VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN NGỌC TRÍ
PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA DOANH
NGHIỆP CÀ PHÊ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ (CDĐL)
BUÔN MA THUỘT
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Hà Nội, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN NGỌC TRÍ
PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA DOANH
NGHIỆP CÀ PHÊ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ (CDĐL)
BUÔN MA THUỘT
Ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 8.34.01.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS TRẦN THỊ LAN HƯƠNG
Hà Nội, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, chưa
được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào của người khác. Việc
sử dụng kết quả trích dẫn tài liệu của người khác đảm bảo theo đúng các quy
định. Các nội dung trích dẫn và tham khảo các tài liệu, sách báo, thông tin được
đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí trang web theo danh mục tài liệu tham khảo
của luận văn.
Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2020
Tác giả luận văn
Nguyễn Ngọc Trí
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện đề tài: “Phát triển chuỗi giá trị của doanh
nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý (CDĐL) Buôn Ma Thuột”. Tôi gửi lời cám ơn
chân thành đến giáo viên hướng dẫn khoa học PGS.TS Trần Thị Lan Hương–
Ban Quản lý khoa học – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã dành
nhiều tâm huyết, tận tình hướng dẫn chỉ bảo tôi trong suốt quá trình nghiên cứu
đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Lắk,
Hiệp hội cà phê Buôn Ma Thuột, Công ty cổ phần An Thái đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thu thập tài liệu cho đề tài.
Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài, tôi đã nhận được nhiều sự giúp
đỡ cùng vói sự động viên, khích lệ rất nhiều từ phía gia đình và bạn bè. Tôi xin
chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và ghi nhận những tình cảm quý báu đó.
Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ
CHỈ DẪN ĐỊA LÝ .............................................................................................. 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu............................................................ 7
1.2.Khái niệm .............................................................................................. 14
1.3. Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà
phê chỉ dẫn địa lý ......................................................................................... 21
1.4 Kinh nghiệm trong việc tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê
CDĐL .......................................................................................................... 27
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA DOANH
NGHIỆP CÀ PHÊ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ BUÔN MA THUỘT ....................... 34
2.1 Thực trạng sản xuất cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột ................... 34
2.2. Thực trạng phát triển doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột .... 40
2.3. Phân tích chuỗi giá trị của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cà phê
chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột. .................................................................... 47
2.4 Đánh giá chung về phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL
Buôn Ma Thuột ............................................................................................ 53
Chương 3: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ
CỦA DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ BUÔN MA THUỘT .. 56
3.1. Bối cảnh phát triển cà phê thế giới và trong nước ................................ 56
3.2.Triển vọng phát triển cà phê Đắk Lắk ................................................... 62
3.3. Giải pháp phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý
Buôn Ma Thuột ............................................................................................ 64
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 71
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 75
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CGT
Chuỗi giá trị
CDĐL
Chỉ dẫn địa lý
International Coffee
ICO
Tổ chức cà phê Quốc tế
Organization
Tổ chức Thương mại Thế
WTO
World Trade Organization
giới
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Diện tích cà phê nhân CDĐL Buôn Ma Thuột ......................... 38
Bảng 2.2. Phân loại hệ thống quản lý nội bộ của các doanh nghiệp cà phê
CDĐL Buôn Ma Thuột ..................................................................... 42
Hình 3.2. Sơ đồ chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn
Ma Thuột ........................................................................................... 48
Bảng 3.1 Số lượng và giá trị xuất khẩu cà phê Việt Nam trong giai đoạn
2010 – 2018 ....................................................................................... 60
DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ
Hình 1.1: Sơ đồ chuỗi giá trị đơn giản của sản phẩm cà phê .................... 23
Hình 1.2: Sơ đồ chuỗi giá trị mở rộng của sản phẩm cà phê .................... 24
Hình 3.1. Logo cà phê Buôn Ma Thuột .................................................... 37
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mỗi doanh nghiệp là một tập hợp các hoạt động từ thiết kế, sản xuất, bán hàng
và hỗ trợ dịch vụ khách hàng và tất cả các hoạt động này được liên kết thành một
chuỗi. Khái niệm chuỗi giá trị lần đầu tiên được M.Porter đưa ra trong cuốn sách
Competitive Advantage (Lợi thế Cạnh tranh) vào năm 1985. Chuỗi giá trị được hiểu
là “tổng thể các hoạt động liên quan đến sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm hoặc dịch
vụ nào đó. Trong chuỗi giá trị diễn ra quá trình tương tác giữa các yếu tố cần và đủ
để tạo ra một hoặc một nhóm sản phẩm và các hoạt động phân phối, tiêu thụ sản
phẩm, nhóm sản phẩm đó theo một phương thức nhất định. Giá trị tạo ra của chuỗi
bao gồm các giá trị tạo ra tại mỗi công đoạn của chuỗi”.
Chuỗi giá trị của doanh nghiệp sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý có những
khác biệt so với chuỗi giá trị của doanh nghiệp sản phẩm cà phê thông thường. Chỉ
dẫn địa lý (CDĐL) là dấu hiệu tạo nên danh tiếng của sản phẩm cà phê, được xác
định bằng mức độ tín nhiệm của người tiêu dùng đối với sản phẩm. Thông qua đó,
việc tham gia chuỗi giá trị của sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý luôn thuận lợi
hơn so với các sản phẩm chưa đăng ký chỉ dẫn địa lý. Khi doanh nghiệp tham gia
chuỗi giá trị, sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý thường có giá bán cao hơn, có cơ
Hội gia tăng xuất khẩu hơn, dễ dàng tiếp cận các thị trường khó tính hơn so với các
sản phẩm không mang chỉ dẫn địa lý. Đối với doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý
Buôn Ma Thuột, chỉ dẫn địa lý là một công cụ quan trọng để doanh nghiệp tham gia
chuỗi giá trị, giữ gìn các bí quyết sản xuất kinh doanh truyền thống, nâng cao sức
cạnh tranh và quảng bá sản phẩm, phát triển du lịch. Các công trình nghiên cứu trong
và ngoài nước cho thấy, chỉ dẫn địa lý chỉ là một “giấy phép thông hành” để doanh
nghiệp cà phê Buôn Ma Thuột được “thông quan” dễ dàng ở các thị trường khó tính
nhằm phát triển, quảng bá và có cơ Hội xuất khẩu cao.
Đắk Lắk được mệnh danh là thủ phủ cà phê của Việt Nam. Sản phẩm cà phê đã
làm nên danh tiếng cho Đắk Lắk nói riêng và Việt Nam nói chung, đặc biệt là khi
năm 2005 cà phê Đắk Lắk chính thức được đăng ký CDĐL, được bảo Doanh nghiệp
ở Việt nam và trên thị trường thế giới. Đây là một lợi thế để doanh nghiệp cà phê
Buôn Ma Thuột có thể đẩy mạnh xuất khẩu, xây dựng thương hiệu trên thị trường
1
trong nước và quốc tế. Nhờ CDĐL, doanh nghiệp cà phê Buôn Ma Thuột trong những
năm qua đã được hưởng lợi về giá, sản lượng xuất khẩu.
Tuy nhiên, trong thời gian qua các doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột
gặp nhiều khó khăn trong việc tham gia chuỗi giá trị. Xét trong toàn hệ thống chuỗi
giá trị, doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột mới chỉ tham gia chủ yếu vào
những công đoạn giản đơn, có giá trị gia tăng thấp như thu gom, sơ chế cho xuất khẩu
thô. Trong khi đó, những công đoạn có giá trị gia tăng cao như rang xay, chế biến
sâu, phân phối bán lẻ và xây dựng thương hiệu, doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn
Ma Thuột còn tham gia rất hạn chế. Sau nhiều năm doanh nghiệp tham gia sử dụng
chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột, giá trị gia tăng của sản phẩm đối với từng nhóm
tác nhân và từng khâu trong chuỗi không được như kỳ vọng, chỉ tăng lên chút ít so
với doanh nghiệp không tham gia sử dụng chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột.
Mặc dù nhìn nhận được những khó khăn và hạn chế trong việc doanh nghiệp cà
phê tham gia chuỗi giá trịcủa sản phẩm cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột, nhưng cho
đến nay việc đánh giá tổng thể, có hệ thống những vấn đề nêu trên hoàn toàn thiếu
vắng trong các nghiên cứu khoa học. Trong nhiều năm qua, chưa có bất cứ dữ liệu
nào được công bố về thực trạng chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn
Ma Thuột và những nhân tố nào ảnh hưởng đến việc tham gia chuỗi giá trị của doanh
nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột.
Xuất phát từ tính cấp thiết đó, tôi đã lựa chọn và đề xuất nghiên cứu đề tài:
“Phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột”
làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ của mình.
2. Câu hỏi nghiên cứu
- Doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột là gì ?
- Doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột tham gia chuỗi giá trị ở
khâu nào ?
- Nhân tố nào ảnh hưởng đến việc tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà
phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột ?
- Doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột tham gia chuỗi giá trị
có hiệu quả trong thời gian qua không ? Vì sao ?
2
- Giải pháp nào để doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột tham
gia sâu hơn vào chuỗi giá trị trong thời gian tới ?
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Làm rõ thực trạng tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa
lý Buôn Ma Thuột hiện nay, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng chuỗi giá trị của
doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột, từ đó đề xuất giải pháp phát
triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột.
- Nhiệm vụ:
+ Xây dựng khung phân tích chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn
địa lý;
+ Phân tích thực trạng chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý
Buôn Ma Thuột;
+ Phân tích chuỗi giá trị của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cà phê chỉ
dẫn địa lý Buôn Ma Thuột;
+ Đề xuất, kiến nghị các giải pháp phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp
cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý
Buôn Ma Thuột từ 2015 – đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian:Doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột, Đắk
Lắk
Phạm vi thời gian: 2015 – đến nay
Phạm vi về nội dung:
- Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột
- Nhân tố ảnh hưởng chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn
Ma Thuột
- Kiến nghị chính sách cho phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê
chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột
3
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập tài liệu
Tác giả thu thập, tổng hợp các tài liệu nước ngoài và trong nước về chuỗi giá
trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn đại lý, gồm sách tham khảo, đề tài khoa học, các
tài liệu trên internet, cụ thể gồm:
- Sử dụng các báo cáo nhà nước, ngành, báo cáo số liệu của tỉnh Đắk Lắk về
tình hình sản xuất kinh doanh, nghiên cứu thị trường...
- Các báo cáo nghiên cứu khoa học của các cơ quan, viện nghiên cứu, trường
đại học trong và ngoài nước.
- Các tạp chí khoa học chuyên ngành, các trang web có liên quan...
- Tài liệu, giáo trình và các sách tham khảo liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Các hồ sơ lưu trữ qua các năm, các bài báo nghiên cứu, các báo cáo khách
hàng, các bảng tổng hợp kết quả kinh doanh.
- Kết quả điều tra trực tiếp từ các doanh nghiệp tại Đắk Lắk.
Tác giả thực hiện thu thập thông tin, tài liệu thông qua việc thực hiện điều tra bảng hỏi
của các doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý tại Buôn Ma Thuột gồm:
- Phỏng vấn các doanh nghiệp thu gom và sơ chế: đề tài tiến hành phỏng vấn
50 cơ sở thu gom và sơ chế tại các huyện Cư Mgar, Krong Park, thành phố Buôn Ma
Thuột, trong đó 96% số cơ sở thu gom và sơ chế thuộc dân tộc Kinh, còn lại là thuộc
các dân tộc bản địa ở vùng Tây Nguyên và các dân tộc thiểu số khác di cư đến Tây
Nguyên sinh sống.
- Phỏng vấn các doanh nghiệp chế biến: đề tài tiến hành phỏng vấn 20 cơ sở
và doanh nghiệp chế biển, trong đó có 12 doanh nghiệp nhà nước (chiếm 60% số
phiếu phỏng vấn), 1 doanh nghiệp FDI (chiếm 5%), 4 doanh nghiệp trách nhiệm hữu
hạn (chiếm 20%) và 3 hợp tác xã (chiếm 15%).
Mẫu các phiếu điều tra được tác giả thể hiện ở Phụ lục 01. Từ các thông tin định
lượng và định tính thu được qua quá trình phỏng vấn, tác giả đã tiến hành sàng lọc và
tính toán dựa trên các phần mềm SPSS từ đó xây dựng các luận cứ, phục vụ cho việc
chứng minh hoặc bác bỏ các giả thuyết khoa học của quá trình nghiên cứu phát triển
chuỗi của doanh nghiệp.
4
Phương pháp xử lý tài liệu
Phương pháp thống kê mô tả: Thống kê là một hệ thống các phương pháp bao
gồm thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu, tính toán các đặc trưng của đối tượng nghiên
cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán và ra quyết định.
Phương pháp so sánh: được tác giả sử dụng khá triệt để trong Chương 2 của
luận văn khi nghiên cứu về thực trạng sản xuất cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột,
thực trạng phát triển doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột tại Đắk Lắk.
Việc phân tích thực trạng dựa trên các kết quả kinh doanh chỉ phát huy hiệu quả khi
sử dụng phương pháp so sánh để rút ra nhận xét về hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp cà phê chỉ đẫn địa lý Buôn Ma Thuột, cũng như phát triển chuỗi
giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý có hiệu quả hay không. Bên cạnh đó,
việc tính toán và so sánh về hoạt động của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý qua
các năm (2015-đến nay) cũng giúp tác giả có một cái nhìn toàn diện, để từ đó đề ra
các giải pháp phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý hiệu quả
hơn tại Đắk Lắk...
Phương pháp phân tích: trước hết là phân chia cái toàn thể của đối tượng
nghiên cứu thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn
để nghiên cứu, phát hiện ra từng thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó, và từ đó
giúp chúng ta hiểu được đối tượng nghiên cứu một cách mạch lạc hơn, hiểu được cái
chung phức tạp từ những yếu tố bộ phận ấy.
Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp là quá trình hồ trợ cho quá trình phân tích
đề tìm ra cái chung cải khái quát. Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt của vấn đề,
phải tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra được bản chất,
quy luật vận động của đổi tượng nghiên cứu.
Phân tích – tổng hợp là hai phương pháp tương hổ và bổ sung cho nhau trong
nghiên cứu và có cơ sở khách quan trong cấu tạo, trong tính quy luật của bản thân sự
vật. Trong phân tích, việc xây dựng một cách đúng đắn tiêu thức phân loại làm cơ sơ
khoa học hình thành đối tượng nghiên cứu bộ phận ấy, có ý nghĩa rất quan trọng.
Trong nghiên cứu tổng hợp vai trò quan trọng thuộc về khả năng liên kết các kết quả
cụ thể (có lúc ngược nhau) từ sự phân tích, khả năng trừu tượng, khái quát nắm bắt
được mặt định tính từ rất nhiều khía cạnh định lượng khác nhau.
5
Trong luận văn này, tác giả đả nhận định cũng như đánh giá khái quát vấn đề
nghiên cứu của mình nhờ vào phương pháp tổng hợp. Ngay từ Chương 1, khi giới
thiệu các khái niệm, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng chuỗi giá trị của sản phẩm
cà phê chỉ dẫn địa lý, tác giả đã tổng hợp lại những khái niệm chính, giới thiệu về
chuỗi giá trị, chỉ dẫn địa lý …. Cuối chương 1 , phương pháp tổng hợp đã được sử
dụng để đưa ra những kinh nghiệm trong việc tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp
cà phê chỉ dẫn địa lý.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Tổng quan được về cơ sở lý luận chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ
dẫn địa lý
- Phân tích, đánh giá được thực trạng phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp
cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột
- Nêu được những triển vọng và đề xuất một số giải pháp phát triển chuỗi giá
trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng
biểu, chữ viết tắt, luận văn được xây dựng gồm 04 chương như sau:
Chương I. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn về
chuỗi giá trị (CGT) của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý (CDĐL)
Chương II. Thực trạng phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ
dẫn địa lý (CDĐL) Buôn Ma Thuột
Chương III.Triển vọng phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ
dẫn địa lý (CDĐL) Buôn Ma Thuột.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ
CHỈ DẪN ĐỊA LÝ
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Khái niệm và cấu trúc của chuỗi giá trị, Sonja Vermeulen và cộng sự (2008)
cho rằng: chuỗi giá trị bao gồm các chức năng trực tiếp như sản xuất hàng hoá có
bản, thu gom, chế biến, bán sỉ, bán lẻ, cũng như các chức năng hỗ trợ như cung cấp
vật tư nguyên liệu đầu vào, dịch vụ tài chính, đóng gói và tiếp thị. Chuỗi giá trị còn
bao gồm cả vấn đề tổ chức và điều phối, chiến lược và mối quan hệ quyền lực của
các tác nhân khác nhau trong khối. Chuỗi giá trị hàm ý nói tới quá trình vận động của
hàng hoá và dịch vụ đến người tiêu dùng cuối cùng. Chuỗi giá trị được phân tích theo
các cách khác nhau, nhưng hiện nay đang tồn tại chủ yếu 3 phương pháp phân tích chuỗi
giá trị, bao gồm: GTZ, M4P và FAO.
Cuốn “Valuelinks manual” của GTZ đã cung cấp những kiến thức cơ bản về
các cách thức nâng cao cơ hội việc làm và thu nhập từ hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ và các nông dân thông qua việc thúc đẩy chuỗi giá trị
trong đó họ đang hoạt động. Cẩm nang bắt đầu bằng việc quyết định xem có nên tham
gia vào việc thúc đẩy chuỗi giá trị hay không, và làm thế nào để kết hợp việc thúc
đẩy chuỗi giá trị với các cách tiếp cận phát triển khác (module 0). Bước đầu tiên trong
thúc đẩy chuỗi giá trị là việc xác định chuỗi giá trị cần thúc đẩy (module 1), tiếp đó
là phân tích chuỗi giá trị (module 2) và xây dựng một chiến lược nâng cấp chuỗi giá
trị (module 3). Module 4 trình bày những kiến thức dành cho những tổ chức hỗ trợ
của các dự án thúc đẩy chuỗi giá trị. Các module tiếp theo (từ 5 đến 10) đều nói về
việc thực hiện dự án.
Năm 2007, FAO xuất bản cuốn sách “Agri-industrial supply chain
management: concepts and applications” (Quản lý chuỗi cung ứng ngành chế biến
nông sản: khái niệm và áp dụng), dựa trên việc phân tích Hiệu ứng Bullwhip, hay còn
gọi là Hiệu ứng “cái roi da” để xây dựng khung phân tích cho phép theo dõi có hệ
thống phần lớn các thông tin cần thiết để phân tích kinh tế. Hiệu ứng Bullwhip được
7
hiểu là một hiện tượng trong chuỗi cung ứng khi số lượng đơn đặt hàng gửi cho nhà sản
xuất và nhà cung cấp có sự chênh lệch lớn hơn nhu cầu của khách hàng, làm gián đoạn
quá trình vận hành của chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị do không đánh giá đầy đủ nhu cầu
của sản phẩm.
Năm 2008, trong cuốn sách “Making value chains works better for the poor:
a toolbook for practitioners of value chain analysis”, (Để chuỗi giá trị hiệu quả hơn
cho người nghèo: sổ tay thực hành phân tích chuỗi giá trị”, M4P (thuộc Ngân hàng
phát triển châu Á) đã đưa ra những phương pháp phân tích chuỗi giá trị nông sản dựa
trên việc phân tích chi phí – lợi nhuận và phân chia thu nhập giữa các tác nhân trong
chuỗi. Mô hình của M4P bao gồm 8 công cụ với các bước cụ thể khác nhau, trong đó
có 5 công cụ (tool) đáng chú ý là: Công cụ 2 (Tool 2): Lập sơ đồ chuỗi giá trị; Công
cụ 3 (Tool 3): Phân tích chi phí và lợi nhuận; Công cụ 5 (Tool 5): Phân tích thu nhập
trong chuỗi; Công cụ 6 (Tool 6): Phân tích việc làm trong chuỗi; Công cụ 8 (Tool 8):
Phân tích liên kết trong chuỗi giá trị.
Chuỗi giá trị nông sản, trong đó có cà phê, được hình thành và phát triển giống
như các nghiên cứu lý thuyết đã đề cập trên đây. Tuy nhiên, do những đặc thù rất
riêng của sản xuất nông sản từ khâu canh tác đến chế biến, tiêu thụ nên giá trị hàng
nông sản có những đặc điểm rất riêng, cần nghiên cứu cụ thể. KPMG International
(2013) đã đề cập đến một số đặc điểm khác biệt của chuỗi giá trị hàng nông sản so
với hàng hoá phi nông nghiệp, đó là: a) Tính không ổn định do sự thay đổi của thời
tiết, những thay đổi xã Hội; b) Tính phức tạp do liên quan đến nhiều mùa vụ khác
nhau và các loại sản phẩm nông sản khác nhau. Mỗi loại hình mùa vụ và sản phẩm
này có những đặc điểm riêng biệt của nó và thường làm phân tán chuỗi cung ứng. c)
Tính đa dạng về tác nhân tham gia với trình độ và ý thức sản xuất kinh doanh khác
nhau. KPMG (2013) cũng lập sơ đồ ma trận về các tác nhân trong chuỗi giá trị hàng
nông sản, tính toán mức doanh số, số lượng thành viên tham gia từng khâu trong
chuỗi, chi tiêu R&D của từng khâu trong chuỗi, trách nhiệm của từng tác nhân trong
chuỗi, khả năng tham gia của từng tác nhân trong chuỗi.
Phân tích chuỗi giá trị đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. Luis
F.Samper và Xiomara F. Quiones – Ruiz (2017) khi nghiên cứu trường hợp chuỗi giá
sản phẩm cà phê, đã phân tích chuỗi giá trị bao gồm ít nhất 4 khía cạnh: cấu trúc đầu
8
vào – đầu ra, phạm vi địa lý, khung thể chế và cấu trúc quản trị. Đầu vào – đầu ra
(input- output) mô tả các công đoạn sản xuất; Phạm vị địa lý đề cập đến thành phần
không gian, nơi các công đoạn sản xuất được thực hiện. Khung thể chế bao gồm các
chuỗi liên quan đến các chính sách của địa phương, trong nước và quốc tế liên quan
đến chuỗi giá trị. Cấu trúc quản trị liên quan đến cách thức kiểm soát và điều phối
chuỗi.Theo Luis F.Samper và Xiomara F. Quiones – Ruiz (2017), chuỗi giá trị của sản
phẩm cà phê trong nhiều thập kỷ qua đã có nhiều thay đổi, trong đó nâng cao tầm quan
trọng của hình thức tiêu dùng cà phê ngoài trời (quán, cửa hàng), chất lượng chế biến,
giá và các giá trị bảo vệ môi trường.
Hãng cà phê Starbucks là một trong những mẫu hình nổi tiếng của chuỗi giá
trị cà phê toàn cầu.Thành lập năm 1971 tại Seattle, Mỹ, Starbucks khi đó chỉ là một
cửa hàng nhỏ chuyên bán hạt cà phê và các thiết bị rang xay cà phê, hiện nay
Starbucks đã phát triển chuỗi giá trị cà phê rất thành công. Dựa theo hai công đoạn
của chuỗi giá trị là hoạt động chính và hoạt động hỗ trợ, Prablee Bajpai (2017) đã
phân tích chuỗi giá trị của cà phê Starbucks nhằm làm rõ sự tham gia sâu vào chuỗi
giá trị toàn cầu của cà phê Starbucks và các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia đó.
Trong hai thập niên trở lại đây, làn sóng tiêu dùng cà phê trên toàn thế giới đã
có sự thay đổi theo hướng ưu tiên tiêu dùng các sản phẩm cà phê có nguồn gốc địa lý
và có chất lượng cao. Chính vì vậy, chỉ dẫn địa lý (Gis) đã được sử dụng cho sản
phẩm cà phê như một hình thức phát triển để bảo vệ danh tiếng xuất xứ cà phê của
nước họ và nhằm thu được nhiều giá trị hơn từ xuất khẩu cà phê. Luis F.Samper và
Xiomara F Quinoines Ruiz (2017) cho rằng, chỉ dẫn địa lý sản phẩm cà phê là nhằm
mục đích tránh sự chiếm đoạt tên địa lý của một nhóm người sử dụng hoặc công ty
nào đó đối với sản phẩm cà phê có chất lượng. Nếu không có chỉ dẫn địa lý hoặc làm
mất chỉ dẫn địa lý, sản phẩm cà phê có thể bị các công ty lớn nằm ngoài khu vực sản
xuất sản phẩm đó lợi dụng danh tiếng, làm ảnh hưởng đến hệ thống sản xuất và chuỗi
giá trị sản phẩm. Các nước đã sử dụng chỉ dẫn địa lý như một biện pháp để tránh cạnh
tranh không lành mạnh hoặc nâng cao danh tiếng chất lượng sản phẩm của họ, trao
quyền ho các nhà sản xuất địa phương xác định quy tắc cụ thể cho việc sử dụng nhãn
hiệu gốc, thực thi các tiêu chuẩn chất lượng và do đó cung cấp các điều kiện để tiếp
cận giá trị cao hơn cho các sản phẩm gốc.
9
Claire Durand và Stephane Fournier (2015) khi nghiên cứu chuỗi giá trị một
số mặt hàng nông sản mang chỉ dẫn địa lý ở Indonesia và Việt Nam đã cho rằng, chỉ
dẫn địa lý là một biện pháp hiệu quả để quảng bá sản phẩm nông nghiệp trong bối
cảnh toàn cầu hoá và giảm nguy cơ chiếm đoạt nhãn hiệu sản phẩm. Trong bối cảnh
đặc trưng bởi sự bất đối xứng thông tin, nơi người tiêu dùng không thể tự mình đánh
giá chất lượng của sản phẩm thực phẩm, thì chỉ dẫn địa lý có thể giúp tránh các tình
huống rủi ro về chất lượng sản phẩm. Ngoài việc bảo vệ pháp lý và các chức năng
ghi nhãn chất lượng, sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý cho phép kiểm soát cung và giá
cho các nông nghiệp và phát triển nông thôn. Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý giúp các
doanh nghiệp thay đổi trạng thái của sản phẩm từ “hàng hoá” trở thành “sản phẩm gốc”,
có khả năng gia tăng giá bán hoặc thị phần trên thị trường. Sản phẩm mang chỉ dẫn địa
lý có thể làm tăng thu nhập của nhà sản xuất, cho phép các thị trường phát triển và thúc
đẩy hoạt động nông nghiệp địa phương, dẫn đến tác động tràn trên các chuỗi cung ứng
và chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong nghiên cứu của International Coffee Organization (Tổ chức cà phê thế
giới – ICO, 2015), sản phẩm cà phê khi tham gia chuỗi giá trị phụ thuộc vào nhiều
yếu tố: sản xuất, cung, cầu sản phẩm, chất lượng sản phẩm, hoạt động thương mại
quốc tế, giá cả cà phê trên thị trường thế giới, thị hiếu người tiêu dùng, đứt gãy trong
khâu rang xay sản phẩm và nhiều yếu tố khác. Dựa theo những yếu tố này, Việt Nam,
Brazil, Indonesia đều có những lợi thế và rủi ro khác nhau khi tham gia chuỗi giá trị
toàn cầu.
Các nghiên cứu về chuỗi giá trị nông sản được tiến hành ở Việt Nam trong thời
gian gần đây tương đối nhiều, chủ yếu tập trung ở các sản phẩm nông sản như gạo, cà
phê, chè, hồ tiêu, cao su, táo, bưởi da xanh... Doris Backer, Phạm Ngọc Trâm và Hoàng
Đình Tú (2009) trong báo cáo “Phát triển chuỗi giá trị - công cụ gia tăng giá trị cho
sản xuất nông nghiệp” cho rằng, các tỉnh ở Việt Nam đều có những lợi thế rất lớn trong
phát triển nông sản, chẳng hạn Hưng Yên nổi tiếng với nhãn lồng, An Giang nổi tiếng
có gạo, Đắk Lắk nổi tiếng có cà phê, tiêu, điều..., nhưng hoạt động sản xuất canh tác
các sản phẩm nổi tiếng này đều không bền vững do những thiếu sót mà các tác nhân
trong chuỗi không tự giải quyết được. Những thiếu sót đó có thể kể ra là: sự liên kết và
hợp tác lỏng lẻo của các tác nhân dọc theo chuỗi, người sản xuất không chú ý đến thị
10
trường, cơ cấu hỗ trợ đào tạo - nghiên cứu phát triển lạc hậu, chất lượng sản phẩm chưa
được chú ý, các sản phẩm Việt Nam chưa được tiêu thụ dưới nhãn mác của Việt Nam...
Hoạt động của chuỗi giá trị sản phẩm nông sản ở Việt Nam nên thực hiện theo phương
pháp liên kết giá trị của GTZ (như phần tổng quan tài liệu ngoài nước đã đề cập trên
đây).
Hà Văn Sự (2016) sau khi phân tích đặc điểm hình thành chuỗi giá trị toàn cầu
hàng nông sản đã đề cập đến thực trạng và những bất cập đối với việc tham gia của
Việt Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu hàng nông sản. Theo tác giả, Việt Nam có được
nhiều sản phẩm nông sản có thế mạnh trên thị trường thế giới, nhưng hàm lượng chế
biến sâu sản phẩm chỉ đạt 25-30%, bằng một nửa so với các nước ASEAN. Tỷ trọng
nông sản xuất khẩu thô và sơ chế chiếm tỷ lệ khá cao; sản phẩm nông sản Việt Nam
khi tham gia chuỗi giá trị mới chủ yếu dựa vào giá cả, chất lượng và chi phí thấp nên
luôn đứng hạng thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Hồ Thanh Thuỷ (2017) cho rằng Việt Nam đã có một số nông sản tham gia được
vào các khâu có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu như cà phê Vinacafe,
thanh long Bình Thuận..., nhưng năng lực tham gia của các tác nhân vào chuỗi giá trị
toàn cầu còn nhiều hạn chế, kể từ khâu sản xuất, thu gom, chế biến, tiêu thụ sản phẩm,
năng lực quản lý chuỗi sản phẩm...
Claire Durad và Stephane Fourier (2017) khi nghiên cứu chuỗi giá trị của
doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột cho rằng khi cà phê Buôn Ma
Thuột được đăng ký chỉ dẫn địa lý, các bên liên quan và chính quyền địa phương đều
mong đợi sản phẩm cà phê này sẽ tăng uy tín và giá cả, trở thành cà phê robusta có
chất lượng đầu tiên ở Việt Nam. Trong quá trình tham gia chuỗi giá trị, các quy trình
sản xuất và mô hình sản xuất hiện đại đã được áp dụng ở địa phương. Tuy nhiên, các
quy trình phơi khô, rang xay và chế biến ướt đều đã không đi theo các quy định của
một quy trình sản xuất hiện đại, mà phần lớn được dựa trên bí quyết sản xuất của
người Ê đê và được áp dụng các công nghệ mang tính “bí ẩn” của phương thức rang
xay phương Đông.
Trong các dự án, đề tài liên quan đến cây cà phê Tây Nguyên do Viện Khoa
học kỹ thuật nông lâm Tây Nguyên (WASI) chủ trì thời gian qua, có một số đề tài
liên quan đến chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê. Cụ thể là: “Nghiên cứu các hình
11
thức tổ chức sản xuất cà phê nguyên liệu chất lượng cao ở Tây Nguyên” (Đề tài cấp
Bộ 2009-2010); Chương trình hợp tác phát triển cà phê bền vững (Dự án hợp tác
giữa WASI và công ty trách nhiệm hữu hạn Nestle Việt Nam, giai đoạn 2011-2015
và 2016-2020). Những đề tài, chương trình này cung cấp một phần thông tin cơ bản
liên quan đến việc tổ chức sản xuất và các tác nhân khi tham gia chuỗi giá trị của
doanh nghiệp cà phê CDĐL của Tây Nguyên.
1.1.2. Các kết quả nghiên cứu chủ yếu
Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã đưa ra nhiều khái niệm,
phương pháp và công cụ phân tích chuỗi giá trị, phát hiện ra những đặc điểm và những
nhân tố ảnh hưởng đến chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê, nghiên cứu kinh nghiệm
quốc tế trong việc đưa sản phẩm cà phê tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Các công
trình này đã phác thảo sơ bộ những đặc điểm, tiêu chí, sơ đồ hệ thống, xác định sự
phân phối lợi ích giữa các tác nhân tham gia chuỗi giá trị, đánh giá các đặc điểm của
tác nhân tham gia chuỗi giá trị, mối liên hệ giữa các tác nhân trong chuỗi. Thông qua
điều tra, khảo sát, quan sát thực tế ở một số nước, một số công trình đã xác định sự
phân phối lợi ích giữa các tác nhân tham gia chuỗi thông qua việc phân tích chênh
lệch giữa chi phí và lợi nhuận, xác định ai được lợi trong chuỗi, nghiên cứu vai trò
của việc cải tiến chất lượng và thiết kế sản phẩm, vai trò của quản trị chuỗi trong vấn
đề nâng cấp chuỗi giá trị. Đó là những tài liệu tham khảo quý, cung cấp cơ sở lý luận,
phương pháp luận cho việc nghiên cứu về chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê.
Nghiên cứu chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê mang chỉ dẫn địa lý và kinh
nghiệm của một số nước trên thế giới hiện đang được nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức
phi chính phủ, các học giả quan tâm. Những phát hiện chính của các công trình này là:
chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê có những đặc điểm khác biệt so với chuỗi giá trị
của các doanh nghiệp hàng hoá phi nông nghiệp. Các nhà nghiên cứu cũng lập sơ đồ ở
các khâu, các lĩnh vực và mối liên kết chính trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà
phê, để phân tích và làm rõ nhưng nút thắt chính trong chuỗi và đưa ra những giải pháp
cải thiện và nâng cấp chuỗi. Một số công trình nghiên cứu đã phân tích lợi thế và ưu
điểm của chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê mang chỉ dẫn địa lý và cho rằng, so với
các sản phẩm cà phê thông thường khi tham gia chuỗi giá trị, thì các sản phẩm cà phê
mang chỉ dẫn địa lý có nhiều lợi thế hơn về giá cả, nhãn mác, tiêu chuẩn chất lượng,
12
và dễ được người tiêu dùng chấp nhận hơn cả. Tại nhiều quốc gia trên thế giới (chẳng
hạn như Indonesia, Brazil), các sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý thường tham gia
sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, đem lại những hiệu quả to lớn về ngoại tệ xuất khẩu,
việc làm, phát triển bền vững, kết hợp phát triển cà phê với du lịch ẩm thực sinh thái.
Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng chỉ ra rõ những thách thức của sản phẩm cà phê mang
chỉ dẫn địa lý khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, đó là: với các thủ tục và quy trình
đăng ký chỉ dẫn địa lý, bảo vệ chỉ dẫn địa lý, các địa phương và doanh nghiệp tham gia
sản xuất thường gặp các chi phí đầu vào tốn kém hơn. Trong khi đó, các doanh nghiệp
sản xuất địa phương thường xuất khẩu cà phê dưới dạng bán thành phẩm (chứ không phải
là sản phẩm cuối cùng đến tay người tiêu dùng cuối cùng) nên rất cần phải tính toán đến
chi phí và lợi ích đối với sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý để tránh tình trạng lợi nhuận
của ngành cà phê rơi chủ yếu vào tay các nhà nhập khẩu và các nhà chế biển sản phẩm cà
phê đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
1.1.3. Khoảng trống nghiên cứu và hướng tiếp cận của luận văn
Nghiên cứu các kinh nghiệm quốc tế về việc tham gia chuỗi giá trị của doanh
nghiệp cà phê là hoàn toàn cần thiết. Tuy nhiên, các nghiên cứu trong nước về vấn đề
này còn tương đối ít, trong khi các nghiên cứu nước ngoài còn rời rạc, chưa toàn diện,
chưa hệ thống. Chính vì vậy, đây cũng là khoảng trống nghiên cứu cần bổ sung, từ
đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho việc tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp
cà phê của Tây Nguyên nói chung, các doanh nghiệp tham gia chỉ dẫn địa lý Buôn
Ma Thuột nói riêng.
Các nghiên cứu chuyên sâu về chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê của tỉnh Đắk
Lắk còn ít, mới chỉ dừng ở dạng các bài nghiên cứu ngắn, các đề tài quy mô nhỏ, hoặc
chưa mang tính hệ thống và tổng quát; chưa có những nghiên cứu chuyên sâu vào tất cả
các mắt xích, các khâu, các tác nhân tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê ở
tỉnh Đắk Lắk. Trong danh mục hệ thống các đề tài viết về cây cà phê do UBND tỉnh Đắk
Lắk, Sở khoa học và công nghệ tỉnh Đắk Lắk, Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp
Tây Nguyên…, phần lớn đều tập trung nghiên cứu các vấn đề thuộc về khoa học công
nghệ như: nghiên cứu kỹ thuật trồng cà phê, nghiên cứu công nghệ tạo giống và thâm
canh, nghiên cứu chế phẩm các loại phân bón, kỹ thuật tiết kiệm cho phí đầu vào, cải tạo
giống, xây dựng mô hình quản lý cây trồng tổng hợp, cải thiện chất lượng đất cho việc
13
canh tác cà phê…Dường như đang thiếu vắng nhiều công trình khoa học xã đánh giá về
hiệu quả kinh tế - xã hội của cây cà phê, năng lực cạnh tranh sản phẩm cà phê Đắk Lắk;
đặc biệt chưa có các công trình nghiên cứu chuyên sâu về chuỗi giá trị của doanh nghiệp
cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột dưới lăng kính nghiên cứu kinh tế kết hợp với phương
pháp liên ngành. Vì vậy, còn rất nhiều khoảng trống và còn rất nhiều nội dung cần tiếp
tục đầu tư nghiên cứu về vấn đề này.
1.2.Khái niệm
1.2.1. Chuỗi giá trị
Thế giới hiện nay đang sử dụng nhiều khái niệm khác nhau liên quan đến chuỗi
giá trị. Michael Porter (1985) [45] cho rằng: chuỗi giá trị là tổng thể các hoạt động
liên quan đến sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó. Trong chuỗi
giá trị diễn ra quá trình tương tác giữa các yếu tố cần và đủ để tạo ra một hoặc một
nhóm sản phẩm và các hoạt động phân phối, tiêu thụ sản phẩm, nhóm sản phẩm đó
theo một phương thức nhất định. Giá trị tạo ra của chuỗi bao gồm các giá trị tạo ra tại
mỗi công đoạn của chuỗi. Michael Porter đã chia ra các công đoạn của chuỗi giá trị,
bao gồm hai hoạt động: hoạt động chính và hoạt động hỗ trợ. Hoạt động chính bao
gồm: chuẩn bị sản xuất, sản xuất, sau sản xuất, tiếp thị và bán hàng. Các công đoạn
này diễn ra kế tiếp nhau, tác động lẫn nhau để cùng tạo ra một sản phẩm và tiêu thụ
sản phẩm đó. Để chuỗi giá trị diễn ra bình thường, cần phải có các hoạt động hỗ trợ như:
quản lý hành chính, phát triển cơ sở hạ tầng, quản lý nguồn nhân lực, cung cấp thông tin,
bảo trì thiết bị, nhà xưởng sản xuất…Theo cách hiểu này, chuỗi giá trị là để đánh giá
xem một công ty nên tự định vị mình như thế nào trên thị trường và trong mối quan hệ
với các nhà cung cấp, khách hàng và đối thủ cạnh tranh.
Khái niệm chuỗi giá trị tiếp tục được các nhà kinh tế học phát triển sau đó.
Đặc biệt trong thời kỳ toàn cầu hoá phát triển mạnh, chuỗi giá trị được xem xét theo
cách thức mà các công ty và quốc gia Hội nhập toàn cầu. Kalpinsky và Morris (2001)
[46] cho rằng: chuỗi giá trị mô tả toàn bộ những hoạt động cần thiết để đưa ra một
sản phẩm hay dịch vụ từ khái niệm, đi qua các công đoạn sản xuất khác nhau (liên
quan đến việc kết hợp giữa chuyển hoá vật chất và đầu vào các dịch vụ sản xuất khác
nhau, đưa đến người tiêu dùng sau cùng, và bố trí sử dụng sau cùng. Một chuỗi giá
trị đơn giản có 4 mắt xích quan trọng là: thiết kế và phát triển sản phẩm; sản xuất;
14
tiếp thị; tiêu thụ và tái chế. Tuy nhiên, theo hai tác giả này, chuỗi giá trị cần được
hiểu theo nghĩa mở rộng, đó là một phức hợp những hoạt động do nhiều người tham
gia khác nhau thực. Chuỗi giá trị mở rộng bắt đầu từ hệ thống sản xuất nguyên vật
liệu và chuyển dịch theo các mối liên kết với các đơn vị sản xuất, kinh doanh, lắp ráp,
chế biến….Theo Kalpinsky và Morris, chuỗi giá trị trong đời thực phức tạp hơn nhiều,
có xu hướng có nhiều mắt xích hơn. Ngoài các mắt xích nhiều mặt trong một chuỗi
giá trị, các nhà sản xuất trung gian trong một chuỗi giá trị có thể tham gia vào một số
chuỗi giá trị khác nhau.
Tiếp tục mở rộng khái niệm và cấu trúc của chuỗi giá trị, Sonja Vermeulen và
cộng sự (2008)[49] cho rằng: chuỗi giá trị bao gồm các chức năng trực tiếp như sản
xuất hàng hoá có bản, thu gom, chế biến, bán sỉ, bán lẻ, cũng như các chức năng hỗ
trợ như cung cấp vật tư nguyên liệu đầu vào, dịch vụ tài chính, đóng gói và tiếp thị.
Chuỗi giá trị còn bao gồm cả vấn đề tổ chức và điều phối, chiến lược và mối quan hệ
quyền lực của các tác nhân khác nhau trong khối.
Theo các quan niệm trên đây, chuỗi giá trị có thể được hiểu là một dãy các
hoạt động làm tăng giá trị của các tác nhân tham gia sản xuất, bao gồm từ khâu thu
gom, chế biến, bán sỉ, bán lẻ đến tay người tiêu dùng, cũng như các chức năng hỗ trợ
như cung cấp vật tư nguyên liệu đầu vào, dịch vụ tài chính, đóng gói và tiếp thị.
1.2.2 Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê
1.2.2.1 Các khái niệm
Doanh nghiệp cà phê là một tập hợp các hoạt động từ thu gom nguyên liệu,
thiết kế, sản xuất, bán hàng và hỗ trợ dịch vụ khách hàng và tất cả các hoạt động này
được liên kết thành một chuỗi.
Khái niệm Chỉ dẫn địa lý: Chỉ dẫn địa lý (Geographical Indication - CDĐL)
bắt nguồn từ châu Âu, khởi nguồn ở Pháp từ đầu thế kỷ 20, sau đó được phát triển
rộng ra các nước trên thế giới. Tại cuộc họp của GATT (tổ chức tiền thân của WTO),
ngày 15/12/1993, sự công nhận quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực thương mại (trong
khuôn khổ của nghị định TRIPS) đã mở đường cho bảo vệ CDĐL, theo đó: “CDĐL là
những chỉ dẫn về hàng hoá bắt nguồn từ lãnh thổ của một thành viên hoặc từ một khu
vực hoặc địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính chủ yếu do
xuất xứ địa lý quyết định”.
15
Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ là thông tin về nguồn gốc địa lý của hàng hoá đáp
ứng đủ các điều kiện sau đây:
a) Thể hiện dưới dạng một từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh, dùng để chỉ
một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, địa phương thuộc một quốc gia;
b) Thể hiện trên hàng hoá, bao bì hàng hoá hay giấy tờ giao dịch liên quan tới
việc mua bán hàng hoá nhằm chỉ dẫn rằng hàng hoá nói trên có nguồn gốc tại quốc
gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương mà đặc trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng
hoặc các đặc tính khác của loại hàng hoá này có được chủ yếu là do nguồn gốc địa lý
tạo nên. Nếu chỉ dẫn địa lý là tên gọi xuất xứ hàng hoá thì việc bảo hộ được thực hiện
theo quy định của pháp luật hiện hành về tên gọi xuất xứ hàng hoá.
- Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý (CDĐL):
Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý là một dãy các hoạt động
làm tăng giá trị của sản phẩm cà phê của doanh nghiệp đó có xuất xứ bắt nguồn từ lãnh
thổ của một thành viên hoặc từ một khu vực hoặc địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất
lượng, uy tín hoặc đặc tính chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định, bao gồm các khâu bao
gồm từ khâu trồng trọt, thu gom sơ chế, rang xay và tiêu thụ, và các chức năng hỗ trợ
như cung cấp vật tư nguyên liệu đầu vào, dịch vụ tài chính, đóng gói và tiếp thị.
Chuỗi giá trị sản phẩm doanh nghiệp cà phê được tạo thành từ bốn công đoạn
chính: trồng trọt, thu gom sơ chế, rang xay và tiêu thụ. Mỗi công đoạn trong quá trình
này đều có các vấn đề nảy sinh liên quan đến môi trường, xã hội, kinh tế và quản trị,
ảnh hưởng đến triển vọng tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê. Trong khâu
trồng trọt, chuỗi giá trị của sản phẩm cà phê phụ thuộc vào chất lượng đất, giống,
phân bón, nước, loại cà phê (Robuta hay Arabica), những phát thải khí nitơ, phốt pho,
thuốc trừ sâu sau thu hoạch. Trong khâu sơ chế và rang xay, chuỗi giá trị của doanh
nghiệp cà phê phụ thuộc vào phương pháp chuyển đổi cà phê từ cà phê tươi sang cà
phê khô theo các quy trình khác nhau (có thể bằng tay hoặc bằng máy), kỹ thuật phân
loại cà phê và đóng gói cà phê. Khâu thu hoạch và chế biến đều diễn ra ở nước sản
xuất, có những tác động liên quan đến con người, lợi nhuận và quản trị doanh nghiệp.
Ở khâu tiêu thụ, giá trị sản phẩm cà phê phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thị hiếu, thói
quen, các loại cà phê và các kỹ thuật xử lý rác thải cà phê sau khi sử dụng.
1.2.2.2 Sự cần thiết phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê mang
16
chỉ dẫn địa lý
Cà phê là một sản phẩm có giá trị thương mại lớn thứ hai toàn cầu, chỉ đứng sau
dầu mỏ và theo đánh giá của Tổ chức cà phê thế giới (ICO), có khoảng 2,25 tỷ người
tiêu dùng cà phê hàng ngày trên toàn thế giới. Đây là hàng hoá nông sản có giá trị
thương mại lớn, đem lại nguồn thu ngoại tệ và việc làm hiệu quả cho rất nhiều nước
đang phát triển.
Tuy nhiên, trong hai thập niên trở lại đây, làn sóng tiêu dùng cà phê trên toàn
thế giới đã có sự thay đổi theo hướng ưu tiên tiêu dùng các sản phẩm cà phê có nguồn
gốc địa lý và có chất lượng cao. Chính vì vậy, chỉ dẫn địa lý (GI) đã được sử dụng
cho sản phẩm cà phê như một hình thức phát triển để bảo vệ danh tiếng xuất xứ cà
phê của nước họ và nhằm thu được nhiều giá trị hơn từ xuất khẩu cà phê. Chỉ dẫn địa
lý sản phẩm cà phê là nhằm mục đích tránh sự chiếm đoạt tên địa lý của một nhóm
người sử dụng hoặc công ty nào đó đối với sản phẩm cà phê có chất lượng. Nếu không
có chỉ dẫn địa lý hoặc làm mất chỉ dẫn địa lý, sản phẩm cà phê có thể bị các công ty
lớn nằm ngoài khu vực sản xuất sản phẩm đó lợi dụng danh tiếng, làm ảnh hưởng đến
hệ thống sản xuất và chuỗi giá trị sản phẩm. Các nước đã sử dụng chỉ dẫn địa lý như
một biện pháp để tránh cạnh tranh không lành mạnh hoặc nâng cao danh tiếng chất
lượng sản phẩm của họ, trao quyền cho các nhà sản xuất địa phương xác định quy tắc
cụ thể cho việc sử dụng nhãn hiệu gốc, thực thi các tiêu chuẩn chất lượng và do đó
cung cấp các điều kiện để tiếp cận giá trị cao hơn cho các sản phẩm gốc. Việc quảng
bá và bảo vệ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm là những nỗ lực lâu dài, giống như các
thương hiệu, đòi hỏi sự nhất quán và lập kế hoạch chiến lược. Chỉ dẫn địa lý không
phải lúc nào cũng có giá trị làm tăng giá trị sản phẩm và khiến sản phẩm đó tham gia
hiệu quả vào chuỗi giá trị, mà nó cần được quảng bá, bảo vệ và mở rộng thị trường
cho sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý.
Chỉ dẫn địa lý có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển chuỗi giá trị của
doanh nghiệp cà phê. Chỉ dẫn địa lý, cùng với các công cụ sở hữu trí tuệ khác như
nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu… đã giúp người trồng và
chế biến cà phê tập trung vào việc phân biệt, bảo vệ và ghi nhãn hiệu cà phê của họ,
nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm cà phê trong chuỗi giá trị toàn cầu. Sử
dụng chỉ dẫn địa lý giống như một biện pháp để tránh cạnh tranh không lành mạnh
17
và tự do nâng cao danh tiếng chất lượng của họ, trao quyền cho các nhà sản xuất địa
phương xác định các quy tắc cụ thể cho việc sử dụng nhãn hiệu gốc.
Đánh giá lợi thế của sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý thể hiện thông qua
việc phân tích chức năng của giá cả cà phê, áp dụng nghiên cứu so sánh tại các nước
có sản lượng cà phê lớn như Brazil, Colombia, Indonesia và nhiều nước khác. Theo
Ramona, giá cả cà phê được tính theo công thức:
Giá cà phê = f (điểm số, thứ hạng, quy mô, nguồn gốc, giống cà phê, diện tích
trồng cà phê, độ cao, năm cạnh tranh).
Trong đó, điểm số: số điểm đạt được trong cạnh tranh; thứ hạng: vị trí xếp hạng
sản lượng cà phê trên thế giới; quy mô: thể hiện bằng kích thước lô cà phê tính bằng
kg; nguồn gốc: chỉ dẫn địa lý hoặc khu vực xuất xứ; giống cà phê: đặc tính thực vật; diện
tích trồng cà phê: tính bằng hecta; độ cao: độ cao của vùng trồng cà phê, tính bằng mét;
năm cạnh tranh: là chỉ số giá tổng hợp của Tổ chức cà phê thế giới (ICO). Trong công
thức này, điểm số, quy mô, độ cao và diện tích trồng cà phê là các biến số liệu; còn thứ
hạng, nguồn gốc, giống, năm cạnh tranh, chỉ số giá là các biến giả.
Sử dụng công thức này, tác giả cho rằng, chỉ dẫn địa lý (thể hiện qua biến
nguồn gốc) có ảnh hưởng lớn đến giá cả sản phẩm cà phê và năng lực tham gia chuỗi
cung ứng và chuỗi giá trị cà phê toàn cầu. Mặc dù giá cà phê còn phụ thuộc vào nhiều
biến khác, nhưng theo tài liệu về số lượng xuất khẩu cà phê, thì thị trường cà phê có
nguồn gốc địa lý vẫn chiếm vị trí chủ đạo trên thị trường cà phê thế giới. Chính vì
vậy, nhiều nước sản xuất cà phê đã quyết định đầu tư vào việc thiết lập hệ thống tên
gọi cà phê có chỉ dẫn địa lý để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của thị
trường thế giới, nhưng trên thực tế cũng chỉ có một số nước thành công trong việc
nâng cấp chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý của mình trên thị trường
thế giới, trong đó có Colombia, Costa Rica, Brazil, Indonesia, Ethiopia, Guatemala.
Khác với các sản phẩm khác (chẳng hạn như rượu vang), các nhà sản xuất cà
phê thường bán phần lớn các sản phẩm của mình dưới dạng bán thành phẩm (nghĩa
là không phải sản phẩm tiêu dùng cuối cùng). Đây là điều rất quan trọng đối với việc
bảo vệ chỉ dẫn địa lý đối với sản phẩm của các nhà sản xuất cà phê. Bảo vệ toàn bộ
quá trình từ thu hoạch đến rang xay chắc chắn sẽ làm thay đổi toàn bộ chuỗi cung
ứng, chuỗi giá trị và các mô hình thương mại liên quan đến sản phẩm cà phê mang
18
chỉ dẫn địa lý. Chính vì vậy, bảo vệ chỉ dẫn địa lý đối với sản phẩm cà phê mang chỉ
dẫn địa lý có vai trò quan trọng trong việc nâng cao giá cả sản phẩm cà phê và giúp
các doanh nghiệp mang chỉ dẫn địa lý tham gia sâu hơn, hiệu quả hơn vào chuỗi giá
trị cà phê toàn cầu. Tuy nhiên theo Ramona Teuber, việc thực thi bảo Doanh nghiệp
pháp lý cho các sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý không phải là đơn giản, và gây
tốn kém. Tại các thị trường tiêu dùng cà phê lớn như Mỹ, cà phê mang chỉ dẫn địa lý
thường có giá cao hơn; nhưng trong chuỗi giá trị toàn cầu, cần phải tính toán bao
nhiêu giá trị gia tăng chảy vào nước sản xuất cà phê. Nếu không tính toán kỹ lợi ích
và chi phí, giá trị gia tăng của sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý sẽ chảy phần lớn
vào các nhà nhập khẩu và chế biến ở nước ngoài.
Chỉ dẫn địa lý là một biện pháp hiệu quả để quảng bá sản phẩm nông nghiệp
trong bối cảnh toàn cầu hoá và giảm nguy cơ chiếm đoạt nhãn hiệu sản phẩm. Trong
bối cảnh đặc trưng bởi sự bất đối xứng thông tin, nơi người tiêu dùng không thể tự
mình đánh giá chất lượng của sản phẩm thực phẩm, thì chỉ dẫn địa lý có thể giúp
tránh các tình huống rủi ro về chất lượng sản phẩm. Ngoài việc bảo vệ pháp lý và các
chức năng ghi nhãn chất lượng, sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý cho phép kiểm soát
cung và giá cho các nông nghiệp và phát triển nông thôn. Sản phẩm mang chỉ dẫn địa
lý giúp các doanh nghiệp thay đổi trạng thái của sản phẩm từ “hàng hoá” trở thành “sản
phẩm gốc”, có khả năng gia tăng giá bán hoặc thị phần trên thị trường. Sản phẩm mang
chỉ dẫn địa lý có thể làm tăng thu nhập của nhà sản xuất, cho phép các thị trường phát
triển và thúc đẩy hoạt động nông nghiệp địa phương, dẫn đến tác động tràn trên các
chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu.
Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê mang chỉ dẫn địa lý là chuỗi hoạt động
của doanh nghiệp trồng trọt, thu gom, chế biến và sản xuất các sản phẩm về cà phê
mang chỉ dẫn địa lý. Tầm quan trọng thể hiện qua các chức năng của doanh nghiệp
sau đây.
Chức năng trồng trọt: Doanh nghiệp trồng cà phê phụ thuộc vào diện tích
trồng của chỉ dẫn địa lý, lực lượng lao động, giống cây cà phê, quy mô canh tác, kỹ
thuật trồng đạt tiêu chuẩn cà phê chất lượng cao và cải tạo đất trồng…
Chức năng thu gom nguyên liệu thô cà phê để cung ứng nguyên liệu đã qua
sơ chế cho các cơ sở, doanh nghiệp chế biến sản phẩm cà phê chỉ dẫn địa lý hoặc sản
19
xuất chế biến các sàn phẩm cà phê. Hầu hết các công ty, doanh nghiệp chế biến không
đủ lực lượng lao động, khả năng tổ chức và quản lý để trực tiếp tổ chức mạng lưới
thu mua nguyên liệu thô cà phê ở khắp nơi trong vùng chỉ dẫn địa lý trực tiếp từ hộ
nông dân trồng cà phê. Do quy mô trồng cà phê của hộ nông dân trồng cà phê nhỏ
nên việc thu mua đòi hỏi phải có mạng lưới rộng khắp và tốn kém chi phí. Thông qua
hệ thống doanh nghiệp thu gom và thương lái trung gian, các doanh nghiệp sơ chế
tập trung được nguồn hàng với khối lượng lớn để cung ứng cho doanh nghiệp chế
biến.
Chức năng sơ chế cà phê thành những sản phẩm trung gian, là nguyên liệu
đầu vào cho các công đoạn chế biến sản phẩm cà phê và các loại sản phẩm khác từ
cà phê. Hầu hết các doanh nghiệp, cơ sở chế biến các sản phẩm cà phê đều chỉ tập
trung sản xuất một hoặc vài nhóm chủng loại sản phẩm thuộc cùng nhóm nên chỉ cần
sử dụng một hai loại nguyên liệu đầu vào. Do đó, việc sử dụng nguyên liệu cà phê
cho chế biến là tốn kém và không có hiệu quả. Ngoài ra, chưa có sự liên kết giữa các
doanh nghiệp chế biến hiện nay để cùng sử dụng một đầu vào chung (cà phê nguyên
liệu) cho các sản phẩm khác nhau. Chính vì vậy, doanh nghiệp sơ chế đóng vai trò
quan trọng, là nơi cung cấp các loại nguyên liệu cho các tác nhân chế biến nhau khác
trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý.
Chức năng phân loại, đánh giá và kiểm soát chất lượng. Với những mối
quan hệ thương mại lâu dài giữa doanh nghiệp sơ chế và các công ty chế biến, việc
bảo đảm chất lượng sản phẩm sơ chế do các doanh nghiệp sơ chế đảm nhận. Việc
phân loại và kiểm tra chất lượng sản phẩm theo đúng tiêu chuẩn của công ty rất quan
trọng, đặc biệt với các công ty đòi hỏi chất lượng đầu vào cao của cà phê nguyên liệu
của vùng chỉ dẫn địa lý. Doanh nghiệp sơ chế chính là tác nhân chuyển tải thông tin
giá và cả thông tin tiêu chuẩn kỹ thuật ngược trở lại đến doanh nghiệp thu gom và
nông dân trồng cà phê. Như vậy, nhu cầu cải thiện chất lượng nguyên liệu đầu vào
của công ty, doanh nghiệp chế biến sẽ được thực hiện thông qua nhóm tác nhân sơ
chế.
Chính vì vậy, nâng cấp về công nghệ sơ chế, áp dụng hệ thống tiêu chuẩn và
kiểm định chất lượng tại các cơ sở sơ chế để bảo đảm và nâng cao chất lượng nguyên
liệu cho chế biến sâu là đáng suy nghĩ và quan tâm.
20
Chức năng huy động vốn và sử dụng nguồn lực địa phương cho sản xuất.
Những doanh nghiệp này hình thành nên sẽ tận dụng được một lượng vốn tài chính
nhàn rỗi lớn trong các hộ dân và sử dụng các mặt bằng nhà xưởng có sẵn của họ.
Chức năng cung cấp công ăn việc làm, ổn định sinh kế cho lao động địa
phương, đóng góp tài chính cho nền kinh tế địa phương. Xét về mặt kinh tế - xã
hội, với quy mô công suất chế biến lớn, các doanh nghiệp này tiêu thụ nhiều cà phê
nguyên liệu, tạo ra nhiều công ăn việc làm với thu nhập tốt cho người dân, đóng góp
vào nguồn thu ngân sách của địa phương, tăng thêm giá trị cho ngành cà phê nói riêng
và nền kinh tế nói chung.
Xét về công nghệ chế biến, các doanh nghiệp sản xuất cà phê sử dụng công
nghệ ở trình độ cao hơn các loại hình chế biến khác. Vì vậy, các doanh nghiệp này có
vai trò tiên phong trong tiếp cận và ứng dụng công nghệ sản xuất hiện đại để nâng
cấp hàm lượng công nghệ trong sản xuất và chế biến cà phê của địa phương chỉ dẫn
địa lý. Từ nền tảng công nghệ chế biến sản phẩm cà phê có chỉ dẫn địa lý, các doanh
nghiệp này có thể chuyển nhanh sang các công nghệ hiện đại hơn để chế biến các sản
phẩm cà phê có chất lượng và giá trị cao như gói cà phê, nước cà phê đóng lon, v.v.
Về thị trường, các doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý gắn bó mật thiết với thị
trường thế giới, nắm bắt tốt thông tin thị trường, nhu cầu các loại sản phẩm chế biến
từ cà phê. Từ đó, các doanh nghiệp này có vai trò như là cầu nối liên kết giữa địa
phương có chỉ dẫn địa lý và thị trường thế giới.
Với các vai trò trên, chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý có vị
trí đặc biệt quan trọng trong ngành cà phê, có tính chất dẫn dắt đối với toàn bộ các
hoạt động sản xuất chế biến cà phê đạt được sự ổn định cần thiết và phát triển bền
vững ngành cà phê của địa phương trong tương lai.
1.3. Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng chuỗi giá trị của doanh nghiệp
cà phê chỉ dẫn địa lý
1.3.1 Đặc điểm chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý
Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL có một số đặc điểm khác biệt so
với chuỗi giá trị của doanh nghiệp hàng hoá phi nông nghiệp. Đó là:
- Tính không ổn định: Do sự thay đổi của thời tiết, những thay đổi xã
hội…khiến chuỗi giá trị của doanh nghiệp sản phẩm nông nghiệp có tính không ổn
21
định cao. Thời tiết có thể tác động đến sự thay đổi sản lượng cà phê, nguồn cung hàng
hoá, vì vậy làm tăng sức ép về mặt giá cả. Sự nóng lên của trái đất đang khiến chuỗi
giá trị của doanh nghiệp sản phẩm nông nghiệp không ổn định, ảnh hưởng lớn đến
năng suất, chất lượng cây trồng và giá cả cà phê trên thế giới. Hơn nữa, sự gia tăng
dân số toàn cầu, tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia cũng ảnh hưởng đến nguồn
cung – cầu các sản phẩm cà phê chủ lực trên thế giới. Những nhân tố về thời tiết, dân
số đem lại những tác động không ổn định đối với từng tác nhân tham gia chuỗi giá
trị.
- Tính phức tạp: Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL có tính phức
tạp cao bởi nó liên quan đến nhiều mùa vụ khác nhau và các loại sản phẩm cà phê
khác nhau. Mỗi loại hình mùa vụ và sản phẩm này có những đặc điểm riêng biệt của
nó và thường làm phân tán chuỗi cung ứng. Chẳng hạn, vào mùa vụ thuận lợi, khối
lượng hàng hoá cà phê tăng nhanh, nguồn cung lớn, giá cà phê hạ; nhưng vào các
mùa vụ không thuận lợi (hoặc trái mùa) hàng hoá cà phê giảm nhanh, chất lượng
thấp, giá bán thường cao, ảnh hưởng đến giá cả và phân phối hàng hoá. Ngoài ra,
nhân tố môi trường cũng làm tăng tính phức tạp của chuỗi giá trị của doanh nghiệp
cà phê, bởi mỗi vùng địa lý, mỗi quốc gia đều có những mục tiêu riêng trong phát
triển nông nghiệp gắn với các giải pháp đa dạng (chẳng hạn như ứng dụng công
nghệ thông tin hoặc đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai trong nông nghiệp). Nếu
khả năng ứng dụng công nghệ chế biến, bảo quản cà phê hạn chế thì sẽ tạo ra sự
“đứt gãy” khi tham gia chuỗi cung ứng do cà phê thường dễ bị hỏng, héo, giảm chất
lượng sau thu hoạch. Chính vì vậy, các công nghệ chế biến, bảo quản cà phê thường
được chú trọng trong tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp toàn cầu.
- Tính đa dạng về tác nhân tham gia: Khác với các chuỗi giá trị của doanh
nghiệp phi cà phê khác, chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL thường có sự
tham gia động đảo của các tác nhân với trình độ và ý thức sản xuất kinh doanh khác
nhau. Nông dân là bộ phận tham gia đông đảo nhất trong chuỗi giá trị, tham gia từ
khâu cung cấp đầu vào, đến sản xuất, thu gom, sơ chế, thương mại hóa và tiêu thụ.
Các hộ nông dân, với trình độ sản xuất và ý thức sản xuất khác nhau, nhận biết thị
trường khác nhau, thường làm cho chuỗi giá trị cà phê trở nên phức tạp, khó điều
chỉnh kể cả về quy mô sản xuất, số lượng sản phẩm, chất lượng sản phẩm, làm ảnh
22
hưởng lớn đến nguồn cung và cầu trong chuỗi cung ứng, tác động không nhỏ đến các
khâu chế biến cà phê, tạo dựng thương hiệu cà phê trên thị trường trong nước và quốc
tế. Tổ chức sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm khác biệt với tổ chức sản xuất
công nghiệp, trong khi tham gia chuỗi giá trị cà phê một phần lớn thuộc về tổ chức
sản xuất nông nghiệp. Tác nhân đa dạng này khiến chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà
phê CDĐL của nhiều nước đang phát triển bị đứt gãy ngay từ khâu cung cấp và thu
gom nguyên liệu cà phê.
* Sơ đồ chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê
- Sơ đồ theo mô hình truyền thống
Một chuỗi giá trị đơn giản theo mô hình truyền thống gồm 5 mắt xích chính:
thiết kế, sản xuất, tiếp thị, tiêu thụ và tái chế. Cụ thể là:
Hình 1.1: Sơ đồ chuỗi giá trị đơn giản của sản phẩm cà phê
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ phương pháp filiere
– Mắt xích 1 –nhà cung cấp đầu vào: Đây là mắt xích quan trọng hỗ trợ cho
ngành cà phê phát triển và là khâu thâm dụng vốn, đất đai. Đối với mặt hàng cà phê,
nguyên phụ liệu có vai trò quyết định đến chất lượng và giá thành hạt cà phê. Nguồn
nguyên phụ liệu trong ngành cà phê phần lớn: nguyên liệu chính và phụ liệu. Trong
đó, nguồn nguyên liệu chính bao gồm hạt giống, đất đai và lao động. Phụ liệu bao
gồm phân bón, hóa chất tưới,…
– Mắt xích 2 –sản xuất: Đây là mắt xích thâm dụng vốn, đất đai và lao động.
– Mắt xích 3 –sau thu hoạch (thu gom, rang xay): Sản xuất và chế biến thô sơ
là khâu thường được thực hiện tại các nước đang phát triển như Braxin, Việt Nam,
Colombia…, bởi lẽ nó không đòi hỏi kỹ thuật công nghệ cao và rất thâm dụng lao
động, phù hợp với các chuỗi giá trị ngành hàng cà phê. Giá trị gia tăng của khâu này
trong chuỗi giá trị không cao.
- Mắt xích 4: Chế biến. Đây là khâu thâm dụng kỹ thuật khoa học và tri thức.
Một trong những điểm đáng chú ý của mắt xích này là sự chuyển đổi từ hạt cà phê
nhân thô sang hạt cà phê có chất lượng cao. Các nước tham gia chính vào khâu này
23
như Mỹ, Đức, Bỉ, Ý,… đòi hỏi phải có trình độ khoa học tiên tiến và khả năng chế
biến sâu. Đây là khâu mang lại giá trị gia tăng trung bình trong chuỗi giá trị.
– Mắt xích 5 –thương mại (tiêu dùng trong nước và xuất khẩu). Đây cũng là khâu
thâm dụng trí thức và cũng là khâu tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất trong chuỗi giá trị. Các
nhà bán lẻ nổi tiếng thế giới như Costa Coffee từ Anh Quốc, Starbucks từ Mỹ,… Các
công ty này không trực tiếp tạo ra sản phẩm, chỉ phân phối sản phẩm đến người tiêu dùng
cuối cùng, đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng và nâng cao khả năng tiêu thụ
sản phẩm cà phê.
- Sơ đồ chuỗi giá trị của doanh nghiệp mở rộng của sản phẩm cà phê:
Trên thực tế, chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê phức tạp hơn nhiều so với
sơ đồ đơn giản đã phác thảo ở trên. Sơ đồ đó có dạng như sau:
Hình 1.2: Sơ đồ chuỗi giá trị mở rộng của sản phẩm cà phê
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo GTZ 2007
Theo sơ đồ này, đang tồn tại các mối liên kết phức tạp giữa các tác nhân trong
chuỗi giá trị. Liên kết ngang là liên kết giữa các tác nhân trong cùng một khâu (Vd:
liên kết những người nghèo sản xuất/kinh doanh riêng lẻ thành lập nhóm cộng đồng/
tổ hợp tác) để giảm chi phí, tăng giá bán sản phẩm. Liên kết dọc là liên kết giữa các
tác nhân trong chuỗi (Vd: nhóm cộng đồng liên kết với doanh nghiệp thông qua hợp
đồng tiêu thụ sản phẩm). Bao gồm các hình thức như Sản xuất theo hợp đồng: mô
hình tập trung, mô hình trang trại hạt nhân, mô hình đa chủ thể, mô hình phi chính
thức, mô hình trung gian.Theo phương pháp luận liên kết giá trị (valueLinks) của
GTZ (2009)[3], trong chuỗi giá trị, các bên tham gia chính là các tác nhân hoạt động
trên mọi cấp độ của chuỗi, bao gồm những người cung cấp sản phẩm đầu vào cụ thể,
24
người sản xuất, người thu gom, các công ty gia công, chế biến, các đại lý vận tải,
người phân phối, tiêu thụ, và đại diện của các đơn vị hỗ trợ, các trường, viện... những
người đóng vai trò thúc đẩy chuỗi . Phương pháp có sự tham gia được áp dụng trong
lập kế hoạch và cả trong thực hiện các hoạt động can thiệp nhằm thúc đẩy sự hợp tác
chặt chẽ và tăng tính tự chủ của các nhà hoạt động chuỗi, đặc biệt là các đối tác ở khu
vực tư nhân như công ty thu mua, nhà phân phối... Trong một quốc gia, việc phân bố
các chuỗi giá trị phải được các địa phương phối hợp với nhau thực thi bằng một số
chính sách hỗ trợ chuỗi, hỗ trợ marketing, tạo ra sự minh bạch trong tiếp cận thông
tin thị trường nội địa và toàn cầu, liên kết chuyển giao công nghệ trong các cụm ngành
của chuỗi, phân tích sự thay đổi trong chuỗi nhằm ứng phó với những thách thức của
khủng hoảng kinh tế.
1.3.2 Nhân tố ảnh hưởng đến chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL
* Nhân tố bên trong
- Doanh nghiệp sản xuất: trong phân tích chuỗi giá trị nông nghiệp nói chung,
sản phẩm cà phê CDĐL nói riêng, một giai đoạn sản xuất có thể được gọi là bất kỳ giai
đoạn hoạt động nào có khả năng sản xuất một sản phẩm có thể bán được làm đầu vào
cho giai đoạn tiếp theo trong chuỗi hoặc để tiêu thụ hoặc sử dụng cuối cùng. Một giai
đoạn sản xuất trong chuỗi giá trị thực hiện chức năng đóng góp đáng kể vào hoạt động
hiệu quả của chuỗi giá trị và trong quá trình này làm tăng giá trị . Các yếu tố ảnh hưởng
đến sản xuất bao gồm: thời tiết, giống cây trồng, chất lượng hạt cà phê, phân bón, kỹ
thuật, công nghệ, quy mô và điều kiện sản xuất, phương thức sản xuất, tiêu chuẩn nông
nghiệp sạch và sự liên kết giữa các nhà sản xuất với nhau cũng như với các khâu khác
của chuỗi giá trị.
- Doanh nghiệp trồng cà phê: giai đoạn trồng cà phê là giai đoạn hoạt động rất
quan trọng trong khâu cung cấp sản phẩm thô. Các yếu tố ảnh hưởng đến trồng cà phê
bao gồm: Thời tiết, giống cây, phân bón, kỹ thuật, quy mô và điều kiện trồng và sự liên
kết các doanh nghiệp trồng cà phê lại với nhau tác động mạnh mẽ đến hiệu quả của sản
lượng và chất lượng sản phẩm cà phê.
- Doanh nghiệp thu gom: bao gồm các doanh nghiệp thu gom cá thể nhỏ lẻ
(bán lẻ) và các tổ chức thu gom quy mô lớn (bán buôn). Đối với doanh nghiệp bán
buôn, tính mùa vụ trong năm, số lượng khách đặt mua, mối quan hệ với khách mua,
25
bán cho các tỉnh khác nhau là các yếu tố tác động lớn nhất tới các quyết định về giá
và số lượng cà phê CDĐL của các doanh nghiệp bán buôn. Trong đó, mùa vụ được
đánh giá là yếu tố quyết định chính tới giá bán cà phê. Các doanh nghiệp bán buôn
thường chỉ hoạt động vào chính vụ, thuận lợi cho việc thu gom và phân phối đi khắp
nơi. Vào trái vụ, sản lượng ít, giá bán cao nên các hộ bán buôn không thu gom mà
chuyển sang nghề khác. Tại mắt xích này, các doanh nghiệp bán buôn tạo ra giá trị
gia tăng qua các kỹ thuật bảo quản cà phê khác nhau.
Đối với các doanh nghiệp bán lẻ (thu gom nhỏ lẻ), giá trị gia tăng của sản
phẩm trong chuỗi giá trị sẽ thấp hơn. Nguyên nhân là do bán lẻ không tạo ra thêm
nhiều giá trị cho sản phẩm. Hoạt động bán lẻ tại các khu vực lân cận chỉ tạo ra giá trị
gia tăng do vận chuyển và do vị trí bán, thường là ven đường và gần chợ. Không có
giá trị gia tăng do khâu bao gói, chế biến và phân phối.
- Doanh nghiệp rang xay, chế biến: chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê phụ
thuộc vào phương pháp chuyển đổi cà phê từ cà phê tươi sang cà phê khô theo các
quy trình khác nhau (có thể bằng tay hoặc bằng máy), kỹ thuật phân loại cà phê và
đóng gói cà phê. Khâu thu hoạch và chế biến đều diễn ra ở nước sản xuất, có những
tác động liên quan đến con người, lợi nhuận và quản trị doanh nghiệp. - Các nhà phân
phối và tiêu thụ sản phẩm cà phê CDĐL ra thị trường trong nước và thế giới: giá trị
sản phẩm cà phê phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thị hiếu, thói quen, các loại cà phê
và các kỹ thuật xử lý rác thải cà phê sau khi sử dụng.
- Doanh nghiệp phân phối sản phẩm: giá trị sản phẩm cà phê phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như thị hiếu, thói quen, các loại cà phê và các kỹ thuật xử lý rác thải cà
phê sau khi sử dụng.
* Nhân tố bên ngoài
- Môi trường thể chế: bao gồm những chính sách của chính phủ như chính
sách thương mại, chính sách mở cửa thị trường, chính sách nông nghiệp, chính sách
hỗ trợ, chính sách tài chính, chính sách khoa học công nghệ, chính sách liên doanh
liên kết...; hệ thống luật pháp trong nước như Luật đất đai, Luật đầu tư, Luật thương
mại, Luật cạnh tranh, Luật sở hữu trí tuệ... và tổ chức bộ máy quản lý cũng như khả
năng vận hành hệ thống bộ máy quản lý của những cơ quan liên quan.
- Mức độ tiếp nhận của người tiêu dùng trong và ngoài nước đối với sản phẩm
26
cà phê CDĐL: người tiêu dung có thể biết đến thương hiệu, nhãn hiệu chỉ dẫn địa lý
của sản phẩm, cũng có thể chưa biết đến.
- Sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ và các dịch vụ liên quan: để
tham gia sâu vào chuỗi giá trị, cần phải phát triển nhiều ngành công nghiệp hỗ trợ
như công nghiệp chế biến, hệ thống tài chính, cơ sở hạ tầng giao thông, các dự báo
về thị trường…
- Hoạt động quản lý chuỗi giá trị cà phê CDĐL: quản lý phân bố tài sản và
nguồn lực sản xuất, quản lý sử dụng đầu vào, chất lượng sản phẩm cà phê CDĐL,
quản lý trong kế hoạch sản xuất và dự báo, quản lý về lao động và tài chính…
- Hệ thống chính trị và quan hệ kinh tế đối ngoại: đó là các yếu tố liên quan
đến an toàn, an ninh tài sản quốc gia, hạn chế tự do hoá thương mại, ổn định chính
trị, môi trường đầu tư nước ngoài.
1.4 Kinh nghiệm trong việc tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà
phê CDĐL
1.4.1 Kinh nghiệm quốc tế
1.4.1.1 Brazil
Là nước đứng đầu về mặt diện tích cũng như sản lượng trên bản đồ cà phê thế
giới trong 150 năm nay, cà phê nhân thô từ Brazil chiếm khoảng 60% lượng giao dịch
toàn cầu, từ năm 2011 cà phê Brazil đã đứng ở vị trí lãnh đạo ngành cà phê thế giới,
trong sản xuất cà phê xanh, cà phê Arabica và cà phê chế biến (cà phê hòa tan). Ngành
cà phê Brazil thực sự là một đầu tàu mạnh mẽ trong nền kinh tế nước này. Về quy mô
sản xuất, có khoảng 360.000 nông dân / công nhân làm thuê cho nông trại lâu dài. Về
quy mô trại trung bình: từ nông trại nhỏ 0.5 hecta đến những đồn điền 10,000 hecta
với sản lượng xuất khẩu hàng năm: 45 – 60 triệu bao (60 kg). Các khu vực đang canh
tác cà phê của Brazil bao gồm: Bahia, Espírito Santo, Minas Gerais (including Carmo
de Minas, Cerrado Mineiro, and Sul de Minas), Nambuco, Paraná, San Janeiro, São
Paulo (including Mogiana) với giống cà phê phổ biến: Bourbon vàng,
Typica, Caturra, Catuai, Catimor, Maragogype. Phương pháp chế biến đa dạng, phổ
biến là chế biến khô và chế biến theo phương pháp truyền thống Pulped Natural. Phần
lớn cà phê Brazil được giao dịch trên thế giới đều xuất phát từ 6 khu vực chính: Minas
Gerais (1.22 Triệu ha); Espirito Santo (433,000 ha); Sao Paulo (216,000 ha); Bahia
27
(171,000 ha); Rondonia (95,000 ha); cuối cùng là Parana (49,000 ha).
Brazil canh tác cả hai loại cà phê chính là Arabica và Robusta, trong đó
giống cà phê Arabica vẫn chiếm ưu thế với khoảng 85% sản lượng còn lại là Robusta.
Tại Brazil, canh tác Arabica tập trung trong cụm khu vực cà phê quốc gia và được
dẫn đầu bởi Rio. Trong khi đó cà phê Robusta chủ yếu được trồng ở các bang nhỏ
hơn như Espirito Santo (bang này hiện cung cấp cho 80% lượng cà phê robusta) và
Rondonia – vùng màu cam ở phía Tây bắc. So với các quốc gia khác trong ngành cà
phê và trong khu vực, ngành cà phê có tỷ lệ cơ giới hóa rất cao. Máy móc được sử
dụng trong quá trình canh tác từ chăm sóc, đến thu hoặc chế biên. Riêng đối với khâu
thu hoạch, máy móc tham gia khá nhiều công đoạn hoặc là máy cầm tay để tuốt quả,
hoặc máy thu hái tự động trên những trang trại cà phê lớn. Điều này khá đối nghịch
với các khu vực sản xuất cà phê Châu Phi như Ethiopia, Burundi, hay Tazania – cà
phê được thu hai thủ công, với sự chọn lựa nghiêm ngặt. Hầu hết cà phê Brazil được
chế biến khô, một số ích được chế biến theo phương pháp truyền thống Pulpe – Một
phương pháp khá tương đồng với phương pháp chế biến bán ướt khi mà cà phê được
xát vỏ và phơi khô với một phần chất nhầy còn lại. Theo Hiệp hội Cà phê thế giới,
Brazil là nước tiêu thụ cà phê nội địa cao thứ nhì thế giới, chỉ sau Mỹ và là nước có
lượng tiêu thụ nội địa cao nhất trong các nước sản xuất cà phê. Hiện nay Brazil tiêu
thụ nội địa hằng năm khoảng 600.000 tấn cà phê, lượng tiêu thụ cà phê bình quân đầu
người đạt tới 4,7 kg/năm.
Brazil sản xuất nhiều cà phê hơn bất kỳ nước nào trên thế giới. Nước này đặt
mục tiêu vượt qua Colombia, trở thành đất nước sản xuất cà phê thượng hạng số 1
thế giới. Brazil tự tin với mục tiêu này bởi vì một số lý do qua đánh giá mùi hương,
chất lượng hạt và sự đồng đều. Hiệp hội Cà phê Thượng hạng châu Mỹ, đã cho cà
phê đặc sản Brazil 80 trên 100 điểm. Trong những năm gần đây, sản lượng cà phê
thượng hạng Brazil cũng tăng mạnh so với trước kia. Nắm bắt được nhu cầu thưởng
thức cà phê thượng hạng gia tăng, các chủ trang trại đã bắt đầu chuyển hướng canh
tác đã có từ thời ông cha sang lối canh tác sử dụng công nghệ mới nhất. Mỗi năm, thị
trường cà phê thượng hạng nước này tăng trưởng 15%, trong khi đó cà phê thường
chỉ tăng 2%. Cà phê chất lượng cao không thể sử dụng quy trình đại trà như cà phê
thường. Thêm vào đó, các sản phẩm đều có chỉ dẫn địa lý. Nhờ vậy, lợi nhuận đem
28
lại cho người trồng cà phê hoàn toàn xứng đáng. Một túi cà phê cao cấp bán được gấp
đôi, thậm chí gấp 3 lần cà phê truyền thống. Brazil dự kiến sẽ đạt sản lượng khoảng
50 triệu bao cà phê trong niên vụ 2019 - 2020, thấp hơn so với mức 62 triệu bao của
niên vụ 2018 - 2019. Tuy vậy, nước này kỳ vọng mặc dù sản lượng niên vụ hiện nay
thấp hơn nhưng lợi nhuận đem lại cho họ lại nhiều hơn so với niên vụ trước do chất
lượng cà phê đã được cải thiện đáng kể.
1.4.1.2 Colombia:
Hầu hết cà phê ở Colombia thuộc loài Arabica, chủ yếu là giống cà phê
Bourbon vàng, Bourbon hồng, Typica, Caturra.. Cây cà phê có mặt ở Colombia từ
năm 1790, bằng chứng lâu đời nhất về sự hiện diện của cà phê ở Colombia được quy
cho linh mục Jose Gumilla – trong cuốn The Orinoco Illustrated. Hoạt động sản xuất
và xuất khẩu cà phê của Colombia đã bắt đầu từ thập kỷ đầu tiên của thập niên 1800,
nhưng vẫn còn hạn chế cho đến thế kỷ 20. Từ năm 1927 Ngành cà phê Colombia bắt
đầu chuyển mình với sự ra đời của FNC – (Liên đoàn Cà phê Colombia) và đứng thứ
3 thế giới về sản lượng cà phê cùng với Brazil, Việt Nam.
Cà phê luôn là một phần trong mỗi câu chuyện về Colombia, sự ra đời của loại
cây đặc biệt này đã định hình nên các vùng đất, dân số, nền kinh tế và văn hóa của
đất nước. Tại Colombia càng ngày có càng nhiều nhà sản xuất cà phê đặc sản đời –
như một thông điệp được báo trước bởi Juan Valdez nhưng vẫn là xu hướng chưa mai
một trong ngành cà phê hiện đại.
Ngày nay Colombia có khoảng 600.000 trang trại gia đinh, hầu hết chúng nhỏ
hơn 5ha và tọa lạc các ngọn đồi ở độ cao 1.200 đến 2.000 mét trên mực nước biển.
Năm 2015 Colombia là nước sản xuất cà phê thứ 3 thế giới theo thống kê bởi
CafeImports năm 2017.
Dân số tham gia vào ngành cà phê gần là 600.000 người với quy mô trang trại
trung bình từ 1 đến 5 ha, sản lượng xuất khẩu hàng năm là từ 11 đến 13 triệu bao (60
kg/bao). Các khu vực đang canh tác cà phê của Colombia chủ yếu là Antioquia,
Boyacá, Cauca, Casanare, Huila, Magdalena, Meta, Risaralda, Santander, Tolima,
Valle… với giống cà phê phổ biến là giống Bourbon, Castillo, Catimor, Caturra,
Colombia, Typica với hầu hết phương pháp chế biến là chế biến ướt - một trong
những truyền thống bắt rễ sâu trong ngành cà phê Colombia (còn được gọi
29
là Beneficio). Nhìn chung quá trình này cũng không quá khác biệt với trình tự chế
biến ướt tại một số quốc gia khác. Việc thu hoạch bắt đầu vào buổi sáng, và hạt cà
phê được xay xát ngay sau đó, quá trình lên men trong bể nước từ 12-18h. Khi lên
men hoàn tất, cà phê được cào rữa chất nhầy và phơi khô.
Trong nhiều năm, Colombia là một trong những nước sản xuất cà phê lớn thứ
2 thế giới chỉ sau Brazil – nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới. Cho tới năm 2000,
Colombia đã bị Việt Nam vượt qua, và sau đó bệnh rỉ sắt trên cây cà phê vào năm 2008
đã khiến vị thế giảm đáng kể. Hiện nay, Colombia đang nằm trong top 5 sản phẩm cà
phê với khoảng 10 triệu bao mỗi năm.
Liên đoàn Cà phê Colombia – FNC (The National Federation of Coffee
Growers) là một tổ chức phi lợi nhuận, được thành lập năm 1927 với tư cách là một
hợp tác xã kinh doanh nhằm thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu cà phê của Colombia.
Hiện nay FNC đã phát triển một cơ sở hạ tầng liên kết sâu rộng nhằm thúc đẩy sự
hợp tác và đi đến các thống nhất chung nhằm giải quyết lợi ích của người trồng cà
phê và gia đình họ. Bằng cách này, người trồng cà phê Colombia đã đạt được sự đồng
thuận cần thiết để phát triển các chương trình và hành động vì lợi ích của chính họ.
Thứ nhất, quan trọng hơn cả là FNC sẽ đảm bảo một mức giá có lợi cho người trồng
cà phê Colombia thông qua việc xâm nhập vào thị trường, tìm kiếm thị trường tiềm
năng, bảo Doanh nghiệp nguồn gốc cho cà phê Colombia (chứng nhận rằng đây là cà
phê Colombia 100%). Qua đó FNC trở thành một chỗ dựa vững chắc cho người trồng
cà phê Colombia trước các biến động của thị trường quốc tế, đảm bảo lợi nhuận cho
nông dân. Thứ hai, thông qua bộ phận nghiên cứu kỹ thuật FNC sẽ hỗ trợ người trồng
cà phê Colombia về nghiên cứu và phát triển để tối ưu hóa chi phí sản xuất và nâng
cao chất lượng cà phê thông qua hoạt động khuyến nông như quản lý đất, kỹ thuật
chế biến, lựa chọn giống, ngăn ngừa và điều trị bệnh trên cây cà phê.., và các khía
cạnh nông nghiệp khác để canh tác cà phê có hiệu quả. Để phân biệt “Cà phê
Colombia 100%” với cà phê đã được trộn với từ các nước khác, năm 1981 FNC đã
xây dựng khái niệm thương hiệu về Juan Valdez. Hình ảnh một nông dân ở vùng
nông thôn đi cùng một con lừa tải cà phê trên lưng xuất hiện lần đầu tiên trên TV vào
năm 1983. Juan Valdez đại diện cho chương trình ‘Cà phê Colombia 100%’. Juan
Valdez chỉ là một nhân vật hư cấu vào những năm 50, khi làn sóng cà phê thứ hai đang
30
thịnh hành. Song, những gì mà Juan Valdez truyền bá đã hiện thực hóa từng yếu tố
một trong ngành cà phê đặc sản – Đó là sự tập trung tiềm năng chất lượng vào nguồn
gốc, tác động của phương thức sản xuất trong chuỗi hành trình từ hạt đến cốc. Hơn
nữa, Juan Valdez đã gieo hạt giống cho ý tưởng rằng “cà phê” không chỉ có “hương
vị như cà phê” – Mà thực tế, đó là một loại trái cây và rằng mỗi giống loài cà phê
được canh tác tại những vùng khác nhau thực sự có hương vị khác nhau. Đến cuối
những năm 1970, ngành cà phê toàn cầu đã chú ý đến điều này. Colombia đã trở thành
một nhà lãnh đạo trong tiếp thị và truyền giáo về cà phê trên trường quốc tế.
Colombia là một bài học thực tiễn cho nhiều quốc gia sản xuất cà phê trên
thế giới. Điều kiện tự nhiên kết hợp với vị trí địa lí, thích hợp cho sự sinh trưởng của
cây cà phê chè (hầu hết sản phẩm được chế biến ướt nên có giá trị cao trên thị trường).
Cùng sự phối hợp chặt chẽ của FNC đã giúp đất nước tạo dựng hình ảnh cây cà phê
Colombia trên trường quốc tế cùng những hỗ trợ thiết thực cho người trồng cà phê.
1.4.1.3 Ethiopia:
Ethiopia là nước trồng cà phê lớn thứ 5 trên thế giới theo thống kê
bởi CafeImports vào năm 2017.Dân số tham gia vào ngành cà phê là gần 700.000
người với quy mô trang trại trung bình từ1 ha trở xuống, sản lượng xuất khẩu hàng
năm là 3,5 triệu bao (60 kg/bao). Các khu vực đang canh tác cà phê của Ethiopia là
Sidama (bao gồm Yirgacheffe), Harrar, Limu, Djimma, Lekeemi, Wallega, Gimbi
với giống cà phê phổ biến: các giống bản địa của người Nigeria bao gồm Kudhome,
Gesha, Djimma … và phương pháp chế biến là chế biến ướt & chế biến khô
Hầu hết cà phê Ethiopia được canh tác trên các khu vườn nhỏ lẻ, sau đó được
sơ chế tại các “hợp tác xã chế biến” (co-op washing station) – hay còn gọi
là Microregion với nhân công làm thuê, sẽ chế biến, lựa chọn và xay sát, cà phê cho
một khu vực. Nông dân sẽ mang cà phê đến đến trạm chế biến gần nhất, gộp chung
với lô cà phê của các nông dân khác để được cân & chế biến trước khi xuất khẩu.
Bằng cách này cà phê có nhiều khả năng truy xuất nguồn gốc ở cấp độ nhà nông trại
và được bán dễ dàng hơn.
Vốn dĩ Etthiopia đã quá nổi tiếng trong cà phê thế giới khi được xem là nơi
sinh ra của cà phê với các giống Arabica bản địa. Nguồn gen quý và sự đa dạng sinh
học đã làm nên danh tiếng cũng như hương vị đặc thù cho mỗi loại cà phê bản địa
31
(single origin coffee) từ Ethiopia. Do đó Ethiopia có đến 2 cái tên trong top 10
loại Specialty Coffee hàng đầu thế giới, nên khi nhắc đến Cà phê Ethiopia người ta
đều nhắc đến vùng cà phê Harar lâu đời và tuyệt nhất là cà phê Yirgacheffes. Thị trấn
Yirgacheffe (Irgachefe) nằm ở vùng Sidamo của Ethiopia ở độ cao khoảng 1.900 mét
so với mực nước biển. Độ cao không hề “khiêm tốn” của vùng này đã cho phép cây
cà phê đạt mức sinh trưởng tối ưu Strictly High Grown (SHG). Điều kiện giúp cây cà
phê phát triển chậm, kéo dài thời gian nuôi quả để tích lũy các chất dinh dưỡng cho
hạt cà phê và phát triển hương vị tốt nhất).
Nông dân tại thị trấn cà phê Yirgacheffe thường là thành viên của Liên minh Hợp
tác xã Nông dân Yirgacheffe (YCFCU), bao gồm 23 hợp tác xã thành viên khác nhau,
bao gồm hơn 40.000 nông dân. Các thành viên của YCFCU được miễn trừ khỏi
Ethiopian Coffee Exchange (ECX), cho phép họ không cần thông qua sở giao dịch và
nhận được phí bảo hiểm từ các chứng nhận thương mại như Fair trade coffee (cà phê
thương mại bình đẳng) và Organic coffee (chứng nhận cà phê hữu cơ)..
Một số nông dân Yirgacheffe cũng là thành viên của Liên minh Hợp tác xã
Nông dân trồng cà phê Oromia (OCFCU), thường bao gồm các nông dân nhỏ từ vùng
Oromia của Ethiopia. Hợp tác xã sẽ thống nhất các kỹ thuật xử lý, phân loại và bán
hàng cho phép cà phê tiếp cận thị trường hiệu quả hơn và kiểm soát nhiều hơn đối
với danh tiếng của cà phê Ethiopia. OCFCU còn giúp ổn định kinh tế cho nông dân
bằng cách dàn trải các khoản thanh toán trong suốt cả năm.
Là một quốc gia danh tiếng lâu đời về cà phê cũng như có vị thế trên trường
quốc tế, ngành cà phê Ethiopia có những hướng phát triển rất đột phá, mà tiêu biểu là
sở giao dịch ECX (The Ethiopian Commodity Exchange). ECX được thành lập bởi
chính phủ Ethiopia vào tháng tư năm 2008 với mục đích dân chủ hóa quyền buôn bán
trên thị trường cho nông dân trồng cà phê, đậu, ngô, lúa mì, và một số hàng hóa khác.
EXC thực chất là một “chợ” giao dịch hàng hóa, nơi mà mọi người nông dân đều có
thể bán sản phẩm của mình trực tiếp đến người mua nước ngoài, không thông qua
trung gian. Và người mua được hưởng lợi từ một mạng lưới cung cấp an toàn, tin cậy
nhanh chóng. Trước khi có EXC thị trường cà phê Ethiopia mang tính rủi ro rất cao,
việc buôn bán thông qua các thương lái, người bán và người mua chủ yếu giao dịch
với những người mà họ biết để tránh nguy cơ vỡ nợ, lừa đảo. Với 95% người trồng
32
cà phê Ethiopia thuộc diện sản xuất nhỏ lẽ nên khó tiếp cận thông tin thị trường, bị
ép giá.. Vì vậy thực sự có rất ít sản phẩm cà phê Ethiopia nói riêng, và các sản phẩm
nông nghiệp nói chung tiếp cận thị trường toàn cầu. Từ khi EXC ra đời đã trở thành
một thị trường nơi người mua và người bán đến với nhau để thương mại, yên tâm về
chất lượng, giao hàng và thanh toán.
1.4.2 Kinh nghiệm trong nước
Là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, mỗi năm kim
ngạch xuất khẩu của mặt hàng cà phê thu về hàng tỷ USD cho đất nước. Song để mặt
hàng này mang lại giá trị gia tăng cao thì cần xây dựng thương hiệu một cách bài bản,
gắn với chỉ dẫn địa lý nhằm phát huy tối đa tiềm năng và lợi thế của mặt hàng "tỷ
đô". Thời gian qua, nhiều chính sách, giải pháp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ, các địa phương đã được triển khai để phát
triển chuỗi giá trị gia tăng cho các sản phẩm cà phê có chỉ dẫn địa lý. Hiện nay, Việt
Nam đã có hai chỉ dẫn địa lý đối với sản phẩm cà phê là "Cà phê Buôn Ma Thuột" và
chỉ dẫn địa lý "Cà phê Sơn La".
Nằm trên vùng núi phía Tây Bắc, Sơn La được biết đến là vùng đất của cà phê
Arabica. Cây cà phê được người Pháp đưa vào trồng ở Sơn La từ đầu thế kỷ 20, trải
qua nhiều giai đoạn phát triển thăng trầm, đến nay Sơn La đã có gần 20.000 ha cà
phê, sản lượng hàng năm đạt 30.000 tấn. Đây là nguồn thu nhập chính của hàng nghìn
Doanh nghiệp nông dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Mặc dù, cà phê Sơn
La đã được xuất khẩu đến nhiều quốc gia trên thế giới như Nga, Mỹ, Nhật, EU và
nhiều thị trường khác, nhưng 95% sản phẩm xuất khẩu dưới dạng cà phê nhân, giá trị
gia tăng thấp và chưa có thương hiệu. Do đó, những năm gần đây, vấn đề phát triển
thương hiệu cho cà phê, đặt biệt phát triển chuỗi giá trị cho cà phê có CDĐL Sơn La
đã được tỉnh Sơn La quan tâm với nhiều giải pháp.
Với hướng tiếp cận phù hợp từ khâu quy hoạch, lựa chọn sản phẩm bảo Doanh
nghiệp và đặc biệt là thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn
vào quá trình bảo Doanh nghiệp, phát triển thương mại sản phẩm theo chuỗi giá trị
gắn với thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, sản phẩm cà phê Sơn La đã được cấp văn bằng
bảo Doanh nghiệp chỉ dẫn địa lý với 3 loại sản phẩm: cà phê nhân – cà phê rang – cà
phê bột.
Với chủ trương phát triển thương hiệu gắn với doanh nghiệp, tỉnh Sơn La đã
33
khuyến khích được các doanh nghiệp xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, thúc đẩy liên
kết hợp đồng giữa doanh nghiệp với nông dân, hợp tác xã trong việc áp dụng các tiến bộ
trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Các doanh nghiệp cũng phải tuân thủ các tiêu
chuẩn chất lượng trong xuất khẩu như bộ tiêu chuẩn cà phê 4C, UTZ… từng bước thúc
đẩy xuất khẩu sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ ra thị trường, xây dựng sản phẩm “product
of Vietnam” trên thị trường quốc tế. Với nỗ lực của doanh nghiệp và chính sách khuyến
khích đầu tư chế biến sâu các nông sản của tỉnh, hoạt động chế biến cà phê thành phẩm
cung cấp cho thị trường trong nước đã được đẩy mạnh trong 5 năm gần đây.
Tuy mới gia nhập thị trường sản phẩm chế biến, nhưng sản phẩm chế biến từ
cà phê Sơn La đã được người tiêu dùng đón nhận với hướng tiếp cận phù hợp bằng
việc đưa ra các sản phẩm cà phê nguyên chất dùng cho pha máy, pha phin truyền
thống và cà phê hòa tan tiện dụng. Theo ông Đặng Văn Thịnh, Giám đốc Công ty
TNHH cà phê Sơn La, hiện nay, cà phê Sơn La nói riêng đang xuất khẩu nhưng chưa
mang thương hiệu bởi cà phê Sơn La mới được công bố chỉ dẫn địa lý từ tháng
10/2017. Để thương hiệu cà phê Sơn La nói riêng có được chỗ đứng vững chắc trên
thị trường trong nước và quốc tế, tỉnh Sơn La cần tiếp tục có những chính sách và
giải pháp đồng bộ hơn trong thời gian tới, đặc biệt là vấn đề quảng bá, giới thiệu sản
phẩm nhằm nâng cao hình ảnh cà phê Sơn La trên thị trường, góp phần nâng cao giá
trị, thúc đẩy thị trường trong bối cảnh Hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA DOANH NGHIỆP
CÀ PHÊ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ BUÔN MA THUỘT
2.1 Thực trạng sản xuất cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột
2.1.1 Điều kiện đặc thù địa phương quyết định chất lượng cà phê Buôn Ma
Thuột:
Cà phê là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và mỗi năm
thu về hàng tỷ USD từ kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ hai thế
giới về xuất khẩu cà phê và dẫn đầu toàn cầu về cà phê Robusta[25].
Nói đến cà phê Robusta của Việt Nam là nói đến cao nguyên Buôn Ma Thuột,
tỉnh Đắk Lắk – đây là thiên đường của cây cà phê Robusta. Cao nguyên Buôn Ma
34
Thuột nằm ở trung tâm tỉnh Đắk Lắk, trải dài từ Bắc xuống Nam ở độ cao trung bình
từ 400m – 800 m so với mặt biển, địa hình tương đối bằng phẳng. Bề mặt của cao
nguyên Buôn Ma Thuột là sản phẩm của núi lửa phun trào phủ lên lớp đá phiến thạch,
mi ca và sa phiến thạch được phong hóa, tạo nên một lớp đất dày màu mỡ (đất đỏ
Ferrasols hay đất đỏ Bazan), chiếm khoảng 70% diện tích tự nhiên của vùng. Loạt
đất này có tầng đất dày, hàm lượng mùn cao, cấu trúc đất và tính chất cơ lý tốt, tạo
cho đất có độ thấm nước lớn, đồng thời hút ẩm và giữ ẩm tốt, làm tang khả năng giữ
nước và hấp thu dinh dưỡng; rất thích hơn với loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế
như cà phê, đặt biệt là nền đất lý tưởng cho phát triển cà phê Robusta. Khí hậu vùng
Buôn Ma Thuột mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên và chia
thành hai mùa rõ rệt: Mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, khí hậu
mát và lạnh với nhiệt độ trung bình từ 15-200C, độ ẩm thấp, thường có gió từ cấp 3
đến cấp 4. Độ ẩm trong không khí thấp trong mùa khô tạo cho cây cà phê có thời gian
ngủ nghỉ, phân hóa mầm hoa và khi được sẽ bung hoa đồng loạt. Đặc biệt từ tháng 9
đến tháng 12, thời kỳ hạt cà phê kết tinh chất khô chuẩn bị chín trái, biên độ dao động
nhiệt vào khoảng từ 11-17,50C, đây là một trong những điều kiện được xác định là
rất phù hợp đối với việc định hình chất lượng hạt cà phê và là một trong những yếu
tố cần thiết tạo nên hương vị cà phê Robusta ở Buôn Ma Thuột có tính đặc trưng,
thơm ngon hơn nhữn vùng khác; Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 với lượng mưa
bình bình từ 1.900-2.100mm, khí hậu ẩm và dịu mát với nhiệt độ trung bình từ 10-
150C, rất thuật lợi cho sinh trưởng quả của cây cà phê. Cả nước mặt và nước ngầm ở
Đắk Lắk đều tương đối phong phú với hệ thống sông chính quan trọng là sông
Sêrêpôk, riêng ở vùng trung tâm của cao nguyên Buôn Ma Thuột, trữ lượng nước
ngầm tiềm năng tại đây lên đến 143.000m2, chủ yếu ở độ sâu 15-25m.
Sự hội tụ lý tưởng các điều kiên tự nhiên đã tạo cho cao nguyên Buôn Ma Thuột
một vùng sinh thái đặc trưng, làm nên yếu tố khác biệt không chỉ thích hợp đối với quá
trình sinh trưởng của cây cà phê, mà còn quyết định chất lượng, hương vị đặc trưng của
hạt cà phê trong vùng địa danh Buôn Ma Thuột. Đó là lợi thế về tự nhiên không lặp lại ở
bất cứ một vùng địa danh nào trên lãnh thổ Việt Nam và sẽ quyết định ưu thế cạnh tranh
của cà phê vối Robusta nói riêng và cà phê Buôn Ma Thuột nói chung.
2.1.2 Nhu cầu phát triển cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột
35
Cà phê của tỉnh Đắk Lắk đã được xuất khẩu tới 60 nước và vùng lãnh thổ
trên thế giới. Các sản phẩm cà phê bền vững có chứng nhận đang được bán cao hơn
giá thông thường khoảng từ 10% đến 15%. Việc đăng ký bảo Doanh nghiệp chỉ dẫn
địa lý cà phê Buôn Ma Thuột là một cách để khai thác thị trường hàng hóa cấp cao,
nâng cao giá trị xuất khẩu của mặt hàng này. Trên thực tế thì thương hiệu chỉ dẫn địa
lý cà phê Buôn Ma Thuột đã có giá trị, cụ thể là: (1) Thương hiệu cà phê chỉ dẫn địa
lý Buôn Ma Thuột đã thắng kiện khi Công ty TNHH Cà phê Buôn Ma Thuột Quảng
Châu, Trung Quốc chiếm đoạt nhãn hiệu cà phê Buôn Ma Thuột; (2) Khi nhà nhập
khẩu mở thư tín dụng (LC) cho nhà xuất khẩu qua ngân hàng, thì trong các chứng từ
thanh toán quốc tế có giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (CO) (Chứng nhận xuất xứ
hàng hóa của một quốc gia, không ngẫu nhiên đồng nghĩa với quốc gia xuất khẩu
hàng hóa mà phải là quốc gia đã thực sự sản xuất, chế tạo ra hàng hóa đó) yêu cầu rất
rõ là cà phê Buôn Ma Thuột của Việt Nam.
Trong bối cảnh Hội nhập hiện nay, các thương hiệu cà phê Việt Nam đã và
đang phải đương đầu với các thương hiệu cà phê nước ngoài trên mọi lĩnh vực hàng
hóa và dịch vụ. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp cà phê Việt Nam nói chung và tỉnh
Đắk Lắk nói riêng phải có một cái nhìn chiến lược về xây dựng, phát triển, quảng bá
và bảo vệ thương hiệu ngay từ thị trường trong nước và nước ngoài. Bởi nếu không
bảo vệ nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý ở nước ngoài đồng nghĩa với nguy cơ mất thị trường
tại nhiều nước trên thế giới.
Chính vì vậy, Chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột cho cà phê nhân được bảo hộ tại
Việt Nam theo Quyết định số 806/QĐ-SHTT do Cục Sở hữu trí tuệ cấp số đăng bạ
0004 ngày 14/10/2005 là tài sản quốc gia do UBND tỉnh Đắk Lắk được ủy quyền
đứng tên. Cà phê Buôn Ma Thuột được xem là tài sản vô giá và là niềm tự hào của
Việt Nam vì Buôn Ma Thuột là thủ phủ của cà phê Việt Nam, nơi đã và đang trồng,
thu hoạch, chế biến và xuất khẩu cà phê với sản lượng chiếm tới hơn 50% tổng sản
lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước.
2.1.3 Tình hình sản xuất cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột:
Đặc tính sản phẩm cà phê nhân mang Chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột là: màu
xanh xám, xanh lục hoặc xám lục nhạt; kích thước dài 10-11mm, rộng 6-7 mm, dày
36
3-4 mm; khi rang đến độ chín thích hợp thì có hương thơm đặc trưng của cà phê, vị
nước cà phê đắng dịu, nhẹ, không chát; hàm lượng cà phê in từ 2-2,2% chất khô.
Theo UBND tỉnh Đắk Lắk, vùng địa danh cà phê có tổng diện tích 107.505
ha, chiếm gần ½ tổng diện tích cà phê của tỉnh (208.109 ha), nằm tại các huyện Cư
M’gar, Ea H’leo, Krômng Ana, Cư Kuin, Krông Búk, Krông Pắk, Krông Năng và
Buôn Ma Thuột. Cà phê mang CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột được sản xuất và chế
biến theo quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hoạch và chế biến do UBND tỉnh
Đắk Lắk ban hành (Quyết định số 674/QĐ-UB ngày 20/4/2005). Bản quy định này
dựa trên quy trình sản xuất và chế biến cà phê vối do Bộ NN&PTNT ban hành [26].
Đặc điểm của quy trình là hướng đến sản xuất cà phê bền vững, thực hành nông
nghiệp tốt. Tuy nhiên, cũng theo đánh giá của UBND tỉnh Đắk Lắk, việc xuất khẩu
sản lượng cà phê nhân có CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột vẫn còn quá ít so với yêu
cầu, trong khi đó, mỗi niên vụ, tỉnh Đắk Lắk luôn đạt sản lượng cà phê nhân Robusta
từ 450.000 tấn trở lên.
Mặc dù cuối năm 2005, cà phê Buôn Ma Thuột đã được Cục Sở hữu trí tuệ
cấp đăng bạ tên gọi xuất xứ hàng hóa, nhưng việc quản lý và phát triển thương hiệu
này sau đó vẫn còn nằm trên giấy. Do đó, cà phê Buôn Ma Thuột khi xuất khẩu đã bị
đánh đồng với cà phê xuất xứ từ nhiều vùng miền khác, không khai thác được những
lợi thế về chỉ dẫn địa lý. Cho đến đầu năm 2008, một dự án hỗ trợ quản lý và phát
triển CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột do Sở Khoa học - Công nghệ (KH-CN) Đắk Lắk
chủ trì mới được chính thức xây dựng. Từ tháng 1.2008 đến tháng 6.2010, dự án đã
thiết lập hệ thống tổ chức quản lý chất lượng và thương mại nhằm phát triển, quảng
bá chỉ dẫn địa lý, tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm cà phê mang CDĐL Buôn Ma
Thuột. Mô hình quản lý chỉ dẫn địa lý và hệ thống quản lý nội bộ cho sản phẩm cà
phê nhân Buôn Ma Thuột được thực hiện thử nghiệm đối với 4 doanh nghiệp trong
vùng địa danh với khoảng 5.000 ha cà phê.
Hình 3.1. Logo cà phê Buôn Ma Thuột
37
Nguồn: Hiệp Hội cà phê Buôn Ma Thuột
Ngày 30 tháng 6 năm 2010, UBDN tỉnh Đắk Lắk có Quyết định số 18/2010/QĐ-
UBND về việc ban hành “Quy chế quản lý, sử dụng chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột
đối với sản phẩm cà phê nhân Robusta”. Nhờ đó, cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột từng bước
khẳng định được giá trị và chỗ đứng trên thị trường thế giới từ chỗ chỉ chiếm 4% năm
2005 lên 15% tổng lượng cà phê xuất khẩu toàn cầu năm 2015.
Tính đến năm 2016, tổng diện tích sản xuất cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột là
15.068,52 ha và sản lượng đăng ký là 46.603 tấn. Tuy nhiên đến năm 2017, tổng diện tích
được cấp quyền giảm xuống còn 12.400,4 ha và sản lượng đăng ký cùng giảm còn
40.605,83 tấn do một đơn vị là công ty CP cà phê Trung Nguyên không tiếp tục sử dụng
CDĐL. Hơn thế nữa, trong niên vụ 2016/2017, quá trình sản xuất cà phê gặp phải khó
khăn nhất định như biến đổi khí hậu, hiện tượng En Nino làm ảnh hưởng đến năng suất và
chất lượng cà phê. Mưa nhiều vào thời kỳ hoa cà phê nở nên tỷ lệ đậu trái thấp, vào thời
kỳ nuôi quả lại xảy ra tình trạng thiếu nước tưới nên trái nhỏ và quả thưa nên năng xuất
thấp so với niên vụ trước. Đến niên vụ 2017/2018, quá trình sản xuất cà phê CDĐL Buôn
Ma Thuột tương đối thuận lợi hơn. Tổng diện tích đăng lý tăng hơn 1.000 ha, lên đến
13.594,10 ha với 8.979 hộ và sản lượng là 44.605,80 tấn. Đến tháng 10, 2019, tổng diện
tích cà phê nhân CDĐL Buôn Ma Thuột là 15.612,70 ha, với sản lượng đăng ký là 48.691
tấn, tang hơn so với năm 2018.
Bảng 2.1. Diện tích cà phê nhân CDĐL Buôn Ma Thuột
Đơn vị: ha
2005 2008-2010 2016 2017 2018 2019 Năm
107.505* 5.000 15.068,52 12.400,4 13.594,10 15.612,70 Diện tích
Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ các báo cáo tổng hợp kiểm tra các đơn vị
được cấp quyền sử dụng CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột giai đoạn 2008-2010, các
năm 2016, 2017 và 2018 của Hiệp hội cà phê Buôn Ma Thuột tỉnh Đắk Lắk.
38
Chú thích: * Tổng diện tích CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột được Cục Sở hữu
trí tuệ cấp đăng bạ năm 2005
Có được thành quả này là do tất cả các đơn vị được cấp quyền sử dựng CDĐL
Buôn Ma Thuột đều chủ động được nguồn nước, tích trữ nước ao hồ của công ty và
có lịch trình tưới 4 đợt/năm, chủ yếu sử dụng phương pháp tưới phun mưa để tiết
kiệm và đảm bảo nguồn nước cho các vùng trồng cà phê. Hơn thế nữa, các đơn vị đều
đề cao tập huấn về quy trình trồng và chăm sóc vườn cây cho nông hộ như: vệ sinh
thường xuyên, cành là lá khố được đưa ra khỏi bờ lô đết đốt, kiểm tra thực nghiệm
tại các vùng nguyên liệu cho thấy tỷ lệ sâu bệnh hại không đáng kể, chỉ diễn ra cục
bộ và được các đơn vị xử lý kịp thời tránh lây lan trên diện rộng làm ảnh hưởng đến
năng suất và chất lượng cà phê như sử dụng vỏ cà phên ủ với phân chuồng và men vi
sinh làm phân bón cho cây cà phên và thuốc bảo vệ thực vật sinh hoạt để bảo vệ sức
khỏe. Tất cả công đoạn đều được ghi chép đầy đủ và sổ nhật ký.
Để đảm bảo năng suất và chất lượng cà phê nhân, thu hoạch thành nhiều đợt
khác nhau (từ 2 đến 3 đợt) để đảm bảo tỷ lệ quản chín từ 80-90%. Cà phê quả tươi
sau khi thu hoạch được nông hộ phơi trên sân xi măng hoặc sấy. Cà phê quả khô và
cà phê thóc đạt đến tỷ lệ khô nhất định được đem xát, được đóng vào bao và bảo quản
trong khô đảm bảo tiêu chuẩn, không tái sử dụng các bao đựng phân hóa học để đựng
cà phê nhân. Có thể khẳng định rằng tất cả các loại cà phên nhân được chế biến ướt
và chế biến khô đều đảm bảo yêu cầu về kỹ thuật và chất lượng của cà phê CDĐL
Buôn Ma Thuột.
Tính lũy kế từ năm 2013 đến năm 2018, cà phê nhân mang CDĐL Buôn Ma
Thuột đã xuất khẩu được khoản 22.200 tấn, với giá trị gia tăng thêm khoảng 3-5%.
Trong 3 niên vụ 2015/2016 đến 2017/2018, cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột cung ứng
cho thị trường nội địa để chế biến cà phê rang xay và hòa tan 5.050 tấn. Sản lượng cà
phê rang xay mang logo cà phê Buôn Ma Thuột được thương mại trên thị trường nội
địa khoảng 250 tấn, với giá trị tăng thêm khoảng 3-5%. Sản phẩm cà phê rang xay có
thương hiệu Buôn Ma Thuột đã được tiếp cận với người tiêu dùng, nguồn gốc nguyên
liệu được đảm bảo, góp phần tiêu thụ sản phẩm cà phê nhân CDĐL, tăng cường nhận
diện thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột của người tiêu dùng sau cùng.
39
Ngoài ra, theo số liệu thống kê trên toàn tỉnh, tổng sản lượng xuất khẩu cà phê hòa
tan nguyên chất lần lượt qua các niên vụ 2016/2017 là 4.624 tấn tương đương 12.022 tấn
cà phê nhân; niên vụ 2017/2018 là 4.528 tấn tương đương 11.773 tấn cà phê nhân; niên vụ
2018/2019 là 5.000 tấn tương đương 13.000 tấn cà phê nhân
2.2. Thực trạng phát triển doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột
2.2.1 Cấp quyền sử dụng CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột cho doanh nghiệp
Từ khi Cục Sở hữu trí tuệ cấp đăng bạ CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột vào năm
2005 cho đến năm 2010, mới chỉ có 04 doanh nghiệp thực hiện mô hình quản lý chỉ dẫn
địa lý và hệ thống quản lý nội bộ cho sản phẩm cà phê nhân Buôn Ma Thuột.
Đến năm 2016, đã có 10 doanh nghiệp cà phê được cấp quyền sử dụng CDĐL
Buôn Ma Thuột, trong đó có 05 đơn vị chuyên xuất khẩu cà phê nhân bao gồm: Công
ty TNHH MTV cà phê Ea Pô k, Công ty TNHH MTV cà phê Thắng Lợi, Công ty
TNHH MTV cà phê Phước An, Công ty TNHH XNK 2/9 Đắk Lắk và Công ty TNHH
Dakman Việt Nam; 03 đơn vị chuyên mua bán cà phê nhân xô nội địa là Công ty
TNHH MTV cà phê 15, Công ty TNHH MTV cà phê Buôn Hồ và Công ty TNHH
MTV cà phê ca cao tháng 10; và 02 đơn vị sản xuất cà phê nhân dùng để chế biến cà
phê rang xay là Công ty cổ phần ĐTXNK Đắk Lắk và Công ty cổ phần cà phê Trung
Nguyên.
Trong năm 2017, Sở KH & CN và Hiệp hội cà phê Buôn Ma Thuột thẩm định
và cấp quyền sử dụng CDĐL cho 03 đơn vị mới là Công ty cổ phần XNK Đức
Nguyên, HTX NN DV Ea Tul và Công ty TNHH TM Phúc Minh và có 01 đơn vị là
Công ty cổ phần cà phê Trung Nguyên không tiếp tục sử dụng CDĐL.
Trong năm 2019, Sở KH&CN cấp Giấy chững nhận quyền sử dụng CDĐL
Buôn Ma Thuột (sửa đổi, bổ sung) cho 02 doanh nghiệm là Công ty cổ phần cà phê
Ea Pốk và Công ty cổ phần cà phê Phước An. Như vậy đến tháng 10/2019, Sở KH &
CN đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng CDĐL Buôn Ma Thuột đối với sản phẩm
cà phê nhân Robusta cho 12 doanh nghiệp với tổng diện tích 15.612,70 ha, sản lượng
đăng ký là 48.691 tấn/năm. Trong 12 doanh nghiệp đã được cấp quyền sử dụng CDĐL
Buôn Ma Thuột có 05 doanh nghiệp chuyên xuất khẩu cà phê nhân bao gồm: Công
ty cổ phần cà phê Ea Pốk, Công ty TNHH TMV cà phê Thắng Lợi, Công ty cổ phần
cà phê Phước An, Công ty TNHH Dakman Việt Nam và Công ty TNHH MTV XNK
40
2/9 Đắk Lắk; 07 đơn vị chuyên mua bán cà phê nhân xô nội địa là Công ty TNHH
MTV cà phê 15, Công ty TNHH MTV cà phê Buôn Hồ, Công ty TNHH TM Phúc
Minh, HTX NN DV Ea Tu, Công ty cổ phần ĐT XNK DakLak thì trong đó có 04
đơn vị sản xuất cà phê nhân dùng để chế biến cà phê rang xay là Công ty cổ phần ĐT
XNK Daklak, Công ty TNHH MTV XNK 2/9 Đắk Lắk, Công ty TNHH MTV cà phê
15 và HTX NN DV Ea Tu.
Các doanh nghiệp có vùng nguyên liệu sản xuất như: Công ty TNHH MTV cà
phê 15, Công ty TNHH TMV cà phê Thắng Lợi, Công ty cổ phần cà phê Ea Pốk,
Công ty TNHH MTV cà phê Buôn Hồ, Công ty cổ phần cà phê Phước An sản xuất
theo kế hoạch giao từ trên xuống các đội, tổ nên việc sản xuất ở các vườn tương đối
giống nhau, việc ghi sổ nhật ký nông hộ được triển khai đến các đội thì vùng nguyên
liệu ổ định, chuyên sản xuất cà phê nhân chất lượng cao (chế biến ướt) với thị thường
tiêu thụ, khách hàng truyền thống nên chủ động được nguồn hàng và thị trường đầu
ra nên ít chịu tác động của giá thế giới.
Các doanh nghiệp không có vùng nguyên liệu, liên kết với các hội như: Công ty
TNHH MTV XNK 2/9 Đắk Lắk, Công ty TNHH Dakman Việt Nam, Công ty cổ phần ĐT
XNK Daklak, là Công ty cổ phần XNK Đức Nguyên, Công ty TNHH TM Phúc Minh, HTX
NN DV Ea Tu sản xuất theo nhóm hộ nên ghi sổ nhật ký nông hộ triển khai đến từng nông
hộ thì chịu tác động rất nhiều của các yếu tố trong việc sản xuất kinh doanh.
2.2.2 Hệ thống quản lý nội bộ của doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột
Để đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch trong quá trình sản xuất và kinh doanh,
các doanh nghiệp đã hình thành hệ thống quản lý nội bộ từ công ty đến nông hộ sản
xuất. Công tác sản xuất cùng như kinh doanh diễn ra theo đúng kế hoạch và có sự chỉ
đạo tập trung.
Trong 12 doanh nghiệp được cấp quyền sử dụng CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột, có
07 doanh nghiệp tham gia sản xuất có chứng nhận Utz với tổng số 5.637 nông hộ, tổng diện
tích là 6.243,35 ha và tổng sản lượng là 19.912 tấn, tổng sản lượng thương mại là 9.843,2
tấn chiếm 49,43% so với tổng sản lượng đăng ký, với giá tăng thêm từ 200-440đ/kg so với
giá thị trường; 04 doanh nghiệp tham gia sản xuất cà phê có chứng nhận 4C với 6.686 nông
hộ, tổng diện tích 8.775,9ha, tổng sản lượng 32.739,62 tấn và tổng sản lượng thương mại
16.973,74 tấn chiếm 51,84% so với tổng sản lượng đăng lý, với giá tăng thêm từ 150-
41
200đ/kg so với giá thị trường; 03 doanh nghiệp sản xuất cà phê có chứng nhận RFA với diện
tích 5.123 ha, 2.771 nông hộ tham gia với tổng sản lượng đăng ký 12.719 tấn và tổng sản
lượng thương mại 2.000 tấn chiếm 15,72% so với sản lượng đăng ký với giá tăng thêm
khoảng 300-400đ/kg so với giá thị trường.
Như vậy, 12 doanh nghiệp được cấp quyền sử dụng CDĐL Buôn Ma Thuột cho
sản phẩm cà phê nhân đã xây dựng hệ thống quản lý nội bộ, trong đó 09 doanh nghiệp
có hệ thống quản lý cùng với hệ thống quản lý với các loại chứng nhận khác (Utz, 4C,
FRA, …) và 03 đơn vị có hệ thống quản lý độc lập (chi tiết xem Bảng 3.2).
Bảng 2.2. Phân loại hệ thống quản lý nội bộ của các doanh nghiệp cà phê
CDĐL Buôn Ma Thuột
STT STT Doanh nghiệp có hệ thống quản lý nội bộ CDĐL Buôn Ma Thuột
1. 1. Doanh nghiệp có cùng hệ thống quản lý nội bộ CDĐL Buôn Ma Thuột với các loại chứng nhận khác Công ty TNHH MTV XNK 2/9 Đắk Lắk
2. 2. Công ty TNHH Dakman Việt Nam Công ty TNHH MTV cà phê ca cao tháng 10 Công ty cổ phần XNK Đức Nguyên
3. Công ty cổ phần ĐT XNK Daklak
3. Công ty cổ phần cà phê Ea Pốk 4. Công ty cổ phần cà phê Phước An
5.
6. Công ty TNHH TMV cà phê Thắng Lợi Công ty TNHH MTV cà phê Buôn Hồ
7. Công ty TNHH MTV cà phê 15 8. Công ty TNHH TM Phúc Minh 9. HTX NN DV Ea Tu
Nguồn: Hiệp hội Cà phê Buôn Ma Thuột, Báo cáo tình hình hoạt động 6 tháng
cuối năm 2018 và 6 tháng đầu năm 2019 và phương hướng hoạt động 6 tháng cuối
năm 2019 của Hiệp hội Cà phê Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk.
Ngoài ra, để nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột
tham gia thị trường cà phê đặc sản, Công ty TNHH MTV XNK 2/9 Đắk Lắk đã triển
khai sản xuất cà phê “Fine Robusta Buôn Ma Thuột” tại Hợp tác xã Ea Tan, huyện
Krông Năng với sản lượng hàng năm khoảng 30 tấn, xuất khẩu khoảng 15 tấn với giá
tăng thêm khoảng 40% so với với giá thị trường và người nông dân được công ty trả
với giá cộng thêm khoảng 10.000đ/kg. Đây là hướng đi mới nhằm nâng cao giá trị
trường thương hiệu cho cà phê nhân mang CDĐL Buôn Ma Thuột.
42
2.2.3 Đăng ký bảo hộ quốc tế thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột
Chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột (Buon Ma Thuot Coffee) đã được bảo
hộ tại 12 quốc gia và vùng lãnh thổ dưới dạng chỉ dẫn địa lý, tên gọi xuất xứ hàng
hóa, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể: Vùng lãnh thổ Bennelux (Bỉ, Hà Lan,
Luxambua), Tây Ban Nha, Đức, Singapore, Trung Quốc, Thái Lan, Canada, Nga,
Pháp và Ý. Hiện nay tỉnh đang phối hợp với đoàn chuyên gia của dự án EU-Mutrap
đê xây dựng hô sơ đăng ký bảo hộ Chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột vào EU.
Trong Hiệp định thương mại tự do EU-VN, trong số 38 nông sản phẩm của
VN được bảo Doanh nghiệp dưới hình thức CDĐL tại EU có “Buôn Ma Thuột
Coffee”, dự kiến bắt đầu có hiệu lực từ 2018. Tuy nhiên tất cả các CDĐL này đều
phải hoàn thiện hồ sơ đăng ký và vận hành trong thực tế theo những quy định của
EU. Chỉ dẫn địa lý “Buôn Ma Thuột Coffee” được lựa chọn hỗ trợ đề xúc tiến quá
trình này. Theo đó sẽ xây dựng lại hồ sơ đăng ký bảo hộ, mở rộng phạm vi bảo hộ,
củng cô vận hành hệ thống kiểm soát, chứng nhận chất lượng là trong số nhiều công
việc chủ yếu phải tích cực triển khai trong các năm tới để xây dựng hồ sơ đăng ký
bảo hộ Chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột vào EU.
Để xây dựng hồ sơ đăng ký bảo hộ và mở rộng phạm vi đăng ký bảo hộ CDĐL
Buôn Ma Thuột, Cục Sở hữu trí tuệ đã đưa nội dung này vào danh mục dự án và tuyến
chọn đơn vị chủ trì thực hiện (nguồn kinh phí Trung ương). Đến nay đã chọn được
Trung tâm phát triển nông thôn (Viện chính sách và chiến lược phát triển nông thôn)
là đơn vị chủ trì thực hiện. Dự án này thực hiện trong 24 tháng tính từ tháng 10/2017
đến tháng 10/2019.
Cuộc thi “Cà phê đặc sản Việt Nam 2019” theo mô hình tổ chức cuộc thi của quốc
tế, là sự kiện mới và trọng tâm tại Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 7 năm 2019,
Hiệp Hội cà phê Buôn Ma Thuột được ƯBND tỉnh Đắk Lắk giao chủ trì thực hiện,
nguồn kinh phí xã Hội hóa.
Kết quả chung cuộc, đối với cà phê nhân Robusta, trong 18 lô sản phẩm cà phê
nhân Robusta đạt tiêu chuẩn đặc sản, có 13 lô sản phẩm của 7 đơn vị thuộc vùng
CDĐL Buôn Ma Thuột.
2.2.4 Các tác nhân tham gia trực tiếp chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê
CDĐL Buôn Ma Thuột.
43
1) Hộ nông dân tr00ồng cà phê: Đây là tác nhân đầu tiên tham gia chuỗi.
Hộ nông dân mua đầu vào là giống, vật tư nông nghiệp, phân bón... để tiến hành sản
xuất cà phê, thuê lao động và làm các công việc tưới tiêu chăm sóc cà phê, hái cà phê,
phơi cà phê rồi bán cho thương hoặc các cơ sở thu gom, sơ chế, một phần nhỏ bán
cho các cơ sở chế biến, hoặc bán cho người tiêu dùng nội địa (tại địa phương hoặc
trên cả nước).
Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy hộ nông dân trồng cà phê CDĐL Buôn
Ma Thuột thường canh tác trên quy mô nhỏ (các hộ có quy mô canh tác từ 0,5ha-
1,0ha chiếm 49,6%, từ 1,0 ha đến 2,0 ha chiếm 32,9%, số hộ canh tác từ 2-3 ha chỉ
chiếm 1,1%, còn lại là dưới 0,5ha), cà phê có tuổi vườn từ trên 20 năm chiếm tới
49,1% và phần lớn các Hộ nông dân này đều được tập huấn thường xuyên về kỹ thuật
chọn giống, làm cỏ, bón phân, tưới nước, bảo vệ thực vật, chăm sóc cây trồng theo
các tiêu chuẩn CDĐL và một số tiêu chí khác như organic, 4C, 4P, Global.... Theo ý
kiến của các Hộ nông dân trồng cà phê CDĐL, chi phí đầu vào trong sản xuất cà phê
trong 3 năm 2016-2018 có xu hướng tăng lên. Tính theo thang đo Likert (5 cấp độ:
rất thuận lợi, thuận lợi, bình thường, khó khăn, rất khó khăn), các Hộ nông dân trồng
cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột đang gặp phải những khó khăn và rất khó khănvề điều
kiện thời tiết (64,8 trong số người trả lời), thiên tai dịch bệnh (82,9%), cà phê già cỗi
(42,9%), giá bán (83,4%), nguồn vốn đầu tư (100%). So với Hộ không thực hiện đăng
ký CDĐL, có đến trên 50% các Hộ thực hiện đăng ký CDĐL cho rằng họ không gặp
thuận lợi gì hơn so với các Hộ gia đình không đăng ký CDĐL về giá bán, tìm kiếm
thị trường đầu ra, nguồn nguyên liệu ổn định, ít gặp rủi ro. Họ chỉ gặp thuận lợi hơn
so với các Hộ không đăng ký CDĐL về hỗ trợ kỹ thuật, cà phê chất lượng tốt hơn và
quy trình kiểm soát trồng và chăm sóc cà phê chặt chẽ hơn.
2) Doanh nghiệp thu gom và sơ chế: Doanh nghiệp thu gom là tác nhân trực
tiếp thu mua cà phê của các Hộ nông dân rồi bán cho các cơ sở sơ chế, hoặc tự sơ
chế, hoặc các doanh nghiệp chế biến. Doanh nghiệp thu gom thường phân thành 2
cấp: thu gom cấp 1 và thu gom cấp 2. Thu gom cấp 1 thường là các thương lái trong
xã (chiếm 84%), khác xã (5,5%), các huyện (0,2% và ngoài tỉnh (0,5%). Thu gom
cấp hai thường là các đại lý lớn hoặc doanh nghiệp thu gom trong huyện và trong
tỉnh. Các đại lý lớn trong xã thường chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Khảo sát các doanh nghiệp
44
thu gom cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột cho kết quả: phần lớn các Hộ nông dân khi
bán sản phẩm cho các cơ sở thu gom đều không ký hợp đồng (chiếm 88%) và phương
thức mua hàng của các cơ sở thu gom phần lớn là thoả thuận giá ngay thời điểm mua
(100%), ứng trước tiền cho Hộ trồng cà phê để giữ mối quen (82%), trả tiền mặt ngay
sau khi mua (100%), giao hàng tại vườn hoặc giao hàng tại cơ sở thu gom (80-100%).
Do chi phí sản xuất cà phê trong 3 năm 2016-2018 tăng lên, nên chi phí thu gom của
các cơ sở thu gom cũng tăng theo. Phần lớn các doanh nghiệp thu gom đều cho rằng
sự ứng xử với các Hộ trồng cà phê đăng ký CDĐL và các Hộ trồng cà phê không
đăng ký CDĐL gần như nhau. Chỉ có một tỷ lệ nhỏ các cơ sở thu gom và sơ chế sản
phẩm cà phê cho rằng họ có ưu ái hơn khi thu gom các sản phẩm cà phê CDĐL,
nhưng không nhiều.
3) Doanh nghiệp chế biến: Tính đến tháng 8 năm 2018, tỉnh Đắk Lắk có 23
doanh nghiệp chế biến nhân theo công nghệ khô, tổng công suất 475.000 tấn/năm, 16
dây chuyền chế biến ướt, tổng công suất 64.000 tấn/năm. Đắk Lắk có 47 doanh nghiệp
chế biến cà phê bột, công suất 32.000 tấn/năm; 1 doanh nghiệp chế biến cà phê hoà
tan, công suất 1000 tấn/năm. Phần lớn các doanh nghiệp chế biến cà phê ở Đắk Lắk
có quy mô nhỏ, dây chuyền thiết bị chưa đồng bộ và tỷ lệ chế biến sâu mới chiếm
khoảng 2,3% tổng sản lượng cà phê xuất khẩu của Đắk Lắk[27]. Chỉ có một số dây
chuyền công nghệ chế biến ướt cà phê nhân như Công ty TNHH 1 thành viên Ea Pôk,
Thắng Lợi, Phước An....
Theo kết quả điều tra khảo sát của đề tài, các cơ sở và doanh nghiệp chế biến
cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột rất đa dạng về hình thức sở hữu: hợp tác xã, doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp nhà nước. Các cơ sở và doanh
nghiệp này gặp nhiều thuận lợi về vùng nguyên liệu, chất lượng sản phẩm cà phê sau
khi thu mua, sản lượng cà phê thu mua; nhưng lại gặp khó khăn trong tìm thị trường
đầu ra cho sản phẩm, thiếu thông tin thị trường, thiếu vốn (đối với các cơ sở quy mô
nhỏ. Công nghệ chế biến hiện nay của các cơ sở và doanh nghiệp phần lớn là thấp
hơn so với công nghệ của thế giới. Cà phê ở Tây Nguyên chủ yếu được chế biến ở 3
khu vực: Doanh nghiệp quy mô nhỏ, thủ công; các nhà máy chế biến cà phê nhân;
các nhà máy chế biến cà phê bột. Có tới 80% cà phê được sơ chế, chế biến tại các
doanh nghiệp nhỏ bằng hai loại công nghệ: công nghệ chế biến ướt và công nghệ chế
45
biến khô, trong đó công nghệ chế biến khô được áp dụng rộng rãi. Đặc điểm của công
nghệ chế biến khô là nó làm tăng tổn thất sau khi thu hoạch cà phê, khiến sản phẩm
cà phê nhân có giá trị thấp hơn so với công nghệ chế biến ướt khi đưa ra thị trường
xuất khẩu. Thuận lợi của công nghệ chế biến khô là giá đầu tư một dây chuyền công
nghệ không quá cao, tùy theo công suất chế biến mỗi máy (có giá đầu tư từ 5 triệu
đồng trở lên/máy) nhưng bất lợi là khi xay xát làm cho nhiều nhân cà phê bị tổn
thương, vỡ, trong phơi sấy có lúc hạt cà phê bị lên men, thâm đen lẫn tạp chất… nên
dẫn đến chỉ tiêu đánh giá ngoại quan cà phê thấp, giá xuất khẩu không cao. Hiện nay,
phần lớn các nông Doanh nghiệp sản xuất cà phê ở Tây Nguyên có diện tích từ 1 ha
trở lên đều tự trang bị một dây chuyền công nghệ chế biến cà phê nhân khô với quy
mô nhỏ vài trăm tấn/năm, còn đối với các doanh nghiệp mỗi dây chuyền đều có công
suất từ 1.000 tấn sản phẩm cà phê nhân/năm trở lên. Trong khi đó, việc chế biến cà
phê nhân theo công nghệ chế biến ướt là tiên tiến nhất hiện nay chỉ có một số ít doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê ở vùng Tây Nguyên có quy mô tương đối lớn mới
đầu tư.
4) Bán sỉ và bán lẻ cho người tiêu dùng:
Mặc dù Việt Nam đang là quốc gia sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn hàng đầu
thế giới, nhưng chủ yếu vẫn là xuất khẩu cà phê nhân. Cà phê chế biến sâu còn chiếm
tỷ trọng nhỏ trong sản lượng và kim ngạch cà phê của Việt Nam, giá trị gia tăng
không cao. Kết quả điều tra của đề tài cho thấy, thị trường tiêu dùng nội địa chiếm
tới 86,7% sản lượng cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột, và thị trường nước ngoài chiếm
13,7%. Theo Công ty nghiên cứu thị trường Nielsen Việt Nam, hiện tại có 20 công ty
sản xuất cà phê hòa tan, cà phê 3 trong 1 ở Việt Nam. Các công ty sản xuất lớn trên
thị trường nội địa như Nestle, Trung Nguyên, Vina cà phê, cà phê Ngon, cà phê An
Thái...
Một số doanh nghiệp sản xuất cà phê rang xay hiện cũng đã tham gia thị trường
cà phê hòa tan như Thu Hà, Mê Trang, Phú Thái, An Thái. Chẳng hạn, công ty An
Thái có khâu phân phối sản phẩm sâu rộng khắp các thị trường trong nước và quốc
tế, hiện sản phẩm cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột của công ty An Thái đã có mặt ở
hơn 30 nước trên thế giới, chủ yếu là Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Indonesia,
46
Thái Lan, Mỹ, Nga, châu Âu. Tại thị trường trong nước, công ty An Thái đang hình
thành chuỗi cà phê Hiup, đem sản phẩm có thương hiệu đến tận tay người tiêu dùng.
Hiện nay, Hiệp Hội cà phê Buôn Ma Thuột đang xây dựng logo cho các doanh
nghiệp sơ chế và chế biến đối với sản phẩm cà phê nhân và cà phê rang xay, nhưng
đến nay mới chỉ có 10 doanh nghiệp trong tổng số 29 doanh nghiệp thuộc Hiệp Hội
đáp ứng yêu cầu gắn logo thương hiệu Buôn Ma Thuột coffee. Các yêu cầu này rất
nghiêm ngặt, phải có 70% sản phẩm được sản xuất tại vùng có CDĐL và đảm bảo
100% cà phê, để có thể đảm bảo thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột được khẳng định
ra thị trường thế giới.
Đối với các cơ sở và doanh nghiệp chế biến quy mô nhỏ lẻ, các sản phẩm cà phê
CDĐL Buôn Ma Thuột đang đi theo xu hướng “mỗi cơ sở một logo” khi phân phối sản
phẩm trên thị trường nội địa. Điều này khiến các cơ sở và doanh nghiệp chế biến đang tự
tạo môi trường cạnh tranh không lành mạnh ngay trên sân nhà, chất lượng và vệ sinh an
toàn thực phẩm khó kiểm soát, không tạo nên niềm tin cho người tiêu dùng trong nước và
không thể cạnh tranh với các công ty cà phê lớn trong nước và tập đoàn nước ngoài ngay
trên thị trường nội địa.
2.3. Phân tích chuỗi giá trị của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cà
phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột.
2.3.1. Sơ đồ chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý BMT
47
Hình 3.2. Sơ đồ chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột
Thương mại
Tiêu dùng
Thu gom cấp 2
Phân loại/ Sơ chế
Đầu vào
Sản xuất
Thu gom cấp 1
3.3%
57.6%
89.8%
57.6%
Doanh nghiệp thu gom cấp 2 -Bán cho DN trong xã(4.6) -Bán cho DN trong huyện(23.8) -Bán cho DN trong tỉnh(22.5) -Bán cho DN ngoài tỉnh(6.6)
Nhà CC: Giốn g VTNN
15.4%
Tiêu dùng nội địa (90.2%)
Bán cho doanh nghiệp FDI(14.3) Doanh nghiệp trong nước(1.1)
Doa nh nghi ệp trồng café, nông hộ
37.1%
39.6 %
Doanh nghiệp -Trong xã (84.1) -Khác xã trong huyện(5.5) -Khác huyện(0.2) -Cho doanh nghiệp ngoài tỉnh(0.5)
18.7 %
DN chế biến Bán cho DN chế biến trong huyện(11.9) Bán cho DN chế biến trong tỉnh(19.2) Bán cho DN chế biến ngoài tỉnh(6.0)
7.7%
Thông qua đại lý bán buôn(20.9) Thông qua đại lý bán lẻ(18.7) Qua trung gian, môi giới(12.1) Qua xúc tiến thương mại(6.6)
10.2%
2.1%
Xuất khẩu (9.8%)
Nguồn: Số liệu phân tích của tác giả theo số liệu khảo sát của đề tài, năm 2019
48
Kết quả khảo sát cho thấy:
Thứ nhất, có sự liên kết tương đối chặt chẽ ở từng tác nhân với các tác nhân
trước và sau, nhưng liên kết của toàn bộ chuỗi hết sức lỏng lẻo. Cụ thể: a) Doanh
nghiệp trồng cà phê có liên kết chặt chẽ với các tác nhân trước (cung cấp giống, phân
bón, nguyên liệu đầu vào...) và các tác nhân sau (doanh nghiệp thu gom); nhưng liên
kết tương đối lỏng lẻo với các doanh nghiệp chế biến và doanh nghiệp xuất khẩu. b)
Các cơ sở thu gom chỉ có liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp trồng cà phê (tác
nhân trước) và các doanh nghiệp trong địa bàn xã, ấp, huyện (tác nhân sau). Các mối
liên kết từ cơ sở thu gom đến các doanh nghiệp chế biến hoặc xuất khẩu cà phê nhân
thường lỏng lẻo, phải thông qua các đại lý lớn trong và ngoài tỉnh; c) Các doanh
nghiệp chế biến có mối liên kết rất chặt chẽ với các doanh nghiệp trồng cà phê (tác
nhân trước) thông qua cung ứng vật tư nguyên liệu, hỗ trợ kỹ thuật trồng và chăm sóc
cà phê, thu gom cà phê. Các nhà máy này cũng có mối liên kết chặt chẽ với các cơ sở
thu gom (tác nhân trước) và thị trường bán sỉ, bán lẻ trong nước (tác nhân sau) và có
mối liên kết lỏng lẻo với thị trường nước ngoài (tác nhân sau). Đặc biệt các doanh
nghiệp chế biến quy mô nhỏ muốn ra thị trường nước ngoài đều phải qua khâu trung
gian, môi giới.
Thứ hai, liên kết giữa các tác nhân chủ yếu thực hiện ở hình thức quan hệ mạng
lưới và quan hệ thời điểm, dựa trên hình thức thoả thuận bằng miệng về giá cả, chất
lượng sản phẩm, ít áp dụng hình thức hợp đồng. Chưa hình thành các quan hệ chặt
chẽ hơn như quan hệ đồng sở hữu. Liên kết của doanh nghiệp trồng cà phê với doanh
nghiệp thu gom (chủ yếu là các thương mại, các công ty thu gom, các đại lý lớn,
HTX...trên địa bàn xã, ấp, huyện) và thường thông qua hợp đồng miệng, dựa vào mối
quen biết trước đó. Mối liên kết này được đánh giá là tốt và người dân được hỗ trợ
nhiều từ các doanh nghiệp thu gom (trả tiền ngay, cung ứng đầu vào sản xuất, giao
hàng tại vườn, giá cả được các định tại thời điểm bán, chất lượng không bị kiểm soát
ngặt nghèo...).
Liên kết của doanh nghiệp trồng cà phê đối với các doanh nghiệp chế biến
tương đối lỏng lẻo bởi doanh nghiệp ký hợp đồng trực tiếp với doanh nghiệp trồng cà
phê, tư vấn và hỗ trợ đầu vào, nhưng yêu cầu sản phẩm phải đạt yêu cầu quy định về
các tiêu chí CDĐL, giá cả xác định ngay tại khi ký kết hợp đồng. Do doanh nghiệp
49
chế biến và xuất khẩu phần lớn quy mô nhỏ, lại buộc phải chấp nhận các yêu cầu ngặt
nghèo của thị trường trong nước và thế giới, nên chưa đủ khả năng cung ứng vốn và
bao tiêu sản phẩm cho doanh nghiệp trồng cà phê.
Kết quả khảo sát cho thấy, mối liên kết của các doanh nghiệp chế biến với các
doanh nghiệp khác để xuất khẩu rất lỏng lẻo và ít gặp được sự hỗ trợ của nhà nước
thông qua xúc tiến thương mại. Các doanh nghiệp này cũng thường gặp phải những
rủi ro do chất lượng cà phê thu mua kém từ các Doanh nghiệp nông dân và các cơ sở
thu gom.
Thứ ba, vị thế thị trường của các tác nhân trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà
phê Buôn Ma Thuột tập trung chủ yếu vào nhóm tác nhân nắm giữ nguồn hàng nguyên
liệu (doanh nghiệp trồng cà phê và cơ sở thu gom cấp 1, cấp 2), giảm vị thế của tác nhân
doanh nghiệp chế biến (chiếm tỷ phần nhỏ, phải cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp không
kinh doanh sản phẩm cà phê đăng ký CDĐL, các doanh nghiệp cà phê nước ngoài tại Việt
Nam, các sản phẩm cà phê khác ngoài cà phê Buôn Ma Thuột).
Thứ tư, liên kết ngang giữa các tác nhân cùng nhóm rất yếu. Kết quả khảo sát
đề tài cho thấy các liên kết ngang giữa các doanh nghiệp trồng cà phê để sản xuất cà
phê CDĐL Buôn Ma Thuột để đảm bảo chất lượng cà phê, ổn định giá cà phê... còn
yếu. Phần lớn các doanh nghiệp trồng cà phê chỉ liên kết ngang thông qua các tổ chức
đoàn thể như Nông hội, câu lạc bộ khuyến nông, hội phụ nữ, tổ liên kết sản phẩm, tổ
tư vấn kỹ thuật thực hành CDĐL... Nhưng do kết cấu liên kết không chặt chẽ, các tác
nhân ngay trong nhóm doanh nghiệp trồng cà phê có xu hướng tự phá vỡ các thoả
thuận chính thức về giá cả, chất lượng, kênh tiêu thụ (chuyển sang bán cho doanh
nghiệp thu gom khác v.v...).
Trong các doanh nghiệp sơ chế và chế biến sản phẩm cà phê CDĐL Buôn Ma
Thuột, liên kết ngang cũng khá lỏng lẻo, còn theo hướng mạnh ai nấy làm, giữ bí
quyết riêng, khiến người tiêu dùng dễ lạc vào “mê cung” của các sản phẩm cà phê
CDĐL Buôn Ma Thuột với các logo và chất lượng sản phẩm khác nhau; rất khó nhận
biết đâu là nét đặc trưng của sản phẩm cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột. Các doanh
nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ chưa thực sự có cơ chế phối hợp, chưa chú ý tới thị
trường và các yêu cầu của thị trường để tạo ra một sản phẩm cà phê CDĐL Buôn Ma
Thuột.
50
Thứ năm, chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột vẫn
tập trung phát triển ở chuỗi ngắn cho giá trị gia tăng thấp (chuỗi sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm thô), chưa có đủ năng lực để phát triển chuỗi dài (chế biến sâu, phân phối
sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng thông qua hệ thống doanh nghiệp bán lẻ
có thương hiệu – không trực tiếp tạo ra sản phẩm mà chỉ phân phối sản phẩm, định
hướng nhu cầu tiêu dùng toàn cầu; và các sản phẩm khác nhau tinh dầu cà phê, dầu
gội đầu từ cà phê v.v... Đây mới là mắt xích đem lại giá trị gia tăng cao nhất trong
chuỗi giá trị và phần lớn mắt xích này đều do các nhà sản xuất nước ngoài nắm giữ.
Ngay cả các công ty cà phê lớn sử dụng cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột như Trung
Nguyên, An Thái..., phần lớn sản phẩm vẫn nằm thuộc về chuỗi ngắn.
Trong chuỗi giá trị cà phê toàn cầu, cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột vẫn ở vị trí
thấp bởi phần lớn vẫn là xuất khẩu cà phê nhân, đem lại giá trị gia tăng rất thấp (tăng
thêm 2-3%, theo số liệu của Hiệp Hội cà phê Buôn Ma Thuột), phần lớn xuất khẩu
theo đơn đặt hàng của đối tác (yêu cầu về chất lượng, bao bì, cách ghi bao bì...), do
vậy nhãn hiệu chỉ dẫn địa lý rất hạn chế khi cà phê ở các vùng đăng ký CDĐL được
xuất khẩu với khối lượng lớn trên thị trường thế giới.
Cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột chưa đăng ký bảo hộ cà phê rang xay và chế
biến. Ở khâu chế biến, gắn mẫu mã nhãn hiệu sản phẩm, cà phê CDĐL Buôn Ma
Thuột phần lớn vẫn nằm trong tay các tập đoàn thương mại nước ngoài. Do những
hạn chế này, số lượng doanh nghiệp và sản lượng đăng ký CDĐL cà phê Buôn Ma
Thuột đến nay vẫn còn rất nhỏ so với tiềm năng đăng ký, cà phê CDĐL Buôn Ma
Thuột phải cạnh tranh nhiều với các sản phẩm cùng loại trên thị trường thế giới về
giá, chất lượng, thương hiệu, thường bị động phụ thuộc vào các đối tác thương mại
nước ngoài về bao bì, logo, chưa có thương hiệu mạnh nên cà phê CDĐL Buôn Ma
Thuột chưa đáp ứng nhu cầu thực sự của các nhà nhập khẩu.
3.3.2. Thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn
Ma Thuột khi tham gia chuỗi giá trị
- Các thuận lợi khi phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL
Phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê mang chỉ dẫn địa lý có nhiều
thuận lợi hơn so với phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê thông thường. Chỉ
dẫn địa lý không phải là công cụ độc quyền về mặt thương mại hay pháp lý chúng là
51
phương tiện đa chức năng. Chỉ dẫn địa lý tồn tại trong một bối cảnh rộng hơn, giống như
một hình thức gắn liền với sự phát triển nông thôn. Điều này có thể nâng cao mạnh mẽ
lợi ích thương mại và kinh tế trong khi bồi đắp thêm các giá trị địa phương như quản lý
môi trường, vă hóa và truyền thống. Các chỉ dẫn địa lý chính là minh chứng cho “toàn
cầu hóa”, ví dụ: sản phẩm và dịch vụ khi tham gia vào thị trường toàn cầu, và tại cùng
một thời gian thì sẽ hỗ trợ cho văn hóa và kinh tế địa phương.
Về phương diện phát triển, doanh nghiệp cà phê mang CDĐL có tác dụng thúc
đẩy và nâng cao chất lượng phát triển nông nghiệp nông thôn. Doanh nghiệp cà phê
mang CDĐL có thể cung cấp cấu trúc để khẳng định và bảo vệ trí tuệ hay tài sản văn
hóa xã hội duy nhất. Điều này được thể hiện trong nền tảng kiến thức địa phương
hoặc các kỹ năng truyền thống và thủ công là những hình thức giá trị cho một cộng
đồng đặc trưng.
Về phương diện thương nghiệp, doanh nghiệp cà phê mang CDĐL mang tính
định hướng thị trường. Doanh nghiệp cà phê CDĐL thường gắn kết các nhu cầu giao
thương mới ngay khi các GIS có xu hướng đề ra những tiêu chuẩn chất lượng, truy
tìm xuất xứ và an toàn thực phẩm. Nó mang nhiều đặc trưng của một thương hiệu cao
cấp. Chúng có thể tác động đến toàn bộ chuỗi cung ứng và thậm chí tác động đến sản
phẩm và dịch vụ trong một khu vực và do đó thúc đẩy nhóm doanh nghiệp phát triển,
nâng cao tính hội nhập cho kinh tế nông thôn.
Doanh nghiệp cà phê CDĐL mang đặt trưng riêng biệt về sản phẩm, có phương
pháp liên kết truyền thống trong sản xuất và chế biến. Các phương pháp này thường
không dễ để tái sử dụng tại các quốc gia, khu vực. Sự khác biệt về hàng hóa có thể
tạo ra lợi thế cạnh tranh có giá trị hết sức bền vững. Do phải tạo ra một chỉ dẫn địa lý
mang tính chất khác biệt đối với các sản phẩm cà phê thông thường, doanh nghiệp cà
phê CDĐL thường có tính chuyên môn hoá sâu hơn và tham gia hiệu quả hơn vào
chuỗi giá trị của doanh nghiệp toàn cầu.
- Các khó khăn khi phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL
So với việc phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê thông thường, việc
xây dựng chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm cà phê của doanh nghiệp gặp một số khó khăn do
mất đi chi phí đáng kể, không chỉ cho cơ cấu tổ chức và thể chế mà còn cho các chi phí
vận hành như marketing và thực thi luật pháp. Trong một số trường hợp, do không quy
52
hoạch và quản lý thích hợp, các quốc gia đang phát triển có thể gây ra sự lãng phí nguồn
lực hạn chế, đầu tư vào sản phẩm cà phê CDĐL không có triển vọng.
Chỉ dẫn địa lý không phải là một lựa chọn khả thi trong nhiều lĩnh vực, đặc
biệt là những lĩnh vực có ít các đặc trưng phân biệt. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng,
trong các điều kiện nhất định, các chỉ dẫn địa lý thậm chí có thể kìm hãm việc cải tiến
thương mại. Một số nhà nghiên cứu lưu ý rằng, việc phát triển sản phẩm cà phê CDĐL
cho doanh nghiệp như một phương tiện phân biệt có thể đem đến lợi ích cho các nhà sản
xuất sản phẩm chất lượng cao, tuy nhiên đối với các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm
chất lượng thấp hay những doanh nghiệp sản xuất ít vốn thì sản phẩm cà phê CDĐL lại
không tạo ra bất kỳ lợi ích nào. Thực sự, khi cơ cấu sản xuất kém, doanh nghiệp cà phê
CDĐL sàn xuất ra sản phẩm cà phê CDDL có thể gây ra bất lợi cho cộng đồng, ảnh
hưởng xấu tới các giá trị truyền thống và môi trường.
2.4 Đánh giá chung về phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê
CDĐL Buôn Ma Thuột
2.3.1 Kết quả
Tại Đắk Lắk, nơi có cà phê Buôn Ma Thuột được bảo hộ chỉ dẫn địa lý từ năm
2005, đến nay đã có 12 doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu cà phê nhân nằm trong vùng
địa danh được cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý "Cà phê Buôn Ma Thuột" với diện
tích đăng ký là hơn 15.300 ha. Các doanh nghiệp chủ động giới thiệu, quảng bá và
đưa ra thị trường gần 20.000 tấn cà phê nhân có thương hiệu với giá trị tăng thêm từ
3 đến 5%. Mặc dù, số lượng đăng ký chưa nhiều nhưng việc triển khai hệ thống quản
lý nội bộ, liên kết với nông dân sản xuất thông qua các hợp đồng, lớp tập huấn, hướng
dẫn cũng như giám sát quá trình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đã phần
nào tạo được nhận thức vượt bậc cho người trồng cà phê về vấn đề thương hiệu và
chất lượng sản phẩm.
Trên thị trường quốc tế, việc phát triển thương hiệu, chỉ dẫn địa lý cũng được
đẩy mạnh với 12 quốc gia, vùng lãnh thổ (đăng ký bảo hộ) chấp nhận chỉ dẫn địa lý
"Cà phê Buôn Ma Thuột". Tuy nhiên, thương hiệu, chỉ dẫn địa lý là vấn đề lâu dài và
phải có quá trình xây dựng, phát triển nhằm tạo ra sự nhận biết và thừa nhận đối với
khách hàng, do đó giá trị tăng thêm mới chỉ đủ bù đắp cho chi phí xây dựng hệ thống
quản lý, thương mại. Vì vậy, các doanh nghiệp cà phê đang kiên trì chiến lược quảng
bá, tiếp thị ngoài các thị trường truyền thống, đồng thời chú trọng thị trường ở các
quốc gia mới nổi vì họ dễ dàng chấp nhận cũng như nhu cầu tiêu thụ cà phê tại các
53
quốc gia này có chiều hướng ngày càng tăng. Bên cạnh đó, bản thân các doanh nghiệp
được cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý "Cà phê Buôn Ma Thuột" cũng đang liên kết
để tạo tiếng nói chung nhằm nâng cao chất lượng từ vườn cây đến sản phẩm hoàn
thiện và người tiêu dùng, đưa logo thương hiệu "Cà phê Buôn Ma Thuột" vào hợp
đồng mua bán cũng như in hình ảnh trên bao bì sản phẩm.
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân
Tuy nhiên bên cạnh những mặt đặt được, đến nay vấn còn một số hạn chế như
sau:
+ Là tỉnh có diện tích cà phê CDĐL lớn nhất nhưng không có cơ quan quản
lý chuyên về cà phê; sàn đấu giá cà phê…; các chính sách ưu đãi phát triển chuỗi cà
phê CDĐL Buôn Ma Thuột chưa nhiều;
+ Việc duy trì diện tích cà phê CDĐL vẫn khó thực hiện . Vì hiện nay, diện
tích cà phê chủ yếu do các nông hộ trồng, chăm sóc và quản lý. Bên cạnh đó, biến
động giá cà phê trên thị trường cũng là nguyên nhân làm cho diện tích cà phê tăng
và giảm không theo kế hoạch, sản xuất cà phê theo kinh nghiệm, tự phát, một số diện
tích cà phên được trồng trong điều kiện đất đai không phù hợp, thiếu nguồn nước
tưới. Điều đó dẫn đến chất lượng sản phẩm không cao, sản xuất kém hiệu quả, sức
cạnh tranh trên thị trường thấp;
+ Việc tuyên truyền, vận động người dân thực hiện chuyển đối diện tích cà
phê không phù họp sang các loại cây trồng khác khó thực hiện. Do cây cà phê là
nguồn thu nhập chính của các hộ dân, một số hộ dân ngại mất nguồn thu nhập, do vậy
người dân buộc phải “gắn bó” với vườn cà phê sản xuất kém hiệu quả mà chưa muốn
phá bỏ để trồng thay thế sang các loại cây trồng khác, cũng như người dân không
nhiệt tình tham gia vào việc chuyển đổi cà phê;
+ Việc áp dụng quy trình kỹ thuật cà phê CDĐL của người dân còn nhiều hạn
chế; Chưa xây dựng kế hoạch phổ biến kiến thực CDĐL, quy trình sản xuất cho nông
hộ. Chẳng hạn, một số công ty đã được cấp quyền sử dụng CDĐL cà phê Buôn Ma
Thuột chưa xây dựng kế hoạch, phổ biến kiến thức CDĐL, quy trình sản xuất cho
nông hộ vì chưa có kinh phí và chưa kiếm được nguồn hỗ trợ cho việc tập huấn cho
nông hộ. Doanh nghiệp chờ để lồng ghép với các chương trình chứng nhận khác.
Chẳng hạn như Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Đức Nguyên; Chưa xây dựng kế
hoạch kiểm soát nội bộ hàng năm do phân bổ lại nhân sự cho nên việc xây dựng kế
hoạch đánh giá nội bộ, chẳng hạn của Công ty cổ phần đầu tư xuất nhập khẩu Đắk
54
Lăk chưa được tiến hành; Chương trình CDĐL vẫn chưa thực sự đem lại lợi ích cho
nông hộ cho nên người dân vẫn chưa mặn mà duy trì cùng công ty;
+ Công tác quản lý khai thác công trình thủy lợi gặp nhiều khó khăn do đặc
thù vùng Tây Nguyên và nhất là các công trình do địa phương quản lý, chưa chủ động
tham mưa thực hiện bàn giao đồng bộ công trình thủy lợi do doanh nghiệp quản lý.
Vốn đầu tư ứng dụng các thiết bị công nghệ tưới, vượt khả năng của một số doanh
nghiệp có nhu cầu đầu tư;
+ Việc sản xuất, chế biến và thương mại cà phê vẫn đang tồn tại nhiều bất
cập. Cụ thể diện tích cà phê già cỗi chiếm tỷ lệ lớn, thâm canh chưa bền vững, các
điều kiện sơ chế, bảo quản, tạm trữ cà phê còn hạn chế, thiếu sự liên kết giữa doanh
nghiệp với nông dân đang khiến giá trị chuỗi sản xuất hàng hóa chưa cao. Gần đây
cà phê rớt giá khiến người nông dân bị ảnh hưởng. Đặc biệt, do chưa có chiến lược
toàn diện trong thúc đẩy xuất khẩu, nên cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột chưa phát
huy được các lợi thế riêng để tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường.
+ Sự quan tâm phối hợp của một số Sở, ngành địa phương và các doanh nghiệp
cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột chưa chặt chẽ…
55
Chương 3
TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA
DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ BUÔN MA THUỘT
3.1. Bối cảnh phát triển cà phê thế giới và trong nước
Cách đây hàng nghìn năm, cây cà phê đã được người dân du mục Ethiopia
ngẫu nhiên tìm thấy ở làng Cápfa, gần thủ đô Ethiopia. Đến thế kỷ thứ 6, cây cà phê
lan dần sang các nước và châu lục khác. Cà phê có rất nhiều loại khác nhau. Theo
thống kê, trên thế giới hiện nay có khoảng 70 loại cà phê đang được trồng và xuất
khẩu. Trong đó phổ biến nhất về diện tích trồng cũng như vai trò quan trọng trên thị
trường cà phê thế giới là 2 loại cà phê: (1). Cà phê chè (chủng Arabica); (2). Cà phê
vối (chủng Robusta). Cả hai loại cà phê này, cũng như tất cả các loại cà phê khác,
đều thuộc giống cà phê nhưng về chất lượng và hương vị thì cà phê Arabica trội hơn
cà phê Robusta. Do đó cà phê Arabica cũng thường cao hơn khá nhiều và được nhiều
nơi ưa chuộng.
Hai loại cà phê này được trồng tập trung ở những khu vực khác nhau trên thế
giới. Cà phê Arabica được trồng chủ yếu ở Châu Mỹ, đặc biệt tại hai nước là Brazil
và Colombia. Hai nước này hiện tại sản xuất tới 80% sản lượng Arabica của thế giới,
đồng thời cũng là hai nước sản xuất và xuất khẩu cà phê nhiều nhất, thống trị thị
trường cà phê thế giới trong đó riêng Brazil đã chiếm tới khoảng 30% sản lượng cà
phê toàn thế giới.
Cà phê Robusta là giống cà phê ngon thứ hai sau cà phê Arabica. Loại cà phê này
thường được tiêu dùng ở các nước có truyền thống uống cà phê chế biến từ cà phê
Robusta, ví dụ như Anh và các nước Nam Âu. Cây cà phê loại này được trồng chủ yếu
ở Châu Phi và Châu Á. Hiện tại cà phê Robusta của Châu Phi không tăng và có chiều
hướng giảm sút. Lý do ở đây là bất ổn về chính trị, sự thay đổi điều kiện tự nhiên, cũng
như sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Đây là những nguyên nhân rất khó khắc phục trong
thời gian ngắn. Do vậy trong thời gian tới đây trên đà tăng trưởng về sản lượng, vai trò
cung cấp của các nước Châu Á -Thái Bình Dương sẽ còn tiếp tục tăng lên với loại cà
phê này.
Theo số liệu của tổ chức cà phê quốc tế ( ICO) hiện nay có khoảng 20 đến 30
nước sản xuất cà phê tập chung chủ yếu vào các khu vực là: Bắc và Trung Mỹ; Nam
56
Mỹ; Châu Phi; Châu Á - Thái Bình Dương. Phân bổ sản lượng cà phê thế giới theo
các khu vực này có thể được tóm tắt như sau: Châu Mỹ sản xuất ra 60 - 70 % sản
lượng cà phê thế giới, tức là khoảng gần 4 triệu tấn cà phê nhân. Châu Phi sản xuất
ra 20 - 22% khoảng hơn 1 triệu tấn. Châu Á hàng năm sản xuất khoảng 70 ngàn tấn
cà phê chiếm 12% sản lượng toàn thế giới, sản lượng cà phê hàng năm biến động thất
thường nhưng theo chiều hướng ngày càng tăng.
Nhu cầu tiêu thụ cà phê rất lớn. Hàng năm, lượng tiêu thụ trên thế giới ước
tính vào khoảng 94,5 triệu bao cà phê nhân (khoảng 5,6 triệu tấn). Có thể chia các
nước tiêu dùng cà phê thành bốn nhóm chính theo khu vực địa lý như sau: Nhóm các
nước Tây Bắc Âu và Nam Âu; Nhóm các nước Bắc Mỹ: Trong đó thị trường Mỹ là
lớn nhất với nhu cầu hàng năm khoảng 4 kg/người/năm; Nhóm các nước Châu Á -
Thái Bình Dương: Trong đó hai thị trường tiêu biểu là Hàn Quốc và Nhật Bản; Nhóm
các nước Đông Âu và Nga - đây là những thị trường mới nổi rất tiềm năng với sản
phẩm cà phê.
Trong số hơn 80 thành viên của tổ chức cà phê quốc tế (ICO), có tới hơn 40
nước xuất khẩu cà phê. Các nước này có thể vừa trồng vừa xuất khẩu hoặc chỉ kinh
doanh cà phê xuất khẩu. Tuy nhiên các nước sản xuất cà phê lớn trên thế giới đều là
những nước vừa sản xuất vừa xuất khẩu. Điển hình là các nước như: Brazil,
Colombia, Việt Nam, Uganda, Bờ Biển Nga, Ethiopia, ấn Độ, vv.. Trong đó Brazil
và Colombia là các nước sản xuất và xuất khẩu cà phê Arabica chủ yếu trên thế giới;
các nước còn lại của Châu Á và Châu Phi là các nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn
của thế giới . Trên thực tế, lượng xuất khẩu cà phê hàng năm của các nước chính là
cung trên thị trường cà phê thế giới. Lượng cung này phụ thuộc rất nhiều yếu tố trong
đó sản lượng chỉ là một. Ngoài sản lượng, lượng cung cà phê trên thị trường thế giới
hàng năm còn phụ thuộc vào tình hình kinh tế của các nước, chính sách của hiệp Hội
các nước sản xuất cà phê (ACPC) và tổ chức cà phê quốc tế (ICO) cũng như biến
động nhu cầu giá cả, dự trữ và yếu tố đầu cơ.
Giá cà phê phụ thuộc rất nhiều vào tình hình cung cầu cà phê trên thị trường
thế giới. Thông thường, để xác lập giá xuất khẩu những người xuất khẩu cà phê
thường lấy giá ở những sở giao dịch hàng hoá lớn như ở London, New York,
Rotterdam, Asterdam làm chuẩn để xây dựng giá của mình. Giá tại các thị trường này
57
thường phản ánh tương đối chính xác các biến động cung cầu trong từng thời điểm
xong nó lại mang nặng yếu tố tâm lý nên luôn biến động thất thường.
Năm 2019 cũng là năm thế giới được mùa cà phê. Sản lượng cà phê toàn cầu
năm 2019 được Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đánh giá đạt 174,6 triệu bao (loại 60
kg) hay gần 10,5 triệu tấn. Trong đó, Brazil đạt gần 60 triệu bao, Colombia 14, Việt
Nam 30 và Indonesia chừng 10 triệu bao, chỉ 4 nước lớn chiếm gần 65% sản lượng
cà phê thế giới. Brazil xuất khẩu cà phê đạt kỷ lục lịch sử với khoảng trên 41 triệu
bao cà phê arabica. Sản lượng tăng trong 2019 là thành quả lớn của các chương trình
tái canh cà phê đã và đang được các nước thực hiện.
Trong khi đó ở Việt Nam, theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, tính đến năm 2018, diện tích cà phê Việt Nam đạt 645.217 ha, năng suất 2,7
tấn/ha, tổng sản lượng 1,6 triệu tấn năm, trong đó cà phê vối chiếm 96%. Cả nước có
5 vùng sản xuất chính cà phê là: Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Bắc
Trung Bộ và các tỉnh Trung du Miền núi phía Bắc. Tây Nguyên là vùng chuyên canh
cà phê lớn nhất cả nước, với diện tích 577.000 ha (chiếm 89%). Gần đây, Tây Nguyên
nói riêng và các vùng sản xuất cà phê của Việt Nam cũng đang đối mặt với khó khăn
do biến đổi khí hậu, lượng mưa thấp, tần suất ít, gây thiếu nước ảnh hưởng đến sản
xuất, trồng trọt cà phê.
Đến nay, cả nước đã có 97 cơ sở chế biến cà phê nhân, 160 cơ sở chế biến cà
phê rang xay, tám cơ sở chế biến cà phê hòa tan và 11 cơ sở chế biến cà phê phối
trộn. Cà phê bột của Trung Nguyên, cà phê hòa tan của Vinacafe không những chiếm
lĩnh được thị trường trong nước mà còn được hoan nghênh ở nhiều thị trường trong
khu vực, đồng thời đã bước đầu xây dựng được thương hiệu cà phê Việt. Việc đầu tư
cho chế biến sâu đã giúp ngành hàng cà phê nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh
lượng xuất khẩu giảm mạnh trong những tháng gần đây (xuất khẩu cà phê chín tháng
năm 2019 ước đạt 1,25 triệu tấn và 2,15 tỷ USD, giảm 13,3% về khối lượng và giảm
21,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2018)[28].
Theo Cục Xuất nhập khẩu và số liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam, Cà phê
là ngành hàng quan trọng, chiếm 3% GDP cả nước, kim ngạch xuất khẩu nhiều năm
nay đều trên 3 tỷ USD. Trong những năm qua, dù kinh tế thế giới có nhiều thời điểm
gặp khó khăn dẫn đến sức mua sụt giảm, xuất khẩu cà phê của Việt Nam vẫn duy trì
58
được tốc độ tăng trưởng rất đáng khích lệ, đạt 8,2%/năm với kim ngạch bình quân
3,13 tỷ USD/năm giai đoạn 2011 - 2018, chiếm 15% tổng xuất khẩu nông sản của cả
nước.
Các sản phẩm cà phê của Việt Nam đã xuất khẩu đến hơn 80 quốc gia và vùng
lãnh thổ, chiếm 14,2% thị phần xuất khẩu cà phê nhân toàn cầu (đứng thứ 2, sau
Brazil); đặc biệt, cà phê rang xay và hòa tan xuất khẩu đã chiếm 9,1% thị phần (đứng
thứ 5, sau Brazil, Indonesia, Malaysia và Ấn Độ), tạo ra nhiều cơ Hội cũng như triển
vọng cho ngành cà phê khi Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường quốc tế thông
qua các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết. EU là thị trường tiêu thụ nhiều nhất
cà phê của Việt Nam, chiếm 40% trong tổng lượng và 38% về tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước; tiếp theo là Đông Nam Á, chiếm 13% tổng lượng và tổng kim ngạch…
Các nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới như Brazil, Indonesia,
Colombia… đều chủ yếu xuất khẩu cà phê dưới dạng hạt (green bean), tức là chỉ dừng
ở hoạt động sơ chế sau thu hoạch. Một số nước có hoạt động rang và xay nhưng chỉ
chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng xuất khẩu cà phê. Riêng với Việt Nam, kể từ giữa những
năm 90 của thế kỷ trước, hoạt động sơ chế sau thu hoạch đã được hết sức quan tâm.
Nhờ vậy, từ chỗ có giá bán tại cảng Việt Nam thấp hơn tới 400 - 500 USD so với giá
tham chiếu tại Sở Giao dịch Hàng hóa Luân Đôn, Việt Nam đã dần thu hẹp được khoảng
cách này và cho tới nay, giá bán cà phê Robusta của Việt Nam đã phù hợp với giá thị
trường thế giới.
Trong thời gian qua, nhờ ưu đãi về thuế quan đối với cà phê chế biến từ các
Hiệp định Thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết nên ngày càng nhiều doanh
nghiệp đã bắt đầu quan tâm, chú trọng đầu tư vào các hoạt động chế biến sâu nhằm
góp phần nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm nói riêng và kim ngạch xuất khẩu
của toàn ngành nói chung. Đến nay, cả nước đã có 97 cơ sở chế biến cà phê nhân,
160 cơ sở chế biến cà phê rang xay, 8 cơ sở chế biến cà phê hòa tan và 11 cơ sở chế
biến cà phê phối trộn (cụ thể, 97 cơ sở chế biến cà phê nhân, tổng công suất thiết kế
1.503 triệu tấn, tổng công suất thực tế đạt 83,6%; 160 cơ sở chế biến cà phê rang xay,
tổng công suất thiết kế 51,7 nghìn tấn sản phẩm/năm; 8 cơ sở chế biến cà phê hòa tan,
tổng công suất thiết kế 36,5 nghìn tấn sản phẩm/năm, tổng công suất thực tế đạt
97,9%; 11 cơ sở chế biến cà phê phối trộn, tổng công suất thiết kế 139,9 nghìn tấn
59
sản phẩm/năm, tổng công suất thực tế đạt 81,6%). Cà phê bột của Trung Nguyên, cà
phê hòa tan của Vinacafe, Trung Nguyên không những chiếm lĩnh được thị trường
trong nước mà còn được hoan nghênh ở nhiều thị trường trong khu vực, đồng thời đã
bước đầu xây dựng được thương hiệu cà phê Việt.
Bảng 3.1 Số lượng và giá trị xuất khẩu cà phê Việt Nam
trong giai đoạn 2010 – 2018
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Theo số liệu của tổng kê của Tổng cục Hải quan thì EU là thị trường tiêu thụ
nhiều nhất các loại cà phê của Việt Nam, chiếm 40% trong tổng lượng và chiếm 38%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước; đạt 749.231 tấn, trị giá 1,34 tỷ
USD, so với năm 2017 tăng 19,1% về lượng nhưng giảm 1,5% về kim ngạch. Trong
khối EU, xuất khẩu sang Đức nhiều nhất chiếm trên 34%, đạt 260.475 tấn, tương
đương 459,03 triệu USD; xuất sang Italia chiếm 18%, đạt 136.157 tấn, tương đương
245,25 triệu USD; xuất sang Tây Ban Nha chiếm 16%, đạt 122.063 tấn, tương đương
219,22 triệu USD. Tiếp theo đó là thị trường Đông Nam Á chiếm 13% trong tổng
lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước; đạt 243.270 tấn, trị giá 467,38
triệu USD, tăng mạnh 102,5% về lượng và tăng 71,3% về giá trị so với năm 2017 (Bộ
Công Thương, 2018).
Nhìn chung, cà phê xuất khẩu trong năm 2018 sang đa số các thị trường tăng
kim ngạch so với năm 2017; trong đó, xuất khẩu tăng mạnh ở các thị trường sau:
Indonesia tăng 343,6% về lượng và tăng 273,3% về kim ngạch, đạt 62.320 tấn, tương
đương 123,55 triệu USD; Nam Phi tăng 145% về lượng và tăng 109% về kim ngạch,
đạt 10.073 tấn, tương đương 17,3 triệu USD; Hy Lạp tăng 139,5% về lượng và tăng
60
96,4% về kim ngạch, đạt 13.646 tấn, tương đương 23,82 triệu USD; NewZealand
tăng 124% về lượng và tăng 78% về kim ngạch, đạt 2.253 tấn, tương đương 4,2 triệu
USD. Ngược lại, xuất khẩu cà phê sụt giảm mạnh ở các thị trường như: Thụy Sỹ giảm
47,5% về lượng và giảm 51% về kim ngạch, đạt 244 tấn, tương đương 0,49 triệu USD; xuất
sang Singapore cũng giảm 40% về lượng và giảm 50,7% về kim ngạch, đạt 1.263 tấn, tương
đương 3,55 triệu USD; Mexico giảm 7% về lượng và giảm 24% về kim ngạch, đạt 33.406
tấn, tương đương 55,9 triệu USD (Bộ Công thương, 2018)
Tuy xuất khẩu khẩu năm 2018 tăng so với năm 2017 nhưng nhìn chung mặt
hàng cà phê của Việt Nam vẫn còn gặp nhiều vấn đề trở ngại như ngày càng có nhiều
đối thủ cạnh tranh, chi phí vận chuyển có nhiều biến động, xuất khẩu cà phê dạng thô
của Việt Nam chiếm tới 90%, trong khi tỷ lệ cà phê chế biến sâu, giá trị gia tăng cao
chỉ mới chiếm 10% trong tổng sản lượng cà phê nhân, chưa tạo ra nhiều giá trị gia
tăng cho sản phẩm, chưa tạo ra chuỗi sản xuất sâu. Theo theo ý kiến từ các chuyên
gia, nếu tính theo giá xuất khẩu tại cảng Việt Nam thì mỗi tấn cà phê hiện chỉ có giá
trên dưới 40 triệu đồng, trong khi nếu chế biên sâu sẽ có giá trị gia tăng cao nhất từ
70 - 100 triệu đồng/tấn. Ngoài ra, các doanh nghiệp chưa quan tâm tới các quy trình
bảo quản, chế biến, thị trường tiêu thụ, bao bì, sản phẩm và cả thương hiệu dẫn đến
rất nhiều thiệt thòi khi xuất khẩu cà phê vào các thị trường tiêu thụ lớn trên thế giới.
Tuy nhiên, mặc dù ngành hàng cà phê có bước phát triển nhanh trong một số
năm gần đây cả về diện tích và sản lượng, song lợi thế trên thị trường thế giới phần
lớn vẫn thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài có thương hiệu và tiềm lực tài chính
mạnh. Hơn thế nữa, biến đổi khí hậu và nhu cầu ngày càng tăng có thể sẽ tạo ra những
biến động trong ngành sản xuất cà phê trên toàn cầu trong thập kỷ tới. Việt Nam sẽ
là một trong những quốc gia trồng cà phê bị ảnh hưởng nhiều nhất. Theo đó, nếu nhiệt
độ trái đất tăng 2 độ C vào năm 2050 theo đúng kịch bản thì một diện tích đất lớn
hiện đang trồng cà phê sẽ không thể canh tác loại cây này nữa. Theo ông Peter
Laderach, chuyên gia biến đổi khí hậu cao cấp của CIAT, sản lượng cà phê vối ở Việt
Nam đang có những biến động lớn. Nghiên cứu của CIAT cho thấy vào năm 2050,
mùa khô ở miền nam Việt Nam, bao gồm các tỉnh Tây Nguyên, có thể kéo dài đến
tháng Sáu, lâu hơn bình thường gần ba tháng. Trong khi đó, lượng mưa ở khu vực
cao nguyên vào những tháng mùa khô có thể giảm khoảng 20mm, gây ra vấn đề lớn
61
với khu vực mà 90% trữ lượng nước sử dụng liên quan đến ngành sản xuất cà phê.
Đến năm 2050 tổng diện tích phù hợp cho sự phát triển cá phê vối ở Việt Nam được
dự đoán sẽ giảm từ 52.39702 km2 xuống khoảng còn một nửa là 28.87646 km2.
Trong khi đó, việc tưới tiêu và sử dụng phân bón tràn lan ở Tây Nguyên có thể làm
suy thoái, mất những chất dinh dưỡng cần thiết của đất.
3.2.Triển vọng phát triển cà phê Đắk Lắk
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng Hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực nông nghiệp, vẫn còn nhiều nông sản Việt Nam chưa xây
dựng được thương hiệu mạnh trên thị trường. Do đó, xây dựng và phát triển chuỗi giá
trị của doanh nghiệp cà phê đáp ứng được nhu cầu của thị trường là một yêu cầu cấp
bách trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay.
Chính vì vậy, trong những năm tới và định hướng tới năm 2030, tỉnh Đắk Lắk
xây dựng và phát triển ngành cà phê theo hướng bền vững, nâng cao chất lượng và
đa dạng hóa sản phẩm, mang lại giá trị gia tăng cao, tiến tới phát triển sản xuất cà phê
hữu cơ. Tỉnh Đắk Lắk sẽ tập trung các nguồn lực, chính sách đầu tư cho các vùng sản
xuất chuỗi giá trị cà phê theo quy hoạch, ưu tiên vùng có CDĐL cà phê Buôn Ma
Thuột, đồng thời đổi mới tổ chức sản xuất, đẩy mạnh liên kết dọc, liên kết nganh
trong ngành hàng và ưu tiên ứng dụng khoa học công nghệ cao vào các khâu sản xuất,
chế biến và tổ chức quản lý sản xuất nhằm nâng cao thu nhập cho người nông dân,
doanh nghiệp và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu góp phần quản lý tốt các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái.
3.2.1 Triển vọng sản xuất cà phê:
Trong giai đoạn 2016-2020, tỉnh Đắk Lắk sẽ giảm dần diện tích sản xuất cà
phê xuống còn 180.000ha và sản lượng bình quân 450.000 tấn/ha. Đến năm 2030,
diện tích sẽ ổn định còn 170.000ha, với sản lượng bình quân đạt từ 476.000 tấn/năm
đến 504.000 tấn/năm. Năng suất bình quân năm 2020 dự kiến đạt 2,5 tấn/ha và đến
năm 2030 sẽ đạt 2,8 tấn/ha.
Diện tích cà phê tái canh giai đoạn 2016-2020 khoảng 32.335 ha, bình quân
mỗi năm tái canh trên 6.000 ha/năm. Giai đoạn 2020 -2030 tái canh dự báo từ 1.000
ha/năm đến 1.500 ha/năm. Để phục vụ tái canh cà phê hiệu quả, 70% diện tích cà phê
tái canh được ghép cải tạo và trồng mới sử dụng giống cà phê mới có năng suất và
62
chất lượng cao trong năm 2020 và đến năm 2030, diện tích cà phê tái canh sử dụng
giống mới có chất lượng sẽ tăng chiếm 90% tổng diện tích cà phê tái canh.
Nếu như trong giai đoạn 2016-2020, 75-80% diện tích cà phê được chủ động
tưới nước, trong đó 10.000ha ứng dụng công nghệ tưới nước tiết kiệm thì đến năm
2030, diện tích cà phê được chủ động tưới nước sẽ tăng lên 85-90% và sẽ có 20.000ha
được tưới nước tiết kiệm. Và nếu năm 2020, có khoảng 80% diện tích cà phê được
áp dụng quy trình sản xuất cà phê bền vững có chứng nhận thì đến năm 2030 sẽ có
khoảng 90% diện tích cà phên áp dụng quy trình kỹ thuật sản xuất cà phê bền vững.
Trong thời gian tới, tỉnh Đắk Lắk sẽ xây dựng 2 đến 3 mô hình sản xuất cà phê
hữu cơ, tiến tới nhân rộng mô hình này đến năm 2030.
3.2.2 Triển vọng thu hoạch và chế biến cà phê:
Năm 2020, ước tính 80-85% sản lượng cà phê được thu hái, phơi sấy và bảo
quản theo đúng quy trình kỹ thuật hiện hành. 100% có sở chế biến cà phê nhân xuất
khẩu tuân thủ đúng Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và là cơ chế chế biến cà phê đạt điều
kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong đó, ít nhất 03 doanh nghiệp chế biến
cà phê nhân xuất khẩu, chế biến sâu áp dụng công nghệ và quy trình quản lý tiên tiến.
Hiện, tỷ lệ chế biến sâu bao gồm cà phê bột, cà phê hòa tan, các loại cà phê
khác biệt theo thị hiếu của thị trường mới chỉ đạt 8-10 sản lượng của niên vụ. Hy
vọng đến năm 2030, sản lượng cà phê được chế biến sâu sẽ đạt từ 15-20% sản lượng
cà phê của niên vụ. Tỷ lệ sản lượng cà phê được thu hái, phơi sấy và bảo quản đạt
tiêu chuẩn nâng lên từ 85-95%.
3.2.3 Triển vọng về thương mại và quảng bá sản phẩm:
Tỉnh Đắk Lắk sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng
bá hình ảnh sản phẩm đặc trương của địa phương và phát triển thị trường tiêu thụ nội
địa. Năm 2020 ước tính kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt bình quân 600 triệu
USD/năm đến 650 triệu USD/năm. Tỉnh sẽ phấn đấu từ sau năm 2020, kim ngạch
xuất khẩu cà phê hàng năm đạt từ 700 triệu USD/năm đến 800 triệu USD/năm. Đặc
biệt, tỉnh sẽ phát triển thương hiệu, bảo hộ, bảo vệ và tăng diện tích cà phê CDĐL
Buôn Ma Thuột và phát triển các nhãn hiệu mạnh của doanh nghiệp.
3.2.4 Triển vọng về tổ chức và quản lý sản xuất:
63
Năm 2020, Tỉnh sẽ tiếp tục hỗ trợ phát triển 30 hợp tác xã nông nghiệp bao
gồm hợp tác xã hiện có và mới thành lập tại các vùng sản xuất cà phê và hỗ trợ thành
lập ít nhất 10 tổ hợp tác sản xuất cà phê bền vững tại vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số. Tỉnh sẽ củng cố các liên minh sản xuất cà phê bền vững đã có và xây dựng mới
03 liên minh sản xuất cà phê theo chuỗi giá trị.
Trong thời gian tới, Hiệp hội cà phê Buôn Ma Thuột sẽ được phát huy hiệu
quả hoạt động để là đầu mối kết nối các tác nhân trong ngành hàng.
3.3. Giải pháp phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn
địa lý Buôn Ma Thuột
Về lâu dài, Chính phủ có chính sách khuyến khích đầu tư vào cà phê có chỉ
dẫn địa lý, gắn việc phát triển chỉ dẫn địa lý "Cà phê Buôn Ma Thuột" với thương
hiệu quốc gia; trong đó, cần hình thành chuỗi liên kết và thành lập quỹ ngành hàng
cà phê để xúc tiến hoạt động thương mại, quảng bá thương hiệu và cho nông dân vay
vốn với lãi suất 0% để tái canh cà phê. Việc cấp chứng nhận chất lượng hàng năm
cho cà phê có chỉ dẫn địa lý cũng đang được các tổ chức có liên quan tiến hành, đặc
biệt là Nhà nước, sở ban ngành và hiệp hội cà phê.
Thông qua kinh nghiệm của một số doanh nghiệp cà phê CDĐL về nâng cao
chuỗi giá trị và mang lại lợi ích cho các khâu từ sản xuất sơ chế cho đến tiêu thụ sản
phẩm có thể đưa ra một số giải pháp như sau:
Một là xây dựng mô hình tổ hợp sản xuất, ổn định diện tích cà phê:
Một số doanh nghiệp cà phê CDĐL xây dựng được mô hình liên kết sản xuất
cho các nông hộ, thành lập được các hợp tác xã chuyên canh về cây cà phê, vận động
người trồng cà phê tham gia vào hợp tác xã đó và cam kết tạo ra giá trị tăng thêm cho
cà phê của họ làm ra. Từ đó đưa các mô hình sản xuất bền vững cho cây cà phê như
chứng chỉ 4C, VietGap, Utz… mà các nước đã và đang được áp dụng. Tiếp theo một
số doanh nghiệp đã thành lập được các Hợp tác xã chuyên canh cây cà phê và các hộ
nông dân tham gia vào thì từng bước áp dụng các quy chuẩn, áp dụng khoa học kỹ
thuật, thành lập được tổ kỹ thuật có trách nhiệm tham gia tập huấn cũng như hướng
dẫn nông dân theo quy trình bởi việc nông dân sản xuất cà phê nhỏ lẻ và ít áp dụng
kỹ thuật vào sản xuất gây thiệt hại về mặt năng suất cũng như tuổi đời của cây cà phê.
Và một số doanh nghiệp đã ổn định diện tích trồng cà phê trên mỗi nông hộ, để việc
64
chăm sóc và thu hoạch được diễn ra một cách tốt nhất mang lại hiệu quả cao nhất cho
các tác nhân tham gia vào chuỗi giá trị và chỉ nên mở rộng diện tích khi nhu cầu thị
trường tăng và thực hiện việc tái canh khi vườn cà phê già cỗi cho năng suất thấp.
Hai là, cải tiến kỹ thuật công nghệ và quan tâm đào tạo nhân lực cho ngành
cà phê:
Trong nghề trồng cà phê, vấn đề tạo hình được xem như một biện pháp kỹ
thuật bắt buộc với mục đích tạo cho cây cà phê có bộ tán cân đối, khai thác triệt để
không gian riêng có của mỗi cây, tạo sự cân bằng giữa sinh trưởng, ra hoa và đậu quả,
đồng thời, ổn định được sản lượng của vườn cây. Áp dụng tạo hình đơn thân, cây
được hãm ngọn. Khi được tạo hình đơn thân, cây cà phê được hãm ngọn ở độ cao
khoảng 1.5 mét, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc, cắt cành, phòng trừ sâu
bệnh, thu hoạch. Giống luôn là yếu tố kỹ thuật quan trọng hàng đầu, tạo ra bước đột
phá trong việc tăng năng suất, phẩm chất cây trồng cũng như các đặc tính chống chịu
sâu bệnh.
Lai tạo, tuyển chọn thành công các giống cà phê mới không những cho năng
suất cao, đạt từ 4,5 đến 7 tấn cà phê nhân/ha, kháng cao với bệnh gỉ sắt, mà còn có
kích cỡ hạt được cải thiện nên được các doanh nghiệp cà phê CDĐL chọn trồng. Kỹ
thuật bón phân cân đối dựa vào độ phì của đất và năng suất cây trồng được doanh
nghiệp hướng dẫn các nông hộ nên đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm chi phí
phân bón. Bên cạnh đó, tưới nước trở thành biện pháp mang tính quyết định đến năng
suất cà phê ở Tây Nguyên và các nông hộ có khuynh hướng sử dụng lượng nước tưới
quá cao so với nhu cầu của cây cà phê. Qua các nghiên cứu, một số doanh nghiệp
khuyến cáo các nông hộ, chỉ cần tưới 390 lít nước/gốc, với chu kỳ 22 đến 24 ngày/lần
tưới. Nếu chu kỳ tưới là 30 ngày, lượng nước tưới tương đương 530 lít/gốc vẫn đạt
năng suất bình quân 3,5 tấn cà phê nhân/ha, giảm gần 50% lượng nước tưới so với
trước đây. Đặc biệt, doanh nghiệp nhận rộng việc sản xuất cà phê có chứng nhận, xác
nhận như 4C, Utz, RAC đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao về chất
lượng sản phẩm, về nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm cà phê nhân, đồng thời thu
hoạch tỉ lệ quả chín phải đạt từ 90% trở lên, chế biến theo đúng quy trình để góp phần
nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê nhân của Việt Nam.
65
Đối với quy trình tái canh cà phê vối, doanh nghiệp cần khuyến cáo nông
Doanh nghiệp, doanh nghiệp thực hiện các giải pháp kỹ thuật nghiêm ngặt từ khâu
chặt bỏ cà phê già cỗi hết chu kỳ kinh doanh đến khâu khai hoang, rà rễ, thu gom rễ
nhằm loại bỏ nguồn dịch hại trên đồng ruộng, luân canh với các loại cây trồng khác
ít nhất 2 năm sau khi nhổ bỏ vườn cà phê già cỗi, sử dụng các giống mới cà phê đã
được công nhận để đưa vào trồng.
Ba là cải tiến thương mại và xuất khẩu:
Doanh nghiệp cần kiểm soát tốt đầu mối sản xuất cà phê, xây dựng nhà máy
chế biến và kho chứa đủ lớn và cập nhật thông tin về ngành cà phê. Bên cạnh đó,
doanh nghiệp cần đào tạo cán bộ có nghiệp vụ chuyên môn giỏi, ngoại ngữ thành thạo
để hoạt động xúc tiến thương mại, Hội chợ, xây dựng website cho doanh nghiệp, làm
việc trực tiếp với các nhà rang xay trong nước và trên thế giới. Doanh nghiệp còn
phải khuyến khích các công ty xuất khẩu đầu tư liên kết với các nông Doanh nghiệp
trồng cà phê, lập đại lý thu mua, nâng cấp hệ thống kho bãi, nhà máy chế biến cà phê
nhân xô hiện đại đạt chất lượng để xuất khẩu trực tiếp với các nhà rang xay quốc tế.
Bốn là, đẩy mạnh quảng bá, xúc tiến thương mại cà phê có CDĐL và bảo hộ
và quản lý CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột
Cần đẩy mạnh các hoạt động kết nối giữa các tập thể sản xuất với doanh
nghiệp, các nhà xuất khẩu để mở rộng thị trường và giá trị gia tang cho cà phê CDĐL,
cà phê chứng nhận bền vững; Tiếp tục đẩy mạnh các kênh thương mại cà phê nhân,
chú trọng bán trực tiếp đến các nhà rang xay. Kết nối bán cà phê CDĐL cho các nhà
rang xay trong nước; Sử dụng dấu hiệu CDĐL hoặc Logo trong giao dịch thương
mại, bao bì sản phẩm. Xây dựng phương án cụ thể xúc tiến thương mại sản phẩm cà
phê có CDĐL Buôn Ma Thuột, đặc biệt ở các nước đã được chấp nhận bảo hộ như:
Trung Quốc, Singapore, Pháp, Ý, Thái Lan, Đức, Tây Ban Nha, Nga, Canada, Bỉ, Hà
Lan, Luxămbua;
+ Tiếp tục phối hợp với Cục Sở hữu trí tuệ và Sở Khoa học và Công nghệ đáp
ứng các yêu cầu tìm hiểu, kiểm tra thực địa hệ thống quản lý kiểm soát CDĐL Buôn
Ma Thuột tại một số đơn vị được cấp quyền sử dụng CDĐL, tiếp tục bổ sung hoàn
thiện tài liệu đăng ký bảo hộ tại Nhật Bản; Phối hợp với Trung tâm phát triển nông
thôn (Viện Chính sách và chiến lược PTNN), Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk
66
Lawsk triển khai có hiệu quả dự án “Sửa đổi, mở rộng phạm vi bảo hộ và hỗ trợ hoàn
thiện hệ thống CDĐL Buôn Ma Thuột; Cấp quyền/ tái cấp quyền sử dụng CDĐL cà
phê Buôn Ma Thuột, cụ thể hướng dẫn các đơn vị có nhu cầu đăng ký sử dụng/tái sử
dụng CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột cho cà phê nhân, cà phê rang xay và các loại cà
phê chế biến sâu khác và đề nghị Sở KH và CN cấp quyền/tái cấp quyền sử dụng; Sau
khi mở rộng bảo hộ thành công CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột cho cà phê rang xay và
cà phê chế biến sâu, Hiệp hội cà phê Buôn Ma Thuột phối hợp với Sở KH&CN tỉnh Đắk
Lắk tiến hành triển khai những hoạt động kiểm soát việc sử dụng Logo và tên gọi “cà
phê Buôn Ma Thuột” trên phạm vi quốc gia và đề nghị xử lý những đơn vị xâm phạm
quyền sử dụng CDĐL Buôn Ma Thuột, bảo vệ thiết thực quyền lợi các doanh nghiệp cà
phê CDĐL Buôn Ma Thuột;
+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định quản lý cho các sản phẩm cà
phê chế biến sâu có sử dụng CDĐL Buôn Ma Thuột. Đề nghị Nhà nước ban hành các
quy định quản lý bên ngoài cho các sản phẩm cà phê chế biến sâu có sử dụng CDĐL
cà phê Buôn Ma Thuột; Thực hiện định kỳ việc kiểm soát nội bộ các đơn vị sản xuất
kinh doanh cà phê nhân, cà phê chế biến sâu có sử dụng CDĐL Buôn Ma Thuột, phối
hợp với ngành nông nghiệp để cấp mã vùng trồng cho các đơn vị sản xuất thuộc vùng
CDĐL Buôn Ma Thuột;
67
KẾT LUẬN
Đắk Lắk được mệnh danh là thủ phủ cà phê của Việt Nam. Sản phẩm cà phê
đã làm nên danh tiếng cho Đắk Lắk nói riêng và Việt Nam nói chung, đặc biệt là khi
năm 2005 cà phê Đắk Lắk chính thức được đăng bạ CDĐL, được bảo Doanh nghiệp
ở Việt nam và trên thị trường thế giới. Đây là một lợi thế để cà phê Buôn Ma Thuột
có thể đẩy mạnh xuất khẩu, xây dựng thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc
tế. Nhờ CDĐL, cà phê Buôn Ma Thuột trong những năm qua đã được hưởng lợi về
giá, sản lượng xuất khẩu và giúp bà con nông dân ngày càng đáp ứng được các quy
chuẩn về phát triển nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường.
Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê mang chỉ dẫn địa lý có những khác biệt
so với chuỗi giá trị của sản phẩm cà phê thông thường. Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu tạo
nên danh tiếng của sản phẩm cà phê, được xác định bằng mức độ tín nhiệm của người
tiêu dùng đối với sản phẩm, thông qua đó việc doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị cà
phê mang chỉ dẫn địa lý luôn thuận lợi hơn so với các sản phẩm chưa đăng ký chỉ dẫn
địa lý. Khi tham gia chuỗi giá trị, sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý thường có giá
bán cao hơn, có cơ hội gia tăng xuất khẩu hơn, dễ dàng tiếp cận các thị trường khó
tính hơn so với các sản phẩm không mang chỉ dẫn địa lý. Đối với cà phê chỉ dẫn địa
lý Buôn Ma Thuột, chỉ dẫn địa lý là một công cụ quan trọng để tham gia chuỗi giá
trị, giữ gìn các bí quyết sản xuất kinh doanh truyền thống, nâng cao sức cạnh tranh
và quảng bá sản phẩm, phát triển du lịch. Tuy nhiên, để tham gia chuỗi giá trị một
cách hiệu quả, rất cần phải học tập kinh nghiệm từ các nước khác trong việc nâng cấp
năng lực tham gia chuỗi của các tác nhân, vừa đảm bảo chất lượng sản phẩm khi đăng
ký chỉ dẫn địa lý, vừa khơi thông các điểm nghẽn giữa các tác nhân trong dòng chảy
của chuỗi. Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy, chỉ dẫn địa lý chỉ
là một “giấy phép thông hành” để sản phẩm cà phê Buôn Ma Thuột được “thông
quan” dễ dàng ở các thị trường khó tính nhằm phát triển, quảng bá và có cơ hội xuất
khẩu cao; còn để doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị của doanh nghiệp
cà phê toàn cầu, thì sản phẩm cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột có rất nhiều việc
phải làm để khắc phục được vị trí tham gia yếu kém như hiện nay, tiếp tục nâng cấp
vị trí trong chuỗi trong tương lai.
68
Trong thời gian qua các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê CDĐL Buôn
Ma Thuột đã ngày càng thể hiện vị trí và chỗ đứng trên thị trường cà phê trong nước
và thế giới. Tuy nhiên, doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột gặp nhiều khó
khăn trong việc tham gia chuỗi giá trị. Xét trong toàn hệ thống chuỗi giá trị của doanh
nghiệp, doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột mới chỉ tham gia chủ yếu vào
những công đoạn giản đơn, có giá trị gia tăng thấp như thu gom, sơ chế cho xuất khẩu
thô. Trong khi đó, những công đoạn có giá trị gia tăng cao như rang xay, chế biến
sâu, phân phối bán lẻ và xây dựng thương hiệu, doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn
Ma Thuột còn tham gia rất hạn chế. Sau nhiều năm tham gia sử dụng chỉ dẫn địa lý
cà phê Buôn Ma Thuột, giá trị gia tăng của sản phẩm đối với từng nhóm tác nhân và
từng khâu trong chuỗi không được như kỳ vọng, chỉ tăng lên chút ít so với các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh không tham gia sử dụng chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma
Thuột. Hơn nữa, những hướng dẫn để đảm bảo doanh nghiệp cà phê đáp ứng chỉ dẫn
địa lý Buôn Ma Thuột chưa đạt hiệu quả cao, chưa khiến doanh nghiệp hiểu được lợi
ích khi tham gia và trong quá trình tham gia doanh nghiệp phải chịu nhiều áp lực từ
các khâu kiểm soát, đánh giá và báo cáo. Những áp lực, khó khăn này, cộng với giá
sản phẩm đầu ra tăng không cao như kỳ vọng khiến các doanh nghiệp tham gia sử
dụng chỉ dẫn địa lý không đông (cho đến năm 2019, mới có 12 doanh nghiệp cà phê
sử dụng CDĐL Buôn Ma Thuột), thậm chí khi tham gia sử dụng chỉ dẫn địa lý đã
không tuân thủ các quy định của các quyết định đã ban hành vì những mục tiêu lợi
nhuận trước mắt. Chính vì vậy, chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê sử dụng chỉ dẫn
địa lý cà phê Buôn Ma Thuột dường như đã bị đứt gãy và chịu hiệu ứng “Bullwhip”
ngay từ các khâu ban đầu, không thể tiếp tục tham gia sâu vào các khâu sau tạo giá
trị gia tăng cho sản phẩm cuối cùng. Trong việc tham gia chuỗi giá trị, doanh nghiệp
cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột còn bộc lộ nhiều thiếu sót và trở ngại, lý do là: so với
việc phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê thông thường, việc xây dựng chỉ
dẫn địa lý cho sản phẩm cà phê gặp một số khó khăn do mất đi chi phí đáng kể, không
chỉ cho cơ cấu tổ chức và thể chế mà còn cho các chi phí vận hành như marketing và
thực thi luật pháp. Trong một số trường hợp, do không quy hoạch và quản lý thích
hợp, có thể gây ra sự lãng phí nguồn lực hạn chế, đầu tư vào doanh nghiệp cà phê
CDĐL không có triển vọng. Bên cạnh đó, dưới sức ép của cạnh tranh trên thị trường
69
quốc tế, từ các tập đoàn thương mại xuyên quốc gia, từ các thương hiệu cà phê nổi
tiếng trên toàn cầu, doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột đang gặp rất nhiều
khó khăn trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm,
nâng cấp vị trí sản phẩm từ xuất khẩu cà phê nhân sang khâu rang xay, chế biến và
tiêu thụ sản phẩm cuối cùng đến tay người tiêu dùng. Việc bảo hộ nhãn mác CDĐL
cũng mới chỉ dừng ở cà phê nhân Robusta, chứ chưa thể nâng cấp lên bảo hộ nhãn
mác CDĐL ở khâu rang xay. Hơn nữa, các doanh nghiệp tham gia cà phê CDĐL
Buôn Ma Thuột còn gặp nhiều sức ép từ phía các đối tác trong và ngoài nước về các
yêu cầu do họ đặt ra, không đúng với quy định về chất lượng sản phẩm và lo go đã
đăng ký chỉ dẫn địa lý. Những thiếu sót và hạn chế trên là những nguyên nhân chủ
yếu khiến doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột chưa thể tham gia sâu vào
chuỗi giá trị của doanh nghiệp toàn cầu, bị cạnh tranh ngay cả trên sân nhà đối với
các sản phẩm nhập khẩu và trở nên yếu thế trên thị trường quốc tế. Để gỡ bỏ các nút
thắt trên thì việc duy trì và phát triển doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột
tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp toàn cầu là rất cần thiết.
Do vậy, có thể nói rằng để phát triển chuỗi giá trị cho các doanh nghiệp cà phê
CDĐL Buôn Ma Thuột, chính phủ, tỉnh Đắk Lắk và các bộ ban ngành hiện nay đang
tập trung giúp các doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột nâng cao công tác bảo
hộ chỉ dẫn địa lý, quản lý chỉ dẫn địa lý và hỗ trợ các doanh nghiệp đăng ký chỉ dẫn địa
lý tham gia để tạo giá trị cao hơn cho sản phẩm cà phê Buôn Ma Thuột, nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm.
70
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tiếng Việt
1. Hiền Anh (2017). “Chỉ dẫn địa lý cho cà phê Đắk Lắk”, Báo nhân dân điện tử,
15/6/2017
2. Hoàng Thuý Bằng (2004), Nâng cao cạnh tranh của ngành cà phê robusta Việt
Nam, Bộ nông nghệp và phát triển nông thôn
3. Doris Becker, Phạm Ngọc Trâm, Hoàng Đình Tú (2009), Phát triển chuỗi giá trị -
công cụ gia tăng giá trị cho sản xuất nông nghiệp, GTZ, tháng 3
4. Trần Quỳnh Chi (2005). Báo cáo nghiên cứu đánh giá tác động thực tiễn sử dụng đầu
vào cho sản xuất cà phê tỉnh Đắk Lắk, Trung tâm tư vấn chính sách nông nghiệp
5. Nguyễn Văn Hoá, Mai Văn Xuân (2012). “Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của cà
phê tỉnh Đắk Lắk trong thị trường Hội nhập”, Tạp chí khoa học, Đại học Huế,
tập 72 B, số 3
6. Công Hoan (2012). “Cà phê thương hiệu Buôn Ma Thuột: vì sao không dán nhãn
để xuất khẩu ?”, Báo Sài gòn giải phóng, 4/12/2012
7. Huấn Đào Đức Huấn (2016). “Hiện trạng và định hướng nâng cao hiệu quả về quản
lý kiểm soát Chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam”, Tài liệu Hội thảo “Chỉ dẫn địa lý và
những cam kết trong khuôn khổ hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam – EU
(EVFTA), TP. Hồ Chí Minh, 7/2016
8.Vũ Tuấn Hưng (2015). Xây dựng và phát triển thương hiệu Chỉ dẫn địa lý ở Việt
Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
9. Lê Hương (2017). “Phát triển chuỗi giá trị nông sản Tây Nguyên: nút thắt cần tháo
gỡ”, Báo Đắk Lắk, 18/4/2017
10. Trần Tiến Khai (2013), Phân tích chuỗi giá trị và ngành hàng nông nghiệp,
Chương trình giảng dạy kinh tế Fubright;
11. Công Huyền Tôn Nữ Tuấn Nam (2018), Xây dựng mô hình liên kết nông dân –
doanh nghiệp để sản xuất và kinh doanh cà phê mang chỉ dẫn địa lý cà phê
Buôn Ma Thuột, Hiệp Hội cà phê Buôn Ma Thuột, tháng 3/2018
12. Đỗ Thị Nga, Lê Đức Niêm (2016). “Liên kết Doanh nghiệp nông dân và doanh
nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ cà phê ở Tây Nguyên”, Tạp chí khoa học nông
71
nghiệp Việt Nam, tập 14, số 11
13. Hà Văn Sự (2016). “Tăng cường năng lực và hiệu quả tham gia chuỗi giá trị toàn
cầu cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo “Phát triển
thương mại Việt Nam giai đoạn 2016-2025”, Bộ công thương, MUTRAP
14. Nguyễn Ngọc Thắng, Nguyễn Tất Thắng, Nguyễn Thành Công (2017). “Phân
tích rủi ro trong sản xuất cà phê của các Doanh nghiệp nông dân trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk”, Tạp chí khoa học nông nghiệp Việt Nam, tập 15, số 2
15. Thủ tướng chính phủ (2012), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã Hội vùng Tây
Nguyên đến năm 2020, quyết định số 936/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ, tháng
7.2012
16. Hồ Thanh Thuỷ (2017). “Giải pháp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cho nông
sản Việt Nam”, Tạp chí lý luận chính trị, số 5
17. Nguyễn Thanh Trúc, Đỗ Thị Nga, Nguyễn Văn Minh (2012). “Cạnh tranh chât lượng
sản phẩm cà phê nhân của Đắk Lắk”, Tạp chí khoa học và phát triển, tập 10, số 7
18. Phan Thị Thanh Trúc, Nguyễn Thị Thuý Hạnh (2016). “Mối liên kết giữa các tác
nhân trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê khu vực Tây Nguyên”, Tạp
chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng
19. Bùi Quang Tuấn và nhóm nghiên cứu (2014). “Cà phê Tây Nguyên trong chuỗi
giá trị toàn cầu”, Tạp chí Phát triển bền vững Vùng, số 4, tháng 12
20. Bùi Tuấn (2008), Kết quả thực hiện thử nghiệm chuỗi giá trị cà phê cho đồng bào
thiểu số, GTZ, Buôn Ma Thuột, tháng 11/2008
21. UBND tỉnh Đắk Lắk (2010), Quy chế quản lý, sử dụng chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn
Ma Thuột đối với sản phẩm cà phê nhân Robusta, Buôn Ma Thuột, tháng 6/2010
22. UBND tỉnh Đắk Lắk (2017), Đề án phát triển cà phê bền vững tỉnh Đắk Lắk đến
năm 2020 và định hướng đến năm 2030
23. Lê Anh Vũ (2016), Liên kết nội vùng trong phát triển bền vững vùng Tây Nguyên,
Đề tài Tây Nguyên TN3/X16
24. Trần Văn Ý, Nghiên cứu xây dựng bộ chỉ tiêu phát triển bền vững về các lĩnh vực
kinh tế, xã Hội và môi trường các tỉnh Tây Nguyên, Đề tài TN3/T08
25. Tạ Hoàng Linh, Vụ trưởng Vụ thị trường Âu - Mỹ, Bộ Công Thương
26. Trịnh Đức Minh, Báo cáo Quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma
72
Thuột, PGĐ Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Lắk, Phó chủ tịch hiệp hội Cà
phê Buôn Ma Thuột.
27. Minh Thông (2018), Công nghiệp chế biến nông sản: thô nhiều, tinh ít, Báo Đắk
Lắk, 16/8/2018
28. Nhân dân điện tử, Cà phê: chế biến sâu, xuất khẩu vững, 9/11/2019
B. Tiếng Anh
29. Prableen Bajpai (2017). “Starbucks as an example of the value chain model”, CFA
(ICFF30.
30. Penny Bamber, Karina Fernandez-Stark, Gary Gereffi, Andrew Guinn (2014).
“Connecting Local Producers in Developing countries to regional and global
value chains”, OECD Trade Policy (160)
31. Stephanie Barrientos, Gary Gereffi, và Arianna Rossi (2010), Economic and
social upgrading in global production networks - developing a framework for
analysis, Đại học Manchester
32. Brasileiro (2017). “Brazilian coffe production: overcoming the challenges of
sustainability”, 7th Consultative forum on coffe sector finance, September
33. Timothy J Dowding, “The coffee bean: a value chain and sustainability initiatives
analysis”, University of Connecticut, Stamford CT USA
34. Claire Durand, Stephance Fourier (2017). “Can geographical indications modernize
Indonesian and Vietnamese Agriculture ?”, Analyzing the role of national and
local goverments and producers’s strategies, Wolrd Development, Vol 98, p93-
104.
35. Luis F.Samper, Xiomara F.Quinones Ruiz (2017). “Towards a balanced
sustainability vision for the coffee industry”, Resources 2017, 6,17,
www.mdpi.com/journal/resources
36. FAO (2007), Agro-industrial supply chain management: concepts and applications
37. FAO (2015), Value chain analysis for Shan tea and Arabica coffee under climate
change in the Northern Mountainous region of Vietnam, Policy Brief No 4.
38. GPMG International (2013), The agricultural and food value chain: entering a
new are of cooperation, kpmg.com Global life sciences.
39. GTZ. ValueLinks Manual. The Methodology of Value Chain Promotion. First Edition.
73
40. ICO (2017), Vietnam: the future of coffee, Global Coffee platform
41. KPMG (2013) The agricultural and food value chain: entering a new era of
cooperation, Global life sciences
42. Melissa Murphy. “The coffe bean: a value chain and sustainability initiatives
analysis”, University of Connecticut, Stamford, USA
43. Jeffrey Neilson (2013), The value chain for Indonesian coffee in a green economy,
University of Syney, January
44. Stefano Pone (2004), “Standards and sustainability in the coffee sector”, IISD, May
45. Porter, M, E (1985). “The Competitive Advantage: Creating and Sustaining Superior
Performance”, NY: Free Press, 1985. (Republished with a new introduction, 1998)
46. Kaplinsky R và Morris M. (2001), A handbook for value chain research, Insitute
for international development research center (IDRC)
47. TechnoServe (2013), Brazil: a business case for sustainable coffee production,
IDH, December
48. Teuber Ramona Teuber (2007). “Geographical indications of origin as a tool of
product differentiation: the case of coffee”, 105th EAAE seminar “International
marketing and international trade of quality food products, Italy, March;
49. Sonja Vermeulen , Jim Woodhill, Felicity Procor, Rik Delnoye (2008), Chain
wide learning for inclusive agrifood market development: a guide to multi-
stakholder process for linking small scale producers to modern
74
PHỤ LỤC
PHIẾU ĐIỀU TRA CƠ SỞ/DOANH NGHIỆP SƠ CHẾ, CHẾ BIẾN VÀ
TIÊU THỤ SẢN PHẨM CÀ PHÊ
Người điều tra:……………………………………………………………….
Ngày điều tra: ………………………………………………………………..
Xã: ……………………………………………………………………………
Huyện: ………………………………………………………………………..
I. THÔNG TIN VỀ DOANH NGHIỆP
1.1. Thông tin chung
Tên doanh nghiệp/cơ sở: :……………………………………………………
Địa chỉ: :……………………………………………………………………….
Xã: :……………………………………………………………………………
Huyện: :……………………………………………………………………….
1.2. Hình thức sở hữu của cơ sở/doanh nghiệp
Hợp tác xã
Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn
Công ty cổ phẩn
Doanh nghiệp FDI
Doanh nghiệp nhà nước
Khác, cụ thể
1.3. Sản phẩm chính của cơ sở/doanh nghiệp (chọn 1 sản phẩm lớn nhất
theo doanh thu):………………
1.4. Doanh nghiệp liên quan đến giai đoạn nào của chuỗi giá trị của
doanh nghiệp cà phê?
75
Cung ứng vật tư nguyên
liệu
Sản xuất, trồng cà phê
Thu gom cà phê
Sơ chế cà phê
Chế biến cà phê
Tiêu thụ sản phẩm cà phê,
trong đó:
Bán lẻ
Đại lý các cấp
Xuất khẩu
II. LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
2. 1. Cơ sở/doanh nghiệp có thuê lao động không?
2. 2. Nếu có, hình thức thuê theo cách nào dưới đây:
2. 3. Số lượng lao động thuê tối đa bao nhiêu:……………..
2. 4. Lao động làm thuê thường từ đâu đến:
1. Người cùng xã
2. Người khác xã
3. Người cùng huyện
4. Người khác huyện, tỉnh
2. 5. Lao động làm thuê thuộc nhóm dân tộc nào:
1. Dân tộc Kinh
2. Dân tộc thiểu số tại chỗ
(Tây Nguyên)
3. Dân tộc thiểu số nhập cư
76
2.6. Chi phí thu lao động hàng năm so với tổng thu nhập Doanh nghiệp
gia đình:
2.7. Số lao động tại thơi điểm hiện tại phân theo loại hợp đồng:
Thời hạn hợp đồng
Bằng văn bản
Bằng miệng
Hợp đồng không xác định thời hạn
Hợp đồng xác định thời hạn > 1 năm
Hợp đồng xác định thời hạn 1 năm
Hợp đồng xác định thời hạn <1 năm
Lao động thời vụ
Tổng lao động
2.8. Số lao động làm việc tại doanh nghiệp/cơ sở đến từ đâu”
1. Trong tỉnh
2. Ngoài tỉnh (trong vùng Tây Nguyên)
3. Ngoài tỉnh (ngoài vùng Tây Nguyên)
2.9. Đào tạo và đào tạo lại lao động của doanh nghiệp/cơ sở
- Nếu có, thì hình thức đào tạo là:
1. Kèm cặp qua công việc
2. Mở các khoá đào tạo tại chỗ
3. Gửi đi đào tạo
4. Khác, cụ thể là………
77
III. THAM GIA THỊ TRƯỜNG NGUYÊN LIỆU ĐẦU VÀO
3.1. Liệt kê 3 loại nguyên vật liệu đầu vào lớn nhất theo chi phí
1…………………………………………………..
2…………………………………………………..
3…………………………………………………..
3.2. Đối tượng cung cấp nguyên liệu đầu vào cho sơ chế, chế biến cà phê
NL đầu
NL đầu
NL đầu
vào 1
vào 2
vào 3
Doanh nghiệp gia đình và cá nhân
(SX trực tiếp)
Doanh nghiệp gia đình và cá nhân
(bán buôn, bán lẻ)
DN ngoài quốc doanh
DN nhà nước
Nhập khẩu trực tiếp
DN FDI
Khác, cụ thể
3.3. Địa chỉ người bán chủ yếu
NL đầu
NL đầu
NL đầu
vào 1
vào 2
vào 3
Cùng xã
Cùng huyện
Cùng tỉnh
Khác tỉnh
Nhập khẩu trực tiếp (ghi tên nước
nhập khẩu)……………..
78
3.3. Nguồn thông tin chủ yếu về nguyên liệu đầu vào của cơ sở/doanh
nghiệp (chọn 1 phương án cho mỗi nguyên liệu)
NL đầu
NL đầu
NL đầu
vào 1
vào 2
vào 3
Tự tìm hiểu thị trường
Được người thân, bạn bè mách bảo
Thông qua xúc tiến thương mại
Các tổ chức đoàn thể cung cấp
Khác, cụ thể là:
3.4. Cạnh tranh chủ yếu trong việc mua nguyên liệu đầu vào của cơ
sở/doanhnghiệp
NL đầu vào 1
NL đầu vào 2
NL đầu vào 3
Không có cạnh tranh Từ các Doanh nghiệp gia đình Từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Từ các DN nhà nước Từ các DN FDI Từ buôn lậu Khác, cụ thể là:
3.5. Những rủi ro thường gặp khi mua nguyên liệu đầu vào:
Không bị rủi ro Giá mua cao hơn giá thị trường Mua phải đầu vào kém chất lượng Không đáp ứng chu kỳ sản xuất Khác, cụ thể là
NL đầu vào 1
NL đầu vào 2
NL đầu vào 3
79
3.6. Khắc phục rủi ro bằng cách nào
NL đầu vào 1
NL đầu vào 2
NL đầu vào 3
Không có biện pháp Vay vốn để bù đắp Bán tài sản Thu hẹp sản xuất Khác, cụ thể là
IV. THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM LỚN NHẤT THEO
DOANH THU DOANH NGHIỆP/CƠ SỞ
4.1. Kênh tiêu thụ chủ yếu hàng hoá của doanh nghiệp/cơ sở
Bán lẻ trực tiếp Thông qua đại lý bán buôn Thông qua đại lý bán lẻ Qua trung gian, môi giới Qua xúc tiến thương mại của nhà nước Bán cho doanh nghiệp FDI Khác, cụ thể
4.2. Đối tượng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp/cơ sở
Doanh nghiệp gia đình và cá nhân (tiêu dùng
trực tiếp)
Doanh nghiệp gia đình và cá nhân (dùng làm
nguyên vật liệu sản xuất/bán buôn/bán lẻ)
DN ngoài quốc doanh
DN nhà nước
Cơ quan địa phương
Xuất khẩu trực tiếp
DN FDI
Khác, cụ thể:
80
4.3. Rủi ro trong quá trình tiêu thụ sản phẩm (đánh thứ tự 1-3 theo mức độ
rủi ro, lựa chọn tối đa 3 câu trả lời)
Thiếu thông tin nên giá bán thấp
Nhiều hàng tồn đọng nên khó bán
Không thu được tiền bán chịu
Sản phẩm hỏng
Thay đổi thị hiếu khách hang
Ít rủi ro
2.3. Chi phí sơ chế, chế biến sản phẩm cà phê của doanh nghiệp
Ông bà có thể ước tính các khoản chi phí liên quan đến sơ chế, chế biến
cà phê (tính theo giá bình quân năm 2019)
Chi phí
Đơn vị tính (đồng/tấn)
Tiền mua nguyên liệu
đầu vào
Chi phí sơ chế (khấu
khao công nghệ)
Chi phí chế biến (khấu
hao công nghệ)
Chi phí đóng gói
Chi phí thuê mướn
Chi phí vận chuyển
Chi phí kho bãi
Chi phí quảng bá và phát
triển thị trường
Chi phí khác
Tổng chi phí
81
4. DOANH THU TỪ SƠ CHẾ, CHẾ BIẾN
4.1.Doanh thu và thu nhập thực tế từ sơ chế, chế biến cà phê (năm 2019)
Sản lượng sơ chế, chế biến (kg/ha)
Giá bán 1 kg cà phê sau khi sơ
chế/chế biến (đồng/kg)
Thu nhập từ sơ chế/chế biến cà phê
(đồng/kg)
Tổng chi phí sơ chế/chế biến
(đồng/ha)
Lợi nhuận (đồng/kg)
4.2. Theo ông/bà, doanh thu và thu nhập từ sơ chế, chế biến hiện nay so với
các cơ sở sơ chế/chế biến khác là:
1.Rất cao
2.Cao
3. Bình thường
4. Khác
5. LIÊN KẾT GIỮA CƠ SỞ/DOANH NGHIỆP SƠ CHẾ, CHẾ BIẾN
VỚI CÁC TÁC NHÂN KHÁC
5.1. Tình trạng liên kết giữa cơ sở /doanh nghiệp với các tác nhân khác
5.1.1 Cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà có liên kết với các Doanh nghiệp nông
dân để mua/bán cà phê không?
5.1.2. Cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà có ký hợp đồng với bên thu mua sản
phẩm không?
5.1.3. Nếu có, hình thức hợp đồng là gì:
1. Cam kết bằng miệng, dựa vào
niềm tin
82
2. Ký kết hợp đồng bằng văn bản
theo mùa vụ
3. Ký kết hợp đồng theo thời hạn 3
năm với mức ổn định giá
4. Ký kết hợp đồng thời hạn 3 năm
theo giá thực tế hàng năm
5. Khác
5.2. Mức độ liên kết giữa cơ sở/doanh nghiệp của ông/bàvới các tác nhân
khác
5.2.1. Mức độ tin tưởng khi liên kết giữa Cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà với
các Doanh nghiệp nông dân
1. Rất tốt
2. Tốt
3. Khá
4. Trung bình
5. Yếu (chưa đạt)
3.4.2. Mức độ tin tưởng khi liên kết giữa cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà với
các Doanh nghiệp/cơ sở thu gom khác
1. Rất tốt
2. Tốt
3. Khá
4. Trung bình
5. Yếu (chưa đạt)
3.4.3. Quyền lực của cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà khi liên kết với Doanh
nghiệp nông dân (trả lời câu hỏi Có hay Không)
Các hoạt động
Có
Không
83
1. Thực hiện ký kết
hợp đồng với đại lý
thu mua
2. Giá cả sản phẩm
được xác định tại thời
điểm bán
3. Kiểm tra hàng kỹ
lưỡng
4. Thường xuyên liên
lạc với đối tác qua
kênh chính thức
5. Nhận tiền khi giao
hàng
6. Bán cho nhiều
thương lái khác nhau
3.4.3. Mức độ tin tưởng khi liên kết cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà với các cơ
sở chế biến khác
1. Rất tốt
2. Tốt
3. Khá
4. Trung bình
5. Yếu (chưa đạt)
3.4.4. Quyền lực của cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà khi liên kết với các
doanh nghiệp chế biến khác (trả lời câu hỏi Có hay Không)
Có
Không
Các hoạt động 1. Thực hiện ký kết hợp đồng với đại lý thu mua 2. Giá cả sản phẩm được xác định tại thời điểm bán 3. Kiểm tra hàng kỹ lưỡng
84
4. Thường xuyên liên lạc với đối tác qua kênh chính thức 5. Nhận tiền khi giao hàng
IV. Thuận lợi và khó khăn đối với cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà
4.1. Cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà gặp thuận lợi gì khi thực hiện các hoạt
động sơ chế, chế biến sản phẩm cà phê? (tích dấu V để chọn các câu trả lời
đúng nhất)
Rất thuận lợi
Thuận lợi
Bình thường
Khó khăn
Rất khó khăn
Vùng nguyên liệu Sản lượng thu mua nguyên liệu Công suất sơ chế/chế biến Công nghệ sơ chế/chế biến Chất lượng sản phẩm sơ chế/chế biến Thuê lao động Thị trường đầu ra cho sản phẩm (bán buôn, trong nước Thị trường đầu ra cho sản phẩm (xuất khẩu) Thị trường đầu ra cho sản phẩm (bán lẻ trong nước) Thu hồi vốn từ sơ chế/chế biến cà phê Khác
85
4.2. Cơ sở/doanh nghiệp gặp khó khăn gì khi khi thực hiện các hoạt động sơ chế,
chế biến sản phẩm cà phê? (tích dấu V để chọn các câu trả lời đúng nhất)
Bình thường Khó khăn
Rất khó khăn
Thiếu vốn Công nghệ không phù hợp
Thiếu thông tin thị trường Liên kết với các doanh nghiệp phụ trợ Liên kết với Hiệp Hội Lợi ích cục bộ của doanh nghiệp Thiếu niềm tin giữa các doanh nghiệp Cạnh tranh thiếu lành mạnh Khác, cụ thể
4.3. Cơ sở/doanh nghiệp có kiến nghị gì để nâng cao hiệu quả sơ chế, chế
biến và tiêu thụ sản phẩm cà phê?
----------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------------------
XIN CẢM ƠN ÔNG/BÀ
86