intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Thơ dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế kỉ XXI

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:96

18
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn muốn khẳng định giá trị cũng như những đóng góp và hạn chế của thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI. Đồng thời giúp bạn đọc hiểu được những biến chuyển của thơ DTTS trong tiến trình phát triển của thơ hiện đại Việt Nam. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Thơ dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế kỉ XXI

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRẦN THỊ VÂN ANH THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XXI LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2018
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRẦN THỊ VÂN ANH THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XXI Ngành: Văn học Việt Nam Mã ngành: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đào Thủy Nguyên THÁI NGUYÊN - 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Thơ dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế kỉ XXI” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, hoàn toàn không sao chép của bất cứ ai. Các kết quả của đề tài là trung thực và chưa được công bố ở các công trình khác Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí, các trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Trần Thị Vân Anh i
  4. LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Đào Thủy Nguyên - giảng viên khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên về sự hướng dẫn tận tình, đầy đủ, chu đáo và đầy tinh thần trách nhiệm của cô trong toàn bộ quá trình em thực hiện và hoàn thành luận văn. Em xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện giúp đỡ của Ban Chủ nhiệm khoa Ngữ Văn và các thầy cô giáo Phòng Đào tạo - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã giúp đỡ em thực hiện luận văn này. Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên và nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Trần Thị Vân Anh ii
  5. MỤC LỤC Lời cam đoan .................................................................................................................. i Lời cảm ơn .....................................................................................................................ii Mục lục ........................................................................................................................ iii MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................ 2 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 4 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................. 5 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 5 6. Bố cục của luận văn ................................................................................................... 6 NỘI DUNG ................................................................................................................... 7 Chương 1: THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XXI TRONG TIẾN TRÌNH THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN- ĐƯƠNG ĐẠI ................................................................................................................ 7 1.1. Tiến trình vận động và phát triển của thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.............. 7 1.2. Thơ dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế kỉ XXI ...................................................... 9 1.2.1. Những yếu tố lịch sử, văn hóa xã hội tác động tới sự vận động và phát triển của thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI ....................................................................... 9 1.2.2. Khái quát chung về sự vận động của thơ dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế kỉ XXI .......................................................................................................................... 10 Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................ 19 Chương 2: CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XXI.......................................................................... 20 2.1. Một số khái niệm lý luận liên quan ...................................................................... 20 2.1.1. Khái niệm cảm hứng .......................................................................................... 20 2.1.2. Cảm hứng nghệ thuật - Cảm hứng chủ đạo ....................................................... 21 2.2. Cảm hứng nghệ thuật trong thơ dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế kỉ XXI ................. 22 2.2.1. Cảm hứng trữ tình ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên, con người và cuộc sống miền núi ....................................................................................................................... 23 iii
  6. 2.2.2. Cảm hứng suy tư, chiêm nghiệm về tình đời, tình người .................................. 44 Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................ 58 Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XXI .................................................. 60 3.1. Thể loại ................................................................................................................. 60 3.2. Ngôn ngữ .............................................................................................................. 67 3.3. Hình ảnh thơ ......................................................................................................... 74 Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................ 84 KẾT LUẬN ................................................................................................................. 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 88 iv
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học các dân tộc thiểu số (DTTS) là một bộ phận quan trọng làm nên tầm vóc của nền văn học Việt Nam, đồng thời góp phần tạo nên sự đa sắc, đa diện của văn học dân tộc. Tính đến nay văn học DTTS Việt Nam hiện đại ra đời và phát triển gần một thế kỉ và đã có đóng góp không nhỏ cho thành tựu văn học nước nhà. Trong văn học DTTS Việt Nam hiện đại, ngoài thể loại văn xuôi được đánh giá là có nhiều thành tựu với hàng loạt các tác giả như: Nông Minh Châu, Vi Hồng, Triều Ân, Vi Thị Kim Bình, La Quán Miên, Hà Thị Cẩm Anh, Cao Duy Sơn, Kha Thị Thường, Kim Nhất, Hữu Tiến, Linh Nga Niek Đam, Đoàn Thị Ngọc Minh, Bùi Thị Như Lan… thì thơ ca cũng đã có một quá trình phát triển khá mạnh mẽ, đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, đáng được tự hào với các tên tuổi như: Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Y Phương, Mã A Lềnh, Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn, Nông Thị Ngọc Hòa, Bùi Tuyết Mai, Inrasara… Văn học các DTTS hiện đại nói chung và nền thơ ca các DTTS nói riêng, từ lâu đã được khẳng định là một bộ phận văn học có vẻ đẹp, có sắc thái riêng, in đậm dấu ấn tâm hồn và bản sắc văn hóa các dân tộc với nhiều cá tính sáng tạo, nhiều tài năng. Những nhà thơ DTTS đã đóng góp vào nền thơ hiện đại Việt Nam một thế giới nghệ thuật thơ thực sự mới lạ, sinh động với những gương mặt mới, những cảm hứng, những giọng điệu riêng. Văn học DTTS Việt Nam hiện đại đã có sự phát triển, khởi sắc đáng tự hào trong nửa cuối thế kỉ XX. Đặc biệt chặng đường đầu thế kỉ XXI, thơ DTTS có nhiều biến chuyển, có những bứt phá, có thêm những gương mặt mới những sắc thái mới chín chắn, trưởng thành mà rất tươi trẻ, phóng khoáng. Việc nghiên cứu chuyên sâu mảng thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI với những thành công và hạn chế của nó sẽ góp phần đánh giá đầy đủ hơn sự vận động và diện mạo của thơ DTTS trên hành trình phát triển, góp phần giới thiệu cho đông đảo độc giả có thêm sự hiểu biết, trân trọng đối với bộ phận văn học đáng quý này. Trong chương trình Ngữ văn ở nhà trường phổ thông, một số tác phẩm thơ DTTS đã được đưa vào giảng dạy nhưng vẫn còn khiêm tốn so với thành tựu của nó. Là một người giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn, chúng tôi mong muốn được tìm 1
  8. hiểu, khám phá cái hay cái đẹp cũng như nét độc đáo của thơ ca các DTTS, đặc biệt là thơ DTTS chặng đường đầu thế kỉ XXI, từ đó có cái nhìn đầy đủ hơn về văn học dân tộc. Sự hiểu biết này sẽ giúp cho giáo viên chúng tôi có thêm năng lực phát triển chương trình Ngữ văn phổ thông theo thể loại, theo chủ đề, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông trong giai đoạn mới. Với những lí do trên cùng với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc tìm hiểu, giới thiệu, đánh giá về sự đóng góp cũng như giá trị và những nét đặc sắc của thơ ca các DTTS, chúng tôi chọn đề tài: Thơ dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế kỉ XXI làm vấn đề nghiên cứu. 2. Lịch sử vấn đề Trong tiến trình phát triển, thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI đã có những khởi sắc đáng tự hào, có đóng góp không nhỏ cho thành tựu văn học dân tộc, có những bước chuyển đáng kể trên các phương diện như: đội ngũ sáng tác, hình thức nghệ thuật, cảm hứng nghệ thuật…Cũng đã có nhiều nhà phê bình văn học cũng như người tâm huyết nghiên cứu đánh giá thơ DTTS. Tuy nhiên việc nghiên cứu về thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI với cái nhìn tổng thể hiện vẫn còn ở mức độ khiêm tốn. Sau đây chúng tôi sẽ phác họa lại về tình hình nghiên cứu, phê bình thơ DTTS đầu thế kỉ XXI, cụ thể như sau: 2.1. Viết về thơ DTTS Việt Nam những năm cuối thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI trong các công trình nghiên cứu về Văn học DTTS Việt Nam hiện đại nói chung hoặc về thơ DTTS nói riêng, có thể kể tên một số công trình, những bài nghiên cứu như: Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại của tác giả Lâm Tiến, Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại - Một số đặc điểm của tác giả PGS.TS.Trần Thị Việt Trung, Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam - Truyền thống và hiện đại của hai tác giả PGS.TS.Trần Thị Việt Trung- PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh, Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại do PGS.TS.Trần Thị Việt Trung - Cao Thị Hảo đồng chủ biên, 40 năm văn hóa nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam của tác giả Phong Lê, Văn học và miền núi của nhà văn Lâm Tiến … 2.2. Nghiên cứu về thơ DTTS còn là vấn đề được quan tâm nghiên cứu một cách khá tích cực và hiệu quả tại một số trường Đại học khu vực miền núi (Việt Bắc, 2
  9. Tây Bắc, Tây Nguyên) như: luận văn thạc sĩ Bản sắc văn hóa Dao trong thơ Bàn Tài Đoàn (Th.s Bàn Thị Quỳnh Giao); Thơ Dương Khâu Luông (Th.s Lý Thị Vương); Bản sắc Tày trong thơ Y Phương và Dương Thuấn (Th.s Nguyễn Thị Thu Huyền); Bản sắc Tày trong thơ Nông Quốc Chấn (Th.S Phạm Thế Thành), luận văn thạc sĩ của Vũ Thị Vân Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Thái thời kì hiện đại (từ 1945 đến nay); tác giả Nguyễn Kiến Thọ với hai đề tài Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Mông thời kì hiện đại (từ 1945 đến nay) luận văn thạc sĩ; Thơ ca dân tộc Hmông từ truyền thống đến hiện đại - Luận án tiến sĩ … 2.3. Một số những bài viết lẻ, giới thiệu, nhận xét, đánh giá thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI, của một số nhà phê bình. Đó là những bài viết của tác giả Inrasara với hai bài: Thơ ca thơ dân tộc thiểu số Việt Nam đa sắc, đa thanh và Cái đẹp của thơ dân tộc thiểu số. Cao Thị Hảo có bài Mở rộng nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại: Trường hợp văn học Tày… TS. Đỗ Thị Thu Huyền, một trong số những người có “duyên nợ” với văn học miền núi có cuốn Thơ dân tộc Tày sau năm 1945 cùng với nhiều bài viết, tiêu biểu như : Thơ dân tộc thiểu số 10 năm đầu thế kỉ XXI; Đội ngũ nhà văn trẻ dân tộc thiểu số ở Việt Nam…Tác giả đã đưa ra những đánh giá rất sắc sảo và nhiều trăn trở về sự thay đổi cũng như hạn chế của thơ DTTS đầu thế kỉ XXI: “Đổi mới nổi bật nhất chính là về hình thức, tiến dần đến hiện đại hóa, thơ dân tộc thiểu số gần hơn với thơ đương đại. Tuy nhiên một số lại chưa/ không hòa nhập với sự thay đổi (tình trạng này thường thuộc về một số đại diện của thế hệ trước)” [20], đó là nhận xét về hình thức nghệ thuật. Và đây là sự đổi mới đáng ghi nhận mà tác giả đã phát hiện ra: “Thơ dân tộc thiểu số trong khoảng 10 năm này xuất hiện sự phân hóa sâu sắc giữa các khuynh hướng, giữa các thế hệ. Có người vẫn kiên trì xu hướng truyền thống và hiện đại, đan xen giữa cũ và mới, có những tác giả tìm tòi cách tân và hướng đến những đổi mới thật sự, và một số theo hướng hậu hiện đại (tiêu biểu là một số nhà thơ dân tộc Chăm)...” [20]. Trong bài viết đăng trên tạp chí Văn hóa các dân tộc, tác giả Tăng Thị Nguyệt Nga viết: “Thơ dân tộc thiểu số nhìn chung đều mang vẻ đẹp ở sự diễn đạt giản dị, mộc mạc. Và cho dù viết ở mảng đề tài nào, phản ánh nội dung tư tưởng ra sao thì 3
  10. những trang thơ của các thi sĩ dân tộc thiểu số vẫn tạo được những nét đẹp riêng” (Dương Thuấn- tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam sau 1975) [36]. Đây là lời đánh giá khá xác đáng về vẻ đẹp mang bản sắc phong cách riêng của từng nhà văn, từng dân tộc thể hiện trong sáng tác thơ DTTS đầu thế kỉ XXI. Inrasara một nhà thơ, nhà phê bình văn học, người con của dân tộc Chăm luôn đau đáu với sự phát triển của văn học DTTS, dù nhận ra cái hay cái đẹp của bộ phận văn học này nhưng ông vẫn băn khoăn văn học DTTS sẽ đi về đâu. Ông đã có nhận xét rất chân thành về thực tế của thơ DTTS: “Tôi có nói một lần, thơ dân tộc thiểu số đang mất phương hướng. Còn hơn thế nữa - nó vừa đi vừa ngủ. Ngủ ở nhịp điệu, ngôn ngữ, hình ảnh và nhất là đề tài thơ. Ngủ từ Pờ Sảo Mìn, Y Phương, Lò Ngân Sủn cho đến Mai Liễu, Lương Định, Dương Thuấn... Ngủ, nhưng nó vẫn cứ đi. Hành động đi này không phải không từng cống hiến những cái đẹp, cái đặc sắc cho nền thơ đa dân tộc Việt Nam” [26]. Từ đó Inrasara luôn quan tâm đến sự phát triển và đổi thay của thơ ca DTTS nhất là thơ ca dân tộc Chăm. Ông cũng nhận ra sự mới mẻ đáng trân trọng, báo hiệu sự đi lên và khởi sắc trong thơ của các nhà thơ trẻ thế kỉ XXI: “Cách nghĩ, cách diễn đạt chân chất, mộc mạc và lạ lẫm khó lẫn. Tầng lớp trẻ đã manh nha tìm đến những thể thơ mới như thơ tự do phá cách với tâm thức hậu hiện đại” [24]. Qua việc khảo sát tình hình nghiên cứu, phê bình về thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI, chúng tôi có nhận xét như sau: Mặc dù thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI có nhiều đóng góp đáng trân trọng và có những đặc sắc riêng khá độc đáo, nhưng cho đến nay những đề tài nghiên cứu với quy mô rộng và cái nhìn bao quát về thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI thì chưa có. Chính vì vậy chúng tôi thấy rằng rất cần phải có một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, chỉ ra những đặc điểm, những nét đặc trưng trong sáng tác của các nhà thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI; đồng thời qua đó giúp độc giả có một sự hiểu biết cụ thể và hệ thống, toàn diện hơn về sáng tác cũng như về những đóng góp của thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI đối với thơ DTTS trong quá trình phát triển. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI. 4
  11. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành khảo sát và nghiên cứu toàn bộ những sáng tác thơ của các nhà thơ là người DTTS Việt Nam ra đời trong giai đoạn đầu thế kỉ XXI, chủ yếu là các tác phẩm được in trong cuốn “Thơ dân tộc và miền núi đầu thế kỉ XXI” (tác giả Mai Liễu, Y Phương, Inrasara, Trịnh Hà tuyển chọn. Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, năm 2011). Ngoài ra, có so sánh với thơ DTTS Việt Nam các giai đoạn trước đó. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở khảo sát và đánh giá một cách khách quan, khoa học về các tác phẩm và những cá tính sáng tạo của nền thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI, chúng tôi mong muốn: - Khẳng định giá trị cũng như những đóng góp và hạn chế của thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI. - Đồng thời giúp bạn đọc hiểu được những biến chuyển của thơ DTTS trong tiến trình phát triển của thơ hiện đại Việt Nam. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu những vấn đề chung về thơ DTTS đầu thế kỉ XXI trong tiến trình thơ Việt Nam hiện- đương đại. - Khảo sát, xác định và phân tích các giá trị cơ bản của thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI cả phương diện nội dung và phương diện nghệ thuật (cảm hứng chủ đạo, giọng điệu, ngôn ngữ, thể thơ). So sánh với thơ DTTS giai đoạn trước để thấy sự phát triển của thơ DTTS trong giai đoạn mới. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp khảo sát, thống kê: để khảo sát các tác giả, các thể loại và cảm hứng sáng tác nổi bật cũng như các phương diện nghệ thuật khác. - Phương pháp hệ thống: để hệ thống hóa các vấn đề nghiên cứu. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: để phân tích đánh giá và rút ra kết luận. 5
  12. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: để so sánh giữa thơ DTTS giai đoạn đầu thế kỉ XXI với giai đoạn trước đó, giữa các nhà thơ với nhau… - Phương pháp liên ngành (văn hóa, văn học, lịch sử, địa lí) giúp người viết có thể cảm nhận thơ của các nhà thơ DTTS thế kỉ XXI trong cảm quan văn hóa, lối sống, phong tục và trong hoàn cảnh lịch sử… 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần Nội dung của đề tài gồm 03 chương: Chương 1. Thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI trong tiến trình thơ DTTS Việt Nam hiện - đương đại. Chương 2. Cảm hứng nghệ thuật trong thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI. Chương 3. Một số phương diện nghệ thuật trong thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI. 6
  13. NỘI DUNG Chương 1 THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XXI TRONG TIẾN TRÌNH THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN- ĐƯƠNG ĐẠI 1.1. Tiến trình vận động và phát triển của thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Văn học các DTTS Việt Nam thời kì hiện đại chủ yếu được hình thành và phát triển từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đặc biệt là từ những năm 60 của thế kỉ XX đến nay. Tuy xuất hiện muộn nhưng văn học các DTTS Việt Nam thời kì hiện đại đã có những bước vận động và phát triển khá mau chóng - từ đội ngũ sáng tác tới thể loại, số lượng và chất lượng tác phẩm. Trong sự thống nhất mà đa dạng của nền văn học Việt Nam hiện đại, các nhà thơ, nhà văn DTTS luôn có ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, luôn đổi mới về hình thức thể loại, cách tư duy hiện đại mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Nửa cuối thế kỷ 20, cùng với sự phát triển của văn học người Kinh, văn học các DTTS đã có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp văn học chung của nước nhà. Các nhà văn, nhà thơ DTTS đã thực sự mang đến cho văn học nước nhà một vẻ đẹp riêng khó lẫn. Các tác phẩm văn học là tiếng nói tự hào, là sự kết tinh văn hóa của mỗi tộc người trên đất nước Việt Nam. Thơ ca các DTTS Việt Nam thời kì hiện đại ra đời và hình thành vào những năm 40, 50 của thế kỉ XX với những tác giả người dân tộc tham gia cách mạng như: Hoàng Văn Thụ, Dương Công Hoạt, Lê Quảng Ba. Thơ hiện đại DTTS bắt đầu xuất hiện với một số cây bút nổi bật là Hoàng Đức Hậu (Tày / 1890 - 1945), sau đó là Bàn Tài Đoàn (Dao / 1913 - 2009), Nông Quốc Chấn (Tày / 1923-2002), Nông Minh Châu (Tày / 1924 - 1979) trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Đến giai đoạn 1945-1954 thơ ca DTTS phát triển khá mạnh trong sự phát triển chung của thơ ca Việt Nam nhằm phản ánh cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà tự hào của dân tộc. Sau khi miền Bắc được giải phóng, thơ ca các DTTS giai đoạn 1954-1975 có sự phát triển đáng tự hào. Giai đoạn này đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo, số lượng tác phẩm ngày càng nhiều, chất lượng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước. 7
  14. Những nhà thơ xuất hiện trước năm 1945 tiếp tục sáng tác và cống hiến như Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Nông Minh Châu…. Bên cạnh những tác giả trước vẫn tiếp tục sáng tác thời kì này xuất hiện một thế hệ nhà thơ thứ hai, thứ ba như: Mã A Lềnh, Lò Ngân Sủn, Vi Thị Kim Bình, Y Phương (Tày), Hoàng Nó, Lương Quy Nhân, Vương Trung (Thái), Mã Thế Vinh (Nùng), Triệu Kim Văn (Dao), Linh Nga Niêt Đam (Ê Đê), Mã A Lềnh, (Mông), Lò Ngân Sủn (Dáy), Vương Anh (Mường), Pờ Sảo Mìn (Pa Dí), Hơ Vê (Hơ rê), Lâm Quý (Cao Lan)... Từ sau năm 1975 các nhà thơ DTTS đã tạo nên một đời sống thơ ca khá phong phú, độc đáo, mang đậm bản sắc tộc người các DTTS trong cả nước. Một số nhà thơ đã vươn đến độ chín của tài năng, đã có tác phẩm được nhận giải thưởng văn chương như các tác giả : Bàn Tài Ðoàn, Vương Anh, Lương Quy Nhân, Mã Thế Vinh, Nông Viết Toại, Mã A Lềnh, Y Phương, Mai Liễu, Dương Thuấn, … Những năm gần đây, thơ ca DTTS ngày càng xuất hiện nhiều cả về số lượng lẫn chất lượng và đã khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong đời sống văn học nước nhà. Đến nay tên tuổi các nhà thơ là con em các DTTS có tên trong Hội Nhà văn Việt Nam không còn hiếm. Đặc biệt là thế hệ nhà thơ trưởng thành từ sau 1975 đến nay. Dương Khâu Luông với những tập thơ được xuất bản như: Gọi bò về chuồng (tập thơ thiếu nhi)- NXB Hội Nhà văn-2003 ; Dám kha cần ngám điếp (tập thơ tiếng Tày)-NXB Văn hóa Dân tộc-2005; Bản mùa cốm (tập thơ thiếu nhi)-NXB Hội Nhà văn-2005; Bắt cá ở sông quê (tập thơ)-NXB Hội Nhà văn-2006; Co nghịu hưa cần (tập thơ song ngữ thiếu nhi Tày -Việt ) - NXB Văn hóa Dân tộc-2008. Mai Liễu với hồn thơ vẫn giữ vẹn nguyên hơi thở miền núi với hàng chục tập thơ ra đời như: Giấc mơ của núi (2001), Đầu nguồn mây trắng (2004), Bếp lửa nhà sàn (2005), Núi vẫn còn mưa (2013)… Thơ DTTS đã có một đội ngũ khá đông đảo với nhiều cảm hứng phong phú, giọng điệu đa dạng và độc đáo. Tuy nhiên, đội ngũ văn nghệ sĩ DTTS giữa các vùng miền, giữa các dân tộc còn có sự chênh lệch, có những dân tộc có rất ít tác giả và cũng chưa có bản sắc riêng. Nền thơ ca DTTS Việt Nam thế kỉ XX với nhiều thế hệ nhà thơ đã có những đóng góp làm thay đổi không chỉ diện mạo văn học DTTS mà còn đặt nền móng vững chắc cho văn học DTTS thế kỉ XXI và cho những chặng đường tiếp theo. 8
  15. 1.2. Thơ dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế kỉ XXI 1.2.1. Những yếu tố lịch sử, văn hóa xã hội tác động tới sự vận động và phát triển của thơ DTTS Việt Nam đầu thế kỉ XXI Đầu thế kỉ XXI thế giới có nhiều biến động về kinh tế, chính trị xã hội và văn hóa. Thứ nhất, thế giới đang tìm đường ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay, trên thực tế là đang phải tìm đường chuyển sang một thời kỳ phát triển mới khác trước. Thứ hai, hiện tượng Trung Quốc trên con đường trở thành siêu cường ngày càng trở nên nóng bỏng trên trường quốc tế - nhất là tại khu vực. Thứ ba mối quan hệ phức tạp, căng thẳng và khó hòa giải của các nước Châu Âu với Mĩ, của Mĩ - Hàn Quốc và Triều Tiên… Thế kỉ XXI đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ, đổi mới liên tục các xu hướng mỹ học, sự du nhập những trào lưu phương Tây vào đời sống văn học Việt Nam… Xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XXI có nhiều thay đổi, nhiều chuyển biến không nhỏ. Việt Nam vừa phải thích nghi với bối cảnh thế giới mới rất quyết liệt so với trước, đồng thời vừa phải tự mình tìm đường chuyển sang một giai đoạn phát triển cao hơn để có thể đứng vững trong tình hình mới. Đặc biệt là trước nhu cầu đòi hỏi về văn hóa: hội nhập để đi lên, hội nhập nhưng không hòa tan, tiếp thu tinh hoa văn hóa nước ngoài mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển trong tình hình đó văn học Việt Nam đã chuyển mình đi lên đầy bản lĩnh. Trong đó văn học DTTS nói chung, thơ DTTS nói riêng cũng phần nào chịu ảnh hưởng, cả tiêu cực và tích cực, tuy mức độ khác nhau giữa các vùng miền, các dân tộc, các thế hệ tác giả. Từ sau đổi mới 1986, thơ DTTS từng bước có những trưởng thành đáng kể. Hòa chung với xu hướng của thơ đương đại, thơ DTTS cũng dần mở rộng biên độ, chấp nhận tất cả những điều từ lớn lao đến nhỏ nhặt nhất của đời sống. Thế kỉ hội nhập với sự giao thoa giữa văn học Việt Nam và thế giới, giữa văn học của dân tộc Kinh với DTTS ảnh hưởng không nhỏ đến văn học DTTS Việt Nam hiện đại. Thêm vào đó là sự chuyển mình của dân tộc trong đời sống xã hội và văn hóa ở hai thập niên đầu của thế kỉ XXI. Không riêng gì người DTTS, cuộc sống tinh thần con người nói chung đang đứng trước những thách thức về sự pha trộn bản sắc, sự mai một vốn văn hóa truyền thống. Với các tác giả trẻ, khi dùng trang viết của 9
  16. mình để tái hiện, ngợi ca, cũng là cách níu kéo vốn văn hóa ấy. Vì vậy có một sự thay đổi đáng kể về đội ngũ sáng tác từ trình độ, lứa tuổi, thay đổi về quan niệm nghệ thuật, về cảm hứng đến sự chuyển biến trong thể loại, trong ngôn từ và lối tư duy, diễn đạt… 1.2.2. Khái quát chung về sự vận động của thơ dân tộc thiểu số Việt Nam đầu thế kỉ XXI 1.2.2.1. Về đội ngũ tác giả Nhìn một cách tổng thể, thơ DTTS đầu thế kỉ XXI có sự biến chuyển rõ nét, tuy mặt bằng chung chưa cao hơn giai đoạn trước nhiều nhưng số bài thơ, câu thơ hấp dẫn người đọc tăng một cách đáng kể. Có được điều này không chỉ bởi những nhà thơ đã thành danh tiếp tục cống hiến và khẳng định mà còn bởi những cây bút trẻ tiếp tục có những sáng tạo mới. Đặc biệt là ở 5 năm sau của thập kỉ thứ nhất và 5 năm đầu của thập kỉ thứ hai lực lượng những người sáng tác có sự thay đổi, những ấn tượng đặc biệt cũng được ghi nhận. Lực lượng sáng tác của thơ DTTS thế kỉ XXI khá đông đảo, gồm ba thế hệ: thế hệ thứ nhất trưởng thành trong thời kì chống Pháp và chống Mỹ, thế hệ thứ hai thời hậu chiến và đổi mới, thứ ba là thế hệ sinh sau khi đất nước thống nhất. Sau thế hệ những người khai sáng như: Bàn Tài Đoàn, Nông Quốc Chấn, Cầm Biêu, Hoàng Nó, Đinh Sơn, Lương Quy Nhân, Nông Minh Châu, Y Điêng và những tên tuổi sinh vào những năm 30 như Triều Ân, Hoàng Hạc, Mã Thế Vinh … là thế hệ 4X vẫn tiếp tục khẳng định sự sáng tạo của mình như: Vi Thị Kim Bình, Mã A Lềnh, Ma Trường Nguyên, Vương Anh, Pờ Sảo Mìn, Lò Ngân Sủn, Triệu Kim Văn, … Thế hệ vào tuổi 5X ít hơn nhưng chứa đựng nhiều tiềm năng cho một phát triển có mặt là đột xuất để đạt một tầm cao tương xứng với thời đổi mới và hội nhập trong bối cảnh kỷ nguyên thông tin và cuộc Toàn cầu hoá lần thứ ba. Đó là: Mai Liễu, Triệu Lam Châu, Lò Cao Nhum, Inrasara Phú Trạm, Dương Thuấn… Người lớn tuổi nhất thuộc thế hệ này đã ngoài 60, và người trẻ nhất đã ngoài 50. Vậy cũng không còn là trẻ, nhưng họ đã khẳng định được những cái mới trong sáng tạo và đang còn nhiều hứa hẹn. 10
  17. Sang thế kỷ XXI, đặc biệt là trong khoảng mươi năm trở lại đây, chúng ta chứng kiến sự trưởng thành cũng như sự bứt phá của nhiều cây bút dân tộc thiểu số trẻ. Trong bài Đội ngũ nhà văn trẻ dân tộc thiểu số ở Việt Nam tác giả Đỗ Thị Thu Huyền đã đánh giá: “Hiện nay, văn học dân tộc thiểu số hiện đại từng bước có những vận động mạnh mẽ và đa diện. Thế hệ đặt nền móng và thế hệ sung sức của thế kỷ trước đã hoàn thành sứ mệnh một cách xuất sắc, những tác giả của thời kỳ đương đại, đặc biệt là lứa những tác giả trẻ 7X, 8X đang trên đà khẳng định mình và một lứa các cây viết thế hệ 9X đang tiếp nối bước chân của bậc cha anh trên con đường sáng tạo đầy nhọc nhằn” [22]. Những tác giả trẻ đã và đang là niềm hy vọng mới cho văn học DTTS. Họ có thể sẽ đại diện cho cả một thế hệ những người viết trẻ có khả năng làm thay đổi diện mạo của văn học DTTS. Họ không hề tỏ ra thua kém trước sự phát triển rầm rộ của văn học đương đại và những xu hướng mới du nhập với trình độ ngoại ngữ, sự đào tạo bài bản và quan trọng hơn nữa là ý thức dấn thân và không ngại đổi mới. Có những tác giả bước vào độ chín của sáng tác, phong cách định hình khá rõ rệt, nhiều tác giả có những triển vọng đi xa và quyết liệt như Bùi Thị Tuyết Mai (Mường), Đinh Thị Mai Lan, Hoàng Chiến Thắng (Tày), Hoàng Thanh Hương (Mường), Niê Thanh Mai (Êđê)... và những tác giả trẻ sau này như Phạm Văn Vũ, Ngô Bá Hòa (Tày), Tuệ Nguyên (Chăm), Thạch Đờ Ni, Vi Thùy Linh... Điểm chung của những cây bút trẻ DTTS là sự ý thức thường trực về một bản sắc cần lưu truyền cộng hưởng với khả năng đổi mới hòa nhập vào dòng chảy văn học đương đại nhưng không phải là không định hướng một sự khẳng định chính mình. Sang thế kỷ XXI, thơ ca Việt Nam chứng kiến sự trưởng thành cũng như sự bứt phá của nhiều cây bút DTTS trẻ, họ đã cho ra đời hàng trăm tác phẩm với nhiều giọng điệu và cách thể hiện khác. Các nhà thơ của thế kỉ XX vẫn bền sức và sâu đậm cảm xúc với những thành tựu nổi bật. Năm 2004 Dương Thuấn nhận được giải B Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam với tập thơ Đêm bên sông yên lặng. Nhà thơ Y Phương - nhà thơ thuộc thế hệ thứ hai của thơ DTTS, nhận giải thưởng Nhà nước với các tác phẩm: Chín tháng (Trường ca, 2000) Thơ Y Phương (2000); Thất tàng lồm (Ngược gió- thơ song ngữ Tày-Việt 2006); đặc biệt 11
  18. tập thơ Vũ khúc Tày được tặng giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 2016. Nông Thị Ngọc Hòa với tập Vườn duyên (2002) nhận giải C của Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam; tập Con đường cho mây đi (2004); tập thơ Men qua cõi thiền (2008) nhận giải A của Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Pờ Sảo Mìn với Con trai người Pa Dí (2002), Mắt rừng xanh (2005), Đôi cánh chim rừng (2014), Tiếng chim cao nguyên (2015). Tạ Thu Huyền với Đầy vơi (2008). Văn học dân tộc chứng kiến sự xuất hiện đông đảo, rầm rộ của văn học các DTTS, cả khu vực Đông Bắc, Tây Bắc đến Tây Nguyên và Nam Trung bộ. Các tuyển tập ghi dấu ấn bởi sự công phu, chọn lọc. Số tác giả hiện nay khá đông đảo, trải dài từ các tác giả thuộc thế hệ 5X, 6X, đến các tác giả thuộc thế hệ 8X, 9X song song tồn tại và đều có những đóng góp không thể phủ nhận. Đặc biệt đáng lưu ý là đội ngũ những người viết trẻ, họ là một lực lượng, một đội ngũ khá đông đảo, bao gồm các cây bút trẻ thuộc các DTTS Việt Nam. Họ đam mê với văn chương, đa số được đào tạo khá cơ bản, có trình độ văn hóa (hầu hết đều có trình độ Cao đẳng và Đại học), trong đó có những người đã được học Đại học Viết văn. Những sáng tác của họ đã được công bố rộng rãi trên các báo, các tạp chí trung ương và địa phương; họ có nhiều tác phẩm được xuất bản và đã đạt được khá nhiều giải thưởng văn học có uy tín trong nước; thậm chí đã có những tác phẩm được giới thiệu ra nước ngoài… Những cây bút DTTS trẻ là những người luôn có khát vọng sáng tạo, đổi mới văn chương. Họ đã cố gắng rất nhiều trong việc đổi mới cách viết, cách nhìn và điểm nhìn nghệ thuật. Văn chương của họ tươi tắn, hồn nhiên, hiện đại, thông minh và “láu lỉnh” hơn so với các cây bút thuộc thế hệ trước. Họ đề cập đến các vấn đề xã hội, vấn đề cá nhân một cách đa diện, đa chiều hơn. Đặc biệt, họ ít bị chi phối bởi khuôn khổ, bởi các “mô típ” nghệ thuật mang tính truyền thống hơn so với các nhà văn lớp trước. Có lẽ cũng chính vì vậy mà họ đã tạo nên một không khí mới, một mầu sắc mới, một hơi thở mới trong đời sống văn học các DTTS đương đại và bước đầu họ cũng đã thu hút được sự chú ý và đánh giá khá cao của một số bạn đọc, nhất là những người đọc trẻ. Bên cạnh đó còn có một xu hướng các nhà văn trẻ có ý thức kế thừa những tinh hoa của văn học truyền thống cùng những thành tựu mà thế hệ nhà văn trước đã đạt được - trên cơ sở làm mới lên, làm phong phú hơn, có tính hiện đại hơn trong cách 12
  19. cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt và cách viết của thế hệ mình. Họ đã cho ra đời những tác phẩm mang đậm bản sắc văn hóa tộc người nhưng với lối viết hiện đại, khiến cho người đọc thú vị, hấp dẫn bởi hương vị độc đáo cùng mầu sắc riêng biệt của nó. Hoàng Chiến Thắng (sinh năm 1980 ở Chợ Đồn, Bắc Kạn, dân tộc Tày) nổi lên như một tác giả trẻ có nhiều triển vọng trên con đường sáng tác văn học. Bộ sưu tập giải thưởng của Hoàng Chiến Thắng gồm: Giải Nhì cuộc thi thơ Văn nghệ Quân đội năm 2008-2009 với bài Bà tôi; Giải Trẻ Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 2009 cho tập thơ Gọi ngày xuống núi. Vi Thùy Linh - nhà thơ nữ được phong là thi sĩ ái quyền có những tập thơ gây ấn tượng như: Linh (NXB Thanh niên, Hà Nội, 2000); Đồng Tử (Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 2005); ViLi in love (2008); Phim đôi-Tình tự chậm (2011)…. Và nhiều nhà thơ nữ có những tác phẩm tiêu biểu được xuất bản như Phùng Hải Yến có tập Thơ với bạn thơ (2012). Chu Thùy Liên với Xa nhà ca (2005); Sông ngàn lau (2002), Lời hẹn (2007) của Đoàn Ngọc Minh. Bế Phương Mai với Bài thơ cho cha (2003); Hoàng Thanh Hương có Lời cầu hôn của rừng (2008); Đinh Thị Mai Lan với Tiếng đàn đêm (2005); Nơi cất rượu(2005); Mường Trong (2006) của Bùi Thị Tuyết Mai; Tềnh Pù trên núi (2007), Mùa trăng (2008) của Nông Thị Tô Hường; Khúc giao mùa (2008) của Hoàng Kim Dung. Cuốn Thơ Dân tộc và miền núi đầu thế kỉ XXI do Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc phát hành quý IV-2011 là một tác phẩm tuyển chọn khá công phu về thơ DTTS Việt Nam và thơ của các tác giả người Kinh từng đang sống và làm việc ở các miền núi và vùng có đồng bào DTTS sinh sống. Tập thơ do bốn nhà thơ người dân tộc thiểu số tuyển chọn là: Mai Liễu, Y Phương, Inrasara và Trịnh Hà. Đây là những nhà thơ nối tiếp nên họ có khả năng hiểu được thế hệ thơ đi trước, đồng thời cảm nhận được không khí thơ của thế hệ đến sau, từ đó đưa ra tiêu chí chọn khả dĩ nhất. Thơ Dân tộc và miền núi đầu thế kỉ XXI tập hợp thơ chọn thuộc ba thế hệ: thế hệ thứ nhất thuộc chống Pháp và chống Mỹ, thứ hai thời hậu chiến và đổi mới, và thứ ba là thế hệ sinh sau khi đất nước thống nhất. Đây là tuyển thơ tập hợp nhiều đề tài, đa dạng về nội dung, đa giọng điệu về cách thể hiện của tiếng thơ thuộc nhiều vùng miền 13
  20. khác nhau. Ở đó, không ít thủ pháp mới lạ được các nhà thơ- nhất là các bạn thơ trẻ- thể nghiệm thành công. Trong cuốn Thơ dân tộc và miền núi đầu thế kỉ XXI mà chúng tôi sử dụng để nghiên cứu đề tài gồm có tổng số hơn 400 bài thơ của 169 tác giả thuộc 23 dân tộc khác nhau cư trú ở nhiều vùng miền khác, rải khắp đất nước viết về dân tộc thiểu số. Tuy nhiên chúng tôi chỉ nghiên cứu thơ của 95 tác giả người DTTS viết về DTTS. Qua quá trình đọc, tìm hiểu chúng tôi đã tiến hành sát và thống kê số lượng các tác giả là người DTTS thuộc các dân tộc như sau: STT DÂN TỘC SỐ LƯỢNG TÁC GIẢ 1 Tày 35 2 Mường 11 3 Thái 09 4 Dao 08 5 Chăm 07 6 Nùng 04 7 Mông 03 8 Khơ me 02 9 Sán Rìu 02 10 Ba Na 01 11 Cao Lan 01 12 Cơ Tu 01 13 Châu Ro 01 14 Ê Đê 01 15 Giáy 01 16 H’ rê 01 17 Hà Nhì 01 18 Hoa 01 19 K’ ho 01 20 Pa Dí 01 21 Pù Nả 01 22 Xá Phó 01 23 Vân Kiều 01 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2