Đại học quốc gia Hà nội Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn --------o0o--------

Vũ Thị Lan Nhân vật phản diện trong tiểu thuyết hiện thực phê phán việt nam 1930 –1945

Luận văn thạc sỹ khoa học ngữ văn Hà NộI – 2005

Đại học quốc gia Hà nội Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn --------o0o--------

Vũ thị lan Nhân vật phản diện trong tiểu thuyết hiện thực phê phán việt nam 1930 –1945

(Qua Giông tố của Vũ Trọng Phụng, bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Chí phèo của Nam cao) Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số

: 5.04.33

Luận văn thạc sỹ khoa học ngữ văn

Người hướng dẫn: Giáo sư Hà Minh Đức Hà Nội – 2005

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Mục lục

Lời cam đoan .................................................................................................... 1

lời cảm ơn ......................................................................................................... 2

Phần mở đầu .......................................................................................................... 5

1. Tính cấp thiết của đề tài: ......................................................................... 5

2. Lịch sử vấn đề. ........................................................................................ 7

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:........................................................... 8

4. Mục đích nghiên cứu: .............................................................................. 8

5. Nhiệm vụ nghiên cứu: ............................................................................. 9

6. Phương pháp nghiên cứu: ........................................................................ 9

7. Cấu trúc của luận văn. ............................................................................. 9

CHƢƠNG I: Cơ sở xã hội Để xuất hiện nhân vậT PHản DIện TRONG

sáng tác VĂN Học . .............................................................................................. 11

1. Về kinh tế ...................................................................................................... 11

2. Về chính trị .................................................................................................... 12

3. Về Văn hoá ................................................................................................... 16

CHƢƠNG II: những loại nhân vật phản diện trong văn học truyền thống....... 24

Chƣơng III: Các loại nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn học

hiện thực phê phán 1930 – 1945........................................................................... 38

I. Nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn học lãng mạn Việt Nam

1930 - 1945 ........................................................................................................ 36

II. Các loại nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn học hiện thực

phê phán 1930 - 1945 ......................................................................................... 40

1. Hệ thống nhân vật phản diện không tên tuổi, không lai lịch rõ ràng ................ 40

2. Các nhân vật phản diện có tên tuổi, có lai lịch rõ ràng .................................... 47

2.1. Những đặc điểm gần gũi và giống nhau ....................................................... 48

2.2. Bản chất riêng của từng nhân vật ................................................................. 53

a. Nghị Quế ........................................................................................................ 53

b. Nghị Hách ...................................................................................................... 57

c. Nghị Lại ......................................................................................................... 61

d. Bá Kiến .......................................................................................................... 63

Chƣơng Iv. Các thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật phản diện ................ 68

I. Xây dựng nhân vật Phản diện qua việc miêu tả ngoại hình. .................... 68

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 3

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

II. Xây dựng nhân vật phản diện qua việc miêu tả hành động. ................... 72

III. Xây dựng nhân vật phản diện qua việc đặc tả tính cách. ...................... 80

1.Tính cách Nghị Hách. ............................................................................. 81

2.Tính cách nghị Lại. ................................................................................ 85

3. Tính cách Nghị Quế. ............................................................................. 88

4.Tính cách Bá Kiến. ................................................................................. 91

IV. Xây dựng nhân vật phản diện qua việc miêu tả ngôn ngữ. ................... 92

1. Ngôn ngữ của Nghị Hách. ..................................................................... 93

2. Ngôn ngữ Nghị Lại. .............................................................................. 96

3. Ngôn ngữ Nghị Quế. ............................................................................. 97

4. Ngôn ngữ Bá Kiến................................................................................. 98

Chƣơng IV: Cách xây dựng loại nhân vật .................................................... 102

phản diện. .......................................................................................................... 102

I .Cách xây dựng nhân vật phản diện của Vũ Trọng Phụng...................... 102

II. Cách xây dựng nhân vật phản diện của Nguyễn Công Hoan. .............. 111

III. Cách xây dựng nhân vật phản diện của Ngô Tất Tố. .......................... 119

IV. Cách xây dựng nhân vât phản diện của Nam Cao. ............................. 125

kết luận ............................................................................................................... 131

Tài liệu tham khảo ............................................................................................. 135

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 4

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Phần mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 có 3 dòng phát triển

song song và xen kẽ nhau: Văn học cách mạng, văn học hiện thực phê

phán và văn học lãng mạn. Trong 3 dòng văn học đó, văn học hiện thực

phê phán là mảnh đất màu mỡ cho các nhà nghiên cứu văn học, các thầy cô

giáo và những người yêu thích văn học thưởng thức, khám phá và kiếm

tìm.

Văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930-1945 đã rất thành công

với đề tài nông thôn. Làng quê được miêu tả ở chiều sâu quy luật phát triển

và cả trên bề nổi của các hiện tượng tiêu biểu. Các nhà văn đã tạo dựng

được điển hình hoàn cảnh và nhân vật trong tác phẩm: “Tắt Đèn” của Ngô

tất Tố; “Chí Phèo” của Nam Cao; “Bước đường cùng” của Nguyễn Công

Hoan; “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng. Những tác phẩm này đã đi sâu

khám phá hiện thực cuộc sống của con người trong mỗi làng quê Việt

Nam. Có những nhà văn như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan

đã sáng tác những nhân vật của mình theo phong cách “quê một cục”, điển

hình như: chị Dậu, cái Tý, Chí Phèo, Bá Kiến, anh Pha, Năm thọ, Binh

Chức, Nghị Quế, Nghị Lại, ... thậm chí đến cả cái tên cũng rất „quê mùa”.

Khác với phần đông các nhà văn cùng thời, Vũ Trọng Phụng đã bước đầu

đi vào mảng đề tài mới, đó là đề tài về thành thị Việt Nam trong hoàn cảnh

xã hội đang đi vào con đường “á Âu xáo trộn”, “cũ mới tranh giành”, “mưa

Âu gó Mỹ”,... Các nhân vật mà ông quan tâm phần nhiều là nhân vật thành

thị với hành động, lối sống, cách suy nghĩ,... rất thành thị, ví dụ như: Xuân

tóc đỏ, bà phó Đoan, vợ chồng Văn Minh, cụ cố Hồng trong “Số Đỏ”. Bên

cạnh còn có nhiều nhân vật nửa nông thôn, nửa thành thị như kiểu Nghị

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 5

Hách trong “Giông Tố”,...

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Cho dù thành công ở mảng đề tài nào đi chăng nữa thì độc giả luôn

khẳng định rằng văn học hiện thực phê phán Viêt Nam 1930-1945 là giai

đoạn văn học có nhiều thành tựu, phản ánh một cách chân thực và sâu sắc

hiện thực cuộc sống như những gì nó vốn diễn ra. Nhưng, có một điều mà

chúng tôi thấy là từ trước tới nay, khi nghiên cứu những tác phẩm này, các

nhà nghiên cứu chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, tìm hiểu,.. về

các nhân vật chính diện như: chị Dậu, Chí Phèo, anh Pha, lão Hạc,.. mà ít

tập trung nghiên cứu tuyến nhân vật phản diện, hoặc có chăng chỉ là những

bài nhỏ, chưa có chiều sâu, chưa trở thành hệ thống. Vì vậy, chúng tôi thiết

nghĩ rằng phải quan tâm đến hệ thống các nhân vật phản diện trong dòng

văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945. Có làm được như vậy

thì mới hiểu hết được giá trị to lớn của khuynh hướng văn học này.

Vì sao cần phải nghiên cứu hệ thống nhân vật phản diện trong dòng

văn học hiện thực phê phán 1930-1945?. Một điều dễ hiểu là chức năng

của văn học là phản ánh một cách sinh động đời sống hiện thực khách

quan, trong đó chức năng chủ yếu nhất của văn học hiện thực phê phán là

miêu tả cụ thể đời sống xã hội Việt Nam giai đoạn này. Những điều đó đã

thể hiện sâu sắc trong các tác phẩm văn học, nó tác động không nhỏ tới

độc giả đương thời. Vì thế, nghiên cứu hệ thống văn học phản diện trong

các tác phẩm văn học hiện thực phê phán là đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi:

phê phán cái gì?, phê phán kiểu người như thế nào?...

Đối với tác gỉa luận văn thì đề tài: “ Nhân vật phản diện trong văn

học hiện thực phê phán 1930-1945” là mối quan tâm lớn từ nhiều năm khi

nghiên cứu văn học hiện thực phê phán. Tác giả luôn tìm tòi, tiếp thu

những ý kiến của các bậc tiền bối, kết hợp với vốn hiểu biết của mình để

mong muốn sẽ được trình bày, thể hiện trong điều kiện cho phép. Điều cốt

yếu trong luận văn này là chúng tôi tập trung vào việc nghiên cứu các nhân

vật phản diện mang tính chất điển hình trong văn học hiện thực phê phán

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 6

1930-1945 như Nghị Quế, Nghị Lại, Nghị Hách, Bá Kiến,..

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Vì những lý do trên mà chúng tôi chọn: Nhân vật phản diện trong

tiểu thuyết hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945 (Qua

các tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng,

Nam Cao) là đề tài luận văn cao học của mình.

2. Lịch sử vấn đề.

Như chúng tôi đã trình bày trong phần trước, đây là một công trình

khá mới mẻ, từ xưa tới nay ít được quan tâm. Vì vậy các công trình nhiên

cứu mang tính hệ thống thì chưa được công bố. Có chăng chỉ là một số bài

nghiên cứu mang tính chất lẻ tẻ, thoáng qua về các loại nhân vật phản diện,

in trong một số cuốn sách, một số cuốn tạp chí văn học,..

Điển hình là: “Một nhà văn của dân quê-Ngô Tất Tố trong Tắt đèn”

của tác giả Trần Minh Tước in trong cuốn “Ngô Tất Tố-tác giả-tác phẩm”;

“Tắt đèn của Ngô tất Tố” của nhà văn Vũ Trọng Phụng; “Tắt đèn-tiểu

thuyết của Ngô Tất Tố” của tác giả Phú Hương; “Đọc Tắt đèn của Ngô Tất

Tố” của nhà văn Nguyễn Công Hoan; “Tắt đèn-cuốn tiểu thuyết hiện thực

xuất sắc” của Hồng Chương; “Những đóng góp của Ngô tất Tố trong Tắt

đèn” của tác giả Phong Lê; “Tắt đèn của Ngô Tất Tố” của Nguyễn Đăng

Mạnh; “Tắt đèn” của giáo sư Phan Cự Đệ,..

“Bước đường cùng-tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan” tác giả

Trương Chính; “Đọc lại „Bước đường cùng‟ của Nguyễn Công Hoan” của

tác giả Nam Mộc..

“Qua truyện ngắn „Chí Phèo‟ bàn thêm về cái nhìn hiện thực của

Nam Cao” tác giả Trần Tuấn Lộ; “Con người bị từ chối làm người trong

truyện „Chí Phèo‟ của Nam Cao”,..

“Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng” của Đinh Trí Dũng; “Vũ

Trọng Phụng và xã hội Việt Nam thời hiện đại” của giáo sư Hà Minh Đức;

“Tìm hiểu lịch sử cái gọi là vấn đề Vũ Trọng Phụng” của tác giả Phong Lê;

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 7

“Vấn đề Vũ Trọng Phụng và sự phê phán Âu hoá” của GS-TS. Niculin;

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> “Cá tính sáng tạo và đặc điểm tiểu thuyết hiện thực Vũ Trọng Phụng” của

PGS-TS Trần Đăng Suyền; “Tính hiện đại trong văn chương Vũ Trọng

Phụng” của tác giả TS. Vũ Tuấn Anh; “Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại

nội tâm trong tiểu thuyết hiện thực của Vũ Trọng Phụng” của tác giả TS.

Đinh Trí Dũng,..

Như vậy, thông qua sự khảo sát trên đây, chúng tôi thấy rằng vấn đề

“Nhân vật phản diện trong tiểu thuyết hiện thực phê phán Việt Nam giai

đoạn 1930-1945” chưa được nghiên cứu một cách hệ thống, rất cần thiết

phải đi sâu tìm hiểu vấn đề này.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

ở luận văn này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các nhân vật

phản diện. Để làm sáng tỏ vấn đề, trước hết chúng tôi thấy cần phải đọc kỹ

những tài liệu có liên quan đến tác giả, đọc kỹ từng trang tác phẩm để có

cái nhìn thấu đáo và thật sự sâu sắc. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi

có phân chia nhân vật phản diện ra làm hai loại: Nhân vật phản diện có tên

tuổi, có lại lịch rõ ràng và những nhân vật phản diện không có tên tuổi,

không có lai lịch .

Về phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong khuôn khổ luận văn tốt

nghiệp cao học, chúng tôi không thể khảo sát, phân tích toàn bộ các tác

phẩm trong dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945 mà ở đây chúng

tôi chỉ giới hạn ở một số tác phẩm tiêu biểu như: “Tắt Đèn” của Ngô Tất

Tố; “Giông Tố” của Vũ Trọng Phụng; “Bước đường cùng” của Nguyễn

Công Hoan; “Chí Phèo” của Nam Cao.

4. Mục đích nghiên cứu:

Mục đích của chúng tôi là tìm hiểu, nghiên cứu tuyến nhân vật này

để nhằm khẳng định giá trị của văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-

1945. Làm sáng tỏ nhận định “ Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận,

anh chị em là chiến sỹ trên mặt trận ấy” (Hồ Chí Minh - Báo cứu quốc số

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 8

1986 xuất bản ngày 05/011953). Đồng thời phục vụ cho việc nghiên cứu,

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> giảng dạy văn học ở các cấp bậc. Vì vậy, luận văn này có thể được sử dụng

làm tài liệu tham khảo cho học sinh, sinh viên, các thầy cô giáo và tất cả

những độc giả yêu thích văn học, quan tâm đến vấn đề này.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Trong luận văn này, chúng tôi đề ra cho bản thân những nhiệm vụ

sau đây:

Thứ nhất nghiên cứu cơ sở xã hội để xuất hiện những loại -

nhân vật phản diện trong sáng tác văn học.

Thứ hai phải nghiên cứu những loại nhân vật phản diện trong -

văn học truyền thống để so sánh, đối chiếu với các loại nhân vật phản diện

trong một số tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945.

Thứ ba phải nghiên cứu các thủ pháp nghệ thuật xây dựng -

nhân vật phản diện.

- Cuối cùng phải làm sáng tỏ cách xây dựng nhân vật phản diện

của từng nhà văn.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu:

- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa

Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm, chính sách của

Đảng, Nhà nước ta về văn nghệ nói chung và văn học nói riêng cũng như

dựa trên kiến thức về lý luận văn học, tác phẩm văn học, ngôn ngữ văn học

mà tác giả luận văn đã tích luỹ được.

- Trên cơ sở sưu tầm, chọn lọc, khái quát các tác phẩm văn học,

các tài liệu có liên quan, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích, tổng

hợp, so sánh, đối chiếu để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.

7. Cấu trúc của luận văn.

Luận văn này ngoài phần mở đầu, kết luận gồm năm chương:

Chương I : Cơ sở xã hội xuất hiện nhân vật phản diện trong sáng tác

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 9

văn học.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Chương II : Những loại nhân vật phản diện trong văn học truyền

thống.

Chương III: Các loại nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn

học hiện thực phê phán 1930-1945.

Chương IV: Các thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật phản diện.

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 10

Chương V : Cách xây dựng loại nhân vật phản diện.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

CHƢƠNG I: Cơ sở xã hội để xuất hiện nhân vật phản diện trong sáng tác văn học .

Trong lịch sử Việt Nam, bước sang thế kỷ 20, thời kỳ 1930 – 1945

là một thời kỳ đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp hết sức gay gắt, từ

đó dẫn đến cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng và ý thức hệ, những sự

tác động qua lại hết sức phức tạp của các khuynh hướng và phương pháp

sáng tác khác nhau. Đó là thời kỳ chủ nghĩa thực dân kiểu cũ sắp đến ngày

cáo chung trên bán đảo Đông Dương, đế quốc Pháp ngày càng phơi trần bộ

mặt nham hiểm và tàn bạo còn bọn phát xít Nhật thì nuôi tham vọng làm

bá chủ vùng châu á – Thái Bình Dương. Nhưng từ năm 1930 dưới sự lãnh

đạo của Đảng cộng sản Đông Dương, phong trào công nhân và các phong

trào yêu nước khác như những đợt sóng thần, ngày một dâng cao, liên tiếp

đập vào thành luỹ của bọn cướp nước và bán nước, tạo nên thế tức nước vỡ

bờ mùa thu năm 1945. Cách mạng tháng Tám của Việt Nam là cuộc cách

mạng đầu tiên trên thế giới diễn ra ở một nước thuộc địa với nền nông

nghiệp lạc hậu. Đó cũng là cuộc cách mạng có quy mô toàn quốc thứ hai

trên Thế giới ( sau Liên Xô), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến những cuộc

đấu tranh của các hình thái ý thức trong kiến thúc thượng tầng. Hệ tư

tưởng tư sản (bao gồm cả tư tưởng thực dân) cấu kết với hệ tư tưởng

phong kiến lỗi thời đấu tranh chống lại hệ tư tưởng vô sản. Những sự xung

đột đan chéo lẫn nhau giữa các hệ tư tưởng làm cho cục diện chính trị, kinh

tế, văn hoá thời kỳ này thêm phức tạp. Tuy nhiên, không nên cắt nghĩa cục

diện này bằng những nguyên nhân sâu xa của cục diện tình hình đất nước

mà còn phải tính đến những tác động mạnh mẽ của các thế lực quốc tế. Do

sự bưng bít của đế quốc Pháp, trước 1945, trên thế giới nhất là ở phương

Tây, ít người biết đến hai tiếng Việt Nam, ấy thế mà ta vẫn phải đóng góp

sức người, sức của cho mẫu quốc Đại Pháp trong hai cuộc đại chiến thế

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 11

giới và gánh chịu hậu quả nặng nề cuả cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> 1929 – 1933. Nguy hiểm hơn nữa là từ tháng 6 năm 1940, đất nước chúng

ta lại bị phát xít Nhật nhảy vào xâu xé. Lúc đó, chúng ta bị hai tầng áp bức

bóc lột. Chúng cấu kết với địa chủ phong kiến đàn áp nhân dân ta về quân

sự, chuyên chế về chính trị, bóc lột về kinh tế và đầu độc về văn hoá.

1. Về kinh tế: Thực dân Pháp đã cấu kết với địa chủ phong kiến

bóc lột nhân dân ta đến tận xương tuỷ. Chính sách kinh tế độc quyền vơ

vét của thực dân Pháp làm cho Việt Nam trở thành thuộc địa cung cấp

nguồn nhân công rẻ mạt và nguyên liệu béo bở cho chính quốc. Chúng cấu

kết với địa chủ phong kiến cho vay nặng lãi và thu thuế vô tội vạ. Chúng

đã trắng trợn chiếm đoạt đất đai của nông dân để lập đồn điền, cướp hầm

mỏ để khai thác. Chỉ riêng ở Bắc Kỳ, thực dân Pháp đã chiếm đất lập 155

đồn điền lớn, chiếm 34 khu hầm mỏ và diện tích đất đai ở xung quanh...

Ngoài ra, thực dân Pháp đã dùng chính sách độc quyền xuất khẩu, độc

quyền bán rượu, thuốc phiện, tăng thuế khoá và hàng trăm thứ hạch sách

phu phen tạp dịch khác đã mang đến cho bọn chúng những món lãi khổng

lồ. Toàn bộ chính sách kinh tế phản động của thực dân Pháp đã làm cho

nhân dân Việt Nam trước hết là công nhân và nông dân bị bần cùng hoá và

điêu đứng, làm cho nền kinh tế của Việt Nam bị kiệt quệ, biến nền kinh tế

nước ta từ một nền kinh tế độc lập, tự chủ thành phụ thuộc vào kinh tế

Pháp, tỷ trọng kinh tế tư bản chủ nghĩa tăng nhanh, nước ta bị kéo vào quỹ

đạo của chủ nghĩa tư bản, nhưng không được công nghiệp hoá mà lại biến

thành một thị trường tiêu thụ và cung cấp nguyên liêụ, hàng xuất khẩu cho

thương nghiệp Pháp. Lợi nhuận vào túi tư bản Pháp còn nhân dân ta bị bần

cùng hoá, phá sản trở thành nguồn nhân công rẻ mạt cho các hãng buôn,

các chủ thầu, chủ đồn điền của Pháp. Trong điều kiện ruộng đất bị chiếm

đoạt tập trung trong tay thực dân Pháp và quan lại tay sai, nhân công thừa,

rẻ mạt không đủ phát triển để thu nạp hết, kinh doanh theo lối phong kiến

vừa tốn ít vốn, vừa thu được nhiều lợi, vừa nhàn rỗi, vừa chắc chắn. Phụ

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 12

thuộc vào một nước tư bản, nước ta không thể giải thoát khỏi sự trì trệ của

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> nền kinh tế phong kiến. Tuy nước Pháp là một cường quốc tư bản chủ

nghĩa nhưng chủ nghĩa thực dân Pháp không phá hoại kinh tế phong kiến

mà ngược lại nó duy trì thậm chí củng cố nền sản xuất đó trên cơ sở phân

phối ruộng đất mới, phân bố sản xuất mới. Chính sách kinh tế phản động

ấy để lại nhiều hậu quả xấu và kéo dài cho nền kinh tế nước ta. Chính sách

về kinh tế phản động ấy tạo nên sự mâu thẫn gay gắt giữa hai giai cấp

thống trị và bị trị nhưng lại là mảnh đất mầu mỡ cho giai cấp địa chủ

phong kiến tồn tại và phát triển mạnh mẽ.

2. Về chính trị: Thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị chuyên

chế, điển hình của thực dân kiểu cũ, trực tiếp cai trị nắm giữ các chức vụ

chủ chốt trong bộ máy nhà nước thuộc địa từ toàn quyền đến thống sứ,

khâm sứ, thống đốc, công sứ, biến giai cấp phong kiến và tư sản mại bản

thành những kẻ tay sai đắc lực, cùng chính sách đàn áp, khủng bố hết sức

dã man, tàn bạo, thực dân Pháp còn thi hành chính sách “chia để trị” rất

thâm độc. Chúng chia nước ta thành 3 miền với ba hình thức cai trị khác

nhau, nhằm chia rẽ dân tộc, gây thành kiến giữa người Bắc, người Trung

và người Nam, chia rẽ lương giáo. Đặc biệt, chúng còn gây thù hằn giữa

các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, giữa ba dân tộc anh

em cùng sống trên bán đảo Đông Dương.

Sự chuyên chính về chính trị của Thực dân Pháp được thể hiện cụ

thể như sau: Sau khi bình định xong phong trào Cần Vương, chính phủ

Pháp cử Paul Doumer sang làm Toàn quyền Đông Dương (13-2-1897).

Đây là nhân vật tối cao của nước Pháp ở Đông Dương, đại diện và bảo vệ

quyền lợi của người Pháp, trực tiếp nắm giữ toàn quyền về hành chính,

chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao... và chỉ chịu trách nhiệm với Bộ

thuộc địa.

Sau khi chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ, thực dân Pháp thực

hiện chế độ cai trị của các Suý phủ. Và sau khi chiếm được ba tỉnh miền

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 13

Tây Nam kỳ, suốt cả thời gian dài vài mươi năm đầu, thực dân Pháp vẫn

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> thi hành chính sách cai trị của các võ quan. Mãi đến sau này khi Nam Kỳ

có thống đốc thì chế độ thống trị theo lối dân sự mới được xác lập. Cũng từ

đây thống đốc Nam kỳ không còn chịu sự điều khiển của bộ hải quân nữa

mà lệ thuộc vào bộ thuộc địa và trong bộ máy cai trị có sự phân biệt giữa

hai quyền hành chính và tư pháp.

Nam kỳ từ sau 1874 là xứ thuộc địa của nước Pháp, đứng đầu là

viên thống đốc người Pháp, có quyền quyết định tất cả các mặt về hành

chính, chính trị, kinh tế, trị an, ngân sách ở Nam kỳ. Giúp việc cho thống

đốc là một Đổng lý sự vụ và giám đốc các nhà sở chuyên môn gồm: quan

thuế, ngân khố, tư pháp và giáo dục, thuộc phủ thống sứ còn có một văn

phòng để giải quyết công việc hành chính của phủ. Cạnh phủ thống đốc

còn có hai hội đồng tư vấn: hội đồng tư mật có quyền tư vấn với thống đốc

về việc cai trị. Thành phần của hội đồng gồm thống đốc làm chủ tịch và

các thành viên gồm tư lệnh Nam kỳ và Cao Miên, Tư lệnh Hải quân và

trưởng lý. Hội đồng quản hạt hay còn gọi là Hội đồng thuộc địa gồm các

đại diện dân cử mà đa số là pháp kiều. Tính chất của hội đồng quản hạt

như một Hạ viện của địa phương đối với chính quốc, có quyền thảo luận,

biểu quyết ngân sách, tư vấn về chính trị, kinh tế. Tổ chức hành chính địa

phương được thể hiện như sau: Nam kỳ gồm 20 tỉnh, đứng đầu tỉnh là các

chức Chánh Tham biện còn gọi là chủ tỉnh người Pháp. ở tỉnh còn có hội

đồng tỉnh hạt do dân bầu có nhiệm vụ biểu quyết ngân sách hàng tỉnh.

Dưới tỉnh là quận. Đứng đầu quận là viên Đốc phủ sứ (còn gọi là chủ

quận) người Pháp. ở quận nhỏ là chức Đốc phủ sứ người Việt. Dưới quận

là Tổng, do chức cai tổng đứng đầu. Cai tổng do dân bầu nhưng phải được

thống đốc chấp thuận và bổ nhiệm. Dưới tổng là xã, do ban hội tề quản lý,

đứng đầu là chức hương cả, dưới có hương chủ, hương sư, hương chính.

Chính quyền bảo hộ ở Bắc và trung Kỳ được chính thức thiết lập

thông qua điều ước Quý Mùi (1883) và được hoàn thiện qua điều ước Giáp

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 14

Thân (1884). Theo đó, Bắc kỳ (từ Ninh Bình trở ra Bắc), ở mỗi tỉnh có một

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> viên công sứ người Pháp đứng đầu còn Trung kỳ là phần đất từ Bình

Thuận đến thanh hoá do triều Nguyễn cai trị như cũ, nhưng ở đây treo chế

độ “nửa bảo hộ”, bên cạnh vua Nguyễn còn có một viên khâm sứ người

Pháp ở Huế để trực tiếp điều khiển công việc đối nội và đối ngoại. Việc

quân sự và trị an do người pháp đảm nhiệm hoàn toàn.

Bắc kỳ là xứ bảo hộ, đứng đầu viên thống sứ người Pháp, giữ quyền

quyết định về các vấn đề hành chính, chính trị, kinh tế của toàn xứ. Giúp

việc cho thống sứ là một đổng lý sự vụ, thường được gọi là phó thống sứ

cùng giám đốc các sở chuyên môn của xứ. Thuộc phủ thống sứ có một văn

phòng ở Bắc kỳ còn có một hội đồng bảo hộ do thống sứ làm chủ tịch và

các thành viên gồm Tổng tư lệnh quân đội, Tư lệnh hải quân... Ngoài ra, ở

Bắc kỳ còn có hội đồng quyền lợi kinh – tài Pháp do Pháp kiều bầu ra để

bảo vệ quyền lợi cho họ và Viện dân biểu. Hội viên của viện dân biểu là

người bản xứ, được bầu theo lối đầu phiếu hạn chế và trực thuộc phủ

Thống sứ. Bắc kỳ được cử một đại diện vào Hội đồng tối cao thuộc địa.

Trung kỳ là xứ nửa bảo hộ, đứng đầu là viên khâm sứ người Pháp.

Theo nguyên tắc, tại trung kỳ bộ máy hành chính nam triều vẫn còn hiệu

lực nhưng quyền lực của vua bị hạn chế tối đa. Dưới vua có cơ mật viện và

hội đồng thượng thư. Nhưng từ năm 1897, cơ mật viện và hội đồng thượng

thư bị bãi bỏ, thay bằng hội đồng nội các. Mọi công việc của hội đồng này

phải thông qua khâm sứ Pháp mới được trình lên nhà vua để đóng ấn thi

hành. Khâm sứ được quyền chủ toạ các cuộc họp của hội đồng nội các và

hội đồng phủ tôn nhân. Giúp việc cho khâm sứ là một Đổng lý sự vụ

thường được gọi là phó khâm sứ và giám đốc các sở chuyên môn về giáo

dục, kinh tế, tài chính, bưu diện. Bên cạnh khâm sứ có hai Hội đồng tư

vấn. Hội đồng quyền lợi kinh tài Pháp gồm đại diện Pháp Kiều để bảo vệ

quyền lợi của người Pháp. ở trung kỳ còn có một phòng nông nghiệp và

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 15

phát triển hỗn hợp đặt dưới quyền Toà án hành chính Bắc kỳ. Trung kỳ

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> cũng được cử 1 đại diện vào hội đồng tối cao thuộc địa. Tại Trung kỳ cũng

có một viện dân biểu đặt dưới quyền của khâm sứ.

Bắc kỳ có 23 tỉnh, trung kỳ có 16 tỉnh, đứng đầu là chức công sứ,

giúp việc có phó công sứ và chủ sự các ty chuyên môn như thanh tra học

chính, chủ sự bưu điện, Ngân khố, công chính, y tế. Về phía bản xứ có

tổng đốc ở tỉnh lớn, tuần vũ ở tỉnh nhỏ và quản đạo ở miền núi đứng đầu,

dưới có án sát, đốc học, kiểm học, lãnh binh. Ngoài ra mỗi tỉnh còn có một

hội đồng hàng tỉnh, gồm các thân hào Pháp Việt có nhiệm vụ tư vấn cho

công sứ. Dưới tỉnh là phủ do tri phủ đứng đầu. Dưới nữa là tổng do Chánh,

Phó tổng đứng đầu. Dưới tổng là xã do Hội đồng kỳ mục chịu trách nhiệm

về mọi mặt, đứng đầu là Tiên chỉ, Thứ chỉ. Thi hành công việc và chịu

tràch nhiệm với cấp trên là Lý trưởng, Phó lý và ban ngũ hương giúp việc.

Năm 1921, thống sứ Bắc kỳ ký nghị định cải tổ lại chế độ hương thôn. Mỗi

xã do hương hội quản lý gồm các tộc biểu do dân bầu ra. Đứng đầu là

chánh huơng hội, có phó hương hội giúp việc. ở Trung kỳ vẫn giữ nguyên

như cũ.

Như vậy, muốn nắm chặt thuộc địa, Thực dân Pháp cần nắm chắc

chính quyền các cấp và kiểm soát chặt chẽ nhân dân. Chúng cần có bộ máy

cai trị trung thành và đắc lực, cần tạo được một cơ sở xã hội thích hợp với

chế độ của chúng. Thực dân Pháp vừa mua chuộc vừa hạ uy thế vừa uy

hiếp khuất phục tầng lớp thân sĩ, nho sĩ là tầng lớp có cội rễ và có tín

nhiệm lớn ở nông thôn, có uy quyền với cả bọn hương lý, thân sĩ, nho sĩ là

lực lượng hậu bị của bộ máy quan lại. Chính sách của thực dân đã tác động

đến tầng lớp quý tộc, thân hào. Muốn giữ chặt lấy quyền lợi, địa vị, bọn

chúng ra sức làm việc cho Pháp. ở nông thôn bọn thầy Chánh, thầy Lý ít

lâu trước đó còn là người chạy việc, khúm núm, vâng dạ nghe theo các

thân sĩ nay bỗng trở thành người có quyền hành thật sự được quan sứ bênh

vực, giúp cho tậu ruộng, chiếm vườn, xây dựng dinh cơ chẳng bao lâu nữa

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 16

sẽ thành ông Nghị. Phản ánh vấn đề này đã có nhiều tác phẩm văn học

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> hiện thực phê phán đề cập đến nhưng phải nói rằng tác phẩm Tắt Đèn của

Ngô Tất Tố đã thể hiện sâu sắc hơn cả.

Trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố có đầy đủ một hệ thống,

một bộ máy cai trị. Ngay ở chương I và chương II của tác phẩm, cả một bộ

máy thống trị ở địa phương đã được hiện lên một các cụ thể: đứng đầu là

Chánh Tổng, Chánh Hội, rồi đến Lý trưởng, phó lý, lý cựu, cai lệ, lính cơ,

trương tuần. Đoạn văn sau đây tuy ngắn nhưng đã phơi bày cả một hệ

thống bộ máy thống trị ở địa phương: “Phó lý cuốn áo thâm lên cổ. Chánh

hội vắt áo the lên vai, năm sáu ông lý cựu và tộc biểu lệt sệt kéo đôi guốc

gỗ đã mòn hết gót. Cả bọn lật đật tiến từ xóm giữa vào đình. Ai nấy trụt

guốc cầm tay, nhảy lên sàn đình, đút guốc vào dưới gậm chiếu rồi ngồi lên

trên... Chánh hội vừa khơi mào nói về chuyện thuế thì người nhà lý trưởng

lẽ mễ bưng một bộ khay đèn thuốc phiện rước chánh tổng từ nẻo xóm dưới

đi lên. Ông cai lệ và hai ông lính cơ hộ tống cụ chánh vào trước cửa

đình... Chánh Tổng khoan thai bỏ giày, bước qua một dãy chiếu dưới, để

lại mặt chiếu hai hàng dấu chân đầy cát bụi, rồi vắt vẻo ngồi lên chiếc

chiếu trên cùng. Bộ khay đèn tự tay người nhà lý trưởng sang tay hàng cai

lệ lên nằm làm bạn với “quan trong tổng”.

Ngay từ sớm, cụ Chánh đã có điểm tâm độ vài chục điếu ở nhà lý

trưởng, cho nên cụ rất tỉnh táo”.

3.Về văn hoá. Đây là thời kỳ “mưa âu gió mỹ”,” cũ mới tranh

giành”. Văn hoá thời kỳ này đã được nhiều nhà văn phản ánh trong các tác

phẩm văn học một cách sâu sắc. Thời kỳ này, Thực dân Pháp không chỉ

dùng chính sách kiểm duyệt và đàn áp sách báo tiến bộ mà chúng còn thi

hành chính sách ngu dân. Chúng mở nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng

bắt học sinh các trường tư thục từ 18 tuổi trở lên phải đóng thuế thân để

con em nghèo không được đi học. Kết quả là hơn 90% nông dân bị mù

chữ. Còn học sinh, sinh viên thì bị đầu độc bởi “chủ nghĩa siêu hình, chủ

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 17

nghĩa duy tâm, chủ nghĩa nguỵ biện, chủ nghĩa hoài nghi”. Trong suốt mấy

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chục năm thống trị, ngoài chính sách đàn áp và chuyên chế, lũ thực dân

cáo già còn dùng chính sách mỵ dân, dùng khuynh hướng cải lương để

đánh lạc hướng và làm xì hơi phong trào cách mạng. Thực dân Pháp thò

tay nham hiểm nắm mấy phong trào văn hoá có xu hướng cải lương tư sản

(phong trào âu hoá, vui vẻ trẻ trung, hội ánh sáng, hội hướng đạo...) và

những hoạt động tôn giáo nhằm ru ngủ và đánh lạc hướng thanh niên.

Thống sứ Stalen rất chăm lo tổ chức thi sắc đẹp và gây phong trào chợ

phiên. Stalen còn là người đỡ đầu cho hội ánh sáng mà hội ánh sáng chỉ là

một tổ chức phỏng theo mô hình sẵn có của bọn thực dân, nhằm lôi kéo

thanh niên và trí thức vào con đường cải lương tư sản và tất nhiên là có lợi

cho đế quốc. Cần phải phân biệt khuynh hướng cải lương này với khuynh

hướng tiến bộ do nhân dân lợi dụng khả năng hợp pháp để làm lợi cho

mình (hội truyền bá học quốc ngữ). Hội ánh sáng đã phát triển được nhiều

chi hội ở các địa phương, lôi kéo được một số viên chức, trí thức, nghệ sĩ.

Tất nhiên, dưới cái gậy chỉ huy của Stalen thì hội ánh sáng sẽ gắn với hội

hướng đạo, với phong trào chợ phiên, vui vẻ trẻ trung, với những hoạt

động cải lương nhỏ giọt, có tính chất lừa phỉnh, mua chuộc quần chúng của

thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Phong trào âu hoá, vui vẻ trẻ trung của

nhóm tự lực văn đoàn với phong trào chấn hưng phật giáo nhìn bên ngoài

có vẻ rất xa lạ với nhau nhưng do vai trò lãnh đạo của thống sứ Stalen nên

lại diễn ra một sự kết hợp kỳ lạ giữa hai phong trào đó. Trong đại chiến thế

giới lần thứ hai, thực dân Pháp thi hành chính sách phát xít hoá, khủng bố

và kiểm duyệt gắt gao báo chí và các nhà xuất bản, giải tán các hội đồng

thuộc địa Nam Kỳ và các viện dân biểu Bắc, Trung kỳ. Mặt khác, chúng

còn đẩy bọn Việt gian và bồi bút như Phạm Quỳnh, Phạm Lê Bổng, Bùi

Quang Chiêu... hàng ngày tuyên truyền chủ nghĩa đầu hàng, ca tụng một

cách trơ trẽn các khẩu hiệu “ Pháp – Việt phục hưng” và „cách mạng quốc

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 18

gia‟ của tên cáo già bán nước Phê Tanh.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Pháp, sự hưởng thụ thú vui vật

chất được coi là tự nhiên khi lễ giáo, tục lệ lùi bước, thì cái ngon, cái đẹp,

cái tiện lợi, cái hào nhoáng trở thành có sức hấp dẫn. Những người luống

tuổi thì thi nhau đi học, các bậc cha mẹ thúc giục con cái đi học, kiếm lấy

ít vốn liếng chữ Tây và hãnh diện về chức thông phán. Cả những cái còn

xa lạ hơn sâm banh, sữa bò kiếm được bằng những cách nhục nhã hơn, tội

lỗi hơn đã gây ra sự thèm muốn, ước ao. Cái quan trọng không phải chỉ là

ở chỗ thay đổi sự thích thú, ở chỗ việc bình thường hoá việc ăn bơ, sữa...

mà còn là sự thay đổi trong đời sống tinh thần, cả tâm lý và cách suy nghĩ.

Trong xã hội, xuất hiện những vấn đề mới với cách nhìn mới. ở thành thị,

người đủ hạng người, trò đủ trò, thi nhau thanh lịch cũng lắm lối, những

của ngon vật lạ hàng ngày tràn về, những nhà hát lộng lẫy, những quán trà

lịch sự lôi cuốn, báo chí không ngớt đăng giá cả, tin tức kinh doanh. Người

ta cần hưởng thụ , cần tiền, cần tính toán, chạy vạy. Cuộc sống sôi động,

chen chúc, phức tạp đòi hỏi người ta phải nhanh chóng, luôn vận động.

Về mặt văn hoá, Phát xít Nhật cũng có nhiều thủ đoạn tuyên truyền

xảo trá hòng che giấu bộ mặt xâm lược. Chúng tung ra thuyết đại đông á

nhằm ru ngủ mọi người và tìm mọi cách phát triển quan hệ Việt Nam và

Nhật như cho học sinh Việt Nam sang Nhật và ngược lại cho học sinh

Nhật và giáo sư Nhật sang Việt Nam. Chúng dùng mọi cách để tỏ ra quan

tâm đến đời sống và văn hoá của nhân dân Việt Nam. Tất nhiên những

hoạt động từ thiện hoặc tài trợ nói trên không che dấu được những hành

động phát xít dã man, tàn bạo của bọn chúng đối với nhân dân ta. Trong

phạm vi chưa đầy 5 năm, chính sách văn hoá của Nhật chưa thể lấn át được

chính sách văn hoá của thực dân Pháp. Chịu ảnh hưởng của văn hoá thực

dân và phát xít, một bộ phận người dân việt Nam đã tiếp thu và đi theo

tiếng gọi của nền văn hoá phản động. Họ sẵn sàng đánh mất giá trị truyền

thống văn hoá ngàn đời của dân tộc Việt Nam để đổi lấy một phong cách

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 19

sống âu hoá, hiện đại. Để phê phán phong cách “rất Tây” của tầng lớp địa

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chủ phong kiến người Việt đã có nhiều tác phẩm trong dòng văn học hiện

thực phê phán phán ánh hết sức sâu sắc.

Đọc Giông Tố của Vũ Trọng Phụng người đọc cũng dễ dàng nhận ra

một sự pha tạp, xáo trộn giữa nền văn hoá Đông và Tây. Có thể coi đây là

một bức tranh toàn cảnh về nền văn hoá Việt Nam trong những năm 30 của

thế kỷ này. ở nông thôn vẫn duy trì một nền văn hoá lạc hậu, hủ tục và tệ

nạn. Giữa chốn bùn lầy nước đọng ấy, nổi lên cuộc sống tủi nhục, xác xơ,

tù hãm của những người nông dân quần quật tối ngày như trâu ngựa vẫn

không sao lo nổi ngày hai bữa. Bọn hương lý và chức dịch thi nhau đè đầu,

cưỡi cổ, bóp nặn dân nghèo làm cho người nông dân không thể ngóc đầu

lên được. ở làng Quỳnh Thôn “ chỉ cách xa huyện lỵ chưa đầy mười cây số

‟‟ mà dường như không có ánh sáng văn minh nào lọt tới đến mức “ một trí

thức cao cấp” vào loại nhất làng như cụ đồ Uẩn cũng không thể nhận ra bộ

mặt thật của bọn hương lý và chức dịch trong làng. Khi đám đông dân

chúng hành quân lên cửa quan cũng chỉ là hình ảnh “ Cả bọn lôi thôi lốc

thốc kéo nhau ra khỏi làng, trước những cặp mắt toét mà còn tò mò của

bọn giai làng, trước những cái mồm cười rất khả ố”. Người nông dân thì

lạc hậu như vậy còn ở thành thị thì một bộ phận người dân sống xa hoa,

truỵ lạc, trác táng: “ một xã hội thất vọng truỵ lực, muốn phải làm cho

những điều thất vọng phải tan ra khói”, gồm “ông chủ phòng mà Sở Liêm

phóng không thương hại, mấy cậu học trò vừa ra khỏi trường mà đã oán

giận xã hội không trọng dụng nhân tài, cụ phán già không được cưới thêm

vợ, ông nhà văn có sách mới bị cấm, tay chủ báo bị kiện vì tội phỉ báng,

tay phóng viên thiếu đầu đề, cô gái nhảy vừa đánh mất nhân tình, nhà tài tử

cải lương không có người bao...” Đó là đám khách của Nghị Hách vào

ngày nhà tư bản tính sổ doanh thương: “Bọn người mà bề ngoài đủ tỏ ra vẻ

doanh nghiệp, vẻ sắc sảo, gian hùng ở những cái mũ cát két, ở những đôi

giày ống, ở những cái kính cặp, ở những cái răng vàng... Trong bọn ấy, có

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 20

anh coi đời như canh bạc lớn, làm việc thiện là để quảng cáo cho mình,

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> làm điều ác mà bắt mọi người phải nhớ thương, đọc đủ các báo chí mà

không biết gì về văn chương mỹ thuật, tủ sách đầy những tập kỷ yếu các

hội ái hữu nhưng kỳ chung thật không có ai là bạn ở trên đời, cầm đến tờ

nhật trình chỉ xem tin thương trường, tin gọi đấu thầu, các đạo nghị định...

Lại có anh vùa cổ động kịch liệt cho Hội Phật giáo lại vừa xây hàng dãy

nhà săm... Đó là “cái xã hội thượng lưu trí thức trưởng giả quý phái, gồm

đủ các quan chức Pháp trong tỉnh, đám khách sang trọng trong bữa tiệc

linh đình ở phòng đại sảnh Tiểu Vạn Trường Thành lập vào dịp chủ nhân

nhận thưởng bội tinh. Chịu ảnh hưởng của nền văn hoá phương Tây mà cụ

thể là nền văn hoá Pháp, ở thành thị đã xuất hiện những ả gái điếm, những

con nghiện lọc lõi, những trí thức “dởm”, những ông quan Tây và quan ta

tham nhũng thối tha sống cuộc sống xa hoa vương giả trên máu xương

đồng loại.

Những thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hoá ngày càng làm cho

mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc trở nên gay gắt. Giai cấp địa chủ

phong kiến và giai cấp nông dân có sự mâu thuẫn đối kháng với nhau. Sở

dĩ như vậy là vì giai cấp địa chủ phong kiến từ địa vị thống trị dân tộc, đã

trở thành tay sai cho đế quốc, phản lại dân tộc. Vì vậy, xét về toàn bộ giai

cấp thì giai cấp địa chủ phong kiến là kẻ thù của dân tộc, là đối tượng mà

cách mạng cần phải đánh đổ cùng với bọn thực dân đế quốc. Trong khi đó,

giai cấp nông dân Việt Nam chiếm đa số trong dân cư, họ chưa từng đi

theo giai cấp tư sản. Họ chịu 3 tầng áp bức bóc lột, bị phá sản hàng loạt

nhưng không có lối thoát. Họ rất tích cực trong việc chống đế quốc và

phong kiến. Họ là lực lượng đông đảo của cách mạng.

Những chính sách đàn áp về chính trị, bóc lột dã man về kinh tế và

đầu độc về văn hoá của bọn thực dân và phát xít đã ngày càng củng cố vị

trí của thực dân Pháp, khẳng định, bình thường hoá những cái xấu xa,

những cái trái mắt của quân cướp nước, của phương Tây, của xã hội tư sản

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 21

mà thực dân mang vào xã hội Việt Nam. Cái lố lăng, hợm của, trái tôn ti

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> trật tự ấy gây ra bất bình, phản ứng cho cả xã hội vốn tôn trọng tục lệ, tôn

trọng lễ giáo, phân vị trên dưới. Nhưng về sau khi quyền của kẻ có của

được thừa nhận, sự hưởng thụ thú vị vật chất được coi là quyền lợi tự

nhiên, khi lễ giáo, tục lệ lùi bước, thì cái ngon, cái đẹp, cái tiện lợi, cái hào

nhoáng trở thành có sức hấp dẫn.

Những người luống tuổi đua nhau đi học, các bậc cha mẹ thúc giục

con cái đi học, kiếm lấy ít vốn liếng chữ Tây và hãnh diện về cái chức

thông phán. Cái quan trọng không phải ở chỗ thay đổi sự thích thú mà còn

là sự thay đổi trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam.

ở thành thị, nhiều hạng người, nhiều nhà hát lộng lẫy, con người cần

tiền, cuộc sống sôi động, đua chen, phức tạp nên đòi hỏi con người cũng

phải luôn vận động. Hàng hoá từ thành thị tràn về nông thôn. Cái mới tập

trung ở thành thị nhưng không đóng khung ở thành thị, nó đổi thay cả cuộc

sống ở nông thôn, căn cứ địa của nhà nho và người nông dân, những con

người vốn trung thành với cái cổ truyền nhất. Tuy nhiên sự thay đổi đó

không phải thật sự dễ dàng. Những cái mới, cái đẹp, cái tiện lợi vẫn có sức

mạnh của nó. Dần dần cái mới chinh phục được cả những người khó tính,

cổ hủ.

Những người nông dân bị thất nghiệp chạy ra thành phố. Dần dần họ

cũng thành thị hoá, tư sản hoá. Cái danh giới của địa vị, của gia thế bị xoá

bớt. Dần dần chính họ lại tập hãnh diện với những mánh khoé trong nghề

buôn bán, làm ăn. Có thể nói, thực tế lớn nhất của nước ta thời kỳ này là

chúng ta đang trong thời kỳ mất nước, đất nước ta đang rơi vào tay quân

giặc, làm nghẹt thở cả dân tộc. Trong khi cả đất nước ta đang tìm mọi cách

để giải phóng dân tộc, thì một bộ phận người dân (tầng lớp địa chủ phong

kiến) lại lợi dụng địa vị và quyền lợi của mình cấu kết với thực dân đàn áp

nhân dân ta làm cho đời sống của người nông trở nên điêu đứng, bần cùng.

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 22

Nhưng, sự thay đổi về điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá của nước ta thời

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> kỳ này lại là mảnh đất mầu mỡ để cho giai cấp địa chủ phong kiến ra đời,

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 23

tồn tại và phát triển.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> CHƢƠNG II: Những loại nhân vật phản diện trong văn học truyền thống.

Trong lịch sử phát triển, văn học luôn có chức năng phản ánh cuộc

sống một cách toàn vẹn và sinh động. Vì vậy, văn học có khả năng vươn

tới tầm cao của sự khái quát, nắm bất sự vận động bên trong của đời sống

hiện thực. Văn học ở mọi thời đại đều phản ánh giai cấp và mang tính giai

cấp một cách rõ rệt. Từ rất lâu trong xã hội đã hình thành hai giai cấp đối

kháng nhau đó là giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Để phản ánh hiện

thực đó, văn học đã hình thành hai tuyến nhân vật: chính diện và phản

diện. Như vậy, có thể khẳng định rằng, các nhân vật phản diện không phải

chỉ đến giai đoạn này ( 1930 – 1945 ) mới xuất hiện mà đã có từ rất lâu

trong văn học. Chỉ có điều đến giai đoạn này các nhân vật phản diện mới

được các nhà văn phản ánh cụ thể hơn, chi tiết hơn và sinh động hơn. ở

đây, chúng tôi chỉ khảo sát một số tác phẩm văn học tiêu biểu trước năm

1930 để so sánh, làm sáng tỏ vấn đề này.

Nửa cuối kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19 là giai đoạn văn học phát triển

rực rỡ nhất trong lich sử văn học và để lại nhiểu tác phẩm văn học có giá trị.

Truyện Kiều của Nguyễn Du, Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia văn

phái, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Chinh phụ ngâm của

Đặng Trần Côn... là những tác phẩm văn học tiêu biểu, trong đó Truyện Kiều

của Nguyễn Du được coi là một kiệt tác, là kinh điển của văn học Việt Nam.

Cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Du trong truyện Kiều là hết sức sâu

sắc và có giá trị lớn. Có thể nói Truyện Kiều là bức tranh hiện thực rộng

lớn về cuộc sống thời đại mà nhà thơ đang sống, trong đó Nguyễn Du

muốn làm nổi bật lên sự đối lập gay gắt giữa quyền sống của con người

nhất là của người phụ nữ với sự áp bức của chế độ phong kiến trong lúc

suy tàn. Để phán ánh sâu sắc và cụ thể vấn đề đó, tác giả đã xây dựng

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 24

thành công hai tuyến nhân vật: chính diện và phản diện.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Trong Truyện Kiều, bên cạnh nhân vật chính diện như: Thuý Kiều,

Kim Trọng, Từ Hải, Thuý Vân..., độc giả còn thấy xuất hiện nhiều nhân

vật phản diện như: Mã Giám Sinh, Tú Bà, Hồ Tôn Hiến, Bạc Bà, Bạc

Hạnh... Những nhân vật phản diện trong tác phẩm kiên kết với nhau thành

một tuyến. Một điều khá đặc biệt là trong truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn

Du cũng phê phán và lên án tầng lớp thống trị trong xã hội, đó chính là bọn

quan lại phong kiến. Suy cho cùng đầu mối của mọi cái xấu xa, tàn bạo

trong xã hội là do bọn phong kiến gây ra. Trong những truyện Nôm khác,

hình ảnh quan lại phong kiến thông thường là: bên cạnh những nhân vật rất

xấu, rất tàn ác, còn có những người rất tốt, rất lý tưởng. Vì vậy, truyện

Nôm không hiếm những ông quan công minh chính trực, những ông vua

nhân từ, độ lượng. Trong nhận thức của tác giả truyện Nôm, quan lại xấu

là một hiện thực nhưng nó không có tính cách bản chất, không có tính chất

quy luật. Hình ảnh những tên quan xấu trong truyện Nôm chưa cho phép

người ta nghĩ xấu về giai cấp thống trị của xã hội ấy, về chế độ ấy. Truyện

Kiều trên căn bản nhận thức về quan lại phong kiến khác với những truyện

Nôm bình dân. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du thấy cái xấu của bọn quan

lại không phải là hiện tượng mà là bản chất. Nhà thơ có lên án và phê phán

ba tên quan và có cả một gia đình quan lại. Mỗi tên quan mỗi vẻ, không

thằng nào giống thằng nào, không phải đúc từ một khuân có sẵn, tuy có

cùng một hành động là xô đẩy Thuý Kiều vào con đường khổ nhục, phá

hoại hạnh phúc và chôn vùi nhân phẩm của cô.

Thằng bán tơ là kẻ vu oan cho gia đình Thuý Kiều. Trong cách trình

bày của Nguyễn Du, việc vu oan của tên bán tơ chỉ là cái cớ cho bọn sai

nha có dịp đi bắt cóc, hành hạ người khác. Hành động của chúng không

phải là hành động của công lý, hay công lý của chúng là công lý của bọn

đầu trộm đuôi cướp. Đằng nào cũng vậy. Thế rồi kéo về cửa quan thì quan

cũng chẳng hơn gì bọn sai nha. Viên quan ở đây đúng là một thứ “ cướp

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 25

ngày”. Cha, em Thuý Kiều không được xét xử mà còn bị tra khảo nặng nề

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> hơn. Nhiều nhà nghiên cứu xưa nay nói rất đúng, chính viên quan đầu tiên

trong truyện Kiều đã xô đẩy Thuý Kiêu, một con người trắng trong, lương

thiện vào nhà chứa.

Viên quan thứ hai trong truyện Kiều không đến nỗi quá nhem

nhuốc, đó là tên quan xử kiện. Nói chung, những thủ tục về hình thức trong

việc tố tụng viên quan này giữ đúng. Có đơn kiện cửa công, quan mới

xuống trát đòi bên nguyên, bên bị đến công đường xét xử. Quan có lập

phiên toà, khi ra trước toà, quan còn cố giữ bộ mặt lạnh lùng như để cho lý

trí không bị tình cảm chi phối. Người ta dường như còn nghe cả thấy tiếng

đằng hắng lấy giọng của quan trước lúc xét xử. ấy vậy mà khi quan cất

tiếng xét xử thì mới kỳ cục làm sao:

“ Phép công chiếu án luận vào

Có hai đường ấy muốn sao mặc mình:

Một là cứ phép gia hình,

Một là lại cứ lầu xanh phó về.”

Phép công hẳn hoi chứ không phải là chuyện bừa bãi, mà thế đó.

Hoặc là chịu đánh đòn thì tiếp tục được phạm tội, hoặc là phải trở về nhà

chứa. Luật pháp ở đây rõ ràng có tính chất trả thù, lăng nhục, chứ không có

tính chất giáo huấn, sửa sai.

Nhưng rồi đến viên quan này, “phép công” cũng giống như cử chỉ

“lập nghiêm”. Viên quan này có thể động lòng với tiếng khóc sụt sùi của

Thúc Sinh mà chẳng động lòng một tý naò trước cảnh đánh đập tàn nhẫn

Thuý Kiều. Hắn lại còn sính thơ nữa. Khi biết Thuý Kiều có tài thơ thì

máu tài tử của hắn nổi lên, quên hết công lý, hắn hào hứng bắt Thuý Kiều

làm thơ về cái gông. Một tâm trạng như Thuý Kiều lúc đó, lại viết về một

đề tài như thế, bài thơ hay dở thế nào có thể biết được. Thế mà hắn thì

khen lấy khen để. Và cuối cùng nhờ bài thơ mà xong hết mọi chuyện. Đến

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 26

đây thì tất cả những “cửa công”, “phép công”...đều biến thành trò đùa.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Viên quan thứ ba là một trọng thần Hồ Tôn Hiến. Trước hết, hắn là

một kẻ bất tài. Đánh không ăn thua, hắn tìm cách dụ dỗ, mua chuộc Thuý

Kiều. Quả nhiên, hắn đã mua chuộc được Thuý Kiều khuyên Từ Hải ra

hàng, để rồi lúc kẻ thù thất ý sa cơ hắn lại phản bội, giết chết. Tồi tệ hơn cả

là sau khi giết Từ Hải, hắn còn bắt Thuý Kiều là người vừa mới giúp hắn

giành được thắng lợi, đồng thời là vợ của kẻ thù, đánh đàn hầu rượi hắn

trong bữa tiệc hạ công còn đầm đìa máu me của chồng nàng. Rồi lơi lả, rồi

ngây dại trước sắc đẹp của nàng. Cuối cùng không phải vì ân hận, hay vì

một chút ân hận nào mà vì sĩ diện cá nhân, hắn đã gán Thuý Kiều cho một

viên thổ quan, để Thuý Kiều phải nhảy xuống sông tự tử. Hồ Tôn Hiến là

tên quan to nhất cũng là tên quan ty tiện, bỉ ổi nhất trong truyện Kiều.

Bên cạnh ba ông quan ấy ra, trong truyện Kiều còn xuất hiện một

gia đình quan lại, đó là gia đình Hoạn Thư. Quan ông là Lại Bộ Thượng

thư, hình như không còn, chỉ có quan bà và quan cô. ấy thế mà uy lực vẫn

không hề suy suyển. Không kể cái cơ ngơi toà rộng ,dãy dài, lộng lẫy,

nguy nga... Đặc biệt, đáng chú ý ở gia đình này là trong nhà bao giờ cũng

có một bầy côn quan, để khi cần thì đốt nhà người, bắt người về hành hạ

mà không sợ gì luật pháp. Đối với gia đình Hoạn Thư chính quyền cũng

không được đụng đến, nhà chùa cũng phải sợ và nhà buôn cũng phải nể...

Dường như có cái gì rất giống nhau ở bộ ba trong ngôi nhà chứa của

Tú Bà là Tú Bà, Mã Giám Sinh và Sở Khanh. Ba con người này từ những

phương trời khác nhau của xã hội phong kiến tụ họp lại. Một mụ là gái

làng chơi về già hết duyên, một gã là sinh viên trường Quốc tử giám còn

gã nữa không phải là sinh viên nhưng cũng biết “hoạ vần” khi nghe một

bài thơ của người khác, thì ít ra cũng là một nho sĩ... Nhưng đấy là quá

khứ. Còn hiện tại thì cả ba đều tụ họp về đây, dưới mái thanh lâu của mụ

Tú Bà, gian xảo và mưu mẹo, chúng chuyên kiếm ăn bằng cái nghề bỉ ổi

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 27

nhất là buôn bán sắc đẹp của người phụ nữ. Tú Bà đóng vai mụ chủ, Mã

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Giám Sinh đóng vai lão chồng hờ còn Sở Khanh tên ma cô dắt gái. Nguồn

gốc xuất thân có khác nhau nhưng nghề nghiệp hiện tại quy định rõ nét

tính cách của chúng : Cả ba đều hám tiền. Mở miệng ra là nói đến tiền.

Đồng tiền xoay tròn trong mọi mưu mô xảo quyệt của chúng.

Mã Giám Sinh mua Kiều về làm đĩ, nói dối là mua Kiều về làm lẽ.

Hắn cò kè từng xu một trong khi mua và tính toán lời lãi hàng nghìn trong

khi bán. Vừa muốn có tiền lại vừa muốn khoái lạc. Nhưng đối với hắn,

khóai lạc mà không ảnh hưởng gì đến tiền thì hắn mới làm.

Với Tú Bà, đồng tiền cũng chi phối mọi tình cảm, mọi tính toán của

mụ. Mã Giám Sinh mua Kiều đem về, mụ mừng quýnh lên, mới nói một

câu có vẻ âu yếm với Kiều, mụ đã vội quay sang khấn ngay thần mày

trắng. Nỗi mừng đã làm cho giọng khấn của cụ trở thành lắp bắp, không có

vẻ gì thiêng liêng cả. Nhưng liền sau đó, mụ biết Kiều thất thân với Mã

Giám Sinh thì mụ đùng đùng nổi giận, nhảy vào xỉa xói, đánh mắng Thuý

Kiều. Thuý Kiều cũng không vừa, nàng dút dao toan tự sát. Thế là mụ lại

sợ, run lên cầm cập. Mụ sợ vì nếu Kiều tự tử thì mọi vốn liếng của mụ đi

đời nhà ma. Sau đó mụ đành xoay sang cách khác để ép Kiều phải quay

sang tiếp khách. Mụ hứa sẽ gả chồng cho Kiều để lấy lại vốn, rồi bày mưu

cho Sở Khanh dụ dỗ Kiều trốn đi, để bắt về đánh đòn, làm cho Kiều đuối

lý phải nghe theo mụ. Con người này trong hơi thở của nó cũng ngửi thấy

mùi tiền.

Đối với Sở Khanh, nỗi khát tiền lại còn làm cho tên này trở thành

hèn hạ, đốn mạt hơn nữa. Sở Khanh không từ một việc xấu nào là không

làm, miễn là có tiền. Có tiền, hắn mới không dở quẻ, gây sự. Người ta

khinh bỉ hắn và người ta cũng chờn mặt hắn.

Ba con người, một tâm địa nhưng chẳng ai giống ai mà mỗi người

mỗi vẻ. Nguyễn Du không Phải chỉ nhằm bộc lộ bản chất của chúng mà

còn rất chú trọng miêu tả chúng thành những con người cụ thể, có xương,

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 28

có thịt chứ không phải những con người chung chung, trừu tượng.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Tóm lại, trong truyện Kiều, nhân vật phản diện không phải là ít mà

các nhân vật phản diện đã được quy tụ thành cả một hệ thống. Loại nhân

vật phản diện trong truyện Kiều được xây dựng theo một quan niệm điển

hình hoá khác hẳn. Đối với loại nhân vật này, Nguyễn Du đã cố gắng làm

cho nó gần gũi với đời sống, với hiện thực. Bản chất giai cấp của chúng

nói chung rất rõ nét. Vấn đề cá thể hoá nhân vật bước đầu cung được đặt

ra. Nhà thơ cũng bước đầu nhận thức được một cách hiện thực mối tương

quan giữa hoàn cảnh, môi trường và tính cách của nhân vật. Đặc biệt, bút

pháp của nhà thơ khi xây dựng nhân vật này thường nổi rõ tính chất hiện

thực chủ nghĩa.

Sang nửa cuối thế kỷ XIX văn học yêu nước phát triển mạnh mẽ.

Bên cạnh đó vẫn tiếp tục xuất hiện những tác phẩm văn học với chủ đề đạo

đức phong kiến mà trong đó tác phẩm “ Lục Vân Tiên” là một tác phẩm

tiêu biểu. Trong tác phẩm này, chủ đề là ca ngợi chính nghĩa và phê phán

những kẻ bất nhân, bất nghĩa cho nên những nhân vật trong truyện cũng

được sắp xếp thành hai tuyến đối lập rất rõ, tuyến nhân vật chính diện và

tuyến nhân vật phản diện. Một bên là những con người nhân nghĩa như

Vân Tiên, Nguyệt Nga, Hớn Minh, Tử Trực, tiểu đồng, ông quán, ngư ông,

ông tiều và bên kia là những kẻ bất nhân như gia đình Võ Thế Loan, Trịnh

Hâm, Bùi Kiệm. Lối kết cấu như vậy không có gì mới so với phần lớn

truyện Nôm giai đoạn thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đáng chú ý là ở Lục

Vân Tiên sự đối lập ấy không phải nói chung giữa hai tuyến nhân vật mà

đối lập trong từng cặp nhân vật. Nó như tấm kính lệch phản chiếu vào

nhau để làm nổi rõ tính cách của nhau. Nguyệt Nga là tấm gương sáng của

lòng chung thuỷ. Mặc dù Vân Tiên chết, nàng vẫn mang “ bức tượng” của

chàng bên mình. Trước sự ve vãn của Bùi Kiệm, nàng bỏ nhà hắn, trốn đi

nơi khác. Võ Thế Loan thì hoàn toàn trái lại. Cô vợ chưa cưới này khi thấy

Vân Tiên vào kinh ứng thi, chắc bẩm rằng thế nào chàng cũng sẽ “cung

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 29

quế xuyên dương” nên săn đón, đãi đưa. Nhưng chỉ sau đó ít lâu, Vân Tiên

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> bị mù cả hai mắt thì con người ấy trở mặt ngay tức khắc...Sự đối lập giữa

Hớn Minh, Tử Trực với Trịnh Hâm, Bùi Kiệm cũng là một dụng ý rất rõ

của nhà thơ. Hớn Minh khẳng khái, có thể ngồi tù chứ không chịu những

hành vi ngang ngược. Chàng chí tình, chí nghĩa với bạn, sẵn sàng giúp đỡ

bạn những lúc khó khăn. Trịnh Hâm thì nhỏ nhen, đê tiện. Nhân lúc Vân

Tiên bị mù loà, hắn lập mưu giết tiểu đồng và xô Vân Tiên xuống biển...

Như vậy, đến tác phẩm này thì nhà thơ vẫn tiếp tục sử dụng lối kết

cấu hai tuyến đối lập rõ rệt như trong văn học truyền thống. Mỗi nhân vật

trong hai tuyến nhân vật ấy đều phản ánh một khía cạnh nào đó của hiện

thực đời sống. Các nhân vật bên cạnh việc thể hiện tính cách cộng đồng

dân tộc mà còn thể hiện một số nét địa phương rất rõ. Đó là những con

nguời đã tròn thì tròn hẳn, đã vuông thì vuông hẳn, dứt khoát, rõ ràng,

không lắt léo, khó hiểu. Đây cũng là một phương pháp rất đặc thù của nhà

thơ Nguyễn Đình Chiểu khi sáng tạo nhân vật. Với cách xây dựng nhân vật

kiểu như vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã kế thừa được nhiều mặt truyền thống

ưu tú của văn học quá khứ, nhất là văn học dân gian và truyện Nôm bình

dân.

Trong nền văn học trung đại, bên cạnh Truyền Kiều của Nguyễn Du,

Lục vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, còn có tác phẩm Nhị Độ Mai. Đây

là truyện thơ Nôm Việt Nam, khuyết danh, dựa theo tiểu thuyết Trung

Quốc, có nhiều khả năng xuất hiện ở thế kỷ XIX. Trong tác phẩm này, các

tác gỉa dân gian đã sáng tạo nhiều nhân vật, quy vào hai tuyến nhân vật:

chính diện và phản diện. Chuyện kể về Mai Bá Cao làm quan ở huyện

Thach Đường, nổi tiếng là người thanh liêm, trung thực. Vốn căm ghét bọn

gian thần Lư Kỷ, Hoàng Tung nên khi được vua triệu về kinh làm gián

quan, Bá Cao quyết tâm vạch tội bất lương của chúng để trừ hại cho dân.

Trong bữa tiệc mừng thọ tên tể tướng Lư Kỷ 60 tuổi, Bá Cao đã đứng lên

công kích những kẻ nịnh thần như Hoàng Tung và từ chối không uống

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 30

rượu. Lư Kỷ và Hoàng Tung vô cùng căm ghét, ngấm ngầm tìm cách hãm

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> hại ông. Nhân khi giặc Thát sang quấy rối biên giới, Lư Kỷ tâu vua cử hai

quan văn Phùng Lạc Thư và Trần Đông Sơ đi dẹp giặc. Bá Cao đã vạch

mặt bọn Lư Kỷ bởi chính bọn này đã gây ra cảnh giặc giã và khuyên vua

không nên cử quan văn đảm đương việc quân. Lư Kỷ nhân đó liền khép Bá

Cao vào tội phản nghịch, muốn trì hoãn việc binh. Vua ra lệnh chém đầu

Bá Cao và truy nã nhà họ Mai. Nhận được tin dữ, Mai phu nhân đến nhà

em để náu mình còn con trai Mai Lương Ngọc cùng với Hỷ Đồng chạy

sang nhà hầu Loan – bố vợ chưa cưới. Hầu Loan trở mặt một cách hèn hạ,

định sai lính bắt Mai Lương Ngọc tiến kinh. Hỷ Đồng quyên sinh để cứu

chủ. Còn lại một mình, Lương Ngọc treo cổ tự tử nhưng được nhà sư cứu

thoát...Sau rất nhiều biến cố, kết thúc tác phẩm kẻ bất nhân như Lư Kỷ,

hoàng Tung bị xử chém, bọn tay chân của hai tên gian thần đều bị trị tội.

Cuối cùng cả hai họ Mai- Trần đều được vua ban thưởng, Mai Bá Cao

được truy phong...

Nhị Độ Mai là tác phẩm đề cao trung hiếu tiết nghĩa mà nội dung là

cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai lực lượng chính nghĩa và phi nghĩa trong

xã hội phong kiến trên bước đường suy vong của nó: trong triều, vua

không lo việc nước để bọn gian thần lộng hành giết hại những nguời trung

thần, bên ngoài thì giặc giã luôn đe doạ, đời sống nhân dân cơ cực, bị ức

hiếp và chà đạp. Tác phẩm cũng thể hiện thái độ và nguyện vọng của

người dân lao động lúc đương thời: đứng về phe chính nghĩa mà căm ghét

bọn gian tà hại dân, phản nước, luôn luôn mong ước cho nguời ngay,

người tốt được ưởng hạnh phúc, kẻ gian ác phải được trừng trị nghiêm

minh.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, trong văn học truyền thống, đặc

biệt là trong nền văn học trung đại Việt Nam đã từng xuất hiện các nhân

vật phản diện mang màu sắc xã hội và điển hình cho một giai cấp cụ thể.

Trong tác phẩm văn học các nhân vật này xuất hiện nhiều, tạo thành một

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 31

tuyến nhân vật. Khi đi vào khảo sát một số tác phẩm thì ta thấy các nhân

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> vật này được mô hình hoá một cách hết sức cụ thể thông qua việc miêu tả

ngoại hình, ngôn ngữ, hành động cũng như việc khắc hoạ nội tâm, tính

cách nhân vật. Có những nhân vật đã trở thành nhân vật điển hình cho cả

một thời kỳ văn học. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được, nhân vật phản

diện thời kỳ này vẫn còn những hạn chế nhất định mà sẽ được hoàn thiện

dần trong các giai đoạn văn học sau này.

Bước sang thế kỷ XX, đặc biệt trong những năm 30 của thế kỷ hai

muơi đã xuất hiện những cuốn tiểu thuyết quốc ngữ đâù tiên như : “Tố

Tâm” của Hoàng Ngọc Phách, “Quả dưa đỏ” của Nguyễn Trọng Thuật,

“Kim anh lệ sử” của Trọng Khiêm, “Cay đắng mùi đời”, “Tiền bạc bạc

tiền” của Hồ Biểu Chánh...Đây là những tiểu thuyết đầu tiên của thời kỳ

hiện đại hoá văn hoá văn học. Trong văn học, bắt đầu nảy sinh một số

khuynh hướng của tiểu thuyết hiện đại: khuynh hướng lãng mạn tiêu cực,

khuynh hướng hiện thực phê phán và khung hướng yêu nước. Trong các

khuynh hướng văn học thời kỳ này, một số tác phẩm xuất hiện những nhân

vật phản diện mang đặc điểm địa chủ phong kiến, chưa địa chủ hóa, có thái

độ vênh váo, quyền uy, thiếu tấm lòng nhân hậu. ở đây, trong khuân khổ

có giới hạn, chúng tôi chỉ đưa ra một vài giả tiêu biểu để làm sáng tỏ vấn

đề.

Hồ Biểu Chánh là nhà văn nổi tiếng ở Nam Bộ được nhiều người ưa

thích. Đứng về khối lượng và chất lượng thì Hồ Biểu Chánh là nhà viết

tiểu thuyết đáng chú ý nhất của thời kỳ này. Trước năm 1930 ông viết một

số tác phẩm như : “Cay đắng mùi đời, tiền bạc bạc tiền, tỉnh mộng, ngọn

cỏ gió đùa, cha con nghĩa nặng, khóc thầm”... Tác phẩm của Hồ Biểu

Chánh đã ghi lại một số nét khá điển hình của hiện thực Nam bộ vào

những năm sau đại chiến thế giới lần thứ nhất. Tác phẩm của ông bao quát

nhiều vùng hiện thực rộng lớn của Nam bộ, nhiều kiểu người thuộc đủ các

giai cấp khác nhau. Trong đó, Hồ Biểu Chánh tập trung mũi dùi đả kích

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 32

vào bọn địa chủ, quan lại phong kiến. Điều này cũng dễ hiểu là vì lúc bấy

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> giờ cơ sở ruộng đất ở nông thôn vẫn ở trong tay bọn địa chủ, bọn hội đồng

kỳ hào, đế quốc Pháp lại ra sức củng cố hệ thống vua quan và duy trì ý

thức hệ phong kiến để kìm hãm sự phát triển của xã hội ta. Hồ Biểu Chánh

đã bóc trần những lớp vàng son giả hiệu, đã lột mặt nạ những thủ đoạn lừa

phỉnh nhơ nhớp, ti tiện của bọn địa chủ phong kiến. Ưu diểm nổi bật nhất

của nhà viết tiểu thuyết là trong một số trường hợp, ông đã trực tiếp tố cáo

các thủ đoạn bóc lột tô tức của bọn địa chủ. Trong tác phẩm “ khóc thầm”,

Hồ Biểu Chánh đã khắc hoạ chân dung nhân vật Vĩnh Thái một cách sâu

sắc. Tên này tiêu biểu cho bọn chúa đất bóc lột theo lối cổ điển. Hắn buộc

tá điền, nếu mướn 100 công đất thì phải vay 50 đồng bạc hoặc 50 giạ lúa,

nếu mướn 200 công thì phải vay gấp đôi. Lúa và tiền đó phải trả lãi hàng

năm 60 phân, ai không chịu vay lúa, vay tiền thì hắn lấy lại ruộng đất. Như

vậy là hắn đã bóc lột tô tức cùng một lúc và đời đời biến người nông dân

thành nô lệ gắn chặt với ruộng đất của mình. Để bóc lột cho đầy túi tham,

hắn còn đánh thuế thổ trạch, thuế mồ mả và làm đơn xin khẩn hoang để

cướp không 100 mẫu ruộng của nông dân ở Mặc Cần Dưng. Vĩnh Thái là

tên chủ đồn điền, hắn tự cho mình là kẻ nhân đức “ Tôi nhân đức, tôi

không đành cát cổ mấy người quá như vậy đâu. Tôi định cho 5 chục giạ

lúa, tới ngày mấy người đong vốn và lời tám chục giạ mà thôi.” Tính chất

địa chủ của Vĩnh Thái còn thể hiện ở hành động: khi phó lý thầu thiếu 50

giại lúa, Vĩnh Thái nói phải bán vợ đợ con để trừ nợ không thì phải đưa

đứa con lên ở trừ nợ. Hắn là con người tàn nhẫn vô cùng, mọi hành động

của hắn đều thể hiện thói đạo đức giả “ Tôi làm chủ điền mà lại để cho tá

điền tôi đi vay của người khác như vậy thì tội nghiệp cho họ mà cũng hư

danh giá của tôi nữa. ấy vậy, tôi muốn mấy người lấy bạc, lấy tiền của tôi

mà xây dựng, chớ đừng đi hỏi của người ngoài, họ cười tôi”. Nhưng trên

thực tế, đó là một cách để bóc lột và chiếm đoạt ruộng đất, tài sản của

người nông dân. Bên cạnh đó, Vĩnh Thái cũng thể hiện tính cách của một

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 33

địa chủ ác ôn. Vĩnh Thái mắng người ở: “ Quân chó đẻ, cho ăn ngập mặt

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> còn nói lén chủ nhà. Tao đánh chết cha mầy...” Mắng thôi chưa đủ, Vĩnh

Thái còn nắm đầu thằng Mau mà kéo dậy, rồi tay thì thoi, chân thì đá, làm

cho thằng nọ sưng mặt, chảy máu mũi. Rồi chính hắn đã đẩy thằng Mới

phải đi ở tù...

Trong tác phẩm “ Ngọn cỏ gió đùa”, Hồ Biểu Chánh cũng vạch trần

bộ mặt xấu xa, đồi bại của vợ chồng tên địa chủ Đỗ Cẩm. Đỗ Cẩm ít nói

mà tính lại xảo trá, còn thị phi nói nhiều mà tính lại hỗn hào. Vợ chồng nhà

tên này chỉ vì tiền mà có thể làm tất cả mọi điều mà hắn muốn. Hắn nói với

Hải Yến: “ Cậu đừng lo, cậu để nó cho tôi. Mình đã tử tế với nó quá. Nếu

nó muốn làm phách thì để tôi cho nó làm phách. Để tôi biểu con vợ tôi ép

nó, nếu nó còn cứng nữa thì vợ chồng tôi thân nó cho nó thất kinh rồi tự

nhiên nó hết cứng chớ gì. Nói cùng mà nghe, nếu mình làm đủ các mà nó

cứ cúng hoài thì tôi cho phép cậu ban đêm vô ngủ nhầu với nó, sức nó bao

nhiêu mà cụ với cậu nổi...”Đỗ Cẩm chính là kẻ “ chặt đầu lột da người”.

Bên cạnh dó, Hồ biểu Chánh còn phê phán một tên quan huyện dâm ô,

định dở thói bỉ ổi: “ Quan huyện trạc chừng 45 tuổi, trên mép, dưới cằm

đều có râu le the vài chục sợi đương ngồi tréo mảy chơn trên nghế mà hút

thuốc. Ngài ngó nàng trân trân mà miệng lại chúm chím cười”. Ngài nói

thẳng với ánh Nguyệt mà không e ngại, che dấu “ – Thương nên đêm hôm

vắng vẻ ta mới kêu nàng vào đây mà hỏi chuyện. Dại quá! Nàng ở đây với

ta thì khỏi trả đồng xu nào hết, nàng chịu hôn? Ta thấy nàng nghèo hèn

mà có sắc ta thương nên ta muốn làm phước cứu nàng. Vậy nàng ở đây

hầu ta khỏi phải trả nợ.”

Trong tác phẩm “ Tiền bạc, bạc tiền ” Hồ Biểu Chánh đã lên án, phê

phán tên quan phủ Khánh Long. Tên này nhờ có một nghề làm quan mà

dựng lên sự nghiệp lớn đáng giá mười muôn. Hắn có gần 100 mẫu ruộng là

do hắn đã bóc lột của dân. Bên cạnh đó, tác giả còn phê phán nhân vật bà

quan phủ Khánh Long. Bà này vốn là người đê tiện. Khi quan phủ Khánh

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 34

Long lấy bà làm lẽ, thiên hạ họ thấy tiền nhiều, chức lớn, họ quên hết các

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> điều tồi tệ cũ chứ có phải là người xứng đáng chi đâu. Cô là gái hư được

làm bà lớn mà cô không biết ăn năn, lại còn làm điều gian ác, dùng thuốc

đầu độc hai đứa con trai của quan phủ chết, rồi dùng thuốc mà đầu độc

quan phủ mà cướp gia tài. Khi làm bà quan phủ bà luôn nghĩ đến tiền bạc.

Bà tìm mọi cách để cho cháu bà phải được sống trong nhà giàu có. Trong

tác phẩm này, Hồ Biểu Chánh đã xây dựng nhân vật phản diện kiểu như

vậy để vạch trần thế lực đồng tiền đã làm tha hóa con người...

Mặc dù Hồ Biểu Chánh có lên án, phê phán chế độ xã hội nhưng do

những hạn chế về mặt thế giới quan nên cách phê phán của ông cũng là

cách phê phán không triệt để. Sở dĩ như vậy là vì ông chưa nhìn thấy

những mặt hiện thực chủ yếu của xã hội lúc bấy giờ, ông chưa nhìn thấy

quy luật đấu tranh giai cấp. Hồ Biểu Chánh không chủ trương đánh đổ giai

cấp địa chủ phong kiến trên lĩnh vực chính trị và kinh tế mà chỉ sửa chữa

nó về mặt đạo đức. Trong tác phẩm, ông đã đề cao một thứ chủ nghĩa cải

lương phong kiến. Khuynh hướng hiện thực trong tác phẩm Hồ Biểu

Chánh gắn liền với khuynh hướng cải lương và khuynh hướng đạo lý.

Đứng ở góc độ đạo lý, tác giả đã thấy được một số mặt xấu xa, thương luân

bại lý của bọn địa chủ quan lại trong xã hội thời bấy giờ nhưng tác giả lại

chủ trương “ Làm quan đặng dạy dân cho khôn ngoan, làm giàu đặng cứu

dân hết cùng khổ thì mình sùng bái chứ mình đâu dám kích bác họ”.( Khóc

thầm ). ở đây ta thấy rất rõ hạn chế của Hồ Biểu Chánh: tuy có phê phán

bọn địa chủ quan lại về một phương diện nhất định nhưng nói chung lập

trường của Hồ Biểu Chánh vẫn là lập trường của giai cấp phong kiến.

Chưa bao giờ ông chủ trương đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, ông ra

sức cải lương nó theo quan điểm của chủ nghĩa cải lương. Vì vậy, trong

tiểu thuyết, ông đã đề cao một bọn địa chủ “từ thiện”, xây dựng chúng

thành những mẫu người lý tưởng. Hồ Biểu Chánh đã biến các thôn ấp của

bọn địa chủ “ từ thiện” thành những thiên đường giả tạo của chủ nghĩa cải

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 35

lương phong kiến. Kết quả của chủ trương này là đấu tranh giai cấp bị thủ

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> tiêu, mâu thuẫn giai cấp bị xoá nhoà. Nông dân với địa chủ từ đây có thể

xem nhau là bạn bè, miễn ông chủ phải là người có đạo đức.

Bên cạnh Hồ Biểu Chánh thì Phạm Duy Tốn cũng là một nhà văn

tiêu biểu. Trong tác phẩm “ Sống chết mặc bay” ông đã lên án, phê phán

tên quan huyện vô trách nhiệm với nhân dân, không quan tâm đến đời sống

của nhân dân, chỉ biết có một điều là ăn chơi trác táng, sa đoạ. Trong lúc

hàng nghìn dân phu đang vật lộn với mưa và bùn, cố làm chắc cho con đê

đang bị nước sông đe doạ thì giữa đình làng viên quan huyện với lính tráng

phục dịch sòng bài với nha lại, chánh tổng đang đánh tổ tôm để tiêu khiển.

Có kẻ tỏ ý động dao vì nước sông ngày càng lớn thì vị “ cha mẹ dân” gắt.

Quan đang chờ ù ván bài to. Bỗng một người nhà quê, mình mẩy lấm láp,

quần áo ướt đầm, xông vào đình, thở không ra hơi: “ Bẩm quan lớn, đê vỡ

mất rồi”. Thế rồi, anh ta bị quan đuổi thẳng cánh. Những người xung

quanh bị quan quát mắng. Rồi ngài “ Ngoảnh mặt vào, lại hỏi thầy đề:

“Thầy bốc quân gì thế”? “ Dạ, bẩm, con chưa bốc” “ Thì bốc đi chứ”.

Quan hạ tay bài xuống trình ù – “ù chi chi nảy”. Trong khi đó thì khắp mọi

nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng,

lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh

mặt nước...”

Như vậy, trước năm 1930 các nhà văn cũng viết về các nhân vật

phản diện song tần số xuất hiện của các nhân vật còn ít, mờ nhạt, chưa sâu

sắc. Lúc này chưa có các nhân vật kiểu như Nghị Hách, Nghị Quế, Nghị

Lại mà mới chỉ xuất hiện các nhân vật phản diện còn chung chung, mang ít

nhiều tính khái quát. Sở dĩ như vậy là vì thời kỳ này khuynh hướng văn

học hiện thực phê phán mới chỉ nhen nhóm, chưa phát triển thành dòng

văn học cụ thể. Hay nói cách khác, đây là thời kỳ đầu tiên của văn xuôi

hiện đại nên không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Hơn nữa, đây

là thời kỳ mà mâu thuẫn xã hội và mâu thuân giai cấp chưa lên đến đỉnh

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 36

điểm, sự phân hoá về giai cấp, sự phân hoá về xã hội chưa thật sâu sắc nên

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> con ngưòi đam mê danh lợi thiêu đốt dục vọng ít xuất hiện trong thời kỳ

này.

Nhưng ở thời kỳ nào thì các nhân vật phản diện cũng thể hiện bản

chất xấu xa, đồi bại. Quan phủ Lê Xuân Thới trong sáng tác của Hồ Biểu

Chánh mới vừa bốn mươi bốn mà vì ông này có bệnh hút nên hình vóc gầy

mòn, nước da huỳnh đản, coi bộ như người già năm năm tuổi mà lại nhiều

vợ...Trong cái guồng quay của cơ chế trấn áp, các nhân vật phản diện cứ

mở miệng là quát mắng, gắt, thét, la, hét, chửi với thái độ găm ghè sừng

sộ, hách dịch, hống hách, trừng mắt, gân cổ, trừng trợn thậm chí còn đánh

đập hết sức dã man. Trong tác phẩm “ Ngọn cỏ gió đùa” của Hồ Biểu

Chánh, Lý trưởng Tùng hiện lên là một kẻ nhiều quyền lực. Khi bắt được

tên Lê Văn Đó, hắn đánh chửi thậm tệ rồi mới chịu giải lên quan huyện,

quan tri huyện hành phạt một lớp nữa rồi mới giải lên tỉnh. Quan dạy lính

đóng cọc căng tay chân Lê Văn Đó nằm sấp giữa sân. Đánh đòn đủ một

trăm roi, nát thịt, vàng máu, đến mức Lê Văn đó chỉ có thể bò chứ không

thể đi được.

Từ những dẫn chứng trên đây, chúng ta có thể khẳng định rằng nhân

vật phản diện xuất hiện từ rất sớm trong văn học nhưng phải đến thời kỳ

hiện đại, trong quan hệ xã hội tư bản, cuộc sống nhiều lạc thú vật chất: tiền

tài, danh vọng, trai gái, cờ bạc, chè chén... con người không kiềm chế được

mình, luân lý, đạo đức, tôn giáo không đủ khả năng hạn chế và gò bó tính

cách trong khuân khổ pháp luật và đạo lý thì các nhân vật phản diện mới

được lột tả nguyên hình, có chiều sâu. Điều đó được biểu hiện cụ thể, sâu

sắc thông qua các tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, đặc

biệt hiện lên rõ nét qua các tác phẩm “Giông Tố” của Vũ Trọng Phụng,

“Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố, “Bước Đường Cùng” của Nguyễn Công Hoan

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 37

và “Chí Phèo” của Nam Cao.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Chƣơng III: Các loại nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945.

Từ năm 1930, tiểu thuyết Việt Nam thực sự bước vào giai đoạn phát

triển. Thời kỳ này, nhân vật phản diện trong các tiểu thuyết hiện đại phát

triển mạnh mẽ và phức tạp hơn trước. Văn học giai đoạn 1930 – 1945 tồn

tại nhiều khuynh hướng văn học: văn học cách mạng, văn học hiện thực

phê phán, văn học lãng mạn Việt Nam. Trong các khuynh hướng văn học

này, ở mỗi tác phẩm văn học đều xuất hiện những nhân vật phản diện.

Trước khi trình bày các loại nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn

học hiện thực phê phán, chúng tôi điểm qua vài nét về nhân vật phản diện

trong một số tác phẩm văn học lãng mạn để có cái nhìn bao quát và tiện

cho việc so sánh.

I. Nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn học lãng mạn

Việt Nam 1930 – 1945.

Khuynh hướng tiểu thuyết lãng mạn của Tự lực văn đoàn là sản

phẩm của bộ phận trí thức tư sản trong thời kỳ thoái trào cách mạng. Sau

cơn khủng bố trắng 1930 – 1931, văn chương lãng mạn của tự lực văn

đoàn ra đời. Tầng lớp tư sản không dám đấu tranh bằng chính trị và quân

sự chống đế quốc nữa, bèn chuyển ra đấu tranh bằng văn hoá chống phong

kiến. Tiểu thuyết lãng mạn Tự lực văn đoàn về bản chất mang mầu sắc tiêu

cực và thoát ly. Cũng như mọi khuynh hướng lãng mạn tiêu cực khác, tiểu

thuyết tự lực văn đoàn ngày càng xuống dốc. Điều đó là dễ hiểu bởi vì

nhân sinh quan, thế giới quan ngày càng lạc hậu và suy đồi thì tác phẩm

cũng không thể tránh khỏi đi vào con đường bế tắc.

Nhưng chúng ta cũng phải khẳng định rằng văn học thời kỳ này vẫn

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 38

tiếp tục kế thừa truyền thống của nền văn học trước đây, tiếp tục tố cáo lễ

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> giáo phong kiến, đề cao đạo đức phong kiến. Trong các tác phẩm văn học,

các nhà văn đều xây dựng hai tuyến nhân vật rạch ròi: nhân vật chính diện

và nhân vật phản diện. Các nhân vật trong tác phẩm cũng hành động xung

quanh chủ đề về đạo đức phong kiến. Phần lớn các tác phẩm đều phản ánh

đại gia đình phong kiến, quyền uy, trong đó cha mẹ thường quyết định vận

mệnh con cái, đặc biệt trong lĩnh vực hạnh phúc gia đình thì cha mẹ đặt

đâu con phải ngồi đấy. Trong hầu hết các tác phẩm, nhân vật phản diện

phần lớn là các bà mẹ chồng cổ hủ, lạc hậu. Bên cạnh đó còn xuất hiện một

số ông chồng lệ thuộc hoàn toàn vào cha mẹ, nghe theo cha mẹ mà không

đếm xỉa đến hạnh phúc riêng tư. So với nhân vật phản diện trong văn học

hiện thực phê phán thì nhân vật phản diện trong văn học lãng mạn nhìn

chung mảnh hơn, mờ nhạt hơn. Có một điều chúng ta phải khẳng định

rằng, nhân vật phản diện trong hầu hết các tác phẩm văn học lãng mạn là

giống nhau nên khi khảo sát, chúng tôi chỉ quan tâm đến một một số nhân

vật trong một vài tác phẩm mà thôi.

“Nửa chừng xuân” là tác phẩm văn học tấn công vào đại gia đình

phong kiến, tố cáo bọn quan lại và địa chủ phong kiến ở nông thôn nhưng

chưa mạnh lắm. Tác phẩm này cũng có hai tuyến nhân vật rõ rệt. Nhân vật

chính diện và nhân vật phản diện. Đại diện cho nhân vật chính diện là Mai

và Lộc, đại diện cho nhân vật phản diện là Bà Phán. Bà Phán là con người

đại diện cho giai cấp địa chủ phong kiến ở nông thôn nên mọi suy nghĩ và

hành động của bà đều gắn chặt với tư tưởng bảo thủ trì trệ. Bản chất con

người của Bà là hiện thân cho cả tầng lớp địa chủ phong kiến trong xã hội.

Khi Mai và Lộc hết lòng yêu thương nhau thì bà án lại phản đối cuộc hôn

nhân trái phép này vì bà cho rằng không môn đăng hộ đối. Lộc phải nhờ

người giả đóng vai bà án đến hỏi Mai. Tuy biết sự thật nhưng Mai vẫn

nhận lời để đến đáp lòng tốt của chàng. Còn bà án, sau khi nghe con trai kể

thật sự tình, đã không cho phép lại còn quát mắng và rắp tâm phá cuộc

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 39

nhân duyên. Bà bày mưu chia rẽ hai người bằng một bức thư giả mạo

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> khiến Lộc ngờ vợ ngoại tình. Hơn nữa, Bà còn đến gặp Mai, cố ý làm nàng

tưởng Lộc nhờ mẹ đến đuổi nàng đi để rảnh tay cưới con gái cụ Tuần. Mai

mắc mưu bà án, cảm thấy ghê tởm người chồng tầm thường, hền hạ và tin

rằng Lộc chỉ là một gã sở khanh nên nàng dứt khoát bỏ đi. Lộc lại càng tin

rằng Mai bạc tình, đã bỏ chồng đi theo trai. Sau đó, Lộc cưới con gái cụ

Tuần theo ý mẹ còn chị em Mai đến trọ trong một xóm nhỏ giữa những

người lao động nghèo và được họ cưu mang, đùm bọc. Vốn là một cô gái

hay làm, Mai đã tần tảo, đảm đang, chan hoà với những người lam lũ,

quyết chí nuôi em ăn học. Một bác sĩ trẻ, rồi một hoạ sĩ lần lượt đến ngỏ

lời muốn lấy nàng làm vợ song Mai đều từ chối vì Mai vẫn chưa quên hẳn

Lộc. Còn Lộc sau này biết rằng những việc làm của mình là sai lầm, anh ta

rất ân hận và cuộc sống của anh không tìm thấy hạnh phúc. Lộc đau khổ,

dằn vặt vì sự tàn nhẫn của mẹ, đã xua đuổi Mai trong lúc bụng mang, dạ

chửa. Còn bà án khi biết được chỗ ở của Mai, bà tìm đến để bắt đứa cháu

nội. Trước lời lẽ đĩnh đạc của Mai, bà đành thất bại về không. Bà bắt Lộc

đến gặp Mai đón con về, nhận Mai làm vợ lẽ...

Như vây, tác phẩm “Nửa chừng xuân” là một tiểu thuyết luận đề

tuyên chiến với lễ giáo phong kiến, đòi quyền tự do yêu đương và hạnh

phúc cá nhân. Hình tượng bà An trong tác phẩm là một nhân vật phản diện,

tiêu biểu cho quan niệm hôn nhân gia đình phong kiến, coi hôn nhân là

phương tiện thăng quan tiến chức, khẳng định uy quyền tuyệt đối của cha

mẹ trong hôn nhân khá chân thực, sinh động chứ không phải là một biếm

hoạ đơn giản, tiêu biểu cho một lực lượng phản diện đen tối, vô nhân đạo,

phá hoại hạnh phúc thanh niên.

Bên cạnh tác phẩm “Nửa chừng xuân”, “Đoạn tuyệt” cũng là một tác

phẩm có sức tố cáo khá mạnh, nhất là những chương nói về các tập quán

cổ hủ trong gia đình bà Phán, về cách đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo của

những kẻ đại diện cho lễ giáo phong kiến. Hôn nhân chỉ là một việc mua

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 40

bán, không hơn không kém: “ Nay cha mẹ bắt nàng làm vợ Thân là đã bán

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> xác thịt cuả nàng, bán nàng vì một số tiền ba nghìn bạc.” Tác giả đã mượn

lời trạng sư công kích kịch liệt chế độ đại gia đình đang muốn biến con

nguời thành những kẻ nô lệ. Tác phẩm kể về nhân vật Loan, một cô gái có

tư tưởng Âu hoá, từng học trường cao đẳng sư phạm nhưng vì cảnh nhà

nghèo phải bỏ dở. Nàng yêu Dũng – con một viên quan tuần phủ, vì bất

đồng về lý tưởng với bố nên bị bố từ. Dũng cũng thầm yêu Loan nhưng

muốn thực hiện chí lớn nên tạm gạt bỏ hạnh phúc cá nhân sang một bên.

Để trả ơn một món nợ vay của bà phán Lợi, cha mẹ Loan đã ép gả nàng

cho Thân, con trai bà phán, một thanh niên tầm thường. Lầm tưởng Dũng

không yêu mình và cũng mủi lòng trước giọt nước mắt của người mẹ, sau

nhiều phen phản đối dai dẳng, Loan đành bằng lòng. Nhưng từ khi về làm

dâu, nàng đã vấp phải một thế lực rất cổ hủ, từ bà mẹ chồng cay nghiệt đến

cô em chồng đanh đá, hay xúi bẩy, đã trói buộc và giám sát nàng từng

bước đi, từng hành động. Chồng Loan là người vô vị, nệ cổ, chỉ biết nghe

theo mẹ chứ không quan tâm đến hạnh phúc của hai nguời. Quan hệ giữa

Loan và gia đình nhà chồng ngày càng thêm ngột ngạt, căng thẳng. Con

trai nàng bị chết vì bà mẹ chồng chỉ nghe theo lời thầy cúng cho uống

nước thải chứ không chịu uống thuốc Tây. Loan không còn khả năng sinh

đẻ, Thân lén lút đi lại với Tuất, sau đó công khai lấy cô làm vợ lẽ, không

cần hỏi ý kiến Loan. Một lần Thân gây sự với Loan, bà mẹ chồng cũng hùa

theo con, xông vào đánh Loan. Loan chống đỡ theo bản năng nhưng Thân

lại hung hăng chồm đến tiếp tay cho mẹ. Vì vô ý, Thân trượt ngã vào con

dao rọc giấy Loan đang tình cờ cầm trong tay để tự vệ, bị dao xuyên vào

ngực chết ngay. Loan bị đưa ra toà, nghiêm khắc kết tội Loan giết chồng

nhưng rồi Loan được một luật sư người Pháp hết lòng bênh vực, nàng

được trắng án...

Như vậy, “Đoạn Tuyệt” là một tác phẩm luận đề rất tiêu biểu cho

khuynh hướng của Tự lực văn đoàn. Loan là một nhân vật nữ rất tích cực,

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 41

đại diện cho phái mới mà Nhất Linh dùng để phát ngôn cho một quan niệm

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> sống khước từ dứt khoát những thế lực văn hoá, lễ giáo, phong tục của chế

độ đại gia đình phong kiến vốn đang ngự trị nặng nề trong đời sống Việt

Nam lúc ấy – nó bóp nghẹt quyền sống cá nhân, nhất là trong lĩnh vực hôn

nhân và gia đình, nhằm mở đường cho cái tôi nảy nở. Bên cạnh đó, tác

phẩm còn lên án và phê phán một cách gay gắt thế lực tàn bạo, đê hèn

trong xã hội, đó là nhân vật chồng Loan và mẹ chồng Loan. Hai nhân vật

này góp phần không nhỏ vào việc làm tan nát cuộc đời vốn rất đẹp của

Mai.

Có thể khẳng định rằng, thông qua một vài nhân vật phản diện trong

một số tác phẩm văn học lãng mạn, chúng ta thấy rằng, nhân vật mới chỉ

dừng lại ở vấn đề đạo đức gia đình phong kiến mà ít quan tâm đến hạnh

phúc riêng tư của con nguời, đặc biệt, ít quan tâm đến hạnh phúc lứa đôi.

Con người ở đây dường như mất hẳn cái tôi cá nhân của riêng mình. Nhân

vật phản diện là tầng lớp người đại diện cho hệ tư tưởng phong kiến lỗi

thời, lạc hậu.

II. Các loại nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn học

hiện thực phê phán.

1. Hệ thống nhân vật phản diện không tên tuổi, không lai

lịch rõ ràng.

Nhiều loại nhân vật phản diện kể cả những nhân vật không có tên

tuổi, lai lịch rõ rệt, chỉ mới được phác hoạ qua vài nét về hình dáng, ngôn

ngữ và hành động. Nhưng qua một vài nét chấm phá đó, người đọc cũng đã

hình dung khá rõ bản chất và cá tính của chúng với những màu sắc thời đại

và màu sắc địa phương khá đậm. Họ cậy quyền, cậy thế mà áp bức người

nghèo hoặc làm tay sai cho chính quyền thực dân phong kiến mà sống xa

hoa, dâm dật, truỵ lạc.

Hình tượng tên lính lệ hiện lên thông qua cách ăn mặc theo kiểu lạ

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 42

kỳ: “ Người lạ mặt có cái đặc biệt là mặc hai áo cộc. áo trong bằng vải, áo

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> ngoài bằng đũi nhuộm vỏ sò, mà cùng dài gần đến đầu gối, cùng may lối

năm thân và cùng có cổ rất cao”. Cách ăn mặc ấy kết hợp với thái độ,

hành động của hắn đã lột tả khá rõ một con người vô văn hoá, mất lịch sự:

“Người ấy mặt khinh khỉnh, đội khăn lượt cuốn có năm vòng, nhưng đằng

trước cuốn được hơn mười nếp. Người ấy tay cầm một chiếc roi mây quấn

tròn đầu, đi tuột vào trong nhà, leo lên phản ngồi, không chào ai cả.”

Chưa đủ,” người lính hút xong điếu thuốc, há toang miệng cho làn khói

đặc ngùn ngụt tuôn dần ra, rồi vẫn chưa nói tiếng nào, thong thả móc túi

lấy đưa Pha một tờ giấy có đóng nhiều dấu đỏ”. Cách ăn uống của hắn

cũng thể hiện một con người thô tục hết chỗ nói: “ Hắn kề cà vừa uống,

vừa nhắm rất thô tục. Trong khi ăn, anh ta chẳng nói với chủ một tiếng

nào. Đánh loáng, hai đĩa thị luộc đã gần hết. Pha phát ngượng về sự thiếu

đồ nhắm, phải làm lối lịch sự, xuống bếp chặt nốt chỗ thịt... Thấy được tiếp

đồ ăn, khách càng ăn, càng uống già. Hắn nốc từng hụm rượu và nuốt ừng

ực”. Bên cạnh đó, hắn còn hiện nguyên hình là một kẻ ra vẻ biết điều: “

Tôi lấy làm lạ, sao ông Nghị Lại lại cho người đưa tôi sang đây, mà không

cho tôi ăn cơm ở bên ấy. Quan sai tôi về đây về việc cử ông ấy. Ông ấy bị

thị Anh nó kiện là ăn hiếp lấy nhà của nó. Quan bảo ông ấy biết trước để

liệu mà thu xếp, vậy đáng lẽ phí tổn tiếp tôi, ông ấy phải chịu thì phải.”

Thế vẫn chưa đủ, khi về, hắn còn vòi Pha hai hào, gọi nhã là tiền xe để về

huyện.

Khi Pha đi hầu kiện, anh lại gặp một tên lính lệ khác. Tên này khét

tiếng là hống hách, đòi tiền của dân mỗi khi đến hầu kiện. Cậu lệ ngắm

nhìn Pha từ đầu đến chân, rồi hỏi:

“Có gì không?

Pha vui vẻ móc túi lấy phong thư và mỉm cười đáp: có giấy của ông

nghị tôi”. Thế là Pha bị một một quả tống vào ngực đau điếng.

Pha bị lính lệ đánh là vì chúng nói mà anh chẳng hiểu được gì cả.

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 43

Anh là dân đen, chưa bao giờ đến kiện quan bao giờ nên anh không thể

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> biết được “phong tục” nơi cửa quan. Hành động tệ nhất của bọn lính lệ là

đánh đập, hành hung, cướp bóc của dân cày. Hắn đã từng thò tay vào, nắn

hai túi và thắt lưng người cùng đinh. Khi thấy cục nút, hắn hiểu ngay là

tiền và đổi giọng ngay được: Các anh ngu lắm kia. Có việc vào quan mà cứ

lại không muốn mất tiền để người ta chỉ bảo công việc cho. Mau lên, đưa

đây mấy hào, không thì... Anh Pha đưa một, hắn đòi hai. Khi anh Pha loay

hoay lấy thêm hào nữa thì mấy xu rơi ra. Người lính vội vàng nhanh như

cắt, cướp lấy, cướp để và cười sằng sặc, đắc chí.

Như vậy, phải nói rằng, mỗi tên mỗi vẻ, chỉ biết rằng chúng đều

giống nhau ở điểm bóc lột người lao động đến tận xương tuỷ làm cho

người nông dân không thể ngóc đầu lên được. Chúng xấu xa, đê tiện đến

mức đánh mất giá trị nhân phẩm, chỉ còn lại sự trâng tráo và đê tiện mà

thôi. Trong mọi hoàn cảnh, chúng sẵn sàng cấu kết với thực dân, địa chủ

phong kiến để áp bức, bóc lột giai cấp nông dân Việt Nam. Suy cho cùng,

đó là hành động bán nước, hại dân.

Hình tượng quan huyện hiện lên trong tác phẩm: “Bước Đường

Cùng” trước hết là một ông Quan phụ mẫu thờ ơ, lạnh lùng với nhân dân.

Khi thấy anh Pha đến, tên quan phụ mẫu này vẫn chăm chú cạo quân bài

và hút thuốc lá như ban nãy. Ngài không ngửng đầu lên mà cũng không

đáp. Dáng vẻ bên ngoài của tên này có nhiều cái đặc biệt. ở phương diện

này nhà văn Nguyễn Công Hoan rất thành công trong việc mô tả hình dáng

bên ngoài của hắn: “Đứng trước ngài người ta có cảm tưởng như lại phải

ăn một mâm cỗ đầy ăm ắp những thịt mỡ khi người ta đã no nê. Nghĩa là

người ta phát ngấy về sự phì nộn của ngài. Ngài cúi mặt xuống, cả tấm thịt

trên quai hàm bị cổ áo là cứng nó đùn lên, nó vẽ lên một nét nhăn, chia má

làm hai khu đều nhau, khu nào cũng phinh phính và nung núc những thịt.

Cái tấm má ấy đều đặn, đến nỗi giá chỉ một mũi kim nhỏ lỡ đụng vào, là

có thể làm chảy ra hàng lít nước nhờn nhờn mà người ta quen gọi là mỡ...

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 44

Lông mi ngài rộng mà vòng lên, đối với đôi mắt ngài hùm hụp cong xuống.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Từ thái dương đến má, đến xung quanh miệng ngài, người ta tưởng mặt

ngài làm bằng sắt, vì nó đen đen. Nhưng không, màu ấy chỉ là di tích bộ

râu quai nón mà sáng nay ngài quên chưa cạo’’.

Hình dáng thì như vậy, còn trang phục của ngài mới ngộ làm sao: “

Ngài đặt lên đầu một vòng khăn không xứng đáng. Vì đối với cái mặt vĩ đại

ấy, nó phải nhiều nếp hơn. Cho nên quấn quanh đầu ngài, nó như chiếc

vành sắt đai quanh một thùng gỗ gánh nước. Mà khăn ấy, ngài đội một

cách rất chướng, đến nỗi một người nào hơi có óc thẩm mỹ cũng phải phát

cáu mà vô phép ngài, ấn thật mạnh đằng sau xuống cho nó trùm nốt gáy ”.

Riêng ở ngài, sự oai vệ cũng đã quá đầy đủ rồi. Thế mà đằng sau,

đằng trước, bên phải, bên trái, còn bày la liệt những thứ khiến người yếu

bóng vía phải rùng mình: “thanh quất, súng lục, súng trường, gươm, gáo,

bát xà mâu, kích... rặt những thứ chỉ quệt vào thằng dân nào là thằng ấy

đủ chết mất ngáp”.

Quan huyện cũng như tất cả các ông quan khác, rất quan tâm đến

“tiền”. Thậm chí, Quan vừa đọc thư vừa với tay vào cái đĩa không để ổ góc

bàn. Ngài vét mấy lượt, chẳng được gì. Bỗng ngài ngẩng lên nhìn thẳng

vào mặt Pha, ngạc nhiên hỏi: - Đâu?. Té ra Pha quên đặt vào đĩa năm đồng

bạc tiền trình theo lệ nhà quan. Vì thế anh bị quan sai lính tống cổ xuống

trại giam. Ông quan này hết cau mặt, gật, rồi nói sẵng:

-“ Mày đừng láo. Ông nghị viết cả cho tao là mày trình tao năm

đồng và tạ tao hai chục, vì thế ban nãy tao mới bảo tha cho mày’’.

Trong tác phẩm Bước Đường Cùng còn xuất hiện thầy đội với đầy

đủ những mánh khoé để cướp tiền của anh Pha – Người nông dân lao động

hiền lành. Hắn dụ dỗ anh Pha ngon ngọt để rồi anh Pha phải khai ra rằng

anh có tiền. Bát đồ thằng cáo già chộp ngay, bóc lấy một tờ, bỏ vào túi để

đến tối góp tiền tổ tôm. Người lao động như anh Pha thì tối ngày bán mặt

cho đất, bán lưng cho trời, ấy thế mà bọn này chỉ biết hưởng thụ, hút máu

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 45

của bọn cùng đinh cho thoả chí tang bồng. Bọn chúng cậy có quyền, có thế

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> mà áp bức người nông dân. Chúng cướp tiền của người dân một cách trắng

trợn để vui thú với cuộc sống xa hoa, dâm dật, truỵ lạc. Cướp bóc không

thôi chưa đủ, chúng còn tiếp tục giam hãm, tù đầy người nông dân làm cho

họ mất đường làm ăn, không sao ngóc đầu lên được.

Bên cạnh nhân vật thầy đội còn xuất hiện nhân vật thầy quyền hết

mức đểu cáng. Hắn trông thấy người đàn bà - vợ Pha, hắn cho rằng người

đàn bà này tuy xấu nhưng mà “đôi vú vẫn còn vớt vát được”. Thế rồi, hắn

túm ngay lấy nón chị, rồi lẳng lơ buông câu:

“ Người đâu gặp gỡ làm chi

Trăm năm biết có duyên gì hay không?”

Hắn còn giở thói bỉ ổi: bóp vú chị, rồi còn nhăn nhở như một kẻ điên

tình, rồ dại. Chị Pha muốn vào thăm chồng trong nhà lao thì phải ký cược

đồng bạc cho bọn lính, nếu không thì không bao giờ được vào thăm chồng.

Lý trưởng thì hống hách, lạm quyền, đầu cơ của bộn cường hào:

“Chúng tôi làm vua, làm việc quanh năm đầu chày đít thớt, chỉ có những

lúc “hồng thuỷ chướng giật” và những khi “sưu thuế giới kỳ” như thế này

thì mới có quyền. Tha hồ đánh, tha hồ trói trai làng thằng nào bướng

bỉnh... đánh chết vô tội vạ”. Khi Lý Trưởng nhìn thấy vợ chồng anh Dậu

đọc bức văn tự, tức thì Hắn nổi cơn lôi đình: “- Giấy má gì đấy ! Con mẹ

đĩ Dậu? Đơn kiện phải không? ừ ! Được ! Có giỏi thì đi kiện ngay ông đi !

Ông thử cho mày thêm một trận nữa, để mày đi kiện luôn thể ”.

Khi động chạm đến quyền lợi của lý trưởng, hắn liền cất giọng lè

nhè: “ Ông Lý cái gì? Việc gì mà nói đến ông Lý đấy”. Lý trưởng bắt chị

Dậu phải nộp đủ tiền sưu cho chồng. Nếu không thì “ ông trời xuống đây

cũng không tháo được cái thừng ở tay thằng Dậu.

ở làng Đông Xá, Lý trưởng là người được nắm giữ quyền hành.

Ông lợi dụng chức, quyền của mình, ra sức áp bức nông dân. Ông tự ý thu

“lạm” mà chẳng ai làm gì được ông cả. Khi anh Dậu bị trói, chúng tìm mọi

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 46

cách gây khó khăn cho vợ chồng anh Dậu nhằm làm cho vợ chồng anh

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> điêu đứng. Thế rồi những tiếng hách dịch, quát mắng của Lý trưởng cứ

liên tiếp theo giọng lưỡi ông mà tuân ra: “ Mày đi mà hỏi ông Tây, tao

không biết”. Từ miệng lưỡi của Lý Trưởng còn thổ ra những lời lẽ hết sức

khốn nạn, tàn nhẫn, không còn tính người: “ Khai tử rồi cũng phải đóng

sưu. Ai bảo nó không chết từ tháng mười năm ngoái”.

Phó lý thì tàn nhẫn. Được cái quyền hách dịch người dân nên phó lý

luôn tỏ thái độ ra oai : “ Con mẹ dĩ Dậu ! Mày có câm đi, không thì ông vả

vào mồm bây giờ”. Những lời nói hống hách, quát nạt thôi chưa đủ, hắn

còn đay nghiến, coi thường chị Dậu: “Đàn bà thối thây, suốt năm có một

suất sưu của chồng mà không chạy nổi, lại còn nỏ mồm...”

Lý cựu và chánh hội thì đôi khi lại gầm ghè, hậm hực lẫn nhau.

Chúng mâu thuẫn với nhau về quyền lợi, nghĩa vụ. Chánh hội đã từng vênh

bộ mặt hách dịch: “ ừ đấy ! Quyền tôi được thế! Quan sức cho tôi “hiệp dữ

lý trưởng” thôi đốc vụ thuế năm nay, người nào gai ngạnh tức là “ hãn trở

thuế sự” tôi gông cổ lại cho mà xem”. Lúc đó lý cựu lại sừng sộ: “Miệng

ông, ông nói; đình làng ông ngồi, đố thằng nào làm gì được ông”.

Quan phủ lẳng lơ chưa đủ, hắn sẵn sàng hiến dâng vợ mình để được

thăng chức. Hắn nói với vợ: “ Tôi còn chịu được nữa mợ! Tục ngữ đã nói:

Giàu vì bạn, sang vì vợ, năm nay tôi mà được thăng chức là công mợ”.

Tiễn vợ ra đi, quan phủ vui vẻ trở vào kêu án chị Dậu bằng cách nắm tay

chị, lôi lại và ngọt ngào: “Hãy vào trong giường này đã... mày đánh lính

trong khi làm phận sự, tội nặng lắm... Vào đây rồi tao châm chước đi cho’’.

Tên tri huyện về đốc thuế, khám phá ra bọn hương lý làm bậy, bèn

lấy cớ để xoay tiền. Nó thấy chị Dậu có nhan sắc, lại bắt chị lên huyện để

hiếp. Nhưng chị đã trốn thoát được tay nó. Muốn có tiền nộp đủ sưu để

chồng khỏi bị đánh đập, cùm kẹp, chị đành bỏ con măng sữa ở nhà, đi ở vú

em cho bố một tên tuần phủ bú vì lão già đã rụng hết răng. Thằng cụ cố tuy

kề miệng lỗ nhưng không bỏ được thói đâm ô, một đêm nó lần đến chỗ chị

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 47

Dậu nằm, ôm lấy chị định dối già một chuyến. Nhưng chị đã chạy thoát.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Dưới bọn Lý trưởng, quan huyện... còn xuất hiện những tên khác

như cai lệ và biện lệ. Chúng cũng thả cửa hạch sách, nạt nộ và bóc lột

người nông dân một cách hết sức vô lý. Công việc chính của bọn này là

giúp việc cho Lý trưởng và các ông quan ở trên tỉnh, huyện về. Bản chất

của bọn này cũng xấu xa, đồi bại vô cùng. Chúng một mặt phải phụng sự

cấp trên nhưng mặt khác chúng vẫn có thể nói xấu và buông ra những lời

lẽ thiếu thái độ tôn trọng đối với cấp trên. Đối với người nông dân, chúng

bóc lột bằng cách bắt người nông dân phải trả cho chúng một thứ tiền vô

lý: “Con mẹ kia! Đưa năm hào ra nộp tiền hàng đội”. Khi chị Dậu nói là

chị không biết tiền “hàng đội” là tiền gì thì chúng cho rằng chị giở lý sự và

tý nữa xông vào đánh chị Dậu. Té ra tiền hàng đội chính là tiền giường,

tiền chiếu, tiền cơm mà chị Dậu phải trả cho bọn biện lệ và cai lệ khi chị

lên hầu quan. Không có tiền cho bọn nó, chị lại bị cho chân vào cùm...

Giai cấp địa chủ cường hào ấy không phải là ai khác mà chính là

quan lại, lý trưởng, cai lệ, lính lệ, tri huyện, cai lệ, biện lệ... chúng vào hùa

nhau cấu kết với thực dân, làm tay sai đắc lực cho thực dân. Chúng vơ vét

tài sản ít ỏi của nhân dân, đặc biệt là trong những vụ sưu thuế, nhờ gió bể

măng, tha hồ phù thu lạm bổ. Sưu thuế đã nặng, thế mà thực dân đánh một

chúng còn thu gấp rưỡi, gấp đôi. Hàng năm cứ đến vụ thuế, nghe tiếng

trống thuế đánh gióng ba là người nông dân rùng mình, có cảm tưởng như

là trống giặc trống cướp, trống cháy nhà vỡ đê. Riêng gia đình Pha, có tám

sào ruộng và ba suất đinh, phải nộp tới 13 đồng rưõi, bằng khoảng 4 tạ

gạo. Chính một phần vì món sưu thuế đó, mà Pha phải mất hết ruộng vào

tay Nghị Lại... Trong khi người nông dân méo mặt vì thuế thì địa chủ lại

có dịp làm giàu thêm. Bọn chúng thường khinh miệt dân cày, cho nhân dân

là hạng người thấp cổ bé họng, là một hạng ăn no vác nặng chỉ tốt cho việc

bóc lột mà thôi. Như vậy, thành công của các nhà văn hiện thực phê phán

là đã cố gắng thực hiện nhiệm vụ người thư ký trung thành của thời đại.

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 48

Họ đã lên án một cách gay gắt về một chế độ xã hội thối nát, tàn nhẫn, dâm

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> ô, “ cái xã hội chó đểu” mà bọn thực dân phong kiến không ngớt lời tán

tụng.

Như vậy, nhân vật phản diện trong các tác phẩm hiện thực phê phán

hầu hết là những nhân vật không tên, chủ yếu chúng được gọi bằng những

chức danh trong bộ máy thống trị: Chánh tổng, lý trưởng, chánh hội, phó lý,

lý cựu, cai lệ, biện lệ, lính cơ... Các nhà văn không đặt tên cho các nhân vật

này là có ngụ ý: khái quát một hệ thống bộ máy thống trị bạo lực ở nông

thôn Việt Nam đương thời. Chính hầu hết những nhân vật phản diện này đều

là những kẻ vận hành, thực thi cơ chế trấn áp, bạo lực. Không khí bạo lực,

trấn áp tràn ngập mọi ngõ ngách làng quê, toát lên từ chính những việc làm,

hành động, lời nói của bọn đầu trâu mặt ngựa này. Trong cái guồng quay của

cơ chế trấn áp, các nhân vật phản diện này cứ mở miệng là quát, gắt, thét, la,

mắng chửi với thái độ gằm ghè, hầm hầm, sừng sộ, hách dịch, hống hách,

đùng đùng, trừng mắt, gân cổ, trừng trợn. Dưới con mắt của các nhà văn, bọn

cường hào lý dịch là một lũ, từ cử chỉ đến giọng lưỡi, từ việc đánh chửi, quát

nạt đến thói bòn vét, xoay xở ăn bẩn, từ lúc lộng hành, đắc thế trước người

dân cày, đến khi khúm núm, sợ sệt trước quan trên... biểu hiện rất khác nhau

nhưng bản chất bao giờ cũng hiện y nguyên là những kẻ tiểu nhân, thô lậu,

bần tiện, đê mạt. Bọn quan lại là cấp trên của cường hào về quyền lực, và

cũng là bậc thầy của chúng về thủ đoạn ăn tiền. Bọn này vơ vét nhiều hơn,

thường xuyên hơn nhưng biết che đậy kín đáo hơn. Bọn này còn có những

thói xấu ghê tởm mà lũ cường hào tẹp nhẹp kia không có. Điển hình như tên

tri phủ Tư Ân đã sử dụng vợ như một bực thang tiến thân, và chỉ trong một

đêm hắn có thể vừa hiến vợ mình lại vừa cưỡng đoạt vợ người. Còn tên quan

cụ chỉ xuất hiện trong vài trang cuối truyện, nhưng với cái thói tám mươi

tuổi còn nuôi vú sữa, và tiếng thều thào mà ai đọc “Tắt đèn” đều không thể

nào quên, đã thể hiện nguyên hình như một con đười ươi già ghê sợ. Có một

điều chắc chắn rằng, so với nhân vật phản diện có tên tuổi thì các nhân vật

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 49

phản diện không tên tuổi thường là những nhân vật ít mang tính cá thể hoá,

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chưa có chiều sâu. Vì vậy, những nhân vật phản diện kiểu này chưa phát

triển thành điển hình văn học.

2. Các nhân vật phản diện có tên tuổi, có lai lịch rõ ràng (Nghị

Hách, Nghị Quế, Nghị Lại, Bá Kiến)

Trong các tác phẩm văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 –

1945, đặc biệt các tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, Bước Đường Cùng

của Nguyễn Công Hoan, Giông Tố của Vũ Trọng Phụng, Chí phèo của

Nam Cao đã thể hiện các nhân vật phản diện một cách hết sức sâu sắc.

Nhiều loại nhân vật phản diện có tên tuổi, lai lịch rõ ràng được tác giả mô

tả cụ thể qua hình dáng, ngôn ngữ, hành động. Tất cả làm cho người đọc

hình dung ra bản chất và cá tính riêng của từng nhân vật.

2.1 Những đặc điểm gần gũi và giống nhau:

Các nhân vật phản diện có tên tuổi đều là những kẻ thất học, ngu

dốt, keo kiệt, tàn ác, vô đạo đức, vụ lợi, tham ô... Cái xấu xa của tâm hồn

bên trong tương xứng với cái hình thù xấu xí bên ngoài. ở chúng cái gì

cũng cong, từ cái sống mũi đến cái lương tâm và cách xử kiện. Chúng hết

sức trâng tráo, không cần che dấu mọi tội lỗi.

Trâng tráo, vô liêm sỉ là nét nổi bật của hạng người tham tàn Nghị

Hách. Khi gặp lại khoá Hiền, thằng phản bạn, cướp vợ bạn một cách thản

nhiên và bẻm mép thanh minh tội lỗi của hắn một cách trơ tráo: “ Vâng,

chẳng may bác phải tai nạn, còn trơ trọi bác gái sống một mình, thành ra

tôi đem lòng thương. Từ cái thương đến cái yêu không xa, xin bác hiểu cho

cái chỗ hèn yếu của lòng người”. Trong bữa tiệc khao được tặng huy

chương, lão đã diễn thuyết hùng hồn, nước mắt lã chã và thề thốt thống

thiết :” Tôi thương xót đồng bào tôi quá”... Đẻ ra là bình dân, tôi xin giữ

lòng trung thành với bình dân cho đến chết. Thế rồi lão tuyên bố với mọi

nguời: lão sẽ gả con gái lớn cho “ một thiếu niên vô thừa nhận” mà lúc này

hắn biết rất rõ là con riêng của lão. Thật là trâng tráo, vô liêm sỉ đến mức

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 50

kinh tởm.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Trong tác phẩm, Nghị Hách còn hiện lên là một kẻ thiếu văn hoá.

Tác gỉa đã mô tả nét văn hoá rất đặc trưng theo kiểu học đòi Tây của Nghị

Hách được thể hiện qua chi tiết: “ Đây là một cô gái Trung Hoa trắng

hồng như trứng gà bóc, mũm mĩm, nằm hớ hênh, trật cả đùi lẫn vế. ở góc

lại một cô nữa, chẳng mặc gì để che tấm thân trắng phau, béo phốp,

nhưng lại thẹn thò, chua ngoa, một tay bịt chỗ chẳng nên bịt, và một tay

giơ lên trời, cầm một cái... Một cái đây, hiểu ngầm là một ngọn đèn cụt

đầu.” Nghị Hách là một con ngưòi đại diện cho tầng lớp địa chủ phong

kiến, khét tiếng với lối ăn chơi, pha tạp của nhiều nền văn hoá suy đồi, truỵ

lạc.

Một lối ăn chơi pha tạp của Nghị Hách cũng làm cho người ta buồn

cười: “ Đó là một người gần năm mươi thân thể vạm vỡ, hơi lùn, trước

mặt có một cặp kính trắng gọng vàng, trên môi có một ít râu lún phún kiểu

tây, cái mũ dạ đen hình quả dưa, cái áo đen bón một khuy, cái quần đen

sọc trắng, đôi giày láng mũi nhọn và bóng lộn làm cho lão có cái dáng vẻ

sang trọng mà quê kệch, cái vẻ rất khó tả của anh trọc phú họ làm người

văn minh”.

Nghị Hách còn tàn nhẫn và độc ác vô cùng. Hắn hãm hiếp, đánh

giết, lừa người. Hai mươi sáu năm trước, Tạ Đình Hách mới chỉ là một bác

cai thợ nề. Ngay khi đó, Tạ Đình Hách đã là kẻ lừa thầy, phản bạn, có dã

tâm cướp vợ bạn. Và kẻ chuyên lừa thầy phản bạn ấy không ngần ngại

trước bất cứ tội ác nào. Lão đã từng “ bỏ bã rượu vào ruộng lương dân rồi

báo nhà đoan và chỉ bởi một thủ đoạn ấy đã tậu được ba trăm mẫu ruộng

rất rẻ tiền”. Hắn đã từng giết người làm rồi vứt xác người ta xuống giếng

mà khai người ta tự tử. Mỗi thứ tài sản to nhỏ trong nhà tên triệu phú đó

đều gắn với một tội ác bỉ ổi của chủ nhân. Khi Hải Vân xem tử vi cho lão

mới kể qua loa cho lão nghe một số tội ác trước kia của lão như: thông

dâm vợ người, lừa người được số bạc trăm, hiếp dâm, giết người, “ hai

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 51

mạng người đã chết vì quan bác” thì hắn trầm trồ, giật mình. Hắn tàn nhẫn

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> với ngay cả con của hắn một cách vô nhân tính. Hách công nhiên giẫm đạp

lên lương tri và nhân phẩm, công nhiên gả Tuyết cho Long – hai anh em

ruột do vợ chồng hắn đẻ ra. Hành động vô luân này là điển hình tột cùng

bản chất vô lương của Nghị Hách mà sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân phải

ghê sợ. Gấp trang sách lại, hình ảnh một nghị Hách dâm và đểu, độc ác và

giả dối – một bạo chúa cứ hiện lên rõ nét, đúng như giáo sư Nguyễn Đăng

Mạnh đã chỉ rõ:” Tính cách Nghị Hách là tính cách bạo chúa‟‟. Hơn thế

nữa, hắn còn là một tên dâm dục đê tiện. Hắn có mười một nàng hầu thôi,

chưa đủ, hắn còn có giã tâm ức hiếp người con gái thôn quê hiền hậu. Bản

chất dâm dục của hắn hiện lên nguyên hình khi hắn “nom thấy rõ hai cái

má phúng phính, một cặp môi nhỏ và dày, cái cằm tròn trĩnh và hơi lẹm

trong cái khăn mỏ quạ bằng láng thâm” của thị Mịch. Thế rồi, khi cô ả

gánh rạ đi qua, “ nhà điền chủ lại trông theo caí váy nâu cũn cỡn, do một

đường lạt khíu giữa, cho nó chẽn đến nửa đùi, một bộ đùi phốp pháp trắng

nõn, trông rất đáng yêu mặc lòng từ bụng đến bàn chân đều có một lớp bùn

trắng, mỏng, khô đông lại, đã nứt ra thành từng miếng nhỏ, sắp rơi xuống”.

Thế là đôi mắt phong tình của một con cáo già dâm ô đã làm hỏng cả một

cuộc sống vốn bình bị của thị Mịch. Hắn hành động như một con chó săn

mồi, hắn đâu biết rằng chính hành động đó đã giết chết biết bao những

mảnh đời thảo thơm, trong trắng. Trong cơn cuồng dâm, hắn đã hành động

như một kẻ không còn chút ít nhân tính nào. Chính hành động ấy của hắn

đã biến Mịch từ một thiếu nữ thôn quê hiền hậu trở thành kẻ tha hoá về

nhân phẩm: “ Mịch đã đi từ một gái quê ngây thơ, hiền lành, chất phác đến

một thiếu phụ gian dâm, lãng mạn, xảo quyệt đáng sợ.”

Bên cạnh đó, Nghị Hách còn là một kẻ ngu dốt và keo kiệt. Tuy hắn

là nghị viên song mọi suy nghĩ và hành động của hắn đều thể hiện một con

người còn nhiều nhược điểm. Hắn không phải tiếp đãi ai bao giờ ngoại trừ

những kẻ mà hắn xu nịnh. Hắn đã hiếp dâm thị Mịch, làm hỏng cả cuộc

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 52

đời thị Mịch, thế mà khi Long bàn về việc phải bồi thường “thiệt hại” cho

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> thị Mịch thì hắn so đo tính toán, phàn nàn: “ Chết ! Vài trăm bạc! Mày

điên! Mày có biết những nàng hầu của tao ở đây, đáng giá bao nhiêu mỗi

thị không? Cái đứa đẹp nhất tao cũng chỉ mua của bố mẹ nó có bảy chục.

Còn phần nhiều không mất xu nào. Có bảy chục bạc còn phải về hầu hạ

người ta suốt đời huống chi chỉ có một lần mà những vài trăm bạc”. Đắn

đo suy tính một lúc lâu rồi hắn quyết định “ừ ! Mày nói nghe được! Thế

hợp ý tao lắm. Hai trăm bạc...” Về chuyện này thì nghị Hách đã thể hiện

một con người ngu dốt, không biết ứng phó với hoàn cảnh thực tế, chỉ biết

nghe những lời xúi giục, chỉ bảo của Long và Tú Anh mà thôi.

Nghị Quế là tên địa chủ bình thường nhưng rất điển hình cho giai

cấp địa chủ Việt Nam. Đó là một tên trọc phú ngu dốt. Với lối bóc lột theo

kiểu trung cổ thô sơ, bọn địa chủ nói chung không cần đến văn hoá bao

nhiêu. Nghị Quế cũng có cái đức lớn là không thèm cần đến văn hoá,

không cần biết chữ. Tính chất trọc phú đó dễ nhận thấy ở lối kiến trúc và

bài trí nhà cửa của hắn “muốn phản đối mỹ thuật bằng những khung cửa

ngang phè, những cây cột phục phịch và những con rồng con phượng xanh

đỏ vẽ ở ngoài bộ cánh cửa sơn vàng”, ở cách bài trí nhà khách với cái

tranh quảng cáo sữa bò treo giữa câu đối sơn then, với một rổ trứng gà đặt

trong cái tủ chè chạm đầy nho trên một bộ khay chén. Tính chất trọc phú

của hắn còn tỏ rõ trong cách ăn uống: “bưng bát nước canh, trợn mắt, húp

một cách đánh soạt vừa nhai vừa nuốt, bưng bát nước uống một hớp lớn,

súc miệng òng ọc mấy cái rồi nhổ toẹt xuống nền nhà.”

Nghị Quế giàu có nhưng rất keo kiệt bủn xỉn. Nghị Quế có một dinh

cơ lớn nhưng vợ chồng hắn ăn một đĩa giò kho làm mấy bữa, mỗi lần treo

cái niêu giò lên lao màn lại đếm kỹ từng miếng. Mua một ổ chó và một

đứa con của chị Dậu vợ chồng cò kè mặc cả từng hào và giở đủ mọi mánh

khoé, khi dụ dỗ, khi hăm doạ đến lúc trả tiền lại cố tình ăn cắp mỗi đồng

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 53

mấy xu...

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Với đàn chó bốn con, Nghị Quế hiện nguyên hình là một tên bất

nhân, tàn nhẫn. Ngô Tất Tố đã đưa chi tiết đàn chó vào tác phẩm để cho

người đọc nhận rõ hơn về bản chất bất nhân của Nghị Quế. Ngay lúc giao

tiền, Nghị Quế không giao bằng tiền giấy mà giao bằng tiền chinh là nó đã

tính sẵn mẹo của nó. Cái mẹo của nhà giàu ăn bẩn bằng cách đếm thiếu đi

cứ một chuỗi là bốn xu. Tiền chinh nộp thuế người đó, lúc đưa nộp lại chịu

một tấc thuế nữa. Thuế đổi tiền chinh ra tiền giấy cứ một đồng là 3 xu tiền

các. Lại còn tiền riêng “chè lá” cho ông lý áp triện vào văn tự bán con.

Nghị Lại là một tên quan đầu sỏ, hắn giàu có một cách hỗn láo. Với

ông, học vấn không làm gì. Thủa bé, ông coi sách vở là kẻ thù số một. Bây

giờ ông vẵn còn khoe một việc năm ông mới mười năm tuổi. Hồi ấy ông

học ở lớp tư. Một hôm không thuộc bài, bị thầy giáo mắng nhiếc. Lập tức,

ông đứng phắt dậy, cắp sách ra khỏi trường... Hơn nữa ông coi nhà mình là

ngục thất nghiệt ngã... Ông lấy làm hãnh diện mới mười sáu tuổi đã giỏi

trống cô đầu, mới mười bảy tuổi đã hút nổi hai mươi điếu thuốc phiện một

lúc và mới mười tám tuổi đã rẽ dây cương vô số nhân tình. Ông chỉ chửi

lại cha mẹ có hai lượt... Ông tàn nhẫn đến mức lợi dụng anh Pha mù chữ,

làm văn tự giả mạo bắt anh Pha ấn dấu tay vào, cùng một lúc xúi cả anh

Pha và Trương Thi kiện tụng lẫn nhau. Hơn nữa, Ông còn cung cấp tiền

cho cả hai đến hầu quan. Từ cái tường cắm tua tủa “những mảnh chai sáng

nhoáng đến cái nhà, cái buồng, cách bày biện trang hoàng trong phòng

khách của hắn đều vẽ ra nét tính cách con người hắn, trên tường là bức

tranh khiêu dâm kiểu Tầu, góc nhà là một pho tượng khiêu dâm kiểu Tây

nhưng ở gậm giường phòng khách thì một mùi tanh tanh ỏ phòng khách

bốc ra. Nó là mùi han của những đỉnh, những đèn, những mâm, những nồi

xếp la liệt dưới sập”. Đó hẳn là thứ ăn cướp được của nông dân bằng cách

này, cách khác tích luỹ lại. Kẻ vừa ngu xuẩn lại vừa láu lỉnh, vừa ốm yếu

bệnh tật lại vừa dâm dục, vừa có một ngôn ngữ hạ tiện lại biết mềm mỏng

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 54

khúm núm khi cần thiết, vừa giàu nứt đố đổ vách lại vừa keo kiệt bẩn thỉu,

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> kẻ ấy lại dùng nhiều mưu mô như xui nguyên giục bị, lợi dụng sự dốt nát

của nông dân, nhân những lúc người nông dân phải chiụ sưu cao thuế

nặng, phải phạt vạ để cho vay nợ lãi, chiếm đoạt ruộng đất của nông dân,

làm cho người nông dân không thể nào ngóc đầu lên được. Thêm vào đó,

bọn lý dịch lại còn phù thu lạm bổ, lợi dụng hủ tục khiến người nông dân

phải kiệt quệ. Mỗi trang sách là một nỗi uất ức khiến người đọc phải nghẹt

thở.

Bá Kiến là một tên cường hào, địa chủ ác bá điển hình, Do già đời

đục khoét, hắn tạo được cho hắn cái địa vị ăn trên ngồi trốc, nắm quyền

hành và uy lực: từ chức lý trưởng, hắn trở thành chánh tổng, bá hộ tiên chỉ

làng Vũ Đại, chánh hội đồng kỳ hào, huyện hào, Bắc Kỳ nhân dân đại

biểu. Hắn thét ra lửa, khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Hắn lại là một

tay cáo già, lọc lõi, từng trải trong cái nghề bóc lột, đàn áp nông dân.

Chính hắn đã thừa nhận cái sự thật kỳ lạ là: “ ở cái đất nhà quê, bọn dân

hiền lành chỉ è cổ làm nuôi bọn lý hào, nhưng chính bọn lý hào nhiều khi

phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn cả dân cùng nên

liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Và cũng

chính hắn đã khám phá ra quy luật”già néo đứt dây”...đè nén con em đến

nỗi nó không chịu được phải bỏ làng đi là dại. Mười thằng ra đi thì chín

thằng trở về là hung đồ, cái tính ương ngạnh học được từ phương xa. Cho

nên chỉ có những tên địa chủ xảo quyệt, khôn róc đời như nó mới có thể

tìm ra được những thủ đoạn lừa bịp tinh vi để bóc lột: “ Một người khôn

ngoan chỉ bóp đến nửa chừng. Hãy ngấm ngầm đảy người ta xuống sông,

nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập nghế dòi cho được

năm đồng, nhưng được rồi lại vất trả lại năm hào vì thương anh túng

quá.”

Nam Cao cũng vạch ra bản chất nham hiểm của Bá Kiến qua việc

hắn lợi dụng Chí Phèo để trừ khử các phe cánh đối địch:” Trị không được

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 55

thì cụ dùng. Cụ nghĩ bụng: cũng phải có thằng đầu bò chứ? Không có

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò? Những thằng ấy

chính là những thằng được việc... Có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp

mà ăn...”

Bá kiến lại là một tên địa chủ dâm đãng và về mặt này hắn có nhiều

hành động đồi bại. Hắn có những bốn vợ và hắn đã từng thông dâm với vợ

Binh Chức trong khi anh vắng nhà. Hắn cũng ghen, ghen sôi sục và cũng

đau khổ vì ghen. Hắn đã ghen với Chí Phèo và đẩy Chí vào vòng tù tội.

Càng về già hắn càng ghen dữ. Hắn đau khổ vì thấy bà tư trẻ mà cứ phây

phây, cứ đẹp như mới ngoài hai mươi mà sao lại đa tình. Nhìn thì thích

nhưng mà tưng tức là. Khác gì miếng thịt bò lựt sựt khi rụng gần hết răng.

Hắn chỉ muốn cho tất cả những thằng trai trẻ đi ở tù. Tên địa chủ già có

máu dê ghen với tuổi trẻ và căm thù tuổi trẻ. Dưới ngòi bút sắc sảo của

Nam Cao, Bá Kiến là nhân vật điển hình sắc nét trong văn học hiện thực

giai đoạn 1930- 1945

2.2 Bản chất riêng của từng nhân vật.

a. Nghị Quế không phải là một tên bạo chúa như Nghị Hách trong

Giông Tố. Nghị Quế cũng không có “chương trình” chiếm đoạt đầy mưu

mô phức tạp như Nghị Lại trong Bước Đường Cùng. Ngô Tất Tố chỉ tả hắn

như “ông chủ ruộng kiêm ông chủ thả lãi” bình thường nhưng hết sức tàn

nhẫn. Trong tác phẩm “Tắt Đèn”, Ngô Tất Tố không nói đến chuyện cướp

ruộng vì những nhân vật chính diện như vợ chồng anh Dậu không có

ruộng. Hai vợ chồng anh chỉ có một cái nhà tranh và mảnh đất làm nhà thì

đều đã đem cầm cho hội ích. Nếu trong “Bước Đường Cùng” Nguyễn

Công Hoan nhấn mạnh nạn cướp ruộng thì trong “ Tắt Đèn” Ngô Tất Tố

nhấn mạnh nạn cho vay nặng lãi: “Dụng đến cửa ông nhẹ nhất cũng là

mười phân. Và vay từ một đồng trở lên, đều phải viết giấy gán ruộng hay

nhà hoặc phải gửi vật gì khác làm đồ bảo đảm. Quá hạn thì mất. Dinh cơ

ông ở cũng như ruộng nương ông cấy, hạc đồng lọ sứ ông thờ, phần nhiều

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 56

là của những người vay nợ hết hạn không trả, bị ông chiếm lấy và bắt lấy.”

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Ngô Tất Tố gọi cái nạn cho vay lãi ở thôn quê là “ cái khí giới của bọn phú

hào dùng để bóc lột dân nghèo”. Ngô Tất Tố gọi bọn cho vay lãi nặng là “

thứ người đầu trâu mặt ngựa, ăn thịt người không tanh”. Chính từ hành

động cho vay nặng lãi này làm cho Nghị Quế đã giàu, càng giàu thêm, còn

gia đình chị Dậu, ngày càng lâm vào tình cảnh bần cùng đến mức phải bán

vợ, đợ con. Cũng từ hành động đó làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng

trở nên sâu sắc hơn. Ngô Tất Tố đã dùng một loạt chi tiết vừa chân thực,

vừa điển hình để bóc trần bản chất địa chủ của vợ chồng lão nghị. Chẳng

hạn như thái độ rửng rưng của chúng thản nhiên ngồi ăn, mặc cho chị Dậu

bị cả một đàn chó xúm lại cắn “ máu tươi chảy ra đầm đìa”. Đặc biệt, Ngô

Tất Tố đã xoáy sâu vào bản chất chó má của vợ chồng tên địa chủ này qua

việc chị Dậu đem đến bán tại nhà chúng một sinh mệnh người và năm con

chó. Cái Tý với bao nhiêu công lao sinh thành nuôi dưỡng của bố mẹ nó

trong sáu bảy năm trời, với bao nhiêu tình nghĩa mẹ con, chị em, thế mà vợ

chồng Nghị Quế đã lạnh lùng bắc lên cân với mấy con chó để so kè tính

toán từng xu một: “ Thôi thế này: chó non tao cũng mua vậy. Bắt cả con

chó cái và đàn chó con sang đây, tao trả một đồng nữa. Với con bé kia một

đồng là hai... Thế là nhà mày đủ tiền nộp sưu, lại khỏi phải nuôi chó, nuôi

con. Sướng nhé !”

“... Thôi cho thêm hào nữa, thế là vừa con, vừa chó, cả thảy được

hai đồng mốt. Bằng lòng không?...

Đểu giả hơn nữa, nó bắt cái Tý phải ăn chỗ cơm thừa của chó kẻo “

phí của giời”. Nó điên tiết lên khi cái Tý khóc mếu không chịu ăn: “ Mày

ăn cơm chó nhà bà cũng không đáng đâu. Con chó nhà bà còn được mấy

chục, còn người như mày bà chỉ mua có một đồng đấy thôi”. Và như thế

cho rằng chưa đủ ác, mụ địa chủ còn nghiến răng kèn kẹt “ Bà truyền đời

báo danh cho mày, từ giờ đến mai phải ăn hết cái rá cơm ấy, rồi mới được

ăn cơm khác”. Miêu tả thật sâu sắc thái độ của vợ chồng nghị Quế đối với

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 57

người nghèo càng làm rõ tính chất bất nhân tàn nhẫn của chúng.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Nghị Quế rõ ràng mang tính chất phản động của giai cấp địa chủ.

Lịch sử chính trị của hắn bắt đầu từ chức lý trưởng, vượt qua những bậc

phó tổng, chánh tổng, rồi cơm rượu, bò lợn và quan phủ, quan tỉnh hiệp

sức với nhau rồi đưa ông lên nghế “ nghị viên”. Dĩ nhiên là tên nghị gật.

Song bọn thực dân muốn tổ chức được cái trò hề “ viện dân biểu” ấy để lừa

bịp nhân dân ta, chính là phải dựa vào những người như hắn.

Trong tất cả các ngón ăn chơi của nghị Quế chỉ có chỉ có ngón xem

tướng số là sành hơn cả. Hắn rất tự hào về cái tài hoa đó. Hắn nói rằng

“biết cái gì là khổ cái ấy” vì nó đã giúp hắn làm thân với bọn quan lại viên

chức trên tỉnh.

Đối với Nghị Quế, “Tây” trong quan niệm đương thời cũng là sang,

là oai : thời Tây thì giờ là vàng bạc, đồng hồ Tây bao giờ cũng đúng. Hắn

mang trong huyết mạch dòng máu của giai cấp địa chủ. Nghị Quế đã tiếp

thu văn minh tây một cách trọc phú. Trong tác phẩm “Tắt Đèn‟ của Ngô

Tất Tố, có đoạn bà Nghị và ông Nghị tranh luận với nhau về việc gọi con

gái bằng “cô” hay “mợ”:

“ Sao bà cứ gọi bằng lối xách mé như vậy? Tôi đã dặn bà phải gọi

nó là mợ... Bây giờ ở nhà các quan, con cái đều được gọi là mợ tất cả. Tôi

hèn ra cũng là một ông Nghị viên, có lúc ngồi với quan sứ, quan thượng,

danh giá không kém gì một ông quan. Bà có gọi con gái bà là mợ cũng

không quá lạm kia mà.

Bà Nghị cười ngặt cười nghẹo :

-Thế thì ông cũng lầm rồi! Con dâu kia người ta mới gọi là mợ; con

gái thì người ta gọi bằng cô. Chẳng cứ gì các nhà quan; tôi thấy những

nhà ông Ký, ông Phán, những nhà buôn bán ở Hà Nội đều như thế cả.

-Miễn là đừng gọi chúng nó bằng cái kiểu tục tằn của những nhà bố

cu, bố đĩ... Mợ thì mợ, cô thì cô...

Bà Nghị ra bộ đắc ý:

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 58

-Vâng, thì cô...”

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Nghị Quế càng ác với con người, bóc lột con người thì càng gần với

con vật. Ngô Tất Tố cho bưng vào đấy một rổ nhún nhín 4 chó con. Với 4

con chó con này, vợ chồng Nghị Quế hiện nguyên hình là kẻ bất nhân, tàn

bạo. Phải có liều lượng 4 con chó con này pha vào truyện thì mới xộc lên

cho kỳ hết mùi đống rác hữu cơ địa chủ đã biến chất người, mà thối khẳm

đến mức phải nôn thốc, nôn tháo. Ngô Tất Tố đã hạ đến cái “ kỹ thuật đàn

chó” đưa chất “chó” vào để cho người đọc nhận rõ thêm về bản chất vô

tính người của vợ chồng tên địa chủ Nghị Quế. Cái đáng phục trong bút

pháp Ngô Tất Tố là tác giả vẫn cho kẻ thù giai cấp ít nhiều cái nét gọi là

nhân tính. Cho nó phảng phất chút nhân tính, thế nó mới càng chết cha nó.

Mới xem ai cũng thấy vợ chồng địa chủ cũng chỉ như mọi người khác

thích chó, yêu gia súc, tưởng người lành hay kẻ bất lương cũng không khác

nhau gì lắm trong việc nuôi chó con. Thằng chồng le te cho chó ăn cơm,

ôn tồn hỏi về chó, rồi xem tướng chó. Hắn sung sướng. Vợ hắn và hắn bù

khú đú đởn với nhau trên câu chuyện chó con. ấy thế mà đùng đùng giở

giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu đứng đấy. Cho thằng nhà giàu rước

chó vào nhà, nó mới thể hiện rõ bản chất chó đểu của giai cấp nó ra.

Trên thực tế, đã có những tên kẻ thù giai cấp ở khắp mọi nơi rất

thích nuôi chó, yêu chó, quý chó, đặt bánh, đặt thịt, đặt nghĩa trang cho

chó, coi con chó nó nuôi còn quý hơn mạng người mà nó đang hành hạ và

bóc lột. Vợ chồng nhà Nghị Quế còn nói thẳng: nuôi chó còn hơn nuôi đứa

ở. Đàn chó con còn được vợ chồng Nghị Quế săn sóc, cho ăn cho uống,

còn cái Tý con chị Dậu thì bị chúng chê ỏng chê eo, hạch sách đủ điều. Ta

hãy nghe Ngô Tất Tố tả cảnh chị Dậu dẫn con và đàn chó đến nộp cho vợ

chồng nghị Quế:

“ Mụ nghị phủ đầu bằng giọng gắt gỏng:

- Đã bảo lấy cái gì đậy cho mấy con chó con, kẻo nó bị nắng, sao

lại chỉ úp cho nó cái mẹt rách thế kia?” Cái vô nhân tính của chúng cũng

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 59

bật rõ lên từ cái “tình‟‟ chó của chúng.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

b. Nghị Hách không phải là một ông nghị gật tầm thường, không

phải như Nghị Quế của Ngô Tất Tố trong Tắt đèn, Nghị Lại của Nguyễn

Công Hoan trong Bước đường cùng. Nếu như Nghị Quế, Nghị Lại là

những tên địa chủ thôn quê thì nghị Hách là tên đại tư bản đã vươn bàn tay

đẫm máu của nó từ thôn quê đến thành thị. Hắn có năm trăm mẫu đồn

điền, có một cái mỏ than ở Quảng Yên, có ba chục nóc nhà tây ở Hà nội,

bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh

quan công sứ cũng không bằng. Cách ăn chơi của hắn thì y như vị công

hầu khanh tướng trong tiểu thuyết Tàu, có mười một nàng hầu đặt dưới

quyền một vụ quản gia. Không những thế, hắn còn sắp ứng cử nghế Nghị

trưởng, sắp có Bắc Đẩu bội tinh. Có thể nói Nghị Hách là nhân vật tư sản

địa chủ điển hình trong văn học Việt Nam. Sự khái quát tổng hợp ở đây

không phải bằng nhận thức lý trí khô khan chỉ có thể tạo ra những hình

tượng công thức, sơ lược mà bằng một nhân vật sống động, đầy cá tính.

Nghị Hách là “công dân trung thành với hai nhà nước” hắn ra sức

kết vây cánh với quan lại, ôm chân bọn thống trị trực dân, căm ghét những

tư tưởng tiến bộ và căm ghét Cộng sản, nhảy vào chính trị với động cơ đen

tối và thái độ cơ hội trâng tráo. Nghị Hách có một bản chất chính trị rất

phản động mang tính giai cấp rõ rệt. Chương IV của tác phẩm tả một cuộc

đi dạo một vòng ô tô của Nghị Hách ở tỉnh lỵ là một chương khá đặc sắc.

Trước hết lao đến dinh công sứ “ chắp tay vái dài lưng cúi thật khom”

trước vị “quan cai trị” đầu tỉnh rồi ton hót với ngài về cái phong trào cộng

sản... sắp sửa lan đến tỉnh ta. Vậy con xin lấy tư cách một dân biểu mà

trình báo để cụ lý tiện đường cai trị cho tỉnh yên ổn. Sau đó, ô tô đưa Nghị

Hách đến dinh tổng đốc, cánh hầu của lão nhắc nhở quan “ xúc tiến gấp” cái

việc bảo “ chú tuần nó” nhận thông gia với lão, đồng thời xúi bẩy ông “quan

tắt ”vô học này ra tay trị viên tri huyện trẻ Cúc Lâm – người không chịu dập

tắt vụ kiện hiếp dâm theo ý lão. Chương XXI có màn hội kiến giữa một nhà

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 60

tư bản đại biểu cho một hội lý tài mới thành lập bên Pháp và Nghị Hách để

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> làm một áp phe lớn là “ cái độc quyền nước mắm ở trung kỳ và Bắc Kỳ” Chỉ

vài trang sách, Vũ Trọng Phụng đã phơi ra ánh sáng sự móc ngoặc bẩn thỉu

giữa bọn tư sản mại bản bản xứ và bọn thực dân, đã lật ra mặt trái cái gọi là

Viện Dân biểu, là Đại hội đồng kinh tế... đã phanh phui những thủ đoạn bịp

bợm trong cái trò hề bầu cử nghị viên, những mánh khoé của báo chí. Thế là

vì “ năm trăm cổ phần mà mỗi cổ phần là hai nghìn phật lăng”, vì “ cái ghế

nghị trưởng cũng dắt đến cái mề đay Bắc Đẩu và “ còn làm được nhiều việc

lơi khác”, Nghị Hách đã hăng hái nhẩy ra tranh cử, hành động theo bài bản

vạch sẵn của tên thực dân cáo già. Lão còn bỏ “ 250 tạ gạo và một nghìn

đồng bạc” phát chẩn dân nghèo để được báo chí ba kỳ tranh nhau ca ngợi “

công đức nhà triệu phú có óc bình dân” được quan công sứ rất vui lòng “

đại diện chính phủ bảo hộ, chính phủ nam triều gắn huy chương cho một

người công dân rất xứng đáng... một bậc doanh nghiệp hiển hách ít có mà

lòng nhân từ bác ái thì lại đáng treo gương cho dân bảo hộ soi chung”. Hắn

liên minh với một gã Tây thuộc địa thông qua đối thoại:

- “ Tôi hỏi thẳng thế này nhé ! Thế trong cuộc tranh cử ghế Nghị

trưởng thì liệu hội ông có thể giúp gì được tôi không?

- Chúng tôi sẽ giúp ông về phương tiện tinh thần

- Còn tiền tranh cử thì tôi phải bỏ ra?

- Phải, ta nên giao hẹn với nhau đích xác như thế”.

Trong cuộc mặc cả ấy, liên minh ma quỷ càng được củng cố với

những mưu đồ bịp bợm ráo riết và kiên quyết đã được vạch rõ:

- “ Những đứa nào chê ông là vô học thì ông sẽ lấy giấy bạc dán

vào mồm nó, cho nó câm đi! Còn báo chí thì sợ gì? Ông chỉ việc ký vào cái

ngân phiếu cho mấy thằng chủ báo! Tôi sẽ đi điều đình với ông! Ngoài ra

tôi cũng có mấy cơ quan ngôn luận bằng Pháp văn, sẵn sàng chửi cái anh

nghị trưởng cũ là phản quốc, là tư bản, là bán đồng loại rồi kia mà...

.... Tôi sẽ thảo cho ông một chương trình cải cách vĩ đại về xã hội.

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 61

Ông sẽ đòi quyền cho hạng lao động, cho nông dân... Những tờ báo kia sẽ

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chửi ông là cách mệnh,... là cộng sản... Rồi mấy tờ nhật báo đăng tin chó

chết, sẽ trích đăng những bài mà mấy tờ báo Tây chửi ông! Với cái lối

hành động như thế thì chức Nghị trưởng ông lấy dễ như bỡn vậy.”

Rõ ràng đây là một sự “ hợp tác” toàn diện giữa bọn thực dân với

một đại diện xuất sắc của giai cấp địa chủ, tư sản phản động bản xứ. Trước

quan thầy, Nghị Hách đã tỏ ra xứng đáng là con chó con trung thành, một

lòng một dạ với chủ. Hoạt động của hắn trên lĩnh vực – kinh tế có tầm

quốc gia, xã hội, điều mà các ông Nghị Quế, Nghị Hách, Bá Kiến chưa bao

giờ nghĩ tới. Trong văn học hiện thực phê phán 1930- 1945 chưa có hình

tượng tay sai nào điển hình đến như vậy. Trước bọn thực dân Pháp, Nghị

Hách chẳng những biết lợi dụng tình thế, làm cái phao nương dựa, cái lá

chắn để che đỡ mà còn biết kích động chúng, khuấy lên sự tin cậy của bọn

quan thầy: “ Bẩm cụ lớn... Bọn nghiệp chủ chúng con dạo này thật lấy làm

khổ vì cái phong trào cộng sản... bẩm cụ lớn con thấy phong trào cộng sản

ấy sắp sửa lan đến tỉnh ta. Vậy con xin lấy tư cách một người dân biểu mà

trình báo để cụ lớn liệu đường cai trị cho yên ổn”.

Nghị Hách chẳng những là tay sai trung thành với chủ, mà còn bộc lộ

sự ranh mãnh, cáo già của một chính khách thạo đời. Hắn biết lợi dụng điều

kiện của hoàn cảnh vừa làm tăng “uy tín” của mình trước quan thầy, vừa

biết “doạ” quan thầy để quan thầy phải vị nể mình. Cái bộ máy đàn áp của

thể chế thực dân- phong kiến tàn bạo ấy, thông qua những tên tay sai đắc lực

như Nghị Hách sẽ không chùn tay trong việc đàn áp, tàn sát nhân dân.

Đặt trong bối cảnh lịch sử của đất nước ta những năm 1930, hình

tượng Nghị Hách càng trở lên sống động. Hắn thật sự là tấm lăng kính da

diện, phản chiếu những mối quan hệ xã hội đa chiều, phức tạp. Nghị Hách

biết tạo dựng cho mình những chỗ dựa chắc chắn từ những thế lực thống

trị của thực dân và bọn quan lại phong kiến đầu sỏ. Cảnh Nghị Hách hội

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 62

kiến quan tổng đốc hiện ra thật sắc nét.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Tại tư dinh của quan tổng đốc, con cáo già Nghị Hách đã khôn khéo

dùng mối dây liên hệ gia đình để thực hiện mưu đồ chính trị, bắn một mũi

tên trúng hai đích . Hắn gợi tới quan hệ thông gia với “ chú Tuần nó” để lái

thượng quan đi theo cái trận đồ bát quái do hắn dàn dựng, dùng tay quan

lớn để trị quan huyện Cúc Lâm, phủ tay, chạy làng khỏi cái án hiếp dâm.

Nghị Hách biết đánh vào chỗ yếu của quan tổng đốc: lòng đố kỵ, hẹp hòi

khiến quan nổi cơn thịnh nộ. Vạch ra được điều đó, ngòi bút Vũ Trọng

Phụng đã chứng tỏ một bước tiến mới trong nhận thức, tư tưởng của ông

và trong điển hình hoá hiện thực chủ nghĩa của văn học Việt Nam.

Nghị Hách được thể hiện như một bạo chúa có quyền lực tuyệt đối.

Cái nhìn của hắn là cái nhìn choáng ngợp trước thế lực thống trị đen tối.

Bóng đen của lão triệu phú gian ác trùm lên cả một xã hội “giông tố”.

Những nạn nhân khốn khổ của hắn dù đã quyết chí rửa thù song cuối cùng

đã đầu hàng thảm hại: Mịch đã trở thành vợ lẽ lão, Long vừa là con riêng

lại vừa là con rể lão, ông bà đồ Uẩn đi kiện lão thì giờ đây lại vênh váo

được làm bố vợ nhà tư bản, tri huyện trẻ Cúc Lâm không chịu để lão mua

chuộc sai khiến thì bị lão làm cho mất chức... Trong khí đó, Tú Anh tuy

tuyên bố “ không bên vực” hành vi đốn mạt của bố song lại đứng ra cứu

chữa thanh danh, bảo vệ danh dự cho lão. Quan công sứ “ hiền nhân quân

tử hiếm có” thì rất khen ngợi nghị Hách và đứng ra gắn huy chương cho

lão, Nhà “ cách mạng quốc tế” thì trở thành người bạn cố tri, vị thượng

khách của Nghị Hách, ra sức giúp lão cất một ngôi mả tốt để lão sẽ giàu

hơn nữa... sẽ có Bắc Đẩu bội tinh. Khi nghị Hách gặp chuyện đau đớn về

tinh thần, Nghị Hách vẫn sừng sững như “ngọn núi hùng vĩ cao cả” trong

khi những nạn nhân chỉ là “một bọn người nhỏ bằng cái đầu tăm”.

Nghị Hách ý thức rất rõ về uy thế và địa vị của hắn. Tất cả chỉ là

mệnh lệnh, là sự khai khiến bọn tôi tớ phục vụ hắn như một chủ nô hiện

đại “ Dọn cái buồng Thổ Nhĩ Kỳ ở gác thượng để chớp bóng đấy nhé. Liệu

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 63

mà dọn tĩnh lên. Rượu sâm banh cũng đem lên. Đánh ngay telephon về Hà

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Nội cho thằng Lộc đen, chủ cái tiệm khiêu vũ gì ở đường bờ sông đó, bảo

nó thuê cho ngay ô tô cho hai đứa trẻ nhất, đẹp nhất lên trên này. Nếu nó

không sẵn thì bắt nó đi tìm cho được. Nếu khách nhà nó đông qúa thì bảo

nó đóng của hiệu lại một tối. Nó lên đây thì giả cho nó bốn chục, nó kỳ kèo

thì thêm cho nó mười đồng, xong”.

c. Nghị Lại đầy những mưu mô xảo quyệt. Nghị Lại quanh năm

không rời cái bàn đèn nhưng mỗi ngày thêm giàu có về ruộng: “ Ba phần

tư lúa má ở nơi mênh mông này mà bọn dân đen vào cứu vớt được là cuả

Nghị Lại”. Hắn chỉ nằm khểnh hút thuốc phiện rồi tìm mọi cách bóp hầu,

bóp cổ người nông dân. Tên địa chủ Nghị Lại, do cướp bóc nông dân đã

giàu nứt đố đổ vách với hai mâu vườn và bốn trăm mẫu ruộng còn tìm mọi

cách thâm độc để chiếm được tám sào ruộng của anh Pha và dồn anh vào

bước đường cùng. Hắn cấu kết với tên tri huyện sở tại, đẩy nông dân đi

đến chỗ kiện cáo nhau để đục nước béo cò: quan thì ăn của đút, địa chủ thì

cho vay nặng lãi chiếm ruộng, chiếm nhà. Nghị Lại xúc xiểm Trương Thi

và Pha đi kiện tụng lẫn nhau. Hắn sẵn sàng cho cả hai bên vay tiền đi lễ

quan. Tưởng rằng đó là lòng tốt của nghị Lại nhưng thực chất đó chính là

cách để nghị Lại chiếm đoạt ruộng đất của người nông dân. Chính vì vụ nợ

này mà anh Pha đã vấp nợ Nghị Lại ba chục đồng. Rút kinh nghiệm của

bao nhiêu gia đình nông dân đã khánh kiệt vì nợ lãi, vợ chồng anh Pha đã

bán gánh hàng xén để lấy tiền trả nợ. Nhưng nghị Lại tìm cách chần chừ

không chịu nhận tiền vì bản thân hắn đã có âm mưu nuôi lãi mẹ đẻ lãi con

để cuối cùng chiếm ruộng của Pha. Kế đến vụ sưu thuế ập tới. Cường hào

có quan trên đồng loã, được dịp phù thu lạm bổ. món tiền bán gánh hàng

xén của vợ chồng Pha bị tiêu tán vào món thuế tám sào ruộng và ba suốt

sưu của Pha và hai người anh ruột Pha. Hoạ vô đơn chí. Để tránh nạn đói

giáp hạt, Pha lại phải vay của Nghị Lại 5 thùng thóc. Nhưng 5 thùng thóc

đó cũng không đủ cứu đói cho cả gia đình. Vợ chồng Pha phải ăn củ chuối.

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 64

Do đói và ăn bậy, lại bị nạn mưa lũ úng thuỷ, nhân dân trong vùng nhiều

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> nguời mắc bệnh dịch tả. Rồi vợ con Pha cũng lần lựot chết vì bệnh dịch tả.

Nhân lúc vợ con ốm chết, Pha lại bị mê tín và lệ làng làm cho tốn kém: lễ

bái, bốc mộ, cúng quan ôn, tạ thần. Anh phải bán nhà và vay nghị Lại thêm

mười đồng nữa. Cuối cùng giữa lúc gần đến vụ gặt và biết được Pha trắng

tay, Nghị Lại gọi Pha đến tính nợ : 30 đồng vay lễ quan, mười đồng vay tạ

thần cộng với 5 thùng thóc vay lúc giáp hạt, tính cả vốn lẫn lãi là hai mươi

thùng, và tuyên bố : “ Mày phải viết nhượng cho tao chỗ tám sào của

mày”. Trong cái làng An Đạo có dinh cơ của nghị Lại, không riêng gì anh

Pha bị phá sản. Bà ánh hàng xóm của nghị Lại cũng bị hắn cướp vườn. Bác

đám ích hai lần mất nhà, mất ruộng vào tay hắn. Bác San cũng bị hắn lừa

phỉnh, vay tiền rồi mua bò, mua lợn của hắn để mời cả làng ăn khao cái

bằng sơ học yếu lược của đứa con trai đầu lòng. Bản chất xấu xa đồi bại

của nghị Lại được phô bày qua những lời chửi rủa của bà ánh: “ Bà mất

nhà mất cửa bà đi ăn mày nhưng bà hãy chửi cho sướng miệng hôm nay,

rồi mai bà muốn đi đâu thì đi. Chứ nó lại độc ác, tàn nhẫn thế à. Đất nhà

nó rộng thế, chứ còn muốn rộng đến đâu nữa, nó lại còn muốn chiếm cả

nhà nữa cho vuông, cho đẹp dinh cơ kia. Nó để chôn vợ, chôn con nó à !

Bà không bán nó lập tâm thả chó sang nhà bà, để suýt nữa con bà chết lòi

ruột. Rồi bà đánh chó nó, nó đi kiện. Nó lại xui người đến mách bà bán

nhà để lấy tiền lễ quan, rồi nó mượn người đến mua rẻ”. Hắn đúng là tên

đểu giả, quanh năm hút máu mủ những người cùng đinh.

Nghị Lại cũng là người trung thành với hai chính phủ. “ Tôi không

hiểu sao pháp luật lại qúa bất công thế. Tôi đã làm nghị viên, rất trung

thành với hai chính phủ, không lẽ tôi lại dám làm điều phi pháp”. Như vậy,

hắn tự nhận mình là nghị viên và trung thành với hai chính phủ. Hơn nữa

còn rất giỏi trong việc nịnh quan Tây, nịnh nhà Đoan. Khi cần phải nhờ đến

nhà Đoan, hắn khúm núm và nói với bọn đầy tớ bằng giọng điệu nhã nhặn

vẻ thân thiết : “ Chúng mày sao không mời các thầy xuống nhà ngang xơi

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 65

nước”. Trên thực tế, hắn là kẻ hết mực háo danh, hắn không chỉ thèm tiền,

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> thèm ruộng, thèm thóc mà hắn còn lo đến cái “danh dự” của hắn: “ Tôi làm

nghị viên, rất trung thành với hai chính phủ. Cho nên tôi không muốn có

dấu vết gì xấu trong lý lịch tôi với nhà nước. Tôi chỉ ngại điều ấy chứ có sợ

gì món tiền phạt? Nhà tôi như thế này tôi thiếu gì? Chắc quan lớn cũng biết,

tôi hầu hạ các quan, có lúc tốn kém đến bạc nghìn mà có tiếc gì? Đấy ngay

như mấy lần tết nhất, tôi vẫn đi lại hầu quan lớn thì quan lớn biết”.

d. Bá kiến một kẻ có lý lịch bốn đời làm tổng lý, có con làm lý

trưởng, bản thân ăn tiên chỉ làng như Bá Kiến đã nhận ra và lợi dụng quy

luật “ một người khôn ngoan chỉ bóp đến nửa chừng... Đè nén con em đến

mức nó không thể chịu đựng được phải bỏ đi là dại”. Bá Kiến cũng có cái

ghen, cái tức, cái hống hách thường tình cho nên mặc dù có nhận ra quy

luật nhưng vẵn cứ phạm thường tình. Nhưng Bá Kiến hơn người ở chỗ

không cần than thở và biết cười cái cười Tào Tháo để xoay chuyển tình

thế. Tiếng cười của cụ giòn giã lắm, người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ ở

cái cười. Lấy độc trị độc, hắn dùng ngay bọn họ để trị lại những phe đối

nghịch như Đội Tảo, Tư Đạm, Bát Tùng... “Trị không lợi thì cụ dùng. Cụ

nghĩ bụng cũng phải có những thằng đầu bò...Chính những thằng ấy mới

là những thằng được việc...có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn.

Cụ thử nói khích xem sao. Nếu nó trị được Đội Tảo thì tốt lắm. Nếu nó bị

Đội Tảo trị thì nó cũng chẳng thiệt gì, đằng nào cũng có lợi cho cụ cả.” Bá

Kiến khác với tất cả mọi người ở điểm : Hắn biết thế nào là mềm nắn rắn

buông. Hắn cho rằng cái nghề làm việc quan nếu nhất nhất cái gì cũng đè

đầu ấn cổ thì lại bán nhà cho đi sớm. Vì vậy, Bá kiến có lúc rất mềm dẻo

nhưng lại thu được một món lợi khổng lồ. Đôi lúc Bá Kiến không cần lên

gân lên cốt mà Chí Phèo vẫn nghe và hành động theo ý của Bá Kiến. Cụ lại

nhận ra rằng : “ ở cái đất nhà quê, bọn dân hiền lành chỉ è cổ làm nuôi bọn

lý hào, nhưng chính bọn lý hào nhiều khi lại phải ngậm miệng cung cấp

cho những thằng cùng hơn cả dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 66

cầm dao đâm người hay đâm mình.”

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Như vậy, có thể khẳng định rằng trong dòng văn học hiện thực phê

phán giai đoạn 1930-1945, nhân vật phản diện đã phát triển thành một hệ

thống, có nhân vật phản diện mang tên tuổi lai lịch rõ ràng, lại có những

nhân vật phản diện không có tên riêng mà chỉ gọi bằng những tên chung

chung. Cho dù ở loại nào đi nữa thì nhân vật phản diện luôn hiện nguyên

hình là kẻ ăn trên ngồi trốc, cấu kết với thực dân để bóc lột nhân dân và

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 67

trong mọi hoàn cảnh đều thể hiện rõ bản chất xấu xa của giai cấp thống trị.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Chƣơng IV. Các thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật phản diện.

Trong khi xây dựng các nhân vật, mỗi nhà văn đều phải sử dụng các

thủ pháp nghệ thuật để xây dựng các nhân vật của mình. Trên thực tế các

thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật rất đa dạng, phong phú. Tài năng

của nhà văn một phần bộc lộ ở thủ pháp nghệ thuật này. M. Gorki có lần

khuyên một nhà văn trẻ: “ Anh hãy bỏ nghề viết đi. Đấy không phải là việc

của anh, có thể thấy rõ như thế. Anh hoàn toàn không có khả năng miêu tả

con người cho sinh động, mà đấy là điều chủ yếu.”

Miêu tả nhân vật dựa trên các mặt chủ yếu như miêu tả ngoại hình,

hành động, tính cách, ngôn ngữ là sở trường của một số nhà văn hiện thực

phê phán giai đoạn 1930- 1945 trong đó Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng

Phụng, Nam Cao là các tác giả tiêu biểu.

I. Xây dựng nhân vật Phản diện qua việc miêu tả ngoại hình.

Ngoại hình là thứ ngôn ngữ không lời của nhân vật, phản ánh tính

cách một cách trực tiếp, nhanh nhậy nhất. Để khắc hoạ tính cách nhân vật,

tác giả thường tập trung đi sâu vào những chi tiết ngoại hình cụ thể. Đây là

cách làm quen thuộc, một thao tác đương nhiên của nhà văn đối với việc

xây dựng nhưng nhân vật.

Hình dáng bên ngoài của các nhân vật đều thể hiện nội tâm bên

trong của chúng. Với bản chất hết sức xấu xa, đê hèn của nghị Quế, nhà

văn Ngô Tất Tố không tả nhiều ngoại hình của nhân vật. Nhưng chỉ cần

một vài nét thoáng qua cũng có thể làm hiện lên tất cả bản chất con người

hắn. Với Ngô Tất Tố, ông rất thích tả bộ râu của các nhân vật phản diện.

Sở dĩ như vậy bởi vì hình như bộ râu rậm, đen, dài theo cách nhìn của tác

giả thì nó thể hiện một bản chất xảo quyệt, trâng tráo đến mức không còn

cái gì có thể miêu tả hết được. Ngô Tất Tố hai lần đề cập đến chòm râu

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 68

vểnh của nghị Quế. Lần thứ nhất ông viết: “ Ông nghị rung đùi, vuốt chòm

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> râu tây cong vắt trên mép ngậm tăm”. Lần thứ hai, tác giả viết: “ Nghị quế

vểnh râu, đứng trong sân gạch, ngắm đôi bồ câu gật gù gụ nhau ở của

chuồng. Nhác thấy mẹ con chị Dậu nhô vào, hắn hỏi một cách thật đổng”.

Nhà văn không hề tả vóc dáng của các nhân vật này ra sao mà chỉ tả chòm

sâu vểnh ngược cũng đủ để hiểu một con người đểu gỉả, vô nhân tính. Tác

giả còn mô tả bộ râu của quan phụ mẫu mới ghê sợ làm sao. Chòm râu này

thật là có một không hai: “ Cái râu mới lạ làm sao? Nó đen như vệt hắc ín

và cong như cái lưỡi liềm. Nó nhọn như mũi dùi nung và bầu như bầu đầu

dao trổ. Nó khum khum quắp lấy hai mép, giống như hai cánh dơi. Nó vất

vểu vểnh ra hai măng tai, gần như hai sừng củ ấu. Nó châu đầu dưới ống

mũi, như sắp chui vào cái mũi dọc dừa. Nó lại giúp cho cái mồm lèm bèm

thêm sự dữ dội.” Chòm râu ấy luôn đi kèm với hành động đâm đãng, đểu

giả. Chẳng thế mà quan phụ mẫu đã định “ xơi tái” chị Dậu trong một tình

huống hết sức éo le. Thành công của Ngô Tất Tố là ông đã dùng một chi

tiết rất nhỏ của ngoại hình bên ngoài để mô tả nội tâm bên trong, mà mô tả

theo cách là lột trần bộ mặt nham hiểm, xấu xa, đồi bại của các nhân vật

phản diện.

Dưới cái nhìn của Vũ Trọng Phụng, Nghị Hách hiện lên với dáng vẻ

đạo mạo, phong thái xem ra có vẻ ung dung nhưng kỳ thực lại là một kẻ đê

tiện mà người đời không thể dễ dàng chấp nhận và dung hoà. Hắn hiện lên

ngay từ những trang đầu tiên của tiểu thuyết: “ Đó là một người gần năm

mươi, thân thể vạm vỡ, hơi lùn, trước mặt có một cặp kính trắng gọng

vàng, trên môi có một ít râu lún phún kiểu tây, cái mũ dạ đen hình quả

dưa, cái áo đen bóng một khuy, cái quần đen sọc trắng, đôi giày láng mũi

nhọn và bóng lộn, làm cho lão có cái vẻ sang trọng mà quê kệch, cái vẻ rất

khó tả của anh trọc phú học làm người văn minh”. Trong đoạn văn này,

nhà văn không chỉ mô tả hình dáng bên ngoài của lão trọc phú này mà nhà

văn còn nhấn mạnh đến trang phục mà hắn dùng hàng ngày. Độc giả chưa

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 69

cần bình luận mà nhà văn đã khẳng định rằng đó chính là sự hiện diện của

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> anh trọc phú đua đòi làm người văn minh. Phải nói rằng, nhà văn phải có

cái nhìn đầy căm phẫn đối với hạng người này thì mới có những đoạn văn

xuất sắc như vậy. Cái nhìn của tác giả không đừng lại ở hình thức bên

ngoài mà đó là cái nhìn thấu suốt tâm can nhân vật.

Trong văn học, đôi mắt được nhà văn quan tâm miêu tả không phải

là hiếm và người đời nói đôi mắt chính là của sổ tâm hồn. Tưởng Ký đời

Thanh ở Trung Quốc cho rằng cái thần, cái tình của con người tập trung

nơi con mắt và nụ cười: “ Thần tại lưỡng mục, tình tại tiếu dung” (thần ở

đôi mắt, tình ở nụ cười). Đa phần con mắt của nhân vật tiểu thuyết Vũ

Trọng Phụng không thể hiện được cái “ thần” mà là con mắt vô cảm. Điều

đó chẳng lạ vì thế giới nhân vật của Vũ Trọng Phụng là thế giới của những

con người bị tha hoá, của những nhân vật phản diện, còn những nhân vật

chính diện không nhiều, không sắc nét, không trở thành điển hình. Đối với

nhân vật Nghị Hách thì đôi mắt ở đây là đôi mắt phong tình của kẻ trăng

hoa mà người đời ngàn năm lên án và phê phán. Đôi mắt phong tình của

hắn như một lưỡi dao sắc và nhọn đâm thẳng vào cuộc đời của biết bao cô

gái thôn quê nói chung và Mịch nói riêng. Và chính đôi mắt ấy đã phá tan

hạnh phúc của một cô gái thôn quê vốn ngây thơ và trong trắng. Vũ Trọng

Phụng viết: “ Đôi mắt phong tình ngắm ngía không chớp...” Bản chất đê

tiện và đểu cáng của hắn còn được thể hiện trong đôi mắt đỏ ngầu vì dâm

dục: “Hai mắt lão đỏ ngầu lên, vì lúc ấy con người đã trái mặt đi, để cho

con quỷ dâm dục xuất hiện”.

Nếu như Ngô Tất Tố quan tâm tới việc mô tả bộ râu, Vũ Trọng

Phụng quan tâm đến việc miêu tả con mắt thì Nguyễn Công Hoan chú ý

nhiều đến việc miêu tả dáng hình nhân vật. Đối lập với nghị Hách, nghị

Lại hiện lên với một tấm thân hom hem, dăn dúm. Tác giả miêu tả với

nhiều nét ngoại hình xấu, làm hiện lên một nghị Lại đầy những mưu mô:

“... khủng bố người ta bằng hai nét nhăn xoạc cong sang bên má, làm cho

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 70

đôi mắt đã xếch lại càng xếch thêm. Hoạ sĩ muốn tôn người có của, đã hoà

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> màu hồng cho khéo để tô da mặt hồng hào như người Mỹ tráng kiện. Song

sự thực, Nghị Lại là dòng dõi một giống người thuộc chủng tộc thứ sáu

trên toàn cầu... Nếu trắng ông đã là người Âu, nếu vàng ông đã là người á,

nếu đỏ ông đã là người Mỹ, nếu nâu ông đã là người úc và nếu đen ông đã

là người Phi. Đằng này ông lại xanh xanh, đích là thứ da của chủng tộc

người nghiện”. So với các nhà văn như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,

Nam Cao thì Nguyễn Công Hoan là người “chịu khó” miêu tả ngoại hình

bên ngoài của nhân vật phản diện hơn cả. Cũng một bộ dạng gầy gò, ốm

yếu nhưng trong một chương khác ông lại viết: “Bên bức truyền thần một

ông quan mũ áo chỉnh tề, hiện ra một thằng người trơ trơ bằng thịt, bằng

xương. Nói cho đúng thì thịt nghị Lại hiếm, nhưng xương thì ông rất nhiều,

vì ông cởi trần nên để lộ ra một thân thể gầy còm rất đáng thương, tưởng

chừng như cả bộ xương xộc xệch ấy chỉ dính vào nhau một cách lỏng lẻo,

mà va vào đâu một tý là cái khung người phải bẹp dúm dó, khó lòng nắn

cho nó lại nguyên hình”. Như vậy, khác với các nhà văn khác, Nguyễn

Công Hoan chỉ đi sâu vào miêu tả hình dáng bên ngoài của nhân vật phản

diện. Có thể nói, ông rất quan tâm đến dáng dấp bên ngoài của nhân vật.

Ông nhấn mạnh đến thân thể gầy còm ốm yếu của Nghị Lại như để khẳng

định nội tâm méo mó ở bên trong. Miêu tả đối lập hình dáng bên ngoài với

nội tâm bên trong là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của nhiều nhà

văn, đặc biệt là các nhà văn sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê

phán.

Đối với tên quan phụ mẫu thì Nguyễn Công Hoan lại giết hắn bằng

một thân hình có nhiều nét đặc biệt: “ Đứng trước ngài, người ta có cảm

tưởng như lại phải ăn một mâm cỗ đầy ăm ắp những thịt mỡ khi người ta

đã no nê. Nghĩa là người ta phát ngấy về sự phì nộn của ngài. Ngài cúi

mặt xuống, cả tấm thịt trên quai hàm bị cổ áo là cứng nó đùn lên, nó vẽ lên

một nét dăn, chia má ra làm hai khu đều nhau, khu nào cũng phinh phính

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 71

và nung núc những thịt. Cái tấm má ấy đầy đặn, đến nỗi giá chỉ một mũi

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> ghim nhỏ lỡ đụng vào là có thể chẩy ra hàng lít nước nhờn mà ta quen gọi

là mỡ. Lông mi ngài rậm mà cong lên, đối với đôi mắt ngài hùm hụp cong

xuống. Từ thái dương đến má, đến xung quanh miệng ngài, người ta tưởng

mặt ngài làm bằng sắt, vì nó đen đen. Nhưng không, màu ấy chỉ là di tích

bộ râu quai nón mà sáng nay ngài quên chưa cạo”.

Khác với Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố và Vũ Trọng Phụng, nhà

văn Nam Cao trong tác phẩm “ Chí Phèo” không hề miêu tả một nét ngoại

hình đối với nhân vật Bá Kiến. Có thể nói điều này là dễ hiểu bởi dưới đôi

mắt và cách nhìn của Nam Cao thì các nhân vật phản diện chỉ hiện nguyên

hình bằng những hành động, ngôn ngữ, tính cách mang những nét đặc

trưng, riêng biệt. Chính điều này làm nên một Nam Cao khác với các nhà

văn khác về cách xây dựng nhân vật phản diện.

II. Xây dựng nhân vật phản diện qua việc miêu tả hành động.

Hành động nhân vật là nguyên nhân trực tiếp tạo nên biến cố, là cơ

sở hình thành, phát triển cốt truyện. Hành động bao gồm hành vi, những

hình thức hoạt động của nhân vật, nó phụ thuộc vào tính cách, quan hệ,

xung đột, mâu thuẫn bên trong và bên ngoài nhân vật. Giữa tính cách và

hành động nhân vật luôn có sự thống nhất. Tính cách được thể hiện bằng

hành động, ngược lại hành động là sự bộc lộ của tính cách. Trong nghệ

thuật xây dựng nhân vật, M. Gorki quan niệm : “ ... Không phải chỉ viết

bằng ngòi viết, mà còn vẽ bằng từ ngữ và không phải vẽ theo kiểu người

hoạ sĩ, nghĩa là tạo nên một hình người bất động, mà cố gắng biểu hiện

những con ngườiđang chuyển động không ngừng, đang hành động trong

những những cuộc xung đột bất tận với nhau, trong cuộc đấu tranh giữa

những giai cấp, những tập đoàn, những cá nhân”. Mỗi nhân vật phản diện

của các nhà văn đều có một hành động khác nhau. Các hành động đó đã

nêu lên bản chất thối tha, xảo quyệt của cả một tầng lớp vô nhân tính.

Hành động của Nghị Hách luôn động, rõ ràng là của tên lưu manh

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 72

có hạng, đa trá, đa mưu, đại gian, đại ác, thâm hiểm vô cùng mà bất nhân

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> cũng vô cùng. Nó là hình ảnh tột bực của cường hào ác bá, là tên trọc phú

đại gian hùng, là điển hình về lớp tư sản đại địa chủ cỡ lớn. Hành động đầu

tiên của hắn là hiếp dâm. Hắn chẳng sợ gì luân thường đạo lý, hắn cũng

chẳng đếm xỉa đến đạo đức con người. Hắn chỉ hành động theo bản năng

dâm dục của hắn mà thôi. Từ việc hiếp dâm đã kéo theo nhiều hành động

bỉ ổi của hắn. Trước cái tội tày trời đó, nó chẳng thèm đếm xỉa đến quan

toà mà lên ngay công sứ, tổng đốc. Gặp công sứ, nó không tiếc lời ton hót,

nịnh bợ: “Bẩm chúng con thấy cụ lớn cũng dễ dàng, lại hay tiếp người bản

xứ, cho nên con sang thăm và hầu chuyện, và xem cụ lớn có điều gì chỉ

bảo không... Cụ lớn thương dân lắm...lòng thương dân của cụ lớn thì

không ai là không cảm phục”. Hơn nữa, hắn cố tình gán cho việc khiếu

kiện tội hiếp dâm là do “phong trào cộng sản”, “gieo mầm thù ghét người

giàu có” : “ Bẩm, toàn dân tỉnh này đã bắt đầu nói xấu và vu oan cho con.

Bẩm cụ lớn, chắc họ chỉ nhắm mắt nghe theo bọn phiến loạn chúng mớm

nhời mà thôi. Họ vu cho con là giết người, là hiếp tróc đàn bà con gái, là

bóp hầu, bóp cổ bọn dân nghèo, thôi thì đủ những tội ác. Họ hết mức gieo

cái mầm thù ghét người giàu có, cho lan rộng trong đám công dân... Vậy

con xin lấy tư cách người dân biểu mà trình báo để cụ lớn tiện đường cai

trị cho tỉnh yên ổn.” Lợi dụng quan hệ thông gia với tuần Hà, đánh vào

chỗ yếu “ bước làm quan tắt” của tổng đốc để quật đổ quan huyện Cúc

Lâm “ Cái thằng ấy láo thế à? Để rồi tôi trị cho nó một trận. Nó lại không

biết là quan lớn thông gia với em ruột tôi hay sao?”.

Việc đem truyền đơn cờ đỏ gieo rắc tai hoạ cho quan huyện Cúc

Lâm và dân làng Quỳnh thôn là âm mưu hãm hại đen tối, hèn mạt của

Nghị Hách. Hắn đã từng đem bỏ bã rượu vào ruộng lương dân rồi báo nhà

đoan để tậu ba trăm mẫu ruộng rẻ tiền. Hắn thách thức công lý, ngạo mạn

trước cửa công, chẳng ngần ngại mua chuộc, ngả giá với quan huyện Cúc

Lâm việc bán xe hơi giá rẻ: “ Nếu quan lớn dùng đến thì tôi chỉ xin lấy

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 73

ngài có hai trăm thôi. Lúc mới mua giá nó là ba nghìn tám đấy ạ”. Chưa ai

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> quy tội nhưng hắn lại ngang nhiên biện bạch: “ Giữa lúc tôi buồn, thình

lình con bé ấy dẫn xác đến”. Ngài cũng biết cho dẫu là người tai to mặt lớn

đến thế nào đi nữa thì cũng có lúc giăng gió một chút, cái ấy là trời sinh ra.

Hắn sổ toẹt trước cái giấy chứng nhận mất tân, hắn cho đó là “dòng chữ vô

nghĩa”.

Nghị Hách xuất hiện 13/30 chương sách nhưng không có nhân vật

nào không là nạn nhân của Hách, nếu không trực tiếp thì là gián tiếp.

Không chỉ là Mịch, Tú Anh, Hải Vân ...mà cả đến công sứ, tổng đốc cũng

bị hắn lừa. Không có bất cứ hành động nào của Hách là không có cơ mưu

vụ lợi, đoạt tình, đoạt tiền. Danh từ bạo chúa chẳng phải là sự gán ghép

oan uổng mà chính từ miệng Hách thốt ra: “ Vậy xin bác vui lòng đóng một

vai trò hôn quân để cho thằng Hách này được làm một bạo chúa nhá”.

Nghị Hách đã làm đại náo cả một xã hội giông tố. Hành động nào của hắn

cũng đẩy đến mức cực điểm: dâm cực điểm, lộng hành cực điểm, tàn bạo

cực điểm, mánh khoé cũng cực điểm... Nguyễn Đăng Mạnh cho “Thế giới

của Giông Tố là thế giới của thằng Hách”.

Hành động của Nghị Lại cũng luôn động và thường đi kèm với

những cử chỉ, thái độ. Khi cần phải nịnh Tây đoan, thì ông có hành động

nhẹ nhàng, ân cần. Việc làm ấy đã tỏ rõ thái độ nịnh bợ rất sành sỏi của tên

địa chủ này: “ Ông cười khanh khách, vồn vã đến trước mặt người Tây

đoan, tưởng như sắp vồ lấy người bạn tri kỷ mà hôn hít. Ông cúi gập

người, ôm chầm bằng cả hai tay lấy tay người Pháp và rung tít”. Tất cả

những hành động như: cười khanh khách, vồn vã, vồ lấy, hôn hít, cúi gập

người, ôm chầm, rung tít” dã thể hiện niềm vui ra mặt của hắn. Niềm vui

ấy là gì nếu không phải là sự nịnh bợ tên Tây đoan. Khi biết trong ruộng

nhà mình có rượu lậu thì hắn phải nghĩ ngợi, tìm mưu để giải thoát. Có thể

nói nghị Lại cũng lắm mưu nhiều kế chẳng kém gì nghị Hách, chỉ có điều

mưu kế của hắn xem ra còn kém tinh xảo hơn, kém văn hoa hơn. Điều này

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 74

thì chính Nghị Lại tự nói ra chứ người đọc không hề gán ghép: “ Đành tôi

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chịu cái vạ vịt, nhưng chỗ quan lớn với tôi, quan lớn có thể cứu tôi không?

Tôi thì không được văn hoa lễ phép như người ta nên tôi mới hỏi thẳng

quan lớn như thế”. Cho đến khi người Tây đoan đứng dậy, cười, bắt tay

nghị Lại và lắc đầu than thở thì nghị Lại có thái độ khúm núm. Trong cuộc

sống đời thường, hắn rất hay có hành động đi kèm với những cử chỉ, thái

độ như: “ Nghị Lại ngạc nhiên, đờ người nhìn khách...; nghị Lại tròn mắt

nhìn...; Nghị Lại cau mặt, gõ mấy đầu ngón tay xuống bàn...; Ngẩn người

ra một lúc rồi nghị Lại cười...; Nghị Lại trợn mắt quát...; Nghị Lại vênh

váo...; nghị Lại cau mặt mắng...; nghị Lại nói khích...”Tất cả đều thể hiện

một bản chất “mặt người dạ thú”. Đối với những người lao động như anh

Pha thì hắn luôn có nhừng hành động hết sức tàn nhẫn. Nghị Lại là con

người của giai cấp địa chủ phong kiến. Hắn đứng trên quyền lợi và địa vị

của giai cấp mình, chia rẽ tinh thần đoàn kết của giai cấp nông dân lao

động bằng cách: hắn xui nguyên dục bị, tạo điều kiện cho cả hai người

nông dân vốn rất hiền lành đi kiện cáo lẫn nhau để cuối cùng “đục nước

béo cò”. Hành động của nghị Lại thực chất là đánh lừa người nông dân ít

học. Nghị Lại xui Pha đi kiện nhưng Pha không có tiền thì hắn lại dỗ ngon

dỗ ngọt: “ Con ngu dại thế không trách con chết. Tiền mất cho quan là

tiền không đi đâu mà mất, sao con lại cứ tiếc? Mình làm thằng dân, bao

giờ cũng dưới quyền cai trị của người ta, ngộ rồi khi con có việc gì, con có

mong người ta bênh vực cho hay không? Quyền phép trong tay người ta,

người ta ưa mình thì người ta che chở mình mà người ta ghét mình thì

người ta cứ thẳng tay. Con chẳng thấy bao nhiêu người chịu tốn kém kiếm

chỗ đi lại mà không được đấy à?”. Dỗ dành thôi chưa đủ, hắn còn khuyên

dạy anh Pha: “Mày không nên ngu dại, nghe hoặc bắt chước những đứa vô

luân thường đạo lý, những đứa ngông cuồng, những đứa cộng sản, làm

sách, viết báo, để chúng nó nói xấu quan này, nói xấu quan kia. Người ta

xấu cũng là ông quan cai trị mình. Chúng nó hay, chúng nó giỏi sao chúng

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 75

nó không được ra làm quan?... Chẳng qua mình là thằng dân hèn”. Khi

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Pha đi nịnh quan mà không có tiền thì hắn ngon ngọt cho vay và nói với

thái độ thân thương trìu mến. Sau khi cho vay xong thì hắn không ngần

ngại nói thẳng : “ Hôm nọ tám đồng, hôm nay hai đồng gạo với hai chục

nữa là đi ba mươi đồng, nhớ lấy nhé”. Hành động ấy của hắn là hết sức bỉ

ổi và thối tha. Nhưng, sau này hắn cũng bị vợ chồng anh Pha vạch rõ tội

ác: “ Thì ra ông ấy xui nguyên giục bị, để nhà tôi tự nhiên mất hơn ba chục

đồng bạc, có tai hại không? Thế mà vẫn làm ra ta nhân đức thương người

lắm”. Hành động bỉ ổi của hắn đã khiến cho vợ chồng anh Pha hết sức

hoang mang, thậm chí phải bán cả gánh hàng đi lấy tiền trả nợ Nghị Lại

nhưng hắn nhất định không nhận. Thì ra hắn nuôi âm “ khát vọng” cho vợ

chồng anh Pha vay mỗi lúc một ít, lãi mẹ đẻ lãi con để rồi âm mưu cướp

trắng tám sào ruộng của vợ chồng anh Pha, đẩy anh vào bước đường cùng:

vợ chết, con chết, không ruộng vườn. Hành động bỉ ổi hơn nữa của hắn

còn thể hiện ở điểm: Hắn lợi dụng anh Pha không biết chữ, đã làm văn tự

giả, bắt anh phải ấn đấu tay vào. Hành động đó của Nghị Lại là rất điển

hình cho giai cấp địa chủ phong kiến lúc bấy giờ đồng thời nó cũng thể

hiện khát vọng làm giàu không chính đáng của giai cấp địa chủ phong

kiến.

Khác với việc làm của nghị Hách và nghị Lại, hành động của Nghị

Quế tĩnh hơn, và thường ít đi kèm với thái độ và cử chỉ. Nhưng cũng có

điều khác là hành động của Nghị Quế gắn nhiều với thói vô văn hoá mà

biểu hiện rõ rệt nhất là trong sinh hoạt hàng ngày: “ Ông Nghị đặt bát

xuống mâm, vừa nhai nhồm nhoàm vừa đón; Ông Nghị như đã hiểu ý của

vợ, cứ việc chan chan, gắp gắp, không nói không rằng; Ông Nghị đâm

chéo đôi đũa qua mặt mâm, bưng bát nước canh, trợn mắt, húp một cái

đánh “ soạt”. Rồi ông vừa nhai vừa nuốt, vừa giục thằng nhỏ lấy tăm...

Ông Nghị nhắc cái điếu ống để trên chốc tủ, giặt thuốc, châm lửa, vít cái

xe trúc vào miệng. Bắt chân chữ ngũ, ông vểnh mặt hút sòng sọc một hơi,

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 76

ông Nghị rút vội cái tăm trong miệng mình đặt ngang vào miệng tách

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> nước... ông Nghị bưng tách nước uống một hớp lớn, súc miệng òng ọc mấy

cái, rồi nhổ toẹt xuống nền nhà”. Một loạt những hành động ấy chứng tỏ

Nghị Quế là con người thiếu văn hoá, văn minh. Trong cuộc sống, ông chỉ

biết làm thế nào để có được nhiều tiền, sống trên những đồng tiền xương

máu của người nông dân mà không cần phải học, đặc biệt là ông cũng

không cần phải học lối sống có văn hoá của tầng lớp giàu sang trong xã

hội.

Xuất thân từ giai cấp thống trị trong xã hội nên Nghị Quế cứ mở

mồm ra là quát tháo. Khi chị Dậu bán con, hắn trả rẻ, chị đòi thêm thì hắn

quát: “ Thiếu bao nhiêu mặc kệ mày, kể lể gì? mày định bổ vào nhà tao đấy

à?”. Khi thì Nghị Quế hạch lạc với chị Dậu: “ Con mẹ khốn nạn ! Mày

ngồi dương mắt ra đấy, không biết bảo con làm sao. Hay mày sợ con ăn

cơm chó thì mày xấu hổ?”. Lúc chị Dậu dặn con để về, cái Tý ôm lấy mẹ

khóc và thế là ăn một cái tát của Nghị Quế : “ Nghị Quế đùng đùng đứng

dậy, giơ cái bàn tay hộ pháp tát cho con bé một cái đánh bốp, và hắn hét

lên như ông đại tướng trong rạp tuồng”.

Hành động khốn nạn nhất của Nghị Quế là việc mua cái Tý và mua

đàn chó con của chị Dậu. Vợ chồng chị Dậu vì nghèo túng không có tiền

nộp dủ suốt sưu cho chồng và em chồng nên đành phải bán con. Thế mà kẻ

bất nhân như nghị Quế không hiểu được điều đó hắn cò kè mặc cả từng

hào một, rồi buông ra những lời nói hết sức bất nhân, tàn nhẫn. Vợ chồng

nghị Quế nói rằng cái Tý bé quá nên chỉ trả một đồng thôi mà lại còn

buông lời tàn nhẫn: “ Con chó nhà bà còn được mấy chục, con người như

mày bà chỉ mua có một đồng đấy thôi.” ấn tượng nhất là hành động ông bà

Nghị quế trả tiền bán con và chó cho chị Dậu nhưng khốn nạn thay “ mỗi

đồng thiếu mất bốn xu”. Hành động đó là vô nhân tính mà không ai có thể

chấp nhận được. Để khắc hoạ rõ nét hơn hành động vô nhân tính của vợ

chồng Nghị Quế, nhà văn Ngô Tất Tố đã để cho vợ chồng Nghị Quế yêu

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 77

đàn chó một cách thái quá: “ Đã bảo lấy cái gì đậy cho mấy con chó con,

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> kẻo nó bị nắng, sao lại chỉ úp cho nó một cái mẹt ranh thế kia”. Càng yêu

chó bao nhiêu thì vợ chồng nghị Quế càng thể hiện hành động tàn nhẫn đối

với con người đặc biệt là đối với người dân lao động bấy nhiêu. Điều đó

cũng đã lột tả một cách đầy đủ và chính xác hành động bất nhân, vô nhân

tính của cả một tầng lớp người trong xã hội. Đó chính là hành động của cả

giai cấp thống trị đối với giai cấp bị trị trong xã hội.

Hành động của nghị Quế còn thể hiện sự đê tiện khi hắn bắt vợ

chồng chị Dậu phải điểm chỉ vào văn tự bán con và bán chó. Vợ chồng chị

Dậu nghèo hèn đến mức phải bán cả con để lấy tiền nộp sưu cho chồng.

Thế mà vợ chồng nhà nghị Quế lợi dụng việc thất học của người nông dân

để làm giàu. Anh chị Dậu bán cả con lẫn chó cả thảy được hai đồng hai

hào, lại phải trả cho ông giáo mất hai hào viết văn tự và như vậy chỉ còn có

hai đồng. ấy thế mà nghị Quế bảo ông giáo là viết văn tự về việc vợ chồng

chị Dậu vay của ông một đôi hoa tai bằng vàng nặng ba đồng cân, đáng giá

hai chục đồng bạc. Khi nghe thấy sự vô lý, chị Dậu thắc mắc ngay nhưng

nghị Quế phân bua: “ Không ai thèm đánh lừa chúng bay. Bây giờ luật mới

nghiêm cấm cha mẹ bán con, cho nên văn tự phải viết như thế, chứ không

nói con, nói chó vào được. Sau này mày cứ để con mày ở mãi với cô Hai,

thì cái giấy ấy tao cũng coi như không có. Nếu mày trở mặt mà đem con

về, tao sẽ chiểu gíây bỏ tù cả vợ lẫn chồng. Giấy làm như vậy chỉ cốt cho

nhà mày khỏi lật nhà tao chứ nhà tao không đời nào thèm lật nhà mày. Thế

là bao giờ tao cũng nắm đằng chuôi, chứ tao không cầm đằng lưỡi nghe

không?... Tuỳ mày đấy, mày có tin nhà tao thì điểm chỉ vào, đem về cho

chồng mày ký tên... rồi mang sang đây tao giao tiền cho...” Mới nghe

tưởng chừng có lý nhưng kỳ thực đó chính là cách làm hết sức phổ biến mà

bọn địa chủ phong kiến rất hay dùng để áp bức người nông dân. Có thể

nói đây chính là hành động mà nghị Quế lừa vợ chồng chị Dậu bởi chị Dậu

đâu có hiểu “bút sa gà chết”. Thế là chẳng cần phải làm gì to tát, phiền hà

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 78

mà vợ chồng nghị Quế có được khoản tiền lớn. Đó chính là một cách lừa

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> đảo hết sức trắng trợn mà nghị Quế đã thực hiện để nhằm kiếm lợi mà

không cần phải lao tâm khổ tứ.

Hành động của Bá Kiến thì thâm độc và xảo quyệt vô cùng. Mỗi

việc làm của Bá Kiến đều nhằm một mục đích khác nhau. Ba lần chí Phéo

đến nhà Bá Kiến với ba động cơ khác nhau thì Bá Kiến đều có những hành

động cụ thể. Lần thứ nhất Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ “ rạch

mặt ăn vạ” thì Bá Kiến xử nhũn với hắn: “ Lý Cường đâu ! Tội mày đáng

chết. Không bảo người nhà đun nước mau lên.” Bản thân Bá Kiến là con

mọt già của làng Vũ Đại nên Bá Kiến rất giỏi trong việc ứng phó với hoàn

cảnh thực tế. Hơn nữa, gia đình nhà Bá Kiến đã có bốn đời làm tổng lý nên

cụ biết thế nào là “mềm nắn, rắn buông”. Cụ xử nhũn với Chí không phải

là cụ đớn, chính thật cụ khôn róc đời “Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ

kẻ cố cùng liều thân. Chí Phèo không anh hùng nhưng nó là cái thằng liều

lĩnh.”

Lần thứ hai Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ đòi đi ở tù bởi vì

đi ở tù còn có cơm mà ăn chứ ở nhà thì một thước đất cắm dùi cũng không

có. Trong hoàn cảnh này thì Bá Kiến lại dùng một hành động hết sức thâm

độc. Cụ lại dùng Chí Phèo vào việc trị Đội Tảo bởi vì Đội Tạo chính là phe

cánh đối địch của Bá Kiến. Sở dĩ như vậy bởi vì cụ luôn đưa ra chiêu bài :

“ Trị không được thì dụng”. Bá Kiến không trị được thằng đầu bò thì phải

dùng hắn làm công cụ. Thế là dĩ nhiên Chí trở thành công cụ đắc lực cho

Bá Kiến. Khi Chí Phèo đòi đi ở tù, Bá Kiến giao ngay cho anh một nhiệm

vụ: “ Đội Tảo nó còn nợ tôi năm mươi đồng đấy, anh chịu khó đến đòi cho

tôi. Đòi được tự nhiên anh có vườn.” Chí nhận lời ngay và đến nhà Đội

Tảo. Kết quả tất yếu là Chí đòi được tiền. Mới đầu Chí tưởng rằng Chí đã

thắng được Bá Kiến và tự cho rằng mình là kẻ anh hùng “ anh hùng làng

này cóc thằng nào bằng ta”. Nhưng thực chất trong cuộc chiến này thì Bá

Kiến thắng cuộc: “ Cụ Bá thấy mình thắng bên địch mà không cần đến hội

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 79

đồng làm biên bản. Xem chừng thích trí, Cụ đưa luôn cho anh đầy tớ chân

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> tay mới luôn năm đồng”. Phải công nhận rằng hành động này của Bá Kiến

đã chứng tỏ một con người thâm độc và nham hiểm, có “trình độ” trong

việc cai trị và sử dụng con người.

Lần thứ ba Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ đòi làm người

lương thiện thì Bá Kiến nói một câu rằng: “ Tôi chỉ cần anh lương thiện

cho thiên hạ nhờ”. Câu nói này của Bá Kiến đã trở thành một lưõi dao sắc

và nhọn đâm vào trái tim vốn không sợ chết của Chí. Bá Kiến đâu biết

được một điều rằng, chính Bá Kiến là người đã cướp đi phẩm chất lương

thiện vốn có của Chí. Căm thù hành động xảo quyệt và tàn nhẫn của Bá

Kiến, Chí Phèo đã không còn cách nào khác phải giết chết Bá Kiến rồi kết

liễu cuộc đời.

Như vậy, so với các nhân vật phản diện như Nghị Lại, Nghị Quế,

Nghị Hách thì hành động của Bá Kiến xem ra không nhiều nhưng tính chất

của hành động thì có chiêù sâu hơn, thể hiện một thế lực cai trị có đầu óc

hơn, tinh tế hơn và sáng tạo hơn rất nhiều.

III. Xây dựng nhân vật phản diện qua việc đặc tả tính cách.

Tính cách nhân vật có một vai trò hết sức quan trọng đối với cả nội

dung và hình thức của tác phẩm văn học. Đối với nội dung, tính cách có

nhiệm vụ cụ thể hoá sự thực hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm, hay nói cụ thể

hơn, thông qua sự hoạt động và mối liên hệ giữa các tính cách, người đọc

sẽ đi đến một sự khái quát hoá về mặt nhận thức, tư tưởng. Tính cách cũng

là nhân tố chủ yếu tạo nên diễn biến của các sự kiện trong quá trình phát

triển của cốt truyện. Cũng qua hệ thống tính cách, người đọc có thể đánh

giá khả năng biểu hiện nội dung qua những yếu tố hình thức như ngôn ngữ,

kết cấu, các biện pháp thể hiện... Tóm lại, có thể nói như Hêghen: “ Tính

cách là điểm trung tâm của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức”;

Đôxtôiepxki cũng khẳng định: “ Đối với nhà văn, toàn bộ vấn đề là ở tính

cách”. Timônheep đặt vấn đề một cách chi tiết, cụ thể hơn: “ Tính cách là

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 80

tiêu điểm độc đáo của nội dung trực tiếp trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Một mặt, chúng ta đi từ tính cách đến cơ sở chủ đề – tư tưởng, tới những

cách khái quát hoá và từ đấy đi tới thực tế hiện thực do nhà văn miêu tả, và

mặt khác, chúng ta đi từ tính cách đến chỗ hiểu biết mọi phương tiện thể

hiện nghệ thuật, tức là đi tới tất cả những mặt riêng biệt của sự sáng tạo

nghệ thuật”.

Khái niệm về “tính cách” mà chúng tôi đề cập ở đây được hiểu theo

cách sau đây: Tính cách cũng là nhân vật nhưng là nhân vật được thể hiện

với một chất lượng tư tưởng và nghệ thuật cao hơn, tuy chưa đạt đến mức

độ là những điển hình, đồng thời nó có một quá trình phát triển hợp với

lôgic cuộc sống. Tóm lại, tính cách có tính chung, tính riêng và tính lôgíc.

Tính chung của tính cách là sự tổng hợp và nâng cao những nét tiêu biểu

có ở nhiều người cùng một nghề nghiệp, giới tính, tuổi tác, giai cấp, dân

tộc, thời đại. Với tính cách đó, trong những biểu hiện ấy, tính chung về mặt

giai cấp là quan trọng nhất vì nó quyết định bản chất xã hội của tính cách.

Tính riêng của tính cách là tập hợp của những nét bền vững và độc đáo làm

cho nó phân biệt rõ rằng với những tính cách khác về hình thể, tính tình,

tâm lý, trong đó tính chất cá biệt của trạng thái tâm lý là quan trọng nhất vì

nó quyết định bản sắc cá nhân của tính cách. Tính lôgic của tính cách là cái

khách quan của đời sống được thể hiện thông qua tính cách, biến thành cái

bản chất bên trong của tính cách, quyết định sức sống của tính cách.

1.Tính cách Nghị Hách.

Giai cấp tư sản Việt Nam mới hình thành, nhận diện bộ mặt của giai

cấp này để phản ánh vào văn học là điều khó khăn với nhiều cây bút. Vũ

Trọng Phụng là nhà văn gắn đời mình với mảnh đất thành thị xô bồ, đầy

biến động đã gánh trách nhiệm này và ông là người sớm nhất và thành

công nhất đưa được vào tiểu thuyết bộ mặt của những ông chủ tư sản hãnh

tiến mới phất lên, trong đó nghị Hách là người hùng của bọn người này.

Nghị Hách là một nhân vật điển hình thể hiện rõ chân tướng của giai

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 81

cấp tư sản phản động ở một nưóc thuộc địa. Vũ Trọng Phụng – qua lời của

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Long, đã từng chỉ mặt, gọi tên bọn này một cách rất chính xác. “ Tôi đã

trong thấy rõ những cử chỉ của phái tư bản mà ông cụ Nghị là tiêu biểu,

đã nghe thấy những phút chuông điện thoại gọi, do đó số phận của hàng

nghìn người bị định đoạt qua một cơn giận dữ”. ở nhân vật này, từ cung

cách sinh hoạt, hành động đến lời ăn tiếng nói luôn toát ra bản chất của

một ông chủ tư sản “phú gia địch quốc”, hơn nữa, đây còn là một ông chủ

có tính cách của một bạo chúa.

Tính cách của một bạo chúa được thể hiện trước hết ở sự độc ác đến

lạnh lùng, hỗn xược của kẻ nắm vũng sức mạnh của dồng tiền. Nghị Hách

là kẻ dám làm tất cả mà không thấy run tay. Y dám trâng táo hiếp gái lành

ngay trên xe ô tô trước mặt tài xế và sau đó trâng tráo thanh minh trước

quan huyện Cúc Lâm : “ Dẫu người ta tai to mặt lớn thế nào đi chăng nữa

thì cũng phải có lúc giăng gió một chút, cái ấy là trời sinh ra”. Y dám nói

thẳng vào mặt ông huyện trẻ Cúc Lâm cái lý của kẻ mạnh: “ Bẩm quan

lớn, nén bạc đâm toạc tờ giấy... việc lên đến quan sứ thì chúng tôi chỉ hơi

phiền lòng mà thôi, chứ thua thì không thể”. Rồi y ngang nhiên gieo vạ

cho cả làng Quỳnh Thôn bằng cách cho tay chân quăng cờ đỏ vào làng để

vu cho họ tội Cộng Sản. Đó là chưa kể đến cái quá khứ đã từng cướp vợ

bạn, bỏ bã rượu vào ruộng lương dân, đánh chết nguời rồi vứt người ta

xuống giếng... Rõ ràng những hành động trâng tráo ấy, tàn bạo ấy gắn liền

với bản chất của một giai cấp bóc lột tàn ác.

Cũng rất tư sản là lối sống xa hoa, đồi bại. ở Nghị Hách là sự kết

hợp giữa cái dâm ô của một lãnh chúa phong kiến với cái đồi bại hiện đại

của một ông chủ tư sản cỡ lớn. Nghị Hách có cả một toà lâu đài trong đó

nuôi đến mười một cô nàng hầu để “ chủ nhân ông sai bảo việc vặt, hoặc

ngứa mồm thì hôn một cái, ngứa tay thì sờ soạng một cái, cấu véo một

cái”. Chưa đủ, ông chủ khi cần còn đánh têlêphôn về Hà Nội, trả tiền hậu

hĩnh để gọi lên những cô đào “ trẻ nhất, đẹp nhất”. Rồi những thực đơn

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 82

sang trọng, những chai nước suối Viten đổ vào bể tắm, những buổi chiếu

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> phim khiêu dâm, những hộp thuốc phiện trắng... Tất cả đều là những dẫn

chứng sinh động của một lối sống tư sản đồi bại mà chắc chắn những kẻ

trọc phú nhà quê như Nghị Quế, nghị Lại không thể nào hình dung nổi.

Là một nhà văn hiện thực, Vũ Trọng Phụng không chỉ sắc sảo phơi

bày những nét biểu hiện cụ thể của tính cách một “bạo chúa” mà còn quan

tâm nghiên cứu quá trình hình thành và tích luỹ tư bản sơ khai của giai cấp

tư sản Việt Nam. Vũ Trọng Phụng đã phần nào nhìn thấy con đường tiến

thân của một kẻ vốn là cai thợ nề, đã từng lăn lộn kiếm sống ở Lào rồi dần

dần phất lên thành nhà tư sản giàu có. Qúa trình ấy gắn liền với bao nhiêu

tội ác kinh tởm. Mượn những lời đồn đại mà dân làng Quỳnh Thôn nghe

được, mượn lá số tử vi của Hải Vân, tác giả đã làm tái hiện một quá khứ

đầy những sự tàn bạo, độc ác gắn liền với quá trình làm giàu của Nghị

Hách.

C. Mác đã có lần phân tích sâu sắc vai trò của lợi nhuận đối với

những hành vi của giai cấp tư sản. Vũ Trọng Phụng có thể chưa có điều

kiện tiếp xúc với lý luận của C. Mác nhưng ông cũng đã nhìn thấy điều đó

ở nhân vật nghị Hách. Có một sự kiện ở chương XXI của tác phẩm rất có ý

nghĩa. Đó là màn hội kiến, mặc cả giữa nghị Hách và “ đại diện cho một

hội lý tài mới thành lập bên Pháp” để cùng nhau làm một cái áp phe lớn là

“ độc quyền nước mắm ở Trung kỳ và Bắc kỳ”. Để làm được điều đó, “ hội

lý tài” này cần có người ra tranh cử dân biểu, leo lên nghế nghị trưởng để

tạo vây cánh. Ban đầu Nghị Hách ngần ngại vì sợ “ không đủ tài hùng

biện”, sợ báo chí chửi là “ vô học”. Thế nhưng 500 cổ phần, mỗi cổ phần

hai nghìn phật lăng và bên cạnh đó là sự bài bản của đối tác làm nên can

đảm cho nghị Hách. Sau cuộc mặc cả này, nghị Hách đã hăng hái ra tranh

cử chức nghị trưởng, tổ chức phát chẩn để được báo chí ca ngợi, đọc diễn

văn và nhỏ nước mắt cá sấu thương xót bình dân. Rõ ràng đằng sau những

hành động ấy là sức đẩy của lợi nhuận và nhiều việc lợi khác. Đúng là

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 83

dùng chính trị để trục lợi kinh tế, dùng kinh tế để đầu cơ chính trị, lợi

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> nhuận cao thì sẵn sàng làm tất cả. Quy luật ma phi a phổ biến của xã hội

đồng tiền đã được Vũ Trọng Phụng vạch trần một cách chính xác.

Nghị Hách còn là một cá tính sinh động. ở Nghị Hách, từ chân dung,

hành động đến cách nói năng đều để lại ấn tượng sâu đậm đối với người

đọc. ở nghị Hách cái ác vẫn có bộ mặt riêng : Lạnh lùng, tàn nhẫn và rất

quyết đoán. Thợ đình công, y gọi điện thoại ra lệnh đuổi việc. Gây tội ác

xong, y thản nhiên ra lệnh cho lái xe phóng thẳng vào trương tuần làng

Quỳnh Thôn “ cứ mở hết may, tội vạ đâu tao chịu”. Y cho kinh phẩn, thuỷ

ngân vào thuốc làm cho mười một cô nàng hầu không thể chửa đẻ. Đứa

con hoang sa đoạ của Nghị Hách là Vạn Tóc Mai cũng phải kêu lên: “

Chắc cụ via nhà con có một quả tim bọc sắt, hoặc là không có quả tim!”

Đi liền với cái ác là thói kiêu ngạo, trâng tráo hết sức cá tính của

một ông vua tư sản biết rõ uy quyền của mình. Sau vụ án dâm sự với thị

Mịch, bị dư luận lên án, báo chí phanh phui, Tú Anh trách móc, y nói thật

tỉnh bơ: “ Ô hay ! Sao mày dở hơi thế? Thì tao mua con bé ấy về làm hầu

là cùng chứ gì”. Thật là ấn tượng với cái đám cưới mà chú rể không về,

“cái bàn thờ tổ tiên chỉ có thị Mịch cúi đầu lễ mấy cái”. Tiếp đến là đêm

tân hôn lạ kỳ. Chú rể đi ô tô ghé qua chỗ cô dâu, nói mấy câu với giọng

điệu của một ông chủ răn đe người hầu: “ Em cứ chịu khó ngoan ngoãn,

đừng hỗn láo với bà cả, đừng có ngoại tình... lấy tao làm lẽ thứ mười còn

hơn làm chính thất người khác”. Rồi sau đó là những cử chỉ bỡn cợt, sàm

sỡ, động tác “ vỗ vào bụng vợ bốp một cái”, kêu lên “ Thế này thì còn

nước mẹ gì nữa” rồi lại bỏ đi đột ngột.

Bên cạnh cái ác, cái trâng tráo, kiêu ngạo thì Nghị Hách còn là một

bạo chúa rất dâm. Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố cũng tố cáo lối sống dâm ô

của bọn quan lại từ quan tri phủ Tư Ân đến lão quan cụ đã rụng hết răng.

Nhưng dám hãm hiếp người con gái quê mùa hiền lành ngay trên ô tô

trước mặt cả tài xế thì chắc chắn chỉ có tên nghị Hách xấu xa, đồi bại mới

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 84

có thể làm được. Rồi những hành vi cợt nhả với đám nàng hầu, với thị Tín,

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> những lời tố cáo về chuyện dâm loạn vủa Vạn Tóc Mai, của Hải Vân, của

dư luận đối với nghị Hách đã minh chứng cho một lối sống đồi bại mang

tính hiện đại của nhà tư sản cỡ lớn này.

Nhưng trong khi mô tả cái dâm, cái khốn nạn của Nghị Hách, Vũ

Trọng Phụng không hề đơn giản, một chiều khi thể hiện nhân vật. Khi đọc

tác phẩm, người đọc đều thấy đỉnh cao của sự trâng tráo, bẩn thỉu trong

con người Nghị Hách chính là lúc hắn “quảng cáo cho y bằng sự công

nhận việc loạn luân” của hai đứa con mình “giữa một bữa tiệc khoe mề

đay, sau một cuộc phát chẩn giả nhân, giả nghĩa”. Nhưng chính cái lúc mà

bộ mặt vô liêm sỉ của nghị Hách lộ ra rõ nhất, Vũ Trọng Phụng cũng

không quên đi bản chất người còn sót lại trong y. Những giọt nước mắt “lã

chã” của hắn nhìn bên ngoài là hành vi đại bịp, nhưng bên trong lại là sự

“đau đớn về tinh thần” thực sự của con người trước bi kịch gia đình. Rõ

ràng, sự thể hiện này đã làm tăng thêm cái thực, cái sinh động của một tính

cách gian hùng. Trong tác phẩm còn khá nhiều chi tiết như thế. Ví dụ,

trong quan hệ với Hải Vân, Nghị Hách là một tội phạm độc ác. Chính y đã

lập mưu cho Khoá Hiền vào tù, rồi cướp vợ bạn, làm tan nát cả một gia

đình. Sau 26 năm gặp lại Hải Vân, Nghị Hách không phải là không có sự

hối hận muộn màng: “Xưa kia tôi đã trót làm hại bác, làm cho bác tan nát

gia đình. Cái tội nặng ấy, bây giờ tôi muốn chuộc lại, bác còn giận, tôi

cũng xin chịu, bác bảo gì tôi cũng xin vâng”. Những lời lẽ ấy không phải

hoàn toàn giả dối. Rõ ràng, nghị Hách là một điển hình giai cấp sắc bén

nhưng không phải là điển hình nhất phiến, một chiều như Nghị Quế, Nghị

Lại. Nghị Hách là chân dung nhiều mặt của một bạo chúa, là một tính cách

đầy đặn, được soi chiếu ở nhiều quan hệ. Điều này tạo nên sự chân thật và

sức sống của một tính cách.

2.Tính cách nghị Lại.

Giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam là giai cấp cũ, ra đời từ cuộc

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 85

chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Nhận diện bộ mặt giai cấp này để phản

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> ánh vào văn học là điều dễ dàng và phổ biến đối với nhiều nhà văn.

Nguyễn Công Hoan là một nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc, ông rất

thích mô tả những cảnh thối tha, nhơ nhuốc, những thủ đoạn, mưu mô,

những tội ác trong giới những ngưòi có thế lực, có địa vị. Ông là người rất

thành công trong việc đưa được vào tiểu thuyết bộ mặt của những bọn

cường hào ác bá, trong đó Nghị Lại là tiêu biểu.

Nếu như tính cách anh Pha có sự vận động và phát triển theo lôgíc

nội tại thì tính cách nghị Lại tĩnh tại hơn, ít có sự vận động hơn. Nghị Lại

là nhân vật hiện rõ cho giai cấp địa chủ phong kiến ở Việt Nam. Bản chất

của giai cấp địa chủ là bóc lột. Nghị Hách cũng không nằm ngoài bản chất

đó. Hắn bóc lột người nông dân đến tận xương tuỷ, làm cho người nông

dân không thể ngóc đầu lên được. Trong tác phẩm “ Bước đường cùng”,

nhà văn Nguyễn Công Hoan đã lột tả nhân vật này một cách cụ thể đứng từ

góc nhìn giai cấp. Ngay từ cách mô tả tỉ mỉ dinh cơ Nghị Lại ở giữa làng

An Đạo cũng đã thấy hiện lên thế giới của giai cấp địa chủ phong kiến Việt

Nam “Đó là một khu đất rộng ước hai mẫu, bốn mặt tường cao ba thước

tây xây gần kín khắp, trừ nhà cu Anh ở oái oăm vào một góc. Những mảnh

chai sáng nhoáng, tua tủa cắm thẳng trên tường, như lưỡi lê của đội quan

canh, đứng đều răm rắp. Giữa dãy tường theo đường cái, nổi lên cái cổng

cực lớn, có chòi canh nhưng hoạ hoằn hai cánh mới có dịp mở. Thường

thường nguời ta vẫn ra vào bằng cái của tò vò bên cạnh, rộng độ năm

mười phân tây nhưng cả ngày đóng im ỉm.” Nghị Lại là một kẻ luôn đè

đầu cưỡi cổ người nông dân, hắn chẳng cần làm gì mà vẫn giàu có một

cách hỗn láo, chẳng thế mà mới đầu Nghị Lại chỉ có ngót trăm mẫu cả

ruộng cả vườn, thế mà thấm thoát trong 10 năm trời, ruộng nọ đẻ ra ruộng

kia, “đến tháng này, ông có vừa bốn trăm mẫu”. Tính chất trọc phú, ranh

mãnh của Nghị Lại còn được thể hiện ở việc ông tìm mọi cách để tránh

không phải nộp tiền thuế ruộng, thuế đất. Ông không chịu đứng tên mình

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 86

mà ông lại cho đứng tên các bà, các cô, các cậu. Nhưng tất cả đều phải quy

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> vào tên Nghị Lại để nộp tiền thuế. Hắn mặc cả: “ Không, tôi chỉ chịu hạng

ba mươi nhăm đồng là quá lắm. Năm ngoái tôi chỉ phải mất có hai đồng

rưỡi. Năm nay có tăng, thì đến hăm bốn đồng, cùng lắm băm nhăm đồng,

chứ làng nước với nhau, các anh bắt tôi nộp năm mươi đồng thì nghe sao

được”. Hắn chỉ quan tâm đến việc làm sao để hắn càng giàu càng tốt, càng

nhiều tiền, càng tốt chứ hắn đâu có cần biết đến xã hội sống chết ra sao.

Hắn chửi mấy ông nghị viên là ngu, không biết bảo vệ quyền lợi cho mình

“ Hạng nghị viên ấy là hạng nghị viên chó má! Nhà nước định thế, sao

không cãi cho bằng được, để y nguyên thuế cũ hai đồng rưỡi thì có hơn

không... Thực là mất cả công bằng. Đáng lẽ càng người giàu càng đáng

nộp một đồng. Quanh năm như tôi đây có ra ngoài mấy khi đâu cho nên

chẳng cần gì đến đường sá, cầu cống của nhà nước. Nhà tôi lại xây tường

kiên cố để giữ trộm cướp, chẳng cần gì đến lính tráng tuần đinh... Tôi

không hiểu sao, viện dân biểu trong đó biết bao ông nhà giàu, mà không

biết bênh lấy quyền lợi cho chu đáo... Nghị viên ngày xưa danh giá lắm

chứ, ai cũng được kim khánh, mề đay, phẩm hàm. Bây giờ nhà nước coi rẻ

quá, chả thưởng cho cái gì cả”. Nghị Lại tự nhận là xưa làm việc làng hắn

cũng biết mãi cảnh “làm gì ăn nấy”: “Bất quá các anh thí cho tôi suất sưu,

thì tôi che chở cho các anh. Chứ tôi đã làm việc làng chán, lại không biết

hay sao.” Nghị Lại đã bộc lộ hết bản chất thối tha, đê tiện của giai cấp địa

chủ phong kiến tàn bạo, quanh năm hút máu người không tanh.

Bên cạnh đó, Nghị Lại vẫn có những nét tính cách riêng cố hữu, để

phân biệt một cách rõ ràng hắn với những kẻ khác. Trong cuộc sống, hắn

luôn tỏ ra là người đức độ, là kẻ phúc đức. Thực chất, đó là thái độ đạo đức

giả mà hắn luôn áp dụng đối với nhiều người, trong đó có vợ chồng anh

Pha. Có lúc hắn tự phân trần: “Chúng mày làm như tao ác khẩu lắm ấy.

Đứa nào cũng sợ tao chửi. Tao đã chửi đứa nào bao giờ. ở làng này, ai có

việc gì nhờ, tao cũng sãn lòng giúp. Nào vay tiền ư, nào nói với quan hộ ư,

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 87

tao đã từ chối ai chưa?” Tưởng chừng như tốt lắm nhưng đó là thói giả

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> nhân giả nghĩa mà những người kiểu như Nghị Lại rất hay dùng hay nói

đúng hơn đó là chiêu bài để lừa đảo, áp bức nhân dân. Từ những lời lẽ đạo

đức giả ấy mà hắn đã đến được nhà anh Pha với một dụng ý đòi anh bán

ruộng cho. Khi gặp vợ anh Pha bế con, hắn nói câu nghe tử tế lắm: “ Lúc

nào thong thả, bế nó vào trong tao, tao thưởng cho đồng bạc nghe

không?”. Miệng thì xơn xớt nói như vậy nhưng trên thực tế thì hắn chính

là kẻ xui nguyên giục bị. Trong cùng một lúc, hắn xúi giục cả hai người

nông dân vốn hiền lành kiện tụng lẫn nhau, tạo nên sự mâu thuẫn giữa anh

Pha và Trương Thi. Không dừng lại ở đó, mục đích cuối cùng của Nghị

Lại là bóc lột người nông dân bằng cách mới đầu nói “cho” rồi “cho

vay”nhưng đó là hình thức cho vay nặng lãi, lãi mẹ đẻ lãi con để cuối cùng

hắn cướp trắng tám sào ruộng của anh Pha đẩy anh Pha đến bước đường

cùng: vợ chết, con chết, anh phải bỏ làng ra đi. Nét riêng của Nghị Lại thể

hiện ở chỗ hắn dùng lời lẽ rất tình tứ để giảng giải cho anh Pha hiểu được

rằng vì sao muốn kiện được tên Trương Thi thì phải mất tiền cho quan. Ta

có thể coi như đó là một trò mị dân, lừa dân, bắt nhân dân phải nghe theo

lời của hắn. Thế là hai thằng kiện tụng lẫn nhau đều do bàn tay xúi giục

của hắn để rồi “đục nước thì béo cò”. Hắn chẳng cần làm gì mà vẫn có một

khoản tiền khổng lồ để ăn chơi. Hơn nữa, hắn còn tự tay viết văn tự và bắt

anh Pha điểm chỉ vào: “ Ông ấy tự viết vào văn tự tôi nợ năm mươi đồng

hẹn gán ruộng. Tôi tưởng ông ấy thật thà nên lúc bảo điểm chỉ tôi cũng

điểm chỉ.” Hắn dùng nhiều thủ đoạn để cuối cùng tám sào ruộng về tay

hắn một cách dễ dàng. Nghị Lại là một tính cách nham hiểm.

3. Tính cách Nghị Quế.

Để miêu tả một xã hội tối tăm, bế tắc, khuynh hướng chung của

nhiều nhà văn hiện thực là thiên về khai thác những khía cạnh xấu xa ở

những con người trong hàng ngũ giai cấp thống trị, chủ yếu là bọn nhà

giàu, do có tiền nên có quyền hành, chức vị. Hướng sự miêu tả về bọn

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 88

chúng, nhà văn dễ có điều kiện vạch trần chân tướng giả dối, tàn nhẫn của

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chế độ, dễ có điều kiện biểu hiện niềm căm phẫn của mình. Một xã hội cần

đạp đổ đi thì dĩ nhiên cần phải đay nghiến cho bằng thoả. Trong tác phẩm

“Tắt đèn”, nhà văn Ngô Tất Tố đã vạch mặt, lên án tên Nghị Quế tàn nhẫn

và đê tiện. Những người đã từng sống ở nông thôn Việt Nam trước tháng

tám năm 1945 hẳn đã có lần trông thấy Nghị Quế. Hắn là tên địa chủ bình

thường nhưng rất điển hình cho giai cấp địa chủ Việt Nam. Đó là tên trọc

phú ngu dốt, bóc lột theo kiểu trung cổ thô sơ, hắn chỉ cần đến tiền mà

không vần đến văn hoá. Tính chất trọc phú của bọn địa chủ được thể hiện ở

ngay cái dinh cơ của Nghị Quế :

“Nó là một đám bung xung nhọn như ngọn tháp, hùng dũng úp trên

đoàn bịch vừa đồ sộ, dường như phô nhà mình thóc để hàng bốn năm mùa.

Nó là một lũ đống rơm, đống rạ lớn bằng trái núi, chen nhau đứng

bên cạnh ngọn mít, ngọn sung, dường như khoe ông chủ cày cấy đến mấy

trăm mẫu.

Nó là những toà mái ngói muốn bảo tồn quốc tuý bằng những dấu

vuông chòm chõm, những xối tàu cong rướn và những con cá chép “mảnh

sứ” há miệng nằm giáp tường hồi.

Nó là nếp nhà hai tầng muốn phản đối mỹ thuật bằng những khung

cửa ngang phè, những cây cột phục phịch và những con rồng, con phượng

xanh đỏ vẽ ở ngoài cánh cửa sơn vàng.

Nó là một dinh cơ rộng chừng 3 mẫu quây quần trong bốn bức

tường gạch cắm mảnh chai, cảnh tượng phức tạp, giống như ngôi mộ đóng

trong khu trại, họp đủ các vật sang, hèn, các kiểu cũ mới”.

Một cái dinh cơ như vậy chắc chắn chỉ có những tên địa chủ mới có

được. Nghị Quế có một dinh cơ lớn với đoàn bịch vựa đồ sộ chứa thóc

hàng bốn năm năm nhưng vợ chồng hắn lại hết sức keo kiệt và bẩn thỉu: vợ

chồng hắn ăn một đĩa giò kho chia làm mấy bữa, mỗi lần treo cái niêu giò

lên lao bàn lại đếm kỹ từng miếng. Mua một ổ chó và một đứa con của chị

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 89

Dậu, vợ chồng hắn cò kè mặc cả từng xu và giở đủ mọi mánh khoé, khi dụ

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> dỗ, khi hăm doạ, đến lúc trả tiền lại cố tình ăn cắp mỗi đồng mấy xu. Nghị

Quế rõ ràng là một tính cách mang tính chất phản động của giai cấp địa

chủ phong kiến. Nghị Quế không phải là một tên bạo chúa như Nghị Hách,

cũng không có chương trình chiếm đoạt đầy mưu mô phức tạp như Nghị

Lại mà hắn chỉ là một ông chủ ruộng kiêm ông chủ thả lãi bình thường

nhưng bản chất tàn ác của hắn vẫn bộc lộ ra một cách đậm nét. Chẳng hạn

như thái độ rửng rưng của chúng, thản nhiên ngồi ăn trong khi chị Dậu bị

cả một đàn chó xúm lại cắn, máu tươi chảy ra đầm đìa.

Tính cách tàn nhẫn thật thà của Nghị Quế thì không thể lẫn với ai

được trong thế giới những kẻ đê hèn và khốn nạn. Ngô Tất Tố là một nhà

văn của nông thôn, ông đã xoáy sâu vào việc mô tả tính chất chó má của

tên địa chủ Nghị Quế. Tính chất chó má ấy được thể hiện một cách cụ thể

thông qua việc chị Dậu mang cái Tý và đàn chó đến bán cho Nghị Quế.

Cái Tý với bao nhiêu công lao nuôi dưỡng sinh thành là thế, vậy mà Nghị

Quế đã lạnh lùng bắc lên bàn cân với mấy con chó để còn so kè tính toán

từng xu một: “Thôi thế này, chó non tao cũng mua vậy. Bắt cả con chó cái

và đàn chó con sang đây, tao trả một đồng nữa. Với con bé kia một đồng

nữa là hai... Thế là nhà mày đủ tiền nộp sưu lại khỏi phải nuôi chó, khỏi

nuôi con. Sướng nhé... Thôi cho thêm hào nữa, thế là vừa con vừa chó, cả

thảy được hai đồng mốt, bằng lòng không?” Tính chất tàn nhẫn của chúng

thể hiện ngay ở việc vợ chồng Nghị Quế coi con người ngang bằng con vật

thậm chí coi con người không bằng con vật: “Con chó nhà bà còn được

mấy chục chứ con người như mày bà chỉ mua có một đồng bạc đấy thôi”.

Khốn nạn hơn nữa, nó còn bắt cái Tý phải ăn chỗ cơm thừa của chó kẻo

“phí của giời”. Hắn điên tiết lên khi cái Tý khóc mếu không chịu ăn. Và

như thế vẫn còn chưa đủ, vợ chồng tên địa chủ còn nghiến răng kèn kẹt:

“Bà truyền đời báo danh cho mày, từ giờ đến mai, phải ăn hết cái rá cơm

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 90

ấy rồi mới được ăn cơm khác.” Miêu tả thật sắc thái độ của nghị Quế đối

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> với con người làm cho ta căm thù giai cấp địa chủ một cách sâu sắc, thấm

thía.

4.Tính cách Bá Kiến.

Bá Kiến là một tên cường hào, địa chủ, ác bá điển hình trong dòng

văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Do già đời đục khoét, hắn tạo

được cho hắn cái địa vị “ ăn trên ngồi trốc”, nắm quyền hành và uy lực: từ

chức lý trưởng, hắn trở thành chánh tổng, bá hộ tiên chỉ làng Vũ Đại,

chánh hội đồng kỳ hào, huyện hào, Bắc kỳ nhân dân đại biểu. Hắn thét ra

lửa, khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Hắn lại là một tay cáo già lọc lõi,

từng trải trong cái nghề bóc lột, đàn áp nông dân. Chính hắn đã thừa nhận

cái sự thật kỳ lạ là: “ở cái đất nhà quê, bọn dân hiền lành chỉ è cổ làm nuôi

bọn lý hào, nhưng chính bọn lý hào, nhiều khi phải nhậm miệng cung cấp

cho những thằng cùng hơn cả dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể

cầm dao đâm ngưòi hay đâm mình. Và chính hắn cũng khám phá ra quy

luật: “già néo đứt dây...đè nén con em đến mức nó không chịu đựng được

phải bỏ làng ra đi là dại. Mười thằng đã ra đi thì chín thằng trở về với cái

vẻ hung đồ, cái tính ương ngạnh học được từ phương xa”. Cho nên chỉ

những tên địa chủ xảo quyệt, “khôn róc đời” như nó mới có thể tìm ra

được những thủ doạn lừa bịp tinh vi để bóc lột: “Một người khôn ngoan

chỉ bóp đến nửa chừng. Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng

rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn, đập nghế đòi cho được năm

đồng, nhưng được rồi thì lại vất lại năm hào vì thương anh túng quá”.

Nam Cao cũng đã vạch trần bản chất nham hiểm của Bá Kiến qua

việc hắn lợi dụng chí Phèo để trừ khủ các phe cánh đối địch: “trị không lợi

thì cụ dùng. Cụ nghĩ bụng: cũng phải có những thằng đầu bò chứ? Không

có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò? Những thằng

ấy chính là những thằng được việc... Có chúng nó sinh chuyện thì mới có

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 91

dịp mà ăn... Cụ thử nói khích xem sao. Nếu nó trị được Đội Tảo thì tốt

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> lắm. Nếu nó bị Đội Tảo trị thì cụ cũng chẳng thiệt gì, đằng nào thì cũng có

lợi cho cụ cả”.

Bá Kiến lại là một tay địa chủ đâm đãng, và về mặt này, hắn có

nhiều hành động đồi bại. Hắn có những bốn vợ và hắn thông dâm với vợ

Binh Chức trong thời gian binh chức đi lính vằng nhà. Hắn cũng ghen,

ghen sôi sục và cũng đau khổ vì ghen. Hắn đã ghen với Chí Phèo và đẩy

Chí Phèo vào vòng tù tội. Càng về già, hắn càng ghen dữ. Hắn đau lòng mà

thấy: “bà tư cứ trẻ cứ phây phây, cứ đẹp như mới ngoài hai mươi, mà sao

lại đa tình. Nhìn thì thích nhưng mà tưng tức là. Khác gì miếng thịt bò lựt

sựt khi rụng gần hêt răng”. Hắn chỉ muốn cho tất cả các thằng trai trẻ đi ở

tù. Tên địa chủ nhà giàu có máu dê ghen với tuổi trẻ và căm thù tuổi trẻ.

Như vậy, bóc lột, hống hách, nham hiểm, gian ác, dâm dãng, sợ vợ,

ghen tuông là tập hợp tính cách con người Bá Kiến. Dưới ngòi bút sắc sảo

của Nam Cao, hình tượng Bá Kiến hiện lên hết sức sinh động, không đơn

giản mà cũng không hề sơ lược.

IV. Xây dựng nhân vật phản diện qua việc miêu tả ngôn ngữ.

Ngôn ngữ chính là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang đặc

trưng của văn học. Không có ngôn ngữ thì không thể có tác phẩm văn học

bởi vì chính ngôn ngữ chứ không phải cái gì khác đã cụ thể hóa và vật chất

hoá sự biểu hiện của chủ đề và tư tưởng, tính cách và cốt truyện... Ngôn

ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng

tạo tác phẩm; nó cũng là yếu tố xuất hiện đầu tiên trong sự tiếp xúc của

người đọc với tác phẩm. Có lẽ vì thế mà M. Gorki đã viết : “ Yếu tố đầu

tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và- cùng với các sự

kiện, các hiện tượng của cuộc sống- là chất liệu của văn học”. M.Bakhtin

lưu ý “bàn đến lời văn, tức là ngôn ngữ trong tính toàn vẹn cụ thể và sinh

động của nó”. Những dẫn chứng trên đây là để cung cấp một cái nhìn cho

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 92

vấn đề nghiên cứu và cách nghiên cứu ngôn ngữ.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học tự sự gồm có lời tác giả và lời

nhân vật. ở đây trong khuân khổ luận văn này, chúng tôi chỉ đi sâu vào

nghiên cứu ngôn ngữ của các nhân vật phản diện như Nghị Hách, Nghị

Quế, Nghị Lại, Bá Kiến.

1. Ngôn ngữ của Nghị Hách.

Ngôn ngữ của Nghị Hách là ngôn ngữ đối thoại, không có ngôn ngữ

độc thoại. ở mỗi đoạn đối thoại, ngôn ngữ thể hiện những tính chất khác

nhau. ở đoạn đối thoại giữa Nghị Hách và Thị Mịch, ngôn ngữ của hắn tỏ

ra ngọt ngào, ân cần, thân thương và tha thiết :

“- Thưa quan, quan dùng hết cả gánh, hay độ bao nhiêu con tháo...

- à, con bán cho quan lớn một bên nhé! Tháo đi rồi quan cho tiền...

- Được lăm! Con ngoan ngoãn lắm, để ta thưởng cho nhiều tiền.

Con hãy lên xe này để quan đóng của không rét quan...Ta đang đếm tiền

đây.

- ...Thế con làm vất vả như rhế thì mỗi ngày được bao nhiêu?

- Bẩm chỉ được mỗi ngày sáu xu với hai bát gạo...”

Ngay cả khi hắn cưỡng bức thị Mịch, giọng hắn vẫn ngọt ngào:

“ Con im, không được cưỡng...

- Giời ơi ! Lạy ông! ông đừng làm hại một đời tôi!

- Im ngay, quan sẽ cho nhiều tiền...”

Trong khi đối thoại với Tú Anh, ngôn ngữ của Nghị Hách có lúc

ngọt ngào nhưng có lúc tức giận vẻ hống hách: “Những thằng làm báo là

những thằng nói láo! Mày mà cũng đi tin...” Ngôn ngữ của hắn có lúc phủ

định rồi lại khẳng định luôn: “- Không ! Tao chẳng hiếp ai, cưỡng ai... Tao

đã trả nó năm đồng.

- Thưa ông nó đã được giấy nhận thực bị ông làm mất tân.

- Thật quả tao không ngờ nó lại là gái tân...”

Đôi khi ngôn ngữ của hắn xem ra đơn giản và dễ dàng “ Ô hay ! Sao

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 93

mày dở hơi thế? Thì tao mua con bé ấy làm hầu là cùng chứ gì?”.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Trong đoạn đối thoại với Quan huyện, có lúc Nghị Hách sử dụng

ngôn ngữ thân mật, mềm dẻo nhưng cũng có lúc ngôn ngữ khá cứng cỏi,

nghe vẻ có lý.

“Bảo hiếp dâm thì thật là vu oan. Thưa ngài, lúc ấy xe hơi của

chúng tôi liệt máy, phải chữa trong hai ba tiếng đồng hồ. Giữa lúc tôi

buồn, thình lình con bé ấy dẫn xác đến. Ngài cũng thừa biết cho là dẫu

người tai to mặt nhớn đến thế nào đi nữa, thì cũng phải có lúc giăng gió

một chút, cái ấy là trời sinh ra. Tôi hỏi con bé, nó đã bằng lòng...

- Đây là giấy nhận thực của viên Y sĩ, giấy nhận thực cho thị

Mịch...là...

- Giấy này không đủ buộc tội tôi đâu. Quan lớn xem lại mà xem...

Nhận thấy rằng con bé ấy đã mất tân! Câu vu vơ ấy đủ cho thầy kiện tôi

cãi rằng có thể người con gái đã mất tân từ trước khi gặp tôi kia rồi. Bẩm

quan lớn, nếu việc xảy ra to thì tôi sẽ chống án lên thượng thẩm, mà bên

nguyên đơn thì không thể có tiền chạy thầy kiện như tôi...”

Trong đoạn đối thoại này, ngôn ngữ của hắn còn tỏ ra quả quyết, tự

tin: “Bẩm quan lớn, chúng tôi xin nói thật rằng chúng tôi không thua cái

kiện này đâu. Nghĩa là việc lên đến quan sứ thì chỉ hơi phiền lòng mà thôi,

chứ thua thì không thể có...”

Khi đối thoại với Long về việc có nên cưới thị Mịch làm vợ lẽ hay

không, ngôn ngữ của Nghị Hách là thứ ngôn ngữ của kẻ chỉ nghĩ đến tiền,

há mồm ra là tiền, hắn không hề nghĩ rằng có những cái mà tiền bạc không

thể mua được.

Hắn sãn sàng dở giọng điệu của một kẻ bất nhân đến tàn nhẫn:

“-Chết! vài trăm bạc! Mày điên! Mày có biết những nàng hầu của

tao ở đây, đáng giá bao nhiêu mỗi thị không? Cái đứa đẹp nhất tao cũng

chỉ mua của bố mẹ nó có bảy chục. Còn phần nhiều không mất xu nào. Có

bảy chục bạc mà còn phải về hầu hạ người ta suốt đời, huống chi ...chỉ có

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 94

một lần mà những vài trăm bạc.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

- Cụ nên biết cho là cô gái quê ấy sắp lấy chồng...

- Mày còn ngu lắm! Mày có biết ở những nơi phồn hoa đô hội như

Hà Nội, Hải Phòng, người ta bán chữ trinh của người ta bao nhiêu không?

Đến đây, lão xoè bàn tay ếch ra. Năm đồng! Vợ một ông trạng, vợ một

phán thường thua bạc, phải kiếm xu thì đi ngủ săm với tao mà cũng chỉ lấy

một đồng là cao lắm rồi...”

Đến khi nghe xong những lời giải thích của Long, thì ngôn ngữ của

hắn là thứ ngôn ngữ của kẻ a dua, không có lập trường tư tưởng vững

vàng, không biết ứng phó với hoàn cảnh thực tế:

“- ừ ! Mày nói nghe được! thế hợp ý tao lắm. Hai trăm bạc.

...ừ, mày nói nghe được đấy.”

Cho đến khi Mịch là vợ lẽ của hắn, trong đêm tân hôn, ngôn ngữ của

hắn “thổ” ra hết sức là thô lỗ, ngôn ngữ của kẻ trọc phú mà vô học:

“- Thẹn à? Vẽ

- Em ạ, thế là mày đã là vợ lẽ tao rồi.

- Trông mày hôm nay xấu lắm.

- Biết! Biết! không có thì ông cưới làm thèm vào.

- Chứ lại gì! ấy may mà mày lại có mang đấy. Thế là có phúc lắm

đấy.

- Thế này thì còn nước mẹ gì nữa.”

Khi nhìn thấy cảnh người vợ gian dâm ngoại tình, ngôn ngữ của

Nghị Hách là thứ ngôn ngữ cay nghiệt, đay nghiến, dày vò:

“- Bà Nghị Hách! Giời ơi!.. Vợ chồng đầu gối tay ấp... Đã có ba mặt

con! Ba mươi năm trung thành, bây giờ mới đổ đốn. Ngủ lang, ngoại tình,

hoang dâm.

- Thằng nào đấy hở? hở con voi gầy kia”.

Cho đến khi hắn hiểu hết cơ sự thì ngôn ngữ của hắn không phải là

thứ ngôn ngữ bình thường mà đó là thứ ngôn ngữ có kèm theo thái độ căm

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 95

thù “ à! đồ khốn nạn, đồ chó má.”

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Như vậy, ngôn ngữ của Nghị Hách là thứ ngôn ngữ sinh động. Tuy

có lúc thô lỗ nhưng có lúc ngọt ngào, bẻm mép. Tất cả thể hiện tính cá thể

hoá cao độ.

2. Ngôn ngữ Nghị Lại.

Ngôn ngữ Nghị Lại cũng được bộc lộ một cách cụ thể thông qua các

đối thoại với các nhân vật - đó là ngôn ngữ đối thoại. ở mỗi đoạn đối thoại,

ngôn ngữ nhân vật có sự thay đổi về tính chất.

Xuất phát từ tên địa chủ cường hào ác bá, luôn tìm cách bóc lột

người dân lao động, ngôn ngữ của hắn mơn trớn vẻ thúc giục:

-“Không có tiền lễ quan mà mày lại không biết ở làng này ai thân

với quan để đến mà nói à.

- Thế bây giờ mày có muốn kiện nó không?

- Thế nào, việc nó kiện mày ra làm sao?

- Giá nó nói tao một tiếng, tao cho nó cái danh thiếp lên quan, có

phải bằng mấy lục sự thừa phái có khi họ đơm đó không? Thế mày định

theo kiện hay ngồi tù?”

Đôi lúc ngôn ngữ của hắn lại là thứ ngôn ngữ chọc gậy bánh xe,

khiêu khích cả hai bên kiện tụng lẫn nhau:

“- Mà bản tâm là nó định hại mày kia đấy...

- Cho nên tao tưởng mày theo kiện, rồi kiện lại, chứ có đứa hàng

xóm như thế thật là nguy hiểm.

- Tao cho tiền mày mà kiện lại nó, mày có dám không?

- à, nhưng mà nó đang kiện mày kia mà? Mày phải theo xong cái

kiện này rồi mới kiện lại nó được chứ.”

Trong khi hắn đang lừa phỉnh, bịp bợm anh Pha, để anh Pha vay tiền

của hắn thì giọng điệu ngôn ngữ của hắn ngọt ngào, đôi lúc pha lẫn ngôn

ngữ giảng giải, dạy dỗ, khuyên bảo có vẻ rất tận tình và chu đáo:

“... Tiền mất cho quan là tiền không đi đâu mà mất, sao con lại cứ

tiếc?

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 96

... Làm quan ai lại oán thán cha mẹ bao giờ...”

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Khi tiền trao cháo múc xong xuôi, ngôn ngữ của hắn lại thể hiện sự

chắc chắn, chặt chẽ:

“ – Thế hôm nọ tám đồng, hôm nay hai đồng gạo, với hai chục nữa

là ba mươi đồng, nhớ lấy nhé.”

Cho đến thời điểm thóc cao, gạo kém thì hắn đòi nợ anh Pha, anh

Pha không có thì hắn nạt nộ, hống hách, đưa ra chiêu bài cuối cùng:

“...Mày vay lúa của tao thì mày phải theo lệ nhà tao. Thằng Phát!

Mày giảng cho nó biết cái lệ ấy...

- Nặng thì ai bảo mày vay? Trước khi mày vay sao không hỏi trước

cái lệ ấy...”

Cuối cùng, hắn nói bằng ngôn ngữ chậm rãi, nhưng chắc chắn như

đinh đóng cột:

“... Lại một chục mày vay để tạ thần ngày nhộn. Bốn chục ấy chiếu

theo văn tự, mày phải viết nhượng cho tao chỗ tám sào của mày.

... Tao biết đâu với mày, mày vay thì mày phải trả. Tao hẹn cho từ

giờ đến mai, nếu không đem trả gốc lẫn lãi món nợ, thì phỉ làm giấy bán

đứt ruộng. Bằng không, tao kiện.”

Như vậy, so với nghị Hách, ngôn ngữ nghị Lại không sinh động

bằng nhưng cũng đã thể hiện tính cá thể hoá cao độ.

3. Ngôn ngữ Nghị Quế.

Trên thực tế, trong tác phẩm “Tắt Đèn”, ngôn ngữ của nghị Quế

không nhiều nhưng nó cũng thể hiện ngôn ngữ của giai cấp địa chủ phong

kiến trong xã hội lúc bấy giờ.

Trong đoạn đối thoại giữa chị Dậu và vợ chồng nghị Quế về việc

bán con, ngôn ngữ của nghị Quế thể hiện ngôn ngữ của kẻ hết sức tàn

nhẫn: “Đem ngay đi chợ mà bán! Không nói lôi thôi! Mất thì giờ! Thời

Tây bây giờ thì giờ là vàng bạc, không ai công đâu mặc cả với mày... Hừ!

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 97

Vừa mới ngoen ngoẻn nói rằng “bán không ai mua”, người ta làm phúc

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> mua cho, lại còn lằng nhằng kêu rẻ! Rẻ thì đem ngay ra chợ mà bán. Ra

ngay.”

Hơn nữa, khi mua, hắn vừa mua vừa chửi lại vừa đuổi:

“ Chứ bao nhiêu nữa? Hai chục nữa nhé! thôi cho thế cũng đắt lắm

rồi. Bán thì đi làm văn tự. Không bán thì về. Về thẳng.”

Trên thực tế, hắn là một kẻ hêt sức đểu cáng, thế nhưng hắn luôn giở

giọng tử tế, nhân từ: “ Không ai thèm đánh lừa chúng bay. Bây giờ luật

mới nghiêm cấm cha mẹ bán con, cho nên văn tự phải viết như thế, chứ

không nói con, nói chó vào được. Sau này mày cứ để con mày ở mãi với cô

Hai, thì cái giấy ấy tao cũng coi như không có. Nếu mày trở mặt mà đem

con về, tao sẽ chiểu giấy bỏ tù cả vợ lẫn chồng. Giấy làm như vậy chỉ cốt

cho nhà mày khỏi lật nhà tao, chứ nhà tao không đời nào thèm lật nhà

mày. Thế là bao giờ tao cũng nắm đằng chuôi, chứ tao không cầm đằng

lưỡi nghe không?”

Ngôn ngữ của nghị Quế còn là ngôn ngữ của kẻ bất nhân, tàn nhẫn :

“ Con bé kia ! Cầm lấy rá cơm ăn đi, kẻo phí của giời. Ăn bốc cũng

được, không cần bát đũa”

Rồi giọng điệu hạch lạc, quát mắng:

“- Con mẹ khốn nạn, mày ngồi giương mắt ra đấy, không biết bảo

con làm sao. Hay mày sợ con phải ăn cơm chó thì mày xấu hổ...

- Thế con mẹ kia có lấy tiền không? Hay còn tiếc con, tiếc chó?”

Chỉ với những ngôn từ như vậy, cũng đủ hiểu ngôn ngữ của nghị

Quế là thứ ngôn ngữ của kẻ ăn trên ngồi trốc, quanh năm chỉ biết hống

hách, quát nạt kẻ khác mà thôi. Đó cũng là ngôn ngữ của cả một giai cấp

người trong xã hội.

4. Ngôn ngữ Bá Kiến.

So với nghị Lại, nghị Quế, nghị Hách thì ngôn ngữ của bá Kiến tinh

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 98

xảo hơn, ranh mãnh hơn và sinh động hơn.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Trước hết, ngôn ngữ của Bá Kiến cũng thể hiện cụ thể qua các đối

thoại, đặc biệt là thông qua đối thoại với nhân vật Chí Phèo. Với Chí Phèo,

hắn dùng nhiều tính chất ngôn ngữ khác nhau trong cùng một thời điểm.

Khi Chí đến ăn vạ, Bá Kiến phải dùng nhiều hình thức ngôn ngữ. Mới đầu,

giọng điệu hắn ngọt ngào:

“- Anh Chí ơi! sao anh lại làm ra thế?

- Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi...

- Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì anh mà anh phải chết? Đời

người chứ có phải con ngoé đâu? Lại say rồi phải không?”

Rồi cụ lại đổi giọng thân mật:

- Về bao giờ thế ? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước.

- Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì, ta nói

chuyện tử tế với nhau. Cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người

ngoài biết mang tiếng cả. tiếp theo, cụ phàn nàn:

“ Khổ quá, giá tôi ở nhà thì có đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau

thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ

tại thằng lý Cường nóng tính không nghĩ trước, nghĩ sau. Ai chứ anh với

nó còn có họ kia đấy”. ở đoạn này, ngôn ngữ bằng vai, phải lứa, rất thân

mật và mức độ thân thiết có tăng lên.

Lần thứ hai, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ đòi đi ở tù thì

mới đầu ngôn ngữ của hắn cũng vẻ nạt nộ, quat tháo:

“ Anh này lại say khướt rồi !”

Sau đó, cụ thể hiện một thứ ngôn ngữ thân mật, thể hiện một con

người biết suy nghĩ có chiều sâu: “ Anh bứa lắm. Nhưng này anh Chí ạ,

anh muốn đâm người cũng không khó gì. Đội tảo nó còn nợ tôi năm mươi

đồng đấy, anh chịu khó đến đòi cho tôi, đòi được, tự nhiên có vườn”. Thực

chất, Bá Kiến đã sử dụng Chí như một công cụ. Cho đến khi Chí đòi được

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 99

tiền về cho Bá Kiến, Cụ vẫn giữ giọng điệu thân mật:

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

“ Anh Chí ạ, cả năm chục này phần anh. Nhưng nếu anh lấy cả thì

chỉ ba hôm là tan hết. Vậy anh cầm lấy chỗ này uống rượu còn để tôi bán

cho anh mảnh vườn, không có vườn có đất thì làm ăn gì?”

Lần thứ ba, chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ đòi lương thiện

thì giọng điệu của Bá Kiến mới đầu cũng quát tháo, giận dữ, nạt nộ:

“Chí phèo đấy hở? Lè bè vừa vừa chứ, tôi không phải là cái kho.

Rồi ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn:

- Cầm lấy mà cút đi đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ báo người ta

mãi à?”

Thấy hắn toan giận dữ Cụ phải dịu giọng ngay:

- “Thôi cầm lấy vậy, tôi không còn hơn”

Khi hắn nói hắn không cần tiền, hắn cần lương thiện thì cụ Bá dở

giọng nhạo báng:

“- ồ tưởng gì , Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ”.

Bên cạnh đó, Cụ bá còn sử dụng ngôn từ có chiều sâu tĩnh lặng

nhưng thể hiện một con người có tài cai trị bằng cái đầu thực sự. Đó cũng

thể hiện một bước tiến mới trong khi xây dựng nhân vật phản diện của các

nhà văn hiện thực phê phán. Cụ nghĩ bụng : “cũng phải có những thắng

đầu bò chứ? Không có những thằng đầu bò thì lấy ai trị thằng đầu bò? thế

lực của cụ sở dĩ lấn áp được các vây cánh khác, một phần lớn cũng bởi cụ

biết mềm, biết cứng, biết thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và

không sợ đi ở tù. Những thằng ấy chính là những thằng được việc...Có

chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn...”

Tóm lại, mỗi nhà văn đều có sự thể hiện các biệt tài của mình khi

xây dựng nhân vật. ở đây các nhà văn theo khuynh hướng văn học hiện

thực phê phán đã xây dựng những nhân vật của mình thông qua cách miêu

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 100

tả ngoại hình, khắc hoạ nội tâm, tính cách, hành động. Tuy nhiên, ở mỗi

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> nhà văn thì mức độ biểu hiện của các yếu tố trên có sự khác nhau. Từ đó,

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 101

tạo nên cách xây dựng các nhân vật phản diện ở mỗi nhà văn là khác nhau.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Chƣơng V: Cách xây dựng loại nhân vật phản diện.

I .Cách xây dựng nhân vật phản diện của Vũ Trọng Phụng.

Hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn học là nhân tố góp phần khẳng định

tư tưởng, quan niệm, sáng tác của nhà văn. Vũ Trọng Phụng ra đời trong

một hoàn cảnh lịch sử đầy những biến động. Một đời người không dài, một

đời văn ngắn ngủi và ông sinh ra khi “nước đã mất, dân đã làm nô lệ”,

nhiều biến cố chính trị dồn dập xảy ra. Đặc biệt cuộc khủng bố trắng của

thực dân Pháp năm 1932 tạo ra một không khí xã hội ngột ngạt, buồn chán

hơn bao giờ hết. Hoàn cảnh chính trị, xã hội như vậy có ảnh hưởng không

nhỏ đến tình hình văn học, tiểu thuyết nói chung và ngòi bút Vũ Trọng

Phụng nói riêng.

Một đời cầm bút không dài, chỉ có 9 năm, nhưng Vũ Trọng Phụng

đã tạo ra được một gia tài văn chương khá lớn: 71 tác phẩm đủ các thể loại

từ truyện ngắn, tiểu thuyết đến phóng sự, kịch và dịch. Năm 1936, ông đã

cho ra đời năm đứa con tinh thần khá đồ sộ: Giông tố, Vỡ đê, Làm đĩ, Số

đỏ, Cơm thầy cơm cô. Trong đó, Giông Tố là một trong số những tác phẩm

hay, có giá trị của Vũ trọng Phụng. Ông là một nhà văn đa tài. Ông vừa là

nhà phóng sự, nhà tiểu thuyết, nhà báo, nhà viết kịch. Nhưng, đóng góp

lớn nhất của Vũ Trọng Phụng là trên lĩnh vực tiểu thuyết. Nguyễn Văn

Hạnh đã từng nhận định: “Sự nghiệp văn học nhà văn để lại cho đời thật

phong phú và đặc sắc, gồm đủ thể loại: phóng sự, tiểu thuyết, truyện ngắn,

kịch bản, dịch, phê bình văn học. Trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng,

chắc chắn phần có giá trị nhất là tiểu thuyết”.

Vũ Trọng Phụng sinh ra trong một gia đình mà theo lời của Ngô Tất

Tố là thuộc loại “nghèo gia truyền” ở quê không có một thước đất cắm dùi,

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 102

thân sinh mất lúc mới bảy tuổi. Một bà mẹ nghèo đơn thân đơn thế, phải

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> lao động để nuôi mẹ, nuôi con. Ông không được học hành nhiều, chỉ học

đến bậc sơ học rồi phải đi làm lấy tiền nuôi mẹ, nuôi con lại thêm mắc

bệnh “tứ chứng nan y”. Gia đình đã vậy, hoàn cảnh xã hội chung quanh

cũng chẳng sáng sủa gì: khủng hoảng kinh tế, cuộc sống ăn chơi, hưởng

lạc ở những tiệm hút rạp hát... Tất cả những điều kiện và hoàn cảnh trên đã

tạo nên nét nổi bật trong tư tưởng nghệ thuật đặc biệt trong cách xây dựng

nhân vật phản diện của Vũ Trọng Phụng.

Tư tưởng nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng là tư tưởng đấu tranh, xoá

bỏ cái “vô nghĩa lý” để xây dựng một xã hội, con người “có nghĩa lý”,

công bằng, nhân ái và có tính người hơn.

Tiểu thuyết, theo Vũ Trọng Phụng không phải là che đậy, cải trang

để cái xấu xa tục tĩu trở thành văn minh, tiến bộ cũng không phải né tránh

hiện thực. Vũ Trọng Phụng quan niệm “sự thực” là yêu cầu cơ bản của

nghệ thuật viết tiểu thuyết. Khi trả lời phái lãng mạn, ông trực diện đưa ra

quan điểm của mình mà nhiều người khẳng định đấy chính là tuyên ngôn

nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng:

“Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn

cùng chí hướng

như tôi muốn tiểu thuyết là sự thật ở trên đời... Các ông muốn theo

thuyết tuỳ thời, chỉ nói cái gì mà thiên hạ thích nghe nhất là sự giả dối.

Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì đúng sự thật... tôi cho nhân loại tiến hoá ở

chỗ trọng sự thực, nếu nhà văn dám nói rõ những vết thương ấy cho mọi

người nghe”

Quan niệm “tiểu thuyết là sự thật ở đời” mang nội dung hiện thực

sâu sắc, diễn đạt tuy cô đọng mà hàm súc, ngắn gọn mà thiết thực, không

lý luận nhiều lời mà có sức thuyết phục. Nó không chỉ đơn thuần là sự

phản ứng, đối lập với quan niệm “tiểu thuyết là tiểu thuyết” của Tự lực văn

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 103

đoàn mà còn là tiêu chí, mục tiêu, hướng phấn đấu, ý nguyện cả một đời

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> văn của Vũ Trọng Phụng. Tư tưởng nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật là

cơ sở để hình thành cách thức nhân vật nói chung và nhân vật phản diện

nói riêng.

Cách xây dựng nhân vật phản diện của Vũ Trọng Phụng trước hết

thông qua việc tả chân xã hội, miêu tả những cái có thực trong cuộc sống.

Ông nêu rõ mục đích tả thực của ông: “ Tả thực cái xã hội khốn nạn,

công kích cái xa hoa dâm đãng của bọn người có nhiều tiền, kêu ca những

sự thống khổ của dân nghèo bị bóc lột, bị áp chế, bị cưỡng bức, muốn cho

xã hội công bình hơn nữa, đừng có những chuyện ô uế, dâm đãng.”

Ngòi bút tả chân Vũ Trọng Phụng tỏ ra khá sắc sảo khi đưa ra nhân

vật phản diện Nghị Hách. Hắn là một tên tư bản cỡ bự, giả dối, bịp bợm,

lừa bịp, dâm loạn, tàn bạo và đặc biệt thính hơi tiền. Chính đồng tiền đã ăn

mòn nhân tính của loại người, làm tha hoá nhân phẩm của Nghị Hách, gây

ra cho chúng biết bao tai hoạ không chỉ cho bản thân hắn mà còn cho cả

gia đình hắn.

Từ anh cai thợ nề Tạ Đình Hách thành trọc phú, thành “Bắc đẩu bội

tinh”, lừng danh bạo chúa với bao tội ác giết người, hiếp người, thông dâm

vợ người, dùng mọi thủ đoạn để đàn áp dân nghèo, người cô thế, vơ vét,

làm giàu bất chính, giã man, tán tận lương tâm, đánh mất nhân tính, đến độ

để cho hai đứa con ruột của mình là Long và Tuyết lấy nhau cho được

tiếng “bình dân”. Nhân vật này trong tiểu thuyết “ Giông Tố” của Vũ trọng

Phụng là một trong những hình mẫu ngoài đời. Nhân vật của Vũ Trọng

Phụng như một tấm kính, đem soi vào những tên có máu mặt đương thời

thì sẽ lộ cho bằng hết từng chân tơ, kẽ tóc của chúng. Hách là ai? Chẳng

phải hư cấu, hắn là một nhân vật quan trọng trong xã hội ngày ấy mà tên

và ảnh được ghi trong cuốn “ Những nhân vật Đông Dương” in năm 1941.

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 104

Những nhân vật ngoài đời như thống sứ Chatel, đốc tờ Le Roy de ... chắc

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chắn có tên trong sổ tay tư liệu để làm nên những trang viết của Vũ Trọng

Phụng.

Sở dĩ khi xây dựng nhân vật Nghị Hách, Vũ Trọng Phụng đi sâu vào

khai thác nhân vật có thực trong đời sống là vì tư tưởng của ông, dù dưới

góc nhìn nào: xã hội, chính trị, hài hước, tâm lý... đều hướng vào kẻ thù

của nhân dân, của dân tộc. Kẻ thù đó chính là bọn thực dân, địa chủ phong

kiến, tư sản mại bản. Chúng cấu kết trong guồng máy chính trị xã hội

đương thời để ra sức bóc lột đàn áp, thực hiện chính sách ngu dân, bần

cùng, truỵ lạc hoá nhân dân. Ông đã mạnh tay lôi ra ánh sáng bộ mặt xấu

xa, dâm đãng, bỉ ổi, độc ác, xảo quyệt dẫu chúng có được che dấu một

cách khôn khéo, thủ thuật, đánh bóng mạ vàng bởi những phong trào,

những hoạt động dưới danh nghĩa văn minh, Âu hoá, tiến bộ.

Khi xây dựng nhân vật phản diện kiểu nghị Hách, tác giả còn miêu

tả những nét tổng hợp chứ không chỉ quy tụ ở một nét tiêu biểu nào. Nhà

văn miêu tả nghị Hách vừa có nét thành thị lại vừa có nét thôn quê. Nét

thành thị của Nghị Hách thể hiện ở con người hết sức pha tạp. Cái dâm của

nghị Hách không chỉ là nét bản chất của hắn mà còn là sản phẩm của một

chế độ xã hội đã và đang bị Âu hoá. Nghị Hách lúc bấy giờ đang hoà

chung với không khí thành thị nên không thể tránh khỏi thói xấu xa, đê

tiện lúc bấy giờ. Ngay trong một khoảnh khắc, hắn dám hiếp dâm một

người con gái thôn quê trong trắng. Khi làm xong cái việc ấy rồi, hắn sẵn

sàng hẩy con người ta xuống vệ đường mà không hề thấy day dứt lương

tâm. Thật là tàn nhẫn quá mức. Cuối cùng, để trả giá cho một hành động

dâm dãng như vậy thì Nghị Hách đã phải lấy Mịch làm vợ lẽ cho xong việc

rồi mọi thứ ra sao thì chưa cần biết. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định

rằng, cái dâm là sản phẩm của một chế độ xã hội đang bị Âu hóa lúc bấy

giờ. Đã có nhiều ý kiến của giới nghiên cứu bàn cãi xung quanh vấn đề

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 105

này. Ngay khi tiểu thuyết “ Giông Tố” ra đời, cách viết táo bạo của nhà

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> văn khi đề cập đến cái dâm đã gây lên sự phản ứng mạnh mẽ của một số

người. Nhất Chi Mai trong bài “Dâm hay không dâm” đả kích Vũ Trọng

Phụng một cách cay độc và gọi văn chương của ông là “bẩn thỉu, nhơ

nhớp, dơ dáy”. Thái Phỉ trên báo “Tin văn” ( số 25, tháng 9 năm 1936 )

cũng gọi văn chương Vũ Trọng Phụng là “văn chương dâm uế”. Vũ trọng

Phụng bằng những lời lẽ sắc bén, đứng vững trên lập trường của một nhà

văn “tả chân, vị nhân sinh” đã mạnh dạn bảo vệ cho quan điểm của mình.

Nguyễn Hoành Khung trong giáo trình “ Văn học Việt Nam” nhận xét rõ

hơn : “ Việc thích đi vào những đề tài “giật gân” về lưu manh, me Tây,

việc đề cập nhiều đến cái dâm ... trong nhiều sáng tác Vũ Trọng Phụng

cũng có phần là do chạy theo thị hiếu đám công chúng thị dân, một biểu

hiện của quan điểm thị dân tư sản, khi mà văn chương trở thành một thứ

hàng hoá và bị chi phối bởi quy luật thị trường”.

Con người thành thị của Nghị Hách còn thể hiện ở một điểm là rất

hay đua đòi, luôn chạy theo “cơ chế” của quy luật thị trường. Điều đó được

thể hiện ở hành động ngay trong đêm khuya, hắn về thủ đô là vì “ muốn để

sáng sớm hôm sau có đủ thì giờ đến một của hiệu kim hoàn, mua một thứ

hàng quý giá, để mừng một ông tổng đốc được đệ nhị đẳng Bắc đẩu bội

tinh.” Hơn nữa, hắn còn sợ đến mừng chậm hơn những người khác thì mất

vẻ long trọng của một kẻ phú gia địch quốc. Phải nói rằng chỉ có những kẻ

thành thị – những kẻ sống theo lối sống tư bản, luôn chạy theo những ham

muốn về tiền tài, vật chất, danh vọng, địa vị thì mới có những hành động

như vậy. Ngay cả những hành động mà hắn đến nịnh quan công sứ hay

quan huyện Cúc Lâm cũng thể hiện một con người thành thị, bị xã hội tư

sản thành thị xô đẩy làm cho tha hoá không chỉ về nhân phẩm mà còn vê

bản chất con người. Trên thục tế, hắn xuất thân từ một anh thợ cai nề

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 106

nghèo hèn trong xã hội, nhưng rồi do sự thay đổi của cả một nền tảng xã

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> hội mà dần dần đi lên, du nhập nhanh chóng vào đời sống thị thành để rồi

trở thành kẻ sống chạy đua với xã hội tư sản, trở thành nhà tư sản cỡ bự.

Lối sống xa hoa, trưởng giả của Nghị Hách cũng thể hiện một con

người đặc thị thành: “Cái toà nhà ba tầng ở dưới ấp thì tầng dưới là phòng

khách, tầng gác nhì là phòng ăn mà gác ba mới là chỗ làm việc và chỗ làm

việc của nhà tư bản. Còn hai toà nhà hai tầng ở hai bên thì một là để cho

gia đình, họ mạc, hoặc các bạn thân đến ăn ở, và một nữa là nhà thờ,

những phòng ngủ đồ đạc rất sang trọng nhưng mà chỉ để phòng xa... Tóm

lại một câu thì ấp Tiểu vạn trường thành là một toà lâu đài hẳn hoi, vì

cách ăn ở của chủ nhân khiến ta phải tưởng tượng đến cách ăn ở của

những vị công hầu, khanh tướng, trong những tiểu thuyết Tàu vậy.” Cuộc

sống đầy đủ, sang trọng như vậy chưa đủ để đáp ứng cho một kẻ tự nhận là

“phú gia địch quốc” mà đêm ngày còn có đến mười một nàng hầu: mười

một cô ả kia lại được ở nhà sửa soạn hầu hạ một ông chồng mà họ khiếp sợ

như một vị bạo chuá. Hắn xa hoa, truỵ lạc đến mức: “nếu chủ nhân ở nhà

thì dù sao cũng phải có sẵn đàn bà để chủ nhân ông sai bảo việc vặt, hoặc

ngứa mồm thì hôn một cái, ngứa tay thì sờ soạng một cái, cấu véo một

cái...”. Cuộc sống xa hoa truỵ lạc của ngài còn được thể hiện ở việc ngài

hút thuốc phiện rất “ thanh tao”. Ngay khi Long đến, bàn với ngài một việc

hệ trọng thì câu của miệng của Nghị Hách vẫn là: “ Anh biết tiêm thuốc

phiện đấy chứ ?” Thế rồi “Hai người nằm đối diện nhau. Long thì tiêm

thuốc mà Nghị Hách thì xem thư... Kìa mày, tiêm to nữa vào... Mấy điếu

thuốc vừa rồi bé quá, không ăn thua gì cả.”

Sở dĩ Vũ Trọng Phụng miêu tả rất rõ chất thành thị của Nghị Hách là

vì ông là người thành phố chính cống. Thành phố là cuộc sống của ông, số

phận của ông, nó thôi thúc ông phải viết. Vũ Trọng Phụng đã thể hiện

được cái chất thuần Hà Nội cho dù đối tượng miêu tả là thanh lịch hay xô

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 107

bồ phức tạp. Đây là địa hạt mà các nhà văn gốc Hà Nội dễ có thể chiếm

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> lĩnh trong miêu tả nghệ thuật hơn các tác giả ở khu vực khác. Nói tới thành

phố thực chất là nói tới địa bàn hoạt động chủ yếu của tư bản. Vũ Trọng

Phụng không có điều kiện miêu tả cơ cấu kinh tế, hạ tầng cơ sở của xã hội

cũng như thiết chế chính trị. Vũ Trọng Phụng chỉ có thể khai thác chủ yếu

ở các bình diện văn hoá, đạo đức của sinh hoạt đô thị. Vũ Trọng Phụng e

ngại song ông có cái nhìn khá thực tế với vấn đề Âu hoá. Ông xem nó như

quy luật phát triển tất yếu của xã hội thời hiện tại. Tác giả lo lắng sự kéo

theo của những căn bệnh xã hội. Từ tình trạng đổ vỡ và suy đồi về đạo lý

dẫn đến sự lừa đảo và dối trá và các tệ nạn lan tràn trong xã hội. Như thế là

Vũ Trọng Phụng đã chủ động với thời thế chấp nhận tân sinh hoạt trong

buổi giao lưu gặp gỡ Đông Tây và tác giả đã miêu tả khá thành công sinh

hoạt đô thị trong thời kỳ quá độ.

Bên cạnh nét đô thị, trong tác phẩm “Giông Tố”, nhà văn Vũ Trọng

Phụng còn khai thác cả những nét rất nông thôn của nhà tư sản Tạ Đình

Hách. Nét nông thôn trong con người hắn được thể hiện ngay ở tư trang

mà hàng ngày hắn vẫn dùng. Với cái dáng vóc vạm vỡ, hơi lùn kiểu nhà

quê lại mang theo một cặp kính trắng gọng vàng, trên môi có một ít râu lún

phún kiểu tây, cái mũ dạ dên hình quả dưa, cái áo đen bóng một khuy, cái

quần đen sọc trắng, đôi giày láng mũi nhọn và bóng lộn càng làm tăng

thêm vẻ quê một cục của Nghị Hách, đến mức làm cho nhiều người cảm

thấy rất khó chịu. Ngay cả cách nói năng cộc lốc, trống không của ngài

cũng thể hiện con người quê một cục. Trong khi ngài đang vùi đầu vào thú

vui “tao nhã”, chợt có tiếng gõ nhẹ vào của, hắn bực mình ngửng lên hỏi:

“Cái gì ?” -

Rồi ngài lại tiếp tục nói trống không:

“Đàn ông hay đàn bà?” -

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 108

- “Bảo ngồi ở phòng tĩnh tâm mà đợi.”

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Cách nói năng kiểu nhà quê ấy kết hợp với lối sống, cách suy nghĩ

kiểu thị dân ấy đã làm lên một nghị Hách khác xa với những nhân vật khác

như Nghị Quế hay Nghị Lại. Chính sự khai thác nhân vật theo kiểu pha tạp

này đã làm nên sự thành công của Vũ Trọng Phụng khi xây dựng nhân vật

phản diện kiểu Nghị Hách.

Một điều mà người đọc dễ dàng nhận thấy là trong khi xây dựng

nhân vật phản diện kiểu Nghị Hách, Vũ Trọng Phụng rất quan tâm đến

việc xây dựng được nhiều những chi tiết gây ấn tượng mạnh. Sở dĩ phải

xây dựng được những chi tiết gây ấn tượng mạnh là vì trong tác phẩm văn

học, chi tiết là những nét cụ thể mà nhà văn sử dụng để miêu tả ngoại hình,

nội tâm, hành động của nhân vật cũng như những cảnh vật, sự kiện có liên

quan đến nhân vật đó. Đan dệt hàng loạt chi tiết với nhau mới có được một

bức tranh bằng ngôn ngữ có thể tạo nên một ấn tượng tương đối xác định

về nhân vật. Các chi tiết cần được sắp xếp, bố trí thật chặt chẽ, không thừa

hoặc thiếu, có một quá trình phát triển lô gíc – nghĩa là chúng liên quan với

nhau một cách tất yếu.

Trong tác phẩm “Giông Tố”, nhân vật Nghị Hách từ chân dung,

hành động đến cách nói năng đều để lại những chi tiết mang ấn tượng sâu

đậm đối với người đọc. Vũ Trọng Phụng rất giỏi khai thác cái ác trong con

người Nghị Hách thông qua các chi tiết cụ thể mang tính chất điển hình

cho cả một giai cấp thống trị. ở Nghị Hách, cái ác có bộ mặt riêng : lạnh

lùng, tàn nhẫn và rất quyết đoán. Điều đó được thể hiện qua hàng loạt các

chi tiết : Thợ đình công, y gọi điện thoại ra lệnh đuổi việc. Hiếp dâm người

con gái thôn quê xong, hắn đẩy con người ta xuống đường mà không hề

mảy may một chút suy nghĩ gì cả. Hiếp dâm xong, y thản nhiên ra lệnh cho

lái xe phóng thẳng vào trương tuần làng Quỳnh Thôn: Cứ mở hết máy, tội

vạ đâu tao chịu. Y thản nhiên ngồi trên sập nhìn Tài Nhì quằn quại dưới

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 109

ngọn roi trừng phạt của thằng Xuân theo lệnh của y. ác hơn nữa, y còn cho

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> kinh phẩn, thuỷ ngân vào thuốc làm cho mười một cô nàng hầu không thể

chửa đẻ. Có lẽ cái hay nhất và cũng là nét đặc sắc nhất thể hiện ở chi tiết

Nghị Hách dám hiếp dâm người con gái thôn quê ngây thơ, trong trắng

ngay trên xe ô tô trước mặt cả tài xế. Đây là hành động đặc biệt mà chỉ có

ông Nghị tư sản này dám làm mà thôi. Rồi còn những hành vi hắn cợt nhả

với đám nàng hầu, với Thị Tín cũng gây ra những ấn tượng hết sức sinh

động về một nhà đại tư sản đồi bại. Phải khẳng định rằng, đỉnh cao của sự

bẩn thỉu, thối tha trong con người Nghị Hách thể hiện ở chi tiết khi Nghị

Hách quảng cáo cho Y bằng sự công nhận việc loạn luân của hai đứa con

giữa một bữa tiệc khoe mề đay, sau một cuộc phát chẩn giả nhân giả nghiã.

Trong tác phẩm còn khá nhiều chi tiết gây ấn tượng sâu sắc. Chẳng hạn

như trong quan hệ với Hải Vân, Nghị Hách là một tội phạm độc ác. Thế

nhưng khi gặp lại Hải Vân sau 26 năm, ở Nghị Hách – con người vô liêm

sỉ ấy cũng biết cảm phục và cũng có sự hối hận, dẫu rằng đó là sự hối hận

muộn màng. Điều gây ấn tượng sâu sắc đối với người đọc thể hiện ở chỗ

một con người sắt đá như vậy mà cũng có lúc phải tự nhìn nhận lại bản

thân. Chính chi tiết này góp phần làm nên một chân dung chân thật như

vốn có ngoài đời. Trong tác phẩm “Giông Tố”, buổi phát chẩn của Nghị

Hách là cảnh tượng gây ấn tượng mạnh mẽ. Trong buổi phát chẩn, hắn đã

thổ lộ tâm tư, tình cảm của mình “ Tôi vốn xuất thân hàn vi và tôi lại là

dòng dõi bình dân, mà cái điều ấy làm cho tôi tự kiêu lắm. Tôi xuất thân

làm thuyền thợ may mới được như thế này... Có một số người trong xã hội

vẫn phao ngôn vu cho tôi đủ mọi sự gian ác dâm tà... Sự thật đâu có thế...

Tôi là người thiện ác thế nào riêng lương tâm tôi biết... Tôi thấy đồng bào

lầm than đau khổ, tôi phát chẩn, cũng có một tờ báo tiếng Pháp kia kêu tôi

là nịnh dân...Bất giác, nước mắt ở đâu ứa ra lã chã”. Rồi hắn lại tiếp tục: “

Thật vậy, tôi thương xót đồng bào tôi quá, tôi thấy tôi không hy sinh một ít

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 110

tài sản thì là có tội to. Do thế có hai buổi phát chẩn vừa rồi...”

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Chính lúc này là thời điểm mà bản chất vô liêm sỉ của hắn được thể

hiện rõ ràng nhất. Những giọt nước mắt lã chã của hắn nhìn từ bên ngoài là

hành vi đại bịp, nhưng bên trong lại chính là nỗi đau đớn về tinh thần trước

bi kịch của gia đình. Sở dĩ như vậy là vì Nghị Hách vô cùng đau buồn

trước cảnh tượng vợ mình thân hình loã lồ nằm với thằng Cung văn. Đau

buồn hơn khi biết rằng chính Long là đứa con trai của mình.

Ngôn ngữ của Nghị Hách cũng gây ấn tượng mạnh mẽ. Sau vụ án

dâm sự với Thị Mịch, bị dư luận lên án, báo chí phanh phui, Tú Anh trách

móc, thì y nói thật tỉnh bơ “Ô hay ! Sao mày dở hơi thế ? Thì tao mua con

bé ấy làm hầu là cùng chứ gì.” Thật là ấn tượng với đám cưới mà chú rể

không về, cái bàn thờ tổ tiên chỉ được có Mịch cúi đầu lễ mấy cái. Tiếp

đến là đêm tân hôn lạ kỳ. Chú rể đi ô tô ghé qua chỗ cô dâu, nói mấy câu

với giọng điệu của một ông chủ răn dạy con hầu: “ Em cứ chịu khó ngoan

ngoãn, đừng hỗn láo với bà cả, đừng có ngoại tình, lấy tao làm lẽ thứ

mười còn hơn chính thất người khác”. Rồi sau đó là những cử chỉ bỡn cợt,

sàm sỡ, động tác “ vỗ vào bụng vợ bốp một cái”, kêu lên “thế này thì còn

nước mẹ gì nữa”, rồi lại bỏ đi đột ngột... Nghị Hách – nhà tư bản phú gia

địch quốc nói khá nhiều và nói rất ấn tượng. Trong ngôn ngữ của y pha lẫn

cái tự đắc, hãnh tiến của kẻ giàu có lẫn cái chất lưu manh, vô học của một

gã thầu khoán thủa hàn vi.

Tóm lại, Vủ Trọng Phụng đã rất thành công khi xây dựng nhân vật

phản diện kiểu Nghị Hách. Bằng tài năng của mình ông đã xây dựng nhân

vật thật như con người vốn có trong cuộc sống.

II. Cách xây dựng nhân vật phản diện của Nguyễn Công Hoan.

Trong các nhà văn hiện thực tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt

Nam tuy tuổi đời không nhiều nhất nhưng Nguyễn Công Hoan có vinh dự

là người xuất hiện sớm nhất. Vào lúc văn xuôi viết bằng chữ quốc ngữ còn

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 111

non trẻ, với những bước đi chập chững ban đầu thì Nguyễn Công Hoan cứ

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> hồn nhiên tự mở cho mình một lối đi riêng. Theo thời gian ngòi bút ông

ngày càng thuần thục để rồi số tác phẩm vượt trội về lượng và chất đã đưa

tên tuổi ông trở thành thân quen với bạn đọc trong nước và ít nhiều dân tộc

trên Thế giới. Trong lăng kính mọi người, Nguyễn Công Hoan không chỉ

đơn thuần với tư cách một sáng tạo cá nhân mà còn với tư cách đại biêủ

của một khuynh hướng, một thể loại, một phong cách có ý nghĩa về

phương diện mỹ học.

Ngay từ hồi đang còn ở lứa tuổi thanh niên, giữa xã hội đầy những

biến động phức tạp, tuổi trẻ rất dễ mât phương hướng, thế mà Nguyễn

Công Hoan đã có một quan niệm sống đúng đắn, lành mạnh. Ông tự nhủ:

ngoài việc đi dạy học, cần phải làm một việc gì có ích, chứ không thể chỉ

“có mặt ở trên đời một cách buồn tẻ và vô tích sự” (Đời viết văn của tôi, tr

116). Từ quan niệm này, nên khi viết văn ông đã đưa ra một quan niệm

vừa giản dị lại vừa thiết thực: văn chương không nên là một thứ để giải trí.

Nó phải thêm một nhiệm vụ là có ích. Từ quan niệm này, ông đã định

hướng cho sáng tác của mình một cách cụ thể: “Truyện phải có nội dung

bổ ích và trước hết truyện phải thực” ( Đời viết văn của tôi, tr 132).

Nguyễn Công Hoan không sa đà vào những chuyện phù phiếm, vẩn

vơ mà đều xuất phát từ hiện thực đông đặc trước mắt. Khi sáng tác, thái độ

của ông bộc lộ rõ ràng, cụ thể “ Tôi rất thích chú ý đến những cảnh thối

tha, nhơ nhuốc, những thủ đoạn, mưu mô làm tội ác trong giới những

người có thế lực, có địa vị” (Đời viết văn của tôi, tr 281). Những người ấy,

Nguyễn Công Hoan không phân biệt họ là quan lại, tổng lý, địa chủ, tư sản

mà cứ gọi chung chung là nhà giàu. Ông cũng không thể nào yên tâm trước

những nỗi thống khổ của người nghèo, bị bọn nhà giàu dùng thế lực, địa vị

mà áp bức, bóc lột. Người nghèo theo quan niệm của Nguyễn Công Hoan

không chỉ là nông dân mà bất cứ một hạng người nào không có tiền, bị lép

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 112

vế trong xã hội. Bằng kinh nghiệm sống và suy luận, Nguyễn Công Hoan

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> đã xác định được đối tượng đả kích của mình là kẻ giàu - đương nhiên là

có quyền, có thế và đứng về phía người nghèo bị lép vế.

Từ quan niệm giàu, nghèo có tính chất kinh nghiệm chủ nghĩa đã

giúp ông phanh phui được nhiều chuyện xấu xa, thối nát của giai cấp thống

trị cùng những sự đau thương khổ nhục của đời người trong xã hội cũ.

Về cách xây dựng nhân vật phản diện của Nguyễn Công Hoan,

Trừơng Chính cho rằng “Cách tập trung tất cả những tính xấu vào nhân

vật phản diện không phải là cách sáng tạo điển hình nhất. Cách đó làm

cho nhân vật trở thành kỳ dị, thiếu tính hiện thực và do đó mất tác dụng

của nó’’. Đây là một cách hiểu và phải chăng cách hiểu này thiếu tính

thuyết phục. ý kiến khác lại cho rằng “Việc xây dựng nhân vật phản diện

cho phép nhà văn được tô đậm, khuyếch đại những nét tiêu biểu’’. Chúng

tôi nghĩ rằng trong đời sống xã hội ngày xưa, quả nhiên bọn thống trị xấu

xa bỉ ổi vô cùng, e rằng nhà văn cố tình tô vẽ một vài nét cho có vẻ sáng

sủa hơn thì chính lại là không thực. Banzac đã từng nói rằng: “Những câu

chuyện bịa trong tiểu thuyết thực ra còn thua xa so với những câu chuyện

có thực trong cuộc đời’’. Đúng vậy, chỉ sợ nhà văn chưa nói hết cái xấu

của bọn thống trị trong xã hội thực dân phong kiến thối nát chứ không sợ

nhà văn nói quá.

Nguyễn công Hoan rất thành công khi viết về nhân vật phản diện.

Trong cuốn “đời viết văn của tôi‟‟, Nguyễn Công Hoan viết “Nhân vật

quen thuộc của tôi đều là những nhân vật xấu trong xã hội thuộc Pháp. Họ

là bọn nhà giàu, cậy quyền cậy thế mà áp bức người nghèo. Họ là quan

lại, địa chủ, là tư sản, tiểu tư sản lớp trên. Vẽ họ tôi tìm đủ những nét nhơ

bẩn về vật chất cũng như về tinh thần. Còn nhân vật chính diện tôi thường

tả họ qua ngôn ngữ, cử chỉ để thấy được con người của họ’’. Tác giả tiếp

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 113

“Tôi viết về người xấu nhạy hơn người tốt bởi vì tôi vốn bi quan trên nhìn

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> mọi vật bằng con mắt hoài nghi, chỉ thấy phía xấu, phía xấu dễ nhập tâm

hơn phía tốt‟‟.

Trước hết, khi xây dựng nhân vật Nghị Lại, Nguyễn Công Hoan xây

dựng nhân vật này với nhiều nét thôn quê. Hắn là người xuất thân từ nông

thôn và xem trường học là nhà tù, gia đình là ngục thất. Có thể nói, nếu

Nghị Hách là con người pha tạp, vừa có nét thành thị lại vừa có nét thôn

quê thì Nghị Lại chỉ thuần tuý là tên địa chủ ở nông thôn. Chất thôn quê

trong con người hắn được thể hiện ngay ở cách suy nghĩ quê mùa, cổ hủ,

rất nông dân của hắn. Hắn quan niệm rằng: “Học vấn không làm gì. Thủa

bé, ông coi sách vở là kẻ thù số một.” Hơn nữa, ông còn coi nhà trường

như ngục thất, nó chiếm hết cả tự do của tuổi sung sướng của ông nữa. Với

cách nghĩ “nông dân” như vậy thì suốt đời hắn chỉ chui trong xó làng An

Đạo mà thôi và mãi mãi chỉ là một tên địa chủ nhà quê. Nói đến đây không

ít độc giả băn khoăn rằng với một con người như vậy tại sao lại trở thành

một địa chủ hơn nữa lại còn là nghị viên. Nhưng chúng ta cũng phải hiểu

một điều rằng Nghị Lại xuất thân trong một gia đình mà theo cách nói của

Nguyễn Công Hoan cũng là khá giả trong làng quê lúc bấy giờ “ Nguyên

khi ông bà chánh mất đi, thì dinh cơ mới rộng độ tám sào, mà ruộng vườn

tất cả mới có ngót trăm mẫu”. Như vậy gia sản mà song thân ông để lại

cho ông cũng không thể nói là ít trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Lại

thêm việc hai cụ huấn luyện cho ông phương pháp làm giàu. Từ đó, ruộng

nọ đẻ ra ruộng kia, thấm thoát có mười năm trời mà tường quanh nhà xây

gần kín hết, “đến tháng này, ông có vừa đúng bốn trăm mẫu”. Nhiều vườn,

nhiều ruộng như vậy, ắt hắn thành một địa chủ cỡ bự trong làng. Còn việc

ông là một nghị viên chẳng qua là do mưu mẹo mà có. Chỉ có điều, một

nghị viên mà thất học thì liệu giúp gì được cho dân. Trên thực tế, ta thấy

rất rõ rằng địa chủ theo kiểu nghị Lại trong xã hội chỉ tìm mọi cách để thoả

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 114

mãn lòng tham vô đáy của mình chứ chúng giúp gì được cho dân, ngược

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> lại còn bóc lột người dân đến tận xương tuỷ. Phải chăng chức nghị viên

của hắn chỉ là một cái bình phong để che mắt thiên hạ mà thôi.

Từ cách suy nghĩ hết mực thôn quê ấy đã dẫn đến hành động chơi

quê của hắn : “Ông lấy làm hãnh diện rằng mới mười sáu tuổi đã giỏi

trống cô đầu, mới mười bảy tuổi đã hút nổi hai mươi điếu thuốc phiện một

lúc và mới mười tám tuổi đã rẽ dây cương vô số nhân tình”.

Chất quê mùa của Nghị Lại còn được thể hiện ở cách cảm nhận về

mỹ thuật hay nói nôm na là cách cảm nhận về cái đẹp của hắn. Bản thân

hắn mới chỉ là một tên nghị viên nhà quê, thế mà “ ông không cần nể ai,

chụp ngay cái hình mặc mũ áo đại triều và thuê vẽ. Hoạ sĩ lại là tay đồng

chí của chủ nhân, càng không cần nể ai nữa. Y đã tô màu tía lên trên áo

rồng và vẽ thêm đôi giao long dưới cầu mũ có rắc kim nhũ.” Giá như cách

vẽ ấy làm cho chủ nhân đẹp hơn, tráng kiện hơn thì oai cho Nghị Lại biết

bao. Tiếc rằng “cả một bộ triều phục uy nghi ấy lại dùng để lồng ra ngoài

một tấm thân có bộ mặt hom hem, dăn dúm, khủng bố người ta bằng hai

nét nhăn xoạc cong sang bên má, làm cho đôi mắt xếch càng xếch thêm...”

Nét nhà quê của hắn còn được thể hiện rõ ràng hơn ngay ở cách bài

trí đồ đạc, tranh ảnh trong nhà: “Đây là một cô gái Trung hoa trắng hồng

như trứng gà bóc, mũm mĩm, nằm hớ hênh, trật cả đùi lẫn vế. ở góc lại

một cô nữa, chẳng mặc gì để che tấm thân trắng phau, béo phốp nhưng lại

thẹn thò, chua ngoa, một tay bịt ngay chỗ chẳng nên bịt, và một tay giơ lên

trời, cầm một cái... Một cái đấy hiểu nhầm là một ngọn đèn cụt đầu”.

Ngoài phòng khách thì như vậy, còn trong buồng lại chồng chất những thứ

đặc nhà quê : “Đầu tiên là mùi tanh tanh ở trong gậm xông ra. Nó là mùi

han đồng của những đỉnh, những đèn, những mâm, những nồi, xếp la liệt

dưới sập. Những thức ấy khó lòng lấy ra được vì khi cất vào đó, người ta

phải rất đông, cùng khênh bổng cái sập lên, mà khi hạ xuống, thành sập

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 115

sát gần xuống đất.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Rồi đến những bàn ghế, tranh ảnh, cùng trăm thứ trang hoàng trên

tường, không ra lối lăng gì. Cái thì thực đẹp, cái thì thực xấu, cái thì thực

mới, cái thì thực cũ. Hình như những đồ ấy chủ nhân đã nhặt nhạnh dần

dần của các nhà khác. Sự bày biện bảo cho ta biết chủ nhân là kẻ bất chấp

mỹ thuật, nhưng là một người biết chịu khó tiếc của trời.” Tất cả những

chi tiết trên đây đã làm nên một tên địa chủ có lối sống, cách suy nghĩ đặc

nhà quê. Bên cạnh đó, những hành động cũng như cách ứng xử của hắn đối

với mọi người cúng có biểu hiện là một kẻ nông dân thuần tuý. Ông chẳng

ái ngại cho chất quê mùa, cục cằn của mình mà nói thẳng với Tây đoan

một điều rằng : “ Tôi thì không văn hoa, lễ phép như người ta, nên mới hỏi

thẳng quan lớn như thế”.

Khi xây dựng nhân vật phản diện Nghị Lại, Nguyễn Công Hoan đi

sâu khai thác bản chất xấu xa của một con ngưòi bạc ác, căm ghét người

lao động và luôn chống lại quyền lợi của người nông dân. Khi xây dựng

nhân vật, nhà văn luôn đặt cạnh nhân vật phản diện với nhân vật chính

diện để làm nổi bật bản chất của cả một tầng lớp, một giai cấp trong xã hội

thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ. Bản chất của Nghị Lại là xảo quyệt,

hắn luôn tìm chỗ sơ hở của kẻ khác để kiện người không thì xui người

khác kiện tụng lẫn nhau. Mà mục đích cuối cùng của việc làm bẩn thỉu ấy

là nhằm kiềm tiền, kiếm ruông, kiếm sao cho vừa một cái thùng không

đáy, nói theo cách của bà Anh trong tác phẩm thì “ nó để chôn vợ, chôn

con nó à”. Bản chất tàn nhẫn của hắn được thể hiện ở chỗ: hắn là kẻ xui

nguyên giục bị, đòn xóc hai đầu. Hắn xui Trương Thi kiện anh Pha nhưng

hắn lại cho anh Pha mượn tiền đi hầu quan để kiện lại Trương Thi. Trong

việc này thì hắn chẳng cần làm gì mà cũng kiếm được món tiền khá khá.

Sở dĩ người nông dân hiền lành, chất phát như anh Pha cứ bị mắc mưu hết

lần này đến lần khác là bởi vì hắn luôn dùng những lời lẽ hết sức ngon

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 116

ngọt để dỗ dành, lừa dối người nông dân làm cho người nông dân với bản

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chất hiền lành, lương thiện cứ nghĩ đó là hành động tốt. Bên cạnh đó, bản

chất tàn nhẫn của nghị Lại còn được thể hiện ở điểm: vào đúng lúc anh Pha

đang hết sức túng bấn, khủng hoảng thì hắn đòi tiền. Anh Pha nói chưa có

thì hắn buộc anh Pha phải bán đứt tám sào ruộng cho hắn. Thế là cuối cùng

người nông dân như anh Pha đã mắc mưu Nghị Lại và trở thành kẻ tứ cố

vô thân, không ruộng, vườn, vợ chết, con cũng chết, anh lâm vào đường

cùng.

Hắn là một kẻ vô học. Tuy hắn là nghị viên nhưng hắn không bao

giờ bảo vệ thành quả lao động của người nông dân, ngược lại, hắn lợi dụng

địa vị, quyền lợi của mình bóc lột người nông dân đến tận xương tuỷ làm

cho họ không còn đường để ngóc đầu làm ăn, sinh sống. Hắn không chỉ

bóc lột người nông dân bằng cách cho vay nặng lãi mà còn cướp trắng

công sức của người nông dân. Điều này được thể hiện sâu sắc ở chương

cuối cùng của tác phẩm, đặc biệt ở đoạn Nghị Lại ính đến gặt lúa ở ruộng

của anh Pha. Đỉnh cao của sự áp bức, bóc lột thể hiện ở đoạn anh Pha và

Nghị Lại xô xát với nhau:

“Quả nhiên, bọn thợ với lính ra cánh đồng Mả Giơi, đến ruộng anh

Pha thì đứng lại, và xuống cắt lúa.

Pha căm run bắn người lên. Không nghĩ trước sau, tự nhiên anh

cắm cổ chạy đến gần. Bất đồ Nghị Lại đứng từ bao giờ, trỏ vào mặt anh,

bảo lính:

- Đây chính thằng này gặt trộm lúa nhà tôi mấy hôm nay.

Pha nắm tay tiến lại gần:

- Ruộng của tôi ông không có phép...

Nói chưa dứt lời, anh bị ba người lính quây lại. Biết thế nguy, anh

hăng tiết, nhất định liều, chống cự cho đến kỳ cùng. Anh vớ được chiếc

đòn càn, xông vào Nghị Lại, phang một cái thật mạnh vào đầu:

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 117

- Đồ ăn cướp!

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Ông nghị ngã dúi, kêu rầm rĩ. Nhưng ba người lính đã ôm ghì lấy

anh. Đánh được ông nghị, anh hả dạ quá, càng phấn chấn, nên hết sức

quằn quại và phang huyên thuyên. Nhưng anh thế cô, chẳng mấy chốc bị

ba người lính khoẻ túm chặt được, đè anh ngã ngửa và trói gô lại...”

Qua đoạn văn trên, độc giả dễ dàng nhận ra một điều hết sức vô lý là

chính bản thân người lao động đầu tắt mặt tối như anh Pha lại không được

hưởng thành quả lao động. Trong khi đó Nghị Lại là một kẻ ngồi chơi xơi

nước thì đến mùa lại cho lính đến gặt lúa của ngươì lao động. Đúng là một

kẻ uống máu người không tanh. Bản chất đê tiện của Nghị Lại đã được vạch

trần và bản thân người nông dân lao động cũng đã nhận thức sâu sắc kẻ thù

của mình và kẻ thù của giai cấp mình. Vì vậy, hành động mà anh Pha đánh

Nghị Lại là một hành động tất yếu và đã trở thành tự phát. Tác giả cũng

phần nào thấy được sức mạnh của người nông dân. Các nhân vật chính diện

cũng đã thấy được “hai cánh tay mạnh mẽ” của mình là “hai cánh tay làm

cho đất cát có giá trị”. Họ đã nhìn nhận được sự bất công trong xã hội. Hành

động của anh Pha tuy muộn nhưng ít nhiều nó cũng là đòn chống trả lại cả

một gíai cấp thống trị. Đồng thời hành động đó, cũng kịp vạch trần bộ mặt

nham hiểm và xảo quyệt của tên địa chủ gian ác, vô học .

Nếu như trong các truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, khi xây

dựng nhân vật phản diện ông thường tìm cách sáng tạo ra tiếng cười đặc

sắc, độc đáo thì khi xây dựng nhân vật phản diện Nghị Lại người đọc

không hề nhận thấy một tiếng cười hài hước trong tác phẩm mà chỉ thấy sự

căm giận, uất ức loại người như Nghị Lại. ở đây nhân vật phản diện Nghị

Lại không bị tiếng cười mỉa mai châm biếm và thái độ hài hước che lấp

như trong các tác phẩm khác của ông. Trong đó các nhân vật khác trong

các tác phẩm khác bị ông chế giễu một cách mạnh mẽ. Ví dụ như trong

truyện “Báo hiếu trả nghĩa mẹ”, ông công kích hạng trọc phú ăn ở với mẹ

không ra gì. Tên này gọi mẹ bằng con vú già, để vợ đầu độc mẹ chết cho

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 118

khuất mắt, rồi “ trả nghĩa mẹ” bằng cách làm đám ma thật linh đình để báo

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> hiếu. Trong truyện “hai thằng khốn nạn”, ông dựng lên một tên trọc phú

keo kiệt khác: một ông Nghị bỏ ra ba hào mua một thằng bé nhưng vì lưng

thằng bé có nhiều nốt ruồi nên hắn ta đã bớt lại hai xu mà vẫn còn tiếc là

đắt quá! Trong truyện “mất cái ví” ông đã nhạo báng lão tham đểu cáng

giả vờ mất ví để vu cho người bà con nghèo của hắn, làm cho người này

không thể đến quấy nhiễu, nhờ vả nó...

Tóm lại trong hầu hết các truyện của ông, nhà văn thường đả kích,

lên án các nhân vật phản diện bằng cách gây ra tiếng cười chua chát nhưng

trong tác phẩm “Bước đường cùng”, nhà văn xây dựng nhân vật Nghị Lại

theo quan điểm mô tả hết những nết xấu xa, nhơ bẩn của giai cấp thông trị.

Để khắc hoạ sâu sắc hơn nữa, ông đã đặt những người giàu có bên cạnh kẻ

nghèo khó để tô đậm bản chất xấu xa của giai cấp thông trị trong xã hội

thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ.

III. Cách xây dựng nhân vật phản diện của Ngô Tất Tố.

Ngô Tất Tố không chỉ là một nhà văn mà ông còn là một nhà báo,

Ông xuất thân trong một gia đình nông dân lao động. Chung quanh Ngô

Tất Tố là sự sống bần cùng, ngột ngạt dưới những uy quyền cha truyền con

nối của những dòng họ đại địa chủ và phong kiến. Đứng trước một thực tại

như vậy, ngòi bút của Ngô Tất Tố chĩa mũi nhọn vào bọn thực dân Pháp,

bọn quan lại và cường hào địa chủ, vạch trần những cái thối tha của chúng.

Ông tỏ ra hoài nghi tất cả những chính sách của bọn thống trị. Đối với

những bọn bán lương tâm cho giặc, đi ngược lại quyền lợi của nhân dân để

mưu cầu phú quý, Ngô Tất Tố châm biếm, giễu cợt với giọng điệu chua

cay, nghiêm khắc. Ngòi bút đả kích ấy có nhiều khi đã dũng cảm giáng vào

đầu bọn quan lại những đòn chí tử. Năm 1937, trong một bài đăng trên báo

tương lai, Ngô Tất Tố viết: Quan lại tham nhũng chẳng là những kẻ bóp

dân như bà cô bóp con cháu à? Thủ đoạn của họ cực kỳ mầu nhiệm, họ đã

bóp người nào thì người đó không thể không lè lưỡi ra, lè lưỡi cho đến khi

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 119

có đồ cúng họ. Nhưng họ chỉ bóp dân ở trong ở trong tối, trừ ra những kẻ

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> bị bóp, quỷ thần cũng không thể biết. Hành động của họ thật chẳng khác gì

một lũ tà ma. Bởi thế tục ngữ mới đem họ mà nối liền với ma trong câu

“quan tha ma bắt”. Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề vẫn là thứ kẻ

quê rất sợ, song chưa nguy hiểm cho dân bằng họ.

Bọn cường hào địa chủ ở nông thôn cũng là đối tượng để cho Ngô

Tất Tố đưa lên sách báo mà mạt sát, mà nguyền rủa. Đối với lũ thống trị

trong xã hội đang xúm nhau hút máu và mồ hôi nước mắt của nhân dân,

nhà văn Ngô Tất Tố không do dự dùng tài ngôn luận của mình để vạch mặt

và đả kích. Ngòi bút của Ngô Tất Tố chẳng những là vũ khí phê bình sắc

bén đối với kẻ địch mà còn bộc lộ nhiều tình cảm nồng nhiệt đối với quần

chúng và cách mạng. Tính chất chiến đấu trong ngòi bút Ngô Tất Tố được

thể hiện ở các tác phẩm của ông. Ông là một nhà văn rất thành công khi

viết về đời sống ở nông thôn Việt Nam.

Nếu Ngô Tất Tố thành công trong việc biểu hiện quần chúng, thì

ông cũng đã thành công trong việc xây dựng những nhân vật phản diện

như: Lý đương, Lý cựu, Chánh hội, Phó hội, cho đến viên tri phủ, vợ

chồng Nghị Quế... Những nhân vật này đều là một bọn người đang xúm

nhau lại hút máu mủ nhân dân. Khi xây dựng những nhân vật này, nhà văn

phải quan tâm nhiều đến vấn đề sưu thuế bởi vì sưu thuế là tai hoạ đối với

nhân dân nhưng lại là món món mồi béo bở đối với bọn chúng. Vì sưu

thuế, chị Dậu phải bán khoai, bán lúa, bán chó, bán con. Vì sưu thuế, anh

Dậu bị cùm kẹp, đánh đập suýt chết nhưng nhờ sưu thuế mà bọn cường

hào, quan lại được ăn, được uống, được hút lại có cả tiền bỏ túi. Chúng

mưu mô lợi dụng cảnh hoạn nạn của quần chúng để làm giàu, để hưởng

thụ. Đọc tác phẩm Tắt đèn, chúng ta thương cảm cho người lao động bao

nhiêu thì lại càng căm ghét bọn thống trị bấy nhiêu. Bức tranh xã hội càng

chân thực thì càng có sức mạnh tố cáo và càng có tác dụng giáo dục cho

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 120

công chúng lòng căm thù sâu sắc đối với chế độ áp bức, bóc lột. Thái độ

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> của Ngô Tất Tố trong tác phẩm Tắt đèn rất rõ rệt. Đối với quần chúng,

ngòi bút của tác giả dạt dào một tấm lòng thông cảm sâu sắc, còn đối với

bọn quan lại, cường hào, ngòi bút của nhà văn lại đầy giọng dả kích, châm

biếm. Nhà văn không hề e dè trong việc vạch trần tính chất bỉ ổi, vô nhân

đạo của bọn thống trị.

Nếu như Ngô Tất Tố thành công trong việc xây dựng nhân vật Chị

Dậu thì phải nói rằng ông cũng rất thành công trong khi xây dựng nhân vật

phản diện Nghị Quế. Khi xây dựng nhân vật này, nhà văn Ngô Tất tố cũng

giống như Nguyễn công Hoan, tập trung vào việc miêu tả tất cả những nét

xấu xa, bỉ ổi của cả một giai cấp thống trị lúc bấy giờ, ví dụ như cái ngu

dốt, sự thất học, thói ăn chơi trác táng của một gã nhà quê trọc phú, bủn

xỉn và keo kiệt... Tất cả những điều đó đã được nhà văn thể hiện hết sức

sâu sắc trong tác phẩm “Tắt đèn”. Cách xây dựng nhân vật theo kiểu này

rất giống với cách xây dựng nhân vật phản diện của Nguyễn Công Hoan. ở

đây Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan đều xây dựng nhân vật phản diện

bằng cách tập trung tất cả những tính xấu vào nhân vật phản diện. Sở dĩ

như vậy bởi vì các nhà văn đều có cái nhìn đúng đắn vào cuộc sống, hơn

nữa, ở các ông đều có thái độ rất đúng đắn đối với bọn cường hào, quan lại

trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Theo các nhà văn thì trong xã hội

ngày xưa, quả nhiên những bọn thống trị qủa là xấu xa, bỉ ổi vô cùng. Vì

vậy, các nhà văn phải tập trung những nét xấu vào các nhân vật phản diện

là điều dễ hiểu.

Khác với Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố khi xây dựng nhân vật

phản diện Nghị Quế, ông đã đưa cả nhân vật vợ Nghị Quế xuất hiện cùng

thời điểm với Nghị Quế để làm tăng tính chất trọc phú cũng như sự keo

kiệt, bủn xỉn của Nghị Quế nói riêng và cả giai cấp thống trị nói chung.

Trong tác phẩm Tắt đèn, bà Nghị xuất hiện rất đúng lúc và khi nào cũng

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 121

hiện nguyên hình là một kẻ hết sức tần nhẫn. Tính chất tàn nhẫn của bà

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Nghị Quế được thể hiện ngay khi chị Dậu đến đặt vấn đề bán con và bán

chó:

“Thưa lạy hai cụ ạ! -

Bà Nghị gắt:

- Chó cắn vào tay phải không? Cho chết! Đương lúc người ta

ăn uống, ai bảo cứ dẫn xác vào! Hỏi gì?”

Tiếp theo là đoạn đối thoại giữa bà nghị và chị Dậu về việc bán cái

Tý:

“ Thưa lạy hai cụ, nhà con túng quá, xin hai cụ cứu giúp chúng con.

Bà nghị nhả miếng bã trầu cầm tay, quai thật dài cặp môi cắn chỉ:

- chẳng cứu với vớt gì cả? Mày có bán đứa con gái tao mua!

- Xin vâng.

- Sáng ngày chồng mày nói con bé ấy đã lên bảy tuổi, xin lấy

ba đồng. Cụ ông tưởng nó nói thật, bằng lòng cho hai đồng. Nhưng giờ

nghe nói con mày mới có sáu tuổi, thì tao chiết đi một nửa, chỉ cho một

đồng thôi. Thuận bán thì về đưa nhau sang đây!

Chị Dậu ngơ ngác:

- Thưa cụ, thật quả cháu đã lên bảy, nó đẻ tháng giêng năm Tý.

Chúng con không dám nói dối của cụ!

- Tao không thể tin cái miệng vợ chồng nhà mày! Người ta

mách tao là nó mới lên sáu. Chưa tao biết đâu nó đẻ năm Tý hay đẻ năm

tỵ, năm tỳ!...

Chị Dậu đờ mặt không biết nói sao.”

Sau những lời bàn đi tính lại của chị Dậu và bà Nghị, Bà thổ ra một

câu nghe thật thảm thương cho hoàn cảnh gia đình chị Dậu: “Đáng lẽ biếu

không thì phải... Cho một đồng cũng quá lắm rồi... Không phải nài nầm gì

nữa”. Thực ra ngôn ngữ của bà Nghị chẳng kém gì cách nói của ông Nghị.

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 122

Tất cả còn làm toát lên một con người mang sẵn trong mình một bản chất

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> tàn ác đến kinh khủng. Xét từ góc độ người mẹ thì có thể nói, bà Nghị là

chân dung một người mẹ không tim.

Bản chất tàn nhẫn của bà Nghị còn được thể hiện sâu sắc hơn qua

đoạn: “Tiền tao có phải vỏ hến mà tao quẳng cho mày bay giờ? Dễ tao

hám lãi của mày lắm đấy? Thôi, thế này: chó tao cũng mua vậy. Bắt cả

con chó cái và đàn chó con sang đây, tao trả cho một đồng nữa. Với con

bé kia một đồng là hai... Thế là nhà mày đủ tiền nộp sưu, lại khỏi nuôi chó,

nuôi con. Sướng nhé!”... Như vây, cách xây dựng nhân vật phản diện của

Ngô Tất Tố là ông luôn đặt nhân vật bà vợ bên cạnh một ông chồng, mà ở

đó cả hai cùng thể hiện bản chất như nhau. Tất cả đều làm tăng thêm bản

chất xấu xa, đồi bại của giai cấp thống trị đương thời nói chung và gia đình

nhà nghị Quế nói riêng.

Khi xây dựng nhân vật phản diện nghị Quế, nhà văn Ngô Tất Tố có

sử dụng nghệ thuật châm biếm, đả kích. Đối với những nhân vật này, có

thể nói, không một chi tiết nào ông dùng đến mà không nhằm của vào cái

tính chất lố bịch, ngu xuẩn, thô bỉ, nhơ bẩn của chúng. Trong tác phẩm,

độc giả không thấy xuất hiện những tiếng cười mà chỉ thấy những chi tiết

mô tả hành động, thái độ nhằm tạo ra sự châm biếm, đả kích hết sức sâu

cay. Cụ thể như hành động húp canh của Nghị Quế “Ông Nghị đâm chéo

đôi đũa qua mặt mâm, bưng bát nước canh, trợn mắt, húp một cái đánh

“soạt”. Rồi hành động ông “súc miệng òng ọc mấy cái, rồi nhổ toẹt xuống

nền nhà”. Những hành động này thể hiện một con người thiếu văn hoá,

không có khả năng cảm nhận cái đẹp trong cuộc sống, đặc biệt trong văn

hoá ăn uống. Kinh khủng nhất là hành động “ông nghị, bà nghị mỗi người

nhúng ba ngón tay vào chậu, vuốt qua hai mép một lượt, rồi cùng uống

nước, xỉa răng”. Lố bịch và kệch cỡm hơn nữa là “ hai đứa đày tớ đứng

hai bên cầm quạt phẩy lại... ông vểnh mặt hút sòng sọc một hơi”. Phải nói

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 123

rằng nhà văn Ngô Tất Tố rất có tài trong việc sử dụng những hành động

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> đối lập nhau. Điều đó càng tạo nên giá trị châm biếm, đả kích sâu sắc.

Châm biếm và đả kích là một thủ pháp nghệ thuật phổ biến nhưng không

phải nhà văn nào cũng có thể khám phá và kiếm tìm. Nhà văn Ngô Tất Tố

tuy không có sở trường ở thủ pháp nghệ thuật này nhưng đối với các nhân

vật phản diện thì ông không quên sử dụng thủ pháp nghệ thuật này nhằm

vạch mặt, tố cáo và lên án những lớp người bẩn thỉu, xấu xa trong xã hội.

Lối châm biếm và đả kích của Ngô Tất Tố còn được thể hiện ở cả lúc mà

nghị Quế khen bốn con chó của chi Dậu: “ Đẹp cả ! Bốn con bốn kiểu: một

con “huyền đề”, một con “lốt hổ”, một con “đen tuyền” và một con “tứ

túc mai hoa”. Con nào cũng cúp tai, ngắn mặt, đốm lưỡi, mắt xếch lá đề

đẹp lắm.” Đó là tiêu thức đánh giá vẻ đẹp của những con chó dưới góc

nhìn của những kẻ ăn trên ngồi trốc, quanh năm chỉ biết hút máu mủ của

hạng cùng đinh. Ngay cả những hành động mà vợ chồng nghị Quế tỏ ra

thương xót đàn chó bị nắng cũng đã mang giá trị châm biếm đả kích sâu

sắc. Bởi vì chính hành động này cũng đủ để làm nên một con người nhìn

bề ngoài tưởng như nhân đạo nhưng ngược lại đó chỉ là sự giả tạo mà thôi.

Đôi khi chẳng cần phải nói xa, nói gần mà nhà văn châm biếm, đả kích

thẳng: “Vào viện, ông cũng như hầu hết các ông nghị khác, không bàn và

không cần nghe ai bàn. Nhưng ông cũng chỉ ngáp vặt, chứ không ngủ gật

bao giờ, vì sợ đôi giày Chí Long để dưới chân ghế lỡ bị mất trộm trong khi

phải co chân đặt lên mặt ghế cho hợp thói quen của ông”... Tất cả những

hành động trên đều thể hiện ngòi bút châm biếm, đả kích của Ngô Tất Tố

đã đạt đến đỉnh cao, thể hiện sâu sắc thái độ của nhà văn đối với thế lực

cường hào, địa chủ trong xã hội lúc bấy giờ.

Như vậy, khi miêu tả nhân vật phản diện kiểu nghị Quế, nhà văn Ngô

Tất Tố không chỉ tập trung vào việc miêu tả những nét xấu xa, bẩn thỉu của

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 124

cả một tầng lớp thống trị mà còn sử dụng thủ pháp nghệ thuật châm biếm,

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> đả kích sâu cay. Bên cạnh đó nhà văn còn lồng ghép nhân vật này bên cạnh

nhân vật kia nhằm làm tăng mức độ biểu cảm đối với người đọc.

IV. Cách xây dựng nhân vât phản diện của Nam Cao.

Nam Cao là một trong số những nhà văn lớn nhất của nền văn xuôi

hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách

khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng sáng ngời. Thời gian

càng lùi xa, những tác phẩm của ông lại càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu

sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.

Nam Cao là nhà văn lớn nhất của trào lưu văn học hiện thực phê

phán 1930 – 1945. Trong số các nhà văn hiện thực, ông là cây bút có ý

nghĩa sâu sắc nhất về quan điểm nghệ thuật của mình. Ông phê phán khá

toàn diện và triệt để tính chất thoát ly, tiêu cực của văn chương lãng mạn

đương thời, coi đó là thứ “ ánh trăng lừa dối”, đồng thời yêu cầu nghệ

thuật chân chính phải trở về với đời sống, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói

lên được nỗi thống khổ của hàng triệu nhân dân lao động lầm than.

Trong những sáng tác của Nam Cao về đề tài nông dân, số nhân vật

phản diện thuộc giai cấp phong kiến không có nhiều. Nhưng chỉ riêng với

truyện ngắn “Chí Phèo”, ta cũng có thể thấy cái sắc cạnh, bén nhọn của

ngòi bút Nam Cao khi tác giả miêu tả bọn này, mà nhân vật tiêu biểu nhất

là Bá Kiến, một tên cường hào, địa chủ, ác bá điển hình.

Về cách xây dựng nhân vật phản diện kiểu Bá Kiến, nhà văn Nam

Cao có sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật điển hình, trong đó ông chú ý

nhiều đến cách miêu tả nhân vật thông qua hành động, cử chỉ, lời nói,

giọng điệu... Bên cạnh đó ông còn xây dựng nhân vật theo kiểu rất riêng

của minh, không giống với bất kỳ nhà văn nào cùng thời bởi vì trong tuyên

ngôn nghệ thuật, ông cho rằng: “ Văn chương chỉ dung nạp những người

biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái

gì chưa có”. Đối với nhân vật Bá Kiến, ông khắc hoạ chân dung nhân vật

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 125

này không phải bằng cách miêu tả cho hết cái xấu của nhân vật giống như

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> các nhà văn khác mà ông mô tả dưới cái nhìn riêng của mình, phải nói rằng

hiện đại hơn các nhà văn khác cùng thời. Cứ cho rằng bản chất bóc lột của

các tên địa chủ phong kiến ác bá như nghị Lại, Nghị Quế, Nghị Hách, Bá

Kiến là giống nhau nhưng phương thức bóc lột thì khác nhau. Bá Kiến bóc

lột theo một kiểu khác mà không ai có được: đó là hình thức bóc lột vừa

dứt khoát lại vừa mềm dẻo. Hình thức đó nếu như nhìn một cách thoáng

qua và không suy nghĩ sâu xa thì không thể cho đó là hình thức bóc lột

được vì xem ra nó rất có lý. Ví dụ như chi tiết: Bá Kiến nói với Chí Phèo

rằng nếu anh muốn có đất, có nhà thì đến nhà thằng Đội Tảo, đòi cho hắn

năm mươi đồng. Nghe ra thì rất có lý nhưng thực chất thì Bá Kiến đang

dùng Chí Phèo làm công cụ sắc bén và cụ Bá có nói một câu rằng: “ trị

không được thì cụ dụng”. Đây là một cách cai trị và bóc lột kiểu Bá Kiến.

Đó là một thành công rất lớn của Nam Cao trong việc xây dựng nhân vật

phản diện.

Khi xây dựng nhân vật, đặc biệt là nhân vật phản diện, nhà văn Nam

Cao rất chú tâm đến việc khai thác những chi tiết thông qua cử chỉ, thái độ,

hành động, giọng điệu... của nhân vật.

Ngôn ngữ của tác phẩm Nam Câo là sự hoà âm, phối hợp của nhiều

loại ngôn ngữ khác nhau như là sự sống tự nó cất lên như thế. Trong sáng

tác của Nam Cao nói chung và tác phẩm “ Chí Phèo” nói riêng có sự kết

hợp hài hoà giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Cụ Bá

kể chuyện bà Tư nhưng thực chất là bày tỏ tâm trạng của mình. Đó là ngôn

ngữ đối thoại nội tại, tâm trạng. Bên cạnh đó, Nam Cao còn có nhiều đóng

góp trong việc miêu tả lời thoại nội tâm, đặc biết trong sự tiếp thu một

cách sáng tạo chắt lọc phương pháp “dòng ý thức” của văn học phương

Tây trong các sáng tác, tạo điều kiện đi sâu vào phân tích tâm lý nhân vật.

Có thể nói, về cách xây dựng nhân vật phản diện của Nam Cao có nhiều

điểm khác so với các nhà văn cùng thời. Điều đó được biểu hiện ở ngay

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 126

cách xây dựng ngôn ngữ của nhân vật. Chúng ta dễ dàng thấy một điều

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> rằng, ngôn ngữ của các nhân vật phản diện trong các sáng tác của Ngô Tất

Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng thường không có sự độc thoại

nội tâm mà chỉ có những đối thoại. Thế mà đến Nam Cao, ông tự để cho

các nhân vật của mình nói lên tiếng nói của mình, tự phơi bày để tạo nên

những xung đột mang tính cách rõ rệt. Nam cao để cho nhân vật Bá Kiến

tự độc thoại nội tâm. Đây cũng là một sáng tạo rất riêng trong sáng tác của

Nam Cao khi xây dựng nhân vật phản diện.

Giọng điệu là một yếu tố hết sức quan trọng đối với một tác giả bởi

nếu thiếu một giọng điệu, nhà văn không thể tạo ra một tác phẩm dù đã có

đầy đủ các yếu tố khác. Các nhà văn nói chung thường dùng một giọng

điệu chủ đạo, phù hợp với thái độ nghệ thuật của mình. Nguyễn Công

Hoan nổi bật ở giọng điệu châm biếm, đả kích, hài hước, Nguyên Hồng

đầy yêu thương thống thiết, Thạch Lam với giọng điệu trữ tình buồn man

mác thì giọng điệu Nam Cao là sự tổng hợp của nhiều chất liệu, giọng điệu

và không lẫn với bất cứ ai.

Nam Cao không tạo ra một giọng điệu chủ đạo, thống lĩnh. Ông đã có

đóng góp lớn trong việc đa thanh hoá giọng điệu tự sự. Việc sử dụng giọng

điệu căn cứ vào đối tượng và hiện thực mà tác phẩm phản ánh. Nhưng ngay

trong một tác phẩm cụ thể, ở mỗi nhân vật đều có sự chuyển hoá giọng điệu

tạo nên trữ lượng thẩm mỹ không vơi cạn trong sáng tác của Nam Cao.

Trong khi xây dựng nhân vật Bá Kiến- nhân vật phản diện, nhà văn

Nam Cao rất tài tình trong việc pha tạp các giọng điệu. Trong tình huống

Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ ăn vạ thì ngay lúc đó tên cáo già

làng Vũ Đại này đã có nhiêù cách nói khác nhau và mang theo nhiều giọng

điệu khác nhau. Điều đó được thể hiện ở chỗ: khi thấy sự việc đã xẩy ra,

Bá Kiến đi dần dần từng buớc. Mới đầu, hắn chĩa mũi nhọn về phía mấy bà

vợ đang xưng xỉa bằng giọng điệu quát tháo nghe rất sợ:

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 127

“- Các bà đi vào nhà; đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì?”

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Sau đó, cụ quay quay lại bọn người làng bằng chất giọng dịu hơn

một chút:

“-Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế

này?”

Rồi sau đó, cụ mới quay lại anh Chí bằng giọng điệu ngọt ngào, thân

mật:

- Anh Chí ơi ! Sao anh lại làm ra thế?

- Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi ? Đi vào nhà uống

nước.

- Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì ta nói

chuyện tử tế với nhau. Cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người

ngoài biết, mang tiếng cả.”

Tiếp theo cụ nói với giọng phàn nàn “ – Khổ quá! giá có tôi ở nhà

thì đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau thế nào cũng xong”. Rồi cụ nói

với giọng điệu của những người bằng vai phải lứa và mức độ thân mật cứ

ngày càng tăng lên: “ Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ.

Chỉ tại thằng Lý cường nóng tính không nghĩ trước, nghĩ sau. Ai, chứ anh

với nó còn có họ kia đấy”. Đối với Chí Phèo thì giọng điệu của Bá Kiến

như vậy, còn đối với Lý Cường khi nào ông cũng quát tháo: “- Lý Cường

đâu ! Tội mày đáng chết. Không bảo người nhà đun nước mau lên”. Đó là

một cách cai trị rất có hiệu qủa của Bá Kiến theo kiểu “thương cho roi cho

vọt, ghét cho ngọt, cho bùi”.

Thế nhưng đối với Chí Phèo, không phải lúc nào Bá Kiến cũng

“thiết đãi” bằng giọng điệu dịu dàng, ngọt ngào mà đôi khi Bá Kiến cũng

quát tháo. Trong tình huống, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến lần thứ hai với

động cơ “đòi đi ở tù” thì Bá Kiến quát :

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 128

“- Anh này lại say khướt rồi !”

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Lần thứ ba chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ đòi đi ở tù thì Chí

Phèo bị Bá Kiến quát tháo với giọng điệu tức tối, nạt nộ, doạ nạt. Đoạn đối

thoại dưới đây thể hiện rất rõ điêù này :

“- Chí Phèo đấy hở ? Lè bè vừa vừa chứ, Tôi không phải là caí kho.

Rồi ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn:

Cầm lấy mà cút đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ báo nguời -

ta mãi à?

- Hắn trợn mắt, chỉ tay vào mặt cụ:

- Tao không đến đây xin năm hào.

Thấy hắn toan làm giữ, cụ đành dịu giọng:

- Thôi cầm lấy vậy, tôi không còn hơn.

Hắn vênh mặt lên rất kiêu ngạo:

- Tao đã bảo tao không đòi tiền

- Giỏi hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế anh cần gì?”

Đôi khi giọng điệu của Bá Kiến có vẻ như rất lạnh lùng khách quan

như nó vốn xẩy ra trong cuộc đơì :

“- Thế này này, anh binh ạ : chị ấy gửi tôi thì quả là không có...

Hắn trợn mắt lên quát :

-Thế thì thằng nào ăn đi?

Lý Kiến vội nói lấp ngay:

- Thế nhưng mà anh có thiếu tiền thì cúa bảo tôi một tiếng. Chị ấy

trót tiêu đi rồi thì có giết cũng chẳng ra. Lôi thôi làm gì sinh tội.”

Phải nói rằng khi xây dựng nhân vật Bá Kiến, nhà văn Nam Cao rất

quan tâm đến việc miêu tả tiếng cười của hắn bởi vì tiếng cười ít nhiều thể

hiện tâm hồn và bản tính con người của nhân vật. Trong tác phẩm “Chí

Phèo”, khi xây dựng nhân vật Bá Kiến, nhà văn Nam Cao để cho Bá Kiến

cười bốn lần và dĩ nhiên cung bậc của tiếng cười có sự khác nhau. Mới đầu

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 129

cụ bá cười nhạt nhưng tiếng cười dòn dã lắm, người ta bảo cụ hơn người

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> cũng ở cái cười. Lần thứ hai cụ cười nhạt với Binh Chức thể hiện sự coi

thường và chứng tỏ một sự thật thiếu căn cứ. Lần thứ ba cụ cười khanh

khách – cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười tào tháo ấy. Lần này, tiếng cười

của cụ đã có sự thay đổi về bản chất so với tiếng cười lần trước. Cụ cười

khanh khách bởi vì hình như cụ biết rằng Chí Phèo đã mắc mưu của cụ, đã

trở thành tay sai dắc lực của Bá Kiến và đương nhiên Chí phải làm những

điều mà Bá Kiến yêu cầu. Lần cuối cùng Bá Kiến cười ha hả, đó là tiếng

cươì nhạo báng sự khao khát làm người lương thiện của Chí:

“- Ô tưởng gì, tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ được nhờ.”

Tiếng cười ấy ít nhiều gieo vào lòng Chí sự căm phẫn, dẫn đến hành

động cuối cùng, Chí đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời.

Tóm lại, Nam Cao là một nhà văn luôn biết đào sâu, tìm tòi, khơi

những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có. Vì vậy, trong

sáng tác ông cũng có nhiều đóng góp mới cho nền văn học hiện đại. Đặc

biệt, trong cách xây dựng nhân vật thì Nam Cao là nhà văn thể hiện được

phong cách mới, gây ấn tượng sâu sắc không chỉ đối với độc giả trong

nước mà còn đối với độc giả nước ngoài. Khi xây dựng nhân vật phản

diện, ông đã biết phối hợp nhiều cách thức miêu tả khác nhau, trong đó

ông chú tâm nhiều nhất trong việc tạo ra những chi tiết nghệ thuật thông

qua những ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ, giọng điệu nhân vật. Điều đó làm nên

một nhà văn khác xa với những nhà văn khác cùng thời, tạo nên một phong

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 130

cách mới, rất riêng của Nam Cao.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Kết luận

1. Văn học hiện thực phê phán Việt Nam trong 15 năm đã đi trọn

con đường phát triển của nó. Những nhà văn tiêu biểu như Ngô Tất Tố,

Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,.. đã đạt tới mức tương

đối hoàn chỉnh của phương pháp sáng tác này. Với tư cách là một phương

pháp sáng tác thuộc một phạm trù lịch sử cụ thể, dòng văn học hiện thực

phê phán đóng góp lớn vào văn xuôi Việt Nam thời kì 1930-1945

2. Trong đóng góp đó, việc xây dựng nhân vật phản diện thành công

là một vấn đề quan trọng.ở văn học hiện thực phê phán Việt Nam, điều cốt

yếu nhất là các nhà văn đã lột tả một xã hội đầy những Nghị Lại, Nghị

Quế, Nghị Hách, Bá Kiến tàn nhẫn, sát nhân. Bọn quan trường thì được

dung túng làm bậy, công khai ăn hối lộ. Cuộc sống của bọn có tiền, có

quyền hết sức xa xỉ dâm ô. Chúng ở những toà lâu đài đồ sộ trong “tiểu

vạn trường thành”, tắm bằng nước suối vi-ten, trong nhà lúc nào cũng có

hàng chục nàng hầu. Trong khi đó người nông dân sau luỹ tre xanh phải

bán cả chó lẫn con vẫn không đủ tiền nộp sưu hằng năm, anh Pha-người

lao động hiền lành như vậy thì dẫn đến cùng đường, người nông dân lương

thiện như Chí Phèo thì bị tha hoá không chỉ về nhân hình mà còn tha hoá

cả nhân phẩm,.. Phần lớn những người nông dân hiền lành, lương thiện bị

đẩy xuống vũng bùn lầy lội là do sự đàn áp, bóc lột hết sức nặng nề của

giai cấp địa chủ phong kiến và bọn thực dân.

Như vậy, thông qua những vấn đề đã trình bầy trên đây, có thể

khẳng định rằng: Văn học hiện thực phê phán đã nghiêm khắc lên án xã

hội thực dân phong kiến bằng cách xây dựng thành công nhân vật phản

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 131

diện .

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

3. Thành công trên không phải tự nhiên có mà phải do nhiều nguyên

nhân tạo nên.

Trước hết, xã hội đã cung cấp nhiều nguyên mẫu. Những Bá Kiến,

Nghị Hách, Nghị Lại, Nghị Quế... là những nhân vật có thật trong đời sống

hiện thực. Ví dụ như Bá Kiến thực chất là ông Lý Kiến trong làng Đại

Hoàng (trong tác phẩm là làng Vũ Đại). Có những tài liệu khẳng định rằng

câu truyện “Chí Phèo” mà Nam Cao sáng tác là một câu truyện có thật,

thật tới mức người ta đi tìm được tung tích của Chí Phèo và kết luận rằng

Chí Phèo chính là con của Lý Kiến. Còn mẹ Chí là ai? Nếu ta lần giở lại

quãng đời vài năm đầu chặng đường lý trưởng của bá Kiến, ở làng Vũ Đại

ngày ấy có một phụ nữ đã có chồng, mắn đẻ, có 2 con, còn sạch sẽ, rất lẳng

lơ. Đó là vợ Binh Chức. Lý Kiến hơn người khác ở chỗ đã có khoảng thời

gian dài ba năm đi lại với chị Binh. Ba năm đủ để sản sinh một đứa trẻ và

đủ để xoá sạch dấu tích. Cứ đọc kỹ đoạn Binh Chức đến nhà Lý Kiến đòi

tiền, ta thấy Lý Kiến rất sợ chị Binh khai ra,.. Rõ ràng câu truyện, nhân vật

có trong nguyên mẫu. Nam Cao biết mà không nói ra, có thể vì nhiều nhẽ,

Nam Cao nói bằng cách khác để đúng với tuyên ngôn nhệ thuật của ông:

“...Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, tìm tòi, khơi

những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có.”

Thứ hai, nhà văn với tư cách là nhân chứng xã hội dám miêu tả, tố

cáo xã hội thực dân nửa phong kiến. ở đây, các nhà văn đã phát huy

khuynh hướng dân chủ trong xã hội. Thời kỳ 1936-1939 là thời kỳ mặt trận

dân chủ diễn ra gay gắt trên cả nước. Trong nước, Đảng ta chủ trương triệt

để lợi dụng khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để tuyên truyền chủ nghĩa

Mác-Lênin và tổ chức quần chúng đấu tranh. Những sách báo hợp pháp

của Đảng và của mặt trận dân chủ có tác dụng lớn. Tiếp thu những tư

tưởng dó, các nhà văn lúc này là nhân chứng lịch sử, dùng ngòi bút để

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 132

bênh vực quyền lợi bình dân, xích lại gần hơn chỗ đứng của người nghèo

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> khổ. Họ thấy rõ hơn tội ác của những kẻ trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên

cuộc sống đen tối của nhân dân lao động ở nông thôn và thành thị. Họ

đánh trúng hơn vào bọn cường hào, địa chủ, quan lại.

Thứ ba là vấn đề tài năng của nhà văn. Tài năng là một tiêu chí rất

cần thiết trong khi sáng tác nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng. ở thời

kỳ này, những nhà văn nổi tiếng như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ

Trọng Phụng, Nam Cao đều là những người có tài năng văn học. Họ đều là

những người mang trong mình tư cách đạo đức cách mạng, có cái nhìn tinh

tế, chính xác và nhậy bén với đời sống hiện thực khách quan. Nam Cao là

một nhà văn tinh tế trong khả năng quan sát hướng nội .Còn Ngô Tất Tố,

Vũ trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan lại nghiêng về quan sát hướng ngoại

là chủ yếu. Hơn nữa, các nhà văn lớn trong thời kỳ này thường là những

người giàu xúc cảm. Họ vui cái vui của bao người khác, đau khổ trước nỗi

khổ đau của đồng loại, hân hoan sung sướng trước những điều tốt đẹp,

phẫn nộ trước những oan trái bất công còn tồn tại trong xã hội. Ngô Tất

Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao đều là những nhà văn

có khả năng tưởng tượng, liên tưởng phong phú, độc đáo. Trí tưởng tượng

giúp nhà văn hình dung được đối tượng một cách cụ thể, sinh động. Qua óc

tưởng tượng, các hoạt động mới được hiện lên cụ thể từ ngoại hình đến

ngôn ngữ, cử chỉ, hành động. Đối với nhà văn giàu óc tưởng tượng, khi đặt

bút xuống trang viết là cả một thế giới nhân vật hiện lên sống động. Nhà

văn ngỡ như đang sống cùng các nhân vật, nghe các nhân vật đang nói

truyện với nhau, cảm nhận được sắc thái cảm xúc của từng nhân vật trong

những cảnh ngộ cụ thể. Để tạo nên tài năng ngệ thuật, các nhà văn đều có

một năng lực trí tuệ sắc bén và một trí nhớ tốt.Vì thế mà người đọc nhận

thấy một cách hết sức rõ nét là các nhân vật , đặc biệt là nhân vật phản diện

trong các sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao...hiện

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 133

lên qua các trang văn một cách hết sức sống động, mỗi người mỗi vẻ.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Từ ba nguyên nhân chủ yếu trên đây, các nhà văn hiện thực phê

phán đã xây dựng thành công nhân vật phản diện. Đó là một đóng góp lớn

đồng thời cũng là một vấn đề hết sức quan trọng của văn học nói chung và

văn học hiện thực phê phán nói riêng.

4. Giá trị về đóng góp cho hôm nay:

Nhân vật phản diện trong tiểu thuyết hiện thực phê phán Việt Nam

giai đoạn 1930-1945 là một vấn đề, một bộ phận không thể thiếu trong quá

trình nghiên cứu văn học. Đây là một đề tài khá mới mẻ nên chúng tôi

cũng hy vọng rằng khi luận văn này được hoàn thành thì đó cũng là một

đóng góp nho nhỏ của bản thân tôi. Chúng tôi nghĩ rằng công trình này cần

phải được tiếp tục nghiên cứu, đánh giá và bổ sung. Với thái độ chân tình,

chúng tôi mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến xây dựng của các

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 134

thầy cô giáo và những ai đang quan tâm đến vấn đề này.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

Tài liệu tham khảo

1. Ngô Tất Tố về tác giả và tác phẩm. Nhà xuất bản Giáo Dục.

2. Nguyễn Công Hoan về tác giả và tác phẩm. Nhà xuất bản Giáo Dục.

3. Nam Cao về tác giả và tấc phẩm. Nhà xuất bản Giáo Dục.

4. Vũ Trọng Phụng về tác giả và tác phẩm.

5. Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945. Nhà xuất bản Giáo Dục

6. Lý luận văn học. Nhà xuất bản Giáo Dục

7. Văn học Việt Nam 1900- 1945. Nhà xuất bản Giáo Dục

8. Đặc sắc văn chương Vũ Trọng Phụng của Ts. Trần Đăng Thao, Nhà

xuất bản Thanh Niên.

9. Nghệ Thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng của Ts. Đinh Lựu, Nhà xuất

bản Giáo Dục.

10. Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng

và Nam Cao của Ts. Phạm Mạnh Hùng. Nhà xuất bản Thanh Niên.

11. Lịch sử Việt Nam của Ts. Huỳnh Công Bá.

12. Nguyễn Công Hoan với nghề văn, Nhà xuất bản Thanh Niên.

13. Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo của Trần Đăng

Suyền. Nhà xuất bản Văn Học.

14. Lịch sử văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ 18 nửa đầu thế kỷ 19.

Nhà xuất bản Giáo dục.

15. Truyện Kiều của Nguyễn Du. Nhà Xuất bản Giáo Dục.

16. Văn học lãng mạn Việt Nam 1930–1945. Nhà xuất bản Giáo Dục

17. Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng Của Đinh Trí Dũng, Nhà xuất

bản Khoa Học Xã hội.

18. Vũ Trọng Phụng, nhà hoá học của những tính cách. Tác giả Hoài

Anh trong sách chân dung văn học, NXB Văn Nghệ tp Hồ Chí Minh.

19. Vũ Trọng Phụng-tài năng và sự thật (NXB văn học, Hà nội, 1997).

20. Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch lại của M.

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 135

Bakhtin, trương viết văn Nguyễn Du xuất bản)

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

21. Bản sắc hiện đại trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng, NXB Văn học Hà

Nội 2003.

22. Vũ Trọng Phụng-nhà văn dơ dáy hay trong sạch? Giai phẩm văn

học, tác giả Vũ Bằng, Sài gòn 1973.

23. Nam Cao tác phẩm, Hà Minh Đức sưu tầm giới thiệu, NXB Văn học

Hà Nội.

24. Phân tâm học của J.P. Charrier, Lê Thanh Hoàng Dân dịch, Sài gòn 1972.

25. Vài vấn đề văn học sử giai đoạn 1930-1945 nhân đọc cuốn “Lược khảo

lịch sử văn học Việt Nam” của nhóm Lê Quý Đôn. Tác giả Huệ Chi-

Phong Lê, Tạp chí văn học, Hà Nội, Số 5/1960.

26. Đọc Giông tố của Vũ Trọng Phụng, ích Hữu. Tác giả Hiên Chi, Tạp

chí văn học, Sài Gòn số 94/1969.

27. Về giai đoạn văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX-1945. Tác giả

Nguyễn Đình Chú, tài liệu bồi dưỡng văn học lớp 11, Vụ giáo viên,

Hà Nội, 1991.

28. Cần nhận thức đúng thời kỳ văn học 1930-1945. Tác giả Nguyễn

Đình Chú, báo giáo viên nhân dân, số 27-28-29-30-31 tháng 7/1989.

29. Vũ Trọng Phụng, một giàu có, một thiệt hại của văn chương chúng

ta. Tác giả Nguyễn Mạnh Côn, tạp chí văn học Sài Gòn, số 67/1966.

30. Vũ Trọng Phụng, nhà văn tả chân bất hủ. Tác giả Nguyễn Duy Diễn,

tạp chí văn học Sài Gòn số 94/1969.

31. Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt Nam thời kỳ đầu

những năm 1930 đến 1945: Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam

Cao. Tác giả Trần Ngọc Dung, luận án PTS ĐHSP Hà Nội I, 1992.

32. Sự thể hiện con người “tha hoá” trong các tiểu thuyết hiện thực của

Vũ Trọng Phụng. Tác giả Đinh Trí Dũng, tạp chí văn học, Hà Nội số

5/1996.

33. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Vũ Trọng

Phụng. Tác giả Đinh Trí Dũng, thông báo khoa học, ĐHSP Vinh số

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 136

15/1996.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

34. Các phương tiện và biện pháp thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Vũ

Trọng Phụng. Tác giả Đinh trí Dũng, thông báo khoa học, trường

ĐHSP-ĐH quốc gia Hà Nội, số 5/1997.

35. Đặc điểm văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Tác giả Nguyễn

Đức Đàn, NXB văn học, Hà Nội 1964.

36. Vấn đề Vũ Trọng Phụng trong sách văn học Việt Nam 1930-1945.

Tác giả Gs. Phan Cự Đệ, NXB giáo dục Hà Nội 1961.

37. Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại tập 1. Tác giả Phan Cự Đệ, NXB Đại

học và trung học chuyên nghiệp, tháng 11/1974.

38. Lời giới thiệu Nam Cao-tác phẩm của Gs. Hà Minh Đức, NXB Hà

Nội, 1975.

39. Nguyễn Công Hoan của Lê Thị Đức Hạnh, NXB khoa học xã hội ,

Hà Nội 1991.

40. Đời viết văn của tôi. Tác Giả Nguyễn Công Hoan, NXB văn học, 1971.

41. Nguyễn Công Hoan, chân dung văn học. Trường viết văn Nguyễn

Du xuất bản, 1992.

42. Giông tố của Vũ Trọng Phụng, NXB văn học.

43. Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, NXB văn học.

44. Tuyển tập Nam Cao, NXB văn học.

45. Tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan, NXB thanh niên.

46. Vũ Trọng Phụng, con người và tác phẩm. Tác giả Nguyễn Hoành

Khung, Lại Nguyên Ân, NXB hội nhà văn.

47. Mác, Ăngghen, Lênin về văn học và nghệ thuật, NXB Hà Nội.

48. Dâm hay không dâm của tác giả Nhất Chi Mai, Báo Ngày nay số 51

ngày 14/03/1937.

49. Nam Cao, nhà văn hiện thực xuất sắc của Gs. Hà Minh Đức, NXB văn

hoá.

50. Nghệ thuật kể truyện trong tác phẩm Nam Cao của Vũ Khắc

Chương, NXB văn học.

51. Mấy vấn đề về văn học hiện thực phê phán của Nguyễn Đức Đàn,

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 137

NXB khoa học xã hội, 1984.

Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>

52. Nam Cao, một đời người, một đời văn. Tác giả Nguyễn Văn Hạnh,

NXB giáo dục, 1993.

53. Nghĩ tiếp về Nam Cao. Nhiều tác giả, Phong Lê chủ biên, NXB hội

nhà văn, 1992.

54. Người làm phim nhìn về Nam Cao. Tác giả Đoàn Lê, tạp chí văn học

số 1/1992.

55. Khả năng phản ánh đời sống của truyện ngắn Nam Cao. Tác giả Lã

Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 138

Nguyên, văn nghệ quân đội tháng 10/1992.