BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH …..o0o….. NGUYỄN HOÀNG LONG KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TÂY DU KÝ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI (VĂN HỌC TRUNG QUỐC)
Thành phố Hồ Chí Minh - 2000
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH …..o0o….. NGUYỄN HOÀNG LONG KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TÂY DU KÝ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI (VĂN HỌC TRUNG QUỐC)
Mã số : 5.04.02 Người hướng dẫn: GS. Lương Duy Thứ Thành phố Hồ Chí Minh - 2000
LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh, phòng Đào Tạo, phòng Khoa Học Công Nghệ - Sau Đại Học, tập thể thầy, cô khoa Ngữ Văn, cùng tất cả các bạn đồng học, đồng sự đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn tất luận văn.
Tôi xin đặc biệt tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với giáo sư Lương Duy Thứ - một người thầy đã tận tụy, không ngại nhọc nhằn hướng dẫn cho tôi trong quá trình nghiên cứu – học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin trân trọng đoán nhận và biết ơn sự khích lệ, động viên của gia
đình, cha mẹ và các em trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Một lần nữa xin chân thành cảm ta.
Tháng 03/2000. Nguyễn Hoàng Long.
MỤC LỤC
LỜI CẢM TẠ.............................................................................................. 3
MỤC LỤC ................................................................................................... 4
MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 6
1. Lý do và mục đích nghiên cứu. .............................................................................. 6
2. Phương pháp nghiên cứu. ....................................................................................... 6
3. Lịch sử vấn đề. ......................................................................................................... 7
4. Đóng góp mới của luận văn. ................................................................................... 8
5. Kết cấu luận văn. ..................................................................................................... 8
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THI PHÁP VÀ NỘI DUNG TÂY DU KÝ ......................................................................................................... 9
1.1. KHÁI QUÁT VỀ THI PHÁP VÀ THI PHÁP KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT ......................................................................................................................... 9
1.1.1. Khái quát về thi pháp. ............................................................................................. 9
1.1.2. Thi pháp không gian nghệ thuật. ......................................................................... 10
1.2. KHÁI QUÁT TÂY DU KÝ VÀ VAI TRÒ CỦA KHÔNG GIAN NGHỆ THUÂT. ...................................................................................................................... 12
1.2.1. Nội dung Tây Du Ký. ............................................................................................. 12
1.2.2. Vai trò của không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký. ........................................ 18
Chương 2: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TÂY DU KÝ .. 21
2.1. Không gian Trần thế. ......................................................................................... 21
2.1.1. Không gian núi Hoa quả - Đá tiên. ....................................................................... 21
2.1.2. Không gian mặt đất. .............................................................................................. 25
2.2. Không gian thần kỳ. ........................................................................................... 43
2.2.1. Không gian Long Cung – Âm Ty. ........................................................................ 43
2.2.2. Không gian thượng giới. ........................................................................................ 47
Chương 3: MỐI QUAN HỆ GIỮA HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT VỚI KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ VẤN ĐỀ THƯỞNG THỨC, TIẾP NHẬN ........................................................................................................ 62
3.1. Mối quan hệ giữa hình tượng nhân vật với không gian nghệ thuật. ............. 62
3.2. Đôi nét về vấn đề thưởng thức tiếp nhận theo hướng Thi pháp. ................... 74
KẾT LUẬN ............................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 83
MỞ ĐẦU
1. Lý do và mục đích nghiên cứu.
1.1. Tây Du Ký là một trong những tiểu thuyết xuất sắc nhất của nền văn học cổ điển
Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu rộng đối với nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Vì thế, việc tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm này trên nhiều bình diện là một vấn đề đến nay vẫn
còn ý nghĩa thời sự.
1.2. Gần mười năm trở lại đây, những nghiên cứu văn học theo hướng Thi pháp đã đem
lại nhiều kết quả rất đáng ghi nhận. Chọn Thi pháp học để nghiên cứu tác phẩm, chúng tôi có
điều kiện tham khảo, kế thừa những thành tựu của các tác giả đi trước. Tuy Tây Du Ký đã
được nghiên cứu nhiều, nhưng cho đến nay, nghiên cứu không gian nghệ thuật như một công
trình chuyên biệt, vẫn chưa có nhiều tác giả quan tâm. Chọn nghiên cứu không gian nghệ
thuật với tư cách là một vấn đề của hình thức nghệ thuật theo quan niệm của Thi pháp học,
Luận văn nhằm hướng đến khẳng định vai trò và ý nghĩa của nó trong việc biểu hiện các hình
tượng văn học cũng như khám phá các giá tri tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.
1.3. Thực hiện đề tài là một cơ hội tốt để người nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn các giá trị
của một nền văn học lớn. Kết quả nghiên cứu sẽ góp thêm một cách hiểu mới, cách thưởng
thức mới về tác phẩm Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân.
2. Phương pháp nghiên cứu.
Xuất phát từ mục đích và đối tượng nghiên cứu, luận văn chúng tôi sẽ vận dụng các
phương pháp nghiên cứu như sau:
2.1. Phương pháp cấu trúc - hê thống :
Xem tác phẩm Tây Du Ký là một hệ thống, một chỉnh thể nghệ thuật gồm nhiều
thành tố có mối quan hệ gắn nối, xuyên thấm lẫn nhau, Luận văn sẽ chú ý các mối quan hệ
trong việc cấu trúc - hệ thống tác phẩm. Việc chú ý các mối quan hộ này đương nhiên được
xuất phát từ hình thức không gian - như một yếu tố - có quan hệ với các yếu tố hình thức và
nội dung khác trong tác phẩm. Như vậy, phương pháp này hoàn toàn có khả năng từ một
hướng nghiên cứu cụ thể, vẫn tiếp cận được nội dung tác phẩm.
2.2. Phương pháp phân loai - so sánh :
Xuất phát từ đối tượng không gian nghệ thuật, Luận văn sẽ phân loại cụ thể các loại
không gian, tức là những hình thức nghệ thuật loại này với tính chất riêng của từng loại. Mỗi
một loại như vậy gắn với từng đoạn đời, từng hành trình vận động của các nhân vật. Sự phân
loại này cũng là điều kiện giúp cho việc so sánh, nhận xét mối quan hệ giữa các hình tượng
nhân vật với các không gian nghệ thuật.
2.3. Phương pháp phân tích - tường thuât:
Luận văn dùng phương pháp này để phân tích cụ thể về vai trò, ý nghĩa của các
không gian nghệ thuật, về quá trình thành hình và phát triển của các tính cách nhân vật. Đồng
thời với phương pháp này, luận văn cũng sử dụng phương pháp tường thuật nhằm dựng lại cơ
bản hành trình vận động của các nhân vật, quá trình mở ra của các không gian khác nhau
trong tác phẩm.
3. Lịch sử vấn đề.
Như đã nói, Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân đã được nghiên cứu từ lâu với khá nhiều
thành tựu có giá trị. Chỉ nói trong giới nghiên cứu ở Việt Nam, các tác giả như Lương Duy
Thứ, Trần Xuân Đề, Phan Ngọc, Hồ Sĩ Hiệp, các nhà nghiên cứu có tên tuổi như Nguyễn
Hiến Lê, Nguyễn Huy Khánh, Nguyễn Quân, Ngô Nguyên Phi, Lê Anh Dũng... và nhiều
người khác đã có những thành tựu rất đáng được ghi nhận và kế thừa. Tuy nhiên, do mục đích
khác nhau trong nhiều công tành của các tác giả này, vấn đề không gian nghệ thuật trong Tây
Du Ký như một hướng tiếp cận chuyên biệt thì vẫn chưa được đặt ra.
Đọc nhiều tài liệu khác nhau, chúng tôi nhận thấy các phần viết của tập thể tác giả
thuộc Sở nghiên cứu Văn học thuộc Viện khoa học Xã hội Trung Quốc, phần viết của các giáo
sư Lương Duy Thứ, Trần Xuân Đề đã có những gợi ý quan trọng cho định hướng nghiên cứu
của Luận văn. Chẳng hạn, ở phần viết về "Đặc điểm nghệ thuật của Tây Du Ký", các tác giả
thuộc Sở nghiên cứu Văn học thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc có ý tưởng gợi ra màu
sắc không gian: "Tây Du Ký có nhiều chỗ tưởng tượng diệu kỳ, đẹp đẽ, như mở ra trước mắt
người đọc một tập tranh về thế giới huyền ảo muôn màu muôn vẻ, làm cho câu chuyện trở nên
phong phu đậm đà" [46/336]. Trong công trình "Bài giảng Văn học Trung Quốc", giáo sư
Lương Duy Thứ cũng có đoạn viết: "Diện phản kháng của tác phẩm rất rộng. Đó là tất cả
những gì bất công ngang trái, hư bại và tàn bạo ở trên trời, dưới đất và giữa trần gian"
[51/211]... Các ý kiến trên đây, nhất là ý kiến của Giáo sư Lương Duy Thứ chính là sự hé lộ
vấn đề không gian trong tác phẩm.
về phương diện lịch sử vấn đề mà nói, Luận văn chúng tôi chủ yếu chỉ được những
gợi ý quan trọng về không gian trong tác phẩm. Công việc của Luận văn đang hướng đến, do
đó, là những thử nghiệm đầu tiên.
4. Đóng góp mới của luận văn.
4.1. Luận văn là công trình chuyên biệt nghiên cứu về không gian nghệ thuật trong tiểu
thuyết Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Trên cơ sở tìm hiểu, phân loại và phân tích các không
gian nghệ thuật trong tác phẩm, luận văn đem lại những nhận xét về vai trò, ý nghĩa của
không gian nghệ thuật trong quan hệ với các hình tượng nhân vật của tác phẩm.
4.2. Xét trên bình diện thưởng thức và tiếp nhận, kết quả của hướng nghiên cứu không gian nghệ thuật sẽ góp thêm một cách hiểu về tác phẩm Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Nó cũng sẽ gợi mở ra một trường cảm nhận - liên tưởng theo hướng các hình thức nghệ thuật mang ý nghĩa nội dung như thi pháp không gian, thi pháp kết cấu, thi pháp từ ngữ... của tác phẩm.
4.3. Qua đóng góp thêm một cách hiểu mới về tác phẩm Tây Du Ký, Luận văn khẳng
định chắc chắn rằng quá trình sáng tạo, tư duy nghệ thuật của nhà văn thực sự đã được chuẩn
bị một cách chu đáo từ hình thức đến nội dung tác phẩm.
5. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu (4 trang) và phần kết ỉuận (6 trang), nội dung của Luận văn được
tổ chức thành ba chương như sau :
- Chương một: Thi pháp và nội dung Tây Du Ký (17 trang).
- Chương hai : Không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký (56 trang).
- Chương ba : Mối quan hệ giữa hình tượng nhân vật với không gian nghệ thuật và vấn
đề tiếp nhận, thưởng thức tác phẩm(21 trang).
_ Tài liệu tham khảo : 5 trang.
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THI PHÁP VÀ NỘI DUNG TÂY DU KÝ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ THI PHÁP VÀ THI PHÁP KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
1.1.1. Khái quát về thi pháp.
Thi pháp học là bộ môn nghiên cứu văn học có từ lâu đời. Người khai sinh ra Thi pháp
học là nhà mỹ học vĩ đại Hy Lạp Aristote với công trình Poetica cách đây hơn 2.300 năm.
Trong tiếng Nga, Anh, Pháp, các thuật ngữ Poêtika, poétique xưa nay được dịch là "Nghệ
thuật Thi ca". Khi các từ này được dịch là "Thi học", tức là muốn nghiêng vê tính chất lý luận
văn học, về học thuyết của văn học. Thực ra, nên dịch là nghệ thuật thi ca thì bộ môn nghiên
cứu văn học này mới đi vào định hướng chính là bản thể văn học với những yếu tố của nó và
các nguyên tắc mã hóa mang tính quan niệm của nhà văn.
Thi pháp học được đề cập từ đời Tống với các học giả như Nghiêm Vũ, Chu Bật,
Khương Quỳ... Quan niệm Thi pháp học của các học giả này không phải thu hẹp trong phép
làm thơ, vần luật thơ, mà bao hàm những nguyên tắc rộng rãi như tạo hình, cấu tứ, cốt cách:..
Nhưng ngay ở Trung Quốc hiện nay, phần lớn đều dùng từ Thi học và hiểu là lý luận văn
chương nói chung.
Tình hình này cũng diễn ra trong khoa nghiên cứu văn học ở nhiều nước đặc biệt là
trong giới nghiên cứu văn học Nga như M.B.Khrapchenko, A.Bushmin, G.Pospelov,
P.Nicolaev, M.Poljakov... Quan niệm của các tác giả Nga cũng khác biệt với các tác giả ở
Pháp và Mỹ hiện nay. Tình hình càng phức tạp hơn, khi trong khuynh hướng, hệ hình của Thi
pháp học trên thế giới có nhiều vấn đề như thi pháp truyền thống và hiện đại, trường phái
Hình thức (ở Nga), Phê bình mới (ở Anh, Mỹ), Thi pháp học cấu trúc, Hiện tượng học...
Từ nhiều cách hiểu khác nhau về Thi pháp và Thi pháp học, . . Trần Đình Sử đã quy thành 4 cách hiểu chính như sau:
1. Thi pháp học lý thuyết
2. Thi pháp học miêu tả
4. Thi pháp học ngôn ngữ học.[44/55,58,59]
3. Thi pháp học lịch sử
Để tự tạo điều kiện thống nhất về mặt lý thuyết trước khi đi vào nghiên cứu vấn đề đặt ra
trong luận văn, chúng tôi tạm xác định rằng: Thi pháp là hệ thông nghệ thuật của hiện tượng
văn học, còn Thi pháp học là bộ môn nghiên cứu hệ thống nghệ thuật ấy.
Ở đây, việc nghiên cứu hệ thông nghệ thuật của một hiện tượng văn học không phải chỉ
hoàn toàn chú ý đến những kiến tạo hình thức, mà hướng tới những hình thức mang tính nội
dung, tính quan niệm, tức là coi trọng việc khám phá nội dung trong các hình thức nghệ thuật,
các phương thức biểu hiện nghệ thuật.
1.1.2. Thi pháp không gian nghệ thuật.
Trong sáng tạo nghệ thuật ngôn từ, thường bao giờ nhà văn cũng có những quan niệm
nhất định về đối tượng mình định miêu tả, biểu hiện. Trung tâm hơn cả của thế giới đối tượng
ấy là con người, quan hệ giữa con người và cuộc sống đa dạng, đa chiều của họ. Nếu văn học
có cội nguồn từ đời sống hiện thực thì đối tượng quan tâm của nó phải tồn tại trong một không
gian - thời gian nhất định. Cũng như thời gian, không gian là một hình thức hiện hữu của con
người và cuộc sống của họ. Nhưng đây là nói không gian tựa theo hiện thực, cái không gian
tồn tại khách quan. Trong sáng tác, nhà văn hoàn toàn sử dụng các kiểu không gian và các
phương thức biểu đạt không gian khác nhau. Khi nó được sử dụng, bước vào tác phẩm, thì nhờ
vào năng lực chọn lựa, tổ chức của nhà văn nó sẽ được tái sinh bằng một quan niệm thẩm mỹ.
Đó chính là không gian nghệ thuật. Vì là không gian nghệ thuật, nên nó đem lại một chất
lượng hoàn toàn mới, một ý nghĩa thẩm mỹ mới.
Đối với lý thuyết Thi pháp học, thời gian - không gian là một cặp phạm trù cơ bản. Nó
không những là hình thức hiện hữu của đối tượng được miếu tả, biểu hiện, mà còn là phương
thức để nhà văn bộc lộ tư tưởng nghệ thuật của mình. Nó không chỉ là đề tài, ký hiệu nghệ
thuật mà còn là cảm thức thẩm mỹ, là nỗi niềm của nhà văn. Cho nên, có thể nói, "Trong văn
học nghệ thuật, không gian nghệ thuật chính là hình thức tồn tại của hình
tượng".[42/240,242]
Hình tượng là hình thức khám phá đời sống, nên nó là thành tựu cụ thể trong từng tác
phẩm văn học. Ở tất cả các thể loại, dù muốn hay không, hình tượng văn học luôn luôn gắn
chặt với một môi trường, một không gian mà nó sinh thành và hiện hữu. Chính môi trường,
không gian này với hình tượng được nhà văn sáng tạo là có quan hệ tạo sinh ý nghĩa thẩm mỹ,
chịu tác động, chi phối và ứng hợp với nơi chốn tồn tại của mình. Hình tượng văn học luôn tạo
ra những tưởng tượng, rung động qua lại với không gian sinh tồn của nó. Nhà nghiên cứu Trấn
Đình Sử nhắc đến câu tục ngữ trong văn học dân gian: "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài..."[43/31]
cũng là một gợi ý dễ hình dung về quan hệ này.
Từ những điều trên đây, ta thấy rằng, nếu hiểu được không gian nghệ thuật trong tác
phẩm văn học, ta sẽ hiểu được một phần quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người và
thế giới. Cũng từ đó, ta sẽ lý giải được vì sao các hình tượng văn học nên là như thế đó,.. Điều
đáng ghi nhận là không gian nghệ thuật bao giờ cũng mang tính quan niệm, luôn gắn với cảm
xúc và ý nghĩa nhân sinh. Không gian nghệ thuật có mặt trong tất cả các sáng tác văn học nói
chung. Tùy theo từng thể loại, tùy vào khả năng bao quát của từng loại hình, mà không gian
nghệ thuật cũng khác nhau về phân lượng, tính chất và khả năng khái quát. Nhưng nếu phải so
sánh, chẳng hạn, giữa thơ ca và văn xuôi, thì không gian nghệ thuật trong văn xuôi thực sự ưu
trội hơn. Điều này do đặc trưng thể loại quy định. Theo Trần Đình Sử, không gian nghệ thuật
ngoài ba chiều thông thường, còn có chiều thứ tư: đó là chiều tâm tưởng - không gian của cảm
xúc và ước vọng [13/31]. Phùng Quý Nhâm, trong chuyên đề Thi pháp giảng cho hệ sau Đại
học cũng góp phần chỉ ra không gian nghệ thuật có thể được chia làm nhiều lớp như: Không
gian sinh hoạt (lễ hội, đình đám, sinh hoạt bình thường), không gian xã hội, không gian vũ trụ
(bầu trời, mặt đất), không gian thiên nhiên (dòng sông, cánh rừng, lũy tre), không gian ảo (âm
phủ, niết bàn, thiên đường), không gian huyền thoại...
Những lớp không gian này ở từng thể loại, từng phạm trù văn học cụ thể cũng đậm nhạt
khác nhau. Chẳng hạn, không gian xã hội trong thơ Thiền đời Lý nhạt, nhưng trong văn học
hiện thực phê phán lại đậm, hoặc không gian thiên nhiên, địa lý, vũ trụ rất rõ trong văn học
dân gian, còn trong thơ trữ tình thì không gian xã hội không rõ lắm.
Như đã nói ở trên, không gian - thời gian là một cặp phạm trù cơ bản của Thi pháp học.
Nhà lý luận Bakhtin từng xem cặp phạm trù này luôn đi liền nhau. Giữa chúng luôn có liên hệ
hòa lẫn. Chẳng hạn, Uxpenxki nói: "Không gian là thời gian trường tồn. Thời gian là không
gian đang lấn bước" (theo bài giảng của Phùng Quý Nhâm), hoặc thi sĩ Tản Đà trong bài thơ
"Tiễn Thu - Cảm Thu", đã cho thấy chính việc cảm nhận được mùa thu (thời gian) lại bằng
vào những dấu hiệu chuyển động của không gian:
Từ vào thu đến nay Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Trăng thu bạch
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Một vấn đề khác cũng cần được lưu ý đối với không gian nghệ thuật, đó là tính dân tộc.
Nếu nhà văn bao giờ cũng là con đẻ của một dân tộc, một đất nước cụ thể, thì trong sáng tác
văn học của ông ta, màu sắc dân tộc với những tính chất, tâm lý, dấu ấn nhất định phải được
thể hiện. Địa bàn cư trú đầu tiên, đặc trứng nơi chốn sinh thành, không gian cuộc đời cụ thể
của mỗi dân tộc... đều gắn với quan niệm về không gian của con người. Do vậy, nghiên cứu
không gian nghệ thuật phải chú ý đến tính dân tộc.
1.2. KHÁI QUÁT TÂY DU KÝ VÀ VAI TRÒ CỦA KHÔNG GIAN NGHỆ THUÂT.
1.2.1. Nội dung Tây Du Ký.
1.2.1.1. Tóm tắt tác phẩm.
Tây Du Ký vốn bắt nguồn từ một câu chuyện có thật về nhà sư trẻ Trần Huyền Trang đời
vua Đường Thái Tông đã một mình đi sang Ấn Độ để tìm thầy học đạo, thỉnh kinh. Tất cả thời
gian, công sức và kết quả cuộc hành trình của nhà sư này có nhiều tài liệu nói đến. Do vậy,
cho phép chúng tôi miễn giải trình thêm.
Từ câu chuyện có thật về Trần Huyền Trang đời Đường đến trước khi nhà văn Ngô Thừa
Ân sáng tạo lại, câu chuyện ây đã ngày càng được truyền tụng, thần thoại hóa và thay đổi, bổ
sung do nhiều tác giả và các tập thể nhân dân khác nhau. Đến lượt mình, Ngô Thừa Ân đã
vượt trội hơn tất cả, “Vì dưới ngòi bút sáng tạo của ông, không những tác phẩm có một dung
lượng đồ sộ 100 hồi trước kia chưa hề có, mà tính tư tưởng cũng được nâng cao, hình lượng
nhân vật trở nên sinh động, đa năng, có tính cách rõ nét. Văn phong uyển chuyển, khúc chiết
và trước sau nhất quán" .[519]
Để thấy rõ hơn sự vĩ đại của tác giả bộ Tây Du Ký, Luận văn chúng tôi xin phép sử dụng
nguyên vẹn vài trang tóm tắt súc tích của tác giả Lương Duy Thứ từ hơn hai ngàn trang ngôn
ngữ văn chương dịch như sau:
"Từ hồi 1 đến hồi 7, tác giả giới thiệu lai lịch Tôn Ngộ Không. Đó là một con khỉ do một
hòn đá tiên hóa thành. Từ nhỏ y đã thông minh, lanh lợi, dũng cảm, được đàn khỉ tôn làm vua
(Mỹ hầu vương). Sau đó, y đi tìm thầy học đạo, học được 72 phép biến hóa thần thông. Y náo
động long cung, bắt Long Vương nộp gậy thần (thiết bổng) để làm vũ khí, rồi náo động âm ti,
xóa tên họ loài khỉ trong sổ tử để hưởng trường sinh. Long Vương và Diêm Vương kiện lên
Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng nổi giận sai thiên binh, thiên tướng đánh bắt nhưng không được,
bèn theo kế chiêu an phong cho Tổn Ngộ Không chức quan giữ ngựa (Bật mã ôn) trên thiên
đình để giữ chân y. Chẳng bao lâu, biết bị lừa, y lại náo loạn thiên cung đòi cho được chức Tề
Thiên Đại Thánh (Thánh bằng Trời). Ngọc Hoàng Thượng Đế phải nghe theo. Nhưng rồi tính
khí vẫn ngang ngạnh như xưa. Các thần mở tiệc đào tiên mà không mời y, y phá tiệc rồi trốn
về động khỉ. Thượng đế phải sai cháu mình là Nhị Lang thần mang "kính chiếu yêu" đuổi bắt
mới được, đem xử trảm, nhưng dao chém không đứt, phải bỏ vào lò bát quái nung 49 ngày
đêm cũng không chảy, cuối cùng y phá ra được. Y lại loạn đả thiên cung, đánh cho thiên binh,
thiên tướng tả tơi. Thượng đế phải vời Phật Tổ Như Lai dùng pháp thuật mới bắt được, đem
giam dưới núi Ngũ Hành 500 năm.
Từ hồi 8 đến hồi 12: giải thích nguyên do việc đi thỉnh kinh, giới thiệu lai lịch Huyền
Trang và các đệ tử: Quan Âm Bồ Tát vâng mệnh Phật Tổ đi tìm người sang Ân Độ để lấy kinh
Phật truyền bá về phương Đông. Trên đường đến Trường An, Quan âm gặp Sa Ngộ Tĩnh,
nguyên là đại tướng lo việc cuốn rèm cho Thượng đế (Quyển Liêm tướng quân), vì làm vỡ
đèn lưu li trong hội bàn đào mà bị đày làm quỷ trên sông Lưu Sa. Quan Âm thu nạp, cho làm
đồ đệ đi thỉnh kinh để đổi kiếp. Lại gặp Trư Bát Giới, nguyên là Thiên Bồng nguyên soái vì
chọc ghẹo nàng Hằng Nga mà bị đày xuống trần gian làm quái đầu lợn. Chấp nhận lời thỉnh
cầu của y, Quân Âm cho làm đồ đệ giúp việc thỉnh kinh để chuộc tội. Lại gặp con rồng trắng
bị treo ngược giữa trời, đó là con trai Long Vương phạm tội chờ ngày xử trảm. Quan Âm xin
cho rồi hóa phép thành con ngựa vàng đỡ gót người đi thỉnh kinh. Lại gặp Tôn Ngộ Không
đang bị đè dưới núi Ngũ Hành, Quan Âm cho phép đi theo hộ vệ người thỉnh kinh để cải tà
quy chính. Đến Trường An, Quan Âm tìm được Trần Huyền Trang, một hòa thượng chân tu,
có thể phó thác sứ mệnh sang phương Tây thỉnh kinh. Vốn là đứa trẻ trôi sông được nhà chùa
cứu vớt, Huyền Trang chuyên tâm học đạo, tinh thông Phật pháp, dần dần trở thành nhà sư
tiếng tăm lừng lẫy. Quan Âm bèn giao trọng trách "Tây du thỉnh kinh" cho Huyền Trang.
Từ hồi 13 đến hết hồi 98: thuật lại quá trình đi thỉnh kinh. Ban đầu có 2 người đưa đường
Huyền Trang. Nhưng vừa ra khỏi biên giới thị bị hổ và gấu ăn thịt mất. Huyền Trang hết
đường lui tới, chỉ biết ngồi khóc. May gặp Tôn Ngộ Không nằm bẹp dưới núi Ngũ Hành đang
chờ người thỉnh kinh để được giải thoát. Huyền Trang bèn dùng phép giải phóng cho y và thu
nhận làm đệ tử. Từ đó đường đi mới thuận lợi. Với cây gậy thần trong tay, dùng 72 phép biến
hóa thần thông, Tôn Ngộ Không đã tiêu diệt hết mọi yêu ma quỷ quái cản đường. Nhưng
Huyền Trang lại rầy la y làm việc sát sinh, vi phạm giới luật nhà Phật. Y bực bội bỏ đi. Quan
Âm phải cho Huyền Trang chiếc mũ Kim cô để kiềm chế. Khi cần, Huyền Trang chỉ niệm chú
là chiếc vành vàng sẽ siết chặt lấy đầu Tôn Ngộ Không làm y đau đớn không chịu được, phải
theo lệnh Huyền Trang. Đường đi yêu quái ngày một nhiều, Quan Âm bèn ban cho Tôn Ngộ
Không ba cái lông hộ mạng mọc sau gáy, khi cần; nhổ một cái rồi lâm râm niệm chú là lập tức
biến thành vô số Tôn Ngộ Không. Kế đó, Huyền Trang lại thu nhận ngựa rồng ở suối Ưng
Sầu, thu nhận Trư Bát Giới ở động Vân Sơn, thu nhận Sa hòa thượng ở sông Lưu Sa. Đoàn
thỉnh kinh đã có cả thảy năm thầy trò, thêm nhiều thuận lợi. Có điều Trư Bát Giới là kẻ hiếu
sắc, lười biếng, suýt mắc lừa bốn nữ yêu quái, làm cho đoàn thỉnh kinh một phen lận đận. Y
lại hay xúc xiểm, làm cho nội bộ đoàn trở nên lục đục. Một lần Tôn Ngộ Không đánh chết con
Bạch Cốt Tinh ba lần đổi lốt để đánh lừa Tam Tạng, giữa lúc Tam Tạng đang bất bình thì y lại
nhỏ to khích bác làm nhà sư nổi giận đuổi Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không buồn rầu trở về
động khỉ, nhưng vẫn không cởi được chiếc mũ kim cô. Vắng y, bốn thầy trò Đường Tăng bị
yêu quái hãm hại suýt mất mạng. Bất đắc dĩ, Huyền Trang phải sai Trư Bát Giới đi tìm y trở
về. Năm thầy trò lại tiếp tục Tây du. Tôn Ngộ Không lại lần lượt đánh thắng các yêu quái, đấu
phép thắng các đạo sĩ. Nhưng gặp con quái một vòi (Độc giác tỉ) dùng bùa phép cướp được
cây gậy thần thì y chịu thua; Y phải cầu viện Phật tổ mới lấy lại được "thiết bổng". Y lại phò
Đường Tăng vượt qua "nước con gái", phá được mưu kế cưỡng hôn của bà vua nước này. Rồi
đánh thắng "Thiết Phiến công chúa", lấy được cái quạt thần để quạt tắt núi lửa ngăn trở đường
đi. Cuối cùng, năm thầy trò vượt qua tất cả 81 nạn, đến xứ sở Phật tổ tìm thầy học đạo.
Hồi 99 và 100: kể lại quá trình thắng lợi trở về. Năm thầy trò xin được rất nhiều kinh
Phật, được bệ kiến Phật tổ, Phật tổ ban thưởng rất hậu, rồi dùng phép đưa họ "cưỡi mây" trở
về Trung quốc. Đường Thái Tông cùng tăng ni phật tử và dân chúng đã đón tiếp rất trọng thể.
Họ bàn giao kinh Phật rồi theo lệnh Phật tổ "cưỡi mây" trở lại xứ Phật. Tùy theo công trạng,
Đường Tăng được ban tước Hằng công đức Phật, Tôn Ngộ Không được cởi mũ kim cô, được
ban tước Đấu chiến thắng Phật, các đề độ khác đều được ban thưởng. Họ ở lại xứ Phật hưởng
phúc muôn đời".[44/9-12]
1.2.1.2. Sự ảnh hưởng của tôn giáo.
Trước hết, có thể nói rằng Phật giáo đã ảnh hưởng trên nhiều bình diện của tiểu thuyết
cổ điển Trung Quốc. Cố nhiên, văn học Trung Quốc trước khi Phật giáo Ấn Độ truyền nhập
vào cũng đã có những truyền thống và thành tựu riêng. Ngay ở những thành tựu và truyền
thống ấy cũng đã từng được biến đổi, nhất là khi có những tư tưởng, quan niệm mới có khả
năng tác động mạnh vào ý thức của các nhà văn.
Rõ ràng, sau khi sách Phật truyền vào Trung quốc thì nền văn học này "lại thêm một lần
biến đổi nữa"[61/54]. Ông Vương Quốc Duy còn nói rõ hơn về sự tiếp nhận Phật giáo của
giới trí thức: “Phật giáo truyền sang phương Đông, đúng vào lúc tư tưởng nước ta tàn tạ, lức
bấy giờ các học giả gặp được Phật giáo, khác nào kẻ đói được ăn, người khát
được uống"[61/54]. Tuy nhiên, ảnh hưởng Phật giáo trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là
một vấn đề lớn, phong phú và khác nhau ở các tác phẩm cụ thể. Riêng trường hợp Tây Du Ký
thì có thể nói rằng, tác phẩm sẽ không có được nếu không có sự truyền nhập của Phật giáo. Sở
dĩ nói thế, vì xuất phát của câu chuyện Tây Du Ký là bắt nguồn từ việc Huyền Trang đi thỉnh
kinh. Khi câu chuyện này vào ngòi bút sáng tạo của Ngô Thừa Ân thì - đúng như G.s Lương
Duy Thứ nói là trọng điểm về nhân vật đã thay đổi, nhưng vẫn là câu chuyện đi thỉnh kinh và,
việc đề cao Phật giáo của tác giả cũng được thể hiện rất rõ. Chúng ta cũng biết Phật giáo vốn
có nhiều tông phái và mỗi tông phái lại phát triển không đều nhau ở các thời kỳ lịch sử trong
xã hội Trung Quốc. Và ngay trong nội dung tác phẩm, ở một số chi tiết, biểu hiện nhất định,
chúng ta dễ thấy điều này mang màu sắc Thiền tông, điều kia là biểu hiện của Tịnh độ tông
hoặc Mật tông... Đây quả là một vấn đề phức tạp.
Để có thể xác định khái quát về Phật giáo trong Tây Du Ký, có lẽ, chúng ta nên dựa vào
những bộc lộ chính thức, rõ ràng, có tính chất mấu chốt trong chính tác phẩm. Đọc Tây Du
Ký, ở hồi thứ 12, Vua Đường Thái Tôn có lòng thành mở đại hội. Bấy giờ Huyền Trang là
pháp sư lên đàn giảng kinh. Phật Quan Âm hiện thành một bồ tát ghẻ lở cùng Mộc Xoa đi tìm
người thỉnh kinh thì gặp vua Đường và biết có pháp sư xứng đáng nên tặng áo cà sa và tích
trượng. Vua Đường Thái Tôn bèn đem về cho Huyền Trang mặc và mặc áo vào, Huyền Trang
đẹp như con Phật, Huyền Trang pháp sư tiếp tục giảng kinh Tiểu thừa, Quan Âm nói giảng
kinh Tiểu thừa thì không siêu thoát. Vua Đường biết chuyện, bèn hỏi Quan Âm và Quan Âm
bảo rằng giảng kinh Đại thừa mới siêu thoát. Quan Âm cũng đã chỉ xứ sở có kinh Đại thừa là
nước Tây thiên. Sau đó, Huyền Trang vâng mệnh Vua đi thỉnh kinh ở Tây thiên.
Như vậy, Phật giáo trong Tây Du Ký là Phật giáo Đại thừa.
Cùng với Phật giáo, còn phải nói đến Nho giáo và Đạo giáo, tức tính chất "Tam giáo
đồng nguyên". Một đất nước đã từng chấp nhận những quy tắc, quy ước về tôn ti trật tự, kỷ
cương của Nho giáo; từng hiểu biết thế nào là sống phải không được trái với tự nhiên để giữ
thân tâm thanh tĩnh của học thuyết "vô vi" của Lão tử... thì ảnh hưởng của những quan niệm
này vào văn học là điều dễ hiểu. Như thế, có thể nói, trong Tây Du Ký có sự ảnh hưởng của
các học thuyết triết học. Ảnh hưởng này, thực ra, khá phức tạp. Phức tạp vì mỗi học thuyết,
mỗi đạo như vậy đều có quá trình phát triển khác nhau. Điều đáng lưu ý hơn là giữa chúng có
sự đan xen, hòa trộn vào nhau một cách không giống nhau trong từng thời kỳ văn học, từng
loại tác phẩm cụ thể. Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân cũng không thoát ra ngoài vòng quan hệ
đó. Chẳng hạn, theo sử sách, từ đời Chiến quốc về sau, đạo học của Lão giáo bị biến đổi rất
nhiều. Có người đem thuật "tu hành" của Hoàng Đế với việc "tu thân" của Lão Tử, thành ra
một học thuyết, gọi là đạo Hoàng Lão, đây là mảnh đất của đám vu đồng bóng, từ đó có việc
cầu thuật "Trường sinh bất tử", qua cửa ngõ luyện đan.
Giáo sư Phan Ngọc cũng cho rằng ý nghĩa của Ngũ hành trong thiên "Hồng Phạm" trong
Kinh thư cũng đã góp phần "tạo nên quan niệm lịch sử theo tuần hoàn, làm cơ sở cho lý thuyết
trời và người có quan hệ với nhau và nhập vào Nho giáo đời Hán"[35/331, 332]. Việc nguyên
lý ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) nhập vào với Nho giáo, càng về sau càng phức tạp,
nhất là khi có các chi nhánh dùng bùa chữa bệnh (chẳng hạn phái "Khăn vàng” (Hoàng Cân)),
lôi cuốn nhân dân chống lại chính quyền hủ bại nhà Hán. Giáo sư Phan Ngọc viết: "Các kinh
chủ yếu của nó là "Đạo đức kinh", "Thái bình kinh", "Lão Tử Tưởng Nhĩ chú", dùng thuyết
âm dương ngũ hành giải thích nguồn gốc vũ trụ, dạy cách tập thở, các bí quyết giao hợp để
được trường sinh, lấy trung, hiếu, thành, tín làm nguyên lý trí nước để cho thiên hạ thái
bình"[35/333]. Chỉ nói ở đời Hán như trên, cũng đã thấy vấn đề phức tạp. Còn Phật giáo Ấn
Độ truyền nhập vào Trung Quốc từ năm 67 sau công nguyên thì ngay từ đầu cũng hầu như
không còn tính chất siêu hình như ở Ấn Độ, mà dần dần, nó lại hướng về thực tiễn, tìm đường
đi phù hợp với xã hội Trung Quốc. Giáo sư Phan Ngọc cho rằng, từ đời Đường trở đi, về nhu
cầu thỏa mãn tâm linh trong xã hội Trung quốc, Phật giáo đã lấn dần Đạo giáo và trở thành
trào lưu chủ yếu của Trung Quốc [34/339]. Phật giáo ở Trung quốc là Phật giáo Đại thừa
(tiếng Phạn: Mahayana), nghĩa là chiếc xe lớn, nghĩa bóng là chở nhiều và đi xa được. Đó là
nói đến những kinh điển cao siêu của nhà Phật, dạy cách tu hành để đạt đạo cho mình và tất cả
chúng sanh. Nhiều nhà nghiên cứu cũng xác định rằng giáo lý Đại thừa là giáo lý được truyền
theo đường vòng phía Bắc, gọi là Bắc tông.
Tình hình đan xen, xâm nhập lẫn nhau trong quá trình phát triển của các học thuyết như
vừa nói trên, tuy khó miêu thuật đầy đủ, nhưng rõ ràng, chúng là một hiện tượng có thực. Do
định hướng nghiên cứu của Luận văn, chúng tôi không đi sâu vào việc ảnh hưởng của các học
thuyết, các đạo - đối với tiểu thuyết. Với tinh thần ghi nhận sự có mặt của tam giáo trong Tây
Du Ký, chúng tôi xác định lại vấn đề với những quan niệm và đánh giá sau đây.
Trước hết, Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân mang rõ màu sắc tôn giáo và tín ngưỡng. Đối
với Phật giáo, đó là Phật giáo Đại thừa, có thỉnh kinh, tụng niệm, tu hành để giải thoát cho
bản thân và có thể phổ độ cho nhiều người khác, vì ai cũng có "Phật tính". Do vậy, nó có tinh
thần tích cực trong việc thâm nhập nhân gian, xã hội. Đối với Đạo giáo, đặc điểm khu biệt của
nó là thuyết tu tiên vốn mượn từ "Đạo đức kinh". Từ tu tiên, dần về sau, các cá nhân đề cao
một cách say sưa huyền bí để đưa ra hai biện pháp: một là, tu tiên để thành bất tử; hai là, lên
đồng để tiếp xúc với thần linh (G.S. Phan Ngọc - Sđd. Trang 337). Đối với Nho giáo, " ý thức
chủ đạo của tâm thức Trung Quốc là hình ảnh của triều đình Hoàng đế cực kỳ đồ sộ, quy mô
chặt chẽ, quy tắt gắt gao. Cái gì ở Trung Quốc cũng có tôn ty chặt chẽ". (Phan Ngọc - Sđd,
trang 339). Cả ba học thuyết này, trong quá trình phát triển, biến sinh, dưỡng như đều hòa
quyện với các tín ngưỡng dân gian. Hiện tượng này không chỉ xảy ra ở Trung Quốc, còn xảy
ra ở nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á. Cái tài của nhà văn là bằng cảm quan nghệ thuật
riêng, tác giả đã phản ánh một tinh thần dung hợp mang màu sắc phương Đông mà nhiều
người gọi là "Tam giáo đồng nguyên". Trong tinh thần dung hợp này, theo chúng tôi, Phật
giáo đã chiếm một vị trí ưu trội hơn. Cũng cần nói thêm rằng, cái tinh thần "giác nhi giác tha"
của Phật giáo có một sức hấp dẫn lớn đối với quần chúng, nhất là quần chúng lao khổ: nó giải
đáp những vân nạn của nhân sinh đã từng đặt ra với nhân dân Trung Quốc trong lịch sử. Tuy
nhiên, Phật giáo cũng như Đạo giáo, Nho giáo không phải là đối tượng nghiên cứu chủ yếu
của luận văn chúng tôi. vả lại, không có một tôn giáo nào, kể cả Phật giáo, được thế hiện một
cách đầy đủ trong Tây Du Ký. Sự có mặt của tam giáo ở đây có tính cách như một cái nền,
một điểm tựa để nhà văn thực hiện một ý định nghệ thuật khác với một màu sắc khác. Điều
này đúng như G.s Lương Duy Thứ đã nói: "Tiểu thuyết thần ma lấy đề tài trong thần thoại
hoặc tôn giáo nhằm thể hiện những đòi hỏi trong cuộc sống hiện thực, bởi vậy có khi viết về
tôn giáo, nhưng lại xa lạ với mục đích tuyên truyền tôn giáo. Loại này nặng về tưởng tượng
hư cấu, đậm màu sắc lãng mạn thần thoại. Tây Du Ký là tác phẩm thành công nhất của loại
này "[20/10]. Ở đây cũng cần xác định thêm rằng, vấn đề "màu sắc lãng mạn thần thoại" trong
Tây Du Ký chỉ như là đặc trưng của bút pháp, chứ không theo yêu cầu của một phương pháp
sáng tác lãng mạn đích thực như chủ nghĩa lãng mạn trong văn học. Do sự sáng tạo "nặng về
tưởng tượng hư cấu, đậm màu sắc lãng mạn thần thoại", mà chúng ta có điều kiện nhìn thấy
nhiều không gian nghệ thuật rất kỳ thú trong tác phẩm. Đọc Tây Du Ký, chúng ta có thể thấy
những không gian nghệ thuật rất tiêu biểu như không gian thần kỳ, không gian trần thế và
trong mỗi loại như vậy lại chứa những loại nhỏ hơn về nó. Chẳng hạn, trong không gian thần
kỳ, chúng ta có thể nhận ra không gian long cung, âm ty, không gian thượng giới mà Phật,
Tiên, Trời đều có mặt. Sự thú vị và cũng là phức tạp của các không gian nghệ thuật này là
chúng thường đan quyện, thông nối lẫn nhau. Dù vậy, trong một mức độ tương đối hợp lý,
chúng tôi sẽ lần lượt tìm hiểu từng loại không gian này và hiện tượng đan quyện thông nối
giữa chúng.
1.2.2. Vai trò của không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký.
Như ý kiến của nhà lý luận Bakhtin, các hình tượng văn học trong tiểu thuyết có "sự thay
đổi các trục tọa độ trong không gian và thời gian"[25/37]. Đọc Tây Du Ký, đặc điểm này có
thể tìm thấy phong phú. Dĩ nhiên, đồng thời với hình thức không gian, tác phẩm còn có thời
gian cùng các kiểu dạng của nó.
Ở trên chúng tôi đã dẫn ý kiến của Ưsepenseki: không gian là thời gian trường tồn. Thời
gian là không gian đang lấn bước và đúng như M.Bakhtin nói khi nghiên cứu thi pháp tiểu
thuyết của Dostoievski rằng chúng là một phạm trù cơ bản và luôn đi liền nhau. Thời gian
nghệ thuật trong tác phẩm văn học có thể có hai mặt cơ bản là quan niệm thời gian của nhà văn
và việc tổ chức thời gian của tác phẩm. Theo quan niệm của thi pháp học thì nhìn chung, khi
thời gian - cũng như không gian - gắn bó với tình cảm, suy nghĩ, hòa điệu tương hợp với các
hành trạng nhân vật, các hình tượng văn học, thì mới có điều kiện trở thành thời gian - không
gian nghệ thuật. Trong Tây Du Ký, có vô số những thời gian như thế. Chẳng hạn, ngay ở hồi
thứ nhất trong tác phẩm, Hầu Vương đi học phép trường sinh đến Nam Thiêm bộ châu tự sống
đến tám năm ròng, rồi lại tự mình đóng bè, vượt sông qua Tây hải thẳng tới địa giới Tây Ngưu
hạ châu. về sau, khi gặp Tổ sư hỏi cuộc hành trình ấy, Hầu Vương nói: "Đệ tử lênh đênh qua
bể, lên đất, lang thang đủ mười mấy năm trời mới đến được đây". Với thời gian như thế - tuy
trước hết nó vẫn là thời gian khách quan, nhưng đã gắn bó xiết bao với những gian khổ, tâm
tình, khát vọng trường sinh của hầu vương! Bắt đầu từ hồi thứ mười hai, ở đầu mỗi hồi, ta
thường gặp sự miêu thuật của người kể chuyện về thời gian của cuộc thỉnh kinh, về các tiết
thu, rồi đến đông, đến hạ... với bao vất vả do thời tiết diễn ra mà cả đoàn thỉnh kinh phải chịu
đựng. Thời gian năm trăm năm Tề thiên đại thánh bị đè dưới núi Ngũ Hành cũng không còn là
thời gian vật lý, vì nó đã gắn với sự chịu đựng phi thường của nhân vật. Có thể nói rằng trong
tám mươi mốt tai nạn mà Đường Tăng cùng các đệ tử phải chịu đựng hầu như tai nạn nào cũng
có thời gian tính và thời gian ấy, hoặc là gắn với nỗi âu lo, sốt ruột của Đường Tăng, hoặc là sự
chịu đựng, tính chất bức bách trong tình cảm của các đệ tử. Như thế, thời gian trong tác phẩm
quả là một thời gian có quan niệm tính của nhà văn. Nếu chỉ đi sâu nghiên cứu hình thức nghệ
thuật này, chắc chắn chúng ta sẽ thấy rõ hơn các ý nghĩa của nó.
Một điều cũng cần xác định là tuy không gian, thời gian luôn đi liền nhau, nhưng chúng
là hai vấn đề khác nhau. Đọc Tây Du Ký, chúng tôi nhận ra không gian nghệ thuật dường như
có tính ưu trội hơn, nên chọn nghiên cứu. Những nghiên cứu ngày nay như: "Thời gian nghệ
thuật của Marcel Proust trong tác phẩm "Đi tìm thời gian đã mất" hoặc: "Xuân Diệu, nỗi ám
ảnh thời gian", "Huy Cận, nỗi ám ảnh không gian"... cũng là theo hướng "tính trội" của vấn đề
mà nghiên cứu.
Do định hướng của Luận văn, ở đây, chủ yếu tìm hiểu về không gian nghệ thuật. Có thể
nói ngay rằng, từ ngay hồi 1 của tác phẩm thì không gian mang ý nghĩa nghệ thuật đã xuất
hiện và từ đó, đến hết một năm trời, dù có thay đổi, chuyển dịch, không gian nghệ thuật đã
liên tục xuất hiện. Chính các tọa độ cụ thể của nhiều loại không gian trong tác phẩm đã đóng
vai trò làm nền, làm điểm tựa và phạm vi cho các vận động của hình tượng văn học. Vì nhà
văn chỉ có thể quan niệm trước về nhân vật, về nơi chốn tồn tại của các hình tượng, về mối
tương quan hòa điệu giữa chúng mới có thể sáng tác, nên những không gian ấy đã mang thêm
ý nghĩa mới trong quan hệ với nhân vật, và do đó, có ý nghĩa nghệ thuật. Cứ hình dung một
Tôn Ngộ Không anh hùng phản nghịch với liên tiếp những chiến công chất ngất đối với Thiên
đình, Long cung, Âm ti và suốt những chặng đường đầy yêu quái mà trước sau chỉ có một
phạm vi không gian nhỏ hẹp và bình thường thì làm sao có được sự ứng hợp với tính cách?
Một nhân vật song toàn về dũng trí và tài năng, một tính cách chỉ có thể quẫy đạp, bức phá đối
với mọi sự đè nén, bất công... như Tôn Ngộ Không, rõ ràng phải có không gian thích ứng với
chính nhân vật.
Chọn lựa và xây dựng kiểu không gian này cho quá trình tồn tại và phát triển của nhân
vật mình, quả là một kỳ công sáng tạo của tác giả. Những hình thức không gian ấy là một đặc
trưng thi pháp. Vai trò của không gian nghệ thuật ở đây, vì thế, là một vấn đề rất có ý nghĩa.
Nghiên cứu không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký cũng như những vấn đề lớn khác ương
tác phẩm, chúng ta cũng cần thấy hết sự phức tạp của tác phẩm trong quan hệ với truyền
thuyết dân gian, tình hình thuyết thoại nhân qua nhiều đời và dị bản của nó ở một số tác giả.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Khánh, có thể có khá nhiều bản Tây Du Ký
[21/147,143,144] và vấn đề tác giả của nó cũng là chuyện từng có nhiều tranh cãi. Chẳng hạn, có ý kiến cho rằng đạo sĩ Trường Xuân Khâu Xử Cơ, người đời Nguyên mới là tác giả của
Tây Du Ký chứ không phải Ngô Thừa Ân. Thực ra, "Dưới thời Nguyên Thái Tổ, đạo sĩ Khâu Xử Cơ vâng chỉ đi Tây Vực, khi trở về, ông mới viết bộ Du Ký đó. Theo Từ Nguyên, thì bộ Du ký này được hoàn thành ngay dưới đời Thái Tổ nhà Nguyên. Do sự trùng tên sách, nên
mới có sự lầm lẫn tên tác giả. Thêm vào đó, hồi thời Thanh sơ, khi khắc bản in các bộ diễn
nghĩa, nhà xuất bản lấy lại tựa Tây Du Ký của Trường Xuân Khâu Xử Cơ làm tựa cho bộ Tây Du Ký Diễn nghĩa. Nay mới biết ra Tây Du Ký của Khâu Xử Cơ và Tây Du Ký diễn nghĩa của Ngô Thừa Ân là hai bản khác nhau"[21/147,143,144]. Trong chi tiết của tác phẩm cũng có
những biến đổi và chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến không gian tồn tại của nhân vật. Chẳng hạn,
trong "Đại Đường Tam Tạng Pháp Sư Thụ Kinh Thi Thoại" thì Tôn Ngộ Không chẳng dám ăn
cắp nhân sâm, còn trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân thì Tôn Ngộ Không lại muốn bẻ trộm,
nhưng sư phụ Đường Tam Tạng lại phê phán. Nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Khánh cho rằng
"Tác giả Tây Du Ký diễn nghĩa Ngô Thừa Ân là sĩ phu, xét duyệt nghiêm khắc hơn, cho nên
ông thấy không thể nào để nhan nhãn cái chuyện ông hòa thượng xúi học trò ăn trộm, dù là ăn
trộm trái nhân sâm trường sanh bất tử"[21/147,143,144]... Qua những quá trình như thế, rõ
ràng tác phẩm có sự phức tạp hơn. Tuy nhiên, như nhận xét của nhà nghiến cứu Nguyễn Huy
Khánh ở trên, Ngô Thừa Ân có chủ định riêng mình với tư cách là nhà văn trong sự- nghiệp
sáng tạo, hư cấu, cho nên, nghiên cứu không gian nghệ thuật trong tác phẩm Tây Du Ký,
chúng tôi hoàn toàn dựa theo văn bản của tác giả Ngô Thừa Ân, chứ không theo những bản
khác và nghiên cứu không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, chúng tôi cũng
hoàn toàn thống nhất với quan niệm của Giáo sư Lương Duy Thứ rằng trọng điểm về nhân vật
đã thay đổi. Do vai trò của Tôn Ngộ Không nổi bật, "Vai trò của Đường Tăng dần dần lu mờ
đi" [21/147,143,144], nên việc tìm hiểu không gian nghệ thuật cũng chiếu ứng theo tính cụ thể
của nhân vật chính mà Ngô Thừa Ân đã có ý thức quan tâm hơn. Dĩ nhiên, các nhân vật đồng
hành cũng sẽ được đề cập, nhưng có mức độ. Cũng do vậy, hiện tượng đi sâu hay không đi sâu
vào từng nhân vật là điều cần sự chấp nhận của người đọc.
Chương 2: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TÂY DU KÝ
Trong tác phẩm, tác giả đã thể hiện nhiều dạng không gian nghệ thuật, nhưng với yêu
cầu của một luận văn thạc sĩ và sự nhận thức riêng, chúng tôi chỉ đề cập một số dạng không
gian tiêu biểu.
2.1. Không gian Trần thế.
2.1.1. Không gian núi Hoa quả - Đá tiên.
Khi giới thiệu tác phẩm Tây Du Ký cho lần xuất bản năm 1988 (Bộ 10 tập do Như Sơn,
Mai Xuân Hải, Phương Oanh dịch), tác giả Lương Duy Thứ đã xác nhận rằng Ngô Thừa Ân
đã chuyển địa vị nhân vật Huyền Trang từ chỗ là nhân vật chủ yếu biến thành nhân vật thứ yếu
và ngược lại, nhân vật Tôn Ngộ Không từ địa vị nhân vật hộ tống, biến thành nhân vật quyết
định thành bại của cuộc Tây Du. Do địa vị nhân vật quyết định thành bại của cuộc Tây Du,
trước hết, chúng ta cần tìm hiểu về cội nguồn sinh thành của nó.
Xuất phát, nhân vật ấy là một con khỉ được sinh ra từ một tiên thai
trong đá. Ngay từ những dòng đầu của hồi thứ nhất, người tường thuật đã
cảm nhận tấm đá chứa tiên thai ấy đã "cảm thụ tinh hoa của trời đất, của (TP.I.66)(*). Ở đây, Ngô trăng nên mới thông được” mặt ười, mặt linh
Thừa Ân đã dùng quan niệm xưa: Trời-Đất là cha mẹ của vạn vật. Từ
Hỗn Độn sinh ra Thái Cực, Thái Cực sinh ra Lưỡng Nghi. Lưỡng Nghi
chính là Âm Dương, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát
Quái, Bát Quái sinh Càn Khôn. Tuy nhiên, không phải trình bày lý thuyết
khô khan, mà tác giả đã thu gọn: Thái cực là khối đá, Lưỡng nghi là hấp
thụ khí âm dương …… sinh ra "con khỉ đá". Như thế, con khỉ trước khi sinh ra đã thụ bẩm
được với càn-khôn, tiếp nhận tinh túy từ các lực lượng vũ trụ. Ngay trong việc này, sự xuất
phát của nó đã là sinh thành giữa trời cao đất rộng, nghĩa là chỉ thích ứng với tự do, với đại
lượng kỳ vĩ. Không chỉ riêng con khỉ đặc biệt này sống giữa trời cao đất rộng, mà còn có cả
một số rất đông giống loài của nó. Tất cả chúng đều sinh sống chung trong một không gian
mang tính chất vũ trụ. Chúng làm bầu bạn với muông thú, lâm tuyền, gió trăng và không
ngừng kiếm tìm phát hiện thiên nhiên kỳ diệu.
(* ) Từ đây, cách ghi như thế có nghĩa là Tác phẩm (TP), quyển mấy (ì) và số trang (66)...
Cũng nhờ vậy, chúng đã phát hiện ra "Hoa quả sơn, Thủy liêm động". Chính cái không
gian "Hoa quả sơn phúc địa, Thủy liêm động, động thiên" này ngày càng cố định hóa cho sự
tồn tại giống loài của chúng. Tác phẩm có đoạn viết: "Thực là chôn yên thân của bọn ta. Vả
chăng nơi đó lại rộng rãi có thể chứa được hàng trăm hàng nghìn già trẻ. Chúng ta đưa nhau
vào cả đây, khỏi phải chịu khí trời nóng lạnh. Trong đó:
Gió có nơi ẩn náu
Mưa được chốn trú thân
Sương tuyết không lo sợ
Sấm sét chẳng ngại ngần
Mây đẹp thường soi bóng
Điềm lành vẫn xoay vần
Tùng trúc quanh năm tốt
Hoa lạ ngày càng xuân" (TP.I.70)
Với một địa bàn nhiều thuận lợi như vậy, qua thể nghiệm sống, tất cả loài khỉ đều vui
thích thuận cư, và toàn thể chúng, vì thực sự khâm phục con khỉ đá tài năng, đã có công lớn,
nên đã bầu con khỉ đá làm Đại vương. Khỉ đá lên ngôi Hoàng đế, dấu chữ đá đi, xưng là Mỹ
hầu vương.
Điều đáng nói nhất từ không gian núi Hoa quả, động Thủy liêm nay là, dưới sự bao quát,
hướng dẫn của Mỹ hầu vương, toàn thể loài khỉ đã được sống bình yên và sung sướng. Đó là
một cuộc sống "nơi núi phúc, đất tiên, động cổ châu thần; không chịu sự cai trị của kỳ lân,
không chịu sự cai quản của phượng hoàng và cũng không bị sự câu thúc của ma chúa nhân
gian, tự do tự tại, thật là hạnh phúc khôn lường".(TP.I.72).
Cuộc sống không chịu và nhất định không chịu mọi sự cai trị, đè nén, câu thúc ở đây,
nghiền ngẫm sâu hơn, sẽ là một vấn đề sâu sắc, mang ý nghĩa nhân sinh, nếu sáng tác văn học
xét đến cùng là vì nhân sinh mà sáng tạo.
Điều này quả không thể khác hơn. Không thể nói như học giả Hồ Thích rằng Tây Du Ký
chỉ là truyện hài hước, đùa cợt với đời. Nghiền ngẫm một cuộc đời bao lận đận, bất đắc chí của
Ngô Thừa Ân, Giáo sư Lương Duy Thứ rất có lý khi cho rằng Ngô Thừa Ân không thể không
có một mục đích nghiêm túc khi cặm cụi hoàn thành tác phẩm này vào những năm cuối đời
mình[5/17]. Cho nên, có thể nói, mô hình cuộc sống không chịu các thế lực đè nén bao giờ
cũng là mô hình đẹp đẽ, lý tưởng của những cộng đồng. Mô hình cuộc sống ấy, tác phẩm vừa
trích đã khái quát bằng chủ nghĩa "tự do tự tại", là mô hình của loài khỉ, nhưng nó có ý nghĩa
khái quát về xã hội. Đó là khả năng gợi thức của hình tượng văn học.
Tuy nhiên, sống bình yên, hạnh phúc và nhất là tự do vốn lại là vấn đề cực kỳ khó khăn
trong việc chiếm lĩnh và hưởng thụ nó. vấn đề này, xem qua lịch sử cuộc sống nơi trần gian
trên phạm vi thế giới đều rõ. Ở đây, nhân vật và hoàn cảnh trong tác phẩm lại không phải
chuyện của trần gian, mà là chuyện thần thoại kỳ diệu cho sức tưởng tượng của nhà văn tạo
nên. Nhưng tại sao Ngô Thừa Ân không trực tiếp viết đúng các vấn đề hiện thực trần trụi của
thời đại xã hội mà mình đã và đang sống lúc bấy giờ(?). Trong nhiều lý do có thể cắt nghĩa cho
câu hỏi này thì việc "né tránh tai mắt" các thiết chế đang cầm quyền trong xã hội là điều phải
nghĩ tới.
Trở lại chuyện muốn tồn tại tự do của loài khỉ. Đoạn văn trích trên là những câu nói của
tập thể lũ khỉ nói với Mỹ Hầu Vương, Nhưng đúng như một thủ lĩnh xứng đáng của giống
loài, Mỹ Hầu Vương còn có những ưu tư, hoài bão mang tính chiến lược hơn. Trong cách trả
lời của Mỹ Hầu Vương với tất cả lũ khỉ, ta thấy rõ chiều sâu của vấn đề khát vọng tự do. Có lẽ
theo Hầu Vương, tự do tự tại còn phải là vấn đề miên viễn trường cửu, thoát hẳn được cái chết
nghiệt ngã vốn không bỏ qua ai. Mỹ Hầu Vương nói: "Ngày nay dẫu không phải theo luật lệ
của ma chúa, không sợ oai quyền của chim muông, nhưng sau này, tuổi già sức yếu, trong
đó có lão Diêm Vương cai tri. Một ngày kia chết đi, chẳng hóa uổng công sinh ở trong- thế gian, không được mãi hưởng phúc trời ư?”(TP.I.72). Rồi từ đó, Mỹ Hầu Vương, một mình với
bao nhiêu nỗ lực đi tìm các đấng Phật, Tiên, Thần,Thánh để học pháp trường sinh, tránh khỏi
luân hồi, trường thọ ngang với trời đất núi sông. Hành trình đi tìm các đấng Phật, Tiên, Thần,
Thánh, Mỹ Hầu Vương phải kinh qua nhiều không gian bao la, bí ẩn và kỳ diệu. Điều thú vị là
dường như trời đất -Các lực lượng siêu nhiên đã chìa bàn tay thần diệu ra nhằm đỡ đần, che
chở cho Mỹ Hầu Vương. Có lẽ vậy, "nên từ khi cưỡi bè ra biển, luôn luôn có gió Đông-Nam,
đưa bè tới bờ biển Tây Bắc, chính là địa giới Nam thiên bộ châu".(TP.I.72). Cuối cùng, Mỹ
Hầu Vương qua nhân vật Tiều phu, lần đường, đã tìm đến được Tổ sư ở động "Tà Nguyệt Tam
Tinh" thuộc núi "Linh Đài Phương Thốn". Chưa nói việc chầu lễ, xin học đạo, thì đến được
cõi này, Mỹ Hầu Vương đã lênh đênh trên mặt biển, vất vã trên đất liền có đến "mười mấy
năm trời". Thời gian này với không gian ấy, lại cũng chỉ một thân Mỹ Hầu Vương lần dò tìm
kiếm, tác phẩm cho thấy nhân vật, từ rất sớm đã có ý nghĩa khai phá và đầy quyết tâm. Khi
gặp được Tổ sư ở động "Tà nguyệt tam tinh", điều có ý nghĩa hơn cả về thi pháp không gian
không phải là việc thu nhận, đặt tên của Tổ sư cho Mỹ Hầu Vương, mà là việc tự xác định
nguồn gốc của Mỹ Hầu Vương và việc Tổ sư nhận ra mối quan hệ với vũ trụ của Mỹ Hầu
Vương. Tác phẩm có đoạn:
"Tổ sư nói:
- Không phải là tính tình. Tính danh bố mẹ nhà ngươi trước là gì? Hầu vương nói:
- Con tuy không phải ở trên đây đẻ ra, nhưng lại là ở trong hòn đá sinh ra. Con chỉ nhớ
rằng trên núi Hoa quả có một tảng đá tiên. Năm ấy đá vỡ ra và sinh ra con.
Tổ sư nghe nói trong dạ mừng thầm nói:
- Như thế là trời đất sinh thành ra ngươi. Hãy lại đây cho ta xem." (TP.I.83).
Tổ sư vốn là nhân vật của thế giới Phật, Tiên, Thần, Thánh. Mỹ Hầu Vương là nhân vật
đang cần tìm đến thế giới ấy. Tác phẩm có chỗ suýt nữa Mỹ Hầu Vương bị Tổ sư đuổi ra khỏi
động. Nhưng khi nghe Mỹ Hầu Vương ra đời từ một hòn đá tiên, thì Tổ sư hiểu ngay mối quan
hệ từ nguồn gốc của Mỹ Hầu Vương. Đó là mối quan hệ với càn khôn. Sống với thế giới
Phật-Tiên-Thần-Thánh, nhân vật bao giờ cũng nhạy cảm với các hiên tượng tương ứng, tương
giao. Mỹ Hầu Vương sinh ra từ đá tiên tức là đã tương giao, tương thông với tạo hóa, vũ trụ.
Nhờ vậy, việc tiếp nhận của Tổ sư đối với Hầu vương như đoạn đối thoại trên là đầy ân cần,
thiện cảm. Chính vị Tổ sư này đã thay mặt cha mẹ của khỉ đá "đặt tên họ cho nó, trao truyền y
bát để tự thân nó tìm đường gia nhập vào cuộc sống đầy ảo hóa"[2/28,19]. Tên của nó là Tôn
Ngộ Không. Cũng có thể nói với danh xưng này, tác giả đã gán cho khỉ đá chút Phật
tính"[2/28,19]. Câu chuyện hãy còn dài dằng dặc nhưng trở lại vấn đề cội nguồn nhân vật, thì
quả là không gian - núi Hoa quả - đá tiên, nơi sinh ra Tôn Ngộ Không là không gian đã mang
thêm một chất lượng mới: đó là không gian nghệ thuật, một hình tượng có chủ định của quan
niệm nhà văn. Nhân vật ấy với khát vọng tự do, tuyệt đối, khát vọng trường sinh bất tử -là
chuyện phi thường, lớn lao, chỉ có thể có một cội nguồn xuất phát đầy bí ẩn và kỳ diệu như
vậy mới trở nên tương hợp để đem lại cho người đọc cảm nhận lý thú và thôi thúc phải đọc
tiếp cuộc hành trình tương lai của nhân vật.
Chính là nhờ được trời đất sinh ra như đã nói mà Tôn Ngộ Không đã được Tổ sư ở "Tà
Nguyệt Tam Tinh" dạy cho học đạo, truyền cho 72 phép thần thông biến hóa. Sau mười mấy
năm trời vất vả cầu tìm Phật -Tiên - Thần - Thánh, năm ba năm kiên nhẫn tu luyện phép thần
thông do Tổ sư truyền dạy, Tổ sư đã cho phép Tôn Ngộ Không trở về nơi đã xuất phát ra đi, đó
là động Thủy Liêm, núi Hoa Quả, nước Ngạo Lai, thuộc Đông thắng-thần châu. Thật cảm
động khi Tôn Ngộ Không "ứa hai hàng nước mắt" (TP.I.99) khi Sư tổ bảo phải trở về. Tôn
Ngộ Không vô cùng ân hận khi biết mình đã phạm phải lỗi khoe khoang tài sức, điều mà sư
phụ rất phật lòng. Khi chia tay, sư phụ đã dặn dò Tôn Ngộ Không cần khiêm tốn thì mới mong
an toàn tính mệnh. Trong những lời cuối cùng của sư phụ nói với Tôn Ngộ Không đã chớm
thấy những bất trắc sẵn sàng rình rập đối với Tôn trong thời gian sắp đến. Vốn là người thầy
dạy cao kiến, viễn minh, Sư tổ nói: "Ngươi đi chuyến này hẳn gặp điều không hay. Ngươi gây
vạ, hành hung thế nào tùy ý, nhưng không được nói là đồ đệ ta. Nếu ngươi nói ra nửa tiếng ta
sẽ biết ngay, ta sẽ lột da róc xương ngươi, đem thần hồn ngươi đày vào nơi cửu vi, muôn kiếp
không cất mình lên được!" (TP.I.99).
Theo dõi hành trình tiếp tới của Tôn Ngộ Không, điều này quả sẽ không sai!
Và, đã đến thời khắc chia tay, Tôn Ngộ Không từ biệt tất cả, "cất mình, tay bấm quyết,
phóng ra phép cân đẩu vân, về thẳng Đông Thắng Thần Châu, chỉ trong chốc lát đã thấy núi
Hoa Quả, động Thủy Liêm" (TP.I.100). Từ đây, Tôn Ngộ Không sống lại với giống loài của
mình và một thân một mình vẫn không thôi với những khát vọng lớn lao diễn ra ở nhiều không
gian thần kỳ phong phú.
2.1.2. Không gian mặt đất.
Ở phần không gian này, do có nhiều không gian khác nhau diễn ra trên hành trình đi Tây
thiên của thầy trò Đường Tăng và do nhiều lực lượng gây hấn khác nhau, nhiều hành trạng của
nhân vật chồng chéo lên nhau, nên việc trình bày của luận văn xin không trích dẫn nhiều về
tác phẩm. Dựa theo sự phát triển dần dần của tác phẩm theo hướng đi Tây thiên, chúng tôi
cũng phải sử dụng phương pháp miêu tả cho quá trình ấy. Cũng ở phần không gian này, chúng
ta sẽ nhận diện các tính cách nhân vật khác nhau được thể hiện. Những không gian bộ phận
như chùa chiền, núi cao, hang động, dòng sông, bến bãi... sẽ là nơi hội tụ của những tính cách
nhân vật dị thường. Chắc chắn sẽ có tính cách có quan hệ với hoàn cảnh và có tính cách hầu
như không có quan hệ gì. Những không gian, hoàn cảnh ở đây có trường hợp là sự tương sánh
hòa điệu với tính cách, có trường hợp như không tác động được gì với những tính cách có vẻ
"cố thủ", "bất biến".
Sau khi chia tay với Bá Khâm (hồi 13) tại núi Lưỡng Giới Sơn (nơi chia hai nước Đại
Đường và Thát Đát), Đường Tăng Huyền Trang đi một mình và đã nghe tiếng Tề Thiên Đại
Thánh...
Đến núi Ngũ hành, Đường Tăng cứu Tôn Ngộ Không, rồi thu nhận làm đệ tử, cùng đi
thỉnh kinh. Từ đây, Tôn Ngộ Không bắt đầu một hành trình mới với một nhiệm vụ mới, nhưng
con người quái kiệt này vẫn nguyên vẹn một tính cách, một lý tưởng.
Có thể xem hồi thứ 13 là hồi đầu tiên hai thầy trò cùng cất bước trên đường đi thỉnh kinh.
Trên con đường tiết tháng chạp rét mướt này, thầy trò phải trên đỉnh cao hiểm trở, chập chùng
vách đá cheo leo. Núi cao, rừng rậm, khe hiểm, sông sâu... luôn luôn là những địa điểm,
không gian chực chờ trước mặt. Tình trạng không gian như thế chỉ có thể là tai ách rập rình mà
thôi. Và quả nhiên, con rồng ở khe Ưng Sầu núi Rắn cuốn muốn toan quắp Đường Tăng,
nhưng Tôn Ngộ Không đã kịp thời giải cứu cho sư phụ. Thua keo này, bày keo khác, nó lại
nuốt chửng con ngựa bạch của Đường Tăng. Tôn Ngộ Không đi tìm đánh nó và nhờ Quan Âm
giúp sức bắt con rồng Ngao Thuận này hóa thành ngựa bạch, mang thồ hành lý cùng theo đoàn
đi thỉnh kinh. Đoàn đi đã thêm được một nhân vật nữa. Tuy có Quan Âm giúp sức, nhưng
ngay ở hồi xuât phát này của hai thầy trò, phải thấy công lao của Tôn Ngộ Không, Ở không
gian núi cao, khe hiểm tính chất chiến đấu của Tôn Ngộ Không không hề thay đổi.
Thực ra, hồi thứ 14 liền trước, Tôn Ngộ Không đã giết 6 tên cướp để bảo an sư phụ, tức
tính chiến đấu vốn hằng thường trong tính cách Tôn Ngộ Không. Nhưng nếu Tôn Ngộ Không
vì nhiệm vụ và cũng là đạo lý mà không thay đổi tính cách mình thì sư phụ Đường Tăng lại
mắng nhiếc Tôn Ngộ Không khi Tôn làm nhiệm vụ, gọi là "ác quá, ác quá!" (hồi 14) và mất
phương hướng trước "Thiên Sơn Vạn Thủy" (hồi 15), luôn luôn giàn giụa nước mắt. Có thể
còn sớm khi nói về tính cách của Đường Tăng ở đây, nhưng dấu hiệu của sự non kém trong
bản lĩnh đã lộ ra.
Ba nhân vật tiếp đi đến một không gian ngỡ bình yên là Quan Âm viện, nhưng bọn sư già
lại lừa lấy cà sa của Đường Tăng. Thế là tài sức của Tôn Ngộ Không phải trình ra: Tôn đi bằng
phép Cân đẩu vân đến núi Hắc Phong đánh nhau cả ngày với Hắc Đại Vương và cuối cùng,
bằng Miếng Tứ bình - đánh từ trong bụng Hắc Đại Vương đánh ra, thêm sự giúp sức của Quan
Âm, Tôn Ngộ Không chiến thắng, mang áo cà sa về cho sư phụ. Không kể không gian vời vợi
của núi Hắc Phong, không gian của những trận đánh từ trong nhà, ra sân, lên núi, về động...,
chỉ nói một điểm cũng có ý nghĩa không gian cực hẹp, đó là ổ bụng của Hắc Đại Vương: ở
đây, con người phi thường Tôn Ngộ Không hoàn toàn đủ phép lực để vừa thu nhỏ bản thân
mình, vừa tung hoành để chiến thắng kẻ thù! Trong những hành trình gian nan về sau, chúng
ta còn thấy con người có 72 phép thần thông, nhưng ở hồi thứ 17 này, đó là một điểm thú vị!
Và như vậy, tính cách khổng lồ của Tôn Ngộ Không còn có khả năng ứng hợp một cách phong
phú với những không gian khác nhau.
Một trong những loại không gian mà đoàn thỉnh kinh thường gặp trên lộ trình là trang
trại, trang viên, thôn trang. Tác phẩm không tập trung miêu tả về cấu trúc của loại không gian
này, mà chủ yếu kể việc bình yên hay bất an đang sẵn sàng ở những nơi ấy. Nếu là bất an thì
thường trang trại ấy có yêu quái và có liên hệ với một hành động nào đấy. Đó là trường
hợp ở hồi 18,19: Từ trang trại Lão Trang đến động Vân Sạn, Tôn Ngộ Không phải đánh nhau
với Trư Cương Liệp, cứu thoát Thúy Lan và Trư Cương Liệp đã quy thuận theo đoàn thỉnh
kinh. Đoàn đi thêm được một nhân vật nữa và Đường Tăng đặt tên cho Trư Cương Liệp là Trư
Bát Giới. Thêm được một nhân vật cho đoàn, giúp cứu con gái của Cao Lão, như ta thấy, tất cả
đều do tài sức của Tôn Ngộ Không, còn Đường Tăng không có vai trò gì. Nếu theo dõi kỹ, ta
sẽ thấy, từ khi đi thỉnh kinh, tai nạn đến với Đoàn, chủ yếu là đến với Đường Tăng, nhưng
người đứng ra giải quyết, trước sau vẫn là người đệ tử đầu tiên theo phò sư phụ - Tôn Ngộ
Không. Tai nạn đầu tiên về bản thân Đường Tăng (từ khi đi thỉnh kinh) là Đường Tăng bị Hồ
Tiêm Phong bắt đem về động dâng thịt cho Hoàng Phong Đại Vương. Thế rồi, cũng là tài
năng của Tôn Ngộ Không. Nhưng lần này, Tôn Ngộ Không có thêm sự trợ chiến của Trư Bát
Giới và chính Trư Bát Giới đã đón đường đánh chết yêu quái Hồ Tiên Phong, trong không
gian hang động hiểm trở của Hoàng Phong cùng với những cách cứu sư phụ của mình. Đó là
nhờ uy lực của Linh Cát Bồ Tát. Nguyên là con chuột ở núi Linh Sơn tư đắc đạo, Hoàng
Phong đã chấp nhận thua cuộc và cùng theo về với Linh Cát. Thế là tính mạng của Đường
Tăng được giải cứu. Nếu ở hồi 20, 21 này, Đường Tăng chỉ biết bó tay, thụ động trước tai nạn
thì Tôn Ngộ Không đã không ngừng quyền biến để chiến thắng phép kim thuyền thoát xác của
Hồ Tiên Phong đã kiên nhẫn chữa bệnh đau mắt vì gió độc của Hoàng Phong mà tìm đường
cứu nguy cho sư phụ, trong đó, phần công lao của Trư Bát Giới được ghi nhận. Sự vận động
của hành động nhân vật ở đây có tính tăng tiến rõ rệt.
Bốn nhân vật tiếp tục hành trình đến một không gian mới - loại không gian mà người
quan trọng bậc nhất về sự bảo an ít có kinh nghiệm, đó là sông, sông nước Lưu Sa (Nhược
Thủy), ở đây, yêu Quyển Liêm đại tướng vồ cướp Đường Tăng. Vì đã có thêm người anh em
cũng có tài sức, nên Tôn Ngộ Không để cho Trư Bát Giới đánh nhau với con yêu này. Để đảm
bảo cho tiến độ cuộc hành trình, Tôn Ngộ Không phải cưỡi mây đi Nam Hải viện đến Bồ Tát
và cuối cùng, nhờ một hồ lô đỏ của Bồ Tát, yêu Quyển Liêm đại tướng đã quy thuận rồi theo
đoàn đi thỉnh kinh. Đó là Ngộ Tĩnh - Sa Tăng.
Đoàn thỉnh kinh thêm được một nhân vật nữa, tức thành năm và dù "Lưu Sa tám trăm
rộng, Nhược Thủy sâu ba nghìn", nhưng Đoàn thỉnh kinh đã dùng hồ lô đỏ của Bồ Tát đặt
giữa với 9 sọ người của Quyển Liêm đại tướng làm thuyền qua sông bình yên, chặng đường
tiếp theo của Đoàn là đi đến một tu viện. Vì ham mê sắc dục, riêng Trư Bát Giới đã bị nạn,
nhưng cũng được thầy trò giải cứu. Từ hồi 24 đến hồi 26, chỉ vì 2 quả nhân sâm ở núi Vạn Thọ
mà cả thầy trò Đường Tăng phải một phen khốn khó. Do (anh em Tôn Ngộ Không) hái trộm
nhân sâm ăn và làm chết loại cây thuốc quý này, rồi lại lẳng lặng bỏ đi, nên chủ nhân Đại Tiên
đuổi theo Đoàn và hai bên đánh nhau kịch liệt. Thầy trò Đường Tăng đã bị Đại Tiên dùng
phép lực thu gọn vào tay áo 2 lần, chỉ trừ Tôn Ngộ Không giàu tài biến hóa nên thoát được
chân thân. Cũng nhờ thoát được mà Tôn Ngộ Không cứu được cả đoàn. Làm được những kỳ
tích này, Tôn Ngộ Không vẫn tiếp tục thể hiện những tài năng kỳ diệu của mình, trong đó,
việc biến hình (hóa gốc liễu, hóa sư tử đá), nhất là phép Cân đấu vân đã làm Tôn Ngộ Không
có dịp tung hoành trên không gian mênh mông quen thuộc. Đó là việc Tôn Ngộ Không đi
Bồng lai tiên cảnh gặp Thọ Tinh, Phúc Tinh, Lộc Tinh, đi núi tiên Phương trượng gặp Đế
Quân và đi Đông Dương Đại Hải cầu Quan Âm để tìm cách chữa sống lại cây nhân sâm cho
Đại Tiên.
Rời Vạn Thọ Sơn, Đoàn tiếp tục đi. Hầu như bao giờ cũng vậy, mỗi khi thấy núi cao,
sông sâu, mỗi khi thấy đói lòng, Đường Tăng thường gọi Tôn Ngộ Không. Chính Tôn Ngộ
Không là người chuyên chú nhất quán bảo vệ sư phụ trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nhưng công
trạng của Tôn vẫn không được Đường Tăng đánh giá đúng mức, thậm chí Đường Tăng còn
tức giận và đuổi Tôn Ngộ Không trở về núi Hoa Quả. Đó là trường hợp Tôn đánh chết ba lần
con yêu giả gái, hóa bà già, ông già ve vãn Đường Tăng. Tầm nhìn, sự đánh giá của Đường
Tăng đối với Tôn Ngộ Không lại trở nên tệ hại và thiếu bản lĩnh hơn khi Đường Tăng nghe lời
xúc Xiểm của Trư Bát Giới. Con người chân tu, một lòng theo Phật có khi còn nói năng thề
thốt như kẻ phàm tục: "Nếu còn gặp mi, ta sẽ sa xuống địa ngục A Tụy". (TP.II. 99). Ở hồi thứ
27 này, người tường thuật còn kể rằng khi về sắp đến núi Hoa Quả, động Thủy Liêm, Tôn Ngộ
Không vẫn còn tấm lòng thương nhớ Đường Tăng! Đó là biểu hiện tình nghĩa của Tôn Ngộ
Không - một con người sống có đạo lý chứ không phải là "người xấu" như Đường Tăng đánh
giá. Đường Tăng - Tôn Ngộ Không, hai thầy trò cùng mục đích, nhưng tính cách của họ
không giống nhau.
Có người đồ đệ tài ba như Tôn Ngộ Không mà Đoàn thỉnh kinh suýt có khi không giải
cứu được tai nạn. Giờ đây, đường ai nấy đi, biết sẽ ra sao trong chặng đường sắp tới?
Trong khi Tôn Ngộ Không về "Trùng tu Hoa Quả Sơn, phục chỉnh Thủy Liêm Động" thì
thầy trò Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng, ngựa bạch bị nạn yêu quái Hoàng Bào ở núi Hắc
Tùng. Không có Tôn Ngộ Không, nên Bát Giới, Sa Tăng phải ra tay đánh yêu quái để cứu
Đường Tăng. Nhưng yêu quái Hoàng Bào là con yêu nhiều tài phép hiểm, nên anh em Bát
giới, Sa tăng không sao thắng nổi. Đã thế, giữa chừng công việc, Bát Giới lại chui vào bụi
ngủ, trong khi Sa Tăng đã bị bọn yêu quái bắt đi. Trước cảnh đau lòng ấy, Long Mã đã biến
hình, rồi trực tiếp đánh nhau với yêu quái Hoàng Bào. Cũng không thắng được yêu quái. Long
mã bàn với Bát giới và đề nghị Bát Giới đi tìm nhờ Tôn Ngộ Không. Bỏ qua sự tệ bạc, đớn
hèn, xấu bụng của Bát Giới, Tôn Ngộ Không nhận lời đi giải cứu Đường Tăng, Sa Tăng. Đánh
nhau kịch liệt với Hoàng Bào, Tôn Ngộ Không lừa lấy được ngọc xá lị và lên thẳng Ngọc
Hoàng truy tìm tông tích yêu quái. Đó là Khuê Mộc Lang đã xuống hạ giới 13 năm và Ngọc
Hoàng sai bản bộ bắt về thượng giới.
Được dịp trở lại thiên đình, Tôn Ngộ Không vẫn ngang tàng như xưa: vào thiên môn, đi
thẳng tới điện Thông Minh gặp Ngọc Hoàng hỏi chuyện và khi trở về chỉ chào một câu. Dẫu
các thiên sư đòi hỏi bái tạ, Tôn Ngộ Không cũng chẳng làm. Tính cách và tài năng ấy đã làm
Ngọc Hoàng phải nói với thiên sư: "cốt sao y được vô sự, trên trời được thanh bình là may"!
Lại nói về việc cứu Sư phụ Đường Tăng. Yêu quái biến Đường Tăng thành một con hổ,
không mở mắt, mở miệng được. Tôn Ngộ Không đọc châm ngôn và phun nước giải cứu
Đường Tăng trở lại nguyên hình chân thân. Lần này, Đường Tăng xiết bao cảm tạ công đức
của Ngộ Không. Nhưng trong lời lẽ ấy, thực ra cũng đã phơi bày cái bất nhất của vị thủ lĩnh
Đoàn đi thỉnh kinh, vậy là Tôn Ngộ Không vì nghĩa đạo mà trở lại với Đoàn, cùng tiếp tục đi
thỉnh kinh. Lúc có Tôn Ngộ Không cũng như lúc không có người đồ đệ kiệt xuất này, Đoàn
thỉnh kinh cứ phải luôn gặp nạn. Họ đi đến núi Bình Đính Sơn. Bát Giới đánh nhau với Ma
Vương Kim giấc và Ngân giấc ở động Liên Hoa, rồi bị chúng bắt. Bằng thần thông của mình,
Tôn Ngộ Không biết tất cả sự giả - thật của yêu ma ; nhưng phải nghe lời Đường Tăng, nên
Tôn Ngộ Không thua phép di sơn của chúng. Kim đẩu yết đế và Thổ địa, Sơn thần đã hợp lực
cứu thoát Tôn Ngộ Không. Vừa thoát núi đè, Tôn Ngộ Không đã tính ngay phương kế giải
cứu sư phụ và các đệ Bát Giới, Sa Tăng. Biết yêu quái có 2 bửu bối lợi hại là Hồ lô hồng vàng
tía và Bình mỡ ngọc dê, Tôn Ngộ Không qua đối thoại, tìm hiểu, rồi lừa đổi hồ lô gọi là gói
trời (đổi hồ lô gói người). Tôn Ngộ Không nhanh trí đi báo Ngọc Hoàng, nhờ Natra giúp sức,
đến Bắc thiên môn, nhờ thêm Chân vũ và Natra dùng lá cờ đen làm tối cả trời đất, nên yêu ma
kinh sợ. Sau đó, Tôn Ngộ Không làm sáng trời đất lại và đổi lấy được hồ lô thật cùng Bình mỡ
ngọc dê, rồi biến đi. Hai yêu ma Quý tinh tế và Trùng linh lợi thí nghiệm hồ lô gói trời thì
không có tác dụng, biết ngay là đồ giả. Sợ bị lộ, Tôn Ngộ Không dùng phép thu lại hồ lô giả,
nên 2 yêu ma chỉ còn tay không! Khi phải kẹt dưới núi, ngỡ là Tôn Ngộ Không tuyệt đường
phò Sư phụ đi thỉnh kinh. Nhưng thoát được rồi thì từ mặt đất, thoắt một cái đã lên thiên đình,
chớp một cái lại làm trời đất từ sáng sang tối, biến đổi khôn lường đối với những trở lực diễn
ra. Nhưng tài năng ấy vẫn còn phải chiến đấu không ngừng. Ngay như bọn yêu quái đang nói
ở đây, chúng còn những ba bảo bối khác, là Kiếm thất tinh, quạt ba tiêu và dây kim tuyến đang
ở mẫu thân của tên ma em. Nhờ thần thông, nên Tôn Ngộ Không biết cả địa chỉ, mưu kế công
việc của yêu ma và đã giết được mẫu thân ma em là một con Hồ ly chín đuôi. Nhưng ma già đã
dùng hồ lô bắt được Tôn nhốt vào bên trong. Tôn lại biến thành con bọ mát, rồi nhân lúc ma
em sơ hở đưa hồ lô cho Ý Hải Long tức thì Tôn chớp lấy ngay và biến bù lại hồ lô giả. Tôn
Ngộ Không thừa thắng tiến đến động đánh với lão Ma Kim Giới đại vương rồi lấy được quạt
ba tiêu. Hồ A Thất, cậu ruột của ma em đến đánh trả thù cho anh em nhà lão ma liền bị Bát
Giới bổ đinh ba vào lưng phải đâm đầu bỏ chạy. Trong khi đó, Kim Giới đại vương không cẩn
thận lại kêu một tiếng (khi nghe Tôn Ngộ Không gọi tên mình) thì lập tức bị cuốn ngay vào
tịnh bình! Tôn Ngộ Không dán ngay bùa Thái Thượng Lão Quân vào đấy cho tuyệt đường
phục sinh. Chiến thắng xong, Tôn Ngộ Không lần lượt giải cứu cho Sư phụ, tất cả đều vui
mừng tạ ơn rồi lên đường. Trên đường đi, gặp Thái Thượng Lão Quân đòi lại tất cả bảo bối mà
Tôn Ngộ Không đã tướt đoạt của nhà lão ma, vì đó là của Thái Thượng mà bọn yêu ma đã ăn
cắp. Nhân phê phán Lão Quân, Tôn Ngộ Không biết nguồn gốc các bảo bối có liên quan đến
Quan Âm thì tính cách vốn dĩ của Tôn liền phán ngay mấy câu về vị Bồ Tát "Thực chẳng ra
sao" này. Tính cách ấy không ngừng tung hoành ngang dọc trên tất cả các không gian đã kinh
qua của những hồi này, mà ngay khi bị nạn núi đè thì tính cách ấy "hổ rạc hùng tâm vẫn giữ",
vẫn "khí tượng hiên ngang, tiếng nói sang sảng". (TP.II tr.221). Như thế, rõ ràng, dù bị yểm
xuống dưới chân núi, tức là một không gian tồn tại hẹp, đầy u uất, tính cách chống chọi, luôn
luôn chiến đấu... vẫn không hề bị đánh mất ở nhân vật. Như ta thấy, có khá nhiều tai nạn xảy
ra cho Đoàn thỉnh kinh, mà chủ yếu là xảy ra đối với Đường Tăng. Những tai nạn loại này, các
đệ tử phò sư phụ hết lòng giải cứu là đúng. Nhưng tác phẩm cũng cho thấy rằng có những tai
nạn thực ra là tai nạn lây, nhất là những trường hợp Đường Tăng nhận lời giúp cho người này,
người nọ. Tai nạn ở nước Okê là trường hợp như vậy. Ta không nói những mạch ngầm khác,
cứ trên tiến trình công việc và năng lực nhân sự mà xét, thì Đường Tăng hãy con là người
phàm mắt thịt, đang tu luyện, chưa có tài thần thông. Ấy vậy mà vẫn nhận lời giúp những việc
vượt quá sức mình! Dùng thành ngữ "lực bất tòng tâm" để nói về Đường Tăng có được chăng
(?!). vấn đề đáng quý là đồ độ của Đường Tăng đều thuận nghe Sư phụ và "cùng nhau giải cứu
cho tai nạn của Đại Vương nước Ôkê. Giải quyết được tai nạn này, Bát Giới cũng có công lớn,
nhất là lặn xuống nước, gặp Long Vương, rồi mang về được xác chết đã ướp còn nguyên của
Đại Vương nước Ôkê. Còn Tôn Ngộ Không cứu sống linh hồn của xác chết này bằng con
đường không trung "trên ba mươi từng trời", đó là đến viện Đâu Xuất ly hậu thiên cung để nhờ
một viên đơn hoàn hồn của Thái Thượng. Cứu được một mạng người, phục hồi được cả một
triều đình, thắng được con yêu sư tử lông xanh đã thiến..., Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới phải
chiến đấu nhiều nơi chốn gian nan, từ không gian cung đường chật hẹp có trà trộn Đường
Tăng giả, Đường Tăng thực đến xứ sở Thủy cung của Long Vương rồi đến trên ba mươi tầng
trời thăm thẳm.... Không có tài phép và tấm lòng vì Đường Tăng làm sao các đồ đệ có thể thực
hiện điều này. Tuy nhiên, tài phép và tấm lòng ấy chừng như không thay đổi gì được về tình
cảm, quan niệm và tính cách của Đường Tăng. Chính ở tai nạn vừa kể trên, cũng có lần Đường
Tăng nghe lời Trư Bát Giới nên đã niệm chú làm đau đớn Tôn Ngộ Không. Cũng mới đó thôi,
khi Đường Tăng cảm tạ công đức Tôn Ngộ Không đã cứu mình từ con hổ câm tiếng trở lại làm
người, Tôn Ngộ Không từng nói: chỉ mong Sư phụ đừng niệm chú là đủ rồi - lời mong cầu ấy,
Đường Tăng chẳng không nhớ sao?. Tác phẩm kể rằng từ hồi 40 đến hồi 43, đồ đệ của Đường
Tăng, nhất là Tôn Ngộ Không đã liên tiếp ứng biến không kể thân mình để cứu Đường Tăng
và cả Đoàn thỉnh kinh, Phát hiện ra yêu tinh, Tôn Ngộ Không bàn lui nhưng ý kiến chí hại của
Đường Tăng từ ngay khe Thông Héo, núi Hiệu, động Hỏa Vân, nhưng Đường Tăng không
những không nghe những ý kiến đúng đắn của Tôn Ngộ Không mà còn luôn tỏ ra giận dữ đối
với người đệ tử thành tâm và thông tuệ này. Do không nghe lời đệ tử, quả nhiên Đường Tăng
bị nạn lớn. Vậy là tất cả đồ đệ phải lo cứu Sự phụ. Trận kịch chiến này, Bát Giới và Tôn Ngộ
Không đều bị nạn. Đồng đội họ cứu giúp lẫn nhau và đã đánh nhau với yếu tinh (Hồng Hài
Nhi cùng bọn quái con) từ động Hỏa vân, đến trên không trung, rồi tiếp đánh yêu quái ỏ sông
Hắc Sửu là Tiểu Đà đang chiếm ngôi của Hà Thần ở Thủy Phủ... để hoàn thành sứ mệnh bảo
an và giải cứu cho Sư phụ cùng cả Đoàn thỉnh kinh. Nếu ở những hồi nói trên ta thấy Bát giới
có khi ham mê sắc dục, nói lời xúc Xiểm, tham ăn và sống có tính chất quán tính, bản năng thì
ở những hồi này, hồi 41, Trư Bát Giới đã dùng phép xoa huyệt của nhà chùa, chữa thông khí
huyết cho tai nạn tê cứng (vì khói lửa độc của Hồng Hài Nhi) đang hành hạ Tôn Ngộ Không.
Tuy "con người Trư tập trung cao độ những đặc điểm về tính cách phức tạp của con người
trong cuộc sống hiện thực"[13/115], nhưng biểu hiện cứu giúp đồng đội đàn anh nói trên là
điều đáng ghi nhận.
Đoàn tiếp tục đi. Đến Xa Trì quốc gặp cảnh ngang trái oan khiên của 500 vị hòa thượng
bị bọn đạo sĩ hành xác, Tôn liền động lòng thương cảm và đã cứu nguy cho tất cả họ. Tại
không gian Tam Thanh Quán, Tôn hóa gió giải tán bọn đạo sĩ cầu kinh và anh em Tôn Ngộ
Không được dịp ăn lễ vật của chúng. Cái đáng quý là sự tung hoành của Tôn Ngộ Không đã
thắng được Đại Tiên: Đại Tiên cầu mưa giúp quốc vương, giúp mùa màng nhân dân không
được, còn Tôn Ngộ Không đã cầu được mưa với những phép biến hóa diệu kỳ. Những việc
làm của Tôn Ngộ Không bao giờ cũng chứng tỏ rằng luôn có lợi cho mọi người. Kết thúc tập
II, chúng ta được dịp thấy Tôn Ngộ Không chỉ chuyên chiến đấu với bọn đạo sĩ nhũng nhiễu
bằng cách phép biến hình. Tôn Ngộ Không đã biến từ con rết, con bọ mát đến việc mọc được
đầu khi bị chém, chuyển nước mát thành nước sôi bỏng để chiến thắng từ Hổ Tiên, Hổ Lực
đến Lộc Lực và Dương Lực, nguyên là những con hổ, con hươu, con dê chuyên làm hại các
nhà sư và dân lành. Sang đầu tập III, Đoàn đi lại gặp không gian quen thuộc nhưng chưa thể
vượt qua, đó là "Thông thiên hà", "rộng hơn tám trăm dặm, tự cổ ít người qua". Chưa có
phương hướng qua sông, thầy trò đã đồng tâm giúp gia đình họ Trần, đánh Linh cảm đại
vương để khử trừ lệ tế người sống hàng năm. Cũng không ngờ quái vật này khi thua trận lại
hóa gió trút xuống con sông sâu rộng nói trên và bắt luôn Đường tăng đem về thủy cung chờ
ngày thịt. Trước cái không gian không phải sở trường của mình, Tôn đế cho Bát Giới, Sa Tăng
nhử đánh, còn Tôn biến thành con cua để tìm nơi bị giam giữ sư phụ. Tình thế khó, Tôn cưỡi
mây đi Phổ Đà cầu viện Quan Âm và Quan Âm đã giúp sức, thu được yêu quái. Yêu quái thua,
nên Rùa già lấy lại được Thủy Nguyên (trước bị yêu chiếm cứ) và tự giác chở thầy trò Đường
Tăng qua sông như là sự đền ơn. (Con rùa này còn nhờ Đường Tăng hỏi phật ở Tây Phương
bao giờ nó mới được thay lốt để trở lại làm người). Thì ra, thắng lợi của anh em Tôn Ngộ
Không đã được nhân đôi: giúp gia đình họ Trần Gia Trang, khỏi phải tế sống con cái, giúp
Rùa già lấy lại được Thủy Nguyên của mình và đúng như Rùa già nói, đó là công ơn "nhất cử
nhi lưỡng đắc" (TP.III.trang 65). Thầy trò tiếp tục đi và vì không nghe lời Tôn Ngộ Không,
nên Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng đều bị quân của Độc Giốc Tỉ đại vương bắt tất cả đem về
động. Đây là yêu quái cực kỳ lợi hại, đã làm Tôn Ngộ Không nhiều phen điêu đứng. Không
thể bỏ Sư phụ và các sư đệ, Tôn Ngộ Không tìm đến tận động Kim Đâu đánh nhau với yêu
quái trên dưới 50 hiệp và cuối cùng Tôn Ngộ Không bị thu gậy sắt. Mất vũ khí sống còn, Tôn
buộc phải nhiều phen đi về từ mặt đất lên Thiên Đình để nhờ các lực lượng khác nhau trợ giúp.
Nhưng tất cả đều thua cái vòng kim cương của yêu quái, một bảo bối cực hiểm. Tôn Ngộ
Không bèn dựa vào sở trường biến hình của mình là hóa ra con nhặng xanh, rồi con tinh đầu
cầy để vào động lấy cắp bảo bối của yêu và gậy sắt của mình. Không thấy bảo bối cái vòng ;
chỉ lấy được gậy sắt, Tôn Ngộ Không lại đi đánh tiếp, lại bị thu gậy sắt lần nữa. Cuối cùng,
Tôn Ngộ Không cưỡi mây đi Tây Thiên cầu viện Như lai, rồi đến Thái thượng ở điện Đẩu
Xuất Ly hậu thiên mới hàng phục được yêu quái bằng quạt Ba Tiêu của Thái Thượng. Đó là
một con trâu xanh đã trốn từ thượng giới xuống trần gian ở động Kim Đâu để quây phá. Vậy là
tất cả bọn yêu đều bị giết sạch và thầy trò Đường Tăng đã được giải cứu. Thu lại tất cả binh
khí, hành lý cho Đoàn. Nếu chiến đâu với yêu quái Độc Giốc Tỉ Tôn Ngộ Không rất nhiều
phen chớp nhoáng đi về từ không gian mặt đất đến không trung, Thiên Đình thì tai nạn ở Sông
Tử Mẫu, ở địa giới Tây Lương ở động Tỳ Bà và đoạn trên đường về nhà ông Lão Dương, chủ
yếu là những không gian mặt đất. Ở những nơi chốn này sự nguy hiểm cũng không kém gì so
với trước đó, nhưng các đồ đệ của Đường Tăng, nhất là Tôn Ngộ Không đã tài tình trong sự
biến hóa, trong mọi tình huống khó khăn để thắng được các bọn yêu quái, vượt qua tai nạn bọn
cướp đường.
Ở những hồi này, nhất là hồi thứ 56, nhân vật trưởng đoàn thỉnh kinh lại hé lộ thêm một
nét đạo đức không lấy gì tốt đẹp. Đó là trong lời kinh cầu nguyện cho linh hồn hai kẻ cướp đã
bị Tôn Ngộ Không đánh chết, Đường Tăng có bảo chúng đi kiện hành vi của Tôn Ngộ Không.
Vì thế mà thầy trò giận nhau. Và ở đoạn cuối, Đường Tăng tiếp đọc chú Cẩn Cô, rồi đuổi Tôn
Ngộ Không đi khỏi đoàn, nhưng người đồ đệ tình nghĩa và rất cần thiết này vẫn muốn theo
thầy tầm đạo. Ấy vậy mà sư phụ Đường Tăng lại nói những lời như không phải thoát ra từ
miệng người chân tu: "Ta đi được hay không đi được, không bận chi đến mi! xéo ngay! xéo
ngay! Nhà ngươi hơi chậm một tí, ta sẽ đọc chú, lần này đọc không ngừng miệng, thắt cho mi
vãi óc ra!" (TP.III.tr213).
" Không bận chi đến mi!" Lời nói rẻ rúng này của Đường Tăng trong các hồi tiếp theo
thì ngược lại. Quả là Tôn Ngộ Không muốn hoàn tục, muốn được tháo vòng kim cô, nhưng
Quan Âm, rồi Như Lai đều khuyên bảo Tôn Ngộ Không phải theo phò Đường Tăng. Do vậy,
mà tai nạn của Đường Tăng do con yêu khỉ sáu tai gây ra, đã làm Tôn Ngộ Không ghi thêm
những trận chiến đấu cực kỳ gian khổ. Đó là các trận chiến đấu từ động Thủy Liêm đến núi
Bối Âm rồi điện Sâm La ở Âm ty. Sự giả dạng trà trộn song song thành Tôn Ngộ Không của
con khỉ sáu tai thực đã kích thích những năng lực xử trí tài tình của Tôn Ngộ Không. Và, cuối
cùng, dù Như Lai can ngăn, Tôn Ngộ Không vẫn kết thúc đời yêu quái của nó bằng một gậy
sắt đầy căm giận. Trừ khử những yêu ma ác nghiệt như thế, chẳng lẽ lại là hành động bất nhân
ư?!.
Giải quyết xong tai ách, như ý kiến của Quan Âm và Như Lai, thầy trò Đường Tăng lại
hòa thuận và tiếp tục lên đường đi Tây Thiên.
Tai nạn vẫn chưa buông những người có quan niệm, tính cách dị thường này. Giải quyết
những tai nạn kế tiếp cho cả đoàn ở các hồi tiếp theo vẫn là người đồ đệ từng bị Sư phụ Đường
Tăng làm cho nhiều lần đau đớn: Tôn Ngộ Không.
Nếu như từ khi bước chân ra đi thỉnh kinh đến lúc này, ba lần Tôn Ngộ Không đánh nhau
với Bạch Cốt Tinh là những trận kịch chiến không thể quên, thì giờ đây, Tôn Ngộ Không phải
đánh với yêu tinh ba lần để mượn quạt Ba tiêu cũng là những trận kịch chiến phải ghi tâm
khắc cốt. Để mượn được Quạt Ba Tiêu thực, Tôn Ngộ Không phải thân chinh đến động Ba
Tiêu đánh nhau với La Sát, tìm đến động Ma Vân trong núi Tích Lôi đánh nhau với Đại Lực
vương trước sau gần vài trăm hiệp. Trong ba lần mượn quạt Ba Tiêu này, trí lực và sự biến hóa
khôn lường của Tôn Ngộ Không luôn luôn làm yêu quái vất vả. Điều thú vị là so với những
hồi trước, không gian sông nước vốn không phải lãnh địa sở trường của Tôn Ngộ Không, thì ở
những hồi này, Tôn Ngộ Không nhanh chóng hóa thành con cua nặng 36 cân nhảy xuống đầm
Bích Ba để dò la và tìm cách chiến đấu. Nhưng có lẽ hấp dẫn hơn cả là phong thái ngạo nghễ
của Tôn Ngộ Không trong 7 lần thi tài biến hóa với Đại Lực Vương. Cuối cùng, Đại Lực
Vương phải chạy về động Ba Tiêu và tại đấy, nhờ sự vâng chỉ của Phật Như Lai mà tứ phương
đều có lực lượng truy bắt Đại Lực Vương, Đại Lực Vương phải thua cuộc, hiện nguyên hình
là con trâu trắng rồi theo Natra về nước Phật.
Rõ ràng, không có tài sức của Tôn Ngộ Không, làm sao lửa ở Hỏa Diệm Sơn chịu im tắt
- có nghĩa là không có Tôn Ngộ Không thì đoàn thỉnh kinh không thể tiếp tục đi qua núi lửa tai
ác này.Sở dĩ nói phong thái ngạo nghễ của Tôn Ngộ Không trong việc thi tài với Đại Lực
Vương, vì lần nào, người đệ tử ưu tú này của Đường Tăng cũng biến hóa hơn yêu quái. Ở lần
biến hóa cuối cùng, khi Đại Lực Vương hiện rõ nguyên hình là con trâu trắng to dài hơn ngàn
trượng thì Tôn Ngộ Không cũng hiên nguyên hình biến cao muôn trượng, đầu như Thái Sơn,
mắt như mặt trời, mặt trăng. Khả năng của Tôn Ngộ Không như thế, chỉ có thể là con người
khổng lồ, là một hình tượng mang tầm cỡ vũ trụ.
Nếu thử vẽ biểu diễn một " đồ thị" chiến đấu của Tôn Ngộ Không trong suốt hành trình
của Đoàn thỉnh kinh thì đồ thị ấy có những đĩnh cao vời vợi gắn liền với chiến thắng. Nhưng
cũng trên đồ thị ấy, có những điểm chướng ngại không đáng kể và Tôn Ngộ Không đã vượt
qua nhẹ nhàng. Việc Tôn bắt các con yêu Bôn ba Nhi bá, Bá ba Nhi bá ở chùa Kim Quang, rồi
đánh nhau với con yêu Phò Mã của Long Vương, tiếp đến công trạng lấy lại cho tháp chùa
tráp Xá Lị, cỏ linh chi ở hồi 62, 63 và chiến thắng bọn tiên ông, Hạnh tiên núi Kinh Cức ở hồi
64 là những ví dụ.
Theo dõi bước chân của Đoàn thỉnh kinh, chúng ta đều thấy Đường Tăng và cả Đoàn
gặp phải quá nhiều tai nạn. Điều này không có gì ngạc nhiên. Chính hiện tượng quá nhiều tai
nạn này đã góp phần làm rõ sự phong phú trong khả năng phản ánh của Tây Du Ký. Giáo sư
Lương Duy Thứ cho rằng "mặt đối lập của tác phẩm vô cùng rộng lớn"[51/14]. Chính sự
"rộng lớn" này mới dung chứa tất cả những mặt hiện thực từ nhỏ nhất đến mức lớn có ý nghĩa
cả thời đại của nhà văn Ngô Thừa Ân từng sống. Giáo sư Lương Duy Thứ còn chỉ ra cái muôn
hình vạn trạng của các loại yêu quái cồ nguồn gốc và "sự tu luyện" khác nhau như sau: "Trong
tác phẩm còn biết bao nhiêu ma quỷ, thú dữ, trùng độc cũng nham hiểm, quỷ quyệt chẳng
khác gì con người. Nhờ tu luyện giỏi có con biến thành kẻ quân tử, có con biến thành mỹ nữ,
có con thành nhà thuyết giáo. Đó chính là hình bóng của bọn cường hào, ác bá, quan lại, vãn
nhân, học sĩ nhan nhản trong đời sống hiện thực"[51/15,lổ]. Như vậy, việc mở rộng diện phản
ánh, hướng ngòi bút vào, vô số những tai ách, nham hiểm... của Ngô Thừa Ân là việc có quan
niệm tính.
Trở lại với con đường đi thỉnh kinh, Đường Tăng, vị thủ lĩnh của Đoàn thỉnh kinh vẫn
nguyên vẹn cái ngây thơ của mình khi đến Tiểu Lôi Âm Tự. Đó là việc cứ đòi lễ Phật mà
không hề suy xét trước sau. Không có phật nào cả. Ở đấy chỉ toàn là yêu quái giả dạng. Nhờ
con mắt thấu suốt của Tôn Ngộ Không mà bọn yêu ở đấy phải hiện thân ra đánh với Tôn Ngộ
Không. Con yêu Hoàng Mi đại vương này cũng cực kỳ nguy hiểm, bởi bửu bối cái nạo bạc
bằng vàng của nó. Vì bửu bối này mà Tôn Ngộ Không phải vất vả. Từ sự giúp sức của 28 vị
tinh tú đến việc thoát thân của Tôn qua lỗ nhỏ trên chóp sừng Can Kim Long; từ sự giúp sức
của Đăng Ma Thiên Tôn cho đến mưu cao của Di Lặc, Tôn Ngộ Không mới vượt qua được tai
nạn này. So với tai nạn do Hoàng Mi đại vương như vừa nhắc trên thì con yêu chuyên ăn thịt
súc vật và con người ở hồi 67 tiếp theo là chuyện nhẹ nhàng trong cách giải quyết của Tôn
Ngộ Không và Trư Bát Giới. Ở hồi này, có thể thấy thêm công sức và dục vọng của Trư Bát
Giới. Đó là khi gặp đường đi khó khăn, Bát Giới phải dùng mũi chũi đường, dọn dẹp lối đi và
bộc lộ tính cách tham ăn nhiều vô kể. Riêng sự tham ăn của Trư Bát Giới là nét đối lập với
tính cách của Tôn Ngộ Không. Giáo sư Trần Xuân Đề cho rằng "Ngô Thừa Ân xây dựng nhận
vật Trư Bát Giới với mục đích thông qua quan hệ hỗ trợ giữa các hình tượng nhân vật nhằm
làm nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm và những tính cách chủ yếu của các nhân
vật"[13/lll]. Quan sát mối tương quan của các nhân vật trong Tây Du Ký, nhận xét này đúng.
Một điều khác thú vị trong năng lực Tôn Ngộ Không là con người dị thường này đã chữa
bệnh cho quốc vương nước Chu Tử. Trong khi sư phụ Đường Tăng chửi mắng và thiếu tin
tưởng người đồ đệ đầy bí ẩn về tài năng thì các thái y tại vương triều lại hết lời khen ngợi.
Không những thế, Tôn Ngộ Không còn có trí lực đa kế để cứu được Kim Thánh hoàng hậu trả
về cho quốc vương Chu Tử và lừa lấy được bảo bối nhạc vàng của con yêu sấu lông vàng. Tuy
có Quan Âm Bồ Tát đến giải cứu cho con yêu này (vì đã hết hạn 3 năm), nhưng việc nghĩ ra
kỷ vật đôi xuyến vàng của Kim Thánh dùng làm của tin, việc hóa con nhặng xanh, rồi con sâu
ngủ, con hầu Xuân Kiều chứng tỏ thần thông của Tôn Ngộ Không luôn luôn được ứng biến sử
dụng trong mọi tình huống, mọi không gian.
Vừa xong tai ách nước Chu Tử, Tôn Ngộ Không lại phải chiến đấu với 7 con nhện thành
tinh ở động Bàn Ty, suối Trạc cấu. Chiến đấu ở không gian sông nước, Trư Bát Giới mạnh
dạn hóa cá trê để cùng tắm với lũ yêu mà chiến đấu, còn Tôn Ngộ Không nhai lông tơ phun
thành chim ưng để cắn mồ trừ khử chúng, tức các loại sâu bọ, bồ vẽ, chuồn chuồn được chúng
hóa thân. Nhờ vậy mà anh em Tôn Ngộ Không cứu được sư phụ Đường Tăng. Nhưng bảy con
yêu lại đi nhờ đại huynh Đạo sĩ, vốn là tay có thuốc độc luyện từ cứt chim trên núi. Cũng do
không cẩn thận mà Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng ăn phải táo nó mời đầy thuốc độc, rồi ngã
bịnh tại chỗ, một mình Tôn Ngộ Không chiến đấu với Đạo sĩ và cả một đám tơ nhện do 7 con
tinh hóa ra. Bị bưng bít, bị dập đầu, nhưng Tôn Ngộ Không vẫn không rời nhiệm vụ giải cứu,
dù phải nhận rằng con yêu Bách nhỡn ma quân này không phải dễ chiến thắng. Nhờ Bồ Tát
hiện thân thành người đàn bà góa bụa giúp phương hướng, Tôn đã cầu viện đến Thánh Tỳ
Lam ở động Thiên Hoa, núi Tử Vân, Tiên bà Tỳ Lam đã thực lòng giúp, nên bản tướng của
con yêu là một con rết thành tinh dài 7 thước phải hiện nguyên hình. Tỳ Lam còn cho thuốc để
3 thầy trò Đường Tăng uống thổ hết độc dược mới được bình an. Sự liên kết của 7 con tinh
nhện và đạo sĩ để hãm hại thầy trò Đường Tăng như trên đã chuyển dịch từ không gian sông
nước đến cung tiên tuy chỉ với hai ngón độc (lưới nhện và táo có thuốc hiểm) nhưng khá hiểm
hóc. Ở các hồi này, phép hóa thân của Tôn Ngộ Không xuất hiện thêm một chiêu độc đáo, đó
là hóa thành con Lăng Lý Lân (Xuyên Sơn giáp) để tự cứu lấy mình, rồi mới tiếp tục hành
trình giải cứu. Trước sau, Tôn Ngộ Không vẫn thừa sự xử trí nhanh gọn để đi đến thắng lợi.
Từ hồi 74 đến hồi 77, cũng năng lực ấy, Tôn đã chiến đấu thắng lợi ba con yêu ma thần thông
vô cùng quảng đại. Đó là đoạn chuyện tại núi Sư Đà. Cũng như hầu hết các nơi chốn thầy trò
từng đi qua, tại địa điểm mới mẻ này, bọn yêu ma vẫn cứ đòi ăn thịt Đường Tăng để được
trường thọ. Vậy là Tôn Ngộ Không phải giết bọn yêu đi tuần núi sau khi đã hỏi cặn kẻ mọi
điều, rồi hóa thân thành yêu, tìm đến động của bọn ba yêu ma đánh với chúng. Tổn Ngộ
Không sơ hở nên bị phát hiện là yêu ma giả, nên con ma thứ hai đã bắt được Tôn nhốt vào bình
Âm Dương rất lợi hại. Nhưng rồi bình Âm Dương đã bị Tôn Ngộ Không khoan thủng nhờ ba
sợi lông cứu mạng của Bồ Tát cho năm xưa. Tôn lại đánh nhau với lũ ma, có cả Trư Bát Giới
trợ chiến. Con ma già há họng để nuốt chửng Bát Giới, Bát Giới hoảng sợ, thì Tôn Ngộ Không
tiến lên: nó nuốt vào bụng, đắc thắng trở về. Đã có kinh nghiệm miếng tứ bình đánh từ trong
bụng đánh ra, lần này, nhân uống rượu (của yêu quái hại Tổn), Tôn ngà ngà say, nên đâm
ngang dọc, quậy tan nát ruột gan của con ma già. Nó thua, nhưng cả bọn ma này cũng lắm
mưu kế. Biết thế, Tôn Ngộ Không cài kỹ những thủ đoạn để chận đường phản trắc. Mà chúng
phản trắc nuốt lời thật, lại đánh nhau và Bát Giới bị ma dùng vòi quắp về động. Tôn Ngộ
Không phải đi cứu Bát Giới. Chúng lại bày mưu "chia để trị", rồi trong khi hỗn loạn của các
hiệp đánh lẫn nhau, bọn yêu binh đã bắt được Đường Tăng, ba anh em Tôn Ngộ Không tiếp
đánh với con yêu ma nhưng lần lượt bị chúng bắt cả đem về chung chỗ với Đường Tăng để
nấu cao. Bèn sự biến hóa, Tôn giải cứu được cả thầy trò nhưng cuối cùng lại bị bắt lại, chỉ trừ
Tôn Ngộ Không. Tôn lấy làm đau đớn khi nghe tin bọn yêu ma ăn thịt Đường Tăng. Tôn Ngộ
Không liền đi cầu viện Như Lai và Như Lai đã sai Ca Diếp, Anan, Văn Thù, Phổ hiền cùng
đến giúp bắt được yêu ma rồi giải cứu cho tất thảy thầy trò. Những hồi trên đây cũng kết thúc
thắng lợi, tai qua nạn khỏi, nhưng quả có nhiều vất vả, nhất là Tôn Ngộ Không.
Trong rất nhiều cuộc chiến đấu của Tôn Ngộ Không, chúng ta thường thấy chiến đấu
trước hết là để khử trừ những tai ách trên đường, tạo điều kiện thuận lợi cho hành trình đi
thỉnh kinh. Nhưng, cũng có những cuộc chiến đấu mà Tôn Ngộ Không chủ yếu cứu giúp con
người. Với ý này, có thể xem cuộc chiến đấu của Tôn Ngộ Không đối với quốc trượng đạo sĩ
(nguyên là một con hươu trắng) là một công việc giàu ý nghĩa nhân đạo. Có thể gộp hai hồi 78
và 79 lại thành một tiêu đề đầy nghĩa cử nhân đạo là: Tôn Ngộ Không cứu sống trẻ em nước
Tỳ Kheo (bấy giờ đổi tên là Tiểu tử), cố nhiên, trong tác phẩm, hai hồi này vẫn phải nói nhiều
về việc chiến đấu của Tôn Ngộ Không đối với quốc trượng từ giữa vương triều nước Tỳ Kheo
cho đến động của quốc trượng. Nhưng công việc ấy chính là để cứu sống 1.100 đứa trẻ con
đang bị nhốt trong lồng đợi ngày giết thịt, lấy tim gan làm thuốc trường sinh cho vua.
Tóm lại, gọi rằng "Tôn Ngộ Không cứu sống trẻ em nước Tỳ Kheo" là thêm một xác
định về chiến công, nhất là thêm một nét phẩm chất của Tôn Ngộ Không, cũng là ý nghĩa nhân
đạo trong hình tượng nhân vật.
Thầy trò tiếp tục đi và sư phụ Đường Tăng vẫn nguyên cái tình thương người không biết
soi xét như trước: gặp yêu ma giả bị nạn kêu cứu thì động viên học trò cứu ngay. Đó là con yêu
Địa dũng phu nhân (nguyên là con nuôi Lý thiên vương, em nuôi Na Tra). Phải đánh đến hai
ba lần với con yêu này ở động Vô Đề của nó, nhưng Tôn Ngộ Không vẫn không thắng được.
Lần cuối, Tôn Ngộ Không vào thẳng động đánh nó để cứu sư phụ Đường Tăng thì phát hiện
nguồn gốc của nó qua bài vị thờ còn để lại. Nhờ trực giác về quan hệ nguồn gốc này, mà Tôn
đã thắng được con yêu Địa dũng phu nhân. Suốt ba hồi từ 80 đến 83 này, căn bản vẫn một
mình Tôn Ngộ Không chiến đấu, chuyển dịch không gian từ núi Hắc Tùng, động Vô Đề cho
đến Thiên Đình rồi trở lại mặt đất để kết thúc chiến thắng. Ba hồi tiếp theo từ 84 đến đến 87,
chúng ta cũng lại chỉ thấy vai trò năng động, xoay xở của Tôn Ngộ Không trước những
chướng ngại trên đường thỉnh kinh. Xét về phía đánh nhau với yêu quái, ở các hồi này, Tôn
Ngộ Khổng đã chiến đấu căng thẳng với bọn yêu tại núi Ân Vụ, động Chiết Nhạc liên hoàn để
mở đường cứu sư phụ Đường Tăng và cuối cùng Tôn Ngộ Không đã thắng, Bát Giới quá giận
con yêu quái nên bổ một đinh ba làm nó chết tươi. Nó hiện nguyên hình là một con báo già da
vằn lá ngải. Tuy nhiên, cũng ở các hồi này, việc ngỗ nghịch của Tôn Ngộ Không có lẽ là vấn
đề đáng nói hơn. Đó là việc đang đêm, Tôn Ngộ Không khoan lỗ hòm chui ra, làm phép vào
cung thành nhà vua, biến hóa ra hàng ngàn dao cạo, dao cho các Tôn Ngộ Không giả đi cạo
trọc đầu tất thảy bọn vua quan, hoàng hậu, cung phi... Chúng ta đều biết, ở nhiều hồi trước
đây, Tôn Ngộ Không từng coi thường tất cả lực lượng quyền uy siêu nhiên, từ Long Cung,
Âm Ty đến Thiên Đình. Khi Tôn Ngộ Không trở về với mặt đất, chủ yếu theo phò Đường
Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh thì việc gặp gỡ các vương triều ở các nước khác nhau để đổi
công việc được diễn đi diễn lại nhiều lần.
Nhưng lần này, tại nước Diệt Pháp (sau, Tôn Ngộ Không đổi tên nước cho nhà vua là
Kinh Pháp để được bình yên thịnh trị), Tôn Ngộ Không đã tổ chức cạo trọc đầu tất cả bọn
chúng. Rõ ràng là một tính cách ngỗ nghịch! Đành rằng các ngỗ nghịch không phải đến bây
giờ ta mới thấy. Nhưng cái ngỗ nghịch cạo trọc đầu bọn ma quan là đáng suy nghĩ. Suy cho
cùng, đúng như giáo sư Lương Duy Thứ xác định, Tôn Ngộ Không là một kiểu hiệp sĩ chống
trời, không thừa nhận bất kỳ một thứ quyền uy nào [3/19]. Và, điều này, có quan hệ với quan
điểm chính trị của nhà văn Ngô Thừa Ân.
Thầy trò tiếp tục lên đường, đến ngoại quân nước Thiên Trúc quận Phượng tiên thấy dân
khổ, vì thiếu nước đã ba năm, Tôn Ngộ Không mấy lần từ mặt đất đi thiên đình để giúp quan
dân xứ này đạt được nguyện vọng. Thầy trò lại đến nước Phủ Ngọc Hoa phồn vinh, Tôn Ngộ
Không nhận dạy võ nghệ cho ba vương tử nước này. Do binh khí của anh em Tôn Ngộ Không
khá đặc biệt, luôn chiếu sáng lấp lánh, lại để trong xưởng rèn tập của nhà 3 anh em vương tử,
nên đang đêm, có một con yêu đến lấy cắp và thế là, những trận chiến đấu tìm diệt xảy ra. Ba
anh em Tôn Ngộ Không lên đường truy tìm binh khí và đã gặp đúng ngay đầu môi của công
việc. Đó là bọn yêu cổ quái Điêu Toàn và Điều Toàn cổ quái đang đi mời Cửu Linh nguyên
thánh, ông nội của đại vương của chúng ta đến dự tiệc lấy cắp binh khí gọi là hội đinh ba.
Tuyệt không bỏ lỡ cơ hội, Tôn Ngộ Không nhổ nước bọt, hóa phép bắt chúng đứng bất động,
rồi lấy thẻ bài, thu tiền bạc, rồi về báo cho sư phụ biết. Anh em Tôn Ngộ Không tiếp giả hình
dạng bọn chúng đến động Hổ khẩu gặp yêu ma sư tử lông vàng. Sự đánh nhau nổ ra cũng lại
do Trư Bát Giới, nhân vật mà tính cách khá dị thường, mang nhiều đặc điểm của con người
trần tục: Bát Giới vừa đi qua, thấy đinh ba của mình thì liền nhảy lên lấy lại và Tôn, Sa Tăng
cũng phải hiện cả nguyên hình đánh nhau với con yêu có binh khí lưỡi sén lợi hại. Nhưng nó
thua và chạy về hướng Đông nam, nơi có ông nội Cửu linh nguyên thánh. Bọn yêu ma dàn
binh bố trận trở lại để đánh nhau với anh em Tôn Ngộ Không. Bọn yêu ma này toàn là sư tử:
sư tử chín đầu, sư tử lông vàng và nhiều loại sư tử khác. Chúng cũng không vừa gì về năng
lực, nên không những ba anh em Tôn Ngộ Không phải vất vả, mà cả Đường Tăng và cha con
vương tử đều bị chúng quắp cả về động.
Tại Động Quanh co, núi Trúc Tiết, Tôn Ngộ Không phải biến hóa, tả xung hữu đột để
đánh nhau với yêu ma, giải cứu cho Sư phụ, sư độ. Dù vậy, việc vẫn không hoàn tất, nhờ Thổ
địa, Thành hoàng cho biết nguồn gốc của con yêu Sư tử 9 đầu, Tôn Ngộ Không đã cởi mây đến cung Diệu Nham nhờ Thiên Tôn Thái Ất cứu khổ. Thiên Tôn Thái Ất cùng người chăn
sư tử và Tôn cùng đến động, Tôn nhử đánh yêu và cuối cùng, Thiên Tôn đọc chú bắt con yêu
cưỡi về. Tôn đi giải cứu tất cả, cùng về thành Ngọc Hoa dạy tiếp võ nghệ cho ba vương tử, rồi
tiếp tục lên đường.
Thầy trò đến phủ Kim Bình, gặp chùa Từ Vân, có các sư đón tiếp niềm nở. Tại không
gian ngỡ Tĩnh tâm đạo vị này, Tôn Ngộ Không lại phát hiện ra bọn yêu giả phật thường xuất
hiện trong lễ đèn truyền thống của chùa. Nhờ Công Tào mách bảo Tôn Ngộ Không biết rõ đó
3 con yêu trừ rét, trừ nắng, trừ bụi, hiện ở núi Thanh Long, động Huyền Anh. Tôn Ngộ Không
phải đánh với 3 con yêu này đến 150 hiệp để cứu sư phụ Đường Tăng, nhưng sự thể chưa
thắng được chúng. Tôn lại cùng Bát Giới, Sa Tăng đi tiếp đánh bọn chúng trong đêm đúng
như lời thôi thúc của Bát Giới - anh em Tôn Ngộ Không vừa cứu được Đường Tăng thì bị phát
hiện và cuối cùng cả Đường Tăng, Sa Tăng, Bát Giới đều bị chúng bắt. Do tình thế khó khăn
Tôn Ngộ Không phải bay đi Thiên Cung gặp Bạch Kim Tinh và Tăng Trường Thiên Vương.
Các vị này cho biết bọn yêu ma là Tê ngưu thành tinh, bắt nó chỉ có 4 vị sao Mộc Cầm. Tôn
Ngộ Không lại đi gặp cụ Trường Canh rồi lên Ngọc Hoàng nhờ gọi 4 vị sao Mộc Cầm giúp
sức. Bốn vị này cùng Tôn Ngộ Không xuống đánh, Tôn đánh nhử ra ngoài, chúng thấy 4 vị
sao nên hoảng sợ, tháo chạy xuống sông. Dạ Xoa gặp chúng nên về báo Long Vương, Long
Vương sai Ma Ngang ra tiếp ứng với Tôn Ngộ Không và 4 vị sao, cuối cùng, chúng phải chấp
nhận thua cuộc. Anh em Tôn Ngộ Không phải một phen vất vả, nhưng chiến thắng cũng vô
cùng lớn, nhất là đem lại sự bình yến cho phủ Kim Bình, xác lập được không gian yên tĩnh đạo
vị cho chùa Từ Vân để các sư tu hành. Cũng do công trạng của anh em Tôn Ngộ Không nhiều
mà phủ Kim Bình, chùa Từ Vân mời lưu lại thếch đãi hàng tháng cơm chay. Sư phụ Đường
Tăng sốt ruột về công cuộc thỉnh kinh chậm trễ, mà Bát Giới thì muốn chậm lên đường để ăn
uống cho thỏa thích, nên Sư phụ buộc miệng ra lời ác: rằng Bát Giới không đi thì sư phụ bảo
Tôn Ngộ Không đánh cho "gãy răng!". Người đồ đệ háo ăn uống, nhưng cũng hết lòng với sư
phụ này, nghe dọa thế cũng buông một câu phê phán người thủ lĩnh: "Sư phụ bây giờ đổi lòng
rồi". Nhân vật nhiều nhược tật và khá phức tạp về tính cách như Trư Bát Giới phản ứng như
vậy với sư phụ Đường Tăng là điều dễ hiểu.
Thầy trò tiếp tục đi và cũng lại gặp chùa. Đó là Chùa Lát vàng - là chùa vườn cấp cô độc,
nước Xá Vệ, nơi chủ Trưởng giả từng mời Phật giáp kinh. Tại đây, qua Dịch thừa, thầy trò
Đường Tăng biết vua Di Tông Hoàng Đế, hiệu Tĩnh yến có công chúa xinh đẹp đã bị yêu tinh
bắt đi rồi yêu tinh hóa làm công chúa giả. Nay, nghe Đường Tăng qua đấy, yêu tinh liền dựng
lầu hoa, gieo cầu thêu để kén Đường Tăng làm chồng. Khi kế sách nó thực hiện được bước
gieo cầu (gieo đúng đầu Đường Tăng) thì Tôn Ngộ Không hiểu cả mọi chuyện. Trước khi nó
bày trò loan phượng với Đường Tăng, bằng tài phép của mình, Tôn Ngộ Không đã kịch chiến
với nó giữa triều đình, nó cỏi bỏ tất cả trang phục, chạy về vườn ngự uyển lấy binh khí chày
giã thuốc để chiến đấu với Tôn. Nó nguyên là con Ngọc Thỏ tán thuốc tiên ở cung Quảng Hàn
của Thái Âm. Thái Ân Kim Tinh xác định như thế và xin Tôn Ngộ Không tha cho nó. Vậy là
công chúa thực, con gái của vua Di Tông được giải cứu và thầy trò được triều thần tạ ơn, vẽ
truyền thần để thờ ở điện Hoa Di.
Tuy trên đường đi Tây Thiên của thầy trò Đường Tăng sự may mắn, điềm lành vẫn ít hơn
những bất trắc, tai nạn, nhưng quả riêng ở huyện Địa Linh, phủ Đông Đài là nơi chốn may
mắn, tử tế hiếm thấy. Đó là nơi phố Nam Bắc, có nhà ông Khấu viên ngoại luôn treo biển:
muôn sự không cản, sẽ có cơm chay. Tại đây, thầy trò Đường Tăng đã thực sự được thếch đãi
cơm chay hết sức tử tế, long trọng, tràn đầy tình cảm đạo tâm. Rời nhà Khấu viên ngoại, cả
đoàn gặp nạn cướp và bị vu oan đến bỏ ngục. Trước sự oan ức không thể nào chấp nhận, một
mình Tôn Ngộ Không biến hóa đến bốn năm lần để giải cứu tất cả thầy trò. Từ việc giả hồn
viên ngoại đã chết đến mách cho cả nhà nghe, giả hồn ông Bác của viên ngoại để kêu oan đến
việc đi Diêm Vương gọi hồn về làm sống lại xác thân Viên ngoại... tất cả đều chỉ một tài năng
và công sức của Tôn Ngộ Không. Người đồ đệ ấy của Đường Tăng, trước sau vẫn phò giúp sư
phụ và các sư đệ, không một mảy may tư lợi cho riêng mình.
Đến hồi 98 thì cả thầy trò đã thật sự đặt chân lên đất phật. Tại con sông cuối cùng rộng
tám chín dặm, Tôn Ngộ Không đã nhận ra Phật vô bảo tràng quan đến đón bằng chiếc thuyền
không đáy. Còn Đường Tăng vẫn chưa nhận biết được điều hư thực, thậm chí chính mình đã
"xương cốt phàm thai đã thoát thân" mà Đường Tăng chỉ hiểu khi được Tôn Ngộ Không giải
thích. Rồi thầy trò lên Linh Sơn, đến chùa Lôi Âm. Phật tổ Như Lai đã cho vô số các vị La
Hán, Yết Đế, Già Lam xếp hai hàng đón tiếp thầy trò Đường Tăng. Tại điện Đại hùng, Phật Tổ
xem công văn, chỉ giáo và sai Anan, Ca Diếp lo cơm chay rồi trao truyền kinh kệ. Tại đây,
Tôn Ngộ Không hết sức bất đồng với Anan, Ca Diếp về việc bảo đưa lễ vật, mới trao kinh và
Tôn Ngộ Không đòi báo với Như Lai điều chướng mắt vô lý này. Nhưng thầy trò đã được trao
kinh, rồi bái tạ, xuống núi trở về. Tuy nhiên, trong lúc trao kinh, vị Nhiên Đăng Cổ Phật thấy
Anan, Ca Diếp giao cho toàn kinh không có chữ, nên bảo Bạch Hùng đuổi theo lấy lại và cùng
trở lại lấy chân kinh có chữ. Bạch Hùng hóa phép cỡi gió lốc đuổi theo, cắp hết kinh của Thầy
trò Đường Tăng mang đi. Tôn Ngộ Không phải đuổi theo Bạch Hùng, Bạch Hùng ngại gậy sắt
của Tôn Ngộ Không nên thả kinh xuống. Thầy trò Đường Tăng cùng đến xem kinh thì thấy
không có chữ Tôn Ngộ Không trực giác ngay đến Anan Ca Diếp (vì thầy trò không đưa ra lễ
vật trước đó). Do vậy, tất cả đều quay lại để chính thức báo với Phật Tổ Như Lai. Thật bất ngờ
cho thầy trò, nhất là Tôn Ngộ Không, vì Phật Tổ bảo rằng đều biết rõ việc ấy. Càng bất ngờ
hơn khi Phật Tổ kể lại việc trước đây các tỳ kheo đi đọc kinh cho họ Triệu nước Xá Vệ cũng
có lấy của. Như Lai kể: "Chỉ lấy được của nhà ấy ba đấu ba thăng vàng cốm đem về. Ta vẫn
còn bảo bọn họ bán rẻ quá, con cháu đời sau lấy tiền đâu mà dùng"!. Vậy là không còn gì để
nói thêm, dù trước khi Phật Tổ Như Lai nói, Tôn Ngộ Không trong lời thưa với Như Lai đã
xác định việc Anan, Ca Diếp đòi lễ vật là "thông đồng nhau làm bậy". Phải chăng đã "hết
thiêng" (?)
Một lòng phò giúp Đường Tăng, phải chịu đựng trăm ma nghìn quái, không một chút tư
lợi cho riêng mình cả trong những công trạng rất xứng đáng được nhận thưởng, đến đây, ta
thấy Tôn Ngộ Không tuyệt nhiên "tắt tiếng". Tư đoạn trình báo Như Lai đến hết hồi 98, ta thấy
Tôn Ngộ Không chẳng phát biểu thêm điều gì. Điều này cũng như trước đây - là con người kỳ
quái tung hoành ngang dọc ấy - đã từng thua bàn tay Như Lai Phật Tổ! (ở cuối hồi thứ 7).
Không kể khác hơn, thầy trò nhận năm nghìn linh bốn mươi tám quyển kinh rồi lễ tạ
quay về Đông thổ nước Đại đường.
Ở cuối hồi 98 và sang đầu hồi 99, thầy trò Đường Tăng lại tiếp tục gánh chịu "những bố
trí, quy định" ngặt nghèo trong công cuộc thỉnh kinh. Đó là, dù Đường Tăng đã đi được 14
năm (tính ra mới năm nghìn linh bốn mươi ngày), nhưng vẫn thiếu 8 ngày để hợp với số tạng
kinh được nhận. Đó là, trong 14 năm ấy (Công Tào, Già Lam, Yết Đế có ghi chép đủ các tai
nạn) chỉ mới đến con số 80 tai nạn là còn thiếu 1 và việc tạo ra thêm một tai nạn nữa cho đủ cái
mà Quan Âm gọi là trong đạo phật phải "chín lần chui" mới đủ là giao cho 8 vị Kim cương
thực hiện.
Điều thú vị là khi thực hiện những bố trí quy định nói trên, thầy trò gặp lại những không
gian - con người tri ân năm xưa. Đó là con rùa chở qua sông và các quan hệ tri âm ở Trần gia
trang. Nếu thủ lĩnh của Đoàn thỉnh kinh đánh mất trong ký ức lời hứa hỏi Như Lai về tuổi thọ
và việc hóa kiếp của con rùa thì giờ đây chỉ mỗi Đường Tăng phải nhận lỗi bị chìm xuống
sông, còn các sư đệ đều an toàn. Nhưng, Đường Tăng cũng đã đắc đạo và tất thảy thầy trò đều
được an toàn và cùng đón nhận lễ tạ ơn, thếch đãi của các gia đình họ Trần. Trong tiệc tạ ơn,
thếch đãi, chỉ mỗi Trư Bát Giới vẫn nguyên vẹn tính nết đời thường của mình: "Khi chúng tôi
còn lận đận, lúc bấy giờ ăn được, nào có mời ăn uống đâu. Ngày nay ăn không được, thì chưa
xong nhà này, lại tiếp nhà kia!". Tâm lý tiếc ăn uống này góp phần cho thấy thêm tính nết của
Trư Bát Giới là gần gũi với đời thường và luôn luôn nói thực lòng mình, kể cả những tư lợi cá
nhân.
Ở hồi cuối cùng, thầy trò Đường Tăng về đến Đại Đường được vua quan nồng nhiệt đón
tiếp. Theo ý vua đường, thủ lĩnh đoàn thỉnh kinh cũng kể lại đoạn trường mười vạn tám nghìn
dặm đã đi qua, kể về công văn, ấn tín, các nước và nguồn gốc của các đồ đệ trong đoàn. Theo
đúng thời gian quy định, 8 vị Kim cương đến gọi thầy trò quay về Tây thiên và tùy theo công
trạng của từng người, thầy trò Đường Tăng đều được Phật Tổ Như Lai ban tước:
Đường Tăng là Chiên Đàn Công Đức Phật, Tôn Ngộ Không: Đấu Chiến Thắng Phật,
Trư Bát Giới: Tịnh Đàn Sứ Giả, Sa Tăng: La Hán Mình Vàng, Ngựa bạch: Bát Bộ Thiên
Long. Họ đều ở lại nước Phật hưởng phúc đời đời.
Nếu ở hồi 99, Trư Bát Giới đã tự nhiên bộc lộ tâm lý tiếc ăn uống của mình thì ở hồi cuối
cùng này, Tôn Ngộ Không cũng có dịp nói rõ quan niệm và tình cảm của mình đối với sư phụ
Đường Tăng về cái vòng kim cô ác nghiệt. Tác phẩm có đoạn viết: "Tôn Hành Giả nói với
Đường Tăng: Sư phụ ạ, bây giờ con đã thành Phật, cũng được như thầy, mà cứ phải đội mãi
cái kim cô à? Thầy có còn phải đọc chú khẩn cô nhi để thắt buột con nữa đâu? Xin thầy đọc
bài chú mở đai bỏ nó xuống, đập vỡ tan tành, không để cho Bồ Tát lại mang đi bắt hại kẻ
khác!" Trong những lời lẽ trên đây, phần đầu có vẻ ôn tồn, đạo vị, nhưng phần sau thì sự phê
phán và cái giận dữ vẫn còn như xưa. Biểu hiện trên đây không những không thay đổi, mà còn
củng cố thêm thái độ - tình cảm của Tôn Ngộ Không đối với sự triệt buộc của Đường Tăng -
cũng là của quyền lực của Bồ Tát, Như Lai đối với con người quái kiệt "ngoại càn khôn" này.
2.2. Không gian thần kỳ.
2.2.1. Không gian Long Cung – Âm Ty.
Với 72 phép thần thông, với 84 nghìn cái lông trên mình mà cái nào cũng biến hóa được
theo ý mình, Tôn Ngộ Không đã thực sự chủ động trong tồn tại của bản thân và bảo an cho
giống loài. Đánh tan ma vương ở động Thủy tạng, báo thù cho lũ khỉ những tháng ngày Tôn đi
học đạo, Tôn lại tiếp tục lên đường tìm thêm vũ khí vô địch và thực hiện hoài bão trường sinh.
Nơi chốn Tôn Ngộ Không tìm đến để thực hiện điều ấy là Long Cung - Âm Ty. Đó là một
không gian mà người thường, mắt thường không thể nhìn thấy được. Có lẽ chỉ có con người
đạt 72 phép địa sát biến hóa, đủ phép thần thông cân đẩu vân, "ẩn mình, tránh mình, cất mình
lên, thu hình lại, lên trời cũng có đường, xuống đất cũng có lối, bước vào mặt trời mặt trăng
không có bóng, đi vào vàng đá không vướng mắc, nước không thể làm chìm, lửa không thể
cháy" (TP.I.l 10) thì mới có thể chiếm lĩnh được nơi chốn ấy. Và con người ấy, không ai khác,
chính là Tôn Ngộ Không. Quả nhiên, Tôn Ngộ Không đã dùng phép, tay bắt quyết, miệng
niệm thần chú, mở khóa rẽ nước, đi thẳng xuống đến đáy bể Đông rồi vào gặp Long Vương tại
Long Cung.
Gặp Long Vương tại chính Long Cung, thoạt đầu Tôn Ngô Không còn chút ít mềm
mỏng, nêu nhu cầu về binh khí của mình, càng về sau, Tôn tiến xa hơn nữa trong các yêu cầu
khác. Tác phẩm cho thấy Long Vương từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác đối với Tôn
Ngộ Không. Không những Long vương, mà còn có cả các huynh đệ của Long Vương ở Nam
Hải, Bắc Hải, Tây Hải cũng đều nhượng bộ, dù rất căm giận trong lòng. Cuối cùng, Tôn Ngộ
Không đã lấy được "Gậy như ý bịt vàng, nặng một vạn ba nghìn năm trăm cân". Cây thiết
bổng vô địch này đã thu lại cho vừa ý của Tôn Ngộ Không đã trở thành điều kỳ diệu và kinh
ngạc đối với thế giới Long Cung. Tất cả đều bắt đầu từ 72 phép thần thông biến hóa! Tác
phẩm cũng có đoạn tường thuật Tôn Ngộ Không múa gậy thoáng qua làm kinh động Long
Cung như sau: "Ngộ Không dùng phép thần thông, múa gậy chuyển về cung Thủy tinh, làm
cho Long Vương run sợ và đám con rồng cháu rồng hồn bay phách tán, còn các loài thủy tộc
rùa, giải ba ba, cá kình, ngao, tôm đều co cổ rụt đầu ẩn nấp" (TP.I.114). Vì trên đà thắng lợi,
Ngộ Không lại tiếp tục những đòi hỏi khác. Đến đoạn cuối, Ngộ Không gần như thỏa mãn các
nhu cầu. Đó là có thêm "mũ vàng đội, giáp vàng mặc, đi giày văn rất chỉnh tề" (TP.I.117) và
như vậy, cùng với cây thiết bổng kỳ diệu kia, Tôn Ngộ Không hoàn thiện hóa về vũ trang một
bước từ không gian Long cung.
Đọc Tây Du Ký đến đây (cũng như trọn bộ), chúng ta thấy có nhiều động, nhiều cõi,
nhiều thành phần và ở mỗi nơi như vậy đều có vị chủ soái toàn quyển, toàn năng riêng. Ở
Long Cung, Long Vương quả cũng là Đại vương cai quản đối với muôn loài trong địa hạt của
mình. Vậy mà, như ta thấy, Long Vương liên tục nhường bước và thật sự đã run sợ trước tài
sức quyền biến khôn lường của Ngộ Không!
Thế giới Long Cung ở đây, trước hết, vẫn là không gian, nơi chốn cho vận hành của nhân
vật. Nhưng nếu mọi sự vận hành của nhân vật đều gắn liền với từng nơi chốn cụ thể thì ý nghĩa
của nó đã khác. Bản thân việc Ngô Thừa Ân dựng không gian Long Cung đã là một sáng tạo,
các nhân vật hoạt động trong trường không gian. Không gian này lại cho ta thấy thêm tính
nghệ thuật của không gian.
Nếu không gian lớn đầu tiên của sự ra đời con khỉ đá là không gian vũ trụ, có tính chất
tương thông với trời đất thì không gian long cung lại nhỏ hơn về chiều kích, có tính chất bộ
phận. Không gian Hoa quả - Đá tiên được miêu tả chi tiết, nhiều sắc màu, còn không gian
Long Cung chủ yếu được nhà văn tường thuật. Câu chuyện diễn ra của nhân vật ở đây không
có các cuộc chiến đấu, mà là các đối thoại của hai tuyến nhân vật: tuyến riêng một mình Tôn
Ngộ Không và tuyến của Long Vương cùng các quan hệ của hắn. Do phương cách đối thoại
và tường thuật về đối thoại, nên quan hệ nhân vật ở đây vẫn sinh động. Có điều không gian
Long Cung chỉ được tường thuật, mà không chú ý miêu tả, cho nên độ sáng của nhân vật ít tựa
vào không gian. Dù vậy, không gian Long Cung vẫn là một không gian nghệ thuật, vì nó góp
một "phần nền" có tính chất trừu tượng, bí ẩn cho sự vận động cũng rất bí ẩn mà vô địch của
Tôn Ngộ Không. Trở về với không gian núi Hoa quả, động Thủy liêm cùng giống loài của
mình, Tôn Ngộ Không thật sự huy hoàng trong chiến thắng. Ngộ Không biểu diễn sức thần tài
của cây thiết bổng, phong hàm tước cho một số con khỉ ưu tú, kết giao thêm một số bạn bè và
mở yến tiệc linh đình. Say sưa trong chiến thắng, từ giấc ngủ có men rượu say, Ngộ Không
mộng thấy được tung hoành ở một không gian hoàn toàn mới mẻ. Đó là không gian Âm ty,
nơi của mười vua Diêm Vương ngự trị và quản lý sổ sinh tử của muôn loài.
Cũng bằng vào tài sức kỳ diệu của mình, Ngộ Không đến thẳng điện Sâm La, nơi ngự
của Diêm Vương để tìm cách xóa tên tuổi của mình cùng giống loài trong sổ tử. Quá trình này
cũng gần như quá trình đòi cho bằng được cây thiết bổng ở Long Cung, là đều không có một
cuộc chiến đấu bằng "vũ lực" nào. Chỉ có lời lẽ đòi hỏi và đối thoại, nhưng khôn khéo và
nhanh gọn hơn. Kết quả, Tôn Ngộ Không đã xóa được tên tuổi mình cùng giống loài và như
vậy là đã được trường sinh. Cũng như ở không gian Long cung, ở không gian Âm phủ này, tác
phẩm không tập trung miêu tả, mà chủ yếu kể chuyện và chuyện của nhân vật chính vẫn là đối
tượng được người tường thuật hết sức tập trung. Tác phẩm có đoạn lý thú: "Ngộ Không cầm
gậy như Ý lên thẳng điện Sâm-La, ngồi ngay gian giữa, quay mặt về nam. Mười vua sai phán
quan lấy sổ ra tra. Phán quan vội vàng đến phòng giấy, lấy ra năm sáu quyển sổ và sổ biên tên
mười loại chúng sinh, trình Hầu vương xem qua một lượt. Trong các loại khỏa trùng, mao
trùng, vũ trùng, côn trung, lân giới trùng đều không thấy tên Tôn Ngộ Không đâu cả. Lại xem
đến sổ loài khỉ, nguyên loài khỉ giống như người, nhưng không vào sổ tên người, giống như
khỏa trùng mà không ở địa giới nước nào; giống như loài thú chạy song không thuộc kỳ lân
cai quản; giống loài chim bay mà không thuộc Phượng hoàng cai quản. Ngộ Không lấy quyển
sổ này tự kiểm duyệt lấy, đến mãi số hồn 1350 mới thấy chú tên họ Tôn Ngộ Không là khỉ đá
trời sinh ra, thọ đến 342 tuổi là chết. Ngộ Không nói: Ta cũng không biết đã thọ được bao nhiêu năm rồi, bây giờ xóa tên này đi là xong! Đem bút giấy ra đây!',(TP.I.122),
Thật là quyền uy và hoàn toàn chủ động ở thế bề trên! Kết quả là Tôn Ngộ Không đã xóa
xong tên tuổi mình cùng giống loài trong sổ tử do Diêm Vương quản.
Đoạn văn tác phẩm trích trên đây không tập trung miêu tả không gian Sâm-La, mà chủ
yếu nội chuyện nhân vật chính. Càng về cuối đoạn, hình tượng nhân vật càng rõ dần trong việc
thể hiện khát vọng trường sinh. Tuy nhiên, nếu không gian Long cung là loại không gian cùng
cấp với những không gian khác trong kiểu tư duy thần thoại thì không gian Âm phủ lại tiến
thêm một bước kỳ ảo khác. Sở dĩ thế, vì không gian Âm phủ này (cũng như việc xóa tên họ
trong sổ tử của Diêm vương) là không gian có được từ một giấc mơ của Ngộ Không trong
những ngày chiến thắng. Cố nhiên, tất cả đều do quan niệm nghệ thuật tiểu thuyết của nhà
văn. Nhưng vấn đề là tại sao việc muốn trường sinh chỉ bằng cách xóa tên họ trong sổ tử lại
chỉ diễn ra trong giấc mộng của nhân vật? Thực ra, theo kiểu tư duy thần thoại, Ngô Thừa Ân
vẫn xây dựng tiếp không gian Âm phủ như kiểu không gian Long Cung, nghĩa là cứ kế tiếp từ
Long Cung đến Âm Phủ, không cần phải diễn ra trong giấc mộng. Nhưng ở đây là không gian
trong giấc mộng. Có lẽ, vấn đề đòi đoạt vũ khí ở Long Cung vừa là vấn đề dễ hình dung, vừa
là vấn đề mà con người bằng nhiều sức mạnh có thể làm được (Tôn Ngộ Không đã chuyển
thành người-thần-thánh từ sau khi tu luyện đạt 72 phép thần thông, chứ không còn là con khỉ
đá; Còn vấn đề đòi hỏi cho được trường sinh, không bị vòng luân hồi sinh tử trói buộc lại là
vấn đề mà con người khó hình dung, khó thực hiện, và như chúng ta đều biết, đó là vấn đề
thuộc một quy luật khách quan hết sức nghiệt ngã, không trừ bất cứ ai. Trong khi đó Tôn Ngộ
Không không muốn bị quy luật này đào thải! Mà lại không có giải quyết vấn đề. Trước tình
hình đó, chuyển khát vọng trường sinh vào giấc mộng của Tôn Ngộ Không chắc chắn là một
phương pháp chủ định của nhà văn. Xây dựng không gian âm phủ trong mộng tưởng này, như
đã nói, hình thức không gian đã tiến thêm một bước kỳ ảo khác, siêu nhiên hơn mà cũng hấp
dẫn và bí ẩn hơn. về phía khát vọng và tính cách của nhân vật thì điều đáng nói là ở chỗ: ngay
trong giấc ngủ say, khát vọng được trường sinh, được xóa tên trong sổ tử của Diêm Vương
vẫn là một lực ám ảnh, phả vào thế giới tiềm thức của nhân vật. Điều này chứng tỏ thêm rằng
nhân vật dù ở trạng thái nào của tâm lý và thần kinh... đều vẫn không thôi từ bỏ những khát
vọng lớn lao của chính mình.
Có một điều tuy không phải quan trọng, nhưng cần nói thêm ở hồi thứ 3 này, trong tác
phẩm, việc Tôn Ngộ Không đại náo Sâm-La đòi xóa tên tuổi trong sổ tử do Diêm Vương quản
là việc diễn ra trong một giấc mộng khi Ngộ Không ngủ say. Vậy mà, tác phẩm đoạn tiếp sau
có đoạn nói Tần Quảng Vương ở âm phủ cầm tờ biểu của Ư minh giáo chủ Địa Trung Vương
bồ tát dâng lên cẩn tấu Ngọc Hoàng về tội đại náo điện Sâm-La của Ngộ Không. Việc cẩn tấu
này cũng đi liền sau cẩn tấu của Đông Hải Long Vương Ngao Quảng về tội đại náo Long
Cung, lấy cây Thiết bổng của Ngộ Không. Hai việc này, xem ra gần giống nhau (về loại hình
sự việc). Trong khi đó, về mặt nội dung cốt lõi của sự việc thì hai sự việc khác xa nhau: một
việc có thể làm được ở cõi con người một việc phi thường, ghê gớm, khó có thể làm ở cõi
người. Có lẽ, không phải tác giả "vô tình nhập cục vấn đề", mà là khẳng định thêm, đồ đậm
thêm khát vọng trường sinh của nhân vật. Đọc kỹ nội dung của hai lời cẩn tấu nói trên thì sẽ
thấy thêm các lượng đối trọng của Ngộ Không đều được "nổi thêm" về tình trạng sợ hãi của họ
đối với Ngộ Không. Do cảm nhận như vậy, nên vấn đề cần nói thêm như trên không quan
trọng.
Từ ý nghĩa thi pháp không gian nghệ thuật mà nói, thì không gian âm phủ - điện Sâm La
(tưởng tượng trong giấc mơ) vẫn là không gian kỳ ảo, lý thú. Nó phù hợp với khát vọng và
hành trạng mãnh liệt của nhân vật và chính, khát vọng, hành trạng của nhân vật ở đây là cái có
thể "bổ sung cho cái thiếu sót của cuộc sống thực bằng cái ước mong và cái có thể". Như nhà
văn M.Gorki từng nói khi bàn về truyền thuyết và thần thoại. (Xem: Anh hùng ca của Hômerơ
- Nguyễn Văn Khỏa - NXB ĐH & THCN - HN.1978 - trang 363).
2.2.2. Không gian thượng giới.
Do kinh động Long Cung & Âm Phủ, Tôn Ngộ Không đã bị cẩn tấu lên Ngọc Hoàng.
Lần này, không gian của tồn tại nhân vật là một biến thiên đột ngột với khá nhiều tình tiết ly
kỳ, góp phần làm sáng rỡ thêm hình tượng nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Với không gian Long Cung - Âm Phủ đã là dưới lòng đất, lòng biển, bây giờ lại vút cao
lên tận thiên đình, tức tận hai đầu của không gian chiều cao, nhân vật đều vận hành đi tới. Đây
cũng là một nét "thay đổi các trục tọa độ" của hình tượng văn hóa trong thể loại tiểu thuyết
như Bakhtin từng nói. Chính sự thay đổi các trục tọa độ trong không gian và thời gian trong
thể loại tiểu thuyết nói riêng, các thể loại văn học khác nói chung là một nét khu biệt giữa sáng
tác văn học với các nghệ thuật khác. Lessing có lý khi cho rằng các sự vật tồn tại kề nhau trong
không gian chủ- yếu được miêu tả trong hội họa và điêu khắc[18/l 15-116]. Trong văn học, sự
miêu tả các sự vật bất động không chiếm vị trí thứ nhất, mà những sự vật, hiện tượng vận
động, sống động mới là đối tượng nhà văn quan tâm. Có thể nói, "vận dụng từ ngữ để chỉ ra
các sự vật, nhà văn có khả năng chuyển dịch từ các bức tranh này sang bức tranh khác một
cách nhanh chóng lạ thường, dễ dàng đưa người đọc vào những miền khác
nhau"[18/115-116]. Sự chuyển dịch nhanh chóng về không gian, về các miền khác nhau này,
các hồi đã nói qua của Tây Du Ký, chúng ta đều thấy. Nhưng từ đây, nó càng phong phú và kỳ
thú hơn.
Vì các lời cẩn tấu, nên Tôn Ngộ Không phải lên Thiên Đình. Cùng đi với Thái Bạch
Kim Tinh, nhưng Ngộ Không đã bỏ xa Kim Tinh trong không trung vời vợi, vì có phép cân
đẩu vân kỳ diệu. Khi đã kịp đến cổng trời, Kim Tinh đã hết sức làm lành với Ngộ Không, Ngộ
Không mới thuận tình lần lượt vào thiên đình.
Đấy là một không gian được bố trí ngăn nắp với nhiều điện đền ban bệ, tư cửa Nam
Thiên đến Linh tiêu bảo điện, rồi đến Chánh điện, tác phẩm cho thấy đấy là không gian của
ngọc ngà châu báu, sang trọng và thâm nghiêm. Tất cả nhân sự nơi đây đều cư xử, sinh hoạt có
nề nếp đúng đạo, lễ bái tôn vinh... Ấy vậy mà, chỉ riêng Tôn Ngộ Không, ngay từ khi vừa
bước thẳng vào trước ngự tọa, đã không lễ bái gì cả! Chỉ một biểu hiện này diễn ra chính ở nơi
trang nghiêm đã làm cho thế giới thiên đình trở nên không đáng phải kính trọng. Tuy nhiên,
nét biểu hiện của phong thái trên chưa thật rõ về tính cách nhân vật, so với chính ngôn ngữ
nhân vật trong đối thoại. Sau đây là đoạn đối thoại gián cách giữa Ngộ Không với Ngọc
Hoàng thượng đế.
"Thượng đế vẫn rũ rèm, hỏi ra:
- Đứa nào là yếu tiên?
Ngộ Không chỉ cúi mình trả lời: -Lão Tôn đây!
(Các tiên chầu ở đấy đều sợ hãi thất sắc, nói: - Loài khỉ kia, sao không phục lạy yết kiến,
lại dám ứng đối vô lễ "Lão Tôn đây", tội đáng chết, đáng chết!).
Thượng đế truyền chỉ:
- Tôn Ngộ Không là yêu tiên ở hạ giới, mới được thành người, chưa biết lễ nghĩa, hãy
tha tội cho.
- Các tiên giục:
- Tạ ơn đi!
Ngộ không chỉ trông lên, xướng lên một tiếng thật to:
-Vâng!" (TP.I.130)
Đoạn đối thoại này, xem ra, Ngọc Hoàng còn "bao dung" đối với Tôn Ngộ Không.
Nhưng chính trong cách trả lời của Ngộ Không là không hề biết mảy may sự kính trọng Ngọc
Hoàng. Đấy là một nét tính cách bất khuất, nên việc Ngọc Hoàng bảo tha tội cho Tôn Ngộ
Không là bằng thừa. Cũng trong đoạn đối thoại trên, chúng ta thấy bọn tiên chầu "sợ hãi thất
sắc" trước cách nói năng của Ngộ Không, cũng là biểu hiện tôn thêm cái "bất khả kính" của
Ngộ Không đối với Ngọc Hoàng và thế giới thiên đình. Và như vậy, một lần nữa, không gian
thượng giới có vua của các vị thần ở đây không là gì đối với Tôn Ngộ Không. Nếu hình tượng
nhân vật trong văn học bao giờ cũng ký gởi một quan niệm về nhân sinh của nhà văn thì sự coi
thường của Ngộ Không đối với Ngọc Hoàng cùng thế giới của y quả là điều có thể gợi thức
cho bạn đọc liên tưởng về ý nghĩa xã hội có thể của nó. Theo hướng này, GS. Trần Xuân Đề
có lý khi cho rằng: "Có thể xem thái độ ngạo mạn của Tôn Ngộ Không đối với Ngọc Hoàng
Thượng Đế là thể hiện thái độ miệt thị của nhân dân lao động đối với chế độ đẳng cấp và bọn
quyền quý, thể hiện nguyện vọng yêu cầu bình đẳng của nhân dân"[13/102].
Lại nói tiếp về việc thuận nghe của Ngộ Không, vậy là Ngộ Không nhận chức "Bật mã
ôn" tại Thiên đình, nhưng không bao lâu, sau khi biết thực chất hàm chứa và phận sự không ra
gì của mình, Ngộ Không "không thèm làm nữa", rồi "đạp đổ công án, lấy bảo bối trong túi ra
múa tít, vừa đi, vừa đánh, ra khỏi ngự mã giám"... (TP.I.132) rồi trở về Hoa quả sơn. Đang
ngự trị tại không gian của mình với tên "Tề Thiên Đại Thánh", Tôn Ngộ Không phải đánh tan
Cự Linh thần, rồi Thái tử Na Tra tài giỏi do cách thu phục của Ngọc Hoàng. Từ đây, đòi hỏi
chức hàm Tề Thiên Đại Thánh của Ngộ Không đã được Ngọc Hoàng chìu ý. Đọc tác phẩm, ta
thấy việc thuận ý của Ngọc Hoàng là đã y lời mưu kế của Thái Bạch Kim Tinh và chính Thái
Bạch Kim Tinh thân chinh xuống Hạ giới gặp Ngộ Không. Lời lẽ của Kim Tinh lần này ôn tồn
hòa hoãn. Nhưng đọc kỹ, ta thấy đấy chính là sự nhượng bộ tuần tự của Ngọc Hoàng. Đây là
một thắng lợi của Ngộ Không. Đây cũng là thắng lợi của một tính cách bất khuất, một khát
vọng muốn bình đẳng với các thế lực bề trên. Không lo ngại sự kinh động đột ngột và liên tục
trên thế thắng của Ngộ Không, chắc chắn Ngọc Hoàng không nhượng bộ như thế. Ở đoạn cuối
hồi bốn, tác phẩm còn cho thấy Ngọc Hoàng sai làm ngay tòa phủ Tề Thiên Đại Thánh ở bên
phải vườn đào cho Ngộ Không ngự trị với đầy đủ tiên giúp việc và cả rượu, cả hoa. Dù về sau,
Tôn Ngộ Không nhận ra cái "hữu danh vô thực" của chức Tề Thiên Đại Thánh, nhưng chính
tòa phủ này là một không gian tự tại của Tôn Ngộ Không. Chỉ một thân một mình mà chống
cả thượng giới, không thừa nhận vị chúa tể của các thần, rồi lại có được một không gian tự do
tự tại chính nơi thiên đình... rõ ràng là một chiến thắng, một niềm vui của Ngộ Không. Điều
này, người tường thuật câu chuyện cũng kể: "Ngộ Không ở lại thiên cung lấy làm vui thích,
không nghĩ ngợi, nghi ngại gì, vì tiên danh đã được chứa vào sổ trường sinh, không bị đọa vào
vòng sinh tử luân hồi nữa". (TP.I.147)
Trở lại chuyện tự thức nhận cái "hữu danh vô thực" của Tôn Ngộ Không. Quả là ở Tòa
phủ của mình, Tôn Ngộ Không không rõ quan hàm to nhỏ, cũng không biết so sánh bổng lộc
thấp cao, chỉ có danh hiệu mà thôi. Vì chỉ biết ăn ngày ba bữa, đêm ngủ một giường, tự do tự
tại, chẳng có việc gì" (TP.I.147), nên Tôn Ngộ Không mới tự mình ngao du xa gần, kết bạn
muôn nơi, đi mây về gió. Cuộc sống như thế của Tôn Ngộ Không cũng không được bao lâu và
khi Ngọc Hoàng nghe lời nghi kỵ xúc Xiểm của Hứa Tịnh Dương thì Ngộ Không lại chuyển
sang công việc trông coi vườn đào. Lại một không gian tự do khác, rộng rãi hơn và cũng tự do
hơn. Tại đây, bằng thần thông biến hóa của mình, Ngộ Không cũng có những tháng ngày tự
tại. Khi biết Vương Mẫu sắp tổ chức "Đại hội Bàn đào"' tại Dao Trì, Ngộ Không đã đến ngay.
Lừa Xích Cước, Tôn vào thẳng nơi Đại hội Bàn đào sắp thực hiện. Chưa kịp hỏi rằng tại sao
mình không được mời dự tiệc, Ngộ Không đã chén sạch đào ngon, rượu quý, sau khi dùng
phép cho tất cả chư vị đang có mặt ngủ say trong mệt mỏi. Vì hơi men, Ngộ Không lại ngẫu
nhiên đến cung Thái Thượng Lão quân, nơi luyện đan trường sinh. Phải một dịp tốt, Ngộ
Không chén luôn năm hồ lô thuốc kim đan, rồi tăng thân, trốn ra cửa tây, một mạch trở về núi
Hoa quả.
Vậy là sau một trăm mười năm ở thiên đình, Tôn Ngộ Không mới trở về với không gian
địa giới cùng yêu vương bảy mươi hai động của mình.
Hai đầu không gian thiên đình - mặt đất ấy, như đã thấy, Ngộ Không cũng chỉ đi - về
bằng phép cân đẩu vân kỳ diệu của mình. Và, ngỡ là xa luôn cái không gian cao xa của chúa tể
các vị thần đã không chút đáng trọng kia, nhưng rồi Ngộ Không đã trở lại. Đó là việc bay lên
không gian thiên đình lấy rượu ngon quanh về núi Hoa quả chiêu đãi cùng yêu vương loài khỉ.
Tác phẩm kể rằng toàn bộ những hành trang chẳng hề vị nể một ai của Ngộ Không về sau
đều bị cẩn tấu đến Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng tức giận, bèn sai mười vạn Thiên kéo xuống núi
Hoa quả hỏi tội Ngộ Không. Đoạn cuối của hồi thứ Năm này, ta chứng kiến những trận kịch
chiến lừng lẫy như chưa từng thấy giữa quân thiên đình và quân yêu vương loài khỉ động Hoa
quả. Kỳ thực đó là cuộc chiến đấu không cân sức giữa thần tướng thiên đình và tài phép của
Ngộ Không. Cuộc chiến đấu này còn có nghĩa là cuộc chiến đấu giữa thiên đình và mặt đất,
tức cũng là cuộc chiến đấu giữa những lực lượng bề trên và lực lượng cuộc đời thường trong ý
nghĩa xã hội của nó.
Chiến thắng của Tôn Ngộ Không và tồn tại của Đại Thánh cùng giống nòi của mình vẫn
chưa yên, vì các lực lượng của Thiên đình cũng không đơn giản bó tay như vậy. Thế là cuộc
chiến đấu đã tiếp tục xảy ra: Cuộc chiến đấu giữa Ngộ Không với Nhị Lang - cháu gọi Ngọc
Hoàng bằng cậu. Có lẽ cũng chưa có cuộc chiến đấu nào dai dẳng như cuộc chiến đấu này. Tài
sức của Ngộ Không và Nhị Lang chân quân khó phân thắng bại, dù đánh nhau liên tiếp với rất
nhiều trận long trời lỡ đất. Nếu tất cả những cuộc chiến đấu trước đây của Ngộ Không hầu như
không có sự can thiệp sâu của chính bàn tay các nhân vật bề trên của lực lượng đối lập, thì lần
này, phía đối phương đã được nhiều bàn tay bề trên trợ giúp trực tiếp. Đó là Quan Âm bồ tát
và Lão Quân, nhất là cái vòng kim cô của Lão Quân. Chính cái vòng kim cương nghiệt ngã
này đã rơi vào đầu Ngộ Không, làm cho vị vua của loài khỉ và tự do phải chấp nhận lâm thời
sự chiến bại. Sự chiến bại này, như đã thấy, vẫn là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, với khát vọng tự
do, bình đẳng và tính cách bất khuất đã từng được hun đúc, Tôn Ngộ Không vẫn không từ bỏ
lý tưởng của mình. Tác phẩm cho ta biết rằng, khi phải trở lại thiên đình để chịu tội, Ngộ
Không đã tự thoát ra lò bát quái của Lão Quân rồi tiếp tục đại náo thiên cung hết sức lẫy lừng.
Như là sự huy hoàng cuối cùng của một tính cách bất khuất, một khí phách ngang tàng,
lần đại náo Thiên cung này, quả rằng Tôn Ngộ Không chẳng né tránh bất cứ một nhân vật to
lớn uy quyền nào cả. Chính người có vòng kim cương ném vào đầu Ngộ Không và nung Ngộ
Không trong lò Bát Quái là Lão Quân, cũng đã bị Ngộ Không đánh cho một đòn trí mạng.
Người kể chuyện trong tác phẩm kể rằng Ngộ Không "không kể trên dưới, dùng gậy sắt đánh
đông đánh tây, không một thần nào chống lại được. Đại thánh đánh luôn đến điện Thông
Minh, điện Linh Tiên" (TP.I.185). Trước sự hùng hổ của gươm, dao, kích, giáo của bọn Lôi
thần ở phủ Thiên lôi, "Đại thánh tức thì hóa ra ba đầu sáu tay, biến gậy như ý ra làm ba gậy,
sáu tay bay múa giữa rừng vây vù vù quay tít như cái xa quay chỉ. Các lôi thần không dám đến
gần" (TP.I.185). Trước sự tái xuất kinh động ghê gớm của Tề thiên đại thánh, Ngọc Hoàng
thượng đế phải sai Du lịch linh quan và Dực thánh chân quân sang Tây phương cầu thỉnh Phật
Tổ Như Lai. Cũng như chẳng hề sợ hãi đối với Ngọc Hoàng ở Thiên Đình, đoạn Ngộ Không
đối thoại với Phật Tổ Như Lai, Ngộ Không cũng không hề chịu lép một bề. Nhưng rồi vì sơ
hở, cuối cùng Ngộ Không đã phải đầu hàng với bàn tay của Như Lai, chấp nhận nằm dưới núi
Ngũ Hành! "Từ đây, con người quái kiệt ấy đành chia tay với hành trình lên trời" vời vợi của
mình! Tác phẩm cũng có một câu văn vần đẫm đầy tình cảm chia sẻ với người anh hùng hết
vận: 'Tấm thân biết đến bao giờ cất lên?"(TP.I.191).
Như vậy, để chiến thắng được Tôn Ngộ Không, thế giới thiên đình đã phải sử dụng khá
nhiều lực lượng. Nói gộp lại là ba lực lượng chính: Trời - Phật - Tiên thánh. Ba lực lượng này
có chung một không gian tồn tại, đó là cõi cao xa, mà mắt thường không thể nhìn thấy được.
Cõi này tuy mệnh danh là thâm nghiêm thiêng liêng... nhưng thực ra vẫn ấp đầy những sự
hưởng lạc không khác gì với cõi phàm tục trần gian. Tác phẩm còn cho biết rằng, chính Tôn
Ngộ Không đã biết rất rõ việc con gái Thượng đế nhớ phàm trần xuống hạ giới lấy chồng là
Dương quân đẻ được một con trai... (TP.I.175)... và như vậy, người ở cõi thiên đình còn liên
hệ tục lụy với người trần gian. Cho nên, nếu nói những con người ở cõi ấy là hoàn toàn thoát
tục, chỉ một mực tu hành để phù hộ độ trì cho nhân gian, chuyên tâm công bằng, độ lượng với
thế giới trần thế thì không đủ độ tin cậy được không phải ngẫu nhiên mà đoạn đối thoại với
Phật Tổ Như Lai, Tôn Ngộ Không nói rất rõ quan niệm của mình về việc bất di dịch của một
ngôi vua là điều hết sức phi lý như sau: "Thượng đế tuy tu từ thuở nhỏ, nhưng không nên
chiếm chốn thiên đình. Người thường nói "Làm vua phải luân chuyển, sang năm đến nhà ta".
Bây giờ chỉ bảo cho y ra đi đem thiên cung nhường lại cho tôi, thì tôi thôi. Bằng không
nhường, tôi sẽ quây rối mãi, không bao giờ thanh bình được" (TP.I.188). Thực ra, theo
"truyền thống phong kiến", "con vua thì phải làm vua", phải kế tục kế ngôi vị cho nhau trong
một gia đình hoặc cùng dòng giống, chứ không thể chuyển ngôi cho nòi dòng khác. Nhưng ở
đây, Tôn Ngộ Không lại quan niệm như đã nói - chính là một đổi mới trong quan niệm đối với
vấn đề. Điều này đĩ nhiên là không tưởng trong xã hội phong kiến nhưng chính nó đã mang
được ý nghĩa xã hội, nếu hình tượng văn học bao giờ cũng hướng tới những vấn đề của nhân
sinh. Theo hướng này, nhân vật Lão Quân cùng các hành trạng của y vẫn gợi ra những liên
tưởng về nhân sinh ở cái thời Ngô Thừa Ân từng sống và chứng kiến. Cũng không chỉ nhân
vật Lão quân, mà vấn đề còn rộng hơn, đó là các đạo giáo, đạo sĩ nói chung với khá nhiều mưu
mô pháp thuật, về vấn đề này, các nhà nghiên cứu trong Bộ Biên Tập Nhà xuất bản nhân dân
Văn học Bắc Kinh (Trung Quốc) có nói: "Các đạo sĩ được nói đến trong "Tây Du Ký" cơ hồ
toàn là nhân vật phản phái cả. Những đạo sĩ ấy thường thường dùng những thủ đoạn như cầu
mưa, dùng gái đẹp để làm quốc sư, quốc trượng; mê hoặc quốc vương; mưu toan cướp ngôi
vua. Rồi thì triều đình bị đen tối, trăm họ gặp tai ương. "Tây Du Ký công kích đạo giáo và đạo
sĩ cũng không phải là do sự "sùng tăng diệt đạo", mà chính là muốn phê phán cái hiện thực xã
hội thời Minh" (Tế Xuân dịch - Lời giới thiệu -TI (bộ 4 tập) trang 27). Cùng với việc phê phán
đạo giáo, đạo sĩ, đúng như lời nhận xét vừa nêu, tác phẩm không phải là có thái độ "Sùng
tăng". Như các phần trên đã nói, Tôn Ngộ Không không hề biết nể trong Phật Tổ Như Lai là
gì. Cho nên, có thể nói, sự khinh nhờn, bất kính đối với Phật trong Tây Du Ký chính là một
thái độ của nhà văn đối với tôn giáo.
Như vậy, Ngọc Hoàng, Lão Quân, Phật Tổ Như Lai, hay nói rộng hơn là thế giới của
Trời - Phật - Tiên - Thánh ở thiên đình đều đã bị Tôn Ngộ Không coi thường, phỉ báng. Sự coi
thường, phỉ báng của Tôn Ngộ Không là đối mặt trực diện tại chính không gian tồn tại của các
lực lượng này chứ không phải ở dưới mặt đất trần gian nói vọng lên. Điều này khẳng định
thêm tính cách, khí phách cao cường của Tôn Ngộ Không. Mặt khác, nó cũng là một sự chọn
lựa mang tính quan niệm của nhà văn về mối quan hệ giữa tính cách với hoàn cảnh của nhân
vật. Suy ngẫm, ta thấy toàn bộ tính cách ngang tàng, trịch thượng, đại bất kính của Ngộ Không
rõ là rất phù hợp với tất cả các không gian lớn nhỏ trên thiên đình. Dĩ nhiên, không gian sẽ
chẳng là gì nếu không có quan hệ với con người, ở đây, không gian thượng giới là cõi cao vời,
vĩnh hằng, thâm nghiêm, thiêng liêng – thế giới của sự sống các lực lượng siêu phàm. Ấy vậy
mà, tất cả đều đã bị Tôn Ngộ Không, nhân vật anh hùng của lý tưởng tự do và khát vọng bình
đẳng trực tiếp nhiều lần đến đại náo! Hoàn toàn không thể nói việc đại náo thiên cung của Tôn
Ngộ Không là câu chuyện ngẫu nhiên, ở một số nước phương Đông, nhất là Trung Quốc, Việt
Nam, thì văn chương thời phong kiến trị vì xã hội , cái quan niệm "thi dĩ ngôn chí", "Văn dĩ tải
đạo" đã từng có vị trí đáng kể trong sáng tác và cảm thụ văn học. Giáo sư Lượng Duy Thứ cho
rằng nội dung tư tưởng của Tây Du Ký- cũng không rõ ràng, dễ nhận thấy như tác phẩm Thủy
Hử của Thi Nại Am, vì nó được thể hiện quanh co, kín đáo dưới hình thức ảo tưởng. Nhưng
cũng đúng như giáo sư khẳng định, rằng "Người đọc vẫn có thể chấp nhận các hình tượng và
từ đó suy ra lý lẽ của tác giả". Giáo sư viết tiếp trong sự so sánh Tây Du Ký với Thủy Hử: "Hai
tác phẩm gần như cùng thời này đều mượn chuyện lịch sử để bày tỏ thái độ đối với đời sống xã
hội. Thủy Hử lấy chuyện bạo động nông dân thời Tống làm đề tài, Tây Du Ký mượn chuyện
nhà sư đời Đường đi tìm lý tưởng ở một xứ sở khác. Thoạt nhìn, có thể lầm tưởng tính phản
kháng của Thủy Hử cao hơn. Nhưng thật ra, câu chuyện Thủy Hử chỉ đóng khung trong phạm
vi một triều đại - nông dân đời Tống chống lại vua quan đời Tống. Còn Tây Du Ký đả kích,
châm biếm, thậm chí lật nhào toàn bộ những thần tượng trong đời sống xã hội - từ Ngọc
Hoàng, Diêm Vương, Long Vương đến Nho giáo, Lão giáo, Đạo giáo... Mặt đối lập của tác
phẩm vô cùng rộng lớn, tư tưởng phản kháng của tác giả so với Thủy Hử có phần sâu sắc hơn"
(Lời giới thiệu Tây Du Ký - TI (bộ l0 tập) -trang 14).
Đồng tình với quan niệm của Giáo sư Lương Duy Thứ, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng
định rằng hình tượng nhân vật chính Tôn Ngộ Không là nơi chốn gởi gắm quan niệm và thái
độ xã hội của nhà văn Ngô Thừa Ân. Sẽ có thể có một câu hỏi đặt ra: thế tại sao Ngô Thừa Ân
không trực liếp nói thẳng (cũng bằng văn chương) với triều đình phong kiến thời Minh cùng
tất cả nhân sự và thiết chế của nó? Không thể như thế được, vì hai lẽ sau đây. Thứ nhất, chính
sách "Văn tự ngục" khét tiếng của giai cấp cầm quyền sẽ không để yên thân nhà văn. Thứ hai,
đặc thù của sáng tạo nghệ thuật ngôn từ không cho phép hình tượng văn học can thiệp thô bạo
mang tính xã hội học vào đời sống nhân sinh. Còn nếu cần xem xét tính cách phản kháng, nổi
loạn của nhân vật sau khi chấp nhận thua bàn tay Phật Tổ có còn được tiếp tục hay không? -
thì điều này vẫn cứ còn tiếp diễn về sau, tuy có thể khác về mức độ và tính cách. Và, ngay cả
khi có sự khác nhau này thì tính cách nhân vật Tôn Ngộ Không vẫn có một hệ thống. Đó là sự
nhất quán của một trường -hành động phản kháng với tất cả những ngang trái, bất công.
Những trang viết trên đây đã hướng về không gian thượng giới. Luận văn cũng xác định
ở không gian thượng giới ấy là có cả Trời - Tiên - Phật, những lực lượng đầy quyền uy ngự trị.
Đối với đối tượng tiên, chẳng hạn ở hội Bàn Đào, hay là nhân vật Thái Thượng Lão Quân với
thuật chiêu luyện kim đan trường sinh, chúng tôi cũng đã bàn đến. Để thêm đầy đặn khuôn
diện không gian thượng giới và cũng là thấy thêm sự ảnh hưởng có tính chất xuyên suốt của
Phật giáo trong Tây Du Ký, sau đây sẽ điểm một số nét về không gian của Bồ Tát, Phật Tổ. Có
thể gọi không gian của Bồ Tát, Phật Tổ Như Lai là không gian Tây Thiên cực lạc. Trên đại
thể, có thể thấy hai không gian lớn: không gian bộ phận của các bồ tát và không gian ở Tây
Thiên cực lạc, nơi có Phật Tổ Như Lai ngự tri. Việc phân thành hai không gian này chỉ có ý
nghĩa tương đối. Còn thực ra, đấy là một thế giới chung, một không gian tồn tại chung của Bồ
tát, của các Đức Phật.
Ở hồi thứ 17, Tôn Ngộ Không đại náo núi Hắc Phong, bị yêu lấy mất áo cà sa, nên đi cầu
viện Quan Âm và đã đến Nam Hải. Người tường thuật kể lại cái nhìn không gian Nam Hải của
Tôn Ngộ Không: "Bể xa man mác, ngấn nước liền trời. Mây xanh trùm vũ trụ, khí sáng chiếu
non sông. Nghìn tầng sáng tuyết thét trời xanh, muôn đợt khói lồng ồn ngày trắng. Nước bay
bốn cõi như sấm vang, cuồn cuồn vòng quanh nghe dậy đất. Nói chi thế nước, ngó trời trung
gian. Từng núi báu lờ mờ năm sắc, đỏ, vàng, đen, tía, lục và xanh. Mới biết Quan Âm vui
thắng cảnh, thử xem Nam Hải lạc già sơn. Tốt đẹp sao! Núi non cao ngất, ngọn chấm từng
mây. Trung gian đầy muôn thức hoa thơm, trăm nghìn cỏ đẹp. Gió lay cây báu nắng sen vàng.
Điện Quan âm lợp ngói lưu ly, động trào ấm cánh cửa đồi mồi. Dưới bóng dương xanh sáo hát
vang, trong khóm trúc tía công múa lộn. Oai nghiêm hộ pháp trên tảng đá hoa. Hùng tráng
Mộc tra trước thềm mã thao" (TP.I.tr.311). Không gian ở đây được miêu tả có màu sắc tĩnh tại
và tuy có nhắc đến việc Quan Âm vui thắng cảnh, nhưng không thây hình dáng sinh động của
nhân vật, cho nên, không gian ở đây chỉ như không gian phong cảnh địa lý, không có ý nghĩa
nghệ thuật. Tuy nhiên, đây cũng là một nét thi pháp miêu tả được lập đi lập lại nhiều lần trong
tác phẩm. Tính đăng đối, ước lệ trong câu văn khá rõ.
Ở hồi thứ 26, Tôn Ngộ Không phải đi Đông Dương đại hải để tìm thuốc chữa bệnh cho
cây thuốc của Đại tiên Trấn Nguyên Tiêu. Đến Đông Dương đại hải tức là tìm Quan âm. Tác
giả chỉ viết : "Hành giả ở trên mây nhảy xuống, tiến thẳng đến trên ngọn Phổ Đà, thấy Quan
Âm cùng các vị thiên thần, Mộc Xoa, Long nữ đương giảng kinh thuyết pháp" (TP.I.457).
Không gian Đông Dương đại hải ở đây không được tập trung miêu tả, nhưng ta lại biết được
Tôn Ngộ Không đã đến những nơi bồng lai xa cao như thế một cách nhẹ nhàng bằng tài phép
của mình.
Thầy trò Đường Tăng tiếp tục đi đến sông Thiên Hà thì Đường tăng bị nạn. Tôn Ngộ
Không phải đi tìm Quan Âm giải cứu ở Nam Hải. "Hành giả vội lên mây sáng, rời khỏi cửa
sông, thẳng tới Nam Hải. Độ nửa giờ đã nhìn thấy Lạc Già Sơn bèn hạ thấp từng mây, đi thẳng
tới sườn núi Phổ Đà" vào bái kiến Quan âm. Ở hồi thứ 49 này, như lời dặn của Quan âm đối
với các đồ đệ thì hôm nay sẽ có Tề Thiến đại thánh đến. Quan âm vào rừng trúc ngắm cảnh rồi
sẽ trở lại tiếp đại thánh. Quan âm vốn đủ thần thông, nên khi ra tiếp Tề Thiên đại thánh thì
đồng thời trong tay xách một cái làn đan bằng trúc tía cùng đi với đại thánh xuống sông Thiên
Hà cứu Đường Tăng. Không gian ở đây bị phân cắt nhiều nhưng cũng như nhiều không gian
cõi bồ tát khác, chúng ta luôn thấy sự hợp tác, giải cứu của Bồ tát đối với các tai nạn của Thầy
trò Đường Tăng. Nếu đối với không gian thiên đình, Tôn Ngộ Không chẳng hề tôn trọng và
luôn làm xáo trộn các trật tự cố định thì đối với không gian của Bồ Tát, hầu như Tôn Ngộ
Không thường biểu hiện thái độ ghi nhận. Mỗi lần tiếp ứng với không gian Bồ tát đều là mỗi
lần tìm sự giúp đỡ. Với mục đích này, nhìn chung, ta thấy đều được giải quyết một cách nhẹ
nhàng, về điểm này, có lẽ tính thanh tịnh, và triết học Phật giáo là phải nên như thế chăng(?).
Đến hồi thứ 52, khi Tôn Ngộ Không bị con yêu ở động Kim Đâu thu gậy sắt, Tôn đã phải
đi Tây Thiên cầu viện Như Lai. Như Lai cẩn thận nói "Vật ấy tuy ta có biết, nhưng không thể
nói với nhà ngươi được, e nhà ngươi đi nói chuyện với người khác, nó sẽ không đánh nhau với
nhà ngươi nữa, mà bỏ lên Linh sơn vòi vĩnh, lại thêm vạ cho ta. Ta sẽ dùng phép giúp nhà
ngươi bắt y là đủ" (TP.II.tr.335). Rồi Như Lai sai mười tám pho La Hán dộng mười tám hạt
"kim đơn sa" đi giúp Tôn, đồng thời mách kín một địa chỉ dự phòng để tiếp giải cứu ở Thái
Thượng (ở điện Đẩu xuất ly hậu thiên). Không gian Tây Thiên nơi Như Lai đang ngự không
được tác giả trình bày. Chúng ta cũng chỉ thấy sự hợp tác, giúp sức của các lực lượng quyền
uy (Phật, Đạo) cho yêu cầu của Tôn Ngộ Không. Không gian Tây Thiên cực lạc cố nhiên sẽ
được miêu thuật khá đầy đặn ở những hồi cuối của tác phẩm. Nhưng ở đây, nhân vật chính của
Tác phẩm đã đến được Tây Thiên! Có lẽ, trừ Đường Tăng, còn lại các nhân vật khác trong
đoàn thỉnh kinh, ít nhiều ai cũng có tài phép biến hóa. Chỉ riêng Đường Tăng, khi chưa đắc
đạo thì không thể dùng pháp thuật gì cả. Tất cả đồ đệ của Đường Tăng phải có nhiệm vụ hộ
tống, bảo vệ sư phụ này đi cho đến Tây Thiên. Thực chất vấn đề là Đường Tăng cùng đồ đệ
phải luôn luôn bị thử thách nghiệt ngã và qua đó, phải hiện rõ sự thành tâm, công đức thì mới
có thể thành chánh quả. Điều này có ý nghĩa phổ quát đối với các hình tượng nhân vật chí
thiện, trung nghĩa trong văn học Phương Đông nói chung. Đọc tác phẩm, có khi ta trực giác
nghĩ rằng, Phật Tổ Như Lai hoàn toàn có thể phóng hào quang tuệ nhãn ra để tìm biết được
người đi thỉnh kinh ở nước Đại Đường, chứ cần chi phải sai Quan Âm cất công đi tìm ra Trần
Huyền Trang(?). Nhưng như thế có phần trái với giáo lý Đạo phật. Một hiện tượng có tính dân
gian mà Tây Du Ký đã tiếp thu: con gà đứng trên nong lúa, chân nó phải bươi thì miệng nó
mới chịu cúi xuống mổ để ăn. Trong giáo lý Đạo Phật, mọi thành quả đều phải có công lao và
nhân duyên, chứ không thể cậy tài sức mà thu ngắn quá trình được.
Đọc tác phẩm, chúng ta cũng thấy ở hồi thứ 77, khi sư phụ Đường Tăng bị nạn, Tôn Ngộ
Không "lòng rầu rỉ, nghĩ sau nghĩ trước, lòng lại hỏi lòng nói: Đây đều là do Đức Phật Như
Lai ngồi ở trên cõi cực lạc không có việc gì, mới làm ra bộ kinh Tam Tạng. Nếu có lòng
khuyến thiện, thì cứ gởi sang Đông Thổ, lại chẳng để tiếng muôn đời sao? Chỉ vì không vời
mà tống được đi, nên bắt chúng mình đến lấy, biết đâu là chúng mình phải vượt bể trèo non,
đến đây bỏ mạng!" (TP.III,tr.224-225). Không kể những suy diễn không đúng của Tôn Ngộ
Không trong lời lẽ trên, chúng ta thấy chính nhân vật trong tác phẩm của nhà văn cũng có ý
muốn "đốt cháy giai đoạn" như thế. Nhưng như vừa nói, vấn đề ở đây là phải có công lao, có
tâm thành chí nguyện thì mới đúng với quan niệm nhà Phật. Cho nên, việc Quan âm cất công
đi tìm người thỉnh kinh cũng là cần có thêm công quả mới, chứ bấy giờ, Quan Âm chỉ mới đắc
hạnh Bồ tát mà thôi. Xác định như thế, chúng ta cũng sẽ dễ hiểu vì sao trong nhiều tai nạn trên
đường thỉnh kinh của Thầy trò Đường Tăng, khi chưa cầu tìm Quan Âm thì Quan Âm đã tự
biết và tự do đi giải cứu. Chẳng hạn, ở hồi thứ 55, khi Tôn Ngộ Không đánh thua con yêu ở
động Tì bà, quay về sườn núi thì gặp ngay Quan Âm hóa thân bà già đến mách tìm Mão Nhật
Tinh quân ở cung Quang Minh để được giúp giải cứu.
Đến hồi thứ 57, 58, nhiều không gian của Ngọc Hoàng, Địa Tạng Vương, Quan Âm,
Như Lai cũng được nhắc đến. Tất cả những không gian này cũng không được nhà văn tập
trung miêu tả, mà chủ yếu là giới thiệu nó như một cái nền, trong đó, các lực lượng quyền
năng này đều đồng tình giúp đỡ Tôn Ngộ Không hoàn thành sứ mệnh bảo hộ Đường Tăng
sang Tây Thiên thỉnh kinh.
Ở hồi thứ 61, có một không gian thật thú vị. Đó là không gian trên tầng không, nơi diễn
ra những trận kịch chiến ngoạn mục giữa Tôn Ngộ Không và Đại Lực (chồng của La Sát ở
động Ba Tiêu). Không gian này tuy là nơi chốn thi tài của Tôn Ngộ Không và Đại Lực, nhưng
tác phẩm cho ta biết rằng, về sau, Phật Tổ Như Lai đã có lệnh sai các lực lượng trợ giúp Tôn
Ngộ Không từ bốn phía, nên là một không gian thấm nghĩa ý từ sức mạnh của Phật Tổ. Tác
phẩm kể rằng, khi Đại lực hóa thiên nga thì Tôn hóa chim Đông Thanh Hải, khi Đại lực hóa
chim cắt vàng thì Tôn hóa con phượng đen, khi Đại lực hóa con hạc trắng bay về Nam thì Tôn
hóa con phượng đỏ, khi Đại lực hóa con nai ngơ ngác ăn cỏ thì Tôn hóa con hổ đói, khi Đại
lực hóa con beo lớn có vằn thì Tôn hóa Sư tử mắt vàng, khi Đại lực hóa con gấu người thì Tôn
hóa con voi to và cuối cùng, Đại lực hiện rõ nguyên hình con trâu trắng to dài hơn một ngàn
trượng thì Tôn hiện nguyên hình, biến thành cao muôn trượng, đầu như Thái Sơn, mắt như
mặt trời, mặt trăng. Từ đây, hai bên đánh nhau một cách long trời lở đất và cuối cùng, Đại lực
thua chạy về động Ba Tiêu. Trong khi đó, quân của Tôn Ngộ Không đổ đến vây chặt núi Thúy
Vân. La sát bảo Đại lực hãy đưa quạt Ba tiêu cho Tôn để được yên, nhưng Đại lực vẫn kiên
quyết ra đánh tiếp với Tôn. Đây là trận quyết định. Cuối cùng, Đại lực thua, chạy về bên Bắc
gặp phải Bát Pháp Kim Cương ngăn lại để bắt; chạy về phía Nam gặp Thắng Chí Kim Cương
đón bắt; chạy về bên Đông gặp Đại Lực Kim Cương chận giữ đòi bắt; chạy sang bên Tây gặp
Vĩnh Trụ Kim Cương cũng ngăn lại đòi bắt... Tình thế như vậy làm Đại lực hoảng sợ, mất
phương hướng. Đại lực bèn nhảy lên mây thì lại gặp Thác tháp Lý thiên vương và Natra thái
tử cũng đang đợi bắt. Thấy tất cả các lực lượng đều vâng chỉ Phật Tổ Như Lai đến bắt mình,
Đại Lực bèn hóa con trâu trắng to, dùng sừng sắt hức vào Lý Thiên Vương, nhưng cuối cùng
Natra đã chém đứt đầu Đại Lực, sự chiến thắng ở đây quả có nhờ các lực lượng bề trên và
không gian ở đây cũng là không gian có tính bố trí của Phật Tổ Như Lai. 'Dù vậy, sự năng
động của Tôn Ngộ Không để giải trừ tai nạn là không thể không được khẳng định.
Đến hồi thứ 75, 76, 77, thầy trò Đường Tăng gặp đại nạn do ba con ma già lão luyện gây
nên. Khi đã kiệt trí cùng sức, Tôn Ngộ Không đã phải đi viện cầu Như Lai Phật Tổ. Lộn người
lên mây trong chớp nhoáng Tôn Ngộ Không đã đến Thiên Trúc, núi Linh Sơn, đi đến dưới
ngọn núi Thứu Phong ngẩng đầu lên chờ bái kiến phật Tổ. Bấy giờ, Phật Tổ đang tĩnh tọa
giảng kinh trên đài sen cửu phẩm cho mười tám pho A La Hán. Kể qua một lượt tai nạn do ba
con ma gây ra cho Phật Tổ nghe và Phật Tổ nói "bọn yêu tinh ấy ta có biết". Giữa không gian
trang nghiêm, giữa quan hệ đang cần khẩn cầu sự giúp đỡ cho mình như thế, mà thình lình
Tổn Ngộ Không nói: "Bạch Như Lai, tôi nghe thấy người ta nói yêu tinh có họ thân thích với
ngài"! Như Lai giải thích thêm về nguồn gốc bọn yêu tinh này thì Tôn Ngộ Không lại nói tiếp:
"Bạch Như Lai, nếu đem so sánh ra, người vẫn là cháu ngoại của yêu tinh". Đối đáp như Tôn
Ngộ Không quả là chẳng kiêng nể gì vị giáo chủ của không gian Thiên Trúc. Nhưng rồi Như
Lai bỏ qua, tiếp sai Ca Diếp, Văn Thù, Phổ Hiền... rồi tất cả cùng đi đến nước Sư Đà để bắt
bọn yêu ma, giải cứu cho Thầy trò Đường Tăng.
Có thể nói, suốt một năm hồi của tác phẩm thì từ hồi thứ 98, đất Phật, không gian Phật
đích thực mới dần dần được hiện ra. Nếu những không gian của các Bồ tát, các Chư Phật đã
từng xuất hiện như có phần chia cất, không được tập trung miêu tả, ít có tính thuần nhất, thì
đến đây, chúng ta sẽ gặp được khổng gian Thiên Trúc cực lạc thực sự. Cũng đến không gian
này, không hề có hiện tượng yêu ma giả Bồ Tát, giả Phật như đã từng có ở các hồi 22, 57, 91...
đã làm Đường Tăng khốn lụy muôn phần. Mở đầu cho việc đến được cõi Phật, thầy trò Đường
Tăng phải qua bến Lăng Vân bằng một chiếc thuyền không đáy. Vì còn ở bên này cõi đời xác
thân phàm tục, nên Đường Tăng còn phải một lần té sông mới "Xương cốt phàm thai đã thoát
thân". Khi đã ngộ đạo, cảm nhận được hết trí tuệ rộng lớn của Phật Tổ, Thầy trò lần lượt gặp
nhiều không gian cực lạc tuyệt vời mà suốt mười mấy năm qua chưa hề biết đến. Đây là không
gian chùa Lôi Âm: "Đỉnh sát tầng Tiêu Hán, chân tiếp mạch Tu Di. Núi khéo.xếp vòng la liệt,
đá lạ bài trí lô nhô, cỏ ngọc hoa vàng treo sườn núi, huệ thơm lan tía rợp đường đi. Vượn tiên
hái quả báu, thẳng lối vào rừng đào, rang rạc tựa lửa bốc thiếu vàng; hạc trắng đỗ cây tùng, vắt
vẻo đầu cành, cuồn cuộn như khói vòng nâng ngọc.
Từng đôi phượng múa, hướng dương vang hót khúc lành nhiều. Từng cặp loan xanh, đón
gió xòe tung đời ít có. Lại kìa, mái ngói xếp uyên ương vàng rực rỡ, tường nọ gạch hoa mã não
sáng long lanh. Đông một hàng, Tây một hàng, hết thảy đều là vầng cung châu khuyết. Nam
một dãy, Bắc một dãy, nhìn không chán những gác báu lầu vàng. Điện thiên vương bên trên
tỏa hào quang; nhà Hộ pháp đằng sau phun lửa đỏ, tháp phủ đề nổi rõ, hoa sen vàng ngát lừng.
Chính là nơi: "đất cao kỳ, ngỡ trời riêng biệt; mây lơ lững, thấy ngày dài ghê. Bụi hồng không
bơn, mọi duyên cắt hết. Muôn kiếp vô cùng nơi đại pháp môn" (TP.III tr.553). Rồi thầy trò
được tiếp tục lên không gian núi Linh Sơn và cuối cùng đã ra mắt được với Phật Tổ Như Lai.
Những trang văn tự sự ở đoạn này phong phú, đầy đặn, chất chồng đạo vị phật giáo. Từ điện
Đại Hùng, đến vô số các vị A la Hán, Kim Cương, Yết Đế, Già Lam... cho đến lời châu ngọc
của Phật Tổ Như Lai dạy bảo Đường Tăng... đều góp phần tạo ra một cảm giác hết sức cực lạc
của không gian Tây Trúc. Ở hồi này, khi thầy trò Đường Tăng được nhận kinh, A Nan và Ca
Diếp có đòi lễ vật. Trước tình huống này, Tôn Ngộ Không, "tức không nhịn được, kêu lên: Sư
phụ ạ, chúng mình đi bạch Như Lai, bắt họ tự phải mang kinh đến cho lão Tôn". Thấy thế, A
Phật ngồi trên gác nghe thấy. Liền đó, Nhiên Đăng cổ Phật sai vị Bạch Hùng Tôn giả đuổi theo
Nan làm lành và cho nhận kinh, nhưng toàn kinh không có chữ. Việc này Nhiên Đăng cổ
đoàn thỉnh kinh lấy lại kinh không chữ và bảo cả đoàn trở lại để lấy kinh có chữ, Sự việc diễn
ra đúng như thế. Quay trở lại, Tôn Ngộ Không nói với Như Lai: "Bạch Như Lai', thầy trò
chúng tôi chịu đựng trăm ma nghìn quái, từ bên Đông thổ đến được chốn này, ơn Như Lai
truyền trao kinh cho, bị A Nan, Ca Diếp hạch tiền không được, thông đồng nhau làm bậy, cố ý
đưa những bản kinh giấy trắng không có chữ cho chúng tôi mang về. Chúng tôi đưa những của
nợ ấy về làm gì? Mong Như Lai xét cho!". Như Lai trả lời bằng việc kể lại lần các tỳ kheo đi
đọc kinh cho nhà trưởng giả họ Triệu ở nước Xá Vệ cũng đã có lấy tiền mà vẫn là còn ít! Như
thế, ở không gian Tây Thiên, nơi cực lạc Phật đạo vào bậc nhất mà vẫn có chuyện "ra lễ vật".
Tôn Ngộ Không thì nói là "hạch tiền". Có thể ta không bàn thêm về việc này, nhưng cũng ở
đoạn này, tác phẩm cộ. đoạn viết về Đường Tăng biếu dâng bát lộ (của Vua Đường cho để xin
ăn dọc đường) thì ANan vẫn lấy: "Vị Anan đỡ lấy, chỉ chúm chím cười nụ. Mấy người lực sĩ
coi lầu ngọc, mấy người đầu bếp ở bếp -Hương Tích, thấy Tôn Giả như vậy, người vuốt mặt,
kẻ đập lưng, nào xói tay, nào bĩu mồm cười rộ nói: Rõ bêu! Rõ bêu! Lại đi hạch lạc, đòi ăn lễ
cả người lấy kinh". Nội dung đoạn văn nay rồ ràng có giá tri sự tố cáo rất cao. Phải chăng đó
cũng là chi tiết lố bịch của không gian trong sạch, thiêng liêng?!).
Từ những dòng trên đây về không gian Tây Thiên cực lạc, chúng ta thấy rằng, ở các
không gian bộ phận của các Bồ tát, A la hán, tác giả ít tập trung miêu tả toàn vẹn. Phần lớn đấy
là những không gian cho những đối thoại, cầu tìm sự giúp đỡ của Bồ tát, chư Phật cho các tai
nạn của thầy trò Đường tăng. ở những không gian cụ thể của loại này, tuy Tôn Ngộ Không có
khi nói những lời bất kính đối với Bồ tát và cả Như Lai Phật Tổ, nhưng cơ bản là nhân vật vẫn
ghi nhận, thuận thành chấp nhận làm theo. Còn đối với không gian Tây Thiên cực lạc đích
thực thì nhà văn có tập trung miêu thuật một cách đầy đặn. Dụng công này cũng đem lại được
sự tương xứng hòa điệu của các Chư phật với không gian tồn tại của chính các Phật. Tuy
nhiên, nếu từ sau khi bỏ đạo tu tiên, một lòng theo Phật, bảo vệ Đường Tăng đi Tây Thiên, Tề
Thiên cơ bản vẫn giữ được tính cách, lý tưởng của mình thì khi đến tại xứ Phật, sự ngay thẳng,
tính cương trực, không cuối đầu trước những việc sai trái... vẫn tiếp tục thể hiện, mà việc bạch
Phật Tổ Như Lai về trò hạch tiền của Anan, Ca Diếp là ví dụ điển hình. Việc đấu tranh của
Tôn Ngộ Không có thể không đạt nguyện vọng, nhưng nó là sự biểu hiện của một tính cách
không ngừng chống chọi lại với hoàn cảnh. Do vậy, hình tượng của nhân vân trung tâm này ở
tất cả các không gian đã kinh qua đều luôn sáng đanh và gợi thức ở người đọc một cảm tưởng
khoái trá lạ thường. Đến đây, phần không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký, phần trung tâm
của Luận văn, chúng tôi đã phân tích qua. Trong phần trung tâm này, như chúng tôi đã tạm
chia ra các không gian bộ phận, vẫn là điều có ý nghĩa tương đối. Nhìn chung, như đã trình
bày, không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký có hai không gian lớn là không gian Trần thế và
không gian Thần kỳ. Qua nội dung cụ thể của các không gian nói trên, có thể đi đến một số
nhận xét như sau. Đối với không gian Trần thế, có hai không gian là không gian Núi Hoa Quả
- Đá Tiên và không gian mặt đất. Với không gian núi Hoa Quả - Đá Tiên, luận điểm cơ bản, đó
là nơi xuất phát, có tính chất cội nguồn của hình tượng nhân vật chính. Với tất cả sự bí ẩn, tính
hợp nhất của thiên địa trong quá trình ra đời của nhân vật chính như đã xác định, rõ ràng là
điều kiện để cắt nghĩa một cuộc đời đầy, biến hóa của nhân vật. Tuy thuộc về không gian trần
thế, nhưng không gian này so với không gian mặt đất với những con đường, hang động, bến
bãi... thì nó vẫn kỳ thú và lạ lẫm hơn. Còn không gian mặt đất, như trong trình tự tác phẩm, nó
là sự mở dần ra trên hành trình nhân vật thực hiện các nhiệm vụ cụ thể. Không gian này phát
triển theo chiều dọc và có vô số những không gian lớn nhỏ khác nhau. Khi dừng lại ở các
không gian này, tác giả có miêu thuật, nhưng cái chính vẫn là miêu tả nó với tư cách như một
môi trường, hoàn cảnh để các nhân vật hoạt động, thể hiện. Các nhân vật trong đoàn thỉnh
kinh, tùy vào đặc trưng tính cách và tài năng riêng mà bộc lộ ỏ các không gian ấy. Đối với
riêng nhân vật Tôn Ngộ Không thì ở loại không gian này có thể nói đúng như Giáo sư Lương
Duy Thứ là "Tây Thiên thỉnh kinh là lịch sử xây dựng sự nghiệp của Y" [57/19]. Do xem quá
trình đi Tây Thiên như là một quá trình xây dựng sự nghiệp của Tôn Ngộ Không, nên có thê
nói có vô vàn kỳ tích chiên đâu và chiên thắng của nhân vật. Lịch sử xây dựng sự nghiệp này
cùng với các "truyện ký anh hùng" trong đại náo Thiên Cung, Long Cung là những phần cơ
bản quyết định diện mạo tinh thần của người anh hùng quái kiệt này. Hai phần cơ bản này của
nhân vật cũng có liên hệ đúng như GS. Trần Xuân đề viết: "Tính cách của nhân vật Tôn Ngộ
Không trên đường đi lấy kinh đã kế thừa tính cách của người anh hùng trong chuyện "Đại náo
thiên cung"". Còn không gian Long Cung - Âm Ty chính là nơi Tôn Ngộ Không đã chiếm lĩnh
binh khí và thể hiện khát vọng trường sinh. Các lực lượng đang ngự tri ở không gian này cũng
không đơn giản. đối với việc thực hiện.
Những ý định của Tôn Ngộ Không ta đã thấy qua các trận chiến kịch liệt giữa Tôn Ngộ
Không với các thế lực ấy. Nhưng nếu so với các lực lượng ở Thiên Cung thì sức mạnh (lực)
của các lực lượng ở Long Cung - Âm Ty không sánh kịp. Do lực lượng không sánh được
nhau, nên không gian Thiên Cung cũng đã được nhà văn miêu tả đầy đặn, chi tiết hơn. Ở
không gian Thiên Cung cũng không phải nhà văn chỉ một lần kể việc. Có thể thấy rằng với
một trăm mười năm ở Thiên Đình, Tôn Ngộ Không đã nhiều đại náo, đại náo với tất cả. Chính
ở không gian này, hình tượng Tôn Ngộ Không cực kỳ rực rỡ. So với tất cả những không gian
khác trong tác phẩm, luận văn chúng tôi vẫn xem đây là không gian quan trọng và có ý nghĩa
bậc nhất của hình tượng nhân vật. Qua những trang phân tích về không gian này ở trên, không
thể không thấy được một nhân vật phản nghịch vô cùng triệt để. Điều thú vị từ sự cảm nhận
văn học của chúng ta ở không gian này chính là sự tương ứng, hòa điệu giữa con người với
hoàn cảnh, giữa tính cách nhân vật với không gian nghệ thuật.
Không gian thiên đình vẫn thuộc về không gian thượng giới nói chung. Trong không
gian thượng giới nói chung này, chúng tôi cũng điểm qua không gian Tây Thiên cực lạc với
hai bộ phận là không gian rời của các bồ tát, chư phật và không gian tại Tây Trúc khi đoàn
thỉnh kinh đến đất Phật. So với các không gian nói trên, thì không gian này có phần nhạt hơn
trong sự miêu tả của nhà văn. Tuy không gian này tính nghệ thuật không được cao, nhưng với
tư cách là không gian địa lý, không gian nền cho các nội dung hoạt động của nhân vật thì vẫn
ghi nhận được. Ở phần không gian Thiên đình, khi giới thuyết vấn đề, chúng tôi cũng đã nhắc
đến ý kiến của giáo sư G.N.Pospelov về loại không gian này, tức là sự chuyển dịch các bức
tranh có thể đưa người đọc vào những miền khác nhau. Không gian Tây Thiên, như đã nói,
có thể có ý nghĩa như vậy.
Quan niệm của thi pháp học khi nói về không gian nghệ thuật đều xác nhận rằng không
gian trong văn học - không gian nghệ thuật luôn mang dấu ấn của từng dân tộc, tức là tính
dân tộc của không gian nghệ thuật, về vấn đề này do không phải là vấn đề trọng tâm của
Luận văn, nên chúng tôi không bàn sâu. Dù vậy, có thể có một số nhận xét khái quát như sau.
Có thể thấy những vấn đề như tâm lý, địa bàn cư trú, lịch sử, không gian cuộc đời, ngôn
ngữ, tôn giáo, triết học... của một dân tộc thường để lại những dấu ấn trong văn chương. Nếu
không có một nhà văn nào không là con đẻ của một dân tộc nhất định thì khi anh ta viết văn -
những đề tài về nhân vật và đất nước mình - nhất định bản sắc dân tộc, những dấu hiệu về tính
dân tộc sẽ được hiện ra. Điều này hoàn toàn đúng. Viết Tây Du Ký„ Ngô Thừa Ân cũng không
tránh khỏi tính đặc thù này. Vấn đề càng dễ hiểu hơn, khi ta biết nhà văn đã sống một cuộc đời
tám mươi năm, chứng kiến không biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử dân tộc với khá nhiều
đặc điểm trên các lĩnh vực lớn và lại hoàn thành tác phẩm vào cuối đời. Tất cả những hình ảnh
thiên nhiên như núi cao, sông rộng, những biến thiên chính trị của các triều đại phong kiến,
những hoạt động của bọn Đạo sĩ, kỷ cương của nho giáo, các thời kỳ hưng thịnh, biến thái của
Phật giáo... đều để lại dấu ấn rất rõ trong Tây Du Ký. Đấy chính là những biểu hiện của tính
dân tộc của tác phẩm. Ở một độ sâu sát hơn với hình tượng nhân vật trong tác phẩm thì có thể
nói, Tôn Ngộ Không đã phản ánh tinh thần phản kháng vĩ đại của nhân dân" Trung Quốc đối
với triều đình nhà Minh thối nát, mục ruỗng. Tôn Ngộ Không đã "thể hiện những nguyện
vọng sâu kín của nhân dân lao động Trung Quốc bao đời nay chịu áp bức, bóc lột"[54/20,21].
Chương 3: MỐI QUAN HỆ GIỮA HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT VỚI KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ VẤN ĐỀ THƯỞNG THỨC, TIẾP NHẬN
3.1. Mối quan hệ giữa hình tượng nhân vật với không gian nghệ thuật.
Hình tượng văn học nói chung, hình tượng nhân vật trong văn xuôi nói riêng là phương
thức biểu hiện và tồn tại của sáng tác nghệ thuật ngôn từ. Chính hình tượng nhân vật là nơi ký
gởi tâm sự, quan niệm thẩm mỹ của nhà văn và vì vậy, nó là một trong số ít những tiêu điểm
mà nhà văn luôn hướng tới. Để hoàn chỉnh hóa được một hình tượng nhân vật đích thực, xét
về phía sinh thành, nhà văn phải dùng hàng loạt yếu tố nghệ thuật và từ đó, nảy sinh các mối
quan hệ giữa hình tương nhân vật với các yếu tố ấy. Đọc Tây Du Ký, các hình tượng nhân vật
cũng không nằm ngoài giới thuyết này.
Dựa vào lý thuyết Thi pháp học để xem xét vấn đề được đặt ra, thì như đã xác định từ
đầu, không gian nghệ thuật là một trong số ít các hình thức nghệ thuật có nghĩa nhất đối với
hình tượng nhân vật. Nhân vật trong Tây Du Ký nói riêng, nội dung văn học của toàn tác
phẩm nói chung, từ khi trở thành "tài sản văn hóa tinh thần" của bạn đọc đến nay vẫn nguyên
vẹn như thế. Tuy nhiên, với tư cách nghệ thuật ngôn từ, với đặc thù thẩm mỹ của hình tượng
văn học, nó vẫn cứ mãi mai là mảnh đất cần liên tục được nghiền ngẫm, phát hiện. Và, chính
việc nghiên cứu không gian nghệ thuật của tác phẩm như đã trình bày ở các chương trên, cho
thấy rằng hình thức nghệ thuật này chỉ làm rạng rỡ thêm ý nghĩa của hình tượng nhân vật.
Khẳng định điều này, một mặt chúng ta thấy thêm rằng việc chọn lựa, xây dựng kiểu
không gian cho quá trình tồn tại, vận động của nhân vật là một việc mang tính quan niệm rất
rõ, mặt khác, chúng ta bày tỏ thái độ không đồng tình với các ý kiến cho rằng Tây Du Ký chỉ
là truyện hài hước, "đùa cợt với đời", chẳng bao hàm một ý nghĩa sâu xa nào[54/12].
Nói rằng không gian nghệ thuật chỉ làm rạng rỡ thêm ý nghĩa của hình tượng nhân vật
thì điều này đúng, nhưng cũng cần nói rõ thêm tính cụ thể của vấn đề.
Về số lượng nhân vật trong Tây Du Ký, tất cả gồm có năm thành viên. Từ hiện thực
được phản ánh trong tác phẩm và quá trình vận động của các nhân vật, chúng ta thấy, thực ra,
nổi trội hơn trong cả đoàn thỉnh kinh chỉ cớ ba trong năm nhân vật ấy. Đó là Tôn Ngộ Không,
Đường Tăng và Bát Giới. Nhiều giáo sư, các nhà nghiên cứu cũng đều tập trung nói đến ba
nhân vật nói trên. Ba nhân vật này, trong quan hệ với hình thức không gian nghệ thuật của tác
phẩm có những điều kiện cụ thể khác nhau.
Ở đây, trong hàm ý của tiêu đề tiểu mục, chúng tôi nghiễm nhiên chấp nhận những nét
riêng "có sẵn" của các tính cách nhân vật, trong đó, Đường Tăng và Trư Bát Giới thuộc diện
này. Sự chấp nhận những nét riêng có sẵn của hai tính cách nhân vật này nảy ra câu hỏi: chẳng
lẽ không gian nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm không có quan hệ gì với hai tính cách
nhân vật nói trên hay sao? vấn đề không phải hoàn toàn như vậy. Quan sát tất cả những biểu
hiện thuộc tính cách nhân vật đã diễn ra trong suốt quá trình thỉnh kinh, chúng ta thấy cơ bản
đều diễn ra ở những không gian cụ thể? Tuy nhiên, các đặc trưng cá thể trong tính cách hai
nhân vật này phần lớn đều có tình trạng "cố thủ" trước những tác động nhất định của các
không gian. Và như vậy, kinh qua nhiều không gian khác nhau, các tính cách này chủ yếu là tự
bộc lộ, hội tụ với các tính cách khác hơn là phù hợp, tương tác và biến sinh như trường hợp
Tôn Ngộ Không. Trong trường hợp như thế, có thể nói, tính nghệ thuật của các không gian
được xây dựng trở nên ít có ý nghĩa (tức đối với Đường Tăng và Bát Giới),
Dù vậy, sự phân biệt và làm rõ về các tính cách sau đây trong quan hệ với vấn đề không
gian nghệ thuật vẫn cứ cần thiết.
Trước hết, nói về Đường Tăng - người thủ lĩnh của đoàn thỉnh kinh, Giáo sư Lương Duy
Thứ cho rằng "Đường Tăng là một hòa thượng ngây thơ, muốn thực hiện lý tưởng, song
không có biện pháp gì khả thủ [5/16]. Xét về "chiến lược" của một người có lý tưởng muốn đi
tìm chân lý một cách thành thật và kiên trì như Đường Tăng thì nhận xét khái quát nói trên rất
đúng. Giáo sư Trần Xuân Đề cũng xác định đây là nhân vật "nhu nhược, yếu đuối, vô tài, bất
lực, quan liêu với người dưới, khuất phục kẻ trên, mang nặng quan niệm đẳng cấp truyền
thống của Tây Thiên phong kiến"[Ì3/116]. Quan sát nhân vật này từ đầu quá trình đi thỉnh
kinh cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ, chúng ta thấy ý kiến này càng phong phú về minh
chứng. Một vài điều cụ thể sau đây cũng có thể góp phần làm rõ tính cách của nhân vật Đường
Tăng. Đọc Tây Du Ký, chúng ta thấy Đường Tăng luôn quan sát các không gian hiện dần lên
phía trước của lộ trình. Đường đi của cả đoàn thỉnh kinh hầu như luôn luôn gặp nhiều khó
khăn, tai ách. Mỗi lần như thế, Đường tăng thường khóc lóc, sụt sùi. Đứng trước nhiều gian
nguy, thử thách không thể kể hết ra đây, nói chung, Đường Tăng "như con rối", hoàn toàn mất
phương hướng và không đủ sự vững vàng của bản lĩnh để xử lý công việc. Đã thế mà nhiều
khi Đường Tăng vẫn giữ nguyên tính cố chấp của mình. Cũng do cố chấp, không nghe lời nói
đúng của Tôn Ngộ Không mà ở hồi 65 chẳng hạn, bọn yêu tinh đã gây đại nạn cho Đường
Tăng. Không những không nghe những lời nói đúng mà Đường Tăng có khi còn nghe nhiều
lời xúc xiểm nhớ đến câu chuyện "Đẽo cày giữa đường" trong văn học dân gian Việt Nam.
Đọc Tây Du Ký, có lẽ chúng ta đều thấy vai trò thiết yếu của Tôn Ngộ Không trong việc bảo
vệ Đường Tăng và giải trừ tất cả những chướng ngại tai ác. Có thể nói rằng Đường Tăng
không thể hoàn thành sứ mệnh thỉnh kinh, nếu không có Tôn Ngộ Không. Giáo sư Lương Duy Thứ cho rằng "Nếu không có Tôn Ngộ Không thì một bước ông ta cũng khó đi”[5/16]. Ấyvậy
mà Đường Tăng đã nhiều lần đuổi Tôn Ngộ Không và nói những lời thật ác miệng như chúng
tôi đã có dịp dẫn ra ở các phần viết trên. Riêng ở điểm này, nếu nghĩ sâu hơn thì chính nhân
vật Đường Tăng đã phạm vào lỗi logic học, tức luật "không mâu thuẫn" - Nhưng đây là vấn đề
khác. Một trong những biểu hiện đáng trách về nhân cách của Đường Tăng là việc người thủ
lĩnh đoàn thỉnh kinh xúi giục linh hồn mấy tên giặc đi kiện Tôn Ngộ Không ở hồi 56. Về việc
này, Tôn Ngộ Không từng có lời thưa ôn tồn, phân minh rằng: Tôn có đánh chết chúng cũng là
vì sư phụ Đường Tăng - nhưng Đường Tăng vẫn không nghe và cuối hồi này còn đọc chú cẩn
cô đối với Tôn Ngộ Không! Ở hồi 49, con Rùa chở cả đoàn qua sông, có nhờ Đường Tăng hỏi
Phật Tổ bao giờ Rùa mới hết kiếp, điều lẽ ra phải cần nhớ - như một tri ân - mà Đường Tăng
cũng quên bẵng! Những điều trên cho thây rất rõ những nhược tật và sự bất nhất của nhân vật
Đường tăng. Ở một cáp độ tổng quan hơn, có lẽ cần nói thêm vấn đề tư tưởng được hàm ẩn
trong hình tượng nhân vật này. Đọc Tây Du Ký, xem xét các hành trạng và những phát ngôn
của nhân vật Đường Tăng, chúng ta thấy có một điều gì không rõ ràng, dứt khoát. Có ý kiến
cho rằng "ở Đường Tăng, tư tưởng phong kiến có truyền thống của Trung quốc cùng tư tưởng
nhà Phật đã kết hợp với nhau làm một". Chính sự kết hợp này trong hình tượng nhân vật đã tạo
ra nhiều chỗ rắm rối. Về sự phức hợp này, giáo sư Lương Duy Thứ đã chỉ ra và đánh giá rất rõ:
"trong Tây Du Ký thì nhiều chỗ uẩn khúc, làm cho người đọc có lúc không rõ tác giả tán thành
cái gì, phản đối cái gì. Ví dụ: một mặt tác giả thể hiện Đường Huyền Trang và Tôn Ngộ
Không như những người tự động hành hương đi tìm chân lý, nhưng mặt khác, tác giả lại miêu
tả Phật Tổ chủ động phái Quan Âm sang Trung Quốc tìm người truyền đạo về Phương Đông.
Việc đi thỉnh kinh cũng còn được mô tả như là sự chấp nhận ý muốn của nhà vua Đường Thái
Tông. Như vậy, việc đi tìm chân lý chỉ là thừa hành mệnh lệnh nhà Phật và nhà vua và do đó,
mọi sự phản kháng đấu tranh đều trở nên vô nghĩa"[53/19]. Ý kiến đánh giá trong câu văn
cuối cùng của Lương Duy Thứ kể trên đây cho phép chúng ta khẳng định thêm: quả thực
Đường Tăng là một hình tượng nhân vật được cấu thành bởi hai lực lượng cũng là tư tưởng
không nhỏ và phức tạp. Cũng trong ý kiến đánh giá nói trên, Lương Duy Thứ cho rằng - như
thế -thì mọi sự phản kháng đấu tranh đều trở nên vô nghĩa. Có lẽ, phần ý kiến này là xét đất tận
cùng vấn đề. Ở một phía khác, phía mục đích hành động của nhân vật, có lẽ chúng ta cũng cần
ghi nhận công lao nhất quán của Đường Tăng trong suốt quá trình đi Tây Thiên. Trần Xuân
Đề cũng xác nhận điều này: "Việc Đường Tăng không quản trăm cay nghìn đắng cùng Ngộ
Không vượt qua biết bao trở ngại khó khăn, trèo đèo lội suối sang tận Tây Thiên để lấy kinh
Phật trở về Đông Thổ là điều đáng được khẳng định"[13/119]. Từ tất cả những vấn đề về hình
tượng nhân vật Đường Tăng nói trên, có thể thấy rằng, đạo đức, nhân cách, tính cách... của
Đường Tăng như là những điều "có sẵn". Những yếu tố này đã bộc lộ trong suốt quá trình
thỉnh kinh, trên các không gian địa lý cụ thể. Nó có tính "cố định", "cố thủ" của bản thân nhân
vật hơn là được tương tác và bị chi phối của các không gian. Do vậy, các không gian được xây
dựng trong tác phẩm trong quan hệ với hình tượng nhân vật Đường Tăng trở nên ít có ý nghĩa.
Cùng dạng với hình tượng nhân vật Đường Tăng là hình tượng Trư Bát Giới. Xuất hiện
từ hồi thứ mười tám và đi suốt với đoàn thỉnh kinh bằng tất cả những ưu điểm, khuyết điểm,
Trư Bát Giới cũng là nhân vật gây nhiều ấn tượng vừa thú vị, vừa trần tục, gần gũi với đời
thường. Bàn về nhân vật Trư Bát Giới, Giáo sư Lương Duy Thứ viết: "...ở Trư Bát Giới chúng
ta lại tìm thấy tất cả những cái bình thường, thậm chí hèn mọn của con người. Được vũ trang
bằng cái cào cỏ, y có dáng dấp một nông dân. Y ham lao động, suy nghĩ đơn thuần, nhưng
cũng rất có tư lợi, thích nhàn nhã, dễ bị cám dỗ bởi sinh hoạt vật chất. Không thể coi Trư Bát
Giới là "điển hình của dục vọng", là "con lợn lòng của loài người". Hình tượng Trư Bát Giới
đa dạng hơn thế và do đó cũng lớn hơn thế"[5/19]. Ý kiến trên đây rất căn bản và bao quát về
nhân vật. Xét ý nghĩa của mối quan hệ giữa hình tượng nhân vật và không gian nghệ thuật,
chúng ta sẽ tìm hiểu thêm một vài khía cạnh cụ thể. Trước hết, có thể thấy từ trong bản chất,
Bát Giới luôn có tinh thần dao động. Điều này, rải rác có thể tìm thấy sự xuất hiện của nó trên
suốt cuộc hành trình đi Tây Thiên, nhất là khi gặp khó khăn, tai ách. Trong tác phẩm, biểu
hiện đầu tiên của tinh thần dao động này xuất hiện ở hồi thứ 19 - đoạn tự phát ngôn của Trư
Bát Giới khi giả từ gia đình: "Gởi lời chào mẹ Vợ, dì nhớn, dì bé, anh em rể, cậu cô chú bác,
tôi hôm nay đi làm hòa thượng, không kịp đến chào, xin chớ trách. Thưa trượng nhân, bố hãy
trông nom nhà con cho cẩn thận, hễ lấy không được kinh, trở về hoàn tục, con lại trở về nhà bố
ở rể làm ăn như trước" (TP.T1 - tr.429). Từ nội dung của câu văn thứ hai, ta thấy lộ ra "tính
nước đôi" trong ý nghĩ của Trư Bát Giới. Thật ra, đó là tinh thần dao động, hoang mang. Một
trong những loại việc của tinh thần hoang mang, dao động thường xảy ra nhất ở Trư Bát Giới
là việc đòi chia hành lý, giải tán đoàn thỉnh kinh, ai lo phần nấy. Biểu hiện hoang mang dao
động này, như đã nói, là có từ bản chất của nhân vật, trước khi tham gia cùng đoàn thỉnh kinh.
Khi theo đoàn thỉnh kinh, đi qua nhiều không gian địa lý cụ thể thì điều đó vẫn tiếp tục bộc lộ.
Nếu so sánh với nhân vật Đường Tăng về việc bộc lộ thái độ trên đường đi thì Trư Bát Giới có
khác. Khi gặp bất trắc, gian nguy thì Đường Tăng thường khiếp sợ, khóc sụt sùi và nhiều lần
ngã từ trên ngựa xuống đất. Lương Duy Thứ xem nhân vật Đường Tăng là ngây thơ và không
có biện pháp gì khả thủ là đúng. Trong khi đó, Trư Bát Giới "có vẻ bình tĩnh" hơn. Đành rằng
Trư Bát Giới cứ đòi chia hành lý, giải tán đoàn và có khi đang giao chiến với yêu ma lại trốn
vào bụi cây để ngủ, nhưng rõ ràng, những toan tính, dự định của Trư Bát Giới được diễn ra
tiệm tiến hơn. Còn Đường Tăng thì dường như là "lập tức" bộc lộ tình trạng mất phương
hướng xử lý sự cố. Xét ở chiều không gian tác động tới tính cách nhân vật thì quả những
không gian có nội dung khó khăn đã tác động đến tâm lý tính cách của Trư Bát Giới.
Một trong những nét tính cách vốn có khác của Trư Bát Giới là việc ham mê sắc dục.
Câu chuyện tiêu biểu hơn cả về vấn đề này trong tác phẩm là chuyện Trư Bát Giới đã vướng
phải sắc dục ở trang viên họ Giả. Đọc tác phẩm, chúng ta đều biết là Lê Sơn Thánh Mẫu vâng
lệnh Quan Thế Âm Bồ Tát cùng hai vị Phổ Hiền, Văn Thù đến thử lòng thiền của thầy trò
Đường Tăng. Nói rằng việc ham mê sắc dục cũng là nét bản chất, vì tácphẩm cho ta biết Trư
Bát Giới từng có lỗi say rượu trêu ghẹo tiên nga ở hội bàn đào, phải đầu thai xuống hạ giới làm
thân súc vật chịu tội. Do cội nguồn của vấn đề vốn có từ sâu xa như vậy, nên việc vướng phải
sắc dục trên đường thỉnh kinh cũng là điều dễ hiểu.
Bên cạnh tinh thần hoang mang dao động, tính hiếu sắc dục, Trư Bát Giới còn có lòng
tham, tính lười biếng, thích tư lợi. Tính tham ăn, ăn nhiều, ăn uống chẳng kể sĩ diện là nét
thường thấy nhất ở Trư Bát Giới. Từ việc ăn quả nhân sâm ở Ngũ Trang Quán, ăn cơm chay
nhiều vô kể ở các trang viên cho đến hồi thứ 99, dự tiệc thếch đãi ở gia đình họ Trần Gia
Trang, Trư Bát Giới vẫn không thay đổi cố tính tham ăn. Lòng tham của Trư Bát Giới không
phải bộc lộ riêng ở mỗi việc ăn uống, mà còn tham lợi về tiền bạc ngay cả trong hoàn cảnh
nhiều khó khăn của đoàn thỉnh kinh. Để có lợi cho mình, có khi Trư Bát Giới còn nói
lời xúc xiểm đối với Tôn Ngộ Không. Ở hồi thứ 31, lúc Trư Bát Giới sắp bị Tôn Ngộ Không
đánh khuyến cáo thì Trư Bát Giới đã nhanh trí lợi khẩu nhằm tránh tội. Ở hồi thứ 49, khi ba
anh em cùng đi cứu Đường Tăng ở sông Thiên Hà mà Trư Bát Giới vẫn còn chơi khăm đối với
Tôn Ngộ Không. Những nét phẩm chất, tính nết trên đây của Trư Bát Giới thật ra cũng cần
được nhìn nhận từ nhiều phía. Có thể nói, đây là nhân vật phức tạp về mặt tính cách. Nhìn
rộng hơn, ta sẽ thấy, ở mỗi tâm lý, mỗi nét tính cách như vậy đều gần như có hai phía tốt và
xấu (hoặc là tích cực hoặc là tiêu cực). Cả hai phía này thống hợp trong một hình tượng nên có
khi như một nghịch lý. Chúng ta đều biết, việc đi thỉnh kinh, thật ra Trư Bát Giới chẳng hiểu
sâu sắc gì và cũng không lấy gì làm hứng thú, nhưng Bát Giới đã theo suốt cuộc hành trình và
hầu như gánh hành lý nặng nề của cả đoàn ấy cũng cơ hồ ở suốt trên vai Bát Giới. Tuy có khi
Bát Giới nói lời xúc xiểm dèm pha có hại cho Tôn Ngộ Không, nhưng ở hồi thứ 41, chính Trư
Bát Giới đã trực tiếp chữa bệnh cho Tôn Ngộ Không khỏi bệnh (do khói độc của Hồng Hài
Nhi). Những quá trình ba anh em cùng đi cứu sư phụ Đường Tăng, có lúc Trư Bát Giới đã thúc
nhanh Tôn Ngộ Không không được chậm trễ, phải đi cứu gấp, dù trong đêm tối tù mù. Trong
suốt cuộc hành trình đến Tây Thiên, Trư Bát Giới đã làm nhiều công việc hết sức nặng nhọc.
Đặc biệt, khi đoàn thỉnh kinh bị ách tắt ở ngõ Hy Thị, Trư Bát Giới đã dùng chính mũi của
mình ủi đường phát quang cho cả thầy trò được tiếp tục lên đường. Có lẽ ở chi tiết này, tính
cách nhân vật đã biến hoàn cảnh từ khó khăn trở nên thuận lợi. Đây cũng là chi tiết có ý nghĩa
trong mối quan hệ giữa hình tượng nhân vật và không gian nghệ thuật. Ở đây, tuy vẫn là
không gian địa lý, nhưng chính những khó khăn từ không gian địa lý đã tác động vào tâm lý
nhân vật, làm nảy sinh một tính cách can trường. Có thể còn có nhiều biểu hiện, chi tiết khác
về tính cách của Trư Bát Giới. Nhưng chỉ những điều trên đây - cả về hai phía tốt và xấu -
chúng ta đều thấy đây là một hình tượng nhân vật không nên đánh giá một chiều. Rộng mở và
cũng là thận trọng hơn, có thể nói như ý kiến của Lương Duy Thứ đã dẫn ở trên: đó là một
hình tượng "đa dạng" và "lớn hơn" những nhận biết xưa nay về nhân vật này.
Xem xét vấn đề theo mục đích đặt ra, có lẽ mối quan hệ giữa hình tượng nhân vật và
không gian nghệ thuật trong trường hợp Trư Bát Giới, chúng ta nên cảm nhận gần gũi với Tôn
Ngộ Không. Trong các nhân vật của tác phẩm, xét về tài phép thì sau Tôn Ngộ Không, chỉ có
thể là Trư Bát Giới. Trư có 36 phép thần thông biến hóa. Không thể nào sánh được với 72
phép của Tôn Ngộ Không, nhưng nhờ 36 phép biến hóa này mà Trư Bát Giới đã tham gia
chiến đấu, trợ chiến với Tôn Ngộ Không rất nhiều trận oanh liệt và thắng lợi. Tính chiến đâu,
bất khuất của Trư Bát Giới cũng đáng được ghi nhận. Trư cũng có nhiều lần chiến bại, bị yêu
ma bắt sống, nhưng vẫn không đầu hàng, thỏa hiệp. Chính nhờ tài phép biến hóa của mình mà
Trư Bát Giới cũng thích ứng với nhiều không gian chiến đấu khác nhau. Trư cũng đi mây về
gió, đánh với nhiều yêu tinh trên không trung và rất rành không gian sông nước. Tuy không
bằng Tôn Ngộ Không về tầm cỡ, chiều kích trong quan hệ với các không gian với các trận
kịch chiến khác nhau, nhưng có thể nói, nhân vật Trư Bát Giới cũng có được sự tương hợp,
thích ứng nhất định giữa tính cách và hoàn cảnh, không gian nghệ thuật. Và như vậy, nếu so
với Đường Tăng về vấn đề đang nói thì tính cách Trư Bát Giới có ý nghĩa hơn.
Có nhiều ý kiến cho rằng việc xây dựng hình tượng nhân vật Trư Bát Giới của Ngô Thừa
Ân là để tạo sự đối lập với nhân vật Tôn Ngộ Không, làm cho rõ hơn hình tượng Tôn Ngộ
Không. Ý kiến này có lý. Ở đây, chúng ta vẫn tiếp tục tìm hiểu ý nghĩa của mối quan hệ giữa
hình tượng nhân vật và không gian nghệ thuật trong trường hợp Tôn Ngộ Không.
Trước hết phải nói ngay rằng, Tôn Ngộ Không là hình tượng rực rỡ nhất trong Tây Du
Ký. Với hình tượng nhân vật trung tâm này, hoàn toàn có điều kiện để nhận ra ý nghĩa rất thú
vị của chính nhân vật với các không gian nghệ thuật trong tác phẩm.
Như ta biết, sau khi học được bảy mươi hai phép thần thông biến hóa, tu luyện xong
phép cân đẩu vân do Tổ sư truyền dạy, Tôn Ngộ Không bắt đầu nhập thế thực hiện các hoài
bão của mình. Tôn Ngộ Không đã xuống Long Cung bắt Long Vương nộp gậy thần, xuống
Âm ti bắt Diêm Vương xóa hết tên họ loài khỉ trong sổ tử để được trường sinh, đánh lên Thiên
cung bắt Ngọc Hoàng phải nhường ngôi, rồi sau đó, khi phải chấp nhận thua bàn tay của Phật
Tổ Như Lai thì Tôn Ngộ Không lại tạo sự nghiệp mới trên suốt cuộc hành trình bảo hộ Đường
Tăng để đi Tây Thiên thỉnh kinh. Trong truyện ký anh hùng của nhân vật ở thời gian trước khi
đi Tây Thiên, chúng ta thấy Tôn Ngộ Không xứng đáng "là hình tượng một nhân vật phản
nghịch triệt để, dám thách thức cả kẻ thống trị tối cao" [54/215,217,218]. Đồng thời với
những vận động nổi bật lòng dũng cảm của Tôn Ngộ Không trong 7 hồi đầu, chúng ta thấy có
những không gian nghệ thuật hết sức tiêu biểu: không gian Long cung - Âm ty, không gian
thiên đình, thượng giới...
Ở những không gian này, toàn bộ tính cách của Tôn Ngộ Không được thể hiện hết sức
đầy đặn. Đặc trưng tính cách của Tôn Ngộ Không "là phản kháng, nổi loạn, dám đấu tranh và
biết đấu tranh" [54/217]. Trong một xã hội còn sự tri vì của tôn ti trật tự, kỷ cương của phong
kiến, nho giáo thì việc phản kháng, nổi loạn, dám đấu tranh chống lại với mọi thứ quyền uy
của bề trên, vốn là vấn đề khó có thể xảy ra. Vì cuộc đấu tranh của Tôn Ngộ Không "tượng
trứng cho những nguyện vọng sâu kín của nhân dân lao động bao đời chịu áp bức"
[54/215,217,218], là vấn đề cực kỳ lớn lao, cao rộng, nên nói cũng chỉ tương ứng với những
không gian rộng lớn, có chiều kích quy mô. Thử hình dung một nhân vật anh hùng luôn đòi
hỏi cho kỳ được những điều lớn lao như vũ khí vô địch, được trường sinh bất tử, đòi Ngọc
Hoàng phải nhường ngôi... mà chỉ phải vận động trong một phạm vi không gian nhỏ hẹp, tầm
thường... thì khó có thể thấy tính chất ứng hợp giữa việc làm và hoàn cảnh, giữa tính cách và
phạm vi hoạt động. Do hình thức nghệ thuật trong tác phẩm văn học là vấn đề có quan niệm
tính, nên nhà văn Ngô Thừa Ân đã xây dựng những không gian nghệ thuật cho nhân vật của
mình. Những không gian này vốn không có trong thực tế cuộc sống, nhưng bằng vào tài năng
hư cấu, trí tưởng tượng cực kỳ phong phú và một bút pháp lãng mạn thần thoại, nên tác giả đã
thực hiện được ý định nghệ thuật, về phương diện cấu trúc cũng nói rằng, nhà văn đã có
những chuẩn bị tích cực và kín đáo cho quá trình bộc lộ tính cách về sau của nhân vật Tôn
Ngộ Không. Đó là việc cho Tôn Ngộ Không đi học đạo và đã gặp được Tổ sư hết sức xứng
đáng. (Riêng trong quan hệ này như vẫn còn điều gì thật "bí ẩn", nhất là , khi chia tay, Tổ sư
căn dặn Tôn Ngộ Không không được nhắc gì về sư phụ).
Nhờ học được đạo, tức có bảy mươi hai phép biến hóa, phép cân đẩu vân mà khi nhập
thế, Tôn Ngộ Không rất thuận lợi trong việc nới rộng không gian vận động của mình. Theo
bước chân đầy ảo hóa của nhân vật, chúng ta thấy Tôn Ngộ Không tay bắt quyết, niệm thần
chú, mở khóa rẽ nước, đi thẳng đến đáy bể Đông gặp Long Vương để đòi vũ khí vô địch; rồi
tiếp đến điện Sâm La, nơi ngự trị của Diêm Vương để đòi xóa tên tuổi của mình cùng giống
loài trong sổ tử để được trường sinh. Chuyện chiếm lĩnh vũ khí Cây thiết bổng, chuyện đòi
xóa tên trong sổ tử điều là chuyện phi thường, hi hữu... không thể thực hiện được ở cõi đời
trần thế. Nó chỉ có thể thực hiện được ở một không gian đầy hư cấu mang tính chất lãng mạn,
và cũng hết sức phi thường. Và quả là các không gian Long Cung - Âm Ty được trình bày ở
những trang viết trên đã cho thấy cái hợp lý giữa khát vọng con người và nơi chốn thực hiện
khát vọng ấy. Miêu tả các không gian đầy tính chất thần kỳ cho nhân vật vận động, tác giả rất
chủ định, nên khuôn diện của các không gian này cũng thật sinh động, bề thế. Chẳng hạn ở
không gian Long Cung, không phải chỉ có Long Vương và một số thuộc hạ mà còn có cả các
huynh đệ của Long Vương ở Nam Hải, Bắc Hải, Tây Hải... và tất cả họ, dù cố tình hợp lực,
nhưng lần lượt nhượng bộ đối với Tôn Ngộ Không. Một không gian sống động với một lực
lượng bề thế như vậy, chỉ tôn thêm người anh hùng Ngộ Không với khát vọng hết sức mãnh
liệt của chính nhân vật. Ngay ở không gian Âm ty, một không gian như thêm một tầng nữa của
trí tưởng tượng của nhà văn: không gian trong giấc mơ của Tôn Ngộ Không - cũng được trình
bày thật sinh động kỳ thú. Điều này cũng làm cho khát vọng được thoát ra ngoài quy luật sinh
tử của nhân vật thêm hợp lý và thú vị. Còn khi Tôn Ngộ Không đánh lên Thiên Cung thì
không gian Thượng giới này cũng được miêu tả đúng như tất cả sự cao vời, trang nghiêm và
bất khả xâm phạm của nó. Nếu hành trình lên trời của Tôn Ngộ Không là quá trình thể hiện
một tính cách bất khuất, không chịu thừa nhận bất cứ một sự tri vì nào thì không gian Thiên
Cung ấy là nơi chốn tung hoành ngang dọc vào bậc nhất của cả cuộc đời nhân vật. Không gian
ấy từ cửa Nam Thiên, Linh Tiêu bảo điện đến chính điện với tất cả sự uy nghi, kỷ cương, với
một hệ thống nhân sự ngự trị từ Ngọc Hoàng đến các thuộc hạ, như ta thấy, đều là những đối
tượng đã bị Tôn Ngộ Không coi thường, phê phán. Chỉ một thân một mình đương đầu chống
lại một thế lực đồ sộ, bề thế như thế, Tôn Ngộ Không xứng đáng là người anh hùng bất khuất.
Một trong những việc cực kỳ to lớn và có ý nghĩa nhất trong tính cách bất khuất của Tôn Ngộ
Không là việc đòi Ngọc Hoàng nhường ngôi cho mình. Những đoạn miêu tả của nhà văn về
việc này đem lại nhiều khoái trá, kỳ thú cho người đọc. Đòi hỏi của Tôn Ngộ Không, tính cách
của Tôn Ngộ Không rõ ràng tương xứng với các đối tượng của mình, đồng thời ở đây cũng là
tương xứng với không gian của quan hệ nhân vật. Trong sự tương xứng, tương hợp, hòa điệu
giữa tính cách nhân vật với không gian nghệ thuật ở đây, cuối cùng chúng ta đều thấy sự vượt
trội rực rỡ của hình tượng nhân vật và như vậy, cái không gian cao vời, kỷ cương, thâm
nghiêm, thiêng liêng kia chỉ là sự tôn vinh thêm, làm ngời sáng thêm người anh hùng quái kiệt
Tôn Ngộ Không. Toàn bộ truyện ký anh hùng về nhân vật Tôn Ngộ Không như đã nói, làm
sao có thể xem đấy là một câu chuyện mua vui? Dù ít hay nhiều, đậm hay nhạt, nó cũng là
cách "gởi gắm một tâm sự, thể hiện một lý tưởng, bênh vực một quan niệm nhân sinh"
[54/206,207] của người sáng tạo ra nó - người mà trong lòng luôn "mài dũa dao trừ tà", về vấn
đề này, các giáo sư Lương Duy Thứ, Trần Xuân Đề cũng đã bàn đến với đủ lý lẽ, mà chúng tôi
đã có dịp khẳng định lại ở phần viết trên.
Nếu trong bảy hồi đầu là truyện ký anh hùng về Tôn Ngộ Không thì từ sau khi nhận lời
cùng đi Tây Thiên lại là quá trình dằng dặc để nhân vật này tự xây dựng sự nghiệp cho mình.
Khi Tây Du Ký từ trong truyền thuyết, thoại bản đến bàn tay sáng tạo của Ngô Thừa Ân,
Lương Duy Thứ đã chỉ ra ba mặt thay đổi của tác phẩm [54/206,207]. Ba mặt này, cơ bản
cũng được thể hiện trong quá trình cùng đi thỉnh kinh của nhân vật. Lần theo quá trình ấy,
chúng ta cũng thấy nhiều không gian lần lượt được mở ra. Nếu lòng dũng cảm, tinh thần bất
khuất là nét nổi bật trong truyện ký anh hùng của Tôn Ngộ Không thì tài năng, sự mưu trí... là
nét khá nổi bật của quá trình xây dựng sự nghiệp của nhân vật.
Theo dõi sự phát triển của tác phẩm, quá trình mở ra của nhiều không gian trên đường
thỉnh kinh, chúng ta thấy rằng, dù đoàn thỉnh kinh có nhiều người, nhưng cũng chủ yếu chỉ
một mình Tôn Ngộ Không là nhân vật đương đầu, đối trọng với tất cả các loại yêu ma quỷ
quái. "Trong cuộc đấu tranh với đủ loại yêu ma quỷ quái, y luôn luôn bền bỉ dẻo dai, thọc sâu
tận sào huyệt, vật lộn đến cùng, chưa đạt mục đích thì chưa buông tha. Gặp khó khăn y luôn
lạc quan, không bao giờ khóc lóc như Đường Tăng, hay buông lời chán nản như Trư Bát Giới"
[54/216,217]. "Nói chung thì tính cách của nhân vật Tôn Ngộ Không trên đường đi lấy kinh
đã kế thừa tính cách của người anh hùng trong chuyện "Đại náo thiên cung"[12/108].
Có thể tầm vóc cuộc chiến đấu của Tôn Ngộ Không trên đường thỉnh kinh không thể
sánh được với tầm vóc các cuộc đại náo thiên cung, long cung, nhưng các cuộc chiến đấu trên
đường thỉnh kinh lại phong phú về không gian, về các đối tượng quỷ quái mà Tôn Ngộ Không
như nhân vật duy nhất có nhiêm vụ chiến thắng bọn chúng, vẫn là một tính cách nhất quán ấy,
vẫn những tài phép đã thuần thục ấy, Tôn Ngộ Không tiếp tục tung hoành chiến đấu với vô số
những đối tượng khác nhau: các loại yêu quái, các bọn đạo sĩ, bọn ma quan gian ác, bọn giả
dạng nhà sư, bọn dựa dẫm các thế lực trên thượng giới. Nếu chúng ta đã từng thấy Tôn Ngộ
Không tung hoành ngang dọc ở các không gian Long Cung, Thiên đình thì từ sau khi thỉnh
kinh, Tôn Ngộ Không vẫn tiếp tục phát huy sở trường ấy của mình ở rất nhiều không gian:
những con đường, đỉnh núi, hang động, dòng sông, bến bãi, chùa chiền, trang viên... Có thể
nói rằng, việc biến hóa khôn lường của Tôn Ngộ Không trong quá trình chiến đấu là điều cực
kỳ lý thú, hấp dẫn.
Đọc tác phẩm, các từ ngữ : nhanh như chớp, trong chốc lát, thoắt một cái, lắc một cái,
xoa mặt một cái... luôn xuất hiện ở thời điểm bắt đầu biến hóa khôn lường của Tôn Ngộ
Không. Với ba sợi lông đặc biệt, tám mươi tư-nghìn cái lông, bảy mươi hai phép thần thông,
phép cân đẩu vân, gậy như ý chính là tài sản độc đáo, vô giá đã giúp Tôn Ngộ Không có điều
kiện ngang dọc xa gần trên vô số những hoàn cảnh, không gian khác nhau. Con người đã
chiến đấu với Đại lực ma vương từng biến thành muôn trượng, đầu như Thái Sơn, mắt như
mặt trời, mặt trăng ấy (hồi thứ 61) thì cũng đủ khả năng biến hóa thành những sinh thể cực kỳ
nhỏ bé để làm nhiệm vụ đánh phá kẻ thù. ở các hồi 49, 52, 55, 65, 71, 89, 92, 97,... ta thấy Tôn
Ngộ Không từng biến hóa ra con cua, con dế, con rệp, con ong mật, con chuột tiên, con sâu
ngủ, con bướm, con đom đóm, con sâu bay... là những chứng minh hết sức thú vị. Cũng có thể
thấy một phương pháp tốt nhất của Tôn Ngộ Không là sử đụng "miếng tứ bình", chui tạt vào
trong bụng đối phương để đâm ngang, chém dọc làm cho kẻ thù không thể nào chịu nổi, phải
khuất phục ngay. Trong tất cả những cuộc chiến đấu như thế, Tôn Ngộ Không luôn tự ứng
hợp với các không gian cụ thể. Bảo vệ Đường Tăng đi Tây Thiên, chiến đấu và chiến thắng,
đó là nhiệm vụ, là công đức, là sự nghiệp của Tôn Ngộ Không. Việc Phật tổ Như lai nói ở hồi
cuối cùng của tác phẩm: "rất mừng con biết bỏ điều xấu, làm việc lành, trên đường đi phục ma
trừ quái, trọn vẹn trước sau, gia thắng chức to chính quả, phong làm Đấu Chiến Thắng Phật"
đã góp phần khẳng định quá trình thực hiện nhiệm vụ và hoàn thành nhiệm vụ của Tôn Ngộ
Không.
Thực hiện nhiệm vụ của mình, Tôn Ngộ Không nhất quán một lòng một dạ, đồng thời
thời giữ nguyên phẩm hạnh, đạo đức, tính cách ngay thẳng, bất khuất của mình. Khác với tính
tư lợi, ham ăn, nói lời đâm thọc... của Trư Bát Giới, Tôn Ngộ Không luôn quên mình vì nhiệm
vụ, không mảy may nghĩ đến việc mứu cầu quyền lợi cá nhân. Bát Giới dẫu có đối xử không
tốt với mình, Tôn Ngộ Không bao giờ cũng đứng ở tư cách sư huynh mà xem nhẹ vấn đề.
Đường Tăng nhiều lần phê phán, thậm chí đuổi Tôn đến ba lần, nhưng Tôn vẫn rất thương sư
phụ. Đang bay trên đỉnh núi tìm phương cứu sư phụ mà nghe tin sư phụ bị yêu giết thịt, Tôn
vô cùng đau đớn và đã đứng ở sườn núi "khóc như mưa như gió". Khi trở về động Thủy Liêm,
núi Hoa Quả vì bị Đường Tăng đuổi, nghe nước thủy triều lên, mà lòng Tôn nhớ thương và lo
cho sư phụ đến rưng rưng nước mắt. Những điều này, cho thấy Tôn Ngộ Không là một con
người giàu lòng nhân ái, tình nghĩa, vị tha. Chúng ta thấy Đường Tăng xem Tôn Ngộ Không
là người làm việc ác, hay đánh chết người. Kỳ thực, không làm thế, làm sao có thể dọn đường
cho Đường Tăng đi Tây Thiên. Những bọn bị Tôn trừng trị ấy đều là ma yêu quỷ quái, nhưng
con mắt phàm trần chưa đắc đạo của Đường Tăng không thể nhìn thấu được. Trong tác phẩm,
ở hồi thứ 85, trang 286, người kể chuyện có viết về tầm vóc con người và tính chất của việc
làm của Tôn Ngộ Không như sau: "Hành giả nhất sinh là người hào kiệt, không hề đánh vụng
trộm ai bao giờ". Điều này xác định thêm tư thế kiệt xuất và tính "quang minh chính đại" trong
các cuộc chiến đấu, chiến thắng của người anh hùng này.
Là sự kế thừa và phát triển những đặc điểm từng có trong các cuộc đại náo Long Cung,
Thiên Cung, tính cách của Tôn Ngộ Không trên những không gian trần thế đi thỉnh kinh đã bổ
sung thêm các nét bất khuất mới. Ta thấy rằng trong đại náo Long Cung, Thiên Cung cơ bản
tính cách ấy là lấn tới, đòi những nhượng bộ và sự thực cũng đã thành công trong các đòi hỏi.
Còn trong chiến đấu hàng phục các loại yêu ma thì khi lâm thời thua cuộc, tính cách ấy vẫn
kiềm giữ và tìm mưu trí khác để tiếp tục triệt hạ cho được đối phương, mà việc nghĩ đến sự
giúp đỡ của các đấng bậc ở Thượng giới là một ví dụ. Mặt khác, do biết được có tình trạng có
sự quan hệ, thông nối giữa các lực lượng ma quái với Thượng giới, thì Tôn Ngộ Không vừa
cầu viện, vừa nói thẳng vào mặt hoặc ngẫm nghĩ trong lòng về các lực lượng Thượng giới.
Hoàn cảnh dồn tới những câu nói bất kính của Tôn Ngộ Không đối với Quan Âm ở hồi thứ ba
mươi lăm, với Phật Tổ Như Lai ở hồi bảy mươi bảy, hồi chín mươi tám... cũng là điều dễ hiểu.
Đọc lại những phát ngôn: "Đại thánh nghe lời, trong lòng ngẫm nghĩ: "Cái bà Bồ Tát này thực
chẳng ra sao! Khi xưa giải nạn cho Lão Tôn, bảo phải đưa Đường Tăng sang Tây Thiên lấy
kinh, ta đã nói đường lối gian nguy khó đi, người đã từng hứa với ta nếu gặp nạn gấp, sẽ thân
hành đến cứu ta. Bây giờ lại cho tinh ma hại ngầm, ăn nói không thực như thế đáng kiếp cả đời
không có chồng!" (TP.II.tr.57), "Bạch Như Lai, tôi nghe thấy người ta nói yêu tinh có họ thân
thiết với Ngài", "Bách Như Lai, nếu đem so sánh ra, người vẫn là cháu ngoại của yêu tinh"...
(TP.III.tr.228), chúng ta càng thêm thấy quan niệm và tính cách của Tôn Ngộ Không vẫn luôn
luôn nhất quán. Cũng có khi, suy nghĩ, nhận xét của người anh hùng này khá "biện chứng" và
như là một sự thực "sòng phang". Chẳng hạn, ở hồi thứ chín mươi tám, khi Đường Tăng đã
tỉnh ngộ, vội quay lại tạ ơn ba người đồ đệ thì Tôn Ngộ Không nói ngay: "Cả hai bên đều
không ai phải tạ ai cả, kẻ này người kia đều giúp đỡ lẫn nhau. Chúng tôi nhờ sư phụ giải thoát,
mượn đường lối tu hành, may được thành chính quả; sư phụ cũng nhờ chúng tôi bảo hộ, giữ
đạo tu hành, mừng thoát khỏi phàm thai tục cốt". Từ trong hành trình tồn tại, vận động và phát
triển của tính cách nhân vật, chúng ta thấy có nhiều không gian khác nhau đã lần lượt xuất
hiện, vừa như là vai trò, điểm tựa cho sự vận động tính cách, vừa như là một hình thức tổ chức
có tính chất tương hợp, hòa điệu cho hành động nhân vật. Sự phân biệt thành những không
gian riêng như luận văn đã trình bày, thực ra, cũng không loại trừ một cái nhìn biện chứng về
tính chất quan hệ thông nối lẫn nhau của chúng. Theo dõi tác phẩm từ khi Đường Tăng, Tôn
Ngộ Khổng... bắt đầu đi thỉnh kinh thì ta thấy Tôn Ngộ Không có khá nhiều liên hệ đối với các
lực lượng ở thế giới thần kỳ. Đó tức là nhiều lần - khi bị mất phương hướng giải cứu tại nạn -
thì Tôn Ngộ Không lại dùng phép Cân đà li vân bay đi đến các không gian Tây Thiên, Thiến
Đình, Long Cung, Âm Ti, Nam Hải.... Và như vậy, giữa không gian thần kỳ, thượng giới với
không gian Trần thế luôn có quan hệ với nhau. Điều đáng chú ý hơn trong quan hệ này là chủ
yếu chỉ có Tôn Ngộ Không với tài phép kỳ diệu của nhân vật mới có khả năng thông nối đối
với mọi chiều của hai không gian cơ bản ấy. Điều này cũng góp phần nói thêm rằng ở bất cứ
không gian nào, Tôn Ngộ Không cũng là nhân vật chính và chính Tôn Ngộ Không mới là
người quyết định thành bại của cuộc Tây Du.
Từ những điều trên đây, có thể thấy rằng, nếu ở không gian thần kỳ, sự dũng cảm chiến
đấu của nhân vật với những đòi hỏi lớn, với những trận kịch chiến lớn luôn luôn tương xứng,
tương hợp, hòa điệu với không gian lớn... thì ở không gian Trần thế, sự mưu trí để lập nghiệp
của Tôn Ngộ Không cũng đã tương hợp với các không gian cụ thể theo hướng tính cách đã tìm
mọi cách để khắc phục hoàn cảnh trở lại phục vụ cho mục đích của mình. Tôn Ngộ Không
chiến đấu ở không gian trần thế tuy dài dằng dặc trên nhiều không gian, nhưng do cuộc đấu
tranh hầu như cũng chỉ có một loại việc chính là hàng phục yêu quái, nên có thể nói, so với các
cuộc chiến đấu long trời lỡ đất ở không gian thần kỳ thì "Phạm vi đấu tranh có hẹp hơn,
phương pháp và phương thức đấu tranh khác trước"[43/118]. Có một điều làm chúng tôi luôn
phân vân trong cảm nhận đối với người anh hùng quái kiệt Tôn Ngộ Không - người anh hùng
có một cuộc đời, một tính cách, một khát vọng hết sức hoành tráng, bất khuất và kỳ vĩ... mà lại
nhận lời đi Tây Thiên mười mấy năm ròng rã với không biết bao nhiêu tai ách gian nguy: có
một cái gì đó như rất "ngậm ngùi"! Cái ngậm ngùi trong cảm nhận này chắc chắn sẽ sáng dần
ra khi đọc lại những liên tưởng của các Giáo sư Lương Duy Thứ, Trần Xuân Đề về hình tượng
nhân vật Tôn Ngộ Không có ý nghĩa như một ký gởi tâm sự đời người của nhà văn Ngô Thừa
Ân....
3.2. Đôi nét về vấn đề thưởng thức tiếp nhận theo hướng Thi pháp.
Trước hết, vấn đề thưởng thức, tiếp nhận văn học là một lĩnh vực lớn của lý luận văn
học. Có thể nói rằng, chính cuộc sống lịch sử lâu dài của tác phẩm văn học sẽ dần dần làm cho
người đọc nhận ra tính phong phú của nó trên rất nhiều bình diện. Nhiều ý kiến cho rằng "Một
tác phẩm đã hoàn thành chưa nhất thiết đã hoàn tất" là điều rất có lý. Như ta biết, sau khi tác
phẩm văn học đã hoàn thành, được in ấn, phát hành thì nó đã cắt đứt mọi liên hệ về tâm lý,
sinh lý đối với người sản sinh ra nó. Từ đây, nó bắt đầu sống một cuộc sống riêng, trở thành
một "Tài sản văn hóa" chung của toàn xã hội. Hành trình này của tác phẩm văn học thật khó có
thể tổng kết được. Một điều thường xảy ra trong quá trình tiếp nhận tác phẩm ở độc giả qua
các thời gian và không gian khác nhau là có nhiều cách tiếp nhận, cách hiểu có thể ngoài
những dự tưởng của tác giả đã sáng tác ra tác phẩm và người đọc, những nghiên cứu về tiếp
nhận văn học như một bình diện mới của lý luận văn học trong lịch sử xưa nay đã cho thấy rất
rõ điều này. Trong bài "Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc ở Việt Nam", Phan Ngọc có
nói về việc tiếp nhận khác nhau đối với tác phẩm "Tam Quốc Chí diễn nghĩa" của La Quán
Trung như sau: "Bản dịch từ Thái Lan được xem là mẫu mực của phong cách văn học và góp
phần quan trọng vào văn học Thái Lan. Người Thái Lan xem đó là quyển sách dạy về các mưu
mô chính trị, quân sự. Chỉ riêng trong giai đoạn 1935 - 1940 đã có 25 vạn bản dịch chỉ riêng
về trận Xích Bích. Người Mãn Châu dịch nó từ năm 1631 và xem nó là công cụ huân luyện
con người chống lại quân Minh, mở mang bờ cõi chiếm Trung Hoa. Nước Triều Tiên trái lại,
nhìn nó như một vũ khí tinh thần chống lại nhà Thanh "Văn học của sự chiến thắng của tinh
thần diễn ra trong tấn kịch to lớn của vận mệnh lịch sử. Người Nhật thay nó là tiểu thuyết mở
đầu cho sự tiếp thu tiểu thuyết Trung Quốc. Người Mã Lai tìm ở đấy những bài học để làm
bầy tôi nhà vua"[38/54] ở Việt Nam, việc thưởng thức, tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du
qua nhiều thời đại cũng là trường hợp cho thấy thực tế này. Nguyễn Văn Hạnh và Huỳnh Như
Phương viết: "Đoạn trường Tân Thanh của Nguyễn Du là một trường hợp tiêu biểu về cách
tiếp nhận khác nhau. Dưới thời phong kiến, các nhà nho trung thành' với tư tưởng Khổng
Mạnh đã xem tác phẩm này như là minh chứng cho sự chiến thắng của Trung, Hiếu, Tiết,
Nghĩa. Sang thế kỷ XX, khi Phạm Quỳnh đề cao Truyện Kiều (Truyện Kiều còn, tiếng ta còn.
Tiếng ta còn, nước ta còn), bên cạnh thái độ trân trọng đối với di sản văn học dân tộc, không
thể phủ nhận một ý đồ chính trị nằm trong chính sách văn hóa của thực dân pháp. Rồi Đoạn
Trường Tân Thanh lại được các nhà văn lãng mạn tập trung khai thác ở nội dung giải phóng cá
tính và khát vọng về hạnh phúc cá nhân. Khi quan điểm Mác-xít trở thành quan điểm chính
thống trong nghiên cứu văn học, Đoạn Trường Tân Thanh được chú ý ở giá trị hiện thực và
giá trị nhân đạo, ở tiếng nói phản kháng trật tự phong kiến và bênh vực những số phận bi kịch,
những con người bị bách hại và ngược đãi. Trong khi đó, ở miền Nam trước 1975, tác phẩm
này hoặc vẫn được đánh giá dưới quan điểm đạo đức phong kiến, hoặc được tô đậm ở triết lý
định mệnh qua thuyết tài mệnh tương đố, hoặc được vận dụng để chứng minh cho sức sống
của tư tưởng hiện sinh"[15/137].
Với hai ý kiến về hai tác phẩm cổ điển lớn của hai nền văn học trên đây, quả vấn đề
thưởng thức, tiếp nhận tác phẩm văn học là không đơn giản. Do mục đích của luận văn, chúng
tôi không đi sâu vào vấn đề này. Ở đây, chỉ xin nói đôi nét về việc thưởng thức, tiếp nhận tác
phẩm Tây Du Ký theo hướng Thi pháp như đã tìm hiểu.
Ta biết giới nghiên cứu Việt Nam đã nghiên cứu nhiều về văn học cổ điển Trung Quốc,
trong đó, có tiểu thuyết Tây Du Ký. Các thành tựu nghiên cứu ấy, nhìn chung đã xem xét toàn
bộ các phương diện khác nhau của một chỉnh thể tác phẩm cụ thể. Như thế, hình thức nghệ thuật của mỗi tác phẩm cũng đã đều được tìm hiểu, phân tích. Trước khi Thi pháp học được
vận dụng để nghiên cứu các tác phẩm văn học thì các phương pháp nghiên cứu đã từng có
trong truyền thống vẫn tiếp cận và chiếm lĩnh được các giá trị tư tưởng - nghệ thuật của từng
tác phẩm. Nhưng, như luận văn đã có dịp nói, tiếp cận tác phẩm bằng thủ pháp học rõ ràng đã
mang lại thêm một cách hiểu mới cho tác phẩm. Cách tiếp cận này, bằng việc giải thích, phân
tích cụ thể các cách tổ chức những yếu tố thuộc hình thức của tác giả, đã đi đến sự khẳng định
thêm về mối quan hệ của chúng với nội dung tác phẩm, về cái lý mang tính chủ định của nhà
văn khi xây dựng tác phẩm của mình. Do vậy, nghiên cứu tác phẩm văn học bằng con đường
Thi pháp là một hướng khả thi để hiểu đầy đặn hơn về tác phẩm.
Đặt vấn đề nghiên cứu không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký, chúng tôi cũng nghĩ đến
hiện tượng say mê Tây Du Ký đã có từ lâu đời trong nhân dân ta. Sự say mê này cũng không
phân biệt già trẻ. Như thế thì việc nghiên cứu không gian nghệ thuật ở đây phỏng có đem lại
điều gì mới, khác hơn cho tác phẩm không?
Thực ra, tác phẩm Tây Du Ký đã được tìm hiểu, thưởng thức và nghiên cứu từ lâu. Kinh
nghiệm thưởng thức và nghiên cứu cho thấy rằng mỗi lần tiếp xúc với tác phẩm là mỗi lần
thêm được những cảm nhận mới, những nhận thức mới. Đối với loại tác phẩm kiệt tác, điều
này càng dễ được đồng tình. Trong việc thưởng thức, nghiên cứu có vấn đề quan niệm tiếp
cận, phương pháp tiếp cận. Dễ thấy rằng tiếp cận các giá trị nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm bằng những hướng khác nhau sẽ đem lại những kết quả không giống nhau. Nghiên cứu
tác phẩm văn học bằng quan niệm thi pháp học cũng vậy. Theo con đường tìm hiểu cái lý của
hình thức, những hình thức mang tính nội dung, Thi pháp học hoàn toàn có khả năng đem lại
những hiểu biết mới về giá trị tư tưởng - nghệ thuật của tác phẩm. Nó không những không
phương hại gì đến nội dung tác phẩm, mà còn góp phần phát hiện các giá trị, ý nghĩa được
hàm ẩn trong các hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Và như toàn bộ nội đung của luận văn đã
trình bày, rõ ràng không gian trong tác phẩm đã mang một ý nghĩa nghệ thuật rõ rệt. Như thế,
nghiên cứu không gian nghệ thuật Tây Du Ký chỉ làm rạng rỡ thêm cho các giá tri tư tưởng -
nghệ thuật của tác phẩm. Sự say mê Tây Du Ký từ bao đời nay chắc chắn phải có sự say mê
tính chất thần kỳ, kỳ diệu của tài phép biến hóa khôn lường của nhân vật, phải có sự kỳ thú đối
với cuộc đời đi mây về gió đầy ảo hóa của Tôn Ngộ Không... về điều quan trọng này, cần nhắc
một chút đến tác phẩm. Ở hồi thứ hai, sau khi được Tổ sư trao truyền cho bảy mươi hai phép
địa sát biến hóa và Tôn Ngộ Không đã tu luyện thuộc lòng cả thì Tôn Ngộ Không xin Tổ sư
truyền dạy cho phép rẽ mây, tức là phép cân đẩu vân. "Tổ sư truyền khẩu quyết và nói: Đám
mây này khi bám quyết, niệm châm ngôn rồi thì chắp sát hai cánh tay lại, cất mình nhảy ngay
lên, mỗi một cân đẩu vân đi được đến mười vạn tám nghìn dặm đường" (TP.I.tr.57).
Cùng với sự thông thạo bảy mươi hai phép biến hóa, phép cân đẩu vân này cũng đã được
Tôn Ngộ Không tu luyện thành thục. Chính những tài phép này là điều kiện cực kỳ quan trọng
cho hành trang vào đời thực hiện các hoài bão của Tôn Ngộ Không. Cũng chính nó đã góp
phần căn bản làm nới rộng các không gian hoạt động và tồn tại của nhân vật. Và như thế, sự
say mê, kỳ thú xưa nay đối với Tây Du Ký như vừa nói là gắn liền với các không gian trong
tác phẩm. Cho nên, có thể nói, nghiên cứu không gian nghệ thuật Tây Du Ký rõ ràng đã góp
thêm vào quá trình thưởng thức, nhận thức của người đọc về cái hay, cái đẹp của tác phẩm, chỉ
ra cái hay, cái đẹp của hình tượng nhân vật do quan hệ một cách tương ứng, hòa điệu của nó
đối với các không gian cụ thể.
KẾT LUẬN
Từ toàn bộ những điều được trình bày trên đây, có thể chưa toàn diện, nhưng đã khái
quát và phân tích được một số vấn đề không gian nghệ thuật trong tác phẩm Tây Du Ký của
Ngô Thừa Ân. Xem không gian trong tác phẩm là một hình thức nghệ thuật mang ý nghĩa và
luôn gắn bó với nội dung, luận văn đã nhìn nhận tổng quan về hai không gian lớn : không gian
Trần thế và không gian Thần kỳ. Trong không gian Trần thế, có các không gian như không
gian núi Hoa quả - đá liên, không gian mặt đất với những con đường, đỉnh núi, hang động,
dòng sông, bến bãi. Trong không gian Thần kỳ, cũng có những không gian cụ thể như không
gian Long cung, Âm ty, không gian Thiên cung, không gian Tây thiên cực lạc. Tuy khác nhau
về tầm vóc, về quá trình xuất hiện trong tác phẩm, nhưng tất cả chúng đã thực sự trở thành
không gian nghệ thuật trong tác phẩm Tây Du Ký. Xác định như thế, vì qua phân tích các
không gian cụ thể ấy trong quan hệ với tính cách các nhân vật, với các hình tượng văn học,
chúng ta nhận ra rằng nó luôn có quan hệ lẫn nhau. Quan hệ này, trước hết, không gian là điểm
tựa, nơi chốn cho quá trình vận động của nhân vật và từ đó, nảy ra tính chất tương xứng tương
hợp giữa không gian, với các tính cách nhân vật. Chính sự tương hợp, hòa điệu, gắn bó giữa
không gian nghệ thuật với vận động của hình tượng nhân vật đã làm nên ý nghĩa, vai trò của
hình thức nghệ thuật đối với nội dung tư tưởng của tác phẩm. Nhận ra được quan hệ và ý nghĩa
của quan hệ này như đã nói ở các phần trên, chúng ta vừa xác định vấn đề không gian nói
riêng, các hình thức nghệ thuật khác nói chung, không hề là hình vỏ ngẫu nhiên, vừa khẳng
định thêm tư duy nghệ thuật của nhà văn trong quá trình sáng tạo đã thực sự được chuẩn bị
chu đáo. Về điểm này - sức tổ chức hình thức nghệ thuật - nói theo một cách khác - các giáo sư
Lương Duy Thứ, Trần Xuân Đề, nhất là các tác giả nghiên cứu văn học thuộc Viện Khoa học
Xã hội Trung Quốc cũng từng bàn đến khá kỹ.
Khi nói các hình thức nghệ thuật, trong đó có phạm trù không gian, không thể là hiện
tượng ngẫu nhiên thì sự chủ định xây dựng đối với nó trong trường hợp Tây Du Ký chính là
không gian mang ý nghĩa đối với quan hệ nhân vật. Có thể nói, không có một nhân vật nào
trong Tây Du Ký lại không có một không gian tồn tại cho mình. Tuy nhiên, lại không phải cặp
không gian - nhân vật nào cũng có thể đem lại cho ta những nghĩa ly thú vị. Từ các phần viết
của luận văn, cơ bản chúng ta vẫn thấy riêng nhân vật Tôn Ngộ Không là trường hợp đầy đủ
và trọn vẹn nhất về mặt ý nghĩa được rút ra từ mối quan hệ này. Điều này không có gì lạ, vì
như đã nói, trọng điểm về nhân vật trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân đã thay đổi, chúng
không giống như trong truyền thuyết, thoại bản trước đó.
Không gian nghệ thuật trong quan hệ với Tôn Ngộ Không được luận văn chủ yếu trình
bày theo hai hành trình vận động lớn của nhân vật là những "truyện ký về người anh hùng" và
suốt quá trình "xây dựng sự nghiệp" cuộc đời của chính nhân vật. Ở thời kỳ tạo ra những câu
chuyện anh hùng, các không gian Long cung - Âm ty, Thiên cung, Thiên trúc đã trở thành nơi
chốn rất có ý nghĩa cho việc thể hiện một con người đầy can trường, dũng cảm, luôn luôn bất
khuất trong chiến đấu và chiến đấu đã thắng lợi. Sở dĩ chúng ta khẳng định ý nghĩa tương hợp,
hòa điệu giữa hành động của nhân vật với không gian nghệ thuật, vì nhân vật phi thường này
với những đòi hỏi lớn lao, với những trận kịch chiến kinh thiên động địa... thì không thể diễn
ra dưới mặt đất trần gian. Mặt khác những đòi hỏi lớn lao, cần thiết ấy chỉ có ở cõi thần kỳ,
siêu nhiên do các lượng tối cao quyền uy đang nắm giữ. Chỉ có thể đại náo, đánh vào không
gian cao vời, thâm nghiêm ấy một cách tung hoành ngang dọc... mới làm cho các lực lượng
tưởng là bất biến kia phải khiếp sợ, nhượng bộ rồi mới đi đến sự thỏa mãn cho các yêu cầu của
mình - đó là quyết tâm lòng dũng cảm của Tôn Ngộ Không. Như thế, ta dễ hiểu vì sao, con
người chống trời mang chiến kích vũ trụ Tôn Ngộ Không khó lòng tương xứng với các hoàn
cảnh, không gian nhỏ bé, tầm thường. Còn ở quá trình lập sự nghiệp về sau của Tôn Ngộ
Không thì hoàn cảnh, không gian, tuy trước hết là nơi vận động của tính cách nhân vật, nhưng
cái chủ yếu vẫn là nơi tập trung thể hiện mưu trí, công đức, các biện pháp chiến đấu của người
anh hùng. Do vậy, dù không gian vẫn tương hợp, hòa điệu với con người, nhưng nghiêng theo
hướng tính cách đã tác động lại hoàn cảnh, điều tiết hoàn cảnh, môi trường, không gian trở lại
tạo sự thuận lợi cho con người. Cũng như ở những không gian thần kỳ thời truyện ký anh
hùng, ở không gian trần thế này, Tôn Ngộ Không đã chiến đâu và chiến thắng bằng chính
những tài năng sở trường từng tu luyện của mình. Chiến đấu bằng những vũ khí, phương tiện
kỳ diệu như ba lợi công đặc biệt, tám mươi tư nghìn cái lông, bảy mươi hai phép thần thông,
phép cân đẩu vân..., cuộc đời của Tôn Ngộ Không dù không phải không có chỗ "ngậm ngùi"
nhưng mãi mãi đọng lại trong lòng người đọc bao thế hệ một sự say mê, đầy cuốn hút. Trong
tính cụ thể của các cuộc chiến đâu ở những không gian nhất định, không phải gặp đối tượng
nào Tôn cũng chiến thắng. Những trường hợp như thế, thì từ mưu trí và phương thức nảy sinh,
Tôn lại viện cầu các lực lượng có quyền phép hơn, mà tiêu biểu là Quan Âm Bồ Tát và Phật
Tổ Như Lai. Qua đây, ta nhận ra sự quan hệ thông nối này dù có diễn ra với tần số bao nhiêu
và nội dung xử lý thế nào thì cũng chủ yếu được thực hiện từ Tôn Ngộ Không và cầu tìm các
lực lượng quyền uy khi mất phương hướng giải quyết các sự cố, nhưng người anh hùng "lỡ
vận" này vẫn không thay đổi quan điểm đánh giá về các lực lượng ấy. Điều này nói lên sự nhất
quán trong bản lĩnh và tính cách của nhân vật Tôn Ngộ Không.
Cùng với Tôn Ngộ Không, Đường Tăng và Trư Bát Giới cũng là những nhân vật được
Ngô Thừa Ân quan tâm xây dựng. Xét các nhân vật này trong quan hệ với không gian nghệ
thuật, tuy không thể sánh được với Tôn Ngộ Không, nhưng cũng cần nhắc lại đôi điều cần
thiết .Qua tìm hiểu, chúng ta thấy nhân vật thủ lĩnh của đoàn thỉnh kinh này là một nhân vật
nhu nhược, yếu đuối, vô tài, quan liêu với người dưới, không biết nghe điêu phải, khuất kẻ
trên và luôn luôn mất phương hướng khi gặp tai nạn, yêu quái trên đường đi Tây Thiên. Cũng
qua tìm hiểu, phân tích, ta thấy những nét đạo đức, tính cách này như là một thực thể bất biến,
mọi tác động của hoàn cảnh, môi trường hầu như không làm thay đổi những, điều đã có sẵn ở
nhân vật. Do vậy, mối quan hệ của hình tượng nhân vật Đường Tăng với các không gian kinh
qua gần như không có ý nghĩa gì đáng kể. Công đức, lòng thành đi thỉnh kinh của Đường tăng,
chúng ta cũng tán đồng như ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, hiện tượng không
thay đổi được gì trong đạo đức, tính cách của nhân vật cũng trở nên khá lạ lẫm. Phải chăng vì
chưa ngộ đạo, chưa thoát tục, nên nhân vật này vẫn mãi trong cõi vô minh cho đến khi qua bến
đò Lăng vân ở hồi thứ chín mươi tám (?).
Cũng như Đường Tăng từng có những đức tính, tính cách xem như "ổn định" trước khi
đi Tây Thiên, nhân vật Trư Bát Giới cũng có cái ham ăn, hiếu sắc, lười biếng, dao động, tư
lợi... Nhưng ngược lại với Tôn Ngộ Không, những đức tính này của họ Trư thường xuyên thể
hiện trong quá trình đi Tây Thiên. Nó vừa đồ đậm tính cách của Trư Bát Giới và ở cực bên kia,
nó làm sáng rỡ Tôn Ngộ Không, một con người chỉ chuyên tâm làm nhiệm vụ, không một
mảy may nghĩ đến quyền lợi cho bản thân mình. Tuy vậy, so với nhân vật Đường Tăng; Trư
Bát Giới quả đã có một vài thay đổi trong đức tính, tính cách của mình trong quá trình đi Tây
Thiên. Là một sư đệ, trợ chiến cho Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới với ba mươi sáu phép biến
hóa của mình đã hiệp đồng, giúp sức cho Tôn Ngộ Không đạt được những hiệu quả, những
chiến thắng nhất định. Trong quá trình này, Trư Bát Giới cũng thật lòng thành tâm cứu nguy
cho Đường Tăng, cứu cả cho Tôn Ngộ Không mà không hề sợ mệnh hệ đến bản thân. Khi bị
kẻ thù bắt,Trư Bát Giới vẫn kiên định lập trường không bao giờ thỏa hiệp. Trong những lúc
khó khăn chung của cả đoàn, Trư Bát Giới nhiều khi chỉ mỗi mình đứng ra giải quyết, mà việc
dùng mũi để ủi đường, phát quang cho lộ trình cả đoàn được tiếp tục là chứng minh rất điển
hình. Tất cả những điều ấy diễn ra trên những không gian cụ thể đã được trình bày và chính
trong những trường hợp như vậy, không gian địa lý, nơi chôn đã trở thành không gian nghệ
thuật: nó gắn bó với tâm lý, tính cách, đạo đức của nhân vật, nó đã bị tính cách con người
khuất phục. Như vậy, mối quan hệ giữa hình tượng văn học và không gian nghệ thuật trong
trường hợp Trư Bát Giới, so với Đường Tăng, đã trở nên có nghĩa lý hơn.
Với tất cả những việc làm, vận động, phát triển của các nhân vật trong Tây Du Ký ngay
từ đầu cho đến cuối tác phẩm đã được tìm hiểu, phân tích như Luận văn chẳng lẽ là câu
chuyện vui chơi nhàn nhã, chứ không nhằm một mục đích nào? Không phải như thế. Đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu, nhất là các công trình của Sở nghiên cứu Văn học thuộc Viện
Khoa học Xã hội Trung Quốc, công trình "Bài giảng văn học Trung Quốc" của giáo sư Lương
Duy Thứ, công trình "Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc" của giáo sư Trần Xuân Đề đều xác
định rằng nội dung, hình tượng nhân vật trong Tây Du Ký là một sự ký gởi trân trọng của tác
giả, là sự phản ánh hiện thực xã hội - thời đại mà nhà văn đã trải nghiệm, là sự biểu hiện của
nhiều mối liên hệ phức tạp giữa tác phẩm với chế độ xã hội đương thời bấy giờ. Trần Đình Sử
viết: "Văn học dù có sáng tạo tân kỳ đến thế nào, suy cho cùng đều là sự phản ánh thời đại
dưới hình thái thẩm mỹ". Từ những ý kiến trên đây, chúng ta có thể đi đến một xác định
chung: Tây Du Ký là sự phản ảnh và biểu hiện về hiện thực đời sống của thời đại nhà văn đã
sống và qua đó, tác giả gởi gắm những tâm sự kín đáo của mình.
Do tác phẩm phản ánh và biểu hiện thời đại, do không thể cắt đứt mối liên hộ đối với
cuộc đời, nên chúng ta có điều kiện để dễ hiểu hơn sự có mặt của nhiều vấn đề trong Tây Du
Ký như : tính dân tộc của không gian nghệ thuật, sự ảnh hưởng của Đạo giáo, Nho giáo, nhất
là sự ảnh hưởng có tính chất xuyên suốt của Phật giáo từ việc đặt tên nhân vật cho đến các vấn
đề về Phật, Tăng, Kinh kệ... Nếu Tây Du Ký là sự phản ánh, biểu hiện thời đại và ký gởi tâm
sự của nhà văn thì nó quả phải được thể hiện trên tất cả các phương diện nội dung và hình thức
của tác phẩm. Vậy việc nghiên cứu một hình thức nghệ thuật là không gian nghệ thuật, có khả
năng tiếp cận được các vấn đề lớn ấy không? Như ngay từ đầu, về phương pháp nghiên cứu,
chúng tôi đã nói ở phương pháp cấu trúc - hệ thống: xem tác phẩm là một cấu trúc, một chỉnh
thể nghệ thuật, mà hình thức không gian nghệ thuật là một bộ phận của nó - nên nghiên cứu
nó, đồng thời phải nghiên cứu quan hệ của yếu tố đối với hệ thống. Do vậy, như toàn bộ luận
văn, nghiên cứu không gian nghệ thuật vẫn tiếp cận được một cách căn bản nội dung - hình
thức của Tây Du Ký. Quá trình chuyên biệt này, vì thế, đã đóng góp thêm một cách hiểu mới
đối với tác phẩm trên phương diện hình thức nghệ thuật. Từ đây, nó có khả năng mở ra một
hướng thưởng thức tiếp nhận những hình thức mang tính nội dung của tác phẩm, mà xưa nay
các phương pháp nghiên cứu truyền thống chưa quan tâm đúng mức. Nghiên cứu không gian
nghệ thuật không những không làm phương hại đến tư tưởng - nghệ thuật của tác phẩm mà
còn làm cho ta hiểu mới hơn, hiểu sâu thêm về những chủ định trong tư duy nghệ thuật của
tác giả. Nhờ một tư duy nghệ thuật chủ định, toàn diện, nên không gian nghệ thuật - một yếu tố
hình thức của tác phẩm đã là cơ sở để chỉ ra rằng, nhờ vào nó một phần lớn mà các hình tượng
nhân vật, đặc biệt là nhân vật Tôn Ngộ Không thêm rạng rỡ. Nếu "về độ cao tư tưởng hay trình
độ nghệ thuật, Tây Du Ký đều có thể sánh với những tác phẩm ra đời trước nó như Tam Quốc
Chí diễn nghĩa và Thủy Hử truyện" thì nghiên cứu không gian nghệ thuật - một yếu tô" của
hình thức nghệ thuật của tác phẩm đã góp phần củng cố và làm ngời sáng thêm những thành
công vốn có của nó.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3/2000.
Người thực hiện : Nguyễn Hoàng Long.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân - 150 thuật ngữ văn học - NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1999.
2. Ngô Thừa Ân - Tây Du Ký - Tập I - Người dịch : Thụy Đình, người hiệu đính : Chu
Thiên - NXB Văn học, 1997.
3. Ngô Thừa Ân - Tây Du Ký - Tập li - Người dịch : Thụy Đình, người hiệu đính : Chu
Thiên - NXB văn học, 1997.
4. Ngô Thừa Ân - Tây Du Ký - Tập III - Người dịch : Thụy Đình, người hiệu đính : Chu
Thiên - NXB văn học, 1997.
5. Ngô Thừa Ân - Tây Du Ký (bộ lo tập) Tập I - nhiều người dịch -người giới thiệu :
Lương Duy Thứ - NXB Văn học, 1998.
6. M. Bakhtin - Lý luận và Thi pháp tiểu thuyết - người dịch : Phạm Vĩnh Cư, Trường
Viết Văn Nguyễn Du xuất bản, 1992.
7. Lê Nguyên cẩn – Về một vài con số kỳ ảo trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân - Tạp chí văn học số 1/1994.
8. Phạm Tú Châu - Anh hưởng Phật giáo và Đạo giáo trong vài bộ tiểu thuyết tiêu biểu
của Trung Quốc - Tạp chí Văn Học sô" 4/1992.
9. Trương Chính (và nhiều tác giả khác) : Lịch sử văn học Trung Quốc, 2 tập - NXB
Giáo dục - Hà Nội - 1971.
10. Võ Đình cường - Đường Tam Tạng thỉnh kinh - Viện Nghiên cứu Phật học Việt
Nam ấn hành, 1992.
11. Lê Anh Dũng - Giải mã Truyện Tây Du (Tân biên), NXB Văn hóa Thông tin - Hà
Nội. 1995.
12. Trần Xuân Đề - Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc ( 3 tập ) NXB Giáo dục - Hà Nội,
1962 - 1964.
13. Trần Xuân Đề - Những bộ tiểu thuyết cổ điển hay nhất của Trung Quốc Thành Phố
Hồ Chí Minh - 1991.
14. Nguyễn Trung Đức - Hiệu quả nghệ thuật của không - thời gian trong tiểu thuyết
"Trăm năm cô đơn" của Mác Kết - Tạp chí Văn \ học số 1/1995.
15. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương - Lý luận Văn học -Vấn đề và Suy nghĩ -
NXB Giáo dục, 1995.
16. Lê Bá Hán (chủ biên) - Từ điển thuật ngữ văn học - NXB Giáo dục -Hà Nội, 1992.
17. Phạm Thị Hảo - Văn học Trung Quốc - Giáo trình ĐHTH, NXB Thành phố Hồ Chí
Minh, 1997.
18. Hê ghen - Mỹ học 2 tập - Người dịch : Phan Ngọc, NXB văn học-Hà Nội, 1999.
19. Lê Từ Hiển - Một vài đặc điểm Thi pháp Liêu Trai Chí Dị -Luận văn sau đại học,
1991.
20. Hồ Sĩ Hiệp - 'Giúp học tốt Văn học Trung Quốc trong nhà trường, NXB Đồng Nai,
1998.
21. Lưu Hiệp - Vãn Tâm điêu-long - Người dịch : Phan Ngọc. NXB văn học -HN,
1997.
22. Đỗ Đức Hiểu - Đổi mới phê bình văn học - NXB khoa học xã hội -NXB Mũi Cà
Mau, 1993.
23. Nguyễn Xuân Hòa - Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc đến tiểu thuyết cổ
Việt Nam - NXB Thuận Hóa. 1998.
24. Nguyễn Huy Khánh - Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, NXB Văn học,
1991.
25. Nguyễn Thị Dư Khánh - Phân tích tác phẩm từ góc độ Thi pháp - NXB giáo dục -
Hà Nội, 1995.
26. Đinh Gia Khánh - Điển cố văn học - NXB khoa học xã hội -Hà Nội, 1997.
27. Nguyễn Văn Khỏa - Thần thoại Hy Lạp - Lời giới thiệu - tập II- NXB Khoa học xã
hội, 1991.
28. Lisevich .I.S - Tư Tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa - người dịch : Trần Đình Sử-
ĐHSP. TP. Hồ Chí Minh xuất bản, 1993.
29. Nguyễn Trường Lịch: Huyền thoại và sức sống của huyền thoại trong văn chương
xưa và nay - Tạp chí Văn học số 5/1997.
30. Phương Lựu - Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, NXB Giáo dục - Hà
Nội, 1989.
31. Phương Lựu - Vài nét về lý luận văn học mỹ học cổ điển Trung Quốc, tạp chí văn
học số 6/1981.
32. Đặng Thái Mai - Xã hội sử Trung Quốc - NXB Khoa học xã hội, 1994.
33. Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn - Tư tưởng và phong cách -NXB Tác phẩm mới -
HN,1979.
34. Phan Ngọc - Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc ỏ Việt Nam - Nghiên cứu
Trung Quốc - số 3 (7) 1996.
35. Phan Ngọc - Bản sắc văn hóa Việt Nam - NXB Văn hóa thông tin - 1998.
36. Phạm Xuân Nguyên - Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết - Tạp chí văn học số
2/1991.
37. Ngổ Nguyên Phi - Lược khảo Tây Du Ký, tập I, NXB Đồng Nai, 1998.
38. Ngô Nguyên Phi - Lược khảo Tây Du Ký, tập II, NXB Đồng Nai, 1998. 39. G.N Pospeov (chủ biên) - Dẫn luận nghiên cứu Văn học - 2 tập-người dịch: Trần
Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Nghĩa Trọng - NXB giáo đục-Hà Nội, 1985.
40. Lê Vãn Quán - Đại cương lịch sử Tư tưởng Trung Quốc - NXB Giáo đục-Hà Nội,
1997.
41. Vương Hồng sến - Hiu xem truyện Tàu - NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.
42. Trần Đình Sử- IM pháp thơ Tố Hữu (chuyên luận) - NXB Tác phẩm mới 1987.
43. Trần Đình Sử- Bài giảng thi pháp học - Tài liệu của Trung Tâm Đào tạo từ xa - Huế
- 1994.
44. Trần Đình Sử - lý luận và phê bình văn học - NXB Hội Nhà văn, 1996.
45. Lỗ Tấn - Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, người dịch : Lương Duy Tâm -
NXB Văn Hóa - 1996.
46. Tập thể tác giả - Lịch sử văn học Trung Quốc - tập III - người dịch : Lê Huy Tiêu,
Lương Duy Thứ, Nguyễn Trung Hiến, Lê Đức Niệm, Trần Thanh Liêm, Ngô Hoàng Mai -
NXB Giáo dục - Hà Nội - 1995.
47. Tập thể tác gia - Lý luận Văn học - 3 tập - NXB giáo dục - Hà Nội, 1988.
48. Tập thể tác giả - Từ Điển Văn học - tập ì - NXB Khoa học Xã hội - 1983.
49. Tập thể tác giả - Từ Điển Văn học - tập II - NXB Khoa học Xã hội - 1984.
50. Khâu Chấn Thanh - Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, người dịch :
Mai Xuân Hải, NXB giáo dục - Hà Nội, 1994.
51. Lương Duy Thứ - Bài giảng Văn học Trung Quốc - Tủ sách Đại học Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
52. Lương Duy Thứ - Để hiểu toàn bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, NXB khoa học
xã hội - NXB Mũi Cà Mau, 1992.
53. Lương Duy Thứ - Nguyễn Khắc Phi - Văn học Trung Quốc -tập II. NXB Giáo dục
- Hà Nội, 1988.
54. Lương Duy Thứ - Thi pháp tiểu thuyết chương hồi - Tập bài giảng cho cao học -
(nghe giảng 1995).
55. Lương Duy Thứ (chủ biên) - Đại cương văn hóa phương Đông -NXB giáo dục - Hà
Nội, 1980.
56. Lương Duy Thứ (chủ biên) - Tác phẩm Văn 10 - Phần Văn học nước ngoài - NXB
giáo đục - Hà Nội, 1993.
57. Bùi Văn Tiếng - Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, NXB
Văn hóa - 1997.
58. Thúy Toàn - Dịch văn học và Văn học dịch - NXB văn học, 1996.
59. Lưu Đức Trung (chủ biên) - Văn học Đông Nam Á - NXB Giáo dục- Hà Nội,
1998.
60. Đinh Phan Cẩm Vân- Thi pháp nhân vật trong tiểu thuyết Hồng Lâu MộngJLuận
văn Thạc Sĩ khoa học ngữ văn, 1995.
61. Thích Đồng Văn - Ảnh hưởng của Phật giáo trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc
- Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, 2000.