầu lập nghiệp Nguyễn Hoàng đã cố gắng đặt nền tảng cho sự ra

đời và tồn tại của lực lượng quân đội độc lập với chính quyền Lê – Trịnh. Quyết tâm

tự chủ của Nguyễn Hoàng được cụ thể hóa vào năm 1600, được xem là móc đánh dấu

sự ra đời của chính thể Đàng Trong.

Sự khởi nghiệp của họ Nguyễn bắt đầu trên vùng đất Quảng Trị(17) nơi được

xem là vùng “ô châu ác địa”, cư dân với đủ loại hình phức tạp, sẵn sàng nổi dậy chống

lại chính quyền sở tại, nhưng là địa bàn lý tưởng cho những tay anh hùng thảo dã chọn

làm chỗ nương thân để mưu đồ cát cứ. Trước nguy cơ họ Trịnh ở Đàng Ngoài có thể

tấn công bất cứ lúc nào, đối với Nguyễn Hoàng một hệ thống quân sự vững chắc là

cách thức thích hợp nhất và có thể là hữu hiệu nhất để đối phó với tình trạng khó khăn,

đứng vững trên vùng đất mới và đủ sức chống lại họ Trịnh. Điều duy nhất mà họ

Nguyễn có thể nắm được một cách chặt chẽ là quân đội, vì vậy biện pháp hữu hiệu

nhất là làm thế nào để người dân đều có ý thức gia nhập vào lực lượng quân đội.

Sau khi đã đặt cơ sở vững vàng ở phía Nam, Nguyễn Hoàng cho đến các chúa

Nguyễn kế nghiệp dự tính sẽ mở rộng cương giới về phương Nam, đồng thời tìm cách

(17)Địa bàn Quảng Trị thời các chúa Nguyễn bao gồm ba huyện là: Hải Lăng, Đăng Xương và Minh Linh (cùng hai châu Sa Bôi và Thuận Bình ở miền núi).

ngăn chặn sự tấn công của họ Trịnh ở phía Bắc, vì thế quân đội được chú trọng đặc

74

biệt và yếu tố quân dân được ưu tiên hàng đầu, khái niệm quân và dân không đồng

nhất nhưng lại luôn luôn đi kèm với nhau, “hẳn là sẽ khó khăn đối với chính quyền họ

Nguyễn nếu chỉ nói quân mà không có dân hoặc ngược lại vì cả hai gần như là một

vậy”[63, tr.58]. Li Tana đã nhận xét rằng: Đàng Trong được tổ chức như một chế độ

quân sự, đặc biệt vào thế kỷ XVII. Vua là người lãnh đạo cao nhất của lực lượng vũ

trang hay đúng hơn người ta chỉ có thể làm vua với tư cách là tướng tổng chỉ huy quân

đội… Cả nước đặt dưới quyền kiểm soát của các quan võ. Từ “Dinh” có nghĩa là đạo

quân đã được sử dụng để gọi một đơn vị hành chính [63, tr.58]. Lực lượng quân đội

Đàng Trong vào đầu thế kỷ XVII (thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên) “chỉ có khoảng ba

vạn quân”nhưng đến thời Nguyễn Phúc Tần, vào khoảng năm 1653 quân số ấy đã tăng lên đến hơn “20 vạn người”(18).

Trong tổ chức lực lượng quốc phòng tại An Giang, quân đội chúa Nguyễn được

phiên chế và phân loại theo chế độ tổ chức quân đội chung trên toàn lãnh thổ Đàng

Trong, bao gồm ba loại: quân túc vệ, quân chính quy và quân địa phương.

- Quân túc vệ hay còn gọi là thân quân, chuyên bảo vệ cung điện của chúa và

hộ vệ chúa. Quân túc vệ gồm hai vệ: tả tiệp và hữu tiệp đặt ở hai bên tả, hữu dinh

chúa, mỗi vệ 50 người. Đến thời chúa Nguyễn Phúc Khoát thì quân túc vệ được gọi là

đức lâm quân. Loại quân sĩ này đòi hỏi lòng trung thành tuyệt đối nên các chúa

Nguyễn chỉ chọn trong con cháu các võ quan người huyện Tống Sơn (Thanh Hóa) -

quê hương của các chúa Nguyễn [15, tr.366].

- Quân chính quy (Chánh binh): đây là lực lượng đóng ở dinh và chịu quyền chỉ

huy của trấn thủ. Chánh binh được trả lương theo tháng [15, tr. 364-365], nếu không

lãnh lương tháng thì được cấp tô ruộng của làng xã hoặc xã khác. Quân lính khi thắng

trận được thưởng tiền bạc [15, tr.374].

- Quân địa phương (hay còn gọi là thổ binh), đây là lực lượng trấn đóng tại các

địa phương. Số binh này rất đông, gấp mấy lần quân quân chính quy nhưng không

được trả lương tháng mà họ chỉ được miễn sưu thuế mà thôi [15, tr.364].

(18)Lê Đình Cai (1971), Ba mươi tư năm cầm quyền của chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), Đăng Trình, Sài Gòn, trang 37.

Quân đội được tổ chức theo hệ thống bao gồm: Dinh, cơ, đội, thuyền.

75

- Dinh là đạo quân gồm nhiều thuyền, đội, và cơ [15, tr.363]. Cả nước được chia làm 12 dinh do Chưởng Dinh(19)hay trấn thủ là một võ quan đứng đầu [63, tr.58].

- Cơ bao gồm nhiều đội thường có từ 6 đến 10 thuyền, có Cơ đặc biệt quan

trọng lên đến 60 thuyền. Quân số từ 250 người đến 600 người. Điều khiển các cơ có

Chưởng cơ và Cai cơ. Thời chúa Nguyễn có 5 Cơ: Trung Cơ, Tả Cơ, Hữu Cơ, Tiền

Cơ, Hậu Cơ [49, tr.284].

- Đội có từ 2 đến 5 thuyền. Điều khiển các đội có chức Cai đội và Đội trưởng

[49, tr.284].

- Thuyền là đơn vị thấp nhất trong quân đội Đàng Trong, có từ 30 đến 50 người

cùng làng hay thuộc làng lân cận [49, tr.284].

Điểm đặc biệt trong lực lượng vũ trang thời chúa Nguyễn đã trở thành yếu tố

quyết định là sự kết hợp giữa quân và dân. Li Tana đã xác nhận: “Từ quân dân thường

xuyên được nhắc đến trong Tiền Biên, nhất là vào thời kì đầu, để chỉ người dân. Ở

phía Bắc, người ta chỉ dùng từ dân hoặc bách tính. Hẳn sẽ khó khăn đối với chính

quyền họ Nguyễn nếu chỉ nói “quân” mà không có “dân” hoặc ngược lại, vì cả hai gần

như là một” [63, tr.59]. Không những vậy mà quân đội chúa Nguyễn nổi tiếng là tinh

nhuệ, trí dũng, can đảm. Sử gia Phạm Văn Sơn từng nhận xét: “Phải nên nhận rằng

người Đàng Trong vốn sẵn có thiên tài về binh bị. Tất cả những người ngoại quốc từng

đặt chân đến Nam Hà cùng cho rằng phần nhiều người nước này đều ra làm lính và

làm tướng, lúc cần rất can đảm và khôn ngoan....Họ thường tập bắn súng, bắn tên, đâm

chém bằng gươm giáo và ném cả tạ trên bộ và trên chiến thuyền” [49, tr.190]

Về phân bố lực lượng trong quân đội chúa Nguyễn, quân đội đồn trú và hoạt

động trên đất An Giang thuộc lực lượng được gọi là ngoại binh “Số binh và ngạch

binh ở Chính dinh - Phú Xuân và ở các dinh, trấn dưới thời chúa Nguyễn được chia làm nội binh là binh ở Chính dinh(20) và Cát dinh(21) và ngoại binh là binh ở các dinh

(19)Đây là chức quan cao nhất trong quân đội thời chúa Nguyễn [15, tr.363]. (20)Ở Chính dinh gồm nhiều đơn vị hợp thành với số lượng lên đến 3 vạn 16 người (30.016 người). Trong đó có 8 thuyền Nghi Giang, Tiệp Tam, Trà Nhi (đều thuộc binh Nội thủy), Hà Lộc (thuộc Hậu binh), Hữu binh, An Tiền (thuộc cơ Tả thủy), An Nhất, An Nhị (thuộc cơ Hậu thủy) được cấp tô ruộng bản xã, còn lại thì đều lãnh lương tháng ở kho nhà nước [15, tr.366].

trấn còn lại” [15, tr.365].

76

Lực lượng ngoại binh thời chúa Nguyễn được tổ chức khá chặt chẽ và có quy

cũ ở các dinh, trấn. Từ năm 1757, An Giang được sáp nhập và đặt dưới sự quản lý của

châu Định Viễn thuộc dinh Long Hồ, chịu sự chỉ đạo cũng như tổ chức của quân dinh

này. Theo đó, dinh Long Hồ được tổ chức có đội Hùng Nhuệ gồm 3 thuyền là Tiệp

nhất, Tiệp nhị, Tiệp Tam; có đội An bộ, có 5 thuyền là An nhất, An nhị, An tam, An

tứ, An ngũ; đội Cường bộ có 3 thuyền: Cường nhất, Cường nhị, Cường tam; đội Minh

bộ có 3 thuyền: Minh nhất, Minh nhị, Minh tam; đội Tân thắng, có 3 thuyền : Binh

nhất, Binh nhị, Binh tam. Mỗi một thuyền đều 50 người được miễn không phải nộp

tiền và gạo [15, tr. 370]. Bấy giờ không thấy tài liệu nào ghi về số binh đóng của dinh

Long Hồ cũng như ở vùng An Giang, Châu Đốc là bao nhiêu.

Một đặc điểm của tổ chức lực lượng quốc phòng trong hoạt động quân đội chúa

Nguyễn trên đất Đàng Trong nói chung và An Giang nói riêng là sự phối hợp các loại

binh (bộ binh và thủy binh) và các vùng chiến lược mang tính chất quân khu – hợp

đồng tác chiến (3 dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ). Việc tổ chức quân đội các

dinh trấn trong khu vực Nam Bộ rất quan trọng đối với vùng biên giới An Giang.

Trong đó, các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ là những “quân khu”.

Dinh Biên Trấn được xem là lực lượng chủ lực ở phía Nam với lực lượng hùng

hậu, sẵn sàng chi viện cho các nơi khác khi hữu sự. Tổ chức lực lượng dinh Biên Trấn

gồm có Trung cơ, với 8 thuyền chức Lưu thủ coi 7 thuyền, Ký lục coi 1 thuyền; đội Bộ

binh có 3 thuyền là Kiên đao, Xung đao nhất, Tả thắng súng; đội Súng bộ có 3 thuyền

là Tả kiên súng, Hữu kiên súng, Xung đao nhị; đội Kiên thủy có 4 thuyền là Tráng

nhất, Tráng nhị, Tráng tam, Hữu hùng; đội Tân tiệp có 3 thuyền là Phân nhất, Phân

nhị, Phân tam để giữ cửa Hà bá va cù lao Côn Luân (Côn Đảo); đội Hùng Ngự có 3

thuyền la Nhuệ nhất, Nhuệ nhị, Nhuệ tam để giữ trường voi; đội Tráng Ngự có 3

thuyền là Định nhất, Định nhị, Định tam để giữ ngã ba Long Cốt (Xương Rồng ?). Ba

(21)Dinh Cát tức là dinh Cũ ở vào địa phận các xã Hồng Khê, An Tam, có cơ Trung kiên, gồm 6 thuyền, tổng cộng 288 người; cơ Tả kiên, Hữu kiên, Tiền kiên, Hậu kiên 4 cơ, mỗi cơ đều 5 thuyền (thuyền 45 người), 20 thuyền có tổng cộng 900 người; đội Thắng thủy có 2 thuyền (đều 55 người), cộng 110 người; cơ Kiên tượng - cơ chăn voi va tập bắn quản 30 người, cộng tất cả số quân ở Dinh Cát là 1.328 người [15, tr.367].

đội này cộng là 9 thuyền đều 50 người thổ dân, miễn không phải đóng tiền, gạo. Các

77

chức Cai đội và Chánh, Thứ đội trưởng đều do quan sở lựa chọn, miễn không phải nộp

tiền gạo [15, tr.369].

Dinh Phiên Trấn, có Trung cơ gồm 7 thuyền và một mã đội (Giám quan Cai đội

coi 4 thuyền, Ký lục, Cai án va Cai bạ đều coi 1 thuyền); đội Tân Nhung có 3 thuyền

là Tiệp nhất, Tiệp nhị, Tiệp tam; đội Tả Long có 3 thuyền là Thanh nhất, Thanh nhị,

Thanh tam; đội Tả Tiệp có 3 thuyền là Tráng nhất, Tráng nhị, Tráng tam; đội Hữu

Tiệp có 3 thuyền là Cuờng nhất, Cuờng nhị, Cuờng tam, cùng giữ xứ Cổ Chanh; đội

Tiền Tiệp có 3 thuyền là Hùng nhất, Hùng nhị, Hùng tam; đội Hậu Tiệp có 3 thuyền là

Kiên nhất, Kiên nhị, Kiên tam, cùng giữ cửa sông Ba Thắc và xứ Cần Thơ. Bốn đội

này có 12 thuyền, mỗi thuyền 50 người, đều lấy thổ dân, miễn không phải đong tiền

gạo. Chức Chánh, Thứ đội trưởng đều do quan sở lựa chọn, được miễn không phải

đong tiền gạo [15, tr.369-370].

Trấn Hà Tiên có 8 thuyền là Kiên nhất, Kiên nhị, Kiên đao, Kiên nhung, Nghĩa

thắng, Kiên phong, Long kỳ, Tráng súng (Tổng binh coi 6 thuyền, Cai bạ, Tri bạ đều

coi 1 thuyền); đội Thủy thắng có 3 thuyền; đội Hùng bộ có 3 thuyền và các đội Tả

thủy, Hữu thủy [15, tr.370].

Các ngạch binh ở cơ, đội và thuyền kể trên đây, trừ thổ binh được miễn tiền gạo

sưu xuất thi không được cấp lương, còn lại thì lĩnh lương ở kho. Kho phủ Gia Định có

3 thuyền ở đội Tân Tiệp để coi giữ.

Tổ chức quân đội của chúa Nguyễn trên đất Nam Bộ nói chung và An Giang

thuộc dinh Long Hồ nói riêng có một điểm nổi bật là sự kết hợp giữa bộ binh và thủy

binh. Về sau chúng ta lại thấy có sự thay đổi trong việc tổ chức quân đội của chúa

Nguyễn ở khu vực Nam Bộ cũng như trên đất An Giang. Theo lời trình bày của

Nguyễn Khoa Thuyên từng giữ chức Cai bộ phủ Gia Định suốt 16 năm khi được hỏi

về thực số quân dân nơi đây ông cho biết thổ binh 3 dinh (Biên Trấn, Long Hồ và

Phiên Trấn) có đến mấy vạn. Giải thích là vì họ Nguyễn từ trước vẫn có y mở mang bờ

cõi phương Nam, chiếm lấy những đất béo tốt, mộ dân chiêu lính, chia ruộng chứa thổ

để trấn áp Chiêm Thành, Cao Miên, chống giữ Xiêm La, cho nên quan binh ở xứ ấy

xếp đặt rất kỹ càng. Do đó mà sau khi thua chạy còn có chỗ trú chân. Ông đã trình bày

số binh này như sau:

78

Dinh Trấn Biên có 20 thuyền lính tinh nhuệ, mỗi thuyền 50 người, cộng 1.000

người. Có 18 chiếc thuyền to gọi là ghe bầu Hải sư. Có đội thuyền Mã Hậu không

thuộc vào đội thuyền Hải sư, có 20 thuyền thuộc binh được miễn tiền gạo, mỗi thuyền

50 người, cộng 1.000 người, có chiến thuyền 20 chiếc, lại có ước chừng 100 chiếc

thuyền về đội tam binh được miễn sưu, mỗi chiếc thuyền 40 người, cộng 4.000 người.

Huyện Phước Long có hơn 250 thôn, dân số 800 đinh, thuế ruộng hơn 2.000 hộc. Các

thuộc, các nậu ở Cảnh Dương, Thiên Mụ, Hoàng Lạp phỏng 40 thôn, nậu, dân số

1.000 đinh, nộp chiến thuyền 20 chiếc. Các thuộc các nậu ở Ô-tất phỏng 30 nậu, dân

số ước 500 đinh, nộp chiến thuyền 10 chiếc. Số ruộng Giản-thảo-trường phỏng 60 sở.

Khái Hải môn có 3 đội quân coi giữ, mỗi đội 3 thuyền, cộng 9 thuyền, mỗi thuyền 40

người, cộng 360 người [15, tr.371].

Dinh Phiên Trấn có binh tinh nhuệ 20 thuyền, mỗi thuyền 50 người cộng 1.000

nguời, lại có 18 thuyền Hải sư, đội thuyền Mã đội hậu không thuộc vào đội thuyền Hải

sư, các thuyền thuộc binh được miễn tiền gạo phỏng độ 20 thuyền, mỗi thuyền 50

người, cộng 1.000 người và có chiến huyền 20 chiếc. Về số Tam binh được miễn sưu

phỏng độ 100 thuyền, mỗi thuyền 40 người, cộng 4.000 người và chiến thuyền 100

chiếc. Huyện Tân Bình có hơn 350 thôn, dân số hơn 15.000 đinh, số thuế điền hơn

2.000 hộc. Về thuộc Quy An có hơn 100 thôn, dân số hơn 4.000 đinh, chiến thuyền 50

chiếc, số thuế điền hơn 5.000 hộc. Về thuộc Tam-lạch có 100 thôn, dân số 4.000 đinh,

chiến thuyền 70 chiếc, điền số hơn 5.000 sở bá canh. Về 2 thuộc Bà Rịa và Lạch Kiến

có 100 thôn, dân số hơn 4.000 đinh, chiến thuyền 70 chiếc, điền số gồm 4.000 sở. Cửa

bể Sài Lạp có 3 đội quân giữ, mỗi đội 3 thuyền, mỗi thuyền 40 người, cộng 360 người.

Cửa bể Đồng Chanh, cửa Đại và cửa Tiểu, cửa bể Bà Lợi số thú binh cũng ngần ấy. Số

binh đóng ở Trường đồn thuộc về Mỹ Thu có 5 đội, mỗi đội 3 thuyền, mỗi thuyền 40

người, cộng 720 người. Ở đồn Đương Sứ thuộc về suối Ba Vu số thú binh cũng ngần

ấy [15, tr.371-372].

Dinh Long Hồ có tinh binh 20 thuyền mỗi thuyền 50 người, cộng 1.000 người

và có thuyền Hải sư 18 chiếc. Thuyền Mã đội có Tam binh hơn 300 thuyền, phỏng độ

số quân 12.000 người. Châu Định Viễn có 359 thôn, dân số 7.000 đinh, điền số 7.000

sở [15, tr.371].

79

Các nơi thủ ngự ở mạn đầu nguồn: Giữ Phiếm Bái có 3 đội quân, mỗi đội 3

thuyền, mỗi thuyền 40 người, cộng 360 người, chiến thuyền 9 chiếc; Giữ cù lao Dao Chiêu(22), rạch Ông Chưởng, đạo Tân Châu, Thủ Chiến Sai, Hùng Đạo, cũng đều như

thế [15, tr.372].

Các nơi thủ ngự ở mạn sông Tiền: Đạo Đông Khẩu có quân 5 đội, mỗi đội 3

thuyền, mỗi thuyền 48 người, cộng 720 người, chiến thuyền 15 chiếc. Tân Thắng đạo

cũng bằng số quân nói trên. Giữ đồn trường Giao Dịch có 3 đội quân, mỗi đội 3

thuyền, mỗi thuyền 40 người, cộng 360 người, chiến thuyền 9 chiếc. Các đồn ở Mộc Hãn, Vịnh Liêm(23), Lãng Thi, Bến Tranh số quân cũng như trên. Giữ đồn Quang Phúc

có quân 5 đội, mỗi đội 3 thuyền, mỗi thuyền 40 người, cộng 720 người, chiến thuyền

15 chiếc[15, tr.372].

Các nơi thủ ngự ở các cửa bể: Đồn cửa Bái Ngao có quân 3 đội, mỗi đội 3

thuyền, mỗi thuyền 40 người, cộng 360 người, chiến thuyền 9 chiếc. Đồn ở cửa Tiểu Côn, Cổ Chân(24), Hai Môn, Trà Vinh,... và Thanh Nại, cũng như số quân ở cửa Bãi

Ngao. Đồn ở cửa Thu Tu có quân 2 đội, mỗi đội 3 thuyền, mỗi thuyền 40 người, chiến

thuyền 3 chiếc. Đồn cửa Rạch Giá cũng như thế [15, tr.372].

Các nơi thủ ngự ở mạn sông Hậu: Đồn Húc Uy có quân 5 đội, mỗi đội 3 thuyền,

mỗi thuyền 40 người, cộng 720 người, chiến thuyền 15 chiếc. Các đồn Cuờng Uy, Thu Ôn(25), Hoa Chung, bãi Bà Lúa, Thâm Trừng và Chất Trang cũng đều như số quân ở

Húc Uy[15, tr.373].

Theo một số liệu cụ thể trong một công trình nghiên cứu khoa học, lực lượng

quân sự dinh Long Hồ năm 1775 được ghi nhận trong bảng sau(26):

Các thủ (địa điểm đóng Số binh Đội Thuyền Số binh lính STT quân) lính/thuyền

1 Thủ Phiếm Bái 3 9 40 360

(22)Cù lao Giêng (23)Vũng Liêm (24)Cổ Chiên (25)Trà Ôn (26)Đỗ Quỳnh Nga (2013), Công cuộc mở đất Tây Nam Bộ thời chúa Nguyễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

2 Thủ cù lao Dao Chiêu 3 9 40 360

80

3 9 40 3 Rạch Ông chưởng 360

3 9 40 4 Thủ Tân Châu 360

3 9 40 5 Thủ Chiến Sai 360

3 9 40 6 Thủ Hùng Thắng 360

5 15 48 7 Thủ đạo Đông Khẩu 720

5 15 48 8 Thủ đạo Tân Thắng 720

3 9 40 9 Thủ trường Giao Dịch 360

3 9 40 10 Thủ Mộc Hản 360

3 9 40 11 Thủ Vũng Liêm 360

3 9 40 12 Thủ Lãng Thi 360

3 9 40 13 Thủ Bến Tranh 360

5 15 40 14 Thủ Quang Phục 600

3 9 40 15 Thủ cửa Bãi Ngao 360

3 9 40 16 Thủ cửa Tiểu Hỗn 360

3 9 40 17 Thủ cửa Cỏ Chiện 360

3 9 40 18 Thủ cửa Trà Vinh 360

3 9 40 19 Thủ cửa Cái Lóc 360

3 9 40 20 Thủ cửa Thanh Hải 360

1 3 40 21 Thủ cửa Thu Tu 120

1 3 40 22 Thủ cửa Rạch Giá 120

5 15 40 23 Thủ ngự Hậu Giang 600

5 15 40 24 Thủ Cường Uy 600

5 15 40 25 Thủ Tà Ôn 600

5 15 40 26 Thủ Cần Chung 600

5 15 40 27 Bãi Bà Lúa 600

5 15 40 28 Thủ Thâm Trừng 600

5 15 40 29 Thủ Chất Tiền 600

Tổng 29 103 309 1.160 12.600

81

Những ghi nhận trong bảng này có thể không thể hiện đầy đủ lực lượng quân sự

dinh Long Hồ nhất là trên vùng đất An Giang vì chưa thấy sự có mặt của các bảo, thủ

thuộc Châu Đốc, Châu Giang. Tuy nhiên, có thể khẳng định đây được xem là lực

lượng quân sự rất lớn trong thời điểm bấy giờ, trong lúc đất Đàng Trong đang xảy ra

nhiều biến loạn, cũng như tăng cường quân lực cho công cuộc bảo hộ Chân Lạp và

phòng thủ quân Xiêm ở khu vực biên giới Tây Nam sau cuộc chiến năm 1771.

Tổng hợp những tài liệu trên đã cho thấy những cố gắng của chính quyền chúa

Nguyễn trong việc thiết lập, xây dựng những căn cứ, đồn, thủ trên dinh Long Hồ với

hơn 29 cơ sở phòng thủ, trong đó trên vùng đất An Giang với nhiều căn cứ bao gồm

đồn Châu Đốc, bảo Châu Giang, Thủ cù lao Dao Chiêu, Thủ Chiến Sai, Thủ Phiếm

Bái, Thủ Rạch Ông Chưởng, Thủ Tân Châu tập trung phần lớn ở vùng biên giới, đảm

trách công tác quốc phòng và giữ gìn an ninh trong quá trình phát triển vùng đất mới.

Về công tác tuyển quân: Các chúa Nguyễn thường xuyên tăng cường tuyển mộ

và rèn luyện quân đội của mình nhằm mục đích đào tạo một quân đội đông về số

lượng và mạnh về chất lượng. Bắt đầu từ việc tuyển quân, bắt lính. Việc tuyển quân,

bắt lính cũng có quy định chặt chẽ, những quy định này được đặt ra từ thời Hồng Đức

và các đời chúa sau cùng làm theo và thống nhất ở các địa phương trong đó có An

Giang. Theo quy định được áp dụng cho quân đội ở Đàng Trong nói chung và An

Giang nói riêng, cứ 6 năm một lần tuyển duyệt lớn gọi là đại điển, ba năm một lần

tuyển duyệt nhỏ gọi là tiểu điển [15, tr.375]. Đến năm tuyển duyệt thì tháng giêng sai

các tổng, xã làm sổ hộ tịch, để riêng dân chánh hộ là dân chánh quan ở xã, và dân

khách hộ là dân ngụ cư rồi chia các hạng:

1. Tráng khỏe mạnh để sung vào quân đội

2. Quân là hạng người được ở nhà làm ruộng, đến khi quân ngũ còn thiếu thì

theo thứ tự trong sổ mà lấy bổ sung

3. Dân là người từ 18 tuổi trở lên không được chọn làm binh lính

4. Lão là người cao tuổi

5. Tật là người tàn tật

6. Cố là người làm thuê

7. Cùng là người nghèo túng

82

8. Đào là người bỏ trốn [15, tr.375]

Đặc biệt theo quy định, những người đã định cư ba năm trở lên mới được đi

lính. Người trên 50 tuổi, thấp bé, cô độc thì được miễn đi lính. Nhà hai con trai chỉ lấy

một người, người kia ở nhà lo phụng dưỡng cha mẹ. Con trai một thì miễn đi lính. Nhà

nào có hai con trai thì chỉ lấy một người, cha mẹ già không có con gái, chỉ có con trai

thì đều được miễn đi lính [15, tr.173]. Đến tháng 6 thì duyệt tuyển. ở các địa phương

lập nên các tuyển trường, có quan văn, võ do trung ương phái đến phụ trách việc duyệt

tuyển. Duyệt tuyển 1 tháng thì xong [15, tr.376].

Song song với việc tuyển quân và bắt lính, các chúa Nguyễn rất chú trọng đến

rèn luyện cho bính sĩ, bằng cuộc thao diễn từ thủy binh, tượng binh… cho đến kỵ binh,

pháo binh. Với cách thức diễn tập phong phú như bắn cung, bắn súng, thi ngựa, diễn

voi, thao diễn thủy binh, bộ binh… quân đội của chúa Nguyễn ngày càng tinh nhuệ. Vì

vậy, trong chiến đấu, quân đội đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn các binh chủng tạo nên

sức mạnh tổng hợp. Phan Khoang đã dẫn theo Việt sử yếu rằng:“Binh chế Nam Triều gồm có 5 cơ: Trung, Hiền, Hậu, Tả, Hữu”. Vua Hiếu Chiêu (tức chúa Thượng(27)) lập

trường bắn ở xã Hoằng Phước, diễn trận voi, ngựa mỗi năm, sau 7 tháng, ngày nào

cũng luyện tập. Ở Nam triều, quan chế, thí pháp không đầy đủ như ở Bắc triều, vì là

thời kì sáng lập, nhưng việc luyện binh, giảng võ các đời đều noi theo, vua Hiếu Chiêu

cho là yếu tố, thực là hơn hẳn Bắc triều, cho nên hun đúc được tinh thần thượng võ và

đạt được mục đích kháng cừu.” [15, tr.374].

Dựa theo phương tiện và vũ khí chiến đấu, quân đội chúa Nguyễn được phân ra

bốn loại: bộ binh, thủy binh, tượng binh và pháo binh.

Bộ binh là lực lượng chiến đấu cơ bản trên các chiến trường. Dưới thời chúa

Nguyễn sự khác biệt giữa quân bộ và quân thủy không là rõ ràng như giai đoạn sau.

Do địa hình Đàng Trong, quân đội phải thường xuyên dựa vào chiến thuyền để di

chuyển, do đó binh lính bắt buộc phải học kỷ năng, kỷ xảo của chiến thuyền. Theo

Thích Đại Sán, vào quân đội rồi, mỗi người bắt buộc chuyên học một nghề, kế đó phân

(27)Chúa Nguyễn Phúc Lan (1600 – 1648).

phái đi theo các chiến thuyền để luyện tập [63, tr.69].

83

Thủy binh được các chúa Nguyễn đẩy mạnh phát triển các loại thuyền chiến.

Những kĩ thuật đóng thuyền chiến, bố trí và tác chiến trên biển được kế thừa từ thời kì

trước được các chúa Nguyễn áp dụng vào thủy quân Đàng Trong. Đến thế kỷ XVII, ở

Đàng Trong, với chính sách mở cửa, các chúa Nguyễn đã tận dụng cơ hội đó để mua

các chiến thuyền cũng như tiếp cận những kỹ thuật đóng thuyền mới. Thuyền chiến

của chính quyền các chúa Nguyễn thời kì này được xuất hiện chủ yếu trong các năm

chiến tranh, hòa thương Thích Đại Sán đã mô tả một chiến thuyền của Đàng Trong

như sau: “Đầu thuyền ngồi một vị quan, đuôi thuyền đứng một người cầm lái, giữa

thuyền sáu mươi bốn quân nhơn đứng chèo, giữa khoang thuyền có bốn cọc - nạng sơn

son, trên bắc ngang một cây mõ gỗ, một lính ngồi gỏ mõ làm nhịp cho những người

đứng chèo,…, miệng hò - lơ, chân dậm ván, đều răm rắp theo nhịp mõ chẳng chút đơn sai… Thuyền dài mà hẹp như hình long - chu, mũi rất cao, đuôi thuyền sơn đỏ…”(28).

Dù chưa thống nhất về số lượng qua sự mô tả của các học giả nghiên cứu,

nhưng qua sự mô tả của ở một số tài liệu đã cho thấy sự phát triển cũng như sự chú

trọng của các chúa Nguyễn đối với binh chủng thủy binh. Trong Trịnh - Nguyễn diễn

chí hay trong Việt sử xứ Đàng Trong, có đoạn nói đến chúa Tiên sai con trai thứ 6 đi

đánh giặc Hiển Qúy ở ngoài biển Cửa Việt (1585) thì thấy có sử dụng thuyền chiến lớn

và súng “đoàn thuyền như một con trường xà đuổi tới, tiếng súng đồng loạt phát nổ, vang động đất trời, hai tàu giặc bị bắn vỡ”(29). Chi tiết này chứng tỏ vào thời điểm đó

(1585) thuyền chiến và trọng pháo đã là thế mạnh của quân đội chúa Nguyễn. Để tiện

lợi cho người lính, “mái chèo gắn vào mạn thuyền bằng những khuyên sắt. Lính thủy

có thể buông thả mái chèo để sử dụng ngay tức khắc các vũ khí đang để gần họ.

Những lính chiến này đồng thời lại là thủy thủ…”. Tuy nhiên, trong số lính này, các

pháo thủ đang có xu hướng được tách khỏi công việc chèo thuyền để thường trực bên khẩu pháo(30).

Sức mạnh thủy quân của Đàng Trong được tăng cường đáng kể theo sự gia tăng

(28)Thích Đại Sán (1963), Hải Ngoại ký sự, Bản dịch của Viện Đại học Huế, Quyển II, tr.132. (29)Nguyễn Khoa Chiêm (1994), Nam triều công nghiệp diễn chí (Trịnh - Nguyễn diễn chí), Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch, Nxb Hội nhà Văn, Hà Nội, tr.412. (30)Nguyễn Việt (1983), Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, tr.223.

về số lượng các chiến thuyền. Năm 1618, theo giáo sĩ Christophoro Borri cho biết số

84

lượng chiến thuyền Đàng Trong là hơn 100 chiếc, được trang bị trong tư thế sẵn sàng,

mỗi chiến thuyền có 6 khẩu đại bác và đầy đủ đạn hỏa mai [63, tr.68]. Đến năm 1695,

Bowyear cho biết Đàng Trong có trên 200 chiến thuyền lớn (có từ 50 – 76 tay chèo

mỗi thuyền) và 500 chiến thuyền nhỏ (có từ 40 - 44 tay chèo mỗi thuyền) [63, tr.68].

Trên thuyền, quân lính thường sử dụng súng hỏa mai, giáo, câu liềm có cán dài làm

khí giới. Lính Champa thường tả lính Đàng Trong luôn cầm câu liềm dài có khi tới 15 - 20 “pied”(31), dùng để móc thuyền địch khi giáp chiến [63, tr.69].

Nhiệm vụ của lực lượng thủy quân là bảo vệ vùng lãnh thổ tổ quốc trước các

cuộc xâm lấn từ bên ngoài. Do địa hình Đàng Trong rất thuận lợi cho việc di chuyển

bằng đường thủy với bờ biển dài, vùng biển rộng, nhiều hải đảo gần có, xa có, thêm

vào đó là hệ thống sông ngòi phương Nam chằng chịt. Vì thế việc thiết lập các hải đội

phòng giữ, quản lý các địa phương trong vương quốc là việc tối cần thiết.

Trên Biển Đông, các chúa Nguyễn từ lâu đã ý thức được chủ quyền của Đại

Việt, thời chúa Nguyễn Phúc Lan (1600 – 1648) đã cho thiết lập Hải đội Hoàng Sa để

khai thác và thực thi chủ quyền trên các vùng biển, đảo của vương quốc, trong đó có

hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa [70]. Về mặt tổ chức, phiên chế đội ngũ: đội

Hoàng Sa và các đội khác sau này là những tổ chức dân binh vừa mang tính quân sự

vừa mang tính dân sự, vừa mang tính chất Nhà nước vừa mang tính tư nhân, vừa có

chức năng quản lý biển đảo, vừa có chức năng kinh tế [69]. Vì có chức năng đặc biệt

quan trọng như vậy nên đội Hoàng Sa được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của triều

đình, thậm chí nhiều khi đích thân chúa Nguyễn đã trực tiếp quyết định một số những

công việc đặc biệt hệ trọng của đội. Người trực tiếp chỉ huy đội là một cai đội. Cai đội

là vị quan lớn, thường được phong tước “hầu”, như: Thuyên Đức Hầu, đã được Lê

Quý Đôn tra cứu sổ sách suốt từ 1702 (Nhâm Ngọ) đến 1713 (Quý Tỵ) [68]. Biên chế

của đội Hoàng Sa: 70 suất, nguồn tuyển: người xã An Vĩnh trên đảo Cù Lao Ré; biên

chế của đội Bắc Hải: “không định bao nhiêu suất”, nguồn tuyển: hoặc người thôn Tứ

Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương [69]. Sau đó, vì chính quyền nhà

Nguyễn dần dần tìm ra các đảo san hô hết sức rộng ở Biển Đông, đội Hoàng Sa không

thể bao quát hết được, các chúa Nguyễn đã cho thành lập các đội Bắc Hải, Quế (31)Tương đương từ 5 - 6,5 m

85

Hương, Đại Mạo hải ba và Quế Hương hàm, cũng có chức năng và nhiệm vụ như đội

Hoàng Sa. Song các chúa Nguyễn vẫn để đội Hoàng Sa kiêm quản, chịu trách nhiệm

chung để có một đầu mối mà dễ dàng nắm tình hình ở Biển Đông. Địa bàn hoạt động

chủ yếu của đội Hoàng Sa được quy gọn lại vùng biển và hải đảo ngang với khu vực

Lý Sơn và ngược lên phía Bắc, trong đó vẫn lấy quần đảo Hoàng Sa là trung tâm. Đội

Bắc Hải phụ trách vùng biển đảo phía Nam, từ Trường Sa đến Hà Tiên: xứ Bắc Hải, cù

lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên [68]. Chính từ công tác kiêm quản đội Bắc Hải của

đội Hoàng Sa cho ta có quan niệm về quản lý Biển Đông của chính quyền chúa

Nguyễn và buổi đầu nhà Nguyễn thời ấy. Các hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải…hoạt động

suốt gần một thế kỉ rưỡi trải qua 7 đời chúa Nguyễn. Như thế, từ thế kỉ XVII, người

Việt đã xác lập và thực thi một cách nghiêm túc chủ quyền trên vùng Biển Đông và

Biển Tây cũng như đối với các hải đảo, quan trọng hơn cả là hai quần đảo Hoàng Sa

và Trường Sa.

Đã có rất nhiều tư liệu cổ của nước ta và nước ngoài ghi nhận lại sự thực thi chủ

quyền trên Biển Đông cũng như trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của các

chúa Nguyễn góp bằng chứng vững chắc cho sự khẳng định “chủ quyền không thể

chối cải của Việt Nam đối với hai quần đảo trên cũng như vùng biển đặc quyền trên

Biển Đông từ thời các chúa Nguyễn”.

Theo Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá Công Đạo soạn vào

những năm niên hiệu Chính Hoà (1680 - 1705) theo lệnh chúa Trịnh Can, đương nhiên

là một văn kiện quan trọng của Nhà nước, một tài liệu chính thức của quốc gia Đại

Việt. Bản đồ “Bãi Cát Vàng” khẳng định cương giới xứ Đàng Trong, từ cuối TK thứ

XVI đã được mở rộng ra hai quần đảo Hoàng Sa và Trường sa trên Biển Đông, do

chúa Nguyễn quản lý. Tên gọi “Bãi Cát Vàng” chuyển sang âm Hán Việt là Hoàng Sa

và Hoàng Sa chử, tên gọi này biểu đạt hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Điều cần

nói là, tên gọi Hoàng Sa và Hoàng Sa chử vẫn còn nguyên giá trị lịch sử trong các văn

kiện của Nhà nước Phong kiến Việt Nam từ triều nhà Lê sau này đến triều nhà

Nguyễn, trong các sách Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam nhất

thống toàn đồ. Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư hay Toản Tập An Nam Lộ là một trong

86

những tài liệu quí giá cổ xưa chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần

đảo này.[74]

Hòa thượng Thích Đại Sán đến xứ Đàng Trong và ghi lại những câu chuyện do

chính những người đã từng thường xuyên qua lại trên biển kể cho ông trong tác phẩm

Hải Ngoại Ký Sự (1696): “… Khách có người bảo… giữa biển có dải cát đá nằm

ngang, chạy dài từ Đông Bắc qua Tây Nam; cao như vách tường đứng trên biển, chỗ

thấp cũng ngang mặt nước; mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm phải ắt tan tành;

bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là Vạn

lý Trường Sa mù mịt chẳng thấy cỏ cây nhà cửa, nếu thuyền bị trái gió trái nước tất

vào, dầu không tan xác, cũng không có gạo, nước trở thành ma đói. Khoảng cách đến

Đại Việt là bảy canh đường, bảy canh khoảng 700 dặm. Thời quốc vương trước, hàng

năm có sai thuyền đánh cá đi dọc theo bãi cát lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư

tất vào. Mùa thu nước dòng cạn, chảy rút về hướng đông, bị một ngọn sóng đưa đi thuyền có thể trôi xa cả trăm dặm; sức gió chẳng mạnh, sợ có hiểm họa Trường Sa”(32)

[75].

Những ghi chép của Thích Đại Sán trong cuốn “Hải ngoại kỷ sự” về việc thực

thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng trùng

hợp với ghi nhận của các giáo sĩ phương Tây vào 5 năm sau đó (năm 1701) về chủ

quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đó là: “Paracel là

một quần đảo thuộc Vương quốc An Nam”. Người phương Tây thời kì đó gọi chung

hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là Paracel. Ghi nhận trên được chép trong những

lá thư của các giáo sĩ phương Tây ở Trung Quốc và được tác giả Jean Yves Clayes đưa

vào bài viết của mình với tiêu đề “Điều huyền bí của các vành đai san hô - Nhật ký

chuyến đi quần đảo Paracels” đăng trên tạp chí Indochine (Đông Dương), số 46 năm

1941. Tác giả trích dẫn đoạn nói về nỗi kinh hoàng khi qua quần đảo Paracels năm

1701 trong những lá thư của các giáo sĩ phương Tây ở Trung Quốc như sau: “Tàu nhổ

neo, gió rất thuận và chỉ trong một thời gian ngắn đã đến ngang tầy mỏm đá Paracel.

Paracel là một quần đảo thuộc Vương quốc An Nam. Đó là bãi đá ngầm khủng khiếp

có đến hàng trăm dặm, rất nhiều lần đã xảy ra các nạn đắm tàu ở đó - Nó trải dọc theo (32)Thích Đại Sán, Hải Ngoại Kỷ Sự, quyển 3, trang 24. Bản in trong Tứ Khố Toàn Thư

87

bờ biển xứ Cochinchina (Đàng Trong). Tàu Amphitrite lần đầu tiên du hành đến Trung

Quốc đã suýt nữa thì bị đắm... có chỗ lối đi chỉ có 4,5 sải nước, nếu thoát được nguy

hiểm ở đây thì như có một phép lạ... Bị đắm tàu trên những tảng đá khủng khiếp đó

hoặc bị lạc mất không còn tí nguồn dự trữ nào thì hầu như cũng như nhau mà

thôi...”.[76]

Một trường hợp khác, Pierre Poivre là một giáo sĩ kiêm thương nhân Pháp đến

xứ Đàng Trong vào khoảng thập kỷ 40 thế kỷ XVIII đã chứng kiến quang cảnh kinh

thành Huế mà Võ Vương (Nguyễn Phúc Khoát) đã hoàn thành và xây dựng năm 1744

và được chúa Nguyễn Phúc Khoát tiếp năm 1750. Poivre đã viết tập nhật ký về xứ

Đàng Trong mang tên “Mémoire sur La Cochinchine” (Paris 1744). Năm 1885, tập hồi

ký được in lại trong tạp chí “Revue de l' Extreme Orient” (tập III) với tên tiêu đề

“Journal de Poivre”. Nội dung tập “nhật ký” được thuật lại trong bài “Une tentative

ignorée d' e'tablissement francais en Indochine au XVIII siècle. Les vues de L'Amiral

d'Estaing” của Louis Malleret, đăng trong tạp chí BSEI Nouvelle Série, Tome XVII,

No1, Sài Gòn 1942.

Khi mô tả về kinh thành Phú Xuân do Nguyễn Phúc Khoát xây dựng, Louis

Malleret thuật lại về súng thần công bố trí trên tường thành như sau: “Những khoảng

cách giữa các cột có đặt 1200 khẩu súng thần công, trong số 800 khẩu bằng đồng thau,

phần lớn các khẩu súng đó “bắn đạn loại” 4 livres, một vài khẩu loại 6 và có khẩu loại

24 livres”mang theo phù hiệu Bồ Đào Nha và niên hiệu 1661. Người ta cũng thấy ở

đây những hòm nhỏ đựng vũ khí của vua Campuchia do người Bồ Đào Nha đúc, cũng

như những khẩu thần công bằng sắt cỡ đạn 6 livres, có trang trí chữ ghi của Công ty

Đông Ấn Hà Lan, những khẩu súng này đã thu lượm được ở quần đảo Paracels trong

số các di vật của các tàu từ Trung Hoa qua bị đắm” [76]. Tài liệu này đã ghi nhận việc

quản lý đối với quần đảo Hoàng Sa dưới thời chúa Nguyễn.

Hải ngoại ký sự cùng với những ghi chép của các tài liệu cổ phương Tây vào

cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII là những tài liệu cổ của người Trung Quốc và

người Phương Tây xác nhận sự thực thi quản lý và quyền làm chủ của Đại Việt trên

hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây cũng là minh chứng rõ ràng nhất về sự thừa

88

nhận của quốc tế đối với chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường

Sa từ thế kỷ những thế kỷ này.

Trên các sông, chúa Nguyễn cho đóng quân những nơi quan trọng theo các cửa

sông, vị trí yết hầu...từ khu vực miền trung trở về phía Nam. Trong đó khu vực sông

ngòi Nam Bộ được các chúa Nguyễn rất chú trọng trong việc bố trí quân đội nhất là

quân thủy trong chiến lược bảo vệ biên giới lãnh thổ, lãnh hải, đặc biệt là trên sông

Cửu Long đoạn qua vùng đất An Giang xưa.

Yếu tố vũ khí tạo ra rất nhiều sức mạnh cho quân đội Đàng Trong. Bên cạnh

quân bộ và quân thủy thì pháo binh cũng là lực lượng tác chiến ảnh hưởng lớn đến các

cuộc chiến trong thời kì này. Pháo binh không hề xa lạ với quân đội chúa Nguyễn khi

lịch sử Việt Nam thế kỉ XIV đã từng chứng kiến những trận quyết chiến có sự tham

gia của súng “thần công”, thêm vào đó một người có tài đặc biệt về đúc súng “thần cơ

sang pháo” nổi tiếng trong lịch sử nước ta là Hồ Nguyên Trừng (1374 - 1446) đã bị

quân nhà Minh (Trung Quốc) bắt sang đúc súng cho họ. Rõ ràng kỹ thuật đúc súng

thần công cổ truyền của quân đội Đàng Trong là có tồn tại. Có thể các loại súng này có

sự khác biệt so với súng “thần công” từ nơi khác đến như các nước phương Tây. Trong

buổi đầu mới thiết lập quyền lực ở Đàng Trong của họ Nguyễn, hỏa lực đóng vai trò

rất quan trọng. Súng thần công của chúa Nguyễn phần nhiều đến từ người Bồ Đào Nha

[63, tr.61]. Thực vậy, Borri cho biết chính vì có súng trong tay mà chúa Nguyễn Phúc

Nguyên (1563 – 1635) đã nảy ra ý định “thành lập chính quyền và chống lại vua Đàng

Ngoài: Ông được cổ vũ không ít khi thấy mình bổng dưng được cung cấp một số bộ

phận của trọng pháo được tìm thấy và vớt lên từ các tàu của người Bồ Đào Nha và Hà

Lan bị đắm và sau đó được tàu bản xứ gom lại” [63, tr.62]. Theo Borri thì quân đội

Đàng Trong đã thành thạo trong việc sử dụng trọng pháo “người Đàng Trong tinh xảo

(33)Theo Christophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, trang 83.

và có kinh nghiệm sử dụng, họ vượt cả người châu Âu đến nổi họ chẳng làm gì khác mà chỉ ngày ngày bắn đạn giả và rất lấy làm hãnh diện”(33).

89

Kỹ thuật đúc súng của quân đội Đàng Trong ngày càng phát triển với sự giúp đỡ của người Bồ Đào Nha(34) do đó số lượng tăng lên đáng kể. Vào năm 1653, chúa

Nguyễn có 4 đơn vị pháo binh với khoảng 1.000 người với khoảng trên dưới 200 trọng

pháo. Đến năm 1750, con số này tăng lên 1.200 khẩu [63, tr.64-65]. Hỏa lực của trọng

pháo làm nên sức mạnh đáng sợ của quân đội chúa Nguyễn thời kì này và có đóng góp

to lớn trong việc bảo vệ vương quốc trước các cuộc tấn công của kẻ thù từ Bắc vào

Nam.

Riêng về Tượng binh có tầm quan trọng lớn đối với quân đội Đàng Trong thời

kì này. Những cái tên địa danh như Cồn Voi, Tàu Tượng… nằm rãi rác quanh vùng

dinh Ái Tử, Dinh Cát, Dinh Trà Bát… đã cho thấy tầm quan trọng của đạo quân voi

thời kì này. Sử dụng tượng binh cũng chính là tận dụng lợi thế của vùng Thuận Quảng

nói chung và Quảng Trị nói riêng lúc bấy giờ với nguồn voi dồi dào được cung cấp từ

vùng Tây Nguyên xưa. Cùng với việc rèn luyện, trang bị vũ khí, các chúa Nguyễn còn

ban hành chính sách thưởng phạt nghiêm minh đối với những người có công và có tội,

chính sách thưởng phạt được áp dụng rộng rãi trong quân đội, từ tướng lĩnh cho đến

binh sĩ. Có thể khẳng định, để có được sự trung thành cũng như phát huy tối đa sức

chiến đấu của binh sĩ thì chính sách thưởng phạt đóng vai trò quyết định.

Với những vấn đề vừa nêu cho chúng ta có cái nhìn tổng quan hơn về sức mạnh

và lực lượng của quân đội Đàng Trong nói chung cũng như trên đất An Giang thuộc

quân dinh Long Hồ nói riêng. Việc tổ chức quân đội có sự thống nhất trong toàn

vương quốc và được bố trí theo điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương để

phát huy tối đa khả năng cơ động và hiệu quả chiến đấu. Vùng đất An Giang thời kì

này với đặc trưng sông, núi giữa vùng biên cương phức tạp phía Tây Nam vương quốc

đặc ra nhiều mối bận tâm cho chính quyền chúa Nguyễn. Việc bố trí quân lực ở đây

được ưu tiên hàng đầu trong quá trình gìn giữ và phát triển vùng đất mới. Nổi bật về tổ

chức quân bị trên vùng đất này là sự hiện diện của thủy quân kết hợp với trọng pháo và

giữ liên lạc hữu cơ với các đạo quân bộ được cơ động từ vùng này qua vùng khác

(34)Vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVII, một người Bồ tên là Joao da Cruz đã giúp chúa Nguyễn đúc súng đại bác tại Phường Đúc (ở Huế).

thông qua hệ thống sông rạch Cửu Long - Vàm Cỏ - Sài Gòn. Việc tổ chức và xây

90

dựng lược lượng quân đội ở vùng đất An Giang được xem là mảng quan trọng nhất

trong chính sách quốc phòng của chính quyền các chúa Nguyễn trên vùng biên viễn,

yếu địa quốc phòng của vương quốc thời bấy giờ.

2.2.2. Căn cứ quốc phòng - hệ thống phòng thủ trên vùng đất An Giang

trước nguy cơ xâm lấn từ phía Xiêm La và Chân Lạp

Chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn trên vùng đất mới bao

hàm cả yếu tố an ninh. Hệ thống phòng thủ được kéo dài từ vùng biên giới vào sâu bên

trong vừa làm nhiệm vụ bảo vệ quốc gia vừa nhằm giữ gìn an ninh nội địa cho công

cuộc khai hoang lập ấp để phát triển các vùng đất mới. Nhiệm vụ quốc phòng còn bao

hàm cả việc duy trì ảnh hưởng trên đất Chân Lạp và đẩy chiến tranh ra xa vùng biên

giới.

Vùng đất An Giang xưa được xác định là trọng tâm của chiến lược quốc phòng

thời chúa Nguyễn. Ngay từ năm 1757, trên đất An Giang (bấy giờ thuộc đất Tầm

Phong Long) Nguyễn Cư Trinh và Trương Phước Du đã xin với chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lập 3 đạo(35) để phòng thủ tuyến đường thủy vào đất Nam Bộ trên sông Cửu

Long và lấy quân Long Hồ đến trấn thủ bao gồm [8, tr. 10]:

- Đạo Châu Đốc: ở phía Bắc sông Hậu, đóng quân tại Mótt Chrút tức Châu Đốc.

- Đạo Tân Châu: trên sông Tiền, đóng quân ở Koh Teng tức Bãi Dinh, vùng cù

lao Giêng ngày nay.

- Đạo Đông Khẩu: trên sông Tiền, đóng quân tại phía Nam Phsar Dek tức Sa

Đéc.

Ba đạo chiến lược này được đặt dưới sự quản lý của dinh Long Hồ. Đại Nam

thực lục chép: “Nặc Tôn bèn dâng đất Tầm Phong Long. Phúc Du và Cư Trinh tâu xin

dời dinh Long Hồ đến xứ Tầm Bào. Lại đặt đạo Đông Khẩu ở xứ Sa Đéc, đạo Tân

Châu ở Tiền Giang, đạo Châu Đốc ở Hậu Giang, lấy quân dinh Long Hồ để trấn áp”

[39, tr. 166]. Trong tình hình mới, để có phản ứng nhanh và hiệu quả trong việc bảo vệ

biên cương, Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh cho dời trị sở của dinh Long Hồ từ An

(35)Theo Phan Khoang (Việt sử xứ Đàng Trong 1558 – 1777, tr. 346) thì đạo là khu vực hành chánh và quân sự, có dinh đồn binh, lỵ sở hành chánh của đất ấy đóng ở đó.

Bình Đông (Cái Bè ngày nay) về xứ Tầm Bào (thuộc thôn Long Hồ, thành phố Vĩnh

91

Long ngày nay), sát bờ sông Tiền, chiến thuyền dễ dàng tiến thoái hơn. Từ đầu dinh

Long Hồ có Đông Khẩu đạo án ngữ làm tiền đồn thứ hai sau Tân Châu đạo cùng đạo

Châu Đốc bảo vệ biên cương. Ba đơn vị quân sự – hành chính này được bố trí theo thế

“chân vạc” có thể hỗ trợ, tương cứu cho nhau nhanh chóng, dễ dàng. Trong thế tam

giác này, Đông Khẩu được xem là hậu cứ sẵn sàng hiệp trợ và chi viện cho hai tiền

đồn Châu Đốc và Tân Châu. Với những hoạt động mang tính chất quân sự của chính

quyền chúa Nguyễn chúng ta dễ dàng nhận ra vai trò to lớn của vùng đất An Giang

trong việc phòng thủ biên giới với Chân Lạp, ngăn chặn sự xâm lấn của quân Xiêm,

cũng như đối với an ninh quốc gia ở phía Tây Nam, đồng thời công tác vận lương,

hành binh về Gia Định và ngược lại gặp ít trở ngại hơn.

Bên cạnh tạo thế phòng thủ trên thủy lộ chiến lược – Cửu Long Giang, chính

quyền chúa Nguyễn còn thiết lập các đồn, đạo và tăng cường quân bị để hiệp trợ với

ba đạo trên sông Tiền và sông Hậu. Về phía khu vực Biển Tây (từ Hà Tiên đến Cà

Mau) chúa Nguyễn cho Mạc Thiên Tứ thiết lập hai đạo Kiên Giang (vùng Rạch Giá

ngày nay) và đạo Long Xuyên (thuộc Cà Mau ngày nay) để hiệp trợ. Đại Nam thực lục

chép: “(Mạc)Thiên Tứ lại xin đặt Giá Khê làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long

Xuyên, đều đặt quan lại, chiêu dân cư, lập thôn ấp, làm cho địa giới Hà Tiên ngày

thêm rộng ra” [39, tr.167]. Hai đạo này được thiết lập với mục đích quân sự rất rõ ràng

là ngăn chặn sự đổ bộ của quân Xiêm và Chân Lạp lên lãnh thổ phía Tây Nam của

Đàng Trong. Khi đó, các đạo phía sau sẽ theo đường bộ đến ứng cứu là chủ yếu (vì

bấy giờ chưa thông kênh từ Long Xuyên (An Giang) đến Giá Khê (Rạch Giá) và kênh

Vĩnh Tế chưa đào), tuy sẽ có khó khăn nhất định nhưng đây là cách khả dĩ nhất trong

thời điểm này. Các đạo được thiết lập ngoài mục đích quân sự - quốc phòng còn để

đảm bảo an ninh cho công cuộc khai phá và phát triển vùng đất mới.

Trong thế trận quốc phòng lấy vùng An Giang với Thất Sơn vững chắc và sông

Cửu Long linh hoạt làm trọng tâm thì men theo biên giới với Chân Lạp về phía từ An

Giang đến Tây Ninh ngày nay chúa Nguyễn cho thiết lập hai đồn phòng thủ biên giới

tại Hùng Ngự (Hồng Ngự) và Tây Ninh lấy quân Côn Man trấn giữ [25, tr.63] theo kế

“dĩ Man công Man” của Nguyễn Cư Trinh, Đại Nam thực lục chép: “Thần xem người

Côn Man giỏi thuật bộ chiến, người Chân Lạp cũng đã e sợ. Nếu cho họ ở đất ấy để họ

92

chống giữ, lấy người Man đánh người Man (dĩ Man công Man) cũng là đắc

sách...Chúa liền y theo” [39, tr.166], được liên lạc với nhau bằng đường tắt biên giới

băng qua khu vực Soài Riêng, Đồng Tháp Mười... Bên cạnh đó, tại vùng Thất Sơn

chúa Nguyễn còn cho lập đồn ở vùng Tĩnh Biên để án ngữ Thất Sơn và giữ liên lạc

thông suốt giữa Châu Đốc với Hà Tiên [7, tr.19].

Trong chiến lược phòng thủ trên địa bàn An Giang xưa, chính quyền chúa

Nguyễn thường áp dựng cách bố trí các căn cứ liên hiệp tương trợ nhau theo từng khu

vực nhỏ, ở mỗi khu vực là một hệ thống phòng thủ nhỏ trong hệ thống phòng thủ lớn,

có mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ với nhau. Trong thời kì này, trên mặt sông Tiền rất

được chú ý phòng thủ vì đó là cửa vào trực tiếp của trung tâm Nam Bộ trù phú từ Long

Hồ qua Mỹ Tho đến Sài Gòn. Bên cạnh căn cứ chính của đạo Tân Châu trên cù lao

Giêng ở giữa sông Tiền, chúa Nguyễn còn cho thiết lập hai căn cứ khác là Thủ Chiến

Sai (Củ Hủ) ở tả ngạn sông Tiền và Thủ Hùng Đạo ở hữu ngạn sông Tiền (tại Vàm

rạch Đốc Vàng, thuộc tỉnh Đồng Tháp ngày nay) tạo thành thế phòng thủ vững chắc

gọi là “Tam Đạo” nhằm bảo vệ vùng Tân Châu Đạo [24, tr.174].

Sông Vàm Nao trên địa bàn An Giang là tuyến thủy lộ rất quan trọng trong việc

qua lại giữa sông Tiền và sông Hậu ở khu vực gần biên giới Chân Lạp trước khi vua

Thiệu Trị nhà Nguyễn cho đào kênh Vĩnh An. Bấy giờ chúa Nguyễn đã cho thiết lập

đồn trấn thủ ở bờ phía sông Hậu để hỗ trợ cho căn cứ tiền tiêu Châu Đốc và giữ an

ninh cho nhân dân trong việc khai hoang lập làng phát triển vùng phía Nam cù lao Cái

Vừng và cả vùng Năng Gù bên tả sông Hậu. Gia Định thành thông chí chép: “Vàm

Giao (tục gọi cửa sông là Vàm, tục chép là Vàm Náo, chữ Náo không đúng, nay đổi

làm chữ Giao, nên gọi là Vàm Nao), cửa trên ở về phía nam sông Tiền Giang, rộng 8

tầm, sâu 2 tầm chảy về phía nam 75 dặm rưỡi, đến cửa dưới hợp với sông Hậu Giang;

bờ tây có sở thủ ngự, ven sông dân Việt khai khẩn ruộng vườn, rừng rậm ở phía sau là

sóc, sách của dân Cao Mên (Khmer)” [4, tr.81].

Trong hệ thống phòng thủ đường thủy của chính quyền chúa Nguyễn trên vùng

đất mới yếu tố hiệp trợ, tương liên là vô cùng quan trọng. Sự thuận lợi trong hệ thống

này đến từ những cơ sở quân sự tiền tiêu giai đoạn đầu thế kỉ XVIII, trong đó nổi bật

nhất là công trình hào lũy Bảo Định. Năm Ất Dậu (1705), vâng lệnh chúa Nguyễn

93

Phúc Chu, Nguyễn Cửu Vân đem quân sang bình định đất Chân Lạp. Xong việc, để

phòng giữ miền biên cảnh và vùng đất Mỹ Tho xưa, được tạo lập và phồn vinh từ thời

Dương Ngạn Địch (một võ tướng nhà Minh chạy sang xin thần phục Đại Việt thời

chúa Nguyễn Phúc Tần) đến coi quản, Nguyễn Cửu Vân cho đắp một chiến lũy dài từ

quán Thị Cai đến Bến Tranh. Bên ngoài lũy, ông còn cho đào một hào sâu rộng nối

liền rạch Vũng Gù (Tân An) và rạch Mỹ Tho. Công trình này đã phát huy tốt khả năng

phối hợp thủy bộ trong công cuộc phòng thủ vùng Mỹ Tho thời chúa Nguyễn Phúc

Chu cũng như phối hợp với các căn cứ thủy bộ thuộc Cửu Long Giang trên vùng đất

An Giang thời chúa Nguyễn Phúc Khoát.

Cách bố trí hệ thống phòng thủ thực thi chính sách quốc phòng trên vùng đất

An Giang nói riêng và Tây Nam bộ nói chung vào thời kì các chúa Nguyễn bộc lộ

những ưu điểm sau:

- Các hệ thống phòng thủ được bố trí ở những khu vực trọng yếu, tiền tiêu có

khả năng tương trợ, ứng cứu nhau khi có địch.

- Trong hệ thống phòng thủ đó, có sự phân nhiệm rõ ràng về mặt đường bộ và

đường thủy. Trong chiến đấu có thể sử dụng được quân bộ phối hợp với quân thủy và

ngược lại tạo ra sức mạnh tổng hợp.

- Các căn cứ phòng vệ được bố trí thuận đường liên lạc nhau nhất là trên sông

Tiền, nên dễ nhận chỉ thị chung từ đại bản doanh – dinh Long Hồ.

- Các căn cứ phòng thủ được thiết lập song song với việc tạo lập các đơn vị

hành chính vừa tạo ra sức mạnh ứng phó bên ngoài vừa tạo ra sức mạnh, ổn định bên

trong.

- Hệ thống phòng thủ trên sông Cửu Long tạo được ưu thế chiến rất lớn, được

xem là hệ thống quan phòng thủ trọng nhất, có ảnh hưởng trực tiếp đến cả dinh Long

Hồ và xứ Gia Định thời kì này. Đó là hệ thống yết hầu, lá chắn linh hoạt trong việc

bảo vệ thành quả mở đất, khẩn hoang và phát triển vùng đất mới.

- Các vị trí phòng thủ được bố trí một cách khoa học theo địa hình và tình thế

lúc bấy giờ khi thực lực của chúa Nguyễn trên vùng đât mới chưa đủ mạnh, dân chưa

đông, quân chưa nhiều để có thể vươn tới một hệ thống phòng thủ toàn diện như thời

kì sau này.

94

Bên cạnh những ưu điểm vừa nêu thì hệ thống phòng thủ thời kì này còn mắc

một số khuyết điểm gây hạn chế không nhỏ trong việc phòng thủ trong hệ thống

chung. Có thể kể ra như:

- Trên vùng đất An Giang, hệ thống phòng thủ tập trung phần lớn trên các tuyết

thủy lộ, trong khi vùng Thất Sơn có quá ít căn cứ (chỉ thấy có đồn ở Tịnh Biên) để

tương hiệp khi có địch.

- Trong hệ thống chung, vùng Hà Tiên chưa được kết nối tốt với dinh Long Hồ,

việc đưa thủy quân từ Gia Định, Long Hồ, Cửu Long đến Hà Tiên ứng cứu là rất khó

thực hiện do không có đường nội thủy thông đến Hà Tiên, muốn đến đó phải đi vòng

qua mũi Cà Mau rất xa, mất thời gian và tốn kém trong điều kiện ban đầu khai phá,

thuế thu chưa nhiều, hoặc đi theo ngã sông Tiền lên Chân Lạp rồi mới đổ bộ về Hà

Tiên vô cùng khó khăn và dễ rơi vào chỗ mai phục của địch. Chính vì điều này mà khi

quân Xiêm hoặc Chân Lạp khi chiếm Hà Tiên quân ta thường đợi chúng tiến vào Cửu

Long rồi mới tổ chức phản công, thắng những trận quyết định rồi tiến hành truy kích

thu hồi những vùng bị mất.

Như vậy, xuất phát từ những mối quan hệ phức tạp giữa Đàng Trong – Xiêm La

– Chân Lạp, cùng những yêu cầu giữ nước trong hoàn cảnh lịch sử mới chính quyền

chúa Nguyễn đã từng bước thiết lập một hệ thống quốc phòng trên tuyến biên giới Tây

Nam của vương quốc nhằm giữ vững những thành quả mở đất vừa đạt được và phát

triển vùng đất mới cũng như duy trì ảnh hưởng lên Chân Lạp, đẩy chiến tranh ra xa

vùng biên giới.

2.2.3. Hoạt động quốc phòng – những đặc điểm của quá trình thực thi

nhiệm vụ chiến lược trên vùng đất An Giang

Nhiệm vụ thực thi công tác quốc phòng và bảo vệ lãnh thổ trên vùng đất An

Giang xưa được các chúa Nguyễn giao trọng trách cho quân đội và những lưu dân đến

khai phá. Trong đó, quân đội là lực lượng chủ yếu và căn bản trong các hoạt động thực

thi.

Trong chính sách quốc phòng, song song với quá trình tổ chức, xây dựng quân

đội ở vùng đất An Giang xưa, các chúa Nguyễn còn cho quân đội tham gia rất nhiều

95

các hoạt động từ xây dựng căn cứ phòng thủ, thành trì, đồn bảo đến các hoạt động khai

hoang mở đất, giữ gìn an ninh trên vùng đất mới.

Các đồn bảo buổi ban đầu được chúa Nguyễn cho binh lính xây dựng làm căn

cứ quân sự giữ các đạo Châu Đốc, Tân Châu và Đông Khẩu. Theo trục dọc sông Hậu,

binh lính đã đắp đồn Châu Đốc trước ở vị trí Châu Giang cho sau dời về chỗ chợ Châu

Đốc hiện nay, đồn Thuận Tấn ở khúc giao giữa sông Vàm Nao và sông Hậu. Theo trục

dọc sông Tiền, ở phía đầu nguồn binh lính đắp đồn Hùng Ngự, tiếp đó đắp ba đồn

trong tam giác phòng thủ sông Tiền bảo vệ đạo Tân Châu là Thủ Chiến Sai, đồn trên

cù lao Giêng và đồn Hùng Đạo. Hiệp trợ ở phía Nam, chúa Nguyễn cho binh lính đắp

đồn Đông Khẩu tại thôn Vĩnh Phước thuộc Sa Đéc ngày nay [66]. Tại vùng Thất Sơn,

binh lính xây đồn Tĩnh Biên để án ngữ Thất Sơn và giữ liên lạc thông suốt giữa Châu

Đốc với Hà Tiên.

Những đồn bảo được xây dựng theo ven sông Tiền và sông Hậu vừa có khả

năng đóng trú quân bộ vừa có chức năng hành quân, đánh trận trên sông vì lính thời

chúa Nguyễn hầu hết được đào tạo về thủy chiến.

Việc ra đời của hệ thống các đồn lũy với binh lính đóng trú đã hình thành

không gian an ninh cho các vùng đất tạo điều kiện thuận lợi để lưu dân, di dân đến

khai phá các vùng xung quanh. Nguyễn Văn Hầu cho biết ở đất An Giang buổi ban

đầu “có một ít xóm người Việt phần lớn là gia binh khai thác hoa màu quanh đó rồi

dần về sau mới có dân thường lập nghiệp” [8, tr.11]. Việc khai khẩn chung quanh các

đồn, bảo của quân đội chúa Nguyễn nhằm tự túc lượng thục cho binh lính, giảm bớt

một phần gánh nặng cho chính quyền, tạo điều kiện cho các thôn ấp lẻ tẻ đó đây bấy

giờ được lập nên xung quanh các doanh trại. Binh lính giữ vai trò khá quan trọng trọng

công cuộc khai hoang.

Vùng đất An Giang vào thời kì đầu khi của chúa Nguyễn mới xác lập chủ

quyền công tác khai hoang còn hạn chế vì điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, nguồn

nhân lực ít ỏi lại hay mất an ninh. Vì vậy chỉ có một vài khu vực nhỏ ở các cù lao

quanh các đồn binh dọc sông Tiền, sông Hậu được khai phá nhiều nhất. Theo Nguyễn

Văn Hầu, chỉ có “thôn ấp lẻ tẻ được lập nên chung quanh các doanh trại, các đồn bảo

gần các bờ rạch, ven sông. Các khu tập trung: Châu Đốc, Tân Châu, Hùng Ngự, Đông

96

Khẩu” [8, tr.12]. Tuy nhiên, có thể thấy những dấu chân mở cõi, khai phá thuở ban đầu

này chính là nền tảng quan trọng cho sự phồn thịnh và phát triển về sau của vùng biên

viễn An Giang. Nhờ đất đai màu mỡ do phù sa bồi đắp, lại có nước ngọt quanh năm

vùng đất An Giang nhất là dãy đất ven sông và cù lao rất thích hợp trồng lúa, cây ăn

trái; đồng thời thuận lợi cho nghề chài lưới, trồng dâu nuôi tằm,... Do đó, trong thế kỉ

XVIII, hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân thuộc dinh Long Hồ này là sản xuất nông

nghiệp. Lê Quý Đôn cho biết “Châu Định Viễn thuộc về Tam Lạch, trường Bà Canh

ruộng không phải cày, chỉ phát cỏ mà trồng lúa, giồng một hộc thóc thì đuợc ba trăm hộc thóc”(36).

Chính quyền chúa Nguyễn ra chính sách khuyến khích khẩn hoang, cho những

người giàu có tiền đứng ra mộ dân khai hoang lập ấp. Con số tối thiểu để xin lập một

ấp là 10 người, đủ số ấy mới được khai hoang lập bộ. Khi ruộng đất thành thuộc, dân

đông thì nâng lên thành một làng. Chính quyền ra lệnh cho những ai muốn làm đồn

điền mà dụng cụ không có, không đủ thì nhà nước cho vay, mỗi năm thu thóc sưu mỗi

người 8 hộc, thuế thân xem như quân hạng, lao dịch đều miễn. Kẻ nào không chịu làm

đồn điền thì bắt thụ dịch tòng quân, để răn kẻ chơi bời lười biến [52, tr.229].

Bên cạnh hoạt động khai hoang mở đất, hoạt động chủ đạo và quan trọng nhất

của quân đội chúa Nguyễn trên vùng đất An Giang trong thời kì này là bảo vệ vùng

biên cương Tây Nam của Đàng Trong trước các cuộc xâm lấn từ Xiêm và Chân Lạp.

Đối với Chân Lạp: Từ năm 1771 trở đi, tính chất mối quan hệ của Đàng Trong

đối với Chân Lạp đã thay đổi. Đó không còn là quan hệ bình đẳng giữa hai nước. Quan

hệ Đàng Trong với Chân Lạp bắt đầu mang tính chất “nước nhỏ - nước lớn”, dần xác

định trở thành vùng “phênh dậu” của Đàng Trong. Chân Lạp ngày càng phụ thuộc vào

Đàng Trong, phải triều cống, nhận sắc phong… Trong khi đó, Đàng Trong bắt đầu thi hành chính sách “bảo hộ” đối với Chân Lạp(37).

Quan hệ này được xác lập trong bối cảnh Đàng Trong ngày càng vững mạnh, có

những ảnh hưởng quan trọng, chi phối đời sống chính trị của một bộ phận giai cấp cầm

quyền Chân Lạp. Trong khi đó, Chân Lạp ngày càng suy yếu, quyền lực không còn tập (36)Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, trang 248. (37)Lê Thị Mỹ Trinh (2009), Quan hệ giữa Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư Phạm TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.

97

trung, không còn khả năng tự chủ và đứng trước nguy cơ bị ngoại xâm xâm chiếm bất

cứ lúc nào. Các vị Phiên vương không có khả năng lãnh đạo đất nước cũng như không

đủ sức bảo vệ ngai vàng của chính họ. Triều chính mục nát, những cuộc chiến tương

tàn tranh giành quyền lực liên tiếp nổ ra. Để bảo vệ quyền lợi của mình, triệt hạ đối

thủ, giới cầm quyền chia làm hai phe dựa vào hai thế lực phong kiến láng giềng là

Đàng Trong và Xiêm La. Vì vậy quân đội Đàng trong lúc bấy giờ vừa thực hiện nhiệm

vụ bảo vệ biên thùy tại vùng đất An Giang phía Tây Nam lại vừa thực hiện nhiệm vụ

“bảo hộ” Chân Lạp.

Có thể thấy rằng, trong giai đoạn này vùng biên giới phía Nam và Tây Nam của

Đàng Trong mối nguy hiểm không đến từ quân Chân Lạp mà đến từ quân Xiêm La với

chính sách đối ngoại bành trướng của họ. Năm 1678, Taksin (Trịnh Quốc Anh) lên

ngôi và thi hành chính sách đối ngoại phản động nhằm bành trướng thế lực của chủ

nghĩa Đại Thái mà Chân Lạp là mục tiêu hướng đến đầu tiên.

Vì muốn giữ ảnh hưởng trên vùng đất Chân Lạp và sâu xa hơn là bảo vệ chính

mình trước sự nguy hiểm của phong kiến Xiêm La, Đàng Trong cần có một Chân Lạp

thân thiện, một “phên giậu” vững chắc, làm căn cứ tiền tiêu chống lại âm mưu của

Xiêm. Chính sách bảo hộ là giải pháp tốt nhất cho một Chân Lạp không còn khả năng

chống cự và hơn nữa lại có một bộ phận cầm quyền luôn muốn dựa vào Xiêm để chống lại Đàng Trong (38).

Sau khi lên ngôi, để tỏ uy quyền, Trịnh Quốc Anh sai sứ đòi Chân Lạp tiến

cống. Nặc Tôn cho rằng, vua (Xiêm) không thuộc dòng dõi Xiêm La nên cự không

nhận [39, tr.172]. Để “răn đe” Chân Lạp, thị uy sức mạnh trước Đàng Trong và tiêu

diệt hai con vua Xiêm cũ là Xi Xoang và Chiêu Thúy, Trịnh Quốc Anh mở các cuộc

tấn công vào lãnh thổ Chân Lạp và Đàng Trong. “Năm 1769, vua Xiêm là Tân sai

tướng là Phi Nhã Sô Sĩ Bôn Ma đưa ngụy vương Chân Lạp là Nặc Nộn về nước. Quân

Bôn Ma đến Lô Khu, cùng Nặc Tôn đánh nhau mãi không được bèn bắt dân đem về”

[39, tr.172]. Năm 1771, Chiêu Thúy chạy sang Hà Tiên nương nhờ họ Mạc. Vua Xiêm

(38)Lê Thị Mỹ Trinh (2009), Quan hệ giữa Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư Phạm TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.

nhân tình thế đó thực hiện kế hoạch “nhất tiễn hạ song điêu”, quyết định đem quân

98

sang đánh Chiêu Thúy và xâm lược vùng Nam Bộ - vùng đất giàu có bậc nhất Đàng

Trong thời kì đó, mở đầu cho cuộc chiến tranh Đàng Trong – Xiêm (1771 – 1772).

Năm 1771, Trịnh Quốc Anh thân chinh “đem 2 vạn quân thủy bộ, dùng tên giặc

Bạch Mã là Trần Thái làm hướng đạo sang tấn công đất Hà Tiên” [39, tr.176]. Mạc

Thiên Tứ liệu bề không giữ nổi nên chạy hỏa bài cấp báo về dinh Long Hồ. Quân

Xiêm tiến vào đánh Hà Tiên, chúng chiếm núi Tô Châu rồi cho bắn đại bác vào thành,

tình thế rất nguy cấp [39, tr.176]. Trước sức mạnh và quân số quá lớn của quân chủ lực

Xiêm, dù Mạc Thiên Tứ cố gắng chống đỡ nhưng cuối cùng thất thủ phải bỏ thành Hà

Tiên chạy về Châu Đốc rồi theo sông Hậu về giữ Trấn Giang (Cần Thơ). Đại Nam

thực lục chép: “Cai đội Đức Nghiệp kèm Thiên Tứ lên thuyền chạy. Mạc Tử Hoàng,

Mạc Tử Thảng, Mạc Tử Duyên ở đạo Châu Đốc cũng đều đem thủy quân phá vòng

vây, dò đường biển chạy xuống Kiên Giang, rồi qua Trấn Giang dừng lại.” [39,

tr.176].

Cuối năm 1771, được tin cấp báo, quân dinh Long Hồ do Lưu thủ Tống Phước

Hiệp chỉ huy cũng tức tốc được điều sang ứng cứu Hà Tiên. Khi đến địa phận Châu

Đốc thì gặp quân của Chiêu khoa nước Xiêm là Trần Liên đang thúc quân đuổi theo

Mạc Thiên Tứ. Lưu Phước Tường lập tức dàn thế trận trên sông Châu Đốc để chống

cự rồi tương kế tựu kế đẩy quân Xiêm vào ngách sông cụt không lối thoát, quân Xiêm

bị đánh tan tác, quân ta giết được hơn 300 tên địch. Trần Liên phải bỏ thuyền dẫn tàn

quân chạy về Hà Tiên [39, tr. 176]. Quân dinh Long Hồ thu được 5 chiếc thuyền chiến,

súng ống và vật dụng của quân Xiêm và ghe sai của Hà Tiên không kể xiết, rồi để

quân ở lại giữ đạo Châu Đốc, còn đại binh lui về Tân Châu đạo.

Sau chiến thắng trên sông Châu Đốc, quân Đàng Trong giành lấy thế chủ động

trên chiến trường tiến hành truy kích quân Xiêm. Đạo quân Xiêm do Trần Liên chỉ huy

sau khi thất bại tại đạo Châu Đốc trong tình trạng “rắn không đầu” phải rút chạy theo

sông Cửu Long nhằm thoát thân. Nhưng đến Cường Thành (nay thuộc huyện Lấp Vò,

tỉnh Đồng Tháp) thuộc đạo Đông Khẩu thì bất ngờ bị quân của Cai đội đạo Đông Khẩu

là Nguyễn Hữu Nhơn đón đánh. Quân Xiêm thua tan tác bỏ thuyền theo đường bộ triệt

thoái về Hà Tiên nhưng liên tiếp bị truy kích thiệt hại quá nửa [39, tr.176].

99

Trước tình hình đó, vua Xiêm bèn lưu Trần Liên ở lại giữ Hà Tiên, còn mình

thân chinh đem quân thẳng đến Chân Lạp. Nặc Tôn chống không lại liền bỏ chạy. Vua

Xiêm nhân đó lập Nặc Nộn làm vua. Quân Xiêm đóng giữ phủ Nam Vang.

Đầu năm 1772, chúa Nguyễn Phúc Thuần lập tức giáng chức Nguyễn Cửu Khôi

vì để Hà Tiên và Chân Lạp rơi vào tay quân Xiêm rồi cử Nguyễn Cửu Đàm làm Thống

suất hai đạo Bình Khánh và Bình Thuận, gồm 10.000 quân thủy bộ và 20 chiến thuyền

tiến đánh quân Xiêm [39, tr.177].

Mùa hạ, tháng 6, Nguyễn Cửu Đàm tiến quân theo đường Tiền Giang, cùng với

Cai bạ dinh Long Hồ là Nguyễn Khoa Thuyên lĩnh quan quân đạo Đông Khẩu tiến

theo đường Kiên Giang; Lưu thủ Tống Phước Hiệp theo đường Hậu Giang tiến đóng

giữ Châu Đốc để tiếp ứng cho hai cánh quân trên. Bấy giờ Cai đội đạo Đông Khẩu là

Nguyễn Hữu Nhơn ốm, một mình Khoa Thuyên đem 3.000 quân và 50 thuyền, đánh

nhau với quân Xiêm không được, lui về đầm Kiên Giang, rồi dùng người Chân Lạp là

Nhẫm Lạch (chức quan) Tối (tên người) làm tiên phong, tiến đến Nam Vang đánh phá

được quân Xiêm. Vua Xiêm chạy sang Hà Tiên. Nặc Nộn chạy đến Cầu Vọt, quân ta

bèn thu phục các phủ Nam Vang, La Bích. Nặc Tôn trở về nước. Chân Lạp được dẹp

yên. Cửu Đàm thu quân về dinh, đắp lũy Tân Hoa kéo dài 15 dặm bao quanh đồn dinh,

chắn ngang đường bộ đề phòng bất trắc [39, tr.177].

Vua Xiêm chạy về Hà Tiên, gởi thư cầu hòa với Mạc Thiên Tứ. Thiên Tứ từ

chối. Vua Xiêm bèn ủy Trần Liên giữ Hà Tiên, tự mình đem quân đi bắt con trai, con

gái Thiên Tứ và Chiêu Thúy đem về, rồi giết Chiêu Thúy [39, tr.177].

Năm Quý Tỵ (1773), chúa mật sai Mạc Thiên Tứ cho người sang Xiêm mượn

tiếng giảng hòa để dò thăm tình hình động tĩnh. Thiên Tứ cho xá nhân là Mạc Tú đưa

thư và đồ lễ sang Xiêm. Vua Xiêm rất mừng, đưa trả những con trai con gái đã bắt và

triệu Trần Liên về. Bấy giờ thành lũy nhà cửa ở Hà Tiên đã bị quân Xiêm tàn phá hầu

hết, Thiên Tứ bèn lưu lại Trấn Giang, sai con là (Mạc Tử) Hoàng về trấn trước để sửa

sang [39, tr.177].

Như vậy, sau hai năm chiến đấu chống quân Xiêm xâm lược quân dân Đàng

Trong đã giàng thắng lợi vẽ vang, giải phóng được đất Hà Tiên và đất “bảo hộ” –

Chân Lạp đập tan ý chí xâm lược của chính quyền Taksin nước Xiêm bằng những

100

chiến thắng oanh liệt tại vùng đất An Giang xưa (Châu Đốc, Đông Khẩu). Đây là chiến

thắng xứng đáng cho những nổ lực giữ gìn biên giới, quốc phòng của quân dân dinh

Long Hồ nói chung và An Giang nói riêng. Thể hiện tính đúng đắn của những chính

sách quốc phòng mà các chúa Nguyễn đã thiết lập nơi vùng đất phương Nam, trong đó

vùng đất An Giang là nơi hiểm địa chiến lược với nhiều hệ thống phòng giữ có quan

hệ chặt chẽ với nhau cũng như với các hệ thống phòng thủ khác. Chính những chiến

thắng bước ngoặc trên đất An Giang xưa đã thay đổi cục diện cuộc chiến tranh Đàng

Trong – Xiêm La, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của Đại Việt trong thế kỉ

XVIII.

Sau cuộc cứu giúp lớn lao này, đồng thời nhận thấy sự nguy hiểm từ lân bang

Xiêm La, chúa Nguyễn gần như lập cuộc bảo hộ trên đất Chân Lạp. Quân Nguyễn

đóng luôn ở Nam Vang, bảo hộ và làm cố vấn cho quốc vương Chân Lạp. Chúa

Nguyễn “đặt một vị quan trú đóng ở kinh đô Chân Lạp duyệt xét tất cả những văn bản

chính trị của vua Nặc Tôn ban hành” [39, tr.172].

Tiếp đó, chúa Nguyễn lại sai quan biên thần Gia Định lập đạo Trường Đồn ở xứ

Mỹ Tho, đặt Cai cơ và Thư ký để làm việc [39, tr.177]. Đạo Trường Tồn ra đời là một

sự bổ sung cần thiết để tiếp ứng cho hệ thống phòng thủ phía biên giới An Giang, Hà

Tiên lúc bấy giờ, thể hiện sự nhạy bén trong việc rút kinh nghiệm của chính quyền

chúa Nguyễn trong chính sách quốc phòng phương Nam nói chúng và ở An Giang nói

riêng.

Để giữ ổn định vùng biên giới Tây Nam của Đàng Trong thì giữ vững tình hình

Chân Lạp, Hà Tiên cũng là một cách tốt. Năm 1775, chúa Nguyễn Phúc Thuần vào

đến Gia Định, Mạc Thiên Tứ đem các con đến hành tại (ở Bến Nghé) để bái yết. Chúa

khen và ủy lạo, phong cho Thiên Tứ làm Đô đốc Quận công và truyền đem quân về

đạo Trấn Giang đóng giữ. Bấy giờ, nước Chân Lạp khổ vì quân Xiêm thường xuyên

cướp phá, trong nước túng thiếu. “Vua nước ấy là Nặc Tôn bị anh em hiếp chế, phải

chia quyền ra làm ba, để cho Nặc Vinh làm vua đầu, mình làm vua thứ hai, em là Nặc

Thâm làm vua thứ ba. Được ít lâu Nặc Vinh giết cả Nặc Tôn và Nặc Thâm giữ lấy

quyền làm vua một mình. Nặc Vinh thấy nước ta có chiến tranh, không chịu nạp cống

nữa. Chúa Nguyễn sai Chưởng sứ Nguyễn Phúc Ánh cùng phó tiết chế Nguyễn Cửu

101

Tuấn, chưởng cơ Trương Phúc Thuận đi đánh Chân Lạp. Nặc Vinh xin hàng, thế lực

của Chúa Nguyễn lại được củng cố.” [39, tr.188].

Như vậy, những hoạt động quân sự của quân đội chúa Nguyễn trên đất An

Giang mà trực tiếp là quân dinh Long Hồ thật sự quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn

lao trong việc khai hoang lập ấp, phát triển những vùng đất mới tiếp thu, xây dựng cơ

sở phòng thủ, đồn đạo, đặc biệt là trong các cuộc chiến đấu chống quân xâm lược

Xiêm vào cuối thế kỉ XVIII để bảo vệ vùng Nam Bộ máu thịt của tổ quốc.

2.3. Vùng đất An Giang trong quá trình khôi phục lực lượng của Nguyễn Ánh

chống lại Tây Sơn từ 1777 đến trước khi nhà Nguyễn thành lập (1802)

Từ năm 1771, Đàng Trong phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách. Cùng

với cuộc xâm lược của quân Xiêm trên vùng biên giới Tây Nam, phong trào Tây Sơn

ởBình Định bùng nổ và nhanh chóng mở rộng thế lực từ Quy Nhơn đến Bình Thuận

(1773), chia đôi vương quốc Đàng Trong, cách ly vùng Gia Định với Phú Xuân (Huế).

Tháng 11 năm 1774, chúa Trịnh Sâm nhân cơ hội sai Hoàng Ngũ Phúc, mang 4

vạn quân vào Nam tấn công Phú Xuân. Quân Nguyễn lại bị quân Tây Sơn từ phía Nam

đánh ra xiết chặt vòng vây. Phú Xuân thất thủ, chúa Nguyễn cùng thế phải vượt biển

trốn vào Gia Định.

Quân Trịnh tiếp tục đi về phía nam vượt đèo Hải Vân và đụng độ với quân Tây

Sơn ở Quảng Nam. Quân Tây Sơn thua trận phải cầu hòa với quân Trịnh xin làm tiên

phong đi đánh chúa Nguyễn ở Gia Định. Chúa Trịnh bằng lòng và phong chức cho

Nguyễn Nhạc, rồi thu quân về Bắc Hà.

Năm 1776, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ đem thủy binh vào đánh quân Nguyễn

ở Gia Định lần thứ nhất. Nguyễn Lữ chiếm được thành Gia Định và các dinh Trấn

Biên, Phiên Trấn, Long Hồ (trong đó có An Giang). Chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy

về Bà Rịa. Sau đó, Nguyễn Lữ rút quân về lại Quy Nhơn [35, tr.25-26].

Năm 1777, Nguyễn Huệ đánh Gia Định lần thứ hai. Quân Nguyễn bị bại trận ở

khắp nơi. Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương đều bị Tây Sơn giết chết. Nguyễn

Huệ cử người ở lại giữ Gia Định rồi rút quân về Quy Nhơn [37, tr.418]. Bấy giờ

Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát ra đảo Thổ Chu. Tới đây cơ nghiệp hơn 200 năm của

102

chúa Nguyễn coi như đã dứt, mở đầu cho một thời kì mới – thời kì nội chiến tranh

chấp quyền lực giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn.

Sự sụp đổ của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong không phải báo hiệu

cho một sự thống nhất đất nước trong suốt mấy thế kỉ chia cắt mà là một sự biểu hiện

mới của một sự xung đột gay gắt hơn giữa các nhóm quyền lực cũ và mới ở đất Nam

Hà. Về phía quân Nguyễn, tuy cả chúa Phúc Thuần và Phúc Dương đều bị giết nhưng

vẫn còn một người mang dòng máu chính thống của chúa Nguyễn chạy thoát trong

biến cố năm 1777 là Nguyễn Phúc Ánh. Sự nghiệp mấy trăm năm của họ Nguyễn Gia

Miêu ngoại trang vẫn còn có hy vọng khôi phục. Sử gia Tạ Chí Đại trường nhận xét:

“Nguyễn Ánh thoát nạn thật là một may mắn, trong khi Duệ Tông và Tân Chính

vương chết đi không hẳn là một bất hạnh cho họ Nguyễn. Hai người chết đi, chấm dứt

một giai đoạn trong lịch sử họ Nguyễn, giai đoạn suy vong, tranh chấp quyền lợi riêng

tư trong cái thế nghiêng ngửa của dòng họ.” [56, tr.91]. Từ đây, Nguyễn Ánh nghiễm

nhiên trở thành người thừa kế cuối cùng quyền lực họ Nguyễn bắt đầu tập hợp lại tàn

binh mở ra thời kì phục nghiệp.

Năm 1778, Nguyễn Ánh được tướng Đỗ Thanh Nhân đón và lập làm chúa

Nguyễn mới. Nguyễn Ánh tụ tập lại lực lượng trung thành, bắt đầu trở về đạo Long Xuyên(39), sau đó đánh chiếm lại Gia Định rồi tổ chức cai trị, phân chia đơn vị hành

chính, biến đất Gia Định thành căn cứ chống Tây Sơn. Tháng 5 năm 1778, Nguyễn

Ánh chiếm Bình Thuận. Đến năm 1780, Nguyễn Ánh xưng vương.

Tháng 3 - 1782, Nguyễn Huệ lại đem quân đánh Gia Định. Nguyễn Ánh chạy

về Bến Nghé, Ba Giồng, rồi về Hậu Giang, sai Nguyễn Hữu Thụy sang Xiêm cầu viện,

Nguyễn Ánh trốn ra đảo Phú Quốc.[35, tr.27]

Trong thời gian còn chống trả Tây Sơn tại Nam Bộ, Nguyễn Ánh nhiều lần

thông qua giám mục Pigneau de Béhaine (hay Bá Đa Lộc) để cầu viện người Pháp

nhưng chưa thu được nhiều kết quả. Do đó, Nguyễn Ánh chuyển sang cầu viện quân

Xiêm La. Vua Xiêm sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn quân thủy

và 300 chiến thuyền cùng 3 vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua

Chân Lạp, thực chất với ý đồ tạo gọng kìm phía Tây, chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây (39)Đạo Long Xuyên tức Cà Mau ngày nay.

103

Sơn ở đất Gia Định [35, tr.28]. Đất An Giang nói riêng và Gia Định nói chung bị quân

Xiêm tàn phá nặng nề. Đầu năm 1785, Nguyễn Huệ đánh tan quân Xiêm bằng chiến

công lịch sử Rạch Gầm – Xoài Mút, Nguyễn Ánh bại trận theo quân xâm lược chạy về

Xiêm.

Tiếp đó, ở mạn Bắc, năm 1786, Nguyễn Huệ đem quân đánh chiếm Phú Xuân

rồi tiến quân ra Bắc diệt nhà Trịnh. Tháng 4 năm 1787, sau khi giản hòa vì mâu thuẫn nội bộ, anh em Tây Sơn chia nhau cai quản lãnh thổ kiểm soát(40). Cuối năm 1788 –

đầu năm 1789, Tây Sơn đánh bại 29 vạn quân Thanh, nhân sự cầu viện của vua Lê

Chiêu Thống sang xâm lược nước ta [37, tr.423]. Đến năm 1792, vua Quang Trung

băng hà, Quang Toản lên nối ngôi nhưng đã không thể đủ tài trí để bảo vệ những thành

quả mà phong trào Tây Sơn đã đạt được. Nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu, nội bộ

chia rẽ sâu sắc.

Ở phía Nam, sau khi thất bại ở trận Rạch Gầm – Xoài Mút, Nguyễn Ánh đã

nhận ra không thể nhờ quân Xiêm được nữa nên trở về vùng Long Xuyên (An Giang)

và bắt đầu tự lực xây dựng lực lượng cho sự nghiệp khôi phục quyền lực họ Nguyễn.

Trong thời kì này, vùng đất An Giang có vị trí đặc biệt trong quá trình phục nghiệp của

Nguyễn Ánh. Nếu như trong thời kì cầm quyền của chúa Nguyễn, vùng đất An Giang

là trung tâm của hệ thống quốc phòng biên giới Tây Nam với một hệ thống đồn lũy

đóng quân trấn giữ kiên cố, chống trả hiệu quả các cuộc tấn công của quân giặc xâm

lấn từ bên ngoài bảo vệ vững chắc đất nước thì đến giai đoạn nội chiến Nguyễn Ánh –

Tây Sơn vùng đất này trở thành căn cứ địa quan trọng cho Nguyễn Ánh lựa chọn nhằm

xây dựng và phát triển lực lượng đứng chân buổi đầu bởi nhiều lý do:

- Thứ nhất: bấy giờ vùng đất An Giang với lợi thế tự nhiên vừa có đồng bằng

với nhiều vùng đã được khai phá sản xuất, vừa có núi non hiểm trở để phòng thủ lại

vừa có vị trí quan trọng án ngữ hệ thống thủy lộ chiến lược thông thương đến khắp các

(40)Theo Nguyễn Lương Bích (1976), Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, Nxb QĐND, Hà Nội, tr. 177 - Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn. - Phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra Bắc. - Phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, cai quản vùng đất Gia Định.

vùng của Gia Định thành. Nơi này là rất thích hợp để người “anh hùng dụng võ”, xây

104

dựng lực lượng quân đội. Với các đạo quân thủy bộ hùng mạnh sẽ dễ dàng khống chế

cả khu vực Nam Bộ xưa.

- Thứ hai: An Giang có sẵn những căn cứ quân sự quan trọng, án ngữ những vị

trí quan yếu từ thời các chúa Nguyễn, đấy chính là nơi thích hợp để cát cứ chống giữ

vùng đất khởi nghiệp cho Nguyễn Ánh.

- Thứ ba: An Giang là vùng đất mà chính quyền Tây Sơn chưa bao giờ với tới

mặc dù họ đã chiếm được cả vùng Gia Định. Chính quyền Tây Sơn hoàn toàn không

kiểm soát được vùng đất này.

Với những lý do trên, Nguyễn Ánh đã chọn vùng đất An Giang là nơi khởi đầu

cho sự nghiệp khôi phục quyền lực của dòng họ Nguyễn.

Như vậy, vùng đất An Giang trong giai đoạn Nguyễn Ánh quản lý không được

vận hành như một căn cứ quốc phòng biên giới mà lại trở thành căn cứ quân sự, một

chỗ đứng chân buổi đầu trong quá trình chống Tây Sơn.

Từ năm 1789, Nguyễn Ánh cho xây thủ Đông Xuyên (là một đồn nhỏ tại vàm

sông Tam Khê, sau đổi thành sông Đông Xuyên, nay là sông Long Xuyên) để làm tiền

đồn chống lại quân Tây Sơn, tiếp đó, ông cho lập đồn Châu Giang, đồn Hồi Oa, thủ

Cường Uy để giữ gìn an ninh, phòng thủ quân địch. Bên cạnh đó, Nguyễn Ánh cũng

tăng cường quân lực cho các căn cứ cũ từ thời các tiên đế ông đã gây dựng để biến đất

An Giang trở thành căn cứ đứng chân buổi đầu, làm bàn đạp tái chiếm Gia Định.

Năm 1790, sau khi tái chiếm được Gia Định, Nguyễn Ánh lấy vùng đất An

Giang nhập vào Trấn Vĩnh (Vĩnh Long), cho đặt chức Điền tuấn quan gồm 12 người

(trong đó có Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tùng Châu, Hoàng Minh Khánh)

đi khắp bốn dinh Trấn Phiên, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, Trấn Định để đốc xuất dân chăm

làm việc ruộng. Ai không làm ruộng phải đi lính. Ai làm ruộng đất tốt được 100 thúng

lúa, hoặc làm ruộng đất xấu được 70 thúng lúa trở lên thì được tưởng thưởng, nếu là

phủ binh (binh lính phục vụ tại các công sở) được miễn một năm khỏi làm việc quan

(làm xâu). Những người dân lậu (không vô sổ bộ) có thể làm ruộng dưới quyền chăm

sóc của các quan điền toán, xem như là lính, nếu thiếu vốn thì được vay trước, sau sẽ

trả [23, tr.55]. Những hoạt động đó nhằm vào việc khẩn hoang lập ấp, gia tăng hậu cần

giữ thế lâu dài. Nhờ đó, mà dân chúng vào khai hoang, khẩn hóa ở vùng Đông Khẩu

105

và Châu Đốc ngày càng đông. Có thể nói trong một thời gian dài Nguyễn Ánh thi hành

một loạt biện pháp hành chính, quân sự, kinh tế, xã hội ở toàn phủ Gia Định trong đó

có An Giang để chuẩn bị lực lượng cho những cuộc phản công ra phía Bắc [34, tr.11].

Năm 1800, Nguyễn Ánh chiếm được Quy Nhơn, tướng Vũ Tuấn đầu hàng.

Quang Toản sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem quân vào chiếm lại. Tướng

của Nguyễn Ánh là Võ Tánh tử thủ cầm chân hai danh tướng Tây Sơn trong hơn một

năm [37, tr.435]. Năm 1801, Nguyễn Ánh nhận thấy tinh binh Tây Sơn đều tập trung

cả ở chiến trường Quy Nhơn nên mang quân chủ lực vượt biển ra đánh Phú Xuân.

Quang Toản thua trận bỏ chạy ra Bắc.

Đầu năm 1802, Tây Sơn chiếm lại thành Quy Nhơn, Võ Tánh tự vẫn. Nhưng

lúc đó Nguyễn Ánh đã ồ ạt Bắc tiến tới Nghệ An. Trần Quang Diệu vội mang quân ra

cứu, bị quân Nguyễn chặn đường, phải vòng qua đường Vạn Tượng (Lào). Tới Nghệ

An thì thành đã mất, quân sĩ bỏ chạy gần hết, vợ chồng Trần Quang Diệu - Bùi Thị

Xuân bị bắt, các binh tướng Tây Sơn phần trốn đi, phần bị bắt và bị hành quyết dã

man. Giữa năm 1802, Nguyễn Ánh tiến ra chiếm được Thăng Long, Quang Toản

không chống nổi, bỏ chạy và bị bắt. Nhà Tây Sơn đến đây bị diệt cả [37, tr.436].

Nguyễn Ánh thống nhất được mọi quyền hành và lập ra vương triều mới – triều

Nguyễn.

Vùng đất An Giang lúc bấy giờ trở thành căn cứ địa quan trọng trong bước

đường tẩu quốc và phục nghiệp của họ Nguyễn với hàng loạt các căn cứ quân sự cũng

như là nơi tích trữ hậu cần quan trọng cho việc Nguyên Ánh tái chiếm Gia Định tạo ra

bước chuyển biến quan trọng để tiêu diệt toàn bộ quân Tây Sơn về sau. Nguyễn Ánh

sau khi đánh bại nhà Tây Sơn thống nhất mọi quyền hành, làm chủ toàn bộ lãnh thổ

Đàng Trong và Đàng Ngoài, tự đặt niên hiệu là Gia Long, lập ra vương triều Nguyễn,

chấm dứt hơn 250 năm loạn ly và chia cắt đất nước. Trong quá trình nội chiến với Tây

Sơn để lập ra nhà Nguyễn, Gia Long đã in dấu chân bôn ba trên khắp vùng Nam Bộ

hiểu rõ từng vùng biên địa của tổ quốc phía Tây Nam trọng yếu, tường tận về tham

vọng của người Xiêm và nhận thức sâu sắc về vai trò của vùng “phênh dậu” Chân Lạp

trong sự an nguy của đất nước, do đó, hệ thống phòng thủ của Nguyễn Ánh thiết lập ở

vùng biên phòng trọng địa An Giang không chỉ nhằm chống quân Tây Sơn trong buổi

106

đầu phục nghiệp mà còn xa hơn là ngăn chặn bước tiến của quân Xiêm sang phía đông

và giữ thế ổn định cho Chân Lạp đẩy chiến tranh ra xa biên giới Việt Nam. Từ đây

nhiệm vụ quốc phòng chuyển từ quân đội nhà Tây Sơn sang quân đội nhà Nguyễn, đây

là điểm nhấn quan trọng dẫn đến những thay đổi lớn lao trong việc thiết lập thế trận

phòng thủ biên giới Tây Nam nói chung và An Giang nói riêng.

107

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng đối với dân tộc qua các thời kì lịch sử.

Từng giai đoạn và hoàn cảnh lịch sử khác nhau mà nhiệm vụ quốc phòng cũng có sự

khác biệt. Dưới thời các chúa Nguyễn nhất là giai đoạn 1757 trở về sau khi cuộc Nam

tiến đã hoàn thành, vùng đất phương Nam trở thành bộ phận quan trọng của vương

quốc thì công tác quốc phòng, bảo vệ lãnh thổ càng trở nên quan trọng.

Thời gian 20 năm đối với lịch sử giữ nước của dân tộc ta là vô cùng ngắn ngủi

nhưng trong tiến trình đó mỗi giai đoạn, mỗi thời điểm là vô cùng quan trọng, nhất là

trong thời kì bảo vệ thành quả mở cõi về phương Nam của chính quyền chúa Nguyễn.

Từ năm 1757 – 1777 là giai đoạn lịch sử khởi đầu cho ý thức và hoạt động quốc phòng

của các chính quyền Việt Nam trên vùng biên giới Tây Nam mà chính quyền chúa

Nguyễn là nhân tố khởi xướng.

Thế trận quốc phòng biên giới Tây Nam của chính quyền chúa Nguyễn thiết lập

trên vùng đất An Giang là sự kết tinh của một chính sách quốc phòng thống nhất trong

quá trình bảo vệ thành quả mỡ cõi ở phương Nam. Chính sách đó được khai sinh từ

nhiều yếu tố, quan trọng nhất là mối quan hệ tay ba Đàng Trong - Chân Lạp - Xiêm

La. Mối quan hệ này đã chi phối mạnh mẽ chính sách quốc phòng cũng như chiến lược

gây ảnh hưởng ra bên ngoài của Đàng Trong và cả Xiêm. Trong thế “chân vạc” trên,

Chân Lạp tỏ ra là quốc gia yếu kém, nội bộ chính quyền bị chia rẽ sâu sắc, hoàn toàn

không có khả năng tự vệ trước hai thế lực Đàng Trong và Xiêm nên nhanh chóng trở

đối tượng bị giành giật. Đàng Trong của chúa Nguyễn đã đạt được nhiều thành quả

trong việc ảnh hưởng, khống chế và kiểm soát Chân Lạp so với Xiêm La nên họ luôn

tìm mọi cách có thể để đoạt lấy sự ảnh hưởng lên Chân Lạp về phía mình nhằm làm

bàn đạp thực hiện tham vọng “Đông tiến”, mở rộng biên giới sang đất Nam Bộ của

Đàng Trong. Cuộc tranh chấp tay đôi giữa hai thế lực đối kháng này đã chi phối mạnh

mẽ những mối quan hệ giữa ba nước.

Các chúa Nguyễn hiểu rõ tham vọng của người Xiêm và việc đề ra một chiến

lược phòng thủ trên tuyến biên giới Tây Nam cũng như duy trì ảnh hưởng lên Chân

Lạp là điều kiện sống còn trên con đường phát triển đất nước. Chính sách quốc phòng

biên giới Tây Nam của chính quyền chúa Nguyễn được hình thành từ năm 1757, với

108

trọng tâm là hệ thống phòng thủ trên vùng đất An Giang, được đánh dấu bằng sự ra đời

của 3 đạo mang tính chất quân sự - hành chính: Châu Đốc, Tân Châu và Đông Khẩu,

được bố trí theo thế “chân kiềng” có thể hỗ trợ, tương cứu cho nhau nhanh chóng, dễ

dàng. Trên cơ sở 3 đạo chiến lược này, chính quyền chúa Nguyễn lần lược thiết lập các

hệ thống phòng thủ liên hoàn trên vùng đất An Giang từ hệ thống phòng thủ trên tuyến

sông Tiền, sông Hậu đến khu vực Châu Đốc, Thất Sơn. Hệ thống phòng thủ trên vùng

đất An Giang được liên kết chặt chẽ với các hệ thống phòng thủ nội thủy thuộc Long

Hồ - Gia Định thông qua hệ thống thủy lộ Cửu Long - Vàm Cỏ - Sài Gòn và Hà Tiên -

Tây Ninh thông qua tuyến đường bộ Thất Sơn, Xoài Riêng, Đồng Tháp Mười,... tạo

thành thế trận phòng thủ hỗ tương trên toàn bộ tuyến biên giới Tây Nam.

Trong chính sách quốc phòng và chiến lược bảo vệ biên giới - lãnh thổ của chúa

Nguyễn, quân đội được xem là lực lượng nồng cốt. Sự tổ chức và hoạt động của quân

đội tác động to lớn đến công tác quốc phòng. Chính quyền chúa Nguyễn đã chủ tâm

xây dựng lực lượng quân đội hùng mạnh với nhiều binh chủng, được lựa chọn và

luyện tập thường xuyên, được trang bị bằng những vũ khí hiện đại thời bấy giờ như

súng trường, đại bác,... với quân số có lúc lên đến 200.000 người. Bộ binh, tượng binh,

kỵ binh, thủy quân của chúa Nguyễn là những lực lượng rất mạnh với nhiều hoạt động

hữu hiệu, đặc biệt là hoạt động thực thi và bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông (khu vực

thuộc Đàng Trong), Biển Tây cũng như hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa góp

phần gìn giữ vững chắc lãnh thổ, lãnh hải tổ quốc.

Từ năm 1757, quân Dinh Long Hồ được xem là lực lượng nồng cốt gìn giữ

vùng biên thùy Tây Nam được bố trí về đóng trú trên vùng đất An Giang để bảo vệ

biên giới, góp phần hình thành hệ thống những đồn, thủ trên vùng đất mới như: đồn

Châu Đốc, bảo Châu Giang, Thủ cù lao Dao Chiêu, Thủ Chiến Sai, Thủ Phiếm Bái,

Thủ Rạch Ông Chưởng, Thủ Tân Châu,... Việc tổ chức và xây dựng lược lượng quân

đội ở vùng đất An Giang được xem là mảng quan trọng nhất trong chính sách quốc

phòng của chính quyền các chúa Nguyễn trên vùng biên viễn, yếu địa quốc phòng của

vương quốc thời bấy giờ.

Quân đội chúa Nguyễn đóng trú trên vùng đất An Giang đã có nhiều hoạt động

thiết thực trong quá trình thực thi chính sách quốc phòng của Đàng Trong trên vùng

109

đất này. Trong buổi đầu mở đất và giữ đất, quân đội chúa Nguyễn đã trực tiếp tham gia

vào các hoạt động xây dựng cơ bản thủ, sở, đồn, đạo, giữ gìn an ninh cũng như cùng

với những lưu dân, di dân khai hoang lập ấp phát triển vùng đất mới góp phần tạo nên

bộ mặt hưng khởi trên vùng đất An Giang thời chúa Nguyễn, tạo ra nguồn nội lực

quan trọng cho công cuộc quốc phòng biên giới. Hoạt động chủ đạo và quan trọng nhất

của quân đội chúa Nguyễn trên vùng đất An Giang trong thời kì này là bảo vệ vùng

biên cương Tây Nam của Đàng Trong và thực hiện nhiệm vụ gây ảnh hưởng của chúa

Nguyễn lên chính quyền Chân Lạp. Suốt những năm 1771 - 1772, quan hệ Đàng

Trong – Xiêm La chuyển sang đối đầu. Quân Xiêm sau khi xâm chiếm Chân Lạp lại

xua quân tấn công Đàng Trong ở phía Tây Nam từ Hà Tiên đến Châu Đốc. Cuộc chiến

vệ quốc của quân dân Đàng Trong với quân Xiêm diễn ra khóc liệt trên trận địa chiến

lược thuộc đất An Giang. Quân dân ta giành thắng lợi quyết định ở Châu Đốc, Đông

Khẩu tiến lên đánh đuổi quân Xiêm ra khỏi bờ cõi, bảo vệ vững chắc tổ quốc đồng

thời thiết lập chế độ bảo hộ lên Chân Lạp. Trong chiến thắng vẽ vang đó, quân dân An

Giang nói riêng và dinh long Hồ nói chung đã có những đóng góp xứng đáng, góp

phần thể hiện tính đúng đắn của chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn

trên vùng đất An Giang.

Có thể nói, vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền

chúa Nguyễn có ý nghĩa chiến lược to lớn với nhiều vị trí quan yếu như Thất Sơn,

Châu Đốc, tuyến sông Hậu, sông Tiền,... đã góp phần hoạch định chính sách quốc

phòng của chính quyền chúa Nguyễn trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, làm tiền đề

quan trọng cho công cuộc phục nghiệp của Nguyễn Ánh cũng như nền tảng quan trọng

cho chính sách quốc phòng của chính quyền nhà Nguyễn sau này, đóng góp to lớn vào

sự nghiệp vệ quốc vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

110

Chương 3. AN GIANG TRONG CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG CỦA NHÀ

NGUYỄN THỜI KÌ 1802 – 1867

3.1. Vùng đất An Giang trong thời kì đầu triều Nguyễn từ 1802 đến 1867

Sau khi triều Nguyễn thành lập năm 1802, vấn đề nội trị và ngoại giao được đặt

ra với những yêu cầu mới. Để giải quyết những khó khăn về nội trị và ngoại giao, Gia

Long chủ trương ổn định chính trị và tiếp tục công cuộc khai khẩn đất hoang từ thời

các chúa Nguyễn để an dân và giữ ổn định miền biên viễn. Ở vùng đất mới khai phá

phía Tây Nam, bao gồm đất An Giang và Hà Tiên được chính quyền nhà Nguyễn đặc

biệt coi trọng nhất là vùng An Giang trong chiến lược khai hoang và quốc phòng.

Năm 1805, Gia Long đặt lại địa giới hành chính, Châu Đốc thuộc huyện Tây

Xuyên của trấn Hà Tiên gọi là Châu Đốc Tân Cương. Năm 1808, Gia Long đổi Gia

Định trấn thành Gia Định thành. Gia Định thành thống quản 5 trấn: Phiên An, Biên

Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên [39, tr.716]. Tỉnh An Giang lúc bấy giờ

thuộc trấn Vĩnh Thanh, trấn thủ là Lưu Phước Tường, thủ phủ đặt ở Long Hồ.

Năm 1810, Trấn thủ Gia Định Nguyễn Văn Nhơn đem 3 đạo quân đến đạo Tân

Châu đóng trú, phòng bị quân Xiêm. Năm 1813, Nguyễn Văn Thoại được Gia Long cử làm bảo hộ Chân Lạp và coi việc tu sửa đền Nguyễn Hữu Cảnh ở Nam Vang(41).

Năm 1815, Gia Long sai Phó tướng Nguyễn Văn Xuân và trấn thủ Vĩnh Thanh

Lưu Phước Tường đem 3.000 dân binh trong trấn và 2.000 dân binh Chân Lạp để xây

đồn Châu Đốc, chung quanh có hào sâu thông với sông Hậu [39, tr.917]. Đến năm

1816, đồn Châu Đốc hoàn thành tạo thế liên hoàn với Hà Tiên trong việc trấn thủ biên giới với Chân Lạp(42).

Năm 1816, Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) thay Lưu Phước Tường nhậm

chức Trấn thủ Vĩnh Thanh, đóng binh ở Châu Đốc và để lại dấu ấn đậm nét trên vùng

đất này. Năm 1817, Gia Long cho Diệp Hội làm Cai phủ Châu Đốc. Đại Nam thực lục

(41)Theo Phan Văn Kiến (2012), Biên niên sử An Giang thời kỳ xác lập chủ quyền và khai phá đất An Giang của nhà Nguyễn (1700 – 1867), Tạp chí Văn hóa – Lịch sử số 87 – 06/2012, tr. 21. (42)Đến năm 1833, Minh Mạng cho triệt phá đồn cũ, xây thành Châu Đốc kiên cố hơn. Sau khi chiếm An Giang (22/6/1867), năm 1882, thực dân Pháp cho xây thành PC (Post de Central) trên vị trí thành Châu Đốc cũ.

viết: “Nghe An phủ Chân Lạp là Diệp Hội (người Thanh làm quan Chân Lạp) là người

111

nhanh nhẹn giỏi giang, xử sự cũng được lòng người, bèn dùng làm Cai phủ Châu Đốc,

sai chiêu tập dân Hán (người Việt), dân Thổ (Cao Miên) và người Thanh đến ở, cho họ

tụ hợp đông đúc”[39, tr.942]. Sau đó, Gia Long chỉ dụ cho Tổng trấn Gia Định phải

bàn giao việc đào sông Châu Đốc khi vua Chân Lạp sang Gia Định.

Từ năm 1817, Nguyễn Văn Thoại đã kiến nghị lên vua Gia Long việc đào vét

nối rạch Đông Xuyên (tức Long Xuyên ngày nay) đến rạch Giá Khê (Rạch Giá ngày

nay) được vua chuẩn y. Đến đầu năm 1818, Thoại Ngọc Hầu tiến hành cho đào kênh

theo lạch nước cũ nối rạch Đông Xuyên với rạch Giá Khê tại khu vực Vĩnh Trạch ngày

nay theo hướng Tây Nam ngang qua chân Lạp Sơn (núi Sập) thông ra biển Tây tại cửa

Giá Khê, hơn một tháng mới đào xong. Công việc hoàn tất, Nguyễn Văn Thoại cho vẽ

“họa đồ” và lên sớ tâu vua. Vua Gia Long khen, lệnh cho lấy tên người mà đặt cho tên

kênh là Thoại Hà và ban tên Lạp Sơn (núi Sập) là Thoại Sơn để biểu dương công trạng

của quan trấn thủ [59, tr.36].

Tiếp đó, Nguyễn Văn Thoại lại cho dời lỵ sở đạo Tân Châu từ cù lao Giêng

(thuộc Chợ Mới ngày nay) về vùng Long Sơn (thuộc Tân Châu ngày nay).

Năm 1819, Nguyễn Văn Thoại được Gia Long giao cho trọng trách đào kênh

Vĩnh Tế từ sông Hậu (Châu Đốc) đến sông Giang Thành (Hà Tiên), kênh được đào

dọc theo biên giới Việt Nam – Chân Lạp với độ dài khoảng 90km. Đến năm 1824, con

kênh hoàn thành đã phát huy tác dụng to lớn trong quốc phòng phát triển kinh tế vùng

biên viễn. Năm 1828, Nguyễn Văn Thoại cho dựng bia Vĩnh Tế bên bờ kênh Vĩnh Tế.

Đến năm 1835, Minh Mạng cho đúc Cửu đỉnh để làm quốc bảo và tượng trưng cho sự

miên viễn của hoàng gia, hình kênh Vĩnh Tế được chạm khắc vào Cao đỉnh.

Sự ra đời của hai con kênh Thoại Hà và Vĩnh Tế đã góp phần thúc đẩy tiến trình

khai khẩn đất đai ở mạn Bắc huyện Vĩnh Định (nằm giữa vùng Long Xuyên, Châu

Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá) làm thay đổi căn bản bộ mặt vùng đất này cũng như cũng cố

vững chắc hệ thống quốc phòng trên đất An Giang. Nhờ công trấn thủ, khai hoang lập

ấp lớn lao của Nguyễn Văn Thoại trong giai đoạn này mà trong thời Minh Mạng, tỉnh

An Giang được thành lập .

Năm 1821, Nguyễn Văn Thoại được phong làm thống chế án thủ đồn Châu

Đốc, lãnh ấn Bảo hộ Chân Lạp và kiêm Quản biên vụ trấn Hà Tiên. Cũng năm này,

112

Minh Mạng đã chuẩn y dựng kho Đốc Tín ở Châu Đốc để chứa tiền gạo cấp phát cho

viên quân lưu trú và dự trữ quân lương.

Năm 1826, Nguyễn Văn Thoại đã cho đắp con lộ từ Châu Đốc đến Núi Sam dài

8 dặm (3.896m), đắp cao thêm 2 thước 3 tấc (1,12m), mặt rộng 1 trượng 2 thước (5,844m), chân rộng 3 trượng (14,1m)(43). Số người Việt huy động phục dịch lên đến

4.400 người làm việc suốt 7 tháng. Trên đường có 4 cây cầu gỗ. Trong bia Vĩnh Tế,

chính ông đã nhắc đến việc đắp con lộ này: “Thần thụ mệnh vua, siêng năng kính cẩn,

tiến hành nhóm dân lập ấp. Và tùy theo địa thế, mà xây dựng một con đường ngang

song song thông ra trường giang (sông Hậu), một đường chạy thẳng đến Sóc Vinh,

một đường khác đi đến Lò Gò, nhằm vỗ về dân sự, mở mang thôn lạc khai khẩn ruộng vườn...”(44). Việc mở đường từ Châu Đốc đến Núi Sam được khai thông, người Việt

đến cư ngụ ở Núi Sam ngày càng đông hơn, lần hồi các vùng lân cận được khai phá.

Năm 1828, Nguyễn Văn Thoại cho dựng bia “Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương” tại chân

Núi Sam.

Năm 1829, Nguyễn Văn Thoại mất, vua Minh Mạng cho Thống chế Nguyễn

Văn Tuyên lãnh ấn Bảo hộ Chân Lạp. Đến năm 1832, Ngô Ban Nhơn được Minh

Mạng giao chức Bảo hộ Chân Lạp trấn giữ tại đồn Châu Đốc, kiêm giữ việc biên trấn Hà Tiên(45).

Tháng 10 năm 1832, vua Minh Mạng chia Nam Kỳ thành 6 tỉnh gồm: Gia Định,

Định Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long, Hà Tiên và An Giang. Tỉnh An Giang lần đầu tiên

được thành lập đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử phát triển của vùng đất này.

Bấy giờ, Tổng đốc Sơn Tây Lê Đại Cương về làm Tổng đốc An Hà (An Giang – Hà

Tiên), kiêm bảo hộ Chân Lạp.

Năm 1833, Lê Văn Khôi (con nuôi Lê Văn Duyệt) dấy binh khởi nghĩa chống

lại triều đình Minh Mạng ở vùng Gia Định. Quân của Khôi chiếm được thành Phiên

An nhanh chóng khống chế lục tỉnh. Lê Văn Khôi cử Thái Công Triều đánh chiếm các

tỉnh Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Theo bản tâu của Tổng đốc An Hà (43)Theo Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học (2007), Đại Nam thực lục, tập 10, Nxb Giáo dục, tr.135. (44)Theo Ngọc Hải (1997), Thoại Ngọc Hầu với công cuộc khẩn hoang ở miền Nam, Tạp chí xưa và nay, số 46B, tr.32. (45)Theo Phan Văn Kiến (2012), Biên niên sử An Giang thời kỳ xác lập chủ quyền và khai phá đất An Giang của nhà Nguyễn (1700 – 1867), Tạp chí Văn hóa – Lịch sử số 87 – 06/2012, tr.23.

113

Lê Đại Cương, đêm đó nghĩa quân chiếm được 5 chiến thuyền chiến ... Còn viên lãnh

binh An Giang thì dong thuyền chạy trốn [36, tr.680].

Minh Mạng tức tốc cử Tống Phúc Lương, Nguyễn Xuân, Phan Văn Thúy,

Trương Minh Giảng và Trần Văn Năng đem thủy, bộ, binh tượng vào đánh Khôi. Lê

Văn Khôi một mặc cố thủ trong thành, mặc khác nhờ giáo sĩphương Tây đi sang cầu

viện quân Xiêm [36, tr.682]. Tháng 8 năm 1833, Án sát An Giang là Bùi Văn Lý cũng

chiếm lại An Giang và Hà Tiên. [41, tr.709].

Vua Xiêm là Rama III nhân muốn lấn chiếm Đại Nam bèn nhận lời giúp. Vua

Xiêm liền sai tướng Phi Nhã Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha hay còn gọi là

Bodin) và Phi Nhã Phật Lăng (Phra Klang) dẫn hàng ngàn quân thủy bộ chia ra làm 5

đạo sang đánh Đại Nam. Năm 1833, cánh quân Xiêm chủ lực gồm 40.000 quân bộ

binh do Phi Nhã Chất Tri chỉ huy theo đường bộ vào Chân Lạp, chiếm Nam Vang, rồi

đi dọc sông Mê Kông xuống chiếm Châu Đốc, phối hợp với cánh quân thủy khoảng

10.000 quân do Phi Nhã Phật Lăng chỉ huy đánh chiếm Hà Tiên rồi ra Châu Đốc hiệp

quân tới tiếp ứng cho Lê Văn Khôi ở Gia Định.

Trước tình thế nội phản chưa dẹp xong ngoại xâm đã tiến đến, Minh Mạng bình

tĩnh bố trí cẩn thận và bí mật. Từ phía Tây Nam, Trương Minh Giảng, Nguyễn Văn

Xuân lấy quân ở Gia Định, giữ mặt An Giang. Sau có thêm Tống Phước Lương và

Trần Văn Trí cùng mang binh đến chi viện. Trên sông Vàm Nao (phía sông Tiền) ta

giành thắng lợi quan trọng đẩy lùi cánh quân Xiêm trở lại Chân Lạp. Đến năm 1834,

quân ta tiếp tục đánh thắng quân Xiêm tại trận quyết định tại rạch Củ Hủ (vùng Chợ

Thủ thuộc huyện Chợ Mới ngày nay) [23, tr.99]. Thừa thắng quân ta tiến lên thu phục

lại Châu Đốc, Hà Tiên, giải phóng Nam Vang đánh đuổi quân Xiêm đến tận biên giới

Xiêm – Chân Lạp. Chiến thắng quân Xiêm đã tạo đà quan trọng cho chính quyền nhà

Nguyễn tập trung toàn lực dập tắc cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi ở Gia Định vào

năm 1835, nền quốc phòng và nội an được giữ vững.

Từ năm 1841, Việt Nam và Xiêm lại nổ ra cuộc chiến tranh mới trên đất Chân

Lạp. Đến năm 1842, quân Xiêm do tướng Phi Nhã Chất Tri cầm đầu lại gây hấn biên

giới nước ta tại An Giang. Quân Xiêm chiến đóng ven bờ Vĩnh Tế và vùng Thất Sơn.

Quân triều đình do Phạm Văn Điển, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tri Phương chỉ huy

114

kết hợp với nhân dân An Giang đã đánh tan quân địch ở vùng Thất Sơn, rồi Vĩnh Tế

đuổi chúng khỏi biên giới nước ta.

Năm 1843, Nguyễn Công Nhàn (đốc bộ An Giang) đào kênh nối Châu Đốc với

Tân Châu. Đến tháng 4 (âm lịch) 1844 thì hoàn thành. Ban đầu có tên là Long An Hà,

nay là kênh Vĩnh An.

Năm 1844, Doãn Uẩn làm tuần phủ An Giang thay Nguyễn Công Trứ. Đến năm

1847, Doãn Uẩn cất chùa Tây An (tên do ông đặt với hàm ý trấn yên bờ cõi phía Tây

nước Việt). Ðến năm 1850, Nguyễn Tri Phương được cử làm Tổng đốc An Giang và

có rất nhiều đóng góp trên vùng đất này.

Ngày 01/9/1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha đánh vào bán đảo Sơn Trà (Đà

Nẵng) mở đầu quá trình xâm lược nước ta. Sau đó, chúng đánh vào Gia Định, đại đồn

Chí Hòa thất thủ, quân Pháp chiếm Gia Định (1861), Biên Hòa, Định Tường (1862).

Nhằm nhanh chóng đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, thực dân Pháp tìm

cách gây rối loạn ba tỉnh miền Tây. Ở An Giang, quân triều đình xúc tiến đắp đồn

Tráng Biên (Tịnh Biên) phòng thủ. Tháng 2 năm 1860, quân Pháp xúi dục bọn thổ phỉ

do tên Hoàng Quốc Lập cầm đầu gây rối và cướp bóc ở An Giang, Hà Tiên. Tháng 7

năm ấy “quan quân An Giang đánh tan quân Cao Man (Khmer) ở Thất Sơn, chém

được giặc, bắn chết bọn giặc 133 đứa” [45, tr.683].

Trước sức tiến công của Pháp, triều đình Huế bất lực. Từ thế “thủ để hòa”

chuyển sang “chủ động giảng hòa”. Hòa ước ngày 05/6/1862 được ký kết, triều đình

nhà Nguyễn giao ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp. Lúc này, khắp Nam Kỳ lục

tỉnh thành lập các đội quân “ứng nghĩa”, dấy động phong trào chống Pháp như Quản

Là ở Cần Giuộc, Võ Duy Dương ở Đồng Tháp Mười, Nguyễn Trung Trực ở Tân An

(Long An), Trương Định ở Gò Công.

Tháng 9/1862, Đô đốc Bonard sang Campuchia để bàn kế hoạch chống Việt

Nam. Cuối cùng, Hiệp ước Pháp – Campuchia được ký kết (18/11/1863), Campuchia

chấp nhận quyền bảo hộ của Pháp. Ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ: An Giang, Vĩnh Long

và Hà Tiên bị cô lập.

Sau hòa ước 1862, nhân sĩ Nam Kỳ bị phân hóa: có kẻ theo giặc như Tôn Thọ

Tường, Huỳnh Công Tấn, Trần Bá Lộc; một bộ phận lại ủng hộ hòa nghị của triều

115

đình Huế; nhưng xu hướng chủ yếu là đứng lên chống xâm lược – đó là phong trào

“Tỵ địa”. Họ đem cả gia đình, mồ mả cha ông sang ba tỉnh miền Tây hoặc miền Nam

Trung Kỳ. An Giang là nơi trú ngụ của nhiều sĩ phu yêu nước như Phan Văn Trị,

Nguyễn Hữu Huân. Đặc biệt là căn cứ Thất Sơn trở thành nơi hoạt động của Hoàng

thân A – Soa, thể hiện mối quan hệ liên minh chiến đấu của nhân dân Việt - Khmer,

mở đầu cho tình đoàn kết chiến đấu giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân.

Trong thời gian này, Nguyễn Hữu Huân đến An Giang liên kết với Hoàng thân

A - Soa ở Thất Sơn và tiếp tục hoạt động ở Đồng Tháp Mười, Châu Đốc, Vĩnh Tế.

Thực dân Pháp yêu cầu triều đình bắt Nguyễn Hữu Huân nộp cho chúng. Lúc đầu triều

đình Huế làm ngơ, vì muốn duy trì thực lực chống Pháp. Nhưng càng về sau, do ảo

tưởng “chuộc đất” nên tháng 1 năm 1864, vua Tự Đức chỉ dụ buộc các tỉnh Vĩnh

Long, An Giang, Hà Tiên nếu có ai mượn tiếng mộ nghĩa, thì không được đưa vào địa

giới, mà các quan Phủ, Huyện trông thấy tức thời bắt ngay. Do chính sách thỏa hiệp

của triều đình Huế, Nguyễn Hữu Huân bị bắt tại Châu Đốc rồi giao cho Pháp.

Sau hiệp ước với Pháp năm 1863, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc. Hoàng

thân Sivotha, A - Soa đứng về phía nhân dân chống Pháp. A – Soa cho lập căn cứ ở

Thất Sơn mở rộng địa bàn chống Pháp đến vùng Đông Nam Chân Lạp. Thực dân Pháp

thừa nhận rằng: A - Soa được những kẻ thù (chỉ triều đình Huế) bí mật ủng hộ và

những ý nguyện của ông là một điều trở ngại cho sự bình định Khmer. Năm 1865, Đô

đốc hải quân De La Grandière cho tàu uy hiếp thành Châu Đốc, tự Đức ra chỉ dụ cho

Tổng đốc An Hà “Phải nghiêm nhặt bọn Man tù Ong – Bướm chớ cho vào trong cõi.

Tên Bướm mộ dân dựng đồn, cùng với Ong Lẳn đánh nhau, Lẳn cầu cứu chủ súy

Pháp, chủ súy Pháp yêu cầu ta bắt giao cho, nếu trước cho tên Bướm đến nương tựa,

mà nay thì nghiêm nhặt cự tuyệt”. Tháng 4 năm 1866, Phan Thanh Giản báo cáo hoạt

động A - Soa ở Thất Sơn. Tự Đức cách chức Phan Khắc Thuần và án sát Nguyễn Ích

Nhượng, rồi bất ngờ đánh úp quân A - Soa ở núi Tốn (núi Tô).

Sau khi thực dân Pháp ổn việc cai trị ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, thực dân

Pháp tiến hành kế hoạch đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Pháp đổ lỗi cho triều

đình Huế vi phạm Hòa ước 1862, ủng hộ phong trào kháng Pháp của nhân dân ta ở

Nam Kỳ. Trước tình hình đó, Tự Đức đã cử Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp đi

116

cầu hòa. Nắm chắc tình thế và chủ động, Đô đốc Hải quân Pháp De La Grandière vạch

ra kế hoạch đánh chiếm ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Đến tháng 6 năm 1867, Phan Thanh Giản(46) giao thành cho Pháp và viết thư bắt các thành An Giang, Hà

Tiên cũng phải nộp thành cho Pháp.

Sau khi chiếm được Vĩnh Long, Pháp huy động lực lượng gồm Trung tá Hải

quân Galey (Giám đốc Nội vụ), Thiếu tá Paul Vial (pháo binh), Thiếu tá Guicfe

Boverany (công binh), thiếu tá Domange (lính thủy đánh bộ) với tàu chiến Le Bien

Hoa (Asivo), pháo hạm Le Bourdais, La Fusée, L’Alarme cùng 1.000 quân. Đến ngày

22 tháng 6 năm 1867, quân Pháp đến thành Châu Đốc, các viên chức triều đình hoang

mang cực độ. Quân Pháp đòi Tuần vũ An Giang Nguyên Hữu Cơ xuống tàu nhận thư

của Phan Thanh Giản. Sau thời gian lưỡng lự, đến 23 giờ cùng ngày Nguyễn Hữu Cơ

xuống tàu nhận thư “Galey trao cho ông bức thư đóng dấu đỏ. Ông mở ra, tay ngập ngừng, đọc thầm rồi cuối cùng rồi hắt ra hai, ba hơi thở”(47). Quân Pháp tiến vào thành

Châu Đốc, giải giáp khí giới quân triều đình, đốt kho thốc và tịch thu 12 súng bắn đá,

đổ muối vào họng súng rồi đẩy xuống sông. An Giang thất thủ.

Ngày 24/6/1867, quân Pháp chiếm Hà Tiên, ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ bị pháp

chiếm trọn trong một tuần lễ mà không tốn “một viên đạn, tên lính”. Hai ngày sau, De

La Grandière tuyên bố ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ thuộc Pháp.

Giai đoạn đầu, thực dân Pháp tiến hành bình định, thiết lập bộ máy cai trị để

cũng cố về sau. Ở An Giang lúc bấy giờ nạn chiếm đoạt ruộng đất của điền chủ, thực

dân diễn ra phổ biến, người nông dân ngày càng khánh kiệt. Trước cảnh “nước mất,

nhà tan” người An Giang quyết đứng lên khởi nghĩa, đánh đuổi thực dân và tay sai.

Như thế, đến năm 1867, vùng đất Nam Kỳ nói chung và An Giang nói riêng đã

trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Triều đình Huế đã mất hoàn toàn vai trò trên

vùng đất này. Từ đây, đánh dấu một bước biến chuyển mới trong lịch sử Nam Kỳ

trong đó có An Giang – thời kì chống thực dân Pháp đô hộ, giải phóng đất nước, giành

(46)Sau khi giao thành, Phan Thanh Giản tuyệt thực suốt 17 ngày, rồi uống thuốc độc tự tử ngày 4/8/1867, thọ 71 tuổi. (47)Theo Trương Bá Cầm, nhiều tác giả, Kỷ niệm 100 năm ngày Pháp chiếm Nam Kỳ. Trình bày, Sài Gòn 1967.

độc lập dân tộc.

117

3.2. Chính sách quốc phòng và hoạt động thực thi trên vùng đất An Giang của

vương triều Nguyễn trong thời kì 1802 - 1867

3.2.1. Mối quan hệ Việt Nam - Chân Lạp - Xiêm La từ cuối thế kỉ XVIII

đến nửa đầu thế kỉ XIX và những chính sách quốc phòng mới trên vùng

đất An Giang của chính quyền nhà Nguyễn.

Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn của Nguyễn Quang Toản, vua Gia Long đã xây

dựng chính quyền, ổn định tình hình nội trị, khôi phục kinh tế sau thời gian dài đình

trệ do chiến tranh, mặc khác công tác ngoại giao và quốc phòng được nhà Nguyễn đặc

biệt chú trọng.

Ở phía Bắc, việc kết giao với nhà Thanh là rất quan trọng đối với các vua

Nguyễn. Do đó, ngay từ năm 1802, vua Gia Long đã cử hai sứ đoàn sang Trung Quốc

để giao lại những sách ấn mà nhà Thanh đã ban cho triều Tây Sơn và xin đặt quốc

hiệu, cầu phong. Các vua nhà Nguyễn xem việc tuyên phong của nhà Thanh là điều rất

quan trọng vì nó liên quan đến vấn đề chính thống. Không những vậy, sự mong muốn

hòa hảo với nhà Thanh còn để góp phần vào đảm bảo quốc phòng và an ninh quốc gia cho Việt Nam trong thời kì này(48).

Ở phía Nam, việc bang giao với Chân Lạp và Xiêm La có sự ảnh hưởng trực

tiếp đến an ninh quốc gia. Từ cuối thế kỉ XVIII, mối quan hệ Việt Nam – Chân Lạp –

Xiêm La diễn ra vô cùng phức tạp với những biến động to lớn ảnh hưởng đến tương

quan lực lượng giữa ba nước. Vương quốc Chân Lạp ngày càng suy yếu do các cuộc

tấn công từ bên ngoài và sự tranh chấp quyền lực trong hoàng tộc, mất hẳn khả năng tự

vệ nên chấp nhận sự “bảo hộ” khi thì của Xiêm, khi thì của Việt Nam. Ở chiều hướng

ngược lại, vương quốc Xiêm bước vào giai đoạn cường thịnh của chế độ phong kiến

và thể hiện tham vọng bành trướng ra bên ngoài bằng các cuộc hành quân xâm lược

vào ba đối tượng chính là Chân Lạp, Ai Lao và Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam vào

thời kì này cũng bước vào thời kì suy yếu, chiến tranh phong kiến diễn ra liên miên,

tình hình chính trị bất ổn. Phong trào nông dân Tây Sơn đã thay đổi hoàn toàn cục diện

(48)Nhiều tác giả (2005), Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, trang 334 – 336.

chính trị và quyền lực ở Việt Nam. Lần lượt chính quyền Đàng Trong rồi Đàng Ngoài

118

sụp đỗ kéo theo sự thay đổi tương quan lực lượng giữa Việt Nam - Chân Lạp - Xiêm

La. Người Việt không còn đủ sức giữ được sự ảnh hưởng của mình trên đất Chân Lạp

được thiết lập từ thời chúa Nguyễn trước sự tấn công của người Xiêm vì bản thân

chính quyền này đến năm 1777 đã không còn tồn tại nhưng được kế thừa bằng chính

quyền Gia Định của Nguyễn Ánh từ năm 1780. Chính vì thế, từ cuối thế kỉ XVIII đến

đầu thế kỉ XIX, triều đình Băng Cốc đã khống chế và thiết lập được chế độ bảo hộ ở

Chân Lạp. Các vua Chân Lạp từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX đều được làm lễ

tấn phong ở Băng Cốc. Dưới thời vua Xiêm Rama I, vua Chân Lạp là Nặc Ông Ấn đã

phải cắt đất, nhường cho Xiêm hai tỉnh Battambang và Siêm Riệp [71].

Mối quan hệ bang giao giữa Việt Nam - Chân Lạp - Xiêm La vào đầu thế kỉ

XIX là kết quả trực tiếp của những diễn biến quân sự, chính trị ở Việt Nam, Chân Lạp

và Xiêm La trong thời gian cuối thế kỉ XVIII. Thời gian này, khởi nghĩa Tây Sơn liên

tiếp thắng lợi, chính quyền chúa Nguyễn bị tiêu diệt. Đầu năm 1775, chúa Nguyễn

Phúc Thuần cùng gia quyến vượt biển vào Gia Định. Sau cuộc tấn công của Nguyễn

Lữ tại Gia Định, quân Nguyễn lần lượt bị đánh bại. Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc

Dương đều bị giết. Nguyễn Ánh trốn thoát dựa vào tầng lớp địa chủ ở Gia Định tiếp

tục chống trả. Chớp lấy thời cơ, tháng 10/1781, Xiêm La cho quân xâm lấn Chân Lạp

theo lệnh của quốc vương Trịnh Quốc Anh. Hai tướng Chất Tri và Sô Xi điều khiển

binh sĩ kéo vào đất của Nặc Ấn khi đó đặt dưới quyền bảo hộ của chúa Nguyễn. Tháng

1 năm 1782, Nguyễn Ánh liền sai Nguyễn Hữu Thụy đem 3.000 quân sang Chân Lạp

cứu nguy. Tại Chân Lạp, bọn tướng Xiêm hòa với tướng Việt rồi đem quân trở về gây

cuộc đảo chính. Cũng năm này, Nguyễn Huệ mang quân thủy bộ Nam tiến, phá tan

quân Nguyễn, giết chết Cai cơ người Pháp là Manuel (Mạn Hòe). Nguyễn Ánh bỏ

chạy về Hậu Giang. Quân Tây Sơn chiếm lại Nam Bộ, sai người giao hảo với Chân

Lạp và đề nghị hợp tác đánh Nguyễn Ánh. Chân Lạp chia quân đón bắt được đoàn cầu

viện Xiêm La của Nguyễn Ánh và suýt bắt được Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh trốn ra

đảo Phú Quốc. Khi mang quân vào đánh bật Nguyễn Ánh ra hải đảo, Nguyễn Huệ

cũng cho quan quân sang bảo hộ Chân Lạp tiếp tục thay cho quan quân của Nguyễn

119

Ánh(49).

Năm 1783, nước Chà Và đánh Chân Lạp. Chân Lạp cầu viện Tây Sơn. Tháng

12 năm 1783, Tây Sơn sai tướng là Trương Văn Đa đem quân đánh đuổi Chà Và, giải

phóng Chân Lạp. Nhưng trước đó, khi nước Chân Lạp loạn, “vua là Nặc Ấn chạy sang

Xiêm, vua Xiêm giữ lại, rồi sai Chiêu Chùy Biện làm Phụ chính, trấn giữ nước Chân

Lạp” [39, tr.220]. Khi quân Tây Sơn đến, Chùy Biện vốn được Xiêm công nhận làm

phụ chính ở đây từ trước, vội vàng chạy qua cầu viện. Và rồi Tây Sơn giáp mặt quân

Xiêm. Trương Văn Đa nghe tin điệp viên báo rằng quân Xiêm sẽ tiến theo đường Lào

đánh Quy Nhơn, nên quyết định khai chiến. Xiêm cũng đòi Tây Sơn trả những kẻ thù

của Xiêm mà Tây Sơn giữ nếu không thì chiến tranh. Và chiến tranh xảy ra. Tây Sơn

bị Xiêm vây, hai bên đánh nhau vài lần. Cuối cùng Trương Văn Đa rút khỏi Nam

Vang (6/1/1784). Nhưng từ đó “chiến tranh càng ngày càng nhen nhóm giữa người

Xiêm và bọn giặc ở Sài Gòn” [56, tr.120]. Quyền bảo hộ nước Chân Lạp vẫn thuộc về

nước Xiêm La.

Để phân tán lực lượng Tây Sơn, Xiêm vương nghĩ tới Nguyễn Ánh. Và đó là cớ

quan trọng nhất để giải thích việc Nguyễn Ánh được “rước mời” vào Vọng Các. Cuộc

đón rước nếu thực tình và diễn tiến trong bình đẳng thì sao lại để xảy ra những điều

mà khi gặp lại Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) lần thứ hai, Nguyễn Ánh phải than

phiền về “cách thức người ta lôi ông vào Xiêm” [56, tr.121]. Kết quả cuộc chiến Tây

Sơn – Xiêm đã diễn ra năm 1785 trong sự thất bại hoàn toàn của người Xiêm.

Nguyễn Ánh từ khi chiếm lại được Gia Định, nhiều lần sai sứ sang Xiêm giao

hiếu, hẹn cho Nặc Ấn về nước làm vua. Đến tháng 2 năm 1794, người Xiêm đưa vua

nước Chân Lạp là Nặc Ấn về nước và rút Chiêu Chùy Biện về giữ Bắc Tầm Bôn. Nặc

Ấn sai sứ đến tạ ơn Nguyễn Ánh. Tháng 11 năm 1797, vua nước Chân Lạp là Nặc Ấn

chết, con là Nặc Chăn nối ngôi [39, tr.361]. Vua Xiêm La sai sứ sang phong. Như vậy,

Nặc Chăn phải chấp nhận thần phục vua Xiêm La. Đến năm 1807, Nặc Chăn lại bỏ

Xiêm La, sai bầy tôi là Ốc Nha Vị Bôn Rạch đến xin phong và về thần phục Việt Nam;

(49)Lê Thị Mỹ Trinh (2009), Quan hệ giữa Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư Phạm TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh, trang 147.

theo lệ cống tiến, cứ ba năm một lần [39, tr.707].

120

Nặc Chăn có ba người em tên là Nặc Nguyên, Nặc Yêm, Nặc Đôn, muốn tranh

quyền của anh, mới sang cầu cứu nước Xiêm La. Xiêm La bắt Nặc Chăn phải chia đất

cho các em. Nặc Chăn không đồng ý bèn sai Ốc nha là Ma Đại Việt Mân Si đưa thư

đến Gia Định cầu cứu: “Năm trước sai em là Nặc Nguyên, Nặc Yêm, Nặc Đôn cùng

Ốc nha là bọn Cao La Hâm Mang Trà Tri Biện sang Xiêm, đến nay Xiêm sai Uất Vô

Thi đưa bọn Nguyên về, khiến chia đất Chân Lạp cho Nguyên làm vua thứ hai, Đôn

làm vua thứ ba; lại đòi một vạn binh để đánh Miến Điện” [39, tr.797]. Nặc Chăn ngờ

Cao La Hâm làm phản, thông đồng với Xiêm nên giết đi. Khi sứ giả Chân Lạp đến,

vua Gia Long nói: “Nước ngươi là nước nhỏ, vậy mà cùng với Xiêm gây hiềm khích,

nếu Xiêm đem quân đánh thì nước ngươi lấy gì mà chống?”. Sứ giả thưa: “Nước tôi

xin đem hết số quân nhỏ để chống quân Xiêm, nếu không đủ, thì xin nhờ uy linh của

triều đình” [39, tr.780]. Điều này cho thấy, Nặc Chăn trước sau một lòng mong tìm

chỗ dựa ở Việt Nam để chống Xiêm. Vì vậy, việc làm của vua Xiêm không có gì khó

hiểu; Xiêm La muốn trả đũa việc Nặc Chăn bỏ thần phục mình, quay sang thần phục

Việt Nam. Hơn thế nữa, Xiêm giúp Nặc Nguyên, Nặc Đôn với mục đích tìm phe phái

thân Xiêm, giảm bớt ảnh hưởng của Việt Nam với Chân Lạp; đồng thời tìm cơ hội can

thiệp sâu vào nội bộ Chân Lạp. Đứng trước nguy cơ Xiêm La có thể tấn công Chân

Lạp bất cứ lúc nào, Gia Long sai Nguyễn Văn Nhân đi kinh lược Nam Vang, tăng

cường tuần tra biên giới thường xuyên theo dõi mọi hành động của Xiêm La. Nguyễn

Văn Nhân đem quân đến La Bích và chiêu dụ dân chúng rằng: “vừa đây vì vua Phiên

mới lập, trong nước bất hòa, cho nên triều đình sai tướng đến bảo hộ” [39, tr.804].

Tướng Xiêm là Phi Nhã Long Mang đóng quân ở Bắc Tầm Bôn không dám động binh

và đưa thư đến Nặc Chăn nói “trước đây vì Diến Điện xâm lấn cho nên đòi binh viện

trợ. Nay Diến Điện đã lui nên bãi việc đòi binh” [39, tr.805]. Thấy Xiêm La đã không

còn có thái độ gay gắt và muốn thể hiện cho vua Xiêm biết mục đích Việt Nam đem

quân sang Chân Lạp là để ứng cứu khi có biến, vua Gia Long đưa thư trách: “Cao La

Hâm Mang Trà Tri Biện tuy được nước Xiêm phong, nhưng bọn ấy có lòng bội

nghịch, Nặc Chăn giết đi cũng không phải là quá. Vua Xiêm lấy cớ ấy mà động binh là

danh nghĩa gì? Ta sở dĩ sai tướng đến bảo hộ, không phải lợi vì đất đai, chỉ vì nghĩa

cứu tai thương nạn, vương nên nghĩ kĩ xem”, “nước Chân Lạp là một nước Phiên nhỏ,

121

người thưa đất hẹp, trước đây các vua thánh ta phong cho ông cha Nặc Chăn một nước

một vua, chính quyền về một mối, cho nên có thể nắm được giềng mối để giữ gìn vô

sự; nay vì nước loạn li đã lâu, sức người mòn mỏi, Nặc Chăn đã làm quốc vương mà

em là Nặc Nguyên lại làm vua thứ hai, Nặc Yêm làm vua thứ ba. Một nước ba vua,

nhân dân do đó hai lòng. Mới đây nghe dân Man không yên, cho nên hạ lệnh cho Gia

Định đem quân trấn giữ, đấy là nghĩa yêu nước nhỏ không thể không được, chứ không

phải vì lợi cũng không phải thích dụng binh. Huống chi Nặc Chăn đem thần dân trong

nước để thờ hai nước lớn cũng chỉ là mong nhờ uy đức để giữ bờ cõi được vẹn toàn

mà thôi… Nước ta đưa quân đi tuần ngoài biển để nhân giữ cho yên, chẳng những là

giúp cho Nặc Chăn mà còn giúp cho cả Xiêm nữa” [39, tr.812]. Vua Xiêm nhận thư

thấy lời lẽ khéo léo không thể phản lại, hổ thẹn bèn ngầm rút quân về. Gia Long thấy

việc đã giải quyết ổn, chiếu cho Văn Nhân rút quân. Nặc Chăn lấy cớ nước mới yên

định, tình dân chưa yên, xin lưu quân lại bảo vệ. Vua bèn sai Nguyễn Văn Tồn đem

1.000 binh đồn Uy Viễn đóng thú ở đấy. Tiếp đó, vua Xiêm sai sứ là Phi Nhã Phi Nhật

đến Việt Nam dâng phẩm vật và xin Việt Nam bảo vua Chân Lạp thân sang Xiêm để

hội táng Phật vương trước. Vua cho rằng: “Chân Lạp từ trước đến nay, chưa từng có lễ

vua thân đi mừng viếng bao giờ. Nếu có lầm lỗi đưa thư răng bảo là được, hay sai sứ

đến trách cũng được, sao lại bắt bỏ nước mà đi? Lấy nước lớn vỗ về nước nhỏ, đó là

tuân theo lẽ trời” [39, tr.810]. Tuy nói vậy nhưng sau đó, Gia Long cũng dụ Chân Lạp:

“nước ngươi còn suy yếu, thế chưa thể tranh với người Xiêm được. Nay nước Xiêm có

tang Phật vương, trước vương tuy không thể thân hành đi được, nhưng cũng nhân lúc

này sai sứ sang hội táng, để tỏ tình giao hiếu” [39, tr.811]. Xem nội dung bức thư, ta

thấy rằng, vua Gia Long tuy cứng rắn trong việc Xiêm lấy cớ gây hấn, nhưng cũng thể

hiện rõ tình hòa hảo; đặc biệt luôn muốn dung hòa mối quan hệ giữa Xiêm với Chân

Lạp.

Năm 1811, Nặc Nguyên trốn đến Phủ Lật (Pursat) và xin cắt đất ba phủ Ca

Khu, Phủ Lòng, Phủ Trung để ở và ngầm cầu viện Xiêm La. Vua Xiêm sai tướng là

Phi Nhã Nhâm Ba Lạc đem quân đóng ở Bắc Tầm Bôn, thế rất dữ tợn. Nặc Chăn

hoảng sợ, cấp báo với Gia Định. Vua chiếu rằng: “trước kia quân Xiêm đã lui nay lại

trở lại, chưa biết ý ra sao. Nặc Chăn là phên dậu của ta, nếu có sự hoãn cấp thì không

122

lẽ ngồi nhìn, nhưng việc binh cũng không thể khinh động. Nên sai trấn thủ Định

Tường là Nguyễn Văn Thụy đem quân đến La Bích, nói phao là đi lấy gỗ để viện trợ

ngầm” [39, tr.830].

Năm 1812, Nặc Nguyên đem quân Xiêm về cướp La Bích. Quân Xiêm chia làm

năm đạo đánh xuống. Nặc Yêm, Nặc Đôn đều chạy sang phe Xiêm La. Nặc Chăn chạy

về Nam Vang, rồi đến Gia Định và dâng biểu cầu cứu. Quan tổng trấn Gia Định thành

bấy giờ là Nguyễn Văn Nhân mới đem việc ấy tâu về triều đình. Vua Gia Long xuống

dụ: “Anh em nhà ngươi không hòa với nhau tự gây mối lo ấy. Nay vương đã nhờ ở ta,

ta sẽ có phương xử trí để yên nhà nước ngươi, khiến họ có chỗ hệ thuộc. Lòng người

đã yên thì việc về nước của ngươi có thể ngồi mà tính được” [39, tr.835], đồng thời

cho sứ đưa thư sang trách nước Xiêm La sinh sự. Vua Xiêm cho sứ sang yết kiến, xin

giải hòa. Gia Long trách: “Nước ngươi vô cớ dấy binh để cho Nặc Chăn phải chạy,

nay lại thác cớ giải hòa là thế nào? Chân Lạp đời đời làm tôi của ta, ta tất vì họ mà

kinh lí. Ngươi về nói với vua ngươi rằng Nặc Chăn tất phải trở về. Vương đừng dối ta

và đừng làm lo cho Nặc Chăn thì tình nghĩa tốt với láng giềng, giúp đỡ nước nhỏ mới

được trọn” [39, tr.840]. Xem trong lời trách cứ của Gia Long ngầm có ý răng đe Xiêm

và luôn khẳng định Chân Lạp là thuộc quốc của Việt Nam. Năm sau, vua Xiêm La sai

sứ Khổn Đại Việt Nỗ Lạc Phu Thông sang phúc thư lại rằng: “Trước đây anh em Nặc

Chăn không hòa với nhau, sửa binh khí để đánh nhau, có hại đến ơn cốt nhục mà phụ

nghĩa vỗ nuôi của hai nước lớn… nhân sai trọng thần thân tín đến khuyên hòa nhau.

Không ngờ Nặc Chăn sinh lòng ngờ sợ, đem gia quyến đi. Quân Xiêm niêm phong

kho tàng, sửa sang thành lũy để đợi về, không dám có ý gì khác. Nay Nặc Chăn chạy

sang Gia Định để nhờ uy thiêng, xử trí mọi việc thực chỉ nhờ triều đình sắp đặt, vua

Xiêm không dám không theo mệnh” [39, tr.846]. Vua Gia Long cho Nặc Chăn cư trú ở

Gia Định và năm sau 1813, vua sai Lê Văn Duyệt và Ngô Nhân Tịnh đem 13.000 thủy

binh, hội đồng với sứ nước Xiêm La đưa Nặc Chăn về nước. Đồng thời để Nặc Chăn

toàn tâm toàn ý tin cậy Việt Nam cũng như biết vì sao lại có Xiêm cùng hộ tống mình

về, Gia Long dụ Nặc Chăn rằng: “Đem vương về nước không phải là ý của vua Xiêm.

Sở dĩ yêu cầu nước Xiêm phải hội là trẫm lấy khổ tâm mà điều độ vì vương, muốn cho

vương cùng nước Xiêm không mất hòa khí để khỏi lo sau. Nếu người Xiêm thất tín,

123

gây nên hiềm khích thì trái ở họ rồi, trẫm có cách tính toán, vương chớ nên nghĩ lầm”

[39, tr.846]. Nặc Chăn về ở thành La Bích. Nước Xiêm La tuy không dám kháng cự,

nhưng vẫn lưu quân ở lại giữ Bắc Tầm Bôn, nói rằng để đất ấy phong cho các em Nặc

Chăn nhưng chủ yếu là ngầm chờ cơ hội để đánh úp quân Việt Nam cho hả giận. Gia

Long mới viết thư sang trách “Xiêm vương vốn muốn Chăn và Nguyên giải mối thù

oán cho trọn tình nghĩa anh em. Nay Chăn đã về nước mà Xiêm chưa giải binh là cớ

gì? Phàm cứu tai nạn, thương láng giềng, gây đức mà giúp người cùng ý muốn, đó là

đạo đời xưa. Nếu làm ở trước mà để oán ở sau, thì việc cất quân ấy chẳng là trái lắm

sao? Huống chi Nặc Nguyên phản anh giữ nước, tội không kể xiết. Bản quốc cùng với

Xiêm vương làm ngơ để đó là nghĩ nó còn trẻ, muốn cho đổi lỗi mà thôi. Nay Nặc

Chăn đã biết ơn Xiêm vương khoan tha thì Nặc Nguyên há chẳng nghĩ đến ơn bản

quốc dung thứ sao mà còn cứ chấp mê một đường như thế? Thử nghĩ xem, kẻ giặc đã

bị thiên hạ đều muốn giết thì còn trốn vào nước nào được” [39, tr.851]. Lời lẽ trong

thư cùng với thanh thế của quân ta khiến quân Xiêm không dám manh động, bèn rút

quân về. Lê Văn Duyệt tâu rằng: “Xiêm La muốn được Chân Lạp thì phải dùng Nặc

Nguyên làm món hàng quý, mà ta muốn che chở Gia Định thì tất phải dùng Nặc Chăn

làm phiên thần… Nay quân ta đóng lâu thì già quân mà phí của, về hết thì Phiên

vương đơn nhược lại không có phòng bị. Thành La Bích chật hẹp, không đủ để giữ”

[39, tr.861]. Thấy lời tâu hữu lí, giúp Chân Lạp phòng bị cũng chính là giúp mình, Gia

Long dụ cho Lê Văn Duyệt chỉ huy xây thành Nam Vang, thành Lô Yêm và dựng đài

An Biên để giúp Chân Lạp ngăn chặn giặc. Sau khi xây xong, Lê Văn Duyệt rút quân

về Gia Định. Nguyễn Văn Thoại được lệnh ở lại với 1.000 quân để giữ thành Nam

Vang và bảo hộ Chân Lạp. Tháng 9 năm này, Gia Long sắc phong cho Nguyễn Văn

Thoại lãnh ấn Bảo hộ Cao Miên, Trần Công Đàn làm Tham tri bộ Binh. Nguyễn Văn

Thụy và Trần Công Đàn làm việc nhiều khi chuyên quyền độc đoán, chèn ép Phiên

vương khiến người Chân Lạp ngờ sợ. Nguyễn Văn Thành tâu rằng: “Nước Chân Lạp

là thuộc quốc của ta, đời đời cống hiến. Nay nước ấy suy nhược, triều đình sai quan

bảo hộ, thực là việc nghĩa cử. Song đặt chức bảo là cốt giữ cho nước ấy được còn, chứ

không phải để giám trị nước ấy. Vậy nên hạ lệnh cho bọn Thụy chớ nên can dự vào

chính sự nước ấy, để cho Phiên vương tự làm việc, thì lòng dân sẽ yên” [39, tr.883].

124

Gia Long thấy lời tâu hữu ý, bèn “chiếu cho bọn Thụy phàm là việc nước Chân Lạp thì

để cho vua quan nước ấy phân xử không được can thiệp. Duy có việc sớ chương và

công văn thì mới được xem kĩ và châm chước rồi sau đệ đi, để cho hợp với sự thể”

[39, tr.883]. Điều này chứng tỏ, công việc bảo hộ của Việt Nam với Chân Lạp không

nằm ngoài mục đích hỗ trợ Chân Lạp, giúp bình ổn tình hình trong nước. Nặc Chăn

một lòng dựa vào Việt Nam nên không muốn thiết lập quan hệ với Xiêm. Xiêm La vì

muốn thể hiện uy quyền, nhiều lần sai sứ sang Việt Nam yêu cầu Nặc Chăn thông sứ

và cho rằng: “Triều đình hậu đãi Chân Lạp, Xiêm vương cũng cảm ơn. Nhưng Nặc

Chăn vốn là phên dậu của Xiêm, nếu Chăn không chầu nước Xiêm thì Xiêm không trả

Nặc Nguyên về” [39, tr.885]. Đồng thời, năm 1814, Xiêm La tăng cường phái 300

binh và 50 thuyền đến đóng Bắc Tầm Bôn. Gia Long cho rằng Việt Nam và Xiêm La

vốn có tình giao hảo, vả lại việc can qua mới yên, dân đương vui nghỉ ngơi, không

muốn làm mệt tướng sĩ; không muốn vì một nước Chân Lạp mà để lo cho đời sau bèn

hạ chiếu cho Nặc Chăn: “Nước ngươi đối với Xiêm, lấy nước nhỏ thờ nước lớn đã lâu

năm rồi. Nay Vương tuy không thân hành sang thăm, cũng nên sai sứ đi lại như xưa,

không nên trước hậu mà sau bạc” [39, tr.992]. Được thư, Nặc Chăn không dám cãi mệnh liền thông sứ cùng Xiêm nối lại giao hiếu (50).

Trong việc bảo hộ, Việt Nam luôn cố gắng hạn chế tối đa việc can thiệp vào nội

bộ của Chân Lạp. Các vua Việt Nam luôn dụ các quan bảo hộ hãy để Phiên vương tự

xử trí công việc của nước mình. Năm 1817, Nặc Chăn đem việc bề tôi Chân Lạp là

Cao La Hâm Biện tham nhũng, làm chuyện phi pháp xin Việt Nam xét xử. Gia Long

cho rằng: “Đấy là việc của nước Phiên, đã có chính lệnh của nước Phiên, sao phải xin

chỉ?” và “chiếu cho vua Phiên y theo phép nước mà xử” [39, tr.943-944]. Tháng 11

năm 1820, Nặc Chăn thấy quan Phiên là Chiêu Chùy Tôn La Ca Đồng Phù ngang

nghịch vô đạo, muốn nhờ Gia Định xét xử. Vua Minh Mạng cũng cho rằng đó là quan

Phiên, nên để vua Phiên xử trị. Khi Nặc Chăn xin thân hành đến tham khảo Việt Nam

về việc chính sự, Gia Long cũng vui vẻ nhận lời giúp với mục đích “thúc đẩy, dìu dắt

(50)Lê Thị Mỹ Trinh (2009), Quan hệ giữa Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư Phạm TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh, trang 150 - 153.

(vua Phiên) đến chỗ siêng năng” [39, tr.951]. Tuy nhiên, tình hình triều chính Chân

125

Lạp khi Việt Nam bảo hộ cũng không có gì là cải thiện; nguyên nhân chính là do Nặc

Chăn nhu nhược, bỏ trễ nhiều việc, quan Phiên mang lòng ngờ nhau, chính sự do ở

chức Chiêu Chùy. Trong nước, nội loạn liên tiếp xảy ra. Điển hình là năm 1820, nhà

sư tên Kế làm loạn, lấy bùa chú mê hoặc dân Phiên và họp đảng cướp phá, có lúc tiến

sát uy hiếp thành Nam Vang. Nguyễn Văn Trí và Nguyễn Văn Thụy phối hợp với

quân các trấn tiêu diệt. Tháng 9 năm 1820, sư Kế bị giết ở Ba Tầm Lai [40, tr.95].

Sau khi vua Gia Long chết, vua Minh Mạng lên ngôi nối nghiệp tiếp tục thực

hiện chính sách bảo hộ Chân Lạp từ thời Gia Long. Năm 1834, vua Minh Mạng tìm

cách phát triển thế lực, lập ra trấn Tây Thành, chia làm 32 phủ và 2 huyện, bổ nhiệm

các quan văn võ, lập sổ điền và đánh các loại thuế. Đến thời Thiệu Trị, vua Chân Lạp

vừa thần phục Xiêm vừa thần phục nhà Nguyễn, nhận lễ phong vương của cả hai nước

(1847) [34, tr.28]. Trong thời Minh Mạng và Thiệu Trị, Việt Nam và Xiêm La đã trải

qua hai cuộc chiến tranh vào các năm 1833 - 1834 và 1841 - 1845.

Mối quan hệ tay ba Việt Nam – Chân Lạp – Xiêm La trong suốt thời gian này

diễn ra vô cùng phức tạp. Xét về tương quan lực lượng, Chân Lạp là yếu nhất do đó là

đối tượng tranh chấp, giành giật ảnh hưởng giữa Việt Nam và Xiêm La. Chân Lạp ở

vào một vị trí đặc biệt đối với vùng đất mà các vua Nguyễn đang cai quản: giáp với

vùng Nam Bộ. Trong thời kì này, Nam Bộ là vùng đất mới khai phá, triều đình chưa

thể quản lí hết, nên có thể khẳng định, đây là vùng đất mà triều đình quản lí hành

chính lỏng lẻo nhất. Điều đó cũng có nghĩa là vấn đề an ninh, phòng thủ vùng biên

giới là vấn đề được sự quan tâm lớn của các vua triều Nguyễn. Nam Bộ có đường biên

giới giáp với Chân Lạp, lại có đường biên giới biển tiếp nối với Xiêm. Chân Lạp đang

là vùng đất được triều Nguyễn thiết lập và củng cố chế độ “bảo hộ”, còn Xiêm là một

quốc gia lớn, có sức mạnh và dã tâm. Chính vì vậy để thực hiện được hai mục đích là

giữ vững được chế độ bảo hộ hiện có ở Chân Lạp, đồng thời phòng thủ tuyến biên giới

đối với Xiêm, nhà Nguyễn cần xây dựng Nam Bộ trở thành nơi vừa có khả năng phòng

thủ lại vừa có khả năng tiến công tốt.

Đối với Xiêm La tham vọng lãnh thổ và sự ảnh hưởng ra bên ngoài đã thúc đẩy

họ nhiều lần tấn công Chân Lạp và cả tấn công Việt Nam. Còn đối với Việt Nam,

Xiêm La trở thành đối thủ nguy hiểm nhất trong công cuộc quốc phòng phía Nam và

126

thiết lập sự ảnh hưởng lên Chân Lạp. Vua Gia Long đặt quan bảo hộ ở Chân Lạp,

nhưng đối thủ của Việt Nam vẫn là Xiêm với chính sách hung hăng đang tìm cách mở

rộng biên giới. Từ năm 1795, Xiêm chiếm cứ luôn vùng Battambang và Siemrap của

Chân Lạp. Năm 1814, lấn luôn vùng Mélouprey và Stungtreng thuộc tả ngạn sông Cửu

Long, thọc sâu giữa lãnh thổ Lào và Miên. Vua Xiêm còn có tham vọng “Nam tiến”

xuống bán đảo Mã Lai [23, tr.74-75]. Do đó, công tác quốc phòng phía Tây Nam phải

trở thành trọng điểm của công cuộc phòng thủ phương Nam thời các vua Nguyễn.

Như vậy, trong các mối quan hệ ngoại giao chằng chéo giữa Việt Nam - Chân

Lạp - Xiêm đã nảy sinh những yếu tố đối kháng, trực tiếp ảnh hưởng đến an ninh vùng

biên giới của Việt Nam với Chân Lạp và cả Xiêm cũng như tác động mạnh đến an

ninh quốc gia và sự phát triển của người Việt ở vùng đất mới phía Nam của tổ quốc.

Các vua Nguyễn nhất là vua Gia Long - người đã từng có nhiều năm bôn ba

khắp miền Nam Bộ lại từng có thời gian nương nhờ nơi đất Xiêm La nên rất am tường

tham vọng của người Xiêm đối với mảnh đất phương Nam giàu có của nước ta. Mặc

khác, nhà vua còn được kế thừa kinh nghiệm trị quốc của dòng họ (các chúa Nguyễn)

trong cách nhìn chiến lược về quốc phòng ở vùng lãnh thổ phương Nam mà trong đó

An Giang được xem là nơi yếu địa biên phòng, cũng như là một căn cứ tự nhiên có thể

giúp “người anh hùng đứng chân dựng nghiệp”. Vì vậy, ngay từ thời còn chiến tranh

với quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã cho thiết một hệ thống phòng thủ nơi vùng đất biên

địa này dựa trên hệ thống phòng thủ dưới thời các chúa Nguyễn. Theo đó, năm 1789,

Nguyễn Ánh cho thiết lập thủ Đông Xuyên phía chợ Long Xuyên ngày nay, tiếp đến

lập lại đồn Châu Giang, dựng đồn Hồi Oa, thủ Cường Uy ở phía sông Hậu để cùng với

các căn cứ thời chúa Nguyễn như đồn Châu Đốc, Hùng Ngự, Thủ Chiến Sai, Hùng

Đạo, đạo Tân Châu, Đông Khẩu... tạo ra một hệ thống phòng thủ liên hoàn trước là để

đối phó với quân Tây Sơn, về sau lại phát huy tác dụng trong công tác quốc phòng.

Sang thế kỉ XIX, khi đất nước được thống nhất, vua Gia Long vẫn tiếp tục xem

vùng biên giới Tây Nam nơi dãy đất từ Châu Đốc đến Hà Tiên là vùng chiến lược

quan trọng. Đại Nam thực lục đã chép lại lời vua Gia Long nhận xét về tầm quan trọng

của vùng đất này “Châu Đốc, Hà Tiên bờ cõi chẳng kém Bắc Thành” [39, tr.946]. Tuy

nhiên, sau trận bị giặc Xiêm tàn phá năm 1771 Hà Tiên đã mất đi vị trí quan trọng của

127

nó trong chiến lược bảo vệ biên giới Tây Nam. Nói đến vấn đề này Sơn Nam viết

“Riêng về Hà Tiên thì không còn quan trọng, từ khi bị giặc Xiêm đốt phá năm 1771.

Hậu duệ của họ Mạc tuy được Gia Long chiếu cố nhưng thiếu tài kinh bang tế thế, vả

lại, trọng tâm việc thương mãi đã nghiêng hẳn về phía Sài Gòn, Đà Nẵng ; việc mua

bán với Cao Miên thì đã có Sa Đéc, Cái Bè. Vua Gia Long cho các tàu buôn và ghe

buôn ở hạt Hà Tiên được miễn thuế (1810), đồng thời di chuyển một số quan lại, viên

chức ở bốn trấn miền trên đến tăng cường cho trấn Hà Tiên, gia tăng binh sĩ để lo việc

tuần phòng giặc biển” [23, tr.74]. Lúc bấy giờ, công tác quốc phòng khu vực này

chuyển trọng tâm về vùng biên địa Châu Đốc, Tân Châu của An Giang nơi các công

sự, thành trì được mở mang tu bổ và được hậu thuẫn trực tiếp từ hai hệ thống phòng

thủ trên sông Hậu và sông Tiền cùng với sự tiếp ứng liên tục từ các đồn đạo ở phía

Đông và Đông Nam sông Cửu Long khi có giặc. Đối với chính quyền nhà Nguyễn,

vùng đất An Giang là vị trí then chốt của quốc phòng phía Nam, vua Minh Mạng đã

từng ra dụ nhắc nhở Nguyễn Văn Thoại khi về trấn giữ nơi đây “Châu Đốc là vùng

xung yếu, nhà ngươi phải hết sức khéo léo trong mọi trường hợp, trấn an, phủ dụ dân

địa phương. Trước hết phải chiêu mộ những dân buôn, xây dựng xóm làng, làm cho

dân đinh và hộ khẩu càng tăng, ruộng đất được khai khẩn thêm. Vấn đề biên phòng

phải được trù liệu chu đáo” [23, tr.83]. Gia Long là người hiểu rõ hơn ai hết vị trí

chiến lược vô cùng quan trọng của đất An Giang. Sơn Nam viết “An Giang là con

đường hành quân quan trọng khi Gia Long tẩu quốc và phục quốc”[25, tr.63].

Các vua Nguyễn tiếp tục kế thừa chiến lược quốc phòng của các chúa Nguyễn

trong điều kiện và hoàn cảnh mới với những sự điều chỉnh phù hợp tập trung trọng

điểm chủ yếu trên vùng đất An Giang nơi dễ dàng kiểm soát đất “bảo hộ” Chân Lạp lại

vừa dễ bề tiến thủ khi có giặc tấn công. Dựa vào địa hình sông nước mà giữ gìn biên

cương vừa phát huy sức mạnh của thủy quân nhà Nguyễn lại vừa tạo ra sự đặc trưng

trong cách đánh địch đó là phương cách độc đáo trong cách tổ chức thế trận quốc

phòng Tây Nam của các vua Nguyễn. Mặc khác, vùng Thất Sơn sau thời gian dài khai

phá dưới thời chúa Nguyễn nay lại được tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại,

đóng binh phòng giữ hỗ trợ tích cực về mặt bộ binh cho các lực lượng thủy binh nơi

128

Cửu Long Giang. Chính điều này là động lực thúc đẩy sự ra đời của nhiều đồn bảo

trên bộ ven biên giới với Chân Lạp bên cạnh các đồn đã lập từ thời trước.

Dưới thời nhà Nguyễn từ Gia long đến Tự Đức trên vùng đất An Giang xưu

chính quyền đã cho thiết lập 3 hệ thống phòng thủ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.

Trên sông Tiền, chính quyền nhà Nguyễn thiết lập hệ thống tấn, đồn, bảo chạy dọc

suốt từ Tân Châu đến Sa Đéc bao gồm: Tân Châu, Tiến An, Nhân Hội, Vĩnh Thành,

Vĩnh Thịnh, An Lạc, Sa Đéc... Trên sông Hậu, chính quyền nhà Nguyễn thiết lập hệ

thống tấn, đồn, bảo chạy dọc suốt từ Châu đến Ba Thắc bao gồm: Bình Thiên, Bình

Di, Đa Phúc, Châu Đốc, Châu Giang, Năng Gù, Vàm Thuận, Cần Thăng (Cần Đăng),

An Châu, Đông Xuyên, Mĩ Thanh, Trấn Giang, Trấn Di, Ba Thắc, Tái Suất, Cồn

Muộn, Cường Thắng, Cường Uy, Cường Thành, Hưng Nhượng...Đặc biệt, chính

quyền nhà Nguyễn đẩy mạnh việc thiết lập hệ thống tấn, đồn, bảo chạy dọc theo biên

giới Chân Lạp song song với kinh Vĩnh Tế, nương tựa trong dãy Thất Sơn bao gồm:

Vĩnh Gia, Vĩnh Điều, Vĩnh Thông, Giang Nông, Vĩnh Tế, Tĩnh Biên, Thân Nhân,

Vĩnh Lạc, Vĩnh Hòa, Thuyết Nật, Đàm Triết. Đây được xem là điểm mới hơn so với

thời các chúa Nguyễn trong việc thiết lập hệ thống phòng thủ ở vùng Thất Sơn.

Chính quyền nhà Nguyễn không chỉ cho lập mới các đồn mà còn cho tu sửa

nhiều đồn đạo. Theo đó, đồn Châu Đốc được xây mới lại năm 1815 trên cơ sở đồn cũ

để tạo ra căn cứ phòng thủ vững chắc giữ vị trí tiền tiêu trong công cuộc bảo vệ biên

giới. Tiếp đó với mục tiêu đưa cơ sở quốc phòng ra phía biên giới, năm 1817, vua Gia

Long chấp thuận cho Nguyễn Văn Thoại thiết lập đồn Long Sơn trên cù lao Cái Vừng

(thuộc Tân Châu ngày nay) lấy làm lị sở thay cho đồn cũ ở cù lao Giêng.

Vượt lên trên tất cả các những ý tưởng quốc phòng của tiền nhân, chính quyền

nhà Nguyễn đã cho thấy sự tươi mới trong cách phòng bị biên cương với cách làm mà

từ trước đến nay chưa từng có tiền lệ đó là cho thiết lập đào hệ thống kênh đào song

song đường biên giới Chân Lạp để phục vụ công cuộc giữ nước. Đây được xem là

bước đột phá vô cùng độc đáo, sáng tạo trong suốt ba đời vua đầu nhà Nguyễn từ Gia

Long, Minh Mạng đến Thiệu Trị với ba công trình còn lưu danh hậu thế: kênh Thoại

Hà (1818), kênh Vĩnh Tế (1819-1824), kênh Vĩnh An (1843-1844). Người có công

đầu trong sự đột phá này chính là Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại.

129

Đối với kênh Thoại Hà là công trình này mở đầu, giữ vị trí hết sức thiết yếu.

Bên cạnh giá trị kinh tế, khai hoang phục hóa, về mặt quốc phòng kênh Thoại Hà cho

thấy tầm nhìn vượt hẳn thời chúa Nguyễn vì nó thông từ sông Hậu ra đến biển Tây từ

khu vực Đông Xuyên (Long Xuyên) ra đến Rạch Giá nơi đạo Kiên Giang thời chúa

Nguyễn. Do đó, khi có giặc đồn Rạch Giá có thể thoái lui dễ dàng về Trấn Giang theo

đường thủy nếu thất thủ, mặc khác có thể đưa quân nhanh chóng từ hệ thống phòng

thủ ở Cửu Long Giang sang ứng cứu, khắc phục nhược điểm lớn thời chúa Nguyễn.

Đối với kênh Vĩnh Tế là công trình quy mô nhất thời bấy giờ, không những thể

hiện tầm nhìn chiến lược của chính quyền nhà Nguyễn mà trên thực tế đã phát huy

được vai trò và lợi ích to lớn của nó đối với chính trị, an ninh quốc phòng cũng như

phát triển kinh tế vùng biên viễn trên toàn bộ khu vực phía Tây Nam từ Châu Đốc đến

Hà Tiên. Đại Nam nhất thống chí chép: “Từ đấy đường sông thông, việc biên phòng và

việc buôn bán đều được hưởng mối lợi vô cùng” [47, tr.207].

Trong giai đoạn này, kênh Vĩnh Tế thể hiện giá trị đích thực của nó trong các

vấn đề ngoại giao và phòng vệ biên giới.

Thứ nhất: kênh Vĩnh Tế đóng vai trò như là một phòng tuyến quân sự có khả

năng phòng ngự trong hoàn cảnh sảy ra chiến tranh cả với Chân Lạp, cả với Xiêm. Ở

khía cạnh này chắc hẳn vua Gia Long hiểu quá rõ về chính sách “Đông tiến” của người

Xiêm sau thời gian dài “tị nạn”ở đó. Kênh Vĩnh Tế đóng vai như là một con hào

khổng lồ, một phòng tuyến kiên cố rất khó vượt qua. Con kênh dài gần 91km, nối liền

hai trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự của triều đình.

Thứ hai: kênh Vĩnh Tế cũng đóng vai trò như một tiền đồn dùng để vươn ra

khống chế, củng cố và duy trì chế độ bảo hộ ở Chân Lạp. Gia Long hiểu rằng bất kì

một hành động đóng quân nào của lực lượng quân đội nước ngoài, dù với mục đích gì

đi nữa thì cũng sẽ gây nên sự phản cảm từ phía người dân. Đó là chưa kể những quan

niệm về chủ quyền của vùng đất “Thủy Chân Lạp” của một bộ phận không nhỏ người

Khmer ở Chân Lạp. Tất cả những yếu tố đó buộc Gia Long phải tìm một chỗ đứng

quân sự vững chắc mà không thuộc lãnh thổ Chân Lạp (tránh khoét sâu thêm những

mâu thuẫn với người dân Chân Lạp), nhưng đồng thời cũng không làm suy giảm đi

130

ảnh hưởng của triều Nguyễn đối với Chân Lạp. Và như vậy về cơ bản, kênh Vĩnh Tế

đã giải quyết thỏa đáng tất cả những vấn đề trên.

Thứ ba: kênh Vĩnh Tế đóng vai trò như một công trình đánh dấu, xác lập chủ

quyền của người Việt trên vùng đất Nam Bộ. Như đã nói, vấn đề chủ quyền trên đất

Nam Bộ vốn là vấn đề nhạy cảm và dễ gây những bất đồng xung đột giữa người Việt

và người Khmer mà những thế lực chống đối có thể lợi dụng để gây chia rẽ và kích

động. Gia Long hiểu rõ điều này và ngay từ khi lên ngôi, ông đã có nhiều biện pháp để

củng cố và thiết lập chủ quyền lãnh thổ quốc gia ở vùng đất Nam Bộ. Việc xúc tiến

đào kênh Thoại Hà rồi sau đó lại cho đào kênh Vĩnh Tế đã chứng tỏ rõ điều này. Vốn

là những người đến sau khai phá, chỉ có một công trình lớn, mang tầm vóc, thể hiện

quyết tâm, khả năng chinh phục tự nhiên, mới có thể là bằng chứng thuyết phục nhất

về chủ quyền của người Việt ở vùng đất này [71]. Rõ ràng, Gia Long đã thể hiện là

một người có tầm nhìn xa và am hiểu tường tận lịch sử vùng đất Nam Bộ.

Thứ tư: kênh Vĩnh Tế đóng vai trò như một trung tâm kinh tế ở khu vực ngã ba

của ba nước Việt – Chân Lạp – Xiêm La. Đó không chỉ là một công trình nhằm thu hút

thuyền bè các nước láng giềng đến làm ăn buôn bán, mà còn có ý nghĩa về mặt chính

trị, quân sự. Bởi lẽ, một trung tâm quân sự vững mạnh phải đồng thời là một vững

mạnh về khả năng kinh tế. Nơi ấy có thể trực tiếp và chủ động những nguồn lực quân

sự một khi chiến tranh xảy ra. Đồng thời, tâm lí chung của bất kì người dân nào là đều

muốn một cuộc sống ổn định để làm ăn, sinh sống, không ai muốn chiến tranh loạn

lạc. Chính vì vậy, tạo điều kiện cho người dân hai nước Việt Nam và Chân Lạp có

điều kiện thuận lợi để làm ăn sinh sống chính là một biện pháp “phòng thủ từ xa” hữu

hiệu nhất.

Kênh Vĩnh Tế là một công trình quan trọng, có giá trị to lớn về mặt kinh tế

chính trị, quân sự, đặc biệt là trong quan hệ với các nước Chân Lạp và Xiêm La dưới

thời vua Gia Long. Kênh Vĩnh tế hoàn thành không chỉ dân chúng miền biên địa vui

mừng vì có thủy lộ giao thông thuận tiện, thả sức thương hồ mà giới chức biên phòng

thời đó cũng nhẹ bớt gánh nặng, nhờ có đường nước án ngữ ven biên, vừa dễ phòng

thủ, vừa dễ tiến công. Kênh Vĩnh Tế là một công trình mang tính “phòng thủ chiến

lược” vô cùng độc đáo: phòng thủ vừa có tính thiết yếu đối với an ninh quốc gia, đồng

131

thời lại tăng cường được việc phát triển ảnh hưởng của quốc gia ra bên ngoài; phòng

thủ nằm trong chủ trương đối ngoại của triều Nguyễn nhưng lại có tác dụng quan

trọng, lâu dài, căn bản đối với việc phát triển trong nước, như vậy, kênh Vĩnh Tế có

vai trò củng cố “thế” (với bên ngoài) và “lực” (bên trong) của vương triều... Kênh

Vĩnh Tế chính là tiêu biểu cho chính sách và chiến lược quốc phòng của chính quyền

nhà Nguyễn nơi vùng biên giới Tây Nam nói chung và trên vùng đất An Giang nói

riêng.

Đối với kênh Vĩnh An (Long An Hà) là công trình nối sông Tiền và sông Hậu

trên địa bàn huyện Tân Châu ngày nay. Kênh Vĩnh An được đào gấp trong thời gian

xảy ra chiến sự rất căn thẳng với Xiêm nhằm đưa chiến thuyền từ sông Tiền qua sông

Hậu hoặc ngược lại nhanh chóng hơn [25, tr.188].

Có thể nói, ba công trình thủy lớn lao của vùng Nam Bộ lúc bấy giờ đều nằm

trên đất An Giang cho thấy vị trí chiến lược của đất An Giang trong chính sách quốc

phòng của nhà Nguyễn. Những phương cách tiến hành của chính quyền nhà Nguyễn

thể hiện sự đột phá mạnh mẽ trong chiến lược quốc phòng phương Nam.

Chính quyền nhà Nguyễn đồng thời thực thi chính sách đưa quân đội đồn trú

những nơi quan yếu lại dựa vào lực lượng quân đội làm nồng cốt giữ gìn trị an cho

nhân dân khai phá đất hoang tạo tiềm lực vững chắc cho công cuộc quốc phòng và

phát triển vùng biên giới.

Trong việc thực hiện chính sách, vận hành hệ thống quốc phòng Tây Nam và

An Giang yếu tố con người là quan trọng nhất. Hiểu rõ vấn đề đó các vua nhà Nguyễn

nhất là Gia Long, Minh Mạng luôn kén chọn người thật sự có thực tài đến vùng đất

yếu địa biên phòng này trấn giữ, đồng thời nghiêm khắc trừng trị những người vi

phạm.

Vùng đất An Giang thời Gia Long thuộc trấn Vĩnh Thanh, triều Nguyễn cử Lưu

Phước Tường đến trấn giữ. Tường là người có thực tài với nhiều công trạng trong công

cuộc phục nghiệp nhà Nguyễn, lại có công trong việc đắp thành Vĩnh Long (1813),

thành Châu Đốc (1815 - 1816) nhưng đức hạnh kém cõi, tính tham lam gây ra nhiều

điều không phải lập tức bị vua Gia Long xét xử nghiêm khắc để giáo huấn và an dân.

Nguyễn Văn Hầu đề cặp đến sự kiện này như sau: “trong thời gian ông lãnh chức Bảo

132

hộ, vì dung túng thuộc hạ sách nhiễu dân Miên (Chân Lạp); hơn nữa, khi làm Trấn thủ

Vĩnh Thanh, có can vào việc tham nhũng, đến khi ông đổi đi rồi, việc mới phát giác ra.

Vì vậy, Lưu Phước Tường phải bị bắt giải về Gia Định xét xử”[6, tr. 145-146]. Các sử

quan nhà Nguyễn ghi rất cụ thể: “Quan Bảo hộ Chân Lạp là Lưu Phúc Tường trước

làm Trấn thủ Vĩnh Thành, cùng với Cai bạ Lê Đắc Tần, Ký lục Trần Bá Bảo, nhân

việc công bắt đóng góp, tham tang tiền đến vài vạn. Đến nay việc phát giác. Vua bảo

bầy tôi rằng: “Trẫm yêu dân như con, mà không cai trị một mình được, cho nên đặt

chức thú mục để vỗ nuôi dân. Nay quan lại Vĩnh Thanh như thế, rất không xứng

chức”. Sai thành thần xét trị.”[39, tr.944].

Năm 1817, Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại sau khi thôi chức quan Bảo hộ

Chân Lạp được vua Gia Long cử đến trông coi trấn Vĩnh Thanh đóng lị sở tại Châu

Đốc lúc bấy giờ với nhiều trọng trách. Thoại Ngọc Hầu đã thể hiện thực tài của mình

trên nhiều lĩnh vực như quân sự, chính trị, khai hoang lập làng... nhưng quan trọng

nhất là có công đào hai con kênh lịch sử Thoại Hà (1818) và Vĩnh Tế (1819 - 1824).

Dấu ấn của danh tướng Thoại Ngọc Hầu lưu lại trên đất An Giang được người dân đời

đời tưởng nhớ.

Các vua Nguyễn sau Gia Long từ Minh Mạng, Thiệu Trị đến Tự Đức vẫn luôn

kiên định chính sách kém chọn người hiền tài cai quản vùng đất này. Các tổng đốc An

Hà, Tuần phủ An Giang mỗi người đã có đóng góp nhất định cho sự phát triển của

vùng đất này nhằm cũng cố hệ thống quốc phòng nơi biên giới. Trong đó có những

người đã có những đóng góp lớn lao lưu danh vào sử sách như: Trương Minh Giảng,

Nguyễn Tri Phương, Phạm Văn Điển, Nguyễn Công Nhàn, Doãn Uẩn, Nguyễn Công

Trứ....

Những quan lại nhà Nguyễn giữ trọng trách ở An Giang thường kiêm quản Hà

Tiên và cả Chân Lạp với mục đích chính là thống nhất việc quốc phòng bảo vệ biên

giới cũng như duy trì ảnh hưởng ra bên ngoài đẩy chiến tranh ra xa cương giới Việt

Nam. Năm 1843, vua Thiệu Trị xuống dụ rằng: vùng An Giang là nơi quan trọng. Vậy

truyền chỉ cho các viên Tổng đốc, Tuần phủ tỉnh ấy phải hết sức phòng ngừa, để giữ

cho không có sự đáng lo. Chớ thấy trước mắt không có việc gì mà có sự đề phòng sơ

hở là không được [30, tr.664]. Năm 1847, vua Thiệu Trị lại xuống dụ nhắc nhở “Tổng

133

đốc An Hà phải hết lòng dò xét tình hình Chân Lạp, hoặc phái người quan thuộc định

kì hạn đi dò xét, hoặc nhân khi bọn thổ mục, thổ dân có việc tới tỉnh thì dò hỏi kỷ

lưỡng tình hình thế nào, cốt cho được rõ ràng. Trừ khi gặp có công việc tâu, thì cho

được tâu báo bất thần. Còn ngoài ra cứ mỗi tháng 2 lần đều đem tình hình hiện tại theo

từng kì mà tập tâu lên cho trẫm biết hết tình hình biên giới.”[30, tr.664].

Có thể nói, những chính sách quốc phòng của các thời vua Nguyễn từ Gia Long

đến Tự Đức trên vùng đất An Giang nhằm bảo vệ phương Nam trước tham vọng thôn

tính của Xiêm La, đồng thời duy trì sự ảnh hưởng cần thiết lên Chân Lạp tạo ra thế và

lực cho Việt Nam trước các nước trong khu vực nhằm duy trì sự hòa bình trong nước

và tránh chiến tranh cũng như tạo thế phòng thủ từ xa trước các thế lực đối trọng.

Trong những chính sách quốc phòng đó thì việc thiết lập hệ thống kênh đào để phục

vụ cho công tác phòng thủ được xem là một bước đột phá mạnh mẽ trong tư duy và

hành động của chính quyền nhà Nguyễn. Với hệ thống kênh đào này công cuộc quốc

phòng phương Nam được giữ vững trước những đối thủ truyền thống ở Đông Nam Á

lục địa.

3.2.2. Tổ chức hoạt động của quân đội thời các vua Nguyễn trên vùng đất

An Giang.

Dưới thời nhà Nguyễn, quân đội là lực lượng trọng yếu để bảo vệ quốc gia và

có nhiều đóng góp trong việc giữ gìn an ninh và phát triển đất nước. Ngay trong cuộc

nội chiến với nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã cố gắng xây dựng một lực lượng quân đội

hùng mạnh, tạo tiền đề cho việc xây dựng và tổ chức quân đội về sau. Chính sách về

quân đội là một lĩnh vực lớn trong chính sách quốc phòng của chính quyền nhà

Nguyễn.

Quân đội nhà Nguyễn liên tục được củng cố sức mạnh từ thời Gia Long, đến

thời Minh Mạng quân đội được chia thành 3 bộ phận: Thân binh (hộ vệ vua), Cấm

binh (phòng thủ hoàng thành), Tinh binh hay Biền binh (ở kinh đô và các địa phương).

Ngoài ra có một số thuộc binh (lính lệ, hộ vệ các quan) [37, tr.443].

Dựa theo phương tiện, vũ khí và kỹ thuật chiến đấu, quân đội nhà Nguyễn đến

thời Minh Mạng được chia theo binh chế với các loại: bộ binh, thủy binh, tượng binh,

kỵ binh và pháo binh [14, tr.430].

134

Quân số của nhà Nguyễn được ngày càng được tăng cường. Thời kì mới lập

quốc quân số theo ghi nhận của John Barrow người đi theo sứ bộ Macartney, lấy tài

liệu của L. Barizy để ghi nhận:

Bộ binh bao gồm: 24 đội kỵ binh với 6.000 người; 16 đại đội tượng quân (200

voi) với 8.000 người; 30 đại đội pháo binh với 15.000 người; 25 liên đội (mỗi đơn vị

1.200 người); võ trang súng tay 30.000 người; Khinh binh võ trang gươm giáo và súng

mồi với 42.000 người; Cận vệ tập luyện chiến thuật Tây phương 12.000 người. Tổng

quân số bộ binh là 113.000 người [56, tr.224].

Thủy binh bao gồm: Lính làm thuốc đạn của xưởng đóng tàu với 8.000 người;

Thuỷ binh trên các tàu trong cửa biển với 8.000 người; Thuỷ binh trên các tàu đóng

kiểu Âu với 1.200 người; Thuỷ binh trên các ghe bầu với 1.600 người; Thuỷ binh trên

các thuyền chiến có chèo với 8.000 người. Tổng quân số thủy binh là 26.800 người.

Tổng quân số nhà Nguyễn lúc bấy giờ là 139.800 người [56, tr.224].

Theo một ghi nhận khác của hai người Pháp là Baridi (Barisy) và Senho

(Chaigneau) cũng vào thời Gia Long quân số có sự thay đổi, theo đó quân bộ là

115.000 người, quân thủy là 17.600 người. Theo Đại Nam thực lục thì tổng số quân

năm 1820 là khoản 204.220 người; năm 1840 là khoản 212.290 người. Ước tính các

loại là 4 vạn bộ binh bảo vệ triều đình trung ương, 15.000 thủy binh và hơn 10 vạn

biền binh. Ngoài ra còn có một đạo tượng binh mạnh (riêng ở kinh thành có 105 thớt

voi với hơn 500 quân, Bình Định có 15 thớt voi với 119 quân, Hà Nội có 13 thớt voi

với 122 quân, Quảng Nam có 25 thớt voi với 223 quân...) và một lực lượng pháo binh

lớn (các tỉnh đều có đại bác), thêm một số quân dùng súng tay [37, tr.443].

Bộ binh thì có kinh binh và cơ binh. Kinh binh chia ra làm doanh, vệ, đội để

đóng giữ ở Kinh thành, hoặc sai đi đóng giữ các tỉnh. Mỗi doanh có 5 vệ, mỗi vệ có 10

đội, mỗi đội có 50 người. Những binh khí của mỗi vệ, thì có hai khẩu súng thần công,

200 khẩu điểu thương và 21 ngọn cờ. Cơ binh là lính riêng của từng tỉnh, cũng chia ra

làm cơ, làm đội.

Tượng quân chia ra thành đội, mỗi đội là 40 con voi [14, tr.431]. Chính quyền

nhà Nguyễn quy định: Định lệ lương cho lính kinh tượng và lính tượng cơ các địa

phương (Lấy số voi mà tính suất. Ở Kinh, voi ngự mỗi thớt có 20 người, 10 người mỗi

135

tháng mỗi người được cấp 1 quan tiền, 1 phương gạo, còn 10 người, mỗi người mỗi

tháng 1 phương gạo. Voi đực mỗi thớt 10 người, 5 người mỗi tháng mỗi người 1 quan

tiền ; 1 phương gạo, còn 5 người mỗi người 1 phương gạo ; voi cái mỗi thớt 5 người, 2

người mỗi tháng mỗi người một quan tiền, 1 phương gạo, còn 3 người mỗi người 1

phương gạo ; voi đực voi cái ở các thành dinh trấn, mỗi thớt 5 người, 2 người mỗi

tháng mỗi người 1 quan tiền, 1 phương gạo, còn 3 người mỗi người 1 phương gạo. Đội

trưởng thì chiếu phẩm trật mà chi lương) [38, tr.139].

Thủy quân có 15 vệ, chia ra làm 3 doanh, mỗi doanh có quan chưởng vệ quản

lĩnh, và có quan đô thống coi cả 3 doanh. Vua Minh Mạng vẫn biết rằng nước ta ở dọc

bờ biển, thủy binh là việc rất yếu trọng cho sự phòng bị. Vua thường bắt quan quân

đem binh thuyền ra luyện tập [14, tr.431]. Năm 1825, vua Minh Mạng ra dụ nói rõ:

“Nước ta ở phương Nam đất nhiều bãi biển, thủy sư rất là quan yếu, nên thường xuyên

huấn luyện khiến cho thuộc hết đường biển, đường sông. Nay thủy quân ở kinh, hiện

đã đặt thêm nhiều mà các địa phương ven biển cũng đều có thủy quân. Vậy các viên

chưởng lĩnh cai quản ở kinh, đốc phủ, bố án, lãnh binh ở ngoài đều chiểu lệnh. Thủy

quân nên thi hành diễn tập, chẳng hạn loại: thuyền mành, cột buồm, dây thuyền, người

cầm lái và thủy thủ, tiến hành thao diễn, cốt được người tinh thạo, sau đến đường biển,

đường sông, chỗ nông, chỗ sâu, chỗ hiểm, chỗ dễ và chỗ đảo lớn, đảo nhỏ nhất thiết

phải tránh, nên khiến cho tập để biết tất cả. Rồi quay lại dạy về súng lớn, súng nhỏ

khiến cho được tinh thạo, để phòng khi có dùng đến” [30, tr.629].

Về việc quân cơ, Minh Mạng rất chú trọng. Nhà vua lập toán giáo dưỡng binh,

để cho con các quan võ, từ suất đội trở lên ai muốn tình nguyện vào học, thì cho lương

bổng, và cử quan đại thần ra dạy võ nghệ. Còn như khi nào có quân lính đi đâu, thì nhà

vua đặt lệ sai mấy người y sinh đi theo để điều hộ [14, tr.431].

Những binh khí thì dùng gươm, giáo, mã tấu, súng lớn bằng đồng gọi là súng

đại bác, súng nhỏ gọi là súng thạch cơ điểu thương, nghĩa là bắn thì mổ bằng máy đá

lửa. Ở chỗ kinh thành lập ra ba sở xạ trường để quân lính tập bắn. Ở các cửa bể đều

làm đồn đặt súng để phòng giữ và để xem xét những tàu bè ngoại quốc đi lại [14,

tr.431].

136

Nước Việt Nam ta có nhiều bờ biển cần phải giữ gìn, bởi vậy vua Minh Mạng

lưu tâm về việc chỉnh đốn binh thuyền: lấy người ở gần bể về doanh Quảng Đức và

doanh Quảng Nam làm 6 vệ thủy quân đóng tại Kinh thành. Còn ở các hải khẩu, mỗi

nơi có một cơ lính thủy coi giữ. Nhà vua lại làm một thứ thuyền lớn ngoài bọc đồng,

để đi lại tuần phòng ở miền bể [14, tr.431].

Riêng về việc quản lý và thực thi chủ quyền trên Biển Đông và Biển Tây cũng

như trên các đảo quần Hoàng Sa và Trường Sa rất được các vua Nguyễn chú ý thực

hiện. Tiếp nối truyền thống giữ biển, giữ đảo của dân tộc ta từ thời các chúa Nguyễn

cũng như thời Tây Sơn, các vua nhà Nguyễn đã có các hoạt động rất cụ thể. Đại Nam

thực lục chép vào năm 1803, tức là chỉ mấy tháng sau khi thành lập Vương triều, vua

Gia Long “lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch

lập làm đội Hoàng Sa” [39, tr.566]. Không chỉ có đội Hoàng Sa, Gia Long còn cho tái

lập đội Bắc Hải và năm 1805 cho đặt cả đội Hoàng Sa, Bắc Hải vào trong cơ cấu tổ

chức chung của các đội Trường Đà, có chức năng khai thác và quản lý toàn bộ khu vực

Biển Đông kéo dài từ Quảng Bình đến Bình Thuận. Đặc biệt liên tục trong các năm

1815, 1816, Gia Long “sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa

thăm dò đường biển” [39, tr.898], triển khai các hoạt động thực thi chủ quyền một

cách kiên quyết và đồng bộ.

Hoạt động thực thi chủ quyền của vua Gia Long ở Hoàng Sa, Trường Sa không

chỉ không chỉ được lưu giữ, ghi chép lại trong các bộ sách chính sử của triều đình mà

còn được nhiều người phương Tây chứng thực và đề cao. Giám mục người Pháp Jean

Louis Taberd đã từng nhiều năm truyền giáo ở Trung Kỳ và Nam Kỳ đầu thế kỷ XIX

đã ghi nhận trong Tài liệu về địa lý của Cochinchina trong Tạp chí xã hội Châu Á:

“năm 1816, vua Gia Long đã cho cắm cờ chính thức giữ chủ quyền ở Hoàng Sa và

không có ai tranh giành với ông ta”.[77]

Đến cuối đời Gia Long, xu thế quân sự hóa và chính quy hóa các đội Hoàng Sa,

Bắc Hải ngày càng mạnh theo hướng quy thuộc vào đội Thủy quân. Các đội Hoàng Sa,

Bắc Hải hoạt động mạnh và hiệu quả dưới thời vua Gia Long cho đến đầu thập kỷ 20

của thế kỷ XIX thì được tích hợp vào đội Thủy quân của triều vua Minh Mệnh. Đội

Thủy quân là quân đội chính quy của nhà nước, mặc nhiên được mở rộng tuyển chọn

137

lực lượng trong cả nước, nhưng những nguời chuyên trách công việc ở Hoàng Sa,

Trường Sa vẫn chủ yếu tuyển chọn từ những người dân An Vĩnh, Sa Kỳ và đảo Lý

Sơn. Phạm vi hoạt động của đội Thủy quân là trên toàn tuyến biển đảo cả Hoàng Sa,

Trường Sa và các vùng biển đảo khác thuộc chủ quyền của nước Đại Nam.

Dưới triều vua Minh Mạng thủy quân nhà Nguyễn được tổ chức chặt chẽ và

quy củ. Ngoài nhiệm vụ đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ thủy quân nhà Nguyễn còn phải

thực thi nhiệm vụ quan trọng đó là cắm mốc, dựng bia chủ quyền trên các quần đảo

Hoàng Sa và Trường Sa.

Lực lượng thủy quân nhà Nguyễn được vua Minh Mạng cải tiến, ông định kích

thước và kiểu dáng cho từng hạng thuyền làm chuẩn mực để các xưởng thuyền theo

các quy thức đó mà đóng. Minh Mạng đã cho đóng một số thuyền máy hơi nước theo

kiểu phương Tây và mua một số tàu hơi nước đi biển của phương Tây để tăng cường

cho lực lượng phòng thủ biển ở các vị trí then chốt.

Năm Nhâm Ngọ (1822), vua Minh Mạng cho mua một chiếc thuyền bọc đồng

của Pháp đặt tên là Điện Dương (Sấm Sét) để làm mẫu cho các xưởng đóng thuyền

nghiên cứu và đóng theo mẫu thuyền này. Đại Nam Thực Lục có chép: “Tháng 6 năm

ấy, vua sai Thống chế thủy sư Phan Văn Trường coi đóng thuyền hiệu theo kiểu Tây

dương” [40, tr.223]. Chiếc thuyền bọc đồng đầu tiên hoàn thành được đặt tên là Thụy

Long (Điềm Lành), sau đó hàng loạt thuyền bọc đồng được đóng thêm chủ yếu là

thuyền chiến, một số là thuyền dùng trong các chuyến tuần du trên Biển Đông.

Năm 1834, Minh Mạng tiếp tục ban dụ: “các Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh,

Án sát ở các địa phương ven biển, đều nên xét các đảo ở hải phận trong hạt hiện có

dân cư, thì điều sức cho dân ở tỉnh ấy đem thuyền đánh cá nhanh chóng sửa chữa, cho

được nhanh nhẹn. Nơi dân số nhiều thì làm 2, 3 chiếc. Mỗi chiếc có thể ngồi được trên

dưới 20 người. Về phí tổn sửa chữa hết bao nhiêu, thì nhà nước cấp tiền. Lại liệu cấp

cho dáo dài, súng trường, thuốc đạn, giao cho dân ấy nhận lĩnh, để dùng đi tuần thám.

(51Nội các triều Nguyễn, Viện sử học (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ,Tập 5, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.426

Khi gặp giặc biển, thì một mặt cùng nhau chống đánh, một mặt chạy báo, cho khỏi bị chậm trễ không kịp việc” (51).[78]

138

Minh Mạng ban dụ: “Từ Quảng Trị trở ra Bắc, từ Quảng Nam trở vào Nam đều

nhanh chóng phái 3, 4 chiếc thuyền binh theo hạt biển đi tuần xét. Một khi gặp thuyền

dị dạng của nước Thanh, hoặc trong thuyền hiện có súng ống, khí giới, cho đến đồ vật

hàng năm bị cướp, và tình hình đáng ngờ, nguyên do phức tạp, thì lập tức giải trình về

trấn ấy. Một mặt tâu lên, một mặt xét rõ, xử tội nặng thêm bậc, tâu lên. Những thuyền

binh được phái đi, cũng nên hết lòng dạy bảo nghiêm ngặt, không được nhân việc mượn cớ quấy rối thuyền buôn”(52).

Công tác tuần tra được tiến hành theo chu kì nhất định, tùy thuộc vào thời gian

có nhiều thuyền buôn và thuyền công sai đi lại nhiều hay ít. Như bản dụ năm 1835:

“mỗi khi mùa hè đến kì vận tải thì do Đề đốc Thừa Thiên liệu đem theo biền binh

thuộc phủ và đem theo biền binh ở đồn biển cùng ra biển, căn cứ theo hải phận qua lại

cùng tuần thám bảo vệ. Nếu kì nào đoàn thuyền đi vận tải số nhiều, thì cho tư bộ sức

thêm thuyền binh, cùng đi do thám.... Những thuyền binh hàng năm phái đi, cho cứ vào tháng 3 bắt đầu, tháng 7 thì thôi. Điều này ghi làm lệ”(53). Binh thuyền phái đi

cũng luân phiên thay đổi 3 tháng một lần bởi “phái đi lâu ngày, có phần nhọc mệt, nay

chuẩn cho các viên quản vệ đang tại ngũ ở nguyên mà quản suất, còn các viên quản

suất dư dả cho đến quân lính, cứ 3 tháng phải chiếu số thay đổi, để cho kẻ làm người nghỉ được đồng đều”(54). Tuy nhiên cũng tùy theo từng điều kiện cụ thể mà có thể tiến

hành sớm hoặc muộn hơn có khi tháng giêng, tháng hai đã phải tiến hành tuần thám

như bản dụ năm 1838 cho biết: “trước đây trẫm đã giáng lời dụ hàng năm binh thuyền

đi tuần ngoài bể, cứ tháng hai ra đi. Nay tháng giêng trời đã sáng tỏ mà đường đi thuận

(52)Nội các triều Nguyễn, Viện sử học (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ,Tập 5, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.426 (53)Nội các triều Nguyễn, Viện sử học (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ,Tập 5, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.427 (54)Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Châu bản triều Tự Đức, (1848 – 1883), tr.310 (55)Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Châu bản triều Tự Đức, (1848 – 1883), tr.226 (56)Nội các triều Nguyễn, Viện sử học (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ,Tập 5, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.435

tiện, chính là thời kì thuyền buôn đi về, thời nên phái đi tuần tiễu ngay để yên vùng bể”(55). Đặc biệt ở các vùng biển có nhiều hải tặc thì không kể mùa nào bởi “tấn thủ sở tại vốn có trách nhiệm tuần phòng”(56).[78]

139

Năm 1836, vua Minh Mạng đã ra lệnh cho Bộ Công đúc 9 đỉnh đồng khổng lồ.

Cửu đỉnh được đặt trước Thế miếu nơi thờ tự các nhà vua triều Nguyễn. Điều đáng nói

là trên Cửu đỉnh có 153 hình ảnh được khắc đều là những địa danh nổi tiếng của đất

nước. Đặc biệt trên Cao Đỉnh hình ảnh Biển Đông dậy sóng được thể hiện một cách

tinh tế. Tiếp đó trên Nhân Đỉnh có biển Nam tức Nam Hải, Chương Đỉnh có biển Tây

tức Tây Hải. Đây là ba đỉnh to cao nhất tượng trưng cho ba vị vua đầu tiên triều

Nguyễn với tầm mắt dõi ra Biển Đông. Những hình ảnh về biển đảo trên Cửu đỉnh đã

khẳng định quyền làm chủ Biển Đông và giữ vững hải phận của triều đình nhà Nguyễn

thủơ ấy.

Dưới thời vua Thiệu Trị (1841 – 1846), triều đình nhà Nguyễn phải lo đối phó

với quân Xiêm trong cuộc chiến tranh từ năm 1841 đến 1845. Do vậy, trong giai đoạn

lịch sử này, triều đình không thể tập trung toàn bộ lực lượng thuỷ quân cho công tác

khai thác biển đảo, việc cử người đi Hoàng Sa, Trường Sa nhiều lần bị đình hoãn

nhưng hoạt động chủ quyền biển đảo vẫn được duy trì. Trong thời kì này có rất nhiều

“đơn” xin ra Hoàng Sa, Trường Sa, đích thân vua châu phê vì công việc bận hoặc vì

bão gió chưa cho người ra Hoàng Sa, Trường Sa.

Thời kì triều đại vua Tự Đức là thời kì khó khăn trong lịch sử. Năm 1847, tàu

chiến Pháp bắn những phát súng đầu tiên vào tàu thuyền Việt Nam ở ven biển gần

Huế. Năm 1858, Pháp và Tây Ban Nha đánh vào cửa biển Đà Nẵng chiếm bán đảo

Sơn Trà cuộc chiến xâm lược của Pháp từ biển vào đã mở màn. Lực lượng thuỷ quân

của triều đình phải tập trung đối phó với cuộc xâm lược của Pháp nên không còn điều

kiện để thường xuyên ra Hoàng Sa, Trường Sa. Nhưng ý thức trách nhiệm về chủ

quyền của mình ở Hoàng Sa và Trường Sa vẫn giữ vững.

Đặc biệt, trong giai đoạn vương triều Nguyễn của vua Thiệu Trị và Tự Đức có

rất nhiều Bộ sách của Quốc sử quán triều Nguyễn được hoàn thành, trong đó đều ghi

chép khá rõ ràng về việc thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường

Sa như: bộ sách Đại Nam Thực lục Chính biên được biên soạn theo lối biên niên tính

từ năm 1778 cho đến năm 1888; Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ do Nội các triều

Nguyễn tổ chức biên soạn theo chỉ dụ của vua Thiệu Trị và được hoàn tất vào năm Tự

Đức thứ 4 (1851) và khắc in xong vào năm Tự Đức thứ 21 (1868); Đại Nam nhất

140

thống chí, như tên gọi của nó là bộ sách địa lý lịch sử chung và chính thống của nước

Đại Nam, do vua Tự Đức chỉ thị cho Quốc sử quán tổ chức biên soạn từ năm 1865 và

về cơ bản hoàn thành vào năm 1882; Bộ sách Việt sử cương giám khảo lược là bộ sách

địa lý lịch sử của Nguyễn Thông gồm 7 quyển, trong đó 2 quyển đầu chép về lịch sử

còn 5 quyển tiếp theo chép về địa lý lịch sử vào năm 1876; Khải đồng thuyết ước,

được khắc in vào năm Tự Đức thứ 34 (1881).

Từ đầu thế kỷ XIX với sự ra đời của Vương triều Nguyễn cai quản một vùng

lãnh thổ, lãnh hải có nguồn gốc từ 3 quốc gia cổ đại đầu tiên và được tái xác lập và ổn

định tính từ năm 1757, quan niệm về Biển Đông đã được hiểu một cách thống nhất là

vùng biển rộng dài chạy dọc theo và che chở cho toàn bộ mặt đông của lãnh thổ, tính

từ Móng Cái cho đến mũi Cà Mau, mở rộng ra không chỉ toàn bộ các dải đảo ven bờ,

mà cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nói một cách khác, quan niệm thống nhất

và phổ biến của Việt Nam về Biển Đông như hiện nay, trên thực tế đã được xác lập từ

đầu thế kỷ XIX.

Về lệ duyệt binh: ở tỉnh An Giang cứ ba năm tổ chức 1 lần; tỉnh An Giang

(thuộc Nam Kỳ) tổ chức vào các năm dần, tỵ, thân, hợi; Bắc Kỳ vào các năm tý, ngọ,

mẹo, dậu; Tả, Hữu Kỳ vào năm thìn, mùi, tuất, sửu; khi đến kì hạn phải 1 viên đại thần

văn hay võ và 1 viên khoa đạo đến kiểm duyệt [30, tr.22].

Về việc tuyển binh: là việc hết sức quan trọng. Vua Gia Long từng nhắc nhở

các quan tướng rằng: “Binh là việc lớn của nước, không binh thì lấy gì giữ nước” [39,

tr.916]. Vì vậy, từ thời Gia Long việc tuyển binh ở An Giang được quy đinh theo lệ

chung cho cả nước, vua đã chuẩn định cho các quan vũ, quân lính ở mọi quận, doanh,

chi, hiệu, đội, thuyền thuộc quân thủy, quân bộ, phải do quan cai quản lựa kỹ. Từ

Trưởng chi đến Đội trưởng định số cho thực. Nếu chọn lựa không được thì gộp cùng

thuộc binh các nha tính riêng gộp riêng, hết thảy bổ theo địa phận để có liên lạc với

nhau. Lại sai quan chia đi lựa chọn kén những người tinh tráng, đặt làm phủ binh dồn

vào các quân doanh, các chi, hiệu, đội. Nếu không đủ ngạch, lấy phủ binh ngạch cũ và

dân đinh sung thêm. Khi vô sự thì về làm ruộng, cấy cày xong nhàn rỗi thì giảng võ.

Khi có việc thì triệu về. Người được lựa chọn mà vui theo được làm nhân viên còn

quân lính thời cho quan cai quản ghi vào sổ riêng, không ở lệ tuyển. Ai có anh em ruột

141

thịt có 4 người mà 3 người đã ở quân, thời do Bộ Binh xét thực miễn cho 1 người khỏi

phải ra lính và các lao dịch để nuôi dưỡng cha mẹ [30, tr.359].

Đến năm Gia Long thứ 13 (1814), tuyển lính ở Gia Định thành trong đó có An

Giang được định lệ “Nếu có anh em ruột thịt từ 3 người trở lên, có 2 người thời ở

quan hoặc làm lính thì nhũng người còn lại được miễn. Nếu có 3 anh em ruột thịt mà 1

người thời ở quan hoặc làm lính thì 2 người còn lại được miễn. Nếu có 2 anh em ruột

thịt mà 1 người thời ở quan hoặc làm lính thì người còn lại được miễn. Người làm lính

đích thực là tinh binh đóng ở Kinh hoặc đóng ở Bắc thành căn cứ vào thực ngạch nếu

có nhập cư làm thuộc hạ các nha không theo lệ này” [30, tr.361]. Gia Long quy định ở

Gia Định thành cứ 8 đinh lấy 1 suất lính, còn biệt nạp cho đồn điền các trại thì 3 đinh

lấy 1 suất. Đến năm Minh Mạng thứ 15 (1834), tỉnh An Giang xét tuyển lính trước và

số dân ở sổ cùng các đồn điền cho về, tính toán khấu đi, cứ 5 đinh tuyển lấy 1 lính [30,

tr.366].

Vùng đất An Giang trong thời kì này với vai trò yếu địa biên phòng luôn được

chính quyền nhà Nguyễn đặc biệt quan tâm trong việc bố trí quân đội trấn giữ, bố

phòng biên giới. Theo đó, An Giang có 1 Thủy vệ; 5 cơ: Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu

(đều lính tuyển); 1 cơ An Biên (mộ lính thổ); 1 Đội pháo thủ và 1 ty Hành Nhân (đều

lính mộ) [30, tr.255 ].

- Thủy vệ An Giang (gồm 10 đội) [30, tr.96]:

Thời Gia Long, nguyên đặt cơ Vĩnh Bảo và lính Bảo Thành. Đến năm Minh

Mạng thứ 13 (1832), trích lấy binh đinh ở cơ Vĩnh Bảo và vệ Bảo Thành 420 người,

đặt làm Thủy cơ An Giang; năm thứ 15, lại tuyển lính, trích lấy 500 lính tuyển ở hạt

ấy, dồn bổ làm 10 đội Thủy cơ An Giang, rồi thăng làm Thủy vệ An Giang [30,

tr.255]. Năm 1854, Vệ thủy An Giang có 65 thuyền Điển thủ [45, tr.311].

- Năm cơ (Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu) đều 10 đội, riêng Hậu cơ chỉ có 6 đội

[30, tr.96].

Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), trích lấy lính ở cơ Vĩnh Bảo trung, quê thuộc

An Giang, hiện ngạch 474 tên, đặt làm cơ An Bình; năm thứ 15 (1834), đem cơ An

bình Thủy cơ An Giang, cùng tráng dân có tên trong sổ trừ số lính dồn bổ vào Thủy cơ

An Giang Nhất 481 người, còn 2.380 tên dồn làm 5 cơ An bình từ 1 – 5; năm Minh

142

Mạng thứ 17 (1836), đổi 5 cơ An Bình thành 5 cơ An Giang Trung, Tiền, Tả, Hữu,

Hậu [30, tr.255-256 ].

- Cơ An Biên gồm 4 đội [30, tr.96]:

Năm Minh Mạng thứ 14 (1833), viên Ốc nha Sơn Liêm Mộc chiêu mộ dân ở

phủ Chân Chiêm 500 tên dồn làm 10 đội gọi là cơ An Biên. Năm thứ 16 (1835), cơ An

Biên hiện còn 386 tên, vẫn để ngạch cũ sau bổ làm 10 đội. Lại mộ thêm dân phủ Chân

Chiêm 500 tên nữa, đặt làm 10 đội, từ số 1 – 10, thuộc cơ An Biên thứ 2. Lại mộ dân

phủ Mật Luật 160 tên đặt làm 3 đội, từ 1 – 3, thuộc cơ An Biên thứ 3. Năm thứ 21

(1840), cơ Trấn Tây thứ 8 thuộc trấn Ba Xuyên, đổi làm cơ An biên thứ 4, trích giao

cho tỉnh An Giang coi quản, để được gần và tiện [30, tr.256].

- Đội pháo thủ (gồm 2 đội) [30, tr.96]:

Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), nguyên 4 đội pháo thủ thứ 6, thứ 7, thứ 8, thứ

9 ở thành Gia Định dồn làm 2 đội phóa thủ thứ nhất và thứ hai ở An Giang, giao cho

thành Thủy Úy ở hạt ấy kiêm quản. Rồi do tỉnh ấy chia đi đóng ở pháo đài Kim Dữ

thuộc Hà Tiên và đồn Châu Đốc. Năm thứ 18 (1837), binh đinh ở 2 đội Pháo thủ hiện

ngạch không còn mấy, cho tỉnh ấy chọn số lính ở các vệ, cơ, lấy ra 1 đội, sung làm đội

Pháo thủ, giao cho các viên suất đội ở đội Pháo thủ trước cai quản để thao diễn. Năm

Thiệu Trị thứ 4 (1844), tuyển thêm 50 lính, đặt làm đội Pháo thủ thứ hai. Còn đội Pháo

thủ lựa trước sung làm đội Pháo thứ nhất [30, tr. 256-257].

Bên cạnh các đội pháo, chính quyền nhà Nguyễn còn bố trí các pháo đài và cấp

súng thần công, trọng pháo ở các đồn bảo. Năm 1834, Minh Mạng đã chuẩn y theo sự

phân tích và kiến nghị của triều thần “Từ miền hạ du Châu Đốc đến thủ sở Chiến Sai

cũ là nơi đường thủy Tiền Giang – Hậu Giang tất phải đi qua. Quan quân đi tuần tiễu,

đã có đặt đồn đóng quân. Xin vẫn ở chỗ ấy, lập 2 pháo đài ở 2 bên tả hữu : 1 cái đặt

tên là Toàn Thắng đài, 1 cái là Phá Địch đài, liệu phái biền binh đóng giữ.” [42, tr.30].

Năm 1835, tỉnh thành An Giang được cấp: 1 cỗ đại luân xa Thảo nghịch tướng

quân đồng pháo, 1 cỗ Võ công tướng quân đồng pháo, 20 cỗ quá sơn đồng pháo.

Thành Châu Đốc : 10 cỗ Hồng y cương pháo, 2 cỗ phách sơn cương pháo, 10 cỗ quá

sơn đồng pháo. Đồn Châu Giang 2 cỗ Hồng y cương pháo, 6 cỗ Quá sơn đồng pháo.

Hai đồn Tân Châu và An Lạc : mỗi đồn đều 2 cỗ Hồng y cương pháo và 6 cỗ Quá sơn

143

đồng pháo. Tấn sở Lô An : 2 cỗ Hồng y cương pháo, 4 cỗ quá sơn thiết pháo. Ba đồn

Vĩnh Tế, Vĩnh Nguyên và Chu Phú: mỗi đồn đều 4 cỗ quá sơn thiết pháo. Tất cả cộng

100 cỗ.[42, tr.827]

- Ty Hành Nhân (1 ty) [30, tr.96]:

Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), mộ dân ngoại tịch 72 người lập làm đội Thông

ngôn ở hạt ấy. Năm thứ 20 (1839), đổi đội Thông ngôn lầm ty Hành Nhân, còn bọn

binh đinh đó đổi gọi là Hành Nhân. Có thể thấy, quân đội nhà Nguyễn được tổ chức và

quản lý trên vùng đất An Giang rất chặt chẽ nhằm giữ vững nhiệm vụ bảo vệ biên giới

Tây Nam của tổ quốc [ 30, tr.257].

Về quan chế của nhà Nguyễn quy định tại An Giang rất rõ ràng: An Giang là

tỉnh lớn - đặt chức Đề Đốc An Giang và Lãnh binh An Giang (Chánh tam phẩm), Phó

lãnh binh (Tòng tam phẩm) đều 1 người. [30, tr.17]. Đến năm 1835, vua Minh Mạng

có chỉ “biền binh tỉnh An Giang chỉ đặt 1 lãnh binh” [30, tr.86]; đến năm 1841 đặt

thêm 2 phó lãnh binh, “Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841): Ở An Giang phải chia quân đi

đánh dẹp nhiều ngã, trước đặt 1 viên Lãnh binh quan sợ khó trông coi chu đáo nên vẫn

đặt thêm 2 viên phó lãnh binh quan.” [30, tr.91]. Đến năm 1842, vua Thiệu Trị lại có

dụ: các tỉnh An Giang, Hà Tiên, Định Tường là nơi địa đầu quan yếu, quan quân đóng

ở đó ngày thêm nhiều ra thì 2 tỉnh An Giang, Hà Tiên đều đặt thêm 1 Lãnh binh quan

[30, tr.90]. Năm 1844, có dụ tỉnh An Giang, Lãnh binh quan cai quản Chánh tiêu binh

toàn hạt và trung cơ An Giang, thủy vệ An Giang; Phó lãnh binh quan cai quản hữu

Phó tiêu binh toàn hạt và 2 cơ An Giang Tiền, Hậu [30, tr.92]. Năm 1851, vua Tự Đức

ra dụ thay đổi: An Giang là nơi địa đầu xung yếu, vậy cho đặt 1 viên Lãnh binh quan

chuyên coi 2 cơ Trung, Tiền An Giang và vệ Thủy An Giang và 1 viên Phó lãnh binh

quan chuyên coi 3 cơ Tả, Hữu, Hậu An Giang. Còn hai viên Phó Lãnh binh hiện tại là

Nguyễn Công Nhàn và Nguyễn Cương chuẩn cho tỉnh ấy sát hạch, người nào thực làm

giỏi được việc vẫn cho lưu lại cung chức [30, tr.93].

Về quản lý các quản, suất ở Vệ, Cơ, Đội của tỉnh An Giang: Ở Vệ - đặt Vệ úy

(Tòng tam phẩm), Phó vệ úy (Chánh tứ phẩm): ở cơ sở đặt Quản cơ (Chánh tứ phẩm),

Phó quản cơ (Tòng tứ phẩm) đều 1 người. Mỗi đội đặt Cai đội (Tòng ngũ phẩm) 1

người; Đội trưởng (Tòng thất phẩm) và Ngoại ủy đội trưởng đều 2 người [30, tr.17].

144

Năm Gia Long thứ 5 (1806) chuẩn định: Lệ đặt viên quản suất ở doanh, vệ, cơ, đội,

thuyền về các quân thủy, bộ tại ngoại. Các doanh Thần Sách: ở mỗi vệ lấy Vệ úy, Phó

vệ úy đều 1 người; mỗi vệ đều 10 đội; ở mỗi đội lấy Cai đội, Phó cai đội đều 1 người,

chia đội làm 4 Thập, ở mỗi Thập lấy 1 Đội trưởng. Các cơ Thủy quân; mỗi cơ lấy

Chánh, Phó quản cơ đều 1 người, cơ chia làm 10 đội; mỗi đội lấy Cai đội 1 người; đội

chia làm 4 Thập; mỗi Thập lấy 1 Đội trưởng[30, tr.98].

Năm 1836, vua Minh Mạng chuẩn cho 5 sở Tân Châu, Châu Giang, Cường

Thắng, Trấn Di, Mĩ Thanh mới đặt ở An Giang đều đặt 1 viên Thủ Ngữ. Các tấn Tân

Châu, An Lạc, Châu Giang, Cường Thắng, Trấn Di trước đặt 1 viên Thủ Ngữ không

kể; nay lại đặt thếm ở đội Tân Châu 1 Thứ đội trưởng, ở đội An Lạc hai Ngoại ủy đội

trưởng, ở 2 đội Châu Giang: đội Nhất lấy 4 Ngoại ủy đội trưởng, đội Nhì lấy 1 Đội

trưởng, 4 Ngoại ủy đội trưởng, đội Cường Thắng lấy 2 Đội trưởng, 2 Ngoại ủy đội

trưởng, đội Trấn Di lấy 2 Ngoại ủy đội trưởng đều cùng các viên Thủ Ngữ tuần phòng

mặt thủy [30, tr.112].

Đồn Châu Đốc, kho Đốc Tín đều đặt 1 đội lính kho. Mỗi đội đặt 1 đội trưởng, 1

thứ đội trưởng, 4 thập trưởng. Vẫn lấy số đinh các xã, thôn gần thành, gần trấn sung

vào lính kho. Lại chọn hương hào khỏe mạnh trong thôn, xã đặt làm đội trưởng, thứ

đội trưởng, thập trưởng [30, tr.452].

Bên cạnh việc xây dựng lực lượng quân đội ở An Giang, chính quyền nhà

Nguyễn cũng tiến hành tu bổ, xây mới thành trì, đồn, bảo, thủ, sở, trạm sông hỗ trợ

quân đội phục vụ cho công tác quốc phòng biên giới và giữ gìn an ninh khu vực.

Trong suốt thời kì từ Gia Long đến Tự Đức trên vùng đất An Giang các cơ sở, căn cứ

quân sự trên có mặt ở hầu hết những vị trí chiến lược trong tỉnh.

*Tuyến phòng thủ trên mặt sông Hậu:

- Công trình quan trọng được tiến hành xây dựng vào năm Gia Long thứ 14

(1815) là đồn Châu Đốc. Đồn do Trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường chỉ huy với

tổng số lượng dân binh lên đến khoảng 7.000 người [39, tr.917-941]. Đồn được đắp

theo hình lục giác, xung quanh có chiến hào thông ra sông Hậu, từ phía trước ra phía

145

sau dài 162 trượng, cao 7 thước, chân dày 6 tầm, ngọn túm bớt 5 thước(57), có hai bậc,

lưng tựa hướng Kiền, mặt hướng Tốn, phía phải giáp sông lớn, 3 phía trước sau và trái

có hào rộng 20 tầm, sâu 11 thước ta, thông với sông cái, với 3 cửa tả, hữu và sau, trước

mặt trông ra sông Hậu. Trong đồn có nhà quân và kho chứa [47, tr.216]. Năm 1817,

đồn Châu Đốc làm xong. Sai trấn thành Gia Định điều động 100 lính cơ ở bốn trấn,

500 lính đồn Uy viễn, chọn người giỏi cai quản để đóng giữ đất ấy. Lính thì ba tháng

một lần đổi, quản thủ thì một năm một lần đổi. Lại sai chở 40 cỗ súng gang và thuốc

đạn chia đặt ở bảo sở để nghiêm việc phòng giữ [39, tr.946]. Đồn Châu Đốc nằm ngang đối diện có đồn Tân Châu ở Tiền Giang cách về phía đông 32 dặm(58) rưỡi, phía

tây cách trấn Hà Tiên hơn 203 dặm, phía bắc cách thành Nam Vang 244 dặm rưỡi, thật

là một nơi biên phòng trọng yếu[47, tr.216]. Đây được xem là căn cứ quân sự trọng

yếu án ngữ phòng thủ mặt biên giới Tây Nam, tạo thế khống chế Chân Lạp.

- Thành tỉnh An Giang là nơi rất quan trọng được xây dựng tại Châu Đốc được

lấy làm nơi đóng trú của Tổng đốc An Hà. Thành tỉnh An Giang có chu vi 262 trượng,

cao 9 thước, với 3 cửa ở phía trước, phía tả và phía hữu, mặt ngoài trồng tre, bốn mặt

đào hào sâu 6 thước, bên ngoài hào có đắp đê cao 2 thước 7 tấc gọi là đê Hộ Hà.

Thành này trước là bảo Châu Đốc đắp từ năm Gia Long thứ 15 (1816), năm Minh

Mạng thứ 13 (1832) đặt lỵ sở của tỉnh [47, tr.192-193].

- Đồn Châu Giang được tu sửa trên nền thủ sở đạo Châu Đốc cũ, thuộc địa phận

huyện Đông Xuyên (ngang với Châu Đốc). Đồn này đóng ở nơi xung yếu tại đầu bãi,

thượng bị nước lụt phá vỡ. Năm Gia Long thứ 17 (1818), vua ban chỉ cho Trấn thủ

trấn Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Xuân xem xét địa điểm, dời lên vùng thượng lưu cách

chỗ cũ một dặm, đắp đồn đất vuông, tựa hướng bắc mặt trông đến hướng nam, mỗi

mặt 30 tầm, cao 6 thước 5 tấc ta, chân dày 3 tầm, ngọn túm bớt 4 thước ta, chỗ chính

giữa mặt đồn đều đắp nhọn ra như hình bát giác. Mặt phải mặt trái chỗ gần góc mặt

tiền đều mở một cửa, hào rộng 3 tầm, có lũy dài 4 tầm, mặt trước bên phải cách sông

35 tầm, đổi tên lại là đồn Châu Giang, làm chỗ đóng quân để phòng thủ.Đến năm

(57)Theo đơn vị đo đất đai ở Việt Nam thời kỳ trước thế kỉ XIX: 1 trượng = 2 tầm = 10 thước = 4m (58)Vào đầu thế kỉ XIX, 1 dặm = 1.080 thước = 216 tầm = 432m

Thiệu Trị thứ 3 (1843) thì bỏ [47, tr.217].

146

- Bảo Châu Giang nằm ở vị trí cửa dưới của kinh Vĩnh An có chu vi 28 trượng

như hình bán nguyệt, thuộc địa phận huyện Đông Xuyên. Lấy quân ở các đồn Tân

Châu và An lạc đến trấn giữ [47, tr.220].

- Thủ Vĩnh Hùng nằm ở đường lạch bờ phía đông Hậu Giang, thuộc địa phận

huyện Đông Xuyên, được xây dựng thời Nguyễn Ánh phục nghiệp trên đất An Giang

(1789), đến năm Minh Mạng thứ 16 (1835) thì bỏ [47, tr.217].

- Thủ Thuận Tấn nằm ở đầu sông Vàm Nao gần khúc giao với Hậu Giang,

thuộc địa phận huyện Đông Xuyên, được xây dựng thời Nguyễn Ánh phục nghiệp trên

đất An Giang (1789), đến năm Minh Mạng thứ 16 (1835) thì bỏ [47, tr.218].

- Thủ Cường Thành thuộc địa phận huyện Đông Xuyên, được xây dựng thời

Nguyễn Ánh phục nghiệp trên đất An Giang (1789), đến năm Minh Mạng thứ 16

(1835) thì bỏ [47, tr.218].

- Thủ Đông Xuyên nằm ở đường lạch bờ phía tây Hậu Giang, thuộc địa phận

huyện Tây Xuyên, được xây dựng thời Nguyễn Ánh phục nghiệp trên đất An Giang

(1789), sau bỏ. Đến năm Minh Mạng thứ 18 (1837) đổi làm sở thuế quan [47, tr.217].

- Thủ Trấn Di nằm ở vị trí bờ bắc sông Ba Xuyên, thuộc huyện Vĩnh Định,

được xây dựng thời Nguyễn Ánh phục nghiệp trên đất An Giang (1789). Đến năm

Minh Mạng thứ 18 (1837) đổi làm sở thuế quan, sau bỏ [47, tr.217].

- Thủ Cường Thành nằm ở địa phận huyện Đông Xuyên (thuộc huyện Lai Vung

tỉnh Đồng Tháp ngày nay) được xây dựng thời Nguyễn Ánh phục nghiệp trên đất An

Giang (1789). Đến năm Minh Mạng thứ 16 (1835) thì bỏ đi [47, tr.218].

- Thủ Cường Oai nằm ở bờ phía đông sông Hậu, thuộc địa phận huyện Vĩnh An

(thuộc huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp ngày nay), được xây dựng thời Nguyễn Ánh

phục nghiệp trên đất An Giang (1789). Đến năm Minh Mạng thứ 16 (1835) thì bỏ đi

[47, tr.218].

- Thủ Trấn Giang ở bờ Tây sông Cần Thơ, thuộc địa phận huyện Phong Phú,

được xây dựng thời Nguyễn Ánh phục nghiệp trên đất An Giang (1789), lại ở Bãi Xao

(phía bắc biển Mĩ Thanh) đặt một bảo lớn, phái binh sĩ đóng giữ, để tương hợp với thủ

Trấn Di. Đến năm Minh Mạng thứ 16 (1835) thì bỏ đi [47, tr.218].

147

Ngoài các công trình trên theo tuyến sông Hậu trên địa bàn An Giang chính

quyền nhà Nguyễn còn xây dựng các công trình khác như: bảo Bình Thiên, đồn Đa

Phúc, Châu Phú, An Châu. Tất cả đã tạo nên trung tâm phòng thủ, chỉ huy cho cả hệ

thống quốc phòng Tây Nam, góp phần quan trọng giữ gìn nền độc lập và trị an của đất

nước.

*Tuyến phòng thủ trên mặt sông Tiền:

- Bảo Vĩnh Thành nằm ở địa phận huyện Vĩnh An. Bảo này có chu vi 38

trượng, cao 4 thước, đắp từ năm Thiệu Trị thú 2 (1842) [47, tr.219].

- Bảo Vĩnh Thịnh nằm ở địa phận huyện Vĩnh An. Bảo này có chu vi 22 trượng,

cao 4 thước, đắp từ năm Thiệu Trị thú 2 (1842) [47, tr.219].

- Bảo Tân Châu nằm ở địa phận huyện Đông Xuyên. Bảo này có chu vi 11

trượng 2 thước, cao 4 thước, đắp từ năm Thiệu Trị thú 2 (1842). Nguyên là đạo Tân

Châu xưa thời chúa Nguyễn được xây dựng năm 1757, đến năm Gia Long thứ 2

(1804) được đắp lại. Năm Minh Mạng thứ 18 (1837) lấy làm sở thuế quan [47, tr.220].

Đến đời Thiệu Trị thì dùng lại cho công tác quân sự.

- Bảo đất An Lạc nằm ở địa phận huyện Đông Xuyên. Bảo này có chu vi 11

trượng 2 thước, cao 4 thước, đắp từ năm Thiệu Trị thú 2 (1842). Nguyên là thủ sở đạo Chiến Sai(59), năm Minh Mạng thứ 21 (1840) đổi tên thành bảo đất An Lạc [47, tr.220].

- Bảo Tiến An nằm ở địa phận huyện Đông Xuyên, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 7

(1847). Bảo có chu vi 20 trượng, cao 4 thước 5 tấc [47, tr.221].

Các căn cứ, đồn, bảo đóng quân của nhà Nguyễn trên tuyến phòng thủ sông

Tiền thuộc tỉnh An Giang được kết hợp chặt chẽ với các đồn, bảo bên phía bờ đông

sông Tiền tạo ra hệ thống phòng thủ vững chắc, có tính chất bản lề cho công cuộc

phòng thủ Tây Nam.

*Tuyến phòng thủ Thất Sơn - Vĩnh Tế:

- Bảo Vĩnh Tế nằm ở địa phận huyện Tây Xuyên, đắp từ năm Minh Mạng thứ

(59)Thủ Chiến Sai được dựng lập thời chúa Nguyễn, trước đây hợp cùng Thủ Hùng Đạo và đạo Tân Châu trên bãi Doanh Châu (cù lao Giêng) tạo thành thế phòng thủ tam giác (hay còn gọi là Tam Đạo) [47, tr.220].

15 (1834). Bảo này có chu vi 23 trượng 8 thước, cao 5 thước [47, tr.18].

148

- Bảo Vĩnh Thông nằm ở địa phận huyện Hà Âm, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 2

(1842). Bảo này có chu vi 78 trượng, cao 3 thước [47, tr.19].

- Bảo Vĩnh Lạc nằm ở địa phận huyện Hà Âm, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 2

(1842). Bảo này có chu vi 24 trượng 8 thước, cao 3 thước [47, tr.19].

- Bảo Thân Nhân nằm ở địa phận huyện Hà Âm, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 2

(1842). Bảo này có chu vi 32 trượng 4 thước, cao 3 thước [47, tr.19].

- Bảo Giang Nông nằm ở địa phận huyện Hà Dương, đắp từ năm Thiệu Trị thứ

2 (1842). Bảo này có chu vi 43 trượng, cao 5 thước [47, tr.19].

- Bảo Vĩnh Điều nằm ở địa phận huyện Hà Âm, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 2

(1842). Bảo này có chu vi 33 trượng 4 thước, cao 3 thước [47, tr.19].

- Bảo Bình Di nằm ở địa phận huyện Tây Xuyên, đắp từ năm Thiệu Trị thứ nhất

(1841). Bảo Bình Di bao gồm 2 sở: phía tả chu vi 36 trượng, cao 8 thước; phía hữu

chu vi 24 trượng, cao 9 thước [47, tr.21].

- Bảo Cần Thăng nằm ở địa phận huyện Tây Xuyên, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 4

(1844). Bảo này có chu vi 66 trượng, không thấy nói đến chiều cao [47, tr.21].

- Bảo Bắc Nam nằm ở địa phận huyện Tây Xuyên, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 5

(1845). Bảo này có chu vi 24 trượng, cao 4 thước [47, tr.21].

- Bảo Nhân Hội nằm ở địa phận huyện Tây Xuyên, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 6

(1846). Bảo này có chu vi 38 trượng, cao 3 thước 6 tấc [47, tr.21].

- Bảo Hưng Nhượng nằm ở địa phận huyện Hà Dương, đắp từ năm Thiệu Trị

thứ 7 (1847) . Bảo này có chu vi 60 trượng, cao 4 thước [47, tr.19].

- Đồn Tĩnh Biên là một đồn được xây dựng từ thời chúa Nguyễn, án ngữ vùng

Thất Sơn.

Các đồn bảo thuộc hai tuyến phòng thủ Vĩnh Tế - Thất Sơn có mối liên hệ chặt

chẽ với nhau tạo nên hệ thống phòng thủ thủy bộ vững chắc góp phần giữ vững biên

giới Tây Nam, giữ gìn an ninh vùng biên giới vốn có nhiều người Khmer sinh sống.

* Các trạm sông:

- Trạm sông Giang Nông nằm trên địa phận thôn Tân Đông, thuộc huyện Vĩnh

An, phía đông đến trạm sông Vĩnh Giai (thuộc tỉnh Vĩnh Long), phía tây đến trạm

sông Giang Nữ 54 dặm[47, tr.22].

149

- Trạm sông Giang Mĩ nằm trên địa phận thôn Mỹ An, thuộc huyện Vĩnh An,

phía tây đến trạm sông Giang Tú 51 dặm[47, tr.22].

- Trạm sông Giang Tú nằm trên địa phận thôn Tú Điền, thuộc huyện Đông

Xuyên, phía tây nam đến trạm sông Giang Phúc 60 dặm[47, tr.22].

- Trạm sông Giang Phúc nằm trên địa phận thôn Vĩnh Nguyên, thuộc huyện

Tây Xuyên, phía tây đến trạm sông Tiên Nông (thuộc tỉnh Hà Tiên) 60 dặm[47, tr.22].

Có thể thấy, chính quyền nhà Nguyễn đã có sự bố trí các trạm sông nối liền

nhau đảm bảo cho việc tuần tra trên sông cũng như nắm bắt, truyền báo tin tức kịp

thời, góp phần quan trọng vào công tác quốc phòng Tây Nam trên địa bàn An Giang.

Như vậy, về công tác xây dựng và bô trí các công trình quân sự cơ bản bao gồm

các thành trì, đồn, bảo, thủ sở, trạm sông đã được chính quyền nhà Nguyễn tiến hành

một cách nghiêm túc, đảm bảo phục vụ hữu hiệu cho chiến lược quốc phòng biên giới

Tây Nam mà vùng đất An Giang là trung tâm phòng thủ.

Về việc chia ban cho lính thường trực tại An Giang: nhà Nguyễn quy định: lính

2 đạo Long Xuyên và An Giang chia làm 3 ban, 1 ban lưu ngũ, 2 ban nghĩ ngơi, hàng

tháng một lần thay đổi [30, tr.424]. Riêng biền binh An Giang phái đi thú, phòng ngự

cũ và theo lệ không chia ban [30, tr.428]. Đến năm Minh Mạng thứ 20 (1839), lính

tuyển ở An Giang trước chia 3 ban nay chia lại làm 2 ban [30, tr.431].

Trong cách tổ chức quan đội của chính quyền nhà Nguyễn ở An Giang có một

số đội quân thường được cử đi tuần tiểu đến những nơi khác hoặc nhà Nguyễn tăng

cường quân đội từ nơi khác đến cho An Giang.

Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), tỉnh An Giang hàng năm phái 1 cơ biền binh đi

thú thành Trấn Tây, 2 cơ đi thú Hà Tiên, 6 tháng 1 lần thay đổi [30, tr.437]. Minh

Mạng xuống dụ nói rõ: “Gia Định là đất yếu địa đất Nam Kỳ. Nên chọn cư 1 vệ lính

kinh, 1 cơ Quảng Nam đến đóng thú. Thành Trấn Tây trong đánh, ngoài chống là then

chốt quan trọng cần chọn cử lính kinh 2 vệ, Phú Yên 1 vệ, Quảng Ngãi, Bình Định,

Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, đều 1 cơ , Khánh Hòa, Bình Thuận,

Biên Hòa đều 300 biền binh đến phòng giữ. An Giang cùng Trấn Tây liền nhau nên

phái 1 lính kinh 1 vệ, Vĩnh Long 1 cơ đi thú ở xa lầm thanh ứng. Hà Tiên cũng là địa

bàn địa đầu quan yếu nên phái quân Gia Định, Vĩnh Long, An Giang mỗi tỉnh 1 cơ lại

150

trích 200 tên trong số 1 vệ biền binh đóng ở An Giang cũ đi thú Hà Tiên. Lại trích 200

lính cơ Gia Định đóng thú Hà Tiên cũ lưu ở An Giang để thay số lính kinh cũ” [30,

tr.438].

Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), vua có dụ ra lệnh cho các tỉnh Gia Định, Biên

Hòa, Vĩnh Long, Định Tường mỗi tỉnh 1 vệ hoặc 1 cơ do các quan viên tỉnh ấy xét

phái đi An Giang bổ sung số lính kinh phái đi trước đó và số lính thú Quảng Ngãi,

Bình Định vẫn đem 2 vệ lính kinh đóng thú tỉnh An Giang cũ trước đổi sung đóng ở

Gia Định, Định Tường mỗi nơi 1 vệ. Còn lính kinh và bao nhiêu vệ, cơ các tỉnh Nam

Kỳ theo lệ phải phái đi phòng giữ tỉnh An Giang đều ra lệnh theo nghị trước mà làm.

Ngoài ra, hàng năm phái ra 2 vệ lính kinh, 1 đóng ở Gia Định, 1 đóng ở An Giang, 2

vệ trực kỳ, 1 đóng ở Gia Định, 1 đóng ở Vĩnh Long [30, tr.441].

Việc tổ chức quân đội của chính quyền nhà Nguyễn trên vùng đất An Giang khá

chặt chẽ đã phát huy được sức mạnh tổng hợp phòng giữ tốt nơi vùng biên giới trọng

yếu Tây Nam. Mặc khác, sức mạnh quân đội nhà Nguyễn tại An Giang còn được tăng

cường với sự trang bị những loại vũ khí tốt nhất nước ta thời bấy giờ. Theo đó, tỉnh An

Giang có 5 cơ, mỗi cơ được cấp 200 súng thạch điểu sang, 200 thương dài (duy Hậu

cơ chỉ có 104 thương dài và 80 điểu sang), 50 dao nhọn chuôi dài, 21 kỳ đao, 5 trống

gỗ, 1 chiêng, 1 trống la đồng, 1 kèn. Thủy vệ An Giang được cấp 100 thạch điểu sang,

200 thương dài, 50 dao nhọn chuôi dài, 21 kỳ đao, 5 trống gỗ, 1 chiêng, 1 trống la

đồng, 1 kèn. Đội Tuần thành được cấp 20 thạch điểu sang, 20 thương dài. Cấp trữ tại

tỉnh 100 thạch điểu sang [30, tr.522]. Riêng phủ Tân Thành được triều đình cấp binh

trượng gồm 30 thương dài, 10 đoản đao, 10 đao dài mũi [30, tr.528]. Huyện Vĩnh Định

của tỉnh An Giang được triều đình cấp binh trượng gồm 20 thương dài, 5 đoản đao, 10

đao dài mũi, 4 lá chắn gỗ, 6 lá chắn bằng tre [30, tr.529].

Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), các tấn thủ của tỉnh An Giang được cấp: Tấn

Châu Giang được cấp 10 thương dài [30, tr.532], Thủ Mỹ Thanh 10 cây điểu sang tăng

lên 15 cây, thủ Trấn Di 7 cây điểu sang sau tăng lên 15 cây, 2 thủ Đông Xuyên và

Cường Thắng đều 5 cây điểu sang [30, tr.533-534].

Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), các trạm sông Giang Đông, Giang Mỹ, Giang

Tú, Giang Phúc, Giang Nông của tỉnh An Giang mỗi trạm được cấp 3 cây thạch điểu

151

sang, lại cấp kèm theo mỗi cây thạch điểu sang 10 phiến hỏa thạch, 50 phát đạn thuốc

tiêu, lại xét điền bổ để phòng bị dùng đến [30, tr.536]

Trên vùng đất An Giang qua các đời vua từ Gia Long đến Tự Đức tùy theo từng

thời kì và hoàn cảnh cụ thể mà các tấn, thủ, đồn, bảo có sự thay đổi, thêm bớt cho phù

hợp. Số lượng quân lính đóng ở những nơi đó cũng có quy định cụ thể qua các đời

vua, thể hiện rõ sự quan thiết của chính quyền trung ương đối với công tác phòng thủ

nơi vùng biên giới quan yếu này. Trên địa bàn An Giang chính quyền có sự sắp xếp:

Tấn Tân Châu: Tấn thủ 1 viên, 22 tấn binh; Tấn Cường Thắng: 41 tấn binh; tấn Trấn

Di: 46 tấn binh; tấn Mỹ Thanh: 1 Tấn thủ, 7 tấn binh; tấn Đông Xuyền: 6 tấn binh; 2

bảo Vĩnh Điều, Vĩnh Thông: mỗi bảo suất đội 1 viên, phái binh 30 tên; bảo Vĩnh Gia:

1 viên suất đội, 20 binh đồn; bảo Tiến An: Biền binh đóng 103 tên; bảo Bình Di: Biền

binh đóng 85 tên; bảo Nhân Hội: Biền binh đóng 83 tên; bảo Giang Nông: Biền binh

đóng 51 tên; đồn Cồn Muộn: Biền binh đóng 6 tên [31, tr.405].

Minh Mạng thứ 11 (1830) chuẩn cho Thủ Chiến Sai đặt trước, đổi làm thủ An

Lạc và thủ Tân Châu đều cho phép chiêu mộ dân ngoài sổ mỗi thủ 50 tên sung làm thủ

binh. Lại liệu phái biền binh để góp sức phòng thủ [31, tr.405].

Năm 1832, Minh Mạng cho 2 đồn Tân Châu, An Lạc lệ có phái binh đóng giữ,

phái lấy 1 viên suất đội cơ An Viễn, 70 biền binh ở các đội Châu Đốc, đi thú đồn Tân

Châu 40 tên, và đồn An Lạc 30 tên, theo viên thủ ngữ làm việc đều cho 3 tháng đổi

phiên 1 lần [31, tr.405-406].

Năm 1834, Minh Mạng lại chuẩn cho 2 thủ Tân Châu, Châu Giang là nơi quan

trọng về thủ binh Tân Châu đổi làm hai đội Tân Châu nhất và nhị; thủ Châu Giang đổi

làm hai đội Châu Giang nhất và nhị. Còn như thủ binh các thủ An Lạc, Thuận Phiếm,

Vĩnh Hùng, Cường Uy, Cường Thành, Cường Thắng, Trấn Giang, Mỹ Thanh thì chiểu

theo tên các thủ ấy, đều đổi làm đội, mỗi thủ đều 1 đội (như loại thủ An Lạc đổi làm

đội An Lạc). Duy có thủ Trấn Di theo lệ cũ đặt làm đội An Di, mỗi đội kể trên đều 50

tên lính. Nếu thiếu thì giao cho viên thủ quản chiêu mộ cho đủ số [31, tr.406].

Năm 1835, Minh Mạng chuẩn cho 6 sở Tân Châu, An Lạc, Châu Giang, Cường

Thắng, Trấn Di, Mỹ Thanh đều là nơi trọng yếu phải phòng thủ như cũ, còn 5 sở

Cường Thành, Cường Uy, Thuận Phiếm, Vĩnh Hùng, Trấn Giang đều không quan

152

trọng nên bỏ bớt đi. Và đem thủ binh ở Vĩnh Hùng, dồn cả làm đội Mĩ Thanh. Còn các

thủ binh thừa ra ấy thì dồn vào binh triệu mộ ở tỉnh. Thủ Tân Châu đặt 1 viên thủ ngữ,

lại đặt đội Tân Châu có thứ đội trưởng 1 viên, ngoại ủy đội trưởng 3 viên, biền binh 21

tên. Thủ An Lạc đặt 1 viên thủ ngự, lại đặt đội An Lạc có ngoại ủy đội trưởng 2viên,

biền binh 21 tên. Thủ Châu Giang đặt 1 viên thủ ngự, lại đặt đội Châu Giang nhất 1

viên đội trưởng, ngoại ủy đội trưởng 4 viên, biền binh 43 tên; đội Châu Giang nhị thì

đặt đội trưởng, ngoại ủy đội trưởng như lệ đội nhất, còn biền binh 46 tên. Thủ Cường

Thắng đặt đội Cường Thắng đội trưởng quyền làm công việc ở thủ 1 viên, ngoại ủy đội

trưởng 2 viên, biền binh 50 tên. Thủ Trấn Di đặt dội Trấn Di, cai đội sung thủ ngữ 1

viên, biền binh 50 tên. Thủ Mĩ Thanh đặt đội trưởng thí sai thủ ngữ 1 viên, đội Mĩ

Thanh biền binh 52 tên.

Năm 1837, vua Minh Mạng chuẩn cho binh lính ở thủ Đông Xuyên 21 tên, binh

thủ Tân Châu 53 tên, binh thủ An Lạc 20 tên, binh Trấn Di 51 tên, binh thủ Mĩ Thanh

53 tên, nay các thủ đổi làm tấn; còn các đội binh ấy đổi làm tấn binh [31, tr.407].

Đến thời vua Thiệu Trị, năm thứ nhất (1841) chuẩn định: Đặt bảo Vĩnh Gia

phái lấy 21 biền binh đóng giữ bảo ấy. Năm thứ 2 (1842), đặt bảo Giang Nông, phái

lấy 51 biền binh đóng giữ. Năm thứ 4 (1844), vua chuẩn cho 2 bảo Tân Châu, An Lạc

vốn đặt ở 2 bờ tả, hữu sông Tiền Giang. Nhưng chiểu theo bảo Tân Châu, ở chổ tả

ngạn dòng thượng lưu chảy rót thẳng vào và chỗ hữu ngạn hơi cao đều đặt 1 đồn mới

cũng gọi là 2 bảo Tân Châu, An Lạc; rồi cứ lấy số biền binh nguyên đóng giữ 2 bảo

Tân Châu, An Lạc liệu trích ra chuyển đem đóng ỏ 2 bảo mới đặt. Còn 2 bảo trước vẫn

để làm 2 tấn Tân Châu, An Lạc, liệu lưu lại biền binh, cùng với tấn binh phòng thủ ở

đấy [31, tr.407].

Lại ở chỗ đối ngạn tả, hữu sông Hậu Giang vốn đặt bảo Đa Phúc(60), là chỗ gần

tỉnh thành càng phải lúc nào cũng gia tâm phòng giữ. Còn về hữu ngạn mé dưới bảo

trước đặt riêng 1 bảo Đa Phúc nhỏ nên rút bỏ đi. Rồi liệu đặt 1 đồn mới ở miếng đất

Vĩnh Thành thuộc Tân Châu, gọi là bãi Vĩnh Thành. Lại địa thế sông Vĩnh Tế rộng

lớn, các bảo đặt trước thì bàn giao cho 1 viên lãnh binh hoặc phó lãnh binh trông coi

như cũ. Duy sông Trung Khoan là sông nhỏ, nguyên các bảo cũ đạt trước có lãnh binh (60)Xã Đa Phước, huyện An Phú ngày nay.

153

ở đấy trông coi mà dịch trường giao dịch lại có viên Thừa biện, Chuyên biện, có thể

giữ được không ngại, thì các bảo ấy nên liệu phái viên quản vệ cơ đóng giữ các nơi đó,

bất tất phái lãnh binh nữa [31, tr.407].

Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), chuẩn cho miền thượng lưu tấn An Lạc, đã có bảo

An Lạc lại có tấn Tân Châu đủ giúp việc phòng giữ. Còn tấn An Lạc nên bỏ bớt đi.

Năm thứ 7 (1847), cho biền binh đóng bảo thuộc hạt ấy nên lưu lại: bảo Tân Châu 71

tên, bảo An Châu 32 tên, bảo Hưng Nhượng 51 tên, bảo Ba Xuyên 51 tên, bảo Vĩnh

Thành 31 tên, bảo Cần Thăng 21 tên, bảo Trung Khoan 31 tên, bảo Tái Suất 82 tên,

bảo Giáng Sơn nguyên phái 236 tên, liệu giảm 156 tên, còn lưu lại 80 tên, bảo Cở

Thơm, nguyên phái 102 tên, liệu giảm 22 tên còn lại 80 tên, bảo Bình Thiên nguyên

phái 154 tên, liệu giảm 54 tên, còn lưu lại 100 tên; các bảo ở sông Vĩnh Tế nguyên

phái 285 tên liệu giảm 85 tên còn lưu lại 200 tên. Các bảo khác như Đa Phúc có 51 tên

biền binh theo quản cơ đi tuần thám đường sông thì rút đi cả [31, tr.407-408].

Tiếp đó lại cho bảo Bình Di ở Hậu Giang vì có phần quan trọng nên trích lưu

100 lính thú và 32 tên đội Hương dũng đóng ở đấy. Còn trên Tiền Giang thì ở bãi sông

Tiến An; trước có đặt bảo Tiến An, không bì như bảo Bình Di là nơi quan trọng nên

liệu lưu lại 150 thú binh phòng thủ, bảo Tái Suất đổi làm bảo Nhân Hội vẫn lưu lại 82

biền binh, còn bảo Trung Khoan miền hạ lưu thì triệt bỏ đi. Còn như bảo Cần Thăng,

cũng là nơi tiếp giáp trích lưu 30 biền binh, để tiện giữ trông nom, thông báo. Tân

Châu, An Lạc hiện lưu 100 thủ binh và Vĩnh Thành 20 biền binh vẫn đống giữ như cũ

[31, tr.408].

Số binh nguyên phái đóng giữ 3 bảo Tiến An, Tân Châu, An Lạc ở sồng Tiền

Giang gồm 150 người, nay bỏ bớt 2 bảo Tân Châu, An Lạc, chỉ lưu lại bảo Tiến An.

Nhưng trích thêm 50 người cùng với 50 người đóng ở bảo Tiến An cộng 100 người rồi

đặt 1 quản viên trông coi việc đóng giữ bảo ấy. Còn tấn Tân Châu vẫn lưu tấn binh

phòng giữ nơi ấy. Nguyên phái người ở bảo Bình Di về Hậu Giang, 51 người ở bảo

Bắc Nam, 20 người ở bảo Vĩnh Thành, thì nay bỏ bớt bảo Vĩnh Thành ở hạ lưu chỉ lưu

lại bảo Bình Di 85 người, bảo Bắc Nam 20 người và đặt 1 quản viên trông coi, đóng

giữ bảo ấy. Còn 82 người ở bảo Nhân Hội và 30 người ở bảo Cần Thăng vốn đặt từ

trước thì vẫn giữ như cũ và cũng đặt 1 quản viên trông coi việc đóng giữ bảo ấy [31,

154

tr.408]. Giang Nông, Vĩnh Thông, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia gồm 4 sở có phần quan trọng

thì vẫn lưu lại ở Giang Nông 50 tên, Vĩnh Thông, Vĩnh Điều mỗi nơi 30 tên, Vĩnh Gia

20 tên và Vĩnh Thông đặt 1 quản viên kiêm quản cả 4 sở biền binh nơi ấy, còn mỗi sở

khác thì 1 viên suất đội. Các bảo nhỏ đặt ra trước không quan trọng lắm như: Vĩnh Tế,

Vĩnh Thịnh, Tĩnh Biên, Thân Nhân, Vĩnh Lạc, Vĩnh Hòa, Thuyết Nật, Đàm Triết đều

bỏ bớt đi [31, tr.409].

Nhìn một cách tổng thể, việc tổ chức quân đội của chính quyền nhà Nguyễn

trên vùng đất An Giang có tác động to lớn đến tình hình trị an cũng như biên phòng

vùng biên giới Tây Nam của tổ quốc. Hệ thống quân đội được bố trí trên khắp bề mặt

vùng đất An Giang lúc bấy giờ đã tạo ra thế và lực mới trong việc khai hoang, phát

triển vùng đất còn nhiều hoang hóa lắm trở ngại trong buổi đầu nhà Nguyễn. Vua

Minh mạng đã từng nói rằng: “Quân đội là nanh vuốt của nước” [38, tr. 136], do đó

việc bố trí quân đội ở những nơi quan yếu như vùng đất An Giang thời bấy giờ có ý

nghĩa sống còn trong công cuộc bảo vệ quốc gia, dân tộc, vừa giữ vững sự ảnh hưởng

của Việt Nam trên đất Chân Lạp cũng như tạo ra những tiền đồn vững chắc trước tham

vọng “bành trướng” của quân Xiêm La.

3.2.3. Những hoạt động thực thi chính sách quốc phòng của chính quyền

triều Nguyễn trên vùng đất An Giang giai đoạn 1802 đến 1867.

Chính quyền thời kì đầu nhà Nguyễn đã tiến hành chính sách quốc phòng nhất

quán tại vùng biên giới Tây Nam, với trọng tâm là hệ thống phòng ngự trên vùng đất

An Giang, nơi vùng biên phòng vô cùng quan yếu. Quân đội đã được tổ chức chặt chẽ

trên vùng đất này với trọng trách bảo vệ biên giới trước các cuộc xâm lấn từ phía Chân

Lạp và Xiêm La, đồng thời làm bàn đạp cho công cuộc “bảo hộ” đất Chân Lạp, duy trì

sự ảnh hưởng của Việt Nam ra bên ngoài, mặt khác vừa giữ gìn sự trị an trong khu vực

Tây Nam của đất nước, lại vừa hỗ trợ và tham gia tích cực vào công tác khai hoang lập

đồn điền, phát triển vùng đất biên thùy còn nhiều hoang hóa của An Giang.

Công việc đầu tiên của quân đội nhà Nguyễn trên vùng đất An Giang là xây

dựng các công trình quân sự cơ bản. Vua Gia Long từng ra dụ nhắc nhở: “Việc xây

thành là quan trọng lớn lao” [39, tr.985]. Quan quân triều đình cùng với dân phu tiến

hành xây dựng hệ thống đồn, bảo, tấn, sở, thủ ở nhều nơi trên vùng đất An Giang xưa.

155

Chạy dọc theo đôi bờ sông Tiền, bên cạnh việc tu bổ các đồn cũ như Thủ Chiến Sai,

Hùng Ngự, Sa Đéc,...thì việc xây dựng các công trình mới được xúc tiến mạnh mẽ với

sự ra đời của đồn ở thôn Long Sơn thuộc cù lao Cái Vừng, các đồn Tiến An, Vĩnh

Thành, An Lạc tạo nên hệ thống đồn trú và phòng thủ nơi đoạn sông Tiền trên đất An

Giang. Còn chạy dọc theo đôi bờ sông Hậu bên cạnh việc tu bổ các đồn cũ như Châu

Đốc, Châu Giang, Thuận Phiếm...quan quân nhà Nguyễn đã tiến hành xây dựng, thiết lập một loạt các căn cứ mới như Bình Di, Tái Suất(61), Đa Phúc, An Châu, Cần Thăng, Đông Xuyên, Bắc Nam, Chu Phú(62)...Theo các tuyến sông ở An Giang chính quyền

còn cho dựng lên các trạm để kiểm soát đường thủy như Giang Đông, Giang Mỹ,

Giang Tú, Giang Phúc, Giang Nông [30, tr.536]. Đặc biệt, trên vùng Thất Sơn và ven

kênh Vĩnh Tế chính quyền nhà Nguyễn đẩy mạnh việc xây đồn, lập căn cứ kiểm soát,

phòng vệ khu vực này với sự ra đời của rất nhiều đồn bảo: Vĩnh Điều, Vĩnh Thông,

Vĩnh Gia, Giang Nông, Vĩnh Tế, Vĩnh Thịnh, Thân Nhân, Hưng Nhượng, Vĩnh Lạc,

Vĩnh Hòa, Thuyết Nật, Đàm Triết. Sự ra đời của các căn cứ quân sự trên vùng đất An

Giang tạo ra một sinh khí mới cho vùng đất còn rất nhiều khó khăn trong buổi đầu

khai phá. Những căn cứ, đồn, bảo, trạm, tấn, thủ được xây dựng cho thấy những hoạt

động tích cực của quân đội và sự quan tâm đặc biệt từ chính quyền nhà Nguyễn với

vùng biên thùy yếu địa Tây Nam nói chung và An Giang nói riêng. Những thành quả

trực tiếp này của quân đội nhà Nguyễn là cơ sở vững chắc cho công cuộc quốc phòng

hiện tại và về sau.

Một trong những hoạt động nổi bật của quân đội trong việc thực thi chính sách

quốc phòng của chính quyền nhà Nguyễn trên vùng đất An Giang là cùng với nhân

dân tạo ra hệ thống kênh đào chiến lược phục vụ đắc lực cho công tác quốc phòng và

phát triển vùng đất mới.

Người có công đầu trong công tác đặc biệt quan trọng này chính là Thoại Ngọc

Hầu Nguyễn Văn Thoại. Năm 1817, Nguyễn Văn Thoại được cất cử về làm trấn thủ

Vĩnh Thanh [39, tr. 950]. Với nhãn quan của một nhà chiến lược quân sự lão luyện, lại

(61)Bảo Tái Suất sau đổi tên là bảo Nhân Hội [31, tr.408] (62)Theo Đại Nam nhất thống chí (sđd), trang 224.

có tài “kinh bang tế thế”, Nguyễn Văn Thoại thấy rằng việc giao thông thương mại tại

156

đây còn gặp nhiều khó khăn, mọi trao đổi buôn bán với miền duyên hải Hà Tiên, Rạch

Giá phải đi vòng đường biển thật bất tiện và tốn nhiều công sức, lại sự nguy hại của lũ

lụt hằng năm ở miền Tây sông Hậu cũng đặt ra nhiều vấn đề cho sự an nguy của dân

chúng nên việc khơi nguồn xã nước lũ ra biển Tây là việc cần thiết. Nhưng quan trọng

hơn cả chính là việc quân sự, từ thời của các chúa Nguyễn việc hành quân, chuyển

quân từ các căn cứ phía Cửu Long Giang như Đông Khẩu, Trấn Giang, Trấn Di,...

sang ứng cứu khu vực đạo Kiên Giang cũ là rất khó khăn, phải hành quân băng rừng

núi theo đường bộ hoặc di chuyển thủy quân theo đường biển đi vòng tận mũi Cà Mau

rất bất lợi và mất nhiều thời gian, do đó việc quân hay chậm trể. Sau khi thị xác địa

bàn Nguyễn Văn Thoại quyết định thực hiện việc thông tuyến thủy đạo từ Long Xuyên

đến Rạch Giá để thỏa mãn các mục đích trên.

Quân đội được xem là lực lượng chủ lực cho công tác này kết hợp cùng với

nhân dân, tất cả gọp lại khoản 1.500 người, chủ yếu là dân binh Việt và Cao Miên,

luân phiên nhau đào đắp [39, tr.958]. Kênh được đào nối liền rạch Đông Xuyên (tức sông Long Xuyên ngày nay) ở Tam Khê(63) với ngọn Giá Khê ở Rạch Giá. Việc đào

kênh diễn ra thuận lợi vì cứ theo lạch nước cũ mà đào cho dễ, kênh đào vào đầu năm

1818, khoảng một tháng kênh được đào xong với bề rộng 20 tầm (51,2m) và chạy dài 12.410 tầm (31.744m)(64).

Khi công cuộc đào kênh hoàn thành, Nguyễn Văn Thoại cho vẽ họa đồ và làm

sớ tâu lên vua. Vua Gia Long khen ngợi, cho lấy tên ông đặt làm tên sông tức Thoại

Hà và thấy trên bờ phía đông Thoại Hà có ngọn núi, thường gọi là núi Sập nên cho đổi

tên núi là Thoại Sơn để biểu dương công lao của Nguyễn Văn Thoại.

Kênh Thoại Hà vừa mang tính chất của một công trình quân sự lại vừa có tác

dụng kinh tế quan trọng làm thay đổi bộ mặt của cả khu vực rộng lớn từ Long Xuyên

đến Rạch Giá. Con kênh đã mang đến sự lưu thông dễ dàng từ sông Cửu Long ra biển

Tây và ngược lại, không chỉ các thương thuyền qua lại dễ dàng mà việc vận hành

(63)Tại xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang ngày nay. (64)Các con số quy đổi ghi theo sách Kỷ lục An Giang 2009 (2009), Nxb Thông Tấn, trang 36.

quân, chuyển lương đường thủy giữa hai khu vực trở nên thuận lợi. Từ đây khu vực từ

157

Rạch Giá đến Cà Mau đã thật sự được chính quyền nhà Nguyễn kiểm soát thông qua

các ngõ thủy đạo đã được thông dòng nội thủy từ Gia Định đến biển Tây.

Kênh Thoại Hà chính là sự đóng góp trực tiếp của quân dân nhà Nguyễn vào

công cuộc khai hoang lập ấp ở Nam Bộ nói chung và An Giang nói riêng. Sự ra đời

của con kênh đã kéo dân theo các lạch nước mới đào tìm đất hoang để khai phá lập

làng mới. Các thôn xóm mới dần dần mọc lên đan xen với những làng xóm cũ tạo ra

sự đông đúc và trù phú ven đôi bờ Thoại Hà. Đến năm 1836, khu vực này đã thành lập

được các làng như Thoại Sơn, Phú Hòa, Vĩnh Chánh, Vĩnh Phú, Vĩnh Thuận [59,

tr.36]. Hai điểm quần cư lớn nhất, một ở Đông Xuyên mật độ dân cư tăng lên, buôn

bán tấp nập nên được gọi là Đông Xuyên Cảnh đạo, và hai khu vực ở vùng quanh chân

núi Sập (Thoại Sơn) và núi Ba Thê với đặc điểm “khe ngọt, đất béo, cây cối tốt tươi,

nhân dân ở vòng quanh chân núi” [47, tr.195], lại “thuyền bè đi lại được. Dân Cao

Miên chia ở sườn núi, bờ khe làm nghề đánh cá và săn bắt”, người Việt ở vòng quanh

chân núi, làng mới hình thành, chùa được xây cất, đền miếu được dựng lên, đình làng

xuất hiện, làng xóm trở nên ấm cúng, không còn dễ hợp dễ tan như trước” [47, tr.195].

Sau công trình kênh Thoại Hà, quân đội và nhân dân ở khu vực Tây Nam dưới

sự chỉ huy trực tiếp từ Nguyễn Văn Thoại và một số quan tướng khác đã bắt tay vào

đào công trình thế kỉ “kênh Vĩnh Tế”.

Quân đội nhà Nguyễn lập tức được điều động cùng với dân Việt và dân Cao

Miên bắt tay vào công việc vô cùng gian khó. Đại Nam thực lục ghi nhận “Cho vét

đào đường sông Châu Đốc thông đến Hà Tiên. Cho tên là sông Vĩnh Tế. Vua thấy

Vĩnh Thanh và Hà Tiên tiếp giáp với Chân Lạp, việc công tư đi lại, trước không có

đường thủy, bàn muốn nhân sông Châu Đốc mà đào cho thông suốt. Gặp Chiêu Chùy

nước Chân Lạp là Đồng Phù đến chầu, vua triệu cho yết kiến hỏi han. Đồng Phù trả lời

rằng: “Khai sông ấy thì dân Chân Lạp được nhờ lợi, vua Phiên cũng muốn thế, không

dám xin mà thôi”. Vua khen và lấy làm vui lòng, dụ bảo thành thần Gia Định, đo từ

phía Tây đồn Châu Đốc qua cửa Ca Âm, Cây Báng, đến sông cũ hơn 200 dặm, tính

công đào đất và lượng sức người. Sai Trấn thủ Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Thụy và

Chưởng cơ Phan Văn Tuyên đốc suất dân phu 5.000 người và binh dân đồn Uy Viễn

500 người, Đồng Phù quản suất dân Chân Lạp 5.000 người, đến tháng 12 khởi công

158

đào. Lại chiếu dụ dân Vĩnh Thanh rằng: “Đào con sông này công việc rất khó nhọc.

Kế sách của nhà nước, mưu hoạch về biên thùy, đều quan hệ không nhỏ. Các ngươi

nay khó nhọc, mà thực có lợi muôn đời. Vậy nên bảo nhau đừng sợ khó nhọc”. Lại dụ

vua Chân Lạp rằng: “Nước ngươi giáp giới với Vĩnh Thanh. Nay đào sông này không

những lợi cho người nước ta mà còn lợi cho nước ngươi vô cùng. Vương nên họp nhân

dân bảo cho biết ý nhọc một lần mà nhàn mãi mãi, khiến dân vui làm việc, cho chóng

thành công. Quan Phiên trở xuống, ai không theo lệnh cho Đồng Phù trị theo quân

pháp” [39, tr.997]. Như vậy, từ khi đắp xong thành Châu Đốc (1816), vua Nguyễn

nghĩ đến việc đào một con kênh để tạo hướng phát triển và phòng thủ cho vùng đất

này, sau nhiều nghiền ngẫm, nhân lúc thiên thời, địa lợi, nhân hoà, tháng 9 năm 1819

vua truyền chỉ đào kênh.

Kênh Vĩnh Tế bắt đầu đào vào ngày rằm tháng Chạp năm Kỹ Mão (1819), xuất

phát từ bờ Tây sông Châu Đốc, chạy song song với đường biên giới Việt Nam – Chân

Lạp, nối tiếp với sông Giang Thành (thị xã Hà Tiên - tỉnh Kiên Giang ngày nay). Dưới

sự chỉ huy của Thoại Ngọc Hầu cùng với 2 ông là Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên

(1763 - 1831), Điều Bát Nguyễn Văn Tồn (1763 - 1820); sau có thêm Tổng trấn thành

Gia Định Lê Văn Duyệt (1764 - 1832), Phó Tổng trấn thành Gia Định Trương Tấn

Bửu, Phó Tổng trấn thành Gia Định Trần Văn Năng, Thống chế Trần Công Lại cùng

góp sức.

Kênh Vĩnh Tế được đào từ năm 1819 kéo dài đến năm 1824, chia làm ba giai

đoạn:

+ Giai đoạn 1: Khởi công vào tháng 12 (âm lịch) năm 1819 đến tháng 3 (âm

lịch) năm 1820 thì tạm dừng. Chỉ huy trực tiếp là các quan: Nguyễn Văn Thoại,

Nguyễn Văn Tuyên và Nguyễn Văn Tồn. Số lượng quân và dân phu: Dân phu: 5.000;

binh đồn Uy Viễn (Trà Ôn): 500; dân Chân Lạp: 5.000. Tổng công: 10.500 người [39,

tr.997]. Kênh Vĩnh Tế đang đào được gần một năm thì bị hoãn vì nhiều nguyên nhân.

+ Giai đoạn 2: Từ tháng 2 (âm lịch) năm 1823 đến tháng 4 (âm lịch) năm 1823.

Chỉ huy trực tiếp là các quan: Nguyễn Văn Thoại, Nguyễn Văn Tuyên và Trần Công

Lại. Số lượng quân và dân phu: lấy ở các đồn Uy Viễn, Vĩnh Thanh và Định Tường

159

hơn 39.000 dân và quân Việt. Quân và dân Chân Lạp hơn 16.000 người. Tổng cộng

hơn 55.000 người, chia làm 3 phiên hoạt động [40, tr.259-260].

+ Giai đoạn 3: Từ tháng 2 (âm lịch) năm 1824 đến tháng 5 (âm lịch) năm 1824.

Công việc đào kênh lại tiếp tục và vẫn do Nguyễn Văn Thoại và Trần Công Lại chỉ

huy. Mộc bản triều Nguyễn, sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 25,

năm Minh Mạng thứ 5 (1824), chép: “Đào tiếp sông Vĩnh Tế. Lấy binh dân các trấn

thuộc thành và nước Chân Lạp hơn 24.700 người làm việc, chi cấp lương tiền như lệ

năm Minh Mệnh thứ 4. Vua dụ rằng: “Việc đào sông Vĩnh Tế là vâng theo thánh toàn

của Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta mà làm, thực là quan yếu cho quốc kế biên

trù. Nhưng khai đào mới bắt đầu, công việc còn khó, trẫm vâng theo chí trước, năm

ngoái đã đào, còn lại hơn 1.700 trượng, ấy là còn thiếu cái công một sọt đất. Nay nước

nhà nhàn rỗi, chính nên kịp thời làm tiếp cho xong, để làm kế nhọc một lần được rỗi

mãi”. Trải qua nhiều vất vả và phải hoãn lại nhiều lần, cuối cùng quân dân nhà

Nguyễn cùng với dân các nước lân bang đã hoàn thành việc đào kênh Vĩnh Tế vào

tháng 5 năm 1824 [40, tr.331]. “Mùa hạ, tháng 5, việc đào sông Vĩnh Tế xong. Vua

nói rằng: “Đào con sông ấy để trọn công trước, thực là lợi ức muôn năm vô cùng về

sau”. Bèn sai hữu ty dựng bia để ghi” [40, tr.351].

Sau 5 năm gian nan, cực khổ, trải qua muôn vàn khó khăn thử thách nơi “đồng

không mông quạnh”, “sơn lâm chướng khí” và phải hoãn lại nhiều lần, cuối cùng kênh

Vĩnh Tế được hoàn thành vào tháng 5 năm 1824, với chiều dài 205 dặm rưỡi (91km),

rộng 7 trượng 5 thước (25m), sâu 6 thước (3m). Ước tính, trong 5 năm, các quan phụ

trách đã phải huy động đến hơn 80.000 dân binh. Nhiều quân dân người Việt và Cao

Miên đã ngã xuống cho sự thông dòng Châu Đốc – Hà Tiên. Trong suốt quá trình đào

kênh, để giữ cho dòng kênh được thẳng tắp, trong điều kiện rừng núi âm u, Nguyễn

Văn Thoại đã cho quân lính dùng đuốc lửa làm cọc tiêu vào ban đêm để ngắm cho

thẳng hàng rồi cắm ngù làm dấu, cứ thế mà đào cho thẳng đoạn kênh. Vua Minh Mạng

rất hài lòng trước sự thành công của công trình thủy lợi này nên khi cho đúc Cửu đỉnh

để làm quốc bảo và tượng trưng cho sự miên viễn của hoàng gia, hình kênh Vĩnh Tế

được chạm khắc vào Cao đỉnh [47, tr.207].

160

Kênh Vĩnh Tế vừa là thành quả trực tiếp từ nhân dân và quân đội lại vừa là

chính sách lớn trong chiến lược quốc phòng của nhà Nguyễn. Như đã trình bày ở phần

trước, kênh Vĩnh Tế là công trình trọng sự chính trị, quốc phòng với ý nghĩa vô cùng

to lớn. Mặc khác, lại là công trình mang ý nghĩa phát triển kinh tế cả thương nghiệp và

nông nghiệp, phục vụ đắc lực cho công cuộc khai hoang lập làng ở vùng biên viễn liền

kề Thất Sơn. Từ kênh Vĩnh Tế nhân dân lại đào nhiều kênh nhỏ, ngắn (được gọi là cựa gà)(65) dẫn nước tưới ruộng đồng, tháo chua, rửa phèn, làm đường giao thông thủy lợi

để đưa nông sản về nhà. Nhiều làng mới được lập nên ven bờ Vĩnh Tế như Vĩnh Tế,

Vĩnh Ngươn, Vĩnh Gia, Vĩnh Điều, Vĩnh Thông, dân cư ngày càng đông đúc tăng

cường đáng kể số đinh cho công tác chọn lính. Về mặc thương mại, kênh Vĩnh Tế nối

liền hai trung tâm Châu Đốc và Hà Tiên lại tiếp giáp Chân Lạp nên việc buôn bán rất

có điều kiện phát triển làm vừa tăng nguồn thu thuế cho nhà nước vừa tăng cường nội

lực cho khu vực Tây Nam. Tổng hợp tất cả những điều trên cho thấy chính sách quốc

phòng của chính quyền nhà Nguyễn thể hiện ở công trình kênh Vĩnh Tế là không thể

phủ nhận, trong đó quan quân triều Nguyễn là lực lượng tiên phong với sự hậu thuẫn

lớn từ phía nhân dân.

Kênh Vĩnh Tế không những là minh chứng cho chiến công vĩ đại trong sự

nghiệp của Thoại Ngọc Hầu đồng thời cũng là tinh hoa trí tuệ của các bậc tiền nhân

trong những vấn đề “kinh bang tế thế”. Kênh Vĩnh Tế còn là kết quả công sức, mồ

hôi, xương máu của hàng vạn người Việt, Khmer, Chăm. Tất cả đã tạo ra một kỳ quan

bất hủ trên đất nước Việt Nam đầu thế kỉ XIX.

Đến thời Thiệu Trị, năm 1843, quan quân An Giang lại cùng nhân dân tiếp tục

đào con kênh thứ ba nối từ sông Tiền qua sông Hậu. Đại Nam thực lục chép: Tổng đốc

An - Hà Nguyễn Công Nhàn, thự Tổng đốc Long Tường Nguyễn Tri Phương, Tuần

phủ An Giang Nguyễn Công Trứ cùng tâu nói : “Việc đào sông Tân Châu ở tỉnh An

Giang trước đã xin hoãn lại, nay đến tiết mùa đông khô ráo, xin thuê thêm 5.000 dân

phu khơi trước một đoạn (dài 550 trượng), trong một tháng thì cho về, đợi sang xuân,

sẽ làm tiếp”. Vua y cho[44, tr.548]. Đầu năm 1844, công việc đào kênh được tiếp tục.

Đại Nam thực lục chép: “Mùa đông năm ngoái, bắt đầu đào đường sông từ cửa sông (65)Nhiều tác giả (2005), Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, trang 111.

161

Chu Giang ngang qua sông Tiền Giang, đồn Tân Châu (dài 3.695 trượng), cuối năm

thì nghỉ việc ; mùa xuân năm nay lại làm. Thuê nhân công làm việc này, cấp cho tiền

và gạo. Vừa một tháng thì sông đào xong (trên rộng 6 trượng, dưới rộng 3 trượng, sâu

trên dưới 9 thước. Dùng cọc tre: 33.300 đoạn ; tiền thuê: 63.021 quan ; gạo: 21.021

phương).” Thưởng tất cả cho nhân viên chuyên biện, thừa biện có khác nhau. Trước

đặt tên là sông Long An; đến đây, đổi gọi là sông Tân Châu” [44, tr.593]. Sau được

gọi là sông Vĩnh An hay kênh Vĩnh An, công trình này được đào gấp trong thời gian

xảy ra chiến sự rất căn thẳng với Xiêm nhằm đưa chiến thuyền từ sông Tiền qua sông

Hậu hoặc ngược lại nhanh chóng hơn [25, tr.188].

Sự ra đời của kênh Vĩnh An còn tạo điều kiện cho sự ra đời của một số căn cứ

quân sự mới giúp giữ gìn an ninh và quốc phòng nơi vùng đất địa đầu Tân Châu. Theo

lời tâu của Tuần phủ Nguyễn Công Trứ: “Cửa sông Chu Giang cùng đồn Tân Châu

cách nhau hơi xa, có một khu đất cao gọi là Giồng Tượng, giặc Thổ thường đến ẩn nấp

ở đây. Vậy xin đặt một đồn ở đất ấy, trích lấy 50 biền binh ở 2 đồn Tân Châu và An

Lạc đóng giữ. Lại nên dời đồn Chu Giang đặt lên phía trên sông Tân Châu, để tiện

việc tuần sát”. Vua y cho [44, tr.593].

Các công trình kênh đào trên vùng đất An Giang được xem là sự đột phá về mặt

chiến lược quốc phòng của chính quyền nhà Nguyễn so với các chính quyền thời kì

trước. Những công trình đó có sự đóng góp lớn từ phía quan quân nhà Nguyễn làm

nhiệm vụ trên vùng đất An Giang dựa vào nhân dân họ đã thực hiện chính sách quốc

phòng của nhà nước một cách xuất sắc trong việc ngăn chặn sự xâm lấn của những đối

thủ truyền thống ở khu vực Đông Nam Á lục địa. Bên cạnh đó, những công trình này

còn góp phần quan trọng vào thực hiện chính sách khai hoang lập làng của nhà

Nguyễn đóng góp lớn vào sự phát triển của vùng đất An Giang về sau.

Thế đất An Giang mùa lũ thường nằm ở đầu nguồn sông Cửu Long mỗi năm

mùa lũ thường ngập rất nặng sự sinh cơ lập nghiệp của nhân dân rất khó khăn mà công

việc phòng vệ nhất là ở vùng Châu Đốc cũng gặp nhiều trở ngại. Cũng trong thời gian

tại nhiệm ở An Giang, năm 1826, Thoại Ngọc Hầu đã cho quân dân An Giang đắp con

lộ từ Châu Đốc đến núi Sam, sử gọi là Thổ Yên, nhân dân gọi là Tân lộ Kiều Lương

dài 8 dặm, đắp cao 2 thước 3 tấc, mặt rộng 1 trượng 2 thước, chân rộng 3 trượng [47,

162

tr.224], huy động gần 4.400 người, làm việc suốt 7 tháng. Công trình này vừa là trục lộ

giao thông vừa là con đê cao để đi lại mùa nước lũ, vừa phục vụ đắc lực cho đời sống

nhân dân vừa phục vụ cho công tác quốc phòng của chính quyền nhà Nguyễn.

Tiếp sau sự ra đời của Tân lộ Kiều Hương, chính quyền nhà Nguyễn còn tiếp

tục huy động nhân lực do các quan tướng chỉ huy đắp thêm những trục vừa là đê vừa

là lộ khác như Đại Nam nhất thống chí ghi nhận ngoài con đê này còn có 3 con đê

khác nữa: “Một đường nhân cái đập đất cũ từ đường cái đến con đường do Nguyễn

Văn Thụy (Thoại) đắp từ trước, dài 1 dặm linh 108 trượng 5 thước, đắp cao lên 5

thước 8 tấc, mặt đê rộng 1 trượng, chân đê rộng 3 trượng” [47, tr.224]. Một đoạn đê khác được nhắc đến: “Một đường từ đường cái Vĩnh Tế cũ đến Sán Sơn(66) dài 2 dặm

linh 108 trượng, cao 6 thước 5 tấc, mặt đê rộng 1 trượng, chân đê rộng 3 trượng” [47,

tr.224]. Cuối cùng là “Một đường nhân đường cái từ cái đập đất đến bảo Vĩnh Tế dài

10 dặm linh 102 trượng, gia cao 3 thước, mặt đê rộng 1 trượng, chân đê rộng 1 trượng

2 thước ở địa bàn huyện Tây Xuyên, đắp từ đời Minh Mạng” [47, tr.225].

Những trục đê – lộ này không những phục vụ đắc lực cho công cuộc khai hoang

lập ấp mà còn là những tuyến hành quân trọng yếu để nhà Nguyễn kiểm soát biên giới

vùng Thất Sơn cũng như vận chuyển lương thực, nông sản về tích trữ tại kho Đốc Tín

ở Châu Đốc. Có thể nói những công trình quân sự và kinh tế này có ý nghĩa vô cùng to

lớn trong việc quốc phòng và phát triển vùng đất biên địa An Giang.

Thời nhà Nguyễn, khai hoang lập ấp là một trong những chính sách lớn của nhà

nước. Các vua Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức đều rất chú ý đến việc khai hoang.

Trong khoảng từ năm 1802 đến 1858, các vua nhà Nguyễn đã ban hành 46 quyết định

khai hoang với các lực lượng huy động tối đa và các phương thức khẩn hoang khác

nhau như đồn điền, doanh điền, tư nhân được nhà nước cấp vốn và tư nhân khai khẩn tự do(67). Quân đội nhà Nguyễn cũng là một lực lượng đặc biệt quan trọng không chỉ

trong việc bảo vệ đất nước, giữ gìn biên cương, ổn định trị an mà trong việc khai

(66)Núi Sam nằm trên địa bàn Thành phố Châu Đốc ngày nay. (67)Trương Hữu Quýnh – Đỗ Bang (1997), Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế, trang 43.

hoang lập đồn điền và doanh điền.

163

Trên vùng đất An Giang trong thời kì này, quân đội nhà Nguyễn tiến hành đóng

trú, xây dựng các đồn bảo trong mục tiêu quốc phòng nơi biên giới trọng địa. Việc lập

những đồn bảo mới cũng dẫn đến việc thu hút dân cư đến tụ tập sinh sống quanh các

nơi đó nhằm tìm kiếm sự an toàn mà chuyên tâm lo khai khẩn những vùng còn hoang

hóa mở rộng sản xuất phát triển làng xóm. Quanh các đồn Thuận Phiếm, Tân Châu,

Tiến An, Vĩnh Thành, Vĩnh Gia, Vĩnh Điều, Vĩnh Tế, Đông Xuyên, Cần Thăng, An

Châu, An Lạc, Nhân Hội, Giang Nông,.... nhân dân đến định cư khai phá dẫn đến sự ra

đời của nhiều thôn làng như An Mỹ, Phú Hữu, Vĩnh Lộc, Phú Thạnh, Phú Mỹ [23,

tr.121], Long Sơn, Vĩnh Thành, Vĩnh Tế, Vĩnh Ngươn, Vĩnh Gia, Vĩnh Điều, Vĩnh

Bảo, Long Thạnh, An Quí, Vĩnh Lạc, Toàn Thạnh, Vĩnh Thông [23, tr.83], An Nông,

Nhân Hội,.... Những đồn bảo vùng địa đầu được chính quyền chú ý cho dân tự tập để

khai khẩn. Đó là chính sách lớn của các vua Nguyễn, Thiệu Trị năm thứ 3 (1843) từng

xuống dụ rằng: “Những đất ở suốt dọc biên giới, phần nhiều bỏ không, nếu tuỳ từng

chỗ để cho dân ở, khiến ruộng nương ngày một mở mang, người ở ngày một đông đúc,

cũng là một chước hay bền vững cho biên cương. Vậy chuẩn cho quan tỉnh An Giang

chiếu theo địa thế suốt dọc biên giới trong hạt, chỗ nào có thể chiêu dân lập ấp, hoặc

nên đặt trường sở giao dịch, thì suy nghĩ mà tâu lên” [44, tr.495]. Như trường hợp của

đồn Đa Phúc, năm 1843, Đại Nam thực lục cho biết: “Trước ở An Giang, thấy hai bên

bờ hạ lưu đồn Đa Phúc có nhiều địa lợi, ở đấy mà chiêu dân lập ấp, thì những thổ dân

ở các xứ Bát Ca, Nghi Hoà phụ cận, có thể nhân đó mà gọi đến được” [44, tr.495], còn

“phủ Tĩnh Biên ..., địa thế rộng rãi, có nhiều đất bỏ hoang, hiện đã ra sức mộ dân làm

đồn điền rồi, lại chuẩn cho tuỳ từng chỗ dời người Man đến ở, cày cấy là yên nghiệp.

Nên gia tâm xếp đặt và chiêu tập những dân lưu tán, cho chúng lập ấp cày ruộng, thì

không những dân lưu tán có thể trở về được, mà biên cương cũng ngày một mở mang”

[44, tr.495].

Quân lính trong các đồn điền là lực lượng khẩn hoang, cày cấy quan trọng, ảnh

hưởng trực tiếp đến tình hình khai hoang phục hóa của An Giang lúc bấy giờ. Đại

Nam thực lục chép: “Những biền binh làm đồn điền ở trong tỉnh, năm trước cày cấy đã

khai khẩn được hơn 700 mẫu, sau vì vỡ đê, thành ra ruộng bỏ hoang. Thôn dân không

muốn cày cấy, mà quân lính của tỉnh cày cấy không xiết” [44, tr.496].

164

Lập đồn điền và lập ấp là hai chiến lược lớn nhằm giữ giặc và yên dân [23,

tr.115]. Phương thức lập đồn điền có liên hệ trực tiếp với dân đinh vì số đinh này sẽ

được tuyển làm lính đồn điền. Lính đồn điền vừa bổ sung quân cho quân lính chính

huy khi cần thiết vừa làm nhiệm vụ khai hoang, cày cấy, tích trữ lương thực cho quân

đội và nhà nước. Đây được xem là một hình thức tổ chức bán quân sự.

Đồn điền được tổ chức theo hình thức chiêu mộ lính cứ 50 người thì tổ chức

thành một đội, người đứng ra mộ được làm suất đội. Về sau, khi cày cấy có kết quả thì

đội này cải thành một ấp, viên suất đội trở thành ấp trưởng, theo quy chế dân sự. Ở

vùng Vĩnh An, năm Minh Mạng thứ 12 (1831) các ấp Tân Dương, Tân Đông, Tân Phú

Đông, Phú Mỹ, Tân Hòa, Tân Quý đã xuất hiện [23, tr.85], đến năm 1856, có thêm 9

ấp là Thanh Thiện, An Mỹ, Phú Hữu, Vĩnh Lọc, Phú Thạnh, Vĩnh Thành, Vĩnh Thới,

Phú Mỹ, Phú Khai [23, tr.121]. Trong vùng Tân Châu còn tài liệu liên quan đến ông

đội Chín Tài ở Vịnh Đồn, theo đó vào những năm 1853 và 1856, ông được viên chỉ

huy bảo Tân Châu cho làm ấp Trưởng. Năm 1860, ông được cấp cho một “vi bằng cấp

sự” để mộ lính ở thôn Phú Lâm. Ông đội Chín Tài sau thăng chức Hiệp quản trong đội

binh Giang Nghĩa [13, tr.116-117]. Cũng theo quy định, người nào mộ được 500 người

thì tổ chức thành một cơ (gồm 10 đội), người đứng ra mộ được bổ nhiệm làm chánh

đội thí sai phó quản cơ, khi đất trở nên thành thuộc, cơ này trở thành một tổng, theo

quy chế dân sự [23, tr.115]. Đại Nam thực lục chép: “Dân mộ làm đồn điền thì dồn

làm binh đồn điền, chỉ lấy 50 người dân Kinh làm 1 đội, 500 người làm 1 cơ. Dân mộ

lập ấp, thì cần đủ 10 người trở lên, cho phép được tuỳ chỗ khai khẩn, cư trú nối liền

nhau, lập thành sở của thôn. Người nào mộ được đủ 1 đội, thì bổ thụ làm chánh đội

trưởng suất đội (chánh thất phẩm); đủ 1 cơ, thì bổ thụ cai đội (chánh lục phẩm) thí sai

phó quản cơ” [45, tr.263].

Đến giai đoạn Tự Đức (1848 – 1867), đất đai ở An Giang dù đã được khai

hoang nhưng còn bị bỏ hoang nhiều, vua Tự Đức đã ban bố nhiều biện pháp khuyến

khích khẩn hoang, tổ chức lại đồn điền và lập ấp. Nơi biên giới giáp Chân Lạp đất

rộng, dân thưa nên cần lực lượng bố phòng. Nơi đây cũng chứa đựng một tiềm năng

kinh tế cần thiết để bảo vệ biên giới. Năm 1849, vua Tự Đức cử Nguyễn Tri Phương đi

Kinh lược sứ Nam Kỳ. Khi làm Tổng đốc An Giang, Nguyễn Tri Phương kiến nghị

165

với triều đình Huế cho phép dân chúng đến An Giang khẩn hoang để sinh kế. Tính đến

tháng 5 năm 1851, số ruộng bỏ hoang ở An Giang lên đến 44.784 mẫu [60, tr.261].

Những quan tướng về cai quản, đóng trấn ở An Giang rất chú trọng việc khai

hoang, phát triển vùng đất biên giới. Trong công cuộc khẩn hoang ở An Giang thời

Thiệu Trị, Tự Đức nổi bật lên vai trò to lớn của danh tướng Nguyễn Tri Phương và

Doãn Uẩn. Năm 1844, Tổng đốc An Hà Nguyễn Tri Phương và Tuần phủ An Giang

Doãn Uẩn điều trần 3 việc với triều đình nhằm vực dậy vùng biên giới chiến lược này

sau thời gian vì chiến tranh tàn phá: Xin bớt các điều lệ thanh tra, xin tước trừ ngạch

hư trong bộ sổ dân, xin tha các hạn thuế thiếu lâu nay [23, tr.113]. Năm 1849, Doãn

Uẩn tiếp tục đề nghị “họp dân lập đồn điền để giúp sinh kế” [54, tr.89]. Năm 1853,

kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương và phó sứ Phan Thanh Giản tiếp tục trình tấu “cho là

An Giang, Hà Tiên, địa giới liền với đất Man, là nơi địa đầu yếu ; xin mộ dân đồn điền

ở mặt dải sông Vĩnh Tế thuộc 2 tỉnh ấy, mỗi đội 50 tên, do 2 tỉnh ấy dồn làm các đội

An điền, Tiên điền, ngày thường thì khai khẩn làm ruộng ; khi có việc thì chia phái đi

phòng giữ. Lại ở ven 2 bên bờ sông, cũng xin chiêu dân lập ấp, miễn cho phần chọn ra

lính. Lúc thường thì tuỳ tiện kinh doanh, sinh nghiệp ; có sự thì họp hết lại, chia đi

phòng thủ để làm kế khai khẩn ruộng đất, vững mạnh cõi ven”[45, tr.263].

Mộ dân khai hoang không đủ, Nguyễn Tri Phương tấu trình về nhân lực khai

khẩn “các phủ Ba Xuyên, Tĩnh Biên lại ở khúc giữa An - Hà, thổ dân mới lệ thuộc vào

các hạt ấy. Nay mở đồn điền, lập ấp, không thông hành ở 6 tỉnh, mà độc thi hành ở 2

phủ ấy, thì bọn dân dễ bị nghi hoặc, khó hiểu lẽ kia, sợ hoặc do đó mà sinh sự. Xin

thông sức cho các dân ứng mộ ở tỉnh, hoặc đến Tĩnh Biên, Ba Xuyên, hoặc chiểu theo

chỗ đất hoang trong hạt mình mà khai khẩn lập ấp ; nhưng phải sáp nhập vào các tổng

hiện lập thành, được theo ý nguyện (các điều khoản đều theo lệ trước. Duy có dinh,

điền, 5 năm mới bắt đầu thu thuế). Lại những tù tội chính quán, ngụ quán ở 6 tỉnh (từ

tội xử sung quân trở xuống), không kể quan hay dân bị phạm tội, nếu có người nào ra

sức tình nguyện triệu mộ dân, lập làm 1 đội, hoặc 1 thôn đều đủ 50 người, thì cho phép

làng, họ bảo nhận cam kết, sẽ được tạm tha, cho đi chiêu mộ đủ số thì tha tội...”[45,

tr.264]. Bên canh đó, Nguyễn Tri Phương tiếp tục đề xuất “Tỉnh An Giang tiếp giáp

với nước Miên, đất bỏ hoang còn nhiều, xin từ nay trở đi, phàm những tên can tội

166

trộm, cướp vặt và các tên du côn không rõ lai lịch ở 6 tỉnh Nam Kỳ mà tội chỉ mãn đồ

(3 năm) trở xuống đều phát cho các đồn bảo tỉnh An Giang sai phái. Tên nào xin

không muốn lãnh thì lựu lại đồn điền làm lính, tùy tiện để khai khẩn cày cấy. Đợi số

ruộng khai khẩn được bao nhiêu, cho giữ làm sản nghiệp đời đời.”[54, tr 90]. Năm

1854, Nguyễn Tri Phương lại tấu xin: “Sai bộ Hình xét các tù tội sung quân và tội lưu

đã phát vãng đi từ Quảng Nam trở vào Nam, lấy 200 tên chia ghép vào bảo Giang

Thành ở Hà Tiên và 300 tên chia ghép vào 2 phủ Tĩnh Biên, Ba Xuyên thuộc An

Giang, để phòng giữ và khai khẩn ruộng, đất, nhưng đều cấp vốn cho chúng nhận để

làm việc khai khẩn. Đấy là theo lời tâu xin của Nguyễn Tri Phương” [45, tr.306]. Tù

phạm là lực lượng khá quan trọng dưới sự quản lý của quan binh đã góp phần to lớn

vào công cuộc khẩn hoang lập đồn điền, lập ấp ở An Giang trong giai đoạn này.

Sau thời gian đẩy mạnh vai trò của quan quân nhà Nguyễn làm nồng cốt cùng

với nhân dân An Giang và các tỉnh lân cận vào công cuộc khai hoang lập đồn điền đã

đưa đến kết quả đáng khích lệ trong điều kiện hết sức khó khăn. Theo đó, Nguyễn Tri

Phương báo cáo về triều đình “Giới hạt Nam Kỳ liên tiếp với bọn giặc man di, dân

nhiều người lưu tán, ngày nay mượn tiếng chiêu mộ để tụ tập, bắt chúng khai khẩn để

cấp nuôi, chính là 1 kế cốt yếu để chống giữ giặc và vỗ yên dân. Hiện nay đã dồn

thành cơ đội được 21 cơ, lập thành làng mạc trên dưới 100 ấp, chia đặt cho đóng đồn,

khẩn ruộng, sự thế đã nghiêm, hình thức đã thành, không đến nỗi dân dễ tán đi nữa.”

[45, tr.325]. An Giang bấy giờ qua công tác khai hoang lập đồn điền đã thành lập được

2 cơ: An Vũ và An Dũng tức khoảng 1.000 người. Lại còn những người ứng mộ đi

sông Vĩnh Tế thì ở An Giang dồn riêng làm Ninh Biên nhất, nhị, tam, tứ; 4 cơ (năm ấy

dồn làm 2 cơ nhất, nhị ; năm sau dồn làm 2 cơ tam, tứ). Riêng việc lập ấp An Giang có

23 ấp [45, tr.326]. Đến năm 1858, theo báo cáo của Bố chính Đinh Công Nhượng các

cơ đồn điền An Vũ và An Dũng ở An Giang mỗi lính khai khẩn từ 2 đến 4 mẫu tức

khai khẩn thêm được từ 2.000 đến 4.000 mẫu nữa [54, tr.90]. Đến năm 1866, Nha

Dinh Điền sứ An Giang là Trần Hoàn và Phạm Hữu Chính ghi nhận “chiêu mộ được

1.646 người, khai khẩn được 8.333 mẫu, thành lập 149 thôn, ấp” [60, tr.227]. Diện tích

khẩn hoang tăng theo thời gian góp phần vào sự phát triển của vùng đất An Giang nói

riêng và vùng biên địa Tây Nam bộ nói chung.

167

Nhìn chung, chính sách khẩn hoang lập làng từ thời Tự Đức (1848) đến trước

khi Đô đốc De La Grandière ký sắc lệnh (20/9/1867) giải tán tất cả mọi tổ chức đồn

điền, thì rõ ràng hình thức đồn điền có kết quả, diện tích cày cấy nhiều hơn trước.

Theo thống kê, số lúa ở An Giang nhiều nhất so với các tỉnh. Nhiều thôn ấp được

thành lập. Cộng đồng cư dân người Việt, Hoa, Khmer, Chăm trở nên đông đúc. Họ

buôn bán, làm ruộng, đánh cá, chăn nuôi. Chính quyền phong kiến chỉ kiểm soát và

thu thuế [60, tr.262].

Như vậy, quan quân nhà Nguyễn trấn giữ ở An Giang có vai trò to lớn cùng với

nhân dân đã kiến tạo nên bộ mặt hưng khởi của vùng đất này qua sự nghiệp khẩn

hoang, lập ấp để cũng cố vững chắc nền quốc phòng nơi vùng biên địa Tây Nam bộ.

Trong đó, ghi nhận sự đóng góp to lớn của các quan tướng kiệt xuất như Nguyễn Văn

Thoại, Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn,... đã góp phần tạo nên sự phát triển mới của

vùng đất An Giang giai đoạn trước khi thực dân Pháp xâm lược.

Bên cạnh các hoạt động trên, nhiệm vụ trọng yếu của quân đội nhà Nguyễn trên

vùng đất An Giang trong giai đoạn này là bảo vệ tổ quốc trên toàn tuyến biên giới Tây

Nam. Đối với các mối nguy hiểm đến từ Chân Lạp và Xiêm La, quân đội nhà Nguyễn

đã tiến hành nhiều hoạt động quân sự quyết liệt để bảo vệ tổ quốc và nhân dân, giữ gìn

vững chắc độc lập dân tộc trước các đối thủ truyền thống ở Đông Nam Á lục địa.

Trong thời kì cai trị của các vua nhà Nguyễn từ Gia Long đến Thiệu Trị quân đội nhà

Nguyễn nói chung và quân nhà Nguyễn đống trên vùng đất An Giang nói riêng đã

nhiều lần giáp mặt với quân Xiêm và Chân Lạp trên chiến trường.

Đối với quân Xiêm, họ là đối trọng lớn nhất của nhà Nguyễn trong việc tranh

giành ảnh hưởng trên đất Chân Lạp nên việc động binh giữa hai bên trong giai đoạn

này là không thể tránh khỏi. Trong thời nhà Nguyễn, chiến tranh Việt – Xiêm đã diễn

ra hai lần: lần thứ nhất từ năm 1833 - 1834, lần thứ hai kéo dài từ năm 1841 - 1845.

Cuộc chiến tranh Việt - Xiêm (1833 - 1834) bắt nguồn từ việc vua Minh Mạng

có mâu thuẫn với Lê Văn Khôi (con nuôi của Lê Văn Duyệt). Khôi cất quân nỗi loạn,

chống lại triều đình rồi chiếm cứ vùng Gia Định. Quân của Khôi chiếm được thành

Phiên An nhanh chóng khống chế lục tỉnh [36, tr.680]. Trước sự việc trên, vua Minh

Mạng tức tốc cử Tống Phúc Lương, Nguyễn Xuân, Phan Văn Thúy, Trương Minh

168

Giảng và Trần Văn Năng đem thủy, bộ, binh tượng vào đánh Khôi. Lê Văn Khôi một

mặc cố thủ trong thành, mặc khác nhờ giáo sĩphương Tây đi sang cầu viện quân Xiêm

“cầu xin viện binh, ước hẹn là sau khi thành công thì cắt đất đền ơn, nguời Xiêm tin là

thật” [24, tr.9]. Sự phản bội đột ngột của Thái Công Triều làm cho lực lượng nghĩa

quân Lê Văn Khôi suy giảm nhanh chóng, tạo điều kiện cho quân triều đình chiến lại

các tỉnh Định Tường, Vĩnh Long (ngày 13/7), đến ngày 19/7, Án sát An Giang là Bùi

Văn Lý cũng chiếm lại tỉnh An Giang và Hà Tiên[36, tr.682].

Xiêm La từ lâu đã ấp ủ giấc mơ triệt hạ nhà Nguyễn, độc chiếm Chân Lạp

nhưng chưa có cớ gì dấy binh; hơn nữa việc phòng bị của Việt Nam và Chân Lạp quá

cẩn thận khiến Xiêm chưa có cơ hội thực hiện mưu đồ ấy. Thấy đây là cơ hội tốt, Vua

Xiêm là Rama III bèn nhận lời giúp. Theo kế hoạch định trước, quân Xiêm chia làm 5

đạo đánh Việt Nam:

- Đạo thứ nhất theo đường bộ vào Chân Lạp, chiếm Nam Vang, đi dọc sông Mê

Kông xuống Châu Đốc để tới Gia Định. Đây là cánh quân quan trọng nhất, do Phi Nhã

Chất Tri (tên thật là Rajasuwapadi hay còn gọi là Bodin) chỉ huy gồm 4 vạn quân bộ.

- Đạo thứ nhì tiến bằng đường thủy qua vịnh Thái Lan tiến công vào Hà Tiên,

với 1 vạn quân thủy do Phi Nhã Phật Lăng (PhraKlang, Bộ trưởng bộ Ngoại thương,

kiêm bộ trưởng bộ Chiến tranh từ năm 1831) chỉ huy.

- Đạo thứ ba theo đường bộ đánh lấy Cam Lộ (Quảng Trị) [41, tr.953].

- Đạo thứ tư theo đường bộ đánh lấy Nghệ An[41, tr.961].

- Đạo thứ năm theo đường bộ đánh lấy Quang Hóa (Tây Ninh) [42,tr.13].

Trên chiến trường Nam Bộ, theo kế hoạch, cánh quân Xiêm chủ lực gồm

40.000 quân bộ binh do Phi Nhã Chất Tri chỉ huy theo đường bộ vào Chân Lạp, chiếm

Nam Vang, rồi đi dọc sông Mê Kông xuống chiếm Châu Đốc, phối hợp với cánh quân

thủy khoảng 10.000 quân do Phi Nhã Phật Lăng chỉ huy đánh chiếm Hà Tiên rồi ra

Châu Đốc hiệp quân tới tiếp ứng cho Lê Văn Khôi ở Gia Định Tháng 12 năm 1833,

Xiêm xâm chiếm phủ Bông Xuy (cách thành Nam Vang một ngày đường). Nặc Chăn

hoảng sợ bỏ thành chạy đến An Giang [41, tr.901].

Trước tình thế thù trong giặc ngoài, vua quan nhà Nguyễn đã cùng quân dân

bình tĩnh đối phó. Nhà Nguyễn lập tức tuyển thêm binh để tăng cường quân lực

169

“truyền dụ các tỉnh An Giang, Vĩnh Long và Định Tường gọi thêm hương dõng : mỗi

tỉnh 2.000 hoặc 3.000 người để trưng điệu. Số binh ấy nên dồn lại thành cơ, đội. Hạn

mỗi đội là 50 người, mỗi cơ là 500 người. Lại dụ các tỉnh Vĩnh Long, Định Tường

phát thóc kho xay thành gạo đều 5.000 phương để tải đến An Giang” [41, tr.902]. Vua

Minh Mạng một mặt gửi thư bắt bẻ quân Xiêm “Ta đã sắc cho bộ nghĩ soạn tờ tư, ngày

nào tờ ấy đến nơi, các ngươi nên phái người đem đến quân Xiêm đóng ở Bắc Tầm

Bôn, để bắt bẻ chúng. Nếu chúng khuất phục, rút quân về, cố nhiên là tốt ; nhưng nếu

chúng gây chiến trước, xâm phạm đến địa hạt Chân Lạp, thì chuẩn cho việc làm hợp

lẽ.”[41, tr.898], mặt khác nhà Nguyễn chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng chiến đấu “Nay căn

cứ vào lời tiếp tục báo cáo về tình hình biên giới của tỉnh An Giang, nếu quả có việc

ấy thật, thì Tống Phước Lương, Nguyễn Văn Trọng, Trần Văn Trí và Hà Duy Phiên

phải chia nhau cai quản binh dõng, để phòng thủ luỹ dài. Còn Trần Văn Năng, Trương

Minh Giảng và Nguyễn Xuân lập tức đem quan quân và lấy thêm hương dõng của

Thái Công Triều, đều 1.500 chia ra cỡi thuyền đi An Giang. Khi đến An Giang, Trần

Văn Năng lưu lại đóng giữ ở đấy; Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân thì vẫn cứ lĩnh

một nửa đại binh, thẳng đến đóng giữ Nam Vang”[41, tr.898]. Quân Xiêm chiếm

thành Nam Vang. Quân dân Chân Lạp hoảng sợ, chạy tan tác. Nặc Chăn cùng quan

quân, dân chúng 1800 người, 110 thuyền đến Vĩnh Long và nói người Xiêm đưa thư

đại lược nói sẽ đưa hai em của Nặc Chăn về, cho cùng nhau đoàn tụ [41, tr.950]. Tiếp

đó quân Xiêm tiến đánh chiếm Hà Tiên, quân ta rút lui cố thủ dọc theo bờ từ Vĩnh Tế

đến Cửu Long Giang. Triều Nguyễn liền cử Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân Ðại

đem quân đến đánh đuổi quân Xiêm “Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đem hơn

400 biền binh ở các vệ, các cơ và 8 chiếc thuyền Hải đạo, Ô, Lê đi đến An Giang, tuỳ

cơ điều khiển. Tiếp lại nghe tin cáo cấp của Hà Tiên, lại phái thêm hơn 500 biền binh

và 15 chiếc thuyền kế tiếp tiến đi” [41, tr.926], sau đó lại tiếp tục bổ sung “Trần Văn

Năng lập tức lấy 4.000, 5.000 binh dõng đi gấp đến An Giang, hội đồng với Trương

Minh Giảng và Nguyễn Xuân, mưu tính việc quân, khiến có trọng binh đàn áp để cho

quân địch phải sợ sệt” [41, tr.926]. Vua Minh Mạng đã có sự trù tính “Nay tại Kinh đã

phái đi 2 đại đội, quan quân thuỷ và lục, thuyền bè và voi chiến khá nhiều, súng đạn và

thuốc súng đầy đủ. Lại trưng điều binh dõng các tỉnh chỉ trong một tuần, có thể có tới

170

hơn 10.000 kéo đến quân thứ. Hai đường thuỷ, lục cùng tiến, trước hãy thu phục lấy

tỉnh Hà Tiên để chặt cánh tay phải của quân địch, rồi chỉnh đốn quân lữ, phấn chấn

binh oai, một mặt từ An Giang kéo lên, một mặt từ Hà Tiên kéo đến, tập hợp hết thảy

lực lượng binh, dõng và thuyền to, súng lớn của ta đều tiến lên giáp công, thì có thể

quân Xiêm sẽ bị bắt hết và không còn lấy mảnh giáp, chiếc xe quay về được”[41,

tr.933].

Tháng 12/1833, quân Xiêm chia làm 2 đường xâm phạm đồn Châu Đốc, An

Giang bị thất thủ. Lãnh binh An Giang Nguyễn Đăng Huyên đi hội với Tuần phủ Hà

Tiên Trịnh Đường, Án sát Đặng Văn Nguyên, Lãnh binh Bùi Công Lai đến đóng quân

ở Trạo Khẩu. Kịp khi quân giặc ập đến, nó nhiều, ta ít, không địch nổi, phải lui quân

về Châu Đốc, giặc thừa thắng, đuổi đánh. Lại có một cánh quân giặc từ thành Nam

Vang thuận dòng xuôi xuống. Bố chính Đặng Văn Bằng, Án sát Bùi Văn Lý bèn đem

hết văn võ binh lính và chức dịch thuộc tỉnh cùng với bọn Đăng Huyên chạy ra sông

Sa Đéc (phủ lỵ thành mới) để đợi quân cứu viện [41, tr.933]. Tống Phước Lương,

Tham tán Trần Văn Trí, quản lĩnh biền binh các vệ các đội hơn 1.000 người, chia ngồi

hơn 20 chiếc thuyền Hải đạo và Ô, Lê từ Gia Định tiến đến An Giang, hội đồng với

Tham tán Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân để đánh dẹp giặc Xiêm [41,tr.947],

“Lại cũng ra lệnh cho Thái Công Triều chước lượng đem một số hương dõng gấp đi

tòng chinh, để lực lượng quân hợp lại được hùng hậu. Lại phải chuẩn bị cho nhiều thứ

đuốc hoả công và hết thảy những đồ hoả khí cùng đồ thuỷ chiến, phàm những thứ có

thể thắng được quân địch thì đều mang đi” [41, tr.947] vì thuỷ chiến và hoả công đều

là ngón sở trường hơn hết của nước ta [41, tr. 948].

Tháng 1/1834, Quân Xiêm sau khi chiếm Châu Đốc đã theo sông Hậu Giang

tiến sâu vào nội địa tỉnh An Giang, đến Thuận Cảng chúng lập đồn bảo ở hai bên tả

hữu bờ Thuận Cảng. Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đem quân đến, thì giặc kéo

ra ngoài cửa Cảng hơn 100 chiếc binh thuyền vừa lớn vừa nhỏ để chống cự lại. Quân

ta tiến đánh, bắn đại bác trúng ngay vào tướng tiên phong của giặc là Liêm Cầm Hiên,

giặc bèn rút vào trong cảng. Quân ta đánh úp, tiêu diệt được đồn giặc ở phía tả ngạn,

thiêu huỷ được 15 chiếc thuyền của giặc và thu được súng ống khí giới rất nhiều. Còn

đồn ở bên hữu ngạn, quân giặc chống giữ càng hăng. Bấy giờ vừa được hơn 300 biền

171

binh ở Tiền phong Tả vệ do quân thứ Gia Định phái đến, Trương Minh Giảng sai Phó

vệ uý Nguyễn Văn Tình dẫn đội quân mới đến đổ bộ, rồi giao hẹn : hễ hạ được đồn

giặc ấy thì thưởng 30 lạng bạc; lại sai Đội trưởng đội Ngân sang quyền sai Suất đội là

Phan Văn Thành đốc chiến Hà Tiên, Tuần phủ Trịnh Đường cũng đem binh thuyền lại

tiếp ứng, liền hạ được đồn giặc, chém được 4 đầu giặc, đốt được 2 chiếc thuyền địch

và thu được súng ống, khí giới cũng nhiều. Giặc đã thua chạy tập hợp các thuyền lớn

đóng lại [41, tr.949].

Tham tán quân thứ An Giang là Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đóng

binh thuyền ở Thuận Cảng, chống nhau với giặc, bỗng có người Chân Lạp là Ma A

Mân Tri Sốc từ trong đám giặc ở Nam Vang đến đầu hàng quân thứ và nói: Tướng

Xiêm, Phi Nhã Chất Tri cùng em thứ hai Phiên vương, có độ hơn 10.000 quân còn [41,

tr.963] đóng ở thành Nam Vang. Người đem quân đến đánh Châu Đốc là tì tướng Phi

Nhã Liêm Cầm Hiên, binh thuyền có đội 200 chiếc, mỗi chiếc có độ trên, dưới ba, bốn

chục người, đều lẫn lộn cả người Xiêm, người Lạp, người Mán, người Lạo, hay người

nhà Thanh, hắn lại nghe tin Phi Nhã Phạt Lăng đem độ 150 chiếc binh thuyền từ Hà

Tiên đến, binh sắc phần nhiều là các người Xiêm, Lạp, Đại Thanh, Chà Và theo đạo

Gia Tô. Thuyền lớn độ 100 người, thuyền vừa có độ năm, sáu mươi người, thuyền nhỏ

độ ba, bốn mươi người, hợp cùng quân của Phi Nhã Liêm Cầm Hiên cùng tiến lên

Thuận Cảng sông Hậu Giang để chống nhau với quân ta. Lại nữa, quân tuần tiễu bắt

được một giáo đồ Gia Tô là Lê Văn Công và nói: “Còn Trưởng giáo Gia Tô tên là

Thuận ở nước Xiêm, dụ được hơn 2.000 người, gồm có Xiêm, Chân Lạp, người Đại

Thanh và người Chà Và theo đạo Gia Tô còn ở phía sau, chưa đến”. Bọn Trương Minh

Giảng cho rằng giáo đồ Gia Tô phần nhiều theo giặc, ngầm thông tin tức, nên lập tức

chém đầu Lê Văn Công và đem tình hình tâu lên.” [41, tr.964].

Tống Phước Lương và Trần Văn Trí tiến đến Thuận Cảng, hợp quân cùng

Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân, chia nhau đốc suất binh thuyền lớn đóng ngang

ở trong cảng. Quân Xiêm dùng đại bác bắn ra, lại bày trận ở hai bên bờ, bắn súng để

chống cự quân ta. Vệ uý Ban trực Tả vệ là Phạm Hữu Tâm đem một chi binh lên cạn,

đánh vào đồn tả ngạn của giặc, thuyền của Tống Phước Lương rút lui trước, các quân

đều rút theo. Trương Minh Giảng đem binh lính thuộc bộ mình, lưu lại đợi Phạm Hữu

172

Tâm xuống thuyền rồi cũng rút lui. Quân ta lui về đóng giữ ở Thủ Chiến Sai phía Tiền

Giang, rồi sai người đi truy mời các tướng trở lại, chọn nơi thiết lập đồn trại để phòng

ngự. Rồi phi tư cho quân thứ Gia Định vát thêm binh thuyền và tức tốc phái ngay Thái

Công Triều đi hội tiễu. Bọn Tướng quân Trần Văn Năng liền sai Thái Công Triều đem

hơn 300 quân hương dõng bản bộ và 5 chiếc thuyền đi theo sai phái [41, tr.965]. Quân

ta tất cả thu quân về dàn trận chiến lược ở sông Cổ Hủ (tức là thủ sở Chiến Sai cũ).

Giữa lúc đấy Minh Mạng có mật dụ nhắc nhở “Nay (quân Xiêm) đóng quân ở

Thuận Cảng, giặc muốn mưu đồ cầm cự dài lâu. Tình thế ấy quyết không làm được.

Đường sông An Giang có nhiều ngả rất là hiểm yếu. Nên xét kỹ cơ mưu đánh và giữ,

hoặc đem đại quân chặn đường trước mặt, không cho quân địch tiến lên một tấc đất

nào, lại phái một cánh quân, theo đường tắt vòng ra đằng sau địch để cắt đường vận

lương của chúng, hay là ngả cây cối xuống, lấp chặt đường đi, chẹn chỗ hiểm yếu để

mưu chống giữ, thì quân giặc ở cửa Thuận Cảng cuối cùng rồi cũng đến khốn đốn mà

chết. Nếu quân giặc có đem binh quay lại, thì thế tất phân tán, sức tất yếu đi. Khi đó, ta

tiến công quyết phải thắng. Tướng quân và Tham tán nên khéo mưu tính lấy.” [41,

tr.966]. Và “lập tức phái thêm hơn 5.000 quân đi hiệp tiễu, để nhờ đó được đắc lực

hơn thì có thể chống được giặc.” [41, tr.967].

Quân Xiêm dẫn hơn 100 binh thuyền từ Thuận Cảng xuống, đến đoạn sông Cổ

Hủ thì trạm trán với quân ta. Quân giặc ở thượng lưu sông, thuỷ bộ cùng chống cự với

quân ta, đương đêm thừa lúc nước triều xuống, chúng ở hai bên ven sông đốt lửa đánh

bè, ngăn cả chu sư của ta, rồi đem quân sấn đến đồn tả ngạn, xông đánh. Quản vệ giữ

đồn là Phạm Hữu Tâm cự chiến, chém được tên đại đầu mục giặc là Phi Nhã Khổ Lạc

và hơn 20 đầu giặc [42, tr.6]. Trần Văn Năng liền thân đem các hạng biền binh dưới cờ

hơn 470 người, chia đi 10 chiếc thuyền ô, thuyền lê tiến đến An Giang để làm việc

quân [42, tr.11]. Cuộc chiến trên sông Cổ Hủ bắt đầu, đây là trận đánh có tính chiến

lược quan trọng. Nếu ta không ngăn được, giặc sẽ tràn xuống Sa Đéc rồi Rạch Gầm,

Mỹ Tho và nhanh chóng tiếp ứng cho Lê Văn Khôi, khi đó tạo thành thế “nội ứng,

ngoại hợp” rất nguy hiểm.

173

Quân Xiêm lại dựng trại ngang đồn ngày đêm dùng đại bác bắn phá với mục

đích quấy rối ta liên tục trong hai ngày, rồi ngừng một ngày thì quân ta sẽ tranh thủ

nghỉ ngơi và lơ là phòng bị khi đó quân Xiêm sẽ thừa cơ hội đánh úp bằng hỏa công.

Về phía quân ta, Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đều là những tướng giỏi,

nhanh nhạy và có mưu lược. Khi lính tuần tiễu của ta bắt được một cây chuối nổi giữa

sông, đoán biết quân Xiêm sẽ dùng hỏa công, hai người bàn rằng: “Thủy chiến hỏa

công là kỹ thuật sở trường của quân đội ta. Nếu giặc dùng bè lửa trôi xuống, ta sẽ lách

vào những khoảng trống giữa các bè mà tiến lên. Nếu bè lửa của giặc kết lại từng

mảng, ta đi hai bên bờ hoặc giữa dòng, dùng búa mà cắt dây sắt cho bè tan ra, hoặc

dùng móc sắt kéo các bè cho dạt ra” [24, tr.9-10]. Bàn định đâu đấy, quân ta liền thu

hết các chiến thuyền về đậu ở hai bên bờ sông. Đến canh năm, quân Xiêm phóng một

bè lửa lớn ở giữa sông, lửa cháy ngất trời. Giặc ở phía thượng nguồn bèn nhân đêm tối

lúc nước ròng, noi theo hai bên tả hữu bờ sông, phóng hỏa đốt thuyền của ta, rồi giặc

đem quân đến đồn phía tả ngạn mà đánh. Quản vệ Phạm Hữu Tâm đốc quân đánh bắn,

từ giờ Dần đến giờ Tỵ (khoảng 5 giờ sáng đến 12 giờ trưa), quân giặc chết nhiều, thây

chồng nhau. Thủy quân ta thuyền chiến nối nhau, thành thử lửa ở giữa sông không bắt

được sang hai bên bờ. Khi bè lửa trôi qua rồi, quân ta thủy bộ đánh giáp. Quân Xiêm

thất bại thu quân về [73].

Quân Xiêm tuy dùng hỏa công thất bại, nhưng vẫn còn cậy đông, khi đánh khi

nghỉ. Một đạo quân khác theo đường bộ từ Quang Hóa (Tây Ninh) tiến công ta, bị

quân Chân Lạp đánh bại. Rajasawapudi ắt cũng không có hy vọng tiến thêm nữa đành

cho quân Xiêm lui. Bộ tướng Thái Công Triều đoán trước việc này, quân ta truy kích.

Trương Minh Giảng dẫn quân tiến sát đến đồn Châu Đốc, cùng giặc bắn nhau, suốt

ngày chưa lấy được đồn. Lão tướng Trần Văn Năng bèn chia quân theo đường kênh

Vĩnh Tế đến đánh Hà Tiên. Cuối tháng 1/1834, quân ta thu phục được đồn Châu Đốc,

rồi tiếp đến Hà Tiên được giải phóng. Rajasawapudi lui quân về Chân Lạp.

Thừa thắng, tướng quân Trần Văn Năng, Tham tán Trương Minh Giảng và Tán

tương Trương Phúc Đĩnh ở quân thứ An Giang chấn chỉnh binh thuyền tiến thẳng lên

Nam Vang dẹp giặc Xiêm. Quân Xiêm nghe tin đại quân tiến đến, bèn đem nhau chạy

trước. Quân ta lấy lại được thành Nam Vang. Vua lại sai quan quân hộ tống vua Chân

174

Lạp về nước, khi đến Nam Vang thì ủy cho Trương Minh Giảng sắp xếp cho ổn thỏa,

khiến được ơn nhờ uy đức triều đình, hòa hợp bộ lạc, củng cố bờ cõi lâu dài [42, tr.34-

45]. Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Xiêm (1833 – 1834).

Chiến thắng lịch sử trước quân Xiêm với những trận quyết chiến chiến lược

trên vùng đất An Giang đã dập tắt ý chí xâm lược nước ta của quân Xiêm, đồng thời

phá tan âm mưu “nội công ngoại kích” của Lê Văn Khôi, bảo vệ an toàn cho tổ quốc.

Sau khi đánh đuổi quân Xiêm ra khỏi bờ cõi Chân Lạp, không muốn nhọc lòng

tướng sĩ và gây hoang man trong dân Phiên, vua dụ Trương Minh Giảng, Nguyễn

Xuân, mỗi người đem 1000 binh dõng đóng lại thành Nam Vang để trấn áp và trù tính

việc thiện hậu; còn bao nhiêu binh dõng, cho Hồ Văn Khuê, Hoàng Đăng Thận và

Trương Phúc Đĩnh đều mang cả về quân thứ Gia Định; đồng thời cho đặt đồn canh giữ

ở Phủ Lật (tiếp giáp với Bắc Tầm Bôn phía bên Xiêm) và Bông Xui (giáp với Lò Gò

Vật của Xiêm), lưu mỗi nơi 300 quan quân Phiên để bảo vệ cho toàn hạt Chân Lạp

[42, tr.184-189]. Tháng 7/1834, Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương thông qua kế

hoạch cải thiện tình hình Chân Lạp sau cuộc xâm chiếm của Xiêm. Một số vấn đề

quan trọng được thi hành như chia đặt quan Phiên coi giữ những nơi trọng yếu, lập đồn

trại canh phòng, lấy lính Phiên biên chế vào quân đội chia nhau đóng giữ các nơi,

chỉnh đốn sửa sang đồ quân dụng… [42, tr.297-299]. Sở dĩ Minh Mạng cho quân ở lại

Chân Lạp vì quân Xiêm tuy rút lui nhưng vẫn không từ bỏ âm mưu đánh chiếm lại

Chân Lạp, tàn binh Xiêm vẫn đóng ở địa phận Bông Xui, Phủ Lật, Bắc Tầm Bôn chờ

cơ hội; hơn nữa, trong nước các thế lực chống đối Nặc Chăn là Nặc Giun, Nặc Yêm…

luôn tìm cách nổi dậy khiến tình hình Chân Lạp luôn bất ổn. Vì vậy, nhất thiết phải có

một thế lực giúp Nặc Chăn ổn định tình hình đất nước và đề phòng quân Xiêm. Lực

lượng đó không ai khác chính là quan quân Việt Nam. Minh Mạng biết rằng quân

Xiêm La quá hung tàn; chúng sẵn sàng phủ bỏ tình hòa hiếu đã có từ lâu để thực hiện

mưu đồ bành trướng. Một khi Xiêm La đã chiếm được Chân Lạp, biên giới Tây Nam

nước ta sẽ bị uy hiếp nghiêm trọng. Vì vậy, Việt Nam không còn cách nào khác là tự

bảo vệ mình; mà muốn vậy, trước hết phải bảo vệ an toàn cho Chân Lạp, nơi mà các

bậc tiên đế trước đã xác định là “phên dậu” của Việt Nam.

175

Cuộc đấu tranh chống quân xâm lược để bảo vệ tổ quốc và nhân dân là sự

nghiệp thiêng liêng của quân đội. Trong công cuộc phòng thủ và chiến đấu trên mặt

trận biên giới Tây Nam của quân dân An Giang nói riêng và Nam Bộ nói chung đã thể

hiện đầy đủ truyền thống yêu nước đấu tranh quyết liệt bảo vệ non sông, đất nước

trước các thế lực ngoại bang xâm lấn, đồng thời còn thể hiện sự nhất quán trong các

chính sách bảo vệ biên giới quốc gia của các chính quyền cai trị mà cụ thể là vương

triều Nguyễn.

Khi vết thương của cuộc chiến Việt - Xiêm (1833 - 1834) còn rĩ máu, những sự

tàn phá của quân Xiêm trên vùng đất Hà Tiên, An Giang còn chưa được khôi phục,

dân cư làng mạc còn xơ xác tiêu điều thì quân Xiêm lại gây hấn, chuẩn bị cho một

cuộc chiến tranh mới dài hơn, quyết liệt hơn.

Năm 1841, sau khi Minh Mạng mất, Thiệu Trị lên nối ngôi vua, vẫn tiếp tục

duy trì những chính sách của vua cha để lại. Vừa mới lên ngôi, Thiệu Trị đã gặp ngay

vấn đề lớn là cuộc chiến với quân Xiêm (1841 - 1845). Từ năm 1840, mấy vạn quân

Xiêm kéo vào đóng ở U Đông (Oudong), vua Minh Mạng sai tướng Phạm văn Điển và

Nguyễn Tiến Lâm mang quân sang đối phó nhưng không kết quả. Năm 1841, nhận

thấy tình hình Chân Lạp bất ổn mãi, nên nhân có lời tâu của Tạ Quang Cự xin bỏ đất

Chân Lạp, rút quân về giữ An Giang. Nhận thấy tình hình nước ta bất ổn vì những âm

mưu đe dọa của ngoại bang phương Tây, cần phải dồn toàn lực bảo vệ đất nước; hơn

nữa công cuộc bảo hộ trên đất Chân Lạp và những cuộc đối đầu với Xiêm khiến tổn

hao nhiều sức người sức của, nên Thiệu Trị nghe theo và xuống chiếu bãi binh.

Trương Minh Giảng thu binh về đóng tại An Giang, kết thúc công cuộc bảo hộ [14,

tr.461]. Biết tướng Trương Minh Giảng rút quân về nước, quân Xiêm đưa Nặc Ông

Đôn về Nam Vang lên ngôi vua và không bỏ lỡ cơ hội, Phi Nhã Chất Tri (còn gọi là

tướng Bodin) dẫn quân sang đánh phục thù.

Trước tình hình đó, vua Thiệu Trị có dụ nhắc nhở “Vua bèn dụ cho thự Tổng

đốc Nguyễn Tri Phương sửa soạn binh thuyền sẵn, đợi có tin khẩn báo ở Hà Tiên thì

lập tức đem binh thuyền cùng với Lãnh binh Nguyễn Văn Hoàng hoặc Vũ Đình Đàm

đi sang để chống giữ. Bọn Lê Văn Đức ở Gia Định, Trương Văn Uyển ở Định Tường

cũng đều phải chỉnh bị quân, nuôi sức mạnh và thông tin cho những viên đóng giữ 2

176

đồn Thông Bình, Tây Ninh phải dò xét tình hình hư, thực của giặc.” [44, tr.280]. Ngay

sau đó, Nguyễn Tri Phương lại tâu lên rằng: “Các tỉnh ở Nam Kỳ đều giáp liền với cõi

giặc, duy dải sông Tiền Giang là lối thông vào giữa ruột các tỉnh An Giang, Vĩnh

Long, Định Tường, xin đem binh thuyền đi tới các đồn Thông Bình, Hùng Ngự (thuộc

tỉnh Định Tường), Tân Châu, An Lạc (thuộc tỉnh An Giang), tỏ rõ binh uy để cho giặc

biết có phòng bị nghiêm cẩn”[44, tr.281]. Nhà vua cho tăng cường quân đội phòng giữ

“Lấy thêm hương binh ở các hạt trong Nam Kỳ. Trước đây, ở miền Nam có việc, tạm

lấy (hương binh) ở Gia Định 1.500 tên, ở Vĩnh Long, Định Tường mỗi tỉnh 1.000 tên,

ở An Giang 500 tên ; đến nay, vì ở địa đầu các hạt chia phái đi nhiều ngả, nên lại lấy

thêm ở Gia Định, Vĩnh Long mỗi tỉnh 1.000 tên. Định Tường, An Giang và Biên Hoà

mỗi tỉnh 500, cấp cho khí giới, tiền, gạo, chia thuộc vào các đạo binh Nhà nước để

phòng tiễu và chuyển vận các thứ quân nhu.” [44, tr.304]. Lại sai Nguyễn Tri Phương,

Nguyễn Tiến Lâm án ngữ sông Tiền Giang ; Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Công Nhàn

án ngữ sông Vĩnh Tế ; Phạm Văn Điển, Nguyễn Lương Nhàn án ngữ mặt Hậu Giang

[44, tr.311].

Đầu năm 1842, quân Xiêm sau thời gian dò xét tình hình liền triệu tập quân

binh tấn công Hà Tiên “quân giặc phân chi từ núi Lộc Giác đến quãng đường bộ ở Chu

Nham, đắp 18 đồn trại, một mặt chặn Kim Dữ, một mặt giữ Lô Khê, bắn súng lớn viên

đạn 3 tấc tan rơi như mưa,... Giặc vẫn còn dám bắn súng lớn luôn ngày đêm để bức

hãm tỉnh Hà Tiên” [44, tr.313]. Mặc khác, quân Xiêm còn cho quân cùng với bọn thổ

phỉ hơn 20.000 quân [44, tr.323] kết đồn liên tiếp đóng giữ, mưu đồ đánh phá “Tại dải

sông Vĩnh Tế, bên hữu ngạn từ Vĩnh Thông đến Tiên Nông, bên tả ngạn từ Vĩnh Lạc

đến Tĩnh Biên, bọn thổ phỉ kết đồn trại liên tiếp, thừa dịp vây bắn vào Tân Châu, An

Lạc ở Tiền Giang, Đa Phúc, Cần Thăng ở Hậu Giang, càng ngày càng vây bức...” [44,

tr.316], và “bọn thổ phỉ lại đến chỗ thượng lưu đồn Đa Phúc, hai bên tả, hữu theo các

bụi tre dựng lên đồn luỹ, bày hàng thuyền, xuồng. Quân giặc có độ hơn 3.000 tên, dựa

vào chổ hiểm để chống giữ.” [44, tr.321]. Quân đội nhà Nguyễn lập tức ứng phó, vua

Thiệu Trị cho binh thuyền từ Huế kéo vào tăng cường, cùng với lính thú từ Quảng

Nam, Quảng Ngãi [24, tr.13].

177

Trên mặt trận Hà Tiên “thự Đề đốc Đoàn Văn Sách, lĩnh Án sát Đinh Văn Huy,

thân hành đến đóng giữ pháo đài ở cửa biển Kim Dữ trước, Tuần phủ Lương Văn

Liễu, lĩnh Bố chính Trần Văn Thông, Lãnh binh Mai Văn Tích, nguyên Án sát Hoàng

Mẫn Đạt đều thân đốc quân quan chia bày như bức thành dài, đánh rất dữ dội; súng

lớn bắn giết quân giặc thuyền tan từng mảnh, thây chết ngổn ngang. Bọn giặc vỡ tan,

luôn đêm bỏ chạy; quân ta đuổi theo, lại cướp được súng lớn của chúng. Quân giặc

chạy loạn, sợ trốn đi xa; ta bèn thu quân về các đảo như cũ.” [44, tr.313].

Trên mặt trận Vĩnh Tế, An Giang “Tổng đốc An - Hà là Tín Vũ hầu Phạm Văn

Điển cho rằng bọn đầu mục của giặc phần nhiều ở tả ngạn, ta đánh phá các đồn ấy

trước thì những đồn ở hữu ngạn không đánh cũng tự vỡ, bèn sai bọn sung thí Phó vệ

Trần Kim, Quản cơ Lê Đình Lý, Vệ uý Nguyễn Văn Ổn chia lĩnh hơn 1.000 biền binh,

trước hết đến đồn giặc ở tả ngạn, thuỷ bộ 2 mặt giáp đánh.”[44, tr.321]. Quân quan lại

sang đồn giặc bên hữu ngạn, đánh tràn. Giặc đều bỏ chạy. Lập tức phá huỷ các đồn

luỹ, chia đường theo bắt giặc, thu được rất nhiều khí giới [44, tr.321-322]. Phạm Văn

Điển thấy ở sông Vĩnh Tế còn có đồn giặc đóng giữ, lại đem binh thuyền đi đến quân

thứ Vĩnh Thông, bàn với Nguyễn Công Nhàn, Nguyễn Lương Nhàn tuỳ cơ đánh dẹp.

Bỗng tỉnh Hà Tiên gấp báo: có hơn 50 chiếc thuyền giặc hiện còn thả neo đỗ ở đảo

Phú Quốc; binh thuyền ở Gia Định phái đi, đã đến Kim Dữ, đóng ở ngoài biển nên

đem vài chục chiếc thuyền vượt biển, đi mau đến đó hội họp cắt đặt. Điển cho rằng: tại

Hà Âm và Hà Dương, bọn giặc chưa dẹp yên, nếu lại theo mặt khác vượt biển đón

đánh quân giặc thì cũng chưa hợp với việc nên làm, chi bằng trước hãy đánh dẹp Hà

Âm rồi đến Thất Sơn để cho mất hết cái lo bên trong, rồi sẽ mưu tính đặt lại sở Phú

Quốc.” [44, tr.322]. Phạm Văn Điển thấy một dải Hà Âm, giặc kết liên 8 đồn, lại dựa

vào trường luỹ đắp thành gần các thành, đồn Vĩnh Thông, Tiên Nông, Thôn Nhân,

Vĩnh Lạc, mưu đồ đánh phá, thế giặc rất mạnh, bèn cùng các tướng bàn rằng: “Giặc

nhiều, ta ít, nếu ta nhất tề tiến đánh thì chúng sẽ phải chia binh ra; nếu chúng có quân

viện ở ngoài cũng khó lòng tiếp ứng được”, liền cắt Đoàn Quang Mật đem hơn 1.000

binh đánh đồn bên tả của giặc, Tôn Thất Nghị đem hơn 500 binh để tiếp ứng ; Nguyễn

Lương Nhàn đem hơn 600 binh đánh đồn hữu của giặc ; Nguyễn Công Nhàn đem hơn

1.300 binh tiến đánh 3 sở đồn giữa. Điển tự đem hơn 1.600 binh đi để làm tiếp viện.

178

Đồn giặc 5 sở, bọn giặc ở mỗi đồn hơn 2.000 tên, hoặc giữ hiểm bắn ra, hoặc ra đồn

chống đánh. Quan quân giao chiến với giặc, đồn tả của giặc vỡ trước, Đoàn Quang

Mật và Tôn Thất Nghị chuyển về đạo binh của Nguyễn Công Nhàn để hợp sức đánh.

Quân giặc, 13 trại ở trong rừng, mỗi chi ước 2.000 tên, do đường rừng kéo ra tiếp viện.

Phạm Văn Điển sai Phó quản cơ Dương Hựu, Phạm Phúc Minh đều đem quân bản chi

chặn đánh; Nguyễn Lương Nhàn lại sai Nguyễn Văn Ổn, Phan Pháp, Hồ Bích đem

một toán quân đánh úp phía sau. Bị trong ngoài giáp đánh, giặc lại phải rút vào rừng,

lủi trốn. Tướng giặc bỏ cả tàn lọng, voi, ngựa, một mình chạy lẩn như chuột. Các đồn

giặc đều bị quan quân bao vây, đầu cuối không tiếp ứng được nhau, chỉ trong chốc lát,

các đồn đều tan chạy hết; 13 trại giặc ở ven núi không đánh cũng tự vỡ. Quân ta dồn

sức đuổi bắt, chém được 448 đầu, đâm trúng 225 tên, bắn chết 339 tên, thu được 1

khẩu súng lớn kiểu Tây dương (sau vua cho tên súng là “Bình Xiêm xung tiêu pháo”, 6

cỗ súng phách sơn, 7 cỗ súng hồng y, 12 cỗ súng quá sơn, 2 khẩu súng thần công, 105

cây súng điểu sang, bắt được đạn dược, súng, thuốc súng, giáo, gươm không kể xiết.

Lại thừa thắng tiến đánh 3 sở đồn giặc, tới nơi, quân giặc đều bỏ đồn chạy trốn, bèn sai

quân sĩ đốt cháy hết một lượt [44, tr.323-324]. Quân nhà Nguyễn đại thắng với công

đầu thuộc về các tướng “Phạm Văn Điển, Nguyễn Lương Nhàn, Đoàn Quang Mật, với

số quân 5.000, giết bọn giặc 20.000, không đầy 3 khắc hạ luôn 8 đồn, tại trận, bêu 7

đầu tướng giặc, giết quân giặc hàng nghìn, hàng vạn...” [44, tr.324]. Sau đó, vua dụ

bọn Điển dời quân hợp sức đánh các xứ Thất Sơn, Sách Sô. Điển cho rằng: địa thế ở

Thất Sơn hiểm yếu, chưa thể dẹp yên gấp ngay được, duy Sâm Phủ là chỗ đất tất phải

đi qua, nên hợp sức đánh trước để chặn chỗ hiểm. Nhân trích để lại hơn 2.000 binh

dõng, sai Lãnh binh Đoàn Quang Mật quản giữ các đồn trại thuộc đường sông Vĩnh

Tế, còn đều đem đi đánh xứ Sâm Phủ. Điển cùng với Nguyễn Công Nhàn, Tôn Thất

Nghị do đồn Tiên Nông dời đến Ba Thứ, giặc đều bỏ đồn chạy. Hôm sau, tiến đến Bàn

Ly, chỗ này bên tả có núi Cấm Sơn, bên hữu có núi Ốc Dâm, địa thế rất hiểm, rừng

cây sầm uất, gai góc liền từng bụi, trong có luỹ dài chặn ngang, quân giặc giữ hiểm

chống cự. Điển đặt 3 đồn sở ở xứ Bàn Ly, tự đóng giữ lấy, sai Nguyễn Công Nhàn

đem 1.000 binh theo đường núi Ốc Dâm, Tôn Thất Nghị đem 1.000 binh theo đường

núi Cấm Sơn, đều nhân ban đêm, đi xuyên sơn, đến sáng đều tới phía sau luỹ giặc.

179

Bọn giặc sửng sốt kinh hãi, chia các mặt để chống giữ. Quan quân hết sức đánh mạnh,

giặc đều tan chạy. Quản cơ Trần Tri ráng sức tiến lên, xông vào luỹ giặc trước, các

quan kế tiếp xông vào, phá tan luỹ dài, bắn chết 164 tên, đâm trúng 32 tên [44, tr.325].

Cùng lúc đó, Nguyễn Tri Phương tiến đánh Tiền Giang, phá tan quân giặc. Khi ấy,

Phương ở An Giang chuyển về đến trại Hùng Ngự, nghe tin có bọn giặc ước hơn 2.000

tên vây đánh đồn Cửu An, lại dựng trại ở nhánh sông Chính Đôn, chặn ngang lòng

sông, Phương tức thì đốc suất biền binh chia đường tiến đánh, mở được 9 chỗ sông bị

chặn. Tạ Văn Linh, đóng giữ chỗ ấy, thừa thế, mở đồn, hợp sức đánh, bọn giặc đều bỏ

đồn, trại, mà lui; quân ta đuổi theo, đánh phá tan hết. Ở 2 đồn Tân Châu, An Lạc cũng

bị bọn giặc đến nhiễu, bọn Nguyễn Văn Hoà, Vũ Đình Đàm, đóng giữ đấy, tung binh

ra đánh: giặc chết và bị thương rất nhiều [44, tr.326].

Bằng hai chiến công trên vùng đất An Giang và Hà Tiên của quân dân nhà

Nguyễn đã đẩy lùi quân Xiêm ra khỏi bờ cõi nước ta, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu

nước chống giặc ngoại xâm của quân dân Việt Nam trên con đường phát triển. Sau khi

thất bại vào năm 1842, quân Xiêm vẫn tiếp tục đóng quân trên đất Chân Lạp và không

nguôi ý định tấn công nước ta một lần nữa để phục thù và chiếm đất. Việt - Xiêm vẫn

ở vào thế giằng co đề phòng lẫn nhau vì chiến sự có thể tiếp tục xảy ra bất cứ lúc nào.

Cuối năm 1843, vua Thiệu Trị chuẩn y cho việc đào kênh Vĩnh An để phục vụ cho

công tác quốc phòng, chuyển quân và chiến thuyền từ sông Tiền qua sông Hậu một

cách nhanh chóng để tương cứu lẫn nhau. Trong suốt thời gian từ năm 1842 - 1844

quân Xiêm La - Chân Lạp thường hay sang quấy phá nhưng bị quân nhà Nguyễn liên

tiếp đánh tan, không có trận đánh lớn nào đáng kể. Phía quân Xiêm sau những tổn thất

bắt đầu có sự bổ sung và hồi phục lực lượng dự báo cho một cuộc tấn công mới với

quy mô lớn vào lãnh thổ Việt Nam. Giữa năm 1845, sau khi dò xét nắm được tình

hình, quân nhà Nguyễn quyết định một cuộc hành binh “tiên phát chế nhân” với lực

lượng nồng cốt là quân binh tỉnh An Giang do Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn chỉ

huy cùng với các tướng Nguyễn Văn Hoàng, Vũ Văn Giải, Tôn Thất Nghị, Tôn Thất

Bạch tiến thẳng vào đất Chân Lạp tiến đánh liên quân Xiêm - Chân Lạp.

Quân nhà Nguyễn nhanh chóng đánh chiếm được các đồn Thị Đam, Vịnh Bích,

Tầm Bôn, Ba Nam, Thiết Thằng, Sắc Sô (đều trên đất Chân Lạp). Đại Nam thực lục

180

chép: “Quân thứ ở Ba Nam là Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn đánh đồn Thiết Thằng,

hạ được ; nhân thế thắng lại lấy được Trấn Tây” [44, tr.759]. Quân Xiêm thua to cùng

Chất Tri, Nặc Ông Đôn về cố thủ tại thành Udong trước sự vây khốn của quân nhà

Nguyễn. Trước tình thế đó, quân Xiêm buộc phải gửi thư xin cầu hòa “Đầu mục nước

Xiêm là Chất Tri hai ba lần sai người mang thư đến trại quân xin hòa.” [44, tr.771].

Qua tháng 10 – 1845, Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn và Chất Tri ký tờ hòa ước ở nhà

hội quán cùng thỏa thuận rút quân khỏi Chân Lạp, đồng thời Chân Lạp phải thần phục

cùng lúc hai nước Việt - Xiêm. Nguyễn Tri Phương rút quân về đóng ở Trấn Tây, đợi

quân Xiêm thi hành những điều ước đã định [14, tr.461-462]. Kết thúc thắng lợi cuộc

chiến tranh Việt - Xiêm (1841 – 1845).

Tháng 11 năm 1846, Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm vật

sang triều cống. Tháng 2 năm 1847, vua Thiệu Trị phong cho Nặc Ông Đôn làm Cao

Miên Quốc Vương và xác nhận những tỉnh miền Đông và miền Tây Nam thuộc về Đại

Việt vĩnh viễn. Lại xuống chiếu truyền cho quân thứ ở Trấn Tây rút về An Giang. Từ

đó nước Chân Lạp lại có vua, và việc ở phía Nam mới được yên [14, tr.462].

Có thể nói, quan quân nhà Nguyễn trấn giữ trên vùng đất An Giang đã có rất

nhiều đóng góp cho sự toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc cũng như sự phát triển mạnh mẽ của

vùng đất này trong suốt tiến trình lịch sử đến trước khi thực dân Pháp cai trị.

3.3. Ý nghĩa chiến lược của vùng đất An Giang trong thế trận quốc phòng biên

giới Tây Nam của chính quyền vua Nguyễn giai đoạn 1802 - 1867.

Bức họa đồ thế trận phòng thủ biên giới Tây Nam trên vùng đất An Giang của

chính quyền nhà Nguyễn từ 1802 - 1867 thể hiện sâu sắc sự kế thừa và phát triển

những chính sách mà chính quyền các chúa Nguyễn đã thiết lập. Cũng chính vì thế mà

vùng đất này vẫn giữ được vị trí và ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng trong công

cuộc quốc phòng thời kì này.

Chính quyền nhà Nguyễn tiếp tục phát huy ưu thế vị trí, địa hình của vùng đất

An Giang vào chiến lược quốc phòng biên giới, đồng thời sáng tạo những phương

cách mới để từng bước hoàn thiện công cuộc phòng thủ, bảo vệ vững chắc nền độc lập

của đất nước ở phía Tây Nam.

181

An Giang là vùng đất có vị trí vô cùng quan trọng về mặt chiến lược quốc

phòng. Gia Long nhận định “Châu Đốc, Hà Tiên bờ cõi chẳng kém Bắc Thành” [39,

tr.946], đến năm 1833, Minh Mạng vẫn khẳng định: “Tỉnh An Giang là đất địa đầu

xung yếu” và đưa ra chủ ý “tất phải xây dựng thành trì để cho sự phòng thủ biên cương

được hùng tráng”[41, tr.370]. Tất cả đã đặt tiền đề cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc của

quân dân thời Nguyễn nơi biên địa An Giang. Trên vùng đất còn nhiều khó khăn và

phức tạp, chính quyền nhà Nguyễn đã thể hiện một nét tích cực với chính sách quốc

phòng đúng đắn và vững chắc. Nhà Nguyễn tiếp tục phát huy những công trình quân

sự, vị trí đóng quân từ thời các chúa Nguyễn và thời nội chiến với Tây Sơn trên vùng

đất An Giang để làm nền tảng cho chiến lược quốc phòng.

Đầu tiên phải kể đến là những hệ thống phòng thủ trên các ngõ thủy lộ. Ở mặt

sông Tiền, được xem là tuyến phòng thủ trọng yếu có tính chất bản lề của quân đội nhà

Nguyễn trấn giữ biên cương với hàng loạt các căn cứ trải gồm Tân Châu, Hùng Ngự,

Tiến An, Nhân Hội, Vĩnh Thành, An Lạc, Thủ Chiến Sai, Sa Đéc,.... Những nơi này

được bố trí lực lượng canh phòng và được chi viện nhanh chóng từ những căn cứ liên

hoàn ở các tỉnh khác như Vĩnh Long, Định Tường và cả Gia Định khi có biến. Sự đặc

trưng của việc di chuyển bằng đường thủy trên sông Tiền không những giúp tuyến

phòng thủ này chiếm ưu thế trong việc hành quân, chi viện mà trong tác chiến tạo ra

nhiều bất ngờ đối với quân địch từ xa đến thể hiện rõ qua các cuộc chiến với quân

Xiêm năm 1833 – 1834 trong trận chiến Vàm Nao và Củ Hủ.

Ở phía đối diện với sông Tiền, nơi thuận dòng của sông Hậu đi qua vùng trung

tâm đất An Giang, trong mắt của những nhà chiến lược quân sự triều Nguyễn vẫn

không hề suy giảm tầm quan trọng. Được thừa hưởng từ những căn cứ quân sự của

thời kì trước, chính quyền nhà Nguyễn đã hoạch định lại những vị trí bố phòng then

chốt bên cạnh việc mở rộng và tăng cường các đồn, bảo, thủ, sở. Do thấy được tầm

quan trọng và tính chất quyết định của mặt sông Hậu đối với toàn bộ hệ thống phòng

thủ Tây Nam, chính quyền nhà Nguyễn đã từng bước thiết lập sự dày đặc các căn cứ

trải dài từ biên giới xuống phía Nam bao gồm các đồn Bình Thiên, Bình Di, Đa Phúc,

Châu Đốc, Châu Giang, Năng Gù, Vàm Thuận, Cần Thăng, An Châu, Đông Xuyên,

Mĩ Thanh, Trấn Giang, Trấn Di, Ba Thắc, Tái Suất, Cồn Muộn, Cường Thắng, Cường

182

Uy, Cường Thành,.... Nếu như hệ thống phòng thủ trên sông Tiền giữ vai trò bản lề

trong chính sách phòng thủ của chính quyền nhà Nguyễn thì hệ thống phòng thủ trên

sông Hậu giữ vai trò trung tâm trong hệ thống phòng thủ Tây Nam Bộ. Hệ thống

phòng thủ trên mặt sông Hậu được vây quanh bởi rất nhiều hệ thống vệ tinh. Ở mặt

Bắc trên đất “bảo hộ” Chân Lạp nhà Nguyễn đã thiết lập một loạt các đồn binh như

Trấn Tây, Thị Đam, Vịnh Bích, Tầm Bôn, Ba Nam, Thiết Thằng, Sắc Sô,... làm những

tiền đồn ngăn giặc từ ngoài biên giới. Bên cạnh hệ thống phòng thủ trên sông Tiền ở

phía Đông được kết nối với sông Hậu bằng những ngõ thông sông Lễ Công (ở phía

Nam) và kênh Vĩnh An (ở phía Bắc). Ở phía Tây sông Hậu là hệ thống phòng thủ Thất

Sơn, Vĩnh Tế và Hà Tiên. Trong khi ở phía Nam có sự hỗ trợ của hệ thống phòng thủ

vùng Trấn Giang, Ba Thắc. Qua đó mới thấy vị trí của sông Hậu có tác động to lớn

như thế nào trong chính sách quốc phòng Tây Nam của nhà Nguyễn.

Trong hệ thống phòng thủ bằng đường thủy, nhà Nguyễn đã thể hiện rõ sự đột

phá về mặt chiến lược và hành động. Với ý thức lấy sông Hậu làm trung tâm nhà

Nguyễn đã tiến hành cho khơi đào những ngõ thủy lộ hiệp trợ mang ý nghĩa quốc

phòng rất lớn trên đất An Giang bằng việc cho ra đời của ba con kênh Thoại Hà, Vĩnh

Tế và Vĩnh An đều có đầu xuất phát từ sông Hậu.

Đối với kênh Thoại Hà, công trình này mang ý nghĩa thiết yếu. Bên cạnh giá trị

kinh tế, khai hoang phục hóa để phát huy tiềm lực bên trong, về mặt quốc phòng kênh

Thoại Hà cho thấy tầm nhìn vượt hẳn thời chúa Nguyễn vì nó thông từ sông Hậu ra

đến biển Tây từ khu vực Đông Xuyên (Long Xuyên) ra đến Rạch Giá nơi đạo Kiên

Giang thời chúa Nguyễn. Do đó, khi có giặc đồn Rạch Giá có thể thoái lui dễ dàng về

Trấn Giang theo đường thủy nếu thất thủ, mặc khác có thể đưa quân nhanh chóng từ

hệ thống phòng thủ ở Cửu Long Giang sang ứng cứu, khắc phục nhược điểm lớn thời

chúa Nguyễn.

Đối với kênh Vĩnh Tế, công trình này không những thể hiện tầm nhìn chiến

lược của chính quyền nhà Nguyễn mà trên thực tế đã phát huy được vai trò và lợi ích

to lớn của nó đối với chính trị, an ninh quốc phòng cũng như phát triển kinh tế vùng

biên viễn trên toàn bộ khu vực phía Tây Nam từ Châu Đốc đến Hà Tiên. Có thể thấy

rằng trong hệ thống phòng thủ Tây Nam, vùng Hà Tiên và Châu Đốc là hai điểm dễ bị

183

tổn thương nhất. Để khắc phục nhược điểm đó, bằng nhãn quang của một người có tài

“kinh bang, tế thế” vua Gia Long lúc ban đầu đã đưa ra đề xuất thiết lập một thủy lộ

chạy song song với tuyến lộ đạo chiến lược này nhằm tạo ra sự tương trợ cần thiết giữa

quân bộ và quân thủy trong việc gìn giữ biên cương trước các sự tấn công từ bên

ngoài. Sách Đại Nam thực lục viết: “năm 1816, trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước

Tường tâu với vua Gia Long về việc xây dựng thành Châu Đốc. Vua xem địa đồ miền

Châu Đốc Tân Cương rồi truyền rằng: “Xứ này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên

thì hai đàng nông thương đều lợi. Trong tương lai, dân đến ở càng đông, đất mở càng

rộng, sẽ thành một thị trấn to vậy”[39, tr.940]. Có thể thấy, do vị trí đã tạo ra sự liên

kết hữu cơ trong việc bố phòng, cũng như phát triển kinh tế giữa hai vùng của An

Giang là Châu Đốc và Thất Sơn với Hà Tiên tạo điều kiện thuận lợi để con kênh Vĩnh

Tế ra đời hoàn thành hệ thống phòng thủ biên giới Tây Nam của tổ quốc trong giai

đoạn trước khi thực dân Pháp xâm lược. Kênh Vĩnh Tế là hệ thống phòng thủ đường

thủy ở phía trước tiếp giáp với Chân Lạp, linh hoạt trong di chuyển và tác chiến được

hỗ trợ từ hệ thống phòng thủ bộ binh Thất Sơn rất vững chắc ở phía sau, đồng thời kết

hợp với hai hệ thống phòng thủ hữu cơ rất cơ động trên sông Tiền và sông Hậu tạo ra

thế tấn công địch liên tục. Tướng nhà Nguyễn Lê Văn Đức từng cho ý kiến “sông Vĩnh

Tế là đường sau của Hà Tiên, thông vào tận ruột tỉnh An Giang, việc phòng bị rất là

quan trọng”[44, tr.366]. Theo dòng Vĩnh Tế, chính quyền nhà Nguyễn đã thiết lập một

hệ thống phòng thủ quan trọng bao gồm các đồn bảo như Vĩnh Tế, Vĩnh Gia, Vĩnh

Điều, Tiến An, Nhơn Hội, Giang Nông,... có ý nghĩa như một bức “Vạn lý hào thành”

với sự cơ động và vững chắc của các đội thủy, bộ binh để ngăn giặc mặt Chân Lạp và

hỗ trợ đắc lực cho hệ thống phòng thủ ở Hà Tiên – Phú Quốc, điều này thể hiện rất rõ

qua lời tâu của Nguyễn Công Nhàn lên vua Thiệu Trị “Vĩnh Tế là đường sau tỉnh Hà

Tiên, nếu bị cắt đứt thì Hà Tiên không thể giữ được”[44, tr.316]. Kênh Vĩnh Tế từ khi

ra đời năm 1824 đã giữ vai trò trọng yếu trong chính sách quốc phòng Tây Nam của

chính quyền nhà Nguyễn.

Trong khi đó, kênh Vĩnh An được khơi dòng để kết nối hệ thống phòng thủ trên

sông Tiền với các hệ thống phòng thủ khác mà trực tiếp là sông Hậu. Công trình này

thể hiện được tầm nhìn chiến lược của chính quyền nhà Nguyễn trong sự cơ động của

184

thủy binh không những trong lúc căn thẳng với quân Xiêm những năm 1843, 1844 mà

cả về sau.

Chính vì vùng đất An Giang sở hữu những ngõ thủy lộ vô cùng quan trọng

trong sự thiết lập thế trận quốc phòng Tây Nam, nên việc chính quyền nhà Nguyễn tập

trung xây dựng một lực lượng thủy binh hùng mạnh ở vùng đất này là một sự tất yếu.

Theo đó tỉnh An Giang được xây dựng cho hẳn một đội Vệ thủy với đội thuyền có lúc

lên đến 65 thuyền Điển thủ (1854) [45, tr.311] với đầy đủ binh lính, khí giới, chiến cụ.

Tất cả trở thành cơ sở để tạo nên sự vững chắc của hệ thống phòng thủ biên giới Tây

Nam của chính quyền nhà Nguyễn.

Do hoàn cảnh thay đổi nên cách nhìn nhận về vị trí vùng đồi núi Thất Sơn của

chính quyền nhà Nguyễn so với thời chúa Nguyễn có sự khác biệt. Khu vực Thất Sơn

được chính quyền nhà Nguyễn xem là một yếu địa cần thiết phải khống chế để làm thế

giữ Hà Tiên, Vĩnh Tế và Châu Đốc, trực tiếp che chắn cho vùng trung tâm An Giang.

Kiểm soát Thất Sơn là một công việc quan trọng ý nghĩa to lớn trong công tác quốc

phòng nhưng vô cùng khó khăn vì nơi đây tập trung phần lớn sự định của người

Khmer dễ bị kích động từ phía Chân Lạp nên tình hình trị an rất thường xuyên bất ổn,

điều này phương hại đến công tác quốc phòng của nhà Nguyễn trên vùng biên giới Tây

Nam. Vấn đề này thể hiện khá rõ trong thời Thiệu Trị khi vùng Thất Sơn liên tục bất

ổn song song với cuộc xâm lược của liên quân Xiêm – Chân Lạp vào Hà Tiên, An

Giang từ năm 1841 – 1845. Trong suốt thời gian đó chính quyền nhà Nguyễn phải liên

tục vừa điều quân trấn áp bên trong vừa chống giặc bên ngoài, thể hiện rõ thế lâm

nguy cho phía Nam đất nước. Chính quyền nhà Nguyễn nhiều lần thừa nhận vùng Thất

Sơn rất hiểm trở, “đường rừng nhiều ngã, chưa dễ đi cùng kiệt trong rừng núi”[44,

tr.248], nên việc kiểm soát càng được tăng cường. Chính vì sự quan trọng và sức tác

động của vùng Thất Sơn lên chính sách quốc phòng của chính quyền nhà Nguyễn rất

lớn nên việc thiết lập một hệ thống vừa giữ an ninh, trật tự vừa phòng thủ biên giới là

một nội dung quan trọng của công cuộc quốc phòng nơi đây. Trong vùng Thất Sơn nhà

Nguyễn đã thiết lập một hệ thống phòng thủ bao gồm nhiều đồn bảo như Tĩnh Biên,

Tiên Nông, Vĩnh Thông, Vĩnh Điền, Thân Nhân, Hưng Nhượng, Thuyết Nặt, Đàm

Triết,...có sự liên hệ với nhau đồng thời có sự liên hệ mật thiết với các hệ thống phòng

185

thủ Vĩnh Tế, Hà Tiên, Châu Đốc thông qua đường liên lạc thủy kênh Vĩnh Tế. Đại

Nam thực lục chép: “Một dải sông Vĩnh Tế là đường lối buộc phải đi qua của hai tỉnh

An Giang và Hà Tiên khi có việc tư báo hoặc vận lương”[44, tr.141]. Có thể nói, do vị

trí và địa hình đặc trưng của vùng Thất Sơn đã tác động lớn đến chính sách quốc

phòng của chính quyền nhà Nguyễn. Với việc nhận định đúng đắn những yếu tố địa lợi

từ Thất Sơn của chính quyền nhà Nguyễn với những chính sách quốc phòng hợp lý mà

vùng đất này đã có sự đóng góp to lớn vào công cuộc khai hoang và giữ nước của dân

tộc từ đầu thế kỉ XIX trở về sau.

Khi đề cặp đến vị trí chiến lược của vùng đất An Giang các nhà quân sự thời

Nguyễn bao giờ cũng dành cho vùng Châu Đốc một vị trí xứng đáng. Vùng đất này

hội đủ những yếu tố để trở thành một trung tâm cả về quân sự, chính trị lẫn kinh tế qua

nhiều thời kì. Ngay từ thời các chúa Nguyễn nơi đây đã là nơi tập trung của nhiều đồn

bảo quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong hệ thống phòng vệ phương Nam như Châu

Giang, Châu Đốc. Đến thời nhà Nguyễn, vùng đất này được các vua Nguyễn đánh giá

rất cao khi bàn về vị trí xây dựng lỵ sở chỉ huy cho cả hai tỉnh An Giang và Hà Tiên

“Bàn về hình thế, thì Mỹ Đức (Châu Đốc) tuy hẹp mà khống chế được Phù Cừ, Kim

Dữ (thuộc Hà Tiên) như vạt áo, như cổ họng của núi, biển, thực là chỗ đất quan yếu.

Đến như sông Tiền Giang, Hậu Giang ở tỉnh An Giang đều từ Nam Vang đổ lại, mà

bên tả sông Hậu Giang thì là đất liền dân người Kinh ở, đất bằng liền thấp, thông suốt

nhiều ngả, lúc quốc sơ dựng đồn (tức là đồn Châu Đốc, nay là Đồng Phú) ở đấy, thực

là chỗ quan yếu để khống chế các bộ lạc người phiên. Long Sơn thì dựa lệch vào sông

Tiền Giang, không đẹp bằng chỗ Đồng Phú này. Vua cho là phải.”[45,tr.178].

Trong chiến lược quốc phòng của chính quyền nhà Nguyễn trên vùng đất An

Giang, Châu Đốc được xem khu vực đầu não với nhiều đồn, bảo, thành lủy, kho trữ

quan trọng giữ vai trò chỉ huy hệ thống. Nhà Nguyễn sớm nhận ra vị trí chiến lược của

Châu Đốc mà ít nơi nào có được. Đại Nam nhất thống chí chép: “Châu Đốc về phía

Tây cách tỉnh Hà Tiên 203 dặm, phía Bắc cách thành Nam Vang 244 dặm rưỡi, thật là

nơi biên phòng quan yếu”[47, tr.216]. Về đường thủy, Châu Đốc thông tuyến đến tất

cả những trung tâm quan trọng thuộc nội thủy khu vực Nam Bộ cũng như thông ra đến

Biển Đông và Biển Tây, cũng như lên phía Chân Lạp. Về đường bộ, Châu Đốc có

186

đường đến cuối địa giới Vĩnh Long dài hơn 25.800 trượng, một đường đến Hà Tiên

xuất phát từ trạm Giang Phúc dài hơn 14.500 trượng, một đường đến thành Trấn Tây

xuất phát từ bờ Vĩnh Tế dài hơn 14.900 trượng[42, tr.747], lại có đường thông vào khu

vực Thất Sơn qua ngõ “Tân lộ kiều lương”. Như vậy về hai tuyến thủy bộ, Châu Đốc

đều thông suốt đảm bảo cho việc hành quân, truyền tin và vận lương, những yếu tố rất

quan trọng trong công tác quốc phòng. Mặc khác, trong chiến lược quốc phòng Tây

Nam lấy hệ thống phòng thủ trên sông Hậu làm trung tâm mà Châu Đốc là tuyến đầu

quan yếu trong hệ thống đó đã cho thấy sự tác động rất lớn của vùng đất này đối với an

nguy của quốc gia ở phía Tây Nam với rất nhiều cơ sở quan trọng được xây dựng ở

Châu Đốc như thành tỉnh An Giang nơi chỉ huy của cả hai tỉnh An Giang và Hà Tiên,

đồn Châu Đốc và kho Đốc Tín lớn nhất ở phía Tây Nam,... lại cho quân đội chủ lực

đóng ở đây. Tất cả đã nói lên vị trí và tầm quan trọng của Châu Đốc với chiến lược

quốc phòng Tây Nam của chính quyền nhà Nguyễn.

Trên vùng đất An Giang thời Nguyễn bên cạnh vị trí chiến lược vô cùng quan

trọng của Châu Đốc, chính quyền nhà Nguyễn cũng rất đề cao vị trí án ngữ vùng đầu

nguồn sông Cửu Long của Tân Châu. Trên vùng đất này nhà Nguyễn đã từng bước bố

trí các căn cứ quân sự, đặt quân trấn giữ để biến cù lao này thành “chiến hạm khổng

lồ” ngăn giặc giữa dòng Cửu Long. Tân Châu sở hữu vùng Long Sơn rất quan yếu mà

chính quyền nhà Nguyễn đánh giá: “Thôn Long Sơn ở về đất thượng du, hình thế cao

ráo sáng sủa, thêm vào đó, lại có 2 con sông Tiền Giang và Hậu Giang bao bọc, thực là

nơi danh thắng”[42, tr.802]. Tuy nhiên, do chiến lược quốc phòng và công cuộc bảo

hộ Chân Lạp có những diễn biến mới mà vùng Long Sơn dần mất ưu thế chiến lược so

với Châu Đốc “nhưng nay quan quân đóng giữ ở Trấn Tây thì chỗ ấy trở thành nơi nội

địa lại chẳng cần thiết trước mắt nữa. Thành trì Châu Đốc hiện thành cơ sở rồi, thì

đóng ở đấy cũng đủ giúp cho việc phòng ngự” [42, tr.802], do đó mà thành tỉnh An

Giang cũng không được dựng ở đây. Tuy nhiên, do vị trí án ngữ khá quan trọng của

Tân Châu mà chính quyền nhà Nguyễn đã thiết lập nhiều đồn, bảo quan trọng thuộc

vùng đất này như: đồn Long Sơn, bảo An Lạc, bảo Vĩnh Thành. Mặc khác, nhà

Nguyễn còn cho thiết lập những đồn bảo quan trọng bên kia sông Tiền thuộc Định

Tường như Hùng Ngự, Thông Bình để hỗ trợ nhau. Tân Châu trở thành một mắc xích

187

quan trọng trong hệ thống phòng thủ biên giới Tây Nam của chính quyền nhà Nguyễn

ở An Giang.

Với cách nhìn nhận tổng thể về thế trận quốc phòng biên giới Tây Nam, chính

quyền nhà Nguyễn đã chủ tâm kiến tạo vùng biên địa từ An Giang qua Hà Tiên thành

một hệ thống phòng thủ kiên cố, vững mạnh đủ sức đánh bật mọi sự tấn công xâm lấn

từ phía Chân Lạp và Xiêm La. Trong hệ thống phòng thủ đó, vùng đất An Giang với vị

trí án ngữ biên thùy, ngõ thông tứ hướng có ý nghĩa chiến lược quyết định đến sự

thành bại của cả hệ thống. Trên vùng đất An Giang, chính quyền nhà Nguyễn đã hoạch

định đúng đắn khi xây dựng từng hệ thống phòng thủ vệ tinh theo địa hình đặc trưng

và vị trí chiến lược lấy hệ thống phòng thủ theo tuyến sông Hậu (bao gồm cả Châu

Đốc) làm trung tâm điều tiết và chỉ huy, xem đó là nền tảng của thế trận phòng thủ ở

An Giang nói riêng và khu vực Tây Nam nói chung. Các tuyến phòng thủ sông Hậu,

sông Tiền, Vĩnh Tế, Thất Sơn, Châu Đốc, Tân Châu được xây dựng rất cơ bản, thể

hiện sự hiểu biết sâu sắc về quân sự, chính trị và ngoại giao của chính quyền nhà

Nguyễn, được chỉ huy, điều hành bởi những danh tướng mưu trí, dày dặn trận mạc, am

tường binh pháp. Do vị trí đặc biệt, hệ thống phòng thủ trên biên địa An Giang được

thiết lập với vai trò trung tâm của thế trận phòng thủ biên giới Tây Nam, có sự liên kết

hữu cơ với những hệ thống phòng thủ khác thuộc Hà Tiên, Định Tường, Vĩnh Long và

Gia Định, cũng như giữ liên hệ rất chặc chẽ với triều đình Huế. Vùng đất An Giang

mang ý nghĩa chiến lược lớn lao trong thế trận quốc phòng biên giới Tây Nam không

chỉ của chính quyền nhà Nguyễn giai đoạn 1802 – 1867 mà cả những giai đoạn giữ

nước tiếp sau.

188

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Hơn 60 năm quản lý vùng đất An Giang, chính quyền nhà Nguyễn đã để lại dấu

ấn đặc biệt trong công cuộc quốc phòng trên vùng đất biên địa này. Với những chính

sách đúng đắn, chính quyền nhà Nguyễn đã góp phần to lớn vào sự nghiệp vệ quốc của

dân tộc trên vùng biên giới Tây Nam, cũng như phát triển vùng đất An Giang trong

buổi đầu khai hoang mở đất.

Cũng giống như thời chúa Nguyễn, chính sách quốc phòng vùng biên địa Tây

Nam Bộ của chính quyền nhà Nguyễn bắt nguồn từ diễn tiến mối quan hệ tay ba Việt

Nam – Chân Lạp – Xiêm La trong điều kiện và hoàn cảnh lịch sử mới. Đây là giai

đoạn Chân Lạp vô cùng suy yếu, mất hết khả năng tự chủ, phải lệ thuộc vào các cường

quốc lân bang khi thì Việt Nam lúc thì Xiêm La. Ở chiều hướng ngược lại, vương

quốc Xiêm bước vào giai đoạn cường thịnh của chế độ phong kiến đã thể hiện tham

vọng bành trướng ra bên ngoài bằng các cuộc hành quân xâm lược vào ba đối tượng

chính là Chân Lạp, Ai Lao và Việt Nam. Đối với nước ta, sau năm 1802, nhà Nguyễn

quản lý quốc gia Việt Nam rộng lớn nhất trong lịch sử nên vấn đề quốc phòng trở

thành mối bận tâm hàng đầu. Chân Lạp đang là vùng đất được triều Nguyễn thiết lập

và củng cố chế độ “bảo hộ” và Xiêm La trở thành đối thủ nguy hiểm nhất trong công

cuộc quốc phòng phía Nam và thiết lập sự ảnh hưởng lên Chân Lạp. Chính vì vậy để

thực hiện được hai mục đích là giữ vững được chế độ bảo hộ hiện có ở Chân Lạp để

làm “phênh dậu”, đồng thời phòng thủ tuyến biên giới đối với Xiêm, nhà Nguyễn cần

xây dựng vùng Tây Nam Bộ với vị trí chiến lược trở thành nơi vừa có khả năng phòng

thủ lại vừa có khả năng tiến công khi hữu sự. Như vậy, trong các mối quan hệ ngoại

giao chằng chéo giữa Việt Nam - Xiêm - Chân Lạp đã nảy sinh những yếu tố đối

kháng, trực tiếp ảnh hưởng đến an ninh vùng biên giới của Việt Nam với Chân Lạp và

cả Xiêm cũng như tác động mạnh đến an ninh quốc gia và sự phát triển của người Việt

ở vùng đất mới phía Nam của tổ quốc.

Các vua Nguyễn tiếp tục kế thừa chiến lược quốc phòng thời các chúa Nguyễn

trong điều kiện và hoàn cảnh mới với những sự điều chỉnh phù hợp tập trung chủ yếu

trên vùng đất An Giang nơi thuận lợi kiểm soát đất “bảo hộ” Chân Lạp lại vừa dễ dàng

tiến thủ khi có giặc tấn công. Chính quyền nhà Nguyễn đã thiết lập trên vùng đất An

189

Giang 3 hệ thống phòng thủ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trên tuyến sông Tiền,

sông Hậu và Vĩnh Tế - Thất Sơn với nhiều điểm mới hơn so với thời các chúa Nguyễn.

Trước những nguy cơ ngoại xâm ngày càng lớn ở phía Tây Nam Bộ, chính

quyền nhà Nguyễn cần tìm ra một tư duy mới trong chính sách quốc phòng để tạo ra

sự đột phá trong cách thiết lập hệ thống phòng thủ. Trong hoàn cảnh đó, hệ thống kênh

đào đã ra đời tạo ra nét tươi mới trong cách phòng thủ biên cương và phát triển vùng

đất mới với các công trình: kênh Vĩnh Tế, kênh Thoại Hà và kênh Vĩnh An. Các công

trình này vừa kết nối các hệ thống phòng thủ trên đất Nam Bộ nói chung và An Giang

nói riêng, vừa tạo ra các tuyến phòng thủ chiến lược mới góp phần quan trọng trong

công cuộc quốc phòng Tây Nam. Trong đó, kênh Vĩnh Tế là công trình quan trọng

nhất, không những thể hiện tầm nhìn chiến lược của chính quyền nhà Nguyễn mà trên

thực tế đã phát huy được vai trò và lợi ích to lớn của nó đối với chính trị, an ninh quốc

phòng cũng như phát triển kinh tế vùng biên viễn trên toàn bộ khu vực phía Tây Nam

từ Châu Đốc đến Hà Tiên.

Tất cả những chiến lược, chính sách quốc phòng của chính quyền nhà Nguyễn

chủ yếu được hiện thực hóa thông qua lực lượng quân đội. Chính sách về quân đội là

một lĩnh vực lớn trong chính sách quốc phòng của chính quyền nhà Nguyễn. So với

các quốc gia trong khu vực, nhà Nguyễn sở hữu một lực lượng quân đội rất mạnh có

lúc lên đến 212.290 người (1840) [37, tr.443] bao gồm thủy binh, bộ binh, tượng binh,

pháo binh, kỵ binh được lựa chọn và đào tạo cơ bản. Thủy binh nhà Nguyễn được xem

là lực lượng chủ chốt được sự hỗ trợ đắc lực của các binh chủng khác nhất là pháo

binh nhận lãnh trách nhiệm bảo vệ tổ quốc trên các thuyến sông rạch nội thủy, đặc biệt

tiếp nối các chính quyền Việt Nam bảo vệ và thực thi chủ quyền của nước ta trên Biển

Đông, Biển Tây nhất là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa góp phần giữ vững độc

lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam thời kì trước khi thực dân Pháp xâm

lược.

Vùng đất An Giang được chính quyền nhà Nguyễn xây dựng thành trung tâm

của hệ thống phòng thủ Tây Nam nên bố trí lực lượng quân sự rất mạnh. Theo đó, An

Giang có 1 Thủy vệ; 5 cơ: Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu; 1 cơ An Biên (mộ lính thổ); 1

Đội pháo thủ và 1 ty Hành Nhân. Việc sắp đặt các vị trí chỉ huy, lãnh đạo được thực

190

hiện thao quy định chung của cả nước. Chính quyền nhà Nguyễn cũng tiến hành tu bổ,

xây mới thành trì, đồn, bảo, thủ, sở, trạm sông hỗ trợ quân đội phục vụ cho công tác

quốc phòng biên giới và giữ gìn an ninh khu vực. Trên sông tuyến Tiền với hệ thống

tấn, đồn, bảo chạy dọc suốt từ Tân Châu đến Sa Đéc bao gồm: Tân Châu, Tiến An,

Nhân Hội, Vĩnh Thành, Vĩnh Thịnh, An Lạc, Sa Đéc... Trên sông tuyến Hậu với hệ

thống tấn, đồn, bảo chạy dọc suốt từ Châu Đốc đến Ba Thắc bao gồm: Bình Thiên,

Bình Di, Đa Phúc, Châu Đốc, Châu Giang, Năng Gù, Vàm Thuận, Cần Thăng (Cần

Đăng), An Châu, Đông Xuyên, Mĩ Thanh, Trấn Giang, Trấn Di, Ba Thắc, Tái Suất,

Cồn Muộn, Cường Thắng, Cường Uy, Cường Thành, Hưng Nhượng,... Đặc biệt, chính

quyền nhà Nguyễn đẩy mạnh việc thiết lập hệ thống tấn, đồn, bảo chạy dọc theo biên

giới Chân Lạp song song với kinh Vĩnh Tế, nương tựa trong dãy Thất Sơn bao gồm:

Vĩnh Gia, Vĩnh Điều, Vĩnh Thông, Giang Nông, Vĩnh Tế, Tĩnh Biên, Thân Nhân,

Vĩnh Lạc, Vĩnh Hòa, Thuyết Nật, Đàm Triết,... Việc bố trí quân đội ở những nơi quan

yếu, cũng như thiết lập các hệ thống phòng thủ trên vùng đất An Giang thời bấy giờ có

ý nghĩa sống còn trong công cuộc bảo vệ quốc gia, dân tộc, vừa giữ vững sự ảnh

hưởng của Việt Nam trên đất Chân Lạp cũng như tạo ra những tiền đồn vững chắc

trước tham vọng “bành trướng” của quân Xiêm La, lại vừa hỗ trợ và tham gia tích cực

vào công tác khai hoang lập đồn điền, phát triển vùng đất biên thùy còn nhiều hoang

hóa của vùng đất này.

Quân đội nhà Nguyễn đã thể hiện được vai trò to lớn trong chính sách quốc

phòng và phát triển vùng đất An Giang. Quan quân triều Nguyễn đã trực tiếp tham gia

vào việc xây dựng và tu sửa các căn cứ quân sự, đồn, bảo, thủ, sở, đào kênh, đắp

lộ,...tham gia giữ gìn ổn định trật tự trị an cũng như cùng với nhân dân khai hoang lập

ấp, lập đồn điền góp phần quan trọng kiến tạo nên bộ mặt phát triển cho vùng biên địa

An Giang tạo ra nhiều tiềm lực cho đất nước, đóng góp xứng đáng vào công cuộc giữ

nước nơi biên giới Tây Nam. Không dừng lại ở đó, hoạt động chủ yếu và quan trọng

nhất của quân đội nhà Nguyễn trên vùng đất An Giang là bảo vệ vùng biên thùy Tây

Nam của đất nước và duy trì chế độ bảo hộ lên Chân Lạp. Trong thời kì này, quân dân

An Giang cùng với quân dân cả nước đã đứng vững trước hai cuộc xâm lược lớn của

Xiêm La vào các năm 1833 – 1834 và 1841 – 1845, tạo nên nhiều chiến công hiển

191

hách ở Vàm Nao, Củ Hủ, Vĩnh Tế, Thất Sơn, Hà Tiên,... góp phần quan trọng giữ

vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ vững chắc vùng biên giới Tây Nam và An Giang. Tất

cả những thành tựu trên thể hiện sự đúng đắn của chính sách quốc phòng của nhà

Nguyễn trên vùng đất An Giang nói riêng và Tây Nam nói chung, tạo tiền đề cho sự

phát triển của đất nước nơi địa đầu phương Nam.

Có thể nói, vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền

nhà Nguyễn có ý nghĩa chiến lược vô cùng to lớn với nhiều vị trí quan yếu như Thất

Sơn – Vĩnh Tế, Châu Đốc, Tiền Giang, Hậu Giang, Tân Châu đã góp phần định hướng

chiến lược cho sự thiết lập thế trận quốc phòng trên toàn tuyến biên giới Tây Nam

trong hoàn cảnh lịch sử mới, đóng góp to lớn vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc của dân tộc

Việt Nam trong thời kì này.

192

KẾT LUẬN

Luận văn “Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền

chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 – 1867” là một công trình nghiên cứu khoa

học rất tâm huyết và nghiêm túc. Qua công trình này, tác giả đã đi đến những kết luận

sau:

1. Từ góc độ tiếp cận địa lý - lịch sử, luận văn đã nêu lên một cái nhìn tổng

quan về vùng đất An Giang trong thế trận phòng thủ biên giới Tây Nam của đất nước

suốt thời kì 1757 - 1867.

Về điều kiền tự nhiên, An Giang được nhận diện như một vùng bán sơn địa với

nhiều yếu tố đặc trưng về vị trí, địa hình, sông ngòi, kênh rạch, chế độ thủy văn,... tạo

nên một trong những tiền đề quan trọng trong chính sách quốc phòng của các chính

quyền quản lý vùng đất này. Các yếu tố tự nhiên đã tạo cho vùng đất An Giang dấu ấn

đặc biệt trong sự nghiệp bảo vệ biên giới Tây Nam của tổ quốc.

Về mặt lịch sử, trong suốt quá trình hình thành và phát triển, lịch sử vùng đất

An Giang đã chứng kiến biết bao sự vận động và đổi thay từ thời kì vương quốc cổ

Phù Nam (I - VII) đến thời kì xâm lược và cai trị của vương quốc Chân Lạp kéo dài

đến giữa thế kỉ XVIII. Một sự thật không thể phủ nhận, vùng đất An Giang nói riêng

và Nam Bộ nói chung buổi đầu không phải thuộc về Chân Lạp mà chủ nhân là vương

quốc Phù Nam, thuộc quốc Chân Lạp đã đánh chiếm và sáp nhập Phù Nam (bao gồm

cả vùng đất Nam Bộ) vào lãnh thổ của mình. Năm 1757 trở thành mốc son lịch sử khi

vùng đất An Giang chính thức được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt mở ra thời kì phát

triển mới trên vùng đất này cũng như có những đóng góp quan trọng trong quá trình

giữ nước của dân tộc nơi biên thùy Tây Nam của tổ quốc dưới thời các chúa Nguyễn

và vua Nguyễn cho đến khi thực dân Pháp xâm lược năm 1867.

Vùng đất An Giang kể từ khi sáp nhập vào nước ta đến khi thực dân Pháp xâm

lược thời kì 1757 đến 1867, đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, có đóng góp to lớn vào

công cuộc quốc phòng Tây Nam của đất nước.

193

- Từ 1757 – 1777: đây là giai đoạn quản lý của chính quyền chúa Nguyễn với

những khởi đầu cho ý thức và hoạt động quốc phòng của chính quyền này trên vùng

biên giới Tây Nam.

- Từ 1777 – 1802: đây là giai đoạn phục nghiệp của Nguyễn Ánh với những

hoạt động nhằm xây dựng vùng đất An Giang trở thành căn cứ đứng chân trong buổi

đầu chống Tây Sơn, tạo tiền đề quốc phòng cho giai đoạn sau.

- Từ 1802 – 1867: đây là giai đoạn phát triển của vùng đất An Giang trong thời

kì nhà Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức với những đóng góp tích cực vào chiến lược

quốc phòng biên giới Tây Nam của đất nước.

Trong suốt thời kì 1757 – 1867, trên vùng đất An Giang do sự tác động của lịch

sử đã có nhiều sự thay đổi về mặt tổ chức và duyên cách hành chính, ảnh hưởng to lớn

đến đời sống xã hội của An Giang cũng như công tác quốc phòng trên vùng đất biên

địa này.

Thời kì này do sự tác động của nhiều yếu tố lịch sử, trên vùng đất An Giang bộ

mặt dân cư mang nhiều đặc điểm nổi bật với sự chung sống hòa bình của 4 dân tộc cơ

bản: Việt, Khmer, Hoa, Chăm. Trong sự hòa hợp của các dân tộc trên, người Việt có

vai trò chủ lực và trung tâm trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, với nhiều thành

phần và nguồn gốc xuất thân khác nhau từ những người nghèo khổ đến những gia đình

giàu có, quan lại đi khai hoang mở đất, từ những binh lính đồn trú, đồn điền, những

giáo dân chạy nạn cấm đạo, tín đồ giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương đến những tù phạm

khắp nơi được nhà nước đưa về khai hoang mở đất và giữ đất nơi vùng biên địa Vĩnh

Tế, Châu Đốc, nhưng tất cả đã cùng với các các dân tộc anh em kiến tạo nên bộ bộ mặt

hưng khởi của vùng đất mới An Giang cũng như góp phần to lớn trong công cuộc giữ

nước của dân tộc dưới thời các chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867. Đây

chính là nền tảng để giải quyết vấn đề dân tộc, một vấn đề chính trị hàng đầu mà An

Giang phải đối mặt thường xuyên.

Trong quá trình quản lý vùng đất An Giang từ chính quyền của chúa Nguyễn

đến các vua Nguyễn đã không ngừng nổ lực tạo những biến chuyển tích cực đưa vùng

đất mới ngày càng phát triển, cư dân ngày càng đông đúc tạo ra nguồn nội lực quan

194

trọng trong công cuộc quốc phòng phía Tây Nam tổ quốc trước sự xâm lược của Xiêm

La và sự tái chiếm của Chân Lạp.

Tất cả đã khắc họa rõ nét chân dung cũng như sự đóng góp của vùng đất và con

người An Giang trong tiến trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc thời kì 1757 - 1867.

2. Từ những yếu tố địa lý - lịch sử đặc trưng, vùng đất An Giang trở thành nhân

tố trọng tâm trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua

Nguyễn suốt thời kì 1757 - 1867.

Vùng đất An Giang (cùng với Hà Tiên) nằm ở vị trí án ngữ vùng biên giới Tây

Nam của đất nước, địa hình có sự tương liên “tựa núi nhìn sông” với phía Tây là

những ngọn núi liên tiếp mọc lên giữa đồng bằng, quan trọng nhất là dãy Thất Sơn

hùng vĩ tạo thế hiểm trở khôn cùng, phía đông là hệ thống sông Cửu Long với hai con

sông quan trọng Tiền và Hậu chia nước đi nhiều ngã, cùng nhiều dãy cù lao tạo ra

những ngõ thủy lộ vô cùng linh hoạt. Vùng đất An Giang chính thức sáp nhập lãnh thổ

Đại Việt vào năm 1757, đã mở ra cho chính quyền chúa Nguyễn những phương cách

mới trong công cuộc phòng thủ phương Nam. Trong bối cảnh lịch sử mới với sự thay

đổi về diện tích, đặc biệt là việc tiếp thu thêm một vị trí chiến lược như đất Tầm Phong

Long – một nơi trọng địa mà người Chân Lạp giữ đến cuối cùng, chính quyền chúa

Nguyễn đứng trước những yêu cầu mới về quốc phòng nhằm bảo vệ những thành quả

vừa đạt được, đồng thời mở ra thời kì bảo vệ biên giới Tây Nam tổ quốc của dân tộc

Việt Nam trong lịch sử.

Xuất phát từ những mối quan hệ trực tiếp giữa Đàng Trong - Chân Lạp - Xiêm

La đã buộc chính quyền chúa Nguyễn phải thực thi một chính sách quốc phòng nhất

quán trên vùng biên địa có vai trò chiến lược án ngữ phía Tây Nam vương quốc là

vùng đất Tầm Phong Long nơi đất An Giang tiếp giáp Chân Lạp. Bằng một chính sách

hợp lý, chính quyền chúa Nguyễn đã thiết lập nơi đây ba đơn vị quân sự - hành chính:

Châu Đốc đạo, Tân Châu đạo và Đông Khẩu đạo nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến

lược giữ đất và an dân. Chúng ta dễ dàng nhận ra chính sách quốc phòng của chính

quyền chúa Nguyễn buổi đầu tập trung chủ yếu quanh vùng sông nước Cửu Long với

một căn cứ chính ở sông Hậu (Châu Đốc) và hai ở sông Tiền (Tân Châu và Đông

Khẩu) lại lùi xa biên giới vì chưa đủ thực lực để kiểm soát triệt để. Trong thế trận

195

phòng thủ trên vùng đất An Giang xưa, chính quyền chúa Nguyễn xây dựng các căn cứ

gần nhau thuận lợi di chuyển bằng đường thủy. Trên tuyến sông Hậu, đạo Châu Đốc là

căn cứ tiền tiêu, phía sau có đồn Châu Giang, thủ Phiếm Bái, thủ Rạch Ông Chưởng để

hỗ trợ. Trên tuyến sông Tiền các căn cứ tập trung với mật độ dày hơn, phía bờ phía tây

có thủ Tân Châu, thủ Chiến Sai, thủ Cù lao Dao Chiêu (cù lao Giêng), bờ phía đông có

đồn Hùng Ngự, thủ Hùng Thắng. Tất cả tương trợ ứng cứu nhau rất dễ dàng khi có

địch. Hệ thống phòng thủ trên vùng đất An Giang là bộ phận quan trọng trong thế trận

phòng thủ Tây Nam. Các căn cứ đồn, thủ trên đất An Giang cùng với các đạo Cà Mau,

Long Xuyên, trấn Hà Tiên, Hùng Ngự, Tây Ninh tạo ra thế trận phòng thủ hình “móng

ngựa” với chỗ sâu nhất và mạnh nhất trên đất An Giang nơi được sự hậu thuẫn tối đa

từ quân dinh Long Hồ, xa hơn là quân chúa Nguyễn ở Gia Định nhờ vào hệ thống thủy

lộ nối thông suốt. Đây là hệ thống phòng thủ rất lớn thể hiện được tầm vĩ mô của chính

sách quốc phòng “liên thủ khu vực có trọng tâm” mà chính quyền chúa Nguyễn tiến

hành trên vùng biên giới Tây Nam nói chung và An Giang nói riêng, nhờ đó mà biên

cương Tây Nam được giữ vững suốt thời gian từ 1757 đến khi chính quyền chúa

Nguyễn sụp đỗ năm 1777.

Bước sang thời nhà Nguyễn từ 1802 đến 1867, chính quyền nhà Nguyễn vẫn

tiếp tục thực hiện chính sách quốc phòng trên vùng đất An Giang nói riêng và vùng

biên giới Tây Nam nói chung trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa ba nước Việt Nam

– Chân Lạp – Xiêm La. Trước những chuyển biến mới của các mối quan hệ này, cũng

như có sự thay đổi về tương quan lực lượng giữa các nước, chính quyền nhà Nguyễn

đã đề ra chính sách quốc phòng với nhiều yếu tố đột phá trên vùng đất An Giang.

Chính quyền nhà Nguyễn đã tiến hành thiết lập hệ thống kênh đào song song với

đường biên giới với Chân Lạp bao gồm kênh Thoại Hà, Vĩnh Tế và Vĩnh An, tất cả

đều trên đất An Giang. Hệ thống kênh đào ra đời không chỉ thể hiện ý nghĩa nhân sinh

sâu sắc mà quan trọng hơn cả nó thể hiện được tầm chiến lược về mặt quân sự rất rõ

ràng, và phát huy tác dụng to lớn trong công cuộc giữ nước, thể hiện đầy đủ vai trò

trung tâm của An Giang trong chính sách quốc phòng Tây Nam của chính quyền nhà

Nguyễn.

196

Dưới thời nhà Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức trên vùng đất An Giang xưu

chính quyền đã cho thiết lập 3 hệ thống phòng thủ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau

bao gồm: tuyến sông Tiền, tuyến sông Hậu và tuyến Vĩnh Tế - Thất Sơn. Để vận được

hành chính sách quốc phòng một cách triệt để và thiết lập thế trận phong thủ một cách

vững vàng, các vua Nguyễn thường cất cử những quan tướng tài giỏi đến An Giang để

trấn giữ và kiêm quản công việc ở Hà Tiên với chức Tổng đốc An Hà. Những danh

nhân, danh tướng đã lưu đậm dấu ấn trên vùng đất An Giang có thể kể đến như: Thoại

Ngọc Hầu, Trương Minh Giảng, Nguyễn Tri Phương, Phạm Văn Điển, Nguyễn Công

Nhàn, Doãn Uẩn, Nguyễn Công Trứ.... Tất cả đã được lưu danh hậu thế với những

thành tựu có được trên vùng đất bán sơn địa này.

Chính sách quốc phòng của chính quyền nhà Nguyễn trên vùng đất An Giang

đã phát huy hết khả năng tự ứng phó của từng hệ thống phòng thủ lại vừa có khả năng

liên kết, hỗ trợ với nhau cũng như với những hệ thống phòng thủ khác ngoài An Giang

để tạo nên một sức mạnh tổng hợp đủ sức đẩy lùi mọi sự xâm lược từ các đối thủ Đông

Nam Á truyền thống, giữ vững nền độc lập của tổ quốc, góp phần đưa Việt Nam lên vị

thế một cường quốc ở khu vực này trong hơn 50 năm đầu thế kỉ XIX.

Nhìn nhận một cách tổng thể, chính sách quốc phòng của chính quyền chúa

Nguyễn và vua Nguyễn trên vùng đất An Giang suốt thời kì 1757 – 1867 vừa thể hiện

sự nhất quán và kế thừa trước sau nhằm tạo ra tính liên tục trong tiến trình vệ quốc,

vừa thể hiện được tính đúng đắn và sự sáng tạo để không ngừng hoàn thiện thế trận

phòng thủ, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc của dân tộc Việt Nam

trên vùng biên giới Tây Nam.

3. Trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn

trên vùng đất An Giang thời kì 1757 – 1867, quân đội trở thành nhân tố chủ lực trong

mọi hoạt động quốc phòng.

Sự tổ chức và hoạt động của quân đội tác động to lớn đến công tác quốc phòng

đất nước. Quân đội vào thời chúa Nguyễn đã được tổ chức chặt chẽ và có sự liên kết

khăn khít giữa quân và dân để phục vụ cho công cuộc phòng vệ đất nước. Những binh

chủng bộ binh, thủy binh, pháo binh và tượng binh được kết hợp nhuần nhiễn trong tác

chiến và chiến đấu. Trong đó thủy binh, bộ binh và pháo binh được sử dụng tối đa

197

trong cách bố trí phòng thủ vùng biên giới Tây Nam trên đất An Giang của quân dinh

Long Hồ. Thủy quân thời chúa Nguyễn được xem là bộ phận chủ lực trong chiến lược

thực thi chủ quyền lãnh hải của nước ta trên Biển Đông (khu vực thuộc Đàng Trong),

Biển Tây cũng như trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa,... Mặc khác, trên mặt trận

bảo vệ vùng biên giới phía Nam, thủy quân giữ vai trò trọng yếu và làm chủ trên các

tuyến nội thủy sẵn sàng chi viện và chiến đấu khi bờ cõi bị xâm lấn. Do tính chất đa

năng của binh lính thời chúa Nguyễn nên những người lính ở dinh Long Hồ (bao gồm

An Giang) vừa là lính thủy, vừa là lính bộ lại biết sử dụng thuần thục đạn pháo, do đó,

đã tạo nên một đội quân có sức mạnh tổng hợp đủ sức bảo vệ vùng biên giới Tây Nam

trên địa bàn An Giang nói riêng và dinh Long Hồ, trấn Hà Tiên nói chung.

Chính quyền chúa Nguyễn tổ chức bố trí quân đội linh hoạt theo điều kiện hoàn

cảnh cụ thể của từng địa phương để phát huy tối đa khả năng cơ động và hiệu quả

chiến đấu. Vùng đất An Giang thời kì này với đặc trưng sông, núi giữa vùng biên

cương phức tạp phía Tây Nam vương quốc đặc ra nhiều mối bận tâm cho chính quyền

chúa Nguyễn. Việc bố trí quân lực ở đây được ưu tiên hàng đầu trong quá trình gìn giữ

và phát triển vùng đất mới. Nổi bật về tổ chức quân bị trên vùng đất này là sự hiện

diện của thủy quân kết hợp với trọng pháo và giữ liên lạc hữu cơ với các đạo quân bộ

được cơ động từ vùng này qua vùng khác thông qua hệ thống sông rạch Cửu Long -

Vàm Cỏ - Sài Gòn. Việc tổ chức và xây dựng lược lượng quân đội ở vùng đất An

Giang được xem là mảng quan trọng nhất trong chính sách quốc phòng của chính

quyền các chúa Nguyễn trên vùng biên viễn, yếu địa quốc phòng Tây Nam của vương

quốc thời bấy giờ.

Đến thời nhà Nguyễn, quân đội ngày càng được chọn lựa, đào tạo căn bản, có

quy cũ và luyện tập thường xuyên. Vua Minh mạng đã từng nói rằng: “Quân đội là

nanh vuốt của nước”[38, tr.136], trên quan điểm đó, sức mạnh quân đội nhà Nguyễn

ngày càng được tăng cường, với sự kết hợp của các binh chủng thủy binh, bộ binh,

pháo binh, kỵ binh và tượng binh. Quân thủy tiếp tục là lực lượng đi đầu trong công

cuộc bảo vệ lãnh hải quốc gia trên toàn bộ vùng Biển Đông, Biển Tây, cũng như các

quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Côn lôn, Phú Quốc,... và trên các tuyến nội thủy từ

Bắc vào Nam.

198

Quân đội nhà Nguyễn được tăng cường đến đóng trấn ở An Giang với lực

lượng lớn gồm có 1 Thủy vệ; 5 cơ: Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu; 1 cơ An Biên; 1 Đội

pháo thủ và 1 ty Hành Nhân [30, tr. 255]. Bên cạnh đó, chính quyền nhà Nguyễn còn

tiến hành xây dựng và bô trí các công trình quân sự cơ bản bao gồm các thành trì, đồn,

bảo, thủ sở, trạm sông và chia quân trấn giữ với số lượng rất lớn nhất là những nơi gần

biên giới nhằm đảm bảo phục vụ hữu hiệu cho chiến lược quốc phòng biên giới Tây

Nam mà vùng đất An Giang là trung tâm phòng thủ. Quân đội nhà Nguyễn tại An

Giang được trang bị rất nhiều phương tiện, vũ khí chiến đấu tốt nhất nước thời bấy giờ

như chiến thuyền, súng thần công, súng thạch điểu sang, kỳ đao, thương dài,... Tất cả

đã tạo ra một đạo quân hùng mạnh bảo vệ vùng biên giới Tây Nam của đất nước trên

địa bàn An Giang xưa.

Có thể nói, quân đội đã trở thành nhân tố hàng đầu, quyết định cho sự thành bại

của chính sách quốc phòng mà chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn tiến hành

trên vùng đất An Giang trong công cuộc bảo vệ tổ quốc thời kì 1757 – 1867.

4. Bằng chính sách quốc phòng đúng đắn và hợp lý nơi vùng biên giới Tây Nam

lấy An Giang làm trung tâm, chính quyền từ thời chúa Nguyễn đến vua Nguyễn đã tạo

ra một lực lượng đủ mạnh để chóng lại mọi sự xâm lấn từ những quốc gia láng giềng

đầy tham vọng, cũng như duy trì ảnh hưởng lên Chân Lạp từ giữa thế kỉ XVIII đến

giữa thế kỉ XIX. Trong suốt thời gian này quân dân ta đã chiến đấu ngoan cường, mưu trí giành thắng lợi vẽ vang trong bốn lần chiến tranh với quân Xiêm La (1771, 1785(68),

1833 – 1834, 1841 – 1845), trong đó ba chiến thắng vào các lần năm 1771 diễn ra thời

chúa Nguyễn, lần năm 1833 – 1834 và 1841 – 1845 diễn ra vào thời nhà Nguyễn với

những thắng lợi quyết định trên vùng đất An Giang. Những chiến thắng này không

những cho thấy sức mạnh to lớn của các đạo quân trấn giữ biên cương với sự giúp đỡ

của nhân dân mà còn thể hiện đầy đủ tính hiệu quả, đúng đắn, sáng tạo của các chính

sách quốc phòng mà chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn tiến hành trên vùng đất

An Giang nói riêng và Tây Nam nói chung. Chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn

cũng đã khéo léo kết hợp những phương cách ngoại giao với sức mạnh của hệ thống

phòng thủ Tây Nam để làm nền tảng cho sự “bảo hộ” lên Chân Lạp suốt 70 năm (1771 (68)Năm 1785, quân Tây Sơn chiến thắng quân Xiêm trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút.

199

– 1841). Qua đó, chúng ta có thể thấy chính sách quốc phòng mà chính quyền chúa

Nguyễn và vua Nguyễn thiết lập trên vùng đất An Giang và Tây Nam đã có tác dụng

to lớn, quyết định toàn bộ cục diện phòng thủ phương Nam cũng như trong chiến lược

tạo không gian hòa bình để phát triển vùng đất mới.

5. Vùng đất An Giang có vai trò to lớn và ý nghĩa chiến lược đặc biệt trong thế

trận quốc phòng biên giới Tây Nam của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn.

Cách bố trí quốc phòng từ thời chúa Nguyễn đến thời nhà Nguyễn là sự nối tiếp nhau

về mặt chiến lược lấy vùng đất An Giang làm trung tâm trong hệ thống phòng thủ dọc

theo vùng biên giới Tây Nam. Mỗi khu vực trên vùng biên địa An Giang có những đặc

trưng và ưu điểm khác nhau để thiết lập những hệ thống phòng thủ riêng vừa mang

tính độc lập tương đối vừa có sự liên kết tương hỗ nhau cũng như có sự liên kết khu

vực trong tác chiến. Từ năm 1757 đến 1777, trên vùng đất An Giang, dựa vào địa thế

của sông Tiền và sông Hậu, chính quyền chúa Nguyễn thiết lập hai hệ thống phòng thủ

song song nhau, có mối quan hệ tương trợ nhau và hiệp cùng các hệ thống phòng thủ ở

những vùng khác tạo ra sự liên kết phòng thủ trên toàn tuyến biên giới Tây Nam. Đến

giai đoạn 1802 - 1867, chính quyền nhà Nguyễn có những sự điều chỉnh và tăng cường

với sự ra đời của ba hệ thống phòng thủ lớn: tuyến sông Tiền, tuyến sông Hậu và khu

vực Vĩnh Tế - Thất Sơn tạo ra hệ thống phòng thủ kiên cố trên vùng đất An Giang trở

thành xương sống của thế trận phòng thủ Tây Nam. Qua những cuộc chiến chống xâm

lấn, bảo vệ biên giới Tây Nam của đất nước vào các lần 1771, 1785, 1833 - 1834, 1841

- 1845,... đã chứng minh vai trò quyết định và ý nghĩa chiến lược của vùng đất An

Giang trong thế trận phòng thủ biên giới Tây Nam.

6. Từ những nghiên cứu về chính sách quốc phòng của chính quyền chúa

Nguyễn và vua Nguyễn trên vùng đất An Giang thời kì 1757 - 1867, tác giả xin rút ra

những bài học kinh nghiệm hữu ích cho công tác quốc phòng biên giới Tây Nam Bộ

nước ta:

- Thứ nhất: Về mặt chiến lược quốc phòng, vùng đất An Giang – Hà Tiên cần giữ vị

trí trung tâm trong thế trận phòng thủ biên giới Tây Nam.

- Thứ hai: Trong chiến lược quốc phòng phải chú trọng khai thác triệt để địa hình các

vùng núi non của An Giang nhất là khu vực Thất Sơn để phát huy tính chất hiểm trở

200

của địa hình vào phương án tác chiến khi có giặc tấn công, do đó cần thiết phải thiết

lập các căn cứ quân sự kiên cố để tạo thế phòng thủ vững chắc bảo vệ vùng đồng bằng,

dân cư ở phía sau. Bên cạnh đó, chính quyền cần xây dựng một lực lượng thủy quân

đủ mạnh để kiểm soát, quản lý các tuyến sông, kênh, rạch chằng chịt trên vùng đất này

nhất là trên các tuyến sông, kênh chính: Tiền Giang, Hậu Giang, Thoại Hà, đặc biệt là

trên tuyến Vĩnh Tế nơi tiếp giáp biên giới với Campuchia, đồng thời phải liên kết chặt

chẽ với lực lượng thủy phía Biển Tây và Biển Đông.

- Thứ ba: Thiết lập quan hệ chiến lược với Campuchia và Thái Lan:

+ Đối với Campuchia:thiết lập mối quan hệ hữu hảo nhưng phải kiên trì quan

điểm về một nước Việt Nam thống nhất, Nam Bộ là một bộ phận không thể tách rời

của Việt Nam, đó là một sự khách quan của lịch sử để lại.

+ Đối với Thái Lan: thiết lập mối quan hệ hòa hảo, hợp tác nhất là trên lĩnh vực

quốc phòng để tạo ra thế cân bằng chiến lược trong mối quan hệ Việt Nam -

Campuchia - Thái Lan.

- Thứ tư: Nhà nước cần có chính sách dân tộc hợp lý để phát huy tinh thần đoàn kết

giữa các dân tộc Việt, Khmer, Hoa, Chăm nhằm hình thành không gian hòa bình, an

ninh cùng nhau phát triển, qua đó tạo ra sức mạnh tổng hợp, góp phần quyết định vào

sự nghiệp bảo vệ biên giới An Giang nói riêng và Tây Nam nói chung.

201

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2002), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

2. Đỗ Bang (1996), Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận

Hóa, Huế.

3. Nguyễn Đình Đầu (1995), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn – An Giang, Nxb Thành

Phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

4. Trịnh Hoài Đức (2006), Gia Định thành thông chí, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, Đồng

Nai.

5. Vũ Minh Giang (2006), Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà

Nội.

6. Nguyễn Văn Hầu (1999), Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá vùng Hậu

Giang, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

7. Nguyễn Văn Hầu (1965), Thất Sơn mầu nhiệm, Nxb Sài Gòn, Sài Gòn.

8. Nguyễn Văn Hầu (1970), Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long (chặng

cuối cùng của cuộc Nam tiến). Tạp san Sử-Địa, số 20-1970, Sài Gòn.

9. Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền (1993), Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh với công

cuộc khai sáng miền Nam nước Việt cuối thế kỉ XVII, Nxb Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

10. Nguyễn Hữu Hiệp (2010), An Giang đôi nét văn hóa đặc trưng vùng đất bán sơn

địa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

11. Nguyễn Hữu Hiệp (2012), Địa danh chí An Giang xưa và nay, Nxb Thời đại, Hà

Nội.

12. Lê Hương (1970), Sử Cao Miên, Nxb Khai Trí, Sài Gòn.

13. Nguyễn Văn Kiềm, Huỳnh Minh (2003), Tân Châu xưa, Nxb Thanh Niên, Bến

Tre. 14. Trần Trọng Kim (2005), Việt Nam sử lược, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí

Minh, TP.HCM

15. Phan Khoang (1966), Việt Sử xứ Đàng Trong 1557 – 1777 Cuộc Nam tiến của dân

tộc Việt Nam, Nxb Sài Gòn,Sài Gòn.

202

16. Nguyễn Thế Long (2005), Bang giao Đại Việt - tập 1, Nxb Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

17. Nguyễn Thế Long (2005), Bang giao Đại Việt - tập 4, Nxb Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

18. Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao Đại Việt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

19. Huỳnh Lứa (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb TP. Hồ Chí Minh.

20. Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỉ XVII, XVIII,

XIX, Nxb Khoa học xa hội, Hà Nội.

21. Trần Thị Mai (1997), Lịch sử bang giao Việt Nam - Đông Nam Á, Đại học Mở -

Bán công TP. Hồ Chí Minh.

22. Trần Thị Mai (2008), Vai trò của cộng đồng người Việt trong công cuộc khai phá

Đồng bằng sông Cửu Long, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh - Trường Đại

học Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP. Hồ Chí Minh.

23. Sơn Nam (2004), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

24. Sơn Nam (1988), Lịch sử An Giang, Nxb Tổng Hợp An Giang

25. Sơn Nam (2009), Tìm Hiểu Đất Hậu Giang & Lịch Sử Đất An Giang, Nxb Trẻ,

TP.Hồ Chí Minh.

26. Lương Ninh (1984), Lịch sử thế giới cổ trung đại, Nxb Đại học và Giáo dục

chuyên nghiệp, Hà Nội.

27. Lương Ninh (2006), Nước Phù Nam, Nxb ĐHQG TP Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí

Minh.

28. Lương Ninh (2009), Vương quốc Phù Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà

Nội.

29. Lương Ninh (2009), Một con đường sử học, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội, Hà

Nội.

30. Nội các triều Nguyễn, Viện sử học (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập

9, Nxb Thuận Hóa, Huế.

31. Nội các triều Nguyễn, Viện sử học (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập

10, Nxb Thuận Hóa, Huế.

203

32. Võ Thành Phương (2008), Địa giới An Giang xưa và nay, Chuyên san giáo dục An

Giang số 14, An Giang.

33. Nguyễn Phan Quang (1994), Phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX,

Nxb TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

34. Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam thế kỉ XIX (1802 – 1884), Nxb TP Hồ Chí

Minh.

35. Nguyễn Phan Quang (2000), Phong trào nông dân Tây Sơn & cải cách Quang

Trung, Nxb Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh,TP. Hồ Chí Minh

36. Nguyễn Phan Quang (2006), Một số công trình sử học Việt Nam, Nxb Tổng hợp

TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh

37. Trương Hữu Quýnh (2003), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

38. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học (1998), Minh Mạng chính yếu, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội

39. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học (2007),Đại Nam thực lục, tập I, Nxb

Giáo Dục, Hà Nội

40. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học (2007), Đại Nam thực lục, tập II, Nxb

Giáo Dục, Hà Nội

41. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học (2007), Đại Nam thực lục, tập III, Nxb

Giáo Dục, Hà Nội

42. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học (2007), Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb

Giáo Dục, Hà Nội

43. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học (2007), Đại Nam thực lục, tập V, Nxb

Giáo Dục, Hà Nội

44. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học (2007), Đại Nam thực lục, tập VI, Nxb

Giáo Dục, Hà Nội

45. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học (2007), Đại Nam thực lục, tập VII, Nxb

Giáo Dục, Hà Nội

46. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học (1980), Quốc triều chánh biên toát yếu,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

204

47. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện sử học (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập 5,

Nxb Thuận Hóa, Huế

48. Võ Văn Sen (2013), Nam Bộ đất và người, tập 9, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ

Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

49. Phạm Văn Sơn (1959), Việt sử tân biên, tập III, Nxb Sài Gòn, Sài Gòn.

50. Phạm Văn Sơn (1961), Việt sử tân biên, tập IV, Nxb Sài Gòn, Sài Gòn.

51. Sở văn hóa thông tin – TDTT An Giang, Hội khoa học lịch sử Thành phố Hồ Chí

Minh (1994), Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Thân thế và sự nghiệp Chưởng cơ –

Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh”, An Giang.

52. Sở Khoa học và công nghệ An Giang, Hội Khoa học Lịch sử An Giang (2011), Kỷ

yếu Hội thảo khoa học “Danh nhân Nguyễn Cư Trinh với việc xác lập chủ

quyền vùng đất An Giang và Nam Bộ giữa thế kỷ XVIII”, An Giang.

53. Sở Khoa học và công nghệ An Giang, Hội Khoa học Lịch sử An Giang (2011), Kỷ

yếu Hội thảo khoa học “Danh nhân Doãn Uẩn với việc bảo vệ biên cương vùng

đất Tây Nam Bộ giữa thế kỷ XIX”, An Giang.

54. Nguyễn Ngọc Thủy (2004), Vùng đất An Giang thời kỳ 1757 – 1786, Luận văn Thạc

sĩ Lịch sử Việt Nam, Trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí

Minh.

55. Nguyễn Đăng Thục (1970), Nam tiến Việt Nam,Tạp chí Sử-Địa, số 20-1970, Sài

Gòn.

56. Tạ Chí Đại Trường (2013), Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802, Nxb

Tri Thức, Hà Nội.

57. Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh (2002), Kỷ yếu hội thảo khoa học “Nam Bộ và

Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỉ XVII – XIX”, TP. Hồ Chí Minh.

58. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Hội khoa học lịch sử Việt Nam (2008), Kỷ yếu

Hội thảo Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ

XVI đến thế kỷ XIX, Nxb Thế giới, Hà Nội.

59. Ủy Ban Nhân dân tỉnh An Giang (2009), Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Danh nhân

Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại”, An Giang.

60. Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (2013), Địa chí An Giang, Nxb An Giang, An Giang.

205

61. Trần Thục Ý (1985), Campuchia đất và người, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO DỊCH TỪ TIẾNG NƯỚC NGOÀI

62. Choi Byung Wook (2011), Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng, Nxb Thế

giới,Hà Nội

63. Litana (1999), Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỉ XVII và

XVIII, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO TỪ INTERNET

64. Lê Hương (1973), Chân Lạp phong thổ ký

http://www.viethoc.org/phorum/read.php?10,7478

65.TS. Trần Thị Mai, Công cuộc khai phá vùng đất Tầm Phong Long (từ giữa thế kỷ

XVIII đến giữa thế kỷ XIX), Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia

TPHCM

https://sites.google.com/site/vhlsangiang/nghien-cuu-an-

giang/lichsu/baidangkhongcotieude

66. Nguyễn Hữu Hiếu, Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh và vùng đất Tầm Phong Long

http://hkhls.dongthap.gov.vn/wps/portal/hkhls/!ut/p/c0/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xB

z9CP0os_jQEDc3n1AXEwMDC383A88QC59QJ2MTQ38nY_2CbEdFAJ4_LiA!/?W

CM_PORTLET=PC_7_UTFFLUD4008OF0IT8LUB341OR1_WCM&WCM_GLOB

AL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/HKHLS/sithkhls/sitanhanvat/25102012+nguyen+

cu+trinh

67. Hội sử học Đồng Tháp - Tên gọi Hồng Ngự.

http://hkhls.dongthap.gov.vn/wps/portal/hkhls/!ut/p/c0/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xB

z9CP0os_jQEDc3n1AXEwMDC383A88QC59QJ2MTQ38nY_2CbEdFAJ4_LiA!/?W

CM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/HKHLS/sithkhls/sitadiadanh/200720

12+hong+ngu

68. Ngô Quang Chính - Kỳ 32: Các đội "ngư binh” - Hình thức độc đáo thực thi chủ

quyền của Việt Nam trên Biển Đông từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.

http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1501&Chitiet=36714&Style=1

69. Ngô Quang Chính - Kỳ 31: "Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn - một sử liệu quý

viết về Hoàng Sa và Trường Sa.

206

http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1501&Chitiet=36629&Style=1

70. Ngô Quang Chính - Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam thời Tây

Sơn (16/08/2011).

http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1501&Chitiet=36532&Style=1

71. Dương Thành Thông - Kênh vĩnh tế trong quan hệ Việt Nam - Chân Lạp - Xiêm

La dưới thời vua Gia Long Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

văn TP HCM

http://hcmuc.net/blog/post/kenh-vinh-te-trong-quan-he-viet-nam-chan-lap-xiem-la-

duoi-thoi-vua-gia-long-t376.php

72. Nguyễn Viết Hảo - Hình thức khai hoang doanh điền dưới triều Nguyễn nửa đầu

thế kỷ XIX – thành tựu và ý nghĩa, Khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng

http://quankhoasu3nambo.blogspot.com/2012/07/hinh-thuc-khai-hoang-doanh-ien-

duoi.html

73. Trần Hoàng Vũ – Chiến thắng Cổ Hủ

http://enews.agu.edu.vn/?act=VIEW&a=6689

74. Nói về những bản đồ cổ xưa nhất vẽ Hoàng Sa, Trường Sa

http://biendong.net/binh-luan/1049-noi-v-nhng-bn--c-xa-nht-v-hoang-sa-trng-sa.html

75. Biển đảo thời chúa Nguyễn và ghi chép về Hoàng Sa trong Hải ngoại ký sự của

Thích Đại Sán

http://biendong.net/tu-lieu/nghien-cuu-viet-nam/1160-bin-o-thi-chua-nguyn-va-ghi-

chep-v-hoang-sa-trong-hi-ngoi-k-s-ca-hoa-thng-thich-i-san.html

76. Chín tài liệu lịch sử châu Âu ghi nhận chủ quyền biển đảo của Việt Nam

http://www.reds.vn/index.php/lich-su/hoang-sa-truong-sa/2745-9-tai-lieu-lich-su-chau-

au-ghi-nhan-chu-quyen-viet-nam

77. Vương triều Nguyễn trong vai trò quản lý Biển Đông

http://biendong.net/tu-lieu/nghien-cuu-viet-nam/1180-vng-triu-nguyn-trong-vai-tro-

qun-ly-bin-ong.html

78. Lê Tiến Công - Tuần tra, kiểm soát vùng biển thời Nguyễn sơ: 1802 - 1858

ttbiendao.hcmussh.edu.vn/.../Tuần%20tra,%20kiểm%20soát%20vùng%2..

207

PHỤ LỤC

Hình 1: Lược đồ thể hiện vị trí vùng Thất Sơn – Vĩnh Tế trên địa bàn An Giang. [Ảnh

chụp từ Google Earth]

208

Hình 2: Lược đồ thể hiện những vị trí phòng thủ chủ yếu trên khu vực Tây Nam thời kỳ 1757 – 1867.[Ảnh chụp từ Google Earth]

209

Hình 3: Lược đồ Tầm Phong Long thụ đắc năm 1757. [8, tr.4]

210

Hình 4: Tỉnh An Giang thời Nam Kỳ lục tỉnh (1841 – 1867) [69]