intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:117

38
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn này nghiên cứu những vấn đề về cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của đề tài như: Các khái niệm truyền thuyết, lễ hội; các vấn đề thực tiễn về mảnh đất Hưng Yên làm cơ sở cho đề tài như lịch sử, địa lý, văn hóa. Lý giải được nguồn gốc, ý nghĩa của truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ văn học và Văn học Việt Nam: Truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ĐỖ THỊ MAI TRUYỀN THUYẾT VỀ TỨ PHÁP VÀ LỄ HỘI CẦU MƯA Ở HƯNG YÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
  2. Thái Nguyên – 2018 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ĐỖ THỊ MAI TRUYỀN THUYẾT VỀ TỨ PHÁP VÀ LỄ HỘI CẦU MƯA Ở HƯNG YÊN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Hằng Phương
  3. Thái Nguyên – 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Nguyễn Hằng Phương – Nguyên Cán bộ trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính khoa học cũng như về nội dung trích dẫn tài liệu của luận văn này. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả Đỗ Thị Mai
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, em xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí- Truyền thông và Văn học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn Hằng Phương – người đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018 Tác giả Đỗ Thị Mai
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................... 2 2.1. Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên .......................................... 2 2.2. Lịch sử nghiên cứu lễ hội cầu mưa ................................................................................. 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 5 3.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................................... 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................................ 6 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 6 4.1. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................................... 6 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................... 7 5. Phương pháp nghiên cứu: .................................................................................................. 7 6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................................... 8 7. Cấu trúc của luận văn......................................................................................................... 8 NỘI DUNG ............................................................................................................................ 9 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VÙNG ĐẤT HƯNG YÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRUYỀN THUYẾT, LỄ HỘI .......................................................................... 9 1.1. Một số vấn đề lý luận về truyền thuyết và lễ hội ............................................................ 9 1.1.1. Truyền thuyết ............................................................................................................... 9 1.1.2. Lễ hội ......................................................................................................................... 11 1.2. Tục thờ Tứ pháp của người Việt ................................................................................... 15 1.3. Điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội của tỉnh Hưng Yên ............................................... 18 1.4. Truyền thuyết và lễ hội ở Hưng Yên ............................................................................ 23 1.4.1.Truyền thuyết ở Hưng Yên .......................................................................................... 23 1.4.2. Lễ hội ở Hưng Yên ..................................................................................................... 24 CHƯƠNG 2: TRUYỀN THUYẾT VỀ TỨ PHÁP Ở HƯNG YÊN ............................... 28 2.1. Tổng quan truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên ....................................................... 29
  6. 2.1.1. Tín ngưỡng thờ Tứ pháp ở Hưng Yên ....................................................................... 29 2.1.2. Hệ thống truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên ...................................................... 30 2.2. Truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên nhìn từ phương diện nội dung ....................... 33 2.2.1. Phản ánh sự hòa hợp của Phật giáo và những tín ngưỡng bản địa ............................ 33 2.2.2. Phản ánh ước mơ, nguyện vọng của nhân dân .......................................................... 40 2.2.3. Thể hiện sự tôn vinh với những người có công sáng tạo văn hóa. ............................ 43 2.3. Truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên nhìn từ phương diện nghệ thuật..................... 47 2.3.1. Cốt truyện truyền thuyết ............................................................................................ 47 2.3.2. Mô típ điển hình ......................................................................................................... 48 2.3.2.2.Mô típ người hóa đá ................................................................................................ 50 2.3.2.3.Mô típ chiến công phi thường .................................................................................. 51 2.3.2.4.Mô típ hiển linh âm phù ........................................................................................... 53 2.3.3. Thế giới nhân vật ....................................................................................................... 55 CHƯƠNG 3: LỄ HỘI CẦU MƯA TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI TRUYỀN THUYẾT VỀ TỨ PHÁP Ở HƯNG YÊN ........................................................................ 63 3.1. Lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên ......................................................................................... 63 3.1.1. Hội tổng Ôn Xá - Văn Lâm ...................................................................................... 63 3.1.2. Hội Tứ pháp huyện Yên Mỹ ...................................................................................... 65 3.1.3. Hội chùa Thứa và Thanh Xá ...................................................................................... 66 3.1.4. Lễ hội cầu mưa ở Lạc Hồng....................................................................................... 70 3.2.Mối quan hệ giữa truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên ................ 75 3.2.1.Sự hiện thực hóa của truyền thuyết về Tứ pháp qua lễ hội cầu mưa. ................................. …………………………………………………………………75 3.2.2. ............ Lễ hội cầu mưa - nơi lưu giữ và phát huy giá trị của truyền thuyết về Tứ pháp ..................................................................................................................................... 79 KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 82 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 84
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Kho tàng văn học dân gian là nơi lưu giữ và bảo tồn những giá trị bản sắc văn hóa của dân tộc. Bởi vậy, nghiên cứu văn học dân gian ở bất cứ dân tộc nào cũng luôn chiếm một vị trí quan trọng. Trong kho tàng văn học dân gian thì truyền thuyết lại là một thể loại đặc biệt. Bởi những truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân truyền qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hóa gửi gắm vào đó tâm tình tha thiết của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian làm nên những tác phẩm văn học mà đời đời con người ưa thích. Nhưng không chỉ dừng lại ở lịch sử, nghiên cứu truyền thuyết chúng ta còn thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa truyền thuyết và văn hóa đặc biệt là lễ hội. 1.2. Tín ngưỡng thờ Tứ pháp là tín ngưỡng bản địa của nước ta mang đậm màu sắc của nền văn minh lúa nước kết hợp với Phật giáo du nhập từ Ấn Độ, tồn tại phổ biến, rộng rãi ở Đồng bằng Bắc bộ. Đây là một trong những hình thái tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp cổ sơ khi mà đời sống nông nghiệp lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Họ cầu mưa thuận gió hòa, cho cây cối tốt tươi mùa màng bội thu. Chính vì vậy, Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện lần lượt được ra đời để thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người lúc bấy giờ. Tìm hiểu truyền thuyết về Tứ pháp là con đường tìm về với những tín ngưỡng bản địa trong xu thế hội nhập với Đạo Phật. Hơn thế truyền thuyết cũng là cây cầu để khám phá và lý giải những giá trị sâu sắc của lễ hội dân gian nói chung và lễ hội cầu mưa nói riêng. 1.3. Mảnh đất Hưng Yên nơi không chỉ tự hào với Thứ nhất kinh kì thứ nhi Phố Hiến mà còn là cái nôi hình thành và nuôi dưỡng những giá trị văn hóa đặc trưng của vùng Đồng bằng Bắc bộ. Một phần lãnh thổ của Hưng Yên xưa kia thuộc trấn Kinh Bắc- trung tâm Phật giáo hàng đầu của cả nước, chính vì vậy
  8. 2 mảnh đất Hưng Yên có điều kiện tiếp biến đặc biệt với những đặc trưng văn hóa Bắc Ninh. Truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội ở Hưng Yên là một trường hợp điển hình cho mối quan hệ đó. Nhưng trong quá trình tiếp nhận ảnh hưởng, truyền thuyết và lễ hội đều có những thay đổi để phù hợp với đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân Hưng Yên. Chính vì vậy nghiên cứu truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên là một việc làm hết sức có ý nghĩa để khám phá, tìm hiểu và khẳng định bản sắc văn hóa của địa phương đồng thời làm sáng tỏ những đặc điểm cơ bản của thể lại truyền thuyết đặt trong mối quan hệ với lễ hội truyền thống. Mặc dù vấn đề đã được một số nhà nghiên cứu đề cập nhưng chưa có công tŕnh nào nghiên cứu một cách hệ thống để nêu bật đặc điểm và mối quan hệ giữa truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên. 1.4. Là một người con của mảnh đất Hưng Yên, chúng tôi luôn ý thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trong cuộc sống hôm nay. Nghiên cứu truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa chúng tôi mong muốn góp một phần nhỏ bé để lý giải, để nhận thức về một hiện tượng văn hóa độc đáo của địa phương và của dân tộc. Từ đó góp phần hình thành những định hướng bảo tồn và phát huy giá trị của tín ngưỡng này trong bối cảnh hiện nay. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên Trong tâm thức người Việt, đặc biệt ở Bắc Ninh và Hưng Yên, tín ngưỡng thờ Tứ pháp đã ăn sâu bám rễ. Đây là nơi phát tích cũng là nguồn gốc sơ khai, nền tảng của hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ pháp ngày nay. Sau đó tín ngưỡng thờ Tứ pháp đã nhanh chóng lan tỏa vùng ảnh hưởng đến các tỉnh thuộc Đồng bằng Bắc Bộ. Bởi vậy nên có rất nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Tứ pháp. Có thể kể tên một số công trình tiêu
  9. 3 biểu như: Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam; Võ Thị Hoàng Lan, Về tục thờ Tứ pháp của người Việt (2012) - Tạp chí Di sản văn hóa, số 2(39); Nguyễn Minh San (1998), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội; Nguyễn Mạnh Cường (2000), Chùa Dâu – Tứ Pháp và hệ thống các chùa Tứ pháp, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hóa tâm Linh, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội; Ngô Đức Thịnh, Trương Chí Long (2013), Văn hóa thờ nữ thần – Mẫu ở Việt Nam và Châu Á bản sắc và giá trị, Nxb Thế giới; … Ngoài ra, tín ngưỡng thờ Tứ pháp còn thấy được đề cập nhiều trên các tạp chí, báo mạng điện tử, nghiên cứu như: Tục thờ Tứ pháp – một hình thức tín ngưỡng nông nghiệp cầu mưa, cầu tạnh của Lê Thị Kim Loan đăng trên Thông báo Khoa học Đại học Văn Hóa, tập 3 – 1999; Tín ngưỡng thờ Tứ pháp tại đồng bằng Bắc bộ của Trần Lan Chi đăng trên phapluanonline (tập san pháp luận số 09 ngày 05tháng 11 năm 2009); Luy Lâu và Tứ pháp – Mây Mưa Sấm Chớp” của Phan Cẩm Thượng đăng trên tạp chí Tia Sáng (số 10/ 2013)… Các công trình nghiên cứu trên đều chủ yếu đi sâu phân tích nguồn gốc, các nghi lễ phụng thờ Tứ pháp. Các công trình nghiên cứu tập trung vào việc sưu tầm, nghiên cứu về hệ thống các truyền thuyết về Tứ pháp ở khu vực Bắc Ninh. Còn việc nghiên cứu truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên như một đối tượng nghiên cứu độc lập vẫn chưa được nhiều nhà nghiên cứu khai thác. Đáng kể nhất cho đến nay là khóa luận “Việc phụng thờ Tứ pháp ở Văn Lâm Hưng Yên trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”(2014) của sinh viên Lê Thị Thủy, trường Đại học Văn hóa - Hà Nội. Ở công trình này, tác giả đã lý giải nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Tứ pháp ở Văn Lâm- Hưng Yên; nghiên cứu thực trạng của tín ngưỡng phụng thờ Tứ pháp ở Văn Lâm trong bối cảnh hiện nay đồng thời cũng nghiên cứu sự vận động và ý nghĩa của tín ngưỡng này trong đời sống của nhân dân. Tuy nhiên phạm vi nghiên cứu của công trình mới chỉ dừng lại ở một khu vực nhất định đó là Văn Lâm – Hưng Yên.
  10. 4 Có thể thấy rằng các công trình nghiên cứu truyền thuyết về Tứ pháp đã có những đóng góp quan trọng giúp chúng ta lý giải và trân trọng, lưu giữ một di sản văn hóa của vùng Đồng bằng Bắc Bộ nói chung và của mảnh đất Hưng Yên nói riêng. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu chưa khai truyền thuyết về Tứ pháp dưới những góc độ của đặc trưng thể loại. Đây vẫn là một tầng đất mới mẻ mà chúng ta có thể tiếp tục cày xới để mang đến những đóng góp giá trị khi nghiên cứu đề tài này. 2.2. Lịch sử nghiên cứu lễ hội cầu mưa Trong tâm thức của người Việt, lễ hội truyền thống từ lâu đã trở thành một sinh hoạt văn hóa không thể thiếu vì lễ hội chính là sự phản ánh phong tục tập quán, tín ngưỡng và bản sắc của dân tộc. Với đặc thù là một đất nước sản xuất nông nghiệp nên những yếu tố thời tiết nắng, mưa có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của nhân dân. Cũng chính bởi vậy nên nghi lễ cầu mưa trở thành nghi lễ của rất nhiều dân tộc trên dải đất hình chữ S. Có thể kể đến một số lễ hội chủ yếu sau: Lễ hội cầu mưa người Lô Lô ( theo báo điện tử vietbao.vn đăng ngày 05 tháng 9 năm 2008); lễ hội cầu mưa (hay còn gọi là lễ hội Xến Xó Phốn) của người Thái vùng Tây Bắc (theo vietbao.vn đăng ngày 03 tháng 10 năm 2008); Phú Yên: Phục dựng lễ hội “Cầu mưa” của người dân tộc Êđê (theo báo điện tử baovanhoa.vn đăng năm 2010 viết bởi Nguyễn Trần Vĩ ); lễ hội cầu mưa của người Chăm Vân Canh, Bình Định (theo báo điện tử http://viettems.com/ đăng ngày 22 tháng 5 năm 2010); Lễ hội cầu mưa người Chăm ở Bình Thuận (theo báo điện tử : http://viettems.com đăng ngày 22 tháng 5 năm 2010). Độc đáo tục rước Tứ Pháp cầu mưa của cư dân Đồng bằng sông Hồng (Báo mới. com đăng ngày 15 tháng 12 năm 2015); Lễ hội cầu mưa – nét độc đáo trong tín ngưỡng tôn sùng tự nhiên của cộng đồng dân của cộng đồng dân tộc Việt (Sùng A Cải- Lieenketviet.net ngày 15 tháng 5 năm 2016)… Ở Hưng Yên với ảnh hưởng của các truyền thuyết về Tứ pháp kết hợp với tâm thức của những cư dân nông nghiệp trở thành mảnh đất mầu mỡ để
  11. 5 hình thành và phát triển lễ hội cầu mưa. Trong những năm gần đây nghi lễ cầu mưa đã và đang được phục dựng lại một cách quy mô tại nhiều địa phương, đặc biệt là khu vực phía Bắc của tỉnh. Cũng từ đó nghiên cứu lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên trở thành đề tài của các bài báo, luận văn, báo cáo. Tiêu biểu là luận án tiến sĩ Lễ hội cổ truyền ở Hưng Yên sự biến đổi hiện nay, của tác giả Hoàng Mạnh Thắng ( 2012). Đóng góp của công trình là đã hệ thống, phân loại được hầu hết các lễ hội cổ truyền của Hưng Yên. Riêng về lễ hội liên quan đến Tứ pháp, công trình đã nêu được nguồn gốc và mô tả đặc điểm, ý nghĩa của lễ hội trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa lại chưa được tác giả đề cập đến một cách cụ thể. Bên cạnh đó là bài báo: Độc đáo lễ hội cầu mưa ở Văn Lâm (Hương Giang Báo Hưng Yên điện tử ngày 12/04/2013); Tục thờ Tứ pháp và lễ hội cầu mưa (Minh Hiếu, Đời sống văn hóa tín ngưỡng và tôn giáo- Báo điện tử)…Các bài báo và công trình nghiên cứu trên đều đi sâu vào tìm hiểu về tín ngưỡng thờ Tứ pháp và mô tả lễ hội cầu mưa dưới góc nhìn văn hóa, chưa có công trình nào nghiên cứu về mối quan hệ giữa lễ hội cầu mưa đặt trong mối quan hệ với truyền thuyết về Tứ pháp. Vậy nghiên cứu lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên đặt trong mối quan hệ với hệ thống truyền thuyết của địa phương sẽ là một hướng nghiên cứu mới mẻ để góp thêm tiếng nói khẳng định giá trị của những nét văn hóa đặc sắc của tỉnh Hưng Yên. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu đề tài của luận văn là hệ thống truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên.
  12. 6 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Hệ thống các truyền thuyết về Tứ pháp đã được lưu truyền ở Hưng Yên từ bao đời nay, một bộ phận được ghi chép cố định trong các bản thần tích, hoặc thư tịch; một bộ phận được lưu truyền nơi cửa miệng dân gian. Chính vì vậy khi tiến hành nghiên cứu đề tài chúng tôi một mặt căn cứ vào các văn bản có sẵn, một mặt căn cứ vào các văn bản tác phẩm đang lưu truyền trong đời sống dân gian ở Hưng Yên. Cụ thể, qua khảo sát ở 25 điểm thờ Tứ pháp ở Hưng Yên, chúng tôi sưu tầm được 5 bản truyền thuyết được ghi lại trong Lý lịch của các di tích thờ Tứ pháp, 1 bản thần tích của làng Đặng Xá, huyện Ân Thi, 4 bản ghi chép từ lời kể của nhân dân xã Lạc Hồng- Huyện Văn Lâm (Phụ lục). - Về lễ hội, chúng tôi tiến hành nghiên cứu, khảo sát tất cả các lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên bắt nguồn từ truyền thuyết về Tứ pháp được ghi chép và quan sát thực tế. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu - Sưu tầm hệ thống truyền thuyết dân gian về Tứ pháp ở địa bàn tỉnh Hưng Yên; khai thác những giá trị của những truyền thuyết đó trên nền tảng đặc trưng thể loại; - Tìm hiểu về của lễ hội cầu mưa đặt trong mối quan hệ với truyền thuyết về Tứ pháp. - Qua việc làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu, luận văn góp phần bồi dưỡng ý thức trân trọng những giá trị văn hóa cổ truyền, bồi dưỡng lòng tự hào về mảnh đất, con người Hưng Yên từ đó có ý thức gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
  13. 7 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài Truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên tập trung làm giải quyết một số vấn đề sau: - Nghiên cứu những vấn đề về cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của đề tài như: Các khái niệm truyền thuyết, lễ hội; các vấn đề thực tiễn về mảnh đất Hưng Yên làm cơ sở cho đề tài như lịch sử, địa lý, văn hóa. Lý giải được nguồn gốc, ý nghĩa của truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên. - Tập hợp, sưu tầm, khảo sát các truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật. - Khảo sát, mô tả các lễ hội ở Hưng Yên có liên quan đến truyền thuyết về Tứ pháp. - Tìm hiểu mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội về Tứ pháp ở Hưng Yên. 5. Phương pháp nghiên cứu: Để tiến hành nghiên cứu thực hiện đề tài Truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên, chúng tôi phối hợp vận dụng các phương pháp nghiên cứu như: - Phương pháp điền dã: phương pháp này được chúng tôi sử dụng trong quá trình sưu tầm hệ thống truyền thuyết trong dân gian và khảo sát các lễ hội cầu mưa ở các địa phương trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. - Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đề tài sử dụng nhằm phân tích các tài liệu lý luận về truyền thuyết, về lễ hội, phân tích mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội. Từ đó tổng hợp các vấn đề nghiên cứu để đưa ra đánh giá, kết luận về đối tượng nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu so sánh: phương pháp này chúng tôi sử dụng để so sánh đặc điểm về truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa với truyền
  14. 8 thuyết về Tứ pháp và lễ hội liên quan ở những địa phương nằm trong vùng Đồng bằng Bắc bộ. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Để có thể có thể đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài chúng tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như: Phương pháp nghiên cứu văn học, phương pháp nghiên cứu văn hóa, phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp nghiên cứu địa lí ... 6. Đóng góp của luận văn - Nghiên cứu một cách hệ thống về truyền thuyết và lễ hội về Tứ pháp ở Hưng Yên, góp phần bổ sung, hoàn thiện tri thức về truyền thuyết và lễ hội ở Hưng Yên và ở khu vực. - Góp tiếng nói để bảo tồn và phát huy những giá trị của truyền thuyết về Tứ pháp và lễ hội cầu mưa ở Hưng Yên. - Kết quả của luận văn sẽ trở thành nguồn tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập về văn hóa, cũng như nét tín ngưỡng thờ Tứ pháp trong lễ hội cầu mưa ở tỉnh Hưng Yên. Góp phần cung cấp những cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, chủ trương của chính quyền địa phương về công tác văn hóa tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về vùng đất Hưng Yên và một số vấn đề lý luận về truyền thuyết và lễ hội. Chương 2: Truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên Chương 3: Lễ hội cầu mưa trong mối quan hệ với truyền thuyết về Tứ pháp ở Hưng Yên
  15. 9 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VÙNG ĐẤT HƯNG YÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRUYỀN THUYẾT, LỄ HỘI 1.1. Một số vấn đề lý luận về truyền thuyết và lễ hội 1.1.1. Truyền thuyết Các nhà folklore quan niệm truyền thuyết là một thể loại riêng biệt là những truyện ngắn kể về những sự kiện trong quá khứ như: những sự kiện lịch sử; những nhân vật lịch sử; những địa danh, những công trình văn hóa, danh thắng; những hiện tượng thiên nhiên như: Sấm chớp, bão lụt….những câu chuyện nêu trên không cần đảm tính chính xác về mặt lịch sử nhưng có cốt lõi lịch sử trong đó. Với đặc điểm đó, truyền thuyết dân gian luôn tạo cho mình một sức hấp dẫn đặc biệt so với các thể loại văn học dân gian khác. Ở Việt Nam truyền thuyết đã xuất hiện, tồn tại và phát triển như là sự thay thế, sự hóa thân của thể loại sử thi dân tộc. Việc nghiên cứu về truyền thuyết đã được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, chỉ riêng khái niệm về truyền thuyết cũng có rất nhiều kiến được đưa ra như: Các tác giả nhóm Lê Qúy Đôn từ những năm 50 của thế kỷ XX, trong Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, đã định nghĩa truyền thuyết như sau: “Truyền thuyết là tất cả những truyện lưu hành trong dân gian có thật xảy ra hay không thì không có gì đảm bảo. Như vậy có những truyền thuyết lịch sử, mà có những truyền thuyết khác, hoặc dính dáng về một đặc điểm địa lí, hoặc kể lại một gốc tích sự vật gì, hoặc giải thích những phong tục tập quán, hoặc nói về sự tích các nghề nghiệp và tất cả những chuyện kỳ lạ khác”[10; 60] Còn trong công trình Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi lại định nghĩa: “Truyền thuyết là những truyện lịch sử và truyện lịch sử chỉ có thể có khi con người đã có ý thức về lịch sử của mình”[4].
  16. 10 Trong Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi nhận định: “Truyền thuyết là một thể loại truyện dân gian mà chức năng chủ yếu là phản ánh và lý giải các nhân vật và sự kiện lịch sử có ảnh hưởng quan trọng đối với một thời kỳ, một bộ tộc, một dân tộc, một quốc gia hay một địa phương”[14]. Trong bài Tinh thần dân tộc qua các truyền thuyết lịch sử, ông Phan Trần cũng đã nêu lên định nghĩa về truyền thuyết như sau: “Truyền thuyết là những truyện truyền tụng trong dân gian về những sự việc và nhân vật có liên quan đến lịch sử. Những nhân vật và sự việc đó thường được phản ánh qua trí tưởng tượng của con người, qua sự hư cấu của nhân dân”[41]. Trong cuốn Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian, tác giả Kiều Thu Hoạch đưa ra một định nghĩa về truyền thuyết khá toàn diện; “Truyền thuyết là một thể tài truyện kể truyền miệng nằm trong loại hình tự sự dân gian. Nội dung cốt truyện kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân. Biện pháp nghệ thuật phổ biến là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng những yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích, thần thoại”[17]. Các khái niệm trên đều đã nêu được nội dung phản ánh và đặc trưng trong nghệ thuật phản ánh của truyền thuyết xong chưa có tính khái quát. Trong cuốn Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, nhóm tác giả Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ đã đưa ra một khái niệm tương đối thuyết phục và được phổ biến đó là: “Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa hay nhân vật tôn giáo thông qua sự hư cấu nghệ thuật thần kỳ”[35]. Về cơ bản, đây là một khái niệm tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh về thể loại truyền thuyết. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn khái niệm này là cơ sở lý luận trong quá trình nghiên cứu.
  17. 11 Như vậy qua các khái niệm truyền thuyết của các tác giả khác nhau đều nhắc tới những đặc trưng cơ bản của thể loại truyền thuyết đó là: có gắn bó chặt chẽ với cốt lõi lịch sử, nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử nhất định, được nhìn nhận qua lăng kính của nhân dân với sự hư cấu, kỳ ảo. Nó chính là một thể loại kết hợp hài hòa giữa văn và sử. Đặc trưng này chính là một dấu hiệu quan trọng để giúp ta phân biệt giữa truyền thuyết với các thể loại truyện dân gian khác, đồng thời cũng làm nên nét độc đáo của thể loại truyền thuyết. Thông qua hệ thống truyền thuyết dân gian của Việt Nam, các tác giả dân gian đã tái hiện chân dung đời sống tinh thần của dân tộc. Đó là sự lý giải đầy tự hào về sự hình thành về nòi giống của dân tộc; tái hiện quá trình chinh phục thiên nhiên, xây dựng nền văn hiến; thể hiện lòng tự hào, ngưỡng mộ với các danh nhân văn hóa; ngợi ca nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quân xâm lược… Về việc phân loại truyền thuyết các nhà folklore thế giới có nhiều cách phân loại, người chia làm 4 loại như cách chia của hội nghiên cứu văn học tự sự dân gian quốc tế: truyền thuyết khởi nguyên; truyền thuyết lịch sử; truyền thuyết thần thoại; truyền thuyết tôn giáo. Ở Việt Nam năm 1990, Lê Chí Quế trong Giáo trình văn học dân gian Việt Nam đã chia truyền thuyết làm 3 loại: truyền thuyết lịch sử; truyền thuyết anh hùng; truyền thuyết về các danh nhân văn hóa. 1.1.2. Lễ hội Bên cạnh vai trò phán ánh lịch sử một cách độc đáo, truyền thuyết còn có mỗi quan hệ đặc biệt với nghi lễ, hội lễ. Các nhân vật trong truyền thuyết là những anh hùng dân tộc hay những danh nhân văn hóa được tái hiện bằng tình cảm yêu mến và cảm phục của nhân dân. Họ đã bước ra khỏi những câu chuyện để trở thành những nhân vật thiêng như Thành hoàng, ông tổ nghề, thần thiêng bảo hộ cho các vùng đất. Hằng năm, để tưởng nhớ công lao và giáo dục truyền
  18. 12 thống cho thế hệ sau nhân dân tổ chức các nghi thức tế lễ. Do vậy, truyền thuyết là cơ sở để giải thích và khiến cho lễ hội có nội dung thiêng, còn lễ hội lại là mảnh đất để di dưỡng truyền thuyết trong đời sống dân gian. Đó là cở sở hình thành mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội. Khi nghiên cứu về đặc tính và ý nghĩa “Lễ hội” ở nước Nga M.Bachie cho rằng: “Lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trò biểu diễn, đó là cuộc sống chiến đấu của cộng đồng cư dân. Tuy nhiên bản thân cuộc sống không thể thành lễ hội được nếu chính nó không được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế giới tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng, vượt lên trên thế giới của những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới, là cuộc sống thứ hai thoát ly tạm thời thực tại hữu hiện, đạt tới hiện thực lý tưởng mà ở đó, mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung linh, siêu việt và cao cả”.(Dẫn theo https://giaoviendulich.wordpress.com/2010/01/24) Ở Việt Nam lễ hội – là một nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng của cư dân nước Việt. Từ ngàn đời xưa lễ hội không chỉ là nơi lưu giữ những giá trị tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa dân gian mà nó còn phản ánh tư duy, thái độ, tình cảm của cư dân nông nghiệp một cách rõ nét. Tuy nhiên, định nghĩa về lễ hội cũng có nhiều những quan niệm khác nhau như: Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê đã định nghĩa: “Lễ hội là cuộc vui tổ chức chung có các hoạt động lễ nghi mang tính văn hóa truyền thống của dân tộc”[38]. Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, tác giả Huỳnh Bá Công đã nhận định: “Lễ hội ở đây được nhìn tổng quát chỉ cả lễ tết và hội hè, trong đó lễ là để dâng hương thần thánh, còn hội là để mua vui cho mọi người trong cộng đồng, tất cả đều nhằm thỏa mãn nhu cầu về đời sống tinh thần, tâm linh của con người”[4].
  19. 13 Trong cuốn Từ điển hội lễ Việt Nam, tác giả Bùi Thiết cho rằng: “Hội lễ là cách gọi cô đọng nhằm để chỉ toàn bộ các hoạt động tinh thần, phản ánh những tập tục, vật hiến tế, lễ nghi dâng cúng, những hội hè đình đám của một cộng đồng làng xã nhất định”[47;2]. Trong cuốn “Lễ hội cổ truyền” – Phan Đăng Nhật cho rằng “Lễ hội là một kho lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vố số những phong tục, tín ngưỡng, văn hóa, nghệ thuật và cả các sự kiện xã hội – lịch sử quan trọng của dân tộc...lễ hội còn là nơi bảo tồn, tích tụ văn hóa (theo nghĩa rộng) của nhiều thời kỳ lịch sử trong quá khứ dồn nén lại cho tương lai”[33;53]. Từ những khái niệm như trên có thể thấy lễ hội bao gồm 2 phần chính: phần lễ và phần hội, luôn đan xen, gắn liền, không tách rời, trong đó: Lễ là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Lễ xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh. Con người thực hiện phần lễ để thể hiện niềm tin vào những lực lượng siêu nhiên, thể hiện niềm mong ước có một cuộc sống tốt đẹp, mùa màng bội thu, nhân khang, vật thịnh, quốc thái, dân an. “Hội là sự tập hợp đông người để thực hành diễn xướng, trình diễn các phong tục, tín ngưỡng, các hình thức văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật, các sinh hoạt tinh thần xã hội”(Dẫn theo http://ajc.edu.vn/Nghien-cuu-khoa-hoc/Gia- tri-lich-su-truyen-thong-van-hoa-cua-le-hoi/19727.ajc). Sau những nghi lễ trang nghiêm, việc tham gia vào những sinh hoạt cộng đồng này lại là lúc con người được nghỉ ngơi, thư giãn nhằm thỏa mãn những nhu cầu về mặt tinh thần của quần chúng. Nguồn gốc hình thành lễ hội truyền thống của nước ta thường được lý giải trên ba cơ sở chính: Thứ nhất là môi trường tự nhiên và hoạt động sản xuất. Đất nước Việt Nam ra đời là kết quả của quá trình vận động, biến đổi tự
  20. 14 nhiên, địa lí, địa chất diễn ra cách đây hàng triệu năm. Cùng với địa hình thấp, nhiều đồng bằng, hệ thống sông ngòi chằng chịt với lượng phù sa lớn được bồi đắp hằng năm , khí hậu nhiệt đới gió mùa là những điều kiện phù hợp với gieo trồng lúa nước. Chính vì vậy, trước hết, lễ hội truyền thống của người Việt là Hội mùa, lễ hội nông nghiệp của những người nông dân. Bên cạnh những hoạt động kỹ thuật do lao động cơ bắp của người nông dân như cày đất, gieo cấy, làm cỏ, tát nước, chăm bón, thu hoạch trong nông nghiệp, những mốc đánh dấu các thời đoạn sản xuất chính là những lễ thức, nghi lễ, hội hè diễn ra khi xuống đồng gieo cấy, khi lúa ngậm đòng trỗ bông, lúc mùa màng thu hoạch…. Đó là những hoạt động tâm linh của con người với mong muốn thỉnh cầu và tạ ơn các lực lượng siêu nhiên trợ giúp mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hoà và đã trở thành các hoạt động không thể thiếu tạo nên chỉnh thể của đời sống nông nghiệp. Thứ hai là môi trường xã hội: Hoạt động sản xuất nông nghiệp từ lâu đã quy định hình thức quần cư của dân tộc thành các làng. Làng từ là điểm quần cư dần đã trỏ thành không gian cư trú, không gian xã hội và không gian văn hoá. Nơi đây đã trở thành nơi nhập thân và trao truyền các hoạt động văn hoá. Chính vì vậy, lễ hội của người Việt là hội làng ngày hội cố kết cộng đồng, biểu dương những giá trị của đời sống tâm linh, đời sống xã hội và văn hoá của cộng đồng. Thứ ba là môi trường lịch sử - văn hoá: Là một đất nước với bề dày hàng ngàn năm lịch sử, cùng với tiến trình lịch sử ấy dân tộc ta đã ít nhiều chịu ảnh hưởng và tiếp thu những văn hoá đánh dấu bước phát triển của mỗi thời đại, trong đó có những ảnh hưởng tôn giáo. Nếu không kể tới những ảnh hưởng khá sớm, nhưng có phần mờ nhạt của Bà la môn giáo, Phật giáo từ Ấn Độ thì Phật giáo đại thừa qua con đường Trung Quốc thâm nhập vào nước ta hoà quyện với các tín ngưỡng dân gian tạo nên một thứ tôn giáo – tín ngưỡng độc đáo, đó là Phật giáo dân gian. Đạo giáo nảy sinh vào cuối thế kỉ II trong phong trào khởi
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2