Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự - Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh
lượt xem 9
download
Luận văn nghiên cứu nhằm Làm rõ được những vấn đề lý luận về vị trí, vai trò của Thẩm phán và HTND của TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự; phân tích những quy định của Bộ luật tố tụng hình (BLTTHS) sự hiện hành về vị trí, vai trò của Thẩm phán và HTND TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự; đồng thời đánh giá đúng thực tiễn thực hiện, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó; đề xuất được những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán và HTND TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự - Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ HUỆ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ - (TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ HUỆ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ - (TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH) Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản HÀ NỘI - 2015 2
- Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Bïi ThÞ HuÖ 3
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM 9 PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm và vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 9 Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm và vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự 9 1.1.2. Khái niệm và vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ 16 án hình sự 1.2. Ảnh hưởng của một số nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét 19 xử các vụ án hình sự đối với vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân tòa án địa phương 1.2.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội 19 1.2.2. Nguyên tắc độc lập xét xử 22 1.2.3. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số 26 1.3. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự quy định về vai trò 27 của Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân địa phương từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 1.3.1. Giai đoạn khởi đầu (1945 - 1959) 28 1.3.2. Giai đoạn hai (1960 - 1992) 33 1.3.3. Giai đoạn Hiến pháp năm 1992 với Nghị quyết số 51/2001/QH10 36 4
- Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 39 HIỆN HÀNH VỀ VAI TRÒ CỦA THẦM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN 2.1. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về vai 39 trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương 2.2. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về vai 53 trò của Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương 2.3. Thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật tố tụng 60 hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh 2.3.1. Thực trạng xét xử các vụ án hình sự và công tác đào tạo, bồi 60 dưỡng đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh từ năm 2009 đến năm 2014 2.3.2. Những nguyên nhân của thực tiễn thực hiện những quy định 76 của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án hình sự Chương 3: NHU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC 80 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN VÀ TĂNG CƢỜNG HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng hình sự 80 hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 3.1.1. Những bất cập trong chế định Thẩm phán 80 3.1.2. Một số điểm hạn chế trong chế định Hội thẩm nhân dân 83 3.2. Những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng 90 hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 3.2.1. Thẩm phán 90 5
- 3.2.2. Hội thẩm nhân dân 95 3.3. Những giải pháp tăng cường hiệu lực, hiệu quả áp dụng các 98 quy định pháp luật tố tụng hình sự về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 3.3.1. Thẩm phán 98 3.3.2. Hội thẩm nhân dân 109 KẾT LUẬN 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114 6
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự HĐXX : Hội đồng xét xử HTND : Hội thẩm nhân dân TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa 7
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách tư pháp là một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ máy nhà nước nhằm mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN). Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX và X của Đảng; đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một sô nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã thể hiện rõ quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với nhiệm vụ cải cách tư pháp, tạo bước chuyển biến mới trong nhận thức và hành động của các cơ quan tư pháp. Theo đó, việc xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức nói chung cũng như nâng cao vai trò của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm Ngành Tòa án nhân dân (TAND) nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Tòa án là cơ quan duy nhất được pháp luật trao cho quyền năng xét xử. Chức năng xét xử của Tòa án được thực hiện thông qua và tập trung vào hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (HTND). Theo đó, Thẩm phán và HTND giữ vai trò quan trọng trong xét xử - giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng nói chung và trong xét xử vụ án hình sự nói riêng. Chính vì vậy, số lượng và chất lượng của đội ngũ Thẩm phán và HTND cũng như cách thức tổ chức, cơ chế vận hành đối với đội ngũ cán bộ này là yếu tố mang tính quyết định đến hiệu quả quá trình giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong những năm vừa qua, đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm của TAND địa phương đã không ngừng được tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng, góp phần đáng kể trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của Nhà nước và xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể nói, đội ngũ Thẩm phán và HTND của TAND 8
- địa phương có ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm vụ chính trị của hệ thống Tòa án nói riêng và của bộ máy nhà nước nói chung. Bên cạnh những thành tích đáng ghi nhận, vai trò của Thẩm phán và sự tham gia của HTND trong xét xử vụ án hình sự còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế như theo tinh thần của Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị thì: Công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường hợp bị lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp; và cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay. Đội ngũ Thẩm phán còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút phẩm chất đạo đức. Đây là vấn đề nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến kỷ cương, pháp luật và hiệu lực của bộ máy nhà nước. Nằm trong hệ thống của Ngành TAND trên cả nước, Ngành TAND tỉnh Quảng Ninh được tổ chức và hoạt động thống nhất theo hai cấp là TAND cấp tỉnh và các TAND cấp huyện, thực hiện chức năng xét xử trong phạm vi thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Trong những năm vừa qua, đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh không ngừng được bổ sung về số lượng và nâng cao về chất lượng, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án cũng như bảo vệ lợi ích Nhà nước, xã hội và quyền lợi chính đáng của công dân trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, vai trò trong xét xử các vụ án nói chung cũng như xét xử các vụ án hình sự nói riêng của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém ảnh hưởng phần nào đến chất lượng xét xử của Tòa án. Chính vì vậy, thông qua việc nghiên cứu thực trạng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm TAND địa phương có ý nghĩa cấp thiết trong công cuộc cải cách 9
- tư pháp ở nước ta hiện nay và đáp ứng yêu cầu của luận văn thạc sĩ luật học. Do đó, tôi lựa chọn đề tài "Nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự - Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh" làm luận văn thạc sĩ luật học học nhằm góp phần thực hiện cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự của Tòa án trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị, Ngành Tòa án Việt Nam đang thực sự đổi mới về tổ chức và hoạt động, không ngừng tăng cường quản lý và nâng cao vai trò của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm của TAND để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Có thể nói, Thẩm phán và HTND là một trong số những người tham gia tố tụng giữ vai trò then chốt trong quá trình cải cách tư pháp nói chung cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngành TAND nói riêng. Xuất phát từ vị trí và vai trò quan trọng của Thẩm phán và HTND trong hoạt động tố tụng hình sự và là một mắt xích không thể thiếu trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay nên đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh khác nhau và phương diện khác nhau về đề tài cải cách tư pháp và nâng cao vai trò trong xét xử của đội ngũ Thẩm phán và HTND. Cho đến thời điểm này, ở nước ngoài chưa có công trình chuyên khảo nào đề cập đến việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn thuộc lĩnh vực của đề tài. Ở Việt Nam, từ khi có chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đặc biệt là công cuộc cải cách tư pháp, nước ta đã có một số các công trình nghiên cứu về đề tài cải cách tư pháp và năng lực của đội ngũ Thẩm phán. Tiêu biểu có thể kể đến như sau: Ở cấp độ đề tài cấp nhà nước có công trình khoa học Cải cách hệ thống tư pháp ở Việt Nam, mã số 92-98-353, do ông Nguyễn Văn Yểu làm 10
- chủ nhiệm đề tài năm 1993. Tiếp đó là đề tài KX.04.06 (thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước 2001-2005): "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" do Bộ Tư pháp chủ trì, được nghiệm thu năm 2007. Đề tài khoa học cấp Bộ: "Đổi mới chế định Hội thẩm trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay" do nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Văn Sản làm Chủ nhiệm, được nghiệm thu năm 1999. Đề tài đưa ra những kiến nghị về cơ chế tổ chức, hoạt động và những kiến nghị về hoàn thiện pháp luật nhằm củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Hội thẩm. Còn ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài: Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003; Lê Thành Dương, Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2002; Đỗ Thị Ngọc Tuyết, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006. Bên cạnh đó, về sách chuyên khảo, bình luận thì có các công trình khoa học sau: Thông tin Khoa học pháp lý Viện Khoa học pháp lý - Bộ tư pháp, Người Thẩm phán nhân dân, 2002; Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Chuyên đề cải cách tư pháp; GS.TSKH Đào Trí Úc (chủ biên), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, 2002; GS.TSKH. Lê Văn Cảm và TS. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004; PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005. 11
- Vào tháng 7 năm 2009 với sự hỗ trợ của Chính phủ Australia, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã cho ra mắt cuốn "Sổ tay Thẩm phán". Có thể nói, cuốn Sổ tay Thẩm phán sẽ đóng góp cho quá trình hình thành nên một hệ thống cơ quan tư pháp hiệu quả, công bằng và minh bạch; góp phần tăng cường năng lực thể chế của hệ thống tòa án nói chung cũng như năng lực xét xử của đội ngũ Thẩm phán nói riêng thông qua việc nâng cao tính chuyên nghiệp của Thẩm phán khi thực hiện các hoạt động tư pháp của mình. Sổ tay Thẩm phán cũng đóng góp cho quá trình nâng cao tính độc lập của Ngành Tòa án Việt Nam, trong đó có tính độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán. Đặc biệt, ngày 09 tháng 07 năm 2010, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã xây dựng đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Ngoài ra, còn có các bài viết của nhiều tác giả liên quan vai trò của Thẩm phán và HTND được công bố trên các tạp chí khác nhau như: Tạp chí TAND, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp... Nhìn chung, các nghiên cứu đã đưa ra những đánh giá về vai trò của đội ngũ Thẩm phán trong đó có vai trò trong xét xử các vụ án hình sự, đồng thời đưa ra các khuyến nghị để nâng cao. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo, các luận án, các bài báo khoa học đã được công bố ở Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là kể từ khi có Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cho thấy hầu hết các công trình đó là những công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án, còn về vai trò của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm thì chưa được khoa học pháp lý Việt Nam quan tâm nghiên cứu đúng mức. Những nghiên cứu về Thẩm phán và Hội thẩm, Ngành TAND mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra vị trí, vai trò của đội ngũ này trong hoạt động tố tụng hình sự và nghiên cứu về Thẩm phán và HTND trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án 12
- một cách chung chung mà chưa được triển khai nghiên cứu độc lập, đánh giá lý luận và tổng kết thực tiễn trong một công trình khoa học độc lập. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự - Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn cao. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao vai trò Thẩm phán và HTND của TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Làm rõ được những vấn đề lý luận về vị trí, vai trò của Thẩm phán và HTND của TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự. - Phân tích những quy định của Bộ luật tố tụng hình (BLTTHS) sự hiện hành về vị trí, vai trò của Thẩm phán và HTND TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự; đồng thời đánh giá đúng thực tiễn thực hiện, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó. - Đề xuất được những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán và HTND TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm TAND địa phương trong xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá thực tiễn xét xử tại các TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm trong xét xử các vụ án hình sự tại TAND địa phương. 13
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong vòng 5 năm (từ năm 2009 đến năm 2014). 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về vai trò của Thẩm phán và HTND, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn có liên quan. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vai trò của Thẩm phán và HTND trong xét xử vụ án hình sự. - Nghiên cứu và đánh giá làm sáng tỏ bức tranh thực tiễn về vai trò xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán và Hội thẩm TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian 5 năm gần đây (từ năm 2009 đến năm 2014); chỉ 14
- ra những tồn tại, hạn chế cũng như những nguyên nhân cơ bản của những tồn tại, hạn chế đó. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm của TAND địa phương trong xét xử vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích không chỉ dành cho các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo Luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác trong các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là Tòa án, đồng thời là cơ sở cho các nhà lập pháp sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành để góp phần nâng cao vai trò của Thẩm phán và HTND trong xét xử vụ án hình sự, từ đó tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án hình sự một khách khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương trong xét xử vụ án hình sự. Chương 2: Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân địa phương và thực tiễn thực hiện. Chương 3: Nhu cầu và những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân và tăng cường hiệu lực, hiệu quả áp dụng. 15
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƢƠNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm và vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự a) Khái niệm Thẩm phán Theo quy định tại khoản 1, Điều 102 của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013: "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" [19]. Theo đó, Tòa án là cơ quan duy nhất được giao nhiệm vụ xét xử các vụ án và giải quyết các tranh chấp xảy ra trong xã hội, "bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" [19]. Tòa án thực hiện chức năng xét xử của mình thông qua Thẩm phán và HTND. Đội ngũ Thẩm phán ra đời khá muộn mặc dù nhiệm vụ xét xử đã có từ rất lâu và không thể thiếu trong bộ máy nhà nước. Dưới chế độ Chiếm hữu nô lệ, Nhà vua là người đại diện cho pháp luật, đồng thời có quyền xét xử. Khi mà quyền lực nhà nước được chia thành ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập nhau, kiềm chế đối trọng nhau thì cũng đồng nghĩa với sự tách biệt của Tòa án ra khỏi quyền hành pháp và lập pháp. Từ đó một đội ngũ chuyên làm nhiệm vụ xét xử - Thẩm phán ra đời. Cho tới ngày nay, Thẩm phán đã tham gia xét xử vào tất cả các lĩnh vực của đời sống, đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế, xã hội. Hiện nay, một hệ thống các văn bản pháp luật, Từ điển Luật học đã làm sáng tỏ được rất nhiều về khái niệm Thẩm phán. 16
- Theo từ điển Luật học và khoản 1, Điều 1 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002 đã xác định Thẩm phán là: "Người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án" [45]. Như vậy, Thẩm phán là một chức danh tư pháp, chỉ người làm việc trong Tòa án, nhân danh Nhà nước tham gia vào các hoạt động xét xử. Thẩm phán phải là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác thực tiễn có năng lực làm công tác xét xử và có sức khỏe đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao (Khoản 1, Điều 5 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002; sửa đổi, bổ sung năm 2011). Cũng theo quy định tại khoản 1, Điều 2 của Pháp lệnh này thì Thẩm phán TAND gồm có: - Thẩm phán TANDTC; - Thẩm phán TAND cấp tỉnh bao gồm Thẩm phán TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; - Thẩm phán TAND cấp huyện bao gồm Thẩm phán TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Hoạt động xét xử là một hoạt động nghề nghiệp đặc thù so với các nghề nghiệp khác ở chỗ hoạt động xét xử của Thẩm phán đòi hỏi một trình độ chuyên môn cao trong các lĩnh vực pháp luật, chính trị và xã hội. Hầu hết họ phải có kiến thức trên mọi lĩnh vực, bởi lẽ họ là người đại diện cho nền công lý, cho lẽ phải cho công bằng của toàn xã hội. Vậy hoạt động xét xử là nghề nghiệp của Thẩm phán có một số đặc điểm, đặc trưng sau: Thứ nhất: Tính đặc thù trong áp dụng pháp luật. Tính đặc thù trong áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ, Thẩm phán với vai trò là người đưa ra phán quyết dựa trên những chứng cứ khách quan, thực 17
- tế, không định kiến với mục đích duy nhất là bảo vệ công lý. Tất cả mọi tư vấn tranh luận tại phiên tòa phải đảm bảo sự bình đẳng cho các bên trong vụ án. Mọi hành vi ép buộc làm ảnh hưởng tới sự khách quan đối với phán quyết của Thẩm phán đều trái với mục đích áp dụng pháp luật. Đặc thù này khẳng định Thẩm phán phải là người hết sức vô tư, tôn trọng bằng chứng, xem xét đứng đắn các bằng chứng thực tế mà mỗi bên đương sự đưa ra trong quá trình giải quyết vụ án của mình. Thứ hai: Hoạt động xét xử là một cuộc đấu tranh tìm ra sự thực khách quan, hoạt động này chịu sự giám sát nghiêm ngặt của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Trong quá trình xử lý vụ án, Thẩm phán phải sử dụng năng lực và toàn bộ kiến thức cần thiết nhằm giải quyết đúng đắn vụ án trên cơ sở bằng chứng thực tế. Đây là cả một quá trình tố tụng phức tạp đòi hỏi ngay từ đầu người Thẩm phán phải thực sự toàn tâm toàn lực. Họ phải rất khéo léo và nhạy bén tại phiên tòa, giai đoạn tố tụng cuối cùng rất quan trọng. Để không bị cám dỗ trên con đường tìm kiếm lẽ phải, cuộc đấu tranh tinh thần của người Thẩm phán đòi hỏi họ phải luôn kiên quyết, vững vàng ý chí. Mục tiêu cuối cùng mà người Thẩm phán phải đạt được và cũng là mục đích mà toàn bộ nhân dân hướng tới sau một vụ án đó là một phán quyết thấu tình đạt lý, đảm bảo tính đúng đắn của bản án, không bỏ lọt kẻ phạm tội. Phán quyết đó còn mang tính giáo dục ý thức pháp luật trong toàn bộ dân chúng. Chính vì thế hoạt động xét xử của Thẩm phán được toàn xã hội giám sát. Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai, khi xét xử có sự tham gia của HTND chính là sự giám sát ở bên trong phiên tòa. Khi xét xử HTND ngang quyền với Thẩm phán, cùng Thẩm phán đưa ra quyết định đúng pháp luật. Thứ ba: Hoạt động này đòi hỏi một con người toàn diện, bản lĩnh vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, vô tư khách quan. Đây không những là đặc thù nghề nghiệp Thẩm phán mà còn là các tiêu chuẩn mà pháp luật đặt ra đối với người Thẩm phán hiện nay. Chỉ có thể 18
- có kiến thức rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, luôn đấu tranh cho công bằng vô tư, một tâm hồn trong sáng và một bản lĩnh vững vàng thì nghề Thẩm phán và người Thẩm phán mới tạo dựng được sự tin tưởng và tôn kính. Bởi lẽ cần thiết có một chuẩn mực lý tưởng được xã hội thừa nhận, nắm giữ cán cân công lý để điều chỉnh xã hội đi đúng hướng của nó. Người Thẩm phán phải bênh vực cho người bị hại, không thiên vị hay dao động ý chí trước bất kỳ sự việc nào. Tất cả những yêu cầu trên sẽ góp phần tạo dựng nên hình ảnh một nghề biểu tượng cho sự khát khao công lý. Thứ tư: Hoạt động xét xử của Thẩm phán tuân theo một trình tự tố tụng chặt chẽ do pháp luật quy định. Phán quyết của Thẩm phán có liên quan trực tiếp tới quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức có liên quan. Để bảo đảm phán quyết đó thấu tình đạt lý thì hoạt động xét xử phải tuân theo một trình tự tố tụng chặt chẽ là điều dễ hiểu. Việc quy định như vậy tránh sự tùy tiện lạm quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vi phạm các quy định của pháp luật tố tụng, bản án dù có hiệu lực pháp luật cũng sẽ được Tòa án cấp trên xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Như vậy, từ các phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa khái niêm Thẩm phán như sau: Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án. Với tư cách là người được giao thực hiện chức năng xét xử của Tòa án, Thẩm phán có vị trí rất quan trọng và có vai trò không thể thay thế trong việc thực hiện một trong những quyền lực nhà nước, đó là quyền tư pháp. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, với chủ trương xây dựng một nền tư pháp công bằng, dân chủ và nghiêm minh thì việc củng cố và tăng cường vai trò, địa vị pháp lý của Thẩm phán gắn với nâng cao hiệu quả hoạt động và kiện toàn tổ chức của tòa án là yêu cầu cơ bản và quan trọng hàng đầu hiện nay. 19
- b) Vai trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự Các quy định của pháp luật hiện hành đã xác định Thẩm phán là người thay mặt cho Tòa án thực hiện chức năng xét xử. Vì vậy, thông qua hoạt động xét xử Thẩm phán góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh sự, nhân phẩm và các lợi ích chính đáng của công dân. Có thể nói, hoạt động của Thẩm phán là một trong các yếu tố quyết định đến chất lượng hoạt động của tòa án nói riêng cũng như các cơ quan tư pháp nói chung; ảnh hưởng đáng kể đến tinh thần trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Thẩm phán giữ vai trò chính trong hoạt động xét xử tại Tòa án, nhân danh Nhà nước công bố một bản án, một quyết định về việc công dân có tội hay vô tội; giải quyết các tranh chấp về hợp đồng, các quyết định hành chính, hành vi hành chính… nó liên quan trực tiếp đến lợi ích, thậm chí đến số phận và phẩm giá con người. Và để Tòa án đưa ra phán quyết đúng đắn, giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật, hợp lý hợp tình, xét xử đúng người, đúng tội thì đòi hỏi người Thẩm phán phải có bản lĩnh, kinh nghiệm và trình độ nghiệp vụ chuyên môn vững vàng. Hơn nữa, Thẩm phán còn phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng, tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Chính vì thế, hoạt động của Thẩm phán còn góp phần đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế XHCN; giải quyết các tranh chấp và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong xã hội đúng pháp luật. Trong quá trình tố tụng, vai trò của người Thẩm phán rất quan trọng và là một trong các yếu tố quyết định chất lượng của quá trình xét xử tại Tòa án. Với tư cách là người đại diện cho quyền lực của Nhà nước trong việc thực thi quyền lực công lý, Thẩm phán là người hướng dẫn cho các bên đương sự 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 99 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn