intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp tác khai thác chung ở những vùng biển chồng lấn

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:110

22
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu tổng quan về hoạt động Hợp tác khai thác chung ở các vùng biển chồng lấn (về yêu sách chủ quyền); cơ sở khoa học của hoạt động khai thác chung trên biển nói chung và khu vực Biển Đông nói riêng, thực tiễn hoạt động khai thác chung của Việt Nam,trên cơ sở đó đưa ra những gợi mở quan trọng cho việc Hợp tác cùng khai thác trên biển của Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp tác khai thác chung ở những vùng biển chồng lấn

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ XUÂN LONG HỢP TÁC KHAI THÁC CHUNG Ở VÙNG BIỂN CHỒNG LẤN, NHỮNG GỢI MỞ CHO VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Hà Nội - 2017
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ XUÂN LONG HỢP TÁC KHAI THÁC CHUNG Ở VÙNG BIỂN CHỒNG LẤN, NHỮNG GỢI MỞ CHO VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Quốc tế Mã số: 60 38 01 08 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TS NGUYỄN BÁ DIẾN Hà Nội - 2017
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU………………………………………………………………… Chương I: TỔNG QUAN VỀ HỢP TÁC KHAI THÁC CHUNG TRÊN BIỂN 1.1 Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của KTC trên biển 7 1.2 Khái niệm về hợp tác Khai thác chung 11 1.2.1 Những quan điểm về hợp tác Khai thác chung trên biển 11 1.2.2 Thỏa thuận về hợp tác Khai thác chung 18 1.3 Vai trò và lợi ích của việc hợp tác KTC 19 1.4 Phân loại Khai thác chung 21 1.4.1 Căn cứ vào đối tượng KTC 21 1.4.2 Căn cứ vào chủ thể quan hệ 22 1.4.3 Căn cứ vào vị trí vùng KTC 23 1.4.4 Căn cứ theo phương thức quản lý 24 1.5 Cơ sở của hoạt động hợp tác KTC 24 1.5.1 Cơ sở pháp lý của hoạt động hơp tác KTC 24 1.5.1.1 Luật Quốc tế 24 1.5.1.2 Quy phạm Điều ước quốc tế 25 1.5.1.3 Quy phạm Tập quán quốc tế 26 1.5.1.4 Các phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế 26 1.5.2 Cơ sở khoa học của hoạt động hợp tác KTC 27 1.5.2.1 Đặc điểm, điều kiện tự nhiên 28 1.5.2.2 Nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên và quản lý tài nguyên biển phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng 29 Chương II: THỰC TIỄN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ HỢP TÁC KHAI THÁC CHUNG Ở CÁC VÙNG BIỂN CHỒNG LẤN 2.1 Các loại hình hợp tác KTC điển hình của 30 2.1.1 KTC theo tiêu chí khu vực 30
  4. 2.1.2 KTC theo tiêu chí đối tượng 34 2.1.3 KTC theo tiêu chí chủ thể 36 2.1.4 KTC theo phương thức quản lý 38 2.2 Một số kinh nghiệp hợp tác KTC trên thế gới và khu vực 42 2.2.1 Kinh nghiệm hợp tác KTC của một số quốc gia tại Châu Âu 42 2.2.2 Kinh nghiệm hợp tác KTC của một số quốc gia tại Châu Mỹ 47 2.2.3 Kinh nghiệm hợp tác KTC của một số quốc gia tại Châu Phi 52 2.2.4 Kinh nghiệm hợp tác KTC của một số quốc gia tại Châu Á 56 Chương III: NHỮNG GỢI MỞ CHO VIỆT NAM TRONG VIỆC TRIỂN KHAI CÁC THỎA THUẬN HỢP TÁC KHAI THÁC CHUNG TRÊN BIỂN VỚI CÁC QUỐC GIA TRONG KHU VỰC BIỂN ĐÔNG 3.1 Thực tiễn về hoạt động hợp tác KTC trên biển của Việt Nam 65 3.1.1 Khái quát về tình hình Biển Đông và vị thế Việt Nam ở biển Đông 65 3.1.1.1 Khái quát về Biển Đông 65 3.1.1.2 Tình hình tranh chấp ở Biển Đông 68 3.1.1.3 Vai trò, vị thế của Biển Đông đối với Việt Nam 72 3.1.1.4 Chủ trương của Việt Nam trong giải quyết tranh chấp 74 3.1.2 Các thỏa thuận hợp tác KTC giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực 75 3.1.2.1 Hiệp định vùng nước lịch sử Việt Nam – Campuchia 75 3.1.2.2 Hiệp định nghề cá Việt Nam – Trung Quốc 77 3.1.2.3 Thỏa thuận ghi nhớ về KTC dầu khí giữa Việt Nam và Malaysia 80 3.1.2.4 Một số thỏa thuận khác 81 3.2 Các vùng biển tranh chấp về chủ quyền, quyền chủ quyền giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực, tình hình giải quyết tranh chấp. 82 3.2.1 Các vùng biển tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực 82 3.2.2 Tình hình giải quyết tranh chấp quyết định trực tiếp đến việc áp
  5. dụng biện pháp KTC 85 3.3 Một số mô hình hợp tác KTC gợi mở cho Việt Nam về triển vọng hợp tác KTC với các quốc gia trong khu vực Biển Đông 87 3.3.1 Áp dụng mô hình hợp tác song phương 87 3.3.2 Áp dụng mô hình hợp tác Đa phương 87 3.3.2.1 Vận dụng Mô hình Hiệp ước Nam Cực 87 3.3.2.2 Mô hình khu vực “di sản chung” 89 3.3.2.3 Vận dụng Mô hình Hiệp ước Svalbard 89 3.3.2.4 Vận dụng Công thức bánh vòng “donut” 89 3.3.2.5 Áp dụng mô hình hợp tác KTC theo Hiệp ước về Vùng trống Timor (Timor Gáp) giữa Australia và Indonesia 91 3.3.2.6 Phương án “gác tranh chấp, cùng khai thác” của Trung Quốc 92 3.3.3 Một số nhận xét, đánh giá việc vận dụng, áp dụng những mô hình 92 hợp tác KTC ở Biển Đông 3.4 Một số kiến nghị, đề xuất 96 KẾT LUÂN…………………………………………………….. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
  6. COC Bộ quy tức ứng xử ở Biển Đông DOC Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông KTC Khai thác chung LHQ Liên Hiệp quốc ĐQKT Đặc quyền kinh tế TLĐ Thềm lục địa UNCLOS 1982 Công ước Liên Hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 XHCN Xã hội chủ nghĩa
  7. MỞ ĐẦU Ngày này, với việc áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật tiên tiến vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên để phục vụ lợi ích kinh tế. Tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản được con người khai thác triệt để hơn, ngày càng trở nên khan hiếm hơn, trong khi đó tài nguyên trên đất liền ngày càng cạn kiệt. Vì vậy khai thác tài nguyên trên biển luôn được các quốc gia ven biển coi trọng và không ngừng tiến ra biển và làm chủ biển. Sự ra đời của Công ước Luật biển 1982 là một bước ngoặt quan trọng cho một trật tự pháp lý trên biển của các quốc gia trên thế giới, đáp ứng được phần lớn những nguyện vọng của đại đa số các quốc gia nhất là các quốc gia ven biển. Tuy nhiên, cùng với sự ra đời của Công ước Luật biển 1982, chủ quyền quốc gia trên biển của các quốc gia được mở rộng hơn, ở đâu đó trên các vùng biển vẫn có sự tranh chấp về chủ quyền trên biển, vì vậy để giải quyết những tranh chấp chủ quyền đó là cả một quá trình đàm phán lâu dài. Trong khi chờ đợi các quốc gia đàm phán về thỏa thuận phân định biển, giải pháp hợp tác Khai thác chung trên biển là một trong những giải pháp quan trọng có thể giải quyết và hạn chế các tranh chấp đó. 1. Tính cấp thiết của đề tài Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 ra đời, với việc quy định các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển được rõ ràng hơn. Những quy định cụ thể về chiều rộng tối đa của các vùng biển như vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa khi áp dụng theo Công ước thì một số quốc gia ven biển được mở rộng chủ quyền đáng kể. Tuy nhiên, một số vùng biển hẹp có bờ biển liền kề hoặc đối diện nhau các quốc gia ven biển, mặc dù đã được áp dụng Công ước luật biển 1982 để phân định chủ quyền nhưng vẫn có tình trạng chồng lấn chủ quyền, làm phát sinh tranh chấp giữa các vùng biển này. Vậy đối với những vùng biển mà dẫn đến tình 1
  8. trạng tranh chấp chủ quyền biển này, các quốc gia hữu quan cần phải đàm phán để phân định lại. Việc phân định lại để xác định đường ranh giới trên biển là một việc không hề rễ ràng. Thực tế trên thế giới có khoảng gần 400 vùng biển có sự chồng lấn, cho tới nay khoảng trên 100 vùng biển đã được các quốc gia hữu quan ký các hiệp định phân định. Ở những vùng biển chồng lấn mà các quốc gia hữu quan vẫn còn tranh chấp chủ quyền, các quốc gia liên quan không thể đơn phương khai thác tài nguyên biển được, vì nó sẽ làm cho tình trạng quan hệ giữa các quốc gia trở nên xấu đi, nguy cơ xung đột trên biển sẽ rất lớn. Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982 trong Khoản 3 của điều 74 và điều 83 quy định: “Trong khi chờ đợi ký kết thỏa thuận nói ở khoản 1, các quốc gia hữu quan trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến giải pháp tạm thời có tính chất thực tiễn và không để phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến hoạch định cuối cùng”. Đây là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng của Luật quốc tế để các quốc gia tiến hành thỏa thuận đi đến giải pháp tạm thời. Vì vậy để hạn chế tranh chấp chủ quyền trên biển, trong khi chờ đợi một thỏa thuận về phân định biển, các quốc gia hữu quan tìm những giải pháp tối ưu để hạn chế tối đa việc tranh chấp chủ quyền biển. Một trong những giải pháp hiện nay được các chuyên gia trên thế giới đánh giá cao và được nhiều quốc gia lựa chọn đó là “Hợp tác khai thác chung”. Trên thực tế, hợp tác KTC có ý nghĩa vô cùng to lớn, nó làm giảm bớt căng thẳng giữa các quốc gia ven biển. Giải pháp này có thể tạm thời gác lại các tranh chấp, hạn chế tình trạng căng thẳng dẫn đến chạy đua vũ trang hoặc dẫn đến tình trạng xung đột vũ trang, cùng nhau khai thác nguồn lợi tài nguyên do biển mạng lại. KTC không nhưng góp phần vào việc củng cố quan hệ ngoại giao giữa các nước, tăng cường sự hiểu biết, hữu nghị giữa các quốc gia mà KTC còn được xem như là một cách thức để các quốc gia phối hợp khai thác tài nguyên biển một cách 2
  9. hiệu quả, đem lại lợi ích kinh tế cho các bên mà vẫn đảm bảo chủ quyền quốc gia và bảo vệ môi trường biển…”các dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn…” được các quốc gia áp dụng một cách linh hoạt và hiệu quả nhất trong việc ký kết các thỏa thuận về hợp tác khai thác chung ở các vùng biển mà các quốc qia đang qua tranh chấp về chủ quyền. Có thể khẳng định rằng hợp tác KTC là ở những vùng biển chồng lấn (yêu sách chủ quyền) là một trong những giải pháp tạm thời mang tính cấp thiết và hiệu quả nhất, nhằm điều hòa lợi ích của quốc gia, giảm căng thẳng, bảo vệ chủ quyền và đem lại lợi ích kinh tế, đem lại hòa bình cùng phát triển và bảo vệ lợi ích quốc gia và môi trường biển. Đối với Việt Nam, Biển Đông đóng một vai trò vô cùng quan trọng, với diện tích trên 3.500.000km², được bao bọc xung quanh bởi 9 quốc gia (Trung Quốc, Philippin, Malaysia, Singapore, Indonesia, Bruney, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam và một phần Đài Loan), phía ngoài là biển Thái Bình Dương. Là vùng biển được đánh giá là có trữ lượng tài nguyên thiên niên rất lớn. Việt Nam với trên 1 triệu km² diện tích biển, chiếm gần 30% diện tích biển Đông, trong đó có khoảng 3.000 đảo lớn nhỏ và 02 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Xét về an ninh, quốc phòng, Biển Đông là tuyến phòng thủ hướng đông của đất nước. Bên cạnh đó, Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương-Ấn Độ Dương, Châu Âu-Châu Á, Trung Đông-Châu Á. Đây được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Về kinh tế, Biển Đông tạo điều kiện để Việt Nam phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn như thủy sản, dầu khí, giao thông hàng hải, đóng tàu, du lịch…Ngoài ra, ven biển Việt Nam còn chứa đựng tiềm năng to lớn về quặng sa khoáng như titan, zircon, thiếc, vàng, đất hiếm… trong đó cát nặng, cát đen là nguồn tài nguyên quý. Việt Nam là một trong những quốc gia đã tham gia ký kết Công ước Luật biển năm 1982, hiện nay Việt Nam cũng đã và đang đối mặt với những thách thức rất lớn từ vấn đề tranh chấp biển đảo. Do đó, việc nghiên cứu giải pháp hợp tác KTC ở những vùng biển chồng 3
  10. lấn có thể nói là một giải pháp mang tính cấp bách hiện nay, đóng góp rất thiết thực cho việc giữ gìn hòa bình, ổn định và phát triển của Việt Nam nói riêng và khu vực Biển Đông nói chung. Nhận thức được ý nghĩa vô cùng to lớn của việc Hợp tác KTC trong luật biển quốc tế, tác giả mạnh dạn lựa chọn đê tài “Hợp tác khai thác chung ở các vùng biển chồng lấn, những gợi mở cho Việt Nam”. Với mong muốn luận văn của mình khi hoàn thành sẽ góp phần không nhỏ đem đến một giải pháp về khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên trên biển của Việt Nam và các quốc gia hữu quan. Đặc biệt, đem đến cho việc giữ gìn hòa bình, ổn định và phát triển cho Việt Nam nói riêng và các quốc gia trên thế giới và khu vực nói chung trên những vùng biển chồng lấn mà các quốc gia có tranh chấp về chủ quyền. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu tổng quát Nghiên cứu Tổng quan về hoạt động Hợp tác khai thác chung ở các vùng biển chồng lấn (về yêu sách chủ quyền); cơ sở khoa học của hoạt động khai thác chung trên biển nói chung và khu vực Biển Đông nói riêng, thực tiễn hoạt động khai thác chung của Việt Nam, việc nghiên cứu đề tài “Hợp tác khai thác chung ở những vùng biển chồng lấn” có những gợi mở quan trọng cho việc Hợp tác cùng khai thác trên biển của Việt Nam. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Nghiên cứu làm rõ khái niệm “khai thác chung” là hoạt động hợp tác giữa các quốc gia để khai thác tài nguyên thiên nhiên biển vì mục tiêu phát triển. - Nghiên cứu giải pháp dàn xếp tạm thời, không phương hại đến yêu sách chủ quyền của các bên, không làm ảnh hưởng đến việc đàm phán đi đến sự thỏa thuận cuối cùng giải quyết vấn đề tranh chấp về quyền chủ quyền biển đảo. 4
  11. - Phân tích, đánh giá và liên hệ trực tiếp các bài học kinh nghiệm về việc “Hợp tác khai thác chung” của các vùng biển chồng lấn đưa đến những gợi mở đối với việc Hợp tác khai chung của Việt Nam. 3. Tình hình nghiên cứu Hợp tác khai thác chung ở những vùng biển chồng lấn (yêu sách chủ quyền) là vấn đề tương đối mới đối với các quốc gia trong khu vực Biển Đông và Việt Nam. Trong thực tế về yêu sách chủ quyền của các quốc gia ven biển ngày càng trở nên căng thẳng như hiện nay thì giải pháp “Hợp tác khai thác chung” có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giảm bớt căng thẳng, tránh xung hột, tăng sự hiểu biết và hợp tác đôi bên cùng có lợi…Đề tài được lựa chọn mang tính cập nhật một số vấn đề mang tính thời sự, đặc biệt trong giai đoạn căng thẳng về tranh chấp chủ quyền Biển Đông hiện nay. Đề tài đi sâu phân tích một số vấn đề như: + Tổng quan lại vấn đề hợp tác KTC ở những vùng biển chồng lấn trên phương diện áp dụng Luật quốc tế hiện đại + Cơ sở lý luận và thực tiễn, những kinh nghiệm của vấn đề hợp tác KTC trên thế giới + Đánh giá những mô hình (dạng) hợp tác KTC điển hình có thể gợi mở cho việc vận dụng, áp dụng vào khu vực Biển Đông và Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu tình hình phân định biển ở những khu vực chồng lấn mà các quốc gia ven biển yêu sách chủ quyền và những tác động đối với việc yêu sách chủ quyền; các quy định trong Luật Biển quốc tế, những điều ước và tập quán quốc tế liên quan đến tình hình biển. - Nghiên cứu về hợp tác KTC ở khu vực chồng lấn giữa các quốc gia trên thế giới có thể áp dụng vào khu vực Biển Đông, giữa Việt Nam và các quốc gia trong khu vực Biển Đông; những khó khăn mà Việt Nam phải đối mặt trong quá trình phân chia ranh giới trên biển… 5
  12. 5. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu 5.1 Nội dung nghiên cứu Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhưng vấn đề liên quan đến chủ quyền biển. Tuy nhiên, do giới hạn của một luận văn thạc sĩ, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất thuộc nội dung đề tài Hợp tác khai thác chung ở các vùng biển chồng lấn, các quy định của pháp luật quốc tế có liên quan…Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thông qua phân tích, đánh giá thực tiễn để chỉ ra được những yếu tố cần thiết nhằm bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. 5.2 Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, quan điểm của Đảng, Nhà nước trong việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp và phương pháp thực tiễn. Mỗi nội dung nghiên cứu cần có phạm vi, địa điểm và phương pháp nghiên cứu riêng, phù hợp yêu cầu. 5.3 Địa điểm nghiên cứu Đề tài được thực hiện tại Hà Nội trên cơ sở thu thập tài liệu trong nước và ngoài nước ở thư viện, tham vấn ý kiến của các nhà nghiên cứu về biển, Biển Đông, các học giả, tìm hiểu thêm trên sách báo và trên mạng xã hội... 6. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về Hợp tác khai thác chung trên biển. Chương II: Thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế về hợp tác khai thác chung ở các vùng biển chồng lấn. Chương III: Những gợi mở cho Việt Nam trong việc triển khai các thỏa thuận hợp tác khai thác chung trên biển với các quốc gia trong khu vực Biển Đông 6
  13. Chương I TỔNG QUAN VỀ HỢP TÁC KHAI THÁC CHUNG TRÊN BIỂN 1.1. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của KTC trên biển Với diện tích trên 70% diện tích bề mặt trái đất, biển luôn đem đến cho loài người những tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú và đa dạng. Ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, các quốc gia trên giới đều nhận thức sâu sắc tầm quan trọng về lợi ích mà biển đem lại, vì vậy chiến lược tiến ra biển và làm chủ biển đã và đang được các quốc gia đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Từ xa xưa, trong quá trình chinh phục và làm chủ biển, các quốc gia ven biển không tránh khỏi việc tranh chấp về khai thác tài nguyên biển giữa ngư dân với ngư dân, giữa quốc gia với quốc gia dẫn đến sự ra đời của nhiều học thuyết, quy tắc, quy định về biển và đại dương. Đã có nhiều các nghiên cứu nổi tiếng như tác phẩm “Biển tự do” của Huygo Grotiuyt ( The Free sea hay Mare Liberum) vào năm 1609 đề cập đến vấn đề tự do hàng hải, thương mại và đánh bắt cá trên biển, nhà luật học người Anh John Selden cho ra đời tác phẩm “Biển kín” (Mare Clausum) năm 1653 trong đó ông đưa ra nguyên tắc về chủ quyền của các quốc gia biển cũng giống như trên đất liền khi các quốc gia cố gắng mở rộng được vùng lãnh thổ trên biển của mình như trên đất liền. Cho đến thế kỷ XVIII một số vùng biển trên thế giới đã hình thành một số nguyên tắc về Luật biển, vi dụ khu vực biển Bắc và phổ biến đến biển Địa Trung Hải… Tuy nhiên, cho đến tận giữa thế kỷ XX các nước ven biển chỉ có một vùng biển hẹp (lãnh hải) rộng 3 hải lý thuộc chủ quyền của mình, phía ngoài ranh giới 03 hải lý đều là biển chung. Do đó mọi cá nhân, tổ chức, tàu thuyền của mỗi quốc gia được hưởng quyền tự do biển cả, đường biên giới biển trong lãnh hải giữa các nước thường được hình thành và tôn trọng theo tập quán. Năm 1930 tại Hà Lan, LHQ đã tổ chức hội nghị pháp điển hóa Luật Quốc tế trong đó đưa vấn đề về Luật biển đã được nhắc đến và đưa ra thảo luận, bàn bạc. 7
  14. Tuy nhiên, mãi đến năm 1958 mới ra đời Công ước đầu tiên về Luật biển. Năm 1956, Liên Hiệp Quốc tổ chức Hội nghị về Luật Biển đầu tiên (UNCLOS I) ở Geneva, Thụy Sĩ, Hội nghị này đi đến thống nhất được 04 Hiệp định và được các quốc gia ký kết năm 1958, 04 Hiệp định như sau: 1. Công ước về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp lãnh hải (có hiệu lực từ ngày 10/9/1964). 2. Công ước về Thềm lục địa (có hiệu lực từ ngày 10/6/1964). 3. Công ước về biển cả (có hiệu lực từ ngày 30/9/1962). 4. Công ước về Nghề cá và bảo tồn tài nguyên sống ở hải phận Quốc tế (có hiệu lực ngày 20/3/1966). Hội nghị được cho là thành công, lần đầu tiên có những thỏa thuận quốc tế liên quan đến biên giới lãnh thổ trên biển, nhưng một vấn đề rất quan trọng liên quan đến vấn đề chủ quyền biển lại vẫn để ngỏ, đó là bề rộng của vùng lãnh hải. Năm 1960, LHQ đã tổ chức Hội nghị về Luật biển lần thứ II (UNCLOS II), tuy nhiên hội nghị không đạt được tiến triển nào mới. Song song với sự phát triển và pháp điển hóa Luật biển Quốc tế, vấn đề KTC trên biển đã được các quốc gia áp dụng trong thực tiễn từ những năm 30 của Thế kỷ XX. Ý tưởng về KTC đã xuất hiện trong các công trình nghiên cứu và các án lệ về khai thác dầu mỏ ở Mỹ, sau đó KTC đã được một số quốc gia lựa chọn qua các thỏa thuận về KTC dầu khí, nghề cá như: thỏa thuận KTC giữa Ba-ranh với Ả-rập Xê - út ngày 22/02/2958 có liên quan đến KTC nguồn tài nguyên dầu mỏ tại khu vực biển có đường ranh giới đã được phân định (việc một quốc gia đơn phương khái thác nguồn dầu mỏ mà nằm vắt ngang qua ranh giới sẽ rất dễ dẫn đến làm cạn kiệt nguồn tài nguyên và ảnh hưởng đến khả năng khai thác của quốc gia láng giềng). Thỏa thuận KTC giữa Cô-oét với A-Rập Xê-út ngày 07/7/1965 lại là mô hình hợp tác trao quyền quản lý và khai thác cho bên thứ ba… 8
  15. Hợp tác KTC đã được rất nhiều các quốc gia nghiên cứu ở một mức độ nhất định đã đề cập đến những khía cạnh của lý luận và thực tiễn của việc KTC theo những quan điểm và cách tiệp cận vấn đề khác nhau. Một số tác giả nổi tiếng như: Peter Bautista Payoyo, Hazel Fox, M.Bathurst, D.Mc Dade…trong các bài viết và tác phẩm của mình cũng đã đề cập đến một số vấn đề như: khái niệm, nội dung chế độ pháp lý và phương thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động KTC[10,tr.18] … Kể từ khi xảy ra tranh chấp TLĐ biển Bắc giữa Đan Mạch, Hà Lan và CHLB Đức năm 1969 KTC đã được các nước chú trọng hơn, từ tranh chấp này mà phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) trở thành án lệ và là một nguồn căn cứ pháp lý vững chắc cho các thỏa thuân hợp tác KTC trên biển. Những thỏa thuận hợp tác KTC đã nêu trên hay thỏa thuận KTC giữa Tây Ban Nha và Pháp năm 1974 hầu hết đều là những thỏa thuận KTC ở vùng biển đã được phân định ranh giới. Một trong những thỏa thuận tạo nên bước ngoặt đánh dấu lần đầu tiên trên thế giới áp dụng ý tưởng hợp tác KTC dầu khí ngoài khơi tại nơi đường biên giới trên biển chưa được phân định là thỏa thuận hợp tác KTC giữa Nhật Bản và Hàn Quốc ngày 30/01/1974. Đây là kết quả của quá trình đàm phán mà trước đó hai nước đã có nhiều cuộc đàm phán bất thành về giải quyết tranh chấp giữa TLĐ giữa hai nước. Năm 1967, các vấn đề về các tuyên bố khác nhau về Lãnh hải đã được nêu ra tại LHQ, đến năm 1973 Hội nghị LHQ lần III về Luật Biển được tổ chức tại New York, hội nghị dùng “quy trình đồng thuận” thay cho bỏ phiếu lấy đa số, với 160 nước tham gia, quá trình đàm phán kéo dài sau 09 năm thương lượng (1973- 1982) mới thông qua được một Công ước LHQ về Luật biển mà ngày nay thường gọi là UNCLOS 1982, có hiệu lực kể từ ngày 16/11/1994. Có thể nói, sự ra đời của Công ước LHQ về luật Biển 1982 (UNCLOS năm 1982) là một bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự phát triển của Luật biển Quốc tế, nó là một công ước ưu việt nhất so với những công ước về Luật biển Quốc tế trước 9
  16. đó. Ngoài những khái niệm đã được đề cập, UNCLOS năm 1982 điều chỉnh bao chùm tất cả mọi vấn đề thuộc lĩnh vực pháp lý, kinh tế, khoa học kỹ thuật, môi trường, Công ước cũng đã điều chỉnh toàn diện và hệ thống các vùng biển của quốc gia ven biển cũng như vùng biển quốc tế và vùng đáy biển. Công ước quy đinh quốc gia ven biển có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải không vượt quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở, trong khi Hội nghị lần thứ nhất 1958 và Hội nghị 1960 chưa đề cập đến, đặc biệt “Vùng đặc quyền kinh tế” là một quy định, một khái niệm hoàn toàn mới so với những công ước trước. Theo quy định của Công ước, quốc gia ven biển có quyền xác định: Vùng Nội thủy, vùng Lãnh hải rộng không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở, vùng Tiếp giáp lãnh hải rộng không quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở, vùng Đặc quyền kinh tế (ĐQKT) rộng không quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở, Thềm lục địa dù tính theo cách nào thì tối đa không quá 350 hải lý tình từ đường cơ sở. Sự ra đời của Công ước Luật biển 1982 là cơ sở pháp lý chung cho việc giải quyết tranh chấp biển. Công ước Giơnevơ 1958 quy định Thềm lục địa là độ sâu 200m dưới đáy biển và khả năng kỹ thuật khai thác cho phép, UNCLOS năm 1982 quy định: Thềm lục địa của quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều dài lãnh hải 200 hải lý khi bờ ngoài rìa Thềm lục địa của quốc gia này ở khoảng cách gần hơn. Trong trường hợp bờ ngoài rìa lục địa của quốc gia ven biển kéo dài tự nhiên vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở, quốc gia ven biển có thể xác định ranh giới ngoài thềm lục địa của mình tới khoảng cách 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đẳng sâu 2.500m không vượt quá 100 hải lý. Như vậy UNCLOS năm 1982 ra đời đã thay đổi hai tiểu chuẩn của thêm lục địa là độ sâu 200m và khả năng khai thác bằng tiêu chuẩn khoảng cách và phần kéo dài tự nhiên. 10
  17. UNCLOS năm 1982 ra đời đồng nghĩa với việc các vùng biển của quốc gia ven biển được mở rộng đáng kể. Việc mở rộng quyền tài phán của quốc gia ven biển theo UNCLOS năm 1982 dẫn đến xung đột thẩm quyền ở những vùng biển eo hẹp, yêu sách của quốc gia ven biển có bờ biển đối diện hoặc liền kế nhau sẽ chồng lấn lên nhau. Trên thực tế hiện nay có khoảng trên 400 đường ranh giới trên biển cần được phân định, trong khi đó việc phân định đường biên giới trên biển là cả một quá trình đàm phán kéo dài căng thẳng và phức tạp, căng thẳng càng trở nên phức tạp hơn khi quốc gia ven biển đơn phương khai thác tài nguyên ở những vùng biển chồng lấn đang xảy ra tranh chấp này, nếu không kiềm chế dễ dẫn đến xung đột, chiến tranh…Vì vậy, căn cứ theo khoản 3 của điều 74 và điều 83 của Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982 “Trong khi chờ đợi ký kết thỏa thuận nói ở khoản 1, các quốc gia hữu quan trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến giải pháp tạm thời có tính chất thực tiễn và không để phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến hoạch định cuối cùng”. Một giải pháp tạm thời có tính chất thực tiễn có thể làm giảm bớt căng thẳng và vẫn khai thác được nguồn tài nguyên trong khi chờ đàm phán để đạt được một giải pháp phân định đường biên giới trên biển ở những vùng biển chồng lấn này, đó là phương án “hợp tác Khai thác chung”. Đây là một giải pháp có thể được xem là tối ưu nhất cho các quốc gia ven biển có vùng biển chồng lấn vẫn đang xảy ra tranh chấp về ưu sách chủ quyền. Thực tiễn cho thấy việc hợp tác KTC ở những vùng biển chồng lấn đã tạo ra một hành lang dung hòa về lợi ích giữa các quốc gia ven biển có vùng biển đối diện và liền kế nhau, vẫn đảm bảo được chủ quyền biển. 1.2 Khái niệm về Hợp tác khai thác chung 1.2.1 Những quan điểm về Hợp tác khai thác chung trên biển Ý tưởng về hợp tác KTC xuất hiện từ những năm 30 của thế kỷ XX, sau đó đã được nhiều quốc gia trên thế giới lựa chọn áp dụng để giải quyết trong các thỏa 11
  18. thuận hợp tác khai thác tài nguyên thiên nhiên ở các vùng biển chồng lấn như khai thác chung trong lĩnh vực dầu khí, khai thác chung nghề cá… mà không làm ảnh hưởng đến yêu sách chủ quyền. Một số công trình nghiên cứu về vấn đề này với những lý luận, quan điểm và các cách tiếp cận khác nhau của các tác giả như: Peter Bautista Payoyo với các học thuyết về “Phát triển bền vững”, Hazel Fox với công trình nghiên cứu “KTC về dầu khí ngoài khơi”, M.Bathurst, D.Mc Dade, Zhiguo Gao…trong các bài viết và tác phẩm của mình cũng đã đề cập đến một số vấn đề như: Khái niệm, nội dung chế độ pháp lý và phương thức giải quyết tranh chấp trong hoạt động KTC [10,tr.18]. Những ý tưởng, học thuyết và công trình nghiên cứu của các tác giả như đã nói ở trên về hợp tác KTC, mặc dù đã có những thành công nhất định và đã được áp dụng trong thực tiễn nhưng vẫn còn nhiều bất cập như: chưa có sự thống nhất về KTC cũng như nội dung của các thỏa thuận KTC, chưa có một mô hình KTC chuẩn để có thể áp dụng mạng tính khuôn mẫu, một số cơ chế thực thi để áp dụng được hiệu quả... Có nhiều công trình khoa học của các nhà khoa học, các tổ chức, cá nhân trên thế giới đã hết sức nổ lực nghiên đưa ra nhiều giải pháp để giải quyết vấn đề này. Nhiều cuộc hội thảo mang tính quốc tế lớn đã được tổ chức như: Hội thảo về tiềm năng Hydrocacbon và KTC ở biển Nam Trung Hoa lần 1 năm 1980 với sự tham gia chủ yếu là các nhà Địa chất, Chính trị và Kinh tế. Hội thảo lần 2 được tổ chức tại Hololulu (Hawai-Mỹ) vào năm 1983 với sự xuất hiện của các nhà Chính trị và Luật sư. Hội thảo lần 3 tại Bangkok-Thái Lan năm 1985. Hội thảo lần 4 tại Bali-Indonesia năm 1989 với góp mặt của đông đảo các nhà khoa học xã hội… Cùng với đó là sự tham gia nghiên cứu của Viện Luật Quốc tế và Luật So Sánh của Anh trong việc tổ chức nhóm chuyên gia nghiên cứu về dầu khí ngoài khơi đã xây dựng được một Thỏa ước mẫu và Bản bình luận định nghĩa về KTC vào năm 1989. Thỏa ước mẫu này được đưa ra tại Hội thảo ở Luân Đôn với sự tham gia thảo luận của các Viện sỹ và Luật sư, hội thảo đưa ra được biên bản và 12
  19. được phát hành năm 1990 với tiêu đề “KTC dầu và khí xa bờ - Bản thỏa ước mẫu mực thực hiện KTC”. Hai bản ấn phẩm này được giới khoa học đánh giá cao về mức độ súc tích và chi tiết nhất cho chủ đề KTC dầu và khí xa bờ. Quan điểm về KTC dưới góc độ của nhà chính trị học, Tiến sỹ Wiliam Onorato (tiến sỹ luật Quốc tế của Đại học Cambridge-Mỹ) đinh nghĩa: “KTC là một cơ chế mà theo đó toàn bộ vấn đề tranh chấp biên giới được gác sang một bên để tạo bầu không khí hợp tác về chính trị ngay từ ban đầu xung quanh việc khai thác” [48, tr.111], ở khía canh chính trị này, KTC được hiểu là một giải pháp nhằm gác lại các xung đột, tranh chấp, cùng bắt tay xây dựng mối quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác bền vững, cùng nhau khai thác, chia sẻ nguồn lợi tài nguyên biển. Tại cuộc hội thảo về KTC ở Đông Nam Á do Trung tâm nghiên cứu Đông – Tây của Hoa Kỳ tổ chức được các nhà làm luật và các nhà khoa học cũng đưa ra nhiều quan điểm về KTC. Trong đó, quan điểm của các luật gia “KTC thường được sử dụng như một thuật ngữ chung, bao gồm các hoạt động từ việc hợp nhất hóa các tài nguyên có trong khu vực đến việc đơn phương khai thác tài nguyên có chung ở ngoài đường ranh giới qui định và các hình thức đa dạng nặm giữa hai dạng này” [10, tr.20]. Robin R.Churchil (TS luật học của ĐH xứ Wales – Anh) định nghĩa: “KTC được coi như một khu vực mà tại đó hai hoặc nhiều quốc gia có théo luật quốc tế các quyền chủ quyền về thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của khu vực và ở đó các quốc gia hữu quan đồng ý cam kết thăm dò và khai thác dưới một dạng chung nào đó hoặc một sự dàn xếp chung” [42]. Giáo sư luật học của ĐH British Columbia- Canada là Ian Townsend Gault lại định nghĩa: “KTC là một quyết định bởi hai hay nhiều nước mà các nước này đóng góp bất kỳ quyền nào mà họ có đối với các vùng nhất định và thực hiện cùng quản lý dưới một hình thức nào đó, ở mức độ lớn hơn hoặc nhỏ hơn vì mục đích thăm dò và khai thác các tài nguyên ngoài khơi”, với quan điểm định nghĩa này đề cập đến vấn đề pháp lý về quyền chủ quyền ít hay nhiều của quốc gia hữu quan đối với vùng KTC. 13
  20. Một thời gian sau đó Gault đã cùng với đồng nghiệp là Wiliam G.Stormont đã đưa ra định nghĩ cụ thể hơn trong lĩnh vực KTC về dầu khí ngoài khơi: “Một thỏa KTC về dầu khí ngoài khơi đặc trưng là một thỏa thuận khi hai hay nhiều quốc gia đi đến một thỏa thuận chính thức về việc hợp tác khai thác và cùng nhau chia sẻ lợi nhuận có được từ hoạt động khai thác dầu khí trong một vùng biển ngoài khơi xác định bằng việc đống góp các quyền chủ quyền của mình đối với các vùng biển đó”. Định nghĩa này đề cập đến vấn đề pháp lí và kinh tế như: cùng đóng góp quyền chủ quyền và cùng nhau chia sẻ lợi nhuận… nhưng định nghĩa chỉ bó hẹp ở lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí ngoài khơi, trong khi đó, trên thực tế KTC bao gồm rất nhiều các lĩnh vực khác nhau. Tại Hội nghị Vacsava năm 1988, Giáo sư Rainer Lagoni (Báo cáo viên đặc biệt của UB vùng đăc biệt kinh tế Hiệp hội luật Quốc tế - ILA) trong bản Báo cáo của mình về vấn đề KTC các nguồn tài nguyên không sinh vật trong vùng đặc quyền kinh đã nêu: “KTC là sự hợp tác giữa các quốc gia về thăm dò và khai thác một số lớp trầm tích, mỏ hay những tích tụ của tài nguyên phi sinh vật mà có thể nằm vắt ngang qua đường biên giới hoặc nằm trong khu vực có yêu sách chồng lấn”. Định nghĩa này được nhiều chuyên gia tán thành vì đưa ra được những vấn đề cụ thể về khai thác chung là: KTC các nguồn tài nguyên không sinh vật và KTC chủ yếu ở hai vị trí, một là KTC ở những nơi đã có đường biên giới trên biển nhưng ở đó có mỏ tài nguyên nằm vắt ngang qua đường biên giới, vị trí hai là KTC ở những khu vực chồng lấn về yêu sách chủ quyền[10, tr.22]. Nhóm chuyên gia nghiên cứu KTC dầu và khí ngoài khơi thuộc Viện Luật Quốc tế và Luật So sánh của Anh ngoài việc tán thành với định nghĩa của Giáo sư Rainer Lagoni còn đưa ra định nghĩa: “KTC là sự thỏa thuận của hai quốc gia để khai thác nhằm cùng chia nhau tài nguyên theo một tỉ lệ đã được chấp thuận bởi sự hợp tác liên quốc gia và những biện pháp nhà nước đối với dầu và khí xa bờ tại một vũng đã xác định của đáy biển và vùng đất dưới đáy biển của thềm lục địa mà 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2