VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Nguyễn Hồ Phương Vinh
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, năm 2020
1
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Nguyễn Hồ Phương Vinh
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG
CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH
Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS Nguyễn Như Phát
HÀ NỘI, năm 2020
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi thực hiện dưới
sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Như Phát. Các số liệu, kết quả nêu trong luận
văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
3
Nguyễn Hồ Phương Vinh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 8
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT
ĐỘNG CÔNG CHỨNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM........................... 16
1.1 Khái niệm, đặc điểm và bản chất pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam ...... 16
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong
hoạt động công chứng .......................................................................................... 16
1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong
hoạt động công chứng .......................................................................................... 21
1.1.3. Bản chất pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng
viên trong hoạt động công chứng ......................................................................... 22
1.2. Chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt
động công chứng .................................................................................................. 29
1.2.1. Chủ thể gây thiệt hại .................................................................................. 29
1.2.2. Chủ thể bị thiệt hại ..................................................................................... 31
1.3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên
trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam ........................................ 32
1.3.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm thường thiệt hại ngoài hợp đồng ........... 32
1.3.1.1. Có thiệt hại xảy ra ................................................................................... 32 1.3.1.2. Có hành vi trái pháp luật ......................................................................... 34 1.3.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. .............................................................................................................................. 37 1.3.1.4. Có lỗi của bên gây thiệt hại ..................................................................... 37 1.3.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng ....... 40
1.3.2.1 Có hành vi vi phạm hợp đồng .................................................................. 40 1.3.2.2. Có thiệt hại xảy ra ................................................................................... 41 1.3.2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra ........................................................................................................................... 42 1.3.2.4. Có lỗi của bên gây thiệt hại ..................................................................... 43 1.4. Các biện pháp bảo đảm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên ...... 44
1.5. Vấn đề trách nhiệm hoàn trả của công chứng viên. ...................................... 46
4
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................... 49
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT
ĐỘNG CÔNG CHỨNG TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .................................................................... 51
2.1. Về vấn đề bồi thường thiệt hại của các loại công chứng viên ...................... 51
2.1.1. Đối với công chứng viên là công chức ....................................................... 51
2.1.2. Đối với công chứng viên là viên chức ........................................................ 53
2.1.3. Đối với công chứng viên là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên công ty
hợp danh ............................................................................................................... 55
2.1.4. Đối với công chứng viên là lao động làm việc theo chế độ hợp đồng ....... 58
2.1.5. Những vấn đề đặt ra và kiến nghị .............................................................. 60
2.2. Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại .................................. 63
2.2.1. Xác định thiệt hại phải bồi thường theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng . 63
2.2.2. Xác định hành vi trái pháp luật, hành vi vi phạm hợp đồng của công chứng
viên ....................................................................................................................... 65
2.2.3. Xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật, hành vi vi
phạm hợp đồng và thiệt hại .................................................................................. 67
2.2.4. Vấn đề lỗi ................................................................................................... 67
2.2.5. Những vấn đề đặt ra và kiến nghị .............................................................. 71
2.3. Về thủ tục bồi thường, hoàn trả của công chứng viên và kiến nghị ............. 73
2.3.1. Thủ tục bồi thường, hoàn trả ..................................................................... 73
2.3.2. Kiến nghị .................................................................................................... 76
2.4. Về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên và kiến nghị .. 77
2.4.1. Về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên..................... 77
2.4.2. Kiến nghị .................................................................................................... 81
2.5. Về hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng và kiến nghị ............................. 82
2.5.1. Về hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng ............................................... 82
2.5.2. Vấn đề đặt ra và kiến nghị ......................................................................... 83
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 85
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 88
5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 91
6
PHỤ LỤC ............................................................................................................ 98
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Từ đầy đủ
Bộ luật dân sự BLDS
Bộ Luật Lao động BLLĐ
Bộ luật tố tụng dân sự BLTTDS
Bồi thường thiệt hại BTTH
Công chứng viên CCV
Doanh nghiệp tư nhân DNTN
LCC LCC
Nhà xuất bản Nxb
PCC PCC
TCHNCC Tổ chức hành nghề công chứng
VPCC VPCC
7
Xã hội chủ nghĩa XHCN
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khắc phục những bất cập của Luật Công chứng (LCC) năm 2006, ngày
20/6/2014 tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XIII đã thông qua LCC năm 2014 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015, trong đó quy định chi tiết và cụ thể hơn về
bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động công chứng, cụ thể là “ Tổ chức hành nghề
công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân,
tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là
cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng. Công chứng
viên, nhân viên hoặc người phiên dịch gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền
cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị
thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không chi trả thì tổ chức hành
nghề công chứng có quyền yêu cầu toà án giải quyết” (Điều 38). Tuy luật Công
chứng năm 2014 đã bổ sung những thiếu sót về bồi thường thiệt hại nhưng vấn
đề “trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công
chứng theo pháp luật Việt Nam” vẫn còn nhiều tồn tại, nhiều vấn đề đặt ra cần
phải giải quyết như sau:
Thứ nhất, Điều 3 LCC năm 2014 quy định “công chứng viên cung cấp dịch
vụ công do Nhà nước uỷ nhiệm”, vậy có tồn tại một hợp đồng giữa người cung
cấp dịch vụ và người hưởng dịch vụ hay không? Khi công chứng viên gây thiệt
hại thì phải bồi thường theo chế định nào? Bồi thường thiệt hại theo hợp đồng
hay ngoài hợp đồng?
Thứ hai, khi nào công chứng viên phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra
trong hoạt động công chứng? Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng bao gồm những điều kiện
nào? Thực tiễn áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan điều tra
đối với việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong
hoạt động công chứng như thế nào?
Thứ ba, hiện nay tồn tại song song hai loại hình tổ chức hành nghề công
8
chứng là PCC (do Nhà nước thành lập) và VPCC (do các cá nhân các công
chứng viên thành lập). Nên khi hành nghề công chứng, các công chứng viên hành
nghề với nhiều tư cách, vai trò khác nhau và được điều chỉnh bởi nhiều nguồn
luật khác nhau, như: Luật cán bộ, công chức, Luật viên chức, Luật trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước, Luật doanh nghiệp Bộ luật lao động (BLLĐ). Do đó,
khi gây thiệt hại họ cũng được điều chỉnh bởi các quy định về bồi thường thiệt
hại trong các luật tương ứng khác nhau. Mặc dù trong hoạt động công chứng,
công chứng viên hành nghề với nhiều danh nghĩa khác nhau (công chức, viên
chức, chủ Doanh nghiệp tư nhân (DNTN), thành viên công ty hợp danh, làm việc
theo chế độ hợp đồng) gây thiệt hại nhưng chủ thể phải bồi thường là tổ chức
hành nghề công chứng, song không phải tổ chức hành nghề công chứng bồi
thường thì công chứng viên gây thiệt hại hết trách nhiệm mà giữa tổ chức hành
nghề công chứng và công chứng viên gây thiệt hại còn tồn tại mối quan hệ “hoàn
trả”. Tuy nhiên trong mối quan hệ “hoàn trả” này đối với mỗi loại công chứng
viên còn tồn tại nhiều quy định khác nhau của pháp luật, thậm chí không có quy
định, hạn chế này gây ra sự mất bình đẳng giữa các công chứng viên của PCC và
VPCC, thậm chí là giữa các công chứng viên trong cùng một tổ chức hành nghề
công chứng với nhau.
Thứ tư, LCC quy định BHTNNN của công chứng viên là loại hình bảo
hiểm bắt buộc như một cơ chế bảo đảm thực hiện việc bồi thường, tuy nhiên đây
lại là bảo hiểm mang tính cá nhân, trong khi trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong hoạt động công chứng là trách nhiệm của tổ chức hành nghề công chứng.
Trong trường hợp có BHTNNN công chứng thì số tiền bồi thường vượt quá số
tiền được bảo hiểm, hoặc khi công chứng viên không còn làm việc cho tổ chức
hành nghề công chứng nữa thì trách nhiệm bồi thường, hoàn trả như thế nào?
Đặc biệt hiện nay tình hình công chứng viên phải bồi thường thiệt hại xảy
ra ngày càng nhiều với những bất cập mà theo phản ánh của nhiều cá nhân, tổ
chức, báo chí: “Bất cập án tuyên công chứng viên bồi thường [28]”; “Với công
chứng viên, lẽ nào một là tiền, hai là tù” [37]… Dẫu với tư cách nào thì công
chứng viên cũng thường bị công an, viện kiểm sát, tòa án cho là đã vi phạm các
điều luật của Luật Công chứng. Cụ thể là điều luật về việc công chứng viên soạn
9
thảo hợp đồng và công chứng ngoài trụ sở. Hay phổ biến hơn là các điều luật về
việc kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ; về việc đề nghị người yêu cầu công chứng làm
rõ hoặc tiến hành xác minh, yêu cầu giám định theo đề nghị của người yêu cầu
công chứng … Theo đó, có trường hợp thì tòa xử buộc bị cáo và tổ chức hành
nghề công chứng của công chứng viên ấy liên đới bồi thường thiệt hại cho người
bị hại. Có trường hợp thì tòa chỉ buộc bị cáo bồi thường nhưng lại kèm theo câu
thòng là nếu bị cáo không có tiền đền thì tổ chức hành nghề công chứng ấy phải
đền thay. Riêng trong trường hợp công chứng viên bị xử tội (đã có hai tội được
áp dụng là tội lợi dụng chức vụ trong khi thi hành công vụ và tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng) thì tòa không yêu cầu công chứng viên phải
chịu trách nhiệm dân sự. Điều đáng nói là chỉ có các công chứng viên là bị cáo
mới được các tòa xác định rõ hành vi vi phạm chiếu theo chức trách của công
chứng viên. Theo BLDS, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được
dựa trên bốn yếu tố là: Có thiệt hại xảy ra; hành vi gây thiệt hại là hành vi trái
pháp luật hoặc vi phạm hợp đồng; có lỗi của người gây thiệt hại; có mối liên hệ
nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật hoăc vi phạm hợp đồng. Đối với
người phạm tội lừa đảo…, do có đủ bốn yếu tố này nên việc buộc bị cáo phải có
nghĩa vụ bồi thường là điều đương nhiên. Thế nhưng đối với nhiều công chứng
viên đã nhận công chứng hợp đồng từ những bị cáo lừa đảo đó, khi bốn yếu tố ấy
không được nhận diện rõ ràng, thuyết phục, lý gì các tòa buộc họ (công chứng
viên) phải bồi thường như thực tế đã được chúng tôi viện dẫn ở trên?
Vì những lý do nêu trên việc nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng
trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, hoàn trả của công chứng
viên khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, trong khi các quy định của
pháp luật về vấn đề này vẫn còn mang tính nguyên tắc, thiếu sự hướng dẫn cụ thể
nên chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bồi thường thiệt hại nói chung là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hình
thức chế tài bất lợi được áp dụng cho người gây thiệt hại. Do đó, vấn đề trách
10
nhiệm bồi thường thiệt hại được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều
góc độ khác nhau, tuy nhiên nghiên cứu mang tính chuyên ngành về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng có rất ít tài
liệu, công trình nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể như sau:
- Đỗ Văn Đại (2011) “Bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra”, tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, (số 14), tr.44-52. Tác giả đã phân tích cơ sở pháp lý,
giải quyết bồi thường thiệt hại và điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do công chứng viên gây ra.
- Tuấn Đạo Thanh (2013) “Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm dân sự
trong hoạt động công chứng”, Nxb.Tư pháp, Hà Nội. Tác giả Tuấn Đạo Thanh
đã có những phân tích, luận giải về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công
chứng viên, của tổ chức hành nghề công chứng trên cở sở quy định của pháp luật.
Từ đó tác giả đã có những đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật về vấn đề bồi thường thiệt hại của công chứng viên, tổ chức hành nghề
công chứng.
- Đỗ Văn Đại (2014) “Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam
bản án và bình luận bản án”, tập 1và 2, Nxb.Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh,
TP Hồ Chí Minh,. Thông qua việc phân tích các bản án tác giả đã chỉ ra những
khó khăn, vướng mắc khi giải quyết bồi thường thiệt hại do người làm công gây
ra, do người của pháp nhân gây ra, do công chứng viên gây ra. Tác giả đã phân
tích các khía cạnh pháp lý, có đối chiếu so sánh với pháp luật nước ngoài về cùng
một vấn đề để làm sáng tỏ sự thuyết phục hay không thuyết phục khi áp dụng
pháp luật ở Việt Nam. Đặc biệt tác giả đã đi sâu phân tích trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do công chứng viên gây ra.
- Nguyễn Minh Đoan (chủ biên) (2014) “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về trách nhiệm pháp lý của Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức, cơ quan
Nhà nước ở Việt Nam”, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã phân tích
thực trạng pháp luật Việt Nam quy định về trách nhiệm pháp lý của cán bộ, công
chức, viên chức, cơ quan Nhà nước. Tác giả đã đi phân tích sâu mối quan hệ giữa
cơ quan, đơn vị của cán bộ, công chức, viên chức gây thiệt hại khi thi hành công
vụ với người bị thiệt hại, và mối quan hệ giữa cơ quan, tổ chức với cán bộ, công
11
chức, viên chức có lỗi gây thiệt hại cho người khác trong khi thi hành công vụ.
- Hoàng Văn Hữu (2014) “Trách nhiệm bồi thường do công chứng viên
gây ra trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ,
Đại học Luật Hà Nội. Tác giả có những phân tích, luận giả về trách nhiệm bồi
thường do công chứng viên gây ra trong hoạt động công chứng trên cơ sở theo
quy định LCC năm 2006, BLDS năm 2005. Tuy nhiên, tác giả đã chưa đi sâu
phân tích thực tiễn, bình luận những bản án cụ thể đã xét xử để xác định những
bất cập trong quy định cũng như việc áp dụng pháp luật trong xét xử. Mặc khác,
hiện nay BLDS năm 2015 và LCC năm 2014 có hiệu lực, nên những phân tích,
luận giải đã không còn phù hợp.
Các công trình nêu trên tuy còn ít nhưng là những tài liệu bổ ích, mang tính
lý luận cơ bản, ít nhiều có đề cập đến bồi thường thiệt hại thuộc đối tượng nghiên
cứu của tác giả, giúp tác giả có thêm nhiều thông tin và kiến thức phục vụ cho
việc nghiên cứu đề tài. Do các công trình nghiên cứu trên không nghiên cứu
chuyên sâu về lĩnh vực bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động
công chứng, hoặc có nghiên cứu về lĩnh vực tác giả nghiên cứu thì cũng mới chỉ
phân tích những bất cập bước đầu, chưa đầy đủ và toàn diện và chưa cập nhật
được những quy định mới liên quan (cụ thể LCC năm 2014, BLDS năm 2015…)
về vấn đề tác giả đang nghiên cứu. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài : “Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp
luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” vừa kế thừa những thành
công của những công trình nghiên cứu trước đó nhưng là đề tài nghiên cứu một
cách toàn diện, tổng thể, chuyên sâu về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh ở cấp độ thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên
trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ
Chí Minh” nhằm mục đích xây dựng nền tảng lý luận và thực tiễn về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của công chứng viên góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm
12
nghề nghiệp cho các công chứng viên, giảm thiểu những sai sót gây ra thiệt hại,
tạo an toàn pháp lý cho tất cả mọi người trong hoạt động công chứng và giúp bảo
vệ quyền lợi chính đáng của công chứng viên khi gây ra thiệt hại trong hoạt động
công chứng.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, nghiên cứu những vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật
Việt nam. Nghiên cứu xác định bản chất pháp lý của vấn đề trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của công chứng viên có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại
theo hợp đồng và cũng có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Hai là, nghiên cứu các quy định pháp luật về trách nhiệm của công chứng
viên trong việc thực hiện chức trách công chứng, các điều kiện phát sinh trách
nhiệm bồi thường của công chứng viên, đối chiếu so sánh giữa quy định của
pháp luật và thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh thông qua bình luận các bản
án của Tòa án nhân dân các cấp tại thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đưa các kiến
nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề đề tài nghiên cứu.
Ba là, nghiên cứu về nghĩa vụ “hoàn trả” của từng loại công chứng viên
đối với tổ chức hành nghề công chứng tương ứng khi tổ chức hành nghề công
chứng đã thực hiện việc bồi thường thiệt hại do lỗi của công chứng viên gây ra
trong hoạt động công chứng.
Bốn là, nghiên cứu về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng
viên và các cơ chế khác có thể đảm bảo trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng
viên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam, những
quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng tại thành phố Hồ Chí
Minh.
13
Phạm vi nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một dạng của trách nhiệm dân sự.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động công chứng có nội hàm rộng,
bao gồm: trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng
trong hoạt động công chứng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng
viên trong hoạt động công chứng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhân viên
hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức hành nghề công chứng …
Tuy nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi hẹp đó là trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của các loại công chứng viên trong khi thực hiện hoạt động công chứng
theo pháp luật Việt Nam và chỉ nghiên cứu đề tài dựa trên các vụ việc cụ thể tại
thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài tác giả sẽ thực hiện các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp duy vật biện chứng nhằm làm sáng tỏ các mối quan hệ biện
chứng trong quan hệ bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động
công chứng; Phương pháp thư viện nhằm tra cứu, sưu tập các bài viết, bài nghiên
cứu của các tác giả khác để tìm hiểu các quan điểm, tư tưởng khác nhau về vấn
đề đang nghiên cứu. Các phương pháp này được tác giả sử dụng trong suốt quá
trình nghiên cứu.
Phương pháp duy vật lịch sử nhằm làm rõ sự hình thành, phát triển và biến
đổi của quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng
viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam; Phương pháp so sánh;
Phương pháp phân tích, suy luận, tổng hợp; Phương pháp bình luận bản án.
Phương pháp định tính: thông qua việc đối chiếu, so sánh và phân tích
những quy định pháp luật hiện hành, những bất cập hạn chế và thực trạng xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công
chứng, từ đó có những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài đưa ra luận cứ khoa học để xác định bản chất pháp lý của vấn đề
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công
14
chứng là có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và có thể là
trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, tùy thuộc vào nguồn gốc (cơ sở)
phát sinh thiệt hại. Phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt
hại, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên
trong hoạt động công chứng. Từ đó giúp nắm bắt và hiểu được các quy định của
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt
động công chứng một cách hệ thống. Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật của
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của công chứng viên trong hoạt động công chứng. Thông qua việc đặt câu hỏi
nghiên cứu và trả lời các câu hỏi nghiên cứu. Tác giả đưa ra các luận cứ khoa học
và đề xuất hoàn thiện pháp luật trong phạm vi nghiên cứu của đề tài. Xây dựng
hệ thống lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong
hoạt động công chứng theo pháp luật Việt nam.
Là một công chứng viên đang hành nghề, đề tài này có ý nghĩa ứng dụng rất
cao trong thực tiễn, trong công việc chuyên môn công chứng của tác giả và các
đồng nghiệp, giúp tác giả và các đồng nghiệp nhận thức sâu sắc hơn về nghề
nghiệp của mình, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của mình (công chứng
viên) trong hoạt động công chứng theo quy định pháp luật Việt Nam, góp phần
nâng cao nhận thức trách nhiệm nghề nghiệp của CCV. Từ đó nâng cao cao chất
lượng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Ngoài ra, đề tài còn là tài liệu
tham khảo bổ sung cho mọi người khi nghiên cứu về vấn đề mà đề tài đã giải
15
quyết.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT
ĐỘNG CÔNG CHỨNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1 Khái niệm, đặc điểm và bản chất pháp lý, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật
Việt Nam
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên
trong hoạt động công chứng
Theo từ điển tiếng Việt, “thiệt hại” được hiểu là sự “mất mát về người, của
cải vật chất hoặc tinh thần” [23, tr.943]. Khác với nghĩa thông thường, Từ điển
luật học chỉ rõ “thiệt hại” là “tổn thất về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân; tài sản, danh
dự, uy tín của pháp nhân… được pháp luật bảo vệ” [87, tr.73]. Như vậy, có thể
đưa ra khái niệm thiệt hại như sau: “Thiệt hại là bất kỳ tổn thất nào mà một
người phải gánh chịu do các quyền, tài sản và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm
phạm hay nói cách khác thiệt hại là bất kỳ sự thay đổi tiêu cực nào đối với các
quyền, tài sản và lợi ích hợp pháp của bên có quyền”.
Theo từ điển luật học thì “bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân
sự nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách
đền bù các tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại” [87,
tr.84]. Luật dân sự quy định “người bị thiệt hại có quyền buộc bên gây thiệt hại
phải bồi thường thiệt hại” [45, khoản 2 Điều 9] và “khi quyền dân sự của cá
nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định
của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền buộc bồi thường thiệt hại” [64, Điểm 5 Khoản 1 Điều 11], đây là quyền tự
bảo vệ của chủ thể bị thiệt hại.
Thuật ngữ “trách nhiệm” có thể được hiểu theo nhiều nghĩa ở nhiều góc độ
khác nhau. Trong lĩnh vực đạo đức, chính trị “trách nhiệm” được hiểu theo nghĩa
tích cực đó chính là bổn phận, là vai trò của chủ thể xuất phát từ ý thức về vai
trò, vị trí của chủ thể đối với xã hội. Còn trong thuật ngữ pháp lý thì “trách
16
nhiệm” cũng được hiểu theo hai nghĩa khác nhau, nó có thể hiểu là nghĩa vụ là
những yêu cầu mà pháp luật đòi hỏi phải làm, phải tuân thủ trong hiện tại hoặc
trong tương lai. Ở nghĩa thứ hai “trách nhiệm” được hiểu với nghĩa tiêu cực đó
chính là hậu quả bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu khi có hành vi gây thiệt hại
hoặc vi phạm nghĩa vụ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn được hiểu theo
nghĩa thứ hai.“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm của người có
hành vi vi phạm, có lỗi trong việc gây thiệt hại về vật chất, tinh thần phải bồi
hoàn cho người bị thiệt hại nhằm phục hồi tình trạng tài sản, bù đắp tổn thất tinh
thần cho người bị thiệt hại” [87, tr.799]. Như vậy, khi nói bồi thường thiệt hại là
nói đến một hình thức của trách nhiệm dân sự, còn nói trách nhiệm bồi thường
thiệt hại là nói đến hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể gây thiệt hại phải bồi
thường khi gây thiệt hại, hay nói cách khác bồi thường thiệt hại còn được gọi là
trách nhiệm dân sự khi gây thiệt hại.
Trong khoa học pháp lý, căn cứ trên từng tiêu chí nhất định để phân định,
người ta phân loại rất nhiều loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại khác nhau.
Khái quát như sau:
Một là, căn cứ vào nguồn gốc phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Thứ nhất, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách
nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây
ra thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất
mà mình gây ra. Nếu giữa hai bên không tồn tại một hợp đồng nào thì nếu có
thiệt hại xảy ra bao giờ cũng sẽ là những thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng và
bên gây thiệt hại chỉ có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Chính vì vậy, bồi thường thiệt hại trong trường hợp hợp đồng vô hiệu, hủy
bỏ hợp đồng và vi phạm đề nghị giao kết hợp đồng là bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng bởi lẽ hợp đồng chưa được giao kết giữa các bên hoặc được coi là chưa
hề tồn tại; Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng chỉ phát sinh khi có
hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng tức là không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng hợp đồng gây ra; Chủ thể gây thiệt hại và người bị thiệt hại chính là
17
các bên trong quan hệ hợp đồng đó.
Thứ hai, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một
loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp
luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra.
So với trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng có một số khác biệt như sau: (1) Về cơ sở phát
sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại
trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định.(2) Về điều kiện
phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát
sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là: Có thiệt
hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái
pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi. Tuy nhiên, bồi thường thiệt hại theo hợp
đồng, do cơ sở phát sinh trách nhiệm là do các bên bên thoả thuận nên các bên
cũng có thể thoả thuận đặt ra các điều kiện phát sinh có thể không bao gồm đầy
đủ những điều kiện trên như bên vi phạm hợp đồng không có lỗi cũng vẫn phải
bồi thường thiệt hại… (3) Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp
luật thì còn áp dụng đối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên,
người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp
nhân, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề…. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại theo hợp đồng chỉ có thể áp dụng đối với các bên tham gia hợp
đồng mà không thể áp dụng đối với người thứ ba. (4) Về mức bồi thường: Bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng về nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong một trường
hợp đặc biệt đó là người gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so
với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ. Còn đối với bồi thường thiệt
hại theo hợp đồng thì các bên có thoả thoả thuận ngay trong hợp đồng về mức
bồi thường bằng, thấp hơn hoặc cao hơn mức thiệt hại xảy ra và khi phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì mức bồi thường sẽ áp dụng mức do các bên
18
thoả thuận.
Việc phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đặc biệt có ý nghĩa trong việc thực
hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt
hại theo hợp đồng nguyên đơn chỉ cần chứng minh thiệt hại là do người gây thiệt
hại đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng gây ra còn trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bên bị thiệt hại ngoài việc
chứng minh thiệt hại còn phải chứng minh hành vi gây thiệt hại là hành vi trái
pháp luật.
Một vấn đề được đặt ra là trong trường hợp một bên có nghĩa vụ theo hợp
đồng nhưng nghĩa vụ đó cũng được pháp luật quy định thì khi vi phạm những
nghĩa vụ đó sẽ phát sinh trách nhiệm theo hợp đồng hay ngoài hợp đồng và người
bị thiệt hại có thể lựa chọn một trong hai loại trách nhiệm để kiện yêu cầu bồi
thường hay không? Theo tác giả, trong trường hợp các chủ thể trong quan hệ
pháp luật dân sự đã cụ thể hoá những nghĩa vụ do pháp luật quy định vào trong
hợp đồng và thoả thuận đó có thể khác pháp luật thì pháp luật vẫn sẽ tôn trọng sự
thoả thuận của họ nếu thoả thuận đó là không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội. Chính vì vậy khi phát sinh trách nhiệm thì các bên
cũng chỉ có thể áp dụng một phương thức là kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
theo hợp đồng chứ không thể tự do lựa chọn phương thức có lợi nhất cho mình.
Ví dụ hành khách bị thiệt hại về tính mạng mà theo hợp đồng vận chuyển hành
khách các bên có thoả thuận mức bồi thường thấp hơn mức bồi thường do pháp
luật quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp bị xâm
phạm về tính mạng thì bên bị thiệt hại cũng chỉ có thể yêu cầu bồi thường theo
hợp đồng mà thôi.
Hai là, căn cứ vào lợi ích bị bị xâm phạm và những thiệt hại xảy ra mà
trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt
hại vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần. (1) Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bồi thường tổn thất vật chất thực tế
được tính thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí
hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc
19
giảm sút. (2) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần được hiểu là người
gây thiệt hại cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi,
cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp những tổn thất
về tinh thần cho người bị thiệt hại như sự buồn rầu, lòng đau thương…
Ba là, căn cứ vào nguyên nhân gây ra thiệt hại phân thành trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra và trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do tài sản gây ra. (1) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con
người gây ra được hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi thiệt hại
xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi của con người gây ra. Trường hợp này người
gây thiệt hại đã thực hiện hành vi dưới dạng hành động hoặc không hành động và
hành vi đó chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. (2) Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do tài sản gây ra là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi
tài sản là nguyên nhân gây ra thiệt hại như hoạt động của nguồn nguy hiểm cao
độ gây thiệt hại, cây cối đổ gẫy gây ra thiệt hại, nhà công trình xây dựng bị sụt,
đổ gây thiệt hại, gia súc gây thiệt hại…
Bốn là, căn cứ vào mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các chủ thể của
trách nhiệm bồi thường thiệt hại phân thành trách nhiệm liên đới và trách nhiệm
riêng rẽ. (1) Bồi thường thiệt hại liên đới được hiểu là trách nhiệm nhiều người
mà theo đó thì mỗi người trong số những người có trách nhiệm phải chịu trách
nhiệm đối với toàn bộ thiệt hại và mỗi người trong số những người có quyền đều
có quyền yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ cho mình. (2) Bồi
thường thiệt hại riêng rẽ là trách nhiệm nhiều người mà theo đó thì mỗi người có
trách nhiệm chỉ phải chịu trách nhiệm đối với phần thiệt hại do mình gây ra và
mỗi người trong số những người có quyền cũng chỉ có quyền yêu cầu người gây
thiệt hại bồi thường những tổn thất mà mình phải gánh chịu.
Năm là, căn cứ vào yếu tố lỗi và mức độ lỗi của cả người gây thiệt hại và
người bị thiệt hại phân thành trách nhiệm hỗn hợp và trách nhiệm độc lập. (1)
Trách nhiệm hỗn hợp là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà trong đó cả người
gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi. (2) Trách nhiệm độc lập là trách
20
nhiệm bồi thường thiệt hại mà người bị thiệt hại là người hoàn toàn không có lỗi.
Sáu là, căn cứ vào chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phân thành
trách nhiệm bồi thường của cá nhân, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của pháp
nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường Nhà nước. (1) Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của cá nhân được hiểu là trách nhiệm dân sự mà theo đó thì
trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cá nhân người gây thiệt hại hoặc đại
diện theo pháp luật của người đó như cha mẹ, người giám hộ; (2) Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại pháp nhân và các tổ chức khác được hiểu là trách nhiệm dân
sự phát sinh cho pháp nhân hoặc các tổ chức khác trong trường hợp người của
pháp nhân và các tổ chức gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ pháp nhân
hoặc tổ chức giao cho; (3) Trách nhiệm bồi thường Nhà nước được hiểu là khi
cán bộ, công chức gây thiệt hại thuộc phạm vi bồi thường Nhà nước thì Nhà
nước phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại chứ không phải chính cán
bộ công chức hay cơ quan quản lý cán bộ công chức phải bồi thường.
Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của LCC, được
Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng [60, Khoản 2 Điều 2]
và khi vi phạm quy định của LCC thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị
xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật [60, Điều 71].
Từ đó có thể hiểu khái niệm “trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công
chứng viên trong hoạt động công chứng là một hình thức của trách nhiệm dân sự
buộc công chứng viên trong khi thực hiện hoạt động công chứng có lỗi gây thiệt
hại thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra”.
1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng
viên trong hoạt động công chứng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công chứng có
thể thuộc trường hợp trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, có thể
thuộc trường hợp trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, nên nó vừa
mang những đặc điểm chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng
hoặc ngoài hợp đồng (như: có hành vi trái pháp luật hoặc hành vi vi phạm hợp
đồng, có thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái
21
pháp luật/hành vi vi phạm hợp đồng, có lỗi (hoặc không có lỗi nếu pháp luật có
quy định), ngoài ra nó còn có một số đặc điểm đặc thù của hoạt động công chứng
sau:
Thứ nhất, chủ thể gây thiệt hại phải là CCV và CCV phải gây thiệt hại
trong khi hoạt động nghề công chứng. Nếu CCV gây thiệt hại trong khi không
hoạt động nghề công chứng thì sẽ bị điều chỉnh bởi các các quy định của pháp
luật tương ứng khác;
Thứ hai, hành vi trái pháp luật của CCV trước hết phải được xem xét là
hành vi trái với quy định của LCC và Quy tắc đạo đức nghề công chứng; Hoặc
hành vi vi phạm hợp đồng của CCV là hành vi vi phạm hợp đồng dịch vụ do
CCV, tổ chức hành nghề công chứng đã ký kết với người yêu cầu công chứng
hoặc CCV có lỗi do sơ suất của CCV trong việc tư vấn cho các bên về vấn đề cần
công chứng làm thất lạc giấy tờ cần công chứng, làm thất lạc hồ sơ, giấy tờ của
khách hàng, giao thiếu hồ sơ tài liệu, số bản gốc được công chứng, chậm trễ
trong việc thực hiện nghĩa vụ;
Thứ ba, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV là trách nhiệm bồi
thường được bảo hiểm. BHTNNN của CCV là bảo hiểm bắt buộc;
Thứ tư, bồi thường thiệt hại bao gồm thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, thiệt
hại do sức khoẻ bị xâm phạm, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, thiệt hại do
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Trong khi đó công chứng là “việc công
chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực,
tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự bằng văn bản, tính chính xác, hợp
pháp không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang
tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt” [60, khoản 1, Điều
2]. Hợp đồng, giao dịch có đối tượng là tài sản hoặc quan hệ nhân thân mang tính
chất tài sản như: quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ…do đó đối tượng bị xâm
phạm trong hoạt động công chứng của CCV có thể là tài sản, quan hệ nhân thân
mang tính chất tài sản.
1.1.3. Bản chất pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công
chứng viên trong hoạt động công chứng
Sau khi đối chiếu các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
22
CCV, trình tự, thủ tục thực hiện công chứng được ghi nhận tại LCC, chúng ta
thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công chứng có
thể được nhìn nhận như sau: [82, tr.28-36]
Một là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về tinh thần. Do hoạt động công chứng luôn gắn liền, đi đôi với các hợp
đồng giao dịch dân sự … [60, Điều 2] nên thiệt hại vật chất xảy ra trong hoạt
động công chứng là điều dễ hiểu. Tuy có hay không trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về tình thần trong hoạt động công chứng hiện nay vẫn là câu hỏi chưa có
trả lời thỏa đáng. Và hiện nay có hai luồng quan điểm về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về tinh thần trong hoạt động công chứng. Quan điểm thứ nhất, cho rằng
không tồn tại thiệt hại về tinh thần trong hoạt động công chứng trong khi quan
điểm thứ hai khẳng định điều ngược lại. Từ khái niệm đã nêu ở mục 1.1.1 về
thiệt hại tinh thần cũng như xuất phát từ thực tiễn, tác giả nghiêng về quan điểm
thứ nhất.
Hai là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra
và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Với khái niệm về công
chứng “là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng
nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn
bản, tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ,
văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng
Việt mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự
nguyện yêu cầu công chứng.” [60, Khoản 1 Điều 2] “. Chúng ta có thể khẳng
định rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công chứng
chỉ có thể là thiệt hại do hành vi của con người gây ra. Thiệt hại của người bị hại
là do do hành vi trái pháp luật của CCV gây ra.
Ba là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên đới và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại riêng rẽ. Từ những khái niệm đã nêu ở phần trên thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của CCV có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên đới và
cũng có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại riêng rẽ. Trường hợp chủ thể gây
ra thiệt hại cho người yêu cầu công chứng, cá nhân, tổ chức khác bao gồm CCV
23
và “người khác” thì đây thuộc trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên đới. Trường
hợp chủ thể gây ra thiệt hại cho người yêu cầu công chứng, cá nhân, tổ chức khác
chỉ có CCV thì thì đây thuộc trách nhiệm bồi thường thiệt hại riêng lẻ.
Bốn là, trách nhiệm hỗn hợp và trách nhiệm độc lập. Trách nhiệm hỗn hợp
là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà trong đó cả người gây thiệt hại và người bị
thiệt hại đều có lỗi. Trách nhiệm độc lập là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà
người bị thiệt hại là người hoàn toàn không có lỗi. Từ cách thức lấy yếu tố lỗi là
làm tiêu chí phân định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như trình tự, thủ tục
công chứng, tác giả thấy rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV hoàn
toàn có thể là trách nhiệm hỗn hợp hay trách nhiệm độc lập.
Năm là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của pháp nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại Nhà nước. Có thể thấy rằng cách thức phân biệt trách nhiệm bồi thường
thiệt hại lấy chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại làm tiêu chí xác định
hiện đang tồn tại một cách rất rõ trong lĩnh vực công chứng. Cụ thể là có cả trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
pháp nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường Nhà nước hiện hữu trong
hoạt động công chứng. Căn cứ vào khoản 1 Điều 38, Điều 71, Điều 72 LCC
2014, chúng ta thấy rõ sự tồn tại trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
CCV, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại Nhà nước (do có sự tồn tại của PCC của nhà
nước).
Sáu là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Để xem xét bồi thường thiệt hại của CCV là bồi
thường thiệt hại theo hợp đồng hay bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chúng ta
chỉ có thể xác định được khi xem xét về bản chất của hoạt động công chứng theo
quy định của p háp luật Việt Nam:
Hoạt động công chứng ở Việt Nam trước năm 2006 (trước khi LCC năm
2006 có hiệu lực thi hành) luôn mang tính hành chính Nhà nước, công chứng
viên là công chức [83, Khoản 3 điều 1] hoạt động của công chứng viên được xem
là hoạt động công vụ. Khi LCC năm 2006 có hiệu lực đã xuất hiện loại hình
24
VPCC là doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh [48,, khoản 1 Điều 26],
còn PCC là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp [48, Khoản 2 điều 24] [60, khoản
2 điều 19]. Các tổ chức hành nghề công chứng được xác định là một loại dịch vụ
công [71]. Trước năm 2006 công chứng viên chỉ có thể là công chức, nhưng sau
năm 2006 công chứng viên vừa có thể là công chức đối với công chứng viên là
Trưởng PCC [50, Khoản 2 điều 4] [60, Khoản 2 Điều 19] vừa là viên chức [53,
Điều 2] đối với công chứng viên làm việc tại các PCC và công chứng viên với tư
cách là chủ doanh nghiệp, người lao động trong các VPCC. Tính chất của hoạt
động công chứng đã chuyển từ “hành chính Nhà nước” sang “dịch vụ công”.
Hiện nay, có hai loại “chủ thể” có thể bị công chứng viên gây thiệt hại đó là
người yêu cầu công chứng và người thứ ba (cá nhân, tổ chức khác) (khoản 1
Điều 38 LCC năm 2014). Đối với hai loại chủ thể này việc bồi thường thiệt hại là
khác nhau, cụ thể như sau:
Thứ nhất, “bồi thường thiệt hại cho người thứ ba (cá nhân, tổ chức khác)”
thì rõ ràng đây là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng [21, tr.165];
Thứ hai, “bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng” thì hiện nay
còn tồn tại các quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất, cho rằng trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của công chứng viên đối với người yêu cầu công chứng là
trách nhiệm bồi thường theo hợp đồng vì giữa công chứng viên và người yêu cầu
công chứng “tồn tại một hợp đồng dịch vụ và thiệt hại (nếu có) phát sinh từ việc
công chứng viên thực hiện hợp đồng” [21, tr.165]. Cùng quan điểm nêu trên
nhưng lại có cách giải thích khác khi cho rằng “dù giữa công chứng viên và
người yêu cầu công chứng không hề tồn tại một bản hợp đồng cụ thể nào nhưng
khi đứng ra cung cấp dịch vụ công chứng theo đề nghị của người yêu cầu công
chứng, có vẻ công chứng viên đã mặc nhiên giao kết một bản hợp đồng theo
những điều khoản, điều kiện đã được quy ước” [82, tr.29]. Quan điểm thứ hai,
cho rằng đây là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bởi “khi công
chứng viên giải quyết một yêu cầu công chứng cụ thể, người yêu cầu công chứng
với công chứng viên hay tổ chức hành nghề công chứng không phải giao kết với
nhau bất kỳ một hợp đồng nào dưới dạng hợp đồng cung cấp dịch vụ” [82, tr.28].
Theo tác giả, như đã phân tích ở mục 1.1.1 về bồi thường thiệt hại ngoài
25
hợp đồng và bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì để xác định bồi thường thiệt
hại của CCV trong hoạt động công chứng đối với người yêu cầu công chứng là
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay bồi thường thiệt hại theo hợp đồng,
trước tiên cần phải xác định mối quan hệ pháp luật của CCV với người yêu cầu
công chứng là gì, xác lập mối quan hệ này có dựa trên thỏa thuận hoặc hợp đồng
gì không? Trong hoạt động công chứng, khi CCV tiến hành công chứng các hợp
đồng, giao dịch theo Điều 2 LCC năm 2006 và Điều 2 LCC năm 2014 thì giữa
người yêu cầu công chứng với CCV của tổ chức hành nghề công chứng tồn tại
mối quan hệ pháp luật cung cấp dịch vụ công chứng, cụ thể là “Công chứng viên
cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm ( Điều 3, LCC năm 2014); khi đó
người có yêu cầu công chứng nộp một bộ hồ sơ trong đó có “Phiếu yêu cầu công
chứng”. Phiếu yêu cầu công chứng này là bằng chứng cho “thỏa thuận bằng văn
bản” giữa CCV và người yêu cầu công chứng, vì nội dung trong phiếu yêu cầu
công chứng gồm thông tin về họ tên, địa chỉ người yêu cầu công chứng, nội dung
cần công chứng, danh mục giấy tờ gửi kèm theo; tên tổ chức hành nghề công
chứng, họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng, thời điểm tiếp nhận hồ
sơ” [60, Điểm a Khoản 1 Điều]. Như vậy, tồn tại quan hệ pháp luật về cung cấp
dịch vụ công chứng và tồn tại một “thỏa thuận bằng văn bản” giữa người yêu cầu
công chứng với CCV về việc cung cấp dịch vụ công chứng.
Tuy nhiên vấn đề đặt ra là người yêu cầu công chứng có quyền yêu cầu
CCV ký kết với họ một hợp đồng dịch vụ công chứng, trong đó thỏa thuận các
nội dung về việc cung cấp dịch vụ công chứng không? Theo tác giải, người yêu
cầu công chứng có quyền yêu cầu CCV ký kết với “họ” một hợp đồng dịch vụ
công chứng, bởi các lý do sau: thứ nhất, pháp luật nói chung và pháp luật về
công chứng nói riêng không có quy định cụ thể về “hợp đồng dịch vụ công
chứng”, nhưng không có quy định cấm CCV, tổ chức hành nghề công chứng giao
kết hợp đồng dịch vụ với khách hàng; thứ hai, “hợp đồng dịch vụ công chứng” là
một loại hợp đồng cụ thể của “hợp đồng dịch vụ” được quy định trong BLDS
năm 2005 và 2015; thứ ba, cùng là cung cấp các hoạt động bổ trợ tư pháp nên
công chứng có thể áp dụng tương tự các quy định về cung cấp dịch vụ của luật sư
26
như “Luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ pháp lý” [49, Điều
26] hoặc “Luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc
theo phiếu thỏa thuận thực hiện dịch vụ pháp lý” [7, Điều 5].
Như vậy theo tác giả khi thực hiện việc công chứng giữa CCV với người
yêu cầu công chứng tồn tại quan hệ pháp luật về cung cấp dịch vụ công chứng,
tồn tại một “thỏa thuận yêu cầu công chứng” (theo mẫu phiếu yêu cầu công
chứng) hoặc một hợp đồng dịch vụ công chứng (nếu có ký kết theo yêu cầu của
khách hàng công chứng). Ví dụ, về hợp đồng dịch vụ số 01/HĐDV-CC1 mà PCC
số 1 TPHCM có ký với Công ty TNHH Bất Động Sản Thế Kỷ Hoàng Kim (Công
ty) vào ngày 28/10/2016 [Phụ lục số 10], theo đó Công ty sẽ tiến hành ký Hợp
đồng mua 34 căn hộ với khách hàng của Công ty (theo danh sách đính kèm), theo
34 hợp đồng mua bán sẽ do CCV của PCC số 1 công chứng vào ngày
28/10/2016. Cụ thể, PCC số 1 sẽ tiến hành đóng dấu và xuất biên lai thu phí
công chứng, hóa đơn thù lao công chứng sau khi 34 hợp đồng được CCV ký kết
cho Công ty và Công ty sẽ chuyển khoản toàn bộ số tiền phí và thù lao công
chứng của tất cả các hợp đồng nêu trên vào tài khoản của PCC số 1 TPHCM.
Về chủ thể giao kết “thỏa thuận yêu cầu công chứng” theo mẫu phiếu yêu
cầu công chứng hoặc “hợp đồng dịch vụ công chứng”. BLDS năm 2015 quy định
“Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ
thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền
dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ” (Điều 513). Tức là theo quy định của BLDS
thì bên cung ứng dịch vụ có quyền nhận tiền cung ứng dịch vụ do mình cung cấp.
Và theo quy định của LCC năm 2014 thì tổ chức hành nghề công chứng có
quyền “cung cấp dịch vụ công chứng, thu phí công chứng, thù lao công chứng,
chi phí khác, ký hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động với công chứng viên,
quản lý công chứng viên hành nghề tại tổ chức mình; nội dung của phiếu yêu cầu
công chứng bao gồm họ tên người yêu cầu công chứng, tên tổ chức hành nghề
công chứng, họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng.... Nên có thể xác
định tổ chức hành nghề công chứng là chủ thể cung ứng dịch vụ công chứng và
là chủ thể có quyền giao kết “thỏa thuận yêu cầu công chứng” theo mẫu phiếu
27
yêu cầu công chứng hoặc “hợp đồng dịch vụ công chứng”. Và người có quyền
trực tiếp tiếp nhận hồ sơ công chứng theo luật định là CCV (Điều 2 LCC năm
2014 ).
Do vậy, quan điểm của tác giả về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công
chứng viên đối với người yêu cầu công chứng có thể trách nhiệm bồi thường
thiệt hại theo hợp đồng và cũng có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng tùy thuộc vào nguồn gốc phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là
hành vi vi phạm hợp đồng dịch vụ của CCV (kể cả hợp đồng dịch vụ theo mẫu
thông qua phiếu yêu cầu của người yêu cầu công chứng) hoặc hành vi trái pháp
luật của CCV.
Theo quy định pháp luật Việt Nam vấn đề xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của CCV là theo hợp đồng hay ngoài hợp đồng ngoài hợp đồng thì cần
xem xét căn cứ của sự vi phạm ở đây là “nghĩa vụ hợp đồng” hay “quy định pháp
luật”. Theo đó, quan hệ giữa người yêu cầu công chứng và CCV là quan hệ giữa
khách hàng với người cung ứng dịch vụ. Nếu CCV không thực hiên đúng nghĩa
vụ của mình trong hợp đồng dịch vụ thì trách nhiệm bồi thường ở đây là trách
nhiệm theo hợp đồng. Các trường hợp gây thiệt hại phổ biến ở đây có thể là do
việc thực hiện dịch vụ công chứng có lỗi do sơ suất của CCV trong việc tư vấn
cho các bên về vấn đề cần công chứng làm thất lạc giấy tờ cần công chứng, làm
thất lạc hồ sơ, giấy tờ của khách hàng, giao thiếu hồ sơ tài liệu, số bản gốc được
công chứng, chậm trễ trong việc thực hiện nghĩa vụ… thì sẽ phát sinh trách
nhiệm vi phạm hợp đồng, tức là trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng.
Còn nếu việc vi phạm thuộc về quy trình, quy định của pháp luật thì CCV và tổ
chức hành nghề công chứng chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Hiện nay, hầu hết các hoạt động công chứng (gồm thủ tục công chứng, thu
phí…) của CCV đều do pháp luật quy định, còn những việc mà CCV được quyền
thỏa thuận với người yêu cầu công chứng như thỏa thuận về thu thù lao công
chứng, chi phí khác, địa điểm, số lượng văn bản công chứng, thời gian giải quyết
hồ sơ… không nhiều, nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt
động công chứng đa số là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chỉ một số ít
28
trường hợp là bồi thường thiệt hại theo hợp đồng.
1.2. Chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại của công chứng viên
trong hoạt động công chứng
1.2.1. Chủ thể gây thiệt hại
LCC quy định “Công chứng viên cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy
nhiệm” [60, Điều 3]; “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành
nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch
dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác,
hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt
sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là
bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ
chức tự nguyện yêu cầu công chứng.”, “tổ chức hành nghề công chứng phải bồi
thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân tổ chức khác do lỗi
mà công chứng viên…gây ra trong quá trình công chứng” [60, Điều 38], đồng
thời quy định trách nhiệm cá nhân của CCV như sau “công chứng viên vi phạm
quy định của Luật này … nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của
pháp luật” [60, Điều 71]. Như vậy, chủ thể gây thiệt hại trong hoạt động công
chứng là CCV của các tổ chức hành nghề công chứng.
CCV là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của LCC, được Bộ trưởng Bộ
Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng. Chỉ có công dân Việt Nam thường
trú tại Việt Nam tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có
đủ các tiêu chuẩn sau đây thì mới được xem xét bổ nhiệm CCV: (i) có bằng cử
nhân luật; (ii) có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại cơ quan, tổ
chức sau khi đã có bằng cử nhân luật; (iii) tốt nghiệp khoá đào tạo nghề công
chứng hoặc hoàn thành khoá bồi dưỡng nghề công chứng; (iv) đạt yêu cầu kiểm
tra kết quả tập sự hành nghề công chứng; (v) đảm bảo sức khoẻ để hành nghề
công chứng. Như vậy CCV phải là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
CCV chỉ được hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng.
Khi hành nghề CCV ngoài việc phải bồi thường nếu gây thiệt hại ra thì tuỳ
theo tính chất, mức độ vi phạm CCV còn bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hiện nay đang tồn tại hai loại hình tổ
29
chức hành nghề công chứng là PCC do Nhà nước thành lập và VPCC do các
CCV thành lập. Tương ứng với nó có các CCV hành nghề dưới nhiều danh nghĩa
khác nhau và ngoài LCC, BLDS năm 2015 ra, trách nhiệm bồi thường của CCV
còn được điều chỉnh bởi nhiều nguồn luật khác nhau như sau:
PCC có CCV là công chức đối với Trưởng PCC còn được điều chỉnh bởi
Luật cán bộ, công chức [13, khoản 4 Điều 11]; [2, Điểm d khoản 2 Điều 4], Luật
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước [Vấn đề Trưởng PCC gây thiệt hại trong
hoạt động công chứng có áp dụng được Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước hay không sẽ được tác giả giải quyết ở chương 2]; Là viên chức [53, Điều
2] đối với các công chứng viên còn lại còn được điều chỉnh bởi Luật viên chức.
VPCC có CCV là chủ DNTN [48,, Khoản 1 Điều 26] và thành viên hợp
danh [60, Khoản 1 Điều 22] còn được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp; CCV
làm việc theo chế độ hợp đồng cho tổ chức hành nghề công chứng [60, Điểm b
khoản 1 Điều 17] còn được điều chỉnh bởi Bộ luật lao động.
Trong hoạt động công chứng, CCV phải bồi thường thiệt hại do lỗi của
mình gây ra theo quy định về xử lý vi phạm đối với CCV theo Điều 58 LCC năm
2006 và Điều 71 LCC năm 2014. Hiện nay tồn tại nhiều loại CCV khác nhau
đang hành nghề công chứng tại các tổ chức hành nghề công chứng khác nhau. Cụ
thể, bao gồm PCC và VPCC (Khoản 5 Điều 2 LCC năm 2014).
Phòng Công chứng. Do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập, là
đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp có trụ sở, con dấu và tài khoản
riêng; Người đại diện theo pháp luật của PCC là Trưởng phòng. Trưởng PCC
phải là CCV, do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức [60, Điều 19]; PCC có thể được chuyển đổi thành VPCC hoặc bị giải thể
nhưng không thể bị chia tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng.
Văn phòng Công chứng. Được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty
hợp danh và phải có từ hai CCV trở lên. VPCC không có thành viên góp vốn.
Người đại diện theo pháp luật của VPCC là Trưởng Văn phòng. Trưởng VPCC
phải là CCV và đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên. LCC năm 2006 quy
định hai loại hình VPCC đó là : (i) VPCC do một công chứng viên thành lập hoạt
động theo loại hình DNTN [48, Điều 26], loại hình VPCC này trong thời hạn 24
30
tháng kể từ ngày 01/01/2015 phải chuyển đổi thành VPCC hoạt động theo loại
hình công ty hợp danh [60, Khoản 1, Điều 79] theo LCC năm 2014 và; (ii)
VPCC do hai công chứng viên trở lên thành lập và hoạt động theo loại hình công
ty hợp danh. VPCC có thể được chuyển nhượng, hợp nhất, sáp nhập.
Tương ứng với nhiều loại hình tổ chức hành nghề công chứng khác nhau
(PCC và VPCC) là các loại CCV hành nghề dưới các danh nghĩa khác nhau (như
CCV là công chức, viên chức, chủ DNTN, thành viên hợp danh của công ty hợp
danh, CCV làm việc theo chế độ hợp đồng).
1.2.2. Chủ thể bị thiệt hại
LCC năm 2006 quy định tổ chức hành nghề công chứng có nghĩa vụ “bồi
thường thiệt hại do lỗi mà công chứng viên gây ra cho người yêu cầu công
chứng” [48, khoản 5 Điều 31], quy định như vậy cho thấy người bị thiệt hại do
CCV gây ra trong hoạt động công chứng chỉ duy nhất là người yêu cầu công
chứng. Quy định nêu trên đã cho thấy còn thiếu sót bởi CCV không những gây
thiệt hại cho người yêu cầu công chứng mà còn có thể gây thiệt hại cho người
khác (người thứ ba).
Khắc phục thiếu sót nêu trên, LCC năm 2014 quy định về bồi thường trong
hoạt động công chứng như sau: “tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường
thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công
chứng viên…của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng” [60, khoản 1,
Điều 38]. Với quy định này người bị thiệt hại không chỉ là người yêu cầu công
chứng mà còn có cá nhân, tổ chức khác.
Người yêu cầu công chứng. Là cá nhân, tổ chức Việt Nam, hoặc cá nhân,
tổ chức nước ngoài có yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch [60,
Khoản 3 Điều 2]. Như vậy người yêu cầu công chứng có thể là bất kỳ ai, cá nhân,
tổ chức trong nước hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài, đây là các chủ thể tham gia
trong các hợp đồng, giao dịch được công chứng. Trước đây LCC năm 2006 quy
định “người yêu cầu công chứng phải có năng lực hành vi dân sự” [48,, Khoản 2
Điều 8], LCC năm 2014 đã bãi bỏ quy định này bởi vì các chủ thể tham gia hợp
đồng, giao dịch phải đáp ứng đủ điều kiện về chủ thể tương ứng với các hợp
đồng, giao dịch đó, bên cạnh đó khi thực hiện việc công chứng mà CCV có sự
31
nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng thì CCV có
quyền đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của người yêu
cầu công chứng, CCV tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định, trường hợp
không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng. Đối với tổ chức thì tổ chức
hoạt động thông qua người đại diện hợp pháp của tổ chức đó, người đại diện hợp
pháp của tổ chức cũng phải đáp ứng đủ các điều kiện về năng lực hành vi dân sự
của cá nhân.
Cá nhân, tổ chức khác. LCC năm 2014 không cho biết cá nhân, tổ chức
khác là những ai, tuy nhiên đó phải là những cá nhân, tổ chức không trực tiếp
tham gia vào hợp đồng giao dịch được công chứng (hay nói cách khác là người
thứ ba, không phải là người yêu cầu công chứng), họ tuy không tham gia vào hợp
đồng giao dịch được công chứng nhưng việc CCV chứng nhận các hợp đồng giao
dịch làm cho quyền lợi của họ bị ảnh hưởng và gây thiệt hại cho họ thì họ cũng
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
1.3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công
chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam
1.3.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Theo quy định BLDS năm 2015, một trong những căn cứ làm phát sinh
nghĩa vụ dân sự là “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” (Điều 275) và tương
ứng với căn cứ này là các quy định tại Chương XX, Phần thứ ba về “Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng phát sinh khi có các điều kiện:
1.3.1.1. Có thiệt hại xảy ra
Để được bồi thường thiệt hại, bên bị thiệt hại phải chứng minh được thiệt
hại mà họ phải gánh chịu. Đánh giá vai trò của thiệt hại, Vũ Văn Mẫu đã chỉ ra
thiệt hại là “điều kiện tất yếu của sự bồi thường. Nếu không bị thiệt hại, lẽ tất
nhiên, đơn kiện xin bồi thường sẽ không có lý do và cũng trái với nguyên tắc căn
bản trong luật tố tụng: không có quyền lợi thì không thể hành xử tố quyền” [77,
tr.470]. Thiệt hại là một yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có sự thiệt hại về
tài sản hoặc sự thiệt hại về tinh thần. Sự thiệt hại về tài sản là sự mất mát hoặc
32
giảm sút về một lợi ích vật chất được pháp luật bảo vệ; thiệt hại về tài sản có thể
tính toán được thành một số tiền nhất định. Thiệt hại về tinh thần được hiểu là do
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt
hại phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy
tín, tín nhiệm, lòng tin… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn
thất mà họ phải chịu. CCV nếu có hành vi vi phạm pháp luật (hành vi trái pháp
luật) thì sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự nhưng nếu không gây thiệt hại thì chắc chắn sẽ không phải bồi
thường [60, Điều 71].
Theo BLDS 2005 và hướng dẫn của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP
[27] thì “thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm [45,
Điều 608]; thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm [45, khoản 1 Điều 609]; thiệt hại
do tính mạng bị xâm phạm [45, khoản 1 Điều 610]; thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm [45, khoản 1 Điều 611]”; “Thiệt hại do tổn thất về tinh
thần của cá nhân được hiểu là do sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích
gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình
cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm... và cần phải
được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu. Thiệt hại do tổn
thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân
(gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó
bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin... vì bị hiểu nhầm và cần phải
được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu” [27, Điểm
1.1 khoản 1 mục I]. Dựa trên căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
quy định tại Điều điều 584 mà BLDS năm 2015 quy định về cách xác định thiệt
hại do tài sản bị xâm phạm [64, Điều 589], thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm
[64, điều 590], thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm [64, Điều 591], thiệt hại do
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm [64, Điều 592]. Tuy nhiên, chúng ta có
thể thấy BLDS năm 2015 còn có một loại thiệt hại nữa đó là thiệt hại xảy ra khi
quyền lợi ích hợp pháp khác của cá nhân bị xâm phạm [64, Điều 584].
Lẽ dĩ nhiên là bất cứ sự thiệt hại nào cũng gây ra những tổn thất về tinh
33
thần nhất định cho người bị thiệt hại, như lo nghĩ, buồn phiền…tuy nhiên chỉ
được xem là tổn thất về tinh thần nếu hành vi gây thiệt hại xâm phạm trực tiếp
đến sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tính mạng của người bị thiệt hại. Thiệt
hại về tài sản chỉ có thể là tổn thất tài sản của chính người bị thiệt hại nhưng thiệt
hại về tinh thần còn có thể là sự thiệt hại của những người thân thích, gần gũi của
người bị thiệt hại đặc biệt trong trường hợp tính mạng bị xâm phạm.
Hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên là chứng nhận các hợp đồng
giao dịch, bản dịch, chứng thực bản sao, chứng thực chữ ký nên nó luôn mang
tính tài sản cho nên thiệt hại do công chứng viên gây ra là thiệt hại về tài sản.
Hoạt động công chứng mang tính chất đặc thù, cụ thể nó tác động lên tính
pháp lý của tài sản chứ không tác động trực tiếp lên tài sản cho nên hoạt động
công chứng không thể làm hư hỏng hoặc hủy hoại tài sản, do đó, sẽ không có
thiệt hại do tài sản bị hư hỏng hoặc hủy hoại tài sản, do đó sẽ không có thiệt hại
do tài sản bị hư hỏng hoặc hủy hoại mà chỉ có thiệt hại trong trường hợp tài sản
bị mất.
Những chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại phải là
những chi phí mà người bị thiệt hại phải bỏ ra để ngăn chặn, khắc phục và hạn
chế thiệt hại. Đây phải là những chi phí “thật sự cần thiết mà nếu không áp dụng
thì thiệt hại sẽ lớn hơn” [24, tr.725]
1.3.1.2. Có hành vi trái pháp luật
Hành vi trái pháp luật là “những xử sự cụ thể của con người được thể hiện
thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp
luật” [27, Điểm 1.2 khoản 1 mục I], ngoài ra “hành vi trái pháp luật là hành vi
không phù hợp với những quy định của pháp luật (không thực hiện những gì mà
pháp luật yêu cầu hoặc sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn cho phép của pháp
luật). Những gì mà pháp luật không cấm, không bảo vệ thì dù có làm trái (ví dụ :
trái với các quy định của các tổ chức xã hội, trái các quy định của đạo đức…)
cũng không bị coi là trái pháp luật” [78, tr.409]. BLDS năm 2015 ghi nhận “Việc
xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến
lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người
34
khác.” [64, Điều 3].
Do đó hành vi trái pháp luật có thể được hiểu là những hành vi (hành động
hoặc không hành động) xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng
và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với quy định của pháp luật thì đều
bị xem là hành vi trái pháp luật và phải chăng “chỉ những quyền, lợi ích hợp
pháp được pháp luật bảo vệ thì các hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp đó mới là hành vi trái pháp luật”? Có những hành vi tuy xâm phạm đến lợi
ích hợp pháp của người khác nhưng không phải là hành vi trái pháp luật như việc
người có thẩm quyền buộc người dân phải di chuyển ra khỏi nhà khi nhà đó có
nguy cơ bị sạt lở do gần bờ sông hay việc bác sĩ buộc phải bỏ thai nhi để cứu tính
mạng của người mẹ…Do đó, có tồn tại những hành vi tuy xâm phạm đến quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác nhưng không được xem là hành vi trái pháp luật,
chính vì vậy mà hành vi xâm phạm đó không phải là điều kiện để phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại.
Ở đây có thể thấy muốn xem xét một hành vi nào là trái pháp luật thì điều
kiện đầu tiên phải xem xét là hành vi ấy được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật
nào. Nếu một hành vi đã được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật mà chủ thể
không thực hiện đúng theo quy phạm đó thì được xem là đã thực hiện hành vi trái
pháp luật, ngược lại nếu hành vi của chủ thể chưa được bất kỳ một quy phạm
pháp luật nào điều chỉnh thì hành vi ấy dù có gây ra thiệt hại cũng không bị xem
là hành vi trái pháp luật. Tác giả cũng hoàn toàn đồng ý với ý kiến của tác giả Đỗ
Văn Đại khi cho rằng “quy định của pháp luật phải tồn tại trước khi có xử sự của
con người và chúng ta phải xác định được quy định của pháp luật liên quan rồi
sau đó đối chiếu xử sự của con người với quy định của pháp luật liên quan để xác
định có hay không có hành vi trái pháp luật” [18, tr.60].
Đối với hành vi trái pháp luật của CCV có ý kiến cho rằng “mọi hành vi của
công chứng viên không phù hợp với yêu cầu của pháp luật về công chứng đối
với công chứng viên (trong đó bao gồm cả đạo đức nghề nghiệp) đều được coi là
hành vi trái pháp luật” [19, tr.166] tác giả hoàn toàn đồng ý với ý kiến này. Khảo
sát LCC năm 2014 tác giả nhận thấy có hai loại quy phạm mà khi CCV phạm
35
phải thì được xem là hành vi trái pháp luật, bao gồm :
Các quy phạm cấm. Là những quy phạm pháp luật quy định các hành vi bị
nghiêm cấm đối với CCV, bao gồm các hành vi được quy định tại khoản 1, Điều
7 Luật Công chứng năm 2014.
Các quy phạm về nghĩa vụ và trách nhiệm của công chứng viên. Đây là
những quy phạm bắt buộc CCV phải làm nếu CCV không làm hoặc làm không
đúng thì cũng được xem là “hành vi trái pháp luật”. Trước hết CCV phải tuân thủ
các quy định về trình tự thủ tục công chứng như: CCV phải kiểm tra giấy tờ
trong hồ sơ yêu cầu công chứng; giải thích rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp, ý nghĩa và hậu qủa pháp lý của việc tham gia hợp đồng, giao dịch cho
người yêu cầu công chứng; nếu CCV có căn cứ cho rằng trong hồ sơ yêu cầu
công chứng có vấn đề chưa rõ, việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị
đe doạ, cưỡng ép, có sự ghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu
công chứng hoặc đối tượng của hợp đồng, giao dịch chưa được mô tả cụ thể thì
đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo để nghị của người yêu cầu
công chứng, CCV tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định. Tuân thủ đúng
các quy định về phạm vi công chứng, thời hạn công chứng, địa điểm công chứng,
chữ viết, ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng. sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản
công chứng…Các nghĩa vụ và trách nhiệm của CCV được thể hiện cụ thể trong
lời chứng của CCV “lời chứng của công chứng viên đối với hợp đồng, giao dịch
phải ghi rõ thời điểm, địa điểm công chứng, họ tên công chứng viên, tên tổ chức
hành nghề công chứng; chứng nhận người tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn
toàn tự nguyện, có năng lực hành vi dân sự, mục đích, nội dung của hợp đồng,
giao dịch không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội, chữ ký hoặc dấu
điểm chỉ của người tham gia hợp đồng, giao dịch là đúng chữ ký hoặc dấu điểm
chỉ của người tham gia hợp đồng, giao dịch” [60, Khoản 1 Điều 46]. Ví dụ, tại
bản án số 376/2019/HSST ngày 09/10/2019, Tòa án TP.HCM đã xác định hành
vi của CCV T là trái pháp luật, do lỗi cẩu thả (không tiến hành xác minh tính thật
giả của giấy tờ tùy thân (CMND). Không làm tròn nghĩa vụ “xác minh” của CCV
36
[Phụ lục số 3]
Qua đó cho thấy “hành vi trái pháp luật” của CCV thể hiện ra bên ngoài
dưới hai dạng hành động hoặc không hành động. “Hành động” biết là bị cấm mà
vẫn làm. “Không hành động” nghĩa vụ phải làm mà không làm.
1.3.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt
hại xảy ra.
Có hành vi trái pháp luật, có thiệt hại xảy ra vẫn chưa đủ điều kiện để làm
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV. Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của CCV chỉ đặt ra khi hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt
hại, tức phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại đã
xảy ra. Hiện nay, việc đánh giá mối quan hệ nhân quả này thường gặp rất nhiều
khó khăn và luôn mang tính chủ quan.
1.3.1.4. Có lỗi của bên gây thiệt hại
Một người khi ở trong trạng thái nhận thức bình thường thì hoàn toàn có
đầy đủ suy nghĩ để lựa chọn sự xử sự của mình sao cho phù hợp với các quy định
của pháp luật, tuy nhiên họ lại lựa chọn cách xử sự khác và gây thiệt hại thì được
xem là có lỗi. BLDS năm 2015 không cho biết khái niệm thế nào là lỗi, tuy nhiên
lại phân loại lỗi thành hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý, đồng thời nêu khái niệm của
hai loại lỗi này tại khoản 2 Điều 364 như sau “Lỗi trong trách nhiệm dân sự bao
gồm lỗi cố ý, lỗi vô ý. Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của
mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy
không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Lỗi vô ý là trường hợp một
người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải
biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình
có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể
ngăn chặn được”.
Như vậy, lỗi được xem là khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của chủ
thể gây thiệt hại. Nếu một người mà không nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình mà có hành vi gây thiệt hại thì được xem là không có lỗi. Lỗi là một
trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, tuy nhiên “đối với trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt
37
hại cả khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong
trường hợp này được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật
đó”.
Hiện nay, lỗi trong trách nhiệm dân sự ở Việt Nam có hai quan điểm khác
nhau. Quan điểm thứ nhất, cho rằng “lỗi” ở đây được xem là vấn đề nhận thức là
“thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại” [77, tr.265]. “Quan hệ tâm lý
ở đây bao gồm hai yếu tố, đó là lý chí và ý chí. Yếu tố lý chí thể hiện ở nhận thức
thực tại khách quan (nhận thức được hoặc không nhận thức được mặc dù đủ điều
kiện thực tế để nhận thức khả năng gây thiệt hại của hành vi). Yếu tố ý chí thể
hiện năng lực điều khiển hành vi (khả năng kiềm chế hành vi gây thiệt hại hoặc
có khả năng thực hiện hành vi khác phù hợp với pháp luật” [24, tr.715]. Quan
điểm này hoàn toàn giống với khái niệm về lỗi trong khoa học luật hình sự.
Trong khoa học luật hình sự thì lỗi được xem là thái độ tâm lý của con người đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với hậu quả do hành vi gây ra và quan
hệ tâm lý ở đây cũng bao gồm yếu tố lý trí và yếu tố ý chí, một thể hiện năng lực
nhận thức thực tại khách quan, một thể hiện năng lực điều khiển hành vi trên cở
sở nhận thức [76, tr.101]. Quan điểm thứ hai, dựa trên quan điểm lỗi của Luật La
Mã đó là, lỗi cố ý đã quá rõ ràng cho việc phải chịu trách nhiệm và lỗi vô ý là lỗi
mà không nhìn thấy trước được những gì mà một người chu đáo, cẩn thận có thể
nhìn thấy đồng thời cho rằng trong luật dân sự “không thể coi lỗi là trạng thái
tâm lý, là nhận thức của chủ thể đối với hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra”
và “phải xây dựng khái niệm lỗi dựa trên sự quan tâm, chu đáo của chủ thể đối
với việc thực hiện nghĩa vụ của mình” [40, tr.32-36].
Tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai bởi vì nếu trong luật dân sự xem lỗi
là thái độ tâm lý thì lỗi phải đóng vai trò quyết định trong việc quyết định mức
bồi thường, tuy nhiên có thể trong dân sự lỗi không đóng vai trò miễn trách
nhiệm bồi thường và lỗi cũng có vai trò nhất định trong việc xác định mức bồi
thường. Ngược lại trong hình sự thì lỗi được phân chia rất cụ thể là lỗi cố ý và lỗi
vô ý, trong đó lỗi vô ý được chia thành lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu
thả. Mỗi hình thức lỗi có ý nghĩa quyết định đến việc định tội danh và lượng hình
thậm chí không phải chịu trách nhiệm hình sự. Còn theo quy định BLDS năm
38
2015 tại khoản 2 Điều 585 thì “Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có
thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá
lớn so với khả năng kinh tế của mình.” Tác giả đồng ý với quy định này vì thiệt
hại gây ra phải được bồi thường đầy đủ và kịp thời cho dù người gây thiệt hại có
lỗi cố ý hay vô ý, nhưng với lỗi vô ý thì có ý nghĩa trong việc xem xét việc giảm
mức bồi thường.
Tác giả Đỗ Văn Đại cho rằng “không để yếu tố lỗi ảnh hưởng tới căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thường mà chỉ để yếu tố này ảnh hưởng đến nội dung
của trách nhiệm bồi thường (tức sau khi trách nhiệm bồi thường đã phát sinh)
như giảm mức bồi thường nếu có lỗi vô ý gây thiệt hại” [18, tr.49-58]. Ý kiến
này đã được tiếp thu vào BLDS năm 2015 “1. Người nào có hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp
Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác” [64, Điều 584]. Vì vậy, theo
quy BLDS năm 2015 thì lỗi không phải là yếu tố ảnh hưởng tới căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường mà chỉ để yếu tố này ảnh hưởng đến nội dung của trách
nhiệm bồi thường.
Trong lĩnh vực công chứng thì lỗi luôn được xem là điều kiện bắt buộc phải
có khi có yêu cầu bồi thường thiệt hại bởi “tổ chức hành nghề công chứng phải
bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và các nhân, tổ chức khác do
lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ
chức mình gây ra trong quá trình công chứng” [60, Khoản 1 điều 38]. Như vậy
“lỗi” là điều kiện cần trong bồi thường thiệt hại của CCV. Người bị thiệt hại
không có nghĩa vụ chứng minh CCV có lỗi mà nghĩa vụ chứng minh mình không
có lỗi là nghĩa vụ của CCV. Ví dụ, tại bản án số 376/2019/HSST ngày
09/10/2019, tòa án TP.HCM đã xác hành vi của CCV T là trái pháp luật, do lỗi
cẩu thả (không tiến hành xác minh tính thật giả của giấy tờ tùy thân (CMND).
Không làm tròn nghĩa vụ “xác minh” của CCV [Phụ lục số 3]. Ở đây tòa án đã
xác định lỗi của CCV dựa trên sự quan tâm, chu đáo của CCV đối với việc thực
39
hiện nghĩa vụ của mình như đã phân tích ở trên.
1.3.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp
đồng
Theo quy định BLDS năm 2015 “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên
về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” ( Điều 385).
Hợp đồng hợp pháp là một trong những căn cứ phát sinh nghĩa vụ giữa các bên
chủ thể của hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, khi bên có nghĩa vụ
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình, thì bên đó sẽ
phải gánh chịu một số hậu quả pháp lý bất lợi mà dưới góc độ khoa học pháp lý
được gọi là trách nhiệm dân sự. Trong đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là
một trong những trách nhiệm dân sự được ghi nhận tại BLDS năm 2015 tại Điều
11. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ (bồi thường thiệt hại
theo hợp đồng) là một trong những nội dung được bổ sung một cách cơ bản so
với quy định tại BLDS 2005. Thay vì chỉ quy định chung trong một điều luật
(Điều 307 BLDS 2005), BLDS năm 2015 dành tới 4 điều luật để quy định về nội
dung này (từ Điều 360 đến Điều 363 BLDS năm 2015). Căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường theo hợp đồng gồm: hành vi vi phạm hợp đồng, thiệt hại xảy
ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng với thiệt hại xảy ra và
lỗi của chủ thể gây thiệt hại.
1.3.2.1 Có hành vi vi phạm hợp đồng
Hành vi vi phạm hợp đồng là một căn cứ quan trọng và cần thiết để áp dụng
biện pháp bồi thường thiệt hại. Khi có hành vi không thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng hay có hành vi không tôn trọng cam kết (hành vi vi phạm hợp đồng) của
một bên trong quan hệ hợp đồng thì mọi hệ thống pháp luật đều buộc bên có
hành vi vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm dân sự. Ngoài việc đưa ra định
nghĩa “vi phạm nghĩa vụ” và “vi phạm hợp đồng” để chỉ đến mọi hành vi không
thực hiện đúng hợp đồng, pháp luật hợp đồng Việt Nam còn liệt kê các trường
hợp các bên trong quan hệ hợp đồng có những hành xử không đúng cam kết hay
vi phạm hợp đồng gồm: chậm thực hiện nghĩa vụ [64, Điều 353]; không thực
hiện nghĩa vụ giao vật [64, Điều 356]; không thực hiện một công việc hoặc thực
hiện một công việc không được phép thực hiện [64, Điều 358]; chậm thực hiện
40
nghĩa vụ trả tiền [64, Điều 357]; chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ [64,
Điều 355, Điều 359], giao tài sản không đúng số lượng [64, Điều 437], giao vật
không đồng bộ [64, Điều 438], giao tài sản không đúng chủng loại [64, Điều
439], không cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử dụng [64, Điều 443],
không bảo đảm chất lượng vật mua bán [64, Điều 445], không bảo đảm quyền sở
hữu cho bên có quyền [64, Điều 444], … Như vậy, có thể nhận thấy BLDS năm
2015 xem xét hành vi vi phạm hợp đồng dưới góc độ các hành xử không đúng
với nội dung của hợp đồng như không đúng về đối tượng, không đúng về thời
hạn, không đúng về địa điểm…
Nội dung quan trọng hàng đầu của hợp đồng là đối tượng của hợp đồng bởi
nếu thiếu đi nội dung này thì hợp đồng không thể được xác lập. Đối tượng của
hợp đồng hay nói cách khác là đối tượng của nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng có
thể là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc công việc không được thực hiện [64,
khoản 1 Điều 276].
Trong hoạt động công chứng quan hệ giữa người yêu cầu công chứng và
CCV là quan hệ giữa khách hàng với người cung ứng dịch vụ. Như đã phân tích
ở mục 1.1.3. Tồn tại một “thỏa thuận yêu cầu công chứng” hoặc “hợp đồng dịch
vụ công chứng”. Nếu CCV không thực hiên đúng nghĩa vụ của mình được quy
định trong thỏa thuận yêu cầu công chứng” hoặc “hợp đồng dịch vụ công chứng”
thì xem CCV đã có hành vi vi phạm hợp đồng. Trong hoạt động công chứng
hành vi vi phạm phổ biến ở đây có thể là do việc thực hiện dịch vụ công chứng
có lỗi do sơ suất của CCV trong việc tư vấn cho các bên về vấn đề cần công
chứng, làm thất lạc giấy tờ cần công chứng, làm thất lạc hồ sơ, giấy tờ của khách
hàng, giao thiếu hồ sơ tài liệu, số bản gốc được công chứng, chậm trễ trong việc
thực hiện nghĩa vụ…
1.3.2.2. Có thiệt hại xảy ra
Cũng tương tự như mục 1.3.1.1, để được bồi thường thiệt hại, bên bị vi
phạm hợp đồng phải chứng minh được thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Trong
khoa học pháp lý dựa trên lợi ích bị xâm phạm và tổn thất xảy ra, người ta chia
thiệt hại thành thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần. (1) Thiệt hại vật chất,
BLDS năm 2015 quy định “thiệt hại về vật chất” là những “tổn thất vật chất thực
41
tế xác định được bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn
chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút” [64, khoản 2
Điều 361]. Đây là những thiệt hại có thể tính được thành một số tiền nhất định.
So với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã tiến bộ hơn khi bổ sung quy định
“Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra mình sẽ
được hưởng do hợp đồng mang lại” [64, khoản 2 Điều 419]. Với cụm từ “lợi ích
mà lẽ ra mình sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại”, BLDS năm 2015 đã ghi
nhận thiệt hại được bồi thường không chỉ có thiệt hại thực tế mà còn bao gồm cả
khoản lợi bị mất; (2) Thiệt hại về tinh thần, BLDS năm 2015 quy định thiệt hại
về tinh thần là những “tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác” [64, khoản 3
Điều 361].
Như vậy, có thể thấy BLDS năm 2015 đã loại bỏ những thiệt hại tinh thần
là hệ quả của thiệt hại về tài sản - một loại thiệt hại khá phổ biến mà hành vi vi
phạm hợp đồng có thể gây ra. Điều này còn được minh chứng thông qua quy
định tại các điều từ Điều 590 đến Điều 592, Điều 606, Điều 607 BLDS năm
2015, theo đó bên có hành vi vi phạm phải trả “một khoản tiền khác để bù đắp
tổn thất về tinh thần” cho người bị thiệt hại hoặc cho “những người thân thích
thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại” hoặc “người mà người bị
thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt
hại” trong trường hợp không có những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ
nhất của người bị thiệt hại. Do vậy, sẽ là hoàn thiện hơn nếu BLDS Việt Nam bổ
sung thiệt hại về tinh thần bao hàm cả thiệt hại là hệ quả của thiệt hại về tài sản
do vi phạm hợp đồng gây ra.
1.3.2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và
thiệt hại xảy ra
Mặc dù có hành vi không thực hiện đúng hợp đồng và có thiệt hại xảy ra
nhưng nếu giữa hai yếu tố này không có bất cứ mối liên hệ nào thì trách nhiệm
bồi thường thiệt hại cũng sẽ không được xác lập. Quan hệ nhân quả là điều kiện
làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu là mối quan hệ giữa
nguyên nhân với hậu quả, trong đó nguyên nhân chính là hành vi không thực
42
hiện đúng hợp đồng và hậu quả là những tổn thất mà bên bị thiệt hại phải gánh
chịu. Điều 360 BLDS năm 2015 đã gián tiếp chỉ ra mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra. Mối quan hệ nhân quả này còn
được Điều 360 BLDS năm 2015 nhấn mạnh qua việc sử dụng kết hợp giữa quan
hệ từ “do” và trạng từ “gây ra” bổ nghĩa cho điều kiện “vi phạm nghĩa vụ”.
1.3.2.4. Có lỗi của bên gây thiệt hại
Việc BLDS năm 2015 không quy định lỗi là căn cứ làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho thấy pháp luật hợp đồng Việt Nam đã “vượt qua
các thói quen và cách tư duy truyền thống” trong việc xác định các căn cứ làm
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Có thể nói sự thay đổi này đã góp
phần giúp pháp luật hợp đồng Việt Nam tương tích hơn với luật hợp đồng thế
giới. Bên cạnh đó, sự thay đổi này của BLDS năm 2015 cho phép xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của bên vi phạm hợp đồng khi có hành vi thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng không đúng mà không đòi hỏi phải tìm hiểu trạng thái tâm lý
của bên gây thiệt hại hay tìm kiếm nguyên nhân dẫn đến việc không thực hiện
đúng hợp đồng. Việc không ghi nhận lỗi là một trong các căn cứ áp dụng biện
pháp bồi thường thiệt hại của BLDS năm 2015 và một số hệ thống pháp luật
không có nghĩa là yếu tố lỗi hoàn toàn bị bỏ trong bồi thường thiệt hại mà thực
chất yếu tố lỗi đã được ngầm định trong tiêu chí đánh giá hành xử của các bên
trong quan hệ hợp đồng và do vậy bên vi phạm hợp đồng được suy đoán là có
lỗi.
Tuy nhiên, khoa học pháp lý cũng chỉ ra trong những trường hợp nhất định
để áp dụng biện pháp bồi thường thiệt hại, pháp luật đòi hỏi phải chứng minh bên
vi phạm hợp đồng có lỗi. Tùy thuộc vào mỗi hệ thống pháp luật mà lỗi của bên vi
phạm hợp đồng được thể hiện qua việc thiếu sự cẩn trọng, cần mẫn cần thiết hay
thiếu sự cẩn trọng hợp lý và có kỹ năng trong việc thực hiện nghĩa vụ. Dựa trên
các nguyên tắc được ghi nhận tại khoản 2 và khoản 5 Điều 3 BLDS năm 2015
cũng như các quy định về trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ,
có thể nhận thấy BLDS năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc suy đoán lỗi trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, có nghĩa là bên có nghĩa vụ không thực hiện
đúng nghĩa vụ đã cam kết thì bị suy đoán là có lỗi và phải chịu trách nhiệm bồi
43
thường thiệt hại. Tương tự luật của Pháp và luật của Anh, BLDS năm 2015 cũng
ghi nhận ngoại lệ của nguyên tắc này thông qua quy định “trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.
Nói cách khác, về nguyên tắc trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng theo BLDS năm 2015 là trách nhiệm nghiêm ngặt và việc chứng minh
bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng có lỗi là không cần thiết bởi yếu tố lỗi đã được
hợp nhất trong hành vi vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật hợp đồng Việt
Nam cũng ghi nhận trường hợp ngoại lệ, theo đó trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng được xác định dựa trên lỗi. Cụ thể, khoản 1 Điều 38 LCC
năm 2014 có quy định “ Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt
hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công
chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình
gây ra trong quá trình công chứng”.
1.4. Các biện pháp bảo đảm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng
viên
BLDS năm 2015 quy định “Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ
và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường
bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường
một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” (khoản 3
Điều 361). Quy định này cho thấy trách nhiệm bồi thường là trách nhiệm mang
tính tài sản nhằm khôi phục lại tình trạng của tài sản của người bị thiệt hại. Tuy
vậy, không phải lúc nào việc khôi phục tình trạng tài sản bị thiệt hại cũng đem
đến một kết quả như mong muốn vì có nhiều nguyên nhân khiến cho người gây
thiệt hại không thể bồi thường và người bị thiệt hại không thể khôi phục tình
trạng ban đầu của tài sản.
Bên cạnh đó nếu xem trách nhiệm bồi thường thiệt hại như là “nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại” [77, tr.257] thì nghĩa vụ ấy cũng cần có các cơ chế về bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ nhằm đảm bảo quyền lợi và khắc phục tình trạng tài sản cho
người bị thiệt hại. Hiện nay, chúng ta có 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặc cọc, ký cược, ký quỹ, bảo
lãnh, tín chấp, bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản (Điều 292 BLDS năm
44
2015). Tuy nhiên LCC không lựa chọn bất kỳ biện pháp bảo đảm nào trong 9
biện pháp bảo đảm nêu trên mà lại chọn một biện pháp bảo đảm khác khác đó là
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV.
Trước năm 2006 vấn đề BHTNNN của CCV chưa được đặt ra, từ năm 2006
đến năm 2014 việc mua BHTNNN của CCV là nghĩa vụ của VPCC [48, Khoản 7
Điều 32] mà không quy định đối với PCC. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi LCC ra
đời năm 2006 giữa lúc CCV trong các PCC vẫn đang là công chức, Luật cán bộ,
công chức; Luật viên chức; Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đều được
ban hành sau LCC năm 2006. LCC năm 2014 đã tháo gỡ quy định bất bình đẳng
này “BHTNNN của công chứng viên là loại hình bảo hiểm bắt buộc. Việc mua
BHTNNN cho công chứng viên phải được duy trì trong suốt thời gian hoạt động
của tổ chức hành nghề công chứng”, đồng thời việc mua bảo hiểm nghề nghiệp
cho CCV là nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng [60, Điều 37].
Theo tác giả Trần Văn Liêm, pháp luật của Việt Nam Cộng hoà trước đây
quy định Chưởng khế phải ký quỹ từ 10.000 đồng đến 30.000 đồng để đảm bảo
các lỗi lầm trong khi hành sự, tiền ký quỹ sẽ hoàn lại cho chưởng khế 10 năm sau
ngày thôi việc [59, tr.162]. Quy định này đảm bảo cho người bị thiệt hại có cơ
hội được bồi thường ngay cả khi chưởng khế đã thôi việc một khoảng thời gian
rất dài.
Ở Pháp CCV cũng là người thực hiện dịch vụ công và cũng do Bộ trưởng
Bộ Tư pháp bổ nhiệm, tuy nhiên CCV ở Pháp là những người hành nghề tự do,
tự trang trải hoàn toàn trong khi hành nghề, từ việc mua sắm, quản lý cơ sở vật
chất của VPCC do mình lập ra, thuê trụ sở, trả lương cho nhân viên… và phải
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ khối tài sản riêng của mình. Hoạt động nghề
nghiệp của công chứng viên không thể tránh được những sai sót gây thiệt hại,
cho khách hàng dẫn đến phải bồi thường, đây được xem là những rủi ro pháp lý.
Vì được xem là những rủi ro nên nhà nước Pháp mong muốn có một cơ chế bảo
đảm rủi ro nhằm đảm bảo rằng khách hàng sẽ luôn nhận được bồi thường khi họ
bị công chứng viên gây thiệt hại và BHTNNN là biện pháp được lựa chọn để
đảm bảo rủi ro [29, tr.47-52].
Hợp đồng bảo hiểm là biện pháp bảo đảm giúp cho CCV khắc phục được
45
những thiệt hại do mình hoặc nhân viên dưới quyền gây ra. Việc bảo hiểm này có
hai khía cạnh, khía cạnh thứ nhất đó là khía cạnh thay thế trách nhiệm, công ty
bảo hiểm sẽ có trách nhiệm thay thế người được bảo hiểm để giải quyết việc bồi
thường trong phạm vi hợp đồng bảo hiểm đã ký kết, ở khía cạnh thứ hai đó là
hợp đồng bảo hiểm bảo đảm cho người bị thiệt hại được bồi thường ngay cả khi
người gây thiệt hại bị vỡ nợ hoặc không có khả năng bồi thường. Khía cạnh thứ
hai là rất quan trọng bởi nó mang lại sự an toàn tuyệt đối cho khách hàng của
CCV.
Qua đó cho thấy vấn đề bảo đảm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV luôn
được đặt ra, cho dù bằng bất cứ biện pháp bảo đảm nào thì quyền lợi của người
yêu cầu công chứng và các chủ thể khác luôn cần được bảo vệ. CCV còn được
xem như là “Thẩm phán phòng ngừa” cho nên bằng việc đảm bảo an toàn tuyệt
đối cho các giao dịch dân sự thì các CCV mới hoàn thành tốt chức năng xã hội
của mình là “phòng ngừa tranh chấp, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế - xã hội” [60, Điều 3].
Hiện nay, BHTNNN của CCV được quy định chi tiết tại Nghị định số
29/2015/NĐ-CP, gồm nguyên tắc tham gia bảo hiểm (Điều 19 ); phạm vi bảo
hiểm (Điều 20); điều kiện bảo hiểm (Điều 21); phí bảo hiểm (Điều 22).
1.5. Vấn đề trách nhiệm hoàn trả của công chứng viên.
CCV là chủ thể gây thiệt hại nhưng chủ thể phải bồi thường là tổ chức hành
nghề công chứng, tuy nhiên không phải là tổ chức hành nghề công chứng bồi
thường cho người bị thiệt hại xong thì CCV hết trách nhiệm. LCC năm 2014 quy
định “công chứng viên…gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền cho tổ chức
hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại
theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề
công chứng có quyền yêu cầu Toà án giải quyết” [60, khoản 2 Điều 38]. Quy
định này cũng tương đồng với một số quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong một số trường hợp cụ thể trong BLDS năm 2015 như bồi thường thiệt
hại do người của pháp nhân gây ra [64, Điều 597]; bồi thường thiệt hại do người
thi hành công vụ gây ra [64, Điều 598]; Nó tương đồng ở chỗ là chủ thể gây
46
thiệt hại không trực tiếp bồi thường cho người bị thiệt hại mà thông qua một chủ
thể khác là pháp nhân, là Nhà nước, là cơ quan tiến hành tố tụng, là cá nhân sử
dụng người làm công, người học nghề…
Tuy nhiên, cơ chế hoàn trả của CCV gây thiệt hại và các chủ thể gây thiệt
hại trong các điều luật nêu trên (cán bộ, công chức, viên chức, người có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng) khác nhau ở chỗ người gây thiệt hại là
CCV gây thiệt hại và tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường có thể thoả
thuận về mức, cách thức, phương thức hoàn trả, nếu không hoàn trả thì tổ chức
hành nghề công chứng đã bồi thường có quyền khởi kiện yêu cầu toàn án giải
quyết – theo cơ chế dân sự và tố tụng dân sự. Ngược lại người gây thiệt hại là
cán bộ, công chức, viên chức, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố
tụng gây ra thì trách nhiệm hoàn trả được qua cơ chế lập Hội đồng xem xét việc
hoàn trả, nếu người gây thiệt hại không đồng ý thì được quyền khiếu nại, hoặc
khởi kiện vụ án hành chính- theo cơ chế hành chính và tố tụng hành chính. Đối
với người gây thiệt hại là người của pháp nhân thì có thể theo cơ chế dân sự hoặc
theo cơ chế hành chính tuỳ thuộc vào pháp nhân đó là cơ quan nhà nước, hay tư
nhân. Khi xem xét trách nhiệm hoàn trả cần được xem xét dưới hai góc độ, góc
độ thứ nhất là có phải trong mọi trường hợp thì CCV phải hoàn trả hay không?
Khi nào hoàn trả một phần, khi nào hoàn trả toàn bộ thiệt hại? Nếu số tiền bảo
hiểm của CCV lớn hơn thiệt hại phải bồi thường thì vấn đề hoàn trả có được đặt
ra hay không và ngược lại nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn thiệt hại thì trách nhiệm
hoàn trả được xem xét như thế nào? Liệu CCV có được xem xét miễn, giảm số
tiền phải hoàn trả hay không? Góc độ thứ hai là xem xét thủ tục hoàn trả, như đã
phân tích ở trên các CCV hoạt động dưới nhiều danh nghĩa khác nhau do đó còn
được điều chỉnh bởi các luật khác nhau. Hiện nay thủ tục hoàn trả cũng được quy
định ở nhiều văn bản khác nhau như Luật viên chức, Luật trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước. Thủ tục hoàn trả theo Luật viên chức có thể áp dụng cho
các CCV là viên chức làm việc tại PCC, nhưng thủ tục hoàn trả của CCV là công
chức, chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, CCV làm việc theo chế độ
hợp đồng lại không có quy định. Điều đó cho thấy những bất cập về mặt lý luận
47
lẫn thực tiễn mà tác gỉa sẽ phân tích kỹ hơn ở chương 2.
48
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương 1 tác giả đã trình bày khái quát những vấn đề lý luận chung
về bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt
Nam. Những vấn đề chương 1 đã giải quyết được là:
Vấn đề về khái niệm, đặc điểm và bản chất pháp lý về bồi thường thiệt hại
của CCV trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam có thể bồi thường
thiệt hại theo hợp đồng và cũng có thể là bồi thường ngoài hợp đồng. Việc xác
định là bồi thường thiệt hại theo hợp đồng hay ngoài hợp đồng dựa vào nguồn
gốc (cơ sở) phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại: (1) nếu thiệt hại do hành
vi vi phạm hợp đồng dịch vụ hoặc thỏa thuận cung cấp dịch vụ theo phiếu yêu
cầu công chứng thì là bồi thường thiệt hại theo hợp đồng; (2) trường hợp còn lại,
nếu thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra thì là BTTH ngoài hợp đồng. Luận
giải vấn đề này trên quan điểm của cá nhân tác giả, là quan điểm mới so với đa
số các nghiên cứu trước đây về bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động
công chứng, những nghiên cứu trước đây có quan điểm cho rằng bồi thường thiệt
hại của CCV trong hoạt động công chứng là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
Phân tích về mặt lý luận các chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại của
CCV trong hoạt động công chứng, gồm: (1) chủ thể gây thiệt hại là các CCV
(CCV là công chức, viên chức, chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh,
làm việc theo chế độ hợp đồng lao động); (2) chủ thể bị thiệt hại là người yêu cầu
công chứng hoặc cá nhân, tổ chức khác (người thứ ba); (3) chủ thể phải bồi
thường là tổ chức hành nghề công chứng; (4) chủ thể phải hoàn trả là các CCV;
Phân tích những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo
hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng của CCV trong hoạt động công chứng, gồm: (1)
thiệt hại; (2) hành vi vi phạm hợp đồng hoặc hành vi trái pháp luật; (3) mối quan
hệ nhân quả giữa thiệt hại đã xảy ra và hành vi vi phạm hợp đồng hoặc hành vi
trái pháp luật; (4) lỗi của CCV;
Khái quát chung về biện pháp bảo đảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
49
CCV trong hoạt động công chứng và trách nhiệm hoàn trả của CCV.
Những nghiên cứu ở chương 1 sẽ làm cở sở lý luận để tác giả đi sâu phân
tích, đặt ra các vấn đề cần phải giải quyết, những bất cập và kiến nghị hoàn thiện
50
pháp luật tại chương 2.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT
ĐỘNG CÔNG CHỨNG TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1. Về vấn đề bồi thường thiệt hại của các loại công chứng viên
2.1.1. Đối với công chứng viên là công chức
Bồi thường thiệt hại do công chức gây ra sẽ được điều chỉnh bởi BLDS và
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; Luật cán bộ, công chức không quy
định vấn đề bồi thường thiệt hại của cán bộ, công chức. Cụ thể, BLDS năm 2015
quy định “cơ quan Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái
pháp luật của người thi hành công vụ gây ra theo quy định của Luật trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước” (Điều 598); Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước năm 2017 quy định “Luật này quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong
hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án; thiệt hại được bồi
thường…” ( Điều 1). Như vậy, chủ thể gây thiệt hại theo quy định BLDS năm
2015 và Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 là “người thi hành
công vụ”.
Luật dân sự không cho biết thế nào là công vụ, nhưng theo từ điển luật học
thì công vụ được hiểu là “công việc mang tính nhà nước vì lợi ích xã hội, lợi ích
nhà nước, lợi ích chính đáng của công dân có tính chuyên nghiệp, chủ yếu do
cán bộ, công chức nhà nước thực hiện. Công vụ mang tính tổ chức và tuân thủ
những quy chế bắt buộc, theo trật tự, có tính thứ bậc chặt chẽ, chính quy và liên
tục, được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước” [87, tr.190]. Đồng thời theo tác giả
Nguyễn Cảnh Hợp thì “công vụ không bao gồm hoạt động trong các đơn vị sự
nghiệp công lập mà chỉ gồm hoạt động trong các cơ quan và bộ máy giúp việc
của Đảng, hoạt động trong cơ quan nhà nước các cấp và trong các tổ chức chính
trị-xã hội. Nói cách khác hoạt động sự nghiệp không thuộc khái niệm công vụ
nữa” [34, tr.16].
Trong khi đó công chứng là “việc công chứng viên của một tổ chức hành
51
nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng giao dịch
dân sự khác bằng văn bản, tính chính xác, tính hợp pháp, không trái đạo đức xã
hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ
tiếng nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định của pháp luật phải công
chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng” [60, Khoản 1, điều
2] và “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các
bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của
mình thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định của pháp
luật” [60, Khoản 2, Điều 5]. Như vậy hoạt động công chứng của CCV không thể
là “hoạt động công vụ”, mặc dù hoạt động công chứng mang tính quyền lực
công, bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng và lợi ích chính đáng của công
dân nhưng nó không mang tính thứ bậc hành chính, không mang tính mệnh lệnh
bắt buộc và đặc biệt nó không đương nhiên được đảm bảo thi hành bằng quyền
lực Nhà nước.
Theo phân tích ở trên thì hoạt động hành nghề công chứng của Trưởng
phòng của PCC không phải là hoạt động công vụ và cũng không phải là hoạt
động quản lý hành chính, càng không phải là hoạt động tố tụng hay hoạt động thi
hành án. Do đó, nếu Trưởng phòng của PCC gây thiệt hại trong khi hành nghề
công chứng không thể áp dụng Điều 598 BLDS năm 2015 và Luật trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước để giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại. Vậy “nó”
được điều chỉnh theo quy định pháp luật nào thì hiện nay vẫn chưa có lời giải đáp
thỏa đáng [82, tr.87].
Về trách nhiệm hoàn trả của công chức. Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước năm 2017 quy định “Người thi hành công vụ có lỗi gây thiệt hại có
nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một phần hoặc toàn bộ số tiền mà Nhà
nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại” [67, Khoản 1 Điều 64]. Những quy
định này tương đồng với quy định về trách nhiệm hoàn trả của CCV được quy
định tại LCC năm 2014 đó là “công chứng viên gây thiệt hại phải hoàn trả một
khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường
cho người bị thiệt hại” (khoản 2 Điều 38).
BLDS năm 2015 không quy định về thủ tục hoàn trả. Nhưng Luật trách
52
nhiệm bồi thường của Nhà nước thì lại quy định rất chi tiết trách nhiệm hoàn trả
của người thi hành công. Về trách nhiệm hoàn trả, Luật trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước năm 2009 quy định trong tố tụng hình sự, nếu người thi hành công
vụ có lỗi vô ý gây thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm hoàn trả thì Luật trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 quy định người thi hành công vụ nếu
có lỗi gây thiệt hại thì phải có nghĩa vụ hoàn trả. Luật năm 2017 còn tăng mức
hoàn trả với tỷ lệ tương ứng mức độ lỗi và số tiền mà Nhà nước đã bồi thường,
theo đó: Người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây thiệt hại nhưng chưa đến mức bị
truy cứu trách nhiệm hình sự thì mức hoàn trả từ 30 đến 50 tháng lương của
người đó; người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây thiệt hại thì mức hoàn trả từ 03
đến 05 tháng lương của người đó [32].
2.1.2. Đối với công chứng viên là viên chức
Viên chức là “công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm
việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương
từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [53,
Điều 2]. Như vậy, đối với các PCC thì trừ Trưởng PCC là công chức ra các CCV
còn lại của PCC đều là viên chức và CCV là viên chức này hoàn toàn thoả mãn
điều kiện để áp dụng các quy định của Luật viên chức. Khác với Luật cán bộ,
công chức, Luật viên chức đã dành một điều luật để quy định về trách nhiệm bồi
thường, hoàn trả của viên chức, theo đó “1.Viên chức làm mất, hư hỏng trang bị,
thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của đơn vị sự nghiệp công lập
thì phải bồi thường thiệt hại. 2. Viên chức khi thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ
được phân công có lỗi gây thiệt hại cho người khác mà đơn vị sự nghiệp công
lập phải bồi thường thì có nghĩa vụ hoàn trả cho đơn vị sự nghiệp công
lập”(Điều 55).
Luật viên chức đã phân hoá rõ ràng khi nào thì viên chức phải bồi thường,
khi nào viên chức phải hoàn trả. Khái niệm “bồi thường” của viên chức được
hiểu ở hai góc độ. Góc độ thứ nhất, viên chức phải “bồi thường” cho đơn vị sự
nghiệp công lập nơi mình làm việc nếu viên chức làm mất, hư hỏng trang bị, thiết
bị, hoặc có hành vi khác làm thiệt hại tài sản của đơn vị. Góc độ thứ hai, viên
chức gây thiệt hại cho người khác thì đơn vị sự nghiệp công lập phải “bồi
53
thường” và viên chức gây thiệt hại phải hoàn trả. Quy định ở góc độ thứ hai khá
tương đồng với quy định về bồi thường và hoàn trả của CCV được quy định tại
khoản 2 Điều 38 LCC năm 2014.
Về trách nhiệm hoàn trả của CCV là viên chức. Viên chức phải “hoàn trả”.
[14, Điều 25] thì nếu viên chức không có khả năng bồi thường một lần thì bị trừ
20% (hai mươi phần trăm) tiền lương hàng tháng cho đến khi bồi thường đủ theo
quyết định của người có thẩm quyền [14, Khoản 2 Điều 25]; nếu viên chức gây
thiệt hại thuyên chuyển công tác, nghỉ hưu hay thôi việc thì phải hoàn thành việc
bồi thường trước khi thuyên chuyển, nghỉ hưu hay thôi việc; nếu không đủ khả
năng bồi thường, hoàn trả thì đơn vị sự nghiệp công lập quản lý viên chức có
trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị mới hoặc chính quyền địa
phương nơi viên chức cư trú tiếp tục thu tiền bồi thường, hoàn trả cho đến khi
thu đủ theo quyết định của người có thẩm quyền [14, Khoản 3 Điều 25]; nếu đơn
vị sự nghiệp công lập quản lý viên chức bị giải thể, sáp nhập thì cơ quan, tổ chức,
đơn vị kế thừa đơn vị bị giải thể, sáp nhập có trách nhiệm tiếp tục thu tiền bồi
thường, hoàn trả cho đến khi thu đủ theo quyết định của người có thẩm quyền.
Bên cạnh đó trách nhiệm hoàn trả của viên chức được xác định trên cơ sở số tiền
mà đơn vị sự nghiệp công lập đã bồi thường cho người bị thiệt hại do viên chức
gây ra trong khi thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được phân công [14, Khoản
2 Điều 31]. Với quy định về hoàn trả của viên chức như vậy ta có thể hiểu là viên
chức phải hoàn trả “toàn bộ” số tiền mà đơn vị sự nghiệp đã bồi thường cho
người bị thiệt hại. Như vậy rõ ràng khi CCV hoàn trả với tư cách là viên chức thì
sẽ phải hoàn trả “toàn bộ” thiệt hại.
Để quyết định được mức và phương thức bồi thường thiệt hại, hoàn trả cho
đơn vị phải căn cứ vào lỗi, tính chất của hành vi gây thiệt hại, mức độ thiệt hại
tài sản thực tế gây ra, việc ra quyết định bồi hoàn phải đảm bảo nguyên tắc khách
quan, công bằng và công khai. Để buộc viên chức có trách nhiệm hoàn trả cho
đơn vị sự nghiệp công lập thì trên thực tế đơn vị này phải đã bồi thường cho
người bị thiệt hại bởi một bản án có hiệu lực pháp luật của Toà án, tức trách
nhiệm bồi hoàn chỉ được đặt ra khi đơn vị sự nghiệp công lập đã thực hiện xong
54
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại.
Trong vấn đề này tồn tại hai mối quan hệ, mối quan hệ thứ nhất, là mối
quan hệ bên ngoài giữa đơn vị sự nghiệp công lập và người bị viên chức gây thiệt
hại và mối quan hệ thứ hai là mối quan hệ bên trong (nội bộ) giữa đơn vị sự
nghiệp công lập và viên chức gây thiệt hại. Mối quan hệ thứ nhất là mối quan hệ
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của pháp luật dân sự, mối
quan hệ thứ hai mang tính hành chính theo quyết định của người đứng đầu đơn vị
sự nghiệp công lập hoặc cấp có thẩm quyền.
Ở mối quan hệ thứ nhất, ta thấy BLDS không có điều khoản nào quy định
về bồi thường thiệt hại do viên chức gây ra. Tuy nhiên BLDS năm 2015 vẫn có
những quy định gần gũi với quy định bồi thường thiệt hại của viên chức đó là đó
là bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra (Điều 597) và bồi thường
thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra (Điều 600). Với quy định tại
Nghị định số 27 thì “viên chức khi thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được phân
công có lỗi gây thiệt hại cho người khác thì đơn vị sự nghiệp công lập phải bồi
thường thiệt hại do viên chức thuộc quyền quản lý gây ra theo quy định của pháp
luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” [14, khoản 2
Điều 24] thì khi viên chức gây thiệt hại mà đơn vị sự nghiệp công lập phải bồi
thường thì điều luật nào trong chương về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của
BLDS năm 2015 sẽ được áp dụng Điều 597 hay Điều 600? BLDS năm 2015
không có quy định nào về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do viên chức gây
ra.
2.1.3. Đối với công chứng viên là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên
công ty hợp danh
VPCC hoạt động với hai loại hình (1) DNTN và (2) công ty hợp danh (Điều
26 LCC năm 2006 và năm 2014)). Do đó cũng có CCV là chủ DNTN và CCV là
thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Đến nay (năm 2020), loại hình VPCC
là DNTN không còn tồn tại và bắt buộc phải chuyển đổi thành công ty hợp danh
[60, Khoản 1 Điều 79]. Khi những người này gây thiệt hại thì điều luật nào được
áp dụng? Khảo sát toàn bộ mục 3 chương XX BLDS năm 2015 ta thấy có hai
điều luật liên quan, đó là bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra
55
(Điều 597) và bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra
(Điều 600). Tuy nhiên, chủ DNTN và thành viên hợp danh của công ty hợp danh
rõ ràng không thể là người làm công, người học nghề được, do vậy Điều 600
BLDS năm 2015 sẽ không được áp dụng trong trường hợp này. Điều 597 BLDS
năm 2015 quy định “Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây
ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi
thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải
hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.” Quy định này cũng tương
đồng với quy định về bồi thường thiệt hại của CCV quy định tại Điều 38 LCC
năm 2014. Tuy nhiên quy định nêu trên có hai khái niệm cần được làm rõ là
“pháp nhân” và “người của pháp nhân”.
BLDS năm 2015 quy đinh “Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi
có đủ bốn điều kiện sau đây (a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này,
luật khác có liên quan; (b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ
luật này; (c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản của mình; (d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật
một cách độc lập” (Điều 74).
Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định về các loại hình doanh nghiệp trong
đó có công ty hợp danh và DNTN, tuy nhiên luật chỉ quy định “Công ty hợp
danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp” ( Khoản 2, Điều 172), còn tư cách pháp nhân của DNTN thì không được
đề cập đến, căn cứ vào quy định tại Điều 74 của BLDS năm 2015 thì DNTN
không có tư cách pháp nhân. Có ý kiến cho rằng “nếu chủ thể liên quan là doanh
nghiệp tư nhân thì doanh nghiệp này không chịu trách nhiệm buộc phải bồi
thường theo quy định tại Điều 597 BLDS năm 2015, lúc này sẽ áp dụng quy
định tương ứng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra”
[21, tr.95], tác giả hoàn toàn đồng ý với ý kiến này. Về người của pháp nhân có
hai cách hiểu, cách thứ nhất được hiểu là toàn bộ những người làm việc cho pháp
nhân từ ông chủ cho đến người làm công, cách hiểu thứ hai được hiểu theo nghĩa
hẹp hơn đó là người đại diện của pháp nhân, với cách hiểu này nhằm phân biệt
56
với chủ thể được điểu chỉnh ở Điều 600 BLDS năm 2015.
Trước sự không rõ ràng như vậy, theo nghiên cứu của một tác giả thì thực
tiễn xét xử đã hiểu theo cách hiểu thứ nhất [21, tr.97]. Theo quy định của Điều
597 BLDS năm 2015 thì không phải trong mọi trường hợp người của pháp nhân
gây thiệt hại thì pháp nhân phải bồi thường mà pháp nhân chỉ phải bồi thường
với điều kiện người của pháp nhân gây thiệt hại trong khi thực hiện “nhiệm vụ
được pháp nhân giao”, từ đó có thể suy ra pháp nhân sẽ không phải bồi thường
thiệt hại nếu người của pháp nhân gây ra trong khi không thực hiện nhiệm vụ
được pháp nhân giao. Như vậy, CCV tiến hành hoạt động nghề nghiệp của mình
thì có được xem là “nhiệm vụ” do pháp nhân giao hay không?
Khi xem xét nguyên tắc hành nghề công chứng ta thấy CCV phải (i) tuân
thủ Hiếp pháp và pháp luật; (ii) khách quan, trung thực; (iii) tuân theo quy tắc
đạo đức hành nghề công chứng; (iii) chịu trách nhiệm trước pháp luật và người
yêu cầu công chứng về văn bản công chứng [60, Khoản 1,2,3 Điều 4]. Khi hành
nghề công chứng viên có quyền được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề công
chứng; được công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định của LCC;
được đề nghị cá nhân, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu để thực
hiện việc công chứng; được từ chối công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch vi
phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội [60, Điều 17].
Từ những quy định nêu trên có thể thấy hoạt động công chứng của CCV là
hoạt động độc lập, không phải là hoạt động thực hiện nhiệm vụ do pháp nhân
giao và CCV chỉ chịu “trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công
chứng về văn bản công chứng” [60, Khoản 4 Điều 4]. Với điều kiện này thì rõ
ràng CCV là chủ DNTN, là thành viên hợp danh của công ty hợp danh sẽ không
thoả mãn điều kiện “thực hiện nhiệm vụ do pháp nhân giao” theo như quy định
tại Điều 597 BLDS năm 2015. Điều 597 BLDS năm 2015 sẽ vẫn được áp dụng
cho CCV nhưng trong hoàn cảnh khác chứ không phải trong hoạt động công
chứng của CCV.
Bên cạnh đó mặc dù công ty hợp danh có tư cách pháp nhân nhưng thành
viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản (liên đới) về các nghĩa
vụ của công ty [61, Điểm b khoản 1 Điều 172]. Còn chủ DNTN phải chịu trách
57
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp [61,
Khoản 1 Điều 183 ]. Như vậy, chủ DNTN, thành viên hợp danh của tổ chức hành
nghề công chứng khi hoạt động nghề nghiệp không phải là hoạt động “thực hiện
nhiệm vụ do pháp nhân giao”, và như vậy khi họ gây thiệt hại thì điều Điều 597
BLDS năm 2015 sẽ không được thoả mãn điều kiện áp dụng. Tuy không có điều
luật nào của BLDS năm 2015 có thể áp dụng trực tiếp nhưng những người này
gây thiệt hại thì hoàn toàn thoả mãn nguyên tắc của bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng đó là “ai gây thiệt hại người đó phải bồi thường” và không tồn tại
“trách nhiệm thay thế”. Đối với CCV là thành viên hợp danh của VPCC hợp
danh gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm liên đới
giữa các CCV là thành viên hợp danh vì thành viên hợp danh có nghĩa vụ “liên
đới chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản của
công ty không đủ để trang trải số nợ của công ty” [61, Điểm đ khoản 2 Điều
176].
Đối với trách nhiệm hoàn trả của CCV là chủ DNTN, thành viên hợp danh
của công ty hợp danh. CCV là chủ DNTN, là thành viên của hợp danh của công
ty hợp danh thì họ phải chịu trách nhiệm “vô hạn” về các nghĩa vụ của mình.
Thiệt hại phát sinh (nếu có) thì cũng là do chính họ gây ra và họ phải chịu trách
nhiệm bồi thường, vì vậy vấn đề “hoàn trả” cũng không được đặt ra, bởi nếu có
“hoàn trả” thì cũng là hoàn trả cho chính mình.Và như vậy thì quy định hoàn trả
của CCV theo khoản 2 Điều 38 LCC năm 2014 hoàn toàn không có ý nghĩa đối
với CCV là chủ DNTN và CCV là thành viên hợp danh của VPCC hợp danh.
2.1.4. Đối với công chứng viên là lao động làm việc theo chế độ hợp đồng
Ngoài CCV là công chức, viên chức, chủ doanh nghiệp, thành viên hợp
danh ra còn có CCV làm việc theo chế độ hợp đồng cho tổ chức hành nghề công
chứng. CCV này phải ký kết với tổ chức hành nghề công chứng một hợp đồng
lao động, khi tồn tại một hợp đồng lao động thì CCV được xem là “người làm
công” [24, tr.784] và tồn tại một hợp đồng lao động thì các quy định của Bộ luật
lao động (BLLĐ) năm 2012, được áp dụng. Theo quy định tại điều 22 BLLĐ
năm 2012 thì hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong ba loại (i)
hợp đồng lao động không xác định thời hạn; (ii) hợp đồng lao động xác định thời
58
hạn (thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12
tháng đến 36 tháng); và (iii) hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo công việc
nhất định có thời hạn dưới 12 tháng. CCV sẽ bị miễn nhiệm nếu “không hành
nghề công chứng trong thời hạn 02 năm kể từ ngày bổ nhiệm công chứng viên
hoặc không hành nghề công chứng liên tục từ 12 tháng trở lên” [60, Điểm d
Khoản 2 Điều 15], như vậy tổ chức hành nghề công chứng chỉ có thể ký kết hợp
đồng lao động đối với CCV với loại hợp đồng không xác định thời hạn hoặc hợp
đồng lao động xác định thời hạn chứ không được ký kết hợp đồng lao động theo
mùa vụ hoặc theo công việc nhất định.
Tuy nhiên khái niệm “người làm công” không chỉ giới hạn trong việc có
xác lập hợp đồng lao động mà còn được mở rộng ngay cả khi không tồn tại một
hợp đồng lao động [21, tr.116]. BLDS năm 2015 quy định “Cá nhân, pháp nhân
phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi
thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học
nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định
của pháp luật” [64, Điều 600], với quy định như vậy ta thấy ranh giới để phân
biệt giữa Điều 597 và Điều 600 BLDS năm 2015 là không rõ ràng. Nếu đã tồn
tại một quan hệ lao động thì người lao động đó có được xem là người của pháp
nhân hay không, và nếu đã là người của pháp nhân thì tại Điều 597 đã đủ để điều
chỉnh tại sao lại cần thêm Điều 600? Với quy định của BLDS năm 2015 hiện
hành ta không có câu trả lời.
Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ ta có thể suy đoán được có lẽ các nhà làm
luật muốn dành Điều 600 cho những trường hợp “làm công” mà không tồn tại
hợp đồng lao động hoặc có tồn tại hợp đồng lao động thì đó là quan hệ giữa cá
nhân với cá nhân hoặc cá nhân với chủ thể khác như hộ gia đình, tổ hợp tác. Với
suy luận như vậy ta không thể áp dụng Điều 600 BLDS năm 2015 cho CCV
“làm công” cho các VPCC. Trong khi đó BLLĐ năm 2012 quy định về bồi
thường thiệt hại trong mục Trách nhiệm vật chất như sau: “Người lao động làm
hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử
dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” [56, Điều 130].
Quy định này cho thấy người lao động phải chịu trách nhiệm vật chất, nghĩa là
59
phải bồi thường thiệt hại nếu làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc tài sản của
người sử dụng lao động. CCV làm việc theo chế độ hợp đồng cũng có thể làm hư
hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử
dụng lao động và đương nhiên lúc đó họ phải chịu sự điều chỉnh của quy định
này. Vì vậy, CCV gây thiệt hại trong hoạt động công chứng không thể áp dụng
quy định của BLLĐ 2102, để giải quyết. Lúc này rõ ràng chỉ còn lại Điều 38
LCC năm 2014 được áp dụng. Trong trường hợp này CCV gây thiệt hại trong
hoạt động công chứng thì tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm bồi
thường.
Về trách nhiệm hoàn trả của CCV làm việc theo chế độ hợp đồng lao động.
BLLĐ 2012 không quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi người lao
động gây ra cho bên thứ ba nên cũng không quy định về trách nhiệm hoàn trả.
Như đã phân tích ở trên, CCV làm việc theo chế độ hợp đồng tại các tổ chức
hành nghề công chứng mà gây ra thiệt hại thì Điều 38 LCC năm 2014 được áp
dụng. Tuy nhiên quy định về thủ tục hoàn trả trong LCC năm 2014 chỉ mang tính
nguyên tắc cho nên cần phải có bổ sung những quy định của pháp luật để hoàn
thiện cơ chế “hoàn trả” của CCV gây ra thiệt hại trong hoạt động công chứng.
2.1.5. Những vấn đề đặt ra và kiến nghị
Những vấn đề đặt ra
Điều 38 LCC năm 2014 quy định về bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động
công chứng đã giải quyết và đặt ra các vấn đề sau:
Vấn đề bồi thường. Mặc dù tồn tại nhiều loại hình tổ chức hành nghề công
chứng khác nhau là PCC và VPCC và có các CCV hoạt động hành nghề công
chứng với các danh nghĩa khác nhau như công chức, viên chức, chủ DNTN,
thành viên hợp danh của công ty hợp danh, CCV làm việc theo chế độ hợp đồng.
Dù CCV hành nghề với danh nghĩa nào đi nữa khi gây thiệt hại trong hoạt động
công chứng thì chủ thể phải bồi thường là “tổ chức hành nghề công chứng”. Quy
định này đã giải quyết tốt về mặt lý luận và thực tiễn, đó là xác định duy nhất
một chủ thể phải bồi thường góp phần giúp cho người bị thiệt hại biết được chính
xác nơi yêu cầu bồi thường, tránh được việc lợi dụng sự phức tạp về địa vị pháp
lý của các các CCV để đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Quy định tổ chức hành
60
nghề công chứng-chủ thể có điều kiện vật chất tốt hơn CCV- là chủ thể phải bồi
thường là tạo điều kiện cho người bị thiệt hại có cơ hội được bồi thường một
cách nhanh chóng và kịp thời, quyền được bồi thường của người bị thiệt hại được
bảo đảm thực hiện không phân biệt địa vị pháp lý hay lợi thế quyền lực của
CCV- chủ thể gây thiệt hại, tạo ra sự bình đẳng trong vấn đề bồi thường thiệt hại
của “CCV nhà nước” và “CCV tư nhân”. Tuy nhiên về mặt câu chữ thì Điều 38
có mâu thuẫn với Điều 71 của LCC năm 2014, dường như có thể hiểu theo
hướng cùng một thiệt hại do lỗi của CCV gây ra có đến “hai chủ thể” có trách
nhiệm bồi thường là tổ chức hành nghề công chứng và CCV.
Vấn đề hoàn trả. Xác định chủ thể bồi thường thiệt hại là tổ chức hành nghề
công chứng thì chủ thể có nghĩa vụ hoàn trả sẽ là CCV. Quy định về trách nhiệm
hoàn trả như điều luật chỉ mang tính nguyên tắc, chưa được giải quyết một cách
triệt để. Ví dụ tại bản án số 376/2019/HSST ngày 09/10/2019 có đề cập tới vấn
đề nghĩa vụ bồi hoàn của CCV “nghĩa vụ bồi hoàn của ông NDT đối với VPCC
PN được thực hiện theo các quy định pháp luật công chứng và pháp luật dân sự
có liên quan” [Phụ lục số 3, tr.18], tuy nhiên bản án cũng chỉ nói chung chung
mà không nêu rõ được sẽ bồi hoàn cụ thể ra sao, theo quy định cụ thể nào?
Tương tự tại bản án số 434/2018/HS-ST ngày 16/11/2018, tòa án cũng tuyên về
nghĩa vụ bồi hoàn của CCV TTT đối với VPCC LTNH được thực hiện theo quy
định pháp luật công chứng và pháp luật dân sự có liên quan [Phụ lục số 4, tr.17]
Thực tiễn nếu có vụ kiện bồi thường thiệt hại xảy ra sẽ gây không ít khó
khăn trong việc áp dụng pháp luật về trách nhiệm hoàn trả như: hoàn trả trong
trường hợp CCV có lỗi cố ý, lỗi vô ý; các trường hợp được miễn, giảm tiền hoàn
trả; hoàn trả trong trường hợp vượt quá khả năng kinh tế của CCV; cách thức
hoàn trả ... nếu vẫn để như quy định hiện nay thì cùng một vấn đề hoàn trả nhưng
đối với từng loại CCV khác nhau lại có thể áp dụng các luật, điều luật khác nhau
để giải quyết, hoặc không có quy định. Điều này làm cho việc áp dụng pháp luật
thiếu thống nhất và đương nhiên việc vận dụng thiếu thống nhất các luật, điều
luật khác nhau sẽ dẫn đến những hệ quả khác nhau. Giữa Điều 38 và Điều 71 của
LCC năm 2014 có mâu thuẫn về mặt câu chữ.
61
Kiến nghị
Từ các phân tích trên cho thấy cần phải sớm hoàn thiện các quy định pháp
luật sau: (1) về trách nhiệm hoàn trả của tất cả các loại CCV khi tổ chức hành
nghề công chứng đã bồi thường thiệt hại do CCV gây ra trong hoạt động công
chứng; (2) về trách nhiệm tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt
hại do lỗi của các loại CCV gây ra trong hoạt động công chứng, cụ thể như sau:
Một là, đối với CCV là công chức, kiến nghị quy định hoặc hướng dẫn cụ
thể về việc hoạt động hành nghề công chứng của CCV là công chức có phải là là
“hoạt động công vụ” hay không? (1) Nếu nó là “hoạt động công vụ” thì đề nghị
bổ sung cụm từ “và hoạt động công chứng” vào Điều 1 của Luật trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước 2017 như sau: “Luật này quy định trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây
ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án và hoạt động công
chứng; thiệt hại được bồi thường…”; (2) Nếu nó không phải là “hoạt động công
vụ” thì đồng nghĩa với việc “trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng
viên là công chức” không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước và Điều 598 BLDS năm 2015, tác giả kiến nghị bổ sung
quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên là công
chức vào LCC hoặc Luật khác có liên quan.
Hai là, đối với CCV là viên chức, như đã phân tích ở mục 2.1.2 ta thấy
BLDS không có điều khoản nào quy định về bồi thường thiệt hại do viên chức
gây ra. Vì vậy kiến nghị bổ sung vào BLDS quy định về bồi thường thiệt hại do
viên chức gây ra.
Ba là, đối với CCV là lao động làm việc theo chế độ hợp đồng, như đã phân
tích ở mục 2.1.4 thì trách nhiệm hoàn trả của CCV làm việc theo chế độ hợp
đồng lao động không được quy định tại BLLĐ 2012 và chỉ được quy định mang
tính nguyên tắc tại LCC năm 2014, nên tác giả kiến nghị bổ sung những quy định
về nghĩa vụ “hoàn trả” của CCV làm việc theo chế độ hợp đồng lao động gây ra
thiệt hại trong hoạt động công chứng.
Bốn là, nhằm đảm bảo quyền lợi của tổ chức hành nghề công chứng sẽ
được CCV bồi hoàn, hoàn trả kịp thời khi tổ chức hành nghề công chứng đã bồi
62
thường thay cho CCV của mình gây ra theo Điều 38 LCC năm 2014, tác giả kiến
nghị ban hành những quy định cụ thể về trách nhiệm bồi hoàn, hoàn trả của các
loại CCV (gồm CCV là công chức, viên chức, chủ DNTN, thành viên hợp danh,
CCV làm việc theo chế độ hợp đồng).
Năm là, kiến nghị sửa đổi Điều 71 LCC năm 2014 theo hướng phù hợp với
Điều 38 như sau: “Công chứng viên vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của Điều 38 của Luật này”.
2.2. Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
2.2.1. Xác định thiệt hại phải bồi thường theo hợp đồng hoặc ngoài hợp
đồng
Để xác định được các thiệt hại phải căn cứ vào tính chất, chất lượng, số
lượng, giá cả của tài sản. Tuy nhiên thực tiễn xét xử toà án thường áp dụng
nguyên tắc bồi thường tương đương tức người gây thiệt hại phải trả số tiền bồi
thường cho người bị thiệt hại dựa trên giá của tài sản bị thiệt hại. Khi xem giá là
tiêu chuẩn để xác định thiệt hại thì vấn đề đặt ra là làm sao xác định được giá của
tài sản trong khi chúng ta vừa có giá thị trường vừa có giá do Nhà nước quy
định? Việc chọn giá làm căn cứ bồi thường không thể chọn một cách tuỳ tiện mà
“nó phải đạt yêu cầu phản ánh chính xác số thiệt hại của người bị thiệt hại, đảm
bảo sự đền bù thiệt hại một cách đầy đủ, tạo điều kiện để người bị thiệt hại có thể
mua sắm lại một lượng tài sản ngang với số tài sản bị hư hỏng, mất mát”. Việc
xác định chính xác thiệt hại là một yêu cầu khách quan, không thể xác định giá
quá cao và cũng không thể xác định giá quá thấp, trong những trường hợp không
thể xác định giá thì có thể trưng cầu giám định.
Việc chứng minh những thiệt hại gián tiếp do lợi ích gắn liền với việc sử
dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút và chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn
chế, khắc phục thiệt hại phải do bên bị thiệt hại chứng minh, nếu không chứng
minh được thì sẽ lấy mức thu nhập trung bình của sáu tháng liền kề, trong trường
hợp chưa đủ sáu tháng thì lấy mức trung bình của các tháng trước đó. Thiệt hại
và xác định thiệt hại phải bồi thường ngoài hợp đồng và theo hợp đồng đã được
63
tác giả đã phân tích ở Mục 1.3.1.1. và 1.3.2.2. Tuy nhiên việc xác định thiệt hại
do công chứng viên gây ra trong thực tiễn hoạt động công chứng là hết sức phức
tạp
Có ý kiến cho rằng chi phí luật sư, chi phí tố tụng… cũng được xem là thiệt
hại mà công chứng viên phải bồi thường. Quan điểm này cũng tương đồng với
một tác giả khác vì “nếu không có yếu tố gây thiệt hại thì người bị thiệt hại
không cần kiện tụng và bỏ ra các chi phí tố tụng” [21, tr.456]. Tác giả đồng ý với
các ý kiến trên, vì đây có thể xem là những chi phí hợp lý mà người bị thiệt hại
đã bỏ ra nhằm khắc phục thiệt hại và để xác định được chi phí có “hợp lý” hay
không thì do toà quyết định bởi chỉ những chi phí hợp lý mới được bồi thường.
Phí công chứng có phải là thiệt hại? “Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân
phải trả khi được tổ chức cá nhân khác cung cấp dịch vụ” [84, Điều 3], công
chứng được xem là một loại hình cung cấp dịch vụ pháp lý công và hiện nay phí
công chứng đối với giao dịch bất động sản là khá cao, do đó phí công chứng
nhiều trường hợp là một khoản tiền không hề nhỏ. Tác giả cho rằng khi công
chứng viên có lỗi gây thiệt hại hoặc làm cho hợp đồng công chứng bị vô hiệu thì
phí công chứng phải được xem là một khoản thiệt hại cần được bồi thường bởi vì
công chứng viên được Nhà nước uỷ nhiệm cung cấp dịch vụ công nhằm “bảo
đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa
tranh chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức” [60,
Điều 3] và khi công chứng viên không đảm bảo được yêu cầu đó mà gây ra thiệt
hại thì công chứng viên không có lý do gì để thu phí cho dịch vụ của mình.
Có thể thấy việc xác định thiệt hại trong lĩnh vực công chứng để đòi bồi
thường thiệt hại đối với công chứng viên là rất khó khăn và phức tạp, nguyên
nhân khó khăn và phức tạp nằm ở chỗ chứng minh thiệt hại trên thực tế và các
quy định của pháp luật đôi khi khó hiểu. Thực tế, hiện nay trong lĩnh vực công
chứng, hiện tượng các bên giao kết hợp đồng, giao dịch ghi giá trong hợp đồng
hoặc thấp hơn hoặc cao hơn rất nhiều so với giá thực tế giao dịch nhằm trục lợi
bất chính như trốn thuế, lừa đảo đẩy giá cáo lên để vay ngân hàng, khai khống tài
sản để hoạt động phi pháp ... Như vậy những trường này xác định thiệt hại là rất
64
khó.
2.2.2. Xác định hành vi trái pháp luật, hành vi vi phạm hợp đồng của
công chứng viên
Hành vi trái pháp luật của CCV là những xử sự cụ thể của CCV được thể
hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của
pháp luật.
Ví dụ, trong một vụ án hình sự, Dương Ngọc Phượng lừa đảo chiếm đoạt
hơn 4 tỉ đồng. Do mối quen biết với Phượng nên công chứng viên P.T.V của
PCC số 2 TP.HCM không trực tiếp kiểm tra giấy tờ tuỳ thân của bên bán, không
cho các bên ký tên, điểm chỉ vào hợp đồng trước mặt công chứng viên nên không
phát hiện được việc Phượng giả mạo, do đó công chứng viên P.T.V phải lãnh án
năm năm tù [30]. Vụ án trên cho thấy công chứng viên P.T.V rõ ràng đã có
“hành vi trái pháp luật” khi đã không thực hiện đúng trình tự, thủ tục công
chứng. Tương tự, tại bản án sơ thẩm số 05/2020/DS-ST ngày 09/01/2020 của
Tòa án nhân dân quận 1 TPHCM [phụ lục số 7], Hội đồng xét xử có nhận định
tại mục [12] “bị đơn (PCC số 1 TPHCM) thực hiện hiện công chứng hợp đồng ủy
quyền đã vi phạm các quy định về thủ tục công chứng hợp đồng theo quy định tại
Điều 36 LCC năm 2006”. Nhận định trên cho thấy CCV chứng nhận hợp đồng ủy
quyền nêu trên đã có hành vi trái pháp luật, cụ thể là trái với quy định tại Điều 36
LCC năm 2006. Trong vụ 2 án này, hành vi trái pháp luật của CCV được thể hiện
dưới dạng không hành động “không cho ký trước mặt công chứng viên” “không
kiểm tra đối chiếu giấy tờ tuỳ thân”, đây là những việc LCC quy định phải làm
nhưng công chứng viên đã không làm.
Hiện nay, theo quy định của LCC năm 2014 thì các tiêu chí nhằm xác định
nghĩa vụ của CCV trong lĩnh vực công chứng là chưa cụ thể, còn quy định chung
chung; Do đó, việc xác định hành vi trái pháp luật gây thiệt của CCV trong hoạt
động công chứng của cơ quan tố tụng là rất khó khăn và đôi lúc chưa chính xác,
có tình trạng một số cơ quan tố tụng còn suy diễn, suy đoán, kể cả quy chụp
không có căn cứ bằng các từ như “thiếu trách nhiệm, không làm hết công việc
của công chứng viên ” mà không chỉ ra được hành vi trái pháp luật của CCV là
gì, trái quy định pháp luật nào? Hoặc ở cấp sơ thẩm xác định CCV có hành vi trái
65
pháp luật, còn ở cấp phúc thẩm thì xác định CCV không có hành vi trái pháp
luật... Hiện nay, thực tiễn xét xử một số vụ án tại thành phố Hồ Chí Minh tuyên
tổ chức hành nghề công chứng, CCV phải bồi thường thiệt hại nhưng không chỉ
tra được hành vi trái pháp luật của CCV một cách cụ thể, rõ ràng là trái quy định
pháp luật nào mà chỉ nói chung chung, mang tính suy đoán chủ quan. Việc này
phần nào được phản ánh qua bài viết “Bất cập tuyên án công chứng viên bồi
thường” của Báo Pháp luật TPHCM [28].
Ví dụ, vụ việc mà VPCC Lý Thị Như Hòa phải bồi thường thiệt hại ở cấp
sơ thẩm, ngoài việc liệt kê nhiều điều luật của LCC để cho ra nhận xét chung là
“công chứng viên không thực hiện đầy đủ các thủ tục nên có một phần lỗi đối với
thiệt hại của người bị hại”, bản án không chỉ ra được các lỗi, hành vi trái pháp
luật cụ thể nào của CCV có mối quan hệ nhân quả với thiệt hại. Chẳng hạn, khi
sự giả mạo giấy tờ chỉ được cơ quan công an xác định rõ sau này qua sáu kết
luận giám định, án này đã không chỉ ra được CCV đã sai gì ở việc kiểm tra bằng
mắt thường khiến không phát hiện được ngay sự giả mạo tinh vi đó [Phụ lục số
4]; Tuy nhiên, ở cấp Phúc thẩm vụ án này vào ngày 19/02/2020, Hội đồng xét xử
của Tòa án nhân dân cấp cao tại TPHCM đã nhận thấy những bất cập, sai sót
trong phiên sử sơ thẩm về việc xác định hành vi trái pháp luật nêu trên, nên đã
tuyên “VPCC LTNH không có nghĩa vụ liên đới trong việc bồi thường...” [Phụ
lục số 5, tr.11];
Ví dụ, tương tự, ở vụ việc của VPCC PN phải bồi thường thiệt hại do bản
án sơ thẩm tuyên, bản án không chỉ ra được việc CCV làm chưa đúng quy định
về việc công chứng ngoài trụ sở là nguyên nhân khiến giấy tờ giả bị lọt sổ. Khi
cáo buộc CCV đã có lỗi cẩu thả qua việc không tiến hành xác minh tính thật giả
của chứng minh nhân dân của hai người ủy quyền dẫn đến có thiệt hại, án này
cũng không chỉ ra được việc không xác minh đó sai với quy định nào. Bởi lẽ
khoản 5 Điều 40 LCC không hề buộc CCV phải có nhiệm vụ xác minh, yêu cầu
giám định tất cả trường hợp đến công chứng. Việc làm rõ hay đề nghị giám định
của CCV chỉ được luật này đặt ra khi có căn cứ để cho là có vấn đề chưa rõ hay
có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng hay
việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép mà các yếu tố
66
này đều không có ở thời điểm công chứng hợp đồng [Phụ lục số 3]. Hiện VPCC
PN đã tiến hành kháng cáo vụ án này, tuy nhiên đến nay vụ án chưa được xét xử
Phúc thẩm.
Như vậy, hành vi trái pháp luật của công chứng viên trước hết phải được
xem xét và đối chiếu với các quy định của LCC, sau đó mới đối chiếu đến các
quy định khác của pháp luật thì mới có thể quy kết hành vi của công chứng viên
là trái hay không trái quy định của pháp luật.
Đối với hành vi vi phạm hợp đồng dịch vụ công chứng hoặc vi phạm thỏa
thuận cung cấp dịch vụ công chứng của CCV thì thực tế đến chưa có hành vi vi
phạm nào của CCV được phát hiện, nên chưa có vụ án nào được xét xử đối với
hành vi vi phạm này của CCV tại thành phố Hồ Chí Minh.
2.2.3. Xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật, hành
vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại
Như phân tích ở mục 2.2.2, trong hoạt động xét xử liên quan trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công chứng thì việc xác định hành
vi trái pháp luật của CCV hiện nay là rất khó khăn, nên việc xem xét mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của công chứng viên và thiệt hại xảy ra cũng
gặp nhiều khó khăn. Có nhiều vụ án, tòa án không chỉ ra được hành vi trái pháp
luật một cách cụ thể, mà chỉ nói chung chung, và hệ quả là quy kết hành vi trái
pháp luật chung chung này có mối quan hệ nhân quả với thiệt hại đã xảy ra. Từ
đó tuyên tuyên buộc tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại. Ví
dụ, tại hai bản án được nêu ở mục 2.2.2, tòa án đã không chỉ ra được hành vi trái
pháp luật cụ thể nào của CCV nên việc xác định mối quan hệ nhân quả với thiệt
hại là không đúng [Phụ lục số 3, 4].
2.2.4. Vấn đề lỗi
LCC năm 2014 có hai quy định về bồi thường thiệt hại do CCV gây ra, một
quy định tại Điều 38 theo đó thì tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường
thiệt hại do lỗi của CCV gây ra trong quá trình công chứng, một quy định tại
Điều 71 theo đó CCV phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật nếu
vi phạm quy định của LCC. Quy định tại Điều 38 đã khá rõ ràng khi xác định
chủ thể phải bồi thường trong trường hợp CCV gây thiệt hại đó chính là tổ hành
67
nghề công chứng của công chứng đó và điều kiện bắt buộc để bồi thường thiệt
hại chính là “lỗi” của CCV nhưng lại không cho biết tổ chức hành nghề công
chứng phải bồi thường khi CCV phạm lỗi cố ý hay lỗi vô ý hay cả hai. Ngược lại
Điều 71 thì lại quá mơ hồ khi quy định “công chứng viên vi phạm quy định của
Luật này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi
phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải
bồi thường theo quy định của pháp luật”.
Với quy định nêu trên có thể hiểu CCV phải bồi thường thiệt hại ngay cả
khi không có lỗi, và như vậy thì CCV sẽ là bị đơn dân sự trong vụ kiện đòi bồi
thường, ở đây đang có vấn đề lấn cấn giữa quy định tại Điều 38 và Điều 71 của
LCC năm 2014 khi làm cho người bị thiệt hại không biết khi nào thì khởi kiện tổ
chức hành nghề công chứng và khi nào thì kiện CCV. Một điều thì quy định “lỗi”
là điều kiện bắt buộc phải có, một điều thì không quy định lỗi. Khi xem xét quy
định của pháp luật nước ngoài tác giả nhận thấy:
Pháp luật của Cộng hoà Pháp phân biệt lỗi cố ý và lỗi vô ý của CCV. Việc
phân biệt này có ý nghĩa trong việc xem xét ai là người phải bồi thường. Trường
hợp CCV phạm lỗi cố ý thì CCV phải tự bỏ tiền túi của mình để bồi thường,
không được sử dụng các nguồn quỹ của tổ chức hành nghề công chứng để chi trả.
Như vậy việc đánh giá lỗi theo pháp luật của Pháp được xem như là tiêu chí để
xác định trách nhiệm bồi thường thuộc về ai.
Như đã phân tích ở chương 1, nếu xem lỗi là trạng thái tâm lý thì rất khó
đánh giá lỗi để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Việc xem xét lỗi của CCV được thể
hiện qua thực tiễn xét xử sau:
Ví dụ 1, bản án số 163/2015/DS-PT ngày 30/01/2015 của Toà án nhân dân
TPHCM xét xử vụ tranh chấp về yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
[Phụ lục số 6], hội đồng xét xử có nhận định “tại phiên toà hôm nay các bên đều
thừa nhận rằng khi ra công chứng thì hai bên giao dịch mua bán nhà không có
thông báo cho công chứng viên việc thay đổi hiện trạng nhà. Do đó, trong việc
công chứng này, PCC số 4 TPHCM không phải là người có lỗi”. Như vậy toà đã
căn cứ vào nhận thức của công chứng viên để xác định lỗi, Tòa đã suy luận do
CCV không biết việc căn nhà đã được thay đổi hiện trạng nên mới chứng nhận
68
hợp đồng và do đó CCV không có lỗi. Suy luận này theo tác giả là chỉ là suy
đoán chủ quan của hội đồng xét xử dựa vào lời khai của các bên, nó có thể sai vì
nếu thực chất CCV đã biết nhưng CCV cố tình (che dấu) là không biết việc thay
đổi hiện trạng nhà.
Ví dụ 2, vụ án bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn Hoàng Thanh Liên theo
bản án dân sự sơ thẩm số 311/2019/DSST được Tòa án nhân dân quận 6 xử ngày
12/11/2019 [Phụ lục số 2]. Phần quyết định của Bản án tuyên buộc Phòng công
chứng bồi thường, không xác đinh lỗi của CCV, nhưng phần “Nhận định của Tòa
án” trang 15 mục [2.2] Hội đồng xét xử đánh giá: “Do không xem xét kỹ về nhân
thân (Giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu đều là giấy tờ giả) của người
chuyển nhượng, nghĩa là chưa thực hiện đầy đủ việc công chứng như tiến hành
xác minh, hoặc yêu cầu giám định làm rõ xác thực của giấy tờ thùy thân trong
trường hợp nếu thấy chưa rõ, hoặc nghi ngờ đối tượng của hợp đồng giao dịch.
Trong trường hợp chưa thật sự rõ nữa, thì công chứng viên có quyền từ chối theo
Điều 35, 36 của Luật Công chứng…Công chứng viên đã có sự thiếu trách nhiệm,
không làm hết công việc của một công chứng viên nên dẫn đến hậu quả gây thiệt
hại cho bà Liên…yêu cầu bồi thường của bà Liên là có cơ sở” . Đây là cách xác
định lỗi dựa trên sự quan tâm, chu đáo của CCV khi thực hiện nhiệm vụ công
chứng đã thực hiện hết nghĩa vụ của CCV hay chưa. Tuy nhiên, khi nghiên cứu
kỹ vụ án này thì tác giả cho rằng việc xác định lỗi của Tòa án Quận 6 đối CCV
V là thiếu cơ sở thuyết phục thực tế và không có căn cứ pháp lý, mang tính quy
chụp bởi 5 lí do được nêu cụ thể trong phần ý kiến của PCC số 1 gửi Tòa án nhân
dân TPHCM trong phiên tòa xét xử Phúc thẩm vụ án [Phụ lục số 11]. Xin nói
thêm tại phiên xét xử phúc thẩm vụ án này, tác giả là một trong những người đại
diện cho PCC số 1 tham gia tố tụng. Tác giả đã trình bày các luận cứ chứng minh
rằng CCV V không có lỗi, không có hành vi trái pháp luật nào nên không phải
bồi thường thiệt hại. Kết quả, tại phiên tòa phúc thẩm ngày 17/3/2020, Tòa án
nhân dân TPHCM đã xác định CCV V không có lỗi, không có hành vi trái pháp
luật, nên tòa đã tuyên PCC số 1 không phải bồi thường thiệt hại, đến thời điểm
hoàn thảnh Luận văn này PCC số 1 chưa nhận được bản án Phúc thẩm.
Qua các ví dụ trên cho thấy việc xác định lỗi của CCV dựa trên sự quan
69
tâm, chu đáo của CCV đối với việc thực hiện nghĩa vụ công chứng của mình
chính xác hơn, dễ dàng hơn là việc xem xét lỗi dựa trên việc xem xét “nhận
thức” của chủ thể, bởi “nhận thức” bao giờ cũng là cái nằm trong đầu của CCV
lúc thực hiện hành vi gây thiệt hại và không phải lúc nào sự “nhận thức” đó cũng
thể hiện ra bên ngoài một cách rành mạch. Việc đánh giá lỗi căn cứ trên sự quan
tâm, chu đáo, dựa việc đánh giá thực hiện nhiệm vụ của CCV có thể phần nào
tránh sự suy đoán chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan điều tra.
LCC năm 2014 không hề quy định là CCV gây thiệt hại với lỗi cố ý thì phải
tự bồi thường, còn tổ chức hành nghề công chứng chỉ bồi thường với lỗi vô ý, mà
lại quy định một cách chung là “tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường
thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công
chứng viên của tổ chức mình gây ra” [60, Điều 38], quy định này có thể hiểu tổ
chức hành nghề công chứng phải bồi thường bất kể là CCV phạm lỗi cố ý hay vô
ý, quy định như vậy sẽ giúp cho người bị thiệt hại được bồi thường kịp thời và
đầy đủ, bởi tổ chức hành nghề công chứng bao giờ cũng có khả năng về kinh tế
cao hơn, ổn định hơn các CCV.
Có ý kiến cho rằng CCV có “lỗi cố ý thì phải bồi thường toàn bộ nhưng nếu
lỗi vô ý thì chỉ bồi thường một phần tương ứng với lỗi gây ra” [39], tác giả đồng
ý với ý kiến này bởi vì khi CCV đã phạm lỗi cố ý thì đương nhiên phải bỏ tiền túi
ra để bồi thường, đây cũng là xu hướng xử lý của các nước trên thế giới. Tuy
nhiên trong bồi thường thiệt hại do CCV gây ra thì yếu tố “lỗi” cần được xem xét
dưới hai góc độ. Góc độ thứ nhất, đó là việc xem xét và đánh giá lỗi trong “quan
hệ bồi thường” giữa tổ chức hành nghề công chứng và người bị thiệt hại. Ở góc
độ này lỗi sẽ có ý nghĩa quyết định việc tổ chức hành nghề công chứng phải bồi
thường “toàn bộ” thiệt hại nếu CCV phạm “lỗi cố ý”, nhưng tổ chức hành nghề
công chứng chỉ phải bồi thường “một phần” thiệt hại tương ứng với lỗi gây ra là
“lỗi vô ý” của CCV. Góc độ thứ hai, là việc xem xét lỗi trong “quan hệ hoàn trả”
giữa CCV và tổ chức hành nghề công chứng. Ở góc độ này thì CCV sẽ phải hoàn
trả “toàn bộ” khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng mà tổ chức hành
nghề công chứng đã chi trả cho người bị thiệt hại nếu CCV gây thiệt hại với “lỗi
cố ý”, nhưng chỉ hoàn trả “một phần” khoản tiền cho tổ chức hành nghề công
70
chứng mà tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả cho người bị thiệt hại nếu
CCV gây thiệt hại với “lỗi vô ý”, “một phần” ở đây cần được hiểu dựa trên toàn
bộ số tiền mà tổ chức hành nghề công chứng đã bồi thường cho người bị thiệt
hại.
Thực tiễn xét xử trong vụ án bồi thường thiệt hại cho ông Phan Biên tại bản
án sơ thẩm số 119/2018/DS-ST [Phụ lục số 1], Tòa án nhân dân quận 2 TPHCM
đã xác định“…bà Vân là người cố ý làm giả, trực tiếp thực hiện hành vi làm giả
hợp đồng…nên bà Vân có lỗi chính và có trách nhiệm bồi thường 50% thiệt hại
cho ông Biên. Ông Hùng và PCC số 1 có trách nhiệm mỗi bên bồi thường 25%
thiệt hại cho ông Biên…”. Đây là cách xác định mức bồi thường một phần dựa
trên mức độ lỗi của các cá nhân là bà Xuân, ông Hùng và CCV của PCC số 1 với
tỷ lệ là 50%, 25%, 25% của thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên nghiên cứu vụ án này tác
giả thấy có điểm bất hợp lý là tòa án đã không chỉ ra được một cách cụ thể lỗi,
hành vi trái pháp luật của 2 CCV (là PTBT và TTH, đã công chứng hợp đồng ủy
quyền cũng như hợp đồng mua bán nhà, đất) là gì, trái quy định nào, mà chỉ nêu
một cách chung chung, mang tính suy đoán chủ quan. Từ những lỗi chung chung
này Tòa án đã quy trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho PCC số 1 là không
thuyết phục, không đúng quy định pháp luật. Và tỷ lệ bồi thường theo phần
50/25/25 nêu trên cũng là chủ quan, tòa án cũng không đưa ra tiêu chí định tính,
định lượng mức độ lỗi để xác định tỷ lệ này. Hiện PCC số 1 đã kháng cáo toàn
bộ bản án này và phiên tòa xét xử phúc thẩm chưa được xét xử.
Như vậy thực tiễn xét xử cũng theo hướng với lỗi vô ý thì tổ chức hành
nghề công chứng chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo phần tương
ứng với phần lỗi của CCV chứ không phải là toàn bộ thiệt hại. Tuy nhiên việc
xác định lỗi của CCV cũng cực kỳ phức tạp và hiện có nhiều quan điểm trái
chiều về việc xác định lỗi mà cơ quan tiến hành tố tụng đang áp dụng xét xử.
2.2.5. Những vấn đề đặt ra và kiến nghị
Những vấn đề đặt ra
Việc xem xét toàn diện và đầy đủ các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công chứng giúp cho việc xét xử được
khách quan, công bằng, tránh suy diễn, quy chụp không có căn cứ. Ngược lại,
71
nếu không xem xét đầy đủ các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong hoạt động công chứng sẽ dễ dẫn đến những phán quyết sai lầm, vi
phạm pháp luật. Hoạt động công chứng là một hoạt động bổ trợ tư pháp, cung
cấp “dịch vụ pháp lý công” mang tính chuyên môn cao, đòi hỏi sự cẩn trọng, chu
đáo của CCV, có những đặc thù riêng, cho nên việc đánh giá các điều kiện phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là rất khó khăn, mang tính chuyên môn cao
và còn nhiều cách hiểu khác nhau.
Kiến nghị
Một là, kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước về công chứng mà trực tiếp
là các Sở Tư pháp, các Hội CCV trong cả nước cần hàng năm tổ chức các buổi
hội thảo, tọa đàm và tổng kết thực tiễn xét xử, thực tiễn trong áp dụng quy định
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công
chứng, mà cụ thể là 4 điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo
hợp đồng và ngoài hợp đồng như đã phân tích ở mục 1.3. và mục 2.3. Từ đó,
đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng khi xét
xử các vụ án yêu cầu CCV phải bồi thường thiệt hại, để kịp thời báo cáo và kiến
nghị Bộ Tư pháp, Chính Phủ và Quốc Hội sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy
định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV, cụ thể là các điều
kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công
chứng.
Hai là, do trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV và tổ chức hành nghề
công chứng trong hoạt động công chứng chủ yếu là trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng nên tác giả kiến nghị cần xây dựng tiêu chí nhằm xác định
nghĩa vụ cụ thể của CCV trong lĩnh vực công chứng; Từ những tiêu chí cụ thể
này mới có thể xác định chính xác các hành vi trái pháp luật, xác định được lỗi
của CCV (nếu có), tránh được những suy diễn, suy đoán, kể cả quy chụp không
có căn cứ của cơ quan tiến hành tố tụng bằng các từ như “thiếu trách nhiệm,
không làm hết công việc ” mà không chỉ ra được hành vi trái pháp luật, lỗi của
CCV ở đâu, trái quy định nào, cụ thể như đã phân tích ở phần trên.
Ba là, số ít trách bồi thường thiệt hại của CCV và tổ chức hành nghề công
chứng trong hoạt động công chứng là trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp
72
đồng thông qua quan hệ cung cấp dịch vụ công chứng, nên tác giả kiến nghị cơ
quan có thẩm quyền cần bổ sung cụ thể quy định về “hợp đồng dịch vụ công
chứng” hoặc “phiếu thỏa thuận dịch vụ công chứng”. Cụ thể kiến nghị sẽ được
tác giả phân tích và đề xuất ở mục 2.5 dưới đây của Luận văn.
2.3. Về thủ tục bồi thường, hoàn trả của công chứng viên và kiến nghị
2.3.1. Thủ tục bồi thường, hoàn trả
Thủ tục bồi thường
Thủ tục bồi thường thiệt hại trong hoạt động công chứng được thực hiện
thông qua tố tụng dân sự. Thủ tục tố tụng dân sự thông thường được áp dụng như
một ưu tiên thứ hai của người bị thiệt hại khi yêu cầu bồi thường thiệt hại không
được các bên hoà giải hoặc hoà giải không thành, mặc dù người bị thiệt hại vẫn
có quyền nộp đơn cho Toà án yêu cầu bồi thường theo quy định BLTTDS. Do
vậy, khi cho rằng mình đã bị thiệt hại do CCV gây ra thì người bị thiệt hại có
quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Toà án nhân dân cấp có thẩm quyền để yêu cầu
bồi thường thiệt hại.
Thủ tục hoàn trả
LCC năm 2014 quy định “công chứng viên…gây thiệt hại phải hoàn trả lại
một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi
thường cho người bị thiệt hại theo quy địn của pháp luật; trường hợp không
hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Toà án giải quyết”
[60, Khoản 2 Điều 38] như vậy điều luật cũng quy định ưu tiên cho sự thoả thuận
về hoàn trả giữa tổ chức hành nghề công chứng và CCV gây thiệt hại, trường hợp
CCV gây thiệt hại không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền
yêu cầu Toà án giải quyết.
Tuy nhiên tác giả nhận thấy sự thiếu vắng các quy định về thủ tục hoàn trả
đối với CCV. Hiện nay có hai quy định về thủ tục hoàn trả:thủ tục hoàn trả đối
với người thi hành công vụ gây thiệt hại được quy định tại Nghị đinh số
68/2018/NĐ-CP; thủ tục hoàn trả của viên chức gây thiệt hại được quy định tại
Nghị định số 27/2012/NĐ-CP. Tuy nhiên chỉ có thủ tục hoàn trả của viên chức
được quy định tại Nghị định số 27/2012/NĐ-CP là có thể áp dụng đối với CCV
73
là viên chức gây thiệt hại.
Thủ tục hoàn trả của viên chức như sau: Sau khi đơn vị sự nghiệp công lập
đã bồi thường thì người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quản lý viên chức
yêu cầu viên chức gây ra thiệt hại viết bản tường trình về vụ việc, đề xuất hướng
giải quyết. Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày đơn vị sự nghiệp thực
hiện xong việc chi trả bồi thường, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập
quản lý viên chức phải thành lập Hội đồng xử lý trách nhiệm hoàn trả để xem xét
giải quyết việc hoàn trả. Đối với viên chức quản lý thì người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp quyết định thành lập Hội đồng xử lý trách
nhiệm bồi thường, hoàn trả. Hội đồng xử lý trách nhiệm hoàn trả có ba thành
viên bao gồm: Chủ tịch Hội đồng là người đứng đầu hoặc cấp phó của người
đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập (riêng đối với viên chức quản lý thì Chủ tịch
Hội đồng là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức,
đơn vị cấp trên trực tiếp của viên chức gây ra thiệt hại); Một ủy viên Hội đồng là
đại diện Ban chấp hành công đoàn của đơn vị sự nghiệp công lập; và một ủy viên
kiêm Thư ký Hội đồng là đại diện bộ phận tài chính – kế toán của đơn vị sự
nghiệp công lập. Không được cử người có quan hệ gia đình như cha, mẹ, con
được pháp luật thừa nhận và vợ, chồng, anh, chị, em ruột, dâu (rể) hoặc người có
liên quan đến viên chức đã gây ra thiệt hại tham gia Hội đồng xử lý trách nhiệm
hoàn trả.
Quy định về thủ tục hoàn trả của viên chức bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý
để buộc viên chức phải hoàn trả cho đơn vị sự nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại
một vấn đề đó là xác định lỗi của viên chức gây thiệt hại. Khoản 2 Điều 24 Nghị
định số 27/2012/NĐ-CP thì viên chức khi thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ
được phân công “có lỗi” gây thiệt hại cho người khác mà đơn vị sự nghiệp công
lập phải bồi thường thì có nghĩa vụ hoàn trả cho đơn vị sự nghiệp công lập. Ở
đây yếu tối “lỗi” là bắt buộc, song luật lại không cho biết với lỗi “cố ý” thì có
phải hoàn trả toàn bộ thiệt hại mà đơn vị sự nghiệp công lập đã chi trả cho người
bị thiệt hại hay không, và với lỗi “vô ý” thì trách nhiệm hoàn trả là bao nhiêu?
Trong khi đó Hội đồng xử lý trách nhiệm hoàn trả không có nghĩa vụ xem xét lỗi
74
của viên chức mà chỉ “nghe giải trình của viên chức và nghe ý kiến của các
thành viên Hội đồng, thảo luận và bỏ phiếu kín về mức và phương thức hoàn trả”
[14, Điểm c, d Điều 35].
Cách thức hoàn trả của viên chức, “viên chức gây ra thiệt hại có trách
nhiệm bồi thường, hoàn trả theo quyết định của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp
công lập hoặc cấp có thẩm quyền. Nếu viên chức không đủ khả năng bồi thường
một lần thì bị trừ 20% (hai mươi phần trăm) tiền lương hàng tháng cho đến khi
bồi thường đủ theo quyết định của người có thẩm quyền. Trường hợp viên chức
gây thiệt hại thuyên chuyển công tác, nghỉ hưu hay thôi việc thì phải hoàn thành
việc bồi thường, hoàn trả trước khi thuyên chuyển, nghỉ hưu hay thôi việc; nếu
không đủ khả năng bồi thường, hoàn trả thì đơn vị sự nghiệp công lập quản lý
viên chức có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị mới hoặc chính
quyền địa phương nơi viên chức cư trú tiếp tục thu tiền bồi thường, hoàn trả cho
đến khi thu đủ theo quyết định của người có thẩm quyền”[14, Khoản 2,3 Điều
25]. Đối với viên chức cố tình chây ì không chịu hoàn trả “đúng thời hạn, mức và
phương thức bồi thường, hoàn trả ghi trong quyết định bồi thường thiệt hại hoặc
quyết định hoàn trả, đã được đơn vị sự nghiệp công lập có trách nhiệm thông
báo đến lần thứ ba về việc bồi thường, hoàn trả mà cố ý không thực hiện nghĩa
vụ bồi thường, hoàn trả thì bị xử lý theo quy định của pháp luật” [14, Điều 39].
Trong quan hệ hoàn trả này cần được nhìn nhận từ hai phía. Nhìn từ phía viên
chức gây thiệt hại thì viên chức được “quyền khiếu nại về quyết định bồi thường,
hoàn trả của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về khiếu nại” [14,
Điều 38].
Viên chức có nhiều sự lựa chọn đó là (i) khiếu nại lần đầu đến người đã ra
quyết định hoàn trả hoặc khởi kiện vụ án hành chính; (ii) nếu không đồng ý với
quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quá thời hạn giải quyết khiếu nại mà
không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến thủ trưởng cấp trên trực
tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án
hành chính [43, Điều 7], bên cạnh đó Luật tố tụng hành chính còn cho phép viên
chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính trong trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó [53, Điều
75
103] mà không cần qua thủ tục khiếu nại. Nhìn từ phía đơn vị sự nghiệp công lập
thì đơn vị sự nghiệp công lập có quyền trừ dần vào lương của viên chức, nếu viên
chức “cố ý không thực hiện nghĩa vụ bồi thường, hoàn trả thì bị xử lý theo quy
định của pháp luật”, quy định của pháp luật ở đây có thể được hiểu là các quy
định của Luật viên chức. Theo đó viên chức sẽ phải chịu một trong các hình thức
kỷ luật theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Luật viên chức là : a) khiển trách; b)
cảnh cáo; c) cách chức; d) buộc thôi việc, ta không thấy quy định về việc đơn vị
sự nghiệp công lập được quyền khởi kiện viên chức gây thiệt hại, nhưng LCC đã
cho phép các tổ chức hành nghề công chứng được quyền khởi kiện CCV gây
thiệt hại mà không chịu hoàn trả ra Toà án.
Như vậy, trong vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV gây ra
trong hoạt động công chứng ta còn thấy thiếu vắng quy định về thủ tục hoàn trả,
cách thức hoàn trả, xác định lỗi trong hoàn trả chung cho tất cả các loại CCV.
Bên cạnh đó bảo hiểm trách nhiệm là bảo hiểm bắt buộc của CCV, do đó về
nguyên tắc khi sự kiện bảo hiểm xảy ra thì bên bảo hiểm có phải trả một khoản
tiền cho bên được bảo hiểm [45, Điều 567]. Khi thiệt hại do CCV gây ra được
bên bảo hiểm chi trả thì sẽ có các khả năng xảy ra sau đây: (i) số tiền phải bồi
thường nhỏ hơn giới hạn trách nhiệm được bảo hiểm, trường hợp này vấn trách
nhiệm hoàn trả của CCV sẽ không được đặt ra vì bên bảo hiểm phải chi trả toàn
bộ thiệt hại, và; (ii) số tiền phải bồi thường lớn hơn giới hạn trách nhiệm được
bảo hiểm, trường hợp này số tiền nằm ngoài giới hạn được bảo hiểm sẽ được giải
quyết theo quy định của LCC năm 2014, nghĩa là tổ chức hành nghề công chứng
phải bồi thường thiệt hại cho phần thiệt hại không được bảo hiểm, sau đó tổ chức
hành nghề công chứng có quyền yêu cầu CCV hoàn trả lại khoản này.
2.3.2. Kiến nghị
Thứ nhất, kiến nghị bổ sung thủ tục tố tụng dân sự đối với “trường hợp
công chứng viên không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết” theo thủ tục rút gọn. Việc này nhằm đảm bảo quyền và lợi
ích chính đáng cho tổ chức hành nghề công chứng đã đứng ra bồi thường thiệt
hại thay cho CCV gây ra thiệt hại; đảm bảo việc hoàn trả kịp thời, ít tốn kém về
chi phí tố tụng vì việc bồi thường thiệt hại do lỗi của CCV đã được xét xử bằng
76
một vụ án cụ thể; tránh việc chay ì, ỷ lại là CCV cứ công chứng, dù đúng hay sai,
không cần phải bận tâm lo lắng mà mọi việc sau này đều sẽ do tổ chức hành nghề
công chứng chịu trách nhiệm hết, điều đó sẽ tạo nên tiền lệ rất đáng quan ngại
không tránh khỏi là không loại trừ sẽ có CCV sẽ lợi dụng việc đó để ký bừa, ký
ẩu, ký bất chấp quy định của pháp luật.
Thứ hai, về thủ tục hoàn trả, tác giả cho rằng nên có quy định về thủ tục
hoàn trả thống nhất cho tất cả các công chứng viên không phân biệt công chứng
viên là công chức, viên chức, chủ DNTN, thành viên hợp danh, công chứng viên
làm việc theo chế độ hợp đồng.
2.4. Về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên và kiến
nghị
2.4.1. Về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên
Hoạt động công chứng luôn chứa đựng nhiều rủi ro, bồi thường thiệt hại là
một rủi ro mà CCV có thể phải gánh chịu. Trước năm 2006 vấn đề bảo hiểm
trách nhiệm của CCV không được đặt ra, năm 2006 đến năm 2015 BHTNNN chỉ
được đặt ra đối với các VPCC chứ không đặt ra đối với PCC [48,, Khoản 7 điều
32]. LCC năm 2014 đã quy định mua bảo hiểm trách nhiệm cho CCV là bắt buộc
đối với tất cả các tổ chức hành nghề công chứng và việc mua bảo hiểm này phải
được duy trì trong suốt thời gian hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng.
LCC năm 2014 quy định BHTNNN của CCV là bắt buộc [60, Điều 37], việc
mua bảo hiểm là nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng [60, Khoản 5 Điều
33].
Khoản 1 điều 19 Nghị định 29/2015/NĐ-CP quy định “tổ chức hành nghề
công chứng có thể trực tiếp mua hoặc có thể uỷ quyền cho tổ chức xã hội-nghề
nghiệp của công chứng viên mua BHTNNN cho công chứng viên của tổ chức
mình” kinh phí mua bảo hiểm cho CCV của PCC được trích từ quỹ phát triển sự
nghiệp của CCV hoặc từ nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định của pháp
luật. Nghị định số 29/2015/NĐ-CP cũng quy định phạm vi bảo hiểm bảo gồm
thiệt hại vật chất của người tham gia ký kết hợp đồng, giao dịch hoặc của cá
nhân, tổ chức khác có liên qua trực tiếp đến hợp đồng, giao dịch đã được công
chứng mà những thiệt hại gây ra do lỗi của CCV trong thời hạn bảo hiểm. tổ
77
chức hành nghề công chứng hoặc tổ chức xã hội-nghề nghiệp của CCV trong
trường hợp được tổ chức hành nghề công chứng uỷ quyền có thể thoả thuận với
doanh nghiệp bảo hiểm về phạm vi bảo hiểm rộng hơn phạm vi bảo hiểm thiệt
hại về vật chất. Tuy nhiên sẽ không thuộc phạm vi bảo hiểm trong các trường
hợp sau: (i) công chứng viên thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và
nội dung hợp đồng giao dịch, nội dung bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức
xã hội; xúi giục, tạo điều kiện cho người tham gia hợp đồng, giao dịch thực hiện
giao dịch giả tạo hoặc hành vi gian dối khác; (ii) công chứng viên công chứng
hợp đồng, giao dịch, bản dịch có liên quan đến tài sản, lợi ích của bản thân mình
hoặc của những người thân thích là vợ hoặc chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; cha
mẹ đẻ, cha mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; con đẻ, co nuôi, con dâu, con rể, ông, bà;
anh chị em ruột, anh chị em ruột của vợ hoặc chồng; cháu là con của con đẻ, con
nuôi; (iii) công chứng viên cấu kết, thông đồng với người yêu cầu công chứng và
những người có liên quan làm sai lệch nội dung của văn bản công chứng, hồ sơ
công chứng; (iv) các trường hợp khác theo thoả thuận của giữa doanh nghiệp bán
bảo hiểm và tổ chức hành nghề công chứng hoặc tổ chức xã hội-nghề nghiệp của
công chứng viên trong trường hợp tổ chức hành nghề công chứng uỷ quyền.
Quy định về BHTNNN của CCV nhằm làm giảm bớt một phần trách nhiệm
của CCV khi CCV vô ý gây thiệt hại. Giúp CCV tự tin hơn trong hoạt động nghề
nghiệp của mình.
Vấn đề đặt ra
Thứ nhất, khoản 2 Điều 20 Nghị định số 29/2015/NĐ-CP quy định “tổ chức
hành nghề công chứng hoặc tổ chức xã hội-nghề nghiệp của công chứng viên
trong trường hợp được tổ chức hành nghề công chứng uỷ quyền có thể thoả
thuận với doanh nghiệp bảo hiểm về phạm vi bảo hiểm”. Qua khảo sát các hợp
đồng bảo hiểm đã được mua bởi các tổ chức hành nghề công chứng nói chung và
tại 7 PCC tại TP.HCM nói riêng [Phụ lục 8,9], tác giả nhận thấy, các tổ chức
hành nghề công chứng thường phải tự thương thảo mang tính chất riêng lẻ, cá
nhân với các công ty bảo hiểm để mua bảo hiểm hoặc một số ít PCC nhà nước
cùng thương thảo với công ty bảo hiểm, nên các hợp đồng bảo hiểm đã ký có
phạm vi bảo hiểm là rất chung chung, khó hiểu, phạm vi bảo hiểm, giới hạn bảo
78
hiểm rất hẹp, bất lợi cho các tổ chức hành nghề công chứng và CCV khi cần
được bảo hiểm về trách nhiệm nghề nghiệp, chủ yếu bảo hiểm được mua để đối
phó với hoạt động thanh, kiểm tra của cơ quan nhà nước mà không được đàm
phán để đi vào thực chất của việc bảo hiểm. Việc thỏa thuận mang tính đơn lẻ,
yếu thế đã tạo bất lợi cho các tổ chức hành nghề công chứng khi phải giao kết
các hợp đồng bảo hiểm với phạm vi bảo hiểm và điều kiện bảo hiểm hẹp hơn rất
nhiều so quy định tại Điều 20, Điều 21 Nghị định 29.
Thứ hai, theo khảo sát các hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm của các tổ chức
hành nghề công chứng [Phụ lục 8,9], thì bảo hiểm được mua cho từng cá nhân
CCV với thời hạn bảo hiểm là 12 tháng, có hiệu lực hồi tố từ một năm đến ba
năm kể từ ngày ký hợp đồng. Tuy nhiên trong hợp đồng bảo hiểm có một điều
khoản về “mở rộng ngày hồi tố”, điều khoản này mang tính chất có lợi cho các tổ
chức hành nghề công chứng khi tái ký kết hợp đồng bảo hiểm mang tính liên tục,
không có gián đoạn với công ty bảo hiểm. Nếu ký kết liên tục, không gián đoạn
thì “ngày hồi tố mở rộng sẽ theo ngày hồi tố của đơn bảo hiểm đầu tiên”. Ngược
lại, nếu tổ chức hành nghề công chứng không tái ký liên tục thì sẽ gặp bất lợi và
mất đi điều khoản ngày hồi tố ban đầu. Với thời hạn bảo hiểm và hiệu lực hồi tố
như vậy, về thực tiễn sẽ xảy ra tình huống và bất lợi cho các tổ chức hành nghề
công chứng, CCV sau:
Tình huống 1, tổ chức hành nghề công chứng X mua bảo hiểm cho CCV Y
trong thời hạn 12 tháng, làm việc được 09 tháng thì CCV Y nghỉ việc tại tổ chức
hành nghề công chứng X và chuyển sang làm việc cho tổ chức hành nghề công
chứng Z. Sau 12 tháng tổ chức hành nghề công chứng X phải bồi thường thiệt hại
cho người yêu cầu công chứng do CCV Y gây ra. Lúc này trách nhiệm nghề
nghiệp của CCV Y đã trở thành trách nhiệm nghề nghiệp không được bảo hiểm.
Tình huống 2, tổ chức hành nghề công chứng X mua bảo hiểm trách nhiệm
cho CCV Y trong giới hạn trách nhiệm một tỷ đồng, tổ chức hành nghề công
chứng X phải bồi thường thiệt hại do CCV Y gây ra với số tiền là hai tỷ đồng,
theo đó bên bảo hiểm có trách nhiệm chi trả một tỷ đồng, còn một tỷ đồng không
nằm trong giới hạn bảo hiểm thì tổ chức hành nghề công chứng phải chi trả và
CCV Y có trách nhiệm hoàn trả cho tổ chức hành nghề công chứng khoản tiền
79
này.
Bất lợi cho các tổ chức hành nghề công chứng ở chỗ, các hợp đồng, giao
dịch công chứng thông thường không tranh chấp ngay trong năm được công
chứng, mà chỉ phát sinh tranh chấp rất lâu sau khi được công chứng. Ví dụ, tại
nơi tác giả công tác là PCC số 1 Thành phố Hồ Chí Minh thì có di chúc phát sinh
tranh chấp sau 28 năm được công chứng, cụ thể di chúc được công chứng năm
1990, năm 2018 mới phát sinh tranh chấp. Vì vậy, việc quy định thời hạn bảo
hiểm chỉ có hiệu lực trong năm là không phù hợp với đặc thù hoạt động công
chứng. Và để được duy trì liên tục hiệu lực hồi tố là“ngày hồi tố mở rộng sẽ theo
ngày hồi tố của đơn bảo hiểm đầu tiên” các tổ chức hành nghề công chứng buộc
phải tái ký kết với duy nhất một công ty bảo hiểm mà không thể, không được
chọn một công ty bảo hiểm nào khác. Việc này làm cho các tổ chức hành nghề
công chứng trở thành bên yếu thế, buộc phải ký kết mà không thể thương thảo
các điều kiện bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm có lợi cho mình được. Như vậy rõ
ràng không có tính cạnh tranh để phát triển ngày càng tốt hơn về mặt bảo hiểm
cho các tổ chức hành nghề công chứng, CCV. Cách làm như hiện nay tạo thế độc
quyền cho các công ty bảo hiểm, bất lợi cho các tổ chức hành nghề công chứng,
các CCV cũng chính là bất lợi cho chính người bị thiệt hại. Và việc ngoài
BHTNNN ra CCV không còn biện pháp bảo đảm nào khác cũng gây bất lợi cho
người bị thiệt hại và không đảm bảo an toàn cho các giao dịch trong xã hội.
Kinh nghiệp của Cộng hoà Pháp cho thấy việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại của CCV được thực hiện thông qua bảo hiểm và các loại
quỹ. Hàng năm CCV phải đóng góp 0,2% doanh thu vào quỹ bảo hiểm tập thể.
Quỹ này được chia cho Hội đồng công chứng tỉnh, Hội đồng công chứng khu
vực và Hội đồng công chứng tối cao. Quỹ này chỉ chi trả sau khi hãng bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệm đã chi trả mức tối đa là 50.000.000 FF mà vẫn không
đủ cho thiệt hại được bồi thường. Việc chi trả được diễn ra như sau, ví dụ mức
phải bồi thường là 1.000.000.000 FF, hãng hiểm chi trả 50.000.000 FF, còn
950.000.000 FF thì quỹ bảo hiểm nội bộ trả 900.000.000 FF, còn 50.000.000 FF
còn thiếu sẽ chia đều cho công chứng viên trên toàn nước Pháp nộp đều cho đủ
80
[77, tr.18-19]. Điều này cho thấy việc đảm bảo bồi thường ở Pháp luôn được đảm
bảo tính đầy đủ và kịp thời cho dù khoản bồi thường có thể lớn hơn mức bảo
hiểm rất nhiều.
2.4.2. Kiến nghị
Để đảm bảo được nguyên tắc bồi thường kịp thời, toàn bộ, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, tác giả có các kiến nghị sau:
Một là, hiện nay Hiệp hội CCV Việt Nam đã được thành lập thì việc đàm
phán về các điều kiện bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm, các tổ chức hành nghề công
chứng trong phạm vi cả nước nên ủy quyền cho Hiệp hội CCV Việt Nam thực
hiện đàm phán vì Hiệp hội CCV Việt Nam là tổ chức xã hội-nghề nghiệp của các
CCV được thành lập nhằm tôn chỉ và mục đích chính là bảo vệ quyền lợi cho các
CCV; Ban chấp hành của Hiệp hội CCV Việt Nam là những CCV có kinh
nghiệm, uy tín và am hiểu sâu sắc pháp luật nên Hiệp hội CCV Việt Nam có vị
thế tốt hơn trong việc đàm phán với doanh nghiệp bảo hiểm về các điều kiện bảo
hiểm. Nếu để Hiệp hội CCV Việt Nam đàm phán trong việc ký kết hợp đồng bảo
hiểm thì sẽ làm cho nội dung của các hợp đồng bảo hiểm của tất cả các tổ chức
hành nghề công chứng được thống nhất, có phạm vi bảo hiểm rộng hơn, bảo đảm
quyền và lợi ích chính đáng của CCV.
Hai là, mặc dù thời hạn bảo hiểm luật cho phép các tổ chức hành nghề công
chứng được tự do thoả thuận, tuy nhiên thời hạn bảo hiểm 12 tháng là quá ngắn,
vì luật quy định tổ chức hành nghề phải mua BHTNNN trong suốt thời gian hoạt
động của mình chứ không phải cho suốt thời gian CCV hành nghề. Do đặc thù
của hoạt động công chứng và các tranh chấp phát sinh từ các văn bản công chứng
có thể rất lâu sau đó như đã phân tích ở trên nên tác giả cho rằng cần quy định
“thời hạn bảo hiểm nên được mua tối thiểu từ ba đến năm năm hoặc lâu hơn”
hoặc “duy trì cố định thời gian được bảo hiểm trong 12 tháng kể từ ngày ký hợp
đồng bảo hiểm cho công chứng viên A và thời gian được bảo hiểm này không
mất đi, không hết lực trong suốt quá trình hành nghề của công chứng viên A”.
Ba là, nên có thêm một biện pháp bảo đảm khác để bảo đảm tốt hơn nữa
quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại trong trường hợp số tiền được bảo
hiểm nhỏ hơn số tiền phải bồi thường. Tác giả cho rằng quỹ bảo hiểm tập thể
81
theo kinh nghiệm của Cộng hoà Pháp là phù hợp cần nghiên cứu học hỏi để áp
dụng. Bởi việc thành lập các quỹ bảo hiểm nội bộ ở Việt Nam ở cấp độ Hội CCV
cấp tỉnh có tính khả thi cao.
2.5. Về hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng và kiến nghị
2.5.1. Về hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng
Như đã phân tích ở mục 1.1.3, khi thực hiện hoạt động công chứng giữa
người yêu cầu công chứng với CCV, tổ chức hành nghề công chứng tồn tại một
“thỏa thuận yêu cầu công chứng” theo mẫu phiếu yêu cầu công chứng hoặc “hợp
đồng dịch vụ công chứng” (nếu có ký kết), với chủ thể giao kết là tổ chức hành
nghề công chứng và người trực tiếp tiếp nhận giải quyết hồ sơ và thực hiện công
chứng hợp đồng, giao dịch theo luật định là CCV (Điều 2 LCC năm 2014).
Ví dụ, hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng số 01/HĐDV-CC1 ký giữa
PCC số 1 TPHCM và Công ty TNHH Bất Động Sản Thế Kỷ Hoàng Kim (Công
ty) ngày 28/10/2016 [phụ lục số 10], theo đó Công ty sẽ tiến hành ký hợp đồng
mua 34 căn hộ với khách hàng của Công ty (theo danh sách đính kèm), theo 34
hợp đồng mua bán sẽ do CCV của PCC số 1 công chứng dự kiến vào ngày
28/10/2016. PCC số 1 TPHCM sẽ tiến hành đóng dấu và xuất biên lai thu phí
công chứng, hóa đơn thù lao công chứng sau khi 34 hợp đồng được CCV ký kết
cho Công ty và Công ty sẽ chuyển khoản toàn bộ số tiền phí và thù lao công
chứng của tất cả các hợp đồng nêu trên vào tài khoản của PCC số 1. Tổng giá trị
hợp đồng 117.814.000 đồng, bao gồm phí công chứng (113.734.000 đồng) và thù
lao công chứng (4.080.000 đồng). Phương thức thanh toán, sau khi PCC số 1
giao toàn bộ hồ sơ công chứng đã được CCV ký tên, đóng dấu của PCC số 1
cùng biên lai thu phí công chứng và hóa đơn công chứng thì Công ty phải chuyển
khoản một lần toàn bộ số tiền trên vào tài khoản của PCC số 1, chậm nhất là
ngày 31/10/2016. Hợp đồng dịch vụ này được giao kết với chủ thể cung cấp dịch
vụ công chứng là PCC số 1 do ông NVH là Phó Trưởng phòng làm đại diện ký
kết, bên sử dụng dịch vụ là Công ty TNHH Bất Động Sản Thế Kỷ Hoàng Kim,
do bà HPT là chủ tịch Hội đồng thành viên làm đại diện ký kết. CCV trực tiếp
82
tiếp nhận, thụ lý và công chứng 34 hồ sơ mua bán trên chính là CCV NHPV.
Chủ thể đứng ra ký kết hợp đồng dịch vụ trên là PCC số 1, tuy nhiên người
trực tiếp thực hiện việc chứng nhận 34 hợp đồng mua bán 34 căn hộ trên chính là
tác giả (là CCV).
Thực tế, nhu cầu ký kết hợp đồng dịch vụ công chứng của khách hàng với
tổ chức hành nghề công chứng là có, bởi các lý do sau: một là, chỉ khi có hợp
đồng dịch vụ công chứng thì khách hàng mới thực hiện việc thanh toán tiền phí,
thù lao công chứng được theo quy định về kế toán, theo điều lệ của công ty... ;
hai là, khách hàng cần có văn bản thỏa thuận rõ ràng về thù lao, chi phí như chi
phí ký ngoài trụ sở, chi phí ăn uống, khách sạn, chi phí đi lại khi ký ngoài trụ sở,
chi phí đánh máy, chi phí tư vấn hồ sơ; Ba là, hợp đồng dịch vụ là căn cứ để các
bên không thể thay đổi các thỏa thuận liên quan đến việc cung cấp dịch vụ công
chứng.
2.5.2. Vấn đề đặt ra và kiến nghị
Vấn đề đặt ra
Như đã phân tích ở trên do không có quy định về “hợp đồng dịch vụ công
chứng” nên nên các TCHNCC phải mất thời gian để tìm hiểu các quy định liên
quan đến hợp đồng dịch vụ như quy định về hợp đồng dịch vụ của BLDS, hợp
đồng dịch vụ pháp lý của Luật Luật sư, nghiên cứu các quy định của Luật công
chứng 2014 có cấm ký kết hợp đồng dịch vụ không, sau đó mới có thể quyết định
là ký kết hợp đồng dịch vụ công chứng nêu trên [Phụ lục số 10]. Và đến thời
điểm hiện nay, việc tổ chức hành nghề công chứng có thể ký kết hợp đồng dịch
vụ công chứng [tương tự như hợp đồng dịch vụ pháp lý của luật sư] là quan điểm
của cá nhân tác giả và một số CCV tại TPHCM. Thiết nghĩ nhu cầu ký kết hợp
đồng dịch vụ công chứng là có thật, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng
của khách hàng công chứng và cả tổ chức hành nghề công chứng, tuy nhiên luật
không quy định nên sẽ có quan điểm cho rằng tổ chức hành nghề công chứng
không được quyền ký kết hợp đồng dịch vụ công chứng.
Kiến nghị
Một là, bổ sung vào LCC quy định sau: “Điều … Thực hiện dịch vụ công
chứng của công chứng viên. 1.Công chứng viên thực hiện dịch vụ công chứng
83
theo hợp đồng dịch vụ công chứng hoặc theo phiếu thỏa thuận thực hiện dịch vụ
công chứng theo quy định pháp luật. 2. Đối với vụ, việc công chứng có mức thù
lao từ 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) trở lên, tổ chức hành nghề công
chứng phải ký kết hợp đồng dịch vụ công chứng bằng văn bản. Hợp đồng dịch vụ
công chứng bao gồm các nội dung sau: a) Tên, địa chỉ của khách hàng hoặc
người đại diện của khách hàng, đại diện của tổ chức hành nghề công chứng; b)
Nội dung dịch vụ; thời hạn thực hiện hợp đồng; c) Quyền, nghĩa vụ của các
bên;d) Phương thức tính và mức thù lao, chi phí cụ thể; các khoản chi phí (nếu
có);đ) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;e) Phương thức giải quyết tranh chấp.
3. Đối với vụ, việc công chứng có mức thù lao dưới 200.000 đồng (hai trăm ngàn
đồng), tổ chức hành nghề công chứng lập phiếu thỏa thuận thực hiện dịch vụ
công chứng với khách hàng theo mẫu do Bộ Tư pháp ban hành”
Hai là, do đặc thù của nghề công chứng là chịu trách nhiệm về tính xác
thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch và khi thực hiện việc công chứng
phải tuân thủ các nguyên tắc bắt buộc với trình tự, thủ tục công chứng được quy
định chặt chẽ, nên kiến nghị phải quy định rõ những nội dung mà tổ chức hành
nghề công chứng và khách hàng được quyền thỏa thuận và không được quyền
thỏa thuận trong “hợp đồng dịch vụ công chứng” hoặc “phiếu thỏa thuận thực
hiện dịch vụ công chứng”, quy định này nhằm để thực hiện thống nhất, tránh việc
tùy tiện thỏa thuận vi phạm quy định về nghĩa vụ của CCV, về đạo đức nghề
84
công chứng …
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương 2, thông qua việc bình luận các bản án của tòa án nhân dân
các cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã tiến hành phân tích thực trạng áp
dụng pháp luật, chỉ ra các bất cập và từ đó đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện các
quy định pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công
chứng viên trong hoạt động công chứng. Đó là:
1. Thực trạng về trách nhiệm bồi thường và hoàn lại của công chứng viên,
những bất cập và kiến nghị giải quyết những bất cập đã phân tích: Một là, đối với
CCV là công chức, kiến nghị quy định hoặc hướng dẫn cụ thể về việc hoạt động
hành nghề công chứng của CCV là công chức; Hai là, đối với CCV là viên chức,
như đã phân tích ở mục 2.1.2 ta thấy BLDS không có điều khoản nào quy định
về bồi thường thiệt hại do viên chức gây ra. Vì vậy kiến nghị bổ sung vào BLDS
quy định về bồi thường thiệt hại do viên chức gây ra; Ba là, đối với CCV là lao
động làm việc theo chế độ hợp đồng, như đã phân tích ở mục 2.1.4 thì trách
nhiệm hoàn trả của CCV làm việc theo chế độ hợp đồng lao động không được
quy định tại BLLĐ 2012 và chỉ được quy định mang tính nguyên tắc tại LCC
năm 2014, nên tác giả kiến nghị bổ sung những quy định về nghĩa vụ “hoàn trả”
của CCV làm việc theo chế độ hợp đồng lao động gây ra thiệt hại trong hoạt
động công chứng; Bốn là, nhằm đảm bảo quyền lợi của tổ chức hành nghề công
chứng sẽ được CCV bồi hoàn, hoàn trả kịp thời khi tổ chức hành nghề công
chứng đã bồi thường thay cho CCV của mình gây ra theo Điều 38 LCC năm
2014, tác giả kiến nghị ban hành những quy định cụ thể về trách nhiệm bồi hoàn,
hoàn trả của các loại CCV (gồm CCV là công chức, viên chức, chủ DNTN, thành
viên hợp danh, CCV làm việc theo chế độ hợp đồng); Năm là, kiến nghị sửa đổi
Điều 71 LCC năm 2014 theo hướng phù hợp với Điều 38 như sau: “Công chứng
viên vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị
xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của Điều 38 của Luật này”.
2. Thực trạng về điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
công chứng viên, tác giả đã trình bày những bất cập trong thực tiễn liên quan đến
85
các điều kiện về thiệt hại, hành vi trái pháp luật, hành vi vi phạm hợp đồng, mối
qua hệ nhân quả và lỗi, từ đó đưa ra kiến nghị khắc phục những bất cập. Một là,
kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước về công chứng cần đánh giá thực trạng
áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng về trách nhiệm BTTH của
CCV để kịp thời báo cáo và kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV; Hai là, kiến nghị cần xây
dựng tiêu chí nhằm xác định nghĩa vụ cụ thể của CCV trong lĩnh vực công
chứng; Từ những tiêu chí cụ thể này mới có thể xác định chính xác các hành vi
trái pháp luật, xác định được lỗi của CCV (nếu có); Ba là, kiến nghị cơ quan có
thẩm quyền cần bổ sung cụ thể quy định về “hợp đồng dịch vụ công chứng” hoặc
“phiếu thỏa thuận dịch vụ công chứng”.
3. Thực trang liên quan đến thủ tục bồi thường, hoàn trả của công chứng
viên, các bất cập và đưa ra kiến nghị. Thứ nhất, kiến nghị bổ sung thủ tục tố tụng
dân sự đối với “trường hợp công chứng viên không hoàn trả thì tổ chức hành
nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết” theo thủ tục rút gọn; Thứ
hai, về thủ tục hoàn trả, tác giả cho rằng nên có quy định về thủ tục hoàn trả
thống nhất cho tất cả các công chứng viên không phân biệt công chứng viên là
công chức, viên chức, chủ DNTN, thành viên hợp danh, công chứng viên làm
việc theo chế độ hợp đồng.
4. Thực trạng về cơ chế bảo đảm thực hiện việc bồi thường, tác giả đã phân
tích những vấn đề liên quan đến bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công
chứng viên, các bất cập và những kiến nghị để hoàn thiện cơ chế này. Một là,
kiến nghị để Hiệp hội CCV Việt Nam đàm phán trong việc ký kết hợp đồng bảo
hiểm; Hai là, tác giả kiến nghị cần quy định “thời hạn bảo hiểm nên được mua
tối thiểu từ ba đến năm năm hoặc lâu hơn” hoặc “duy trì cố định thời gian được
bảo hiểm trong 12 tháng kể từ ngày ký hợp đồng bảo hiểm cho công chứng viên
A và thời gian được bảo hiểm này không mất đi, không hết lực trong suốt quá
trình hành nghề của công chứng viên A”; Ba là, kiến nghị cần quy định bổ sung
quỹ bảo hiểm tập thể của CCV nhằm đảm bảo việc BTTH cho khách hàng, cũng
như quyền lợi chính đáng của CCV.
5. Về hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng, tác giả đã phân tích sự cần
86
thiết phải có các quy định pháp luật về hợp đồng dịch vụ công chứng và kiến
viên; Hai là, kiến nghị phải quy định rõ những nội dung mà tổ chức hành nghề công chứng và khách hàng
được quyền thỏa thuận và không được quyền thỏa thuận trong “hợp đồng dịch vụ công chứng” hoặc
“phiếu thỏa thuận thực hiện dịch vụ công chứng”. Hai là, phải quy định rõ những nội dung mà tổ chức
hành nghề công chứng và khách hàng được quyền thỏa thuận và không được quyền thỏa thuận trong “hợp đồng dịch vụ công chứng” hoặc “phiếu thỏa thuận thực hiện dịch vụ công chứng”
87
nghị. Một là, bổ sung vào LCC quy định sau: “Điều … Thực hiện dịch vụ công chứng của công chứng
KẾT LUẬN
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động
công chứng đã được quy định ngay từ khi ban hành LCC năm 2006, tuy nhiên
sau hơn 14 năm thi hành LCC với một lần sửa đổi, bổ sung LCC vào năm 2014,
vấn đề bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng vẫn
chưa phát huy hiệu quả mà nguyên nhân chính là do những bất cập ngay trong
các quy định của pháp luật.
1. Chương 1, tác giả đã phân tiến hành nghiên cứu những vấn đề lý luận về
bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng như: khái
niệm, đặc điểm, bản chất pháp lý; Phân tích những quy định của pháp luật về
điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các chủ thể trong quan hệ
bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng; Biện pháp
bảo đảm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên; Trách nhiệm hoàn trả
của công chứng viên; Về quan hệ cung cấp dịch vụ công chứng thông qua hợp
đồng dịch vụ công chứng hoặc phiếu thỏa thuận cung cấp dịch vụ công chứng.
Đây là những vấn đề nền tảng làm cơ sở lý luận để tác giả phân tích về thực
trạng, giải quyết những vấn đề đặt ra, những bất cập phát sinh trong thực tiễn ở
chương 2.
2. Chương 2 tác giả đã thông qua việc phân tích, bình luận các bản án đã
được Tòa án nhân dân các cấp tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử, phân tích các
hợp đồng bảo hiểm TNNNCC đã ký của một số PCC tại Thành phố Hồ Chí
Minh, đối chiếu, so sánh với phần lý luận ở chương 1, phát hiện thực trạng,
những khó khăn, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó tác giả đưa ra
kiến nghị cụ thể như sau:
Về chủ thể gây thiệt hại, bất cập lớn nhất là quy định về vấn đề hoàn trả.
Hiện nay mới chỉ có công chứng viên là viên chức mới có quy định về trách
nhiệm hoàn trả, còn các công chứng viên khác (công chức, chủ DNTN, thành
viên hợp danh, công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng) thì pháp luật
chưa có quy định. Điều này làm cho việc áp triển khai quy định hoàn trả trên
thực tế gặp nhiều vướng mắc. Tác giả đã kiến nghị cần sớm rà soát các quy định
88
của pháp luật liên quan đến vấn đề hoàn trả của tất cả các loại công chứng viên
từ đó nên có quy định thống nhất trong hoạt động công chứng về vấn đề này
nhằm tạo sự bình đẳng cho tất cả các công chứng viên. Và Nhằm đảm bảo sự
nhất quán về mặt câu chữ trong các quy định pháp luật, tác giả cho rằng cần sửa
đổi Điều 71 LCC năm 2014 theo hướng phù hợp với Điều 38 LCC năm 2014.
Về điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường, trên cơ sở bình luận các bản
án đã được xét xử tại thành phố Hồ Chí Minh, tác giả có các kiến nghị sau: Một
là, kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước về công chứng đánh giá thực trạng và
bất cập trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng về BTTH
của CCV trong hoạt động công chứng, để kịp thời báo cáo và kiến nghị Bộ Tư
pháp, Chính Phủ và Quốc Hội sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định pháp luật
về các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên
trong hoạt động công chứng; Hai là, kiến nghị xây dựng tiêu chí nhằm xác định
nghĩa vụ cụ thể của công chứng viên trong lĩnh vực công chứng; Ba là, kiến nghị
cơ quan có thẩm quyền cần bổ sung cụ thể quy định về “hợp đồng dịch vụ công
chứng” hoặc “phiếu thỏa thuận dịch vụ công chứng”.
Về thủ tục bồi thường, hoàn trả và bảo hiểm trách nhiệm của công chứng
viên, tác giả đã phân tích những bất cập của pháp luật liên quan đến thủ tục bồi
thường, hoàn trả và biện pháp bảo đảm trách nhiệm của công chứng viên, từ đó
đưa ra những kiến nghị sau: (1) Về thủ tục bồi thường, tác giả cho rằng nên
khuyến khích việc tự thỏa thuận, hoà giải và tạo cơ chế tài chính để các PCC có
điều kiện tài chính bồi thường thông qua tự thỏa thuận, hoà giải; (2) Về thủ tục
hoàn trả, tác giả kiến nghị nên ban hành một quy định thống nhất về thủ tục hoàn
trả trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động
công chứng nhằm tạo sự bình đẳng và rõ ràng; (3) Về bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp của công chứng viên, tác giả có các kiến nghị sau: Một là, để Hiệp hội
công chứng viên Việt Nam đàm phán trong việc ký kết hợp đồng bảo hiểm thì sẽ
làm cho nội dung của các hợp đồng bảo hiểm của tất cả các tổ chức hành nghề
công chứng được thống nhất, có phạm vi bảo hiểm rộng hơn, bảo đảm quyền và
lợi ích chính đáng của công chứng viên; Hai là, kiến nghị cần quy định “thời
hạn bảo hiểm nên được mua tối thiểu từ ba đến năm năm hoặc lâu hơn” hoặc
89
“duy trì cố định thời gian được bảo hiểm trong 12 tháng kể từ ngày ký hợp đồng
bảo hiểm cho công chứng viên A và thời gian được bảo hiểm này không mất đi,
không hết lực trong suốt quá trình hành nghề của công chứng viên A”; Ba là,
nên có thêm một biện pháp bảo đảm khác để bảo đảm tốt hơn nữa quyền, lợi ích
hợp pháp của người bị thiệt hại trong trường hợp số tiền được bảo hiểm nhỏ hơn
số tiền phải bồi thường. Tác giả cho rằng quỹ bảo hiểm tập thể theo kinh nghiệm
của Cộng hoà Pháp là phù hợp cần nghiên cứu học hỏi để áp dụng. Bởi việc
thành lập các quỹ bảo hiểm nội bộ ở Việt Nam ở cấp độ Hội công chứng viên cấp
tỉnh có tính khả thi cao.
Về hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng, tác giả đã phân tích sự cần thiết
phải có các quy định pháp luật về hợp đồng dịch vụ công chứng và kiến nghị.
Cần bổ sung vào LCC quy định sau: “Điều … Thực hiện dịch vụ công chứng của
công chứng viên; Và phải quy định rõ những nội dung mà tổ chức hành nghề
công chứng và khách hàng được quyền thỏa thuận và không được quyền thỏa
thuận trong “hợp đồng dịch vụ công chứng” hoặc “phiếu thỏa thuận thực hiện
90
dịch vụ công chứng”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo (2008) Giáo trình triết học, Nxb.Chính trị -Hành
chính, Hà Nội.
2. Bộ Nội vụ (2011) Thông tư 08/2011/TT-BNV hướng dẫn một số điều của
Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/10/2010 của Chính phủ quy định
những người là công chức, ban hành ngày 02/6/2011, Hà Nội.
3. Bộ Tài chính (2016) Thông tư 257/2016/TT-BTC quy định mức thu, chế độ
thu, nộp, quản lý, sử dụng phí công chứng; phí chứng thực; phí thẩm định
tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề công chứng; phí thẩm định điều kiện hoạt
động văn phòng công chứng; lệ phí cấp thẻ công chứng viên, ban hành ngày
11/11/2016, Hà Nội.
4. Bộ Tài chính (2017) Thông tư 111/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số
điều của Thông tư 257/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016, ban hành ngày
20/10/2017, Hà Nội.
5. Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp (2012) Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-
BTC-BTP hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí
công chứng, ban hành ngày 19/01/2012, Hà Nội.
6. Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp (2015) Thông tư liên tịch số 115 /2015/TTLT-
BTC-BTP sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP
ngày 19/01/2012 Hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng
phí công chứng, ban hành ngày 11/8/2015, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp (2011) Thông tư số 17/2011/TT-BTP hướng dẫn một số quy định
của luật luật sư, nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của luật luật sư, nghị định hướng dẫn thi hành các quy định của luật
luật sư về tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, ban hành ngày
14/10/2011, Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp (2012) Thông tư số 11/2012/TT-BTP quy tắc đạo đức nghề công
91
chứng, ban hành ngày 30/10/2012, Hà Nội.
9. Bộ Tư pháp (2015) Thông tư số 20/2015/TT-BTP hướng dẫn thi hành một số
điều của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/02/2015, ban
hành ngày 29/12/2015, Hà Nội.
10. Chính phủ (1996) Nghị định số 31/CP về tổ chức và hoạt động công chứng
Nhà nước, ban hành ngày 18/5/1996, Hà Nội.
11. Chính phủ (2000) Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực,
ban hành ngày 08/12/2000, Hà Nội.
12. Chính phủ (2010) Nghị định số 06/2010/NĐ-CP quy định những người là
công chức, ban hành ngày 25/01/2010, Hà Nội.
13. Chính phủ (2010) Nghị định số 16/2010/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
(hết hiệu lực 1/7/2018), ban hành ngày ngày 03/3/2010, Hà Nội.
14. Chính phủ (2012) Nghị định số 27/2012/NĐ-CP về xử lý kỷ luật viên chức và
trách nhiệm bồi thường hoàn trả của viên chức, ban hành ngày 06/4/2012,
Hà Nội.
15. Chính phủ (2015) Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc,
chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, và chứng thực hợp
đồng, giao dịch., ban hành ngày 16/2/2015, Hà Nội.
16. Chính phủ (2015) Nghị định số 29/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của luật công chứng, ban hành ngày 15/32015, Hà
Nội.
17. Chính phủ (2018) Nghị định số 68/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, ban hành
ngày ngày 15/5/2018, Hà Nội.
18. Đỗ Văn Đại (2010) “Lỗi, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng?”, tạp chí Khoa học pháp lý (số 2), tr.49-58.
19. Đỗ Văn Đại (2011) “Bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra”, tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, (số 14), tr.44-52.
20. Đỗ Văn Đại (2012) Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự Bản án và bình luận bản án, tập 1, Nxb.Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà
92
Nội.
21. Đỗ Văn Đại (2014) Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Bản án và bình
luận bản án, tập 1, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh.
22. Đỗ Văn Đại (2014) Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Bản án và bình
luận bản án, tập 2, Nxb.Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh.
23. Hoàng Phê (2002) Từ Điển Tiếng việt (Viện ngôn ngữ học), Nxb Đà nẵng –
Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng.
24. Hoàng Thế Liên (chủ biên)(2013) Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm
2005, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội.
25. Hoàng Văn Hữu (2014) “Trách nhiệm bồi thường do công chứng viên gây ra
trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật
học, Đại học Luật Hà Nội.
26. Hội đồng Bộ trưởng (1991) Nghị định số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động
công chứng Nhà nước, ban hành ngày ngày 27/2/1991, Hà Nội
27. Hội đồng thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao (2006) Nghị quyết
03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật dân sự năm
2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, ban hành ngày 08/7/2006, Hà
Nội
28. Kim Phụng -Nguyễn Quỳnh (2019) “Bất cập án tuyên công chứng viên bồi
thường ”, Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, < https://plo.vn/phap-
luat/bat-cap-an-tuyen-cong-chung-vien-boi-thuong-870874.html>,
(04/3/2020)
29. Lại Thị Bích Ngà (2012) “Trách nhiệm dân sự của công chứng viên ở Pháp
và các đảm bảo đối với khách hàng”, tạp chí Nghề luật, (số 5), tr.47-52.
30. Lê Nga (2013) “Thông đồng với công chứng viên, giả chữ ký, chiếm đoạt 4
tỉ đồng”, Báo Thanh niên, < https://thanhnien.vn/thoi-su/thong-dong-voi-
cong-chung-vien-gia-chu-ky-chiem-doat-4-ti-dong-15899.html>,
(02/03/2020).
31. Lê Thị Phương Hoa (2005) "Công chứng và xã hội hoá công chứng ở Việt
93
Nam", tạp chí Nghiên cứu lập pháp (số 8), tr.33-39.
32. Minh Tâm (2018) “Một số điểm mới của Luật Trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước năm 2017 so với Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm
2009”, Trang Thông tin điện tử Sở Tư pháp Quãng Bình,
boi-thuong-cua-nha-nuoc-nam-2017-so-voi-luat-trach-nhiem-b.htm>, (04/3/2020) 33. Minh Tân- Xuân Nghi - Thanh Lãm (1998) Từ điển tiếng Việt, Nxb.Thanh Hoá, Thanh Hoá. 34. Nguyễn Cảnh Hợp (2011) Thể chế công vụ, Nxb.Tư Pháp, Hà Nội. 35. Nguyễn Minh Đoan (chủ biên) (2014) Một số vấn đề lý luật và thực tiễn về trách nhiệm pháp lý của Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức, cơ quan nhà nước ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Nguyễn Minh Oanh (2010) “khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại” Thông tin pháp luật dân sự, (04/3/2020) 37. Nguyễn Thy (2019) “Với công chứng viên, lẽ nào một là tiền, hai là tù!”Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh < https://plo.vn/phap-luat/voi-cong- chung-vien-le-nao-mot-la-tien-hai-la-tu-870878.html> (04/3/2020) 38. Nhà pháp luật Việt- Pháp (1998) Bộ luật dân sự của nước Cộng hoà Pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 39. Nhẫn Nam (2013) “Kiện công chứng viên, mất toi án phí! ”, Thanh niên, < https://thanhnien.vn/thoi-su/thong-dong-voi-cong-chung-vien-gia-chu-ky- chiem-doat-4-ti-dong-15899.html>, (04/3/2020) 40. Phạm Kim Anh (2003) “Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự”, tạp chí Khoa học pháp lý (số 3), tr.32-38. 41. Quốc hội (1959) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 42. Quốc hội (1980) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 94 43. Quốc hội (2000) Luật Kinh doanh bảo hiểm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Quốc hội (2004) Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 45. Quốc hội (2005) Bộ Luật dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46. Quốc hội (2005) Luật doanh nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 47. Quốc hội (2005) Luật nhà ở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 48. Quốc hội (2006) Luật công chứng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. Quốc hội (2006) Luật Luật sư, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 50. Quốc hội (2008) Luật cán bộ, công chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 51. Quốc hội (2009) Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 52. Quốc hội (2010) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật kinh doanh bảo hiểm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 53. Quốc hội (2010) Luật viên chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 54. Quốc hội (2011) Luật khiếu nại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 55. Quốc hội (2011) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 56. Quốc hội (2012) Bộ luật lao động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 57. Quốc hội (2012) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 58. Quốc hội (2013) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 59. Quốc hội (2013) Luật đất đai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 60. Quốc hội (2014) Luật công chứng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 61. Quốc hội (2014) Luật doanh nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 62. Quốc hội (2014) Luật hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 63. Quốc hội (2014) Luật nhà ở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 64. Quốc hội (2015) Bộ Luật dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 65. Quốc hội (2015) Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 66. Quốc hội (2015) Luật tố tụng hành chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 67. Quốc hội (2017) Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Nxb Chính trị 95 quốc gia, Hà Nội. 68. Quốc hội (2019) Luật cán bộ, công chức và Luật Viên chức sửa đổi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 69. Quốc triều hình luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. 70. Trần Ngọc Thành (2006) “Một số vấn đề về nguyên tắc bồi thường đầy đủ trong dân sự”, tạp chí Toà án Nhân dân, (số 1), tr.3-6. 71. Trần Thúc Linh (1964) Danh từ pháp luật lược giải, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn. 72. Trần Văn Liêm (1974) Dân luật, Nxb.Thế Nhân, Sài Gòn. 73. Trần Việt Anh (2011) “So sánh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng”, tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 4), tr.38- 41, 50. 74. Trần Việt Anh (2011) “So sánh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng”, tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 4), tr.38- 41, 50. 75. Trường Đại học Luật Hà Nội (1996) Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb.Giáo Dục, Hà Nội. 76. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000) Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 77. Trường Đại học luật Hà Nội (2013) Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập II, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. 78. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2014) Giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb.Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh. 79. Trường đào tạo các chức danh tư pháp (2003) Giáo trình nghiệp vụ công chứng viên, Nxb.Thống Kê, Hà Nội. 80. Từ Dương Tuấn (2010) “Bàn về cơ chế hành chính trong việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với hoạt động công chứng trong tiến trình xã hội hoá”, tạp chí Nghề luật, (số 4), tr66-72. 81. Tuấn Đạo Thanh (2012) Pháp luật về công chứng những vấn đề lý luận và 96 thực tiễn, Nxb.Tư pháp, Hà Nội. 82. Tuấn Đạo Thanh (2013) Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm dân sự trong hoạt động công chứng, Nxb.Tư pháp, Hà Nội. 83. Uỷ ban thường vụ Quốc Hội (1998) Pháp lệnh cán bộ, công chức số 01/1998/PL-UBTVQH10, ban hành ngày 26/02/1998, Hà Nội 84. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2001) Pháp lệnh số 38/2001/PL-UBTVQH về Phí và lệ phí, ban hành ngày 28/8/2001, Hà Nội 85. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2014) Báo cáo số 649/BC-UBTVQH13 giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật công chứng (sửa đổi), ban hành ngày 12/5/2014, Hà Nội. 86. Viện khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp (1995) Bình luận khoa học Bộ luật dân sự nhật Bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 87. Viện khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp (2006) Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp. 88. Vũ Cao Minh (2014) “Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của viên chức”, tạp chí Luật học (số 5), tr.28-36. 89. Vũ Văn Mẫu (1960) Dân luật khái luận, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn. 90. Vũ Văn Mẫu (1963) Việt Nam Dân luật lược khảo quyển II Nghĩa vụ và khế 97 ước, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn. 98PHỤ LỤC