ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN KIÊN TRUNG

QUAN HÖ TRUNG QUèC - ÊN §é Tõ N¡M 2002 §ÕN N¡M 2012

HîP T¸C Vµ C¹NH TRANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Lịch sử thế giới

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN KIÊN TRUNG

QUAN HÖ TRUNG QUèC - ÊN §é Tõ N¡M 2002 §ÕN N¡M 2012

HîP T¸C Vµ C¹NH TRANH

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành lịch sử thế giới Mã số: 60220311

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Xuân Cường

Hà Nội - 2015

NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

TIẾNG VIỆT

CH : Cộng hòa

CHND : Cộng hòa nhân dân

CNTT : Công nghệ thông tin

CNH - HĐH : Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

HĐBA LHQ : Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc

KHCN : Khoa học công nghệ

UBHH : Uỷ ban hỗn hợp

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

CNTB : Chủ nghĩa tư bản

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

TNHH : Trách nhiệm hữu hạn

TIẾNG ANH

APEC : Asia Pacific Economic Cooperation

Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương

AFTA : ASEAN Free Trade

ARF : ASEAN Regional Forum

Diễn đàn an ninh khu vực

ASEAN : Association of South East Asian Nations

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

ASEM : Asia - Europe Meeting

Hội nghị Á - Âu

OPEC : Organization of Petroleum Exporting Countries

Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ

SCO : Tổ chức Hợp tác Thượng Hải

EU : European Union

Liên minh Châu Âu

EDI : Foreign Direct Investment

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

FTA : Free Trade Agreement

GDP : Gross Domestic Products

Tổng sản phẩm quốc nội

NICS : New Industrialised Countries

WTO : World Trade Organization

Tổ chức thương mại thế giới

WTO : World Trade Organisation

MỤC LỤC

Trang

A. MỞ ĐẦU 1

1 1. Lý do chọn đề tài

2 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

7 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

8 4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

8 5. Nguồn tài liệu

9 6. Phương pháp nghiên cứu

7. Đóng góp của luận văn

9 B. NỘI DUNG 10 Chương I: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ TRUNG

QUỐC - ẤN ĐỘ TRONG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI 10

1.1. Bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI và ảnh hưởng của nó

tới quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ 10

1.2. Tình hình Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI 14

1.3. Tình hình Ấn Độ những năm đầu thế kỷ XXI 18

1.4. Quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ trước năm 2002 26

1.4.1. Thời kỳ trước năm 1950 26

1.4.2. Thời kỳ từ năm 1950 đến năm 1962 27

1.4.3. Thời kỳ từ năm 1962 đến năm 2002 29

Chương 2: QUAN HỆ TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ

NHỮNG NĂM 2002-2012 37

2.1. Quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao 37

2.2. Quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ trên lĩnh vực kinh tế và khoa học

kỹ thuật 41

2.2.1. Hợp tác về kinh tế 42

2.2.1.1. Về thương mại 44

2.2.1.2. Về hợp tác đầu tư 47

2.2.2. Hợp tác khoa học – kỹ thuật 54

2.3. Quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ trên lĩnh vực an ninh – quốc phòng 56

2.3.1. Hợp tác an ninh biên giới: 57

2.3.2. Hợp tác chống khủng bố 58

2.3.3. Hợp tác trên lĩnh vực an ninh năng lượng 61

2.4. Quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ trên lĩnh vực văn hóa và giáo dục

đào tạo 65

65

2.4.1. Hợp tác văn hóa 2.4.2. Hợp tác giáo dục – đào tạo 68

Chương 3: NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ

TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ TRIỂN VỌNG 71

3.1. Thành tựu

71 74

3.2. Thuận lợi, khó khăn 3.2.1. Thuận lợi 74

3.2.2. Khó khăn 75

3.3. Triển vọng 81

3. 3.1. Việc điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung Quốc sau Đại hội

XVIII 81

3. 3.2. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại mới của Ấn Độ 83

3.3.3. Triển vọng quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ 86

3.3.3.1. Những nhân tố tác động tới quan hệ Trung - Ấn 86

3.3.3.2. Triển vọng 97

3.4. Quan hệ Trung - Ấn và hàm ý chính sách đối với Việt Nam 100

3.4.1. Tác động tích cực đến Việt Nam 100

3.4.2. Tác động tiêu cực đến Việt Nam 101

C. KẾT LUẬN 104

TÀI LIỆU THAM KHẢO

108 PHỤ LỤC

A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước lớn đông dân nhất thế giới, có nền văn minh,

lịch sử lâu đời, là hai nước láng giềng có vị thế quan trọng trên thế giới và khu vực.

Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, mỗi sự thay đổi dù là nhỏ ở hai quốc gia này

cũng ảnh hưởng đến sự phát triển chung của kinh tế - xã hội toàn thế giới.

Thập niên 90 thế kỷ XX chứng kiến sự sụp đổ của thế giới lưỡng cực và chuyển

sang một trật tự thế giới mới phát triển theo hướng đa cực. Hệ thống chính trị thế

giới bị chi phối bởi nhiều cường quốc và khối cường quốc đan xen. Từ đây, xu

hướng hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển trở thành xu thế chủ đạo; Xu hướng

toàn cầu hóa, khu vực hóa diễn ra nhanh chóng đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế; Cuộc

cách mạng khoa học – công nghệ có nhiều điều kiện để phát triển mạnh mẽ hơn bao

giờ hết. Chính điều này đã thúc đẩy quá trình hợp tác trao đổi buôn bán thương mại

giữa các quốc gia với nhau trong đó có Trung Quốc và Ấn Độ…

Thế giới những năm đầu thế kỉ XXI đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ

của các quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Trong đó, Trung Quốc

và Ấn Độ là hai nền kinh tế được chú ý nhiều nhất, không chỉ bởi tốc độ tăng trưởng

cao mà còn bởi tiềm năng to lớn của họ. Rất nhiều nhà nghiên cứu đều chung quan

điểm rằng sự phát triển mạnh mẽ và vai trò ngày càng quan trọng của "con Rồng"

Trung Quốc và “con Voi” Ấn Độ đang tạo ra những thay đổi lớn lao cho thế giới.

Trong bối cảnh mới của quan hệ quốc tế, Trung Quốc và Ấn Độ được coi là hai thực

thể lớn ở Châu Á sẽ góp phần quyết định sự hình thành trật tự thế giới đa cực. Là

hai quốc gia láng giềng, quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ trong thời gian vừa qua diễn

biến phức tạp theo xu hướng vừa hợp tác vừa cạnh tranh, vừa là “đối tác hợp tác

chiến lược” vừa là “đối thủ cạnh tranh chiến lược”. Những tiến triển trong hợp tác

giữa Trung Quốc và Ấn Độ là đáng ghi nhận nhưng vấn đề “lòng tin” giữa hai nước

còn khá nặng nề.

Quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ từ năm 2002 đến năm 2012 là một mối

quan hệ phức tạp. Nhiều câu hỏi được đưa ra cho cả hai người khổng lồ Châu Á:

làm thế nào để phát triển và duy trì quan hệ đối tác đáng tin cậy giữa Trung Quốc và

1

Ấn Độ nhằm phục vụ lợi ích đôi bên và thúc đẩy khát vọng toàn cầu của họ? Liệu

mối quan hệ của hai nước sẽ đơm hoa kết trái, hay chỉ là đang trải qua một điểm

khởi đầu mới trên một con đường khác nhau? Và có lẽ quan trọng hơn, nhằm đáp

ứng với nguyện vọng của khu vực và toàn cầu, họ sẽ chuyển hướng hợp tác, cạnh

tranh, đối đầu hoặc kết hợp tất cả, và sự kết hợp này ở mức độ nào? Vì vậy, mối

quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Trung - Ấn được xác lập và phát triển như thế

nào…đang trở thành tâm điểm chú ý của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới.

Đối với Việt Nam, là một quốc gia trong khu vực Châu Á - Thái Bình

Dương, nơi các nước lớn đang cạnh tranh về vị trí, vai trò ảnh hưởng của mình trong

khu vực ngày càng gay gắt, nên diễn biến của quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ

tốt, xấu như thế nào đều có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh và sự phát triển của Việt

Nam. Hơn nữa, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều là những đối tác quan trọng của nước

ta, vì vậy việc nghiên cứu về quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong giai đoạn

hiện nay đang đặt ra như một yêu cầu cấp thiết đối với các nhà nghiên cứu Việt

Nam bởi nó có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.

Từ những ý nghĩa nêu trên, chúng tôi đã quyết định chọn “Quan hệ Trung

Quốc - Ấn Độ từ năm 2002 đến năm 2012: hợp tác và cạnh tranh” làm đề tài

nghiên cứu luận văn của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trung Quốc và Ấn Độ là hai quốc gia láng giềng, hai nền kinh tế lớn ở Châu

Á, có tầm ảnh hưởng đến các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Mối quan hệ

giữa Trung Quốc và Ấn Độ không chỉ là sự thể hiện của mối quan hệ láng giềng

thân thiện, mà còn là sự khảo nghiệm của tình hữu nghị giữa hai nước có thể chế

chính trị khác nhau. Mối quan hệ này có tác động lớn tới quan hệ quốc tế, đến hòa

bình và ổn định của khu vực Châu Á cũng như trên toàn thế giới. Vì vậy, quan hệ

giữa Trung Quốc và Ấn Độ từ trước đến nay luôn là chủ đề đã được nhiều cơ quan,

tổ chức, chuyên gia, học giả trong và ngoài nước quan tâm, tập trung nghiên cứu và

đạt được nhiều thành quả:

Tài liệu và các công trình nghiên cứu Tiếng Việt: gồm các bài viết, công trình

nghiên cứu: Hồ Châu, “50 năm quan hệ Trung - Ấn”, Tạp chí Nghiên cứu Trung

2

Quốc, số 6, 2000; Trần Thị Lý, Nguyễn Huy Hoàng, Bùi Minh Sơn, Đỗ Đức Định,

Nguyễn Công Khanh, “Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hòa Ấn Độ từ 1991 đến

2000”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002; Hồ An Cương (chủ biên), “Trung Quốc

– những chiến lược lớn”, Nxb thông tấn, Hà Nội, 2003; Phan Văn Rân, “Tam giác

chiến lược Nga – Trung - Ấn và những trở ngại trong việc thực hiện hóa ý tưởng

trên”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 1, 2004; Nguyễn Huy Quý, “Quan hệ

Trung - Ấn chuyển sang giai đoạn mới”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5,

2005; Võ Xuân Vinh, “Quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc từ sau chiến tranh lạnh đến

nay”, Tạp chí Đông Nam Á, số 2, 2006; Trịnh Thị Dung, “Quan hệ giữa CHND

Trung Hoa và CH Ấn Độ từ sau Chiến tranh lạnh đến năm 2006”, Luận văn Thạc sĩ,

ĐH Vinh, 2007; Đào Thị Huyền, “Quan hệ giữa Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và

Cộng hòa Ấn Độ từ năm 1991 đến năm 2014”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học sư phạm

Hà Nội, 2015; Giang Tây Nguyên, Hạ Lập Bình, “Trung Quốc trỗi dậy hòa bình”,

Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007”; Đặng Bảo Châu, “Liệu Ấn Độ có vượt qua

Trung Quốc?”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 2, 2006; Nguyễn Xuân Cường

(2012), Nhìn lại quan hệ đối ngoại CHND Trung Hoa từ 1949 đến nay, Tạp chí

nghiên cứu Trung Quốc, số 10; Trần Văn Tùng, “Con đường phát triển kinh tế ở

Trung Quốc và Ấn Độ”, Tạp chí Cộng sản, số 13, 2006; Lê Văn Mỹ (chủ biên),

“Ngoại giao Trung Quốc trong quá trình trỗi dậy và những vấn đề đặt ra cho Việt

Nam”, Nxb Từ điển bách khoa, 2013; Lê Văn Mỹ (chủ biên), “Ngoại giao Cộng

hòa nhân dân Trung Hoa hai mươi năm đầu thế kỷ XXI”, Nxb Từ điển bách khoa,

2011; Ngô Xuân Bình (chủ biên), “Những vấn đề kinh tế - chính trị cơ bản của Ấn

Độ thập niên đầu thế kỷ XXI và dự báo xu hướng đến năm 2020”, Nxb Từ điển bách

khoa, 2013; Ngoài ra, cũng cần phải nhắc đến nguồn tài liệu Tham khảo đặc biệt của

TTXVN được đăng tải thường xuyên và cập nhật như: “Ấn Độ hướng Đông, Trung

Quốc hướng Tây” (22/1/2001); “Cuộc đối thoại Trung - Ấn, một bước tiến nhằm

tăng cường quan hệ song phương” (3/3/2001); “Chuyển động trong quan hệ Trung -

Ấn và chính sách của Mỹ” (29/5/2003); “Bức tranh quan hệ Trung - Ấn đang thay

đổi” (27/6/2003); “Đánh giá khả năng hợp tác giữa con Rồng và con Voi Châu Á”

(30/10/2003); “Ấn Độ - mục tiêu trở thành cường quốc” (3/2004); “Liên minh chiến

3

lược Nga – Trung - Ấn: Điều phải nghĩ tới” (22/6/2005); “Năm 2006: năm có nhiều

sự kiện trọng đại trong quan hệ Trung - Ấn” (13/2/2006); “Quan hệ Mỹ - Ấn Độ và

nhân tố Trung Quốc” (15/3/2006); “Trung Quốc và Ấn Độ “bắt tay” cùng xây dựng

“thế kỷ Châu Á” (1/4/2006); “Quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ: cơ hội và thách thức”

(4/2007); “Leo thang căng thẳng biên giới Trung Ấn” (17/10/2009); “Trung Quốc -

Ấn Độ đối thoại quốc phòng thường niên lần thứ ba” (9/1/2010)…

Tài liệu và các công trình nghiên cứu Tiếng Trung Quốc: gồm các bài viết và

công trình nghiên cứu: Viện Nghiên cứu vấn đề quốc tế Trung Quốc (2012), Sách

xanh tình hình quốc tế và ngoại giao Trung Quốc (2010-2011), NXB Tri thức thế

giới, Bắc Kinh. (中国国际际际研究所 (2012), 国际形际和中国外交际皮(2010-

2011),际事出版社,北京); Viện Nghiên cứu vấn đề quốc tế Trung Quốc (2013),

Sách xanh tình hình quốc tế và ngoại giao Trung Quốc (2012), NXB Tri thức thế

giới, Bắc Kinh. (中国国际际际研究所 (2013), 国际形际和中国外交际(2012),

世界知际出版社,北京); Viện Nghiên cứu vấn đề quốc tế Trung Quốc (2014), Sách

xanh tình hình quốc tế và ngoại giao Trung Quốc (2013), NXB Tri thức thế giới,

Bắc Kinh. (中国国际际际研究所 (2014), 国际形际和中国外交际皮际(2013),

世界知际出版社,北京); Viện Nghiên cứu vấn đề quốc tế Trung Quốc (2015), Sách

xanh tình hình quốc tế và ngoại giao Trung Quốc (2014), NXB Tri thức thế giới,

Bắc Kinh. (中国国际际际研究所 (2015), 国际形际和中国外交际皮际(2014),

世界知际出版社,北京); Lan Jian Xue, “Tư duy mới trong quan hệ Trung - Ấn và

“ tái cân bằng”” , Tạp chí Nghiên cứu vấn đề quốc tế, số 3/2013. (际建学:《中

印关系新思际与“再平衡”》,《国际际际研究》,2013 年第 3 期); Lan Jian Xue ,

“Xu hướng mới trong quan hệ Trung -Ấn từ chuyến thăm của Thủ tướng Ấn Độ”,

4

Liêu Vọng, số 43/2013. (际建学:《从辛格际际看中印关系新际向》,《瞭

望》新际周刊,2013 年第 43 期); Wei Ling, “nghiên cứu quan hệ Trung - Ấn sau

chiến tranh lạnh”, Nxb Chính trị pháp luật Trung Quốc, năm 2008. (际灵《冷际后

中印关系研究》,中国政法大学出版社,2008 年); Cheng Rui Sheng: “Nhìn lại

quan hệ Trung- Ấn những năm gần đây và triển vọng” , Tạp chí Viện Nghiên cứu

Đông Nam Á, số 1/ 2009. (程瑞声:《近年来中印关系的回际与展望》,《际南

际研究院》2009 年第一期); Liu Xin Hua, “Vấn đề Ấn Độ Dương trong quan hệ

Trung- Ấn” , Học báo Thái Bình Dương, số 1/2010. (刘新际: 《际中印关系中的

印度洋际际》《太平洋学际》2010 年第一期); Xu Chang Wen, “Phân tích tiềm

lực phát triển quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Ấn Độ” , Tạp chí Kinh tế

Quốc tế, số 6/2012. (徐际文:《中国与印度际际关系际展潜力分析》《国际际

易 2002 年第 6 期); Lu Jing Qiu, “Nhìn lại lịch sử quan hệ Trung - Ấn, hiện trạng

và đối sách phát triển” Tạp chí Tọa đàm lí luận , Đại học Sư phạm Bắc Kinh, tháng

9 / 2010. (际井秋:〈中印关系的际史回际, 际状及际展际策〉〈北京示范大

学〉理际研际 2010 年 9 月); Ma Jia Li, “Đặc điểm chủ yếu của quan hệ Trung -Ấn

hiện nay” , Tạp chí Hòa bình và Phát triển, số 4/2013. (际加力:《当前中印关系

的主要特点》〈和平与际展 2013 年第 4 期〉); Teng Shu Jing “Ngoại giao công

cộng và quan hệ Trung - Ấn” , Học báo hành chính Liêu Linh, số 7/2013. (滕淑

晶:〈中印关系与公共外交〉〈际宁行政学际〉2013 年第 7 期); Wang Jin You,

5

“Khảo sát xây dựng cơ chế trong quan hệ Trung - Ấn”, Tạp chí nghiên cứu Nam Á,

số 1 / 2013. (王金友: 〈中印关系中机制化建际的际史考察〉〈南际研究期

刊〉2013 年第 1 期); Du Yong, “Quan hệ Trung- Ấn trong Chiến tranh thế giới

thứ 2 và ảnh hưởng” , Tạp chí nghiên cứu Nam Á, số 2/2006. (杜勇:《第二次世

界大际际期的中印关系及其影响》〈南际研究期刊〉2006 年第 2 期); Shang

Quan Xu, “Thách thức quan hệ Trung - Ấn thế kỷ XXI” , Học báo công nghiệp

Trùng Khánh, số 6/2016. (尚际徐: <21 世际中印关系面际的挑际》〈重际 工际

学际〉2016 年 6 月); Zhuang You Ming, “Phân tích nhân tố kiềm chế phát triển

quan hệ Trung - Ấn từ những năm 90 trở lại đây”, Báo Đại học Tế Nam số 3/2006.

(庄友明: 〈90 年代以来中印关系际展的制际因素分析〉际南大学 学际 2006

年第 3 期).

Tài Liệu và các công trình nghiên cứu Tiếng Anh: gồm các bài viết và công trình

nghiên cứu: Tarun Das Colette Mathur Frank, Jurgen Richter, “Ấn Độ - Sự trỗi dậy

của một cường quốc”, Nxb Từ điển bách khoa (sách dịch); Jing dong Yuan, The Daragon và the Elephant; Chinese and Idian relation in the 21st century, The

Washington quarterly, Summer 2007; Chen Deming, “Indian and Chinese are tied

together”, People‟s Daily, Jan.20, 2010; Departmen of policy planning Ministry of

Foreign Affairs People's Republic of China (2006), China's Foreign Affairn,

Beijing: World Affairs Press; Goh, Chok Tong (2007), Asia and The Middle East: Towards a 21st Century Parnership, Speech at the Global Action Forum of Arab and

Asia Dialogue, Ritz Carlton, Millenia; James Bellacqua (2009), The future of China-

Russia relations, University of Kentucky Press; Surjit Mansingh (2005), India -

China relations in the context of Vajpayee's 2003 visit, The Sigur center Asia

papers, The George Washington University, The Elliott School of International

6

Affairs Press; Robert Boardman (1994), Post - Socialist oders: Russia, China and

the UN system, NewYork: MC Millan ST Martin's Press…

Trong các bài viết, công trình nghiên cứu nêu trên, các tác giả đã tập trung

nghiên cứu, đề cập đến những vấn đề cơ bản trong lịch sử quan hệ Trung - Ấn,

nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự điều chỉnh chính sách của Trung Quốc và Ấn Độ,

sự chuyển hướng của quan hệ Trung - Ấn diễn ra trong bối cảnh khu vực và tình

hình quốc tế sau các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao giữa hai nước. Đồng thời,

các tác giả cũng nêu ra một số bài học kinh nghiệm, dự báo triển vọng quan hệ

Trung - Ấn trong tương lai, những nhận xét về sự ảnh hưởng của mối quan hệ này

tới tình hình quốc tế và khu vực. Về quan hệ kinh tế thương mại, các tác giả đã tập

trung nghiên cứu, đề cập tới các vấn đề về sự điều chỉnh chính sách kinh tế của

Trung Quốc và Ấn Độ sau Chiến tranh lạnh, cơ chế hợp tác kinh tế thương mại giữa

hai nước, tiềm năng và sức mạnh của “con Rồng” và “con Voi” Châu Á, thực trạng

phát triển kinh tế thương mại…, đồng thời cũng đưa ra những phân tích về triển

vọng, cơ chế, đối sách trong quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa Trung Quốc

và Ấn Độ.

Như vậy, đã có nhiều công trình, bài viết đề cập tới nhiều khía cạnh khác

nhau trong mối quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ và có liên quan trực tiếp đến

vấn đề mà chúng tôi nghiên cứu. Đây chính là nguồn tài liệu quý giá, phong phú và

bổ ích, không chỉ đơn thuần cung cấp thông tin tham khảo, phương pháp nghiên

cứu, mà còn gợi mở cho chúng tôi nhiều ý tưởng mới khi vận dụng để tiến hành

thực hiện đề tài này.

Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có một

công trình chuyên khảo nào nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về mối quan

hệ Trung Quốc - Ấn Độ giai đoạn 2002 – 2012. Thực hiện đề tài này, tác giả mong

muốn góp phần nhỏ bé của mình trong việc tìm hiểu một cách đầy đủ hơn, hệ thống

hơn về mối quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ, đặc biệt là mối quan hệ hợp tác và cạnh

tranh giai đoạn 2002 – 2012. Từ đó đưa ra một số phân tích về đặc điểm và tính chất

của mối quan hệ Trung - Ấn và mạnh dạn đưa ra một số nhận định của bản thân về

7

mối quan hệ Trung - Ấn trong tương lai, cũng như rút ra một số kinh nghiệm cho

Việt Nam trong mối quan hệ giao lưu quốc tế.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Từ những điều trình bày ở trên, chúng tôi xác định đối tượng, phạm vi nghiên

cứu của đề tài luận văn như sau:

- Về mặt thời gian:

Trọng tâm của luận văn là quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ từ năm 2002 đến

năm 2012. Sở dĩ chúng tôi chọn năm 2002 làm khởi điểm cho công trình nghiên cứu

của mình, bởi tháng 1/2002, Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ tiến hành chuyến

thăm hữu nghị Ấn Độ. Đây là chuyến thăm của một Thủ tướng Trung Quốc tới Ấn

Độ sau 10 năm. Vì vậy, nó đặc biệt có ý nghĩa trong tiến trình phát triển quan hệ

giữa Trung Quốc và Ấn Độ, mở ra một cơ hội mới trong quan hệ giữa hai nước.

Chúng tôi chọn năm 2012 là năm kết thúc thời điểm nghiên cứu vì đây là thời điểm

kết thúc nhiệm kỳ Đại hội XVIII Đảng cộng sản Trung Quốc, chuyển giao thế hệ

lãnh đạo mới với chiến lược mới.

- Nội dung nghiên cứu:

1. Tìm hiểu quá trình phát triển quan hệ hai nước trên các lĩnh vực: chính trị -

ngoại giao; kinh tế, khoa học kỹ thuật; quốc phòng - an ninh; văn hóa – giáo dục và

đào tạo.

2. Nhận xét, đánh giá bước đầu về quan hệ hai nước trên một số lĩnh vực.

3. Triển vọng về quan hệ hợp tác giữa hai nước và tác động đối với Việt

Nam.

4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

4.1. Mục đích: Thực hiện đề tài này chúng tôi muốn làm rõ một số vấn đề chủ yếu

sau:

- Làm rõ mối quan hệ Trung - Ấn từ năm 2002 đến năm 2012 một cách có hệ

thống, đi từ phân tích các nhân tố tác động đến mối quan hệ, thực tiễn các mối quan

hệ trên các lĩnh vực. Từ đó đánh giá những mặt tích cực, hạn chế và một số kết quả

đạt được. Đồng thời luận văn luận giải chính sách của Trung Quốc đối với Ấn Độ

8

đặc biệt là quan hệ đối tác hợp tác chiến lược, quan hệ láng giềng nước lớn khi bước

sang thế kỷ XXI.

- Nghiên cứu về mối quan hệ Trung - Ấn từ năm 2002 đến năm 2012 cũng góp

phần tìm hiểu về chính sách đối nội, đối ngoại của Trung Quốc và Ấn Độ những

năm đầu thế kỷ XXI.

- Thông qua việc tìm hiểu về quan hệ Trung - Ấn từ năm 2002 đến năm 2012, đề tài

còn đánh giá triển vọng và tác động của mối quan hệ này đối với Việt Nam.

4.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích của đề tài, nhiệm vụ mà chúng tôi phải thực

hiện đó là: sưu tầm, tập hợp các nguồn tư liệu, trên cơ sở đó tổng hợp, phân tích,

đánh giá các sự kiện nhằm xác minh và phân loại. Từ đó đi sâu làm rõ những nhân

tố tác động đến mối quan hệ Trung - Ấn, phân tích một cách khách quan, khoa học

những chủ trương, biện pháp mà hai nước Trung - Ấn thực hiện trong quá trình hợp

tác trên các lĩnh vực. Từ đó đánh giá những mặt tích cực, hạn chế và một số kết quả

đạt được, triển vọng và tác động của mối quan hệ này đối với Việt Nam.

5. Nguồn tài liệu

Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi dựa vào các nguồn tài liệu chính sau đây:

- Các văn kiện, tài liệu của Đảng cộng sản Trung Quốc, của chính phủ Ấn Độ có

liên quan đến quan hệ giữa hai nước; Các hiệp định, thoả thuận như Tuyên bố

chung; Các bài phát biểu trả lời phỏng vấn của lãnh đạo hai nước được công bố trên

báo chí.

- Các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Việt Nam, Trung Quốc, Ấn

Độ… các hội thảo khoa học về quan hệ hai nước.

- Báo chí của Trung Quốc và Ấn Độ.

- Một số luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ sử học về đề tài liên quan đến Trung

Quốc, Ấn Độ, quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ nói chung.

6. Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng phương pháp lịch sử, kết hợp phương pháp duy vật biện chứng và

phương pháp logíc, phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế để nghiên cứu mối

quan hệ hai nước qua các giai đoạn lịch sử và rút ra những nhận xét khái quát.

9

Ngoài ra chúng tôi cũng sử dụng một số phương pháp khác như: thống kê,

phân tích, so sánh đối chiếu, liên ngành.

7. Đóng góp của luận văn

- Luận văn trình bày một cách hệ thống, toàn diện, cụ thể về quan hệ giữa Trung

Quốc và Ấn Độ giai đoạn 2002 đến 2012. Đây là giai đoạn mà Trung Quốc và Ấn

Độ có những thay đổi trong đường lối ngoại giao, đặc biệt Ấn Độ đã có một bước

tiến dài trong lĩnh vực đối ngoại để trở thành một nước có vai trò quan trọng trên

chính trường thế giới.

- Từ đó cung cấp những cứ liệu và luận chứng thuyết phục để góp phần khẳng định

quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ thực sự có những chuyển biến tích cực. Quan

hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ những năm đầu thế kỉ XXI đã đạt được nhiều bước

tiến đáng kể.

- Kết quả nghiên cứu và tư liệu thu thập được có thể dùng làm tài liệu tham khảo

cho việc giảng dạy, học tập, tìm hiểu về quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ.

- Từ những diễn biến của quá trình lịch sử, luận văn nêu một vài nhận xét bước đầu

trong quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ từ 2002 đến 2012, triển vọng và tác động của

mối quan hệ này đối với Việt Nam.

B. NỘI DUNG

Chương 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ

TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ TRONG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI

1.1. Bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI và ảnh hưởng của nó tới

quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ

Bối cảnh quốc tế là nhân tố khách quan phức tạp và biến đổi khó lường nhất,

tác động trực tiếp đến chính sách đối ngoại của các nước nói riêng và quan hệ quốc

tế nói chung. Những biến đổi của quan hệ quốc tế cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI

10

ảnh hưởng đến quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ được nhận định ở các lĩnh vực

sau:

Về cục diện thế giới: Chiến tranh lạnh chấm dứt, trật tự hai cực Ianta sụp đổ, Mỹ

là cực duy nhất còn lại. Thế giới bước vào thời kỳ quá độ hình thành một trật tự thế

giới mới, quan hệ quốc tế đang trong quá trình tái cơ cấu, vì vậy, các quốc gia đều

thực hiện điều chỉnh chiến lược để nhằm giành cho mình một vị trí tối ưu trong trật

tự thế giới và quan hệ quốc tế mới.

Cục diện “lưỡng siêu đa cường” dần dần xuất hiện. Với xu thế phát triển của thế

giới từ cuối thế kỷ XX, các quốc gia - dân tộc vừa đứng trước những cơ hội phát

triển thuận lợi, vừa phải đối mặt với những thách thức vô cùng gay gắt. Mỹ vẫn là

siêu cường số 1. Tuy nhiên, một số cường quốc khác đang nổi lên thách thức Mỹ.

Các nước XHCN còn lại đã đứng vững, phát triển mạnh hơn. Các cường quốc đã có

sự điều chỉnh chiến lược khu vực và toàn cầu, vừa hợp tác vừa cạnh tranh, cố gắng

xác lập vùng ảnh hưởng của mình. Hội nhập và phát triển là xu thế chủ đạo, tác

động trực tiếp đến việc hoạch định chiến lược đối nội, đối ngoại của mỗi quốc gia.

Nguy cơ mất ổn định, xung đột vẫn tiềm ẩn và hiện hữu ở nhiều nước, nhiều khu

vực. Trong việc xắp xếp và cân bằng quyền lực toàn cầu, cơ chế hợp tác và đối thoại

đa phương là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hòa bình và ổn định trên thế giới, trong

đó có vai trò quan trọng của Liên hợp quốc trong việc giải quyết tranh chấp và xung

đột quốc tế. Sự quay trở lại của Liên bang Nga đã buộc Mỹ và Phương Tây phải

điều chỉnh quan hệ đối ngoại.

Cục diện đa cường bắt đầu xuất hiện. Trên bản đồ chính trị toàn cầu xuất hiện các

trung tâm quyền lực. Đó là tam giác Mỹ - Nga - Trung. Không có một sự kiện chính

trị, quân sự, kinh tế nào ở Châu Á - Thái Bình Dương, Châu Âu, Đại Tây Dương lại

không thấy sự hiện diện của ba nước này. Tại các châu lục cũng xuất hiện các tam

giác quyền lực khu vực. Như ở Liên minh Châu Âu (EU), tam giác Đức - Anh -

Pháp đã đóng vai trò trụ cột và đầu tàu thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng kinh tế

Châu Âu. Tại Châu Á, tam giác Trung Quốc - Nhật Bản - Ấn Độ đóng vai trò trung

tâm quyền lực chính trị và kinh tế.

11

Làn sóng toàn cầu hóa, khu vực hóa gia tăng. Cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, làn

sóng toàn cầu hóa ngày càng lan rộng với xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, tự do hóa

thương mại. Sự liên kết hóa, toàn cầu hóa đã đẩy mạnh quá trình giao lưu kinh tế

[29, tr. 25]. Tuy nhiên, trong thực tế, sự phát triển không đều giữa các nước vẫn diễn

ra tất yếu, vì vậy nó tạo nên một cuộc cạnh tranh rất quyết liệt giữa các nước và các

khu vực. Trong quá trình cạnh tranh và phát triển, các nước đều đã thấy rõ toàn cầu

hóa kinh tế không chỉ tạo ra những cơ hội, mà còn có cả những thách thức lớn lao.

Cơ hội cho kinh tế phát triển với tốc độ nhanh, quy mô lớn được tồn tại song song

với những mâu thuẫn, xung đột và sự cạnh tranh gay gắt, phức tạp, những chấn

động lớn về kinh tế, những biến động về thị trường… Trước xu thế đó, các quốc gia

không thể đặt mình nằm ngoài vòng xoáy phát triển của thế giới.

Về cục diện khu vực Châu Á - Thái Bình Dương: khu vực Châu Á - Thái Bình

Dương là nơi hiện diện và tập trung nhiều lợi ích và ưu tiên chiến lược của tất cả các

nước lớn, nhất là Mỹ và Trung Quốc, kế tiếp là Nga, Nhật Bản, EU, Ấn Độ. Va

chạm lợi ích và cạnh tranh ảnh hưởng giữa các cường quốc diễn ra ngày một phức

tạp trong khu vực.

Châu Á hiện là khu vực phát triển năng động nhất thế giới, đặc biệt là Trung Quốc

và Ấn Độ. Từ năm 1990 đến năm 1997, trong khi tổng sản phẩm nội địa của Đông

Á tăng trung bình mỗi năm 9,9%, của Trung Quốc tăng 10,2% và của Ấn Độ tăng

5,9% thì tổng sản phẩm nội địa của toàn thế giới tăng có 2,3%. Tương tự, từ năm

1997 đến năm 2004 trong khi tổng sản phẩm nội địa của các nước đang phát triển

Châu Á tăng trung bình 6,4% mỗi năm, của Trung Quốc tăng 8,2% và Ấn Độ tăng

5,8% thì tổng sản phẩm nội địa của cả thế giới tăng có 3,7%[10, tr14].

Những năm đầu thế kỷ XXI trung tâm của nền kinh tế thế giới đang chuyển dần từ

Tây Âu - Bắc Mỹ sang Châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là các cường quốc như

Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ. Châu Á - Thái Bình Dương ngày nay chiếm 60%

GDP thế giới, 50% giá trị thương mại và 70% tăng trưởng kinh tế của thế giới[10, tr.

14].

Những nhân tố trên của bối cảnh quốc tế đã thúc đẩy quá trình điều chỉnh

chính sách đối ngoại của các quốc gia để nắm bắt thời cơ và đối phó với những

12

thách thức mới. Tuy mỗi nước có lợi ích dân tộc khác nhau, nhưng trong hoàn cảnh

này, muốn hay không muốn, các nước đều phải lệ thuộc vào nhau, phải hợp tác với

nhau dù chỉ là chiến thuật, để cùng phát triển hoặc cùng đối phó với những vấn đề

đe dọa sự sinh tồn của mỗi nước và thế giới. Vì vậy, các quốc gia, dân tộc, dù lớn

hay nhỏ, mạnh hay yếu đều tăng cường hợp tác, liên kết với nhau theo nhiều tầng

nấc. Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều chọn chính sách đa

phương hóa, đa dạng hóa quan hệ để tạo dựng cho mình một vị trí có lợi nhất trên

trường quốc tế.

Bên cạnh đó, về tương quan lực lượng trên thế giới cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI

cũng có nhiều thay đổi. Nếu như trong Chiến tranh lạnh, tương quan lực lượng trên

thế giới được phân tuyến rõ ràng, một bên là CNXH, một bên là CNTB, mọi mối

quan hệ quốc tế đều bị chi phối bởi trật tự hai cực, thì sau năm 1991 cục diện thế

giới cũng như cấu trúc quyền lực quốc tế và thế cân bằng chiến lược trên phạm vi

toàn cầu đã có những thay đổi căn bản. CNTB đứng đầu là Mỹ đã chi phối mạnh mẽ

đời sống quốc tế. Trật tự thế giới mới đang trong quá trình thai nghén, không phải là

đơn cực nhưng cũng không hẳn là đa cực. Vì vậy, nói đến tương quan lực lượng trên

thế giới hiện nay là nói đến thực lực của các trung tâm quyền lực và tương quan lực

lượng giữa các nước lớn như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Trung Quốc,

Nga, Ấn Độ và quan hệ giữa các trung tâm này.

Sau Chiến tranh lạnh, sự vận động của thế giới luôn bị chi phối bởi các nước lớn mà

nổi lên hàng đầu là vai trò của Mỹ[16, tr.61]. Mỹ là cường quốc có tiềm lực kinh tế,

quân sự, khoa học kỹ thuật hùng mạnh vượt xa tất cả các đồng minh và đối thủ. Bên

cạnh thực lực, một yếu tố nữa góp phần nâng cao vai trò và sức mạnh của Mỹ là tất

cả các nước lớn khác đều tránh đối đầu với Mỹ cho dù giữa họ và Mỹ tồn tại nhiều

mâu thuẫn nhưng họ đều cố gắng tỏ ra rất mềm mỏng để không làm cho quan hệ với

Mỹ đổ vỡ. Ngoài ra các nước lớn cũng không có ý định hợp tác với nhau lập thành

mặt trận chống bá quyền của Mỹ. Do đó Mỹ vẫn khẳng định được sức mạnh tuyệt

đối so với các nước lớn khác, từ đó Mỹ đã và đang khai thác triệt để cục diện được

hình thành hết sức có lợi cho Mỹ để đi tới khẳng định sự thống trị tuyệt đối của

mình với toàn thế giới. Tuy nhiên, từ năm 2001 đến nay, trong tương quan lực lượng

13

của thế giới đã có những biến động mạnh mẽ, Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất, song

bên cạnh “nhất siêu Mỹ”, các “đa cường” đã không ngừng lớn mạnh. Trung Quốc

và Nga ngày càng nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, từng bước vô hiệu hóa sức

ép của Mỹ. Các nước EU và Nhật Bản cũng không ngừng vươn lên, tuy vẫn gắn bó

với Mỹ nhưng các quốc gia này cũng đều đã muốn độc lập hơn, kiềm chế bớt sự

lộng quyền của Mỹ và thúc đẩy xu thế đa cực hóa thế giới[3, tr.102]. Trong hoàn

cảnh đó, Mỹ càng coi trọng mục tiêu chiến lược là ngăn chặn sự xuất hiện của đối

thủ có khả năng thách thức địa vị siêu cường độc tôn của mình trên thế giới bao

nhiêu, lại càng tác động mạnh mẽ đến cục diện quan hệ giữa các nước bấy nhiêu,

càng tạo động lực thúc đẩy sự hình thành của các cặp quan hệ đối tác chiến lược

mới.

Sự thay đổi căn bản về tư duy quan hệ quốc tế của các nước cũng là cơ sở của

những bước phát triển mới trong quan hệ quốc tế. Xuất phát từ sự thay đổi về tư duy

chiến lược là đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, các khái niệm trong chính sách đối

ngoại và quan hệ quốc tế cũng đã hoàn toàn thay đổi, khái niệm liên minh được thay

bằng khái niệm đối tác và hình thức quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh trở thành

phổ biến trong quan hệ quốc tế[14, tr.19]. Xuất phát lợi ích quốc gia, bên cạnh việc

các nước tìm mọi cách duy trì môi trường hòa bình và linh hoạt, uyển chuyển thực

hiện chính sách đối noại nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển đất nước thì sự cạnh

tranh giữa các quốc gia ngày cạng mạnh mẽ. Tính cạnh tranh đã trở thành vấn đề cốt

lõi trong quan hệ quốc tế và chính nó đã tạo nên cơ sở thúc đẩy hợp tác giữa các

quốc gia.

Nổi lên trên trường quốc tế trong những năm qua là sự cạnh tranh giữa các nước

lớn. “Nhất siêu” Mỹ cạnh tranh để giữ vị trí độc tôn, còn các “đa cường” cạnh tranh

để vươn lên, khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Cuộc cạnh tranh quyết

liệt giữa các cặp quan hệ như Mỹ - Nga, Mỹ - Trung, Trung - Ấn, Trung - Nhật, Nga

- EU, Nga - Mỹ - Trung, Nga - Trung - Ấn… đã và đang có tác động nhiều chiều

đến quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ nói riêng. Cả

Mỹ và Nhật Bản đều coi sự phát triển của Trung Quốc là mối đe dọa, dẫn đến liên

minh Mỹ - Nhật ngày càng được củng cố. Để kiềm chế Nga và Trung Quốc, Mỹ đã

14

dựa vào Nhật Bản, lôi kéo Ấn Độ, ngược lại, nhu cầu cạnh tranh với Mỹ đẩy Trung

Quốc đẩy mạnh hợp tác. Cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc và Ấn Độ đã tạo lý do

cho Mỹ hỗ trợ Ấn Độ phát triển để cân bằng ảnh hưởng gia tăng của Trung Quốc

trong khu vực. Như vậy, với tư duy mới trong quan hệ quốc tế, sự cạnh tranh giữa

các nước ngày càng mạnh mẽ, song chính yếu tố cạnh tranh này lại là nhân tố quan

trọng thúc đẩy sự hợp tác giữa các nước phát triển.

Tóm lại, sự thay đổi về cục diện khu vực và thế giới, đã đưa đến đặc điểm nổi

bật của quan hệ quốc tế giai đoạn này là hòa hoãn để phát triển, đối thoại thay cho

đối đầu. Sự hình thành của trật tự thế giới mới đang trong thời kỳ quá độ nên đã tạo

ra sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nước lớn nhằm tìm kiếm địa vị chính trị của

mình. Bên cạnh đó, xu thế toàn cầu hóa ngày càng phát triển sâu rộng, đặt ra yêu

cầu cho các nước phải tăng cường hợp tác. Hoàn cảnh mới của thế giới đã đặt ra yêu

cầu với các nước là phải điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình, đặc biệt là với

các nước lớn.

1.2. Tình hình Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI

Bước vào thiên niên kỷ mới, Trung Quốc đã đi qua một chặng đường cải cách

hơn 20 năm và đã đạt được nhiều thành tựu đủ để khảng định con đường cải cách

của Trung Quốc là đúng đắn. Trung Quốc đã hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế

xã hội lần thứ 9 (1996 - 2000) với GDP 1072 tỷ USD, bình quân đầu người 800

USD, Trung Quốc đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch tăng gấp 4 lần GDP

bình quân đầu người so với năm 1980. Thế nhưng với sự chỉ đạo để cho những bộ

phận dân cư và địa phương có điều kiện làm giàu trước, nhất là từ khi nền kinh tế

Trung Quốc chuyển sang kinh tế thị trường từ năm 1992 thì phân hóa giàu nghèo ở

Trung Quốc diễn ra nhanh chóng, đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn. Vì vậy,

trong thời điểm chuyển giao bước sang thế kỷ XXI, vào tháng 10 năm 2000, Hội

nghị Trung ương 5 Đảng Cộng sản Trung Quốc đã quyết định bước sang thế kỷ

XXI, Trung Quốc sẽ chuyển sang “xây dựng toàn diện xã hội khá giả”[13, tr.27].

Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XVI Đảng cộng sản Trung Quốc (11-2002) đã

nêu rõ phải kết hợp “hài hòa” giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội: “Trên

cơ sở phát triển kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến bộ toàn diện, không ngừng nâng cao

15

mức sống nhân dân, bảo đảm cho nhân dân đều được hưởng thành quả của sự phát

triển” và đề ra mục tiêu xây dựng “xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa”, dự định trong

20 năm đầu của thế kỷ XXI Trung Quốc sẽ cơ bản hoàn thành công cuộc xây dựng

“xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa”[21, tr 17].

Trong suốt một chặng đường dài thực hiện cải cách, kinh tế Trung Quốc phát

triển liên tục. Từ năm 1978 đến năm 2002, tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân hàng

năm của Trung Quốc đạt trên 9%, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn nhiều so với

tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế thế giới, cao hơn tốc độ tăng trưởng của

các nước đang phát triển, trở thành nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên

toàn cầu. Thực lực kinh tế của Trung Quốc không ngừng được nâng cao, nếu năm

2001 tổng GDP của Trung Quốc đứng thứ 6 thế giới thì đến năm 2007, Trung Quốc

đã đứng thứ 3 thế giới (sau Mỹ và Nhật Bản)[15, tr.18].

Hiện nay GDP của Trung Quốc đã vượt Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ

2 thế giới, chỉ đứng sau nước Mỹ[4, tr.7]. Mức tăng trưởng cao nhất thế giới trong

một thời gian dài khiến Trung Quốc được mệnh danh là “người khổng lồ thức dậy”

[15, tr.19]. Bên cạnh đó, trong những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, chính

phủ Trung Quốc ngày càng ưu tiên nhiều hơn cho việc chinh phục vũ trụ. Từ năm

1990 đến năm 2002 Trung Quốc đã phóng thành công 4 tàu vũ trụ không người lái,

tạo nền tảng cho ngành chinh phục vũ trụ của Trung Quốc. Ngày 15/10/2005, Trung

Quốc đã phóng thành công tàu vũ trụ có người lái “Thần Châu 6”, sự kiện này đã

đưa Trung Quốc trở thành quốc gia thứ 3 có khả năng chinh phục vũ trụ (cùng với

Nga và Mỹ). Trung Quốc đã xác lập được vai trò quốc tế mới: là một nước lớn của

thế giới và khu vực Châu Á - Thái Bình Dương[15, tr.19]. Sức mạnh, ảnh hưởng và

vị thế của Trung Quốc trên thế giới không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.

Sự phát triển nhanh và ổn định của Trung Quốc đã thu hút sự quan tâm của thế

giới. Hầu hết các quốc gia đều hoan nghênh tốc độ tăng trưởng nhanh của Trung

Quốc. Tuy nhiên, các nước phương Tây đứng đầu là Mỹ lại coi sự phát triển nhanh

của Trung Quốc là điều đáng cảnh giác và lo ngại, dẫn tới cái gọi là “mối đe dọa

Trung Quốc”. Từ đó, Mỹ và Phương Tây luôn tìm cách xiết chặt hơn nữa sự kiềm

chế đối với Trung Quốc.

16

Bước vào thế kỷ XXI, chính quyền Tổng thống G.W. Busơ coi Trung Quốc là

“đối thủ tiềm tàng”, là “đối thủ cạnh tranh chiến lược”[33, tr.54] và tăng cường hơn

nữa sự kiềm chế đối với Trung Quốc. Bên cạnh việc Mỹ tiếp tục dùng các vấn đề

kinh tế, nhân quyền gây sức ép đối với Trung Quốc, Mỹ đã sử dụng triệt để hai con

bài chiến lược là Nhật Bản và Đài Loan[33, tr.54].

Với Nhật Bản, Mỹ tăng cường liên minh quân sự Mỹ - Nhật, mở rộng phạm vi

tác động của liên minh này từ lãnh thổ Nhật Bản và các đảo xung quanh ra phạm vi

toàn bộ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương[33, tr.54]. Điều đó tạo ra nguy cơ gây

mất cân bằng nghiêm trọng lực lượng chiến lược ở khu vực Châu Á - Thái Bình

Dương, gây lo ngại cho Trung Quốc.

Với Đài Loan, Mỹ đã trở thành chướng ngại vật trong quá trình thống nhất đất

nước của Trung Quốc, hơn thế nữa khi phạm vi phòng thủ của liên minh Mỹ - Nhật

bao gồm cả eo biển Đài Loan thì nguy cơ Nhật Bản sẽ đứng về phía Mỹ khi có một

cuộc xung đột về vấn đề Đài Loan đã rất rõ ràng, điều này đe dọa trực tiếp đến an

ninh cũng như những vấn đề nội bộ của Trung Quốc.

Với mục tiêu chiến lược là phát triển kinh tế với tốc độ cao, Trung Quốc rất cần

có một môi trường hòa bình trong khu vực cũng như trên thế giới. nhưng trên thực

tế Mỹ ra sức kiềm chế Trung quốc đã khiến nước này lo ngại. Trong hoàn cảnh đó,

cùng với sự vươn lên mạnh mẽ của đất nước, trước những biến đổi to lớn của thế

giới và khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách

đối ngoại của mình chuyển từ chính sách “Độc lập cán” ( độc lập tự chủ) sang “Cận

thân viễn giao” (Ngoại giao bạn bè) đã khảng định vị trí cường quốc khu vực, vươn

ra thành cường quốc thế giới[9, tr.97]. Thứ nhất, Trung Quốc tiếp tục hội nhập vào

thế giới. Theo đó, về mặt kinh tế, Trung Quốc kiên trì chính sách mở cửa, đồng thời

thúc đẩy đưa vốn ra nước ngoài để nắm thị trường thế giới trước hết là thị trường

năng lượng, tài chính, chứng khoán. Về mặt chính trị - an ninh, Trung Quốc cố gắng

xây dựng khuôn khổ quan hệ hợp tác toàn diện ổn định lâu dài với các nước lớn, coi

đa phương là công cụ để khảng định vị trí nước lớn của mình. Trung Quốc sẽ ưu

tiên quan hệ Trung - Mỹ lên hàng đầu, đồng thời tăng cường quan hệ với các nước

lớn khác như Nga, EU, Nhật Bản, Ấn Độ để tạo đối trọng và kiềm chế vai trò, ảnh

17

hưởng của Mỹ. Thứ hai, Trung Quốc tiếp tục đấu tranh cho một trật tự thế giới đa

cực, đẩy mạnh tập hợp lực lượng để Trung Quốc trở thành một cực trên thế giới,

phân hóa các lực lượng chủ trương kiềm chế Trung Quốc và mở rộng ảnh hưởng ở

Châu Á, Châu Phi và Mỹ La Tinh. Cụ thể, Trung Quốc tích cực tham gia vào các

diễn đàn, tổ chức và cơ chế quốc tế để tác động vào quá trình xây dựng thể chế và

luật chơi mới trong quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ kinh tế quốc tế nói riêng[9,

tr.98]. Đặc biệt, Trung Quốc chú trọng phát huy sức mạnh mềm, xây dựng hình ảnh

nước lớn có trách nhiệm. Thứ ba, Trung Quốc từng bước thay đổi chính sách từ

“giấu mình chờ thời” sang chủ động tranh giành và bảo vệ lợi ích dân tộc, đồng thời

cố gắng và mở rộng ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới. Trung Quốc đã chủ động

phối hợp với Mỹ, Nga, và một số nước khác về vấn đề khu vực. Chính sách ngoại

giao láng giềng và ngoại giao nước lớn còn gắn chặt với chính sách “ngoại giao

năng lượng” để phục vụ nhu cầu nhập khẩu năng lượng của Trung Quốc. Trung

Quốc đã tích cực hơn trong việc phát triển quan hệ với các nước ở Châu Phi, Mỹ La

Tinh để tăng cường sự hiện diện cũng như đa dạng hóa nguồn cung cấp nguyên liệu

và năng lượng. Trung Quốc cũng công khai và mạnh bạo hơn trong các tranh chấp

lãnh thổ và tài nguyên, nhất là liên quan đến biển đảo và công khai phô diễn sức

mạnh quân sự để hỗ trợ cho các đòi hỏi về chủ quyền tại các vùng tranh chấp. Cạnh

tranh Trung - Mỹ, Trung - Ấn, Trung - Nga sẽ ngày càng trở lên công khai với quy

mô lớn dần[9, tr.98].

Để thực hiện chính sách ngoại giao nước lớn, trước hết Trung Quốc chú trọng

quan hệ với Mỹ[26, tr.97], đồng thời tăng cường quan hệ với EU để thúc đẩy đa cực

hóa[10, tr.7], thiết lập “quan hệ đối tác chiến lược” với Liên bang Nga, Ấn Độ.

Trong số các nước lớn quan hệ với Ấn Độ luôn được Trung Quốc đặt ở vị trí quan

trọng, bởi lẽ, Ấn Độ không những là thị trường mới nổi mà còn là nước láng giềng

lớn của Trung Quốc với dân số đông thứ hai thế giới.

Như vậy, bước vào thế kỷ XXI với sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc, Mỹ

càng không muốn Trung Quốc trở thành cường quốc, do vậy Mỹ ra sức xiết chặt sự

kiềm chế đối với Trung Quốc bằng mọi hình thức có thể. Trong hoàn cảnh đó, để

phát triển vươn lên, cũng như khảng định vị thế của mình trên trường quốc tế, Trung

18

Quốc không ngừng tăng cường quan hệ với các nước lớn. Trung Quốc cũng rất cần

sự hợp tác của Ấn Độ trên mọi lĩnh vực và ngược lại. Đây là yếu tố quan trọng thúc

đẩy sự phát triển của mối quan hệ Trung - Ấn từ đầu thế kỷ XXI đến nay.

1.3. Tình hình Ấn Độ những năm đầu thế kỷ XXI

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học -

công nghệ, sự gia tăng mạnh mẽ của thương mại, đầu tư, những biến động phức tạp

của tình hình chính trị trong nước và trên thế giới, Ấn Độ đang từng bước phát triển

thành một cường quốc mới.

Về kinh tế, đây là quốc gia có tiềm lực hùng hậu, đang cải cách mạnh mẽ và có tốc

độ tăng trưởng khá cao và ổn định. Cùng với Trung Quốc, Ấn Độ trở thành một

trong hai quốc gia có tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất thế giới. Năm 2005 - 2006

GDP Ấn Độ đạt 9,5%, năm 2006-2007 là 9,6%, năm 2007-2008 là 9,3%. Do ảnh

hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, năm 2008-2009, GDP của Ấn Độ

sụt giảm còn 6,8%. Một năm sau khủng hoảng, Ấn Độ đã nhanh chóng phục hồi với

tốc độ tăng GDP ấn tượng: năm 2009 - 2010, 2010 - 2011 lần lượt là 8% và

8,6%[45]. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, thị phần của Ấn Độ trong GDP

thế giới sẽ tăng từ 1,8% (năm 2005) lên 5% năm 2030, và xuất khẩu của Ấn Độ

trong tổng xuất khẩu của thế giới khi đó sẽ chiếm trên 5,5%. Trong những thập niên

tới, đến 2050 Ấn Độ sẽ trở thành quốc gia có tiềm lực kinh tế thứ 3 thế giới chỉ sau

Mỹ và Trung Quốc[7, tr.15].

Năm 2004, thế giới chứng kiến nền kinh tế Ấn Độ đạt mức tăng trưởng ngoạn

mục xấp xỉ 8,5%, với tổng GDP đạt 692 tỷ USD[16, tr.12]. Ấn Độ được xếp là nền

kinh tế lớn thứ 3 Châu Á, nằm trong tốp 10 quốc gia có tốc độ tăng GDP cao nhất

thế giới. Ngoài ra, Ấn Độ đang phát triển thành siêu cường phần mềm máy tính,

hàng năm xuất khẩu phần mền tăng 35 - 40%, Ấn Độ xuất khẩu phần mềm trị giá

13,5 tỉ USD. Tổng giá trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp, Ấn Độ đứng thứ ba

trong các nền kinh tế đang phát triển, sau Braxin và Mexico, tỷ trọng công nghiệp

30%, nông nghiệp 25% và dịch vụ 45% GDP[1, tr.33]. Tuy nhiên Ấn Độ vẫn là

nước nghèo, cơ cấu kinh tế cơ bản vẫn là nông nghiệp, chiếm 2/3 lực lượng lao

động và 1/5 GDP[25]. Chỉ số Phát triển Con người (HDI) thấp xếp ở vị trí thứ 119,

19

Ấn Độ đứng giữa Cáp Ve và Timor Leste, cùng nhóm với Pakixtan (xếp thứ 125),

Bănglađét (thứ 129), cách xa Trung Quốc (thứ 89), Braxin (thứ 73) và Nga (thứ 65).

Ấn Độ cũng thua xa các thành viên khác của nhóm BRICS. Với 3.015 USD thu

nhập tính theo đầu người, Ấn Độ đứng thứ 127 thế giới. Tình trạng nghèo khổ ở Ấn

Độ cũng đáng quan tâm: 27% số người nghèo tính theo tiêu chuẩn của chính phủ,

song lại là 42% nếu tính theo ngưỡng của Ngân hàng thế giới. Tuy Ấn Độ sinh ra

một tầng lớp trung lưu tương đối giàu, song vẫn còn 300-400 triệu người ở dưới

ngưỡng nghèo[41].

Về lĩnh vực đối ngoại, mục tiêu chiến lược của Ấn Độ là tìm kiếm một vai trò lớn

hơn trong nền chính trị toàn cầu và khu vực tương xứng với tiềm lực kinh tế, khoa

học - công nghệ và dân số của mình. Trong chiến lược đối ngoại hiện nay, Ấn Độ đề

ra những yêu cầu cụ thể. Thứ nhất, đối với các nước láng giềng Ấn Độ cố gắng xây

dựng ưu thế vượt trội và ảnh hưởng độc quyền tại khu vực bằng cách tăng cường

quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư để tạo sự gắn kết kinh tế đồng thời xây dựng

sức mạnh quân sự vượt trội để răn đe các nước về quốc phòng; Thứ hai, mở rộng

hơn gồm Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Tại đây Ấn Độ thi hành chính sách

cân bằng hơn đối với các cường quốc khác, tuy xích lại gần Mỹ hơn. Ấn Độ thi

hành chính sách đa phương và tham gia nhiều hơn vào cuộc chơi của các nước khác.

Thứ ba, là toàn bộ thế giới. Tại đây, Ấn Độ thể hiện vị trí của một nước lớn và đại

diện cho các nước đang phát triển trong phong trào không liên kết. Ấn Độ tăng

cường đóng góp vào các nỗ lực xây dựng trật tự thế giới công bằng hơn và đa cực

hơn và coi đó là “tấm giấy thông hành” cho Ấn Độ đạt được mục tiêu là trở thành

Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc[9, tr.99].

Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với khu vực và các quốc gia

trên thế giới trong đó có chính sách “Hướng Đông” dựa trên nền tảng kế thừa truyền

thống và tư duy đối ngoại của Ấn Độ trong lịch sử cũng như tư tưởng đối ngoại của

cố Thủ tướng Nehru nhưng thực chất hơn và thực tế hơn, chú trọng đến lợi ích dân

tộc. Để đạt được mục tiêu đó, Ấn Độ đã tiến hành điều chỉnh chính sách đối ngoại

theo hướng rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ, đặc biệt là cải

thiện quan hệ với các nước láng giềng, nhất là Trung Quốc, Pakistan, tăng cường

20

quan hệ với các cường quốc Phương Tây, phấn đấu đóng vai trò lớn và làm Uỷ viên

Thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc mở rộng… Trong sự điều chỉnh chung

của đường lối đối ngoại đó, chính sách “Hướng Đông” chiếm vị trí quan trọng, có ý

nghĩa chiến lược của Ấn Độ.

Việc thực thi chính sách “Hướng Đông” của Ấn Độ chia làm hai giai đoạn:

Giai đoạn một được Thủ tướng Ấn Độ N.Rao đưa ra vào đầu thập kỷ 90 và có bước

đi dè dặt, mang tính thăm dò, chưa rõ nét. Trong giai đoạn này, chính sách “Hướng

Đông” chú trọng tăng cường quan hệ với các nước ASEAN trong đó chủ yếu là các

mối quan hệ về thương mại và đầu tư, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và chủ động

mở chiến dịch ngoại giao với khu vực Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương,

vận động để tham gia các tổ chức an ninh, kinh tế và chính trị đa phương tại khu

vực này như APEC, WTO, ARF… lấy chính sách ngoại giao kinh tế làm trụ cột. Ấn

Độ coi trọng Đông Nam Á và coi Đông Nam Á làm “bàn đạp” tiến vào thị trường

khu vực.

Giai đoạn hai của chính sách “Hướng Đông” triển khai dưới thời Thủ tướng A.B.

Vajpayee. Phạm vi ảnh hưởng của chính sách mở rộng hơn, từ trọng điểm ban đầu

là Đông Nam Á đến chỗ bao gồm tất cả Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Đẩy

mạnh chương trình hợp tác an ninh, cùng nhau bảo vệ tuyến đường biển và phối hợp

chống khủng bố. Tạo dựng các mối liên hệ hữu hình bằng việc đẩy mạnh hợp tác

trong các lĩnh vực giao thông vận tải như đề nghị xây dựng đề án ba bên về tuyến xa

lộ nối Myanmar và Thái Lan, đường sắt New Delhi và Hà Nội. Hướng tới phá bỏ

rào chắn về chính trị giữa Ấn Độ và Đông Nam Á. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN -

Ấn Độ đã đưa quan hệ Ấn Độ - ASEAN lên một tầm cao mới. Đồng thời, Hội nghị

thượng đỉnh BIMST - EC đã đưa 5 quốc gia trong nhóm hợp tác kinh tế mới

(Bangladesh, Bhutan, Ấn Độ, Nepal, Sri Lanka) xích lại gần với Myanmar và Thái

Lan với mục tiêu thúc đẩy hơn nữa hợp tác kinh tế khu vực.

Trước những khó khăn trong nước, Ấn Độ có nhu cầu lớn mở rộng quan hệ đối

ngoại nhằm tạo dựng một môi trường khu vực, quốc tế hòa bình, ổn định và tận

dụng các nguồn lực bên ngoài cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, phấn

đấu đưa Ấn Độ trở thành cường quốc trên thế giới.

21

Ấn Độ luôn coi trọng quan hệ truyền thống với Nga, tăng cường giao lưu, hợp

tác quân sự song phương, thúc đẩy việc đổi mới vũ khí chiến lược mà Phương Tây

không muốn bán cho Ấn Độ. Nga là nước cung cấp vũ khí chủ yếu của Ấn Độ, sau

đó quan hệ hai nước chuyển dần từ quan hệ quốc phòng sang quan hệ kinh tế,

thương mại, đầu tư khoa học kỹ thuật, vũ trụ.

Với Trung Quốc, Ấn Độ luôn quan tâm tới vấn đề biên giới nhằm hướng tới các

mục tiêu chiến lược về an ninh và kinh tế. Tuy nhiên sự nghi kỵ cùng mối quan hệ

quân sự hiện nay giữa Trung Quốc với Pakistan và Myanmar vẫn là trở ngại chính

của quan hệ song phương Ấn Độ - Trung Quốc. Phía Trung Quốc nhận thấy rằng do

cán cân lực lượng toàn cầu thay đổi, không cho phép Trung Quốc dùng Pakistan

kìm chân Ấn Độ nữa, do đó có nhiều động thái nhằm cải thiện quan hệ với Ấn Độ.

Mặt khác, những mối quan hệ mật thiết giữa Ấn Độ và Mỹ và giữa Ấn Độ và

ASEAN có thể là nguyên nhân khiến Trung Quốc lo ngại. Vì thế Trung Quốc đã có

những hành động thực tế tăng cường cải thiện mối quan hệ với Ấn Độ. Hai nước đã

tập trận hải quân chung, nhân nhượng nhau các vấn đề Tây Tạng và Xích Kim, tăng

cường mở rộng hợp tác thương mại và đầu tư.

Đối với các tổ chức trong phong trào Không liên kết, Ấn Độ luôn coi trọng dựa

vào tổ chức quốc tế này cũng như các nước đang phát triển thuộc nhóm 77 nước. Ấn

Độ mong muốn các nhà lãnh đạo của các nước đang phát triển cùng Ấn Độ có

những mối quan hệ, cùng đưa đất nước phát triển, nhưng mong muốn không thực

hiện được bởi thực lực có hạn và hơn nữa cục diện chính trị thế giới không cho

phép. Đây chính là lý do mà vào những năm cuối thế kỉ XX, Ấn Độ ít quan tâm đến

phong trào Không liên kết, nhưng đến đầu thế kỷ XXI, (2003), tại Hội nghị thượng

đỉnh phong trào Không liên kết lần thứ 13, Thủ tướng A.B Vajpayee đã đưa ra

những yêu cầu, đổi mới phong trào Không liên kết về tổ chức và lý luận để nâng cao

vị thế và giành quyền phát ngôn lớn trong tổ chức này.

Với khu vực Đông Nam Á, trọng tâm của chính sách “Hướng Đông”, Ấn Độ luôn

coi trọng ASEAN, đưa quan hệ Ấn Độ - ASEAN lên tâm cao mới trong các lĩnh vực

hợp tác, đầu tư kinh tế, an ninh quốc phòng, và trở thành thành viên đối thoại đầy đủ

của ASEAN. Ấn Độ tham dự Diễn đàn an ninh Đông Nam Á (ARF). Ấn Độ -

22

ASEAN kí kết Hiệp định khung về đối tác kinh tế, Hiệp ước thân thiện và hợp tác,

Tuyên bố chung về chống khủng bố… Ấn Độ đưa ra nhiều sáng kiến mở rộng hợp

tác hai bên như chính sách “bầu trời mở” cho các hãng hàng không ASEAN, đề xuất

việc xây dựng tuyến đường bộ và đường sắt nối liền Ấn Độ với ASEAN, thúc đẩy

chương trình hợp tác Hoàng Hà - Mêkông, hợp tác hành lang Đông - Tây, đặc biệt

tích cực chuẩn bị cho cuộc họp cấp cao ASEAN - Ấn Độ lần thứ ba tại Viêng Chăn.

Đồng thời, ASEAN đã nhất trí đẩy mạnh các chương trình hợp tác cụ thể và thực

chất. Ngày 08/10/2003, Ấn Độ và ASEAN đã ký Tuyên bố về hợp tác chống khủng

bố. Tại hội nghị Thượng đỉnh Ấn Độ - ASEAN lần thứ 3 (2004), các nhà lãnh đạo

Ấn Độ - ASEAN đã cam kết sẽ tăng cường thúc đẩy hợp tác an ninh, quốc phòng.

Đồng thời, ASEAN đánh giá cao việc Ấn Độ gia nhập Hiệp ước hợp tác hữu nghị

Đông Nam Á (TAC) vào tháng 03/2003. Ấn Độ ủng hộ một khu vực phi vũ khí hạt

nhân ở Đông Nam Á. Đây là đóng góp quan trọng của Ấn Độ đối với việc tăng

cường an ninh khu vực cũng như đóng góp của Ấn Độ vào tiến trình giải giáp vũ khí

hạt nhân toàn cầu.

Trong lĩnh vực kinh tế - thương mại và đầu tư, tính đến hết năm 1996, trong

tổng số 200 liên doanh của Ấn Độ ở nước ngoài thì có 152 liên doanh tại các nước

ASEAN với số vốn đầu tư trên 88,5 triệu USD[6]. Kể từ năm 1993 đến năm 2003,

tăng trưởng thương mại song phương Ấn Độ - ASEAN đạt tốc độ trung bình 11.2%

từ 2,9 tỷ USD 1993 lên 12,1 tỷ USD năm 2003[53]. Tại Hội nghị thượng đỉnh Ấn

Độ - ASEAN lần thứ 3 năm 2004, hai bên đã ký “Đối tác vì hòa bình, tiến bộ và

cùng thịnh vượng”. Cùng năm Ấn Độ đã trở thành thành viên của Hội nghị thượng

đỉnh Đông Á. Năm 2009, hai bên đã ký Hiệp định thương mại hàng hóa (AIFTA).

Năm 2010 quan hệ đối tác kinh tế toàn diện Ấn Độ - Hàn Quốc (CEPA) chính thức

có hiệu lực. Quý I năm 2011 kim ngạch thương mại hai chiều giữa Ấn Độ với

ASEAN lên đến 57 tỷ USD tăng gấp 8 lần trong 10 năm trở lại đây. Tỷ trọng xuất

khẩu của Ấn Độ đối với ASEAN tăng từ 7.49% năm 1996 lên 10.86% năm 2010.

ASEAN chiếm 10% tổng kim ngạch thương mại của Ấn Độ[36]. Có thể nói ASEAN

và Ấn Độ là những đối tác đầu tư quan trọng của nhau. Từ năm 2004 đến 2010, đầu

tư của Ấn Độ vào khu vực ASEAN đạt 21.8 tỷ USD, chiếm 25% tổng kim ngạch

23

đầu tư ở nước ngoài của Ấn Độ. Trừ Timor Leste, Campuchia và Lào ra, từ năm

2000 đến 2009 các quốc gia trong khối ASEAN đầu tư tại Ấn Độ đạt 8.2 tỷ

USD[36]. Hai bên đã tiến hành ký kết nhiều thỏa thuận như Hiệp định thương mại

ưu đãi (PTA), Hiệp định thương mại tự do (FTA): Hiệp định này được cho là sẽ bao

trùm rộng khắp thị trường xấp xỉ 1,8 tỷ người và các kế hoạch dự tính cắt giảm dần

thuế quan đối với 4.000 sản phẩm tới năm 2016[40], Hiệp định hợp tác kinh tế toàn

diện (CECA), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện (CEPA). Thứ ba, hợp tác an ninh

và hợp tác chiến lược đã trở thành điểm mới trong quá trình phát triển quan hệ của

hai bên. Hình ảnh “cường quốc thân thiện” của Ấn Độ đã góp phần quan trọng trong

việc duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực Đông Nam Á, nhất là khi các vấn đề

tranh chấp chủ quyền đang ngày càng nóng lên như hiện nay. Bất chấp những động

thái gây hấn và bao vây của Trung Quốc, Ấn Độ vẫn khẳng định sẽ ủng hộ những

lợi ích trong các dự án khai thác dầu khí chung với các nước trong khu vực ASEAN,

đồng thời cùng các nước lớn khác tạo áp lực ngoại giao lên phía Trung Quốc.

Ấn Độ đang ra sức xây dựng và mở rộng ảnh hưởng của mình tại khu vực Châu

Á - Thái Bình Dương thông qua những việc làm cụ thể như thiết lập và thắt chặt

quan hệ ngoại giao, chính trị, kinh tế, quân sự… với các đối tác tại khu vực Đông

Nam Á. Thông qua việc tăng cường quan hệ với Myanmar, thiết lập các cơ chế hợp

tác tiểu khu và liên khu Đông Nam Á như hợp tác Mekong - Sông Hằng (MGC).

Các nước MGC đều đánh giá cao vai trò của Ấn Độ không chỉ trong hợp tác với tiểu

vùng Mekong mà cả với ASEAN và Đông Á vì hòa bình, ổn định và phát triển ở

Châu Á - Thái Bình Dương. Cùng với đó là sáng kiến vịnh Bengal, hợp tác đối thoại

(SDP) năm 1992, FDP năm 1995. Các hiệp định song phương đã được ký kết về an

ninh giữa Ấn Độ với các nước thành viên trong khối ASEAN như Singapore, Việt

Nam, Malaysia, Thái Lan và Lào. Ngoài ra các cuộc tập trận chung với các nước

trong khối ASEAN là một minh chứng thể hiện rõ chính sách hướng Đông của Ấn

Độ. Năm 2000, Ấn Độ đã gửi tàu chiến, tàu chở dầu và tàu ngầm đến Nhật Bản,

Hàn Quốc, Indonesia và Việt Nam cùng thực hiện các cuộc tập trận song phương

như một biểu hiện thiện chí của Ấn Độ muốn củng cố và tăng cường sự xuất hiện

của mình tại khu vực này[14, tr 34].

24

Với những bước đi này, Ấn Độ đã xây dựng được niềm tin chiến lược với các

nước ASEAN nói chung và các nước có tuyên bố chủ quyền tại khu vực tranh chấp

nói riêng. Tại hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Ấn Độ

khẳng định: an ninh của các tuyến đường biển quan trọng đối với khu vực Châu Á -

Thái Bình Dương…chúng tôi đang hợp tác với các nước khác trong khu vực để tăng

cường an ninh cho ngành hàng hải ở khu vực. Cách tiếp cận tập thể về an ninh hàng

hải sẽ mang lại lợi ích cho toàn khu vực[31]. Ngoài ra trong Tuyên bố tầm nhìn

ASEAN - Ấn Độ nhân kỷ niệm 20 năm quan hệ đối thoại (1992-2012), hai bên nhất

trí thúc đẩy hợp tác trên biển, bao gồm thông qua việc can dự vào diễn đàn hàng hải

ASEAN (AMF) và phiên bản mở rộng của diễn đàn này nhằm giải quyết các thách

thức chung về các vấn đề trên biển như cướp biển, tìm kiếm cứu nạn, môi trường, an

ninh biển, kết nối trên biển, tự do hàng hải, nghề cá và các lĩnh vực hợp tác khác[37,

20/12/2012]. Rõ ràng từ việc chỉ tập trung ở lĩnh vực kinh tế với các nước ASEAN

với những con số tương đối hạn hẹp, Ấn Độ đã từng bước mở rộng hợp tác trên

nhiều lĩnh vực với quy mô lớn hơn với các nước trong khu vực này. Ngoài lĩnh vực

kinh tế ra, hợp tác an ninh quốc phòng cũng là một minh chứng rõ nét nhất cho

chính sách “tiến Đông” của mình.

Việc Ấn Độ thực hiện chính sách “hướng Đông” sẽ kéo theo sự phát triển

nhiều mặt giữa quốc gia này với các nước ASEAN. Nó không chỉ khiến mối quan

hệ Ấn Độ - ASEAN trở nên mật thiết mà cũng sẽ ảnh hưởng đến tình hình kinh tế,

chính trị của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và cả thế giới, trong đó có Bắc

Kinh. Tại Diễn đàn toàn cầu vì đối thoại Ả Rập và Châu Á vào năm 2007, Bộ

trưởng cao cấp Singapore Goh Chok Tong phát biểu: “nằm ở vị trí chiến lược giữa

Trung Quốc và Ấn Độ…, ASEAN như là phần thân của chiếc máy bay phản lực cỡ

lớn được nâng lên bởi hai cánh là Trung Quốc và Ấn Độ”[28]. Vì vậy có thể nói,

chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ ít nhiều cũng sẽ tác động tích cực đến Trung

Quốc tại khu vực địa chiến lược này. Theo ông Karl F. Inderfurth, cựu đại sứ Mỹ

tại Liên Hiệp Quốc phát biểu: Ấn Độ và Trung Quốc là hai quốc gia mạnh ở khu

vực Châu Á cho nên việc hai nước tìm cách để có thể hợp tác với nhau là rất quan

trọng, kể cả những gì họ đồng ý và không đồng ý[56]. Đây chính là những biểu hiện

25

sinh động trong việc phân chia quyền lực giữa các nước lớn trong các vấn đề của

khu vực Châu Á mà Ấn Độ cũng giữ một vai trò quan trọng. Ngoài ra chính sách

“hướng Đông” còn tạo đà để Châu Á có thể trở thành trung tâm kinh tế, chính trị

của thế giới. Trong đó coi trọng việc xúc tiến sự hợp tác kinh tế của hai khu vực

Đông Á và Nam Á lại với nhau. Từ đó từng bước thúc đẩy quá trình nhất thể hóa

nền kinh tế khu vực Châu Á.

Xét từ góc độ kinh tế, chính sách “hướng Đông” có lợi trong việc hợp tác kinh tế

thương mại giữa hai cường quốc Châu Á với nhau. Bởi khu vực Châu Á thu hút sự

quan tâm đặc biệt của thế giới, không chỉ vì đây là địa bàn chiến lược quan trọng có

nhiều vấn đề nóng mà còn vì khu vực này đã đạt được những thành công ngoạn mục

về phát triển kinh tế; và trở thành một đầu tàu của kinh tế thế giới, đóng góp quan

trọng vào tăng trưởng toàn cầu. Trong đó nổi bật hơn cả là sự trỗi dậy mạnh mẽ của

Trung Quốc - quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Trong suốt ba thập

kỷ qua, Trung Quốc cũng đã đạt được những thành tựu kinh tế vượt bậc, duy trì tốc

độ tăng trưởng cao hàng đầu thế giới. Theo các số liệu chính thức được công bố bởi

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (World Bank) từ năm 1982 đến

năm 2012 tổng sản lượng quốc dân nội địa (GDP) của Trung Quốc đã tăng từ 281,3

tỉ USD lên đến 8.220,9 tỉ USD, tăng gấp 29 lần[48]. Trong khi đó nền kinh tế Ấn

Độ được xếp vào hàng thứ tư trên thế giới với tốc độ tăng trưởng thực của GDP đạt

7,6% một năm trong giai đoạn 2002 - 2003 đến 2006 - 2007. Chỉ số này tăng từ

9,0% của năm 2005-2006 lên 9,4% năm 2006 - 2007, cao hơn nhiều so với con số

trung bình từ 5% đến 6% của thập niên 80 và 90[54]. Nếu “phân xưởng của thế

giới” liên kết với “văn phòng của thế giới” kết quả sẽ trở nên rất đáng kinh ngạc.

Tháng 10/2004, Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh tham dự Hội nghị thưởng đỉnh

thương mại Ấn Độ - ASEAN lần thứ 3 đã đề xuất ý tưởng xây dựng cộng đồng kinh

tế Châu Á trong đó nhấn mạnh việc xây dựng cộng đồng kinh tế giữa ASEAN với

Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc. Bởi lẽ cộng đồng kinh tế Châu Á

chiếm hơn nửa dân số thế giới. Quy mô kinh tế, thương mại về cơ bản đã vượt mặt

khu tự do thương mại Bắc Mỹ, dự trữ ngoại tệ bằng cả Liên minh Châu Âu và khu

tự do thương mại Bắc Mỹ cộng lại[26]. Nếu nhìn từ những kết quả của chính sách

26

“hướng Đông”, đặc biệt là mối quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa Ấn Độ và ASEAN,

thì ý tưởng xây dựng cộng đồng kinh tế Châu Á sẽ sớm được hiện thực trong thời

gian tới. Ngoài ra, Ấn Độ và ASEAN đều là láng giềng của Trung Quốc. Nếu

ASEAN và Ấn Độ cùng phát triển, cùng thắng thì đương nhiên nền kinh tế, chính trị

của tam giác Ấn Độ - ASEAN - Trung Quốc sẽ được củng cố và tăng cường hơn

bao giờ hết. Đây là điều mà Bắc Kinh luôn chờ đợi và hy vọng chính sách “hướng

Đông” của Ấn Độ sẽ mang lại cho nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này.

Chính sách rộng mở trong quan hệ ngoại giao với các nước trong khu vực và

trên thế giới, cũng như chính sách “Hướng Đông” của Ấn Độ đã tạo ra khả năng cho

sự hợp tác giữa hai nước.

1.4. Quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ trước năm 2002

1.4.1. Thời kỳ trước năm 1950

Trung Quốc và Ấn Độ là những nền văn minh lớn và cổ xưa nhất trên thế giới.

Văn minh Ấn Độ và Trung Quốc đã tỏ rõ ưu thế và để lại nhiều dấu tích đậm nét

trong nền văn hóa của nhiều quốc gia trong khu vực. Do nhiều yếu tố, trước hết là

sự gần gũi về địa lý, sự tương đồng về lịch sử Trung Quốc và Ấn Độ đã có sự giao

lưu về kinh tế, văn hóa.

Ngay từ thời kỳ cổ đại nền văn minh Trung Quốc và Ấn Độ đã lan tỏa mạnh mẽ ra

toàn khu vực thông qua con đường tơ lụa. Thời kỳ Hán Vũ (thế kỷ II TCN) thông

qua con đường tơ lụa nhà Tây Hán đã thiết lập quan hệ ngoại giao với khoảng 50

nước trong đó có Ấn Độ[5, 01/10/2014]. Trung Quốc thông qua con đường tơ lụa đã

hấp thụ và dung hợp văn hóa Ấn Độ. Phật giáo đã được truyền bá vào Trung Quốc

trở thành một sản phẩm tinh thần mang đậm màu sắc văn hóa Hán. Mặc dù Phật

giáo được sản sinh ở Ấn Độ nhưng Trung Quốc mới là mảnh đất màu mỡ nuôi

dưỡng đạo Phật. Con đường Tơ Lụa đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy

trao đổi thương mại và văn hóa Trung - Ấn. Con đường Tơ Lụa cũng liên kết cả hai

quốc gia này với cư dân của Ba Tư và Địa Trung Hải cổ xưa. Cả hai quốc gia cũng

đã trao đổi kiến thức khoa học. Trong thế kỷ thứ XVIII, các tín hiệu thiên văn của

nhà thiên văn học người Ấn Độ Aryabhata được chuyển sang tiếng Trung Quốc

trong cuốn sách "Kaiyuan Zhanjing" do Gautama Siddha, một nhà thiên văn học có

27

dòng dõi Ấn Độ. Người ta cũng tin rằng ông Gautama Siddha đã dịch lịch

Nabagraha sang tiếng Trung Quốc. Trong suốt triều đại nhà Minh, nhà thám hiểm

hàng hải General Zheng, ông đã đến Calicut vào đầu thế kỷ XV, cũng là một bằng

chứng thể hiện mối quan hệ về hàng hải xa xưa giữa Trung Quốc và Ấn Độ.

Bước sang thời kỳ cận đại, Trung Quốc và Ấn Độ đều trở thành mục tiêu xâm lược

của các cường quốc thực dân Phương Tây. Trong quá trình xâm chiếm thuộc địa, cả

Trung Quốc và Ấn Độ đều rơi vào ách thống trị của thực dân Phương Tây. Hai nước

luôn ủng hộ, hỗ trợ nhau trong cuộc chiến chống chủ nghĩa thực dân, đấu tranh

giành độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

Như vậy, trong suốt chiều dài lịch sử cho đến trước khi thiết lập quan hệ ngoại

giao Trung Quốc và Ấn Độ đã có mối liên hệ về kinh tế, chính trị, văn hóa tạo tiền

đề cho một mối quan hệ đồng minh về sau này.

1.4.2. Thời kỳ từ năm 1950 đến năm 1962

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cục diện thế giới diễn ra nhiều biến chuyển

sâu sắc, phong trào XHCN phát triển mạnh mẽ, nhiều nước XHCN mới ra đời với

sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Cục diện hai phe XHCN và TBCN đứng đầu là hai

siêu cường Liên Xô và Mỹ dần hình thành.

Trung Quốc được thành lập vào năm 1949 và Ấn Độ giành được độc lập vào

năm 1947. Là hai quốc gia vừa giành được độc lập phải đối mặt với với vô vàn khó

khăn về kinh tế và xã hội, đòi hỏi Trung Quốc và Ấn Độ phải đề ra chính sách đối

ngoại phù hợp. Trung Quốc thực hiện chính sách “nhất biên đảo” (nghiêng hẳn về

Liên Xô và các nước XHCN), đồng thời coi Ấn Độ là trọng điểm ngoại giao láng

giềng của mình. Ấn Độ cũng chủ trương dựa vào Liên Xô. Cả Trung Quốc và Ấn

Độ đã cùng phối hợp trong mục tiêu chống đế quốc, chống chiến tranh, đoàn kết các

nước Á - Phi, bảo vệ hòa bình thế giới.

Ngày 30 /12/1949, Ấn Độ là nước đầu tiên ngoài hệ thống các nước XHCN công

nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Ngày

1/4/1950 Trung Quốc - Ấn Độ chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Tháng

6/1950, khi Mỹ thao túng Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, thông qua Nghị quyết

chiến tranh Triều Tiên, Ấn Độ đã tuyên bố ủng hộ Trung Quốc tại tổ chức này. Vì

28

vậy Trung Quốc rất coi trọng vai trò của Ấn Độ. Trước khi đưa quân sang Triều

Tiên, thực hiện “kháng Mỹ viện Triều”, Thủ tướng Chu Ân Lai đã thông qua Đại sứ

Ấn Độ tại Bắc Kinh, nhờ Ấn Độ thông báo cho Mỹ: nghiêm khắc cảnh báo Mỹ

không được xâm lược Triều Tiên, nếu không, Trung Quốc cũng buộc phải tham

chiến. Khi Liên hợp quốc thông qua nghị quyết cho rằng Trung Quốc xâm lược thì

ngay lập tức Ấn Độ lên tiếng phản đối. Về sau, Ấn Độ đã có vai trò thúc đẩy Hội

nghị Giơnevơ đình chiến ở Đông Dương. Liên Xô và Trung Quốc đã tích cực đề

nghị Ấn Độ là đồng Chủ tịch của Ủy ban giám sát đình chiến.

Năm 1954 hai chính phủ đã đạt được một thỏa thuận quan trọng. Ấn Độ chính

thức chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Tạng và thúc đẩy quan hệ

thương mại và mậu dịch giữa Tây Tạng của Trung Quốc với Ấn Độ qua biên giới

chung Himalaya. Hai nước cùng thống nhất đấu tranh cho "năm nguyên tắc cùng tồn

tại hòa bình".

Trong Hội nghị Á - Phi diễn ra ở Bandung năm 1955, Thủ tướng Trung Quốc

Chu Ân Lai và Thủ tướng Ấn Độ J. Nehru cùng tuyên bố thúc đẩy đoàn kết Á - Phi

để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và hòa bình thế giới.

Tuy nhiên, cuối những năm 50 của thế kỷ XX xuất hiện những nhận thức bất

đồng về vấn đề biên giới. Những bất đồng đó đã dẫn đến tình trạng căng thẳng kéo

dài trong quan hệ Trung - Ấn. Trung Quốc cho rằng không có ranh giới phân định

dọc theo dãy Himalaya và hai bên phải tái xác định một biên giới mới thông qua

thương lượng. Nhưng Ấn Độ đòi giữ lại ranh giới do chính quyền Anh tự ý đưa ra

và áp đặt lên quan chức địa phương Tây Tạng vào năm 1914. Chính phủ Trung

Quốc chưa bao giờ công nhận ranh giới đó. Phần lãnh thổ tranh chấp khoảng 90.000

km2 vẫn dưới sự kiểm soát thực tế của Ấn Độ (Cơ quan biên giới Đông Bắc năm

1955, và Arunachal Pradesh từ năm 1987). Thêm vào đó, đường biên giới phía Tây

chia hai cường quốc Châu Á làm cho vấn đề càng phức tạp hơn. Ấn Độ tuyên bố

chủ quyền Aksai Chin, một khu vực khô cằn nhưng có vị trí chiến lược quan trọng

thuộc thẩm quyền của Trung Quốc.

Ngày 10/3/1959, ở Tây Tạng xảy ra phiến loạn của một số phần tử quá khích.

Trung Quốc đưa quân đội vào trấn áp và Ấn Độ cho rằng đó là hành động vũ trang

29

can thiệp vào khu vực này. Ngày 31/3/1959 Dalai Lama (lãnh tụ tinh thần của Tây

Tạng) trốn sang Ấn Độ và được chính phủ nước này cho tị nạn. Trung Quốc đã phản

ứng kịch liệt. Hàng loạt các vụ đụng độ dọc theo biên giới hai nước đã xảy ra làm

cho quan hệ hai nước trở nên căng thẳng hơn.

Trung Quốc cho rằng Ấn Độ xâm phạm biên giới của mình vì vậy đã quyết tâm

"dạy cho Ấn Độ một bài học". Vào tháng 10/1962, một cuộc chiến tranh biên giới

đã nổ ra và quân đội Ấn Độ bại trận hoàn toàn. Sau khi chắc thắng trên chiến

trường, tháng 11/1962 Trung Quốc đơn phương tuyên bố ngừng bắn và rút khỏi các

khu vực chiếm được.

1.4.3. Thời kỳ từ năm 1962 đến năm 2002

Chiến tranh biên giới năm 1962 làm quan hệ hai nước căng thẳng và bước vào

thời kỳ băng giá kéo dài. Phải mất 15 năm, kể từ năm 1961, đại sứ hai bên bị rút về

nước, quan hệ giữa hai nước chỉ ở cấp đại diện, đến năm 1976 mới khôi phục được

quan hệ đại sứ. Tuy nhiên, do những tác động tiêu cực của bối cảnh quan hệ quốc tế

thời Chiến tranh lạnh lúc đó, quan hệ hai nước không đạt được tiến triển nào.

Bước sang thập niên 80, trước những thay đổi của tình hình quốc tế và khu vực,

hai nước Trung - Ấn nhận thấy việc cải thiện quan hệ có lợi cho cả đôi bên. Năm

1981 hai nước có các chuyến thăm cấp ngoại trưởng. Các cuộc đối thoại về vấn đề

biên giới bắt đầu nối lại và các phái đoàn ngoại giao tại Bắc Kinh và New Delhi đã

tiếp tục trở lại hoạt động.

Từ ngày 19 đến 23/12/1988, Thủ tướng R.Ganđi bắt đầu chuyến viếng thăm Trung

Quốc sau 34 năm kể từ chuyến thăm của thủ tướng J.Nehru. Thủ tướng R. Ganđi đã

hội đàm với Thủ tướng Lý Bằng và gặp gỡ Đặng Tiểu Bình. Hai bên nhất trí cho

rằng 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình cần được coi là cơ sở trong quan hệ quốc tế

và xây dựng một trật tự chính trị - kinh tế quốc tế mới. Trên cơ sở đó khôi phục, cải

thiện và phát triển quan hệ láng giềng Trung - Ấn. Hai bên còn quyết định thành lập

nhóm cộng tác liên hợp về biên giới để từng bước giải quyết những vấn đề do lịch

sử để lại.

Tuy nhiên, dưới thới Thủ tướng A.B Vajpayee, quan hệ hai nước lại gặp phải khó

khăn mới. Ngày 3/5/1988, Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ tuyên bố, mối đe dọa tiềm

30

tàng của Trung Quốc còn nguy hiểm hơn cả Pakistan và sau đó ngày 11/5/1998, Ấn

Độ tiến hành thử vũ khí hạt nhân với lý do Trung Quốc và Pakistan có vũ khí hạt

nhân đe dọa an ninh của mình cho nên buộc Ấn Độ phải có vũ khí để tự vệ. Việc

này đã khiến Trung Quốc phản đối rất gay gắt và tiến hành các chiến dịch ngoại

giao cô lập Niu Đêli. Phản ứng mạnh mẽ này đã buộc Ấn Độ phải công khai rút lại

lập luận về mối đe dọa Trung Quốc. Tháng 10/1998, phía Ấn Độ đã tuyên bố rằng

Ấn Độ không nhìn nhận Trung Quốc như kẻ thù, và không mong muốn cuộc chạy

đua vũ trang với Bắc Kinh

Đầu thập niên 90, Chiến tranh lạnh kết thúc, xu thế toàn cầu hóa hình thành và

phát triển, hai nước Trung - Ấn đã thực hiện nhiều chính sách khuyến khích phát

triển kinh tế - thương mai, chính trị - ngoại giao, an ninh - quốc phòng nhất là giải

quyết những bất đồng về vấn đề biên giới còn nhiều tồn tại.

Tháng 11/1991 Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng sang thăm Ấn Độ sau gần 30 năm

nổ ra chiến tranh biên giới mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ giữa hai nước.

Để nâng tầm quan hệ lên bước cao hơn, tháng 9/1993 Thủ tướng Ấn Độ N. Rao tới

thăm Trung Quốc. Hai bên đã ký “Hiệp định duy trì hòa bình dọc đường kiểm soát

thực tế LAC” và thống nhất mở rộng hợp tác toàn diện. Tháng 11/1996 Chủ tịch

Trung Quốc Giang Trạch Dân đã tới thăm Ấn Độ. Hai bên đã ký Hiệp định thúc đẩy

giải quyết vấn đề biên giới và Hiệp định hòa bình an ninh, tạo động lực mới cho mối

quan hệ tin cậy lẫn nhau giữa hai nước. Tuy nhiên tháng 5/1998 Ấn độ tiến hành các

vụ thử hạt nhân. Sự kiện này gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của Trung Quốc. Phải

mất một thời gian sau đó quan hệ Trung - Ấn mới được khôi phục và đi vào quỹ đạo

bình thường.

Tháng 6/2000 Tổng thống Ấn Độ Narayanan có chuyến thăm chính thức Trung

Quốc. Đây là vị nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Ấn Độ thăm chính thức Trung

Quốc kể từ sau khi Ấn Độ tiến hành thử nghiệm hạt nhân tháng 5/1998. Chuyến

thăm đã nhận được sự đón tiếp nồng nhiệt từ các vị lãnh đạo cấp cao Trung Quốc.

Có thể nói, đây là bước đi quan trọng trong việc khôi phục quan hệ hai nước kể từ

sau khi Ấn Độ tiến hành vụ thử vũ khí hạn nhân. Tai cuộc hội đàm hai bên trao đổi

ý kiến về quan hệ song phương và những vấn đề hai nước cùng quan tâm, nhằm tiến

31

thêm một bước cải thiện quan hệ hai nước. Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân

đã đề ra 4 kiến nghị: Thứ nhất, tăng cường đi lại, tăng cường hiểu biết và tin tưởng

lẫn nhau. Thứ 2, mở rộng hợp tác thương mại, trên cơ sở nền tảng vững chắc cho

quan hệ hai nước phát triển. Thứ 3, tăng cường phối hợp nhịp nhàng trong các vấn

đề quốc tế cùng nhau nỗ lực thiết lập trật tự kinh tế chính trị mới hợp lý trên thế

giới, bảo vệ lợi ích phát triển hợp pháp của mỗi quốc gia thúc đẩy thế giới hòa bình

ổn định. Thứ 4, nhìn xa trông rộng, cầu đồng tồn dị xử lý ôn hòa vấn đề lịch sử để

lại. Cả hai bên đứng trên những lợi ích chung để vượt qua những bất đồng thúc đẩy

phát triển quan hệ hai nước. Tổng thống Ấn Độ Narayanan bày tỏ phía Ấn Độ đồng

ý cùng với phía Trung quốc cùng nhau nỗ lực giải quyết vấn đề này.

Tháng 7/2000 Ngoại trưởng Trung Quốc Đường Gia Triền thăm Ấn Độ. Đây là

chuyến thăm cấp cao đầu tiên của Trung Quốc đối với Ấn Độ sau vụ thử vũ khí hạt

nhân và là cột mốc quan trọng đánh dấu bước đi lên còn đường phát triển bình

thường của quan hệ Trung - Ấn.

Tháng 11/2001 Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc Lý Bằng dẫn đầu đoàn đại biểu cấp

cao thăm Ấn Độ. Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc Lý Bằng nhấn mạnh: Trung - Ấn

là hai nước lớn có vai trò quan trọng trên thế giới, đều có những lợi ích nhất định.

Trong thế kỷ XXI chúng ta phải đưa quan hệ hai nước vào một giai đoạn mới, điểm

tương đồng giữa hai nước lúc nào cũng lớn hơn bất đồng. Chúng ta có đầy đủ lý do

để hai nước Trung - Ấn hữu hảo, nhân dân hai nước nên trở thành những láng giềng

tốt và những người bạn tốt. Sau sự kiện này quan hệ Trung - Ấn trở lại bình thường.

Nhìn lại lịch sử phát triển của mỗi nước cũng như cục diện thế giới hiện nay,

có thể thấy Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước có nhiều điểm khá tương đồng. Đầu

tiên, dễ nhận thấy nhất chính là quy mô dân số: Trung Quốc với hơn 1.3 tỉ người và

Ấn Độ hơn 1.1 tỉ người là hai nước đông dân nhất thế giới hiện nay. Điểm chung

khác là đà phát triển vượt bậc của hai nước trong những thập niên gần đây khiến cả

hai đi đôi trong những lo lắng của các nước khác trước viễn cảnh bị lấn áp trong

cuộc chạy đua kinh tế toàn cầu. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, trong suốt

một thập niên từ năm 1995 đến năm 2004, khi mức tăng trưởng GDP bình quân

hàng năm của thế giới là 3% và ngay cả Mỹ với tỉ lệ cao nhất trong các nước phát

32

triển phương Tây cũng chỉ đạt 3.3%, Nhật 1.2% và Đức 1.5%, thì Trung Quốc tăng

nhanh gấp 3 lần (9.1%) và Ấn Độ gấp hai lần (6.1%). Song, hơn cả các thành quả

hiện nay, điều làm thế giới đặc biệt e dè là tiềm năng to lớn cho phép hai nước này

tiếp tục trên đà ấy để tiến tới mục tiêu là thống lĩnh trên nhiều mặt, không những

kinh tế mà cả chính trị, quân sự, gây ảnh hưởng đến các nước và khu vực khác… Sự

phát triển mạnh mẽ và vai trò ngày càng quan trọng của Trung Quốc và Ấn Độ đã

bắt đầu làm thay đổi cục diện thế giới và tương quan lực lượng giữa các nước. Với

tầm vóc ngang nhau về bề thế và tiềm năng kinh tế, cả hai đều có tham vọng trở

thành siêu cường hay đúng hơn, theo họ, giành lại vị trí trước đây mà lịch sử cận đại

đã “lấy” mất của họ.

Chính vì những điểm chung kể trên mà hai nước cũng phải đối mặt với những

thách thức tương tự. Đó là: nhu cầu rất lớn về nguyên liệu và năng lượng để đáp ứng

sự tăng trưởng của nền kinh tế, vấn đề môi trường và nguy cơ khủng hoảng xã hội,

chính trị do sự phân hóa ngày càng tăng giữa các tầng lớp xã hội và các địa phương.

Hiện nay, Trung Quốc chiếm khoảng 12% năng lượng tiêu thụ trên thế giới sau Mỹ.

Ấn Độ với khoảng 5% đứng hàng thứ sáu. Sự bùng nổ của nền kinh tế cũng dẫn tới

vấn nạn ô nhiễm môi trường. Đã có một số tập đoàn quốc tế quyết định chọn nước

khác để đầu tư thay vì Trung Quốc, lý do chính là cần một môi trường sạch cho

nhân viên và sản phẩm của mình. Những vấn đề xã hội và chính trị cũng có thể là

một trở lực quan trọng: sự phân hóa giàu nghèo và giữa các địa phương đe dọa trật

tự xã hội, nạn tham những và những mâu thuận trong bộ máy chính quyền cũng gây

nhiều khó khăn phải giải quyết.

Những năm qua, trên cơ sở những mối quan hệ tương đồng và vì lợi ích

chung, quan hệ hai nước đã được cải thiện đáng kể. Trên lĩnh vực quan hệ kinh tế,

thương mại và đầu tư, giữa hai nước có nhiều cơ sở để hợp tác và đã có những bước

phải triển đáng kể trong những năm gần đây. Cho đến thập niên 90 thế kỷ XX, quan

hệ thương mại giữa hai nước ở mức rất khiêm tốn, chỉ khoảng 250 triệu USD một

năm. Sau khi Ấn Độ mở cửa và đẩy mạnh các quan hệ với bên ngoài, trao đổi hàng

hóa với Trung Quốc bắt đầu tăng nhưng cũng chưa xứng tầm với tiềm năng của mỗi

bên. Hai nền kinh tế Ấn Độ - Trung Quốc, đặc biệt bổ sung nhau ở những mặt:

33

Trung Quốc mạnh về sản xuất hàng hóa và hạ tầng cơ sở, trong khi Ấn Độ kém về

hạ tầng cơ sở nhưng lại mạnh về dịch vụ và công nghệ thông tin. Trung Quốc mạnh

về phần cứng (máy móc, linh kiện), Ấn Độ mạnh về phần mềm. Trung Quốc mạnh

hơn trên thị trường sản phẩm, còn Ấn Độ mạnh hơn trên thị trường tài chính. Đã có

người ví rằng “công xưởng của thế giới” sẽ là một khối vừa to vừa nặng, rất đáng

ngại đối với các nước khác.

Trên cơ sở các mối quan hệ chính trị trở nên nồng ấm, các chuyến thăm giữa

các nhà lãnh đạo cấp cao hai nước diễn ra thường xuyên hơn, mối quan hệ an ninh,

quân sự giữa hai nước nhờ vậy cũng đã có bước tiến triển rất đáng ghi nhận.

Tuy quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ những năm qua có nhiều tiến triển,

nhưng vẫn còn những trở ngại lớn cho sự phát triển trong tương lai. Trước hết, có

thể nói thách thức lớn nhất, dễ nhận thấy nhất là việc hai nước vẫn còn bất đồng

nghiêm trọng liên quan đến vấn đề tranh chấp biên giới. Bất chấp bầu không khí ôn

hòa giữa hai nước, vẫn còn mối nghi ngờ và sự không tin tưởng kéo dài giữa Bắc

Kinh và Niu Đelhi liên quan đến cuộc chiến tranh biên giới năm 1962. Trung Quốc

và Ấn Độ có đường biên giới kéo dài tới 4056 km, được phân cách bởi dãy núi

Himalaya hiểm trở và vùng cao nguyên Tây Tạng. Ba khu vực này ngày nay vẫn là

điểm nóng của sự xung đột giữa Ấn Độ và Trung Quốc là Akisai Chin ở điểm giao

của biên giới Pakistan, Ấn Độ và Trung Quốc, Arunachal Pradesh ở sát biên giới

Đông Bắc của Ấn Độ và Kashmir ở Tây Bắc Ấn Độ.

Bên cạnh tranh chấp biên giới, quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ còn gặp

phải một loạt những vấn đề nhạy cảm khác, như mối quan hệ giữa Datlai Latma,

lãnh tụ tinh thần của người Tây Tạng với Ấn Độ. Trong lịch sử, những năm 1950,

khi Trung Quốc đưa quân vào Tây Tạng, Datlai Latma đã chạy sang Ấn Độ và được

Ấn Độ giúp đỡ. Từ đó, vấn đề Tây Tạng trở thành một trong những nguyên nhân

gây bất đồng giữa Trung Quốc và Ấn Độ, một vấn đề rất nhạy cảm trong quan hệ

hai nước.

Quan hệ song phương giữa Ấn Độ và Trung Quốc tất nhiên không thể tách

rới khỏi tình hình chung của thế giới và những mối quan hệ mỗi bên với những

34

nước khác. Sự cạnh tranh giữa họ không chỉ thể hiện trong mối bang giao trực tiếp

mà còn tiềm tàng hay rõ nét trong các quan hệ khác, song phương hoặc đa phương.

Trung Quốc hiện đang rất chú ý phân tích và nghiên cứu những động thái của mối

quan hệ Mỹ - Ấn liên quan đến vấn đề hợp tác hạt nhân dân sự. Mối quan hệ ngày

càng thắt lại giữa Niu Đelhi và Washington cho thấy rõ vai trò ngày càng tăng của

Ấn Độ trong bàn cờ chiến lược của Mỹ. Điển hình là việc Mỹ lôi kéo Ấn Độ tham

gia vào liên minh 4 nước Mỹ - Nhật - Úc - Ấn mà mục tiêu là nhằm kiềm chế Trung

Quốc.

Quan hệ giữa Trung Quốc và Pakistan cũng là một trở ngại đối với quan hệ Trung -

Ấn. Sau năm 1947, lãnh thổ Ấn Độ bị chia cắt thành hai nước Pakistan và Ấn Độ.

Một sự phân chia đẫm máu: từ 300.000 đến 500.000 người bị thảm sát trong các

cuộc chém giết lẫn nhau của hai cộng đồng Hồi giáo và Ấn Độ giáo, và từ 10 đến 15

triệu người di cư từ vùng này sang vùng kia. Sự chia cắt đất nước và ba cuộc chiến

tranh Ấn Độ - Pakistan tiếp nối nhau (1947-1948, 1965, 1971) để giành giật vùng

Kashmir vẫn là vết thương nhức nhối truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tại Ấn

Độ. Pakistan muốn thông qua phương thức liên minh với bên ngoài để đạt được địa

vị ngang hàng với Ấn Độ trong khu vực. Việc Trung Quốc từ những năm 1950 đến

nay luôn là đồng minh gần gũi của Pakistan càng làm cho quan hệ Trung - Ấn thêm

căng thẳng. Trung Quốc đã dùng Pakistan để kìm chân Ấn Độ ở cấp độ cường quốc

khu vực trong khi mình tập trung giành lấy vị thế cường quốc Châu Á và thế giới.

Trung Quốc đã liên tục giúp đỡ chương trình vũ khí hạt nhân và tên lửa đạn đạo cho

Pakistan. Hiện nay, Trung Quốc đang là đối tác thương mại lớn nhất của Pakistan.

Kim ngạch buôn bán hai chiều năm 2005 đạt 3.06 tỷ USD. Chính mối quan hệ

khăng khít giữa Trung Quốc và Pakistan đã cản trở tiến trình bình thường hoá quan

hệ giữa Ấn Độ và Pakistan. Một khi Pakistan còn được Trung Quốc "chống lưng"

thì lúc đó họ vẫn do dự trong việc kiềm chế hoạt động khủng bố ở Kashmir, đồng

thời gây căng thẳng trong quan hệ với người "anh em" Ấn Độ. Ấn Độ cũng hết sức

dè chừng với Trung Quốc vì mối quan hệ thân thiết của nước này đối với Pakistan,

một quốc gia thù địch với Ấn Độ. Trong khi mối quan hệ của Ấn Độ và Pakistan

luôn trong tình trạng nghi kỵ lẫn nhau, hai nước lại đang tranh chấp vùng đất

35

Kasmir thì Trung Quốc lại có lập trường ủng hộ Pakistan trong vấn đề này, đồng

thời thực hiện chính sách “tay đấm tay xoa” trong mối quan hệ với Ấn Độ và

Pakistan.

Sự cạnh tranh giữa hai nước cũng được thể hiện rõ nét trong mối quan hệ với

khu vực Đông Nam Á. Hiện cả Trung Quốc và Ấn Độ đang ra sức tăng cường ảnh

hưởng của mình ở khu vực này. Trung Quốc thực hiện chiến lược biển đảo, ý đồ

tiến xuống phía Nam, kiểm soát biển Đông. Trong khi Ấn Độ cũng đang thực hiện

chính sách hướng Đông, với trọng tâm là thúc đẩy quan hệ với các nước ASEAN.

Do đó, có thể thấy sự va chạm giữa hai bên là điều khó có thể tránh khỏi. Năm

2002, Trung Quốc và ASEAN ký kết hiệp định hợp tác kinh tế khung, bước đầu xây

dựng khu vực tự do thương mại (FTA) cho năm 2010, thì Ấn Độ cũng ký với

ASEAN cuối năm 2003 một hiệp ước khung để xây dựng một FTA cho năm 2011.

Hai nước cũng thúc đẩy nhiều dự án hợp tác tiểu vùng khác với các nước ASEAN,

có thể kể đến các dự án như Diễn đàn hợp tác sông Hằng - sông Mêkông (MGC)

được sáu nước Ấn Độ, Myanmar, Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan thông

qua tại Viênchăn tháng 11/2000. Đối với Ấn Độ, lợi ích của MGC là tạo cầu nối

giữa vùng Đông Bắc của Ấn Độ còn kém phát triển với các nước ven sông Mêkông.

Nhưng quan trọng nhất là các nước này là cửa ngõ cho Ấn Độ đến với cả vùng Thái

Bình Dương.

Như vậy quan hệ Trung - Ấn từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao đến trước năm

2002 đã trải qua những giai đoạn thăng trầm. Từ sự nồng ấm khi cùng nhau đề ra

năm nguyên tắc chung sống hoà bình đến những căng thẳng do cuộc xung đột biên

giới năm 1962, từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX hai nước đã có những bước đi

quan trọng để xích lại gần nhau. Đặc biệt, từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, quan

hệ Trung - Ấn càng được cải thiện hơn. Tuy vậy, những bất đồng giữa hai bên trên

nhiều vấn đề, nhất là vấn đề biên giới đang cản trở sự phát triển quan hệ hai nước.

Phải đến những năm đầu thế kỉ XXI, trước những cơ hội và thách thức, quan hệ

Trung - Ấn mới thực sự có bước phát triển mạnh mẽ.

Tiểu kết chương 1

36

Quan hệ Trung - Ấn từ năm 2002 đến năm 2012 là mối quan hệ giữa hai

cường quốc Châu Á đang khảng định vị thế của mình trên thế giới. Mối quan hệ này

chịu sự tác động mạnh mẽ từ các nhân tố chủ quan và khách quan.

Về nhân tố chủ quan, Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước láng giềng có nhiều điểm

tương đồng là nhân tố tiên quyết tạo thuận lợi cho hai nước xây dựng quan hệ. Bên

cạnh đó, quan hệ truyền thống giữa hai nước trong lịch sử cũng là một nền tảng có ý

nghĩa. Thời kỳ quan hệ tốt đẹp (1950 – 1962) là cơ sở lịch sử vững chắc, còn thời kỳ

mâu thuẫn, xung đột (1962 – 2000) chính là thử thách đối với quan hệ Trung - Ấn

và để lại những bài học kinh nghiệm quý báu trong những chặng đường tiếp theo.

Ngoài ra, với tư duy mới của quan hệ quốc tế là đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, cả

Trung Quốc và Ấn Độ đều đang nỗ lực thực hiện cải cách, nên họ rất cần môi

trường hòa bình để phát triển. Nhu cầu đó cũng tạo nhân tố ràng buộc, thôi thúc

Trung Quốc và Ấn Độ phát triển quan hệ hợp tác. Do vậy, từ năm 2002 đến nay cả

Trung Quốc và Ấn Độ đều mong muốn xây dựng quan hệ trên tất cả các mặt.

Về nhân tố khách quan, bối cảnh quốc tế với xu hướng phát triển toàn cầu hóa, đa

cực hóa sau chiến tranh lạnh đã trở thành những nhân tố thuận lợi cho quan hệ

Trung - Ấn. Cả Trung Quốc và Ấn Độ đều mong muốn hướng tới một thế giới đa

cực, điều đó đã trở thành động lực quan trọng cho quan hệ Trung - Ấn.

Những nhân tố chủ quan và khách quan thuận lợi trên đã thúc đẩy mối quan hệ

Trung - Ấn từ năm 2002 đến 2012 không ngừng phát triển toàn diện về mọi mặt.

Chương 2: QUAN HỆ TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ

NHỮNG NĂM 2002 - 2012

2.1. Quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao

Trên cơ sở mối quan hệ đã được thiết lập, quan hệ chính trị Trung Quốc - Ấn

Độ tiếp tục được đẩy mạnh và chiếm vị trí nổi bật trong quan hệ hai nước. Những

kết quả tốt đẹp đó tạo tiền đề và là động lực thúc đẩy quan hệ trên các lĩnh vực khác

phát triển ngày sâu rộng, thực chất, hiệu quả hơn.

Từ đầu năm 2000 đến nay, hàng loạt chuyến thăm lẫn nhau giữa các nhà lãnh

đạo hàng đầu hai bên đã được tiến hành đều đặn. Tháng 5/2000, nhân kỉ niệm 50

năm hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, Tổng thống Ấn Độ K.R Narayanan đã

37

sang thăm Trung Quốc. Trong cuộc hội đàm với Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch

Dân, hai nhà lãnh đạo đã khẳng định hai bên sẽ nỗ lực để giải quyết vấn đề biên giới

trên cơ sở cùng điều chỉnh, nhân nhượng và hiểu biết lẫn nhau, cùng tìm kiếm

những giải pháp công bằng và hợp lí thông qua đàm phán. Cũng trong cuộc hội đàm

này, Chủ tịch Giang Trạch Dân đã đưa ra đề nghị 4 điểm để thúc đẩy quan hệ hai

nước gồm: thường xuyên tổ chức các chuyến thăm lẫn nhau ở các cấp; mở rộng

quan hệ kinh tế; phối hợp hoạt động và hợp tác trong các vấn đề quốc tế; giải quyết

các vấn đề song phương do quá khứ để lại. Từ sau chuyến thăm này, quan hệ giữa

Trung Quốc và Ấn Độ ngày càng phát triển hơn.

Tháng 11/2001, Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc Lý Bằng sang thăm Ấn Độ.

Đây là chuyến thăm của một nhà lãnh đạo cấp cao nhất của Trung Quốc thăm Ấn

Độ kể từ năm 1998. Trong những ngày ở Ấn Độ, Chủ tịch Quốc hội Lý Bằng đã

nhiều lần khẳng định với chính giới và báo giới Ấn Độ rằng: Trung Quốc và Ấn Độ

không phải là những mối đe doạ của nhau[42].

Tháng 1/2002, Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ tiến hành chuyến thăm

hữu nghĩ Ấn Độ trong lúc cục diện Ấn Độ và Pakistan căng thẳng. Đây là chuyến

thăm của một Thủ tướng Trung Quốc tới Ấn Độ sau 10 năm. Vì vậy, nó đặc biệt có

ý nghĩa trong tiến trình phát triển quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Lãnh đạo hai

nước nhất trí tăng cường hợp tác giao lưu trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, thúc đẩy

hợp tác kinh tế khu vực, xử lý những vấn đề còn tồn tại trong quan hệ hai bên, mở

rộng giao lưu, tăng cường hiểu biết, hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau hướng tới tương lai.

Sự kiện này là cột mốc tượng trưng cho quan hệ Trung - Ấn đi vào quỹ đạo bình

thường.

Trên cơ sở những kết quả đạt được, tháng 6/2003, Thủ tướng Ấn Độ A.B

Vajpayee đã đến thăm Trung Quốc. Đây cũng là chuyến thăm của một Thủ tướng

Ấn Độ tới Bắc Kinh sau một thập niên. Trong chuyến thăm này. Thủ tướng A.B

Vajpayee đã có cuộc hội đàm với Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo và cùng thảo

luận nhiều vấn đề quốc tế và khu vực. Phát biểu trên kênh truyền hình Trung ương

Trung Quốc, ông A.B Vajpayee đã khẳng định Trung - Ấn sẽ tập trung xây dựng

lòng tin và sự hiểu biết hơn nữa để từ đó tìm kiếm thêm cơ hội cho sự hợp tác

38

thương mại và công nghệ. Chuyến thăm của Thủ tướng A.B Vajpayee đã minh

chứng cho một thành công đáng mong đợi và cả hai bên đã ra tuyên bố xác định

những nguyên tắc cho quan hệ song phương và hợp tác toàn diện. Thay vì lặp lại các

tuyên bố suông trước đó, Ấn Độ đã xác nhận về việc công nhận khu tự trị Tây Tạng

(TAR) là một vùng thống nhất của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngay sau

chuyến thăm này, Bắc Kinh bằng văn bản đã công nhận Sikkim là một bang của Ấn

Độ bằng cách xóa nó khỏi danh sách các quốc gia độc lập trên website của Bộ

Ngoại giao Trung Quốc. Nhân kết thúc chuyến thăm, hai bên đã ký một loạt thỏa

thuận về tăng cường hợp tác song phương trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ,

đơn giản hóa thủ tục visa xuất nhập cảnh cho công dân hai nước, thỏa thuận thành

lập các công ty liên do anh trong các dự án về nước và năng lượng, mở trung tâm

văn hóa ở Bắc Kinh và New Delhi. Trên nền mở rộng của quan hệ kinh tế, cuộc gặp

cấp cao Trung - Ấn lần này đã đề cập đến những vấn đề chính trị có liên quan đến

hai bên. Đó là khả năng phối hợp trong cuộc chiến chống khủng bố gắn với vấn đề

Kashmir của Ấn Độ và Tây Tạng của Trung Quốc, về nỗ lực chung trên các diễn

đàn quốc tế nhằm ngăn chặn tham vọng đơn phương của Mỹ và nâng cao vai trò ảnh

hưởng của nhau, về bước đi ổn định tình hình của khu vực Nam Á. Sau sự kiện này

quan hệ Trung - Ấn thực sự bước vào một giai đoạn mới của sự phát triển nhanh

chóng.

Đầu năm 2005, hai nước Trung - Ấn đã tổ chức cuộc đối thoại chiến lược đầu

tiên. Hoạt động nổi bật nhất năm 2005 là chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Trung

Quốc Ôn Gia Bảo vào ngày 9/4. Trong chuyến thăm này, các nhà lãnh đạo hai nước

đã có nhiều cuộc trao đổi về những vấn đề song phương, khu vực và quốc tế. Hai

bên đã kí "Tuyên bố chung Trung - Ấn", tuyên bố xây dựng quan hệ đối tác hợp tác

chiến lược hướng tới hoà bình và phồn vinh. Sự kiện này đã có tác động lớn tới cục

diện chiến lược tại Châu Á - Thái Bình Dương. Cũng trong khuôn khổ chuyến thăm

này, đặc phái viên hai nước về vấn đề biên giới đã kí kết "Hiệp định nguyên tắc chỉ

đạo chính trị giải quyết vấn đề biên giới Trung - Ấn".

Sau sự kiện này, hàng loạt những cuộc gặp cấp cao song phương đã diễn ra

càng tăng cường quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Đặc biệt là chuyến thăm Ấn

39

Độ của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào vào ngày 20/11/2006, cao điểm của

"Năm hữu nghị Ấn - Trung 2006". Đây là chuyến viếng thăm đầu tiên của người

đứng đầu nhà nước Trung Quốc đến Ấn Độ sau 10 năm. Sự kiện này có ý nghĩa

quan trọng trong quan hệ chính trị - ngoại giao Trung Quốc. Sau cuộc hội đàm với

những nhà lãnh đạo Ấn Độ, hai bên đã đưa ra tuyên bố chung với nội dung chính là

"chiến lược mười điểm" nhằm mục đích thúc đẩy quan hệ song phương và tăng

cường sự phát triển kinh tế bền vững giữa hai quốc gia. Hai bên cũng nhất trí nâng

tổng kim ngạch thương mại song phương lên 40 tỷ USD vào năm 2010. Kết thúc

chuyến thăm, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào tuyên bố: "Nếu Ấn Độ và Trung Quốc cùng

làm việc với nhau, thế kỷ 21 sẽ thực sự là thế kỷ của Châu Á"[44].

Vào tháng 10/2007, Chủ tịch Đảng Quốc Đại Ấn Độ Sonia Gandhi đã tới

thăm Trung Quốc nhằm thúc đẩy đối thoại chiến lược. Tiếp nối bước tiến triển trong

quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ, từ ngày 13 đến 15/1/2008, Thủ tướng Ấn Độ

Manmohan Singh đã có chuyến thăm Trung Quốc. Đây là chuyến thăm chính thức

đầu tiên trong vòng 5 năm qua ở cấp thủ tướng của Ấn Độ. Trong khuôn khổ

chuyến thăm này, ngày 14/1, hai bên đã ký kết văn kiện chung về “Triển vọng

chung Trung Quốc - Ấn Độ trong thế kỷ XXI”. Nội dung văn kiện này đã đề cập

đến nhiều lĩnh vực, cả đa phương lẫn song phương như: kinh tế, chính trị, năng

lượng, hạt nhân, sự biến đổi khí hậu, giải trừ quân bị, chống khủng bố… Trong đó

nhấn mạnh Trung Quốc và Ấn Độ cần xây dựng quan hệ hữu nghị và tin cậy lẫn

nhau trên cơ sở bình đẳng, thấu hiểu mối quan tâm và mong muốn của nhau. Qua

văn kiện, hai nước đã khẳng định, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ tiếp tục xây dựng quan

hệ đối tác chiến lược với thái độ tích cực. Giới phân tích cho rằng, văn kiện này là

dấu mốc mới trong quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Hai nước cũng thỏa thuận

sẽ xem xét khả năng khởi động các cuộc đàm phán về sự sắp xếp thương mại trong

khu vực trên tinh thần cùng có lợi và có chất lượng cao. Riêng về vấn đề phức tạp,

nhạy cảm nhất là vấn đề biên giới lãnh thổ, Trung Quốc và Ấn Độ đều đã nhất trí

tiếp tục thông qua đàm phán hòa bình để giải quyết các tranh chấp và đảm bảo

những tranh chấp này không ảnh hưởng đến sự phát triển tích cực của quan hệ song

phương. Hai bên cũng nhất trí sẽ tăng cường các hoạt động giao lưu trong lĩnh vực

40

quốc phòng nhằm không ngừng xây dựng niềm tin. Trước những quan ngại của

Trung Quốc về "vòng cung dân chủ" mà Mĩ, Nhật Bản, Australia đang muốn lôi kéo

Ấn Độ tham gia, Thủ tướng M. Singh đã tuyên bố: "Ấn Độ không phải là bộ phận

của bất cứ nỗ lực nào nhằm kiềm chế Trung Quốc"[42].

Năm 2009, từ ngày 8/8 Trung - Ấn đã ký vòng đàm phán thứ 13 về vấn đề

tranh chấp biên giới tại Niu Đêli. Từ ngày 21 đến 22/7 Ngoại trưởng Trung Quốc

Đường Gia Triền thăm Ấn Độ, hai bên đã tiến hành các cuộc thảo luận song phương

để giải quyết bất đồng trên các lĩnh vực.

Năm 2010, hai nước Trung - Ấn kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.

Hai bên đã tiến hành nhiều cuộc thăm viếng lẫn nhau nhằm tăng cường quan hệ hợp

tác giữa hai nước. Ngày 7/1 tại Bắc kinh, Trung Quốc và Ấn Độ đã tiến hành đối

thoại thường niên lần thứ ba. Ngày 26/5, Tổng thống Ấn Độ P.Patin thăm cấp nhà

nước tới Trung Quốc. Hai bên đã nhất trí tăng cường các mối quan hệ chính trị, kinh

tế và thúc đẩy giao lưu nhân dân. Tháng 7/2010 cố vấn An ninh Quốc gia Shri Shiv

Shankar Menon đã đến thăm Bắc Kinh với tư cách là Đặc phái viên của Thủ tướng

và sau đó ông có chuyến thăm vào tháng 11 để tổ chức vòng đàm phán thứ 14 về

vấn đề tranh chấp biên giới Trung - Ấn diễn ra từ ngày 29 đến 30/11/2010, diện kiến

Phó Chủ tịch nước Tập Cận Bình. Từ 15 đến 17/2, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia

Bảo thăm chính thức Ấn Độ nhằm tăng cường hợp tác giữa hai nước.

Tháng 4/2011, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ấn Độ M.

Singh tiến hành hội đàm cấp cao nhằm làm sâu sắc thêm quan hệ hợp tác đối tác

chiến lược. Tháng 9/2011, Bộ trưởng ngoại giao Ấn Độ đã gặp Bộ trưởng ngoại

giao Trung Quốc trong khuôn khổ Hội nghị các nền kinh tế mới nổi (BRICS) bên lề

Đại hội đồng Liên hợp quốc. Ngoài ra, hai bộ trưởng đã có cuộc đàm thoại về các

vấn đề lớn cần quan tâm. Trung Quốc và Ấn Độ đã thiết lập hợp tác chức năng trong

mọi lĩnh vực. Bộ Ngoại giao hai nước đã xây dựng các cơ chế đối thoại về các vấn

đề liên quan đến chống khủng bố, hoạch định chính sách và an ninh, những cuộc đối

thoại chiến lược và tham vấn thường kỳ. Hai bên cũng hợp tác khăng khít trong

nhiều lĩnh vực đa dạng như: tài nguyên nước, tư pháp, khoa học & công nghệ, kiểm

toán, nhân sự, tài chính, lao động… Trung Quốc và Ấn Độ đã thiết lập hợp tác chức

41

năng trong mọi lĩnh vực. Bộ Ngoại giao hai nước đã xây dựng các cơ chế khác

nhau. Có sự tương tác chặt chẽ và thường xuyên giữa Viện chính sách chiến lược và

đối ngoại, việc trao đổi tiếp tục được tăng cường suốt năm 2011. Viện quan hệ quốc

tế đương đại Trung Quốc trao đổi và làm việc thường xuyên với Viện nghiên cứu và

phân tích Quốc Phòng Ấn Độ (IDSA) và Viện nghiên cứu Trung Quốc (ICS). Cuộc

đối thoại kênh II lần thứ ba giữa Diễn đàn Cải cách Trung Quốc và Aspen Ấn Độ

được tổ chức vào tháng 3/2011. Viện liên quân Ấn Độ (USI) có trao đổi với Viện

Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế Trung quốc, và Hội đồng Ấn Độ về các vấn đề thế

giới có sự tiếp xúc với Viện Nhân dân Trung Quốc về Các vấn đề quốc tế (CPIFA).

Các cuộc hội đàm đang được tổ chức theo cặp giữa các Viện của hai nước Trung

Quốc và Ấn Độ. Tháng 9/2012, Ấn Độ và Trung Quốc tổ chức Đối thoại kinh tế

chiến lược lần thứ nhất tại Bắc Kinh. Hai bên đã nhất trí tăng cường hợp tác kinh tế

và tin tưởng lẫn nhau thông qua đối thoại và thúc đẩy quan hệ song phương.

Tháng 3/2012 Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ấn Độ M. Singh

có cuộc gặp bên lề Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS) tại

Niu Đêli. Tháng 11/2012, Ấn Độ và Trung Quốc tổ chức Đối thoại kinh tế chiến

lược lần thứ hai tại Niu Đêli nhằm đẩy mạnh hợp tác trong các dự án hạ tầng và đầu

tư. Tháng 12/2012 Thủ tướng Ấn Độ M. Singh và Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia

Bảo đã có cuộc gặp bên lề Hội nghị cấp cao ASEAN tại Campuchia. Hai nước nhất

trí thúc đẩy hợp tác song phương về kinh tế, thương mại và đầu tư.

Như vậy, có thể thấy rằng, trong những năm đầu thế kỉ XXI, quan hệ chính trị

- ngoại giao Trung Quốc - Ấn Độ, dưới sự thúc đẩy tích cực của lãnh đạo cấp cao

hai nước đã phát triển nhanh chóng, đạt được nhiều thành tựu to lớn.

2.2. Quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ trên lĩnh vực kinh tế và khoa học kỹ

thuật

2.2.1. Hợp tác về kinh tế

Là hai thế lực toàn cầu đang trỗi dậy và là những nền kinh tế phát triển nhanh

nhất trên thế giới, cả Trung Quốc và Ấn Độ đang gia tăng sự ảnh hưởng của mình

vào sự phát triển kinh tế toàn cầu, dự báo sẽ là những nhân tố làm thay đổi trật tự

kinh tế thế giới. Dư luận cho rằng Rồng và Voi đang leo lên cùng nhau trong một

42

con đường lớn. Cả hai đều nhận thấy lợi ích bù đắp cho nhau trong công cuộc xây

dựng đất nước.

Trung Quốc đang là "công xưởng của thế giới" với hai dòng sản xuất kép: vừa là

một trung tâm chế tạo hàng hoá cấp thấp, sử dụng nhiều nhân công đồng thời vừa là

một trung tâm sản xuất hàng hoá có hàm lượng vốn và kĩ thuật cao. Trung Quốc có

thế mạnh về sản xuất hàng hóa và hạ tầng cơ sở. Hiện nay, nền kinh tế Trung Quốc

đã vượt qua Nhật Bản, đứng thứ hai thế giới. Với dân số hơn 1,3 tỷ người, Trung

Quốc là thị trường to lớn mà bất cứ nước nào cũng muốn buôn bán. Trung Quốc coi

hợp tác kinh tế như là “xương sống” trong việc cải thiện mối quan hệ song phương

với Ấn Độ. Ấn Độ đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc tại

Nam Á vào năm 1993 và thương mại hai chiều đã tăng với tốc độ ngoạn mục chưa

từng có. Theo thống kê chính thức của Trung Quốc, thương mại song phương Trung

- Ấn đạt 51,8 tỉ USD vào năm 2008, so với chỉ 2,9 tỉ USD năm 2000, với mức tăng

trưởng trung bình hàng năm là 43%[26, 20/01/2010]. Thương mại song phương đạt

tới con số ấn tượng 10 tỷ USD vào năm 2004, sau đó đạt 18,7 tỉ USD và 38 tỉ USD

tương ứng vào năm 2005 và 2007. Vào năm 2008, kim ngạch xuất khẩu của Trung

Quốc sang Ấn Độ đạt 31,5 tỉ USD (mức tăng hàng năm so với năm 2007 là 31%) và

kim ngạch nhập khẩu từ Ấn Độ đạt 20,28 tỉ USD (tăng 38,7%). Hai chính phủ đã

nối lại mục tiêu đầy tham vọng lên đến 60 tỉ USD trong 2010[22, 28/3/2010]. Vượt

qua Hoa Kỳ, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Ấn Độ trong

năm 2007, trong khi Ấn Độ là một trong những đối tác thương mại lớn của Trung

Quốc (hiện đang đứng thứ 10 về khối lượng tuyệt đối của kim ngạch thương mại hai

chiều).

Ấn Độ cũng là một hiện tượng kinh tế thu hút sự chú ý của thế giới trong những

năm gần đây. Nước này đang hướng đến đích trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 hoặc

thứ 5 của thế giới vào năm 2020. Hiện nay, trong tốp 10 quốc gia hàng đầu trên thế

giới, Ấn Độ được cho là có thể đạt được vị trí thứ 3 vào năm 2050[30, pg 135].

Những ngành kinh tế mạnh nhất của Ấn Độ là dịch vụ và công nghệ thông tin. Năm

2000, Ấn Độ mới chỉ xuất khẩu được 6 tỷ USD sản phẩm phần mềm, nhưng đến

năm 2008 con số đó ước tính là 50 tỷ USD, chiếm 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của

43

Ấn Độ. Công nghiệp phần mềm của Ấn Độ hiện chiếm hơn 20% thị phần thế giới.

Trong số 500 công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới, có tới 300 công ty là có hợp

đồng mua sản phẩm phần mềm của Ấn Độ[17, tr70]. Trong chuỗi sản xuất toàn cầu

và phân công lao động quốc tế, hiện Ấn Độ đang tiếp nhận hàng triệu việc làm đòi

hỏi trình độ kĩ thuật cao từ các công ty đa quốc gia trên thế giới.

Như vậy, có thể thấy tiềm năng phát triển kinh tế của Trung Quốc và Ấn Độ

là rất to lớn. Cả Trung Quốc và Ấn Độ đều nhận thấy việc liên kết kinh tế mật thiết

hơn không chỉ phục vụ mục đích thương mại trước mắt, mà còn củng cố mối quan

hệ song phương nói chung bất chấp những vấn đề còn tồn tại. Trong điều kiện nền

kinh tế đang phát triển nhanh và tiềm năng to lớn của mình, Trung Quốc và Ấn Độ

đã nhất trí rằng sự hợp tác kinh tế ở mức hiện tại vẫn còn chưa tương xứng với năng

lực và tình trạng thực tế của hai nước, và hai nước cần có những sự bổ sung lớn hơn

và lợi thế so sánh để thúc đẩy sự hợp tác kinh tế và thương mại. Hai nước đang xích

lại gần nhau cũng là vì cả hai nhận ra những lợi ích của hợp tác và những điểm họ

bổ sung nhau. Trên một số mặt, cái mạnh của nước này là chỗ yếu của nước kia và

ngược lại. Kết hợp lại, họ sẽ tăng sức mạnh cho nhau. Trung Quốc mạnh về sản xuất

linh kiện máy móc còn Ấn Độ mạnh về dịch vụ và công nghệ thông tin. Trong

chuyến thăm Ấn Độ vào tháng 11/2002, Thủ tướng Chu Dung Cơ đã phát biểu ở

Bangalore: "…một sự kết hợp giữa phần mềm Ấn Độ và phần cứng của Trung Quốc

sẽ có sức hấp dẫn mãnh mẽ đối với thị trường thế giới"[34, pg7]. Trong chuyến

thăm Trung Quốc năm 2003 thủ tướng A.B Vajpayee cùng đoàn đại biểu cấp cao

bao gồm cả các doanh nhân hàng đầu của Ấn Độ. Ông chỉ rõ các lĩnh vực khai thác

tiềm năng và tăng cường hợp tác như công nghệ thông tin, vận tải, ngân hàng và kêu

gọi hai bên khắc phục khoảng cách thông tin[32, 27/6/2003].

2.2.1.1. Về thương mại

Trung Quốc và Ấn Độ là hai nền kinh tế đang nổi phát triển nhanh nhất có một

vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Trung Quốc và Ấn Độ ký Hiệp định

thương mại năm 1954 và ký lại vào tháng 8/1984. Từ năm 1986, hai nước đã ký 7

hiệp định thương mại hàng năm. Từ năm 2000 trở đi, vượt lên những nghi ngại về

an ninh - quốc phòng và tranh chấp biên giới, thương mại Ấn - Trung đã phát

44

triển mạnh, tăng từ khoảng 3 tỉ USD năm 2000 lên đến 38,7 tỉ năm 2007. Trong

chuyến thăm Trung Quốc tháng 1/2008 của Thủ tướng M. Singh, hai nước đã tuyên

bố đặt mục tiêu nâng kim ngạch thương mại hai chiều trong năm 2010 từ 40 tỉ USD

lên 60 tỉ USD. Sự điều chỉnh này diễn ra trong bối cảnh quan hệ kinh tế - thương

mại Trung - Ấn thời gian qua đã có sự tăng trưởng nhanh, mạnh. Trung Quốc hiện

đang là bạn hàng lớn thứ 2 của Ấn Độ và Ấn Độ đang là bạn hàng lớn thứ 10 của

Trung Quốc. Hai nước hiện đang xúc tiến cho việc thiết lập một khu vực tự do

thương mại. Nếu điều này trở thành hiện thực thì chắc chắn nó sẽ có tác động rất lớn

tới nền kinh tế thế giới và sẽ thúc đẩy nhanh việc giải quyết những bất đồng về

chính trị và tranh chấp biên giới giữa hai nước.

Quan hệ kinh tế Trung Quốc - Ấn Độ đóng vai trò là một nhân tố quan trọng

trong quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược giữa hai nước. Nhiều cơ chế, thể chế được

thành lập nhằm tăng cường và thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa hai quốc gia. Ngoài

Nhóm Kinh tế chung Trung - Ấn về các quan hệ kinh tế và thương mại, Khoa học và

Công nghệ (JEG); và Đối thoại kinh tế chiến lược Trung-Ấn (SED), thì đối thoại Tài

chính giữa hai nước cũng đã diễn ra từ năm 2006.

Theo Bản ghi nhớ về việc ra mắt Đối thoại Tài chính giữa Trung Quốc và Ấn Độ,

được ký trong chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tới

Ấn Độ vào tháng 4/2005. Hai bên đã tổ chức thành công năm lần Đối thoại Tài

chính lần lượt vào tháng 4/2006, 12/2007, 1/2009, 9/2010 và 11/2011. Đối thoại tài

chính Trung - Ấn lần thứ năm được tổ chức vào ngày 8/11/2011 tại New Delhi.

Trong suốt cuộc Đối thoại, hai bên đã trao đổi quan điểm về tình hình kinh tế vĩ mô

toàn cầu; chính sách ứng phó, giải quyết những rủi ro hiện tại của kinh tế toàn cầu;

vai trò của Trung Quốc và Ấn Độ trong giai đoạn phục hồi sau khủng hoảng. Các

vấn đề của Nhóm G20 cũng được thảo luận, bao gồm cải cách Hệ thống tiền tệ

Quốc tế và cơ cấu tăng trưởng mạnh mẽ, ổn định và cân bằng. Đối thoại tài chính

Trung - Ấn lần thứ 6 được tổ chức ở Trung Quốc vào Quý IV năm 2012.

Hai bên đã xây dựng cơ chế hợp tác song phương nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế

và thương mại. Có nhiều cơ chế trong cam kết kinh tế và thương mại giữa Ấn Độ và

Trung Quốc. Nhóm Kinh tế chung Trung - Ấn về quan hệ kinh tế và thương mại,

45

khoa học và Công nghệ (JEG) là một cơ chế đối thoại cấp Bộ được thành lập vào

năm 1988 trong chuyến thăm của cựu Thủ tướng Rajiv Gandhi sang Trung Quốc.

Nhóm Nghiên cứu chung (JSG) được thành lập sau chuyến thăm của cựu Thủ tướng

A.B Vajpayee đến Trung Quốc vào tháng 6/2003 để xem xét, đánh giá tình hình khả

năng của hai nước nhằm mở rộng hợp tác kinh tế và thương mại. Như đề nghị của

nhóm này, Lực lượng đặc biệt (JTF) được thành lập để nghiên cứu tính khả thi của

cam kết thương mại khu vực Trung - Ấn. Báo cáo của JTF được hoàn thành vào

tháng 10/2007. Vào tháng 12/2010, hai nước đồng ý thiết lập Đối thoại kinh tế chiến

lược Trung - Ấn (SED). Cuộc đối thoại đầu tiên diễn ra ở Bắc Kinh vào 26/9/2011.

Trong chuyến thăm của Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tới Ấn Độ vào tháng

12/2010, hai nước đã đồng ý thiết lập cơ chế đối thoại kinh tế chiến lược. SED là

một diễn đàn cho cả hai bên thảo luận về các vấn đề kinh tế vĩ mô chiến lược, ảnh

hưởng đến cả hai quốc gia, đây là kết quả của việc thay đổi toàn cảnh kinh tế và tài

chính quốc tế, nhằm chia sẻ kinh nghiệm của mỗi nước trong việc xử lý các vấn đề

thách thức của kinh tế trong nước và xác định các lĩnh vực cụ thể để hai bên tăng

cường hợp tác, học tập và chia sẻ kinh nghiệm. Tọa đàm đầu tiên của SED diễn ra

ngày 26 đến 27/9/2011 ở Bắc Kinh. Phía Ấn Độ do Phó Chủ tịch Ủy ban kế hoạch

nhà nước Montek Singh Ahluwalia dẫn đầu còn phía Trung Quốc là Chủ tịch Ủy

ban quốc gia về Cải cách và Phát triển dẫn đầu. Một số những vấn đề được thảo luận

trong tọa đàm SED bao gồm giới thiệu các kế hoạch ưu tiên lần thứ 12 của hai nước,

thảo luận chính sách tiền tệ và tài chính của mỗi nước, chính sách đầu tư của hai

nước, những chính sách bảo tồn năng lượng và bảo vệ môi trường …; SED còn có

một chuyến viếng thăm Thiên Tân và giới thiệu với phái đoàn đại biểu cấp cao Ấn

Độ cơ sở khử muối cho nước. Vào cuối cuộc họp chính thức hai bên đã ký Biên bản

thỏa thuận cuộc họp đầu tiên của SED. Phái đoàn Ấn Độ cũng đã diện kiến Thủ

tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo.

Năm 2012, Trung Quốc và Ấn Độ tiến hành Đối thoại kinh tế chiến lược lần thứ hai

tại Niu Đêli. Hai nước đã ký 11 thỏa thuận thúc đẩy hợp tác, trong đó có thỏa thuận

nghiên cứu chung về chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế giữa Ủy ban Kế

hoạch kinh tế Ấn Độ và Ủy ban Phát triển và cải cách nhà nước Trung Quốc, thỏa

46

thuận về tăng cường hợp tác kỹ thuật trong lĩnh vực đường sắt, về sử dụng hiệu quả

năng lượng và công nghệ thông tin…

Hai nước đã thành lập nhóm kinh tế chung về các quan hệ kinh tế và thương mại,

Khoa học và Công nghệ (JEG). Đây là một cơ chế đối thoại cấp Bộ được thành lập

vào năm 1988 trong chuyến thăm của cựu Thủ tướng Rajiv Gandhi sang Trung

Quốc. JEG cho đến 2010 có đã tám kỳ họp.

Lịch trình 7 kỳ họp trước của JEG như sau:

Kỳ họp đầu tiên New Delhi 18, 20/9/1989

Kỳ họp thứ hai Bắc Kinh 6/2/1991

Kỳ họp thứ ba New Delhi 9/12/1991

Kỳ họp thứ tư Bắc Kinh 4/1/1993

Kỳ họp thứ năm New Delhi 13/6/1994

Kỳ họp thứ sáu Bắc Kinh 19, 20/2/2000

Kỳ họp thứ bảy New Delhi 16/3/2006

Hội nghị lần thứ 8 của JEG được tổ chức tại Bắc Kinh vào 19/1/2010. Hội nghị do

Bộ trưởng bộ Thương mại & Công nghiệp Ấn Độ Anand Sharma và Bộ trưởng

Thương mại Trung Quốc Chen Deming chủ trì. Trong hội nghị lần thứ 8, các Bộ

trưởng Thương mại của hai nước đã nhất trí tập trung phát triển thương mại cân

bằng hơn. Trung Quốc cam kết sẽ tăng cường nhập khẩu từ Ấn Độ. Hội nghị lần thứ

9 sẽ diễn ra ở Ấn Độ.

Các cơ chế, thể chế, thỏa thuận về kinh tế - thương mại đã đem lại những kết quả

to lớn: Thương mại song phương Trung - Ấn tăng nhanh trong những năm gần đây

từ mức thấp 2,92 tỷ USD năm 2000 đạt đến 61,7 tỷ USD trong năm 2010, làm cho

hai nước trở thành đối tác thương mại hàng hóa lớn nhất của nhau. Năm 2008,

thương mại song phương đạt 51,8 tỷ USD và Trung Quốc thay thế Mỹ trở thành đối

tác thương mại hàng hóa lớn nhất của Ấn Độ. Vào cuối năm 2009, do suy thoái kinh

tế thế giới nên thương mại song phương giảm xuống 43,27 tỷ USD (giảm 16,54%).

Tuy nhiên, vào năm 2010 thương mại song phương đạt mốc 61,74% tăng 43% so

với cùng kỳ năm ngoái. Ấn Độ xuất khẩu hàng hóa trị giá 20,86 tỷ USD (tăng 52%)

sang Trung Quốc và nhập từ Trung Quốc trị giá 40,88 tỷ USD (tăng 38%). Trong 8

47

tháng đầu năm 2011, thương mại song phương Trung - Ấn đạt 48,17 tỷ USD (tăng

19,47% so với cùng kỳ năm ngoái). Tổng kim ngạch xuất khẩu của Ấn Độ sang

Trung Quốc thời kỳ này là 15.68 tỷ USD (tăng 7,37%) và xuất khẩu của Trung

Quốc sang Ấn Độ đạt 32,49 tỷ USD (tăng 26,33%). Trung Quốc là một trong ba đối

tác thương mại hàng đầu của Ấn Độ trong khi Ấn Độ là một trong mười đối tác

thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Hơn nữa, trong mười đối tác thương mại lớn

nhất của Trung Quốc thì thương mại của Trung Quốc với Ấn Độ đang tăng nhanh

hơn các đối tác khác. Và tương tự, trong top 3 đối tác thương mại lớn nhất của Ấn

Độ thì thương mại Ấn Độ với Trung Quốc tăng nhanh hơn các đối tác còn lại[phụ

lục 3].

Hợp tác kinh tế - thương mại song phương phát triển nhanh đã tăng cường sự

phụ thuộc lẫn nhau của hai cường quốc Châu Á, tạo ra một hiệu ứng tích cực cho

việc nhận thức chiến lược phát triển của nhau và làm cho bản chất của mối quan hệ

song phương liên quan nhiều hơn đến lợi ích cốt lõi của mỗi bên. Ưu tiên hợp tác

kinh tế và tăng cường quan hệ thương mại cũng giúp họ đánh giá tầm quan trọng

của một mối quan hệ không đối đầu và để điều chỉnh các lựa chọn chính sách cho

phù hợp.

2.2.1.2. Về hợp tác đầu tư

Ngoài phát triển thương mại hai chiều, Trung - Ấn đang có nhiều dự án hợp

tác với nhau trên các lĩnh vực về năng lượng, nông nghiệp và du lịch. Ngày

6/7/2006, Trung Quốc và Ấn Độ đã tổ chức buổi lễ tái lập giao thương hàng hoá qua

đèo Nathu La trên dãy Himalaya ở biên giới giữa Tây Tạng và bang Sikkim của Ấn

Độ. Đại sứ Trung Quốc tại Ấn Độ Sun Yuxi nói: "Chúng tôi hi vọng việc mở lại con

Đường Tơ lụa sẽ cải thiện hơn nữa quan hệ giữa hai nước"[44].

Về hợp tác đầu tư, Trung Quốc và Ấn Độ đang tiến hành đầu tư ngày càng

nhiều vào thị trường của nhau. Trung Quốc đang mở cửa và tạo ra những cơ chế

thông thoáng để thu hút đầu tư từ Ấn Độ, nhất là trong lĩnh vực công nghệ phần

mềm. Trong chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Chu Dung Cơ vào tháng 11/2002,

Trung Quốc đã đồng ý cho nhiều công ty phần mềm Ấn Độ mở văn phòng và trung

tâm phát triển phần mềm ở Thượng Hải. Các công ty Ấn Độ cũng coi Trung Quốc là

48

một thị trường tiềm năng, để từ đó mở rộng kinh doanh ra các thị trường Châu Á

khác.

Trung quốc đầu tư vào Ấn Độ: năm 2007: 16 triệu USD; năm 2008: 49,1 triệu USD

(đầu tư tích lũy tính đến 12/2008 ở mức 91,1 triệu USD; năm 2010: 33 triệu USD;

năm 2011: 50,77 triệu USD (sự đầu tư phi tài chính của Trung quốc vào Ấn Độ);

Tính đến tháng 10/2011: Tồng vốn đầu tư vào Ấn Độ là 289, 75 triệu USD.

Ấn Độ đầu tư vào Trung Quốc: năm 2006: 52 triệu USD; năm 2007: 34 triệu USD

với 78 dự án; năm 2008: 257 triệu USD với 92 dự án (tổng doanh thu thu về là 88,1

triệu USD và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tích lũy từ Ấn Độ vào Trung

Quốc với 426 dự án tính đến năm 2008 là 898 triệu USD); 2010: Vốn FDI của Ấn

Độ đầu tư vào Trung Quốc với 77 dự án là 55 triệu USD; năm 2011: vốn FDI của

Ấn Độ đầu tư vào Trung Quốc với 83 dự án là 33,45 triệu USD; Tính đến 10/1011:

tổng vốn FDI Ấn Độ đầu tư vào Trung Quốc 676 dự án là 432,98 triệu USD[24, pg

11].

Các hợp đồng dự án của Trung Quốc đầu tư vào Ấn Độ: năm 2007: hợp đồng trị giá

4,56 tỷ USD, doanh thu thu về 1,99 USD; năm 2008: hợp đồng trị giá 12,9 tỷ USD,

doanh thu 4,3 tỷ USD; năm 2010: hợp đồng trị giá 6,9 tỷ USD, doanh thu 5,8 tỷ

USD; năm 2011: hợp đồng trị giá 13,6 tỷ USD, doanh thu 4,5 tỷ USD. Trị giá tích

lũy các hợp đồng Trung Quốc đầu tư vào Ấn Độ (các dự án) tính đến tháng 10/2011

là 53,46 tỷ USD. Tổng doanh thu thu về từ các dự án này tính đến tháng 10/2011

khoảng 24,57 tỷ USD[24, pg 11].

Trong những năm qua, với sự phát triển thương mại song phương giữa Trung Quốc

và Ấn Độ, nhiều công ty Ấn Độ đã bắt đầu thiết lập hoạt động tại Trung Quốc để

phục vụ cho công dân Ấn Độ và các công ty đa quốc gia ở Trung Quốc. Doanh

nghiệp Ấn Độ hoạt động ở Trung Quốc theo nhiều hình thức: hoặc là mở văn phòng

đại diện, hoặc hoạt động với tư cách là các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài

hoặc liên doanh với các công ty Trung Quốc tham gia vào lĩnh vực sản xuất (dược

phẩm, vật liệu chịu lửa, ống nhiều lớp, thành phần tự động hóa, năng lượng gió,…),

công nghệ thông tin và công nghệ thông tin ứng dụng (gồm giáo dục công nghệ

thông tin, giải pháp phần mềm, và các sản phẩm phần mềm chuyên biệt), kinh

49

doanh, ngân hàng và các hoạt động có liên quan. Trong khi cộng đồng thương mại

Ấn Độ chỉ bó hẹp trong các thành phố cảng lớn như Quảng Châu và Thâm Quyến,

thì nhiều công ty Ấn Độ hoạt động ở nhiều nơi có nhà kho và chợ đầu mối của

Trung Quốc. Hầu hết các công ty Ấn Độ đều có hoạt động ở Thượng Hải - Trung

tâm tài chính của Trung Quốc. Một số công ty Ấn Độ lớn có mặt ở Trung Quốc bao

gồm: các công ty dược Dr. Reddy‟s Laboratories, Aurobindo Pharma, Matrix

Pharma; NIIT (công ty đào tạo và giáo dục toàn cầu); Bharat Forge (chuyên chế tạo

các bộ phận của máy kéo); Infosys (công ty phần mềm); TCS (công ty phần mềm);

APTECH (công ty đào tạo và giáo dục công nghệ thông tin); Wipro (tập đoàn công

nghệ thông tin); Mahindra Satyam (công ty phần mềm); Dr. Reddy‟s, Essel

Packaging; Suzlon Energy, Reliance Industries, SUNDARAM Fasteners, Mahindra

& Mahindra, TATA Sons, Binani Cements…Hiện có hơn 80 công ty Ấn Độ lớn nhỏ

hoạt động ở Trung Quốc, với doanh số ngày càng tăng, đa số thuộc về công nghệ

thông tin và tập trung ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Đông, một số rải rác ở các

tỉnh Chiết Giang, Giang Tô và Thiểm Tây. Gần đây, Công ty dịch vụ phầm mềm

Infosys đã công bố dự án đầu tư 65 triệu USD để thành lập cơ sở nghiên cứu và đào

tạo tại Thượng Hải và Hàng Châu.

Các công ty Trung Quốc cũng đang tích cực xâm nhập thị trường Ấn Độ. Theo

thông tin từ Đại sứ quán Ấn Độ, gần 100 công ty Trung Quốc đã mở văn phòng

hoặc đang hoạt động tại Ấn Độ. Nhiều công ty nhà nước lớn của Trung Quốc

chuyên về lĩnh vực máy móc và xây dựng cơ sở hạ tầng đã giành được nhiều dự án

ở Ấn Độ và đã mở văn phòng dự án tại Ấn Độ. Những công ty này gồm Công ty

thép Sinosteel, Công ty thương mại Shougang International, Công ty TNHH Sắt và

Thép Baoshan, Công ty TNHH công nghiệp nặng Sany, Công ty TNHH công

nghiệp Lifan Trùng Khánh, Công ty thương mại China Dongfang International, Tập

đoàn thủy điện Sino Hydro…Nhiều công ty sản xuất phần cứng, công nghệ thông

tin và điện tử cũng đang hoạt động tại Ấn Độ. Những công ty này gồm có Công ty

TNHH kỹ thuật Technologies, ZTE, TCL, Haier…Một số lượng lớn các công ty

Trung Quốc đang tham gia vào các dự án Thiết kế - Mua sắm - Xây dựng (EPC)

trong ngành điện. Những công ty này gồm Shanghai Electric, Harbin Electric,

50

Dongfang Electric, Thẩm Dương Electric…Tập đoàn ô tô lớn của Trung Quốc - Tập

đoàn ô tô Bắc Kinh (BAIC) vừa công bố kế hoạch đầu tư 250 triệu USD trong một

nhà máy ô tô ở Pune. TBEA - Nhà sản xuất máy biến áp ở Tân Cương đã khẳng

định lập kế hoạch đầu tư vào một cơ sở sản xuất ở Gujarat. Trong chuyến thăm của

cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo sang Ấn Độ, công ty Huawei đã công bố kế hoạch đầu

tư vào cơ sở sản xuất thiết bị viễn thông tại Chennai. Đáng kể là các công ty

Huawei, Haier và Zhongxing Telecom Enterprise (ZTE) - Công ti truyền thông lớn

nhất Trung Quốc. Tuy vậy, môi trường đầu tư ở Ấn Độ chưa thực sự thu hút các nhà

sản xuất Trung Quốc bởi sự yếu kém của cơ sở hạ tầng và hạn chế của luật đầu tư.

Hiện luồng FDI từ Trung Quốc vào Ấn Độ còn chưa tương xứng với tiềm năng.

Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp Ấn vẫn thường than phiền vì những hàng hoá của

Trung Quốc tràn ngập Ấn Độ bất kể chất lượng xấu hơn những hàng hoá mà Trung

Quốc bán sang thị trường các nước phương Tây. Vì vậy, Ấn Độ vẫn chưa công nhận

Trung Quốc là nền kinh tế thị trường[24, pg 11]..

Trong lĩnh vực Ngân hàng: Trong những năm qua, nhiều ngân hàng Ấn Độ đã thiết

lập hoạt động tại Trung Quốc đại lục. Bốn ngân hàng Ấn Độ, cụ thể là Ngân hàng

Nhà nước Ấn Độ (Thượng Hải), Ngân hàng Ấn Độ (Thâm Quyến), Ngân hàng

Canara (Thượng Hải) và Ngân hàng Baroda (Quảng Châu) có văn phòng chi nhánh

tại Trung Quốc. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Ấn Độ là ngân hàng duy nhất của

Ấn Độ được quyền kinh doanh lưu hành Nhân dân tệ ở chi nhánh Thượng Hải.

Ngoài ra, các văn phòng đại diện của ngân hàng Ấn Độ sau đây cũng được phép

hoạt động tại Trung Quốc đại lục: Ngân hàng Axis, Thượng Hải; Ngân hàng nhà

nước Punjab, Thượng Hải; Ngân hàng Ấn Độ Union Bank, Thượng Hải; Ngân hàng

ICICI Bank, Thượng Hải; Ngân hàng Ấn Độ, Bắc Kinh; Ngân hàng Allahabad,

Thâm Quyến; Ngân hàng UCO, Quảng Châu; Ngân hàng Indian Overseas Bank,

Quảng Châu; Ngân hàng nhà nước Ấn Độ, Thiên Tân. Nhiều Ngân hàng Ấn Độ

đang có kế hoạch nâng cấp văn phòng đại diện tại Trung Quốc thành các văn phòng

chi nhánh và các văn phòng chi nhánh hiện hành được cấp phép kinh doanh lưu

hành Nhân dân tệ[24, pg 16].

51

Đầu năm 2011, Ngân hàng Thương mại và Công nghiệp Trung Quốc (ICBC) đã

được cấp phép để bắt đầu hoạt động tại Ấn Độ. ICBC đã khai trương chi nhánh ở

Mumbai vào ngày 15/9/2011. Sự kiện này đánh dấu sự mở đầu chi nhánh đầu tiên

của một ngân hàng Trung Quốc đại lục hoạt động ở Ấn Độ.

Hàng không dân dụng: Trong chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Ôn Gia Bảo từ

ngày 9 đến ngày 12/4/2005, hai bên đã ký một Bản ghi nhớ, cho phép tự do hóa

phần lớn liên thông hàng không giữa hai nước Trung Quốc và Ấn Độ đối với nhiều

loại tàu bay và chính sách mở cửa đối với vận chuyển hàng hóa bằng hàng không,

sự gia tăng thương quyền hàng không, thêm nhiều điểm gọi và gia tăng số lượng các

điểm trung gian và nhiều điểm khác. Theo Bản ghi nhớ, các hãng hàng không được

chỉ định của hai bên có quyền tự do lưu thông không giới hạn với các quyền vận

chuyển hàng hóa trong các thương quyền thứ 3, 4, 5 với quyền vận chuyển các hàng

hóa được quy định. Xét về tần số, thỏa thuận này cho phép tự do hóa hàng không

dân dụng phép cho 42 chuyến bay một tuần. Hiện nay các hãng hàng không được

chỉ định trên được phép tùy ý sử dụng tối đa 42 chuyến một tuần. Tăng số lượng

chuyến bay sẽ thể hiện cho khả năng thương mại và khả năng đáp ứng của ngành

hàng không. Hiện tại, năm hãng hàng không: Air China (5 chuyến/ tuần), China

Eastern (8 chuyến/ tuần), China Southern (3 chuyến/ tuần), Hàng không Ấn Độ (4

chuyến/ tuần), và Ethiopia Airways (4 chuyến /tuần) hiện đang hoạt động với tổng

số 24 chuyến bay qua lại giữa Trung Quốc và Ấn Độ mỗi tuần. Các thành phố kết

nối các chuyến bay là Bắc Kinh - New Delhi; Quảng Châu - New Delhi, Thượng

Hải - New Delhi, Thượng Hải - Mumbai, Côn Minh - Kolkata và Thành Đô -

Bengaluru. Hãng hàng không Shanghai Airlines cũng đã bày tỏ sự quan tâm sâu sắc

đến việc vận hành các chuyến bay trực tiếp đến Ấn Độ. Vào tháng 9/2010, Bộ Ngoại

giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ủy quyền cho hãng Hải Nam Airways được vận

hành các chuyến bay thẳng giữa Ấn Độ và Trung Quốc[24, pg 6].

Tuy nhiên, bên cạnh mức tăng trưởng ổn định, thương mại song phương và quan hệ

kinh tế giữa hai quốc gia cũng gặp phải một số thách thức không nhỏ. Với khoảng

cách thương mại được nới rộng có lợi cho Trung Quốc (hơn 20 tỷ USD trong năm

2009), tranh chấp thương mại và một cuộc chiến thương mại ngầm đã trở thành đặc

52

trưng của các quan hệ thương mại song phương. Ấn Độ cho rằng Trung Quốc đã

được hưởng lợi thực sự trong việc nới rộng thương mại hai chiều vì những lợi ích

chủ yếu nghiêng về Trung Quốc hơn là Ấn Độ. Sự chênh lệch ngày càng lớn này bắt

nguồn từ rất nhiều khía cạnh. Theo các nhà phân tích Trung Quốc, vấn đề giao dịch

hiện hành chủ yếu là do một thành phần mất cân bằng thương mại và bất lợi so sánh

của hàng hóa Ấn Độ. Mặt khác, Ấn Độ còn nhiều hạn chế khi tiếp cận thị trường nội

địa Trung Quốc và chính sách thương mại còn nhiều rào cản của Trung Quốc.

Xuất khẩu của Ấn Độ sang Trung Quốc chủ yếu là nguyên liệu thô và các sản phẩm

thép bán thành phẩm, trong đó quặng sắt chiếm khoảng 70% vào năm 2008. Trong

khi đó Trung Quốc xuất khẩu sang Ấn Độ những hàng hóa có giá trị gia tăng như

các thiết bị điện, điện tử, hóa chất hữu cơ và một loạt các hàng hóa tiêu dùng. Để

hạn chế hàng Trung Quốc tràn lan, Ấn Độ có xu hướng áp dụng sự bảo hộ. Ví dụ,

chính phủ Ấn Độ đã thường xuyên kêu gọi chống bán phá giá của các mặt hàng xuất

khẩu Trung Quốc và Trung Quốc trở thành mục tiêu lớn nhất trong chiến lược

chống bán phá giá của Ấn Độ. Ngoài ra, cộng đồng doanh nghiệp Ấn Độ kêu gọi

giảm xuất khẩu nguyên liệu thô bao gồm quặng sắt và mở rộng xuất khẩu các sản

phẩm dịch vụ, công nghệ thông tin sang Trung Quốc để khắc phục sự mất cân bằng

trong xuất nhập khẩu.

Ngoài các tranh chấp và cạnh tranh thương mại, hợp tác đầu tư cũng bị ảnh hưởng

bởi những hạn chế mới của Ấn Độ đối với các công ty Trung Quốc tham gia đấu

thầu các dự án xây dựng ở Ấn Độ. Ấn Độ đã thu hẹp việc cấp visa cho nhân công có

tay nghề cao của Trung Quốc. Vì vấn đề an ninh, Ấn Độ đã hạn chế tạo cơ hội cho

các nhà thầu Trung Quốc tiếp cận vào các dự án cơ sở hạ tầng "nhạy cảm chiến

lược" như các công trình cảng và sân bay cũng như viễn thông. Số lượng visa cấp

cho lao động của Trung Quốc đối với các dự án đã thỏa thuận ở Ấn Độ giảm mạnh

từ 20.000 trong năm 2008 xuống còn dưới 3.000 trong năm 2009, tạo nên bất bình

từ phía Trung Quốc.

Ngoài ra, việc Ấn Độ tăng cường hợp tác nhiều mặt với ASEAN sẽ có lợi trong

việc thúc đẩy sự phát triển và cùng thịnh vượng của khu vực Châu Á tuy nhiên quá

trình này cũng sẽ mang lại cho Trung Quốc sự cạnh tranh khốc liệt. Một mặt phải

53

cạnh tranh lại chiến lược “tiến Đông” đang hết sức thành công của Ấn Độ. Mặt khác

Trung Quốc phải tiếp tục củng cố vị trí và tăng cường sức ảnh hưởng với khu vực

ASEAN. Cạnh tranh chủ yếu tập trung ở các lĩnh vực như thương mại, đầu tư và tài

nguyên khoáng sản. Cả Ấn Độ và Trung Quốc đều là những cường quốc mới nổi,

nhu cầu về nguồn tài nguyên khoán sản, thị trường, đầu tư hợp tác… ngày càng trở

nên cấp thiết. Trong khi đó ASEAN lại là đối tác kinh tế ưu tiên hàng đầu của cả Ấn

Độ lẫn Trung Quốc. Với những lý do này, vô hình chung ASEAN đã trở thành tiêu

điểm của sự cạnh tranh của hai cường quốc này và khi đó Ấn Độ sẽ là một thách

thức lớn trong chiến lược “tiến Nam” của Trung Quốc. Một trong những mục tiêu

quan trọng của chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ tìm cách cân bằng sức ảnh

hưởng của Trung Quốc tại khu vực này. Trong đó đặc biệt quan trọng là sự phụ

thuộc của các nước ASEAN với Trung Quốc trong vấn đề kinh tế, đầu tư và thương

mại. Năm 2011 thương mại giữa ASEAN - Trung Quốc đạt kỷ lục 363 tỉ USD trong

khi đó năm 2012 Ấn Độ và ASEAN chỉ đạt kim ngạch thương mại ở con số 70 tỷ

USD[56]. Một trong những tác động tích cực của chính sách “hướng Đông” đối với

khu vực ASEAN, Ấn Độ đang từng bước giúp các nước trong khu vực này cân bằng

mức thâm hụt thương mại, mậu dịch ngày càng tăng với Trung Quốc. Thâm hụt

thương mại của ASEAN với Trung Quốc với các năm 2000 và 2011 lần lượt là

3,958 tỷ USD và 24,589 tỷ USD trong khi thặng dự thương mại của khu vực này với

Ấn Độ lần lượt là 3,237 tỷ USD và 17,081 tỷ USD[46]. Dù kim ngạch thương mại

hai chiều vẫn còn khiêm tốn nhưng cả Ấn Độ và các nước ASEAN đã tăng trưởng

với tốc độ nhanh trong một thập kỷ qua. Ấn Độ và ASEAN cũng đã thông qua lần

cuối Hiệp định thương mại về dịch vụ và đầu tư nhằm bổ sung cho Hiệp định về

hàng hóa và đề ra mục tiêu sẽ nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên hơn 100 tỷ

USD vào năm 2015[55]. Đây có thể xem là thách thức lớn nhất đối với chính sách

“đi ra ngoài” của Bắc Kinh đồng thời cũng là phép thử đối với chính sách ngoại giao

hài hòa mà Trung Quốc đang triển khai.

Mặc dầu còn nhiều hạn chế nhưng nhìn chung trong những năm đầu thế kỉ XXI,

quan hệ kinh tế Trung - Ấn đang có những bước tiến lớn. Trong xu thế toàn cầu hoá,

54

hợp tác cùng có lợi sẽ là hướng chủ đạo trong quan hệ hai nước. Điều này sẽ góp

phần tạo dựng một Châu Á hoà bình, thịnh vượng.

2.2.2. Hợp tác khoa học – kỹ thuật

Trên lĩnh vực khoa học - kĩ thuật, Trung Quốc và Ấn Độ đều có đội ngũ

chuyên gia lớn trong các lĩnh vực năng lượng hạt nhân, kĩ thuật vũ trụ, kĩ thuật điện

tử, công nghệ sinh học, hải dượng học, công nghệ thông tin. So sánh thế mạnh của

hai bên trong 7 lĩnh vực khoa học - kỹ thuật cho thấy Trung Quốc dẫn đầu trong 5

lĩnh vực như máy móc điện tử, nghiên cứu gen gạo, công nghệ nông nghiệp, kỹ

thuật không gian và kỹ thuật năng lượng trong khi Ấn Độ mạnh hơn trong hai ngành

tin học phần mềm và dược phẩm. So sánh 15 chỉ báo về lợi thế cạnh tranh (sáng tạo,

đầu tư, thiết kế sản phẩm, hợp tác với các trường Đại học,…), thì hai bên ngang

ngửa nhau, Trung Quốc dẫn đầu cho 8 chỉ báo và Ấn Độ là 7. Với thế mạnh như

vậy, khả năng hợp tác sâu rộng về khoa học - kĩ thuật giữa Trung Quốc và Ấn Độ là

rất hiện thực.

Nhìn lại quá khứ, tháng 12/1988, Thủ tướng Ấn Độ Grandi sang thăm Trung

Quốc, mở ra một thời kỳ mới cho quan hệ hai nước. Hai bên nhất trí trước khi giải

quyết các vấn đề về biên giới, nỗ lực cải thiện và phát triển quan hệ hai nước, đồng

thời quyết định thành lập Ủy ban liên hiệp Khoa học kỹ thuật (JCSTC) và kí kết

hiệp định về hợp tác khoa học kỹ thuật, từ đó đặt nền móng vững chắc cho quan hệ

hợp tác khoa học kỹ thuật của hai nước.

Năm 1991, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng sang thăm Ấn Độ, kí kết Bản ghi

nhớ về hợp tác khoa học kỹ thuật không gian ngoài Trái đất.

Năm 2002, Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ sang thăm Ấn Độ, hai bên

kí kết 6 văn kiện hợp tác trên các lĩnh vực như khoa học kỹ thuật, thủy lợi, không

gian…, thúc đẩy phát triển hơn nữa quan hệ hợp tác trên lĩnh vực khoa học kỹ thuật

giữa Trung Quốc và Ấn Độ.

Năm 2003, hai nước đã thành lập Nhóm công tác chung về công nghệ thông

tin và điện tử để hợp tác phát triển phần mềm tin học.

55

Tháng 4/2005, thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo sang thăm Ấn Độ, hai

nước ra “Tuyên bố chung Trung Quốc - Ấn Độ”, tuyên bố xây dựng quan hệ đối tác

hợp tác chiến lược hướng tới hòa bình và phồn vinh.

Tháng 9/2006, Bộ khoa học công nghệ hai nước ki kết “Bản ghi nhớ Hợp tác

khoa học kỹ thuật” tại Bắc Kinh, thành lập Ủy ban chỉ đạo hợp tác khoa học kỹ

thuật Trung Quốc - Ấn Độ cấp Bộ trưởng. Đây là bước tiến quan trọng trên phương

diện hợp tác khoa học kỹ thuật giữa hai nước, góp phần phối hợp giải quyết các vấn

đề mang tính chiến lược trong việc hợp tác giữa hai nước, cũng như chỉ đạo thúc

đẩy phát triển hợp tác khoa học kỹ thuật giữa hai nước.

Tháng 11/2006, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào có chuyến thăm hữu nghị

chính thức Ấn Độ. Hai bên ra “Tuyên bố chung”, đề ra “Mười hạng mục chiến

lược” nhằm làm sâu sắc hóa quan hệ đối tác hợp tác giữa hai nước, trong đó có một

nội dụng rất quan trọng về thúc đẩy hợp tác trên lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Hai bên

cho rằng cần xây dựng quan hệ đối tác trên lĩnh vực này, đồng thời nhất trí triển

khai hợp tác chung trên 4 lĩnh vực: địa chấn công trình học; biến đổi khí hậu và dự

báo thời tiết; kỹ thuật nano cho các vật liệu tiên tiến; kỹ thuật sinh học và chế dược

theo công nghệ nano.

Kể từ năm 1988 hai bên lần đầu tiên ký kết hiệp định hợp tác khoa học kỹ

thuật giữa hai chính phủ đến nay đã có hơn 20 Bản ghi nhớ và Hiệp định hợp tác

khoa học kỹ thuật được kí kết giữa các bộ ngành có liên quan của hai nước. Hai bên

đã tổ chức 5 hội nghị Ủy ban liên hiệp khoa học kỹ thuật, xác định hàng chục dự án

hợp tác giữa hai nước. Hợp tác khoa học kỹ thuật giữa Trung Quốc và Ấn Độ phát

triển sâu rộng trên nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, kỹ thuật sinh học, hóa học, y tế,

điện tử, vật liệu mới….

Trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, Trung - Ấn đang phối hợp với nhau

trong việc sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình, xây dựng các trung

tâm đào tạo công nghệ hạt nhân. Trong chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng M.

Singh vào tháng 1/2008, hai bên đã thống nhất về việc Trung Quốc ủng hộ "Thoả

thuận hạt nhân Mĩ - Ấn" và sẵn sàng hợp tác với Ấn Độ trong lĩnh vực năng lượng

56

hạt nhân vì mục đích hoà bình. Ngoài ra, hai bên cũng đã kí kết Chương trình hợp

tác khoa học trong lĩnh vực công nghệ sinh học và môi trường sinh thái.

Có thể thấy, trong xu thế hội nhập cùng phát triển hiện nay, hợp tác khoa học

- kĩ thuật giữa Trung Quốc và Ấn Độ đang có được những kết quả khả quan. Tương

lai, hai nước chắc chắn sẽ còn có những hoạt động hợp tác chặt chẽ hơn.

2.3. Quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ trên lĩnh vực an ninh – quốc phòng

Từ sau Chiến tranh lạnh, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều cần có môi trường an

ninh để phát triển kinh tế. Tuy nhiên trong môi trường quốc tế của thời kỳ quá độ

hình thành một trật tự thế giới mới, các mối quan hệ đều mang tính chất vừa hợp tác

vừa kiềm chế, cạnh tranh; vừa là bạn bè vừa là đối thủ, thực tế này đã tạo sự bất ổn

cho môi trường an ninh chung. Ngoài ra cả Trung Quốc và Ấn Độ đều đang đứng

trước nhiều thách thức về an ninh quốc gia từ bên trong như: chủ nghĩa khủng bố,

chủ nghĩa khai…Về vấn đề an ninh - quốc phòng, quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn

Độ những năm đầu thế kỉ XXI cũng được sưởi ấm dần theo những bước tiến của

quan hệ chính trị - ngoại giao. Trước những thay đổi của quan hệ quốc tế trong thế

kỉ mới, Trung Quốc và Ấn Độ đang cố gắng vượt lên những nghi ngại để cùng xây

dựng một môi trường an ninh hoà bình, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Trong

chuyến thăm Trung Quốc vào tháng 6/2003, Thủ tướng A.B Vajpayee đã phát biểu:

"Trung Quốc không tạo ra bất cứ sự đe doạ nào đối với Ấn Độ cũng như Ấn Độ tin

rằng Trung Quốc cũng không coi Ấn Độ như một mối đe doạ"[35, pg5] Cả hai nước

đều phải đối phó với chủ nghĩa li khai và khủng bố. Vì vậy, tăng cường hợp tác an

ninh quốc phòng sẽ có lợi cho đôi bên, nhất là ở những vùng biên giới tranh chấp.

2.3.1. Hợp tác an ninh biên giới

Mặc dù Trung Quốc và Ấn Độ đều mong muốn cải thiện quan hệ hai nước

nhưng những "chấn thương của lịch sử" rất nặng nề, trong đó vấn đề biên giới là vấn

đề phức tạp và nhạy cảm nhất. Trung Quốc và Ấn Độ có chung đường biên giới dài

khoảng 3.550 km, được phân cách bởi dãy Himalaya và cao nguyên Tây Tạng. Do

những di sản của thời kì thực dân Anh thống trị Ấn Độ, tranh chấp về biên giới

Trung - Ấn sau ngày hai nước độc lập hết sức phức tạp. Trung Quốc và Ấn Độ đều

tuyên bố chủ quyền ở những vùng biên giới tranh chấp. Ấn Độ đòi Trung Quốc trả

57

lại vùng cao nguyên Aksai Chin với diện tích khoảng 38.000 km2 nằm ở phía Tây

đường biên giới chung mà Trung Quốc hiện đang quản lí. Ngoài ra, Ấn Độ cũng cáo buộc Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp 5.180 km2 ở khu vực Kashmir được

Pakistan nhượng lại từ năm 1963. Còn Trung Quốc cũng lên tiếng đòi chủ quyền ở

bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ ở phía Đông đường biên giới chung với diện tích khoảng 90.000 km2 vì cho rằng bang này thuộc vùng Tây Tạng[47]. Trung

Quốc cũng phản đối việc tiểu bang Sik Kim được sáp nhập vào Ấn Độ năm 1975. Thêm nữa, cả hai hiện còn tranh chấp khoảng 2000 km2 ở đoạn giữa đường biên

giới chung. Sau cuộc chiến tranh năm 1962, biên giới giữa hai nước luôn trong tình

trạng căng thẳng. Từ cuối những năm 1980 trở đi, cả hai bên đều tích cực tìm kiếm

những biện pháp giải quyết những tranh chấp thông qua đàm phán hoà bình. Mặc

dầu vậy, những bước tiến còn hết sức hạn chế.

Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, hai bên đã thành lập Nhóm công tác

chung về biên giới để thảo luận nhằm giải quyết dứt điểm vấn đề biên giới. Năm

2002, Trung Quốc và Ấn Độ đã trao đổi bản đồ tuyến kiểm soát thực tế tại "đoạn

giữa" biên giới hai nước, nằm trên bang Himachal Pradesh của Ấn Độ và vùng

Uttaranchal thuộc Tây Tạng của Trung Quốc. Trải qua 5 lần hội đàm đặc phái viên,

ngày 11/4/2005, hai nước đã kí kết "Hiệp định về nguyên tắc chỉ đạo chính trị giải

quyết vấn đề biên giới Trung - Ấn". Cố vấn an ninh quốc gia Ấn Độ M.K.

Narayanan cho biết, giới chức hai nước đã xây dựng một bản lộ trình để giải quyết

cuộc tranh chấp về đường biên giới dài 3.550 km, "Chúng tôi rất hy vọng rằng tài

liệu này sẽ là điểm xuất phát của một quá trình cơ bản trong việc dàn xếp bất đồng

về biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc"[50]. Hiện nay, hai nước đã trải qua 11

vòng đàm phán biên giới và đang bước vào giai đoạn phải xử lý thực chất các nội

dung cụ thể. Đây là vấn đề phức tạp và nhạy cảm bởi nó không chỉ liên quan tới lợi

ích quốc gia mà vì nó là hệ quả của những vấn đề lịch sử. Do vậy, để có một biên

giới Trung - Ấn hòa bình, ổn định đòi hỏi hai bên phải hết sức nhẫn nại, nhân

nhượng và có thiện chí.

Ấn Độ đã chính thức thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc ở Tây Tạng, vùng

đất vẫn gây căng thẳng trong quan hệ hai nước kể từ khi lãnh tụ tinh thần của Tây

58

Tạng là Dalai Lama cùng các tín đồ lưu vong sang Ấn Độ từ 1959. Bản Tuyên bố

chung sau chuyến thăm của Thủ tướng Ấn Độ A. B Vajpayee đến Trung Quốc vào

tháng 6/2003 có nêu rõ: "Phía Ấn Độ thừa nhận khu tự trị Tây Tạng là một phần

lãnh thổ của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và nhắc lại việc Ấn Độ không cho phép

người Tây Tạng tiến hành các hoạt động chính trị chống Trung Quốc trong lãnh thổ

Ấn Độ". Điều này đã phần nào làm Trung Quốc hài lòng. Ngược lại, Trung Quốc

cũng không phản đối chủ quyền của Ấn Độ tại bang Sik Kim, vùng đất mà từ năm

1975 đến nay Trung Quốc chưa bao giờ công nhận là một bộ phận của Ấn Độ. Đồng

thời phía Trung Quốc cũng cam kết không ủng hộ các nhóm phiến quân ở vùng

Đông Bắc Ấn Độ.

2.3.2. Hợp tác chống khủng bố

Cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố và chủ nghĩa cực đoan đòi hỏi hai nước

tăng cường hợp tác trong lĩnh vực an ninh mới và có thể xem như là một điểm thống

nhất để tăng cường sự tin cậy giữa họ, dù cho một số bất đồng vẫn chưa được giải

quyết. Trong nhiều năm, Ấn Độ là nạn nhân chủ yếu của chủ nghĩa khủng bố và

mong muốn được chia sẻ và hỗ trợ trên toàn thế giới. Nhưng tai họa khủng bố tại

khu vực này lại vướng với sự ganh đua Ấn - Pakistan kéo dài nói chung và tình

trạng rắc rối Kashmir nói riêng. Cho đến những năm gần đây, sự phức tạp của vấn

đề đã hạn chế động thái tích cực của Bắc Kinh đối với các thách thức mà Ấn Độ đã

và đang phải đối đầu.

Trung Quốc trở nên tích cực hơn trong việc chủ nghĩa khủng bố và cực đoan liên

khu vực khi ý thức được sự bất ổn đang gia tăng do các phần tử ly khai Đông Thổ

Nhĩ Kỳ hoạt động trong vùng biên giới tỉnh tự trị Tân Cương. Trung Quốc cũng đã

nhận thức được mối đe dọa của những kẻ cực đoan, ly khai và khủng bố (cụ thể là,

Bắc Kinh đặt tên là "ba thế lực xấu xa") và trở thành một mối đe dọa sống còn của

Trung Quốc, Ấn Độ và Nga. Bắc Kinh thể hiện sự đồng cảm của mình đến Ấn Độ

ngay sau cuộc tấn công khủng bố vào Quốc hội Ấn Độ tháng 12/2001 và lên án chỉ

trích những kẻ gây ra. Chống khủng bố trở thành một trong những chủ đề chính của

mối quan tâm chung trong một loạt các cuộc tham vấn song phương.

59

Ngày 14/11/2003, lần đầu tiên hải quân Trung - Ấn có cuộc tập trận chung trên

biển Đông và ngoài khơi cửa sông Trường Giang, với nội dung là tìm kiếm và cứu

hộ. Dù chỉ mang tính hình thức nhưng cuộc tập trận này cho thấy hai nước đều

mong muốn giảm bớt căng thẳng. Ngày 24/5/2005, Tổng tham mưu trưởng Quân

đội giải phóng nhân dân Trung Quốc Lương Quang Liệt đã có chuyến thăm Ấn Độ

nhằm tăng cường các biện pháp xây dựng lòng tin giữa các lực lượng quân đội hai

nước. Tháng 6/2005, Bộ trưởng quốc phòng hai nước đã có cuộc hội đàm tại New

Dehli và đã ra tuyên bố quân đội hai nước sẽ soạn thảo các kế hoạch huấn luyện lực

lượng gìn giữ hoà bình và chống khủng bố chung.

Cuối tháng 11/2005, hải quân Trung - Ấn lại có cuộc tập trận chung trên Ấn Độ

Dương. Cuộc tập trận này cũng tập trung vào công tác cứu hộ và tìm kiếm trên biến

nhưng nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng với cả đôi bên. Trong bối cảnh nhu cầu

năng lượng ngày càng lớn, việc đảm bảo an toàn các tuyến đường hàng hải vận

chuyển dầu nhập khẩu trở thành có ý nghĩa sống còn với cả Trung Quốc và Ấn Độ.

Hơn 50% lượng dầu nhập khẩu của Ấn Độ phải đi qua eo biển Malacca và nửa còn

lại lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc từ Trung Đông đi qua Ấn Độ Dương. Ấn

Độ thông qua cuộc tập trận này cũng chứng tỏ sức mạnh hải quân của mình có đủ

khả năng kiểm soát "ao nhà" Ấn Độ Dương.

Từ ngày 20 đến 28/12/007, một cuộc tập trận lớn nhất và đầu tiên của lục quân

hai nước Trung - Ấn đã diễn ra tại Côn Minh thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Lý

do và mục đích của cuộc tập trận này đã được đề ra từ tháng 5/2006, khi đó Trung

Quốc và Ấn Độ đã cùng ký bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng theo đó sẽ thường

xuyên tiến hành các cuộc tập trận chung liên quan tới công tác tìm kiếm và cứu nạn,

chống cướp biển, khủng bố và trong các lĩnh vực khác được cả hai nước cùng quan

tâm.

Tuy nhiên, trước khi hai bên tiến tới mối quan hệ đối tác đáng tin cậy trong việc

giải quyết thách thức khủng bố thì hai bên sẽ phải loại bỏ một số trở ngại lớn. Sự

đồng thuận được thể hiện trong văn bản vẫn còn xa vời trong việc thực hiện bất kỳ

một nghị sự hoạt động theo hướng này. Sự mất lòng tin chính trị kéo dài và nhận

thức khác nhau về chủ nghĩa khủng bố trong bối cảnh Nam Á đã hạn chế, và sẽ tiếp

60

tục hạn chế phạm vi và chiều sâu của sự hợp tác chống khủng bố giữa hai nước. Bên

phía Trung Quốc tin rằng Niu Đêli có thể sử dụng các đơn vị khủng bố dựa trên

Pakistan để mở rộng khả năng chiến lược của mình thông qua Islamabad hoặc thậm

chí khởi động một cuộc chiến tranh phủ đầu chống lại Pakistan. Về phần mình, New

Delhi xem phản ứng thận trọng của Bắc Kinh đối với cuộc tấn công khủng bố

Mumbai trong tháng 11/ 2008 như là một dấu hiệu vô cảm của Bắc Kinh với những

thách thức khủng bố mà Ấn Độ đang đối mặt và nói một cách đơn giản là một chính

sách ủng hộ Islamabad. Truyền thông Ấn Độ được sự chú ý của Trung Quốc, trái

ngược với truyền thông quốc tế, lại kín tiếng về các cuộc tấn công cực đoan của dân

tộc Uyghurs vào dân tộc Hán ở Urumqi, thủ phủ khu tự trị Tân Cương tháng 7/2009.

Theo một nhà phân tích Ấn Độ, sự lãnh đạm công khai của Ấn Độ đối với vụ việc

có liên quan đến động thái của Bắc Kinh, như họ nhận thấy, Bắc Kinh luôn luôn im

lặng về những tội ác khủng bố tại Kashmir, mặc dù nhiều người Ấn Độ "đang lo

lắng về sự tàn bạo của chiến tranh hồi giáo Uyghur đối với thường dân dân tộc Hán

và sẽ có cảm nhận tương tự chống lại bọn gây rối" ở Tân Cương.

Tóm lại, để giải quyết các mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố đòi hỏi hai bên

phải tin tưởng lẫn nhau và hòa giải các chiến lược khu vực của họ. Tại cuộc họp vào

tháng 10/2009 có sự tham gia của Bộ trưởng ngoại giao Nga, Trung Quốc và Ấn

Độ. Bắc Kinh, cùng với Niu Delhi và Moscow, tuyên bố sẽ tăng cường hợp tác toàn

cầu trong cuộc chiến chống khủng bố và khẳng định rằng "không có biện minh nào

cho bất kỳ hành động khủng bố nào ở bất kỳ nơi nào", đồng thời chỉ trích một cách

rõ ràng các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào phái đoàn ngoại giao Ấn Độ ở Kabul,

diễn ra ngay trước cuộc họp.

2.3.3. Hợp tác trên lĩnh vực an ninh năng lượng

Đối mặt với thách thức an ninh năng lượng là một nhân tố quan trọng giúp

Trung Quốc và Ấn Độ mở rộng hợp tác. Trong nhiều năm qua, hai nước đã chứng

kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế và đồng thời cũng trở thành những nước

tiêu thụ và nhập khẩu năng lượng lớn. Theo số liệu thống kê cho thấy nhập khẩu dầu

mỏ của Trung Quốc chiếm xấp xỉ 40% tổng lượng tiêu thụ dầu mỏ từ năm 2000 đến

2009 (47,3 % trong năm 2006 so với 29,1 % năm 2001) và đỉnh điểm 52% năm

61

2009[23, 26/3/2007], chạm tới mức độ cảnh báo an ninh năng lượng toàn cầu. Xu

hướng này sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Viễn cảnh năng lượng của Ấn Độ thậm

chí còn thách thức hơn. Nhập khẩu dầu mỏ chiếm 68% tiêu thụ tổng thể của Ấn Độ

năm 2008 và theo các chuyên gia năng lượng toàn cầu thì vào năm 2020 Ấn Độ sẽ

trở thành nước nhập khẩu dầu lớn thứ 4 trên thế giới sau Mỹ, Trung Quốc và Nhật

Bản[38, 14/01/2010].

Sự phụ thuộc ngày càng tăng vào nguồn cung cấp nước ngoài cho thấy đối với

cả Trung Quốc và Ấn Độ, việc tăng trưởng kinh tế bền vững và an ninh năng lượng

sẽ ngày càng phụ thuộc vào thị trường năng lượng toàn cầu luôn bất ổn. Nhận thức

chung này làm cho họ có cùng suy nghĩ và phát triển chương trình nghị sự tương tự

để giải quyết thách thức.

Trung Quốc và Ấn Độ tìm mọi cách để có được năng lượng từ nước ngoài,

hoặc cá nhân mỗi nước hoặc hai bên kết hợp, đó là thiết lập các công ty liên doanh

với các nước giàu năng lượng hoặc các tập đoàn tài chính đa quốc gia, góp vốn vào

việc thăm dò và sản xuất, đầu tư tân trang lại các nhà máy lọc dầu và đấu thầu vào

các dự án. Việc áp dụng chính sách ngoại giao năng lượng sẽ hỗ trợ cho những hoạt

động này. Để lấy được nguồn năng lượng đáng tin cậy và giá cả phải chăng từ nước

ngoài thì Trung Quốc và Ấn Độ cần phải tìm kiếm mối quan hệ mới với các nước

xuất khẩu năng lượng ở vùng Vịnh Persia, Trung Á, Nga, biển Caspi, Châu Phi,

Đông Nam Á và Nam Mỹ.

Bằng việc phát triển đối tác chính trị và viện trợ kinh tế, Trung Quốc đã củng cố

hợp tác hai bên cùng có lợi với các nước cộng hòa Trung Á, đặc biệt là Kazakhstan,

để vận chuyển nguồn năng lượng trong vùng sang các trung tâm công nghiệp của

Trung Quốc. Trung Quốc cũng đã thuyết phục được Nga trong việc mở rộng đường

ống dẫn dầu Sibera sang các nhà máy lọc dầu lớn bằng cách sử dụng các ưu đãi về

tài chính. Tương tự, Ấn Độ cố gắng để đảm bảo việc cung cấp khí đốt từ Iran bằng

cách lắp đường ống dẫn khí trên toàn khu vực thông qua Pakistan để đáp ứng nhu

cầu lớn, mặc dù dự án này vẫn chưa đem lại kết quả vì một số lý do về vấn đề địa

chính trị và an ninh. Trong những năm gần đây, nhân tố năng lượng thôi thúc Ấn Độ

cải thiện quan hệ với Pakistan, Myanma và Bangladesh. Theo đó, sự hợp tác năng

62

lượng của Trung Quốc và Ấn Độ như dự kiến được cho là sẽ có ảnh hưởng đến quan

hệ song phương hai nước nói riêng và các quan hệ khác nói chung theo hướng tích

cực.

Một số thành công của Trung Quốc và Ấn Độ là nhằm dung hòa lợi ích của hai

bên trong việc có được các hợp đồng năng lượng từ nước ngoài. Đầu năm 2000, Tập

đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNPC) và Tập đoàn Dầu và khí tự nhiên Ấn Độ

(ONGC) đã ký Biên bản ghi nhớ đầu tiên về việc khai thác chung trữ lượng dầu ở

các nước đang phát triển. Cả Trung Quốc và Ấn Độ đều đạt được cổ phần đáng kể

trong việc khai thác dầu ở Sudan vào năm 2004, tiếp theo là đối tác thực sự dựa trên

lợi ích chung. Bắt đầu từ năm 2002, các công ty năng lượng Trung Quốc và Ấn Độ

cũng liên kết khai thác dầu ở Kazakhstan. Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc và

Tập đoàn đầu tư và ủy thác quốc tế Trung Quốc có kế hoạch cùng nhau tham gia

đấu thầu để có được cổ phần lớn trong Công ty năng lượng quốc gia Kazakhstan.

Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc thể hiện sự quan tâm sâu sắc vào việc tham

gia dự án ống dẫn dầu Trung Quốc - Kazakhstan. Theo dự định ban đầu để giành

được các hợp đồng dầu mỏ của nước ngoài CNPC, ONGC và tập đoàn OVL đã phối

hợp với nhau để giành được cổ phần dầu của Petro - Canada ở Syria vào tháng

12/2005. OVL và Sinopec - một tập đoàn năng lượng khổng lồ khác của Trung

Quốc đã đấu thầu chung để có 50% cổ phần ở Columbia vào tháng 8/2006. Nỗ lực

tương tác khác, có thể hướng tới hợp tác cụ thể trong lĩnh vực này.

SCO cũng tạo ra một nền tảng hữu ích cho Bắc Kinh và New Delhi để mở rộng

hợp tác về năng lượng. Khái niệm thành lập một câu lạc bộ năng lượng SCO, được

Tổng thống Nga Vladimir Putin khởi xướng vào tháng 12/2006, dự kiến sẽ hợp tác

năng lượng giữa các quốc gia thành viên ở cấp độ toàn cầu và khu vực (cả các thành

viên và quan sát viên của SCO), tiểu khu vực (Trung Á), và cấp quốc gia. Là một

trong những quan sát viên, Ấn Độ đang ngày càng quan tâm đến việc hợp tác năng

lượng với Nga, Trung Quốc và các nước cộng hòa Trung Á.

Mặt khác, giữa Trung Quốc và Ấn Độ cũng công khai cạnh tranh về việc thu

mua năng lượng. Sự tranh giành quyết liệt liệt giữa họ về việc đấu thầu các dự án

dầu khí ở nước ngoài xảy ra thường xuyên. Sự cạnh tranh này đã bắt đầu mở rộng

63

đến hầu hết các vùng giàu năng lượng nơi mà cả hai đã cố gắng giành ưu thế. Theo

quan sát trong ganh đua đấu thầu ở Angola, Kazakhstan, Venezuela, và Myanmar,

trong số những nước trả giá cao thì các công ty Trung Quốc cuối cùng trả giá cao

hơn đối thủ của mình - Ấn Độ để giành được các hợp đồng dự án nhờ đưa ra các

điều kiện hấp dẫn hơn đối với các nước chủ nhà. Nhưng một thực tế đáng lo ngại là

để vượt qua nhau trong các hợp đồng dự án hoặc dự án dầu thì Trung Quốc hoặc Ấn

Độ phải trả cao hơn nhiều so với giá thầu đã đề xuất. Thực tế không mong muốn

này thúc đẩy họ cố gắng hợp tác trong đấu thầu. Trong chuyến thăm của cựu Bộ

trưởng năng lượng Ấn Độ Mani Shankar Aiyar đến Bắc Kinh vào năm 2006, chính

phủ hai nước đã đạt được sự nhất trí làm việc cùng nhau để phát huy tối đa năng lực

của họ trong việc mua năng lượng ở nước ngoài và khắc phục những tồn tại hiện có.

Một hiệp ước hợp tác quan trọng đã được ký kết bởi các công ty năng lượng khổng

lồ, cụ thể là CNPC và ONGC. Trong tương lai, Bắc Kinh và Niu Đêli chắc chắn sẽ

tiếp tục chiến lược này để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Mặc dù chính phủ hai nước Trung Quốc - Ấn Độ tích cực đề xuất tăng cường

hợp tác trên lĩnh vực năng lượng, song do một loạt những nguyên nhân từ kinh tế,

chính trị và chiến lược địa chính trị, việc thiết lập liên minh chiến lược giữa Trung

Quốc và Ấn Độ trên lĩnh vực năng lượng không hề dễ dàng. Điều này có thể dễ

dàng được nhận ra từ đối thủ mà Trung Quốc gặp phải trong việc khai thác thị

trường ở Nga, Sudan, Venezuela, Việt Nam, Myanmar và cả khu vực Tây Phi chính

là Ấn Độ. Ngày 16/01/2005, thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh chỉ ra, Ấn Độ buộc

phải nhanh chóng vượt qua nước láng giếng là Trung Quốc trong lĩnh vực năng

lượng, đồng thời ông cũng cho thấy sự cấp bách của chính phủ đối với kế hoạch an

toàn năng lượng, ông nói: “ Chính phủ Trung Quốc đã bắt đầu đề ra kế hoạch tương

ứng trong lĩnh vực an toàn năng lượng, đi trước chúng ta rất nhiều, chúng ta không

thể hài lòng với hiện trạng trước mắt được.” Đưa ra đánh giá về nghiệp vụ cạnh

tranh bỏ thầu khai thác dầu khí giữa doanh nghiệp dầu khí quốc doanh Ấn Độ với ba

công ty dầu khí lớn của Trung Quốc ở Nga, Trung Đông, châu Phi tại hội nghị

thượng đỉnh dầu mỏ Châu Á được triệu tập ở Niu Đêli, ông Manmohan Singh chỉ ra,

64

chính phủ Ấn Độ cần phải khuyến khích doanh nghiệp dầu khí mở rộng quy mô, trở

thành doanh nghiệp xuyên quốc gia.

Để thật sự vượt qua được Trung Quốc, ông ManiShankarAiyar Bộ trưởng Bộ

dầu khí trước đây đã từng đưa ra phát biểu, chính phủ có thể kế hoạch thông qua

hợp nhất, hợp nhất tất cả các doanh nghiệp dầu khí quốc doanh Ấn Độ hợp thành

một hoặc hai doanh nghiệp lớn. 14 doanh nghiệp dầu khí quốc doanh Ấn Độ trước

đây đã từng bày tỏ, muốn đoàn kết nhất trí tranh giành nguồn dầu ngoài biển với

Trung Quốc, Ấn Độ buộc phải đuổi kịp Trung Quốc.

Những xung đột trong địa chính trị giữa Trung Quốc và Ấn Độ sớm đã tồn

tại từ trước khi Ấn Độ giành được độc lập và nước Trung Quốc mới thành lập, căn

nguyên của vấn đề này không chỉ xuất phát từ sự khác biệt trong ý thức hệ của hai

nước, mà quan trọng hơn hết chính là do những xung đột về lợi ích thực tế và lợi ích

chiến lược của hai nước này không thể hóa giải được. Căn nguyên sâu xa trong xung

đột địa chính trị Trung - Ấn chủ yếu là do mâu thuẫn về mặt chiến lược, mục tiêu

nước lớn khiến cho Ấn Độ và Trung Quốc trở thành đối thủ cạnh tranh chiến lược,

thậm chí là nguy cơ tiềm tàng lớn nhất. Do đó, xuất phát từ những nhu cầu về lợi ích

chiến lược địa chính trị, chính sách của Ấn Độ với Trung Quốc mang tính hai mặt

và không rõ ràng nhất quán, một mặt vừa muốn phát triển quan hệ hợp tác với

Trung Quốc, một mặt lại đề phòng, thậm chí là thù địch Trung Quốc. Trong khi đó

tại Trung Quốc, một số nhà phân tích cũng cho rằng giữa Trung Quốc và Ấn Độ tồn

tại cạnh tranh chiến lược địa chính trị, sự hòa hoãn giữa Trung Quốc và Ấn Độ chỉ

có thể được xem như là xuất phát từ động cơ về mặt chiến lược ngắn hạn giữa hai

nước, cho dù vấn đề biên giới giữa hai nước có được giải quyết, thì sự cạnh tranh

giành quyền lãnh đạo đối với thế giới thứ ba cũng khiến cho hai nước trở thành quan

hệ cạnh tranh ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Do đó, không có sự tin tưởng

cao lẫn nhau về chính trị, hai nước sẽ khó có thể triển khai hợp tác quy mô lớn mang

ý nghĩa thiết thực trong lĩnh vực năng lượng[8].

Hợp tác Trung - Ấn về an ninh năng lượng có thể cũng có những tác động sâu

sắc đối với địa chính trị và kinh tế năng lượng trong thời gian dài, mặc dù sự cạnh

tranh giữa họ là điều không thể tránh khỏi.

65

Trong chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Manmohan Sigh vào tháng

1/2008, Ấn Độ đã được Trung Quốc công nhận về năng lực hạt nhân và ủng hộ

"Thoả thuận hạt nhân Mĩ - Ấn" được kí vào tháng 3/2006. Điều này cũng có nghĩa

là cán cân quyền lực ở châu Á đã được cân bằng hơn. Thực tế là, những năm gần

đây, việc Ấn Độ và Trung Quốc hợp tác chặt chẽ với nhau trong lĩnh vực quốc

phòng không chỉ làm giảm bớt tình hình căng thẳng giữa hai nước mà còn góp phần

giảm bớt tình hình không mấy tích cực về quốc phòng tại khu vực Thái Bình Dương

và Ấn Độ Dương, đem lại niềm tin tưởng cho dư luận tại các nước khác có chung

biên giới với Trung Quốc và Ấn Độ.

Nhìn lại gần 50 năm quan hệ giữa hai quốc gia Châu Á khổng lồ này chúng ta

mới thấy được đây là những bước tiến lớn trong quá trình tạo lập lòng tin, góp phần

tăng cường an ninh, hòa bình và thịnh vượng trong khu vực.

2.4. Quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ trên lĩnh vực văn hóa và giáo dục đào

tạo

2.4.1. Hợp tác văn hóa

Về hợp tác văn hoá, Trung Quốc và Ấn Độ đang cố gắng thúc đẩy để tăng

cường sự hiểu biết lẫn nhau, góp phần cải thiện mối quan hệ chính trị - an ninh.

Trung Quốc và Ấn Độ là hai nền văn minh lớn trong thời kỳ cổ đại, có lịch

sử giao lưu văn hóa và mối liên hệ lâu đời trên phương diện tư tưởng văn hóa. Cựu

Tổng thống Ấn Độ Nalayanan từng chỉ ra: “Xét trên phương diện lịch sử, mối liên

hệ văn minh, văn hóa của hai nước đã đặt nền móng vững chắc, tiếp thêm sức sống

cho quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc trong nhiều thế kỷ, làm cho mối quan hệ này

mang tính vĩnh cửu trên một chừng mực nhất định”. Ngay từ thời Tần Hán, “con

đường tơ lụa” chính là cầu nối quan trọng cho sự giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc

và Ấn Độ. Sự phát triển trên các lĩnh vực như văn học, thiên văn, địa lý …đều tiếp

thu sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Bốn phát minh vĩ đại trong thời kỳ cổ đại của

Trung Quốc cũng như những sản phẩm chè, gốm sứ…của Trung Quốc được đưa

đến Ấn Độ đã thúc đẩy sự phát triển về mặt kinh tế cũng như sự phồn vinh trên lĩnh

vực văn hóa của hai nước.

66

Kể từ đầu thế kỷ XXI đến năm 2012, dưới sự thúc đẩy mạnh mẽ của các nhà

lãnh đạo cấp cao hai nước, những nội dung giao lưu trên lĩnh vực văn hóa giữa hai

nước ngày một phong phú và phát triển, thể hiện trên những mặt dưới đây:

Thứ nhất, hình thức giao lưu văn hóa không ngừng đổi mới và phong phú. Trước

đây, hình thức giao lưu văn hóa đơn thuần chỉ là: cử đoàn đại biểu văn nghệ, phiên

dịch các tác phẩm nổi tiếng, tổ chức “Tuần lễ văn hóa”…Trên nền tảng đó, hai bên

đã phối hợp tổ chức các hoạt động văn hóa có quy mô lớn như “Tháng văn hóa”,

“Năm hữu nghị”… Năm 2004, Đại sứ quán Trung Quốc tại Ấn Độ đã tổ chức thành

công chương trình “Đêm văn hóa văn nghệ tay nắm tay Trung Quốc - Ấn Độ”. Năm

2005, Ấn Độ tổ chức hoạt động “Tháng văn hóa Trung Quốc”, Trung Quốc tổ chức

hoạt động “Tháng văn hóa Ấn Độ” nhân dịp Trung Quốc - Ấn Độ tròn 55 năm thiết

lập quan hệ ngoại giao. Cũng trong năm đó, hai bên cùng phối hợp tu sửa một ngôi

chùa mang phong cách Ấn Độ tại thành phố Lạc Dương tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.

Năm 2006, “Năm hữu nghị Trung Ấn”, các nội dung giao lưu trên lĩnh vực văn hóa

cũng tương đối phong phú, bao gồm: phối hợp tổ chức “Lễ hội điện ảnh”, Trung

Quốc cử đoàn Kinh kịch sang Ấn Độ, tổ chức “Triển lãm nghệ thuật dân gian Sơn

Tây”, “Tuần lễ văn hóa Thiểm Tây”…tại Ấn Độ; Ẫn Độ cũng cử đoàn vũ đạo

truyền thống, đoàn ca múa Baolaiwu sang Trung Quốc, tổ chức lễ khánh thành và

khai quang Phật điện mang phong cách Ấn Độ tại chùa Bạch Mã thuộc thành phố

Lạc Dương, Hà Nam, Trung Quốc. Ngoài ra, cũng tổ chức các hoạt động như: Lễ

hội ẩm thực, triển lãm văn vật, giới thiệu sách mới, hội thảo nghiên cứu… Năm

2007, hoạt động “Năm hữu nghị du lịch Trung Quốc - Ấn Độ” được tổ chức với

nhiều hình thức giao lưu văn hóa truyền thống, thúc đẩy hợp tác giao lưu văn hóa

giữa hai nước lên một tầm cao mới. Tóm lại, những hoạt động giao lưu trên giữa hai

nước đã thúc đẩy mối quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ phát triển sâu, rộng trên

nhiều lĩnh vực.

Thứ hai, trong quá trình giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc và Ấn Độ có sự tham gia

rộng rãi của các giới lãnh đạo, học thuật và dân chúng. Kể từ đầu thế kỷ XXI trở lại

đây, giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc và Ấn Độ không chỉ đơn thuần là câu

chuyện của những nhân vật tinh anh, mà đã có sự góp mặt tích cực của chính phủ,

67

giới văn hóa và dân chúng. Xét trên phương diện chính phủ, việc giao lưu hợp tác

văn hóa không ngừng được tăng cường, như: năm 2003, hai bên “đồng ý và tạo điều

kiện thuận lợi cho đối tác đặt Trung tâm văn hóa tại thủ đô nước mình”. Năm 2005,

hai bên quyết định khởi động tiến trình bàn bạc về hiệp định công nhận học vị của

nhau. Cũng trong năm đó, công việc tu sửa nhà lưu niệm Ấn Độ Na Lan Đà Huyền

Trang cũng được hoàn thành theo đúng thời hạn, đây cũng chính là một trong những

hạng mục hợp tác văn hóa giữa hai nước giai đoạn 2003 – 2005. Xét trên phương

diện văn hóa, giao lưu hợp tác ngày một phát triển, ví dụ: năm 2006, hai bên tổ chức

Tọa đàm giao lưu văn hóa Trung Quốc Ấn Độ. Hiệu trưởng trường Đại học Vân

Nam Ngô Tùng đề nghị xây dựng Học viện giao lưu văn hóa Trung Quốc Ấn Độ

trong khuôn viên Học viện Du lịch và Văn hóa thuộc Đại học Vân Nam, đồng thời

triển khai nhiều dự án hợp tác về nghiên cứu giáo dục dưới nhiều hình thức khác

nhau. Ông Ngô Tùng cũng đề nghị triển khai giao lưu và hợp tác toàn diện trên

nhiều lĩnh vực như: thành lập học viện Khổng Tử trong khuôn khổ hợp tác giữa Đại

học Vân Nam Trung Quốc và Đại học MengMai Ân Độ; triển khai dự án giảng dạy

tiếng Trung Quốc tại Ấn Độ; giảng dạy và nghiên cứu phần mềm máy tính giữa hai

trường. Bên cạnh đó, người dân hai nước cũng bắt đầu tham gia vào việc hợp tác và

giao lưu văn hóa giữa hai nước. Hai bên triển khai hoạt động thường niên giao lưu

thanh niên hai nước. Ngoài ra, số lượng người dân đi du lịch và lưu học sinh cũng

ngày một tăng, như: tháng 12/2006, Bộ trưởng Bộ văn hóa và du lịch Ấn Độ đến

thăm Trung Quốc, tổ chức Triển lãm Tinh hoa Ấn Độ thời cổ đại. Tháng 6/2007,

Trung Quốc Ấn Độ cùng nhau kí kết “Kế hoạch thực hiện giao lưu văn hóa giai

đoạn 2007 - 2009”. Cũng trong tháng đó, Trung Quốc chính thức thành lập Văn

phòng Du lịch tại Niu Đêli, Ấn Độ.

Tóm lại, vai trò của nhân tố văn hóa sẽ ngày một quan trọng trên vũ đài chính

trị quốc tế ngày nay. Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào trong bài phát

biểu tại Quốc hội nước Pháp đã chỉ ra: “giao lưu văn hóa là con đường quan trọng

trong việc làm sâu sắc mối quan hệ qua lại giữa các dân tộc, cũng chính là nền tảng

vững chắc để các dân tộc chung sống hài hòa, việc học hỏi và hội nhập của các nền

văn hóa khác nhau có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tăng cường hiểu biết lẫn

68

nhau giữa nhân dân các nước.” Vì vậy, việc giao lưu hợp tác văn hóa giữa Trung

Quốc và Ấn Độ có thể tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước,

nhất định có lợi cho sự phát triển lâu dài của mối quan hệ hữu nghị Trung Quốc -

Ấn Độ, có lợi cho sự hài hòa và tiến bộ của xã hội con người.

2.4.2. Hợp tác giáo dục – đào tạo

Cả Trung Quốc và Ấn Độ đều là những nước có hệ thống đào tạo khá phát

triển và có nhiều kinh nghiệm trong giáo dục - đào tạo, đặc biệt là đào tạo nguồn

nhân lực phục vụ cho công nghiệp hoá. Hai nước đều có hệ thống các trường đại

học, học viện, các viện nghiên cứu được xếp vào thứ hạng cao ở châu Á. Hợp tác

đào tạo nguồn nhân lực đã được hai bên xác định là lĩnh vực hợp tác ưu tiên hiện

nay và đang tạo ra hiệu quả khá lớn. Tuy chưa thật sự nhiều nhưng những năm gần

đây, Chính phủ hai nước đều dành cho nhau những xuất học bổng có giá trị gồm học

bổng ngắn hạn và dài hạn cho các sinh viên, kỹ thuật viên, nghiên cứu sinh sang

thực tập và nghiên cứu. Chương trình trao đổi văn hoá và Chương trình học bổng

văn hoá chung trong các lĩnh vực như công nghệ thông tin, sinh học, tôn giáo, triết

học, ngoại thương, tiếng Anh... đang được xúc tiến mạnh mẽ.

Trung Quốc và Ấn Độ hiện đang ưu tiên rất lớn cho phát triển khoa học công

nghệ, đặc biệt Ấn Độ với vốn tiếng Anh thông dụng đang có ngành công nghệ phần

mềm được xếp thứ hạng cao trên thế giới. Đó là điều kiện tốt để hai bên có thể giao

lưu học hỏi lẫn nhau. Nhiều du học sinh Trung Quốc đã đến Ấn Độ và ngược lại để

học tập và nghiên cứu.

Trong số các loại hình học bổng do Chính phủ hai nước cấp cho nhau thì

học bổng dành cho việc đào tạo nguồn nhân lực đang được phát huy có hiệu quả

nhất. Với xu hướng phát triển mạnh mẽ của ngành công nghệ thông tin và nhu cầu

ngày một tăng của ngành công nghệ phần mềm mà nó lại đang là thế mạnh của Ấn

Độ, do vậy hợp tác trao đổi trong lĩnh vực này giữa hai nước đang được xúc tiến

mạnh mẽ. Nhiều kỹ sư, giảng viên của Ấn Độ có trình độ chuyên môn cao đang

giảng dạy tại các trường đại học của Trung Quốc và ngược lại. Hiện nay rất nhiều

lĩnh vực Ấn Độ đang phải học hỏi Trung Quốc như công nghệ chế tạo, cách quản

69

lý, nhưng riêng lĩnh vực công nghệ phần mềm thì Ấn Độ lại có thế mạnh đặc biệt

và Trung Quốc đang muốn phía bạn hợp tác và giúp đỡ nhiều hơn nữa.

Đôi khi do sự lạnh nhạt trong quan hệ chính trị mà hợp tác hai nước trong giáo

dục chưa được chú ý đúng mức, chưa phát huy được những xuất học bổng hiệu quả

và cũng chưa thu hút được nhiều học viên của cả hai bên tham gia. Tuy nhiên, thời

gian gần đây mối quan hệ song phương đã được quan tâm đúng mức, theo đó mức độ

quan tâm của ngành giáo dục hai bên đến nhau đã được cải thiện rõ rệt, nhiều lưu học

sinh Ấn Độ đã đến Trung Quốc và ngược lại.

Hiện nay, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều được coi là thị trường đầy tiềm năng

cả về kinh tế lẫn trí tuệ. Do vậy, sự thu hút đầu tư về giáo dục trong thời gian tới

không chỉ đối với bản thân hai nước. Thế kỷ XXI được đánh giá là "thế kỷ Châu Á",

chúng ta cùng chờ mong "con Rồng" và "con Voi" của khu vực xoá bỏ những rào

cản, bất đồng cùng hợp tác đưa nền giáo dục của hai nước phát triển ngang tầm với

những nền giáo dục lớn trên thế giới và phục vụ tốt nhất cho nền kinh tế tri thức của

nhân loại hiện nay.

Tiểu kết chương 2

Những thành tựu cơ bản của quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ từ 2002 đến

2012 trên các lĩnh vực chính trị - ngoại giao, kinh tế - khoa học kỹ thuật, an ninh -

quốc phòng, văn hóa… đã cho thấy thiện chí phát triển quan hệ hai nước trên cả lý

luận và thực tiễn. Mức độ hợp tác trên các lĩnh vực tuy không đều, song tính toàn

diện của mối quan hệ này cũng đã được khảng định. Những thành tựu hợp tác trên

các lĩnh vực có sự bổ trợ cho nhau khá rõ rệt, quan hệ chính trị ngoại giao tạo cơ sở

cho quan hệ hợp tác hai nước trên các lĩnh vực kinh tế - thương mại, an ninh - quốc

phòng, văn hóa… Ngược lại, những thành tựu trong hợp tác kinh tế, an ninh, văn

hóa không chỉ là thước đo mức độ phát triển quan hệ hai nước mà còn tạo động lực

thúc đẩy quan hệ chính trị - ngoại giao ngày càng nồng ấm hơn.

Những thành tựu trên cho thấy quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ đã không

còn chịu ảnh hưởng quyết định bởi vấn đề tư tưởng, cũng như bị tác động của chế

độ chính trị nữa. Có không ít các học giả của thế giới vẫn chưa hết nghi ngờ về tính

bền vững và tương lai của quan hệ Trung - Ấn. Tuy nhiên, sự nghi ngờ ấy thường do

70

bị ám ảnh sâu sắc về hình ảnh một nước Trung Quốc vốn có nhiều kinh nghiệm

trong kỹ xảo “hợp tung, liên hoành”, về một “mối đe dọa từ Trung Quốc”. Không

một sự vật hiện tượng nào là không mang tính hai mặt và quan hệ Trung - Ấn cũng

không phải là ngoại lệ. Bên cạnh những thành tựu đạt được, hai nước vẫn còn có

những hạn chế đan xen trong các lĩnh vực. Song về căn bản, có thể khảng định hiện

nay quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ đang phát triển tốt đẹp tuy nhiên vẫn còn

những nghi kỵ trong quá khứ tác động không nhỏ đến quan hệ hai nước.

Chương 3: NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ TRUNG QUỐC - ẤN ĐỘ TRONG

NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI VÀ TRIỂN VỌNG

3.1. Thành tựu

Vượt qua khó khăn thử thách trong nước và thế giới, Quan hệ Trung Quốc -

Ấn Độ từ năm 2002 đến năm 2012 đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên

các lĩnh vực:

Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao: những năm đầu thế kỷ XXI, trong xu thế

quốc tế mới, quan hệ Trung - Ấn trên lĩnh vực chính trị đã có những bước tiến lớn

tạo tiền đề thúc đẩy mối quan hệ toàn diện giữa hai nước. Điều đó thể hiện:

71

Trong các công việc quốc tế, với tư cách là những quốc gia sáng lập ra 5 nguyên tắc

cùng chung sống hoà bình, Trung Quốc và Ấn Độ đều chủ trương thiết lập một Trật

tự thế giới mới. Ngày 15/6/1999, trong buổi thuyết trình tại Bộ Ngoại giao Nhân dân

Trung Quốc, Ngoại trưởng Ấn Độ J. Singh đã nhấn mạnh: "Hai nước chúng ta cần

liên kết lại, lấy 5 nguyên tắc chung sống hoà bình làm đáp án cho các thành viên

khác trong cộng đồng quốc tế. Vì có người đang đưa ra một đáp án sai, có thể gọi

là ảo tưởng tiêu tan, xâm phạm chủ quyền, bởi họ rêu rao đơn cực hoá khu vực,

phản đối đa cực hoá toàn cầu"[19, tr.15]. Hai nước đã tăng cường các thỏa thuận và

hợp tác trong các vấn đề quốc tế và khu vực. Hai nước Trung Quốc và Ấn Độ có

cùng nhận thức và những lợi ích chung sâu rộng trong các vấn đề quan trọng của

quốc tế và khu vực. Thỏa thuận và hợp tác giữa hai nước ngoài việc thông qua con

đường song phương, còn được tiến hành thông qua các cơ chế đa phương, như Liên

Hợp Quốc, nhóm G20, cơ chế ba bên Trung - Nga - Ấn, nhóm BRIC, Hội nghị

thượng đỉnh Đông Á, Tổ chức hợp tác Thượng hải, Hội nghị Á- Âu, Diễn đàn khu

vực ASEAN. Thủ tướng hai nước đã tiến hành hợp tác trong thời gian diễn ra hội

nghị biến đổi khí hậu liên hợp quốc được tổ chức tại Copenhagen, điều nay không

chỉ bảo vệ lợi ích hai bên, mà còn có đóng góp cho việc tổ chức thành công của hội

nghị.

Trong rất nhiều vấn đề quốc tế quan trọng khác, Trung Quốc và Ấn Độ cũng giữ lập

trường giống nhau. Về nhân quyền, hai nước cho rằng đối với các nước đang phát

triển, quyền sống còn và quyền phát triển là những quyền cơ bản nhất. Hai nước đều

chủ trương phản đối chủ nghĩa khủng bố, cực lực lên án sự kiện ngày 11/9/2001.

Hai nước có thể triển khai hợp tác chống khủng bố chung. Trung Quốc và Ấn Độ

đều ủng hộ cải tổ Liên Hợp Quốc, và chủ trương trong việc mở rộng Hội đồng Bảo

an cần tuân thủ nguyên tắc bình đẳng khu vực, bảo đảm sự cân đối thỏa đáng giữa

các nước đang phát triển.

Về vấn đề phát triển, hai nước đều chủ trương xoá bỏ sự chênh lệch ngày càng lớn

về kinh tế giữa các châu lục. Họ cho rằng, các nước phát triển cần đứng ra giải quyết

các vấn đề như gánh nặng nợ nần ngày càng chồng chất, điều kiện buôn bán không

72

ngừng xấu đi, vốn đầu tư không đủ và trở ngại trong việc chuyển nhượng kỹ thuật

của các nước đang phát triển.

Trong lĩnh vực kinh tế: Trung Quốc và Ấn Độ đều có số dân đông, là những

thị trường rộng lớn. Quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước không ngừng gia

tăng trong những năm qua. Mối quan hệ kinh tế - thương mại giữa Trung Quốc và

Ấn Độ được đánh giá là thành công nhất trong các lĩnh vực và nó được khẳng định

bởi những cam kết chính trị của các lãnh đạo hai nước. Các cơ chế hợp tác thường

xuyên được tăng cường và mở rộng. Những cơ chế này bao gồm: Nhóm kinh tế hỗn

hợp (NJG), Nhóm Nghiên cứu hỗn hơp (JSG), các Nhóm công tác hỗn hợp (JWG)

về Thương mại, về Đối ngoại, Tài chính, về Hợp tác Hàng Không.

Hợp tác kinh tế thương mại cùng có lợi trở thành một điểm sáng. Thương mại song

phương Trung - Ấn có bước đột phá vào những năm đầu thế kỷ XXI. Năm 2001 là

3,596 tỉ USD tăng lên 18,7 tỉ USD vào năm 2005, với tốc độ tăng trưởng trung bình

hàng năm là 37,5%. Năm 2007 thương mại Trung Quốc - Ấn Độ tăng gần 60% và

đạt 30 tỉ USD đến năm 2008 tăng 33% và đạt gần 60 tỷ USD, đến năm 2010 lên

61,74 tỷ USD và năm 2011 đạt 74 tỷ USD. Năm 2012 đạt 66,42 tỷ USD. Các

chuyên gia dự đoán cho rằng trao đổi thương mại giữa hai nước sẽ đạt 100 tỉ USD

vào năm 2015[20, tr.4]. Hiện Trung Quốc đang là đối tác thương mại lớn nhất của

Ấn Độ, Ấn Độ là một trong mười đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Ấn

Độ đã trở thành thị trường nhận thầu công trình lớn quan trọng ở nước ngoài của

Trung Quốc. Hợp tác Trung - Ấn trong nhận thầu công trình không chỉ có lợi cho sự

phát triển của các doanh nghiệp Trung Quốc ở nước ngoài, mà còn có ảnh hưởng

tích cực đến việc cải thiện cơ sở hạ tầng của Ấn Độ. Đầu tư hai chiều Trung - Ấn

cũng tăng lên. Quan hệ kinh tế thương mại đã trở thành nội dung chủ yếu trong mối

quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Trung - Ấn.

Về khoa học - kỹ thuật: hai bên đang có sự hỗ trợ nhau rất hiệu quả. Trung

Quốc đang nổi lên như một nhà sản xuất máy tính hàng loạt, còn Ấn Độ thì đang

dần chiếm lĩnh thị trường thế giới trong lĩnh vực phần mềm. Sự bổ sung cho nhau

này đang thúc đẩy hợp tác mạnh mẽ hơn. Ngoài ra thì hai nước cũng đã triển khai

73

hợp tác trên các mặt gang thép, xăng dầu, khoảng không, dược phẩm, phần mềm và

còn nhiều tiềm năng hợp tác trên lĩnh vực khác nữa mà họ có thể khai thác.

Hợp tác an ninh - quốc phòng: Trước những thay đổi của quan hệ quốc tế

trong thế kỉ mới, Trung Quốc và Ấn Độ đang cố gắng vượt lên những nghi ngại để

cùng xây dựng một môi trường an ninh hoà bình, tạo điều kiện cho phát triển kinh

tế. Các cuộc tiếp xúc quân sự Trung - Ấn diễn ra thường niên. Hai bên tăng cường

sự tin tưởng lẫn nhau, xây dựng cơ chế đối thoại gồm nhiều lĩnh vực: tranh chấp khu

vực, những thách thức an ninh mới, cũng như quan hệ an ninh song phương, huấn

luyện và tập trận chung. Đối thoại an ninh và quốc phòng tạo nên một nền tảng cần

thiết để định hướng chính sách quốc phòng và nghiên cứu an ninh khu vực. Hợp tác

an ninh quốc phòng an ninh Bắc kinh - NiuĐêli là nhằm mục đích thúc đẩy quan hệ

láng giềng hữu nghị tốt đẹp giữa hai nước và cùng nhau thúc đẩy hòa bình, phát

triển cho toàn khu vực.

Hợp tác an ninh quốc phòng an ninh Bắc kinh – Niu Đêli là nhằm mục đích thúc đẩy

quan hệ láng giềng hữu nghị tốt đẹp giữa hai nước và cùng nhau thúc đẩy hòa bình,

phát triển cho toàn khu vực.

Trên lĩnh vực văn hóa – Giáo dục và đào tạo: Cùng với sự tăng cường quan hệ

chính trị, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, quan hệ văn hóa, giáo dục cũng được tăng

cường, ngày càng phong phú, đa dạng và đạt kết quả cao. Điều này không những

tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau mà còn làm phong phú thêm đời sống tinh

thần, làm tăng sự hiểu biết lẫn nhau và tình hữu nghị giữa hai nước. Việc chính phủ

hai nước coi trọng mở rộng giao lưu trên lĩnh vực nhân văn là đặc điểm quan trọng

trong mối quan hệ Trung - Ấn những năm gần đây. Sự trao đổi hữu nghị giữa các tổ

chức truyền thông báo chí, giới học thuật, tổ chức đoàn thể nhân dân không ngừng

tăng lên, nhất là chương trình “Đoàn thanh niên trăm người” của hai nước đã tổ

chức liên tục trong 5 năm. Năm 2007, hai nước tổ chức “Ngày hội Trung Quốc” và

“Ngày hội Ấn Độ”.

Nhìn lại cả một quá trình quan hệ trong thời kỳ hiện đại, ta thấy quan hệ

Trung Quốc - Ấn Độ phát triển qua nhiều giai đoạn, có những thăng trầm, song với

sự nỗ lực từ cả hai phía, quan hệ giữa hai nước đang tiến triển tốt đẹp.

74

3.2. Thuận lợi, khó khăn

Quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ hiện nay có nhiều thuận lợi cả về khách

quan và chủ quan song cũng đồng thời phải đối mặt với không ít khó khăn cả từ bên

trong lẫn bên ngoài.

3.2.1. Thuận lợi

Về môi trường quốc tế: Trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, sự vận động theo

xu thế đa cực ngày càng rõ. Sự cân bằng sức mạnh cũng như vị thế của Mỹ với

Trung Quốc, Nga, Nhật bản, EU ngày càng được khẳng định. Trong quan hệ quốc tế

hiện nay nền hòa bình được đề cao và trở thành chuẩn mực, tạo cơ sở chung cho các

mối quan hệ quốc tế. Với tư duy chiến lược là đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, các

quốc gia đều xác định rõ yếu tố tiên quyết đảm bảo cho sự phát triển của mình là

hòa bình và ổn định. Sự thay đổi của tư duy quan hệ quốc tế đã quyết định xu hướng

của quan hệ quốc tế hiện nay khi tính cạnh tranh giữa các quốc gia tất yếu dẫn đến

những mâu thuẫn, nhưng các quốc gia, các tổ chức khu vực luôn tìm mọi cách để

duy trì hòa bình. Môi trường này đang tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của

các mối quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ nói riêng.

Những biến đổi trong khu vực cũng đang có nhiều thuận lợi cho quan hệ giữa

Trung Quốc và Ấn Độ. Bên cạnh xu thế toàn cầu hóa, tính khu vực hóa là yếu tố

thuận lợi đầu tiên cho sự phát triển của các mối quan hệ trong cùng một khu vực. Ấn

Độ với việc thực hiện chính sách “hướng Đông” đã giúp họ ngày càng khảng định

vai trò của mình ở Châu Á. Sự hợp tác giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong những năm

qua góp phần không nhỏ tới việc duy trì hòa bình, an ninh cho khu vực, do đó vị thế

của hai nước ở châu Á - Thái Bình Dương ngày càng được nâng cao. Đặc biệt sự

đồng thuận của Trung Quốc và Ấn Độ trong khu vực không những tạo điều kiện

thuận lợi cho quan hệ hai nước phát triển mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc

giải quyết những bất đồng trong khu vực. Trên cơ sở đó, các quốc gia trong khu vực

ngày càng có điều kiện tăng cường quan hệ hợp tác đa phương, nâng cao sự gắn kết

khu vực, thúc đẩy cho tính khu vực hóa của Châu Á - Thái Bình Dương ngày càng

được phát triển toàn diện và đây cũng là điều kiện thuận lợi cho quan hệ giữa Trung

Quốc và Ấn Độ phát triển hơn nữa.

75

Về phía Trung Quốc và Ấn Độ, trước hết hai nước có chung đường biên giới,

có chung trình độ phát triển, Trung Quốc và Ấn Độ đang có tiềm năng hợp tác bên

cạnh các cặp quan hệ khác như Nga - Nhật, Mỹ - Nhật, Mỹ - Trung, Trung -

Nga…Thứ hai, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều là những nước lớn, cùng hướng tới

một thế giới đa cực và có ảnh hưởng ngày càng lớn tới các tổ chức khu vực trên thế

giới…đã đang và sẽ thúc đẩy cho quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Thứ ba,

trong những năm qua, cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công

nghệ, sự gia tăng mạnh mẽ của thương mại, đầu tư, những biến động phức tạp của

tình hình chính trị trong nước và trên thế giới, Ấn Độ đang từng bước phát triển

thành một cường quốc mới. Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ và có khả năng trở

thành nền kinh tế lớn nhất thế giới (Năm 2010, GDP của Trung Quốc đã vượt qua

Nhật Bản, đứng thứ hai thế giới sau Mỹ)[43]. Khi tiềm năng hai nước được nâng

cao thì tiềm năng hợp tác cũng ngày càng lớn, tạo điều kiện cho sự phát triển của

quan hệ hai nước.

Những yếu tố thuận lợi trên đã tạo cơ sở cho quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn

Độ phát triển. Hiện nay, các yếu tố này vẫn đang vận động tích cực hơn. Cả môi

trường quốc tế và khu vực đều đang có những chuyển biến tích cực, tạo điều kiện

thuận lợi cho quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ phát triển. Trong môi trường

thuận lợi đó chính là cơ sở giúp hai nước đẩy mạnh hợp tác kinh tế, tạo sự cân đối

trong quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ ở các lĩnh vực.

3.2.2. Khó khăn

Song song với những thuận lợi nêu trên, sự phát triển của quan hệ giữa Trung

Quốc và Ấn Độ trong hiện tại và tương lai cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn thử

thách:

* Những tồn tại từ bên trong:

Tồn tại lớn nhất trong quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ hiện nay là giải

quyết vấn đề biên giới. Vấn đề biên giới là vấn đề phức tạp và nhạy cảm nhất trong

quan hệ giữa hai nước. Trung Quốc và Ấn Độ có chung đường biên giới dài khoảng

3.550 km, được phân cách bởi dãy Himalaya và cao nguyên Tây Tạng. Do những

hậu quả của thời kì thực dân Anh thống trị Ấn Độ, tranh chấp về biên giới Trung -

76

Ấn sau ngày hai nước độc lập hết sức phức tạp. Trung Quốc và Ấn Độ đều tuyên bố

chủ quyền ở những vùng biên giới tranh chấp. Ấn Độ đòi Trung Quốc trả lại vùng cao nguyên Aksai Chin với diện tích khoảng 38000 km2 nằm ở phía Tây đường biên

giới chung mà Trung Quốc hiện đang quản lí. Ngoài ra, Ấn Độ cũng cáo buộc Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp 5180 km2 ở khu vực Kashmir được Pakistan nhượng

lại từ năm 1963. Còn Trung Quốc cũng lên tiếng đòi chủ quyền ở bang Arunachal

Pradesh của Ấn Độ ở phía Đông đường biên giới chung với diện tích khoảng 90000 km2 vì cho rằng bang này thuộc vùng Tây Tạng. Trung Quốc cũng phản đối việc

tiểu bang Sik Kim được sáp nhập vào Ấn Độ năm 1975. Thêm nữa, cả hai hiện còn tranh chấp khoảng 2000 km2 ở đoạn giữa đường biên giới chung. Sau cuộc chiến

tranh năm 1962, biên giới giữa hai nước luôn trong tình trạng căng thẳng. Từ cuối

những năm 1980 trở đi, cả hai bên đều tích cực tìm kiếm những biện pháp giải quyết

những tranh chấp thông qua đàm phán hoà bình. Hai bên đã thành lập Nhóm công

tác chung về biên giới để thảo luận nhằm giải quyết dứt điểm vấn đề biên giới. Năm

2002, Trung Quốc và Ấn Độ đã trao đổi bản đồ tuyến kiểm soát thực tế tại "đoạn

giữa" biên giới hai nước, nằm trên bang Himachal Pradesh của Ấn và vùng

Uttaranchal thuộc Tây Tạng của Trung Quốc. Trải qua 5 lần hội đàm đặc phái viên,

ngày 11/4/2005, hai nước đã kí kết "Hiệp định về nguyên tắc chỉ đạo chính trị giải

quyết vấn đề biên giới Trung - Ấn". Cố vấn an ninh quốc gia Ấn Độ M.K.

Narayanan cho biết, giới chức hai nước đã xây dựng một bản lộ trình để giải quyết

cuộc tranh chấp về đường biên giới dài 3.550 km. "Chúng tôi rất hy vọng rằng tài

liệu này sẽ là điểm xuất phát của một quá trình cơ bản trong việc dàn xếp bất đồng

về biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc"[48]. Hiện nay, hai nước đã trải qua 18

vòng đàm phán biên giới và đang bước vào giai đoạn phải xử lý thực chất các nội

dung cụ thể. Đây là vấn đề phức tạp và nhạy cảm bởi nó không chỉ liên quan tới lợi

ích quốc gia mà vì nó là hệ quả của những vấn đề lịch sử. Do vậy, để có một biên

giới Trung - Ấn hòa bình, ổn định đòi hỏi hai bên phải hết sức nhẫn nại, nhân

nhượng và có thiện chí. Đây chính là tồn tại chi phối lớn nhất trong quan hệ giữa

Trung Quốc và Ấn Độ trong giai đoạn hiện nay.

77

Bên cạnh xu hướng hợp tác hữu nghị, giữa Trung Quốc và Ấn Độ còn có sự

cạnh tranh nóng bỏng. Trung Quốc từ trước vẫn chỉ coi Ấn Độ là một cường quốc

khu vực, trong phạm vi một tiểu lục địa. Thậm chí, giới cầm quyền Trung Quốc còn

cho rằng Ấn Độ, với sự hỗn loạn trong nước, sẽ không bao giờ đi đến thống nhất về

hành động. Tuy nhiên, hơn một thập niên qua, Ấn Độ đã khiến Trung Quốc ngạc

nhiên theo nhiều cách. Ấn Độ không chỉ thách thức hệ thống quốc tế bằng cách tiến

hành các vụ thử hạt nhân vào tháng 5/1998 mà còn đàm phán gia nhập câu lạc bộ

hạt nhân thành công thông qua việc tạo dựng mối quan hệ đặc biệt với nước Mĩ. Tỉ

lệ tăng trưởng cao chưa từng có ở Ấn Độ trong những năm gần đây cũng cho Trung

Quốc thấy rõ rằng động lực kinh tế đằng sau sự trỗi dậy của Ấn Độ là hiện hữu và

hợp logic. Tài ngoại giao nước lớn thành công của Niu Đêli, kể cả việc nối lại quan

hệ hữu nghị với Washington và Tokyo, khiến Bắc Kinh nhận thức được khả năng

Ấn Độ có thể thu hẹp "đất diễn" của Trung Quốc. Khi Ấn Độ tránh xa khỏi "người

anh em" đang xuống dốc Pakistan, chính sách truyền thống về việc cân bằng Ấn Độ

của Trung Quốc trong phạm vi tiểu lục địa không thể tiếp tục tồn tại. Trung Quốc

hiểu rằng nếu cứ tiếp tục chính sách kiềm chế như trước sẽ vô hình chung đẩy Ấn

Độ tham gia vào "vòng cung dân chủ" do Mĩ khởi xướng để kiềm chế Trung Quốc.

Việc Bắc Kinh xích lại gần Niu Đêli cũng nhằm trấn an Ấn Độ và các nước láng

giềng Châu Á về thuyết "trỗi dậy hoà bình"[39].

Bên cạnh đó, bước vào thế kỷ XXI đến nay, quan hệ kinh tế thương mại

Trung - Ấn phát triển nhanh. Trung Quốc hiện nay là đối tác thương mại lớn nhất

của Ấn Độ, trong khi Ấn Độ chỉ là đối tác thứ 9 của Trung Quốc. Nhưng cùng với

những bước tiến lớn trong quan hệ thương mại giữa hai nước, những mâu thuẫn

cũng ngày một nhiều hơn. Những năm gần đây, Ấn Độ liên tục đưa ra những chính

sách chống bán phá giá nhằm vào các mặt hàng của Trung Quốc, là quốc gia đứng

thứ 3 trên thế giới chỉ sau EU và Mỹ, cũng là quốc gia đứng đầu trong các nước

đang phát triển có nhiều vụ kiện chống bán phá giá nhằm vào Trung Quốc. Những

mâu thuẫn, va chạm ngày một nhiều trong quan hệ thương mại đã trở thành trở ngại

lớn nhất cản trở sự phát triển lành mạnh trong quan hệ Trung Quốc Ấn Độ.

78

Trong bối cảnh hiện nay, sự mất cân bằng giữa Trung Quốc và Ấn Độ đang

tăng lên nhanh chóng trên cả lĩnh vực kinh tế và quân sự cũng tạo nên những tiềm

ẩn, thách thức quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong tương lai. Ấn Độ sẽ phải

rất khó khăn để quen với thế lực đang ngày càng lớn mạnh của Trung Quốc. Khi sự

cân bằng giữa Ấn Độ và Trung Quốc mất đi, chắc chắn Ấn Độ sẽ phải đối mặt với

sức ép ngày càng lớn của nền kinh tế năng động Trung Quốc.

*Những thách thức từ bên ngoài:

Việc Trung Quốc tìm cách tăng cường ảnh hưởng, thống trị khu vực biển

Hoa Đông và Biển Đông gần đây đang ngày càng thu hút sự chú ý của công luận thì

cuộc đấu tranh âm thầm lặng lẽ về ảnh hưởng ở khu vực Ấn Độ Dương cũng được

Nhật Bản, Mỹ theo dõi một cách chặt chẽ. Hơn bất kỳ lúc nào hết, tất cả các mối lo

ngại đó đều là về vấn đề năng lượng. Trên thực tế, các tàu chở dầu đi qua Ấn Độ

Dương có đến 80% là của Trung Quốc, 65% của Ấn Độ, 60% của Nhật Bản khiến

cho vùng biển này trở thành tuyến đường quan trọng đối với ba cường quốc của

Châu Á. Bất kỳ sự cố nào trong tuyến đường vận chuyển dầu như bế tắc ngoại giao,

cướp biển, chiến tranh... có thể làm tê liệt các nước này và gây ảnh hưởng đến toàn

thế giới.

Trước tiên, từ những cân nhắc về vấn đề an toàn chiến lược địa chính trị Châu Á,

Mỹ đã không ngừng lôi kéo Ấn Độ bằng những thủ đoạn kinh tế, một mặt là để ổn

định khu vực Nam Á và Ấn Độ Dương, mặt khác muốn thông qua Ấn Độ để cân

bằng và kiềm chế Trung Quốc. Sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh, Mỹ không ngừng

nâng cao vị thế và vai trò của Ấn Độ ở khu vực Châu Á, tăng cường hợp tác với Ấn

Độ trên lĩnh vực năng lượng, nhất là năng lượng hạt nhân, xây dựng liên minh năng

lượng hạt nhân mới Mỹ - Ấn. Nhất là từ thời chính quyền G. Bush cho đến nay,

quan hệ Mỹ - Ấn không ngừng được ấm lên từng ngày. Trong chuyến thăm Mỹ của

Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh vào tháng 7/2005, Mỹ đã hứa sẽ triển khai hợp

tác toàn diện với Ấn Độ trên lĩnh vực năng lượng hạt nhân dân dụng. Theo như hiệp

ước này, Mỹ sẽ cung cấp kỹ thuật hạt nhân dân dụng, nguyên liệu đốt hạt nhân và lò

phản ứng hạt nhân, tuy nhiên với tiền đề là Ấn Độ phải tiến hành ly khai chương

trình hạt nhân dân dụng và hạt nhân quân sự, và phải chịu sự kiểm tra của Mỹ với

79

những thiết bị hạt nhân dân dụng. Mặc dù cho đến nay Ấn Độ vẫn chưa gia nhập

vào “Điều ước không phổ biến vũ khí hạt nhân quốc tế”, song với Mỹ, Ấn Độ không

chỉ là một thị trường tiềm năng có sức hút lớn, mà còn là một sức mạnh quan trọng

trong chiến lược cân bằng Trung Quốc của Mỹ. Hơn thế nữa, sau khi kết thúc Chiến

tranh lạnh, mục tiêu ngoại giao quan trọng nhất của Ấn Độ chính là tích cực tìm

kiếm để xây dựng mối quan hệ hợp tác chiến lược với Mỹ, bởi vì điều này không

những khiến các quốc gia phương Tây do Mỹ đứng đầu thừa nhận vị trí nước lớn

của Ấn Độ, giúp Ấn Độ thu được nhiều lợi ích kinh tế, khoa học kỹ thuật, mà còn

duy trì được sự khống chế và gây áp lực với Trung Quốc về mặt chiến lược.

Tiếp đó, sự hợp tác giữa Nhật Bản và Ấn Độ trên các lĩnh vực chính trị, quân sự,

kinh tế, đầu tư ngày càng mật thiết, cũng nhằm ý đồ bao vây ngăn chặn Trung Quốc.

Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh, Nhật Bản đi theo con đường của Mỹ nhanh chóng

phá vỡ cục diện lạnh nhạt trong mối quan hệ ngoại giao với Ấn Độ nhiều năm trở lại

đây. Tháng 12/2006, mối quan hệ Nhật Bản - Ấn Độ đã có bước tiến lớn từ “Quan

hệ hợp tác toàn cầu” đến “Quan hệ hợp tác toàn cầu mang tính chiến lược”. Thủ

tướng Nhật Abe đã từng nói: “Một Ấn Độ lớn mạnh và phồn vinh phù hợp với lợi

ích của Nhật Bản, có lợi cho Châu Á. Chúng ta cần phải giúp đỡ nền kinh tế Ấn Độ

phát triển”. Hiện nay, Ấn Độ đã trở thành nước nhận viện trợ phát triển chính thức

ODA lớn nhất của Nhật Bản. Hai nước cũng tăng cường mức độ hợp tác trên lĩnh

vực an toàn biển và năng lượng. Theo trang mạng cộng đồng Nhật Bản đưa tin,

ngày 20/10/2008, tại hiệp định hợp tác kinh tế Nhật - Ấn tổ chức ở Niu Đêli, Thủ

tướng Ấn Độ M. Singh bày tỏ: “Cần phải đạt được hiệp định trong năm nay”. Về

hợp tác kinh tế với Nhật Bản, ngoài viện trợ phát triển chính thức ODA của Nhật,

M. Singh còn mong muốn mở rộng hợp tác hơn nữa trên các lĩnh vực thương nghiệp

như mậu dịch và đầu tư. Theo “Thời báo kinh tế” Ấn Độ đưa tin ngày 26/4/2007,

Ấn Độ và Nhật Bản sẽ tiến hành đối thoại năng lượng lần đầu tại Tokyo trong tháng

này, hai bên quyết định thiết lập quan hệ đối tác lâu dài, hợp tác thăm dò dầu mỏ,

khí đốt tự nhiên ở nước thứ ba. Phía Nhật còn bày tỏ mong muốn hợp tác với Ấn Độ

trên các mặt dự trữ dầu mỏ, nghiên cứu thị trường Châu Á. Hai nước ký kết bản ghi

nhớ thỏa thuận hợp tác năng lượng, và quyết định thành lập năm tổ công tác năng

80

lượng dầu mỏ, khí tự nhiên, điện, than đá. Hợp tác năng lượng Ấn - Nhật có khung

hợp tác tương tự như hợp tác Mỹ - Ấn, song không bao gồm hợp tác năng lượng hạt

nhân.

Thứ ba, xét về mặt địa chính trị, đề phòng sự trỗi dậy của Trung Quốc, hợp tác Nga

- Ấn cũng có tính định hướng chiến lược nhất định. Không thể phủ nhận rằng, việc

Nga - Ấn tiếp cận nhau chủ yếu là do sự thu hẹp chiến lược khống chế, cân bằng

Mỹ, tuy nhiên Nga - Ấn tăng cường hợp tác trên lĩnh vực năng lược và mua bán vũ

khí quân sự cũng là từ mục đích do Nga muốn lợi dụng Ấn Độ để khống chế, cân

bằng Trung Quốc, đây này là phản ứng được gây nên từ một loạt các sự kiện bắt đầu

từ tháng 10/2004, Nga ngăn cản công ty Trung Quốc thu mua công ty cổ phần

Yuganskneftegaz (Юганскнефтегаз), song lại giúp cho công ty Ấn Độ thuận lợi

tham gia thu mua công ty dầu khí Nga. Nga đồng ý để Ấn Độ nắm giữ cổ phần

trong chương trình khai thác dầu khí Sakhalin Oblast ( а а нска аст ) đang được tiến hành, tính năng của vũ khí Nga bán cho Ấn Độ luôn cao hơn một bậc so

với vũ khí bán cho Trung Quốc. Sự nhiệt tình của các nước lớn Mỹ, Nhật, Nga hoàn

toàn rào đón được những nhu cầu chiến lược của Ấn Độ ở Châu Á. Dưới tình hình

này, sự tăng cường hợp tác năng lượng giữa Ấn Độ và Trung Quốc gần như là một

phương thức để cân bằng quan hệ Trung - Ấn. Xét về mặt địa chính trị, Ấn Độ là đối

tác của Trung Quốc, cũng là một công cụ quan trọng để các nước lớn khác khống

chế và cân bằng Trung Quốc. Đây cũng chính là nguyên do vì sao Ấn Độ vui lòng

thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược với các nước lớn khác. Ấn Độ hi vọng cùng

với việc xây dựng ngoại giao đối tác với Mỹ và Nga, một mặt có thể thu được

những lợi ích thực tế. Có thể nhận được viện trợ phát triển năng lượng hạt nhân dân

dụng từ Mỹ và Nga trên lĩnh vực hợp tác năng lược, và nhận được vũ khí cũng như

kỹ thuật tiên tiến từ Nga trong lĩnh vực buôn bán vũ khí.

3.3. Triển vọng

3. 3.1. Việc điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung Quốc sau Đại hội XVIII

Sau Đại hội XVIII lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đứng đầu là Tổng bí

thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã tiến hành điều chỉnh rất nhiều về chính sách

đối nội và đối ngoại, đáng chú ý nhất là chiến lược ngoại giao. Trong kỳ họp thứ 3

81

Quốc hội khóa 12 ngày 5/3/2015, Trung Quốc đã đưa ra tiêu đề điều chỉnh ngoại

giao mới: “Đẩy mạnh điều chỉnh chính sách ngoại giao láng giềng, thúc đẩy triển

khai chiến lược “một vành đai, một con đường”, nội dung đã nêu rõ: “Đi sâu đối

thoại chiến lược và hợp tác thực chất với các nước lớn, xây dựng khung quan hệ

nước lớn lành mạnh, ổn định. Thúc đẩy toàn diện ngoại giao chu biên (láng giềng

mở rộng), xây dựng “cộng đồng vận mệnh chu biên”.

Trung Quốc đang tính toán xây dựng “chiến lược ngoại giao đại chu biên” cho

10 năm tới, với các nội dung sau: (1) Xác lập điểm ngoại giao “đại chu biên”, (2)

Xây dựng nước lớn kiểu mới với Mỹ và 3 nước lớn xung quanh là Nhật, Nga, Ấn

Độ, (3) Thống nhất đồng bộ, liên thông ngoại giao láng giềng của 6 địa bàn Đông

Bắc Á, Đông Nam Á, Nam Á, Trung Á, Tây Á và Nam Thái Bình Dương, (4) Kết

hợp điều phối 4 mặt tư duy ngoại giao láng giềng giữa “đột phá trên biển” với “tích

cực Tây tiến”, “đứng vững trong nước” và “triển khai ra ngoài”. Với 4 phương

châm: “chân thành, thân thiện, cùng có lợi và “bao dung” (Thân, Thành, Huệ, Dung).

Cụ thể, các hướng điều chỉnh ngoại giao mới của Trung Quốc là: Ở phía

Đông Bắc: cạnh tranh mãnh liệt với Nhật Bản với chính sách “nhận diện phòng

không”, tranh chấp chủ quyền biển đảo; Ở phía Đông Nam, đưa ra “đường lưỡi bò”

phi lý, hạ đặt trái phép giàn khoan HD 981 vào vùng biển Việt Nam, xây dựng 7

đảo nhân tạo trên vùng biển của Việt Nam, thách thức an ninh chủ quyền và an ninh

hàng hải của các nước láng giềng như Việt Nam, Philippin, Malaixia, Brunei; Ở

phía Bắc, tạm thời hòa hoãn với Nga, nhưng vẫn thực hiện âm mưu thôn tính vùng

đất Viễn Đông rộng lớn của Nga khi có điều kiện, thực hiện âm mưu mở rộng bành

trướng biên giới với Mông Cổ; Ở phía Nam, ấp ủ âm mưu chia rẽ, mua chuộc, thôn

tính cácvùng đất của Myanma, Lào, Campuchia; Ở phía Tây, lôi kéo các nước

Pakistan, Nepal, các nước Trung Á nhằm chia rẽ với Ấn Độ và Nga.

Đặc biệt Trung Quốc đưa ra sáng kiến mới kết nối Đông - Tây, Á - Âu - Phi bằng

chiến lược “Một vành đai, một con đường” (OBOR), xây dựng Ngân hàng phát triển

cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), xây dựng khu vực mậu dịch tự do Châu Á - Thái Bình

Dương (FTAAP). Ý tưởng đầu tiên được Tập Cận Bình đề ra chiến lược cùng nhau

xây dựng “vành đai kinh tế, con đường tơ lụa” (NSR) được phát biểu tại trường Đại

82

học Natrapaep, Kazastan ngày 7/9/2013. Sau đó, đến ngày 3/10/2013, Tập Cận Bình

đề xuất trước Quốc Hội Indonexia rằng Trung Quốc sẵn sàng cùng các nước

ASEAN xây dựng “con đường tơ lụa trên biển thế kỉ XXI” (MSR). Tập Cận Bình

lại nêu đề nghị này tại Hội nghị APEC tháng 11/2014, Trung Quốc coi thời điểm

ngày ra đời của NSR và MSR được gọi chung là chiến lược “một vành đài, một con

đường” (OBOR). OBOR chính thức trở thành chính sách quốc gia từ tháng 11/2013

bằng nghị quyết trung ương 3 khóa 18: “Phải xây dựng cơ cấu tài chính tiền tệ mở,

đẩy nhanh xây dựng hỗ liên hỗ thông cơ sở hạ tầng với các quốc gia và khu vực

xung quanh, thúc đẩy xây dựng “vành đai kinh tế con đường tơ lụa” và “con đường

tơ lụa trên biển” hình thành một cục diện mới mở cửa toàn phương vị”.

Mục tiêu Trung Quốc xây dựng chiến lược “một vành đai, một con đường”

(OBOR) là: (1) Chủ động đề xuất mới với tư duy nước lớn, vai trò nước lớn, khát

khao thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa”, xây dựng Trung Quốc là trung tâm địa

chính trị - kinh tế toàn cầu, độc chiếm biển Đông, thực hiện đường lưỡi bò.

(2) Chống lại “chiến lược xoay trục” của Mỹ, đối trọng với TPP và TTIP của Mỹ,

do Mỹ chi phối, lấy lại vị trí lãnh đạo số 1 thế giới từ tay Mỹ. (3) Tận dụng yếu tố

lịch sử, hơn 2100 năm trước, Trung Quốc khởi xướng con đường tơ lụa để khuếch

trương thanh thế, mở rộng lợi ích của mình (ngày nay Trung Quốc cũng có điều

kiện để sử dụng yếu tố lịch sử phục vụ cho chiến lược quốc gia) nhằm phá thế cô

đơn, gia tăng ảnh hưởng ra khu vực, thế giới. (4) Nhu cầu thúc đẩy kinh tế, ngăn đà

thiểu phát: cầu thị trường, nguồn năng lượng, nguyên liệu, phát triển cân bằng vùng

- miền. Cụ thể, Trung Quốc sẽ sử dụng những nguyên liệu sản xuất dư thừa trong

nước (sắt thép, xi măng, vật liêu xây dựng...) cùng lực lượng lao động dư thừa và

đồng nhân dân tệ để chuyển đổi, để xây dựng một vành đai, một con đường, thông

qua ngân hàng AIIB.

Quy mô của “1 vành đai, 1 con đường” (OBOR): Thế giới sẽ có một khu vực

rộng lớn dưới sự khống chế của Trung Quốc: Một không gian nối liền 3 châu lục Á -

Âu - Phi; Qua 26 quốc gia và vùng lãnh thổ với dân số 4,4 tỷ người, chiếm 63% dân

số thế giới, GDP đạt 21.000 tỷ USD, chiếm 29% GDP toàn cầu, xuất khẩu hàng hóa

dịch vụ đạt 23,9% toàn cầu. Hai con đường đều xuất phát từ Trung Quốc theo

83

đường bộ và đường biển, hội tụ tại Venise (Ý) tạo thành một vòng tròn khép kín lớn,

một hành lang kinh tế dài nhất xuất phát từ Trung Quốc, thông qua Trung Á, Đông

Nam Á, Nam Á, Tây Á, qua một phần châu Âu, phía Đông đối với vành đai kinh tế

châu Á - Thái Bình Dương, phía Tây đối với vành đai kinh tế châu Âu. NSR và

MSR chia làm 3 tuyến: (1) Tuyến Bắc: xuất phát từ Bắc Kinh - Nga - Đức - Bắc Âu,

(2) Tuyến giữa (Trung): xuất phát từ Bắc Kinh - Tây An - Urumsi - Apganistan -

Kazastan - Hungary - Paris, (3) Tuyến Nam: Tuyền Châu - Phúc Châu - Quảng

Châu - Hải Khẩu - Bắc Hải - Hà Nội - Kuala Lumpur - Jakarta - Colombo - Calcuta

- Nairobi - Athens - Venise.

3. 3.2. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại mới của Ấn Độ

Từ khi lên cầm quyền ngày 26/5/2014 chính phủ Ấn Độ đứng đầu là Thủ

tướng Modi đã diều chỉnh chính sách đối ngoại xoay quanh quanh ba mục tiêu

chính, gồm: (1) nâng quan hệ chiến lược với các nước lớn lên mức cao hơn và do đó

tạo điều kiện cho Ấn Độ nổi lên thành “người chơi toàn cầu chủ chốt”, củng cố sự

thừa nhận Ấn Độ như một thế lực khu vực. (2) Tái sắp xếp bàn cờ khu vực Nam Á,

củng cố vai trò có ảnh hưởng bao trùm tại khu vực. (3) Nhờ có sức bật của kinh tế,

các nước lớn tăng đầu tư vào Ấn Độ, đồng thời khuyến khích các nước láng giềng

hợp tác kinh tế với Ấn Độ vì lợi ích chung về an ninh và kinh tế, cụ thể như sau:

Lấy ngoại giao "hòa bình" làm diện, lấy “quyền lực” làm điểm, nhấn mạnh ngoại

giao phục vụ nội chính, thực hiện giấc mơ của một nước lớn, Ấn Độ nên hợp tác đối

tác chiến lược, vạch rõ giới hạn với đối thủ, cố gắng chứng minh với thế giới về tầm

quan trọng của Ấn Độ; ngoại giao phải có sự hậu thuẫn của thực lực kinh tế và sức

mạnh quân sự.

Ấn Độ thúc đẩy chính sách “Ưu tiên các nước láng giềng”, củng cố vị thế ở khu vực

Nam Á và Ấn Độ Dương, gia tăng "vùng ảnh hưởng" chiến lược trong khu vực Ấn

Độ Dương, coi đó là nền tảng của chính sách đối ngoại. Modi lên nắm quyền đã lựa

chọn chuyến thăm đầu tiên đến Bhutan và Nepal… tiến tới thăm Trung Quốc..

Ấn độ đưa ra những chiến lược đầy tham vọng : “trở lại Châu Á”. Nâng cấp chiến

lược Châu Á - Thái Bình Dương từ “nhìn về hướng Đông” chuyển sang „hành động

hướng Đông”. Đầu năm 2014, Ấn Độ và Nhật Bản đã đạt được một thỏa thuận quan

84

trọng về các khía cạnh chiến lược về an ninh, hợp tác hàng hải, thương mại và đầu

tư. Ấn Độ mở rộng ảnh hưởng ở Myanmar về mặt thương mại và kết nối kinh tế. Ấn

Độ và Mông Cổ, Hàn Quốc tăng cường quan hệ kinh tế thương mại và hợp tác quốc

phòng. Ấn Độ và Việt Nam đã thiết lập một quan hệ đối tác chiến lược, liên quan

đến các khu vực tranh chấp ở Biển Đông của lô thăm dò dầu và khí đốt. Ấn Độ tích

cực thúc đẩy các cuộc đàm phán thương mại tự do với ASEAN,… Ấn Độ và

Australia, Indonesia đã ký một thỏa thuận khung về hợp tác quốc phòng.

Lợi dụng sức mạnh hiện có để tạo ra "thế kỷ Ấn Độ" với sức mạnh đang lên của

quốc gia và ảnh hưởng quốc tế. Ấn Độ đang phấn đấu để mở rộng phạm vi ảnh

hưởng của riêng mình, không muốn phụ thuộc vào các nước lớn khác. Sau khi chính

phủ Modi lên nắm quyền, xu hướng này trở nên rõ ràng hơn. Thủ tướng Modi khảng

định: "Thế giới đã công nhận thế kỷ XXI là thế kỷ của Châu Á, chúng tôi muốn

chắc chắn rằng nó là thế kỷ của Ấn Độ. Ấn Độ phải và sẽ đóng một vai trò lớn hơn

trong các vấn đề của thế giới. Chính sách đối ngoại của Ấn Độ không thể bị ảnh

hưởng bởi các cường quốc khác. Cần xây dựng một nước Ấn Độ mạnh mẽ, tự lực và

tự tin."

Ấn Độ tăng cường ngoại giao kinh tế, kêu gọi các nước lớn tăng cường đầu tư vào

Ấn Độ với khẩu hiệu “Sản xuất tại Ấn Độ”, đồng thời khuyến khích các nước láng

giềng hợp tác kinh tế với Ấn Độ vì lợi ích chung về an ninh và kinh tế.

Chính sách đối ngoại của Ấn Độ đã được nâng lên tầm cao mới, dưới ngọn cờ

lãnh đạo của Thủ tướng Narendra Modi. Các khuynh hướng chính sách đối ngoại

của Ấn Độ đã có bước nhảy vọt và lấy lại đà phát triển sau một thập niên trì trệ. Ấn

Độ đã bất ngờ nổi lên trong nhận thức chiến lược toàn cầu. Trong vòng một năm,

Ấn Độ đã tiếp đón nhiều nhà lãnh đạo toàn cầu từ Nga, Trung Quốc, Mỹ. Bên cạnh

đó, Thủ tướng Modi đã có các chuyến thăm thành công tới Nhật Bản, Mỹ, Trung

Quốc và Australia.

Chính sách ngoại giao của Thủ tướng Modi đã khiến Mỹ, Nga, Nhật Bản,

Trung Quốc và Australia điều chỉnh ưu tiên ngoại giao của họ với Ấn Độ. Đầu tư

Trực tiếp nước ngoài (FDI) từ các nước lớn vào Ấn Độ đã tăng lên nhanh chóng và

hiện Ấn Độ có tầm quan trọng trong những tính toán chiến lược của họ.

85

Đối với Mỹ, Ấn Độ không ngừng cải thiện quan hệ vì cả hai đều nhìn nhận được

tầm quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ song phương. Thứ nhất, về tính toán

chiến lược, Mỹ đang triển khai chính sách “Xoay trục sang Châu Á”, và Ấn Độ là

chính sách “hướng Đông”. Cả hai đều phải đối mặt với sự "trỗi dậy" của Trung

Quốc. Cả hai đều muốn kiềm chế để những tham vọng của Trung Quốc không đe

dọa đến lợi ích của họ. Thứ hai, về kinh tế, Ấn Độ cần đầu tư và công nghệ của Mỹ

để phát triển. Đối với Ấn Độ, quan hệ tốt với Mỹ giúp tiếp cận dễ dàng hơn hàng

hóa công nghệ cao phục vụ cho mục đích dân sự và quân sự. Và đối với Thủ tướng

Modi, mở cửa thu hút các nhà đầu tư Mỹ là phù hợp với chiến lược phát triển kinh

tế mà ông khởi xướng. Còn Mỹ muốn vững chân và có phần lớn trên thị trường Ấn

Độ trong bối cảnh bị cạnh tranh quyết liệt. Mỹ coi Ấn Độ là thị trường lớn và là đối

trọng đầy tiềm năng trước sự trỗi dậy của Trung Quốc ở Châu Á.

Đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Ấn Độ thực hiện chính sách “Hành

động hướng Đông” - nâng cấp từ “chính sách hướng Đông” thực hiện từ năm 1991.

Từ trọng điểm ban đầu là Đông Nam Á đến chỗ bao hàm cả Đông Á và Nam Thái

Bình Dương. Đặc biệt là các quốc gia giàu mạnh của khu vực như: Trung Quốc, Nhật

Bản, Hàn Quốc. Thời gian gần đây, Hàn Quốc, Nhật Bản nổi lên như một đối tác kinh

tế quan trọng của Ấn Độ và các mối quan hệ Trung - Ấn cũng được phát triển mạnh

mẽ. Nếu những năm 60 - 70 của thế kỷ XX, quan hệ Trung - Ấn luôn trong tình trạng

băng giá kéo dài thì đến những năm cuối của thế kỷ này và cho đến những năm gần

đây mối quan hệ láng giềng này đã được cải thiện đáng kể. Hai nước hiện trở thành

những đối tác kinh tế quan trọng và có nhiều quan điểm về chính trị, ngoại giao, đặc

biệt là nhiều vấn đề khu vực và quốc tế khá tương đồng. Do vậy, “hành động hướng

Đông” đã ưu tiên nhiều hơn đến nhân tố Trung Quốc. Từ những vấn đề đơn lẻ trong

thời kỳ trước sang một chương trình nghị sự rộng lớn hơn. Ấn Độ đã đẩy mạnh các

hợp tác song phương kể cả các hoạt động giao lưu quốc phòng với Nhật Bản, Hàn

Quốc và đặc biệt là Trung Quốc. Chưa bao giờ Ấn Độ lại triển khai một chính sách

đối ngoại mạnh mẽ phục vụ cho hợp tác đa phương ở khu vực Châu Á đến như vậy.

Như vậy, sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của chính phủ Ấn Độ đứng đầu là

thủ tướng Modi đã bật tín hiệu cho cộng đồng quốc tế rằng Ấn Độ đã sẵn sàng đóng

86

vai trò lớn hơn trong việc bảo đảm hòa bình, ổn định tại Châu Á và khu vực Ấn Độ

Dương. Trong đó, chính sách “hành động hướng Đông” là một ví dụ điển hình.

Chính sách này dựa trên nền tảng và có sự kế thừa truyền thống và tư duy đối ngoại

của Ấn Độ trong lịch sử, nhưng thực tế hơn và chú trọng hơn đến lợi ích quốc gia.

Trước những khó khăn trong nước, Ấn Độ có nhu cầu lớn là mở rộng quan hệ đối

ngoại nhằm tạo dựng một môi trường khu vực, quốc tế hoà bình, ổn định và tận

dụng các nguồn lực bên ngoài cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, xa

hơn nữa là đưa Ấn Độ trở thành một cường quốc trên thế giới trong tương lai. Ấn

Độ hướng đến Trung Quốc là hướng đến một khả năng to lớn nhằm xoá bỏ những

bất đồng tồn tại trong quá khứ và mở ra những vận hội mới cho tương lai. “Con

Rồng” và “con Voi” Châu Á đang hợp tác với nhau cùng giải quyết các vấn đề của

khu vực và thế giới, nhằm đưa vị thế của quốc gia cũng như khu vực tiến xa hơn

nữa trên trường quốc tế. Chính sách “hành động hướng Đông” của Ấn Độ đang góp

phần thực hiện điều đó.

3.3.3. Triển vọng quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ

3.3.3.1. Những nhân tố tác động tới quan hệ Trung - Ấn

Nhìn lại mối quan hệ Trung - Ấn trong những năm qua ta thấy tương đối phức

tạp, vừa tồn tại lợi ích chung, vừa có một số vấn đề cần được giải quyết. Nhưng lợi

ích chung của hai nước mang tính toàn cục, chiến lược và lâu dài, còn những vấn đề

tồn tại chỉ là cục bộ, thứ yếu, tạm thời, trong đó một số đang được giải quyết, một số

thông qua nổ lực của hai bên hy vọng sẽ được giải quyết trong thời gian tới. Do đó,

điểm chung của hai nước nhiều hơn bất đồng. Từ thực tế đó ta thấy, sự phát triển

của quan hệ Trung - Ấn trong tương lai sẽ được xây dựng dựa trên những cơ sở chủ

yếu sau:

Thứ nhất, trong lịch sử hai nước đã từng có mối quan hệ láng giềng hữu nghị và

thân thiện, gắn chặt với sự ủng hộ lẫn nhau trong suốt những năm cả hai bên đều

phải đấu tranh giành độc lập dân tộc. Những thành tựu trong quan hệ hữu nghị, hợp

tác giữa hai dân tộc lớn trong những năm 50 của thế kỷ XX, đặc biệt là trong giai

đoạn hiện nay, sự hiểu biết lẫn nhau cùng với những bài học rút ra từ trong quá trình

hợp tác là hành trang để hai nước bước vào thế kỷ XXI.

87

Thời gian qua, quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ được cải thiện rõ rệt, trở nên gần gũi

và là đối tác hợp tác chiến lược với việc ký Tuyên bố chung Ấn Độ - Trung Quốc

năm 2005. Hai nước Trung - Ấn đã dần dần tìm ra một con đường hợp tác chung

sống đặc biệt gọi là, “mô hình quan hệ Trung Ấn”. Trong bối cảnh tranh chấp chủ

quyền lãnh thổ vẫn tồn tại sự khác biệt lớn, hai nước vẫn nỗ lực khống chế tranh

chấp tìm kiếm lợi ích chung, mở rộng hợp tác thiết thực, tiếp tục duy trì mối quan hệ

ở mức độ cao. Trong bối cảnh các nước Châu Á - Thái Bình Dương đang có những

thay đổi lớn, việc xúc tiến mô hình quan hệ Trung - Ấn có ý nghĩa hiện thực và lý

luận ngoại giao quan trọng đối với việc xử lý tốt quan hệ với các nước xung quanh.

Nhiều năm qua hai nước chứng tỏ nỗ lực xây dựng và thực hiện “mô hình quan hệ

Trung - Ấn” thể hiện qua những điểm sau:

Hai nước đã nỗ lực thực hiện chiến lược cân bằng và chung sống hòa bình. Do chiến

lược tái cân bằng Châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ và xu thế cánh tay phải của

Nhật càng rõ ràng, phía đông Trung Quốc càng thêm áp lực, chiến lược trọng tâm

của Trung Quốc rơi vào phía đông, tại Nam Á môi trường chiến lược của Ấn độ

cũng ngày càng phức tạp. Ấn Độ Dương ngày càng trở thành nơi tranh giành ảnh

hưởng của các nước lớn phương Tây. Trọng tâm an toàn chiến lược của Ấn Độ rõ

ràng được đặt tại Nam Á và đại lục. Trọng tâm chiến lược đối ngoại của hai nước

Trung - Ấn là hỗ trợ lẫn nhau, vì hai nước chung sống hòa bình hợp tác. Lãnh đạo

Ấn Độ nhiều lần nhấn mạnh, thế giới đủ lớn có thể dung nạp được hai nước Trung -

Ấn phát triển phồn vinh thịnh vượng. Vị trí địa lý, cội nguồn lịch sử và vận mệnh

hai nước Trung - Ấn liên hệ chặt chẽ với nhau, hai nước chỉ có thể cùng nhau chung

sống hòa bình.

Hai nước tích cực thiết lập quan hệ đối tác đầu tư thương mại có hiệu quả. Quan hệ

kinh tế thương mại là mảng sôi động nhất trong quan hệ Trung - Ấn, có thể dung

hợp lợi ích hai nước. Thứ nhất về thương mại song phương Trung Quốc đã trở thành

một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Ấn Độ hàng hóa và dịch vụ chất

lượng tốt giá rẻ của Trung Quốc giúp Ấn Độ giảm đói nghèo, thực hiện công nghiệp

hóa và hiện đại hóa. Trung Quốc đã là đối tác thương mại lớn nhất Ấn Độ, Ấn Độ là

đối tác thương maị Nam Á lớn nhất của Trung Quốc, năm 2013 kim ngạch thương

88

mại song phương Trung Ấn đạt 65,471 tỉ USD, kim ngạch thương mại song phương

3 quý đầu năm 2014 vượt 50 tỉ USD. Năm năm tới Trung Quốc sẽ cùng các quốc

gia Nam Á trong đó có Ấn Độ phấn đấu đưa kim ngạch thương mại song phương

giữa Trung Quốc và khu vực Nam Á vượt mức 150 tỉ USD. Thứ hai về đấu thầu

công trình theo thống kê đến cuối năm 2012 kim ngạch lũy kế hợp đồng đấu thầu

công trình Trung Quốc ký ở Ấn Độ là 60,131 tỉ USD doanh thu 33,518 tỉ USD. Ấn

Độ trở thành một trong những thị trường nước ngoài lớn nhất của Trung Quốc về

đấu thầu công trình. trong bối cảnh Ấn Độ cần cải thiện cơ sở hạ tầng, đấu thầu

công trình trở thành biện pháp linh hoạt đáng tin cậy trong tăng cường hợp tác

Trung - Ấn về xây dựng cơ sở hạ tầng. Thứ ba là đầu tư song phương để phát triển

ngành chế tạo trong nước, nâng cao tỉ trọng ngành chế tạo trong GDP ứng phó với

vấn đề bội chi quy mô lớn và không ngừng tăng những năm gần đây. Chính phủ Ấn

Độ hướng đến chuyển dịch công nghệ và đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Trung

Quốc. Theo số liệu công bố của chính phủ Ấn Độ từ tháng 4/2000 đến tháng 5/2014

Trung Quốc đầu tư sang Ấn Độ 410 triệu USD chiếm 0,18 % tổng lượng đầu tư

nước ngoài vào Ấn Độ, đứng thứ 28 trong các quốc gia và khu vực đầu tư vào Ấn

Độ. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong thời gian thăm Ấn Độ đã tuyên bố

phía Trung Quốc trong vòng 5 năm tới sẽ đầu tư 20 tỉ USD vào các dự án phát triển

cơ sở hạ tầng ngành công nghiệp của Ấn Độ. Về mặt chế độ hóa quan hệ kinh tế

thương mại đối thoại kinh tế chiến lược, kinh tế tài chính... ngày càng hoàn thiện

hợp tác thiết thực hai bên dần mở rộng từ lĩnh vực thương mại hàng hóa đấu thầu

công trình sang ngành chế tạo thương mại dịch vụ, dù chịu tác động bất lợi môi

trường kinh tế quốc tế tranh chấp thương mại Trung - Ấn khá rõ nhưng hợp tác

mang tính chế độ trong lĩnh vực thương mại hai nước vẫn duy trì tăng trưởng

thương mại song phương vẫn duy trì ổn định, hợp tác đấu thầu công trình tiến hành

khá thuận lợi, tiềm năng đầu tư được giải phóng.

Hai nước sẵn sàng đối diện với bất đồng, tích cực hóa giải mâu thuẫn tìm kiếm lợi

ích chung. Những năm gần đây hai nước Trung - Ấn cùng nhận ra rằng thông qua

đàm phán và đối thoại, thương lượng giải quyết tranh chấp hai bên là tăng cường

chiến lược tin tưởng lẫn nhau, là con đường quan trọng thúc đẩy quan hệ song

89

phương bước lên một tầm cao mới. Đồng thời hai nước tiếp tục khai thác và mở

rộng lợi ích chung, dùng thái độ tích cực để thu hẹp và giải quyết những khác biệt.

Hai nước đã tìm ra những cơ chế mới về vấn đề biên giới, an ninh hàng hải, đối

thoại chống khủng bố giữa hai nước, đối thoại quốc phòng vấn đề Afghanistan và

Trung Á cùng các vấn đề khác trong khu vực. Hai nước đã nhận thức được tầm quan

trọng của việc duy trì hòa bình và an ninh biên giới, mong muốn không để vấn đề

biên giới làm ảnh hưởng đến quan hệ hai nước. Thoát khỏi những vấn đề vướng mắc

của lịch sử để lại, tập trung vào phục hưng dân tộc ngày càng trở thành vấn đề mà

các nhà lãnh đạo cấp cao của hai nước quan tâm.

Hai nước cùng bắt tay tạo ra mối quan hệ đối tác hợp tác đa phương cùng hỗ trợ

nhau nâng cao vị thế quốc gia. Hợp tác quốc tế đa phương là điểm nổi bật mới của

quan hệ Trung - Ấn. Củng cố quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Trung - Ấn trong

quá trình phát triển hai nước đều phải chịu áp lực của thể chế quốc tế mà chủ yếu là

Phương Tây. Trung - Ấn và các nước lớn đang phát triển trong lĩnh vực quản trị

toàn cầu ngày càng nâng cao thanh thế, phối hợp hộ trợ lẫn nhau, bảo vệ không gian

phát triển của cả hai bên. Những năm gần đây trong vấn đề biến đổi khí hậu, chống

khủng bố, an toàn năng lượng, các vấn đề nóng của khu vực hai nước ngày càng đạt

được nhiều sự đồng thuận.

Thứ hai, Trung Quốc có vị trí quan trọng đối với chính sách của Ấn Độ ở Nam

Á và toàn bộ Châu Á, tương tự như vậy, Ấn Độ cũng có vị trí quan trọng đối với

Trung Quốc ở Đông Nam Á và Châu Á, đặc biệt là ở Ấn Độ Dương. Hai quốc gia

cũng có nhiều nét tương đồng về lịch sử, văn hoá, có nhận thức chung về các vấn đề

quốc tế và khu vực với nhiều lợi ích song trùng. Cơ sở này cũng sẽ tạo điều kiện tốt

để thúc đẩy quan hệ hai nước xích lại gần nhau hơn trong thời gian tới.

Thứ ba, Trung Quốc và Ấn Độ đều là những nước còn rất nhiều tiềm năng để

hợp tác phát triển. Không phải ngẫu nhiên mà có nhiều ý kiến cho rằng "thế kỷ XIX

là thế kỷ của Anh, thế kỷ XX là thế kỷ của Mỹ, thế kỷ XXI là thế kỷ của Châu Á"

với sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc và Ấn Độ. Vài thập niên qua, không quốc

gia đang phát triển nào có tốc độ tăng trưởng ấn tượng như Trung Quốc và Ấn Độ.

Hai nước này luôn duy trì tốc độ tăng tưởng cao và sẽ tiếp tục duy trì tốc độ phát

90

triển ấy trong thời gian tới. Với đà phát triển như hiện nay, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ

qua mặt Mỹ và Nhật để trở thành nền kinh tế lớn thứ nhất và thứ ba thế giới, với

tổng sản lượng chiếm 1/2 sản lượng toàn cầu [2, tr.46]. Trung Quốc đang thống trị

lĩnh vực sản xuất công nghiệp hàng loạt, còn Ấn Độ có ưu thế về lĩnh vực phần

mềm và công nghệ chính xác. Quan hệ kinh tế giữa hai nước đang trong giai đoạn

bùng phát. Hai người khổng lồ cả về diện tích và dân số này đều rất tích cực và

nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới, đặc biệt là Trung Quốc, cùng với

những tiềm năng nội lực hiện có, vì vậy có thể khai thác thành công hợp tác đa

phương.

Thứ tư, Lãnh đạo và nhân dân hai nước đều quyết tâm cao thúc đẩy quan hệ

song phương vì lợi ích chung của cả hai bên. Đó cũng là cơ sở bền vững cho sự phát

triển của mối quan hệ Trung - Ấn. Hai bên đã thảo thuận tăng kim ngạch thương

mại, thúc đẩy đầu tư, hợp tác khoa học và công nghệ. Trong tương lai, những lĩnh

vực hợp tác sẽ còn tăng cường nhiều hơn nữa.

Thứ năm, Trung Quốc và Ấn Độ có nhiều điểm tương đồng, đồng thời có

những khác biệt. Nhưng chính những khác biệt lại là những điểm cần thiết có lợi để

hai nước bổ sung cho nhau. Một khi những bổ sung này được thực hiện theo nguyên

tắc quan hệ bình đẳng, cùng có lợi thì triển vọng quan hệ kinh tế hai nước càng được

mở rộng và phát triển mạnh về chiều sâu.

Thứ sáu, quan hệ Trung Quốc, Ấn Độ với Pakistan đang có những chuyển

biến tích cực:

Mối quan hệ giữa Trung Quốc - Ấn Độ - Pakistan cũng là một trong những nhân tố

quan trọng ảnh hưởng đến quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ. Việc xử lý thỏa đáng hay

không mối quan hệ ba bên này có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xử lý mối quan hệ

song phương, cũng như việc thúc đẩy hợp tác giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Bước vào

thế kỷ XXI, mối quan hệ giữa ba nước Trung Quốc - Ấn Độ - Pakistan đang có

nhiều biến đổi lớn, Trung Quốc luôn mong muốn quan hệ giữa ba nước được phát

triển thuận lợi.

Sự hòa bình và ổn định tại khu vực Nam Á phù hợp với lợi ích hiện tại và lâu dài

của Trung Quốc. Nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Ấn Độ tại Trung Quốc Gia

91

Đức đã từng phát biểu: “Trung Quốc không mong muốn nhìn thấy sự thù địch lâu

dài giữa Ấn Độ và Pakistan, càng không mong muốn xảy ra xung đột vũ trang giữa

Ấn Độ và Pakistan, hoặc tình trạng Trung Quốc đứng về bất kỳ bên nào”. Nguồn

gốc xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan nằm ở chính nội bộ của hai nước, mà nguyên

nhân chính là tranh chấp Kashmir dẫn đến sự đối địch giữa hai nước. Trung Quốc

cũng như tất cả các nước trên thế giới đều không mong muốn nổ ra chiến tranh giữa

Ấn Độ và Pakistan.

Trung Quốc và Ấn Độ đều có những nhìn nhận chung trên vấn đề Pakistan. Ấn Độ

và Pakistan đều là một bộ phận của đại lục Nam Á, sự xung đột và tranh chấp giữa

hai nước có thể nói là huynh đệ tương tàn, đồng thời cũng ảnh hưởng đến sự hòa

bình và ổn định của toàn Châu Á. Trung Quốc là một nước láng giềng lớn và quan

trọng trong khu vực Nam Á, tất nhiên cũng rất mong muốn xung đột giữa hai nước

được xóa bỏ, hai bên giải quyết các tranh chấp bằng thái độ lý tính. Đây cũng chính

là lý do kể từ khi khởi động vòng hòa giải giữa Ấn Độ và Pakistan đến nay, Trung

Quốc luôn là một trong những quốc gia đi đầu ủng hộ. Vì vậy, trên những vấn đề mà

Ấn Độ quan tâm nhất như: kể từ sau thập niên 90, đặc biệt là sự kiện “11/9” trở lại

đây, các hoạt động theo chủ nghĩa khủng bố nhằm vào dân thường liên tiếp nổ ra tại

các vùng như Kashmir, Trung Quốc luôn giữ thái độ phản đối, đồng thời kêu gọi

chính phủ Pakistan đưa ra các nỗ lực hơn nữa nhằm ngăn chặn những hoạt động

khủng bố này. Về vấn đề này, điểm chung trong mục tiêu của Trung Quốc và Ấn Độ

là rất rõ ràng. Trung Quốc đều coi Ấn Độ và Pakistan là bạn, không vì mối quan hệ

giữa Ấn Độ với Pakistan mà cản trở sự phát triển mối quan hệ giữa Trung Quốc và

Ấn Độ, cũng không vì việc phát triển quan hệ với Ấn Độ mà xem nhẹ mối quan hệ

với Pakistan, Trung Quốc luôn giữ thái độ trung lập với mối quan hệ Ấn Độ và

Pakistan, đồng thời thiết lập mối quan hệ hợp tác hữu nghị với hai nước, đó cũng là

sự xúc tiến cho quan hệ hai nước Ấn Độ và Pakistan. Trung Quốc có vai trò đặc biệt

trong việc điều hòa mối quan hệ giữa hai nước này. Thứ nhất: Cho dù Ấn Độ thích

hay không thì Trung Quốc cũng là một nước láng giềng quan trọng, vì vậy cho dù

thế nào, Ấn Độ vẫn cần thiết lập quan hệ với Trung Quốc; thứ hai: Pakistan từ lâu

đã là một đồng minh của Trung Quốc. Trung Quốc có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến

92

các tầng lớp trong xã hội Pakistan, giới chính trị, quân sự hay dân thường tại

Pakistan đều có cảm tình sâu nặng với Trung Quốc. Trung Quốc không chỉ hết sức

trân trọng tình cảm đó, mà còn coi đó là nguồn sức mạnh phát triển lợi ích chung

giữa hai nước, đánh đổ những thế lực khủng bố mà nòng cốt là các tổ chức căn cứ,

góp phần cho sự ổn định và hòa bình tại khu vực Nam Á. Trung Quốc thực lòng

mong muốn Ấn Độ và Pakistan giải quyết các vấn đề tồn tại thông qua đàm phán

hữu nghị hiệp thương.

Hiện nay, mối quan hệ giữa Ấn Độ và Pakistan đang theo xu hướng hòa hoãn, các

nhà lãnh đạo của Ẫn Độ cũng nhận thức được, trong thế giới kinh tế toàn cầu hóa

hiện nay, sự căng thẳng trong mối quan hệ Ấn Độ Pakistan sẽ khiến nguồn tài lực

vốn có hạn dùng vào việc quân sự chứ không phải phát triển kinh tế. Như vậy,

không chỉ gây cản trở cho việc đầu tư kinh tế thương mại của hai nước, mà còn ảnh

hưởng đến sự hợp tác kinh tế trong toàn khu vực Nam Á. Xét từ góc độ an ninh

quốc tế, khu vực Nam Á là nơi giao thoa về lợi ích của các nước lớn, như việc

chống khủng bố của Mỹ, vấn đề an ninh biên giới phía Tây Nam của Trung Quốc,

phạm vi tầm ảnh hưởng mang tính truyền thống của Nga…Chính vì vậy các nước

lớn đều mong muốn hòa bình được thiết lập lâu dài trong quan hệ giữa Ấn Độ và

Pakistan. Cùng với sự giúp đỡ điều phối của các nước lớn, các nhà lãnh đạo của Ấn

Độ từng bước nhận thức được, chỉ có bắt tay hòa giải với Pakistan thì mới đảm bảo

được an ninh tại khu vực Nam Á này.

Bước vào thế kỷ XXI, Ấn Độ và Pakistan đã có những hành động nhằm cải thiện

quan hệ giữa hai bên, ví dụ: tháng 4/2003, thủ tướng Ấn Độ trong chuyến đi thị sát

khu vực Kashmir đã không dưới một lần bày tỏ sẽ nỗ lực giải quyết những tranh

chấp với Pakistan thông qua đối thoại hòa bình, hi vọng Ấn Độ và Pakistan nhanh

chóng nối lại đối thoại, cùng nhau bước vào “thời kỳ mới” trong quan hệ hai nước.

Hai bên từ đối đầu chuyển sang hòa hoãn. Tháng 10/2004, các tướng lĩnh cấp cao

hải lục không quân của Ấn Độ tụ hội tại New Dehli, đề ra học thuyết “khởi động

lạnh”, đây là ý tưởng lần đầu tiên xuất hiện trong giới quân sự Ấn Độ về việc rút

quân tại khu vực băng hà Xiyaqin, đồng thời thay thế bằng các nhóm du kích tinh

nhuệ được tuyển từ bộ binh và không quân.

93

Quan hệ hai bên đã đạt được những cải thiện nhất định, hai bên đều mong muốn và

nỗ lực giải quyết vấn đề Kashmir bằng con đường hòa bình. Hiện nay, quan hệ giữa

Ấn Độ và Pakistan đang theo xu hướng hòa hoãn, điều này có lợi cho cả ba nước Ấn

Độ, Pakistan và Trung Quốc. Chúng ta có lý do để tin tưởng quan hệ Ấn Độ và

Pakistan đang phát triển đi về phía trước đầy hiệu quả, quan hệ ba bên ngày càng

được củng cố và tăng cường, Pakistan sẽ không là một trở ngại trong quan hệ giữa

Trung Quốc và Ấn Độ.

Đối với Trung Quốc, Pakistan là một người bạn tin cậy của mình tại khu vực Nam

Á, việc tiếp tục củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị với Pakistan có lợi cho vấn

đề an ninh miền Tây của Trung Quốc. Nhưng về tư tưởng chỉ đạo, cũng cần chỉ rõ

việc phát triển quan hệ với Pakistan không nhằm mục đích đối phó và kiềm chế Ấn

Độ, đương nhiên việc đẩy mạnh phát triển quan hệ với Ấn Độ cũng không làm tổn

hại đến mối quan hệ hữu nghị giữa Trung Quốc và Pakistan. Đối với Ấn Độ, điểm

mấu chốt là không nhạy cảm xem xét việc hợp tác giữa Trung Quốc và Pakistan là

nhằm đối phó mình, cần tin tưởng việc điều chỉnh trong chính sách đối với Nam Á

là chân thành, có lợi cho cả Trung Quốc với Ấn Độ. Về điểm này, ngoại trưởng Ẩn

Độ Xinha đã từng bài xích và phản bác lại luận điệu chính sách Nam Á của Trung

Quốc là rêu rao “Ấn Độ trỗi dậy”. Ông từng nói: “về mặt khách quan, Trung Quốc

không thể trở thành đối thủ cạnh tranh của Ấn Độ”. Ngoài ra, hai nước đều rõ ràng

nhận thấy trong trào lưu toàn cầu hóa hiện nay trên thế giới, việc các nước phát triển

quan hệ song phương hay đa phương trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự… là

một hiện tượng bình thường, không chỉ phù hợp với lợi ích của các nước, mà còn có

lợi cho chiều hướng cân bằng lực lượng giữa các bên trên thế giới. Trung Quốc, Ấn

Độ, Pakistan và các nước trong khu vực tìm kiếm cân bằng thế lực là tất yếu và bình

thường, không cần có cái nhìn thù địch lẫn nhau.

Tóm lại, giữa Trung Quốc và Ấn Độ chỉ có tăng cường sự tin tưởng lẫn nhau, tăng

cường mối liên hệ về lợi ích chung, kiềm chế, hóa giải những nhân tố bất lợi và tiêu

cực thông qua đối thoại, tăng cường hợp tác, mới có thể thích nghi với trào lưu của

thế giới, đưa mối quan hệ giữa hai nước phát triển ổn định và lành mạnh.

94

Thứ bảy, hợp tác giữa Trung Quốc - Ấn Độ trong cơ chế ba bên Trung Quốc -

Ấn Độ - Nga đang ngày càng triển vọng :

Cơ chế hợp tác ba bên Trung Quốc- Ấn Độ - Nga, trên thực tế đã được hình thành

cách nay gần một thập kỷ do sáng kiến của Thủ tướng Nga khi đó là Yevgeny

Primakov với ý tưởng “ Tam giác chiến lược ” Nga - Ấn Độ - Trung Quốc. Từ đó

đến nay cơ chế này hoạt động rất hiệu quả theo các kênh: các nhà khoa học và các

nhà chính trị của ba nước thường kỳ gặp gỡ lẫn nhau.

Trung Quốc, Ấn Độ và Nga hiểu rõ sự cần thiết phải hợp tác trong các vấn đề chiến

lược, an ninh và kinh tế với sự nhận thức chung về một Trật tự thế giới mới - Trật tự

đa cực.

Hiện tại cơ chế ba bên này đang có một triển vọng tích cực. Tại cuộc gặp ba bên

diễn ra tại thành phố Bangalor của Ấn Độ ngày 28/10/2009, các nhà lãnh đạo Bộ

ngoại giao Trung Quốc, Nga và Ấn Độ đã đạt được sự đồng thuận quan trọng và đã

ra bản Tuyên bố chung. Trong bối cảnh quốc tế đang thay đổi, nỗ lực của ba nước

đã thúc đẩy việc mở rộng các lĩnh vực quan tâm chung, tăng cường hiểu biết lẫn

nhau và hợp tác kinh doanh và việc làm này đã góp phần gìn giữ hòa bình và ổn

định trong khu vực và trên thế giới.

Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước đông dân còn còn nước Nga có lãnh thổ rộng lớn

trên thế giới. Là các chủ thể có thị trường ngày càng lớn mạnh ba nước có tổng dân

số chiếm khoảng 39% dân số toàn hành tinh còn GDP chiếm 14% tổng GDP toàn

thế giới đã có đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế toàn cầu. Sau khi cuộc

khủng hoảng tài chính quốc tế bùng phát thì sức mạnh và tiềm năng to lớn của ba

nước đã thu hút được rất nhiều sự chú ý.

Việc mở rộng những lợi ích chung đã làm sâu sắc thêm hợp tác ba bên. Ba nước cần

phải hoàn thành sứ mệnh phát triển nặng nề. Trung Quốc, Nga và Ấn Độ sẽ phải đối

diện với những thách thức nghiêm trọng như khủng hoảng tài chính quốc tế, chủ

nghĩa khủng bố, vấn đề năng lượng. Những lợi ích chung của ba nước nằm trong

hợp tác thương mại và tạo ra nhiều phúc lợi cho nhân dân đất nước mình. Trong bối

cảnh này hợp tác ba bên bao gồm cả những lĩnh vực khắc phục hậu quả thiên tai,

nông nghiệp, y tế, xây dựng các công trình thuộc cơ sở hạ tầng và các lĩnh vực khác,

95

liên quan chặt chẽ với tình trạng vật chất của nhân dân. Ba nước kêu gọi củng cố

nền an ninh khu vực, cùng thể hiện quyết tâm chống lại mọi hình thức của chủ nghĩa

khủng bố và ủng hộ việc thiết lập cơ chế hợp tác quốc tế có hiệu quả trong cuộc đấu

tranh chống chủ nghĩa khủng bố trong khuôn khổ của Liên Hợp Quốc.

Việc mở rộng hợp tác giữa ba nước dựa trên những nhu cầu chung được mở rộng

không ngừng. Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và nhiều quốc gia phát triển khác đã từng

chịu đựng sự bất công và mất cân đối của trật tự quốc tế. Vì thế giới chức Bắc Kinh,

Matxcơva và Niu Đehli đã ủng hộ việc cải cách Liên Hợp Quốc, làm cho tổ chức

toàn thế giới này trở nên dân chủ hơn và hoạt động có hiệu quả hơn. Ba nước cũng

đòi hỏi sao cho cơ chế quản lý nền kinh tế thế giới phải hoạt động phù hợp với

những nguyên tắc đại diện và bình đẳng, đảm bảo tiếng nói và mở rộng quyền đại

diện của các nước có các thị trường mởi nổi và của các nước đang phát triển. Ba

nước chia sẻ quan điểm thống nhất hay giống nhau trong lĩnh vực đấu tranh khắc

phục những vấn đề và thách thức mang tính toàn cầu. Trung Quốc, Nga và Ấn Độ

có không gian rộng lớn để hợp tác trong khuôn khổ các cơ chế toàn cầu và trong

lĩnh vực tham vấn và thực hiện chính sách.

Trong những điều kiện lịch sử mới, tình hình chính trị và kinh tế đang trải qua quá

trình củng cố, cải cách và phát triển. Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và các nước khác có

thị trường mới nổi và các nước đang phát triển có một triển vọng hợp tác rộng lớn

hơn. Có thể nói một cách chắc chắn rằng, trên cơ sở củng cố hợp tác thương mại,

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hiện thực hóa những lợi ích các bên cùng có lợi và

củng cố các cuộc tiếp xúc với nhau, cả ba nước sẽ tiếp tục thúc đẩy có hiệu quả hơn

nữa sự phát triển phối hợp và ngày càng tăng nền kinh tế thế giới và đóng góp tích

cực hơn nữa vào thế giới đa cực và dân chủ hóa các mối quan hệ quốc tế.

Có thể khảng định rằng, trong bối cảnh toàn cầu hóa, xu hướng hội nhập nổi lên

là xu hướng phát triển tích cực nhất đối với nhiều nước. Ngoài hội nhập quốc tế thì

sự hợp tác trong các mối quan hệ song phương được nhiều nước coi trọng. Cuộc

khủng hoảng tài chính quốc tế năm 2008, kéo dài đến năm 2009 và còn hậu quả đến

ngày nay, chứng tỏ rằng, chỉ có hợp tác quốc tế, trong đó có hợp tác song phương

thì các nước trên thế giới mới đủ khả năng vượt qua được những khó khăn, cho dù

96

là rất nặng nề trong phát tiển xã hội nói chung và trong phát triển kinh tế của mình,

nói riêng.

Việc hợp tác giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong những năm qua, trên thực tế đã đem

lại nhiều lợi ích to lớn cho cả hai nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển của hai nền

kinh tế mới nổi to lớn Châu Á đồng thời góp phần ổn định tình hình an ninh kinh tế

và an ninh nói chung tại Châu Á và trên toàn thế giới.

Thứ tám, những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức từ tình hình khu vực

và thế giới cũng góp phần thúc đẩy quan hệ Trung - Ấn tiếp tục phát triển. Đó là sự

phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, thương mại và đầu

tư quốc tế… Mặt khác, việc củng cố, thắt chặt quan hệ hai nước nhằm giúp mỗi

nước đối phó một cách hiệu quả hơn với những thách thức, nguy cơ từ bên ngoài

như phòng chống tội phạm, khủng bố quốc tế, buôn lậu ma túy, thiên tai, dịch bệnh,

biến thái khí hậu, an ninh,… góp phần giữ vững an ninh khu vực và trên thế giới.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, trong xu thế hội nhập quốc tế là xu thế chính

trong phát triển kinh tế, chính trị quốc tế, những khác biệt, thậm chí một số cạnh

tranh giữa Trung Quốc và Ấn Độ là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, lãnh đạo hai

nước nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng của việc đảm bảo bầu không khí an

ninh và hòa bình xung quanh sẽ giúp nhiều cho sự phát triển của từng nước. Chỉ có

ổn định chính trị và an ninh khu vực mới có thể thúc đẩy phát triển trong nước ổn

định và bền vững.

Các chuyên gia về quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ cho rằng, hiện tại thế giới đang đủ

rộng để hai nước Trung Quốc và Ấn Độ phát triển. Điều này được Thủ tướng M.

Singh nhắc lại trong chuyến thăm Trung Quốc ngày 13/1/ 2008 : "Hiện thế giới có

đủ không gian để hai quốc gia cùng phát triển"[49].

Các đại biểu tham gia Diễn đàn châu Á tại Bác Ngao, Trung Quốc từ ngày 21 đến

23/2006, trong cuộc họp với chủ đề “Ấn Độ - Trung Quốc, tăng cường đối tác” đã

được tổ chức thường xuyên để thảo luận về mối quan hệ kinh tế giữa hai nước cho

rằng: “Thế giới đủ lớn cho cả hai nước và chính mỗi nước đã quá lớn để bao trùm

nước kia. Đối với lợi ích lâu dài của nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế của các nước

97

lớn ở Châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ rất quan trọng, nó đóng vai trò tiên phong”

[51].

Quan điểm của hai chính phủ Ấn Độ và Trung Quốc về quan hệ giữa hai nước rất

tương đồng. Theo Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc Trần Đức Minh và Bộ trưởng

Công thương Ấn Độ Anan Sama: hai nước Trung Quốc - Ấn Độ là đối tác chứ

không phải là đối thủ, càng không phải địch thủ, hợp tác kinh tế - thương mại giữa

hai nước sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của khu vực và thế giới[52].

Cũng như thế trên tất cả các phương diện khác, đặc biệt và tại các Diễn đàn và tổ

chức quốc tế quan trọng, quan điểm của hai nước về nhiều vấn đề mang tính quốc tế

lớn hầu như là đồng nhất và rất gần với nhau. Điều này thể hiện rõ và cụ thể trong

cơ chế hợp tác ba bên Trung quốc - Ấn Độ - Nga ủng hộ một trật tự thế giới mới đa

phương, theo năm nguyên tắc chung sống hòa bình, bình đẳng, các bên cùng có lợi.

Sự hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong thời

gian gần đây và trong tương lai gần là một đặc điểm nổi bật trong chính sách đối

ngoại, và quan hệ song phương của cả hai nước. Nó không chỉ góp phần làm cho

Trung Quốc và Ấn Độ phát triển ổn định, bền vững mà còn có đóng góp vào việc

đảm bảo an ninh chung trong khu vực và trên toàn thế giới.

3.3.3.2. Triển vọng

Triển vọng hợp tác giữa hai quốc gia Trung Quốc - Ấn Độ là rất lớn. Mối

quan hệ đó không chỉ nâng lên tầm cao mới khi thế và lực hai bên đều đã, đang và

sẽ thay đổi. Bên cạnh sự phát triển về thương mại ngày càng tăng, các dự án đầu tư

của Ấn Độ và Trung Quốc ngày càng phát huy có hiệu quả.

Quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ sẽ không tránh khỏi khó khăn, thách thức từ

bên trong lẫn bên ngoài, nhưng mối quan hệ ấy cũng có nhiều thuận lợi và cơ hội để

phát triển. Bề dày mối quan hệ, những khó khăn, thách thức đã vượt qua cũng như

những thành tựu đã đạt được, chúng ta có cơ sở vững chắc để tin rằng mối quan hệ

Trung Quốc và Ấn Độ sẽ tận dụng mọi cơ hội và vượt qua thử thách để ngày càng

khăng khít hơn, tốt đẹp hơn.

Với những cơ sở trên có thể rút ra một số nhận xét về triển vọng quan hệ Trung

Quốc- Ấn Độ trong thời gian tới như sau:

98

Trước mắt, dù còn tồn tại một số bất đồng và mâu thuẫn nhưng quan hệ

Trung - Ấn trên tất cả các phương diện sẽ phát triển tốt. Sự gặp gỡ và trao đổi

thường xuyên của các chính trị gia hai nước sẽ làm nồng ấm nữa mối quan hệ chính

trị song phương. Đó sẽ là cơ sở cho các mối quan hệ khác được xúc tiến mạnh mẽ

hơn, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế.

Hợp tác kinh tế - thương mại đang phát triển tốt và có thể sẽ bùng nổ trong

tương lai gần, khi hai nước thiết lập được Khu vực mậu dịch tự do Trung - Ấn.

Trung Quốc luôn đánh giá cao thị trường Ấn Độ vì không chỉ đây là nước láng

giềng rộng lớn mà còn là thị trường đầy tiềm năng và lớn thứ hai Châu Á sau chính

Trung Quốc. Với Trung Quốc, Ấn Độ không chỉ là thị trường rộng mở mà còn là

đầu cầu để Trung Quốc thâm nhập vào thị trường Nam Á và nhiều khu vực khác. Về

phần Ấn Độ, cũng luôn đánh giá cao khả năng và tiềm năng kinh tế của Trung

Quốc. Không chỉ có đất rộng, người đông mà Trung Quốc còn là thị trường phát

triển năng động số một hiện nay với chỉ số GDP liên tục tăng cao. Hai thị trường

này đang và sẽ bổ sung cho nhau một các hiệu quả với những thế mạnh riêng.

Nhiều nhà kinh tế trên thế giới dự báo rằng, trong một vài thập kỷ tới Trung

Quốc và Ấn Độ sẽ trở thành những cường quốc kinh tế khu vực và có khả năng cạnh

tranh với những nền kinh tế lớn trên thế giới. Từ thực tế trong thời gian qua, có thể

dự báo trong những năm tới thương mại hai chiều Trung - Ấn sẽ tăng trưởng chóng

mặt do thị trường rộng mở của hai nước đưa lại. Cả Trung Quốc và Ấn Độ đều là

các nước đang phát triển với tốc độ vào loại nhanh nhất thế giới hiện nay và đều cần

đến thị trường của nhau. Với dân số trên 2,5 tỉ người, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ là

những thị trường vô cùng rộng lớn và đầy tiềm năng để các doanh nghiệp hai bên

tận dụng và khai thác. Trung Quốc và Ấn Độ đã thỏa thuận mở lại "Con đường tơ

lụa" bị cắt đứt từ sau cuộc chiến tranh biên giới năm 1962 và tiến hành mở thêm

một số điểm buôn bán ở gần biên giới hai nước. Đây không chỉ là tín hiệu tốt cho

việc trao đổi thương mại hai chiều, mà còn là động lực cho ngành du lịch hai nước

phát triển thuận lợi hơn. Triển vọng trong tương lai không xa, Trung Quốc và Ấn

Độ sẽ trở thành hai quốc gia láng giềng thực sự hữu nghị, thân thiện và phát triển.

"Con Rồng" và "con Voi" này sẽ là động lực thúc đẩy "thế kỷ Châu Á".

99

Về một số vướng mắc, bất đồng còn tồn tại là những vấn đề nhạy cảm, liên

quan đến nhiều nhân tố khác, nên trước mắt hai nước khó có thể giải quyết dứt điểm

tất cả. Tuy nhiên, đó không phải là tiền đề xấu, mà nó sẽ dần được giải quyết ổn

thỏa trong hoà bình. Với tầm nhìn chiến lược của lãnh đạo hai nước, họ đều xác

định được rằng hợp tác và hữu nghị bao giờ cũng có lợi hơn là xung đột và bất

đồng. Do vậy, những trở ngại trong quan hệ song phương rồi sẽ được giải quyết ổn

thỏa, vấn đề còn lại chỉ là thời gian.

Về lâu dài thì mối quan hệ này sẽ phát triển như thế nào? Theo ý kiến chủ

quan của bản thân thì mối quan hệ của hai quốc gia khổng lồ này sẽ phát triển mạnh

mẽ và tốt đẹp trên tất cả các lĩnh vực. Bởi vì, quan hệ giữa nước này với nước khác

phụ thuộc nhiều nhất vào chính sách mà các nước ấy áp dụng, mà chính sách lại phụ

thuộc vào tình hình thực tế nội lực đặt ra. Khi mà Trung Quốc và Ấn Độ đều đã trở

thành những cường quốc Châu Á thì cạnh tranh về kinh tế và phạm vi ảnh hưởng là

không thể tránh khỏi, nhưng đó là sự cạnh tranh tích cực, cạnh tranh để thúc đẩy

cùng nhau phát triển. Hai nước cần phải bắt tay nhau trong tình hữu nghị, thân thiện

vừa là để phát huy tốt nhất nội lực, vừa để giải quyết hiệu quả các vấn đề khu vực và

quốc tế. Để có vai trò và vị trí cao trong các tổ chức quốc tế, hai nước cũng rất cần

có sự ủng hộ của nhau và của các nước thuộc thế giới thứ ba. Do vậy, mối quan hệ

láng giềng thực sự hữu nghị và thân thiện sẽ là dòng chính của quan hệ hai nước

trong tương lai.

3.4. Quan hệ Trung - Ấn và hàm ý chính sách đối với Việt Nam

Bước vào thế kỷ XXI, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khu vực Châu Á -

Thái Bình Dương, Đông Nam Á ngày càng có vị trí quan trọng đối với các nước

lớn. Trước việc Mỹ ngày càng tăng cường ảnh hưởng ở Đông Nam Á, cả Trung

Quốc và Ấn Độ càng coi trọng Đông Nam Á hơn bao giờ hết. Đối với Trung Quốc,

Đông Nam Á vốn là khu vực có quan hệ truyền thống, là láng giềng quan trọng và

tuyến đường biển qua Đông Nam Á có ý nghĩa chiến lược với lợi ích của nước này.

Còn đối với Ấn Độ, Việt Nam là trọng tâm trong chính sách “hướng Đông” là cầu

nối giữa Ấn Độ với các nước Đông nam Á. Cả Trung Quốc và Ấn Độ cùng có lợi

ích ở Đông Nam Á. Tuy không phải là đối tượng được ưu tiên trong sách đối ngoại,

100

nhưng Việt Nam luôn là nhân tố được Trung Quốc và Ấn Độ tính toán trong chính

sách đối ngoại đối với khu vực Đông Nam Á. Việt Nam lại là một quốc gia có

chung biên giới với Trung Quốc và có vị trí địa chiến lược, địa kinh tế quan trọng

trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam luôn phải chịu những tác động khá lớn từ

quan hệ giữa các nước lớn trong đó có Trung Quốc và Ấn Độ cho nên quan hệ giữa

hai nước này luôn có tác động đến Việt Nam.

3.4.1. Tác động tích cực đến Việt Nam

Sự hợp tác tốt đẹp trong quan hệ Trung – Ấn là yếu tố quan trọng để duy trì

hòa bình, ổn định trong khu vực tạo cơ hội cho Việt Nam:

Hợp tác trong quan hệ Trung - Ấn trên nhiều lĩnh vực đã mang lại nền hòa

bình và sự ổn định trong khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung, Việt Nam

đang tận dụng cơ hội này để phát triển.

Trước hết là môi trường đầu tư, Việt Nam đã tận dụng nền hòa bình và sự ổn

định trong khu vực cũng như trong nước để thu hút đầu tư nước ngoài. Các nước khi

nhận thấy môi trường đầu tư ổn định cả về chính trị và an ninh như ở Việt Nam thì

sẽ không ngần ngại đầu tư vốn cùng công nghệ kỹ thuật hỗ trợ sản xuất. Đây là một

trong những cơ hội rõ ràng nhất mà Việt Nam có thể tận dụng được từ quan hệ

Trung - Ấn nhằm mang lại lợi ích và sự phát triển chung cho nước mình.

Thứ hai, việc tạo thị trường thuận lợi cho xuất khẩu và nhập khẩu. Việt Nam

tận dụng mối quan hệ này để mở rộng thị trường xuất khẩu sang cả hai nước, hai thị

trường lớn trên thế giới hiện nay. Theo Bộ công thương, năm 2010, tổng kim ngạch

nhập khẩu của Trung Quốc đạt gần 1.300 tỷ USD. Qua đó nguồn lợi thu về là không

nhỏ. Hơn nữa Việt Nam cũng sẽ thành một thị trường nhập khẩu tương đối lớn của

cả Trung Quốc và Ấn Độ.

Thứ ba, sự hợp tác tích cực giữa Trung Quốc và Ấn Độ sẽ tạo môi trường hòa

bình ổn định tại khu vực dẫn tới việc thu hút khách hàng du lịch đến khu vực trong

đó có Việt Nam. Đồng thời qua đó Việt Nam sẽ có cơ hội quảng bá thêm về hình

ảnh của mình đối với thế giới về một Việt Nam hiếu khách, ổn định và tươi đẹp.

Sự kiềm chế, cạnh tranh giữa Trung Quốc và Ấn Độ: chính sự cạnh tranh của

hai nước trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, an ninh… đã thúc đẩy sự phát

101

triển khoa học kỹ thuật công nghệ. Đây chính là cơ hội cho Việt Nam trong việc tìm

kiếm kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của cả hai nước để thúc đẩy sự phát triển của

mình. Trung Quốc đang đẩy mạnh tiềm lực quốc phòng trang bị nhiều vũ khí,

phương tiện quân sự hiện đại. Chính điều đó buộc Ấn Độ phải tăng cường hợp tác

quân sự, kinh tế và thương mại với các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam

nhằm duy trì lợi ích tại khu vực này để kiềm chế Trung Quốc.

3.4.2. Tác động tiêu cực đến Việt Nam

Quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ góp phần thúc đẩy quan hệ Việt - Trung và quan

hệ Việt - Ấn phát triển nhanh chóng, đồng thời cũng làm nảy sinh một số vấn đề

trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc - Ấn Độ nhất là vấn đề Biển Đông:

Ấn Độ hiện đang gia tăng các hoạt động về kinh tế và hợp tác quân sự với các

nước khu vực Đông Nam Á bởi khu vực này đang trở nên quan trọng hơn với Ấn

Độ. Ấn Độ coi ASEAN là cửa ngõ để bước vào thị trường Châu Á - Thái Bình

Dương. Ảnh hưởng của Ấn Độ ở đây sẽ góp phần duy trì được mục tiêu chiến lược

của mình - kiềm chế Trung Quốc, tạo ra một sự cân bằng quyền lực mới theo hướng

có lợi cho Ấn Độ. Mối quan hệ Ấn Độ - ASEAN sẽ đảm bảo cho hai bên không bị

phụ thuộc vào bất cứ một siêu cường nào hay một sự áp đặt bất bình đẳng, do đó sẽ

mang lại lợi ích cho cả hai phía, đảm bảo an ninh, ổn định ở khu vực châu Á - Thái

Bình Dương trong đó có Đông Nam Á. Các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ đã

khảng định: Ấn Độ cần phải vươn bước chân của mình đến khu vực Đông Nam Á

mà Biển Đông là mối quan tâm đặc biệt. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á

(11/2014) Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, trước các nhà lãnh đạo khác, cho rằng:

“Trong một thế giới toàn cầu hóa và phụ thuộc lẫn nhau, không có lựa chọn nào

khác là tuân theo luật pháp và chuẩn mực quốc tế. Điều này cũng áp dụng cho an

ninh hàng hải. Vì lý do đó, tại Biển Đông cũng thế, tuân thủ luật pháp và chuẩn mực

quốc tế là điều quan trọng đối với hòa bình và ổn định”.

Mục tiêu của Trung Quốc là trở thành bá chủ khu vực nên Trung Quốc nỗ lực

đẩy các nước lớn ra khỏi Biển Đông. Trung Quốc ép Nhật Bản ở Hoa Đông để Nhật

Bản không rảnh tay can dự vào Biển Đông. Trung Quốc muốn đẩy Mỹ rút quân ra

khỏi Nhật Bản và Hàn Quốc cũng như triệt tiêu sự hiện diện hải quân của Mỹ tại

102

Đông Nam Á. Mục tiêu hạm đội biển xanh Trung Quốc vươn ra chuỗi đảo thứ nhất,

đẩy hải quân Mỹ lùi xa khỏi Biển Đông, ít nhất là đến tận Hawaii. Trung Quốc

muốn chia Thái Bình Dương làm 2 phần: phía Đông Thái Bình Dương là Trung

Quốc và phía Tây là của Mỹ. Về phía Nam, Trung Quốc đảm bảo không có sự hiện

diện hải quân và kinh tế của Ấn Độ ở khu vực, đẩy Ấn Độ ra xa Biển Đông, ra khỏi

Eo biển Malacca và ép Ấn Độ rút về Ấn Độ Dương, giới hạn ở chuỗi đảo Andaman

và Nicobar. Vì vậy Trung Quốc ra sức phản đối các công ty của Ấn Độ khai thác

dầu khí trong thềm lục địa của Việt Nam, thậm chí là phản đối quan hệ Việt Nam -

Ấn Độ.

Việt Nam và Ấn Độ có mối quan hệ nồng ấm từ lâu do Chủ tịch Hồ Chí Minh và

Thủ tướng J. Nehru tạo dựng. Quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước được thiết

lập năm 2007 và liên tục phát triển sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực và được đánh

dấu bởi sự tin cậy, hiểu biết, ủng hộ lẫn nhau trong nhiều vấn đề khu vực và quốc tế.

Hợp tác chính trị, quốc phòng và an ninh là một trong những trụ cột lớn của quan hệ

giữa hai nước. Việt Nam luôn là một trụ cột rất quan trọng trong chính sách “hướng

Đông” của Ấn Độ. Ấn Độ coi Việt Nam là một đối tác chiến lược trong ASEAN

cũng như trong khu vực rộng lớn hơn.

Trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc tại Biển Đông, Việt Nam

cần nhiều bạn bè, trong đó có Ấn Độ. Mặc dù không có tranh chấp ở khu vực này,

song Ấn Độ có nhiều lợi ích chiến lược tại khu vực Biển Đông.

Việt Nam là bên tranh chấp chủ quyền và chịu ảnh hưởng nhiều nhất với những âm

mưu và thủ đoạn của Trung Quốc ở Biển Đông. Cả hai quần đảo Hoàng Sa và

Trường Sa của Việt Nam đều bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép nên Việt Nam là

một trong các bên tích cực ủng hộ và chủ động mở rộng sự hiện diện của Ấn Độ ở

Biển Đông.

Trước sự hung hăng, ngạo ngược của Trung Quốc trên Biển Đông, Ấn Độ có vai

trò quan trọng trong việc giúp tăng cường khả năng quân sự của Việt Nam nhằm

chống lại những mối đe dọa hiện hữu từ phía Trung Quốc.

Ấn Độ ngày nay đang định vị thành một “siêu cường”. Sự tham gia chiến lược

của Ấn Độ vào khu vực Đông Nam Á và Biển Đông là bước đệm quan trọng cho vai

103

trò quốc tế của Ấn Độ trong việc giải quyết vấn đề khu vực và toàn cầu. Đối lập với

sự “trỗi dậy hòa bình” đầy nguy cơ bất ổn như Trung Quốc đang thực hiện thì Ấn

Độ nổi lên như một lời khẳng định giá trị dân chủ, tiến bộ, một quá trình phát triển

từ tốn nhưng bền vững và là một sự “trỗi dậy hòa bình” theo đúng nghĩa của nó.

Cùng với Mỹ, Nhật Bản, Australia, Nga và các nước ASEAN có cùng lợi ích ở Biển

Đông, Ấn Độ đã khẳng định rõ ràng vai trò an ninh và kinh tế trong khu vực. Việt

Nam, trong mối quan hệ đối tác chiến lược với Ấn Độ cần tận dụng sự quan tâm của

Ấn Độ đối với Biển Đông trên bàn cân chiến lược “hành động phía Đông” của Ấn

Độ để có được xung quanh mình những bạn bè, đồng minh để bảo vệ chủ quyền

toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của mình trên Biển Đông.

C. KẾT LUẬN

Mối quan hệ chiến lược Trung Quốc - Ấn Độ được thiết lập năm 1950, sau khi

hai nước giành được độc lập từ tay chủ nghĩa thực dân xâm lược. Là hai nước láng

giềng lớn với hai chế độ chính trị hoàn toàn khác nhau, quan hệ Trung - Ấn từ giữa

thế kỷ XX đến nay đã trải qua nhiều biến động với những bước thăng trầm do bối

cảnh quốc tế, khu vực cũng như bản thân hai nước đưa lại.

Sau khi cuộc Chiến tranh lạnh giữa hai cực Xô - Mỹ kết thúc, toàn thế giới

đứng trước những thời cơ và thách thức mới, nền kinh tế và chính trị toàn cầu có

nhiều thay đổi lớn, các cường quốc đang không ngừng cố gắng để mở rộng phạm vi

ảnh hưởng của mình, các nước đang phát triển cũng lợi dụng những thành quả của

104

cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại để thực hiện chiến lược "đi tắt đón đầu",

tích cực, nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hội nhập chính là cái "vé

vào cửa" của nền kinh tế toàn cầu mà không quốc gia nào có thể né tránh. Tiến trình

toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ, gắn kết toàn thế giới vào một

sân chơi kinh tế chung với những thời cơ, thách thức và những lợi ích đan xen.

Một bức tranh kinh tế, chính trị, xã hội mới, sống động đang được xây dựng.

Bên cạnh sự phát triển như vũ bão của kinh tế, khoa học - công nghệ và những thể

chế toàn cầu thì những nhân tố đe dọa đến an ninh, ổn định của thế giới đang còn

tồn tại một cách nóng bỏng và xuất hiện những nguy cơ phi truyền thống. Trên thế

giới, chủ nghĩa bá quyền và nền chính trị cường quyền vẫn có cơ hội được thúc đẩy,

chủ nghĩa khủng bố, ly khai cực đoan xuất hiện ở khắp nơi đòi hỏi cả cộng đồng

quốc tế phải có những nỗ lực chung để đối phó với nó. Trung Quốc và Ấn Độ, hai

quốc gia lớn đang phát triển với tốc độ nhanh chóng vào bậc nhất thế giới hiện nay

cũng đang phải đối diện với tất cả những thực tế này. Vượt qua những bất đồng, trở

ngại do quá khứ để lại, hai nước đang bắt tay nhau với những nỗ lực chung, bởi sự

phát triển, ổn định của mỗi quốc gia, khu vực chính là cơ sở để xây dựng sự ổn định

toàn cầu. Đó cũng là một trong những điều kiện quan trọng để Trung Quốc và Ấn

Độ có thể vươn mình xa hơn trong việc phát huy ảnh hưởng ra bên ngoài.

Cục diện thế giới mới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ

nghĩa Đông Âu đã tạo ra nhiều xu thế phát triển mới. Đặc biệt, sự kiện 11/9/2001

không chỉ là sự báo hiệu của một nguy cơ đe dọa an ninh toàn cầu mới mà còn làm

thay đổi cả những quan niệm truyền thống về an ninh - chính trị, nó tác động làm

thay đổi chiến lược an ninh của mỗi quốc gia. Nhu cầu hoà bình, ổn định, hợp tác

cùng phát triển trở thành vấn đề chung của cả Trung Quốc và Ấn Độ.

Trong sự vận động đó, việc đẩy mạnh quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai

nước lên tầm cao mới được coi là bộ phận quan trọng trong việc điều chỉnh chính

sách đối ngoại của cả hai bên. Trung Quốc và Ấn Độ đều đã và đang phấn đấu để

tạo dựng được hình ảnh về một mối quan hệ láng giềng hữu nghị và thân thiện như

là một mô hình mẫu mực của hợp tác quốc tế kiểu mới. Những nội dung hợp tác mà

hai bên phối hợp đã phản ánh được xu thế hội nhập hiện nay. Nó không chỉ là

105

nguyện vọng của nhân dân hai nước mà còn là khuynh hướng toàn cầu. Có thể

khẳng định như vậy vì 5 nguyên tắc cùng chung sống hoà bình mà hai bên xây dựng

là nền tảng cơ bản được xác định trên tinh thần tin cậy, hiểu biết, tôn trọng và bình

đẳng lẫn nhau là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn, một nguyên tắc pháp lý làm cơ

sở để hình thành các mối quan hệ quốc tế. Cả khu vực và cộng đồng quốc tế đang

chứng kiến và nghi nhận những nỗ lực hợp tác của hai nước trong thời gian qua. Dù

còn tồn tại nhiều vướng mắc, bất đồng do lịch sử để lại, nhưng hai nước đang cố

gắng vượt qua để phát triển nội lực và phát huy vai trò sức mạnh của mình trong

việc giải quyết các công việc nội bộ cũng như tham gia vào các vấn đề toàn cầu.

Quan hệ Trung - Ấn những năm đầu thế kỷ XXI được phát triển theo một quá trình

từ đi vào quỹ đạo bình thường đến xây dựng quan hệ “Đối tác hợp tác chiến lược”.

Những thành tựu của quan hệ Trung - Ấn hơn mười năm qua được xây dựng trên

những cơ sở khách quan và chủ quan thuận lợi đặc biệt là những toan tính về lợi ích

quốc gia. Nền tảng ấy tạo nên một mối quan hệ tốt đẹp, sôi động trong thế giới đầy

biến động ngày nay.

Những thành tựu mà quan hệ Trung - Ấn đã đạt được trong những năm 2002 -

2012 đều mang tính chiến lược. Hai nước đã thiết lập và ổn định được tính cơ cấu

trong quan hệ với sự tham gia định kỳ, trực tiếp của các cơ quan điều hành nhà nước

hai nước. Trên cơ sở đó, thương mại song phương hai nước đang ngày càng được

nâng lên. Sự hợp tác quốc tế không ngừng được mở rộng qua các năm, sự phối hợp

trong việc giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế ngày càng hiệu quả, quan hệ hai

nước ngày càng được củng cố vững chắc. Sự phát triển quan hệ “đối tác hợp tác

chiến lược” Trung - Ấn không chỉ giúp hai nước đạt được những lợi ích của mình,

nâng cao vị thế quốc gia mà còn góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển và đảm

bảo môi trường an ninh cho khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, thúc đẩy xu thế đa

cực hóa thế giới.

Nhìn lại quá trình hợp tác của hai nước Trung - Ấn ta thấy nó rất phức tạp, vừa

có sự hợp tác, vừa có sự cạnh tranh, nó thể hiện bản chất của các mối quan hệ quốc

tế. Trung Quốc và Ấn Độ đều là nước đang phát triển, đều đang tiến hành cải cách

kinh tế, đều muốn thu hút vốn và kỹ thuật tiên tiến từ nước ngoài, đều muốn mở

106

mang thị trường, đều có nhận thức chung rộng rãi trên các vấn đề quốc tế như thúc

đẩy thế giới đa cực, phản đối chủ nghĩa can thiệp mới, chủ nghĩa khủng bố, bảo vệ

nhân quyền, môi trường. Hai nước cũng đều gặp phải những thách thức từ thế lực

chia rẽ dân tộc, tôn giáo trong nước, đều có chung lợi ích và lập trường trên các

phương diện ngăn chặn các thế lực tôn giáo cực đoan, tấn công chủ nghĩa khủng bố,

tham nhũng, buôn lậu. Tuy trong quan hệ song phương còn có những bất đồng và

mâu thuẫn khá lớn, nhưng trong quan hệ quốc tế luôn có sự hợp tác tốt đẹp. Trong

đấu tranh quốc tế, Trung Quốc cần có sự ủng hộ lớn từ các nước đang phát triển như

Ấn Độ. Ấn Độ muốn tăng cường sự ổn định của mình, muốn trở thành nước thành

viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc cũng cần có sự ủng hộ của Trung

Quốc. Sự trùng lặp này về lợi ích chiến lược cùng với sự nhận thức chung trong các

vấn đề quốc tế là cơ sở vững chắc để quan hệ Trung - Ấn phát triển bền vững. Quá

trình cải thiện và phát triển của quan hệ hai nước cho đến nay được ghi nhận là đúng

đắn và có sự thành công lớn. Cộng đồng quốc tế đang thấy một Châu Á hoà bình, ổn

định và phát triển mà Trung Quốc và Ấn Độ là trung tâm. Sự thành công trong hợp

tác trên các lĩnh vực là cơ sở để hai nước phát triển và mở rộng hơn nữa ảnh hưởng

của mình, vươn tay kết nối với các quốc gia khác trên thế giới. Diễn tiến của mối

quan hệ này trong quá khứ và hiện tại cho thấy Trung Quốc và Ấn Độ đã và đang

thành công trong các mục tiêu chiến lược của mình.

Sự phát triển của quan hệ hợp tác Trung - Ấn đã, đang, sẽ ảnh hưởng tới Việt

Nam bởi Việt Nam vừa là láng giềng của Trung Quốc đồng thời có quan hệ truyền

thống với Ấn Độ . Mối quan hệ này tạo ra môi trường hợp tác thuận lợi cho Việt

Nam với hai nước Trung Quốc và Ấn Độ, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu

cho Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

107

TÀI LIỆU THAM KHẢO

SÁCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT

1. Đặng Trọng Bảo (2010), Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ 2000

đến 2009, Luận văn thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Vinh.

2. Đặng Bảo Châu (6/2006) - “Liệu Ấn Độ có vượt qua Trung Quốc” - Tạp chí

Nhiên cứu Quốc tế - Số 2.

3. Lê Văn Cương (2010), Cục diện an ninh Đông Á đến năm 2020, Tạp chí Cộng

sản, số 810, tháng 5, Tr101- 106.

4. Nguyễn Xuân Cường (2012), Nhìn lại quan hệ đối ngoại CHND Trung Hoa từ

1949 đến nay, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 10.

108

5. Phạm Thị Hoàng Điệp, Con đường tơ lụa – cầu nối giao lưu văn hóa giữa Trung

Quốc với thế giới và khu vực, Báo Thương gia&Thị trường ngày 01/10/2014.

6. Đinh Văn Hà: Quan hệ Ấn Độ - ASEAN sau Chiến tranh Lạnh (1991-2010), Luận

văn Thạc sỹ 2012, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.

7. Lưu thị Mai Hương (2013), Sự trỗi dậy của Ấn Độ những năm đầu thế kỷ XXI,

Luận văn thạc sĩ lịch sử, Đại học KHXH và NV Hà Nội.

8. Hàn Lập Hoa: “Tình hình và phân tích tương lai hợp tác năng lượng Trung -

Ấn”, Báo Thương mại quốc tế, số 5 năm 2007.

9. Học viện ngoại giao – Bộ ngoại giao (2014), Xu thế phát triển của cục diện thế

giới đến năm 2020 và định hướng chiến lược đối ngoại của Việt Nam, Công trình

trọng điểm cấp nhà nước, Hà Nội 2014

10. M.L. Titarenko (2007), Đánh giá tổng hợp về sự phát triển của Trung Quốc

trong thế kỷ XXI, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5, Tr3 – 17

11. Phụ lục 3

12. Phan Doãn Nam (2010), Năm 2009: Mở đầu kỷ nguyên đa cực mới, Tạp chí

Cộng sản số 807, tháng 1, Tr82 - 88.

13. Lê Văn Mỹ (chủ biên) (2011), Ngoại giao Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hai mươi năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. TR 27 14. Nguyễn Tăng Nghị, Huỳnh Hồ Đại Nghĩa: Chính sách hướng Đông của Ấn Độ

trong những năm đầu của thế kỷ XXI-Vị trí và vai trò tại Biển Đông, Tạp chí Nghiên

cứu Ấn Độ và châu Á, trang 32-41.

15. Nguyên Phong (2010), Sự trỗi dậy của Trung Quốc và xu thế hình thành trật tự

thế giới mới, Tạp chí kiến thức quốc phòng hiện đại, số 1, Tr17 – 20

16. Nguyễn Văn Phương (2005), “Ấn Độ thị trường tiểm năng khổng lồ”, Tạp chí

Ngoại thương số 34, 10/12/2005.

17. Nguyễn Duy Quý (2002), Thế giới trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, NXB

Chính trị quốc gia.

18. Trần Văn Tùng, Con đường phát triển kinh tế của Trung Quốc và Ấn Độ, Tạp

chí Đảng Cộng sản Việt Nam, số 13, tháng 7/2006.

19. TTXVN, Tài liệu tham khảo đặc biệt (16/11/2003) - “Quan hệ Trung - Ấn trong

thế kỷ mới”.

109

20. TTXVN, Tin tham khảo thế giới, (19/7/2014), “Tiềm năng lớn trong hợp tác

Trung - Ấn”

21. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr 11 – 19.

SÁCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO NƯỚC NGOÀI

22. “Ambassador Zhang Yan, “relives China – India relations”, March 28, 2010

23. “Analysis of China‟s energy import and export”, Xinhua news Agency, march

26, 2007

24. China – January – 2012. Pdf

25. Beth Anne Wilson và Geoffrey N.Keim, “India and the Global Economy”, trong

Business Economics, số tháng 1.2006.

26. Chen Deming, “Indian and Chinese are tied together”, People‟s Daily, Jan.20,

2010

27. Departmen of policy planning Ministry of Foreign Affairs People's Republic of

China (2006), China's Foreign Affairn, Beijing: World Affairs Press. 28. 29. Goh, Chok Tong (2007), Asia and The Middle East: Towards a 21st Century

Parnership, Speech at the Global Action Forum of Arab and Asia Dialogue, Ritz

Carlton, Millenia, 27 April.

29. Jing dong Yuan, The Daragon và the Elephant; Chinese and Idian relation in the 21st century, The Washington quarterly, Summer 2007, p. 135.

30. James Bellacqua (2009), The future of China-Russia relations, University of

Kentucky Press.

31. Kar, Sitanshu (2010) “Towards an Inclusive Security Architecture: ASEAN+8

Defence Ministers”, Meeting in Hanois, India strategic.

32. Priya Ganapati “IT majors welcome move to China” Rediff News, June 27,

2003

33. Robert Boardman (1994), Post - Socialist oders: Russia, China and the UN

system, NewYork: MC Millan ST Martin's Press. Tr54

110

34. Surjit Mansingh (2005), India - China relations in the context of Vajpayee's

2003 visit, The Sigur center Asia papers, The George Washington University, The

Elliott School of International Affairs Press, p. 6, 7.

35. Snehalata Panda, Sino - Indian relation in a New Perspective, Strategic

Analysis, Vol. 27, No. 1, Jan- Mar 2003, p. 5.

36. Trương Lập, Chính sách hướng Đông của Ấn Độ: Tiến trình và những ảnh

hưởng, Tạp chí Nghiên cứu Nam Á, số 1, năm 2012.

37. Vision Statement ASEAN – India Commemorative Summit, New Delhi

20/12/2012.

38. Wang Qian, “Oli imports hit alarming livel in China : Study ,China daily, jan 14,

2010

DANH MỤC CÁC TRANG WEB THAM KHẢO

39. Ấn – Trung “mua láng giềng gần”, http://vietbao.vn/The-gioi/An-Trung-mua-

lang-gieng-gan/10823430/161/

40.ASEAN –India dialogue relation http://www.aseansec.org/5738.htm tháng

5/2010.

41. Ấn Độ: cường quốc mới đối trọng với Trung Quốc ở Châu Á http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-khu-vuc-khac/1957-n--cng-quc-mi-i-trng- trung-quc--chau-a 42. Cột mốc quan trọng trong quan hệ Ấn – Trung,

http://www.toquoc.gov.vn/vietnam/showPrint.asp?newsId=34194

43. China is going to overtake Japan as the world second-largest economy,

http://www.economywatch.com/economy-business-and-finance-news/china--as-china-takes

44. Đỗ Tuyết Khanh, Quan hệ hợp tác và cạnh tranh giữa Trung Quốc và Ấn Độ

trong thế giới đa cực, Tạp chí Thời đại mới, số 12, tháng 11/2007,

http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai12/200712_DTKhanh.htm

45. Ministry of Finance, Government of India Economic Survey 2010 - 2011,

http://indiabudget.nic.in/es2010-11/echap-01.pdf,p2.

46. Nguồn: Asean Statistics

47. Madhur Singh, Can China and India be friend?

http://www.time.com/time/printout/0,8816,1697595,00.html

111

48. Huỳnh Bửu Sơn, Nền kinh tế Trung Quốc - Phép lạ đang biến mất, Báo Doanh

nhân Sài Gòn ngày 04/10/2013, http://www.doanhnhansaigon.vn/online/quoc-

te/kinh-te/2013/10/1077117/nen-kinh-te-trung-quoc-phep-la-dang-bien-mat/

49. Thủ tướng Ấn Độ thăm Trung Quốc: Xua tan băng giá?

http://www.laodong.com.vn/Home/Thu-tuong-An-Do-tham-Trung-Quoc-Xua-tan-

bang-gia/20081/73053.laodong

50. Trung Quốc - Ấn Độ kí hiệp định biên giới,

http://www.marketingvietnam.net/index.php?option=com_onboom-news-

vnexpress&Itemid=102&url=/Vietnam/The-gioi/2005/04/3B9DD2CB/

51. http://dantri.com.vn/c36/s36-113218/trung-quoc.htm

52. http://vietnamese.cri.cn/421/2010/01/19/1s135470.htm

53. http://www.aseansec.org/5738.htm

54. website của Đại sứ quán Ấn Độ tại Việt Nam,

http://www.indembassy.com.vn/tabid/913/default.aspx

55.Viết Tuấn: Quan hệ ASEAN-Ấn Độ dưới góc nhìn của truyền thông quốc tế,

Nghiên cứu Biển Đông, http://nghiencuubiendong.vn/quan-h-quc-t/3259-quan-he-

asean-an-do-duoi-goc-nhin-cua-truyen-thong-quoc-te

56..http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/india-look-east-policy-qc-

09222011173956.html

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Hiệp định Biên giới Trung - Ấn Văn bản Hiệp định này được ký tại Bắc Kinh giữa hai Thủ tướng hai nước

Trung Quốc và Ấn Độ ngày 7/9/1993. Sau đây là toàn văn:

Chính phủ Cộng Hoà Ấn Độ và Chính phủ Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đã ký hiệp định này phù hợp với 5 nguyên tắc cùng tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không xâm lược, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi và chung sống hoà bình với lòng mong muốn duy trì hoà bình, ổn

112

định trong khu vực dọc đường kiểm soát thực tế (LAC) trong khu vực biên giới Ấn Độ - Trung Quốc.

Điều 1: Hai bên nhận thức rằng, vấn đề đường biên giới sẽ được giải quyết thông qua các cuộc thương lượng hoà bình và hữu nghị. Cả hai bên sẽ không sử dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực để chống lại nhau bằng bất kỳ phương diện nào. Trong khi chờ đợi một giải pháp cuối cùng cho vấn đề biên giới giữa hai nước hai bên sẽ triệt để tôn trọng LAC, không bên nào được có hành vi vi phạm LAC. Trong trường hợp người của một bên vi phạm LAC mà nhận được lời cảnh báo từ bên kia, bên vi phạm sẽ phải lập tức rút về phần của mình theo sự phân chia của LAC khi cần thiết, hai bên sẽ cùng xem xét và quyết định từng đoạn đường trên LAC nơi hai bên có những bất đồng ý kiến.

Điều 2: Mỗi bên sẽ duy trì lực lượng quân sự của mình trong khu vựa dọc LAC ở mức tối thiểu phù hợp với quan hệ hữu nghị và láng giếng tốt giữa hai nước. Hai bên thỏa thuận giảm lực lượng quân sự của mình dọc LAC phù hợp với yêu cầu của nguyên tắc cùng bảo đảm an ninh bình đẳng ở mức cao nhất như đã thỏa thuận. Mức độ, thời gian và bản chất của việc giảm quân dọc LAC sẽ được quyết định thông qua các cuộc tham khảo ý kiến lẫn nhau giữa hai nước. Việc giảm quân sẽ được tiến hành theo từng giai đoạn trong khu vực địa lý đã được thỏa thuận trong khu vực dọc LAC.

Điều 3: Thông qua các cuộc trao đổi ý kiến, hai bên sẽ vạch ra các biện pháp xây dựng lòng tin có hiệu quả trong khu vực dọc LAC. Cả hai bên sẽ không tiến hành các cuộc tập trận trong những khu vực đã được quy định cấm tập trận. Hai bên sẽ báo trước cho bên kia biết về những cuộc tập trận gần LAC đã được cho phép trong hiệp định.

Điều 4: Trong trường hợp khẩn cấp hoặc khi có những quyết định, cần thông qua các cuộc họp, các cuộc tham khảo ý kiến một cách hữu nghị giữa các quan chức biên giới của hai nước. Hình thức các cuộc họp nói trên và các kênh thông tin giữa các quan chức biên giới sẽ được hai bên cùng thỏa thuận.

Điều 5: Hai bên thỏa thuận sẽ thi hành những biện pháp để không xảy ra các vụ đột nhập bằng đường không qua LAC và sẽ có những cuộc tham khảo ý kiến chung thảo luận về những hạn chế của những cuộc tập trận trên không trong những khu vực đã được thỏa thuận gần LAC.

Điều 6: Hai bên thỏa thuận rằng những đề cập tới LAC trong hiệp định này

sẽ không khẳng định hướng giải quyết vấn đề biên giới trong tương lai.

Điều 7: Thông qua các cuộc trao đổi ý kiến hai bên sẽ thỏa thuận về hình thức, biện pháp, quy mô và nội dung các biện pháp xác minh và giám sát một cách

113

có hiệu quả việc giảm quân và duy trì hoà bình, ổn định trong các khu vực dọc LAC theo quy định của hiệp định này.

Điều 8: Mỗi bên trong Nhóm công tác chung Ấn - Trung về vấn đề biên giới sẽ chỉ định các chuyên gia ngoại giao và quân sự để vạch ra các công thức thông qua các cuộc trao đổi ý kiến nhằm thực hiện hiệp định này. Các chuyên gia sẽ cố vấn cho Nhóm công tác chung về việc triển khai lại quân đội nhằm giảm lực lượng quân sự trong khu vực dọc LAC. Các chuyên gia cũng sẽ hổ trợ Nhóm công tác chung trong việc giám sát việc thực hiện hiệp định này và việc giải quyết những bất đồng. Điều 9: Hiệp định sẽ có hiệu lực kể từ ngày ký. Việc sửa đổi và thêm bớt các

điều khoản sẽ do hai bên cùng thỏa thuận.

Nguồn: Niu Đêli ngày 10/9/1993, tài liệu lưu tại TTXVN, Hà Nội

Phụ lục 2:Tuyên bố chung Ấn Độ - Trung Quốc

Tuyên bố của hai Thủ tướng hai nước Ấn Độ và Trung Quốc tại Niu Đêli

ngày 11/4/2005. Toàn văn bản Tuyên bố như sau:

I. Nhận lời mời của Ngài Manmohan Singh - Thủ tướng Cộng Hoà Ấn Độ, Ngài Ôn Gia Bảo - Thủ tướng Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa hiện đang thăm chính thức Cộng Hoà Ấn Độ từ ngày 9 đến 12/4/2005.

Trong thời gian ở thăm, Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã có các cuộc hội đàm với Thủ tướng Manmohan Singh, yết kiến Tổng thống Abdul Kalam và Phó Tổng thống 114

Bhairon Singh Sekhawat, gặp Chủ tịch Liên minh Tiến bộ Thống nhất Sonia Gandhi, Ngoại trưởng Natwar Singh và lãnh tụ phe đối lập L.K. Advani. Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã thăm Bangalo và phát biểu tại Học viện Công nghệ Ấn Độ ở Niu Đêli.

Các nhà lãnh đạo hai nước đã có các cuộc trao đổi quan điểm sâu rộng trong bầu không khí thân thiện, hữu nghị, mang tính xây dựng và đã đạt được sự nhất trí rộng rãi về các vấn đề song phương, khu vực, quốc tế mà hai bên cùng quan tâm.

II. Hai nước đã xem xét lại các cuộc tiếp xúc hữu nghị, những tiến bộ đã đạt được trong quan hệ song phương trong những năm gần đây và nhất trí cho rằng quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc đã bước vào một giai đoạn mới của quá trìng phát triển toàn diện. Cả hai bên hài lòng nhận thấy các chuyến viếng thăm thường xuyên giữa lãnh đạo hai nước, quá trình xây dựng sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau đang trên đà phát triển. Hợp tác thương mại và kinh tế đã phát triển gấp hai lần so với nỗ lực mở rộng sự trao đổi và hợp tác trong các lĩnh vực khác. Hai nước đã đạt được nhiều tiến bộ to lớn trong việc giải quyết những vấn đề còn tồn đọng. Hai nước cũng duy trì các hoạt động thông tin và cộng tác trong các vấn đề quốc tế và khu vực. Hai nước nhất trí rằng Ấn Độ và Trung Quốc đã đạt được những kết quả đáng hài lòng trong việc phát triển đối tác hợp tác và xây dựng lâu dài.

Hai nước đã nhắc lại Tuyên bố về các nguyên tắc trong quan hệ và hợp tác toàn diện do Thủ tướng hai nước đã ký ngày 23/6/2003 và khẳng định lại rằng Tuyên bố này đã tạo ra một tầm nhìn cùng chia sẻ về quan hệ song phương và một khuôn khổ đã được nhất trí về sự hợp tác.

III. Trong khuôn khổ của sự phát triển quan hệ song phương, để thúc đẩy sự hợp tác láng giềng tốt đẹp, hữu nghị, hai bên cùng có lợi và có tính đến những thay đổi to lớn trong tình hình quốc tế và khu vực, hai nước nhất trí cho rằng mối quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc hiện cần phải có một đặc điểm chiến lược và toàn cầu. Do vậy, các nhà lãnh đạo hai nước đã nhất trí thành lập một quan hệ đối tác chiến lược và hợp tác Ấn Độ - Trung Quốc vì hoà bình và thịnh vượng.

Một quan hệ đối tác như vậy dựa trên những nguyên tắc của Hiệp định Panchsheel, cùng tôn trọng lẫn nhau và nhạy cảm với những mối quan tâm và nguyện vọng chung của nhau và cùng bình đẳng; tạo ra một khuôn khổ vững mạnh cho sự phát triển toàn diện và đầy đủ của mối quan hệ song phương dựa trên cơ sở bình đẳng về an ninh, phát triển và sự thịnh vượng của nhân dân hai nước; góp phần cùng giải quyết những thách thức và các mối đe doạ toàn cầu. Điều này phản ánh khả năng sẳn sàng của hai nước trong việc giải quyết những bất đồng còn tồn đọng theo chiều hướng tích cực mà không để những bất đồng này xuất hiện trong tiến trình phát triển quan hệ song phương.

115

IV. Hai nước nhất trí cho rằng các cuộc trao đổi cấp cao giữa Chính phủ, Quốc hội và các chính đảng giữa hai nức đóng một vai trò quan trọng trong nỗ lực hợp tác toàn diện. Các cuộc trao đổi này tỏ rõ quyết tâm duy trì và củng cố đà phát triển những cuộc trao đổi như vậy trong thời gian tới và nhất trí tiến hành những cuộc gặp thường kỳ giữa hai lãnh đạo hai nước. Trong bối cảnh này, hai nước cũng nhắc lại dự định thúc đẩy các cuộc trao đổi cấp Bộ trưởng thường kỳ và sử dụng triệt dể quan hệ đối tác chiến lược Ấn Độ - Trung Quốc và các cơ chế đối tác song phương khác.

V. Năm 2005 là năm kỷ niệm 55 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Để đánh dấu sự kiện này, hai nước sẽ tổ chức một loạt hoạt động kỷ niện chung, trong đó có "Lễ hội văn hoáTrung Quốc" vừa mới diễn ra tại Ấn Độ và một "Lễ hội văn hoá Ấn Độ" cũng sẽ được tổ chức tại Trung Quốc vào cuối năm nay. Hai nước cũng sẽ tổ chức các hoạt động văn hoá khác để thúc đẩy thêm sự hiểu biết lẫn nhau và làm sâu sắc thêm tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Ấn Độ và Trung Quốc tuyên bố năm 2006 sẽ là "năm của tình hữu nghị Ấn Độ - Trung Quốc". Hai nước bày tỏ hài lòng với nỗ lực tăng cường trao đổi trong các lĩnh vực văn hoá và khẳng định sự thông cảm lẫn nhau và các cuộc trao đổi văn hoá sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển hợp tác trong các lĩnh vực khác. Để tăng cường các mối quan hệ văn hóa truyền thống, hai nước đã ký một hiệp định về xây dựng một ngôi chùa phật giáo theo kiểu Ấn Độ ở Lạc Dương tại tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.

VI/. Hai nước nhấn mạnh rằng sự phát triển toàn diện hợp tác kinh tế Ấn Độ - Trung Quốc, kể cả thương mại và đầu tư, tạo ra một chiều hướng quan trọng cho quan hệ mạnh mẽ hơn giữa hai nước Ấn Độ và Trung Quốc. Hai nước nhất trí tiến hành các nỗ lực chung để tăng cường kim ngạch buôn bán song phương lên 20 tỷ USD hoặc cao hơn nữa vào năm 2008. Hai nước hoan nghênh báo cáo của Nhóm Nghiên cứu hỗn hợp (JSG), vốn được thành lập để xem xét khả năng bổ sung tiềm năng giữa hai nước trong việc mở rộng hợp tác kinh tế và thương mại. Trong báo cáo của mình, JSG đã xác định một loạt biện pháp liên quan tới buôn bán hàng hoá, thương mại trong du lịch, đầu tư và các lĩnh vực khác, và đề nghị việc thực hiện nhanh chóng nhằm gỡ bỏ các trở ngại và tạo điều kiện tăng cường hợp tác kinh tế giữa hai nước.

Hai Thủ tướng giao nhiệm vụ cho Nhóm Kinh tế hỗn hợp (JEG) xem xét 3 đề nghị này và hợp tác với nhau để thực hiện. Vì mục đích đó, hai nước sẽ hết sức nỗ lực nhằm tiến hành họp sắp tới của JEG trong vòng 6 tháng tới. JEG cũng đưa ra một đề nghị về thỏa thuận thương mại khu vực Ấn Độ - Trung Quốc, bao gồm buôn bán hàng hoá và dịch vụ, đầu tư, xác định sự hiểu biết về buôn bán và thúc đẩy đầu tư, và các biện pháp nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế trong các khu vực đã được xác

116

định. Hai Thủ tướng cũng đã nhất trí chỉ định lực lượng đặc nhiệm nhằm nghiên cứu chi tiết tính khả thi, lợi ích có thể đạt được của Thỏa thuận buôn bán khu vực Ấn Độ - Trung Quốc và đưa ra những đề nghị liên quan tới vấn đề này.

Hai nước lưu ý rằng thỏa thuận về việc thành lập một Cơ chế đối thoại tài chính sẽ tạo điều kiện hơn nữa cho hợp tác kinh tế năng động và đa dạng giữa hai nước. Hai bên sẽ tiếp tục tiến hành các cuộc tư vấn về việc ký kết hiệp định bảo vệ và thúc đẩy đầu tư song phương.

Hai nước hài lòng nhận thấy rằng Ấn Độ và Trung Quốc đã ký một nghị định thư SPS về xuất khẩu nho của Ấn Độ sang Trung Quốc. Hai nước cũng nhất trí thành lập một Nhóm công tác hỗn hợp để thực hiện bản ghi nhớ về việc áp dụng SPS giữa Tổng cục kiểm tra chất lượng, thanh tra và kiểm dịch Trung Quốc với Bộ Nông nghiệp Ấn Độ.

Trung Quốc đánh giá tích cực khả năng thâm nhập mặt hàng gạo Ấn Độ vào thị trường Trung Quốc và sẽ xúc tiến càng sớm càng tốt phân tích rủi ro về mặt thủ tục của mặt hàng gạo Ấn Độ cho phù hợp với luật pháp và quy định của Trung Quốc.

VII. Hai nước nhất trí thúc đẩy hơn nữa hợp tác trong lĩnh vực giáo dục, khoa học và kỹ thuật, y tế, thông tin, du lịch, nông nghiệp, ngành sữa, thể thao và các lĩnh vực khác dựa trên cơ sở hai bên cùng có lợi và tương hổ. Hai nước quyết định thành lập một Ủy ban hợp tác khoa học và công nghệ Ấn Độ - Trung Quốc do Bộ trưởng Khoa học và công nghệ mỗi nước làm đồng chủ tịch, bắt đầu tư vấn về một hiệp định cùng nhau thừa nhận bằng viện sỹ và chứng chỉ giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Hai nước tuyên bố xúc tiến các cuộc trao đổi, các hoạt động thanh niên thường kỳ. Trung Quốc sẽ mời 100 thanh niên Ấn Độ sang thăm Trung Quốc trong năm 2005 và tiến hành cuộc triển lãm trong năm nay về công nghệ tiên tiến tại Ấn Độ.

VIII. Hai nước thừa nhận tầm quan trọng của việc củng cố sự liên kết lẫn nhau và nhất trí cùng nhau hợp tác tiến tới việc thiết lập đường bay trực tiếp và các tuyến đường biển, du lịch và các cuộc tiếp xúc giữa nhân dân hai nước. Hai bên hài lòng thừa nhận rằng bản ghi nhớ về việc tự do hoá phần lớn các hãng hàng không dân dụng giữa hai nước đã được đưa ra thảo luận trong chuyến thăm này.

IX. Hai nước sẽ tiếp tục hợp tác trong việc trao đổi các số liệu về thủy học trong mùa lụt lội của các con sông chạy qua biên giới giữa hai nước mà hai bên đã nhất trí.

Để đáp ứng mối lo ngại của phía Ấn Độ, Trung Quốc đã nhất trí tiến hành các biện pháp tháo nước có kiểm soát của các tập đoàn sông Parechu chừng nào điều kiện thực tế còn cho phép.

117

Hai nước nhất trí hợp tác trong lĩnh vực an ninh và bảo tồn năng lượng, kể cả việc khuyến khích các bộ và các đơn vị của hai nước tham gia việc điều tra, thăm dò các nguồn dầu mỏ và khí tự nhiên tại nước thứ ba.

X. Hai nước thừa nhận việc trao đổi và tiếp xúc bổ ích trong lĩnh vự quân sự và quyết định thúc đẩy hơn nữa những cuộc tiếp xúc và trao đổi như vậy. Hai nước nhất trí rằng việc mở rộng và làm sâu sắc thêm trao đổi quốc phòng giữa hai nước là nhân tố quan trọng sống còn trong nổ lực tăng cường sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau giữa quân đội hai nước và để đảm bảo một môi trường hoà bình, trong đó hai nước có thể theo đuổi các mục tiêu phát triển quốc gia của mình. Hai nước quyết định phát triển hơn nữa các cuộc tiếp xúc có hiệu quả và trao đổi trong lĩnh vực này. XI. Trong chuyến thăm này, hai nước đã trao đổi quan điểm về biên giới Ấn Độ - Trung Quốc và nhắc lại khả năng sẵn sàng tìm kiếm một giải pháp công bằng, hợp lý và hai bên cùng chấp nhận, thông qua các cuộc tư vấn bình đẳng, hữu nghị và xuất phát từ toàn bộ lợi ích quan hệ song phương. Hai nước bày tỏ lợi ích về những tiến bộ đã đạt được trong các cuộc thảo luận giữa đại diện đặc biệt của hai bên và hoan nghênh việc kết thúc Hiệp định về tham số chính trị và các nguyên tắc chỉ đạo để giải quyết vấn đề biên giới. Hai nước tin rằng một giải pháp sớm cho vấn đề biên giới thúc đẩy lợi ích cơ bản của hai bên và do vậy vấn đề này cần được theo đuổi như là một mục tiêu chiến lược. Hai nước bày tỏ cam kết đối với cơ chế đại diện đặc biệt nhằm tìm kiếm một giải pháp chính trị cho bất đồng biên giới trong bối cảnh vì quyền lợi lâu dài của cả hai bên và toàn bộ mối quan hệ song phương.

Trong khi chờ đợi một giải pháp cuối cùng, hai nước sẽ thực hiện các nỗ lực chung nhằm duy trì hoà bình và yên tĩnh ở các khu vực biên giới phù hợp với các hiệp định 1993 và 1996. Hai nước nhất trí rằng trong khi tiếp tục các cuộc thảo luận giữa các đại diện đặc biệt, thì việc Nhóm công tác hỗn hợp (JWG) tiếp tục các công việc nhằm sớm làm rõ và xác định Ranh giới kiểm soát thực tế (LAC) là rất quan trọng. Những tiến bộ đạt dược cho tới nay trong việc làm rõ LAC tại các khu vực biên giới Ấn - Trung đã được ghi nhận. Hai nước đã nhất trí hoàn tất tiến trình trao đổi các bản đồ nêu rõ nhận thức riêng của mỗi nước về toàn bộ LAC trên cơ sở các thông số đã thỏa thuận nhằm mục đích sớm đi tới một sự hiểu biết chung về LAC. Hai nước bày tỏ hài lòng về những tiến bộ đã đạt được trong việc thực hiện các hiệp định 1993 và 1996, nhất trí thực hiện đầy đủ các hiệp định này một cách nhanh chóng. Vì mục tiêu này, hai nước đã ký Nghị định thư về các thể thức thực hiện các biện pháp xây dựng lòng tin trong lĩnh vực quân sự dọc theo LAC ở các khu vực biên giới Ấn - Trung.

118

XII. Phía Ấn Độ đã nhắc lại rằng Ấn Độ thừa nhận khu tự trị Tây Tạng là một phần lãnh thổ của CHND Trung Hoa và rằng Ấn Độ không cho phép người Tây Tạng can dự vào các hoạt động chính trị chống Trung Quốc ở Ấn Độ.

Ấn Độ khẳng định lại rằng Ấn Độ thuộc số những nước đầu tiên thừa nhận chỉ có một nước Trung Quốc và chính sách một nước Trung Hoa vẫn không thay đổi. Phía Ấn Độ tuyên bố tiếp tục tuân thủ chính sách một nước Trung Hoa này.

Phía Trung Quốc bày tỏ sự cảm kích trước các lập trường này của Ấn Độ. XIII. Hai nước đã hài lòng xem xét lại việc thực hiện bản ghi nhớ về buôn bán biên giới qua đèo Nathula giữa Khu tự trị Tây Tạng của Trung Quốc và bang Xichkim ở Ấn Độ.

XIV. Hai nước hài lòng nhận thấy rằng thông qua các cuộc tư vấn hữu nghị, hai nước đã đạt được một thỏa thuận trên nguyên tắc nhằm giải quyết vấn đề tồn đọng về khu đất lúc đầu thuộc Tổng lãnh sự quán Ấn Độ ở Thượng Hải với việc phía Trung Quốc nhất trí cung cấp một lô đất ở khu vực phía trước tổng lãnh sự quán Ấn Độ.

XV. Là hai nước đang phát triển mạn mẽ, cả Ấn Độ và trung Quốc đều nhận thức được vai trò quan trọng của nhau trong tiến trình thúc đẩy việc thiết lập một trật tự chính trị và kinh tế quốc tế mới. Hai bên cùng chia sẻ các lợi ích trong việc duy trì hoà bình, ổn định, thịnh vượng ở châu Á và trên toàn thế giới và có chung nguyện vọng về phát triển sự hợp tác, hiểu biết chặt chẽ và rộng rãi hơn trong các vấn đề khu vực và quốc tế.

Hai nước hậu thuẫn tiến trình dân chủ hoá các quan hệ quốc tế, chủ nghĩa đa phương, ủng hộ việc thiết lập một trật tự chính trị và kinh tế quốc tế mới trên cơ sở công bằng, bình đẳng, có lý lẽ và các bên cùng có lợi, và thúc đẩy đối thoại Bắc - Nam và hợp tác Nam - Nam. Hai nước cho rằng cộng đồng quốc tế cần loại bỏ tình trạng nghèo đói, thu hẹp khoảng cách Bắc - Nam, và đạt được sự thịnh vượng chung thông qua đối thoại và hợp tác.

XVI. Hai nước nhắc lại vai trò quan trọng của Liên Hợp Quốc (LHQ) trong hoà bình, ổn định và sự phát triển chung và bày tỏ sự quyết tâm tiếp tục các nổ lực của mình, cùng với cộng đồng quốc tế trong việc củng cố hệ thống LHQ nhằm phát triển một cơ sở đa phương trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu. Cả Ấn Độ và Trung Quốc đều nhất trí cho rằng cải cách LHQ cần được tiến hành toàn diện, nhiều mặt và cần nhấn mạnh đến việc tăng cường quyền đại diện của các nước đang phát triển. Phía Ấn Độ nhắc lại nguyện vọng của mình trở thành thành viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ. Phía Trung Quốc cũng nhắc lại rằng Ấn Độ là một nước đang phát triển quan trọng và đang có ảnh hưởng ngày càng tăng trên diễn đàn quốc tế. Trung Quốc coi trọng uy tín của Ấn Độ trong các vấn đề quốc tế. Trung Quốc

119

hiểu rõ và ủng hộ nguyện vọng của Ấn Độ đóng một vai trò tích cực trong các vấn đề của LHQ và quốc tế. Hai nước đã khẳng định lại việc tiến hành các cuộc tư vấn chặt chẽ và hợp tác trong tiến trình cải cách LHQ.

XVII. Nhận thức được các mối đe doạ của chủ nghĩa khủng bố mà hoà bình và an ninh của hai nước đang phải đối mặt, hai bên cực lực lên án chủ nghĩa khủng bố dưới mọi hình thức. Cuộc đấu tranh của cộng đồng quốc tế chống chủ nghĩa khủng bố toàn cầu là một cuộc đấu tranh toàn diện và lâu dài với mục tiêu thống nhất là nhằm loại bỏ chủ nghĩa khủng bố ở tất cả các khu vực. Cuộc đấu tranh này đòi hỏi phải củng cố khuôn khổ pháp lý toàn cầu trước chủ nghĩa khủng bố. Hai bên nêu rõ kết quả tích cực của các cuộc gặp đã được tổ chức cho tới nay trong khuôn khổ cơ cấu đối thoại song phương về chống khủng bố, đồng thời nhất trí tăng cường và củng cố hơn nữa các cuộc đối thoại và hợp tác giữa hai nước. Hai nước tán thành tổ chức cuộc gặp sắp tới của cơ cấu đối thoại chống khủng bố vào cuối năm 2005.

XVIII. Hai nước nhất trí tiến hành các cuộc trao đổi quan điểm thường xuyên về các vấn đề quan trọng của khu vực và quốc tế, củng cố hợp tác trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các tổ chức quốc tế đa phương khác, tiếp tục tham khảo ý kiến của nhau về các vấn đề cùng quan tâm. Hai bên nhất trí hợp tác với nhau nhằm bảo vệ sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế thế giới và thu hẹp sự chênh lệch giữa các nước phát triển và đang phát triển. Hai nước hậu thuẫn một hệ thống thương mại cởi mở, công bằng, bình đẳng và đa phương trên cơ sở những quy định minh bạch và quyết tâm bảo vệ những quyền hạn và lợi ích chính đáng của các nước đang phát triển.

XIX. Nhận thức được vận mệnh của mình là các nước láng giềng và hai nước lớn nhất ở châu Á, hai bên đã nhất trí sẽ cùng nhau đóng góp vào việc thiết lập một bầu không khí hợp tác, tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau ở châu Á và trên toàn thế giới, tạo thuận lợi cho các nổ lực nhằm tăng cường các cơ cấu phối hợp nhiều bên về an ninh và hợp tác.

XX. Trong chuyến thăm này, hai nước đã ký và công bố các văn kiện: 1. Hiệp định về các tham số chính trị và các nguyên tắc chỉ đạo cho việc giải

quyết vấn đề biên giới Ấn Độ - Trung Quốc.

2. Báo cáo của Ủy ban nghiên cứu hỗn hợp về hợp tác kinh tế và thương mại

toàn diện.

3. Nghị định thư về các thể thức nhằm thực hiện các biện pháp xây dựng lòng tin (CBM) trong lĩnh vực quân sự dọc tuyến LAC ở các khu vực biên giới hai nước.

4. Nghị định về hợp tác và hỗ trợ quản lý chung trong các vấn đề hải quan. 5. Bản ghi nhớ (MOU) về tiến hành đối thoại tài chính Ấn Độ - Trung Quốc. 6. Bản ghi nhớ về hàng không dân dụng.

120

7. Nghị định thư về đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho việc xuất khẩu

nho từ Ấn Độ sang Trung Quốc.

8. Nghị định thư về đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho việc xuất khẩu

mướp đắng từ Ấn Độ sang Trung Quốc.

9. Bản ghi nhớ về việc Trung Quốc cung cấp cho Ấn Độ thông tin về thuỷ

học của các sông Sutlej và Zangbo vào mùa lũ lụt.

10. Nghị định thư về Ủy ban hợp tác trong lĩnh vực phim ảnh giữa Ấn Độ và

Trung Quốc.

11. Bản ghi nhớ về hợp tác giữa Hội đồng các vấn đề thế giới của Ấn Độ và

Học viện Ngoại giao nhân dân Trung Quốc.

12. Bản ghi nhớ về việc xây dựng Đền thờ Phật giáo kiểu Ấn Độ ở phía Tây

Đền Bạch Mã ở Lạc Dương, Trung Quốc.

XXI. Hai nước cho rằng chuyến thăm nhà nước rất thành công của Thủ tướng Ôn Gia Bảo tại Cộng Hoà Ấn Độ đã đánh dấu một cấp độ mới trong quan hệ Ấn - Trung và mở ra một chương mới cho các mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước.

Thủ tướng Ôn Gia Bảo, đại diện cho Chính phủ Nhân dân Trung Quốc đã đánh giá cao sự đón tiếp nồng nhiệt của Chính phủ và nhân dân Ấn Độ, và đã mời Thủ tướng Manmohan Singh thăm Trung Quốc vào một thời gian thích hợp cho cả hai bên. Thủ tướng Manmohan Singh đã vui vẻ nhận lời mời. Phía Ấn Độ đã nhắc lại lời mời Chủ tịch Hồ Cẩm Đào sang thăm Ấn Độ. Thời gian chính thức của cuộc viếng thăm này sẽ được quyết định thông qua các kênh ngoại giao.

Nguồn: Niu Đêli ngày 12/4/2005, tài liệu lưu tại TTXVN, Hà Nội.

Phụ lục 3 Bảng 1: Thương mại Trung- Ấn

(Đơn vị: Rupees (INR))

2005-2006

2006-2007

2007-2008

2008-2009

2009-2010

2010-2011

Năm

121

2.992.491,2

3.752.978,03

4.359.741,5

4.266.133,3

5.471.392,8

8.893.260,30

Kim ngạch xuất khẩu

25,41

16,17

-2,15

28,25

62,54

Tăng trưởng (%)

Tổng kim ngạch xuất

45.641.786,1

57.177.928,5

65.586.352,1

84.075.505,8

84.553.364,3

114.264.897

khẩu của Ấn Độ sang

Trung Quốc

25,28

14,71

28,19

0,57

35,14

Tăng trưởng (%)

6,56

6,56

6,65

5,07

6,47

7,78

Tỷ trọng (%)

4.811.665,2

7.900.860,7

10.911.607,1

14.760.559,5

14.604.861,2

19.807.907,5

Kim ngạch nhập khẩu

64,2

38,11

35,27

-1,05

35,63

Tăng trưởng (%)

Tổng kim ngạch nhập

137.443.555,

66.040.890,3

84.050.631,3

101.231.169

136.373.554

168.346.695

5

khẩu của Ấn Độ từ

Trung Quốc

27,27

20,44

-0,78

23,45

35,77

Tăng trưởng (%)

7,29

9,4

10,78

10,71

11,77

10,74

Tỷ trọng (%)

Tổng kim ngạch thương

7.804.156,5

11.653.838,7

15.271.348,7

19.026.692,8

20.076.254,0

28.701.167,8

mại

49,33

31,04

24,59

5,52

42,96

Tăng trưởng (%)

221.519.061,

Tổng kim ngạch thương

111.682.676

141.228.559

16.6817.522

220.926.919

282.611.592

3

mại của Ấn Độ

26,46

18,12

-0,27

27,92

32,79

Tăng trưởng (%)

6,99

8,25

9,15

9,09

10,16

8,59

Tỷ trọng (%)

Cán cân thương mại

-20.399.104

-26.872.702

-35.644.817

-53.368.049

-51.820.190

-54.081.798

Cán cân thương mại

của Ấn Độ

122

Nguồn: dữ liệu ngân hàng về cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu, Cục Thương

mại, Bộ Thương mai và Công Nghiệp, Chính phủ Ấn Độ

Bảng 2: Xuất khẩu của Trung Quốc sang Ấn Độ

Xuất khẩu của Trung Quốc 2007-2008 2008-2009 2009-2010 2010 -2011

123

Hàng thủy sản 53.466,83 38.196,92 10.0549,2 121.008,15

Sản phẩm bơ sữa 7.019,21 2.517,72 214,28 543,68

Rau ăn được, quả và quả hạch ăn 841,1 675,87 2.682,21 1.271,64 được

Cà phê, chè, chè Paragoay và các 1.400,27 943,17 3.682,88 8.888,47 loại gia vị

Dầu thực vật 26.058,01 11.555,98 10.390,97 26.418,37

Đường và các loại kẹo đường 30.862,13 9.070,7 80,76 2.067,31

Phế phẩm và phế thải từ công

nghiệp thực phẩm, thức ăn gia 37.521,53 72.676,46 48.038,66 109.901,89

súc đã chế biến

Quặng, xỉ và tro 2.479.785,88 2.190.462,56 2.615.063,14 2.415.958,49

Hóa chất hữu cơ 251.859,206 182.261,85 240.482,71 370.313,51

Dược phẩm 9.396,91 11.263,24 11.428,41 13.195,14

Phân bón 498,68 866,92 0,78 16,06

Tannin và các dẫn xuất của 28.318,49 25.827,40 30.341,29 32.709,19 chúng

Chất dẻo và các sản phẩm bằng 92.771,09 65.407,17 147.798,29 176.043,77 chất dẻo

Cao su và các sản phẩm bằng cao 21.557,77 13.430,70 8.713,44 26.157,14 su

Tơ tằm 1.391,56 1.405,67 3.514,03 5.128,11

Lông cừu, lông động vật loại mịn

hoặc loại thô; sợi từ lông đuôi 1.885,86 1.728,02 2.660,06 3.604,44 hoặc bờm ngựa và vải dệt thoi từ

các nguyên liệu trên

Bông 435.005,42 173.782,63 588.781,22 857.778,84

Sợi filament nhân tạo 1.561,99 1.298,43 1.823,65 4.142,68

124

Xơ, sợi staple nhân tạo 10.611,16 12.963,23 15.433,16 62.286,78

Gang và thép 89.971,15 171.500,59 145.154,81 502.670,77

Đồng và các sản phẩm bằng 161.819,65 54.393,69 256.559,23 2.392.062,82 đồng

Lò phản ứng hạt nhân, nồi hơi,

máy và trang thiết bị cơ khí; các 94.007,54 107.395,01 145.875,87 141.180,28

bộ phận của chúng

Máy điện và thiết bị điện và các 37.729,58 53.430,16 112.875,28 123.363,20 bộ phận của chúng

Nguồn: dữ liệu ngân hàng về cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu, Cục Thương

mại, Bộ Thương mai và Công Nghiệp, Chính phủ Ấn Độ

Bảng 3: Nhập khẩu của Trung Quốc từ Ấn Độ

Nhập khẩu của Trung 2007-2008 2008-2009 2009-2010 2010-2011

125

Quốc

Sản phẩm bơ sữa 982,19 1.763,24 318,18 1.799,02

Các loại rau ăn được 8.672,01 18.380,73 62.048,81 30.967,32

Đường và các loại kẹo 3.637,91 1.984,95 2.562 6.703,99 đường

Cacao 1.368,54 417,25 735,45 699,96

Quặng, xỉ và tro 37.420,34 18.417,99 12.911,01 20.210,09

Nhiên liệu khoáng, dầu 521.811,63 552.212,5 180.030,92 298.697,83 khoáng

Hóa chất vô cơ; 160.747,99 253.139,93 214.767,91 243.058,45

Hóa chất hữu cơ 959.004,66 1.273.476,27 1.426.007,71 1.755.452,63

Dược phẩm 7.589,01 21.756,77 24.732,07 39.041,44

Phân bón 471.607,23 412.281,87 191.586,32 695.297,05

Nhựa và các sản phẩm 252.899,04 22.9312,38 245.332,73 390.149,22 bằng nhựa

Cao su và các sản phẩm 81.009,07 88.421,81 104.648,56 162.911,35 bằng cao su

153.976,56 169.484,28 175.020,52 163.434,94 Tơ tằm

11.794,26 10.121,68 6.597,24 10.193,11 Lông cừu,

63.747,26 59.507,86 58.479,26 77.662,1 Bông

Các loại vải dệt đã được

ngâm tẩm, tráng, phủ

hoặc ép lớp; các mặt hàng 106.381,27 126.096,41 144.310,42 150.262,56

dệt may dùng trong công

nghiệp

Đồ gốm, sứ 10.4078,39 126.803,6 123.585,47 167.414,22

Gang và thép 587.679,02 791.156,47 379.753,68 908.793,38

Máy điện và thiết bị điện 3.069.972,69 4.552.959,25 4.591.151,9 5.396.804,19 và các bộ phận của chúng

126

Nguồn: dữ liệu ngân hàng về cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu, Cục Thương

mại, Bộ Thương mai và Công Nghiệp, Chính phủ Ấn Độ

Bảng 4: Tình hình xuất nhập khẩu thương mại của Trung Quốc đối với Ấn Độ từ 1992-1995.

Lũy kế tăng giảm so với năm trước

Kim ngạch Kim ngạch Kim ngạch Kim ngạch Kim ngạch Kim

127

xuất nhập xuất khẩu nhập khẩu xuất nhập xuất khẩu ngạch

Năm khẩu khẩu nhập

khẩu

1992 3.39 1.58 1.81 27.92 9.72 50.83

1993 6.76 2.58 4.17 99.41 63.29 130.39

1994 8.95 5.73 3.22 32.40 122.09 -22.78

1995 11.63 7.65 3.98 29.94 23.60 33.51

1996 11.07 6.88 7.19 20.98 80.63 -10.07

1997 18.31 9.34 8.97 30.14 24.76 35.76

1998 19.22 10.17 9.06 4.97 1.00 8.89

1999 19.88 11.62 8.26 3.43 -8.83 14.26

2000 29.14 15.61 13.53 46.58 63.80 34.34

2001 35.97 18.97 17.00 23.44 25.65 21.52

2002 49.45 26.71 22.74 37.48 33.76 40.80

2003 75.95 33.43 42.51 53.59 86.94 25.16

2004 136.14 59.36 76.78 79.25 80.62 77.62

2005 187.01 89.34 97.66 37.37 27.19 50.51

Nguồn: dữ liệu ngân hàng về cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu, Cục Thương

mại, Bộ Thương mai và Công Nghiệp, Chính phủ Ấn Độ

128