VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC TRÍ

PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA DOANH

NGHIỆP CÀ PHÊ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ (CDĐL)

BUÔN MA THUỘT

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

Hà Nội, 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NGỌC TRÍ

PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA DOANH

NGHIỆP CÀ PHÊ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ (CDĐL)

BUÔN MA THUỘT

Ngành: Quản trị kinh doanh

Mã số: 8.34.01.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS. TS TRẦN THỊ LAN HƯƠNG

Hà Nội, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, chưa

được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào của người khác. Việc

sử dụng kết quả trích dẫn tài liệu của người khác đảm bảo theo đúng các quy

định. Các nội dung trích dẫn và tham khảo các tài liệu, sách báo, thông tin được

đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí trang web theo danh mục tài liệu tham khảo

của luận văn.

Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2020

Tác giả luận văn

Nguyễn Ngọc Trí

LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian thực hiện đề tài: “Phát triển chuỗi giá trị của doanh

nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý (CDĐL) Buôn Ma Thuột”. Tôi gửi lời cám ơn

chân thành đến giáo viên hướng dẫn khoa học PGS.TS Trần Thị Lan Hương–

Ban Quản lý khoa học – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã dành

nhiều tâm huyết, tận tình hướng dẫn chỉ bảo tôi trong suốt quá trình nghiên cứu

đề tài này.

Tôi xin chân thành cảm ơn Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Lắk,

Hiệp hội cà phê Buôn Ma Thuột, Công ty cổ phần An Thái đã tạo điều kiện

giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thu thập tài liệu cho đề tài.

Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài, tôi đã nhận được nhiều sự giúp

đỡ cùng vói sự động viên, khích lệ rất nhiều từ phía gia đình và bạn bè. Tôi xin

chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và ghi nhận những tình cảm quý báu đó.

Xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN

VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ

CHỈ DẪN ĐỊA LÝ .............................................................................................. 7

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu............................................................ 7

1.2.Khái niệm .............................................................................................. 14

1.3. Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà

phê chỉ dẫn địa lý ......................................................................................... 21

1.4 Kinh nghiệm trong việc tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê

CDĐL .......................................................................................................... 27

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA DOANH

NGHIỆP CÀ PHÊ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ BUÔN MA THUỘT ....................... 34

2.1 Thực trạng sản xuất cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột ................... 34

2.2. Thực trạng phát triển doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột .... 40

2.3. Phân tích chuỗi giá trị của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cà phê

chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột. .................................................................... 47

2.4 Đánh giá chung về phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL

Buôn Ma Thuột ............................................................................................ 53

Chương 3: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ

CỦA DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ BUÔN MA THUỘT .. 56

3.1. Bối cảnh phát triển cà phê thế giới và trong nước ................................ 56

3.2.Triển vọng phát triển cà phê Đắk Lắk ................................................... 62

3.3. Giải pháp phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý

Buôn Ma Thuột ............................................................................................ 64

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 68

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 71

PHỤ LỤC .......................................................................................................... 75

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CGT

Chuỗi giá trị

CDĐL

Chỉ dẫn địa lý

International Coffee

ICO

Tổ chức cà phê Quốc tế

Organization

Tổ chức Thương mại Thế

WTO

World Trade Organization

giới

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

FDI

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Diện tích cà phê nhân CDĐL Buôn Ma Thuột ......................... 38

Bảng 2.2. Phân loại hệ thống quản lý nội bộ của các doanh nghiệp cà phê

CDĐL Buôn Ma Thuột ..................................................................... 42

Hình 3.2. Sơ đồ chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn

Ma Thuột ........................................................................................... 48

Bảng 3.1 Số lượng và giá trị xuất khẩu cà phê Việt Nam trong giai đoạn

2010 – 2018 ....................................................................................... 60

DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ

Hình 1.1: Sơ đồ chuỗi giá trị đơn giản của sản phẩm cà phê .................... 23

Hình 1.2: Sơ đồ chuỗi giá trị mở rộng của sản phẩm cà phê .................... 24

Hình 3.1. Logo cà phê Buôn Ma Thuột .................................................... 37

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Mỗi doanh nghiệp là một tập hợp các hoạt động từ thiết kế, sản xuất, bán hàng

và hỗ trợ dịch vụ khách hàng và tất cả các hoạt động này được liên kết thành một

chuỗi. Khái niệm chuỗi giá trị lần đầu tiên được M.Porter đưa ra trong cuốn sách

Competitive Advantage (Lợi thế Cạnh tranh) vào năm 1985. Chuỗi giá trị được hiểu

là “tổng thể các hoạt động liên quan đến sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm hoặc dịch

vụ nào đó. Trong chuỗi giá trị diễn ra quá trình tương tác giữa các yếu tố cần và đủ

để tạo ra một hoặc một nhóm sản phẩm và các hoạt động phân phối, tiêu thụ sản

phẩm, nhóm sản phẩm đó theo một phương thức nhất định. Giá trị tạo ra của chuỗi

bao gồm các giá trị tạo ra tại mỗi công đoạn của chuỗi”.

Chuỗi giá trị của doanh nghiệp sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý có những

khác biệt so với chuỗi giá trị của doanh nghiệp sản phẩm cà phê thông thường. Chỉ

dẫn địa lý (CDĐL) là dấu hiệu tạo nên danh tiếng của sản phẩm cà phê, được xác

định bằng mức độ tín nhiệm của người tiêu dùng đối với sản phẩm. Thông qua đó,

việc tham gia chuỗi giá trị của sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý luôn thuận lợi

hơn so với các sản phẩm chưa đăng ký chỉ dẫn địa lý. Khi doanh nghiệp tham gia

chuỗi giá trị, sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý thường có giá bán cao hơn, có cơ

Hội gia tăng xuất khẩu hơn, dễ dàng tiếp cận các thị trường khó tính hơn so với các

sản phẩm không mang chỉ dẫn địa lý. Đối với doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý

Buôn Ma Thuột, chỉ dẫn địa lý là một công cụ quan trọng để doanh nghiệp tham gia

chuỗi giá trị, giữ gìn các bí quyết sản xuất kinh doanh truyền thống, nâng cao sức

cạnh tranh và quảng bá sản phẩm, phát triển du lịch. Các công trình nghiên cứu trong

và ngoài nước cho thấy, chỉ dẫn địa lý chỉ là một “giấy phép thông hành” để doanh

nghiệp cà phê Buôn Ma Thuột được “thông quan” dễ dàng ở các thị trường khó tính

nhằm phát triển, quảng bá và có cơ Hội xuất khẩu cao.

Đắk Lắk được mệnh danh là thủ phủ cà phê của Việt Nam. Sản phẩm cà phê đã

làm nên danh tiếng cho Đắk Lắk nói riêng và Việt Nam nói chung, đặc biệt là khi

năm 2005 cà phê Đắk Lắk chính thức được đăng ký CDĐL, được bảo Doanh nghiệp

ở Việt nam và trên thị trường thế giới. Đây là một lợi thế để doanh nghiệp cà phê

Buôn Ma Thuột có thể đẩy mạnh xuất khẩu, xây dựng thương hiệu trên thị trường

1

trong nước và quốc tế. Nhờ CDĐL, doanh nghiệp cà phê Buôn Ma Thuột trong những

năm qua đã được hưởng lợi về giá, sản lượng xuất khẩu.

Tuy nhiên, trong thời gian qua các doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột

gặp nhiều khó khăn trong việc tham gia chuỗi giá trị. Xét trong toàn hệ thống chuỗi

giá trị, doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột mới chỉ tham gia chủ yếu vào

những công đoạn giản đơn, có giá trị gia tăng thấp như thu gom, sơ chế cho xuất khẩu

thô. Trong khi đó, những công đoạn có giá trị gia tăng cao như rang xay, chế biến

sâu, phân phối bán lẻ và xây dựng thương hiệu, doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn

Ma Thuột còn tham gia rất hạn chế. Sau nhiều năm doanh nghiệp tham gia sử dụng

chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột, giá trị gia tăng của sản phẩm đối với từng nhóm

tác nhân và từng khâu trong chuỗi không được như kỳ vọng, chỉ tăng lên chút ít so

với doanh nghiệp không tham gia sử dụng chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột.

Mặc dù nhìn nhận được những khó khăn và hạn chế trong việc doanh nghiệp cà

phê tham gia chuỗi giá trịcủa sản phẩm cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột, nhưng cho

đến nay việc đánh giá tổng thể, có hệ thống những vấn đề nêu trên hoàn toàn thiếu

vắng trong các nghiên cứu khoa học. Trong nhiều năm qua, chưa có bất cứ dữ liệu

nào được công bố về thực trạng chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn

Ma Thuột và những nhân tố nào ảnh hưởng đến việc tham gia chuỗi giá trị của doanh

nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột.

Xuất phát từ tính cấp thiết đó, tôi đã lựa chọn và đề xuất nghiên cứu đề tài:

“Phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột”

làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ của mình.

2. Câu hỏi nghiên cứu

- Doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột là gì ?

- Doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột tham gia chuỗi giá trị ở

khâu nào ?

- Nhân tố nào ảnh hưởng đến việc tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà

phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột ?

- Doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột tham gia chuỗi giá trị

có hiệu quả trong thời gian qua không ? Vì sao ?

2

- Giải pháp nào để doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột tham

gia sâu hơn vào chuỗi giá trị trong thời gian tới ?

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích:

Làm rõ thực trạng tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa

lý Buôn Ma Thuột hiện nay, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng chuỗi giá trị của

doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột, từ đó đề xuất giải pháp phát

triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột.

- Nhiệm vụ:

+ Xây dựng khung phân tích chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn

địa lý;

+ Phân tích thực trạng chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý

Buôn Ma Thuột;

+ Phân tích chuỗi giá trị của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cà phê chỉ

dẫn địa lý Buôn Ma Thuột;

+ Đề xuất, kiến nghị các giải pháp phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp

cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu:Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý

Buôn Ma Thuột từ 2015 – đến nay.

- Phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi không gian:Doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột, Đắk

Lắk

Phạm vi thời gian: 2015 – đến nay

Phạm vi về nội dung:

- Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột

- Nhân tố ảnh hưởng chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn

Ma Thuột

- Kiến nghị chính sách cho phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê

chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột

3

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp thu thập tài liệu

Tác giả thu thập, tổng hợp các tài liệu nước ngoài và trong nước về chuỗi giá

trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn đại lý, gồm sách tham khảo, đề tài khoa học, các

tài liệu trên internet, cụ thể gồm:

- Sử dụng các báo cáo nhà nước, ngành, báo cáo số liệu của tỉnh Đắk Lắk về

tình hình sản xuất kinh doanh, nghiên cứu thị trường...

- Các báo cáo nghiên cứu khoa học của các cơ quan, viện nghiên cứu, trường

đại học trong và ngoài nước.

- Các tạp chí khoa học chuyên ngành, các trang web có liên quan...

- Tài liệu, giáo trình và các sách tham khảo liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

- Các hồ sơ lưu trữ qua các năm, các bài báo nghiên cứu, các báo cáo khách

hàng, các bảng tổng hợp kết quả kinh doanh.

- Kết quả điều tra trực tiếp từ các doanh nghiệp tại Đắk Lắk.

Tác giả thực hiện thu thập thông tin, tài liệu thông qua việc thực hiện điều tra bảng hỏi

của các doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý tại Buôn Ma Thuột gồm:

- Phỏng vấn các doanh nghiệp thu gom và sơ chế: đề tài tiến hành phỏng vấn

50 cơ sở thu gom và sơ chế tại các huyện Cư Mgar, Krong Park, thành phố Buôn Ma

Thuột, trong đó 96% số cơ sở thu gom và sơ chế thuộc dân tộc Kinh, còn lại là thuộc

các dân tộc bản địa ở vùng Tây Nguyên và các dân tộc thiểu số khác di cư đến Tây

Nguyên sinh sống.

- Phỏng vấn các doanh nghiệp chế biến: đề tài tiến hành phỏng vấn 20 cơ sở

và doanh nghiệp chế biển, trong đó có 12 doanh nghiệp nhà nước (chiếm 60% số

phiếu phỏng vấn), 1 doanh nghiệp FDI (chiếm 5%), 4 doanh nghiệp trách nhiệm hữu

hạn (chiếm 20%) và 3 hợp tác xã (chiếm 15%).

Mẫu các phiếu điều tra được tác giả thể hiện ở Phụ lục 01. Từ các thông tin định

lượng và định tính thu được qua quá trình phỏng vấn, tác giả đã tiến hành sàng lọc và

tính toán dựa trên các phần mềm SPSS từ đó xây dựng các luận cứ, phục vụ cho việc

chứng minh hoặc bác bỏ các giả thuyết khoa học của quá trình nghiên cứu phát triển

chuỗi của doanh nghiệp.

4

Phương pháp xử lý tài liệu

Phương pháp thống kê mô tả: Thống kê là một hệ thống các phương pháp bao

gồm thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu, tính toán các đặc trưng của đối tượng nghiên

cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán và ra quyết định.

Phương pháp so sánh: được tác giả sử dụng khá triệt để trong Chương 2 của

luận văn khi nghiên cứu về thực trạng sản xuất cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột,

thực trạng phát triển doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột tại Đắk Lắk.

Việc phân tích thực trạng dựa trên các kết quả kinh doanh chỉ phát huy hiệu quả khi

sử dụng phương pháp so sánh để rút ra nhận xét về hoạt động sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp cà phê chỉ đẫn địa lý Buôn Ma Thuột, cũng như phát triển chuỗi

giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý có hiệu quả hay không. Bên cạnh đó,

việc tính toán và so sánh về hoạt động của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý qua

các năm (2015-đến nay) cũng giúp tác giả có một cái nhìn toàn diện, để từ đó đề ra

các giải pháp phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý hiệu quả

hơn tại Đắk Lắk...

Phương pháp phân tích: trước hết là phân chia cái toàn thể của đối tượng

nghiên cứu thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn

để nghiên cứu, phát hiện ra từng thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó, và từ đó

giúp chúng ta hiểu được đối tượng nghiên cứu một cách mạch lạc hơn, hiểu được cái

chung phức tạp từ những yếu tố bộ phận ấy.

Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp là quá trình hồ trợ cho quá trình phân tích

đề tìm ra cái chung cải khái quát. Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt của vấn đề,

phải tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra được bản chất,

quy luật vận động của đổi tượng nghiên cứu.

Phân tích – tổng hợp là hai phương pháp tương hổ và bổ sung cho nhau trong

nghiên cứu và có cơ sở khách quan trong cấu tạo, trong tính quy luật của bản thân sự

vật. Trong phân tích, việc xây dựng một cách đúng đắn tiêu thức phân loại làm cơ sơ

khoa học hình thành đối tượng nghiên cứu bộ phận ấy, có ý nghĩa rất quan trọng.

Trong nghiên cứu tổng hợp vai trò quan trọng thuộc về khả năng liên kết các kết quả

cụ thể (có lúc ngược nhau) từ sự phân tích, khả năng trừu tượng, khái quát nắm bắt

được mặt định tính từ rất nhiều khía cạnh định lượng khác nhau.

5

Trong luận văn này, tác giả đả nhận định cũng như đánh giá khái quát vấn đề

nghiên cứu của mình nhờ vào phương pháp tổng hợp. Ngay từ Chương 1, khi giới

thiệu các khái niệm, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng chuỗi giá trị của sản phẩm

cà phê chỉ dẫn địa lý, tác giả đã tổng hợp lại những khái niệm chính, giới thiệu về

chuỗi giá trị, chỉ dẫn địa lý …. Cuối chương 1 , phương pháp tổng hợp đã được sử

dụng để đưa ra những kinh nghiệm trong việc tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp

cà phê chỉ dẫn địa lý.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Tổng quan được về cơ sở lý luận chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ

dẫn địa lý

- Phân tích, đánh giá được thực trạng phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp

cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột

- Nêu được những triển vọng và đề xuất một số giải pháp phát triển chuỗi giá

trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng

biểu, chữ viết tắt, luận văn được xây dựng gồm 04 chương như sau:

Chương I. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn về

chuỗi giá trị (CGT) của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý (CDĐL)

Chương II. Thực trạng phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ

dẫn địa lý (CDĐL) Buôn Ma Thuột

Chương III.Triển vọng phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ

dẫn địa lý (CDĐL) Buôn Ma Thuột.

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN

VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ

CHỈ DẪN ĐỊA LÝ

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Khái niệm và cấu trúc của chuỗi giá trị, Sonja Vermeulen và cộng sự (2008)

cho rằng: chuỗi giá trị bao gồm các chức năng trực tiếp như sản xuất hàng hoá có

bản, thu gom, chế biến, bán sỉ, bán lẻ, cũng như các chức năng hỗ trợ như cung cấp

vật tư nguyên liệu đầu vào, dịch vụ tài chính, đóng gói và tiếp thị. Chuỗi giá trị còn

bao gồm cả vấn đề tổ chức và điều phối, chiến lược và mối quan hệ quyền lực của

các tác nhân khác nhau trong khối. Chuỗi giá trị hàm ý nói tới quá trình vận động của

hàng hoá và dịch vụ đến người tiêu dùng cuối cùng. Chuỗi giá trị được phân tích theo

các cách khác nhau, nhưng hiện nay đang tồn tại chủ yếu 3 phương pháp phân tích chuỗi

giá trị, bao gồm: GTZ, M4P và FAO.

Cuốn “Valuelinks manual” của GTZ đã cung cấp những kiến thức cơ bản về

các cách thức nâng cao cơ hội việc làm và thu nhập từ hoạt động kinh doanh của các

doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ và các nông dân thông qua việc thúc đẩy chuỗi giá trị

trong đó họ đang hoạt động. Cẩm nang bắt đầu bằng việc quyết định xem có nên tham

gia vào việc thúc đẩy chuỗi giá trị hay không, và làm thế nào để kết hợp việc thúc

đẩy chuỗi giá trị với các cách tiếp cận phát triển khác (module 0). Bước đầu tiên trong

thúc đẩy chuỗi giá trị là việc xác định chuỗi giá trị cần thúc đẩy (module 1), tiếp đó

là phân tích chuỗi giá trị (module 2) và xây dựng một chiến lược nâng cấp chuỗi giá

trị (module 3). Module 4 trình bày những kiến thức dành cho những tổ chức hỗ trợ

của các dự án thúc đẩy chuỗi giá trị. Các module tiếp theo (từ 5 đến 10) đều nói về

việc thực hiện dự án.

Năm 2007, FAO xuất bản cuốn sách “Agri-industrial supply chain

management: concepts and applications” (Quản lý chuỗi cung ứng ngành chế biến

nông sản: khái niệm và áp dụng), dựa trên việc phân tích Hiệu ứng Bullwhip, hay còn

gọi là Hiệu ứng “cái roi da” để xây dựng khung phân tích cho phép theo dõi có hệ

thống phần lớn các thông tin cần thiết để phân tích kinh tế. Hiệu ứng Bullwhip được

7

hiểu là một hiện tượng trong chuỗi cung ứng khi số lượng đơn đặt hàng gửi cho nhà sản

xuất và nhà cung cấp có sự chênh lệch lớn hơn nhu cầu của khách hàng, làm gián đoạn

quá trình vận hành của chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị do không đánh giá đầy đủ nhu cầu

của sản phẩm.

Năm 2008, trong cuốn sách “Making value chains works better for the poor:

a toolbook for practitioners of value chain analysis”, (Để chuỗi giá trị hiệu quả hơn

cho người nghèo: sổ tay thực hành phân tích chuỗi giá trị”, M4P (thuộc Ngân hàng

phát triển châu Á) đã đưa ra những phương pháp phân tích chuỗi giá trị nông sản dựa

trên việc phân tích chi phí – lợi nhuận và phân chia thu nhập giữa các tác nhân trong

chuỗi. Mô hình của M4P bao gồm 8 công cụ với các bước cụ thể khác nhau, trong đó

có 5 công cụ (tool) đáng chú ý là: Công cụ 2 (Tool 2): Lập sơ đồ chuỗi giá trị; Công

cụ 3 (Tool 3): Phân tích chi phí và lợi nhuận; Công cụ 5 (Tool 5): Phân tích thu nhập

trong chuỗi; Công cụ 6 (Tool 6): Phân tích việc làm trong chuỗi; Công cụ 8 (Tool 8):

Phân tích liên kết trong chuỗi giá trị.

Chuỗi giá trị nông sản, trong đó có cà phê, được hình thành và phát triển giống

như các nghiên cứu lý thuyết đã đề cập trên đây. Tuy nhiên, do những đặc thù rất

riêng của sản xuất nông sản từ khâu canh tác đến chế biến, tiêu thụ nên giá trị hàng

nông sản có những đặc điểm rất riêng, cần nghiên cứu cụ thể. KPMG International

(2013) đã đề cập đến một số đặc điểm khác biệt của chuỗi giá trị hàng nông sản so

với hàng hoá phi nông nghiệp, đó là: a) Tính không ổn định do sự thay đổi của thời

tiết, những thay đổi xã Hội; b) Tính phức tạp do liên quan đến nhiều mùa vụ khác

nhau và các loại sản phẩm nông sản khác nhau. Mỗi loại hình mùa vụ và sản phẩm

này có những đặc điểm riêng biệt của nó và thường làm phân tán chuỗi cung ứng. c)

Tính đa dạng về tác nhân tham gia với trình độ và ý thức sản xuất kinh doanh khác

nhau. KPMG (2013) cũng lập sơ đồ ma trận về các tác nhân trong chuỗi giá trị hàng

nông sản, tính toán mức doanh số, số lượng thành viên tham gia từng khâu trong

chuỗi, chi tiêu R&D của từng khâu trong chuỗi, trách nhiệm của từng tác nhân trong

chuỗi, khả năng tham gia của từng tác nhân trong chuỗi.

Phân tích chuỗi giá trị đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. Luis

F.Samper và Xiomara F. Quiones – Ruiz (2017) khi nghiên cứu trường hợp chuỗi giá

sản phẩm cà phê, đã phân tích chuỗi giá trị bao gồm ít nhất 4 khía cạnh: cấu trúc đầu

8

vào – đầu ra, phạm vi địa lý, khung thể chế và cấu trúc quản trị. Đầu vào – đầu ra

(input- output) mô tả các công đoạn sản xuất; Phạm vị địa lý đề cập đến thành phần

không gian, nơi các công đoạn sản xuất được thực hiện. Khung thể chế bao gồm các

chuỗi liên quan đến các chính sách của địa phương, trong nước và quốc tế liên quan

đến chuỗi giá trị. Cấu trúc quản trị liên quan đến cách thức kiểm soát và điều phối

chuỗi.Theo Luis F.Samper và Xiomara F. Quiones – Ruiz (2017), chuỗi giá trị của sản

phẩm cà phê trong nhiều thập kỷ qua đã có nhiều thay đổi, trong đó nâng cao tầm quan

trọng của hình thức tiêu dùng cà phê ngoài trời (quán, cửa hàng), chất lượng chế biến,

giá và các giá trị bảo vệ môi trường.

Hãng cà phê Starbucks là một trong những mẫu hình nổi tiếng của chuỗi giá

trị cà phê toàn cầu.Thành lập năm 1971 tại Seattle, Mỹ, Starbucks khi đó chỉ là một

cửa hàng nhỏ chuyên bán hạt cà phê và các thiết bị rang xay cà phê, hiện nay

Starbucks đã phát triển chuỗi giá trị cà phê rất thành công. Dựa theo hai công đoạn

của chuỗi giá trị là hoạt động chính và hoạt động hỗ trợ, Prablee Bajpai (2017) đã

phân tích chuỗi giá trị của cà phê Starbucks nhằm làm rõ sự tham gia sâu vào chuỗi

giá trị toàn cầu của cà phê Starbucks và các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia đó.

Trong hai thập niên trở lại đây, làn sóng tiêu dùng cà phê trên toàn thế giới đã

có sự thay đổi theo hướng ưu tiên tiêu dùng các sản phẩm cà phê có nguồn gốc địa lý

và có chất lượng cao. Chính vì vậy, chỉ dẫn địa lý (Gis) đã được sử dụng cho sản

phẩm cà phê như một hình thức phát triển để bảo vệ danh tiếng xuất xứ cà phê của

nước họ và nhằm thu được nhiều giá trị hơn từ xuất khẩu cà phê. Luis F.Samper và

Xiomara F Quinoines Ruiz (2017) cho rằng, chỉ dẫn địa lý sản phẩm cà phê là nhằm

mục đích tránh sự chiếm đoạt tên địa lý của một nhóm người sử dụng hoặc công ty

nào đó đối với sản phẩm cà phê có chất lượng. Nếu không có chỉ dẫn địa lý hoặc làm

mất chỉ dẫn địa lý, sản phẩm cà phê có thể bị các công ty lớn nằm ngoài khu vực sản

xuất sản phẩm đó lợi dụng danh tiếng, làm ảnh hưởng đến hệ thống sản xuất và chuỗi

giá trị sản phẩm. Các nước đã sử dụng chỉ dẫn địa lý như một biện pháp để tránh cạnh

tranh không lành mạnh hoặc nâng cao danh tiếng chất lượng sản phẩm của họ, trao

quyền ho các nhà sản xuất địa phương xác định quy tắc cụ thể cho việc sử dụng nhãn

hiệu gốc, thực thi các tiêu chuẩn chất lượng và do đó cung cấp các điều kiện để tiếp

cận giá trị cao hơn cho các sản phẩm gốc.

9

Claire Durand và Stephane Fournier (2015) khi nghiên cứu chuỗi giá trị một

số mặt hàng nông sản mang chỉ dẫn địa lý ở Indonesia và Việt Nam đã cho rằng, chỉ

dẫn địa lý là một biện pháp hiệu quả để quảng bá sản phẩm nông nghiệp trong bối

cảnh toàn cầu hoá và giảm nguy cơ chiếm đoạt nhãn hiệu sản phẩm. Trong bối cảnh

đặc trưng bởi sự bất đối xứng thông tin, nơi người tiêu dùng không thể tự mình đánh

giá chất lượng của sản phẩm thực phẩm, thì chỉ dẫn địa lý có thể giúp tránh các tình

huống rủi ro về chất lượng sản phẩm. Ngoài việc bảo vệ pháp lý và các chức năng

ghi nhãn chất lượng, sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý cho phép kiểm soát cung và giá

cho các nông nghiệp và phát triển nông thôn. Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý giúp các

doanh nghiệp thay đổi trạng thái của sản phẩm từ “hàng hoá” trở thành “sản phẩm gốc”,

có khả năng gia tăng giá bán hoặc thị phần trên thị trường. Sản phẩm mang chỉ dẫn địa

lý có thể làm tăng thu nhập của nhà sản xuất, cho phép các thị trường phát triển và thúc

đẩy hoạt động nông nghiệp địa phương, dẫn đến tác động tràn trên các chuỗi cung ứng

và chuỗi giá trị toàn cầu.

Trong nghiên cứu của International Coffee Organization (Tổ chức cà phê thế

giới – ICO, 2015), sản phẩm cà phê khi tham gia chuỗi giá trị phụ thuộc vào nhiều

yếu tố: sản xuất, cung, cầu sản phẩm, chất lượng sản phẩm, hoạt động thương mại

quốc tế, giá cả cà phê trên thị trường thế giới, thị hiếu người tiêu dùng, đứt gãy trong

khâu rang xay sản phẩm và nhiều yếu tố khác. Dựa theo những yếu tố này, Việt Nam,

Brazil, Indonesia đều có những lợi thế và rủi ro khác nhau khi tham gia chuỗi giá trị

toàn cầu.

Các nghiên cứu về chuỗi giá trị nông sản được tiến hành ở Việt Nam trong thời

gian gần đây tương đối nhiều, chủ yếu tập trung ở các sản phẩm nông sản như gạo, cà

phê, chè, hồ tiêu, cao su, táo, bưởi da xanh... Doris Backer, Phạm Ngọc Trâm và Hoàng

Đình Tú (2009) trong báo cáo “Phát triển chuỗi giá trị - công cụ gia tăng giá trị cho

sản xuất nông nghiệp” cho rằng, các tỉnh ở Việt Nam đều có những lợi thế rất lớn trong

phát triển nông sản, chẳng hạn Hưng Yên nổi tiếng với nhãn lồng, An Giang nổi tiếng

có gạo, Đắk Lắk nổi tiếng có cà phê, tiêu, điều..., nhưng hoạt động sản xuất canh tác

các sản phẩm nổi tiếng này đều không bền vững do những thiếu sót mà các tác nhân

trong chuỗi không tự giải quyết được. Những thiếu sót đó có thể kể ra là: sự liên kết và

hợp tác lỏng lẻo của các tác nhân dọc theo chuỗi, người sản xuất không chú ý đến thị

10

trường, cơ cấu hỗ trợ đào tạo - nghiên cứu phát triển lạc hậu, chất lượng sản phẩm chưa

được chú ý, các sản phẩm Việt Nam chưa được tiêu thụ dưới nhãn mác của Việt Nam...

Hoạt động của chuỗi giá trị sản phẩm nông sản ở Việt Nam nên thực hiện theo phương

pháp liên kết giá trị của GTZ (như phần tổng quan tài liệu ngoài nước đã đề cập trên

đây).

Hà Văn Sự (2016) sau khi phân tích đặc điểm hình thành chuỗi giá trị toàn cầu

hàng nông sản đã đề cập đến thực trạng và những bất cập đối với việc tham gia của

Việt Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu hàng nông sản. Theo tác giả, Việt Nam có được

nhiều sản phẩm nông sản có thế mạnh trên thị trường thế giới, nhưng hàm lượng chế

biến sâu sản phẩm chỉ đạt 25-30%, bằng một nửa so với các nước ASEAN. Tỷ trọng

nông sản xuất khẩu thô và sơ chế chiếm tỷ lệ khá cao; sản phẩm nông sản Việt Nam

khi tham gia chuỗi giá trị mới chủ yếu dựa vào giá cả, chất lượng và chi phí thấp nên

luôn đứng hạng thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Hồ Thanh Thuỷ (2017) cho rằng Việt Nam đã có một số nông sản tham gia được

vào các khâu có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu như cà phê Vinacafe,

thanh long Bình Thuận..., nhưng năng lực tham gia của các tác nhân vào chuỗi giá trị

toàn cầu còn nhiều hạn chế, kể từ khâu sản xuất, thu gom, chế biến, tiêu thụ sản phẩm,

năng lực quản lý chuỗi sản phẩm...

Claire Durad và Stephane Fourier (2017) khi nghiên cứu chuỗi giá trị của

doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột cho rằng khi cà phê Buôn Ma

Thuột được đăng ký chỉ dẫn địa lý, các bên liên quan và chính quyền địa phương đều

mong đợi sản phẩm cà phê này sẽ tăng uy tín và giá cả, trở thành cà phê robusta có

chất lượng đầu tiên ở Việt Nam. Trong quá trình tham gia chuỗi giá trị, các quy trình

sản xuất và mô hình sản xuất hiện đại đã được áp dụng ở địa phương. Tuy nhiên, các

quy trình phơi khô, rang xay và chế biến ướt đều đã không đi theo các quy định của

một quy trình sản xuất hiện đại, mà phần lớn được dựa trên bí quyết sản xuất của

người Ê đê và được áp dụng các công nghệ mang tính “bí ẩn” của phương thức rang

xay phương Đông.

Trong các dự án, đề tài liên quan đến cây cà phê Tây Nguyên do Viện Khoa

học kỹ thuật nông lâm Tây Nguyên (WASI) chủ trì thời gian qua, có một số đề tài

liên quan đến chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê. Cụ thể là: “Nghiên cứu các hình

11

thức tổ chức sản xuất cà phê nguyên liệu chất lượng cao ở Tây Nguyên” (Đề tài cấp

Bộ 2009-2010); Chương trình hợp tác phát triển cà phê bền vững (Dự án hợp tác

giữa WASI và công ty trách nhiệm hữu hạn Nestle Việt Nam, giai đoạn 2011-2015

và 2016-2020). Những đề tài, chương trình này cung cấp một phần thông tin cơ bản

liên quan đến việc tổ chức sản xuất và các tác nhân khi tham gia chuỗi giá trị của

doanh nghiệp cà phê CDĐL của Tây Nguyên.

1.1.2. Các kết quả nghiên cứu chủ yếu

Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đã đưa ra nhiều khái niệm,

phương pháp và công cụ phân tích chuỗi giá trị, phát hiện ra những đặc điểm và những

nhân tố ảnh hưởng đến chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê, nghiên cứu kinh nghiệm

quốc tế trong việc đưa sản phẩm cà phê tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Các công

trình này đã phác thảo sơ bộ những đặc điểm, tiêu chí, sơ đồ hệ thống, xác định sự

phân phối lợi ích giữa các tác nhân tham gia chuỗi giá trị, đánh giá các đặc điểm của

tác nhân tham gia chuỗi giá trị, mối liên hệ giữa các tác nhân trong chuỗi. Thông qua

điều tra, khảo sát, quan sát thực tế ở một số nước, một số công trình đã xác định sự

phân phối lợi ích giữa các tác nhân tham gia chuỗi thông qua việc phân tích chênh

lệch giữa chi phí và lợi nhuận, xác định ai được lợi trong chuỗi, nghiên cứu vai trò

của việc cải tiến chất lượng và thiết kế sản phẩm, vai trò của quản trị chuỗi trong vấn

đề nâng cấp chuỗi giá trị. Đó là những tài liệu tham khảo quý, cung cấp cơ sở lý luận,

phương pháp luận cho việc nghiên cứu về chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê.

Nghiên cứu chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê mang chỉ dẫn địa lý và kinh

nghiệm của một số nước trên thế giới hiện đang được nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức

phi chính phủ, các học giả quan tâm. Những phát hiện chính của các công trình này là:

chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê có những đặc điểm khác biệt so với chuỗi giá trị

của các doanh nghiệp hàng hoá phi nông nghiệp. Các nhà nghiên cứu cũng lập sơ đồ ở

các khâu, các lĩnh vực và mối liên kết chính trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà

phê, để phân tích và làm rõ nhưng nút thắt chính trong chuỗi và đưa ra những giải pháp

cải thiện và nâng cấp chuỗi. Một số công trình nghiên cứu đã phân tích lợi thế và ưu

điểm của chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê mang chỉ dẫn địa lý và cho rằng, so với

các sản phẩm cà phê thông thường khi tham gia chuỗi giá trị, thì các sản phẩm cà phê

mang chỉ dẫn địa lý có nhiều lợi thế hơn về giá cả, nhãn mác, tiêu chuẩn chất lượng,

12

và dễ được người tiêu dùng chấp nhận hơn cả. Tại nhiều quốc gia trên thế giới (chẳng

hạn như Indonesia, Brazil), các sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý thường tham gia

sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, đem lại những hiệu quả to lớn về ngoại tệ xuất khẩu,

việc làm, phát triển bền vững, kết hợp phát triển cà phê với du lịch ẩm thực sinh thái.

Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng chỉ ra rõ những thách thức của sản phẩm cà phê mang

chỉ dẫn địa lý khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, đó là: với các thủ tục và quy trình

đăng ký chỉ dẫn địa lý, bảo vệ chỉ dẫn địa lý, các địa phương và doanh nghiệp tham gia

sản xuất thường gặp các chi phí đầu vào tốn kém hơn. Trong khi đó, các doanh nghiệp

sản xuất địa phương thường xuất khẩu cà phê dưới dạng bán thành phẩm (chứ không phải

là sản phẩm cuối cùng đến tay người tiêu dùng cuối cùng) nên rất cần phải tính toán đến

chi phí và lợi ích đối với sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý để tránh tình trạng lợi nhuận

của ngành cà phê rơi chủ yếu vào tay các nhà nhập khẩu và các nhà chế biển sản phẩm cà

phê đến tay người tiêu dùng cuối cùng.

1.1.3. Khoảng trống nghiên cứu và hướng tiếp cận của luận văn

Nghiên cứu các kinh nghiệm quốc tế về việc tham gia chuỗi giá trị của doanh

nghiệp cà phê là hoàn toàn cần thiết. Tuy nhiên, các nghiên cứu trong nước về vấn đề

này còn tương đối ít, trong khi các nghiên cứu nước ngoài còn rời rạc, chưa toàn diện,

chưa hệ thống. Chính vì vậy, đây cũng là khoảng trống nghiên cứu cần bổ sung, từ

đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho việc tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp

cà phê của Tây Nguyên nói chung, các doanh nghiệp tham gia chỉ dẫn địa lý Buôn

Ma Thuột nói riêng.

Các nghiên cứu chuyên sâu về chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê của tỉnh Đắk

Lắk còn ít, mới chỉ dừng ở dạng các bài nghiên cứu ngắn, các đề tài quy mô nhỏ, hoặc

chưa mang tính hệ thống và tổng quát; chưa có những nghiên cứu chuyên sâu vào tất cả

các mắt xích, các khâu, các tác nhân tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê ở

tỉnh Đắk Lắk. Trong danh mục hệ thống các đề tài viết về cây cà phê do UBND tỉnh Đắk

Lắk, Sở khoa học và công nghệ tỉnh Đắk Lắk, Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp

Tây Nguyên…, phần lớn đều tập trung nghiên cứu các vấn đề thuộc về khoa học công

nghệ như: nghiên cứu kỹ thuật trồng cà phê, nghiên cứu công nghệ tạo giống và thâm

canh, nghiên cứu chế phẩm các loại phân bón, kỹ thuật tiết kiệm cho phí đầu vào, cải tạo

giống, xây dựng mô hình quản lý cây trồng tổng hợp, cải thiện chất lượng đất cho việc

13

canh tác cà phê…Dường như đang thiếu vắng nhiều công trình khoa học xã đánh giá về

hiệu quả kinh tế - xã hội của cây cà phê, năng lực cạnh tranh sản phẩm cà phê Đắk Lắk;

đặc biệt chưa có các công trình nghiên cứu chuyên sâu về chuỗi giá trị của doanh nghiệp

cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột dưới lăng kính nghiên cứu kinh tế kết hợp với phương

pháp liên ngành. Vì vậy, còn rất nhiều khoảng trống và còn rất nhiều nội dung cần tiếp

tục đầu tư nghiên cứu về vấn đề này.

1.2.Khái niệm

1.2.1. Chuỗi giá trị

Thế giới hiện nay đang sử dụng nhiều khái niệm khác nhau liên quan đến chuỗi

giá trị. Michael Porter (1985) [45] cho rằng: chuỗi giá trị là tổng thể các hoạt động

liên quan đến sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó. Trong chuỗi

giá trị diễn ra quá trình tương tác giữa các yếu tố cần và đủ để tạo ra một hoặc một

nhóm sản phẩm và các hoạt động phân phối, tiêu thụ sản phẩm, nhóm sản phẩm đó

theo một phương thức nhất định. Giá trị tạo ra của chuỗi bao gồm các giá trị tạo ra tại

mỗi công đoạn của chuỗi. Michael Porter đã chia ra các công đoạn của chuỗi giá trị,

bao gồm hai hoạt động: hoạt động chính và hoạt động hỗ trợ. Hoạt động chính bao

gồm: chuẩn bị sản xuất, sản xuất, sau sản xuất, tiếp thị và bán hàng. Các công đoạn

này diễn ra kế tiếp nhau, tác động lẫn nhau để cùng tạo ra một sản phẩm và tiêu thụ

sản phẩm đó. Để chuỗi giá trị diễn ra bình thường, cần phải có các hoạt động hỗ trợ như:

quản lý hành chính, phát triển cơ sở hạ tầng, quản lý nguồn nhân lực, cung cấp thông tin,

bảo trì thiết bị, nhà xưởng sản xuất…Theo cách hiểu này, chuỗi giá trị là để đánh giá

xem một công ty nên tự định vị mình như thế nào trên thị trường và trong mối quan hệ

với các nhà cung cấp, khách hàng và đối thủ cạnh tranh.

Khái niệm chuỗi giá trị tiếp tục được các nhà kinh tế học phát triển sau đó.

Đặc biệt trong thời kỳ toàn cầu hoá phát triển mạnh, chuỗi giá trị được xem xét theo

cách thức mà các công ty và quốc gia Hội nhập toàn cầu. Kalpinsky và Morris (2001)

[46] cho rằng: chuỗi giá trị mô tả toàn bộ những hoạt động cần thiết để đưa ra một

sản phẩm hay dịch vụ từ khái niệm, đi qua các công đoạn sản xuất khác nhau (liên

quan đến việc kết hợp giữa chuyển hoá vật chất và đầu vào các dịch vụ sản xuất khác

nhau, đưa đến người tiêu dùng sau cùng, và bố trí sử dụng sau cùng. Một chuỗi giá

trị đơn giản có 4 mắt xích quan trọng là: thiết kế và phát triển sản phẩm; sản xuất;

14

tiếp thị; tiêu thụ và tái chế. Tuy nhiên, theo hai tác giả này, chuỗi giá trị cần được

hiểu theo nghĩa mở rộng, đó là một phức hợp những hoạt động do nhiều người tham

gia khác nhau thực. Chuỗi giá trị mở rộng bắt đầu từ hệ thống sản xuất nguyên vật

liệu và chuyển dịch theo các mối liên kết với các đơn vị sản xuất, kinh doanh, lắp ráp,

chế biến….Theo Kalpinsky và Morris, chuỗi giá trị trong đời thực phức tạp hơn nhiều,

có xu hướng có nhiều mắt xích hơn. Ngoài các mắt xích nhiều mặt trong một chuỗi

giá trị, các nhà sản xuất trung gian trong một chuỗi giá trị có thể tham gia vào một số

chuỗi giá trị khác nhau.

Tiếp tục mở rộng khái niệm và cấu trúc của chuỗi giá trị, Sonja Vermeulen và

cộng sự (2008)[49] cho rằng: chuỗi giá trị bao gồm các chức năng trực tiếp như sản

xuất hàng hoá có bản, thu gom, chế biến, bán sỉ, bán lẻ, cũng như các chức năng hỗ

trợ như cung cấp vật tư nguyên liệu đầu vào, dịch vụ tài chính, đóng gói và tiếp thị.

Chuỗi giá trị còn bao gồm cả vấn đề tổ chức và điều phối, chiến lược và mối quan hệ

quyền lực của các tác nhân khác nhau trong khối.

Theo các quan niệm trên đây, chuỗi giá trị có thể được hiểu là một dãy các

hoạt động làm tăng giá trị của các tác nhân tham gia sản xuất, bao gồm từ khâu thu

gom, chế biến, bán sỉ, bán lẻ đến tay người tiêu dùng, cũng như các chức năng hỗ trợ

như cung cấp vật tư nguyên liệu đầu vào, dịch vụ tài chính, đóng gói và tiếp thị.

1.2.2 Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê

1.2.2.1 Các khái niệm

Doanh nghiệp cà phê là một tập hợp các hoạt động từ thu gom nguyên liệu,

thiết kế, sản xuất, bán hàng và hỗ trợ dịch vụ khách hàng và tất cả các hoạt động này

được liên kết thành một chuỗi.

Khái niệm Chỉ dẫn địa lý: Chỉ dẫn địa lý (Geographical Indication - CDĐL)

bắt nguồn từ châu Âu, khởi nguồn ở Pháp từ đầu thế kỷ 20, sau đó được phát triển

rộng ra các nước trên thế giới. Tại cuộc họp của GATT (tổ chức tiền thân của WTO),

ngày 15/12/1993, sự công nhận quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực thương mại (trong

khuôn khổ của nghị định TRIPS) đã mở đường cho bảo vệ CDĐL, theo đó: “CDĐL là

những chỉ dẫn về hàng hoá bắt nguồn từ lãnh thổ của một thành viên hoặc từ một khu

vực hoặc địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính chủ yếu do

xuất xứ địa lý quyết định”.

15

Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ là thông tin về nguồn gốc địa lý của hàng hoá đáp

ứng đủ các điều kiện sau đây:

a) Thể hiện dưới dạng một từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh, dùng để chỉ

một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, địa phương thuộc một quốc gia;

b) Thể hiện trên hàng hoá, bao bì hàng hoá hay giấy tờ giao dịch liên quan tới

việc mua bán hàng hoá nhằm chỉ dẫn rằng hàng hoá nói trên có nguồn gốc tại quốc

gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương mà đặc trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng

hoặc các đặc tính khác của loại hàng hoá này có được chủ yếu là do nguồn gốc địa lý

tạo nên. Nếu chỉ dẫn địa lý là tên gọi xuất xứ hàng hoá thì việc bảo hộ được thực hiện

theo quy định của pháp luật hiện hành về tên gọi xuất xứ hàng hoá.

- Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý (CDĐL):

Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý là một dãy các hoạt động

làm tăng giá trị của sản phẩm cà phê của doanh nghiệp đó có xuất xứ bắt nguồn từ lãnh

thổ của một thành viên hoặc từ một khu vực hoặc địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất

lượng, uy tín hoặc đặc tính chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định, bao gồm các khâu bao

gồm từ khâu trồng trọt, thu gom sơ chế, rang xay và tiêu thụ, và các chức năng hỗ trợ

như cung cấp vật tư nguyên liệu đầu vào, dịch vụ tài chính, đóng gói và tiếp thị.

Chuỗi giá trị sản phẩm doanh nghiệp cà phê được tạo thành từ bốn công đoạn

chính: trồng trọt, thu gom sơ chế, rang xay và tiêu thụ. Mỗi công đoạn trong quá trình

này đều có các vấn đề nảy sinh liên quan đến môi trường, xã hội, kinh tế và quản trị,

ảnh hưởng đến triển vọng tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê. Trong khâu

trồng trọt, chuỗi giá trị của sản phẩm cà phê phụ thuộc vào chất lượng đất, giống,

phân bón, nước, loại cà phê (Robuta hay Arabica), những phát thải khí nitơ, phốt pho,

thuốc trừ sâu sau thu hoạch. Trong khâu sơ chế và rang xay, chuỗi giá trị của doanh

nghiệp cà phê phụ thuộc vào phương pháp chuyển đổi cà phê từ cà phê tươi sang cà

phê khô theo các quy trình khác nhau (có thể bằng tay hoặc bằng máy), kỹ thuật phân

loại cà phê và đóng gói cà phê. Khâu thu hoạch và chế biến đều diễn ra ở nước sản

xuất, có những tác động liên quan đến con người, lợi nhuận và quản trị doanh nghiệp.

Ở khâu tiêu thụ, giá trị sản phẩm cà phê phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thị hiếu, thói

quen, các loại cà phê và các kỹ thuật xử lý rác thải cà phê sau khi sử dụng.

1.2.2.2 Sự cần thiết phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê mang

16

chỉ dẫn địa lý

Cà phê là một sản phẩm có giá trị thương mại lớn thứ hai toàn cầu, chỉ đứng sau

dầu mỏ và theo đánh giá của Tổ chức cà phê thế giới (ICO), có khoảng 2,25 tỷ người

tiêu dùng cà phê hàng ngày trên toàn thế giới. Đây là hàng hoá nông sản có giá trị

thương mại lớn, đem lại nguồn thu ngoại tệ và việc làm hiệu quả cho rất nhiều nước

đang phát triển.

Tuy nhiên, trong hai thập niên trở lại đây, làn sóng tiêu dùng cà phê trên toàn

thế giới đã có sự thay đổi theo hướng ưu tiên tiêu dùng các sản phẩm cà phê có nguồn

gốc địa lý và có chất lượng cao. Chính vì vậy, chỉ dẫn địa lý (GI) đã được sử dụng

cho sản phẩm cà phê như một hình thức phát triển để bảo vệ danh tiếng xuất xứ cà

phê của nước họ và nhằm thu được nhiều giá trị hơn từ xuất khẩu cà phê. Chỉ dẫn địa

lý sản phẩm cà phê là nhằm mục đích tránh sự chiếm đoạt tên địa lý của một nhóm

người sử dụng hoặc công ty nào đó đối với sản phẩm cà phê có chất lượng. Nếu không

có chỉ dẫn địa lý hoặc làm mất chỉ dẫn địa lý, sản phẩm cà phê có thể bị các công ty

lớn nằm ngoài khu vực sản xuất sản phẩm đó lợi dụng danh tiếng, làm ảnh hưởng đến

hệ thống sản xuất và chuỗi giá trị sản phẩm. Các nước đã sử dụng chỉ dẫn địa lý như

một biện pháp để tránh cạnh tranh không lành mạnh hoặc nâng cao danh tiếng chất

lượng sản phẩm của họ, trao quyền cho các nhà sản xuất địa phương xác định quy tắc

cụ thể cho việc sử dụng nhãn hiệu gốc, thực thi các tiêu chuẩn chất lượng và do đó

cung cấp các điều kiện để tiếp cận giá trị cao hơn cho các sản phẩm gốc. Việc quảng

bá và bảo vệ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm là những nỗ lực lâu dài, giống như các

thương hiệu, đòi hỏi sự nhất quán và lập kế hoạch chiến lược. Chỉ dẫn địa lý không

phải lúc nào cũng có giá trị làm tăng giá trị sản phẩm và khiến sản phẩm đó tham gia

hiệu quả vào chuỗi giá trị, mà nó cần được quảng bá, bảo vệ và mở rộng thị trường

cho sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý.

Chỉ dẫn địa lý có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển chuỗi giá trị của

doanh nghiệp cà phê. Chỉ dẫn địa lý, cùng với các công cụ sở hữu trí tuệ khác như

nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu… đã giúp người trồng và

chế biến cà phê tập trung vào việc phân biệt, bảo vệ và ghi nhãn hiệu cà phê của họ,

nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm cà phê trong chuỗi giá trị toàn cầu. Sử

dụng chỉ dẫn địa lý giống như một biện pháp để tránh cạnh tranh không lành mạnh

17

và tự do nâng cao danh tiếng chất lượng của họ, trao quyền cho các nhà sản xuất địa

phương xác định các quy tắc cụ thể cho việc sử dụng nhãn hiệu gốc.

Đánh giá lợi thế của sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý thể hiện thông qua

việc phân tích chức năng của giá cả cà phê, áp dụng nghiên cứu so sánh tại các nước

có sản lượng cà phê lớn như Brazil, Colombia, Indonesia và nhiều nước khác. Theo

Ramona, giá cả cà phê được tính theo công thức:

Giá cà phê = f (điểm số, thứ hạng, quy mô, nguồn gốc, giống cà phê, diện tích

trồng cà phê, độ cao, năm cạnh tranh).

Trong đó, điểm số: số điểm đạt được trong cạnh tranh; thứ hạng: vị trí xếp hạng

sản lượng cà phê trên thế giới; quy mô: thể hiện bằng kích thước lô cà phê tính bằng

kg; nguồn gốc: chỉ dẫn địa lý hoặc khu vực xuất xứ; giống cà phê: đặc tính thực vật; diện

tích trồng cà phê: tính bằng hecta; độ cao: độ cao của vùng trồng cà phê, tính bằng mét;

năm cạnh tranh: là chỉ số giá tổng hợp của Tổ chức cà phê thế giới (ICO). Trong công

thức này, điểm số, quy mô, độ cao và diện tích trồng cà phê là các biến số liệu; còn thứ

hạng, nguồn gốc, giống, năm cạnh tranh, chỉ số giá là các biến giả.

Sử dụng công thức này, tác giả cho rằng, chỉ dẫn địa lý (thể hiện qua biến

nguồn gốc) có ảnh hưởng lớn đến giá cả sản phẩm cà phê và năng lực tham gia chuỗi

cung ứng và chuỗi giá trị cà phê toàn cầu. Mặc dù giá cà phê còn phụ thuộc vào nhiều

biến khác, nhưng theo tài liệu về số lượng xuất khẩu cà phê, thì thị trường cà phê có

nguồn gốc địa lý vẫn chiếm vị trí chủ đạo trên thị trường cà phê thế giới. Chính vì

vậy, nhiều nước sản xuất cà phê đã quyết định đầu tư vào việc thiết lập hệ thống tên

gọi cà phê có chỉ dẫn địa lý để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của thị

trường thế giới, nhưng trên thực tế cũng chỉ có một số nước thành công trong việc

nâng cấp chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý của mình trên thị trường

thế giới, trong đó có Colombia, Costa Rica, Brazil, Indonesia, Ethiopia, Guatemala.

Khác với các sản phẩm khác (chẳng hạn như rượu vang), các nhà sản xuất cà

phê thường bán phần lớn các sản phẩm của mình dưới dạng bán thành phẩm (nghĩa

là không phải sản phẩm tiêu dùng cuối cùng). Đây là điều rất quan trọng đối với việc

bảo vệ chỉ dẫn địa lý đối với sản phẩm của các nhà sản xuất cà phê. Bảo vệ toàn bộ

quá trình từ thu hoạch đến rang xay chắc chắn sẽ làm thay đổi toàn bộ chuỗi cung

ứng, chuỗi giá trị và các mô hình thương mại liên quan đến sản phẩm cà phê mang

18

chỉ dẫn địa lý. Chính vì vậy, bảo vệ chỉ dẫn địa lý đối với sản phẩm cà phê mang chỉ

dẫn địa lý có vai trò quan trọng trong việc nâng cao giá cả sản phẩm cà phê và giúp

các doanh nghiệp mang chỉ dẫn địa lý tham gia sâu hơn, hiệu quả hơn vào chuỗi giá

trị cà phê toàn cầu. Tuy nhiên theo Ramona Teuber, việc thực thi bảo Doanh nghiệp

pháp lý cho các sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý không phải là đơn giản, và gây

tốn kém. Tại các thị trường tiêu dùng cà phê lớn như Mỹ, cà phê mang chỉ dẫn địa lý

thường có giá cao hơn; nhưng trong chuỗi giá trị toàn cầu, cần phải tính toán bao

nhiêu giá trị gia tăng chảy vào nước sản xuất cà phê. Nếu không tính toán kỹ lợi ích

và chi phí, giá trị gia tăng của sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý sẽ chảy phần lớn

vào các nhà nhập khẩu và chế biến ở nước ngoài.

Chỉ dẫn địa lý là một biện pháp hiệu quả để quảng bá sản phẩm nông nghiệp

trong bối cảnh toàn cầu hoá và giảm nguy cơ chiếm đoạt nhãn hiệu sản phẩm. Trong

bối cảnh đặc trưng bởi sự bất đối xứng thông tin, nơi người tiêu dùng không thể tự

mình đánh giá chất lượng của sản phẩm thực phẩm, thì chỉ dẫn địa lý có thể giúp

tránh các tình huống rủi ro về chất lượng sản phẩm. Ngoài việc bảo vệ pháp lý và các

chức năng ghi nhãn chất lượng, sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý cho phép kiểm soát

cung và giá cho các nông nghiệp và phát triển nông thôn. Sản phẩm mang chỉ dẫn địa

lý giúp các doanh nghiệp thay đổi trạng thái của sản phẩm từ “hàng hoá” trở thành “sản

phẩm gốc”, có khả năng gia tăng giá bán hoặc thị phần trên thị trường. Sản phẩm mang

chỉ dẫn địa lý có thể làm tăng thu nhập của nhà sản xuất, cho phép các thị trường phát

triển và thúc đẩy hoạt động nông nghiệp địa phương, dẫn đến tác động tràn trên các

chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu.

Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê mang chỉ dẫn địa lý là chuỗi hoạt động

của doanh nghiệp trồng trọt, thu gom, chế biến và sản xuất các sản phẩm về cà phê

mang chỉ dẫn địa lý. Tầm quan trọng thể hiện qua các chức năng của doanh nghiệp

sau đây.

Chức năng trồng trọt: Doanh nghiệp trồng cà phê phụ thuộc vào diện tích

trồng của chỉ dẫn địa lý, lực lượng lao động, giống cây cà phê, quy mô canh tác, kỹ

thuật trồng đạt tiêu chuẩn cà phê chất lượng cao và cải tạo đất trồng…

Chức năng thu gom nguyên liệu thô cà phê để cung ứng nguyên liệu đã qua

sơ chế cho các cơ sở, doanh nghiệp chế biến sản phẩm cà phê chỉ dẫn địa lý hoặc sản

19

xuất chế biến các sàn phẩm cà phê. Hầu hết các công ty, doanh nghiệp chế biến không

đủ lực lượng lao động, khả năng tổ chức và quản lý để trực tiếp tổ chức mạng lưới

thu mua nguyên liệu thô cà phê ở khắp nơi trong vùng chỉ dẫn địa lý trực tiếp từ hộ

nông dân trồng cà phê. Do quy mô trồng cà phê của hộ nông dân trồng cà phê nhỏ

nên việc thu mua đòi hỏi phải có mạng lưới rộng khắp và tốn kém chi phí. Thông qua

hệ thống doanh nghiệp thu gom và thương lái trung gian, các doanh nghiệp sơ chế

tập trung được nguồn hàng với khối lượng lớn để cung ứng cho doanh nghiệp chế

biến.

Chức năng sơ chế cà phê thành những sản phẩm trung gian, là nguyên liệu

đầu vào cho các công đoạn chế biến sản phẩm cà phê và các loại sản phẩm khác từ

cà phê. Hầu hết các doanh nghiệp, cơ sở chế biến các sản phẩm cà phê đều chỉ tập

trung sản xuất một hoặc vài nhóm chủng loại sản phẩm thuộc cùng nhóm nên chỉ cần

sử dụng một hai loại nguyên liệu đầu vào. Do đó, việc sử dụng nguyên liệu cà phê

cho chế biến là tốn kém và không có hiệu quả. Ngoài ra, chưa có sự liên kết giữa các

doanh nghiệp chế biến hiện nay để cùng sử dụng một đầu vào chung (cà phê nguyên

liệu) cho các sản phẩm khác nhau. Chính vì vậy, doanh nghiệp sơ chế đóng vai trò

quan trọng, là nơi cung cấp các loại nguyên liệu cho các tác nhân chế biến nhau khác

trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý.

Chức năng phân loại, đánh giá và kiểm soát chất lượng. Với những mối

quan hệ thương mại lâu dài giữa doanh nghiệp sơ chế và các công ty chế biến, việc

bảo đảm chất lượng sản phẩm sơ chế do các doanh nghiệp sơ chế đảm nhận. Việc

phân loại và kiểm tra chất lượng sản phẩm theo đúng tiêu chuẩn của công ty rất quan

trọng, đặc biệt với các công ty đòi hỏi chất lượng đầu vào cao của cà phê nguyên liệu

của vùng chỉ dẫn địa lý. Doanh nghiệp sơ chế chính là tác nhân chuyển tải thông tin

giá và cả thông tin tiêu chuẩn kỹ thuật ngược trở lại đến doanh nghiệp thu gom và

nông dân trồng cà phê. Như vậy, nhu cầu cải thiện chất lượng nguyên liệu đầu vào

của công ty, doanh nghiệp chế biến sẽ được thực hiện thông qua nhóm tác nhân sơ

chế.

Chính vì vậy, nâng cấp về công nghệ sơ chế, áp dụng hệ thống tiêu chuẩn và

kiểm định chất lượng tại các cơ sở sơ chế để bảo đảm và nâng cao chất lượng nguyên

liệu cho chế biến sâu là đáng suy nghĩ và quan tâm.

20

Chức năng huy động vốn và sử dụng nguồn lực địa phương cho sản xuất.

Những doanh nghiệp này hình thành nên sẽ tận dụng được một lượng vốn tài chính

nhàn rỗi lớn trong các hộ dân và sử dụng các mặt bằng nhà xưởng có sẵn của họ.

Chức năng cung cấp công ăn việc làm, ổn định sinh kế cho lao động địa

phương, đóng góp tài chính cho nền kinh tế địa phương. Xét về mặt kinh tế - xã

hội, với quy mô công suất chế biến lớn, các doanh nghiệp này tiêu thụ nhiều cà phê

nguyên liệu, tạo ra nhiều công ăn việc làm với thu nhập tốt cho người dân, đóng góp

vào nguồn thu ngân sách của địa phương, tăng thêm giá trị cho ngành cà phê nói riêng

và nền kinh tế nói chung.

Xét về công nghệ chế biến, các doanh nghiệp sản xuất cà phê sử dụng công

nghệ ở trình độ cao hơn các loại hình chế biến khác. Vì vậy, các doanh nghiệp này có

vai trò tiên phong trong tiếp cận và ứng dụng công nghệ sản xuất hiện đại để nâng

cấp hàm lượng công nghệ trong sản xuất và chế biến cà phê của địa phương chỉ dẫn

địa lý. Từ nền tảng công nghệ chế biến sản phẩm cà phê có chỉ dẫn địa lý, các doanh

nghiệp này có thể chuyển nhanh sang các công nghệ hiện đại hơn để chế biến các sản

phẩm cà phê có chất lượng và giá trị cao như gói cà phê, nước cà phê đóng lon, v.v.

Về thị trường, các doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý gắn bó mật thiết với thị

trường thế giới, nắm bắt tốt thông tin thị trường, nhu cầu các loại sản phẩm chế biến

từ cà phê. Từ đó, các doanh nghiệp này có vai trò như là cầu nối liên kết giữa địa

phương có chỉ dẫn địa lý và thị trường thế giới.

Với các vai trò trên, chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý có vị

trí đặc biệt quan trọng trong ngành cà phê, có tính chất dẫn dắt đối với toàn bộ các

hoạt động sản xuất chế biến cà phê đạt được sự ổn định cần thiết và phát triển bền

vững ngành cà phê của địa phương trong tương lai.

1.3. Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng chuỗi giá trị của doanh nghiệp

cà phê chỉ dẫn địa lý

1.3.1 Đặc điểm chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý

Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL có một số đặc điểm khác biệt so

với chuỗi giá trị của doanh nghiệp hàng hoá phi nông nghiệp. Đó là:

- Tính không ổn định: Do sự thay đổi của thời tiết, những thay đổi xã

hội…khiến chuỗi giá trị của doanh nghiệp sản phẩm nông nghiệp có tính không ổn

21

định cao. Thời tiết có thể tác động đến sự thay đổi sản lượng cà phê, nguồn cung hàng

hoá, vì vậy làm tăng sức ép về mặt giá cả. Sự nóng lên của trái đất đang khiến chuỗi

giá trị của doanh nghiệp sản phẩm nông nghiệp không ổn định, ảnh hưởng lớn đến

năng suất, chất lượng cây trồng và giá cả cà phê trên thế giới. Hơn nữa, sự gia tăng

dân số toàn cầu, tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia cũng ảnh hưởng đến nguồn

cung – cầu các sản phẩm cà phê chủ lực trên thế giới. Những nhân tố về thời tiết, dân

số đem lại những tác động không ổn định đối với từng tác nhân tham gia chuỗi giá

trị.

- Tính phức tạp: Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL có tính phức

tạp cao bởi nó liên quan đến nhiều mùa vụ khác nhau và các loại sản phẩm cà phê

khác nhau. Mỗi loại hình mùa vụ và sản phẩm này có những đặc điểm riêng biệt của

nó và thường làm phân tán chuỗi cung ứng. Chẳng hạn, vào mùa vụ thuận lợi, khối

lượng hàng hoá cà phê tăng nhanh, nguồn cung lớn, giá cà phê hạ; nhưng vào các

mùa vụ không thuận lợi (hoặc trái mùa) hàng hoá cà phê giảm nhanh, chất lượng

thấp, giá bán thường cao, ảnh hưởng đến giá cả và phân phối hàng hoá. Ngoài ra,

nhân tố môi trường cũng làm tăng tính phức tạp của chuỗi giá trị của doanh nghiệp

cà phê, bởi mỗi vùng địa lý, mỗi quốc gia đều có những mục tiêu riêng trong phát

triển nông nghiệp gắn với các giải pháp đa dạng (chẳng hạn như ứng dụng công

nghệ thông tin hoặc đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai trong nông nghiệp). Nếu

khả năng ứng dụng công nghệ chế biến, bảo quản cà phê hạn chế thì sẽ tạo ra sự

“đứt gãy” khi tham gia chuỗi cung ứng do cà phê thường dễ bị hỏng, héo, giảm chất

lượng sau thu hoạch. Chính vì vậy, các công nghệ chế biến, bảo quản cà phê thường

được chú trọng trong tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp toàn cầu.

- Tính đa dạng về tác nhân tham gia: Khác với các chuỗi giá trị của doanh

nghiệp phi cà phê khác, chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL thường có sự

tham gia động đảo của các tác nhân với trình độ và ý thức sản xuất kinh doanh khác

nhau. Nông dân là bộ phận tham gia đông đảo nhất trong chuỗi giá trị, tham gia từ

khâu cung cấp đầu vào, đến sản xuất, thu gom, sơ chế, thương mại hóa và tiêu thụ.

Các hộ nông dân, với trình độ sản xuất và ý thức sản xuất khác nhau, nhận biết thị

trường khác nhau, thường làm cho chuỗi giá trị cà phê trở nên phức tạp, khó điều

chỉnh kể cả về quy mô sản xuất, số lượng sản phẩm, chất lượng sản phẩm, làm ảnh

22

hưởng lớn đến nguồn cung và cầu trong chuỗi cung ứng, tác động không nhỏ đến các

khâu chế biến cà phê, tạo dựng thương hiệu cà phê trên thị trường trong nước và quốc

tế. Tổ chức sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm khác biệt với tổ chức sản xuất

công nghiệp, trong khi tham gia chuỗi giá trị cà phê một phần lớn thuộc về tổ chức

sản xuất nông nghiệp. Tác nhân đa dạng này khiến chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà

phê CDĐL của nhiều nước đang phát triển bị đứt gãy ngay từ khâu cung cấp và thu

gom nguyên liệu cà phê.

* Sơ đồ chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê

- Sơ đồ theo mô hình truyền thống

Một chuỗi giá trị đơn giản theo mô hình truyền thống gồm 5 mắt xích chính:

thiết kế, sản xuất, tiếp thị, tiêu thụ và tái chế. Cụ thể là:

Hình 1.1: Sơ đồ chuỗi giá trị đơn giản của sản phẩm cà phê

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ phương pháp filiere

– Mắt xích 1 –nhà cung cấp đầu vào: Đây là mắt xích quan trọng hỗ trợ cho

ngành cà phê phát triển và là khâu thâm dụng vốn, đất đai. Đối với mặt hàng cà phê,

nguyên phụ liệu có vai trò quyết định đến chất lượng và giá thành hạt cà phê. Nguồn

nguyên phụ liệu trong ngành cà phê phần lớn: nguyên liệu chính và phụ liệu. Trong

đó, nguồn nguyên liệu chính bao gồm hạt giống, đất đai và lao động. Phụ liệu bao

gồm phân bón, hóa chất tưới,…

– Mắt xích 2 –sản xuất: Đây là mắt xích thâm dụng vốn, đất đai và lao động.

– Mắt xích 3 –sau thu hoạch (thu gom, rang xay): Sản xuất và chế biến thô sơ

là khâu thường được thực hiện tại các nước đang phát triển như Braxin, Việt Nam,

Colombia…, bởi lẽ nó không đòi hỏi kỹ thuật công nghệ cao và rất thâm dụng lao

động, phù hợp với các chuỗi giá trị ngành hàng cà phê. Giá trị gia tăng của khâu này

trong chuỗi giá trị không cao.

- Mắt xích 4: Chế biến. Đây là khâu thâm dụng kỹ thuật khoa học và tri thức.

Một trong những điểm đáng chú ý của mắt xích này là sự chuyển đổi từ hạt cà phê

nhân thô sang hạt cà phê có chất lượng cao. Các nước tham gia chính vào khâu này

23

như Mỹ, Đức, Bỉ, Ý,… đòi hỏi phải có trình độ khoa học tiên tiến và khả năng chế

biến sâu. Đây là khâu mang lại giá trị gia tăng trung bình trong chuỗi giá trị.

– Mắt xích 5 –thương mại (tiêu dùng trong nước và xuất khẩu). Đây cũng là khâu

thâm dụng trí thức và cũng là khâu tạo ra giá trị gia tăng lớn nhất trong chuỗi giá trị. Các

nhà bán lẻ nổi tiếng thế giới như Costa Coffee từ Anh Quốc, Starbucks từ Mỹ,… Các

công ty này không trực tiếp tạo ra sản phẩm, chỉ phân phối sản phẩm đến người tiêu dùng

cuối cùng, đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng và nâng cao khả năng tiêu thụ

sản phẩm cà phê.

- Sơ đồ chuỗi giá trị của doanh nghiệp mở rộng của sản phẩm cà phê:

Trên thực tế, chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê phức tạp hơn nhiều so với

sơ đồ đơn giản đã phác thảo ở trên. Sơ đồ đó có dạng như sau:

Hình 1.2: Sơ đồ chuỗi giá trị mở rộng của sản phẩm cà phê

Nguồn: Tác giả tổng hợp theo GTZ 2007

Theo sơ đồ này, đang tồn tại các mối liên kết phức tạp giữa các tác nhân trong

chuỗi giá trị. Liên kết ngang là liên kết giữa các tác nhân trong cùng một khâu (Vd:

liên kết những người nghèo sản xuất/kinh doanh riêng lẻ thành lập nhóm cộng đồng/

tổ hợp tác) để giảm chi phí, tăng giá bán sản phẩm. Liên kết dọc là liên kết giữa các

tác nhân trong chuỗi (Vd: nhóm cộng đồng liên kết với doanh nghiệp thông qua hợp

đồng tiêu thụ sản phẩm). Bao gồm các hình thức như Sản xuất theo hợp đồng: mô

hình tập trung, mô hình trang trại hạt nhân, mô hình đa chủ thể, mô hình phi chính

thức, mô hình trung gian.Theo phương pháp luận liên kết giá trị (valueLinks) của

GTZ (2009)[3], trong chuỗi giá trị, các bên tham gia chính là các tác nhân hoạt động

trên mọi cấp độ của chuỗi, bao gồm những người cung cấp sản phẩm đầu vào cụ thể,

24

người sản xuất, người thu gom, các công ty gia công, chế biến, các đại lý vận tải,

người phân phối, tiêu thụ, và đại diện của các đơn vị hỗ trợ, các trường, viện... những

người đóng vai trò thúc đẩy chuỗi . Phương pháp có sự tham gia được áp dụng trong

lập kế hoạch và cả trong thực hiện các hoạt động can thiệp nhằm thúc đẩy sự hợp tác

chặt chẽ và tăng tính tự chủ của các nhà hoạt động chuỗi, đặc biệt là các đối tác ở khu

vực tư nhân như công ty thu mua, nhà phân phối... Trong một quốc gia, việc phân bố

các chuỗi giá trị phải được các địa phương phối hợp với nhau thực thi bằng một số

chính sách hỗ trợ chuỗi, hỗ trợ marketing, tạo ra sự minh bạch trong tiếp cận thông

tin thị trường nội địa và toàn cầu, liên kết chuyển giao công nghệ trong các cụm ngành

của chuỗi, phân tích sự thay đổi trong chuỗi nhằm ứng phó với những thách thức của

khủng hoảng kinh tế.

1.3.2 Nhân tố ảnh hưởng đến chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL

* Nhân tố bên trong

- Doanh nghiệp sản xuất: trong phân tích chuỗi giá trị nông nghiệp nói chung,

sản phẩm cà phê CDĐL nói riêng, một giai đoạn sản xuất có thể được gọi là bất kỳ giai

đoạn hoạt động nào có khả năng sản xuất một sản phẩm có thể bán được làm đầu vào

cho giai đoạn tiếp theo trong chuỗi hoặc để tiêu thụ hoặc sử dụng cuối cùng. Một giai

đoạn sản xuất trong chuỗi giá trị thực hiện chức năng đóng góp đáng kể vào hoạt động

hiệu quả của chuỗi giá trị và trong quá trình này làm tăng giá trị . Các yếu tố ảnh hưởng

đến sản xuất bao gồm: thời tiết, giống cây trồng, chất lượng hạt cà phê, phân bón, kỹ

thuật, công nghệ, quy mô và điều kiện sản xuất, phương thức sản xuất, tiêu chuẩn nông

nghiệp sạch và sự liên kết giữa các nhà sản xuất với nhau cũng như với các khâu khác

của chuỗi giá trị.

- Doanh nghiệp trồng cà phê: giai đoạn trồng cà phê là giai đoạn hoạt động rất

quan trọng trong khâu cung cấp sản phẩm thô. Các yếu tố ảnh hưởng đến trồng cà phê

bao gồm: Thời tiết, giống cây, phân bón, kỹ thuật, quy mô và điều kiện trồng và sự liên

kết các doanh nghiệp trồng cà phê lại với nhau tác động mạnh mẽ đến hiệu quả của sản

lượng và chất lượng sản phẩm cà phê.

- Doanh nghiệp thu gom: bao gồm các doanh nghiệp thu gom cá thể nhỏ lẻ

(bán lẻ) và các tổ chức thu gom quy mô lớn (bán buôn). Đối với doanh nghiệp bán

buôn, tính mùa vụ trong năm, số lượng khách đặt mua, mối quan hệ với khách mua,

25

bán cho các tỉnh khác nhau là các yếu tố tác động lớn nhất tới các quyết định về giá

và số lượng cà phê CDĐL của các doanh nghiệp bán buôn. Trong đó, mùa vụ được

đánh giá là yếu tố quyết định chính tới giá bán cà phê. Các doanh nghiệp bán buôn

thường chỉ hoạt động vào chính vụ, thuận lợi cho việc thu gom và phân phối đi khắp

nơi. Vào trái vụ, sản lượng ít, giá bán cao nên các hộ bán buôn không thu gom mà

chuyển sang nghề khác. Tại mắt xích này, các doanh nghiệp bán buôn tạo ra giá trị

gia tăng qua các kỹ thuật bảo quản cà phê khác nhau.

Đối với các doanh nghiệp bán lẻ (thu gom nhỏ lẻ), giá trị gia tăng của sản

phẩm trong chuỗi giá trị sẽ thấp hơn. Nguyên nhân là do bán lẻ không tạo ra thêm

nhiều giá trị cho sản phẩm. Hoạt động bán lẻ tại các khu vực lân cận chỉ tạo ra giá trị

gia tăng do vận chuyển và do vị trí bán, thường là ven đường và gần chợ. Không có

giá trị gia tăng do khâu bao gói, chế biến và phân phối.

- Doanh nghiệp rang xay, chế biến: chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê phụ

thuộc vào phương pháp chuyển đổi cà phê từ cà phê tươi sang cà phê khô theo các

quy trình khác nhau (có thể bằng tay hoặc bằng máy), kỹ thuật phân loại cà phê và

đóng gói cà phê. Khâu thu hoạch và chế biến đều diễn ra ở nước sản xuất, có những

tác động liên quan đến con người, lợi nhuận và quản trị doanh nghiệp. - Các nhà phân

phối và tiêu thụ sản phẩm cà phê CDĐL ra thị trường trong nước và thế giới: giá trị

sản phẩm cà phê phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thị hiếu, thói quen, các loại cà phê

và các kỹ thuật xử lý rác thải cà phê sau khi sử dụng.

- Doanh nghiệp phân phối sản phẩm: giá trị sản phẩm cà phê phụ thuộc vào

nhiều yếu tố như thị hiếu, thói quen, các loại cà phê và các kỹ thuật xử lý rác thải cà

phê sau khi sử dụng.

* Nhân tố bên ngoài

- Môi trường thể chế: bao gồm những chính sách của chính phủ như chính

sách thương mại, chính sách mở cửa thị trường, chính sách nông nghiệp, chính sách

hỗ trợ, chính sách tài chính, chính sách khoa học công nghệ, chính sách liên doanh

liên kết...; hệ thống luật pháp trong nước như Luật đất đai, Luật đầu tư, Luật thương

mại, Luật cạnh tranh, Luật sở hữu trí tuệ... và tổ chức bộ máy quản lý cũng như khả

năng vận hành hệ thống bộ máy quản lý của những cơ quan liên quan.

- Mức độ tiếp nhận của người tiêu dùng trong và ngoài nước đối với sản phẩm

26

cà phê CDĐL: người tiêu dung có thể biết đến thương hiệu, nhãn hiệu chỉ dẫn địa lý

của sản phẩm, cũng có thể chưa biết đến.

- Sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ và các dịch vụ liên quan: để

tham gia sâu vào chuỗi giá trị, cần phải phát triển nhiều ngành công nghiệp hỗ trợ

như công nghiệp chế biến, hệ thống tài chính, cơ sở hạ tầng giao thông, các dự báo

về thị trường…

- Hoạt động quản lý chuỗi giá trị cà phê CDĐL: quản lý phân bố tài sản và

nguồn lực sản xuất, quản lý sử dụng đầu vào, chất lượng sản phẩm cà phê CDĐL,

quản lý trong kế hoạch sản xuất và dự báo, quản lý về lao động và tài chính…

- Hệ thống chính trị và quan hệ kinh tế đối ngoại: đó là các yếu tố liên quan

đến an toàn, an ninh tài sản quốc gia, hạn chế tự do hoá thương mại, ổn định chính

trị, môi trường đầu tư nước ngoài.

1.4 Kinh nghiệm trong việc tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà

phê CDĐL

1.4.1 Kinh nghiệm quốc tế

1.4.1.1 Brazil

Là nước đứng đầu về mặt diện tích cũng như sản lượng trên bản đồ cà phê thế

giới trong 150 năm nay, cà phê nhân thô từ Brazil chiếm khoảng 60% lượng giao dịch

toàn cầu, từ năm 2011 cà phê Brazil đã đứng ở vị trí lãnh đạo ngành cà phê thế giới,

trong sản xuất cà phê xanh, cà phê Arabica và cà phê chế biến (cà phê hòa tan). Ngành

cà phê Brazil thực sự là một đầu tàu mạnh mẽ trong nền kinh tế nước này. Về quy mô

sản xuất, có khoảng 360.000 nông dân / công nhân làm thuê cho nông trại lâu dài. Về

quy mô trại trung bình: từ nông trại nhỏ 0.5 hecta đến những đồn điền 10,000 hecta

với sản lượng xuất khẩu hàng năm: 45 – 60 triệu bao (60 kg). Các khu vực đang canh

tác cà phê của Brazil bao gồm: Bahia, Espírito Santo, Minas Gerais (including Carmo

de Minas, Cerrado Mineiro, and Sul de Minas), Nambuco, Paraná, San Janeiro, São

Paulo (including Mogiana) với giống cà phê phổ biến: Bourbon vàng,

Typica, Caturra, Catuai, Catimor, Maragogype. Phương pháp chế biến đa dạng, phổ

biến là chế biến khô và chế biến theo phương pháp truyền thống Pulped Natural. Phần

lớn cà phê Brazil được giao dịch trên thế giới đều xuất phát từ 6 khu vực chính: Minas

Gerais (1.22 Triệu ha); Espirito Santo (433,000 ha); Sao Paulo (216,000 ha); Bahia

27

(171,000 ha); Rondonia (95,000 ha); cuối cùng là Parana (49,000 ha).

Brazil canh tác cả hai loại cà phê chính là Arabica và Robusta, trong đó

giống cà phê Arabica vẫn chiếm ưu thế với khoảng 85% sản lượng còn lại là Robusta.

Tại Brazil, canh tác Arabica tập trung trong cụm khu vực cà phê quốc gia và được

dẫn đầu bởi Rio. Trong khi đó cà phê Robusta chủ yếu được trồng ở các bang nhỏ

hơn như Espirito Santo (bang này hiện cung cấp cho 80% lượng cà phê robusta) và

Rondonia – vùng màu cam ở phía Tây bắc. So với các quốc gia khác trong ngành cà

phê và trong khu vực, ngành cà phê có tỷ lệ cơ giới hóa rất cao. Máy móc được sử

dụng trong quá trình canh tác từ chăm sóc, đến thu hoặc chế biên. Riêng đối với khâu

thu hoạch, máy móc tham gia khá nhiều công đoạn hoặc là máy cầm tay để tuốt quả,

hoặc máy thu hái tự động trên những trang trại cà phê lớn. Điều này khá đối nghịch

với các khu vực sản xuất cà phê Châu Phi như Ethiopia, Burundi, hay Tazania – cà

phê được thu hai thủ công, với sự chọn lựa nghiêm ngặt. Hầu hết cà phê Brazil được

chế biến khô, một số ích được chế biến theo phương pháp truyền thống Pulpe – Một

phương pháp khá tương đồng với phương pháp chế biến bán ướt khi mà cà phê được

xát vỏ và phơi khô với một phần chất nhầy còn lại. Theo Hiệp hội Cà phê thế giới,

Brazil là nước tiêu thụ cà phê nội địa cao thứ nhì thế giới, chỉ sau Mỹ và là nước có

lượng tiêu thụ nội địa cao nhất trong các nước sản xuất cà phê. Hiện nay Brazil tiêu

thụ nội địa hằng năm khoảng 600.000 tấn cà phê, lượng tiêu thụ cà phê bình quân đầu

người đạt tới 4,7 kg/năm.

Brazil sản xuất nhiều cà phê hơn bất kỳ nước nào trên thế giới. Nước này đặt

mục tiêu vượt qua Colombia, trở thành đất nước sản xuất cà phê thượng hạng số 1

thế giới. Brazil tự tin với mục tiêu này bởi vì một số lý do qua đánh giá mùi hương,

chất lượng hạt và sự đồng đều. Hiệp hội Cà phê Thượng hạng châu Mỹ, đã cho cà

phê đặc sản Brazil 80 trên 100 điểm. Trong những năm gần đây, sản lượng cà phê

thượng hạng Brazil cũng tăng mạnh so với trước kia. Nắm bắt được nhu cầu thưởng

thức cà phê thượng hạng gia tăng, các chủ trang trại đã bắt đầu chuyển hướng canh

tác đã có từ thời ông cha sang lối canh tác sử dụng công nghệ mới nhất. Mỗi năm, thị

trường cà phê thượng hạng nước này tăng trưởng 15%, trong khi đó cà phê thường

chỉ tăng 2%. Cà phê chất lượng cao không thể sử dụng quy trình đại trà như cà phê

thường. Thêm vào đó, các sản phẩm đều có chỉ dẫn địa lý. Nhờ vậy, lợi nhuận đem

28

lại cho người trồng cà phê hoàn toàn xứng đáng. Một túi cà phê cao cấp bán được gấp

đôi, thậm chí gấp 3 lần cà phê truyền thống. Brazil dự kiến sẽ đạt sản lượng khoảng

50 triệu bao cà phê trong niên vụ 2019 - 2020, thấp hơn so với mức 62 triệu bao của

niên vụ 2018 - 2019. Tuy vậy, nước này kỳ vọng mặc dù sản lượng niên vụ hiện nay

thấp hơn nhưng lợi nhuận đem lại cho họ lại nhiều hơn so với niên vụ trước do chất

lượng cà phê đã được cải thiện đáng kể.

1.4.1.2 Colombia:

Hầu hết cà phê ở Colombia thuộc loài Arabica, chủ yếu là giống cà phê

Bourbon vàng, Bourbon hồng, Typica, Caturra.. Cây cà phê có mặt ở Colombia từ

năm 1790, bằng chứng lâu đời nhất về sự hiện diện của cà phê ở Colombia được quy

cho linh mục Jose Gumilla – trong cuốn The Orinoco Illustrated. Hoạt động sản xuất

và xuất khẩu cà phê của Colombia đã bắt đầu từ thập kỷ đầu tiên của thập niên 1800,

nhưng vẫn còn hạn chế cho đến thế kỷ 20. Từ năm 1927 Ngành cà phê Colombia bắt

đầu chuyển mình với sự ra đời của FNC – (Liên đoàn Cà phê Colombia) và đứng thứ

3 thế giới về sản lượng cà phê cùng với Brazil, Việt Nam.

Cà phê luôn là một phần trong mỗi câu chuyện về Colombia, sự ra đời của loại

cây đặc biệt này đã định hình nên các vùng đất, dân số, nền kinh tế và văn hóa của

đất nước. Tại Colombia càng ngày có càng nhiều nhà sản xuất cà phê đặc sản đời –

như một thông điệp được báo trước bởi Juan Valdez nhưng vẫn là xu hướng chưa mai

một trong ngành cà phê hiện đại.

Ngày nay Colombia có khoảng 600.000 trang trại gia đinh, hầu hết chúng nhỏ

hơn 5ha và tọa lạc các ngọn đồi ở độ cao 1.200 đến 2.000 mét trên mực nước biển.

Năm 2015 Colombia là nước sản xuất cà phê thứ 3 thế giới theo thống kê bởi

CafeImports năm 2017.

Dân số tham gia vào ngành cà phê gần là 600.000 người với quy mô trang trại

trung bình từ 1 đến 5 ha, sản lượng xuất khẩu hàng năm là từ 11 đến 13 triệu bao (60

kg/bao). Các khu vực đang canh tác cà phê của Colombia chủ yếu là Antioquia,

Boyacá, Cauca, Casanare, Huila, Magdalena, Meta, Risaralda, Santander, Tolima,

Valle… với giống cà phê phổ biến là giống Bourbon, Castillo, Catimor, Caturra,

Colombia, Typica với hầu hết phương pháp chế biến là chế biến ướt - một trong

những truyền thống bắt rễ sâu trong ngành cà phê Colombia (còn được gọi

29

là Beneficio). Nhìn chung quá trình này cũng không quá khác biệt với trình tự chế

biến ướt tại một số quốc gia khác. Việc thu hoạch bắt đầu vào buổi sáng, và hạt cà

phê được xay xát ngay sau đó, quá trình lên men trong bể nước từ 12-18h. Khi lên

men hoàn tất, cà phê được cào rữa chất nhầy và phơi khô.

Trong nhiều năm, Colombia là một trong những nước sản xuất cà phê lớn thứ

2 thế giới chỉ sau Brazil – nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới. Cho tới năm 2000,

Colombia đã bị Việt Nam vượt qua, và sau đó bệnh rỉ sắt trên cây cà phê vào năm 2008

đã khiến vị thế giảm đáng kể. Hiện nay, Colombia đang nằm trong top 5 sản phẩm cà

phê với khoảng 10 triệu bao mỗi năm.

Liên đoàn Cà phê Colombia – FNC (The National Federation of Coffee

Growers) là một tổ chức phi lợi nhuận, được thành lập năm 1927 với tư cách là một

hợp tác xã kinh doanh nhằm thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu cà phê của Colombia.

Hiện nay FNC đã phát triển một cơ sở hạ tầng liên kết sâu rộng nhằm thúc đẩy sự

hợp tác và đi đến các thống nhất chung nhằm giải quyết lợi ích của người trồng cà

phê và gia đình họ. Bằng cách này, người trồng cà phê Colombia đã đạt được sự đồng

thuận cần thiết để phát triển các chương trình và hành động vì lợi ích của chính họ.

Thứ nhất, quan trọng hơn cả là FNC sẽ đảm bảo một mức giá có lợi cho người trồng

cà phê Colombia thông qua việc xâm nhập vào thị trường, tìm kiếm thị trường tiềm

năng, bảo Doanh nghiệp nguồn gốc cho cà phê Colombia (chứng nhận rằng đây là cà

phê Colombia 100%). Qua đó FNC trở thành một chỗ dựa vững chắc cho người trồng

cà phê Colombia trước các biến động của thị trường quốc tế, đảm bảo lợi nhuận cho

nông dân. Thứ hai, thông qua bộ phận nghiên cứu kỹ thuật FNC sẽ hỗ trợ người trồng

cà phê Colombia về nghiên cứu và phát triển để tối ưu hóa chi phí sản xuất và nâng

cao chất lượng cà phê thông qua hoạt động khuyến nông như quản lý đất, kỹ thuật

chế biến, lựa chọn giống, ngăn ngừa và điều trị bệnh trên cây cà phê.., và các khía

cạnh nông nghiệp khác để canh tác cà phê có hiệu quả. Để phân biệt “Cà phê

Colombia 100%” với cà phê đã được trộn với từ các nước khác, năm 1981 FNC đã

xây dựng khái niệm thương hiệu về Juan Valdez. Hình ảnh một nông dân ở vùng

nông thôn đi cùng một con lừa tải cà phê trên lưng xuất hiện lần đầu tiên trên TV vào

năm 1983. Juan Valdez đại diện cho chương trình ‘Cà phê Colombia 100%’. Juan

Valdez chỉ là một nhân vật hư cấu vào những năm 50, khi làn sóng cà phê thứ hai đang

30

thịnh hành. Song, những gì mà Juan Valdez truyền bá đã hiện thực hóa từng yếu tố

một trong ngành cà phê đặc sản – Đó là sự tập trung tiềm năng chất lượng vào nguồn

gốc, tác động của phương thức sản xuất trong chuỗi hành trình từ hạt đến cốc. Hơn

nữa, Juan Valdez đã gieo hạt giống cho ý tưởng rằng “cà phê” không chỉ có “hương

vị như cà phê” – Mà thực tế, đó là một loại trái cây và rằng mỗi giống loài cà phê

được canh tác tại những vùng khác nhau thực sự có hương vị khác nhau. Đến cuối

những năm 1970, ngành cà phê toàn cầu đã chú ý đến điều này. Colombia đã trở thành

một nhà lãnh đạo trong tiếp thị và truyền giáo về cà phê trên trường quốc tế.

Colombia là một bài học thực tiễn cho nhiều quốc gia sản xuất cà phê trên

thế giới. Điều kiện tự nhiên kết hợp với vị trí địa lí, thích hợp cho sự sinh trưởng của

cây cà phê chè (hầu hết sản phẩm được chế biến ướt nên có giá trị cao trên thị trường).

Cùng sự phối hợp chặt chẽ của FNC đã giúp đất nước tạo dựng hình ảnh cây cà phê

Colombia trên trường quốc tế cùng những hỗ trợ thiết thực cho người trồng cà phê.

1.4.1.3 Ethiopia:

Ethiopia là nước trồng cà phê lớn thứ 5 trên thế giới theo thống kê

bởi CafeImports vào năm 2017.Dân số tham gia vào ngành cà phê là gần 700.000

người với quy mô trang trại trung bình từ1 ha trở xuống, sản lượng xuất khẩu hàng

năm là 3,5 triệu bao (60 kg/bao). Các khu vực đang canh tác cà phê của Ethiopia là

Sidama (bao gồm Yirgacheffe), Harrar, Limu, Djimma, Lekeemi, Wallega, Gimbi

với giống cà phê phổ biến: các giống bản địa của người Nigeria bao gồm Kudhome,

Gesha, Djimma … và phương pháp chế biến là chế biến ướt & chế biến khô

Hầu hết cà phê Ethiopia được canh tác trên các khu vườn nhỏ lẻ, sau đó được

sơ chế tại các “hợp tác xã chế biến” (co-op washing station) – hay còn gọi

là Microregion với nhân công làm thuê, sẽ chế biến, lựa chọn và xay sát, cà phê cho

một khu vực. Nông dân sẽ mang cà phê đến đến trạm chế biến gần nhất, gộp chung

với lô cà phê của các nông dân khác để được cân & chế biến trước khi xuất khẩu.

Bằng cách này cà phê có nhiều khả năng truy xuất nguồn gốc ở cấp độ nhà nông trại

và được bán dễ dàng hơn.

Vốn dĩ Etthiopia đã quá nổi tiếng trong cà phê thế giới khi được xem là nơi

sinh ra của cà phê với các giống Arabica bản địa. Nguồn gen quý và sự đa dạng sinh

học đã làm nên danh tiếng cũng như hương vị đặc thù cho mỗi loại cà phê bản địa

31

(single origin coffee) từ Ethiopia. Do đó Ethiopia có đến 2 cái tên trong top 10

loại Specialty Coffee hàng đầu thế giới, nên khi nhắc đến Cà phê Ethiopia người ta

đều nhắc đến vùng cà phê Harar lâu đời và tuyệt nhất là cà phê Yirgacheffes. Thị trấn

Yirgacheffe (Irgachefe) nằm ở vùng Sidamo của Ethiopia ở độ cao khoảng 1.900 mét

so với mực nước biển. Độ cao không hề “khiêm tốn” của vùng này đã cho phép cây

cà phê đạt mức sinh trưởng tối ưu Strictly High Grown (SHG). Điều kiện giúp cây cà

phê phát triển chậm, kéo dài thời gian nuôi quả để tích lũy các chất dinh dưỡng cho

hạt cà phê và phát triển hương vị tốt nhất).

Nông dân tại thị trấn cà phê Yirgacheffe thường là thành viên của Liên minh Hợp

tác xã Nông dân Yirgacheffe (YCFCU), bao gồm 23 hợp tác xã thành viên khác nhau,

bao gồm hơn 40.000 nông dân. Các thành viên của YCFCU được miễn trừ khỏi

Ethiopian Coffee Exchange (ECX), cho phép họ không cần thông qua sở giao dịch và

nhận được phí bảo hiểm từ các chứng nhận thương mại như Fair trade coffee (cà phê

thương mại bình đẳng) và Organic coffee (chứng nhận cà phê hữu cơ)..

Một số nông dân Yirgacheffe cũng là thành viên của Liên minh Hợp tác xã

Nông dân trồng cà phê Oromia (OCFCU), thường bao gồm các nông dân nhỏ từ vùng

Oromia của Ethiopia. Hợp tác xã sẽ thống nhất các kỹ thuật xử lý, phân loại và bán

hàng cho phép cà phê tiếp cận thị trường hiệu quả hơn và kiểm soát nhiều hơn đối

với danh tiếng của cà phê Ethiopia. OCFCU còn giúp ổn định kinh tế cho nông dân

bằng cách dàn trải các khoản thanh toán trong suốt cả năm.

Là một quốc gia danh tiếng lâu đời về cà phê cũng như có vị thế trên trường

quốc tế, ngành cà phê Ethiopia có những hướng phát triển rất đột phá, mà tiêu biểu là

sở giao dịch ECX (The Ethiopian Commodity Exchange). ECX được thành lập bởi

chính phủ Ethiopia vào tháng tư năm 2008 với mục đích dân chủ hóa quyền buôn bán

trên thị trường cho nông dân trồng cà phê, đậu, ngô, lúa mì, và một số hàng hóa khác.

EXC thực chất là một “chợ” giao dịch hàng hóa, nơi mà mọi người nông dân đều có

thể bán sản phẩm của mình trực tiếp đến người mua nước ngoài, không thông qua

trung gian. Và người mua được hưởng lợi từ một mạng lưới cung cấp an toàn, tin cậy

nhanh chóng. Trước khi có EXC thị trường cà phê Ethiopia mang tính rủi ro rất cao,

việc buôn bán thông qua các thương lái, người bán và người mua chủ yếu giao dịch

với những người mà họ biết để tránh nguy cơ vỡ nợ, lừa đảo. Với 95% người trồng

32

cà phê Ethiopia thuộc diện sản xuất nhỏ lẽ nên khó tiếp cận thông tin thị trường, bị

ép giá.. Vì vậy thực sự có rất ít sản phẩm cà phê Ethiopia nói riêng, và các sản phẩm

nông nghiệp nói chung tiếp cận thị trường toàn cầu. Từ khi EXC ra đời đã trở thành

một thị trường nơi người mua và người bán đến với nhau để thương mại, yên tâm về

chất lượng, giao hàng và thanh toán.

1.4.2 Kinh nghiệm trong nước

Là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, mỗi năm kim

ngạch xuất khẩu của mặt hàng cà phê thu về hàng tỷ USD cho đất nước. Song để mặt

hàng này mang lại giá trị gia tăng cao thì cần xây dựng thương hiệu một cách bài bản,

gắn với chỉ dẫn địa lý nhằm phát huy tối đa tiềm năng và lợi thế của mặt hàng "tỷ

đô". Thời gian qua, nhiều chính sách, giải pháp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ, các địa phương đã được triển khai để phát

triển chuỗi giá trị gia tăng cho các sản phẩm cà phê có chỉ dẫn địa lý. Hiện nay, Việt

Nam đã có hai chỉ dẫn địa lý đối với sản phẩm cà phê là "Cà phê Buôn Ma Thuột" và

chỉ dẫn địa lý "Cà phê Sơn La".

Nằm trên vùng núi phía Tây Bắc, Sơn La được biết đến là vùng đất của cà phê

Arabica. Cây cà phê được người Pháp đưa vào trồng ở Sơn La từ đầu thế kỷ 20, trải

qua nhiều giai đoạn phát triển thăng trầm, đến nay Sơn La đã có gần 20.000 ha cà

phê, sản lượng hàng năm đạt 30.000 tấn. Đây là nguồn thu nhập chính của hàng nghìn

Doanh nghiệp nông dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Mặc dù, cà phê Sơn

La đã được xuất khẩu đến nhiều quốc gia trên thế giới như Nga, Mỹ, Nhật, EU và

nhiều thị trường khác, nhưng 95% sản phẩm xuất khẩu dưới dạng cà phê nhân, giá trị

gia tăng thấp và chưa có thương hiệu. Do đó, những năm gần đây, vấn đề phát triển

thương hiệu cho cà phê, đặt biệt phát triển chuỗi giá trị cho cà phê có CDĐL Sơn La

đã được tỉnh Sơn La quan tâm với nhiều giải pháp.

Với hướng tiếp cận phù hợp từ khâu quy hoạch, lựa chọn sản phẩm bảo Doanh

nghiệp và đặc biệt là thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn

vào quá trình bảo Doanh nghiệp, phát triển thương mại sản phẩm theo chuỗi giá trị

gắn với thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, sản phẩm cà phê Sơn La đã được cấp văn bằng

bảo Doanh nghiệp chỉ dẫn địa lý với 3 loại sản phẩm: cà phê nhân – cà phê rang – cà

phê bột.

Với chủ trương phát triển thương hiệu gắn với doanh nghiệp, tỉnh Sơn La đã

33

khuyến khích được các doanh nghiệp xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, thúc đẩy liên

kết hợp đồng giữa doanh nghiệp với nông dân, hợp tác xã trong việc áp dụng các tiến bộ

trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Các doanh nghiệp cũng phải tuân thủ các tiêu

chuẩn chất lượng trong xuất khẩu như bộ tiêu chuẩn cà phê 4C, UTZ… từng bước thúc

đẩy xuất khẩu sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ ra thị trường, xây dựng sản phẩm “product

of Vietnam” trên thị trường quốc tế. Với nỗ lực của doanh nghiệp và chính sách khuyến

khích đầu tư chế biến sâu các nông sản của tỉnh, hoạt động chế biến cà phê thành phẩm

cung cấp cho thị trường trong nước đã được đẩy mạnh trong 5 năm gần đây.

Tuy mới gia nhập thị trường sản phẩm chế biến, nhưng sản phẩm chế biến từ

cà phê Sơn La đã được người tiêu dùng đón nhận với hướng tiếp cận phù hợp bằng

việc đưa ra các sản phẩm cà phê nguyên chất dùng cho pha máy, pha phin truyền

thống và cà phê hòa tan tiện dụng. Theo ông Đặng Văn Thịnh, Giám đốc Công ty

TNHH cà phê Sơn La, hiện nay, cà phê Sơn La nói riêng đang xuất khẩu nhưng chưa

mang thương hiệu bởi cà phê Sơn La mới được công bố chỉ dẫn địa lý từ tháng

10/2017. Để thương hiệu cà phê Sơn La nói riêng có được chỗ đứng vững chắc trên

thị trường trong nước và quốc tế, tỉnh Sơn La cần tiếp tục có những chính sách và

giải pháp đồng bộ hơn trong thời gian tới, đặc biệt là vấn đề quảng bá, giới thiệu sản

phẩm nhằm nâng cao hình ảnh cà phê Sơn La trên thị trường, góp phần nâng cao giá

trị, thúc đẩy thị trường trong bối cảnh Hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA DOANH NGHIỆP

CÀ PHÊ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ BUÔN MA THUỘT

2.1 Thực trạng sản xuất cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột

2.1.1 Điều kiện đặc thù địa phương quyết định chất lượng cà phê Buôn Ma

Thuột:

Cà phê là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và mỗi năm

thu về hàng tỷ USD từ kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ hai thế

giới về xuất khẩu cà phê và dẫn đầu toàn cầu về cà phê Robusta[25].

Nói đến cà phê Robusta của Việt Nam là nói đến cao nguyên Buôn Ma Thuột,

tỉnh Đắk Lắk – đây là thiên đường của cây cà phê Robusta. Cao nguyên Buôn Ma

34

Thuột nằm ở trung tâm tỉnh Đắk Lắk, trải dài từ Bắc xuống Nam ở độ cao trung bình

từ 400m – 800 m so với mặt biển, địa hình tương đối bằng phẳng. Bề mặt của cao

nguyên Buôn Ma Thuột là sản phẩm của núi lửa phun trào phủ lên lớp đá phiến thạch,

mi ca và sa phiến thạch được phong hóa, tạo nên một lớp đất dày màu mỡ (đất đỏ

Ferrasols hay đất đỏ Bazan), chiếm khoảng 70% diện tích tự nhiên của vùng. Loạt

đất này có tầng đất dày, hàm lượng mùn cao, cấu trúc đất và tính chất cơ lý tốt, tạo

cho đất có độ thấm nước lớn, đồng thời hút ẩm và giữ ẩm tốt, làm tang khả năng giữ

nước và hấp thu dinh dưỡng; rất thích hơn với loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế

như cà phê, đặt biệt là nền đất lý tưởng cho phát triển cà phê Robusta. Khí hậu vùng

Buôn Ma Thuột mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên và chia

thành hai mùa rõ rệt: Mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, khí hậu

mát và lạnh với nhiệt độ trung bình từ 15-200C, độ ẩm thấp, thường có gió từ cấp 3

đến cấp 4. Độ ẩm trong không khí thấp trong mùa khô tạo cho cây cà phê có thời gian

ngủ nghỉ, phân hóa mầm hoa và khi được sẽ bung hoa đồng loạt. Đặc biệt từ tháng 9

đến tháng 12, thời kỳ hạt cà phê kết tinh chất khô chuẩn bị chín trái, biên độ dao động

nhiệt vào khoảng từ 11-17,50C, đây là một trong những điều kiện được xác định là

rất phù hợp đối với việc định hình chất lượng hạt cà phê và là một trong những yếu

tố cần thiết tạo nên hương vị cà phê Robusta ở Buôn Ma Thuột có tính đặc trưng,

thơm ngon hơn nhữn vùng khác; Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 với lượng mưa

bình bình từ 1.900-2.100mm, khí hậu ẩm và dịu mát với nhiệt độ trung bình từ 10-

150C, rất thuật lợi cho sinh trưởng quả của cây cà phê. Cả nước mặt và nước ngầm ở

Đắk Lắk đều tương đối phong phú với hệ thống sông chính quan trọng là sông

Sêrêpôk, riêng ở vùng trung tâm của cao nguyên Buôn Ma Thuột, trữ lượng nước

ngầm tiềm năng tại đây lên đến 143.000m2, chủ yếu ở độ sâu 15-25m.

Sự hội tụ lý tưởng các điều kiên tự nhiên đã tạo cho cao nguyên Buôn Ma Thuột

một vùng sinh thái đặc trưng, làm nên yếu tố khác biệt không chỉ thích hợp đối với quá

trình sinh trưởng của cây cà phê, mà còn quyết định chất lượng, hương vị đặc trưng của

hạt cà phê trong vùng địa danh Buôn Ma Thuột. Đó là lợi thế về tự nhiên không lặp lại ở

bất cứ một vùng địa danh nào trên lãnh thổ Việt Nam và sẽ quyết định ưu thế cạnh tranh

của cà phê vối Robusta nói riêng và cà phê Buôn Ma Thuột nói chung.

2.1.2 Nhu cầu phát triển cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột

35

Cà phê của tỉnh Đắk Lắk đã được xuất khẩu tới 60 nước và vùng lãnh thổ

trên thế giới. Các sản phẩm cà phê bền vững có chứng nhận đang được bán cao hơn

giá thông thường khoảng từ 10% đến 15%. Việc đăng ký bảo Doanh nghiệp chỉ dẫn

địa lý cà phê Buôn Ma Thuột là một cách để khai thác thị trường hàng hóa cấp cao,

nâng cao giá trị xuất khẩu của mặt hàng này. Trên thực tế thì thương hiệu chỉ dẫn địa

lý cà phê Buôn Ma Thuột đã có giá trị, cụ thể là: (1) Thương hiệu cà phê chỉ dẫn địa

lý Buôn Ma Thuột đã thắng kiện khi Công ty TNHH Cà phê Buôn Ma Thuột Quảng

Châu, Trung Quốc chiếm đoạt nhãn hiệu cà phê Buôn Ma Thuột; (2) Khi nhà nhập

khẩu mở thư tín dụng (LC) cho nhà xuất khẩu qua ngân hàng, thì trong các chứng từ

thanh toán quốc tế có giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (CO) (Chứng nhận xuất xứ

hàng hóa của một quốc gia, không ngẫu nhiên đồng nghĩa với quốc gia xuất khẩu

hàng hóa mà phải là quốc gia đã thực sự sản xuất, chế tạo ra hàng hóa đó) yêu cầu rất

rõ là cà phê Buôn Ma Thuột của Việt Nam.

Trong bối cảnh Hội nhập hiện nay, các thương hiệu cà phê Việt Nam đã và

đang phải đương đầu với các thương hiệu cà phê nước ngoài trên mọi lĩnh vực hàng

hóa và dịch vụ. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp cà phê Việt Nam nói chung và tỉnh

Đắk Lắk nói riêng phải có một cái nhìn chiến lược về xây dựng, phát triển, quảng bá

và bảo vệ thương hiệu ngay từ thị trường trong nước và nước ngoài. Bởi nếu không

bảo vệ nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý ở nước ngoài đồng nghĩa với nguy cơ mất thị trường

tại nhiều nước trên thế giới.

Chính vì vậy, Chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột cho cà phê nhân được bảo hộ tại

Việt Nam theo Quyết định số 806/QĐ-SHTT do Cục Sở hữu trí tuệ cấp số đăng bạ

0004 ngày 14/10/2005 là tài sản quốc gia do UBND tỉnh Đắk Lắk được ủy quyền

đứng tên. Cà phê Buôn Ma Thuột được xem là tài sản vô giá và là niềm tự hào của

Việt Nam vì Buôn Ma Thuột là thủ phủ của cà phê Việt Nam, nơi đã và đang trồng,

thu hoạch, chế biến và xuất khẩu cà phê với sản lượng chiếm tới hơn 50% tổng sản

lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước.

2.1.3 Tình hình sản xuất cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột:

Đặc tính sản phẩm cà phê nhân mang Chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột là: màu

xanh xám, xanh lục hoặc xám lục nhạt; kích thước dài 10-11mm, rộng 6-7 mm, dày

36

3-4 mm; khi rang đến độ chín thích hợp thì có hương thơm đặc trưng của cà phê, vị

nước cà phê đắng dịu, nhẹ, không chát; hàm lượng cà phê in từ 2-2,2% chất khô.

Theo UBND tỉnh Đắk Lắk, vùng địa danh cà phê có tổng diện tích 107.505

ha, chiếm gần ½ tổng diện tích cà phê của tỉnh (208.109 ha), nằm tại các huyện Cư

M’gar, Ea H’leo, Krômng Ana, Cư Kuin, Krông Búk, Krông Pắk, Krông Năng và

Buôn Ma Thuột. Cà phê mang CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột được sản xuất và chế

biến theo quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hoạch và chế biến do UBND tỉnh

Đắk Lắk ban hành (Quyết định số 674/QĐ-UB ngày 20/4/2005). Bản quy định này

dựa trên quy trình sản xuất và chế biến cà phê vối do Bộ NN&PTNT ban hành [26].

Đặc điểm của quy trình là hướng đến sản xuất cà phê bền vững, thực hành nông

nghiệp tốt. Tuy nhiên, cũng theo đánh giá của UBND tỉnh Đắk Lắk, việc xuất khẩu

sản lượng cà phê nhân có CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột vẫn còn quá ít so với yêu

cầu, trong khi đó, mỗi niên vụ, tỉnh Đắk Lắk luôn đạt sản lượng cà phê nhân Robusta

từ 450.000 tấn trở lên.

Mặc dù cuối năm 2005, cà phê Buôn Ma Thuột đã được Cục Sở hữu trí tuệ

cấp đăng bạ tên gọi xuất xứ hàng hóa, nhưng việc quản lý và phát triển thương hiệu

này sau đó vẫn còn nằm trên giấy. Do đó, cà phê Buôn Ma Thuột khi xuất khẩu đã bị

đánh đồng với cà phê xuất xứ từ nhiều vùng miền khác, không khai thác được những

lợi thế về chỉ dẫn địa lý. Cho đến đầu năm 2008, một dự án hỗ trợ quản lý và phát

triển CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột do Sở Khoa học - Công nghệ (KH-CN) Đắk Lắk

chủ trì mới được chính thức xây dựng. Từ tháng 1.2008 đến tháng 6.2010, dự án đã

thiết lập hệ thống tổ chức quản lý chất lượng và thương mại nhằm phát triển, quảng

bá chỉ dẫn địa lý, tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm cà phê mang CDĐL Buôn Ma

Thuột. Mô hình quản lý chỉ dẫn địa lý và hệ thống quản lý nội bộ cho sản phẩm cà

phê nhân Buôn Ma Thuột được thực hiện thử nghiệm đối với 4 doanh nghiệp trong

vùng địa danh với khoảng 5.000 ha cà phê.

Hình 3.1. Logo cà phê Buôn Ma Thuột

37

Nguồn: Hiệp Hội cà phê Buôn Ma Thuột

Ngày 30 tháng 6 năm 2010, UBDN tỉnh Đắk Lắk có Quyết định số 18/2010/QĐ-

UBND về việc ban hành “Quy chế quản lý, sử dụng chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột

đối với sản phẩm cà phê nhân Robusta”. Nhờ đó, cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột từng bước

khẳng định được giá trị và chỗ đứng trên thị trường thế giới từ chỗ chỉ chiếm 4% năm

2005 lên 15% tổng lượng cà phê xuất khẩu toàn cầu năm 2015.

Tính đến năm 2016, tổng diện tích sản xuất cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột là

15.068,52 ha và sản lượng đăng ký là 46.603 tấn. Tuy nhiên đến năm 2017, tổng diện tích

được cấp quyền giảm xuống còn 12.400,4 ha và sản lượng đăng ký cùng giảm còn

40.605,83 tấn do một đơn vị là công ty CP cà phê Trung Nguyên không tiếp tục sử dụng

CDĐL. Hơn thế nữa, trong niên vụ 2016/2017, quá trình sản xuất cà phê gặp phải khó

khăn nhất định như biến đổi khí hậu, hiện tượng En Nino làm ảnh hưởng đến năng suất và

chất lượng cà phê. Mưa nhiều vào thời kỳ hoa cà phê nở nên tỷ lệ đậu trái thấp, vào thời

kỳ nuôi quả lại xảy ra tình trạng thiếu nước tưới nên trái nhỏ và quả thưa nên năng xuất

thấp so với niên vụ trước. Đến niên vụ 2017/2018, quá trình sản xuất cà phê CDĐL Buôn

Ma Thuột tương đối thuận lợi hơn. Tổng diện tích đăng lý tăng hơn 1.000 ha, lên đến

13.594,10 ha với 8.979 hộ và sản lượng là 44.605,80 tấn. Đến tháng 10, 2019, tổng diện

tích cà phê nhân CDĐL Buôn Ma Thuột là 15.612,70 ha, với sản lượng đăng ký là 48.691

tấn, tang hơn so với năm 2018.

Bảng 2.1. Diện tích cà phê nhân CDĐL Buôn Ma Thuột

Đơn vị: ha

2005 2008-2010 2016 2017 2018 2019 Năm

107.505* 5.000 15.068,52 12.400,4 13.594,10 15.612,70 Diện tích

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ các báo cáo tổng hợp kiểm tra các đơn vị

được cấp quyền sử dụng CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột giai đoạn 2008-2010, các

năm 2016, 2017 và 2018 của Hiệp hội cà phê Buôn Ma Thuột tỉnh Đắk Lắk.

38

Chú thích: * Tổng diện tích CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột được Cục Sở hữu

trí tuệ cấp đăng bạ năm 2005

Có được thành quả này là do tất cả các đơn vị được cấp quyền sử dựng CDĐL

Buôn Ma Thuột đều chủ động được nguồn nước, tích trữ nước ao hồ của công ty và

có lịch trình tưới 4 đợt/năm, chủ yếu sử dụng phương pháp tưới phun mưa để tiết

kiệm và đảm bảo nguồn nước cho các vùng trồng cà phê. Hơn thế nữa, các đơn vị đều

đề cao tập huấn về quy trình trồng và chăm sóc vườn cây cho nông hộ như: vệ sinh

thường xuyên, cành là lá khố được đưa ra khỏi bờ lô đết đốt, kiểm tra thực nghiệm

tại các vùng nguyên liệu cho thấy tỷ lệ sâu bệnh hại không đáng kể, chỉ diễn ra cục

bộ và được các đơn vị xử lý kịp thời tránh lây lan trên diện rộng làm ảnh hưởng đến

năng suất và chất lượng cà phê như sử dụng vỏ cà phên ủ với phân chuồng và men vi

sinh làm phân bón cho cây cà phên và thuốc bảo vệ thực vật sinh hoạt để bảo vệ sức

khỏe. Tất cả công đoạn đều được ghi chép đầy đủ và sổ nhật ký.

Để đảm bảo năng suất và chất lượng cà phê nhân, thu hoạch thành nhiều đợt

khác nhau (từ 2 đến 3 đợt) để đảm bảo tỷ lệ quản chín từ 80-90%. Cà phê quả tươi

sau khi thu hoạch được nông hộ phơi trên sân xi măng hoặc sấy. Cà phê quả khô và

cà phê thóc đạt đến tỷ lệ khô nhất định được đem xát, được đóng vào bao và bảo quản

trong khô đảm bảo tiêu chuẩn, không tái sử dụng các bao đựng phân hóa học để đựng

cà phê nhân. Có thể khẳng định rằng tất cả các loại cà phên nhân được chế biến ướt

và chế biến khô đều đảm bảo yêu cầu về kỹ thuật và chất lượng của cà phê CDĐL

Buôn Ma Thuột.

Tính lũy kế từ năm 2013 đến năm 2018, cà phê nhân mang CDĐL Buôn Ma

Thuột đã xuất khẩu được khoản 22.200 tấn, với giá trị gia tăng thêm khoảng 3-5%.

Trong 3 niên vụ 2015/2016 đến 2017/2018, cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột cung ứng

cho thị trường nội địa để chế biến cà phê rang xay và hòa tan 5.050 tấn. Sản lượng cà

phê rang xay mang logo cà phê Buôn Ma Thuột được thương mại trên thị trường nội

địa khoảng 250 tấn, với giá trị tăng thêm khoảng 3-5%. Sản phẩm cà phê rang xay có

thương hiệu Buôn Ma Thuột đã được tiếp cận với người tiêu dùng, nguồn gốc nguyên

liệu được đảm bảo, góp phần tiêu thụ sản phẩm cà phê nhân CDĐL, tăng cường nhận

diện thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột của người tiêu dùng sau cùng.

39

Ngoài ra, theo số liệu thống kê trên toàn tỉnh, tổng sản lượng xuất khẩu cà phê hòa

tan nguyên chất lần lượt qua các niên vụ 2016/2017 là 4.624 tấn tương đương 12.022 tấn

cà phê nhân; niên vụ 2017/2018 là 4.528 tấn tương đương 11.773 tấn cà phê nhân; niên vụ

2018/2019 là 5.000 tấn tương đương 13.000 tấn cà phê nhân

2.2. Thực trạng phát triển doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột

2.2.1 Cấp quyền sử dụng CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột cho doanh nghiệp

Từ khi Cục Sở hữu trí tuệ cấp đăng bạ CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột vào năm

2005 cho đến năm 2010, mới chỉ có 04 doanh nghiệp thực hiện mô hình quản lý chỉ dẫn

địa lý và hệ thống quản lý nội bộ cho sản phẩm cà phê nhân Buôn Ma Thuột.

Đến năm 2016, đã có 10 doanh nghiệp cà phê được cấp quyền sử dụng CDĐL

Buôn Ma Thuột, trong đó có 05 đơn vị chuyên xuất khẩu cà phê nhân bao gồm: Công

ty TNHH MTV cà phê Ea Pô k, Công ty TNHH MTV cà phê Thắng Lợi, Công ty

TNHH MTV cà phê Phước An, Công ty TNHH XNK 2/9 Đắk Lắk và Công ty TNHH

Dakman Việt Nam; 03 đơn vị chuyên mua bán cà phê nhân xô nội địa là Công ty

TNHH MTV cà phê 15, Công ty TNHH MTV cà phê Buôn Hồ và Công ty TNHH

MTV cà phê ca cao tháng 10; và 02 đơn vị sản xuất cà phê nhân dùng để chế biến cà

phê rang xay là Công ty cổ phần ĐTXNK Đắk Lắk và Công ty cổ phần cà phê Trung

Nguyên.

Trong năm 2017, Sở KH & CN và Hiệp hội cà phê Buôn Ma Thuột thẩm định

và cấp quyền sử dụng CDĐL cho 03 đơn vị mới là Công ty cổ phần XNK Đức

Nguyên, HTX NN DV Ea Tul và Công ty TNHH TM Phúc Minh và có 01 đơn vị là

Công ty cổ phần cà phê Trung Nguyên không tiếp tục sử dụng CDĐL.

Trong năm 2019, Sở KH&CN cấp Giấy chững nhận quyền sử dụng CDĐL

Buôn Ma Thuột (sửa đổi, bổ sung) cho 02 doanh nghiệm là Công ty cổ phần cà phê

Ea Pốk và Công ty cổ phần cà phê Phước An. Như vậy đến tháng 10/2019, Sở KH &

CN đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng CDĐL Buôn Ma Thuột đối với sản phẩm

cà phê nhân Robusta cho 12 doanh nghiệp với tổng diện tích 15.612,70 ha, sản lượng

đăng ký là 48.691 tấn/năm. Trong 12 doanh nghiệp đã được cấp quyền sử dụng CDĐL

Buôn Ma Thuột có 05 doanh nghiệp chuyên xuất khẩu cà phê nhân bao gồm: Công

ty cổ phần cà phê Ea Pốk, Công ty TNHH TMV cà phê Thắng Lợi, Công ty cổ phần

cà phê Phước An, Công ty TNHH Dakman Việt Nam và Công ty TNHH MTV XNK

40

2/9 Đắk Lắk; 07 đơn vị chuyên mua bán cà phê nhân xô nội địa là Công ty TNHH

MTV cà phê 15, Công ty TNHH MTV cà phê Buôn Hồ, Công ty TNHH TM Phúc

Minh, HTX NN DV Ea Tu, Công ty cổ phần ĐT XNK DakLak thì trong đó có 04

đơn vị sản xuất cà phê nhân dùng để chế biến cà phê rang xay là Công ty cổ phần ĐT

XNK Daklak, Công ty TNHH MTV XNK 2/9 Đắk Lắk, Công ty TNHH MTV cà phê

15 và HTX NN DV Ea Tu.

Các doanh nghiệp có vùng nguyên liệu sản xuất như: Công ty TNHH MTV cà

phê 15, Công ty TNHH TMV cà phê Thắng Lợi, Công ty cổ phần cà phê Ea Pốk,

Công ty TNHH MTV cà phê Buôn Hồ, Công ty cổ phần cà phê Phước An sản xuất

theo kế hoạch giao từ trên xuống các đội, tổ nên việc sản xuất ở các vườn tương đối

giống nhau, việc ghi sổ nhật ký nông hộ được triển khai đến các đội thì vùng nguyên

liệu ổ định, chuyên sản xuất cà phê nhân chất lượng cao (chế biến ướt) với thị thường

tiêu thụ, khách hàng truyền thống nên chủ động được nguồn hàng và thị trường đầu

ra nên ít chịu tác động của giá thế giới.

Các doanh nghiệp không có vùng nguyên liệu, liên kết với các hội như: Công ty

TNHH MTV XNK 2/9 Đắk Lắk, Công ty TNHH Dakman Việt Nam, Công ty cổ phần ĐT

XNK Daklak, là Công ty cổ phần XNK Đức Nguyên, Công ty TNHH TM Phúc Minh, HTX

NN DV Ea Tu sản xuất theo nhóm hộ nên ghi sổ nhật ký nông hộ triển khai đến từng nông

hộ thì chịu tác động rất nhiều của các yếu tố trong việc sản xuất kinh doanh.

2.2.2 Hệ thống quản lý nội bộ của doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột

Để đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch trong quá trình sản xuất và kinh doanh,

các doanh nghiệp đã hình thành hệ thống quản lý nội bộ từ công ty đến nông hộ sản

xuất. Công tác sản xuất cùng như kinh doanh diễn ra theo đúng kế hoạch và có sự chỉ

đạo tập trung.

Trong 12 doanh nghiệp được cấp quyền sử dụng CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột, có

07 doanh nghiệp tham gia sản xuất có chứng nhận Utz với tổng số 5.637 nông hộ, tổng diện

tích là 6.243,35 ha và tổng sản lượng là 19.912 tấn, tổng sản lượng thương mại là 9.843,2

tấn chiếm 49,43% so với tổng sản lượng đăng ký, với giá tăng thêm từ 200-440đ/kg so với

giá thị trường; 04 doanh nghiệp tham gia sản xuất cà phê có chứng nhận 4C với 6.686 nông

hộ, tổng diện tích 8.775,9ha, tổng sản lượng 32.739,62 tấn và tổng sản lượng thương mại

16.973,74 tấn chiếm 51,84% so với tổng sản lượng đăng lý, với giá tăng thêm từ 150-

41

200đ/kg so với giá thị trường; 03 doanh nghiệp sản xuất cà phê có chứng nhận RFA với diện

tích 5.123 ha, 2.771 nông hộ tham gia với tổng sản lượng đăng ký 12.719 tấn và tổng sản

lượng thương mại 2.000 tấn chiếm 15,72% so với sản lượng đăng ký với giá tăng thêm

khoảng 300-400đ/kg so với giá thị trường.

Như vậy, 12 doanh nghiệp được cấp quyền sử dụng CDĐL Buôn Ma Thuột cho

sản phẩm cà phê nhân đã xây dựng hệ thống quản lý nội bộ, trong đó 09 doanh nghiệp

có hệ thống quản lý cùng với hệ thống quản lý với các loại chứng nhận khác (Utz, 4C,

FRA, …) và 03 đơn vị có hệ thống quản lý độc lập (chi tiết xem Bảng 3.2).

Bảng 2.2. Phân loại hệ thống quản lý nội bộ của các doanh nghiệp cà phê

CDĐL Buôn Ma Thuột

STT STT Doanh nghiệp có hệ thống quản lý nội bộ CDĐL Buôn Ma Thuột

1. 1. Doanh nghiệp có cùng hệ thống quản lý nội bộ CDĐL Buôn Ma Thuột với các loại chứng nhận khác Công ty TNHH MTV XNK 2/9 Đắk Lắk

2. 2. Công ty TNHH Dakman Việt Nam Công ty TNHH MTV cà phê ca cao tháng 10 Công ty cổ phần XNK Đức Nguyên

3. Công ty cổ phần ĐT XNK Daklak

3. Công ty cổ phần cà phê Ea Pốk 4. Công ty cổ phần cà phê Phước An

5.

6. Công ty TNHH TMV cà phê Thắng Lợi Công ty TNHH MTV cà phê Buôn Hồ

7. Công ty TNHH MTV cà phê 15 8. Công ty TNHH TM Phúc Minh 9. HTX NN DV Ea Tu

Nguồn: Hiệp hội Cà phê Buôn Ma Thuột, Báo cáo tình hình hoạt động 6 tháng

cuối năm 2018 và 6 tháng đầu năm 2019 và phương hướng hoạt động 6 tháng cuối

năm 2019 của Hiệp hội Cà phê Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk.

Ngoài ra, để nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột

tham gia thị trường cà phê đặc sản, Công ty TNHH MTV XNK 2/9 Đắk Lắk đã triển

khai sản xuất cà phê “Fine Robusta Buôn Ma Thuột” tại Hợp tác xã Ea Tan, huyện

Krông Năng với sản lượng hàng năm khoảng 30 tấn, xuất khẩu khoảng 15 tấn với giá

tăng thêm khoảng 40% so với với giá thị trường và người nông dân được công ty trả

với giá cộng thêm khoảng 10.000đ/kg. Đây là hướng đi mới nhằm nâng cao giá trị

trường thương hiệu cho cà phê nhân mang CDĐL Buôn Ma Thuột.

42

2.2.3 Đăng ký bảo hộ quốc tế thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột

Chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột (Buon Ma Thuot Coffee) đã được bảo

hộ tại 12 quốc gia và vùng lãnh thổ dưới dạng chỉ dẫn địa lý, tên gọi xuất xứ hàng

hóa, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể: Vùng lãnh thổ Bennelux (Bỉ, Hà Lan,

Luxambua), Tây Ban Nha, Đức, Singapore, Trung Quốc, Thái Lan, Canada, Nga,

Pháp và Ý. Hiện nay tỉnh đang phối hợp với đoàn chuyên gia của dự án EU-Mutrap

đê xây dựng hô sơ đăng ký bảo hộ Chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột vào EU.

Trong Hiệp định thương mại tự do EU-VN, trong số 38 nông sản phẩm của

VN được bảo Doanh nghiệp dưới hình thức CDĐL tại EU có “Buôn Ma Thuột

Coffee”, dự kiến bắt đầu có hiệu lực từ 2018. Tuy nhiên tất cả các CDĐL này đều

phải hoàn thiện hồ sơ đăng ký và vận hành trong thực tế theo những quy định của

EU. Chỉ dẫn địa lý “Buôn Ma Thuột Coffee” được lựa chọn hỗ trợ đề xúc tiến quá

trình này. Theo đó sẽ xây dựng lại hồ sơ đăng ký bảo hộ, mở rộng phạm vi bảo hộ,

củng cô vận hành hệ thống kiểm soát, chứng nhận chất lượng là trong số nhiều công

việc chủ yếu phải tích cực triển khai trong các năm tới để xây dựng hồ sơ đăng ký

bảo hộ Chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột vào EU.

Để xây dựng hồ sơ đăng ký bảo hộ và mở rộng phạm vi đăng ký bảo hộ CDĐL

Buôn Ma Thuột, Cục Sở hữu trí tuệ đã đưa nội dung này vào danh mục dự án và tuyến

chọn đơn vị chủ trì thực hiện (nguồn kinh phí Trung ương). Đến nay đã chọn được

Trung tâm phát triển nông thôn (Viện chính sách và chiến lược phát triển nông thôn)

là đơn vị chủ trì thực hiện. Dự án này thực hiện trong 24 tháng tính từ tháng 10/2017

đến tháng 10/2019.

Cuộc thi “Cà phê đặc sản Việt Nam 2019” theo mô hình tổ chức cuộc thi của quốc

tế, là sự kiện mới và trọng tâm tại Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 7 năm 2019,

Hiệp Hội cà phê Buôn Ma Thuột được ƯBND tỉnh Đắk Lắk giao chủ trì thực hiện,

nguồn kinh phí xã Hội hóa.

Kết quả chung cuộc, đối với cà phê nhân Robusta, trong 18 lô sản phẩm cà phê

nhân Robusta đạt tiêu chuẩn đặc sản, có 13 lô sản phẩm của 7 đơn vị thuộc vùng

CDĐL Buôn Ma Thuột.

2.2.4 Các tác nhân tham gia trực tiếp chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê

CDĐL Buôn Ma Thuột.

43

1) Hộ nông dân tr00ồng cà phê: Đây là tác nhân đầu tiên tham gia chuỗi.

Hộ nông dân mua đầu vào là giống, vật tư nông nghiệp, phân bón... để tiến hành sản

xuất cà phê, thuê lao động và làm các công việc tưới tiêu chăm sóc cà phê, hái cà phê,

phơi cà phê rồi bán cho thương hoặc các cơ sở thu gom, sơ chế, một phần nhỏ bán

cho các cơ sở chế biến, hoặc bán cho người tiêu dùng nội địa (tại địa phương hoặc

trên cả nước).

Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy hộ nông dân trồng cà phê CDĐL Buôn

Ma Thuột thường canh tác trên quy mô nhỏ (các hộ có quy mô canh tác từ 0,5ha-

1,0ha chiếm 49,6%, từ 1,0 ha đến 2,0 ha chiếm 32,9%, số hộ canh tác từ 2-3 ha chỉ

chiếm 1,1%, còn lại là dưới 0,5ha), cà phê có tuổi vườn từ trên 20 năm chiếm tới

49,1% và phần lớn các Hộ nông dân này đều được tập huấn thường xuyên về kỹ thuật

chọn giống, làm cỏ, bón phân, tưới nước, bảo vệ thực vật, chăm sóc cây trồng theo

các tiêu chuẩn CDĐL và một số tiêu chí khác như organic, 4C, 4P, Global.... Theo ý

kiến của các Hộ nông dân trồng cà phê CDĐL, chi phí đầu vào trong sản xuất cà phê

trong 3 năm 2016-2018 có xu hướng tăng lên. Tính theo thang đo Likert (5 cấp độ:

rất thuận lợi, thuận lợi, bình thường, khó khăn, rất khó khăn), các Hộ nông dân trồng

cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột đang gặp phải những khó khăn và rất khó khănvề điều

kiện thời tiết (64,8 trong số người trả lời), thiên tai dịch bệnh (82,9%), cà phê già cỗi

(42,9%), giá bán (83,4%), nguồn vốn đầu tư (100%). So với Hộ không thực hiện đăng

ký CDĐL, có đến trên 50% các Hộ thực hiện đăng ký CDĐL cho rằng họ không gặp

thuận lợi gì hơn so với các Hộ gia đình không đăng ký CDĐL về giá bán, tìm kiếm

thị trường đầu ra, nguồn nguyên liệu ổn định, ít gặp rủi ro. Họ chỉ gặp thuận lợi hơn

so với các Hộ không đăng ký CDĐL về hỗ trợ kỹ thuật, cà phê chất lượng tốt hơn và

quy trình kiểm soát trồng và chăm sóc cà phê chặt chẽ hơn.

2) Doanh nghiệp thu gom và sơ chế: Doanh nghiệp thu gom là tác nhân trực

tiếp thu mua cà phê của các Hộ nông dân rồi bán cho các cơ sở sơ chế, hoặc tự sơ

chế, hoặc các doanh nghiệp chế biến. Doanh nghiệp thu gom thường phân thành 2

cấp: thu gom cấp 1 và thu gom cấp 2. Thu gom cấp 1 thường là các thương lái trong

xã (chiếm 84%), khác xã (5,5%), các huyện (0,2% và ngoài tỉnh (0,5%). Thu gom

cấp hai thường là các đại lý lớn hoặc doanh nghiệp thu gom trong huyện và trong

tỉnh. Các đại lý lớn trong xã thường chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Khảo sát các doanh nghiệp

44

thu gom cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột cho kết quả: phần lớn các Hộ nông dân khi

bán sản phẩm cho các cơ sở thu gom đều không ký hợp đồng (chiếm 88%) và phương

thức mua hàng của các cơ sở thu gom phần lớn là thoả thuận giá ngay thời điểm mua

(100%), ứng trước tiền cho Hộ trồng cà phê để giữ mối quen (82%), trả tiền mặt ngay

sau khi mua (100%), giao hàng tại vườn hoặc giao hàng tại cơ sở thu gom (80-100%).

Do chi phí sản xuất cà phê trong 3 năm 2016-2018 tăng lên, nên chi phí thu gom của

các cơ sở thu gom cũng tăng theo. Phần lớn các doanh nghiệp thu gom đều cho rằng

sự ứng xử với các Hộ trồng cà phê đăng ký CDĐL và các Hộ trồng cà phê không

đăng ký CDĐL gần như nhau. Chỉ có một tỷ lệ nhỏ các cơ sở thu gom và sơ chế sản

phẩm cà phê cho rằng họ có ưu ái hơn khi thu gom các sản phẩm cà phê CDĐL,

nhưng không nhiều.

3) Doanh nghiệp chế biến: Tính đến tháng 8 năm 2018, tỉnh Đắk Lắk có 23

doanh nghiệp chế biến nhân theo công nghệ khô, tổng công suất 475.000 tấn/năm, 16

dây chuyền chế biến ướt, tổng công suất 64.000 tấn/năm. Đắk Lắk có 47 doanh nghiệp

chế biến cà phê bột, công suất 32.000 tấn/năm; 1 doanh nghiệp chế biến cà phê hoà

tan, công suất 1000 tấn/năm. Phần lớn các doanh nghiệp chế biến cà phê ở Đắk Lắk

có quy mô nhỏ, dây chuyền thiết bị chưa đồng bộ và tỷ lệ chế biến sâu mới chiếm

khoảng 2,3% tổng sản lượng cà phê xuất khẩu của Đắk Lắk[27]. Chỉ có một số dây

chuyền công nghệ chế biến ướt cà phê nhân như Công ty TNHH 1 thành viên Ea Pôk,

Thắng Lợi, Phước An....

Theo kết quả điều tra khảo sát của đề tài, các cơ sở và doanh nghiệp chế biến

cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột rất đa dạng về hình thức sở hữu: hợp tác xã, doanh

nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp nhà nước. Các cơ sở và doanh

nghiệp này gặp nhiều thuận lợi về vùng nguyên liệu, chất lượng sản phẩm cà phê sau

khi thu mua, sản lượng cà phê thu mua; nhưng lại gặp khó khăn trong tìm thị trường

đầu ra cho sản phẩm, thiếu thông tin thị trường, thiếu vốn (đối với các cơ sở quy mô

nhỏ. Công nghệ chế biến hiện nay của các cơ sở và doanh nghiệp phần lớn là thấp

hơn so với công nghệ của thế giới. Cà phê ở Tây Nguyên chủ yếu được chế biến ở 3

khu vực: Doanh nghiệp quy mô nhỏ, thủ công; các nhà máy chế biến cà phê nhân;

các nhà máy chế biến cà phê bột. Có tới 80% cà phê được sơ chế, chế biến tại các

doanh nghiệp nhỏ bằng hai loại công nghệ: công nghệ chế biến ướt và công nghệ chế

45

biến khô, trong đó công nghệ chế biến khô được áp dụng rộng rãi. Đặc điểm của công

nghệ chế biến khô là nó làm tăng tổn thất sau khi thu hoạch cà phê, khiến sản phẩm

cà phê nhân có giá trị thấp hơn so với công nghệ chế biến ướt khi đưa ra thị trường

xuất khẩu. Thuận lợi của công nghệ chế biến khô là giá đầu tư một dây chuyền công

nghệ không quá cao, tùy theo công suất chế biến mỗi máy (có giá đầu tư từ 5 triệu

đồng trở lên/máy) nhưng bất lợi là khi xay xát làm cho nhiều nhân cà phê bị tổn

thương, vỡ, trong phơi sấy có lúc hạt cà phê bị lên men, thâm đen lẫn tạp chất… nên

dẫn đến chỉ tiêu đánh giá ngoại quan cà phê thấp, giá xuất khẩu không cao. Hiện nay,

phần lớn các nông Doanh nghiệp sản xuất cà phê ở Tây Nguyên có diện tích từ 1 ha

trở lên đều tự trang bị một dây chuyền công nghệ chế biến cà phê nhân khô với quy

mô nhỏ vài trăm tấn/năm, còn đối với các doanh nghiệp mỗi dây chuyền đều có công

suất từ 1.000 tấn sản phẩm cà phê nhân/năm trở lên. Trong khi đó, việc chế biến cà

phê nhân theo công nghệ chế biến ướt là tiên tiến nhất hiện nay chỉ có một số ít doanh

nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê ở vùng Tây Nguyên có quy mô tương đối lớn mới

đầu tư.

4) Bán sỉ và bán lẻ cho người tiêu dùng:

Mặc dù Việt Nam đang là quốc gia sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn hàng đầu

thế giới, nhưng chủ yếu vẫn là xuất khẩu cà phê nhân. Cà phê chế biến sâu còn chiếm

tỷ trọng nhỏ trong sản lượng và kim ngạch cà phê của Việt Nam, giá trị gia tăng

không cao. Kết quả điều tra của đề tài cho thấy, thị trường tiêu dùng nội địa chiếm

tới 86,7% sản lượng cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột, và thị trường nước ngoài chiếm

13,7%. Theo Công ty nghiên cứu thị trường Nielsen Việt Nam, hiện tại có 20 công ty

sản xuất cà phê hòa tan, cà phê 3 trong 1 ở Việt Nam. Các công ty sản xuất lớn trên

thị trường nội địa như Nestle, Trung Nguyên, Vina cà phê, cà phê Ngon, cà phê An

Thái...

Một số doanh nghiệp sản xuất cà phê rang xay hiện cũng đã tham gia thị trường

cà phê hòa tan như Thu Hà, Mê Trang, Phú Thái, An Thái. Chẳng hạn, công ty An

Thái có khâu phân phối sản phẩm sâu rộng khắp các thị trường trong nước và quốc

tế, hiện sản phẩm cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột của công ty An Thái đã có mặt ở

hơn 30 nước trên thế giới, chủ yếu là Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Indonesia,

46

Thái Lan, Mỹ, Nga, châu Âu. Tại thị trường trong nước, công ty An Thái đang hình

thành chuỗi cà phê Hiup, đem sản phẩm có thương hiệu đến tận tay người tiêu dùng.

Hiện nay, Hiệp Hội cà phê Buôn Ma Thuột đang xây dựng logo cho các doanh

nghiệp sơ chế và chế biến đối với sản phẩm cà phê nhân và cà phê rang xay, nhưng

đến nay mới chỉ có 10 doanh nghiệp trong tổng số 29 doanh nghiệp thuộc Hiệp Hội

đáp ứng yêu cầu gắn logo thương hiệu Buôn Ma Thuột coffee. Các yêu cầu này rất

nghiêm ngặt, phải có 70% sản phẩm được sản xuất tại vùng có CDĐL và đảm bảo

100% cà phê, để có thể đảm bảo thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột được khẳng định

ra thị trường thế giới.

Đối với các cơ sở và doanh nghiệp chế biến quy mô nhỏ lẻ, các sản phẩm cà phê

CDĐL Buôn Ma Thuột đang đi theo xu hướng “mỗi cơ sở một logo” khi phân phối sản

phẩm trên thị trường nội địa. Điều này khiến các cơ sở và doanh nghiệp chế biến đang tự

tạo môi trường cạnh tranh không lành mạnh ngay trên sân nhà, chất lượng và vệ sinh an

toàn thực phẩm khó kiểm soát, không tạo nên niềm tin cho người tiêu dùng trong nước và

không thể cạnh tranh với các công ty cà phê lớn trong nước và tập đoàn nước ngoài ngay

trên thị trường nội địa.

2.3. Phân tích chuỗi giá trị của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cà

phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột.

2.3.1. Sơ đồ chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý BMT

47

Hình 3.2. Sơ đồ chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột

Thương mại

Tiêu dùng

Thu gom cấp 2

Phân loại/ Sơ chế

Đầu vào

Sản xuất

Thu gom cấp 1

3.3%

57.6%

89.8%

57.6%

Doanh nghiệp thu gom cấp 2 -Bán cho DN trong xã(4.6) -Bán cho DN trong huyện(23.8) -Bán cho DN trong tỉnh(22.5) -Bán cho DN ngoài tỉnh(6.6)

Nhà CC: Giốn g VTNN

15.4%

Tiêu dùng nội địa (90.2%)

Bán cho doanh nghiệp FDI(14.3) Doanh nghiệp trong nước(1.1)

Doa nh nghi ệp trồng café, nông hộ

37.1%

39.6 %

Doanh nghiệp -Trong xã (84.1) -Khác xã trong huyện(5.5) -Khác huyện(0.2) -Cho doanh nghiệp ngoài tỉnh(0.5)

18.7 %

DN chế biến Bán cho DN chế biến trong huyện(11.9) Bán cho DN chế biến trong tỉnh(19.2) Bán cho DN chế biến ngoài tỉnh(6.0)

7.7%

Thông qua đại lý bán buôn(20.9) Thông qua đại lý bán lẻ(18.7) Qua trung gian, môi giới(12.1) Qua xúc tiến thương mại(6.6)

10.2%

2.1%

Xuất khẩu (9.8%)

Nguồn: Số liệu phân tích của tác giả theo số liệu khảo sát của đề tài, năm 2019

48

Kết quả khảo sát cho thấy:

Thứ nhất, có sự liên kết tương đối chặt chẽ ở từng tác nhân với các tác nhân

trước và sau, nhưng liên kết của toàn bộ chuỗi hết sức lỏng lẻo. Cụ thể: a) Doanh

nghiệp trồng cà phê có liên kết chặt chẽ với các tác nhân trước (cung cấp giống, phân

bón, nguyên liệu đầu vào...) và các tác nhân sau (doanh nghiệp thu gom); nhưng liên

kết tương đối lỏng lẻo với các doanh nghiệp chế biến và doanh nghiệp xuất khẩu. b)

Các cơ sở thu gom chỉ có liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp trồng cà phê (tác

nhân trước) và các doanh nghiệp trong địa bàn xã, ấp, huyện (tác nhân sau). Các mối

liên kết từ cơ sở thu gom đến các doanh nghiệp chế biến hoặc xuất khẩu cà phê nhân

thường lỏng lẻo, phải thông qua các đại lý lớn trong và ngoài tỉnh; c) Các doanh

nghiệp chế biến có mối liên kết rất chặt chẽ với các doanh nghiệp trồng cà phê (tác

nhân trước) thông qua cung ứng vật tư nguyên liệu, hỗ trợ kỹ thuật trồng và chăm sóc

cà phê, thu gom cà phê. Các nhà máy này cũng có mối liên kết chặt chẽ với các cơ sở

thu gom (tác nhân trước) và thị trường bán sỉ, bán lẻ trong nước (tác nhân sau) và có

mối liên kết lỏng lẻo với thị trường nước ngoài (tác nhân sau). Đặc biệt các doanh

nghiệp chế biến quy mô nhỏ muốn ra thị trường nước ngoài đều phải qua khâu trung

gian, môi giới.

Thứ hai, liên kết giữa các tác nhân chủ yếu thực hiện ở hình thức quan hệ mạng

lưới và quan hệ thời điểm, dựa trên hình thức thoả thuận bằng miệng về giá cả, chất

lượng sản phẩm, ít áp dụng hình thức hợp đồng. Chưa hình thành các quan hệ chặt

chẽ hơn như quan hệ đồng sở hữu. Liên kết của doanh nghiệp trồng cà phê với doanh

nghiệp thu gom (chủ yếu là các thương mại, các công ty thu gom, các đại lý lớn,

HTX...trên địa bàn xã, ấp, huyện) và thường thông qua hợp đồng miệng, dựa vào mối

quen biết trước đó. Mối liên kết này được đánh giá là tốt và người dân được hỗ trợ

nhiều từ các doanh nghiệp thu gom (trả tiền ngay, cung ứng đầu vào sản xuất, giao

hàng tại vườn, giá cả được các định tại thời điểm bán, chất lượng không bị kiểm soát

ngặt nghèo...).

Liên kết của doanh nghiệp trồng cà phê đối với các doanh nghiệp chế biến

tương đối lỏng lẻo bởi doanh nghiệp ký hợp đồng trực tiếp với doanh nghiệp trồng cà

phê, tư vấn và hỗ trợ đầu vào, nhưng yêu cầu sản phẩm phải đạt yêu cầu quy định về

các tiêu chí CDĐL, giá cả xác định ngay tại khi ký kết hợp đồng. Do doanh nghiệp

49

chế biến và xuất khẩu phần lớn quy mô nhỏ, lại buộc phải chấp nhận các yêu cầu ngặt

nghèo của thị trường trong nước và thế giới, nên chưa đủ khả năng cung ứng vốn và

bao tiêu sản phẩm cho doanh nghiệp trồng cà phê.

Kết quả khảo sát cho thấy, mối liên kết của các doanh nghiệp chế biến với các

doanh nghiệp khác để xuất khẩu rất lỏng lẻo và ít gặp được sự hỗ trợ của nhà nước

thông qua xúc tiến thương mại. Các doanh nghiệp này cũng thường gặp phải những

rủi ro do chất lượng cà phê thu mua kém từ các Doanh nghiệp nông dân và các cơ sở

thu gom.

Thứ ba, vị thế thị trường của các tác nhân trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà

phê Buôn Ma Thuột tập trung chủ yếu vào nhóm tác nhân nắm giữ nguồn hàng nguyên

liệu (doanh nghiệp trồng cà phê và cơ sở thu gom cấp 1, cấp 2), giảm vị thế của tác nhân

doanh nghiệp chế biến (chiếm tỷ phần nhỏ, phải cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp không

kinh doanh sản phẩm cà phê đăng ký CDĐL, các doanh nghiệp cà phê nước ngoài tại Việt

Nam, các sản phẩm cà phê khác ngoài cà phê Buôn Ma Thuột).

Thứ tư, liên kết ngang giữa các tác nhân cùng nhóm rất yếu. Kết quả khảo sát

đề tài cho thấy các liên kết ngang giữa các doanh nghiệp trồng cà phê để sản xuất cà

phê CDĐL Buôn Ma Thuột để đảm bảo chất lượng cà phê, ổn định giá cà phê... còn

yếu. Phần lớn các doanh nghiệp trồng cà phê chỉ liên kết ngang thông qua các tổ chức

đoàn thể như Nông hội, câu lạc bộ khuyến nông, hội phụ nữ, tổ liên kết sản phẩm, tổ

tư vấn kỹ thuật thực hành CDĐL... Nhưng do kết cấu liên kết không chặt chẽ, các tác

nhân ngay trong nhóm doanh nghiệp trồng cà phê có xu hướng tự phá vỡ các thoả

thuận chính thức về giá cả, chất lượng, kênh tiêu thụ (chuyển sang bán cho doanh

nghiệp thu gom khác v.v...).

Trong các doanh nghiệp sơ chế và chế biến sản phẩm cà phê CDĐL Buôn Ma

Thuột, liên kết ngang cũng khá lỏng lẻo, còn theo hướng mạnh ai nấy làm, giữ bí

quyết riêng, khiến người tiêu dùng dễ lạc vào “mê cung” của các sản phẩm cà phê

CDĐL Buôn Ma Thuột với các logo và chất lượng sản phẩm khác nhau; rất khó nhận

biết đâu là nét đặc trưng của sản phẩm cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột. Các doanh

nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ chưa thực sự có cơ chế phối hợp, chưa chú ý tới thị

trường và các yêu cầu của thị trường để tạo ra một sản phẩm cà phê CDĐL Buôn Ma

Thuột.

50

Thứ năm, chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột vẫn

tập trung phát triển ở chuỗi ngắn cho giá trị gia tăng thấp (chuỗi sản xuất và tiêu thụ

sản phẩm thô), chưa có đủ năng lực để phát triển chuỗi dài (chế biến sâu, phân phối

sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng thông qua hệ thống doanh nghiệp bán lẻ

có thương hiệu – không trực tiếp tạo ra sản phẩm mà chỉ phân phối sản phẩm, định

hướng nhu cầu tiêu dùng toàn cầu; và các sản phẩm khác nhau tinh dầu cà phê, dầu

gội đầu từ cà phê v.v... Đây mới là mắt xích đem lại giá trị gia tăng cao nhất trong

chuỗi giá trị và phần lớn mắt xích này đều do các nhà sản xuất nước ngoài nắm giữ.

Ngay cả các công ty cà phê lớn sử dụng cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột như Trung

Nguyên, An Thái..., phần lớn sản phẩm vẫn nằm thuộc về chuỗi ngắn.

Trong chuỗi giá trị cà phê toàn cầu, cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột vẫn ở vị trí

thấp bởi phần lớn vẫn là xuất khẩu cà phê nhân, đem lại giá trị gia tăng rất thấp (tăng

thêm 2-3%, theo số liệu của Hiệp Hội cà phê Buôn Ma Thuột), phần lớn xuất khẩu

theo đơn đặt hàng của đối tác (yêu cầu về chất lượng, bao bì, cách ghi bao bì...), do

vậy nhãn hiệu chỉ dẫn địa lý rất hạn chế khi cà phê ở các vùng đăng ký CDĐL được

xuất khẩu với khối lượng lớn trên thị trường thế giới.

Cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột chưa đăng ký bảo hộ cà phê rang xay và chế

biến. Ở khâu chế biến, gắn mẫu mã nhãn hiệu sản phẩm, cà phê CDĐL Buôn Ma

Thuột phần lớn vẫn nằm trong tay các tập đoàn thương mại nước ngoài. Do những

hạn chế này, số lượng doanh nghiệp và sản lượng đăng ký CDĐL cà phê Buôn Ma

Thuột đến nay vẫn còn rất nhỏ so với tiềm năng đăng ký, cà phê CDĐL Buôn Ma

Thuột phải cạnh tranh nhiều với các sản phẩm cùng loại trên thị trường thế giới về

giá, chất lượng, thương hiệu, thường bị động phụ thuộc vào các đối tác thương mại

nước ngoài về bao bì, logo, chưa có thương hiệu mạnh nên cà phê CDĐL Buôn Ma

Thuột chưa đáp ứng nhu cầu thực sự của các nhà nhập khẩu.

3.3.2. Thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn

Ma Thuột khi tham gia chuỗi giá trị

- Các thuận lợi khi phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL

Phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê mang chỉ dẫn địa lý có nhiều

thuận lợi hơn so với phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê thông thường. Chỉ

dẫn địa lý không phải là công cụ độc quyền về mặt thương mại hay pháp lý chúng là

51

phương tiện đa chức năng. Chỉ dẫn địa lý tồn tại trong một bối cảnh rộng hơn, giống như

một hình thức gắn liền với sự phát triển nông thôn. Điều này có thể nâng cao mạnh mẽ

lợi ích thương mại và kinh tế trong khi bồi đắp thêm các giá trị địa phương như quản lý

môi trường, vă hóa và truyền thống. Các chỉ dẫn địa lý chính là minh chứng cho “toàn

cầu hóa”, ví dụ: sản phẩm và dịch vụ khi tham gia vào thị trường toàn cầu, và tại cùng

một thời gian thì sẽ hỗ trợ cho văn hóa và kinh tế địa phương.

Về phương diện phát triển, doanh nghiệp cà phê mang CDĐL có tác dụng thúc

đẩy và nâng cao chất lượng phát triển nông nghiệp nông thôn. Doanh nghiệp cà phê

mang CDĐL có thể cung cấp cấu trúc để khẳng định và bảo vệ trí tuệ hay tài sản văn

hóa xã hội duy nhất. Điều này được thể hiện trong nền tảng kiến thức địa phương

hoặc các kỹ năng truyền thống và thủ công là những hình thức giá trị cho một cộng

đồng đặc trưng.

Về phương diện thương nghiệp, doanh nghiệp cà phê mang CDĐL mang tính

định hướng thị trường. Doanh nghiệp cà phê CDĐL thường gắn kết các nhu cầu giao

thương mới ngay khi các GIS có xu hướng đề ra những tiêu chuẩn chất lượng, truy

tìm xuất xứ và an toàn thực phẩm. Nó mang nhiều đặc trưng của một thương hiệu cao

cấp. Chúng có thể tác động đến toàn bộ chuỗi cung ứng và thậm chí tác động đến sản

phẩm và dịch vụ trong một khu vực và do đó thúc đẩy nhóm doanh nghiệp phát triển,

nâng cao tính hội nhập cho kinh tế nông thôn.

Doanh nghiệp cà phê CDĐL mang đặt trưng riêng biệt về sản phẩm, có phương

pháp liên kết truyền thống trong sản xuất và chế biến. Các phương pháp này thường

không dễ để tái sử dụng tại các quốc gia, khu vực. Sự khác biệt về hàng hóa có thể

tạo ra lợi thế cạnh tranh có giá trị hết sức bền vững. Do phải tạo ra một chỉ dẫn địa lý

mang tính chất khác biệt đối với các sản phẩm cà phê thông thường, doanh nghiệp cà

phê CDĐL thường có tính chuyên môn hoá sâu hơn và tham gia hiệu quả hơn vào

chuỗi giá trị của doanh nghiệp toàn cầu.

- Các khó khăn khi phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê CDĐL

So với việc phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê thông thường, việc

xây dựng chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm cà phê của doanh nghiệp gặp một số khó khăn do

mất đi chi phí đáng kể, không chỉ cho cơ cấu tổ chức và thể chế mà còn cho các chi phí

vận hành như marketing và thực thi luật pháp. Trong một số trường hợp, do không quy

52

hoạch và quản lý thích hợp, các quốc gia đang phát triển có thể gây ra sự lãng phí nguồn

lực hạn chế, đầu tư vào sản phẩm cà phê CDĐL không có triển vọng.

Chỉ dẫn địa lý không phải là một lựa chọn khả thi trong nhiều lĩnh vực, đặc

biệt là những lĩnh vực có ít các đặc trưng phân biệt. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng,

trong các điều kiện nhất định, các chỉ dẫn địa lý thậm chí có thể kìm hãm việc cải tiến

thương mại. Một số nhà nghiên cứu lưu ý rằng, việc phát triển sản phẩm cà phê CDĐL

cho doanh nghiệp như một phương tiện phân biệt có thể đem đến lợi ích cho các nhà sản

xuất sản phẩm chất lượng cao, tuy nhiên đối với các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm

chất lượng thấp hay những doanh nghiệp sản xuất ít vốn thì sản phẩm cà phê CDĐL lại

không tạo ra bất kỳ lợi ích nào. Thực sự, khi cơ cấu sản xuất kém, doanh nghiệp cà phê

CDĐL sàn xuất ra sản phẩm cà phê CDDL có thể gây ra bất lợi cho cộng đồng, ảnh

hưởng xấu tới các giá trị truyền thống và môi trường.

2.4 Đánh giá chung về phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê

CDĐL Buôn Ma Thuột

2.3.1 Kết quả

Tại Đắk Lắk, nơi có cà phê Buôn Ma Thuột được bảo hộ chỉ dẫn địa lý từ năm

2005, đến nay đã có 12 doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu cà phê nhân nằm trong vùng

địa danh được cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý "Cà phê Buôn Ma Thuột" với diện

tích đăng ký là hơn 15.300 ha. Các doanh nghiệp chủ động giới thiệu, quảng bá và

đưa ra thị trường gần 20.000 tấn cà phê nhân có thương hiệu với giá trị tăng thêm từ

3 đến 5%. Mặc dù, số lượng đăng ký chưa nhiều nhưng việc triển khai hệ thống quản

lý nội bộ, liên kết với nông dân sản xuất thông qua các hợp đồng, lớp tập huấn, hướng

dẫn cũng như giám sát quá trình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đã phần

nào tạo được nhận thức vượt bậc cho người trồng cà phê về vấn đề thương hiệu và

chất lượng sản phẩm.

Trên thị trường quốc tế, việc phát triển thương hiệu, chỉ dẫn địa lý cũng được

đẩy mạnh với 12 quốc gia, vùng lãnh thổ (đăng ký bảo hộ) chấp nhận chỉ dẫn địa lý

"Cà phê Buôn Ma Thuột". Tuy nhiên, thương hiệu, chỉ dẫn địa lý là vấn đề lâu dài và

phải có quá trình xây dựng, phát triển nhằm tạo ra sự nhận biết và thừa nhận đối với

khách hàng, do đó giá trị tăng thêm mới chỉ đủ bù đắp cho chi phí xây dựng hệ thống

quản lý, thương mại. Vì vậy, các doanh nghiệp cà phê đang kiên trì chiến lược quảng

bá, tiếp thị ngoài các thị trường truyền thống, đồng thời chú trọng thị trường ở các

quốc gia mới nổi vì họ dễ dàng chấp nhận cũng như nhu cầu tiêu thụ cà phê tại các

53

quốc gia này có chiều hướng ngày càng tăng. Bên cạnh đó, bản thân các doanh nghiệp

được cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý "Cà phê Buôn Ma Thuột" cũng đang liên kết

để tạo tiếng nói chung nhằm nâng cao chất lượng từ vườn cây đến sản phẩm hoàn

thiện và người tiêu dùng, đưa logo thương hiệu "Cà phê Buôn Ma Thuột" vào hợp

đồng mua bán cũng như in hình ảnh trên bao bì sản phẩm.

2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân

Tuy nhiên bên cạnh những mặt đặt được, đến nay vấn còn một số hạn chế như

sau:

+ Là tỉnh có diện tích cà phê CDĐL lớn nhất nhưng không có cơ quan quản

lý chuyên về cà phê; sàn đấu giá cà phê…; các chính sách ưu đãi phát triển chuỗi cà

phê CDĐL Buôn Ma Thuột chưa nhiều;

+ Việc duy trì diện tích cà phê CDĐL vẫn khó thực hiện . Vì hiện nay, diện

tích cà phê chủ yếu do các nông hộ trồng, chăm sóc và quản lý. Bên cạnh đó, biến

động giá cà phê trên thị trường cũng là nguyên nhân làm cho diện tích cà phê tăng

và giảm không theo kế hoạch, sản xuất cà phê theo kinh nghiệm, tự phát, một số diện

tích cà phên được trồng trong điều kiện đất đai không phù hợp, thiếu nguồn nước

tưới. Điều đó dẫn đến chất lượng sản phẩm không cao, sản xuất kém hiệu quả, sức

cạnh tranh trên thị trường thấp;

+ Việc tuyên truyền, vận động người dân thực hiện chuyển đối diện tích cà

phê không phù họp sang các loại cây trồng khác khó thực hiện. Do cây cà phê là

nguồn thu nhập chính của các hộ dân, một số hộ dân ngại mất nguồn thu nhập, do vậy

người dân buộc phải “gắn bó” với vườn cà phê sản xuất kém hiệu quả mà chưa muốn

phá bỏ để trồng thay thế sang các loại cây trồng khác, cũng như người dân không

nhiệt tình tham gia vào việc chuyển đổi cà phê;

+ Việc áp dụng quy trình kỹ thuật cà phê CDĐL của người dân còn nhiều hạn

chế; Chưa xây dựng kế hoạch phổ biến kiến thực CDĐL, quy trình sản xuất cho nông

hộ. Chẳng hạn, một số công ty đã được cấp quyền sử dụng CDĐL cà phê Buôn Ma

Thuột chưa xây dựng kế hoạch, phổ biến kiến thức CDĐL, quy trình sản xuất cho

nông hộ vì chưa có kinh phí và chưa kiếm được nguồn hỗ trợ cho việc tập huấn cho

nông hộ. Doanh nghiệp chờ để lồng ghép với các chương trình chứng nhận khác.

Chẳng hạn như Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Đức Nguyên; Chưa xây dựng kế

hoạch kiểm soát nội bộ hàng năm do phân bổ lại nhân sự cho nên việc xây dựng kế

hoạch đánh giá nội bộ, chẳng hạn của Công ty cổ phần đầu tư xuất nhập khẩu Đắk

54

Lăk chưa được tiến hành; Chương trình CDĐL vẫn chưa thực sự đem lại lợi ích cho

nông hộ cho nên người dân vẫn chưa mặn mà duy trì cùng công ty;

+ Công tác quản lý khai thác công trình thủy lợi gặp nhiều khó khăn do đặc

thù vùng Tây Nguyên và nhất là các công trình do địa phương quản lý, chưa chủ động

tham mưa thực hiện bàn giao đồng bộ công trình thủy lợi do doanh nghiệp quản lý.

Vốn đầu tư ứng dụng các thiết bị công nghệ tưới, vượt khả năng của một số doanh

nghiệp có nhu cầu đầu tư;

+ Việc sản xuất, chế biến và thương mại cà phê vẫn đang tồn tại nhiều bất

cập. Cụ thể diện tích cà phê già cỗi chiếm tỷ lệ lớn, thâm canh chưa bền vững, các

điều kiện sơ chế, bảo quản, tạm trữ cà phê còn hạn chế, thiếu sự liên kết giữa doanh

nghiệp với nông dân đang khiến giá trị chuỗi sản xuất hàng hóa chưa cao. Gần đây

cà phê rớt giá khiến người nông dân bị ảnh hưởng. Đặc biệt, do chưa có chiến lược

toàn diện trong thúc đẩy xuất khẩu, nên cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột chưa phát

huy được các lợi thế riêng để tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường.

+ Sự quan tâm phối hợp của một số Sở, ngành địa phương và các doanh nghiệp

cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột chưa chặt chẽ…

55

Chương 3

TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA

DOANH NGHIỆP CÀ PHÊ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ BUÔN MA THUỘT

3.1. Bối cảnh phát triển cà phê thế giới và trong nước

Cách đây hàng nghìn năm, cây cà phê đã được người dân du mục Ethiopia

ngẫu nhiên tìm thấy ở làng Cápfa, gần thủ đô Ethiopia. Đến thế kỷ thứ 6, cây cà phê

lan dần sang các nước và châu lục khác. Cà phê có rất nhiều loại khác nhau. Theo

thống kê, trên thế giới hiện nay có khoảng 70 loại cà phê đang được trồng và xuất

khẩu. Trong đó phổ biến nhất về diện tích trồng cũng như vai trò quan trọng trên thị

trường cà phê thế giới là 2 loại cà phê: (1). Cà phê chè (chủng Arabica); (2). Cà phê

vối (chủng Robusta). Cả hai loại cà phê này, cũng như tất cả các loại cà phê khác,

đều thuộc giống cà phê nhưng về chất lượng và hương vị thì cà phê Arabica trội hơn

cà phê Robusta. Do đó cà phê Arabica cũng thường cao hơn khá nhiều và được nhiều

nơi ưa chuộng.

Hai loại cà phê này được trồng tập trung ở những khu vực khác nhau trên thế

giới. Cà phê Arabica được trồng chủ yếu ở Châu Mỹ, đặc biệt tại hai nước là Brazil

và Colombia. Hai nước này hiện tại sản xuất tới 80% sản lượng Arabica của thế giới,

đồng thời cũng là hai nước sản xuất và xuất khẩu cà phê nhiều nhất, thống trị thị

trường cà phê thế giới trong đó riêng Brazil đã chiếm tới khoảng 30% sản lượng cà

phê toàn thế giới.

Cà phê Robusta là giống cà phê ngon thứ hai sau cà phê Arabica. Loại cà phê này

thường được tiêu dùng ở các nước có truyền thống uống cà phê chế biến từ cà phê

Robusta, ví dụ như Anh và các nước Nam Âu. Cây cà phê loại này được trồng chủ yếu

ở Châu Phi và Châu Á. Hiện tại cà phê Robusta của Châu Phi không tăng và có chiều

hướng giảm sút. Lý do ở đây là bất ổn về chính trị, sự thay đổi điều kiện tự nhiên, cũng

như sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Đây là những nguyên nhân rất khó khắc phục trong

thời gian ngắn. Do vậy trong thời gian tới đây trên đà tăng trưởng về sản lượng, vai trò

cung cấp của các nước Châu Á -Thái Bình Dương sẽ còn tiếp tục tăng lên với loại cà

phê này.

Theo số liệu của tổ chức cà phê quốc tế ( ICO) hiện nay có khoảng 20 đến 30

nước sản xuất cà phê tập chung chủ yếu vào các khu vực là: Bắc và Trung Mỹ; Nam

56

Mỹ; Châu Phi; Châu Á - Thái Bình Dương. Phân bổ sản lượng cà phê thế giới theo

các khu vực này có thể được tóm tắt như sau: Châu Mỹ sản xuất ra 60 - 70 % sản

lượng cà phê thế giới, tức là khoảng gần 4 triệu tấn cà phê nhân. Châu Phi sản xuất

ra 20 - 22% khoảng hơn 1 triệu tấn. Châu Á hàng năm sản xuất khoảng 70 ngàn tấn

cà phê chiếm 12% sản lượng toàn thế giới, sản lượng cà phê hàng năm biến động thất

thường nhưng theo chiều hướng ngày càng tăng.

Nhu cầu tiêu thụ cà phê rất lớn. Hàng năm, lượng tiêu thụ trên thế giới ước

tính vào khoảng 94,5 triệu bao cà phê nhân (khoảng 5,6 triệu tấn). Có thể chia các

nước tiêu dùng cà phê thành bốn nhóm chính theo khu vực địa lý như sau: Nhóm các

nước Tây Bắc Âu và Nam Âu; Nhóm các nước Bắc Mỹ: Trong đó thị trường Mỹ là

lớn nhất với nhu cầu hàng năm khoảng 4 kg/người/năm; Nhóm các nước Châu Á -

Thái Bình Dương: Trong đó hai thị trường tiêu biểu là Hàn Quốc và Nhật Bản; Nhóm

các nước Đông Âu và Nga - đây là những thị trường mới nổi rất tiềm năng với sản

phẩm cà phê.

Trong số hơn 80 thành viên của tổ chức cà phê quốc tế (ICO), có tới hơn 40

nước xuất khẩu cà phê. Các nước này có thể vừa trồng vừa xuất khẩu hoặc chỉ kinh

doanh cà phê xuất khẩu. Tuy nhiên các nước sản xuất cà phê lớn trên thế giới đều là

những nước vừa sản xuất vừa xuất khẩu. Điển hình là các nước như: Brazil,

Colombia, Việt Nam, Uganda, Bờ Biển Nga, Ethiopia, ấn Độ, vv.. Trong đó Brazil

và Colombia là các nước sản xuất và xuất khẩu cà phê Arabica chủ yếu trên thế giới;

các nước còn lại của Châu Á và Châu Phi là các nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn

của thế giới . Trên thực tế, lượng xuất khẩu cà phê hàng năm của các nước chính là

cung trên thị trường cà phê thế giới. Lượng cung này phụ thuộc rất nhiều yếu tố trong

đó sản lượng chỉ là một. Ngoài sản lượng, lượng cung cà phê trên thị trường thế giới

hàng năm còn phụ thuộc vào tình hình kinh tế của các nước, chính sách của hiệp Hội

các nước sản xuất cà phê (ACPC) và tổ chức cà phê quốc tế (ICO) cũng như biến

động nhu cầu giá cả, dự trữ và yếu tố đầu cơ.

Giá cà phê phụ thuộc rất nhiều vào tình hình cung cầu cà phê trên thị trường

thế giới. Thông thường, để xác lập giá xuất khẩu những người xuất khẩu cà phê

thường lấy giá ở những sở giao dịch hàng hoá lớn như ở London, New York,

Rotterdam, Asterdam làm chuẩn để xây dựng giá của mình. Giá tại các thị trường này

57

thường phản ánh tương đối chính xác các biến động cung cầu trong từng thời điểm

xong nó lại mang nặng yếu tố tâm lý nên luôn biến động thất thường.

Năm 2019 cũng là năm thế giới được mùa cà phê. Sản lượng cà phê toàn cầu

năm 2019 được Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đánh giá đạt 174,6 triệu bao (loại 60

kg) hay gần 10,5 triệu tấn. Trong đó, Brazil đạt gần 60 triệu bao, Colombia 14, Việt

Nam 30 và Indonesia chừng 10 triệu bao, chỉ 4 nước lớn chiếm gần 65% sản lượng

cà phê thế giới. Brazil xuất khẩu cà phê đạt kỷ lục lịch sử với khoảng trên 41 triệu

bao cà phê arabica. Sản lượng tăng trong 2019 là thành quả lớn của các chương trình

tái canh cà phê đã và đang được các nước thực hiện.

Trong khi đó ở Việt Nam, theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn, tính đến năm 2018, diện tích cà phê Việt Nam đạt 645.217 ha, năng suất 2,7

tấn/ha, tổng sản lượng 1,6 triệu tấn năm, trong đó cà phê vối chiếm 96%. Cả nước có

5 vùng sản xuất chính cà phê là: Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Bắc

Trung Bộ và các tỉnh Trung du Miền núi phía Bắc. Tây Nguyên là vùng chuyên canh

cà phê lớn nhất cả nước, với diện tích 577.000 ha (chiếm 89%). Gần đây, Tây Nguyên

nói riêng và các vùng sản xuất cà phê của Việt Nam cũng đang đối mặt với khó khăn

do biến đổi khí hậu, lượng mưa thấp, tần suất ít, gây thiếu nước ảnh hưởng đến sản

xuất, trồng trọt cà phê.

Đến nay, cả nước đã có 97 cơ sở chế biến cà phê nhân, 160 cơ sở chế biến cà

phê rang xay, tám cơ sở chế biến cà phê hòa tan và 11 cơ sở chế biến cà phê phối

trộn. Cà phê bột của Trung Nguyên, cà phê hòa tan của Vinacafe không những chiếm

lĩnh được thị trường trong nước mà còn được hoan nghênh ở nhiều thị trường trong

khu vực, đồng thời đã bước đầu xây dựng được thương hiệu cà phê Việt. Việc đầu tư

cho chế biến sâu đã giúp ngành hàng cà phê nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh

lượng xuất khẩu giảm mạnh trong những tháng gần đây (xuất khẩu cà phê chín tháng

năm 2019 ước đạt 1,25 triệu tấn và 2,15 tỷ USD, giảm 13,3% về khối lượng và giảm

21,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2018)[28].

Theo Cục Xuất nhập khẩu và số liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam, Cà phê

là ngành hàng quan trọng, chiếm 3% GDP cả nước, kim ngạch xuất khẩu nhiều năm

nay đều trên 3 tỷ USD. Trong những năm qua, dù kinh tế thế giới có nhiều thời điểm

gặp khó khăn dẫn đến sức mua sụt giảm, xuất khẩu cà phê của Việt Nam vẫn duy trì

58

được tốc độ tăng trưởng rất đáng khích lệ, đạt 8,2%/năm với kim ngạch bình quân

3,13 tỷ USD/năm giai đoạn 2011 - 2018, chiếm 15% tổng xuất khẩu nông sản của cả

nước.

Các sản phẩm cà phê của Việt Nam đã xuất khẩu đến hơn 80 quốc gia và vùng

lãnh thổ, chiếm 14,2% thị phần xuất khẩu cà phê nhân toàn cầu (đứng thứ 2, sau

Brazil); đặc biệt, cà phê rang xay và hòa tan xuất khẩu đã chiếm 9,1% thị phần (đứng

thứ 5, sau Brazil, Indonesia, Malaysia và Ấn Độ), tạo ra nhiều cơ Hội cũng như triển

vọng cho ngành cà phê khi Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường quốc tế thông

qua các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết. EU là thị trường tiêu thụ nhiều nhất

cà phê của Việt Nam, chiếm 40% trong tổng lượng và 38% về tổng kim ngạch xuất

khẩu cả nước; tiếp theo là Đông Nam Á, chiếm 13% tổng lượng và tổng kim ngạch…

Các nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới như Brazil, Indonesia,

Colombia… đều chủ yếu xuất khẩu cà phê dưới dạng hạt (green bean), tức là chỉ dừng

ở hoạt động sơ chế sau thu hoạch. Một số nước có hoạt động rang và xay nhưng chỉ

chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng xuất khẩu cà phê. Riêng với Việt Nam, kể từ giữa những

năm 90 của thế kỷ trước, hoạt động sơ chế sau thu hoạch đã được hết sức quan tâm.

Nhờ vậy, từ chỗ có giá bán tại cảng Việt Nam thấp hơn tới 400 - 500 USD so với giá

tham chiếu tại Sở Giao dịch Hàng hóa Luân Đôn, Việt Nam đã dần thu hẹp được khoảng

cách này và cho tới nay, giá bán cà phê Robusta của Việt Nam đã phù hợp với giá thị

trường thế giới.

Trong thời gian qua, nhờ ưu đãi về thuế quan đối với cà phê chế biến từ các

Hiệp định Thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết nên ngày càng nhiều doanh

nghiệp đã bắt đầu quan tâm, chú trọng đầu tư vào các hoạt động chế biến sâu nhằm

góp phần nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm nói riêng và kim ngạch xuất khẩu

của toàn ngành nói chung. Đến nay, cả nước đã có 97 cơ sở chế biến cà phê nhân,

160 cơ sở chế biến cà phê rang xay, 8 cơ sở chế biến cà phê hòa tan và 11 cơ sở chế

biến cà phê phối trộn (cụ thể, 97 cơ sở chế biến cà phê nhân, tổng công suất thiết kế

1.503 triệu tấn, tổng công suất thực tế đạt 83,6%; 160 cơ sở chế biến cà phê rang xay,

tổng công suất thiết kế 51,7 nghìn tấn sản phẩm/năm; 8 cơ sở chế biến cà phê hòa tan,

tổng công suất thiết kế 36,5 nghìn tấn sản phẩm/năm, tổng công suất thực tế đạt

97,9%; 11 cơ sở chế biến cà phê phối trộn, tổng công suất thiết kế 139,9 nghìn tấn

59

sản phẩm/năm, tổng công suất thực tế đạt 81,6%). Cà phê bột của Trung Nguyên, cà

phê hòa tan của Vinacafe, Trung Nguyên không những chiếm lĩnh được thị trường

trong nước mà còn được hoan nghênh ở nhiều thị trường trong khu vực, đồng thời đã

bước đầu xây dựng được thương hiệu cà phê Việt.

Bảng 3.1 Số lượng và giá trị xuất khẩu cà phê Việt Nam

trong giai đoạn 2010 – 2018

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Theo số liệu của tổng kê của Tổng cục Hải quan thì EU là thị trường tiêu thụ

nhiều nhất các loại cà phê của Việt Nam, chiếm 40% trong tổng lượng và chiếm 38%

trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước; đạt 749.231 tấn, trị giá 1,34 tỷ

USD, so với năm 2017 tăng 19,1% về lượng nhưng giảm 1,5% về kim ngạch. Trong

khối EU, xuất khẩu sang Đức nhiều nhất chiếm trên 34%, đạt 260.475 tấn, tương

đương 459,03 triệu USD; xuất sang Italia chiếm 18%, đạt 136.157 tấn, tương đương

245,25 triệu USD; xuất sang Tây Ban Nha chiếm 16%, đạt 122.063 tấn, tương đương

219,22 triệu USD. Tiếp theo đó là thị trường Đông Nam Á chiếm 13% trong tổng

lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước; đạt 243.270 tấn, trị giá 467,38

triệu USD, tăng mạnh 102,5% về lượng và tăng 71,3% về giá trị so với năm 2017 (Bộ

Công Thương, 2018).

Nhìn chung, cà phê xuất khẩu trong năm 2018 sang đa số các thị trường tăng

kim ngạch so với năm 2017; trong đó, xuất khẩu tăng mạnh ở các thị trường sau:

Indonesia tăng 343,6% về lượng và tăng 273,3% về kim ngạch, đạt 62.320 tấn, tương

đương 123,55 triệu USD; Nam Phi tăng 145% về lượng và tăng 109% về kim ngạch,

đạt 10.073 tấn, tương đương 17,3 triệu USD; Hy Lạp tăng 139,5% về lượng và tăng

60

96,4% về kim ngạch, đạt 13.646 tấn, tương đương 23,82 triệu USD; NewZealand

tăng 124% về lượng và tăng 78% về kim ngạch, đạt 2.253 tấn, tương đương 4,2 triệu

USD. Ngược lại, xuất khẩu cà phê sụt giảm mạnh ở các thị trường như: Thụy Sỹ giảm

47,5% về lượng và giảm 51% về kim ngạch, đạt 244 tấn, tương đương 0,49 triệu USD; xuất

sang Singapore cũng giảm 40% về lượng và giảm 50,7% về kim ngạch, đạt 1.263 tấn, tương

đương 3,55 triệu USD; Mexico giảm 7% về lượng và giảm 24% về kim ngạch, đạt 33.406

tấn, tương đương 55,9 triệu USD (Bộ Công thương, 2018)

Tuy xuất khẩu khẩu năm 2018 tăng so với năm 2017 nhưng nhìn chung mặt

hàng cà phê của Việt Nam vẫn còn gặp nhiều vấn đề trở ngại như ngày càng có nhiều

đối thủ cạnh tranh, chi phí vận chuyển có nhiều biến động, xuất khẩu cà phê dạng thô

của Việt Nam chiếm tới 90%, trong khi tỷ lệ cà phê chế biến sâu, giá trị gia tăng cao

chỉ mới chiếm 10% trong tổng sản lượng cà phê nhân, chưa tạo ra nhiều giá trị gia

tăng cho sản phẩm, chưa tạo ra chuỗi sản xuất sâu. Theo theo ý kiến từ các chuyên

gia, nếu tính theo giá xuất khẩu tại cảng Việt Nam thì mỗi tấn cà phê hiện chỉ có giá

trên dưới 40 triệu đồng, trong khi nếu chế biên sâu sẽ có giá trị gia tăng cao nhất từ

70 - 100 triệu đồng/tấn. Ngoài ra, các doanh nghiệp chưa quan tâm tới các quy trình

bảo quản, chế biến, thị trường tiêu thụ, bao bì, sản phẩm và cả thương hiệu dẫn đến

rất nhiều thiệt thòi khi xuất khẩu cà phê vào các thị trường tiêu thụ lớn trên thế giới.

Tuy nhiên, mặc dù ngành hàng cà phê có bước phát triển nhanh trong một số

năm gần đây cả về diện tích và sản lượng, song lợi thế trên thị trường thế giới phần

lớn vẫn thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài có thương hiệu và tiềm lực tài chính

mạnh. Hơn thế nữa, biến đổi khí hậu và nhu cầu ngày càng tăng có thể sẽ tạo ra những

biến động trong ngành sản xuất cà phê trên toàn cầu trong thập kỷ tới. Việt Nam sẽ

là một trong những quốc gia trồng cà phê bị ảnh hưởng nhiều nhất. Theo đó, nếu nhiệt

độ trái đất tăng 2 độ C vào năm 2050 theo đúng kịch bản thì một diện tích đất lớn

hiện đang trồng cà phê sẽ không thể canh tác loại cây này nữa. Theo ông Peter

Laderach, chuyên gia biến đổi khí hậu cao cấp của CIAT, sản lượng cà phê vối ở Việt

Nam đang có những biến động lớn. Nghiên cứu của CIAT cho thấy vào năm 2050,

mùa khô ở miền nam Việt Nam, bao gồm các tỉnh Tây Nguyên, có thể kéo dài đến

tháng Sáu, lâu hơn bình thường gần ba tháng. Trong khi đó, lượng mưa ở khu vực

cao nguyên vào những tháng mùa khô có thể giảm khoảng 20mm, gây ra vấn đề lớn

61

với khu vực mà 90% trữ lượng nước sử dụng liên quan đến ngành sản xuất cà phê.

Đến năm 2050 tổng diện tích phù hợp cho sự phát triển cá phê vối ở Việt Nam được

dự đoán sẽ giảm từ 52.39702 km2 xuống khoảng còn một nửa là 28.87646 km2.

Trong khi đó, việc tưới tiêu và sử dụng phân bón tràn lan ở Tây Nguyên có thể làm

suy thoái, mất những chất dinh dưỡng cần thiết của đất.

3.2.Triển vọng phát triển cà phê Đắk Lắk

Nền kinh tế Việt Nam ngày càng Hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.

Tuy nhiên, trong lĩnh vực nông nghiệp, vẫn còn nhiều nông sản Việt Nam chưa xây

dựng được thương hiệu mạnh trên thị trường. Do đó, xây dựng và phát triển chuỗi giá

trị của doanh nghiệp cà phê đáp ứng được nhu cầu của thị trường là một yêu cầu cấp

bách trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay.

Chính vì vậy, trong những năm tới và định hướng tới năm 2030, tỉnh Đắk Lắk

xây dựng và phát triển ngành cà phê theo hướng bền vững, nâng cao chất lượng và

đa dạng hóa sản phẩm, mang lại giá trị gia tăng cao, tiến tới phát triển sản xuất cà phê

hữu cơ. Tỉnh Đắk Lắk sẽ tập trung các nguồn lực, chính sách đầu tư cho các vùng sản

xuất chuỗi giá trị cà phê theo quy hoạch, ưu tiên vùng có CDĐL cà phê Buôn Ma

Thuột, đồng thời đổi mới tổ chức sản xuất, đẩy mạnh liên kết dọc, liên kết nganh

trong ngành hàng và ưu tiên ứng dụng khoa học công nghệ cao vào các khâu sản xuất,

chế biến và tổ chức quản lý sản xuất nhằm nâng cao thu nhập cho người nông dân,

doanh nghiệp và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu góp phần quản lý tốt các

nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái.

3.2.1 Triển vọng sản xuất cà phê:

Trong giai đoạn 2016-2020, tỉnh Đắk Lắk sẽ giảm dần diện tích sản xuất cà

phê xuống còn 180.000ha và sản lượng bình quân 450.000 tấn/ha. Đến năm 2030,

diện tích sẽ ổn định còn 170.000ha, với sản lượng bình quân đạt từ 476.000 tấn/năm

đến 504.000 tấn/năm. Năng suất bình quân năm 2020 dự kiến đạt 2,5 tấn/ha và đến

năm 2030 sẽ đạt 2,8 tấn/ha.

Diện tích cà phê tái canh giai đoạn 2016-2020 khoảng 32.335 ha, bình quân

mỗi năm tái canh trên 6.000 ha/năm. Giai đoạn 2020 -2030 tái canh dự báo từ 1.000

ha/năm đến 1.500 ha/năm. Để phục vụ tái canh cà phê hiệu quả, 70% diện tích cà phê

tái canh được ghép cải tạo và trồng mới sử dụng giống cà phê mới có năng suất và

62

chất lượng cao trong năm 2020 và đến năm 2030, diện tích cà phê tái canh sử dụng

giống mới có chất lượng sẽ tăng chiếm 90% tổng diện tích cà phê tái canh.

Nếu như trong giai đoạn 2016-2020, 75-80% diện tích cà phê được chủ động

tưới nước, trong đó 10.000ha ứng dụng công nghệ tưới nước tiết kiệm thì đến năm

2030, diện tích cà phê được chủ động tưới nước sẽ tăng lên 85-90% và sẽ có 20.000ha

được tưới nước tiết kiệm. Và nếu năm 2020, có khoảng 80% diện tích cà phê được

áp dụng quy trình sản xuất cà phê bền vững có chứng nhận thì đến năm 2030 sẽ có

khoảng 90% diện tích cà phên áp dụng quy trình kỹ thuật sản xuất cà phê bền vững.

Trong thời gian tới, tỉnh Đắk Lắk sẽ xây dựng 2 đến 3 mô hình sản xuất cà phê

hữu cơ, tiến tới nhân rộng mô hình này đến năm 2030.

3.2.2 Triển vọng thu hoạch và chế biến cà phê:

Năm 2020, ước tính 80-85% sản lượng cà phê được thu hái, phơi sấy và bảo

quản theo đúng quy trình kỹ thuật hiện hành. 100% có sở chế biến cà phê nhân xuất

khẩu tuân thủ đúng Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và là cơ chế chế biến cà phê đạt điều

kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong đó, ít nhất 03 doanh nghiệp chế biến

cà phê nhân xuất khẩu, chế biến sâu áp dụng công nghệ và quy trình quản lý tiên tiến.

Hiện, tỷ lệ chế biến sâu bao gồm cà phê bột, cà phê hòa tan, các loại cà phê

khác biệt theo thị hiếu của thị trường mới chỉ đạt 8-10 sản lượng của niên vụ. Hy

vọng đến năm 2030, sản lượng cà phê được chế biến sâu sẽ đạt từ 15-20% sản lượng

cà phê của niên vụ. Tỷ lệ sản lượng cà phê được thu hái, phơi sấy và bảo quản đạt

tiêu chuẩn nâng lên từ 85-95%.

3.2.3 Triển vọng về thương mại và quảng bá sản phẩm:

Tỉnh Đắk Lắk sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng

bá hình ảnh sản phẩm đặc trương của địa phương và phát triển thị trường tiêu thụ nội

địa. Năm 2020 ước tính kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt bình quân 600 triệu

USD/năm đến 650 triệu USD/năm. Tỉnh sẽ phấn đấu từ sau năm 2020, kim ngạch

xuất khẩu cà phê hàng năm đạt từ 700 triệu USD/năm đến 800 triệu USD/năm. Đặc

biệt, tỉnh sẽ phát triển thương hiệu, bảo hộ, bảo vệ và tăng diện tích cà phê CDĐL

Buôn Ma Thuột và phát triển các nhãn hiệu mạnh của doanh nghiệp.

3.2.4 Triển vọng về tổ chức và quản lý sản xuất:

63

Năm 2020, Tỉnh sẽ tiếp tục hỗ trợ phát triển 30 hợp tác xã nông nghiệp bao

gồm hợp tác xã hiện có và mới thành lập tại các vùng sản xuất cà phê và hỗ trợ thành

lập ít nhất 10 tổ hợp tác sản xuất cà phê bền vững tại vùng đồng bào các dân tộc thiểu

số. Tỉnh sẽ củng cố các liên minh sản xuất cà phê bền vững đã có và xây dựng mới

03 liên minh sản xuất cà phê theo chuỗi giá trị.

Trong thời gian tới, Hiệp hội cà phê Buôn Ma Thuột sẽ được phát huy hiệu

quả hoạt động để là đầu mối kết nối các tác nhân trong ngành hàng.

3.3. Giải pháp phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê chỉ dẫn

địa lý Buôn Ma Thuột

Về lâu dài, Chính phủ có chính sách khuyến khích đầu tư vào cà phê có chỉ

dẫn địa lý, gắn việc phát triển chỉ dẫn địa lý "Cà phê Buôn Ma Thuột" với thương

hiệu quốc gia; trong đó, cần hình thành chuỗi liên kết và thành lập quỹ ngành hàng

cà phê để xúc tiến hoạt động thương mại, quảng bá thương hiệu và cho nông dân vay

vốn với lãi suất 0% để tái canh cà phê. Việc cấp chứng nhận chất lượng hàng năm

cho cà phê có chỉ dẫn địa lý cũng đang được các tổ chức có liên quan tiến hành, đặc

biệt là Nhà nước, sở ban ngành và hiệp hội cà phê.

Thông qua kinh nghiệm của một số doanh nghiệp cà phê CDĐL về nâng cao

chuỗi giá trị và mang lại lợi ích cho các khâu từ sản xuất sơ chế cho đến tiêu thụ sản

phẩm có thể đưa ra một số giải pháp như sau:

Một là xây dựng mô hình tổ hợp sản xuất, ổn định diện tích cà phê:

Một số doanh nghiệp cà phê CDĐL xây dựng được mô hình liên kết sản xuất

cho các nông hộ, thành lập được các hợp tác xã chuyên canh về cây cà phê, vận động

người trồng cà phê tham gia vào hợp tác xã đó và cam kết tạo ra giá trị tăng thêm cho

cà phê của họ làm ra. Từ đó đưa các mô hình sản xuất bền vững cho cây cà phê như

chứng chỉ 4C, VietGap, Utz… mà các nước đã và đang được áp dụng. Tiếp theo một

số doanh nghiệp đã thành lập được các Hợp tác xã chuyên canh cây cà phê và các hộ

nông dân tham gia vào thì từng bước áp dụng các quy chuẩn, áp dụng khoa học kỹ

thuật, thành lập được tổ kỹ thuật có trách nhiệm tham gia tập huấn cũng như hướng

dẫn nông dân theo quy trình bởi việc nông dân sản xuất cà phê nhỏ lẻ và ít áp dụng

kỹ thuật vào sản xuất gây thiệt hại về mặt năng suất cũng như tuổi đời của cây cà phê.

Và một số doanh nghiệp đã ổn định diện tích trồng cà phê trên mỗi nông hộ, để việc

64

chăm sóc và thu hoạch được diễn ra một cách tốt nhất mang lại hiệu quả cao nhất cho

các tác nhân tham gia vào chuỗi giá trị và chỉ nên mở rộng diện tích khi nhu cầu thị

trường tăng và thực hiện việc tái canh khi vườn cà phê già cỗi cho năng suất thấp.

Hai là, cải tiến kỹ thuật công nghệ và quan tâm đào tạo nhân lực cho ngành

cà phê:

Trong nghề trồng cà phê, vấn đề tạo hình được xem như một biện pháp kỹ

thuật bắt buộc với mục đích tạo cho cây cà phê có bộ tán cân đối, khai thác triệt để

không gian riêng có của mỗi cây, tạo sự cân bằng giữa sinh trưởng, ra hoa và đậu quả,

đồng thời, ổn định được sản lượng của vườn cây. Áp dụng tạo hình đơn thân, cây

được hãm ngọn. Khi được tạo hình đơn thân, cây cà phê được hãm ngọn ở độ cao

khoảng 1.5 mét, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc, cắt cành, phòng trừ sâu

bệnh, thu hoạch. Giống luôn là yếu tố kỹ thuật quan trọng hàng đầu, tạo ra bước đột

phá trong việc tăng năng suất, phẩm chất cây trồng cũng như các đặc tính chống chịu

sâu bệnh.

Lai tạo, tuyển chọn thành công các giống cà phê mới không những cho năng

suất cao, đạt từ 4,5 đến 7 tấn cà phê nhân/ha, kháng cao với bệnh gỉ sắt, mà còn có

kích cỡ hạt được cải thiện nên được các doanh nghiệp cà phê CDĐL chọn trồng. Kỹ

thuật bón phân cân đối dựa vào độ phì của đất và năng suất cây trồng được doanh

nghiệp hướng dẫn các nông hộ nên đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm chi phí

phân bón. Bên cạnh đó, tưới nước trở thành biện pháp mang tính quyết định đến năng

suất cà phê ở Tây Nguyên và các nông hộ có khuynh hướng sử dụng lượng nước tưới

quá cao so với nhu cầu của cây cà phê. Qua các nghiên cứu, một số doanh nghiệp

khuyến cáo các nông hộ, chỉ cần tưới 390 lít nước/gốc, với chu kỳ 22 đến 24 ngày/lần

tưới. Nếu chu kỳ tưới là 30 ngày, lượng nước tưới tương đương 530 lít/gốc vẫn đạt

năng suất bình quân 3,5 tấn cà phê nhân/ha, giảm gần 50% lượng nước tưới so với

trước đây. Đặc biệt, doanh nghiệp nhận rộng việc sản xuất cà phê có chứng nhận, xác

nhận như 4C, Utz, RAC đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao về chất

lượng sản phẩm, về nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm cà phê nhân, đồng thời thu

hoạch tỉ lệ quả chín phải đạt từ 90% trở lên, chế biến theo đúng quy trình để góp phần

nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê nhân của Việt Nam.

65

Đối với quy trình tái canh cà phê vối, doanh nghiệp cần khuyến cáo nông

Doanh nghiệp, doanh nghiệp thực hiện các giải pháp kỹ thuật nghiêm ngặt từ khâu

chặt bỏ cà phê già cỗi hết chu kỳ kinh doanh đến khâu khai hoang, rà rễ, thu gom rễ

nhằm loại bỏ nguồn dịch hại trên đồng ruộng, luân canh với các loại cây trồng khác

ít nhất 2 năm sau khi nhổ bỏ vườn cà phê già cỗi, sử dụng các giống mới cà phê đã

được công nhận để đưa vào trồng.

Ba là cải tiến thương mại và xuất khẩu:

Doanh nghiệp cần kiểm soát tốt đầu mối sản xuất cà phê, xây dựng nhà máy

chế biến và kho chứa đủ lớn và cập nhật thông tin về ngành cà phê. Bên cạnh đó,

doanh nghiệp cần đào tạo cán bộ có nghiệp vụ chuyên môn giỏi, ngoại ngữ thành thạo

để hoạt động xúc tiến thương mại, Hội chợ, xây dựng website cho doanh nghiệp, làm

việc trực tiếp với các nhà rang xay trong nước và trên thế giới. Doanh nghiệp còn

phải khuyến khích các công ty xuất khẩu đầu tư liên kết với các nông Doanh nghiệp

trồng cà phê, lập đại lý thu mua, nâng cấp hệ thống kho bãi, nhà máy chế biến cà phê

nhân xô hiện đại đạt chất lượng để xuất khẩu trực tiếp với các nhà rang xay quốc tế.

Bốn là, đẩy mạnh quảng bá, xúc tiến thương mại cà phê có CDĐL và bảo hộ

và quản lý CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột

Cần đẩy mạnh các hoạt động kết nối giữa các tập thể sản xuất với doanh

nghiệp, các nhà xuất khẩu để mở rộng thị trường và giá trị gia tang cho cà phê CDĐL,

cà phê chứng nhận bền vững; Tiếp tục đẩy mạnh các kênh thương mại cà phê nhân,

chú trọng bán trực tiếp đến các nhà rang xay. Kết nối bán cà phê CDĐL cho các nhà

rang xay trong nước; Sử dụng dấu hiệu CDĐL hoặc Logo trong giao dịch thương

mại, bao bì sản phẩm. Xây dựng phương án cụ thể xúc tiến thương mại sản phẩm cà

phê có CDĐL Buôn Ma Thuột, đặc biệt ở các nước đã được chấp nhận bảo hộ như:

Trung Quốc, Singapore, Pháp, Ý, Thái Lan, Đức, Tây Ban Nha, Nga, Canada, Bỉ, Hà

Lan, Luxămbua;

+ Tiếp tục phối hợp với Cục Sở hữu trí tuệ và Sở Khoa học và Công nghệ đáp

ứng các yêu cầu tìm hiểu, kiểm tra thực địa hệ thống quản lý kiểm soát CDĐL Buôn

Ma Thuột tại một số đơn vị được cấp quyền sử dụng CDĐL, tiếp tục bổ sung hoàn

thiện tài liệu đăng ký bảo hộ tại Nhật Bản; Phối hợp với Trung tâm phát triển nông

thôn (Viện Chính sách và chiến lược PTNN), Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk

66

Lawsk triển khai có hiệu quả dự án “Sửa đổi, mở rộng phạm vi bảo hộ và hỗ trợ hoàn

thiện hệ thống CDĐL Buôn Ma Thuột; Cấp quyền/ tái cấp quyền sử dụng CDĐL cà

phê Buôn Ma Thuột, cụ thể hướng dẫn các đơn vị có nhu cầu đăng ký sử dụng/tái sử

dụng CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột cho cà phê nhân, cà phê rang xay và các loại cà

phê chế biến sâu khác và đề nghị Sở KH và CN cấp quyền/tái cấp quyền sử dụng; Sau

khi mở rộng bảo hộ thành công CDĐL cà phê Buôn Ma Thuột cho cà phê rang xay và

cà phê chế biến sâu, Hiệp hội cà phê Buôn Ma Thuột phối hợp với Sở KH&CN tỉnh Đắk

Lắk tiến hành triển khai những hoạt động kiểm soát việc sử dụng Logo và tên gọi “cà

phê Buôn Ma Thuột” trên phạm vi quốc gia và đề nghị xử lý những đơn vị xâm phạm

quyền sử dụng CDĐL Buôn Ma Thuột, bảo vệ thiết thực quyền lợi các doanh nghiệp cà

phê CDĐL Buôn Ma Thuột;

+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định quản lý cho các sản phẩm cà

phê chế biến sâu có sử dụng CDĐL Buôn Ma Thuột. Đề nghị Nhà nước ban hành các

quy định quản lý bên ngoài cho các sản phẩm cà phê chế biến sâu có sử dụng CDĐL

cà phê Buôn Ma Thuột; Thực hiện định kỳ việc kiểm soát nội bộ các đơn vị sản xuất

kinh doanh cà phê nhân, cà phê chế biến sâu có sử dụng CDĐL Buôn Ma Thuột, phối

hợp với ngành nông nghiệp để cấp mã vùng trồng cho các đơn vị sản xuất thuộc vùng

CDĐL Buôn Ma Thuột;

67

KẾT LUẬN

Đắk Lắk được mệnh danh là thủ phủ cà phê của Việt Nam. Sản phẩm cà phê

đã làm nên danh tiếng cho Đắk Lắk nói riêng và Việt Nam nói chung, đặc biệt là khi

năm 2005 cà phê Đắk Lắk chính thức được đăng bạ CDĐL, được bảo Doanh nghiệp

ở Việt nam và trên thị trường thế giới. Đây là một lợi thế để cà phê Buôn Ma Thuột

có thể đẩy mạnh xuất khẩu, xây dựng thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc

tế. Nhờ CDĐL, cà phê Buôn Ma Thuột trong những năm qua đã được hưởng lợi về

giá, sản lượng xuất khẩu và giúp bà con nông dân ngày càng đáp ứng được các quy

chuẩn về phát triển nông nghiệp bền vững, thân thiện với môi trường.

Chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê mang chỉ dẫn địa lý có những khác biệt

so với chuỗi giá trị của sản phẩm cà phê thông thường. Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu tạo

nên danh tiếng của sản phẩm cà phê, được xác định bằng mức độ tín nhiệm của người

tiêu dùng đối với sản phẩm, thông qua đó việc doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị cà

phê mang chỉ dẫn địa lý luôn thuận lợi hơn so với các sản phẩm chưa đăng ký chỉ dẫn

địa lý. Khi tham gia chuỗi giá trị, sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý thường có giá

bán cao hơn, có cơ hội gia tăng xuất khẩu hơn, dễ dàng tiếp cận các thị trường khó

tính hơn so với các sản phẩm không mang chỉ dẫn địa lý. Đối với cà phê chỉ dẫn địa

lý Buôn Ma Thuột, chỉ dẫn địa lý là một công cụ quan trọng để tham gia chuỗi giá

trị, giữ gìn các bí quyết sản xuất kinh doanh truyền thống, nâng cao sức cạnh tranh

và quảng bá sản phẩm, phát triển du lịch. Tuy nhiên, để tham gia chuỗi giá trị một

cách hiệu quả, rất cần phải học tập kinh nghiệm từ các nước khác trong việc nâng cấp

năng lực tham gia chuỗi của các tác nhân, vừa đảm bảo chất lượng sản phẩm khi đăng

ký chỉ dẫn địa lý, vừa khơi thông các điểm nghẽn giữa các tác nhân trong dòng chảy

của chuỗi. Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy, chỉ dẫn địa lý chỉ

là một “giấy phép thông hành” để sản phẩm cà phê Buôn Ma Thuột được “thông

quan” dễ dàng ở các thị trường khó tính nhằm phát triển, quảng bá và có cơ hội xuất

khẩu cao; còn để doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị của doanh nghiệp

cà phê toàn cầu, thì sản phẩm cà phê chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột có rất nhiều việc

phải làm để khắc phục được vị trí tham gia yếu kém như hiện nay, tiếp tục nâng cấp

vị trí trong chuỗi trong tương lai.

68

Trong thời gian qua các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê CDĐL Buôn

Ma Thuột đã ngày càng thể hiện vị trí và chỗ đứng trên thị trường cà phê trong nước

và thế giới. Tuy nhiên, doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột gặp nhiều khó

khăn trong việc tham gia chuỗi giá trị. Xét trong toàn hệ thống chuỗi giá trị của doanh

nghiệp, doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột mới chỉ tham gia chủ yếu vào

những công đoạn giản đơn, có giá trị gia tăng thấp như thu gom, sơ chế cho xuất khẩu

thô. Trong khi đó, những công đoạn có giá trị gia tăng cao như rang xay, chế biến

sâu, phân phối bán lẻ và xây dựng thương hiệu, doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn

Ma Thuột còn tham gia rất hạn chế. Sau nhiều năm tham gia sử dụng chỉ dẫn địa lý

cà phê Buôn Ma Thuột, giá trị gia tăng của sản phẩm đối với từng nhóm tác nhân và

từng khâu trong chuỗi không được như kỳ vọng, chỉ tăng lên chút ít so với các doanh

nghiệp sản xuất kinh doanh không tham gia sử dụng chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma

Thuột. Hơn nữa, những hướng dẫn để đảm bảo doanh nghiệp cà phê đáp ứng chỉ dẫn

địa lý Buôn Ma Thuột chưa đạt hiệu quả cao, chưa khiến doanh nghiệp hiểu được lợi

ích khi tham gia và trong quá trình tham gia doanh nghiệp phải chịu nhiều áp lực từ

các khâu kiểm soát, đánh giá và báo cáo. Những áp lực, khó khăn này, cộng với giá

sản phẩm đầu ra tăng không cao như kỳ vọng khiến các doanh nghiệp tham gia sử

dụng chỉ dẫn địa lý không đông (cho đến năm 2019, mới có 12 doanh nghiệp cà phê

sử dụng CDĐL Buôn Ma Thuột), thậm chí khi tham gia sử dụng chỉ dẫn địa lý đã

không tuân thủ các quy định của các quyết định đã ban hành vì những mục tiêu lợi

nhuận trước mắt. Chính vì vậy, chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê sử dụng chỉ dẫn

địa lý cà phê Buôn Ma Thuột dường như đã bị đứt gãy và chịu hiệu ứng “Bullwhip”

ngay từ các khâu ban đầu, không thể tiếp tục tham gia sâu vào các khâu sau tạo giá

trị gia tăng cho sản phẩm cuối cùng. Trong việc tham gia chuỗi giá trị, doanh nghiệp

cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột còn bộc lộ nhiều thiếu sót và trở ngại, lý do là: so với

việc phát triển chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê thông thường, việc xây dựng chỉ

dẫn địa lý cho sản phẩm cà phê gặp một số khó khăn do mất đi chi phí đáng kể, không

chỉ cho cơ cấu tổ chức và thể chế mà còn cho các chi phí vận hành như marketing và

thực thi luật pháp. Trong một số trường hợp, do không quy hoạch và quản lý thích

hợp, có thể gây ra sự lãng phí nguồn lực hạn chế, đầu tư vào doanh nghiệp cà phê

CDĐL không có triển vọng. Bên cạnh đó, dưới sức ép của cạnh tranh trên thị trường

69

quốc tế, từ các tập đoàn thương mại xuyên quốc gia, từ các thương hiệu cà phê nổi

tiếng trên toàn cầu, doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột đang gặp rất nhiều

khó khăn trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm,

nâng cấp vị trí sản phẩm từ xuất khẩu cà phê nhân sang khâu rang xay, chế biến và

tiêu thụ sản phẩm cuối cùng đến tay người tiêu dùng. Việc bảo hộ nhãn mác CDĐL

cũng mới chỉ dừng ở cà phê nhân Robusta, chứ chưa thể nâng cấp lên bảo hộ nhãn

mác CDĐL ở khâu rang xay. Hơn nữa, các doanh nghiệp tham gia cà phê CDĐL

Buôn Ma Thuột còn gặp nhiều sức ép từ phía các đối tác trong và ngoài nước về các

yêu cầu do họ đặt ra, không đúng với quy định về chất lượng sản phẩm và lo go đã

đăng ký chỉ dẫn địa lý. Những thiếu sót và hạn chế trên là những nguyên nhân chủ

yếu khiến doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột chưa thể tham gia sâu vào

chuỗi giá trị của doanh nghiệp toàn cầu, bị cạnh tranh ngay cả trên sân nhà đối với

các sản phẩm nhập khẩu và trở nên yếu thế trên thị trường quốc tế. Để gỡ bỏ các nút

thắt trên thì việc duy trì và phát triển doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột

tham gia chuỗi giá trị của doanh nghiệp toàn cầu là rất cần thiết.

Do vậy, có thể nói rằng để phát triển chuỗi giá trị cho các doanh nghiệp cà phê

CDĐL Buôn Ma Thuột, chính phủ, tỉnh Đắk Lắk và các bộ ban ngành hiện nay đang

tập trung giúp các doanh nghiệp cà phê CDĐL Buôn Ma Thuột nâng cao công tác bảo

hộ chỉ dẫn địa lý, quản lý chỉ dẫn địa lý và hỗ trợ các doanh nghiệp đăng ký chỉ dẫn địa

lý tham gia để tạo giá trị cao hơn cho sản phẩm cà phê Buôn Ma Thuột, nâng cao sức

cạnh tranh của sản phẩm.

70

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tiếng Việt

1. Hiền Anh (2017). “Chỉ dẫn địa lý cho cà phê Đắk Lắk”, Báo nhân dân điện tử,

15/6/2017

2. Hoàng Thuý Bằng (2004), Nâng cao cạnh tranh của ngành cà phê robusta Việt

Nam, Bộ nông nghệp và phát triển nông thôn

3. Doris Becker, Phạm Ngọc Trâm, Hoàng Đình Tú (2009), Phát triển chuỗi giá trị -

công cụ gia tăng giá trị cho sản xuất nông nghiệp, GTZ, tháng 3

4. Trần Quỳnh Chi (2005). Báo cáo nghiên cứu đánh giá tác động thực tiễn sử dụng đầu

vào cho sản xuất cà phê tỉnh Đắk Lắk, Trung tâm tư vấn chính sách nông nghiệp

5. Nguyễn Văn Hoá, Mai Văn Xuân (2012). “Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của cà

phê tỉnh Đắk Lắk trong thị trường Hội nhập”, Tạp chí khoa học, Đại học Huế,

tập 72 B, số 3

6. Công Hoan (2012). “Cà phê thương hiệu Buôn Ma Thuột: vì sao không dán nhãn

để xuất khẩu ?”, Báo Sài gòn giải phóng, 4/12/2012

7. Huấn Đào Đức Huấn (2016). “Hiện trạng và định hướng nâng cao hiệu quả về quản

lý kiểm soát Chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam”, Tài liệu Hội thảo “Chỉ dẫn địa lý và

những cam kết trong khuôn khổ hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam – EU

(EVFTA), TP. Hồ Chí Minh, 7/2016

8.Vũ Tuấn Hưng (2015). Xây dựng và phát triển thương hiệu Chỉ dẫn địa lý ở Việt

Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

9. Lê Hương (2017). “Phát triển chuỗi giá trị nông sản Tây Nguyên: nút thắt cần tháo

gỡ”, Báo Đắk Lắk, 18/4/2017

10. Trần Tiến Khai (2013), Phân tích chuỗi giá trị và ngành hàng nông nghiệp,

Chương trình giảng dạy kinh tế Fubright;

11. Công Huyền Tôn Nữ Tuấn Nam (2018), Xây dựng mô hình liên kết nông dân –

doanh nghiệp để sản xuất và kinh doanh cà phê mang chỉ dẫn địa lý cà phê

Buôn Ma Thuột, Hiệp Hội cà phê Buôn Ma Thuột, tháng 3/2018

12. Đỗ Thị Nga, Lê Đức Niêm (2016). “Liên kết Doanh nghiệp nông dân và doanh

nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ cà phê ở Tây Nguyên”, Tạp chí khoa học nông

71

nghiệp Việt Nam, tập 14, số 11

13. Hà Văn Sự (2016). “Tăng cường năng lực và hiệu quả tham gia chuỗi giá trị toàn

cầu cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo “Phát triển

thương mại Việt Nam giai đoạn 2016-2025”, Bộ công thương, MUTRAP

14. Nguyễn Ngọc Thắng, Nguyễn Tất Thắng, Nguyễn Thành Công (2017). “Phân

tích rủi ro trong sản xuất cà phê của các Doanh nghiệp nông dân trên địa bàn

tỉnh Đắk Lắk”, Tạp chí khoa học nông nghiệp Việt Nam, tập 15, số 2

15. Thủ tướng chính phủ (2012), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã Hội vùng Tây

Nguyên đến năm 2020, quyết định số 936/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ, tháng

7.2012

16. Hồ Thanh Thuỷ (2017). “Giải pháp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cho nông

sản Việt Nam”, Tạp chí lý luận chính trị, số 5

17. Nguyễn Thanh Trúc, Đỗ Thị Nga, Nguyễn Văn Minh (2012). “Cạnh tranh chât lượng

sản phẩm cà phê nhân của Đắk Lắk”, Tạp chí khoa học và phát triển, tập 10, số 7

18. Phan Thị Thanh Trúc, Nguyễn Thị Thuý Hạnh (2016). “Mối liên kết giữa các tác

nhân trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp cà phê khu vực Tây Nguyên”, Tạp

chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng

19. Bùi Quang Tuấn và nhóm nghiên cứu (2014). “Cà phê Tây Nguyên trong chuỗi

giá trị toàn cầu”, Tạp chí Phát triển bền vững Vùng, số 4, tháng 12

20. Bùi Tuấn (2008), Kết quả thực hiện thử nghiệm chuỗi giá trị cà phê cho đồng bào

thiểu số, GTZ, Buôn Ma Thuột, tháng 11/2008

21. UBND tỉnh Đắk Lắk (2010), Quy chế quản lý, sử dụng chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn

Ma Thuột đối với sản phẩm cà phê nhân Robusta, Buôn Ma Thuột, tháng 6/2010

22. UBND tỉnh Đắk Lắk (2017), Đề án phát triển cà phê bền vững tỉnh Đắk Lắk đến

năm 2020 và định hướng đến năm 2030

23. Lê Anh Vũ (2016), Liên kết nội vùng trong phát triển bền vững vùng Tây Nguyên,

Đề tài Tây Nguyên TN3/X16

24. Trần Văn Ý, Nghiên cứu xây dựng bộ chỉ tiêu phát triển bền vững về các lĩnh vực

kinh tế, xã Hội và môi trường các tỉnh Tây Nguyên, Đề tài TN3/T08

25. Tạ Hoàng Linh, Vụ trưởng Vụ thị trường Âu - Mỹ, Bộ Công Thương

26. Trịnh Đức Minh, Báo cáo Quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma

72

Thuột, PGĐ Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Lắk, Phó chủ tịch hiệp hội Cà

phê Buôn Ma Thuột.

27. Minh Thông (2018), Công nghiệp chế biến nông sản: thô nhiều, tinh ít, Báo Đắk

Lắk, 16/8/2018

28. Nhân dân điện tử, Cà phê: chế biến sâu, xuất khẩu vững, 9/11/2019

B. Tiếng Anh

29. Prableen Bajpai (2017). “Starbucks as an example of the value chain model”, CFA

(ICFF30.

30. Penny Bamber, Karina Fernandez-Stark, Gary Gereffi, Andrew Guinn (2014).

“Connecting Local Producers in Developing countries to regional and global

value chains”, OECD Trade Policy (160)

31. Stephanie Barrientos, Gary Gereffi, và Arianna Rossi (2010), Economic and

social upgrading in global production networks - developing a framework for

analysis, Đại học Manchester

32. Brasileiro (2017). “Brazilian coffe production: overcoming the challenges of

sustainability”, 7th Consultative forum on coffe sector finance, September

33. Timothy J Dowding, “The coffee bean: a value chain and sustainability initiatives

analysis”, University of Connecticut, Stamford CT USA

34. Claire Durand, Stephance Fourier (2017). “Can geographical indications modernize

Indonesian and Vietnamese Agriculture ?”, Analyzing the role of national and

local goverments and producers’s strategies, Wolrd Development, Vol 98, p93-

104.

35. Luis F.Samper, Xiomara F.Quinones Ruiz (2017). “Towards a balanced

sustainability vision for the coffee industry”, Resources 2017, 6,17,

www.mdpi.com/journal/resources

36. FAO (2007), Agro-industrial supply chain management: concepts and applications

37. FAO (2015), Value chain analysis for Shan tea and Arabica coffee under climate

change in the Northern Mountainous region of Vietnam, Policy Brief No 4.

38. GPMG International (2013), The agricultural and food value chain: entering a

new are of cooperation, kpmg.com Global life sciences.

39. GTZ. ValueLinks Manual. The Methodology of Value Chain Promotion. First Edition.

73

40. ICO (2017), Vietnam: the future of coffee, Global Coffee platform

41. KPMG (2013) The agricultural and food value chain: entering a new era of

cooperation, Global life sciences

42. Melissa Murphy. “The coffe bean: a value chain and sustainability initiatives

analysis”, University of Connecticut, Stamford, USA

43. Jeffrey Neilson (2013), The value chain for Indonesian coffee in a green economy,

University of Syney, January

44. Stefano Pone (2004), “Standards and sustainability in the coffee sector”, IISD, May

45. Porter, M, E (1985). “The Competitive Advantage: Creating and Sustaining Superior

Performance”, NY: Free Press, 1985. (Republished with a new introduction, 1998)

46. Kaplinsky R và Morris M. (2001), A handbook for value chain research, Insitute

for international development research center (IDRC)

47. TechnoServe (2013), Brazil: a business case for sustainable coffee production,

IDH, December

48. Teuber Ramona Teuber (2007). “Geographical indications of origin as a tool of

product differentiation: the case of coffee”, 105th EAAE seminar “International

marketing and international trade of quality food products, Italy, March;

49. Sonja Vermeulen , Jim Woodhill, Felicity Procor, Rik Delnoye (2008), Chain

wide learning for inclusive agrifood market development: a guide to multi-

stakholder process for linking small scale producers to modern

74

PHỤ LỤC

PHIẾU ĐIỀU TRA CƠ SỞ/DOANH NGHIỆP SƠ CHẾ, CHẾ BIẾN VÀ

TIÊU THỤ SẢN PHẨM CÀ PHÊ

Người điều tra:……………………………………………………………….

Ngày điều tra: ………………………………………………………………..

Xã: ……………………………………………………………………………

Huyện: ………………………………………………………………………..

I. THÔNG TIN VỀ DOANH NGHIỆP

1.1. Thông tin chung

Tên doanh nghiệp/cơ sở: :……………………………………………………

Địa chỉ: :……………………………………………………………………….

Xã: :……………………………………………………………………………

Huyện: :……………………………………………………………………….

1.2. Hình thức sở hữu của cơ sở/doanh nghiệp

Hợp tác xã

Doanh nghiệp tư nhân

Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn

Công ty cổ phẩn

Doanh nghiệp FDI

Doanh nghiệp nhà nước

Khác, cụ thể

1.3. Sản phẩm chính của cơ sở/doanh nghiệp (chọn 1 sản phẩm lớn nhất

theo doanh thu):………………

1.4. Doanh nghiệp liên quan đến giai đoạn nào của chuỗi giá trị của

doanh nghiệp cà phê?

75

Cung ứng vật tư nguyên

liệu

Sản xuất, trồng cà phê

Thu gom cà phê

Sơ chế cà phê

Chế biến cà phê

Tiêu thụ sản phẩm cà phê,

trong đó:

Bán lẻ

Đại lý các cấp

Xuất khẩu

II. LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP

2. 1. Cơ sở/doanh nghiệp có thuê lao động không?

2. 2. Nếu có, hình thức thuê theo cách nào dưới đây:

2. 3. Số lượng lao động thuê tối đa bao nhiêu:……………..

2. 4. Lao động làm thuê thường từ đâu đến:

1. Người cùng xã

2. Người khác xã

3. Người cùng huyện

4. Người khác huyện, tỉnh

2. 5. Lao động làm thuê thuộc nhóm dân tộc nào:

1. Dân tộc Kinh

2. Dân tộc thiểu số tại chỗ

(Tây Nguyên)

3. Dân tộc thiểu số nhập cư

76

2.6. Chi phí thu lao động hàng năm so với tổng thu nhập Doanh nghiệp

gia đình:

2.7. Số lao động tại thơi điểm hiện tại phân theo loại hợp đồng:

Thời hạn hợp đồng

Bằng văn bản

Bằng miệng

Hợp đồng không xác định thời hạn

Hợp đồng xác định thời hạn > 1 năm

Hợp đồng xác định thời hạn 1 năm

Hợp đồng xác định thời hạn <1 năm

Lao động thời vụ

Tổng lao động

2.8. Số lao động làm việc tại doanh nghiệp/cơ sở đến từ đâu”

1. Trong tỉnh

2. Ngoài tỉnh (trong vùng Tây Nguyên)

3. Ngoài tỉnh (ngoài vùng Tây Nguyên)

2.9. Đào tạo và đào tạo lại lao động của doanh nghiệp/cơ sở

- Nếu có, thì hình thức đào tạo là:

1. Kèm cặp qua công việc

2. Mở các khoá đào tạo tại chỗ

3. Gửi đi đào tạo

4. Khác, cụ thể là………

77

III. THAM GIA THỊ TRƯỜNG NGUYÊN LIỆU ĐẦU VÀO

3.1. Liệt kê 3 loại nguyên vật liệu đầu vào lớn nhất theo chi phí

1…………………………………………………..

2…………………………………………………..

3…………………………………………………..

3.2. Đối tượng cung cấp nguyên liệu đầu vào cho sơ chế, chế biến cà phê

NL đầu

NL đầu

NL đầu

vào 1

vào 2

vào 3

Doanh nghiệp gia đình và cá nhân

(SX trực tiếp)

Doanh nghiệp gia đình và cá nhân

(bán buôn, bán lẻ)

DN ngoài quốc doanh

DN nhà nước

Nhập khẩu trực tiếp

DN FDI

Khác, cụ thể

3.3. Địa chỉ người bán chủ yếu

NL đầu

NL đầu

NL đầu

vào 1

vào 2

vào 3

Cùng xã

Cùng huyện

Cùng tỉnh

Khác tỉnh

Nhập khẩu trực tiếp (ghi tên nước

nhập khẩu)……………..

78

3.3. Nguồn thông tin chủ yếu về nguyên liệu đầu vào của cơ sở/doanh

nghiệp (chọn 1 phương án cho mỗi nguyên liệu)

NL đầu

NL đầu

NL đầu

vào 1

vào 2

vào 3

Tự tìm hiểu thị trường

Được người thân, bạn bè mách bảo

Thông qua xúc tiến thương mại

Các tổ chức đoàn thể cung cấp

Khác, cụ thể là:

3.4. Cạnh tranh chủ yếu trong việc mua nguyên liệu đầu vào của cơ

sở/doanhnghiệp

NL đầu vào 1

NL đầu vào 2

NL đầu vào 3

Không có cạnh tranh Từ các Doanh nghiệp gia đình Từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Từ các DN nhà nước Từ các DN FDI Từ buôn lậu Khác, cụ thể là:

3.5. Những rủi ro thường gặp khi mua nguyên liệu đầu vào:

Không bị rủi ro Giá mua cao hơn giá thị trường Mua phải đầu vào kém chất lượng Không đáp ứng chu kỳ sản xuất Khác, cụ thể là

NL đầu vào 1

NL đầu vào 2

NL đầu vào 3

79

3.6. Khắc phục rủi ro bằng cách nào

NL đầu vào 1

NL đầu vào 2

NL đầu vào 3

Không có biện pháp Vay vốn để bù đắp Bán tài sản Thu hẹp sản xuất Khác, cụ thể là

IV. THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM LỚN NHẤT THEO

DOANH THU DOANH NGHIỆP/CƠ SỞ

4.1. Kênh tiêu thụ chủ yếu hàng hoá của doanh nghiệp/cơ sở

Bán lẻ trực tiếp Thông qua đại lý bán buôn Thông qua đại lý bán lẻ Qua trung gian, môi giới Qua xúc tiến thương mại của nhà nước Bán cho doanh nghiệp FDI Khác, cụ thể

4.2. Đối tượng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp/cơ sở

Doanh nghiệp gia đình và cá nhân (tiêu dùng

trực tiếp)

Doanh nghiệp gia đình và cá nhân (dùng làm

nguyên vật liệu sản xuất/bán buôn/bán lẻ)

DN ngoài quốc doanh

DN nhà nước

Cơ quan địa phương

Xuất khẩu trực tiếp

DN FDI

Khác, cụ thể:

80

4.3. Rủi ro trong quá trình tiêu thụ sản phẩm (đánh thứ tự 1-3 theo mức độ

rủi ro, lựa chọn tối đa 3 câu trả lời)

Thiếu thông tin nên giá bán thấp

Nhiều hàng tồn đọng nên khó bán

Không thu được tiền bán chịu

Sản phẩm hỏng

Thay đổi thị hiếu khách hang

Ít rủi ro

2.3. Chi phí sơ chế, chế biến sản phẩm cà phê của doanh nghiệp

Ông bà có thể ước tính các khoản chi phí liên quan đến sơ chế, chế biến

cà phê (tính theo giá bình quân năm 2019)

Chi phí

Đơn vị tính (đồng/tấn)

Tiền mua nguyên liệu

đầu vào

Chi phí sơ chế (khấu

khao công nghệ)

Chi phí chế biến (khấu

hao công nghệ)

Chi phí đóng gói

Chi phí thuê mướn

Chi phí vận chuyển

Chi phí kho bãi

Chi phí quảng bá và phát

triển thị trường

Chi phí khác

Tổng chi phí

81

4. DOANH THU TỪ SƠ CHẾ, CHẾ BIẾN

4.1.Doanh thu và thu nhập thực tế từ sơ chế, chế biến cà phê (năm 2019)

Sản lượng sơ chế, chế biến (kg/ha)

Giá bán 1 kg cà phê sau khi sơ

chế/chế biến (đồng/kg)

Thu nhập từ sơ chế/chế biến cà phê

(đồng/kg)

Tổng chi phí sơ chế/chế biến

(đồng/ha)

Lợi nhuận (đồng/kg)

4.2. Theo ông/bà, doanh thu và thu nhập từ sơ chế, chế biến hiện nay so với

các cơ sở sơ chế/chế biến khác là:

1.Rất cao

2.Cao

3. Bình thường

4. Khác

5. LIÊN KẾT GIỮA CƠ SỞ/DOANH NGHIỆP SƠ CHẾ, CHẾ BIẾN

VỚI CÁC TÁC NHÂN KHÁC

5.1. Tình trạng liên kết giữa cơ sở /doanh nghiệp với các tác nhân khác

5.1.1 Cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà có liên kết với các Doanh nghiệp nông

dân để mua/bán cà phê không?

5.1.2. Cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà có ký hợp đồng với bên thu mua sản

phẩm không?

5.1.3. Nếu có, hình thức hợp đồng là gì:

1. Cam kết bằng miệng, dựa vào

niềm tin

82

2. Ký kết hợp đồng bằng văn bản

theo mùa vụ

3. Ký kết hợp đồng theo thời hạn 3

năm với mức ổn định giá

4. Ký kết hợp đồng thời hạn 3 năm

theo giá thực tế hàng năm

5. Khác

5.2. Mức độ liên kết giữa cơ sở/doanh nghiệp của ông/bàvới các tác nhân

khác

5.2.1. Mức độ tin tưởng khi liên kết giữa Cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà với

các Doanh nghiệp nông dân

1. Rất tốt

2. Tốt

3. Khá

4. Trung bình

5. Yếu (chưa đạt)

3.4.2. Mức độ tin tưởng khi liên kết giữa cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà với

các Doanh nghiệp/cơ sở thu gom khác

1. Rất tốt

2. Tốt

3. Khá

4. Trung bình

5. Yếu (chưa đạt)

3.4.3. Quyền lực của cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà khi liên kết với Doanh

nghiệp nông dân (trả lời câu hỏi Có hay Không)

Các hoạt động

Không

83

1. Thực hiện ký kết

hợp đồng với đại lý

thu mua

2. Giá cả sản phẩm

được xác định tại thời

điểm bán

3. Kiểm tra hàng kỹ

lưỡng

4. Thường xuyên liên

lạc với đối tác qua

kênh chính thức

5. Nhận tiền khi giao

hàng

6. Bán cho nhiều

thương lái khác nhau

3.4.3. Mức độ tin tưởng khi liên kết cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà với các cơ

sở chế biến khác

1. Rất tốt

2. Tốt

3. Khá

4. Trung bình

5. Yếu (chưa đạt)

3.4.4. Quyền lực của cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà khi liên kết với các

doanh nghiệp chế biến khác (trả lời câu hỏi Có hay Không)

Không

Các hoạt động 1. Thực hiện ký kết hợp đồng với đại lý thu mua 2. Giá cả sản phẩm được xác định tại thời điểm bán 3. Kiểm tra hàng kỹ lưỡng

84

4. Thường xuyên liên lạc với đối tác qua kênh chính thức 5. Nhận tiền khi giao hàng

IV. Thuận lợi và khó khăn đối với cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà

4.1. Cơ sở/doanh nghiệp của ông/bà gặp thuận lợi gì khi thực hiện các hoạt

động sơ chế, chế biến sản phẩm cà phê? (tích dấu V để chọn các câu trả lời

đúng nhất)

Rất thuận lợi

Thuận lợi

Bình thường

Khó khăn

Rất khó khăn

Vùng nguyên liệu Sản lượng thu mua nguyên liệu Công suất sơ chế/chế biến Công nghệ sơ chế/chế biến Chất lượng sản phẩm sơ chế/chế biến Thuê lao động Thị trường đầu ra cho sản phẩm (bán buôn, trong nước Thị trường đầu ra cho sản phẩm (xuất khẩu) Thị trường đầu ra cho sản phẩm (bán lẻ trong nước) Thu hồi vốn từ sơ chế/chế biến cà phê Khác

85

4.2. Cơ sở/doanh nghiệp gặp khó khăn gì khi khi thực hiện các hoạt động sơ chế,

chế biến sản phẩm cà phê? (tích dấu V để chọn các câu trả lời đúng nhất)

Bình thường Khó khăn

Rất khó khăn

Thiếu vốn Công nghệ không phù hợp

Thiếu thông tin thị trường Liên kết với các doanh nghiệp phụ trợ Liên kết với Hiệp Hội Lợi ích cục bộ của doanh nghiệp Thiếu niềm tin giữa các doanh nghiệp Cạnh tranh thiếu lành mạnh Khác, cụ thể

4.3. Cơ sở/doanh nghiệp có kiến nghị gì để nâng cao hiệu quả sơ chế, chế

biến và tiêu thụ sản phẩm cà phê?

----------------------------------------------------------------------------------------------

----------------------------------------------------------------------------------------------

----------------------------------------------------------------------------------------------

----------------------------------------------------------------------------------------------

----------------------------------------------------------------------------------------------

XIN CẢM ƠN ÔNG/BÀ

86