Đại học quốc gia Hà nội Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn --------o0o--------
Vũ Thị Lan Nhân vật phản diện trong tiểu thuyết hiện thực phê phán việt nam 1930 –1945
Luận văn thạc sỹ khoa học ngữ văn Hà NộI – 2005
Đại học quốc gia Hà nội Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn --------o0o--------
Vũ thị lan Nhân vật phản diện trong tiểu thuyết hiện thực phê phán việt nam 1930 –1945
(Qua Giông tố của Vũ Trọng Phụng, bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Chí phèo của Nam cao) Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số
: 5.04.33
Luận văn thạc sỹ khoa học ngữ văn
Người hướng dẫn: Giáo sư Hà Minh Đức Hà Nội – 2005
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Mục lục
Lời cam đoan .................................................................................................... 1
lời cảm ơn ......................................................................................................... 2
Phần mở đầu .......................................................................................................... 5
1. Tính cấp thiết của đề tài: ......................................................................... 5
2. Lịch sử vấn đề. ........................................................................................ 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:........................................................... 8
4. Mục đích nghiên cứu: .............................................................................. 8
5. Nhiệm vụ nghiên cứu: ............................................................................. 9
6. Phương pháp nghiên cứu: ........................................................................ 9
7. Cấu trúc của luận văn. ............................................................................. 9
CHƢƠNG I: Cơ sở xã hội Để xuất hiện nhân vậT PHản DIện TRONG
sáng tác VĂN Học . .............................................................................................. 11
1. Về kinh tế ...................................................................................................... 11
2. Về chính trị .................................................................................................... 12
3. Về Văn hoá ................................................................................................... 16
CHƢƠNG II: những loại nhân vật phản diện trong văn học truyền thống....... 24
Chƣơng III: Các loại nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn học
hiện thực phê phán 1930 – 1945........................................................................... 38
I. Nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn học lãng mạn Việt Nam
1930 - 1945 ........................................................................................................ 36
II. Các loại nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn học hiện thực
phê phán 1930 - 1945 ......................................................................................... 40
1. Hệ thống nhân vật phản diện không tên tuổi, không lai lịch rõ ràng ................ 40
2. Các nhân vật phản diện có tên tuổi, có lai lịch rõ ràng .................................... 47
2.1. Những đặc điểm gần gũi và giống nhau ....................................................... 48
2.2. Bản chất riêng của từng nhân vật ................................................................. 53
a. Nghị Quế ........................................................................................................ 53
b. Nghị Hách ...................................................................................................... 57
c. Nghị Lại ......................................................................................................... 61
d. Bá Kiến .......................................................................................................... 63
Chƣơng Iv. Các thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật phản diện ................ 68
I. Xây dựng nhân vật Phản diện qua việc miêu tả ngoại hình. .................... 68
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 3
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
II. Xây dựng nhân vật phản diện qua việc miêu tả hành động. ................... 72
III. Xây dựng nhân vật phản diện qua việc đặc tả tính cách. ...................... 80
1.Tính cách Nghị Hách. ............................................................................. 81
2.Tính cách nghị Lại. ................................................................................ 85
3. Tính cách Nghị Quế. ............................................................................. 88
4.Tính cách Bá Kiến. ................................................................................. 91
IV. Xây dựng nhân vật phản diện qua việc miêu tả ngôn ngữ. ................... 92
1. Ngôn ngữ của Nghị Hách. ..................................................................... 93
2. Ngôn ngữ Nghị Lại. .............................................................................. 96
3. Ngôn ngữ Nghị Quế. ............................................................................. 97
4. Ngôn ngữ Bá Kiến................................................................................. 98
Chƣơng IV: Cách xây dựng loại nhân vật .................................................... 102
phản diện. .......................................................................................................... 102
I .Cách xây dựng nhân vật phản diện của Vũ Trọng Phụng...................... 102
II. Cách xây dựng nhân vật phản diện của Nguyễn Công Hoan. .............. 111
III. Cách xây dựng nhân vật phản diện của Ngô Tất Tố. .......................... 119
IV. Cách xây dựng nhân vât phản diện của Nam Cao. ............................. 125
kết luận ............................................................................................................... 131
Tài liệu tham khảo ............................................................................................. 135
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 4
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 có 3 dòng phát triển
song song và xen kẽ nhau: Văn học cách mạng, văn học hiện thực phê
phán và văn học lãng mạn. Trong 3 dòng văn học đó, văn học hiện thực
phê phán là mảnh đất màu mỡ cho các nhà nghiên cứu văn học, các thầy cô
giáo và những người yêu thích văn học thưởng thức, khám phá và kiếm
tìm.
Văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930-1945 đã rất thành công
với đề tài nông thôn. Làng quê được miêu tả ở chiều sâu quy luật phát triển
và cả trên bề nổi của các hiện tượng tiêu biểu. Các nhà văn đã tạo dựng
được điển hình hoàn cảnh và nhân vật trong tác phẩm: “Tắt Đèn” của Ngô
tất Tố; “Chí Phèo” của Nam Cao; “Bước đường cùng” của Nguyễn Công
Hoan; “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng. Những tác phẩm này đã đi sâu
khám phá hiện thực cuộc sống của con người trong mỗi làng quê Việt
Nam. Có những nhà văn như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan
đã sáng tác những nhân vật của mình theo phong cách “quê một cục”, điển
hình như: chị Dậu, cái Tý, Chí Phèo, Bá Kiến, anh Pha, Năm thọ, Binh
Chức, Nghị Quế, Nghị Lại, ... thậm chí đến cả cái tên cũng rất „quê mùa”.
Khác với phần đông các nhà văn cùng thời, Vũ Trọng Phụng đã bước đầu
đi vào mảng đề tài mới, đó là đề tài về thành thị Việt Nam trong hoàn cảnh
xã hội đang đi vào con đường “á Âu xáo trộn”, “cũ mới tranh giành”, “mưa
Âu gó Mỹ”,... Các nhân vật mà ông quan tâm phần nhiều là nhân vật thành
thị với hành động, lối sống, cách suy nghĩ,... rất thành thị, ví dụ như: Xuân
tóc đỏ, bà phó Đoan, vợ chồng Văn Minh, cụ cố Hồng trong “Số Đỏ”. Bên
cạnh còn có nhiều nhân vật nửa nông thôn, nửa thành thị như kiểu Nghị
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 5
Hách trong “Giông Tố”,...
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Cho dù thành công ở mảng đề tài nào đi chăng nữa thì độc giả luôn
khẳng định rằng văn học hiện thực phê phán Viêt Nam 1930-1945 là giai
đoạn văn học có nhiều thành tựu, phản ánh một cách chân thực và sâu sắc
hiện thực cuộc sống như những gì nó vốn diễn ra. Nhưng, có một điều mà
chúng tôi thấy là từ trước tới nay, khi nghiên cứu những tác phẩm này, các
nhà nghiên cứu chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, tìm hiểu,.. về
các nhân vật chính diện như: chị Dậu, Chí Phèo, anh Pha, lão Hạc,.. mà ít
tập trung nghiên cứu tuyến nhân vật phản diện, hoặc có chăng chỉ là những
bài nhỏ, chưa có chiều sâu, chưa trở thành hệ thống. Vì vậy, chúng tôi thiết
nghĩ rằng phải quan tâm đến hệ thống các nhân vật phản diện trong dòng
văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945. Có làm được như vậy
thì mới hiểu hết được giá trị to lớn của khuynh hướng văn học này.
Vì sao cần phải nghiên cứu hệ thống nhân vật phản diện trong dòng
văn học hiện thực phê phán 1930-1945?. Một điều dễ hiểu là chức năng
của văn học là phản ánh một cách sinh động đời sống hiện thực khách
quan, trong đó chức năng chủ yếu nhất của văn học hiện thực phê phán là
miêu tả cụ thể đời sống xã hội Việt Nam giai đoạn này. Những điều đó đã
thể hiện sâu sắc trong các tác phẩm văn học, nó tác động không nhỏ tới
độc giả đương thời. Vì thế, nghiên cứu hệ thống văn học phản diện trong
các tác phẩm văn học hiện thực phê phán là đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi:
phê phán cái gì?, phê phán kiểu người như thế nào?...
Đối với tác gỉa luận văn thì đề tài: “ Nhân vật phản diện trong văn
học hiện thực phê phán 1930-1945” là mối quan tâm lớn từ nhiều năm khi
nghiên cứu văn học hiện thực phê phán. Tác giả luôn tìm tòi, tiếp thu
những ý kiến của các bậc tiền bối, kết hợp với vốn hiểu biết của mình để
mong muốn sẽ được trình bày, thể hiện trong điều kiện cho phép. Điều cốt
yếu trong luận văn này là chúng tôi tập trung vào việc nghiên cứu các nhân
vật phản diện mang tính chất điển hình trong văn học hiện thực phê phán
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 6
1930-1945 như Nghị Quế, Nghị Lại, Nghị Hách, Bá Kiến,..
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Vì những lý do trên mà chúng tôi chọn: Nhân vật phản diện trong
tiểu thuyết hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945 (Qua
các tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng,
Nam Cao) là đề tài luận văn cao học của mình.
2. Lịch sử vấn đề.
Như chúng tôi đã trình bày trong phần trước, đây là một công trình
khá mới mẻ, từ xưa tới nay ít được quan tâm. Vì vậy các công trình nhiên
cứu mang tính hệ thống thì chưa được công bố. Có chăng chỉ là một số bài
nghiên cứu mang tính chất lẻ tẻ, thoáng qua về các loại nhân vật phản diện,
in trong một số cuốn sách, một số cuốn tạp chí văn học,..
Điển hình là: “Một nhà văn của dân quê-Ngô Tất Tố trong Tắt đèn”
của tác giả Trần Minh Tước in trong cuốn “Ngô Tất Tố-tác giả-tác phẩm”;
“Tắt đèn của Ngô tất Tố” của nhà văn Vũ Trọng Phụng; “Tắt đèn-tiểu
thuyết của Ngô Tất Tố” của tác giả Phú Hương; “Đọc Tắt đèn của Ngô Tất
Tố” của nhà văn Nguyễn Công Hoan; “Tắt đèn-cuốn tiểu thuyết hiện thực
xuất sắc” của Hồng Chương; “Những đóng góp của Ngô tất Tố trong Tắt
đèn” của tác giả Phong Lê; “Tắt đèn của Ngô Tất Tố” của Nguyễn Đăng
Mạnh; “Tắt đèn” của giáo sư Phan Cự Đệ,..
“Bước đường cùng-tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan” tác giả
Trương Chính; “Đọc lại „Bước đường cùng‟ của Nguyễn Công Hoan” của
tác giả Nam Mộc..
“Qua truyện ngắn „Chí Phèo‟ bàn thêm về cái nhìn hiện thực của
Nam Cao” tác giả Trần Tuấn Lộ; “Con người bị từ chối làm người trong
truyện „Chí Phèo‟ của Nam Cao”,..
“Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng” của Đinh Trí Dũng; “Vũ
Trọng Phụng và xã hội Việt Nam thời hiện đại” của giáo sư Hà Minh Đức;
“Tìm hiểu lịch sử cái gọi là vấn đề Vũ Trọng Phụng” của tác giả Phong Lê;
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 7
“Vấn đề Vũ Trọng Phụng và sự phê phán Âu hoá” của GS-TS. Niculin;
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> “Cá tính sáng tạo và đặc điểm tiểu thuyết hiện thực Vũ Trọng Phụng” của
PGS-TS Trần Đăng Suyền; “Tính hiện đại trong văn chương Vũ Trọng
Phụng” của tác giả TS. Vũ Tuấn Anh; “Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại
nội tâm trong tiểu thuyết hiện thực của Vũ Trọng Phụng” của tác giả TS.
Đinh Trí Dũng,..
Như vậy, thông qua sự khảo sát trên đây, chúng tôi thấy rằng vấn đề
“Nhân vật phản diện trong tiểu thuyết hiện thực phê phán Việt Nam giai
đoạn 1930-1945” chưa được nghiên cứu một cách hệ thống, rất cần thiết
phải đi sâu tìm hiểu vấn đề này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
ở luận văn này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các nhân vật
phản diện. Để làm sáng tỏ vấn đề, trước hết chúng tôi thấy cần phải đọc kỹ
những tài liệu có liên quan đến tác giả, đọc kỹ từng trang tác phẩm để có
cái nhìn thấu đáo và thật sự sâu sắc. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi
có phân chia nhân vật phản diện ra làm hai loại: Nhân vật phản diện có tên
tuổi, có lại lịch rõ ràng và những nhân vật phản diện không có tên tuổi,
không có lai lịch .
Về phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong khuôn khổ luận văn tốt
nghiệp cao học, chúng tôi không thể khảo sát, phân tích toàn bộ các tác
phẩm trong dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945 mà ở đây chúng
tôi chỉ giới hạn ở một số tác phẩm tiêu biểu như: “Tắt Đèn” của Ngô Tất
Tố; “Giông Tố” của Vũ Trọng Phụng; “Bước đường cùng” của Nguyễn
Công Hoan; “Chí Phèo” của Nam Cao.
4. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của chúng tôi là tìm hiểu, nghiên cứu tuyến nhân vật này
để nhằm khẳng định giá trị của văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-
1945. Làm sáng tỏ nhận định “ Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận,
anh chị em là chiến sỹ trên mặt trận ấy” (Hồ Chí Minh - Báo cứu quốc số
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 8
1986 xuất bản ngày 05/011953). Đồng thời phục vụ cho việc nghiên cứu,
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> giảng dạy văn học ở các cấp bậc. Vì vậy, luận văn này có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho học sinh, sinh viên, các thầy cô giáo và tất cả
những độc giả yêu thích văn học, quan tâm đến vấn đề này.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trong luận văn này, chúng tôi đề ra cho bản thân những nhiệm vụ
sau đây:
Thứ nhất nghiên cứu cơ sở xã hội để xuất hiện những loại -
nhân vật phản diện trong sáng tác văn học.
Thứ hai phải nghiên cứu những loại nhân vật phản diện trong -
văn học truyền thống để so sánh, đối chiếu với các loại nhân vật phản diện
trong một số tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930-1945.
Thứ ba phải nghiên cứu các thủ pháp nghệ thuật xây dựng -
nhân vật phản diện.
- Cuối cùng phải làm sáng tỏ cách xây dựng nhân vật phản diện
của từng nhà văn.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa
Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm, chính sách của
Đảng, Nhà nước ta về văn nghệ nói chung và văn học nói riêng cũng như
dựa trên kiến thức về lý luận văn học, tác phẩm văn học, ngôn ngữ văn học
mà tác giả luận văn đã tích luỹ được.
- Trên cơ sở sưu tầm, chọn lọc, khái quát các tác phẩm văn học,
các tài liệu có liên quan, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh, đối chiếu để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
7. Cấu trúc của luận văn.
Luận văn này ngoài phần mở đầu, kết luận gồm năm chương:
Chương I : Cơ sở xã hội xuất hiện nhân vật phản diện trong sáng tác
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 9
văn học.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Chương II : Những loại nhân vật phản diện trong văn học truyền
thống.
Chương III: Các loại nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn
học hiện thực phê phán 1930-1945.
Chương IV: Các thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật phản diện.
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 10
Chương V : Cách xây dựng loại nhân vật phản diện.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
CHƢƠNG I: Cơ sở xã hội để xuất hiện nhân vật phản diện trong sáng tác văn học .
Trong lịch sử Việt Nam, bước sang thế kỷ 20, thời kỳ 1930 – 1945
là một thời kỳ đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp hết sức gay gắt, từ
đó dẫn đến cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng và ý thức hệ, những sự
tác động qua lại hết sức phức tạp của các khuynh hướng và phương pháp
sáng tác khác nhau. Đó là thời kỳ chủ nghĩa thực dân kiểu cũ sắp đến ngày
cáo chung trên bán đảo Đông Dương, đế quốc Pháp ngày càng phơi trần bộ
mặt nham hiểm và tàn bạo còn bọn phát xít Nhật thì nuôi tham vọng làm
bá chủ vùng châu á – Thái Bình Dương. Nhưng từ năm 1930 dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Đông Dương, phong trào công nhân và các phong
trào yêu nước khác như những đợt sóng thần, ngày một dâng cao, liên tiếp
đập vào thành luỹ của bọn cướp nước và bán nước, tạo nên thế tức nước vỡ
bờ mùa thu năm 1945. Cách mạng tháng Tám của Việt Nam là cuộc cách
mạng đầu tiên trên thế giới diễn ra ở một nước thuộc địa với nền nông
nghiệp lạc hậu. Đó cũng là cuộc cách mạng có quy mô toàn quốc thứ hai
trên Thế giới ( sau Liên Xô), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến những cuộc
đấu tranh của các hình thái ý thức trong kiến thúc thượng tầng. Hệ tư
tưởng tư sản (bao gồm cả tư tưởng thực dân) cấu kết với hệ tư tưởng
phong kiến lỗi thời đấu tranh chống lại hệ tư tưởng vô sản. Những sự xung
đột đan chéo lẫn nhau giữa các hệ tư tưởng làm cho cục diện chính trị, kinh
tế, văn hoá thời kỳ này thêm phức tạp. Tuy nhiên, không nên cắt nghĩa cục
diện này bằng những nguyên nhân sâu xa của cục diện tình hình đất nước
mà còn phải tính đến những tác động mạnh mẽ của các thế lực quốc tế. Do
sự bưng bít của đế quốc Pháp, trước 1945, trên thế giới nhất là ở phương
Tây, ít người biết đến hai tiếng Việt Nam, ấy thế mà ta vẫn phải đóng góp
sức người, sức của cho mẫu quốc Đại Pháp trong hai cuộc đại chiến thế
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 11
giới và gánh chịu hậu quả nặng nề cuả cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> 1929 – 1933. Nguy hiểm hơn nữa là từ tháng 6 năm 1940, đất nước chúng
ta lại bị phát xít Nhật nhảy vào xâu xé. Lúc đó, chúng ta bị hai tầng áp bức
bóc lột. Chúng cấu kết với địa chủ phong kiến đàn áp nhân dân ta về quân
sự, chuyên chế về chính trị, bóc lột về kinh tế và đầu độc về văn hoá.
1. Về kinh tế: Thực dân Pháp đã cấu kết với địa chủ phong kiến
bóc lột nhân dân ta đến tận xương tuỷ. Chính sách kinh tế độc quyền vơ
vét của thực dân Pháp làm cho Việt Nam trở thành thuộc địa cung cấp
nguồn nhân công rẻ mạt và nguyên liệu béo bở cho chính quốc. Chúng cấu
kết với địa chủ phong kiến cho vay nặng lãi và thu thuế vô tội vạ. Chúng
đã trắng trợn chiếm đoạt đất đai của nông dân để lập đồn điền, cướp hầm
mỏ để khai thác. Chỉ riêng ở Bắc Kỳ, thực dân Pháp đã chiếm đất lập 155
đồn điền lớn, chiếm 34 khu hầm mỏ và diện tích đất đai ở xung quanh...
Ngoài ra, thực dân Pháp đã dùng chính sách độc quyền xuất khẩu, độc
quyền bán rượu, thuốc phiện, tăng thuế khoá và hàng trăm thứ hạch sách
phu phen tạp dịch khác đã mang đến cho bọn chúng những món lãi khổng
lồ. Toàn bộ chính sách kinh tế phản động của thực dân Pháp đã làm cho
nhân dân Việt Nam trước hết là công nhân và nông dân bị bần cùng hoá và
điêu đứng, làm cho nền kinh tế của Việt Nam bị kiệt quệ, biến nền kinh tế
nước ta từ một nền kinh tế độc lập, tự chủ thành phụ thuộc vào kinh tế
Pháp, tỷ trọng kinh tế tư bản chủ nghĩa tăng nhanh, nước ta bị kéo vào quỹ
đạo của chủ nghĩa tư bản, nhưng không được công nghiệp hoá mà lại biến
thành một thị trường tiêu thụ và cung cấp nguyên liêụ, hàng xuất khẩu cho
thương nghiệp Pháp. Lợi nhuận vào túi tư bản Pháp còn nhân dân ta bị bần
cùng hoá, phá sản trở thành nguồn nhân công rẻ mạt cho các hãng buôn,
các chủ thầu, chủ đồn điền của Pháp. Trong điều kiện ruộng đất bị chiếm
đoạt tập trung trong tay thực dân Pháp và quan lại tay sai, nhân công thừa,
rẻ mạt không đủ phát triển để thu nạp hết, kinh doanh theo lối phong kiến
vừa tốn ít vốn, vừa thu được nhiều lợi, vừa nhàn rỗi, vừa chắc chắn. Phụ
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 12
thuộc vào một nước tư bản, nước ta không thể giải thoát khỏi sự trì trệ của
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> nền kinh tế phong kiến. Tuy nước Pháp là một cường quốc tư bản chủ
nghĩa nhưng chủ nghĩa thực dân Pháp không phá hoại kinh tế phong kiến
mà ngược lại nó duy trì thậm chí củng cố nền sản xuất đó trên cơ sở phân
phối ruộng đất mới, phân bố sản xuất mới. Chính sách kinh tế phản động
ấy để lại nhiều hậu quả xấu và kéo dài cho nền kinh tế nước ta. Chính sách
về kinh tế phản động ấy tạo nên sự mâu thẫn gay gắt giữa hai giai cấp
thống trị và bị trị nhưng lại là mảnh đất mầu mỡ cho giai cấp địa chủ
phong kiến tồn tại và phát triển mạnh mẽ.
2. Về chính trị: Thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị chuyên
chế, điển hình của thực dân kiểu cũ, trực tiếp cai trị nắm giữ các chức vụ
chủ chốt trong bộ máy nhà nước thuộc địa từ toàn quyền đến thống sứ,
khâm sứ, thống đốc, công sứ, biến giai cấp phong kiến và tư sản mại bản
thành những kẻ tay sai đắc lực, cùng chính sách đàn áp, khủng bố hết sức
dã man, tàn bạo, thực dân Pháp còn thi hành chính sách “chia để trị” rất
thâm độc. Chúng chia nước ta thành 3 miền với ba hình thức cai trị khác
nhau, nhằm chia rẽ dân tộc, gây thành kiến giữa người Bắc, người Trung
và người Nam, chia rẽ lương giáo. Đặc biệt, chúng còn gây thù hằn giữa
các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, giữa ba dân tộc anh
em cùng sống trên bán đảo Đông Dương.
Sự chuyên chính về chính trị của Thực dân Pháp được thể hiện cụ
thể như sau: Sau khi bình định xong phong trào Cần Vương, chính phủ
Pháp cử Paul Doumer sang làm Toàn quyền Đông Dương (13-2-1897).
Đây là nhân vật tối cao của nước Pháp ở Đông Dương, đại diện và bảo vệ
quyền lợi của người Pháp, trực tiếp nắm giữ toàn quyền về hành chính,
chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao... và chỉ chịu trách nhiệm với Bộ
thuộc địa.
Sau khi chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ, thực dân Pháp thực
hiện chế độ cai trị của các Suý phủ. Và sau khi chiếm được ba tỉnh miền
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 13
Tây Nam kỳ, suốt cả thời gian dài vài mươi năm đầu, thực dân Pháp vẫn
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> thi hành chính sách cai trị của các võ quan. Mãi đến sau này khi Nam Kỳ
có thống đốc thì chế độ thống trị theo lối dân sự mới được xác lập. Cũng từ
đây thống đốc Nam kỳ không còn chịu sự điều khiển của bộ hải quân nữa
mà lệ thuộc vào bộ thuộc địa và trong bộ máy cai trị có sự phân biệt giữa
hai quyền hành chính và tư pháp.
Nam kỳ từ sau 1874 là xứ thuộc địa của nước Pháp, đứng đầu là
viên thống đốc người Pháp, có quyền quyết định tất cả các mặt về hành
chính, chính trị, kinh tế, trị an, ngân sách ở Nam kỳ. Giúp việc cho thống
đốc là một Đổng lý sự vụ và giám đốc các nhà sở chuyên môn gồm: quan
thuế, ngân khố, tư pháp và giáo dục, thuộc phủ thống sứ còn có một văn
phòng để giải quyết công việc hành chính của phủ. Cạnh phủ thống đốc
còn có hai hội đồng tư vấn: hội đồng tư mật có quyền tư vấn với thống đốc
về việc cai trị. Thành phần của hội đồng gồm thống đốc làm chủ tịch và
các thành viên gồm tư lệnh Nam kỳ và Cao Miên, Tư lệnh Hải quân và
trưởng lý. Hội đồng quản hạt hay còn gọi là Hội đồng thuộc địa gồm các
đại diện dân cử mà đa số là pháp kiều. Tính chất của hội đồng quản hạt
như một Hạ viện của địa phương đối với chính quốc, có quyền thảo luận,
biểu quyết ngân sách, tư vấn về chính trị, kinh tế. Tổ chức hành chính địa
phương được thể hiện như sau: Nam kỳ gồm 20 tỉnh, đứng đầu tỉnh là các
chức Chánh Tham biện còn gọi là chủ tỉnh người Pháp. ở tỉnh còn có hội
đồng tỉnh hạt do dân bầu có nhiệm vụ biểu quyết ngân sách hàng tỉnh.
Dưới tỉnh là quận. Đứng đầu quận là viên Đốc phủ sứ (còn gọi là chủ
quận) người Pháp. ở quận nhỏ là chức Đốc phủ sứ người Việt. Dưới quận
là Tổng, do chức cai tổng đứng đầu. Cai tổng do dân bầu nhưng phải được
thống đốc chấp thuận và bổ nhiệm. Dưới tổng là xã, do ban hội tề quản lý,
đứng đầu là chức hương cả, dưới có hương chủ, hương sư, hương chính.
Chính quyền bảo hộ ở Bắc và trung Kỳ được chính thức thiết lập
thông qua điều ước Quý Mùi (1883) và được hoàn thiện qua điều ước Giáp
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 14
Thân (1884). Theo đó, Bắc kỳ (từ Ninh Bình trở ra Bắc), ở mỗi tỉnh có một
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> viên công sứ người Pháp đứng đầu còn Trung kỳ là phần đất từ Bình
Thuận đến thanh hoá do triều Nguyễn cai trị như cũ, nhưng ở đây treo chế
độ “nửa bảo hộ”, bên cạnh vua Nguyễn còn có một viên khâm sứ người
Pháp ở Huế để trực tiếp điều khiển công việc đối nội và đối ngoại. Việc
quân sự và trị an do người pháp đảm nhiệm hoàn toàn.
Bắc kỳ là xứ bảo hộ, đứng đầu viên thống sứ người Pháp, giữ quyền
quyết định về các vấn đề hành chính, chính trị, kinh tế của toàn xứ. Giúp
việc cho thống sứ là một đổng lý sự vụ, thường được gọi là phó thống sứ
cùng giám đốc các sở chuyên môn của xứ. Thuộc phủ thống sứ có một văn
phòng ở Bắc kỳ còn có một hội đồng bảo hộ do thống sứ làm chủ tịch và
các thành viên gồm Tổng tư lệnh quân đội, Tư lệnh hải quân... Ngoài ra, ở
Bắc kỳ còn có hội đồng quyền lợi kinh – tài Pháp do Pháp kiều bầu ra để
bảo vệ quyền lợi cho họ và Viện dân biểu. Hội viên của viện dân biểu là
người bản xứ, được bầu theo lối đầu phiếu hạn chế và trực thuộc phủ
Thống sứ. Bắc kỳ được cử một đại diện vào Hội đồng tối cao thuộc địa.
Trung kỳ là xứ nửa bảo hộ, đứng đầu là viên khâm sứ người Pháp.
Theo nguyên tắc, tại trung kỳ bộ máy hành chính nam triều vẫn còn hiệu
lực nhưng quyền lực của vua bị hạn chế tối đa. Dưới vua có cơ mật viện và
hội đồng thượng thư. Nhưng từ năm 1897, cơ mật viện và hội đồng thượng
thư bị bãi bỏ, thay bằng hội đồng nội các. Mọi công việc của hội đồng này
phải thông qua khâm sứ Pháp mới được trình lên nhà vua để đóng ấn thi
hành. Khâm sứ được quyền chủ toạ các cuộc họp của hội đồng nội các và
hội đồng phủ tôn nhân. Giúp việc cho khâm sứ là một Đổng lý sự vụ
thường được gọi là phó khâm sứ và giám đốc các sở chuyên môn về giáo
dục, kinh tế, tài chính, bưu diện. Bên cạnh khâm sứ có hai Hội đồng tư
vấn. Hội đồng quyền lợi kinh tài Pháp gồm đại diện Pháp Kiều để bảo vệ
quyền lợi của người Pháp. ở trung kỳ còn có một phòng nông nghiệp và
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 15
phát triển hỗn hợp đặt dưới quyền Toà án hành chính Bắc kỳ. Trung kỳ
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> cũng được cử 1 đại diện vào hội đồng tối cao thuộc địa. Tại Trung kỳ cũng
có một viện dân biểu đặt dưới quyền của khâm sứ.
Bắc kỳ có 23 tỉnh, trung kỳ có 16 tỉnh, đứng đầu là chức công sứ,
giúp việc có phó công sứ và chủ sự các ty chuyên môn như thanh tra học
chính, chủ sự bưu điện, Ngân khố, công chính, y tế. Về phía bản xứ có
tổng đốc ở tỉnh lớn, tuần vũ ở tỉnh nhỏ và quản đạo ở miền núi đứng đầu,
dưới có án sát, đốc học, kiểm học, lãnh binh. Ngoài ra mỗi tỉnh còn có một
hội đồng hàng tỉnh, gồm các thân hào Pháp Việt có nhiệm vụ tư vấn cho
công sứ. Dưới tỉnh là phủ do tri phủ đứng đầu. Dưới nữa là tổng do Chánh,
Phó tổng đứng đầu. Dưới tổng là xã do Hội đồng kỳ mục chịu trách nhiệm
về mọi mặt, đứng đầu là Tiên chỉ, Thứ chỉ. Thi hành công việc và chịu
tràch nhiệm với cấp trên là Lý trưởng, Phó lý và ban ngũ hương giúp việc.
Năm 1921, thống sứ Bắc kỳ ký nghị định cải tổ lại chế độ hương thôn. Mỗi
xã do hương hội quản lý gồm các tộc biểu do dân bầu ra. Đứng đầu là
chánh huơng hội, có phó hương hội giúp việc. ở Trung kỳ vẫn giữ nguyên
như cũ.
Như vậy, muốn nắm chặt thuộc địa, Thực dân Pháp cần nắm chắc
chính quyền các cấp và kiểm soát chặt chẽ nhân dân. Chúng cần có bộ máy
cai trị trung thành và đắc lực, cần tạo được một cơ sở xã hội thích hợp với
chế độ của chúng. Thực dân Pháp vừa mua chuộc vừa hạ uy thế vừa uy
hiếp khuất phục tầng lớp thân sĩ, nho sĩ là tầng lớp có cội rễ và có tín
nhiệm lớn ở nông thôn, có uy quyền với cả bọn hương lý, thân sĩ, nho sĩ là
lực lượng hậu bị của bộ máy quan lại. Chính sách của thực dân đã tác động
đến tầng lớp quý tộc, thân hào. Muốn giữ chặt lấy quyền lợi, địa vị, bọn
chúng ra sức làm việc cho Pháp. ở nông thôn bọn thầy Chánh, thầy Lý ít
lâu trước đó còn là người chạy việc, khúm núm, vâng dạ nghe theo các
thân sĩ nay bỗng trở thành người có quyền hành thật sự được quan sứ bênh
vực, giúp cho tậu ruộng, chiếm vườn, xây dựng dinh cơ chẳng bao lâu nữa
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 16
sẽ thành ông Nghị. Phản ánh vấn đề này đã có nhiều tác phẩm văn học
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> hiện thực phê phán đề cập đến nhưng phải nói rằng tác phẩm Tắt Đèn của
Ngô Tất Tố đã thể hiện sâu sắc hơn cả.
Trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố có đầy đủ một hệ thống,
một bộ máy cai trị. Ngay ở chương I và chương II của tác phẩm, cả một bộ
máy thống trị ở địa phương đã được hiện lên một các cụ thể: đứng đầu là
Chánh Tổng, Chánh Hội, rồi đến Lý trưởng, phó lý, lý cựu, cai lệ, lính cơ,
trương tuần. Đoạn văn sau đây tuy ngắn nhưng đã phơi bày cả một hệ
thống bộ máy thống trị ở địa phương: “Phó lý cuốn áo thâm lên cổ. Chánh
hội vắt áo the lên vai, năm sáu ông lý cựu và tộc biểu lệt sệt kéo đôi guốc
gỗ đã mòn hết gót. Cả bọn lật đật tiến từ xóm giữa vào đình. Ai nấy trụt
guốc cầm tay, nhảy lên sàn đình, đút guốc vào dưới gậm chiếu rồi ngồi lên
trên... Chánh hội vừa khơi mào nói về chuyện thuế thì người nhà lý trưởng
lẽ mễ bưng một bộ khay đèn thuốc phiện rước chánh tổng từ nẻo xóm dưới
đi lên. Ông cai lệ và hai ông lính cơ hộ tống cụ chánh vào trước cửa
đình... Chánh Tổng khoan thai bỏ giày, bước qua một dãy chiếu dưới, để
lại mặt chiếu hai hàng dấu chân đầy cát bụi, rồi vắt vẻo ngồi lên chiếc
chiếu trên cùng. Bộ khay đèn tự tay người nhà lý trưởng sang tay hàng cai
lệ lên nằm làm bạn với “quan trong tổng”.
Ngay từ sớm, cụ Chánh đã có điểm tâm độ vài chục điếu ở nhà lý
trưởng, cho nên cụ rất tỉnh táo”.
3.Về văn hoá. Đây là thời kỳ “mưa âu gió mỹ”,” cũ mới tranh
giành”. Văn hoá thời kỳ này đã được nhiều nhà văn phản ánh trong các tác
phẩm văn học một cách sâu sắc. Thời kỳ này, Thực dân Pháp không chỉ
dùng chính sách kiểm duyệt và đàn áp sách báo tiến bộ mà chúng còn thi
hành chính sách ngu dân. Chúng mở nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng
bắt học sinh các trường tư thục từ 18 tuổi trở lên phải đóng thuế thân để
con em nghèo không được đi học. Kết quả là hơn 90% nông dân bị mù
chữ. Còn học sinh, sinh viên thì bị đầu độc bởi “chủ nghĩa siêu hình, chủ
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 17
nghĩa duy tâm, chủ nghĩa nguỵ biện, chủ nghĩa hoài nghi”. Trong suốt mấy
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chục năm thống trị, ngoài chính sách đàn áp và chuyên chế, lũ thực dân
cáo già còn dùng chính sách mỵ dân, dùng khuynh hướng cải lương để
đánh lạc hướng và làm xì hơi phong trào cách mạng. Thực dân Pháp thò
tay nham hiểm nắm mấy phong trào văn hoá có xu hướng cải lương tư sản
(phong trào âu hoá, vui vẻ trẻ trung, hội ánh sáng, hội hướng đạo...) và
những hoạt động tôn giáo nhằm ru ngủ và đánh lạc hướng thanh niên.
Thống sứ Stalen rất chăm lo tổ chức thi sắc đẹp và gây phong trào chợ
phiên. Stalen còn là người đỡ đầu cho hội ánh sáng mà hội ánh sáng chỉ là
một tổ chức phỏng theo mô hình sẵn có của bọn thực dân, nhằm lôi kéo
thanh niên và trí thức vào con đường cải lương tư sản và tất nhiên là có lợi
cho đế quốc. Cần phải phân biệt khuynh hướng cải lương này với khuynh
hướng tiến bộ do nhân dân lợi dụng khả năng hợp pháp để làm lợi cho
mình (hội truyền bá học quốc ngữ). Hội ánh sáng đã phát triển được nhiều
chi hội ở các địa phương, lôi kéo được một số viên chức, trí thức, nghệ sĩ.
Tất nhiên, dưới cái gậy chỉ huy của Stalen thì hội ánh sáng sẽ gắn với hội
hướng đạo, với phong trào chợ phiên, vui vẻ trẻ trung, với những hoạt
động cải lương nhỏ giọt, có tính chất lừa phỉnh, mua chuộc quần chúng của
thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Phong trào âu hoá, vui vẻ trẻ trung của
nhóm tự lực văn đoàn với phong trào chấn hưng phật giáo nhìn bên ngoài
có vẻ rất xa lạ với nhau nhưng do vai trò lãnh đạo của thống sứ Stalen nên
lại diễn ra một sự kết hợp kỳ lạ giữa hai phong trào đó. Trong đại chiến thế
giới lần thứ hai, thực dân Pháp thi hành chính sách phát xít hoá, khủng bố
và kiểm duyệt gắt gao báo chí và các nhà xuất bản, giải tán các hội đồng
thuộc địa Nam Kỳ và các viện dân biểu Bắc, Trung kỳ. Mặt khác, chúng
còn đẩy bọn Việt gian và bồi bút như Phạm Quỳnh, Phạm Lê Bổng, Bùi
Quang Chiêu... hàng ngày tuyên truyền chủ nghĩa đầu hàng, ca tụng một
cách trơ trẽn các khẩu hiệu “ Pháp – Việt phục hưng” và „cách mạng quốc
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 18
gia‟ của tên cáo già bán nước Phê Tanh.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Pháp, sự hưởng thụ thú vui vật
chất được coi là tự nhiên khi lễ giáo, tục lệ lùi bước, thì cái ngon, cái đẹp,
cái tiện lợi, cái hào nhoáng trở thành có sức hấp dẫn. Những người luống
tuổi thì thi nhau đi học, các bậc cha mẹ thúc giục con cái đi học, kiếm lấy
ít vốn liếng chữ Tây và hãnh diện về chức thông phán. Cả những cái còn
xa lạ hơn sâm banh, sữa bò kiếm được bằng những cách nhục nhã hơn, tội
lỗi hơn đã gây ra sự thèm muốn, ước ao. Cái quan trọng không phải chỉ là
ở chỗ thay đổi sự thích thú, ở chỗ việc bình thường hoá việc ăn bơ, sữa...
mà còn là sự thay đổi trong đời sống tinh thần, cả tâm lý và cách suy nghĩ.
Trong xã hội, xuất hiện những vấn đề mới với cách nhìn mới. ở thành thị,
người đủ hạng người, trò đủ trò, thi nhau thanh lịch cũng lắm lối, những
của ngon vật lạ hàng ngày tràn về, những nhà hát lộng lẫy, những quán trà
lịch sự lôi cuốn, báo chí không ngớt đăng giá cả, tin tức kinh doanh. Người
ta cần hưởng thụ , cần tiền, cần tính toán, chạy vạy. Cuộc sống sôi động,
chen chúc, phức tạp đòi hỏi người ta phải nhanh chóng, luôn vận động.
Về mặt văn hoá, Phát xít Nhật cũng có nhiều thủ đoạn tuyên truyền
xảo trá hòng che giấu bộ mặt xâm lược. Chúng tung ra thuyết đại đông á
nhằm ru ngủ mọi người và tìm mọi cách phát triển quan hệ Việt Nam và
Nhật như cho học sinh Việt Nam sang Nhật và ngược lại cho học sinh
Nhật và giáo sư Nhật sang Việt Nam. Chúng dùng mọi cách để tỏ ra quan
tâm đến đời sống và văn hoá của nhân dân Việt Nam. Tất nhiên những
hoạt động từ thiện hoặc tài trợ nói trên không che dấu được những hành
động phát xít dã man, tàn bạo của bọn chúng đối với nhân dân ta. Trong
phạm vi chưa đầy 5 năm, chính sách văn hoá của Nhật chưa thể lấn át được
chính sách văn hoá của thực dân Pháp. Chịu ảnh hưởng của văn hoá thực
dân và phát xít, một bộ phận người dân việt Nam đã tiếp thu và đi theo
tiếng gọi của nền văn hoá phản động. Họ sẵn sàng đánh mất giá trị truyền
thống văn hoá ngàn đời của dân tộc Việt Nam để đổi lấy một phong cách
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 19
sống âu hoá, hiện đại. Để phê phán phong cách “rất Tây” của tầng lớp địa
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chủ phong kiến người Việt đã có nhiều tác phẩm trong dòng văn học hiện
thực phê phán phán ánh hết sức sâu sắc.
Đọc Giông Tố của Vũ Trọng Phụng người đọc cũng dễ dàng nhận ra
một sự pha tạp, xáo trộn giữa nền văn hoá Đông và Tây. Có thể coi đây là
một bức tranh toàn cảnh về nền văn hoá Việt Nam trong những năm 30 của
thế kỷ này. ở nông thôn vẫn duy trì một nền văn hoá lạc hậu, hủ tục và tệ
nạn. Giữa chốn bùn lầy nước đọng ấy, nổi lên cuộc sống tủi nhục, xác xơ,
tù hãm của những người nông dân quần quật tối ngày như trâu ngựa vẫn
không sao lo nổi ngày hai bữa. Bọn hương lý và chức dịch thi nhau đè đầu,
cưỡi cổ, bóp nặn dân nghèo làm cho người nông dân không thể ngóc đầu
lên được. ở làng Quỳnh Thôn “ chỉ cách xa huyện lỵ chưa đầy mười cây số
‟‟ mà dường như không có ánh sáng văn minh nào lọt tới đến mức “ một trí
thức cao cấp” vào loại nhất làng như cụ đồ Uẩn cũng không thể nhận ra bộ
mặt thật của bọn hương lý và chức dịch trong làng. Khi đám đông dân
chúng hành quân lên cửa quan cũng chỉ là hình ảnh “ Cả bọn lôi thôi lốc
thốc kéo nhau ra khỏi làng, trước những cặp mắt toét mà còn tò mò của
bọn giai làng, trước những cái mồm cười rất khả ố”. Người nông dân thì
lạc hậu như vậy còn ở thành thị thì một bộ phận người dân sống xa hoa,
truỵ lạc, trác táng: “ một xã hội thất vọng truỵ lực, muốn phải làm cho
những điều thất vọng phải tan ra khói”, gồm “ông chủ phòng mà Sở Liêm
phóng không thương hại, mấy cậu học trò vừa ra khỏi trường mà đã oán
giận xã hội không trọng dụng nhân tài, cụ phán già không được cưới thêm
vợ, ông nhà văn có sách mới bị cấm, tay chủ báo bị kiện vì tội phỉ báng,
tay phóng viên thiếu đầu đề, cô gái nhảy vừa đánh mất nhân tình, nhà tài tử
cải lương không có người bao...” Đó là đám khách của Nghị Hách vào
ngày nhà tư bản tính sổ doanh thương: “Bọn người mà bề ngoài đủ tỏ ra vẻ
doanh nghiệp, vẻ sắc sảo, gian hùng ở những cái mũ cát két, ở những đôi
giày ống, ở những cái kính cặp, ở những cái răng vàng... Trong bọn ấy, có
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 20
anh coi đời như canh bạc lớn, làm việc thiện là để quảng cáo cho mình,
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> làm điều ác mà bắt mọi người phải nhớ thương, đọc đủ các báo chí mà
không biết gì về văn chương mỹ thuật, tủ sách đầy những tập kỷ yếu các
hội ái hữu nhưng kỳ chung thật không có ai là bạn ở trên đời, cầm đến tờ
nhật trình chỉ xem tin thương trường, tin gọi đấu thầu, các đạo nghị định...
Lại có anh vùa cổ động kịch liệt cho Hội Phật giáo lại vừa xây hàng dãy
nhà săm... Đó là “cái xã hội thượng lưu trí thức trưởng giả quý phái, gồm
đủ các quan chức Pháp trong tỉnh, đám khách sang trọng trong bữa tiệc
linh đình ở phòng đại sảnh Tiểu Vạn Trường Thành lập vào dịp chủ nhân
nhận thưởng bội tinh. Chịu ảnh hưởng của nền văn hoá phương Tây mà cụ
thể là nền văn hoá Pháp, ở thành thị đã xuất hiện những ả gái điếm, những
con nghiện lọc lõi, những trí thức “dởm”, những ông quan Tây và quan ta
tham nhũng thối tha sống cuộc sống xa hoa vương giả trên máu xương
đồng loại.
Những thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hoá ngày càng làm cho
mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc trở nên gay gắt. Giai cấp địa chủ
phong kiến và giai cấp nông dân có sự mâu thuẫn đối kháng với nhau. Sở
dĩ như vậy là vì giai cấp địa chủ phong kiến từ địa vị thống trị dân tộc, đã
trở thành tay sai cho đế quốc, phản lại dân tộc. Vì vậy, xét về toàn bộ giai
cấp thì giai cấp địa chủ phong kiến là kẻ thù của dân tộc, là đối tượng mà
cách mạng cần phải đánh đổ cùng với bọn thực dân đế quốc. Trong khi đó,
giai cấp nông dân Việt Nam chiếm đa số trong dân cư, họ chưa từng đi
theo giai cấp tư sản. Họ chịu 3 tầng áp bức bóc lột, bị phá sản hàng loạt
nhưng không có lối thoát. Họ rất tích cực trong việc chống đế quốc và
phong kiến. Họ là lực lượng đông đảo của cách mạng.
Những chính sách đàn áp về chính trị, bóc lột dã man về kinh tế và
đầu độc về văn hoá của bọn thực dân và phát xít đã ngày càng củng cố vị
trí của thực dân Pháp, khẳng định, bình thường hoá những cái xấu xa,
những cái trái mắt của quân cướp nước, của phương Tây, của xã hội tư sản
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 21
mà thực dân mang vào xã hội Việt Nam. Cái lố lăng, hợm của, trái tôn ti
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> trật tự ấy gây ra bất bình, phản ứng cho cả xã hội vốn tôn trọng tục lệ, tôn
trọng lễ giáo, phân vị trên dưới. Nhưng về sau khi quyền của kẻ có của
được thừa nhận, sự hưởng thụ thú vị vật chất được coi là quyền lợi tự
nhiên, khi lễ giáo, tục lệ lùi bước, thì cái ngon, cái đẹp, cái tiện lợi, cái hào
nhoáng trở thành có sức hấp dẫn.
Những người luống tuổi đua nhau đi học, các bậc cha mẹ thúc giục
con cái đi học, kiếm lấy ít vốn liếng chữ Tây và hãnh diện về cái chức
thông phán. Cái quan trọng không phải ở chỗ thay đổi sự thích thú mà còn
là sự thay đổi trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam.
ở thành thị, nhiều hạng người, nhiều nhà hát lộng lẫy, con người cần
tiền, cuộc sống sôi động, đua chen, phức tạp nên đòi hỏi con người cũng
phải luôn vận động. Hàng hoá từ thành thị tràn về nông thôn. Cái mới tập
trung ở thành thị nhưng không đóng khung ở thành thị, nó đổi thay cả cuộc
sống ở nông thôn, căn cứ địa của nhà nho và người nông dân, những con
người vốn trung thành với cái cổ truyền nhất. Tuy nhiên sự thay đổi đó
không phải thật sự dễ dàng. Những cái mới, cái đẹp, cái tiện lợi vẫn có sức
mạnh của nó. Dần dần cái mới chinh phục được cả những người khó tính,
cổ hủ.
Những người nông dân bị thất nghiệp chạy ra thành phố. Dần dần họ
cũng thành thị hoá, tư sản hoá. Cái danh giới của địa vị, của gia thế bị xoá
bớt. Dần dần chính họ lại tập hãnh diện với những mánh khoé trong nghề
buôn bán, làm ăn. Có thể nói, thực tế lớn nhất của nước ta thời kỳ này là
chúng ta đang trong thời kỳ mất nước, đất nước ta đang rơi vào tay quân
giặc, làm nghẹt thở cả dân tộc. Trong khi cả đất nước ta đang tìm mọi cách
để giải phóng dân tộc, thì một bộ phận người dân (tầng lớp địa chủ phong
kiến) lại lợi dụng địa vị và quyền lợi của mình cấu kết với thực dân đàn áp
nhân dân ta làm cho đời sống của người nông trở nên điêu đứng, bần cùng.
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 22
Nhưng, sự thay đổi về điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá của nước ta thời
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> kỳ này lại là mảnh đất mầu mỡ để cho giai cấp địa chủ phong kiến ra đời,
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 23
tồn tại và phát triển.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> CHƢƠNG II: Những loại nhân vật phản diện trong văn học truyền thống.
Trong lịch sử phát triển, văn học luôn có chức năng phản ánh cuộc
sống một cách toàn vẹn và sinh động. Vì vậy, văn học có khả năng vươn
tới tầm cao của sự khái quát, nắm bất sự vận động bên trong của đời sống
hiện thực. Văn học ở mọi thời đại đều phản ánh giai cấp và mang tính giai
cấp một cách rõ rệt. Từ rất lâu trong xã hội đã hình thành hai giai cấp đối
kháng nhau đó là giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Để phản ánh hiện
thực đó, văn học đã hình thành hai tuyến nhân vật: chính diện và phản
diện. Như vậy, có thể khẳng định rằng, các nhân vật phản diện không phải
chỉ đến giai đoạn này ( 1930 – 1945 ) mới xuất hiện mà đã có từ rất lâu
trong văn học. Chỉ có điều đến giai đoạn này các nhân vật phản diện mới
được các nhà văn phản ánh cụ thể hơn, chi tiết hơn và sinh động hơn. ở
đây, chúng tôi chỉ khảo sát một số tác phẩm văn học tiêu biểu trước năm
1930 để so sánh, làm sáng tỏ vấn đề này.
Nửa cuối kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19 là giai đoạn văn học phát triển
rực rỡ nhất trong lich sử văn học và để lại nhiểu tác phẩm văn học có giá trị.
Truyện Kiều của Nguyễn Du, Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia văn
phái, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Chinh phụ ngâm của
Đặng Trần Côn... là những tác phẩm văn học tiêu biểu, trong đó Truyện Kiều
của Nguyễn Du được coi là một kiệt tác, là kinh điển của văn học Việt Nam.
Cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Du trong truyện Kiều là hết sức sâu
sắc và có giá trị lớn. Có thể nói Truyện Kiều là bức tranh hiện thực rộng
lớn về cuộc sống thời đại mà nhà thơ đang sống, trong đó Nguyễn Du
muốn làm nổi bật lên sự đối lập gay gắt giữa quyền sống của con người
nhất là của người phụ nữ với sự áp bức của chế độ phong kiến trong lúc
suy tàn. Để phán ánh sâu sắc và cụ thể vấn đề đó, tác giả đã xây dựng
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 24
thành công hai tuyến nhân vật: chính diện và phản diện.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Trong Truyện Kiều, bên cạnh nhân vật chính diện như: Thuý Kiều,
Kim Trọng, Từ Hải, Thuý Vân..., độc giả còn thấy xuất hiện nhiều nhân
vật phản diện như: Mã Giám Sinh, Tú Bà, Hồ Tôn Hiến, Bạc Bà, Bạc
Hạnh... Những nhân vật phản diện trong tác phẩm kiên kết với nhau thành
một tuyến. Một điều khá đặc biệt là trong truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn
Du cũng phê phán và lên án tầng lớp thống trị trong xã hội, đó chính là bọn
quan lại phong kiến. Suy cho cùng đầu mối của mọi cái xấu xa, tàn bạo
trong xã hội là do bọn phong kiến gây ra. Trong những truyện Nôm khác,
hình ảnh quan lại phong kiến thông thường là: bên cạnh những nhân vật rất
xấu, rất tàn ác, còn có những người rất tốt, rất lý tưởng. Vì vậy, truyện
Nôm không hiếm những ông quan công minh chính trực, những ông vua
nhân từ, độ lượng. Trong nhận thức của tác giả truyện Nôm, quan lại xấu
là một hiện thực nhưng nó không có tính cách bản chất, không có tính chất
quy luật. Hình ảnh những tên quan xấu trong truyện Nôm chưa cho phép
người ta nghĩ xấu về giai cấp thống trị của xã hội ấy, về chế độ ấy. Truyện
Kiều trên căn bản nhận thức về quan lại phong kiến khác với những truyện
Nôm bình dân. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du thấy cái xấu của bọn quan
lại không phải là hiện tượng mà là bản chất. Nhà thơ có lên án và phê phán
ba tên quan và có cả một gia đình quan lại. Mỗi tên quan mỗi vẻ, không
thằng nào giống thằng nào, không phải đúc từ một khuân có sẵn, tuy có
cùng một hành động là xô đẩy Thuý Kiều vào con đường khổ nhục, phá
hoại hạnh phúc và chôn vùi nhân phẩm của cô.
Thằng bán tơ là kẻ vu oan cho gia đình Thuý Kiều. Trong cách trình
bày của Nguyễn Du, việc vu oan của tên bán tơ chỉ là cái cớ cho bọn sai
nha có dịp đi bắt cóc, hành hạ người khác. Hành động của chúng không
phải là hành động của công lý, hay công lý của chúng là công lý của bọn
đầu trộm đuôi cướp. Đằng nào cũng vậy. Thế rồi kéo về cửa quan thì quan
cũng chẳng hơn gì bọn sai nha. Viên quan ở đây đúng là một thứ “ cướp
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 25
ngày”. Cha, em Thuý Kiều không được xét xử mà còn bị tra khảo nặng nề
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> hơn. Nhiều nhà nghiên cứu xưa nay nói rất đúng, chính viên quan đầu tiên
trong truyện Kiều đã xô đẩy Thuý Kiêu, một con người trắng trong, lương
thiện vào nhà chứa.
Viên quan thứ hai trong truyện Kiều không đến nỗi quá nhem
nhuốc, đó là tên quan xử kiện. Nói chung, những thủ tục về hình thức trong
việc tố tụng viên quan này giữ đúng. Có đơn kiện cửa công, quan mới
xuống trát đòi bên nguyên, bên bị đến công đường xét xử. Quan có lập
phiên toà, khi ra trước toà, quan còn cố giữ bộ mặt lạnh lùng như để cho lý
trí không bị tình cảm chi phối. Người ta dường như còn nghe cả thấy tiếng
đằng hắng lấy giọng của quan trước lúc xét xử. ấy vậy mà khi quan cất
tiếng xét xử thì mới kỳ cục làm sao:
“ Phép công chiếu án luận vào
Có hai đường ấy muốn sao mặc mình:
Một là cứ phép gia hình,
Một là lại cứ lầu xanh phó về.”
Phép công hẳn hoi chứ không phải là chuyện bừa bãi, mà thế đó.
Hoặc là chịu đánh đòn thì tiếp tục được phạm tội, hoặc là phải trở về nhà
chứa. Luật pháp ở đây rõ ràng có tính chất trả thù, lăng nhục, chứ không có
tính chất giáo huấn, sửa sai.
Nhưng rồi đến viên quan này, “phép công” cũng giống như cử chỉ
“lập nghiêm”. Viên quan này có thể động lòng với tiếng khóc sụt sùi của
Thúc Sinh mà chẳng động lòng một tý naò trước cảnh đánh đập tàn nhẫn
Thuý Kiều. Hắn lại còn sính thơ nữa. Khi biết Thuý Kiều có tài thơ thì
máu tài tử của hắn nổi lên, quên hết công lý, hắn hào hứng bắt Thuý Kiều
làm thơ về cái gông. Một tâm trạng như Thuý Kiều lúc đó, lại viết về một
đề tài như thế, bài thơ hay dở thế nào có thể biết được. Thế mà hắn thì
khen lấy khen để. Và cuối cùng nhờ bài thơ mà xong hết mọi chuyện. Đến
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 26
đây thì tất cả những “cửa công”, “phép công”...đều biến thành trò đùa.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Viên quan thứ ba là một trọng thần Hồ Tôn Hiến. Trước hết, hắn là
một kẻ bất tài. Đánh không ăn thua, hắn tìm cách dụ dỗ, mua chuộc Thuý
Kiều. Quả nhiên, hắn đã mua chuộc được Thuý Kiều khuyên Từ Hải ra
hàng, để rồi lúc kẻ thù thất ý sa cơ hắn lại phản bội, giết chết. Tồi tệ hơn cả
là sau khi giết Từ Hải, hắn còn bắt Thuý Kiều là người vừa mới giúp hắn
giành được thắng lợi, đồng thời là vợ của kẻ thù, đánh đàn hầu rượi hắn
trong bữa tiệc hạ công còn đầm đìa máu me của chồng nàng. Rồi lơi lả, rồi
ngây dại trước sắc đẹp của nàng. Cuối cùng không phải vì ân hận, hay vì
một chút ân hận nào mà vì sĩ diện cá nhân, hắn đã gán Thuý Kiều cho một
viên thổ quan, để Thuý Kiều phải nhảy xuống sông tự tử. Hồ Tôn Hiến là
tên quan to nhất cũng là tên quan ty tiện, bỉ ổi nhất trong truyện Kiều.
Bên cạnh ba ông quan ấy ra, trong truyện Kiều còn xuất hiện một
gia đình quan lại, đó là gia đình Hoạn Thư. Quan ông là Lại Bộ Thượng
thư, hình như không còn, chỉ có quan bà và quan cô. ấy thế mà uy lực vẫn
không hề suy suyển. Không kể cái cơ ngơi toà rộng ,dãy dài, lộng lẫy,
nguy nga... Đặc biệt, đáng chú ý ở gia đình này là trong nhà bao giờ cũng
có một bầy côn quan, để khi cần thì đốt nhà người, bắt người về hành hạ
mà không sợ gì luật pháp. Đối với gia đình Hoạn Thư chính quyền cũng
không được đụng đến, nhà chùa cũng phải sợ và nhà buôn cũng phải nể...
Dường như có cái gì rất giống nhau ở bộ ba trong ngôi nhà chứa của
Tú Bà là Tú Bà, Mã Giám Sinh và Sở Khanh. Ba con người này từ những
phương trời khác nhau của xã hội phong kiến tụ họp lại. Một mụ là gái
làng chơi về già hết duyên, một gã là sinh viên trường Quốc tử giám còn
gã nữa không phải là sinh viên nhưng cũng biết “hoạ vần” khi nghe một
bài thơ của người khác, thì ít ra cũng là một nho sĩ... Nhưng đấy là quá
khứ. Còn hiện tại thì cả ba đều tụ họp về đây, dưới mái thanh lâu của mụ
Tú Bà, gian xảo và mưu mẹo, chúng chuyên kiếm ăn bằng cái nghề bỉ ổi
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 27
nhất là buôn bán sắc đẹp của người phụ nữ. Tú Bà đóng vai mụ chủ, Mã
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Giám Sinh đóng vai lão chồng hờ còn Sở Khanh tên ma cô dắt gái. Nguồn
gốc xuất thân có khác nhau nhưng nghề nghiệp hiện tại quy định rõ nét
tính cách của chúng : Cả ba đều hám tiền. Mở miệng ra là nói đến tiền.
Đồng tiền xoay tròn trong mọi mưu mô xảo quyệt của chúng.
Mã Giám Sinh mua Kiều về làm đĩ, nói dối là mua Kiều về làm lẽ.
Hắn cò kè từng xu một trong khi mua và tính toán lời lãi hàng nghìn trong
khi bán. Vừa muốn có tiền lại vừa muốn khoái lạc. Nhưng đối với hắn,
khóai lạc mà không ảnh hưởng gì đến tiền thì hắn mới làm.
Với Tú Bà, đồng tiền cũng chi phối mọi tình cảm, mọi tính toán của
mụ. Mã Giám Sinh mua Kiều đem về, mụ mừng quýnh lên, mới nói một
câu có vẻ âu yếm với Kiều, mụ đã vội quay sang khấn ngay thần mày
trắng. Nỗi mừng đã làm cho giọng khấn của cụ trở thành lắp bắp, không có
vẻ gì thiêng liêng cả. Nhưng liền sau đó, mụ biết Kiều thất thân với Mã
Giám Sinh thì mụ đùng đùng nổi giận, nhảy vào xỉa xói, đánh mắng Thuý
Kiều. Thuý Kiều cũng không vừa, nàng dút dao toan tự sát. Thế là mụ lại
sợ, run lên cầm cập. Mụ sợ vì nếu Kiều tự tử thì mọi vốn liếng của mụ đi
đời nhà ma. Sau đó mụ đành xoay sang cách khác để ép Kiều phải quay
sang tiếp khách. Mụ hứa sẽ gả chồng cho Kiều để lấy lại vốn, rồi bày mưu
cho Sở Khanh dụ dỗ Kiều trốn đi, để bắt về đánh đòn, làm cho Kiều đuối
lý phải nghe theo mụ. Con người này trong hơi thở của nó cũng ngửi thấy
mùi tiền.
Đối với Sở Khanh, nỗi khát tiền lại còn làm cho tên này trở thành
hèn hạ, đốn mạt hơn nữa. Sở Khanh không từ một việc xấu nào là không
làm, miễn là có tiền. Có tiền, hắn mới không dở quẻ, gây sự. Người ta
khinh bỉ hắn và người ta cũng chờn mặt hắn.
Ba con người, một tâm địa nhưng chẳng ai giống ai mà mỗi người
mỗi vẻ. Nguyễn Du không Phải chỉ nhằm bộc lộ bản chất của chúng mà
còn rất chú trọng miêu tả chúng thành những con người cụ thể, có xương,
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 28
có thịt chứ không phải những con người chung chung, trừu tượng.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Tóm lại, trong truyện Kiều, nhân vật phản diện không phải là ít mà
các nhân vật phản diện đã được quy tụ thành cả một hệ thống. Loại nhân
vật phản diện trong truyện Kiều được xây dựng theo một quan niệm điển
hình hoá khác hẳn. Đối với loại nhân vật này, Nguyễn Du đã cố gắng làm
cho nó gần gũi với đời sống, với hiện thực. Bản chất giai cấp của chúng
nói chung rất rõ nét. Vấn đề cá thể hoá nhân vật bước đầu cung được đặt
ra. Nhà thơ cũng bước đầu nhận thức được một cách hiện thực mối tương
quan giữa hoàn cảnh, môi trường và tính cách của nhân vật. Đặc biệt, bút
pháp của nhà thơ khi xây dựng nhân vật này thường nổi rõ tính chất hiện
thực chủ nghĩa.
Sang nửa cuối thế kỷ XIX văn học yêu nước phát triển mạnh mẽ.
Bên cạnh đó vẫn tiếp tục xuất hiện những tác phẩm văn học với chủ đề đạo
đức phong kiến mà trong đó tác phẩm “ Lục Vân Tiên” là một tác phẩm
tiêu biểu. Trong tác phẩm này, chủ đề là ca ngợi chính nghĩa và phê phán
những kẻ bất nhân, bất nghĩa cho nên những nhân vật trong truyện cũng
được sắp xếp thành hai tuyến đối lập rất rõ, tuyến nhân vật chính diện và
tuyến nhân vật phản diện. Một bên là những con người nhân nghĩa như
Vân Tiên, Nguyệt Nga, Hớn Minh, Tử Trực, tiểu đồng, ông quán, ngư ông,
ông tiều và bên kia là những kẻ bất nhân như gia đình Võ Thế Loan, Trịnh
Hâm, Bùi Kiệm. Lối kết cấu như vậy không có gì mới so với phần lớn
truyện Nôm giai đoạn thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đáng chú ý là ở Lục
Vân Tiên sự đối lập ấy không phải nói chung giữa hai tuyến nhân vật mà
đối lập trong từng cặp nhân vật. Nó như tấm kính lệch phản chiếu vào
nhau để làm nổi rõ tính cách của nhau. Nguyệt Nga là tấm gương sáng của
lòng chung thuỷ. Mặc dù Vân Tiên chết, nàng vẫn mang “ bức tượng” của
chàng bên mình. Trước sự ve vãn của Bùi Kiệm, nàng bỏ nhà hắn, trốn đi
nơi khác. Võ Thế Loan thì hoàn toàn trái lại. Cô vợ chưa cưới này khi thấy
Vân Tiên vào kinh ứng thi, chắc bẩm rằng thế nào chàng cũng sẽ “cung
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 29
quế xuyên dương” nên săn đón, đãi đưa. Nhưng chỉ sau đó ít lâu, Vân Tiên
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> bị mù cả hai mắt thì con người ấy trở mặt ngay tức khắc...Sự đối lập giữa
Hớn Minh, Tử Trực với Trịnh Hâm, Bùi Kiệm cũng là một dụng ý rất rõ
của nhà thơ. Hớn Minh khẳng khái, có thể ngồi tù chứ không chịu những
hành vi ngang ngược. Chàng chí tình, chí nghĩa với bạn, sẵn sàng giúp đỡ
bạn những lúc khó khăn. Trịnh Hâm thì nhỏ nhen, đê tiện. Nhân lúc Vân
Tiên bị mù loà, hắn lập mưu giết tiểu đồng và xô Vân Tiên xuống biển...
Như vậy, đến tác phẩm này thì nhà thơ vẫn tiếp tục sử dụng lối kết
cấu hai tuyến đối lập rõ rệt như trong văn học truyền thống. Mỗi nhân vật
trong hai tuyến nhân vật ấy đều phản ánh một khía cạnh nào đó của hiện
thực đời sống. Các nhân vật bên cạnh việc thể hiện tính cách cộng đồng
dân tộc mà còn thể hiện một số nét địa phương rất rõ. Đó là những con
nguời đã tròn thì tròn hẳn, đã vuông thì vuông hẳn, dứt khoát, rõ ràng,
không lắt léo, khó hiểu. Đây cũng là một phương pháp rất đặc thù của nhà
thơ Nguyễn Đình Chiểu khi sáng tạo nhân vật. Với cách xây dựng nhân vật
kiểu như vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã kế thừa được nhiều mặt truyền thống
ưu tú của văn học quá khứ, nhất là văn học dân gian và truyện Nôm bình
dân.
Trong nền văn học trung đại, bên cạnh Truyền Kiều của Nguyễn Du,
Lục vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, còn có tác phẩm Nhị Độ Mai. Đây
là truyện thơ Nôm Việt Nam, khuyết danh, dựa theo tiểu thuyết Trung
Quốc, có nhiều khả năng xuất hiện ở thế kỷ XIX. Trong tác phẩm này, các
tác gỉa dân gian đã sáng tạo nhiều nhân vật, quy vào hai tuyến nhân vật:
chính diện và phản diện. Chuyện kể về Mai Bá Cao làm quan ở huyện
Thach Đường, nổi tiếng là người thanh liêm, trung thực. Vốn căm ghét bọn
gian thần Lư Kỷ, Hoàng Tung nên khi được vua triệu về kinh làm gián
quan, Bá Cao quyết tâm vạch tội bất lương của chúng để trừ hại cho dân.
Trong bữa tiệc mừng thọ tên tể tướng Lư Kỷ 60 tuổi, Bá Cao đã đứng lên
công kích những kẻ nịnh thần như Hoàng Tung và từ chối không uống
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 30
rượu. Lư Kỷ và Hoàng Tung vô cùng căm ghét, ngấm ngầm tìm cách hãm
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> hại ông. Nhân khi giặc Thát sang quấy rối biên giới, Lư Kỷ tâu vua cử hai
quan văn Phùng Lạc Thư và Trần Đông Sơ đi dẹp giặc. Bá Cao đã vạch
mặt bọn Lư Kỷ bởi chính bọn này đã gây ra cảnh giặc giã và khuyên vua
không nên cử quan văn đảm đương việc quân. Lư Kỷ nhân đó liền khép Bá
Cao vào tội phản nghịch, muốn trì hoãn việc binh. Vua ra lệnh chém đầu
Bá Cao và truy nã nhà họ Mai. Nhận được tin dữ, Mai phu nhân đến nhà
em để náu mình còn con trai Mai Lương Ngọc cùng với Hỷ Đồng chạy
sang nhà hầu Loan – bố vợ chưa cưới. Hầu Loan trở mặt một cách hèn hạ,
định sai lính bắt Mai Lương Ngọc tiến kinh. Hỷ Đồng quyên sinh để cứu
chủ. Còn lại một mình, Lương Ngọc treo cổ tự tử nhưng được nhà sư cứu
thoát...Sau rất nhiều biến cố, kết thúc tác phẩm kẻ bất nhân như Lư Kỷ,
hoàng Tung bị xử chém, bọn tay chân của hai tên gian thần đều bị trị tội.
Cuối cùng cả hai họ Mai- Trần đều được vua ban thưởng, Mai Bá Cao
được truy phong...
Nhị Độ Mai là tác phẩm đề cao trung hiếu tiết nghĩa mà nội dung là
cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai lực lượng chính nghĩa và phi nghĩa trong
xã hội phong kiến trên bước đường suy vong của nó: trong triều, vua
không lo việc nước để bọn gian thần lộng hành giết hại những nguời trung
thần, bên ngoài thì giặc giã luôn đe doạ, đời sống nhân dân cơ cực, bị ức
hiếp và chà đạp. Tác phẩm cũng thể hiện thái độ và nguyện vọng của
người dân lao động lúc đương thời: đứng về phe chính nghĩa mà căm ghét
bọn gian tà hại dân, phản nước, luôn luôn mong ước cho nguời ngay,
người tốt được ưởng hạnh phúc, kẻ gian ác phải được trừng trị nghiêm
minh.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, trong văn học truyền thống, đặc
biệt là trong nền văn học trung đại Việt Nam đã từng xuất hiện các nhân
vật phản diện mang màu sắc xã hội và điển hình cho một giai cấp cụ thể.
Trong tác phẩm văn học các nhân vật này xuất hiện nhiều, tạo thành một
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 31
tuyến nhân vật. Khi đi vào khảo sát một số tác phẩm thì ta thấy các nhân
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> vật này được mô hình hoá một cách hết sức cụ thể thông qua việc miêu tả
ngoại hình, ngôn ngữ, hành động cũng như việc khắc hoạ nội tâm, tính
cách nhân vật. Có những nhân vật đã trở thành nhân vật điển hình cho cả
một thời kỳ văn học. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được, nhân vật phản
diện thời kỳ này vẫn còn những hạn chế nhất định mà sẽ được hoàn thiện
dần trong các giai đoạn văn học sau này.
Bước sang thế kỷ XX, đặc biệt trong những năm 30 của thế kỷ hai
muơi đã xuất hiện những cuốn tiểu thuyết quốc ngữ đâù tiên như : “Tố
Tâm” của Hoàng Ngọc Phách, “Quả dưa đỏ” của Nguyễn Trọng Thuật,
“Kim anh lệ sử” của Trọng Khiêm, “Cay đắng mùi đời”, “Tiền bạc bạc
tiền” của Hồ Biểu Chánh...Đây là những tiểu thuyết đầu tiên của thời kỳ
hiện đại hoá văn hoá văn học. Trong văn học, bắt đầu nảy sinh một số
khuynh hướng của tiểu thuyết hiện đại: khuynh hướng lãng mạn tiêu cực,
khuynh hướng hiện thực phê phán và khung hướng yêu nước. Trong các
khuynh hướng văn học thời kỳ này, một số tác phẩm xuất hiện những nhân
vật phản diện mang đặc điểm địa chủ phong kiến, chưa địa chủ hóa, có thái
độ vênh váo, quyền uy, thiếu tấm lòng nhân hậu. ở đây, trong khuân khổ
có giới hạn, chúng tôi chỉ đưa ra một vài giả tiêu biểu để làm sáng tỏ vấn
đề.
Hồ Biểu Chánh là nhà văn nổi tiếng ở Nam Bộ được nhiều người ưa
thích. Đứng về khối lượng và chất lượng thì Hồ Biểu Chánh là nhà viết
tiểu thuyết đáng chú ý nhất của thời kỳ này. Trước năm 1930 ông viết một
số tác phẩm như : “Cay đắng mùi đời, tiền bạc bạc tiền, tỉnh mộng, ngọn
cỏ gió đùa, cha con nghĩa nặng, khóc thầm”... Tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh đã ghi lại một số nét khá điển hình của hiện thực Nam bộ vào
những năm sau đại chiến thế giới lần thứ nhất. Tác phẩm của ông bao quát
nhiều vùng hiện thực rộng lớn của Nam bộ, nhiều kiểu người thuộc đủ các
giai cấp khác nhau. Trong đó, Hồ Biểu Chánh tập trung mũi dùi đả kích
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 32
vào bọn địa chủ, quan lại phong kiến. Điều này cũng dễ hiểu là vì lúc bấy
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> giờ cơ sở ruộng đất ở nông thôn vẫn ở trong tay bọn địa chủ, bọn hội đồng
kỳ hào, đế quốc Pháp lại ra sức củng cố hệ thống vua quan và duy trì ý
thức hệ phong kiến để kìm hãm sự phát triển của xã hội ta. Hồ Biểu Chánh
đã bóc trần những lớp vàng son giả hiệu, đã lột mặt nạ những thủ đoạn lừa
phỉnh nhơ nhớp, ti tiện của bọn địa chủ phong kiến. Ưu diểm nổi bật nhất
của nhà viết tiểu thuyết là trong một số trường hợp, ông đã trực tiếp tố cáo
các thủ đoạn bóc lột tô tức của bọn địa chủ. Trong tác phẩm “ khóc thầm”,
Hồ Biểu Chánh đã khắc hoạ chân dung nhân vật Vĩnh Thái một cách sâu
sắc. Tên này tiêu biểu cho bọn chúa đất bóc lột theo lối cổ điển. Hắn buộc
tá điền, nếu mướn 100 công đất thì phải vay 50 đồng bạc hoặc 50 giạ lúa,
nếu mướn 200 công thì phải vay gấp đôi. Lúa và tiền đó phải trả lãi hàng
năm 60 phân, ai không chịu vay lúa, vay tiền thì hắn lấy lại ruộng đất. Như
vậy là hắn đã bóc lột tô tức cùng một lúc và đời đời biến người nông dân
thành nô lệ gắn chặt với ruộng đất của mình. Để bóc lột cho đầy túi tham,
hắn còn đánh thuế thổ trạch, thuế mồ mả và làm đơn xin khẩn hoang để
cướp không 100 mẫu ruộng của nông dân ở Mặc Cần Dưng. Vĩnh Thái là
tên chủ đồn điền, hắn tự cho mình là kẻ nhân đức “ Tôi nhân đức, tôi
không đành cát cổ mấy người quá như vậy đâu. Tôi định cho 5 chục giạ
lúa, tới ngày mấy người đong vốn và lời tám chục giạ mà thôi.” Tính chất
địa chủ của Vĩnh Thái còn thể hiện ở hành động: khi phó lý thầu thiếu 50
giại lúa, Vĩnh Thái nói phải bán vợ đợ con để trừ nợ không thì phải đưa
đứa con lên ở trừ nợ. Hắn là con người tàn nhẫn vô cùng, mọi hành động
của hắn đều thể hiện thói đạo đức giả “ Tôi làm chủ điền mà lại để cho tá
điền tôi đi vay của người khác như vậy thì tội nghiệp cho họ mà cũng hư
danh giá của tôi nữa. ấy vậy, tôi muốn mấy người lấy bạc, lấy tiền của tôi
mà xây dựng, chớ đừng đi hỏi của người ngoài, họ cười tôi”. Nhưng trên
thực tế, đó là một cách để bóc lột và chiếm đoạt ruộng đất, tài sản của
người nông dân. Bên cạnh đó, Vĩnh Thái cũng thể hiện tính cách của một
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 33
địa chủ ác ôn. Vĩnh Thái mắng người ở: “ Quân chó đẻ, cho ăn ngập mặt
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> còn nói lén chủ nhà. Tao đánh chết cha mầy...” Mắng thôi chưa đủ, Vĩnh
Thái còn nắm đầu thằng Mau mà kéo dậy, rồi tay thì thoi, chân thì đá, làm
cho thằng nọ sưng mặt, chảy máu mũi. Rồi chính hắn đã đẩy thằng Mới
phải đi ở tù...
Trong tác phẩm “ Ngọn cỏ gió đùa”, Hồ Biểu Chánh cũng vạch trần
bộ mặt xấu xa, đồi bại của vợ chồng tên địa chủ Đỗ Cẩm. Đỗ Cẩm ít nói
mà tính lại xảo trá, còn thị phi nói nhiều mà tính lại hỗn hào. Vợ chồng nhà
tên này chỉ vì tiền mà có thể làm tất cả mọi điều mà hắn muốn. Hắn nói với
Hải Yến: “ Cậu đừng lo, cậu để nó cho tôi. Mình đã tử tế với nó quá. Nếu
nó muốn làm phách thì để tôi cho nó làm phách. Để tôi biểu con vợ tôi ép
nó, nếu nó còn cứng nữa thì vợ chồng tôi thân nó cho nó thất kinh rồi tự
nhiên nó hết cứng chớ gì. Nói cùng mà nghe, nếu mình làm đủ các mà nó
cứ cúng hoài thì tôi cho phép cậu ban đêm vô ngủ nhầu với nó, sức nó bao
nhiêu mà cụ với cậu nổi...”Đỗ Cẩm chính là kẻ “ chặt đầu lột da người”.
Bên cạnh dó, Hồ biểu Chánh còn phê phán một tên quan huyện dâm ô,
định dở thói bỉ ổi: “ Quan huyện trạc chừng 45 tuổi, trên mép, dưới cằm
đều có râu le the vài chục sợi đương ngồi tréo mảy chơn trên nghế mà hút
thuốc. Ngài ngó nàng trân trân mà miệng lại chúm chím cười”. Ngài nói
thẳng với ánh Nguyệt mà không e ngại, che dấu “ – Thương nên đêm hôm
vắng vẻ ta mới kêu nàng vào đây mà hỏi chuyện. Dại quá! Nàng ở đây với
ta thì khỏi trả đồng xu nào hết, nàng chịu hôn? Ta thấy nàng nghèo hèn
mà có sắc ta thương nên ta muốn làm phước cứu nàng. Vậy nàng ở đây
hầu ta khỏi phải trả nợ.”
Trong tác phẩm “ Tiền bạc, bạc tiền ” Hồ Biểu Chánh đã lên án, phê
phán tên quan phủ Khánh Long. Tên này nhờ có một nghề làm quan mà
dựng lên sự nghiệp lớn đáng giá mười muôn. Hắn có gần 100 mẫu ruộng là
do hắn đã bóc lột của dân. Bên cạnh đó, tác giả còn phê phán nhân vật bà
quan phủ Khánh Long. Bà này vốn là người đê tiện. Khi quan phủ Khánh
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 34
Long lấy bà làm lẽ, thiên hạ họ thấy tiền nhiều, chức lớn, họ quên hết các
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> điều tồi tệ cũ chứ có phải là người xứng đáng chi đâu. Cô là gái hư được
làm bà lớn mà cô không biết ăn năn, lại còn làm điều gian ác, dùng thuốc
đầu độc hai đứa con trai của quan phủ chết, rồi dùng thuốc mà đầu độc
quan phủ mà cướp gia tài. Khi làm bà quan phủ bà luôn nghĩ đến tiền bạc.
Bà tìm mọi cách để cho cháu bà phải được sống trong nhà giàu có. Trong
tác phẩm này, Hồ Biểu Chánh đã xây dựng nhân vật phản diện kiểu như
vậy để vạch trần thế lực đồng tiền đã làm tha hóa con người...
Mặc dù Hồ Biểu Chánh có lên án, phê phán chế độ xã hội nhưng do
những hạn chế về mặt thế giới quan nên cách phê phán của ông cũng là
cách phê phán không triệt để. Sở dĩ như vậy là vì ông chưa nhìn thấy
những mặt hiện thực chủ yếu của xã hội lúc bấy giờ, ông chưa nhìn thấy
quy luật đấu tranh giai cấp. Hồ Biểu Chánh không chủ trương đánh đổ giai
cấp địa chủ phong kiến trên lĩnh vực chính trị và kinh tế mà chỉ sửa chữa
nó về mặt đạo đức. Trong tác phẩm, ông đã đề cao một thứ chủ nghĩa cải
lương phong kiến. Khuynh hướng hiện thực trong tác phẩm Hồ Biểu
Chánh gắn liền với khuynh hướng cải lương và khuynh hướng đạo lý.
Đứng ở góc độ đạo lý, tác giả đã thấy được một số mặt xấu xa, thương luân
bại lý của bọn địa chủ quan lại trong xã hội thời bấy giờ nhưng tác giả lại
chủ trương “ Làm quan đặng dạy dân cho khôn ngoan, làm giàu đặng cứu
dân hết cùng khổ thì mình sùng bái chứ mình đâu dám kích bác họ”.( Khóc
thầm ). ở đây ta thấy rất rõ hạn chế của Hồ Biểu Chánh: tuy có phê phán
bọn địa chủ quan lại về một phương diện nhất định nhưng nói chung lập
trường của Hồ Biểu Chánh vẫn là lập trường của giai cấp phong kiến.
Chưa bao giờ ông chủ trương đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, ông ra
sức cải lương nó theo quan điểm của chủ nghĩa cải lương. Vì vậy, trong
tiểu thuyết, ông đã đề cao một bọn địa chủ “từ thiện”, xây dựng chúng
thành những mẫu người lý tưởng. Hồ Biểu Chánh đã biến các thôn ấp của
bọn địa chủ “ từ thiện” thành những thiên đường giả tạo của chủ nghĩa cải
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 35
lương phong kiến. Kết quả của chủ trương này là đấu tranh giai cấp bị thủ
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> tiêu, mâu thuẫn giai cấp bị xoá nhoà. Nông dân với địa chủ từ đây có thể
xem nhau là bạn bè, miễn ông chủ phải là người có đạo đức.
Bên cạnh Hồ Biểu Chánh thì Phạm Duy Tốn cũng là một nhà văn
tiêu biểu. Trong tác phẩm “ Sống chết mặc bay” ông đã lên án, phê phán
tên quan huyện vô trách nhiệm với nhân dân, không quan tâm đến đời sống
của nhân dân, chỉ biết có một điều là ăn chơi trác táng, sa đoạ. Trong lúc
hàng nghìn dân phu đang vật lộn với mưa và bùn, cố làm chắc cho con đê
đang bị nước sông đe doạ thì giữa đình làng viên quan huyện với lính tráng
phục dịch sòng bài với nha lại, chánh tổng đang đánh tổ tôm để tiêu khiển.
Có kẻ tỏ ý động dao vì nước sông ngày càng lớn thì vị “ cha mẹ dân” gắt.
Quan đang chờ ù ván bài to. Bỗng một người nhà quê, mình mẩy lấm láp,
quần áo ướt đầm, xông vào đình, thở không ra hơi: “ Bẩm quan lớn, đê vỡ
mất rồi”. Thế rồi, anh ta bị quan đuổi thẳng cánh. Những người xung
quanh bị quan quát mắng. Rồi ngài “ Ngoảnh mặt vào, lại hỏi thầy đề:
“Thầy bốc quân gì thế”? “ Dạ, bẩm, con chưa bốc” “ Thì bốc đi chứ”.
Quan hạ tay bài xuống trình ù – “ù chi chi nảy”. Trong khi đó thì khắp mọi
nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng,
lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh
mặt nước...”
Như vậy, trước năm 1930 các nhà văn cũng viết về các nhân vật
phản diện song tần số xuất hiện của các nhân vật còn ít, mờ nhạt, chưa sâu
sắc. Lúc này chưa có các nhân vật kiểu như Nghị Hách, Nghị Quế, Nghị
Lại mà mới chỉ xuất hiện các nhân vật phản diện còn chung chung, mang ít
nhiều tính khái quát. Sở dĩ như vậy là vì thời kỳ này khuynh hướng văn
học hiện thực phê phán mới chỉ nhen nhóm, chưa phát triển thành dòng
văn học cụ thể. Hay nói cách khác, đây là thời kỳ đầu tiên của văn xuôi
hiện đại nên không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Hơn nữa, đây
là thời kỳ mà mâu thuẫn xã hội và mâu thuân giai cấp chưa lên đến đỉnh
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 36
điểm, sự phân hoá về giai cấp, sự phân hoá về xã hội chưa thật sâu sắc nên
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> con ngưòi đam mê danh lợi thiêu đốt dục vọng ít xuất hiện trong thời kỳ
này.
Nhưng ở thời kỳ nào thì các nhân vật phản diện cũng thể hiện bản
chất xấu xa, đồi bại. Quan phủ Lê Xuân Thới trong sáng tác của Hồ Biểu
Chánh mới vừa bốn mươi bốn mà vì ông này có bệnh hút nên hình vóc gầy
mòn, nước da huỳnh đản, coi bộ như người già năm năm tuổi mà lại nhiều
vợ...Trong cái guồng quay của cơ chế trấn áp, các nhân vật phản diện cứ
mở miệng là quát mắng, gắt, thét, la, hét, chửi với thái độ găm ghè sừng
sộ, hách dịch, hống hách, trừng mắt, gân cổ, trừng trợn thậm chí còn đánh
đập hết sức dã man. Trong tác phẩm “ Ngọn cỏ gió đùa” của Hồ Biểu
Chánh, Lý trưởng Tùng hiện lên là một kẻ nhiều quyền lực. Khi bắt được
tên Lê Văn Đó, hắn đánh chửi thậm tệ rồi mới chịu giải lên quan huyện,
quan tri huyện hành phạt một lớp nữa rồi mới giải lên tỉnh. Quan dạy lính
đóng cọc căng tay chân Lê Văn Đó nằm sấp giữa sân. Đánh đòn đủ một
trăm roi, nát thịt, vàng máu, đến mức Lê Văn đó chỉ có thể bò chứ không
thể đi được.
Từ những dẫn chứng trên đây, chúng ta có thể khẳng định rằng nhân
vật phản diện xuất hiện từ rất sớm trong văn học nhưng phải đến thời kỳ
hiện đại, trong quan hệ xã hội tư bản, cuộc sống nhiều lạc thú vật chất: tiền
tài, danh vọng, trai gái, cờ bạc, chè chén... con người không kiềm chế được
mình, luân lý, đạo đức, tôn giáo không đủ khả năng hạn chế và gò bó tính
cách trong khuân khổ pháp luật và đạo lý thì các nhân vật phản diện mới
được lột tả nguyên hình, có chiều sâu. Điều đó được biểu hiện cụ thể, sâu
sắc thông qua các tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, đặc
biệt hiện lên rõ nét qua các tác phẩm “Giông Tố” của Vũ Trọng Phụng,
“Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố, “Bước Đường Cùng” của Nguyễn Công Hoan
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 37
và “Chí Phèo” của Nam Cao.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Chƣơng III: Các loại nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945.
Từ năm 1930, tiểu thuyết Việt Nam thực sự bước vào giai đoạn phát
triển. Thời kỳ này, nhân vật phản diện trong các tiểu thuyết hiện đại phát
triển mạnh mẽ và phức tạp hơn trước. Văn học giai đoạn 1930 – 1945 tồn
tại nhiều khuynh hướng văn học: văn học cách mạng, văn học hiện thực
phê phán, văn học lãng mạn Việt Nam. Trong các khuynh hướng văn học
này, ở mỗi tác phẩm văn học đều xuất hiện những nhân vật phản diện.
Trước khi trình bày các loại nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn
học hiện thực phê phán, chúng tôi điểm qua vài nét về nhân vật phản diện
trong một số tác phẩm văn học lãng mạn để có cái nhìn bao quát và tiện
cho việc so sánh.
I. Nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn học lãng mạn
Việt Nam 1930 – 1945.
Khuynh hướng tiểu thuyết lãng mạn của Tự lực văn đoàn là sản
phẩm của bộ phận trí thức tư sản trong thời kỳ thoái trào cách mạng. Sau
cơn khủng bố trắng 1930 – 1931, văn chương lãng mạn của tự lực văn
đoàn ra đời. Tầng lớp tư sản không dám đấu tranh bằng chính trị và quân
sự chống đế quốc nữa, bèn chuyển ra đấu tranh bằng văn hoá chống phong
kiến. Tiểu thuyết lãng mạn Tự lực văn đoàn về bản chất mang mầu sắc tiêu
cực và thoát ly. Cũng như mọi khuynh hướng lãng mạn tiêu cực khác, tiểu
thuyết tự lực văn đoàn ngày càng xuống dốc. Điều đó là dễ hiểu bởi vì
nhân sinh quan, thế giới quan ngày càng lạc hậu và suy đồi thì tác phẩm
cũng không thể tránh khỏi đi vào con đường bế tắc.
Nhưng chúng ta cũng phải khẳng định rằng văn học thời kỳ này vẫn
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 38
tiếp tục kế thừa truyền thống của nền văn học trước đây, tiếp tục tố cáo lễ
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> giáo phong kiến, đề cao đạo đức phong kiến. Trong các tác phẩm văn học,
các nhà văn đều xây dựng hai tuyến nhân vật rạch ròi: nhân vật chính diện
và nhân vật phản diện. Các nhân vật trong tác phẩm cũng hành động xung
quanh chủ đề về đạo đức phong kiến. Phần lớn các tác phẩm đều phản ánh
đại gia đình phong kiến, quyền uy, trong đó cha mẹ thường quyết định vận
mệnh con cái, đặc biệt trong lĩnh vực hạnh phúc gia đình thì cha mẹ đặt
đâu con phải ngồi đấy. Trong hầu hết các tác phẩm, nhân vật phản diện
phần lớn là các bà mẹ chồng cổ hủ, lạc hậu. Bên cạnh đó còn xuất hiện một
số ông chồng lệ thuộc hoàn toàn vào cha mẹ, nghe theo cha mẹ mà không
đếm xỉa đến hạnh phúc riêng tư. So với nhân vật phản diện trong văn học
hiện thực phê phán thì nhân vật phản diện trong văn học lãng mạn nhìn
chung mảnh hơn, mờ nhạt hơn. Có một điều chúng ta phải khẳng định
rằng, nhân vật phản diện trong hầu hết các tác phẩm văn học lãng mạn là
giống nhau nên khi khảo sát, chúng tôi chỉ quan tâm đến một một số nhân
vật trong một vài tác phẩm mà thôi.
“Nửa chừng xuân” là tác phẩm văn học tấn công vào đại gia đình
phong kiến, tố cáo bọn quan lại và địa chủ phong kiến ở nông thôn nhưng
chưa mạnh lắm. Tác phẩm này cũng có hai tuyến nhân vật rõ rệt. Nhân vật
chính diện và nhân vật phản diện. Đại diện cho nhân vật chính diện là Mai
và Lộc, đại diện cho nhân vật phản diện là Bà Phán. Bà Phán là con người
đại diện cho giai cấp địa chủ phong kiến ở nông thôn nên mọi suy nghĩ và
hành động của bà đều gắn chặt với tư tưởng bảo thủ trì trệ. Bản chất con
người của Bà là hiện thân cho cả tầng lớp địa chủ phong kiến trong xã hội.
Khi Mai và Lộc hết lòng yêu thương nhau thì bà án lại phản đối cuộc hôn
nhân trái phép này vì bà cho rằng không môn đăng hộ đối. Lộc phải nhờ
người giả đóng vai bà án đến hỏi Mai. Tuy biết sự thật nhưng Mai vẫn
nhận lời để đến đáp lòng tốt của chàng. Còn bà án, sau khi nghe con trai kể
thật sự tình, đã không cho phép lại còn quát mắng và rắp tâm phá cuộc
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 39
nhân duyên. Bà bày mưu chia rẽ hai người bằng một bức thư giả mạo
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> khiến Lộc ngờ vợ ngoại tình. Hơn nữa, Bà còn đến gặp Mai, cố ý làm nàng
tưởng Lộc nhờ mẹ đến đuổi nàng đi để rảnh tay cưới con gái cụ Tuần. Mai
mắc mưu bà án, cảm thấy ghê tởm người chồng tầm thường, hền hạ và tin
rằng Lộc chỉ là một gã sở khanh nên nàng dứt khoát bỏ đi. Lộc lại càng tin
rằng Mai bạc tình, đã bỏ chồng đi theo trai. Sau đó, Lộc cưới con gái cụ
Tuần theo ý mẹ còn chị em Mai đến trọ trong một xóm nhỏ giữa những
người lao động nghèo và được họ cưu mang, đùm bọc. Vốn là một cô gái
hay làm, Mai đã tần tảo, đảm đang, chan hoà với những người lam lũ,
quyết chí nuôi em ăn học. Một bác sĩ trẻ, rồi một hoạ sĩ lần lượt đến ngỏ
lời muốn lấy nàng làm vợ song Mai đều từ chối vì Mai vẫn chưa quên hẳn
Lộc. Còn Lộc sau này biết rằng những việc làm của mình là sai lầm, anh ta
rất ân hận và cuộc sống của anh không tìm thấy hạnh phúc. Lộc đau khổ,
dằn vặt vì sự tàn nhẫn của mẹ, đã xua đuổi Mai trong lúc bụng mang, dạ
chửa. Còn bà án khi biết được chỗ ở của Mai, bà tìm đến để bắt đứa cháu
nội. Trước lời lẽ đĩnh đạc của Mai, bà đành thất bại về không. Bà bắt Lộc
đến gặp Mai đón con về, nhận Mai làm vợ lẽ...
Như vây, tác phẩm “Nửa chừng xuân” là một tiểu thuyết luận đề
tuyên chiến với lễ giáo phong kiến, đòi quyền tự do yêu đương và hạnh
phúc cá nhân. Hình tượng bà An trong tác phẩm là một nhân vật phản diện,
tiêu biểu cho quan niệm hôn nhân gia đình phong kiến, coi hôn nhân là
phương tiện thăng quan tiến chức, khẳng định uy quyền tuyệt đối của cha
mẹ trong hôn nhân khá chân thực, sinh động chứ không phải là một biếm
hoạ đơn giản, tiêu biểu cho một lực lượng phản diện đen tối, vô nhân đạo,
phá hoại hạnh phúc thanh niên.
Bên cạnh tác phẩm “Nửa chừng xuân”, “Đoạn tuyệt” cũng là một tác
phẩm có sức tố cáo khá mạnh, nhất là những chương nói về các tập quán
cổ hủ trong gia đình bà Phán, về cách đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo của
những kẻ đại diện cho lễ giáo phong kiến. Hôn nhân chỉ là một việc mua
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 40
bán, không hơn không kém: “ Nay cha mẹ bắt nàng làm vợ Thân là đã bán
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> xác thịt cuả nàng, bán nàng vì một số tiền ba nghìn bạc.” Tác giả đã mượn
lời trạng sư công kích kịch liệt chế độ đại gia đình đang muốn biến con
nguời thành những kẻ nô lệ. Tác phẩm kể về nhân vật Loan, một cô gái có
tư tưởng Âu hoá, từng học trường cao đẳng sư phạm nhưng vì cảnh nhà
nghèo phải bỏ dở. Nàng yêu Dũng – con một viên quan tuần phủ, vì bất
đồng về lý tưởng với bố nên bị bố từ. Dũng cũng thầm yêu Loan nhưng
muốn thực hiện chí lớn nên tạm gạt bỏ hạnh phúc cá nhân sang một bên.
Để trả ơn một món nợ vay của bà phán Lợi, cha mẹ Loan đã ép gả nàng
cho Thân, con trai bà phán, một thanh niên tầm thường. Lầm tưởng Dũng
không yêu mình và cũng mủi lòng trước giọt nước mắt của người mẹ, sau
nhiều phen phản đối dai dẳng, Loan đành bằng lòng. Nhưng từ khi về làm
dâu, nàng đã vấp phải một thế lực rất cổ hủ, từ bà mẹ chồng cay nghiệt đến
cô em chồng đanh đá, hay xúi bẩy, đã trói buộc và giám sát nàng từng
bước đi, từng hành động. Chồng Loan là người vô vị, nệ cổ, chỉ biết nghe
theo mẹ chứ không quan tâm đến hạnh phúc của hai nguời. Quan hệ giữa
Loan và gia đình nhà chồng ngày càng thêm ngột ngạt, căng thẳng. Con
trai nàng bị chết vì bà mẹ chồng chỉ nghe theo lời thầy cúng cho uống
nước thải chứ không chịu uống thuốc Tây. Loan không còn khả năng sinh
đẻ, Thân lén lút đi lại với Tuất, sau đó công khai lấy cô làm vợ lẽ, không
cần hỏi ý kiến Loan. Một lần Thân gây sự với Loan, bà mẹ chồng cũng hùa
theo con, xông vào đánh Loan. Loan chống đỡ theo bản năng nhưng Thân
lại hung hăng chồm đến tiếp tay cho mẹ. Vì vô ý, Thân trượt ngã vào con
dao rọc giấy Loan đang tình cờ cầm trong tay để tự vệ, bị dao xuyên vào
ngực chết ngay. Loan bị đưa ra toà, nghiêm khắc kết tội Loan giết chồng
nhưng rồi Loan được một luật sư người Pháp hết lòng bênh vực, nàng
được trắng án...
Như vậy, “Đoạn Tuyệt” là một tác phẩm luận đề rất tiêu biểu cho
khuynh hướng của Tự lực văn đoàn. Loan là một nhân vật nữ rất tích cực,
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 41
đại diện cho phái mới mà Nhất Linh dùng để phát ngôn cho một quan niệm
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> sống khước từ dứt khoát những thế lực văn hoá, lễ giáo, phong tục của chế
độ đại gia đình phong kiến vốn đang ngự trị nặng nề trong đời sống Việt
Nam lúc ấy – nó bóp nghẹt quyền sống cá nhân, nhất là trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đình, nhằm mở đường cho cái tôi nảy nở. Bên cạnh đó, tác
phẩm còn lên án và phê phán một cách gay gắt thế lực tàn bạo, đê hèn
trong xã hội, đó là nhân vật chồng Loan và mẹ chồng Loan. Hai nhân vật
này góp phần không nhỏ vào việc làm tan nát cuộc đời vốn rất đẹp của
Mai.
Có thể khẳng định rằng, thông qua một vài nhân vật phản diện trong
một số tác phẩm văn học lãng mạn, chúng ta thấy rằng, nhân vật mới chỉ
dừng lại ở vấn đề đạo đức gia đình phong kiến mà ít quan tâm đến hạnh
phúc riêng tư của con nguời, đặc biệt, ít quan tâm đến hạnh phúc lứa đôi.
Con người ở đây dường như mất hẳn cái tôi cá nhân của riêng mình. Nhân
vật phản diện là tầng lớp người đại diện cho hệ tư tưởng phong kiến lỗi
thời, lạc hậu.
II. Các loại nhân vật phản diện trong một số tác phẩm văn học
hiện thực phê phán.
1. Hệ thống nhân vật phản diện không tên tuổi, không lai
lịch rõ ràng.
Nhiều loại nhân vật phản diện kể cả những nhân vật không có tên
tuổi, lai lịch rõ rệt, chỉ mới được phác hoạ qua vài nét về hình dáng, ngôn
ngữ và hành động. Nhưng qua một vài nét chấm phá đó, người đọc cũng đã
hình dung khá rõ bản chất và cá tính của chúng với những màu sắc thời đại
và màu sắc địa phương khá đậm. Họ cậy quyền, cậy thế mà áp bức người
nghèo hoặc làm tay sai cho chính quyền thực dân phong kiến mà sống xa
hoa, dâm dật, truỵ lạc.
Hình tượng tên lính lệ hiện lên thông qua cách ăn mặc theo kiểu lạ
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 42
kỳ: “ Người lạ mặt có cái đặc biệt là mặc hai áo cộc. áo trong bằng vải, áo
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> ngoài bằng đũi nhuộm vỏ sò, mà cùng dài gần đến đầu gối, cùng may lối
năm thân và cùng có cổ rất cao”. Cách ăn mặc ấy kết hợp với thái độ,
hành động của hắn đã lột tả khá rõ một con người vô văn hoá, mất lịch sự:
“Người ấy mặt khinh khỉnh, đội khăn lượt cuốn có năm vòng, nhưng đằng
trước cuốn được hơn mười nếp. Người ấy tay cầm một chiếc roi mây quấn
tròn đầu, đi tuột vào trong nhà, leo lên phản ngồi, không chào ai cả.”
Chưa đủ,” người lính hút xong điếu thuốc, há toang miệng cho làn khói
đặc ngùn ngụt tuôn dần ra, rồi vẫn chưa nói tiếng nào, thong thả móc túi
lấy đưa Pha một tờ giấy có đóng nhiều dấu đỏ”. Cách ăn uống của hắn
cũng thể hiện một con người thô tục hết chỗ nói: “ Hắn kề cà vừa uống,
vừa nhắm rất thô tục. Trong khi ăn, anh ta chẳng nói với chủ một tiếng
nào. Đánh loáng, hai đĩa thị luộc đã gần hết. Pha phát ngượng về sự thiếu
đồ nhắm, phải làm lối lịch sự, xuống bếp chặt nốt chỗ thịt... Thấy được tiếp
đồ ăn, khách càng ăn, càng uống già. Hắn nốc từng hụm rượu và nuốt ừng
ực”. Bên cạnh đó, hắn còn hiện nguyên hình là một kẻ ra vẻ biết điều: “
Tôi lấy làm lạ, sao ông Nghị Lại lại cho người đưa tôi sang đây, mà không
cho tôi ăn cơm ở bên ấy. Quan sai tôi về đây về việc cử ông ấy. Ông ấy bị
thị Anh nó kiện là ăn hiếp lấy nhà của nó. Quan bảo ông ấy biết trước để
liệu mà thu xếp, vậy đáng lẽ phí tổn tiếp tôi, ông ấy phải chịu thì phải.”
Thế vẫn chưa đủ, khi về, hắn còn vòi Pha hai hào, gọi nhã là tiền xe để về
huyện.
Khi Pha đi hầu kiện, anh lại gặp một tên lính lệ khác. Tên này khét
tiếng là hống hách, đòi tiền của dân mỗi khi đến hầu kiện. Cậu lệ ngắm
nhìn Pha từ đầu đến chân, rồi hỏi:
“Có gì không?
Pha vui vẻ móc túi lấy phong thư và mỉm cười đáp: có giấy của ông
nghị tôi”. Thế là Pha bị một một quả tống vào ngực đau điếng.
Pha bị lính lệ đánh là vì chúng nói mà anh chẳng hiểu được gì cả.
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 43
Anh là dân đen, chưa bao giờ đến kiện quan bao giờ nên anh không thể
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> biết được “phong tục” nơi cửa quan. Hành động tệ nhất của bọn lính lệ là
đánh đập, hành hung, cướp bóc của dân cày. Hắn đã từng thò tay vào, nắn
hai túi và thắt lưng người cùng đinh. Khi thấy cục nút, hắn hiểu ngay là
tiền và đổi giọng ngay được: Các anh ngu lắm kia. Có việc vào quan mà cứ
lại không muốn mất tiền để người ta chỉ bảo công việc cho. Mau lên, đưa
đây mấy hào, không thì... Anh Pha đưa một, hắn đòi hai. Khi anh Pha loay
hoay lấy thêm hào nữa thì mấy xu rơi ra. Người lính vội vàng nhanh như
cắt, cướp lấy, cướp để và cười sằng sặc, đắc chí.
Như vậy, phải nói rằng, mỗi tên mỗi vẻ, chỉ biết rằng chúng đều
giống nhau ở điểm bóc lột người lao động đến tận xương tuỷ làm cho
người nông dân không thể ngóc đầu lên được. Chúng xấu xa, đê tiện đến
mức đánh mất giá trị nhân phẩm, chỉ còn lại sự trâng tráo và đê tiện mà
thôi. Trong mọi hoàn cảnh, chúng sẵn sàng cấu kết với thực dân, địa chủ
phong kiến để áp bức, bóc lột giai cấp nông dân Việt Nam. Suy cho cùng,
đó là hành động bán nước, hại dân.
Hình tượng quan huyện hiện lên trong tác phẩm: “Bước Đường
Cùng” trước hết là một ông Quan phụ mẫu thờ ơ, lạnh lùng với nhân dân.
Khi thấy anh Pha đến, tên quan phụ mẫu này vẫn chăm chú cạo quân bài
và hút thuốc lá như ban nãy. Ngài không ngửng đầu lên mà cũng không
đáp. Dáng vẻ bên ngoài của tên này có nhiều cái đặc biệt. ở phương diện
này nhà văn Nguyễn Công Hoan rất thành công trong việc mô tả hình dáng
bên ngoài của hắn: “Đứng trước ngài người ta có cảm tưởng như lại phải
ăn một mâm cỗ đầy ăm ắp những thịt mỡ khi người ta đã no nê. Nghĩa là
người ta phát ngấy về sự phì nộn của ngài. Ngài cúi mặt xuống, cả tấm thịt
trên quai hàm bị cổ áo là cứng nó đùn lên, nó vẽ lên một nét nhăn, chia má
làm hai khu đều nhau, khu nào cũng phinh phính và nung núc những thịt.
Cái tấm má ấy đều đặn, đến nỗi giá chỉ một mũi kim nhỏ lỡ đụng vào, là
có thể làm chảy ra hàng lít nước nhờn nhờn mà người ta quen gọi là mỡ...
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 44
Lông mi ngài rộng mà vòng lên, đối với đôi mắt ngài hùm hụp cong xuống.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Từ thái dương đến má, đến xung quanh miệng ngài, người ta tưởng mặt
ngài làm bằng sắt, vì nó đen đen. Nhưng không, màu ấy chỉ là di tích bộ
râu quai nón mà sáng nay ngài quên chưa cạo’’.
Hình dáng thì như vậy, còn trang phục của ngài mới ngộ làm sao: “
Ngài đặt lên đầu một vòng khăn không xứng đáng. Vì đối với cái mặt vĩ đại
ấy, nó phải nhiều nếp hơn. Cho nên quấn quanh đầu ngài, nó như chiếc
vành sắt đai quanh một thùng gỗ gánh nước. Mà khăn ấy, ngài đội một
cách rất chướng, đến nỗi một người nào hơi có óc thẩm mỹ cũng phải phát
cáu mà vô phép ngài, ấn thật mạnh đằng sau xuống cho nó trùm nốt gáy ”.
Riêng ở ngài, sự oai vệ cũng đã quá đầy đủ rồi. Thế mà đằng sau,
đằng trước, bên phải, bên trái, còn bày la liệt những thứ khiến người yếu
bóng vía phải rùng mình: “thanh quất, súng lục, súng trường, gươm, gáo,
bát xà mâu, kích... rặt những thứ chỉ quệt vào thằng dân nào là thằng ấy
đủ chết mất ngáp”.
Quan huyện cũng như tất cả các ông quan khác, rất quan tâm đến
“tiền”. Thậm chí, Quan vừa đọc thư vừa với tay vào cái đĩa không để ổ góc
bàn. Ngài vét mấy lượt, chẳng được gì. Bỗng ngài ngẩng lên nhìn thẳng
vào mặt Pha, ngạc nhiên hỏi: - Đâu?. Té ra Pha quên đặt vào đĩa năm đồng
bạc tiền trình theo lệ nhà quan. Vì thế anh bị quan sai lính tống cổ xuống
trại giam. Ông quan này hết cau mặt, gật, rồi nói sẵng:
-“ Mày đừng láo. Ông nghị viết cả cho tao là mày trình tao năm
đồng và tạ tao hai chục, vì thế ban nãy tao mới bảo tha cho mày’’.
Trong tác phẩm Bước Đường Cùng còn xuất hiện thầy đội với đầy
đủ những mánh khoé để cướp tiền của anh Pha – Người nông dân lao động
hiền lành. Hắn dụ dỗ anh Pha ngon ngọt để rồi anh Pha phải khai ra rằng
anh có tiền. Bát đồ thằng cáo già chộp ngay, bóc lấy một tờ, bỏ vào túi để
đến tối góp tiền tổ tôm. Người lao động như anh Pha thì tối ngày bán mặt
cho đất, bán lưng cho trời, ấy thế mà bọn này chỉ biết hưởng thụ, hút máu
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 45
của bọn cùng đinh cho thoả chí tang bồng. Bọn chúng cậy có quyền, có thế
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> mà áp bức người nông dân. Chúng cướp tiền của người dân một cách trắng
trợn để vui thú với cuộc sống xa hoa, dâm dật, truỵ lạc. Cướp bóc không
thôi chưa đủ, chúng còn tiếp tục giam hãm, tù đầy người nông dân làm cho
họ mất đường làm ăn, không sao ngóc đầu lên được.
Bên cạnh nhân vật thầy đội còn xuất hiện nhân vật thầy quyền hết
mức đểu cáng. Hắn trông thấy người đàn bà - vợ Pha, hắn cho rằng người
đàn bà này tuy xấu nhưng mà “đôi vú vẫn còn vớt vát được”. Thế rồi, hắn
túm ngay lấy nón chị, rồi lẳng lơ buông câu:
“ Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?”
Hắn còn giở thói bỉ ổi: bóp vú chị, rồi còn nhăn nhở như một kẻ điên
tình, rồ dại. Chị Pha muốn vào thăm chồng trong nhà lao thì phải ký cược
đồng bạc cho bọn lính, nếu không thì không bao giờ được vào thăm chồng.
Lý trưởng thì hống hách, lạm quyền, đầu cơ của bộn cường hào:
“Chúng tôi làm vua, làm việc quanh năm đầu chày đít thớt, chỉ có những
lúc “hồng thuỷ chướng giật” và những khi “sưu thuế giới kỳ” như thế này
thì mới có quyền. Tha hồ đánh, tha hồ trói trai làng thằng nào bướng
bỉnh... đánh chết vô tội vạ”. Khi Lý Trưởng nhìn thấy vợ chồng anh Dậu
đọc bức văn tự, tức thì Hắn nổi cơn lôi đình: “- Giấy má gì đấy ! Con mẹ
đĩ Dậu? Đơn kiện phải không? ừ ! Được ! Có giỏi thì đi kiện ngay ông đi !
Ông thử cho mày thêm một trận nữa, để mày đi kiện luôn thể ”.
Khi động chạm đến quyền lợi của lý trưởng, hắn liền cất giọng lè
nhè: “ Ông Lý cái gì? Việc gì mà nói đến ông Lý đấy”. Lý trưởng bắt chị
Dậu phải nộp đủ tiền sưu cho chồng. Nếu không thì “ ông trời xuống đây
cũng không tháo được cái thừng ở tay thằng Dậu.
ở làng Đông Xá, Lý trưởng là người được nắm giữ quyền hành.
Ông lợi dụng chức, quyền của mình, ra sức áp bức nông dân. Ông tự ý thu
“lạm” mà chẳng ai làm gì được ông cả. Khi anh Dậu bị trói, chúng tìm mọi
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 46
cách gây khó khăn cho vợ chồng anh Dậu nhằm làm cho vợ chồng anh
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> điêu đứng. Thế rồi những tiếng hách dịch, quát mắng của Lý trưởng cứ
liên tiếp theo giọng lưỡi ông mà tuân ra: “ Mày đi mà hỏi ông Tây, tao
không biết”. Từ miệng lưỡi của Lý Trưởng còn thổ ra những lời lẽ hết sức
khốn nạn, tàn nhẫn, không còn tính người: “ Khai tử rồi cũng phải đóng
sưu. Ai bảo nó không chết từ tháng mười năm ngoái”.
Phó lý thì tàn nhẫn. Được cái quyền hách dịch người dân nên phó lý
luôn tỏ thái độ ra oai : “ Con mẹ dĩ Dậu ! Mày có câm đi, không thì ông vả
vào mồm bây giờ”. Những lời nói hống hách, quát nạt thôi chưa đủ, hắn
còn đay nghiến, coi thường chị Dậu: “Đàn bà thối thây, suốt năm có một
suất sưu của chồng mà không chạy nổi, lại còn nỏ mồm...”
Lý cựu và chánh hội thì đôi khi lại gầm ghè, hậm hực lẫn nhau.
Chúng mâu thuẫn với nhau về quyền lợi, nghĩa vụ. Chánh hội đã từng vênh
bộ mặt hách dịch: “ ừ đấy ! Quyền tôi được thế! Quan sức cho tôi “hiệp dữ
lý trưởng” thôi đốc vụ thuế năm nay, người nào gai ngạnh tức là “ hãn trở
thuế sự” tôi gông cổ lại cho mà xem”. Lúc đó lý cựu lại sừng sộ: “Miệng
ông, ông nói; đình làng ông ngồi, đố thằng nào làm gì được ông”.
Quan phủ lẳng lơ chưa đủ, hắn sẵn sàng hiến dâng vợ mình để được
thăng chức. Hắn nói với vợ: “ Tôi còn chịu được nữa mợ! Tục ngữ đã nói:
Giàu vì bạn, sang vì vợ, năm nay tôi mà được thăng chức là công mợ”.
Tiễn vợ ra đi, quan phủ vui vẻ trở vào kêu án chị Dậu bằng cách nắm tay
chị, lôi lại và ngọt ngào: “Hãy vào trong giường này đã... mày đánh lính
trong khi làm phận sự, tội nặng lắm... Vào đây rồi tao châm chước đi cho’’.
Tên tri huyện về đốc thuế, khám phá ra bọn hương lý làm bậy, bèn
lấy cớ để xoay tiền. Nó thấy chị Dậu có nhan sắc, lại bắt chị lên huyện để
hiếp. Nhưng chị đã trốn thoát được tay nó. Muốn có tiền nộp đủ sưu để
chồng khỏi bị đánh đập, cùm kẹp, chị đành bỏ con măng sữa ở nhà, đi ở vú
em cho bố một tên tuần phủ bú vì lão già đã rụng hết răng. Thằng cụ cố tuy
kề miệng lỗ nhưng không bỏ được thói đâm ô, một đêm nó lần đến chỗ chị
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 47
Dậu nằm, ôm lấy chị định dối già một chuyến. Nhưng chị đã chạy thoát.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Dưới bọn Lý trưởng, quan huyện... còn xuất hiện những tên khác
như cai lệ và biện lệ. Chúng cũng thả cửa hạch sách, nạt nộ và bóc lột
người nông dân một cách hết sức vô lý. Công việc chính của bọn này là
giúp việc cho Lý trưởng và các ông quan ở trên tỉnh, huyện về. Bản chất
của bọn này cũng xấu xa, đồi bại vô cùng. Chúng một mặt phải phụng sự
cấp trên nhưng mặt khác chúng vẫn có thể nói xấu và buông ra những lời
lẽ thiếu thái độ tôn trọng đối với cấp trên. Đối với người nông dân, chúng
bóc lột bằng cách bắt người nông dân phải trả cho chúng một thứ tiền vô
lý: “Con mẹ kia! Đưa năm hào ra nộp tiền hàng đội”. Khi chị Dậu nói là
chị không biết tiền “hàng đội” là tiền gì thì chúng cho rằng chị giở lý sự và
tý nữa xông vào đánh chị Dậu. Té ra tiền hàng đội chính là tiền giường,
tiền chiếu, tiền cơm mà chị Dậu phải trả cho bọn biện lệ và cai lệ khi chị
lên hầu quan. Không có tiền cho bọn nó, chị lại bị cho chân vào cùm...
Giai cấp địa chủ cường hào ấy không phải là ai khác mà chính là
quan lại, lý trưởng, cai lệ, lính lệ, tri huyện, cai lệ, biện lệ... chúng vào hùa
nhau cấu kết với thực dân, làm tay sai đắc lực cho thực dân. Chúng vơ vét
tài sản ít ỏi của nhân dân, đặc biệt là trong những vụ sưu thuế, nhờ gió bể
măng, tha hồ phù thu lạm bổ. Sưu thuế đã nặng, thế mà thực dân đánh một
chúng còn thu gấp rưỡi, gấp đôi. Hàng năm cứ đến vụ thuế, nghe tiếng
trống thuế đánh gióng ba là người nông dân rùng mình, có cảm tưởng như
là trống giặc trống cướp, trống cháy nhà vỡ đê. Riêng gia đình Pha, có tám
sào ruộng và ba suất đinh, phải nộp tới 13 đồng rưõi, bằng khoảng 4 tạ
gạo. Chính một phần vì món sưu thuế đó, mà Pha phải mất hết ruộng vào
tay Nghị Lại... Trong khi người nông dân méo mặt vì thuế thì địa chủ lại
có dịp làm giàu thêm. Bọn chúng thường khinh miệt dân cày, cho nhân dân
là hạng người thấp cổ bé họng, là một hạng ăn no vác nặng chỉ tốt cho việc
bóc lột mà thôi. Như vậy, thành công của các nhà văn hiện thực phê phán
là đã cố gắng thực hiện nhiệm vụ người thư ký trung thành của thời đại.
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 48
Họ đã lên án một cách gay gắt về một chế độ xã hội thối nát, tàn nhẫn, dâm
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> ô, “ cái xã hội chó đểu” mà bọn thực dân phong kiến không ngớt lời tán
tụng.
Như vậy, nhân vật phản diện trong các tác phẩm hiện thực phê phán
hầu hết là những nhân vật không tên, chủ yếu chúng được gọi bằng những
chức danh trong bộ máy thống trị: Chánh tổng, lý trưởng, chánh hội, phó lý,
lý cựu, cai lệ, biện lệ, lính cơ... Các nhà văn không đặt tên cho các nhân vật
này là có ngụ ý: khái quát một hệ thống bộ máy thống trị bạo lực ở nông
thôn Việt Nam đương thời. Chính hầu hết những nhân vật phản diện này đều
là những kẻ vận hành, thực thi cơ chế trấn áp, bạo lực. Không khí bạo lực,
trấn áp tràn ngập mọi ngõ ngách làng quê, toát lên từ chính những việc làm,
hành động, lời nói của bọn đầu trâu mặt ngựa này. Trong cái guồng quay của
cơ chế trấn áp, các nhân vật phản diện này cứ mở miệng là quát, gắt, thét, la,
mắng chửi với thái độ gằm ghè, hầm hầm, sừng sộ, hách dịch, hống hách,
đùng đùng, trừng mắt, gân cổ, trừng trợn. Dưới con mắt của các nhà văn, bọn
cường hào lý dịch là một lũ, từ cử chỉ đến giọng lưỡi, từ việc đánh chửi, quát
nạt đến thói bòn vét, xoay xở ăn bẩn, từ lúc lộng hành, đắc thế trước người
dân cày, đến khi khúm núm, sợ sệt trước quan trên... biểu hiện rất khác nhau
nhưng bản chất bao giờ cũng hiện y nguyên là những kẻ tiểu nhân, thô lậu,
bần tiện, đê mạt. Bọn quan lại là cấp trên của cường hào về quyền lực, và
cũng là bậc thầy của chúng về thủ đoạn ăn tiền. Bọn này vơ vét nhiều hơn,
thường xuyên hơn nhưng biết che đậy kín đáo hơn. Bọn này còn có những
thói xấu ghê tởm mà lũ cường hào tẹp nhẹp kia không có. Điển hình như tên
tri phủ Tư Ân đã sử dụng vợ như một bực thang tiến thân, và chỉ trong một
đêm hắn có thể vừa hiến vợ mình lại vừa cưỡng đoạt vợ người. Còn tên quan
cụ chỉ xuất hiện trong vài trang cuối truyện, nhưng với cái thói tám mươi
tuổi còn nuôi vú sữa, và tiếng thều thào mà ai đọc “Tắt đèn” đều không thể
nào quên, đã thể hiện nguyên hình như một con đười ươi già ghê sợ. Có một
điều chắc chắn rằng, so với nhân vật phản diện có tên tuổi thì các nhân vật
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 49
phản diện không tên tuổi thường là những nhân vật ít mang tính cá thể hoá,
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chưa có chiều sâu. Vì vậy, những nhân vật phản diện kiểu này chưa phát
triển thành điển hình văn học.
2. Các nhân vật phản diện có tên tuổi, có lai lịch rõ ràng (Nghị
Hách, Nghị Quế, Nghị Lại, Bá Kiến)
Trong các tác phẩm văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 –
1945, đặc biệt các tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, Bước Đường Cùng
của Nguyễn Công Hoan, Giông Tố của Vũ Trọng Phụng, Chí phèo của
Nam Cao đã thể hiện các nhân vật phản diện một cách hết sức sâu sắc.
Nhiều loại nhân vật phản diện có tên tuổi, lai lịch rõ ràng được tác giả mô
tả cụ thể qua hình dáng, ngôn ngữ, hành động. Tất cả làm cho người đọc
hình dung ra bản chất và cá tính riêng của từng nhân vật.
2.1 Những đặc điểm gần gũi và giống nhau:
Các nhân vật phản diện có tên tuổi đều là những kẻ thất học, ngu
dốt, keo kiệt, tàn ác, vô đạo đức, vụ lợi, tham ô... Cái xấu xa của tâm hồn
bên trong tương xứng với cái hình thù xấu xí bên ngoài. ở chúng cái gì
cũng cong, từ cái sống mũi đến cái lương tâm và cách xử kiện. Chúng hết
sức trâng tráo, không cần che dấu mọi tội lỗi.
Trâng tráo, vô liêm sỉ là nét nổi bật của hạng người tham tàn Nghị
Hách. Khi gặp lại khoá Hiền, thằng phản bạn, cướp vợ bạn một cách thản
nhiên và bẻm mép thanh minh tội lỗi của hắn một cách trơ tráo: “ Vâng,
chẳng may bác phải tai nạn, còn trơ trọi bác gái sống một mình, thành ra
tôi đem lòng thương. Từ cái thương đến cái yêu không xa, xin bác hiểu cho
cái chỗ hèn yếu của lòng người”. Trong bữa tiệc khao được tặng huy
chương, lão đã diễn thuyết hùng hồn, nước mắt lã chã và thề thốt thống
thiết :” Tôi thương xót đồng bào tôi quá”... Đẻ ra là bình dân, tôi xin giữ
lòng trung thành với bình dân cho đến chết. Thế rồi lão tuyên bố với mọi
nguời: lão sẽ gả con gái lớn cho “ một thiếu niên vô thừa nhận” mà lúc này
hắn biết rất rõ là con riêng của lão. Thật là trâng tráo, vô liêm sỉ đến mức
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 50
kinh tởm.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Trong tác phẩm, Nghị Hách còn hiện lên là một kẻ thiếu văn hoá.
Tác gỉa đã mô tả nét văn hoá rất đặc trưng theo kiểu học đòi Tây của Nghị
Hách được thể hiện qua chi tiết: “ Đây là một cô gái Trung Hoa trắng
hồng như trứng gà bóc, mũm mĩm, nằm hớ hênh, trật cả đùi lẫn vế. ở góc
lại một cô nữa, chẳng mặc gì để che tấm thân trắng phau, béo phốp,
nhưng lại thẹn thò, chua ngoa, một tay bịt chỗ chẳng nên bịt, và một tay
giơ lên trời, cầm một cái... Một cái đây, hiểu ngầm là một ngọn đèn cụt
đầu.” Nghị Hách là một con ngưòi đại diện cho tầng lớp địa chủ phong
kiến, khét tiếng với lối ăn chơi, pha tạp của nhiều nền văn hoá suy đồi, truỵ
lạc.
Một lối ăn chơi pha tạp của Nghị Hách cũng làm cho người ta buồn
cười: “ Đó là một người gần năm mươi thân thể vạm vỡ, hơi lùn, trước
mặt có một cặp kính trắng gọng vàng, trên môi có một ít râu lún phún kiểu
tây, cái mũ dạ đen hình quả dưa, cái áo đen bón một khuy, cái quần đen
sọc trắng, đôi giày láng mũi nhọn và bóng lộn làm cho lão có cái dáng vẻ
sang trọng mà quê kệch, cái vẻ rất khó tả của anh trọc phú họ làm người
văn minh”.
Nghị Hách còn tàn nhẫn và độc ác vô cùng. Hắn hãm hiếp, đánh
giết, lừa người. Hai mươi sáu năm trước, Tạ Đình Hách mới chỉ là một bác
cai thợ nề. Ngay khi đó, Tạ Đình Hách đã là kẻ lừa thầy, phản bạn, có dã
tâm cướp vợ bạn. Và kẻ chuyên lừa thầy phản bạn ấy không ngần ngại
trước bất cứ tội ác nào. Lão đã từng “ bỏ bã rượu vào ruộng lương dân rồi
báo nhà đoan và chỉ bởi một thủ đoạn ấy đã tậu được ba trăm mẫu ruộng
rất rẻ tiền”. Hắn đã từng giết người làm rồi vứt xác người ta xuống giếng
mà khai người ta tự tử. Mỗi thứ tài sản to nhỏ trong nhà tên triệu phú đó
đều gắn với một tội ác bỉ ổi của chủ nhân. Khi Hải Vân xem tử vi cho lão
mới kể qua loa cho lão nghe một số tội ác trước kia của lão như: thông
dâm vợ người, lừa người được số bạc trăm, hiếp dâm, giết người, “ hai
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 51
mạng người đã chết vì quan bác” thì hắn trầm trồ, giật mình. Hắn tàn nhẫn
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> với ngay cả con của hắn một cách vô nhân tính. Hách công nhiên giẫm đạp
lên lương tri và nhân phẩm, công nhiên gả Tuyết cho Long – hai anh em
ruột do vợ chồng hắn đẻ ra. Hành động vô luân này là điển hình tột cùng
bản chất vô lương của Nghị Hách mà sinh thời nhà văn Nguyễn Tuân phải
ghê sợ. Gấp trang sách lại, hình ảnh một nghị Hách dâm và đểu, độc ác và
giả dối – một bạo chúa cứ hiện lên rõ nét, đúng như giáo sư Nguyễn Đăng
Mạnh đã chỉ rõ:” Tính cách Nghị Hách là tính cách bạo chúa‟‟. Hơn thế
nữa, hắn còn là một tên dâm dục đê tiện. Hắn có mười một nàng hầu thôi,
chưa đủ, hắn còn có giã tâm ức hiếp người con gái thôn quê hiền hậu. Bản
chất dâm dục của hắn hiện lên nguyên hình khi hắn “nom thấy rõ hai cái
má phúng phính, một cặp môi nhỏ và dày, cái cằm tròn trĩnh và hơi lẹm
trong cái khăn mỏ quạ bằng láng thâm” của thị Mịch. Thế rồi, khi cô ả
gánh rạ đi qua, “ nhà điền chủ lại trông theo caí váy nâu cũn cỡn, do một
đường lạt khíu giữa, cho nó chẽn đến nửa đùi, một bộ đùi phốp pháp trắng
nõn, trông rất đáng yêu mặc lòng từ bụng đến bàn chân đều có một lớp bùn
trắng, mỏng, khô đông lại, đã nứt ra thành từng miếng nhỏ, sắp rơi xuống”.
Thế là đôi mắt phong tình của một con cáo già dâm ô đã làm hỏng cả một
cuộc sống vốn bình bị của thị Mịch. Hắn hành động như một con chó săn
mồi, hắn đâu biết rằng chính hành động đó đã giết chết biết bao những
mảnh đời thảo thơm, trong trắng. Trong cơn cuồng dâm, hắn đã hành động
như một kẻ không còn chút ít nhân tính nào. Chính hành động ấy của hắn
đã biến Mịch từ một thiếu nữ thôn quê hiền hậu trở thành kẻ tha hoá về
nhân phẩm: “ Mịch đã đi từ một gái quê ngây thơ, hiền lành, chất phác đến
một thiếu phụ gian dâm, lãng mạn, xảo quyệt đáng sợ.”
Bên cạnh đó, Nghị Hách còn là một kẻ ngu dốt và keo kiệt. Tuy hắn
là nghị viên song mọi suy nghĩ và hành động của hắn đều thể hiện một con
người còn nhiều nhược điểm. Hắn không phải tiếp đãi ai bao giờ ngoại trừ
những kẻ mà hắn xu nịnh. Hắn đã hiếp dâm thị Mịch, làm hỏng cả cuộc
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 52
đời thị Mịch, thế mà khi Long bàn về việc phải bồi thường “thiệt hại” cho
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> thị Mịch thì hắn so đo tính toán, phàn nàn: “ Chết ! Vài trăm bạc! Mày
điên! Mày có biết những nàng hầu của tao ở đây, đáng giá bao nhiêu mỗi
thị không? Cái đứa đẹp nhất tao cũng chỉ mua của bố mẹ nó có bảy chục.
Còn phần nhiều không mất xu nào. Có bảy chục bạc còn phải về hầu hạ
người ta suốt đời huống chi chỉ có một lần mà những vài trăm bạc”. Đắn
đo suy tính một lúc lâu rồi hắn quyết định “ừ ! Mày nói nghe được! Thế
hợp ý tao lắm. Hai trăm bạc...” Về chuyện này thì nghị Hách đã thể hiện
một con người ngu dốt, không biết ứng phó với hoàn cảnh thực tế, chỉ biết
nghe những lời xúi giục, chỉ bảo của Long và Tú Anh mà thôi.
Nghị Quế là tên địa chủ bình thường nhưng rất điển hình cho giai
cấp địa chủ Việt Nam. Đó là một tên trọc phú ngu dốt. Với lối bóc lột theo
kiểu trung cổ thô sơ, bọn địa chủ nói chung không cần đến văn hoá bao
nhiêu. Nghị Quế cũng có cái đức lớn là không thèm cần đến văn hoá,
không cần biết chữ. Tính chất trọc phú đó dễ nhận thấy ở lối kiến trúc và
bài trí nhà cửa của hắn “muốn phản đối mỹ thuật bằng những khung cửa
ngang phè, những cây cột phục phịch và những con rồng con phượng xanh
đỏ vẽ ở ngoài bộ cánh cửa sơn vàng”, ở cách bài trí nhà khách với cái
tranh quảng cáo sữa bò treo giữa câu đối sơn then, với một rổ trứng gà đặt
trong cái tủ chè chạm đầy nho trên một bộ khay chén. Tính chất trọc phú
của hắn còn tỏ rõ trong cách ăn uống: “bưng bát nước canh, trợn mắt, húp
một cách đánh soạt vừa nhai vừa nuốt, bưng bát nước uống một hớp lớn,
súc miệng òng ọc mấy cái rồi nhổ toẹt xuống nền nhà.”
Nghị Quế giàu có nhưng rất keo kiệt bủn xỉn. Nghị Quế có một dinh
cơ lớn nhưng vợ chồng hắn ăn một đĩa giò kho làm mấy bữa, mỗi lần treo
cái niêu giò lên lao màn lại đếm kỹ từng miếng. Mua một ổ chó và một
đứa con của chị Dậu vợ chồng cò kè mặc cả từng hào và giở đủ mọi mánh
khoé, khi dụ dỗ, khi hăm doạ đến lúc trả tiền lại cố tình ăn cắp mỗi đồng
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 53
mấy xu...
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Với đàn chó bốn con, Nghị Quế hiện nguyên hình là một tên bất
nhân, tàn nhẫn. Ngô Tất Tố đã đưa chi tiết đàn chó vào tác phẩm để cho
người đọc nhận rõ hơn về bản chất bất nhân của Nghị Quế. Ngay lúc giao
tiền, Nghị Quế không giao bằng tiền giấy mà giao bằng tiền chinh là nó đã
tính sẵn mẹo của nó. Cái mẹo của nhà giàu ăn bẩn bằng cách đếm thiếu đi
cứ một chuỗi là bốn xu. Tiền chinh nộp thuế người đó, lúc đưa nộp lại chịu
một tấc thuế nữa. Thuế đổi tiền chinh ra tiền giấy cứ một đồng là 3 xu tiền
các. Lại còn tiền riêng “chè lá” cho ông lý áp triện vào văn tự bán con.
Nghị Lại là một tên quan đầu sỏ, hắn giàu có một cách hỗn láo. Với
ông, học vấn không làm gì. Thủa bé, ông coi sách vở là kẻ thù số một. Bây
giờ ông vẵn còn khoe một việc năm ông mới mười năm tuổi. Hồi ấy ông
học ở lớp tư. Một hôm không thuộc bài, bị thầy giáo mắng nhiếc. Lập tức,
ông đứng phắt dậy, cắp sách ra khỏi trường... Hơn nữa ông coi nhà mình là
ngục thất nghiệt ngã... Ông lấy làm hãnh diện mới mười sáu tuổi đã giỏi
trống cô đầu, mới mười bảy tuổi đã hút nổi hai mươi điếu thuốc phiện một
lúc và mới mười tám tuổi đã rẽ dây cương vô số nhân tình. Ông chỉ chửi
lại cha mẹ có hai lượt... Ông tàn nhẫn đến mức lợi dụng anh Pha mù chữ,
làm văn tự giả mạo bắt anh Pha ấn dấu tay vào, cùng một lúc xúi cả anh
Pha và Trương Thi kiện tụng lẫn nhau. Hơn nữa, Ông còn cung cấp tiền
cho cả hai đến hầu quan. Từ cái tường cắm tua tủa “những mảnh chai sáng
nhoáng đến cái nhà, cái buồng, cách bày biện trang hoàng trong phòng
khách của hắn đều vẽ ra nét tính cách con người hắn, trên tường là bức
tranh khiêu dâm kiểu Tầu, góc nhà là một pho tượng khiêu dâm kiểu Tây
nhưng ở gậm giường phòng khách thì một mùi tanh tanh ỏ phòng khách
bốc ra. Nó là mùi han của những đỉnh, những đèn, những mâm, những nồi
xếp la liệt dưới sập”. Đó hẳn là thứ ăn cướp được của nông dân bằng cách
này, cách khác tích luỹ lại. Kẻ vừa ngu xuẩn lại vừa láu lỉnh, vừa ốm yếu
bệnh tật lại vừa dâm dục, vừa có một ngôn ngữ hạ tiện lại biết mềm mỏng
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 54
khúm núm khi cần thiết, vừa giàu nứt đố đổ vách lại vừa keo kiệt bẩn thỉu,
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> kẻ ấy lại dùng nhiều mưu mô như xui nguyên giục bị, lợi dụng sự dốt nát
của nông dân, nhân những lúc người nông dân phải chiụ sưu cao thuế
nặng, phải phạt vạ để cho vay nợ lãi, chiếm đoạt ruộng đất của nông dân,
làm cho người nông dân không thể nào ngóc đầu lên được. Thêm vào đó,
bọn lý dịch lại còn phù thu lạm bổ, lợi dụng hủ tục khiến người nông dân
phải kiệt quệ. Mỗi trang sách là một nỗi uất ức khiến người đọc phải nghẹt
thở.
Bá Kiến là một tên cường hào, địa chủ ác bá điển hình, Do già đời
đục khoét, hắn tạo được cho hắn cái địa vị ăn trên ngồi trốc, nắm quyền
hành và uy lực: từ chức lý trưởng, hắn trở thành chánh tổng, bá hộ tiên chỉ
làng Vũ Đại, chánh hội đồng kỳ hào, huyện hào, Bắc Kỳ nhân dân đại
biểu. Hắn thét ra lửa, khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Hắn lại là một
tay cáo già, lọc lõi, từng trải trong cái nghề bóc lột, đàn áp nông dân.
Chính hắn đã thừa nhận cái sự thật kỳ lạ là: “ ở cái đất nhà quê, bọn dân
hiền lành chỉ è cổ làm nuôi bọn lý hào, nhưng chính bọn lý hào nhiều khi
phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn cả dân cùng nên
liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Và cũng
chính hắn đã khám phá ra quy luật”già néo đứt dây”...đè nén con em đến
nỗi nó không chịu được phải bỏ làng đi là dại. Mười thằng ra đi thì chín
thằng trở về là hung đồ, cái tính ương ngạnh học được từ phương xa. Cho
nên chỉ có những tên địa chủ xảo quyệt, khôn róc đời như nó mới có thể
tìm ra được những thủ đoạn lừa bịp tinh vi để bóc lột: “ Một người khôn
ngoan chỉ bóp đến nửa chừng. Hãy ngấm ngầm đảy người ta xuống sông,
nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập nghế dòi cho được
năm đồng, nhưng được rồi lại vất trả lại năm hào vì thương anh túng
quá.”
Nam Cao cũng vạch ra bản chất nham hiểm của Bá Kiến qua việc
hắn lợi dụng Chí Phèo để trừ khử các phe cánh đối địch:” Trị không được
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 55
thì cụ dùng. Cụ nghĩ bụng: cũng phải có thằng đầu bò chứ? Không có
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò? Những thằng ấy
chính là những thằng được việc... Có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp
mà ăn...”
Bá kiến lại là một tên địa chủ dâm đãng và về mặt này hắn có nhiều
hành động đồi bại. Hắn có những bốn vợ và hắn đã từng thông dâm với vợ
Binh Chức trong khi anh vắng nhà. Hắn cũng ghen, ghen sôi sục và cũng
đau khổ vì ghen. Hắn đã ghen với Chí Phèo và đẩy Chí vào vòng tù tội.
Càng về già hắn càng ghen dữ. Hắn đau khổ vì thấy bà tư trẻ mà cứ phây
phây, cứ đẹp như mới ngoài hai mươi mà sao lại đa tình. Nhìn thì thích
nhưng mà tưng tức là. Khác gì miếng thịt bò lựt sựt khi rụng gần hết răng.
Hắn chỉ muốn cho tất cả những thằng trai trẻ đi ở tù. Tên địa chủ già có
máu dê ghen với tuổi trẻ và căm thù tuổi trẻ. Dưới ngòi bút sắc sảo của
Nam Cao, Bá Kiến là nhân vật điển hình sắc nét trong văn học hiện thực
giai đoạn 1930- 1945
2.2 Bản chất riêng của từng nhân vật.
a. Nghị Quế không phải là một tên bạo chúa như Nghị Hách trong
Giông Tố. Nghị Quế cũng không có “chương trình” chiếm đoạt đầy mưu
mô phức tạp như Nghị Lại trong Bước Đường Cùng. Ngô Tất Tố chỉ tả hắn
như “ông chủ ruộng kiêm ông chủ thả lãi” bình thường nhưng hết sức tàn
nhẫn. Trong tác phẩm “Tắt Đèn”, Ngô Tất Tố không nói đến chuyện cướp
ruộng vì những nhân vật chính diện như vợ chồng anh Dậu không có
ruộng. Hai vợ chồng anh chỉ có một cái nhà tranh và mảnh đất làm nhà thì
đều đã đem cầm cho hội ích. Nếu trong “Bước Đường Cùng” Nguyễn
Công Hoan nhấn mạnh nạn cướp ruộng thì trong “ Tắt Đèn” Ngô Tất Tố
nhấn mạnh nạn cho vay nặng lãi: “Dụng đến cửa ông nhẹ nhất cũng là
mười phân. Và vay từ một đồng trở lên, đều phải viết giấy gán ruộng hay
nhà hoặc phải gửi vật gì khác làm đồ bảo đảm. Quá hạn thì mất. Dinh cơ
ông ở cũng như ruộng nương ông cấy, hạc đồng lọ sứ ông thờ, phần nhiều
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 56
là của những người vay nợ hết hạn không trả, bị ông chiếm lấy và bắt lấy.”
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Ngô Tất Tố gọi cái nạn cho vay lãi ở thôn quê là “ cái khí giới của bọn phú
hào dùng để bóc lột dân nghèo”. Ngô Tất Tố gọi bọn cho vay lãi nặng là “
thứ người đầu trâu mặt ngựa, ăn thịt người không tanh”. Chính từ hành
động cho vay nặng lãi này làm cho Nghị Quế đã giàu, càng giàu thêm, còn
gia đình chị Dậu, ngày càng lâm vào tình cảnh bần cùng đến mức phải bán
vợ, đợ con. Cũng từ hành động đó làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng
trở nên sâu sắc hơn. Ngô Tất Tố đã dùng một loạt chi tiết vừa chân thực,
vừa điển hình để bóc trần bản chất địa chủ của vợ chồng lão nghị. Chẳng
hạn như thái độ rửng rưng của chúng thản nhiên ngồi ăn, mặc cho chị Dậu
bị cả một đàn chó xúm lại cắn “ máu tươi chảy ra đầm đìa”. Đặc biệt, Ngô
Tất Tố đã xoáy sâu vào bản chất chó má của vợ chồng tên địa chủ này qua
việc chị Dậu đem đến bán tại nhà chúng một sinh mệnh người và năm con
chó. Cái Tý với bao nhiêu công lao sinh thành nuôi dưỡng của bố mẹ nó
trong sáu bảy năm trời, với bao nhiêu tình nghĩa mẹ con, chị em, thế mà vợ
chồng Nghị Quế đã lạnh lùng bắc lên cân với mấy con chó để so kè tính
toán từng xu một: “ Thôi thế này: chó non tao cũng mua vậy. Bắt cả con
chó cái và đàn chó con sang đây, tao trả một đồng nữa. Với con bé kia một
đồng là hai... Thế là nhà mày đủ tiền nộp sưu, lại khỏi phải nuôi chó, nuôi
con. Sướng nhé !”
“... Thôi cho thêm hào nữa, thế là vừa con, vừa chó, cả thảy được
hai đồng mốt. Bằng lòng không?...
Đểu giả hơn nữa, nó bắt cái Tý phải ăn chỗ cơm thừa của chó kẻo “
phí của giời”. Nó điên tiết lên khi cái Tý khóc mếu không chịu ăn: “ Mày
ăn cơm chó nhà bà cũng không đáng đâu. Con chó nhà bà còn được mấy
chục, còn người như mày bà chỉ mua có một đồng đấy thôi”. Và như thế
cho rằng chưa đủ ác, mụ địa chủ còn nghiến răng kèn kẹt “ Bà truyền đời
báo danh cho mày, từ giờ đến mai phải ăn hết cái rá cơm ấy, rồi mới được
ăn cơm khác”. Miêu tả thật sâu sắc thái độ của vợ chồng nghị Quế đối với
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 57
người nghèo càng làm rõ tính chất bất nhân tàn nhẫn của chúng.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Nghị Quế rõ ràng mang tính chất phản động của giai cấp địa chủ.
Lịch sử chính trị của hắn bắt đầu từ chức lý trưởng, vượt qua những bậc
phó tổng, chánh tổng, rồi cơm rượu, bò lợn và quan phủ, quan tỉnh hiệp
sức với nhau rồi đưa ông lên nghế “ nghị viên”. Dĩ nhiên là tên nghị gật.
Song bọn thực dân muốn tổ chức được cái trò hề “ viện dân biểu” ấy để lừa
bịp nhân dân ta, chính là phải dựa vào những người như hắn.
Trong tất cả các ngón ăn chơi của nghị Quế chỉ có chỉ có ngón xem
tướng số là sành hơn cả. Hắn rất tự hào về cái tài hoa đó. Hắn nói rằng
“biết cái gì là khổ cái ấy” vì nó đã giúp hắn làm thân với bọn quan lại viên
chức trên tỉnh.
Đối với Nghị Quế, “Tây” trong quan niệm đương thời cũng là sang,
là oai : thời Tây thì giờ là vàng bạc, đồng hồ Tây bao giờ cũng đúng. Hắn
mang trong huyết mạch dòng máu của giai cấp địa chủ. Nghị Quế đã tiếp
thu văn minh tây một cách trọc phú. Trong tác phẩm “Tắt Đèn‟ của Ngô
Tất Tố, có đoạn bà Nghị và ông Nghị tranh luận với nhau về việc gọi con
gái bằng “cô” hay “mợ”:
“ Sao bà cứ gọi bằng lối xách mé như vậy? Tôi đã dặn bà phải gọi
nó là mợ... Bây giờ ở nhà các quan, con cái đều được gọi là mợ tất cả. Tôi
hèn ra cũng là một ông Nghị viên, có lúc ngồi với quan sứ, quan thượng,
danh giá không kém gì một ông quan. Bà có gọi con gái bà là mợ cũng
không quá lạm kia mà.
Bà Nghị cười ngặt cười nghẹo :
-Thế thì ông cũng lầm rồi! Con dâu kia người ta mới gọi là mợ; con
gái thì người ta gọi bằng cô. Chẳng cứ gì các nhà quan; tôi thấy những
nhà ông Ký, ông Phán, những nhà buôn bán ở Hà Nội đều như thế cả.
-Miễn là đừng gọi chúng nó bằng cái kiểu tục tằn của những nhà bố
cu, bố đĩ... Mợ thì mợ, cô thì cô...
Bà Nghị ra bộ đắc ý:
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 58
-Vâng, thì cô...”
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Nghị Quế càng ác với con người, bóc lột con người thì càng gần với
con vật. Ngô Tất Tố cho bưng vào đấy một rổ nhún nhín 4 chó con. Với 4
con chó con này, vợ chồng Nghị Quế hiện nguyên hình là kẻ bất nhân, tàn
bạo. Phải có liều lượng 4 con chó con này pha vào truyện thì mới xộc lên
cho kỳ hết mùi đống rác hữu cơ địa chủ đã biến chất người, mà thối khẳm
đến mức phải nôn thốc, nôn tháo. Ngô Tất Tố đã hạ đến cái “ kỹ thuật đàn
chó” đưa chất “chó” vào để cho người đọc nhận rõ thêm về bản chất vô
tính người của vợ chồng tên địa chủ Nghị Quế. Cái đáng phục trong bút
pháp Ngô Tất Tố là tác giả vẫn cho kẻ thù giai cấp ít nhiều cái nét gọi là
nhân tính. Cho nó phảng phất chút nhân tính, thế nó mới càng chết cha nó.
Mới xem ai cũng thấy vợ chồng địa chủ cũng chỉ như mọi người khác
thích chó, yêu gia súc, tưởng người lành hay kẻ bất lương cũng không khác
nhau gì lắm trong việc nuôi chó con. Thằng chồng le te cho chó ăn cơm,
ôn tồn hỏi về chó, rồi xem tướng chó. Hắn sung sướng. Vợ hắn và hắn bù
khú đú đởn với nhau trên câu chuyện chó con. ấy thế mà đùng đùng giở
giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu đứng đấy. Cho thằng nhà giàu rước
chó vào nhà, nó mới thể hiện rõ bản chất chó đểu của giai cấp nó ra.
Trên thực tế, đã có những tên kẻ thù giai cấp ở khắp mọi nơi rất
thích nuôi chó, yêu chó, quý chó, đặt bánh, đặt thịt, đặt nghĩa trang cho
chó, coi con chó nó nuôi còn quý hơn mạng người mà nó đang hành hạ và
bóc lột. Vợ chồng nhà Nghị Quế còn nói thẳng: nuôi chó còn hơn nuôi đứa
ở. Đàn chó con còn được vợ chồng Nghị Quế săn sóc, cho ăn cho uống,
còn cái Tý con chị Dậu thì bị chúng chê ỏng chê eo, hạch sách đủ điều. Ta
hãy nghe Ngô Tất Tố tả cảnh chị Dậu dẫn con và đàn chó đến nộp cho vợ
chồng nghị Quế:
“ Mụ nghị phủ đầu bằng giọng gắt gỏng:
- Đã bảo lấy cái gì đậy cho mấy con chó con, kẻo nó bị nắng, sao
lại chỉ úp cho nó cái mẹt rách thế kia?” Cái vô nhân tính của chúng cũng
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 59
bật rõ lên từ cái “tình‟‟ chó của chúng.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
b. Nghị Hách không phải là một ông nghị gật tầm thường, không
phải như Nghị Quế của Ngô Tất Tố trong Tắt đèn, Nghị Lại của Nguyễn
Công Hoan trong Bước đường cùng. Nếu như Nghị Quế, Nghị Lại là
những tên địa chủ thôn quê thì nghị Hách là tên đại tư bản đã vươn bàn tay
đẫm máu của nó từ thôn quê đến thành thị. Hắn có năm trăm mẫu đồn
điền, có một cái mỏ than ở Quảng Yên, có ba chục nóc nhà tây ở Hà nội,
bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh
quan công sứ cũng không bằng. Cách ăn chơi của hắn thì y như vị công
hầu khanh tướng trong tiểu thuyết Tàu, có mười một nàng hầu đặt dưới
quyền một vụ quản gia. Không những thế, hắn còn sắp ứng cử nghế Nghị
trưởng, sắp có Bắc Đẩu bội tinh. Có thể nói Nghị Hách là nhân vật tư sản
địa chủ điển hình trong văn học Việt Nam. Sự khái quát tổng hợp ở đây
không phải bằng nhận thức lý trí khô khan chỉ có thể tạo ra những hình
tượng công thức, sơ lược mà bằng một nhân vật sống động, đầy cá tính.
Nghị Hách là “công dân trung thành với hai nhà nước” hắn ra sức
kết vây cánh với quan lại, ôm chân bọn thống trị trực dân, căm ghét những
tư tưởng tiến bộ và căm ghét Cộng sản, nhảy vào chính trị với động cơ đen
tối và thái độ cơ hội trâng tráo. Nghị Hách có một bản chất chính trị rất
phản động mang tính giai cấp rõ rệt. Chương IV của tác phẩm tả một cuộc
đi dạo một vòng ô tô của Nghị Hách ở tỉnh lỵ là một chương khá đặc sắc.
Trước hết lao đến dinh công sứ “ chắp tay vái dài lưng cúi thật khom”
trước vị “quan cai trị” đầu tỉnh rồi ton hót với ngài về cái phong trào cộng
sản... sắp sửa lan đến tỉnh ta. Vậy con xin lấy tư cách một dân biểu mà
trình báo để cụ lý tiện đường cai trị cho tỉnh yên ổn. Sau đó, ô tô đưa Nghị
Hách đến dinh tổng đốc, cánh hầu của lão nhắc nhở quan “ xúc tiến gấp” cái
việc bảo “ chú tuần nó” nhận thông gia với lão, đồng thời xúi bẩy ông “quan
tắt ”vô học này ra tay trị viên tri huyện trẻ Cúc Lâm – người không chịu dập
tắt vụ kiện hiếp dâm theo ý lão. Chương XXI có màn hội kiến giữa một nhà
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 60
tư bản đại biểu cho một hội lý tài mới thành lập bên Pháp và Nghị Hách để
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> làm một áp phe lớn là “ cái độc quyền nước mắm ở trung kỳ và Bắc Kỳ” Chỉ
vài trang sách, Vũ Trọng Phụng đã phơi ra ánh sáng sự móc ngoặc bẩn thỉu
giữa bọn tư sản mại bản bản xứ và bọn thực dân, đã lật ra mặt trái cái gọi là
Viện Dân biểu, là Đại hội đồng kinh tế... đã phanh phui những thủ đoạn bịp
bợm trong cái trò hề bầu cử nghị viên, những mánh khoé của báo chí. Thế là
vì “ năm trăm cổ phần mà mỗi cổ phần là hai nghìn phật lăng”, vì “ cái ghế
nghị trưởng cũng dắt đến cái mề đay Bắc Đẩu và “ còn làm được nhiều việc
lơi khác”, Nghị Hách đã hăng hái nhẩy ra tranh cử, hành động theo bài bản
vạch sẵn của tên thực dân cáo già. Lão còn bỏ “ 250 tạ gạo và một nghìn
đồng bạc” phát chẩn dân nghèo để được báo chí ba kỳ tranh nhau ca ngợi “
công đức nhà triệu phú có óc bình dân” được quan công sứ rất vui lòng “
đại diện chính phủ bảo hộ, chính phủ nam triều gắn huy chương cho một
người công dân rất xứng đáng... một bậc doanh nghiệp hiển hách ít có mà
lòng nhân từ bác ái thì lại đáng treo gương cho dân bảo hộ soi chung”. Hắn
liên minh với một gã Tây thuộc địa thông qua đối thoại:
- “ Tôi hỏi thẳng thế này nhé ! Thế trong cuộc tranh cử ghế Nghị
trưởng thì liệu hội ông có thể giúp gì được tôi không?
- Chúng tôi sẽ giúp ông về phương tiện tinh thần
- Còn tiền tranh cử thì tôi phải bỏ ra?
- Phải, ta nên giao hẹn với nhau đích xác như thế”.
Trong cuộc mặc cả ấy, liên minh ma quỷ càng được củng cố với
những mưu đồ bịp bợm ráo riết và kiên quyết đã được vạch rõ:
- “ Những đứa nào chê ông là vô học thì ông sẽ lấy giấy bạc dán
vào mồm nó, cho nó câm đi! Còn báo chí thì sợ gì? Ông chỉ việc ký vào cái
ngân phiếu cho mấy thằng chủ báo! Tôi sẽ đi điều đình với ông! Ngoài ra
tôi cũng có mấy cơ quan ngôn luận bằng Pháp văn, sẵn sàng chửi cái anh
nghị trưởng cũ là phản quốc, là tư bản, là bán đồng loại rồi kia mà...
.... Tôi sẽ thảo cho ông một chương trình cải cách vĩ đại về xã hội.
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 61
Ông sẽ đòi quyền cho hạng lao động, cho nông dân... Những tờ báo kia sẽ
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chửi ông là cách mệnh,... là cộng sản... Rồi mấy tờ nhật báo đăng tin chó
chết, sẽ trích đăng những bài mà mấy tờ báo Tây chửi ông! Với cái lối
hành động như thế thì chức Nghị trưởng ông lấy dễ như bỡn vậy.”
Rõ ràng đây là một sự “ hợp tác” toàn diện giữa bọn thực dân với
một đại diện xuất sắc của giai cấp địa chủ, tư sản phản động bản xứ. Trước
quan thầy, Nghị Hách đã tỏ ra xứng đáng là con chó con trung thành, một
lòng một dạ với chủ. Hoạt động của hắn trên lĩnh vực – kinh tế có tầm
quốc gia, xã hội, điều mà các ông Nghị Quế, Nghị Hách, Bá Kiến chưa bao
giờ nghĩ tới. Trong văn học hiện thực phê phán 1930- 1945 chưa có hình
tượng tay sai nào điển hình đến như vậy. Trước bọn thực dân Pháp, Nghị
Hách chẳng những biết lợi dụng tình thế, làm cái phao nương dựa, cái lá
chắn để che đỡ mà còn biết kích động chúng, khuấy lên sự tin cậy của bọn
quan thầy: “ Bẩm cụ lớn... Bọn nghiệp chủ chúng con dạo này thật lấy làm
khổ vì cái phong trào cộng sản... bẩm cụ lớn con thấy phong trào cộng sản
ấy sắp sửa lan đến tỉnh ta. Vậy con xin lấy tư cách một người dân biểu mà
trình báo để cụ lớn liệu đường cai trị cho yên ổn”.
Nghị Hách chẳng những là tay sai trung thành với chủ, mà còn bộc lộ
sự ranh mãnh, cáo già của một chính khách thạo đời. Hắn biết lợi dụng điều
kiện của hoàn cảnh vừa làm tăng “uy tín” của mình trước quan thầy, vừa
biết “doạ” quan thầy để quan thầy phải vị nể mình. Cái bộ máy đàn áp của
thể chế thực dân- phong kiến tàn bạo ấy, thông qua những tên tay sai đắc lực
như Nghị Hách sẽ không chùn tay trong việc đàn áp, tàn sát nhân dân.
Đặt trong bối cảnh lịch sử của đất nước ta những năm 1930, hình
tượng Nghị Hách càng trở lên sống động. Hắn thật sự là tấm lăng kính da
diện, phản chiếu những mối quan hệ xã hội đa chiều, phức tạp. Nghị Hách
biết tạo dựng cho mình những chỗ dựa chắc chắn từ những thế lực thống
trị của thực dân và bọn quan lại phong kiến đầu sỏ. Cảnh Nghị Hách hội
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 62
kiến quan tổng đốc hiện ra thật sắc nét.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Tại tư dinh của quan tổng đốc, con cáo già Nghị Hách đã khôn khéo
dùng mối dây liên hệ gia đình để thực hiện mưu đồ chính trị, bắn một mũi
tên trúng hai đích . Hắn gợi tới quan hệ thông gia với “ chú Tuần nó” để lái
thượng quan đi theo cái trận đồ bát quái do hắn dàn dựng, dùng tay quan
lớn để trị quan huyện Cúc Lâm, phủ tay, chạy làng khỏi cái án hiếp dâm.
Nghị Hách biết đánh vào chỗ yếu của quan tổng đốc: lòng đố kỵ, hẹp hòi
khiến quan nổi cơn thịnh nộ. Vạch ra được điều đó, ngòi bút Vũ Trọng
Phụng đã chứng tỏ một bước tiến mới trong nhận thức, tư tưởng của ông
và trong điển hình hoá hiện thực chủ nghĩa của văn học Việt Nam.
Nghị Hách được thể hiện như một bạo chúa có quyền lực tuyệt đối.
Cái nhìn của hắn là cái nhìn choáng ngợp trước thế lực thống trị đen tối.
Bóng đen của lão triệu phú gian ác trùm lên cả một xã hội “giông tố”.
Những nạn nhân khốn khổ của hắn dù đã quyết chí rửa thù song cuối cùng
đã đầu hàng thảm hại: Mịch đã trở thành vợ lẽ lão, Long vừa là con riêng
lại vừa là con rể lão, ông bà đồ Uẩn đi kiện lão thì giờ đây lại vênh váo
được làm bố vợ nhà tư bản, tri huyện trẻ Cúc Lâm không chịu để lão mua
chuộc sai khiến thì bị lão làm cho mất chức... Trong khí đó, Tú Anh tuy
tuyên bố “ không bên vực” hành vi đốn mạt của bố song lại đứng ra cứu
chữa thanh danh, bảo vệ danh dự cho lão. Quan công sứ “ hiền nhân quân
tử hiếm có” thì rất khen ngợi nghị Hách và đứng ra gắn huy chương cho
lão, Nhà “ cách mạng quốc tế” thì trở thành người bạn cố tri, vị thượng
khách của Nghị Hách, ra sức giúp lão cất một ngôi mả tốt để lão sẽ giàu
hơn nữa... sẽ có Bắc Đẩu bội tinh. Khi nghị Hách gặp chuyện đau đớn về
tinh thần, Nghị Hách vẫn sừng sững như “ngọn núi hùng vĩ cao cả” trong
khi những nạn nhân chỉ là “một bọn người nhỏ bằng cái đầu tăm”.
Nghị Hách ý thức rất rõ về uy thế và địa vị của hắn. Tất cả chỉ là
mệnh lệnh, là sự khai khiến bọn tôi tớ phục vụ hắn như một chủ nô hiện
đại “ Dọn cái buồng Thổ Nhĩ Kỳ ở gác thượng để chớp bóng đấy nhé. Liệu
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 63
mà dọn tĩnh lên. Rượu sâm banh cũng đem lên. Đánh ngay telephon về Hà
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Nội cho thằng Lộc đen, chủ cái tiệm khiêu vũ gì ở đường bờ sông đó, bảo
nó thuê cho ngay ô tô cho hai đứa trẻ nhất, đẹp nhất lên trên này. Nếu nó
không sẵn thì bắt nó đi tìm cho được. Nếu khách nhà nó đông qúa thì bảo
nó đóng của hiệu lại một tối. Nó lên đây thì giả cho nó bốn chục, nó kỳ kèo
thì thêm cho nó mười đồng, xong”.
c. Nghị Lại đầy những mưu mô xảo quyệt. Nghị Lại quanh năm
không rời cái bàn đèn nhưng mỗi ngày thêm giàu có về ruộng: “ Ba phần
tư lúa má ở nơi mênh mông này mà bọn dân đen vào cứu vớt được là cuả
Nghị Lại”. Hắn chỉ nằm khểnh hút thuốc phiện rồi tìm mọi cách bóp hầu,
bóp cổ người nông dân. Tên địa chủ Nghị Lại, do cướp bóc nông dân đã
giàu nứt đố đổ vách với hai mâu vườn và bốn trăm mẫu ruộng còn tìm mọi
cách thâm độc để chiếm được tám sào ruộng của anh Pha và dồn anh vào
bước đường cùng. Hắn cấu kết với tên tri huyện sở tại, đẩy nông dân đi
đến chỗ kiện cáo nhau để đục nước béo cò: quan thì ăn của đút, địa chủ thì
cho vay nặng lãi chiếm ruộng, chiếm nhà. Nghị Lại xúc xiểm Trương Thi
và Pha đi kiện tụng lẫn nhau. Hắn sẵn sàng cho cả hai bên vay tiền đi lễ
quan. Tưởng rằng đó là lòng tốt của nghị Lại nhưng thực chất đó chính là
cách để nghị Lại chiếm đoạt ruộng đất của người nông dân. Chính vì vụ nợ
này mà anh Pha đã vấp nợ Nghị Lại ba chục đồng. Rút kinh nghiệm của
bao nhiêu gia đình nông dân đã khánh kiệt vì nợ lãi, vợ chồng anh Pha đã
bán gánh hàng xén để lấy tiền trả nợ. Nhưng nghị Lại tìm cách chần chừ
không chịu nhận tiền vì bản thân hắn đã có âm mưu nuôi lãi mẹ đẻ lãi con
để cuối cùng chiếm ruộng của Pha. Kế đến vụ sưu thuế ập tới. Cường hào
có quan trên đồng loã, được dịp phù thu lạm bổ. món tiền bán gánh hàng
xén của vợ chồng Pha bị tiêu tán vào món thuế tám sào ruộng và ba suốt
sưu của Pha và hai người anh ruột Pha. Hoạ vô đơn chí. Để tránh nạn đói
giáp hạt, Pha lại phải vay của Nghị Lại 5 thùng thóc. Nhưng 5 thùng thóc
đó cũng không đủ cứu đói cho cả gia đình. Vợ chồng Pha phải ăn củ chuối.
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 64
Do đói và ăn bậy, lại bị nạn mưa lũ úng thuỷ, nhân dân trong vùng nhiều
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> nguời mắc bệnh dịch tả. Rồi vợ con Pha cũng lần lựot chết vì bệnh dịch tả.
Nhân lúc vợ con ốm chết, Pha lại bị mê tín và lệ làng làm cho tốn kém: lễ
bái, bốc mộ, cúng quan ôn, tạ thần. Anh phải bán nhà và vay nghị Lại thêm
mười đồng nữa. Cuối cùng giữa lúc gần đến vụ gặt và biết được Pha trắng
tay, Nghị Lại gọi Pha đến tính nợ : 30 đồng vay lễ quan, mười đồng vay tạ
thần cộng với 5 thùng thóc vay lúc giáp hạt, tính cả vốn lẫn lãi là hai mươi
thùng, và tuyên bố : “ Mày phải viết nhượng cho tao chỗ tám sào của
mày”. Trong cái làng An Đạo có dinh cơ của nghị Lại, không riêng gì anh
Pha bị phá sản. Bà ánh hàng xóm của nghị Lại cũng bị hắn cướp vườn. Bác
đám ích hai lần mất nhà, mất ruộng vào tay hắn. Bác San cũng bị hắn lừa
phỉnh, vay tiền rồi mua bò, mua lợn của hắn để mời cả làng ăn khao cái
bằng sơ học yếu lược của đứa con trai đầu lòng. Bản chất xấu xa đồi bại
của nghị Lại được phô bày qua những lời chửi rủa của bà ánh: “ Bà mất
nhà mất cửa bà đi ăn mày nhưng bà hãy chửi cho sướng miệng hôm nay,
rồi mai bà muốn đi đâu thì đi. Chứ nó lại độc ác, tàn nhẫn thế à. Đất nhà
nó rộng thế, chứ còn muốn rộng đến đâu nữa, nó lại còn muốn chiếm cả
nhà nữa cho vuông, cho đẹp dinh cơ kia. Nó để chôn vợ, chôn con nó à !
Bà không bán nó lập tâm thả chó sang nhà bà, để suýt nữa con bà chết lòi
ruột. Rồi bà đánh chó nó, nó đi kiện. Nó lại xui người đến mách bà bán
nhà để lấy tiền lễ quan, rồi nó mượn người đến mua rẻ”. Hắn đúng là tên
đểu giả, quanh năm hút máu mủ những người cùng đinh.
Nghị Lại cũng là người trung thành với hai chính phủ. “ Tôi không
hiểu sao pháp luật lại qúa bất công thế. Tôi đã làm nghị viên, rất trung
thành với hai chính phủ, không lẽ tôi lại dám làm điều phi pháp”. Như vậy,
hắn tự nhận mình là nghị viên và trung thành với hai chính phủ. Hơn nữa
còn rất giỏi trong việc nịnh quan Tây, nịnh nhà Đoan. Khi cần phải nhờ đến
nhà Đoan, hắn khúm núm và nói với bọn đầy tớ bằng giọng điệu nhã nhặn
vẻ thân thiết : “ Chúng mày sao không mời các thầy xuống nhà ngang xơi
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 65
nước”. Trên thực tế, hắn là kẻ hết mực háo danh, hắn không chỉ thèm tiền,
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> thèm ruộng, thèm thóc mà hắn còn lo đến cái “danh dự” của hắn: “ Tôi làm
nghị viên, rất trung thành với hai chính phủ. Cho nên tôi không muốn có
dấu vết gì xấu trong lý lịch tôi với nhà nước. Tôi chỉ ngại điều ấy chứ có sợ
gì món tiền phạt? Nhà tôi như thế này tôi thiếu gì? Chắc quan lớn cũng biết,
tôi hầu hạ các quan, có lúc tốn kém đến bạc nghìn mà có tiếc gì? Đấy ngay
như mấy lần tết nhất, tôi vẫn đi lại hầu quan lớn thì quan lớn biết”.
d. Bá kiến một kẻ có lý lịch bốn đời làm tổng lý, có con làm lý
trưởng, bản thân ăn tiên chỉ làng như Bá Kiến đã nhận ra và lợi dụng quy
luật “ một người khôn ngoan chỉ bóp đến nửa chừng... Đè nén con em đến
mức nó không thể chịu đựng được phải bỏ đi là dại”. Bá Kiến cũng có cái
ghen, cái tức, cái hống hách thường tình cho nên mặc dù có nhận ra quy
luật nhưng vẵn cứ phạm thường tình. Nhưng Bá Kiến hơn người ở chỗ
không cần than thở và biết cười cái cười Tào Tháo để xoay chuyển tình
thế. Tiếng cười của cụ giòn giã lắm, người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ ở
cái cười. Lấy độc trị độc, hắn dùng ngay bọn họ để trị lại những phe đối
nghịch như Đội Tảo, Tư Đạm, Bát Tùng... “Trị không lợi thì cụ dùng. Cụ
nghĩ bụng cũng phải có những thằng đầu bò...Chính những thằng ấy mới
là những thằng được việc...có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn.
Cụ thử nói khích xem sao. Nếu nó trị được Đội Tảo thì tốt lắm. Nếu nó bị
Đội Tảo trị thì nó cũng chẳng thiệt gì, đằng nào cũng có lợi cho cụ cả.” Bá
Kiến khác với tất cả mọi người ở điểm : Hắn biết thế nào là mềm nắn rắn
buông. Hắn cho rằng cái nghề làm việc quan nếu nhất nhất cái gì cũng đè
đầu ấn cổ thì lại bán nhà cho đi sớm. Vì vậy, Bá kiến có lúc rất mềm dẻo
nhưng lại thu được một món lợi khổng lồ. Đôi lúc Bá Kiến không cần lên
gân lên cốt mà Chí Phèo vẫn nghe và hành động theo ý của Bá Kiến. Cụ lại
nhận ra rằng : “ ở cái đất nhà quê, bọn dân hiền lành chỉ è cổ làm nuôi bọn
lý hào, nhưng chính bọn lý hào nhiều khi lại phải ngậm miệng cung cấp
cho những thằng cùng hơn cả dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 66
cầm dao đâm người hay đâm mình.”
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Như vậy, có thể khẳng định rằng trong dòng văn học hiện thực phê
phán giai đoạn 1930-1945, nhân vật phản diện đã phát triển thành một hệ
thống, có nhân vật phản diện mang tên tuổi lai lịch rõ ràng, lại có những
nhân vật phản diện không có tên riêng mà chỉ gọi bằng những tên chung
chung. Cho dù ở loại nào đi nữa thì nhân vật phản diện luôn hiện nguyên
hình là kẻ ăn trên ngồi trốc, cấu kết với thực dân để bóc lột nhân dân và
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 67
trong mọi hoàn cảnh đều thể hiện rõ bản chất xấu xa của giai cấp thống trị.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Chƣơng IV. Các thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật phản diện.
Trong khi xây dựng các nhân vật, mỗi nhà văn đều phải sử dụng các
thủ pháp nghệ thuật để xây dựng các nhân vật của mình. Trên thực tế các
thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật rất đa dạng, phong phú. Tài năng
của nhà văn một phần bộc lộ ở thủ pháp nghệ thuật này. M. Gorki có lần
khuyên một nhà văn trẻ: “ Anh hãy bỏ nghề viết đi. Đấy không phải là việc
của anh, có thể thấy rõ như thế. Anh hoàn toàn không có khả năng miêu tả
con người cho sinh động, mà đấy là điều chủ yếu.”
Miêu tả nhân vật dựa trên các mặt chủ yếu như miêu tả ngoại hình,
hành động, tính cách, ngôn ngữ là sở trường của một số nhà văn hiện thực
phê phán giai đoạn 1930- 1945 trong đó Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng, Nam Cao là các tác giả tiêu biểu.
I. Xây dựng nhân vật Phản diện qua việc miêu tả ngoại hình.
Ngoại hình là thứ ngôn ngữ không lời của nhân vật, phản ánh tính
cách một cách trực tiếp, nhanh nhậy nhất. Để khắc hoạ tính cách nhân vật,
tác giả thường tập trung đi sâu vào những chi tiết ngoại hình cụ thể. Đây là
cách làm quen thuộc, một thao tác đương nhiên của nhà văn đối với việc
xây dựng nhưng nhân vật.
Hình dáng bên ngoài của các nhân vật đều thể hiện nội tâm bên
trong của chúng. Với bản chất hết sức xấu xa, đê hèn của nghị Quế, nhà
văn Ngô Tất Tố không tả nhiều ngoại hình của nhân vật. Nhưng chỉ cần
một vài nét thoáng qua cũng có thể làm hiện lên tất cả bản chất con người
hắn. Với Ngô Tất Tố, ông rất thích tả bộ râu của các nhân vật phản diện.
Sở dĩ như vậy bởi vì hình như bộ râu rậm, đen, dài theo cách nhìn của tác
giả thì nó thể hiện một bản chất xảo quyệt, trâng tráo đến mức không còn
cái gì có thể miêu tả hết được. Ngô Tất Tố hai lần đề cập đến chòm râu
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 68
vểnh của nghị Quế. Lần thứ nhất ông viết: “ Ông nghị rung đùi, vuốt chòm
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> râu tây cong vắt trên mép ngậm tăm”. Lần thứ hai, tác giả viết: “ Nghị quế
vểnh râu, đứng trong sân gạch, ngắm đôi bồ câu gật gù gụ nhau ở của
chuồng. Nhác thấy mẹ con chị Dậu nhô vào, hắn hỏi một cách thật đổng”.
Nhà văn không hề tả vóc dáng của các nhân vật này ra sao mà chỉ tả chòm
sâu vểnh ngược cũng đủ để hiểu một con người đểu gỉả, vô nhân tính. Tác
giả còn mô tả bộ râu của quan phụ mẫu mới ghê sợ làm sao. Chòm râu này
thật là có một không hai: “ Cái râu mới lạ làm sao? Nó đen như vệt hắc ín
và cong như cái lưỡi liềm. Nó nhọn như mũi dùi nung và bầu như bầu đầu
dao trổ. Nó khum khum quắp lấy hai mép, giống như hai cánh dơi. Nó vất
vểu vểnh ra hai măng tai, gần như hai sừng củ ấu. Nó châu đầu dưới ống
mũi, như sắp chui vào cái mũi dọc dừa. Nó lại giúp cho cái mồm lèm bèm
thêm sự dữ dội.” Chòm râu ấy luôn đi kèm với hành động đâm đãng, đểu
giả. Chẳng thế mà quan phụ mẫu đã định “ xơi tái” chị Dậu trong một tình
huống hết sức éo le. Thành công của Ngô Tất Tố là ông đã dùng một chi
tiết rất nhỏ của ngoại hình bên ngoài để mô tả nội tâm bên trong, mà mô tả
theo cách là lột trần bộ mặt nham hiểm, xấu xa, đồi bại của các nhân vật
phản diện.
Dưới cái nhìn của Vũ Trọng Phụng, Nghị Hách hiện lên với dáng vẻ
đạo mạo, phong thái xem ra có vẻ ung dung nhưng kỳ thực lại là một kẻ đê
tiện mà người đời không thể dễ dàng chấp nhận và dung hoà. Hắn hiện lên
ngay từ những trang đầu tiên của tiểu thuyết: “ Đó là một người gần năm
mươi, thân thể vạm vỡ, hơi lùn, trước mặt có một cặp kính trắng gọng
vàng, trên môi có một ít râu lún phún kiểu tây, cái mũ dạ đen hình quả
dưa, cái áo đen bóng một khuy, cái quần đen sọc trắng, đôi giày láng mũi
nhọn và bóng lộn, làm cho lão có cái vẻ sang trọng mà quê kệch, cái vẻ rất
khó tả của anh trọc phú học làm người văn minh”. Trong đoạn văn này,
nhà văn không chỉ mô tả hình dáng bên ngoài của lão trọc phú này mà nhà
văn còn nhấn mạnh đến trang phục mà hắn dùng hàng ngày. Độc giả chưa
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 69
cần bình luận mà nhà văn đã khẳng định rằng đó chính là sự hiện diện của
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> anh trọc phú đua đòi làm người văn minh. Phải nói rằng, nhà văn phải có
cái nhìn đầy căm phẫn đối với hạng người này thì mới có những đoạn văn
xuất sắc như vậy. Cái nhìn của tác giả không đừng lại ở hình thức bên
ngoài mà đó là cái nhìn thấu suốt tâm can nhân vật.
Trong văn học, đôi mắt được nhà văn quan tâm miêu tả không phải
là hiếm và người đời nói đôi mắt chính là của sổ tâm hồn. Tưởng Ký đời
Thanh ở Trung Quốc cho rằng cái thần, cái tình của con người tập trung
nơi con mắt và nụ cười: “ Thần tại lưỡng mục, tình tại tiếu dung” (thần ở
đôi mắt, tình ở nụ cười). Đa phần con mắt của nhân vật tiểu thuyết Vũ
Trọng Phụng không thể hiện được cái “ thần” mà là con mắt vô cảm. Điều
đó chẳng lạ vì thế giới nhân vật của Vũ Trọng Phụng là thế giới của những
con người bị tha hoá, của những nhân vật phản diện, còn những nhân vật
chính diện không nhiều, không sắc nét, không trở thành điển hình. Đối với
nhân vật Nghị Hách thì đôi mắt ở đây là đôi mắt phong tình của kẻ trăng
hoa mà người đời ngàn năm lên án và phê phán. Đôi mắt phong tình của
hắn như một lưỡi dao sắc và nhọn đâm thẳng vào cuộc đời của biết bao cô
gái thôn quê nói chung và Mịch nói riêng. Và chính đôi mắt ấy đã phá tan
hạnh phúc của một cô gái thôn quê vốn ngây thơ và trong trắng. Vũ Trọng
Phụng viết: “ Đôi mắt phong tình ngắm ngía không chớp...” Bản chất đê
tiện và đểu cáng của hắn còn được thể hiện trong đôi mắt đỏ ngầu vì dâm
dục: “Hai mắt lão đỏ ngầu lên, vì lúc ấy con người đã trái mặt đi, để cho
con quỷ dâm dục xuất hiện”.
Nếu như Ngô Tất Tố quan tâm tới việc mô tả bộ râu, Vũ Trọng
Phụng quan tâm đến việc miêu tả con mắt thì Nguyễn Công Hoan chú ý
nhiều đến việc miêu tả dáng hình nhân vật. Đối lập với nghị Hách, nghị
Lại hiện lên với một tấm thân hom hem, dăn dúm. Tác giả miêu tả với
nhiều nét ngoại hình xấu, làm hiện lên một nghị Lại đầy những mưu mô:
“... khủng bố người ta bằng hai nét nhăn xoạc cong sang bên má, làm cho
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 70
đôi mắt đã xếch lại càng xếch thêm. Hoạ sĩ muốn tôn người có của, đã hoà
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> màu hồng cho khéo để tô da mặt hồng hào như người Mỹ tráng kiện. Song
sự thực, Nghị Lại là dòng dõi một giống người thuộc chủng tộc thứ sáu
trên toàn cầu... Nếu trắng ông đã là người Âu, nếu vàng ông đã là người á,
nếu đỏ ông đã là người Mỹ, nếu nâu ông đã là người úc và nếu đen ông đã
là người Phi. Đằng này ông lại xanh xanh, đích là thứ da của chủng tộc
người nghiện”. So với các nhà văn như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,
Nam Cao thì Nguyễn Công Hoan là người “chịu khó” miêu tả ngoại hình
bên ngoài của nhân vật phản diện hơn cả. Cũng một bộ dạng gầy gò, ốm
yếu nhưng trong một chương khác ông lại viết: “Bên bức truyền thần một
ông quan mũ áo chỉnh tề, hiện ra một thằng người trơ trơ bằng thịt, bằng
xương. Nói cho đúng thì thịt nghị Lại hiếm, nhưng xương thì ông rất nhiều,
vì ông cởi trần nên để lộ ra một thân thể gầy còm rất đáng thương, tưởng
chừng như cả bộ xương xộc xệch ấy chỉ dính vào nhau một cách lỏng lẻo,
mà va vào đâu một tý là cái khung người phải bẹp dúm dó, khó lòng nắn
cho nó lại nguyên hình”. Như vậy, khác với các nhà văn khác, Nguyễn
Công Hoan chỉ đi sâu vào miêu tả hình dáng bên ngoài của nhân vật phản
diện. Có thể nói, ông rất quan tâm đến dáng dấp bên ngoài của nhân vật.
Ông nhấn mạnh đến thân thể gầy còm ốm yếu của Nghị Lại như để khẳng
định nội tâm méo mó ở bên trong. Miêu tả đối lập hình dáng bên ngoài với
nội tâm bên trong là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của nhiều nhà
văn, đặc biệt là các nhà văn sáng tác theo khuynh hướng hiện thực phê
phán.
Đối với tên quan phụ mẫu thì Nguyễn Công Hoan lại giết hắn bằng
một thân hình có nhiều nét đặc biệt: “ Đứng trước ngài, người ta có cảm
tưởng như lại phải ăn một mâm cỗ đầy ăm ắp những thịt mỡ khi người ta
đã no nê. Nghĩa là người ta phát ngấy về sự phì nộn của ngài. Ngài cúi
mặt xuống, cả tấm thịt trên quai hàm bị cổ áo là cứng nó đùn lên, nó vẽ lên
một nét dăn, chia má ra làm hai khu đều nhau, khu nào cũng phinh phính
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 71
và nung núc những thịt. Cái tấm má ấy đầy đặn, đến nỗi giá chỉ một mũi
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> ghim nhỏ lỡ đụng vào là có thể chẩy ra hàng lít nước nhờn mà ta quen gọi
là mỡ. Lông mi ngài rậm mà cong lên, đối với đôi mắt ngài hùm hụp cong
xuống. Từ thái dương đến má, đến xung quanh miệng ngài, người ta tưởng
mặt ngài làm bằng sắt, vì nó đen đen. Nhưng không, màu ấy chỉ là di tích
bộ râu quai nón mà sáng nay ngài quên chưa cạo”.
Khác với Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố và Vũ Trọng Phụng, nhà
văn Nam Cao trong tác phẩm “ Chí Phèo” không hề miêu tả một nét ngoại
hình đối với nhân vật Bá Kiến. Có thể nói điều này là dễ hiểu bởi dưới đôi
mắt và cách nhìn của Nam Cao thì các nhân vật phản diện chỉ hiện nguyên
hình bằng những hành động, ngôn ngữ, tính cách mang những nét đặc
trưng, riêng biệt. Chính điều này làm nên một Nam Cao khác với các nhà
văn khác về cách xây dựng nhân vật phản diện.
II. Xây dựng nhân vật phản diện qua việc miêu tả hành động.
Hành động nhân vật là nguyên nhân trực tiếp tạo nên biến cố, là cơ
sở hình thành, phát triển cốt truyện. Hành động bao gồm hành vi, những
hình thức hoạt động của nhân vật, nó phụ thuộc vào tính cách, quan hệ,
xung đột, mâu thuẫn bên trong và bên ngoài nhân vật. Giữa tính cách và
hành động nhân vật luôn có sự thống nhất. Tính cách được thể hiện bằng
hành động, ngược lại hành động là sự bộc lộ của tính cách. Trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật, M. Gorki quan niệm : “ ... Không phải chỉ viết
bằng ngòi viết, mà còn vẽ bằng từ ngữ và không phải vẽ theo kiểu người
hoạ sĩ, nghĩa là tạo nên một hình người bất động, mà cố gắng biểu hiện
những con ngườiđang chuyển động không ngừng, đang hành động trong
những những cuộc xung đột bất tận với nhau, trong cuộc đấu tranh giữa
những giai cấp, những tập đoàn, những cá nhân”. Mỗi nhân vật phản diện
của các nhà văn đều có một hành động khác nhau. Các hành động đó đã
nêu lên bản chất thối tha, xảo quyệt của cả một tầng lớp vô nhân tính.
Hành động của Nghị Hách luôn động, rõ ràng là của tên lưu manh
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 72
có hạng, đa trá, đa mưu, đại gian, đại ác, thâm hiểm vô cùng mà bất nhân
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> cũng vô cùng. Nó là hình ảnh tột bực của cường hào ác bá, là tên trọc phú
đại gian hùng, là điển hình về lớp tư sản đại địa chủ cỡ lớn. Hành động đầu
tiên của hắn là hiếp dâm. Hắn chẳng sợ gì luân thường đạo lý, hắn cũng
chẳng đếm xỉa đến đạo đức con người. Hắn chỉ hành động theo bản năng
dâm dục của hắn mà thôi. Từ việc hiếp dâm đã kéo theo nhiều hành động
bỉ ổi của hắn. Trước cái tội tày trời đó, nó chẳng thèm đếm xỉa đến quan
toà mà lên ngay công sứ, tổng đốc. Gặp công sứ, nó không tiếc lời ton hót,
nịnh bợ: “Bẩm chúng con thấy cụ lớn cũng dễ dàng, lại hay tiếp người bản
xứ, cho nên con sang thăm và hầu chuyện, và xem cụ lớn có điều gì chỉ
bảo không... Cụ lớn thương dân lắm...lòng thương dân của cụ lớn thì
không ai là không cảm phục”. Hơn nữa, hắn cố tình gán cho việc khiếu
kiện tội hiếp dâm là do “phong trào cộng sản”, “gieo mầm thù ghét người
giàu có” : “ Bẩm, toàn dân tỉnh này đã bắt đầu nói xấu và vu oan cho con.
Bẩm cụ lớn, chắc họ chỉ nhắm mắt nghe theo bọn phiến loạn chúng mớm
nhời mà thôi. Họ vu cho con là giết người, là hiếp tróc đàn bà con gái, là
bóp hầu, bóp cổ bọn dân nghèo, thôi thì đủ những tội ác. Họ hết mức gieo
cái mầm thù ghét người giàu có, cho lan rộng trong đám công dân... Vậy
con xin lấy tư cách người dân biểu mà trình báo để cụ lớn tiện đường cai
trị cho tỉnh yên ổn.” Lợi dụng quan hệ thông gia với tuần Hà, đánh vào
chỗ yếu “ bước làm quan tắt” của tổng đốc để quật đổ quan huyện Cúc
Lâm “ Cái thằng ấy láo thế à? Để rồi tôi trị cho nó một trận. Nó lại không
biết là quan lớn thông gia với em ruột tôi hay sao?”.
Việc đem truyền đơn cờ đỏ gieo rắc tai hoạ cho quan huyện Cúc
Lâm và dân làng Quỳnh thôn là âm mưu hãm hại đen tối, hèn mạt của
Nghị Hách. Hắn đã từng đem bỏ bã rượu vào ruộng lương dân rồi báo nhà
đoan để tậu ba trăm mẫu ruộng rẻ tiền. Hắn thách thức công lý, ngạo mạn
trước cửa công, chẳng ngần ngại mua chuộc, ngả giá với quan huyện Cúc
Lâm việc bán xe hơi giá rẻ: “ Nếu quan lớn dùng đến thì tôi chỉ xin lấy
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 73
ngài có hai trăm thôi. Lúc mới mua giá nó là ba nghìn tám đấy ạ”. Chưa ai
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> quy tội nhưng hắn lại ngang nhiên biện bạch: “ Giữa lúc tôi buồn, thình
lình con bé ấy dẫn xác đến”. Ngài cũng biết cho dẫu là người tai to mặt lớn
đến thế nào đi nữa thì cũng có lúc giăng gió một chút, cái ấy là trời sinh ra.
Hắn sổ toẹt trước cái giấy chứng nhận mất tân, hắn cho đó là “dòng chữ vô
nghĩa”.
Nghị Hách xuất hiện 13/30 chương sách nhưng không có nhân vật
nào không là nạn nhân của Hách, nếu không trực tiếp thì là gián tiếp.
Không chỉ là Mịch, Tú Anh, Hải Vân ...mà cả đến công sứ, tổng đốc cũng
bị hắn lừa. Không có bất cứ hành động nào của Hách là không có cơ mưu
vụ lợi, đoạt tình, đoạt tiền. Danh từ bạo chúa chẳng phải là sự gán ghép
oan uổng mà chính từ miệng Hách thốt ra: “ Vậy xin bác vui lòng đóng một
vai trò hôn quân để cho thằng Hách này được làm một bạo chúa nhá”.
Nghị Hách đã làm đại náo cả một xã hội giông tố. Hành động nào của hắn
cũng đẩy đến mức cực điểm: dâm cực điểm, lộng hành cực điểm, tàn bạo
cực điểm, mánh khoé cũng cực điểm... Nguyễn Đăng Mạnh cho “Thế giới
của Giông Tố là thế giới của thằng Hách”.
Hành động của Nghị Lại cũng luôn động và thường đi kèm với
những cử chỉ, thái độ. Khi cần phải nịnh Tây đoan, thì ông có hành động
nhẹ nhàng, ân cần. Việc làm ấy đã tỏ rõ thái độ nịnh bợ rất sành sỏi của tên
địa chủ này: “ Ông cười khanh khách, vồn vã đến trước mặt người Tây
đoan, tưởng như sắp vồ lấy người bạn tri kỷ mà hôn hít. Ông cúi gập
người, ôm chầm bằng cả hai tay lấy tay người Pháp và rung tít”. Tất cả
những hành động như: cười khanh khách, vồn vã, vồ lấy, hôn hít, cúi gập
người, ôm chầm, rung tít” dã thể hiện niềm vui ra mặt của hắn. Niềm vui
ấy là gì nếu không phải là sự nịnh bợ tên Tây đoan. Khi biết trong ruộng
nhà mình có rượu lậu thì hắn phải nghĩ ngợi, tìm mưu để giải thoát. Có thể
nói nghị Lại cũng lắm mưu nhiều kế chẳng kém gì nghị Hách, chỉ có điều
mưu kế của hắn xem ra còn kém tinh xảo hơn, kém văn hoa hơn. Điều này
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 74
thì chính Nghị Lại tự nói ra chứ người đọc không hề gán ghép: “ Đành tôi
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chịu cái vạ vịt, nhưng chỗ quan lớn với tôi, quan lớn có thể cứu tôi không?
Tôi thì không được văn hoa lễ phép như người ta nên tôi mới hỏi thẳng
quan lớn như thế”. Cho đến khi người Tây đoan đứng dậy, cười, bắt tay
nghị Lại và lắc đầu than thở thì nghị Lại có thái độ khúm núm. Trong cuộc
sống đời thường, hắn rất hay có hành động đi kèm với những cử chỉ, thái
độ như: “ Nghị Lại ngạc nhiên, đờ người nhìn khách...; nghị Lại tròn mắt
nhìn...; Nghị Lại cau mặt, gõ mấy đầu ngón tay xuống bàn...; Ngẩn người
ra một lúc rồi nghị Lại cười...; Nghị Lại trợn mắt quát...; Nghị Lại vênh
váo...; nghị Lại cau mặt mắng...; nghị Lại nói khích...”Tất cả đều thể hiện
một bản chất “mặt người dạ thú”. Đối với những người lao động như anh
Pha thì hắn luôn có nhừng hành động hết sức tàn nhẫn. Nghị Lại là con
người của giai cấp địa chủ phong kiến. Hắn đứng trên quyền lợi và địa vị
của giai cấp mình, chia rẽ tinh thần đoàn kết của giai cấp nông dân lao
động bằng cách: hắn xui nguyên dục bị, tạo điều kiện cho cả hai người
nông dân vốn rất hiền lành đi kiện cáo lẫn nhau để cuối cùng “đục nước
béo cò”. Hành động của nghị Lại thực chất là đánh lừa người nông dân ít
học. Nghị Lại xui Pha đi kiện nhưng Pha không có tiền thì hắn lại dỗ ngon
dỗ ngọt: “ Con ngu dại thế không trách con chết. Tiền mất cho quan là
tiền không đi đâu mà mất, sao con lại cứ tiếc? Mình làm thằng dân, bao
giờ cũng dưới quyền cai trị của người ta, ngộ rồi khi con có việc gì, con có
mong người ta bênh vực cho hay không? Quyền phép trong tay người ta,
người ta ưa mình thì người ta che chở mình mà người ta ghét mình thì
người ta cứ thẳng tay. Con chẳng thấy bao nhiêu người chịu tốn kém kiếm
chỗ đi lại mà không được đấy à?”. Dỗ dành thôi chưa đủ, hắn còn khuyên
dạy anh Pha: “Mày không nên ngu dại, nghe hoặc bắt chước những đứa vô
luân thường đạo lý, những đứa ngông cuồng, những đứa cộng sản, làm
sách, viết báo, để chúng nó nói xấu quan này, nói xấu quan kia. Người ta
xấu cũng là ông quan cai trị mình. Chúng nó hay, chúng nó giỏi sao chúng
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 75
nó không được ra làm quan?... Chẳng qua mình là thằng dân hèn”. Khi
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Pha đi nịnh quan mà không có tiền thì hắn ngon ngọt cho vay và nói với
thái độ thân thương trìu mến. Sau khi cho vay xong thì hắn không ngần
ngại nói thẳng : “ Hôm nọ tám đồng, hôm nay hai đồng gạo với hai chục
nữa là đi ba mươi đồng, nhớ lấy nhé”. Hành động ấy của hắn là hết sức bỉ
ổi và thối tha. Nhưng, sau này hắn cũng bị vợ chồng anh Pha vạch rõ tội
ác: “ Thì ra ông ấy xui nguyên giục bị, để nhà tôi tự nhiên mất hơn ba chục
đồng bạc, có tai hại không? Thế mà vẫn làm ra ta nhân đức thương người
lắm”. Hành động bỉ ổi của hắn đã khiến cho vợ chồng anh Pha hết sức
hoang mang, thậm chí phải bán cả gánh hàng đi lấy tiền trả nợ Nghị Lại
nhưng hắn nhất định không nhận. Thì ra hắn nuôi âm “ khát vọng” cho vợ
chồng anh Pha vay mỗi lúc một ít, lãi mẹ đẻ lãi con để rồi âm mưu cướp
trắng tám sào ruộng của vợ chồng anh Pha, đẩy anh vào bước đường cùng:
vợ chết, con chết, không ruộng vườn. Hành động bỉ ổi hơn nữa của hắn
còn thể hiện ở điểm: Hắn lợi dụng anh Pha không biết chữ, đã làm văn tự
giả, bắt anh phải ấn đấu tay vào. Hành động đó của Nghị Lại là rất điển
hình cho giai cấp địa chủ phong kiến lúc bấy giờ đồng thời nó cũng thể
hiện khát vọng làm giàu không chính đáng của giai cấp địa chủ phong
kiến.
Khác với việc làm của nghị Hách và nghị Lại, hành động của Nghị
Quế tĩnh hơn, và thường ít đi kèm với thái độ và cử chỉ. Nhưng cũng có
điều khác là hành động của Nghị Quế gắn nhiều với thói vô văn hoá mà
biểu hiện rõ rệt nhất là trong sinh hoạt hàng ngày: “ Ông Nghị đặt bát
xuống mâm, vừa nhai nhồm nhoàm vừa đón; Ông Nghị như đã hiểu ý của
vợ, cứ việc chan chan, gắp gắp, không nói không rằng; Ông Nghị đâm
chéo đôi đũa qua mặt mâm, bưng bát nước canh, trợn mắt, húp một cái
đánh “ soạt”. Rồi ông vừa nhai vừa nuốt, vừa giục thằng nhỏ lấy tăm...
Ông Nghị nhắc cái điếu ống để trên chốc tủ, giặt thuốc, châm lửa, vít cái
xe trúc vào miệng. Bắt chân chữ ngũ, ông vểnh mặt hút sòng sọc một hơi,
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 76
ông Nghị rút vội cái tăm trong miệng mình đặt ngang vào miệng tách
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> nước... ông Nghị bưng tách nước uống một hớp lớn, súc miệng òng ọc mấy
cái, rồi nhổ toẹt xuống nền nhà”. Một loạt những hành động ấy chứng tỏ
Nghị Quế là con người thiếu văn hoá, văn minh. Trong cuộc sống, ông chỉ
biết làm thế nào để có được nhiều tiền, sống trên những đồng tiền xương
máu của người nông dân mà không cần phải học, đặc biệt là ông cũng
không cần phải học lối sống có văn hoá của tầng lớp giàu sang trong xã
hội.
Xuất thân từ giai cấp thống trị trong xã hội nên Nghị Quế cứ mở
mồm ra là quát tháo. Khi chị Dậu bán con, hắn trả rẻ, chị đòi thêm thì hắn
quát: “ Thiếu bao nhiêu mặc kệ mày, kể lể gì? mày định bổ vào nhà tao đấy
à?”. Khi thì Nghị Quế hạch lạc với chị Dậu: “ Con mẹ khốn nạn ! Mày
ngồi dương mắt ra đấy, không biết bảo con làm sao. Hay mày sợ con ăn
cơm chó thì mày xấu hổ?”. Lúc chị Dậu dặn con để về, cái Tý ôm lấy mẹ
khóc và thế là ăn một cái tát của Nghị Quế : “ Nghị Quế đùng đùng đứng
dậy, giơ cái bàn tay hộ pháp tát cho con bé một cái đánh bốp, và hắn hét
lên như ông đại tướng trong rạp tuồng”.
Hành động khốn nạn nhất của Nghị Quế là việc mua cái Tý và mua
đàn chó con của chị Dậu. Vợ chồng chị Dậu vì nghèo túng không có tiền
nộp dủ suốt sưu cho chồng và em chồng nên đành phải bán con. Thế mà kẻ
bất nhân như nghị Quế không hiểu được điều đó hắn cò kè mặc cả từng
hào một, rồi buông ra những lời nói hết sức bất nhân, tàn nhẫn. Vợ chồng
nghị Quế nói rằng cái Tý bé quá nên chỉ trả một đồng thôi mà lại còn
buông lời tàn nhẫn: “ Con chó nhà bà còn được mấy chục, con người như
mày bà chỉ mua có một đồng đấy thôi.” ấn tượng nhất là hành động ông bà
Nghị quế trả tiền bán con và chó cho chị Dậu nhưng khốn nạn thay “ mỗi
đồng thiếu mất bốn xu”. Hành động đó là vô nhân tính mà không ai có thể
chấp nhận được. Để khắc hoạ rõ nét hơn hành động vô nhân tính của vợ
chồng Nghị Quế, nhà văn Ngô Tất Tố đã để cho vợ chồng Nghị Quế yêu
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 77
đàn chó một cách thái quá: “ Đã bảo lấy cái gì đậy cho mấy con chó con,
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> kẻo nó bị nắng, sao lại chỉ úp cho nó một cái mẹt ranh thế kia”. Càng yêu
chó bao nhiêu thì vợ chồng nghị Quế càng thể hiện hành động tàn nhẫn đối
với con người đặc biệt là đối với người dân lao động bấy nhiêu. Điều đó
cũng đã lột tả một cách đầy đủ và chính xác hành động bất nhân, vô nhân
tính của cả một tầng lớp người trong xã hội. Đó chính là hành động của cả
giai cấp thống trị đối với giai cấp bị trị trong xã hội.
Hành động của nghị Quế còn thể hiện sự đê tiện khi hắn bắt vợ
chồng chị Dậu phải điểm chỉ vào văn tự bán con và bán chó. Vợ chồng chị
Dậu nghèo hèn đến mức phải bán cả con để lấy tiền nộp sưu cho chồng.
Thế mà vợ chồng nhà nghị Quế lợi dụng việc thất học của người nông dân
để làm giàu. Anh chị Dậu bán cả con lẫn chó cả thảy được hai đồng hai
hào, lại phải trả cho ông giáo mất hai hào viết văn tự và như vậy chỉ còn có
hai đồng. ấy thế mà nghị Quế bảo ông giáo là viết văn tự về việc vợ chồng
chị Dậu vay của ông một đôi hoa tai bằng vàng nặng ba đồng cân, đáng giá
hai chục đồng bạc. Khi nghe thấy sự vô lý, chị Dậu thắc mắc ngay nhưng
nghị Quế phân bua: “ Không ai thèm đánh lừa chúng bay. Bây giờ luật mới
nghiêm cấm cha mẹ bán con, cho nên văn tự phải viết như thế, chứ không
nói con, nói chó vào được. Sau này mày cứ để con mày ở mãi với cô Hai,
thì cái giấy ấy tao cũng coi như không có. Nếu mày trở mặt mà đem con
về, tao sẽ chiểu gíây bỏ tù cả vợ lẫn chồng. Giấy làm như vậy chỉ cốt cho
nhà mày khỏi lật nhà tao chứ nhà tao không đời nào thèm lật nhà mày. Thế
là bao giờ tao cũng nắm đằng chuôi, chứ tao không cầm đằng lưỡi nghe
không?... Tuỳ mày đấy, mày có tin nhà tao thì điểm chỉ vào, đem về cho
chồng mày ký tên... rồi mang sang đây tao giao tiền cho...” Mới nghe
tưởng chừng có lý nhưng kỳ thực đó chính là cách làm hết sức phổ biến mà
bọn địa chủ phong kiến rất hay dùng để áp bức người nông dân. Có thể
nói đây chính là hành động mà nghị Quế lừa vợ chồng chị Dậu bởi chị Dậu
đâu có hiểu “bút sa gà chết”. Thế là chẳng cần phải làm gì to tát, phiền hà
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 78
mà vợ chồng nghị Quế có được khoản tiền lớn. Đó chính là một cách lừa
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> đảo hết sức trắng trợn mà nghị Quế đã thực hiện để nhằm kiếm lợi mà
không cần phải lao tâm khổ tứ.
Hành động của Bá Kiến thì thâm độc và xảo quyệt vô cùng. Mỗi
việc làm của Bá Kiến đều nhằm một mục đích khác nhau. Ba lần chí Phéo
đến nhà Bá Kiến với ba động cơ khác nhau thì Bá Kiến đều có những hành
động cụ thể. Lần thứ nhất Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ “ rạch
mặt ăn vạ” thì Bá Kiến xử nhũn với hắn: “ Lý Cường đâu ! Tội mày đáng
chết. Không bảo người nhà đun nước mau lên.” Bản thân Bá Kiến là con
mọt già của làng Vũ Đại nên Bá Kiến rất giỏi trong việc ứng phó với hoàn
cảnh thực tế. Hơn nữa, gia đình nhà Bá Kiến đã có bốn đời làm tổng lý nên
cụ biết thế nào là “mềm nắn, rắn buông”. Cụ xử nhũn với Chí không phải
là cụ đớn, chính thật cụ khôn róc đời “Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ
kẻ cố cùng liều thân. Chí Phèo không anh hùng nhưng nó là cái thằng liều
lĩnh.”
Lần thứ hai Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ đòi đi ở tù bởi vì
đi ở tù còn có cơm mà ăn chứ ở nhà thì một thước đất cắm dùi cũng không
có. Trong hoàn cảnh này thì Bá Kiến lại dùng một hành động hết sức thâm
độc. Cụ lại dùng Chí Phèo vào việc trị Đội Tảo bởi vì Đội Tạo chính là phe
cánh đối địch của Bá Kiến. Sở dĩ như vậy bởi vì cụ luôn đưa ra chiêu bài :
“ Trị không được thì dụng”. Bá Kiến không trị được thằng đầu bò thì phải
dùng hắn làm công cụ. Thế là dĩ nhiên Chí trở thành công cụ đắc lực cho
Bá Kiến. Khi Chí Phèo đòi đi ở tù, Bá Kiến giao ngay cho anh một nhiệm
vụ: “ Đội Tảo nó còn nợ tôi năm mươi đồng đấy, anh chịu khó đến đòi cho
tôi. Đòi được tự nhiên anh có vườn.” Chí nhận lời ngay và đến nhà Đội
Tảo. Kết quả tất yếu là Chí đòi được tiền. Mới đầu Chí tưởng rằng Chí đã
thắng được Bá Kiến và tự cho rằng mình là kẻ anh hùng “ anh hùng làng
này cóc thằng nào bằng ta”. Nhưng thực chất trong cuộc chiến này thì Bá
Kiến thắng cuộc: “ Cụ Bá thấy mình thắng bên địch mà không cần đến hội
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 79
đồng làm biên bản. Xem chừng thích trí, Cụ đưa luôn cho anh đầy tớ chân
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> tay mới luôn năm đồng”. Phải công nhận rằng hành động này của Bá Kiến
đã chứng tỏ một con người thâm độc và nham hiểm, có “trình độ” trong
việc cai trị và sử dụng con người.
Lần thứ ba Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ đòi làm người
lương thiện thì Bá Kiến nói một câu rằng: “ Tôi chỉ cần anh lương thiện
cho thiên hạ nhờ”. Câu nói này của Bá Kiến đã trở thành một lưõi dao sắc
và nhọn đâm vào trái tim vốn không sợ chết của Chí. Bá Kiến đâu biết
được một điều rằng, chính Bá Kiến là người đã cướp đi phẩm chất lương
thiện vốn có của Chí. Căm thù hành động xảo quyệt và tàn nhẫn của Bá
Kiến, Chí Phèo đã không còn cách nào khác phải giết chết Bá Kiến rồi kết
liễu cuộc đời.
Như vậy, so với các nhân vật phản diện như Nghị Lại, Nghị Quế,
Nghị Hách thì hành động của Bá Kiến xem ra không nhiều nhưng tính chất
của hành động thì có chiêù sâu hơn, thể hiện một thế lực cai trị có đầu óc
hơn, tinh tế hơn và sáng tạo hơn rất nhiều.
III. Xây dựng nhân vật phản diện qua việc đặc tả tính cách.
Tính cách nhân vật có một vai trò hết sức quan trọng đối với cả nội
dung và hình thức của tác phẩm văn học. Đối với nội dung, tính cách có
nhiệm vụ cụ thể hoá sự thực hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm, hay nói cụ thể
hơn, thông qua sự hoạt động và mối liên hệ giữa các tính cách, người đọc
sẽ đi đến một sự khái quát hoá về mặt nhận thức, tư tưởng. Tính cách cũng
là nhân tố chủ yếu tạo nên diễn biến của các sự kiện trong quá trình phát
triển của cốt truyện. Cũng qua hệ thống tính cách, người đọc có thể đánh
giá khả năng biểu hiện nội dung qua những yếu tố hình thức như ngôn ngữ,
kết cấu, các biện pháp thể hiện... Tóm lại, có thể nói như Hêghen: “ Tính
cách là điểm trung tâm của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức”;
Đôxtôiepxki cũng khẳng định: “ Đối với nhà văn, toàn bộ vấn đề là ở tính
cách”. Timônheep đặt vấn đề một cách chi tiết, cụ thể hơn: “ Tính cách là
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 80
tiêu điểm độc đáo của nội dung trực tiếp trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Một mặt, chúng ta đi từ tính cách đến cơ sở chủ đề – tư tưởng, tới những
cách khái quát hoá và từ đấy đi tới thực tế hiện thực do nhà văn miêu tả, và
mặt khác, chúng ta đi từ tính cách đến chỗ hiểu biết mọi phương tiện thể
hiện nghệ thuật, tức là đi tới tất cả những mặt riêng biệt của sự sáng tạo
nghệ thuật”.
Khái niệm về “tính cách” mà chúng tôi đề cập ở đây được hiểu theo
cách sau đây: Tính cách cũng là nhân vật nhưng là nhân vật được thể hiện
với một chất lượng tư tưởng và nghệ thuật cao hơn, tuy chưa đạt đến mức
độ là những điển hình, đồng thời nó có một quá trình phát triển hợp với
lôgic cuộc sống. Tóm lại, tính cách có tính chung, tính riêng và tính lôgíc.
Tính chung của tính cách là sự tổng hợp và nâng cao những nét tiêu biểu
có ở nhiều người cùng một nghề nghiệp, giới tính, tuổi tác, giai cấp, dân
tộc, thời đại. Với tính cách đó, trong những biểu hiện ấy, tính chung về mặt
giai cấp là quan trọng nhất vì nó quyết định bản chất xã hội của tính cách.
Tính riêng của tính cách là tập hợp của những nét bền vững và độc đáo làm
cho nó phân biệt rõ rằng với những tính cách khác về hình thể, tính tình,
tâm lý, trong đó tính chất cá biệt của trạng thái tâm lý là quan trọng nhất vì
nó quyết định bản sắc cá nhân của tính cách. Tính lôgic của tính cách là cái
khách quan của đời sống được thể hiện thông qua tính cách, biến thành cái
bản chất bên trong của tính cách, quyết định sức sống của tính cách.
1.Tính cách Nghị Hách.
Giai cấp tư sản Việt Nam mới hình thành, nhận diện bộ mặt của giai
cấp này để phản ánh vào văn học là điều khó khăn với nhiều cây bút. Vũ
Trọng Phụng là nhà văn gắn đời mình với mảnh đất thành thị xô bồ, đầy
biến động đã gánh trách nhiệm này và ông là người sớm nhất và thành
công nhất đưa được vào tiểu thuyết bộ mặt của những ông chủ tư sản hãnh
tiến mới phất lên, trong đó nghị Hách là người hùng của bọn người này.
Nghị Hách là một nhân vật điển hình thể hiện rõ chân tướng của giai
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 81
cấp tư sản phản động ở một nưóc thuộc địa. Vũ Trọng Phụng – qua lời của
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Long, đã từng chỉ mặt, gọi tên bọn này một cách rất chính xác. “ Tôi đã
trong thấy rõ những cử chỉ của phái tư bản mà ông cụ Nghị là tiêu biểu,
đã nghe thấy những phút chuông điện thoại gọi, do đó số phận của hàng
nghìn người bị định đoạt qua một cơn giận dữ”. ở nhân vật này, từ cung
cách sinh hoạt, hành động đến lời ăn tiếng nói luôn toát ra bản chất của
một ông chủ tư sản “phú gia địch quốc”, hơn nữa, đây còn là một ông chủ
có tính cách của một bạo chúa.
Tính cách của một bạo chúa được thể hiện trước hết ở sự độc ác đến
lạnh lùng, hỗn xược của kẻ nắm vũng sức mạnh của dồng tiền. Nghị Hách
là kẻ dám làm tất cả mà không thấy run tay. Y dám trâng táo hiếp gái lành
ngay trên xe ô tô trước mặt tài xế và sau đó trâng tráo thanh minh trước
quan huyện Cúc Lâm : “ Dẫu người ta tai to mặt lớn thế nào đi chăng nữa
thì cũng phải có lúc giăng gió một chút, cái ấy là trời sinh ra”. Y dám nói
thẳng vào mặt ông huyện trẻ Cúc Lâm cái lý của kẻ mạnh: “ Bẩm quan
lớn, nén bạc đâm toạc tờ giấy... việc lên đến quan sứ thì chúng tôi chỉ hơi
phiền lòng mà thôi, chứ thua thì không thể”. Rồi y ngang nhiên gieo vạ
cho cả làng Quỳnh Thôn bằng cách cho tay chân quăng cờ đỏ vào làng để
vu cho họ tội Cộng Sản. Đó là chưa kể đến cái quá khứ đã từng cướp vợ
bạn, bỏ bã rượu vào ruộng lương dân, đánh chết nguời rồi vứt người ta
xuống giếng... Rõ ràng những hành động trâng tráo ấy, tàn bạo ấy gắn liền
với bản chất của một giai cấp bóc lột tàn ác.
Cũng rất tư sản là lối sống xa hoa, đồi bại. ở Nghị Hách là sự kết
hợp giữa cái dâm ô của một lãnh chúa phong kiến với cái đồi bại hiện đại
của một ông chủ tư sản cỡ lớn. Nghị Hách có cả một toà lâu đài trong đó
nuôi đến mười một cô nàng hầu để “ chủ nhân ông sai bảo việc vặt, hoặc
ngứa mồm thì hôn một cái, ngứa tay thì sờ soạng một cái, cấu véo một
cái”. Chưa đủ, ông chủ khi cần còn đánh têlêphôn về Hà Nội, trả tiền hậu
hĩnh để gọi lên những cô đào “ trẻ nhất, đẹp nhất”. Rồi những thực đơn
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 82
sang trọng, những chai nước suối Viten đổ vào bể tắm, những buổi chiếu
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> phim khiêu dâm, những hộp thuốc phiện trắng... Tất cả đều là những dẫn
chứng sinh động của một lối sống tư sản đồi bại mà chắc chắn những kẻ
trọc phú nhà quê như Nghị Quế, nghị Lại không thể nào hình dung nổi.
Là một nhà văn hiện thực, Vũ Trọng Phụng không chỉ sắc sảo phơi
bày những nét biểu hiện cụ thể của tính cách một “bạo chúa” mà còn quan
tâm nghiên cứu quá trình hình thành và tích luỹ tư bản sơ khai của giai cấp
tư sản Việt Nam. Vũ Trọng Phụng đã phần nào nhìn thấy con đường tiến
thân của một kẻ vốn là cai thợ nề, đã từng lăn lộn kiếm sống ở Lào rồi dần
dần phất lên thành nhà tư sản giàu có. Qúa trình ấy gắn liền với bao nhiêu
tội ác kinh tởm. Mượn những lời đồn đại mà dân làng Quỳnh Thôn nghe
được, mượn lá số tử vi của Hải Vân, tác giả đã làm tái hiện một quá khứ
đầy những sự tàn bạo, độc ác gắn liền với quá trình làm giàu của Nghị
Hách.
C. Mác đã có lần phân tích sâu sắc vai trò của lợi nhuận đối với
những hành vi của giai cấp tư sản. Vũ Trọng Phụng có thể chưa có điều
kiện tiếp xúc với lý luận của C. Mác nhưng ông cũng đã nhìn thấy điều đó
ở nhân vật nghị Hách. Có một sự kiện ở chương XXI của tác phẩm rất có ý
nghĩa. Đó là màn hội kiến, mặc cả giữa nghị Hách và “ đại diện cho một
hội lý tài mới thành lập bên Pháp” để cùng nhau làm một cái áp phe lớn là
“ độc quyền nước mắm ở Trung kỳ và Bắc kỳ”. Để làm được điều đó, “ hội
lý tài” này cần có người ra tranh cử dân biểu, leo lên nghế nghị trưởng để
tạo vây cánh. Ban đầu Nghị Hách ngần ngại vì sợ “ không đủ tài hùng
biện”, sợ báo chí chửi là “ vô học”. Thế nhưng 500 cổ phần, mỗi cổ phần
hai nghìn phật lăng và bên cạnh đó là sự bài bản của đối tác làm nên can
đảm cho nghị Hách. Sau cuộc mặc cả này, nghị Hách đã hăng hái ra tranh
cử chức nghị trưởng, tổ chức phát chẩn để được báo chí ca ngợi, đọc diễn
văn và nhỏ nước mắt cá sấu thương xót bình dân. Rõ ràng đằng sau những
hành động ấy là sức đẩy của lợi nhuận và nhiều việc lợi khác. Đúng là
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 83
dùng chính trị để trục lợi kinh tế, dùng kinh tế để đầu cơ chính trị, lợi
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> nhuận cao thì sẵn sàng làm tất cả. Quy luật ma phi a phổ biến của xã hội
đồng tiền đã được Vũ Trọng Phụng vạch trần một cách chính xác.
Nghị Hách còn là một cá tính sinh động. ở Nghị Hách, từ chân dung,
hành động đến cách nói năng đều để lại ấn tượng sâu đậm đối với người
đọc. ở nghị Hách cái ác vẫn có bộ mặt riêng : Lạnh lùng, tàn nhẫn và rất
quyết đoán. Thợ đình công, y gọi điện thoại ra lệnh đuổi việc. Gây tội ác
xong, y thản nhiên ra lệnh cho lái xe phóng thẳng vào trương tuần làng
Quỳnh Thôn “ cứ mở hết may, tội vạ đâu tao chịu”. Y cho kinh phẩn, thuỷ
ngân vào thuốc làm cho mười một cô nàng hầu không thể chửa đẻ. Đứa
con hoang sa đoạ của Nghị Hách là Vạn Tóc Mai cũng phải kêu lên: “
Chắc cụ via nhà con có một quả tim bọc sắt, hoặc là không có quả tim!”
Đi liền với cái ác là thói kiêu ngạo, trâng tráo hết sức cá tính của
một ông vua tư sản biết rõ uy quyền của mình. Sau vụ án dâm sự với thị
Mịch, bị dư luận lên án, báo chí phanh phui, Tú Anh trách móc, y nói thật
tỉnh bơ: “ Ô hay ! Sao mày dở hơi thế? Thì tao mua con bé ấy về làm hầu
là cùng chứ gì”. Thật là ấn tượng với cái đám cưới mà chú rể không về,
“cái bàn thờ tổ tiên chỉ có thị Mịch cúi đầu lễ mấy cái”. Tiếp đến là đêm
tân hôn lạ kỳ. Chú rể đi ô tô ghé qua chỗ cô dâu, nói mấy câu với giọng
điệu của một ông chủ răn đe người hầu: “ Em cứ chịu khó ngoan ngoãn,
đừng hỗn láo với bà cả, đừng có ngoại tình... lấy tao làm lẽ thứ mười còn
hơn làm chính thất người khác”. Rồi sau đó là những cử chỉ bỡn cợt, sàm
sỡ, động tác “ vỗ vào bụng vợ bốp một cái”, kêu lên “ Thế này thì còn
nước mẹ gì nữa” rồi lại bỏ đi đột ngột.
Bên cạnh cái ác, cái trâng tráo, kiêu ngạo thì Nghị Hách còn là một
bạo chúa rất dâm. Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố cũng tố cáo lối sống dâm ô
của bọn quan lại từ quan tri phủ Tư Ân đến lão quan cụ đã rụng hết răng.
Nhưng dám hãm hiếp người con gái quê mùa hiền lành ngay trên ô tô
trước mặt cả tài xế thì chắc chắn chỉ có tên nghị Hách xấu xa, đồi bại mới
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 84
có thể làm được. Rồi những hành vi cợt nhả với đám nàng hầu, với thị Tín,
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> những lời tố cáo về chuyện dâm loạn vủa Vạn Tóc Mai, của Hải Vân, của
dư luận đối với nghị Hách đã minh chứng cho một lối sống đồi bại mang
tính hiện đại của nhà tư sản cỡ lớn này.
Nhưng trong khi mô tả cái dâm, cái khốn nạn của Nghị Hách, Vũ
Trọng Phụng không hề đơn giản, một chiều khi thể hiện nhân vật. Khi đọc
tác phẩm, người đọc đều thấy đỉnh cao của sự trâng tráo, bẩn thỉu trong
con người Nghị Hách chính là lúc hắn “quảng cáo cho y bằng sự công
nhận việc loạn luân” của hai đứa con mình “giữa một bữa tiệc khoe mề
đay, sau một cuộc phát chẩn giả nhân, giả nghĩa”. Nhưng chính cái lúc mà
bộ mặt vô liêm sỉ của nghị Hách lộ ra rõ nhất, Vũ Trọng Phụng cũng
không quên đi bản chất người còn sót lại trong y. Những giọt nước mắt “lã
chã” của hắn nhìn bên ngoài là hành vi đại bịp, nhưng bên trong lại là sự
“đau đớn về tinh thần” thực sự của con người trước bi kịch gia đình. Rõ
ràng, sự thể hiện này đã làm tăng thêm cái thực, cái sinh động của một tính
cách gian hùng. Trong tác phẩm còn khá nhiều chi tiết như thế. Ví dụ,
trong quan hệ với Hải Vân, Nghị Hách là một tội phạm độc ác. Chính y đã
lập mưu cho Khoá Hiền vào tù, rồi cướp vợ bạn, làm tan nát cả một gia
đình. Sau 26 năm gặp lại Hải Vân, Nghị Hách không phải là không có sự
hối hận muộn màng: “Xưa kia tôi đã trót làm hại bác, làm cho bác tan nát
gia đình. Cái tội nặng ấy, bây giờ tôi muốn chuộc lại, bác còn giận, tôi
cũng xin chịu, bác bảo gì tôi cũng xin vâng”. Những lời lẽ ấy không phải
hoàn toàn giả dối. Rõ ràng, nghị Hách là một điển hình giai cấp sắc bén
nhưng không phải là điển hình nhất phiến, một chiều như Nghị Quế, Nghị
Lại. Nghị Hách là chân dung nhiều mặt của một bạo chúa, là một tính cách
đầy đặn, được soi chiếu ở nhiều quan hệ. Điều này tạo nên sự chân thật và
sức sống của một tính cách.
2.Tính cách nghị Lại.
Giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam là giai cấp cũ, ra đời từ cuộc
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 85
chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Nhận diện bộ mặt giai cấp này để phản
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> ánh vào văn học là điều dễ dàng và phổ biến đối với nhiều nhà văn.
Nguyễn Công Hoan là một nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc, ông rất
thích mô tả những cảnh thối tha, nhơ nhuốc, những thủ đoạn, mưu mô,
những tội ác trong giới những ngưòi có thế lực, có địa vị. Ông là người rất
thành công trong việc đưa được vào tiểu thuyết bộ mặt của những bọn
cường hào ác bá, trong đó Nghị Lại là tiêu biểu.
Nếu như tính cách anh Pha có sự vận động và phát triển theo lôgíc
nội tại thì tính cách nghị Lại tĩnh tại hơn, ít có sự vận động hơn. Nghị Lại
là nhân vật hiện rõ cho giai cấp địa chủ phong kiến ở Việt Nam. Bản chất
của giai cấp địa chủ là bóc lột. Nghị Hách cũng không nằm ngoài bản chất
đó. Hắn bóc lột người nông dân đến tận xương tuỷ, làm cho người nông
dân không thể ngóc đầu lên được. Trong tác phẩm “ Bước đường cùng”,
nhà văn Nguyễn Công Hoan đã lột tả nhân vật này một cách cụ thể đứng từ
góc nhìn giai cấp. Ngay từ cách mô tả tỉ mỉ dinh cơ Nghị Lại ở giữa làng
An Đạo cũng đã thấy hiện lên thế giới của giai cấp địa chủ phong kiến Việt
Nam “Đó là một khu đất rộng ước hai mẫu, bốn mặt tường cao ba thước
tây xây gần kín khắp, trừ nhà cu Anh ở oái oăm vào một góc. Những mảnh
chai sáng nhoáng, tua tủa cắm thẳng trên tường, như lưỡi lê của đội quan
canh, đứng đều răm rắp. Giữa dãy tường theo đường cái, nổi lên cái cổng
cực lớn, có chòi canh nhưng hoạ hoằn hai cánh mới có dịp mở. Thường
thường nguời ta vẫn ra vào bằng cái của tò vò bên cạnh, rộng độ năm
mười phân tây nhưng cả ngày đóng im ỉm.” Nghị Lại là một kẻ luôn đè
đầu cưỡi cổ người nông dân, hắn chẳng cần làm gì mà vẫn giàu có một
cách hỗn láo, chẳng thế mà mới đầu Nghị Lại chỉ có ngót trăm mẫu cả
ruộng cả vườn, thế mà thấm thoát trong 10 năm trời, ruộng nọ đẻ ra ruộng
kia, “đến tháng này, ông có vừa bốn trăm mẫu”. Tính chất trọc phú, ranh
mãnh của Nghị Lại còn được thể hiện ở việc ông tìm mọi cách để tránh
không phải nộp tiền thuế ruộng, thuế đất. Ông không chịu đứng tên mình
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 86
mà ông lại cho đứng tên các bà, các cô, các cậu. Nhưng tất cả đều phải quy
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> vào tên Nghị Lại để nộp tiền thuế. Hắn mặc cả: “ Không, tôi chỉ chịu hạng
ba mươi nhăm đồng là quá lắm. Năm ngoái tôi chỉ phải mất có hai đồng
rưỡi. Năm nay có tăng, thì đến hăm bốn đồng, cùng lắm băm nhăm đồng,
chứ làng nước với nhau, các anh bắt tôi nộp năm mươi đồng thì nghe sao
được”. Hắn chỉ quan tâm đến việc làm sao để hắn càng giàu càng tốt, càng
nhiều tiền, càng tốt chứ hắn đâu có cần biết đến xã hội sống chết ra sao.
Hắn chửi mấy ông nghị viên là ngu, không biết bảo vệ quyền lợi cho mình
“ Hạng nghị viên ấy là hạng nghị viên chó má! Nhà nước định thế, sao
không cãi cho bằng được, để y nguyên thuế cũ hai đồng rưỡi thì có hơn
không... Thực là mất cả công bằng. Đáng lẽ càng người giàu càng đáng
nộp một đồng. Quanh năm như tôi đây có ra ngoài mấy khi đâu cho nên
chẳng cần gì đến đường sá, cầu cống của nhà nước. Nhà tôi lại xây tường
kiên cố để giữ trộm cướp, chẳng cần gì đến lính tráng tuần đinh... Tôi
không hiểu sao, viện dân biểu trong đó biết bao ông nhà giàu, mà không
biết bênh lấy quyền lợi cho chu đáo... Nghị viên ngày xưa danh giá lắm
chứ, ai cũng được kim khánh, mề đay, phẩm hàm. Bây giờ nhà nước coi rẻ
quá, chả thưởng cho cái gì cả”. Nghị Lại tự nhận là xưa làm việc làng hắn
cũng biết mãi cảnh “làm gì ăn nấy”: “Bất quá các anh thí cho tôi suất sưu,
thì tôi che chở cho các anh. Chứ tôi đã làm việc làng chán, lại không biết
hay sao.” Nghị Lại đã bộc lộ hết bản chất thối tha, đê tiện của giai cấp địa
chủ phong kiến tàn bạo, quanh năm hút máu người không tanh.
Bên cạnh đó, Nghị Lại vẫn có những nét tính cách riêng cố hữu, để
phân biệt một cách rõ ràng hắn với những kẻ khác. Trong cuộc sống, hắn
luôn tỏ ra là người đức độ, là kẻ phúc đức. Thực chất, đó là thái độ đạo đức
giả mà hắn luôn áp dụng đối với nhiều người, trong đó có vợ chồng anh
Pha. Có lúc hắn tự phân trần: “Chúng mày làm như tao ác khẩu lắm ấy.
Đứa nào cũng sợ tao chửi. Tao đã chửi đứa nào bao giờ. ở làng này, ai có
việc gì nhờ, tao cũng sãn lòng giúp. Nào vay tiền ư, nào nói với quan hộ ư,
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 87
tao đã từ chối ai chưa?” Tưởng chừng như tốt lắm nhưng đó là thói giả
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> nhân giả nghĩa mà những người kiểu như Nghị Lại rất hay dùng hay nói
đúng hơn đó là chiêu bài để lừa đảo, áp bức nhân dân. Từ những lời lẽ đạo
đức giả ấy mà hắn đã đến được nhà anh Pha với một dụng ý đòi anh bán
ruộng cho. Khi gặp vợ anh Pha bế con, hắn nói câu nghe tử tế lắm: “ Lúc
nào thong thả, bế nó vào trong tao, tao thưởng cho đồng bạc nghe
không?”. Miệng thì xơn xớt nói như vậy nhưng trên thực tế thì hắn chính
là kẻ xui nguyên giục bị. Trong cùng một lúc, hắn xúi giục cả hai người
nông dân vốn hiền lành kiện tụng lẫn nhau, tạo nên sự mâu thuẫn giữa anh
Pha và Trương Thi. Không dừng lại ở đó, mục đích cuối cùng của Nghị
Lại là bóc lột người nông dân bằng cách mới đầu nói “cho” rồi “cho
vay”nhưng đó là hình thức cho vay nặng lãi, lãi mẹ đẻ lãi con để cuối cùng
hắn cướp trắng tám sào ruộng của anh Pha đẩy anh Pha đến bước đường
cùng: vợ chết, con chết, anh phải bỏ làng ra đi. Nét riêng của Nghị Lại thể
hiện ở chỗ hắn dùng lời lẽ rất tình tứ để giảng giải cho anh Pha hiểu được
rằng vì sao muốn kiện được tên Trương Thi thì phải mất tiền cho quan. Ta
có thể coi như đó là một trò mị dân, lừa dân, bắt nhân dân phải nghe theo
lời của hắn. Thế là hai thằng kiện tụng lẫn nhau đều do bàn tay xúi giục
của hắn để rồi “đục nước thì béo cò”. Hắn chẳng cần làm gì mà vẫn có một
khoản tiền khổng lồ để ăn chơi. Hơn nữa, hắn còn tự tay viết văn tự và bắt
anh Pha điểm chỉ vào: “ Ông ấy tự viết vào văn tự tôi nợ năm mươi đồng
hẹn gán ruộng. Tôi tưởng ông ấy thật thà nên lúc bảo điểm chỉ tôi cũng
điểm chỉ.” Hắn dùng nhiều thủ đoạn để cuối cùng tám sào ruộng về tay
hắn một cách dễ dàng. Nghị Lại là một tính cách nham hiểm.
3. Tính cách Nghị Quế.
Để miêu tả một xã hội tối tăm, bế tắc, khuynh hướng chung của
nhiều nhà văn hiện thực là thiên về khai thác những khía cạnh xấu xa ở
những con người trong hàng ngũ giai cấp thống trị, chủ yếu là bọn nhà
giàu, do có tiền nên có quyền hành, chức vị. Hướng sự miêu tả về bọn
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 88
chúng, nhà văn dễ có điều kiện vạch trần chân tướng giả dối, tàn nhẫn của
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chế độ, dễ có điều kiện biểu hiện niềm căm phẫn của mình. Một xã hội cần
đạp đổ đi thì dĩ nhiên cần phải đay nghiến cho bằng thoả. Trong tác phẩm
“Tắt đèn”, nhà văn Ngô Tất Tố đã vạch mặt, lên án tên Nghị Quế tàn nhẫn
và đê tiện. Những người đã từng sống ở nông thôn Việt Nam trước tháng
tám năm 1945 hẳn đã có lần trông thấy Nghị Quế. Hắn là tên địa chủ bình
thường nhưng rất điển hình cho giai cấp địa chủ Việt Nam. Đó là tên trọc
phú ngu dốt, bóc lột theo kiểu trung cổ thô sơ, hắn chỉ cần đến tiền mà
không vần đến văn hoá. Tính chất trọc phú của bọn địa chủ được thể hiện ở
ngay cái dinh cơ của Nghị Quế :
“Nó là một đám bung xung nhọn như ngọn tháp, hùng dũng úp trên
đoàn bịch vừa đồ sộ, dường như phô nhà mình thóc để hàng bốn năm mùa.
Nó là một lũ đống rơm, đống rạ lớn bằng trái núi, chen nhau đứng
bên cạnh ngọn mít, ngọn sung, dường như khoe ông chủ cày cấy đến mấy
trăm mẫu.
Nó là những toà mái ngói muốn bảo tồn quốc tuý bằng những dấu
vuông chòm chõm, những xối tàu cong rướn và những con cá chép “mảnh
sứ” há miệng nằm giáp tường hồi.
Nó là nếp nhà hai tầng muốn phản đối mỹ thuật bằng những khung
cửa ngang phè, những cây cột phục phịch và những con rồng, con phượng
xanh đỏ vẽ ở ngoài cánh cửa sơn vàng.
Nó là một dinh cơ rộng chừng 3 mẫu quây quần trong bốn bức
tường gạch cắm mảnh chai, cảnh tượng phức tạp, giống như ngôi mộ đóng
trong khu trại, họp đủ các vật sang, hèn, các kiểu cũ mới”.
Một cái dinh cơ như vậy chắc chắn chỉ có những tên địa chủ mới có
được. Nghị Quế có một dinh cơ lớn với đoàn bịch vựa đồ sộ chứa thóc
hàng bốn năm năm nhưng vợ chồng hắn lại hết sức keo kiệt và bẩn thỉu: vợ
chồng hắn ăn một đĩa giò kho chia làm mấy bữa, mỗi lần treo cái niêu giò
lên lao bàn lại đếm kỹ từng miếng. Mua một ổ chó và một đứa con của chị
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 89
Dậu, vợ chồng hắn cò kè mặc cả từng xu và giở đủ mọi mánh khoé, khi dụ
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> dỗ, khi hăm doạ, đến lúc trả tiền lại cố tình ăn cắp mỗi đồng mấy xu. Nghị
Quế rõ ràng là một tính cách mang tính chất phản động của giai cấp địa
chủ phong kiến. Nghị Quế không phải là một tên bạo chúa như Nghị Hách,
cũng không có chương trình chiếm đoạt đầy mưu mô phức tạp như Nghị
Lại mà hắn chỉ là một ông chủ ruộng kiêm ông chủ thả lãi bình thường
nhưng bản chất tàn ác của hắn vẫn bộc lộ ra một cách đậm nét. Chẳng hạn
như thái độ rửng rưng của chúng, thản nhiên ngồi ăn trong khi chị Dậu bị
cả một đàn chó xúm lại cắn, máu tươi chảy ra đầm đìa.
Tính cách tàn nhẫn thật thà của Nghị Quế thì không thể lẫn với ai
được trong thế giới những kẻ đê hèn và khốn nạn. Ngô Tất Tố là một nhà
văn của nông thôn, ông đã xoáy sâu vào việc mô tả tính chất chó má của
tên địa chủ Nghị Quế. Tính chất chó má ấy được thể hiện một cách cụ thể
thông qua việc chị Dậu mang cái Tý và đàn chó đến bán cho Nghị Quế.
Cái Tý với bao nhiêu công lao nuôi dưỡng sinh thành là thế, vậy mà Nghị
Quế đã lạnh lùng bắc lên bàn cân với mấy con chó để còn so kè tính toán
từng xu một: “Thôi thế này, chó non tao cũng mua vậy. Bắt cả con chó cái
và đàn chó con sang đây, tao trả một đồng nữa. Với con bé kia một đồng
nữa là hai... Thế là nhà mày đủ tiền nộp sưu lại khỏi phải nuôi chó, khỏi
nuôi con. Sướng nhé... Thôi cho thêm hào nữa, thế là vừa con vừa chó, cả
thảy được hai đồng mốt, bằng lòng không?” Tính chất tàn nhẫn của chúng
thể hiện ngay ở việc vợ chồng Nghị Quế coi con người ngang bằng con vật
thậm chí coi con người không bằng con vật: “Con chó nhà bà còn được
mấy chục chứ con người như mày bà chỉ mua có một đồng bạc đấy thôi”.
Khốn nạn hơn nữa, nó còn bắt cái Tý phải ăn chỗ cơm thừa của chó kẻo
“phí của giời”. Hắn điên tiết lên khi cái Tý khóc mếu không chịu ăn. Và
như thế vẫn còn chưa đủ, vợ chồng tên địa chủ còn nghiến răng kèn kẹt:
“Bà truyền đời báo danh cho mày, từ giờ đến mai, phải ăn hết cái rá cơm
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 90
ấy rồi mới được ăn cơm khác.” Miêu tả thật sắc thái độ của nghị Quế đối
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> với con người làm cho ta căm thù giai cấp địa chủ một cách sâu sắc, thấm
thía.
4.Tính cách Bá Kiến.
Bá Kiến là một tên cường hào, địa chủ, ác bá điển hình trong dòng
văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Do già đời đục khoét, hắn tạo
được cho hắn cái địa vị “ ăn trên ngồi trốc”, nắm quyền hành và uy lực: từ
chức lý trưởng, hắn trở thành chánh tổng, bá hộ tiên chỉ làng Vũ Đại,
chánh hội đồng kỳ hào, huyện hào, Bắc kỳ nhân dân đại biểu. Hắn thét ra
lửa, khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Hắn lại là một tay cáo già lọc lõi,
từng trải trong cái nghề bóc lột, đàn áp nông dân. Chính hắn đã thừa nhận
cái sự thật kỳ lạ là: “ở cái đất nhà quê, bọn dân hiền lành chỉ è cổ làm nuôi
bọn lý hào, nhưng chính bọn lý hào, nhiều khi phải nhậm miệng cung cấp
cho những thằng cùng hơn cả dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể
cầm dao đâm ngưòi hay đâm mình. Và chính hắn cũng khám phá ra quy
luật: “già néo đứt dây...đè nén con em đến mức nó không chịu đựng được
phải bỏ làng ra đi là dại. Mười thằng đã ra đi thì chín thằng trở về với cái
vẻ hung đồ, cái tính ương ngạnh học được từ phương xa”. Cho nên chỉ
những tên địa chủ xảo quyệt, “khôn róc đời” như nó mới có thể tìm ra
được những thủ doạn lừa bịp tinh vi để bóc lột: “Một người khôn ngoan
chỉ bóp đến nửa chừng. Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng
rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn, đập nghế đòi cho được năm
đồng, nhưng được rồi thì lại vất lại năm hào vì thương anh túng quá”.
Nam Cao cũng đã vạch trần bản chất nham hiểm của Bá Kiến qua
việc hắn lợi dụng chí Phèo để trừ khủ các phe cánh đối địch: “trị không lợi
thì cụ dùng. Cụ nghĩ bụng: cũng phải có những thằng đầu bò chứ? Không
có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò? Những thằng
ấy chính là những thằng được việc... Có chúng nó sinh chuyện thì mới có
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 91
dịp mà ăn... Cụ thử nói khích xem sao. Nếu nó trị được Đội Tảo thì tốt
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> lắm. Nếu nó bị Đội Tảo trị thì cụ cũng chẳng thiệt gì, đằng nào thì cũng có
lợi cho cụ cả”.
Bá Kiến lại là một tay địa chủ đâm đãng, và về mặt này, hắn có
nhiều hành động đồi bại. Hắn có những bốn vợ và hắn thông dâm với vợ
Binh Chức trong thời gian binh chức đi lính vằng nhà. Hắn cũng ghen,
ghen sôi sục và cũng đau khổ vì ghen. Hắn đã ghen với Chí Phèo và đẩy
Chí Phèo vào vòng tù tội. Càng về già, hắn càng ghen dữ. Hắn đau lòng mà
thấy: “bà tư cứ trẻ cứ phây phây, cứ đẹp như mới ngoài hai mươi, mà sao
lại đa tình. Nhìn thì thích nhưng mà tưng tức là. Khác gì miếng thịt bò lựt
sựt khi rụng gần hêt răng”. Hắn chỉ muốn cho tất cả các thằng trai trẻ đi ở
tù. Tên địa chủ nhà giàu có máu dê ghen với tuổi trẻ và căm thù tuổi trẻ.
Như vậy, bóc lột, hống hách, nham hiểm, gian ác, dâm dãng, sợ vợ,
ghen tuông là tập hợp tính cách con người Bá Kiến. Dưới ngòi bút sắc sảo
của Nam Cao, hình tượng Bá Kiến hiện lên hết sức sinh động, không đơn
giản mà cũng không hề sơ lược.
IV. Xây dựng nhân vật phản diện qua việc miêu tả ngôn ngữ.
Ngôn ngữ chính là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang đặc
trưng của văn học. Không có ngôn ngữ thì không thể có tác phẩm văn học
bởi vì chính ngôn ngữ chứ không phải cái gì khác đã cụ thể hóa và vật chất
hoá sự biểu hiện của chủ đề và tư tưởng, tính cách và cốt truyện... Ngôn
ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng
tạo tác phẩm; nó cũng là yếu tố xuất hiện đầu tiên trong sự tiếp xúc của
người đọc với tác phẩm. Có lẽ vì thế mà M. Gorki đã viết : “ Yếu tố đầu
tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và- cùng với các sự
kiện, các hiện tượng của cuộc sống- là chất liệu của văn học”. M.Bakhtin
lưu ý “bàn đến lời văn, tức là ngôn ngữ trong tính toàn vẹn cụ thể và sinh
động của nó”. Những dẫn chứng trên đây là để cung cấp một cái nhìn cho
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 92
vấn đề nghiên cứu và cách nghiên cứu ngôn ngữ.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học tự sự gồm có lời tác giả và lời
nhân vật. ở đây trong khuân khổ luận văn này, chúng tôi chỉ đi sâu vào
nghiên cứu ngôn ngữ của các nhân vật phản diện như Nghị Hách, Nghị
Quế, Nghị Lại, Bá Kiến.
1. Ngôn ngữ của Nghị Hách.
Ngôn ngữ của Nghị Hách là ngôn ngữ đối thoại, không có ngôn ngữ
độc thoại. ở mỗi đoạn đối thoại, ngôn ngữ thể hiện những tính chất khác
nhau. ở đoạn đối thoại giữa Nghị Hách và Thị Mịch, ngôn ngữ của hắn tỏ
ra ngọt ngào, ân cần, thân thương và tha thiết :
“- Thưa quan, quan dùng hết cả gánh, hay độ bao nhiêu con tháo...
- à, con bán cho quan lớn một bên nhé! Tháo đi rồi quan cho tiền...
- Được lăm! Con ngoan ngoãn lắm, để ta thưởng cho nhiều tiền.
Con hãy lên xe này để quan đóng của không rét quan...Ta đang đếm tiền
đây.
- ...Thế con làm vất vả như rhế thì mỗi ngày được bao nhiêu?
- Bẩm chỉ được mỗi ngày sáu xu với hai bát gạo...”
Ngay cả khi hắn cưỡng bức thị Mịch, giọng hắn vẫn ngọt ngào:
“ Con im, không được cưỡng...
- Giời ơi ! Lạy ông! ông đừng làm hại một đời tôi!
- Im ngay, quan sẽ cho nhiều tiền...”
Trong khi đối thoại với Tú Anh, ngôn ngữ của Nghị Hách có lúc
ngọt ngào nhưng có lúc tức giận vẻ hống hách: “Những thằng làm báo là
những thằng nói láo! Mày mà cũng đi tin...” Ngôn ngữ của hắn có lúc phủ
định rồi lại khẳng định luôn: “- Không ! Tao chẳng hiếp ai, cưỡng ai... Tao
đã trả nó năm đồng.
- Thưa ông nó đã được giấy nhận thực bị ông làm mất tân.
- Thật quả tao không ngờ nó lại là gái tân...”
Đôi khi ngôn ngữ của hắn xem ra đơn giản và dễ dàng “ Ô hay ! Sao
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 93
mày dở hơi thế? Thì tao mua con bé ấy làm hầu là cùng chứ gì?”.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Trong đoạn đối thoại với Quan huyện, có lúc Nghị Hách sử dụng
ngôn ngữ thân mật, mềm dẻo nhưng cũng có lúc ngôn ngữ khá cứng cỏi,
nghe vẻ có lý.
“Bảo hiếp dâm thì thật là vu oan. Thưa ngài, lúc ấy xe hơi của
chúng tôi liệt máy, phải chữa trong hai ba tiếng đồng hồ. Giữa lúc tôi
buồn, thình lình con bé ấy dẫn xác đến. Ngài cũng thừa biết cho là dẫu
người tai to mặt nhớn đến thế nào đi nữa, thì cũng phải có lúc giăng gió
một chút, cái ấy là trời sinh ra. Tôi hỏi con bé, nó đã bằng lòng...
- Đây là giấy nhận thực của viên Y sĩ, giấy nhận thực cho thị
Mịch...là...
- Giấy này không đủ buộc tội tôi đâu. Quan lớn xem lại mà xem...
Nhận thấy rằng con bé ấy đã mất tân! Câu vu vơ ấy đủ cho thầy kiện tôi
cãi rằng có thể người con gái đã mất tân từ trước khi gặp tôi kia rồi. Bẩm
quan lớn, nếu việc xảy ra to thì tôi sẽ chống án lên thượng thẩm, mà bên
nguyên đơn thì không thể có tiền chạy thầy kiện như tôi...”
Trong đoạn đối thoại này, ngôn ngữ của hắn còn tỏ ra quả quyết, tự
tin: “Bẩm quan lớn, chúng tôi xin nói thật rằng chúng tôi không thua cái
kiện này đâu. Nghĩa là việc lên đến quan sứ thì chỉ hơi phiền lòng mà thôi,
chứ thua thì không thể có...”
Khi đối thoại với Long về việc có nên cưới thị Mịch làm vợ lẽ hay
không, ngôn ngữ của Nghị Hách là thứ ngôn ngữ của kẻ chỉ nghĩ đến tiền,
há mồm ra là tiền, hắn không hề nghĩ rằng có những cái mà tiền bạc không
thể mua được.
Hắn sãn sàng dở giọng điệu của một kẻ bất nhân đến tàn nhẫn:
“-Chết! vài trăm bạc! Mày điên! Mày có biết những nàng hầu của
tao ở đây, đáng giá bao nhiêu mỗi thị không? Cái đứa đẹp nhất tao cũng
chỉ mua của bố mẹ nó có bảy chục. Còn phần nhiều không mất xu nào. Có
bảy chục bạc mà còn phải về hầu hạ người ta suốt đời, huống chi ...chỉ có
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 94
một lần mà những vài trăm bạc.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
- Cụ nên biết cho là cô gái quê ấy sắp lấy chồng...
- Mày còn ngu lắm! Mày có biết ở những nơi phồn hoa đô hội như
Hà Nội, Hải Phòng, người ta bán chữ trinh của người ta bao nhiêu không?
Đến đây, lão xoè bàn tay ếch ra. Năm đồng! Vợ một ông trạng, vợ một
phán thường thua bạc, phải kiếm xu thì đi ngủ săm với tao mà cũng chỉ lấy
một đồng là cao lắm rồi...”
Đến khi nghe xong những lời giải thích của Long, thì ngôn ngữ của
hắn là thứ ngôn ngữ của kẻ a dua, không có lập trường tư tưởng vững
vàng, không biết ứng phó với hoàn cảnh thực tế:
“- ừ ! Mày nói nghe được! thế hợp ý tao lắm. Hai trăm bạc.
...ừ, mày nói nghe được đấy.”
Cho đến khi Mịch là vợ lẽ của hắn, trong đêm tân hôn, ngôn ngữ của
hắn “thổ” ra hết sức là thô lỗ, ngôn ngữ của kẻ trọc phú mà vô học:
“- Thẹn à? Vẽ
- Em ạ, thế là mày đã là vợ lẽ tao rồi.
- Trông mày hôm nay xấu lắm.
- Biết! Biết! không có thì ông cưới làm thèm vào.
- Chứ lại gì! ấy may mà mày lại có mang đấy. Thế là có phúc lắm
đấy.
- Thế này thì còn nước mẹ gì nữa.”
Khi nhìn thấy cảnh người vợ gian dâm ngoại tình, ngôn ngữ của
Nghị Hách là thứ ngôn ngữ cay nghiệt, đay nghiến, dày vò:
“- Bà Nghị Hách! Giời ơi!.. Vợ chồng đầu gối tay ấp... Đã có ba mặt
con! Ba mươi năm trung thành, bây giờ mới đổ đốn. Ngủ lang, ngoại tình,
hoang dâm.
- Thằng nào đấy hở? hở con voi gầy kia”.
Cho đến khi hắn hiểu hết cơ sự thì ngôn ngữ của hắn không phải là
thứ ngôn ngữ bình thường mà đó là thứ ngôn ngữ có kèm theo thái độ căm
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 95
thù “ à! đồ khốn nạn, đồ chó má.”
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Như vậy, ngôn ngữ của Nghị Hách là thứ ngôn ngữ sinh động. Tuy
có lúc thô lỗ nhưng có lúc ngọt ngào, bẻm mép. Tất cả thể hiện tính cá thể
hoá cao độ.
2. Ngôn ngữ Nghị Lại.
Ngôn ngữ Nghị Lại cũng được bộc lộ một cách cụ thể thông qua các
đối thoại với các nhân vật - đó là ngôn ngữ đối thoại. ở mỗi đoạn đối thoại,
ngôn ngữ nhân vật có sự thay đổi về tính chất.
Xuất phát từ tên địa chủ cường hào ác bá, luôn tìm cách bóc lột
người dân lao động, ngôn ngữ của hắn mơn trớn vẻ thúc giục:
-“Không có tiền lễ quan mà mày lại không biết ở làng này ai thân
với quan để đến mà nói à.
- Thế bây giờ mày có muốn kiện nó không?
- Thế nào, việc nó kiện mày ra làm sao?
- Giá nó nói tao một tiếng, tao cho nó cái danh thiếp lên quan, có
phải bằng mấy lục sự thừa phái có khi họ đơm đó không? Thế mày định
theo kiện hay ngồi tù?”
Đôi lúc ngôn ngữ của hắn lại là thứ ngôn ngữ chọc gậy bánh xe,
khiêu khích cả hai bên kiện tụng lẫn nhau:
“- Mà bản tâm là nó định hại mày kia đấy...
- Cho nên tao tưởng mày theo kiện, rồi kiện lại, chứ có đứa hàng
xóm như thế thật là nguy hiểm.
- Tao cho tiền mày mà kiện lại nó, mày có dám không?
- à, nhưng mà nó đang kiện mày kia mà? Mày phải theo xong cái
kiện này rồi mới kiện lại nó được chứ.”
Trong khi hắn đang lừa phỉnh, bịp bợm anh Pha, để anh Pha vay tiền
của hắn thì giọng điệu ngôn ngữ của hắn ngọt ngào, đôi lúc pha lẫn ngôn
ngữ giảng giải, dạy dỗ, khuyên bảo có vẻ rất tận tình và chu đáo:
“... Tiền mất cho quan là tiền không đi đâu mà mất, sao con lại cứ
tiếc?
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 96
... Làm quan ai lại oán thán cha mẹ bao giờ...”
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Khi tiền trao cháo múc xong xuôi, ngôn ngữ của hắn lại thể hiện sự
chắc chắn, chặt chẽ:
“ – Thế hôm nọ tám đồng, hôm nay hai đồng gạo, với hai chục nữa
là ba mươi đồng, nhớ lấy nhé.”
Cho đến thời điểm thóc cao, gạo kém thì hắn đòi nợ anh Pha, anh
Pha không có thì hắn nạt nộ, hống hách, đưa ra chiêu bài cuối cùng:
“...Mày vay lúa của tao thì mày phải theo lệ nhà tao. Thằng Phát!
Mày giảng cho nó biết cái lệ ấy...
- Nặng thì ai bảo mày vay? Trước khi mày vay sao không hỏi trước
cái lệ ấy...”
Cuối cùng, hắn nói bằng ngôn ngữ chậm rãi, nhưng chắc chắn như
đinh đóng cột:
“... Lại một chục mày vay để tạ thần ngày nhộn. Bốn chục ấy chiếu
theo văn tự, mày phải viết nhượng cho tao chỗ tám sào của mày.
... Tao biết đâu với mày, mày vay thì mày phải trả. Tao hẹn cho từ
giờ đến mai, nếu không đem trả gốc lẫn lãi món nợ, thì phỉ làm giấy bán
đứt ruộng. Bằng không, tao kiện.”
Như vậy, so với nghị Hách, ngôn ngữ nghị Lại không sinh động
bằng nhưng cũng đã thể hiện tính cá thể hoá cao độ.
3. Ngôn ngữ Nghị Quế.
Trên thực tế, trong tác phẩm “Tắt Đèn”, ngôn ngữ của nghị Quế
không nhiều nhưng nó cũng thể hiện ngôn ngữ của giai cấp địa chủ phong
kiến trong xã hội lúc bấy giờ.
Trong đoạn đối thoại giữa chị Dậu và vợ chồng nghị Quế về việc
bán con, ngôn ngữ của nghị Quế thể hiện ngôn ngữ của kẻ hết sức tàn
nhẫn: “Đem ngay đi chợ mà bán! Không nói lôi thôi! Mất thì giờ! Thời
Tây bây giờ thì giờ là vàng bạc, không ai công đâu mặc cả với mày... Hừ!
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 97
Vừa mới ngoen ngoẻn nói rằng “bán không ai mua”, người ta làm phúc
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> mua cho, lại còn lằng nhằng kêu rẻ! Rẻ thì đem ngay ra chợ mà bán. Ra
ngay.”
Hơn nữa, khi mua, hắn vừa mua vừa chửi lại vừa đuổi:
“ Chứ bao nhiêu nữa? Hai chục nữa nhé! thôi cho thế cũng đắt lắm
rồi. Bán thì đi làm văn tự. Không bán thì về. Về thẳng.”
Trên thực tế, hắn là một kẻ hêt sức đểu cáng, thế nhưng hắn luôn giở
giọng tử tế, nhân từ: “ Không ai thèm đánh lừa chúng bay. Bây giờ luật
mới nghiêm cấm cha mẹ bán con, cho nên văn tự phải viết như thế, chứ
không nói con, nói chó vào được. Sau này mày cứ để con mày ở mãi với cô
Hai, thì cái giấy ấy tao cũng coi như không có. Nếu mày trở mặt mà đem
con về, tao sẽ chiểu giấy bỏ tù cả vợ lẫn chồng. Giấy làm như vậy chỉ cốt
cho nhà mày khỏi lật nhà tao, chứ nhà tao không đời nào thèm lật nhà
mày. Thế là bao giờ tao cũng nắm đằng chuôi, chứ tao không cầm đằng
lưỡi nghe không?”
Ngôn ngữ của nghị Quế còn là ngôn ngữ của kẻ bất nhân, tàn nhẫn :
“ Con bé kia ! Cầm lấy rá cơm ăn đi, kẻo phí của giời. Ăn bốc cũng
được, không cần bát đũa”
Rồi giọng điệu hạch lạc, quát mắng:
“- Con mẹ khốn nạn, mày ngồi giương mắt ra đấy, không biết bảo
con làm sao. Hay mày sợ con phải ăn cơm chó thì mày xấu hổ...
- Thế con mẹ kia có lấy tiền không? Hay còn tiếc con, tiếc chó?”
Chỉ với những ngôn từ như vậy, cũng đủ hiểu ngôn ngữ của nghị
Quế là thứ ngôn ngữ của kẻ ăn trên ngồi trốc, quanh năm chỉ biết hống
hách, quát nạt kẻ khác mà thôi. Đó cũng là ngôn ngữ của cả một giai cấp
người trong xã hội.
4. Ngôn ngữ Bá Kiến.
So với nghị Lại, nghị Quế, nghị Hách thì ngôn ngữ của bá Kiến tinh
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 98
xảo hơn, ranh mãnh hơn và sinh động hơn.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Trước hết, ngôn ngữ của Bá Kiến cũng thể hiện cụ thể qua các đối
thoại, đặc biệt là thông qua đối thoại với nhân vật Chí Phèo. Với Chí Phèo,
hắn dùng nhiều tính chất ngôn ngữ khác nhau trong cùng một thời điểm.
Khi Chí đến ăn vạ, Bá Kiến phải dùng nhiều hình thức ngôn ngữ. Mới đầu,
giọng điệu hắn ngọt ngào:
“- Anh Chí ơi! sao anh lại làm ra thế?
- Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi...
- Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì anh mà anh phải chết? Đời
người chứ có phải con ngoé đâu? Lại say rồi phải không?”
Rồi cụ lại đổi giọng thân mật:
- Về bao giờ thế ? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước.
- Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì, ta nói
chuyện tử tế với nhau. Cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người
ngoài biết mang tiếng cả. tiếp theo, cụ phàn nàn:
“ Khổ quá, giá tôi ở nhà thì có đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau
thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ
tại thằng lý Cường nóng tính không nghĩ trước, nghĩ sau. Ai chứ anh với
nó còn có họ kia đấy”. ở đoạn này, ngôn ngữ bằng vai, phải lứa, rất thân
mật và mức độ thân thiết có tăng lên.
Lần thứ hai, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ đòi đi ở tù thì
mới đầu ngôn ngữ của hắn cũng vẻ nạt nộ, quat tháo:
“ Anh này lại say khướt rồi !”
Sau đó, cụ thể hiện một thứ ngôn ngữ thân mật, thể hiện một con
người biết suy nghĩ có chiều sâu: “ Anh bứa lắm. Nhưng này anh Chí ạ,
anh muốn đâm người cũng không khó gì. Đội tảo nó còn nợ tôi năm mươi
đồng đấy, anh chịu khó đến đòi cho tôi, đòi được, tự nhiên có vườn”. Thực
chất, Bá Kiến đã sử dụng Chí như một công cụ. Cho đến khi Chí đòi được
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 99
tiền về cho Bá Kiến, Cụ vẫn giữ giọng điệu thân mật:
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
“ Anh Chí ạ, cả năm chục này phần anh. Nhưng nếu anh lấy cả thì
chỉ ba hôm là tan hết. Vậy anh cầm lấy chỗ này uống rượu còn để tôi bán
cho anh mảnh vườn, không có vườn có đất thì làm ăn gì?”
Lần thứ ba, chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ đòi lương thiện
thì giọng điệu của Bá Kiến mới đầu cũng quát tháo, giận dữ, nạt nộ:
“Chí phèo đấy hở? Lè bè vừa vừa chứ, tôi không phải là cái kho.
Rồi ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn:
- Cầm lấy mà cút đi đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ báo người ta
mãi à?”
Thấy hắn toan giận dữ Cụ phải dịu giọng ngay:
- “Thôi cầm lấy vậy, tôi không còn hơn”
Khi hắn nói hắn không cần tiền, hắn cần lương thiện thì cụ Bá dở
giọng nhạo báng:
“- ồ tưởng gì , Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ”.
Bên cạnh đó, Cụ bá còn sử dụng ngôn từ có chiều sâu tĩnh lặng
nhưng thể hiện một con người có tài cai trị bằng cái đầu thực sự. Đó cũng
thể hiện một bước tiến mới trong khi xây dựng nhân vật phản diện của các
nhà văn hiện thực phê phán. Cụ nghĩ bụng : “cũng phải có những thắng
đầu bò chứ? Không có những thằng đầu bò thì lấy ai trị thằng đầu bò? thế
lực của cụ sở dĩ lấn áp được các vây cánh khác, một phần lớn cũng bởi cụ
biết mềm, biết cứng, biết thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và
không sợ đi ở tù. Những thằng ấy chính là những thằng được việc...Có
chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn...”
Tóm lại, mỗi nhà văn đều có sự thể hiện các biệt tài của mình khi
xây dựng nhân vật. ở đây các nhà văn theo khuynh hướng văn học hiện
thực phê phán đã xây dựng những nhân vật của mình thông qua cách miêu
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 100
tả ngoại hình, khắc hoạ nội tâm, tính cách, hành động. Tuy nhiên, ở mỗi
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> nhà văn thì mức độ biểu hiện của các yếu tố trên có sự khác nhau. Từ đó,
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 101
tạo nên cách xây dựng các nhân vật phản diện ở mỗi nhà văn là khác nhau.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Chƣơng V: Cách xây dựng loại nhân vật phản diện.
I .Cách xây dựng nhân vật phản diện của Vũ Trọng Phụng.
Hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn học là nhân tố góp phần khẳng định
tư tưởng, quan niệm, sáng tác của nhà văn. Vũ Trọng Phụng ra đời trong
một hoàn cảnh lịch sử đầy những biến động. Một đời người không dài, một
đời văn ngắn ngủi và ông sinh ra khi “nước đã mất, dân đã làm nô lệ”,
nhiều biến cố chính trị dồn dập xảy ra. Đặc biệt cuộc khủng bố trắng của
thực dân Pháp năm 1932 tạo ra một không khí xã hội ngột ngạt, buồn chán
hơn bao giờ hết. Hoàn cảnh chính trị, xã hội như vậy có ảnh hưởng không
nhỏ đến tình hình văn học, tiểu thuyết nói chung và ngòi bút Vũ Trọng
Phụng nói riêng.
Một đời cầm bút không dài, chỉ có 9 năm, nhưng Vũ Trọng Phụng
đã tạo ra được một gia tài văn chương khá lớn: 71 tác phẩm đủ các thể loại
từ truyện ngắn, tiểu thuyết đến phóng sự, kịch và dịch. Năm 1936, ông đã
cho ra đời năm đứa con tinh thần khá đồ sộ: Giông tố, Vỡ đê, Làm đĩ, Số
đỏ, Cơm thầy cơm cô. Trong đó, Giông Tố là một trong số những tác phẩm
hay, có giá trị của Vũ trọng Phụng. Ông là một nhà văn đa tài. Ông vừa là
nhà phóng sự, nhà tiểu thuyết, nhà báo, nhà viết kịch. Nhưng, đóng góp
lớn nhất của Vũ Trọng Phụng là trên lĩnh vực tiểu thuyết. Nguyễn Văn
Hạnh đã từng nhận định: “Sự nghiệp văn học nhà văn để lại cho đời thật
phong phú và đặc sắc, gồm đủ thể loại: phóng sự, tiểu thuyết, truyện ngắn,
kịch bản, dịch, phê bình văn học. Trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng,
chắc chắn phần có giá trị nhất là tiểu thuyết”.
Vũ Trọng Phụng sinh ra trong một gia đình mà theo lời của Ngô Tất
Tố là thuộc loại “nghèo gia truyền” ở quê không có một thước đất cắm dùi,
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 102
thân sinh mất lúc mới bảy tuổi. Một bà mẹ nghèo đơn thân đơn thế, phải
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> lao động để nuôi mẹ, nuôi con. Ông không được học hành nhiều, chỉ học
đến bậc sơ học rồi phải đi làm lấy tiền nuôi mẹ, nuôi con lại thêm mắc
bệnh “tứ chứng nan y”. Gia đình đã vậy, hoàn cảnh xã hội chung quanh
cũng chẳng sáng sủa gì: khủng hoảng kinh tế, cuộc sống ăn chơi, hưởng
lạc ở những tiệm hút rạp hát... Tất cả những điều kiện và hoàn cảnh trên đã
tạo nên nét nổi bật trong tư tưởng nghệ thuật đặc biệt trong cách xây dựng
nhân vật phản diện của Vũ Trọng Phụng.
Tư tưởng nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng là tư tưởng đấu tranh, xoá
bỏ cái “vô nghĩa lý” để xây dựng một xã hội, con người “có nghĩa lý”,
công bằng, nhân ái và có tính người hơn.
Tiểu thuyết, theo Vũ Trọng Phụng không phải là che đậy, cải trang
để cái xấu xa tục tĩu trở thành văn minh, tiến bộ cũng không phải né tránh
hiện thực. Vũ Trọng Phụng quan niệm “sự thực” là yêu cầu cơ bản của
nghệ thuật viết tiểu thuyết. Khi trả lời phái lãng mạn, ông trực diện đưa ra
quan điểm của mình mà nhiều người khẳng định đấy chính là tuyên ngôn
nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng:
“Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn
cùng chí hướng
như tôi muốn tiểu thuyết là sự thật ở trên đời... Các ông muốn theo
thuyết tuỳ thời, chỉ nói cái gì mà thiên hạ thích nghe nhất là sự giả dối.
Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì đúng sự thật... tôi cho nhân loại tiến hoá ở
chỗ trọng sự thực, nếu nhà văn dám nói rõ những vết thương ấy cho mọi
người nghe”
Quan niệm “tiểu thuyết là sự thật ở đời” mang nội dung hiện thực
sâu sắc, diễn đạt tuy cô đọng mà hàm súc, ngắn gọn mà thiết thực, không
lý luận nhiều lời mà có sức thuyết phục. Nó không chỉ đơn thuần là sự
phản ứng, đối lập với quan niệm “tiểu thuyết là tiểu thuyết” của Tự lực văn
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 103
đoàn mà còn là tiêu chí, mục tiêu, hướng phấn đấu, ý nguyện cả một đời
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> văn của Vũ Trọng Phụng. Tư tưởng nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật là
cơ sở để hình thành cách thức nhân vật nói chung và nhân vật phản diện
nói riêng.
Cách xây dựng nhân vật phản diện của Vũ Trọng Phụng trước hết
thông qua việc tả chân xã hội, miêu tả những cái có thực trong cuộc sống.
Ông nêu rõ mục đích tả thực của ông: “ Tả thực cái xã hội khốn nạn,
công kích cái xa hoa dâm đãng của bọn người có nhiều tiền, kêu ca những
sự thống khổ của dân nghèo bị bóc lột, bị áp chế, bị cưỡng bức, muốn cho
xã hội công bình hơn nữa, đừng có những chuyện ô uế, dâm đãng.”
Ngòi bút tả chân Vũ Trọng Phụng tỏ ra khá sắc sảo khi đưa ra nhân
vật phản diện Nghị Hách. Hắn là một tên tư bản cỡ bự, giả dối, bịp bợm,
lừa bịp, dâm loạn, tàn bạo và đặc biệt thính hơi tiền. Chính đồng tiền đã ăn
mòn nhân tính của loại người, làm tha hoá nhân phẩm của Nghị Hách, gây
ra cho chúng biết bao tai hoạ không chỉ cho bản thân hắn mà còn cho cả
gia đình hắn.
Từ anh cai thợ nề Tạ Đình Hách thành trọc phú, thành “Bắc đẩu bội
tinh”, lừng danh bạo chúa với bao tội ác giết người, hiếp người, thông dâm
vợ người, dùng mọi thủ đoạn để đàn áp dân nghèo, người cô thế, vơ vét,
làm giàu bất chính, giã man, tán tận lương tâm, đánh mất nhân tính, đến độ
để cho hai đứa con ruột của mình là Long và Tuyết lấy nhau cho được
tiếng “bình dân”. Nhân vật này trong tiểu thuyết “ Giông Tố” của Vũ trọng
Phụng là một trong những hình mẫu ngoài đời. Nhân vật của Vũ Trọng
Phụng như một tấm kính, đem soi vào những tên có máu mặt đương thời
thì sẽ lộ cho bằng hết từng chân tơ, kẽ tóc của chúng. Hách là ai? Chẳng
phải hư cấu, hắn là một nhân vật quan trọng trong xã hội ngày ấy mà tên
và ảnh được ghi trong cuốn “ Những nhân vật Đông Dương” in năm 1941.
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 104
Những nhân vật ngoài đời như thống sứ Chatel, đốc tờ Le Roy de ... chắc
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chắn có tên trong sổ tay tư liệu để làm nên những trang viết của Vũ Trọng
Phụng.
Sở dĩ khi xây dựng nhân vật Nghị Hách, Vũ Trọng Phụng đi sâu vào
khai thác nhân vật có thực trong đời sống là vì tư tưởng của ông, dù dưới
góc nhìn nào: xã hội, chính trị, hài hước, tâm lý... đều hướng vào kẻ thù
của nhân dân, của dân tộc. Kẻ thù đó chính là bọn thực dân, địa chủ phong
kiến, tư sản mại bản. Chúng cấu kết trong guồng máy chính trị xã hội
đương thời để ra sức bóc lột đàn áp, thực hiện chính sách ngu dân, bần
cùng, truỵ lạc hoá nhân dân. Ông đã mạnh tay lôi ra ánh sáng bộ mặt xấu
xa, dâm đãng, bỉ ổi, độc ác, xảo quyệt dẫu chúng có được che dấu một
cách khôn khéo, thủ thuật, đánh bóng mạ vàng bởi những phong trào,
những hoạt động dưới danh nghĩa văn minh, Âu hoá, tiến bộ.
Khi xây dựng nhân vật phản diện kiểu nghị Hách, tác giả còn miêu
tả những nét tổng hợp chứ không chỉ quy tụ ở một nét tiêu biểu nào. Nhà
văn miêu tả nghị Hách vừa có nét thành thị lại vừa có nét thôn quê. Nét
thành thị của Nghị Hách thể hiện ở con người hết sức pha tạp. Cái dâm của
nghị Hách không chỉ là nét bản chất của hắn mà còn là sản phẩm của một
chế độ xã hội đã và đang bị Âu hoá. Nghị Hách lúc bấy giờ đang hoà
chung với không khí thành thị nên không thể tránh khỏi thói xấu xa, đê
tiện lúc bấy giờ. Ngay trong một khoảnh khắc, hắn dám hiếp dâm một
người con gái thôn quê trong trắng. Khi làm xong cái việc ấy rồi, hắn sẵn
sàng hẩy con người ta xuống vệ đường mà không hề thấy day dứt lương
tâm. Thật là tàn nhẫn quá mức. Cuối cùng, để trả giá cho một hành động
dâm dãng như vậy thì Nghị Hách đã phải lấy Mịch làm vợ lẽ cho xong việc
rồi mọi thứ ra sao thì chưa cần biết. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định
rằng, cái dâm là sản phẩm của một chế độ xã hội đang bị Âu hóa lúc bấy
giờ. Đã có nhiều ý kiến của giới nghiên cứu bàn cãi xung quanh vấn đề
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 105
này. Ngay khi tiểu thuyết “ Giông Tố” ra đời, cách viết táo bạo của nhà
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> văn khi đề cập đến cái dâm đã gây lên sự phản ứng mạnh mẽ của một số
người. Nhất Chi Mai trong bài “Dâm hay không dâm” đả kích Vũ Trọng
Phụng một cách cay độc và gọi văn chương của ông là “bẩn thỉu, nhơ
nhớp, dơ dáy”. Thái Phỉ trên báo “Tin văn” ( số 25, tháng 9 năm 1936 )
cũng gọi văn chương Vũ Trọng Phụng là “văn chương dâm uế”. Vũ trọng
Phụng bằng những lời lẽ sắc bén, đứng vững trên lập trường của một nhà
văn “tả chân, vị nhân sinh” đã mạnh dạn bảo vệ cho quan điểm của mình.
Nguyễn Hoành Khung trong giáo trình “ Văn học Việt Nam” nhận xét rõ
hơn : “ Việc thích đi vào những đề tài “giật gân” về lưu manh, me Tây,
việc đề cập nhiều đến cái dâm ... trong nhiều sáng tác Vũ Trọng Phụng
cũng có phần là do chạy theo thị hiếu đám công chúng thị dân, một biểu
hiện của quan điểm thị dân tư sản, khi mà văn chương trở thành một thứ
hàng hoá và bị chi phối bởi quy luật thị trường”.
Con người thành thị của Nghị Hách còn thể hiện ở một điểm là rất
hay đua đòi, luôn chạy theo “cơ chế” của quy luật thị trường. Điều đó được
thể hiện ở hành động ngay trong đêm khuya, hắn về thủ đô là vì “ muốn để
sáng sớm hôm sau có đủ thì giờ đến một của hiệu kim hoàn, mua một thứ
hàng quý giá, để mừng một ông tổng đốc được đệ nhị đẳng Bắc đẩu bội
tinh.” Hơn nữa, hắn còn sợ đến mừng chậm hơn những người khác thì mất
vẻ long trọng của một kẻ phú gia địch quốc. Phải nói rằng chỉ có những kẻ
thành thị – những kẻ sống theo lối sống tư bản, luôn chạy theo những ham
muốn về tiền tài, vật chất, danh vọng, địa vị thì mới có những hành động
như vậy. Ngay cả những hành động mà hắn đến nịnh quan công sứ hay
quan huyện Cúc Lâm cũng thể hiện một con người thành thị, bị xã hội tư
sản thành thị xô đẩy làm cho tha hoá không chỉ về nhân phẩm mà còn vê
bản chất con người. Trên thục tế, hắn xuất thân từ một anh thợ cai nề
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 106
nghèo hèn trong xã hội, nhưng rồi do sự thay đổi của cả một nền tảng xã
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> hội mà dần dần đi lên, du nhập nhanh chóng vào đời sống thị thành để rồi
trở thành kẻ sống chạy đua với xã hội tư sản, trở thành nhà tư sản cỡ bự.
Lối sống xa hoa, trưởng giả của Nghị Hách cũng thể hiện một con
người đặc thị thành: “Cái toà nhà ba tầng ở dưới ấp thì tầng dưới là phòng
khách, tầng gác nhì là phòng ăn mà gác ba mới là chỗ làm việc và chỗ làm
việc của nhà tư bản. Còn hai toà nhà hai tầng ở hai bên thì một là để cho
gia đình, họ mạc, hoặc các bạn thân đến ăn ở, và một nữa là nhà thờ,
những phòng ngủ đồ đạc rất sang trọng nhưng mà chỉ để phòng xa... Tóm
lại một câu thì ấp Tiểu vạn trường thành là một toà lâu đài hẳn hoi, vì
cách ăn ở của chủ nhân khiến ta phải tưởng tượng đến cách ăn ở của
những vị công hầu, khanh tướng, trong những tiểu thuyết Tàu vậy.” Cuộc
sống đầy đủ, sang trọng như vậy chưa đủ để đáp ứng cho một kẻ tự nhận là
“phú gia địch quốc” mà đêm ngày còn có đến mười một nàng hầu: mười
một cô ả kia lại được ở nhà sửa soạn hầu hạ một ông chồng mà họ khiếp sợ
như một vị bạo chuá. Hắn xa hoa, truỵ lạc đến mức: “nếu chủ nhân ở nhà
thì dù sao cũng phải có sẵn đàn bà để chủ nhân ông sai bảo việc vặt, hoặc
ngứa mồm thì hôn một cái, ngứa tay thì sờ soạng một cái, cấu véo một
cái...”. Cuộc sống xa hoa truỵ lạc của ngài còn được thể hiện ở việc ngài
hút thuốc phiện rất “ thanh tao”. Ngay khi Long đến, bàn với ngài một việc
hệ trọng thì câu của miệng của Nghị Hách vẫn là: “ Anh biết tiêm thuốc
phiện đấy chứ ?” Thế rồi “Hai người nằm đối diện nhau. Long thì tiêm
thuốc mà Nghị Hách thì xem thư... Kìa mày, tiêm to nữa vào... Mấy điếu
thuốc vừa rồi bé quá, không ăn thua gì cả.”
Sở dĩ Vũ Trọng Phụng miêu tả rất rõ chất thành thị của Nghị Hách là
vì ông là người thành phố chính cống. Thành phố là cuộc sống của ông, số
phận của ông, nó thôi thúc ông phải viết. Vũ Trọng Phụng đã thể hiện
được cái chất thuần Hà Nội cho dù đối tượng miêu tả là thanh lịch hay xô
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 107
bồ phức tạp. Đây là địa hạt mà các nhà văn gốc Hà Nội dễ có thể chiếm
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> lĩnh trong miêu tả nghệ thuật hơn các tác giả ở khu vực khác. Nói tới thành
phố thực chất là nói tới địa bàn hoạt động chủ yếu của tư bản. Vũ Trọng
Phụng không có điều kiện miêu tả cơ cấu kinh tế, hạ tầng cơ sở của xã hội
cũng như thiết chế chính trị. Vũ Trọng Phụng chỉ có thể khai thác chủ yếu
ở các bình diện văn hoá, đạo đức của sinh hoạt đô thị. Vũ Trọng Phụng e
ngại song ông có cái nhìn khá thực tế với vấn đề Âu hoá. Ông xem nó như
quy luật phát triển tất yếu của xã hội thời hiện tại. Tác giả lo lắng sự kéo
theo của những căn bệnh xã hội. Từ tình trạng đổ vỡ và suy đồi về đạo lý
dẫn đến sự lừa đảo và dối trá và các tệ nạn lan tràn trong xã hội. Như thế là
Vũ Trọng Phụng đã chủ động với thời thế chấp nhận tân sinh hoạt trong
buổi giao lưu gặp gỡ Đông Tây và tác giả đã miêu tả khá thành công sinh
hoạt đô thị trong thời kỳ quá độ.
Bên cạnh nét đô thị, trong tác phẩm “Giông Tố”, nhà văn Vũ Trọng
Phụng còn khai thác cả những nét rất nông thôn của nhà tư sản Tạ Đình
Hách. Nét nông thôn trong con người hắn được thể hiện ngay ở tư trang
mà hàng ngày hắn vẫn dùng. Với cái dáng vóc vạm vỡ, hơi lùn kiểu nhà
quê lại mang theo một cặp kính trắng gọng vàng, trên môi có một ít râu lún
phún kiểu tây, cái mũ dạ dên hình quả dưa, cái áo đen bóng một khuy, cái
quần đen sọc trắng, đôi giày láng mũi nhọn và bóng lộn càng làm tăng
thêm vẻ quê một cục của Nghị Hách, đến mức làm cho nhiều người cảm
thấy rất khó chịu. Ngay cả cách nói năng cộc lốc, trống không của ngài
cũng thể hiện con người quê một cục. Trong khi ngài đang vùi đầu vào thú
vui “tao nhã”, chợt có tiếng gõ nhẹ vào của, hắn bực mình ngửng lên hỏi:
“Cái gì ?” -
Rồi ngài lại tiếp tục nói trống không:
“Đàn ông hay đàn bà?” -
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 108
- “Bảo ngồi ở phòng tĩnh tâm mà đợi.”
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Cách nói năng kiểu nhà quê ấy kết hợp với lối sống, cách suy nghĩ
kiểu thị dân ấy đã làm lên một nghị Hách khác xa với những nhân vật khác
như Nghị Quế hay Nghị Lại. Chính sự khai thác nhân vật theo kiểu pha tạp
này đã làm nên sự thành công của Vũ Trọng Phụng khi xây dựng nhân vật
phản diện kiểu Nghị Hách.
Một điều mà người đọc dễ dàng nhận thấy là trong khi xây dựng
nhân vật phản diện kiểu Nghị Hách, Vũ Trọng Phụng rất quan tâm đến
việc xây dựng được nhiều những chi tiết gây ấn tượng mạnh. Sở dĩ phải
xây dựng được những chi tiết gây ấn tượng mạnh là vì trong tác phẩm văn
học, chi tiết là những nét cụ thể mà nhà văn sử dụng để miêu tả ngoại hình,
nội tâm, hành động của nhân vật cũng như những cảnh vật, sự kiện có liên
quan đến nhân vật đó. Đan dệt hàng loạt chi tiết với nhau mới có được một
bức tranh bằng ngôn ngữ có thể tạo nên một ấn tượng tương đối xác định
về nhân vật. Các chi tiết cần được sắp xếp, bố trí thật chặt chẽ, không thừa
hoặc thiếu, có một quá trình phát triển lô gíc – nghĩa là chúng liên quan với
nhau một cách tất yếu.
Trong tác phẩm “Giông Tố”, nhân vật Nghị Hách từ chân dung,
hành động đến cách nói năng đều để lại những chi tiết mang ấn tượng sâu
đậm đối với người đọc. Vũ Trọng Phụng rất giỏi khai thác cái ác trong con
người Nghị Hách thông qua các chi tiết cụ thể mang tính chất điển hình
cho cả một giai cấp thống trị. ở Nghị Hách, cái ác có bộ mặt riêng : lạnh
lùng, tàn nhẫn và rất quyết đoán. Điều đó được thể hiện qua hàng loạt các
chi tiết : Thợ đình công, y gọi điện thoại ra lệnh đuổi việc. Hiếp dâm người
con gái thôn quê xong, hắn đẩy con người ta xuống đường mà không hề
mảy may một chút suy nghĩ gì cả. Hiếp dâm xong, y thản nhiên ra lệnh cho
lái xe phóng thẳng vào trương tuần làng Quỳnh Thôn: Cứ mở hết máy, tội
vạ đâu tao chịu. Y thản nhiên ngồi trên sập nhìn Tài Nhì quằn quại dưới
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 109
ngọn roi trừng phạt của thằng Xuân theo lệnh của y. ác hơn nữa, y còn cho
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> kinh phẩn, thuỷ ngân vào thuốc làm cho mười một cô nàng hầu không thể
chửa đẻ. Có lẽ cái hay nhất và cũng là nét đặc sắc nhất thể hiện ở chi tiết
Nghị Hách dám hiếp dâm người con gái thôn quê ngây thơ, trong trắng
ngay trên xe ô tô trước mặt cả tài xế. Đây là hành động đặc biệt mà chỉ có
ông Nghị tư sản này dám làm mà thôi. Rồi còn những hành vi hắn cợt nhả
với đám nàng hầu, với Thị Tín cũng gây ra những ấn tượng hết sức sinh
động về một nhà đại tư sản đồi bại. Phải khẳng định rằng, đỉnh cao của sự
bẩn thỉu, thối tha trong con người Nghị Hách thể hiện ở chi tiết khi Nghị
Hách quảng cáo cho Y bằng sự công nhận việc loạn luân của hai đứa con
giữa một bữa tiệc khoe mề đay, sau một cuộc phát chẩn giả nhân giả nghiã.
Trong tác phẩm còn khá nhiều chi tiết gây ấn tượng sâu sắc. Chẳng hạn
như trong quan hệ với Hải Vân, Nghị Hách là một tội phạm độc ác. Thế
nhưng khi gặp lại Hải Vân sau 26 năm, ở Nghị Hách – con người vô liêm
sỉ ấy cũng biết cảm phục và cũng có sự hối hận, dẫu rằng đó là sự hối hận
muộn màng. Điều gây ấn tượng sâu sắc đối với người đọc thể hiện ở chỗ
một con người sắt đá như vậy mà cũng có lúc phải tự nhìn nhận lại bản
thân. Chính chi tiết này góp phần làm nên một chân dung chân thật như
vốn có ngoài đời. Trong tác phẩm “Giông Tố”, buổi phát chẩn của Nghị
Hách là cảnh tượng gây ấn tượng mạnh mẽ. Trong buổi phát chẩn, hắn đã
thổ lộ tâm tư, tình cảm của mình “ Tôi vốn xuất thân hàn vi và tôi lại là
dòng dõi bình dân, mà cái điều ấy làm cho tôi tự kiêu lắm. Tôi xuất thân
làm thuyền thợ may mới được như thế này... Có một số người trong xã hội
vẫn phao ngôn vu cho tôi đủ mọi sự gian ác dâm tà... Sự thật đâu có thế...
Tôi là người thiện ác thế nào riêng lương tâm tôi biết... Tôi thấy đồng bào
lầm than đau khổ, tôi phát chẩn, cũng có một tờ báo tiếng Pháp kia kêu tôi
là nịnh dân...Bất giác, nước mắt ở đâu ứa ra lã chã”. Rồi hắn lại tiếp tục: “
Thật vậy, tôi thương xót đồng bào tôi quá, tôi thấy tôi không hy sinh một ít
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 110
tài sản thì là có tội to. Do thế có hai buổi phát chẩn vừa rồi...”
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Chính lúc này là thời điểm mà bản chất vô liêm sỉ của hắn được thể
hiện rõ ràng nhất. Những giọt nước mắt lã chã của hắn nhìn từ bên ngoài là
hành vi đại bịp, nhưng bên trong lại chính là nỗi đau đớn về tinh thần trước
bi kịch của gia đình. Sở dĩ như vậy là vì Nghị Hách vô cùng đau buồn
trước cảnh tượng vợ mình thân hình loã lồ nằm với thằng Cung văn. Đau
buồn hơn khi biết rằng chính Long là đứa con trai của mình.
Ngôn ngữ của Nghị Hách cũng gây ấn tượng mạnh mẽ. Sau vụ án
dâm sự với Thị Mịch, bị dư luận lên án, báo chí phanh phui, Tú Anh trách
móc, thì y nói thật tỉnh bơ “Ô hay ! Sao mày dở hơi thế ? Thì tao mua con
bé ấy làm hầu là cùng chứ gì.” Thật là ấn tượng với đám cưới mà chú rể
không về, cái bàn thờ tổ tiên chỉ được có Mịch cúi đầu lễ mấy cái. Tiếp
đến là đêm tân hôn lạ kỳ. Chú rể đi ô tô ghé qua chỗ cô dâu, nói mấy câu
với giọng điệu của một ông chủ răn dạy con hầu: “ Em cứ chịu khó ngoan
ngoãn, đừng hỗn láo với bà cả, đừng có ngoại tình, lấy tao làm lẽ thứ
mười còn hơn chính thất người khác”. Rồi sau đó là những cử chỉ bỡn cợt,
sàm sỡ, động tác “ vỗ vào bụng vợ bốp một cái”, kêu lên “thế này thì còn
nước mẹ gì nữa”, rồi lại bỏ đi đột ngột... Nghị Hách – nhà tư bản phú gia
địch quốc nói khá nhiều và nói rất ấn tượng. Trong ngôn ngữ của y pha lẫn
cái tự đắc, hãnh tiến của kẻ giàu có lẫn cái chất lưu manh, vô học của một
gã thầu khoán thủa hàn vi.
Tóm lại, Vủ Trọng Phụng đã rất thành công khi xây dựng nhân vật
phản diện kiểu Nghị Hách. Bằng tài năng của mình ông đã xây dựng nhân
vật thật như con người vốn có trong cuộc sống.
II. Cách xây dựng nhân vật phản diện của Nguyễn Công Hoan.
Trong các nhà văn hiện thực tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt
Nam tuy tuổi đời không nhiều nhất nhưng Nguyễn Công Hoan có vinh dự
là người xuất hiện sớm nhất. Vào lúc văn xuôi viết bằng chữ quốc ngữ còn
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 111
non trẻ, với những bước đi chập chững ban đầu thì Nguyễn Công Hoan cứ
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> hồn nhiên tự mở cho mình một lối đi riêng. Theo thời gian ngòi bút ông
ngày càng thuần thục để rồi số tác phẩm vượt trội về lượng và chất đã đưa
tên tuổi ông trở thành thân quen với bạn đọc trong nước và ít nhiều dân tộc
trên Thế giới. Trong lăng kính mọi người, Nguyễn Công Hoan không chỉ
đơn thuần với tư cách một sáng tạo cá nhân mà còn với tư cách đại biêủ
của một khuynh hướng, một thể loại, một phong cách có ý nghĩa về
phương diện mỹ học.
Ngay từ hồi đang còn ở lứa tuổi thanh niên, giữa xã hội đầy những
biến động phức tạp, tuổi trẻ rất dễ mât phương hướng, thế mà Nguyễn
Công Hoan đã có một quan niệm sống đúng đắn, lành mạnh. Ông tự nhủ:
ngoài việc đi dạy học, cần phải làm một việc gì có ích, chứ không thể chỉ
“có mặt ở trên đời một cách buồn tẻ và vô tích sự” (Đời viết văn của tôi, tr
116). Từ quan niệm này, nên khi viết văn ông đã đưa ra một quan niệm
vừa giản dị lại vừa thiết thực: văn chương không nên là một thứ để giải trí.
Nó phải thêm một nhiệm vụ là có ích. Từ quan niệm này, ông đã định
hướng cho sáng tác của mình một cách cụ thể: “Truyện phải có nội dung
bổ ích và trước hết truyện phải thực” ( Đời viết văn của tôi, tr 132).
Nguyễn Công Hoan không sa đà vào những chuyện phù phiếm, vẩn
vơ mà đều xuất phát từ hiện thực đông đặc trước mắt. Khi sáng tác, thái độ
của ông bộc lộ rõ ràng, cụ thể “ Tôi rất thích chú ý đến những cảnh thối
tha, nhơ nhuốc, những thủ đoạn, mưu mô làm tội ác trong giới những
người có thế lực, có địa vị” (Đời viết văn của tôi, tr 281). Những người ấy,
Nguyễn Công Hoan không phân biệt họ là quan lại, tổng lý, địa chủ, tư sản
mà cứ gọi chung chung là nhà giàu. Ông cũng không thể nào yên tâm trước
những nỗi thống khổ của người nghèo, bị bọn nhà giàu dùng thế lực, địa vị
mà áp bức, bóc lột. Người nghèo theo quan niệm của Nguyễn Công Hoan
không chỉ là nông dân mà bất cứ một hạng người nào không có tiền, bị lép
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 112
vế trong xã hội. Bằng kinh nghiệm sống và suy luận, Nguyễn Công Hoan
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> đã xác định được đối tượng đả kích của mình là kẻ giàu - đương nhiên là
có quyền, có thế và đứng về phía người nghèo bị lép vế.
Từ quan niệm giàu, nghèo có tính chất kinh nghiệm chủ nghĩa đã
giúp ông phanh phui được nhiều chuyện xấu xa, thối nát của giai cấp thống
trị cùng những sự đau thương khổ nhục của đời người trong xã hội cũ.
Về cách xây dựng nhân vật phản diện của Nguyễn Công Hoan,
Trừơng Chính cho rằng “Cách tập trung tất cả những tính xấu vào nhân
vật phản diện không phải là cách sáng tạo điển hình nhất. Cách đó làm
cho nhân vật trở thành kỳ dị, thiếu tính hiện thực và do đó mất tác dụng
của nó’’. Đây là một cách hiểu và phải chăng cách hiểu này thiếu tính
thuyết phục. ý kiến khác lại cho rằng “Việc xây dựng nhân vật phản diện
cho phép nhà văn được tô đậm, khuyếch đại những nét tiêu biểu’’. Chúng
tôi nghĩ rằng trong đời sống xã hội ngày xưa, quả nhiên bọn thống trị xấu
xa bỉ ổi vô cùng, e rằng nhà văn cố tình tô vẽ một vài nét cho có vẻ sáng
sủa hơn thì chính lại là không thực. Banzac đã từng nói rằng: “Những câu
chuyện bịa trong tiểu thuyết thực ra còn thua xa so với những câu chuyện
có thực trong cuộc đời’’. Đúng vậy, chỉ sợ nhà văn chưa nói hết cái xấu
của bọn thống trị trong xã hội thực dân phong kiến thối nát chứ không sợ
nhà văn nói quá.
Nguyễn công Hoan rất thành công khi viết về nhân vật phản diện.
Trong cuốn “đời viết văn của tôi‟‟, Nguyễn Công Hoan viết “Nhân vật
quen thuộc của tôi đều là những nhân vật xấu trong xã hội thuộc Pháp. Họ
là bọn nhà giàu, cậy quyền cậy thế mà áp bức người nghèo. Họ là quan
lại, địa chủ, là tư sản, tiểu tư sản lớp trên. Vẽ họ tôi tìm đủ những nét nhơ
bẩn về vật chất cũng như về tinh thần. Còn nhân vật chính diện tôi thường
tả họ qua ngôn ngữ, cử chỉ để thấy được con người của họ’’. Tác giả tiếp
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 113
“Tôi viết về người xấu nhạy hơn người tốt bởi vì tôi vốn bi quan trên nhìn
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> mọi vật bằng con mắt hoài nghi, chỉ thấy phía xấu, phía xấu dễ nhập tâm
hơn phía tốt‟‟.
Trước hết, khi xây dựng nhân vật Nghị Lại, Nguyễn Công Hoan xây
dựng nhân vật này với nhiều nét thôn quê. Hắn là người xuất thân từ nông
thôn và xem trường học là nhà tù, gia đình là ngục thất. Có thể nói, nếu
Nghị Hách là con người pha tạp, vừa có nét thành thị lại vừa có nét thôn
quê thì Nghị Lại chỉ thuần tuý là tên địa chủ ở nông thôn. Chất thôn quê
trong con người hắn được thể hiện ngay ở cách suy nghĩ quê mùa, cổ hủ,
rất nông dân của hắn. Hắn quan niệm rằng: “Học vấn không làm gì. Thủa
bé, ông coi sách vở là kẻ thù số một.” Hơn nữa, ông còn coi nhà trường
như ngục thất, nó chiếm hết cả tự do của tuổi sung sướng của ông nữa. Với
cách nghĩ “nông dân” như vậy thì suốt đời hắn chỉ chui trong xó làng An
Đạo mà thôi và mãi mãi chỉ là một tên địa chủ nhà quê. Nói đến đây không
ít độc giả băn khoăn rằng với một con người như vậy tại sao lại trở thành
một địa chủ hơn nữa lại còn là nghị viên. Nhưng chúng ta cũng phải hiểu
một điều rằng Nghị Lại xuất thân trong một gia đình mà theo cách nói của
Nguyễn Công Hoan cũng là khá giả trong làng quê lúc bấy giờ “ Nguyên
khi ông bà chánh mất đi, thì dinh cơ mới rộng độ tám sào, mà ruộng vườn
tất cả mới có ngót trăm mẫu”. Như vậy gia sản mà song thân ông để lại
cho ông cũng không thể nói là ít trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Lại
thêm việc hai cụ huấn luyện cho ông phương pháp làm giàu. Từ đó, ruộng
nọ đẻ ra ruộng kia, thấm thoát có mười năm trời mà tường quanh nhà xây
gần kín hết, “đến tháng này, ông có vừa đúng bốn trăm mẫu”. Nhiều vườn,
nhiều ruộng như vậy, ắt hắn thành một địa chủ cỡ bự trong làng. Còn việc
ông là một nghị viên chẳng qua là do mưu mẹo mà có. Chỉ có điều, một
nghị viên mà thất học thì liệu giúp gì được cho dân. Trên thực tế, ta thấy
rất rõ rằng địa chủ theo kiểu nghị Lại trong xã hội chỉ tìm mọi cách để thoả
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 114
mãn lòng tham vô đáy của mình chứ chúng giúp gì được cho dân, ngược
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> lại còn bóc lột người dân đến tận xương tuỷ. Phải chăng chức nghị viên
của hắn chỉ là một cái bình phong để che mắt thiên hạ mà thôi.
Từ cách suy nghĩ hết mực thôn quê ấy đã dẫn đến hành động chơi
quê của hắn : “Ông lấy làm hãnh diện rằng mới mười sáu tuổi đã giỏi
trống cô đầu, mới mười bảy tuổi đã hút nổi hai mươi điếu thuốc phiện một
lúc và mới mười tám tuổi đã rẽ dây cương vô số nhân tình”.
Chất quê mùa của Nghị Lại còn được thể hiện ở cách cảm nhận về
mỹ thuật hay nói nôm na là cách cảm nhận về cái đẹp của hắn. Bản thân
hắn mới chỉ là một tên nghị viên nhà quê, thế mà “ ông không cần nể ai,
chụp ngay cái hình mặc mũ áo đại triều và thuê vẽ. Hoạ sĩ lại là tay đồng
chí của chủ nhân, càng không cần nể ai nữa. Y đã tô màu tía lên trên áo
rồng và vẽ thêm đôi giao long dưới cầu mũ có rắc kim nhũ.” Giá như cách
vẽ ấy làm cho chủ nhân đẹp hơn, tráng kiện hơn thì oai cho Nghị Lại biết
bao. Tiếc rằng “cả một bộ triều phục uy nghi ấy lại dùng để lồng ra ngoài
một tấm thân có bộ mặt hom hem, dăn dúm, khủng bố người ta bằng hai
nét nhăn xoạc cong sang bên má, làm cho đôi mắt xếch càng xếch thêm...”
Nét nhà quê của hắn còn được thể hiện rõ ràng hơn ngay ở cách bài
trí đồ đạc, tranh ảnh trong nhà: “Đây là một cô gái Trung hoa trắng hồng
như trứng gà bóc, mũm mĩm, nằm hớ hênh, trật cả đùi lẫn vế. ở góc lại
một cô nữa, chẳng mặc gì để che tấm thân trắng phau, béo phốp nhưng lại
thẹn thò, chua ngoa, một tay bịt ngay chỗ chẳng nên bịt, và một tay giơ lên
trời, cầm một cái... Một cái đấy hiểu nhầm là một ngọn đèn cụt đầu”.
Ngoài phòng khách thì như vậy, còn trong buồng lại chồng chất những thứ
đặc nhà quê : “Đầu tiên là mùi tanh tanh ở trong gậm xông ra. Nó là mùi
han đồng của những đỉnh, những đèn, những mâm, những nồi, xếp la liệt
dưới sập. Những thức ấy khó lòng lấy ra được vì khi cất vào đó, người ta
phải rất đông, cùng khênh bổng cái sập lên, mà khi hạ xuống, thành sập
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 115
sát gần xuống đất.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Rồi đến những bàn ghế, tranh ảnh, cùng trăm thứ trang hoàng trên
tường, không ra lối lăng gì. Cái thì thực đẹp, cái thì thực xấu, cái thì thực
mới, cái thì thực cũ. Hình như những đồ ấy chủ nhân đã nhặt nhạnh dần
dần của các nhà khác. Sự bày biện bảo cho ta biết chủ nhân là kẻ bất chấp
mỹ thuật, nhưng là một người biết chịu khó tiếc của trời.” Tất cả những
chi tiết trên đây đã làm nên một tên địa chủ có lối sống, cách suy nghĩ đặc
nhà quê. Bên cạnh đó, những hành động cũng như cách ứng xử của hắn đối
với mọi người cúng có biểu hiện là một kẻ nông dân thuần tuý. Ông chẳng
ái ngại cho chất quê mùa, cục cằn của mình mà nói thẳng với Tây đoan
một điều rằng : “ Tôi thì không văn hoa, lễ phép như người ta, nên mới hỏi
thẳng quan lớn như thế”.
Khi xây dựng nhân vật phản diện Nghị Lại, Nguyễn Công Hoan đi
sâu khai thác bản chất xấu xa của một con ngưòi bạc ác, căm ghét người
lao động và luôn chống lại quyền lợi của người nông dân. Khi xây dựng
nhân vật, nhà văn luôn đặt cạnh nhân vật phản diện với nhân vật chính
diện để làm nổi bật bản chất của cả một tầng lớp, một giai cấp trong xã hội
thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ. Bản chất của Nghị Lại là xảo quyệt,
hắn luôn tìm chỗ sơ hở của kẻ khác để kiện người không thì xui người
khác kiện tụng lẫn nhau. Mà mục đích cuối cùng của việc làm bẩn thỉu ấy
là nhằm kiềm tiền, kiếm ruông, kiếm sao cho vừa một cái thùng không
đáy, nói theo cách của bà Anh trong tác phẩm thì “ nó để chôn vợ, chôn
con nó à”. Bản chất tàn nhẫn của hắn được thể hiện ở chỗ: hắn là kẻ xui
nguyên giục bị, đòn xóc hai đầu. Hắn xui Trương Thi kiện anh Pha nhưng
hắn lại cho anh Pha mượn tiền đi hầu quan để kiện lại Trương Thi. Trong
việc này thì hắn chẳng cần làm gì mà cũng kiếm được món tiền khá khá.
Sở dĩ người nông dân hiền lành, chất phát như anh Pha cứ bị mắc mưu hết
lần này đến lần khác là bởi vì hắn luôn dùng những lời lẽ hết sức ngon
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 116
ngọt để dỗ dành, lừa dối người nông dân làm cho người nông dân với bản
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> chất hiền lành, lương thiện cứ nghĩ đó là hành động tốt. Bên cạnh đó, bản
chất tàn nhẫn của nghị Lại còn được thể hiện ở điểm: vào đúng lúc anh Pha
đang hết sức túng bấn, khủng hoảng thì hắn đòi tiền. Anh Pha nói chưa có
thì hắn buộc anh Pha phải bán đứt tám sào ruộng cho hắn. Thế là cuối cùng
người nông dân như anh Pha đã mắc mưu Nghị Lại và trở thành kẻ tứ cố
vô thân, không ruộng, vườn, vợ chết, con cũng chết, anh lâm vào đường
cùng.
Hắn là một kẻ vô học. Tuy hắn là nghị viên nhưng hắn không bao
giờ bảo vệ thành quả lao động của người nông dân, ngược lại, hắn lợi dụng
địa vị, quyền lợi của mình bóc lột người nông dân đến tận xương tuỷ làm
cho họ không còn đường để ngóc đầu làm ăn, sinh sống. Hắn không chỉ
bóc lột người nông dân bằng cách cho vay nặng lãi mà còn cướp trắng
công sức của người nông dân. Điều này được thể hiện sâu sắc ở chương
cuối cùng của tác phẩm, đặc biệt ở đoạn Nghị Lại ính đến gặt lúa ở ruộng
của anh Pha. Đỉnh cao của sự áp bức, bóc lột thể hiện ở đoạn anh Pha và
Nghị Lại xô xát với nhau:
“Quả nhiên, bọn thợ với lính ra cánh đồng Mả Giơi, đến ruộng anh
Pha thì đứng lại, và xuống cắt lúa.
Pha căm run bắn người lên. Không nghĩ trước sau, tự nhiên anh
cắm cổ chạy đến gần. Bất đồ Nghị Lại đứng từ bao giờ, trỏ vào mặt anh,
bảo lính:
- Đây chính thằng này gặt trộm lúa nhà tôi mấy hôm nay.
Pha nắm tay tiến lại gần:
- Ruộng của tôi ông không có phép...
Nói chưa dứt lời, anh bị ba người lính quây lại. Biết thế nguy, anh
hăng tiết, nhất định liều, chống cự cho đến kỳ cùng. Anh vớ được chiếc
đòn càn, xông vào Nghị Lại, phang một cái thật mạnh vào đầu:
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 117
- Đồ ăn cướp!
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Ông nghị ngã dúi, kêu rầm rĩ. Nhưng ba người lính đã ôm ghì lấy
anh. Đánh được ông nghị, anh hả dạ quá, càng phấn chấn, nên hết sức
quằn quại và phang huyên thuyên. Nhưng anh thế cô, chẳng mấy chốc bị
ba người lính khoẻ túm chặt được, đè anh ngã ngửa và trói gô lại...”
Qua đoạn văn trên, độc giả dễ dàng nhận ra một điều hết sức vô lý là
chính bản thân người lao động đầu tắt mặt tối như anh Pha lại không được
hưởng thành quả lao động. Trong khi đó Nghị Lại là một kẻ ngồi chơi xơi
nước thì đến mùa lại cho lính đến gặt lúa của ngươì lao động. Đúng là một
kẻ uống máu người không tanh. Bản chất đê tiện của Nghị Lại đã được vạch
trần và bản thân người nông dân lao động cũng đã nhận thức sâu sắc kẻ thù
của mình và kẻ thù của giai cấp mình. Vì vậy, hành động mà anh Pha đánh
Nghị Lại là một hành động tất yếu và đã trở thành tự phát. Tác giả cũng
phần nào thấy được sức mạnh của người nông dân. Các nhân vật chính diện
cũng đã thấy được “hai cánh tay mạnh mẽ” của mình là “hai cánh tay làm
cho đất cát có giá trị”. Họ đã nhìn nhận được sự bất công trong xã hội. Hành
động của anh Pha tuy muộn nhưng ít nhiều nó cũng là đòn chống trả lại cả
một gíai cấp thống trị. Đồng thời hành động đó, cũng kịp vạch trần bộ mặt
nham hiểm và xảo quyệt của tên địa chủ gian ác, vô học .
Nếu như trong các truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, khi xây
dựng nhân vật phản diện ông thường tìm cách sáng tạo ra tiếng cười đặc
sắc, độc đáo thì khi xây dựng nhân vật phản diện Nghị Lại người đọc
không hề nhận thấy một tiếng cười hài hước trong tác phẩm mà chỉ thấy sự
căm giận, uất ức loại người như Nghị Lại. ở đây nhân vật phản diện Nghị
Lại không bị tiếng cười mỉa mai châm biếm và thái độ hài hước che lấp
như trong các tác phẩm khác của ông. Trong đó các nhân vật khác trong
các tác phẩm khác bị ông chế giễu một cách mạnh mẽ. Ví dụ như trong
truyện “Báo hiếu trả nghĩa mẹ”, ông công kích hạng trọc phú ăn ở với mẹ
không ra gì. Tên này gọi mẹ bằng con vú già, để vợ đầu độc mẹ chết cho
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 118
khuất mắt, rồi “ trả nghĩa mẹ” bằng cách làm đám ma thật linh đình để báo
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> hiếu. Trong truyện “hai thằng khốn nạn”, ông dựng lên một tên trọc phú
keo kiệt khác: một ông Nghị bỏ ra ba hào mua một thằng bé nhưng vì lưng
thằng bé có nhiều nốt ruồi nên hắn ta đã bớt lại hai xu mà vẫn còn tiếc là
đắt quá! Trong truyện “mất cái ví” ông đã nhạo báng lão tham đểu cáng
giả vờ mất ví để vu cho người bà con nghèo của hắn, làm cho người này
không thể đến quấy nhiễu, nhờ vả nó...
Tóm lại trong hầu hết các truyện của ông, nhà văn thường đả kích,
lên án các nhân vật phản diện bằng cách gây ra tiếng cười chua chát nhưng
trong tác phẩm “Bước đường cùng”, nhà văn xây dựng nhân vật Nghị Lại
theo quan điểm mô tả hết những nết xấu xa, nhơ bẩn của giai cấp thông trị.
Để khắc hoạ sâu sắc hơn nữa, ông đã đặt những người giàu có bên cạnh kẻ
nghèo khó để tô đậm bản chất xấu xa của giai cấp thông trị trong xã hội
thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ.
III. Cách xây dựng nhân vật phản diện của Ngô Tất Tố.
Ngô Tất Tố không chỉ là một nhà văn mà ông còn là một nhà báo,
Ông xuất thân trong một gia đình nông dân lao động. Chung quanh Ngô
Tất Tố là sự sống bần cùng, ngột ngạt dưới những uy quyền cha truyền con
nối của những dòng họ đại địa chủ và phong kiến. Đứng trước một thực tại
như vậy, ngòi bút của Ngô Tất Tố chĩa mũi nhọn vào bọn thực dân Pháp,
bọn quan lại và cường hào địa chủ, vạch trần những cái thối tha của chúng.
Ông tỏ ra hoài nghi tất cả những chính sách của bọn thống trị. Đối với
những bọn bán lương tâm cho giặc, đi ngược lại quyền lợi của nhân dân để
mưu cầu phú quý, Ngô Tất Tố châm biếm, giễu cợt với giọng điệu chua
cay, nghiêm khắc. Ngòi bút đả kích ấy có nhiều khi đã dũng cảm giáng vào
đầu bọn quan lại những đòn chí tử. Năm 1937, trong một bài đăng trên báo
tương lai, Ngô Tất Tố viết: Quan lại tham nhũng chẳng là những kẻ bóp
dân như bà cô bóp con cháu à? Thủ đoạn của họ cực kỳ mầu nhiệm, họ đã
bóp người nào thì người đó không thể không lè lưỡi ra, lè lưỡi cho đến khi
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 119
có đồ cúng họ. Nhưng họ chỉ bóp dân ở trong ở trong tối, trừ ra những kẻ
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> bị bóp, quỷ thần cũng không thể biết. Hành động của họ thật chẳng khác gì
một lũ tà ma. Bởi thế tục ngữ mới đem họ mà nối liền với ma trong câu
“quan tha ma bắt”. Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề vẫn là thứ kẻ
quê rất sợ, song chưa nguy hiểm cho dân bằng họ.
Bọn cường hào địa chủ ở nông thôn cũng là đối tượng để cho Ngô
Tất Tố đưa lên sách báo mà mạt sát, mà nguyền rủa. Đối với lũ thống trị
trong xã hội đang xúm nhau hút máu và mồ hôi nước mắt của nhân dân,
nhà văn Ngô Tất Tố không do dự dùng tài ngôn luận của mình để vạch mặt
và đả kích. Ngòi bút của Ngô Tất Tố chẳng những là vũ khí phê bình sắc
bén đối với kẻ địch mà còn bộc lộ nhiều tình cảm nồng nhiệt đối với quần
chúng và cách mạng. Tính chất chiến đấu trong ngòi bút Ngô Tất Tố được
thể hiện ở các tác phẩm của ông. Ông là một nhà văn rất thành công khi
viết về đời sống ở nông thôn Việt Nam.
Nếu Ngô Tất Tố thành công trong việc biểu hiện quần chúng, thì
ông cũng đã thành công trong việc xây dựng những nhân vật phản diện
như: Lý đương, Lý cựu, Chánh hội, Phó hội, cho đến viên tri phủ, vợ
chồng Nghị Quế... Những nhân vật này đều là một bọn người đang xúm
nhau lại hút máu mủ nhân dân. Khi xây dựng những nhân vật này, nhà văn
phải quan tâm nhiều đến vấn đề sưu thuế bởi vì sưu thuế là tai hoạ đối với
nhân dân nhưng lại là món món mồi béo bở đối với bọn chúng. Vì sưu
thuế, chị Dậu phải bán khoai, bán lúa, bán chó, bán con. Vì sưu thuế, anh
Dậu bị cùm kẹp, đánh đập suýt chết nhưng nhờ sưu thuế mà bọn cường
hào, quan lại được ăn, được uống, được hút lại có cả tiền bỏ túi. Chúng
mưu mô lợi dụng cảnh hoạn nạn của quần chúng để làm giàu, để hưởng
thụ. Đọc tác phẩm Tắt đèn, chúng ta thương cảm cho người lao động bao
nhiêu thì lại càng căm ghét bọn thống trị bấy nhiêu. Bức tranh xã hội càng
chân thực thì càng có sức mạnh tố cáo và càng có tác dụng giáo dục cho
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 120
công chúng lòng căm thù sâu sắc đối với chế độ áp bức, bóc lột. Thái độ
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> của Ngô Tất Tố trong tác phẩm Tắt đèn rất rõ rệt. Đối với quần chúng,
ngòi bút của tác giả dạt dào một tấm lòng thông cảm sâu sắc, còn đối với
bọn quan lại, cường hào, ngòi bút của nhà văn lại đầy giọng dả kích, châm
biếm. Nhà văn không hề e dè trong việc vạch trần tính chất bỉ ổi, vô nhân
đạo của bọn thống trị.
Nếu như Ngô Tất Tố thành công trong việc xây dựng nhân vật Chị
Dậu thì phải nói rằng ông cũng rất thành công trong khi xây dựng nhân vật
phản diện Nghị Quế. Khi xây dựng nhân vật này, nhà văn Ngô Tất tố cũng
giống như Nguyễn công Hoan, tập trung vào việc miêu tả tất cả những nét
xấu xa, bỉ ổi của cả một giai cấp thống trị lúc bấy giờ, ví dụ như cái ngu
dốt, sự thất học, thói ăn chơi trác táng của một gã nhà quê trọc phú, bủn
xỉn và keo kiệt... Tất cả những điều đó đã được nhà văn thể hiện hết sức
sâu sắc trong tác phẩm “Tắt đèn”. Cách xây dựng nhân vật theo kiểu này
rất giống với cách xây dựng nhân vật phản diện của Nguyễn Công Hoan. ở
đây Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan đều xây dựng nhân vật phản diện
bằng cách tập trung tất cả những tính xấu vào nhân vật phản diện. Sở dĩ
như vậy bởi vì các nhà văn đều có cái nhìn đúng đắn vào cuộc sống, hơn
nữa, ở các ông đều có thái độ rất đúng đắn đối với bọn cường hào, quan lại
trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Theo các nhà văn thì trong xã hội
ngày xưa, quả nhiên những bọn thống trị qủa là xấu xa, bỉ ổi vô cùng. Vì
vậy, các nhà văn phải tập trung những nét xấu vào các nhân vật phản diện
là điều dễ hiểu.
Khác với Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố khi xây dựng nhân vật
phản diện Nghị Quế, ông đã đưa cả nhân vật vợ Nghị Quế xuất hiện cùng
thời điểm với Nghị Quế để làm tăng tính chất trọc phú cũng như sự keo
kiệt, bủn xỉn của Nghị Quế nói riêng và cả giai cấp thống trị nói chung.
Trong tác phẩm Tắt đèn, bà Nghị xuất hiện rất đúng lúc và khi nào cũng
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 121
hiện nguyên hình là một kẻ hết sức tần nhẫn. Tính chất tàn nhẫn của bà
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> Nghị Quế được thể hiện ngay khi chị Dậu đến đặt vấn đề bán con và bán
chó:
“Thưa lạy hai cụ ạ! -
Bà Nghị gắt:
- Chó cắn vào tay phải không? Cho chết! Đương lúc người ta
ăn uống, ai bảo cứ dẫn xác vào! Hỏi gì?”
Tiếp theo là đoạn đối thoại giữa bà nghị và chị Dậu về việc bán cái
Tý:
“ Thưa lạy hai cụ, nhà con túng quá, xin hai cụ cứu giúp chúng con.
Bà nghị nhả miếng bã trầu cầm tay, quai thật dài cặp môi cắn chỉ:
- chẳng cứu với vớt gì cả? Mày có bán đứa con gái tao mua!
- Xin vâng.
- Sáng ngày chồng mày nói con bé ấy đã lên bảy tuổi, xin lấy
ba đồng. Cụ ông tưởng nó nói thật, bằng lòng cho hai đồng. Nhưng giờ
nghe nói con mày mới có sáu tuổi, thì tao chiết đi một nửa, chỉ cho một
đồng thôi. Thuận bán thì về đưa nhau sang đây!
Chị Dậu ngơ ngác:
- Thưa cụ, thật quả cháu đã lên bảy, nó đẻ tháng giêng năm Tý.
Chúng con không dám nói dối của cụ!
- Tao không thể tin cái miệng vợ chồng nhà mày! Người ta
mách tao là nó mới lên sáu. Chưa tao biết đâu nó đẻ năm Tý hay đẻ năm
tỵ, năm tỳ!...
Chị Dậu đờ mặt không biết nói sao.”
Sau những lời bàn đi tính lại của chị Dậu và bà Nghị, Bà thổ ra một
câu nghe thật thảm thương cho hoàn cảnh gia đình chị Dậu: “Đáng lẽ biếu
không thì phải... Cho một đồng cũng quá lắm rồi... Không phải nài nầm gì
nữa”. Thực ra ngôn ngữ của bà Nghị chẳng kém gì cách nói của ông Nghị.
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 122
Tất cả còn làm toát lên một con người mang sẵn trong mình một bản chất
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> tàn ác đến kinh khủng. Xét từ góc độ người mẹ thì có thể nói, bà Nghị là
chân dung một người mẹ không tim.
Bản chất tàn nhẫn của bà Nghị còn được thể hiện sâu sắc hơn qua
đoạn: “Tiền tao có phải vỏ hến mà tao quẳng cho mày bay giờ? Dễ tao
hám lãi của mày lắm đấy? Thôi, thế này: chó tao cũng mua vậy. Bắt cả
con chó cái và đàn chó con sang đây, tao trả cho một đồng nữa. Với con
bé kia một đồng là hai... Thế là nhà mày đủ tiền nộp sưu, lại khỏi nuôi chó,
nuôi con. Sướng nhé!”... Như vây, cách xây dựng nhân vật phản diện của
Ngô Tất Tố là ông luôn đặt nhân vật bà vợ bên cạnh một ông chồng, mà ở
đó cả hai cùng thể hiện bản chất như nhau. Tất cả đều làm tăng thêm bản
chất xấu xa, đồi bại của giai cấp thống trị đương thời nói chung và gia đình
nhà nghị Quế nói riêng.
Khi xây dựng nhân vật phản diện nghị Quế, nhà văn Ngô Tất Tố có
sử dụng nghệ thuật châm biếm, đả kích. Đối với những nhân vật này, có
thể nói, không một chi tiết nào ông dùng đến mà không nhằm của vào cái
tính chất lố bịch, ngu xuẩn, thô bỉ, nhơ bẩn của chúng. Trong tác phẩm,
độc giả không thấy xuất hiện những tiếng cười mà chỉ thấy những chi tiết
mô tả hành động, thái độ nhằm tạo ra sự châm biếm, đả kích hết sức sâu
cay. Cụ thể như hành động húp canh của Nghị Quế “Ông Nghị đâm chéo
đôi đũa qua mặt mâm, bưng bát nước canh, trợn mắt, húp một cái đánh
“soạt”. Rồi hành động ông “súc miệng òng ọc mấy cái, rồi nhổ toẹt xuống
nền nhà”. Những hành động này thể hiện một con người thiếu văn hoá,
không có khả năng cảm nhận cái đẹp trong cuộc sống, đặc biệt trong văn
hoá ăn uống. Kinh khủng nhất là hành động “ông nghị, bà nghị mỗi người
nhúng ba ngón tay vào chậu, vuốt qua hai mép một lượt, rồi cùng uống
nước, xỉa răng”. Lố bịch và kệch cỡm hơn nữa là “ hai đứa đày tớ đứng
hai bên cầm quạt phẩy lại... ông vểnh mặt hút sòng sọc một hơi”. Phải nói
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 123
rằng nhà văn Ngô Tất Tố rất có tài trong việc sử dụng những hành động
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> đối lập nhau. Điều đó càng tạo nên giá trị châm biếm, đả kích sâu sắc.
Châm biếm và đả kích là một thủ pháp nghệ thuật phổ biến nhưng không
phải nhà văn nào cũng có thể khám phá và kiếm tìm. Nhà văn Ngô Tất Tố
tuy không có sở trường ở thủ pháp nghệ thuật này nhưng đối với các nhân
vật phản diện thì ông không quên sử dụng thủ pháp nghệ thuật này nhằm
vạch mặt, tố cáo và lên án những lớp người bẩn thỉu, xấu xa trong xã hội.
Lối châm biếm và đả kích của Ngô Tất Tố còn được thể hiện ở cả lúc mà
nghị Quế khen bốn con chó của chi Dậu: “ Đẹp cả ! Bốn con bốn kiểu: một
con “huyền đề”, một con “lốt hổ”, một con “đen tuyền” và một con “tứ
túc mai hoa”. Con nào cũng cúp tai, ngắn mặt, đốm lưỡi, mắt xếch lá đề
đẹp lắm.” Đó là tiêu thức đánh giá vẻ đẹp của những con chó dưới góc
nhìn của những kẻ ăn trên ngồi trốc, quanh năm chỉ biết hút máu mủ của
hạng cùng đinh. Ngay cả những hành động mà vợ chồng nghị Quế tỏ ra
thương xót đàn chó bị nắng cũng đã mang giá trị châm biếm đả kích sâu
sắc. Bởi vì chính hành động này cũng đủ để làm nên một con người nhìn
bề ngoài tưởng như nhân đạo nhưng ngược lại đó chỉ là sự giả tạo mà thôi.
Đôi khi chẳng cần phải nói xa, nói gần mà nhà văn châm biếm, đả kích
thẳng: “Vào viện, ông cũng như hầu hết các ông nghị khác, không bàn và
không cần nghe ai bàn. Nhưng ông cũng chỉ ngáp vặt, chứ không ngủ gật
bao giờ, vì sợ đôi giày Chí Long để dưới chân ghế lỡ bị mất trộm trong khi
phải co chân đặt lên mặt ghế cho hợp thói quen của ông”... Tất cả những
hành động trên đều thể hiện ngòi bút châm biếm, đả kích của Ngô Tất Tố
đã đạt đến đỉnh cao, thể hiện sâu sắc thái độ của nhà văn đối với thế lực
cường hào, địa chủ trong xã hội lúc bấy giờ.
Như vậy, khi miêu tả nhân vật phản diện kiểu nghị Quế, nhà văn Ngô
Tất Tố không chỉ tập trung vào việc miêu tả những nét xấu xa, bẩn thỉu của
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 124
cả một tầng lớp thống trị mà còn sử dụng thủ pháp nghệ thuật châm biếm,
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> đả kích sâu cay. Bên cạnh đó nhà văn còn lồng ghép nhân vật này bên cạnh
nhân vật kia nhằm làm tăng mức độ biểu cảm đối với người đọc.
IV. Cách xây dựng nhân vât phản diện của Nam Cao.
Nam Cao là một trong số những nhà văn lớn nhất của nền văn xuôi
hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách
khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng sáng ngời. Thời gian
càng lùi xa, những tác phẩm của ông lại càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu
sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.
Nam Cao là nhà văn lớn nhất của trào lưu văn học hiện thực phê
phán 1930 – 1945. Trong số các nhà văn hiện thực, ông là cây bút có ý
nghĩa sâu sắc nhất về quan điểm nghệ thuật của mình. Ông phê phán khá
toàn diện và triệt để tính chất thoát ly, tiêu cực của văn chương lãng mạn
đương thời, coi đó là thứ “ ánh trăng lừa dối”, đồng thời yêu cầu nghệ
thuật chân chính phải trở về với đời sống, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói
lên được nỗi thống khổ của hàng triệu nhân dân lao động lầm than.
Trong những sáng tác của Nam Cao về đề tài nông dân, số nhân vật
phản diện thuộc giai cấp phong kiến không có nhiều. Nhưng chỉ riêng với
truyện ngắn “Chí Phèo”, ta cũng có thể thấy cái sắc cạnh, bén nhọn của
ngòi bút Nam Cao khi tác giả miêu tả bọn này, mà nhân vật tiêu biểu nhất
là Bá Kiến, một tên cường hào, địa chủ, ác bá điển hình.
Về cách xây dựng nhân vật phản diện kiểu Bá Kiến, nhà văn Nam
Cao có sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật điển hình, trong đó ông chú ý
nhiều đến cách miêu tả nhân vật thông qua hành động, cử chỉ, lời nói,
giọng điệu... Bên cạnh đó ông còn xây dựng nhân vật theo kiểu rất riêng
của minh, không giống với bất kỳ nhà văn nào cùng thời bởi vì trong tuyên
ngôn nghệ thuật, ông cho rằng: “ Văn chương chỉ dung nạp những người
biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái
gì chưa có”. Đối với nhân vật Bá Kiến, ông khắc hoạ chân dung nhân vật
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 125
này không phải bằng cách miêu tả cho hết cái xấu của nhân vật giống như
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> các nhà văn khác mà ông mô tả dưới cái nhìn riêng của mình, phải nói rằng
hiện đại hơn các nhà văn khác cùng thời. Cứ cho rằng bản chất bóc lột của
các tên địa chủ phong kiến ác bá như nghị Lại, Nghị Quế, Nghị Hách, Bá
Kiến là giống nhau nhưng phương thức bóc lột thì khác nhau. Bá Kiến bóc
lột theo một kiểu khác mà không ai có được: đó là hình thức bóc lột vừa
dứt khoát lại vừa mềm dẻo. Hình thức đó nếu như nhìn một cách thoáng
qua và không suy nghĩ sâu xa thì không thể cho đó là hình thức bóc lột
được vì xem ra nó rất có lý. Ví dụ như chi tiết: Bá Kiến nói với Chí Phèo
rằng nếu anh muốn có đất, có nhà thì đến nhà thằng Đội Tảo, đòi cho hắn
năm mươi đồng. Nghe ra thì rất có lý nhưng thực chất thì Bá Kiến đang
dùng Chí Phèo làm công cụ sắc bén và cụ Bá có nói một câu rằng: “ trị
không được thì cụ dụng”. Đây là một cách cai trị và bóc lột kiểu Bá Kiến.
Đó là một thành công rất lớn của Nam Cao trong việc xây dựng nhân vật
phản diện.
Khi xây dựng nhân vật, đặc biệt là nhân vật phản diện, nhà văn Nam
Cao rất chú tâm đến việc khai thác những chi tiết thông qua cử chỉ, thái độ,
hành động, giọng điệu... của nhân vật.
Ngôn ngữ của tác phẩm Nam Câo là sự hoà âm, phối hợp của nhiều
loại ngôn ngữ khác nhau như là sự sống tự nó cất lên như thế. Trong sáng
tác của Nam Cao nói chung và tác phẩm “ Chí Phèo” nói riêng có sự kết
hợp hài hoà giữa ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Cụ Bá
kể chuyện bà Tư nhưng thực chất là bày tỏ tâm trạng của mình. Đó là ngôn
ngữ đối thoại nội tại, tâm trạng. Bên cạnh đó, Nam Cao còn có nhiều đóng
góp trong việc miêu tả lời thoại nội tâm, đặc biết trong sự tiếp thu một
cách sáng tạo chắt lọc phương pháp “dòng ý thức” của văn học phương
Tây trong các sáng tác, tạo điều kiện đi sâu vào phân tích tâm lý nhân vật.
Có thể nói, về cách xây dựng nhân vật phản diện của Nam Cao có nhiều
điểm khác so với các nhà văn cùng thời. Điều đó được biểu hiện ở ngay
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 126
cách xây dựng ngôn ngữ của nhân vật. Chúng ta dễ dàng thấy một điều
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> rằng, ngôn ngữ của các nhân vật phản diện trong các sáng tác của Ngô Tất
Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng thường không có sự độc thoại
nội tâm mà chỉ có những đối thoại. Thế mà đến Nam Cao, ông tự để cho
các nhân vật của mình nói lên tiếng nói của mình, tự phơi bày để tạo nên
những xung đột mang tính cách rõ rệt. Nam cao để cho nhân vật Bá Kiến
tự độc thoại nội tâm. Đây cũng là một sáng tạo rất riêng trong sáng tác của
Nam Cao khi xây dựng nhân vật phản diện.
Giọng điệu là một yếu tố hết sức quan trọng đối với một tác giả bởi
nếu thiếu một giọng điệu, nhà văn không thể tạo ra một tác phẩm dù đã có
đầy đủ các yếu tố khác. Các nhà văn nói chung thường dùng một giọng
điệu chủ đạo, phù hợp với thái độ nghệ thuật của mình. Nguyễn Công
Hoan nổi bật ở giọng điệu châm biếm, đả kích, hài hước, Nguyên Hồng
đầy yêu thương thống thiết, Thạch Lam với giọng điệu trữ tình buồn man
mác thì giọng điệu Nam Cao là sự tổng hợp của nhiều chất liệu, giọng điệu
và không lẫn với bất cứ ai.
Nam Cao không tạo ra một giọng điệu chủ đạo, thống lĩnh. Ông đã có
đóng góp lớn trong việc đa thanh hoá giọng điệu tự sự. Việc sử dụng giọng
điệu căn cứ vào đối tượng và hiện thực mà tác phẩm phản ánh. Nhưng ngay
trong một tác phẩm cụ thể, ở mỗi nhân vật đều có sự chuyển hoá giọng điệu
tạo nên trữ lượng thẩm mỹ không vơi cạn trong sáng tác của Nam Cao.
Trong khi xây dựng nhân vật Bá Kiến- nhân vật phản diện, nhà văn
Nam Cao rất tài tình trong việc pha tạp các giọng điệu. Trong tình huống
Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ ăn vạ thì ngay lúc đó tên cáo già
làng Vũ Đại này đã có nhiêù cách nói khác nhau và mang theo nhiều giọng
điệu khác nhau. Điều đó được thể hiện ở chỗ: khi thấy sự việc đã xẩy ra,
Bá Kiến đi dần dần từng buớc. Mới đầu, hắn chĩa mũi nhọn về phía mấy bà
vợ đang xưng xỉa bằng giọng điệu quát tháo nghe rất sợ:
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 127
“- Các bà đi vào nhà; đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì?”
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Sau đó, cụ quay quay lại bọn người làng bằng chất giọng dịu hơn
một chút:
“-Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế
này?”
Rồi sau đó, cụ mới quay lại anh Chí bằng giọng điệu ngọt ngào, thân
mật:
- Anh Chí ơi ! Sao anh lại làm ra thế?
- Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi ? Đi vào nhà uống
nước.
- Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì ta nói
chuyện tử tế với nhau. Cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người
ngoài biết, mang tiếng cả.”
Tiếp theo cụ nói với giọng phàn nàn “ – Khổ quá! giá có tôi ở nhà
thì đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau thế nào cũng xong”. Rồi cụ nói
với giọng điệu của những người bằng vai phải lứa và mức độ thân mật cứ
ngày càng tăng lên: “ Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ.
Chỉ tại thằng Lý cường nóng tính không nghĩ trước, nghĩ sau. Ai, chứ anh
với nó còn có họ kia đấy”. Đối với Chí Phèo thì giọng điệu của Bá Kiến
như vậy, còn đối với Lý Cường khi nào ông cũng quát tháo: “- Lý Cường
đâu ! Tội mày đáng chết. Không bảo người nhà đun nước mau lên”. Đó là
một cách cai trị rất có hiệu qủa của Bá Kiến theo kiểu “thương cho roi cho
vọt, ghét cho ngọt, cho bùi”.
Thế nhưng đối với Chí Phèo, không phải lúc nào Bá Kiến cũng
“thiết đãi” bằng giọng điệu dịu dàng, ngọt ngào mà đôi khi Bá Kiến cũng
quát tháo. Trong tình huống, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến lần thứ hai với
động cơ “đòi đi ở tù” thì Bá Kiến quát :
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 128
“- Anh này lại say khướt rồi !”
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Lần thứ ba chí Phèo đến nhà Bá Kiến với động cơ đòi đi ở tù thì Chí
Phèo bị Bá Kiến quát tháo với giọng điệu tức tối, nạt nộ, doạ nạt. Đoạn đối
thoại dưới đây thể hiện rất rõ điêù này :
“- Chí Phèo đấy hở ? Lè bè vừa vừa chứ, Tôi không phải là caí kho.
Rồi ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn:
Cầm lấy mà cút đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ báo nguời -
ta mãi à?
- Hắn trợn mắt, chỉ tay vào mặt cụ:
- Tao không đến đây xin năm hào.
Thấy hắn toan làm giữ, cụ đành dịu giọng:
- Thôi cầm lấy vậy, tôi không còn hơn.
Hắn vênh mặt lên rất kiêu ngạo:
- Tao đã bảo tao không đòi tiền
- Giỏi hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế anh cần gì?”
Đôi khi giọng điệu của Bá Kiến có vẻ như rất lạnh lùng khách quan
như nó vốn xẩy ra trong cuộc đơì :
“- Thế này này, anh binh ạ : chị ấy gửi tôi thì quả là không có...
Hắn trợn mắt lên quát :
-Thế thì thằng nào ăn đi?
Lý Kiến vội nói lấp ngay:
- Thế nhưng mà anh có thiếu tiền thì cúa bảo tôi một tiếng. Chị ấy
trót tiêu đi rồi thì có giết cũng chẳng ra. Lôi thôi làm gì sinh tội.”
Phải nói rằng khi xây dựng nhân vật Bá Kiến, nhà văn Nam Cao rất
quan tâm đến việc miêu tả tiếng cười của hắn bởi vì tiếng cười ít nhiều thể
hiện tâm hồn và bản tính con người của nhân vật. Trong tác phẩm “Chí
Phèo”, khi xây dựng nhân vật Bá Kiến, nhà văn Nam Cao để cho Bá Kiến
cười bốn lần và dĩ nhiên cung bậc của tiếng cười có sự khác nhau. Mới đầu
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 129
cụ bá cười nhạt nhưng tiếng cười dòn dã lắm, người ta bảo cụ hơn người
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> cũng ở cái cười. Lần thứ hai cụ cười nhạt với Binh Chức thể hiện sự coi
thường và chứng tỏ một sự thật thiếu căn cứ. Lần thứ ba cụ cười khanh
khách – cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười tào tháo ấy. Lần này, tiếng cười
của cụ đã có sự thay đổi về bản chất so với tiếng cười lần trước. Cụ cười
khanh khách bởi vì hình như cụ biết rằng Chí Phèo đã mắc mưu của cụ, đã
trở thành tay sai dắc lực của Bá Kiến và đương nhiên Chí phải làm những
điều mà Bá Kiến yêu cầu. Lần cuối cùng Bá Kiến cười ha hả, đó là tiếng
cươì nhạo báng sự khao khát làm người lương thiện của Chí:
“- Ô tưởng gì, tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ được nhờ.”
Tiếng cười ấy ít nhiều gieo vào lòng Chí sự căm phẫn, dẫn đến hành
động cuối cùng, Chí đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời.
Tóm lại, Nam Cao là một nhà văn luôn biết đào sâu, tìm tòi, khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có. Vì vậy, trong
sáng tác ông cũng có nhiều đóng góp mới cho nền văn học hiện đại. Đặc
biệt, trong cách xây dựng nhân vật thì Nam Cao là nhà văn thể hiện được
phong cách mới, gây ấn tượng sâu sắc không chỉ đối với độc giả trong
nước mà còn đối với độc giả nước ngoài. Khi xây dựng nhân vật phản
diện, ông đã biết phối hợp nhiều cách thức miêu tả khác nhau, trong đó
ông chú tâm nhiều nhất trong việc tạo ra những chi tiết nghệ thuật thông
qua những ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ, giọng điệu nhân vật. Điều đó làm nên
một nhà văn khác xa với những nhà văn khác cùng thời, tạo nên một phong
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 130
cách mới, rất riêng của Nam Cao.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Kết luận
1. Văn học hiện thực phê phán Việt Nam trong 15 năm đã đi trọn
con đường phát triển của nó. Những nhà văn tiêu biểu như Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,.. đã đạt tới mức tương
đối hoàn chỉnh của phương pháp sáng tác này. Với tư cách là một phương
pháp sáng tác thuộc một phạm trù lịch sử cụ thể, dòng văn học hiện thực
phê phán đóng góp lớn vào văn xuôi Việt Nam thời kì 1930-1945
2. Trong đóng góp đó, việc xây dựng nhân vật phản diện thành công
là một vấn đề quan trọng.ở văn học hiện thực phê phán Việt Nam, điều cốt
yếu nhất là các nhà văn đã lột tả một xã hội đầy những Nghị Lại, Nghị
Quế, Nghị Hách, Bá Kiến tàn nhẫn, sát nhân. Bọn quan trường thì được
dung túng làm bậy, công khai ăn hối lộ. Cuộc sống của bọn có tiền, có
quyền hết sức xa xỉ dâm ô. Chúng ở những toà lâu đài đồ sộ trong “tiểu
vạn trường thành”, tắm bằng nước suối vi-ten, trong nhà lúc nào cũng có
hàng chục nàng hầu. Trong khi đó người nông dân sau luỹ tre xanh phải
bán cả chó lẫn con vẫn không đủ tiền nộp sưu hằng năm, anh Pha-người
lao động hiền lành như vậy thì dẫn đến cùng đường, người nông dân lương
thiện như Chí Phèo thì bị tha hoá không chỉ về nhân hình mà còn tha hoá
cả nhân phẩm,.. Phần lớn những người nông dân hiền lành, lương thiện bị
đẩy xuống vũng bùn lầy lội là do sự đàn áp, bóc lột hết sức nặng nề của
giai cấp địa chủ phong kiến và bọn thực dân.
Như vậy, thông qua những vấn đề đã trình bầy trên đây, có thể
khẳng định rằng: Văn học hiện thực phê phán đã nghiêm khắc lên án xã
hội thực dân phong kiến bằng cách xây dựng thành công nhân vật phản
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 131
diện .
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
3. Thành công trên không phải tự nhiên có mà phải do nhiều nguyên
nhân tạo nên.
Trước hết, xã hội đã cung cấp nhiều nguyên mẫu. Những Bá Kiến,
Nghị Hách, Nghị Lại, Nghị Quế... là những nhân vật có thật trong đời sống
hiện thực. Ví dụ như Bá Kiến thực chất là ông Lý Kiến trong làng Đại
Hoàng (trong tác phẩm là làng Vũ Đại). Có những tài liệu khẳng định rằng
câu truyện “Chí Phèo” mà Nam Cao sáng tác là một câu truyện có thật,
thật tới mức người ta đi tìm được tung tích của Chí Phèo và kết luận rằng
Chí Phèo chính là con của Lý Kiến. Còn mẹ Chí là ai? Nếu ta lần giở lại
quãng đời vài năm đầu chặng đường lý trưởng của bá Kiến, ở làng Vũ Đại
ngày ấy có một phụ nữ đã có chồng, mắn đẻ, có 2 con, còn sạch sẽ, rất lẳng
lơ. Đó là vợ Binh Chức. Lý Kiến hơn người khác ở chỗ đã có khoảng thời
gian dài ba năm đi lại với chị Binh. Ba năm đủ để sản sinh một đứa trẻ và
đủ để xoá sạch dấu tích. Cứ đọc kỹ đoạn Binh Chức đến nhà Lý Kiến đòi
tiền, ta thấy Lý Kiến rất sợ chị Binh khai ra,.. Rõ ràng câu truyện, nhân vật
có trong nguyên mẫu. Nam Cao biết mà không nói ra, có thể vì nhiều nhẽ,
Nam Cao nói bằng cách khác để đúng với tuyên ngôn nhệ thuật của ông:
“...Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, tìm tòi, khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có.”
Thứ hai, nhà văn với tư cách là nhân chứng xã hội dám miêu tả, tố
cáo xã hội thực dân nửa phong kiến. ở đây, các nhà văn đã phát huy
khuynh hướng dân chủ trong xã hội. Thời kỳ 1936-1939 là thời kỳ mặt trận
dân chủ diễn ra gay gắt trên cả nước. Trong nước, Đảng ta chủ trương triệt
để lợi dụng khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để tuyên truyền chủ nghĩa
Mác-Lênin và tổ chức quần chúng đấu tranh. Những sách báo hợp pháp
của Đảng và của mặt trận dân chủ có tác dụng lớn. Tiếp thu những tư
tưởng dó, các nhà văn lúc này là nhân chứng lịch sử, dùng ngòi bút để
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 132
bênh vực quyền lợi bình dân, xích lại gần hơn chỗ đứng của người nghèo
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05> khổ. Họ thấy rõ hơn tội ác của những kẻ trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên
cuộc sống đen tối của nhân dân lao động ở nông thôn và thành thị. Họ
đánh trúng hơn vào bọn cường hào, địa chủ, quan lại.
Thứ ba là vấn đề tài năng của nhà văn. Tài năng là một tiêu chí rất
cần thiết trong khi sáng tác nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng. ở thời
kỳ này, những nhà văn nổi tiếng như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng, Nam Cao đều là những người có tài năng văn học. Họ đều là
những người mang trong mình tư cách đạo đức cách mạng, có cái nhìn tinh
tế, chính xác và nhậy bén với đời sống hiện thực khách quan. Nam Cao là
một nhà văn tinh tế trong khả năng quan sát hướng nội .Còn Ngô Tất Tố,
Vũ trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan lại nghiêng về quan sát hướng ngoại
là chủ yếu. Hơn nữa, các nhà văn lớn trong thời kỳ này thường là những
người giàu xúc cảm. Họ vui cái vui của bao người khác, đau khổ trước nỗi
khổ đau của đồng loại, hân hoan sung sướng trước những điều tốt đẹp,
phẫn nộ trước những oan trái bất công còn tồn tại trong xã hội. Ngô Tất
Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao đều là những nhà văn
có khả năng tưởng tượng, liên tưởng phong phú, độc đáo. Trí tưởng tượng
giúp nhà văn hình dung được đối tượng một cách cụ thể, sinh động. Qua óc
tưởng tượng, các hoạt động mới được hiện lên cụ thể từ ngoại hình đến
ngôn ngữ, cử chỉ, hành động. Đối với nhà văn giàu óc tưởng tượng, khi đặt
bút xuống trang viết là cả một thế giới nhân vật hiện lên sống động. Nhà
văn ngỡ như đang sống cùng các nhân vật, nghe các nhân vật đang nói
truyện với nhau, cảm nhận được sắc thái cảm xúc của từng nhân vật trong
những cảnh ngộ cụ thể. Để tạo nên tài năng ngệ thuật, các nhà văn đều có
một năng lực trí tuệ sắc bén và một trí nhớ tốt.Vì thế mà người đọc nhận
thấy một cách hết sức rõ nét là các nhân vật , đặc biệt là nhân vật phản diện
trong các sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao...hiện
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 133
lên qua các trang văn một cách hết sức sống động, mỗi người mỗi vẻ.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Từ ba nguyên nhân chủ yếu trên đây, các nhà văn hiện thực phê
phán đã xây dựng thành công nhân vật phản diện. Đó là một đóng góp lớn
đồng thời cũng là một vấn đề hết sức quan trọng của văn học nói chung và
văn học hiện thực phê phán nói riêng.
4. Giá trị về đóng góp cho hôm nay:
Nhân vật phản diện trong tiểu thuyết hiện thực phê phán Việt Nam
giai đoạn 1930-1945 là một vấn đề, một bộ phận không thể thiếu trong quá
trình nghiên cứu văn học. Đây là một đề tài khá mới mẻ nên chúng tôi
cũng hy vọng rằng khi luận văn này được hoàn thành thì đó cũng là một
đóng góp nho nhỏ của bản thân tôi. Chúng tôi nghĩ rằng công trình này cần
phải được tiếp tục nghiên cứu, đánh giá và bổ sung. Với thái độ chân tình,
chúng tôi mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến xây dựng của các
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 134
thầy cô giáo và những ai đang quan tâm đến vấn đề này.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
Tài liệu tham khảo
1. Ngô Tất Tố về tác giả và tác phẩm. Nhà xuất bản Giáo Dục.
2. Nguyễn Công Hoan về tác giả và tác phẩm. Nhà xuất bản Giáo Dục.
3. Nam Cao về tác giả và tấc phẩm. Nhà xuất bản Giáo Dục.
4. Vũ Trọng Phụng về tác giả và tác phẩm.
5. Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945. Nhà xuất bản Giáo Dục
6. Lý luận văn học. Nhà xuất bản Giáo Dục
7. Văn học Việt Nam 1900- 1945. Nhà xuất bản Giáo Dục
8. Đặc sắc văn chương Vũ Trọng Phụng của Ts. Trần Đăng Thao, Nhà
xuất bản Thanh Niên.
9. Nghệ Thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng của Ts. Đinh Lựu, Nhà xuất
bản Giáo Dục.
10. Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng
và Nam Cao của Ts. Phạm Mạnh Hùng. Nhà xuất bản Thanh Niên.
11. Lịch sử Việt Nam của Ts. Huỳnh Công Bá.
12. Nguyễn Công Hoan với nghề văn, Nhà xuất bản Thanh Niên.
13. Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo của Trần Đăng
Suyền. Nhà xuất bản Văn Học.
14. Lịch sử văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ 18 nửa đầu thế kỷ 19.
Nhà xuất bản Giáo dục.
15. Truyện Kiều của Nguyễn Du. Nhà Xuất bản Giáo Dục.
16. Văn học lãng mạn Việt Nam 1930–1945. Nhà xuất bản Giáo Dục
17. Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng Của Đinh Trí Dũng, Nhà xuất
bản Khoa Học Xã hội.
18. Vũ Trọng Phụng, nhà hoá học của những tính cách. Tác giả Hoài
Anh trong sách chân dung văn học, NXB Văn Nghệ tp Hồ Chí Minh.
19. Vũ Trọng Phụng-tài năng và sự thật (NXB văn học, Hà nội, 1997).
20. Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch lại của M.
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 135
Bakhtin, trương viết văn Nguyễn Du xuất bản)
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
21. Bản sắc hiện đại trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng, NXB Văn học Hà
Nội 2003.
22. Vũ Trọng Phụng-nhà văn dơ dáy hay trong sạch? Giai phẩm văn
học, tác giả Vũ Bằng, Sài gòn 1973.
23. Nam Cao tác phẩm, Hà Minh Đức sưu tầm giới thiệu, NXB Văn học
Hà Nội.
24. Phân tâm học của J.P. Charrier, Lê Thanh Hoàng Dân dịch, Sài gòn 1972.
25. Vài vấn đề văn học sử giai đoạn 1930-1945 nhân đọc cuốn “Lược khảo
lịch sử văn học Việt Nam” của nhóm Lê Quý Đôn. Tác giả Huệ Chi-
Phong Lê, Tạp chí văn học, Hà Nội, Số 5/1960.
26. Đọc Giông tố của Vũ Trọng Phụng, ích Hữu. Tác giả Hiên Chi, Tạp
chí văn học, Sài Gòn số 94/1969.
27. Về giai đoạn văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX-1945. Tác giả
Nguyễn Đình Chú, tài liệu bồi dưỡng văn học lớp 11, Vụ giáo viên,
Hà Nội, 1991.
28. Cần nhận thức đúng thời kỳ văn học 1930-1945. Tác giả Nguyễn
Đình Chú, báo giáo viên nhân dân, số 27-28-29-30-31 tháng 7/1989.
29. Vũ Trọng Phụng, một giàu có, một thiệt hại của văn chương chúng
ta. Tác giả Nguyễn Mạnh Côn, tạp chí văn học Sài Gòn, số 67/1966.
30. Vũ Trọng Phụng, nhà văn tả chân bất hủ. Tác giả Nguyễn Duy Diễn,
tạp chí văn học Sài Gòn số 94/1969.
31. Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt Nam thời kỳ đầu
những năm 1930 đến 1945: Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam
Cao. Tác giả Trần Ngọc Dung, luận án PTS ĐHSP Hà Nội I, 1992.
32. Sự thể hiện con người “tha hoá” trong các tiểu thuyết hiện thực của
Vũ Trọng Phụng. Tác giả Đinh Trí Dũng, tạp chí văn học, Hà Nội số
5/1996.
33. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Vũ Trọng
Phụng. Tác giả Đinh Trí Dũng, thông báo khoa học, ĐHSP Vinh số
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 136
15/1996.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
34. Các phương tiện và biện pháp thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Vũ
Trọng Phụng. Tác giả Đinh trí Dũng, thông báo khoa học, trường
ĐHSP-ĐH quốc gia Hà Nội, số 5/1997.
35. Đặc điểm văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Tác giả Nguyễn
Đức Đàn, NXB văn học, Hà Nội 1964.
36. Vấn đề Vũ Trọng Phụng trong sách văn học Việt Nam 1930-1945.
Tác giả Gs. Phan Cự Đệ, NXB giáo dục Hà Nội 1961.
37. Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại tập 1. Tác giả Phan Cự Đệ, NXB Đại
học và trung học chuyên nghiệp, tháng 11/1974.
38. Lời giới thiệu Nam Cao-tác phẩm của Gs. Hà Minh Đức, NXB Hà
Nội, 1975.
39. Nguyễn Công Hoan của Lê Thị Đức Hạnh, NXB khoa học xã hội ,
Hà Nội 1991.
40. Đời viết văn của tôi. Tác Giả Nguyễn Công Hoan, NXB văn học, 1971.
41. Nguyễn Công Hoan, chân dung văn học. Trường viết văn Nguyễn
Du xuất bản, 1992.
42. Giông tố của Vũ Trọng Phụng, NXB văn học.
43. Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, NXB văn học.
44. Tuyển tập Nam Cao, NXB văn học.
45. Tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan, NXB thanh niên.
46. Vũ Trọng Phụng, con người và tác phẩm. Tác giả Nguyễn Hoành
Khung, Lại Nguyên Ân, NXB hội nhà văn.
47. Mác, Ăngghen, Lênin về văn học và nghệ thuật, NXB Hà Nội.
48. Dâm hay không dâm của tác giả Nhất Chi Mai, Báo Ngày nay số 51
ngày 14/03/1937.
49. Nam Cao, nhà văn hiện thực xuất sắc của Gs. Hà Minh Đức, NXB văn
hoá.
50. Nghệ thuật kể truyện trong tác phẩm Nam Cao của Vũ Khắc
Chương, NXB văn học.
51. Mấy vấn đề về văn học hiện thực phê phán của Nguyễn Đức Đàn,
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 137
NXB khoa học xã hội, 1984.
Luận văn tốt nghiệp Lớp cao học văn K47 <2002 -05>
52. Nam Cao, một đời người, một đời văn. Tác giả Nguyễn Văn Hạnh,
NXB giáo dục, 1993.
53. Nghĩ tiếp về Nam Cao. Nhiều tác giả, Phong Lê chủ biên, NXB hội
nhà văn, 1992.
54. Người làm phim nhìn về Nam Cao. Tác giả Đoàn Lê, tạp chí văn học
số 1/1992.
55. Khả năng phản ánh đời sống của truyện ngắn Nam Cao. Tác giả Lã
Học viên: Vũ Thị Lan Trang: 138
Nguyên, văn nghệ quân đội tháng 10/1992.