BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH …..o0o….. NGUYỄN HOÀNG LONG KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TÂY DU KÝ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI (VĂN HỌC TRUNG QUỐC)

Thành phố Hồ Chí Minh - 2000

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH …..o0o….. NGUYỄN HOÀNG LONG KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TÂY DU KÝ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI (VĂN HỌC TRUNG QUỐC)

Mã số : 5.04.02 Người hướng dẫn: GS. Lương Duy Thứ Thành phố Hồ Chí Minh - 2000

LỜI CẢM TẠ

Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh, phòng Đào Tạo, phòng Khoa Học Công Nghệ - Sau Đại Học, tập thể thầy, cô khoa Ngữ Văn, cùng tất cả các bạn đồng học, đồng sự đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn tất luận văn.

Tôi xin đặc biệt tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với giáo sư Lương Duy Thứ - một người thầy đã tận tụy, không ngại nhọc nhằn hướng dẫn cho tôi trong quá trình nghiên cứu – học tập và hoàn thành luận văn.

Tôi cũng xin trân trọng đoán nhận và biết ơn sự khích lệ, động viên của gia

đình, cha mẹ và các em trong quá trình học tập, nghiên cứu.

Một lần nữa xin chân thành cảm ta.

Tháng 03/2000. Nguyễn Hoàng Long.

MỤC LỤC

LỜI CẢM TẠ.............................................................................................. 3

MỤC LỤC ................................................................................................... 4

MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 6

1. Lý do và mục đích nghiên cứu. .............................................................................. 6

2. Phương pháp nghiên cứu. ....................................................................................... 6

3. Lịch sử vấn đề. ......................................................................................................... 7

4. Đóng góp mới của luận văn. ................................................................................... 8

5. Kết cấu luận văn. ..................................................................................................... 8

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THI PHÁP VÀ NỘI DUNG TÂY DU KÝ ......................................................................................................... 9

1.1. KHÁI QUÁT VỀ THI PHÁP VÀ THI PHÁP KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT ......................................................................................................................... 9

1.1.1. Khái quát về thi pháp. ............................................................................................. 9

1.1.2. Thi pháp không gian nghệ thuật. ......................................................................... 10

1.2. KHÁI QUÁT TÂY DU KÝ VÀ VAI TRÒ CỦA KHÔNG GIAN NGHỆ THUÂT. ...................................................................................................................... 12

1.2.1. Nội dung Tây Du Ký. ............................................................................................. 12

1.2.2. Vai trò của không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký. ........................................ 18

Chương 2: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TÂY DU KÝ .. 21

2.1. Không gian Trần thế. ......................................................................................... 21

2.1.1. Không gian núi Hoa quả - Đá tiên. ....................................................................... 21

2.1.2. Không gian mặt đất. .............................................................................................. 25

2.2. Không gian thần kỳ. ........................................................................................... 43

2.2.1. Không gian Long Cung – Âm Ty. ........................................................................ 43

2.2.2. Không gian thượng giới. ........................................................................................ 47

Chương 3: MỐI QUAN HỆ GIỮA HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT VỚI KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ VẤN ĐỀ THƯỞNG THỨC, TIẾP NHẬN ........................................................................................................ 62

3.1. Mối quan hệ giữa hình tượng nhân vật với không gian nghệ thuật. ............. 62

3.2. Đôi nét về vấn đề thưởng thức tiếp nhận theo hướng Thi pháp. ................... 74

KẾT LUẬN ............................................................................................... 78

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 83

MỞ ĐẦU

1. Lý do và mục đích nghiên cứu.

1.1. Tây Du Ký là một trong những tiểu thuyết xuất sắc nhất của nền văn học cổ điển

Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu rộng đối với nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Vì thế, việc tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm này trên nhiều bình diện là một vấn đề đến nay vẫn

còn ý nghĩa thời sự.

1.2. Gần mười năm trở lại đây, những nghiên cứu văn học theo hướng Thi pháp đã đem

lại nhiều kết quả rất đáng ghi nhận. Chọn Thi pháp học để nghiên cứu tác phẩm, chúng tôi có

điều kiện tham khảo, kế thừa những thành tựu của các tác giả đi trước. Tuy Tây Du Ký đã

được nghiên cứu nhiều, nhưng cho đến nay, nghiên cứu không gian nghệ thuật như một công

trình chuyên biệt, vẫn chưa có nhiều tác giả quan tâm. Chọn nghiên cứu không gian nghệ

thuật với tư cách là một vấn đề của hình thức nghệ thuật theo quan niệm của Thi pháp học,

Luận văn nhằm hướng đến khẳng định vai trò và ý nghĩa của nó trong việc biểu hiện các hình

tượng văn học cũng như khám phá các giá tri tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.

1.3. Thực hiện đề tài là một cơ hội tốt để người nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn các giá trị

của một nền văn học lớn. Kết quả nghiên cứu sẽ góp thêm một cách hiểu mới, cách thưởng

thức mới về tác phẩm Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân.

2. Phương pháp nghiên cứu.

Xuất phát từ mục đích và đối tượng nghiên cứu, luận văn chúng tôi sẽ vận dụng các

phương pháp nghiên cứu như sau:

2.1. Phương pháp cấu trúc - hê thống :

Xem tác phẩm Tây Du Ký là một hệ thống, một chỉnh thể nghệ thuật gồm nhiều

thành tố có mối quan hệ gắn nối, xuyên thấm lẫn nhau, Luận văn sẽ chú ý các mối quan hệ

trong việc cấu trúc - hệ thống tác phẩm. Việc chú ý các mối quan hộ này đương nhiên được

xuất phát từ hình thức không gian - như một yếu tố - có quan hệ với các yếu tố hình thức và

nội dung khác trong tác phẩm. Như vậy, phương pháp này hoàn toàn có khả năng từ một

hướng nghiên cứu cụ thể, vẫn tiếp cận được nội dung tác phẩm.

2.2. Phương pháp phân loai - so sánh :

Xuất phát từ đối tượng không gian nghệ thuật, Luận văn sẽ phân loại cụ thể các loại

không gian, tức là những hình thức nghệ thuật loại này với tính chất riêng của từng loại. Mỗi

một loại như vậy gắn với từng đoạn đời, từng hành trình vận động của các nhân vật. Sự phân

loại này cũng là điều kiện giúp cho việc so sánh, nhận xét mối quan hệ giữa các hình tượng

nhân vật với các không gian nghệ thuật.

2.3. Phương pháp phân tích - tường thuât:

Luận văn dùng phương pháp này để phân tích cụ thể về vai trò, ý nghĩa của các

không gian nghệ thuật, về quá trình thành hình và phát triển của các tính cách nhân vật. Đồng

thời với phương pháp này, luận văn cũng sử dụng phương pháp tường thuật nhằm dựng lại cơ

bản hành trình vận động của các nhân vật, quá trình mở ra của các không gian khác nhau

trong tác phẩm.

3. Lịch sử vấn đề.

Như đã nói, Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân đã được nghiên cứu từ lâu với khá nhiều

thành tựu có giá trị. Chỉ nói trong giới nghiên cứu ở Việt Nam, các tác giả như Lương Duy

Thứ, Trần Xuân Đề, Phan Ngọc, Hồ Sĩ Hiệp, các nhà nghiên cứu có tên tuổi như Nguyễn

Hiến Lê, Nguyễn Huy Khánh, Nguyễn Quân, Ngô Nguyên Phi, Lê Anh Dũng... và nhiều

người khác đã có những thành tựu rất đáng được ghi nhận và kế thừa. Tuy nhiên, do mục đích

khác nhau trong nhiều công tành của các tác giả này, vấn đề không gian nghệ thuật trong Tây

Du Ký như một hướng tiếp cận chuyên biệt thì vẫn chưa được đặt ra.

Đọc nhiều tài liệu khác nhau, chúng tôi nhận thấy các phần viết của tập thể tác giả

thuộc Sở nghiên cứu Văn học thuộc Viện khoa học Xã hội Trung Quốc, phần viết của các giáo

sư Lương Duy Thứ, Trần Xuân Đề đã có những gợi ý quan trọng cho định hướng nghiên cứu

của Luận văn. Chẳng hạn, ở phần viết về "Đặc điểm nghệ thuật của Tây Du Ký", các tác giả

thuộc Sở nghiên cứu Văn học thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc có ý tưởng gợi ra màu

sắc không gian: "Tây Du Ký có nhiều chỗ tưởng tượng diệu kỳ, đẹp đẽ, như mở ra trước mắt

người đọc một tập tranh về thế giới huyền ảo muôn màu muôn vẻ, làm cho câu chuyện trở nên

phong phu đậm đà" [46/336]. Trong công trình "Bài giảng Văn học Trung Quốc", giáo sư

Lương Duy Thứ cũng có đoạn viết: "Diện phản kháng của tác phẩm rất rộng. Đó là tất cả

những gì bất công ngang trái, hư bại và tàn bạo ở trên trời, dưới đất và giữa trần gian"

[51/211]... Các ý kiến trên đây, nhất là ý kiến của Giáo sư Lương Duy Thứ chính là sự hé lộ

vấn đề không gian trong tác phẩm.

về phương diện lịch sử vấn đề mà nói, Luận văn chúng tôi chủ yếu chỉ được những

gợi ý quan trọng về không gian trong tác phẩm. Công việc của Luận văn đang hướng đến, do

đó, là những thử nghiệm đầu tiên.

4. Đóng góp mới của luận văn.

4.1. Luận văn là công trình chuyên biệt nghiên cứu về không gian nghệ thuật trong tiểu

thuyết Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Trên cơ sở tìm hiểu, phân loại và phân tích các không

gian nghệ thuật trong tác phẩm, luận văn đem lại những nhận xét về vai trò, ý nghĩa của

không gian nghệ thuật trong quan hệ với các hình tượng nhân vật của tác phẩm.

4.2. Xét trên bình diện thưởng thức và tiếp nhận, kết quả của hướng nghiên cứu không gian nghệ thuật sẽ góp thêm một cách hiểu về tác phẩm Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Nó cũng sẽ gợi mở ra một trường cảm nhận - liên tưởng theo hướng các hình thức nghệ thuật mang ý nghĩa nội dung như thi pháp không gian, thi pháp kết cấu, thi pháp từ ngữ... của tác phẩm.

4.3. Qua đóng góp thêm một cách hiểu mới về tác phẩm Tây Du Ký, Luận văn khẳng

định chắc chắn rằng quá trình sáng tạo, tư duy nghệ thuật của nhà văn thực sự đã được chuẩn

bị một cách chu đáo từ hình thức đến nội dung tác phẩm.

5. Kết cấu luận văn.

Ngoài phần mở đầu (4 trang) và phần kết ỉuận (6 trang), nội dung của Luận văn được

tổ chức thành ba chương như sau :

- Chương một: Thi pháp và nội dung Tây Du Ký (17 trang).

- Chương hai : Không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký (56 trang).

- Chương ba : Mối quan hệ giữa hình tượng nhân vật với không gian nghệ thuật và vấn

đề tiếp nhận, thưởng thức tác phẩm(21 trang).

_ Tài liệu tham khảo : 5 trang.

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THI PHÁP VÀ NỘI DUNG TÂY DU KÝ

1.1. KHÁI QUÁT VỀ THI PHÁP VÀ THI PHÁP KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT

1.1.1. Khái quát về thi pháp.

Thi pháp học là bộ môn nghiên cứu văn học có từ lâu đời. Người khai sinh ra Thi pháp

học là nhà mỹ học vĩ đại Hy Lạp Aristote với công trình Poetica cách đây hơn 2.300 năm.

Trong tiếng Nga, Anh, Pháp, các thuật ngữ Poêtika, poétique xưa nay được dịch là "Nghệ

thuật Thi ca". Khi các từ này được dịch là "Thi học", tức là muốn nghiêng vê tính chất lý luận

văn học, về học thuyết của văn học. Thực ra, nên dịch là nghệ thuật thi ca thì bộ môn nghiên

cứu văn học này mới đi vào định hướng chính là bản thể văn học với những yếu tố của nó và

các nguyên tắc mã hóa mang tính quan niệm của nhà văn.

Thi pháp học được đề cập từ đời Tống với các học giả như Nghiêm Vũ, Chu Bật,

Khương Quỳ... Quan niệm Thi pháp học của các học giả này không phải thu hẹp trong phép

làm thơ, vần luật thơ, mà bao hàm những nguyên tắc rộng rãi như tạo hình, cấu tứ, cốt cách:..

Nhưng ngay ở Trung Quốc hiện nay, phần lớn đều dùng từ Thi học và hiểu là lý luận văn

chương nói chung.

Tình hình này cũng diễn ra trong khoa nghiên cứu văn học ở nhiều nước đặc biệt là

trong giới nghiên cứu văn học Nga như M.B.Khrapchenko, A.Bushmin, G.Pospelov,

P.Nicolaev, M.Poljakov... Quan niệm của các tác giả Nga cũng khác biệt với các tác giả ở

Pháp và Mỹ hiện nay. Tình hình càng phức tạp hơn, khi trong khuynh hướng, hệ hình của Thi

pháp học trên thế giới có nhiều vấn đề như thi pháp truyền thống và hiện đại, trường phái

Hình thức (ở Nga), Phê bình mới (ở Anh, Mỹ), Thi pháp học cấu trúc, Hiện tượng học...

Từ nhiều cách hiểu khác nhau về Thi pháp và Thi pháp học, . . Trần Đình Sử đã quy thành 4 cách hiểu chính như sau:

1. Thi pháp học lý thuyết

2. Thi pháp học miêu tả

4. Thi pháp học ngôn ngữ học.[44/55,58,59]

3. Thi pháp học lịch sử

Để tự tạo điều kiện thống nhất về mặt lý thuyết trước khi đi vào nghiên cứu vấn đề đặt ra

trong luận văn, chúng tôi tạm xác định rằng: Thi pháp là hệ thông nghệ thuật của hiện tượng

văn học, còn Thi pháp học là bộ môn nghiên cứu hệ thống nghệ thuật ấy.

Ở đây, việc nghiên cứu hệ thông nghệ thuật của một hiện tượng văn học không phải chỉ

hoàn toàn chú ý đến những kiến tạo hình thức, mà hướng tới những hình thức mang tính nội

dung, tính quan niệm, tức là coi trọng việc khám phá nội dung trong các hình thức nghệ thuật,

các phương thức biểu hiện nghệ thuật.

1.1.2. Thi pháp không gian nghệ thuật.

Trong sáng tạo nghệ thuật ngôn từ, thường bao giờ nhà văn cũng có những quan niệm

nhất định về đối tượng mình định miêu tả, biểu hiện. Trung tâm hơn cả của thế giới đối tượng

ấy là con người, quan hệ giữa con người và cuộc sống đa dạng, đa chiều của họ. Nếu văn học

có cội nguồn từ đời sống hiện thực thì đối tượng quan tâm của nó phải tồn tại trong một không

gian - thời gian nhất định. Cũng như thời gian, không gian là một hình thức hiện hữu của con

người và cuộc sống của họ. Nhưng đây là nói không gian tựa theo hiện thực, cái không gian

tồn tại khách quan. Trong sáng tác, nhà văn hoàn toàn sử dụng các kiểu không gian và các

phương thức biểu đạt không gian khác nhau. Khi nó được sử dụng, bước vào tác phẩm, thì nhờ

vào năng lực chọn lựa, tổ chức của nhà văn nó sẽ được tái sinh bằng một quan niệm thẩm mỹ.

Đó chính là không gian nghệ thuật. Vì là không gian nghệ thuật, nên nó đem lại một chất

lượng hoàn toàn mới, một ý nghĩa thẩm mỹ mới.

Đối với lý thuyết Thi pháp học, thời gian - không gian là một cặp phạm trù cơ bản. Nó

không những là hình thức hiện hữu của đối tượng được miếu tả, biểu hiện, mà còn là phương

thức để nhà văn bộc lộ tư tưởng nghệ thuật của mình. Nó không chỉ là đề tài, ký hiệu nghệ

thuật mà còn là cảm thức thẩm mỹ, là nỗi niềm của nhà văn. Cho nên, có thể nói, "Trong văn

học nghệ thuật, không gian nghệ thuật chính là hình thức tồn tại của hình

tượng".[42/240,242]

Hình tượng là hình thức khám phá đời sống, nên nó là thành tựu cụ thể trong từng tác

phẩm văn học. Ở tất cả các thể loại, dù muốn hay không, hình tượng văn học luôn luôn gắn

chặt với một môi trường, một không gian mà nó sinh thành và hiện hữu. Chính môi trường,

không gian này với hình tượng được nhà văn sáng tạo là có quan hệ tạo sinh ý nghĩa thẩm mỹ,

chịu tác động, chi phối và ứng hợp với nơi chốn tồn tại của mình. Hình tượng văn học luôn tạo

ra những tưởng tượng, rung động qua lại với không gian sinh tồn của nó. Nhà nghiên cứu Trấn

Đình Sử nhắc đến câu tục ngữ trong văn học dân gian: "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài..."[43/31]

cũng là một gợi ý dễ hình dung về quan hệ này.

Từ những điều trên đây, ta thấy rằng, nếu hiểu được không gian nghệ thuật trong tác

phẩm văn học, ta sẽ hiểu được một phần quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người và

thế giới. Cũng từ đó, ta sẽ lý giải được vì sao các hình tượng văn học nên là như thế đó,.. Điều

đáng ghi nhận là không gian nghệ thuật bao giờ cũng mang tính quan niệm, luôn gắn với cảm

xúc và ý nghĩa nhân sinh. Không gian nghệ thuật có mặt trong tất cả các sáng tác văn học nói

chung. Tùy theo từng thể loại, tùy vào khả năng bao quát của từng loại hình, mà không gian

nghệ thuật cũng khác nhau về phân lượng, tính chất và khả năng khái quát. Nhưng nếu phải so

sánh, chẳng hạn, giữa thơ ca và văn xuôi, thì không gian nghệ thuật trong văn xuôi thực sự ưu

trội hơn. Điều này do đặc trưng thể loại quy định. Theo Trần Đình Sử, không gian nghệ thuật

ngoài ba chiều thông thường, còn có chiều thứ tư: đó là chiều tâm tưởng - không gian của cảm

xúc và ước vọng [13/31]. Phùng Quý Nhâm, trong chuyên đề Thi pháp giảng cho hệ sau Đại

học cũng góp phần chỉ ra không gian nghệ thuật có thể được chia làm nhiều lớp như: Không

gian sinh hoạt (lễ hội, đình đám, sinh hoạt bình thường), không gian xã hội, không gian vũ trụ

(bầu trời, mặt đất), không gian thiên nhiên (dòng sông, cánh rừng, lũy tre), không gian ảo (âm

phủ, niết bàn, thiên đường), không gian huyền thoại...

Những lớp không gian này ở từng thể loại, từng phạm trù văn học cụ thể cũng đậm nhạt

khác nhau. Chẳng hạn, không gian xã hội trong thơ Thiền đời Lý nhạt, nhưng trong văn học

hiện thực phê phán lại đậm, hoặc không gian thiên nhiên, địa lý, vũ trụ rất rõ trong văn học

dân gian, còn trong thơ trữ tình thì không gian xã hội không rõ lắm.

Như đã nói ở trên, không gian - thời gian là một cặp phạm trù cơ bản của Thi pháp học.

Nhà lý luận Bakhtin từng xem cặp phạm trù này luôn đi liền nhau. Giữa chúng luôn có liên hệ

hòa lẫn. Chẳng hạn, Uxpenxki nói: "Không gian là thời gian trường tồn. Thời gian là không

gian đang lấn bước" (theo bài giảng của Phùng Quý Nhâm), hoặc thi sĩ Tản Đà trong bài thơ

"Tiễn Thu - Cảm Thu", đã cho thấy chính việc cảm nhận được mùa thu (thời gian) lại bằng

vào những dấu hiệu chuyển động của không gian:

Từ vào thu đến nay Gió thu hiu hắt

Sương thu lạnh

Trăng thu bạch

Khói thu xây thành

Lá thu rơi rụng đầu ghềnh

Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.

Một vấn đề khác cũng cần được lưu ý đối với không gian nghệ thuật, đó là tính dân tộc.

Nếu nhà văn bao giờ cũng là con đẻ của một dân tộc, một đất nước cụ thể, thì trong sáng tác

văn học của ông ta, màu sắc dân tộc với những tính chất, tâm lý, dấu ấn nhất định phải được

thể hiện. Địa bàn cư trú đầu tiên, đặc trứng nơi chốn sinh thành, không gian cuộc đời cụ thể

của mỗi dân tộc... đều gắn với quan niệm về không gian của con người. Do vậy, nghiên cứu

không gian nghệ thuật phải chú ý đến tính dân tộc.

1.2. KHÁI QUÁT TÂY DU KÝ VÀ VAI TRÒ CỦA KHÔNG GIAN NGHỆ THUÂT.

1.2.1. Nội dung Tây Du Ký.

1.2.1.1. Tóm tắt tác phẩm.

Tây Du Ký vốn bắt nguồn từ một câu chuyện có thật về nhà sư trẻ Trần Huyền Trang đời

vua Đường Thái Tông đã một mình đi sang Ấn Độ để tìm thầy học đạo, thỉnh kinh. Tất cả thời

gian, công sức và kết quả cuộc hành trình của nhà sư này có nhiều tài liệu nói đến. Do vậy,

cho phép chúng tôi miễn giải trình thêm.

Từ câu chuyện có thật về Trần Huyền Trang đời Đường đến trước khi nhà văn Ngô Thừa

Ân sáng tạo lại, câu chuyện ây đã ngày càng được truyền tụng, thần thoại hóa và thay đổi, bổ

sung do nhiều tác giả và các tập thể nhân dân khác nhau. Đến lượt mình, Ngô Thừa Ân đã

vượt trội hơn tất cả, “Vì dưới ngòi bút sáng tạo của ông, không những tác phẩm có một dung

lượng đồ sộ 100 hồi trước kia chưa hề có, mà tính tư tưởng cũng được nâng cao, hình lượng

nhân vật trở nên sinh động, đa năng, có tính cách rõ nét. Văn phong uyển chuyển, khúc chiết

và trước sau nhất quán" .[519]

Để thấy rõ hơn sự vĩ đại của tác giả bộ Tây Du Ký, Luận văn chúng tôi xin phép sử dụng

nguyên vẹn vài trang tóm tắt súc tích của tác giả Lương Duy Thứ từ hơn hai ngàn trang ngôn

ngữ văn chương dịch như sau:

"Từ hồi 1 đến hồi 7, tác giả giới thiệu lai lịch Tôn Ngộ Không. Đó là một con khỉ do một

hòn đá tiên hóa thành. Từ nhỏ y đã thông minh, lanh lợi, dũng cảm, được đàn khỉ tôn làm vua

(Mỹ hầu vương). Sau đó, y đi tìm thầy học đạo, học được 72 phép biến hóa thần thông. Y náo

động long cung, bắt Long Vương nộp gậy thần (thiết bổng) để làm vũ khí, rồi náo động âm ti,

xóa tên họ loài khỉ trong sổ tử để hưởng trường sinh. Long Vương và Diêm Vương kiện lên

Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng nổi giận sai thiên binh, thiên tướng đánh bắt nhưng không được,

bèn theo kế chiêu an phong cho Tổn Ngộ Không chức quan giữ ngựa (Bật mã ôn) trên thiên

đình để giữ chân y. Chẳng bao lâu, biết bị lừa, y lại náo loạn thiên cung đòi cho được chức Tề

Thiên Đại Thánh (Thánh bằng Trời). Ngọc Hoàng Thượng Đế phải nghe theo. Nhưng rồi tính

khí vẫn ngang ngạnh như xưa. Các thần mở tiệc đào tiên mà không mời y, y phá tiệc rồi trốn

về động khỉ. Thượng đế phải sai cháu mình là Nhị Lang thần mang "kính chiếu yêu" đuổi bắt

mới được, đem xử trảm, nhưng dao chém không đứt, phải bỏ vào lò bát quái nung 49 ngày

đêm cũng không chảy, cuối cùng y phá ra được. Y lại loạn đả thiên cung, đánh cho thiên binh,

thiên tướng tả tơi. Thượng đế phải vời Phật Tổ Như Lai dùng pháp thuật mới bắt được, đem

giam dưới núi Ngũ Hành 500 năm.

Từ hồi 8 đến hồi 12: giải thích nguyên do việc đi thỉnh kinh, giới thiệu lai lịch Huyền

Trang và các đệ tử: Quan Âm Bồ Tát vâng mệnh Phật Tổ đi tìm người sang Ân Độ để lấy kinh

Phật truyền bá về phương Đông. Trên đường đến Trường An, Quan âm gặp Sa Ngộ Tĩnh,

nguyên là đại tướng lo việc cuốn rèm cho Thượng đế (Quyển Liêm tướng quân), vì làm vỡ

đèn lưu li trong hội bàn đào mà bị đày làm quỷ trên sông Lưu Sa. Quan Âm thu nạp, cho làm

đồ đệ đi thỉnh kinh để đổi kiếp. Lại gặp Trư Bát Giới, nguyên là Thiên Bồng nguyên soái vì

chọc ghẹo nàng Hằng Nga mà bị đày xuống trần gian làm quái đầu lợn. Chấp nhận lời thỉnh

cầu của y, Quân Âm cho làm đồ đệ giúp việc thỉnh kinh để chuộc tội. Lại gặp con rồng trắng

bị treo ngược giữa trời, đó là con trai Long Vương phạm tội chờ ngày xử trảm. Quan Âm xin

cho rồi hóa phép thành con ngựa vàng đỡ gót người đi thỉnh kinh. Lại gặp Tôn Ngộ Không

đang bị đè dưới núi Ngũ Hành, Quan Âm cho phép đi theo hộ vệ người thỉnh kinh để cải tà

quy chính. Đến Trường An, Quan Âm tìm được Trần Huyền Trang, một hòa thượng chân tu,

có thể phó thác sứ mệnh sang phương Tây thỉnh kinh. Vốn là đứa trẻ trôi sông được nhà chùa

cứu vớt, Huyền Trang chuyên tâm học đạo, tinh thông Phật pháp, dần dần trở thành nhà sư

tiếng tăm lừng lẫy. Quan Âm bèn giao trọng trách "Tây du thỉnh kinh" cho Huyền Trang.

Từ hồi 13 đến hết hồi 98: thuật lại quá trình đi thỉnh kinh. Ban đầu có 2 người đưa đường

Huyền Trang. Nhưng vừa ra khỏi biên giới thị bị hổ và gấu ăn thịt mất. Huyền Trang hết

đường lui tới, chỉ biết ngồi khóc. May gặp Tôn Ngộ Không nằm bẹp dưới núi Ngũ Hành đang

chờ người thỉnh kinh để được giải thoát. Huyền Trang bèn dùng phép giải phóng cho y và thu

nhận làm đệ tử. Từ đó đường đi mới thuận lợi. Với cây gậy thần trong tay, dùng 72 phép biến

hóa thần thông, Tôn Ngộ Không đã tiêu diệt hết mọi yêu ma quỷ quái cản đường. Nhưng

Huyền Trang lại rầy la y làm việc sát sinh, vi phạm giới luật nhà Phật. Y bực bội bỏ đi. Quan

Âm phải cho Huyền Trang chiếc mũ Kim cô để kiềm chế. Khi cần, Huyền Trang chỉ niệm chú

là chiếc vành vàng sẽ siết chặt lấy đầu Tôn Ngộ Không làm y đau đớn không chịu được, phải

theo lệnh Huyền Trang. Đường đi yêu quái ngày một nhiều, Quan Âm bèn ban cho Tôn Ngộ

Không ba cái lông hộ mạng mọc sau gáy, khi cần; nhổ một cái rồi lâm râm niệm chú là lập tức

biến thành vô số Tôn Ngộ Không. Kế đó, Huyền Trang lại thu nhận ngựa rồng ở suối Ưng

Sầu, thu nhận Trư Bát Giới ở động Vân Sơn, thu nhận Sa hòa thượng ở sông Lưu Sa. Đoàn

thỉnh kinh đã có cả thảy năm thầy trò, thêm nhiều thuận lợi. Có điều Trư Bát Giới là kẻ hiếu

sắc, lười biếng, suýt mắc lừa bốn nữ yêu quái, làm cho đoàn thỉnh kinh một phen lận đận. Y

lại hay xúc xiểm, làm cho nội bộ đoàn trở nên lục đục. Một lần Tôn Ngộ Không đánh chết con

Bạch Cốt Tinh ba lần đổi lốt để đánh lừa Tam Tạng, giữa lúc Tam Tạng đang bất bình thì y lại

nhỏ to khích bác làm nhà sư nổi giận đuổi Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không buồn rầu trở về

động khỉ, nhưng vẫn không cởi được chiếc mũ kim cô. Vắng y, bốn thầy trò Đường Tăng bị

yêu quái hãm hại suýt mất mạng. Bất đắc dĩ, Huyền Trang phải sai Trư Bát Giới đi tìm y trở

về. Năm thầy trò lại tiếp tục Tây du. Tôn Ngộ Không lại lần lượt đánh thắng các yêu quái, đấu

phép thắng các đạo sĩ. Nhưng gặp con quái một vòi (Độc giác tỉ) dùng bùa phép cướp được

cây gậy thần thì y chịu thua; Y phải cầu viện Phật tổ mới lấy lại được "thiết bổng". Y lại phò

Đường Tăng vượt qua "nước con gái", phá được mưu kế cưỡng hôn của bà vua nước này. Rồi

đánh thắng "Thiết Phiến công chúa", lấy được cái quạt thần để quạt tắt núi lửa ngăn trở đường

đi. Cuối cùng, năm thầy trò vượt qua tất cả 81 nạn, đến xứ sở Phật tổ tìm thầy học đạo.

Hồi 99 và 100: kể lại quá trình thắng lợi trở về. Năm thầy trò xin được rất nhiều kinh

Phật, được bệ kiến Phật tổ, Phật tổ ban thưởng rất hậu, rồi dùng phép đưa họ "cưỡi mây" trở

về Trung quốc. Đường Thái Tông cùng tăng ni phật tử và dân chúng đã đón tiếp rất trọng thể.

Họ bàn giao kinh Phật rồi theo lệnh Phật tổ "cưỡi mây" trở lại xứ Phật. Tùy theo công trạng,

Đường Tăng được ban tước Hằng công đức Phật, Tôn Ngộ Không được cởi mũ kim cô, được

ban tước Đấu chiến thắng Phật, các đề độ khác đều được ban thưởng. Họ ở lại xứ Phật hưởng

phúc muôn đời".[44/9-12]

1.2.1.2. Sự ảnh hưởng của tôn giáo.

Trước hết, có thể nói rằng Phật giáo đã ảnh hưởng trên nhiều bình diện của tiểu thuyết

cổ điển Trung Quốc. Cố nhiên, văn học Trung Quốc trước khi Phật giáo Ấn Độ truyền nhập

vào cũng đã có những truyền thống và thành tựu riêng. Ngay ở những thành tựu và truyền

thống ấy cũng đã từng được biến đổi, nhất là khi có những tư tưởng, quan niệm mới có khả

năng tác động mạnh vào ý thức của các nhà văn.

Rõ ràng, sau khi sách Phật truyền vào Trung quốc thì nền văn học này "lại thêm một lần

biến đổi nữa"[61/54]. Ông Vương Quốc Duy còn nói rõ hơn về sự tiếp nhận Phật giáo của

giới trí thức: “Phật giáo truyền sang phương Đông, đúng vào lúc tư tưởng nước ta tàn tạ, lức

bấy giờ các học giả gặp được Phật giáo, khác nào kẻ đói được ăn, người khát

được uống"[61/54]. Tuy nhiên, ảnh hưởng Phật giáo trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là

một vấn đề lớn, phong phú và khác nhau ở các tác phẩm cụ thể. Riêng trường hợp Tây Du Ký

thì có thể nói rằng, tác phẩm sẽ không có được nếu không có sự truyền nhập của Phật giáo. Sở

dĩ nói thế, vì xuất phát của câu chuyện Tây Du Ký là bắt nguồn từ việc Huyền Trang đi thỉnh

kinh. Khi câu chuyện này vào ngòi bút sáng tạo của Ngô Thừa Ân thì - đúng như G.s Lương

Duy Thứ nói là trọng điểm về nhân vật đã thay đổi, nhưng vẫn là câu chuyện đi thỉnh kinh và,

việc đề cao Phật giáo của tác giả cũng được thể hiện rất rõ. Chúng ta cũng biết Phật giáo vốn

có nhiều tông phái và mỗi tông phái lại phát triển không đều nhau ở các thời kỳ lịch sử trong

xã hội Trung Quốc. Và ngay trong nội dung tác phẩm, ở một số chi tiết, biểu hiện nhất định,

chúng ta dễ thấy điều này mang màu sắc Thiền tông, điều kia là biểu hiện của Tịnh độ tông

hoặc Mật tông... Đây quả là một vấn đề phức tạp.

Để có thể xác định khái quát về Phật giáo trong Tây Du Ký, có lẽ, chúng ta nên dựa vào

những bộc lộ chính thức, rõ ràng, có tính chất mấu chốt trong chính tác phẩm. Đọc Tây Du

Ký, ở hồi thứ 12, Vua Đường Thái Tôn có lòng thành mở đại hội. Bấy giờ Huyền Trang là

pháp sư lên đàn giảng kinh. Phật Quan Âm hiện thành một bồ tát ghẻ lở cùng Mộc Xoa đi tìm

người thỉnh kinh thì gặp vua Đường và biết có pháp sư xứng đáng nên tặng áo cà sa và tích

trượng. Vua Đường Thái Tôn bèn đem về cho Huyền Trang mặc và mặc áo vào, Huyền Trang

đẹp như con Phật, Huyền Trang pháp sư tiếp tục giảng kinh Tiểu thừa, Quan Âm nói giảng

kinh Tiểu thừa thì không siêu thoát. Vua Đường biết chuyện, bèn hỏi Quan Âm và Quan Âm

bảo rằng giảng kinh Đại thừa mới siêu thoát. Quan Âm cũng đã chỉ xứ sở có kinh Đại thừa là

nước Tây thiên. Sau đó, Huyền Trang vâng mệnh Vua đi thỉnh kinh ở Tây thiên.

Như vậy, Phật giáo trong Tây Du Ký là Phật giáo Đại thừa.

Cùng với Phật giáo, còn phải nói đến Nho giáo và Đạo giáo, tức tính chất "Tam giáo

đồng nguyên". Một đất nước đã từng chấp nhận những quy tắc, quy ước về tôn ti trật tự, kỷ

cương của Nho giáo; từng hiểu biết thế nào là sống phải không được trái với tự nhiên để giữ

thân tâm thanh tĩnh của học thuyết "vô vi" của Lão tử... thì ảnh hưởng của những quan niệm

này vào văn học là điều dễ hiểu. Như thế, có thể nói, trong Tây Du Ký có sự ảnh hưởng của

các học thuyết triết học. Ảnh hưởng này, thực ra, khá phức tạp. Phức tạp vì mỗi học thuyết,

mỗi đạo như vậy đều có quá trình phát triển khác nhau. Điều đáng lưu ý hơn là giữa chúng có

sự đan xen, hòa trộn vào nhau một cách không giống nhau trong từng thời kỳ văn học, từng

loại tác phẩm cụ thể. Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân cũng không thoát ra ngoài vòng quan hệ

đó. Chẳng hạn, theo sử sách, từ đời Chiến quốc về sau, đạo học của Lão giáo bị biến đổi rất

nhiều. Có người đem thuật "tu hành" của Hoàng Đế với việc "tu thân" của Lão Tử, thành ra

một học thuyết, gọi là đạo Hoàng Lão, đây là mảnh đất của đám vu đồng bóng, từ đó có việc

cầu thuật "Trường sinh bất tử", qua cửa ngõ luyện đan.

Giáo sư Phan Ngọc cũng cho rằng ý nghĩa của Ngũ hành trong thiên "Hồng Phạm" trong

Kinh thư cũng đã góp phần "tạo nên quan niệm lịch sử theo tuần hoàn, làm cơ sở cho lý thuyết

trời và người có quan hệ với nhau và nhập vào Nho giáo đời Hán"[35/331, 332]. Việc nguyên

lý ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) nhập vào với Nho giáo, càng về sau càng phức tạp,

nhất là khi có các chi nhánh dùng bùa chữa bệnh (chẳng hạn phái "Khăn vàng” (Hoàng Cân)),

lôi cuốn nhân dân chống lại chính quyền hủ bại nhà Hán. Giáo sư Phan Ngọc viết: "Các kinh

chủ yếu của nó là "Đạo đức kinh", "Thái bình kinh", "Lão Tử Tưởng Nhĩ chú", dùng thuyết

âm dương ngũ hành giải thích nguồn gốc vũ trụ, dạy cách tập thở, các bí quyết giao hợp để

được trường sinh, lấy trung, hiếu, thành, tín làm nguyên lý trí nước để cho thiên hạ thái

bình"[35/333]. Chỉ nói ở đời Hán như trên, cũng đã thấy vấn đề phức tạp. Còn Phật giáo Ấn

Độ truyền nhập vào Trung Quốc từ năm 67 sau công nguyên thì ngay từ đầu cũng hầu như

không còn tính chất siêu hình như ở Ấn Độ, mà dần dần, nó lại hướng về thực tiễn, tìm đường

đi phù hợp với xã hội Trung Quốc. Giáo sư Phan Ngọc cho rằng, từ đời Đường trở đi, về nhu

cầu thỏa mãn tâm linh trong xã hội Trung quốc, Phật giáo đã lấn dần Đạo giáo và trở thành

trào lưu chủ yếu của Trung Quốc [34/339]. Phật giáo ở Trung quốc là Phật giáo Đại thừa

(tiếng Phạn: Mahayana), nghĩa là chiếc xe lớn, nghĩa bóng là chở nhiều và đi xa được. Đó là

nói đến những kinh điển cao siêu của nhà Phật, dạy cách tu hành để đạt đạo cho mình và tất cả

chúng sanh. Nhiều nhà nghiên cứu cũng xác định rằng giáo lý Đại thừa là giáo lý được truyền

theo đường vòng phía Bắc, gọi là Bắc tông.

Tình hình đan xen, xâm nhập lẫn nhau trong quá trình phát triển của các học thuyết như

vừa nói trên, tuy khó miêu thuật đầy đủ, nhưng rõ ràng, chúng là một hiện tượng có thực. Do

định hướng nghiên cứu của Luận văn, chúng tôi không đi sâu vào việc ảnh hưởng của các học

thuyết, các đạo - đối với tiểu thuyết. Với tinh thần ghi nhận sự có mặt của tam giáo trong Tây

Du Ký, chúng tôi xác định lại vấn đề với những quan niệm và đánh giá sau đây.

Trước hết, Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân mang rõ màu sắc tôn giáo và tín ngưỡng. Đối

với Phật giáo, đó là Phật giáo Đại thừa, có thỉnh kinh, tụng niệm, tu hành để giải thoát cho

bản thân và có thể phổ độ cho nhiều người khác, vì ai cũng có "Phật tính". Do vậy, nó có tinh

thần tích cực trong việc thâm nhập nhân gian, xã hội. Đối với Đạo giáo, đặc điểm khu biệt của

nó là thuyết tu tiên vốn mượn từ "Đạo đức kinh". Từ tu tiên, dần về sau, các cá nhân đề cao

một cách say sưa huyền bí để đưa ra hai biện pháp: một là, tu tiên để thành bất tử; hai là, lên

đồng để tiếp xúc với thần linh (G.S. Phan Ngọc - Sđd. Trang 337). Đối với Nho giáo, " ý thức

chủ đạo của tâm thức Trung Quốc là hình ảnh của triều đình Hoàng đế cực kỳ đồ sộ, quy mô

chặt chẽ, quy tắt gắt gao. Cái gì ở Trung Quốc cũng có tôn ty chặt chẽ". (Phan Ngọc - Sđd,

trang 339). Cả ba học thuyết này, trong quá trình phát triển, biến sinh, dưỡng như đều hòa

quyện với các tín ngưỡng dân gian. Hiện tượng này không chỉ xảy ra ở Trung Quốc, còn xảy

ra ở nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á. Cái tài của nhà văn là bằng cảm quan nghệ thuật

riêng, tác giả đã phản ánh một tinh thần dung hợp mang màu sắc phương Đông mà nhiều

người gọi là "Tam giáo đồng nguyên". Trong tinh thần dung hợp này, theo chúng tôi, Phật

giáo đã chiếm một vị trí ưu trội hơn. Cũng cần nói thêm rằng, cái tinh thần "giác nhi giác tha"

của Phật giáo có một sức hấp dẫn lớn đối với quần chúng, nhất là quần chúng lao khổ: nó giải

đáp những vân nạn của nhân sinh đã từng đặt ra với nhân dân Trung Quốc trong lịch sử. Tuy

nhiên, Phật giáo cũng như Đạo giáo, Nho giáo không phải là đối tượng nghiên cứu chủ yếu

của luận văn chúng tôi. vả lại, không có một tôn giáo nào, kể cả Phật giáo, được thế hiện một

cách đầy đủ trong Tây Du Ký. Sự có mặt của tam giáo ở đây có tính cách như một cái nền,

một điểm tựa để nhà văn thực hiện một ý định nghệ thuật khác với một màu sắc khác. Điều

này đúng như G.s Lương Duy Thứ đã nói: "Tiểu thuyết thần ma lấy đề tài trong thần thoại

hoặc tôn giáo nhằm thể hiện những đòi hỏi trong cuộc sống hiện thực, bởi vậy có khi viết về

tôn giáo, nhưng lại xa lạ với mục đích tuyên truyền tôn giáo. Loại này nặng về tưởng tượng

hư cấu, đậm màu sắc lãng mạn thần thoại. Tây Du Ký là tác phẩm thành công nhất của loại

này "[20/10]. Ở đây cũng cần xác định thêm rằng, vấn đề "màu sắc lãng mạn thần thoại" trong

Tây Du Ký chỉ như là đặc trưng của bút pháp, chứ không theo yêu cầu của một phương pháp

sáng tác lãng mạn đích thực như chủ nghĩa lãng mạn trong văn học. Do sự sáng tạo "nặng về

tưởng tượng hư cấu, đậm màu sắc lãng mạn thần thoại", mà chúng ta có điều kiện nhìn thấy

nhiều không gian nghệ thuật rất kỳ thú trong tác phẩm. Đọc Tây Du Ký, chúng ta có thể thấy

những không gian nghệ thuật rất tiêu biểu như không gian thần kỳ, không gian trần thế và

trong mỗi loại như vậy lại chứa những loại nhỏ hơn về nó. Chẳng hạn, trong không gian thần

kỳ, chúng ta có thể nhận ra không gian long cung, âm ty, không gian thượng giới mà Phật,

Tiên, Trời đều có mặt. Sự thú vị và cũng là phức tạp của các không gian nghệ thuật này là

chúng thường đan quyện, thông nối lẫn nhau. Dù vậy, trong một mức độ tương đối hợp lý,

chúng tôi sẽ lần lượt tìm hiểu từng loại không gian này và hiện tượng đan quyện thông nối

giữa chúng.

1.2.2. Vai trò của không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký.

Như ý kiến của nhà lý luận Bakhtin, các hình tượng văn học trong tiểu thuyết có "sự thay

đổi các trục tọa độ trong không gian và thời gian"[25/37]. Đọc Tây Du Ký, đặc điểm này có

thể tìm thấy phong phú. Dĩ nhiên, đồng thời với hình thức không gian, tác phẩm còn có thời

gian cùng các kiểu dạng của nó.

Ở trên chúng tôi đã dẫn ý kiến của Ưsepenseki: không gian là thời gian trường tồn. Thời

gian là không gian đang lấn bước và đúng như M.Bakhtin nói khi nghiên cứu thi pháp tiểu

thuyết của Dostoievski rằng chúng là một phạm trù cơ bản và luôn đi liền nhau. Thời gian

nghệ thuật trong tác phẩm văn học có thể có hai mặt cơ bản là quan niệm thời gian của nhà văn

và việc tổ chức thời gian của tác phẩm. Theo quan niệm của thi pháp học thì nhìn chung, khi

thời gian - cũng như không gian - gắn bó với tình cảm, suy nghĩ, hòa điệu tương hợp với các

hành trạng nhân vật, các hình tượng văn học, thì mới có điều kiện trở thành thời gian - không

gian nghệ thuật. Trong Tây Du Ký, có vô số những thời gian như thế. Chẳng hạn, ngay ở hồi

thứ nhất trong tác phẩm, Hầu Vương đi học phép trường sinh đến Nam Thiêm bộ châu tự sống

đến tám năm ròng, rồi lại tự mình đóng bè, vượt sông qua Tây hải thẳng tới địa giới Tây Ngưu

hạ châu. về sau, khi gặp Tổ sư hỏi cuộc hành trình ấy, Hầu Vương nói: "Đệ tử lênh đênh qua

bể, lên đất, lang thang đủ mười mấy năm trời mới đến được đây". Với thời gian như thế - tuy

trước hết nó vẫn là thời gian khách quan, nhưng đã gắn bó xiết bao với những gian khổ, tâm

tình, khát vọng trường sinh của hầu vương! Bắt đầu từ hồi thứ mười hai, ở đầu mỗi hồi, ta

thường gặp sự miêu thuật của người kể chuyện về thời gian của cuộc thỉnh kinh, về các tiết

thu, rồi đến đông, đến hạ... với bao vất vả do thời tiết diễn ra mà cả đoàn thỉnh kinh phải chịu

đựng. Thời gian năm trăm năm Tề thiên đại thánh bị đè dưới núi Ngũ Hành cũng không còn là

thời gian vật lý, vì nó đã gắn với sự chịu đựng phi thường của nhân vật. Có thể nói rằng trong

tám mươi mốt tai nạn mà Đường Tăng cùng các đệ tử phải chịu đựng hầu như tai nạn nào cũng

có thời gian tính và thời gian ấy, hoặc là gắn với nỗi âu lo, sốt ruột của Đường Tăng, hoặc là sự

chịu đựng, tính chất bức bách trong tình cảm của các đệ tử. Như thế, thời gian trong tác phẩm

quả là một thời gian có quan niệm tính của nhà văn. Nếu chỉ đi sâu nghiên cứu hình thức nghệ

thuật này, chắc chắn chúng ta sẽ thấy rõ hơn các ý nghĩa của nó.

Một điều cũng cần xác định là tuy không gian, thời gian luôn đi liền nhau, nhưng chúng

là hai vấn đề khác nhau. Đọc Tây Du Ký, chúng tôi nhận ra không gian nghệ thuật dường như

có tính ưu trội hơn, nên chọn nghiên cứu. Những nghiên cứu ngày nay như: "Thời gian nghệ

thuật của Marcel Proust trong tác phẩm "Đi tìm thời gian đã mất" hoặc: "Xuân Diệu, nỗi ám

ảnh thời gian", "Huy Cận, nỗi ám ảnh không gian"... cũng là theo hướng "tính trội" của vấn đề

mà nghiên cứu.

Do định hướng của Luận văn, ở đây, chủ yếu tìm hiểu về không gian nghệ thuật. Có thể

nói ngay rằng, từ ngay hồi 1 của tác phẩm thì không gian mang ý nghĩa nghệ thuật đã xuất

hiện và từ đó, đến hết một năm trời, dù có thay đổi, chuyển dịch, không gian nghệ thuật đã

liên tục xuất hiện. Chính các tọa độ cụ thể của nhiều loại không gian trong tác phẩm đã đóng

vai trò làm nền, làm điểm tựa và phạm vi cho các vận động của hình tượng văn học. Vì nhà

văn chỉ có thể quan niệm trước về nhân vật, về nơi chốn tồn tại của các hình tượng, về mối

tương quan hòa điệu giữa chúng mới có thể sáng tác, nên những không gian ấy đã mang thêm

ý nghĩa mới trong quan hệ với nhân vật, và do đó, có ý nghĩa nghệ thuật. Cứ hình dung một

Tôn Ngộ Không anh hùng phản nghịch với liên tiếp những chiến công chất ngất đối với Thiên

đình, Long cung, Âm ti và suốt những chặng đường đầy yêu quái mà trước sau chỉ có một

phạm vi không gian nhỏ hẹp và bình thường thì làm sao có được sự ứng hợp với tính cách?

Một nhân vật song toàn về dũng trí và tài năng, một tính cách chỉ có thể quẫy đạp, bức phá đối

với mọi sự đè nén, bất công... như Tôn Ngộ Không, rõ ràng phải có không gian thích ứng với

chính nhân vật.

Chọn lựa và xây dựng kiểu không gian này cho quá trình tồn tại và phát triển của nhân

vật mình, quả là một kỳ công sáng tạo của tác giả. Những hình thức không gian ấy là một đặc

trưng thi pháp. Vai trò của không gian nghệ thuật ở đây, vì thế, là một vấn đề rất có ý nghĩa.

Nghiên cứu không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký cũng như những vấn đề lớn khác ương

tác phẩm, chúng ta cũng cần thấy hết sự phức tạp của tác phẩm trong quan hệ với truyền

thuyết dân gian, tình hình thuyết thoại nhân qua nhiều đời và dị bản của nó ở một số tác giả.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Khánh, có thể có khá nhiều bản Tây Du Ký

[21/147,143,144] và vấn đề tác giả của nó cũng là chuyện từng có nhiều tranh cãi. Chẳng hạn, có ý kiến cho rằng đạo sĩ Trường Xuân Khâu Xử Cơ, người đời Nguyên mới là tác giả của

Tây Du Ký chứ không phải Ngô Thừa Ân. Thực ra, "Dưới thời Nguyên Thái Tổ, đạo sĩ Khâu Xử Cơ vâng chỉ đi Tây Vực, khi trở về, ông mới viết bộ Du Ký đó. Theo Từ Nguyên, thì bộ Du ký này được hoàn thành ngay dưới đời Thái Tổ nhà Nguyên. Do sự trùng tên sách, nên

mới có sự lầm lẫn tên tác giả. Thêm vào đó, hồi thời Thanh sơ, khi khắc bản in các bộ diễn

nghĩa, nhà xuất bản lấy lại tựa Tây Du Ký của Trường Xuân Khâu Xử Cơ làm tựa cho bộ Tây Du Ký Diễn nghĩa. Nay mới biết ra Tây Du Ký của Khâu Xử Cơ và Tây Du Ký diễn nghĩa của Ngô Thừa Ân là hai bản khác nhau"[21/147,143,144]. Trong chi tiết của tác phẩm cũng có

những biến đổi và chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến không gian tồn tại của nhân vật. Chẳng hạn,

trong "Đại Đường Tam Tạng Pháp Sư Thụ Kinh Thi Thoại" thì Tôn Ngộ Không chẳng dám ăn

cắp nhân sâm, còn trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân thì Tôn Ngộ Không lại muốn bẻ trộm,

nhưng sư phụ Đường Tam Tạng lại phê phán. Nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Khánh cho rằng

"Tác giả Tây Du Ký diễn nghĩa Ngô Thừa Ân là sĩ phu, xét duyệt nghiêm khắc hơn, cho nên

ông thấy không thể nào để nhan nhãn cái chuyện ông hòa thượng xúi học trò ăn trộm, dù là ăn

trộm trái nhân sâm trường sanh bất tử"[21/147,143,144]... Qua những quá trình như thế, rõ

ràng tác phẩm có sự phức tạp hơn. Tuy nhiên, như nhận xét của nhà nghiến cứu Nguyễn Huy

Khánh ở trên, Ngô Thừa Ân có chủ định riêng mình với tư cách là nhà văn trong sự- nghiệp

sáng tạo, hư cấu, cho nên, nghiên cứu không gian nghệ thuật trong tác phẩm Tây Du Ký,

chúng tôi hoàn toàn dựa theo văn bản của tác giả Ngô Thừa Ân, chứ không theo những bản

khác và nghiên cứu không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, chúng tôi cũng

hoàn toàn thống nhất với quan niệm của Giáo sư Lương Duy Thứ rằng trọng điểm về nhân vật

đã thay đổi. Do vai trò của Tôn Ngộ Không nổi bật, "Vai trò của Đường Tăng dần dần lu mờ

đi" [21/147,143,144], nên việc tìm hiểu không gian nghệ thuật cũng chiếu ứng theo tính cụ thể

của nhân vật chính mà Ngô Thừa Ân đã có ý thức quan tâm hơn. Dĩ nhiên, các nhân vật đồng

hành cũng sẽ được đề cập, nhưng có mức độ. Cũng do vậy, hiện tượng đi sâu hay không đi sâu

vào từng nhân vật là điều cần sự chấp nhận của người đọc.

Chương 2: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TÂY DU KÝ

Trong tác phẩm, tác giả đã thể hiện nhiều dạng không gian nghệ thuật, nhưng với yêu

cầu của một luận văn thạc sĩ và sự nhận thức riêng, chúng tôi chỉ đề cập một số dạng không

gian tiêu biểu.

2.1. Không gian Trần thế.

2.1.1. Không gian núi Hoa quả - Đá tiên.

Khi giới thiệu tác phẩm Tây Du Ký cho lần xuất bản năm 1988 (Bộ 10 tập do Như Sơn,

Mai Xuân Hải, Phương Oanh dịch), tác giả Lương Duy Thứ đã xác nhận rằng Ngô Thừa Ân

đã chuyển địa vị nhân vật Huyền Trang từ chỗ là nhân vật chủ yếu biến thành nhân vật thứ yếu

và ngược lại, nhân vật Tôn Ngộ Không từ địa vị nhân vật hộ tống, biến thành nhân vật quyết

định thành bại của cuộc Tây Du. Do địa vị nhân vật quyết định thành bại của cuộc Tây Du,

trước hết, chúng ta cần tìm hiểu về cội nguồn sinh thành của nó.

Xuất phát, nhân vật ấy là một con khỉ được sinh ra từ một tiên thai

trong đá. Ngay từ những dòng đầu của hồi thứ nhất, người tường thuật đã

cảm nhận tấm đá chứa tiên thai ấy đã "cảm thụ tinh hoa của trời đất, của (TP.I.66)(*). Ở đây, Ngô trăng nên mới thông được” mặt ười, mặt linh

Thừa Ân đã dùng quan niệm xưa: Trời-Đất là cha mẹ của vạn vật. Từ

Hỗn Độn sinh ra Thái Cực, Thái Cực sinh ra Lưỡng Nghi. Lưỡng Nghi

chính là Âm Dương, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát

Quái, Bát Quái sinh Càn Khôn. Tuy nhiên, không phải trình bày lý thuyết

khô khan, mà tác giả đã thu gọn: Thái cực là khối đá, Lưỡng nghi là hấp

thụ khí âm dương …… sinh ra "con khỉ đá". Như thế, con khỉ trước khi sinh ra đã thụ bẩm

được với càn-khôn, tiếp nhận tinh túy từ các lực lượng vũ trụ. Ngay trong việc này, sự xuất

phát của nó đã là sinh thành giữa trời cao đất rộng, nghĩa là chỉ thích ứng với tự do, với đại

lượng kỳ vĩ. Không chỉ riêng con khỉ đặc biệt này sống giữa trời cao đất rộng, mà còn có cả

một số rất đông giống loài của nó. Tất cả chúng đều sinh sống chung trong một không gian

mang tính chất vũ trụ. Chúng làm bầu bạn với muông thú, lâm tuyền, gió trăng và không

ngừng kiếm tìm phát hiện thiên nhiên kỳ diệu.

(* ) Từ đây, cách ghi như thế có nghĩa là Tác phẩm (TP), quyển mấy (ì) và số trang (66)...

Cũng nhờ vậy, chúng đã phát hiện ra "Hoa quả sơn, Thủy liêm động". Chính cái không

gian "Hoa quả sơn phúc địa, Thủy liêm động, động thiên" này ngày càng cố định hóa cho sự

tồn tại giống loài của chúng. Tác phẩm có đoạn viết: "Thực là chôn yên thân của bọn ta. Vả

chăng nơi đó lại rộng rãi có thể chứa được hàng trăm hàng nghìn già trẻ. Chúng ta đưa nhau

vào cả đây, khỏi phải chịu khí trời nóng lạnh. Trong đó:

Gió có nơi ẩn náu

Mưa được chốn trú thân

Sương tuyết không lo sợ

Sấm sét chẳng ngại ngần

Mây đẹp thường soi bóng

Điềm lành vẫn xoay vần

Tùng trúc quanh năm tốt

Hoa lạ ngày càng xuân" (TP.I.70)

Với một địa bàn nhiều thuận lợi như vậy, qua thể nghiệm sống, tất cả loài khỉ đều vui

thích thuận cư, và toàn thể chúng, vì thực sự khâm phục con khỉ đá tài năng, đã có công lớn,

nên đã bầu con khỉ đá làm Đại vương. Khỉ đá lên ngôi Hoàng đế, dấu chữ đá đi, xưng là Mỹ

hầu vương.

Điều đáng nói nhất từ không gian núi Hoa quả, động Thủy liêm nay là, dưới sự bao quát,

hướng dẫn của Mỹ hầu vương, toàn thể loài khỉ đã được sống bình yên và sung sướng. Đó là

một cuộc sống "nơi núi phúc, đất tiên, động cổ châu thần; không chịu sự cai trị của kỳ lân,

không chịu sự cai quản của phượng hoàng và cũng không bị sự câu thúc của ma chúa nhân

gian, tự do tự tại, thật là hạnh phúc khôn lường".(TP.I.72).

Cuộc sống không chịu và nhất định không chịu mọi sự cai trị, đè nén, câu thúc ở đây,

nghiền ngẫm sâu hơn, sẽ là một vấn đề sâu sắc, mang ý nghĩa nhân sinh, nếu sáng tác văn học

xét đến cùng là vì nhân sinh mà sáng tạo.

Điều này quả không thể khác hơn. Không thể nói như học giả Hồ Thích rằng Tây Du Ký

chỉ là truyện hài hước, đùa cợt với đời. Nghiền ngẫm một cuộc đời bao lận đận, bất đắc chí của

Ngô Thừa Ân, Giáo sư Lương Duy Thứ rất có lý khi cho rằng Ngô Thừa Ân không thể không

có một mục đích nghiêm túc khi cặm cụi hoàn thành tác phẩm này vào những năm cuối đời

mình[5/17]. Cho nên, có thể nói, mô hình cuộc sống không chịu các thế lực đè nén bao giờ

cũng là mô hình đẹp đẽ, lý tưởng của những cộng đồng. Mô hình cuộc sống ấy, tác phẩm vừa

trích đã khái quát bằng chủ nghĩa "tự do tự tại", là mô hình của loài khỉ, nhưng nó có ý nghĩa

khái quát về xã hội. Đó là khả năng gợi thức của hình tượng văn học.

Tuy nhiên, sống bình yên, hạnh phúc và nhất là tự do vốn lại là vấn đề cực kỳ khó khăn

trong việc chiếm lĩnh và hưởng thụ nó. vấn đề này, xem qua lịch sử cuộc sống nơi trần gian

trên phạm vi thế giới đều rõ. Ở đây, nhân vật và hoàn cảnh trong tác phẩm lại không phải

chuyện của trần gian, mà là chuyện thần thoại kỳ diệu cho sức tưởng tượng của nhà văn tạo

nên. Nhưng tại sao Ngô Thừa Ân không trực tiếp viết đúng các vấn đề hiện thực trần trụi của

thời đại xã hội mà mình đã và đang sống lúc bấy giờ(?). Trong nhiều lý do có thể cắt nghĩa cho

câu hỏi này thì việc "né tránh tai mắt" các thiết chế đang cầm quyền trong xã hội là điều phải

nghĩ tới.

Trở lại chuyện muốn tồn tại tự do của loài khỉ. Đoạn văn trích trên là những câu nói của

tập thể lũ khỉ nói với Mỹ Hầu Vương, Nhưng đúng như một thủ lĩnh xứng đáng của giống

loài, Mỹ Hầu Vương còn có những ưu tư, hoài bão mang tính chiến lược hơn. Trong cách trả

lời của Mỹ Hầu Vương với tất cả lũ khỉ, ta thấy rõ chiều sâu của vấn đề khát vọng tự do. Có lẽ

theo Hầu Vương, tự do tự tại còn phải là vấn đề miên viễn trường cửu, thoát hẳn được cái chết

nghiệt ngã vốn không bỏ qua ai. Mỹ Hầu Vương nói: "Ngày nay dẫu không phải theo luật lệ

của ma chúa, không sợ oai quyền của chim muông, nhưng sau này, tuổi già sức yếu, trong

đó có lão Diêm Vương cai tri. Một ngày kia chết đi, chẳng hóa uổng công sinh ở trong- thế gian, không được mãi hưởng phúc trời ư?”(TP.I.72). Rồi từ đó, Mỹ Hầu Vương, một mình với

bao nhiêu nỗ lực đi tìm các đấng Phật, Tiên, Thần,Thánh để học pháp trường sinh, tránh khỏi

luân hồi, trường thọ ngang với trời đất núi sông. Hành trình đi tìm các đấng Phật, Tiên, Thần,

Thánh, Mỹ Hầu Vương phải kinh qua nhiều không gian bao la, bí ẩn và kỳ diệu. Điều thú vị là

dường như trời đất -Các lực lượng siêu nhiên đã chìa bàn tay thần diệu ra nhằm đỡ đần, che

chở cho Mỹ Hầu Vương. Có lẽ vậy, "nên từ khi cưỡi bè ra biển, luôn luôn có gió Đông-Nam,

đưa bè tới bờ biển Tây Bắc, chính là địa giới Nam thiên bộ châu".(TP.I.72). Cuối cùng, Mỹ

Hầu Vương qua nhân vật Tiều phu, lần đường, đã tìm đến được Tổ sư ở động "Tà Nguyệt Tam

Tinh" thuộc núi "Linh Đài Phương Thốn". Chưa nói việc chầu lễ, xin học đạo, thì đến được

cõi này, Mỹ Hầu Vương đã lênh đênh trên mặt biển, vất vã trên đất liền có đến "mười mấy

năm trời". Thời gian này với không gian ấy, lại cũng chỉ một thân Mỹ Hầu Vương lần dò tìm

kiếm, tác phẩm cho thấy nhân vật, từ rất sớm đã có ý nghĩa khai phá và đầy quyết tâm. Khi

gặp được Tổ sư ở động "Tà nguyệt tam tinh", điều có ý nghĩa hơn cả về thi pháp không gian

không phải là việc thu nhận, đặt tên của Tổ sư cho Mỹ Hầu Vương, mà là việc tự xác định

nguồn gốc của Mỹ Hầu Vương và việc Tổ sư nhận ra mối quan hệ với vũ trụ của Mỹ Hầu

Vương. Tác phẩm có đoạn:

"Tổ sư nói:

- Không phải là tính tình. Tính danh bố mẹ nhà ngươi trước là gì? Hầu vương nói:

- Con tuy không phải ở trên đây đẻ ra, nhưng lại là ở trong hòn đá sinh ra. Con chỉ nhớ

rằng trên núi Hoa quả có một tảng đá tiên. Năm ấy đá vỡ ra và sinh ra con.

Tổ sư nghe nói trong dạ mừng thầm nói:

- Như thế là trời đất sinh thành ra ngươi. Hãy lại đây cho ta xem." (TP.I.83).

Tổ sư vốn là nhân vật của thế giới Phật, Tiên, Thần, Thánh. Mỹ Hầu Vương là nhân vật

đang cần tìm đến thế giới ấy. Tác phẩm có chỗ suýt nữa Mỹ Hầu Vương bị Tổ sư đuổi ra khỏi

động. Nhưng khi nghe Mỹ Hầu Vương ra đời từ một hòn đá tiên, thì Tổ sư hiểu ngay mối quan

hệ từ nguồn gốc của Mỹ Hầu Vương. Đó là mối quan hệ với càn khôn. Sống với thế giới

Phật-Tiên-Thần-Thánh, nhân vật bao giờ cũng nhạy cảm với các hiên tượng tương ứng, tương

giao. Mỹ Hầu Vương sinh ra từ đá tiên tức là đã tương giao, tương thông với tạo hóa, vũ trụ.

Nhờ vậy, việc tiếp nhận của Tổ sư đối với Hầu vương như đoạn đối thoại trên là đầy ân cần,

thiện cảm. Chính vị Tổ sư này đã thay mặt cha mẹ của khỉ đá "đặt tên họ cho nó, trao truyền y

bát để tự thân nó tìm đường gia nhập vào cuộc sống đầy ảo hóa"[2/28,19]. Tên của nó là Tôn

Ngộ Không. Cũng có thể nói với danh xưng này, tác giả đã gán cho khỉ đá chút Phật

tính"[2/28,19]. Câu chuyện hãy còn dài dằng dặc nhưng trở lại vấn đề cội nguồn nhân vật, thì

quả là không gian - núi Hoa quả - đá tiên, nơi sinh ra Tôn Ngộ Không là không gian đã mang

thêm một chất lượng mới: đó là không gian nghệ thuật, một hình tượng có chủ định của quan

niệm nhà văn. Nhân vật ấy với khát vọng tự do, tuyệt đối, khát vọng trường sinh bất tử -là

chuyện phi thường, lớn lao, chỉ có thể có một cội nguồn xuất phát đầy bí ẩn và kỳ diệu như

vậy mới trở nên tương hợp để đem lại cho người đọc cảm nhận lý thú và thôi thúc phải đọc

tiếp cuộc hành trình tương lai của nhân vật.

Chính là nhờ được trời đất sinh ra như đã nói mà Tôn Ngộ Không đã được Tổ sư ở "Tà

Nguyệt Tam Tinh" dạy cho học đạo, truyền cho 72 phép thần thông biến hóa. Sau mười mấy

năm trời vất vả cầu tìm Phật -Tiên - Thần - Thánh, năm ba năm kiên nhẫn tu luyện phép thần

thông do Tổ sư truyền dạy, Tổ sư đã cho phép Tôn Ngộ Không trở về nơi đã xuất phát ra đi, đó

là động Thủy Liêm, núi Hoa Quả, nước Ngạo Lai, thuộc Đông thắng-thần châu. Thật cảm

động khi Tôn Ngộ Không "ứa hai hàng nước mắt" (TP.I.99) khi Sư tổ bảo phải trở về. Tôn

Ngộ Không vô cùng ân hận khi biết mình đã phạm phải lỗi khoe khoang tài sức, điều mà sư

phụ rất phật lòng. Khi chia tay, sư phụ đã dặn dò Tôn Ngộ Không cần khiêm tốn thì mới mong

an toàn tính mệnh. Trong những lời cuối cùng của sư phụ nói với Tôn Ngộ Không đã chớm

thấy những bất trắc sẵn sàng rình rập đối với Tôn trong thời gian sắp đến. Vốn là người thầy

dạy cao kiến, viễn minh, Sư tổ nói: "Ngươi đi chuyến này hẳn gặp điều không hay. Ngươi gây

vạ, hành hung thế nào tùy ý, nhưng không được nói là đồ đệ ta. Nếu ngươi nói ra nửa tiếng ta

sẽ biết ngay, ta sẽ lột da róc xương ngươi, đem thần hồn ngươi đày vào nơi cửu vi, muôn kiếp

không cất mình lên được!" (TP.I.99).

Theo dõi hành trình tiếp tới của Tôn Ngộ Không, điều này quả sẽ không sai!

Và, đã đến thời khắc chia tay, Tôn Ngộ Không từ biệt tất cả, "cất mình, tay bấm quyết,

phóng ra phép cân đẩu vân, về thẳng Đông Thắng Thần Châu, chỉ trong chốc lát đã thấy núi

Hoa Quả, động Thủy Liêm" (TP.I.100). Từ đây, Tôn Ngộ Không sống lại với giống loài của

mình và một thân một mình vẫn không thôi với những khát vọng lớn lao diễn ra ở nhiều không

gian thần kỳ phong phú.

2.1.2. Không gian mặt đất.

Ở phần không gian này, do có nhiều không gian khác nhau diễn ra trên hành trình đi Tây

thiên của thầy trò Đường Tăng và do nhiều lực lượng gây hấn khác nhau, nhiều hành trạng của

nhân vật chồng chéo lên nhau, nên việc trình bày của luận văn xin không trích dẫn nhiều về

tác phẩm. Dựa theo sự phát triển dần dần của tác phẩm theo hướng đi Tây thiên, chúng tôi

cũng phải sử dụng phương pháp miêu tả cho quá trình ấy. Cũng ở phần không gian này, chúng

ta sẽ nhận diện các tính cách nhân vật khác nhau được thể hiện. Những không gian bộ phận

như chùa chiền, núi cao, hang động, dòng sông, bến bãi... sẽ là nơi hội tụ của những tính cách

nhân vật dị thường. Chắc chắn sẽ có tính cách có quan hệ với hoàn cảnh và có tính cách hầu

như không có quan hệ gì. Những không gian, hoàn cảnh ở đây có trường hợp là sự tương sánh

hòa điệu với tính cách, có trường hợp như không tác động được gì với những tính cách có vẻ

"cố thủ", "bất biến".

Sau khi chia tay với Bá Khâm (hồi 13) tại núi Lưỡng Giới Sơn (nơi chia hai nước Đại

Đường và Thát Đát), Đường Tăng Huyền Trang đi một mình và đã nghe tiếng Tề Thiên Đại

Thánh...

Đến núi Ngũ hành, Đường Tăng cứu Tôn Ngộ Không, rồi thu nhận làm đệ tử, cùng đi

thỉnh kinh. Từ đây, Tôn Ngộ Không bắt đầu một hành trình mới với một nhiệm vụ mới, nhưng

con người quái kiệt này vẫn nguyên vẹn một tính cách, một lý tưởng.

Có thể xem hồi thứ 13 là hồi đầu tiên hai thầy trò cùng cất bước trên đường đi thỉnh kinh.

Trên con đường tiết tháng chạp rét mướt này, thầy trò phải trên đỉnh cao hiểm trở, chập chùng

vách đá cheo leo. Núi cao, rừng rậm, khe hiểm, sông sâu... luôn luôn là những địa điểm,

không gian chực chờ trước mặt. Tình trạng không gian như thế chỉ có thể là tai ách rập rình mà

thôi. Và quả nhiên, con rồng ở khe Ưng Sầu núi Rắn cuốn muốn toan quắp Đường Tăng,

nhưng Tôn Ngộ Không đã kịp thời giải cứu cho sư phụ. Thua keo này, bày keo khác, nó lại

nuốt chửng con ngựa bạch của Đường Tăng. Tôn Ngộ Không đi tìm đánh nó và nhờ Quan Âm

giúp sức bắt con rồng Ngao Thuận này hóa thành ngựa bạch, mang thồ hành lý cùng theo đoàn

đi thỉnh kinh. Đoàn đi đã thêm được một nhân vật nữa. Tuy có Quan Âm giúp sức, nhưng

ngay ở hồi xuât phát này của hai thầy trò, phải thấy công lao của Tôn Ngộ Không, Ở không

gian núi cao, khe hiểm tính chất chiến đấu của Tôn Ngộ Không không hề thay đổi.

Thực ra, hồi thứ 14 liền trước, Tôn Ngộ Không đã giết 6 tên cướp để bảo an sư phụ, tức

tính chiến đấu vốn hằng thường trong tính cách Tôn Ngộ Không. Nhưng nếu Tôn Ngộ Không

vì nhiệm vụ và cũng là đạo lý mà không thay đổi tính cách mình thì sư phụ Đường Tăng lại

mắng nhiếc Tôn Ngộ Không khi Tôn làm nhiệm vụ, gọi là "ác quá, ác quá!" (hồi 14) và mất

phương hướng trước "Thiên Sơn Vạn Thủy" (hồi 15), luôn luôn giàn giụa nước mắt. Có thể

còn sớm khi nói về tính cách của Đường Tăng ở đây, nhưng dấu hiệu của sự non kém trong

bản lĩnh đã lộ ra.

Ba nhân vật tiếp đi đến một không gian ngỡ bình yên là Quan Âm viện, nhưng bọn sư già

lại lừa lấy cà sa của Đường Tăng. Thế là tài sức của Tôn Ngộ Không phải trình ra: Tôn đi bằng

phép Cân đẩu vân đến núi Hắc Phong đánh nhau cả ngày với Hắc Đại Vương và cuối cùng,

bằng Miếng Tứ bình - đánh từ trong bụng Hắc Đại Vương đánh ra, thêm sự giúp sức của Quan

Âm, Tôn Ngộ Không chiến thắng, mang áo cà sa về cho sư phụ. Không kể không gian vời vợi

của núi Hắc Phong, không gian của những trận đánh từ trong nhà, ra sân, lên núi, về động...,

chỉ nói một điểm cũng có ý nghĩa không gian cực hẹp, đó là ổ bụng của Hắc Đại Vương: ở

đây, con người phi thường Tôn Ngộ Không hoàn toàn đủ phép lực để vừa thu nhỏ bản thân

mình, vừa tung hoành để chiến thắng kẻ thù! Trong những hành trình gian nan về sau, chúng

ta còn thấy con người có 72 phép thần thông, nhưng ở hồi thứ 17 này, đó là một điểm thú vị!

Và như vậy, tính cách khổng lồ của Tôn Ngộ Không còn có khả năng ứng hợp một cách phong

phú với những không gian khác nhau.

Một trong những loại không gian mà đoàn thỉnh kinh thường gặp trên lộ trình là trang

trại, trang viên, thôn trang. Tác phẩm không tập trung miêu tả về cấu trúc của loại không gian

này, mà chủ yếu kể việc bình yên hay bất an đang sẵn sàng ở những nơi ấy. Nếu là bất an thì

thường trang trại ấy có yêu quái và có liên hệ với một hành động nào đấy. Đó là trường

hợp ở hồi 18,19: Từ trang trại Lão Trang đến động Vân Sạn, Tôn Ngộ Không phải đánh nhau

với Trư Cương Liệp, cứu thoát Thúy Lan và Trư Cương Liệp đã quy thuận theo đoàn thỉnh

kinh. Đoàn đi thêm được một nhân vật nữa và Đường Tăng đặt tên cho Trư Cương Liệp là Trư

Bát Giới. Thêm được một nhân vật cho đoàn, giúp cứu con gái của Cao Lão, như ta thấy, tất cả

đều do tài sức của Tôn Ngộ Không, còn Đường Tăng không có vai trò gì. Nếu theo dõi kỹ, ta

sẽ thấy, từ khi đi thỉnh kinh, tai nạn đến với Đoàn, chủ yếu là đến với Đường Tăng, nhưng

người đứng ra giải quyết, trước sau vẫn là người đệ tử đầu tiên theo phò sư phụ - Tôn Ngộ

Không. Tai nạn đầu tiên về bản thân Đường Tăng (từ khi đi thỉnh kinh) là Đường Tăng bị Hồ

Tiêm Phong bắt đem về động dâng thịt cho Hoàng Phong Đại Vương. Thế rồi, cũng là tài

năng của Tôn Ngộ Không. Nhưng lần này, Tôn Ngộ Không có thêm sự trợ chiến của Trư Bát

Giới và chính Trư Bát Giới đã đón đường đánh chết yêu quái Hồ Tiên Phong, trong không

gian hang động hiểm trở của Hoàng Phong cùng với những cách cứu sư phụ của mình. Đó là

nhờ uy lực của Linh Cát Bồ Tát. Nguyên là con chuột ở núi Linh Sơn tư đắc đạo, Hoàng

Phong đã chấp nhận thua cuộc và cùng theo về với Linh Cát. Thế là tính mạng của Đường

Tăng được giải cứu. Nếu ở hồi 20, 21 này, Đường Tăng chỉ biết bó tay, thụ động trước tai nạn

thì Tôn Ngộ Không đã không ngừng quyền biến để chiến thắng phép kim thuyền thoát xác của

Hồ Tiên Phong đã kiên nhẫn chữa bệnh đau mắt vì gió độc của Hoàng Phong mà tìm đường

cứu nguy cho sư phụ, trong đó, phần công lao của Trư Bát Giới được ghi nhận. Sự vận động

của hành động nhân vật ở đây có tính tăng tiến rõ rệt.

Bốn nhân vật tiếp tục hành trình đến một không gian mới - loại không gian mà người

quan trọng bậc nhất về sự bảo an ít có kinh nghiệm, đó là sông, sông nước Lưu Sa (Nhược

Thủy), ở đây, yêu Quyển Liêm đại tướng vồ cướp Đường Tăng. Vì đã có thêm người anh em

cũng có tài sức, nên Tôn Ngộ Không để cho Trư Bát Giới đánh nhau với con yêu này. Để đảm

bảo cho tiến độ cuộc hành trình, Tôn Ngộ Không phải cưỡi mây đi Nam Hải viện đến Bồ Tát

và cuối cùng, nhờ một hồ lô đỏ của Bồ Tát, yêu Quyển Liêm đại tướng đã quy thuận rồi theo

đoàn đi thỉnh kinh. Đó là Ngộ Tĩnh - Sa Tăng.

Đoàn thỉnh kinh thêm được một nhân vật nữa, tức thành năm và dù "Lưu Sa tám trăm

rộng, Nhược Thủy sâu ba nghìn", nhưng Đoàn thỉnh kinh đã dùng hồ lô đỏ của Bồ Tát đặt

giữa với 9 sọ người của Quyển Liêm đại tướng làm thuyền qua sông bình yên, chặng đường

tiếp theo của Đoàn là đi đến một tu viện. Vì ham mê sắc dục, riêng Trư Bát Giới đã bị nạn,

nhưng cũng được thầy trò giải cứu. Từ hồi 24 đến hồi 26, chỉ vì 2 quả nhân sâm ở núi Vạn Thọ

mà cả thầy trò Đường Tăng phải một phen khốn khó. Do (anh em Tôn Ngộ Không) hái trộm

nhân sâm ăn và làm chết loại cây thuốc quý này, rồi lại lẳng lặng bỏ đi, nên chủ nhân Đại Tiên

đuổi theo Đoàn và hai bên đánh nhau kịch liệt. Thầy trò Đường Tăng đã bị Đại Tiên dùng

phép lực thu gọn vào tay áo 2 lần, chỉ trừ Tôn Ngộ Không giàu tài biến hóa nên thoát được

chân thân. Cũng nhờ thoát được mà Tôn Ngộ Không cứu được cả đoàn. Làm được những kỳ

tích này, Tôn Ngộ Không vẫn tiếp tục thể hiện những tài năng kỳ diệu của mình, trong đó,

việc biến hình (hóa gốc liễu, hóa sư tử đá), nhất là phép Cân đấu vân đã làm Tôn Ngộ Không

có dịp tung hoành trên không gian mênh mông quen thuộc. Đó là việc Tôn Ngộ Không đi

Bồng lai tiên cảnh gặp Thọ Tinh, Phúc Tinh, Lộc Tinh, đi núi tiên Phương trượng gặp Đế

Quân và đi Đông Dương Đại Hải cầu Quan Âm để tìm cách chữa sống lại cây nhân sâm cho

Đại Tiên.

Rời Vạn Thọ Sơn, Đoàn tiếp tục đi. Hầu như bao giờ cũng vậy, mỗi khi thấy núi cao,

sông sâu, mỗi khi thấy đói lòng, Đường Tăng thường gọi Tôn Ngộ Không. Chính Tôn Ngộ

Không là người chuyên chú nhất quán bảo vệ sư phụ trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nhưng công

trạng của Tôn vẫn không được Đường Tăng đánh giá đúng mức, thậm chí Đường Tăng còn

tức giận và đuổi Tôn Ngộ Không trở về núi Hoa Quả. Đó là trường hợp Tôn đánh chết ba lần

con yêu giả gái, hóa bà già, ông già ve vãn Đường Tăng. Tầm nhìn, sự đánh giá của Đường

Tăng đối với Tôn Ngộ Không lại trở nên tệ hại và thiếu bản lĩnh hơn khi Đường Tăng nghe lời

xúc Xiểm của Trư Bát Giới. Con người chân tu, một lòng theo Phật có khi còn nói năng thề

thốt như kẻ phàm tục: "Nếu còn gặp mi, ta sẽ sa xuống địa ngục A Tụy". (TP.II. 99). Ở hồi thứ

27 này, người tường thuật còn kể rằng khi về sắp đến núi Hoa Quả, động Thủy Liêm, Tôn Ngộ

Không vẫn còn tấm lòng thương nhớ Đường Tăng! Đó là biểu hiện tình nghĩa của Tôn Ngộ

Không - một con người sống có đạo lý chứ không phải là "người xấu" như Đường Tăng đánh

giá. Đường Tăng - Tôn Ngộ Không, hai thầy trò cùng mục đích, nhưng tính cách của họ

không giống nhau.

Có người đồ đệ tài ba như Tôn Ngộ Không mà Đoàn thỉnh kinh suýt có khi không giải

cứu được tai nạn. Giờ đây, đường ai nấy đi, biết sẽ ra sao trong chặng đường sắp tới?

Trong khi Tôn Ngộ Không về "Trùng tu Hoa Quả Sơn, phục chỉnh Thủy Liêm Động" thì

thầy trò Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng, ngựa bạch bị nạn yêu quái Hoàng Bào ở núi Hắc

Tùng. Không có Tôn Ngộ Không, nên Bát Giới, Sa Tăng phải ra tay đánh yêu quái để cứu

Đường Tăng. Nhưng yêu quái Hoàng Bào là con yêu nhiều tài phép hiểm, nên anh em Bát

giới, Sa tăng không sao thắng nổi. Đã thế, giữa chừng công việc, Bát Giới lại chui vào bụi

ngủ, trong khi Sa Tăng đã bị bọn yêu quái bắt đi. Trước cảnh đau lòng ấy, Long Mã đã biến

hình, rồi trực tiếp đánh nhau với yêu quái Hoàng Bào. Cũng không thắng được yêu quái. Long

mã bàn với Bát giới và đề nghị Bát Giới đi tìm nhờ Tôn Ngộ Không. Bỏ qua sự tệ bạc, đớn

hèn, xấu bụng của Bát Giới, Tôn Ngộ Không nhận lời đi giải cứu Đường Tăng, Sa Tăng. Đánh

nhau kịch liệt với Hoàng Bào, Tôn Ngộ Không lừa lấy được ngọc xá lị và lên thẳng Ngọc

Hoàng truy tìm tông tích yêu quái. Đó là Khuê Mộc Lang đã xuống hạ giới 13 năm và Ngọc

Hoàng sai bản bộ bắt về thượng giới.

Được dịp trở lại thiên đình, Tôn Ngộ Không vẫn ngang tàng như xưa: vào thiên môn, đi

thẳng tới điện Thông Minh gặp Ngọc Hoàng hỏi chuyện và khi trở về chỉ chào một câu. Dẫu

các thiên sư đòi hỏi bái tạ, Tôn Ngộ Không cũng chẳng làm. Tính cách và tài năng ấy đã làm

Ngọc Hoàng phải nói với thiên sư: "cốt sao y được vô sự, trên trời được thanh bình là may"!

Lại nói về việc cứu Sư phụ Đường Tăng. Yêu quái biến Đường Tăng thành một con hổ,

không mở mắt, mở miệng được. Tôn Ngộ Không đọc châm ngôn và phun nước giải cứu

Đường Tăng trở lại nguyên hình chân thân. Lần này, Đường Tăng xiết bao cảm tạ công đức

của Ngộ Không. Nhưng trong lời lẽ ấy, thực ra cũng đã phơi bày cái bất nhất của vị thủ lĩnh

Đoàn đi thỉnh kinh, vậy là Tôn Ngộ Không vì nghĩa đạo mà trở lại với Đoàn, cùng tiếp tục đi

thỉnh kinh. Lúc có Tôn Ngộ Không cũng như lúc không có người đồ đệ kiệt xuất này, Đoàn

thỉnh kinh cứ phải luôn gặp nạn. Họ đi đến núi Bình Đính Sơn. Bát Giới đánh nhau với Ma

Vương Kim giấc và Ngân giấc ở động Liên Hoa, rồi bị chúng bắt. Bằng thần thông của mình,

Tôn Ngộ Không biết tất cả sự giả - thật của yêu ma ; nhưng phải nghe lời Đường Tăng, nên

Tôn Ngộ Không thua phép di sơn của chúng. Kim đẩu yết đế và Thổ địa, Sơn thần đã hợp lực

cứu thoát Tôn Ngộ Không. Vừa thoát núi đè, Tôn Ngộ Không đã tính ngay phương kế giải

cứu sư phụ và các đệ Bát Giới, Sa Tăng. Biết yêu quái có 2 bửu bối lợi hại là Hồ lô hồng vàng

tía và Bình mỡ ngọc dê, Tôn Ngộ Không qua đối thoại, tìm hiểu, rồi lừa đổi hồ lô gọi là gói

trời (đổi hồ lô gói người). Tôn Ngộ Không nhanh trí đi báo Ngọc Hoàng, nhờ Natra giúp sức,

đến Bắc thiên môn, nhờ thêm Chân vũ và Natra dùng lá cờ đen làm tối cả trời đất, nên yêu ma

kinh sợ. Sau đó, Tôn Ngộ Không làm sáng trời đất lại và đổi lấy được hồ lô thật cùng Bình mỡ

ngọc dê, rồi biến đi. Hai yêu ma Quý tinh tế và Trùng linh lợi thí nghiệm hồ lô gói trời thì

không có tác dụng, biết ngay là đồ giả. Sợ bị lộ, Tôn Ngộ Không dùng phép thu lại hồ lô giả,

nên 2 yêu ma chỉ còn tay không! Khi phải kẹt dưới núi, ngỡ là Tôn Ngộ Không tuyệt đường

phò Sư phụ đi thỉnh kinh. Nhưng thoát được rồi thì từ mặt đất, thoắt một cái đã lên thiên đình,

chớp một cái lại làm trời đất từ sáng sang tối, biến đổi khôn lường đối với những trở lực diễn

ra. Nhưng tài năng ấy vẫn còn phải chiến đấu không ngừng. Ngay như bọn yêu quái đang nói

ở đây, chúng còn những ba bảo bối khác, là Kiếm thất tinh, quạt ba tiêu và dây kim tuyến đang

ở mẫu thân của tên ma em. Nhờ thần thông, nên Tôn Ngộ Không biết cả địa chỉ, mưu kế công

việc của yêu ma và đã giết được mẫu thân ma em là một con Hồ ly chín đuôi. Nhưng ma già đã

dùng hồ lô bắt được Tôn nhốt vào bên trong. Tôn lại biến thành con bọ mát, rồi nhân lúc ma

em sơ hở đưa hồ lô cho Ý Hải Long tức thì Tôn chớp lấy ngay và biến bù lại hồ lô giả. Tôn

Ngộ Không thừa thắng tiến đến động đánh với lão Ma Kim Giới đại vương rồi lấy được quạt

ba tiêu. Hồ A Thất, cậu ruột của ma em đến đánh trả thù cho anh em nhà lão ma liền bị Bát

Giới bổ đinh ba vào lưng phải đâm đầu bỏ chạy. Trong khi đó, Kim Giới đại vương không cẩn

thận lại kêu một tiếng (khi nghe Tôn Ngộ Không gọi tên mình) thì lập tức bị cuốn ngay vào

tịnh bình! Tôn Ngộ Không dán ngay bùa Thái Thượng Lão Quân vào đấy cho tuyệt đường

phục sinh. Chiến thắng xong, Tôn Ngộ Không lần lượt giải cứu cho Sư phụ, tất cả đều vui

mừng tạ ơn rồi lên đường. Trên đường đi, gặp Thái Thượng Lão Quân đòi lại tất cả bảo bối mà

Tôn Ngộ Không đã tướt đoạt của nhà lão ma, vì đó là của Thái Thượng mà bọn yêu ma đã ăn

cắp. Nhân phê phán Lão Quân, Tôn Ngộ Không biết nguồn gốc các bảo bối có liên quan đến

Quan Âm thì tính cách vốn dĩ của Tôn liền phán ngay mấy câu về vị Bồ Tát "Thực chẳng ra

sao" này. Tính cách ấy không ngừng tung hoành ngang dọc trên tất cả các không gian đã kinh

qua của những hồi này, mà ngay khi bị nạn núi đè thì tính cách ấy "hổ rạc hùng tâm vẫn giữ",

vẫn "khí tượng hiên ngang, tiếng nói sang sảng". (TP.II tr.221). Như thế, rõ ràng, dù bị yểm

xuống dưới chân núi, tức là một không gian tồn tại hẹp, đầy u uất, tính cách chống chọi, luôn

luôn chiến đấu... vẫn không hề bị đánh mất ở nhân vật. Như ta thấy, có khá nhiều tai nạn xảy

ra cho Đoàn thỉnh kinh, mà chủ yếu là xảy ra đối với Đường Tăng. Những tai nạn loại này, các

đệ tử phò sư phụ hết lòng giải cứu là đúng. Nhưng tác phẩm cũng cho thấy rằng có những tai

nạn thực ra là tai nạn lây, nhất là những trường hợp Đường Tăng nhận lời giúp cho người này,

người nọ. Tai nạn ở nước Okê là trường hợp như vậy. Ta không nói những mạch ngầm khác,

cứ trên tiến trình công việc và năng lực nhân sự mà xét, thì Đường Tăng hãy con là người

phàm mắt thịt, đang tu luyện, chưa có tài thần thông. Ấy vậy mà vẫn nhận lời giúp những việc

vượt quá sức mình! Dùng thành ngữ "lực bất tòng tâm" để nói về Đường Tăng có được chăng

(?!). vấn đề đáng quý là đồ độ của Đường Tăng đều thuận nghe Sư phụ và "cùng nhau giải cứu

cho tai nạn của Đại Vương nước Ôkê. Giải quyết được tai nạn này, Bát Giới cũng có công lớn,

nhất là lặn xuống nước, gặp Long Vương, rồi mang về được xác chết đã ướp còn nguyên của

Đại Vương nước Ôkê. Còn Tôn Ngộ Không cứu sống linh hồn của xác chết này bằng con

đường không trung "trên ba mươi từng trời", đó là đến viện Đâu Xuất ly hậu thiên cung để nhờ

một viên đơn hoàn hồn của Thái Thượng. Cứu được một mạng người, phục hồi được cả một

triều đình, thắng được con yêu sư tử lông xanh đã thiến..., Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới phải

chiến đấu nhiều nơi chốn gian nan, từ không gian cung đường chật hẹp có trà trộn Đường

Tăng giả, Đường Tăng thực đến xứ sở Thủy cung của Long Vương rồi đến trên ba mươi tầng

trời thăm thẳm.... Không có tài phép và tấm lòng vì Đường Tăng làm sao các đồ đệ có thể thực

hiện điều này. Tuy nhiên, tài phép và tấm lòng ấy chừng như không thay đổi gì được về tình

cảm, quan niệm và tính cách của Đường Tăng. Chính ở tai nạn vừa kể trên, cũng có lần Đường

Tăng nghe lời Trư Bát Giới nên đã niệm chú làm đau đớn Tôn Ngộ Không. Cũng mới đó thôi,

khi Đường Tăng cảm tạ công đức Tôn Ngộ Không đã cứu mình từ con hổ câm tiếng trở lại làm

người, Tôn Ngộ Không từng nói: chỉ mong Sư phụ đừng niệm chú là đủ rồi - lời mong cầu ấy,

Đường Tăng chẳng không nhớ sao?. Tác phẩm kể rằng từ hồi 40 đến hồi 43, đồ đệ của Đường

Tăng, nhất là Tôn Ngộ Không đã liên tiếp ứng biến không kể thân mình để cứu Đường Tăng

và cả Đoàn thỉnh kinh, Phát hiện ra yêu tinh, Tôn Ngộ Không bàn lui nhưng ý kiến chí hại của

Đường Tăng từ ngay khe Thông Héo, núi Hiệu, động Hỏa Vân, nhưng Đường Tăng không

những không nghe những ý kiến đúng đắn của Tôn Ngộ Không mà còn luôn tỏ ra giận dữ đối

với người đệ tử thành tâm và thông tuệ này. Do không nghe lời đệ tử, quả nhiên Đường Tăng

bị nạn lớn. Vậy là tất cả đồ đệ phải lo cứu Sự phụ. Trận kịch chiến này, Bát Giới và Tôn Ngộ

Không đều bị nạn. Đồng đội họ cứu giúp lẫn nhau và đã đánh nhau với yếu tinh (Hồng Hài

Nhi cùng bọn quái con) từ động Hỏa vân, đến trên không trung, rồi tiếp đánh yêu quái ỏ sông

Hắc Sửu là Tiểu Đà đang chiếm ngôi của Hà Thần ở Thủy Phủ... để hoàn thành sứ mệnh bảo

an và giải cứu cho Sư phụ cùng cả Đoàn thỉnh kinh. Nếu ở những hồi nói trên ta thấy Bát giới

có khi ham mê sắc dục, nói lời xúc Xiểm, tham ăn và sống có tính chất quán tính, bản năng thì

ở những hồi này, hồi 41, Trư Bát Giới đã dùng phép xoa huyệt của nhà chùa, chữa thông khí

huyết cho tai nạn tê cứng (vì khói lửa độc của Hồng Hài Nhi) đang hành hạ Tôn Ngộ Không.

Tuy "con người Trư tập trung cao độ những đặc điểm về tính cách phức tạp của con người

trong cuộc sống hiện thực"[13/115], nhưng biểu hiện cứu giúp đồng đội đàn anh nói trên là

điều đáng ghi nhận.

Đoàn tiếp tục đi. Đến Xa Trì quốc gặp cảnh ngang trái oan khiên của 500 vị hòa thượng

bị bọn đạo sĩ hành xác, Tôn liền động lòng thương cảm và đã cứu nguy cho tất cả họ. Tại

không gian Tam Thanh Quán, Tôn hóa gió giải tán bọn đạo sĩ cầu kinh và anh em Tôn Ngộ

Không được dịp ăn lễ vật của chúng. Cái đáng quý là sự tung hoành của Tôn Ngộ Không đã

thắng được Đại Tiên: Đại Tiên cầu mưa giúp quốc vương, giúp mùa màng nhân dân không

được, còn Tôn Ngộ Không đã cầu được mưa với những phép biến hóa diệu kỳ. Những việc

làm của Tôn Ngộ Không bao giờ cũng chứng tỏ rằng luôn có lợi cho mọi người. Kết thúc tập

II, chúng ta được dịp thấy Tôn Ngộ Không chỉ chuyên chiến đấu với bọn đạo sĩ nhũng nhiễu

bằng cách phép biến hình. Tôn Ngộ Không đã biến từ con rết, con bọ mát đến việc mọc được

đầu khi bị chém, chuyển nước mát thành nước sôi bỏng để chiến thắng từ Hổ Tiên, Hổ Lực

đến Lộc Lực và Dương Lực, nguyên là những con hổ, con hươu, con dê chuyên làm hại các

nhà sư và dân lành. Sang đầu tập III, Đoàn đi lại gặp không gian quen thuộc nhưng chưa thể

vượt qua, đó là "Thông thiên hà", "rộng hơn tám trăm dặm, tự cổ ít người qua". Chưa có

phương hướng qua sông, thầy trò đã đồng tâm giúp gia đình họ Trần, đánh Linh cảm đại

vương để khử trừ lệ tế người sống hàng năm. Cũng không ngờ quái vật này khi thua trận lại

hóa gió trút xuống con sông sâu rộng nói trên và bắt luôn Đường tăng đem về thủy cung chờ

ngày thịt. Trước cái không gian không phải sở trường của mình, Tôn đế cho Bát Giới, Sa Tăng

nhử đánh, còn Tôn biến thành con cua để tìm nơi bị giam giữ sư phụ. Tình thế khó, Tôn cưỡi

mây đi Phổ Đà cầu viện Quan Âm và Quan Âm đã giúp sức, thu được yêu quái. Yêu quái thua,

nên Rùa già lấy lại được Thủy Nguyên (trước bị yêu chiếm cứ) và tự giác chở thầy trò Đường

Tăng qua sông như là sự đền ơn. (Con rùa này còn nhờ Đường Tăng hỏi phật ở Tây Phương

bao giờ nó mới được thay lốt để trở lại làm người). Thì ra, thắng lợi của anh em Tôn Ngộ

Không đã được nhân đôi: giúp gia đình họ Trần Gia Trang, khỏi phải tế sống con cái, giúp

Rùa già lấy lại được Thủy Nguyên của mình và đúng như Rùa già nói, đó là công ơn "nhất cử

nhi lưỡng đắc" (TP.III.trang 65). Thầy trò tiếp tục đi và vì không nghe lời Tôn Ngộ Không,

nên Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng đều bị quân của Độc Giốc Tỉ đại vương bắt tất cả đem về

động. Đây là yêu quái cực kỳ lợi hại, đã làm Tôn Ngộ Không nhiều phen điêu đứng. Không

thể bỏ Sư phụ và các sư đệ, Tôn Ngộ Không tìm đến tận động Kim Đâu đánh nhau với yêu

quái trên dưới 50 hiệp và cuối cùng Tôn Ngộ Không bị thu gậy sắt. Mất vũ khí sống còn, Tôn

buộc phải nhiều phen đi về từ mặt đất lên Thiên Đình để nhờ các lực lượng khác nhau trợ giúp.

Nhưng tất cả đều thua cái vòng kim cương của yêu quái, một bảo bối cực hiểm. Tôn Ngộ

Không bèn dựa vào sở trường biến hình của mình là hóa ra con nhặng xanh, rồi con tinh đầu

cầy để vào động lấy cắp bảo bối của yêu và gậy sắt của mình. Không thấy bảo bối cái vòng ;

chỉ lấy được gậy sắt, Tôn Ngộ Không lại đi đánh tiếp, lại bị thu gậy sắt lần nữa. Cuối cùng,

Tôn Ngộ Không cưỡi mây đi Tây Thiên cầu viện Như lai, rồi đến Thái thượng ở điện Đẩu

Xuất Ly hậu thiên mới hàng phục được yêu quái bằng quạt Ba Tiêu của Thái Thượng. Đó là

một con trâu xanh đã trốn từ thượng giới xuống trần gian ở động Kim Đâu để quây phá. Vậy là

tất cả bọn yêu đều bị giết sạch và thầy trò Đường Tăng đã được giải cứu. Thu lại tất cả binh

khí, hành lý cho Đoàn. Nếu chiến đâu với yêu quái Độc Giốc Tỉ Tôn Ngộ Không rất nhiều

phen chớp nhoáng đi về từ không gian mặt đất đến không trung, Thiên Đình thì tai nạn ở Sông

Tử Mẫu, ở địa giới Tây Lương ở động Tỳ Bà và đoạn trên đường về nhà ông Lão Dương, chủ

yếu là những không gian mặt đất. Ở những nơi chốn này sự nguy hiểm cũng không kém gì so

với trước đó, nhưng các đồ đệ của Đường Tăng, nhất là Tôn Ngộ Không đã tài tình trong sự

biến hóa, trong mọi tình huống khó khăn để thắng được các bọn yêu quái, vượt qua tai nạn bọn

cướp đường.

Ở những hồi này, nhất là hồi thứ 56, nhân vật trưởng đoàn thỉnh kinh lại hé lộ thêm một

nét đạo đức không lấy gì tốt đẹp. Đó là trong lời kinh cầu nguyện cho linh hồn hai kẻ cướp đã

bị Tôn Ngộ Không đánh chết, Đường Tăng có bảo chúng đi kiện hành vi của Tôn Ngộ Không.

Vì thế mà thầy trò giận nhau. Và ở đoạn cuối, Đường Tăng tiếp đọc chú Cẩn Cô, rồi đuổi Tôn

Ngộ Không đi khỏi đoàn, nhưng người đồ đệ tình nghĩa và rất cần thiết này vẫn muốn theo

thầy tầm đạo. Ấy vậy mà sư phụ Đường Tăng lại nói những lời như không phải thoát ra từ

miệng người chân tu: "Ta đi được hay không đi được, không bận chi đến mi! xéo ngay! xéo

ngay! Nhà ngươi hơi chậm một tí, ta sẽ đọc chú, lần này đọc không ngừng miệng, thắt cho mi

vãi óc ra!" (TP.III.tr213).

" Không bận chi đến mi!" Lời nói rẻ rúng này của Đường Tăng trong các hồi tiếp theo

thì ngược lại. Quả là Tôn Ngộ Không muốn hoàn tục, muốn được tháo vòng kim cô, nhưng

Quan Âm, rồi Như Lai đều khuyên bảo Tôn Ngộ Không phải theo phò Đường Tăng. Do vậy,

mà tai nạn của Đường Tăng do con yêu khỉ sáu tai gây ra, đã làm Tôn Ngộ Không ghi thêm

những trận chiến đấu cực kỳ gian khổ. Đó là các trận chiến đấu từ động Thủy Liêm đến núi

Bối Âm rồi điện Sâm La ở Âm ty. Sự giả dạng trà trộn song song thành Tôn Ngộ Không của

con khỉ sáu tai thực đã kích thích những năng lực xử trí tài tình của Tôn Ngộ Không. Và, cuối

cùng, dù Như Lai can ngăn, Tôn Ngộ Không vẫn kết thúc đời yêu quái của nó bằng một gậy

sắt đầy căm giận. Trừ khử những yêu ma ác nghiệt như thế, chẳng lẽ lại là hành động bất nhân

ư?!.

Giải quyết xong tai ách, như ý kiến của Quan Âm và Như Lai, thầy trò Đường Tăng lại

hòa thuận và tiếp tục lên đường đi Tây Thiên.

Tai nạn vẫn chưa buông những người có quan niệm, tính cách dị thường này. Giải quyết

những tai nạn kế tiếp cho cả đoàn ở các hồi tiếp theo vẫn là người đồ đệ từng bị Sư phụ Đường

Tăng làm cho nhiều lần đau đớn: Tôn Ngộ Không.

Nếu như từ khi bước chân ra đi thỉnh kinh đến lúc này, ba lần Tôn Ngộ Không đánh nhau

với Bạch Cốt Tinh là những trận kịch chiến không thể quên, thì giờ đây, Tôn Ngộ Không phải

đánh với yêu tinh ba lần để mượn quạt Ba tiêu cũng là những trận kịch chiến phải ghi tâm

khắc cốt. Để mượn được Quạt Ba Tiêu thực, Tôn Ngộ Không phải thân chinh đến động Ba

Tiêu đánh nhau với La Sát, tìm đến động Ma Vân trong núi Tích Lôi đánh nhau với Đại Lực

vương trước sau gần vài trăm hiệp. Trong ba lần mượn quạt Ba Tiêu này, trí lực và sự biến hóa

khôn lường của Tôn Ngộ Không luôn luôn làm yêu quái vất vả. Điều thú vị là so với những

hồi trước, không gian sông nước vốn không phải lãnh địa sở trường của Tôn Ngộ Không, thì ở

những hồi này, Tôn Ngộ Không nhanh chóng hóa thành con cua nặng 36 cân nhảy xuống đầm

Bích Ba để dò la và tìm cách chiến đấu. Nhưng có lẽ hấp dẫn hơn cả là phong thái ngạo nghễ

của Tôn Ngộ Không trong 7 lần thi tài biến hóa với Đại Lực Vương. Cuối cùng, Đại Lực

Vương phải chạy về động Ba Tiêu và tại đấy, nhờ sự vâng chỉ của Phật Như Lai mà tứ phương

đều có lực lượng truy bắt Đại Lực Vương, Đại Lực Vương phải thua cuộc, hiện nguyên hình

là con trâu trắng rồi theo Natra về nước Phật.

Rõ ràng, không có tài sức của Tôn Ngộ Không, làm sao lửa ở Hỏa Diệm Sơn chịu im tắt

- có nghĩa là không có Tôn Ngộ Không thì đoàn thỉnh kinh không thể tiếp tục đi qua núi lửa tai

ác này.Sở dĩ nói phong thái ngạo nghễ của Tôn Ngộ Không trong việc thi tài với Đại Lực

Vương, vì lần nào, người đệ tử ưu tú này của Đường Tăng cũng biến hóa hơn yêu quái. Ở lần

biến hóa cuối cùng, khi Đại Lực Vương hiện rõ nguyên hình là con trâu trắng to dài hơn ngàn

trượng thì Tôn Ngộ Không cũng hiên nguyên hình biến cao muôn trượng, đầu như Thái Sơn,

mắt như mặt trời, mặt trăng. Khả năng của Tôn Ngộ Không như thế, chỉ có thể là con người

khổng lồ, là một hình tượng mang tầm cỡ vũ trụ.

Nếu thử vẽ biểu diễn một " đồ thị" chiến đấu của Tôn Ngộ Không trong suốt hành trình

của Đoàn thỉnh kinh thì đồ thị ấy có những đĩnh cao vời vợi gắn liền với chiến thắng. Nhưng

cũng trên đồ thị ấy, có những điểm chướng ngại không đáng kể và Tôn Ngộ Không đã vượt

qua nhẹ nhàng. Việc Tôn bắt các con yêu Bôn ba Nhi bá, Bá ba Nhi bá ở chùa Kim Quang, rồi

đánh nhau với con yêu Phò Mã của Long Vương, tiếp đến công trạng lấy lại cho tháp chùa

tráp Xá Lị, cỏ linh chi ở hồi 62, 63 và chiến thắng bọn tiên ông, Hạnh tiên núi Kinh Cức ở hồi

64 là những ví dụ.

Theo dõi bước chân của Đoàn thỉnh kinh, chúng ta đều thấy Đường Tăng và cả Đoàn

gặp phải quá nhiều tai nạn. Điều này không có gì ngạc nhiên. Chính hiện tượng quá nhiều tai

nạn này đã góp phần làm rõ sự phong phú trong khả năng phản ánh của Tây Du Ký. Giáo sư

Lương Duy Thứ cho rằng "mặt đối lập của tác phẩm vô cùng rộng lớn"[51/14]. Chính sự

"rộng lớn" này mới dung chứa tất cả những mặt hiện thực từ nhỏ nhất đến mức lớn có ý nghĩa

cả thời đại của nhà văn Ngô Thừa Ân từng sống. Giáo sư Lương Duy Thứ còn chỉ ra cái muôn

hình vạn trạng của các loại yêu quái cồ nguồn gốc và "sự tu luyện" khác nhau như sau: "Trong

tác phẩm còn biết bao nhiêu ma quỷ, thú dữ, trùng độc cũng nham hiểm, quỷ quyệt chẳng

khác gì con người. Nhờ tu luyện giỏi có con biến thành kẻ quân tử, có con biến thành mỹ nữ,

có con thành nhà thuyết giáo. Đó chính là hình bóng của bọn cường hào, ác bá, quan lại, vãn

nhân, học sĩ nhan nhản trong đời sống hiện thực"[51/15,lổ]. Như vậy, việc mở rộng diện phản

ánh, hướng ngòi bút vào, vô số những tai ách, nham hiểm... của Ngô Thừa Ân là việc có quan

niệm tính.

Trở lại với con đường đi thỉnh kinh, Đường Tăng, vị thủ lĩnh của Đoàn thỉnh kinh vẫn

nguyên vẹn cái ngây thơ của mình khi đến Tiểu Lôi Âm Tự. Đó là việc cứ đòi lễ Phật mà

không hề suy xét trước sau. Không có phật nào cả. Ở đấy chỉ toàn là yêu quái giả dạng. Nhờ

con mắt thấu suốt của Tôn Ngộ Không mà bọn yêu ở đấy phải hiện thân ra đánh với Tôn Ngộ

Không. Con yêu Hoàng Mi đại vương này cũng cực kỳ nguy hiểm, bởi bửu bối cái nạo bạc

bằng vàng của nó. Vì bửu bối này mà Tôn Ngộ Không phải vất vả. Từ sự giúp sức của 28 vị

tinh tú đến việc thoát thân của Tôn qua lỗ nhỏ trên chóp sừng Can Kim Long; từ sự giúp sức

của Đăng Ma Thiên Tôn cho đến mưu cao của Di Lặc, Tôn Ngộ Không mới vượt qua được tai

nạn này. So với tai nạn do Hoàng Mi đại vương như vừa nhắc trên thì con yêu chuyên ăn thịt

súc vật và con người ở hồi 67 tiếp theo là chuyện nhẹ nhàng trong cách giải quyết của Tôn

Ngộ Không và Trư Bát Giới. Ở hồi này, có thể thấy thêm công sức và dục vọng của Trư Bát

Giới. Đó là khi gặp đường đi khó khăn, Bát Giới phải dùng mũi chũi đường, dọn dẹp lối đi và

bộc lộ tính cách tham ăn nhiều vô kể. Riêng sự tham ăn của Trư Bát Giới là nét đối lập với

tính cách của Tôn Ngộ Không. Giáo sư Trần Xuân Đề cho rằng "Ngô Thừa Ân xây dựng nhận

vật Trư Bát Giới với mục đích thông qua quan hệ hỗ trợ giữa các hình tượng nhân vật nhằm

làm nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm và những tính cách chủ yếu của các nhân

vật"[13/lll]. Quan sát mối tương quan của các nhân vật trong Tây Du Ký, nhận xét này đúng.

Một điều khác thú vị trong năng lực Tôn Ngộ Không là con người dị thường này đã chữa

bệnh cho quốc vương nước Chu Tử. Trong khi sư phụ Đường Tăng chửi mắng và thiếu tin

tưởng người đồ đệ đầy bí ẩn về tài năng thì các thái y tại vương triều lại hết lời khen ngợi.

Không những thế, Tôn Ngộ Không còn có trí lực đa kế để cứu được Kim Thánh hoàng hậu trả

về cho quốc vương Chu Tử và lừa lấy được bảo bối nhạc vàng của con yêu sấu lông vàng. Tuy

có Quan Âm Bồ Tát đến giải cứu cho con yêu này (vì đã hết hạn 3 năm), nhưng việc nghĩ ra

kỷ vật đôi xuyến vàng của Kim Thánh dùng làm của tin, việc hóa con nhặng xanh, rồi con sâu

ngủ, con hầu Xuân Kiều chứng tỏ thần thông của Tôn Ngộ Không luôn luôn được ứng biến sử

dụng trong mọi tình huống, mọi không gian.

Vừa xong tai ách nước Chu Tử, Tôn Ngộ Không lại phải chiến đấu với 7 con nhện thành

tinh ở động Bàn Ty, suối Trạc cấu. Chiến đấu ở không gian sông nước, Trư Bát Giới mạnh

dạn hóa cá trê để cùng tắm với lũ yêu mà chiến đấu, còn Tôn Ngộ Không nhai lông tơ phun

thành chim ưng để cắn mồ trừ khử chúng, tức các loại sâu bọ, bồ vẽ, chuồn chuồn được chúng

hóa thân. Nhờ vậy mà anh em Tôn Ngộ Không cứu được sư phụ Đường Tăng. Nhưng bảy con

yêu lại đi nhờ đại huynh Đạo sĩ, vốn là tay có thuốc độc luyện từ cứt chim trên núi. Cũng do

không cẩn thận mà Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng ăn phải táo nó mời đầy thuốc độc, rồi ngã

bịnh tại chỗ, một mình Tôn Ngộ Không chiến đấu với Đạo sĩ và cả một đám tơ nhện do 7 con

tinh hóa ra. Bị bưng bít, bị dập đầu, nhưng Tôn Ngộ Không vẫn không rời nhiệm vụ giải cứu,

dù phải nhận rằng con yêu Bách nhỡn ma quân này không phải dễ chiến thắng. Nhờ Bồ Tát

hiện thân thành người đàn bà góa bụa giúp phương hướng, Tôn đã cầu viện đến Thánh Tỳ

Lam ở động Thiên Hoa, núi Tử Vân, Tiên bà Tỳ Lam đã thực lòng giúp, nên bản tướng của

con yêu là một con rết thành tinh dài 7 thước phải hiện nguyên hình. Tỳ Lam còn cho thuốc để

3 thầy trò Đường Tăng uống thổ hết độc dược mới được bình an. Sự liên kết của 7 con tinh

nhện và đạo sĩ để hãm hại thầy trò Đường Tăng như trên đã chuyển dịch từ không gian sông

nước đến cung tiên tuy chỉ với hai ngón độc (lưới nhện và táo có thuốc hiểm) nhưng khá hiểm

hóc. Ở các hồi này, phép hóa thân của Tôn Ngộ Không xuất hiện thêm một chiêu độc đáo, đó

là hóa thành con Lăng Lý Lân (Xuyên Sơn giáp) để tự cứu lấy mình, rồi mới tiếp tục hành

trình giải cứu. Trước sau, Tôn Ngộ Không vẫn thừa sự xử trí nhanh gọn để đi đến thắng lợi.

Từ hồi 74 đến hồi 77, cũng năng lực ấy, Tôn đã chiến đấu thắng lợi ba con yêu ma thần thông

vô cùng quảng đại. Đó là đoạn chuyện tại núi Sư Đà. Cũng như hầu hết các nơi chốn thầy trò

từng đi qua, tại địa điểm mới mẻ này, bọn yêu ma vẫn cứ đòi ăn thịt Đường Tăng để được

trường thọ. Vậy là Tôn Ngộ Không phải giết bọn yêu đi tuần núi sau khi đã hỏi cặn kẻ mọi

điều, rồi hóa thân thành yêu, tìm đến động của bọn ba yêu ma đánh với chúng. Tổn Ngộ

Không sơ hở nên bị phát hiện là yêu ma giả, nên con ma thứ hai đã bắt được Tôn nhốt vào bình

Âm Dương rất lợi hại. Nhưng rồi bình Âm Dương đã bị Tôn Ngộ Không khoan thủng nhờ ba

sợi lông cứu mạng của Bồ Tát cho năm xưa. Tôn lại đánh nhau với lũ ma, có cả Trư Bát Giới

trợ chiến. Con ma già há họng để nuốt chửng Bát Giới, Bát Giới hoảng sợ, thì Tôn Ngộ Không

tiến lên: nó nuốt vào bụng, đắc thắng trở về. Đã có kinh nghiệm miếng tứ bình đánh từ trong

bụng đánh ra, lần này, nhân uống rượu (của yêu quái hại Tổn), Tôn ngà ngà say, nên đâm

ngang dọc, quậy tan nát ruột gan của con ma già. Nó thua, nhưng cả bọn ma này cũng lắm

mưu kế. Biết thế, Tôn Ngộ Không cài kỹ những thủ đoạn để chận đường phản trắc. Mà chúng

phản trắc nuốt lời thật, lại đánh nhau và Bát Giới bị ma dùng vòi quắp về động. Tôn Ngộ

Không phải đi cứu Bát Giới. Chúng lại bày mưu "chia để trị", rồi trong khi hỗn loạn của các

hiệp đánh lẫn nhau, bọn yêu binh đã bắt được Đường Tăng, ba anh em Tôn Ngộ Không tiếp

đánh với con yêu ma nhưng lần lượt bị chúng bắt cả đem về chung chỗ với Đường Tăng để

nấu cao. Bèn sự biến hóa, Tôn giải cứu được cả thầy trò nhưng cuối cùng lại bị bắt lại, chỉ trừ

Tôn Ngộ Không. Tôn lấy làm đau đớn khi nghe tin bọn yêu ma ăn thịt Đường Tăng. Tôn Ngộ

Không liền đi cầu viện Như Lai và Như Lai đã sai Ca Diếp, Anan, Văn Thù, Phổ hiền cùng

đến giúp bắt được yêu ma rồi giải cứu cho tất thảy thầy trò. Những hồi trên đây cũng kết thúc

thắng lợi, tai qua nạn khỏi, nhưng quả có nhiều vất vả, nhất là Tôn Ngộ Không.

Trong rất nhiều cuộc chiến đấu của Tôn Ngộ Không, chúng ta thường thấy chiến đấu

trước hết là để khử trừ những tai ách trên đường, tạo điều kiện thuận lợi cho hành trình đi

thỉnh kinh. Nhưng, cũng có những cuộc chiến đấu mà Tôn Ngộ Không chủ yếu cứu giúp con

người. Với ý này, có thể xem cuộc chiến đấu của Tôn Ngộ Không đối với quốc trượng đạo sĩ

(nguyên là một con hươu trắng) là một công việc giàu ý nghĩa nhân đạo. Có thể gộp hai hồi 78

và 79 lại thành một tiêu đề đầy nghĩa cử nhân đạo là: Tôn Ngộ Không cứu sống trẻ em nước

Tỳ Kheo (bấy giờ đổi tên là Tiểu tử), cố nhiên, trong tác phẩm, hai hồi này vẫn phải nói nhiều

về việc chiến đấu của Tôn Ngộ Không đối với quốc trượng từ giữa vương triều nước Tỳ Kheo

cho đến động của quốc trượng. Nhưng công việc ấy chính là để cứu sống 1.100 đứa trẻ con

đang bị nhốt trong lồng đợi ngày giết thịt, lấy tim gan làm thuốc trường sinh cho vua.

Tóm lại, gọi rằng "Tôn Ngộ Không cứu sống trẻ em nước Tỳ Kheo" là thêm một xác

định về chiến công, nhất là thêm một nét phẩm chất của Tôn Ngộ Không, cũng là ý nghĩa nhân

đạo trong hình tượng nhân vật.

Thầy trò tiếp tục đi và sư phụ Đường Tăng vẫn nguyên cái tình thương người không biết

soi xét như trước: gặp yêu ma giả bị nạn kêu cứu thì động viên học trò cứu ngay. Đó là con yêu

Địa dũng phu nhân (nguyên là con nuôi Lý thiên vương, em nuôi Na Tra). Phải đánh đến hai

ba lần với con yêu này ở động Vô Đề của nó, nhưng Tôn Ngộ Không vẫn không thắng được.

Lần cuối, Tôn Ngộ Không vào thẳng động đánh nó để cứu sư phụ Đường Tăng thì phát hiện

nguồn gốc của nó qua bài vị thờ còn để lại. Nhờ trực giác về quan hệ nguồn gốc này, mà Tôn

đã thắng được con yêu Địa dũng phu nhân. Suốt ba hồi từ 80 đến 83 này, căn bản vẫn một

mình Tôn Ngộ Không chiến đấu, chuyển dịch không gian từ núi Hắc Tùng, động Vô Đề cho

đến Thiên Đình rồi trở lại mặt đất để kết thúc chiến thắng. Ba hồi tiếp theo từ 84 đến đến 87,

chúng ta cũng lại chỉ thấy vai trò năng động, xoay xở của Tôn Ngộ Không trước những

chướng ngại trên đường thỉnh kinh. Xét về phía đánh nhau với yêu quái, ở các hồi này, Tôn

Ngộ Khổng đã chiến đấu căng thẳng với bọn yêu tại núi Ân Vụ, động Chiết Nhạc liên hoàn để

mở đường cứu sư phụ Đường Tăng và cuối cùng Tôn Ngộ Không đã thắng, Bát Giới quá giận

con yêu quái nên bổ một đinh ba làm nó chết tươi. Nó hiện nguyên hình là một con báo già da

vằn lá ngải. Tuy nhiên, cũng ở các hồi này, việc ngỗ nghịch của Tôn Ngộ Không có lẽ là vấn

đề đáng nói hơn. Đó là việc đang đêm, Tôn Ngộ Không khoan lỗ hòm chui ra, làm phép vào

cung thành nhà vua, biến hóa ra hàng ngàn dao cạo, dao cho các Tôn Ngộ Không giả đi cạo

trọc đầu tất thảy bọn vua quan, hoàng hậu, cung phi... Chúng ta đều biết, ở nhiều hồi trước

đây, Tôn Ngộ Không từng coi thường tất cả lực lượng quyền uy siêu nhiên, từ Long Cung,

Âm Ty đến Thiên Đình. Khi Tôn Ngộ Không trở về với mặt đất, chủ yếu theo phò Đường

Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh thì việc gặp gỡ các vương triều ở các nước khác nhau để đổi

công việc được diễn đi diễn lại nhiều lần.

Nhưng lần này, tại nước Diệt Pháp (sau, Tôn Ngộ Không đổi tên nước cho nhà vua là

Kinh Pháp để được bình yên thịnh trị), Tôn Ngộ Không đã tổ chức cạo trọc đầu tất cả bọn

chúng. Rõ ràng là một tính cách ngỗ nghịch! Đành rằng các ngỗ nghịch không phải đến bây

giờ ta mới thấy. Nhưng cái ngỗ nghịch cạo trọc đầu bọn ma quan là đáng suy nghĩ. Suy cho

cùng, đúng như giáo sư Lương Duy Thứ xác định, Tôn Ngộ Không là một kiểu hiệp sĩ chống

trời, không thừa nhận bất kỳ một thứ quyền uy nào [3/19]. Và, điều này, có quan hệ với quan

điểm chính trị của nhà văn Ngô Thừa Ân.

Thầy trò tiếp tục lên đường, đến ngoại quân nước Thiên Trúc quận Phượng tiên thấy dân

khổ, vì thiếu nước đã ba năm, Tôn Ngộ Không mấy lần từ mặt đất đi thiên đình để giúp quan

dân xứ này đạt được nguyện vọng. Thầy trò lại đến nước Phủ Ngọc Hoa phồn vinh, Tôn Ngộ

Không nhận dạy võ nghệ cho ba vương tử nước này. Do binh khí của anh em Tôn Ngộ Không

khá đặc biệt, luôn chiếu sáng lấp lánh, lại để trong xưởng rèn tập của nhà 3 anh em vương tử,

nên đang đêm, có một con yêu đến lấy cắp và thế là, những trận chiến đấu tìm diệt xảy ra. Ba

anh em Tôn Ngộ Không lên đường truy tìm binh khí và đã gặp đúng ngay đầu môi của công

việc. Đó là bọn yêu cổ quái Điêu Toàn và Điều Toàn cổ quái đang đi mời Cửu Linh nguyên

thánh, ông nội của đại vương của chúng ta đến dự tiệc lấy cắp binh khí gọi là hội đinh ba.

Tuyệt không bỏ lỡ cơ hội, Tôn Ngộ Không nhổ nước bọt, hóa phép bắt chúng đứng bất động,

rồi lấy thẻ bài, thu tiền bạc, rồi về báo cho sư phụ biết. Anh em Tôn Ngộ Không tiếp giả hình

dạng bọn chúng đến động Hổ khẩu gặp yêu ma sư tử lông vàng. Sự đánh nhau nổ ra cũng lại

do Trư Bát Giới, nhân vật mà tính cách khá dị thường, mang nhiều đặc điểm của con người

trần tục: Bát Giới vừa đi qua, thấy đinh ba của mình thì liền nhảy lên lấy lại và Tôn, Sa Tăng

cũng phải hiện cả nguyên hình đánh nhau với con yêu có binh khí lưỡi sén lợi hại. Nhưng nó

thua và chạy về hướng Đông nam, nơi có ông nội Cửu linh nguyên thánh. Bọn yêu ma dàn

binh bố trận trở lại để đánh nhau với anh em Tôn Ngộ Không. Bọn yêu ma này toàn là sư tử:

sư tử chín đầu, sư tử lông vàng và nhiều loại sư tử khác. Chúng cũng không vừa gì về năng

lực, nên không những ba anh em Tôn Ngộ Không phải vất vả, mà cả Đường Tăng và cha con

vương tử đều bị chúng quắp cả về động.

Tại Động Quanh co, núi Trúc Tiết, Tôn Ngộ Không phải biến hóa, tả xung hữu đột để

đánh nhau với yêu ma, giải cứu cho Sư phụ, sư độ. Dù vậy, việc vẫn không hoàn tất, nhờ Thổ

địa, Thành hoàng cho biết nguồn gốc của con yêu Sư tử 9 đầu, Tôn Ngộ Không đã cởi mây đến cung Diệu Nham nhờ Thiên Tôn Thái Ất cứu khổ. Thiên Tôn Thái Ất cùng người chăn

sư tử và Tôn cùng đến động, Tôn nhử đánh yêu và cuối cùng, Thiên Tôn đọc chú bắt con yêu

cưỡi về. Tôn đi giải cứu tất cả, cùng về thành Ngọc Hoa dạy tiếp võ nghệ cho ba vương tử, rồi

tiếp tục lên đường.

Thầy trò đến phủ Kim Bình, gặp chùa Từ Vân, có các sư đón tiếp niềm nở. Tại không

gian ngỡ Tĩnh tâm đạo vị này, Tôn Ngộ Không lại phát hiện ra bọn yêu giả phật thường xuất

hiện trong lễ đèn truyền thống của chùa. Nhờ Công Tào mách bảo Tôn Ngộ Không biết rõ đó

3 con yêu trừ rét, trừ nắng, trừ bụi, hiện ở núi Thanh Long, động Huyền Anh. Tôn Ngộ Không

phải đánh với 3 con yêu này đến 150 hiệp để cứu sư phụ Đường Tăng, nhưng sự thể chưa

thắng được chúng. Tôn lại cùng Bát Giới, Sa Tăng đi tiếp đánh bọn chúng trong đêm đúng

như lời thôi thúc của Bát Giới - anh em Tôn Ngộ Không vừa cứu được Đường Tăng thì bị phát

hiện và cuối cùng cả Đường Tăng, Sa Tăng, Bát Giới đều bị chúng bắt. Do tình thế khó khăn

Tôn Ngộ Không phải bay đi Thiên Cung gặp Bạch Kim Tinh và Tăng Trường Thiên Vương.

Các vị này cho biết bọn yêu ma là Tê ngưu thành tinh, bắt nó chỉ có 4 vị sao Mộc Cầm. Tôn

Ngộ Không lại đi gặp cụ Trường Canh rồi lên Ngọc Hoàng nhờ gọi 4 vị sao Mộc Cầm giúp

sức. Bốn vị này cùng Tôn Ngộ Không xuống đánh, Tôn đánh nhử ra ngoài, chúng thấy 4 vị

sao nên hoảng sợ, tháo chạy xuống sông. Dạ Xoa gặp chúng nên về báo Long Vương, Long

Vương sai Ma Ngang ra tiếp ứng với Tôn Ngộ Không và 4 vị sao, cuối cùng, chúng phải chấp

nhận thua cuộc. Anh em Tôn Ngộ Không phải một phen vất vả, nhưng chiến thắng cũng vô

cùng lớn, nhất là đem lại sự bình yến cho phủ Kim Bình, xác lập được không gian yên tĩnh đạo

vị cho chùa Từ Vân để các sư tu hành. Cũng do công trạng của anh em Tôn Ngộ Không nhiều

mà phủ Kim Bình, chùa Từ Vân mời lưu lại thếch đãi hàng tháng cơm chay. Sư phụ Đường

Tăng sốt ruột về công cuộc thỉnh kinh chậm trễ, mà Bát Giới thì muốn chậm lên đường để ăn

uống cho thỏa thích, nên Sư phụ buộc miệng ra lời ác: rằng Bát Giới không đi thì sư phụ bảo

Tôn Ngộ Không đánh cho "gãy răng!". Người đồ đệ háo ăn uống, nhưng cũng hết lòng với sư

phụ này, nghe dọa thế cũng buông một câu phê phán người thủ lĩnh: "Sư phụ bây giờ đổi lòng

rồi". Nhân vật nhiều nhược tật và khá phức tạp về tính cách như Trư Bát Giới phản ứng như

vậy với sư phụ Đường Tăng là điều dễ hiểu.

Thầy trò tiếp tục đi và cũng lại gặp chùa. Đó là Chùa Lát vàng - là chùa vườn cấp cô độc,

nước Xá Vệ, nơi chủ Trưởng giả từng mời Phật giáp kinh. Tại đây, qua Dịch thừa, thầy trò

Đường Tăng biết vua Di Tông Hoàng Đế, hiệu Tĩnh yến có công chúa xinh đẹp đã bị yêu tinh

bắt đi rồi yêu tinh hóa làm công chúa giả. Nay, nghe Đường Tăng qua đấy, yêu tinh liền dựng

lầu hoa, gieo cầu thêu để kén Đường Tăng làm chồng. Khi kế sách nó thực hiện được bước

gieo cầu (gieo đúng đầu Đường Tăng) thì Tôn Ngộ Không hiểu cả mọi chuyện. Trước khi nó

bày trò loan phượng với Đường Tăng, bằng tài phép của mình, Tôn Ngộ Không đã kịch chiến

với nó giữa triều đình, nó cỏi bỏ tất cả trang phục, chạy về vườn ngự uyển lấy binh khí chày

giã thuốc để chiến đấu với Tôn. Nó nguyên là con Ngọc Thỏ tán thuốc tiên ở cung Quảng Hàn

của Thái Âm. Thái Ân Kim Tinh xác định như thế và xin Tôn Ngộ Không tha cho nó. Vậy là

công chúa thực, con gái của vua Di Tông được giải cứu và thầy trò được triều thần tạ ơn, vẽ

truyền thần để thờ ở điện Hoa Di.

Tuy trên đường đi Tây Thiên của thầy trò Đường Tăng sự may mắn, điềm lành vẫn ít hơn

những bất trắc, tai nạn, nhưng quả riêng ở huyện Địa Linh, phủ Đông Đài là nơi chốn may

mắn, tử tế hiếm thấy. Đó là nơi phố Nam Bắc, có nhà ông Khấu viên ngoại luôn treo biển:

muôn sự không cản, sẽ có cơm chay. Tại đây, thầy trò Đường Tăng đã thực sự được thếch đãi

cơm chay hết sức tử tế, long trọng, tràn đầy tình cảm đạo tâm. Rời nhà Khấu viên ngoại, cả

đoàn gặp nạn cướp và bị vu oan đến bỏ ngục. Trước sự oan ức không thể nào chấp nhận, một

mình Tôn Ngộ Không biến hóa đến bốn năm lần để giải cứu tất cả thầy trò. Từ việc giả hồn

viên ngoại đã chết đến mách cho cả nhà nghe, giả hồn ông Bác của viên ngoại để kêu oan đến

việc đi Diêm Vương gọi hồn về làm sống lại xác thân Viên ngoại... tất cả đều chỉ một tài năng

và công sức của Tôn Ngộ Không. Người đồ đệ ấy của Đường Tăng, trước sau vẫn phò giúp sư

phụ và các sư đệ, không một mảy may tư lợi cho riêng mình.

Đến hồi 98 thì cả thầy trò đã thật sự đặt chân lên đất phật. Tại con sông cuối cùng rộng

tám chín dặm, Tôn Ngộ Không đã nhận ra Phật vô bảo tràng quan đến đón bằng chiếc thuyền

không đáy. Còn Đường Tăng vẫn chưa nhận biết được điều hư thực, thậm chí chính mình đã

"xương cốt phàm thai đã thoát thân" mà Đường Tăng chỉ hiểu khi được Tôn Ngộ Không giải

thích. Rồi thầy trò lên Linh Sơn, đến chùa Lôi Âm. Phật tổ Như Lai đã cho vô số các vị La

Hán, Yết Đế, Già Lam xếp hai hàng đón tiếp thầy trò Đường Tăng. Tại điện Đại hùng, Phật Tổ

xem công văn, chỉ giáo và sai Anan, Ca Diếp lo cơm chay rồi trao truyền kinh kệ. Tại đây,

Tôn Ngộ Không hết sức bất đồng với Anan, Ca Diếp về việc bảo đưa lễ vật, mới trao kinh và

Tôn Ngộ Không đòi báo với Như Lai điều chướng mắt vô lý này. Nhưng thầy trò đã được trao

kinh, rồi bái tạ, xuống núi trở về. Tuy nhiên, trong lúc trao kinh, vị Nhiên Đăng Cổ Phật thấy

Anan, Ca Diếp giao cho toàn kinh không có chữ, nên bảo Bạch Hùng đuổi theo lấy lại và cùng

trở lại lấy chân kinh có chữ. Bạch Hùng hóa phép cỡi gió lốc đuổi theo, cắp hết kinh của Thầy

trò Đường Tăng mang đi. Tôn Ngộ Không phải đuổi theo Bạch Hùng, Bạch Hùng ngại gậy sắt

của Tôn Ngộ Không nên thả kinh xuống. Thầy trò Đường Tăng cùng đến xem kinh thì thấy

không có chữ Tôn Ngộ Không trực giác ngay đến Anan Ca Diếp (vì thầy trò không đưa ra lễ

vật trước đó). Do vậy, tất cả đều quay lại để chính thức báo với Phật Tổ Như Lai. Thật bất ngờ

cho thầy trò, nhất là Tôn Ngộ Không, vì Phật Tổ bảo rằng đều biết rõ việc ấy. Càng bất ngờ

hơn khi Phật Tổ kể lại việc trước đây các tỳ kheo đi đọc kinh cho họ Triệu nước Xá Vệ cũng

có lấy của. Như Lai kể: "Chỉ lấy được của nhà ấy ba đấu ba thăng vàng cốm đem về. Ta vẫn

còn bảo bọn họ bán rẻ quá, con cháu đời sau lấy tiền đâu mà dùng"!. Vậy là không còn gì để

nói thêm, dù trước khi Phật Tổ Như Lai nói, Tôn Ngộ Không trong lời thưa với Như Lai đã

xác định việc Anan, Ca Diếp đòi lễ vật là "thông đồng nhau làm bậy". Phải chăng đã "hết

thiêng" (?)

Một lòng phò giúp Đường Tăng, phải chịu đựng trăm ma nghìn quái, không một chút tư

lợi cho riêng mình cả trong những công trạng rất xứng đáng được nhận thưởng, đến đây, ta

thấy Tôn Ngộ Không tuyệt nhiên "tắt tiếng". Tư đoạn trình báo Như Lai đến hết hồi 98, ta thấy

Tôn Ngộ Không chẳng phát biểu thêm điều gì. Điều này cũng như trước đây - là con người kỳ

quái tung hoành ngang dọc ấy - đã từng thua bàn tay Như Lai Phật Tổ! (ở cuối hồi thứ 7).

Không kể khác hơn, thầy trò nhận năm nghìn linh bốn mươi tám quyển kinh rồi lễ tạ

quay về Đông thổ nước Đại đường.

Ở cuối hồi 98 và sang đầu hồi 99, thầy trò Đường Tăng lại tiếp tục gánh chịu "những bố

trí, quy định" ngặt nghèo trong công cuộc thỉnh kinh. Đó là, dù Đường Tăng đã đi được 14

năm (tính ra mới năm nghìn linh bốn mươi ngày), nhưng vẫn thiếu 8 ngày để hợp với số tạng

kinh được nhận. Đó là, trong 14 năm ấy (Công Tào, Già Lam, Yết Đế có ghi chép đủ các tai

nạn) chỉ mới đến con số 80 tai nạn là còn thiếu 1 và việc tạo ra thêm một tai nạn nữa cho đủ cái

mà Quan Âm gọi là trong đạo phật phải "chín lần chui" mới đủ là giao cho 8 vị Kim cương

thực hiện.

Điều thú vị là khi thực hiện những bố trí quy định nói trên, thầy trò gặp lại những không

gian - con người tri ân năm xưa. Đó là con rùa chở qua sông và các quan hệ tri âm ở Trần gia

trang. Nếu thủ lĩnh của Đoàn thỉnh kinh đánh mất trong ký ức lời hứa hỏi Như Lai về tuổi thọ

và việc hóa kiếp của con rùa thì giờ đây chỉ mỗi Đường Tăng phải nhận lỗi bị chìm xuống

sông, còn các sư đệ đều an toàn. Nhưng, Đường Tăng cũng đã đắc đạo và tất thảy thầy trò đều

được an toàn và cùng đón nhận lễ tạ ơn, thếch đãi của các gia đình họ Trần. Trong tiệc tạ ơn,

thếch đãi, chỉ mỗi Trư Bát Giới vẫn nguyên vẹn tính nết đời thường của mình: "Khi chúng tôi

còn lận đận, lúc bấy giờ ăn được, nào có mời ăn uống đâu. Ngày nay ăn không được, thì chưa

xong nhà này, lại tiếp nhà kia!". Tâm lý tiếc ăn uống này góp phần cho thấy thêm tính nết của

Trư Bát Giới là gần gũi với đời thường và luôn luôn nói thực lòng mình, kể cả những tư lợi cá

nhân.

Ở hồi cuối cùng, thầy trò Đường Tăng về đến Đại Đường được vua quan nồng nhiệt đón

tiếp. Theo ý vua đường, thủ lĩnh đoàn thỉnh kinh cũng kể lại đoạn trường mười vạn tám nghìn

dặm đã đi qua, kể về công văn, ấn tín, các nước và nguồn gốc của các đồ đệ trong đoàn. Theo

đúng thời gian quy định, 8 vị Kim cương đến gọi thầy trò quay về Tây thiên và tùy theo công

trạng của từng người, thầy trò Đường Tăng đều được Phật Tổ Như Lai ban tước:

Đường Tăng là Chiên Đàn Công Đức Phật, Tôn Ngộ Không: Đấu Chiến Thắng Phật,

Trư Bát Giới: Tịnh Đàn Sứ Giả, Sa Tăng: La Hán Mình Vàng, Ngựa bạch: Bát Bộ Thiên

Long. Họ đều ở lại nước Phật hưởng phúc đời đời.

Nếu ở hồi 99, Trư Bát Giới đã tự nhiên bộc lộ tâm lý tiếc ăn uống của mình thì ở hồi cuối

cùng này, Tôn Ngộ Không cũng có dịp nói rõ quan niệm và tình cảm của mình đối với sư phụ

Đường Tăng về cái vòng kim cô ác nghiệt. Tác phẩm có đoạn viết: "Tôn Hành Giả nói với

Đường Tăng: Sư phụ ạ, bây giờ con đã thành Phật, cũng được như thầy, mà cứ phải đội mãi

cái kim cô à? Thầy có còn phải đọc chú khẩn cô nhi để thắt buột con nữa đâu? Xin thầy đọc

bài chú mở đai bỏ nó xuống, đập vỡ tan tành, không để cho Bồ Tát lại mang đi bắt hại kẻ

khác!" Trong những lời lẽ trên đây, phần đầu có vẻ ôn tồn, đạo vị, nhưng phần sau thì sự phê

phán và cái giận dữ vẫn còn như xưa. Biểu hiện trên đây không những không thay đổi, mà còn

củng cố thêm thái độ - tình cảm của Tôn Ngộ Không đối với sự triệt buộc của Đường Tăng -

cũng là của quyền lực của Bồ Tát, Như Lai đối với con người quái kiệt "ngoại càn khôn" này.

2.2. Không gian thần kỳ.

2.2.1. Không gian Long Cung – Âm Ty.

Với 72 phép thần thông, với 84 nghìn cái lông trên mình mà cái nào cũng biến hóa được

theo ý mình, Tôn Ngộ Không đã thực sự chủ động trong tồn tại của bản thân và bảo an cho

giống loài. Đánh tan ma vương ở động Thủy tạng, báo thù cho lũ khỉ những tháng ngày Tôn đi

học đạo, Tôn lại tiếp tục lên đường tìm thêm vũ khí vô địch và thực hiện hoài bão trường sinh.

Nơi chốn Tôn Ngộ Không tìm đến để thực hiện điều ấy là Long Cung - Âm Ty. Đó là một

không gian mà người thường, mắt thường không thể nhìn thấy được. Có lẽ chỉ có con người

đạt 72 phép địa sát biến hóa, đủ phép thần thông cân đẩu vân, "ẩn mình, tránh mình, cất mình

lên, thu hình lại, lên trời cũng có đường, xuống đất cũng có lối, bước vào mặt trời mặt trăng

không có bóng, đi vào vàng đá không vướng mắc, nước không thể làm chìm, lửa không thể

cháy" (TP.I.l 10) thì mới có thể chiếm lĩnh được nơi chốn ấy. Và con người ấy, không ai khác,

chính là Tôn Ngộ Không. Quả nhiên, Tôn Ngộ Không đã dùng phép, tay bắt quyết, miệng

niệm thần chú, mở khóa rẽ nước, đi thẳng xuống đến đáy bể Đông rồi vào gặp Long Vương tại

Long Cung.

Gặp Long Vương tại chính Long Cung, thoạt đầu Tôn Ngô Không còn chút ít mềm

mỏng, nêu nhu cầu về binh khí của mình, càng về sau, Tôn tiến xa hơn nữa trong các yêu cầu

khác. Tác phẩm cho thấy Long Vương từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác đối với Tôn

Ngộ Không. Không những Long vương, mà còn có cả các huynh đệ của Long Vương ở Nam

Hải, Bắc Hải, Tây Hải cũng đều nhượng bộ, dù rất căm giận trong lòng. Cuối cùng, Tôn Ngộ

Không đã lấy được "Gậy như ý bịt vàng, nặng một vạn ba nghìn năm trăm cân". Cây thiết

bổng vô địch này đã thu lại cho vừa ý của Tôn Ngộ Không đã trở thành điều kỳ diệu và kinh

ngạc đối với thế giới Long Cung. Tất cả đều bắt đầu từ 72 phép thần thông biến hóa! Tác

phẩm cũng có đoạn tường thuật Tôn Ngộ Không múa gậy thoáng qua làm kinh động Long

Cung như sau: "Ngộ Không dùng phép thần thông, múa gậy chuyển về cung Thủy tinh, làm

cho Long Vương run sợ và đám con rồng cháu rồng hồn bay phách tán, còn các loài thủy tộc

rùa, giải ba ba, cá kình, ngao, tôm đều co cổ rụt đầu ẩn nấp" (TP.I.114). Vì trên đà thắng lợi,

Ngộ Không lại tiếp tục những đòi hỏi khác. Đến đoạn cuối, Ngộ Không gần như thỏa mãn các

nhu cầu. Đó là có thêm "mũ vàng đội, giáp vàng mặc, đi giày văn rất chỉnh tề" (TP.I.117) và

như vậy, cùng với cây thiết bổng kỳ diệu kia, Tôn Ngộ Không hoàn thiện hóa về vũ trang một

bước từ không gian Long cung.

Đọc Tây Du Ký đến đây (cũng như trọn bộ), chúng ta thấy có nhiều động, nhiều cõi,

nhiều thành phần và ở mỗi nơi như vậy đều có vị chủ soái toàn quyển, toàn năng riêng. Ở

Long Cung, Long Vương quả cũng là Đại vương cai quản đối với muôn loài trong địa hạt của

mình. Vậy mà, như ta thấy, Long Vương liên tục nhường bước và thật sự đã run sợ trước tài

sức quyền biến khôn lường của Ngộ Không!

Thế giới Long Cung ở đây, trước hết, vẫn là không gian, nơi chốn cho vận hành của nhân

vật. Nhưng nếu mọi sự vận hành của nhân vật đều gắn liền với từng nơi chốn cụ thể thì ý nghĩa

của nó đã khác. Bản thân việc Ngô Thừa Ân dựng không gian Long Cung đã là một sáng tạo,

các nhân vật hoạt động trong trường không gian. Không gian này lại cho ta thấy thêm tính

nghệ thuật của không gian.

Nếu không gian lớn đầu tiên của sự ra đời con khỉ đá là không gian vũ trụ, có tính chất

tương thông với trời đất thì không gian long cung lại nhỏ hơn về chiều kích, có tính chất bộ

phận. Không gian Hoa quả - Đá tiên được miêu tả chi tiết, nhiều sắc màu, còn không gian

Long Cung chủ yếu được nhà văn tường thuật. Câu chuyện diễn ra của nhân vật ở đây không

có các cuộc chiến đấu, mà là các đối thoại của hai tuyến nhân vật: tuyến riêng một mình Tôn

Ngộ Không và tuyến của Long Vương cùng các quan hệ của hắn. Do phương cách đối thoại

và tường thuật về đối thoại, nên quan hệ nhân vật ở đây vẫn sinh động. Có điều không gian

Long Cung chỉ được tường thuật, mà không chú ý miêu tả, cho nên độ sáng của nhân vật ít tựa

vào không gian. Dù vậy, không gian Long Cung vẫn là một không gian nghệ thuật, vì nó góp

một "phần nền" có tính chất trừu tượng, bí ẩn cho sự vận động cũng rất bí ẩn mà vô địch của

Tôn Ngộ Không. Trở về với không gian núi Hoa quả, động Thủy liêm cùng giống loài của

mình, Tôn Ngộ Không thật sự huy hoàng trong chiến thắng. Ngộ Không biểu diễn sức thần tài

của cây thiết bổng, phong hàm tước cho một số con khỉ ưu tú, kết giao thêm một số bạn bè và

mở yến tiệc linh đình. Say sưa trong chiến thắng, từ giấc ngủ có men rượu say, Ngộ Không

mộng thấy được tung hoành ở một không gian hoàn toàn mới mẻ. Đó là không gian Âm ty,

nơi của mười vua Diêm Vương ngự trị và quản lý sổ sinh tử của muôn loài.

Cũng bằng vào tài sức kỳ diệu của mình, Ngộ Không đến thẳng điện Sâm La, nơi ngự

của Diêm Vương để tìm cách xóa tên tuổi của mình cùng giống loài trong sổ tử. Quá trình này

cũng gần như quá trình đòi cho bằng được cây thiết bổng ở Long Cung, là đều không có một

cuộc chiến đấu bằng "vũ lực" nào. Chỉ có lời lẽ đòi hỏi và đối thoại, nhưng khôn khéo và

nhanh gọn hơn. Kết quả, Tôn Ngộ Không đã xóa được tên tuổi mình cùng giống loài và như

vậy là đã được trường sinh. Cũng như ở không gian Long cung, ở không gian Âm phủ này, tác

phẩm không tập trung miêu tả, mà chủ yếu kể chuyện và chuyện của nhân vật chính vẫn là đối

tượng được người tường thuật hết sức tập trung. Tác phẩm có đoạn lý thú: "Ngộ Không cầm

gậy như Ý lên thẳng điện Sâm-La, ngồi ngay gian giữa, quay mặt về nam. Mười vua sai phán

quan lấy sổ ra tra. Phán quan vội vàng đến phòng giấy, lấy ra năm sáu quyển sổ và sổ biên tên

mười loại chúng sinh, trình Hầu vương xem qua một lượt. Trong các loại khỏa trùng, mao

trùng, vũ trùng, côn trung, lân giới trùng đều không thấy tên Tôn Ngộ Không đâu cả. Lại xem

đến sổ loài khỉ, nguyên loài khỉ giống như người, nhưng không vào sổ tên người, giống như

khỏa trùng mà không ở địa giới nước nào; giống như loài thú chạy song không thuộc kỳ lân

cai quản; giống loài chim bay mà không thuộc Phượng hoàng cai quản. Ngộ Không lấy quyển

sổ này tự kiểm duyệt lấy, đến mãi số hồn 1350 mới thấy chú tên họ Tôn Ngộ Không là khỉ đá

trời sinh ra, thọ đến 342 tuổi là chết. Ngộ Không nói: Ta cũng không biết đã thọ được bao nhiêu năm rồi, bây giờ xóa tên này đi là xong! Đem bút giấy ra đây!',(TP.I.122),

Thật là quyền uy và hoàn toàn chủ động ở thế bề trên! Kết quả là Tôn Ngộ Không đã xóa

xong tên tuổi mình cùng giống loài trong sổ tử do Diêm Vương quản.

Đoạn văn tác phẩm trích trên đây không tập trung miêu tả không gian Sâm-La, mà chủ

yếu nội chuyện nhân vật chính. Càng về cuối đoạn, hình tượng nhân vật càng rõ dần trong việc

thể hiện khát vọng trường sinh. Tuy nhiên, nếu không gian Long cung là loại không gian cùng

cấp với những không gian khác trong kiểu tư duy thần thoại thì không gian Âm phủ lại tiến

thêm một bước kỳ ảo khác. Sở dĩ thế, vì không gian Âm phủ này (cũng như việc xóa tên họ

trong sổ tử của Diêm vương) là không gian có được từ một giấc mơ của Ngộ Không trong

những ngày chiến thắng. Cố nhiên, tất cả đều do quan niệm nghệ thuật tiểu thuyết của nhà

văn. Nhưng vấn đề là tại sao việc muốn trường sinh chỉ bằng cách xóa tên họ trong sổ tử lại

chỉ diễn ra trong giấc mộng của nhân vật? Thực ra, theo kiểu tư duy thần thoại, Ngô Thừa Ân

vẫn xây dựng tiếp không gian Âm phủ như kiểu không gian Long Cung, nghĩa là cứ kế tiếp từ

Long Cung đến Âm Phủ, không cần phải diễn ra trong giấc mộng. Nhưng ở đây là không gian

trong giấc mộng. Có lẽ, vấn đề đòi đoạt vũ khí ở Long Cung vừa là vấn đề dễ hình dung, vừa

là vấn đề mà con người bằng nhiều sức mạnh có thể làm được (Tôn Ngộ Không đã chuyển

thành người-thần-thánh từ sau khi tu luyện đạt 72 phép thần thông, chứ không còn là con khỉ

đá; Còn vấn đề đòi hỏi cho được trường sinh, không bị vòng luân hồi sinh tử trói buộc lại là

vấn đề mà con người khó hình dung, khó thực hiện, và như chúng ta đều biết, đó là vấn đề

thuộc một quy luật khách quan hết sức nghiệt ngã, không trừ bất cứ ai. Trong khi đó Tôn Ngộ

Không không muốn bị quy luật này đào thải! Mà lại không có giải quyết vấn đề. Trước tình

hình đó, chuyển khát vọng trường sinh vào giấc mộng của Tôn Ngộ Không chắc chắn là một

phương pháp chủ định của nhà văn. Xây dựng không gian âm phủ trong mộng tưởng này, như

đã nói, hình thức không gian đã tiến thêm một bước kỳ ảo khác, siêu nhiên hơn mà cũng hấp

dẫn và bí ẩn hơn. về phía khát vọng và tính cách của nhân vật thì điều đáng nói là ở chỗ: ngay

trong giấc ngủ say, khát vọng được trường sinh, được xóa tên trong sổ tử của Diêm Vương

vẫn là một lực ám ảnh, phả vào thế giới tiềm thức của nhân vật. Điều này chứng tỏ thêm rằng

nhân vật dù ở trạng thái nào của tâm lý và thần kinh... đều vẫn không thôi từ bỏ những khát

vọng lớn lao của chính mình.

Có một điều tuy không phải quan trọng, nhưng cần nói thêm ở hồi thứ 3 này, trong tác

phẩm, việc Tôn Ngộ Không đại náo Sâm-La đòi xóa tên tuổi trong sổ tử do Diêm Vương quản

là việc diễn ra trong một giấc mộng khi Ngộ Không ngủ say. Vậy mà, tác phẩm đoạn tiếp sau

có đoạn nói Tần Quảng Vương ở âm phủ cầm tờ biểu của Ư minh giáo chủ Địa Trung Vương

bồ tát dâng lên cẩn tấu Ngọc Hoàng về tội đại náo điện Sâm-La của Ngộ Không. Việc cẩn tấu

này cũng đi liền sau cẩn tấu của Đông Hải Long Vương Ngao Quảng về tội đại náo Long

Cung, lấy cây Thiết bổng của Ngộ Không. Hai việc này, xem ra gần giống nhau (về loại hình

sự việc). Trong khi đó, về mặt nội dung cốt lõi của sự việc thì hai sự việc khác xa nhau: một

việc có thể làm được ở cõi con người một việc phi thường, ghê gớm, khó có thể làm ở cõi

người. Có lẽ, không phải tác giả "vô tình nhập cục vấn đề", mà là khẳng định thêm, đồ đậm

thêm khát vọng trường sinh của nhân vật. Đọc kỹ nội dung của hai lời cẩn tấu nói trên thì sẽ

thấy thêm các lượng đối trọng của Ngộ Không đều được "nổi thêm" về tình trạng sợ hãi của họ

đối với Ngộ Không. Do cảm nhận như vậy, nên vấn đề cần nói thêm như trên không quan

trọng.

Từ ý nghĩa thi pháp không gian nghệ thuật mà nói, thì không gian âm phủ - điện Sâm La

(tưởng tượng trong giấc mơ) vẫn là không gian kỳ ảo, lý thú. Nó phù hợp với khát vọng và

hành trạng mãnh liệt của nhân vật và chính, khát vọng, hành trạng của nhân vật ở đây là cái có

thể "bổ sung cho cái thiếu sót của cuộc sống thực bằng cái ước mong và cái có thể". Như nhà

văn M.Gorki từng nói khi bàn về truyền thuyết và thần thoại. (Xem: Anh hùng ca của Hômerơ

- Nguyễn Văn Khỏa - NXB ĐH & THCN - HN.1978 - trang 363).

2.2.2. Không gian thượng giới.

Do kinh động Long Cung & Âm Phủ, Tôn Ngộ Không đã bị cẩn tấu lên Ngọc Hoàng.

Lần này, không gian của tồn tại nhân vật là một biến thiên đột ngột với khá nhiều tình tiết ly

kỳ, góp phần làm sáng rỡ thêm hình tượng nhân vật trung tâm của tác phẩm.

Với không gian Long Cung - Âm Phủ đã là dưới lòng đất, lòng biển, bây giờ lại vút cao

lên tận thiên đình, tức tận hai đầu của không gian chiều cao, nhân vật đều vận hành đi tới. Đây

cũng là một nét "thay đổi các trục tọa độ" của hình tượng văn hóa trong thể loại tiểu thuyết

như Bakhtin từng nói. Chính sự thay đổi các trục tọa độ trong không gian và thời gian trong

thể loại tiểu thuyết nói riêng, các thể loại văn học khác nói chung là một nét khu biệt giữa sáng

tác văn học với các nghệ thuật khác. Lessing có lý khi cho rằng các sự vật tồn tại kề nhau trong

không gian chủ- yếu được miêu tả trong hội họa và điêu khắc[18/l 15-116]. Trong văn học, sự

miêu tả các sự vật bất động không chiếm vị trí thứ nhất, mà những sự vật, hiện tượng vận

động, sống động mới là đối tượng nhà văn quan tâm. Có thể nói, "vận dụng từ ngữ để chỉ ra

các sự vật, nhà văn có khả năng chuyển dịch từ các bức tranh này sang bức tranh khác một

cách nhanh chóng lạ thường, dễ dàng đưa người đọc vào những miền khác

nhau"[18/115-116]. Sự chuyển dịch nhanh chóng về không gian, về các miền khác nhau này,

các hồi đã nói qua của Tây Du Ký, chúng ta đều thấy. Nhưng từ đây, nó càng phong phú và kỳ

thú hơn.

Vì các lời cẩn tấu, nên Tôn Ngộ Không phải lên Thiên Đình. Cùng đi với Thái Bạch

Kim Tinh, nhưng Ngộ Không đã bỏ xa Kim Tinh trong không trung vời vợi, vì có phép cân

đẩu vân kỳ diệu. Khi đã kịp đến cổng trời, Kim Tinh đã hết sức làm lành với Ngộ Không, Ngộ

Không mới thuận tình lần lượt vào thiên đình.

Đấy là một không gian được bố trí ngăn nắp với nhiều điện đền ban bệ, tư cửa Nam

Thiên đến Linh tiêu bảo điện, rồi đến Chánh điện, tác phẩm cho thấy đấy là không gian của

ngọc ngà châu báu, sang trọng và thâm nghiêm. Tất cả nhân sự nơi đây đều cư xử, sinh hoạt có

nề nếp đúng đạo, lễ bái tôn vinh... Ấy vậy mà, chỉ riêng Tôn Ngộ Không, ngay từ khi vừa

bước thẳng vào trước ngự tọa, đã không lễ bái gì cả! Chỉ một biểu hiện này diễn ra chính ở nơi

trang nghiêm đã làm cho thế giới thiên đình trở nên không đáng phải kính trọng. Tuy nhiên,

nét biểu hiện của phong thái trên chưa thật rõ về tính cách nhân vật, so với chính ngôn ngữ

nhân vật trong đối thoại. Sau đây là đoạn đối thoại gián cách giữa Ngộ Không với Ngọc

Hoàng thượng đế.

"Thượng đế vẫn rũ rèm, hỏi ra:

- Đứa nào là yếu tiên?

Ngộ Không chỉ cúi mình trả lời: -Lão Tôn đây!

(Các tiên chầu ở đấy đều sợ hãi thất sắc, nói: - Loài khỉ kia, sao không phục lạy yết kiến,

lại dám ứng đối vô lễ "Lão Tôn đây", tội đáng chết, đáng chết!).

Thượng đế truyền chỉ:

- Tôn Ngộ Không là yêu tiên ở hạ giới, mới được thành người, chưa biết lễ nghĩa, hãy

tha tội cho.

- Các tiên giục:

- Tạ ơn đi!

Ngộ không chỉ trông lên, xướng lên một tiếng thật to:

-Vâng!" (TP.I.130)

Đoạn đối thoại này, xem ra, Ngọc Hoàng còn "bao dung" đối với Tôn Ngộ Không.

Nhưng chính trong cách trả lời của Ngộ Không là không hề biết mảy may sự kính trọng Ngọc

Hoàng. Đấy là một nét tính cách bất khuất, nên việc Ngọc Hoàng bảo tha tội cho Tôn Ngộ

Không là bằng thừa. Cũng trong đoạn đối thoại trên, chúng ta thấy bọn tiên chầu "sợ hãi thất

sắc" trước cách nói năng của Ngộ Không, cũng là biểu hiện tôn thêm cái "bất khả kính" của

Ngộ Không đối với Ngọc Hoàng và thế giới thiên đình. Và như vậy, một lần nữa, không gian

thượng giới có vua của các vị thần ở đây không là gì đối với Tôn Ngộ Không. Nếu hình tượng

nhân vật trong văn học bao giờ cũng ký gởi một quan niệm về nhân sinh của nhà văn thì sự coi

thường của Ngộ Không đối với Ngọc Hoàng cùng thế giới của y quả là điều có thể gợi thức

cho bạn đọc liên tưởng về ý nghĩa xã hội có thể của nó. Theo hướng này, GS. Trần Xuân Đề

có lý khi cho rằng: "Có thể xem thái độ ngạo mạn của Tôn Ngộ Không đối với Ngọc Hoàng

Thượng Đế là thể hiện thái độ miệt thị của nhân dân lao động đối với chế độ đẳng cấp và bọn

quyền quý, thể hiện nguyện vọng yêu cầu bình đẳng của nhân dân"[13/102].

Lại nói tiếp về việc thuận nghe của Ngộ Không, vậy là Ngộ Không nhận chức "Bật mã

ôn" tại Thiên đình, nhưng không bao lâu, sau khi biết thực chất hàm chứa và phận sự không ra

gì của mình, Ngộ Không "không thèm làm nữa", rồi "đạp đổ công án, lấy bảo bối trong túi ra

múa tít, vừa đi, vừa đánh, ra khỏi ngự mã giám"... (TP.I.132) rồi trở về Hoa quả sơn. Đang

ngự trị tại không gian của mình với tên "Tề Thiên Đại Thánh", Tôn Ngộ Không phải đánh tan

Cự Linh thần, rồi Thái tử Na Tra tài giỏi do cách thu phục của Ngọc Hoàng. Từ đây, đòi hỏi

chức hàm Tề Thiên Đại Thánh của Ngộ Không đã được Ngọc Hoàng chìu ý. Đọc tác phẩm, ta

thấy việc thuận ý của Ngọc Hoàng là đã y lời mưu kế của Thái Bạch Kim Tinh và chính Thái

Bạch Kim Tinh thân chinh xuống Hạ giới gặp Ngộ Không. Lời lẽ của Kim Tinh lần này ôn tồn

hòa hoãn. Nhưng đọc kỹ, ta thấy đấy chính là sự nhượng bộ tuần tự của Ngọc Hoàng. Đây là

một thắng lợi của Ngộ Không. Đây cũng là thắng lợi của một tính cách bất khuất, một khát

vọng muốn bình đẳng với các thế lực bề trên. Không lo ngại sự kinh động đột ngột và liên tục

trên thế thắng của Ngộ Không, chắc chắn Ngọc Hoàng không nhượng bộ như thế. Ở đoạn cuối

hồi bốn, tác phẩm còn cho thấy Ngọc Hoàng sai làm ngay tòa phủ Tề Thiên Đại Thánh ở bên

phải vườn đào cho Ngộ Không ngự trị với đầy đủ tiên giúp việc và cả rượu, cả hoa. Dù về sau,

Tôn Ngộ Không nhận ra cái "hữu danh vô thực" của chức Tề Thiên Đại Thánh, nhưng chính

tòa phủ này là một không gian tự tại của Tôn Ngộ Không. Chỉ một thân một mình mà chống

cả thượng giới, không thừa nhận vị chúa tể của các thần, rồi lại có được một không gian tự do

tự tại chính nơi thiên đình... rõ ràng là một chiến thắng, một niềm vui của Ngộ Không. Điều

này, người tường thuật câu chuyện cũng kể: "Ngộ Không ở lại thiên cung lấy làm vui thích,

không nghĩ ngợi, nghi ngại gì, vì tiên danh đã được chứa vào sổ trường sinh, không bị đọa vào

vòng sinh tử luân hồi nữa". (TP.I.147)

Trở lại chuyện tự thức nhận cái "hữu danh vô thực" của Tôn Ngộ Không. Quả là ở Tòa

phủ của mình, Tôn Ngộ Không không rõ quan hàm to nhỏ, cũng không biết so sánh bổng lộc

thấp cao, chỉ có danh hiệu mà thôi. Vì chỉ biết ăn ngày ba bữa, đêm ngủ một giường, tự do tự

tại, chẳng có việc gì" (TP.I.147), nên Tôn Ngộ Không mới tự mình ngao du xa gần, kết bạn

muôn nơi, đi mây về gió. Cuộc sống như thế của Tôn Ngộ Không cũng không được bao lâu và

khi Ngọc Hoàng nghe lời nghi kỵ xúc Xiểm của Hứa Tịnh Dương thì Ngộ Không lại chuyển

sang công việc trông coi vườn đào. Lại một không gian tự do khác, rộng rãi hơn và cũng tự do

hơn. Tại đây, bằng thần thông biến hóa của mình, Ngộ Không cũng có những tháng ngày tự

tại. Khi biết Vương Mẫu sắp tổ chức "Đại hội Bàn đào"' tại Dao Trì, Ngộ Không đã đến ngay.

Lừa Xích Cước, Tôn vào thẳng nơi Đại hội Bàn đào sắp thực hiện. Chưa kịp hỏi rằng tại sao

mình không được mời dự tiệc, Ngộ Không đã chén sạch đào ngon, rượu quý, sau khi dùng

phép cho tất cả chư vị đang có mặt ngủ say trong mệt mỏi. Vì hơi men, Ngộ Không lại ngẫu

nhiên đến cung Thái Thượng Lão quân, nơi luyện đan trường sinh. Phải một dịp tốt, Ngộ

Không chén luôn năm hồ lô thuốc kim đan, rồi tăng thân, trốn ra cửa tây, một mạch trở về núi

Hoa quả.

Vậy là sau một trăm mười năm ở thiên đình, Tôn Ngộ Không mới trở về với không gian

địa giới cùng yêu vương bảy mươi hai động của mình.

Hai đầu không gian thiên đình - mặt đất ấy, như đã thấy, Ngộ Không cũng chỉ đi - về

bằng phép cân đẩu vân kỳ diệu của mình. Và, ngỡ là xa luôn cái không gian cao xa của chúa tể

các vị thần đã không chút đáng trọng kia, nhưng rồi Ngộ Không đã trở lại. Đó là việc bay lên

không gian thiên đình lấy rượu ngon quanh về núi Hoa quả chiêu đãi cùng yêu vương loài khỉ.

Tác phẩm kể rằng toàn bộ những hành trang chẳng hề vị nể một ai của Ngộ Không về sau

đều bị cẩn tấu đến Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng tức giận, bèn sai mười vạn Thiên kéo xuống núi

Hoa quả hỏi tội Ngộ Không. Đoạn cuối của hồi thứ Năm này, ta chứng kiến những trận kịch

chiến lừng lẫy như chưa từng thấy giữa quân thiên đình và quân yêu vương loài khỉ động Hoa

quả. Kỳ thực đó là cuộc chiến đấu không cân sức giữa thần tướng thiên đình và tài phép của

Ngộ Không. Cuộc chiến đấu này còn có nghĩa là cuộc chiến đấu giữa thiên đình và mặt đất,

tức cũng là cuộc chiến đấu giữa những lực lượng bề trên và lực lượng cuộc đời thường trong ý

nghĩa xã hội của nó.

Chiến thắng của Tôn Ngộ Không và tồn tại của Đại Thánh cùng giống nòi của mình vẫn

chưa yên, vì các lực lượng của Thiên đình cũng không đơn giản bó tay như vậy. Thế là cuộc

chiến đấu đã tiếp tục xảy ra: Cuộc chiến đấu giữa Ngộ Không với Nhị Lang - cháu gọi Ngọc

Hoàng bằng cậu. Có lẽ cũng chưa có cuộc chiến đấu nào dai dẳng như cuộc chiến đấu này. Tài

sức của Ngộ Không và Nhị Lang chân quân khó phân thắng bại, dù đánh nhau liên tiếp với rất

nhiều trận long trời lỡ đất. Nếu tất cả những cuộc chiến đấu trước đây của Ngộ Không hầu như

không có sự can thiệp sâu của chính bàn tay các nhân vật bề trên của lực lượng đối lập, thì lần

này, phía đối phương đã được nhiều bàn tay bề trên trợ giúp trực tiếp. Đó là Quan Âm bồ tát

và Lão Quân, nhất là cái vòng kim cô của Lão Quân. Chính cái vòng kim cương nghiệt ngã

này đã rơi vào đầu Ngộ Không, làm cho vị vua của loài khỉ và tự do phải chấp nhận lâm thời

sự chiến bại. Sự chiến bại này, như đã thấy, vẫn là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, với khát vọng tự

do, bình đẳng và tính cách bất khuất đã từng được hun đúc, Tôn Ngộ Không vẫn không từ bỏ

lý tưởng của mình. Tác phẩm cho ta biết rằng, khi phải trở lại thiên đình để chịu tội, Ngộ

Không đã tự thoát ra lò bát quái của Lão Quân rồi tiếp tục đại náo thiên cung hết sức lẫy lừng.

Như là sự huy hoàng cuối cùng của một tính cách bất khuất, một khí phách ngang tàng,

lần đại náo Thiên cung này, quả rằng Tôn Ngộ Không chẳng né tránh bất cứ một nhân vật to

lớn uy quyền nào cả. Chính người có vòng kim cương ném vào đầu Ngộ Không và nung Ngộ

Không trong lò Bát Quái là Lão Quân, cũng đã bị Ngộ Không đánh cho một đòn trí mạng.

Người kể chuyện trong tác phẩm kể rằng Ngộ Không "không kể trên dưới, dùng gậy sắt đánh

đông đánh tây, không một thần nào chống lại được. Đại thánh đánh luôn đến điện Thông

Minh, điện Linh Tiên" (TP.I.185). Trước sự hùng hổ của gươm, dao, kích, giáo của bọn Lôi

thần ở phủ Thiên lôi, "Đại thánh tức thì hóa ra ba đầu sáu tay, biến gậy như ý ra làm ba gậy,

sáu tay bay múa giữa rừng vây vù vù quay tít như cái xa quay chỉ. Các lôi thần không dám đến

gần" (TP.I.185). Trước sự tái xuất kinh động ghê gớm của Tề thiên đại thánh, Ngọc Hoàng

thượng đế phải sai Du lịch linh quan và Dực thánh chân quân sang Tây phương cầu thỉnh Phật

Tổ Như Lai. Cũng như chẳng hề sợ hãi đối với Ngọc Hoàng ở Thiên Đình, đoạn Ngộ Không

đối thoại với Phật Tổ Như Lai, Ngộ Không cũng không hề chịu lép một bề. Nhưng rồi vì sơ

hở, cuối cùng Ngộ Không đã phải đầu hàng với bàn tay của Như Lai, chấp nhận nằm dưới núi

Ngũ Hành! "Từ đây, con người quái kiệt ấy đành chia tay với hành trình lên trời" vời vợi của

mình! Tác phẩm cũng có một câu văn vần đẫm đầy tình cảm chia sẻ với người anh hùng hết

vận: 'Tấm thân biết đến bao giờ cất lên?"(TP.I.191).

Như vậy, để chiến thắng được Tôn Ngộ Không, thế giới thiên đình đã phải sử dụng khá

nhiều lực lượng. Nói gộp lại là ba lực lượng chính: Trời - Phật - Tiên thánh. Ba lực lượng này

có chung một không gian tồn tại, đó là cõi cao xa, mà mắt thường không thể nhìn thấy được.

Cõi này tuy mệnh danh là thâm nghiêm thiêng liêng... nhưng thực ra vẫn ấp đầy những sự

hưởng lạc không khác gì với cõi phàm tục trần gian. Tác phẩm còn cho biết rằng, chính Tôn

Ngộ Không đã biết rất rõ việc con gái Thượng đế nhớ phàm trần xuống hạ giới lấy chồng là

Dương quân đẻ được một con trai... (TP.I.175)... và như vậy, người ở cõi thiên đình còn liên

hệ tục lụy với người trần gian. Cho nên, nếu nói những con người ở cõi ấy là hoàn toàn thoát

tục, chỉ một mực tu hành để phù hộ độ trì cho nhân gian, chuyên tâm công bằng, độ lượng với

thế giới trần thế thì không đủ độ tin cậy được không phải ngẫu nhiên mà đoạn đối thoại với

Phật Tổ Như Lai, Tôn Ngộ Không nói rất rõ quan niệm của mình về việc bất di dịch của một

ngôi vua là điều hết sức phi lý như sau: "Thượng đế tuy tu từ thuở nhỏ, nhưng không nên

chiếm chốn thiên đình. Người thường nói "Làm vua phải luân chuyển, sang năm đến nhà ta".

Bây giờ chỉ bảo cho y ra đi đem thiên cung nhường lại cho tôi, thì tôi thôi. Bằng không

nhường, tôi sẽ quây rối mãi, không bao giờ thanh bình được" (TP.I.188). Thực ra, theo

"truyền thống phong kiến", "con vua thì phải làm vua", phải kế tục kế ngôi vị cho nhau trong

một gia đình hoặc cùng dòng giống, chứ không thể chuyển ngôi cho nòi dòng khác. Nhưng ở

đây, Tôn Ngộ Không lại quan niệm như đã nói - chính là một đổi mới trong quan niệm đối với

vấn đề. Điều này đĩ nhiên là không tưởng trong xã hội phong kiến nhưng chính nó đã mang

được ý nghĩa xã hội, nếu hình tượng văn học bao giờ cũng hướng tới những vấn đề của nhân

sinh. Theo hướng này, nhân vật Lão Quân cùng các hành trạng của y vẫn gợi ra những liên

tưởng về nhân sinh ở cái thời Ngô Thừa Ân từng sống và chứng kiến. Cũng không chỉ nhân

vật Lão quân, mà vấn đề còn rộng hơn, đó là các đạo giáo, đạo sĩ nói chung với khá nhiều mưu

mô pháp thuật, về vấn đề này, các nhà nghiên cứu trong Bộ Biên Tập Nhà xuất bản nhân dân

Văn học Bắc Kinh (Trung Quốc) có nói: "Các đạo sĩ được nói đến trong "Tây Du Ký" cơ hồ

toàn là nhân vật phản phái cả. Những đạo sĩ ấy thường thường dùng những thủ đoạn như cầu

mưa, dùng gái đẹp để làm quốc sư, quốc trượng; mê hoặc quốc vương; mưu toan cướp ngôi

vua. Rồi thì triều đình bị đen tối, trăm họ gặp tai ương. "Tây Du Ký công kích đạo giáo và đạo

sĩ cũng không phải là do sự "sùng tăng diệt đạo", mà chính là muốn phê phán cái hiện thực xã

hội thời Minh" (Tế Xuân dịch - Lời giới thiệu -TI (bộ 4 tập) trang 27). Cùng với việc phê phán

đạo giáo, đạo sĩ, đúng như lời nhận xét vừa nêu, tác phẩm không phải là có thái độ "Sùng

tăng". Như các phần trên đã nói, Tôn Ngộ Không không hề biết nể trong Phật Tổ Như Lai là

gì. Cho nên, có thể nói, sự khinh nhờn, bất kính đối với Phật trong Tây Du Ký chính là một

thái độ của nhà văn đối với tôn giáo.

Như vậy, Ngọc Hoàng, Lão Quân, Phật Tổ Như Lai, hay nói rộng hơn là thế giới của

Trời - Phật - Tiên - Thánh ở thiên đình đều đã bị Tôn Ngộ Không coi thường, phỉ báng. Sự coi

thường, phỉ báng của Tôn Ngộ Không là đối mặt trực diện tại chính không gian tồn tại của các

lực lượng này chứ không phải ở dưới mặt đất trần gian nói vọng lên. Điều này khẳng định

thêm tính cách, khí phách cao cường của Tôn Ngộ Không. Mặt khác, nó cũng là một sự chọn

lựa mang tính quan niệm của nhà văn về mối quan hệ giữa tính cách với hoàn cảnh của nhân

vật. Suy ngẫm, ta thấy toàn bộ tính cách ngang tàng, trịch thượng, đại bất kính của Ngộ Không

rõ là rất phù hợp với tất cả các không gian lớn nhỏ trên thiên đình. Dĩ nhiên, không gian sẽ

chẳng là gì nếu không có quan hệ với con người, ở đây, không gian thượng giới là cõi cao vời,

vĩnh hằng, thâm nghiêm, thiêng liêng – thế giới của sự sống các lực lượng siêu phàm. Ấy vậy

mà, tất cả đều đã bị Tôn Ngộ Không, nhân vật anh hùng của lý tưởng tự do và khát vọng bình

đẳng trực tiếp nhiều lần đến đại náo! Hoàn toàn không thể nói việc đại náo thiên cung của Tôn

Ngộ Không là câu chuyện ngẫu nhiên, ở một số nước phương Đông, nhất là Trung Quốc, Việt

Nam, thì văn chương thời phong kiến trị vì xã hội , cái quan niệm "thi dĩ ngôn chí", "Văn dĩ tải

đạo" đã từng có vị trí đáng kể trong sáng tác và cảm thụ văn học. Giáo sư Lượng Duy Thứ cho

rằng nội dung tư tưởng của Tây Du Ký- cũng không rõ ràng, dễ nhận thấy như tác phẩm Thủy

Hử của Thi Nại Am, vì nó được thể hiện quanh co, kín đáo dưới hình thức ảo tưởng. Nhưng

cũng đúng như giáo sư khẳng định, rằng "Người đọc vẫn có thể chấp nhận các hình tượng và

từ đó suy ra lý lẽ của tác giả". Giáo sư viết tiếp trong sự so sánh Tây Du Ký với Thủy Hử: "Hai

tác phẩm gần như cùng thời này đều mượn chuyện lịch sử để bày tỏ thái độ đối với đời sống xã

hội. Thủy Hử lấy chuyện bạo động nông dân thời Tống làm đề tài, Tây Du Ký mượn chuyện

nhà sư đời Đường đi tìm lý tưởng ở một xứ sở khác. Thoạt nhìn, có thể lầm tưởng tính phản

kháng của Thủy Hử cao hơn. Nhưng thật ra, câu chuyện Thủy Hử chỉ đóng khung trong phạm

vi một triều đại - nông dân đời Tống chống lại vua quan đời Tống. Còn Tây Du Ký đả kích,

châm biếm, thậm chí lật nhào toàn bộ những thần tượng trong đời sống xã hội - từ Ngọc

Hoàng, Diêm Vương, Long Vương đến Nho giáo, Lão giáo, Đạo giáo... Mặt đối lập của tác

phẩm vô cùng rộng lớn, tư tưởng phản kháng của tác giả so với Thủy Hử có phần sâu sắc hơn"

(Lời giới thiệu Tây Du Ký - TI (bộ l0 tập) -trang 14).

Đồng tình với quan niệm của Giáo sư Lương Duy Thứ, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng

định rằng hình tượng nhân vật chính Tôn Ngộ Không là nơi chốn gởi gắm quan niệm và thái

độ xã hội của nhà văn Ngô Thừa Ân. Sẽ có thể có một câu hỏi đặt ra: thế tại sao Ngô Thừa Ân

không trực liếp nói thẳng (cũng bằng văn chương) với triều đình phong kiến thời Minh cùng

tất cả nhân sự và thiết chế của nó? Không thể như thế được, vì hai lẽ sau đây. Thứ nhất, chính

sách "Văn tự ngục" khét tiếng của giai cấp cầm quyền sẽ không để yên thân nhà văn. Thứ hai,

đặc thù của sáng tạo nghệ thuật ngôn từ không cho phép hình tượng văn học can thiệp thô bạo

mang tính xã hội học vào đời sống nhân sinh. Còn nếu cần xem xét tính cách phản kháng, nổi

loạn của nhân vật sau khi chấp nhận thua bàn tay Phật Tổ có còn được tiếp tục hay không? -

thì điều này vẫn cứ còn tiếp diễn về sau, tuy có thể khác về mức độ và tính cách. Và, ngay cả

khi có sự khác nhau này thì tính cách nhân vật Tôn Ngộ Không vẫn có một hệ thống. Đó là sự

nhất quán của một trường -hành động phản kháng với tất cả những ngang trái, bất công.

Những trang viết trên đây đã hướng về không gian thượng giới. Luận văn cũng xác định

ở không gian thượng giới ấy là có cả Trời - Tiên - Phật, những lực lượng đầy quyền uy ngự trị.

Đối với đối tượng tiên, chẳng hạn ở hội Bàn Đào, hay là nhân vật Thái Thượng Lão Quân với

thuật chiêu luyện kim đan trường sinh, chúng tôi cũng đã bàn đến. Để thêm đầy đặn khuôn

diện không gian thượng giới và cũng là thấy thêm sự ảnh hưởng có tính chất xuyên suốt của

Phật giáo trong Tây Du Ký, sau đây sẽ điểm một số nét về không gian của Bồ Tát, Phật Tổ. Có

thể gọi không gian của Bồ Tát, Phật Tổ Như Lai là không gian Tây Thiên cực lạc. Trên đại

thể, có thể thấy hai không gian lớn: không gian bộ phận của các bồ tát và không gian ở Tây

Thiên cực lạc, nơi có Phật Tổ Như Lai ngự tri. Việc phân thành hai không gian này chỉ có ý

nghĩa tương đối. Còn thực ra, đấy là một thế giới chung, một không gian tồn tại chung của Bồ

tát, của các Đức Phật.

Ở hồi thứ 17, Tôn Ngộ Không đại náo núi Hắc Phong, bị yêu lấy mất áo cà sa, nên đi cầu

viện Quan Âm và đã đến Nam Hải. Người tường thuật kể lại cái nhìn không gian Nam Hải của

Tôn Ngộ Không: "Bể xa man mác, ngấn nước liền trời. Mây xanh trùm vũ trụ, khí sáng chiếu

non sông. Nghìn tầng sáng tuyết thét trời xanh, muôn đợt khói lồng ồn ngày trắng. Nước bay

bốn cõi như sấm vang, cuồn cuồn vòng quanh nghe dậy đất. Nói chi thế nước, ngó trời trung

gian. Từng núi báu lờ mờ năm sắc, đỏ, vàng, đen, tía, lục và xanh. Mới biết Quan Âm vui

thắng cảnh, thử xem Nam Hải lạc già sơn. Tốt đẹp sao! Núi non cao ngất, ngọn chấm từng

mây. Trung gian đầy muôn thức hoa thơm, trăm nghìn cỏ đẹp. Gió lay cây báu nắng sen vàng.

Điện Quan âm lợp ngói lưu ly, động trào ấm cánh cửa đồi mồi. Dưới bóng dương xanh sáo hát

vang, trong khóm trúc tía công múa lộn. Oai nghiêm hộ pháp trên tảng đá hoa. Hùng tráng

Mộc tra trước thềm mã thao" (TP.I.tr.311). Không gian ở đây được miêu tả có màu sắc tĩnh tại

và tuy có nhắc đến việc Quan Âm vui thắng cảnh, nhưng không thây hình dáng sinh động của

nhân vật, cho nên, không gian ở đây chỉ như không gian phong cảnh địa lý, không có ý nghĩa

nghệ thuật. Tuy nhiên, đây cũng là một nét thi pháp miêu tả được lập đi lập lại nhiều lần trong

tác phẩm. Tính đăng đối, ước lệ trong câu văn khá rõ.

Ở hồi thứ 26, Tôn Ngộ Không phải đi Đông Dương đại hải để tìm thuốc chữa bệnh cho

cây thuốc của Đại tiên Trấn Nguyên Tiêu. Đến Đông Dương đại hải tức là tìm Quan âm. Tác

giả chỉ viết : "Hành giả ở trên mây nhảy xuống, tiến thẳng đến trên ngọn Phổ Đà, thấy Quan

Âm cùng các vị thiên thần, Mộc Xoa, Long nữ đương giảng kinh thuyết pháp" (TP.I.457).

Không gian Đông Dương đại hải ở đây không được tập trung miêu tả, nhưng ta lại biết được

Tôn Ngộ Không đã đến những nơi bồng lai xa cao như thế một cách nhẹ nhàng bằng tài phép

của mình.

Thầy trò Đường Tăng tiếp tục đi đến sông Thiên Hà thì Đường tăng bị nạn. Tôn Ngộ

Không phải đi tìm Quan Âm giải cứu ở Nam Hải. "Hành giả vội lên mây sáng, rời khỏi cửa

sông, thẳng tới Nam Hải. Độ nửa giờ đã nhìn thấy Lạc Già Sơn bèn hạ thấp từng mây, đi thẳng

tới sườn núi Phổ Đà" vào bái kiến Quan âm. Ở hồi thứ 49 này, như lời dặn của Quan âm đối

với các đồ đệ thì hôm nay sẽ có Tề Thiến đại thánh đến. Quan âm vào rừng trúc ngắm cảnh rồi

sẽ trở lại tiếp đại thánh. Quan âm vốn đủ thần thông, nên khi ra tiếp Tề Thiên đại thánh thì

đồng thời trong tay xách một cái làn đan bằng trúc tía cùng đi với đại thánh xuống sông Thiên

Hà cứu Đường Tăng. Không gian ở đây bị phân cắt nhiều nhưng cũng như nhiều không gian

cõi bồ tát khác, chúng ta luôn thấy sự hợp tác, giải cứu của Bồ tát đối với các tai nạn của Thầy

trò Đường Tăng. Nếu đối với không gian thiên đình, Tôn Ngộ Không chẳng hề tôn trọng và

luôn làm xáo trộn các trật tự cố định thì đối với không gian của Bồ Tát, hầu như Tôn Ngộ

Không thường biểu hiện thái độ ghi nhận. Mỗi lần tiếp ứng với không gian Bồ tát đều là mỗi

lần tìm sự giúp đỡ. Với mục đích này, nhìn chung, ta thấy đều được giải quyết một cách nhẹ

nhàng, về điểm này, có lẽ tính thanh tịnh, và triết học Phật giáo là phải nên như thế chăng(?).

Đến hồi thứ 52, khi Tôn Ngộ Không bị con yêu ở động Kim Đâu thu gậy sắt, Tôn đã phải

đi Tây Thiên cầu viện Như Lai. Như Lai cẩn thận nói "Vật ấy tuy ta có biết, nhưng không thể

nói với nhà ngươi được, e nhà ngươi đi nói chuyện với người khác, nó sẽ không đánh nhau với

nhà ngươi nữa, mà bỏ lên Linh sơn vòi vĩnh, lại thêm vạ cho ta. Ta sẽ dùng phép giúp nhà

ngươi bắt y là đủ" (TP.II.tr.335). Rồi Như Lai sai mười tám pho La Hán dộng mười tám hạt

"kim đơn sa" đi giúp Tôn, đồng thời mách kín một địa chỉ dự phòng để tiếp giải cứu ở Thái

Thượng (ở điện Đẩu xuất ly hậu thiên). Không gian Tây Thiên nơi Như Lai đang ngự không

được tác giả trình bày. Chúng ta cũng chỉ thấy sự hợp tác, giúp sức của các lực lượng quyền

uy (Phật, Đạo) cho yêu cầu của Tôn Ngộ Không. Không gian Tây Thiên cực lạc cố nhiên sẽ

được miêu thuật khá đầy đặn ở những hồi cuối của tác phẩm. Nhưng ở đây, nhân vật chính của

Tác phẩm đã đến được Tây Thiên! Có lẽ, trừ Đường Tăng, còn lại các nhân vật khác trong

đoàn thỉnh kinh, ít nhiều ai cũng có tài phép biến hóa. Chỉ riêng Đường Tăng, khi chưa đắc

đạo thì không thể dùng pháp thuật gì cả. Tất cả đồ đệ của Đường Tăng phải có nhiệm vụ hộ

tống, bảo vệ sư phụ này đi cho đến Tây Thiên. Thực chất vấn đề là Đường Tăng cùng đồ đệ

phải luôn luôn bị thử thách nghiệt ngã và qua đó, phải hiện rõ sự thành tâm, công đức thì mới

có thể thành chánh quả. Điều này có ý nghĩa phổ quát đối với các hình tượng nhân vật chí

thiện, trung nghĩa trong văn học Phương Đông nói chung. Đọc tác phẩm, có khi ta trực giác

nghĩ rằng, Phật Tổ Như Lai hoàn toàn có thể phóng hào quang tuệ nhãn ra để tìm biết được

người đi thỉnh kinh ở nước Đại Đường, chứ cần chi phải sai Quan Âm cất công đi tìm ra Trần

Huyền Trang(?). Nhưng như thế có phần trái với giáo lý Đạo phật. Một hiện tượng có tính dân

gian mà Tây Du Ký đã tiếp thu: con gà đứng trên nong lúa, chân nó phải bươi thì miệng nó

mới chịu cúi xuống mổ để ăn. Trong giáo lý Đạo Phật, mọi thành quả đều phải có công lao và

nhân duyên, chứ không thể cậy tài sức mà thu ngắn quá trình được.

Đọc tác phẩm, chúng ta cũng thấy ở hồi thứ 77, khi sư phụ Đường Tăng bị nạn, Tôn Ngộ

Không "lòng rầu rỉ, nghĩ sau nghĩ trước, lòng lại hỏi lòng nói: Đây đều là do Đức Phật Như

Lai ngồi ở trên cõi cực lạc không có việc gì, mới làm ra bộ kinh Tam Tạng. Nếu có lòng

khuyến thiện, thì cứ gởi sang Đông Thổ, lại chẳng để tiếng muôn đời sao? Chỉ vì không vời

mà tống được đi, nên bắt chúng mình đến lấy, biết đâu là chúng mình phải vượt bể trèo non,

đến đây bỏ mạng!" (TP.III,tr.224-225). Không kể những suy diễn không đúng của Tôn Ngộ

Không trong lời lẽ trên, chúng ta thấy chính nhân vật trong tác phẩm của nhà văn cũng có ý

muốn "đốt cháy giai đoạn" như thế. Nhưng như vừa nói, vấn đề ở đây là phải có công lao, có

tâm thành chí nguyện thì mới đúng với quan niệm nhà Phật. Cho nên, việc Quan âm cất công

đi tìm người thỉnh kinh cũng là cần có thêm công quả mới, chứ bấy giờ, Quan Âm chỉ mới đắc

hạnh Bồ tát mà thôi. Xác định như thế, chúng ta cũng sẽ dễ hiểu vì sao trong nhiều tai nạn trên

đường thỉnh kinh của Thầy trò Đường Tăng, khi chưa cầu tìm Quan Âm thì Quan Âm đã tự

biết và tự do đi giải cứu. Chẳng hạn, ở hồi thứ 55, khi Tôn Ngộ Không đánh thua con yêu ở

động Tì bà, quay về sườn núi thì gặp ngay Quan Âm hóa thân bà già đến mách tìm Mão Nhật

Tinh quân ở cung Quang Minh để được giúp giải cứu.

Đến hồi thứ 57, 58, nhiều không gian của Ngọc Hoàng, Địa Tạng Vương, Quan Âm,

Như Lai cũng được nhắc đến. Tất cả những không gian này cũng không được nhà văn tập

trung miêu tả, mà chủ yếu là giới thiệu nó như một cái nền, trong đó, các lực lượng quyền

năng này đều đồng tình giúp đỡ Tôn Ngộ Không hoàn thành sứ mệnh bảo hộ Đường Tăng

sang Tây Thiên thỉnh kinh.

Ở hồi thứ 61, có một không gian thật thú vị. Đó là không gian trên tầng không, nơi diễn

ra những trận kịch chiến ngoạn mục giữa Tôn Ngộ Không và Đại Lực (chồng của La Sát ở

động Ba Tiêu). Không gian này tuy là nơi chốn thi tài của Tôn Ngộ Không và Đại Lực, nhưng

tác phẩm cho ta biết rằng, về sau, Phật Tổ Như Lai đã có lệnh sai các lực lượng trợ giúp Tôn

Ngộ Không từ bốn phía, nên là một không gian thấm nghĩa ý từ sức mạnh của Phật Tổ. Tác

phẩm kể rằng, khi Đại lực hóa thiên nga thì Tôn hóa chim Đông Thanh Hải, khi Đại lực hóa

chim cắt vàng thì Tôn hóa con phượng đen, khi Đại lực hóa con hạc trắng bay về Nam thì Tôn

hóa con phượng đỏ, khi Đại lực hóa con nai ngơ ngác ăn cỏ thì Tôn hóa con hổ đói, khi Đại

lực hóa con beo lớn có vằn thì Tôn hóa Sư tử mắt vàng, khi Đại lực hóa con gấu người thì Tôn

hóa con voi to và cuối cùng, Đại lực hiện rõ nguyên hình con trâu trắng to dài hơn một ngàn

trượng thì Tôn hiện nguyên hình, biến thành cao muôn trượng, đầu như Thái Sơn, mắt như

mặt trời, mặt trăng. Từ đây, hai bên đánh nhau một cách long trời lở đất và cuối cùng, Đại lực

thua chạy về động Ba Tiêu. Trong khi đó, quân của Tôn Ngộ Không đổ đến vây chặt núi Thúy

Vân. La sát bảo Đại lực hãy đưa quạt Ba tiêu cho Tôn để được yên, nhưng Đại lực vẫn kiên

quyết ra đánh tiếp với Tôn. Đây là trận quyết định. Cuối cùng, Đại lực thua, chạy về bên Bắc

gặp phải Bát Pháp Kim Cương ngăn lại để bắt; chạy về phía Nam gặp Thắng Chí Kim Cương

đón bắt; chạy về bên Đông gặp Đại Lực Kim Cương chận giữ đòi bắt; chạy sang bên Tây gặp

Vĩnh Trụ Kim Cương cũng ngăn lại đòi bắt... Tình thế như vậy làm Đại lực hoảng sợ, mất

phương hướng. Đại lực bèn nhảy lên mây thì lại gặp Thác tháp Lý thiên vương và Natra thái

tử cũng đang đợi bắt. Thấy tất cả các lực lượng đều vâng chỉ Phật Tổ Như Lai đến bắt mình,

Đại Lực bèn hóa con trâu trắng to, dùng sừng sắt hức vào Lý Thiên Vương, nhưng cuối cùng

Natra đã chém đứt đầu Đại Lực, sự chiến thắng ở đây quả có nhờ các lực lượng bề trên và

không gian ở đây cũng là không gian có tính bố trí của Phật Tổ Như Lai. 'Dù vậy, sự năng

động của Tôn Ngộ Không để giải trừ tai nạn là không thể không được khẳng định.

Đến hồi thứ 75, 76, 77, thầy trò Đường Tăng gặp đại nạn do ba con ma già lão luyện gây

nên. Khi đã kiệt trí cùng sức, Tôn Ngộ Không đã phải đi viện cầu Như Lai Phật Tổ. Lộn người

lên mây trong chớp nhoáng Tôn Ngộ Không đã đến Thiên Trúc, núi Linh Sơn, đi đến dưới

ngọn núi Thứu Phong ngẩng đầu lên chờ bái kiến phật Tổ. Bấy giờ, Phật Tổ đang tĩnh tọa

giảng kinh trên đài sen cửu phẩm cho mười tám pho A La Hán. Kể qua một lượt tai nạn do ba

con ma gây ra cho Phật Tổ nghe và Phật Tổ nói "bọn yêu tinh ấy ta có biết". Giữa không gian

trang nghiêm, giữa quan hệ đang cần khẩn cầu sự giúp đỡ cho mình như thế, mà thình lình

Tổn Ngộ Không nói: "Bạch Như Lai, tôi nghe thấy người ta nói yêu tinh có họ thân thích với

ngài"! Như Lai giải thích thêm về nguồn gốc bọn yêu tinh này thì Tôn Ngộ Không lại nói tiếp:

"Bạch Như Lai, nếu đem so sánh ra, người vẫn là cháu ngoại của yêu tinh". Đối đáp như Tôn

Ngộ Không quả là chẳng kiêng nể gì vị giáo chủ của không gian Thiên Trúc. Nhưng rồi Như

Lai bỏ qua, tiếp sai Ca Diếp, Văn Thù, Phổ Hiền... rồi tất cả cùng đi đến nước Sư Đà để bắt

bọn yêu ma, giải cứu cho Thầy trò Đường Tăng.

Có thể nói, suốt một năm hồi của tác phẩm thì từ hồi thứ 98, đất Phật, không gian Phật

đích thực mới dần dần được hiện ra. Nếu những không gian của các Bồ tát, các Chư Phật đã

từng xuất hiện như có phần chia cất, không được tập trung miêu tả, ít có tính thuần nhất, thì

đến đây, chúng ta sẽ gặp được khổng gian Thiên Trúc cực lạc thực sự. Cũng đến không gian

này, không hề có hiện tượng yêu ma giả Bồ Tát, giả Phật như đã từng có ở các hồi 22, 57, 91...

đã làm Đường Tăng khốn lụy muôn phần. Mở đầu cho việc đến được cõi Phật, thầy trò Đường

Tăng phải qua bến Lăng Vân bằng một chiếc thuyền không đáy. Vì còn ở bên này cõi đời xác

thân phàm tục, nên Đường Tăng còn phải một lần té sông mới "Xương cốt phàm thai đã thoát

thân". Khi đã ngộ đạo, cảm nhận được hết trí tuệ rộng lớn của Phật Tổ, Thầy trò lần lượt gặp

nhiều không gian cực lạc tuyệt vời mà suốt mười mấy năm qua chưa hề biết đến. Đây là không

gian chùa Lôi Âm: "Đỉnh sát tầng Tiêu Hán, chân tiếp mạch Tu Di. Núi khéo.xếp vòng la liệt,

đá lạ bài trí lô nhô, cỏ ngọc hoa vàng treo sườn núi, huệ thơm lan tía rợp đường đi. Vượn tiên

hái quả báu, thẳng lối vào rừng đào, rang rạc tựa lửa bốc thiếu vàng; hạc trắng đỗ cây tùng, vắt

vẻo đầu cành, cuồn cuộn như khói vòng nâng ngọc.

Từng đôi phượng múa, hướng dương vang hót khúc lành nhiều. Từng cặp loan xanh, đón

gió xòe tung đời ít có. Lại kìa, mái ngói xếp uyên ương vàng rực rỡ, tường nọ gạch hoa mã não

sáng long lanh. Đông một hàng, Tây một hàng, hết thảy đều là vầng cung châu khuyết. Nam

một dãy, Bắc một dãy, nhìn không chán những gác báu lầu vàng. Điện thiên vương bên trên

tỏa hào quang; nhà Hộ pháp đằng sau phun lửa đỏ, tháp phủ đề nổi rõ, hoa sen vàng ngát lừng.

Chính là nơi: "đất cao kỳ, ngỡ trời riêng biệt; mây lơ lững, thấy ngày dài ghê. Bụi hồng không

bơn, mọi duyên cắt hết. Muôn kiếp vô cùng nơi đại pháp môn" (TP.III tr.553). Rồi thầy trò

được tiếp tục lên không gian núi Linh Sơn và cuối cùng đã ra mắt được với Phật Tổ Như Lai.

Những trang văn tự sự ở đoạn này phong phú, đầy đặn, chất chồng đạo vị phật giáo. Từ điện

Đại Hùng, đến vô số các vị A la Hán, Kim Cương, Yết Đế, Già Lam... cho đến lời châu ngọc

của Phật Tổ Như Lai dạy bảo Đường Tăng... đều góp phần tạo ra một cảm giác hết sức cực lạc

của không gian Tây Trúc. Ở hồi này, khi thầy trò Đường Tăng được nhận kinh, A Nan và Ca

Diếp có đòi lễ vật. Trước tình huống này, Tôn Ngộ Không, "tức không nhịn được, kêu lên: Sư

phụ ạ, chúng mình đi bạch Như Lai, bắt họ tự phải mang kinh đến cho lão Tôn". Thấy thế, A

Phật ngồi trên gác nghe thấy. Liền đó, Nhiên Đăng cổ Phật sai vị Bạch Hùng Tôn giả đuổi theo

Nan làm lành và cho nhận kinh, nhưng toàn kinh không có chữ. Việc này Nhiên Đăng cổ

đoàn thỉnh kinh lấy lại kinh không chữ và bảo cả đoàn trở lại để lấy kinh có chữ, Sự việc diễn

ra đúng như thế. Quay trở lại, Tôn Ngộ Không nói với Như Lai: "Bạch Như Lai', thầy trò

chúng tôi chịu đựng trăm ma nghìn quái, từ bên Đông thổ đến được chốn này, ơn Như Lai

truyền trao kinh cho, bị A Nan, Ca Diếp hạch tiền không được, thông đồng nhau làm bậy, cố ý

đưa những bản kinh giấy trắng không có chữ cho chúng tôi mang về. Chúng tôi đưa những của

nợ ấy về làm gì? Mong Như Lai xét cho!". Như Lai trả lời bằng việc kể lại lần các tỳ kheo đi

đọc kinh cho nhà trưởng giả họ Triệu ở nước Xá Vệ cũng đã có lấy tiền mà vẫn là còn ít! Như

thế, ở không gian Tây Thiên, nơi cực lạc Phật đạo vào bậc nhất mà vẫn có chuyện "ra lễ vật".

Tôn Ngộ Không thì nói là "hạch tiền". Có thể ta không bàn thêm về việc này, nhưng cũng ở

đoạn này, tác phẩm cộ. đoạn viết về Đường Tăng biếu dâng bát lộ (của Vua Đường cho để xin

ăn dọc đường) thì ANan vẫn lấy: "Vị Anan đỡ lấy, chỉ chúm chím cười nụ. Mấy người lực sĩ

coi lầu ngọc, mấy người đầu bếp ở bếp -Hương Tích, thấy Tôn Giả như vậy, người vuốt mặt,

kẻ đập lưng, nào xói tay, nào bĩu mồm cười rộ nói: Rõ bêu! Rõ bêu! Lại đi hạch lạc, đòi ăn lễ

cả người lấy kinh". Nội dung đoạn văn nay rồ ràng có giá tri sự tố cáo rất cao. Phải chăng đó

cũng là chi tiết lố bịch của không gian trong sạch, thiêng liêng?!).

Từ những dòng trên đây về không gian Tây Thiên cực lạc, chúng ta thấy rằng, ở các

không gian bộ phận của các Bồ tát, A la hán, tác giả ít tập trung miêu tả toàn vẹn. Phần lớn đấy

là những không gian cho những đối thoại, cầu tìm sự giúp đỡ của Bồ tát, chư Phật cho các tai

nạn của thầy trò Đường tăng. ở những không gian cụ thể của loại này, tuy Tôn Ngộ Không có

khi nói những lời bất kính đối với Bồ tát và cả Như Lai Phật Tổ, nhưng cơ bản là nhân vật vẫn

ghi nhận, thuận thành chấp nhận làm theo. Còn đối với không gian Tây Thiên cực lạc đích

thực thì nhà văn có tập trung miêu thuật một cách đầy đặn. Dụng công này cũng đem lại được

sự tương xứng hòa điệu của các Chư phật với không gian tồn tại của chính các Phật. Tuy

nhiên, nếu từ sau khi bỏ đạo tu tiên, một lòng theo Phật, bảo vệ Đường Tăng đi Tây Thiên, Tề

Thiên cơ bản vẫn giữ được tính cách, lý tưởng của mình thì khi đến tại xứ Phật, sự ngay thẳng,

tính cương trực, không cuối đầu trước những việc sai trái... vẫn tiếp tục thể hiện, mà việc bạch

Phật Tổ Như Lai về trò hạch tiền của Anan, Ca Diếp là ví dụ điển hình. Việc đấu tranh của

Tôn Ngộ Không có thể không đạt nguyện vọng, nhưng nó là sự biểu hiện của một tính cách

không ngừng chống chọi lại với hoàn cảnh. Do vậy, hình tượng của nhân vân trung tâm này ở

tất cả các không gian đã kinh qua đều luôn sáng đanh và gợi thức ở người đọc một cảm tưởng

khoái trá lạ thường. Đến đây, phần không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký, phần trung tâm

của Luận văn, chúng tôi đã phân tích qua. Trong phần trung tâm này, như chúng tôi đã tạm

chia ra các không gian bộ phận, vẫn là điều có ý nghĩa tương đối. Nhìn chung, như đã trình

bày, không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký có hai không gian lớn là không gian Trần thế và

không gian Thần kỳ. Qua nội dung cụ thể của các không gian nói trên, có thể đi đến một số

nhận xét như sau. Đối với không gian Trần thế, có hai không gian là không gian Núi Hoa Quả

- Đá Tiên và không gian mặt đất. Với không gian núi Hoa Quả - Đá Tiên, luận điểm cơ bản, đó

là nơi xuất phát, có tính chất cội nguồn của hình tượng nhân vật chính. Với tất cả sự bí ẩn, tính

hợp nhất của thiên địa trong quá trình ra đời của nhân vật chính như đã xác định, rõ ràng là

điều kiện để cắt nghĩa một cuộc đời đầy, biến hóa của nhân vật. Tuy thuộc về không gian trần

thế, nhưng không gian này so với không gian mặt đất với những con đường, hang động, bến

bãi... thì nó vẫn kỳ thú và lạ lẫm hơn. Còn không gian mặt đất, như trong trình tự tác phẩm, nó

là sự mở dần ra trên hành trình nhân vật thực hiện các nhiệm vụ cụ thể. Không gian này phát

triển theo chiều dọc và có vô số những không gian lớn nhỏ khác nhau. Khi dừng lại ở các

không gian này, tác giả có miêu thuật, nhưng cái chính vẫn là miêu tả nó với tư cách như một

môi trường, hoàn cảnh để các nhân vật hoạt động, thể hiện. Các nhân vật trong đoàn thỉnh

kinh, tùy vào đặc trưng tính cách và tài năng riêng mà bộc lộ ỏ các không gian ấy. Đối với

riêng nhân vật Tôn Ngộ Không thì ở loại không gian này có thể nói đúng như Giáo sư Lương

Duy Thứ là "Tây Thiên thỉnh kinh là lịch sử xây dựng sự nghiệp của Y" [57/19]. Do xem quá

trình đi Tây Thiên như là một quá trình xây dựng sự nghiệp của Tôn Ngộ Không, nên có thê

nói có vô vàn kỳ tích chiên đâu và chiên thắng của nhân vật. Lịch sử xây dựng sự nghiệp này

cùng với các "truyện ký anh hùng" trong đại náo Thiên Cung, Long Cung là những phần cơ

bản quyết định diện mạo tinh thần của người anh hùng quái kiệt này. Hai phần cơ bản này của

nhân vật cũng có liên hệ đúng như GS. Trần Xuân đề viết: "Tính cách của nhân vật Tôn Ngộ

Không trên đường đi lấy kinh đã kế thừa tính cách của người anh hùng trong chuyện "Đại náo

thiên cung"". Còn không gian Long Cung - Âm Ty chính là nơi Tôn Ngộ Không đã chiếm lĩnh

binh khí và thể hiện khát vọng trường sinh. Các lực lượng đang ngự tri ở không gian này cũng

không đơn giản. đối với việc thực hiện.

Những ý định của Tôn Ngộ Không ta đã thấy qua các trận chiến kịch liệt giữa Tôn Ngộ

Không với các thế lực ấy. Nhưng nếu so với các lực lượng ở Thiên Cung thì sức mạnh (lực)

của các lực lượng ở Long Cung - Âm Ty không sánh kịp. Do lực lượng không sánh được

nhau, nên không gian Thiên Cung cũng đã được nhà văn miêu tả đầy đặn, chi tiết hơn. Ở

không gian Thiên Cung cũng không phải nhà văn chỉ một lần kể việc. Có thể thấy rằng với

một trăm mười năm ở Thiên Đình, Tôn Ngộ Không đã nhiều đại náo, đại náo với tất cả. Chính

ở không gian này, hình tượng Tôn Ngộ Không cực kỳ rực rỡ. So với tất cả những không gian

khác trong tác phẩm, luận văn chúng tôi vẫn xem đây là không gian quan trọng và có ý nghĩa

bậc nhất của hình tượng nhân vật. Qua những trang phân tích về không gian này ở trên, không

thể không thấy được một nhân vật phản nghịch vô cùng triệt để. Điều thú vị từ sự cảm nhận

văn học của chúng ta ở không gian này chính là sự tương ứng, hòa điệu giữa con người với

hoàn cảnh, giữa tính cách nhân vật với không gian nghệ thuật.

Không gian thiên đình vẫn thuộc về không gian thượng giới nói chung. Trong không

gian thượng giới nói chung này, chúng tôi cũng điểm qua không gian Tây Thiên cực lạc với

hai bộ phận là không gian rời của các bồ tát, chư phật và không gian tại Tây Trúc khi đoàn

thỉnh kinh đến đất Phật. So với các không gian nói trên, thì không gian này có phần nhạt hơn

trong sự miêu tả của nhà văn. Tuy không gian này tính nghệ thuật không được cao, nhưng với

tư cách là không gian địa lý, không gian nền cho các nội dung hoạt động của nhân vật thì vẫn

ghi nhận được. Ở phần không gian Thiên đình, khi giới thuyết vấn đề, chúng tôi cũng đã nhắc

đến ý kiến của giáo sư G.N.Pospelov về loại không gian này, tức là sự chuyển dịch các bức

tranh có thể đưa người đọc vào những miền khác nhau. Không gian Tây Thiên, như đã nói,

có thể có ý nghĩa như vậy.

Quan niệm của thi pháp học khi nói về không gian nghệ thuật đều xác nhận rằng không

gian trong văn học - không gian nghệ thuật luôn mang dấu ấn của từng dân tộc, tức là tính

dân tộc của không gian nghệ thuật, về vấn đề này do không phải là vấn đề trọng tâm của

Luận văn, nên chúng tôi không bàn sâu. Dù vậy, có thể có một số nhận xét khái quát như sau.

Có thể thấy những vấn đề như tâm lý, địa bàn cư trú, lịch sử, không gian cuộc đời, ngôn

ngữ, tôn giáo, triết học... của một dân tộc thường để lại những dấu ấn trong văn chương. Nếu

không có một nhà văn nào không là con đẻ của một dân tộc nhất định thì khi anh ta viết văn -

những đề tài về nhân vật và đất nước mình - nhất định bản sắc dân tộc, những dấu hiệu về tính

dân tộc sẽ được hiện ra. Điều này hoàn toàn đúng. Viết Tây Du Ký„ Ngô Thừa Ân cũng không

tránh khỏi tính đặc thù này. Vấn đề càng dễ hiểu hơn, khi ta biết nhà văn đã sống một cuộc đời

tám mươi năm, chứng kiến không biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử dân tộc với khá nhiều

đặc điểm trên các lĩnh vực lớn và lại hoàn thành tác phẩm vào cuối đời. Tất cả những hình ảnh

thiên nhiên như núi cao, sông rộng, những biến thiên chính trị của các triều đại phong kiến,

những hoạt động của bọn Đạo sĩ, kỷ cương của nho giáo, các thời kỳ hưng thịnh, biến thái của

Phật giáo... đều để lại dấu ấn rất rõ trong Tây Du Ký. Đấy chính là những biểu hiện của tính

dân tộc của tác phẩm. Ở một độ sâu sát hơn với hình tượng nhân vật trong tác phẩm thì có thể

nói, Tôn Ngộ Không đã phản ánh tinh thần phản kháng vĩ đại của nhân dân" Trung Quốc đối

với triều đình nhà Minh thối nát, mục ruỗng. Tôn Ngộ Không đã "thể hiện những nguyện

vọng sâu kín của nhân dân lao động Trung Quốc bao đời nay chịu áp bức, bóc lột"[54/20,21].

Chương 3: MỐI QUAN HỆ GIỮA HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT VỚI KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ VẤN ĐỀ THƯỞNG THỨC, TIẾP NHẬN

3.1. Mối quan hệ giữa hình tượng nhân vật với không gian nghệ thuật.

Hình tượng văn học nói chung, hình tượng nhân vật trong văn xuôi nói riêng là phương

thức biểu hiện và tồn tại của sáng tác nghệ thuật ngôn từ. Chính hình tượng nhân vật là nơi ký

gởi tâm sự, quan niệm thẩm mỹ của nhà văn và vì vậy, nó là một trong số ít những tiêu điểm

mà nhà văn luôn hướng tới. Để hoàn chỉnh hóa được một hình tượng nhân vật đích thực, xét

về phía sinh thành, nhà văn phải dùng hàng loạt yếu tố nghệ thuật và từ đó, nảy sinh các mối

quan hệ giữa hình tương nhân vật với các yếu tố ấy. Đọc Tây Du Ký, các hình tượng nhân vật

cũng không nằm ngoài giới thuyết này.

Dựa vào lý thuyết Thi pháp học để xem xét vấn đề được đặt ra, thì như đã xác định từ

đầu, không gian nghệ thuật là một trong số ít các hình thức nghệ thuật có nghĩa nhất đối với

hình tượng nhân vật. Nhân vật trong Tây Du Ký nói riêng, nội dung văn học của toàn tác

phẩm nói chung, từ khi trở thành "tài sản văn hóa tinh thần" của bạn đọc đến nay vẫn nguyên

vẹn như thế. Tuy nhiên, với tư cách nghệ thuật ngôn từ, với đặc thù thẩm mỹ của hình tượng

văn học, nó vẫn cứ mãi mai là mảnh đất cần liên tục được nghiền ngẫm, phát hiện. Và, chính

việc nghiên cứu không gian nghệ thuật của tác phẩm như đã trình bày ở các chương trên, cho

thấy rằng hình thức nghệ thuật này chỉ làm rạng rỡ thêm ý nghĩa của hình tượng nhân vật.

Khẳng định điều này, một mặt chúng ta thấy thêm rằng việc chọn lựa, xây dựng kiểu

không gian cho quá trình tồn tại, vận động của nhân vật là một việc mang tính quan niệm rất

rõ, mặt khác, chúng ta bày tỏ thái độ không đồng tình với các ý kiến cho rằng Tây Du Ký chỉ

là truyện hài hước, "đùa cợt với đời", chẳng bao hàm một ý nghĩa sâu xa nào[54/12].

Nói rằng không gian nghệ thuật chỉ làm rạng rỡ thêm ý nghĩa của hình tượng nhân vật

thì điều này đúng, nhưng cũng cần nói rõ thêm tính cụ thể của vấn đề.

Về số lượng nhân vật trong Tây Du Ký, tất cả gồm có năm thành viên. Từ hiện thực

được phản ánh trong tác phẩm và quá trình vận động của các nhân vật, chúng ta thấy, thực ra,

nổi trội hơn trong cả đoàn thỉnh kinh chỉ cớ ba trong năm nhân vật ấy. Đó là Tôn Ngộ Không,

Đường Tăng và Bát Giới. Nhiều giáo sư, các nhà nghiên cứu cũng đều tập trung nói đến ba

nhân vật nói trên. Ba nhân vật này, trong quan hệ với hình thức không gian nghệ thuật của tác

phẩm có những điều kiện cụ thể khác nhau.

Ở đây, trong hàm ý của tiêu đề tiểu mục, chúng tôi nghiễm nhiên chấp nhận những nét

riêng "có sẵn" của các tính cách nhân vật, trong đó, Đường Tăng và Trư Bát Giới thuộc diện

này. Sự chấp nhận những nét riêng có sẵn của hai tính cách nhân vật này nảy ra câu hỏi: chẳng

lẽ không gian nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm không có quan hệ gì với hai tính cách

nhân vật nói trên hay sao? vấn đề không phải hoàn toàn như vậy. Quan sát tất cả những biểu

hiện thuộc tính cách nhân vật đã diễn ra trong suốt quá trình thỉnh kinh, chúng ta thấy cơ bản

đều diễn ra ở những không gian cụ thể? Tuy nhiên, các đặc trưng cá thể trong tính cách hai

nhân vật này phần lớn đều có tình trạng "cố thủ" trước những tác động nhất định của các

không gian. Và như vậy, kinh qua nhiều không gian khác nhau, các tính cách này chủ yếu là tự

bộc lộ, hội tụ với các tính cách khác hơn là phù hợp, tương tác và biến sinh như trường hợp

Tôn Ngộ Không. Trong trường hợp như thế, có thể nói, tính nghệ thuật của các không gian

được xây dựng trở nên ít có ý nghĩa (tức đối với Đường Tăng và Bát Giới),

Dù vậy, sự phân biệt và làm rõ về các tính cách sau đây trong quan hệ với vấn đề không

gian nghệ thuật vẫn cứ cần thiết.

Trước hết, nói về Đường Tăng - người thủ lĩnh của đoàn thỉnh kinh, Giáo sư Lương Duy

Thứ cho rằng "Đường Tăng là một hòa thượng ngây thơ, muốn thực hiện lý tưởng, song

không có biện pháp gì khả thủ [5/16]. Xét về "chiến lược" của một người có lý tưởng muốn đi

tìm chân lý một cách thành thật và kiên trì như Đường Tăng thì nhận xét khái quát nói trên rất

đúng. Giáo sư Trần Xuân Đề cũng xác định đây là nhân vật "nhu nhược, yếu đuối, vô tài, bất

lực, quan liêu với người dưới, khuất phục kẻ trên, mang nặng quan niệm đẳng cấp truyền

thống của Tây Thiên phong kiến"[Ì3/116]. Quan sát nhân vật này từ đầu quá trình đi thỉnh

kinh cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ, chúng ta thấy ý kiến này càng phong phú về minh

chứng. Một vài điều cụ thể sau đây cũng có thể góp phần làm rõ tính cách của nhân vật Đường

Tăng. Đọc Tây Du Ký, chúng ta thấy Đường Tăng luôn quan sát các không gian hiện dần lên

phía trước của lộ trình. Đường đi của cả đoàn thỉnh kinh hầu như luôn luôn gặp nhiều khó

khăn, tai ách. Mỗi lần như thế, Đường tăng thường khóc lóc, sụt sùi. Đứng trước nhiều gian

nguy, thử thách không thể kể hết ra đây, nói chung, Đường Tăng "như con rối", hoàn toàn mất

phương hướng và không đủ sự vững vàng của bản lĩnh để xử lý công việc. Đã thế mà nhiều

khi Đường Tăng vẫn giữ nguyên tính cố chấp của mình. Cũng do cố chấp, không nghe lời nói

đúng của Tôn Ngộ Không mà ở hồi 65 chẳng hạn, bọn yêu tinh đã gây đại nạn cho Đường

Tăng. Không những không nghe những lời nói đúng mà Đường Tăng có khi còn nghe nhiều

lời xúc xiểm nhớ đến câu chuyện "Đẽo cày giữa đường" trong văn học dân gian Việt Nam.

Đọc Tây Du Ký, có lẽ chúng ta đều thấy vai trò thiết yếu của Tôn Ngộ Không trong việc bảo

vệ Đường Tăng và giải trừ tất cả những chướng ngại tai ác. Có thể nói rằng Đường Tăng

không thể hoàn thành sứ mệnh thỉnh kinh, nếu không có Tôn Ngộ Không. Giáo sư Lương Duy Thứ cho rằng "Nếu không có Tôn Ngộ Không thì một bước ông ta cũng khó đi”[5/16]. Ấyvậy

mà Đường Tăng đã nhiều lần đuổi Tôn Ngộ Không và nói những lời thật ác miệng như chúng

tôi đã có dịp dẫn ra ở các phần viết trên. Riêng ở điểm này, nếu nghĩ sâu hơn thì chính nhân

vật Đường Tăng đã phạm vào lỗi logic học, tức luật "không mâu thuẫn" - Nhưng đây là vấn đề

khác. Một trong những biểu hiện đáng trách về nhân cách của Đường Tăng là việc người thủ

lĩnh đoàn thỉnh kinh xúi giục linh hồn mấy tên giặc đi kiện Tôn Ngộ Không ở hồi 56. Về việc

này, Tôn Ngộ Không từng có lời thưa ôn tồn, phân minh rằng: Tôn có đánh chết chúng cũng là

vì sư phụ Đường Tăng - nhưng Đường Tăng vẫn không nghe và cuối hồi này còn đọc chú cẩn

cô đối với Tôn Ngộ Không! Ở hồi 49, con Rùa chở cả đoàn qua sông, có nhờ Đường Tăng hỏi

Phật Tổ bao giờ Rùa mới hết kiếp, điều lẽ ra phải cần nhớ - như một tri ân - mà Đường Tăng

cũng quên bẵng! Những điều trên cho thây rất rõ những nhược tật và sự bất nhất của nhân vật

Đường tăng. Ở một cáp độ tổng quan hơn, có lẽ cần nói thêm vấn đề tư tưởng được hàm ẩn

trong hình tượng nhân vật này. Đọc Tây Du Ký, xem xét các hành trạng và những phát ngôn

của nhân vật Đường Tăng, chúng ta thấy có một điều gì không rõ ràng, dứt khoát. Có ý kiến

cho rằng "ở Đường Tăng, tư tưởng phong kiến có truyền thống của Trung quốc cùng tư tưởng

nhà Phật đã kết hợp với nhau làm một". Chính sự kết hợp này trong hình tượng nhân vật đã tạo

ra nhiều chỗ rắm rối. Về sự phức hợp này, giáo sư Lương Duy Thứ đã chỉ ra và đánh giá rất rõ:

"trong Tây Du Ký thì nhiều chỗ uẩn khúc, làm cho người đọc có lúc không rõ tác giả tán thành

cái gì, phản đối cái gì. Ví dụ: một mặt tác giả thể hiện Đường Huyền Trang và Tôn Ngộ

Không như những người tự động hành hương đi tìm chân lý, nhưng mặt khác, tác giả lại miêu

tả Phật Tổ chủ động phái Quan Âm sang Trung Quốc tìm người truyền đạo về Phương Đông.

Việc đi thỉnh kinh cũng còn được mô tả như là sự chấp nhận ý muốn của nhà vua Đường Thái

Tông. Như vậy, việc đi tìm chân lý chỉ là thừa hành mệnh lệnh nhà Phật và nhà vua và do đó,

mọi sự phản kháng đấu tranh đều trở nên vô nghĩa"[53/19]. Ý kiến đánh giá trong câu văn

cuối cùng của Lương Duy Thứ kể trên đây cho phép chúng ta khẳng định thêm: quả thực

Đường Tăng là một hình tượng nhân vật được cấu thành bởi hai lực lượng cũng là tư tưởng

không nhỏ và phức tạp. Cũng trong ý kiến đánh giá nói trên, Lương Duy Thứ cho rằng - như

thế -thì mọi sự phản kháng đấu tranh đều trở nên vô nghĩa. Có lẽ, phần ý kiến này là xét đất tận

cùng vấn đề. Ở một phía khác, phía mục đích hành động của nhân vật, có lẽ chúng ta cũng cần

ghi nhận công lao nhất quán của Đường Tăng trong suốt quá trình đi Tây Thiên. Trần Xuân

Đề cũng xác nhận điều này: "Việc Đường Tăng không quản trăm cay nghìn đắng cùng Ngộ

Không vượt qua biết bao trở ngại khó khăn, trèo đèo lội suối sang tận Tây Thiên để lấy kinh

Phật trở về Đông Thổ là điều đáng được khẳng định"[13/119]. Từ tất cả những vấn đề về hình

tượng nhân vật Đường Tăng nói trên, có thể thấy rằng, đạo đức, nhân cách, tính cách... của

Đường Tăng như là những điều "có sẵn". Những yếu tố này đã bộc lộ trong suốt quá trình

thỉnh kinh, trên các không gian địa lý cụ thể. Nó có tính "cố định", "cố thủ" của bản thân nhân

vật hơn là được tương tác và bị chi phối của các không gian. Do vậy, các không gian được xây

dựng trong tác phẩm trong quan hệ với hình tượng nhân vật Đường Tăng trở nên ít có ý nghĩa.

Cùng dạng với hình tượng nhân vật Đường Tăng là hình tượng Trư Bát Giới. Xuất hiện

từ hồi thứ mười tám và đi suốt với đoàn thỉnh kinh bằng tất cả những ưu điểm, khuyết điểm,

Trư Bát Giới cũng là nhân vật gây nhiều ấn tượng vừa thú vị, vừa trần tục, gần gũi với đời

thường. Bàn về nhân vật Trư Bát Giới, Giáo sư Lương Duy Thứ viết: "...ở Trư Bát Giới chúng

ta lại tìm thấy tất cả những cái bình thường, thậm chí hèn mọn của con người. Được vũ trang

bằng cái cào cỏ, y có dáng dấp một nông dân. Y ham lao động, suy nghĩ đơn thuần, nhưng

cũng rất có tư lợi, thích nhàn nhã, dễ bị cám dỗ bởi sinh hoạt vật chất. Không thể coi Trư Bát

Giới là "điển hình của dục vọng", là "con lợn lòng của loài người". Hình tượng Trư Bát Giới

đa dạng hơn thế và do đó cũng lớn hơn thế"[5/19]. Ý kiến trên đây rất căn bản và bao quát về

nhân vật. Xét ý nghĩa của mối quan hệ giữa hình tượng nhân vật và không gian nghệ thuật,

chúng ta sẽ tìm hiểu thêm một vài khía cạnh cụ thể. Trước hết, có thể thấy từ trong bản chất,

Bát Giới luôn có tinh thần dao động. Điều này, rải rác có thể tìm thấy sự xuất hiện của nó trên

suốt cuộc hành trình đi Tây Thiên, nhất là khi gặp khó khăn, tai ách. Trong tác phẩm, biểu

hiện đầu tiên của tinh thần dao động này xuất hiện ở hồi thứ 19 - đoạn tự phát ngôn của Trư

Bát Giới khi giả từ gia đình: "Gởi lời chào mẹ Vợ, dì nhớn, dì bé, anh em rể, cậu cô chú bác,

tôi hôm nay đi làm hòa thượng, không kịp đến chào, xin chớ trách. Thưa trượng nhân, bố hãy

trông nom nhà con cho cẩn thận, hễ lấy không được kinh, trở về hoàn tục, con lại trở về nhà bố

ở rể làm ăn như trước" (TP.T1 - tr.429). Từ nội dung của câu văn thứ hai, ta thấy lộ ra "tính

nước đôi" trong ý nghĩ của Trư Bát Giới. Thật ra, đó là tinh thần dao động, hoang mang. Một

trong những loại việc của tinh thần hoang mang, dao động thường xảy ra nhất ở Trư Bát Giới

là việc đòi chia hành lý, giải tán đoàn thỉnh kinh, ai lo phần nấy. Biểu hiện hoang mang dao

động này, như đã nói, là có từ bản chất của nhân vật, trước khi tham gia cùng đoàn thỉnh kinh.

Khi theo đoàn thỉnh kinh, đi qua nhiều không gian địa lý cụ thể thì điều đó vẫn tiếp tục bộc lộ.

Nếu so sánh với nhân vật Đường Tăng về việc bộc lộ thái độ trên đường đi thì Trư Bát Giới có

khác. Khi gặp bất trắc, gian nguy thì Đường Tăng thường khiếp sợ, khóc sụt sùi và nhiều lần

ngã từ trên ngựa xuống đất. Lương Duy Thứ xem nhân vật Đường Tăng là ngây thơ và không

có biện pháp gì khả thủ là đúng. Trong khi đó, Trư Bát Giới "có vẻ bình tĩnh" hơn. Đành rằng

Trư Bát Giới cứ đòi chia hành lý, giải tán đoàn và có khi đang giao chiến với yêu ma lại trốn

vào bụi cây để ngủ, nhưng rõ ràng, những toan tính, dự định của Trư Bát Giới được diễn ra

tiệm tiến hơn. Còn Đường Tăng thì dường như là "lập tức" bộc lộ tình trạng mất phương

hướng xử lý sự cố. Xét ở chiều không gian tác động tới tính cách nhân vật thì quả những

không gian có nội dung khó khăn đã tác động đến tâm lý tính cách của Trư Bát Giới.

Một trong những nét tính cách vốn có khác của Trư Bát Giới là việc ham mê sắc dục.

Câu chuyện tiêu biểu hơn cả về vấn đề này trong tác phẩm là chuyện Trư Bát Giới đã vướng

phải sắc dục ở trang viên họ Giả. Đọc tác phẩm, chúng ta đều biết là Lê Sơn Thánh Mẫu vâng

lệnh Quan Thế Âm Bồ Tát cùng hai vị Phổ Hiền, Văn Thù đến thử lòng thiền của thầy trò

Đường Tăng. Nói rằng việc ham mê sắc dục cũng là nét bản chất, vì tácphẩm cho ta biết Trư

Bát Giới từng có lỗi say rượu trêu ghẹo tiên nga ở hội bàn đào, phải đầu thai xuống hạ giới làm

thân súc vật chịu tội. Do cội nguồn của vấn đề vốn có từ sâu xa như vậy, nên việc vướng phải

sắc dục trên đường thỉnh kinh cũng là điều dễ hiểu.

Bên cạnh tinh thần hoang mang dao động, tính hiếu sắc dục, Trư Bát Giới còn có lòng

tham, tính lười biếng, thích tư lợi. Tính tham ăn, ăn nhiều, ăn uống chẳng kể sĩ diện là nét

thường thấy nhất ở Trư Bát Giới. Từ việc ăn quả nhân sâm ở Ngũ Trang Quán, ăn cơm chay

nhiều vô kể ở các trang viên cho đến hồi thứ 99, dự tiệc thếch đãi ở gia đình họ Trần Gia

Trang, Trư Bát Giới vẫn không thay đổi cố tính tham ăn. Lòng tham của Trư Bát Giới không

phải bộc lộ riêng ở mỗi việc ăn uống, mà còn tham lợi về tiền bạc ngay cả trong hoàn cảnh

nhiều khó khăn của đoàn thỉnh kinh. Để có lợi cho mình, có khi Trư Bát Giới còn nói

lời xúc xiểm đối với Tôn Ngộ Không. Ở hồi thứ 31, lúc Trư Bát Giới sắp bị Tôn Ngộ Không

đánh khuyến cáo thì Trư Bát Giới đã nhanh trí lợi khẩu nhằm tránh tội. Ở hồi thứ 49, khi ba

anh em cùng đi cứu Đường Tăng ở sông Thiên Hà mà Trư Bát Giới vẫn còn chơi khăm đối với

Tôn Ngộ Không. Những nét phẩm chất, tính nết trên đây của Trư Bát Giới thật ra cũng cần

được nhìn nhận từ nhiều phía. Có thể nói, đây là nhân vật phức tạp về mặt tính cách. Nhìn

rộng hơn, ta sẽ thấy, ở mỗi tâm lý, mỗi nét tính cách như vậy đều gần như có hai phía tốt và

xấu (hoặc là tích cực hoặc là tiêu cực). Cả hai phía này thống hợp trong một hình tượng nên có

khi như một nghịch lý. Chúng ta đều biết, việc đi thỉnh kinh, thật ra Trư Bát Giới chẳng hiểu

sâu sắc gì và cũng không lấy gì làm hứng thú, nhưng Bát Giới đã theo suốt cuộc hành trình và

hầu như gánh hành lý nặng nề của cả đoàn ấy cũng cơ hồ ở suốt trên vai Bát Giới. Tuy có khi

Bát Giới nói lời xúc xiểm dèm pha có hại cho Tôn Ngộ Không, nhưng ở hồi thứ 41, chính Trư

Bát Giới đã trực tiếp chữa bệnh cho Tôn Ngộ Không khỏi bệnh (do khói độc của Hồng Hài

Nhi). Những quá trình ba anh em cùng đi cứu sư phụ Đường Tăng, có lúc Trư Bát Giới đã thúc

nhanh Tôn Ngộ Không không được chậm trễ, phải đi cứu gấp, dù trong đêm tối tù mù. Trong

suốt cuộc hành trình đến Tây Thiên, Trư Bát Giới đã làm nhiều công việc hết sức nặng nhọc.

Đặc biệt, khi đoàn thỉnh kinh bị ách tắt ở ngõ Hy Thị, Trư Bát Giới đã dùng chính mũi của

mình ủi đường phát quang cho cả thầy trò được tiếp tục lên đường. Có lẽ ở chi tiết này, tính

cách nhân vật đã biến hoàn cảnh từ khó khăn trở nên thuận lợi. Đây cũng là chi tiết có ý nghĩa

trong mối quan hệ giữa hình tượng nhân vật và không gian nghệ thuật. Ở đây, tuy vẫn là

không gian địa lý, nhưng chính những khó khăn từ không gian địa lý đã tác động vào tâm lý

nhân vật, làm nảy sinh một tính cách can trường. Có thể còn có nhiều biểu hiện, chi tiết khác

về tính cách của Trư Bát Giới. Nhưng chỉ những điều trên đây - cả về hai phía tốt và xấu -

chúng ta đều thấy đây là một hình tượng nhân vật không nên đánh giá một chiều. Rộng mở và

cũng là thận trọng hơn, có thể nói như ý kiến của Lương Duy Thứ đã dẫn ở trên: đó là một

hình tượng "đa dạng" và "lớn hơn" những nhận biết xưa nay về nhân vật này.

Xem xét vấn đề theo mục đích đặt ra, có lẽ mối quan hệ giữa hình tượng nhân vật và

không gian nghệ thuật trong trường hợp Trư Bát Giới, chúng ta nên cảm nhận gần gũi với Tôn

Ngộ Không. Trong các nhân vật của tác phẩm, xét về tài phép thì sau Tôn Ngộ Không, chỉ có

thể là Trư Bát Giới. Trư có 36 phép thần thông biến hóa. Không thể nào sánh được với 72

phép của Tôn Ngộ Không, nhưng nhờ 36 phép biến hóa này mà Trư Bát Giới đã tham gia

chiến đấu, trợ chiến với Tôn Ngộ Không rất nhiều trận oanh liệt và thắng lợi. Tính chiến đâu,

bất khuất của Trư Bát Giới cũng đáng được ghi nhận. Trư cũng có nhiều lần chiến bại, bị yêu

ma bắt sống, nhưng vẫn không đầu hàng, thỏa hiệp. Chính nhờ tài phép biến hóa của mình mà

Trư Bát Giới cũng thích ứng với nhiều không gian chiến đấu khác nhau. Trư cũng đi mây về

gió, đánh với nhiều yêu tinh trên không trung và rất rành không gian sông nước. Tuy không

bằng Tôn Ngộ Không về tầm cỡ, chiều kích trong quan hệ với các không gian với các trận

kịch chiến khác nhau, nhưng có thể nói, nhân vật Trư Bát Giới cũng có được sự tương hợp,

thích ứng nhất định giữa tính cách và hoàn cảnh, không gian nghệ thuật. Và như vậy, nếu so

với Đường Tăng về vấn đề đang nói thì tính cách Trư Bát Giới có ý nghĩa hơn.

Có nhiều ý kiến cho rằng việc xây dựng hình tượng nhân vật Trư Bát Giới của Ngô Thừa

Ân là để tạo sự đối lập với nhân vật Tôn Ngộ Không, làm cho rõ hơn hình tượng Tôn Ngộ

Không. Ý kiến này có lý. Ở đây, chúng ta vẫn tiếp tục tìm hiểu ý nghĩa của mối quan hệ giữa

hình tượng nhân vật và không gian nghệ thuật trong trường hợp Tôn Ngộ Không.

Trước hết phải nói ngay rằng, Tôn Ngộ Không là hình tượng rực rỡ nhất trong Tây Du

Ký. Với hình tượng nhân vật trung tâm này, hoàn toàn có điều kiện để nhận ra ý nghĩa rất thú

vị của chính nhân vật với các không gian nghệ thuật trong tác phẩm.

Như ta biết, sau khi học được bảy mươi hai phép thần thông biến hóa, tu luyện xong

phép cân đẩu vân do Tổ sư truyền dạy, Tôn Ngộ Không bắt đầu nhập thế thực hiện các hoài

bão của mình. Tôn Ngộ Không đã xuống Long Cung bắt Long Vương nộp gậy thần, xuống

Âm ti bắt Diêm Vương xóa hết tên họ loài khỉ trong sổ tử để được trường sinh, đánh lên Thiên

cung bắt Ngọc Hoàng phải nhường ngôi, rồi sau đó, khi phải chấp nhận thua bàn tay của Phật

Tổ Như Lai thì Tôn Ngộ Không lại tạo sự nghiệp mới trên suốt cuộc hành trình bảo hộ Đường

Tăng để đi Tây Thiên thỉnh kinh. Trong truyện ký anh hùng của nhân vật ở thời gian trước khi

đi Tây Thiên, chúng ta thấy Tôn Ngộ Không xứng đáng "là hình tượng một nhân vật phản

nghịch triệt để, dám thách thức cả kẻ thống trị tối cao" [54/215,217,218]. Đồng thời với

những vận động nổi bật lòng dũng cảm của Tôn Ngộ Không trong 7 hồi đầu, chúng ta thấy có

những không gian nghệ thuật hết sức tiêu biểu: không gian Long cung - Âm ty, không gian

thiên đình, thượng giới...

Ở những không gian này, toàn bộ tính cách của Tôn Ngộ Không được thể hiện hết sức

đầy đặn. Đặc trưng tính cách của Tôn Ngộ Không "là phản kháng, nổi loạn, dám đấu tranh và

biết đấu tranh" [54/217]. Trong một xã hội còn sự tri vì của tôn ti trật tự, kỷ cương của phong

kiến, nho giáo thì việc phản kháng, nổi loạn, dám đấu tranh chống lại với mọi thứ quyền uy

của bề trên, vốn là vấn đề khó có thể xảy ra. Vì cuộc đấu tranh của Tôn Ngộ Không "tượng

trứng cho những nguyện vọng sâu kín của nhân dân lao động bao đời chịu áp bức"

[54/215,217,218], là vấn đề cực kỳ lớn lao, cao rộng, nên nói cũng chỉ tương ứng với những

không gian rộng lớn, có chiều kích quy mô. Thử hình dung một nhân vật anh hùng luôn đòi

hỏi cho kỳ được những điều lớn lao như vũ khí vô địch, được trường sinh bất tử, đòi Ngọc

Hoàng phải nhường ngôi... mà chỉ phải vận động trong một phạm vi không gian nhỏ hẹp, tầm

thường... thì khó có thể thấy tính chất ứng hợp giữa việc làm và hoàn cảnh, giữa tính cách và

phạm vi hoạt động. Do hình thức nghệ thuật trong tác phẩm văn học là vấn đề có quan niệm

tính, nên nhà văn Ngô Thừa Ân đã xây dựng những không gian nghệ thuật cho nhân vật của

mình. Những không gian này vốn không có trong thực tế cuộc sống, nhưng bằng vào tài năng

hư cấu, trí tưởng tượng cực kỳ phong phú và một bút pháp lãng mạn thần thoại, nên tác giả đã

thực hiện được ý định nghệ thuật, về phương diện cấu trúc cũng nói rằng, nhà văn đã có

những chuẩn bị tích cực và kín đáo cho quá trình bộc lộ tính cách về sau của nhân vật Tôn

Ngộ Không. Đó là việc cho Tôn Ngộ Không đi học đạo và đã gặp được Tổ sư hết sức xứng

đáng. (Riêng trong quan hệ này như vẫn còn điều gì thật "bí ẩn", nhất là , khi chia tay, Tổ sư

căn dặn Tôn Ngộ Không không được nhắc gì về sư phụ).

Nhờ học được đạo, tức có bảy mươi hai phép biến hóa, phép cân đẩu vân mà khi nhập

thế, Tôn Ngộ Không rất thuận lợi trong việc nới rộng không gian vận động của mình. Theo

bước chân đầy ảo hóa của nhân vật, chúng ta thấy Tôn Ngộ Không tay bắt quyết, niệm thần

chú, mở khóa rẽ nước, đi thẳng đến đáy bể Đông gặp Long Vương để đòi vũ khí vô địch; rồi

tiếp đến điện Sâm La, nơi ngự trị của Diêm Vương để đòi xóa tên tuổi của mình cùng giống

loài trong sổ tử để được trường sinh. Chuyện chiếm lĩnh vũ khí Cây thiết bổng, chuyện đòi

xóa tên trong sổ tử điều là chuyện phi thường, hi hữu... không thể thực hiện được ở cõi đời

trần thế. Nó chỉ có thể thực hiện được ở một không gian đầy hư cấu mang tính chất lãng mạn,

và cũng hết sức phi thường. Và quả là các không gian Long Cung - Âm Ty được trình bày ở

những trang viết trên đã cho thấy cái hợp lý giữa khát vọng con người và nơi chốn thực hiện

khát vọng ấy. Miêu tả các không gian đầy tính chất thần kỳ cho nhân vật vận động, tác giả rất

chủ định, nên khuôn diện của các không gian này cũng thật sinh động, bề thế. Chẳng hạn ở

không gian Long Cung, không phải chỉ có Long Vương và một số thuộc hạ mà còn có cả các

huynh đệ của Long Vương ở Nam Hải, Bắc Hải, Tây Hải... và tất cả họ, dù cố tình hợp lực,

nhưng lần lượt nhượng bộ đối với Tôn Ngộ Không. Một không gian sống động với một lực

lượng bề thế như vậy, chỉ tôn thêm người anh hùng Ngộ Không với khát vọng hết sức mãnh

liệt của chính nhân vật. Ngay ở không gian Âm ty, một không gian như thêm một tầng nữa của

trí tưởng tượng của nhà văn: không gian trong giấc mơ của Tôn Ngộ Không - cũng được trình

bày thật sinh động kỳ thú. Điều này cũng làm cho khát vọng được thoát ra ngoài quy luật sinh

tử của nhân vật thêm hợp lý và thú vị. Còn khi Tôn Ngộ Không đánh lên Thiên Cung thì

không gian Thượng giới này cũng được miêu tả đúng như tất cả sự cao vời, trang nghiêm và

bất khả xâm phạm của nó. Nếu hành trình lên trời của Tôn Ngộ Không là quá trình thể hiện

một tính cách bất khuất, không chịu thừa nhận bất cứ một sự tri vì nào thì không gian Thiên

Cung ấy là nơi chốn tung hoành ngang dọc vào bậc nhất của cả cuộc đời nhân vật. Không gian

ấy từ cửa Nam Thiên, Linh Tiêu bảo điện đến chính điện với tất cả sự uy nghi, kỷ cương, với

một hệ thống nhân sự ngự trị từ Ngọc Hoàng đến các thuộc hạ, như ta thấy, đều là những đối

tượng đã bị Tôn Ngộ Không coi thường, phê phán. Chỉ một thân một mình đương đầu chống

lại một thế lực đồ sộ, bề thế như thế, Tôn Ngộ Không xứng đáng là người anh hùng bất khuất.

Một trong những việc cực kỳ to lớn và có ý nghĩa nhất trong tính cách bất khuất của Tôn Ngộ

Không là việc đòi Ngọc Hoàng nhường ngôi cho mình. Những đoạn miêu tả của nhà văn về

việc này đem lại nhiều khoái trá, kỳ thú cho người đọc. Đòi hỏi của Tôn Ngộ Không, tính cách

của Tôn Ngộ Không rõ ràng tương xứng với các đối tượng của mình, đồng thời ở đây cũng là

tương xứng với không gian của quan hệ nhân vật. Trong sự tương xứng, tương hợp, hòa điệu

giữa tính cách nhân vật với không gian nghệ thuật ở đây, cuối cùng chúng ta đều thấy sự vượt

trội rực rỡ của hình tượng nhân vật và như vậy, cái không gian cao vời, kỷ cương, thâm

nghiêm, thiêng liêng kia chỉ là sự tôn vinh thêm, làm ngời sáng thêm người anh hùng quái kiệt

Tôn Ngộ Không. Toàn bộ truyện ký anh hùng về nhân vật Tôn Ngộ Không như đã nói, làm

sao có thể xem đấy là một câu chuyện mua vui? Dù ít hay nhiều, đậm hay nhạt, nó cũng là

cách "gởi gắm một tâm sự, thể hiện một lý tưởng, bênh vực một quan niệm nhân sinh"

[54/206,207] của người sáng tạo ra nó - người mà trong lòng luôn "mài dũa dao trừ tà", về vấn

đề này, các giáo sư Lương Duy Thứ, Trần Xuân Đề cũng đã bàn đến với đủ lý lẽ, mà chúng tôi

đã có dịp khẳng định lại ở phần viết trên.

Nếu trong bảy hồi đầu là truyện ký anh hùng về Tôn Ngộ Không thì từ sau khi nhận lời

cùng đi Tây Thiên lại là quá trình dằng dặc để nhân vật này tự xây dựng sự nghiệp cho mình.

Khi Tây Du Ký từ trong truyền thuyết, thoại bản đến bàn tay sáng tạo của Ngô Thừa Ân,

Lương Duy Thứ đã chỉ ra ba mặt thay đổi của tác phẩm [54/206,207]. Ba mặt này, cơ bản

cũng được thể hiện trong quá trình cùng đi thỉnh kinh của nhân vật. Lần theo quá trình ấy,

chúng ta cũng thấy nhiều không gian lần lượt được mở ra. Nếu lòng dũng cảm, tinh thần bất

khuất là nét nổi bật trong truyện ký anh hùng của Tôn Ngộ Không thì tài năng, sự mưu trí... là

nét khá nổi bật của quá trình xây dựng sự nghiệp của nhân vật.

Theo dõi sự phát triển của tác phẩm, quá trình mở ra của nhiều không gian trên đường

thỉnh kinh, chúng ta thấy rằng, dù đoàn thỉnh kinh có nhiều người, nhưng cũng chủ yếu chỉ

một mình Tôn Ngộ Không là nhân vật đương đầu, đối trọng với tất cả các loại yêu ma quỷ

quái. "Trong cuộc đấu tranh với đủ loại yêu ma quỷ quái, y luôn luôn bền bỉ dẻo dai, thọc sâu

tận sào huyệt, vật lộn đến cùng, chưa đạt mục đích thì chưa buông tha. Gặp khó khăn y luôn

lạc quan, không bao giờ khóc lóc như Đường Tăng, hay buông lời chán nản như Trư Bát Giới"

[54/216,217]. "Nói chung thì tính cách của nhân vật Tôn Ngộ Không trên đường đi lấy kinh

đã kế thừa tính cách của người anh hùng trong chuyện "Đại náo thiên cung"[12/108].

Có thể tầm vóc cuộc chiến đấu của Tôn Ngộ Không trên đường thỉnh kinh không thể

sánh được với tầm vóc các cuộc đại náo thiên cung, long cung, nhưng các cuộc chiến đấu trên

đường thỉnh kinh lại phong phú về không gian, về các đối tượng quỷ quái mà Tôn Ngộ Không

như nhân vật duy nhất có nhiêm vụ chiến thắng bọn chúng, vẫn là một tính cách nhất quán ấy,

vẫn những tài phép đã thuần thục ấy, Tôn Ngộ Không tiếp tục tung hoành chiến đấu với vô số

những đối tượng khác nhau: các loại yêu quái, các bọn đạo sĩ, bọn ma quan gian ác, bọn giả

dạng nhà sư, bọn dựa dẫm các thế lực trên thượng giới. Nếu chúng ta đã từng thấy Tôn Ngộ

Không tung hoành ngang dọc ở các không gian Long Cung, Thiên đình thì từ sau khi thỉnh

kinh, Tôn Ngộ Không vẫn tiếp tục phát huy sở trường ấy của mình ở rất nhiều không gian:

những con đường, đỉnh núi, hang động, dòng sông, bến bãi, chùa chiền, trang viên... Có thể

nói rằng, việc biến hóa khôn lường của Tôn Ngộ Không trong quá trình chiến đấu là điều cực

kỳ lý thú, hấp dẫn.

Đọc tác phẩm, các từ ngữ : nhanh như chớp, trong chốc lát, thoắt một cái, lắc một cái,

xoa mặt một cái... luôn xuất hiện ở thời điểm bắt đầu biến hóa khôn lường của Tôn Ngộ

Không. Với ba sợi lông đặc biệt, tám mươi tư-nghìn cái lông, bảy mươi hai phép thần thông,

phép cân đẩu vân, gậy như ý chính là tài sản độc đáo, vô giá đã giúp Tôn Ngộ Không có điều

kiện ngang dọc xa gần trên vô số những hoàn cảnh, không gian khác nhau. Con người đã

chiến đấu với Đại lực ma vương từng biến thành muôn trượng, đầu như Thái Sơn, mắt như

mặt trời, mặt trăng ấy (hồi thứ 61) thì cũng đủ khả năng biến hóa thành những sinh thể cực kỳ

nhỏ bé để làm nhiệm vụ đánh phá kẻ thù. ở các hồi 49, 52, 55, 65, 71, 89, 92, 97,... ta thấy Tôn

Ngộ Không từng biến hóa ra con cua, con dế, con rệp, con ong mật, con chuột tiên, con sâu

ngủ, con bướm, con đom đóm, con sâu bay... là những chứng minh hết sức thú vị. Cũng có thể

thấy một phương pháp tốt nhất của Tôn Ngộ Không là sử đụng "miếng tứ bình", chui tạt vào

trong bụng đối phương để đâm ngang, chém dọc làm cho kẻ thù không thể nào chịu nổi, phải

khuất phục ngay. Trong tất cả những cuộc chiến đấu như thế, Tôn Ngộ Không luôn tự ứng

hợp với các không gian cụ thể. Bảo vệ Đường Tăng đi Tây Thiên, chiến đấu và chiến thắng,

đó là nhiệm vụ, là công đức, là sự nghiệp của Tôn Ngộ Không. Việc Phật tổ Như lai nói ở hồi

cuối cùng của tác phẩm: "rất mừng con biết bỏ điều xấu, làm việc lành, trên đường đi phục ma

trừ quái, trọn vẹn trước sau, gia thắng chức to chính quả, phong làm Đấu Chiến Thắng Phật"

đã góp phần khẳng định quá trình thực hiện nhiệm vụ và hoàn thành nhiệm vụ của Tôn Ngộ

Không.

Thực hiện nhiệm vụ của mình, Tôn Ngộ Không nhất quán một lòng một dạ, đồng thời

thời giữ nguyên phẩm hạnh, đạo đức, tính cách ngay thẳng, bất khuất của mình. Khác với tính

tư lợi, ham ăn, nói lời đâm thọc... của Trư Bát Giới, Tôn Ngộ Không luôn quên mình vì nhiệm

vụ, không mảy may nghĩ đến việc mứu cầu quyền lợi cá nhân. Bát Giới dẫu có đối xử không

tốt với mình, Tôn Ngộ Không bao giờ cũng đứng ở tư cách sư huynh mà xem nhẹ vấn đề.

Đường Tăng nhiều lần phê phán, thậm chí đuổi Tôn đến ba lần, nhưng Tôn vẫn rất thương sư

phụ. Đang bay trên đỉnh núi tìm phương cứu sư phụ mà nghe tin sư phụ bị yêu giết thịt, Tôn

vô cùng đau đớn và đã đứng ở sườn núi "khóc như mưa như gió". Khi trở về động Thủy Liêm,

núi Hoa Quả vì bị Đường Tăng đuổi, nghe nước thủy triều lên, mà lòng Tôn nhớ thương và lo

cho sư phụ đến rưng rưng nước mắt. Những điều này, cho thấy Tôn Ngộ Không là một con

người giàu lòng nhân ái, tình nghĩa, vị tha. Chúng ta thấy Đường Tăng xem Tôn Ngộ Không

là người làm việc ác, hay đánh chết người. Kỳ thực, không làm thế, làm sao có thể dọn đường

cho Đường Tăng đi Tây Thiên. Những bọn bị Tôn trừng trị ấy đều là ma yêu quỷ quái, nhưng

con mắt phàm trần chưa đắc đạo của Đường Tăng không thể nhìn thấu được. Trong tác phẩm,

ở hồi thứ 85, trang 286, người kể chuyện có viết về tầm vóc con người và tính chất của việc

làm của Tôn Ngộ Không như sau: "Hành giả nhất sinh là người hào kiệt, không hề đánh vụng

trộm ai bao giờ". Điều này xác định thêm tư thế kiệt xuất và tính "quang minh chính đại" trong

các cuộc chiến đấu, chiến thắng của người anh hùng này.

Là sự kế thừa và phát triển những đặc điểm từng có trong các cuộc đại náo Long Cung,

Thiên Cung, tính cách của Tôn Ngộ Không trên những không gian trần thế đi thỉnh kinh đã bổ

sung thêm các nét bất khuất mới. Ta thấy rằng trong đại náo Long Cung, Thiên Cung cơ bản

tính cách ấy là lấn tới, đòi những nhượng bộ và sự thực cũng đã thành công trong các đòi hỏi.

Còn trong chiến đấu hàng phục các loại yêu ma thì khi lâm thời thua cuộc, tính cách ấy vẫn

kiềm giữ và tìm mưu trí khác để tiếp tục triệt hạ cho được đối phương, mà việc nghĩ đến sự

giúp đỡ của các đấng bậc ở Thượng giới là một ví dụ. Mặt khác, do biết được có tình trạng có

sự quan hệ, thông nối giữa các lực lượng ma quái với Thượng giới, thì Tôn Ngộ Không vừa

cầu viện, vừa nói thẳng vào mặt hoặc ngẫm nghĩ trong lòng về các lực lượng Thượng giới.

Hoàn cảnh dồn tới những câu nói bất kính của Tôn Ngộ Không đối với Quan Âm ở hồi thứ ba

mươi lăm, với Phật Tổ Như Lai ở hồi bảy mươi bảy, hồi chín mươi tám... cũng là điều dễ hiểu.

Đọc lại những phát ngôn: "Đại thánh nghe lời, trong lòng ngẫm nghĩ: "Cái bà Bồ Tát này thực

chẳng ra sao! Khi xưa giải nạn cho Lão Tôn, bảo phải đưa Đường Tăng sang Tây Thiên lấy

kinh, ta đã nói đường lối gian nguy khó đi, người đã từng hứa với ta nếu gặp nạn gấp, sẽ thân

hành đến cứu ta. Bây giờ lại cho tinh ma hại ngầm, ăn nói không thực như thế đáng kiếp cả đời

không có chồng!" (TP.II.tr.57), "Bạch Như Lai, tôi nghe thấy người ta nói yêu tinh có họ thân

thiết với Ngài", "Bách Như Lai, nếu đem so sánh ra, người vẫn là cháu ngoại của yêu tinh"...

(TP.III.tr.228), chúng ta càng thêm thấy quan niệm và tính cách của Tôn Ngộ Không vẫn luôn

luôn nhất quán. Cũng có khi, suy nghĩ, nhận xét của người anh hùng này khá "biện chứng" và

như là một sự thực "sòng phang". Chẳng hạn, ở hồi thứ chín mươi tám, khi Đường Tăng đã

tỉnh ngộ, vội quay lại tạ ơn ba người đồ đệ thì Tôn Ngộ Không nói ngay: "Cả hai bên đều

không ai phải tạ ai cả, kẻ này người kia đều giúp đỡ lẫn nhau. Chúng tôi nhờ sư phụ giải thoát,

mượn đường lối tu hành, may được thành chính quả; sư phụ cũng nhờ chúng tôi bảo hộ, giữ

đạo tu hành, mừng thoát khỏi phàm thai tục cốt". Từ trong hành trình tồn tại, vận động và phát

triển của tính cách nhân vật, chúng ta thấy có nhiều không gian khác nhau đã lần lượt xuất

hiện, vừa như là vai trò, điểm tựa cho sự vận động tính cách, vừa như là một hình thức tổ chức

có tính chất tương hợp, hòa điệu cho hành động nhân vật. Sự phân biệt thành những không

gian riêng như luận văn đã trình bày, thực ra, cũng không loại trừ một cái nhìn biện chứng về

tính chất quan hệ thông nối lẫn nhau của chúng. Theo dõi tác phẩm từ khi Đường Tăng, Tôn

Ngộ Khổng... bắt đầu đi thỉnh kinh thì ta thấy Tôn Ngộ Không có khá nhiều liên hệ đối với các

lực lượng ở thế giới thần kỳ. Đó tức là nhiều lần - khi bị mất phương hướng giải cứu tại nạn -

thì Tôn Ngộ Không lại dùng phép Cân đà li vân bay đi đến các không gian Tây Thiên, Thiến

Đình, Long Cung, Âm Ti, Nam Hải.... Và như vậy, giữa không gian thần kỳ, thượng giới với

không gian Trần thế luôn có quan hệ với nhau. Điều đáng chú ý hơn trong quan hệ này là chủ

yếu chỉ có Tôn Ngộ Không với tài phép kỳ diệu của nhân vật mới có khả năng thông nối đối

với mọi chiều của hai không gian cơ bản ấy. Điều này cũng góp phần nói thêm rằng ở bất cứ

không gian nào, Tôn Ngộ Không cũng là nhân vật chính và chính Tôn Ngộ Không mới là

người quyết định thành bại của cuộc Tây Du.

Từ những điều trên đây, có thể thấy rằng, nếu ở không gian thần kỳ, sự dũng cảm chiến

đấu của nhân vật với những đòi hỏi lớn, với những trận kịch chiến lớn luôn luôn tương xứng,

tương hợp, hòa điệu với không gian lớn... thì ở không gian Trần thế, sự mưu trí để lập nghiệp

của Tôn Ngộ Không cũng đã tương hợp với các không gian cụ thể theo hướng tính cách đã tìm

mọi cách để khắc phục hoàn cảnh trở lại phục vụ cho mục đích của mình. Tôn Ngộ Không

chiến đấu ở không gian trần thế tuy dài dằng dặc trên nhiều không gian, nhưng do cuộc đấu

tranh hầu như cũng chỉ có một loại việc chính là hàng phục yêu quái, nên có thể nói, so với các

cuộc chiến đấu long trời lỡ đất ở không gian thần kỳ thì "Phạm vi đấu tranh có hẹp hơn,

phương pháp và phương thức đấu tranh khác trước"[43/118]. Có một điều làm chúng tôi luôn

phân vân trong cảm nhận đối với người anh hùng quái kiệt Tôn Ngộ Không - người anh hùng

có một cuộc đời, một tính cách, một khát vọng hết sức hoành tráng, bất khuất và kỳ vĩ... mà lại

nhận lời đi Tây Thiên mười mấy năm ròng rã với không biết bao nhiêu tai ách gian nguy: có

một cái gì đó như rất "ngậm ngùi"! Cái ngậm ngùi trong cảm nhận này chắc chắn sẽ sáng dần

ra khi đọc lại những liên tưởng của các Giáo sư Lương Duy Thứ, Trần Xuân Đề về hình tượng

nhân vật Tôn Ngộ Không có ý nghĩa như một ký gởi tâm sự đời người của nhà văn Ngô Thừa

Ân....

3.2. Đôi nét về vấn đề thưởng thức tiếp nhận theo hướng Thi pháp.

Trước hết, vấn đề thưởng thức, tiếp nhận văn học là một lĩnh vực lớn của lý luận văn

học. Có thể nói rằng, chính cuộc sống lịch sử lâu dài của tác phẩm văn học sẽ dần dần làm cho

người đọc nhận ra tính phong phú của nó trên rất nhiều bình diện. Nhiều ý kiến cho rằng "Một

tác phẩm đã hoàn thành chưa nhất thiết đã hoàn tất" là điều rất có lý. Như ta biết, sau khi tác

phẩm văn học đã hoàn thành, được in ấn, phát hành thì nó đã cắt đứt mọi liên hệ về tâm lý,

sinh lý đối với người sản sinh ra nó. Từ đây, nó bắt đầu sống một cuộc sống riêng, trở thành

một "Tài sản văn hóa" chung của toàn xã hội. Hành trình này của tác phẩm văn học thật khó có

thể tổng kết được. Một điều thường xảy ra trong quá trình tiếp nhận tác phẩm ở độc giả qua

các thời gian và không gian khác nhau là có nhiều cách tiếp nhận, cách hiểu có thể ngoài

những dự tưởng của tác giả đã sáng tác ra tác phẩm và người đọc, những nghiên cứu về tiếp

nhận văn học như một bình diện mới của lý luận văn học trong lịch sử xưa nay đã cho thấy rất

rõ điều này. Trong bài "Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc ở Việt Nam", Phan Ngọc có

nói về việc tiếp nhận khác nhau đối với tác phẩm "Tam Quốc Chí diễn nghĩa" của La Quán

Trung như sau: "Bản dịch từ Thái Lan được xem là mẫu mực của phong cách văn học và góp

phần quan trọng vào văn học Thái Lan. Người Thái Lan xem đó là quyển sách dạy về các mưu

mô chính trị, quân sự. Chỉ riêng trong giai đoạn 1935 - 1940 đã có 25 vạn bản dịch chỉ riêng

về trận Xích Bích. Người Mãn Châu dịch nó từ năm 1631 và xem nó là công cụ huân luyện

con người chống lại quân Minh, mở mang bờ cõi chiếm Trung Hoa. Nước Triều Tiên trái lại,

nhìn nó như một vũ khí tinh thần chống lại nhà Thanh "Văn học của sự chiến thắng của tinh

thần diễn ra trong tấn kịch to lớn của vận mệnh lịch sử. Người Nhật thay nó là tiểu thuyết mở

đầu cho sự tiếp thu tiểu thuyết Trung Quốc. Người Mã Lai tìm ở đấy những bài học để làm

bầy tôi nhà vua"[38/54] ở Việt Nam, việc thưởng thức, tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du

qua nhiều thời đại cũng là trường hợp cho thấy thực tế này. Nguyễn Văn Hạnh và Huỳnh Như

Phương viết: "Đoạn trường Tân Thanh của Nguyễn Du là một trường hợp tiêu biểu về cách

tiếp nhận khác nhau. Dưới thời phong kiến, các nhà nho trung thành' với tư tưởng Khổng

Mạnh đã xem tác phẩm này như là minh chứng cho sự chiến thắng của Trung, Hiếu, Tiết,

Nghĩa. Sang thế kỷ XX, khi Phạm Quỳnh đề cao Truyện Kiều (Truyện Kiều còn, tiếng ta còn.

Tiếng ta còn, nước ta còn), bên cạnh thái độ trân trọng đối với di sản văn học dân tộc, không

thể phủ nhận một ý đồ chính trị nằm trong chính sách văn hóa của thực dân pháp. Rồi Đoạn

Trường Tân Thanh lại được các nhà văn lãng mạn tập trung khai thác ở nội dung giải phóng cá

tính và khát vọng về hạnh phúc cá nhân. Khi quan điểm Mác-xít trở thành quan điểm chính

thống trong nghiên cứu văn học, Đoạn Trường Tân Thanh được chú ý ở giá trị hiện thực và

giá trị nhân đạo, ở tiếng nói phản kháng trật tự phong kiến và bênh vực những số phận bi kịch,

những con người bị bách hại và ngược đãi. Trong khi đó, ở miền Nam trước 1975, tác phẩm

này hoặc vẫn được đánh giá dưới quan điểm đạo đức phong kiến, hoặc được tô đậm ở triết lý

định mệnh qua thuyết tài mệnh tương đố, hoặc được vận dụng để chứng minh cho sức sống

của tư tưởng hiện sinh"[15/137].

Với hai ý kiến về hai tác phẩm cổ điển lớn của hai nền văn học trên đây, quả vấn đề

thưởng thức, tiếp nhận tác phẩm văn học là không đơn giản. Do mục đích của luận văn, chúng

tôi không đi sâu vào vấn đề này. Ở đây, chỉ xin nói đôi nét về việc thưởng thức, tiếp nhận tác

phẩm Tây Du Ký theo hướng Thi pháp như đã tìm hiểu.

Ta biết giới nghiên cứu Việt Nam đã nghiên cứu nhiều về văn học cổ điển Trung Quốc,

trong đó, có tiểu thuyết Tây Du Ký. Các thành tựu nghiên cứu ấy, nhìn chung đã xem xét toàn

bộ các phương diện khác nhau của một chỉnh thể tác phẩm cụ thể. Như thế, hình thức nghệ thuật của mỗi tác phẩm cũng đã đều được tìm hiểu, phân tích. Trước khi Thi pháp học được

vận dụng để nghiên cứu các tác phẩm văn học thì các phương pháp nghiên cứu đã từng có

trong truyền thống vẫn tiếp cận và chiếm lĩnh được các giá trị tư tưởng - nghệ thuật của từng

tác phẩm. Nhưng, như luận văn đã có dịp nói, tiếp cận tác phẩm bằng thủ pháp học rõ ràng đã

mang lại thêm một cách hiểu mới cho tác phẩm. Cách tiếp cận này, bằng việc giải thích, phân

tích cụ thể các cách tổ chức những yếu tố thuộc hình thức của tác giả, đã đi đến sự khẳng định

thêm về mối quan hệ của chúng với nội dung tác phẩm, về cái lý mang tính chủ định của nhà

văn khi xây dựng tác phẩm của mình. Do vậy, nghiên cứu tác phẩm văn học bằng con đường

Thi pháp là một hướng khả thi để hiểu đầy đặn hơn về tác phẩm.

Đặt vấn đề nghiên cứu không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký, chúng tôi cũng nghĩ đến

hiện tượng say mê Tây Du Ký đã có từ lâu đời trong nhân dân ta. Sự say mê này cũng không

phân biệt già trẻ. Như thế thì việc nghiên cứu không gian nghệ thuật ở đây phỏng có đem lại

điều gì mới, khác hơn cho tác phẩm không?

Thực ra, tác phẩm Tây Du Ký đã được tìm hiểu, thưởng thức và nghiên cứu từ lâu. Kinh

nghiệm thưởng thức và nghiên cứu cho thấy rằng mỗi lần tiếp xúc với tác phẩm là mỗi lần

thêm được những cảm nhận mới, những nhận thức mới. Đối với loại tác phẩm kiệt tác, điều

này càng dễ được đồng tình. Trong việc thưởng thức, nghiên cứu có vấn đề quan niệm tiếp

cận, phương pháp tiếp cận. Dễ thấy rằng tiếp cận các giá trị nội dung và nghệ thuật của tác

phẩm bằng những hướng khác nhau sẽ đem lại những kết quả không giống nhau. Nghiên cứu

tác phẩm văn học bằng quan niệm thi pháp học cũng vậy. Theo con đường tìm hiểu cái lý của

hình thức, những hình thức mang tính nội dung, Thi pháp học hoàn toàn có khả năng đem lại

những hiểu biết mới về giá trị tư tưởng - nghệ thuật của tác phẩm. Nó không những không

phương hại gì đến nội dung tác phẩm, mà còn góp phần phát hiện các giá trị, ý nghĩa được

hàm ẩn trong các hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Và như toàn bộ nội đung của luận văn đã

trình bày, rõ ràng không gian trong tác phẩm đã mang một ý nghĩa nghệ thuật rõ rệt. Như thế,

nghiên cứu không gian nghệ thuật Tây Du Ký chỉ làm rạng rỡ thêm cho các giá tri tư tưởng -

nghệ thuật của tác phẩm. Sự say mê Tây Du Ký từ bao đời nay chắc chắn phải có sự say mê

tính chất thần kỳ, kỳ diệu của tài phép biến hóa khôn lường của nhân vật, phải có sự kỳ thú đối

với cuộc đời đi mây về gió đầy ảo hóa của Tôn Ngộ Không... về điều quan trọng này, cần nhắc

một chút đến tác phẩm. Ở hồi thứ hai, sau khi được Tổ sư trao truyền cho bảy mươi hai phép

địa sát biến hóa và Tôn Ngộ Không đã tu luyện thuộc lòng cả thì Tôn Ngộ Không xin Tổ sư

truyền dạy cho phép rẽ mây, tức là phép cân đẩu vân. "Tổ sư truyền khẩu quyết và nói: Đám

mây này khi bám quyết, niệm châm ngôn rồi thì chắp sát hai cánh tay lại, cất mình nhảy ngay

lên, mỗi một cân đẩu vân đi được đến mười vạn tám nghìn dặm đường" (TP.I.tr.57).

Cùng với sự thông thạo bảy mươi hai phép biến hóa, phép cân đẩu vân này cũng đã được

Tôn Ngộ Không tu luyện thành thục. Chính những tài phép này là điều kiện cực kỳ quan trọng

cho hành trang vào đời thực hiện các hoài bão của Tôn Ngộ Không. Cũng chính nó đã góp

phần căn bản làm nới rộng các không gian hoạt động và tồn tại của nhân vật. Và như thế, sự

say mê, kỳ thú xưa nay đối với Tây Du Ký như vừa nói là gắn liền với các không gian trong

tác phẩm. Cho nên, có thể nói, nghiên cứu không gian nghệ thuật Tây Du Ký rõ ràng đã góp

thêm vào quá trình thưởng thức, nhận thức của người đọc về cái hay, cái đẹp của tác phẩm, chỉ

ra cái hay, cái đẹp của hình tượng nhân vật do quan hệ một cách tương ứng, hòa điệu của nó

đối với các không gian cụ thể.

KẾT LUẬN

Từ toàn bộ những điều được trình bày trên đây, có thể chưa toàn diện, nhưng đã khái

quát và phân tích được một số vấn đề không gian nghệ thuật trong tác phẩm Tây Du Ký của

Ngô Thừa Ân. Xem không gian trong tác phẩm là một hình thức nghệ thuật mang ý nghĩa và

luôn gắn bó với nội dung, luận văn đã nhìn nhận tổng quan về hai không gian lớn : không gian

Trần thế và không gian Thần kỳ. Trong không gian Trần thế, có các không gian như không

gian núi Hoa quả - đá liên, không gian mặt đất với những con đường, đỉnh núi, hang động,

dòng sông, bến bãi. Trong không gian Thần kỳ, cũng có những không gian cụ thể như không

gian Long cung, Âm ty, không gian Thiên cung, không gian Tây thiên cực lạc. Tuy khác nhau

về tầm vóc, về quá trình xuất hiện trong tác phẩm, nhưng tất cả chúng đã thực sự trở thành

không gian nghệ thuật trong tác phẩm Tây Du Ký. Xác định như thế, vì qua phân tích các

không gian cụ thể ấy trong quan hệ với tính cách các nhân vật, với các hình tượng văn học,

chúng ta nhận ra rằng nó luôn có quan hệ lẫn nhau. Quan hệ này, trước hết, không gian là điểm

tựa, nơi chốn cho quá trình vận động của nhân vật và từ đó, nảy ra tính chất tương xứng tương

hợp giữa không gian, với các tính cách nhân vật. Chính sự tương hợp, hòa điệu, gắn bó giữa

không gian nghệ thuật với vận động của hình tượng nhân vật đã làm nên ý nghĩa, vai trò của

hình thức nghệ thuật đối với nội dung tư tưởng của tác phẩm. Nhận ra được quan hệ và ý nghĩa

của quan hệ này như đã nói ở các phần trên, chúng ta vừa xác định vấn đề không gian nói

riêng, các hình thức nghệ thuật khác nói chung, không hề là hình vỏ ngẫu nhiên, vừa khẳng

định thêm tư duy nghệ thuật của nhà văn trong quá trình sáng tạo đã thực sự được chuẩn bị

chu đáo. Về điểm này - sức tổ chức hình thức nghệ thuật - nói theo một cách khác - các giáo sư

Lương Duy Thứ, Trần Xuân Đề, nhất là các tác giả nghiên cứu văn học thuộc Viện Khoa học

Xã hội Trung Quốc cũng từng bàn đến khá kỹ.

Khi nói các hình thức nghệ thuật, trong đó có phạm trù không gian, không thể là hiện

tượng ngẫu nhiên thì sự chủ định xây dựng đối với nó trong trường hợp Tây Du Ký chính là

không gian mang ý nghĩa đối với quan hệ nhân vật. Có thể nói, không có một nhân vật nào

trong Tây Du Ký lại không có một không gian tồn tại cho mình. Tuy nhiên, lại không phải cặp

không gian - nhân vật nào cũng có thể đem lại cho ta những nghĩa ly thú vị. Từ các phần viết

của luận văn, cơ bản chúng ta vẫn thấy riêng nhân vật Tôn Ngộ Không là trường hợp đầy đủ

và trọn vẹn nhất về mặt ý nghĩa được rút ra từ mối quan hệ này. Điều này không có gì lạ, vì

như đã nói, trọng điểm về nhân vật trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân đã thay đổi, chúng

không giống như trong truyền thuyết, thoại bản trước đó.

Không gian nghệ thuật trong quan hệ với Tôn Ngộ Không được luận văn chủ yếu trình

bày theo hai hành trình vận động lớn của nhân vật là những "truyện ký về người anh hùng" và

suốt quá trình "xây dựng sự nghiệp" cuộc đời của chính nhân vật. Ở thời kỳ tạo ra những câu

chuyện anh hùng, các không gian Long cung - Âm ty, Thiên cung, Thiên trúc đã trở thành nơi

chốn rất có ý nghĩa cho việc thể hiện một con người đầy can trường, dũng cảm, luôn luôn bất

khuất trong chiến đấu và chiến đấu đã thắng lợi. Sở dĩ chúng ta khẳng định ý nghĩa tương hợp,

hòa điệu giữa hành động của nhân vật với không gian nghệ thuật, vì nhân vật phi thường này

với những đòi hỏi lớn lao, với những trận kịch chiến kinh thiên động địa... thì không thể diễn

ra dưới mặt đất trần gian. Mặt khác những đòi hỏi lớn lao, cần thiết ấy chỉ có ở cõi thần kỳ,

siêu nhiên do các lượng tối cao quyền uy đang nắm giữ. Chỉ có thể đại náo, đánh vào không

gian cao vời, thâm nghiêm ấy một cách tung hoành ngang dọc... mới làm cho các lực lượng

tưởng là bất biến kia phải khiếp sợ, nhượng bộ rồi mới đi đến sự thỏa mãn cho các yêu cầu của

mình - đó là quyết tâm lòng dũng cảm của Tôn Ngộ Không. Như thế, ta dễ hiểu vì sao, con

người chống trời mang chiến kích vũ trụ Tôn Ngộ Không khó lòng tương xứng với các hoàn

cảnh, không gian nhỏ bé, tầm thường. Còn ở quá trình lập sự nghiệp về sau của Tôn Ngộ

Không thì hoàn cảnh, không gian, tuy trước hết là nơi vận động của tính cách nhân vật, nhưng

cái chủ yếu vẫn là nơi tập trung thể hiện mưu trí, công đức, các biện pháp chiến đấu của người

anh hùng. Do vậy, dù không gian vẫn tương hợp, hòa điệu với con người, nhưng nghiêng theo

hướng tính cách đã tác động lại hoàn cảnh, điều tiết hoàn cảnh, môi trường, không gian trở lại

tạo sự thuận lợi cho con người. Cũng như ở những không gian thần kỳ thời truyện ký anh

hùng, ở không gian trần thế này, Tôn Ngộ Không đã chiến đâu và chiến thắng bằng chính

những tài năng sở trường từng tu luyện của mình. Chiến đấu bằng những vũ khí, phương tiện

kỳ diệu như ba lợi công đặc biệt, tám mươi tư nghìn cái lông, bảy mươi hai phép thần thông,

phép cân đẩu vân..., cuộc đời của Tôn Ngộ Không dù không phải không có chỗ "ngậm ngùi"

nhưng mãi mãi đọng lại trong lòng người đọc bao thế hệ một sự say mê, đầy cuốn hút. Trong

tính cụ thể của các cuộc chiến đâu ở những không gian nhất định, không phải gặp đối tượng

nào Tôn cũng chiến thắng. Những trường hợp như thế, thì từ mưu trí và phương thức nảy sinh,

Tôn lại viện cầu các lực lượng có quyền phép hơn, mà tiêu biểu là Quan Âm Bồ Tát và Phật

Tổ Như Lai. Qua đây, ta nhận ra sự quan hệ thông nối này dù có diễn ra với tần số bao nhiêu

và nội dung xử lý thế nào thì cũng chủ yếu được thực hiện từ Tôn Ngộ Không và cầu tìm các

lực lượng quyền uy khi mất phương hướng giải quyết các sự cố, nhưng người anh hùng "lỡ

vận" này vẫn không thay đổi quan điểm đánh giá về các lực lượng ấy. Điều này nói lên sự nhất

quán trong bản lĩnh và tính cách của nhân vật Tôn Ngộ Không.

Cùng với Tôn Ngộ Không, Đường Tăng và Trư Bát Giới cũng là những nhân vật được

Ngô Thừa Ân quan tâm xây dựng. Xét các nhân vật này trong quan hệ với không gian nghệ

thuật, tuy không thể sánh được với Tôn Ngộ Không, nhưng cũng cần nhắc lại đôi điều cần

thiết .Qua tìm hiểu, chúng ta thấy nhân vật thủ lĩnh của đoàn thỉnh kinh này là một nhân vật

nhu nhược, yếu đuối, vô tài, quan liêu với người dưới, không biết nghe điêu phải, khuất kẻ

trên và luôn luôn mất phương hướng khi gặp tai nạn, yêu quái trên đường đi Tây Thiên. Cũng

qua tìm hiểu, phân tích, ta thấy những nét đạo đức, tính cách này như là một thực thể bất biến,

mọi tác động của hoàn cảnh, môi trường hầu như không làm thay đổi những, điều đã có sẵn ở

nhân vật. Do vậy, mối quan hệ của hình tượng nhân vật Đường Tăng với các không gian kinh

qua gần như không có ý nghĩa gì đáng kể. Công đức, lòng thành đi thỉnh kinh của Đường tăng,

chúng ta cũng tán đồng như ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, hiện tượng không

thay đổi được gì trong đạo đức, tính cách của nhân vật cũng trở nên khá lạ lẫm. Phải chăng vì

chưa ngộ đạo, chưa thoát tục, nên nhân vật này vẫn mãi trong cõi vô minh cho đến khi qua bến

đò Lăng vân ở hồi thứ chín mươi tám (?).

Cũng như Đường Tăng từng có những đức tính, tính cách xem như "ổn định" trước khi

đi Tây Thiên, nhân vật Trư Bát Giới cũng có cái ham ăn, hiếu sắc, lười biếng, dao động, tư

lợi... Nhưng ngược lại với Tôn Ngộ Không, những đức tính này của họ Trư thường xuyên thể

hiện trong quá trình đi Tây Thiên. Nó vừa đồ đậm tính cách của Trư Bát Giới và ở cực bên kia,

nó làm sáng rỡ Tôn Ngộ Không, một con người chỉ chuyên tâm làm nhiệm vụ, không một

mảy may nghĩ đến quyền lợi cho bản thân mình. Tuy vậy, so với nhân vật Đường Tăng; Trư

Bát Giới quả đã có một vài thay đổi trong đức tính, tính cách của mình trong quá trình đi Tây

Thiên. Là một sư đệ, trợ chiến cho Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới với ba mươi sáu phép biến

hóa của mình đã hiệp đồng, giúp sức cho Tôn Ngộ Không đạt được những hiệu quả, những

chiến thắng nhất định. Trong quá trình này, Trư Bát Giới cũng thật lòng thành tâm cứu nguy

cho Đường Tăng, cứu cả cho Tôn Ngộ Không mà không hề sợ mệnh hệ đến bản thân. Khi bị

kẻ thù bắt,Trư Bát Giới vẫn kiên định lập trường không bao giờ thỏa hiệp. Trong những lúc

khó khăn chung của cả đoàn, Trư Bát Giới nhiều khi chỉ mỗi mình đứng ra giải quyết, mà việc

dùng mũi để ủi đường, phát quang cho lộ trình cả đoàn được tiếp tục là chứng minh rất điển

hình. Tất cả những điều ấy diễn ra trên những không gian cụ thể đã được trình bày và chính

trong những trường hợp như vậy, không gian địa lý, nơi chôn đã trở thành không gian nghệ

thuật: nó gắn bó với tâm lý, tính cách, đạo đức của nhân vật, nó đã bị tính cách con người

khuất phục. Như vậy, mối quan hệ giữa hình tượng văn học và không gian nghệ thuật trong

trường hợp Trư Bát Giới, so với Đường Tăng, đã trở nên có nghĩa lý hơn.

Với tất cả những việc làm, vận động, phát triển của các nhân vật trong Tây Du Ký ngay

từ đầu cho đến cuối tác phẩm đã được tìm hiểu, phân tích như Luận văn chẳng lẽ là câu

chuyện vui chơi nhàn nhã, chứ không nhằm một mục đích nào? Không phải như thế. Đã có rất

nhiều công trình nghiên cứu, nhất là các công trình của Sở nghiên cứu Văn học thuộc Viện

Khoa học Xã hội Trung Quốc, công trình "Bài giảng văn học Trung Quốc" của giáo sư Lương

Duy Thứ, công trình "Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc" của giáo sư Trần Xuân Đề đều xác

định rằng nội dung, hình tượng nhân vật trong Tây Du Ký là một sự ký gởi trân trọng của tác

giả, là sự phản ánh hiện thực xã hội - thời đại mà nhà văn đã trải nghiệm, là sự biểu hiện của

nhiều mối liên hệ phức tạp giữa tác phẩm với chế độ xã hội đương thời bấy giờ. Trần Đình Sử

viết: "Văn học dù có sáng tạo tân kỳ đến thế nào, suy cho cùng đều là sự phản ánh thời đại

dưới hình thái thẩm mỹ". Từ những ý kiến trên đây, chúng ta có thể đi đến một xác định

chung: Tây Du Ký là sự phản ảnh và biểu hiện về hiện thực đời sống của thời đại nhà văn đã

sống và qua đó, tác giả gởi gắm những tâm sự kín đáo của mình.

Do tác phẩm phản ánh và biểu hiện thời đại, do không thể cắt đứt mối liên hộ đối với

cuộc đời, nên chúng ta có điều kiện để dễ hiểu hơn sự có mặt của nhiều vấn đề trong Tây Du

Ký như : tính dân tộc của không gian nghệ thuật, sự ảnh hưởng của Đạo giáo, Nho giáo, nhất

là sự ảnh hưởng có tính chất xuyên suốt của Phật giáo từ việc đặt tên nhân vật cho đến các vấn

đề về Phật, Tăng, Kinh kệ... Nếu Tây Du Ký là sự phản ánh, biểu hiện thời đại và ký gởi tâm

sự của nhà văn thì nó quả phải được thể hiện trên tất cả các phương diện nội dung và hình thức

của tác phẩm. Vậy việc nghiên cứu một hình thức nghệ thuật là không gian nghệ thuật, có khả

năng tiếp cận được các vấn đề lớn ấy không? Như ngay từ đầu, về phương pháp nghiên cứu,

chúng tôi đã nói ở phương pháp cấu trúc - hệ thống: xem tác phẩm là một cấu trúc, một chỉnh

thể nghệ thuật, mà hình thức không gian nghệ thuật là một bộ phận của nó - nên nghiên cứu

nó, đồng thời phải nghiên cứu quan hệ của yếu tố đối với hệ thống. Do vậy, như toàn bộ luận

văn, nghiên cứu không gian nghệ thuật vẫn tiếp cận được một cách căn bản nội dung - hình

thức của Tây Du Ký. Quá trình chuyên biệt này, vì thế, đã đóng góp thêm một cách hiểu mới

đối với tác phẩm trên phương diện hình thức nghệ thuật. Từ đây, nó có khả năng mở ra một

hướng thưởng thức tiếp nhận những hình thức mang tính nội dung của tác phẩm, mà xưa nay

các phương pháp nghiên cứu truyền thống chưa quan tâm đúng mức. Nghiên cứu không gian

nghệ thuật không những không làm phương hại đến tư tưởng - nghệ thuật của tác phẩm mà

còn làm cho ta hiểu mới hơn, hiểu sâu thêm về những chủ định trong tư duy nghệ thuật của

tác giả. Nhờ một tư duy nghệ thuật chủ định, toàn diện, nên không gian nghệ thuật - một yếu tố

hình thức của tác phẩm đã là cơ sở để chỉ ra rằng, nhờ vào nó một phần lớn mà các hình tượng

nhân vật, đặc biệt là nhân vật Tôn Ngộ Không thêm rạng rỡ. Nếu "về độ cao tư tưởng hay trình

độ nghệ thuật, Tây Du Ký đều có thể sánh với những tác phẩm ra đời trước nó như Tam Quốc

Chí diễn nghĩa và Thủy Hử truyện" thì nghiên cứu không gian nghệ thuật - một yếu tô" của

hình thức nghệ thuật của tác phẩm đã góp phần củng cố và làm ngời sáng thêm những thành

công vốn có của nó.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3/2000.

Người thực hiện : Nguyễn Hoàng Long.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân - 150 thuật ngữ văn học - NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1999.

2. Ngô Thừa Ân - Tây Du Ký - Tập I - Người dịch : Thụy Đình, người hiệu đính : Chu

Thiên - NXB Văn học, 1997.

3. Ngô Thừa Ân - Tây Du Ký - Tập li - Người dịch : Thụy Đình, người hiệu đính : Chu

Thiên - NXB văn học, 1997.

4. Ngô Thừa Ân - Tây Du Ký - Tập III - Người dịch : Thụy Đình, người hiệu đính : Chu

Thiên - NXB văn học, 1997.

5. Ngô Thừa Ân - Tây Du Ký (bộ lo tập) Tập I - nhiều người dịch -người giới thiệu :

Lương Duy Thứ - NXB Văn học, 1998.

6. M. Bakhtin - Lý luận và Thi pháp tiểu thuyết - người dịch : Phạm Vĩnh Cư, Trường

Viết Văn Nguyễn Du xuất bản, 1992.

7. Lê Nguyên cẩn – Về một vài con số kỳ ảo trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân - Tạp chí văn học số 1/1994.

8. Phạm Tú Châu - Anh hưởng Phật giáo và Đạo giáo trong vài bộ tiểu thuyết tiêu biểu

của Trung Quốc - Tạp chí Văn Học sô" 4/1992.

9. Trương Chính (và nhiều tác giả khác) : Lịch sử văn học Trung Quốc, 2 tập - NXB

Giáo dục - Hà Nội - 1971.

10. Võ Đình cường - Đường Tam Tạng thỉnh kinh - Viện Nghiên cứu Phật học Việt

Nam ấn hành, 1992.

11. Lê Anh Dũng - Giải mã Truyện Tây Du (Tân biên), NXB Văn hóa Thông tin - Hà

Nội. 1995.

12. Trần Xuân Đề - Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc ( 3 tập ) NXB Giáo dục - Hà Nội,

1962 - 1964.

13. Trần Xuân Đề - Những bộ tiểu thuyết cổ điển hay nhất của Trung Quốc Thành Phố

Hồ Chí Minh - 1991.

14. Nguyễn Trung Đức - Hiệu quả nghệ thuật của không - thời gian trong tiểu thuyết

"Trăm năm cô đơn" của Mác Kết - Tạp chí Văn \ học số 1/1995.

15. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương - Lý luận Văn học -Vấn đề và Suy nghĩ -

NXB Giáo dục, 1995.

16. Lê Bá Hán (chủ biên) - Từ điển thuật ngữ văn học - NXB Giáo dục -Hà Nội, 1992.

17. Phạm Thị Hảo - Văn học Trung Quốc - Giáo trình ĐHTH, NXB Thành phố Hồ Chí

Minh, 1997.

18. Hê ghen - Mỹ học 2 tập - Người dịch : Phan Ngọc, NXB văn học-Hà Nội, 1999.

19. Lê Từ Hiển - Một vài đặc điểm Thi pháp Liêu Trai Chí Dị -Luận văn sau đại học,

1991.

20. Hồ Sĩ Hiệp - 'Giúp học tốt Văn học Trung Quốc trong nhà trường, NXB Đồng Nai,

1998.

21. Lưu Hiệp - Vãn Tâm điêu-long - Người dịch : Phan Ngọc. NXB văn học -HN,

1997.

22. Đỗ Đức Hiểu - Đổi mới phê bình văn học - NXB khoa học xã hội -NXB Mũi Cà

Mau, 1993.

23. Nguyễn Xuân Hòa - Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc đến tiểu thuyết cổ

Việt Nam - NXB Thuận Hóa. 1998.

24. Nguyễn Huy Khánh - Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, NXB Văn học,

1991.

25. Nguyễn Thị Dư Khánh - Phân tích tác phẩm từ góc độ Thi pháp - NXB giáo dục -

Hà Nội, 1995.

26. Đinh Gia Khánh - Điển cố văn học - NXB khoa học xã hội -Hà Nội, 1997.

27. Nguyễn Văn Khỏa - Thần thoại Hy Lạp - Lời giới thiệu - tập II- NXB Khoa học xã

hội, 1991.

28. Lisevich .I.S - Tư Tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa - người dịch : Trần Đình Sử-

ĐHSP. TP. Hồ Chí Minh xuất bản, 1993.

29. Nguyễn Trường Lịch: Huyền thoại và sức sống của huyền thoại trong văn chương

xưa và nay - Tạp chí Văn học số 5/1997.

30. Phương Lựu - Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, NXB Giáo dục - Hà

Nội, 1989.

31. Phương Lựu - Vài nét về lý luận văn học mỹ học cổ điển Trung Quốc, tạp chí văn

học số 6/1981.

32. Đặng Thái Mai - Xã hội sử Trung Quốc - NXB Khoa học xã hội, 1994.

33. Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn - Tư tưởng và phong cách -NXB Tác phẩm mới -

HN,1979.

34. Phan Ngọc - Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc ỏ Việt Nam - Nghiên cứu

Trung Quốc - số 3 (7) 1996.

35. Phan Ngọc - Bản sắc văn hóa Việt Nam - NXB Văn hóa thông tin - 1998.

36. Phạm Xuân Nguyên - Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết - Tạp chí văn học số

2/1991.

37. Ngổ Nguyên Phi - Lược khảo Tây Du Ký, tập I, NXB Đồng Nai, 1998.

38. Ngô Nguyên Phi - Lược khảo Tây Du Ký, tập II, NXB Đồng Nai, 1998. 39. G.N Pospeov (chủ biên) - Dẫn luận nghiên cứu Văn học - 2 tập-người dịch: Trần

Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Nghĩa Trọng - NXB giáo đục-Hà Nội, 1985.

40. Lê Vãn Quán - Đại cương lịch sử Tư tưởng Trung Quốc - NXB Giáo đục-Hà Nội,

1997.

41. Vương Hồng sến - Hiu xem truyện Tàu - NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.

42. Trần Đình Sử- IM pháp thơ Tố Hữu (chuyên luận) - NXB Tác phẩm mới 1987.

43. Trần Đình Sử- Bài giảng thi pháp học - Tài liệu của Trung Tâm Đào tạo từ xa - Huế

- 1994.

44. Trần Đình Sử - lý luận và phê bình văn học - NXB Hội Nhà văn, 1996.

45. Lỗ Tấn - Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, người dịch : Lương Duy Tâm -

NXB Văn Hóa - 1996.

46. Tập thể tác giả - Lịch sử văn học Trung Quốc - tập III - người dịch : Lê Huy Tiêu,

Lương Duy Thứ, Nguyễn Trung Hiến, Lê Đức Niệm, Trần Thanh Liêm, Ngô Hoàng Mai -

NXB Giáo dục - Hà Nội - 1995.

47. Tập thể tác gia - Lý luận Văn học - 3 tập - NXB giáo dục - Hà Nội, 1988.

48. Tập thể tác giả - Từ Điển Văn học - tập ì - NXB Khoa học Xã hội - 1983.

49. Tập thể tác giả - Từ Điển Văn học - tập II - NXB Khoa học Xã hội - 1984.

50. Khâu Chấn Thanh - Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, người dịch :

Mai Xuân Hải, NXB giáo dục - Hà Nội, 1994.

51. Lương Duy Thứ - Bài giảng Văn học Trung Quốc - Tủ sách Đại học Tổng hợp

Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.

52. Lương Duy Thứ - Để hiểu toàn bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, NXB khoa học

xã hội - NXB Mũi Cà Mau, 1992.

53. Lương Duy Thứ - Nguyễn Khắc Phi - Văn học Trung Quốc -tập II. NXB Giáo dục

- Hà Nội, 1988.

54. Lương Duy Thứ - Thi pháp tiểu thuyết chương hồi - Tập bài giảng cho cao học -

(nghe giảng 1995).

55. Lương Duy Thứ (chủ biên) - Đại cương văn hóa phương Đông -NXB giáo dục - Hà

Nội, 1980.

56. Lương Duy Thứ (chủ biên) - Tác phẩm Văn 10 - Phần Văn học nước ngoài - NXB

giáo đục - Hà Nội, 1993.

57. Bùi Văn Tiếng - Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, NXB

Văn hóa - 1997.

58. Thúy Toàn - Dịch văn học và Văn học dịch - NXB văn học, 1996.

59. Lưu Đức Trung (chủ biên) - Văn học Đông Nam Á - NXB Giáo dục- Hà Nội,

1998.

60. Đinh Phan Cẩm Vân- Thi pháp nhân vật trong tiểu thuyết Hồng Lâu MộngJLuận

văn Thạc Sĩ khoa học ngữ văn, 1995.

61. Thích Đồng Văn - Ảnh hưởng của Phật giáo trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc

- Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, 2000.