![](images/graphics/blank.gif)
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Truyện ngắn Bùi Thị Như Lan
lượt xem 3
download
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/images/down16x21.png)
Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1 - Vài nét về văn xuôi dân tộc thiểu số và nhà văn nữ dân tộc Tày - Bùi Thị Như Lan; Chương 2 - Đặc điểm truyện ngắn Bùi Thị Như Lan nhìn từ phương diện nội dung; Chương 3 - Một số đặc điểm về nghệ thuật. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Truyện ngắn Bùi Thị Như Lan
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––––– BÙI THỊ THANH HUYỀN TRUYỆN NGẮN BÙI THỊ NHƯ LAN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Việt Trung THÁI NGUYÊN - 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Truyện ngắn Bùi Thị Như Lan” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, hoàn toàn không sao chép của bất cứ ai. Các kết quả của đề tài là trung thực và chưa được công bố ở các công trình khác Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí, các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017 Tác giả luận văn Bùi Thị Thanh Huyền i
- LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Trần Thị Việt Trung – công tác tại Đại học Thái Nguyên về sự hướng dẫn tận tình, đầy đủ, chu đáo và đầy tinh thần trách nhiệm của cô trong toàn bộ quá trình em thực hiện và hoàn thành luận văn. Em xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện giúp đỡ của Ban Chủ nhiệm khoa Ngữ Văn và các thầy cô giáo Phòng Đào tạo - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã giúp đỡ em thực hiện Đề tài luận văn này. Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên và nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2017 Tác giả luận văn Bùi Thị Thanh Huyền ii
- MỤC LỤC Lời cam đoan ........................................................................................................ i Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii Mục lục ............................................................................................................... iii MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 7 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 8 6. Cấu trúc của đề tài ........................................................................................... 8 NỘI DUNG ......................................................................................................... 9 Chương 1: VÀI NÉT VỀ VĂN XUÔI DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ NHÀ VĂN NỮ DÂN TỘC TÀY - BÙI THỊ NHƯ LAN .......................................... 9 1.1. Vài nét khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số thời kì hiện đại ................... 9 1.2. Nhà văn nữ quân đội dân tộc Tày - Bùi Thị Như Lan................................ 22 1.2.1. Vài nét về nhà văn Bùi Thị Như Lan ...................................................... 22 1.2.2. Bùi Thị Như Lan - nữ nhà văn quân đội miền núi .................................. 25 TIỂU KẾT ......................................................................................................... 29 Chương 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN BÙI THỊ NHƯ LAN ................................................................................................ 31 2.1. Hình tượng người phụ nữ dân tộc thiểu số trong truyện ngắn Bùi Thị Như Lan ...................................................................................................... 31 2.1.1. Người phụ nữ miền núi với vẻ đẹp khỏe mạnh, tự nhiên, rực rỡ, đậm chất dân tộc và miền núi. ................................................................................... 32 2.1.2. Người phụ nữ DTTS trước khó khăn, thách thức của cuộc sống thời kỳ hiện đại và hội nhập ...................................................................................... 41 iii
- 2.2. Hình tượng người lính miền núi - nét riêng trong sáng tác của Bùi Thị Như Lan ...................................................................................................... 47 2.2.1.Những người lính miền núi trong quân ngũ ............................................. 48 2.2.2. Người lính miền núi trong cuộc sống đời thường ................................... 52 TIỂU KẾT ......................................................................................................... 56 Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT ................................ 58 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................... 58 3.1.1.Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật qua yếu tố ngoại hình ............... 58 3.1.2. Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật qua hành động ......................... 63 3.1.3. Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ nhân vật .. 67 3.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ................................................................. 75 3.2.1. Cốt truyện theo thời gian tuyến tính ........................................................ 76 3.2.2. Cốt truyện theo thời gian gấp khúc, đảo lộn ........................................... 80 3.2.3. Cốt truyện vừa mang tính hiện thực vừa mang tính huyền ảo ................ 88 3.3. Một số đặc điểm về ngôn ngữ nghệ thuật................................................... 91 3.3.1. Ngôn ngữ dung dị, đời thường mang đậm chất dân tộc, miền núi .......... 92 3.3.2. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất so sánh, liên tưởng mang màu sắc miền núi .............................................................................................................. 97 TIỂU KẾT ......................................................................................................... 99 KẾT LUẬN..................................................................................................... 101 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 105 iv
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học các dân tộc thiểu số (DTTS) là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền văn học Việt Nam. Văn học các DTTS cũng có một vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại - bởi nó là tiếng nói văn học của 53 dân tộc anh em bên cạnh tiếng nói văn học của dân tộc Kinh. Hơn nửa thế kỉ qua, mảng văn học này cũng đã có những đóng góp đáng kể đối với nền văn học nước nhà với những thành tựu nổi bật, thể hiện ở sự đông đảo của đội ngũ sáng tác, sự phong phú của các tác phẩm văn học và sự đặc sắc về nội dung phản ánh và nghệ thuật thể hiện. Tuy nhiên, việc nghiên cứu bộ phận văn học này cho đến nay vẫn chưa có sự tương xứng với vị trí và tầm vóc của nó. Rất nhiều nhà văn, nhà thơ cùng các tác phẩm văn chương của họ vẫn chưa được nhiều người biết đến. Vì vậy, việc nghiên cứu về bộ phận văn học này là rất cần thiết, nhất là nghiên cứu tác phẩm, tác giả cụ thể. Nếu nghiên cứu thành công bộ phận văn học này sẽ góp phần giới thiệu cho đông đảo độc giả của cả nước có thêm sự hiểu biết, sự trân trọng đối với bộ phận văn học này. Trong văn học DTTS Việt Nam hiện đại, ngoài thể loại thơ được đánh giá có nhiều thành tựu nhất bởi hàng loạt các tên tuổi như: Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Y Phương, Mã A Lềnh, Lò Ngân Sủi, Pờ Sảo Mìn, Nông Thị Ngọc Hòa, Bùi Tuyết Mai, Inrasara… thì văn xuôi - đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết cũng đã có một quá trình phát triển khá mạnh mẽ, đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, đáng được tự hào, với các tên tuổi như: Nông Minh Châu, Vi Hồng, Triều Ân, Vi Thị Kim Bình, La Quán Miên, Hà Thị Cẩm Anh, Cao Duy Sơn, Kha Thị Thường, Sa Phong Ba, Y Phương, Kim Nhất, Hữu Tiến, Linh Nga Niek Đam, Đoàn Thị Ngọc Minh, Bùi Thị Như Lan… Trong đó nổi lên 2 cây bút đã được nhận nhiều giải thưởng cao là: Nhà văn Vi Hồng - Giải 1
- thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật và nhà văn Cao Duy Sơn - Giải thưởng Asean về Văn học . Trong đội ngũ các nhà văn, nhà thơ DTTS này đã có nhiều người được bạn đọc và các nhà nghiên cứu, phê bình biết đến, giới thiệu, nghiên cứu… Tuy nhiên, trong đó cũng còn có nhiều tác giả, tác phẩm chưa được chú ý nghiên cứu để khẳng định những đóng góp của họ đối với sự phát triển, sự phong phú và sự đặc sắc của văn học dân tộc thiểu số. Tác giả Bùi Thị Như Lan là một trường hợp nhà văn như thế. Trong các cây bút nữ DTTS - nhà văn Bùi Thị Như Lan là một trong những nhà văn nữ thuộc thế hệ sau, còn khá trẻ và sung sức (sinh năm 1967), và là cây bút nữ hiếm hoi trong quân đội (thuộc Quân khu I - Quân khu miền núi phía Bắc). Do đó, ngoài những đặc điểm chung có thể thấy ở các nhà văn nữ DTTS khác thì các sáng tác của nhà văn quân đội Bùi Thị Như Lan còn có những nét đặc trưng riêng, thể hiện rõ được phong cách nghệ thuật riêng của chị. Và đồng thời, đó cũng là những đóng góp riêng, có ý nghĩa cuả nhà văn dân tộc Tày này đối với văn xuôi nữ DTTS nói riêng và văn xuôi các DTTS nói chung. Bùi Thị Như Lan là một trong những cây bút viết Truyện ngắn xuất sắc của tỉnh Thái Nguyên. Tác phẩm của chị cũng đã được đưa vào giới thiệu trong phần Văn học địa phương của tỉnh Thái Nguyên. Chị cũng là một trong những nữ nhà văn đầu tiên của tỉnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Chị có sở trường viết truyện ngắn và chị đã có khá nhiều Tập truyện ngắn đạt Giải thưởng quốc gia và khu vực. Bùi Thị Như Lan là cây bút nữ DTTS có sức viết khỏe, chị đã xuất bản 8 tập truyện ngắn và 1 tập bút kí. Tác phẩm của chị đậm màu sắc dân tộc và miền núi (ở đây là dân tộc Tày), lại có “chất lính” khá rõ rệt. Do đó, tác phẩm của chị có một nét rất riêng bên cạnh những nét chung của các cây bút DTTS khác. Vì vậy, có một số độc giả đã biết tới tác phẩm của chị, đã yêu mến và bước đầu có người giới thiệu, nghiên cứu về sáng tác của chị. Tuy nhiên cho tới nay vẫn 2
- chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về sự nghiệp sáng tác của chị; cũng như chưa chỉ ra được những nét đặc sắc cùng những đóng góp nhiều mặt của chị đối với văn học DTTS nói chung, văn xuôi DTTS nói riêng. Chính vì những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn việc nghiên cứu về tác giả Bùi Thị Như Lan làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình, bởi nếu giải quyết tốt đề tài này, chúng tôi sẽ đạt được một số mục đích sau: - Đem đến bạn đọc một sự hiểu biết sâu sắc và toàn diện hơn và có sự đánh giá chính xác hơn về những đóng góp đáng trân trọng của nhà văn nữ dân tộc Tày - Bùi Thị Như Lan đối với văn học DTTS tỉnh Thái Nguyên nói riêng, văn học DTTS Việt Nam hiện đại nói chung . - Nếu đề tài này thành công sẽ là một tài liệu tham khảo có ích, phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu những tác giả, tác phẩm văn học địa phương tỉnh Thái Nguyên cho đội ngũ giáo viên và học sinh tỉnh Thái Nguyên nói riêng cũng như của cả khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam. 2. Lịch sử vấn đề Bùi Thị Như Lan là một tác giả nữ có một sự nghiệp văn chương khá nổi trội trong các cây bút nữ DTTS Việt Nam thời kì hiện đại. Cho tới nay, chị đã có 9 tập truyện , trong đó có 8 tập truyện ngắn và 1 tập bút kí (Tiếng chim kỷ giàng, Hoa mía, Mùa hoa mắc mật, Bồng bề nh sương núi, Lời sli vắt ngang núi, Cọn nước đôi, Mùa hoa Bjooc phạ, Tiếng kèn Pílè và Những con đường sau lặng im tiếng súng.). Trong đó có một số Truyện ngắn và Tập truyện ngắn được nhận Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Văn học Nghệ thuật các DTTS Việt Nam, của Tạp chí Văn nghệ quân đội, của Tổng cục Chính trị và của tỉnh Thái Nguyên… Tuy nhiên việc nghiên cứu về nhà văn Bùi Thị Như Lan cùng các tác phẩm của chị hiện vẫn còn ở mức độ khiêm tốn. Chúng tôi sẽ phác họa cụ thể về tình hình nghiên cứu, phê bình, tác giả, tác phẩm Bùi Thị Như Lan như sau: 3
- 2.1. Tác giả Bùi Thị Như Lan được nhắc tới trong các công trình nghiên cứu về Văn học DTTS Việt Nam hiện đại nói chung, hoặc về văn xuôi DTTS nói riêng. Cái tên Bùi Thị Như Lan đã được các tác giả nhắc đến như là một đại diện tiêu biểu của các cây bút có nhiều đóng góp cho văn xuôi DTTS cuối những năm 90, đầu những năm thế kỉ XXI. Có thể kể tên một số công trình, những bài nghiên cứu đó như: “40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam” (của Phong Lê), “Văn học và miền núi” (của Lâm Tiến - Hoàng Văn An), “Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại” (của Lâm Tiến),“Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại - một số đặc điểm” (của Trần Thị Việt Trung - Cao Thị Hảo), “Hiện đại mà dân tộc” (của Ma Trường Nguyên), “Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam” (của Đào Thủy Nguyên, Dương Thu Hằng)… 2.2. Đã có một số bài viết đăng trên báo chí, giới thiệu, nhận xét, đánh giá về tác phẩm, tác giả Bùi Thị Như Lan của một số nhà phê bình, hoặc của các đồng nghiệp của chị.. Ví dụ như nhà nghiên cứu phê bình: Bùi Việt Thắng với bài viết: “Những màu sắc của núi rừng”, (Đọc Tiếng kèn pí lè - truyện ngắn Bùi Thị Như Lan) - được đăng trên Báo Quân đội Nhân dân cuối tuần, 2015 - viết về Tập truyện ngắn Tiếng kèn Pí lè: “Tiếng kèn pí lè là tập truyện ngắn thứ tám của Bùi Thị Như Lan trong vòng mười hai năm (2003-2015). Như thế cũng đủ để thấy nữ nhà văn trung thành với thể loại “nhỏ”. Cũng có thể nói chính thể loại chọn nhà văn. Nữ sỹ quan (trung tá) - nhà báo (công tác tại Báo Quân khu I) - nhà văn này người dân tộc Tày. Đọc truyện ngắn của Bùi Thị Như Lan, riêng tôi, có được cái cảm xúc đặc biệt về những sắc màu, âm thanh, đường nét, mùi vị của không gian rừng núi. Hay nói cách khác là một “ngoại cảnh” đặc sắc thường ít thấy xuất hiện trong văn chương/văn xuôi đương đại. Mười truyện trong tập Tiếng kèn pílè tôi hình dung như mười ngón tay của của hai bàn tay một người đan quyện bền chặt trong bất kì hành động nào….”[42]; Hồ Thủy Giang có bài viết về “Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Hoa 4
- Mía của Bùi Thị Như Lan” đăng trên Báo Văn nghệ Thái Nguyên:“Hoa mía” là một câu chuyện buồn, phảng phất phong vị dân gian. Chất dân gian đã tạo cho truyện một không khí như nửa thức, nửa mơ; nửa hiện đại, nửa hoang sơ; nửa hiện thực, nửa huyền ảo. Đây cũng là một nét mạnh của “Hoa mía”. Tuy nhiên, ở bài viết này tôi lại muốn khơi sâu hơn vào phân tích việc sử dụng không gian truyện đầy hiệu quả của tác giả….”[9] ; Nông Thị Ngọc Hòa với bài viết “Tiếng kèn pí lè của người gái bản” đăng trên Báo Văn nghệ Thái Nguyên: “Vẫn những mạch nguồn dào dạt từ những tập trước - Tiếng kèn Pílè phản ánh cuộc sống mưu sinh vất vả của người miền núi, nhưng cũng đầy sự lãng mạn, nặng tình yêu thương, bao dung,nhân ái và cao thượng. Mở đầu tập truyện là Lá bùa đỏ - Lá bùa định mệnh biến gã trai bản hồn nhiên như cây cỏ trải những thăng trầm, lĩnh án tù bởi sự thiếu hiểu biết về pháp luật. Sự trở về sau khi thụ án của Lình đã khép lại một trang buồn để mở tiếp những trang vui. Ngọt ngào những câu dân ca, đắng đót bao số phận: Lời Sli trôi trong trăng như một trò đùa số phận khiến cặp sơn nữ song sinh đẹp như hoa như mộng, giống nhau như hai giọt nước gặp nhiều oan trái. Sự nhầm lẫn tai hại đã khiến Sang (cô chị) được gả cho chàng trai bản khác. Đêm tân hôn ngọt ngào tận hiến, qua phút giây nồng nàn, người chồng mân mê bàn tay vợ thấy không có ngón tay thừa - đặc điểm duy nhất để nhận biết sự khác nhau với Sao (cô em), người đã cùng anh trao gửi yêu thương qua bao mùa trăng hò hẹn. Cay đắngcủa Sang là duy nhất sau một lần làm vợ mà với chồng cứ như người xa lạ. Cay đắng những đêm Sli để Sao nuôi con một mình….”[13] Đó là những lời nhận xét, đánh giá rất đúng, rất trúng và khá tinh tế của các nhà phê bình, các bạn văn của Như Lan về văn chương của chị. Tuy nhiên, trong những bài viết này các tác giả trên chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ các tác phẩm của nhà văn quân đội Bùi Thị Như Lan. Hầu như đó mới chỉ là những đánh giá, nhận xét về một tác phẩm, hoặc một khía cạnh 5
- trong các sáng tác của chị, chưa phát hiện ra hết những nét độc đáo cùng những đóng góp kể về nội dung và nghệ thuật trong các sáng tác của chị đối với sự vận động và phát triển của văn xuôi DTTS thời kỳ hiện đại. 2.3. Tác giả Bùi Thị Như Lan cũng đã được nhắc đến , được khẳng định như là một cây bút văn xuôi DTTS tiêu biểu thời kì sau năm 2000 trong các luận văn Thạc sỹ, luận án Tiến sĩ viết về đề tài văn học dân tộc và miền núi. Ví dụ như Luận án Tiến sĩ của Cao Thị Thu Hoài với đề tài “Nửa thế kỷ phát triển văn xuôi các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam khoảng từ 1960 đến nay”; Luận văn Thạc sĩ của Cao Thị Hồng Vân với đề tài “Con người trong văn xuôi miền núi của các tác giả trẻ đương đại Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy và Phạm Duy Nghĩa” (2012); Khóa luận tốt nghiệp của Bùi Thị Lương với đề tài: “Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Bùi Thị Như Lan (2015)… * Qua việc khảo sát tình hình nghiên cứu, phê bình về tác giả Bùi Thị Như Lan cùng các sáng tác của chị, chúng tôi có nhận xét như sau: Mặc dù đây là một tác giả nữ DTTS có nhiều tác phẩm khá đặc sắc, có những đóng góp đáng trân trọng và có phong cách riêng khá độc đáo, nhưng cho đến nay việc nghiên cứu về tác giả nữ DTTS này còn ở tình trạng sơ sài, lẻ tẻ, chưa toàn diện, chưa có tính hệ thống. Chính vì vậy chúng tôi thấy rằng, rất cần phải có một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, chỉ ra những đặc điểm, những nét đặc trưng trong sáng tác của nhà văn nữ DTTS Bùi Thị Như Lan; đồng thời qua đó để độc giả có một sự hiểu biết cụ thể hơn và đầy đủ hơn về những tác phẩm cũng như về những đóng góp chung của nhà văn nữ DTTS này đối với văn xuôi DTTS trong quá trình phát triển, nhất là trong giai đoạn đầu thế kỉ XXI. Do đó, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề nghiên cứu về Truyện ngắn Bùi Thị Như Lan làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình, với hi vọng: Sẽ góp phần nghiên cứu một cách hệ thống hơn, toàn diện hơn về nhà văn nữ DTTS đồng thời cũng là nhà văn quân đội vùng miền núi phía Bắc này. 6
- 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Nghiên cứu những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong các tác phẩm của Bùi Thị Như Lan (8 tập truyện ngắn). * Phạm vi nghiên cứu: Toàn bộ truyện ngắn của nhà văn Bùi Thị Như Lan, bao gồm 8 tập truyện ngắn, cụ thể là các tác phẩm sau: - Tiếng chim kỷ giàng - Tập truyện ngắn - Nxb Quân đội nhân dân năm 2003 - Mùa hoa mắc mật - Tập truyện ngắn - Nxb Thanh niên năm 2005 - Hoa mía - Tập truyện ngắn - Nxb Thanh niên năm 2006 - Lời sli vắt ngang núi - Tập truyện ngắn - Nxb Quân đội nhân dân năm 2008 - Bồng bềnh sương núi - Tập truyện ngắn - Nxb văn hóa dân tộc năm 2009 - Cọn nước đôi - Tập truyện ngắn - Nxb Quân đội nhân dân năm 2012 - Mùa hoa Bjooc phạ - Tập truyện ngắn - Nxb Kim đồng năm 2013 - Tiếng kèn Pí lè - Tập truyện ngắn - Nxb Quân đội nhân dân năm 2015 - Bên cạnh đó, chúng tôi còn khảo sát một số truyện ngắn của một số cây bút nữ DTTS khác để so sánh đối chiếu (như truyện ngắn của Vi Thị Kim Bình, Hà Thị Cẩm Anh, Kha Thị Thường, Kim Nhất, Linh Nga Niếc Đam, Đoàn Ngọc Minh…) 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Luận văn có nhiệm vụ chỉ ra những đặc điểm cơ bản trong sáng tác của Bùi Thị Như Lan (cả phương diện nội dung và phương diện nghệ thuật ở thể loại Truyện ngắn) - Đưa ra những nhận xét, đánh giá một cách khách quan, khoa học về những giá trị của các tác phẩm, cũng như đóng góp đáng trân trọng của nhà văn nữ DTTS Bùi Thị Như Lan đối với văn xuôi các DTTS Việt Nam thời kỳ hiện đại, đặc biệt ở thời kỳ sau năm 2000 cho đến nay. 7
- 5. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp phân tích tổng hợp (phân tích tác phẩm, tác giả) - Phương pháp khảo sát, thống kê - Phương pháp so sánh, đối chiếu - Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn học, văn hóa, lịch sử...) - Vận dụng một số thao tác nghiên cứu của Thi pháp học. 6. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Vài nét về văn xuôi dân tộc thiểu số và nhà văn nữ dân tộc Tày - Bùi Thị Như Lan Chương 2: Đặc điểm truyện ngắn Bùi Thị Như Lan nhìn từ phương diện nội dung Chương 3: Một số đặc điểm về nghệ thuật 8
- NỘI DUNG Chương 1 VÀI NÉT VỀ VĂN XUÔI DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ NHÀ VĂN NỮ DÂN TỘC TÀY - BÙI THỊ NHƯ LAN 1.1. Vài nét khái quát về văn xuôi dân tộc thiểu số thời kì hiện đại Văn học dân tộc thiểu số (DTTS) hiện đại là một bộ phận nằm trong dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại, bao gồm các sáng tác của tác giả người dân tộc thiểu số và chủ yếu viết về đề tài dân tộc và miền núi. Đầu thế kỉ XX, cùng với sự hình thành và phát triển của nền văn học Quốc ngữ, văn học viết về đề tài dân tộc và miền núi cũng xuất hiện và dần khẳng định vị trí với sự tham gia của nhiều tác giả là người dân tộc Kinh, ví dụ như: Thế Lữ, Lan Khai, Nguyễn Tuân…; giai đoạn sau năm 1945 có: Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Trung Thành…; và từ năm 1975 đến nay có Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Phạm Duy Nghĩa, Đỗ Bích Thúy... Những tác phẩm của các tác giả người Kinh này đã khắc họa được bức tranh về con người và cuộc sống miền núi (Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên....) trong suốt chiều dài lịch sử từ thời chống Pháp, chống Mỹ và thời hòa bình của đất nước ta. Sự xuất hiện của các tác giả này với những tác phẩm của họ thực sự là rất quan trọng để những nhu cầu và khát vọng viết về dân tộc mình bằng văn xuôi của các nhà văn DTTS có điều kiện được thực hiện. Học tập và kế thừa thành tựu của văn xuôi người Kinh viết về miền núi, được sự quan tâm cụ thể của Đảng và Nhà Nước, từ sau kháng chiến chống Pháp, các cây bút văn xuôi DTTS đã dần xuất hiện và ngày càng khẳng định sự có mặt của mình trong đời sống văn học nước nhà, nhằm đem lại cho độc giả những hiểu biết chân thực, toàn diện và đầy đủ hơn về cuộc sống, về con người, về các phong tục tập quán… của đồng bào các dân tộc ít người ở các vùng trong cả nước. 9
- Như trên đã nói, đầu thế kỷ XX, trên văn đàn văn học Việt Nam đã xuất hiện một số tác phẩm viết về đời sống sinh hoạt của người dân tộc thiểu số ở miền núi. Những tác giả đóng góp cho mảng đề tài này đều là người Kinh như: Thế Lữ với tập truyện Vàng và máu (1934), Lan Khai với Truyện đường rừng (1940)... Đương thời, những tác phẩm này đã thu hút sự chú ý của người đọc bởi sự mới mẻ, kì dị, kích thích trí tò mò khám phá của độc giả trước cảnh sắc của những miền đất xa xôi, hoang dã với những phong tục tập quán lạ kì, hoặc những hủ tục mông muội, thậm chí là man dợ của những con người và cộng đồng các DTTS. Nhà văn giống như một người du khách, một lãng tử muốn khám phá những miền đất còn hoang vu, chiêm ngưỡng những tộc người còn nhiều bí ẩn đối với những người miền xuôi, người thành phố - nên tác phẩm thường mang tính chủ quan, không chân thực, giàu tính tưởng tượng và thường được viết với bút pháp lãng mạn (chủ yếu để gợi trí tò mò của độc giả). Trước năm 1945, văn xuôi của tác giả người DTTS hầu như chưa xuất hiện. Từ sau 1945 với các chủ trương, định hướng và đường lối văn nghệ của Đảng, mảng văn học DTTS được quan tâm phát triển cả về lực lượng sáng tác, số lượng, chất lượng tác phẩm và đã đạt được những thành tựu đáng kể ở thời kì này. Ngoài một số tác giả người Kinh có những sáng tác về đề tài miền núi, dân tộc như: Nam Cao (Nhật kí ở rừng, 1948), Tô Hoài (Vợ chồng A Phủ, 1952; Cứu đất cứu mường, 1953), Nguyên Ngọc (Đất nước đứng lên, 1954)… thì đã xuất hiện một số tác phẩm của các tác giả người DTTS và từng bước họ đã gia nhập vào dòng chảy chung của văn xuôi Việt Nam hiện đại - vốn trước đây chỉ là “độc quyền” của những cây bút người Kinh. Một thế hệ nhà văn người dân tộc đã được hình thành trong những năm 50 – 60 (thế kỷ XX) - khi miền Nam đang đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống Mỹ, miền Bắc xây dựng Xã hội Chủ nghĩa. Họ hầu hết là những trí thức DTTS thiết tha muốn đóng góp tiếng nói văn học của mình vào nền văn học chung của dân tộc Việt Nam bằng sức lực và tài năng của chính mình. Đó là các tác giả Nông Viết 10
- Toại (với tác phẩm :Boỏng tàng tập éo, 1952), Nông Minh Châu (với: Ché Mèn được đi họp, 1959), Y Điêng (với: Em chờ bộ đội Awa Hồ, 1960), Hoàng Hạc (với: Ké Nàm, 1963), Triều Ân (với: Tiếng khèn A Pá, 1968), Vi Thị Kim Bình (với: Những bông huệ trắng, 1968)... Cách mạng, nhân dân và văn hoá dân gian chính là ba nguồn mạch cảm hứng chủ yếu nuôi dưỡng các cây bút văn xuôi người dân tộc thiểu số trong những năm tháng cách mạng và trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Sáng tác của họ luôn bám sát công cuộc cách mạng của dân tộc, thể hiện sâu sắc ý chí, tình cảm, tâm trạng của người dân miền núi trong những tháng ngày gian khổ đầy mất mát, hi sinh, nhưng cũng rất oanh liệt, oai hùng. Phạm vi đề tài phản ánh khá rộng, họ không chỉ viết về miền núi mà còn viết về miền xuôi, về miền Nam, thậm chí quan tâm cả tới những vấn đề có tính quốc tế, ngợi ca sự đổi đời của nhân dân các dân tộc và cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà của cả nước. Văn xuôi thời kỳ này chủ yếu viết về con người, quê hương miền núi. Đây là giai đoạn mà ý thức về tiếng nói văn học của cộng đồng các DTTS đã phát triển khá mạnh mẽ. Họ háo hức khám phá với tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và cũng chính vì thế, văn xuôi DTTS Việt Nam đã dần được định vị và góp phần xứng đáng vào công cuộc cách mạng (cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và xây dựng Xã hội Chủ nghĩa) của đất nước, và đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền văn học Việt Nam thời kì hiện đại. Từ sau năm 1975 và đặc biệt là từ sau năm 1986, trong không khí hoà bình, xây dựng cuộc sống mới trên cơ sở đổi mới tư duy - văn xuôi DTTS phát triển khá mạnh mẽ. Các tác giả người DTTS ngày càng đông đảo hơn và gặt hái được nhiều thành tựu sáng tác rực rỡ hơn. Thời kỳ này văn xuôi dân tộc thiểu số phát triển mạnh về số lượng cũng như chất lượng, giúp chúng ta có thể nhận diện một cách rõ ràng, khẳng định nó như một thực thể riêng, độc đáo trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại. 11
- Vào những năm cuối thế kỉ XX, ngoài những tác giả người Kinh vẫn không ngừng trăn trở về đề tài miền núi, dân tộc như: Mạc Phi, Xuân Thiều, Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khắc Trường, Sơn Nam, Vũ Hạnh, Phạm Duy Nghĩa…,thì đội ngũ những cây bút người dân tộc cũng đang được phát triển với một tốc độ nhanh chóng trên toàn quốc - không chỉ ở phía Bắc mà cả miền Trung, miền Nam của đất nước. Ở Tây Nguyên có Hlinh Niê (Êđê) với tập truyện Con rắn màu xanh da trời (1997) và tập kí Trăng Xí Thoại (1999)..., Kim Nhất(Ba na) với các tập truyện Động rừng (1999), Hồn ma núi (2002)... ,và Niê Thanh Mai (Êđê) với tập truyện Về bên kia núi(2007)...; Ở phía Nam - lần đầu tiên xuất hiện văn xuôi của một số dân tộc như: Truyện kí Chân dung người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh (1994) của Lý Lan (Hoa), tiểu thuyết Chân dung cát (2006) của Inrasara... Ở khu vực miền Trung xuất hiện các tác giả: La Quán Miên (Thái) với tập truyện Hai người trở về bản (1996)..., Kha Thị Thường với tập truyện Lũ núi (2003), Lang Quốc Khánh với tập kí Những miền thương nhớ (2005), Hà Thị Cẩm Anh (Mường) với Gốc gội xù xì.... Ở vùng Việt Bắc và Tây Bắc, các tác giả người Tày luôn chiếm số đông bên cạnh các nhà văn của các dân tộc khác (Thái, Mông, Dao, Mường, Hmông…), ngoài các nhà văn như: Vi Hồng, Triều Ân, Ma Trường Nguyên, Hà Lâm Kỳ..., còn có Nguyễn Hữu Tiến, Đoàn Lư, Hoàng Hữu Sang, Cao Duy Sơn, Đoàn Thị Ngọc Minh... Trong đó nổi bật là hiện tượng nhà văn Vi Hồng – nhà tiểu thuyết người dân tộc Tày, quê Cao Bằng, nhưng lập nghiệp và thành danh ở Thái Nguyên. Từ 1980 - 1997, tác giả Vi Hồng đã cho ra đời 14 cuốn tiểu thuyết: Đất bằng (1980), Núi cỏ yêu thương (1984), Thung lũng đã rơi (1985), Vào hang (1990), Người trong ống (1990), Gã ngược đời (1990), Lòng dạ đàn bà (1992), Dòng sông nước mắt (1993), Ái tình và kẻ hành khất (1993), Tháng năm biết nói (1993), Chồng thật vợ giả (1994), Phụ tình (1994), Đi tìm giàu sang (1995), Đọa đày (1997). Ngoài ra ông còn có các tập truyện ngắn: Đuông Thang (1988), Người làm mồi bẫy hổ (1990), Thách đố (1995), 12
- Đường về với mẹ chữ (1997).... Ông là một hiện tượng văn học rất đáng được trân trọng về sức làm việc phi thường và những hiểu biết về con người, phong tục tập quán, thiên nhiên miền núi mang đậm sắc thái Tày vùng Việt Bắc. Trong những sáng tác trên, có những tác phẩm khá xuất sắc thể hiện được bản sắc dân tộc và phong cách nghệ thuật của tác giả qua cách miêu tả cảnh vật thiên nhiên và con nguời miền núi, qua cách sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật và lối tư duy nghệ thuật độc đáo. Theo nhận xét của PGS.TS Cao Thị Hảo trong bài viết “Bước đầu phác thảo diện mạo văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại” thì: Thời kì này cũng đã có nhiều tác phẩm đã kết hợp được bút pháp tự sự theo kiểu truyền thống ảnh hưởng từ các sử thi, truyện cổ, truyện thơ... với bút pháp văn xuôi hiện đại tạo nên sự đa dạng, nhiều vẻ, nhiều giọng điệu, trở thành “vườn hoa nhiều hương sắc”, làm phong phú bức tranh của đời sống văn học hiện đại nước ta, ví dụ như: Mã A Lềnh với bút kí Cao Nguyên trắng mang giọng điệu sôi nổi hào hứng đã ghi lại những đổi mới trên quê hương trong thời kỳ kinh tế thị trường với văn phong lôi cuốn, hấp dẫn, linh hoạt, phong phú, quê hương miền núi hiện ra như một bức tranh với những nét hoa văn khác nhau nhưng luôn có gam màu chủ đạo là rực rỡ sôi động; Cao Duy Sơn với Người lang thang, Cực lạc, Hoa mận đỏ…, đặc biệt là Đàn trời đã tái hiện một bức tranh xã hội phong phú với những mảnh đời và lối sống khác nhau ở miền núi. Tác giả đã miêu tả những xung đột trong cuộc sống, trong tâm hồn mỗi cá nhân với một ngòi bút tinh tế, sinh động, đậm chất hiện thực nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Kim Nhất (Ba Na) thể hiện khá phong phú những phong tục tập quán của dân tộc mình qua Chuyện buôn làng, Nối dây, Phạt kơ đi…; còn qua tập kí Chân dung người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh, nhà văn Lý Lan đã khắc hoạ chân thực, cảm động “chân dung” của một bộ phận người Hoa sống ở thành phố hiện đại nhất nước ta trong một thời gian dài và một không gian rộng, gắn liền với từng bước thăng trầm của lịch sử dân tộc. Hình ảnh những con người lao động vất vả trong mưu sinh, lập nghiệp 13
- luôn có ý chí vươn lên làm chủ cuộc sống, bên cạnh những ông chủ tham lam xảo quyệt bon chen làm giầu hiện lên thật sinh động… Nhưng điều được thể hiện nổi bật ở đây là tinh thần đoàn kết gắn bó của người Hoa đối với dân tộc Việt trong cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc; Hlinh Niê đã biết kết hợp hài hoà, hiệu quả giữa chất huyền thoại và sử thi khi viết về con người, cuộc sống ở Tây Nguyên. Tác giả giới thiệu kho tàng folklore độc đáo với những ngôi nhà rông, hình hoa văn chim thú được lưu giữ trên nóc các nhà mồ, nghệ thuật ẩm thực kiểu Tây Nguyên…; miêu tả sắc nét lễ hội đâm trâu, lễ hội cồng chiêng, những nét hoa văn thổ cẩm phối hợp hài hoà giữa các gam: xanh, vàng, đỏ để làm nổi bật hai màu chủ đạo: đen và trắng (Về đâu hỡi thổ cẩm Tây Nguyên, Trăng Xí Thoại). Tác giả còn ngợi ca cuộc sống mới đang chuyển mình của dân tộc Tây Nguyên. Một bộ phận người dân đã vươn lên trong làm kinh tế, thoát khỏi cuộc sống thiếu thốn nghèo khổ, được thụ hưởng cuộc sống có điện, có tiện nghi (Du xuân Tây Nguyên, Làng mặt trời, Bình minh người Dao Cư Suê, Buôn Yung mùa hoa trắng…). Có thể nói, tuy chưa có được những tài năng thật xuất sắc, nhưng những cây bút người dân tộc thiểu số đã phần nào thực hiện được sứ mệnh cũng như khát khao cháy bỏng của những người con không quên nguồn cội - đó là việc: gìn giữ và thổi bùng lên ngọn lửa văn chương của dân tộc mình. Nếu không có sự hoà nhập máu thịt, cộng sinh giữa chủ thể và khách thể thì các nhà văn DTTS không thể viết về con người, cuộc sống của dân tộc mình đầy cảm xúc như thế. Hầu hết các nhà văn dân tộc thường có cảm xúc mãnh liệt, cháy bỏng da diết về con người, cuộc sống của dân tộc mình, quê hương mình. Bởi những người cầm bút chính là con em các dân tộc miền núi, nên họ có những thế mạnh nhất định của những người trong cuộc viết về chính mình – điều mà những tác giả người Kinh không có được. Trong sự phát triển chung của đất nước, bức tranh về cuộc sống miền núi và cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số đã và đang có bước phát triển 14
- đa dạng về mọi mặt. Nhiều tác phẩm hướng về công cuộc xây dựng đời sống, phát triển kinh tế ở miền núi, ví dụ như: Tiểu thuyết Gió hoang của Ma Trường Nguyên, tập bút kí Cao nguyên trắng của Mã A Lềnh và các tập truyện ngắn của Sa Phong Ba. Những vấn đề nhạy cảm, những góc trái của hiện thực trước đây từng bị né tránh nay phần nào đã được phản ánh ở những tác phẩm văn học. Trong những năm 90, các tiểu thuyết của Vi Hồng được dư luận quan tâm bởi những vấn đề về góc trái đó của hiện thực. Tác giả đề cập đến sự băng hoại đạo đức của một số người, một số trí thức người DTTS có địa vị trong xã hội nhưng ham tiền, theo đuổi danh vọng bất chấp đạo lý (Người trong ống, Gã ngược đời)…; cùng những sai lầm của mô hình hợp tác xã nông nghiệp, sự ấu trĩ của việc ngăn cấm cá nhân làm giàu trong xã hội thời hiện đại ở miền núi(Chồng thật vợ giả, Thung lũng đá rơi,…). Hầu hết văn xuôi dân tộc thiểu số miền núi đều hướng ngòi bút của mình về việc phản ánh thực trạng còn nhiều khó khăn và nghèo đói của người dân vùng cao, phản ánh những lối sống thực dụng, vô đạo đức của một bộ phận người dân miền núi làm cho những giá trị văn hóa, sự trong trẻo bình yên ngàn đời của núi rừng đang bị tổn thương và ngày càng mai một. Bên cạnh những vấn đề mang tính xã hội, một số tác phẩm đã đi vào những câu chuyện tình yêu (nhiều sóng gió, trắc trở), với những số phận cá nhân chứa đầy bi kịch…Trước năm 1975, văn xuôi dân tộc thiểu số chủ yếu tập trung phản ánh cuộc đấu tranh cứu quốc vĩ đại của dân tộc, có nhiệm vụ tuyên truyền cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước, con người mới, nhưng đến nay, biên độ sáng tác đã mở rộng hơn. Văn xuôi dân tộc thiểu số đã từng bước bắt nhịp vào đời sống của đất nước, ca ngợi cái mới, cái tốt đẹp, đồng thời cũng phê phán cái xấu, cái lạc hậu, cái ác; cổ vũ, động viên đi sâu miêu tả thân phận con người miền núi với những số phận mới, khát vọng mới, đặc biệt là thân phận, số phận người phụ nữ miền núi. Họ chính là tiêu điểm của bức tranh toàn cảnh về số phận con người ngàn đời trên vùng núi cao cùng với bao hủ tục lạc hậu, bao khó khăn thách thức của 15
![](images/graphics/blank.gif)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
147 p |
695 |
93
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ chat - Tiếng Việt và tiếng Anh
141 p |
688 |
73
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam bộ
240 p |
316 |
65
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Từ ngữ chỉ thực vật trong tiếng Việt (đối chiếu giữa các phương ngữ)
116 p |
243 |
62
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm của tiêu đề văn bản trong thể loại tin tức
192 p |
261 |
60
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt
146 p |
161 |
52
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
173 p |
243 |
50
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Tiếp xúc ngôn ngữ Ê Đê - Việt ở tỉnh Đak Lăk trên bình diện từ vựng - ngữ nghĩa
155 p |
209 |
48
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Đặc điểm ngôn ngữ văn bản hành chính tiêng Việt trong lĩnh vực thương mại
152 p |
256 |
44
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn từ trong thơ Tố Hữu (nhìn từ bình diện từ vựng)
175 p |
190 |
43
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri luận
92 p |
179 |
42
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Quán ngữ tình thái tiếng Việt
94 p |
178 |
41
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ nghĩa – Ngữ dụng của vị từ ngôn hành tiếng Việt
98 p |
172 |
38
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ
165 p |
175 |
37
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Cấu tạo hình thức và ngữ nghĩa của thuật ngữ thể thao tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)
249 p |
217 |
36
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngôn ngữ án văn tiếng Việt
203 p |
129 |
23
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Yếu tố giới trong lời chê và hồi đáp chê (trên cứ liệu giao tiếp của sinh viên tại tp.HCM)
123 p |
139 |
20
-
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Màu sắc Nam bộ trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam
113 p |
176 |
19
![](images/icons/closefanbox.gif)
![](images/icons/closefanbox.gif)
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/js/fancybox2/source/ajax_loader.gif)