BỘ NỘI VỤ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐÀO THỊ THÚY PHÚC

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA

BÀN HUYỆN ĐỒNG XUÂN, TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

ĐẮKLẮK - NĂM 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐÀO THỊ THÚY PHÚC

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO TRÊN

ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG XUÂN, TỈNH PHÚ YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: Quản lý công

Mã số: 60 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. ĐINH THỊ MINH TUYẾT

ĐẮK LẮK - NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Học viên cam đoan luận văn: "Quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa

bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên" là công trình nghiên cứu khoa học của

riêng học viên, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS.

Đinh Thị Minh Tuyết.

Nội dung của luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin

của một số tác phẩm, tạp chí khoa học, kết quả nghiên cứu của các đề tài

khoa học.

Các số liệu trong Luận văn là trung thực, chính xác và có nguồn gốc

trích dẫn cụ thể, rõ ràng.

Học viên xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của mình.

Học viên

i

Đào Thị Thúy Phúc

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và làm luận văn thạc sỹ

chuyên ngành Quản lý công, học viên nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn của

quý thầy, cô giáo công tác tại Học viện Hành chính quốc gia. Học viên xin

chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo đã quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ học

viên trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Đặc biệt, học viên xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Đinh Thị

Minh Tuyết - người hướng dẫn khoa học, đã dành nhiều thời gian và tâm

huyết, tận tình hướng dẫn nghiên cứu khoa học và giúp học viên hoàn thành

luận văn này.

Học viên xin trân trọng cảm ơn các đồng chí Lãnh đạo, chuyên viên

Phòng Nội vụ - UBND huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, gia đình, bạn bè, đã

tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp học viên nghiên cứu và hoàn thành Luận văn

này.

Mặc dù có nhiều nỗ lực và cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng

luận văn vẫn còn một số thiếu sót, học viên mong nhận được những đóng

góp, bổ sung từ phía độc giả và hy vọng được tiếp tục nghiên cứu toàn diện

hơn, góp phần nhỏ bé vào công cuộc cải cách nền hành chính nước nhà hiện

nay.

Học viên

Đào Thị Thúy Phúc

ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANTT-ATXH An ninh trật tự - An toàn xã hội

CBCC Cán bộ, công chức

CNXH Chủ nghĩa xã hội

CT Chỉ thị

XHCN Xã hội chủ nghĩa

HĐND Hội đồng nhân dân

HĐMV Hội đồng Mục vụ

HTCTCS Hệ thống chính trị cơ sở

NĐ-CP Nghị định Chính phủ

NQ Nghị quyết

NXB Nhà xuất bản

PGS.TS Phó Giáo sư Tiến sỹ

PL Pháp lệnh

QLNN Quản lý nhà nước

TTg

Thủ tướng

TW

Trung ương

UBMTTQVN Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

UBND

Ủy ban nhân dân

TS Tiến sỹ

iii

UBTVQH Ủy ban thường vụ Quốc hội

MỤC LỤC

MỞ ĐẦ ..................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1 CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN

GIÁO ........................................................................................................ 8

1.1. Những khái niệm cơ bản liên quan đến luận văn .................................... 8

1.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước vê tôn giáo ở Việt Nam.................. 18

1.3. Nội dung quản lý nhà nước về tôn giáo ............................................... 21

1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về tôn giáo tại một số địa phương và bài

học kinh nghiệm cho huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên ............................... 30

CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG XUÂN, TỈNH PHÚ YÊN .................. 35

2.1. Khái quát về huyện Đồng Xuân .......................................................... 35

2.2. Hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên ........ 40

2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện

Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên ......................................................................... 48

Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên ......................................................................... 56

2.4. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện

CHƢƠNG 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN

ĐỒNG XUÂN, TỈNH PHÚ YÊN............................................................................. 65

3.1. Dự báo xu hướng hoạt động tôn giáo ở Việt Nam ................................ 65

iv

3.2. Quan điểm và phương hướng của Đảng về tôn giáo………………........69

3.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện….

Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên…………………………………………………..77

3.4. Khuyến nghị với trung ương và chính quyền địa phương ........... ……..90

KẾT LUẬN ............................................................................................. 95

v

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 97

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Chủ thể quản lý nhà nước và các cơ quan tham tham mưu giúp

việc về tôn giáo………………………………………………………………16

Bảng 2.1. Tổng hợp tín đồ các tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng

Xuân………………………………………………………………………….41

Bảng 2.2. Hội nghị tập huấn Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012

của Chính phủ cho cán bộ chủ chốt các ban ngành, đoàn thể cấp huyện và các

vi

xã, thị trấn……………………………………………………………………52

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tôn giáo là một sản phẩm của lịch sử. C.Mác đã nhiều lần khẳng định:

Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người. Từ

khi ra đời, tôn giáo đã trải qua những thăng trầm và không ngừng biến đổi

theo sự biến đổi của tồn tại xã hội, nhưng chung nhất, nó luôn là một nhu cầu

tinh thần của đa số nhân loại. Tôn giáo là văn hóa và là một bộ phận cấu

hóa, trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến

thành của văn hóa mỗi quốc gia nên tôn giáo có đóng góp đầu tiên là về văn

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đến tập quán của nhiều quốc gia, của các

tộc người trong một quốc gia, theo cả các chiều tích cực và tiêu cực. Những

năm gần đây, tôn giáo trên thế giới không chỉ phục hồi và phát triển, đáp ứng

nhu cầu tâm linh của con người, mà còn làm nảy sinh không ít cuộc xung đột

giữa các dân tộc trong một quốc gia, hay giữa các quốc gia với nhau.

Tôn giáo có vai trò góp phần củng cố hoà bình. GS. Han King đã từng

khẳng định: Không thể có hòa bình giữa các dân tộc trên địa cầu, nếu không

có hòa bình giữa các tôn giáo. Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, số lượng

người theo tôn giáo khá đông. Do đó, việc đề ra chính sách tôn giáo đúng đắn

những ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp và nhu cầu chính đáng của

một bộ phận nhân dân, mà còn tác động không nhỏ đến tình hình kinh tế-

chính trị-xã hội của đất nước. Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước ta

luôn đưa ra và thực hiện tốt chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân

dân. Nghị quyết số 24/NQ-TW, ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị là một dấu

và thực hiện có hiệu quả chính sách đó là một vấn đề quan trọng, không

lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18/6/2004 của ủy ban Thường vụ Quốc hội,

1

mốc quan trọng trong đổi mới nhận thức của Đảng ta về vấn đề tôn giáo. Pháp

Nghị định 92/NĐ-CP, ngày 08/11/2012 của Chính phủ (thay thế Nghị định

22/NĐ-CP, ngày 01/3/2005) hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn

giáo. Những văn bản trên thể hiện những bước tiến rất quan trọng trong việc

đổi mới chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về hoạt

động tôn giáo; thể hiện sự tôn trọng tự do, tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân

và đáp ứng yêu cầu của công tác QLNN về tôn giáo ngày càng chặt chẽ, hiệu

quả hơn.

Tỉnh Phú Yên nói chung, huyện Đồng Xuân nói riêng là địa phương có

nhiều tín đồ, nhiều chức sắc tôn giáo. Thời gian gần đây cùng với quá trình

đổi mới đất nước, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng

Xuân có nhiều hướng phát triển mạnh.

Quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Đồng Xuân trong những năm

qua đã đạt được một số thành tựu thể hiện quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo

của nhân dân luôn được đảm bảo, chức sắc nhà tu hành, tín đồ tôn giáo mở

rộng giao lưu, học tập, các cơ sở thờ tự tôn giáo được xây sửa khang trang.

Nhìn chung, chức sắc nhà tu hành và tín đồ tôn giáo tin tưởng vào đường lối

của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước, yên tâm phấn khởi hành đạo,

tích cực tham gia vào phong trào thi đua yêu nước ở địa phương theo phương

châm "sống tốt đời đẹp đạo", " Phật pháp Xã hội chủ nghĩa (XHCN), đồng

Mặc dù vậy, QLNN về tôn giáo còn sơ hở, một số cán bộ quản lý còn

đơn giản hóa, chủ quan và chưa thấy hết tính phức tạp, nhạy cảm của công tác

tôn giáo. Các chức sắc, chức việc, nhà tu hành của các tôn giáo lợi dụng việc

mua bán, hiến tặng, quyên góp tiền, sang nhượng đất đai để cơi nới nơi thờ tự

trái phép, việc tranh chấp, lôi kéo người dân để phát triển tín đồ của một số

hành cùng dân tộc"

không nhỏ cho công tác quản lý tôn giáo của các cấp chính quyền

2

tôn giáo vẫn tiếp tục diễn ra ở một số xã trên địa bàn huyện, gây khó khăn

Từ những lý do trên, học viên chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về tôn

giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên” làm đề tài luận văn tốt

nghiệp cao học, chuyên ngành Quản lý công.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ góc độ tôn giáo học, vấn đề tôn giáo ở Việt Nam đã được một số

nhà khoa học đề cập: TS. Ngô Hữu Thảo ( 1998) “Mối quan hệ giữa chính

trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị

trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” Đề tài Phân

tích mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo theo tinh thần đổi mới tư duy.

Đánh giá thực trạng, nguyên nhân, đặt ra một số vấn đề, đề xuất một số giải

pháp cơ bản nhằm giải quyết mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo, hoàn

thiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa; TS. Hoàng Minh Đô, Chủ nhiệm đề tài (2002)

“Đạo Tin lành ở Việt Nam- thực trạng, xu hướng phát triển và những vấn đề

đặt ra hiện nay trong công tác lãnh đạo, quản lý”, thuộc đề tài độc lập cấp

Nhà nước. Công trình này đã khai thác sâu mối quan hệ trực tiếp giữa đạo

Tin lành với các lĩnh vực của đời sống chính trị, đời sống xã hội và đời sống

tâm linh ở Việt Nam hiện nay; TS. Nguyễn Đức Lữ (2003) “Đổi mới chính

sách tôn giáo và Nhà nước quản lý tôn giáo hiện nay, những bài học kinh

mới chính sách Tôn giáo, đưa ra bài học kinh nghiệm và kiến nghị cụ thể

QLNN về tôn giáo; GS. Đặng Nghiêm Vạn (2003) “Lý luận về tôn giáo và

tình hình tôn giáo ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

Đây là công trình mà tác giả đi sâu phân tích nhiều vấn đề khác nhau của tín

ngưỡng, tôn giáo, như: Diễn biến của những định nghĩa về bản chất tôn giáo,

nghiệm và kiến nghị cụ thể”. Tác giả đã nêu được tầm quan trọng của đổi

giáo trong đời sống xã hội.

3

yếu tố cấu thành một hình thức tôn giáo, nhu cầu, vai trò và diễn biến tôn

Từ góc độ QLNN, vấn đề tôn giáo ở Việt Nam được đề cập trong một

số công trình nghiên cứu: Lê Hữu Tuấn (1999) “Ảnh hưởng của tư tưởng

triết học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam ” Công trình

đã nêu sự hình thành và phát triển của Phật giáo, tư tưởng triết học của Phật

giáo, sự ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh

thần của người Việt.; PGS. TS. Nguyễn Hữu Khiển (2001) “QLNN đối với

hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền

Việt Nam hiện nay” NXB Công an Nhân dân. Công trình đã nêu lên được

tầm quan trọng của QLNN đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiên xây

dựng nhà nước pháp quyền hiện nay; TS. Nguyễn Minh Thư (2005) “Quản lý

nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một yêu cầu khách quan”. Công trình

đã nêu được yêu cầu tât yếu của việc QLNN về hoạt động tôn giáo, đề xuất

các giải pháp phù hợp để QLNN về tôn giáo ngày càng tốt hơn; Võ Mộng

Thu (2001) “Vấn đề quản lý nhà nước đối với Công giáo ở Đồng Nai hiện

nay”, Luận văn cao học. Luận văn phân tích sự ra đời và phát triển của đạo

Công giáo ở tỉnh Đồng Nai và đề xuất các giải pháp QLNN đối với đạo Công

giáo được hoàn thiện hơn; Lê Minh Quang (2001) “Quản lý nhà nước đối với

tôn giáo ở Lâm Đồng hiện nay- vấn đề và giải pháp” Luận văn cao học. Luận

văn đã nêu rõ tầm quan trọng của tôn giáo ở tỉnh Lâm Đồng, đồng thời đặc ra

quả hơn; Nguyễn Thị Tươi (2014) "Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn

giáo trên địa bàn huyện Krông Búk tỉnh Đắk Lắk" Luận văn thạc sĩ Quản lý

công. Luận văn này đã đi sâu vào phân tích các giải pháp để QLNN đối với

hoạt động Tôn giáo trên địa bàn tỉnh ĐắkLắc ngày càng đi vào chiều sâu;

Những công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của

vấn đề và giải pháp để QLNN về hoạt động Tôn giáo ở tỉnh ngày càng hiệu

đối với tác giả luận văn.

4

vấn đề tôn giáo và QLNN về tôn giáo là những tài liệu tham khảo có ý nghĩa

Ở huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, cho đến nay QLNN về hoạt động

tôn giáo chưa có đề tài khoa học nào được công bố, mới chỉ được đề cập ở

một số báo cáo tổng kết của Ban Dân vận Huyện ủy, của Phòng Nội vụ

huyện, của UBND huyện. Vì vậy, với đề tài đã chọn, học viên hy vọng sẽ

làm sáng tỏ hơn những bất cập trong QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện

Đồng Xuân hiện nay, đồng thời kiến nghị các giải pháp cụ thể nhằm hoàn

thiện QLNN về tôn giáo trên.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài luận văn nhằm mục đích góp phần hoàn thiện QLNN

về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan cơ sở khoa học QLNN về tôn giáo, vận dụng vào huyện

Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên;

- Nghiên cứu thực trạng QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng

Xuân, tỉnh Phú Yên;

- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN về tôn giáo trên địa bàn

huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động QLNN về tôn giáo ở

cấp huyện.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về không gian: hoạt động tôn giáo và QLNN về tôn giáo trên

địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

4.1. Đối tượng nghiên cứu

đề xuất giải pháp cho thời gian tới.

5

- Phạm vi về thời gian: nghiên cứu thực trạng từ năm 2009 đến nay và

- Phạm vi nội dung: tập trung nghiên cứu lý luận và thực trạng các nội

dung QLNN về hoạt động tôn giáo trên địa bàn cấp huyện.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận về phép biện

chứng duy vật và lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh;

quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Quá trình thực hiện đề tài, Học viên đã sử dụng các phương pháp

nghiên cứu cụ thể sau:

- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết

Luận văn sử dụng phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp (desk-study).

Phương pháp này chủ yếu tập trung nghiên cứu, tham khảo, phân tích các

văn bản, tài liệu, công trình khoa học, các số liệu khoa học đã được công bố

ở trong nước và nước ngoài có liên quan đến luận văn để hình thành cơ sở lý

luận.

- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Để đảm bảo tính khoa học, khách quan, trung thực trong đánh giá thực

trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân và tính

hội học sau đây:

+ Phương pháp thống kê, mô tả: thống kê, xác định số lượng chức sắc

tín đồ tôn giáo thông qua thống kê từ số liệu báo cáo.

- Nhóm phương pháp tổng kết kinh nghiệm

Phương pháp này chủ yếu áp dụng trong quá trình nghiên cứu kinh

khả thi của giải pháp, học viên đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu xã

lựa chọn, xác định những nội dung, vấn đề có thể áp dụng vào điều kiện,

6

nghiệm quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân qua đó

hoàn cảnh cụ thể của huyện Đồng Xuân.

- Nhóm phương pháp xử lý thông tin số liệu

Phương pháp này phân tích, tổng hợp, so sánh, dùng phần mềm tin

học.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Hệ thống hóa cơ sở khoa học quản lý nhà nước về tôn giáo, vận dụng

trong quản lý các hoạt động tôn giáo ở huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Phân tích, đánh giá thực trạng từ đó xác định được những hạn chế và

nguyên nhân thực trạng QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân,

tỉnh Phú Yên;

- Đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả QLNN về tôn

giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên thời gian tới;

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham

khảo cho các nhà khoa học quản lý, trong nghiên cứu, học tập, giảng dạy

môn học QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân trong giai đoạn

hiện nay.

7. Kết cấu luận văn

luận văn gồm ba chương:

Chương 1. Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về tôn giáo.

Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện

Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,

7

tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO

1.1. Những khái niệm cơ bản liên quan đến luận văn

1.1.1. Tôn giáo

1.1.1.1. Khái niệm

Theo quan điểm của các nhà triết học duy tâm thì, tôn giáo - một hình

thái ý thức xã hội, đã ra đời và vẫn có cơ sở để phát triển trong suốt chiều dài

lịch sử nhân loại, từ cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ cho đến tận bây giờ.

Còn một số nhà duy vật lại có quan điểm khác, trong tác phẩm Chống

Duyhrinh, Ăngghen đã đưa ra những nhận định quan niệm tôn giáo “Mọi tôn

giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người của

những lực lượng bên ngoài chi phối đời sống hàng ngày của họ, chẳng qua

chỉ là sự phản ánh trong đó lực lượng ở trần thế đã mang hình thức siêu trần

thế” [20, tr.437].

Tôn giáo là sản phẩm của con người, con người tạo ra tôn giáo để thỏa

mãn nhu cầu về đức tin- niềm tin tôn giáo, khi mà họ rơi vào trạng thái bất lực,

bế tắc. Tôn giáo đem lại cho họ niềm vui tinh thần theo kiểu “đền bù hư ảo”.

K.Marx viết “sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo

giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không

có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh

thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [20, tr.570].

Từ góc độ của khoa học QLNN, chúng ta có thể định nghĩa tôn giáo có

tổ chức như sau: Tôn giáo là một tổ chức, đại diện cho một tập thể người có

nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn

nhất định thường gọi là giáo hội hay hội thánh.

8

chung một niềm tin theo một giáo chủ hoặc một giáo lý và có một cấu trúc

1.1.1.2. Bản chất của tôn giáo

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, một cách nhận thức về thế giới

nhưng đó là cách nhận thức hoang đường, hư ảo, trên cơ sở đức tin tôn giáo.

Tôn giáo chia thế giới thành hai phần và cho rằng thế giới hiện thực đầy rẫy

những đau khổ, bất hạnh, còn thế giới thần linh là thế giới của lòng nhân ái,

yêu thương và cưu mang con người. Là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo

phản ánh hoang đường hiện thực khách quan, lấy cái thứ yếu để thay thế cho

cái chủ yếu, lấy cái ít phổ biến để thay thế cho cái phổ biến.

Tôn giáo là sản phẩm của con người

Con người tạo ra tôn giáo chứ không phải tôn giáo tạo ra con người.

Tôn giáo do con người tạo ra để thỏa mãn nhu cầu về đức tin tôn giáo, để xoa

dịu nỗi đau của con người trước những bất hạnh trong cuộc sống. Tôn giáo là

sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con người chưa tìm được bản thân mình

hoặc đã lại để mất bản thân mình một lần nữa. Nhưng con người không phải

là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới. Con người chính là

thế giới con người, là nhà nước, là xã hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra

tôn giáo, tức thế giới quan lộn ngược, vì bản thân chúng là thế giới lộn ngược.

Tôn giáo là lý luận chung của thế giới ấy, là cương yếu bách khoa của nó, là

ủi và biện hộ.

Tôn giáo là một hình thức nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con

người

Nếu như Triết học ra đời nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người về

nhận thức quy luật chung của thế giới, Đạo đức học thỏa mãn nhu cầu về cách

logic dưới hình thức phổ cập của nó, là căn cứ phổ biến mà nó dựa vào để an

thỏa mãn nhu cầu về “niềm tin - đức tin” tôn giáo.

9

đối nhân xử thế, Thẩm mĩ học thỏa mãn nhu cầu chân-thiện-mĩ thì tôn giáo

Tôn giáo xoa dịu nỗi đau của con người bằng thứ thuốc an thần và bù

đắp sự thiếu hụt của hiện thực bằng hư ảo. Thông qua đó, tôn giáo làm cho

con người cảm thấy được an ủi, được rũ bỏ những gì gọi là khổ hạnh nơi trần

thế, tìm kiếm cho mình những niềm vui tinh thần hư ảo. Đến với tôn giáo, con

người cảm thấy mình được gần gũi với đấng thiêng liêng, giải tỏa được những

phiền muộn trong cuộc sống hằng ngày của họ. Họ cảm thấy được chở che,

được bao dung, được dẫn dắt và họ thấy rằng tinh thần được siêu thoát.

1.1.1.3. Nguồn gốc hình thành tôn giáo

Nguồn gốc kinh tế-xã hội

Trong xã hội cộng sản nguyên thủy do trình độ của lực lượng sản xuất

và điều kiện sinh hoạt vật chất còn thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối,

bất lực trước tự nhiên. Về sau, bên cạnh những sức mạnh tự nhiên lại xuất

hiện những sức mạnh xã hội. Khi xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản

xuất, giai cấp hình thành, đối kháng giai cấp nảy sinh. Trong xã hội có đối

kháng giai cấp, các mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp và con người ngày

càng chịu tác động của nhiều yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, may rủi, bất ngờ với

những hậu quả khó lường nằm ngoài ý muốn và khả năng điều chỉnh của

mình. Một lần nữa, con người lại bị động, bất lực trước lực lượng tự phát nảy

sinh trong lòng xã hội.

bất công xã hội cùng với những thất vọng, bất lực trong cuộc đấu tranh của

giai cấp bị trị - đó là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.

Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo

Ở một giai đoạn lịch sử nhất định thì sự nhận thức của con người về tự

nhiên, xã hội và chính bản thân mình là có giới hạn. Chức năng của khoa học

Sự bần cùng về kinh tế, nạn áp bức về chính trị, sự hiện diện của những

thức đã biết để tiếp tục nhận thức và cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con

10

là tìm hiểu, khám phá ra những điều mà nhân loại chưa biết, vận dụng các tri

người ngày một tiến bộ hơn.

Song ở thời kỳ lịch sử cụ thể thì khoảng cách giữa “biết” và “chưa biết”

vẫn tồn tại, điều gì mà khoa học chưa giải thích được thì điều đó chỉ được giải

thích một cách hư ảo qua các tôn giáo. Ngay cả những vấn đề đã được khoa

học chứng minh nhưng trình độ dân trí thấp kém vẫn là mảnh đất màu mỡ cho

tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển.

Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo

Theo các nhà vô thần cổ đại thì “sợ hãi sinh ra thần linh Lênin viết:

“Sự sợ hãi trước những thế lực mù quáng của tư bản, mù quáng vì

quần chúng nhân dân không thể đoán trước được nó là thế lực bất cứ lúc nào

trong đời sống của người vô sản và người tiểu chủ, cũng đe dọa đem lại cho

họ và đang đem lại cho họ sự phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”,

làm cho họ phải diệt vong, biến họ thành một người ăn xin, một kẻ bần cùng,

một gái điếm và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của

tôn giáo hiện đại” [52, tr.520].

Thế giới hiện đại càng diễn ra những cuộc vật lộn, chà sát, bon chen...

đôi khi còn bất chấp cả đạo lý, bỏ qua nghĩa tình thì con người càng có nhu

cầu đến với tôn giáo. Ở đấy, người ta cảm thấy phần nào rũ bỏ được những

bụi bặm của cuộc sống trần tục để tiếp cận với thế giới xa lạ, huyền ảo nhưng

Tôn giáo còn làm giảm bớt nỗi lo sợ của con người trước bệnh tật và

cái chết. Nguyện vọng chung của con người là kéo dài sự sống, không ở kiếp

này thì ở kiếp sau. Người ta không muốn kết thúc sự tồn tại của mình bằng cái

chết thể xác. Đáp ứng tâm lý ấy, các tôn giáo đã chỉ ra một thế giới huy

hoàng, đẹp đẽ, thánh thiện và vĩnh hằng sau cái chết. Chính điều này đã giúp

thanh cao và đầy hấp dẫn.

Thực ra, không chỉ có những tình cảm tiêu cực như sự sợ hãi, thất

11

con người chấp nhận cái chết thể xác một cách nhẹ nhàng, thanh thản hơn.

vọng, bất lực mới hình thành và nuôi dưỡng niềm tin tôn giáo, mà ngay cả

những tình cảm tích cực như sự thỏa mãn, lòng kính trọng, biết ơn, kể cả

những ước vọng vươn tới chân, thiện, mĩ cũng khuyến khích người ta tìm đến

tôn giáo.

1.1.1.4. Vai trò của tôn giáo

- Mặt tích cực của tôn giáo

Tôn giáo xoa dịu nổi đau của con người khi con người rơi vào đau khổ,

bất hạnh. Đức tin tôn giáo giúp con người có thêm nghị lực để sống cho dù

đó chỉ là “sự đền bù hư ảo”. Con người hướng đến đấng siêu nhiên, tuyệt đối

hóa các đối tượng tín ngưỡng, tin tưởng và cầu mong được đấng thần linh cứu

cánh.

Đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc công nghiệp

hóa- hiện đại hóa đất nước. Tôn giáo đề cao tinh thần nhân ái, yêu thương

con người, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn, hướng con người đến

“chân-thiện-mĩ”, như Hồ Chủ tịch từng nói:

Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá

nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa

Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật

Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó thích hợp với đất nước ta. Họ đều

hôm nay còn sống trên đời, nếu họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ chung sống

với nhau rất hoàn mĩ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm học trò

nhỏ của các vị ấy [50, tr.152].

Một số sản phẩm tôn giáo là những công trình văn hóa có giá trị của

nhân loại và đất nước. Nhiều công trình như đền thờ, kinh sách, nơi thờ tự

muốn mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu

hoạt tôn giáo như lễ Phật Đản của Phật giáo, ở nước ta, nhiều đền chùa, nhà

12

của các tôn giáo trên thế giới là di sản văn hóa thế giới, kể cả hoạt động sinh

thờ là những công trình có giá trị văn hóa nghệ thuật cao.

- Mặt tiêu cực của tôn giáo

+ Tôn giáo mang lại cho con người niềm tin mù quáng, niềm tin về

một thế giới hoang đường nơi mà chỉ có hạnh phúc và sự bác ái. Tôn giáo dẫn

con người đến khả năng bị hủy diệt, thậm chí hủy diệt hàng loạt. Tôn giáo chỉ

là “hạnh phúc hư ảo” của nhân dân, là “vòng quang thần thánh” trong cái biển

khổ của nhân dân, là “những bông hoa tưởng tượng” trên xiềng xích của con

người, là “mặt trời ảo tưởng” xoay quanh con người.

+ Tôn giáo mang tính bảo thủ và sức ỳ rất lớn. vốn là một hình thái ý

thức xã hội phản ánh hoang đường thế giới khách quan và vì ý thức xã hội

luôn luôn biến đổi chậm hơn tồn tại xã hội cho nên tôn giáo có tính bảo thủ,

từ đó làm thui chột động lực cá nhân, con người trở nên thụ động, ỷ lại. Họ

luôn trông chờ vào sự giúp đỡ của những lực lượng siêu nhiên, không tự nổ

lực giải thoát mình bằng hành động cụ thể mà chỉ dừng lại ở “tư tưởng”. Tôn

giáo hạn chế sự phát triển tư duy duy vật, khoa học, làm cho con người có

thái độ nhẫn nhục, khuất phục, không tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc

tạo dựng hạnh phúc thật sự nơi trần gian mà lại hi vọng hạnh phúc ở một cuộc

sống sau khi chết mà theo cách gọi của họ thì đó là “thiên đường”.

+ Tôn giáo tham gia vào chính trị hoặc bị lợi dụng vào chính trị gây

Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo thường bị giai cấp thống trị lợi dụng

để thực hiện ý đồ chính trị. Nhiều khi tôn giáo là thứ rượu mạnh, men say làm

cho người ta có thái độ mù quáng và hành vi cuồng tín. Tôn giáo cũng bị một

số người lợi dụng cầu lợi. Họ biến các không gian tôn giáo thành không gian

linh thiêng, thành nơi có thể “buôn thần bán thánh”.

mất ổn định chính trị, an ninh quốc gia.

13

1.1.1.5. Hoạt động tôn giáo

Hoạt động tôn giáo: Là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ

nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo.

Hoạt động tôn giáo bao gồm 3 loại hoạt động cơ bản: Hoạt động hành

đạo, hoạt động quản đạo, và hoạt động truyền đạo.

Hoạt động hành đạo: chủ thể các hoạt động hành đạo là người tín đồ

hoặc người chức sắc, hoặc của một cộng đồng hay một tập thể chức sắc. Mục

đích của hoạt động hành đạo là nhằm thỏa mãn đức tin tôn giáo của cá nhân

hoặc của cả cộng đồng.

Hoạt động quản đạo: về cơ bản là hoạt động quản lý của đội ngũ chức

sắc tôn giáo nhằm đảm bảo cho giáo luật được thực thi trong nội bộ giáo hội.

Hoạt động truyền đạo: về bản chất là hoạt động tuyên truyền, phổ biến,

giới thiệu, bồi dưỡng cho người ngoài tôn giáo biết, hiểu và đồng ý gia nhập

vào tôn giáo của mình.

1.1.2. Quản lý nhà nước về tôn giáo

1.1.2.1. Khái niệm

QLNN về tôn giáo thực chất đó là QLNN đối với hoạt động tôn giáo là

quá trình sử dụng quyền lực nhà nước để tác động, điều hành, điều chỉnh các

quá trình hoạt động tôn giáo của các pháp nhân tôn giáo và các thể nhân tôn

giáo để hoạt động của các tôn giáo diễn ra theo đúng quan điểm của Đảng;

như sau:

Nghĩa rộng, là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp,

hành pháp, tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo quy định của pháp luật để

tác động, điều chỉnh, hướng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn

giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được

chính sách, pháp luật của nhà nước. Bởi vậy, QLNN về tôn giáo được hiểu

Nghĩa hẹp, là một dạng quản lý xã hội mang tính chất nhà nước, là quá

14

mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý.

trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan

trong hệ thống hành pháp để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi

hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của

pháp luật.

Đối tượng QLNN về tôn giáo bao gồm hoạt động của các tín đồ, chức

sắc, nơi thờ tự, đồ dùng việc đạo, cơ sở vật chất và xã hội của tôn giáo và địa

điểm sinh hoạt.

1.1.3.2. Đặc điểm

Quản lý nhà nước về tôn giáo là chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và

quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, hướng các hoạt động

tôn giáo phục vụ lợi ích chính đáng của các tín đồ và phục vụ sự nghiệp xây

dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Nhà nước quy định bằng pháp luật các hoạt

động tôn giáo nhằm bảo đảm quyền bình đẳng giữa các công dân, các tổ chức

xã hội trước pháp luật, hình thành khung pháp lý, làm cơ sở để các tôn giáo

thực hiện hoạt động của mình trong khuôn khổ pháp luật.

Quản lý nhà nước được thực hiện trên nhiều cấp độ, nhiều bộ phận

khác nhau (Chính phủ, Bộ, Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Tôn giáo tỉnh,

thành, Phòng Nội vụ huyện, thị xã, quản lý theo chiều dọc và chiều ngang).

hoạt động tôn giáo là chủ thể cầm quyền tương ứng (Chính phủ có Ban Tôn

giáo Chính phủ, tỉnh, thành có Ban Tôn giáo tỉnh, thành).

Chủ thể cầm quyền là nhân dân nhưng đại diện lãnh đạo là Đảng, quản

lý là Nhà nước.

1.1.2.3. Chủ thể quản lý

Đại diện cho các cấp độ và các bộ phận cấu thành của QLNN đối với

thuộc hệ thống hành pháp gồm: Chính phủ, UBND các cấp ngoài ra có các cơ

15

Chủ thể quản lý nhà nước về tôn giáo bao gồm các cơ quan nhà nước

quan nhà nước, tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền quản lý như Bộ

Công an, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và môi trường, Ban Tôn giáo Chính

phủ.

Theo Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức Chính quyền địa phương

2015 hiện nay quy định thì chủ thể tham gia quản lý nhà nước đối với hoạt

động tôn giáo hiện nay gồm:

Bảng 1.1. Chủ thể quản lý nhà nước và các cơ quan tham mưu giúp việc về

tôn giáo

Cơ quan/chủ thể trực tiếp Cấp hành Cơ quan/chủ thể trực tiếp

quản lý chính tham mưu giúp việc

Bộ Nội vụ (Ban Tôn giáo Trung ương Chính Phủ Chính phủ)

UBND tỉnh

Cấp tỉnh (Phó chủ tịch phụ trách Sở Nội vụ (Ban Tôn giáo)

Văn hóa - Xã hội)

Phòng Nội vụ (Phó trưởng UBND huyện(Chủ tịch Cấp huyện phòng phụ trách) hoặc UBND huyện) phòng Tôn giáo

(Nguồn: tác giả tổng hợp)

1.1.3.4. Đối tượng quản lý

Đối tượng của quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bao gồm:

tín đồ, tu hành, chức sắc, chức việc, các tổ chức tôn giáo và các hoạt động của

họ. Là công dân Việt Nam, các tín đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo vừa

Công chức Văn hóa - Xã Cấp xã UBND xã hội hoặc công chức VPTK

riêng của từng tôn giáo của người có đạo.

16

mang những đặc điểm chung của người Việt Nam, vừa mang những đặc điểm

- Tín đồ tôn giáo, Họ là những người tin theo một tôn giáo và được tổ

chức tôn giáo thừa nhận. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, với

số lượng tín đồ tôn giáo chiếm 20% dân số cả nước. Vì vậy quản lý nhà nước

phải thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm cho nhân dân thực hiện nhu cầu đó.

Ở nước ta đa số tín đồ tôn giáo là nông dân và nhân dân lao động. Họ là

những con người cần cù, sáng tạo trong lao động, anh hùng, gan dạ trong

chiến đấu. Trong thời kỳ đổi mới, đồng bào có đạo luôn gắn bó với Đảng,

Nhà nước, thực hiện "sống tốt đời đẹp đạo", cùng đoàn kết xây dựng mục tiêu

dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

- Nhà tu hành, chức sắc, chức việc tôn giáo

Nhà tu hành, là tín đồ tôn giáo tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp

sống riêng mà giáo lý, giáo luật của tôn giáo đó quy định.

Chức sắc tôn giáo, là những tín đồ tôn giáo có chức vụ, phẩm sắc

trong tôn giáo, được các tổ chức giáo hội đào tạo, bổ nhiệm, tấn phong vào

các chức vụ, chức vị có thẩm quyền trong tổ chức tôn giáo. Họ là những

người lãnh đạo, hướng dẫn cho các tín đồ tôn giáo hành đạo theo pháp luật và

giáo lý, giáo luật.

Chức việc tôn giáo, là những tín đồ tôn giáo được chỉ định hoặc tập thể

tín đồ bầu vào các chức vị trong tổ chức cơ sở.

sinh hoạt của các tôn giáo. Nơi thờ tự có sự thống nhất giữa: vật chất, sự tôn

nghiêm, trụ sở và sinh hoạt tôn giáo.

- Đồ dùng việc đạo, bao gồm kinh, sách, tượng, bài vị, tranh ảnh, cờ, đồ

tế khí, mỗi đồ dùng có vai trò và vị trí khác nhau, sử dụng trong từng nghi lễ

khác nhau trong sinh hoạt tôn giáo. Trong đó, kinh, sách, tượng, bài vị, đồ tế

- Nơi thờ tự, là nơi tôn thờ thần tượng, nơi giảng bài kinh, thuyết pháp,

- Các cơ sở vật chất khác, bao gồm khuôn viên khu thờ tự, nhà cửa,

17

khí là quan trọng nhất.

ruộng đất, cơ sở từ thiện, trường học...được các tổ chức tôn giáo sử dụng lâu

dài và được pháp luật bảo hộ tính hợp pháp. Đó được coi là tài sản của các tôn

giáo, của các giáo hội cơ sở, nơi thực hiện các chức năng như: lao động sản

xuất, sinh hoạt tôn giáo, từ thiện.

- Sinh hoạt tôn giáo, là phạm trù rất rộng, bao gồm nhiều mặt trong các

hoạt động tôn giáo. Nhìn chung mọi hoạt động tôn giáo đều có hai đặc điểm

chính là về chủ thể có các thể nhân tôn giáo thực hiện đơn lẻ như đọc kinh,

cầu nguyện hay do tổ chức tôn giáo thực hiện như Ban hành giáo, Ban hộ tự,

Ban chấp sự.

1.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nƣớc về tôn giáo

1.2.1. Định hướng hoạt động tôn giáo

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội có tính bảo thủ và sức ỳ rất lớn.

Từ chỗ phản ánh hoang đường hiện thực đến chỗ tạo nên niềm tin mù quáng

vào một lực lượng siêu nhiên ở bên ngoài cứu cánh những mảnh đời bất hạnh,

tôn giáo tạo ra những mặt hạn chế trong nhận thức và tư tưởng của tín đồ

ngày càng củng cố thêm sức mạnh chi phối đó. Do tính nhạy cảm này mà tôn

giáo rất dễ bị lợi dụng hoặc bị chính trị hóa vào những âm mưu của thế lực

phản động. Chức năng của nhà nước là quản lý, điều hành, định hướng để các

hoạt động tôn giáo không bị lợi dụng vào các mục đích đó.

dân tộc. Vấn đề tôn giáo luôn gắn với các cuộc đấu tranh giữa các trường phái

duy vật và duy tâm. Giải quyết một vấn đề nào của tôn giáo bao giờ cũng gắn

với việc giải quyết những vấn đề phong tục, tập quán, tín ngưỡng, văn hóa

của từng dân tộc đảm bảo sự hài hòa, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu

cực của tôn giáo, giữ gìn các giá trị văn hóa trong các tôn giáo.

Tôn giáo gắn chặt với triết học, đạo đức, phong tục tập quán, văn hóa

quốc gia, không hòa đồng với cộng đồng dân tộc quốc gia đó. Quá trình đồng

18

Một tôn giáo muốn tồn tại và phát triển thì không thể đứng ngoài một

hành của một tôn giáo trong một quốc gia đòi hỏi tổ chức tôn giáo phải có

đường hướng hành đạo và làm đẹp đời theo đường hướng chung của quốc gia

dân tộc dưới sự quản lý của một Nhà nước, xây dựng theo một đường lối nhất

định của một chính Đảng lãnh đạo. Ở Việt Nam, đó là Nhà nước Cộng hòa Xã

hội Chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cũng như nhiều thực thể và lĩnh vực xã hội khác, ngoài những mặt tích

cực thì tôn giáo có mặt tiêu cực, do đó cần có sự quản lý của Nhà nước. Như

đã nói, tôn giáo có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực, QLNN về tôn giáo làm

nhiệm vụ định hướng cho các tôn giáo hoạt động đúng giáo lý, giáo luật, phát

huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của tôn giáo.

Và cuối cùng là, vì Nhà nước là công cụ quyền lực của nhân dân, Nhà

nước có trách nhiệm quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, thông

qua hệ thống thiết chế tổ chức, hệ thống những quy định mang tính nhà nước

và pháp quyền, hoạt động tôn giáo không nằm ngoài phạm vi quản lý đó.

1.2.2. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho hoạt động tôn giáo

Tôn giáo có vai trò nhất định trong khối đại đoàn kết toàn dân. Khối đại

đoàn kết toàn dân được xây dựng bởi ba lực lượng chính là: đoàn kết đồng bào

tôn giáo và không tôn giáo, đoàn kết các dân tộc và đoàn kết trong nội bộ hệ

thống chính trị. Do đó, tôn giáo có ý nghĩa lớn đối với việc xây dựng và củng

Hơn nữa, thực tiễn cho thấy các hoạt động tôn giáo diễn ra hết sức phong phú,

đa dạng và phức tạp, do đó Nhà nước phải quản lý để đảm bảo rằng các hoạt

động đó chỉ là hoạt động tôn giáo thuần túy, chống lợi dụng tôn giáo.

Như phần trên đã trình bày, nước ta là một nước có nhiều tín ngưỡng,

tôn giáo. Thậm chí nhiều nhà nghiên cứu tôn giáo học ở trong, ngoài nước đã

cố khối đại đoàn kết toàn dân, QLNN đối với nó là một tất yếu khách quan.

ngưỡng, tôn giáo trên thế giới.

19

nói một cách hình tượng: Việt Nam là bảo tàng thu nhỏ của đời sống tín

Theo số liệu của Ban Tôn giáo Chính phủ, ở nước ta hiện có 13 tôn

giáo với 37 tổ chức tôn giáo lớn nhỏ đã được Nhà nước ta công nhận, cho

phép hoạt động. Ngoài ra, còn nhiều tổ chức, hệ phái, nhóm tôn giáo khác

nhau và hơn 60 hiện tượng “đạo lạ” (trong đó có nhiều “tà đạo”) đang hoạt

động ở nhiều mức độ khác nhau. Hiện trạng đó cho thấy tình hình hoạt động

của các tôn giáo hiện có ở nước ta trong thời gian tới sẽ diễn ra rất phức tạp.

Mặt khác, trong bối cảnh mở cửa, hội nhập, sự giao lưu quốc tế sẽ diễn

ra sâu rộng trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có tín ngưỡng,

tôn giáo. Vấn đề đặt ra là trong thời gian tới kiều bào ta ở nước ngoài cũng

như hàng chục vạn công dân Việt Nam đang lao động, học tập, sinh sống ở

nước ngoài có mang các tôn giáo chưa có ở Việt Nam về Việt Nam hay không

(như Chính Thống giáo từ Nga, Anh giáo từ Khối Liên hiệp Anh, Một số hệ

phái Hồi giáo từ Trung Đông và Malaixia, Hệ phái Tân tăng trong Phật giáo

Nhật Bản, Các hệ phái Tin lành mới từ Mỹ và Tây Âu).

Bức tranh đa tín ngưỡng, tôn giáo (tức đa đức tin, đa tổ chức) vốn đã

phức tạp (do nhiều yếu tố lịch sử để lại); lại ngày càng thêm phức tạp bởi các

thế lực xấu trong và ngoài nước luôn tìm mọi cách lợi dụng tín ngưỡng, tôn

giáo dưới chiêu bài “nhân quyền” và “tự do tôn giáo” để chống lại Đảng

Cộng sản Việt Nam, Nhà nước CHXHCN Việt Nam nói chung và khối đại

Chính vì vậy Nhà nước phải hỗ trợ và tạo điều kiện cho hoạt động tôn

giáo ngày càng tốt hơn.

1.2.3. Đáp ứng nhu cầu nguyện vọng hợp pháp của công dân

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân được thể hiện nhất quán

trong các bản Hiến pháp của Nhà nước ta qua các thời kỳ, mới đây nhất là bản

đoàn kết toàn dân tộc ta nói riêng.

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

20

Hiến pháp 2001 (sửa đổi bổ sung 2013), trong đó nêu rõ, “1. Mọi người có

Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín

ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”

[33, tr.8].

Nhằm đáp ứng nhu cầu hợp pháp, chính đáng của một bộ phận nhân

dân, QLNN là nhằm bảo đảm được quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín

ngưỡng, tôn giáo của công dân, để các hoạt động tôn giáo được diễn ra bình

thường trên cơ sở tuân thủ quy định pháp luật.

Nhà nước ta với bản chất là Nhà nước của dân, do dân và vì dân do đó

Nhà nước phải thỏa mãn các nhu cầu hợp pháp, chính đáng của công dân,

trong đó có nhu cầu về niềm tin, đức tin tôn giáo.

1.2.4. Phát huy vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội

Tôn giáo là một thực thể xã hội, tồn tại lâu dài cùng với sự phát triển

của xã hội. Quá trình tồn tại, phát triển của tôn giáo có ảnh hưởng không nhỏ

đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Tôn giáo tồn tại vừa

mang ưu điểm (đáp ứng nhu cầu tinh thần con người, khuyên răn con người

hướng thiện, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng

xã hội mới) vừa mang những hạn chế tiêu cực (trong nhận thức về thế giới,

con người, hay bị lợi dụng vào mục đích tiêu cực). Để phát huy ưu điểm, tích

tôn giáo mang lại, QLNN về hoạt động này là cần thiết và khách quan. Hoạt

động tôn giáo có liên quan có liên quan đến tất cả các hoạt động của đời sống

xã hội, do đó, với chức năng quản lý xã hội của mình, để đảm bảo cho xã hội

ổn định, phát triển bình thường, tất yếu nhà nước phải tăng cường quản lý các

hoạt động tôn giáo.

cực của tôn giáo trong công cuộc xây dựng xã hội mới và hạn chế tiêu cực do

1.3.1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch quản lý

21

1.3. Nội dung quản lý nhà nƣớc về tôn giáo

nhà nước về tôn giáo

Ngay từ buổi đầu thành lập, nhà nước rất quan tâm đến vấn đề tín

ngưỡng, tôn giáo. Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hoà trong

phiên họp đầu tiên đã tuyên bố: Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết, và

nguyên tắc đó đã trở thành chính sách nhất quán xuyên suốt qua mọi thời kỳ

của cách mạng Việt Nam.

Chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi

công dân được xác định ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa và được bổ sung, hoàn thiện qua các bản Hiến pháp năm

1959, năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 của nước

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, chính sách

tôn giáo của Việt Nam tiếp tục được khẳng định và ngày càng được cụ thể

hoá, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động tôn giáo nhằm bảo đảm quyền

tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, bảo đảm sự đoàn kết, hòa hợp

giữa cộng đồng những người có tín ngưỡng, tôn giáo và những người

không có tín ngưỡng, tôn giáo; giữa cộng đồng những người có tín ngưỡng,

tôn giáo khác nhau.

Từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, trước sự phát triển của đất

điểm, chủ trương về công tác tôn giáo thể hiện trong các Nghị quyết, Chỉ thị

của Đảng Cộng sản Việt Nam trực tiếp chỉ đạo giải quyết vấn đề tôn giáo

trong thời kỳ này đã được ban hành. Thể chế các Nghị quyết, Chỉ thị của

Đảng, Pháp luật về tôn giáo không ngừng được xây dựng, sửa đổi bổ sung và

hoàn thiện.

nước, tình hình tôn giáo ở Việt Nam cũng có nhiều thay đổi. Nhiều quan

những tăng nhanh về số lượng, mà còn phong phú và đa dạng hơn về hình

22

Văn bản quy phạm pháp luật có điều chỉnh lĩnh vực tôn giáo không

thức. Nếu trước đây văn bản pháp luật tôn giáo được ban hành dưới hình

thức Sắc lệnh, Nghị quyết, Sắc luật, Nghị định thì giai đoạn này nhiều Bộ

luật, Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị đã đựơc ban

hành. Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật luôn được chỉnh sửa, bổ

sung, hoàn thiện cho phù hợp với tình hình thực tiễn.

1.3.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế quản lý nhà nước về tôn

giáo

Công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tôn

giáo đã được nhà nước quan tâm thực hiện và ngày càng hoàn thiện khung

pháp lý Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn

giáo – Pháp lệnh số 21/2004/PL-UBTVQH11 ngày 18/6/2004; Chính phủ ban

hành Nghị định số 22/NĐ-CP ngày 01/3/2005 hướng dẫn thi hành một số điều

Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày 04/02/2005

của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành; Nghị định

số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và biện

pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (Thay thế Nghị định số 22/NĐ-

CP ngày 01/3/2005).

Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam quy định:

1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không

2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng

tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” (Điều 24).

Ngày 18/11/2016, Quốc hội khóa 14 đã ban hành Luật tín ngưỡng, tôn

giáo có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018. Pháp lệnh tín

theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.

có hiệu lực thi hành.

23

ngưỡng, tôn giáo số 21/2004/UBTVQH11 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này

Ngoài bản Hiến pháp thì các văn bản luật, văn bản quy phạm pháp luật

nêu trên là cơ sở và công cụ pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không theo tín ngưỡng, tôn giáo của công

dân. Đồng thời đây cũng là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước đảm bảo hiệu

lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng.

Bên cạnh đó hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trên còn đảm bảo

được tính tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế (những

điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia) về điều chỉnh quyền

con người trong đó có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo.

1.3.3. Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách về tôn giáo

Dựa trên cơ sở các chiến lược, kế hoạch quản lý nhà nước về tôn giáo,

nhà nước đã xây dựng và ban hành hành các văn bản pháp luật để quản lý

nhà nước về tôn giáo.

Nghị định số 69/1991NĐ-HĐBT, ngày 21/3/1991 về các hoạt động

tôn giáo của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) là văn bản đầu tiên đã

đề cập tương đối toàn diện các lĩnh vực hoạt động tôn giáo. Ngoài nội dung

kế thừa các văn bản quy phạm pháp luật trước đó (Sắc lệnh 234/SL của

Chính phủ ngày 14/6/1955 về vấn đề tôn giáo, Nghị quyết số 297/NQ của

Chính phủ ngày 11/11/1977 về một số chính sách đối với tôn giáo, Nghị

một số nội dung mới.

Trước yêu cầu của tình hình mới, ngày 19/4/1999, Chính phủ ban

hành Nghị định số 26/1999/NĐ - CP về các hoạt động tôn giáo, thay thế

Nghị định số 69/HĐBT.

Trong thời gian qua, pháp luật về tôn giáo của Việt Nam đã có những

quyết số 25- NQ/TW ngày 12/3/2003..), Nghị định đã chỉnh sửa, bổ sung

thời thể chế hoá những chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước Việt

24

bước phát triển đáng kể. Trong mỗi giai đoạn, pháp luật về tôn giáo đã kịp

Nam đối với tôn giáo. Nội dung pháp luật về tôn giáo khẳng định chính sách

nhất quán tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công

dân; nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn

kết toàn dân tộc, chống lại sự nghiệp cách mạng. Đặc biệt trong công cuộc

đổi mới đất nước, pháp luật về tôn giáo đã có những đóng góp quan trọng

trong việc củng cố sự đoàn kết, phát huy sức mạnh nội lực của toàn dân tộc

trong phát triển kinh tế và giữ vững ổn định chính trị - xã hội.

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm

1992 và thể chế hoá những quan điểm của Đảng trong Nghị quyết về công

tác tôn giáo, ngày 18/11/2016, Luật tín ngưỡng, tôn giáo ra đời. Sự kiện quan

trọng này đánh một dấu mốc lịch sử trên con đường hoàn thiện pháp luật điều

chỉnh lĩnh vực hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Luật đã xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tôn

giáo, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm

quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động tôn giáo; tôn

trọng và bảo đảm nguyên tắc những việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo do

các tôn giáo tự giải quyết theo Hiến chương, Điều lệ của các tôn giáo đã

được nhà nước công nhận. Đồng thời xác định, Chính phủ Việt Nam tôn

trọng và thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc gia nhập

điều ước đã được Việt Nam kí kết hoặc tham gia.

1.3.4. Xây dựng và tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo

Chính phủ thống nhất quản lý các lĩnh vực kinh tế - chính trị - văn hóa

– xã hội, trong đó có hoạt động tôn giáo.

Bộ Nội vụ - Cơ quan của Chính phủ, tham mưu, giúp Chính phủ quản

khi có sự khác nhau giữa quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và các

dựng các văn bản quy phạm pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

25

lý nhà nước trong lĩnh vực hoạt động tôn giáo như, tham gia đóng góp xây

luật và tổ chức thực hiện pháp luật về tôn giáo. Ban Tôn giáo Chính phủ - Cơ

quan của Bộ Nội vụ, tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ quản lý nhà nước

về tôn giáo.

Các Bộ, ngành khác có liên quan phối hợp với Bộ Nội vụ trong quản

lý nhà nước về tôn giáo (Bộ Công an, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam).

Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tôn

giáo ở địa phương (Trong đó, Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ là cơ quan chuyên

môn thực hiện chức năng tham mưu giúp UBND tỉnh, thành phố quản lý nhà

nước về hoạt động tôn giáo; Phòng Nội vụ là phòng chuyên môn thực hiện

chức năng tham mưu giúp UBND huyện, quận, thị xã trong quản lý công

chức, viên chức, xây dựng chính quyền, thi đua khen thưởng, quản lý nhà

nước về tôn giáo ở địa phương; còn ở UBND xã, thị trấn có các công chức

chuyên trách giúp Chủ tịch UBND quản lý nhà nước về tôn giáo).

1.3.5. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác

tôn giáo

Trong tình hình công tác tôn giáo nói chung, quản lý nhà nước về tôn

giáo nói riêng đặt ra những vấn đề mới phức tạp, các thế lực thù địch luôn

lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc hòng can thiệp vào công việc nội bộ của đất

và khó khăn hơn. Thực tế này đòi hỏi cán bộ làm công tác tôn giáo phải có

phẩm chất chính trị vững vàng, có trình độ, năng lực, khả năng tập hợp, vận

động quần chúng và có trình độ am hiểu về tôn giáo nhất định. Muốn có một

đội ngũ cán bộ như vậy chúng ta cần chú trọng đến công tác tổ chức bộ máy

cán bộ, đồng thời đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ và tư tưởng chính

nước, công tác tôn giáo vốn đã nhạy cảm, khó khăn, nay lại càng nhạy cảm

Thời gian qua, đặc biệt từ khi sáp nhập vào Sở Nội vụ, công tác bồi

26

trị cho đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo.

dưỡng, tập huấn nâng cao nghiệp vụ và tư tưởng chính trị cho đội ngũ cán bộ

làm công tác tôn giáo được các cấp lãnh đạo thành phố quan tâm, tạo điều

kiện đúng mức. Xác định mục tiêu trang bị đầy đủ kiến thức về lý luận chính

trị, quản lý nhà nước theo tiêu chuẩn cán bộ, công chức, từng bước hoàn

thiện, tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức theo từng chức danh của cơ

quan quản lý nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị

- xã hội về hoạt động tôn giáo, tạo ra sự chuyển biến căn bản trong nhận thức

về tôn giáo và kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ công tác tôn giáo của đội ngũ

cán bộ, công chức nói chung; đặc biệt ở vùng có vấn đề tôn giáo mới phát

sinh nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị và khả năng xây

dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo, đáp ứng yêu cầu,

nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.

Tổ chức công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác tôn giáo phải

thường xuyên và đặc biệt chú trọng cán bộ cơ sở. Đội ngũ nhân sự làm công

tác tôn giáo là những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, có chuyên môn

nghiệp vụ đồng thời phải hiểu biết về tôn giáo và có kiến thức toàn diện.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện bằng nhiều hình thức như

cung cấp tài liệu, tập huấn, tham gia các lớp học ngắn hạn, dài hạn về quản lý

nhà nước nói chung và quản lý hoạt động tôn giáo nói riêng.

Hoạt động tôn giáo không chỉ thuần túy nhằm đáp ứng nhu cầu tinh

thần của các tín đồ chức sắc, nhà tu hành mà còn liên quan đến các lĩnh vực

đời sống xã hội. Mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính

trị - xã hội và mọi công dân trong đời sống xã hội đều phải tuân thủ các quy

định của pháp luật. Tôn giáo và tất cả các hoạt động tôn giáo ở bất kỳ quốc

1.3.6. Thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động tôn giáo

Đại hội Đại biều toàn quốc khóa XI của Đảng khẳng định tiếp tục hoàn

27

gia nào cũng không thể đứng ngoài hệ thống pháp luật.

thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng

trong giai đoạn mới của đất nước, động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc tín

đồ sống tốt đời đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh

hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công

nhận, đúng quy định của pháp luật. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh với hành

vi lợi dụng tôn giáo, để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Báo cáo chính trị khóa XI tại Đại hội Đại biểu lần thứ XII nhấn mạnh

tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy

những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều

kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức

tôn giáo đã được nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp

tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời chủ động

phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn

giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín

ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật.

Để thực hiện tốt chủ trương, chính sách tôn giáo theo tinh thần của

Nghị quyết Đại hội khóa XII, trong thời gian tới, cả hệ thống chính trị cần

thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp cụ thể, trong đó có công tác

Thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động tôn giáo nhằm đảm bảo được

quyền tự do tín ngưỡng của công dân, đảm bảo cho các hoạt động tôn giáo

Qua thanh tra, kiểm tra để phát hiện và kịp thời xử lý những sai phạm

trong hoạt động tôn giáo cũng như trong công tác quản lý nhà nước đối với

hoạt động tôn giáo nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả trong chính sách,

thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm có liên quan đến tôn giáo.

Ngoài ra Cơ quan nhà nước còn có thẩm quyền Xét duyệt một số việc

28

pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và nhà nước đúng quy định.

thuộc hành chính đạo, quyền tiến hành xét duyệt các chương trình hành đạo

thường xuyên và đột xuất của các tôn giáo. Định kỳ hàng năm các tôn giáo

đăng ký chương trình hoạt động trong năm của tôn giáo, tổ chức tôn giáo cho

cơ quan chính quyền địa phương, đăng ký con dấu; làm con dấu mới; tách,

lập, nhập họ đạo; phong chức sắc, phẩm hàm, điều chuyển chức sắc trung, cao

cấp; các hội đoàn tôn giáo; Xét duyệt chương trình hành đạo thường xuyên và

đột xuất: những văn bản quy phạm pháp luật hiện hành quy định: những hoạt

động tôn giáo, vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ được nhà nước

đảm bảo, những hoạt động tôn giáo vì lợi ích Tổ quốc và nhân dân được

khuyến khích. Tín đồ có quyền tiến hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện

tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo tại nơi thờ tự; Xét duyệt quá

trình xây dựng và sửa chữa, cơi nới cơ sở thờ tự tôn giáo: Việc xây mới, cơi

nới, sửa chữa các công trình thờ tự tôn giáo tùy thuộc vào quy mô công trình

được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Việc tu bổ và sửa chữa nhỏ không

ảnh hưởng đến kết cấu công trình các nhà lân cận và bộ mặt đường giao thông

thường được miễn giấy phép xây dựng. Tuy nhiên trước khi sửa chữa phải

thông báo cho chính quyền địa phương sở tại biết.

1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc về tôn giáo tại một số địa

phƣơng và bài học kinh nghiệm cho huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên

1.4.1.1. Kinh nghiệm của huyện Trà Bồng- tỉnh Quảng Ngãi

Trà Bồng là huyện miền núi nằm ở phía Tây tỉnh Quảng Ngãi, có 10

đơn vị hành chính cấp xã và 01 thị trấn. Dân số toàn huyện tính đến cuối năm

2013 là 34.481 người, trong đó có Kinh 18.870 người, Kor 14.521 người, Hre

519 người, Hoa 410 người, Mường 77 người, các dân tộc khác 84 người. Dân

1.4.1. Kinh nghiệm của một số địa phương

Trà Phú và xã Trà Bình còn người Kor và các dân tộc khác sống khắp các xã

29

cư phân bố chưa đều, đa số người Kinh sống tập trung ở thị trấn Trà Xuân, xã

còn lại.

Hàng năm, thực hiện theo chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng

và pháp luật của Nhà nước, các cơ quan chuyên môn đã tham mưu Ban

Thường vụ Huyện uỷ, UBND huyện tổ chức nhiều Hội nghị triển khai, quán

triệt chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước cho các cơ quan

có liên quan, cấp ủy, UBND các xã, thị trấn; đồng thời chỉ đạo cụ thể đến các

ban, ngành, mặt trận, các hội đoàn thể để nắm vững, phổ biến rộng rãi đến các

tầng lớp nhân dân nhằm làm cho nhân dân hiểu rõ hơn về chủ trương, chính

sách của Đảng.

Cùng với công tác quản lý tôn giáo, UBND huyện đã lãnh đạo, chỉ đạo

triển khai thực hiện kết hợp đồng bộ chính sách, chiến lược phát triển kinh tế,

văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục phù hợp với thực tiễn từng địa phương. Tiêu

biểu như việc thực hiện các chương trình chính sách an sinh xã hội, đặc biệt là

Nghị quyết 30a của Chính phủ; từng bước nâng cao kết cấu hạ tầng, chất

lượng y tế, giáo dục, góp phần đáng kể cải thiện đời sống cho nhân dân; đồng

thời đẩy mạnh phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở

khu dân cư”, chú tâm vào vấn đề bảo tồn và phát duy bản sắc văn hóa truyền

thống. Đây là biện pháp thiết thực, nhằm từng bước khắc phục những biểu

hiện tiêu cực trong tôn giáo, đồng thời đưa những giá trị tích cực trong tôn

Ở cấp xã, hàng năm chính quyền địa phương đều tổ chức Hội nghị

quán triệt cho cán bộ cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn thể ở xã, thị trấn,

thôn, tổ dân phố; đồng thời thường xuyên tổ chức họp thôn, tổ dân phố triển

khai cho nhân dân cũng như chức sắc, tín đồ tôn giáo về chủ trương, chính

sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.

giáo cùng toàn Đảng, toàn dân xây dựng xã hội chủ nghĩa.

chúng ta rút ra một số kinh nghiệm quý báu trong QLNN đối với hoạt động

30

Qua thực tiễn công tác tôn giáo tại huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi,

tôn giáo đó là,

Thứ nhất, cần triển khai sâu rộng các chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật quan trọng, cần thiết của Nhà nước, đặc biệt là về tôn

giáo cho cán bộ, nhân dân và tín đồ tôn giáo hiểu và thực hiện tốt.

Thứ hai, tăng cường sự phối hợp, thống nhất chỉ đạo sâu sát, hiệu quả

trong việc quản lý, cũng như giải quyết các vấn đề nan giải, diễn biến phức

tạp, các điểm nóng trong tôn giáo.

Thứ ba, phát huy cao độ vai trò của người có uy tín trong sự nghiệp đổi

mới; đẩy mạnh thực hiện tốt công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo,

công tác tranh thủ chức sắc. Cùng với việc thực hiện công tác tôn giáo cần kết

hợp đồng bộ chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế... để

cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.

Thứ tư, có Ban Chỉ đạo về công tác tôn giáo để xây dựng phương pháp

quản lý, tổ chức điều hành, triển khai thực hiện và kiểm tra hiệu quả công tác

tô giáo.

Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo có lập trường

vũng vàng, phẩm chất trong sạch, đủ trình độ, năng lực và rất khôn khéo

trong việc vận động, cũng như xử lý các tình huống trong tôn giáo.

1.4.1.2. Kinh nghiệm của huyện Krông Búk - tỉnh Đắk Lắk

thành phố Buôn Ma Thuột 50 km theo Quốc lộ 14. Có diện tích tự nhiên

35.837,30 ha, với 7 đơn vị hành chính cấp xã; có ranh giới với các huyện như

sau: phía Đông giáp với huyện Krông Năng; phía Tây giáp huyện Cư M’gar;

phía Nam giáp thị xã Buôn Hồ; phía Bắc giáp huyện Ea H’leo.

Hiện nay, trên địa bàn huyện có 04 tôn giáo đó là Công giáo, Phật giáo,

Huyện Krông Búk có vị trí Đông Bắc tỉnh Đắk Lắk, cách trung tâm

hơn 5.200 tín đồ là dân tộc thiểu số (chủ yếu theo đạo Tin lành và Phật giáo).

31

Tin lành và Cao đài với trên 16.349 tín đồ, chiếm tỷ lệ 27 % dân số, trong đó

Từ thực tiễn quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk ,

một số kinh nghiệm bước đầu có thể rút ra:

Một là, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể cần tiếp tục

chỉ đạo thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết về công tác tôn giáo; Pháp lệnh

tín ngưỡng, tôn giáo; tuyên truyền cho nhân dân nói chung và đồng bào có

đạo nói riêng hiểu rõ và thực hiện đúng quan điểm, tư tưởng, chính sách tôn

giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, góp phần tăng cường khối đại đoàn

kết thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Hai là, Hướng dẫn tạo điều kiện để các tôn giáo hoạt động hợp pháp;

động viên, khuyến khích chức sắc, tín đồ các tôn giáo thực hiện tốt phương

châm sống " Tốt đời, đẹp đạo" " Kính chúa yêu nước", tham gia có hiệu quả

các phong trào ở địa phương.

Ba là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, xử lý nghiêm các hoạt động tín

ngưỡng, tôn giáo vi phạm pháp luật, các phần tử lợi dụng tôn giáo để chống

phá chính quyền làm mất ổn định tình hình an ninh, trật tự, gây chia rẽ khối

đại đoàn kết dân tộc.

Bốn là, tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo

từ huyện đến xã, thị trấn gắn với việc tăng cường tập huấn nghiệp vụ thường

xuyên để nâng cao trình độ, năng lực và kỹ năng vận động của cán bộ.

phản ứng linh hoạt, kịp thời phối hợp các ban ngành, xin ý kiến chỉ đạo và

giúp đỡ của cơ quan cấp trên.

1.4.2. Bài học kinh nghiệm vận dụng vào huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú

Yên

Để làm tốt công tác tôn giáo ở tỉnh Phú Yên nói chung và huyện Đồng

Năm là, chính quyền địa phương đã nhanh chóng nắm bắt tình hình

công tác QLNN về tôn giáo phải nắm chắc quan điểm, chủ trưong, chính sách

32

Xuân nói riêng, một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu là người làm

của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo, phải được

đào tạo chuyên ngành về công tác tôn giáo; có như vậy thì trong giải quyết

các vụ việc về tôn giáo mới đảm bảo sự công bằng, thấu tình, đạt lý, hạn chế

tối đa những sai lầm, thiếu sót. Để giúp cho cán bộ nắm chắc đường lối của

Đảng, pháp luật của Nhà nước thì các cơ quan chức năng phải thường xuyên

đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ, công chức nhất là những

người trực tiếp làm công tác tôn giáo.

Người cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo phải hiểu biết về giáo

lý, giáo luật, lễ nghi của các tôn giáo. Thực tế cho thấy nếu làm QLNN về

tôn giáo mà không hiểu giáo lý, giáo luật của tôn giáo thì chắc chắn hiệu quả

công tác sẽ thấp. Vì vậy, công việc đòi hỏi người cán bộ không chỉ nhiệt

huyết với công tác này mà còn phải sâu sát với thực tiễn, chịu khó học hỏi

trong sách vở, đồng nghiệp để trang bị cho mình kiến thức sâu, rộng về các

tôn giáo, nhất là các giáo lý, giáo luật, lễ nghi, cách xưng hô, ứng xử của từng

tôn giáo. Có như vậy mới hòa đồng được với các chức sắc, chức việc, tín đồ

và mới hiểu được tường tận sinh hoạt của họ, trên cơ sở đó để giúp đỡ họ một

cách thiết thực, hiệu quả.

Khi xử lý các vấn đề liên quan đến tôn giáo, nhất là những vấn đề nhạy

cảm đòi hỏi cơ quan chính quyền nói chung, cơ quan làm công tác QLNN về

quan, cảm tính, nóng vội. Trước khi đi đến quyết định sự việc phải có sự bàn

định tập thể trên cơ sở tham mưu của các cơ quan chức năng, nhất là cơ quan

làm công tác QLNN về tôn giáo.

Phát huy tốt vai trò của các già làng, trưởng buôn. Kinh nghiệm cho

thấy đây là một trong những giải pháp rất hữu hiệu mà công tác QLNN cần sử

tôn giáo nói riêng phải hết sức thận trọng, không giải quyết vấn đề theo chủ

33

dụng một cách triệt để nhất là do đặc thù của huyện miền núi.

Tiểu kết chƣơng 1

Qua nghiên cứu ban đầu học viên đã phân tích và làm rõ một số vấn đề

liên quan đến đề tài nghiên cứu.

Bước đầu học viên đã phân tích và làm rõ một số khái niệm cơ bản liên

quan đến hoạt động tôn giáo.

Khái niệm tôn giáo, hoạt động tôn giáo, quản lý Nhà nước về tôn giáo

là những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài, là cơ sở khoa học quan trọng

trong việc nghiên cứu đề tài.

Học viên đã chỉ ra sự cần thiết QLNN về tôn giáo hiện nay nói chung,

tầm quan trọng của Nhà nước trong quản lý xã hội, nêu tầm ảnh hưởng của

hoạt động tôn giáo đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

Trong chương này học viên đã phân tích và chỉ rõ chủ thể, đối tượng

và nội dung quản lý nhà nước về tôn giáo.

Học viên đã nghiên cứu kinh nghiệm ở một số địa phương như huyện

Trà Bồng- tỉnh Quảng Ngãi, huyện Krông Búk - tỉnh Đắk Lắk trong QLNN

về tôn giáo. Đồng thời tác giả cũng đã rút ra bài học kinh nghiệm cho huyện

34

Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên trong QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện.

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA

BÀN HUYỆN ĐỒNG XUÂN, TỈNH PHÚ YÊN

2.1. Khái quát điều kiện phát triển của huyện Đồng Xuân

2.1.1. Vị trí đia lý và điều kiện tự nhiên

- Về vị trí địa lý

vĩ độ Bắc, từ 1080

Huyện Đồng Xuân là một trong 3 huyện miền núi, nằm ở phía Tây bắc của tỉnh Phú Yên, cách thành phố Tuy Hòa 50km, kéo dài từ 13014' đến 43' đến 109012' kinh độ Đông. Có ranh giới hành 13036'

chính như sau:

+ Phía Bắc giáp tỉnh Bình Định;

+ Phía Tây giáp tỉnh Gia Lai;

+ Phía Đông giáp thị xã Sông Cầu và huyện Tuy An (tỉnh Phú Yên)

+ Phía Nam giáp huyện Sơn Hòa (tỉnh Phú Yên)

Huyện có 11 đơn vị hành chính gồm 10 xã và 01 thị trấn gồm: Xuân

Phước, Phú Mỡ, Xuân Quang 1, Xuân Quang 2, Xuân Quang 3, Xuân Lãnh,

Đa Lộc, Xuân Long, Xuân Sơn Bắc, Xuân Sơn Nam và thị trấn La Hai. Trung

tâm chính trị - hành chính, văn hóa, kinh tế, giáo dục và dịch vụ thương mại

Tổng diện tích tự nhiên: 103.330,97 ha.

Với đặc điểm vị trí như vậy, Đồng Xuân có vai trò là hậu phương căn cứ

địa, khu vực phòng thủ phía Tây vững chắc cho các huyện, thành phố ven

biển. Đây cũng là địa bàn chiến lược quan trọng, là hậu cứ hỗ trợ cho các tỉnh

Tây Nguyên trong bảo vệ an ninh quốc phòng. Đồng thời, đây cũng là nơi

của huyện đặt tại thị trấn La Hai.

khu vực Tây nguyên giúp cho sự phát triển tổng thể KTXH để đưa Đồng

35

cung cấp nguồn lao động cho tỉnh nói chung, khu kinh tế Nam Phú Yên và

Xuân vươn lên phát triển.

- Về địa hình, địa mạo và khí hậu

+ Địa hình, địa mạo:

Huyện Đồng Xuân nằm tựa lưng vào dãy Trường Sơn, bao gồm nhiều

đồi núi xen kẽ với những thung lũng nhỏ hẹp, núi non, sông suối bị chia cắt

mạnh, địa hình hết sức phức tạp, được chia làm 3 dạng chính:

Dạng địa hình núi cao, chiếm phần lớn diện tích tự nhiên toàn huyện

phân bố phía Tây, Tây nam và Đông bắc thuộc các xã Phú Mỡ, Xuân Quang

1, Đa Lộc, Xuân Lãnh. Có một số đỉnh núi rất cao như, La hiên (1.318m),

Chư Trai (1.238m), Rung Gia (1.108m), chiếm diện tích khá lớn, là rừng đầu

nguồn cung cấp nước cho Sông Kỳ Lộ và sông Trà Bương.

Dạng địa hình đồi núi thấp, là vùng địa hình chuyển tiếp từ vùng núi cao

xuống thung lũng, đồng bằng độ cao trung bình từ 300 đến 1.000m, địa hình

lượn sóng bị chia cắt nhẹ gồm có các núi như, Thạch Long Cương (720m),

núi Đạc (806m). Là vùng sản xuất nông nghiệp chính của huyện Đồng Xuân

(ví dụ: mía, sắn, ngô và cây công nghiệp).

Dạng địa hình đồng bằng và thung lũng nhỏ hẹp, tập trung chủ yếu ở

Xuân Phước, thị trấn La Hai, Xuân Quang 3, dạng địa hình này được hình

thành qua quá trình bồi lắng, tích tụ từ các sông, suối lớn như: sông Kỳ Lộ,

+ Khí hậu, thời tiết:

Khí hậu huyện Đồng Xuân thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa có 02

mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8, chịu ảnh

hưởng của gió Tây và gió Tây Nam. Tháng 7, 8 là tháng khô nhất vì có gió

Nam hay còn gọi là gió Lào khô, nóng. Số giờ nắng trung bình trong năm là

sông Trà Bương, sông Cô.

9 đến tháng 12 chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông - Bắc. Hằng năm, thường

36

2500 giờ. Số giờ nắng trung bình trong một ngày 6-8 giờ. Mùa mưa từ tháng

mưa nhiều vào tháng 10, tháng 11, chiếm 60% lượng mưa hàng năm, độ ẩm

trung bình từ 80- 85%. Lượng mưa trung bình năm khoảng 1.500 - 2.000mm. Nhiệt độ trung bình cao nhất là 350C, thấp nhất là 200C, trung bình

là 270C.

Nhìn chung, điều kiện khí hậu thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp

đa dạng và phong phú. Mùa Đông với khí hậu khô, lạnh làm cho vụ đông trở

thành vụ chính có thể trồng được nhiều loại cây rau màu ngắn ngày cho giá trị

cao và xuất khẩu. Yếu tố hạn chế lớn nhất đối với sử dụng đất là mưa lớn tập

trung theo mùa thường làm ngập úng các khu vực trũng thấp gây khó khăn

cho việc thâm canh tăng vụ mở rộng diện tích.

2.1.2. Đăc điểm kinh tế - xã hôi

- Dân số

Dân số toàn huyện 63.715 người, mật độ dân số 60 người/km². Chiếm

6,75% dân số toàn tỉnh, dân số thị trấn chiếm 15,9%, nông thôn chiếm 84,1%.

So với năm 2011, dân số toàn huyện đã tăng 1.244 người. Tốc độ phát triển

dân số bình quân hàng năm tăng 0,52%. Mật độ dân số toàn huyện 56 người/km2, thấp hơn 3 lần so với toàn tỉnh (mật độ dân số toàn tỉnh là 175 người/km2). Dân số chủ yếu tập trung ở thị trấn La Hai và các xã ven các trục

giao thông chính, ở các xã mật độ dân số thưa hơn.

Là trung tâm kinh tế-chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật phía Tây

Bắc của tỉnh. Có tuyến đường đường sắt Bắc - Nam chạy qua và các tuyến

đường bộ như Quốc lộ 19C, ĐT 641, ĐT 644, ĐT 646 và ĐT 647 tạo thành hệ

thống giao thông khép kín rất thuận lợi cho vận chuyển hàng hoá và hành

khách giao lưu với các khu vực trong cả nước.

- Kinh tế

với chính sách thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát, cắt giảm đầu tư công, ổn

37

Trong những năm qua chịu ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế thế giới;

định kinh tế vĩ mô đã tác động đến các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh

trên địa bàn. Tất cả các yếu tố trên đã tác động đến tốc độ tăng trưởng, cơ cấu

kinh tế của huyện. Tuy nhiên, nhìn tổng quan nền kinh tế, xã hội của huyện

nhà trong những năm qua vẫn có sự phát triển khá ổn định và bền vững.

Năm 2017, tổng giá trị sản xuất theo giá cố định đạt 1112,93 tỷ VND,

so với năm 2007 tăng 1,3 lần, tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế theo giá trị

sản xuất đạt 7,1 %.

- Về văn hóa xã hội

Hoạt động Văn hóa-Thông tin được đẩy mạnh nhất là công tác tuyên

truyền các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước với nhiều

hình thức đa dạng, phong phú, đặc biệt là trong các dịp lễ, tết và các sự kiện

chính trị trọng đại của đất nước, địa phương. Công tác văn hóa thông tin,

truyền thanh truyền hình về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu văn hóa-văn

nghệ, vui chơi giải trí cho nhân dân. Đến nay huyện đã phủ sóng phát thanh,

truyền hình đến tất cả các địa bàn trong huyện. Phong trào “Toàn dân đoàn

kết xây dựng đời sống văn hóa” được triển khai rộng khắp trong huyện đã

đem lại những đổi thay rõ nét, tích cực trong đời sống văn hóa của nhân dân.

Công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp và bản sắc của

các dân tộc thiểu số được quan tâm chú trọng góp phần gìn giữ và phát huy

Các hoạt động thể dục-thể thao được duy trì, tổ chức thường xuyên, được

đông đảo cán bộ, công nhân viên chức và nhân dân tích cực hưởng ứng.

Toàn huyện có 34 đơn vị trường học và 06 đơn vị sự nghiệp công lập

khác trực thuộc UBND huyện với tổng số 16.664 học sinh. Trong đó 03

trường trung học phổ thông với tổng số 1.716 học sinh; chất lượng dạy-học

các giá trị văn hóa của đất nước, của địa phương.

được quan tâm đầu tư xây dựng, cơ bản đáp ứng được nhu cầu dạy-học trên

38

của các bậc học đang từng bước được nâng cao/ Cơ sở vật chất, trang thiết bị

địa bàn.

Các chương trình đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao

động tiếp tục được chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả; giải quyết chế

độ cho các đối tượng chính sách, huy động quỹ Đền ơn đáp nghĩa được giải

quyết kịp thời theo quy định, công tác từ thiện nhân đạo, trẻ em tiếp tục phát

huy hiệu quả.

Công tác khám, chữa bệnh cơ bản đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức

khoẻ nhân dân. Việc triển khai khám, chữa bệnh miễn phí cho đối tượng

chính sách, bảo hiểm y tế được đảm bảo. Các Chưong trình Y tế Quốc gia

được triển khai thực hiện và mang lại hiệu quả.

2.2. Hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú

Yên

2.2.1. Khái quát chung

Hiện nay, trên địa bàn huyện có 03 tôn giáo đó là Phật giáo, Công giáo,

và Tin lành. Số lượng tín đồ của từng tôn giáo như sau: Phật giáo chiếm số

lượng đông nhất là 3.440 người; Công giáo 1.957 người; Tin Lành 709 người.

Trong đó tín đồ là người dân tộc thiểu số là 376 người.

Nhìn chung, đại đa số tín đồ tôn giáo là nông dân và nhân dân lao động,

sống hòa nhập, đoàn kết gắn bó trong cộng đồng, chấp hành chủ trương,

chăm lo việc đạo, thực hiện đúng đường hướng của giáo hội, tuân thủ pháp

luật, làm tròn trách nhiệm công dân. Hoạt động của các tổ chức tôn giáo tập

trung phát triển tín đồ và mở rộng ảnh hưởng của giáo hội ra các xã trong

huyện. Nhìn chung các chùa, Niệm phật đường, giáo xứ, các giáo hội, chi hội

Tin lành và các điểm nhóm đã được công nhận, về cơ bản hoạt động tuân thủ

chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Phần lớn chức sắc, chức việc

sống “ tốt đời-đẹp đạo”.

39

pháp luật, đa số chức sắc và tín đồ tích cực tham gia các hoạt động xã hội,

Đến thời điểm hiện nay, trên địa bàn huyện các tổ chức tôn giáo cơ sở

đã được công nhận bao gồm:

+ Phật giáo, có 20 cơ sở sinh hoạt trong đó có 6 chùa( Chùa Long

Hưng, Chùa Bảo Hưng tại thị trấn La Hai; Chùa Phước Sơn xã Xuân Sơn

Bắc; Chùa Phật Học xã Xuân Sơn Nam; Chùa Viên Lâm, Chùa Từ Tâm xã

Xuân Phước) 14 Niệm phật đường( NPĐ Long Châu, NPĐ Long Thăng thị

trấn La Hai; NPĐ Phước Thạnh, NPĐ Long Hòa xã Xuân Long; NPĐ Phước

Quang, NPĐ Lãnh Phước xã Xuân Lãnh; NPĐ Đa Lộc; NPĐ Tân Bình xã

Xuân Sơn Bắc; NPĐ Tân An, NPĐ Tân Hòa xã Xuân Sơn Nam; NPĐ Hòa

Quang xã Xuân Phước; NPĐ Phước Huệ xã Xuân Quang 2; NPĐ Hỷ Sơn,

NPĐ Phước Lộc xã Xuân Quang 3)

+ Công giáo, có 3 cơ sở sinh hoạt gồm Nhà thờ Đa Lộc; Nhà Thờ Đồng

Tre xã Xuân Phước; Nhà nguyện Suối Ré xã Xuân Quang 3.

+ Tin lành, có 1 điểm sinh hoạt (hộ thánh Tin lành Long Thăng ,thị trấn

La Hai).

Công tác tôn giáo nói chung luôn là một trong những lĩnh vực được các

cấp, các ngành quan tâm thực hiện đồng bộ, có hiệu quả, góp phần đưa hoạt

động tôn giáo đi vào khuôn khổ pháp luật. Đại đa số chức sắc và tín đồ các

tôn giáo đã có những chuyển biến tích cực về nhận thức, ngày càng hiểu rõ

động viên được đồng bào có đạo hăng hái tham gia các phong trào hành động,

thi đua sản xuất, xóa đói giảm nghèo, hoạt động từ thiện nhân đạo góp phần

vào thành tựu chung của huyện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Các cuộc lễ trọng của các tôn giáo diễn ra trong năm như lễ Phục sinh,

lễ Giáng sinh của Công giáo, Tin lành; lễ Phật đản, Vu lan, An cư kiết hạ của

hơn chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Từ đó đã

chính quyền quan tâm giải quyết, động viên kịp thời, củng cố thêm lòng tin

40

Phật giáo; đại hội nhơn sanh đều được tổ chức trang nghiêm, trật tự, được

của tín đồ các tôn giáo đối với Đảng và Nhà nước.

Trong thời gian qua, các tôn giáo trên địa bàn huyện hoạt động theo

đường hướng hành đạo và tuân thủ pháp luật. Đồng bào tôn giáo có những

đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng địa

phương, làm tròn nghĩa vụ công dân.

Cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể trong huyện đã tập trung chỉ đạo

công tác tôn giáo, kịp thời xử lý đúng đắn những vấn đề phát sinh, đảm bảo

thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đảm

bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân trên địa bàn huyện.

Bảng 2.1. Bảng tổng hợp tín đồ các tôn giáo trên địa bàn huyện

Đồng Xuân

Đơn vị: người

Stt Tôn giáo Năm

2009 2012 2014 2016 2017

01 Tin lành 510 580 600 700 709

02 Công giáo 900 950 985 1.025 1.957

03 Phật giáo 2.100 2.600 2.800 3.152 3.440

04 Toàn huyện 3.510 4.130 4.385 4877 6.106

(Nguồn: Phòng Nội vụ)

2.2.2.1. Phật giáo

Phật giáo hay còn gọi là đạo Phật, ra đời ở Ấn Độ vào thời kỳ xuất hiện

các trường phái triết học khác nhau và sự phân chia đẳng cấp sâu sắc trong xã

hội. Con đường đi tới đạo Phật gắn liền với việc tìm kiếm phương cách cứu

rỗi sự đau khổ của chúng sinh của Thái tử Tất Đạt Đa (Thích Ca Mâu Ni).

2.2.2. Các tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân

chỉnh lý nhiều lần qua các lần kết tập khác nhau, tập hợp thành hàng nghìn bộ

41

Những thuyết pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni được các đệ tử sau này chép,

sách với hàng vạn quyển khác nhau, theo nội dung được chia thành các kinh

Tam Tạng (Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng).

Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ II sau Công nguyên, bắt đầu

từ Luy Lâu, Bắc Ninh bằng những con đường khác nhau. Khi truyền vào Việt

Nam, Phật giáo mang một hình thái riêng, lúc đầu phát triển theo đơn vị “gia

cơ”, mỗi cơ sở Phật giáo như một đơn vị gia đình, từ đó phát triển ra nhiều

chùa theo một sư tổ, thành một dòng họ. “Dòng họ” đó ở mỗi vùng có tên gọi

khác nhau: miền Bắc gọi là “Sơn môn”, các tỉnh miền Trung gọi là “môn

phái” và các tỉnh miền Nam gọi là “môn phong”.

Từ năm 1957, ở Việt Nam diễn ra cuộc vận động thống nhất Phật giáo

các tỉnh miền Bắc. Phật giáo các tỉnh miền Bắc đã tổ chức Đại hội đại biểu,

thành lập “Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam”.

Trước năm 1975, tại miền Nam, các tỉnh đã thành lập “Giáo hội Phật

giáo Việt Nam thống nhất”. Trong quá trình hành đạo, Giáo hội phật giáo

Việt Nam có sự phân hóa sâu sắc.

Ngày 04/11/1981, Đại hội thống nhất Phật giáo đã diễn ra tại chùa

Quán Sứ, Hà Nội. Đại hội đã thống nhất lấy tên là “Giáo hội Phật giáo Việt

Nam”, thông qua Hiến chương của Giáo hội.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam có hệ thống trường lớp đào tạo từ cấp cơ

phố có tăng, ni, Phật tử đều thành lập Ban trị sự Phật giáo.

Ở khu vực Miền trung nói chung và huyện Đồng Xuân nói riêng phật

giáo có số lượng tín đồ đông nhất trong các đạo trên địa bàn huyện. Đồng

Xuân có hơn 3.440 tín đồ theo đạo Phật. Các hoạt động Phật sự bình thường

theo giáo luật, lễ nghi đều có đăng ký, thông báo với các cơ quan nhà nước có

bản đến Đại học Phật giáo, có Viện nghiên cứu Phật học; ở các tỉnh, thành

tử, tổ chức giới đàn cho tăng ni mới nhập tu, bổ nhiệm trụ trì, xem xét việc

42

thẩm quyền và được tạo điều kiện hoạt động thuận lợi như, việc thu nhận đệ

tấn phong giáo phẩm cho tăng ni, thuyên chuyển tăng ni, đào tạo, giáo dục,

bồi dưỡng kiến thức Phật học và thế học cho tăng ni tại các khóa an cư kiết hạ

hằng năm; các hoạt động văn hóa, kỷ niệm các ngày lễ của Phật giáo như Lễ

Phật Đản, Lễ Vu Lan báo hiếu... đều được tổ chức tốt, an toàn.

Theo thống kê của Phòng Nội vụ huyện, toàn huyện hiện có 5 sư, 5 đại

đức và 1 hòa thượng. Trong đó thị trấn La Hai 4 người (1 hòa thượng, 2 đại

đức, 1 sư cô), xã Xuân Long 1 người (đại đức), xã Đa Lộc 1 người (trụ trì), xã

Xuân Sơn Bắc (đại đức), xã Xuân Sơn Nam (đại đức), xã Xuân Phước (3 sư).

Trong đó, có 01 người là Đại biểu HĐND huyện, 01 người là đại biểu HĐND

xã. Đa số các tăng ni có trình độ cơ bản Phật học với nguồn gốc xuất thân từ

nông dân.

Về cơ sở thờ tự, tính đến tháng 6/2017, cả huyện có 20 cơ sở thờ tự.

Các phật tử chủ yếu sinh hoạt phật giáo tại đây với các hoạt động, nghi lễ của

đạo Phật.

2.2.2.2. Công giáo

Đạo Công giáo hay còn gọi là Thiên Chúa giáo là tôn giáo thuộc Kitô

giáo. Đây là một trong những tôn giáo có số lượng tín đồ và giáo sĩ lớn nhất

thế giới. Đạo Công giáo hình thành qua hai sự biến động.

Thứ nhất, sự ra đời của Kitô giáo gắn với cuộc đấu tranh chống Đế quốc

kết hợp với các tư tưởng triết học duy tâm, thần học Hy Lạp, La Mã cổ đại.

Đạo Kito ra đời với hai trung tâm lớn là Rome và Congstantino cùng

với các trung tâm khác như Antrot, Gerusalem,..Mâu thuẫn giữa hai trung tâm

diễn ra trong quá trình đấu tranh giành sự độc tôn, chi phối toàn bộ Giáo hội

Kito. Mâu thuẫn dẫn đến năm 1054, trung tâm Congstantino tách ra thành đạo

La Mã thế kỷ II-TCN. Sự ra đời của Kitô giáo là sự kế thừa, cải cách Do thái

Thứ hai, trong nội bộ Công giáo tiếp tục diễn ra cải cách (phân liệt lần

43

chính thống. Lịch sử Kito giáo gọi là sự phân liệt lần thứ nhất.

thứ 2), đã ra đời một tôn giáo mới tách rời khỏi Công giáo - đó là đạo Tin

lành vào thế kỷ XVI.

Ở Việt Nam, Công giáo là một trong những tôn giáo lớn, với số lượng

tín đồ và chức sắc đông. Công giáo du nhập vào Việt Nam từ năm 1553, cho

đến nay Công giáo đã có lịch sử hơn 4 thế kỷ ở nước ta. Tuy nhiên phải đến

năm 1659 thì cơ cấu Công giáo mới được thiết lập ở Việt Nam.

Đạo Công giáo ở Việt Nam có số lượng tín đồ khá đông. Theo thống kê

năm 2009 ở Việt Nam có khoảng 5.677.086 tín đồ Công giáo trong đó có

1.776.694 tín đồ ở khu vực thành thị và 3.900.392 ở các khu vực nông thôn,

(địa phương có đông đảo tín đồ Công giáo nhất là tỉnh Đồng Nai với 797.702

tín đồ, Thành phố Hồ Chí Minh là 526.308 tín đồ và 274 nhà thờ, nhà

nguyện) và khoảng 6.000 nhà thờ tại nhiều nơi trên đất nước. Trải qua nhiều

thăng trầm và biến đổi lịch sử, cho đến năm 2016, Công giáo tại Việt Nam có

hơn 6 triệu tín đồ trong tổng số 92 triệu dân, với 3.100 linh mục, 14.400 tu sĩ.

Đạo Công giáo ở huyện Đồng Xuân có số lượng tín đồ Công giáo

tương đối với 1.957 tín đồ, có 3 cơ sở thờ tự gồm Nhà thờ Đa Lộc; Nhà Thờ

Đồng Tre xã Xuân Phước; Nhà nguyện Suối Ré xã Xuân Quang 3 với tổng

diện tích đất sử dụng thờ tự là 14.462m².

Tín đồ Công giáo hoạt động bình thường theo chương trình của Tòa

cố đức tin, tăng cường xây dựng các hội đoàn, hoạt động của giới trẻ theo

chương trình; trong thời gian qua, hoạt động của các giáo xứ trong khuôn khổ

pháp luật, có thông báo, đăng ký và được sự chấp thuận của các cấp chính

quyền, cơ bản chấp hành nội dung đăng ký và thông báo.

Trong thời gian qua, chính quyền huyện đã cấp phép xây dựng cho một

Giám mục tỉnh Phú Yên, chủ yếu là rao giảng, truyền đạo tại nhà thờ để củng

giao 4.601 m2 đất tại xã Đa Lộc, huyện Đồng Xuân cho Giáo Nhà thờ Đa Lộc

44

số cơ sở thờ tự Công giáo như cấp giấy chúng nhận quyền sử dụng đất về việc

để sử dụng vào mục đích tôn giáo.

2.2.2.3. Tin lành

Đạo Tin lành ra đời ở châu Âu vào thế kỷ XVI, có nguồn gốc chính trị,

xã hội sâu sa. Trước hết là sự xuất hiện của giai cấp tư sản với những yêu cầu

mới về chính trị, xã hội, tư tưởng tôn giáo.

Từ thế kỷ XVII giai cấp tư sản ở châu Âu bước lên vũ đài chính trị, tự

khẳng định mình bằng một loạt các cuộc cách mạng tư sản ( cách mạng tư sản

Anh - 1946, cách mạng tư sản Pháp - 1789). Nếu cuối thế kỷ XVII, mới có

70 triệu tín đồ thì cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX có trên 200 triệu tín đồ.

Trên địa bàn huyện có 709 tín đồ theo đạo tin lành với 1 cơ sở thờ tự,

diện tích đất thờ tự là 638m2. Những người theo đạo Tin lành ở huyện Đồng

Xuân chưa nhiều đa số là người bệnh tật, có hoàn cảnh khó khăn. Do họ được

truyền đạo tuyên truyền là ai ốm đau bệnh tật thì theo học và và tin nhận

chúa, đọc kinh thánh ca hát, cầu nguyện sẽ mau khỏi bệnh. Việc truyền đạo

Tin lành trái phép ở một số địa phương đã gây chia rẽ, mất đoàn kết, phương

hại đến tình cảm dòng họ, gia đình. Mặt khác còn có nguy cơ làm mất ổn định

về an ninh chính trị địa phương.

Cơ quan QLNN về tôn giáo thường xuyên tổ chức giao ban, kiểm tra

định kỳ, đột xuất các cơ sở tôn giáo trên địa bàn huyện; tham mưu cho Thường

động tín ngưỡng tôn giáo và việc QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện.

2.2.2.4. Các hiện tượng tôn giáo mới

Hiện nay, việc phân rẽ những tôn giáo thành nhiều phái khác nhau đang

là hiện tượng phổ biến của tất cả các tôn giáo trên thế giới, được biểu hiện ở

các nước khác nhau, trong đó có Việt Nam.

trực Huyện ủy - Lãnh đạo UBND huyện về công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt

hiện hàng chục tôn giáo mới đã được sự chấp nhận của cộng đồng người và

45

Trong những thập kỷ gần đây, đã phát sinh hàng loạt tôn giáo mới, xuất

tồn tại như một thực thể khách quan trong đời sống tôn giáo của nhân loại.

Trên địa bàn huyện Đồng Xuân trong thời gian qua xuất hiện nhiều

hiện tượng tôn giáo mới như “thờ Đức ngọc phật Hồ Chí Minh”, “thờ Mẫu”,

“đạo Hà Mòn”, Thanh hải vô thượng sư" Những hiện tượng tôn giáo này là

những “tà giáo” giả tôn giáo để hoạt động chống phá chế độ. Chúng đội lốt

tôn giáo, cấu kết với bọn Fulro phản động trong và ngoài nước dụ dỗ, mua

chuộc đồng bào có đạo. Với mục đích gây rối an ninh chính trị, phá hoại khối

đoàn kết dân tộc, chúng đã móc nối và có các hoạt động gây chia rẽ giữa các

tôn giáo trên địa bàn huyện.

2.2.2.5. Đánh giá thực trạng hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện

Đồng Xuân

- Ưu điểm

Về cơ bản, các hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện diễn ra theo đúng

nội dung, chương trình sinh hoạt đã đăng ký với chính quyền địa phương. Các

chức sắc, chức việc và bà con tín hữu đã chấp hành chủ trương, đường lối của

Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện nghĩa vụ công dân; tham gia hưởng

ứng các cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa, phát triển kinh tế-xã hội

tại địa phương.

Cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể tại địa phương ngoài việc quan tâm

đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho chi hội và các điểm nhóm tổ chức các sinh

hoạt theo nội dung, chương trình đã đăng ký nên chức sắc, tín đồ phấn khởi,

an tâm, tin tưởng vào chính sách, pháp luật của Nhà nước, tập trung chăm lo

sản xuất và ổn định đời sống và đảm bảo an ninh trật tự.

Điều đáng ghi nhận là đồng bào có đạo trên địa bàn huyện đã ngày một

nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa tinh thần cho bà con tín đồ đã luôn giúp

pháp luật của Nhà nước ta đối với tôn giáo, do đó ngày càng tự tin hòa nhập và

46

nâng cao nhận thức hơn, nắm rõ hơn các quan điểm của Đảng, chính sách,

xây dựng cuộc sống theo hướng “tốt đời đẹp đạo”, kết hợp hài hòa đời- đạo.

Tham gia tích cực vào các hoạt động từ thiện, nhân đạo, cứu trợ thiên

tai, giúp đỡ gia đình có công, gia đình diện chính sách trên địa bàn huyện.

- Nhược điểm

Việc nhận thức về chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và

Nhà nước ta của một bộ phận giáo chức, giáo việc và tín đồ còn hạn chế, chưa

thật sự cởi mở khi tiếp xúc hay làm việc với cơ quan nhà nước, còn dè dặt,

thận trọng.

Sau khi đăng ký điểm nhóm và công nhận các chi hội, các tín đồ tại các

điểm nhóm, chi hội, hiện nay luôn gia tăng về số lượng, hầu hết các điểm

nhóm đều họp đồng mượn nhà của các tín đồ do vậy việc cơi nới, sửa chữa

nhà để phục vụ cho việc hành đạo là vấn đề nhạy cảm cần đặt ra trong thời

gian đến, việc lo ngại nhất là biến nhà dân thành cơ sở nhà nguyện, đồng thời

cho đến thời điểm hiện nay vẫn còn một bộ phận quần chúng theo đạo Tin

lành bị nhiễm tư tưởng dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa ly khai của FULRO quen

gọi là “Tin lành Đề gar” nên vẫn chưa chịu khó làm ăn để xóa đói giảm

nghèo, mà vẫn còn ỷ lại trông chờ vào thế lực bên ngoài.

Việc quản lý sinh hoạt của các tín đồ chưa chặt chẽ, một số tín đồ tại

các địa bàn khác (ngoài phạm vi địa bàn đã đăng ký) tập trung về các điểm

thời báo cáo với chính quyền địa phương, làm ảnh hưởng đến công tác quản

lý của địa phương. Hoạt động của các điểm nhóm chưa được đăng ký sinh

hoạt vẫn diễn biến phức tạp. Tại các điểm nhóm này, phần lớn các tín đồ

mặc dù chưa đăng ký theo quy định của pháp luật nhưng vẫn sinh hoạt đạo

tại gia đình.

nhóm tham gia sinh hoạt, những người đứng đầu các điểm nhóm chưa kịp

trung sinh hoạt theo từng nhóm nhỏ, truyền đạo trái phép; các Ban chấp sự

47

Một số cốt cán, tín đồ không chấp hành đúng quy định, đã tự ý tập

dùng giáo quyền để huy động, quyên góp tài chính trái phép đã làm ảnh

hưởng không nhỏ đến đời sống và sản xuất của nhiều hộ dân; một số cốt cán

tiếp tục có hành vi tuyên truyền sai lệch một số chính sách của Nhà nước như

chính sách hỗ trợ đất đai, nhà ở, nước sinh hoạt theo Quyết định 132 và Quyết

định 134 của Thủ tướng Chính phủ .

Những biểu hiện đáng chú ý như mua bán sang nhượng đất trái phép,

xây dựng cơ sở thờ tự, tố chức sinh hoạt ngoài địa điểm mà không xin phép,

đặc biệt là tình trạng tranh chấp đất đai giữa nhà thờ và trường học, tiếp tục

xin lại đất đai đã hiến tặng hoặc bị tịch thu sau giải phóng.

Thực tế hiện nay vẫn còn tồn tại những tiềm ẩn, cố tình gây chia rẽ

trong nội bộ các tôn giáo, gây tác động xấu đến ổn định trật tự, an toàn xã hội.

Vẫn còn tình trạng một số trường hợp lợi dụng uy tín của nhà Phật đế đi

quyên góp từ thiện mà không có giấy tờ, sổ sách làm ảnh hưởng đến uy tín

của Phật giáo đồng thời gây khó khăn trong công tác QLNN .

2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc về tôn giáo trên địa bàn

huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên

2.3.1. Xây dựng kế hoạch quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn

huyện Đồng Xuân

Kế hoạch là một tập hợp những hoạt động, công việc được sắp xếp theo

Thông thường kế hoạch được hiểu như là một khoảng thời gian cho

những dự định sẽ hành động và thông qua đó ta hy vọng sẽ đạt được mục

tiêu. Nói đến kế hoạch là nói đến những người vạch ra mà không làm nhưng

họ góp phần vào kết quả đạt được như bản kế hoạch đề ra.

Kế hoạch có thể được thực hiện một cách chính thức hoặc không chính

trình tự nhất định để đạt được mục tiêu đã đề ra.

bí mật (đối với các kế hoạch tác chiến, tình báo, chính trị, đối ngoại hay tội

48

thức, bằng văn bản, văn kiện hoặc bất thành văn, công khai minh bạch hoặc

phạm, gây án, hãm hại, trả thù hoặc một phần trong kế hoạch kinh doanh, làm

ăn, tài chính…). Kế hoạch chính thức được phổ biến và áp dụng cho nhiều

người, có nhiều khả năng xảy ra trong các dự án ví dụ như ngoại giao, công

tác, phát triển kinh tế, các kế hoạch về thể thao, trò chơi, hoặc trong việc tiến

hành kinh doanh khác.

Xuất phát từ nhu cầu hoạt động tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân trong

thời kỳ đổi mới và yêu cầu thực hiện công tác quản lý nhà nước về tín

ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn, UBND huyện Đồng Xuân đều giao cho Ban

chỉ đạo công tác huyện, Phòng Nội vụ chủ động xây dựng kế hoạch quản lý

nhà nước dài hạn đối với hoạt động tôn giáo giai đoạn 2010 – 2014 và giai

đoạn 2015 – 2020. Để thực hiện và hoàn thành chiến lược đó, hằng năm

phòng Nội vụ đã chủ động phối hợp với các phòng, ban, ngành có liên quan

xây dựng kế hoạch công tác trong năm như: kế hoạch kiểm tra hành chính

đạo, kiểm tra, rà soát đất đai, kế hoạch thăm hỏi, chúc mừng… Bên cạnh đó,

dựa trên kế hoạch công tác của Ban Tôn giáo – Sở Nội vụ tỉnh Phú Yên,

UBND huyện Đồng Xuân đã chủ động, chỉ đạo các xã, thị trấn phối hợp thực

hiện nghiêm túc các kế hoạch đã đề ra.

2.3.2. Tổ chức thực hiện thể chế quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa

bàn huyện Đồng Xuân

ương Đảng khóa IX nêu rõ một trong các nhiệm vụ của công tác tôn giáo là

“Tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn

giáo. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp

luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách

trước mắt và lâu dài đối với tôn giáo.

Nghị quyết 25/NQ-TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung

lực trong việc tổ chức triển khai thực hiện thể chế, chính sách, pháp luật đối

49

Trong những năm qua, Huyện ủy, HĐND-UBND huyện đã và đang nỗ

với tôn giáo, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự

do tín ngưởng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn

giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn

khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.

Các cấp uỷ Đảng đã quán triệt đầy đủ và sâu sắc các quan điểm của

Đảng theo Nghị quyết 25/NQ/TW Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung

ương Đảng khoá IX về công tác tôn giáo, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của

Ủy ban Thường vụ Quốc hội được ban hành ngày 29/6/2004 và Nghị định

92/2012/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp

lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và các chính sách cụ thể khác đối với tôn giáo. Thật

sự làm cho cán bộ đảng viên, cán bộ làm công tác tôn giáo nắm được tín

ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ

tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Nghiêm cấm

việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín, dị đoan, hoạt động trái

pháp luật và gây chia rẽ sự đoàn kết giữa các dân tộc, gây rối, xâm phạm an

ninh quốc gia.

2.3.3. Tổ chức thực hiện chính sách về tôn giáo trên địa bàn huyện

Đồng Xuân

Nhà nước không ngừng xây dựng và hoàn thiện các chính sách, pháp

của công dân. UBND huyện Đồng Xuân đã thông qua các kênh thông tin và

biện pháp chuyên môn, nghiệp vụ đưa chủ trương, chính sách đổi mới về tôn

giáo đến với các chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo để họ có thông tin, hiểu

biết pháp luật và thực hiện đúng chính sách, pháp luật.

Xử lý nghiêm những sai phạm trong quản lý nhà nước về tôn giáo và

luật tạo hành lang pháp lý đầy đủ, thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Hiện nay hệ thống văn bản pháp luật về quản lý hoạt động tôn giáo ở

50

các hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để mưu cầu cá nhân.

huyện Đồng Xuân gồm có:

- Những văn bản áp dụng chung trên lãnh thổ Việt Nam

1. Hiến pháp 2013;

2. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo – Pháp lệnh số 21/2004/PL-

UBTVQH11 ngày 18/6/2004;

3. Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 của Chính phủ hướng

dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo;

4. Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày 04/02/2005 về một số công tác đối

với Tin lành;

5. Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ Quy

định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (Thay thế

Nghị định số: 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005);

Bên cạnh đó còn có các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan

đến hoạt động tôn giáo như: Bộ luật Hình sự (sửa đổi 2009), Bộ luật Dân sự

2005, Luật xử phạt vi phạm hành chính.

- Những văn bản trên địa bàn tỉnh Phú Yên

1. Quyết định số 505/QĐ-UBND ngày 20/02/2009 của UBND tỉnh

Phú Yên về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác Tôn giáo tỉnh Phú Yên;

2. Quyết định số 1098/QĐ-UBND ngày 15/3/2012 của UBND tỉnh Phú

tỉnh Phú Yên;

3. Quyết định số 1098/QĐ-UBND ngày 15/3/2012 của UBND tỉnh Phú

Yên về việc bổ sung, thay thế thành viên Ban chỉ đạo công tác Tôn giáo tỉnh

Phú Yên;

4. Quyết định số 106/QĐ-UBND ngày 15/6/2013 của UBND tỉnh Phú

Yên về việc bổ sung, thay thế thành viên Ban chỉ đạo công tác Tôn giáo tỉnh

Nghệ An;

51

Yên về việc bổ sung, thay thế thành viên Ban chỉ đạo công tác Tôn giáo tỉnh

- Những văn bản quy phạm pháp luật áp dụng riêng trên địa bàn huyện

Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên

1. Quyết định số 792/2009/QĐ-HU ngày 10/9/2012 của Huyện ủy Đồng

Xuân về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác Tôn giáo huyện Đồng Xuân

2. Quyết định số 402/2014/QĐ-HU ngày 03/10/2014 của Huyện ủy Đồng

Xuân về việc kiện toàn Ban chỉ đạo công tác Tôn giáo huyện Đồng Xuân.

2.3.4. Tổ chức bộ máy Quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn

huyện Đồng Xuân

Bộ máy hiện chức năng quản lý nhà nước về tôn giáo hiện nay trên địa

bàn là do UBND huyện Đồng Xuân chịu trách nhiệm.

Căn cứ quy định Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, căn

cứ Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định về

tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh; thực hiện chủ trương tiếp tục phân cấp phân quyền

trong quản lý hành chính nhà nước và tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong

hoạt động, hiện nay UBND huyện Đồng Xuân là cơ quan chính quyền trực

tiếp quản lý nhà nước về các hoạt động tôn giáo.

UBND huyện Đồng Xuân giao phòng Nội vụ huyện trực tiếp tham mưu

cho UBND huyện, Chủ tịch UBND huyện quản lý nhà nước đối với hoạt

Phòng Nội vụ huyện Đồng Xuân hiện nay có 10 biên chế trong đó có

01 Phó trưởng phòng và 01 chuyên viên phụ trách mảng tôn giáo. Những

người phụ trách mảng tôn giáo đều là cử nhân luật và đều được tham gia bồi

dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về tôn giáo.

Bên cạnh đó UBND huyện còn tham mưu Huyện ủy thành lập Ban chỉ

động tôn giáo.

UBND huyện làm Trưởng ban.

52

đạo công tác tôn giáo trên địa bàn huyện gồm có 11 thành viên do Chủ tịch

Công chức làm công tác tôn giáo đều có trình độ đại học trở lên, có

kinh nghiệm trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, hiểu biết và

nắm chắc sinh hoạt tôn giáo trên địa bàn huyện.

Ở các xã, thị trấn, đội ngũ làm công tác tôn giáo cũng mang tính kiêm

nhiệm, hầu hết là công chức văn phòng hoặc công chức văn hóa kiêm nhiệm

tham mưu cho Chủ tịch UBND xã, thị trấn quản lý hoạt động tôn giáo trên địa

bàn. Bên cạnh đó, trên địa bàn huyện Đồng Xuân còn có đội ngũ cán bộ cốt

cán làm công tác tôn giáo trên địa bàn các xã, thị trấn có đông đồng bào theo

tôn giáo.

2.3.5. Tổ chức bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức làm

công tác tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân

UBND huyện đã tổ chức mở lớp phổ biến Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn

giáo và Nghị định 92/2012/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số

điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo cho cán bộ chủ chốt của huyện, của

xã; đồng thời tổ chức lớp tập huấn công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cho

93 cán bộ chủ chốt cấp xã và đã tổ chức quán triệt quan điếm, chính sách tôn

giáo của Đảng và Nhà nước đến các đơn vị cơ sở.

Bảng 2.2. Hội nghị tập huấn Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày

08/11/2012 của Chính phủ cho cán bộ chủ chốt các ban ngành, đoàn thể

cấp huyện và các xã, thị trấn

Đối tƣợng phổ biến

Số lớp

Ghi chú

TT

Số ngƣời đƣợc phổ biến

1

Cán bộ làm công tác tôn giáo Cấp tỉnh

-

-

Trong đó cán bộ Mật ban trận, ngành, đoàn thể và các cơ quan chuyên trực thuộc UBND

53

Cấp huyện 01 93

huyện: 23; cấp xã: 70

Cấp xã

2 - -

3 - -

Tuyên truyền phổ biến cho chức sắc các tôn giáo (cả 3 cấp) Tuyên truyền phổ biến cho tín đồ các tôn giáo (cả 3 cấp)

(Nguồn Phòng Nội vụ - năm 2016)

Phối hợp với Ban Tôn giáo tỉnh và các ngành liên quan quán triệt, phổ

các tôn giáo trên địa bàn huyện, mở 05 lớp phổ biến Pháp lệnh tín ngưỡng,

biến quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến các chức sắc, tín đồ

tôn giáo và Nghị định 92/2012/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành

một số điều của Pháp lệnh cho 652 lượt người là chức sắc, chức việc và các

tín đồ của các tôn giáo trên địa bàn huyện.

Phối hợp với Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện tổ chức lớp phổ biến

kiến thức Quốc phòng và an ninh, về công tác tôn giáo trong tình hình mới

cho 183 chức sắc, chức việc trên địa bàn huyện.

2.3.6. Thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động tôn giáo trên địa bàn

huyện Đồng Xuân

Trên địa bàn huyện Đồng Xuân hiện nay có 03 tôn giáo được thừa nhận

chung các tôn giáo hoạt động thuần túy, tuân thủ quy định pháp luật trong

sinh hoạt lễ nghi. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có một số giáo xứ, giáo họ vẫn

có những hành vi vi phạm.

Thực hiện Công văn số 1095/UBND-NC ngày 05/3/2014 của UBND

tỉnh Phú Yên về việc chấn chỉnh một số hoạt động Phật giáo và đạo tràng trên

và được phép hoạt động là, Đạo Công giáo, đạo Phật giáo và Tin lành. Nhìn

của UBND huyện Đồng Xuân về việc khảo sát đánh giá việc thực hiện Nghị

54

địa bàn tỉnh Phú Yên; Căn cứ Công văn số 885/UBND-NV ngày 11/9/2014

định số 92/2012/NĐ-CP tại các cơ sở thờ tự tôn giáo, tín ngưỡng, nguồn gốc

Phật giáo, ngày 19/9/2014, UBND huyện Đồng Xuân ban hành quyết định số

1968/QĐ-UBND về việc Thành lập Đoàn khảo sát, đánh giá việc thực hiện

Nghị định số 92/2012/NĐ-CP;

Căn cứ Kế hoạch số 234/KH-BTG ngày 04/7/2014 của Ban Tôn giáo -

Sở Nội vụ khảo sát đánh giá hoạt động các dòng tu đạo Công giáo, ngày

19/9/2014, UBND huyện Đồng Xuân ban hành quyết định số 1969/QĐ-

UBND về việc thành lập Đoàn khảo sát, đánh giá hoạt động các dòng tu Đạo

Công giáo trên địa bàn huyện;

Thực hiện Công văn số 3236-CV/TU ngày 10/7/2014 của Tỉnh ủy Phú

Yên và Công văn số 920-CV/HU ngày 14/7/2014 của Huyện ủy Đồng Xuân

về việc báo cáo tình hình vi phạm pháp luật về đất đai liên quan đến tôn giáo,

tín ngưỡng, ngày 19/9/2014, UBND huyện Đồng Xuân ban hành Quyết định

số 1970/QĐ-UBND về việc thành lập Đoàn khảo sát tình hình vi phạm pháp

luật về đất đai liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.

- Xét duyệt một số việc thuộc hành chính

Hàng năm, UBND huyện Đồng Xuân đều có công văn yêu cầu các

chức sắc, chức việc, cơ sở thờ tự tôn giáo đăng ký các chương trình hành đạo

thường xuyên và đột xuất của các tôn giáo trong năm. Chương trình hoạt động

chương trình hoạt động. Những chương trình hoạt động đột xuất hoặc thay

đổi về quy mô, địa điểm, thành phần tham dự như đăng ký của các tổ chức

tôn giáo với chính quyền thì trước khi tổ chức UBND huyện đều yêu cầu phải

có văn bản thông báo và xin phép của chính quyền địa phương, việc đăng ký

con dấu; làm con dấu mới; tách, lập, nhập họ đạo; phong chức sắc, phẩm

phải nêu rõ: thời gian, địa điểm, thành phần tham gia, nội dung, mục đích của

tuân thủ theo quy định của pháp luật và theo quy trình.

55

hàm, điều chuyển chức sắc trung, cao cấp; các hội đoàn tôn giáo đều phải

Trong những năm qua, QLNN đối với hoạt động xây dựng, trùng tu,

sửa chữa cơ sở thờ tự ở huyện luôn được các cơ quan có thẩm quyền quan

tâm, tạo điều kiện, bảo đảm cho các tôn giáo có cơ sở và điều kiện hành đạo.

Phòng Nội vụ huyện đã tham mưu cho UBND huyện giải quyết kịp thời, đúng

quy định của pháp luật về các vấn đề liên quan đến đất đai, xây dựng, nâng

cấp cơ sở tôn giáo.

2.4. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc về tôn giáo trên địa bàn

huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên

2.4.1. Kết quả trong quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện

Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên

Trong 9 năm qua (từ 2009 đến nay), QLNN đối với hoạt động tôn giáo

trên địa bàn huyện đã đạt được một số kết quả.

- Xây dựng kế hoạch quản lý đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn

huyện Đồng Xuân

Hàng năm, vào cuối quý IV, UBND huyện đều xây dựng kế hoạch hoạt

động của cơ quan cho năm sau dựa trên bản thảo đã được các cá nhân, phòng

ban đóng góp ý kiến.

Đối với hoạt động tôn giáo, UBND huyện đã giao phòng Nội vụ huyện

chủ trì, phối hợp với các phòng, ban, ngành có liên quan tham mưu xây dựng

2013, 2014, 2015, 2016 và các kế hoạch dài hạn từ 2010-2015, 2015-2020.

Vào cuối quý IV của năm kế hoạch, UBND huyện đã tổ chức hội nghị

tổng kết đánh giá và kiểm điểm kết quả thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch trong

năm và triển khai công tác cho năm tiếp theo.

- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện

kế hoạch công tác hàng năm như kế hoạch công tác năm: 2010, 2011, 2012,

+ Phòng Nội vụ tham mưu cho UBND huyện quản lý nhà nước đối với

56

Đồng Xuân

hoạt động tôn giáo. Hiện nay, phòng Nội vụ có 01 Phó trưởng phòng và 01

chuyên viên trực tiếp phụ trách mảng tôn giáo trên địa bàn huyện.

+ UBND huyện chỉ đạo 11 xã, thị trấn tiến hành kiện toàn, củng cố

tổ chức bộ máy, ban chỉ đạo tôn giáo; phân công cán bộ phụ trách công tác

tôn giáo.

Cán bộ làm công tác tôn giáo luôn có lập trường tư tưởng vững vàng,

phong cách mẫu mực trong mối quan hệ tiếp xúc và làm việc với các chức

sắc, chức việc tôn giáo, đảm bảo, bảo mật thông tin. Đoàn kết thống nhất

trong nội bộ, giúp nhau trong công tác, học tập và rèn luyện, yên tâm công

tác, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của đơn vị.

Những vấn đề xử lý cụ thể tại địa phương và những kiến nghị thực tiễn

góp phần giúp cán bộ làm công tác tôn giáo rút ra bài học kinh nghiệm quý

báu là vô cùng cần thiết. Đặc biệt là việc giải quyết đúng các nhu cầu theo

quy định của luật pháp đã góp phần giữ ổn định tình hình an ninh, chính trị và

trật tự xã hội của địa phương.

- Tổ chức bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn quản lý nhà nước cán bộ,

công chức làm công tác tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân

Trong 09 năm (2009-2017), UBND huyện đã tổ chức 21 đợt tập huấn

về công tác quản lý nhà nước về tôn giáo số lượt người tham gia là: 720 lượt

Ban tôn giáo - Sở Nội vụ tổ chức tại tỉnh 08 đợt 50 lượt người tham gia, chủ

yếu là cán bộ chủ chốt cấp huyện và cơ sở xã, thị trấn công chức chuyên môn

và các tổ chức đoàn thể; các chức việc và cán bộ cốt cán tôn giáo.

- Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm liên quan đến hoạt động tôn

giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân

người trong đó trường nghiệp vụ tôn giáo Chính phủ mở tham gia 07 người,

thứ 3 và thứ 5 hàng tuần để giải quyết đơn thư, khiếu nại của các cá nhân,

57

UBND huyện Đồng Xuân thành lập Ban tiếp công dân làm việc vào

tổ chức.

Riêng về hoạt động tôn giáo, trong thời gian qua xu hướng các cá nhân,

hộ gia đình liền kề các cơ sở thờ tự tôn giáo tự ý chuyển nhượng đất đai trái

phép cho tổ chức tôn giáo, các cơ sở thờ tự tôn giáo tự ý sửa chữa, cơi nới cơ

sở thờ tự vì vậy UBND huyện Đồng Xuân đã thành lập các đoàn kiểm tra liên

ngành bao gồm các phòng Nội vụ, Tư pháp, Tài nguyên & Môi trường, Công

an huyện theo các Quyết định số 1968/2014/QĐ-UBND về việc Thành lập

Đoàn khảo sát, đánh giá việc thực hiện Nghị định số 92/2012/NĐ-CP;

1969/2014/QĐ-UBND về việc thành lập Đoàn khảo sát, đánh giá hoạt động

các dòng tu Đạo Công giáo trên địa bàn huyện; Quyết định số

1970/2014/QĐ-UBND về việc thành lập Đoàn khảo sát tình hình vi phạm

pháp luật về đất đai liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành kiểm tra,

xác minh và đã tham mưu cho UBND huyện đưa ra biện pháp xử lý các vi

phạm.

Để đạt được kết quả trên là nhờ có sự thống nhất cao về chủ trương

chính sách của Đảng và Nhà nước từ huyện đến xã đối với công tác tôn giáo,

tập trung việc giải quyết mang tính đúng đắn các vấn đề về Tôn giáo là một

trong những nhân tố quyết định góp phần ổn định tình hình chính trị, trật tự

an toàn xã hội trên địa bàn huyện.

pháp luật, việc sinh hoạt, các lễ nghi của tôn giáo tại các cơ sở tôn giáo được

công nhận diễn ra theo những nội dung đã đăng ký hàng năm. Về các nhu cầu

khác chính đáng hợp pháp trong hoạt động tôn giáo của các cá nhân tổ chức

tôn giáo được cơ quan có thẩm quyền xem xét kịp thời, đảm bảo theo quy

định nên bà con tín đồ phấn khởi yên tâm sinh hoạt tôn giáo.

Hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn huyện cơ bản tuân thủ theo

tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường, thực hiện đường hướng

58

Huyện ủy, chính quyền và các đoàn thể chính trị-xã hội luôn quan tâm,

hành đạo và phương châm “tốt đời, đẹp đạo”.

Các sinh hoạt tôn giáo theo quy định của pháp luật phải đăng ký, thông

báo cho cơ quan QLNN đều được các tôn giáo cơ bản chấp nhận như tổ chức

các ngày lễ lớn, các hoạt động thực thi giáo luật như Lễ Phật đản, An cư kiết

hạ của Phật giáo, Lễ giáng sinh, Phục sinh của Công giáo, Tin lành, bồi linh

hiệp nguyện của Tin lành; tổ chức Đại hội, hội nghị tôn giáo; việc phong

phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc, việc sửa chữa xây dựng, mở rộng

cơ sở thờ tự; các chức sắc, tu sỹ tôn giáo đi nước ngoài...

Cùng với các hoạt động trên, các tổ chức tôn giáo còn có vai trò tích

cực trong việc vân động, hướng dẫn quần chúng tín đồ tham gia các chương

trình mục tiêu kinh tế - xã hội ở địa phương; xây dựng đời sống văn hóa; phát

huy tinh thần và những giá trị đạo đức phù hợp với truyền thống của dân tộc

và chủ trương của Đảng chính sách Pháp luật của Nhà nước như: phong trào

xóa đói, giảm nghèo; chăm sóc sức khỏe nhân dân, chăm sóc trẻ em mồ côi,

người tàn tật, người già không nơi nương tựa. Những việc làm đó đã góp phần

cùng với Đảng và Nhà nước ta chăm lo đời sống tinh thần, vật chất cho nhân

dân; đồng thời tạo được mối đoàn kết, gắn bó, hòa hợp giữa người có tôn giáo

với người không tôn giáo, giữa người thuộc tôn giáo này với người thuộc tôn

giáo khác mang ý nghĩa xây dựng thiết thực đạo với đời, là sợi dây kết nối

QLNN về tôn giáo tại huyện Đồng Xuân trong thời gian gần đây đã có

những chuyển biến tích cực, hoạt động của các tổ chức tôn giáo ngày càng đi

vào nề nếp, tuân thủ pháp luật. Quan hệ giữa các tổ chức tôn giáo với các cấp

chính quyền ngày càng tốt hơn, gần gũi và hợp tác chặt chẽ. Phần lớn tín đồ,

giáo dân phấn khởi trước những thành tựu của đất nước và tin tưởng vào

chính quyền, mặt trận, các đoàn thể quần chúng với các tổ chức tôn giáo.

đẹp đạo”, chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

59

đường lối đổi mới của Đảng, tích cực xây dựng cuộc sống hài hòa “tốt đời,

2.4.2. Hạn chế trong quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn

huyện Đồng Xuân

- Về xây dựng kế hoạch quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn

huyện Đồng Xuân

Hiệu quả và giá trị thực tiễn của các bản kế hoạch chưa đáp ứng

nhu cầu thực tế trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa

bàn huyện.

Mặc dù hàng năm phòng Nội vụ đã tham mưu cho UBND huyện

hoạch chưa đi sát với tình hình thực tế, mang tính chung chung, nhất là kế

ban hành kế hoạch công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, tuy nhiên kế

hoạch dài hạn 2010-2015; 2016-2020 vì vậy lúc triển khai thực hiện kế

hoạch còn nhiều vướng mắc.

Các kế hoạch hàng năm chưa mang tính giải quyết vấn đề, thiếu

tính tiên liệu, dự liệu mà chủ yếu dựa vào kế hoạch năm trước để xây

dựng kế hoạch năm sau.

Hầu hết các bản kế hoạch hàng năm chưa phân tích, làm rõ nguyên

nhân của vấn đề dẫn đến chưa đề xuất được phương án thực hiện có hiệu

quả.

- Về tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách đối với hoạt động tôn

Việc tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách của nhà nước về tôn

giáo trên địa bàn huyện hiệu quả chưa cao dẫn đến các cá nhân, tổ chức

tôn giáo chưa thực hiện đúng quy định.

- Về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn

huyện Đồng Xuân

giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân

huyện do phòng Nội vụ trực tiếp tham mưu cho UBND huyện, chưa có

60

Hiện nay, ở cấp huyện quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn

phòng chuyên môn chuyên làm công tác tham mưu về lĩnh vực tôn giáo

nên mức độ chuyên sâu chưa cao, hiệu quả tham mưu còn hạn chế. Tại các

xã, thị trấn trực tiếp quản lý là Phó Chủ tịch UBND các xã, thị trấn cùng

với sự tham mưu của các công chức kiêm nhiệm như công chức Văn

phòng, Văn phòng – Thống kê, Văn hóa - xã hội và sự hỗ trợ của đội ngũ

cán bộ cốt cán vùng tôn giáo.

Hầu hết các cán bộ, công chức làm công tác tham mưu cho chính

quyền quản lý nhà nước về tôn giáo đều có trình độ đại học, tuy nhiên

chưa có chuyên môn sâu rộng và thực sự am hiểu về hoạt động tôn giáo.

- Về tổ chức bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo

trên địa bàn huyện Đồng Xuân

Vấn đề bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về tôn giáo cho đội

ngũ cán bộ, công chức còn mang nặng tính hình thức, lồng ghép vào các

buổi hội nghị, đợt tập huấn ngắn ngày.

Các lớp tham gia bồi dưỡng với số lượng đông nhưng hiệu quả

không cao, chỉ mang tính chất giới thiệu, thông báo tình hình thiếu tính

chuyên nghiệp.

- Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm liên quan đến hoạt động

tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân

thanh tra, kiểm tra liên ngành tuy nhiên hiệu quả chưa cao.

Các đoàn làm việc còn mang tính hình thức, nể nang, chưa liên tục

và thiếu tính đột xuất nên vẫn còn tồn tại tình trạng vi phạm và tái diễn vi

phạm có liên quan đến vấn đề tôn giáo trên địa bàn

Mặc dù UBND huyện đã có các quyết định thành lập đoàn khảo sát,

2.4.3. Nguyên nhân của hạn chế trong quản lý nhà nƣớc về tôn giáo

Một là, Hệ thống văn bản pháp luật - hành lang pháp lý để tiến hành

61

trên địa bàn huyện Đồng xuân

hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo chưa thật sự hoàn thiện, vẫn còn có

những bât cập trong thực tiễn khi áp dụng.

Hai là, Hoạt động phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về về tôn

với nhau, giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức chính trị xã hội

vẫn còn mang tính hình thức, phối hợp cứng nhắc. Sự phối hợp thiếu tính linh

hoạt, khi xảy ra vụ việc thường đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau. Mối quan hệ

phối hợp, hỗ trợ giữa UBND huyện với UBND các xã, thị trấn, giữa các

phòng, ban chuyên môn với UBND xã, thị trấn còn mang tính áp đặt, quyền

uy, mệnh lệnh bắt buộc. Phần lớn mối quan hệ này chỉ mang tính một chiều là

UBND huyện giao nhiệm vụ cho UBND xã, thị trấn phải thực hiện đôi lúc

chưa đánh giá đúng kiến nghị đề xuất và phản hồi từ cấp xã.

Ba là, bộ máy làm công tác tôn giáo của huyện chưa được định hình về

mặt tổ chức kéo theo sự thay đổi về nhân sự nên không được chuyên môn hóa

lâu dài. Quyền hạn, nhiệm vụ, chức danh không được xác định rõ và tương

xứng với công việc. Bộ máy của Phòng Nội vụ huyện hiện nay tuy đã được

kiện toàn theo hướng chuyên sâu nhưng vẫn chưa phát huy tác dụng. Do đó,

đội ngũ cán bộ vừa thiếu vừa yếu.

Bốn là, Công tác dân vận chưa thật sự được đặt lên hàng đầu, chưa thật

sự trở thành “cốt lõi” của công tác tôn giáo vì vậy chưa nắm được thế trận

điều kiện để đi thực tế cơ sở, chủ yếu nắm tình hình thông qua cán bộ cấp xã

báo cáo lên.

Năm là, Chưa thực hiện tuyên truyền, giáo dục một cách hiệu quả, nhất

là chưa mở rộng hình thức tuyên truyền trực tiếp mà chủ yếu là qua các

phương tiện thông tin đại chúng do vậy tính hiệu quả của công tác dân vận

lòng dân. Mặt khác, do lực lượng cán bộ làm công tác còn mỏng, không có

gian qua, nhân tố quan trọng này chưa được chú ý một cách chủ động và thiếu

62

chưa cao. Chưa phát huy tốt vai trò của các già làng, trưởng buôn. Trong thời

tính chiến lược, chủ yếu khi sự việc xảy ra rồi mới nhờ đến sự hỗ trợ của các

già làng, trưởng buôn.

Tiểu kết chƣơng 2

Ở Chương 2 học viên tiếp tục đi vào nghiên cứu và làm rõ một số vấn

đề trọng tâm của đề tài.

Học viên đã giới thiệu một cách khái quát về lịch sử hình thành, vị trí

địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú

Yên qua đó để thấy được những thuận lợi và khó khăn trong quản lý nhà nước

nói chung và quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn nói riêng.

Trong chương này, học viên đã nêu khái quát lịch sử hình thành của

đạo Phật giáo, đạo Công giáo, đạo Tin Lành và các hiện tượng tôn giáo mới;

quá trình du nhập và phát triển của các tôn giáo lớn này tại Việt Nam. Từ đó,

tác giả đã nêu một số đặc điểm và tình hình hoạt động tôn giáo trên địa bàn

huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, đánh giá thực trạng hoạt động tôn giáo trên

địa bàn huyện trong những năm vừa qua. Đó là cơ sở, căn cứ để có những giải

pháp quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện trong

Trọng tâm của Chương 2, học viên muốn làm rõ thực trạng hoạt động

tôn giáo trên địa bàn và quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện

Đồng Xuân đó là:

- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch QLNN về tôn giáo trên địa

bàn huyện Đồng Xuân.

thời gian tới được hoàn thiện hơn.

Đồng Xuân.

63

- Tổ chức thực hiện thể chế QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện

- Tổ chức thực hiện chính sách về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng

Xuân.

- Tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân

- Tổ chức bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trên địa

bàn huyện Đồng Xuân.

- Thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện

Đồng Xuân.

Bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích, thống kê,

thực nghiệm, nghiên cứu tài liệu, phương pháp chuyên gia. Học viên đã phân

tích thực trạng QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú

Yên. Từ thực trạng trên tác giả đã đánh giá kết quả đạt được và những hạn

chế trong quản lý nhà nước về tôn giáo. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã phân

tích và chỉ ra một số nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế.

Từ những kết quả phân tích ở chương 2, là cơ sở, tiền đề để học viên

64

tiếp tục nghiên cứu vấn đề tại chương 3.

CHƢƠNG 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ

NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐỒNG XUÂN,

TỈNH PHÚ YÊN

3.1. Dự báo xu hƣớng phát triển các tôn giáo

3.1.1. Dự báo xu hướng hoạt động tôn giáo ở Việt Nam

Quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng

khoa học công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin đem lại nhiều sự

thay đổi trong quá trình hội nhập và quan hệ quốc tế. Các nước sẽ ngày càng

mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực

kinh tế - văn hóa - xã hội. Điều đó tạo ra sự đan xen và hội nhập văn hóa,

kinh tế giữa các quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, các tôn giáo

có cơ hội, điều kiện khách quan để thâm nhập và lan tỏa ra khắp thế giới.

Trong xã hội tương lai sẽ khó có thể cưỡng lại sự cải đạo, bỏ tôn giáo này

theo tôn giáo kia, hoặc cùng một lúc tin theo nhiều tôn giáo của người dân

trước một “siêu thị tôn giáo” đa dạng và phong phú.

Cùng với quá trình dân chủ hoá xã hội, sự phát triển của tự do cá nhân

trong xã hội mới, xu hướng thế tục hoá, dân tộc hoá và dân chủ hoá trong

có tổ chức chặt chẽ và giáo quyền mạnh mang tính toàn cầu như Vatican.

Để thích nghi, tồn tại và phát triển phù hợp với truyền thống, bản sắc

văn hoá của các dân tộc, tránh nguy cơ xung đột văn hoá, các tổ chức tôn

giáo sẽ còn chủ động dân tộc hoá quan điểm thần học, giáo lý và nghi thức

sinh hoạt tôn giáo của mình. Để khẳng định tính dân tộc của tôn giáo, tránh

các tôn giáo tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, kể cả đối với những tổ chức tôn giáo

65

các xu hướng tha hoá, vọng ngoại, các quốc gia dân tộc đều thông qua các

chính sách, pháp luật để điều tiết và dân tộc hoá các nội dung, nghi thức,

phong cách diễn tả và thể hiện đức tin của các tôn giáo, thậm chí cả giáo lý,

giáo luật của các tôn giáo.

Các tôn giáo trên thế giới cũng như ở Việt Nam sẽ khai thác xu thế toàn

cầu hoá những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại,

công nghệ thông tin để đẩy mạnh các hoạt động truyền giáo và phát triển tín

đồ trong quốc gia dân tộc, trong khu vực và trên phạm vi toàn thế giới. Trong

đó, đáng chú ý là đạo Tin Lành, do được tổ chức tốt, đạo Tin lành truyền giáo

quyết liệt và tích cực, sử dụng các phương tiện, phương pháp truyền giáo tiên

tiến hiện đại, đã tỏ ra nổi bật so với Công giáo và các tôn giáo khác. Vì vậy

mà ở Việt Nam, đạo Tinh Lành đã có sự phát triển nhanh chóng, gia tăng số

lượng tín đồ một cách đột biến trong những năm gần đây, nhất là trong những

vùng đô thị, khu công nghiệp, các vùng nông thôn hẻo lánh, vùng đồng bào

dân tộc thiểu số, đời sống còn nhiều khó khăn.

3.1.2. Dự báo xu hƣớng hoạt động tôn giáo ở tỉnh Phú Yên

Hoạt động tôn giáo ở tỉnh Phú Yên do nhận thức ngày càng rõ của đại

bộ phận tín đồ, chức sắc tôn giáo về đường lối, chính sách tự do tín ngưỡng,

ngưỡng, tôn giáo được bổ sung, hoàn thiện; công tác vận động quần chúng và

công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, về an ninh, trật tự ở cơ sở

ngày càng được chú trọng, hướng các tôn giáo theo hoạt động “đồng hành

cùng dân tộc”. Tuy nhiên, còn có những phần tử xấu, thậm chí phản động

trong các tôn giáo lợi dụng các vấn đề nổi cộm trong hoạt động tôn giáo,

trong quan hệ giữa chính quyền và nhân dân địa phương để kích động, gây

tôn giáo của Đảng và nhà nước ta. Hệ thống quy phạm pháp luật về tín

66

rối, hậu thuẫn cho các phần tử chống đối ở trong nước và nước ngoài. Biểu

hiện cụ thể là,

Tình trạng chuyển nhượng, hiến tặng đất, mở rộng, cơi nới cơ sở thờ

tự, xây dựng nhà thờ, nhà nguyện trái pháp luật diễn ra ở nhiều phương. Việc

dựng tượng Thánh, tượng Chúa, tượng Phật, trên đất công vẫn còn diễn ra ở

một số nơi. Các hoạt động tôn giáo trái pháp luật. Tình trạng chức sắc

“phong chui”, “tự nhận” tuy giảm nhưng vẫn tiếp diễn; hoạt động in ấn, xuất

bản, nhập từ nướcngoài và lưu hành kinh sách, ấn phẩm tôn giáo trái phép

vẫn diễn ra; hiện tượng giảng đạo, truyền đạo trái pháp luật tiếp tục diễn ra ở

phải được tăng cường trong mọi hoàn cảnh.

một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Do vậy, quản lý nhà về tôn giáo cần

3.1.3. Dự báo xu hƣớng hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện

Đồng Xuân

Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa cùng với việc phát triển và áp

dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào đời sống hiện nay nhất là công

nghệ thông tin đem lại nhiều thay đổi trong quá trình hội nhập và quan hệ

quốc tế. Các nước ngày càng mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác, phụ thuộc

lẫn nhau trong nhiều lĩnh vực: kinh tế - văn hóa – chính trị. Trong xu thế đó,

các tổ chức tôn giáo cũng tăng cường hoạt động nhằm thu hút sự chú ý, mở

rộng ảnh hưởng, củng cố niềm tin tín đồ tôn giáo của mình. Bên cạnh đó là

Do vậy, quản lý nhà nước về tôn giáo cần phải được tăng cường trong mọi

hoàn cảnh.

Dự báo trong thời gian tới, trên địa bàn tỉnh Phú Yên nói chung và huyện

Đồng Xuân nói riêng, hoạt động tôn giáo sẽ có nhiều diễn biến phức tạp, các

loại tôn giáo mới, tôn giáo lớn có xu hướng phát triển mạnh trên địa bàn.

sự xuất hiện và hoạt động có tính phức tạp của nhiều hình thức tôn giáo mới.

giáo mình. Tín đồ các tôn giáo như Công giáo, Phật giáo, Tin lành luôn có

67

Xu hướng các tôn giáo lớn có nhu cầu mở rộng cơ sở thờ tự của tôn

nhu cầu mở rộng khuôn viên, cơi nới cơ sở thờ tự tôn giáo. Diễn biến phức

tạp là tín đồ đạo Công giáo tự chuyển nhượng trái phép đất đai liền kề nhà

thờ, nhà nguyện để mở rộng khuôn viên, hoạt động xây mới, sửa chữa cơ sở

thờ tự không thông báo và không làm hồ sơ xây dựng.

Xu hướng tách, lập xứ, họ đạo mới của tín đồ giáo dân, các hoạt động

tôn giáo diễn ra không đăng ký hoặc tổ chức vượt ra ngoài quy mô và hình

thức đăng ký.

Nhìn chung, các tôn giáo ở huyện Đồng Xuân vẫn giữ sinh hoạt ổn định,

nhưng hoạt động tôn giáo sẽ sôi động và "sầm uất" hơn, nhất là qua các hoạt

động xã hội từ thiện của tôn giáo. Sinh hoạt tôn giáo nhìn chung sẽ tuân thủ

chính sách, pháp luật và theo đường hướng "Tốt đời, đẹp đạo", "đồng hành cùng

dân tộc", từng bước đi vào ổn định và đây là xu thế hướng đạo.

3.2. Quan điểm của Đảng và định hướng của ngành tôn giáo, của tỉnh

Phú Yên về tôn giáo

3.2.1. Quan điểm của Đảng ta về tôn giáo

Tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm, có liên quan đến nhiều lĩnh vực như

văn hóa, phong tục tập quán, chính trị, tư tưởng. Do đó, Đảng và Nhà nước ta

luôn quan tâm đến công tác tôn giáo, nhất là trong tình hình mới hiện nay.

Vấn đề tôn giáo được Đảng và Nhà nước giải quyết một cách thỏa

luật và đúng với chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước.

Chính vì thế, thu hút được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng nhân dân. Quan

điểm của Đảng về tôn giáo được thể hiện nhất quán trong các văn kiện Đại

hội Đảng, gần đây nhất là văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, cụ thể như sau:

- Quan điểm thứ nhất: tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn

đáng, có lý, có tình, đảm bảo cho các tôn giáo hoạt động đúng giáo lý, giáo

Đây là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, được nêu ra

68

giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.

và tái khẳng định nhiều lần qua các kỳ Đại hội Đảng. Trong Chỉ thị của

Thường vụ Trung ương về thành lập Hội Phản đế đồng minh, ngày

18/11/1930, Đảng ta đã khẳng định: "Tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tổ

chức, tự do đi lại trong và ngoài nước, tự do tín ngưỡng, tự do khai hóa". Đến

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng vào tháng 02 năm 1951 cũng

ghi: “Đối với tôn giáo: tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng cho đến

nay, Đảng ta đã trải qua 12 kỳ Đại hội, trong đó có 6 kỳ Đại hội của thời Đổi

mới, quan điểm trên không hề có sự thay đổi.

- Quan điểm thứ hai: chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với

những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại

khối đoàn kết dân tộc.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng không

chỉ là quyền con người mà còn là thành quả của cuộc đấu tranh vì dân chủ của

nhân loại.

Mọi thời kỳ lịch sử ở tất cả các quốc gia dù có chế độ chính trị thế nào

thì nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo vẫn luôn

song hành với nhau. Có tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng mới có

thể chống được âm mưu lợi dụng tôn giáo, ngược lại có chống việc lợi dụng

tín ngưỡng, tôn giáo mới có thể làm cho đồng bào có đạo được quyền tự do

định rõ quan điểm trên của Đảng ta.

tín ngưỡng, tôn giáo thực sự. Trong Báo cáo Chính trị Đại hội XI đã khẳng

- Quan điếm thứ ba: tôn trọng và phát huy những giá trị đạo đức, văn

hóa tốt đẹp của các tôn giáo.

Trong Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 1990, lần đầu tiên

Đảng ta thừa nhận đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây

nhận: “Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và

69

dựng xã hội mới. Đến Chỉ thị 37-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 1998, công

khuyến khích phát huy". Đến Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương

khoá VIII còn nêu cả mục 8 về “chính sách văn hoá đối với tôn giáo”. Và Đại

hội IX, Đảng ta chính thức khẳng định trong Báo cáo Chính trị: “Phát huy

những giá trị tốt đẹp về văn hoá và đạo đức của tôn giáo”. Một lần nữa, tại

Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhắc lại quan điểm này: “Phát

huy nhũng giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”.

Đại hội XI, Đảng ta không chỉ nêu: “Phát huy những giá trị đạo đức,

văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo” mà còn cần “tôn trọng” những giá trị ấy.

Vấn đề này, lần đầu tiên đuợc đưa vào văn kiện Đại hội XI, mà trước đó tinh

thần ấy chỉ thấy trong nguyên tắc đầu tiên của Chỉ thị 37-NQ/TW của Bộ

Chính trị năm 1998: “Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo

được tôn trọng và khuyến khích phát huy”.

Thông qua sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người, tín ngưỡng,

tôn giáo đã tô đượm cho văn hóa dân tộc nhiều sắc màu. Đảng ta chủ trương:

Bảo tồn, phát huy những giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân

tộc. Sự tồn tại của tôn giáo cũng có nghĩa là một trong biểu hiện bảo lưu văn

hóa, mà văn hóa vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển con người.

Không thế xem nhẹ những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể đã từng ẩn

chứa và thể hiện qua tín ngưỡng, tôn giáo.

đạo đức và nhân văn sâu sắc. Tôn giáo nào cũng mang tính trừ ác hướng

thiện, khuyên con người làm lành, tránh dữ; góp phần khẳng định “cái đẹp,

đồng thời lên án cái xấu, cái ác”. Chính điều đó đã góp phần ngăn chặn, hạn

chế những ham muốn, dục vọng ở con người - nhất là khi xã hội có xu hướng

tôn sùng vật chất, khuyến khích tiêu thụ, đam mê đồng tiền thái quá như ở

Những điều cấm kỵ, răn dạy trong giáo lý các tôn giáo đều mang giá trị

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, bên cạnh những giá trị tốt đẹp về văn

70

một số quốc gia hiện nay.

hóa và đạo đức có trong tôn giáo, thì cũng cần phải lên án hiện tượng phi

nhân tính, phản văn hóa trong hoạt động tôn giáo đang làm vẩn đục bầu sinh

hoạt văn hóa tâm linh của con người. Những biểu hiện hoạt động tín ngưỡng,

tôn giáo cuồng si, thái quá gần đây cần phải hạn chế, loại bỏ.

- Quan điểm thứ tư: động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo

sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc.

Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) có ghi:

"Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách

nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống "tốt đời, đẹp đạo". Đại hội IX, Đảng ta

nhắc lại: Đồng bào theo đạo và chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách

nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời đẹp đạo”. Đến Đại hội X nhấn

mạnh trách nhiệm của Đảng và chính quyền là: "Động viên, giúp đỡ đồng bào

theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống "tốt đời, đẹp đạo". Đại XII tái khẳng

định quan điếm này và có bổ sung thêm đối tượng nữa cần động viên là “các

tổ chức tôn giáo”

Tín đồ và chức sắc các tôn giáo vừa là người có đạo, đồng thời cũng là

công dân. Họ có quyền lợi và nghĩa vụ như mọi công dân khác và trong họ

đều mong muốn được sống “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa” gắn liền với “yêu

nước” để cho "nước vinh, đạo sáng".

- Quan điểm thứ năm: quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức

tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được

Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật.

Trước khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo Nhà nước ta đã công nhận

16 tổ chức tôn giáo của 6 tôn giáo. Từ khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo

cho các tổ chức tôn giáo hoạt động cho 16 tổ chức của 6 tôn giáo nữa .

71

Nhà nước ta đã tăng cường xem xét công nhận và cấp giấy phép hoạt động

Như vậy, cho đến năm 2012, Nhà nước ta đã công nhận cho 37 tổ chức

của 12 tôn giáo. Nhìn chung, sau khi các tôn giáo được công nhận, bà con tín

đồ đều an tâm, phấn khởi sống “tốt đời, đẹp đạo”. Mọi người đều thấy rõ

được quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng và bảo đảm

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân và các tổ chức tôn giáo đều

hoạt động trên tinh thần ích nước lợi dân, tuân thủ pháp luật, về các tổ chức

tôn giáo, Đại hội Đảng lần thứ X mới chỉ nêu: “Các tổ chức tôn giáo họp pháp

hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ". Trong Báo cáo Chính trị

ở Đại hội XII nêu rõ: “Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn

giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều ỉệ của các tổ chức tôn giáo đã được

Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật”. Điều này thể hiện tầm

nhìn mới của Đảng đối với các tổ chức tôn giáo hợp pháp.

- Quan điểm thứ sáu: tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín

ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của

đất nước.

Đại hội IX lần đầu nêu, từng bước hoàn thiện luật pháp về tín ngưỡng,

tôn giáo. Đại hội XI nêu rõ là "tiếp tục" thay cho "từng bước hoàn thiện”

không chỉ luật pháp mà cả chính sách về tín ngưỡng và tôn giáo. Việc tiếp tục

hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo được đặt ra thường

về hiện tượng tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng ta.

Để cho những quan điểm chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống, mỗi

khi Đảng ta đưa ra những quan điểm về tôn giáo thì Nhà nước kịp thời thể chế

hóa bằng những văn bản pháp quy. Do biến đổi của thực tiễn, do phát triển

của tư duy lý luận mà quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật về tín

xuyên, liên tục. Đây là điểm mới quan trọng thể hiện cách tư duy biện chứng

pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai

72

ngưỡng, tôn giáo cũng luôn vận động. Vì vậy, tiếp tục hoàn thiện chính sách,

đoạn mới của đất nước như một quy luật của sự phát triển.

Vấn đề tôn giáo được nêu trong các văn kiện Đại hội XI, XII đã thể

hiện một lộ trình đổi mới tư duy của Đảng trên lĩnh vực tôn giáo. Có những

quan điếm được nêu lên từ các kỳ Đại hội trước mà Đại hội XI tái khẳng định,

có những quan điếm phát triển lên, nhưng cũng có những điểm mới được bổ

sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn.

3.2.2. Định hướng của ngành tôn giáo và của tỉnh Phú Yên về tôn giáo

Nhằm phát huy lợi thế về vị trí địa lý, có hệ thống giao thông đường

bộ, đường hàng không thuận lợi kết nối với các vùng kinh tế trọng điểm, các

tỉnh miền Trung, Tây Nguyên, Nam Bộ và cả nước; có tiềm năng lớn về tài

nguyên: đất, rừng, biển, thuỷ điện, du lịch, lực lượng lao động. Năm 2016,

Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc đến thăm Phú Yên và nhận xét như sau " Phú

Yên như một cô gái đẹp đang ngủ quên", qua đó ta thấy được tiềm năng lớn

của tỉnh Phú Yên vì vậy cần phấn đấu xây dựng Phú Yên phát triển nhanh và

bền vững. Trong văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ

XVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã khẳng định phương hướng chung của toàn

Đảng bộ là:

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy

sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ gắn với sản xuất nông

nghiệp chất lượng cao, quy mô lớn, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Kết

hợp chặt chẽ phát triển kinh tế-xã hội với bảo vệ môi trường sinh thái; thực

hiện tốt chính sách an sinh xã hội; đảm bảo quốc phòng - an ninh, giữ vững

trật tự - an toàn xã hội.

Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa; chuyển

Yên nói chung đã đưa ra các định hướng về tôn giáo như sau:

73

Để đáp ứng các yêu cầu trên các ngành nói riêng và UBND tỉnh Phú

Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của

- Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm của hệ thống

Nhà nước về tôn giáo

chính trị từ cấp huyện đến các xã, thị trấn về vấn đề tôn giáo, chính sách tôn

giáo và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, cụ thể:

- Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Nghị định số: 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 của Chính phủ hướng

dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.

- Chỉ thị số: 01/2005/CT-TTg ngày 04/02/2005 về một số công tác đối

với Tin lành.

- Nghị định số: 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ quy

định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (Thay thế

Nghị định số: 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005).

Cần nâng cao nhận thức và hiểu biết trên cơ sở khoa học cho đội ngũ

cán bộ, đảng viên và đông đảo quần chúng nhân dân, tín đồ tôn giáo về nguồn

gốc và quá trình phát triển của các tôn giáo lớn trên địa bàn. Đồng thời, nắm

rõ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước về vấn

đề tín ngưỡng, tôn giáo. Trên cơ sở đó đề ra những giải pháp phù hợp trong

quản lý nhà nước về tôn giáo, đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của tín

Bên cạnh đó, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm những

hành vi vi phạm pháp luật, các hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá chế

độ, chống đối nhà nước và chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Cần làm cho mọi

người hiểu rằng: “trong một xã hội đa dân tộc, đa tôn giáo và đa văn hóa thì

nhà nước cần có một chính sách tôn giáo đúng đắn, vừa đảm bảo quyền tự do

đồ tôn giáo.

phải tôn trọng, vừa hài hòa mục tiêu đảm bảo trật tự xã hội, an ninh quốc gia,

74

tôn giáo, tín ngưỡng của người dân như một nhu cầu tâm linh cá nhân cần

chủ quyền dân tộc. Việc đất nước có nhiều tôn giáo không phải là lý do chính

dẫn tới mất nước, vấn đề là ở chỗ cần có biện pháp thích đáng để trừng trị

những kẻ phản nghịch trong tôn giáo. Vấn đề thích nghi và hài hòa tôn giáo -

dân tộc không thể nóng vội giải quyết một sớm một chiều. Giải quyết vấn đề

tôn giáo cần phải dựa trên cơ sở đặc điểm tôn giáo, dân tộc, yêu cầu của thời

đại. Giải quyết tốt vấn đề tôn giáo luôn có nghĩa lý luận và thực tiễn quan

trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến khối đại đoàn kết dân tộc, đến sự thành bại của

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tổ

chức xã hội, thông qua nhiều hình thức làm tốt công tác tuyên truyền, phổ

biến, quán triệt đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà

nước. Định hướng cho các hoạt động tôn giáo tuân thủ pháp luật và phù hợp

với lợi ích chung của dân tộc. Tăng cường giáo dục truyền thống yêu nước, ý

thức bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước. Qua đó làm cho các tôn giáo gắn

bó với dân tộc, với đất nước với chế độ, hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc; cảnh giác và đấu tranh ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu lợi

dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá nhà nước,

chống phá chế độ.

Các đoàn thể, các tổ chức xã hội cần tập trung đổi mới nội dung hoạt

cho phù hợp với từng vùng miền, từng dân tộc, phải hướng các hoạt động đó

vào các nhu cầu đời sống thiết thực của quần chúng nhân dân, như đẩy mạnh

các phong trào xóa đói giảm nghèo, hoạt động đền ơn đáp nghĩa, từ thiện

nhân đạo.

Tôn trọng quyền tự do tôn giáo của công dân, tạo điều kiện để các tín

động và phương thức tuyên truyền. Phải đa dạng hóa các hình thức hoạt động

tự, an ninh

75

đồ tôn giáo tham gia các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn trật

“Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín

ngưỡng theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo

bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ

pháp luật, bình đẳng trước pháp luật”.

Các tín đồ tôn giáo được sinh hoạt bình thường, có nơi thờ tự, kinh sách

và đồ dùng việc đạo. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn

giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật; không được lợi dụng tôn

giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người

dân theo đạo

Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức

truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp, pháp luật. Nghiêm

cấm sự phân biệt đối xử với công dân với lý do tín ngưỡng, tôn giáo, đồng

thời nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê

tín dị đoan, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm

phạm an ninh quốc gia.

Cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tiếp tục tập

trung lãnh đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển

kinh tế xã hội gắn với củng cố quốc phòng – an ninh của Đảng, nhà nước.

Quan tâm chăm lo đến đời sống văn hóa - tinh thần của đồng bào các dân tộc

hội truyền thống và giao lưu văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của

từng dân tộc, tôn giáo; đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong đồng

bào theo đạo; vận động chức sắc, chức việc tôn giáo “sống tốt đời, đẹp đạo”,

tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn

xã hội trên địa bàn.

thiểu số, tôn giáo; tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào dân tộc tổ chức các lễ

dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công

76

Bên cạnh đó, để làm tốt công tác tôn giáo, cần phải xác định công tác

chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sỹ

lực lượng vũ trang.

Công tác dân vận trong tình hình mới phải phát huy sức mạnh đại đoàn

kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa

Đảng, Nhà nước với nhân dân, tạo động lực để nhân dân đóng góp tích cực

vào phát triển kinh tế - xã hội. Làm tốt công tác dân tộc, tôn giáo, công tác

đối với người Việt Nam ở nước ngoài; củng cố, tăng cường quốc phòng, an

ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ

của Tổ quốc.

3.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về tôn giáo trên địa

bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên

3.3.1. Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn

huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

Việc hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về tôn giáo cần đẩy nhanh

việc củng cố, hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về tôn giáo. Trước hết, cần

phải nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về tôn giáo, tín

ngưỡng theo tinh thần của Hiến pháp 2013 và các văn bản chỉ đạo về công

tác tôn giáo, tín ngưỡng của Trung ương. Theo đó, tôn giáo, tín ngưỡng là

nhu cầu về tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân, sẽ tiếp tục tồn

công dân Việt Nam trong khối đại đoàn kết dân tộc. Tôn giáo, các tổ chức tôn

giáo là những thực thể xã hội đã và đang thích ứng với CNXH; có khả năng

và quyền tham gia tích cực vào nhiều lĩnh vực xã hội, góp phần xây dựng và

phát triển đất nước.

Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định công

tại trong quá trình xây dựng CNXH. Chức sắc, tín đồ tôn giáo là đồng bào, là

tộc dân chủ, chính sách “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” đã góp phần

77

tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa quan trọng. Trong cách mạng dân

to lớn vào sự nghiệp đoàn kết toàn dân kháng chiến, giành độc lập thống nhất

hoàn toàn đất nước. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, vấn đề tôn giáo có

những nội dung mới. Năm 1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 24 về công tác

tôn giáo; năm 2003, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 25-

NQ/TW về công tác tôn giáo.

Thực hiện các Nghị quyết trên, Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội,

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nội vụ đã thể chế các văn bản quy

phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và cơ cấu, tổ

chức của các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tôn giáo.

Có thể nói, quá trình thể chế hóa Nghị quyết Trung ương 7, Khóa IX về

công tác tôn giáo đã đem lại nhiều đổi mới quan trọng trong QLNN về tôn

giáo. Nhiều văn bản pháp luật được ban hành trong thời kỳ này đã tạo thành

hành lang pháp lý quan trọng giúp cho QLNN về tôn giáo đạt hiệu quả. Tuy

nhiên, cùng với thời gian, cùng với sự phát triển đa dạng của các hoạt động

tín ngưỡng, tôn giáo, các văn bản pháp luật bộc lộ những tồn tại, bất cập là

không thể tránh khỏi. Để khắc phục tình trạng trên, việc nghiên cứu một cách

hệ thống các quan điểm, chính sách, pháp luật về tôn giáo trên cơ sở đó rút ra

được những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế để từ đó có những kiến

nghị, giải pháp hoàn thiện vấn đề này là một yêu cầu cấp bách hiện nay.

3.3.2. Hoàn thiện chính sách về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng

Xuân, tỉnh Phú Yên

Hiện nay, Đảng và nhà nước đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến

hoạt động tôn giáo như: Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 3013; Văn kiện

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đến lần thứ XII; Nghị quyết số: 24-NQ/TW

ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình

ương về công tác tôn giáo trông tình hình mới; Nghị định số: 26/NĐ-CP ngày

78

hình mới; Chỉ thị số: 37- CT/TW ngày 02/7/1998 của Ban Chấp hành Trung

19/4/1999 của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo; Nghị quyết số: 25-

NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 khóa IX về

công tác tôn giáo; Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (2004); Nghị định số:

22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 của Chính phủ, Hướng dẫn thi hành một

điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số: 01/2005/CT-TTg của Thủ

tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin lành; Nghị định số:

92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 của Chính phủ Quy định chi tiết và biện

pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.

rà soát lại, xác định những văn bản phù hợp, bãi bỏ những văn bản trên thực

Tuy nhiên, các văn bản trên có một số trùng lặp, do vậy cần thiết phải

tế không còn phù hợp. Hiện nay, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo là văn bản

luật có tính pháp lý cao nhất và cụ thể nhất trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn

giáo ở nước ta. Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đã được ban hành nhưng

phải đến ngày 01/01/2018 mới có hiệu lực.

Các văn bản pháp luật nêu trên đã đem lại cho ngành quản lý nhà nước

về tôn giáo nhiều kết quả đáng ghi nhận, bên cạnh đó cũng đặt ra nhiều vấn

đề cần phải tiếp tục quan tâm hoàn thiện, đó là:

Thứ nhất, về tình hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay còn có

những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định.

tôn giáo mới; sự mở rộng các hoạt động truyền giáo; sự hình thành các hiện

tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới; vấn đề xung đột tôn giáo; vấn đề truyền đạo

trái phép; khiếu kiện và tranh chấp liên quan đến đất đai và cơ sở vật chất của

tôn giáo; vấn đề mâu thuẫn nội bộ trong các tôn giáo; về mô hình quản lý nhà

nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới. Trong khi đó công

Việc phục hồi các loại hình tín ngưỡng; sự thâm nhập của các tổ chức

Thứ hai, về hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực tín

79

tác tôn giáo chậm đổi mới nội dung và phưong thức hoạt động.

ngưỡng, tôn giáo trước yêu cầu đổi mới QLNN đối với lĩnh vực tôn giáo.

Trước sự phục hồi, phát triển nhanh chóng, phức tạp của các tôn giáo

và âm mưu lợi dụng tôn giáo, nhân quyền chống phá nước ta, trong khi đó

pháp luật về tôn giáo đã bộc lộ những bất cập như một số nội dung chưa được

quy định trong pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; còn có cách hiểu và vận

dụng khác nhau đối với một số nội dung quy định trong pháp luật về tín

ngưỡng, tôn giáo; một số quy định trong pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo

còn thiếu cụ thể; một số quy định trong pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo

chưa phù hợp với thực tiễn, không có tính khả thi hoặc đến nay không còn

phù hợp với thực tiễn; pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo còn thiếu các biện

pháp chế tài. Những thiếu sót đó là một trong những nguyên nhân gây ra sự

lúng túng, thiếu thống nhất khi xử lý đối với hoạt động tôn giáo vi phạm pháp

luật, làm hạn chế hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này.

Để hoàn thiện QLNN về tôn giáo, trong thời gian tới nhà nước cần nhanh

chóng xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn

giáo theo tinh thần của Hiến pháp 2013. Luật Tín ngưỡng tôn giáo đã được

ban hành vì vậy cần nhanh chóng xây dựng và ban hành các nghị định, thông

tư hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; rà soát, đồng bộ các

quy định có liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng trong các văn bản quy phạm

ngưỡng trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế vào

các chính sách, chế tài quản lý, khắc phục các lỗ hổng về pháp lý, tạo tâm lý

an lạc trong đồng bào có đạo, đồng thời bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước.

Bổ sung các quy định cụ thể về phân công trách nhiệm, phối hợp công tác

giữa các cấp, các ngành trong công tác tôn giáo. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách

pháp luật; tập hợp đầy đủ các nội dung biểu hiện đa dạng của tôn giáo, tín

thủ tục hành chính trong lĩnh vực tôn giáo.

3.3.3. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giáo dục các quan điểm,

80

chủ trƣơng của Đảng, chính sách của Nhà nƣớc về tôn giáo cho đồng bào

có đạo

Trong hệ thống quan điểm về tôn giáo, Đảng ta đã khẳng định rằng:

“Cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng”. Trong thời

gian qua, việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức về các chủ trương, chính sách

của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với tôn giáo chỉ được chú trọng nhiều

đối với đội ngũ cán bộ. Trong thời gian tới, hoạt động này cần được đẩy mạnh

hơn nữa, nhất là trong quần chúng nhân dân, trong các chức sắc, nhà tu hành,

đồng bào có đạo cũng như không có đạo để đồng bào hiểu rõ hơn và thật sự

tin tưởng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, xây

dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân.

- Nội dung tuyên truyền là các vấn đề cơ bản như tư tưởng Hồ Chí

Minh về tôn giáo, tín ngưỡng; các quan điểm, chủ trương của Đảng cụ thể

như nghị quyết Trung ương 7 khóa IX về tôn giáo; các văn bản pháp luật của

Nhà nước như Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo và Nghị định 92 hướng dẫn thi

hành, chỉ thị 01/2005/CT - TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác

đối với đạo Tin lành.

- Hình thức tuyên truyền có thể vận dụng thông qua các phương tiện

thông tin đại chúng, trực tiếp trong các buổi sinh hoạt cộng đồng dân cư, tổ

hành và tín đồ tôn giáo để chính họ tuyên truyền cho tín đồ của họ.

Tuy nhiên, chính thái độ, hành xử đúng mực, có lý có tình của cán bộ

công chức của các cơ quan nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ công tác tôn

giáo, trong quan hệ với chức sắc, nhà tu hành và tín đồ tôn giáo chính là biện

pháp tuyên truyền có ý nghĩa nhất cho tất cả mọi người thật sự tin tưởng vào

dân phố và hữu hiệu nhất là tuyên tuyền, giáo dục cho các chức sắc, nhà tu

chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo.

3.3.4. Kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển đội ngũ cán bộ, công

81

chức làm công tác tôn giáo các cấp trên địa bàn huyện Đồng Xuân

Làm tốt công tác quy hoạch, xây dựng và kiện toàn tổ chức bộ máy làm

công tác quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp, bắt đầu từ cơ sở. Trước mắt,

thực hiện việc bố trí cán bộ, công chức cơ sở có năng lực, có trình độ chuyên

môn để tham mưu cho cấp ủy và chính quyền về công tác tôn giáo ở vùng

đồng bào tôn giáo, vùng đặc biệt khó khăn. Tiến tới sự đồng bộ về năng lực

và trình độ của cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo ở cấp xã. Bảo

đảm việc quản lý nhà nước và giải quyết tốt các vấn đề tôn giáo từ cơ sở. Cần

phải chú ý một số vấn đề sau:

Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo mà cụ thể là công chức phụ

trách tôn giáo của phòng Nội vụ, cán bộ cốt cán tại các cơ sở xã, thị trấn cần

được thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, tư tưởng, bản lĩnh

chính trị.

Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy QLNN về tôn giáo phù hợp với

Nghị định số: 22/NĐ-CP ngày 12/01/2004 của Chính phủ về kiện toàn tổ

chức bộ máy làm công tác tôn giáo thuộc Ủy ban nhân dân các cấp và Thông

tư số: 25/TT-BNV ngày 19/4/2004 của Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban

nhân dân quản lý nhà nước về công tác tôn giáo ở địa phương.

chuyên trách làm công tác tôn giáo thay thế chế độ làm công tác tôn giáo

kiêm nhiệm.

Cần xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi

dưỡng, sử dụng và đảm bảo chế độ chính sách cho cán bộ làm công tác tôn

giáo.

Ở các xã, thị trấn có đông đồng bào theo tôn giáo cần có một cán bộ

rà soát và bố trí cho phù hợp với mỗi công việc cụ thể. Trong việc tuyển

82

Đối với công chức làm công tác tôn giáo ở các xã, thị trấn cần có sự

chọn, điều động cán bộ làm công tác tôn giáo cần phải xuất phát từ tính

chất, yêu cầu của công tác này. Tôn giáo là một lĩnh vực nhạy cảm và

phức tạp do vậy cán bộ làm công tác tôn giáo phải là người có trình độ,

năng lực và tâm huyết với nghề. Cần tránh tình trạng như hiện nay một số

xã, thị trấn phân công gò ép hoặc xếp cán bộ đã bị kỷ luật, mất uy tín làm

công tác tôn giáo. Mạnh dạn thay thế cán bộ năng lực không đủ đảm nhận

nhiệm vụ, thiếu tinh thần, trách nhiệm trong công việc, uy tín thấp.

- Cần có chế độ chính sách, đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ, công

chức làm công tác tôn giáo, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cốt cán ở các xã, thị

trấn có đông đồng bào theo tôn giáo.

- Xây dựng kế hoạch, tạo nguồn tuyển dụng, ưu tiên tuyển dụng cán

bộ, công chức cho ngành quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp từ đội ngũ

được đào tạo đúng và gần với ngành tôn giáo học; từ cán bộ, công chức đã

công tác lâu năm trong các cơ quan dân vận, mặt trận.

Trên cơ sở Quyết định số: 174/2017/QĐ-TTg ngày 09/02/2017,

UBND huyện chủ động tham mưu, xây dựng kế hoạch thực hiện có hiệu

quả Đề án bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo.

Theo Nghị định 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 về chính sách tinh

giản biên chế, tinh giản đội ngũ công chức là việc rất cấp thiết, tinh giản biên

Tinh giản công chức chưa đạt trình độ đào tạo theo tiêu chuẩn chuyên

môn, nghiệp vụ quy định đối với vị trí việc làm đang đảm nhiệm, nhưng

không có vị trí việc làm khác phù hợp để bố trí và không thể bố trí đào tạo lại

để chuẩn hóa về chuyên môn.

Có chuyên ngành đào tạo không phù hợp với vị trí việc làm hiện đang

chế đối với những trường hợp sau:

nhưng không thể bố trí việc làm khác.

83

đảm nhiệm nên bị hạn chế về năng lực hoàn thành công việc được giao,

Có 02 năm liên tiếp liền kề tại thời điểm xét tinh giản biên chế, cán bộ,

công chức được phân loại, đánh giá xếp vào mức hoàn thành nhiệm vụ nhưng

còn hạn chế về năng lực hoặc có 01 năm hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn

chế về năng lực và 01 năm không hoàn thành nhiệm vụ nhưng không thể bố

trí việc làm khác phù hợp.

UBND huyện Đồng Xuân thực hiện tốt chính sách trên, nâng cao chất

lượng đội ngũ cán bộ, công chức trên địa bàn huyện nói chung và công chức

làm công tác tôn giáo nói riêng.

3.3.5. Xây dựng, nâng cao chất lƣợng và nắm chắc lực lƣợng nòng

cốt trong tôn giáo và vùng đồng bào có đạo

Trong thời gian qua, nhiều diễn biến, sự việc nhạy cảm, phức tạp liên

quan đến tôn giáo đều được xử lý, giải quyết kịp thời suôn sẻ, không gây

những điểm nóng, một phần quan trọng là nhờ vai trò nòng cốt của lực lượng

quần chúng nhân dân. Cụ thể: một là, lực lượng chính trị trong các giới; hai

là, lực lượng quần chúng tín đồ tích cực trong các tôn giáo; ba là, lực lượng

nòng cốt trong chính tôn giáo như chức sắc, nhà tu hành.

Nội dung giải pháp và biện pháp thực hiện:

Xác định việc xây dựng lực lượng nòng cốt là nhiệm vụ của cả hệ

thống chính trị, trong đó vai trò của các đoàn thể chính trị xã hội, Mặt trận Tổ

hêt sức quan trọng. Thông qua các hoạt động để mở rộng mặt trận tập hợp lực

lượng quần chúng của các tổ chức này, chú ý đến quần chúng tín đồ sẽ tăng

cường mở rộng lực lượng quần chúng tích cực trong tôn giáo.

Thiết lập cơ chế thông tin hai chiều nhanh chóng, chính xác giữa các

đoàn thể và lực lượng nòng cốt của mình để khi có những vấn đề phát sinh có

Quốc, Hội cựu Chiến binh, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội liên hiệp Thanh niên là

Tranh thủ vận động, tập hợp được đội ngũ chức sắc, nhất là những người có

84

thể kịp thời xử lý. Yêu cầu đặt ra là lực lượng nòng cốt thật sự có chất lượng.

vị trí cao trong các tổ chức giáo hội, có uy tín trong quần chúng tín đồ.

Nắm chắc và phát huy vai trò của các già làng, trưởng buôn; tranh thủ

uy tín và tiếng nói có trọng lượng của họ trong công tác dân vận. Thực tế cho

thấy giải pháp này hết sức hiệu quả.

Xác định vai trò của Nhà nước trong tập hợp, xây dựng và nâng cao

chất lượng lực lượng nòng cốt trong tôn giáo là rất quan trọng

Cơ quan QLNN của huyện một mặt thực hiện nghiêm túc các quy định

của pháp luật về hoạt động tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các tôn

giáo hoạt động; đội ngũ cán bộ nhà nước làm công tác tôn giáo tiếp tục nâng

cao hơn mối quan hệ cầu thị, chân thành với các chức sắc, nhà tu hành tôn

giáo để tạo niềm tin vững chắc cho các chức sắc, nhà tu hành, tín đồ thật sự

tin tưởng vào chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta,

xóa bỏ mặc cảm người có đạo và không có đạo.

Đối với các sai phạm thuần tuý của các tổ chức tôn giáo được điều

chỉnh bằng các quy định pháp luật thì vừa cương quyết vừa khéo léo xử lý

giải thích rõ cho tổ chức, cá nhân chức sắc, tín đồ tôn giáo hiểu rõ; không quá

gay gắt và nguyên tắc trong xử lý.

Nhà nước đảm bảo các điều kiện vật chất, tinh thần để phát triển, duy

trì lực lượng nòng cốt như thường xuyên thăm hỏi động viên; có chính sách,

Lực lượng nòng cốt trong tôn giáo cũng nên được tập huấn, trang bị

những kiến thức về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước

nhất quán tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng của công dân.

3.3.6. Phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống nhân dân về mọi

mặt

chế độ bồi dưỡng, công tác phí, sinh hoạt phí theo thời hạn nhất định.

122/2008/QĐ-TTg ngày 29/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê

85

Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp nêu trong Quyết định

duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội tỉnh Phú Yên đến năm

2020. Gắn sản xuất với mở rộng du lịch, chế biến nông sản hàng hóa. Tập

trung chỉ đạo thực hiện giao khoán quản lý, bảo vệ rừng, giao đất trồng rừng

cho hộ gia đình hoặc tạo điều kiện cho đồng bào đủ sống và vươn lên từ nghề

rừng; tổ chức đào tạo nghề gắn với giải quyết công ăn việc làm đối với đồng

bào các dân tộc thiểu số tại chỗ. Triển khai thực hiện tốt các chính sách xã hội

như: hỗ trợ về nhà ở, giáo dục-đào tạo, y tế, xã hội, văn hóa, để đồng bào thực

sự được hưởng lợi về những thành quả do Nhà nước đầu tư.

Vì đại bộ phận tín đồ tôn giáo là nhân dân lao động nghèo, đời sống

gặp nhiều khó khăn nên việc cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh

thần cho đồng bào tôn giáo là biện pháp có ý nghĩa quyết định trong việc vận

động nhân dân xây dựng đời sống mới, góp phần ổn định và tăng cường an

ninh, quốc phòng.

Giải pháp này hướng tới việc thực hiện phát triển toàn diện cả về kinh

tế lẫn văn hóa, giáo dục và y tế. Tạo điều kiện thuận lợi để mỗi người dân đều

có thể cải thiện cuộc sống của mình, vươn lên làm giàu chính đáng. Thực sự

coi phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trọng tâm, văn hóa là nền tảng tinh

thần và là động lực phát triển xã hội.

UBND huyện cần nghiên cứu, xây dựng kế hoạch phát triển toàn diện

bàn huyện. Đồng thời, cần phối hợp với chương trình 135, chương trình phát

triến kinh tế-xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền

núi của Chính phủ trong quá trình tổ chức thực hiện.

Có những chính sách ưu đãi để thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát

triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, thực hiện các chính sách cho vay tín

vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng đông tín đồ tôn giáo trên địa

ngũ lao động có kỹ thuật cao, đáp ứng yêu cầu sản xuất và thị trường lao động

86

dụng xóa đói giảm nghèo, cấp nước sạch. Đẩy mạnh đào tạo nghề, đào tạo đội

tại địa phương. Thực hiện các biện pháp tạo việc làm để mọi người dân đều có

nghề nghiệp ổn định, chăm lo phát triển kinh tế, vươn lên làm giàu chính đáng.

Phát triển giáo dục và đào tạo đảm bảo mỗi người đều có cơ hội học

tập, nâng cao dân trí để đưa khoa học, công nghệ vào trong sản xuất và đời

sống. Hỗ trợ phát triển các loại hình dịch vụ, văn hóa, thể dục thể thao. Phát

huy truyền thống văn hóa dân tộc. Đồng thời, lên án và ngăn chặn những biểu

hiện xuống cấp về đạo đức trong cộng đồng.

Thực hiện có hiệu quả chương trình cải cách hành chính trong việc giải

quyết công việc của các tổ chức, công dân. Đảm bảo bộ máy QLNN các ngành,

các cấp thực sự có hiệu lực, hiệu quả, trong sạch, vững mạnh. Nâng cao chất

lượng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo tính công khai,

minh bạch trong thực hiện các chính sách xã hội, chính sách kinh tế...

3.3.7. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong

quản lý nhà về tôn giáo.

Mặt trận Tổ quốc là cơ quan tập hợp lực lượng toàn dân, phát huy sức

mạnh sức mạnh đại đoàn kết toàn Đảng, toàn dân vào thực hiện các phong

trào thi đua yêu nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do vậy, UBMTTQ cần

quy tụ, liên kết các tổ chức chính trị, xã hội, các tầng lớp nhân dân, trong đó

có các tổ chức, cá nhân tôn giáo, đoàn kết thực hiện tốt các chủ trương chính

Các tổ chức chính trị, xã hội cần quan tâm nhiều đến hội viên, đoàn

viên là tín đồ các tôn giáo, vận động họ thực hiện tốt các chủ trương của

Đảng, pháp luật, chính sách nhà nước, tích cực tham gia các phong trào thi

đua yêu nước do địa phương phát động. Thông qua, các phong trào thi đua,

vận động tín đồ gia nhập vào các đoàn thể, đồng thời chọn ra những hội viên

sách của Đảng và nhà nước.

UBND huyện giao phòng Nội vụ chủ trì tham mưu cho UBND huyện,

87

đoàn viên ưu tú điển hình giới thiệu cho Đảng.

Chủ tịch UBND huyện trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn

giáo. Phòng Nội vụ chủ trì, chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan

để làm tốt công tác tham mưu như: Công an huyện, các phòng chuyên môn

trực thuộc UBND huyện, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể.

Hàng năm, vào các ngày lễ trọng của các tôn giáo phòng Nội vụ chủ trì,

chủ động phối hợp với các cơ quan nói trên tổ chức thăm hỏi, chức mừng các

tôn giáo, chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo.

Để làm tốt công tác phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có liên quan

trong công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, ngày 15/10/2014, UBND huyện

Đồng Xuân đã ban hành quy chế phối hợp thực hiện công tác quản lý nhà

nước về hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân.

Thực hiện Chương trình phối hợp số: 06/KHPH-HLHPN-BTG ngày

10/4/2014giữa Ban Thường vụ Hội LHPN tỉnh và Ban Tôn giáo năm 2014 và

chương trình phối hợp giai đoạn 2013 - 2017, hai ngành Nội vụ và Hội liên

hiệp phụ nữ huyện thống nhất xây dựng kế hoạch phối hợp tổ chức các hoạt

động về vận động phụ nữ tôn giáo thực hiện các chủ trương của Đảng, Chính

sách pháp luật của nhà nước giữa Hội LHPN và Phòng Nội vụ năm 2014

3.3.8. Thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm vi phạm các hoạt

động tôn giáo

Một là, nhằm đảm bảo cho QLNN đối với hoạt động tôn giáo diễn ra

theo đúng quy định pháp luật hiện hành, thực hiện đúng chính sách, pháp luật

tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.

Hai là, phát huy vai trò của các lực lượng nòng cốt, kịp thời nắm bắt

tình hình QLNN về tôn giáo cũng như mọi di biến trong dân, kịp thời khắc

Giải pháp này hướng tới ba mục tiêu cơ bản:

động tôn giáo.

88

phục những yếu kém, hạn chế nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt

Ba là, chống mọi hành vi lợi dụng tôn giáo, kỳ thị, phân biệt đồng bào

có đạo và đồng bào không có đạo, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Bất cứ lĩnh vực nào của đời sống kinh tế-xã hội cũng cần có QLNN và

QLNN trong bất cứ lĩnh vực nào cũng cần có giám sát, kiểm tra và thanh tra.

Trong thời gian qua, huyện Đồng Xuân đã làm tốt công tác kiểm tra, giải

quyết khiếu nại liên quan đến tôn giáo, chủ yếu là khiếu nại về đất đai. ủy ban

nhân dân huyện chỉ đạo Phòng Nội vụ huyện, Công an huyện để tham mưu,

đề xuất xử lý các vấn đề liên quan đến tôn giáo trên địa bàn huyện.

Giải quyết yêu cầu, khiếu kiện của tôn giáo, tham mưu, đề xuất với Sở

Nội vụ tỉnh giải quyết các yêu cầu khiếu kiện của cá nhân chức sắc, nhà tu

hành và các tổ chức tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật và đúng thẩm

quyền; ngăn chặn không để xảy ra điểm nóng về tôn giáo trên địa bàn

huyện; rà soát, tổng hợp các yêu cầu, khiếu kiện còn tồn đọng để tham mưu,

đề xuất hướng giải quyết đáp ứng nguyện vọng chính đáng của các tôn giáo.

Trong thời gian tới, huyện cần tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra

QLNN đối với hoạt động tôn giáo nhằm phát huy những nhân tố tích cực,

phát huy các lực lượng nòng cốt trong các tôn giáo đồng thời đẩy lùi những

phát sinh tiêu cực, góp phần nâng cao hiệu quả QLNN đối với lĩnh vực hết

sức nhạy cảm này.

3.4.1. Đối với Trung ương

Trước yêu cầu đổi mới QLNN về lĩnh vực tôn giáo; trước sự phục hồi,

phát triển nhanh chóng, phức tạp của các tôn giáo và âm muu lợi dụng tôn

giáo, nhân quyền chống phá nước ta, trong khi đó pháp luật về tôn giáo đã

bộc lộ những bất cập như một số nội dung chưa được quy định trong pháp

3.4. Khuyến nghị với trung ƣơng và chính quyền địa phƣơng

một số nội dung quy định trong pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; một số quy

89

luật về tín ngưỡng, tôn giáo; còn có cách hiểu và vận dụng khác nhau đối với

định trong pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo còn thiếu cụ thể; một số quy định

trong pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo chưa phù hợp với thực tiễn, không có

tính khả thi hoặc đến nay không còn phù hợp với thực tiễn; pháp luật về tín

ngưỡng, tôn giáo còn thiếu các biện pháp chế tài . Những thiếu sót đó là một

trong những nguyên nhân gây ra sự lúng túng, thiếu thống nhất khi xử lý đối

với hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật, làm hạn chế hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này.

Kiến nghị sớm thành lập các trường chuyên đào tạo cán bộ làm công

tác tôn giáo. Hiện nay, hệ thống quản lý nhà nước về tôn giáo đã trải rộng từ

trung ương đến địa phương, nhưng cả nước chưa có trường hoặc khoa đào tạo

cán bộ làm công tác tôn giáo. Những cán bộ lãnh đạo cơ quan tôn giáo từ cấp

tỉnh đến cấp huyện chưa được đào tạo bài bản, nếu có cũng chỉ là đào tạo cao

cấp, cử nhân chính trị hoặc các chuyên ngành thuộc lĩnh vực khoa học-xã hội.

Trong khi đó, những người đứng đầu các cơ sở tôn giáo thường được trang bị

rất kỹ về lý luận cơ bản. Không chỉ hiểu biết nhiều lĩnh vực, nhất là tâm lý

con người, họ còn tạo được sự thu hút từ ngoại hình, giọng nói. Vì thế, không

riêng gì ở huyện Đồng Xuân đã phổ biến tình trạng người làm công tác tôn

giáo nhưng lại ngại tiếp xúc với những người đứng đầu cơ sở tôn giáo. Có

nơi, vì khó quản lý nên kìm hãm nhu cầu hoạt động tôn giáo chính đáng của

giáo không đúng quy định của pháp luật. Trong khi các thế lực phản động,

những kẻ cơ hội chính trị thì chỉ rình chờ những cái cớ rất nhỏ trong lĩnh vực

tôn giáo để thực hiện ý đồ chính trị là chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Đề nghị sớm thành lập Phòng quản lý nhà nước về tôn giáo cấp huyện,

về tổ chức bộ máy, việc sáp nhập cơ quan tôn giáo vào cơ quan nội vụ, dù đã

người dân hoặc ngược lại là làm ngơ khi có những biểu hiện hoạt động tôn

Nhà nước đối với lĩnh vực này đang giảm dần. Rõ ràng, từ một cơ quan tương

90

qua một thời gian, vẫn khiến nhiều người hiểu rằng, sự quan tâm đầu tư của

đương một sở thành cơ quan tương đương một phòng trực thuộc sở, những

suy nghĩ như thế cũng là dễ hiểu.

Từ khi nhập vào cơ quan nội vụ, ở cấp tỉnh vẫn còn có những thuận lợi

nhất định bởi có tài khoản và con dấu riêng. Còn ở cấp huyện, bộ phận tôn

giáo có 1 phó phòng phụ trách và 1 chuyên viên. Từ khi nhập với Phòng nội

vụ, kinh phí hoạt động được cấp chung với các hoạt động khác trong Phòng

nội vụ, trong khi hoạt động tôn giáo là hoạt động đặc thù. Cán bộ cấp xã đảm

nhận công tác tôn giáo hầu hết chưa được đào tạo và thiếu kinh nghiệm nên

không tham mưu được với lãnh đạo địa phương trong giải quyết các vấn đề về

tôn giáo.

Bộ Nội vụ, cơ quan chức năng làm công tác QLNN đối với hoạt động

tôn giáo cần ban hành thông tư quy định biên chế CBCC làm công tác tôn

giáo ở cấp huyện, xã. Đồng thời, ban hành các chế độ, chính sách, tiêu chuẩn

đối với CBCC làm công tác tôn giáo để quy hoạch, đào tạo, bố trí và sử dụng

cho phù họp, hiệu quả.

3.4.2. Đối với tỉnh Phú Yên

UBND tỉnh nên có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo thường xuyên đối với

các huyện, thị xã về việc tăng cường QLNN về tôn giáo vì thực tế hiện nay rất

ít các văn bản chỉ đạo của cấp trên, chủ yếu là căn cứ theo Pháp lệnh tín

Tăng cường phân cấp chi ngân sách cho cấp huyện, thị xã về phí

công tác tôn giáo để cấp dưới có đủ nguồn kinh phí cần thiết để hoạt động có

hiệu quả.

Để đem lại hiệu quả cao trong QLNN về công tác tôn giáo tại địa

phương đề nghị UBND tỉnh, Sở Nội vụ tỉnh xem xét cho chủ trương bố trí

ngưỡng tôn giáo để tiến hành quản lý đối với các hoạt động tôn giáo.

xã, có như vậy mới đáp ứng và nắm bắt kịp thời tình hình diễn ra các hoạt

91

thêm 01 cán bộ chuyên trách làm công tác về tôn giáo cho cấp huyện và các

động của các tổ chức tôn giáo trong tình hình hiện nay.

Đề nghị UBND tỉnh phân cấp cho UBND các huyện, thị xã, thành phố

giải quyết việc xây dựng các công trình phụ trợ của các cơ sở tôn giáo để

giảm thủ tục nhiều cấp, nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo khi làm

thủ tục xây dựng.

Quan tâm, nghiên cứu có chính sách ưu đãi thu hút cán bộ làm công tác

tôn giáo.

Ban Tôn giáo tỉnh nên thường xuyên mời CBCC làm công tác tôn giáo

ở huyện, thành phố, thị xã tập huấn, giao ban để trao đổi, rút kinh nghiệm mỗi

khi có vụ việc tôn giáo phức tạp xảy ra.

3.4.3. Đối với huyện Đồng Xuân

Kiến nghị đầu tư cho công tác quy hoạch cán bộ công chức làm công

tác tôn giáo. Đồng thời cần có chính sách và chế độ đãi ngộ đặc thù đối với

cán bộ, công chức công tác trong lĩnh vực tôn giáo.

Phải xem xét và sắp xếp lại khâu tổ chức để đảm bảo sao cho đội ngũ

cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo đủ về số lượng và nâng cao về chất

lượng, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn.

Kiến nghị quy định rõ một Phó Chủ tịch chuyên trách về công tác tôn

giáo tại những xã có đông tín đồ hoặc tình hình tôn giáo có nhiều tiềm ẩn

92

phức tạp, hoặc bố trí cán bộ theo định xuất tại các đơn vị cơ sở này.

Tiểu kết chƣơng 3

Như vậy, trong chương 3, tác giả đã làm rõ quan điểm, định hướng của

Đảng và nhà nước về công tác tôn giáo và nêu ra giải pháp hoàn thiện QLNN

về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên trong thời gian tới.

Đồng thời, trong chương này, dựa trên thực trạng của QLNN về tôn

giáo trong thời gian qua và hiện nay, tác giả đã chỉ ra một số vấn đề đặt ra

trong QLNN về tôn giáo hiện nay nói chung và trên địa bàn huyện Đồng

Xuân nói riêng.

Từ thực trạng, những kết quả đạt được cũng như những hạn chế trong

thời gian qua trong QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân; dựa

trên dự báo xu hướng hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân, dựa

trên quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác tôn giáo, định hướng của

ngành và của tỉnh QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân, tác giả

đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN về tôn giáo trên địa bàn

- Tổ chức triển khai, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính

huyện Đồng Xuân như sau:

- Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giáo dục các quan điểm của

sách làm cơ sở để QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện.

Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước về tôn giáo cho đồng bào có đạo.

làm công tác tôn giáo các cấp trên địa bàn huyện Đồng Xuân

- Kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức

- Xây dựng, nâng cao chất lượng và nắm chắc lực lượng nòng cốt

trong tôn giáo và vùng đồng bào có đạo.

- Phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống nhân dân về mọi mặt.

- Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong

- Thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm quy phạm các hoạt động tôn

93

QLNN về tôn giáo.

giáo.

Cũng trong chương 3 tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị của

mình đối với Trung ương, UBND tỉnh, UBND huyện nhằm hoàn thiện QLNN về tôn

94

giáo hiện nay trên địa bàn.

KẾT LUẬN

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt

Nam thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo và không tôn giáo của công dân từ trước tới nay. Tôn giáo ở

nước ta có cơ sở lý luận và thực tiễn để thích ứng, đồng hành với Chủ nghĩa

Xã hội dưới sự quản lý của Nhà nước XHCN.

Đề tài “ Quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân

đã nghiên cứu và làm rõ một số nội dung sau:

Trước hết, học viên đã đưa ra một số lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu,

tình hình nghiên cứu, các công trình khoa học đã và đang nghiên cứu có liên

quan đến đề tài; Luận văn đã nêu rõ mục đích nghiên cứu, đối tượng, phạm

vi, không gian, thời gian nghiên cứu, ý nghĩa của công trình nghiên cứu.

Tiếp đó, học viên đã phân tích và đưa ra những luận điểm, luận cứ làm cơ

sở khoa học cho việc nghiên cứu đề tài bằng việc đưa ra các khái niệm, bản chất,

nguồn gốc, vai trò của tôn giáo, hoạt động tôn giáo; quản lý nhà nước về tôn giáo.

Luận văn đã chỉ ra cho độc giả thấy được sự cần thiết phải QLNN về

tôn giáo nói chung và trên địa bàn huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên nói riêng.

Để làm rõ hơn, tác giả đã đi sâu phân tích những nội dung quản lý Nhà

bàn huyện Đồng Xuân, đó là khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của

một số tôn giáo lớn, tình hình hoạt động hiện nay của các tôn giáo trên địa

bàn. Tác giả tập trung phân tích thực trạng QLNN về tôn giáo trên địa bàn,

chỉ ra những kết quả mà Cấp ủy, Chính quyền trên địa bàn đã đạt được,

những hạn chế, tồn tại chưa giải quyết được và chỉ ra một số nguyên nhân của

nước về tôn giáo, đồng thời đánh giá thực trạng QLNN về tôn giáo trên địa

Dựa trên quan điểm, mục tiêu QLNN về tôn giáo cùng với kết quả

95

vấn đề đó.

nghiên cứu, phân tích thực trạng, những quan điểm của Đảng ta về tôn giáo,

định hướng của ngành và của tỉnh Phú yên về tôn giáo, tác giả đã mạnh dạn

đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng nhằm hoàn thiện QLNN về

tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân.

QLNN về tôn giáo thời gian qua trên địa bàn huyện Đồng Xuân đã đạt

được những kết quả nhất định. Có được kết quả đó là do cấp ủy Đảng, chính

quyền các cấp, mặt trận, các đoàn thể đã nhận thức đúng tầm quan trọng của

QLNN về tôn giáo.

Chính quyền các cấp đã có sự quan tâm, thực hiện có hiệu quả các

chương trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là những vùng còn khó khăn,

vùng có đông đồng bào theo tôn giáo; mặt trận, các đoàn thể, tổ chức xã hội

đã có những thay đổi trong công tác hoạt động: thay đổi nội dung, phương

thức tuyên truyền, phát động các phong trào thi đua, phát triển kinh tế.

Tuy nhiên, QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện Đồng Xuân vẫn còn

một số hạn chế nhất định, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu , nhiệm vụ QLNN về

tôn giáo trong tình hình mới. UBND huyện Đồng Xuân cần thực hiện kịp thời

và thực hiện một cách có hiệu quả và đồng bộ các giải pháp nhằm khắc phục

những hạn chế đó để hoàn thiện QLNN về tôn giáo.

Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị đối với cấp Trung

ứng được nhu cầu công việc và nhiệm vụ QLNN về tôn giáo trong tình hình

mới hiện nay.

Trong thời gian ngắn, với một đề tài nhạy cảm và tế nhị, điều kiện tiếp

xúc thực tế công tác tôn giáo còn hạn chế nên luận văn có thể chưa phản ánh

hết những bất cập trong công tác QLNN về lĩnh vực này. Do vậy, những giải

ương, cấp tỉnh Phú Yên, cấp huyện có những việc làm cụ thể, kịp thời để đáp

những hạn chế trong những công trình nghiên cứu lần sau khi có điều kiện.

96

pháp mà tác giả luận văn đề xuất cũng có thể chưa toàn diện, xin khắc phục

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1938), Việt Nam văn hóa sử cương,Nxb Thuận Hóa, Huế.

2. Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khóa IX (2003), Nghị quyết

số: 25-NQ/TW về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác dân vận trong tình hình mới, Hà Nội.

3. Ban Tôn giáo Chính phủ (2005), Văn bản Pháp lệnh Việt Nam về tín

ngưỡng, tôn giáo.

5. Ban Tôn giáo Chính phủ (2009), Tạp chí công tác tôn giáo số 2.

4. Ban Tôn giáo Chính phủ (2005), Tạp chí công tác tôn giáo số 1.

6. Ban Tôn giáo Chính phủ (2010), Tạp chí công tác tôn giáo số 3.

7. Ban Tôn giáo Chính phủ (2010), Tạp chí công tác tôn giáo số 4.

8. Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Tạp chí công tác tôn giáo số 5.

9. Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Tạp chí công tác tôn giáo số 6.

10. Ban Tôn giáo Chính phủ (2015), Tạp chí công tác tôn giáo số 7.

11. Ban Tôn giáo Chính phủ (2016), Tạp chí công tác tôn giáo số 12.

12. Bộ Chính trị (1990), Nghị quyết số 24/NQ-TW về tăng cường công tác

tôn giáo trong tình hình mới.

13. Bộ Nội vụ (2004), Thông tư 25/2004/TT-BNV hướng dẫn chức năng,

nước về tôn giáo.

14. Chính phủ (1999), Nghị định 26/1999/NĐ - CP về các hoạt động tôn giáo.

15. Chính phủ (2003), Nghị định 91/2003/NĐ - CP quy định chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Chính phủ.

16. Chính phủ (2004), Nghị định số 22/2004/NĐ-CP về việc kiện toàn tổ chức

nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức cơ quan chuyên môn UBND quản lý nhà

17. Chính phủ (2012), Nghị định số 92/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và biện

97

bộ máy làm công tác tôn giáo của UBND các cấp.

pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.

18. Chính phủ (2014), Nghị định số 37/2014/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ

quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phổ thuộc tỉnh.

Nội.

19. Chủ tịch nước (1955), sắc lệnh 234/SL về quyền tự do tín ngưỡng, tôn

giáo.

20. CMac-Ănghen toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1994, tập 20.

21. CMac-Ănghen toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1994, tập 1.

22. CMac-Ănghen toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1995, tập 1.

23. CMac-Ănghen toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1995, tập 1.

24. Hoàng Văn Chức (2009), Giáo trình QLNN về tôn giáo và dân tộc, NXB

Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biếu toàn quốc lần

thứ VI, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ

Chính trị, về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VII, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh

98

thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.

Phú Yên lần thứ XIV.

33. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 (sửa đổi, bổ

sung 2001, 2013), NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.

34. Đỗ Quang Hưng (2003), Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ Nhà nước và

Giáo hội, Nhà xuất bản Tôn giáo.

35. Học viện Hành chính Quốc gia, Giáo trình Quản lý nhà nước về dân tộc,

tôn giáo, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, (2002).

36. Nguyễn Hữu Khiển (2001), QLNN đối với hoạt động tôn giáo trong điều

kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay, NXB Công

an nhân dân, Hà Nội.

37. Nguyên Đức Lữ (2002), Đổi mới chính sách tôn giáo và Nhà nước quản

lý tôn giáo hiện nay - Những bài học kinh nghiệm và kiến nghị cụ thể, Đề tài

nhánh thuộc đề tài cấp Nhà nước, chủ nhiệm đề tài, Hà Nội.

38. Phòng Nội vụ huyện Đồng Xuân( 2014), Báo cáo Tổng kết 10 năm thực

hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khóa IX về công tác Tôn giáo (Nghị

quyết số 25/NQ-TW ngày 12/3/2003)

39. Phòng Nội vụ huyện Đồng Xuân (2009), Báo cáo thống kê tình hình tín

đồ tôn giáo năm 2009.

40. Phòng Nội vụ huyện Đồng Xuân(2013), Báo cáo thống kê tình hình tín đồ

41. Phòng Nội vụ huyện Đồng Xuân(2014), Báo cáo thống kê tình hình tín đồ

tôn giáo năm 2014.

42. Phòng Nội vụ huyện Đồng Xuân(2015), Báo cáo thống kê tình hình tín đồ

tôn giáo năm 2015.

43. Phòng Nội vụ huyện Đồng Xuân(2016), Báo cáo thống kê tình hình tín đồ

tôn giáo năm 2013.

44. Quốc hội (2001), Luật số 32/2001/QH 10 về tổ chức Chính phủ.

99

tôn giáo năm 2016.

45. Quốc hội (2003), Luật số 11/2003/QH 11 tổ chức HĐND và UBND.

46. Hoàng Xuân Thái (2017) Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo

trên địa bàn huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An, luận văn cao học.

47. Trần Minh Thư (2005), QLNN đối với tôn giáo là một yêu cầu khách

quan, Tạp chí công tác tôn giáo số 3.

48. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu tôn

giáo, Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng, NXB Khoa học xã hội,

Hà Nội 1996.

49. Nguyễn Thị Tươi (2014) Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo

trên địa bàn huyện Krông Búk tỉnh Đắk Lắk, luận văn cao học.

50. V.I.Lênin toàn tập, NXB Tiến bộ Matxcơva, 1980, tập 17.

51. V.I.Lênin toàn tập, NXB Tiến bộ Matxcơva,1980, tập 12.

52. V.I.Lênin toàn tập, NXB Tiến bộ Matxcơva, 1980, tập 52.

100

53.V.I.Lênin toàn tập, NXB Tiến bộ Matxcơva, 1974, tập 17.

PHỤ LỤC

DANH SÁCH CHỨC SẮC, CHỨC VIỆC CÁC TÔN GIÁO

HUYỆN ĐỒNG XUÂN

(đến ngày 30/7/2017)

Đạo Công giáo

Họ và tên Tên tổ chức Ghi chú

Pháp danh Nguyễn Văn Chính Phao Lô Năm sinh 1954

Đồng Văn Chín Giu Se 1960

Quê quán xã Xuân Phước xã Xuân Phước

Chức vụ Trưởng ban Phó trưởng ban Thủ quỹ 1957 Huỳnh Thái Hùng

Thư ký 1962 Trương Minh Tùng

Thư ký 1978 Lê Đặng Cung

1968 Ngô Thành

1976 Nguyễn Phít

1963 Lê Ngọc Sáng

1982

Phạm Đình Khâm

1985

1957 Thạch Vàng

1987

Phạm Thị Kim Phiến Đoàn Văn Sương

1958

Nhà thờ Đồng tre xã Xuân Phƣớc

Nguyễn Thanh Hiền Hồ Tấn Hùng

1973

101

xã Xuân Phước xã Xuân Lãnh xã Xuân Phước xã Xuân Phước xã Xuân Phước xã Xuân Phước xã Xuân Phước xã Xuân Phước xã Xuân Phước xã Xuân Phước xã Xuân Phước xã Xuân Phước Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên

Võ Quang Thuận 1987

Trần Kim Phương 1954

Đỗ Thị Kim Tình 1975

1967

Nguyễn Thành Châu Võ Đông Phô 1956

Trần Bá Quang 1971 Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Trưởng ban Phó ban

1961 Thư ký

1984

Thủ quỹ

Nguyễn Khắc Trung Trần Thanh Vân

Võ Văn Điểm 1968

1973

Nguyễn Khắc Khâm Trần Thị Mai Ly 1987

Nguyễn Thị Tình 1969

1950 Nhà nguyện Suối Ré - Phƣớc Lộc, xã Xuân Quang 3

Nguyễn Ngọc Thanh Nguyễn Vương 1968

Võ Đông Phô

1978

Huỳnh Long

1989

Lê Thế Tự

1953

Nguyễn Thái

1965

Thái Ngọc Trường 1969

Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Trưởng ban Phó ban

Nguyễn Công Học

Nhà thờ Đa Lộc, xã Đa Lộc

1968 Thư ký

102

xã Xuân Phước xã Xuân Phước xã Xuân Phước xã Xuân Phước xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Đa Lộc xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3

Đoàn cảnh Lệ 1972 Thủ quỹ

Lê Văn Triêm 1986

Trần Ngọc Quế 1958

Nguyễn Phúc Sơn 1952

Phan Thanh Bình 1973

Đinh Thang 1968

Hồ Công Hoàn

1958

Nguyễn Đào Tuấn 1983

Nguyễn Công Hiến 1982

Lê Hoàng Linh 1954

1958

Nguyễn Công Chính Bùi Láng 1961

Nguyễn Định 1962

1967

1986

xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3 xã Xuân Quang 3

103

Nguyễn Thị Tuyết Mai Huỳnh Thị Ngọc Nhạn Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên Thành viên ( Nguồn Phòng Nội vụ)

Đạo Tin Lành

Họ và tên Quê quán Chức vụ Tên tổ chức Pháp danh Năm sinh Ghi chú

Nguyễn Sơn Hải 1958 Thị trấn La Hai

Truyền đạo quản nhiệm chi hội Tin Lành Long Thăng

Thư ký 1968 Lê Bá Tiên

1958

Trần Văn Thống

Thủ quỹ 1970 Đỗ Văn Thứ Thị trấn La Hai Thị trấn La Hai

Thị trấn La Hai

Nguyễn Hoàng 1960 Thị trấn La Hai Kim

1971 Lê Thị Năm Thị trấn La Hai

1964 Phan Thị Nga Thị trấn La Hai Nghị viện ban Chấp sự Nghị viện ban Chấp sự Chấp sự Ban Chấp sự Chấp sự Ban Chấp sự Hội thánh Tin lành Long Thăng, thị trấn La Hai

Nhân sự 1975 Cao văn Quyền

Nhân sự Nhân sự Nhân sự Thị trấn La Hai xã Đa Lộc xã Đa Lộc xã Đa Lộc 1968 1982 1976

1966

xã Đa Lộc

Nhân sự

Sương

Nhân sự

1958

Dương Minh Trí

Nhân sự

1969

Phạm Văn Hòa

Nhân sự

1972

Mang khóa

Võ Tìm Võ Ngọc Sơn Châu Văn Niệm Trần Đặng

xã Xuân Lãnh xã Đa Lộc xã Xuân Lãnh xã Xuân Lãnh

(Nguồn Phòng Nội vụ)

104

Nhân sự 1980 Phan Thị Điệp

Đạo Phật giáo

Họ và tên Tên tổ chức Năm sinh Quê quán Chức vụ

Hồ Như Thủy 1980 Trụ trì Quảng trị Pháp danh Thích nữ Nhuận Hải

Đinh Văn Hảo 1954 Chúc Hảo Xuân Phước Chùa Từ Tâm- xã Xuân Phƣớc

Nguyễn Thị Thọ

1976

Trụ trị

Quảng trị

Trần Công Phi 1944 Xuân Phước Trưởng Ban hộ tự Phó ban hộ tự

Chúc Hải Thích nữ Tâm Phúc

Nguyễn Đức Kế 1950 Quảng Hạnh Xuân Phước

Chùa Viên Lâm- xã Xuân Phƣớc Lê Thị Thanh 1960 Quảng Tâm Xuân Phước Trưởng Ban hộ tự Phó Ban hộ tự

Đào Thị Xuân Hương 1962 Thư ký Xuân Phước

Nguyễn Thị Hiệp 1986 Trụ trì Thắm Xuân Lãnh Quảng Hải Thích nữ Quảng Tuệ

Vũ Thị Niệm

1947

Phạm Thành Sơn 1950 Quảng Tuấn Xuân Phước

Quảng Hoa

Xuân Phước

Nguyễn Lia

1942

Thư ký

Xuân Phước

Phạm Thị Vũ Ngân

1986

Trụ trì

Thị trấn La Hai

Mạnh Thế Sĩ

1948

Niệm Phật đƣờng Hòa Quang - xã Xuân Phƣớc Trưởng Ban hộ tự Phó Ban hộ tự

Niệm Phật đƣờng Hỷ Sơn - xã Xuân Quang 3

Quảng Sĩ Thích nữ Quảng Tánh Chúc Phát

105

Xuân Quang 3 Trưởng ban hộ

Trần Thị Hoa 1950 Quảng Hiền tự Phó ban hộ tự

Mạnh Khắc Trực Chúc Trí 1949 Thư ký Xuân Quang 3 Xuân Quang 3

Trần Hay 1952 Xuân Quang 3 Chúc Tâm

1948 Mai Xuân Phi Trưởng ban hộ tự Phó ban hộ tự

Niệm phật đƣờng Phƣớc Lộc - Xuân Quang 3 1950 Thư ký Huỳnh Đắc

1980 Trụ trì Nguyễn Ngọc Hòa

Chúc Tiến Chúc Hải Thích Quảng Hiệp

1956 Lâm Tấn Khải Chúc Kha Trưởng Ban hộ tự

1966 Chùa Phật học - xã Xuân Sơn Nam Trần Xuân Long Phó ban hộ tự Nhuận Giác

1952 Thư ký Nguyễn Văn Hải Chúc Tịnh

1951 Phạm Tứ Hải Nhuận Khôi Trưởng ban hộ tự

1949 Trần Phước Phó ban hộ tự Chúc Tịnh

Thư ký

1950

Nguyễn Ngọc sanh

Nhuận Ngô

1949

Ngô Văn Đồng

Chúc Huy

Trưởng ban hộ tự

Niệm phật đƣờng Tân Hòa - xã Xuân Sơn Nam

Phó ban hộ tự

Chúc Hiền

1986 Ngô Thị Bốn

Niệm Phật đƣờng Tân An - xã Xuân Sơn Nam

Nhuận

Lê Thị Trang

106

Xuân Quang 3 Xuân Quang 3 thị xã Sông Cầu Xuân Sơn Nam Xuân Sơn Nam Xuân Sơn Nam Xuân Sơn Nam Xuân Sơn Nam Xuân Sơn Nam xã Xuân Sơn Nam xã Xuân Sơn Nam 1978 xã Xuân Thư ký

Hải

Sơn Nam

Lê Ngọc Tịnh 1948 Trụ trì Thị trấn La Hai

Nguyễn Văn Trung 1973 Thị trấn La Hai

Lương Văn Hảo Chùa Long Hƣng - Thị trấn La Hai 1954 Trưởng ban hộ tự Phó ban hộ tự

Từ Minh Hoàng 1975 Thư ký Thị trấn La Hai Thị trấn La Hai

Nguyễn Trí 1979 Trụ trì Thị trấn La Hai Thích Tịnh Mãn Thích Quảng Thứ Nhuận Tâm Nhuận Nam Thích Quảng Sỹ

Nguyễn Xuân 1972 Chúc Toàn Thị trấn La Hai

Chùa Bảo Hƣng - Thị trấn La Hai Lê Sỹ Quan 1962 Trưởng ban hộ tự Phó ban hộ tự

Nguyễn Văn Tín 1965 Thư ký Nhuận Văn Chúc Hòa Thị trấn La Hai Thị trấn La Hai

Nguyễn Luận 1961 Nhuận Hữu Thị trấn La Hai

Nguyễn Văn Nam 1965 Trưởng ban hộ tự Phó ban hộ tự

Nguyễn Đức

1953

Chúc Luận

Trưởng ban hộ tự

Võ Luận

1957

Phó ban hộ tự

Chúc Tâm

Niệm phật đƣờng Long Thăng - Thị trấn La Hai Võ Văn Long 1960 Thư ký Nhuận Ngô Chúc Tĩnh

Niệm phật đƣờng Long Châu- Thị trấn La hai

Trịnh Tấn Khôi 1959 Thư ký Thị trấn La Hai Thị trấn La Hai Long Châu, thị trấn La Hai Long Châu, thị trấn Lahai Xuân Sơn Bắc

Niệm phật

Từ Văn Tân

1957

xã Đa Trưởng

107

Nhuận Thường Chúc

Lộc Tâm

đƣờng Xã Đa Lộc

Phạm Hòa 1959 ban hộ tự Phó ban hộ tự

Nguyễn Đình Thạch Thư ký 1962 xã Đa Lộc xã Đa Lộc

Lê Minh Trí Trụ trì 1986 xã Xuân Lãnh Nhuận Phước Nhuận Phát Thích Quảng Trí

Tạ Đức Chiến 1962 xã Xuân Lãnh Chúc Hòa

Niệm phật đƣờng Phƣớc Quang - xã Xuân Lãnh Huỳnh Ngọc Anh 1960 xã Xuân Lãnh Chúc Ngọc

Hồ Văn Ấm 1952 xã Xuân Lãnh Nhuận tri

Lê Văn Phước 1962 Trưởng ban hộ tự Phó ban hộ tự Trưởng ban hộ tự Phó ban hộ tự

Niệm phật đƣờng Lãnh Phƣớc Tự - xã Xuân Lãnh Trần Tiếp Thư ký 1965 xã Xuân Lãnh xã Xuân Lãnh

Phạm Thắng Trụ trì 1947 xã Xuân Sơn Bắc Chúc Sơn Chúc Lim Thích Đồng Hóa

Nguyễn Nam Anh 1952 xã Xuân Sơn Bắc Chúc Tân

Chùa Phƣớc Sơn- xã Xuân Sơn Bắc

Nguyễn Lua

Chúc Tư 1948

xã Xuân Sơn Bắc

Phan Núi

1954

Nguyễn Trung 1958 xã Xuân Sơn Bắc Nhuận Khải

Trưởng ban hộ tự Phó ban hộ tự Trưởng ban hộ tự Phó ban hộ tự

Niệm Phật đƣờng Tân Bình- xã Xuân Sơn Bắc

Nguyễn Đức Trọng

Thư ký

1962

xã Xuân Sơn Bắc xã Xuân Sơn Bắc

xã Xuân Long

Nguyễn Tấn Khôi Trụ trì 1984

Niệm Phật đƣờng Long Hòa - xã Xuân

Chúc Hùng Nhuận Sanh Thích Nhuận Trang Nhuận

Nguyễn Khắc Kiệm

1965 xã Xuân Trưởng

108

Long Đăng Long

Nguyễn Tấn Ích 1958 Nhuận Tiến xã Xuân Long

Phan Văn Minh 1954 Chúc Minh xã Xuân Long

Đặng No 1957 Chúc Tiến ban hộ tự Phó ban hộ tự Trưởng ban hộ tự Phó ban hộ tự

Niệm Phật đƣờng Phƣớc Thạnh - xã Xuân Long Nguyễn Lâm Ủy viên 1960 Chúc Lâm xã Xuân Long Xã Xuân Long

Hồ Sanh 1978 Chúc Miên xã Xuân Quang 2

Nguyễn Văn Hiết 1981 Trưởng ban hộ tự Phó ban hộ tự

Niệm phật đƣờng Hàm Long - xã Xuân Quang 2 Nguyễn Văn Phương Thư ký 1976 Chúc Hòa Nhuận Nam xã Xuân Quang 2 xã Xuân Quang 2

109

(Nguồn Phòng Nội vụ)