BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ VĂN VƯƠNG
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ VĂN VƯƠNG
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN QUANG VỸ
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Quang Vỹ. Các số liệu và
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu trích dẫn trong quá trình nghiên cứu đều
được ghi rõ nguồn gốc. Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm về đề tài của mình.
Thừa Thiên Huế, ngày 23 tháng 7 năm 2017
Học viên
Lê Văn Vương
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu
lý luận và tích lũy kinh nghiệm thực tế của tác giả. Trước hết, cho phép tôi
được gửi tới Ban giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia; các thầy, cô giáo
Khoa sau đại học trường Học viện Hành chính Quốc gia lời chúc sức khỏe và
lời cảm ơn chân thành. Những kiến thức mà các thầy, cô giáo đã truyền đạt
trong quá trình học tập vô cùng hữu ích đối với tôi trong học tập, công tác và
trong đời sống; đặc biệt là trong quá trình tôi thực hiện luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc đến TS. Nguyễn
Quang Vỹ - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ và động viên tôi
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.
Luận văn của tôi chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Tôi rất mong nhận được sự đánh giá và góp ý của quý thầy, cô trong Hội đồng
đánh giá luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật
Hành chính – Học viện Hành chính Quốc gia để tôi tiếp tục hoàn thiện tốt hơn
luận văn của mình.
Xin trân trọng cảm ơn!
Quảng Ngãi, ngày 23 tháng 7 năm 2017
Học viên
Lê Văn Vương
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn .................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ...................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn .............................................................. 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ............................................ 4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ....................... 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ...................................................... 6
7. Kết cấu của luận văn ...................................................................................... 6
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ............................................ 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của Tòa án nhân dân cấp huyện ................................ 7
1.1.1. Khái niệm về Tòa án nhân dân cấp huyện ........................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của Tòa án nhân dân cấp huyện ........................................... 8
1.2. Vị trí, vai trò, chức năng của Tòa án nhân dân cấp huyện trong bộ máy
nhà nước ........................................................................................................... 11
1.3. Nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện .......................... 14
1.4. Cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện ..................... 15
1.4.1. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện ................................ 15
1.4.2. Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện ....................................... 17
1.5. Nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ................ 19
1.5.1. Nguyên tắc tổ chức của Tòa án nhân dân .......................................... 19
1.5.2. Nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân ...................................... 23
1.6. Nhà nước pháp quyền và yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện30
1.6.1. Nhà nước pháp quyền ........................................................................ 30
1.6.2. Yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với
tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện................................. 33
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................. 38
Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI .............. 39
2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện từ năm
1945 đến năm 2013 .......................................................................................... 39
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 ............................................... 39
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980 ............................................... 45
2.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 ............................................... 47
2.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002 ............................................... 49
2.1.5. Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2013 ............................................... 50
2.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi ...................................................................................................... 53
2.2.1. Tình hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện ...... 53
2.2.2. Đánh giá về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ................................................................ 59
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................. 71
Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC, BẢO ĐẢM
HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG NGÃI .......................................................................................... 72
3.1. Quan điểm về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ...... 72
3.1.1. Về quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng ................... 73
3.1.2. Về thẩm quyền xét xử và công tác nhân sự ....................................... 74
3.1.3. Về điều kiện cơ sở vật chất ................................................................ 75
3.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức, bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp huyện đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam .......................................................................................................... 76
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện76
3.2.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện ......... 83
3.3. Kiến nghị, đề xuất ..................................................................................... 88
3.3.1. Đối với Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh ............. 88
3.3.2. Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện .................................................. 91
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................. 95
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 96
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng
định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [49, tr.8],
“quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp” [49, tr.9] và “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [49, tr.54-55].
Trong các giai đoạn lịch sử của nước ta, Tòa án đã không ngừng được xây
dựng, củng cố, hoàn thiện và góp phần vào nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong
giai đoạn hiện nay ở nước ta là yếu tố tất yếu lịch sử khách quan. Với những
đặc trưng của mình để hoàn thành mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN, Đảng và nhà nước ta phải huy động sức mạnh tập thể chung của toàn
dân tộc, đặc biệt cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là yếu tố
chủ chốt trong quá trình thực hiện. Trong đó các cơ quan tư pháp thuộc nhánh
quyền lực quan trọng của nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân, bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội.
Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “Một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020”, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/07/2010 của Bộ Chính
trị, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khoá IX về
1
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI xác định việc tổ chức và hoạt động của Tòa án cần hoàn thiện
đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và tiến trình cải cách
tư pháp. Trong đó nhấn mạnh: kiện toàn tổ chức và cán bộ, nghiên cứu tăng
thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện theo hướng việc xét xử sơ
thẩm được thực hiện chủ yếu ở Toà án cấp này. Tòa án nhân dân (TAND) cấp
huyện chiếm số lượng lớn nhất và có vị trí rất quan trọng trong hệ thống
TAND, vì vậy việc tổ chức và hoạt động như thế nào, hiệu quả ra sao nhằm
nâng cao vị trí và thực hiện tốt vai trò của TAND cấp huyện cũng như đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là vấn đề được Đảng, nhà
nước và nhân dân ta vô cùng quan tâm; đặc biệt trong điều kiện xây dựng:
“Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [49, tr.8].
Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của TAND nói chung và TAND cấp
huyện nói riêng trong thời gian qua cũng đặt ra những vấn đề cần giải quyết
có tính khoa học cả về mặt lý luận và thực tiễn. Cụ thể, về thành lập các Tòa
chuyên trách tại TAND cấp huyện; vấn đề đổi mới việc tranh tụng tại phiên
tòa; về thủ tục rút gọn quy định trong tố tụng dân sự; về cải cách thủ tục hành
chính tư pháp... Vì vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND các cấp nói
chung, của TAND cấp huyện nói riêng có ý nghĩa quan trọng nhằm đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Đề tài luận văn cao học: “Tổ
chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” sẽ
góp phần nghiên cứu toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn tổ chức và
hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của TAND nói chung, TAND cấp huyện nói
riêng, đảm bảo công bằng, dân chủ, pháp chế XHCN ở nước ta.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình khoa học nghiên
cứu, các bài viết về tổ chức và hoạt động của TAND các cấp. Trong điều kiện
của bản thân, học viên đã tham khảo các tài liệu sau:
- Luận văn Thạc sĩ “Vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp quyền
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Huyền Ly, năm 2012.
- Bài viết “Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa
án nhân dân, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ: Tòa án là cơ quan xét xử
của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” của tác giả
Trương Hòa Bình – Bí thư Trương Đảng, Chánh án TAND tối cao, được đăng
trên Báo điện tử Công lý, (ngày 05/4/2014).
- Bài viết “Đảm bảo công lý trong thể chế pháp quyền” của Nguyễn
Thanh Tuấn - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, được đăng trên Tạp
chí điện tử Tổ chức Nhà nước, (ngày 24/3/2015).
- Bài viết “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt
Nam trong những năm đổi mới” của Huy Khiên, được đăng trên Tạp chí điện
tử Cộng sản, (ngày 15/8/2016).
Các công trình, bài viết nêu trên, ở chừng mực nhất định đã góp phần
làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của
TAND các cấp. Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào ở
cấp độ Thạc sĩ nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nên việc
nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam” không trùng lặp với bất kỳ đề tài nào trước đây và là đề tài có tính lý
luận, thực tiễn cao trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
hiện nay.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Mục đích của Luận văn là làm sáng tỏ vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức
và hoạt động của TAND cấp huyện trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam; đánh giá một cách có căn cứ và khoa học về thực
trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi,
đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động TAND trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt
động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi; đánh giá những
thành công, đặc biệt tìm ra những bất cập, vướng mắc trong tổ chức và hoạt
động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
+ Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại,
vướng mắc để hoàn thiện cơ cấu tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
TAND cấp huyện nói chung và TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi nói riêng đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tiếp cận, nghiên cứu các vấn đề sau:
+ Các công trình khoa học, tài liệu có nội dung liên quan đến tổ chức
4
và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam;
+ Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện;
+ Thực tiễn tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của các TAND
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
+ Về thời gian: Đề tài lấy số liệu nghiên cứu trong thời gian từ năm
2012 đến năm 2016.
+ Về nội dung: Đề tài đi vào nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt
động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, yêu cầu xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay; một số vấn đề liên quan đến
tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện từ đó đưa ra một số giải pháp và
kiến nghị nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận:
Luận văn được xây dựng dựa trên hệ thống quan điểm lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng,
quan điểm của các nhà khoa học về đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND
cấp huyện trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, Luận văn sử dụng các phương pháp
chủ yếu sau: Phương pháp phân tích tài liệu, thu thập và xử lý thông tin, so
sánh, thống kê, tổng hợp, sử dụng phương pháp phân tích định tính để từ đó
phân tích định lượng làm rõ những kết quả đạt được.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận:
Đề tài luận văn sẽ hệ thống hóa cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động
của TAND cấp huyện để có cái nhìn tổng thể, cụ thể về cơ cấu tổ chức và
phương thức hoạt động của TAND cấp huyện, từ đó làm rõ những điểm phù
hợp, cũng như hạn chế, chưa phù hợp cần hoàn thiện trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quan điểm lý luận và thực trạng tổ
chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Luận
văn xây dựng hệ thống quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện
cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm của Tòa án nhân dân cấp huyện
1.1.1. Khái niệm về Tòa án nhân dân cấp huyện
Bộ máy nhà nước của mỗi quốc gia có thể được tổ chức khác nhau
nhưng về cơ bản chúng có ba bộ phận hợp thành, gồm: hệ thống cơ quan
quyền lực nhà nước, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước và hệ thống cơ quan
tư pháp có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau để thực hiện chức năng của nhà
nước. Mỗi hệ thống này có cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
xác định để tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước dưới dạng quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Trên phương diện tổ chức thực hiện quyền lực
nhà nước, tư pháp là một nhánh quyền lực độc lập với quyền lập pháp, quyền
hành pháp. Trong hệ thống cơ quan tư pháp, Tòa án có vị trí trung tâm thực
hiện chức năng xét xử bảo vệ các giá trị mà xã hội ghi nhận.
Ở nước ta, bộ máy nhà nước được tổ chức theo kiểu nhà nước XHCN
có bản chất khác với bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột (nhà nước chủ
nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản), nhiệm vụ của nhà nước XHCN là
thực hiện dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện
công bằng xã hội. “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp” [49, tr.9]. Qua đó cho thấy ở Việt Nam quyền tư
pháp luôn gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và hành pháp trong tổng thể
của quyền lực nhà nước. Trong khi hoạt động chủ yếu của cơ quan lập pháp là
ban hành hiến pháp, pháp luật; của cơ quan hành pháp là tổ chức thực hiện
pháp luật để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trong giới hạn mà pháp
7
luật quy định. Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, hiện tượng
xâm phạm hiến pháp và pháp luật luôn là một nguy cơ trong đời sống xã hội.
Để bảo vệ pháp luật, khôi phục trật tự pháp luật bị xâm phạm là một đòi hỏi
khách quan của xã hội, từ đó hình thành nên hoạt động bảo vệ pháp luật là nội
dung cơ bản của quyền tư pháp.
Hoạt động xét xử của Tòa án là lĩnh vực thể hiện tập trung của quyền tư
pháp. TAND là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo
vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
1.1.2. Đặc điểm của Tòa án nhân dân cấp huyện
Thứ nhất, TAND cấp huyện là một bộ phận của TAND
Tòa án được thành lập để nhân danh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
thực hiện chức năng xét xử.
Tổ chức TAND gồm có: TAND tối cao, TAND cấp cao, TAND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (gọi tắt TAND cấp tỉnh), TAND huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (gọi tắt TAND cấp huyện),
Tòa án quân sự. Tổ chức Tòa án quân sự gồm có: Tòa án quân sự trung ương,
Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực [41].
Như vậy, TAND cấp huyện là một bộ phận của hệ thống TAND thực
hiện chức năng xét xử ở phạm vi lãnh thổ cấp huyện. Đây là cấp Tòa án thực
hiện xét xử thấp nhất tại địa phương đối với các vụ án được pháp luật quy
định. Vì vậy, TAND cấp huyện cần phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ
trong việc giải quyết những vụ việc thuộc thẩm quyền của mình theo yêu cầu
của cá nhân, tổ chức hoặc theo các trường hợp khác mà pháp luật quy định để
vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Cán bộ, công chức làm việc tại TAND cấp huyện có chế độ lương, phụ
cấp theo quy định chung của hệ thống Tòa án giống như các Tòa án khác
8
trong hệ thống TAND; chịu sự điều chỉnh của quy chế, quy định riêng về quy
tắc ứng xử, về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của nội bộ hệ thống Tòa án.
Thứ hai, TAND cấp huyện có chức năng xét xử sơ thẩm các vụ án theo
thẩm quyền và giải quyết các việc khác theo quy định pháp luật
Lịch sử pháp luật Việt Nam cho thấy thẩm quyền của TAND cấp huyện
trên các lĩnh vực hình sự, dân sự và các việc khác theo quy định của pháp luật
có sự mở rộng. Chẳng hạn, trên lĩnh vực hình sự, tại khoản 1 Điều 145 của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định: “TAND cấp huyện xét xử sơ thẩm
những tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt từ bảy năm tù trở
xuống” [29], theo quy định tại khoản 1 Điều 170 của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 quy định: “TAND cấp huyện xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về
những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất
nghiêm trọng” [30, tr.136-137]; trên lĩnh vực dân sự, tại khoản 1 Điều 136
Luật đất đai năm 2003 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định: “Tranh
chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc có một trong các
loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh
chấp về tài sản gắn liền với đất thì do TAND giải quyết” [33, tr.169], theo
khoản 2 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 quy định: “TAND có thẩm quyền có
quyền giải quyết sơ thẩm các tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy
chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100
của Luật này” [32, tr.222].
Chức năng xét xử sơ thẩm các vụ án theo thẩm quyền và giải quyết các
việc khác theo quy định pháp luật của TAND cấp huyện hiện nay được quy
định tại Luật Tổ chức TAND năm 2014, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tố tụng hành chính năm 2015 và một số
văn bản pháp luật có liên quan khác.
9
Thứ ba, TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
TAND cấp huyện có vị trí quan trọng trong việc giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh
tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; TAND là chỗ dựa của nhân
dân trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, đồng thời là công cụ
hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế XHCN, đấu tranh có hiệu quả với các
loại tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời nâng cao ý thức pháp
luật và giáo dục trong xã hội. Nhiệm vụ này của TAND cấp huyện được
khẳng định trong Hiến pháp năm 2013 và cũng là nhiệm vụ của hệ thống
TAND nói chung. TAND cấp huyện là cơ quan nhân danh nhà nước ra các
phán quyết ảnh hưởng đến lợi ích của tổ chức, cá nhân, nhà nước trong phạm
vi thẩm quyền của mình, vì vậy TAND cấp huyện cần thực hiện tốt chức năng
này của mình để lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người
dân, tổ chức được bảo đảm.
Những đặc điểm trên cho thấy Tòa án nói chung, TAND cấp huyện nói
riêng đóng vai trò quan trọng, chủ chốt trong bộ máy nhà nước ta. Tòa án
nhân danh nhà nước đưa ra phán quyết khi xét xử, thể hiện quan điểm của nhà
nước ta về quyền công dân, quyền con người, những giá trị được pháp luật
bảo vệ và đưa pháp luật do nhà nước ban hành áp dụng vào xã hội. Phán
quyết của TAND cấp huyện thể hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà
nước và cụ thể hóa cho khẳng định mà Hiến pháp đặt ra “Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [49, tr.8]. Việc quy định về số lượng
Hội thẩm nhân dân trong thành phần Hội đồng xét xử cũng thể hiện tính nhân
dân của nhà nước pháp quyền.
10
Nói một cách khái quát, quan niệm về nhà nước pháp quyền là hệ thống
các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là
nhà nước được tổ chức và quản lý theo pháp luật, bảo đảm tính thượng tôn
pháp luật và đề cao các giá trị nhân văn, tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường
pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện
và bảo vệ các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn
ngừa mọi sự tùy tiện lạm quyền từ phía cơ quan nhà nước và công chức nhà
nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật kỷ cương, bảo đảm
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhà nước. Đó là nhà nước mà tất cả các cơ
quan nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng đều phải hoạt động theo pháp
luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của
mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật, phải
sống và làm việc theo pháp luật. Căn cứ vào những đặc trưng đó của nhà nước
pháp quyền, có thể thấy TAND cấp huyện là cơ quan tài phán đưa ra phán
quyết xử lý đối với hành vi phạm tội, tranh chấp, yêu cầu trong lĩnh vực dân
sự, kinh tế, lao động nên đóng vai trò quan trọng trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Chất lượng hoạt động của TAND cấp
huyện góp phần quan trọng trong việc xây dựng và củng cố nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam, vì vậy tổ chức và hoạt động TAND cấp huyện cần
được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
1.2. Vị trí, vai trò, chức năng của Tòa án nhân dân cấp huyện trong bộ
máy nhà nước
Trên cơ sở những thành tựu mới của khoa học xã hội, trong đó có triết
học, sử học và xã hội học, với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
11
vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ănghen đã xây dựng luận thuyết về nguồn gốc nhà
nước. Theo đó, nhà nước không phải là hiện tượng xã hội vĩnh cữu và bất
biến, nhà nước cũng không phải là lực lượng từ bên ngoài áp đặt vào xã hội,
nó xuất hiện một cách khách quan, khi xã hội đã phát triển đến một giai đoạn
nhất định. Có nhiều nhân tố tác động dẫn đến sự ra đời của nhà nước, trong đó
nhân tố kinh tế và xã hội giữ vai trò quyết định.
Về kinh tế, lực lượng sản xuất phát triển không ngừng và đến giai đoạn
nhất định thì chế độ tư hữu xuất hiện thay cho chế độ công hữu nguyên thủy
đã tồn tại rất lâu trong hình thái kinh tế xã hội đầu tiên của loài người. Tình
trạng bất bình đẳng về kinh tế, khả năng người này có thể chiếm đoạt lợi ích
kinh tế của người khác đã làm phát sinh những mâu thuẫn và đối kháng, đòi
hỏi phải có thiết chế nhà nước có đủ sức mạnh để duy trì trật tự xã hội. Về xã
hội, những thay đổi về kinh tế đã tác động làm biến đổi quan hệ xã hội. Kết
cấu xã hội thay đổi, chế độ thị tộc được xây dựng trên cơ sở huyết thống bị
phá vỡ, gia đình xuất hiện và dần dần thay thế chế độ thị tộc. Sự xuất hiện
giai cấp đã dẫn tới mâu thuẫn và đối kháng. Đấu tranh giai cấp diễn ra không
ngừng và ngày càng gay gắt, trật tự xã hội bị đe dọa, đòi hỏi phải có nhà nước
có khả năng làm dịu bớt các xung đột và giữ cho sự xung đột đó xảy ra trong
vòng trật tự. Như vậy, trong xã hội công xã nguyên thủy nhà nước chưa xuất
hiện.
Xã hội chế độ thị tộc không biết đến mâu thuẫn nội tại và chỉ thích hợp
với những đặc điểm của xã hội đó thì khi xã hội có những đặc điểm mới với
sự phân công giai cấp, các giai cấp mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt với nhau
để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Tổ chức thị tộc đã trở nên bất lực, không
phù hợp để quản lý xã hội nữa. Xã hội đòi hỏi phải có tổ chức mới đủ mạnh
để dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp hoặc kìm hãm sự mâu
thuẫn trong vòng kiểm soát. Tổ chức đó là nhà nước và nhà nước đã xuất
12
hiện. Từ đó nhà nước được tổ chức và phát triển phù hợp với sự phát triển của
kinh tế, xã hội dưới dạng các kiểu nhà nước: kiểu nhà nước chủ nô, phong
kiến, tư sản và XHCN.
Nhà nước có đặc trưng tổ chức công dân theo lãnh thổ và có bộ máy
cưỡng chế chuyên làm nhiệm vụ quản lý, bao gồm quân đội, cảnh sát, Tòa án
… và những công cụ vật chất như nhà tù. Quyền lực nhà nước được thể hiện
dưới các hình thức là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo
vệ pháp luật. Các hình thức này tương ứng với ba quyền: lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước được thực hiện thông
qua hoạt động xét xử của Tòa án đối với hành vi, quyết định có sự xâm phạm
tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.
Tài phán của cơ quan Tư pháp đối với hoạt động của lập pháp và hành pháp
có ý nghĩa kiểm soát tính hợp pháp, hợp hiến của chính quyền, là yêu cầu chủ
yếu của nhà nước pháp quyền. Chính vì thế, việc xét xử phải được tiến hành
theo những thủ tục rất chặt chẽ được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự,
Bộ luật tố tụng dân sự... Như vậy, nói đến tư pháp là nói đến việc xét xử theo
pháp luật và quyền tư pháp do hệ thống Tòa án thực hiện với chức năng đặc
trưng là xét xử, là một phương thức thực thi quyền lực nhà nước. Tòa án là cơ
quan nhân danh nhà nước thực hiện việc xét xử, bảo vệ công lý. Chất lượng
xét xử của Tòa án là thước đo tính dân chủ, công bằng và lòng tin của nhân
dân. Bản chất hoạt động xét xử của Tòa án là áp dụng pháp luật và thông qua
đó Tòa án chuyển tải, thể hiện quyền lực nhà nước, ý chí của giai cấp thống
trị vào đời sống xã hội. Vì vậy, nếu Tòa án hoạt động không minh bạch,
khách quan thì công lý không được bảo vệ, trật tự an toàn xã hội không được
bảo đảm. Đồng thời, thông qua hoạt động xét xử, các quy định pháp luật còn
được chuyển tải đến các đối tượng khác trong xã hội, giúp họ nhận thức, nâng
cao ý thức pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
13
TAND cấp huyện là một bộ phận trong hệ thống TAND, có vị trí rất
quan trọng trong bộ máy nhà nước, là nơi thể hiện công lý trong xã hội. Hoạt
động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước để xem xét, đánh giá
và phán quyết tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay tính công bằng trong
các tranh chấp giữa các bên liên quan. Đặc trưng cơ bản của hoạt động xét xử
là Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước và sự nhân danh quyền lực nhà nước
đã làm cho các bản án, quyết định do Tòa án ban hành được bảo đảm thực thi
bởi nhà nước thông qua các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Bằng hoạt động
của mình, TAND cấp huyện còn góp phần giáo dục công dân trung thành với
Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của
cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các hành
vi vi phạm pháp luật khác.
1.3. Nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
Tòa án nhân danh nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam xét xử các vụ
án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động,
hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét
đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong
quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có
tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư
pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân. Bản án,
quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá
nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp
hành.
TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự
về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất
nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây: các tội xâm phạm an ninh quốc
gia; các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; các
14
tội quy định tại các Điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223,
224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự; sơ
thẩm những vụ án dân sự, vụ án hôn nhân và gia đình, vụ án kinh doanh
thương mại, vụ án lao động, vụ án hành chính theo quy định của pháp luật, trừ
một số vụ án có yếu tố nước ngoài, vụ án có yêu cầu hủy quyết định hành
chính mà chủ thể ban hành là Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp huyện, Chủ tịch
UBND cấp huyện trở lên, các tranh chấp về sở hữu công nghiệp; giải quyết
theo thủ tục sơ thẩm các việc dân sự, việc hôn nhân và gia đình, việc kinh
doanh thương mại, việc lao động, trừ những việc thuộc thẩm quyền giải quyết
của TAND cấp tỉnh; giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật
gồm: áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại
TAND, thi hành án hình sự và các việc khác theo quy định pháp luật. Như
vậy, chúng ta thấy rằng TAND cấp huyện có thẩm quyền rộng, giải quyết sơ
thẩm gần hết những vụ việc trong phạm vi hành chính lãnh thổ.
1.4. Cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
1.4.1. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện
Ngày 28 tháng 11 năm 2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm
2013. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, nhiều nội dung quan trọng về
vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của TAND, về
Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án đã được sửa đổi, bổ sung. Do đó, ngày
24 tháng 11 năm 2014, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức TAND năm
2014, Luật này đã thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng
về cải cách tư pháp, bảo đảm cụ thể hóa tinh thần cũng như các quy định của
Hiến pháp năm 2013 về Tòa án. Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức
TAND năm 2014 thì nhiều nội dung quan trọng về cơ cấu tổ chức của TAND,
về Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên đã được sửa đổi, bổ sung, cụ
15
thể như sau:
Thứ nhất, về cơ cấu tổ chức: Điều 3 của Luật Tổ chức TAND năm
2014 quy định cơ cấu tổ chức TAND bao gồm: TAND tối cao, TAND cấp
cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh và tương đương và Tòa án quân sự. Như vậy, Tòa án
được tổ chức trong một hệ thống thống nhất là hệ thống TAND, gồm các
TAND và các Tòa án quân sự. Trong đó, các TAND được tổ chức gồm 4 cấp
theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính theo định
hướng đã được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW và Kết luận số 79-
KL/TW của Bộ Chính trị. Việc tổ chức các TAND theo hướng này là phù hợp
với các nguyên tắc về tổ chức của cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đó là tổ
chức theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm độc lập xét xử, góp phần khắc phục
những hạn chế, bất cập trong cơ cấu tổ chức của Tòa án hiện nay. Đây cũng là
phương thức để nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp quyền
XHCN.
Thứ hai, về Thẩm phán: Ngạch của Thẩm phán TAND gồm Thẩm phán
TAND tối cao, Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp;
nhiệm kỳ đầu của các Thẩm phán là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại
hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10
năm; Về chế độ, chính sách đối với Thẩm phán: Công việc xét xử của Thẩm
phán là một loại lao động đặc biệt, khi xét xử, Thẩm phán không nhân danh
cá nhân hay Hội đồng xét xử mà nhân danh nhà nước để định tội danh, hình
phạt trong các vụ án hình sự, để phân định đúng, sai trong các vụ việc, tranh
chấp dân sự, hành chính, lao động, kinh doanh thương mại, hôn nhân và gia
đình. Khi xét xử, Thẩm phán phải tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc
nhất định, trong đó nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất là độc lập, chỉ tuân
theo pháp luật. Để bảo đảm cho Thẩm phán theo nguyên tắc nêu trên đòi hỏi
16
phải có những điều kiện nhất định không chỉ về trí tuệ, tâm lý mà cả về chế
độ, chính sách đối với họ.
Thứ ba, về Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên: Thư ký Tòa án có các ngạch
gồm Thư ký viên, Thư ký viên chính, Thư ký viên cao cấp; Thẩm tra viên có
các ngạch là Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính, Thẩm tra viên cao cấp.
Đối với TAND cấp huyện, Luật Tổ chức TAND năm 2014 có những
quy định mới cơ bản so với Luật Tổ chức TAND năm 2002, góp phần vào
hoàn thiện hệ thống TAND, gồm:
- TAND cấp huyện có thể có các Tòa chuyên trách như Tòa hình sự,
Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính.
Trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa
chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao. Căn cứ quy định
này và yêu cầu thực tế xét xử ở mỗi TAND huyện, quận, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh và tương đương, Chánh án TAND tối cao quyết định việc tổ
chức Tòa chuyên trách, Bộ máy giúp việc; cụ thể:
- TAND cấp huyện có Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa, Phó Chánh
tòa, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên về thi hành án, công chức
khác và người lao động. Chánh án TAND cấp huyện do Chánh án TAND tối
cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; nhiệm kỳ của Chánh án TAND cấp
huyện là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Phó Chánh án TAND cấp huyện
do Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; nhiệm kỳ của
Phó Chánh án TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
1.4.2. Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
Thứ nhất, về chức năng: TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích
17
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Khi xét xử vụ
án hình sự, Tòa án có quyền xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; xem xét, kết luận về tính hợp
pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm
sát, Kiểm sát viên thu thập, do Luật sư, bị can, bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác cung cấp; khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm
sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc
Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự; yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người
khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ
án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm. Khi giải quyết việc xử lý vi
phạm hành chính, Tòa án có quyền xem xét đề nghị của cơ quan quản lý nhà
nước và quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính liên quan đến
quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Tòa án có quyền ra quyết định hoãn, miễn, giảm, tạm đình chỉ chấp
hành biện pháp xử lý hành chính do Tòa án áp dụng và thực hiện các quyền
hạn khác theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính.
Thứ hai, về nhiệm vụ, quyền hạn, Chánh án có nhiệm vụ, quyền hạn
sau: Tổ chức công tác xét xử của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh và tương đương; chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện nguyên tắc Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; báo cáo công tác
trước Hội đồng nhân dân (HĐND) có thẩm quyền theo luật định và TAND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo
quy định của luật tố tụng; giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.
Phó Chánh án TAND cấp huyện giúp Chánh án thực hiện nhiệm vụ theo sự
18
phân công của Chánh án. Khi Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được
Chánh án ủy nhiệm lãnh đạo công tác của Tòa án. Phó Chánh án chịu trách
nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
theo quy định của luật tố tụng.
Thứ ba, về thẩm quyền xét xử: TAND cấp huyện có chức năng sơ thẩm
vụ việc theo quy định của pháp luật; giải quyết việc khác theo quy định của
pháp luật.
1.5. Nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
1.5.1. Nguyên tắc tổ chức của Tòa án nhân dân
1.5.1.1. Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán; bầu hoặc cử Hội thẩm
- Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán
Theo Hiến pháp năm 1946, “Thẩm phán các TAND đều do Chính phủ
bổ nhiệm” [44]. Đến Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ
chức TAND năm 1960, Luật Tổ chức TAND năm 1981 thì “Thẩm phán
TAND tối cao do Uỷ ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, Hội đồng nhà nước
cử, Thẩm phán các TAND khác do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp bầu
và bãi miễn” [37], [38], [45], [46]. Theo Hiến pháp năm 1992 thì “Chủ tịch
nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND các cấp” [47].
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Luật Tổ chức
TAND năm 2002 thì Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TAND
tối cao theo đề nghị của Chủ tịch nước; Phó Chánh án và Thẩm phán TAND
tối cao, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự trung ương do Chủ tịch nước
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp
do Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị
của các hội đồng tuyển chọn Thẩm phán; Chánh án, Phó Chánh án TAND địa
phương do Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi
thống nhất với thường trực UBND địa phương; Chánh án, Phó Chánh án Tòa
19
án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực do Chánh án
TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức khi thống nhất với Bộ
trưởng Bộ quốc phòng [40], [48].
Theo Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì Chủ tịch
nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án các cấp. Việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND tối cao phải được Quốc hội
phê chuẩn. Chánh án TAND tối cao trình Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND tối cao theo đề nghị của Hội đồng
tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia; căn cứ vào Nghị quyết phê chuẩn
của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán
TAND tối cao. Nhiệm kỳ của Chánh án TAND tối cao theo nhiệm kỳ của
Quốc hội; nhiệm kỳ của Phó Chánh án TAND tối cao, Chánh án, Phó Chánh
án TAND khác là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm; nhiệm kỳ đầu của
Thẩm phán là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào
ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm [41], [49].
Việc thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán sẽ giúp nhà nước chọn
được những người có đủ tiêu chuẩn để thực hiện tốt chức năng xét xử của
TAND. Các Thẩm phán được bổ nhiệm sẽ có điều kiện để tích lũy kinh
nghiệm xét xử, nâng cao ý thức, trách nhiệm cá nhân cũng như tính độc lập
trong công tác xét xử của Thẩm phán.
- Nguyên tắc bầu hoặc cử Hội thẩm
Hội thẩm nhân dân được thực hiện theo chế độ bầu, Hội thẩm quân
nhân được thực hiện theo chế độ cử.
Hội thẩm nhân dân TAND cấp tỉnh, Hội thẩm nhân dân TAND cấp
huyện do HĐND cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cùng cấp và do HĐND cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo
đề nghị của Chánh án TAND cùng cấp sau khi thống nhất với Uỷ ban Mặt
20
trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Hội thẩm quân dân Tòa án quân sự quân
khu và tương đương do Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân
Việt Nam cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn,
quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm Tổng cục chính
trị Quân đội nhân dân Việt Nam miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của
Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương sau khi thống nhất với cơ
quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương
đương. Hội thẩm quân dân Tòa án quân sự khu vực do Chính ủy quân khu,
quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương cử theo sự giới thiệu
của cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương và do Chính ủy quân
khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương miễn nhiệm, bãi
nhiệm theo đề nghị của Chánh án Tòa án quân sự khu vực sau khi thống nhất
với cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương. Nhiệm kỳ của Hội thẩm
nhân dân theo nhiệm kỳ của HĐND bầu ra Hội thẩm nhân dân. Nhiệm kỳ của
Hội thẩm quân nhân là 05 năm, kể từ ngày được cử [41].
1.5.1.2. Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội
thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân, nguyên tắc xét xử sơ thẩm của TAND có Hội thẩm tham
gia khẳng định tính dân chủ của nhà nước ta, nhân dân là chủ đất nước, có
quyền tham gia quản lý đất nước bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó
tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án là một hình thức quản lý, giám sát
hoạt động xét xử của Tòa án.
Hội thẩm thay mặt nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án,
bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đúng chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của nhà nước, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Việc tham gia của Hội thẩm nhân dân giúp cho Tòa án xét xử không chỉ đúng
21
pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Hội thẩm nhân dân
có đời sống chung trong cộng đồng, trong tập thể lao động, nên họ hiểu sâu
hơn tâm tư nguyện vọng, nắm bắt được dư luận quần chúng nhân dân. Khi
được cử hoặc bầu làm Hội thẩm, Hội thẩm không tách khỏi hoạt động lao
động sản xuất của cơ quan, đơn vị mình. Với vốn hiểu biết thực tế, kinh
nghiệm trong cuộc sống, sự am hiểu về phong tục tập quán địa phương, Hội
thẩm sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết trong quá
trình xét xử để có được một phán quyết đúng pháp luật, được xã hội đồng tình
ủng hộ.
Đối với việc xét xử theo thủ tục rút gọn thì Hội thẩm không tham gia.
Quy định này là hoàn toàn phù hợp bởi, những vụ án giải quyết theo thủ tục
rút gọn là những vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương
sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để
giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ; các đương
sự đều có địa chỉ cư trú, trụ sở rõ ràng, nên khi xét xử theo thủ tục rút gọn
không cần thiết phải có sự tham gia của Hội thẩm.
1.5.1.3. Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật
Xét xử là quá trình áp dụng pháp luật để xử lý, giải quyết các tranh
chấp, hành vi vi phạm pháp luật để bảo vệ pháp luật. Bản chất của hoạt động
xét xử là hoạt động đòi hỏi phải độc lập để đảm bảo công bằng, nếu hoạt động
xét xử không độc lập thì việc xét xử sẽ không khách quan, sự độc lập của Tòa
án được thể hiện qua sự độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân khi xét
xử. Để đảm bảo được sự công bằng, đòi hỏi khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm
phải độc lập, không bị ràng buộc hay bị chi phối bởi ý kiến của ai; không một
cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét
xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập,
22
nhưng phải tuân theo pháp luật. Thẩm phán, Hội thẩm phải căn cứ vào các
quy định của pháp luật để đưa ra quyết định của mình về từng vấn đề của vụ
án, không được tuỳ tiện hay bằng cảm tính. Do đó, để đảm bảo sự độc lập của
Tòa án cần có sự quy định rõ ràng trách nhiệm độc lập của Tòa án, của Thẩm
phán, Hội thẩm và cơ chế đảm bảo không có sự tham gia, can thiệp trái pháp
luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Muốn vậy, cần thiết phải có sự
phân định rõ ràng về thẩm quyền của Tòa án, của các cơ quan lập pháp và các
cơ quan hành pháp cùng với trách nhiệm, nghĩa vụ tương ứng để ngăn ngừa
sự lạm quyền và can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử.
Nguyên tắc này được quy định tại các Hiến pháp năm 1946, 1959,
1980, 1992, 2013 và Luật Tổ chức TAND năm 1960, 1981, 1992, 2002, 2014.
Để đảm bảo nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật, Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức TAND năm 2014 khẳng
định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm
phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào” [41], [49, tr.55].
1.5.2. Nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân
1.5.2.1. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo
đa số trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn
Xét xử là hoạt động đặc thù do TAND thực hiện để bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của nhà nước, bảo vệ chế
độ XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bản án,
quyết định của Tòa án mà cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được hưởng các
quyền hoặc phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý nhất định. Vì vậy, việc xét xử
của Tòa án phải khách quan, đúng pháp luật. Để có bản án, quyết định khách
quan, đúng pháp luật đòi hỏi phải phát huy trí tuệ của tập thể. Do đó, khi xét
xử các vụ án đều phải thành lập Hội đồng xét xử, trừ trường hợp xét xử theo
23
thủ tục rút gọn. Thành phần Hội đồng xét xử ở mỗi cấp xét xử do luật tố tụng
quy định.
Nguyên tắc này bảo đảm cho Tòa án xét xử khách quan, toàn diện,
chống độc đoán hoặc tùy tiện cá nhân. Đối với việc xét xử theo thủ tục rút
gọn thì Hội thẩm nhân dân không tham gia, do đó trong trường hợp này
không xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
1.5.2.2. Nguyên tắc xét xử công khai
Mục đích của nguyên tắc xét xử công khai để thu hút đông đảo nhân
dân tham gia kiểm tra, giám sát đối với hoạt động xét xử của TAND, đồng
thời nâng cao công tác giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân, thu hút nhân
dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp
luật.
Nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ, TAND phải có kế hoạch xét xử
các vụ án và niêm yết công khai kế hoạch xét xử tại trụ sở của Tòa án. Tòa án
giao quyết định xét xử cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo (đối với vụ án
hình sự), giao cho đương sự (đối với vụ án dân sự, hành chính) và giao giấy
triệu tập phiên tòa cho những người tham gia tố tụng khác. Ngoài xét xử tại
Hội trường xét xử, trụ sở Tòa án thì có thể xét xử lưu động ở nơi xảy ra hành
vi phạm tội, có tranh chấp để tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp
luật.
Tại các phiên tòa, mọi công dân từ đủ 16 tuổi trở lên có quyền tham dự
phiên tòa. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong,
mỹ tục dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu
cầu chính đáng của đương sự, TAND có thể xét xử kín, tuy nhiên cho dù xét
xử công khai hay xét xử kín thì Tòa án đều phải tuyên án công khai.
1.5.2.3. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
Nguyên tắc này là quy định mới trong Hiến pháp năm 2013. Để thực
24
hiện Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp: “Phán quyết của Tòa án phải
căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng,
nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những
bản án đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định” [3].
Nghị quyết số 49/2005/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 quy định: “Đổi mới việc tổ chức
phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của những
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính
công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [5].
Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” [49, tr.55], làm cơ sở pháp lý cho các
Bộ luật, Luật cụ thể hóa, chi tiết hóa nhằm bảo đảm sự khách quan, công khai,
minh bạch trong hoạt động xét xử của Tòa án, để Tòa án xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội,
khắc phục và hạn chế oan sai đối với các vụ án hình sự và giải quyết đúng đắn
đối với các vụ án khác theo quy định của pháp luật để tạo được niềm tin ở
người dân, công lý được thực hiện trên thực tế.
1.5.2.4. Nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm
Xét xử là hoạt động liên quan trực tiếp đến các quyền cơ bản của con
người, quyền công dân (quyền sống, quyền tự do, quyền sở hữu, danh dự,
nhân phẩm…). Vì vậy, yêu cầu đối với hoạt động xét xử là phải đảm bảo sự
công bằng, khách quan, đúng pháp luật. Thực tế cho thấy rằng hoạt động xét
xử là hoạt động tư duy của con người có thẩm quyền xét xử là Thẩm phán,
Hội thẩm, vì thế có thể có những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án
không khách quan, không đúng pháp luật đòi hỏi phải có sự xem xét lại theo
25
trình tự, thủ tục phúc thẩm để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
liên quan.
Vì vậy, tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chế độ
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” [49, tr.55]. Quy định này để bảo
đảm việc thực hiện quyền tố tụng của bị cáo và đương sự được xét xử qua hai
cấp: cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc thẩm nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho những người tham gia tố tụng, tránh được những sai lầm
dẫn đến số lượng án bị sửa, bị hủy hàng năm của các Tòa án. Đồng thời khi
thực hiện chế độ hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm sẽ đưa thủ tục giám đốc
thẩm và tái thẩm về đúng với bản chất là trình tự xem xét lại bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi có vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng hay có tình tiết mới làm thay đổi bản chất của vụ việc, chứ không phải
là cấp xét xử thứ ba.
1.5.2.5. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Bảo vệ quyền con người là mục tiêu của các nhà nước dân chủ và tiến
bộ. Bảo đảm thực hiện có hiệu quả quyền công dân là tiêu chí đánh giá sự văn
minh, tiến bộ của một xã hội hiện đại. Ngày nay, đất nước ta đang trên đà
phát triển về mọi mặt. Song song với việc phát triển kinh tế, Đảng và nhà
nước cũng chăm lo xây dựng một nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân, xây dựng một hệ thống pháp luật bảo đảm cho việc
phát triển các quyền tự do dân chủ của công dân. Quyền bào chữa của bị can,
bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một quyền
quan trọng của công dân khi tham gia tố tụng với tư cách là bị can, bị cáo,
đương sự. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc Hiến định được
ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp đã được ban hành của nước ta và
được cụ thể hóa, chi tiết hóa trong Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân
26
sự, Luật tố tụng hành chính. Việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế đã
góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị
can, bị cáo, đương sự; giúp cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án giải
quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Tuy nhiên, thực tiễn
cho thấy, việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chưa được thực hiện một cách đầy
đủ, nhiều cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và những người
tham gia tố tụng vẫn còn xem nhẹ nguyên tắc này. Tình trạng bắt, giam giữ,
xét xử oan sai, vẫn còn tồn tại trên thực tế.
Để thực hiện quyền bào chữa của mình, bị can, bị cáo có thể tự mình
bào chữa hoặc nhờ luật sư, người có đủ điều kiện khác để bào chữa cho mình;
đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư, người có đủ điều kiện khác để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Trong trường hợp cần thiết, mặc
dù bị can, bị cáo không yêu cầu nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải yêu
cầu Đoàn luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử người bào chữa
cho bị can, bị cáo, cụ thể trong trường hợp bị can, bị cáo có khuyết tật về thể
chất và tinh thần; bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng mà hình phạt cao nhất
là tử hình; bị can, bị cáo là người vị thành niên phạm tội.
1.5.2.6. Nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật
Quyền bình đẳng trước pháp luật là một quyền con người. Đó là quyền
được xác lập tư cách con người trước pháp luật; không bị pháp luật phân biệt
đối xử, quyền có vị thế ngang nhau trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ
như nhau. Nó được xem xét ở các cấp độ khác nhau. Trước hết, quyền bình
đẳng trước pháp luật được thể hiện là nhu cầu của một chủ thể tự nhiên với tư
cách là một con người buộc phải có và cần phải có. Thứ hai, quyền bình đẳng
trước pháp luật là một giá trị của xã hội loài người. Thứ ba, người ta thực hiện
quyền bình đẳng đó bằng công cụ pháp luật thông qua việc thể chế hóa và tạo
27
ra cơ chế bảo vệ khi nó bị xâm phạm. Nói cách khác, quyền bình đẳng trước
pháp luật là sự bao quát gần như toàn bộ các quyền bình đẳng trong mọi lĩnh
vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong phạm vi điều chỉnh của pháp
luật. Điều này được quyết định bởi thuộc tính, vai trò của pháp luật trong xã
hội với tư cách là các quy phạm do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm
bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật là nguyên tắc
quan trọng của chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân, nó thể hiện nền dân chủ XHCN, khẳng định nước ta các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Trong
hoạt động xét xử của TAND phải tuân theo nguyên tắc mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo,
thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức đều bình đẳng
trước pháp luật.
Theo nguyên tắc này thì mọi tội phạm, mọi tranh chấp pháp lý do bất
kỳ ai thực hiện đều phải được TAND xét xử công bằng. Trong những điều
kiện hoàn cảnh như nhau mà hành vi vi phạm pháp luật hoặc tội phạm như
nhau, tính chất, mức độ phạm tội như nhau, hậu quả do tội phạm gây ra như
nhau thì Tòa án phải áp dụng các quy định pháp luật như nhau để giải quyết,
xét xử. Mặt khác, khi xét xử TAND phải bảo đảm sự bình đẳng của mọi
người về quyền và nghĩa vụ khi họ tham gia vào các thủ tục tố tụng do pháp
luật tố tụng quy định.
Để nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật được thực hiện
trên thực tế, đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm phải tinh thông về nghiệp vụ,
trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, có tinh thần bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, thật sự “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” trong hoạt
28
động xét xử. Nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc quan trọng trong
hoạt động xét xử của Tòa án, được hiến định tại khoản 1 Điều 16 Hiến pháp
năm 2013 và được cụ thể hóa tại Điều 12 Luật Tổ chức TAND năm 2014.
1.5.2.7. Nguyên tắc người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và
chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án nhân dân
Xuất phát từ thực tế nước ta có nhiều dân tộc cùng sinh sống trên một
lãnh thổ. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, tất cả các dân tộc Việt Nam
đã chung sức, đồng lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời nước ta thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động, tích cực hội nhập và
hợp tác quốc tế. Trong quá trình hội nhập có thể có người nước ngoài, người
không quốc tịch sẽ là đối tượng giải quyết của Tòa án Việt Nam. Để thực hiện
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về đoàn kết và bình
đẳng giữa các dân tộc và đường lối đối ngoại, trong hoạt động xét xử của
mình, TAND phải bảo đảm nguyên tắc người tham gia tố tụng có quyền dùng
tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án. Áp dụng nguyên tắc này
cũng chính là góp phần tăng cường tính thống nhất của pháp chế, nghiêm
chỉnh tuân theo và chấp hành pháp luật. Thực hiện nguyên tắc này sẽ là điều
kiện tốt để mọi công dân thể hiện được yêu cầu, nguyện vọng của mình trước
Tòa án, cũng như việc trình bày các lý lẽ, căn cứ làm cơ sở cho yêu cầu,
nguyện vọng đó. Có như vậy mới tạo ra sự bình đẳng, bảo vệ được quyền và
lợi ích hợp pháp đích thực của mọi người khi tham gia tố tụng, đồng thời giúp
cho Tòa án xét xử được chính xác, đúng sự thật khách quan của vụ án, nâng
cao chất lượng trong hoạt động xét xử. Trong trường hợp người tham gia tố
tụng trình bày bằng ngôn ngữ của dân tộc họ thì Tòa án phải làm thủ tục chỉ
định người phiên dịch cho họ. Tuy nhiên, người phiên dịch có thể bị tác động
bởi nhiều yếu tố, có thể phiên dịch không đúng với lời khai của bị can, bị cáo,
29
đương sự, người tham gia tố tụng nên pháp luật có quy định về việc thay đổi
người phiên dịch. Việc thay đổi người phiên dịch trước khi mở phiên tòa do
Chánh án Tòa án quyết định, còn thay đổi tại phiên tòa do Hội đồng xét xử
giải quyết. Những quy định này nhằm giúp cho người phiên dịch thực hiện
nhiệm vụ một cách thực sự vô tư, khách quan không phụ thuộc vào ai, không
bị chi phối bởi yếu tố nào. Ngoài ra, “người phiên dịch phải có nghĩa vụ thực
hiện đầy đủ, trung thực các nghĩa vụ tố tụng của mình và chịu trách nhiệm
pháp lý về việc thực hiện nghĩa vụ đó, nếu dịch gian dối thì người phiên dịch
phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 Bộ luật hình sự” [30, tr.53].
Như vậy, việc Tòa án đảm bảo thực hiện nguyên tắc này là rất quan
trọng và cần thiết. Đây chính là cơ sở để tạo ra sự công bằng, bình đẳng trong
xã hội, chính vì vậy mà pháp luật có những quy định khá chặt chẽ về người
phiên dịch, người phiên dịch có vai trò rất quan trọng trong xét xử, bởi nếu họ
không vô tư, không khách quan, hay không đạt tới một trình độ nhất định thì
chính họ lại làm cho vụ án xét xử sẽ không khách quan, không bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, đương sự, người tham gia tố
tụng khác.
1.6. Nhà nước pháp quyền và yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp huyện
1.6.1. Nhà nước pháp quyền
Hiện nay đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về khái niệm “nhà nước
pháp quyền” với nhiều cách tiếp cận vấn đề hoặc nhận định, đánh giá vấn đề
ở góc độ khác nhau, nhưng có một số vấn đề liên quan đến nhà nước pháp
quyền vẫn chưa có nhận thức thống nhất hoặc chưa được làm sáng tỏ. Tuy
nhiên, ở một mức độ tương đối khái niệm về nhà nước pháp quyền đã được
nhận thức là nhà nước trong đó phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành
30
bộ máy nhà nước do pháp luật quy định và thừa nhận tính tối cao của Hiến
pháp và pháp luật; bao gồm việc xác định rõ quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp, với hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và
nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh
trong xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp
pháp cơ bản của công dân. Từ đó, hình thành các tiêu chí chung của nhà nước
pháp quyền như sau: Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà
nước phải do Hiến pháp, pháp luật quy định; Nhà nước và công dân phải thừa
nhận tính tối cao của pháp luật; Quyền lực nhà nước được xác định gồm:
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; Có hệ thống pháp luật
đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để
điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội, đặc biệt là bảo
đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân.
Nhà nước pháp quyền trên thế giới hiện nay được xây dựng và phát
triển theo hai hướng nhà nước pháp quyền XHCN và nhà nước pháp quyền tư
sản. Nhà nước ta hiện nay đang xây dựng trên cơ sở những tiêu chí chung của
nhà nước pháp quyền XHCN và có những đặc điểm phù hợp với tình hình
kinh tế, chính trị và xã hội trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể:
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được hình thành và phát triển
trên cơ sở đánh đổ chế độ phong kiến, thực dân, không kinh qua giai đoạn
phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đây là đặc điểm lịch sử rất quan trọng cho
chúng ta thấy rõ điểm xuất phát của quá trình xây dựng nhà nước cùng với
những khó khăn, yếu kém của hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc xã hội.
Qua mấy chục năm phấn đấu, xây dựng và đổi mới phương thức tổ chức và
hoạt động, đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, lần đầu
tiên trong văn bản chính thức của Đảng, chúng ta mới xác định việc xây dựng
31
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của Nhân dân,
do Nhân dân và vì Nhân dân. Thực chất đặc điểm này của nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam nhằm bảo đảm tính giai cấp, tính nhân dân của nhà
nước ta. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân định
đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ
máy quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân dân và
của toàn bộ dân tộc.
- Trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà
nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có trách nhiệm bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, công dân phải làm tròn nghĩa vụ của
mình đối với nhà nước và xã hội. Đây là một đặc điểm quan trọng, xuyên suốt
trong toàn bộ quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay và phải được
thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam quản lý xã hội chủ yếu bằng
pháp luật, không ngừng tăng cường và đổi mới công tác lập pháp, hành pháp
và tư pháp; đồng thời, thường xuyên quan tâm đến việc tuyên truyền, giáo dục
pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Đây là đặc điểm nổi bật của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được
Hiến pháp ghi nhận và nhân dân Việt Nam đồng tình ủng hộ. Đảng lãnh đạo
nhà nước thông qua cương lĩnh, đường lối, chính sách được thể chế bằng
32
pháp luật. Đảng không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của mình nhằm
tạo điều kiện cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả, đặc biệt trong điều
kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1.6.2. Yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
Để thực hiện được những tiêu chí nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013, các cơ quan thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ
của mình theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. TAND
cấp huyện nói riêng, hệ thống TAND nói chung là cơ quan xét xử, thực hiện
quyền tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Vì vậy, việc đổi mới, hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của TAND cấp huyện có vai trò quan trọng đối với yêu cầu xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
1.6.2.1. Yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đối với tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện
Tòa án phải là thiết chế độc lập thực sự. Các quy định pháp luật đang
dần tăng cường tính độc lập của Tòa án trong bộ máy nhà nước, Tòa án đã trở
thành cơ quan nhân danh quyền lực nhà nước để đưa ra những phán quyết đối
với các hành vi vi phạm pháp luật trong xã hội cũng như các tranh chấp được
đưa đến Tòa án giải quyết. Khác với việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, các hoạt động của Tòa án được thực hiện theo một thủ tục tố tụng tư
pháp chặt chẽ, vô tư, khách quan, tuyệt đối tuân thủ pháp luật và mang tính
độc lập tuyệt đối. Có thể hiểu tư pháp chính là xét xử; thực hiện chức năng xét
xử chính là thực hiện quyền tư pháp. Hiến pháp khẳng định vị trí trung tâm
của Tòa án trong hệ thống tư pháp, vị trí trọng tâm của hoạt động xét xử trong
33
các hoạt động tư pháp.
Để tăng cường sức mạnh cho hệ thống TAND nói chung và TAND cấp
huyện nói riêng, nhà nước ta đã có nhiều phương thức từng bước bảo đảm cho
sự độc lập của Tòa án: tách hệ thống Tòa án ra khỏi Chính phủ và chỉ chịu
trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội; nhiệm kỳ của Thẩm phán bền vững hơn;
chế độ lương được cải thiện; tăng cường trách nhiệm của Thẩm phán, thẩm
quyền xét xử được mở rộng... Tòa án xét xử độc lập, không chịu ảnh hưởng
bởi các yếu tố tác động từ bên ngoài cũng như từ bên trong hệ thống Tòa án.
Tuy nhiên, nguyên tắc tổ chức độc lập cũng phải được thực hiện trong phạm
vi đã được phân công và chịu sự giám sát của nhân dân thông qua Quốc hội,
Hội đồng nhân dân cùng cấp. Các quyết định cuối cùng của Tòa án không thể
bị đưa ra xem xét lại bởi cơ quan ngoài Tòa án.
Độc lập xét xử là nguyên tắc hiến định, là cốt lõi của quyền tư pháp
trong nhà nước pháp quyền, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm
tính tối cao của pháp luật, đảm bảo sự cân bằng và kiểm soát các quyền lực
nhà nước và bảo vệ quyền con người. Việc tăng cường cơ chế giám sát của
nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, của Thẩm phán thông qua việc
công khai rộng rãi các phán quyết của Tòa án là nhu cầu thiết thực. Điều đặc
biệt quan trọng để đạt được mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
ở Việt Nam là phải nhận thức một cách toàn diện về quyền tư pháp, nâng cao
vị thế của quyền tư pháp, của hệ thống TAND nói chung và của TAND cấp
huyện nói riêng và của Thẩm phán.
1.6.2.2. Yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đối với hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
Thứ nhất, nhiệm vụ của hệ thống TAND nói chung và TAND cấp
huyện nói riêng là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân
Chức năng xét xử của TAND thể hiện ở chỗ: Tòa án là cơ quan duy
34
nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý
xảy ra trong xã hội, xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, giải
quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa
án. Quy định của Hiến pháp năm 2013 là cơ sở hiến định cho việc mở rộng
thẩm quyền của Tòa án trong xét xử các loại án, thể hiện xu thế tất yếu của
nhà nước pháp quyền. Quyền con người là quyền thiêng liêng, quan trọng
nhất đối với con người được Hiếp pháp ghi nhận. TAND là cơ quan duy nhất
phán quyết những vấn đề về quyền con người (như tuyên bố một người đã
chết, xác định cha, mẹ cho con, áp dụng các hình phạt liên quan đến quyền
con người…).
Sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền và các hình thức nhà nước
khác dưới chế độ độc tài, chuyên chế là các quyền, lợi ích chính đáng của con
người không thể bị xâm phạm dưới bất cứ hình thức nào mà còn được Tòa án
bảo vệ khỏi sự can thiệp không cần thiết của chính quyền. Đó không hẳn là
quyền của đa số mà chính là quyền cá nhân mỗi người, quyền của thiểu số.
Tòa án chính là nơi có khả năng tốt nhất cho việc bảo vệ quyền lợi này. Do
vậy, một nhà nước dân chủ muốn thực hiện tốt chức năng bảo vệ thiểu số và
quyền lợi của cá nhân thì phải tăng cường hoạt động tư pháp.
TAND cấp huyện được pháp luật quy định cụ thể thẩm quyền đối với
xét xử vụ án hình sự, hành chính, xét xử vụ việc dân sự, kinh doanh thương
mại, lao động, hôn nhân gia đình. Phán quyết mà Tòa án đưa ra là nhân danh
nhà nước giải quyết quan hệ pháp luật, xử lý hành vi phạm tội. Vì vậy, TAND
cấp huyện cần phải dùng pháp luật là cơ sở, tiền đề và xuyên suốt trong quá
trình hoạt động tố tụng cũng như đến khi đưa ra phán quyết cuối cùng, có như
vậy mới đảm bảo được công bằng xã hội và niềm tin trong nhân dân.
Thẩm quyền giải quyết của TAND nói chung và TAND cấp huyện nói
riêng đang được mở rộng để bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp
35
pháp của công dân, tất cả các quyết định của cơ quan hành pháp xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân phải đều được coi là đối tượng
khởi kiện tại Tòa án.
Thứ hai, TAND cấp huyện hoạt động chỉ tuân theo pháp luật
Nhà nước ta có hệ thống các Bộ luật, Luật, văn bản quy phạm pháp luật
được liên tục cập nhật phù hợp với thực tiễn phát triển của các quan hệ xã hội
và tình hình an ninh trật tự. Hệ thống pháp luật có các văn bản pháp luật cụ
thể quy định về trình tự, thủ tục trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự,
hành chính và vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, hôn nhân gia đình, lao
động như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành
chính và các văn bản dưới luật khác. TAND cấp huyện buộc phải tuân theo
những quy định trong các văn bản này trong quá trình thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình. Trường hợp có bất cứ hành vi nào không tuân thủ các quy
định của pháp luật về tố tụng gây ảnh hưởng đến quyền con người, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân thì được coi là vi phạm pháp luật nghiêm trọng
và bị xử lý nghiêm minh. Ngoài ra, còn có các Bộ luật, văn bản dưới luật như
Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật doanh nghiệp, Luật hôn nhân gia đình
…và các văn bản dưới luật khác để làm cơ sở cho TAND cấp huyện đưa ra
phán ra quyết nghiêm minh, đúng người, đúng tội và công bằng trong việc
giải quyết tranh chấp trong xã hội.
Mọi hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử của TAND cấp huyện đều
bị coi là vi phạm pháp luật và ảnh hưởng tới tính khách quan của hoạt động
xét xử. Trong quá trình xét xử, TAND cấp huyện có thể tham khảo ý kiến của
các cơ quan chuyên môn, nắm bắt dư luận xã hội. Nhưng khi quyết định,
Thẩm phán và Hội thẩm phải thể hiện năng lực chuyên môn, bản lĩnh nghề
nghiệp của mình, xem xét các vấn đề của vụ án một cách độc lập, không bị
ảnh hưởng bởi các quan điểm, ý kiến bên ngoài của vụ án.
36
Phán quyết của TAND cấp huyện hoàn toàn dựa trên cơ sở pháp luật.
Có như vậy thì TAND cấp huyện mới là cơ quan nhân danh nhà nước góp
phần tạo nên sự công bằng xã hội, trừng trị những hành vi đi ngược lại giá trị
xã hội, phòng ngừa hành vi gây hại cho xã hội.
37
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, luận văn đã cung cấp một cái nhìn tổng quát về tổ
chức và hoạt động của TAND cấp huyện trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam, đưa ra khái niệm, đặc điểm về TAND cấp
huyện, trên cơ sở đó phân tích vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ
chức, hoạt động, nguyên tắc cơ bản tổ chức, hoạt động của TAND cấp huyện
trong bộ máy nhà nước và yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam đối với tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện. Trên cơ sở hệ thống
lý luận này làm tiền đề cho việc nghiên cứu, phân tích thực trạng tổ chức và
hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ở chương 2 và
đưa ra giải pháp và kiến nghị hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ở chương 3.
38
Chương 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
từ năm 1945 đến năm 2013
Sự hình thành và phát triển của TAND cấp huyện trong hệ thống
TAND ở nước ta gắn liền với những giai đoạn phát triển của cách mạng, gắn
liền với việc phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng ở từng thời kỳ lịch sử nhất
định. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Bên cạnh nhiệm vụ phải đập tan bộ máy nhà
nước thực dân, phong kiến, nhà nước ta khẩn trương xây dựng bộ máy nhà
nước cách mạng “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, trong đó TAND
là một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước.
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập đã nhanh chóng xây dựng và củng
cố bộ máy nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng nhà nước của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Chính phủ
lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 33C thành lập
các Tòa án quân sự để xét xử tất cả người nào vi phạm vào một việc gì có
phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tuy nhiên,
do yêu cầu cách mạng, nhà nước Việt nam dân chủ cộng hòa ban đầu mới chỉ
thiết lập các Tòa án quân sự để xét xử các vụ án hình sự mà chưa tổ chức
thành hệ thống Tòa án các cấp và xét xử các vụ án dân sự.
Theo Điều 1 của Sắc lệnh này thì sẽ thiết lập các Toà án quân sự gồm:
ở Bắc bộ tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình; ở Trung bộ tại
Vinh, Huế, Quảng Ngãi; ở Nam bộ tại Sài Gòn, Mỹ Tho. Về thẩm quyền xét
39
xử, Toà án quân sự sẽ xét xử tất cả người nào vi phạm vào một việc gì có
phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trừ trường
hợp phạm nhân là binh sỹ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật”.
Ngoài ra, đối với những nơi ở xa các Toà án quân sự đã được thành lập theo
Sắc lệnh này, thì trong những trường hợp đặc biệt, Chính phủ có thể cho
UBND địa phương thành lập một Toà án quân sự có quyền xét xử trong một
thời kỳ và theo đúng những nguyên tắc định trong Sắc lệnh [11].
Ngày 26/9/1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng
hoà đã ban hành Sắc lệnh số 37/SL quy định các địa phương có thẩm quyền
của các Toà án quân sự.
Theo Điều 1 của Sắc lệnh này thì thẩm quyền theo lãnh thổ của các Toà
án quân sự được xác định như sau: Toà án quân sự Hà Nội xét xử các vụ án
xảy ra tại thành phố Hà Nội và các tỉnh Hoà Bình, Phú Thọ, Sơn Tây, Hà
Đông, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang; Toà án quân
sự Hải Phòng xét xử các vụ án xảy ra tại thành phố Hải Phòng và các tỉnh Hải
Dương, Kiến An, Quảng Yên, Hải Ninh; Toà án quân sự tỉnh Thái Nguyên
xét xử các vụ án xảy ra tại tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn,
Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La; Toà án quân
sự Ninh Bình xét xử các vụ án xảy ra tại tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam,
Thái Bình; Toà án quân sự Vinh xét xử các vụ án xảy ra tại tỉnh Quảng Trị,
Thừa Thiên, Quảng Nam (kể cả Đà Nẵng); Toà án quân sự Quảng Ngãi xét
xử các vụ án xảy ra tại các tỉnh Trung Bộ ở phía Nam tỉnh Quảng Nam; Toà
án quân sự Sài Gòn xét xử các vụ án xảy ra tại thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn
và tỉnh Gia Định, Tân Bình, Tây Ninh, Biên Hoà, Bà Rịa, Ô Cấp, Gò Công,
Tân An, Côn Đảo; Toà án quân sự Mỹ Tho xét xử các vụ án xảy ra tại các
tỉnh khác thuộc Nam Bộ [12].
Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số
40
13/SL về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán. Đây là Sắc lệnh đầu
tiên quy định một cách đầy đủ tổ chức giải quyết các tranh chấp, xử phạt các
việc vi cảnh ở cơ sở cũng như tổ chức các Toà án và quy định tiêu chuẩn,
nhiệm vụ, quyền hạn của các ngạch Thẩm phán.
Theo Sắc lệnh này thì hệ thống Tòa án nước ta có: các Tòa án thượng
thẩm ở cấp kỳ, ở mỗi kỳ có một Tòa thượng thẩm (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam
kỳ). Các Tòa án đệ nhị cấp ở các tỉnh và các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và
Sài Gòn - Chợ Lớn. Các Tòa án sơ cấp ở huyện, quận, châu, phủ. Ngoài ra, ở
các xã có Ban Tư pháp xã do ban thường vụ của Uỷ ban hành chính xã đảm
nhiệm. Như vậy, theo Sắc lệnh số 13/SL thì đã có Tòa án cấp huyện (Tòa án
sơ cấp ở huyện, quận, châu, phủ). Đối với Tòa án sơ cấp ở mỗi quận (phủ,
huyện, châu) có một Toà án sơ cấp, quản hạt là địa hạt quận. Nếu cần, một
Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể thay đổi quản hạt được. Tuỳ theo
sự quan trọng, các Toà án sơ cấp sẽ chia ra làm bốn hạng do Nghị định của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp ấn định. Về tổ chức, Toà án sơ cấp gồm có một Thẩm
phán, một lục sự . Về hoạt động xét xử thì mỗi tuần lễ ít ra phải có hai phiên
toà công khai, một phiên hộ và một phiên hình. Tại phiên toà, Thẩm phán xét
xử một mình, lục sự giữ bút ký, lập biên bản án từ. Thẩm phán sơ cấp có thể
ngày nào cũng xử kiện, dù là ngày chủ nhật hay là ngày lễ cũng được. Lại có
thể, nếu cần đến, mở phiên tòa ngoài trụ sở ngoài Toà án, ở các nơi xa cách
Toà. Thời điểm này đã có quy định về xét xử lưu động. Về ngạch Thẩm phán,
Sắc lệnh quy định có hai ngạch Thẩm phán đó là ngạch sơ cấp và ngạch đệ
nhị cấp, Thẩm phán sơ cấp làm việc ở Toà sơ cấp, Thẩm phán đệ nhị cấp làm
việc ở các Toà đệ nhị cấp và Toà thượng thẩm. Ngạch Thẩm phán sơ cấp
gồm: Hạng ngoại, hạng nhất, hạng nhì, hạng ba, hạng tư, hạng năm. Thẩm
phán hạng ngoại, chức việc là Chánh tòa sơ cấp các thành phố to, Thẩm phán
hạng nhất là Chánh tòa sơ cấp hạng nhất, Thẩm phán hạng nhì là Chánh toà
41
sơ cấp hạng nhì, Thẩm phán hạng ba là Chánh tòa sơ cấp hạng ba, Thẩm phán
hạng tư là Chánh tòa sơ cấp hạng tư, Thẩm phán hạng năm là Thẩm phán tập
sự [13].
Tuy nhiên, do những khó khăn khách quan trong những ngày mới giành
chính quyền, việc xây dựng hệ thống Toà án theo Sắc lệnh 13/SL chưa thực
hiện được đầy đủ ở các địa phương trong toàn quốc, do đó Chính phủ đã banh
hành Sắc lệnh số 22-B ngày 18/12/1946 quy định những nơi chưa có Toà án
thì Uỷ ban hành chính sẽ kiêm việc tư pháp. Uỷ ban hành chính tỉnh có quyền
hạn như Toà án đệ nhị cấp; Uỷ ban hành chính phủ, huyện, châu có quyền hạn
như Toà án sơ cấp.
Ngày 17/4/1946 Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 51 ấn định thẩm
quyền các Toà án và sự phân công giữa các thành viên trong Toà án.
Theo quy định của Sắc lệnh này thì Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền như
sau: Về hình sự, Toà án sơ cấp có quyền xử chung thẩm những án phạt bạc từ
0,5 đồng đến 9 đồng, những án xử bồi thường từ 150 đồng trở xuống do
nguyên cáo bị thiệt hại trong một vụ vi cảnh thỉnh cầu trong đơn khiếu, hay
chậm nhất lúc việc vi cảnh đem ra phiên toà xử; có quyền xử sơ thẩm những án
phạt giam từ 01 ngày đến 05 ngày, những án xử bồi thường quá 150 đồng hoặc
những việc xin bồi thường quá số tiền ấy, mà nguyên đơn thỉnh cầu trong đơn
khiếu hay chậm nhất, lúc việc vi cảnh đem ra phiên toà xử. Về dân sự và
thương sự, Toà án sơ cấp có quyền xử chung thẩm những việc kiện dân sự,
thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định không quá 150 đồng,
những việc kiện về các khoản lệ phí đã phát sinh ra trước Toà án ấy không cứ
giá ngạch nào; Sơ thẩm những việc dân sự hay thương sự về động sản mà giá
ngạch do nguyên đơn định trên 150 đồng, nhưng dưới 450 đồng [14].
Để nâng cao hiệu lực tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói
chung, TAND nói riêng, trên cơ sở kế thừa quy định của các sắc lệnh đã ban
42
hành, ngày 09/11/1946 Quốc hội đã ban hành Hiến pháp đầu tiên của nước ta.
Theo Hiến pháp năm 1946 thì hệ thống Tòa án nước ta gồm có: Tòa án
tối cao, các Tòa án phúc thẩm, các Tòa án đệ nhị cấp, các Tòa án sơ cấp. Các
Tòa án này được tổ chức theo cấp xét xử chứ không tổ chức theo đơn vị hành
chính – lãnh thổ như sau này. Theo Hiến pháp năm 1946 thì Tòa án được tổ
chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau: nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán,
các Thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm; khi xét xử việc hình thì phải có
các phụ thẩm nhân dân tham gia; khi xét xử các Thẩm phán chỉ tuân theo
pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp; các phiên tòa đều công
khai, trừ trường hợp đặc biệt; bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật
sư; Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước Tòa án [44].
Tuy nhiên, do sự xâm lược của thực dân Pháp, toàn quốc kháng chiến,
nên hệ thống Toà án chưa tổ chức được theo Hiến pháp năm 1946. Sau ngày
19/12/1946, nhân dân cả nước bước vào thời kỳ kháng chiến trường kỳ gian
khổ chống thực dân Pháp và bảo vệ chính quyền cách mạng. Để củng cố và
tăng cường kỷ luật trong quân đội nhân dân, ngày 16/12/1947 Chủ tịch Chính
phủ ban hành Sắc lệnh số 19/SL tổ chức Tòa án binh trên toàn cõi Việt Nam.
Ngày 05/7/1947, Chủ tịch Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 59/SL về thành lập
Tòa án binh khu trung ương. “Các Tòa án binh có thẩm quyền xét xử những
quân nhân phạm tội hoặc những người khác phạm tội mà gây thiệt hại cho
quân đội” [16]. Ngày 26/5/1948, Chủ tịch Chính phủ tiếp tục ban hành Sắc
lệnh số 185/SL ấn định thẩm quyền các Toà án sơ cấp và đệ nhị cấp theo
hướng tăng thẩm quyền cho các Toà án này hơn so với Sắc lệnh số 51 ngày
17/4/1946.
Theo quy định của Sắc lệnh số 185/SL Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền:
Về hình sự, các Toà án sơ cấp có quyền xử chung thẩm những án vi cảnh phạt
bạc từ 5 đồng đến 30 đồng, những việc đòi bồi thường từ 300 đồng trở xuống,
43
do nguyên cáo bị thiệt hại trong một vụ vi cảnh thỉnh cầu trong đơn khiếu hay
chậm nhất lúc việc vi cảnh đem ra phiên toà xử, những việc đòi bồi thường
quá 300 đồng mà nguyên đơn thỉnh cầu trong đơn khiếu hay ở phiên toà. Về
dân sự và thương sự, xét xử chung thẩm những việc kiện về động sản mà giá
ngạch do nguyên đơn định không quá 300 đồng, những việc kiện về các
khoản lệ phí đã phát định ra trước Toà án ấy, không cứ giá ngạch nào; xét xử
sơ thẩm những việc kiện về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định trên
300 đồng nhưng không quá 1500 đồng, những việc liên can đến hộ tịch (việc
xin khai sinh, tử, giá thú quá hạn, xin sửa chữa giấy khai sinh, tử, giá thú,...).
Nếu vì tình thế chiến tranh, việc giao thông gián đoạn, mà một Toà án sơ cấp
bị mất liên lạc với Toà án đệ nhị cấp, thì Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến huyện
và Thẩm phán sơ cấp sẽ ra quyết định nhận định tình thế ấy và báo cáo ngay
lên tỉnh để Uỷ ban Kháng chiến tỉnh và Biện lý Toà án đệ nhị cấp chuẩn y.
Trong trường hợp mất liên lạc có quyết định nhận định, thì Toà án sơ cấp có
thẩm quyền đặc biệt sau đây: Về phương diện tư pháp công an, Thẩm phán sơ
cấp có quyền sau khi hỏi ý kiến Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến huyện, quyết
định giam cứu bị can đến 45 ngày nếu là việc tiểu hình hoặc đến 4 tháng nếu
là việc đại hình. Hạn giam cứu ấy không thể gia thêm được. Khi hết hạn, tự
nhiên bị can phải được tha ngay. Nếu Toà án sơ cấp lại liên lạc được với Toà
án đệ nhị cấp, thì Thẩm phán sơ cấp phải báo cáo ngay lên ông Biện lý để ông
này quyết định về việc giam cứu. Các án xử sơ thẩm của Toà án sơ cấp về
hình sự (án phạt giam, án xử các việc đòi bồi thường trên 300 đồng) sẽ tạm thi
hành mặc dầu có sự kháng cáo của bị can hay của dân sự nguyên cáo. Về dân
sự, Thẩm phán sơ cấp có quyền ra mệnh lệnh quyết định các phương pháp
bảo thủ khẩn cấp, không có giới hạn nào. Khi Toà án sơ cấp lại liên lạc được
với Toà án đệ nhị cấp, thì Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến huyện và Thẩm phán
sơ cấp ra quyết nghị nhận định tình thế ấy. Khi ấy, thẩm quyền đặc biệt của
44
Toà án sơ cấp sẽ hết. Các việc mà Thẩm phán sơ cấp đã làm trong tình thế
mất liên lạc, phải báo cáo lên Toà án đệ nhị cấp để chuẩn y. Các án sơ thẩm
về hình sự sẽ không tạm thi hành nữa, trong khi chờ đợi Toà án cấp trên xét
xử việc kháng cáo [17].
Trong giai đoạn này, để nâng cao chất lượng xét xử, nhà nước đã tiến
hành công cuộc cải cách tư pháp, theo đó đã ban hành những quy định pháp
luật cụ thể về cải cách tổ chức bộ máy Tòa án.
Theo Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước quy định để
xử việc hình và việc hộ, Toà án sơ cấp và Toà án đệ nhị cấp gồm một Thẩm
phán và hai Hội thẩm, Hội đồng phúc án gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm
nhân dân. Hội thẩm nhân dân có quyền xem hồ sơ và biểu quyết. Hội thẩm
nhân dân được hưởng đặc quyền tài phán như các Thẩm phán và lương bổng
như các uỷ viên Uỷ ban Kháng chiến hành chính cấp tương đương. Nhiệm kỳ
của Hội thẩm nhân dân là một năm. Theo Sắc lệnh này có những quy định
mới về Thẩm quyền của Tòa án sơ cấp về hòa giải: Tòa án sơ cấp họp thành
Hội đồng hoà giải để thử hoà giải tất cả các vụ kiện về dân sự và thương sự,
kể cả các việc xin ly dị, trừ những vụ kiện mà theo luật pháp đương sự không
có quyền điều đình [18].
Về việc bổ nhiệm Thẩm phán, trong thời kỳ này do điều kiện khách
quan nhất định nên Sắc lệnh số 158/SL ngày 17/11/1950 đã quy định đưa cán
bộ công nông có thành tích và có kinh nghiệm vào làm Thẩm phán mà không
đòi hỏi phải có bằng cấp về luật học nhằm tăng cường cho các TAND một đội
ngũ cán bộ có quan điểm lập trường cách mạng trong công tác, làm nòng cốt
để xây dựng các Tòa án trở thành những Tòa án thực sự của nhân dân [19].
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
Ngày 31/12/1959, Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ 11 đã thông qua Hiến
pháp mới của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhằm đáp ứng nhiệm vụ cách
45
mạng trong giai đoạn mới là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu
tranh thống nhất nước nhà. Hiến pháp năm 1959 đã xác định lại vị trí, chức
năng của TAND và Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước, theo đó
hai hệ thống cơ quan này không thuộc Hội đồng Chính phủ mà trực tiếp chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã
thông qua Luật Tổ chức TAND ngày 14/7/1960, Uỷ ban thường vụ Quốc hội
đã thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của TAND tối cao và tổ
chức của các TAND địa phương.
Theo quy định tại văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì TAND gồm
có: TAND tối cao, TAND địa phương và Tòa án quân sự. TAND địa phương
gồm có: TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính
tương đương; TAND huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành
chính tương đương; TAND ở các khu vực tự trị [37], [45].
Về chức năng, các TAND là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà. Về nhiệm vụ thì mục đích của việc xét xử là bảo vệ chế độ
dân chủ nhân dân, trật tự xã hội, tài sản công cộng và quyền lợi hợp pháp của
nhân dân, góp phần bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà được
tiến hành thắng lợi. Về nguyên tắc hoạt động, mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, không phân biệt nam nữ, dân tộc, nòi giống, tôn giáo, tín
ngưỡng, địa vị xã hội và thành phần xã hội; khi xét xử, TAND có quyền độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật; các TAND thực hành chế độ Thẩm phán bầu;
việc xét xử tại các TAND đều công khai, trừ trường hợp đặc biệt mà TAND
xét thấy cần xử kín để giữ gìn bí mật nhà nước hoặc giữ gìn đạo đức xã hội;
quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm; TAND bảo đảm cho công dân
thuộc các dân tộc thiểu số có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình
46
trước Toà án, khi cần thiết TAND phải chỉ định người phiên dịch để bảo đảm
thực hiện quyền đó; TAND thực hành chế độ hai cấp xét xử; khi xét xử, Hội
thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán; TAND thực hành chế độ xét xử
tập thể và quyết định theo đa số.
Về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện có thể khái quát như
sau: TAND cấp huyện là một cấp Tòa án trong hệ thống TAND được tổ chức
từ trung ương đến địa phương phù hợp với điều kiện và đặc thù của chế độ
chính trị ở nước ta. TAND cấp huyện gồm có Chánh án và Thẩm phán, nếu
cần thiết thì có Phó Chánh án. Về thẩm quyền xử sơ thẩm những vụ án hình
sự và dân sự do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của các TAND huyện,
thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương, hoà giải
những vụ tranh chấp về dân sự, phân xử những việc hình sự nhỏ không phải
mở phiên toà và hướng dẫn công tác hoà giải ở xã và khu phố. Từ năm 1961
TAND tối cao có nhiệm vụ quản lý các TAND địa phương”. Tuy nhiên, trong
giai đoạn này việc quản lý các TAND địa phương là song trùng trực thuộc,
bởi vì TAND tối cao chủ yếu quản lý về công tác sắp xếp bộ máy làm việc, số
lượng biên chế, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn tổng biên chế
của các TAND địa phương, quản lý về công tác xét xử, trong khi đó UBND
địa phương quản lý và cấp kinh phí hoạt động cũng như sắp xếp nhân sự
(Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán do HĐND cùng cấp bầu).
2.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
Ngày 18/12/1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá VI, kỳ họp thứ 7, đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam. Các quy
định của Hiến pháp năm 1980 về TAND tiếp tục được kế thừa và phát triển từ
các quy định của Hiến pháp năm 1959 về tổ chức và hoạt động của TAND.
Các quy định của Hiến pháp năm 1980 về tổ chức và hoạt động của TAND
được cụ thể hoá bằng Luật Tổ chức TAND, được Quốc hội nước Cộng hoà xã
47
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 3/7/1981 và được sửa đổi, bổ sung
theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức TAND, được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 22/12/1988. Theo quy định tại
văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì về cơ bản, tổ chức và hoạt động của
TAND nói chung, của TAND cấp huyện nói riêng không khác so với tổ chức
Tòa án theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Tuy nhiên, thẩm quyền xét xử, các
nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức TAND
năm 1981 và Luật Tổ chức TAND năm 1981 được sửa đổi, bổ sung năm 1988
có một số điểm mới.
Thứ nhất, về nhiệm kỳ của Thẩm phán: nhiệm kỳ Thẩm phán theo Luật
Tổ chức TAND năm 1960 được quy định trong thời hạn nhất định còn trong
Luật Tổ chức TAND năm 1981 thì nhiệm kỳ của Thẩm phán tính theo nhiệm
kỳ của cơ quan bầu ra là HĐND. Thứ hai, về tổ chức của TAND cấp huyện:
TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có Chánh án, một hoặc hai
Phó Chánh án, các Thẩm phán và các Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án,
Chấp hành viên và tuỳ theo yêu cầu công tác, có các chuyên viên pháp lý giúp
việc. Thứ ba, về thẩm quyền xét xử: sơ thẩm những vụ án hình sự về những
tội phạm theo quy định tại Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự, sơ thẩm những
vụ án dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình và những vụ án khác do pháp
luật quy định, trừ những việc mà đương sự là người nước ngoài hoặc là người
Việt Nam ở nước ngoài [37], [38].
Theo Luật Tổ chức TAND năm 1981, Bộ Tư pháp có thẩm quyền quản
lý các Tòa án địa phương, tuy vậy việc các Tòa án địa phương thuộc thẩm
quyền quản lý của Bộ Tư pháp cũng chỉ ở việc Bộ Tư pháp trình Ủy ban
thường vụ Quốc hội tổng biên chế, quy định biên chế cho từng Tòa án địa
phương, còn về kinh phí hoạt động của Tòa án địa phương thì vẫn do ngân
sách địa phương cấp và HĐND cùng cấp vẫn là cơ quan bầu ra các chức danh
48
Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. TAND tối cao thực
hiện việc hướng dẫn xét xử, đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật trong
phạm vi toàn quốc đối với hoạt động xét xử của các TAND.
2.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002
Đường lối đổi mới mọi mặt về đời sống xã hội do Đại hội lần thứ VI
của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã tạo tiền đề cho việc nghiên cứu,
xây dựng Hiến pháp năm 1992. Trước những yêu cầu thực hiện công cuộc đổi
mới, mô hình tổ chức TAND theo Hiến pháp năm 1980 quản lý nhà nước theo
cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp không còn phù hợp. Vì vậy, kế thừa
các quy định của Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 đã có những quy
định thể hiện sự đổi mới trong tổ chức và hoạt động của TAND. Trên cơ sở
Hiến pháp năm 1992, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức TAND ngày
06/10/1992 và được sửa đổi, bổ sung theo các Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Tổ chức TAND, được Quốc hội thông qua ngày 28/12/1993 và
ngày 28/10/1995. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Tổ
chức Toà án quân sự ngày 19/4/1993 và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm
TAND ngày 14/5/1993. Theo các văn bản pháp luật này thì tổ chức và hoạt
động của TAND đã được kiện toàn và đổi mới một bước cơ bản. Nhìn chung
nhiều quy định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt động của TAND
được kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1980.
Tuy nhiên một số quy định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp nói chung và của TAND nói riêng đã thể hiện rõ
nét đổi mới các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan này; cụ thể:
Thứ nhất, về tổ chức, TAND cấp huyện tiếp tục được khẳng định là
một cấp Tòa án trong hệ thống TAND. Cơ cấu tổ chức của TAND huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có Chánh án, một hoặc hai Phó Chánh án,
các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án. Hoạt động của TAND
49
cấp huyện do Chánh án TAND cấp huyện lãnh đạo, Chánh án TAND cấp
huyện có nhiệm vụ và quyền hạn là tổ chức công tác xét xử, báo cáo công tác
xét xử của Toà án trước HĐND cùng cấp và với Toà án cấp trên trực tiếp.
Thứ hai, về thẩm quyền xét xử, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố
tụng.
Thứ ba, về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, điểm mới của Hiến pháp
năm 1992 quy định về TAND là chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và
nhiệm kỳ của Thẩm phán được thay thế cho chế độ bầu cử Thẩm phán theo
quy định của Hiến pháp năm 1980 [46], [47]. Lần đầu tiên trong lịch sử lập
pháp của nước ta, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành một văn bản
pháp luật riêng biệt về Thẩm phán và Hội thẩm TAND. Pháp lệnh Thẩm phán
và Hội thẩm TAND đã quy định cụ thể tiêu chuẩn của Thẩm phán, Hội thẩm
Toà án ở mỗi cấp; nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, Hội thẩm Toà án;
quy định cụ thể về tiêu chuẩn Thẩm phán. Đồng thời, để bảo đảm cho việc bổ
nhiệm Thẩm phán đúng và có chất lượng, Pháp lệnh quy định về việc thành
lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án các cấp. Chế độ đãi ngộ đối với
Thẩm phán đã có một bước cải cách trong chế độ tiền lương thể hiện sự đánh
giá lao động xét xử là một loại lao động quan trọng, cần được sự ưu đãi của
nhà nước. Thứ tư, cơ sở vật chất, phương tiện, điều kiện làm việc của TAND
đã được chú trọng và được nâng cao lên một bước. Công tác đào tạo mới và
đào tạo lại cán bộ, công tác ở các Toà án đã được quan tâm, chú trọng và đẩy
mạnh hơn trước.
2.1.5. Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2013
Để cụ thể hoá các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về xây dựng
và hoàn thiện bộ máy nhà nước cũng như những yêu cầu về đổi mới tổ chức
và hoạt động của TAND đã được đề ra trong các Nghị quyết, Văn kiện của
50
Đảng, đặc biệt là trong Văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
“Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Ngày
02/4/2002, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật Tổ chức
TAND mới thay thế Luật Tổ chức TAND năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung
theo các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức TAND năm
1993 và năm 1995. Theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2002, cơ cấu
tổ chức, hoạt động của TAND cấp huyện có những bước đổi mới và được quy
định cụ thể hơn nhằm đáp ứng yêu cầu xét xử.
Thứ nhất, về tổ chức, theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm
2002, cơ cấu tổ chức của TAND cấp huyện gồm có Chánh án, một hoặc hai
Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án và bộ máy
giúp việc. Thứ hai, về thẩm quyền xét xử, TAND huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp
luật tố tụng. Thứ ba, về hoạt động của TAND cấp huyện, Luật Tổ chức
TAND năm 2002 tiếp tục quy định cụ thể về các nguyên tắc xét xử có Hội
thẩm nhân dân tham gia. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số; Tòa án xét
xử công khai, trừ trường hợp cần xét xử kín để giữ gìn bí mật nhà nước, thuần
phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của các đương sự theo yêu cầu
chính đáng của họ; Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo,
thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang
nhân dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều
bình đẳng trước pháp luật; Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; Tòa án bảo đảm cho những
người tham gia tố tụng quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước
51
Tòa án. Về nguyên tắc xét xử, Tòa án thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử;
bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo
quy định của pháp luật tố tụng; bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy định thì có hiệu lực pháp
luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án
phải được xét xử phúc thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp
luật; đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát
hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo trình
tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của pháp luật. Thứ tư, về Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân, theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm
2002, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002, Pháp lệnh về
Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì
Thẩm phán gồm có: Thẩm phán TAND tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm
phán sơ cấp. Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật
để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm
quyền của Tòa án. Hội thẩm gồm có: Hội thẩm nhân dân TAND tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, Hội thẩm nhân dân TAND huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Hội thẩm nhân dân), Hội thẩm quân nhân
Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự
khu vực (gọi chung là Hội thẩm quân nhân) [40], [63], [64].
Như vậy, nghiên cứu các quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2002
có thể nhận thấy một số điểm mới cơ bản sau đây: Thứ nhất, bổ sung quy định
về chế độ hai cấp xét xử. Theo quy định này bản án, quyết định sơ thẩm của
Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp
xét xử phúc thẩm. Thứ hai, TAND tối cao quản lý các TAND địa phương và
các Tòa án quân sự về tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ với HĐND địa phương
và Bộ Quốc phòng. Thứ ba, bổ sung một số nhiệm vụ và quyền hạn mới của
52
Chánh án TAND tối cao về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó
Chánh án, Thẩm phán các TAND địa phương. Thứ tư, bổ sung quy định về sự
giám sát của nhân dân đối với Thẩm phán, Hội thẩm; quy định về mối quan
hệ giữa Thẩm phán, Hội thẩm với các cơ quan, tổ chức và công dân và bổ
sung quy định về thành phần của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, mối quan
hệ giữa Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán với Chánh án TAND tối cao trong
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các TAND địa phương.
2.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi
2.2.1. Tình hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện
2.2.1.1. Tình hình tổ chức
Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Duyên Hải Nam Trung
Bộ có đường bờ biển Quảng Ngãi, được tái lập trên cơ sở tách tỉnh Nghĩa
Bình thành 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định năm 1989. Khi tách ra, tỉnh
Quảng Ngãi có 10 đơn vị hành chính gồm thị xã Quảng Ngãi và 9 huyện: Ba
Tơ, Bình Sơn, Đức Phổ, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn
Tịnh, Trà Bồng. Ngày 01 tháng 01 năm 1993, huyện đảo Lý Sơn được thành
lập. Năm 1994, tiếp tục thành lập huyện Sơn Tây trên cơ sở tách ra từ
huyện Sơn Hà. Ngày 01 tháng 12 năm 2003, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 145/2003/NĐ-CP về việc thành lập huyện Tây Trà trên cơ sở tách ra
từ huyện Trà Bồng. Ngày 26 tháng 8 năm 2005, thị xã Quảng Ngãi được nâng
lên thành phố Quảng Ngãi theo Nghị định 112/2005/NĐ-CP của Chính phủ.
Ngày 12 tháng 12 năm 2013, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số
123/NQ-CP điều chỉnh địa giới hành chính huyện Sơn Tịnh, huyện Tư
Nghĩa để mở rộng địa giới hành chính thành phố Quảng Ngãi và thành
lập phường Trương Quang Trọng thuộc thành phố Quảng Ngãi. Hiện nay tỉnh
53
Quảng Ngãi có 01 thành phố trực thuộc và 13 huyện, trong đó có 01 huyện
đảo, 01 huyện trung du, 05 huyện đồng bằng, 06 huyện miền núi, mỗi huyện,
thành phố đều có TAND cấp huyện trực thuộc TAND tỉnh Quảng Ngãi.
Các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hầu hết đều có cơ
cấu tổ chức bao gồm lãnh đạo là 01 Chánh án, 01 Phó Chánh án, các Thẩm
phán sơ cấp, các Thư ký Tòa án, công chức khác và người lao động. Theo
Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì TAND cấp huyện có thể có các Tòa
chuyên trách như Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành
niên, Tòa xử lý hành chính nhưng hiện nay chưa có TAND cấp huyện nào
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có các Tòa chuyên trách này. Vì vậy, trong cơ
cấu tổ chức cũng không có các Chánh tòa chuyên trách. Hiện tại TAND tỉnh
Quảng Ngãi đã đề nghị thành lập các Tòa án chuyên trách tại các TAND nhân
dân cấp huyện trong tỉnh có đủ điều kiện theo quy định của Luật Tổ chức
TAND năm 2014 và văn bản hướng dẫn, với cơ cấu tổ chức ở mỗi Tòa đều có
Chánh tòa, Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thư ký Tòa án.
Tùy từng TAND cấp huyện có sự phân công số lượng nhân sự khác
nhau để phù hợp và tương ứng với số lượng vụ việc mà từng đơn vị phải giải
quyết, qua từng năm từ năm 2012 – 2016 số lượng nhân sự của từng đơn vị
TAND cấp huyện có sự thay đổi nhưng không nhiều, phần lớn là biến động
nhân sự từ quyết định biệt phái từ đơn vị TAND tỉnh về các TAND cấp huyện
hoặc từ TAND huyện này sang TAND huyện khác. Hiện nay, trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi đơn vị có số lượng vụ việc phải giải quyết cao nhất là TAND
thành phố Quảng Ngãi và cũng là đơn vị có số lượng nhân sự đông nhất với
29 người, trong đó có 03 Thẩm phán trung cấp, 06 Thẩm phán sơ cấp, 13 Thư
ký Tòa án và 03 công chức và 04 người lao động; huyện có số lượng án phải
giải quyết thấp nhất là huyện đảo Lý Sơn có số lượng nhân sự thấp nhất với
06 người, trong đó có 02 Thẩm phán sơ cấp, 02 Thư ký Tòa án, 01 công chức,
54
01 người lao động. Các TAND cấp huyện khác tùy theo số lượng vụ việc giải
quyết và tình hình địa phương mà có số lượng công chức khác nhau:
+ TAND huyện Bình Sơn: 16 người, trong đó 04 Thẩm phán sơ cấp, 08
Thư ký Tòa án, 02 công chức, 02 người lao động.
+ TAND huyện Sơn Tịnh: 13 người, trong đó 01 Thẩm phán trung cấp,
03 Thẩm phán sơ cấp, 05 Thư ký Tòa án, 02 công chức, 02 người lao động.
+ TAND huyện Tư Nghĩa: 13 người, trong đó 01 Thẩm phán trung cấp,
03 Thẩm phán sơ cấp, 05 Thư ký Tòa án, 02 công chức, 02 người lao động.
+ TAND huyện Mộ Đức: 11 người, trong đó 02 Thẩm phán trung cấp,
01 Thẩm phán sơ cấp, 05 Thư ký Tòa án, 01 công chức, 02 người lao động.
+ TAND huyện Đức Phổ: 15 người, trong đó 01 Thẩm phán trung cấp,
04 Thẩm phán sơ cấp, 06 Thư ký Tòa án, 02 công chức, 02 người lao động.
+ TAND huyện Nghĩa Hành: 12 người, trong đó 01 Thẩm phán trung
cấp, 04 Thẩm phán sơ cấp, 04 Thư ký Tòa án, 01 công chức, 02 người lao
động.
+ TAND huyện Ba Tơ: 08 người, trong đó 01 Thẩm phán trung cấp, 01
Thẩm phán sơ cấp, 04 Thư ký Tòa án, 01 công chức, 01 người lao động.
+ TAND huyện Sơn Hà: 11 người, trong đó 03 Thẩm phán sơ cấp, 06
Thư ký Tòa án, 01 công chức, 01 người lao động.
+ TAND huyện Sơn Tây: 07 người, trong đó 02 Thẩm phán sơ cấp, 03
Thư ký Tòa án, 01 công chức, 01 người lao động.
+ TAND huyện Trà Bồng: 08 người, trong đó 03 Thẩm phán sơ cấp, 03
Thư ký Tòa án, 01 công chức, 01 người lao động.
+ TAND huyện Tây Trà: 06 người, trong đó 02 Thẩm phán sơ cấp, 02
Thư ký Tòa án, 01 công chức, 01 người lao động.
+ TAND huyện Minh Long: 06 người, trong đó 02 Thẩm phán sơ cấp,
02 Thư ký Tòa án, 01 công chức, 01 người lao động.
55
Về Hội thẩm nhân dân, trên cơ sở đề xuất nhu cầu về số lượng, cơ cấu
thành phần Hội thẩm của TAND cấp huyện, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cùng cấp lựa chọn và giới thiệu người đủ tiêu chuẩn theo quy định pháp
luật để Hội đồng nhân dân (HĐND) cùng cấp bầu Hội thẩm nhân dân. Cùng
với Thẩm phán và Thư ký Tòa án, Hội thẩm khi được phân công tham gia giải
quyết, xét xử vụ án, thì Hội thẩm được xác định là một trong những người
tiến hành tố tụng tại Tòa án. Nguồn của các Hội thẩm nhân dân ở TAND cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay thường là công chức, viên chức
của các cơ quan nhà nước hoặc đương chức hoặc đã về hưu, do Mặt trận Tổ
quốc lựa chọn và giới thiệu. Số lượng Hội thẩm nhân dân tại TAND cấp
huyện tùy thuộc vào số lượng án của từng TAND cấp huyện. Trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi, TAND thành phố Quảng Ngãi có số lượng Hội thẩm nhân
dân nhiều nhất với 30 Hội thẩm, TAND huyện Lý Sơn có số lượng Hội thẩm
nhân dân ít nhất với 13 Hội thẩm.
2.2.1.2. Tình hình hoạt động
Các TAND cấp huyện hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách do Chánh án trực tiếp điều hành. Chánh án,
Phó Chánh án chịu trách nhiệm cá nhân về lĩnh vực công tác được phân công.
Trong đó Chánh án TAND cấp huyện là người đứng đầu cơ quan, chịu trách
nhiệm quản lý, điều hành chung, hoạt động theo chức năng quy định tại Luật
tổ chức TAND và Quyết định số 1138/QĐ- TCCB, ngày 22/8/2008 của
Chánh án TAND tối cao về phân cấp quản lý cán bộ TAND địa phương. Phó
Chánh án giúp việc cho Chánh án trên cơ sở sự phân công của Chánh án. Phó
Chánh án theo dõi, điều hành một số lĩnh vực công tác được phân công phụ
trách và chịu trách nhiệm trước Chánh án về những hoạt động thuộc phạm vi
của mình quản lý. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án, Phó Chánh án, các
Thẩm phán, các Thư ký Tòa án, công chức khác và người lao động được quy
56
định cụ thể trong Luật tổ chức TAND năm 2014, Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, Luật tố tụng hành chính năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và
các văn bản quy phạm pháp luật do TAND tối cao ban hành cũng như quy
định trong Quy chế làm việc của từng đơn vị phù hợp với tình hình thực tế
của từng địa phương.
Nhìn chung, ngoài các văn bản quy phạm pháp luật quy định về trách
nhiệm, quyền hạn của lãnh đạo, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, công chức khác
và người lao động thì Quy chế làm việc của hầu hết các TAND cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi quy định cụ thể như sau:
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án: Chánh án có nhiệm vụ tổ chức
công tác xét xử và các công tác khác theo quy định của pháp luật, quản lý
công tác tổ chức cán bộ và trực tiếp quản lý điều hành ngân sách nhà nước;
báo cáo công tác của Tòa án trước HĐND cùng cấp và với TAND cấp trên.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Phó Chánh án: Phó Chánh án giúp việc cho
Chánh án làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án. Khi Chánh án vắng
mặt, Phó Chánh án được Chánh án ủy quyền thay mặt lãnh đạo giải quyết
công việc của cơ quan và chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được
giao. Khi giải quyết công việc được phân công, có những vấn đề phức tạp,
vướng mắc thì báo với Chánh án để cùng tập thể lãnh đạo, trao đổi và giải
quyết.
- Về trách nhiệm của lãnh đạo (gồm Chánh án, Phó Chánh án): Đề xuất
với các cấp lãnh đạo về quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm đối với cán bộ, công
chức trong cơ quan trước mắt và lâu dài; xây dựng kế hoạch chương trình
công tác của đơn vị và phân công cán bộ, công chức thực hiện các nhiệm vụ
công tác đã đề ra của hệ thống Tòa án; tuân thủ sự phân công của Tòa án cấp
trên, của Thường vụ Huyện ủy và HĐND cấp huyện về công tác tổ chức, xây
dựng hệ thống, đồng thời quan hệ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp
57
và các ngành liên quan để phục vụ cho yêu cầu nhiệm vụ của mình; báo cáo
tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao và các mặt công tác của đơn
vị với ngành cấp trên và địa phương.
- Về trách nhiệm của Thẩm phán: Từng Thẩm phán chủ động xây dựng
kế hoạch công tác và giải quyết án được giao. Phải chịu trách nhiệm cá nhân
đối với án do mình giải quyết để án quá hạn luật định mà không có lý do;
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa xét xử các loại án phải nêu cao tinh thần trách
nhiệm, nghiên cứu nắm vững nội dung và tình tiết vụ án, bảo đảm xét xử
đúng pháp luật; phải điều khiển việc tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải
cách tư pháp; Thẩm phán có trách nhiệm quản lý, điều hành và giao công việc
cụ thể cho Thư ký Tòa án được phân công làm việc với mình.
- Về trách nhiệm của Thư ký Tòa án: Thư ký Tòa án thực hiện công
việc theo sự phân công của Thẩm phán đối với nhiệm vụ được giao. Giúp
Thẩm phán lập các thủ tục trong quá trình giải quyết vụ án, từ khi nhận đơn
cho đến khi kết thúc vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, trong khi thực
hiện nhiệm vụ phải bảo đảm tính khách quan, trung thực, chính xác và chịu
trách nhiệm về công việc mình làm. Thực hiện đầy đủ trách nhiệm của Thư
ký Tòa án đối với các công việc trước, trong và sau phiên tòa xét xử.
- Về trách nhiệm của Văn phòng
+ Văn thư: Tất cả các công văn đến phải được vào sổ và trình lãnh đạo
để xử lý. Phát công văn, giấy báo… phải kịp thời (ngay trong ngày) nếu thất
lạc hoặc mất công văn… phải chịu trách nhiệm. Lưu trữ các loại văn bản phải
khoa học, ngăn nắp và bảo mật.
+ Lưu trữ hồ sơ: Tất cả hồ sơ án, sau khi có hiệu lực pháp luật, từng bộ
phận phải hoàn chỉnh hồ sơ, bút lục chuyển sang lưu trữ theo quy định hàng
năm. Công chức làm công tác lưu trữ phải lập sổ, phiếu để quản lý theo dõi
đúng quy trình của công tác lưu trữ, nghiêm chỉnh chấp hành chế độ bảo mật.
58
Tất cả công chức trong và ngoài cơ quan mượn hồ sơ lưu trữ phải có ý kiến
phê duyệt của Chánh án.
+ Kế toán: Phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện chức
năng, nhiêm vụ của mình, quản lý kinh phí chặt chẽ, thu, chi các loại phải
đúng, đủ, kịp thời, chứng từ hợp lệ đảm bảo theo luật định. Lập hệ thống sổ
sách kế toán và sổ theo dõi tài sản cố định đầy đủ, chính xác đảm bảo cho
việc quyết toán hàng năm theo quy định của hệ thống. Báo cáo kinh tế tài
chính công khai hàng quý cho cán bộ, công chức trong cơ quan biết.
+ Thủ quỹ: Lập sổ theo dõi quản lý tiền mặt, rút tiền, chi và cho tạm
ứng kịp thời nhưng phải đảm bảo nguyên tắc tài chính về thu, chi; tiền quỹ
không được mang về nhà riêng, nếu để xảy ra thâm hụt, mất mát mà không có
lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm và bồi thường.
Hoạt động dựa trên cơ cấu tổ chức được phân bổ, TAND cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã đạt được nhiều kết quả đáng kể trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bên cạnh đó, trong
quá trình hoạt động TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn nhiều
tồn tại, hạn chế cũng như vướng mắc, khó khăn cần khắc phục, nhằm bảo đảm
hoạt động của mình để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2.2.2. Đánh giá về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Quảng Ngãi là một tỉnh thuộc Trung trung bộ, điều kiện kinh tế còn
nhiều khó khăn, cùng với sự phát triển của Khu kinh tế mở Dung Quất và nhà
máy lọc dầu Dung Quất đã mở ra bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế, du lịch
hòa nhập với sự phát triển kinh tế của đất nước, quốc tế. Trong bối cảnh đó,
tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh tuy được kiềm chế nhưng còn diễn biến
59
phức tạp, số lượng các vụ việc dân sự, hành chính mà TAND cấp huyện phải
thụ lý, giải quyết có xu hướng gia tăng và ngày càng phức tạp về tính chất,
thêm đó thẩm quyền của TAND cấp huyện ngày càng được mở rộng. Trong
giai đoạn năm 2012 – 2016 số lượng các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia
đình, kinh doanh thương mại, hành chính, lao động thuộc thẩm quyền giải
quyết của TAND cấp huyện không ngừng tăng lên, tạo áp lực không nhỏ cho
hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Mặc dù nhiệm
vụ đặt ra đối với các TAND cấp huyện ngày càng nặng nề, song với sự quan
tâm, lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của các cấp ủy Đảng, của TAND tối cao,
TAND tỉnh Quảng Ngãi, TAND cấp huyện đã nỗ lực vượt qua khó khăn, đẩy
nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng xét xử các loại án, cũng như các việc khác
thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện.
2.2.2.1. Những kết quả đạt được về tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân cấp huyện
- Những kết quả đạt được về tổ chức
Đội ngũ công chức tại các TAND cấp huyện tương đối đồng đều về
trình độ chuyên môn, hầu hết có trình độ cử nhân luật chính quy, 16 công
chức có trình độ thạc sĩ luật, 42 công chức có trình độ cao cấp lý luận chính
trị và trình độ chuyên môn ngày càng được nâng cao đáp ứng yêu cầu phục vụ
công tác tại các đơn vị. Công tác luân chuyển, điều động, biệt phái nhằm nâng
cao năng lực của cán bộ, công chức cũng như phù hợp với tình hình của từng
TAND cấp huyện được thực hiện hiệu quả. Trong 5 năm từ năm 2012 đến
năm 2016 các TAND cấp huyện đều có công chức được luân chuyển, điều
động, biệt phái, cũng như có sự bổ nhiệm mới chức danh lãnh đạo Chánh án,
Phó Chánh án trong trường hợp bị khuyết để kịp thời phục vụ yêu cầu công
tác tại đơn vị. Hầu hết Chánh án các TAND cấp huyện đều trúng vào HĐND
cùng cấp.
60
Số lượng công chức được phân bổ tại TAND cấp huyện được dựa trên
số lượng án mà từng đơn vị phải giải quyết hàng năm, TAND thành phố
Quảng Ngãi có số lượng vụ việc hàng năm phải giải quyết cao nhất tỉnh. Vì
vậy, số lượng nhân sự ở đơn vị này cũng cao nhất tỉnh. TAND huyện Tây Trà,
TAND huyện đảo Lý Sơn là đơn vị có số lượng án thấp nhất, nên có số lượng
công chức ít nhất tỉnh nhưng vẫn có đầy đủ các chức danh quản lý như Chánh
án, Phó chánh án cũng như các vị trí khác gồm Thẩm phán, Thư ký Tòa án, kế
toán, văn phòng.
Hội thẩm nhân dân của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
do HĐND cùng cấp bầu, nhiệm kỳ của Hội thẩm theo nhiệm của HĐND cùng
cấp bầu ra. Khi chuẩn bị bầu cử HĐND cấp huyện, TAND cấp huyện phối
hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam cấp huyện để giới thiệu nhân sự
bầu Hội thẩm nhân dân cấp huyện đúng quy định. Sau khi có kết quả bầu Hội
thẩm, Chánh án TAND cấp huyện phối hợp với HĐND, Thường trực Ủy ban
Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam cấp huyện chỉ đạo bầu trưởng, phó đoàn Hội
thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân tham gia trong tất cả các phiên tòa xét xử
của TAND cấp huyện, góp phần quan trọng trong việc hạn chế số lượng án có
vi phạm pháp luật dẫn đến hủy, sửa, đồng thời thể hiện tính nhân đạo khi ban
hành phán quyết, đảm bảo bản án, quyết định được ban hành vừa đảm bảo
tuân thủ quy định pháp luật, vừa có tinh thần nhân đạo, “có lý có tình”.
Tổ chức của các TAND cấp huyện ngày càng phù hợp hơn với tình
hình của từng TAND cấp huyện, điều này đã góp phần đảm bảo chất lượng
hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Những kết quả đạt được về hoạt động
Theo thống kê của Văn phòng TAND tỉnh Quảng Ngãi thì từ năm 2012
đến năm 2016 số lượng giải quyết án của các TAND cấp huyện trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi có xu hướng tăng lên. Cụ thể:
61
+ Năm 2012 TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã giải
quyết 2643 vụ việc trên số án thụ lý 3063 vụ việc đạt tỷ lệ 86,29%, cụ thể: xét
xử 678 vụ án hình sự với 1322 bị cáo, trong đó một số TAND cấp huyện đạt
tỷ lệ án giải quyết trên số án thụ lý 100% như Nghĩa Hành, Lý Sơn, Sơn Hà,
Sơn Tây, Tây Trà, Trà Bồng, Minh Long; 671 vụ việc dân sự, 1201 vụ việc
hôn nhân và gia đình, 86 vụ án kinh doanh thương mại, 05 vụ án hành chính,
02 vụ án lao động. Trong đó số vụ án hòa giải thành 1046 vụ việc/1960 vụ
việc (đạt tỷ lệ 53,37%), đạt tỷ lệ cao ở một số TAND cấp huyện như Minh
Long 100%, Trà Bồng 70%, Lý Sơn 72%, Ba Tơ 66%. TAND cấp huyện có
số lượng án được giải quyết nhiều nhất là TAND thành phố Quảng Ngãi với
541 vụ việc, trong đó xét xử 110 vụ án hình sự/206 bị cáo, giải quyết 211 vụ
việc dân sự, 169 vụ việc hôn nhân và gia đình, 49 vụ án kinh doanh thương
mại, 02 vụ án lao động. TAND cấp huyện có số lượng án thấp nhất là TAND
huyện Tây Trà với 12 vụ việc, trong đó xét xử 07 vụ án hình sự/15 bị cáo, giải
quyết 02 vụ việc dân sự, 03 vụ việc hôn nhân và gia đình.
+ Năm 2013 TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã giải
quyết 2788 vụ việc trên số án thụ lý 2997 vụ việc đạt tỷ lệ 93,03%, cụ thể: xét
xử 501 vụ án hình sự với 933 bị cáo, trong đó một số TAND cấp huyện đạt tỷ
lệ án giải quyết trên số án thụ lý 100% như Ba Tơ, Minh Long, Đức Phổ; giải
quyết 992 vụ việc dân sự, 1122 vụ việc hôn nhân và gia đình, 145 vụ án kinh
doanh thương mại, 18 vụ án hành chính, 10 vụ án lao động. Trong đó số vụ án
hòa giải thành 1236 vụ việc/2269 vụ việc (đạt tỷ lệ 54,47%), đạt tỷ lệ cao ở
một số TAND cấp huyện như Minh Long, Lý Sơn, Nghĩa Hành. TAND cấp
huyện có số lượng án được giải quyết nhiều nhất là TAND thành phố Quảng
Ngãi với 784 vụ việc, trong đó xét xử 141 vụ án hình sự/292 bị cáo, giải quyết
365 vụ việc dân sự, 198 vụ việc hôn nhân và gia đình, 75 vụ án kinh doanh
thương mại, 05 vụ án lao động. TAND cấp huyện có số lượng án thấp nhất là
62
TAND huyện Tây Trà với 08 vụ việc, trong đó xét xử 05 vụ án hình sự/9 bị
cáo, giải quyết 02 vụ việc dân sự, 01 vụ việc hôn nhân và gia đình.
+ Năm 2014 TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã giải
quyết 3098 vụ việc trên số án thụ lý 3309 vụ việc đạt tỷ lệ 93,62%, cụ thể: xét
xử 690 vụ án hình sự/1356 bị cáo, trong đó một số TAND cấp huyện đạt tỷ lệ
án giải quyết trên số án thụ lý 100% như Nghĩa Hành, Tây Trà, Tư Nghĩa;
giải quyết 906 vụ việc dân sự, 1319 vụ việc hôn nhân và gia đình, 138 vụ án
kinh doanh thương mại, 35 vụ án hành chính, 10 vụ án lao động. Trong đó số
vụ án hòa giải thành 1286 vụ việc/2373 vụ việc (đạt tỷ lệ 54,19%), đạt tỷ lệ
cao ở một số TAND cấp huyện như Minh Long, Lý Sơn, Nghĩa Hành. TAND
cấp huyện có số lượng án được giải quyết nhiều nhất là TAND thành phố
Quảng Ngãi với 638 vụ việc, trong đó xét xử 121 vụ án hình sự/258 bị cáo,
giải quyết 203 vụ việc dân sự, 244 vụ việc hôn nhân và gia đình, 59 vụ án
kinh doanh thương mại, 04 vụ án lao động, 07 vụ án hành chính. TAND cấp
huyện có số lượng án thấp nhất là TAND huyện Tây Trà với 15 vụ việc, trong
đó xét xử 13 vụ án hình sự/14 bị cáo, 02 vụ việc hôn nhân và gia đình.
+ Năm 2015 TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã giải
quyết 2950 vụ việc trên số án thụ lý 3166 vụ việc đạt tỷ lệ 93,18%, cụ thể xét
xử 608 vụ án hình sự/1193 bị cáo, trong đó một số TAND cấp huyện đạt tỷ lệ
án giải quyết trên số án thụ lý 100% như Ba Tơ, Sơn Hà, Tư Nghĩa; giải quyết
694 vụ việc dân sự, 1438 vụ việc hôn nhân và gia đình, 165 vụ án kinh doanh
thương mại, 27 vụ án hành chính, 18 vụ án lao động. Trong đó số vụ án hòa
giải thành 1267 vụ việc/2315 vụ việc (đạt tỷ lệ 54,73%), đạt tỷ lệ cao ở một số
TAND cấp huyện như Ba Tơ, thành phố Quảng Ngãi, Nghĩa Hành. TAND
cấp huyện có số lượng án được giải quyết nhiều nhất là thành phố Quảng
Ngãi với 855 vụ việc, trong đó xét xử 163 vụ án hình sự/280 bị cáo, giải quyết
221 vụ việc dân sự, 375 vụ việc hôn nhân và gia đình, 76 vụ án kinh doanh
63
thương mại, 10 vụ án lao động, 10 vụ án hành chính. TAND cấp huyện có số
lượng án thấp nhất là TAND huyện Tây Trà với 21 vụ việc, trong đó xét xử
09 vụ án hình sự/31 bị cáo, 04 vụ việc dân sự, 08 vụ việc hôn nhân và gia
đình.
+ Năm 2016 TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã giải
quyết 3070 vụ việc trên số án thụ lý 3145 vụ việc đạt 97,62%, cụ thể: xét xử
479 vụ án hình sự/864 bị cáo, trong đó một số TAND cấp huyện đạt tỷ lệ án
giải quyết trên số án thụ lý 100% như Minh Long, Tư Nghĩa, Mộ Đức; giải
quyết 894 vụ việc dân sự, 1528 vụ việc hôn nhân và gia đình, 139 vụ án kinh
doanh thương mại, 04 vụ án hành chính, 26 vụ án lao động. Trong đó số vụ án
hòa giải thành 1403 vụ việc/2587 vụ việc (đạt tỷ lệ 54,23%), trong đó đạt tỷ lệ
cao ở một số TAND cấp huyện như Ba Tơ, thành phố Quảng Ngãi, Nghĩa
Hành. TAND cấp huyện có số lượng án được giải quyết nhiều nhất là TAND
thành phố Quảng Ngãi với 1028 vụ việc, trong đó xét xử 165 vụ án hình
sự/276 bị cáo, giải quyết 351 vụ việc dân sự, 408 vụ việc hôn nhân và gia
đình, 81 vụ án kinh doanh thương mại, 19 vụ án lao động, 04 vụ án hành
chính. TAND cấp huyện có số lượng án thấp nhất là TAND huyện Tây Trà
với 15 vụ việc, trong đó xét xử 02 vụ án hình sự/06 bị cáo, 08 vụ việc dân sự,
05 vụ việc hôn nhân và gia đình. Ngoài ra, trong năm 2016, TAND cấp huyện
có công tác khác gồm: giải quyết việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
tại TAND (năm 2016 có 11 việc hành chính), ra quyết định thi hành án.
Qua số liệu thống kê trên cho thấy số lượng vụ việc trong các lĩnh vực
thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi có xu hướng tăng lên theo từng năm, việc tăng này có thể do nhiều
nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan, như sự phát triển của Khu kinh tế
mở Dung Quất, các khu công nghiệp lớn tập trung dân cư, người lao động
trong nhiều mối quan hệ phức tạp, mâu thuẫn gia tăng dẫn đến số lượng tội
64
phạm về tệ nạn xã hội như cờ bạc, mại dâm, ma túy ngày càng nhiều. Mặt
khác, đất đai ngày càng có giá trị, việc đền bù tái định cư tại một số địa
phương có xây dựng công trình kinh tế, đường xá như đường bờ đê sông Trà
Khúc, đường cao tốc liên tỉnh… dẫn đến tranh chấp về đất đai tăng. Thêm
nữa, số lượng các cặp vợ chồng trẻ kết hôn sớm, thiếu kỹ năng sống, mâu
thuẫn gia đình, ngoại tình… dẫn đến không thể chung sống với nhau và quyết
định gởi đơn đến Tòa án yêu cầu giải quyết ly hôn. Số lượng vụ việc phải giải
quyết tại TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi tăng nhanh nhất là
TAND thành phố Quảng Ngãi, bởi đây là địa phương trung tâm kinh tế -
chính trị - xã hội của cả tỉnh, tập trung dân cư đông. Một số huyện miền núi,
hải đảo có số lượng dân cư ít, trình độ dân trí thấp, đời sống người dân còn
nhiều khó khăn như Tây Trà, Trà Bồng, Minh Long, Lý Sơn có số lượng vụ
việc do TAND cấp huyện giải quyết ít.
Kết quả đạt được của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
đã được ghi nhận trong phong trào thi đua khen thưởng, nhiều cá nhân, đơn vị
đã được tặng thưởng giấy khen của Chánh án TAND tỉnh, bằng khen của
Chánh án TAND tối cao, khen thưởng cấp nhà nước do Thủ tướng Chính phủ
tặng thưởng.
Nhìn chung, TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã thực
hiện tốt hoạt động của mình trên cơ sở cơ cấu tổ chức đã được phân bổ góp
phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phát triển kinh tế của
tỉnh Quảng Ngãi; hoạt động xét xử về cơ bản tuân thủ đúng quy định của
pháp luật, chất lượng giải quyết các vụ việc ngày càng được nâng cao trên cơ
sở pháp luật, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của cá nhân, tổ chức trong xã
hội, đảm bảo tính công bằng nhưng vẫn có tinh thần nhân đạo khi ban hành
các phán quyết, đóng góp tích cực vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta.
65
2.2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế về tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân cấp huyện
- Một số tồn tại, hạn chế về tổ chức
+ TAND cấp huyện được tổ chức ở đơn vị hành chính cấp huyện, số
lượng các vụ việc phải giải quyết của từng Tòa án là khác nhau, có nơi nhiều,
có nơi ít, phụ thuộc vào đặc điểm dân số, địa lý, mức độ phát triển kinh tế - xã
hội, số lượng tội phạm xảy ra trên từng địa bàn. Trên thực tế, tại địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi, thành phố Quảng Ngãi là đơn vị luôn phải giải quyết, xét xử số
lượng lớn các vụ việc và còn tiếp tục tăng lên (mỗi Thẩm phán giải quyết, xét
xử trên 100 vụ việc mỗi năm). Trong khi đó, TAND cấp huyện ở khu vực
miền núi, hải đảo lại có số lượng vụ việc thấp (giải quyết, xét xử 15 vụ việc
các loại mỗi năm), dẫn đến công chức ở nơi có số lượng vụ việc ít thì không
có kinh nghiệm công tác, còn công chức ở nơi có số lượng án nhiều thì lại
phải kham số lượng công việc quá tải nên đang tạo ra những trở ngại, khó
khăn trong việc kiện toàn, nâng cao năng lực và bảo đảm chất lượng hoạt
động xét xử của các Tòa án. Số lượng công chức của mỗi tỉnh được TAND tối
cao phân bố dựa trên số lượng vụ việc, nhưng ở các huyện miền núi, hải đảo
có số lượng vụ việc ít thì vẫn phải phân bổ số lượng công chức đủ cơ cấu lãnh
đạo, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, công chức kế toán, công chức văn phòng. Vì
vậy, một số TAND huyện khác thì phải gánh thêm số lượng án của những
TAND huyện này trong tỉnh. Hơn nữa, việc luân chuyển, điều động, biệt phái
công chức từ TAND huyện này đến TAND huyện khác làm xáo trộn sự phối
hợp trong mối quan hệ công tác đối với công chức trong đơn vị, với các công
chức trong các cơ quan, ban ngành có liên quan, điều này cũng ảnh hưởng đến
chất lượng hoạt động của một số TAND cấp huyện.
+ Hiện nay chế độ lương, phụ cấp cho Thẩm phán, Thư ký TAND nói
chung, cũng như TAND cấp huyện nói riêng còn thấp, gần bằng với chế độ
66
lương, phụ cấp của cán bộ, công chức các cơ quan hành chính khác. Trong
khi đó, TAND là cơ quan đặc thù, độc lập với hệ thống các cơ quan hành
chính khác, có nhiệm vụ đặc thù là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; chức năng xét xử, xử phạt các đối
tượng phạm tội nên rất dễ gây ra thù hằn đối với một số đối tượng, mà chế độ
lương, phụ cấp không phù hợp rất dễ dẫn tới sa ngã.
+ Trang thiết bị, cơ sở vật chất của TAND cấp huyện còn hạn chế, một
số trụ sở TAND cấp huyện đã xuống cấp, phòng xét xử cũng như phòng làm
việc của Thẩm phán, Thư ký Tòa án còn thiếu trang thiết bị phục vụ cho công
tác, làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của đơn vị. Một số công chức
được điều động, biệt phái đến đơn vị TAND cấp huyện xa nhà nhưng không
được bố trí nơi ở, nhiều trường hợp phải ở lại trong chính phòng làm việc, rất
bất tiện cho sinh hoạt.
+ Ảnh hưởng từ mối quan hệ chỉ đạo, tác động của các chủ thể như cấp
ủy Đảng, HĐND, UBND cùng cấp. Sự chỉ đạo của Đảng mà trực tiếp là cấp
ủy trong giải quyết án là không thể phủ nhận trong thực tế tại các TAND cấp
huyện, nhất là đối với các vụ án phức tạp, ảnh hưởng đến an ninh trật tự và dư
luận tại địa phương. Tuy nhiên, phán quyết của Hội đồng xét xử, đặc biệt là
Thẩm phán không thể không chịu tác động từ sự chỉ đạo này, dẫn đến có thể
ảnh hưởng đến việc đưa ra phán quyết vô tư, khách quan khi giải quyết án.
Đối với sự giám sát của HĐND cấp huyện, TAND cấp huyện phải báo cáo và
trả lời chất vấn trước HĐND cấp huyện về hoạt động của mình, Đoàn Hội
thẩm nhân dân báo cáo về công tác Hội thẩm. Việc giám sát này cũng tạo áp
lực cho TAND cấp huyện, ảnh hưởng đến quá trình giải quyết án của TAND.
Mặt khác, TAND còn chịu ảnh hưởng bởi cơ quan quản lý hành chính tại địa
phương, cụ thể là UBND cấp huyện mặc dù về nguyên tắc TAND độc lập với
67
cơ quan hành chính tại địa phương. Bởi đây là cơ quan hỗ trợ, tạo điều kiện
về kinh phí, trụ sở và các điều kiện vật chất khác cho TAND cấp huyện, cũng
là cơ quan quản lý về hành chính tại nơi TAND có trụ sở. TAND cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi giải quyết nhiều vụ việc liên quan đến UBND
cấp huyện, nhất là các vụ án hành chính có người bị kiện là UBND hoặc Chủ
tịch UBND, nhưng trên thực tế rất khó xem các chủ thể này giống như đương
sự bình thường trong các vụ án khác. Quy định của Luật tố tụng hành chính
năm 2015 đã thay đổi về thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính có
người bị kiện là UBND hoặc Chủ tịch UBND cấp huyện nhằm khắc phục
vướng mắc này nhưng còn một số vụ án đã được thụ lý trước thời điểm Luật
này có hiệu lực vẫn do TAND cấp huyện giải quyết. Như vậy, ảnh hưởng của
cấp ủy, HĐND, UBND cấp huyện đến nguyên tắc độc lập của Thẩm phán, có
thể tác động tích cực hoặc tiêu cực tới việc TAND cấp huyện có đưa ra được
phán quyết công bằng, đúng quy định pháp luật hay không.
- Một số tồn tại, hạn chế về hoạt động
+ Về năng lực của Thẩm phán, Thư ký Tòa án vẫn còn nhiều hạn chế.
Thực tế cho thấy hiện nay tại địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, TAND cấp huyện có
tổng cộng có 50 Thẩm phán, 69 Thư ký Tòa án. Trong giai đoạn hiện nay có
sự thay đổi một loạt các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải
quyết các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự và các việc khác
thuộc thẩm quyền của Tòa án được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, Bộ luật dân sự năm 2015, Luật tố tụng hành chính năm 2015, Luật thi
hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2015... Trong đó, có nhiều quy định thay đổi so với văn bản luật đã
được thay thế ảnh hưởng đến trình tự tố tụng và nội dung quá trình giải quyết
các vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện, việc cập nhật
và nắm rõ những quy định pháp luật này để áp dụng trong quá trình giải quyết
68
án là điều vô cùng quan trọng trong quá trình công tác của Thẩm phán. Nhưng
do nhiều nguyên nhân như tuổi cao, năng lực còn hạn chế, không được va
chạm án nhiều dẫn đến một số Thẩm phán không cập nhật và áp dụng kịp các
quy định pháp luật mới này. Các Thẩm phán phần lớn đều có trình độ chuyên
môn là cử nhân luật nhưng một số là hệ tại chức, lại lớn tuổi thì mức độ cập
nhật sự thay đổi của các văn bản quy phạm pháp luật của các Thẩm phán này
còn nhiều hạn chế. Mặt khác, sự hạn chế của trình độ chuyên môn của một số
Thẩm phán còn thể hiện qua việc có bản án, quyết định do TAND cấp huyện
ban hành còn sai lỗi chính tả, không đúng quy định pháp luật, câu chữ khó
hiểu hoặc có thể hiểu nhiều nghĩa dẫn đến bản án, quyết định bị hủy, sửa. Một
số Thư ký Tòa án vì nhiều lý do chưa được tham gia lớp nghiệp vụ xét xử
cũng như chưa được bổ nhiệm Thẩm phán nhưng tuổi đã cao vẫn còn phải
thực hiện những nhiệm vụ của Thư ký Tòa án cũng là khó khăn cho bản thân
họ và làm hạn chế chất lượng hoạt động của TAND cấp huyện. Những điểm
hạn chế trên ảnh hưởng đến quá trình giải quyết án tại TAND cấp huyện khi
xét xử, cũng như trình tự tố tụng không đúng quy định pháp luật hiện hành,
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cũng như tinh thần
tuân thủ pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
+ Hội thẩm nhân dân có vai trò quan trọng trong hoạt động của Tòa án
nói chung và TAND cấp huyện nói riêng khi mà Hội thẩm chiếm tỷ lệ lớn về
mặt số lượng trong Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, có sự chênh lệch về trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ xét xử của Hội thẩm so với Thẩm phán khi tham gia
xét xử. Cơ cấu Hội thẩm thường là các đồng chí lãnh đạo các cơ quan, tổ
chức, các hội đoàn thể địa phương, cán bộ hưu trí không được đào tạo về
chuyên môn, nghiệp vụ xét xử, kiến thức pháp luật và không phải đáp ứng các
điều kiện chặt chẽ về trình độ chuyên môn như Thẩm phán. Các quy định về
tiêu chuẩn của Hội thẩm còn rất chung chung và khác xa so với những tiêu
69
chuẩn đặt ra đối với Thẩm phán, đó là “có kiến thức pháp luật”. Nguyên tắc
xét xử tập thể, quyết định theo đa số thì càng đòi hỏi ở Hội thẩm nhiều hơn về
kiến thức chuyên môn. Thực tế hiện nay, trình độ chuyên môn của đội ngũ
Hội thẩm nhân dân ở các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
không đồng đều và chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn về chuyên môn
nghiệp vụ xét xử. Mặt khác, đội ngũ Hội thẩm nhân dân do đang giữ chức vụ
quan trọng tại đơn vị công tác nên thường xuyên có công việc, nhiều trường
hợp khó sắp xếp được thời gian theo lịch xét xử của TAND cấp huyện, trong
khi đó phiên tòa muốn diễn ra bắt buộc phải đầy đủ thành phần. Vì vậy, có
một số phiên tòa không thể diễn ra hoặc phải thay thế Hội thẩm vì Hội thẩm
được phân công tham gia xét xử có công tác đột xuất. Thêm nữa, chế độ đối
với Hội thẩm có được cải thiện hơn trước nhưng cũng còn nhiều hạn chế như
tiền bồi dưỡng cho Hội thẩm nhân dân khi nghiên cứu hồ sơ và xét xử còn
thấp 90.000 đồng/ngày; một số vị Hội thẩm nhân dân ở xa, khi tham gia
nghiên cứu hồ sơ không có thêm kinh phí xăng xe. Mặt khác, trách nhiệm của
Hội thẩm được pháp luật quy định rõ, nhưng thực tiễn trong quá trình xét xử,
nếu oan, sai, án bị hủy, sửa, thì chỉ có Thẩm phán chịu trách nhiệm, Hội thẩm
thường chỉ không được xét khen thưởng. Hội thẩm chủ yếu là còn đương
chức, công việc bận, cho nên ít nhận tham gia nghiên cứu, xét xử, cũng như
công tác nghiên cứu hồ sơ thường bị xem nhẹ.
+ Pháp luật trong lĩnh vực tư pháp chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ, các
Bộ luật, Luật mới đã có hiệu lực thi hành trong một thời gian khá dài mà chưa
có văn bản hướng dẫn thi hành đối với những vấn đề sửa đổi, bổ sung gây ra
nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động TAND cấp huyện. Bởi có nhiều văn
bản pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, có nhiều vấn đề về tố tụng chưa có
văn bản quy phạm hướng dẫn nên trong những vụ án cụ thể, Thẩm phán khó
xác định làm thế nào mới đúng quy định pháp luật.
70
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2 của luận văn, tác giả đã khái quát về tổ chức và hoạt
động của TAND cấp huyện từ năm 1945 đến năm 2013 và phân tích thực
trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá số liệu thực tế thu thập được. Qua
phân tích, tác giả đã chỉ ra những kết quả đạt được, bên cạnh đó cũng chỉ ra
một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân hạn chế về tổ chức và hoạt động của
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Từ những kết quả phân tích ở chương này sẽ là cơ sở để đưa ra giải
pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của TAND
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
71
Chương 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC,
BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI
3.1. Quan điểm về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp
huyện đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
Đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp
thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền tự do dân chủ
và lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn ngừa mọi sự tùy tiện lạm quyền từ
phía cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, ngăn ngừa
hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm chất lượng hoạt
động của nhà nước. Tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức
Đảng đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật. TAND các cấp
nói chung, TAND cấp huyện nói riêng giữ vị trí quan trọng chủ chốt góp phần
vào việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Trong lịch sử, TAND đã trải qua những cuộc cải cách và đổi mới về tổ chức
và phương thức hoạt động để đáp ứng nhiệm vụ ngày càng nặng nề trong việc
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Dù là ở giai đoạn
nào TAND cấp huyện cũng giữ vai trò là cơ quan xét định, đưa ra những phán
quyết để bảo vệ lợi ích mà xã hội đề cao, buộc các chủ thể khác phải nghiêm
chỉnh chấp hành. Trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam hiện nay, để nâng chất lượng hoạt động xét xử, việc
đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND nói chung, TAND cấp huyện nói
riêng cần bám sát các quan điểm, mục tiêu xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam thể hiện trong các văn kiện quan trọng của
72
Đảng Cộng sản Việt Nam thời gian gần đây, tiêu biểu tại Nghị quyết 08-
NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới nhấn mạnh: “Giữ vững bản chất của Nhà nước ta
là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”
[3], được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và đã được thể chế
hóa trong Hiến pháp năm 2013.
3.1.1. Về quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ: “Tăng quyền hạn, trách
nhiệm tố tụng của điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán để họ chủ động
thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trong hoạt động
tố tụng” [5], đã khẳng định sự cần thiết phải tăng quyền hạn, trách nhiệm của
người có nhiệm vụ quan trọng trong việc đưa ra phán quyết xét định các vụ
việc thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện. Tăng quyền hạn
nhằm nâng cao tính độc lập trong quá trình công tác, nhất là trong hoạt động
tố tụng cũng nhằm để Thẩm phán ít bị ảnh hưởng từ các chủ thể khác, phán
quyết đưa ra mang tính công bằng, đúng pháp luật. Nhưng tăng quyền hạn của
Thẩm phán phải đi cùng với tăng trách nhiệm, đó là trách nhiệm thực hiện
chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước, trách nhiệm bằng năng lực của
bản thân, bản lĩnh nghề nghiệp thực hiện nhiệm vụ của mình một cách công
tâm, không bị bất cứ lợi ích nào chi phối, xét định bất cứ vấn đề gì cũng dựa
trên cơ sở các chế định của pháp luật, bảo vệ các lợi ích mà pháp luật bảo vệ,
trừng trị nghiêm khắc đối với các hành vi xâm phạm các giá trị này, góp phần
vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bên cạnh việc
tăng quyền hạn, nhiệm vụ của Thẩm phán để nâng cao tính độc lập của họ
trong hoạt động của chính Thẩm phán nói riêng và của TAND cấp huyện nói
73
chung thì cũng cần có cơ chế giám sát phù hợp nhằm tránh việc lợi dụng
quyền hạn của mình để thu lợi ích cá nhân.
3.1.2. Về thẩm quyền xét xử và công tác nhân sự
TAND cấp huyện là cơ quan xét xử và thực hiện quyền tư pháp với số
lượng giải quyết sơ thẩm các vụ việc dân sự, vụ án hình sự, hành chính, nhiều
nhất tại địa phương. Vì vậy, vai trò quan trọng trong việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của TAND cấp huyện còn được nêu trong nhiều văn kiện của
Đảng. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 nhấn mạnh: “khẩn
trương chuẩn bị tốt điều kiện để thực hiện việc tăng thẩm quyền xét xử cho
Toà án cấp huyện”, “tăng cường cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các cơ quan
tư pháp ở Trung ương và địa phương; chú trọng đề bạt số cán bộ có quan
điểm chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, đã được đào tạo cơ bản và
kinh nghiệm trong thực tiễn công tác đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo các cơ
quan tư pháp. Thực hiện luân chuyển cán bộ tư pháp giữa các cấp và các địa
phương, đồng thời xây dựng chế độ, chính sách phù hợp để thực hiện việc
luân chuyển đó. Rà soát lại đội ngũ cán bộ tư pháp để xây dựng đội ngũ cán
bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh; xác định lại biên chế cho phù hợp với yêu
cầu, nhiệm vụ, tuỳ từng nơi, từng đơn vị nếu do nhiệm vụ đòi hỏi thì cần tăng
biên chế hợp lý để đủ sức hoàn thành nhiệm vụ” [3], cho thấy sự chú trọng
cần thiết đối với công tác tổ chức cán bộ ngành tư pháp nói chung và TAND
nói riêng. Đây là quan điểm vô cùng đúng đắn của Đảng và nhà nước ta trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bởi cán bộ, công
chức của hệ thống TAND trong quyền hạn của mình đóng vai trò giải quyết
các vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND, góp phần trong việc nhân danh nhà
nước đưa ra phán quyết trong khi thực hiện nhiệm vụ: “ngăn ngừa có hiệu
quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các
tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ
74
chức; bảo vệ trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng dân chủ, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức và công dân” [3].
3.1.3. Về điều kiện cơ sở vật chất
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị
cũng nêu rõ: “Nhà nước bảo đảm điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp
phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước”,
“Từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang,
hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều
tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, công tác xét xử, công tác giám định tư
pháp. Khẩn trương trong một vài năm xây xong trụ sở làm việc các cơ quan
tư pháp cấp huyện; nâng cấp các nhà tạm giam theo đề án đã được Chính
phủ phê duyệt. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của
các cơ quan tư pháp” [5]. Đây là những công việc cụ thể cần được thực hiện
đối với các cơ quan tư pháp nói chung và TAND cấp huyện nói riêng, bởi
điều kiện vật chất là điều kiện vô cùng quan trọng trong hoạt động của các
đơn vị.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong đổi mới tổ chức và hoạt động của
TAND cấp huyện đã được đề ra và vẫn trong quá trình thực hiện, cho thấy
chất lượng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong việc xây dựng và cũng cố nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam, cần được cụ thể hóa bằng các chính sách, pháp luật của nhà nước.
Trong đó, Đảng nhấn mạnh việc sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định hợp
lý thẩm quyền của TAND cấp huyện. Đồng thời, quan điểm của Đảng về đổi
mới tổ chức, hoạt động của TAND trong các văn kiện nêu trên, cho thấy
đường lối lãnh đạo của Đảng đối với TAND trong thời kỳ đổi mới là hoàn
toàn nhất quán, có sự kế thừa và phát triển từng bước. Đảng luôn quan tâm
chỉ đạo nhằm kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức TAND, giới thiệu những
75
cán bộ, công chức có năng lực, trình độ chuyên môn cao và phẩm chất chính
trị vững vàng cho hệ thống Toà án; phát hiện và xử lý kỷ luật nghiêm minh
đối với những cán bộ, đảng viên có sai phạm công tác trong hệ thống Toà án.
Đảng lãnh đạo Tòa án thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật
thông qua việc thường xuyên nghe báo cáo tổng hợp tình hình công tác của
TAND, để có cơ sở tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp với hoạt động xét
xử của Toà án. Đảng luôn xác định cải cách tổ chức và hoạt động của hệ
thống TAND là thể hiện tập trung của cải cách tư pháp, nhưng cải cách
TAND phải tiến hành đồng bộ với việc cải cách cơ quan điều tra, viện kiểm
sát và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp khác.
3.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức, bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân
dân cấp huyện đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp
huyện
3.2.1.1. Thành lập các Tòa chuyên trách
Quy định về thành lập Tòa chuyên trách TAND cấp huyện được quy
định tại Luật Tổ chức TAND năm 2014, Thông tư 01/2016/TT-CA ngày 21
tháng 01 năm 2016 của TAND tối cao.
Theo đó, Tòa chuyên trách tại TAND cấp huyện được thành lập nếu có
đủ điều kiện sau: Số lượng vụ việc mà Tòa án thụ lý, giải quyết thuộc thẩm
quyền của Tòa chuyên trách theo quy định tại Điều 3 Thông tư này phải từ 50
vụ/năm trở lên; có biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án đáp
ứng được yêu cầu tổ chức Tòa chuyên trách. Trường hợp tại Tòa án không
đáp ứng đủ điều kiện tổ chức Tòa chuyên trách trên thì không tổ chức Tòa
chuyên trách nhưng phải bố trí Thẩm phán chuyên trách để giải quyết. TAND
có thể có các Tòa chuyên trách gồm Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và
76
người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính [50].
Việc thành lập Tòa chuyên trách, Thẩm phán chuyên trách cấp huyện
sẽ giúp nâng cao chất lượng trong việc giải quyết các vụ việc thuộc thẩm
quyền của TAND cấp huyện, đảm bảo chuyên môn hóa việc giải quyết, xét xử
của Tòa án theo từng lĩnh vực xét xử nhằm nâng cao chất lượng giải quyết,
xét xử các loại vụ việc; các Thẩm phán, Thư ký Tòa án nghiên cứu chuyên
sâu hơn về lĩnh vực mình công tác, xử lý hiệu quả, đúng pháp luật hơn đối với
các vụ việc thuộc lĩnh vực chuyên môn.
Thẩm quyền của các Tòa chuyên trách như sau:
- Tòa hình sự: Xét xử các vụ án hình sự, trừ các vụ án hình sự thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa gia đình và người chưa thành niên; xem xét,
quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND trong trường
hợp tại Tòa án đó không tổ chức Tòa xử lý hành chính, trừ trường hợp việc
xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa gia đình và người chưa thành niên.
- Tòa dân sự: Giải quyết các vụ việc dân sự; giải quyết các vụ việc kinh
doanh thương mại, phá sản, lao động, hành chính trong trường hợp tại Tòa án
đó không tổ chức Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính.
- Tòa kinh tế: Giải quyết các vụ việc kinh doanh thương mại, phá sản.
- Tòa hành chính: Giải quyết các vụ án hành chính.
- Tòa lao động: Giải quyết các vụ việc lao động.
- Tòa gia đình và người chưa thành niên giải quyết các vụ việc như sau:
Các vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc các vụ án hình
sự mà bị cáo là người đã đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị hại là người dưới
18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện
sống, học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như những người
dưới 18 tuổi khác; Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành
77
chính tại TAND đối với người chưa thành niên; Các vụ việc hôn nhân gia
đình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Tòa xử lý hành chính: Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính tại TAND, trừ những việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
gia đình và người chưa thành niên [50].
Thực tế, trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có một số TAND huyện đáp ứng
đủ điều kiên thành lập Tòa chuyên trách các lĩnh vực khi có số án từng lĩnh
vực từ 50 vụ/năm trở lên như Bình Sơn, Đức Phổ, Mộ Đức, Sơn Hà, Sơn
Tịnh, thành phố Quảng Ngãi, Trà Bồng, Tư Nghĩa. Nhưng hiện nay việc tổ
chức thành lập các Tòa chuyên trách chưa được thực hiện ở bất kỳ đơn vị
TAND huyện nào. TAND tỉnh Quảng Ngãi cần có kế hoạch triển khai thực
hiện việc thành lập Tòa chuyên trách ở TAND cấp huyện trong địa bàn tỉnh
mà trước hết là ở TAND thành phố Quảng Ngãi, nơi có số lượng án trên các
lĩnh vực nhiều nhất, đối với các TAND cấp huyện khác không đủ điều kiện
thành lập Tòa chuyên trách thì bố trí Thẩm phán chuyên trách. Nếu thực hiện
được thành lập Tòa chuyên trách, Thẩm phán chuyên trách sẽ tạo điều kiện
cho TAND cấp huyện thực hiện tốt hơn hoạt động của mình, nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán, Thư ký Tòa án trong lĩnh vực
chuyên trách, ban hành những bản án, quyết định đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
3.2.1.2. Thành lập bộ phận tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn
Tiếp dân và xử lý đơn là khâu quan trọng trong quá trình Tòa án giải
quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của mình (kể cả vụ án hình sự trong
trường hợp có các đơn kiếu nại, thay đổi biện pháp ngăn chặn, cho phép gặp
mặt bị cáo). Vì vậy, nếu TAND cấp huyện làm tốt khâu này sẽ bảo đảm chất
lượng hoạt động của Tòa án.
Trên cả nước, hiện nay có nhiều TAND địa phương đã thành lập bộ
78
phận hành chính tư pháp chịu trách nhiệm tiếp dân tại Tòa án, tiếp nhận và xử
lý đơn, tiếp nhận và xử lý công văn, giấy tờ ở Tòa án. Đối với cán bộ thực
hiện theo đúng quy chế tiếp dân, có vào sổ, ghi chép, theo dõi việc giải quyết
khiếu nại trong hệ thống Tòa án đúng theo trình tự, thủ tục quy định. Hàng
ngày đều báo cáo tình hình tiếp công dân cho Chánh án giải quyết những yêu
cầu bức xúc của người dân. Từ việc nhận trực tiếp hoặc từ khâu văn thư, bộ
phận Hành chính tư pháp nhận đơn tổng hợp và xử lý. Trường hợp Chánh án
bận công tác sẽ ủy nhiệm cho Phó Chánh án xử lý thay. Đối với đơn khởi
kiện: Trường hợp đủ điều kiện thụ lý thì ra Thông báo yêu cầu nộp tiền tạm
ứng án phí để thụ lý, trường hợp chưa đủ điều kiện thụ lý thì ra Thông báo
yêu cầu sửa đổi, bổ sung, trường hợp không đủ điều kiện khởi kiện thì ra
Thông báo trả đơn khởi kiện trình Chánh án giải quyết. Đối với đơn khiếu
nại: Thuộc thẩm quyền giải quyết của bộ phận nào thì trình Chánh án chuyển
đến bộ phận có thẩm quyền đó để giải quyết. Do vậy, hoạt động tiếp nhận và
xử lý đơn ở Tòa án đảm bảo đúng quy trình, thủ tục tố tụng; hạn chế tối đa
tình trạng giải quyết chậm, hay giải quyết quá hạn các đơn được Tòa án tiếp
nhận.
Các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nên áp dụng việc
thành lập bộ phận tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn thuộc Văn phòng, có cơ
cấu gồm Thẩm phán và công chức khác; đối với TAND cấp huyện có số
lượng vụ việc phải giải quyết không nhiều thì bố trí người ở bộ phận này.
Như vậy, hoạt động này được thực hiện theo quy trình khép kín, xử lý đơn
khởi kiện, đơn khiếu nại của người dân với thời gian ngắn nhất, không vi
phạm quy định về thời hạn của pháp luật tố tụng. Đồng thời nâng cao năng
lực của cán bộ chuyên trách bộ phận này, tránh tình trạng gây khó khăn, phiền
hà cho người dân, hoặc thụ lý khi chưa đủ điều kiện khởi kiện, thụ lý sai, dẫn
đến thụ lý tràn lan các vụ việc và từ đó dẫn đến tình trạng án tồn đọng quá
79
hạn.
3.2.1.3. Đầu tư kinh phí phù hợp
- Trang bị cơ sở vật chất hiện đại để bảo đảm hoạt động của TAND cấp
huyện
Trong các Nghị quyết chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp đều nhấn
mạnh việc đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp nói chung và cho hệ
thống TAND nói riêng nhằm bảo đảm chất lượng xét xử. Việc bảo đảm các
vấn đề liên quan đến hoạt động, nhất là bảo đảm tài chính cho Tòa án phải
nhất thiết được thực hiện thông qua một cơ chế độc lập để hệ thống Tòa án
tập trung thực hiện đúng đắn, hiệu quả nhất các hoạt động chuyên môn. Cũng
trên tinh thần đó cần phải đầu tư xây dựng đầy đủ trụ sở cho TAND cấp
huyện, trang thiết bị hiện đại, thực sự có tính biểu tượng của quyền lực tư
pháp, là “công đường” của nhà nước. Hội trường xét xử của TAND cấp
huyện, phải có nét đặc thù không thể lẫn lộn với trụ sở của các cơ quan nhà
nước khác. Trụ sở của TAND cấp huyện cần đầy đủ các phòng chức năng:
Hội trường xét xử, phòng nghị án, phòng lấy lời khai của đương sự, phòng
làm việc cho Thẩm phán, Thư ký Tòa án… Hội trường xét xử cần đảm bảo về
diện tích và được bài trí sắp xếp theo quy định: Khu vực làm việc của Hội
đồng xét xử, Kiểm sát viên, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác
được bố trí riêng biệt, hợp lý; nhân dân đến tham dự phiên toà được bố trí ghế
ngồi theo nhu cầu xét xử của từng TAND cấp huyện. Hệ thống trang thiết bị
kỹ thuật của các Tòa án cũng cần được trang bị hiện đại, áp dụng công nghệ
thông tin tiên tiến để cập nhật thông tin, thống kê và công bố thông tin ra công
chúng, bảo đảm tính chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch.
- Chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và các chức
danh khác trong TAND cấp huyện
Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh nhà nước đưa ra phán
80
quyết quyết định đến quyền nhân thân, quyền con người, ảnh hưởng đến lợi
ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Để đảm
bảo thực hiện quyền tư pháp, Tòa án phải độc lập xét xử và ngược lại Tòa án
phải xét xử độc lập mới thực hiện đúng đắn quyền tư pháp mà nhân dân đã
giao phó, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN vững mạnh. Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân và các chức danh khác trong TAND cấp huyện thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của TAND cấp huyện góp phần quan trọng trong
việc giải quyết, xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện,
trừng trị nghiêm minh các hành vi phạm tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Hiện nay mức tiền lương và
phụ cấp của Thẩm phán, công chức khác trong hệ thống TAND nói chung và
của Thẩm phán, công chức khác trong hệ thống TAND cấp huyện nói riêng so
với mức tiền lương của công chức bình thường ở các cơ quan khác chênh lệch
không bao nhiêu, còn thấp, không tương xứng với công việc phải thực hiện.
Chế độ hỗ trợ cho Hội thẩm nhân dân khi nghiên cứu hồ sơ và xét xử còn thấp
90.000 đồng/ngày, một số Hội thẩm nhân dân ở xa, khi tham gia nghiên cứu
hồ sơ không có thêm kinh phí xăng xe.
Từ năm 2004 đến nay, chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với
Thẩm phán và công chức Tòa án đã được cải thiện, tuy nhiên vẫn còn nhiều
vấn đề bất cập, chưa phù hợp với tính chất đặc thù của Tòa án. Mức lương
của Thẩm phán và cán bộ, công chức Tòa án gần giống như mức lương của
cán bộ, công chức hành chính nhà nước. Thẩm phán TAND cấp huyện (Thẩm
phán sơ cấp) có 9 bậc lương, trong đó bậc khởi điểm (bậc 1) có hệ số là 2,34
và bậc cuối cùng (bậc 8) có hệ số là 4,98; khoảng cách giữa các bậc liền kề là
0,33, giống như các ngạch: Chuyên viên, Kiểm tra viên, Thanh tra viên, Kiểm
tra viên hải quan, Kiểm soát viên thuế…Các ngạch Thư ký Tòa án, chuyên
viên và các chức danh công chức khác công tác trong cơ quan Tòa án được
81
xếp lương như các ngạch công chức có cùng trình độ đào tạo trong các cơ
quan hành chính nhà nước. Ngoài ra, được hưởng thêm các phụ cấp đặc thù:
phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thâm niên nghề, bồi dưỡng phiên tòa. Tuy
nhiên, Thẩm phán Tòa án cấp huyện lại được xếp hệ số lương, nhóm ngạch
chức danh ngang bằng với Thư ký Tòa án, chuyên viên và kế toán viên. Mức
phụ cấp trách nhiệm nghề hiện nay đối với Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư
ký Tòa án chưa phù hợp với vị trí, vai trò, trách nhiệm, tính chất lao động
phức tạp, nặng nhọc và đặc thù của các chức danh tư pháp trong hệ thống Tòa
án. Cấp huyện xét xử, giải quyết hầu hết các vụ án trong hệ thống Tòa án,
chịu áp lực nặng nề nhất trong công tác xét xử. Nhiều cán bộ, công chức Tòa
án cấp huyện phải làm thêm ngày thứ 7 trong tuần vẫn không giải quyết kịp
công việc do khối lượng án ngày càng gia tăng, tính chất ngày càng phức tạp.
Nhiều cán bộ, công chức Tòa án suốt nhiều năm không nghỉ phép hoặc chỉ
nghỉ tranh thủ nhưng chưa có kinh phí để thanh toán chế độ không nghỉ phép
do yêu cầu công việc. Trên cơ sở trách nhiệm nặng nề được giao, cần có
chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với Thẩm phán và chức
danh khác trong Tòa án để họ yên tâm công tác và tăng khả năng tự vệ phòng,
chống tiêu cực trong hoạt động xét xử. Cụ thể, cần xây dựng thang bảng
lương riêng đối với Thẩm phán và các công chức có chức danh khác trong hệ
thống TAND nói chung và TAND cấp huyện nói riêng, từng bậc của thang
bảng lương phụ thuộc vào vị trí và thời gian công tác của từng người, bậc
lương tương đương với bậc lương của các ngành công an, quân đội để họ yên
tâm cống hiến cho nghề, trách tình trạng vì khó khăn về kinh tế dẫn đến thoái
hóa về đạo đức, ảnh hưởng đến tính khách quan trong các phán quyết đưa ra.
Bên cạnh đó, cũng cần tăng mức phụ cấp cho Hội thẩm nhân dân để phù hợp
với nhiệm vụ được giao và để họ yên tâm công tác.
Vì vậy, cần có chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
82
và các chức danh khác trong TAND cấp huyện đảm bảo hoạt động xét xử độc
lập, thực hiện đúng đắn quyền tư pháp theo hiến định, góp phần xây dựng nền
tư pháp trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại, bảo vệ công lý đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
3.2.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
3.2.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững
chắc cho hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện
TAND nói chung và TAND cấp huyện nói riêng có cơ cấu tổ chức về
nhân sự và thực hiện hoạt động công tác của mình về tố tụng và nội dung dựa
trên các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, có hiệu lực thi hành.
Pháp luật cũng là yếu tố vô cùng quan trọng trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam hội nhập với
thế giới. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam từ những năm đổi mới
trở lại đây đã có sự phát triển mạnh mẽ, với nhiều thành tựu to lớn. Nhiều
Bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng
hoàn chỉnh hơn để nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, công tác phổ
biến và giáo dục pháp luật ngày càng được tăng cường đáng kể. Bên cạnh
những thành tựu đạt được, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã và đang
bộc lộ những khiếm khuyết, trong đó có vấn đề thiếu tính thống nhất trong
pháp luật cũng như việc chưa dự liệu được nhiều tình huống thực tiễn. Đây
cũng là vấn đề gây rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp
luật khi giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện.
Công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi phải có một
hệ thống pháp luật khoa học, đồng bộ, thống nhất và dự liệu được cơ bản
những quan hệ pháp luật có thể phát sinh trong xã hội. Ngay từ giai đoạn soạn
thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mà trước hết là các đạo luật,
pháp lệnh, tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật
83
đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải được bảo đảm.
Đây phải được coi là một nguyên tắc, một yêu cầu quan trọng trong quy trình
lập pháp, lập quy. Bởi lẽ, việc chỉnh lý những sai sót, những mâu thuẫn của
các dự án, dự thảo đang trong giai đoạn soạn thảo sẽ dễ dàng hơn. Hơn nữa,
việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp
luật sẽ hạn chế tối đa khả năng gây thiệt hại cho nhà nước và xã hội, xâm
phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân do việc cho ra đời những văn
bản quy phạm pháp luật mâu thuẫn lẫn nhau. Đồng thời, các nhà làm luật cần
nghiên cứu, tham khảo các văn bản pháp luật của các nước phát triển trên thế
giới, lấy ý kiến nhân dân để có thể dự liệu được cơ bản những quan hệ pháp
luật có thể phát sinh trong xã hội.
Luật tổ chức TAND, các luật tố tụng hiện hành cũng đã ghi nhận
nguyên tắc độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Nhưng các quy định
đó còn hạn chế về phạm vi, mức độ và tính chất, chưa thể hiện hết nội hàm sự
độc lập của Tòa án và của cá nhân Thẩm phán. Vì vậy, cần có sự thể chế hóa
nguyên tắc độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân để nâng cao hơn nữa
chất lượng hoạt động của TAND cấp huyện. Mặt khác, cần hoàn thiện các
quy định để nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán như quy định về kỷ luật,
quy định về bãi miễn khi Thẩm phán vi phạm phẩm chất đạo đức hoặc năng
lực xét xử yếu, kém. Bởi vì, pháp luật quy định người Thẩm phán độc lập
trong xét xử thì họ cũng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những phán quyết
của mình.
3.2.2.2. Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, thái độ, đạo đức nghề
nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và các chức danh khác trong Tòa án nhân dân
cấp huyện
Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật
này được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử. Thẩm phán là
84
thành phần chủ yếu trong đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống TAND nói
chung và TAND cấp huyện nói riêng, có vai trò chủ yếu trong việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của Tòa án; có vai trò quyết định trong toàn bộ hoạt
động tố tụng tại Tòa án. Các vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND có được
giải quyết, xét xử kịp thời, đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức hay không thì ngoài Thẩm phán,
TAND cấp huyện còn có Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên thi hành án và các
công chức khác. Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có được bảo vệ hay
không, việc xét xử của Tòa án có góp phần vào việc răn đe, phòng ngừa các
hành vi vi phạm pháp luật và có tác dụng trong việc tuyên truyền, giáo dục
pháp luật trong nhân dân hay không, phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên
môn, kỹ năng, thái độ, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và các
chức danh khác trong hệ thống TAND.
Trong những năm qua TAND rất chú trọng tới công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức đảm bảo về chất lượng cũng như số lượng, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ chính trị của hệ thống Tòa án và của các địa phương. Đội
ngũ cán bộ, công chức của hệ thống TAND về cơ bản đã giữ vững và phát
huy được bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, gắn bó
với nhân dân. Nhưng bên cạnh đó một số đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu
về năng lực chuyên môn, thoái hóa về phẩm chất đạo đức; ngân sách của nhà
nước dành cho hoạt động và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hệ thống
TAND còn hạn hẹp. Trong khi đó các quan hệ kinh tế, dân sự, lao động...
ngày càng đa dạng, phức tạp, nhất là những quan hệ có liên quan đến yếu tố
nước ngoài. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ những quan hệ đó đòi
hỏi Thẩm phán phải có trình độ chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ cao. Do
vậy, ngay từ bây giờ phải chăm lo xây dựng đội ngũ Thẩm phán ngày càng
vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, ngang tầm nhiệm vụ trong
85
tình hình mới. Cần kiên quyết hơn nữa trong việc rà soát lại đội ngũ Thẩm
phán và các chức danh khác đấu tranh và xử lý kiên quyết với những hành vi
vi phạm pháp luật của Thẩm phán, làm cho đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án
ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của nhân dân.
Để có được đội ngũ Thẩm phán giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có bản
lĩnh nghề nghiệp cần có cơ sở đào tạo tốt, để tạo điều kiện trang bị mặt bằng
kiến thức chung về chuyên môn, nghiệp vụ cho Thẩm phán, trước hết là
nguồn bổ nhiệm Thẩm phán. Hiện nay đã có thể thực hiện được điều này, Bộ
Chính trị đã đồng ý giao cho TAND tối cao thực hiện việc đào tạo nghiệp vụ
xét xử cho cán bộ, công chức của hệ thống Tòa án, tiến tới đào tạo cử nhân
chuyên ngành và đào tạo bậc trên đại học. Đây chính là tiền đề quan trọng để
hệ thống TAND từng bước nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh
nghiệm xét xử, bản lĩnh chính trị cho đội ngũ Thẩm phán. Bên cạnh đó,
TAND tối cao đã triển khai thực hiện Đề án nâng cao năng lực và quy mô của
Trường cán bộ Tòa án, trong đó tập trung củng cố Hội đồng Trường, tăng
cường đội ngũ giảng viên, đầu tư cơ sở vật chất, các trang thiết bị cho Trường
và nghiên cứu đổi mới giáo trình, tài liệu, phương pháp giảng dạy để đáp ứng
yêu cầu công tác đào tạo, tập huấn cán bộ trong tình hình hiện nay; đồng thời
xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hệ thống TAND
đến năm 2020 với nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp
vụ, trình độ quản lý, kỹ năng thực hiện công tác dân vận, ngoại ngữ, tin học.
Mặt khác, Chánh án TAND tỉnh Quảng Ngãi thường xuyên tổ chức các lớp
bồi dưỡng, tập huấn theo định kỳ hoặc đột xuất về chuyên môn nghiệp vụ cho
các cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ, công
chức cần tự nổ lực nghiên cứu, học hỏi các tài liệu, trao đổi chuyên môn,
nghiệp vụ, rèn luyện bản lĩnh nghề nghiệp để hoàn thành tốt nhiệm vụ công
tác được giao.
86
Để nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm trong
công tác cho cán bộ, công chức Tòa án các cấp, nhất là đội ngũ Thẩm phán,
cần tăng cường giáo dục về chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án
như quán triệt kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước, xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế về tăng cường kỷ luật
công vụ, thực hiện thanh tra, kiểm tra gắn với thực hiện chế độ khen thưởng,
kỷ luật; tăng cường công tác quản lý cán bộ, công chức để phát hiện, ngăn
chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm của tập thể, cá nhân.
Trình độ chuyên môn, kỹ năng, thái độ, đạo đức nghề nghiệp của đội
ngũ Thẩm phán và các chức danh khác trong TAND cấp huyện được tốt thì
chất lượng trong hoạt động của TAND sẽ được nâng cao, góp phần bảo đảm
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
3.2.2.3. Nâng cao năng lực của Hội thẩm nhân dân
Để quá trình xét xử vụ án được công bằng, đúng người, đúng tội, người
tham gia tố tụng được thể hiện ý kiến của mình trong quá trình xét xử, thì một
trong những nguyên tắc quan trọng là phiên tòa ở Tòa án cấp sơ thẩm đều
phải có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Tại các phiên tòa sơ thẩm, số
lượng Hội thẩm nhân dân trong thành phần Hội đồng xét xử đều nhiều hơn số
lượng Thẩm phán, khi quyết định những vấn đề trong bản án các thành viên
Hội đồng xét xử biểu quyết và quyết định theo đa số. Qua đó, chúng ta thấy
được vai trò của Hội thẩm nhân dân khi xét hỏi tại phiên tòa, cũng như trong
quá trình nghị án là hết sức quan trọng. Vấn đề này đã được quy định rất chặt
chẽ trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2015.
Qua quá trình đánh giá chất lượng xét xử của Hội thẩm nhân dân tại các
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, bên cạnh những ưu điểm còn
87
có một số hạn chế, vướng mắc nhất định như Hội thẩm nhân dân tham gia xét
xử nhưng chưa phát huy hết vai trò của mình, Hội thẩm nhân dân ít tham gia
nghiên cứu hồ sơ vụ án, chưa hiểu kỹ được nội dung vụ án, dễ dẫn đến khi xét
xử đưa ra phán quyết không đúng với thực tế nội dung vụ án, không đảm bảo
được quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.
Hội thẩm mặc dù có trình độ chuyên môn riêng nhưng còn hạn chế về
trình độ pháp lý. Cơ quan có liên quan cần phối hợp tốt hơn với TAND cấp
huyện trong công tác tập huấn, bồi dưỡng cho Hội thẩm, đặc biệt là tập huấn
các văn bản pháp luật hoặc văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật mới; tổ
chức rút kinh nghiệm trong xét xử một số loại vụ án đặc thù. Hằng năm, cần
quan tâm đầu tư kinh phí để bồi dưỡng nâng cao trình độ pháp lý cho đội ngũ
Hội thẩm. Ngoài ra, cần phải có cơ chế trách nhiệm đối với Hội thẩm khi
tham gia xét xử, cùng ban hành các bản án, quyết định để Hội thẩm phát huy
hết năng lực và trách nhiệm của mình. Nếu Hội thẩm nào có nhiều bản án bị
hủy, sửa, vi phạm các vấn đề đạo đức nghề nghiệp hoặc thiếu tinh thần trách
nhiệm đối với hoạt động xét xử thì cần xem xét có các hình thức miễn nhiệm, bãi
nhiệm và các chế tài xử lý khác.
Trong điều kiện nhà nước ta đang xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền XHCN, thì vấn đề nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án nhất là
quá trình áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án cấp huyện cần
được quan tâm. Hội thẩm nhân dân khi tham gia các phiên tòa phải thể hiện rõ
vai trò và trách nhiệm của mình, vì vậy cần có giải pháp để nâng cao chất
lượng Hội thẩm, đồng thời chính bản thân Hội thẩm cũng cần thấy rõ trách
nhiệm của mình trong vấn đề nâng cao năng lực xét xử của bản thân.
3.3. Kiến nghị, đề xuất
3.3.1. Đối với Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay đang gặp khó
88
khăn lớn về mặt nhân lực, bởi có TAND cấp huyện thì số lượng vụ việc hàng
năm phải giải quyết rất ít như TAND huyện Lý Sơn, Sơn Tây, Tây Trà, Trà
Bồng với tổng số lượng vụ việc phải giải quyết trên tất cả các lĩnh vực từng
năm chưa đến 50 vụ việc, tức là giải quyết của mỗi Thẩm phán, Thư ký Tòa
án có khi chưa tới 10 vụ/năm (TAND Tây Trà mỗi Thẩm phán giải quyết
trung bình 7,5 vụ việc/năm trong năm 2016) nhưng vẫn được phân bổ số
lượng nhân sự đầy đủ các chức danh quản lý Chánh án, Phó chánh án và
Thẩm phán, Thư ký Tòa án, chức danh khác làm nhiệm vụ kế toán, văn
phòng. Ở những TAND cấp huyện này Thẩm phán, Thư ký Tòa án sẽ khó có
cơ hội nâng cao kinh nghiệm chuyên môn, rèn luyện năng lực khi có quá ít vụ
việc để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong khi đó, ở một số
TAND cấp huyện khác thì số lượng vụ việc phải giải quyết hàng năm lớn,
mỗi Thẩm phán, Thư ký Tòa án giải quyết số lượng vụ việc lên đến hơn 115
vụ việc/năm như TAND thành phố Quảng Ngãi, Bình Sơn thì lại gánh số
lượng công việc quá tải. Để giải quyết số lượng công việc nhiều như vậy,
Thẩm phán, Thư ký Tòa án nhiều khi phải làm thêm ngoài giờ hành chính,
thậm chí làm cả vào ngày nghĩ như thứ 7, chủ nhật nhưng không được hưởng
chế độ phù hợp. Vì vậy, TAND tối cao, TAND cấp tỉnh cần phân bổ số lượng
Thẩm phán, Thư ký Tòa án hợp lý, theo số lượng án của từng TAND cấp
huyện nhưng trừ các chức danh quản lý ra. Đồng thời, có sự biệt phái, luân
chuyển cán bộ, công chức giữa các TAND cấp huyện để cán bộ, công chức có
điều kiện tiếp xúc, va chạm giải quyết các vụ việc với nhiều đặc điểm khác
nhau theo điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội của từng địa phương, qua đó trau
dồi thêm kiến thức xã hội, kinh nghiệm nghề nghiệp.
Việc tổ chức các Tòa chuyên trách ở các TAND huyện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi có đủ điều kiện theo quy định tại Thông tư số 01/2016/TT-CA
ngày 21 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao về quy định việc tổ
89
chức các Tòa chuyên trách tại Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và
tương đương là cần thiết. Chánh án TAND tỉnh Quảng Ngãi căn cứ vào các
điều kiện tổ chức Tòa chuyên trách, rà soát, đánh giá nhu cầu tổ chức Tòa
chuyên trách tại các TAND huyện trên địa bàn, rà soát về biên chế Thẩm
phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án hiện có, xây dựng hồ sơ đề nghị tổ chức
Tòa chuyên trách tại các TAND huyện gửi cho TAND tối cao xem xét, quyết
định. Trong đề án tổ chức Tòa chuyên trách tại các TAND huyện, TAND tỉnh
Quảng Ngãi cần nêu rõ sự cần thiết tổ chức Tòa chuyên trách, cơ sở của việc
đề xuất, số lượng Tòa chuyên trách cần tổ chức, tên các Tòa chuyên trách, cơ
cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, phương án tổ chức nhân sự và đề xuất về
biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án của từng Tòa chuyên
trách.
Việc nâng cao năng lực xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân của
TAND cấp huyện tại địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cũng cần được TAND cấp trên
quan tâm, trước mắt là nguồn bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp. Đồng thời, có kế
hoạch và thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn theo định kỳ hoặc
đột xuất về chuyên môn nghiệp vụ cho các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân để
phán xét của TAND cấp huyện công bằng, đúng pháp luật đảm bảo công lý
được thực thi; đồng thời xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế về tăng
cường kỷ luật, kỷ cương công vụ, thực hiện thanh tra, kiểm tra gắn với thực
hiện chế độ khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động của TAND cấp huyện.
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cũng cần được TAND
tối cao, TAND tỉnh Quảng Ngãi quan tâm xây mới hoặc tu sửa đối với trụ sở
những TAND cấp huyện đã xuống cấp trầm trọng, trang bị cơ sở vật chất,
thiết bị kỹ thuật cần cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ giải quyết, xét
xử những vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện.
90
Thừa phát lại là chế định đang được thực hiện thí điểm ở một số địa
phương, tiêu biểu là thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, người có các tiêu
chuẩn, được nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để làm các công việc liên quan
đến hoạt động của Tòa án là tống đạt theo yêu cầu của Tòa án. Tống đạt là
hoạt động quan trọng ảnh hưởng đến tính hợp pháp trong quá trình giải quyết
các vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện, nhưng hoạt động này
chiếm rất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến thời gian làm các công việc chuyên
môn khác và tiến độ giải quyết án. Vì vậy, TAND tối cao, TAND tỉnh quảng
Ngãi cần quan tâm hơn đến vấn đề này, có thể áp dụng tại một số TAND cấp
huyện có nhiều công việc, số lượng án nhiều. Nếu áp dụng chế định này,
Thẩm phán và Thư ký Tòa án có thời gian để nghiên cứu chuyên môn và thực
hiện các công việc khác.
TAND tối cao cần xây dựng kế hoạch về cải thiện chế độ tiền lương,
phụ cấp đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án để phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ đặc trưng mà họ phải thực hiện. Cụ thể, xây dựng
thang bảng lương riêng của cán bộ, công chức hệ thống TAND đề nghị Quốc
hội thông qua nhằm cải thiện đời sống của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thư ký Tòa án, tránh những hành vi suy thoái đạo đức của cán bộ, công chức
Tòa án nói chung và TAND cấp huyện nói riêng. Ngoài ra, quy định chế độ
bảo đảm an ninh đối với Thẩm phán và gia đình họ trong trường hợp thi hành
công vụ cũng là vấn đề TAND tối cao cần quan tâm để Thẩm phán an tâm
công tác.
3.3.2. Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện
TAND cấp huyện là cơ quan giải quyết sơ thẩm hầu hết các vụ việc
thuộc thẩm quyền của Tòa án. Vì vậy, chính bản thân cán bộ, công chức
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần có những nỗ lực để bảo
đảm chất lượng của hoạt động xét xử trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
91
quyền XHCN Việt Nam hiện nay, cụ thể:
Lãnh đạo TAND cấp huyện cần đề nghị TAND cấp trên bố trí số lượng
nhân sự hợp lý, phù hợp với số lượng vụ việc phải quyết để bảo đảm hoạt
động của đơn vị.
Thẩm phán, Thư ký Tòa án và các công chức có chức danh khác của
TAND cấp huyện cần nhận thức được vai trò của việc bảo đảm tổ chức và
hoạt động của TAND cấp huyện trong điều kiên xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN hiện nay. Họ cần hiểu rõ công việc giải quyết, xét xử nhằm
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân. Khi nhận thức được trách nhiệm của mình thì công chức
Toa án mới thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ xét xử và thực hiện quyền tư
pháp được trao.
Lãnh đạo TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần tạo điều
kiện để Thẩm phán, Thư ký Toà án, Hội thẩm nhân dân đơn vị mình nâng cao
năng lực, tạo điều kiện tối đa về cơ sở vật chất, tài liệu, trang thiết bị kỹ thuật
để hỗ trợ cho quá trình công tác nhằm giúp họ phát huy tối đa năng lực, bản
lĩnh nghề nghiệp của mình trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
TAND cấp huyện. Đồng thời, tạo điều kiện về thời gian để Thẩm phán, Thư
ký Tòa án tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, nghiên cứu tài liệu để phục
vụ cho quá trình công tác.
TAND cấp huyện cần triển khai và tổ chức thực hiện chủ trương của
Đảng, văn bản pháp luật mới, tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh tới
toàn công chức trong đơn vị. Bên cạnh đó, TAND cấp huyện cần có cơ chế
giám sát, kiểm tra quá trình thực hiện công việc của công chức trong đơn vị
mình để kịp thời phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật của công chức
trong đơn vị. Mặt khác, TAND cấp huyện cần có chế độ khen thưởng phù hợp
92
đối với những cá nhân có thành tích vượt bậc.
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay hầu hết đều
hoạt động theo cơ chế mọi hướng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền
đều có ý kiến của Chánh án hoặc cấp ủy TAND cấp huyện đó, điều này ảnh
hưởng tới nguyên tắc độc lập của Thẩm phán, Hội đồng xét xử được quy định
tại Hiến pháp và Luật Tổ chức TAND. TAND cấp huyện cần khắc phục cơ
chế hoạt động này. Theo đó, mọi quyết định về việc giải quyết vụ việc đã giao
cho Thẩm phán đều do Thẩm phán độc lập giải quyết, mọi bản án, quyết định
tại phiên tòa đều do Hội đồng xét xử quyết định, không có bất kỳ một tác
động nào có thể ảnh hưởng đến quyết định của Hội đồng xét xử. Có như vậy,
việc xét xử theo quy định pháp luật mới được thực hiện một cách triệt để, như
tinh thần của các Nghị quyết của Đảng và đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN của nước ta.
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần nghiên cứu thành
lập bộ phận chuyên trách tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người dân và thực hiện việc tiếp nhận xử lý đơn theo
quy định của pháp luật. Bởi trong thực tiễn việc tiếp nhận, xử lý đơn tại các
TAND cấp huyện thường được tiến hành sơ sài, không thực hiện đúng quy
định tố tụng về trình tự và thời gian tố tụng, gây phiền hà và bức xúc cho
người dân. Nếu bộ phận chuyên trách này được thành lập và thực hiện đúng
các quy định tố tụng sẽ thuận lợi cho việc nộp đơn của công dân; giúp TAND
thụ lý đúng vụ việc tránh trường hợp thụ lý không đúng quy định dẫn đến việc
giải quyết án tồn đọng, kéo dài.
Chánh án của các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần
chuẩn bị nhân lực, vật lực cho việc thành lập các Tòa chuyên trách nếu đủ
điều kiện theo quy định. Ngay từ bây giờ, Chánh án TAND cấp huyện xem
xét, phân công án cho Thẩm phán theo hướng chuyên trách để thuận lợi cho
93
việc nghiên cứu tài liệu, văn bản pháp luật chặt chẽ, để đến khi Tòa chuyên
trách chính thức được tổ chức, TAND cấp huyện sẽ không bị động.
Lãnh đạo của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần phối
hợp với cơ quan, đơn vị có công chức, viên chức là Hội thẩm nhân dân của
Tòa án mình để đề nghị các cơ quan, đơn vị này tạo điều kiện cho Hội thẩm
có thời gian nghiên cứu hồ sơ và tham gia xét xử, tránh trường hợp vì thực
hiện nhiệm vụ công tác tại đơn vị mà không thể nghiên cứu hồ sơ được, ảnh
hưởng đến chất lượng trong quá trình xét xử, hoặc không tham gia xét xử
được ảnh hưởng đến hoạt động của TAND cấp huyện.
94
Tiểu kết chương 3
Từ kết quả phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ở chương 2, trong chương
này, tác giả nêu quan điểm về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và đề xuất một
số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của
TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi như: tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật; thành lập các Tòa chuyên trách; thành lập bộ phận tiếp dân,
tiếp nhận và xử lý đơn; nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, thái độ, đạo
đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và các chức danh khác trong TAND
cấp huyện; nâng cao năng lực của Hội thẩm; trang bị cơ sở vật chất hiện đại;
tăng chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác
trong TAND cấp huyện. Đây là những giải pháp có mối quan hệ mật thiết với
nhau, đòi hỏi phải thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất. Thông qua đó, tác
giả mong muốn chất lượng hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi được nâng lên, đáp ứng nguyện vọng của người dân.
95
KẾT LUẬN
Nhà nước pháp quyền XHCN đã, đang và tiếp tục được xây dựng, hoàn
thiện ở nước ta. Điều này đã được thể chế hóa trong văn bản pháp luật có hiệu
lực cao nhất là Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Hiến
pháp năm 2013. Các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đóng vai trò hết sức
quan trọng và cần thiết trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam, trong đó có hệ thống Tòa án nói chung, TAND cấp huyện nói
riêng. Cùng với quyền hạn, nhiệm vụ của mình TAND cần có cơ cấu tổ chức
và phương thức hoạt động phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Hiện nay, tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi còn nhiều hạn chế, vướng mắc phải khắc phục, do đó cần được
các cấp ủy Đảng và nhà nước quan tâm nhằm bảo đảm chất lượng hoạt động
của TAND cấp huyện trong việc giải quyết số lượng án ngày càng tăng. Đó là
những hạn chế về văn bản pháp luật, về biên chế công chức, về phương thức
hoạt động, năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm trong quá trình giải quyết công
việc, về cơ sở vật chất, về áp dụng công nghệ thông tin trong công việc, về
kinh phí hoạt động... Điều này đã thúc đẩy cần có các giải pháp đồng bộ để
giải quyết triệt để các vấn đề trên. Trong đó, trọng tâm là hoạt động của
TAND cấp huyện thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong điều kiện xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Và để thực hiện tốt các
nhiệm vụ trên, công chức của TAND cấp huyện cần nhận thức rõ quyền hạn,
trách nhiệm để thực hiện tốt nhiệm vụ chung của TAND. Trên cơ sở quyền
hạn, trách nhiệm đó, công chức TAND cấp huyện khi thực hiện công việc
phải khách quan, công tâm, đáp ứng được nguyện vọng của Đảng, nhà nước
96
và Nhân dân. Chỉ khi TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có
những công chức có năng lực chuyên môn cao, có bản lĩnh chính trị vững
vàng thì mới có thể đưa ra những phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, TAND cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi phải tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách
thức trong quá trình hoạt động của mình khi mà tình hình kinh tế - xã hội trên
địa bàn ngày càng chuyển biến phức tạp. Khi điều kiện chưa khắc phục những
hạn chế, vướng mắc trong hoạt động, TAND cấp huyện cần tự mình quán triệt
và đề xuất những giải pháp thiết thực lên cấp có thẩm quyền xem xét, giải
quyết, giúp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để chất lượng hoạt động xét
xử ngày càng được nâng cao, xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng, nhà nước
và nhân dân, là nơi thực hiện công lý trong xã hội, góp phần quan trọng trong
quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
97
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79 - KL/TW ngày 28/7/2010 về Đề
án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và cơ
quan điều tra theo Nghị quyết 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
2. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về tiếp
tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
3. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về
“một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt nam đến
năm 2010, định hướng năm 2020.
5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ- TW ngày 02/06/2005 về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
6. Bộ trưởng Bộ Tư pháp (1946), Sắc lệnh số 22B-SL ngày 18 tháng
02 năm 1946 để quyền tư pháp cho Uỷ ban hành chính ở những nơi
chưa đặt được Tòa án biệt lập.
7. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (2008), Quyết định số 1138/QĐ-
TCCB ngày 22 tháng 8 năm 2008 về phân cấp quản lý cán bộ Tòa
án nhân dân địa phương.
8. Chính phủ (2003), Nghị định số 145/2003/NĐ-CP ngày 01 tháng 12
năm 2003 về việc thành lập huyện Tây Trà; mở rộng thị trấn, thành
lập xã và đổi tên xã thuộc các huyện Bình Sơn, Lý Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi.
9. Chính phủ (2005), Nghị định 112/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 8
năm 2005 về việc thành lập thành phố Quảng Ngãi thuộc tỉnh
Quảng Ngãi.
10. Chính phủ (2013), Nghị quyết số 123/NQ-CP ngày 12 tháng 12
năm 2013 về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Sơn Tịnh,
huyện Tư Nghĩa để mở rộng địa giới hành chính thành phố Quảng
Ngãi và thành lập phường Trương Quang Trọng thuộc thành phố
Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
11. Chủ tịch Chính phủ lâm thời (1945), Sắc lệnh số 33C ngày 13
tháng 9 năm 1945.
12. Chủ tịch Chính phủ lâm thời (1945), Sắc lệnh số 37/SL ngày 25
tháng 9 năm 1945 về việc ấn định địa phương thẩm quyền của các
Tòa án quân sự.
13. Chủ tịch Chính phủ (1946), Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 01 năm
1946.
14. Chủ tịch Chính phủ (1946), Sắc lệnh số 51 ngày 17 tháng 4 năm
1946.
15. Chủ tịch Chính phủ (1947), Sắc lệnh số 19/SL ngày 16 tháng 02
năm 1947.
16. Chủ tịch Chính phủ (1947), Sắc lệnh số 59/SL ngày 05 tháng 7 năm
1947.
17. Chủ tịch Chính phủ (1948), Sắc lệnh số 185/SL ngày 26 tháng 5
năm 1948.
18. Chủ tịch nước (1950), Sắc lệnh số 85/SL ngày 22 tháng 5 năm
1950.
19. Chủ tịch nước (1950), Sắc lệnh số 158/SL ngày 17 tháng 11 năm
1950.
20. Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội.
21. Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Lí luận Nhà nước và pháp
luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Lý
luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Lý luận chính trị, Hà
Nội.
24. Học viện Hành chính Quốc gia (2007), Giáo trình Lý luận chung
về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
25. Huy Khiên (2016), Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong những năm đổi mới, Tạp chí điện
tử Cộng sản điện tử, (ngày 15/8/2016).
26. Nguyễn Huyền Ly (2012), Vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp
quyền Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội.
27. Nguyễn Thanh Tuấn (2015), Đảm bảo công lý trong thể chế pháp
quyền, Tạp chí điện tử Tổ chức Nhà nước, (24/3/2015).
28. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb. Chính trị Quốc gia –
sự thật, Hà Nội.
29. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
30. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
31. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung
năm 2009, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Quốc hội (2013), Luật đất đai, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
33. Quốc hội (1988), Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân năm 1981, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Quốc hội (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất
đai năm 2003, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Quốc hội (1993), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 1992, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Quốc hội (1995), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 1993, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Quốc hội (1960), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
38. Quốc hội (1981), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
39. Quốc hội (1992), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
40. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
41. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị
Quốc gia – sự thật, Hà Nội.
42. Quốc hội (2010), Luật tố tụng hành chính, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
43. Quốc hội (2015), Luật tố tụng hành chính, Nxb. Chính trị Quốc gia
– sự thật, Hà Nội.
44. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
45. Quốc hội (1959), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
46. Quốc hội (1980), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
47. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
48. Quốc hội (2001), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
49. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
50. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Thông tư 01/2016/TT-CA ngày 21
tháng 01 năm 2016 quy định việc tổ chức các Tòa chuyên trách tại
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
51. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2012), Báo cáo tổng kết của Toà
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.
52. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2013), Báo cáo tổng kết của Toà
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.
53. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2014), Báo cáo tổng kết của Toà
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.
54. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2015), Báo cáo tổng kết của Toà
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.
55. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2016), Báo cáo tổng kết của Toà
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.
56. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 41/2012/QĐ-TTG ngày
05 tháng 10 năm 2012 về chế độ bồi dưỡng với người tham gia
phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự.
57. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Lí luận Nhà nước
và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
58. Trương Hòa Bình (2014), Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân, tương xứng với chức năng, nhiệm
vụ: Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, Báo điện tử Công lý,
(05/4/2014).
59. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2014), Nghị quyết số
719/2014/UBTVQH 13 ngày 06 tháng 01 năm 2014 hướng dẫn thực
hiện khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28/11/2013
của Quốc hội quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
60. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1961), Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ
chức của Tòa án nhân dân tối cao và tổ chức các Tòa án nhân dân
địa phương, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
61. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân
sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
62. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội
thẩm Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
63. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội
thẩm Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
64. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2011), Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung
một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân
dân năm 2002, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.