Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu
lượt xem 14
download
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu tập trung tìm hiểu truyện ngắn và tùy bút của Đỗ Chu với mong muốn góp phần khẳng định giá trị đặc sắc của mỗi thể loại đồng thời góp phần đi tìm đặc trưng nghệ thuật của Đỗ Chu trong dòng chảy của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGŨ NHỊ SONG HIỀN ĐẶC TRƯNG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT ĐỖ CHU Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HOÀI THANH Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
- LỜI CAM KẾT Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS Nguyễn Hoài Thanh. Công trình này chưa được công bố dưới bất kỳ một hình thức nào. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình này. TP.HCM, ngày 25 tháng 09 năm 2010 Tác giả luận văn Ngũ Nhị Song Hiền
- LỜI CẢM ƠN Đề tài “Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu” được hoàn thành dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của TS Nguyễn Hoài Thanh, sự đóng góp ý kiến của các Giáo sư – tiến sĩ phản biện, và các thầy cô phòng KHCN và SĐH. Tôi xin chân thành cám ơn
- MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Khuynh hướng văn xuôi trữ tình, giàu chất thơ là một dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại mà Đỗ Chu là một ngòi bút tiêu biểu. Đây là một kiểu văn xuôi – thơ hay nói như nhà văn Nga C. Pauxtốpki là “chất thơ của văn xuôi” rất đáng được lưu tâm nghiên cứu. Đỗ Chu là một nhà văn, một người lính trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước. Với khối lượng sáng tác không dồi dào nhưng đã để lại một ấn tượng đẹp trong lòng độc giả.Trong sáng, trữ tình và lãng mạn với các truyện ngắn đầu tay như Hương cỏ mật, Ráng đỏ, Phù sa, Mùa cá bột…ngòi bút ấy càng trở nên dịu dàng, đằm thắm, sâu sắc hơn với Mảnh vườn xưa hoang vắng và Một loài chim trên sóng. Gần đây sự xuất hiện của hai tập tùy bút Tản mạn trước đèn (2005) và Thăm thẳm bóng người (2008) đã tập trung sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình và độc giả. Khi người ta đã quen với một Đỗ Chu truyện ngắn trữ tình thì ông lại bức phá với hai tập tùy bút dày công lực. Cái duyên tùy bút của Đỗ Chu thăng hoa ở độ tuổi thâm trầm, để ông có dịp bộc lộ rõ nét một cái “tôi” tinh tế, sâu sắc, đầy chất triết lý. Dù ở thể loại truyện ngắn hay tùy bút, người ta đều bắt gặp một tâm hồn giàu chất thơ của nhà văn. Trải qua hơn 40 năm văn nghiệp, Đỗ Chu không chỉ khẳng định vị trí văn chương của mình ở Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật (2001), Giải thưởng Văn học Asean (2004) về truyện ngắn mà còn ở Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam (2005) với tập tùy bút Tản mạn trước đèn. Do đó, nhìn nhận, đánh giá tài năng, và nghiên cứu đặc trưng văn xuôi nghệ thuật của Đỗ Chu để hoàn thiện chân dung một tác giả là điều cần thiết. Tác phẩm và tên tuổi của Đỗ Chu thăng trầm qua từng giai đoạn lịch sử. Nhiều người biết và ấn tượng về Đỗ Chu. Song để nghiên cứu một cách có hệ thống các sáng tác của nhà văn cũng như khái quát toàn diện đặc trưng văn xuôi nghệ thuật của Đỗ Chu thì còn thấy hiếm. Rải rác các bài phát biểu và nghiên cứu trên báo, tạp chí và một số ít sách nghiên cứu thiết nghĩ chưa đủ khẳng định sức sống của một cây bút văn xuôi giàu chất thơ như Đỗ Chu. Luận văn mong tiếp nối cái phần còn để ngỏ ấy. II. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đỗ Chu sáng tác tập trung nhất là vào hai mảng truyện ngắn và tùy bút. Do đó luận văn đi sâu khảo sát và nghiên cứu hai thể loại này - hai thể loại đóng vai trò khẳng định phong cách và tên tuổi Đỗ Chu trên văn đàn. Với đề tài Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu, người viết đi vào tìm hiểu, phân tích các tác phẩm trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật nhằm khái quát lên đặc trưng, phong cách của nhà văn. Với một số lượng tác phẩm không dồi dào, luận văn cố gắng tập hợp, khảo sát tất cả các tuyển tập truyện ngắn và tùy bút của Đỗ Chu đã in thành sách hoặc đăng rải rác trên các báo và tạp chí từ năm 1962 cho đến nay. III. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Từ năm 1962, khi những truyện ngắn đầu tay của Đỗ Chu ra đời, văn đàn đã xôn xao tán tụng. Nối tiếp những thành công từ các truyện đầu tay đó, các tuyển tập truyện ngắn của Đỗ Chu đã ra đời. Có tuyển tập hay, được chú ý, có tuyển tập cũng “tàm tạm” nhưng cũng có tác phẩm không mấy gây ấn tượng nên dần chìm vào quên lãng. Tuy nhiên tất cả thống nhất ở một điểm: truyện Đỗ Chu giàu chất thơ, văn phong trang nhã, cẩn trọng trong từng câu chữ. Đề cập đến đặc điểm truyện ngắn Đỗ Chu, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh đã có một bài nghiên cứu về Truyện ngắn của Đỗ Chu khá cụ thể và chi tiết in trên Tác phẩm mới (17/9/1971). Ông phân tích cách lựa chọn đề tài, hệ thống nhân vật, bút pháp miêu tả nhân vật, kết cấu, cốt truyện, ngôn ngữ và khả năng phản ánh hiện thực trong truyện ngắn của Đỗ Chu. Về cách xây dựng nhân vật, ông cho rằng: “Mặc dù hoàn cảnh khác, tâm lý khác nhưng nhân vật của Đỗ Chu đều có một cái lõi tính cách giống nhau” :“đều có những phẩm chất tốt đẹp và rất đáng yêu.” [33,tr.437] Và vì thế nhân vật thuộc vào loại “ít hoạt động, mà nặng yêu thương, tâm sự, hồi tưởng”. [33, tr.443 ] Lý giải về điều này, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh cho rằng: “nói chung cái nhìn của anh đang là một cái nhìn đậm màu sắc lý tưởng, khuôn định; nguồn sống chủ yếu của tác phẩm anh đang là tâm hồn, một tâm hồn khá nhạy cảm, có thể nói là tài hoa, nó đang được “phân thân” vào hầu hết các nhân vật và những bức tranh thiên nhiên mà anh miêu tả”. [33, tr.441] Về khả năng phản ánh hiện thực trong truyện ngắn của Đỗ Chu, giáo sư cho rằng : “Đỗ Chu ít phân tích xã hội, không nhìn thấy hoặc né tránh những tình huống phức tạp.” Sự hạn chế này dẫn đến “khả năng xây dựng nhiều loại tính cách, cũng như sức khái quát, nói chung còn
- yếu”, “cốt truyện, kết cấu đều đơn giản, tự nhiên.” Cũng do tự nhiên, “thoải mái”nên Đỗ Chu ít chú ý đến cốt truyện và kết cấu. Tác phẩm vì thế có khi “không cân đối, lỏng lẻo, dàn trải”. Tuy nhiên giáo sư Nguyễn Văn Hạnh khen sự “giản dị và tự nhiên” trong văn phong của Đỗ Chu : “Một nét rất đáng quý trong sáng tác của Đỗ Chu là tính chất giản dị và tự nhiên. Giản dị và tự nhiên trong kết cấu, trong nghệ thuật dẫn dắt câu chuyện, trong giọng văn, trong lời văn.” Những đoạn văn xúc động và giàu chất thơ có thể gần với phong cách của Nam Cao, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc, và xa hơn nữa là Sêkhốp, Pauxtốpki, Aimatốp nhưng “Đỗ Chu vẫn có cái tươi mát, bồi hồi riêng biệt của anh”. [33, tr.446 –tr.449] Ngô Thảo trong bài nghiên cứu Văn học về người lính có phân tích, đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật của những tác phẩm viết về người lính, trong đó có Đỗ Chu. Ngô Thảo nhìn nhận Đỗ Chu là nhà văn có phong cách trữ tình. Ngay từ những tác phẩm đầu tay, Đỗ Chu đã biểu hiện “một bản sắc riêng, một phong cách văn học đã chín…Hiện thực được lĩnh hội thể nghiệm và biểu hiện qua góc độ trữ tình bởi sự nhào nặn bằng chất men riêng của tâm hồn người viết.” [71, tr.44] Bên cạnh đó, Ngô Thảo cũng đã chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của nhà văn. Mạnh là ở chỗ Đỗ Chu thể hiện rất hay những ấn tượng, cảm xúc, những phong tục và không khí nông thôn. Nhưng hạn chế là ở khả năng bao quát đời sống rộng lớn. Trước những biến động quyết liệt của hiện thực (cuộc chiến tranh phá hoại mở rộng), ngòi bút của ông trở nên “lúng túng”, không còn giữ thế chủ động khi phản ánh. “Anh viết khá nhiều về các trận đánh, các con đường mặt trận, những người ở tuyến trước, nhưng mọi thứ ở đây vẫn có cái gì ngẫu nhiên, cá biệt.”[71, tr.45] Ngô Thảo cũng đã nhấn mạnh : “Cái phần hay của Đỗ Chu chưa có nhiều người đạt tới nhưng cái phần còn yếu của anh lại đang là chỗ mạnh của nhiều người viết khác.” [71, tr.44 - tr.45] Ma Văn Kháng, Nguyễn Trí Nguyên cũng đã từng bày tỏ quan niệm về lối văn giàu chất thơ của Đỗ Chu. Trong Sổ tay truyện ngắn, Ma Văn Kháng đã khen Ráng đỏ của Đỗ Chu tiêu biểu cho lối văn nhẹ nhàng, đơn giản mà thấm sâu, có khả năng lưu lại được cái dư ba trong lòng người : “Tóm lại, quan niệm truyện ngắn phải có cái gì bay bay một tí, không nên mơ màng quá mà trần trụi quá cũng không ổn. […] Tôi thích những truyện có một cốt truyện thực, lại phải có một cái bóng đằng sau, giúp cho người đọc liên tưởng sang nhiều chuyện khác. Ví dụ Ráng đỏ (Đỗ Chu), Chiếc lá (Bùi Hiển)…[58, tr.66]
- Nguyễn Trí Nguyên cũng nhận thấy ở nhà văn Đỗ Chu phảng phất nét “thơ mộng”, trữ tình như những trang văn của A. Đô-đê : “Đọc những truyện ngắn của Đỗ Chu, điều đáng mừng là tìm lại được phong cách văn học, âm hưởng thơ mộng trong truyện ngắn giàu hồi ức của anh, những ấn tượng có ở truyện ngắn của A.Đô-đê.” [61, tr.116] Trái lại, Nguyễn Quang Sáng lại tỏ ra không thích với lối “câu dầm, ngâm nga từng câu từng chữ” của Đỗ Chu. Ông phục cách nhà văn Đỗ Chu gia công, cẩn trọng trong từng con chữ của mình nhưng không thích đi theo cách viết của Đỗ Chu: “Tôi phục ông nhưng tôi vẫn viết theo cách của tôi.” [58, tr.40] Văn Chinh từng dành nhiều sự ưu ái cho phong cách văn xuôi lãng mạn trữ tình của Đỗ Chu và xem đó như “một đám mây lạ” làm thức dậy cái đẹp, cái thơm thảo trong hồn người: “Một chút lãng mạn Pháp, một chút cổ điển Nga và một chút lý tưởng hóa Nga Xô-viết đã như những đám mây lạ được làn gió chuyển mùa làm nên mưa xuân trên vùng quê văn hóa màu mỡ là Kinh Bắc, khiến hạt mầm nghệ sĩ vẫn còn phong kín trong lòng đứa con rồi ra sẽ làm vinh dự cho quê hương, một đứa trẻ buồn nỗi con côi pha lẫn niềm bâng khuâng vị thành niên đã bật lên truyện Hương phù sa, Mùa cá bột, Chiến sĩ quân bưu, Đường qua nhà, Thành phố bên kia cầu…vẫn với những nhân vật đầy trìu mến, nhiều tài hoa nhưng cũng lặng lẽ, quả cảm, chúng đều khiến thức dậy cái đẹp, cái thơm thảo trong lòng người đọc để ta có thể yên tâm gọi đó là chùm Hương cỏ mật.” [7] Chỉ đến Mảnh vườn xưa hoang vắng, Văn Chinh mới khẳng định tài năng của Đỗ Chu. Ông đánh giá cao về lối viết thung dung, tự nhiên và giàu nhạc điệu: “Đỗ Chu là nhà văn có năng lực làm chủ ngòi bút của mình. Truyện của anh thường có bố cục công phu, nghiêm túc. Văn mạch đi thung dung, nhàn nhã, tự nhiên mà như những trái chín cây. Văn anh giàu biểu cảm, duyên dáng nhưng không ẻo lả. Dù truyện dài trăm trang nhưng đều nằm gọn hết trong một nhạc điệu trầm và trang trọng, làm tĩnh tâm bạn trước khi tiếp nhận những tư tưởng sắc sảo, cao thượng.” [7] Nhiều người dành tình yêu mến cho tuyển tập Phù sa của Đỗ Chu. Vương Trí Nhàn trong bài nghiên cứu Một cuộc gặp gỡ để lại nhiều cảm tình đã có những đánh giá cao về tập truyện ngắn đầu tay này. Ông cho rằng văn phong Đỗ Chu có “duyên” và có “một sắc thái riêng”: “Cái duyên của câu văn, cách bố trí khi dài khi ngắn, âm điệu bằng trắc thế nào, Đỗ Chu gần như có được từ bản năng. Những truyện Mùa cá bột, Đường qua nhà nhỏ xinh như một bài thơ, đọc xong lại muốn đọc lại.” [57, tr.20] Và các truyện ngắn đều cho thấy “một sắc thái riêng
- trong chất văn Đỗ Chu”. [57, tr.21] Tuy về mặt hình thức, Vương Trí Nhàn cho là “không chặt chẽ, kể lan man”. [57, tr.22] Nhưng ông nhấn mạnh “vẻ duyên dáng thì không vì thế mà giảm sút”. [57, tr.22] Về nhân vật thì ông khá thống nhất với các nhận xét khác, “chưa có nhân vật nào đủ hình đủ bóng, chưa có con người nào khả dĩ vượt khỏi trang sách chuyện trò cùng chúng ta”. [57, tr.25] Bởi vì “hoạt động tâm lý chưa bật lên thành cá thể có linh hồn riêng”. [57, tr.25] Và cuối cùng ông kết luận rằng “nhân vật duy nhất trong các truyện ngắn từ trước đến nay của Đỗ Chu chính là bản thân tác giả”. [57, tr.25] Còn Phan Thị Minh Thư lại khen ngợi Phù sa về cách sắp xếp, bố trí tình tiết truyện như một người chỉ huy dàn dựng trận địa khéo : “Một truyện ngắn bình thường nhưng vừa đủ số chữ cần thiết, “vào ra” truyện đúng lúc, chính xác ở cả mỗi ngắt đoạn.” [84, tr.94 ] Khi nhìn nhận và tổng kết lại tình hình văn xuôi Việt Nam năm 2002, Nguyễn Hòa đã đánh giá cao sự đóng góp của Đỗ Chu cho nền văn học nước nhà. Tác giả cho rằng Đỗ Chu là người có bút lực dồi dào, văn phong trang hoàng và đẹp đến chuẩn mực. “Nhìn vào giải thưởng Hội nhà văn năm 2001, có thể nhận thấy nổi lên là sự có mặt của Đỗ Chu với tập truyện ngắn Một loài chim trên sóng. Đỗ Chu viết không nhiều nhưng anh lại là một trong số hiếm hoi những cây bút mà chúng ta vẫn gọi là “viết có văn”- nghĩa là trang viết khiến người ta thấy hay, thấy nhớ, thấy đọng lại đôi điều.” [37] Cũng như Phan Cự Đệ, Nguyễn Trí Nguyên, Nguyễn Hòa đã xếp Đỗ Chu vào “hệ những nhà văn rất chú trọng đến vẻ đẹp của câu chữ, như các bậc tiền bối Thạch Lam, Hồ Dzếnh. Bút lực của ông không mấy dồi dào nhưng họ viết chậm và kỹ, câu văn nghiêng về cái đẹp mảnh mai.” [37] Nguyễn Thanh Tú lại có một bài viết về Đặc điểm kết cấu truyện ngắn Đỗ Chu đăng trên báo Văn nghệ quân đội năm 2003. Đọc Tuyển tập truyện ngắn Đỗ Chu xuất bản năm 2003, Thanh Tú phát hiện ra một kết cấu riêng, mang dấu ấn của Đỗ Chu rõ nét: “Tuyển tập đã thể hiện một phong cách văn xuôi Đỗ Chu trữ tình, đậm chất thơ, tinh tế, tài hoa mà theo chúng tôi điều này thể hiện rõ nhất ở đặc điểm kết cấu rất riêng, mang rõ dấu ấn Đỗ Chu”. [88, tr.98] Thanh Tú đi vào phân tích hình thức “truyện lồng trong truyện khá đặc sắc” qua một số truyện tiêu biểu. Sự lan man tưởng chừng như là nhược điểm của Đỗ Chu lại là “đặc điểm trong hệ thống các câu chuyện được kể”. Và chính kết cấu này cũng quy định một giọng điệu trong văn xuôi của Đỗ Chu: “giọng tâm tình thân mật”. Nguyễn Thanh Tú khẳng định : “Đỗ Chu là người viết sớm và sớm tạo cho mình một cách viết riêng, một giọng điệu riêng.” [88, tr.98]
- Thạc sĩ Lê Hương Thủy đã có một bài nghiên cứu khá cụ thể về Đặc trưng truyện ngắn Đỗ Chu in trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 9 năm 2006. Trong bài viết này, Lê Hương Thủy đề cập đến cảm hứng sáng tác, đề tài, hệ thống nhân vật, và cách dẫn dắt chuyện của Đỗ Chu. Trước 1975, cảm hứng lãng mạn cách mạng là nguồn mạch chính trong các truyện ngắn của ông. Nguồn mạch này chi phối đến hệ đề tài, khiến Đỗ Chu thiên về khai thác cái đẹp, chất thơ trong đời sống. Nó biểu hiện ở vẻ đẹp tâm hồn, thế giới tinh thần phong phú của nhân vật, cách nhìn về thiên nhiên và cách phản ánh hiện thực đời sống. Tuy nhiên từ sau năm 1975, cảm hứng bi kịch trở nên đậm đặc. Nhân vật của ông trở nên đời hơn, và cũng có phần nghiệt ngã hơn. Nhiều mảng tối của đời sống được lật xới lên.Tuy nhiên dù viết về bi kịch thì các tác phẩm của ông vẫn lấp lánh niềm tin và lạc quan. Về kỹ thuật viết truyện, Lê Hương Thủy đánh giá cao cách dẫn chuyện tự nhiên, nhưng cốt truyện thì đơn giản. “Không chú trọng vào việc khai thác những yếu tố bất ngờ, những khúc quanh của số phận, truyện của Đỗ Chu thường ít có những tình huống lắt léo, và vì thế khó kể lại rành mạch theo trình tự của cốt truyện thông thường. Nhiều truyện ngắn hấp dẫn người đọc bởi cách dẫn chuyện, kể, tả và độc thoại nội tâm.” [81, tr.123 ] Và cuối cùng theo Lê Hương Thủy, điều khiến truyện ngắn của Đỗ Chu đến được và lắng lại với người đọc là bởi “lối văn giàu xúc cảm, ở chất giọng trữ tình, ở sự tạo kết những giá trị văn hóa trên những trang viết và ý thức đổi mới ngòi bút.” [81, tr.126] Phan Cự Đệ trong cuốn Truyện ngắn Việt Nam, Lịch sử - Thi pháp - Chân dung đã giới thiệu cho độc giả một chân dung truyện ngắn Đỗ Chu. Trong bài nghiên cứu này, Phan Cự Đệ phân tích sở trường và sở đoản trong truyện ngắn của Đỗ Chu. Bài nghiên cứu tập hợp các ý kiến đánh giá về Đỗ Chu cũng như phát biểu của các nhà văn xoay quanh vấn đề truyện ngắn và quá trình sáng tác, các bước chuyển mình, thay đổi của truyện ngắn Đỗ Chu. Phan Cự Đệ trân trọng xếp Đỗ Chu vào danh sách các nhà văn có “phong cách trữ tình” và phân hạng ông là học trò của Thạch Lam, Nguyễn Thành Long và C. Pautốpxki và A. Đôđê: “Đỗ Chu là một nhà văn viết truyện ngắn có phong cách – phong cách trữ tình. Nếu được phép nhân hạng thì ông là học trò của Thạch Lam, Nguyễn Thành Long (các nhà văn Việt Nam) và C. Pautopxki (nhà văn Nga) và A. Đô-đê (nhà văn Pháp). Phong cách trữ tình của Đỗ Chu tạo nên một kiểu văn xuôi giàu chất thơ.” Phan Cự Đệ phát hiện ra sở trường của Đỗ Chu : “ Có thể nói Đỗ Chu là nhà văn mạnh về trực giác”. Bởi lẽ Đỗ Chu “có cái nhìn đời tươi xanh, lãng mạn, thơ mộng, biết
- rung động trước những biến thái nhỏ nhất, linh diệu nhất của đời sống.” [23, tr.744] Vì thế khi đọc truyện ngắn Đỗ Chu, người đọc như được sống trong một không khí truyện đặc thù, cái không khí được tạo nên bởi cảm giác – cảm xúc rất mạnh của nhà văn. Điều này tạo nên sắc điệu, giọng điệu trữ tình của truyện ngắn Đỗ Chu. Ông cho rằng văn của Đỗ Chu “có vẻ dềnh dàng, nhấm nháp, nhàn tản, thiếu tính nhập cuộc” nhưng đó không phải là một nhược điểm mà là “một đặc điểm thuộc về “tạng” nhà văn”. [23, tr.744] Ông đi sâu phân tích “lối văn có nhịp điệu” của Đỗ Chu. Câu văn trong truyện ngắn Đỗ Chu “đan xen ngắn, dài làm cho câu chuyện được kể lại cũng “khúc khuỷu”, “nhiều nhánh rẽ” song vẫn có “sợi chỉ đỏ” xâu chuỗi. Đó chính là “cái tứ của truyện”. Phan Cự Đệ còn đi vào phân tích chứng minh kỹ thuật viết truyện ngắn của Đỗ Chu. Ông đánh giá “Đỗ Chu là cây truyện ngắn có nghề, hay nói cách khác nhà văn rất chú ý đến kỹ thuật truyện ngắn. Đỗ Chu khi viết truyện ngắn rất chú ý, dụng công tô đậm cái mở đầu và kết thúc. Bắt đầu từ việc tìm tứ, tìm cảm hứng tổ chức một “trận đánh”, làm sao tạo ra sức chứa và sức nổ ở kết thúc.” [23, tr.751] Chuyển sang thể loại tùy bút, trong những năm đầu của thế kỷ XXI, độc giả bàn tán nhiều về hai tập tùy bút Thăm thẳm bóng người và Tản mạn trước đèn của Đỗ Chu. Có khá nhiều bài viết, bài cảm nhận trên báo, tạp chí và mạng Internet khen chê về hai tập tùy bút này như bài viết của Hoàng Ngọc Hiến, Lý Hoài Thu, Thu Hà, Thạch Linh, Phan Huy Dũng, Nguyễn Hòa, Nguyễn La, Hà Khải Hưng, Tô Hoàng, Nguyễn Thanh Kim… Tuy nhiên đó chỉ là những cảm nhận, suy nghĩ mang tính cá nhân và tính tin tức thời sự. Tùy bút của Đỗ Chu chưa được đặt trong dòng chảy của tùy bút Việt Nam để phân tích, so sánh và tìm ra đặc trưng riêng. Đa số các tác giả đều cho rằng Đỗ Chu đến với thể tùy bút như một sự hối thúc tự nhiên để trải nghiệm vốn sống, vốn hiểu biết cùng những suy tư, trăn trở của mình trước sự đổi thay của đất nước, con người, cuộc đời và nghề văn…Đỗ Chu “hiểu rành rẽ từng khúc quanh của dòng sông văn học, lúc này đang chứng kiến một thời kỳ mới của sáng tác với rất nhiều bề bộn, lẫn lộn cái thực, cái giả chen nhau, cái đích thực và cái thời thượng xem ra không dễ phân biệt.” [22, tr.57] Phan Huy Dũng khi giới thiệu về Tập tùy bút Tản mạn trước đèn đã khen sự tài hoa, tinh tế trong văn phong Đỗ Chu: “Ta được gặp lại ở Tản mạn trước đèn vẫn một Đỗ Chu thời Hương cỏ mật, Mùa cá bột – người từng thể hiện rất tinh tế, tài hoa những cảm xúc ân tình ân
- nghĩa trong đời sống cộng đồng, đưa lại cho độc giả một cảm giác ấm áp, tin yêu. Thời thế bây giờ khác xưa khá nhiều, vậy mà vẫn giữ được phần lớn cách nhìn ấy và giọng văn ấy, xét ở một khía cạnh nào đó, có thể nói người viết tỏ ra rất tin ở mình hay nói cách khác là có bản lĩnh.” [22, tr.60] Phan Huy Dũng nhấn mạnh bản lĩnh văn hóa, những trăn trở về nghề văn và nghệ thuật của nhà văn: “Khi viết Tản mạn trước đèn, ông muốn đặt lại và tái khẳng định vấn đề trách nhiệm của nhà văn đối với vận mệnh đất nước, bản lĩnh văn hóa của người viết, sự cô đơn của nghệ sĩ trên hành trình đi tìm cái đẹp, sự tỉnh táo cần thiết của một nhà văn giữa muôn nẻo đường sáng tạo để làm sao thoát khỏi mê lầm.”[22, tr.57] Thạch Linh nhận thấy vốn sống văn hóa thâm sâu và lối viết tùy bút nhẹ nhàng, sâu lắng của Đỗ Chu : “Đỗ Chu giấu cả trong mình một kho văn hóa dân gian, bác học, lịch sử, huyền tích, cái trông thấy và cái nghe thấy, cái sống và cái ngẫm, trộn tất cả vào mình rồi rút ra bằng những câu văn như kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho những điều ông nói ra được đọng lại day dứt, ngậm ngùi, có cả những điều khó nói cũng được ông nói ra nhẹ nhàng, sâu lắng.” [52] Về phương diện nghệ thuật, Hà Khải Hưng khi nhận xét về tập Thăm thẳm bóng người đã khẳng định vẻ đẹp ngôn ngữ và phong cách trữ tình đằm thắm trong các trang tùy bút của Đỗ Chu: “Ngoài việc cài cắm được nhiều thông tin văn hóa, xã hội…, ông còn chú trọng đến những khoảng lặng của cảm xúc và đặc biệt rất chăm chú đến vẻ đẹp và sức bật của câu văn”. [41] Ông nhận ra tạng cảm xúc “vừa trữ tình lại vừa hóm hỉnh”. “Giọng kể của tác giả sắc mà vẫn ngọt, có chỗ lem lém, cả cười nhưng cũng lắm chỗ chạnh buồn, chua chát…kết hợp nhuần nhị chất văn lẫn chất báo.” [41] Đỗ Đức đánh giá cao sự “sắc sảo” trong văn phong Đỗ Chu qua tập Thăm thẳm bóng người. Đó là lối văn thanh thoát, nhẹ nhàng nhưng cũng không kém phần sang trọng : “Một lối viết mới mẻ, thanh thoát và đầy tự tin, rất vững vàng như thể người luyện võ nay đã đạt tới bậc vô chiêu”. Và Thăm thẳm bóng người là một tác phẩm thăm thẳm tình người. Sắc sảo đến độ, đằm thắm đến độ, giản dị thế và sang trọng thế.” [24, tr.9] Nguyễn Hòa trong bài nghiên cứu Văn chương – hy vọng về những điều tốt đẹp đã ca ngợi văn phong Đỗ Chu như sau : “Văn Đỗ Chu viết kỹ, đẹp cả về giọng điệu lẫn những suy tưởng nhân tình.” [36] Lối viết văn mượt mà, nhịp điệu câu văn khoan thai được Nguyễn Hòa ca ngợi: “Đoạn văn nào cũng đầy ắp chi tiết, phập phồng hơi thở đời sống, chốc chốc tác giả
- lại chêm vào đó cái nhìn sắc sảo, những câu đúc kết dẫu chưa phải hoàn toàn là chân lý thì cũng rất khoáng đạt, độc đáo…Đặc biệt là, dẫu chủ đề có lan man, song tiết tấu câu văn vẫn luôn rộn ràng, cuốn hút người đọc.” [41] Bên cạnh đó, Nguyễn Hòa cũng chỉ ra nét hạn chế trong lối văn miên man dàn trải dễ gây nhàm chán cho người đọc : “Tùy bút Đỗ Chu “thường được mở đầu một cách “chật vật” với những luận đề dài dòng, khô khan, dễ làm người ta ngại đọc.” [36] Nhìn chung, truyện ngắn và cả tùy bút Đỗ Chu đều có những điểm mạnh, điểm yếu riêng. Người đọc khen cũng nhiều và chê cũng không ít. Song cái chê cũng nhẹ nhàng vì theo họ đó thuộc về “tạng” nhà văn, là đặc trưng riêng trong phong cách. Tuy nhiên tựu trung lại vẫn thấy thống nhất ở một điểm: dù là truyện hay tùy bút thì đều thể hiện một văn phong trữ tình, đằm thắm, câu văn đẹp và chuẩn mực. Tuy nhiên, những bài viết, bài nghiên cứu vừa trình bày trên một số mang tính nhận định khái quát, hoặc riêng lẻ một tập truyện hay một tập tùy bút nào đó, hay công phu hơn là đã đi vào nghiên cứu mảng truyện ngắn như Lê Hương Thủy, Thanh Tú và Phan Cự Đệ. Thật sự vẫn chưa thấy những công trình nghiên cứu đi vào khảo sát các đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu trong một thể thống nhất. Người viết lựa chọn đề tài Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu nhằm tìm ra đặc điểm nội dung, nghệ thuật và dấu ấn riêng của một cây bút văn xuôi cũng ít nhiều có đóng góp vào nền văn học nước nhà qua gần nửa thập kỷ qua. IV. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Luận văn tập trung tìm hiểu truyện ngắn và tùy bút của Đỗ Chu với mong muốn góp phần khẳng định giá trị đặc sắc của mỗi thể loại đồng thời góp phần đi tìm đặc trưng nghệ thuật của Đỗ Chu trong dòng chảy của văn xuôi Việt Nam hiện đại. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong phạm vi đề tài này, người viết sử dụng phương pháp hệ thống – cấu trúc, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh. Trước hết chúng tôi tổng hợp các công trình hoặc các bài nghiên cứu có liên quan đến vấn đề đặc trưng văn xuôi nghệ thuật của Đỗ Chu. Sau đó thu thập những bài phê bình, nghiên cứu trên các sách, báo có đề cập đến cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Đỗ Chu, đặc biệt lưu ý đến những bài viết đánh giá các phương diện nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của nhà
- văn.Trên cơ sở đó người viết đi vào khảo sát, nghiên cứu và giải quyết các vấn đề đã đặt ra theo quan điểm của mình một cách khách quan, nghiêm túc. Phương pháp phân tích – tổng hợp được sử dụng nhằm cụ thể hoá, sau đó khái quát hóa các nội dung của vấn đề đã nêu. Người viết sử dụng các cơ sở lý luận về phong cách nghệ thuật, đặc điểm truyện ngắn và tùy bút nói chung làm nền tảng vững chắc cho việc phân tích các tác phẩm cụ thể. Phương pháp so sánh được vận dụng để đối chiếu đặc trưng văn xuôi Đỗ Chu với đặc trưng của những nhà văn khác cùng thời hoặc ở các giai đoạn văn học trước trong nước và cả thế giới. Phương pháp này giúp người viết có cái nhìn toàn diện về mặt tích cực và hạn chế, đổi mới hoặc chưa đổi mới của tác phẩm Đỗ Chu so với các tác phẩm khác. Phương pháp hệ thống quy định nghiên cứu các phương diện của đặc trưng văn xuôi Đỗ Chu như là một chỉnh thể nghệ thuật, có sự tương tác, có mối quan hệ logíc. VI. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Luận văn bao gồm 3 chương : Chương 1: Sự nghiệp sáng tác và quan niệm về văn học của Đỗ Chu Chương 2: Đặc trưng truyện ngắn Đỗ Chu Chương 3: Đặc trưng tùy bút Đỗ Chu
- Chương 1: SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC VÀ QUAN NIỆM VỀ VĂN HỌC CỦA ĐỖ CHU 1.1 Đôi nét về con người và sự nghiệp sáng tác của Đỗ Chu Phong cách nhà văn được hình thành, vận động và phát triển một phần do thế giới quan, môi trường sống, bối cảnh lịch sử xã hội. Phong cách được hình thành trên cơ sở tài năng và cũng do quá trình nỗ lực không ngừng của nhà văn trong lao động nghệ thuật. Tìm hiểu về con người và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Đỗ Chu là điều cần thiết góp phần khẳng định đặc trưng văn xuôi nghệ thuật và phong cách của ông. 1.1.1 Con người Nhà văn Đỗ Chu tên thật là Chu Bá Bình, sinh ngày 05 tháng 02 năm 1944 tại phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang. Ông đến với truyện ngắn từ khi còn là học sinh trường phổ thông trung học Hàn Thuyên (Bắc Ninh). Đỗ Chu là người không hợp trường quy, từng trượt tốt nghiệp phổ thông. Năm 1962, ông gây xôn xao dư luận với các truyện ngắn đầu tay. Những năm 60 của thế kỷ XX, Đỗ Chu là lính cao xạ thuộc quân chủng phòng không – không quân. Năm 1965, Đỗ Chu học khóa II, Trường Bồi dưỡng viết văn của Hội nhà văn Việt Nam. Ông được kết nạp vào Hội nhà văn năm 1971. Từ năm 1975, ông chuyển ngành, công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam. Văn Chinh nhận xét Đỗ Chu là người có “cái dáng lênh khênh mà tự tin, lắm lời mà không nhảm”. [7] Phạm Thị Minh Thư thì nhận xét Đỗ Chu rằng : “Kiêu hãnh, biết mình, nhưng lại cũng rất …biết người.”[84, tr.92] Đỗ Chu là người phóng túng, cũng thuộc típ người chịu giao du, “lênh phênh”, ít chịu trói buộc bởi những quy ước thuần túy nhưng lại bị cột chặt bởi những đạo lý làm người. Khi giảng bài cho học trò ở trường viết văn Nguyễn Du, ông đã mạnh miệng tuyên bố : “Nhưng bí quyết là cái gì nhỉ? Không có bí quyết viết truyện ngắn hay. Nếu có người ta đã dùng cho người ta rồi.” Sau đó thầy trò kéo nhau về ký túc xá nhâm nhi rượu và tán gẫu chuyện đời. [7] Trong con mắt đồng nghiệp, Đỗ Chu thông minh đến mức văn hóa như tự thấm vào người. Những năm tháng làm lính pháo cao xạ và cả những chuyến đi thực tế khắp các nẻo đường đất nước đã giúp cho một con người “ưa hoạt náo” như Đỗ Chu tích tụ được vốn sống
- và vốn tri thức phong phú. [41] Đỗ Chu đã từng “lội vào những cánh đồng và những cánh rừng, sống với nhân dân, cùng mọi người lo toan bàn bạc. Anh về thăm đình, thăm chùa, đọc văn bia, câu đối, trò chuyện với các cụ già và trẻ thơ. Lên rừng xuống biển, vào Nam ra Bắc, chán thì ra nước ngoài.” [48] Đi nhiều, biết nhiều và viết cũng không ít, cho nên bạn bè đồng nghiệp cho rằng Đỗ Chu là một con người “bận rộn”, bận rộn trong sự nhàn tản. Vốn dĩ con người ham la cà như ông lại chịu đọc, chịu ngẫm ngợi. Vì vậy có lần Nguyễn Khải, bậc đàn anh Đỗ Chu phải tặc lưỡi cười xòa mà khen rằng : “Cứ ngồi một chỗ, sao cái gì cũng biết thế.” [84, tr.92] Cái vốn sống, vốn hiểu biết mà ông thu nạp trong xô bồ của cuộc sống được ông chuyển hết vào trong sáng tác của mình, đặc biệt là những trang tùy bút viết trong thời kỳ đất nước đổi mới và hội nhập. Độc giả sẽ bắt gặp những nguồn tri thức cổ, kim, đông, tây kết hợp một cách nhuần nhị trong hai tập Tản mạn trước đèn và Thăm thẳm bóng người. Đỗ Chu là người có tài biện thuyết. Ông nói nhiều, đủ thứ chuyện trên đời nhưng nói rất hay, đâu ra đấy, không ai có thể bắt bẻ được. Hơn nữa ông là người có trí tưởng tượng phong phú, nói gì cũng hớp hồn người khác. Đỗ Chu cũng là người lắm tài, ngoài viết văn, ông còn biết vẽ tranh và khá “sành” thơ. Tuy không sáng tác thơ nhưng ông có năng lực tinh tế khi cảm nhận thi ca. Chất thơ và họa này đã tự nhiên thấm vào các trang viết của ông, tạo nên một phẩm chất đặc biệt. Điều này lý giải tại sao những trang văn của ông thấm đẫm tính nhạc và họa. Đỗ Chu là người khiêm nhường, thích sống tĩnh lặng để ngẫm ngợi và sáng tạo. Trước những khen chê của người đời, ông chỉ giữ thái độ im lặng. Ông từng phát biểu rằng : “Lặng lẽ âm thầm, cô đơn được thì càng tốt. Và đôi khi mình phải chấp nhận để người ta quên mình đi. Nhà văn không phải diễn viên.” [48] Ông tuyên bố rằng mình không thích sự ầm ĩ. “Nhiều anh thích ầm ĩ quá, trong khi sự tự vượt mình chỉ có thể làm được trong im lặng sống và sáng tạo.” [Nguyễn Thanh Kim, Nguyễn Thanh Kim, Nhà văn Đỗ Chu – Không thích sự ầm ĩ, Báo tiền phong] Và ông cũng khá thẳng thắn khi đánh giá về tác phẩm của mình “Viết nhiều, tất nhiên không phải cái nào cũng hay, nhiều cái đúng là rất nhạt nhẽo, lại còn nhuốm màu cải lương nữa.” Song ông cũng tự an ủi chính mình : “Nhưng cũng có đôi cái đọc được, thôi thế là đã mừng lắm.” [75, tr.158] Những năm 60 của thế kỷ XX, Đỗ Chu đã tạo nên tên tuổi trên văn đàn. Nhưng giới văn nghệ tin rằng thời Đỗ Chu đã hết khi nền văn học mà ông đóng góp những năm 60 đi vào đổi mới những năm 80. Có lẽ Đỗ Chu đã lặng lờ trong những năm bản lề của hai
- thập kỷ vừa qua. Thật may là ông đã trườn qua sự nổi tiếng cũ mà không đánh mất mình. Ông vẫn kiên trì với phong cách văn chương thiên về duy cảm và duy mỹ. Vẫn một văn phong trữ tình, đằm thắm với nhịp điệu khoan hòa, trầm tĩnh, hướng về đời sống xã hội, con người, đặc biệt là những người lính. Đỗ Chu từng tâm sự : “Có lẽ trong 40 năm cầm bút thì chỉ có độ 4 tháng hay 4 năm là nhà văn thôi.” [92] Là người khó tính lại cầu toàn, ông tự nhận : “Trong một tác phẩm có khi đoạn trước là nhà văn nhưng lúc sau lại không còn là nhà văn nữa.”[92] Các sáng tác của Đỗ Chu, đặc biệt là tùy bút Tản mạn trước đèn hay Thăm thẳm bóng người đều thể hiện rất rõ những yêu ghét rạch ròi của ông. Dù là truyện ngắn hay là tùy bút, người ta đều thấy một Đỗ Chu cẩn trọng và có trách nhiệm với những gì mình viết ra. Dù là một câu chuyện tếu nhưng câu chuyện ấy sử dụng vào mục đích gì và đọc xong khiến người ta nghĩ gì cũng là điều khiến Đỗ Chu phải cân nhắc. Từ khi 16 – 17 tuổi cắp bút theo hầu các cụ Nguyễn Tuân, Tô Hoài, ông đã được dạy là phải viết cho ra viết, trên những câu chuyện rất bình dị trong cuộc sống chiến đấu cũng là bài học được ông rút ra cho mình hằng ngày. “Khi tuổi còn trẻ chẳng nói làm gì, nhưng khi về già có định làm cái gì cũng phải kín đáo, trù tính trước sau. Một khi hơi thở đã nhẹ như rùa thở, không còn gấp gáp mạnh mẽ được nữa thì đứng trước mọi việc định là nhớ là phải hết sức thong thả, hết sức gượng nhẹ.” [92] Mạch nguồn để Đỗ Chu sáng tác chính là tình yêu tha thiết mảnh đất quê hương và người mẹ của tác giả, như ông từng tâm sự : “Tổ quốc của tôi, những thiếu nữ mắt đen, tóc đen biển xanh, trời xanh, đất nâu và gió mùa. Nhưng yêu quý hơn cả là mái tóc điểm sương của các bà, các chị. Tôi nhìn vào những mái tóc ấy để sống, để nghĩ ngợi, để viết và để vẽ. Người tôi biết ơn hơn hết là mẹ. Nơi gần gũi tôi nhất là Hà Nội. Tiếng tôi hiểu nhất là Tiếng Việt. Cám ơn cha mẹ đã cho tôi sinh ra để làm một nhà văn của xứ sở này.” [75, tr.158] Chính mạch nguồn này đã chi phối đến các sáng tác của Đỗ Chu. Nó khiến những trang viết của ông đậm tình quê, tình người. 1.1.2 Sự nghiệp sáng tác Đỗ Chu bắt đầu sáng tác từ những năm sáu mươi. Đây là giai đoạn đất nước chuyển từ hòa bình sang chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Văn xuôi tập trung phản ánh công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc, và cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ đang ngày một leo thang ở Miền Nam. Nhìn chung văn xuôi giai đoạn này bám sát từng biến cố lịch sử, từng bước
- phát triển của phong trào cách mạng. Đề tài các văn sĩ tập trung phản ánh là công – nông – binh. Quan niệm lý tưởng hóa về hiện thực khiến các tác phẩm những năm 1960 đến 1975 nhuốm màu sắc lý tưởng. Đó là một thứ hiện thực được vận động theo khuôn mẫu, tất yếu, hợp lý và lạc quan. Những năm 1960 – 1963, hàng loạt cây bút truyện ngắn ra đời, mỗi người một vẻ. Vũ Tú Nam muốn tìm vào mạch truyện dân gian thơm thảo, giản dị, trong khi Nguyễn Quang Sáng không ngại những chuyện kịch tính, gay cấn. Nguyễn Khải là một ngòi bút cũ nhưng vẫn lạ và đầy sức hấp dẫn. Một Nguyên Ngọc trong sáng và cổ điển trong Rẻo cao, một Nguyễn Ngọc Tấn ấm áp, trữ tình với Trăng sáng, Đôi bạn. Làm cho ta biết rung động với những điều tinh tế, đó là Hải Hồ, Bùi Đức Ái, Huy Phương và Nguyễn Thành Long. Vũ Thị Thường là tiếng nói của một phụ nữa nông thôn mới, chưa từng nghe trong văn học giai đoạn trước. Đây là khoảng thời gian văn học khoe sắc, có nhiều cây viết rất sung sức mang lại một khối lượng tác phẩm dồi dào và đặc sắc. Từ 1964 trở đi, tiếng súng chống Mỹ vang lên, những biến chuyển thời cuộc khiến văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng đổi khác. Thực tế chiến tranh thật có sức tác động mạnh mẽ đến tầng lớp văn nghệ sĩ. Ngòi bút của họ hướng vào khai thác hiện thực khốc liệt của cuộc chiến. Bên cạnh nguồn mạch đó, còn có những truyện ngắn mang những nét vẽ thơ mộng, mềm mại làm cho bức tranh chung thêm màu sắc. Mùa cá bột, Phù sa, Ráng đỏ của Đỗ Chu viết trong giai đoạn 1963 – 1970 làm nên một mạch truyện trữ tình. Nó như một thứ hồi quang của truyện ngắn những năm 1964 trở về trước còn sót lại. Các sáng tác ấy gợi lên cái bỡ ngỡ của những ngày đầu chiến tranh. Cái khốc liệt vẫn chưa hiện lên đủ hình dạng nên các nhà văn “lý tưởng hóa” hiện thực. Ấp ủ trong lòng bao vẻ đẹp, mơ ước và những khoảng trời riêng. Đó cũng là trường hợp của nhà văn Nguyễn Minh Châu với tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng. Có thể nhận thấy trước năm 1975, Đỗ Chu thành danh với thể loại truyện ngắn. Tác phẩm đầu tay có tên là Ao Làng, được in vào số 12 năm 1962 trên báo Văn nghệ quân đội. Trong lá thư ngắn gọn gửi theo đường bưu điện, nhà văn Nguyễn Minh Châu khen : “Ao làng hay, anh hãy viết tiếp gửi cho chúng tôi lấy vài cái, càng sớm càng tốt.” [20, tr.5-tr6] Sau đó Đỗ Chu đã viết truyện ngắn Hương cỏ mật trong một hoàn cảnh khá đặc biệt. Mùa đông năm 1962, một đêm rét, ngoài đường gió lùa lá cây dào dạt, trong nhà đàn muỗi vo ve, trên căn gác xép ọp ẹp ở
- một dãy phố nghèo và buồn của thị xã Bắc Ninh thưở ấy, Đỗ Chu đã ngồi thu lu bên một chiếc kỹ cổ xưa để viết tác phẩm này gửi về Tạp chí Văn nghệ quân đội. Năm đó ông 18 tuổi, đang còn là một cậu học trò lớp 10 hệ phổ thông mười năm, trường ấp III Hàn Thuyên. Thi cử đến nơi rồi mà học hành thì còn quá chểnh mảng, ở trường về là leo tót lên ngồi ôm lấy cái kỹ gỗ vàng tâm, ngồi đấy mà đọc sách, tập dịch “Dã thảo” của Lỗ Tấn và rồi bỗng một hôm nổi hứng cầm bút viết văn. Hương cỏ mật được giới thiệu trên số tháng 3 năm 1963 báo Văn nghệ quân đội và được xếp vào những truyện dự thi. Đến lúc ấy Đỗ Chu mới biết là đang có một cuộc thi truyện ngắn. Cuối năm, Đỗ Chu được mời về nhận giải thưởng Truyện ngắn hay của tạp chí . Lúc này Đỗ Chu đã nhập ngũ được vài tháng, là binh nhì Bộ đội phòng không. Cũng trong năm đó, trên báo Văn nghệ quân đội, sau Hương cỏ mật, Đỗ Chu đã kịp có thêm hai sản phẩm nữa, đúng như lá thư nhà thơ Nguyễn Minh Châu hẹn hôm nào. Một truyện là Thung lũng cò, là quà tháng 6 dành cho các em nhỏ quê nhà. Một truyện là viết để tạ ơn những người đã ngã xuống vì nền tự do dân tộc, vì hạnh phúc thường ngày của những ai đang còn sống. Truyện có cái tên khá thơ mộng Mùa cá bột. [20, tr.6-tr7] Sau tập Hương cỏ mật in chung cùng hai tác giả Trúc Hà và Văn Ngữ, đến năm 1967, Đỗ Chu đã cho ra đời tập Phù sa. Vài năm sau khi tập sách ra đời, những truyện ngắn in trong này đã lần lượt được dịch qua nhiều tiếng nước ngoài và được độc giả háo hức đón đọc. Bởi lẽ những truyện ngắn của Đỗ Chu đã phản ánh được tâm tư, tình cảm của thế hệ trẻ lúc bấy giờ. Họ mong đợi và trân trọng tài năng của ông vì đã mang đến một tiếng nói tươi tắn, mới lạ, phản ánh những ước ao, khát vọng của lớp lớp thanh niên trẻ trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Sau những thành công của bước đường khởi nghiệp với tập Phù sa, Đỗ Chu đã có một khoảng lặng khá dài. Ông chưa có sự đột phá khỏi bức tường thành cũ. Độc giả bắt đầu thấy nuối tiếc cho một Đỗ Chu thời Hương cỏ mật, Mùa cá bột, Thung lũng cò, Ráng đỏ… Nhiều người cho rằng sau cái huy hoàng của thời kỳ ấy do cái tâm thế uể oải thời cuộc mà phôi thai nên hàng loạt tác phẩm “trung bình” sau đó. (chữ dùng của Phạm Thị Minh Thư) [84, tr.94] Tập truyện ngắn Trung du (1967) viết trong thời gian này không gây chú ý cho người đọc. Những dấu hiệu đổi mới chỉ bắt đầu nhóm lên ở tập Tháng Hai (1969) và Gió qua thung lũng (1971). Năm 1973, Đỗ Chu tiếp tục ra mắt độc giả bằng cuốn tiểu thuyết dày 237 trang với tên gọi Đám cháy trước mặt. Cú thử sức với thể loại tiểu thuyết này là một sự thất bại của Đỗ Chu.
- Tiểu thuyết của ông không gây tiếng vang. Nó nhanh chóng chìm vào quên lãng khi đặt bên cạnh các tiểu thuyết mang tính thời sự nóng hổi của Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng, Nguyên Ngọc… Văn Chinh đánh giá :“Đỗ Chu nổi tiếng khoảng hai mươi năm kể từ khi ông xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1962 trên báo Văn nghệ quân đội, nhưng thực sự xao xuyến văn đàn thì được khoảng 10 năm, từ 1965 – 1975” [7] Sau năm 1975, Đỗ Chu lại giấu mình trong im lặng. Chỉ sau đó mười năm, hòa với không khí hòa bình và đổi mới của đất nước cũng như văn học, ông cho ra đời tập tùy bút Những chân trời của các anh (1986). Tuyển tập này tập hợp các bài viết từ những năm đất nước mới giải phóng cho đến khi cả nước bắt tay xây dựng cuộc sống mới. Nó như một bản anh hùng ca, ca ngợi những người lính đã làm nên lịch sử. Tập tùy bút còn là hình ảnh cuộc sống đang đổi thay từng ngày như những mầm non đang đâm chồi, nảy lộc khi xuân về. Truyện ngắn là thể loại tạo nên tên tuổi và chỗ đứng của ông trên văn đàn những năm chống Mỹ cứu nước và khi hòa bình lập lại. Nhưng giai đoạn sáng tác thể hiện sự bứt phá, làm mới của nhà văn chỉ bắt đầu từ Mảnh vườn xưa hoang vắng (1989). Tập truyện ngắn này được bạn đọc và giới nghiên cứu phê bình đánh giá cao ở cái khả năng đi sâu phản ánh hiện thực ngay trong chính bản chất của nó. Điều mà những sáng tác trước năm 1975 của Đỗ Chu còn khuyết. Chính tuyển tập này đã khẳng định dấu ấn phong cách của một cây bút truyện ngắn đặc sắc trong nền Văn xuôi Việt Nam hiện đại. Phải chăng khi người ta đã quên một Đỗ Chu tài hoa rực sáng thì lộ trình sáng tác của ông mới bắt đầu. Và nó là giai đoạn chính yếu khẳng định bản lĩnh, phong cách của ông. Chính sự nỗ lực đổi mới này mà Mảnh vườn xưa hoang vắng cùng với Hương cỏ mật và Phù sa được chọn trao giải thưởng Nhà nước về Văn học – nghệ thuật năm 2001. Tiếp nối nguồn mạch hiện thực và triết lý về đời sống, Đỗ Chu tiếp tục trình làng tập truyện ngắn Một loài chim trên sóng năm 2002. Tuyển tập này được đánh giá ở sự chín muồi và sắc sảo trong tài năng của Đỗ Chu. “Với Một loài chim trên sóng, Đỗ Chu đã đi từ tài hoa của thời Hương cỏ mật đến tài năng của thời văn học đa giọng điệu.” [7] Do đó năm 2004 nhà văn đã vinh dự được nhận Giải thưởng Văn học Asian. Như một sự hối thúc tự nhiên, Đỗ Chu tìm đến thể tài tùy bút. Tản mạn trước đèn trình làng vào năm 2005 và được các độc giả quan tâm đón nhận. Bước trở lại với thể tài tùy bút này đã khiến Đỗ Chu vinh dự nhận giải thưởng của Hội nhà văn vào năm 2005. Vào tháng 1 năm
- 2008 này, với tinh thần “thừa thắng xông lên”, ông tiếp tục cho ra mắt bạn đọc tập tùy bút Thăm thẳm bóng người có độ dày trên 300 trang. Nó khiến độc giả bị cuốn vào sự miên man, thăm thẳm của cõi lòng tác giả. Trên bốn mươi lăm năm cầm bút với 7 tập truyện ngắn, 1 tiểu thuyết, 3 tập tùy bút, không thể nói là ít mà cũng không nhiều đối với một văn nghiệp. Tuy nhiên với tài năng và cả sự nỗ lực vươn lên của mình, Đỗ Chu đã khẳng định vị thế của ông trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Giới nghiên cứu và độc giả công nhận nhà văn thuộc dạng viết ít nhưng văn chương thuộc loại “tinh”. Đến như Tô Hoài, một trưởng lão trong làng văn, vốn rất kiệm lời khen đã phải hạ bút viết : “Lớp sau hòa bình, Đỗ Chu, Triệu Bôn, Lê Lựu, Lê Minh Khuê hay, có không khí.” [58, tr.10] 1.2 Truyện ngắn và tùy bút của Đỗ Chu 1.2.1 Truyện ngắn Trước 1975, Đỗ Chu cho ra đời hàng loạt tuyển tập truyện ngắn như Hương cỏ mật (1963), Phù sa (1966), Trung du (1967), Vòm trời quen thuộc (1969), Gió qua thung lũng (1971). Ở những tuyển tập đầu tay như Hương cỏ mật và Phù sa, Đỗ Chu viết về những vùng quê thanh bình và yên ả với nếp sống nền nã của người dân quê chân chất. Bên cạnh đó, ông còn cho thấy “sở trường” của một cây bút viết rất hay, rất chân thật, tự nhiên những tình cảm ấm áp, nghĩa tình của con người. Dường như Đỗ Chu hóa thân vào hầu hết các nhân vật để thể hiện một cái tôi đầy xúc cảm, yêu đời và nhạy cảm trước cuộc sống. Chính sự nhạy cảm trong tâm hồn người nghệ sĩ – người lính mới lớn khiến những trang văn của ông lấp lánh vẻ đẹp của thiên nhiên, con người và cuộc sống. Bên cạnh những cây bút văn xuôi phản ánh công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và các mối quan hệ gia đình, xã hội mới thì những trang văn của Đỗ Chu như một dòng suối mát lành. Cái trong trẻo, ngọt lịm của dòng suối ấy khiến người đọc cảm thấy say mê, thích thú. Ông viết về thế giới trẻ thơ hồn nhiên, đầy ắp kỷ niệm (Thung lũng cò, Hương cỏ mật), những tình cảm yêu thương, gắn bó giữa người và người hồn hậu, ăm ắp đầy như phù sa mỗi ngày một bồi đắp thêm cho sông bãi (Mùa cá bột, Phù sa, Chiến sĩ quân bưu)… Những tuyển tập sau như Trung du, Vòm trời quen thuộc, Gió qua thung lũng viết về những ngày chiến tranh chống đế quốc Mỹ. Nhưng khác với các cây bút văn xuôi đương thời tìm vào tuyến lửa phản ánh những khốc liệt của chiến tranh và sự sống – cái chết gần kề bên
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 11 theo đặc trưng loại thể
0 p | 433 | 70
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Lỗi chính tả của học sinh Tiểu học tại thành phố Hồ Chí Minh
122 p | 347 | 49
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Một số phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
128 p | 184 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam
123 p | 118 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vấn đề tiếp nhận văn học đương đại và thị hiếu thẩm mỹ của thanh niên ngày nay (Qua khảo sát tình hình đọc sách của sinh viên trường Đại học Cần Thơ)
142 p | 135 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký
86 p | 195 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Bình Nguyên Lộc
120 p | 87 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tiếng cười trong thơ ngụ ngôn La Fontaine
88 p | 103 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương
143 p | 108 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tinh thần nhân văn trong thơ Thiền Tuệ Trung
129 p | 127 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vấn đề dạy học “Nguyễn Du và Truyện Kiều” trong chương trình Văn ở trường trung học phổ thông
123 p | 134 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Mạc Can
105 p | 105 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Các đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa trong luật tục Ê Đê
181 p | 19 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tìm hiểu ẩn dụ tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận
145 p | 22 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ nghệ thuật của thể du kí trên Nam phong tạp chí (1917 – 1934)
100 p | 44 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Quan hệ trái nghĩa trong tiếng Việt
93 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vai trò của hư từ trong việc hình thành hàm ý trong ngôn ngữ Nguyễn Công Hoan
127 p | 20 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc điểm ký Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
26 p | 80 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn