VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Hồ Phương Vinh

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2020

1

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Hồ Phương Vinh

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG

CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG THEO

PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ

CHÍ MINH

Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS Nguyễn Như Phát

HÀ NỘI, năm 2020

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi thực hiện dưới

sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Như Phát. Các số liệu, kết quả nêu trong luận

văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

3

Nguyễn Hồ Phương Vinh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 8

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI

THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT

ĐỘNG CÔNG CHỨNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM........................... 16

1.1 Khái niệm, đặc điểm và bản chất pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại

của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam ...... 16

1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong

hoạt động công chứng .......................................................................................... 16

1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong

hoạt động công chứng .......................................................................................... 21

1.1.3. Bản chất pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng

viên trong hoạt động công chứng ......................................................................... 22

1.2. Chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt

động công chứng .................................................................................................. 29

1.2.1. Chủ thể gây thiệt hại .................................................................................. 29

1.2.2. Chủ thể bị thiệt hại ..................................................................................... 31

1.3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên

trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam ........................................ 32

1.3.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm thường thiệt hại ngoài hợp đồng ........... 32

1.3.1.1. Có thiệt hại xảy ra ................................................................................... 32 1.3.1.2. Có hành vi trái pháp luật ......................................................................... 34 1.3.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. .............................................................................................................................. 37 1.3.1.4. Có lỗi của bên gây thiệt hại ..................................................................... 37 1.3.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng ....... 40

1.3.2.1 Có hành vi vi phạm hợp đồng .................................................................. 40 1.3.2.2. Có thiệt hại xảy ra ................................................................................... 41 1.3.2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra ........................................................................................................................... 42 1.3.2.4. Có lỗi của bên gây thiệt hại ..................................................................... 43 1.4. Các biện pháp bảo đảm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên ...... 44

1.5. Vấn đề trách nhiệm hoàn trả của công chứng viên. ...................................... 46

4

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................... 49

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI

THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT

ĐỘNG CÔNG CHỨNG TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ

MINH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .................................................................... 51

2.1. Về vấn đề bồi thường thiệt hại của các loại công chứng viên ...................... 51

2.1.1. Đối với công chứng viên là công chức ....................................................... 51

2.1.2. Đối với công chứng viên là viên chức ........................................................ 53

2.1.3. Đối với công chứng viên là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên công ty

hợp danh ............................................................................................................... 55

2.1.4. Đối với công chứng viên là lao động làm việc theo chế độ hợp đồng ....... 58

2.1.5. Những vấn đề đặt ra và kiến nghị .............................................................. 60

2.2. Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại .................................. 63

2.2.1. Xác định thiệt hại phải bồi thường theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng . 63

2.2.2. Xác định hành vi trái pháp luật, hành vi vi phạm hợp đồng của công chứng

viên ....................................................................................................................... 65

2.2.3. Xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật, hành vi vi

phạm hợp đồng và thiệt hại .................................................................................. 67

2.2.4. Vấn đề lỗi ................................................................................................... 67

2.2.5. Những vấn đề đặt ra và kiến nghị .............................................................. 71

2.3. Về thủ tục bồi thường, hoàn trả của công chứng viên và kiến nghị ............. 73

2.3.1. Thủ tục bồi thường, hoàn trả ..................................................................... 73

2.3.2. Kiến nghị .................................................................................................... 76

2.4. Về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên và kiến nghị .. 77

2.4.1. Về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên..................... 77

2.4.2. Kiến nghị .................................................................................................... 81

2.5. Về hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng và kiến nghị ............................. 82

2.5.1. Về hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng ............................................... 82

2.5.2. Vấn đề đặt ra và kiến nghị ......................................................................... 83

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 85

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 88

5

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 91

6

PHỤ LỤC ............................................................................................................ 98

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Từ đầy đủ

Bộ luật dân sự BLDS

Bộ Luật Lao động BLLĐ

Bộ luật tố tụng dân sự BLTTDS

Bồi thường thiệt hại BTTH

Công chứng viên CCV

Doanh nghiệp tư nhân DNTN

LCC LCC

Nhà xuất bản Nxb

PCC PCC

TCHNCC Tổ chức hành nghề công chứng

VPCC VPCC

7

Xã hội chủ nghĩa XHCN

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Khắc phục những bất cập của Luật Công chứng (LCC) năm 2006, ngày

20/6/2014 tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XIII đã thông qua LCC năm 2014 có

hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015, trong đó quy định chi tiết và cụ thể hơn về

bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động công chứng, cụ thể là “ Tổ chức hành nghề

công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân,

tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là

cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng. Công chứng

viên, nhân viên hoặc người phiên dịch gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền

cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị

thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không chi trả thì tổ chức hành

nghề công chứng có quyền yêu cầu toà án giải quyết” (Điều 38). Tuy luật Công

chứng năm 2014 đã bổ sung những thiếu sót về bồi thường thiệt hại nhưng vấn

đề “trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công

chứng theo pháp luật Việt Nam” vẫn còn nhiều tồn tại, nhiều vấn đề đặt ra cần

phải giải quyết như sau:

Thứ nhất, Điều 3 LCC năm 2014 quy định “công chứng viên cung cấp dịch

vụ công do Nhà nước uỷ nhiệm”, vậy có tồn tại một hợp đồng giữa người cung

cấp dịch vụ và người hưởng dịch vụ hay không? Khi công chứng viên gây thiệt

hại thì phải bồi thường theo chế định nào? Bồi thường thiệt hại theo hợp đồng

hay ngoài hợp đồng?

Thứ hai, khi nào công chứng viên phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra

trong hoạt động công chứng? Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt

hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng bao gồm những điều kiện

nào? Thực tiễn áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan điều tra

đối với việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong

hoạt động công chứng như thế nào?

Thứ ba, hiện nay tồn tại song song hai loại hình tổ chức hành nghề công

8

chứng là PCC (do Nhà nước thành lập) và VPCC (do các cá nhân các công

chứng viên thành lập). Nên khi hành nghề công chứng, các công chứng viên hành

nghề với nhiều tư cách, vai trò khác nhau và được điều chỉnh bởi nhiều nguồn

luật khác nhau, như: Luật cán bộ, công chức, Luật viên chức, Luật trách nhiệm

bồi thường của Nhà nước, Luật doanh nghiệp Bộ luật lao động (BLLĐ). Do đó,

khi gây thiệt hại họ cũng được điều chỉnh bởi các quy định về bồi thường thiệt

hại trong các luật tương ứng khác nhau. Mặc dù trong hoạt động công chứng,

công chứng viên hành nghề với nhiều danh nghĩa khác nhau (công chức, viên

chức, chủ Doanh nghiệp tư nhân (DNTN), thành viên công ty hợp danh, làm việc

theo chế độ hợp đồng) gây thiệt hại nhưng chủ thể phải bồi thường là tổ chức

hành nghề công chứng, song không phải tổ chức hành nghề công chứng bồi

thường thì công chứng viên gây thiệt hại hết trách nhiệm mà giữa tổ chức hành

nghề công chứng và công chứng viên gây thiệt hại còn tồn tại mối quan hệ “hoàn

trả”. Tuy nhiên trong mối quan hệ “hoàn trả” này đối với mỗi loại công chứng

viên còn tồn tại nhiều quy định khác nhau của pháp luật, thậm chí không có quy

định, hạn chế này gây ra sự mất bình đẳng giữa các công chứng viên của PCC và

VPCC, thậm chí là giữa các công chứng viên trong cùng một tổ chức hành nghề

công chứng với nhau.

Thứ tư, LCC quy định BHTNNN của công chứng viên là loại hình bảo

hiểm bắt buộc như một cơ chế bảo đảm thực hiện việc bồi thường, tuy nhiên đây

lại là bảo hiểm mang tính cá nhân, trong khi trách nhiệm bồi thường thiệt hại

trong hoạt động công chứng là trách nhiệm của tổ chức hành nghề công chứng.

Trong trường hợp có BHTNNN công chứng thì số tiền bồi thường vượt quá số

tiền được bảo hiểm, hoặc khi công chứng viên không còn làm việc cho tổ chức

hành nghề công chứng nữa thì trách nhiệm bồi thường, hoàn trả như thế nào?

Đặc biệt hiện nay tình hình công chứng viên phải bồi thường thiệt hại xảy

ra ngày càng nhiều với những bất cập mà theo phản ánh của nhiều cá nhân, tổ

chức, báo chí: “Bất cập án tuyên công chứng viên bồi thường [28]”; “Với công

chứng viên, lẽ nào một là tiền, hai là tù” [37]… Dẫu với tư cách nào thì công

chứng viên cũng thường bị công an, viện kiểm sát, tòa án cho là đã vi phạm các

điều luật của Luật Công chứng. Cụ thể là điều luật về việc công chứng viên soạn

9

thảo hợp đồng và công chứng ngoài trụ sở. Hay phổ biến hơn là các điều luật về

việc kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ; về việc đề nghị người yêu cầu công chứng làm

rõ hoặc tiến hành xác minh, yêu cầu giám định theo đề nghị của người yêu cầu

công chứng … Theo đó, có trường hợp thì tòa xử buộc bị cáo và tổ chức hành

nghề công chứng của công chứng viên ấy liên đới bồi thường thiệt hại cho người

bị hại. Có trường hợp thì tòa chỉ buộc bị cáo bồi thường nhưng lại kèm theo câu

thòng là nếu bị cáo không có tiền đền thì tổ chức hành nghề công chứng ấy phải

đền thay. Riêng trong trường hợp công chứng viên bị xử tội (đã có hai tội được

áp dụng là tội lợi dụng chức vụ trong khi thi hành công vụ và tội thiếu trách

nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng) thì tòa không yêu cầu công chứng viên phải

chịu trách nhiệm dân sự. Điều đáng nói là chỉ có các công chứng viên là bị cáo

mới được các tòa xác định rõ hành vi vi phạm chiếu theo chức trách của công

chứng viên. Theo BLDS, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được

dựa trên bốn yếu tố là: Có thiệt hại xảy ra; hành vi gây thiệt hại là hành vi trái

pháp luật hoặc vi phạm hợp đồng; có lỗi của người gây thiệt hại; có mối liên hệ

nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật hoăc vi phạm hợp đồng. Đối với

người phạm tội lừa đảo…, do có đủ bốn yếu tố này nên việc buộc bị cáo phải có

nghĩa vụ bồi thường là điều đương nhiên. Thế nhưng đối với nhiều công chứng

viên đã nhận công chứng hợp đồng từ những bị cáo lừa đảo đó, khi bốn yếu tố ấy

không được nhận diện rõ ràng, thuyết phục, lý gì các tòa buộc họ (công chứng

viên) phải bồi thường như thực tế đã được chúng tôi viện dẫn ở trên?

Vì những lý do nêu trên việc nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm bồi thường

thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt

Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng

trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, hoàn trả của công chứng

viên khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, trong khi các quy định của

pháp luật về vấn đề này vẫn còn mang tính nguyên tắc, thiếu sự hướng dẫn cụ thể

nên chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn đặt ra.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Bồi thường thiệt hại nói chung là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hình

thức chế tài bất lợi được áp dụng cho người gây thiệt hại. Do đó, vấn đề trách

10

nhiệm bồi thường thiệt hại được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều

góc độ khác nhau, tuy nhiên nghiên cứu mang tính chuyên ngành về trách nhiệm

bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng có rất ít tài

liệu, công trình nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể như sau:

- Đỗ Văn Đại (2011) “Bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra”, tạp

chí Nghiên cứu lập pháp, (số 14), tr.44-52. Tác giả đã phân tích cơ sở pháp lý,

giải quyết bồi thường thiệt hại và điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường

thiệt hại do công chứng viên gây ra.

- Tuấn Đạo Thanh (2013) “Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm dân sự

trong hoạt động công chứng”, Nxb.Tư pháp, Hà Nội. Tác giả Tuấn Đạo Thanh

đã có những phân tích, luận giải về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công

chứng viên, của tổ chức hành nghề công chứng trên cở sở quy định của pháp luật.

Từ đó tác giả đã có những đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của

pháp luật về vấn đề bồi thường thiệt hại của công chứng viên, tổ chức hành nghề

công chứng.

- Đỗ Văn Đại (2014) “Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam

bản án và bình luận bản án”, tập 1và 2, Nxb.Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh,

TP Hồ Chí Minh,. Thông qua việc phân tích các bản án tác giả đã chỉ ra những

khó khăn, vướng mắc khi giải quyết bồi thường thiệt hại do người làm công gây

ra, do người của pháp nhân gây ra, do công chứng viên gây ra. Tác giả đã phân

tích các khía cạnh pháp lý, có đối chiếu so sánh với pháp luật nước ngoài về cùng

một vấn đề để làm sáng tỏ sự thuyết phục hay không thuyết phục khi áp dụng

pháp luật ở Việt Nam. Đặc biệt tác giả đã đi sâu phân tích trách nhiệm bồi

thường thiệt hại do công chứng viên gây ra.

- Nguyễn Minh Đoan (chủ biên) (2014) “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

về trách nhiệm pháp lý của Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức, cơ quan

Nhà nước ở Việt Nam”, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã phân tích

thực trạng pháp luật Việt Nam quy định về trách nhiệm pháp lý của cán bộ, công

chức, viên chức, cơ quan Nhà nước. Tác giả đã đi phân tích sâu mối quan hệ giữa

cơ quan, đơn vị của cán bộ, công chức, viên chức gây thiệt hại khi thi hành công

vụ với người bị thiệt hại, và mối quan hệ giữa cơ quan, tổ chức với cán bộ, công

11

chức, viên chức có lỗi gây thiệt hại cho người khác trong khi thi hành công vụ.

- Hoàng Văn Hữu (2014) “Trách nhiệm bồi thường do công chứng viên

gây ra trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ,

Đại học Luật Hà Nội. Tác giả có những phân tích, luận giả về trách nhiệm bồi

thường do công chứng viên gây ra trong hoạt động công chứng trên cơ sở theo

quy định LCC năm 2006, BLDS năm 2005. Tuy nhiên, tác giả đã chưa đi sâu

phân tích thực tiễn, bình luận những bản án cụ thể đã xét xử để xác định những

bất cập trong quy định cũng như việc áp dụng pháp luật trong xét xử. Mặc khác,

hiện nay BLDS năm 2015 và LCC năm 2014 có hiệu lực, nên những phân tích,

luận giải đã không còn phù hợp.

Các công trình nêu trên tuy còn ít nhưng là những tài liệu bổ ích, mang tính

lý luận cơ bản, ít nhiều có đề cập đến bồi thường thiệt hại thuộc đối tượng nghiên

cứu của tác giả, giúp tác giả có thêm nhiều thông tin và kiến thức phục vụ cho

việc nghiên cứu đề tài. Do các công trình nghiên cứu trên không nghiên cứu

chuyên sâu về lĩnh vực bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động

công chứng, hoặc có nghiên cứu về lĩnh vực tác giả nghiên cứu thì cũng mới chỉ

phân tích những bất cập bước đầu, chưa đầy đủ và toàn diện và chưa cập nhật

được những quy định mới liên quan (cụ thể LCC năm 2014, BLDS năm 2015…)

về vấn đề tác giả đang nghiên cứu. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài : “Trách nhiệm

bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp

luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” vừa kế thừa những thành

công của những công trình nghiên cứu trước đó nhưng là đề tài nghiên cứu một

cách toàn diện, tổng thể, chuyên sâu về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại

của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam từ

thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh ở cấp độ thạc sĩ.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

Việc nghiên cứu về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên

trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ

Chí Minh” nhằm mục đích xây dựng nền tảng lý luận và thực tiễn về trách nhiệm

bồi thường thiệt hại của công chứng viên góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm

12

nghề nghiệp cho các công chứng viên, giảm thiểu những sai sót gây ra thiệt hại,

tạo an toàn pháp lý cho tất cả mọi người trong hoạt động công chứng và giúp bảo

vệ quyền lợi chính đáng của công chứng viên khi gây ra thiệt hại trong hoạt động

công chứng.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Một là, nghiên cứu những vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận trách nhiệm bồi

thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật

Việt nam. Nghiên cứu xác định bản chất pháp lý của vấn đề trách nhiệm bồi

thường thiệt hại của công chứng viên có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại

theo hợp đồng và cũng có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Hai là, nghiên cứu các quy định pháp luật về trách nhiệm của công chứng

viên trong việc thực hiện chức trách công chứng, các điều kiện phát sinh trách

nhiệm bồi thường của công chứng viên, đối chiếu so sánh giữa quy định của

pháp luật và thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh thông qua bình luận các bản

án của Tòa án nhân dân các cấp tại thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đưa các kiến

nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề đề tài nghiên cứu.

Ba là, nghiên cứu về nghĩa vụ “hoàn trả” của từng loại công chứng viên

đối với tổ chức hành nghề công chứng tương ứng khi tổ chức hành nghề công

chứng đã thực hiện việc bồi thường thiệt hại do lỗi của công chứng viên gây ra

trong hoạt động công chứng.

Bốn là, nghiên cứu về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng

viên và các cơ chế khác có thể đảm bảo trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng

viên.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của

công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam, những

quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường

thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng tại thành phố Hồ Chí

Minh.

13

Phạm vi nghiên cứu

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một dạng của trách nhiệm dân sự.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động công chứng có nội hàm rộng,

bao gồm: trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng

trong hoạt động công chứng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng

viên trong hoạt động công chứng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhân viên

hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức hành nghề công chứng …

Tuy nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi hẹp đó là trách nhiệm bồi thường

thiệt hại của các loại công chứng viên trong khi thực hiện hoạt động công chứng

theo pháp luật Việt Nam và chỉ nghiên cứu đề tài dựa trên các vụ việc cụ thể tại

thành phố Hồ Chí Minh.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Khi thực hiện đề tài tác giả sẽ thực hiện các phương pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp duy vật biện chứng nhằm làm sáng tỏ các mối quan hệ biện

chứng trong quan hệ bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động

công chứng; Phương pháp thư viện nhằm tra cứu, sưu tập các bài viết, bài nghiên

cứu của các tác giả khác để tìm hiểu các quan điểm, tư tưởng khác nhau về vấn

đề đang nghiên cứu. Các phương pháp này được tác giả sử dụng trong suốt quá

trình nghiên cứu.

Phương pháp duy vật lịch sử nhằm làm rõ sự hình thành, phát triển và biến

đổi của quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng

viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam; Phương pháp so sánh;

Phương pháp phân tích, suy luận, tổng hợp; Phương pháp bình luận bản án.

Phương pháp định tính: thông qua việc đối chiếu, so sánh và phân tích

những quy định pháp luật hiện hành, những bất cập hạn chế và thực trạng xác

định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công

chứng, từ đó có những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi

thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Đề tài đưa ra luận cứ khoa học để xác định bản chất pháp lý của vấn đề

trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công

14

chứng là có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và có thể là

trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, tùy thuộc vào nguồn gốc (cơ sở)

phát sinh thiệt hại. Phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt

hại, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên

trong hoạt động công chứng. Từ đó giúp nắm bắt và hiểu được các quy định của

pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt

động công chứng một cách hệ thống. Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật của

cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại

của công chứng viên trong hoạt động công chứng. Thông qua việc đặt câu hỏi

nghiên cứu và trả lời các câu hỏi nghiên cứu. Tác giả đưa ra các luận cứ khoa học

và đề xuất hoàn thiện pháp luật trong phạm vi nghiên cứu của đề tài. Xây dựng

hệ thống lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong

hoạt động công chứng theo pháp luật Việt nam.

Là một công chứng viên đang hành nghề, đề tài này có ý nghĩa ứng dụng rất

cao trong thực tiễn, trong công việc chuyên môn công chứng của tác giả và các

đồng nghiệp, giúp tác giả và các đồng nghiệp nhận thức sâu sắc hơn về nghề

nghiệp của mình, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của mình (công chứng

viên) trong hoạt động công chứng theo quy định pháp luật Việt Nam, góp phần

nâng cao nhận thức trách nhiệm nghề nghiệp của CCV. Từ đó nâng cao cao chất

lượng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Ngoài ra, đề tài còn là tài liệu

tham khảo bổ sung cho mọi người khi nghiên cứu về vấn đề mà đề tài đã giải

15

quyết.

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI

THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT

ĐỘNG CÔNG CHỨNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.1 Khái niệm, đặc điểm và bản chất pháp lý, trách nhiệm bồi thường

thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật

Việt Nam

1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên

trong hoạt động công chứng

Theo từ điển tiếng Việt, “thiệt hại” được hiểu là sự “mất mát về người, của

cải vật chất hoặc tinh thần” [23, tr.943]. Khác với nghĩa thông thường, Từ điển

luật học chỉ rõ “thiệt hại” là “tổn thất về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân

phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân; tài sản, danh

dự, uy tín của pháp nhân… được pháp luật bảo vệ” [87, tr.73]. Như vậy, có thể

đưa ra khái niệm thiệt hại như sau: “Thiệt hại là bất kỳ tổn thất nào mà một

người phải gánh chịu do các quyền, tài sản và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm

phạm hay nói cách khác thiệt hại là bất kỳ sự thay đổi tiêu cực nào đối với các

quyền, tài sản và lợi ích hợp pháp của bên có quyền”.

Theo từ điển luật học thì “bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân

sự nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách

đền bù các tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại” [87,

tr.84]. Luật dân sự quy định “người bị thiệt hại có quyền buộc bên gây thiệt hại

phải bồi thường thiệt hại” [45, khoản 2 Điều 9] và “khi quyền dân sự của cá

nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định

của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm

quyền buộc bồi thường thiệt hại” [64, Điểm 5 Khoản 1 Điều 11], đây là quyền tự

bảo vệ của chủ thể bị thiệt hại.

Thuật ngữ “trách nhiệm” có thể được hiểu theo nhiều nghĩa ở nhiều góc độ

khác nhau. Trong lĩnh vực đạo đức, chính trị “trách nhiệm” được hiểu theo nghĩa

tích cực đó chính là bổn phận, là vai trò của chủ thể xuất phát từ ý thức về vai

trò, vị trí của chủ thể đối với xã hội. Còn trong thuật ngữ pháp lý thì “trách

16

nhiệm” cũng được hiểu theo hai nghĩa khác nhau, nó có thể hiểu là nghĩa vụ là

những yêu cầu mà pháp luật đòi hỏi phải làm, phải tuân thủ trong hiện tại hoặc

trong tương lai. Ở nghĩa thứ hai “trách nhiệm” được hiểu với nghĩa tiêu cực đó

chính là hậu quả bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu khi có hành vi gây thiệt hại

hoặc vi phạm nghĩa vụ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn được hiểu theo

nghĩa thứ hai.“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm của người có

hành vi vi phạm, có lỗi trong việc gây thiệt hại về vật chất, tinh thần phải bồi

hoàn cho người bị thiệt hại nhằm phục hồi tình trạng tài sản, bù đắp tổn thất tinh

thần cho người bị thiệt hại” [87, tr.799]. Như vậy, khi nói bồi thường thiệt hại là

nói đến một hình thức của trách nhiệm dân sự, còn nói trách nhiệm bồi thường

thiệt hại là nói đến hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể gây thiệt hại phải bồi

thường khi gây thiệt hại, hay nói cách khác bồi thường thiệt hại còn được gọi là

trách nhiệm dân sự khi gây thiệt hại.

Trong khoa học pháp lý, căn cứ trên từng tiêu chí nhất định để phân định,

người ta phân loại rất nhiều loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại khác nhau.

Khái quát như sau:

Một là, căn cứ vào nguồn gốc phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Thứ nhất, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách

nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây

ra thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất

mà mình gây ra. Nếu giữa hai bên không tồn tại một hợp đồng nào thì nếu có

thiệt hại xảy ra bao giờ cũng sẽ là những thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng và

bên gây thiệt hại chỉ có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng. Chính vì vậy, bồi thường thiệt hại trong trường hợp hợp đồng vô hiệu, hủy

bỏ hợp đồng và vi phạm đề nghị giao kết hợp đồng là bồi thường thiệt hại ngoài

hợp đồng bởi lẽ hợp đồng chưa được giao kết giữa các bên hoặc được coi là chưa

hề tồn tại; Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng chỉ phát sinh khi có

hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng tức là không thực hiện hoặc thực hiện

không đúng hợp đồng gây ra; Chủ thể gây thiệt hại và người bị thiệt hại chính là

17

các bên trong quan hệ hợp đồng đó.

Thứ hai, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một

loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp

luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của

người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra.

So với trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì trách nhiệm bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng có một số khác biệt như sau: (1) Về cơ sở phát

sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại

trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định.(2) Về điều kiện

phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát

sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là: Có thiệt

hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái

pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi. Tuy nhiên, bồi thường thiệt hại theo hợp

đồng, do cơ sở phát sinh trách nhiệm là do các bên bên thoả thuận nên các bên

cũng có thể thoả thuận đặt ra các điều kiện phát sinh có thể không bao gồm đầy

đủ những điều kiện trên như bên vi phạm hợp đồng không có lỗi cũng vẫn phải

bồi thường thiệt hại… (3) Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường

thiệt hại ngoài hợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp

luật thì còn áp dụng đối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên,

người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp

nhân, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề…. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi

thường thiệt hại theo hợp đồng chỉ có thể áp dụng đối với các bên tham gia hợp

đồng mà không thể áp dụng đối với người thứ ba. (4) Về mức bồi thường: Bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng về nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi

thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong một trường

hợp đặc biệt đó là người gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so

với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ. Còn đối với bồi thường thiệt

hại theo hợp đồng thì các bên có thoả thoả thuận ngay trong hợp đồng về mức

bồi thường bằng, thấp hơn hoặc cao hơn mức thiệt hại xảy ra và khi phát sinh

trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì mức bồi thường sẽ áp dụng mức do các bên

18

thoả thuận.

Việc phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách

nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đặc biệt có ý nghĩa trong việc thực

hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt

hại theo hợp đồng nguyên đơn chỉ cần chứng minh thiệt hại là do người gây thiệt

hại đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng gây ra còn trong

trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bên bị thiệt hại ngoài việc

chứng minh thiệt hại còn phải chứng minh hành vi gây thiệt hại là hành vi trái

pháp luật.

Một vấn đề được đặt ra là trong trường hợp một bên có nghĩa vụ theo hợp

đồng nhưng nghĩa vụ đó cũng được pháp luật quy định thì khi vi phạm những

nghĩa vụ đó sẽ phát sinh trách nhiệm theo hợp đồng hay ngoài hợp đồng và người

bị thiệt hại có thể lựa chọn một trong hai loại trách nhiệm để kiện yêu cầu bồi

thường hay không? Theo tác giả, trong trường hợp các chủ thể trong quan hệ

pháp luật dân sự đã cụ thể hoá những nghĩa vụ do pháp luật quy định vào trong

hợp đồng và thoả thuận đó có thể khác pháp luật thì pháp luật vẫn sẽ tôn trọng sự

thoả thuận của họ nếu thoả thuận đó là không vi phạm điều cấm của pháp luật,

không trái đạo đức xã hội. Chính vì vậy khi phát sinh trách nhiệm thì các bên

cũng chỉ có thể áp dụng một phương thức là kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại

theo hợp đồng chứ không thể tự do lựa chọn phương thức có lợi nhất cho mình.

Ví dụ hành khách bị thiệt hại về tính mạng mà theo hợp đồng vận chuyển hành

khách các bên có thoả thuận mức bồi thường thấp hơn mức bồi thường do pháp

luật quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp bị xâm

phạm về tính mạng thì bên bị thiệt hại cũng chỉ có thể yêu cầu bồi thường theo

hợp đồng mà thôi.

Hai là, căn cứ vào lợi ích bị bị xâm phạm và những thiệt hại xảy ra mà

trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt

hại vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần. (1) Trách nhiệm bồi

thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bồi thường tổn thất vật chất thực tế

được tính thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí

hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc

19

giảm sút. (2) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần được hiểu là người

gây thiệt hại cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự,

nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi,

cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp những tổn thất

về tinh thần cho người bị thiệt hại như sự buồn rầu, lòng đau thương…

Ba là, căn cứ vào nguyên nhân gây ra thiệt hại phân thành trách nhiệm bồi

thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra và trách nhiệm bồi thường thiệt

hại do tài sản gây ra. (1) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con

người gây ra được hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi thiệt hại

xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi của con người gây ra. Trường hợp này người

gây thiệt hại đã thực hiện hành vi dưới dạng hành động hoặc không hành động và

hành vi đó chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. (2) Trách nhiệm bồi

thường thiệt hại do tài sản gây ra là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi

tài sản là nguyên nhân gây ra thiệt hại như hoạt động của nguồn nguy hiểm cao

độ gây thiệt hại, cây cối đổ gẫy gây ra thiệt hại, nhà công trình xây dựng bị sụt,

đổ gây thiệt hại, gia súc gây thiệt hại…

Bốn là, căn cứ vào mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các chủ thể của

trách nhiệm bồi thường thiệt hại phân thành trách nhiệm liên đới và trách nhiệm

riêng rẽ. (1) Bồi thường thiệt hại liên đới được hiểu là trách nhiệm nhiều người

mà theo đó thì mỗi người trong số những người có trách nhiệm phải chịu trách

nhiệm đối với toàn bộ thiệt hại và mỗi người trong số những người có quyền đều

có quyền yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ cho mình. (2) Bồi

thường thiệt hại riêng rẽ là trách nhiệm nhiều người mà theo đó thì mỗi người có

trách nhiệm chỉ phải chịu trách nhiệm đối với phần thiệt hại do mình gây ra và

mỗi người trong số những người có quyền cũng chỉ có quyền yêu cầu người gây

thiệt hại bồi thường những tổn thất mà mình phải gánh chịu.

Năm là, căn cứ vào yếu tố lỗi và mức độ lỗi của cả người gây thiệt hại và

người bị thiệt hại phân thành trách nhiệm hỗn hợp và trách nhiệm độc lập. (1)

Trách nhiệm hỗn hợp là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà trong đó cả người

gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi. (2) Trách nhiệm độc lập là trách

20

nhiệm bồi thường thiệt hại mà người bị thiệt hại là người hoàn toàn không có lỗi.

Sáu là, căn cứ vào chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phân thành

trách nhiệm bồi thường của cá nhân, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của pháp

nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường Nhà nước. (1) Trách nhiệm

bồi thường thiệt hại của cá nhân được hiểu là trách nhiệm dân sự mà theo đó thì

trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cá nhân người gây thiệt hại hoặc đại

diện theo pháp luật của người đó như cha mẹ, người giám hộ; (2) Trách nhiệm

bồi thường thiệt hại pháp nhân và các tổ chức khác được hiểu là trách nhiệm dân

sự phát sinh cho pháp nhân hoặc các tổ chức khác trong trường hợp người của

pháp nhân và các tổ chức gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ pháp nhân

hoặc tổ chức giao cho; (3) Trách nhiệm bồi thường Nhà nước được hiểu là khi

cán bộ, công chức gây thiệt hại thuộc phạm vi bồi thường Nhà nước thì Nhà

nước phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại chứ không phải chính cán

bộ công chức hay cơ quan quản lý cán bộ công chức phải bồi thường.

Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của LCC, được

Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng [60, Khoản 2 Điều 2]

và khi vi phạm quy định của LCC thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị

xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự,

nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật [60, Điều 71].

Từ đó có thể hiểu khái niệm “trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công

chứng viên trong hoạt động công chứng là một hình thức của trách nhiệm dân sự

buộc công chứng viên trong khi thực hiện hoạt động công chứng có lỗi gây thiệt

hại thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra”.

1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng

viên trong hoạt động công chứng

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công chứng có

thể thuộc trường hợp trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, có thể

thuộc trường hợp trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, nên nó vừa

mang những đặc điểm chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng

hoặc ngoài hợp đồng (như: có hành vi trái pháp luật hoặc hành vi vi phạm hợp

đồng, có thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái

21

pháp luật/hành vi vi phạm hợp đồng, có lỗi (hoặc không có lỗi nếu pháp luật có

quy định), ngoài ra nó còn có một số đặc điểm đặc thù của hoạt động công chứng

sau:

Thứ nhất, chủ thể gây thiệt hại phải là CCV và CCV phải gây thiệt hại

trong khi hoạt động nghề công chứng. Nếu CCV gây thiệt hại trong khi không

hoạt động nghề công chứng thì sẽ bị điều chỉnh bởi các các quy định của pháp

luật tương ứng khác;

Thứ hai, hành vi trái pháp luật của CCV trước hết phải được xem xét là

hành vi trái với quy định của LCC và Quy tắc đạo đức nghề công chứng; Hoặc

hành vi vi phạm hợp đồng của CCV là hành vi vi phạm hợp đồng dịch vụ do

CCV, tổ chức hành nghề công chứng đã ký kết với người yêu cầu công chứng

hoặc CCV có lỗi do sơ suất của CCV trong việc tư vấn cho các bên về vấn đề cần

công chứng làm thất lạc giấy tờ cần công chứng, làm thất lạc hồ sơ, giấy tờ của

khách hàng, giao thiếu hồ sơ tài liệu, số bản gốc được công chứng, chậm trễ

trong việc thực hiện nghĩa vụ;

Thứ ba, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV là trách nhiệm bồi

thường được bảo hiểm. BHTNNN của CCV là bảo hiểm bắt buộc;

Thứ tư, bồi thường thiệt hại bao gồm thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, thiệt

hại do sức khoẻ bị xâm phạm, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, thiệt hại do

danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Trong khi đó công chứng là “việc công

chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực,

tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự bằng văn bản, tính chính xác, hợp

pháp không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang

tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt” [60, khoản 1, Điều

2]. Hợp đồng, giao dịch có đối tượng là tài sản hoặc quan hệ nhân thân mang tính

chất tài sản như: quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ…do đó đối tượng bị xâm

phạm trong hoạt động công chứng của CCV có thể là tài sản, quan hệ nhân thân

mang tính chất tài sản.

1.1.3. Bản chất pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công

chứng viên trong hoạt động công chứng

Sau khi đối chiếu các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của

22

CCV, trình tự, thủ tục thực hiện công chứng được ghi nhận tại LCC, chúng ta

thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công chứng có

thể được nhìn nhận như sau: [82, tr.28-36]

Một là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất và trách nhiệm bồi thường

thiệt hại về tinh thần. Do hoạt động công chứng luôn gắn liền, đi đôi với các hợp

đồng giao dịch dân sự … [60, Điều 2] nên thiệt hại vật chất xảy ra trong hoạt

động công chứng là điều dễ hiểu. Tuy có hay không trách nhiệm bồi thường

thiệt hại về tình thần trong hoạt động công chứng hiện nay vẫn là câu hỏi chưa có

trả lời thỏa đáng. Và hiện nay có hai luồng quan điểm về trách nhiệm bồi thường

thiệt hại về tinh thần trong hoạt động công chứng. Quan điểm thứ nhất, cho rằng

không tồn tại thiệt hại về tinh thần trong hoạt động công chứng trong khi quan

điểm thứ hai khẳng định điều ngược lại. Từ khái niệm đã nêu ở mục 1.1.1 về

thiệt hại tinh thần cũng như xuất phát từ thực tiễn, tác giả nghiêng về quan điểm

thứ nhất.

Hai là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra

và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Với khái niệm về công

chứng “là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng

nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn

bản, tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ,

văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng

Việt mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự

nguyện yêu cầu công chứng.” [60, Khoản 1 Điều 2] “. Chúng ta có thể khẳng

định rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công chứng

chỉ có thể là thiệt hại do hành vi của con người gây ra. Thiệt hại của người bị hại

là do do hành vi trái pháp luật của CCV gây ra.

Ba là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên đới và trách nhiệm bồi thường

thiệt hại riêng rẽ. Từ những khái niệm đã nêu ở phần trên thì trách nhiệm bồi

thường thiệt hại của CCV có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên đới và

cũng có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại riêng rẽ. Trường hợp chủ thể gây

ra thiệt hại cho người yêu cầu công chứng, cá nhân, tổ chức khác bao gồm CCV

23

và “người khác” thì đây thuộc trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên đới. Trường

hợp chủ thể gây ra thiệt hại cho người yêu cầu công chứng, cá nhân, tổ chức khác

chỉ có CCV thì thì đây thuộc trách nhiệm bồi thường thiệt hại riêng lẻ.

Bốn là, trách nhiệm hỗn hợp và trách nhiệm độc lập. Trách nhiệm hỗn hợp

là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà trong đó cả người gây thiệt hại và người bị

thiệt hại đều có lỗi. Trách nhiệm độc lập là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà

người bị thiệt hại là người hoàn toàn không có lỗi. Từ cách thức lấy yếu tố lỗi là

làm tiêu chí phân định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như trình tự, thủ tục

công chứng, tác giả thấy rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV hoàn

toàn có thể là trách nhiệm hỗn hợp hay trách nhiệm độc lập.

Năm là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, trách nhiệm bồi

thường thiệt hại của pháp nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường

thiệt hại Nhà nước. Có thể thấy rằng cách thức phân biệt trách nhiệm bồi thường

thiệt hại lấy chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại làm tiêu chí xác định

hiện đang tồn tại một cách rất rõ trong lĩnh vực công chứng. Cụ thể là có cả trách

nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của

pháp nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường Nhà nước hiện hữu trong

hoạt động công chứng. Căn cứ vào khoản 1 Điều 38, Điều 71, Điều 72 LCC

2014, chúng ta thấy rõ sự tồn tại trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân

CCV, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng và

trách nhiệm bồi thường thiệt hại Nhà nước (do có sự tồn tại của PCC của nhà

nước).

Sáu là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Để xem xét bồi thường thiệt hại của CCV là bồi

thường thiệt hại theo hợp đồng hay bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chúng ta

chỉ có thể xác định được khi xem xét về bản chất của hoạt động công chứng theo

quy định của p háp luật Việt Nam:

Hoạt động công chứng ở Việt Nam trước năm 2006 (trước khi LCC năm

2006 có hiệu lực thi hành) luôn mang tính hành chính Nhà nước, công chứng

viên là công chức [83, Khoản 3 điều 1] hoạt động của công chứng viên được xem

là hoạt động công vụ. Khi LCC năm 2006 có hiệu lực đã xuất hiện loại hình

24

VPCC là doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh [48,, khoản 1 Điều 26],

còn PCC là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp [48, Khoản 2 điều 24] [60, khoản

2 điều 19]. Các tổ chức hành nghề công chứng được xác định là một loại dịch vụ

công [71]. Trước năm 2006 công chứng viên chỉ có thể là công chức, nhưng sau

năm 2006 công chứng viên vừa có thể là công chức đối với công chứng viên là

Trưởng PCC [50, Khoản 2 điều 4] [60, Khoản 2 Điều 19] vừa là viên chức [53,

Điều 2] đối với công chứng viên làm việc tại các PCC và công chứng viên với tư

cách là chủ doanh nghiệp, người lao động trong các VPCC. Tính chất của hoạt

động công chứng đã chuyển từ “hành chính Nhà nước” sang “dịch vụ công”.

Hiện nay, có hai loại “chủ thể” có thể bị công chứng viên gây thiệt hại đó là

người yêu cầu công chứng và người thứ ba (cá nhân, tổ chức khác) (khoản 1

Điều 38 LCC năm 2014). Đối với hai loại chủ thể này việc bồi thường thiệt hại là

khác nhau, cụ thể như sau:

Thứ nhất, “bồi thường thiệt hại cho người thứ ba (cá nhân, tổ chức khác)”

thì rõ ràng đây là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng [21, tr.165];

Thứ hai, “bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng” thì hiện nay

còn tồn tại các quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất, cho rằng trách nhiệm

bồi thường thiệt hại của công chứng viên đối với người yêu cầu công chứng là

trách nhiệm bồi thường theo hợp đồng vì giữa công chứng viên và người yêu cầu

công chứng “tồn tại một hợp đồng dịch vụ và thiệt hại (nếu có) phát sinh từ việc

công chứng viên thực hiện hợp đồng” [21, tr.165]. Cùng quan điểm nêu trên

nhưng lại có cách giải thích khác khi cho rằng “dù giữa công chứng viên và

người yêu cầu công chứng không hề tồn tại một bản hợp đồng cụ thể nào nhưng

khi đứng ra cung cấp dịch vụ công chứng theo đề nghị của người yêu cầu công

chứng, có vẻ công chứng viên đã mặc nhiên giao kết một bản hợp đồng theo

những điều khoản, điều kiện đã được quy ước” [82, tr.29]. Quan điểm thứ hai,

cho rằng đây là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bởi “khi công

chứng viên giải quyết một yêu cầu công chứng cụ thể, người yêu cầu công chứng

với công chứng viên hay tổ chức hành nghề công chứng không phải giao kết với

nhau bất kỳ một hợp đồng nào dưới dạng hợp đồng cung cấp dịch vụ” [82, tr.28].

Theo tác giả, như đã phân tích ở mục 1.1.1 về bồi thường thiệt hại ngoài

25

hợp đồng và bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì để xác định bồi thường thiệt

hại của CCV trong hoạt động công chứng đối với người yêu cầu công chứng là

bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay bồi thường thiệt hại theo hợp đồng,

trước tiên cần phải xác định mối quan hệ pháp luật của CCV với người yêu cầu

công chứng là gì, xác lập mối quan hệ này có dựa trên thỏa thuận hoặc hợp đồng

gì không? Trong hoạt động công chứng, khi CCV tiến hành công chứng các hợp

đồng, giao dịch theo Điều 2 LCC năm 2006 và Điều 2 LCC năm 2014 thì giữa

người yêu cầu công chứng với CCV của tổ chức hành nghề công chứng tồn tại

mối quan hệ pháp luật cung cấp dịch vụ công chứng, cụ thể là “Công chứng viên

cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm ( Điều 3, LCC năm 2014); khi đó

người có yêu cầu công chứng nộp một bộ hồ sơ trong đó có “Phiếu yêu cầu công

chứng”. Phiếu yêu cầu công chứng này là bằng chứng cho “thỏa thuận bằng văn

bản” giữa CCV và người yêu cầu công chứng, vì nội dung trong phiếu yêu cầu

công chứng gồm thông tin về họ tên, địa chỉ người yêu cầu công chứng, nội dung

cần công chứng, danh mục giấy tờ gửi kèm theo; tên tổ chức hành nghề công

chứng, họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng, thời điểm tiếp nhận hồ

sơ” [60, Điểm a Khoản 1 Điều]. Như vậy, tồn tại quan hệ pháp luật về cung cấp

dịch vụ công chứng và tồn tại một “thỏa thuận bằng văn bản” giữa người yêu cầu

công chứng với CCV về việc cung cấp dịch vụ công chứng.

Tuy nhiên vấn đề đặt ra là người yêu cầu công chứng có quyền yêu cầu

CCV ký kết với họ một hợp đồng dịch vụ công chứng, trong đó thỏa thuận các

nội dung về việc cung cấp dịch vụ công chứng không? Theo tác giải, người yêu

cầu công chứng có quyền yêu cầu CCV ký kết với “họ” một hợp đồng dịch vụ

công chứng, bởi các lý do sau: thứ nhất, pháp luật nói chung và pháp luật về

công chứng nói riêng không có quy định cụ thể về “hợp đồng dịch vụ công

chứng”, nhưng không có quy định cấm CCV, tổ chức hành nghề công chứng giao

kết hợp đồng dịch vụ với khách hàng; thứ hai, “hợp đồng dịch vụ công chứng” là

một loại hợp đồng cụ thể của “hợp đồng dịch vụ” được quy định trong BLDS

năm 2005 và 2015; thứ ba, cùng là cung cấp các hoạt động bổ trợ tư pháp nên

công chứng có thể áp dụng tương tự các quy định về cung cấp dịch vụ của luật sư

26

như “Luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ pháp lý” [49, Điều

26] hoặc “Luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc

theo phiếu thỏa thuận thực hiện dịch vụ pháp lý” [7, Điều 5].

Như vậy theo tác giả khi thực hiện việc công chứng giữa CCV với người

yêu cầu công chứng tồn tại quan hệ pháp luật về cung cấp dịch vụ công chứng,

tồn tại một “thỏa thuận yêu cầu công chứng” (theo mẫu phiếu yêu cầu công

chứng) hoặc một hợp đồng dịch vụ công chứng (nếu có ký kết theo yêu cầu của

khách hàng công chứng). Ví dụ, về hợp đồng dịch vụ số 01/HĐDV-CC1 mà PCC

số 1 TPHCM có ký với Công ty TNHH Bất Động Sản Thế Kỷ Hoàng Kim (Công

ty) vào ngày 28/10/2016 [Phụ lục số 10], theo đó Công ty sẽ tiến hành ký Hợp

đồng mua 34 căn hộ với khách hàng của Công ty (theo danh sách đính kèm), theo

34 hợp đồng mua bán sẽ do CCV của PCC số 1 công chứng vào ngày

28/10/2016. Cụ thể, PCC số 1 sẽ tiến hành đóng dấu và xuất biên lai thu phí

công chứng, hóa đơn thù lao công chứng sau khi 34 hợp đồng được CCV ký kết

cho Công ty và Công ty sẽ chuyển khoản toàn bộ số tiền phí và thù lao công

chứng của tất cả các hợp đồng nêu trên vào tài khoản của PCC số 1 TPHCM.

Về chủ thể giao kết “thỏa thuận yêu cầu công chứng” theo mẫu phiếu yêu

cầu công chứng hoặc “hợp đồng dịch vụ công chứng”. BLDS năm 2015 quy định

“Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ

thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền

dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ” (Điều 513). Tức là theo quy định của BLDS

thì bên cung ứng dịch vụ có quyền nhận tiền cung ứng dịch vụ do mình cung cấp.

Và theo quy định của LCC năm 2014 thì tổ chức hành nghề công chứng có

quyền “cung cấp dịch vụ công chứng, thu phí công chứng, thù lao công chứng,

chi phí khác, ký hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động với công chứng viên,

quản lý công chứng viên hành nghề tại tổ chức mình; nội dung của phiếu yêu cầu

công chứng bao gồm họ tên người yêu cầu công chứng, tên tổ chức hành nghề

công chứng, họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng.... Nên có thể xác

định tổ chức hành nghề công chứng là chủ thể cung ứng dịch vụ công chứng và

là chủ thể có quyền giao kết “thỏa thuận yêu cầu công chứng” theo mẫu phiếu

27

yêu cầu công chứng hoặc “hợp đồng dịch vụ công chứng”. Và người có quyền

trực tiếp tiếp nhận hồ sơ công chứng theo luật định là CCV (Điều 2 LCC năm

2014 ).

Do vậy, quan điểm của tác giả về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công

chứng viên đối với người yêu cầu công chứng có thể trách nhiệm bồi thường

thiệt hại theo hợp đồng và cũng có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài

hợp đồng tùy thuộc vào nguồn gốc phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là

hành vi vi phạm hợp đồng dịch vụ của CCV (kể cả hợp đồng dịch vụ theo mẫu

thông qua phiếu yêu cầu của người yêu cầu công chứng) hoặc hành vi trái pháp

luật của CCV.

Theo quy định pháp luật Việt Nam vấn đề xác định trách nhiệm bồi thường

thiệt hại của CCV là theo hợp đồng hay ngoài hợp đồng ngoài hợp đồng thì cần

xem xét căn cứ của sự vi phạm ở đây là “nghĩa vụ hợp đồng” hay “quy định pháp

luật”. Theo đó, quan hệ giữa người yêu cầu công chứng và CCV là quan hệ giữa

khách hàng với người cung ứng dịch vụ. Nếu CCV không thực hiên đúng nghĩa

vụ của mình trong hợp đồng dịch vụ thì trách nhiệm bồi thường ở đây là trách

nhiệm theo hợp đồng. Các trường hợp gây thiệt hại phổ biến ở đây có thể là do

việc thực hiện dịch vụ công chứng có lỗi do sơ suất của CCV trong việc tư vấn

cho các bên về vấn đề cần công chứng làm thất lạc giấy tờ cần công chứng, làm

thất lạc hồ sơ, giấy tờ của khách hàng, giao thiếu hồ sơ tài liệu, số bản gốc được

công chứng, chậm trễ trong việc thực hiện nghĩa vụ… thì sẽ phát sinh trách

nhiệm vi phạm hợp đồng, tức là trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng.

Còn nếu việc vi phạm thuộc về quy trình, quy định của pháp luật thì CCV và tổ

chức hành nghề công chứng chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng. Hiện nay, hầu hết các hoạt động công chứng (gồm thủ tục công chứng, thu

phí…) của CCV đều do pháp luật quy định, còn những việc mà CCV được quyền

thỏa thuận với người yêu cầu công chứng như thỏa thuận về thu thù lao công

chứng, chi phí khác, địa điểm, số lượng văn bản công chứng, thời gian giải quyết

hồ sơ… không nhiều, nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt

động công chứng đa số là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chỉ một số ít

28

trường hợp là bồi thường thiệt hại theo hợp đồng.

1.2. Chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại của công chứng viên

trong hoạt động công chứng

1.2.1. Chủ thể gây thiệt hại

LCC quy định “Công chứng viên cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy

nhiệm” [60, Điều 3]; “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành

nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch

dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác,

hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt

sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là

bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ

chức tự nguyện yêu cầu công chứng.”, “tổ chức hành nghề công chứng phải bồi

thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân tổ chức khác do lỗi

mà công chứng viên…gây ra trong quá trình công chứng” [60, Điều 38], đồng

thời quy định trách nhiệm cá nhân của CCV như sau “công chứng viên vi phạm

quy định của Luật này … nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của

pháp luật” [60, Điều 71]. Như vậy, chủ thể gây thiệt hại trong hoạt động công

chứng là CCV của các tổ chức hành nghề công chứng.

CCV là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của LCC, được Bộ trưởng Bộ

Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng. Chỉ có công dân Việt Nam thường

trú tại Việt Nam tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có

đủ các tiêu chuẩn sau đây thì mới được xem xét bổ nhiệm CCV: (i) có bằng cử

nhân luật; (ii) có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại cơ quan, tổ

chức sau khi đã có bằng cử nhân luật; (iii) tốt nghiệp khoá đào tạo nghề công

chứng hoặc hoàn thành khoá bồi dưỡng nghề công chứng; (iv) đạt yêu cầu kiểm

tra kết quả tập sự hành nghề công chứng; (v) đảm bảo sức khoẻ để hành nghề

công chứng. Như vậy CCV phải là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.

CCV chỉ được hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng.

Khi hành nghề CCV ngoài việc phải bồi thường nếu gây thiệt hại ra thì tuỳ

theo tính chất, mức độ vi phạm CCV còn bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành

chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hiện nay đang tồn tại hai loại hình tổ

29

chức hành nghề công chứng là PCC do Nhà nước thành lập và VPCC do các

CCV thành lập. Tương ứng với nó có các CCV hành nghề dưới nhiều danh nghĩa

khác nhau và ngoài LCC, BLDS năm 2015 ra, trách nhiệm bồi thường của CCV

còn được điều chỉnh bởi nhiều nguồn luật khác nhau như sau:

PCC có CCV là công chức đối với Trưởng PCC còn được điều chỉnh bởi

Luật cán bộ, công chức [13, khoản 4 Điều 11]; [2, Điểm d khoản 2 Điều 4], Luật

trách nhiệm bồi thường của Nhà nước [Vấn đề Trưởng PCC gây thiệt hại trong

hoạt động công chứng có áp dụng được Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà

nước hay không sẽ được tác giả giải quyết ở chương 2]; Là viên chức [53, Điều

2] đối với các công chứng viên còn lại còn được điều chỉnh bởi Luật viên chức.

VPCC có CCV là chủ DNTN [48,, Khoản 1 Điều 26] và thành viên hợp

danh [60, Khoản 1 Điều 22] còn được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp; CCV

làm việc theo chế độ hợp đồng cho tổ chức hành nghề công chứng [60, Điểm b

khoản 1 Điều 17] còn được điều chỉnh bởi Bộ luật lao động.

Trong hoạt động công chứng, CCV phải bồi thường thiệt hại do lỗi của

mình gây ra theo quy định về xử lý vi phạm đối với CCV theo Điều 58 LCC năm

2006 và Điều 71 LCC năm 2014. Hiện nay tồn tại nhiều loại CCV khác nhau

đang hành nghề công chứng tại các tổ chức hành nghề công chứng khác nhau. Cụ

thể, bao gồm PCC và VPCC (Khoản 5 Điều 2 LCC năm 2014).

Phòng Công chứng. Do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập, là

đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp có trụ sở, con dấu và tài khoản

riêng; Người đại diện theo pháp luật của PCC là Trưởng phòng. Trưởng PCC

phải là CCV, do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách

chức [60, Điều 19]; PCC có thể được chuyển đổi thành VPCC hoặc bị giải thể

nhưng không thể bị chia tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng.

Văn phòng Công chứng. Được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty

hợp danh và phải có từ hai CCV trở lên. VPCC không có thành viên góp vốn.

Người đại diện theo pháp luật của VPCC là Trưởng Văn phòng. Trưởng VPCC

phải là CCV và đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên. LCC năm 2006 quy

định hai loại hình VPCC đó là : (i) VPCC do một công chứng viên thành lập hoạt

động theo loại hình DNTN [48, Điều 26], loại hình VPCC này trong thời hạn 24

30

tháng kể từ ngày 01/01/2015 phải chuyển đổi thành VPCC hoạt động theo loại

hình công ty hợp danh [60, Khoản 1, Điều 79] theo LCC năm 2014 và; (ii)

VPCC do hai công chứng viên trở lên thành lập và hoạt động theo loại hình công

ty hợp danh. VPCC có thể được chuyển nhượng, hợp nhất, sáp nhập.

Tương ứng với nhiều loại hình tổ chức hành nghề công chứng khác nhau

(PCC và VPCC) là các loại CCV hành nghề dưới các danh nghĩa khác nhau (như

CCV là công chức, viên chức, chủ DNTN, thành viên hợp danh của công ty hợp

danh, CCV làm việc theo chế độ hợp đồng).

1.2.2. Chủ thể bị thiệt hại

LCC năm 2006 quy định tổ chức hành nghề công chứng có nghĩa vụ “bồi

thường thiệt hại do lỗi mà công chứng viên gây ra cho người yêu cầu công

chứng” [48, khoản 5 Điều 31], quy định như vậy cho thấy người bị thiệt hại do

CCV gây ra trong hoạt động công chứng chỉ duy nhất là người yêu cầu công

chứng. Quy định nêu trên đã cho thấy còn thiếu sót bởi CCV không những gây

thiệt hại cho người yêu cầu công chứng mà còn có thể gây thiệt hại cho người

khác (người thứ ba).

Khắc phục thiếu sót nêu trên, LCC năm 2014 quy định về bồi thường trong

hoạt động công chứng như sau: “tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường

thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công

chứng viên…của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng” [60, khoản 1,

Điều 38]. Với quy định này người bị thiệt hại không chỉ là người yêu cầu công

chứng mà còn có cá nhân, tổ chức khác.

Người yêu cầu công chứng. Là cá nhân, tổ chức Việt Nam, hoặc cá nhân,

tổ chức nước ngoài có yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch [60,

Khoản 3 Điều 2]. Như vậy người yêu cầu công chứng có thể là bất kỳ ai, cá nhân,

tổ chức trong nước hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài, đây là các chủ thể tham gia

trong các hợp đồng, giao dịch được công chứng. Trước đây LCC năm 2006 quy

định “người yêu cầu công chứng phải có năng lực hành vi dân sự” [48,, Khoản 2

Điều 8], LCC năm 2014 đã bãi bỏ quy định này bởi vì các chủ thể tham gia hợp

đồng, giao dịch phải đáp ứng đủ điều kiện về chủ thể tương ứng với các hợp

đồng, giao dịch đó, bên cạnh đó khi thực hiện việc công chứng mà CCV có sự

31

nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng thì CCV có

quyền đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của người yêu

cầu công chứng, CCV tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định, trường hợp

không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng. Đối với tổ chức thì tổ chức

hoạt động thông qua người đại diện hợp pháp của tổ chức đó, người đại diện hợp

pháp của tổ chức cũng phải đáp ứng đủ các điều kiện về năng lực hành vi dân sự

của cá nhân.

Cá nhân, tổ chức khác. LCC năm 2014 không cho biết cá nhân, tổ chức

khác là những ai, tuy nhiên đó phải là những cá nhân, tổ chức không trực tiếp

tham gia vào hợp đồng giao dịch được công chứng (hay nói cách khác là người

thứ ba, không phải là người yêu cầu công chứng), họ tuy không tham gia vào hợp

đồng giao dịch được công chứng nhưng việc CCV chứng nhận các hợp đồng giao

dịch làm cho quyền lợi của họ bị ảnh hưởng và gây thiệt hại cho họ thì họ cũng

có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.

1.3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công

chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam

1.3.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Theo quy định BLDS năm 2015, một trong những căn cứ làm phát sinh

nghĩa vụ dân sự là “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” (Điều 275) và tương

ứng với căn cứ này là các quy định tại Chương XX, Phần thứ ba về “Trách nhiệm

bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại

ngoài hợp đồng phát sinh khi có các điều kiện:

1.3.1.1. Có thiệt hại xảy ra

Để được bồi thường thiệt hại, bên bị thiệt hại phải chứng minh được thiệt

hại mà họ phải gánh chịu. Đánh giá vai trò của thiệt hại, Vũ Văn Mẫu đã chỉ ra

thiệt hại là “điều kiện tất yếu của sự bồi thường. Nếu không bị thiệt hại, lẽ tất

nhiên, đơn kiện xin bồi thường sẽ không có lý do và cũng trái với nguyên tắc căn

bản trong luật tố tụng: không có quyền lợi thì không thể hành xử tố quyền” [77,

tr.470]. Thiệt hại là một yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài

hợp đồng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có sự thiệt hại về

tài sản hoặc sự thiệt hại về tinh thần. Sự thiệt hại về tài sản là sự mất mát hoặc

32

giảm sút về một lợi ích vật chất được pháp luật bảo vệ; thiệt hại về tài sản có thể

tính toán được thành một số tiền nhất định. Thiệt hại về tinh thần được hiểu là do

tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt

hại phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy

tín, tín nhiệm, lòng tin… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn

thất mà họ phải chịu. CCV nếu có hành vi vi phạm pháp luật (hành vi trái pháp

luật) thì sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách

nhiệm hình sự nhưng nếu không gây thiệt hại thì chắc chắn sẽ không phải bồi

thường [60, Điều 71].

Theo BLDS 2005 và hướng dẫn của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP

[27] thì “thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm [45,

Điều 608]; thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm [45, khoản 1 Điều 609]; thiệt hại

do tính mạng bị xâm phạm [45, khoản 1 Điều 610]; thiệt hại do danh dự, nhân

phẩm, uy tín bị xâm phạm [45, khoản 1 Điều 611]”; “Thiệt hại do tổn thất về tinh

thần của cá nhân được hiểu là do sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm

phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích

gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình

cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm... và cần phải

được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu. Thiệt hại do tổn

thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân

(gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó

bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin... vì bị hiểu nhầm và cần phải

được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu” [27, Điểm

1.1 khoản 1 mục I]. Dựa trên căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

quy định tại Điều điều 584 mà BLDS năm 2015 quy định về cách xác định thiệt

hại do tài sản bị xâm phạm [64, Điều 589], thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

[64, điều 590], thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm [64, Điều 591], thiệt hại do

danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm [64, Điều 592]. Tuy nhiên, chúng ta có

thể thấy BLDS năm 2015 còn có một loại thiệt hại nữa đó là thiệt hại xảy ra khi

quyền lợi ích hợp pháp khác của cá nhân bị xâm phạm [64, Điều 584].

Lẽ dĩ nhiên là bất cứ sự thiệt hại nào cũng gây ra những tổn thất về tinh

33

thần nhất định cho người bị thiệt hại, như lo nghĩ, buồn phiền…tuy nhiên chỉ

được xem là tổn thất về tinh thần nếu hành vi gây thiệt hại xâm phạm trực tiếp

đến sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tính mạng của người bị thiệt hại. Thiệt

hại về tài sản chỉ có thể là tổn thất tài sản của chính người bị thiệt hại nhưng thiệt

hại về tinh thần còn có thể là sự thiệt hại của những người thân thích, gần gũi của

người bị thiệt hại đặc biệt trong trường hợp tính mạng bị xâm phạm.

Hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên là chứng nhận các hợp đồng

giao dịch, bản dịch, chứng thực bản sao, chứng thực chữ ký nên nó luôn mang

tính tài sản cho nên thiệt hại do công chứng viên gây ra là thiệt hại về tài sản.

Hoạt động công chứng mang tính chất đặc thù, cụ thể nó tác động lên tính

pháp lý của tài sản chứ không tác động trực tiếp lên tài sản cho nên hoạt động

công chứng không thể làm hư hỏng hoặc hủy hoại tài sản, do đó, sẽ không có

thiệt hại do tài sản bị hư hỏng hoặc hủy hoại tài sản, do đó sẽ không có thiệt hại

do tài sản bị hư hỏng hoặc hủy hoại mà chỉ có thiệt hại trong trường hợp tài sản

bị mất.

Những chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại phải là

những chi phí mà người bị thiệt hại phải bỏ ra để ngăn chặn, khắc phục và hạn

chế thiệt hại. Đây phải là những chi phí “thật sự cần thiết mà nếu không áp dụng

thì thiệt hại sẽ lớn hơn” [24, tr.725]

1.3.1.2. Có hành vi trái pháp luật

Hành vi trái pháp luật là “những xử sự cụ thể của con người được thể hiện

thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp

luật” [27, Điểm 1.2 khoản 1 mục I], ngoài ra “hành vi trái pháp luật là hành vi

không phù hợp với những quy định của pháp luật (không thực hiện những gì mà

pháp luật yêu cầu hoặc sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn cho phép của pháp

luật). Những gì mà pháp luật không cấm, không bảo vệ thì dù có làm trái (ví dụ :

trái với các quy định của các tổ chức xã hội, trái các quy định của đạo đức…)

cũng không bị coi là trái pháp luật” [78, tr.409]. BLDS năm 2015 ghi nhận “Việc

xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến

lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người

34

khác.” [64, Điều 3].

Do đó hành vi trái pháp luật có thể được hiểu là những hành vi (hành động

hoặc không hành động) xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng

và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với quy định của pháp luật thì đều

bị xem là hành vi trái pháp luật và phải chăng “chỉ những quyền, lợi ích hợp

pháp được pháp luật bảo vệ thì các hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp

pháp đó mới là hành vi trái pháp luật”? Có những hành vi tuy xâm phạm đến lợi

ích hợp pháp của người khác nhưng không phải là hành vi trái pháp luật như việc

người có thẩm quyền buộc người dân phải di chuyển ra khỏi nhà khi nhà đó có

nguy cơ bị sạt lở do gần bờ sông hay việc bác sĩ buộc phải bỏ thai nhi để cứu tính

mạng của người mẹ…Do đó, có tồn tại những hành vi tuy xâm phạm đến quyền,

lợi ích hợp pháp của người khác nhưng không được xem là hành vi trái pháp luật,

chính vì vậy mà hành vi xâm phạm đó không phải là điều kiện để phát sinh trách

nhiệm bồi thường thiệt hại.

Ở đây có thể thấy muốn xem xét một hành vi nào là trái pháp luật thì điều

kiện đầu tiên phải xem xét là hành vi ấy được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật

nào. Nếu một hành vi đã được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật mà chủ thể

không thực hiện đúng theo quy phạm đó thì được xem là đã thực hiện hành vi trái

pháp luật, ngược lại nếu hành vi của chủ thể chưa được bất kỳ một quy phạm

pháp luật nào điều chỉnh thì hành vi ấy dù có gây ra thiệt hại cũng không bị xem

là hành vi trái pháp luật. Tác giả cũng hoàn toàn đồng ý với ý kiến của tác giả Đỗ

Văn Đại khi cho rằng “quy định của pháp luật phải tồn tại trước khi có xử sự của

con người và chúng ta phải xác định được quy định của pháp luật liên quan rồi

sau đó đối chiếu xử sự của con người với quy định của pháp luật liên quan để xác

định có hay không có hành vi trái pháp luật” [18, tr.60].

Đối với hành vi trái pháp luật của CCV có ý kiến cho rằng “mọi hành vi của

công chứng viên không phù hợp với yêu cầu của pháp luật về công chứng đối

với công chứng viên (trong đó bao gồm cả đạo đức nghề nghiệp) đều được coi là

hành vi trái pháp luật” [19, tr.166] tác giả hoàn toàn đồng ý với ý kiến này. Khảo

sát LCC năm 2014 tác giả nhận thấy có hai loại quy phạm mà khi CCV phạm

35

phải thì được xem là hành vi trái pháp luật, bao gồm :

Các quy phạm cấm. Là những quy phạm pháp luật quy định các hành vi bị

nghiêm cấm đối với CCV, bao gồm các hành vi được quy định tại khoản 1, Điều

7 Luật Công chứng năm 2014.

Các quy phạm về nghĩa vụ và trách nhiệm của công chứng viên. Đây là

những quy phạm bắt buộc CCV phải làm nếu CCV không làm hoặc làm không

đúng thì cũng được xem là “hành vi trái pháp luật”. Trước hết CCV phải tuân thủ

các quy định về trình tự thủ tục công chứng như: CCV phải kiểm tra giấy tờ

trong hồ sơ yêu cầu công chứng; giải thích rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp

pháp, ý nghĩa và hậu qủa pháp lý của việc tham gia hợp đồng, giao dịch cho

người yêu cầu công chứng; nếu CCV có căn cứ cho rằng trong hồ sơ yêu cầu

công chứng có vấn đề chưa rõ, việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị

đe doạ, cưỡng ép, có sự ghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu

công chứng hoặc đối tượng của hợp đồng, giao dịch chưa được mô tả cụ thể thì

đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo để nghị của người yêu cầu

công chứng, CCV tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định. Tuân thủ đúng

các quy định về phạm vi công chứng, thời hạn công chứng, địa điểm công chứng,

chữ viết, ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng. sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản

công chứng…Các nghĩa vụ và trách nhiệm của CCV được thể hiện cụ thể trong

lời chứng của CCV “lời chứng của công chứng viên đối với hợp đồng, giao dịch

phải ghi rõ thời điểm, địa điểm công chứng, họ tên công chứng viên, tên tổ chức

hành nghề công chứng; chứng nhận người tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn

toàn tự nguyện, có năng lực hành vi dân sự, mục đích, nội dung của hợp đồng,

giao dịch không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội, chữ ký hoặc dấu

điểm chỉ của người tham gia hợp đồng, giao dịch là đúng chữ ký hoặc dấu điểm

chỉ của người tham gia hợp đồng, giao dịch” [60, Khoản 1 Điều 46]. Ví dụ, tại

bản án số 376/2019/HSST ngày 09/10/2019, Tòa án TP.HCM đã xác định hành

vi của CCV T là trái pháp luật, do lỗi cẩu thả (không tiến hành xác minh tính thật

giả của giấy tờ tùy thân (CMND). Không làm tròn nghĩa vụ “xác minh” của CCV

36

[Phụ lục số 3]

Qua đó cho thấy “hành vi trái pháp luật” của CCV thể hiện ra bên ngoài

dưới hai dạng hành động hoặc không hành động. “Hành động” biết là bị cấm mà

vẫn làm. “Không hành động” nghĩa vụ phải làm mà không làm.

1.3.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt

hại xảy ra.

Có hành vi trái pháp luật, có thiệt hại xảy ra vẫn chưa đủ điều kiện để làm

phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV. Trách nhiệm bồi thường

thiệt hại của CCV chỉ đặt ra khi hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt

hại, tức phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại đã

xảy ra. Hiện nay, việc đánh giá mối quan hệ nhân quả này thường gặp rất nhiều

khó khăn và luôn mang tính chủ quan.

1.3.1.4. Có lỗi của bên gây thiệt hại

Một người khi ở trong trạng thái nhận thức bình thường thì hoàn toàn có

đầy đủ suy nghĩ để lựa chọn sự xử sự của mình sao cho phù hợp với các quy định

của pháp luật, tuy nhiên họ lại lựa chọn cách xử sự khác và gây thiệt hại thì được

xem là có lỗi. BLDS năm 2015 không cho biết khái niệm thế nào là lỗi, tuy nhiên

lại phân loại lỗi thành hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý, đồng thời nêu khái niệm của

hai loại lỗi này tại khoản 2 Điều 364 như sau “Lỗi trong trách nhiệm dân sự bao

gồm lỗi cố ý, lỗi vô ý. Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của

mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy

không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Lỗi vô ý là trường hợp một

người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải

biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình

có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể

ngăn chặn được”.

Như vậy, lỗi được xem là khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của chủ

thể gây thiệt hại. Nếu một người mà không nhận thức và làm chủ được hành vi

của mình mà có hành vi gây thiệt hại thì được xem là không có lỗi. Lỗi là một

trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng, tuy nhiên “đối với trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt

37

hại cả khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong

trường hợp này được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật

đó”.

Hiện nay, lỗi trong trách nhiệm dân sự ở Việt Nam có hai quan điểm khác

nhau. Quan điểm thứ nhất, cho rằng “lỗi” ở đây được xem là vấn đề nhận thức là

“thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại” [77, tr.265]. “Quan hệ tâm lý

ở đây bao gồm hai yếu tố, đó là lý chí và ý chí. Yếu tố lý chí thể hiện ở nhận thức

thực tại khách quan (nhận thức được hoặc không nhận thức được mặc dù đủ điều

kiện thực tế để nhận thức khả năng gây thiệt hại của hành vi). Yếu tố ý chí thể

hiện năng lực điều khiển hành vi (khả năng kiềm chế hành vi gây thiệt hại hoặc

có khả năng thực hiện hành vi khác phù hợp với pháp luật” [24, tr.715]. Quan

điểm này hoàn toàn giống với khái niệm về lỗi trong khoa học luật hình sự.

Trong khoa học luật hình sự thì lỗi được xem là thái độ tâm lý của con người đối

với hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với hậu quả do hành vi gây ra và quan

hệ tâm lý ở đây cũng bao gồm yếu tố lý trí và yếu tố ý chí, một thể hiện năng lực

nhận thức thực tại khách quan, một thể hiện năng lực điều khiển hành vi trên cở

sở nhận thức [76, tr.101]. Quan điểm thứ hai, dựa trên quan điểm lỗi của Luật La

Mã đó là, lỗi cố ý đã quá rõ ràng cho việc phải chịu trách nhiệm và lỗi vô ý là lỗi

mà không nhìn thấy trước được những gì mà một người chu đáo, cẩn thận có thể

nhìn thấy đồng thời cho rằng trong luật dân sự “không thể coi lỗi là trạng thái

tâm lý, là nhận thức của chủ thể đối với hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra”

và “phải xây dựng khái niệm lỗi dựa trên sự quan tâm, chu đáo của chủ thể đối

với việc thực hiện nghĩa vụ của mình” [40, tr.32-36].

Tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai bởi vì nếu trong luật dân sự xem lỗi

là thái độ tâm lý thì lỗi phải đóng vai trò quyết định trong việc quyết định mức

bồi thường, tuy nhiên có thể trong dân sự lỗi không đóng vai trò miễn trách

nhiệm bồi thường và lỗi cũng có vai trò nhất định trong việc xác định mức bồi

thường. Ngược lại trong hình sự thì lỗi được phân chia rất cụ thể là lỗi cố ý và lỗi

vô ý, trong đó lỗi vô ý được chia thành lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu

thả. Mỗi hình thức lỗi có ý nghĩa quyết định đến việc định tội danh và lượng hình

thậm chí không phải chịu trách nhiệm hình sự. Còn theo quy định BLDS năm

38

2015 tại khoản 2 Điều 585 thì “Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có

thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá

lớn so với khả năng kinh tế của mình.” Tác giả đồng ý với quy định này vì thiệt

hại gây ra phải được bồi thường đầy đủ và kịp thời cho dù người gây thiệt hại có

lỗi cố ý hay vô ý, nhưng với lỗi vô ý thì có ý nghĩa trong việc xem xét việc giảm

mức bồi thường.

Tác giả Đỗ Văn Đại cho rằng “không để yếu tố lỗi ảnh hưởng tới căn cứ

phát sinh trách nhiệm bồi thường mà chỉ để yếu tố này ảnh hưởng đến nội dung

của trách nhiệm bồi thường (tức sau khi trách nhiệm bồi thường đã phát sinh)

như giảm mức bồi thường nếu có lỗi vô ý gây thiệt hại” [18, tr.49-58]. Ý kiến

này đã được tiếp thu vào BLDS năm 2015 “1. Người nào có hành vi xâm phạm

tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp

pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp

Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác” [64, Điều 584]. Vì vậy, theo

quy BLDS năm 2015 thì lỗi không phải là yếu tố ảnh hưởng tới căn cứ phát sinh

trách nhiệm bồi thường mà chỉ để yếu tố này ảnh hưởng đến nội dung của trách

nhiệm bồi thường.

Trong lĩnh vực công chứng thì lỗi luôn được xem là điều kiện bắt buộc phải

có khi có yêu cầu bồi thường thiệt hại bởi “tổ chức hành nghề công chứng phải

bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và các nhân, tổ chức khác do

lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ

chức mình gây ra trong quá trình công chứng” [60, Khoản 1 điều 38]. Như vậy

“lỗi” là điều kiện cần trong bồi thường thiệt hại của CCV. Người bị thiệt hại

không có nghĩa vụ chứng minh CCV có lỗi mà nghĩa vụ chứng minh mình không

có lỗi là nghĩa vụ của CCV. Ví dụ, tại bản án số 376/2019/HSST ngày

09/10/2019, tòa án TP.HCM đã xác hành vi của CCV T là trái pháp luật, do lỗi

cẩu thả (không tiến hành xác minh tính thật giả của giấy tờ tùy thân (CMND).

Không làm tròn nghĩa vụ “xác minh” của CCV [Phụ lục số 3]. Ở đây tòa án đã

xác định lỗi của CCV dựa trên sự quan tâm, chu đáo của CCV đối với việc thực

39

hiện nghĩa vụ của mình như đã phân tích ở trên.

1.3.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp

đồng

Theo quy định BLDS năm 2015 “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên

về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” ( Điều 385).

Hợp đồng hợp pháp là một trong những căn cứ phát sinh nghĩa vụ giữa các bên

chủ thể của hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, khi bên có nghĩa vụ

không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình, thì bên đó sẽ

phải gánh chịu một số hậu quả pháp lý bất lợi mà dưới góc độ khoa học pháp lý

được gọi là trách nhiệm dân sự. Trong đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là

một trong những trách nhiệm dân sự được ghi nhận tại BLDS năm 2015 tại Điều

11. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ (bồi thường thiệt hại

theo hợp đồng) là một trong những nội dung được bổ sung một cách cơ bản so

với quy định tại BLDS 2005. Thay vì chỉ quy định chung trong một điều luật

(Điều 307 BLDS 2005), BLDS năm 2015 dành tới 4 điều luật để quy định về nội

dung này (từ Điều 360 đến Điều 363 BLDS năm 2015). Căn cứ phát sinh trách

nhiệm bồi thường theo hợp đồng gồm: hành vi vi phạm hợp đồng, thiệt hại xảy

ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng với thiệt hại xảy ra và

lỗi của chủ thể gây thiệt hại.

1.3.2.1 Có hành vi vi phạm hợp đồng

Hành vi vi phạm hợp đồng là một căn cứ quan trọng và cần thiết để áp dụng

biện pháp bồi thường thiệt hại. Khi có hành vi không thực hiện nghĩa vụ hợp

đồng hay có hành vi không tôn trọng cam kết (hành vi vi phạm hợp đồng) của

một bên trong quan hệ hợp đồng thì mọi hệ thống pháp luật đều buộc bên có

hành vi vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm dân sự. Ngoài việc đưa ra định

nghĩa “vi phạm nghĩa vụ” và “vi phạm hợp đồng” để chỉ đến mọi hành vi không

thực hiện đúng hợp đồng, pháp luật hợp đồng Việt Nam còn liệt kê các trường

hợp các bên trong quan hệ hợp đồng có những hành xử không đúng cam kết hay

vi phạm hợp đồng gồm: chậm thực hiện nghĩa vụ [64, Điều 353]; không thực

hiện nghĩa vụ giao vật [64, Điều 356]; không thực hiện một công việc hoặc thực

hiện một công việc không được phép thực hiện [64, Điều 358]; chậm thực hiện

40

nghĩa vụ trả tiền [64, Điều 357]; chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ [64,

Điều 355, Điều 359], giao tài sản không đúng số lượng [64, Điều 437], giao vật

không đồng bộ [64, Điều 438], giao tài sản không đúng chủng loại [64, Điều

439], không cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử dụng [64, Điều 443],

không bảo đảm chất lượng vật mua bán [64, Điều 445], không bảo đảm quyền sở

hữu cho bên có quyền [64, Điều 444], … Như vậy, có thể nhận thấy BLDS năm

2015 xem xét hành vi vi phạm hợp đồng dưới góc độ các hành xử không đúng

với nội dung của hợp đồng như không đúng về đối tượng, không đúng về thời

hạn, không đúng về địa điểm…

Nội dung quan trọng hàng đầu của hợp đồng là đối tượng của hợp đồng bởi

nếu thiếu đi nội dung này thì hợp đồng không thể được xác lập. Đối tượng của

hợp đồng hay nói cách khác là đối tượng của nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng có

thể là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc công việc không được thực hiện [64,

khoản 1 Điều 276].

Trong hoạt động công chứng quan hệ giữa người yêu cầu công chứng và

CCV là quan hệ giữa khách hàng với người cung ứng dịch vụ. Như đã phân tích

ở mục 1.1.3. Tồn tại một “thỏa thuận yêu cầu công chứng” hoặc “hợp đồng dịch

vụ công chứng”. Nếu CCV không thực hiên đúng nghĩa vụ của mình được quy

định trong thỏa thuận yêu cầu công chứng” hoặc “hợp đồng dịch vụ công chứng”

thì xem CCV đã có hành vi vi phạm hợp đồng. Trong hoạt động công chứng

hành vi vi phạm phổ biến ở đây có thể là do việc thực hiện dịch vụ công chứng

có lỗi do sơ suất của CCV trong việc tư vấn cho các bên về vấn đề cần công

chứng, làm thất lạc giấy tờ cần công chứng, làm thất lạc hồ sơ, giấy tờ của khách

hàng, giao thiếu hồ sơ tài liệu, số bản gốc được công chứng, chậm trễ trong việc

thực hiện nghĩa vụ…

1.3.2.2. Có thiệt hại xảy ra

Cũng tương tự như mục 1.3.1.1, để được bồi thường thiệt hại, bên bị vi

phạm hợp đồng phải chứng minh được thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Trong

khoa học pháp lý dựa trên lợi ích bị xâm phạm và tổn thất xảy ra, người ta chia

thiệt hại thành thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần. (1) Thiệt hại vật chất,

BLDS năm 2015 quy định “thiệt hại về vật chất” là những “tổn thất vật chất thực

41

tế xác định được bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn

chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút” [64, khoản 2

Điều 361]. Đây là những thiệt hại có thể tính được thành một số tiền nhất định.

So với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã tiến bộ hơn khi bổ sung quy định

“Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra mình sẽ

được hưởng do hợp đồng mang lại” [64, khoản 2 Điều 419]. Với cụm từ “lợi ích

mà lẽ ra mình sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại”, BLDS năm 2015 đã ghi

nhận thiệt hại được bồi thường không chỉ có thiệt hại thực tế mà còn bao gồm cả

khoản lợi bị mất; (2) Thiệt hại về tinh thần, BLDS năm 2015 quy định thiệt hại

về tinh thần là những “tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức

khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác” [64, khoản 3

Điều 361].

Như vậy, có thể thấy BLDS năm 2015 đã loại bỏ những thiệt hại tinh thần

là hệ quả của thiệt hại về tài sản - một loại thiệt hại khá phổ biến mà hành vi vi

phạm hợp đồng có thể gây ra. Điều này còn được minh chứng thông qua quy

định tại các điều từ Điều 590 đến Điều 592, Điều 606, Điều 607 BLDS năm

2015, theo đó bên có hành vi vi phạm phải trả “một khoản tiền khác để bù đắp

tổn thất về tinh thần” cho người bị thiệt hại hoặc cho “những người thân thích

thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại” hoặc “người mà người bị

thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt

hại” trong trường hợp không có những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ

nhất của người bị thiệt hại. Do vậy, sẽ là hoàn thiện hơn nếu BLDS Việt Nam bổ

sung thiệt hại về tinh thần bao hàm cả thiệt hại là hệ quả của thiệt hại về tài sản

do vi phạm hợp đồng gây ra.

1.3.2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và

thiệt hại xảy ra

Mặc dù có hành vi không thực hiện đúng hợp đồng và có thiệt hại xảy ra

nhưng nếu giữa hai yếu tố này không có bất cứ mối liên hệ nào thì trách nhiệm

bồi thường thiệt hại cũng sẽ không được xác lập. Quan hệ nhân quả là điều kiện

làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu là mối quan hệ giữa

nguyên nhân với hậu quả, trong đó nguyên nhân chính là hành vi không thực

42

hiện đúng hợp đồng và hậu quả là những tổn thất mà bên bị thiệt hại phải gánh

chịu. Điều 360 BLDS năm 2015 đã gián tiếp chỉ ra mối quan hệ nhân quả giữa

hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra. Mối quan hệ nhân quả này còn

được Điều 360 BLDS năm 2015 nhấn mạnh qua việc sử dụng kết hợp giữa quan

hệ từ “do” và trạng từ “gây ra” bổ nghĩa cho điều kiện “vi phạm nghĩa vụ”.

1.3.2.4. Có lỗi của bên gây thiệt hại

Việc BLDS năm 2015 không quy định lỗi là căn cứ làm phát sinh trách

nhiệm bồi thường thiệt hại cho thấy pháp luật hợp đồng Việt Nam đã “vượt qua

các thói quen và cách tư duy truyền thống” trong việc xác định các căn cứ làm

phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Có thể nói sự thay đổi này đã góp

phần giúp pháp luật hợp đồng Việt Nam tương tích hơn với luật hợp đồng thế

giới. Bên cạnh đó, sự thay đổi này của BLDS năm 2015 cho phép xác định trách

nhiệm bồi thường thiệt hại của bên vi phạm hợp đồng khi có hành vi thực hiện

nghĩa vụ hợp đồng không đúng mà không đòi hỏi phải tìm hiểu trạng thái tâm lý

của bên gây thiệt hại hay tìm kiếm nguyên nhân dẫn đến việc không thực hiện

đúng hợp đồng. Việc không ghi nhận lỗi là một trong các căn cứ áp dụng biện

pháp bồi thường thiệt hại của BLDS năm 2015 và một số hệ thống pháp luật

không có nghĩa là yếu tố lỗi hoàn toàn bị bỏ trong bồi thường thiệt hại mà thực

chất yếu tố lỗi đã được ngầm định trong tiêu chí đánh giá hành xử của các bên

trong quan hệ hợp đồng và do vậy bên vi phạm hợp đồng được suy đoán là có

lỗi.

Tuy nhiên, khoa học pháp lý cũng chỉ ra trong những trường hợp nhất định

để áp dụng biện pháp bồi thường thiệt hại, pháp luật đòi hỏi phải chứng minh bên

vi phạm hợp đồng có lỗi. Tùy thuộc vào mỗi hệ thống pháp luật mà lỗi của bên vi

phạm hợp đồng được thể hiện qua việc thiếu sự cẩn trọng, cần mẫn cần thiết hay

thiếu sự cẩn trọng hợp lý và có kỹ năng trong việc thực hiện nghĩa vụ. Dựa trên

các nguyên tắc được ghi nhận tại khoản 2 và khoản 5 Điều 3 BLDS năm 2015

cũng như các quy định về trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ,

có thể nhận thấy BLDS năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc suy đoán lỗi trong

trách nhiệm bồi thường thiệt hại, có nghĩa là bên có nghĩa vụ không thực hiện

đúng nghĩa vụ đã cam kết thì bị suy đoán là có lỗi và phải chịu trách nhiệm bồi

43

thường thiệt hại. Tương tự luật của Pháp và luật của Anh, BLDS năm 2015 cũng

ghi nhận ngoại lệ của nguyên tắc này thông qua quy định “trừ trường hợp có

thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.

Nói cách khác, về nguyên tắc trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm

hợp đồng theo BLDS năm 2015 là trách nhiệm nghiêm ngặt và việc chứng minh

bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng có lỗi là không cần thiết bởi yếu tố lỗi đã được

hợp nhất trong hành vi vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật hợp đồng Việt

Nam cũng ghi nhận trường hợp ngoại lệ, theo đó trách nhiệm bồi thường thiệt hại

do vi phạm hợp đồng được xác định dựa trên lỗi. Cụ thể, khoản 1 Điều 38 LCC

năm 2014 có quy định “ Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt

hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công

chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình

gây ra trong quá trình công chứng”.

1.4. Các biện pháp bảo đảm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng

viên

BLDS năm 2015 quy định “Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ

và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường

bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường

một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” (khoản 3

Điều 361). Quy định này cho thấy trách nhiệm bồi thường là trách nhiệm mang

tính tài sản nhằm khôi phục lại tình trạng của tài sản của người bị thiệt hại. Tuy

vậy, không phải lúc nào việc khôi phục tình trạng tài sản bị thiệt hại cũng đem

đến một kết quả như mong muốn vì có nhiều nguyên nhân khiến cho người gây

thiệt hại không thể bồi thường và người bị thiệt hại không thể khôi phục tình

trạng ban đầu của tài sản.

Bên cạnh đó nếu xem trách nhiệm bồi thường thiệt hại như là “nghĩa vụ bồi

thường thiệt hại” [77, tr.257] thì nghĩa vụ ấy cũng cần có các cơ chế về bảo đảm

thực hiện nghĩa vụ nhằm đảm bảo quyền lợi và khắc phục tình trạng tài sản cho

người bị thiệt hại. Hiện nay, chúng ta có 9 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

dân sự bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặc cọc, ký cược, ký quỹ, bảo

lãnh, tín chấp, bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản (Điều 292 BLDS năm

44

2015). Tuy nhiên LCC không lựa chọn bất kỳ biện pháp bảo đảm nào trong 9

biện pháp bảo đảm nêu trên mà lại chọn một biện pháp bảo đảm khác khác đó là

bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV.

Trước năm 2006 vấn đề BHTNNN của CCV chưa được đặt ra, từ năm 2006

đến năm 2014 việc mua BHTNNN của CCV là nghĩa vụ của VPCC [48, Khoản 7

Điều 32] mà không quy định đối với PCC. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi LCC ra

đời năm 2006 giữa lúc CCV trong các PCC vẫn đang là công chức, Luật cán bộ,

công chức; Luật viên chức; Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đều được

ban hành sau LCC năm 2006. LCC năm 2014 đã tháo gỡ quy định bất bình đẳng

này “BHTNNN của công chứng viên là loại hình bảo hiểm bắt buộc. Việc mua

BHTNNN cho công chứng viên phải được duy trì trong suốt thời gian hoạt động

của tổ chức hành nghề công chứng”, đồng thời việc mua bảo hiểm nghề nghiệp

cho CCV là nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng [60, Điều 37].

Theo tác giả Trần Văn Liêm, pháp luật của Việt Nam Cộng hoà trước đây

quy định Chưởng khế phải ký quỹ từ 10.000 đồng đến 30.000 đồng để đảm bảo

các lỗi lầm trong khi hành sự, tiền ký quỹ sẽ hoàn lại cho chưởng khế 10 năm sau

ngày thôi việc [59, tr.162]. Quy định này đảm bảo cho người bị thiệt hại có cơ

hội được bồi thường ngay cả khi chưởng khế đã thôi việc một khoảng thời gian

rất dài.

Ở Pháp CCV cũng là người thực hiện dịch vụ công và cũng do Bộ trưởng

Bộ Tư pháp bổ nhiệm, tuy nhiên CCV ở Pháp là những người hành nghề tự do,

tự trang trải hoàn toàn trong khi hành nghề, từ việc mua sắm, quản lý cơ sở vật

chất của VPCC do mình lập ra, thuê trụ sở, trả lương cho nhân viên… và phải

chịu trách nhiệm bằng toàn bộ khối tài sản riêng của mình. Hoạt động nghề

nghiệp của công chứng viên không thể tránh được những sai sót gây thiệt hại,

cho khách hàng dẫn đến phải bồi thường, đây được xem là những rủi ro pháp lý.

Vì được xem là những rủi ro nên nhà nước Pháp mong muốn có một cơ chế bảo

đảm rủi ro nhằm đảm bảo rằng khách hàng sẽ luôn nhận được bồi thường khi họ

bị công chứng viên gây thiệt hại và BHTNNN là biện pháp được lựa chọn để

đảm bảo rủi ro [29, tr.47-52].

Hợp đồng bảo hiểm là biện pháp bảo đảm giúp cho CCV khắc phục được

45

những thiệt hại do mình hoặc nhân viên dưới quyền gây ra. Việc bảo hiểm này có

hai khía cạnh, khía cạnh thứ nhất đó là khía cạnh thay thế trách nhiệm, công ty

bảo hiểm sẽ có trách nhiệm thay thế người được bảo hiểm để giải quyết việc bồi

thường trong phạm vi hợp đồng bảo hiểm đã ký kết, ở khía cạnh thứ hai đó là

hợp đồng bảo hiểm bảo đảm cho người bị thiệt hại được bồi thường ngay cả khi

người gây thiệt hại bị vỡ nợ hoặc không có khả năng bồi thường. Khía cạnh thứ

hai là rất quan trọng bởi nó mang lại sự an toàn tuyệt đối cho khách hàng của

CCV.

Qua đó cho thấy vấn đề bảo đảm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV luôn

được đặt ra, cho dù bằng bất cứ biện pháp bảo đảm nào thì quyền lợi của người

yêu cầu công chứng và các chủ thể khác luôn cần được bảo vệ. CCV còn được

xem như là “Thẩm phán phòng ngừa” cho nên bằng việc đảm bảo an toàn tuyệt

đối cho các giao dịch dân sự thì các CCV mới hoàn thành tốt chức năng xã hội

của mình là “phòng ngừa tranh chấp, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của cá nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế - xã hội” [60, Điều 3].

Hiện nay, BHTNNN của CCV được quy định chi tiết tại Nghị định số

29/2015/NĐ-CP, gồm nguyên tắc tham gia bảo hiểm (Điều 19 ); phạm vi bảo

hiểm (Điều 20); điều kiện bảo hiểm (Điều 21); phí bảo hiểm (Điều 22).

1.5. Vấn đề trách nhiệm hoàn trả của công chứng viên.

CCV là chủ thể gây thiệt hại nhưng chủ thể phải bồi thường là tổ chức hành

nghề công chứng, tuy nhiên không phải là tổ chức hành nghề công chứng bồi

thường cho người bị thiệt hại xong thì CCV hết trách nhiệm. LCC năm 2014 quy

định “công chứng viên…gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền cho tổ chức

hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại

theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề

công chứng có quyền yêu cầu Toà án giải quyết” [60, khoản 2 Điều 38]. Quy

định này cũng tương đồng với một số quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng trong một số trường hợp cụ thể trong BLDS năm 2015 như bồi thường thiệt

hại do người của pháp nhân gây ra [64, Điều 597]; bồi thường thiệt hại do người

thi hành công vụ gây ra [64, Điều 598]; Nó tương đồng ở chỗ là chủ thể gây

46

thiệt hại không trực tiếp bồi thường cho người bị thiệt hại mà thông qua một chủ

thể khác là pháp nhân, là Nhà nước, là cơ quan tiến hành tố tụng, là cá nhân sử

dụng người làm công, người học nghề…

Tuy nhiên, cơ chế hoàn trả của CCV gây thiệt hại và các chủ thể gây thiệt

hại trong các điều luật nêu trên (cán bộ, công chức, viên chức, người có thẩm

quyền của cơ quan tiến hành tố tụng) khác nhau ở chỗ người gây thiệt hại là

CCV gây thiệt hại và tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường có thể thoả

thuận về mức, cách thức, phương thức hoàn trả, nếu không hoàn trả thì tổ chức

hành nghề công chứng đã bồi thường có quyền khởi kiện yêu cầu toàn án giải

quyết – theo cơ chế dân sự và tố tụng dân sự. Ngược lại người gây thiệt hại là

cán bộ, công chức, viên chức, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố

tụng gây ra thì trách nhiệm hoàn trả được qua cơ chế lập Hội đồng xem xét việc

hoàn trả, nếu người gây thiệt hại không đồng ý thì được quyền khiếu nại, hoặc

khởi kiện vụ án hành chính- theo cơ chế hành chính và tố tụng hành chính. Đối

với người gây thiệt hại là người của pháp nhân thì có thể theo cơ chế dân sự hoặc

theo cơ chế hành chính tuỳ thuộc vào pháp nhân đó là cơ quan nhà nước, hay tư

nhân. Khi xem xét trách nhiệm hoàn trả cần được xem xét dưới hai góc độ, góc

độ thứ nhất là có phải trong mọi trường hợp thì CCV phải hoàn trả hay không?

Khi nào hoàn trả một phần, khi nào hoàn trả toàn bộ thiệt hại? Nếu số tiền bảo

hiểm của CCV lớn hơn thiệt hại phải bồi thường thì vấn đề hoàn trả có được đặt

ra hay không và ngược lại nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn thiệt hại thì trách nhiệm

hoàn trả được xem xét như thế nào? Liệu CCV có được xem xét miễn, giảm số

tiền phải hoàn trả hay không? Góc độ thứ hai là xem xét thủ tục hoàn trả, như đã

phân tích ở trên các CCV hoạt động dưới nhiều danh nghĩa khác nhau do đó còn

được điều chỉnh bởi các luật khác nhau. Hiện nay thủ tục hoàn trả cũng được quy

định ở nhiều văn bản khác nhau như Luật viên chức, Luật trách nhiệm bồi

thường của Nhà nước. Thủ tục hoàn trả theo Luật viên chức có thể áp dụng cho

các CCV là viên chức làm việc tại PCC, nhưng thủ tục hoàn trả của CCV là công

chức, chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, CCV làm việc theo chế độ

hợp đồng lại không có quy định. Điều đó cho thấy những bất cập về mặt lý luận

47

lẫn thực tiễn mà tác gỉa sẽ phân tích kỹ hơn ở chương 2.

48

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong chương 1 tác giả đã trình bày khái quát những vấn đề lý luận chung

về bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt

Nam. Những vấn đề chương 1 đã giải quyết được là:

Vấn đề về khái niệm, đặc điểm và bản chất pháp lý về bồi thường thiệt hại

của CCV trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam có thể bồi thường

thiệt hại theo hợp đồng và cũng có thể là bồi thường ngoài hợp đồng. Việc xác

định là bồi thường thiệt hại theo hợp đồng hay ngoài hợp đồng dựa vào nguồn

gốc (cơ sở) phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại: (1) nếu thiệt hại do hành

vi vi phạm hợp đồng dịch vụ hoặc thỏa thuận cung cấp dịch vụ theo phiếu yêu

cầu công chứng thì là bồi thường thiệt hại theo hợp đồng; (2) trường hợp còn lại,

nếu thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra thì là BTTH ngoài hợp đồng. Luận

giải vấn đề này trên quan điểm của cá nhân tác giả, là quan điểm mới so với đa

số các nghiên cứu trước đây về bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động

công chứng, những nghiên cứu trước đây có quan điểm cho rằng bồi thường thiệt

hại của CCV trong hoạt động công chứng là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;

Phân tích về mặt lý luận các chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại của

CCV trong hoạt động công chứng, gồm: (1) chủ thể gây thiệt hại là các CCV

(CCV là công chức, viên chức, chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh,

làm việc theo chế độ hợp đồng lao động); (2) chủ thể bị thiệt hại là người yêu cầu

công chứng hoặc cá nhân, tổ chức khác (người thứ ba); (3) chủ thể phải bồi

thường là tổ chức hành nghề công chứng; (4) chủ thể phải hoàn trả là các CCV;

Phân tích những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo

hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng của CCV trong hoạt động công chứng, gồm: (1)

thiệt hại; (2) hành vi vi phạm hợp đồng hoặc hành vi trái pháp luật; (3) mối quan

hệ nhân quả giữa thiệt hại đã xảy ra và hành vi vi phạm hợp đồng hoặc hành vi

trái pháp luật; (4) lỗi của CCV;

Khái quát chung về biện pháp bảo đảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của

49

CCV trong hoạt động công chứng và trách nhiệm hoàn trả của CCV.

Những nghiên cứu ở chương 1 sẽ làm cở sở lý luận để tác giả đi sâu phân

tích, đặt ra các vấn đề cần phải giải quyết, những bất cập và kiến nghị hoàn thiện

50

pháp luật tại chương 2.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI

THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT

ĐỘNG CÔNG CHỨNG TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ

MINH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

2.1. Về vấn đề bồi thường thiệt hại của các loại công chứng viên

2.1.1. Đối với công chứng viên là công chức

Bồi thường thiệt hại do công chức gây ra sẽ được điều chỉnh bởi BLDS và

Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; Luật cán bộ, công chức không quy

định vấn đề bồi thường thiệt hại của cán bộ, công chức. Cụ thể, BLDS năm 2015

quy định “cơ quan Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái

pháp luật của người thi hành công vụ gây ra theo quy định của Luật trách nhiệm

bồi thường của Nhà nước” (Điều 598); Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà

nước năm 2017 quy định “Luật này quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà

nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong

hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án; thiệt hại được bồi

thường…” ( Điều 1). Như vậy, chủ thể gây thiệt hại theo quy định BLDS năm

2015 và Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 là “người thi hành

công vụ”.

Luật dân sự không cho biết thế nào là công vụ, nhưng theo từ điển luật học

thì công vụ được hiểu là “công việc mang tính nhà nước vì lợi ích xã hội, lợi ích

nhà nước, lợi ích chính đáng của công dân có tính chuyên nghiệp, chủ yếu do

cán bộ, công chức nhà nước thực hiện. Công vụ mang tính tổ chức và tuân thủ

những quy chế bắt buộc, theo trật tự, có tính thứ bậc chặt chẽ, chính quy và liên

tục, được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước” [87, tr.190]. Đồng thời theo tác giả

Nguyễn Cảnh Hợp thì “công vụ không bao gồm hoạt động trong các đơn vị sự

nghiệp công lập mà chỉ gồm hoạt động trong các cơ quan và bộ máy giúp việc

của Đảng, hoạt động trong cơ quan nhà nước các cấp và trong các tổ chức chính

trị-xã hội. Nói cách khác hoạt động sự nghiệp không thuộc khái niệm công vụ

nữa” [34, tr.16].

Trong khi đó công chứng là “việc công chứng viên của một tổ chức hành

51

nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng giao dịch

dân sự khác bằng văn bản, tính chính xác, tính hợp pháp, không trái đạo đức xã

hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ

tiếng nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định của pháp luật phải công

chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng” [60, Khoản 1, điều

2] và “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các

bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của

mình thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định của pháp

luật” [60, Khoản 2, Điều 5]. Như vậy hoạt động công chứng của CCV không thể

là “hoạt động công vụ”, mặc dù hoạt động công chứng mang tính quyền lực

công, bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng và lợi ích chính đáng của công

dân nhưng nó không mang tính thứ bậc hành chính, không mang tính mệnh lệnh

bắt buộc và đặc biệt nó không đương nhiên được đảm bảo thi hành bằng quyền

lực Nhà nước.

Theo phân tích ở trên thì hoạt động hành nghề công chứng của Trưởng

phòng của PCC không phải là hoạt động công vụ và cũng không phải là hoạt

động quản lý hành chính, càng không phải là hoạt động tố tụng hay hoạt động thi

hành án. Do đó, nếu Trưởng phòng của PCC gây thiệt hại trong khi hành nghề

công chứng không thể áp dụng Điều 598 BLDS năm 2015 và Luật trách nhiệm

bồi thường của Nhà nước để giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại. Vậy “nó”

được điều chỉnh theo quy định pháp luật nào thì hiện nay vẫn chưa có lời giải đáp

thỏa đáng [82, tr.87].

Về trách nhiệm hoàn trả của công chức. Luật trách nhiệm bồi thường của

Nhà nước năm 2017 quy định “Người thi hành công vụ có lỗi gây thiệt hại có

nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một phần hoặc toàn bộ số tiền mà Nhà

nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại” [67, Khoản 1 Điều 64]. Những quy

định này tương đồng với quy định về trách nhiệm hoàn trả của CCV được quy

định tại LCC năm 2014 đó là “công chứng viên gây thiệt hại phải hoàn trả một

khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường

cho người bị thiệt hại” (khoản 2 Điều 38).

BLDS năm 2015 không quy định về thủ tục hoàn trả. Nhưng Luật trách

52

nhiệm bồi thường của Nhà nước thì lại quy định rất chi tiết trách nhiệm hoàn trả

của người thi hành công. Về trách nhiệm hoàn trả, Luật trách nhiệm bồi thường

của Nhà nước năm 2009 quy định trong tố tụng hình sự, nếu người thi hành công

vụ có lỗi vô ý gây thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm hoàn trả thì Luật trách

nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 quy định người thi hành công vụ nếu

có lỗi gây thiệt hại thì phải có nghĩa vụ hoàn trả. Luật năm 2017 còn tăng mức

hoàn trả với tỷ lệ tương ứng mức độ lỗi và số tiền mà Nhà nước đã bồi thường,

theo đó: Người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây thiệt hại nhưng chưa đến mức bị

truy cứu trách nhiệm hình sự thì mức hoàn trả từ 30 đến 50 tháng lương của

người đó; người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây thiệt hại thì mức hoàn trả từ 03

đến 05 tháng lương của người đó [32].

2.1.2. Đối với công chứng viên là viên chức

Viên chức là “công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm

việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương

từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [53,

Điều 2]. Như vậy, đối với các PCC thì trừ Trưởng PCC là công chức ra các CCV

còn lại của PCC đều là viên chức và CCV là viên chức này hoàn toàn thoả mãn

điều kiện để áp dụng các quy định của Luật viên chức. Khác với Luật cán bộ,

công chức, Luật viên chức đã dành một điều luật để quy định về trách nhiệm bồi

thường, hoàn trả của viên chức, theo đó “1.Viên chức làm mất, hư hỏng trang bị,

thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của đơn vị sự nghiệp công lập

thì phải bồi thường thiệt hại. 2. Viên chức khi thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ

được phân công có lỗi gây thiệt hại cho người khác mà đơn vị sự nghiệp công

lập phải bồi thường thì có nghĩa vụ hoàn trả cho đơn vị sự nghiệp công

lập”(Điều 55).

Luật viên chức đã phân hoá rõ ràng khi nào thì viên chức phải bồi thường,

khi nào viên chức phải hoàn trả. Khái niệm “bồi thường” của viên chức được

hiểu ở hai góc độ. Góc độ thứ nhất, viên chức phải “bồi thường” cho đơn vị sự

nghiệp công lập nơi mình làm việc nếu viên chức làm mất, hư hỏng trang bị, thiết

bị, hoặc có hành vi khác làm thiệt hại tài sản của đơn vị. Góc độ thứ hai, viên

chức gây thiệt hại cho người khác thì đơn vị sự nghiệp công lập phải “bồi

53

thường” và viên chức gây thiệt hại phải hoàn trả. Quy định ở góc độ thứ hai khá

tương đồng với quy định về bồi thường và hoàn trả của CCV được quy định tại

khoản 2 Điều 38 LCC năm 2014.

Về trách nhiệm hoàn trả của CCV là viên chức. Viên chức phải “hoàn trả”.

[14, Điều 25] thì nếu viên chức không có khả năng bồi thường một lần thì bị trừ

20% (hai mươi phần trăm) tiền lương hàng tháng cho đến khi bồi thường đủ theo

quyết định của người có thẩm quyền [14, Khoản 2 Điều 25]; nếu viên chức gây

thiệt hại thuyên chuyển công tác, nghỉ hưu hay thôi việc thì phải hoàn thành việc

bồi thường trước khi thuyên chuyển, nghỉ hưu hay thôi việc; nếu không đủ khả

năng bồi thường, hoàn trả thì đơn vị sự nghiệp công lập quản lý viên chức có

trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị mới hoặc chính quyền địa

phương nơi viên chức cư trú tiếp tục thu tiền bồi thường, hoàn trả cho đến khi

thu đủ theo quyết định của người có thẩm quyền [14, Khoản 3 Điều 25]; nếu đơn

vị sự nghiệp công lập quản lý viên chức bị giải thể, sáp nhập thì cơ quan, tổ chức,

đơn vị kế thừa đơn vị bị giải thể, sáp nhập có trách nhiệm tiếp tục thu tiền bồi

thường, hoàn trả cho đến khi thu đủ theo quyết định của người có thẩm quyền.

Bên cạnh đó trách nhiệm hoàn trả của viên chức được xác định trên cơ sở số tiền

mà đơn vị sự nghiệp công lập đã bồi thường cho người bị thiệt hại do viên chức

gây ra trong khi thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được phân công [14, Khoản

2 Điều 31]. Với quy định về hoàn trả của viên chức như vậy ta có thể hiểu là viên

chức phải hoàn trả “toàn bộ” số tiền mà đơn vị sự nghiệp đã bồi thường cho

người bị thiệt hại. Như vậy rõ ràng khi CCV hoàn trả với tư cách là viên chức thì

sẽ phải hoàn trả “toàn bộ” thiệt hại.

Để quyết định được mức và phương thức bồi thường thiệt hại, hoàn trả cho

đơn vị phải căn cứ vào lỗi, tính chất của hành vi gây thiệt hại, mức độ thiệt hại

tài sản thực tế gây ra, việc ra quyết định bồi hoàn phải đảm bảo nguyên tắc khách

quan, công bằng và công khai. Để buộc viên chức có trách nhiệm hoàn trả cho

đơn vị sự nghiệp công lập thì trên thực tế đơn vị này phải đã bồi thường cho

người bị thiệt hại bởi một bản án có hiệu lực pháp luật của Toà án, tức trách

nhiệm bồi hoàn chỉ được đặt ra khi đơn vị sự nghiệp công lập đã thực hiện xong

54

nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại.

Trong vấn đề này tồn tại hai mối quan hệ, mối quan hệ thứ nhất, là mối

quan hệ bên ngoài giữa đơn vị sự nghiệp công lập và người bị viên chức gây thiệt

hại và mối quan hệ thứ hai là mối quan hệ bên trong (nội bộ) giữa đơn vị sự

nghiệp công lập và viên chức gây thiệt hại. Mối quan hệ thứ nhất là mối quan hệ

bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của pháp luật dân sự, mối

quan hệ thứ hai mang tính hành chính theo quyết định của người đứng đầu đơn vị

sự nghiệp công lập hoặc cấp có thẩm quyền.

Ở mối quan hệ thứ nhất, ta thấy BLDS không có điều khoản nào quy định

về bồi thường thiệt hại do viên chức gây ra. Tuy nhiên BLDS năm 2015 vẫn có

những quy định gần gũi với quy định bồi thường thiệt hại của viên chức đó là đó

là bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra (Điều 597) và bồi thường

thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra (Điều 600). Với quy định tại

Nghị định số 27 thì “viên chức khi thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được phân

công có lỗi gây thiệt hại cho người khác thì đơn vị sự nghiệp công lập phải bồi

thường thiệt hại do viên chức thuộc quyền quản lý gây ra theo quy định của pháp

luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” [14, khoản 2

Điều 24] thì khi viên chức gây thiệt hại mà đơn vị sự nghiệp công lập phải bồi

thường thì điều luật nào trong chương về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của

BLDS năm 2015 sẽ được áp dụng Điều 597 hay Điều 600? BLDS năm 2015

không có quy định nào về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do viên chức gây

ra.

2.1.3. Đối với công chứng viên là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên

công ty hợp danh

VPCC hoạt động với hai loại hình (1) DNTN và (2) công ty hợp danh (Điều

26 LCC năm 2006 và năm 2014)). Do đó cũng có CCV là chủ DNTN và CCV là

thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Đến nay (năm 2020), loại hình VPCC

là DNTN không còn tồn tại và bắt buộc phải chuyển đổi thành công ty hợp danh

[60, Khoản 1 Điều 79]. Khi những người này gây thiệt hại thì điều luật nào được

áp dụng? Khảo sát toàn bộ mục 3 chương XX BLDS năm 2015 ta thấy có hai

điều luật liên quan, đó là bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra

55

(Điều 597) và bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra

(Điều 600). Tuy nhiên, chủ DNTN và thành viên hợp danh của công ty hợp danh

rõ ràng không thể là người làm công, người học nghề được, do vậy Điều 600

BLDS năm 2015 sẽ không được áp dụng trong trường hợp này. Điều 597 BLDS

năm 2015 quy định “Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây

ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi

thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải

hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.” Quy định này cũng tương

đồng với quy định về bồi thường thiệt hại của CCV quy định tại Điều 38 LCC

năm 2014. Tuy nhiên quy định nêu trên có hai khái niệm cần được làm rõ là

“pháp nhân” và “người của pháp nhân”.

BLDS năm 2015 quy đinh “Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi

có đủ bốn điều kiện sau đây (a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này,

luật khác có liên quan; (b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ

luật này; (c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách

nhiệm bằng tài sản của mình; (d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật

một cách độc lập” (Điều 74).

Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định về các loại hình doanh nghiệp trong

đó có công ty hợp danh và DNTN, tuy nhiên luật chỉ quy định “Công ty hợp

danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh

nghiệp” ( Khoản 2, Điều 172), còn tư cách pháp nhân của DNTN thì không được

đề cập đến, căn cứ vào quy định tại Điều 74 của BLDS năm 2015 thì DNTN

không có tư cách pháp nhân. Có ý kiến cho rằng “nếu chủ thể liên quan là doanh

nghiệp tư nhân thì doanh nghiệp này không chịu trách nhiệm buộc phải bồi

thường theo quy định tại Điều 597 BLDS năm 2015, lúc này sẽ áp dụng quy

định tương ứng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra”

[21, tr.95], tác giả hoàn toàn đồng ý với ý kiến này. Về người của pháp nhân có

hai cách hiểu, cách thứ nhất được hiểu là toàn bộ những người làm việc cho pháp

nhân từ ông chủ cho đến người làm công, cách hiểu thứ hai được hiểu theo nghĩa

hẹp hơn đó là người đại diện của pháp nhân, với cách hiểu này nhằm phân biệt

56

với chủ thể được điểu chỉnh ở Điều 600 BLDS năm 2015.

Trước sự không rõ ràng như vậy, theo nghiên cứu của một tác giả thì thực

tiễn xét xử đã hiểu theo cách hiểu thứ nhất [21, tr.97]. Theo quy định của Điều

597 BLDS năm 2015 thì không phải trong mọi trường hợp người của pháp nhân

gây thiệt hại thì pháp nhân phải bồi thường mà pháp nhân chỉ phải bồi thường

với điều kiện người của pháp nhân gây thiệt hại trong khi thực hiện “nhiệm vụ

được pháp nhân giao”, từ đó có thể suy ra pháp nhân sẽ không phải bồi thường

thiệt hại nếu người của pháp nhân gây ra trong khi không thực hiện nhiệm vụ

được pháp nhân giao. Như vậy, CCV tiến hành hoạt động nghề nghiệp của mình

thì có được xem là “nhiệm vụ” do pháp nhân giao hay không?

Khi xem xét nguyên tắc hành nghề công chứng ta thấy CCV phải (i) tuân

thủ Hiếp pháp và pháp luật; (ii) khách quan, trung thực; (iii) tuân theo quy tắc

đạo đức hành nghề công chứng; (iii) chịu trách nhiệm trước pháp luật và người

yêu cầu công chứng về văn bản công chứng [60, Khoản 1,2,3 Điều 4]. Khi hành

nghề công chứng viên có quyền được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề công

chứng; được công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định của LCC;

được đề nghị cá nhân, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu để thực

hiện việc công chứng; được từ chối công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch vi

phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội [60, Điều 17].

Từ những quy định nêu trên có thể thấy hoạt động công chứng của CCV là

hoạt động độc lập, không phải là hoạt động thực hiện nhiệm vụ do pháp nhân

giao và CCV chỉ chịu “trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công

chứng về văn bản công chứng” [60, Khoản 4 Điều 4]. Với điều kiện này thì rõ

ràng CCV là chủ DNTN, là thành viên hợp danh của công ty hợp danh sẽ không

thoả mãn điều kiện “thực hiện nhiệm vụ do pháp nhân giao” theo như quy định

tại Điều 597 BLDS năm 2015. Điều 597 BLDS năm 2015 sẽ vẫn được áp dụng

cho CCV nhưng trong hoàn cảnh khác chứ không phải trong hoạt động công

chứng của CCV.

Bên cạnh đó mặc dù công ty hợp danh có tư cách pháp nhân nhưng thành

viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản (liên đới) về các nghĩa

vụ của công ty [61, Điểm b khoản 1 Điều 172]. Còn chủ DNTN phải chịu trách

57

nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp [61,

Khoản 1 Điều 183 ]. Như vậy, chủ DNTN, thành viên hợp danh của tổ chức hành

nghề công chứng khi hoạt động nghề nghiệp không phải là hoạt động “thực hiện

nhiệm vụ do pháp nhân giao”, và như vậy khi họ gây thiệt hại thì điều Điều 597

BLDS năm 2015 sẽ không được thoả mãn điều kiện áp dụng. Tuy không có điều

luật nào của BLDS năm 2015 có thể áp dụng trực tiếp nhưng những người này

gây thiệt hại thì hoàn toàn thoả mãn nguyên tắc của bồi thường thiệt hại ngoài

hợp đồng đó là “ai gây thiệt hại người đó phải bồi thường” và không tồn tại

“trách nhiệm thay thế”. Đối với CCV là thành viên hợp danh của VPCC hợp

danh gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm liên đới

giữa các CCV là thành viên hợp danh vì thành viên hợp danh có nghĩa vụ “liên

đới chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại của công ty nếu tài sản của

công ty không đủ để trang trải số nợ của công ty” [61, Điểm đ khoản 2 Điều

176].

Đối với trách nhiệm hoàn trả của CCV là chủ DNTN, thành viên hợp danh

của công ty hợp danh. CCV là chủ DNTN, là thành viên của hợp danh của công

ty hợp danh thì họ phải chịu trách nhiệm “vô hạn” về các nghĩa vụ của mình.

Thiệt hại phát sinh (nếu có) thì cũng là do chính họ gây ra và họ phải chịu trách

nhiệm bồi thường, vì vậy vấn đề “hoàn trả” cũng không được đặt ra, bởi nếu có

“hoàn trả” thì cũng là hoàn trả cho chính mình.Và như vậy thì quy định hoàn trả

của CCV theo khoản 2 Điều 38 LCC năm 2014 hoàn toàn không có ý nghĩa đối

với CCV là chủ DNTN và CCV là thành viên hợp danh của VPCC hợp danh.

2.1.4. Đối với công chứng viên là lao động làm việc theo chế độ hợp đồng

Ngoài CCV là công chức, viên chức, chủ doanh nghiệp, thành viên hợp

danh ra còn có CCV làm việc theo chế độ hợp đồng cho tổ chức hành nghề công

chứng. CCV này phải ký kết với tổ chức hành nghề công chứng một hợp đồng

lao động, khi tồn tại một hợp đồng lao động thì CCV được xem là “người làm

công” [24, tr.784] và tồn tại một hợp đồng lao động thì các quy định của Bộ luật

lao động (BLLĐ) năm 2012, được áp dụng. Theo quy định tại điều 22 BLLĐ

năm 2012 thì hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong ba loại (i)

hợp đồng lao động không xác định thời hạn; (ii) hợp đồng lao động xác định thời

58

hạn (thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12

tháng đến 36 tháng); và (iii) hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo công việc

nhất định có thời hạn dưới 12 tháng. CCV sẽ bị miễn nhiệm nếu “không hành

nghề công chứng trong thời hạn 02 năm kể từ ngày bổ nhiệm công chứng viên

hoặc không hành nghề công chứng liên tục từ 12 tháng trở lên” [60, Điểm d

Khoản 2 Điều 15], như vậy tổ chức hành nghề công chứng chỉ có thể ký kết hợp

đồng lao động đối với CCV với loại hợp đồng không xác định thời hạn hoặc hợp

đồng lao động xác định thời hạn chứ không được ký kết hợp đồng lao động theo

mùa vụ hoặc theo công việc nhất định.

Tuy nhiên khái niệm “người làm công” không chỉ giới hạn trong việc có

xác lập hợp đồng lao động mà còn được mở rộng ngay cả khi không tồn tại một

hợp đồng lao động [21, tr.116]. BLDS năm 2015 quy định “Cá nhân, pháp nhân

phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi

thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công, người học

nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định

của pháp luật” [64, Điều 600], với quy định như vậy ta thấy ranh giới để phân

biệt giữa Điều 597 và Điều 600 BLDS năm 2015 là không rõ ràng. Nếu đã tồn

tại một quan hệ lao động thì người lao động đó có được xem là người của pháp

nhân hay không, và nếu đã là người của pháp nhân thì tại Điều 597 đã đủ để điều

chỉnh tại sao lại cần thêm Điều 600? Với quy định của BLDS năm 2015 hiện

hành ta không có câu trả lời.

Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ ta có thể suy đoán được có lẽ các nhà làm

luật muốn dành Điều 600 cho những trường hợp “làm công” mà không tồn tại

hợp đồng lao động hoặc có tồn tại hợp đồng lao động thì đó là quan hệ giữa cá

nhân với cá nhân hoặc cá nhân với chủ thể khác như hộ gia đình, tổ hợp tác. Với

suy luận như vậy ta không thể áp dụng Điều 600 BLDS năm 2015 cho CCV

“làm công” cho các VPCC. Trong khi đó BLLĐ năm 2012 quy định về bồi

thường thiệt hại trong mục Trách nhiệm vật chất như sau: “Người lao động làm

hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử

dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” [56, Điều 130].

Quy định này cho thấy người lao động phải chịu trách nhiệm vật chất, nghĩa là

59

phải bồi thường thiệt hại nếu làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc tài sản của

người sử dụng lao động. CCV làm việc theo chế độ hợp đồng cũng có thể làm hư

hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử

dụng lao động và đương nhiên lúc đó họ phải chịu sự điều chỉnh của quy định

này. Vì vậy, CCV gây thiệt hại trong hoạt động công chứng không thể áp dụng

quy định của BLLĐ 2102, để giải quyết. Lúc này rõ ràng chỉ còn lại Điều 38

LCC năm 2014 được áp dụng. Trong trường hợp này CCV gây thiệt hại trong

hoạt động công chứng thì tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm bồi

thường.

Về trách nhiệm hoàn trả của CCV làm việc theo chế độ hợp đồng lao động.

BLLĐ 2012 không quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi người lao

động gây ra cho bên thứ ba nên cũng không quy định về trách nhiệm hoàn trả.

Như đã phân tích ở trên, CCV làm việc theo chế độ hợp đồng tại các tổ chức

hành nghề công chứng mà gây ra thiệt hại thì Điều 38 LCC năm 2014 được áp

dụng. Tuy nhiên quy định về thủ tục hoàn trả trong LCC năm 2014 chỉ mang tính

nguyên tắc cho nên cần phải có bổ sung những quy định của pháp luật để hoàn

thiện cơ chế “hoàn trả” của CCV gây ra thiệt hại trong hoạt động công chứng.

2.1.5. Những vấn đề đặt ra và kiến nghị

Những vấn đề đặt ra

Điều 38 LCC năm 2014 quy định về bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động

công chứng đã giải quyết và đặt ra các vấn đề sau:

Vấn đề bồi thường. Mặc dù tồn tại nhiều loại hình tổ chức hành nghề công

chứng khác nhau là PCC và VPCC và có các CCV hoạt động hành nghề công

chứng với các danh nghĩa khác nhau như công chức, viên chức, chủ DNTN,

thành viên hợp danh của công ty hợp danh, CCV làm việc theo chế độ hợp đồng.

Dù CCV hành nghề với danh nghĩa nào đi nữa khi gây thiệt hại trong hoạt động

công chứng thì chủ thể phải bồi thường là “tổ chức hành nghề công chứng”. Quy

định này đã giải quyết tốt về mặt lý luận và thực tiễn, đó là xác định duy nhất

một chủ thể phải bồi thường góp phần giúp cho người bị thiệt hại biết được chính

xác nơi yêu cầu bồi thường, tránh được việc lợi dụng sự phức tạp về địa vị pháp

lý của các các CCV để đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Quy định tổ chức hành

60

nghề công chứng-chủ thể có điều kiện vật chất tốt hơn CCV- là chủ thể phải bồi

thường là tạo điều kiện cho người bị thiệt hại có cơ hội được bồi thường một

cách nhanh chóng và kịp thời, quyền được bồi thường của người bị thiệt hại được

bảo đảm thực hiện không phân biệt địa vị pháp lý hay lợi thế quyền lực của

CCV- chủ thể gây thiệt hại, tạo ra sự bình đẳng trong vấn đề bồi thường thiệt hại

của “CCV nhà nước” và “CCV tư nhân”. Tuy nhiên về mặt câu chữ thì Điều 38

có mâu thuẫn với Điều 71 của LCC năm 2014, dường như có thể hiểu theo

hướng cùng một thiệt hại do lỗi của CCV gây ra có đến “hai chủ thể” có trách

nhiệm bồi thường là tổ chức hành nghề công chứng và CCV.

Vấn đề hoàn trả. Xác định chủ thể bồi thường thiệt hại là tổ chức hành nghề

công chứng thì chủ thể có nghĩa vụ hoàn trả sẽ là CCV. Quy định về trách nhiệm

hoàn trả như điều luật chỉ mang tính nguyên tắc, chưa được giải quyết một cách

triệt để. Ví dụ tại bản án số 376/2019/HSST ngày 09/10/2019 có đề cập tới vấn

đề nghĩa vụ bồi hoàn của CCV “nghĩa vụ bồi hoàn của ông NDT đối với VPCC

PN được thực hiện theo các quy định pháp luật công chứng và pháp luật dân sự

có liên quan” [Phụ lục số 3, tr.18], tuy nhiên bản án cũng chỉ nói chung chung

mà không nêu rõ được sẽ bồi hoàn cụ thể ra sao, theo quy định cụ thể nào?

Tương tự tại bản án số 434/2018/HS-ST ngày 16/11/2018, tòa án cũng tuyên về

nghĩa vụ bồi hoàn của CCV TTT đối với VPCC LTNH được thực hiện theo quy

định pháp luật công chứng và pháp luật dân sự có liên quan [Phụ lục số 4, tr.17]

Thực tiễn nếu có vụ kiện bồi thường thiệt hại xảy ra sẽ gây không ít khó

khăn trong việc áp dụng pháp luật về trách nhiệm hoàn trả như: hoàn trả trong

trường hợp CCV có lỗi cố ý, lỗi vô ý; các trường hợp được miễn, giảm tiền hoàn

trả; hoàn trả trong trường hợp vượt quá khả năng kinh tế của CCV; cách thức

hoàn trả ... nếu vẫn để như quy định hiện nay thì cùng một vấn đề hoàn trả nhưng

đối với từng loại CCV khác nhau lại có thể áp dụng các luật, điều luật khác nhau

để giải quyết, hoặc không có quy định. Điều này làm cho việc áp dụng pháp luật

thiếu thống nhất và đương nhiên việc vận dụng thiếu thống nhất các luật, điều

luật khác nhau sẽ dẫn đến những hệ quả khác nhau. Giữa Điều 38 và Điều 71 của

LCC năm 2014 có mâu thuẫn về mặt câu chữ.

61

Kiến nghị

Từ các phân tích trên cho thấy cần phải sớm hoàn thiện các quy định pháp

luật sau: (1) về trách nhiệm hoàn trả của tất cả các loại CCV khi tổ chức hành

nghề công chứng đã bồi thường thiệt hại do CCV gây ra trong hoạt động công

chứng; (2) về trách nhiệm tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt

hại do lỗi của các loại CCV gây ra trong hoạt động công chứng, cụ thể như sau:

Một là, đối với CCV là công chức, kiến nghị quy định hoặc hướng dẫn cụ

thể về việc hoạt động hành nghề công chứng của CCV là công chức có phải là là

“hoạt động công vụ” hay không? (1) Nếu nó là “hoạt động công vụ” thì đề nghị

bổ sung cụm từ “và hoạt động công chứng” vào Điều 1 của Luật trách nhiệm bồi

thường của Nhà nước 2017 như sau: “Luật này quy định trách nhiệm bồi thường

của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây

ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án và hoạt động công

chứng; thiệt hại được bồi thường…”; (2) Nếu nó không phải là “hoạt động công

vụ” thì đồng nghĩa với việc “trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng

viên là công chức” không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật trách nhiệm bồi

thường của Nhà nước và Điều 598 BLDS năm 2015, tác giả kiến nghị bổ sung

quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên là công

chức vào LCC hoặc Luật khác có liên quan.

Hai là, đối với CCV là viên chức, như đã phân tích ở mục 2.1.2 ta thấy

BLDS không có điều khoản nào quy định về bồi thường thiệt hại do viên chức

gây ra. Vì vậy kiến nghị bổ sung vào BLDS quy định về bồi thường thiệt hại do

viên chức gây ra.

Ba là, đối với CCV là lao động làm việc theo chế độ hợp đồng, như đã phân

tích ở mục 2.1.4 thì trách nhiệm hoàn trả của CCV làm việc theo chế độ hợp

đồng lao động không được quy định tại BLLĐ 2012 và chỉ được quy định mang

tính nguyên tắc tại LCC năm 2014, nên tác giả kiến nghị bổ sung những quy định

về nghĩa vụ “hoàn trả” của CCV làm việc theo chế độ hợp đồng lao động gây ra

thiệt hại trong hoạt động công chứng.

Bốn là, nhằm đảm bảo quyền lợi của tổ chức hành nghề công chứng sẽ

được CCV bồi hoàn, hoàn trả kịp thời khi tổ chức hành nghề công chứng đã bồi

62

thường thay cho CCV của mình gây ra theo Điều 38 LCC năm 2014, tác giả kiến

nghị ban hành những quy định cụ thể về trách nhiệm bồi hoàn, hoàn trả của các

loại CCV (gồm CCV là công chức, viên chức, chủ DNTN, thành viên hợp danh,

CCV làm việc theo chế độ hợp đồng).

Năm là, kiến nghị sửa đổi Điều 71 LCC năm 2014 theo hướng phù hợp với

Điều 38 như sau: “Công chứng viên vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo

tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc

bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy

định của Điều 38 của Luật này”.

2.2. Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

2.2.1. Xác định thiệt hại phải bồi thường theo hợp đồng hoặc ngoài hợp

đồng

Để xác định được các thiệt hại phải căn cứ vào tính chất, chất lượng, số

lượng, giá cả của tài sản. Tuy nhiên thực tiễn xét xử toà án thường áp dụng

nguyên tắc bồi thường tương đương tức người gây thiệt hại phải trả số tiền bồi

thường cho người bị thiệt hại dựa trên giá của tài sản bị thiệt hại. Khi xem giá là

tiêu chuẩn để xác định thiệt hại thì vấn đề đặt ra là làm sao xác định được giá của

tài sản trong khi chúng ta vừa có giá thị trường vừa có giá do Nhà nước quy

định? Việc chọn giá làm căn cứ bồi thường không thể chọn một cách tuỳ tiện mà

“nó phải đạt yêu cầu phản ánh chính xác số thiệt hại của người bị thiệt hại, đảm

bảo sự đền bù thiệt hại một cách đầy đủ, tạo điều kiện để người bị thiệt hại có thể

mua sắm lại một lượng tài sản ngang với số tài sản bị hư hỏng, mất mát”. Việc

xác định chính xác thiệt hại là một yêu cầu khách quan, không thể xác định giá

quá cao và cũng không thể xác định giá quá thấp, trong những trường hợp không

thể xác định giá thì có thể trưng cầu giám định.

Việc chứng minh những thiệt hại gián tiếp do lợi ích gắn liền với việc sử

dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút và chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn

chế, khắc phục thiệt hại phải do bên bị thiệt hại chứng minh, nếu không chứng

minh được thì sẽ lấy mức thu nhập trung bình của sáu tháng liền kề, trong trường

hợp chưa đủ sáu tháng thì lấy mức trung bình của các tháng trước đó. Thiệt hại

và xác định thiệt hại phải bồi thường ngoài hợp đồng và theo hợp đồng đã được

63

tác giả đã phân tích ở Mục 1.3.1.1. và 1.3.2.2. Tuy nhiên việc xác định thiệt hại

do công chứng viên gây ra trong thực tiễn hoạt động công chứng là hết sức phức

tạp

Có ý kiến cho rằng chi phí luật sư, chi phí tố tụng… cũng được xem là thiệt

hại mà công chứng viên phải bồi thường. Quan điểm này cũng tương đồng với

một tác giả khác vì “nếu không có yếu tố gây thiệt hại thì người bị thiệt hại

không cần kiện tụng và bỏ ra các chi phí tố tụng” [21, tr.456]. Tác giả đồng ý với

các ý kiến trên, vì đây có thể xem là những chi phí hợp lý mà người bị thiệt hại

đã bỏ ra nhằm khắc phục thiệt hại và để xác định được chi phí có “hợp lý” hay

không thì do toà quyết định bởi chỉ những chi phí hợp lý mới được bồi thường.

Phí công chứng có phải là thiệt hại? “Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân

phải trả khi được tổ chức cá nhân khác cung cấp dịch vụ” [84, Điều 3], công

chứng được xem là một loại hình cung cấp dịch vụ pháp lý công và hiện nay phí

công chứng đối với giao dịch bất động sản là khá cao, do đó phí công chứng

nhiều trường hợp là một khoản tiền không hề nhỏ. Tác giả cho rằng khi công

chứng viên có lỗi gây thiệt hại hoặc làm cho hợp đồng công chứng bị vô hiệu thì

phí công chứng phải được xem là một khoản thiệt hại cần được bồi thường bởi vì

công chứng viên được Nhà nước uỷ nhiệm cung cấp dịch vụ công nhằm “bảo

đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa

tranh chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức” [60,

Điều 3] và khi công chứng viên không đảm bảo được yêu cầu đó mà gây ra thiệt

hại thì công chứng viên không có lý do gì để thu phí cho dịch vụ của mình.

Có thể thấy việc xác định thiệt hại trong lĩnh vực công chứng để đòi bồi

thường thiệt hại đối với công chứng viên là rất khó khăn và phức tạp, nguyên

nhân khó khăn và phức tạp nằm ở chỗ chứng minh thiệt hại trên thực tế và các

quy định của pháp luật đôi khi khó hiểu. Thực tế, hiện nay trong lĩnh vực công

chứng, hiện tượng các bên giao kết hợp đồng, giao dịch ghi giá trong hợp đồng

hoặc thấp hơn hoặc cao hơn rất nhiều so với giá thực tế giao dịch nhằm trục lợi

bất chính như trốn thuế, lừa đảo đẩy giá cáo lên để vay ngân hàng, khai khống tài

sản để hoạt động phi pháp ... Như vậy những trường này xác định thiệt hại là rất

64

khó.

2.2.2. Xác định hành vi trái pháp luật, hành vi vi phạm hợp đồng của

công chứng viên

Hành vi trái pháp luật của CCV là những xử sự cụ thể của CCV được thể

hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của

pháp luật.

Ví dụ, trong một vụ án hình sự, Dương Ngọc Phượng lừa đảo chiếm đoạt

hơn 4 tỉ đồng. Do mối quen biết với Phượng nên công chứng viên P.T.V của

PCC số 2 TP.HCM không trực tiếp kiểm tra giấy tờ tuỳ thân của bên bán, không

cho các bên ký tên, điểm chỉ vào hợp đồng trước mặt công chứng viên nên không

phát hiện được việc Phượng giả mạo, do đó công chứng viên P.T.V phải lãnh án

năm năm tù [30]. Vụ án trên cho thấy công chứng viên P.T.V rõ ràng đã có

“hành vi trái pháp luật” khi đã không thực hiện đúng trình tự, thủ tục công

chứng. Tương tự, tại bản án sơ thẩm số 05/2020/DS-ST ngày 09/01/2020 của

Tòa án nhân dân quận 1 TPHCM [phụ lục số 7], Hội đồng xét xử có nhận định

tại mục [12] “bị đơn (PCC số 1 TPHCM) thực hiện hiện công chứng hợp đồng ủy

quyền đã vi phạm các quy định về thủ tục công chứng hợp đồng theo quy định tại

Điều 36 LCC năm 2006”. Nhận định trên cho thấy CCV chứng nhận hợp đồng ủy

quyền nêu trên đã có hành vi trái pháp luật, cụ thể là trái với quy định tại Điều 36

LCC năm 2006. Trong vụ 2 án này, hành vi trái pháp luật của CCV được thể hiện

dưới dạng không hành động “không cho ký trước mặt công chứng viên” “không

kiểm tra đối chiếu giấy tờ tuỳ thân”, đây là những việc LCC quy định phải làm

nhưng công chứng viên đã không làm.

Hiện nay, theo quy định của LCC năm 2014 thì các tiêu chí nhằm xác định

nghĩa vụ của CCV trong lĩnh vực công chứng là chưa cụ thể, còn quy định chung

chung; Do đó, việc xác định hành vi trái pháp luật gây thiệt của CCV trong hoạt

động công chứng của cơ quan tố tụng là rất khó khăn và đôi lúc chưa chính xác,

có tình trạng một số cơ quan tố tụng còn suy diễn, suy đoán, kể cả quy chụp

không có căn cứ bằng các từ như “thiếu trách nhiệm, không làm hết công việc

của công chứng viên ” mà không chỉ ra được hành vi trái pháp luật của CCV là

gì, trái quy định pháp luật nào? Hoặc ở cấp sơ thẩm xác định CCV có hành vi trái

65

pháp luật, còn ở cấp phúc thẩm thì xác định CCV không có hành vi trái pháp

luật... Hiện nay, thực tiễn xét xử một số vụ án tại thành phố Hồ Chí Minh tuyên

tổ chức hành nghề công chứng, CCV phải bồi thường thiệt hại nhưng không chỉ

tra được hành vi trái pháp luật của CCV một cách cụ thể, rõ ràng là trái quy định

pháp luật nào mà chỉ nói chung chung, mang tính suy đoán chủ quan. Việc này

phần nào được phản ánh qua bài viết “Bất cập tuyên án công chứng viên bồi

thường” của Báo Pháp luật TPHCM [28].

Ví dụ, vụ việc mà VPCC Lý Thị Như Hòa phải bồi thường thiệt hại ở cấp

sơ thẩm, ngoài việc liệt kê nhiều điều luật của LCC để cho ra nhận xét chung là

“công chứng viên không thực hiện đầy đủ các thủ tục nên có một phần lỗi đối với

thiệt hại của người bị hại”, bản án không chỉ ra được các lỗi, hành vi trái pháp

luật cụ thể nào của CCV có mối quan hệ nhân quả với thiệt hại. Chẳng hạn, khi

sự giả mạo giấy tờ chỉ được cơ quan công an xác định rõ sau này qua sáu kết

luận giám định, án này đã không chỉ ra được CCV đã sai gì ở việc kiểm tra bằng

mắt thường khiến không phát hiện được ngay sự giả mạo tinh vi đó [Phụ lục số

4]; Tuy nhiên, ở cấp Phúc thẩm vụ án này vào ngày 19/02/2020, Hội đồng xét xử

của Tòa án nhân dân cấp cao tại TPHCM đã nhận thấy những bất cập, sai sót

trong phiên sử sơ thẩm về việc xác định hành vi trái pháp luật nêu trên, nên đã

tuyên “VPCC LTNH không có nghĩa vụ liên đới trong việc bồi thường...” [Phụ

lục số 5, tr.11];

Ví dụ, tương tự, ở vụ việc của VPCC PN phải bồi thường thiệt hại do bản

án sơ thẩm tuyên, bản án không chỉ ra được việc CCV làm chưa đúng quy định

về việc công chứng ngoài trụ sở là nguyên nhân khiến giấy tờ giả bị lọt sổ. Khi

cáo buộc CCV đã có lỗi cẩu thả qua việc không tiến hành xác minh tính thật giả

của chứng minh nhân dân của hai người ủy quyền dẫn đến có thiệt hại, án này

cũng không chỉ ra được việc không xác minh đó sai với quy định nào. Bởi lẽ

khoản 5 Điều 40 LCC không hề buộc CCV phải có nhiệm vụ xác minh, yêu cầu

giám định tất cả trường hợp đến công chứng. Việc làm rõ hay đề nghị giám định

của CCV chỉ được luật này đặt ra khi có căn cứ để cho là có vấn đề chưa rõ hay

có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng hay

việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép mà các yếu tố

66

này đều không có ở thời điểm công chứng hợp đồng [Phụ lục số 3]. Hiện VPCC

PN đã tiến hành kháng cáo vụ án này, tuy nhiên đến nay vụ án chưa được xét xử

Phúc thẩm.

Như vậy, hành vi trái pháp luật của công chứng viên trước hết phải được

xem xét và đối chiếu với các quy định của LCC, sau đó mới đối chiếu đến các

quy định khác của pháp luật thì mới có thể quy kết hành vi của công chứng viên

là trái hay không trái quy định của pháp luật.

Đối với hành vi vi phạm hợp đồng dịch vụ công chứng hoặc vi phạm thỏa

thuận cung cấp dịch vụ công chứng của CCV thì thực tế đến chưa có hành vi vi

phạm nào của CCV được phát hiện, nên chưa có vụ án nào được xét xử đối với

hành vi vi phạm này của CCV tại thành phố Hồ Chí Minh.

2.2.3. Xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật, hành

vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại

Như phân tích ở mục 2.2.2, trong hoạt động xét xử liên quan trách nhiệm

bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công chứng thì việc xác định hành

vi trái pháp luật của CCV hiện nay là rất khó khăn, nên việc xem xét mối quan hệ

nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của công chứng viên và thiệt hại xảy ra cũng

gặp nhiều khó khăn. Có nhiều vụ án, tòa án không chỉ ra được hành vi trái pháp

luật một cách cụ thể, mà chỉ nói chung chung, và hệ quả là quy kết hành vi trái

pháp luật chung chung này có mối quan hệ nhân quả với thiệt hại đã xảy ra. Từ

đó tuyên tuyên buộc tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại. Ví

dụ, tại hai bản án được nêu ở mục 2.2.2, tòa án đã không chỉ ra được hành vi trái

pháp luật cụ thể nào của CCV nên việc xác định mối quan hệ nhân quả với thiệt

hại là không đúng [Phụ lục số 3, 4].

2.2.4. Vấn đề lỗi

LCC năm 2014 có hai quy định về bồi thường thiệt hại do CCV gây ra, một

quy định tại Điều 38 theo đó thì tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường

thiệt hại do lỗi của CCV gây ra trong quá trình công chứng, một quy định tại

Điều 71 theo đó CCV phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật nếu

vi phạm quy định của LCC. Quy định tại Điều 38 đã khá rõ ràng khi xác định

chủ thể phải bồi thường trong trường hợp CCV gây thiệt hại đó chính là tổ hành

67

nghề công chứng của công chứng đó và điều kiện bắt buộc để bồi thường thiệt

hại chính là “lỗi” của CCV nhưng lại không cho biết tổ chức hành nghề công

chứng phải bồi thường khi CCV phạm lỗi cố ý hay lỗi vô ý hay cả hai. Ngược lại

Điều 71 thì lại quá mơ hồ khi quy định “công chứng viên vi phạm quy định của

Luật này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi

phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải

bồi thường theo quy định của pháp luật”.

Với quy định nêu trên có thể hiểu CCV phải bồi thường thiệt hại ngay cả

khi không có lỗi, và như vậy thì CCV sẽ là bị đơn dân sự trong vụ kiện đòi bồi

thường, ở đây đang có vấn đề lấn cấn giữa quy định tại Điều 38 và Điều 71 của

LCC năm 2014 khi làm cho người bị thiệt hại không biết khi nào thì khởi kiện tổ

chức hành nghề công chứng và khi nào thì kiện CCV. Một điều thì quy định “lỗi”

là điều kiện bắt buộc phải có, một điều thì không quy định lỗi. Khi xem xét quy

định của pháp luật nước ngoài tác giả nhận thấy:

Pháp luật của Cộng hoà Pháp phân biệt lỗi cố ý và lỗi vô ý của CCV. Việc

phân biệt này có ý nghĩa trong việc xem xét ai là người phải bồi thường. Trường

hợp CCV phạm lỗi cố ý thì CCV phải tự bỏ tiền túi của mình để bồi thường,

không được sử dụng các nguồn quỹ của tổ chức hành nghề công chứng để chi trả.

Như vậy việc đánh giá lỗi theo pháp luật của Pháp được xem như là tiêu chí để

xác định trách nhiệm bồi thường thuộc về ai.

Như đã phân tích ở chương 1, nếu xem lỗi là trạng thái tâm lý thì rất khó

đánh giá lỗi để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Việc xem xét lỗi của CCV được thể

hiện qua thực tiễn xét xử sau:

Ví dụ 1, bản án số 163/2015/DS-PT ngày 30/01/2015 của Toà án nhân dân

TPHCM xét xử vụ tranh chấp về yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

[Phụ lục số 6], hội đồng xét xử có nhận định “tại phiên toà hôm nay các bên đều

thừa nhận rằng khi ra công chứng thì hai bên giao dịch mua bán nhà không có

thông báo cho công chứng viên việc thay đổi hiện trạng nhà. Do đó, trong việc

công chứng này, PCC số 4 TPHCM không phải là người có lỗi”. Như vậy toà đã

căn cứ vào nhận thức của công chứng viên để xác định lỗi, Tòa đã suy luận do

CCV không biết việc căn nhà đã được thay đổi hiện trạng nên mới chứng nhận

68

hợp đồng và do đó CCV không có lỗi. Suy luận này theo tác giả là chỉ là suy

đoán chủ quan của hội đồng xét xử dựa vào lời khai của các bên, nó có thể sai vì

nếu thực chất CCV đã biết nhưng CCV cố tình (che dấu) là không biết việc thay

đổi hiện trạng nhà.

Ví dụ 2, vụ án bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn Hoàng Thanh Liên theo

bản án dân sự sơ thẩm số 311/2019/DSST được Tòa án nhân dân quận 6 xử ngày

12/11/2019 [Phụ lục số 2]. Phần quyết định của Bản án tuyên buộc Phòng công

chứng bồi thường, không xác đinh lỗi của CCV, nhưng phần “Nhận định của Tòa

án” trang 15 mục [2.2] Hội đồng xét xử đánh giá: “Do không xem xét kỹ về nhân

thân (Giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu đều là giấy tờ giả) của người

chuyển nhượng, nghĩa là chưa thực hiện đầy đủ việc công chứng như tiến hành

xác minh, hoặc yêu cầu giám định làm rõ xác thực của giấy tờ thùy thân trong

trường hợp nếu thấy chưa rõ, hoặc nghi ngờ đối tượng của hợp đồng giao dịch.

Trong trường hợp chưa thật sự rõ nữa, thì công chứng viên có quyền từ chối theo

Điều 35, 36 của Luật Công chứng…Công chứng viên đã có sự thiếu trách nhiệm,

không làm hết công việc của một công chứng viên nên dẫn đến hậu quả gây thiệt

hại cho bà Liên…yêu cầu bồi thường của bà Liên là có cơ sở” . Đây là cách xác

định lỗi dựa trên sự quan tâm, chu đáo của CCV khi thực hiện nhiệm vụ công

chứng đã thực hiện hết nghĩa vụ của CCV hay chưa. Tuy nhiên, khi nghiên cứu

kỹ vụ án này thì tác giả cho rằng việc xác định lỗi của Tòa án Quận 6 đối CCV

V là thiếu cơ sở thuyết phục thực tế và không có căn cứ pháp lý, mang tính quy

chụp bởi 5 lí do được nêu cụ thể trong phần ý kiến của PCC số 1 gửi Tòa án nhân

dân TPHCM trong phiên tòa xét xử Phúc thẩm vụ án [Phụ lục số 11]. Xin nói

thêm tại phiên xét xử phúc thẩm vụ án này, tác giả là một trong những người đại

diện cho PCC số 1 tham gia tố tụng. Tác giả đã trình bày các luận cứ chứng minh

rằng CCV V không có lỗi, không có hành vi trái pháp luật nào nên không phải

bồi thường thiệt hại. Kết quả, tại phiên tòa phúc thẩm ngày 17/3/2020, Tòa án

nhân dân TPHCM đã xác định CCV V không có lỗi, không có hành vi trái pháp

luật, nên tòa đã tuyên PCC số 1 không phải bồi thường thiệt hại, đến thời điểm

hoàn thảnh Luận văn này PCC số 1 chưa nhận được bản án Phúc thẩm.

Qua các ví dụ trên cho thấy việc xác định lỗi của CCV dựa trên sự quan

69

tâm, chu đáo của CCV đối với việc thực hiện nghĩa vụ công chứng của mình

chính xác hơn, dễ dàng hơn là việc xem xét lỗi dựa trên việc xem xét “nhận

thức” của chủ thể, bởi “nhận thức” bao giờ cũng là cái nằm trong đầu của CCV

lúc thực hiện hành vi gây thiệt hại và không phải lúc nào sự “nhận thức” đó cũng

thể hiện ra bên ngoài một cách rành mạch. Việc đánh giá lỗi căn cứ trên sự quan

tâm, chu đáo, dựa việc đánh giá thực hiện nhiệm vụ của CCV có thể phần nào

tránh sự suy đoán chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan điều tra.

LCC năm 2014 không hề quy định là CCV gây thiệt hại với lỗi cố ý thì phải

tự bồi thường, còn tổ chức hành nghề công chứng chỉ bồi thường với lỗi vô ý, mà

lại quy định một cách chung là “tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường

thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công

chứng viên của tổ chức mình gây ra” [60, Điều 38], quy định này có thể hiểu tổ

chức hành nghề công chứng phải bồi thường bất kể là CCV phạm lỗi cố ý hay vô

ý, quy định như vậy sẽ giúp cho người bị thiệt hại được bồi thường kịp thời và

đầy đủ, bởi tổ chức hành nghề công chứng bao giờ cũng có khả năng về kinh tế

cao hơn, ổn định hơn các CCV.

Có ý kiến cho rằng CCV có “lỗi cố ý thì phải bồi thường toàn bộ nhưng nếu

lỗi vô ý thì chỉ bồi thường một phần tương ứng với lỗi gây ra” [39], tác giả đồng

ý với ý kiến này bởi vì khi CCV đã phạm lỗi cố ý thì đương nhiên phải bỏ tiền túi

ra để bồi thường, đây cũng là xu hướng xử lý của các nước trên thế giới. Tuy

nhiên trong bồi thường thiệt hại do CCV gây ra thì yếu tố “lỗi” cần được xem xét

dưới hai góc độ. Góc độ thứ nhất, đó là việc xem xét và đánh giá lỗi trong “quan

hệ bồi thường” giữa tổ chức hành nghề công chứng và người bị thiệt hại. Ở góc

độ này lỗi sẽ có ý nghĩa quyết định việc tổ chức hành nghề công chứng phải bồi

thường “toàn bộ” thiệt hại nếu CCV phạm “lỗi cố ý”, nhưng tổ chức hành nghề

công chứng chỉ phải bồi thường “một phần” thiệt hại tương ứng với lỗi gây ra là

“lỗi vô ý” của CCV. Góc độ thứ hai, là việc xem xét lỗi trong “quan hệ hoàn trả”

giữa CCV và tổ chức hành nghề công chứng. Ở góc độ này thì CCV sẽ phải hoàn

trả “toàn bộ” khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng mà tổ chức hành

nghề công chứng đã chi trả cho người bị thiệt hại nếu CCV gây thiệt hại với “lỗi

cố ý”, nhưng chỉ hoàn trả “một phần” khoản tiền cho tổ chức hành nghề công

70

chứng mà tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả cho người bị thiệt hại nếu

CCV gây thiệt hại với “lỗi vô ý”, “một phần” ở đây cần được hiểu dựa trên toàn

bộ số tiền mà tổ chức hành nghề công chứng đã bồi thường cho người bị thiệt

hại.

Thực tiễn xét xử trong vụ án bồi thường thiệt hại cho ông Phan Biên tại bản

án sơ thẩm số 119/2018/DS-ST [Phụ lục số 1], Tòa án nhân dân quận 2 TPHCM

đã xác định“…bà Vân là người cố ý làm giả, trực tiếp thực hiện hành vi làm giả

hợp đồng…nên bà Vân có lỗi chính và có trách nhiệm bồi thường 50% thiệt hại

cho ông Biên. Ông Hùng và PCC số 1 có trách nhiệm mỗi bên bồi thường 25%

thiệt hại cho ông Biên…”. Đây là cách xác định mức bồi thường một phần dựa

trên mức độ lỗi của các cá nhân là bà Xuân, ông Hùng và CCV của PCC số 1 với

tỷ lệ là 50%, 25%, 25% của thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên nghiên cứu vụ án này tác

giả thấy có điểm bất hợp lý là tòa án đã không chỉ ra được một cách cụ thể lỗi,

hành vi trái pháp luật của 2 CCV (là PTBT và TTH, đã công chứng hợp đồng ủy

quyền cũng như hợp đồng mua bán nhà, đất) là gì, trái quy định nào, mà chỉ nêu

một cách chung chung, mang tính suy đoán chủ quan. Từ những lỗi chung chung

này Tòa án đã quy trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho PCC số 1 là không

thuyết phục, không đúng quy định pháp luật. Và tỷ lệ bồi thường theo phần

50/25/25 nêu trên cũng là chủ quan, tòa án cũng không đưa ra tiêu chí định tính,

định lượng mức độ lỗi để xác định tỷ lệ này. Hiện PCC số 1 đã kháng cáo toàn

bộ bản án này và phiên tòa xét xử phúc thẩm chưa được xét xử.

Như vậy thực tiễn xét xử cũng theo hướng với lỗi vô ý thì tổ chức hành

nghề công chứng chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo phần tương

ứng với phần lỗi của CCV chứ không phải là toàn bộ thiệt hại. Tuy nhiên việc

xác định lỗi của CCV cũng cực kỳ phức tạp và hiện có nhiều quan điểm trái

chiều về việc xác định lỗi mà cơ quan tiến hành tố tụng đang áp dụng xét xử.

2.2.5. Những vấn đề đặt ra và kiến nghị

Những vấn đề đặt ra

Việc xem xét toàn diện và đầy đủ các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi

thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công chứng giúp cho việc xét xử được

khách quan, công bằng, tránh suy diễn, quy chụp không có căn cứ. Ngược lại,

71

nếu không xem xét đầy đủ các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt

hại trong hoạt động công chứng sẽ dễ dẫn đến những phán quyết sai lầm, vi

phạm pháp luật. Hoạt động công chứng là một hoạt động bổ trợ tư pháp, cung

cấp “dịch vụ pháp lý công” mang tính chuyên môn cao, đòi hỏi sự cẩn trọng, chu

đáo của CCV, có những đặc thù riêng, cho nên việc đánh giá các điều kiện phát

sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là rất khó khăn, mang tính chuyên môn cao

và còn nhiều cách hiểu khác nhau.

Kiến nghị

Một là, kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước về công chứng mà trực tiếp

là các Sở Tư pháp, các Hội CCV trong cả nước cần hàng năm tổ chức các buổi

hội thảo, tọa đàm và tổng kết thực tiễn xét xử, thực tiễn trong áp dụng quy định

pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công

chứng, mà cụ thể là 4 điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo

hợp đồng và ngoài hợp đồng như đã phân tích ở mục 1.3. và mục 2.3. Từ đó,

đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng khi xét

xử các vụ án yêu cầu CCV phải bồi thường thiệt hại, để kịp thời báo cáo và kiến

nghị Bộ Tư pháp, Chính Phủ và Quốc Hội sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy

định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV, cụ thể là các điều

kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công

chứng.

Hai là, do trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV và tổ chức hành nghề

công chứng trong hoạt động công chứng chủ yếu là trách nhiệm bồi thường thiệt

hại ngoài hợp đồng nên tác giả kiến nghị cần xây dựng tiêu chí nhằm xác định

nghĩa vụ cụ thể của CCV trong lĩnh vực công chứng; Từ những tiêu chí cụ thể

này mới có thể xác định chính xác các hành vi trái pháp luật, xác định được lỗi

của CCV (nếu có), tránh được những suy diễn, suy đoán, kể cả quy chụp không

có căn cứ của cơ quan tiến hành tố tụng bằng các từ như “thiếu trách nhiệm,

không làm hết công việc ” mà không chỉ ra được hành vi trái pháp luật, lỗi của

CCV ở đâu, trái quy định nào, cụ thể như đã phân tích ở phần trên.

Ba là, số ít trách bồi thường thiệt hại của CCV và tổ chức hành nghề công

chứng trong hoạt động công chứng là trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp

72

đồng thông qua quan hệ cung cấp dịch vụ công chứng, nên tác giả kiến nghị cơ

quan có thẩm quyền cần bổ sung cụ thể quy định về “hợp đồng dịch vụ công

chứng” hoặc “phiếu thỏa thuận dịch vụ công chứng”. Cụ thể kiến nghị sẽ được

tác giả phân tích và đề xuất ở mục 2.5 dưới đây của Luận văn.

2.3. Về thủ tục bồi thường, hoàn trả của công chứng viên và kiến nghị

2.3.1. Thủ tục bồi thường, hoàn trả

Thủ tục bồi thường

Thủ tục bồi thường thiệt hại trong hoạt động công chứng được thực hiện

thông qua tố tụng dân sự. Thủ tục tố tụng dân sự thông thường được áp dụng như

một ưu tiên thứ hai của người bị thiệt hại khi yêu cầu bồi thường thiệt hại không

được các bên hoà giải hoặc hoà giải không thành, mặc dù người bị thiệt hại vẫn

có quyền nộp đơn cho Toà án yêu cầu bồi thường theo quy định BLTTDS. Do

vậy, khi cho rằng mình đã bị thiệt hại do CCV gây ra thì người bị thiệt hại có

quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Toà án nhân dân cấp có thẩm quyền để yêu cầu

bồi thường thiệt hại.

Thủ tục hoàn trả

LCC năm 2014 quy định “công chứng viên…gây thiệt hại phải hoàn trả lại

một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi

thường cho người bị thiệt hại theo quy địn của pháp luật; trường hợp không

hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Toà án giải quyết”

[60, Khoản 2 Điều 38] như vậy điều luật cũng quy định ưu tiên cho sự thoả thuận

về hoàn trả giữa tổ chức hành nghề công chứng và CCV gây thiệt hại, trường hợp

CCV gây thiệt hại không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền

yêu cầu Toà án giải quyết.

Tuy nhiên tác giả nhận thấy sự thiếu vắng các quy định về thủ tục hoàn trả

đối với CCV. Hiện nay có hai quy định về thủ tục hoàn trả:thủ tục hoàn trả đối

với người thi hành công vụ gây thiệt hại được quy định tại Nghị đinh số

68/2018/NĐ-CP; thủ tục hoàn trả của viên chức gây thiệt hại được quy định tại

Nghị định số 27/2012/NĐ-CP. Tuy nhiên chỉ có thủ tục hoàn trả của viên chức

được quy định tại Nghị định số 27/2012/NĐ-CP là có thể áp dụng đối với CCV

73

là viên chức gây thiệt hại.

Thủ tục hoàn trả của viên chức như sau: Sau khi đơn vị sự nghiệp công lập

đã bồi thường thì người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quản lý viên chức

yêu cầu viên chức gây ra thiệt hại viết bản tường trình về vụ việc, đề xuất hướng

giải quyết. Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày đơn vị sự nghiệp thực

hiện xong việc chi trả bồi thường, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập

quản lý viên chức phải thành lập Hội đồng xử lý trách nhiệm hoàn trả để xem xét

giải quyết việc hoàn trả. Đối với viên chức quản lý thì người đứng đầu cơ quan,

tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp quyết định thành lập Hội đồng xử lý trách

nhiệm bồi thường, hoàn trả. Hội đồng xử lý trách nhiệm hoàn trả có ba thành

viên bao gồm: Chủ tịch Hội đồng là người đứng đầu hoặc cấp phó của người

đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập (riêng đối với viên chức quản lý thì Chủ tịch

Hội đồng là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức,

đơn vị cấp trên trực tiếp của viên chức gây ra thiệt hại); Một ủy viên Hội đồng là

đại diện Ban chấp hành công đoàn của đơn vị sự nghiệp công lập; và một ủy viên

kiêm Thư ký Hội đồng là đại diện bộ phận tài chính – kế toán của đơn vị sự

nghiệp công lập. Không được cử người có quan hệ gia đình như cha, mẹ, con

được pháp luật thừa nhận và vợ, chồng, anh, chị, em ruột, dâu (rể) hoặc người có

liên quan đến viên chức đã gây ra thiệt hại tham gia Hội đồng xử lý trách nhiệm

hoàn trả.

Quy định về thủ tục hoàn trả của viên chức bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý

để buộc viên chức phải hoàn trả cho đơn vị sự nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại

một vấn đề đó là xác định lỗi của viên chức gây thiệt hại. Khoản 2 Điều 24 Nghị

định số 27/2012/NĐ-CP thì viên chức khi thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ

được phân công “có lỗi” gây thiệt hại cho người khác mà đơn vị sự nghiệp công

lập phải bồi thường thì có nghĩa vụ hoàn trả cho đơn vị sự nghiệp công lập. Ở

đây yếu tối “lỗi” là bắt buộc, song luật lại không cho biết với lỗi “cố ý” thì có

phải hoàn trả toàn bộ thiệt hại mà đơn vị sự nghiệp công lập đã chi trả cho người

bị thiệt hại hay không, và với lỗi “vô ý” thì trách nhiệm hoàn trả là bao nhiêu?

Trong khi đó Hội đồng xử lý trách nhiệm hoàn trả không có nghĩa vụ xem xét lỗi

74

của viên chức mà chỉ “nghe giải trình của viên chức và nghe ý kiến của các

thành viên Hội đồng, thảo luận và bỏ phiếu kín về mức và phương thức hoàn trả”

[14, Điểm c, d Điều 35].

Cách thức hoàn trả của viên chức, “viên chức gây ra thiệt hại có trách

nhiệm bồi thường, hoàn trả theo quyết định của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp

công lập hoặc cấp có thẩm quyền. Nếu viên chức không đủ khả năng bồi thường

một lần thì bị trừ 20% (hai mươi phần trăm) tiền lương hàng tháng cho đến khi

bồi thường đủ theo quyết định của người có thẩm quyền. Trường hợp viên chức

gây thiệt hại thuyên chuyển công tác, nghỉ hưu hay thôi việc thì phải hoàn thành

việc bồi thường, hoàn trả trước khi thuyên chuyển, nghỉ hưu hay thôi việc; nếu

không đủ khả năng bồi thường, hoàn trả thì đơn vị sự nghiệp công lập quản lý

viên chức có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị mới hoặc chính

quyền địa phương nơi viên chức cư trú tiếp tục thu tiền bồi thường, hoàn trả cho

đến khi thu đủ theo quyết định của người có thẩm quyền”[14, Khoản 2,3 Điều

25]. Đối với viên chức cố tình chây ì không chịu hoàn trả “đúng thời hạn, mức và

phương thức bồi thường, hoàn trả ghi trong quyết định bồi thường thiệt hại hoặc

quyết định hoàn trả, đã được đơn vị sự nghiệp công lập có trách nhiệm thông

báo đến lần thứ ba về việc bồi thường, hoàn trả mà cố ý không thực hiện nghĩa

vụ bồi thường, hoàn trả thì bị xử lý theo quy định của pháp luật” [14, Điều 39].

Trong quan hệ hoàn trả này cần được nhìn nhận từ hai phía. Nhìn từ phía viên

chức gây thiệt hại thì viên chức được “quyền khiếu nại về quyết định bồi thường,

hoàn trả của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về khiếu nại” [14,

Điều 38].

Viên chức có nhiều sự lựa chọn đó là (i) khiếu nại lần đầu đến người đã ra

quyết định hoàn trả hoặc khởi kiện vụ án hành chính; (ii) nếu không đồng ý với

quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quá thời hạn giải quyết khiếu nại mà

không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến thủ trưởng cấp trên trực

tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án

hành chính [43, Điều 7], bên cạnh đó Luật tố tụng hành chính còn cho phép viên

chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi

hành chính trong trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó [53, Điều

75

103] mà không cần qua thủ tục khiếu nại. Nhìn từ phía đơn vị sự nghiệp công lập

thì đơn vị sự nghiệp công lập có quyền trừ dần vào lương của viên chức, nếu viên

chức “cố ý không thực hiện nghĩa vụ bồi thường, hoàn trả thì bị xử lý theo quy

định của pháp luật”, quy định của pháp luật ở đây có thể được hiểu là các quy

định của Luật viên chức. Theo đó viên chức sẽ phải chịu một trong các hình thức

kỷ luật theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Luật viên chức là : a) khiển trách; b)

cảnh cáo; c) cách chức; d) buộc thôi việc, ta không thấy quy định về việc đơn vị

sự nghiệp công lập được quyền khởi kiện viên chức gây thiệt hại, nhưng LCC đã

cho phép các tổ chức hành nghề công chứng được quyền khởi kiện CCV gây

thiệt hại mà không chịu hoàn trả ra Toà án.

Như vậy, trong vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV gây ra

trong hoạt động công chứng ta còn thấy thiếu vắng quy định về thủ tục hoàn trả,

cách thức hoàn trả, xác định lỗi trong hoàn trả chung cho tất cả các loại CCV.

Bên cạnh đó bảo hiểm trách nhiệm là bảo hiểm bắt buộc của CCV, do đó về

nguyên tắc khi sự kiện bảo hiểm xảy ra thì bên bảo hiểm có phải trả một khoản

tiền cho bên được bảo hiểm [45, Điều 567]. Khi thiệt hại do CCV gây ra được

bên bảo hiểm chi trả thì sẽ có các khả năng xảy ra sau đây: (i) số tiền phải bồi

thường nhỏ hơn giới hạn trách nhiệm được bảo hiểm, trường hợp này vấn trách

nhiệm hoàn trả của CCV sẽ không được đặt ra vì bên bảo hiểm phải chi trả toàn

bộ thiệt hại, và; (ii) số tiền phải bồi thường lớn hơn giới hạn trách nhiệm được

bảo hiểm, trường hợp này số tiền nằm ngoài giới hạn được bảo hiểm sẽ được giải

quyết theo quy định của LCC năm 2014, nghĩa là tổ chức hành nghề công chứng

phải bồi thường thiệt hại cho phần thiệt hại không được bảo hiểm, sau đó tổ chức

hành nghề công chứng có quyền yêu cầu CCV hoàn trả lại khoản này.

2.3.2. Kiến nghị

Thứ nhất, kiến nghị bổ sung thủ tục tố tụng dân sự đối với “trường hợp

công chứng viên không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu

cầu Tòa án giải quyết” theo thủ tục rút gọn. Việc này nhằm đảm bảo quyền và lợi

ích chính đáng cho tổ chức hành nghề công chứng đã đứng ra bồi thường thiệt

hại thay cho CCV gây ra thiệt hại; đảm bảo việc hoàn trả kịp thời, ít tốn kém về

chi phí tố tụng vì việc bồi thường thiệt hại do lỗi của CCV đã được xét xử bằng

76

một vụ án cụ thể; tránh việc chay ì, ỷ lại là CCV cứ công chứng, dù đúng hay sai,

không cần phải bận tâm lo lắng mà mọi việc sau này đều sẽ do tổ chức hành nghề

công chứng chịu trách nhiệm hết, điều đó sẽ tạo nên tiền lệ rất đáng quan ngại

không tránh khỏi là không loại trừ sẽ có CCV sẽ lợi dụng việc đó để ký bừa, ký

ẩu, ký bất chấp quy định của pháp luật.

Thứ hai, về thủ tục hoàn trả, tác giả cho rằng nên có quy định về thủ tục

hoàn trả thống nhất cho tất cả các công chứng viên không phân biệt công chứng

viên là công chức, viên chức, chủ DNTN, thành viên hợp danh, công chứng viên

làm việc theo chế độ hợp đồng.

2.4. Về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên và kiến

nghị

2.4.1. Về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên

Hoạt động công chứng luôn chứa đựng nhiều rủi ro, bồi thường thiệt hại là

một rủi ro mà CCV có thể phải gánh chịu. Trước năm 2006 vấn đề bảo hiểm

trách nhiệm của CCV không được đặt ra, năm 2006 đến năm 2015 BHTNNN chỉ

được đặt ra đối với các VPCC chứ không đặt ra đối với PCC [48,, Khoản 7 điều

32]. LCC năm 2014 đã quy định mua bảo hiểm trách nhiệm cho CCV là bắt buộc

đối với tất cả các tổ chức hành nghề công chứng và việc mua bảo hiểm này phải

được duy trì trong suốt thời gian hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng.

LCC năm 2014 quy định BHTNNN của CCV là bắt buộc [60, Điều 37], việc

mua bảo hiểm là nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng [60, Khoản 5 Điều

33].

Khoản 1 điều 19 Nghị định 29/2015/NĐ-CP quy định “tổ chức hành nghề

công chứng có thể trực tiếp mua hoặc có thể uỷ quyền cho tổ chức xã hội-nghề

nghiệp của công chứng viên mua BHTNNN cho công chứng viên của tổ chức

mình” kinh phí mua bảo hiểm cho CCV của PCC được trích từ quỹ phát triển sự

nghiệp của CCV hoặc từ nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định của pháp

luật. Nghị định số 29/2015/NĐ-CP cũng quy định phạm vi bảo hiểm bảo gồm

thiệt hại vật chất của người tham gia ký kết hợp đồng, giao dịch hoặc của cá

nhân, tổ chức khác có liên qua trực tiếp đến hợp đồng, giao dịch đã được công

chứng mà những thiệt hại gây ra do lỗi của CCV trong thời hạn bảo hiểm. tổ

77

chức hành nghề công chứng hoặc tổ chức xã hội-nghề nghiệp của CCV trong

trường hợp được tổ chức hành nghề công chứng uỷ quyền có thể thoả thuận với

doanh nghiệp bảo hiểm về phạm vi bảo hiểm rộng hơn phạm vi bảo hiểm thiệt

hại về vật chất. Tuy nhiên sẽ không thuộc phạm vi bảo hiểm trong các trường

hợp sau: (i) công chứng viên thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và

nội dung hợp đồng giao dịch, nội dung bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức

xã hội; xúi giục, tạo điều kiện cho người tham gia hợp đồng, giao dịch thực hiện

giao dịch giả tạo hoặc hành vi gian dối khác; (ii) công chứng viên công chứng

hợp đồng, giao dịch, bản dịch có liên quan đến tài sản, lợi ích của bản thân mình

hoặc của những người thân thích là vợ hoặc chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; cha

mẹ đẻ, cha mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; con đẻ, co nuôi, con dâu, con rể, ông, bà;

anh chị em ruột, anh chị em ruột của vợ hoặc chồng; cháu là con của con đẻ, con

nuôi; (iii) công chứng viên cấu kết, thông đồng với người yêu cầu công chứng và

những người có liên quan làm sai lệch nội dung của văn bản công chứng, hồ sơ

công chứng; (iv) các trường hợp khác theo thoả thuận của giữa doanh nghiệp bán

bảo hiểm và tổ chức hành nghề công chứng hoặc tổ chức xã hội-nghề nghiệp của

công chứng viên trong trường hợp tổ chức hành nghề công chứng uỷ quyền.

Quy định về BHTNNN của CCV nhằm làm giảm bớt một phần trách nhiệm

của CCV khi CCV vô ý gây thiệt hại. Giúp CCV tự tin hơn trong hoạt động nghề

nghiệp của mình.

Vấn đề đặt ra

Thứ nhất, khoản 2 Điều 20 Nghị định số 29/2015/NĐ-CP quy định “tổ chức

hành nghề công chứng hoặc tổ chức xã hội-nghề nghiệp của công chứng viên

trong trường hợp được tổ chức hành nghề công chứng uỷ quyền có thể thoả

thuận với doanh nghiệp bảo hiểm về phạm vi bảo hiểm”. Qua khảo sát các hợp

đồng bảo hiểm đã được mua bởi các tổ chức hành nghề công chứng nói chung và

tại 7 PCC tại TP.HCM nói riêng [Phụ lục 8,9], tác giả nhận thấy, các tổ chức

hành nghề công chứng thường phải tự thương thảo mang tính chất riêng lẻ, cá

nhân với các công ty bảo hiểm để mua bảo hiểm hoặc một số ít PCC nhà nước

cùng thương thảo với công ty bảo hiểm, nên các hợp đồng bảo hiểm đã ký có

phạm vi bảo hiểm là rất chung chung, khó hiểu, phạm vi bảo hiểm, giới hạn bảo

78

hiểm rất hẹp, bất lợi cho các tổ chức hành nghề công chứng và CCV khi cần

được bảo hiểm về trách nhiệm nghề nghiệp, chủ yếu bảo hiểm được mua để đối

phó với hoạt động thanh, kiểm tra của cơ quan nhà nước mà không được đàm

phán để đi vào thực chất của việc bảo hiểm. Việc thỏa thuận mang tính đơn lẻ,

yếu thế đã tạo bất lợi cho các tổ chức hành nghề công chứng khi phải giao kết

các hợp đồng bảo hiểm với phạm vi bảo hiểm và điều kiện bảo hiểm hẹp hơn rất

nhiều so quy định tại Điều 20, Điều 21 Nghị định 29.

Thứ hai, theo khảo sát các hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm của các tổ chức

hành nghề công chứng [Phụ lục 8,9], thì bảo hiểm được mua cho từng cá nhân

CCV với thời hạn bảo hiểm là 12 tháng, có hiệu lực hồi tố từ một năm đến ba

năm kể từ ngày ký hợp đồng. Tuy nhiên trong hợp đồng bảo hiểm có một điều

khoản về “mở rộng ngày hồi tố”, điều khoản này mang tính chất có lợi cho các tổ

chức hành nghề công chứng khi tái ký kết hợp đồng bảo hiểm mang tính liên tục,

không có gián đoạn với công ty bảo hiểm. Nếu ký kết liên tục, không gián đoạn

thì “ngày hồi tố mở rộng sẽ theo ngày hồi tố của đơn bảo hiểm đầu tiên”. Ngược

lại, nếu tổ chức hành nghề công chứng không tái ký liên tục thì sẽ gặp bất lợi và

mất đi điều khoản ngày hồi tố ban đầu. Với thời hạn bảo hiểm và hiệu lực hồi tố

như vậy, về thực tiễn sẽ xảy ra tình huống và bất lợi cho các tổ chức hành nghề

công chứng, CCV sau:

Tình huống 1, tổ chức hành nghề công chứng X mua bảo hiểm cho CCV Y

trong thời hạn 12 tháng, làm việc được 09 tháng thì CCV Y nghỉ việc tại tổ chức

hành nghề công chứng X và chuyển sang làm việc cho tổ chức hành nghề công

chứng Z. Sau 12 tháng tổ chức hành nghề công chứng X phải bồi thường thiệt hại

cho người yêu cầu công chứng do CCV Y gây ra. Lúc này trách nhiệm nghề

nghiệp của CCV Y đã trở thành trách nhiệm nghề nghiệp không được bảo hiểm.

Tình huống 2, tổ chức hành nghề công chứng X mua bảo hiểm trách nhiệm

cho CCV Y trong giới hạn trách nhiệm một tỷ đồng, tổ chức hành nghề công

chứng X phải bồi thường thiệt hại do CCV Y gây ra với số tiền là hai tỷ đồng,

theo đó bên bảo hiểm có trách nhiệm chi trả một tỷ đồng, còn một tỷ đồng không

nằm trong giới hạn bảo hiểm thì tổ chức hành nghề công chứng phải chi trả và

CCV Y có trách nhiệm hoàn trả cho tổ chức hành nghề công chứng khoản tiền

79

này.

Bất lợi cho các tổ chức hành nghề công chứng ở chỗ, các hợp đồng, giao

dịch công chứng thông thường không tranh chấp ngay trong năm được công

chứng, mà chỉ phát sinh tranh chấp rất lâu sau khi được công chứng. Ví dụ, tại

nơi tác giả công tác là PCC số 1 Thành phố Hồ Chí Minh thì có di chúc phát sinh

tranh chấp sau 28 năm được công chứng, cụ thể di chúc được công chứng năm

1990, năm 2018 mới phát sinh tranh chấp. Vì vậy, việc quy định thời hạn bảo

hiểm chỉ có hiệu lực trong năm là không phù hợp với đặc thù hoạt động công

chứng. Và để được duy trì liên tục hiệu lực hồi tố là“ngày hồi tố mở rộng sẽ theo

ngày hồi tố của đơn bảo hiểm đầu tiên” các tổ chức hành nghề công chứng buộc

phải tái ký kết với duy nhất một công ty bảo hiểm mà không thể, không được

chọn một công ty bảo hiểm nào khác. Việc này làm cho các tổ chức hành nghề

công chứng trở thành bên yếu thế, buộc phải ký kết mà không thể thương thảo

các điều kiện bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm có lợi cho mình được. Như vậy rõ

ràng không có tính cạnh tranh để phát triển ngày càng tốt hơn về mặt bảo hiểm

cho các tổ chức hành nghề công chứng, CCV. Cách làm như hiện nay tạo thế độc

quyền cho các công ty bảo hiểm, bất lợi cho các tổ chức hành nghề công chứng,

các CCV cũng chính là bất lợi cho chính người bị thiệt hại. Và việc ngoài

BHTNNN ra CCV không còn biện pháp bảo đảm nào khác cũng gây bất lợi cho

người bị thiệt hại và không đảm bảo an toàn cho các giao dịch trong xã hội.

Kinh nghiệp của Cộng hoà Pháp cho thấy việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

bồi thường thiệt hại của CCV được thực hiện thông qua bảo hiểm và các loại

quỹ. Hàng năm CCV phải đóng góp 0,2% doanh thu vào quỹ bảo hiểm tập thể.

Quỹ này được chia cho Hội đồng công chứng tỉnh, Hội đồng công chứng khu

vực và Hội đồng công chứng tối cao. Quỹ này chỉ chi trả sau khi hãng bảo hiểm

trách nhiệm nghề nghiệm đã chi trả mức tối đa là 50.000.000 FF mà vẫn không

đủ cho thiệt hại được bồi thường. Việc chi trả được diễn ra như sau, ví dụ mức

phải bồi thường là 1.000.000.000 FF, hãng hiểm chi trả 50.000.000 FF, còn

950.000.000 FF thì quỹ bảo hiểm nội bộ trả 900.000.000 FF, còn 50.000.000 FF

còn thiếu sẽ chia đều cho công chứng viên trên toàn nước Pháp nộp đều cho đủ

80

[77, tr.18-19]. Điều này cho thấy việc đảm bảo bồi thường ở Pháp luôn được đảm

bảo tính đầy đủ và kịp thời cho dù khoản bồi thường có thể lớn hơn mức bảo

hiểm rất nhiều.

2.4.2. Kiến nghị

Để đảm bảo được nguyên tắc bồi thường kịp thời, toàn bộ, bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, tác giả có các kiến nghị sau:

Một là, hiện nay Hiệp hội CCV Việt Nam đã được thành lập thì việc đàm

phán về các điều kiện bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm, các tổ chức hành nghề công

chứng trong phạm vi cả nước nên ủy quyền cho Hiệp hội CCV Việt Nam thực

hiện đàm phán vì Hiệp hội CCV Việt Nam là tổ chức xã hội-nghề nghiệp của các

CCV được thành lập nhằm tôn chỉ và mục đích chính là bảo vệ quyền lợi cho các

CCV; Ban chấp hành của Hiệp hội CCV Việt Nam là những CCV có kinh

nghiệm, uy tín và am hiểu sâu sắc pháp luật nên Hiệp hội CCV Việt Nam có vị

thế tốt hơn trong việc đàm phán với doanh nghiệp bảo hiểm về các điều kiện bảo

hiểm. Nếu để Hiệp hội CCV Việt Nam đàm phán trong việc ký kết hợp đồng bảo

hiểm thì sẽ làm cho nội dung của các hợp đồng bảo hiểm của tất cả các tổ chức

hành nghề công chứng được thống nhất, có phạm vi bảo hiểm rộng hơn, bảo đảm

quyền và lợi ích chính đáng của CCV.

Hai là, mặc dù thời hạn bảo hiểm luật cho phép các tổ chức hành nghề công

chứng được tự do thoả thuận, tuy nhiên thời hạn bảo hiểm 12 tháng là quá ngắn,

vì luật quy định tổ chức hành nghề phải mua BHTNNN trong suốt thời gian hoạt

động của mình chứ không phải cho suốt thời gian CCV hành nghề. Do đặc thù

của hoạt động công chứng và các tranh chấp phát sinh từ các văn bản công chứng

có thể rất lâu sau đó như đã phân tích ở trên nên tác giả cho rằng cần quy định

“thời hạn bảo hiểm nên được mua tối thiểu từ ba đến năm năm hoặc lâu hơn”

hoặc “duy trì cố định thời gian được bảo hiểm trong 12 tháng kể từ ngày ký hợp

đồng bảo hiểm cho công chứng viên A và thời gian được bảo hiểm này không

mất đi, không hết lực trong suốt quá trình hành nghề của công chứng viên A”.

Ba là, nên có thêm một biện pháp bảo đảm khác để bảo đảm tốt hơn nữa

quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại trong trường hợp số tiền được bảo

hiểm nhỏ hơn số tiền phải bồi thường. Tác giả cho rằng quỹ bảo hiểm tập thể

81

theo kinh nghiệm của Cộng hoà Pháp là phù hợp cần nghiên cứu học hỏi để áp

dụng. Bởi việc thành lập các quỹ bảo hiểm nội bộ ở Việt Nam ở cấp độ Hội CCV

cấp tỉnh có tính khả thi cao.

2.5. Về hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng và kiến nghị

2.5.1. Về hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng

Như đã phân tích ở mục 1.1.3, khi thực hiện hoạt động công chứng giữa

người yêu cầu công chứng với CCV, tổ chức hành nghề công chứng tồn tại một

“thỏa thuận yêu cầu công chứng” theo mẫu phiếu yêu cầu công chứng hoặc “hợp

đồng dịch vụ công chứng” (nếu có ký kết), với chủ thể giao kết là tổ chức hành

nghề công chứng và người trực tiếp tiếp nhận giải quyết hồ sơ và thực hiện công

chứng hợp đồng, giao dịch theo luật định là CCV (Điều 2 LCC năm 2014).

Ví dụ, hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng số 01/HĐDV-CC1 ký giữa

PCC số 1 TPHCM và Công ty TNHH Bất Động Sản Thế Kỷ Hoàng Kim (Công

ty) ngày 28/10/2016 [phụ lục số 10], theo đó Công ty sẽ tiến hành ký hợp đồng

mua 34 căn hộ với khách hàng của Công ty (theo danh sách đính kèm), theo 34

hợp đồng mua bán sẽ do CCV của PCC số 1 công chứng dự kiến vào ngày

28/10/2016. PCC số 1 TPHCM sẽ tiến hành đóng dấu và xuất biên lai thu phí

công chứng, hóa đơn thù lao công chứng sau khi 34 hợp đồng được CCV ký kết

cho Công ty và Công ty sẽ chuyển khoản toàn bộ số tiền phí và thù lao công

chứng của tất cả các hợp đồng nêu trên vào tài khoản của PCC số 1. Tổng giá trị

hợp đồng 117.814.000 đồng, bao gồm phí công chứng (113.734.000 đồng) và thù

lao công chứng (4.080.000 đồng). Phương thức thanh toán, sau khi PCC số 1

giao toàn bộ hồ sơ công chứng đã được CCV ký tên, đóng dấu của PCC số 1

cùng biên lai thu phí công chứng và hóa đơn công chứng thì Công ty phải chuyển

khoản một lần toàn bộ số tiền trên vào tài khoản của PCC số 1, chậm nhất là

ngày 31/10/2016. Hợp đồng dịch vụ này được giao kết với chủ thể cung cấp dịch

vụ công chứng là PCC số 1 do ông NVH là Phó Trưởng phòng làm đại diện ký

kết, bên sử dụng dịch vụ là Công ty TNHH Bất Động Sản Thế Kỷ Hoàng Kim,

do bà HPT là chủ tịch Hội đồng thành viên làm đại diện ký kết. CCV trực tiếp

82

tiếp nhận, thụ lý và công chứng 34 hồ sơ mua bán trên chính là CCV NHPV.

Chủ thể đứng ra ký kết hợp đồng dịch vụ trên là PCC số 1, tuy nhiên người

trực tiếp thực hiện việc chứng nhận 34 hợp đồng mua bán 34 căn hộ trên chính là

tác giả (là CCV).

Thực tế, nhu cầu ký kết hợp đồng dịch vụ công chứng của khách hàng với

tổ chức hành nghề công chứng là có, bởi các lý do sau: một là, chỉ khi có hợp

đồng dịch vụ công chứng thì khách hàng mới thực hiện việc thanh toán tiền phí,

thù lao công chứng được theo quy định về kế toán, theo điều lệ của công ty... ;

hai là, khách hàng cần có văn bản thỏa thuận rõ ràng về thù lao, chi phí như chi

phí ký ngoài trụ sở, chi phí ăn uống, khách sạn, chi phí đi lại khi ký ngoài trụ sở,

chi phí đánh máy, chi phí tư vấn hồ sơ; Ba là, hợp đồng dịch vụ là căn cứ để các

bên không thể thay đổi các thỏa thuận liên quan đến việc cung cấp dịch vụ công

chứng.

2.5.2. Vấn đề đặt ra và kiến nghị

Vấn đề đặt ra

Như đã phân tích ở trên do không có quy định về “hợp đồng dịch vụ công

chứng” nên nên các TCHNCC phải mất thời gian để tìm hiểu các quy định liên

quan đến hợp đồng dịch vụ như quy định về hợp đồng dịch vụ của BLDS, hợp

đồng dịch vụ pháp lý của Luật Luật sư, nghiên cứu các quy định của Luật công

chứng 2014 có cấm ký kết hợp đồng dịch vụ không, sau đó mới có thể quyết định

là ký kết hợp đồng dịch vụ công chứng nêu trên [Phụ lục số 10]. Và đến thời

điểm hiện nay, việc tổ chức hành nghề công chứng có thể ký kết hợp đồng dịch

vụ công chứng [tương tự như hợp đồng dịch vụ pháp lý của luật sư] là quan điểm

của cá nhân tác giả và một số CCV tại TPHCM. Thiết nghĩ nhu cầu ký kết hợp

đồng dịch vụ công chứng là có thật, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng

của khách hàng công chứng và cả tổ chức hành nghề công chứng, tuy nhiên luật

không quy định nên sẽ có quan điểm cho rằng tổ chức hành nghề công chứng

không được quyền ký kết hợp đồng dịch vụ công chứng.

Kiến nghị

Một là, bổ sung vào LCC quy định sau: “Điều … Thực hiện dịch vụ công

chứng của công chứng viên. 1.Công chứng viên thực hiện dịch vụ công chứng

83

theo hợp đồng dịch vụ công chứng hoặc theo phiếu thỏa thuận thực hiện dịch vụ

công chứng theo quy định pháp luật. 2. Đối với vụ, việc công chứng có mức thù

lao từ 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) trở lên, tổ chức hành nghề công

chứng phải ký kết hợp đồng dịch vụ công chứng bằng văn bản. Hợp đồng dịch vụ

công chứng bao gồm các nội dung sau: a) Tên, địa chỉ của khách hàng hoặc

người đại diện của khách hàng, đại diện của tổ chức hành nghề công chứng; b)

Nội dung dịch vụ; thời hạn thực hiện hợp đồng; c) Quyền, nghĩa vụ của các

bên;d) Phương thức tính và mức thù lao, chi phí cụ thể; các khoản chi phí (nếu

có);đ) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;e) Phương thức giải quyết tranh chấp.

3. Đối với vụ, việc công chứng có mức thù lao dưới 200.000 đồng (hai trăm ngàn

đồng), tổ chức hành nghề công chứng lập phiếu thỏa thuận thực hiện dịch vụ

công chứng với khách hàng theo mẫu do Bộ Tư pháp ban hành”

Hai là, do đặc thù của nghề công chứng là chịu trách nhiệm về tính xác

thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch và khi thực hiện việc công chứng

phải tuân thủ các nguyên tắc bắt buộc với trình tự, thủ tục công chứng được quy

định chặt chẽ, nên kiến nghị phải quy định rõ những nội dung mà tổ chức hành

nghề công chứng và khách hàng được quyền thỏa thuận và không được quyền

thỏa thuận trong “hợp đồng dịch vụ công chứng” hoặc “phiếu thỏa thuận thực

hiện dịch vụ công chứng”, quy định này nhằm để thực hiện thống nhất, tránh việc

tùy tiện thỏa thuận vi phạm quy định về nghĩa vụ của CCV, về đạo đức nghề

84

công chứng …

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong chương 2, thông qua việc bình luận các bản án của tòa án nhân dân

các cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã tiến hành phân tích thực trạng áp

dụng pháp luật, chỉ ra các bất cập và từ đó đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện các

quy định pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công

chứng viên trong hoạt động công chứng. Đó là:

1. Thực trạng về trách nhiệm bồi thường và hoàn lại của công chứng viên,

những bất cập và kiến nghị giải quyết những bất cập đã phân tích: Một là, đối với

CCV là công chức, kiến nghị quy định hoặc hướng dẫn cụ thể về việc hoạt động

hành nghề công chứng của CCV là công chức; Hai là, đối với CCV là viên chức,

như đã phân tích ở mục 2.1.2 ta thấy BLDS không có điều khoản nào quy định

về bồi thường thiệt hại do viên chức gây ra. Vì vậy kiến nghị bổ sung vào BLDS

quy định về bồi thường thiệt hại do viên chức gây ra; Ba là, đối với CCV là lao

động làm việc theo chế độ hợp đồng, như đã phân tích ở mục 2.1.4 thì trách

nhiệm hoàn trả của CCV làm việc theo chế độ hợp đồng lao động không được

quy định tại BLLĐ 2012 và chỉ được quy định mang tính nguyên tắc tại LCC

năm 2014, nên tác giả kiến nghị bổ sung những quy định về nghĩa vụ “hoàn trả”

của CCV làm việc theo chế độ hợp đồng lao động gây ra thiệt hại trong hoạt

động công chứng; Bốn là, nhằm đảm bảo quyền lợi của tổ chức hành nghề công

chứng sẽ được CCV bồi hoàn, hoàn trả kịp thời khi tổ chức hành nghề công

chứng đã bồi thường thay cho CCV của mình gây ra theo Điều 38 LCC năm

2014, tác giả kiến nghị ban hành những quy định cụ thể về trách nhiệm bồi hoàn,

hoàn trả của các loại CCV (gồm CCV là công chức, viên chức, chủ DNTN, thành

viên hợp danh, CCV làm việc theo chế độ hợp đồng); Năm là, kiến nghị sửa đổi

Điều 71 LCC năm 2014 theo hướng phù hợp với Điều 38 như sau: “Công chứng

viên vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị

xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự,

nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của Điều 38 của Luật này”.

2. Thực trạng về điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của

công chứng viên, tác giả đã trình bày những bất cập trong thực tiễn liên quan đến

85

các điều kiện về thiệt hại, hành vi trái pháp luật, hành vi vi phạm hợp đồng, mối

qua hệ nhân quả và lỗi, từ đó đưa ra kiến nghị khắc phục những bất cập. Một là,

kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước về công chứng cần đánh giá thực trạng

áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng về trách nhiệm BTTH của

CCV để kịp thời báo cáo và kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định

pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV; Hai là, kiến nghị cần xây

dựng tiêu chí nhằm xác định nghĩa vụ cụ thể của CCV trong lĩnh vực công

chứng; Từ những tiêu chí cụ thể này mới có thể xác định chính xác các hành vi

trái pháp luật, xác định được lỗi của CCV (nếu có); Ba là, kiến nghị cơ quan có

thẩm quyền cần bổ sung cụ thể quy định về “hợp đồng dịch vụ công chứng” hoặc

“phiếu thỏa thuận dịch vụ công chứng”.

3. Thực trang liên quan đến thủ tục bồi thường, hoàn trả của công chứng

viên, các bất cập và đưa ra kiến nghị. Thứ nhất, kiến nghị bổ sung thủ tục tố tụng

dân sự đối với “trường hợp công chứng viên không hoàn trả thì tổ chức hành

nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết” theo thủ tục rút gọn; Thứ

hai, về thủ tục hoàn trả, tác giả cho rằng nên có quy định về thủ tục hoàn trả

thống nhất cho tất cả các công chứng viên không phân biệt công chứng viên là

công chức, viên chức, chủ DNTN, thành viên hợp danh, công chứng viên làm

việc theo chế độ hợp đồng.

4. Thực trạng về cơ chế bảo đảm thực hiện việc bồi thường, tác giả đã phân

tích những vấn đề liên quan đến bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công

chứng viên, các bất cập và những kiến nghị để hoàn thiện cơ chế này. Một là,

kiến nghị để Hiệp hội CCV Việt Nam đàm phán trong việc ký kết hợp đồng bảo

hiểm; Hai là, tác giả kiến nghị cần quy định “thời hạn bảo hiểm nên được mua

tối thiểu từ ba đến năm năm hoặc lâu hơn” hoặc “duy trì cố định thời gian được

bảo hiểm trong 12 tháng kể từ ngày ký hợp đồng bảo hiểm cho công chứng viên

A và thời gian được bảo hiểm này không mất đi, không hết lực trong suốt quá

trình hành nghề của công chứng viên A”; Ba là, kiến nghị cần quy định bổ sung

quỹ bảo hiểm tập thể của CCV nhằm đảm bảo việc BTTH cho khách hàng, cũng

như quyền lợi chính đáng của CCV.

5. Về hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng, tác giả đã phân tích sự cần

86

thiết phải có các quy định pháp luật về hợp đồng dịch vụ công chứng và kiến

viên; Hai là, kiến nghị phải quy định rõ những nội dung mà tổ chức hành nghề công chứng và khách hàng

được quyền thỏa thuận và không được quyền thỏa thuận trong “hợp đồng dịch vụ công chứng” hoặc

“phiếu thỏa thuận thực hiện dịch vụ công chứng”. Hai là, phải quy định rõ những nội dung mà tổ chức

hành nghề công chứng và khách hàng được quyền thỏa thuận và không được quyền thỏa thuận trong “hợp đồng dịch vụ công chứng” hoặc “phiếu thỏa thuận thực hiện dịch vụ công chứng”

87

nghị. Một là, bổ sung vào LCC quy định sau: “Điều … Thực hiện dịch vụ công chứng của công chứng

KẾT LUẬN

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động

công chứng đã được quy định ngay từ khi ban hành LCC năm 2006, tuy nhiên

sau hơn 14 năm thi hành LCC với một lần sửa đổi, bổ sung LCC vào năm 2014,

vấn đề bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng vẫn

chưa phát huy hiệu quả mà nguyên nhân chính là do những bất cập ngay trong

các quy định của pháp luật.

1. Chương 1, tác giả đã phân tiến hành nghiên cứu những vấn đề lý luận về

bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng như: khái

niệm, đặc điểm, bản chất pháp lý; Phân tích những quy định của pháp luật về

điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các chủ thể trong quan hệ

bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng; Biện pháp

bảo đảm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên; Trách nhiệm hoàn trả

của công chứng viên; Về quan hệ cung cấp dịch vụ công chứng thông qua hợp

đồng dịch vụ công chứng hoặc phiếu thỏa thuận cung cấp dịch vụ công chứng.

Đây là những vấn đề nền tảng làm cơ sở lý luận để tác giả phân tích về thực

trạng, giải quyết những vấn đề đặt ra, những bất cập phát sinh trong thực tiễn ở

chương 2.

2. Chương 2 tác giả đã thông qua việc phân tích, bình luận các bản án đã

được Tòa án nhân dân các cấp tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử, phân tích các

hợp đồng bảo hiểm TNNNCC đã ký của một số PCC tại Thành phố Hồ Chí

Minh, đối chiếu, so sánh với phần lý luận ở chương 1, phát hiện thực trạng,

những khó khăn, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó tác giả đưa ra

kiến nghị cụ thể như sau:

Về chủ thể gây thiệt hại, bất cập lớn nhất là quy định về vấn đề hoàn trả.

Hiện nay mới chỉ có công chứng viên là viên chức mới có quy định về trách

nhiệm hoàn trả, còn các công chứng viên khác (công chức, chủ DNTN, thành

viên hợp danh, công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng) thì pháp luật

chưa có quy định. Điều này làm cho việc áp triển khai quy định hoàn trả trên

thực tế gặp nhiều vướng mắc. Tác giả đã kiến nghị cần sớm rà soát các quy định

88

của pháp luật liên quan đến vấn đề hoàn trả của tất cả các loại công chứng viên

từ đó nên có quy định thống nhất trong hoạt động công chứng về vấn đề này

nhằm tạo sự bình đẳng cho tất cả các công chứng viên. Và Nhằm đảm bảo sự

nhất quán về mặt câu chữ trong các quy định pháp luật, tác giả cho rằng cần sửa

đổi Điều 71 LCC năm 2014 theo hướng phù hợp với Điều 38 LCC năm 2014.

Về điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường, trên cơ sở bình luận các bản

án đã được xét xử tại thành phố Hồ Chí Minh, tác giả có các kiến nghị sau: Một

là, kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước về công chứng đánh giá thực trạng và

bất cập trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng về BTTH

của CCV trong hoạt động công chứng, để kịp thời báo cáo và kiến nghị Bộ Tư

pháp, Chính Phủ và Quốc Hội sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định pháp luật

về các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên

trong hoạt động công chứng; Hai là, kiến nghị xây dựng tiêu chí nhằm xác định

nghĩa vụ cụ thể của công chứng viên trong lĩnh vực công chứng; Ba là, kiến nghị

cơ quan có thẩm quyền cần bổ sung cụ thể quy định về “hợp đồng dịch vụ công

chứng” hoặc “phiếu thỏa thuận dịch vụ công chứng”.

Về thủ tục bồi thường, hoàn trả và bảo hiểm trách nhiệm của công chứng

viên, tác giả đã phân tích những bất cập của pháp luật liên quan đến thủ tục bồi

thường, hoàn trả và biện pháp bảo đảm trách nhiệm của công chứng viên, từ đó

đưa ra những kiến nghị sau: (1) Về thủ tục bồi thường, tác giả cho rằng nên

khuyến khích việc tự thỏa thuận, hoà giải và tạo cơ chế tài chính để các PCC có

điều kiện tài chính bồi thường thông qua tự thỏa thuận, hoà giải; (2) Về thủ tục

hoàn trả, tác giả kiến nghị nên ban hành một quy định thống nhất về thủ tục hoàn

trả trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động

công chứng nhằm tạo sự bình đẳng và rõ ràng; (3) Về bảo hiểm trách nhiệm nghề

nghiệp của công chứng viên, tác giả có các kiến nghị sau: Một là, để Hiệp hội

công chứng viên Việt Nam đàm phán trong việc ký kết hợp đồng bảo hiểm thì sẽ

làm cho nội dung của các hợp đồng bảo hiểm của tất cả các tổ chức hành nghề

công chứng được thống nhất, có phạm vi bảo hiểm rộng hơn, bảo đảm quyền và

lợi ích chính đáng của công chứng viên; Hai là, kiến nghị cần quy định “thời

hạn bảo hiểm nên được mua tối thiểu từ ba đến năm năm hoặc lâu hơn” hoặc

89

“duy trì cố định thời gian được bảo hiểm trong 12 tháng kể từ ngày ký hợp đồng

bảo hiểm cho công chứng viên A và thời gian được bảo hiểm này không mất đi,

không hết lực trong suốt quá trình hành nghề của công chứng viên A”; Ba là,

nên có thêm một biện pháp bảo đảm khác để bảo đảm tốt hơn nữa quyền, lợi ích

hợp pháp của người bị thiệt hại trong trường hợp số tiền được bảo hiểm nhỏ hơn

số tiền phải bồi thường. Tác giả cho rằng quỹ bảo hiểm tập thể theo kinh nghiệm

của Cộng hoà Pháp là phù hợp cần nghiên cứu học hỏi để áp dụng. Bởi việc

thành lập các quỹ bảo hiểm nội bộ ở Việt Nam ở cấp độ Hội công chứng viên cấp

tỉnh có tính khả thi cao.

Về hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng, tác giả đã phân tích sự cần thiết

phải có các quy định pháp luật về hợp đồng dịch vụ công chứng và kiến nghị.

Cần bổ sung vào LCC quy định sau: “Điều … Thực hiện dịch vụ công chứng của

công chứng viên; Và phải quy định rõ những nội dung mà tổ chức hành nghề

công chứng và khách hàng được quyền thỏa thuận và không được quyền thỏa

thuận trong “hợp đồng dịch vụ công chứng” hoặc “phiếu thỏa thuận thực hiện

90

dịch vụ công chứng”.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ giáo dục và đào tạo (2008) Giáo trình triết học, Nxb.Chính trị -Hành

chính, Hà Nội.

2. Bộ Nội vụ (2011) Thông tư 08/2011/TT-BNV hướng dẫn một số điều của

Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/10/2010 của Chính phủ quy định

những người là công chức, ban hành ngày 02/6/2011, Hà Nội.

3. Bộ Tài chính (2016) Thông tư 257/2016/TT-BTC quy định mức thu, chế độ

thu, nộp, quản lý, sử dụng phí công chứng; phí chứng thực; phí thẩm định

tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề công chứng; phí thẩm định điều kiện hoạt

động văn phòng công chứng; lệ phí cấp thẻ công chứng viên, ban hành ngày

11/11/2016, Hà Nội.

4. Bộ Tài chính (2017) Thông tư 111/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số

điều của Thông tư 257/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016, ban hành ngày

20/10/2017, Hà Nội.

5. Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp (2012) Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-

BTC-BTP hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí

công chứng, ban hành ngày 19/01/2012, Hà Nội.

6. Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp (2015) Thông tư liên tịch số 115 /2015/TTLT-

BTC-BTP sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP

ngày 19/01/2012 Hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng

phí công chứng, ban hành ngày 11/8/2015, Hà Nội.

7. Bộ Tư pháp (2011) Thông tư số 17/2011/TT-BTP hướng dẫn một số quy định

của luật luật sư, nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số

điều của luật luật sư, nghị định hướng dẫn thi hành các quy định của luật

luật sư về tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, ban hành ngày

14/10/2011, Hà Nội.

8. Bộ Tư pháp (2012) Thông tư số 11/2012/TT-BTP quy tắc đạo đức nghề công

91

chứng, ban hành ngày 30/10/2012, Hà Nội.

9. Bộ Tư pháp (2015) Thông tư số 20/2015/TT-BTP hướng dẫn thi hành một số

điều của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/02/2015, ban

hành ngày 29/12/2015, Hà Nội.

10. Chính phủ (1996) Nghị định số 31/CP về tổ chức và hoạt động công chứng

Nhà nước, ban hành ngày 18/5/1996, Hà Nội.

11. Chính phủ (2000) Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực,

ban hành ngày 08/12/2000, Hà Nội.

12. Chính phủ (2010) Nghị định số 06/2010/NĐ-CP quy định những người là

công chức, ban hành ngày 25/01/2010, Hà Nội.

13. Chính phủ (2010) Nghị định số 16/2010/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

(hết hiệu lực 1/7/2018), ban hành ngày ngày 03/3/2010, Hà Nội.

14. Chính phủ (2012) Nghị định số 27/2012/NĐ-CP về xử lý kỷ luật viên chức và

trách nhiệm bồi thường hoàn trả của viên chức, ban hành ngày 06/4/2012,

Hà Nội.

15. Chính phủ (2015) Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc,

chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, và chứng thực hợp

đồng, giao dịch., ban hành ngày 16/2/2015, Hà Nội.

16. Chính phủ (2015) Nghị định số 29/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của luật công chứng, ban hành ngày 15/32015, Hà

Nội.

17. Chính phủ (2018) Nghị định số 68/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều

và biện pháp thi hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, ban hành

ngày ngày 15/5/2018, Hà Nội.

18. Đỗ Văn Đại (2010) “Lỗi, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

ngoài hợp đồng?”, tạp chí Khoa học pháp lý (số 2), tr.49-58.

19. Đỗ Văn Đại (2011) “Bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra”, tạp

chí Nghiên cứu lập pháp, (số 14), tr.44-52.

20. Đỗ Văn Đại (2012) Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân

sự Bản án và bình luận bản án, tập 1, Nxb.Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà

92

Nội.

21. Đỗ Văn Đại (2014) Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Bản án và bình

luận bản án, tập 1, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành

phố Hồ Chí Minh.

22. Đỗ Văn Đại (2014) Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Bản án và bình

luận bản án, tập 2, Nxb.Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành

phố Hồ Chí Minh.

23. Hoàng Phê (2002) Từ Điển Tiếng việt (Viện ngôn ngữ học), Nxb Đà nẵng –

Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng.

24. Hoàng Thế Liên (chủ biên)(2013) Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm

2005, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự Thật, Hà Nội.

25. Hoàng Văn Hữu (2014) “Trách nhiệm bồi thường do công chứng viên gây ra

trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật

học, Đại học Luật Hà Nội.

26. Hội đồng Bộ trưởng (1991) Nghị định số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động

công chứng Nhà nước, ban hành ngày ngày 27/2/1991, Hà Nội

27. Hội đồng thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao (2006) Nghị quyết

03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật dân sự năm

2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, ban hành ngày 08/7/2006, Hà

Nội

28. Kim Phụng -Nguyễn Quỳnh (2019) “Bất cập án tuyên công chứng viên bồi

thường ”, Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, < https://plo.vn/phap-

luat/bat-cap-an-tuyen-cong-chung-vien-boi-thuong-870874.html>,

(04/3/2020)

29. Lại Thị Bích Ngà (2012) “Trách nhiệm dân sự của công chứng viên ở Pháp

và các đảm bảo đối với khách hàng”, tạp chí Nghề luật, (số 5), tr.47-52.

30. Lê Nga (2013) “Thông đồng với công chứng viên, giả chữ ký, chiếm đoạt 4

tỉ đồng”, Báo Thanh niên, < https://thanhnien.vn/thoi-su/thong-dong-voi-

cong-chung-vien-gia-chu-ky-chiem-doat-4-ti-dong-15899.html>,

(02/03/2020).

31. Lê Thị Phương Hoa (2005) "Công chứng và xã hội hoá công chứng ở Việt

93

Nam", tạp chí Nghiên cứu lập pháp (số 8), tr.33-39.

32. Minh Tâm (2018) “Một số điểm mới của Luật Trách nhiệm bồi thường của

Nhà nước năm 2017 so với Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm

2009”, Trang Thông tin điện tử Sở Tư pháp Quãng Bình,

boi-thuong-cua-nha-nuoc-nam-2017-so-voi-luat-trach-nhiem-b.htm>,

(04/3/2020)

33. Minh Tân- Xuân Nghi - Thanh Lãm (1998) Từ điển tiếng Việt, Nxb.Thanh

Hoá, Thanh Hoá.

34. Nguyễn Cảnh Hợp (2011) Thể chế công vụ, Nxb.Tư Pháp, Hà Nội.

35. Nguyễn Minh Đoan (chủ biên) (2014) Một số vấn đề lý luật và thực tiễn về

trách nhiệm pháp lý của Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức, cơ quan

nhà nước ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Nguyễn Minh Oanh (2010) “khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường

thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại” Thông tin pháp luật

dân sự, ,

(04/3/2020)

37. Nguyễn Thy (2019) “Với công chứng viên, lẽ nào một là tiền, hai là tù!”Báo

Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh < https://plo.vn/phap-luat/voi-cong-

chung-vien-le-nao-mot-la-tien-hai-la-tu-870878.html> (04/3/2020)

38. Nhà pháp luật Việt- Pháp (1998) Bộ luật dân sự của nước Cộng hoà Pháp,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Nhẫn Nam (2013) “Kiện công chứng viên, mất toi án phí! ”, Thanh niên, <

https://thanhnien.vn/thoi-su/thong-dong-voi-cong-chung-vien-gia-chu-ky-

chiem-doat-4-ti-dong-15899.html>, (04/3/2020)

40. Phạm Kim Anh (2003) “Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự”, tạp chí

Khoa học pháp lý (số 3), tr.32-38.

41. Quốc hội (1959) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Quốc hội (1980) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94

43. Quốc hội (2000) Luật Kinh doanh bảo hiểm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Quốc hội (2004) Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Quốc hội (2005) Bộ Luật dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Quốc hội (2005) Luật doanh nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Quốc hội (2005) Luật nhà ở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Quốc hội (2006) Luật công chứng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Quốc hội (2006) Luật Luật sư, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Quốc hội (2008) Luật cán bộ, công chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Quốc hội (2009) Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

52. Quốc hội (2010) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật kinh doanh bảo

hiểm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Quốc hội (2010) Luật viên chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. Quốc hội (2011) Luật khiếu nại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Quốc hội (2011) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật tố tụng dân sự,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. Quốc hội (2012) Bộ luật lao động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. Quốc hội (2012) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Quốc hội (2013) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Quốc hội (2013) Luật đất đai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Quốc hội (2014) Luật công chứng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Quốc hội (2014) Luật doanh nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

62. Quốc hội (2014) Luật hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. Quốc hội (2014) Luật nhà ở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Quốc hội (2015) Bộ Luật dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. Quốc hội (2015) Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

66. Quốc hội (2015) Luật tố tụng hành chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

67. Quốc hội (2017) Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Nxb Chính trị

95

quốc gia, Hà Nội.

68. Quốc hội (2019) Luật cán bộ, công chức và Luật Viên chức sửa đổi, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

69. Quốc triều hình luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

70. Trần Ngọc Thành (2006) “Một số vấn đề về nguyên tắc bồi thường đầy đủ

trong dân sự”, tạp chí Toà án Nhân dân, (số 1), tr.3-6.

71. Trần Thúc Linh (1964) Danh từ pháp luật lược giải, Nhà sách Khai Trí, Sài

Gòn.

72. Trần Văn Liêm (1974) Dân luật, Nxb.Thế Nhân, Sài Gòn.

73. Trần Việt Anh (2011) “So sánh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách

nhiệm dân sự ngoài hợp đồng”, tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 4), tr.38-

41, 50.

74. Trần Việt Anh (2011) “So sánh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách

nhiệm dân sự ngoài hợp đồng”, tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 4), tr.38-

41, 50.

75. Trường Đại học Luật Hà Nội (1996) Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp

luật, Nxb.Giáo Dục, Hà Nội.

76. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000) Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb.

Công an nhân dân, Hà Nội

77. Trường Đại học luật Hà Nội (2013) Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập II,

Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

78. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2014) Giáo trình pháp luật

về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb.Hồng Đức-Hội

luật gia Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh.

79. Trường đào tạo các chức danh tư pháp (2003) Giáo trình nghiệp vụ công

chứng viên, Nxb.Thống Kê, Hà Nội.

80. Từ Dương Tuấn (2010) “Bàn về cơ chế hành chính trong việc khiếu nại và

giải quyết khiếu nại đối với hoạt động công chứng trong tiến trình xã hội

hoá”, tạp chí Nghề luật, (số 4), tr66-72.

81. Tuấn Đạo Thanh (2012) Pháp luật về công chứng những vấn đề lý luận và

96

thực tiễn, Nxb.Tư pháp, Hà Nội.

82. Tuấn Đạo Thanh (2013) Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm dân sự

trong hoạt động công chứng, Nxb.Tư pháp, Hà Nội.

83. Uỷ ban thường vụ Quốc Hội (1998) Pháp lệnh cán bộ, công chức số

01/1998/PL-UBTVQH10, ban hành ngày 26/02/1998, Hà Nội

84. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2001) Pháp lệnh số 38/2001/PL-UBTVQH về

Phí và lệ phí, ban hành ngày 28/8/2001, Hà Nội

85. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2014) Báo cáo số 649/BC-UBTVQH13 giải

trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật công chứng (sửa đổi), ban hành ngày

12/5/2014, Hà Nội.

86. Viện khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp (1995) Bình luận khoa học Bộ luật dân

sự nhật Bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

87. Viện khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp (2006) Từ điển Luật học, Nxb Từ điển

Bách khoa - Nxb Tư pháp.

88. Vũ Cao Minh (2014) “Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường, hoàn trả

của viên chức”, tạp chí Luật học (số 5), tr.28-36.

89. Vũ Văn Mẫu (1960) Dân luật khái luận, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài

Gòn.

90. Vũ Văn Mẫu (1963) Việt Nam Dân luật lược khảo quyển II Nghĩa vụ và khế

97

ước, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn.

PHỤ LỤC

98