BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ VĂN VƯƠNG

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU

XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ VĂN VƯƠNG

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU

XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 60 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN QUANG VỸ

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng

tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Quang Vỹ. Các số liệu và

kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất

kỳ công trình nào khác. Các số liệu trích dẫn trong quá trình nghiên cứu đều

được ghi rõ nguồn gốc. Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn

chịu trách nhiệm về đề tài của mình.

Thừa Thiên Huế, ngày 23 tháng 7 năm 2017

Học viên

Lê Văn Vương

LỜI CẢM ƠN

Luận văn được hoàn thành là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu

lý luận và tích lũy kinh nghiệm thực tế của tác giả. Trước hết, cho phép tôi

được gửi tới Ban giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia; các thầy, cô giáo

Khoa sau đại học trường Học viện Hành chính Quốc gia lời chúc sức khỏe và

lời cảm ơn chân thành. Những kiến thức mà các thầy, cô giáo đã truyền đạt

trong quá trình học tập vô cùng hữu ích đối với tôi trong học tập, công tác và

trong đời sống; đặc biệt là trong quá trình tôi thực hiện luận văn.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc đến TS. Nguyễn

Quang Vỹ - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ và động viên tôi

trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.

Luận văn của tôi chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định.

Tôi rất mong nhận được sự đánh giá và góp ý của quý thầy, cô trong Hội đồng

đánh giá luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật

Hành chính – Học viện Hành chính Quốc gia để tôi tiếp tục hoàn thiện tốt hơn

luận văn của mình.

Xin trân trọng cảm ơn!

Quảng Ngãi, ngày 23 tháng 7 năm 2017

Học viên

Lê Văn Vương

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn .................................................................. 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ...................................... 3

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn .............................................................. 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ............................................ 4

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ....................... 5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ...................................................... 6

7. Kết cấu của luận văn ...................................................................................... 6

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN

NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC

PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ............................................ 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm của Tòa án nhân dân cấp huyện ................................ 7

1.1.1. Khái niệm về Tòa án nhân dân cấp huyện ........................................... 7

1.1.2. Đặc điểm của Tòa án nhân dân cấp huyện ........................................... 8

1.2. Vị trí, vai trò, chức năng của Tòa án nhân dân cấp huyện trong bộ máy

nhà nước ........................................................................................................... 11

1.3. Nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện .......................... 14

1.4. Cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện ..................... 15

1.4.1. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện ................................ 15

1.4.2. Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện ....................................... 17

1.5. Nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân ................ 19

1.5.1. Nguyên tắc tổ chức của Tòa án nhân dân .......................................... 19

1.5.2. Nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân ...................................... 23

1.6. Nhà nước pháp quyền và yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện30

1.6.1. Nhà nước pháp quyền ........................................................................ 30

1.6.2. Yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với

tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện................................. 33

Tiểu kết chương 1 ................................................................................................. 38

Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN

NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI .............. 39

2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện từ năm

1945 đến năm 2013 .......................................................................................... 39

2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 ............................................... 39

2.1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980 ............................................... 45

2.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 ............................................... 47

2.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002 ............................................... 49

2.1.5. Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2013 ............................................... 50

2.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi ...................................................................................................... 53

2.2.1. Tình hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện ...... 53

2.2.2. Đánh giá về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện

trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ................................................................ 59

Tiểu kết chương 2 ................................................................................................. 71

Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC, BẢO ĐẢM

HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH QUẢNG NGÃI .......................................................................................... 72

3.1. Quan điểm về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện đáp

ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ...... 72

3.1.1. Về quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng ................... 73

3.1.2. Về thẩm quyền xét xử và công tác nhân sự ....................................... 74

3.1.3. Về điều kiện cơ sở vật chất ................................................................ 75

3.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức, bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp huyện đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam .......................................................................................................... 76

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện76

3.2.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện ......... 83

3.3. Kiến nghị, đề xuất ..................................................................................... 88

3.3.1. Đối với Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh ............. 88

3.3.2. Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện .................................................. 91

Tiểu kết chương 3 ................................................................................................. 95

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 96

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng

định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [49, tr.8],

“quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát

giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

pháp, tư pháp” [49, tr.9] và “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [49, tr.54-55].

Trong các giai đoạn lịch sử của nước ta, Tòa án đã không ngừng được xây

dựng, củng cố, hoàn thiện và góp phần vào nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ

quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi

ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong

giai đoạn hiện nay ở nước ta là yếu tố tất yếu lịch sử khách quan. Với những

đặc trưng của mình để hoàn thành mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền

XHCN, Đảng và nhà nước ta phải huy động sức mạnh tập thể chung của toàn

dân tộc, đặc biệt cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là yếu tố

chủ chốt trong quá trình thực hiện. Trong đó các cơ quan tư pháp thuộc nhánh

quyền lực quan trọng của nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

người dân, bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội.

Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “Một

số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết số

49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020”, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/07/2010 của Bộ Chính

trị, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục thực

hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khoá IX về

1

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ XI xác định việc tổ chức và hoạt động của Tòa án cần hoàn thiện

đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và tiến trình cải cách

tư pháp. Trong đó nhấn mạnh: kiện toàn tổ chức và cán bộ, nghiên cứu tăng

thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện theo hướng việc xét xử sơ

thẩm được thực hiện chủ yếu ở Toà án cấp này. Tòa án nhân dân (TAND) cấp

huyện chiếm số lượng lớn nhất và có vị trí rất quan trọng trong hệ thống

TAND, vì vậy việc tổ chức và hoạt động như thế nào, hiệu quả ra sao nhằm

nâng cao vị trí và thực hiện tốt vai trò của TAND cấp huyện cũng như đáp

ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là vấn đề được Đảng, nhà

nước và nhân dân ta vô cùng quan tâm; đặc biệt trong điều kiện xây dựng:

“Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của

Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [49, tr.8].

Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của TAND nói chung và TAND cấp

huyện nói riêng trong thời gian qua cũng đặt ra những vấn đề cần giải quyết

có tính khoa học cả về mặt lý luận và thực tiễn. Cụ thể, về thành lập các Tòa

chuyên trách tại TAND cấp huyện; vấn đề đổi mới việc tranh tụng tại phiên

tòa; về thủ tục rút gọn quy định trong tố tụng dân sự; về cải cách thủ tục hành

chính tư pháp... Vì vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND các cấp nói

chung, của TAND cấp huyện nói riêng có ý nghĩa quan trọng nhằm đáp ứng

yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Đề tài luận văn cao học: “Tổ

chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đáp

ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” sẽ

góp phần nghiên cứu toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn tổ chức và

hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, góp phần nâng

cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của TAND nói chung, TAND cấp huyện nói

riêng, đảm bảo công bằng, dân chủ, pháp chế XHCN ở nước ta.

2

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình khoa học nghiên

cứu, các bài viết về tổ chức và hoạt động của TAND các cấp. Trong điều kiện

của bản thân, học viên đã tham khảo các tài liệu sau:

- Luận văn Thạc sĩ “Vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp quyền

Việt Nam” của tác giả Nguyễn Huyền Ly, năm 2012.

- Bài viết “Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa

án nhân dân, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ: Tòa án là cơ quan xét xử

của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” của tác giả

Trương Hòa Bình – Bí thư Trương Đảng, Chánh án TAND tối cao, được đăng

trên Báo điện tử Công lý, (ngày 05/4/2014).

- Bài viết “Đảm bảo công lý trong thể chế pháp quyền” của Nguyễn

Thanh Tuấn - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, được đăng trên Tạp

chí điện tử Tổ chức Nhà nước, (ngày 24/3/2015).

- Bài viết “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt

Nam trong những năm đổi mới” của Huy Khiên, được đăng trên Tạp chí điện

tử Cộng sản, (ngày 15/8/2016).

Các công trình, bài viết nêu trên, ở chừng mực nhất định đã góp phần

làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của

TAND các cấp. Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào ở

cấp độ Thạc sĩ nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện đáp

ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nên việc

nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn

tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam” không trùng lặp với bất kỳ đề tài nào trước đây và là đề tài có tính lý

luận, thực tiễn cao trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN

hiện nay.

3

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

- Mục đích:

Mục đích của Luận văn là làm sáng tỏ vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức

và hoạt động của TAND cấp huyện trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam; đánh giá một cách có căn cứ và khoa học về thực

trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu

quả tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi,

đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Nhiệm vụ:

Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn đặt ra các nhiệm vụ

nghiên cứu sau:

+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động TAND trong điều

kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

+ Phân tích, đánh giá thực trạng về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt

động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi; đánh giá những

thành công, đặc biệt tìm ra những bất cập, vướng mắc trong tổ chức và hoạt

động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

+ Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại,

vướng mắc để hoàn thiện cơ cấu tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của

TAND cấp huyện nói chung và TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi nói riêng đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu:

Luận văn tiếp cận, nghiên cứu các vấn đề sau:

+ Các công trình khoa học, tài liệu có nội dung liên quan đến tổ chức

4

và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu

cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam;

+ Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện;

+ Thực tiễn tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn

tỉnh Quảng Ngãi hiện nay.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Về không gian: Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của các TAND

cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

+ Về thời gian: Đề tài lấy số liệu nghiên cứu trong thời gian từ năm

2012 đến năm 2016.

+ Về nội dung: Đề tài đi vào nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt

động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, yêu cầu xây dựng

nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay; một số vấn đề liên quan đến

tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện từ đó đưa ra một số giải pháp và

kiến nghị nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

- Phương pháp luận:

Luận văn được xây dựng dựa trên hệ thống quan điểm lý luận của chủ

nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng,

quan điểm của các nhà khoa học về đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND

cấp huyện trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Phương pháp nghiên cứu:

Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, Luận văn sử dụng các phương pháp

chủ yếu sau: Phương pháp phân tích tài liệu, thu thập và xử lý thông tin, so

sánh, thống kê, tổng hợp, sử dụng phương pháp phân tích định tính để từ đó

phân tích định lượng làm rõ những kết quả đạt được.

5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Ý nghĩa lý luận:

Đề tài luận văn sẽ hệ thống hóa cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động

của TAND cấp huyện để có cái nhìn tổng thể, cụ thể về cơ cấu tổ chức và

phương thức hoạt động của TAND cấp huyện, từ đó làm rõ những điểm phù

hợp, cũng như hạn chế, chưa phù hợp cần hoàn thiện trong điều kiện xây

dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Ý nghĩa thực tiễn:

Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quan điểm lý luận và thực trạng tổ

chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Luận

văn xây dựng hệ thống quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện

cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn

tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

chính của Luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện

trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên

địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt

động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

6

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN

NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ

NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, đặc điểm của Tòa án nhân dân cấp huyện

1.1.1. Khái niệm về Tòa án nhân dân cấp huyện

Bộ máy nhà nước của mỗi quốc gia có thể được tổ chức khác nhau

nhưng về cơ bản chúng có ba bộ phận hợp thành, gồm: hệ thống cơ quan

quyền lực nhà nước, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước và hệ thống cơ quan

tư pháp có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau để thực hiện chức năng của nhà

nước. Mỗi hệ thống này có cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn

xác định để tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước dưới dạng quyền lập

pháp, hành pháp và tư pháp. Trên phương diện tổ chức thực hiện quyền lực

nhà nước, tư pháp là một nhánh quyền lực độc lập với quyền lập pháp, quyền

hành pháp. Trong hệ thống cơ quan tư pháp, Tòa án có vị trí trung tâm thực

hiện chức năng xét xử bảo vệ các giá trị mà xã hội ghi nhận.

Ở nước ta, bộ máy nhà nước được tổ chức theo kiểu nhà nước XHCN

có bản chất khác với bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột (nhà nước chủ

nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản), nhiệm vụ của nhà nước XHCN là

thực hiện dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện

công bằng xã hội. “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối

hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập

pháp, hành pháp, tư pháp” [49, tr.9]. Qua đó cho thấy ở Việt Nam quyền tư

pháp luôn gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và hành pháp trong tổng thể

của quyền lực nhà nước. Trong khi hoạt động chủ yếu của cơ quan lập pháp là

ban hành hiến pháp, pháp luật; của cơ quan hành pháp là tổ chức thực hiện

pháp luật để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trong giới hạn mà pháp

7

luật quy định. Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, hiện tượng

xâm phạm hiến pháp và pháp luật luôn là một nguy cơ trong đời sống xã hội.

Để bảo vệ pháp luật, khôi phục trật tự pháp luật bị xâm phạm là một đòi hỏi

khách quan của xã hội, từ đó hình thành nên hoạt động bảo vệ pháp luật là nội

dung cơ bản của quyền tư pháp.

Hoạt động xét xử của Tòa án là lĩnh vực thể hiện tập trung của quyền tư

pháp. TAND là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ

công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo

vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

1.1.2. Đặc điểm của Tòa án nhân dân cấp huyện

Thứ nhất, TAND cấp huyện là một bộ phận của TAND

Tòa án được thành lập để nhân danh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam

thực hiện chức năng xét xử.

Tổ chức TAND gồm có: TAND tối cao, TAND cấp cao, TAND tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương (gọi tắt TAND cấp tỉnh), TAND huyện,

quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (gọi tắt TAND cấp huyện),

Tòa án quân sự. Tổ chức Tòa án quân sự gồm có: Tòa án quân sự trung ương,

Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực [41].

Như vậy, TAND cấp huyện là một bộ phận của hệ thống TAND thực

hiện chức năng xét xử ở phạm vi lãnh thổ cấp huyện. Đây là cấp Tòa án thực

hiện xét xử thấp nhất tại địa phương đối với các vụ án được pháp luật quy

định. Vì vậy, TAND cấp huyện cần phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ

trong việc giải quyết những vụ việc thuộc thẩm quyền của mình theo yêu cầu

của cá nhân, tổ chức hoặc theo các trường hợp khác mà pháp luật quy định để

vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Cán bộ, công chức làm việc tại TAND cấp huyện có chế độ lương, phụ

cấp theo quy định chung của hệ thống Tòa án giống như các Tòa án khác

8

trong hệ thống TAND; chịu sự điều chỉnh của quy chế, quy định riêng về quy

tắc ứng xử, về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của nội bộ hệ thống Tòa án.

Thứ hai, TAND cấp huyện có chức năng xét xử sơ thẩm các vụ án theo

thẩm quyền và giải quyết các việc khác theo quy định pháp luật

Lịch sử pháp luật Việt Nam cho thấy thẩm quyền của TAND cấp huyện

trên các lĩnh vực hình sự, dân sự và các việc khác theo quy định của pháp luật

có sự mở rộng. Chẳng hạn, trên lĩnh vực hình sự, tại khoản 1 Điều 145 của Bộ

luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định: “TAND cấp huyện xét xử sơ thẩm

những tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt từ bảy năm tù trở

xuống” [29], theo quy định tại khoản 1 Điều 170 của Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2003 quy định: “TAND cấp huyện xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về

những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất

nghiêm trọng” [30, tr.136-137]; trên lĩnh vực dân sự, tại khoản 1 Điều 136

Luật đất đai năm 2003 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định: “Tranh

chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có Giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc có một trong các

loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh

chấp về tài sản gắn liền với đất thì do TAND giải quyết” [33, tr.169], theo

khoản 2 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 quy định: “TAND có thẩm quyền có

quyền giải quyết sơ thẩm các tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy

chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100

của Luật này” [32, tr.222].

Chức năng xét xử sơ thẩm các vụ án theo thẩm quyền và giải quyết các

việc khác theo quy định pháp luật của TAND cấp huyện hiện nay được quy

định tại Luật Tổ chức TAND năm 2014, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tố tụng hành chính năm 2015 và một số

văn bản pháp luật có liên quan khác.

9

Thứ ba, TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và

lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân

TAND cấp huyện có vị trí quan trọng trong việc giữ vững an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh

tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; TAND là chỗ dựa của nhân

dân trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, đồng thời là công cụ

hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế XHCN, đấu tranh có hiệu quả với các

loại tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời nâng cao ý thức pháp

luật và giáo dục trong xã hội. Nhiệm vụ này của TAND cấp huyện được

khẳng định trong Hiến pháp năm 2013 và cũng là nhiệm vụ của hệ thống

TAND nói chung. TAND cấp huyện là cơ quan nhân danh nhà nước ra các

phán quyết ảnh hưởng đến lợi ích của tổ chức, cá nhân, nhà nước trong phạm

vi thẩm quyền của mình, vì vậy TAND cấp huyện cần thực hiện tốt chức năng

này của mình để lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của người

dân, tổ chức được bảo đảm.

Những đặc điểm trên cho thấy Tòa án nói chung, TAND cấp huyện nói

riêng đóng vai trò quan trọng, chủ chốt trong bộ máy nhà nước ta. Tòa án

nhân danh nhà nước đưa ra phán quyết khi xét xử, thể hiện quan điểm của nhà

nước ta về quyền công dân, quyền con người, những giá trị được pháp luật

bảo vệ và đưa pháp luật do nhà nước ban hành áp dụng vào xã hội. Phán

quyết của TAND cấp huyện thể hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà

nước và cụ thể hóa cho khẳng định mà Hiến pháp đặt ra “Nhà nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [49, tr.8]. Việc quy định về số lượng

Hội thẩm nhân dân trong thành phần Hội đồng xét xử cũng thể hiện tính nhân

dân của nhà nước pháp quyền.

10

Nói một cách khái quát, quan niệm về nhà nước pháp quyền là hệ thống

các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức và hoạt

động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền là

nhà nước được tổ chức và quản lý theo pháp luật, bảo đảm tính thượng tôn

pháp luật và đề cao các giá trị nhân văn, tôn trọng và bảo đảm quyền con

người, quyền công dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường

pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện

và bảo vệ các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn

ngừa mọi sự tùy tiện lạm quyền từ phía cơ quan nhà nước và công chức nhà

nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật kỷ cương, bảo đảm

hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhà nước. Đó là nhà nước mà tất cả các cơ

quan nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng đều phải hoạt động theo pháp

luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của

mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật, phải

sống và làm việc theo pháp luật. Căn cứ vào những đặc trưng đó của nhà nước

pháp quyền, có thể thấy TAND cấp huyện là cơ quan tài phán đưa ra phán

quyết xử lý đối với hành vi phạm tội, tranh chấp, yêu cầu trong lĩnh vực dân

sự, kinh tế, lao động nên đóng vai trò quan trọng trong điều kiện xây dựng

nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Chất lượng hoạt động của TAND cấp

huyện góp phần quan trọng trong việc xây dựng và củng cố nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam, vì vậy tổ chức và hoạt động TAND cấp huyện cần

được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam.

1.2. Vị trí, vai trò, chức năng của Tòa án nhân dân cấp huyện trong bộ

máy nhà nước

Trên cơ sở những thành tựu mới của khoa học xã hội, trong đó có triết

học, sử học và xã hội học, với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy

11

vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ănghen đã xây dựng luận thuyết về nguồn gốc nhà

nước. Theo đó, nhà nước không phải là hiện tượng xã hội vĩnh cữu và bất

biến, nhà nước cũng không phải là lực lượng từ bên ngoài áp đặt vào xã hội,

nó xuất hiện một cách khách quan, khi xã hội đã phát triển đến một giai đoạn

nhất định. Có nhiều nhân tố tác động dẫn đến sự ra đời của nhà nước, trong đó

nhân tố kinh tế và xã hội giữ vai trò quyết định.

Về kinh tế, lực lượng sản xuất phát triển không ngừng và đến giai đoạn

nhất định thì chế độ tư hữu xuất hiện thay cho chế độ công hữu nguyên thủy

đã tồn tại rất lâu trong hình thái kinh tế xã hội đầu tiên của loài người. Tình

trạng bất bình đẳng về kinh tế, khả năng người này có thể chiếm đoạt lợi ích

kinh tế của người khác đã làm phát sinh những mâu thuẫn và đối kháng, đòi

hỏi phải có thiết chế nhà nước có đủ sức mạnh để duy trì trật tự xã hội. Về xã

hội, những thay đổi về kinh tế đã tác động làm biến đổi quan hệ xã hội. Kết

cấu xã hội thay đổi, chế độ thị tộc được xây dựng trên cơ sở huyết thống bị

phá vỡ, gia đình xuất hiện và dần dần thay thế chế độ thị tộc. Sự xuất hiện

giai cấp đã dẫn tới mâu thuẫn và đối kháng. Đấu tranh giai cấp diễn ra không

ngừng và ngày càng gay gắt, trật tự xã hội bị đe dọa, đòi hỏi phải có nhà nước

có khả năng làm dịu bớt các xung đột và giữ cho sự xung đột đó xảy ra trong

vòng trật tự. Như vậy, trong xã hội công xã nguyên thủy nhà nước chưa xuất

hiện.

Xã hội chế độ thị tộc không biết đến mâu thuẫn nội tại và chỉ thích hợp

với những đặc điểm của xã hội đó thì khi xã hội có những đặc điểm mới với

sự phân công giai cấp, các giai cấp mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt với nhau

để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Tổ chức thị tộc đã trở nên bất lực, không

phù hợp để quản lý xã hội nữa. Xã hội đòi hỏi phải có tổ chức mới đủ mạnh

để dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp hoặc kìm hãm sự mâu

thuẫn trong vòng kiểm soát. Tổ chức đó là nhà nước và nhà nước đã xuất

12

hiện. Từ đó nhà nước được tổ chức và phát triển phù hợp với sự phát triển của

kinh tế, xã hội dưới dạng các kiểu nhà nước: kiểu nhà nước chủ nô, phong

kiến, tư sản và XHCN.

Nhà nước có đặc trưng tổ chức công dân theo lãnh thổ và có bộ máy

cưỡng chế chuyên làm nhiệm vụ quản lý, bao gồm quân đội, cảnh sát, Tòa án

… và những công cụ vật chất như nhà tù. Quyền lực nhà nước được thể hiện

dưới các hình thức là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo

vệ pháp luật. Các hình thức này tương ứng với ba quyền: lập pháp, hành pháp

và tư pháp. Tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước được thực hiện thông

qua hoạt động xét xử của Tòa án đối với hành vi, quyết định có sự xâm phạm

tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.

Tài phán của cơ quan Tư pháp đối với hoạt động của lập pháp và hành pháp

có ý nghĩa kiểm soát tính hợp pháp, hợp hiến của chính quyền, là yêu cầu chủ

yếu của nhà nước pháp quyền. Chính vì thế, việc xét xử phải được tiến hành

theo những thủ tục rất chặt chẽ được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự,

Bộ luật tố tụng dân sự... Như vậy, nói đến tư pháp là nói đến việc xét xử theo

pháp luật và quyền tư pháp do hệ thống Tòa án thực hiện với chức năng đặc

trưng là xét xử, là một phương thức thực thi quyền lực nhà nước. Tòa án là cơ

quan nhân danh nhà nước thực hiện việc xét xử, bảo vệ công lý. Chất lượng

xét xử của Tòa án là thước đo tính dân chủ, công bằng và lòng tin của nhân

dân. Bản chất hoạt động xét xử của Tòa án là áp dụng pháp luật và thông qua

đó Tòa án chuyển tải, thể hiện quyền lực nhà nước, ý chí của giai cấp thống

trị vào đời sống xã hội. Vì vậy, nếu Tòa án hoạt động không minh bạch,

khách quan thì công lý không được bảo vệ, trật tự an toàn xã hội không được

bảo đảm. Đồng thời, thông qua hoạt động xét xử, các quy định pháp luật còn

được chuyển tải đến các đối tượng khác trong xã hội, giúp họ nhận thức, nâng

cao ý thức pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.

13

TAND cấp huyện là một bộ phận trong hệ thống TAND, có vị trí rất

quan trọng trong bộ máy nhà nước, là nơi thể hiện công lý trong xã hội. Hoạt

động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước để xem xét, đánh giá

và phán quyết tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay tính công bằng trong

các tranh chấp giữa các bên liên quan. Đặc trưng cơ bản của hoạt động xét xử

là Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước và sự nhân danh quyền lực nhà nước

đã làm cho các bản án, quyết định do Tòa án ban hành được bảo đảm thực thi

bởi nhà nước thông qua các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Bằng hoạt động

của mình, TAND cấp huyện còn góp phần giáo dục công dân trung thành với

Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của

cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các hành

vi vi phạm pháp luật khác.

1.3. Nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện

Tòa án nhân danh nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam xét xử các vụ

án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động,

hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét

đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong

quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có

tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư

pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân. Bản án,

quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá

nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp

hành.

TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự

về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất

nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây: các tội xâm phạm an ninh quốc

gia; các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; các

14

tội quy định tại các Điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223,

224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự; sơ

thẩm những vụ án dân sự, vụ án hôn nhân và gia đình, vụ án kinh doanh

thương mại, vụ án lao động, vụ án hành chính theo quy định của pháp luật, trừ

một số vụ án có yếu tố nước ngoài, vụ án có yêu cầu hủy quyết định hành

chính mà chủ thể ban hành là Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp huyện, Chủ tịch

UBND cấp huyện trở lên, các tranh chấp về sở hữu công nghiệp; giải quyết

theo thủ tục sơ thẩm các việc dân sự, việc hôn nhân và gia đình, việc kinh

doanh thương mại, việc lao động, trừ những việc thuộc thẩm quyền giải quyết

của TAND cấp tỉnh; giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật

gồm: áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào trường giáo

dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại

TAND, thi hành án hình sự và các việc khác theo quy định pháp luật. Như

vậy, chúng ta thấy rằng TAND cấp huyện có thẩm quyền rộng, giải quyết sơ

thẩm gần hết những vụ việc trong phạm vi hành chính lãnh thổ.

1.4. Cơ cấu tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện

1.4.1. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện

Ngày 28 tháng 11 năm 2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm

2013. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, nhiều nội dung quan trọng về

vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của TAND, về

Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án đã được sửa đổi, bổ sung. Do đó, ngày

24 tháng 11 năm 2014, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức TAND năm

2014, Luật này đã thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng

về cải cách tư pháp, bảo đảm cụ thể hóa tinh thần cũng như các quy định của

Hiến pháp năm 2013 về Tòa án. Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức

TAND năm 2014 thì nhiều nội dung quan trọng về cơ cấu tổ chức của TAND,

về Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên đã được sửa đổi, bổ sung, cụ

15

thể như sau:

Thứ nhất, về cơ cấu tổ chức: Điều 3 của Luật Tổ chức TAND năm

2014 quy định cơ cấu tổ chức TAND bao gồm: TAND tối cao, TAND cấp

cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh và tương đương và Tòa án quân sự. Như vậy, Tòa án

được tổ chức trong một hệ thống thống nhất là hệ thống TAND, gồm các

TAND và các Tòa án quân sự. Trong đó, các TAND được tổ chức gồm 4 cấp

theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính theo định

hướng đã được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW và Kết luận số 79-

KL/TW của Bộ Chính trị. Việc tổ chức các TAND theo hướng này là phù hợp

với các nguyên tắc về tổ chức của cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đó là tổ

chức theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm độc lập xét xử, góp phần khắc phục

những hạn chế, bất cập trong cơ cấu tổ chức của Tòa án hiện nay. Đây cũng là

phương thức để nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp quyền

XHCN.

Thứ hai, về Thẩm phán: Ngạch của Thẩm phán TAND gồm Thẩm phán

TAND tối cao, Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp;

nhiệm kỳ đầu của các Thẩm phán là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại

hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10

năm; Về chế độ, chính sách đối với Thẩm phán: Công việc xét xử của Thẩm

phán là một loại lao động đặc biệt, khi xét xử, Thẩm phán không nhân danh

cá nhân hay Hội đồng xét xử mà nhân danh nhà nước để định tội danh, hình

phạt trong các vụ án hình sự, để phân định đúng, sai trong các vụ việc, tranh

chấp dân sự, hành chính, lao động, kinh doanh thương mại, hôn nhân và gia

đình. Khi xét xử, Thẩm phán phải tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc

nhất định, trong đó nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất là độc lập, chỉ tuân

theo pháp luật. Để bảo đảm cho Thẩm phán theo nguyên tắc nêu trên đòi hỏi

16

phải có những điều kiện nhất định không chỉ về trí tuệ, tâm lý mà cả về chế

độ, chính sách đối với họ.

Thứ ba, về Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên: Thư ký Tòa án có các ngạch

gồm Thư ký viên, Thư ký viên chính, Thư ký viên cao cấp; Thẩm tra viên có

các ngạch là Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính, Thẩm tra viên cao cấp.

Đối với TAND cấp huyện, Luật Tổ chức TAND năm 2014 có những

quy định mới cơ bản so với Luật Tổ chức TAND năm 2002, góp phần vào

hoàn thiện hệ thống TAND, gồm:

- TAND cấp huyện có thể có các Tòa chuyên trách như Tòa hình sự,

Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính.

Trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa

chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao. Căn cứ quy định

này và yêu cầu thực tế xét xử ở mỗi TAND huyện, quận, thị xã, thành phố

trực thuộc tỉnh và tương đương, Chánh án TAND tối cao quyết định việc tổ

chức Tòa chuyên trách, Bộ máy giúp việc; cụ thể:

- TAND cấp huyện có Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa, Phó Chánh

tòa, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên về thi hành án, công chức

khác và người lao động. Chánh án TAND cấp huyện do Chánh án TAND tối

cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; nhiệm kỳ của Chánh án TAND cấp

huyện là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Phó Chánh án TAND cấp huyện

do Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; nhiệm kỳ của

Phó Chánh án TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương

đương là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.

1.4.2. Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện

Thứ nhất, về chức năng: TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa

XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo

vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích

17

của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Khi xét xử vụ

án hình sự, Tòa án có quyền xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành

vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá

trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện

pháp ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; xem xét, kết luận về tính hợp

pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm

sát, Kiểm sát viên thu thập, do Luật sư, bị can, bị cáo và những người tham

gia tố tụng khác cung cấp; khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm

sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc

Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ

luật tố tụng hình sự; yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người

khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ

án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm. Khi giải quyết việc xử lý vi

phạm hành chính, Tòa án có quyền xem xét đề nghị của cơ quan quản lý nhà

nước và quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính liên quan đến

quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, Tòa án có quyền ra quyết định hoãn, miễn, giảm, tạm đình chỉ chấp

hành biện pháp xử lý hành chính do Tòa án áp dụng và thực hiện các quyền

hạn khác theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính.

Thứ hai, về nhiệm vụ, quyền hạn, Chánh án có nhiệm vụ, quyền hạn

sau: Tổ chức công tác xét xử của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc

tỉnh và tương đương; chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện nguyên tắc Thẩm

phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; báo cáo công tác

trước Hội đồng nhân dân (HĐND) có thẩm quyền theo luật định và TAND

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo

quy định của luật tố tụng; giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.

Phó Chánh án TAND cấp huyện giúp Chánh án thực hiện nhiệm vụ theo sự

18

phân công của Chánh án. Khi Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được

Chánh án ủy nhiệm lãnh đạo công tác của Tòa án. Phó Chánh án chịu trách

nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn

theo quy định của luật tố tụng.

Thứ ba, về thẩm quyền xét xử: TAND cấp huyện có chức năng sơ thẩm

vụ việc theo quy định của pháp luật; giải quyết việc khác theo quy định của

pháp luật.

1.5. Nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

1.5.1. Nguyên tắc tổ chức của Tòa án nhân dân

1.5.1.1. Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán; bầu hoặc cử Hội thẩm

- Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán

Theo Hiến pháp năm 1946, “Thẩm phán các TAND đều do Chính phủ

bổ nhiệm” [44]. Đến Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ

chức TAND năm 1960, Luật Tổ chức TAND năm 1981 thì “Thẩm phán

TAND tối cao do Uỷ ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, Hội đồng nhà nước

cử, Thẩm phán các TAND khác do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp bầu

và bãi miễn” [37], [38], [45], [46]. Theo Hiến pháp năm 1992 thì “Chủ tịch

nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND các cấp” [47].

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Luật Tổ chức

TAND năm 2002 thì Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TAND

tối cao theo đề nghị của Chủ tịch nước; Phó Chánh án và Thẩm phán TAND

tối cao, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự trung ương do Chủ tịch nước

bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp

do Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị

của các hội đồng tuyển chọn Thẩm phán; Chánh án, Phó Chánh án TAND địa

phương do Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi

thống nhất với thường trực UBND địa phương; Chánh án, Phó Chánh án Tòa

19

án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực do Chánh án

TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức khi thống nhất với Bộ

trưởng Bộ quốc phòng [40], [48].

Theo Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì Chủ tịch

nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án các cấp. Việc bổ

nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND tối cao phải được Quốc hội

phê chuẩn. Chánh án TAND tối cao trình Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm,

miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND tối cao theo đề nghị của Hội đồng

tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia; căn cứ vào Nghị quyết phê chuẩn

của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán

TAND tối cao. Nhiệm kỳ của Chánh án TAND tối cao theo nhiệm kỳ của

Quốc hội; nhiệm kỳ của Phó Chánh án TAND tối cao, Chánh án, Phó Chánh

án TAND khác là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm; nhiệm kỳ đầu của

Thẩm phán là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào

ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm [41], [49].

Việc thực hiện chế độ bổ nhiệm Thẩm phán sẽ giúp nhà nước chọn

được những người có đủ tiêu chuẩn để thực hiện tốt chức năng xét xử của

TAND. Các Thẩm phán được bổ nhiệm sẽ có điều kiện để tích lũy kinh

nghiệm xét xử, nâng cao ý thức, trách nhiệm cá nhân cũng như tính độc lập

trong công tác xét xử của Thẩm phán.

- Nguyên tắc bầu hoặc cử Hội thẩm

Hội thẩm nhân dân được thực hiện theo chế độ bầu, Hội thẩm quân

nhân được thực hiện theo chế độ cử.

Hội thẩm nhân dân TAND cấp tỉnh, Hội thẩm nhân dân TAND cấp

huyện do HĐND cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam cùng cấp và do HĐND cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo

đề nghị của Chánh án TAND cùng cấp sau khi thống nhất với Uỷ ban Mặt

20

trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Hội thẩm quân dân Tòa án quân sự quân

khu và tương đương do Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân

Việt Nam cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị quân khu, quân đoàn,

quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm Tổng cục chính

trị Quân đội nhân dân Việt Nam miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của

Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương sau khi thống nhất với cơ

quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương

đương. Hội thẩm quân dân Tòa án quân sự khu vực do Chính ủy quân khu,

quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương cử theo sự giới thiệu

của cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương và do Chính ủy quân

khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương miễn nhiệm, bãi

nhiệm theo đề nghị của Chánh án Tòa án quân sự khu vực sau khi thống nhất

với cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương. Nhiệm kỳ của Hội thẩm

nhân dân theo nhiệm kỳ của HĐND bầu ra Hội thẩm nhân dân. Nhiệm kỳ của

Hội thẩm quân nhân là 05 năm, kể từ ngày được cử [41].

1.5.1.2. Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội

thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn

Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân

dân, vì Nhân dân, nguyên tắc xét xử sơ thẩm của TAND có Hội thẩm tham

gia khẳng định tính dân chủ của nhà nước ta, nhân dân là chủ đất nước, có

quyền tham gia quản lý đất nước bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó

tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án là một hình thức quản lý, giám sát

hoạt động xét xử của Tòa án.

Hội thẩm thay mặt nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án,

bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đúng chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của nhà nước, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.

Việc tham gia của Hội thẩm nhân dân giúp cho Tòa án xét xử không chỉ đúng

21

pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Hội thẩm nhân dân

có đời sống chung trong cộng đồng, trong tập thể lao động, nên họ hiểu sâu

hơn tâm tư nguyện vọng, nắm bắt được dư luận quần chúng nhân dân. Khi

được cử hoặc bầu làm Hội thẩm, Hội thẩm không tách khỏi hoạt động lao

động sản xuất của cơ quan, đơn vị mình. Với vốn hiểu biết thực tế, kinh

nghiệm trong cuộc sống, sự am hiểu về phong tục tập quán địa phương, Hội

thẩm sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết trong quá

trình xét xử để có được một phán quyết đúng pháp luật, được xã hội đồng tình

ủng hộ.

Đối với việc xét xử theo thủ tục rút gọn thì Hội thẩm không tham gia.

Quy định này là hoàn toàn phù hợp bởi, những vụ án giải quyết theo thủ tục

rút gọn là những vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương

sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để

giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ; các đương

sự đều có địa chỉ cư trú, trụ sở rõ ràng, nên khi xét xử theo thủ tục rút gọn

không cần thiết phải có sự tham gia của Hội thẩm.

1.5.1.3. Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật

Xét xử là quá trình áp dụng pháp luật để xử lý, giải quyết các tranh

chấp, hành vi vi phạm pháp luật để bảo vệ pháp luật. Bản chất của hoạt động

xét xử là hoạt động đòi hỏi phải độc lập để đảm bảo công bằng, nếu hoạt động

xét xử không độc lập thì việc xét xử sẽ không khách quan, sự độc lập của Tòa

án được thể hiện qua sự độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân khi xét

xử. Để đảm bảo được sự công bằng, đòi hỏi khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm

phải độc lập, không bị ràng buộc hay bị chi phối bởi ý kiến của ai; không một

cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét

xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập,

22

nhưng phải tuân theo pháp luật. Thẩm phán, Hội thẩm phải căn cứ vào các

quy định của pháp luật để đưa ra quyết định của mình về từng vấn đề của vụ

án, không được tuỳ tiện hay bằng cảm tính. Do đó, để đảm bảo sự độc lập của

Tòa án cần có sự quy định rõ ràng trách nhiệm độc lập của Tòa án, của Thẩm

phán, Hội thẩm và cơ chế đảm bảo không có sự tham gia, can thiệp trái pháp

luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Muốn vậy, cần thiết phải có sự

phân định rõ ràng về thẩm quyền của Tòa án, của các cơ quan lập pháp và các

cơ quan hành pháp cùng với trách nhiệm, nghĩa vụ tương ứng để ngăn ngừa

sự lạm quyền và can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử.

Nguyên tắc này được quy định tại các Hiến pháp năm 1946, 1959,

1980, 1992, 2013 và Luật Tổ chức TAND năm 1960, 1981, 1992, 2002, 2014.

Để đảm bảo nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật, Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức TAND năm 2014 khẳng

định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;

nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm

phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào” [41], [49, tr.55].

1.5.2. Nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân

1.5.2.1. Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo

đa số trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn

Xét xử là hoạt động đặc thù do TAND thực hiện để bảo vệ công lý, bảo

vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của nhà nước, bảo vệ chế

độ XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bản án,

quyết định của Tòa án mà cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được hưởng các

quyền hoặc phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý nhất định. Vì vậy, việc xét xử

của Tòa án phải khách quan, đúng pháp luật. Để có bản án, quyết định khách

quan, đúng pháp luật đòi hỏi phải phát huy trí tuệ của tập thể. Do đó, khi xét

xử các vụ án đều phải thành lập Hội đồng xét xử, trừ trường hợp xét xử theo

23

thủ tục rút gọn. Thành phần Hội đồng xét xử ở mỗi cấp xét xử do luật tố tụng

quy định.

Nguyên tắc này bảo đảm cho Tòa án xét xử khách quan, toàn diện,

chống độc đoán hoặc tùy tiện cá nhân. Đối với việc xét xử theo thủ tục rút

gọn thì Hội thẩm nhân dân không tham gia, do đó trong trường hợp này

không xét xử tập thể và quyết định theo đa số.

1.5.2.2. Nguyên tắc xét xử công khai

Mục đích của nguyên tắc xét xử công khai để thu hút đông đảo nhân

dân tham gia kiểm tra, giám sát đối với hoạt động xét xử của TAND, đồng

thời nâng cao công tác giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân, thu hút nhân

dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp

luật.

Nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ, TAND phải có kế hoạch xét xử

các vụ án và niêm yết công khai kế hoạch xét xử tại trụ sở của Tòa án. Tòa án

giao quyết định xét xử cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo (đối với vụ án

hình sự), giao cho đương sự (đối với vụ án dân sự, hành chính) và giao giấy

triệu tập phiên tòa cho những người tham gia tố tụng khác. Ngoài xét xử tại

Hội trường xét xử, trụ sở Tòa án thì có thể xét xử lưu động ở nơi xảy ra hành

vi phạm tội, có tranh chấp để tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp

luật.

Tại các phiên tòa, mọi công dân từ đủ 16 tuổi trở lên có quyền tham dự

phiên tòa. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong,

mỹ tục dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu

cầu chính đáng của đương sự, TAND có thể xét xử kín, tuy nhiên cho dù xét

xử công khai hay xét xử kín thì Tòa án đều phải tuyên án công khai.

1.5.2.3. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm

Nguyên tắc này là quy định mới trong Hiến pháp năm 2013. Để thực

24

hiện Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp: “Phán quyết của Tòa án phải

căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét toàn diện các

chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng,

nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những

bản án đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định” [3].

Nghị quyết số 49/2005/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 quy định: “Đổi mới việc tổ chức

phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của những

người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính

công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các

phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [5].

Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nguyên tắc

tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” [49, tr.55], làm cơ sở pháp lý cho các

Bộ luật, Luật cụ thể hóa, chi tiết hóa nhằm bảo đảm sự khách quan, công khai,

minh bạch trong hoạt động xét xử của Tòa án, để Tòa án xét xử đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội,

khắc phục và hạn chế oan sai đối với các vụ án hình sự và giải quyết đúng đắn

đối với các vụ án khác theo quy định của pháp luật để tạo được niềm tin ở

người dân, công lý được thực hiện trên thực tế.

1.5.2.4. Nguyên tắc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm

Xét xử là hoạt động liên quan trực tiếp đến các quyền cơ bản của con

người, quyền công dân (quyền sống, quyền tự do, quyền sở hữu, danh dự,

nhân phẩm…). Vì vậy, yêu cầu đối với hoạt động xét xử là phải đảm bảo sự

công bằng, khách quan, đúng pháp luật. Thực tế cho thấy rằng hoạt động xét

xử là hoạt động tư duy của con người có thẩm quyền xét xử là Thẩm phán,

Hội thẩm, vì thế có thể có những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án

không khách quan, không đúng pháp luật đòi hỏi phải có sự xem xét lại theo

25

trình tự, thủ tục phúc thẩm để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên

liên quan.

Vì vậy, tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chế độ

xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” [49, tr.55]. Quy định này để bảo

đảm việc thực hiện quyền tố tụng của bị cáo và đương sự được xét xử qua hai

cấp: cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc thẩm nhằm bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp cho những người tham gia tố tụng, tránh được những sai lầm

dẫn đến số lượng án bị sửa, bị hủy hàng năm của các Tòa án. Đồng thời khi

thực hiện chế độ hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm sẽ đưa thủ tục giám đốc

thẩm và tái thẩm về đúng với bản chất là trình tự xem xét lại bản án, quyết

định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi có vi phạm nghiêm trọng thủ tục

tố tụng hay có tình tiết mới làm thay đổi bản chất của vụ việc, chứ không phải

là cấp xét xử thứ ba.

1.5.2.5. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Bảo vệ quyền con người là mục tiêu của các nhà nước dân chủ và tiến

bộ. Bảo đảm thực hiện có hiệu quả quyền công dân là tiêu chí đánh giá sự văn

minh, tiến bộ của một xã hội hiện đại. Ngày nay, đất nước ta đang trên đà

phát triển về mọi mặt. Song song với việc phát triển kinh tế, Đảng và nhà

nước cũng chăm lo xây dựng một nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do

Nhân dân, vì Nhân dân, xây dựng một hệ thống pháp luật bảo đảm cho việc

phát triển các quyền tự do dân chủ của công dân. Quyền bào chữa của bị can,

bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một quyền

quan trọng của công dân khi tham gia tố tụng với tư cách là bị can, bị cáo,

đương sự. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc Hiến định được

ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp đã được ban hành của nước ta và

được cụ thể hóa, chi tiết hóa trong Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân

26

sự, Luật tố tụng hành chính. Việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế đã

góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị

can, bị cáo, đương sự; giúp cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án giải

quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Tuy nhiên, thực tiễn

cho thấy, việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chưa được thực hiện một cách đầy

đủ, nhiều cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và những người

tham gia tố tụng vẫn còn xem nhẹ nguyên tắc này. Tình trạng bắt, giam giữ,

xét xử oan sai, vẫn còn tồn tại trên thực tế.

Để thực hiện quyền bào chữa của mình, bị can, bị cáo có thể tự mình

bào chữa hoặc nhờ luật sư, người có đủ điều kiện khác để bào chữa cho mình;

đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư, người có đủ điều kiện khác để

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Trong trường hợp cần thiết, mặc

dù bị can, bị cáo không yêu cầu nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải yêu

cầu Đoàn luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử người bào chữa

cho bị can, bị cáo, cụ thể trong trường hợp bị can, bị cáo có khuyết tật về thể

chất và tinh thần; bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng mà hình phạt cao nhất

là tử hình; bị can, bị cáo là người vị thành niên phạm tội.

1.5.2.6. Nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật

Quyền bình đẳng trước pháp luật là một quyền con người. Đó là quyền

được xác lập tư cách con người trước pháp luật; không bị pháp luật phân biệt

đối xử, quyền có vị thế ngang nhau trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ

như nhau. Nó được xem xét ở các cấp độ khác nhau. Trước hết, quyền bình

đẳng trước pháp luật được thể hiện là nhu cầu của một chủ thể tự nhiên với tư

cách là một con người buộc phải có và cần phải có. Thứ hai, quyền bình đẳng

trước pháp luật là một giá trị của xã hội loài người. Thứ ba, người ta thực hiện

quyền bình đẳng đó bằng công cụ pháp luật thông qua việc thể chế hóa và tạo

27

ra cơ chế bảo vệ khi nó bị xâm phạm. Nói cách khác, quyền bình đẳng trước

pháp luật là sự bao quát gần như toàn bộ các quyền bình đẳng trong mọi lĩnh

vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong phạm vi điều chỉnh của pháp

luật. Điều này được quyết định bởi thuộc tính, vai trò của pháp luật trong xã

hội với tư cách là các quy phạm do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm

bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật là nguyên tắc

quan trọng của chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công

dân, nó thể hiện nền dân chủ XHCN, khẳng định nước ta các quyền con

người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được

công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Trong

hoạt động xét xử của TAND phải tuân theo nguyên tắc mọi người đều bình

đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo,

thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức đều bình đẳng

trước pháp luật.

Theo nguyên tắc này thì mọi tội phạm, mọi tranh chấp pháp lý do bất

kỳ ai thực hiện đều phải được TAND xét xử công bằng. Trong những điều

kiện hoàn cảnh như nhau mà hành vi vi phạm pháp luật hoặc tội phạm như

nhau, tính chất, mức độ phạm tội như nhau, hậu quả do tội phạm gây ra như

nhau thì Tòa án phải áp dụng các quy định pháp luật như nhau để giải quyết,

xét xử. Mặt khác, khi xét xử TAND phải bảo đảm sự bình đẳng của mọi

người về quyền và nghĩa vụ khi họ tham gia vào các thủ tục tố tụng do pháp

luật tố tụng quy định.

Để nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật được thực hiện

trên thực tế, đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm phải tinh thông về nghiệp vụ,

trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, có tinh thần bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, thật sự “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” trong hoạt

28

động xét xử. Nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc quan trọng trong

hoạt động xét xử của Tòa án, được hiến định tại khoản 1 Điều 16 Hiến pháp

năm 2013 và được cụ thể hóa tại Điều 12 Luật Tổ chức TAND năm 2014.

1.5.2.7. Nguyên tắc người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và

chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án nhân dân

Xuất phát từ thực tế nước ta có nhiều dân tộc cùng sinh sống trên một

lãnh thổ. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, tất cả các dân tộc Việt Nam

đã chung sức, đồng lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời nước ta thực

hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát

triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động, tích cực hội nhập và

hợp tác quốc tế. Trong quá trình hội nhập có thể có người nước ngoài, người

không quốc tịch sẽ là đối tượng giải quyết của Tòa án Việt Nam. Để thực hiện

chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về đoàn kết và bình

đẳng giữa các dân tộc và đường lối đối ngoại, trong hoạt động xét xử của

mình, TAND phải bảo đảm nguyên tắc người tham gia tố tụng có quyền dùng

tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án. Áp dụng nguyên tắc này

cũng chính là góp phần tăng cường tính thống nhất của pháp chế, nghiêm

chỉnh tuân theo và chấp hành pháp luật. Thực hiện nguyên tắc này sẽ là điều

kiện tốt để mọi công dân thể hiện được yêu cầu, nguyện vọng của mình trước

Tòa án, cũng như việc trình bày các lý lẽ, căn cứ làm cơ sở cho yêu cầu,

nguyện vọng đó. Có như vậy mới tạo ra sự bình đẳng, bảo vệ được quyền và

lợi ích hợp pháp đích thực của mọi người khi tham gia tố tụng, đồng thời giúp

cho Tòa án xét xử được chính xác, đúng sự thật khách quan của vụ án, nâng

cao chất lượng trong hoạt động xét xử. Trong trường hợp người tham gia tố

tụng trình bày bằng ngôn ngữ của dân tộc họ thì Tòa án phải làm thủ tục chỉ

định người phiên dịch cho họ. Tuy nhiên, người phiên dịch có thể bị tác động

bởi nhiều yếu tố, có thể phiên dịch không đúng với lời khai của bị can, bị cáo,

29

đương sự, người tham gia tố tụng nên pháp luật có quy định về việc thay đổi

người phiên dịch. Việc thay đổi người phiên dịch trước khi mở phiên tòa do

Chánh án Tòa án quyết định, còn thay đổi tại phiên tòa do Hội đồng xét xử

giải quyết. Những quy định này nhằm giúp cho người phiên dịch thực hiện

nhiệm vụ một cách thực sự vô tư, khách quan không phụ thuộc vào ai, không

bị chi phối bởi yếu tố nào. Ngoài ra, “người phiên dịch phải có nghĩa vụ thực

hiện đầy đủ, trung thực các nghĩa vụ tố tụng của mình và chịu trách nhiệm

pháp lý về việc thực hiện nghĩa vụ đó, nếu dịch gian dối thì người phiên dịch

phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 Bộ luật hình sự” [30, tr.53].

Như vậy, việc Tòa án đảm bảo thực hiện nguyên tắc này là rất quan

trọng và cần thiết. Đây chính là cơ sở để tạo ra sự công bằng, bình đẳng trong

xã hội, chính vì vậy mà pháp luật có những quy định khá chặt chẽ về người

phiên dịch, người phiên dịch có vai trò rất quan trọng trong xét xử, bởi nếu họ

không vô tư, không khách quan, hay không đạt tới một trình độ nhất định thì

chính họ lại làm cho vụ án xét xử sẽ không khách quan, không bảo vệ được

quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, đương sự, người tham gia tố

tụng khác.

1.6. Nhà nước pháp quyền và yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân

cấp huyện

1.6.1. Nhà nước pháp quyền

Hiện nay đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về khái niệm “nhà nước

pháp quyền” với nhiều cách tiếp cận vấn đề hoặc nhận định, đánh giá vấn đề

ở góc độ khác nhau, nhưng có một số vấn đề liên quan đến nhà nước pháp

quyền vẫn chưa có nhận thức thống nhất hoặc chưa được làm sáng tỏ. Tuy

nhiên, ở một mức độ tương đối khái niệm về nhà nước pháp quyền đã được

nhận thức là nhà nước trong đó phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành

30

bộ máy nhà nước do pháp luật quy định và thừa nhận tính tối cao của Hiến

pháp và pháp luật; bao gồm việc xác định rõ quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp, với hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và

nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh

trong xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp

pháp cơ bản của công dân. Từ đó, hình thành các tiêu chí chung của nhà nước

pháp quyền như sau: Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà

nước phải do Hiến pháp, pháp luật quy định; Nhà nước và công dân phải thừa

nhận tính tối cao của pháp luật; Quyền lực nhà nước được xác định gồm:

quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; Có hệ thống pháp luật

đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để

điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội, đặc biệt là bảo

đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân.

Nhà nước pháp quyền trên thế giới hiện nay được xây dựng và phát

triển theo hai hướng nhà nước pháp quyền XHCN và nhà nước pháp quyền tư

sản. Nhà nước ta hiện nay đang xây dựng trên cơ sở những tiêu chí chung của

nhà nước pháp quyền XHCN và có những đặc điểm phù hợp với tình hình

kinh tế, chính trị và xã hội trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể:

- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được hình thành và phát triển

trên cơ sở đánh đổ chế độ phong kiến, thực dân, không kinh qua giai đoạn

phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đây là đặc điểm lịch sử rất quan trọng cho

chúng ta thấy rõ điểm xuất phát của quá trình xây dựng nhà nước cùng với

những khó khăn, yếu kém của hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc xã hội.

Qua mấy chục năm phấn đấu, xây dựng và đổi mới phương thức tổ chức và

hoạt động, đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, lần đầu

tiên trong văn bản chính thức của Đảng, chúng ta mới xác định việc xây dựng

31

nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân.

- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của Nhân dân,

do Nhân dân và vì Nhân dân. Thực chất đặc điểm này của nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam nhằm bảo đảm tính giai cấp, tính nhân dân của nhà

nước ta. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân định

đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ

máy quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân dân và

của toàn bộ dân tộc.

- Trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, quyền lực nhà nước là

thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà

nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tổ chức và hoạt động theo

nguyên tắc tập trung dân chủ.

- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có trách nhiệm bảo đảm

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, công dân phải làm tròn nghĩa vụ của

mình đối với nhà nước và xã hội. Đây là một đặc điểm quan trọng, xuyên suốt

trong toàn bộ quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay và phải được

thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam quản lý xã hội chủ yếu bằng

pháp luật, không ngừng tăng cường và đổi mới công tác lập pháp, hành pháp

và tư pháp; đồng thời, thường xuyên quan tâm đến việc tuyên truyền, giáo dục

pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.

- Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.

Đây là đặc điểm nổi bật của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được

Hiến pháp ghi nhận và nhân dân Việt Nam đồng tình ủng hộ. Đảng lãnh đạo

nhà nước thông qua cương lĩnh, đường lối, chính sách được thể chế bằng

32

pháp luật. Đảng không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của mình nhằm

tạo điều kiện cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả, đặc biệt trong điều

kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

1.6.2. Yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện

Để thực hiện được những tiêu chí nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013, các cơ quan thực hiện

quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ

của mình theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. TAND

cấp huyện nói riêng, hệ thống TAND nói chung là cơ quan xét xử, thực hiện

quyền tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích

hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Vì vậy, việc đổi mới, hoàn thiện tổ chức và

hoạt động của TAND cấp huyện có vai trò quan trọng đối với yêu cầu xây

dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

1.6.2.1. Yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

đối với tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện

Tòa án phải là thiết chế độc lập thực sự. Các quy định pháp luật đang

dần tăng cường tính độc lập của Tòa án trong bộ máy nhà nước, Tòa án đã trở

thành cơ quan nhân danh quyền lực nhà nước để đưa ra những phán quyết đối

với các hành vi vi phạm pháp luật trong xã hội cũng như các tranh chấp được

đưa đến Tòa án giải quyết. Khác với việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

pháp, các hoạt động của Tòa án được thực hiện theo một thủ tục tố tụng tư

pháp chặt chẽ, vô tư, khách quan, tuyệt đối tuân thủ pháp luật và mang tính

độc lập tuyệt đối. Có thể hiểu tư pháp chính là xét xử; thực hiện chức năng xét

xử chính là thực hiện quyền tư pháp. Hiến pháp khẳng định vị trí trung tâm

của Tòa án trong hệ thống tư pháp, vị trí trọng tâm của hoạt động xét xử trong

33

các hoạt động tư pháp.

Để tăng cường sức mạnh cho hệ thống TAND nói chung và TAND cấp

huyện nói riêng, nhà nước ta đã có nhiều phương thức từng bước bảo đảm cho

sự độc lập của Tòa án: tách hệ thống Tòa án ra khỏi Chính phủ và chỉ chịu

trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội; nhiệm kỳ của Thẩm phán bền vững hơn;

chế độ lương được cải thiện; tăng cường trách nhiệm của Thẩm phán, thẩm

quyền xét xử được mở rộng... Tòa án xét xử độc lập, không chịu ảnh hưởng

bởi các yếu tố tác động từ bên ngoài cũng như từ bên trong hệ thống Tòa án.

Tuy nhiên, nguyên tắc tổ chức độc lập cũng phải được thực hiện trong phạm

vi đã được phân công và chịu sự giám sát của nhân dân thông qua Quốc hội,

Hội đồng nhân dân cùng cấp. Các quyết định cuối cùng của Tòa án không thể

bị đưa ra xem xét lại bởi cơ quan ngoài Tòa án.

Độc lập xét xử là nguyên tắc hiến định, là cốt lõi của quyền tư pháp

trong nhà nước pháp quyền, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm

tính tối cao của pháp luật, đảm bảo sự cân bằng và kiểm soát các quyền lực

nhà nước và bảo vệ quyền con người. Việc tăng cường cơ chế giám sát của

nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, của Thẩm phán thông qua việc

công khai rộng rãi các phán quyết của Tòa án là nhu cầu thiết thực. Điều đặc

biệt quan trọng để đạt được mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN

ở Việt Nam là phải nhận thức một cách toàn diện về quyền tư pháp, nâng cao

vị thế của quyền tư pháp, của hệ thống TAND nói chung và của TAND cấp

huyện nói riêng và của Thẩm phán.

1.6.2.2. Yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

đối với hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện

Thứ nhất, nhiệm vụ của hệ thống TAND nói chung và TAND cấp

huyện nói riêng là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Chức năng xét xử của TAND thể hiện ở chỗ: Tòa án là cơ quan duy

34

nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý

xảy ra trong xã hội, xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, giải

quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa

án. Quy định của Hiến pháp năm 2013 là cơ sở hiến định cho việc mở rộng

thẩm quyền của Tòa án trong xét xử các loại án, thể hiện xu thế tất yếu của

nhà nước pháp quyền. Quyền con người là quyền thiêng liêng, quan trọng

nhất đối với con người được Hiếp pháp ghi nhận. TAND là cơ quan duy nhất

phán quyết những vấn đề về quyền con người (như tuyên bố một người đã

chết, xác định cha, mẹ cho con, áp dụng các hình phạt liên quan đến quyền

con người…).

Sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền và các hình thức nhà nước

khác dưới chế độ độc tài, chuyên chế là các quyền, lợi ích chính đáng của con

người không thể bị xâm phạm dưới bất cứ hình thức nào mà còn được Tòa án

bảo vệ khỏi sự can thiệp không cần thiết của chính quyền. Đó không hẳn là

quyền của đa số mà chính là quyền cá nhân mỗi người, quyền của thiểu số.

Tòa án chính là nơi có khả năng tốt nhất cho việc bảo vệ quyền lợi này. Do

vậy, một nhà nước dân chủ muốn thực hiện tốt chức năng bảo vệ thiểu số và

quyền lợi của cá nhân thì phải tăng cường hoạt động tư pháp.

TAND cấp huyện được pháp luật quy định cụ thể thẩm quyền đối với

xét xử vụ án hình sự, hành chính, xét xử vụ việc dân sự, kinh doanh thương

mại, lao động, hôn nhân gia đình. Phán quyết mà Tòa án đưa ra là nhân danh

nhà nước giải quyết quan hệ pháp luật, xử lý hành vi phạm tội. Vì vậy, TAND

cấp huyện cần phải dùng pháp luật là cơ sở, tiền đề và xuyên suốt trong quá

trình hoạt động tố tụng cũng như đến khi đưa ra phán quyết cuối cùng, có như

vậy mới đảm bảo được công bằng xã hội và niềm tin trong nhân dân.

Thẩm quyền giải quyết của TAND nói chung và TAND cấp huyện nói

riêng đang được mở rộng để bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp

35

pháp của công dân, tất cả các quyết định của cơ quan hành pháp xâm phạm

đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân phải đều được coi là đối tượng

khởi kiện tại Tòa án.

Thứ hai, TAND cấp huyện hoạt động chỉ tuân theo pháp luật

Nhà nước ta có hệ thống các Bộ luật, Luật, văn bản quy phạm pháp luật

được liên tục cập nhật phù hợp với thực tiễn phát triển của các quan hệ xã hội

và tình hình an ninh trật tự. Hệ thống pháp luật có các văn bản pháp luật cụ

thể quy định về trình tự, thủ tục trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự,

hành chính và vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, hôn nhân gia đình, lao

động như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành

chính và các văn bản dưới luật khác. TAND cấp huyện buộc phải tuân theo

những quy định trong các văn bản này trong quá trình thực hiện chức năng,

nhiệm vụ của mình. Trường hợp có bất cứ hành vi nào không tuân thủ các quy

định của pháp luật về tố tụng gây ảnh hưởng đến quyền con người, quyền và

lợi ích hợp pháp của công dân thì được coi là vi phạm pháp luật nghiêm trọng

và bị xử lý nghiêm minh. Ngoài ra, còn có các Bộ luật, văn bản dưới luật như

Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật doanh nghiệp, Luật hôn nhân gia đình

…và các văn bản dưới luật khác để làm cơ sở cho TAND cấp huyện đưa ra

phán ra quyết nghiêm minh, đúng người, đúng tội và công bằng trong việc

giải quyết tranh chấp trong xã hội.

Mọi hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử của TAND cấp huyện đều

bị coi là vi phạm pháp luật và ảnh hưởng tới tính khách quan của hoạt động

xét xử. Trong quá trình xét xử, TAND cấp huyện có thể tham khảo ý kiến của

các cơ quan chuyên môn, nắm bắt dư luận xã hội. Nhưng khi quyết định,

Thẩm phán và Hội thẩm phải thể hiện năng lực chuyên môn, bản lĩnh nghề

nghiệp của mình, xem xét các vấn đề của vụ án một cách độc lập, không bị

ảnh hưởng bởi các quan điểm, ý kiến bên ngoài của vụ án.

36

Phán quyết của TAND cấp huyện hoàn toàn dựa trên cơ sở pháp luật.

Có như vậy thì TAND cấp huyện mới là cơ quan nhân danh nhà nước góp

phần tạo nên sự công bằng xã hội, trừng trị những hành vi đi ngược lại giá trị

xã hội, phòng ngừa hành vi gây hại cho xã hội.

37

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, luận văn đã cung cấp một cái nhìn tổng quát về tổ

chức và hoạt động của TAND cấp huyện trong điều kiện xây dựng nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam, đưa ra khái niệm, đặc điểm về TAND cấp

huyện, trên cơ sở đó phân tích vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ

chức, hoạt động, nguyên tắc cơ bản tổ chức, hoạt động của TAND cấp huyện

trong bộ máy nhà nước và yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam đối với tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện. Trên cơ sở hệ thống

lý luận này làm tiền đề cho việc nghiên cứu, phân tích thực trạng tổ chức và

hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ở chương 2 và

đưa ra giải pháp và kiến nghị hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của

TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ở chương 3.

38

Chương 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN

DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI

2.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện

từ năm 1945 đến năm 2013

Sự hình thành và phát triển của TAND cấp huyện trong hệ thống

TAND ở nước ta gắn liền với những giai đoạn phát triển của cách mạng, gắn

liền với việc phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng ở từng thời kỳ lịch sử nhất

định. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt

Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Bên cạnh nhiệm vụ phải đập tan bộ máy nhà

nước thực dân, phong kiến, nhà nước ta khẩn trương xây dựng bộ máy nhà

nước cách mạng “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, trong đó TAND

là một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước.

2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959

Ngay sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhà nước

Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập đã nhanh chóng xây dựng và củng

cố bộ máy nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng nhà nước của

Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Chính phủ

lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 33C thành lập

các Tòa án quân sự để xét xử tất cả người nào vi phạm vào một việc gì có

phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tuy nhiên,

do yêu cầu cách mạng, nhà nước Việt nam dân chủ cộng hòa ban đầu mới chỉ

thiết lập các Tòa án quân sự để xét xử các vụ án hình sự mà chưa tổ chức

thành hệ thống Tòa án các cấp và xét xử các vụ án dân sự.

Theo Điều 1 của Sắc lệnh này thì sẽ thiết lập các Toà án quân sự gồm:

ở Bắc bộ tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình; ở Trung bộ tại

Vinh, Huế, Quảng Ngãi; ở Nam bộ tại Sài Gòn, Mỹ Tho. Về thẩm quyền xét

39

xử, Toà án quân sự sẽ xét xử tất cả người nào vi phạm vào một việc gì có

phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trừ trường

hợp phạm nhân là binh sỹ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật”.

Ngoài ra, đối với những nơi ở xa các Toà án quân sự đã được thành lập theo

Sắc lệnh này, thì trong những trường hợp đặc biệt, Chính phủ có thể cho

UBND địa phương thành lập một Toà án quân sự có quyền xét xử trong một

thời kỳ và theo đúng những nguyên tắc định trong Sắc lệnh [11].

Ngày 26/9/1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng

hoà đã ban hành Sắc lệnh số 37/SL quy định các địa phương có thẩm quyền

của các Toà án quân sự.

Theo Điều 1 của Sắc lệnh này thì thẩm quyền theo lãnh thổ của các Toà

án quân sự được xác định như sau: Toà án quân sự Hà Nội xét xử các vụ án

xảy ra tại thành phố Hà Nội và các tỉnh Hoà Bình, Phú Thọ, Sơn Tây, Hà

Đông, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang; Toà án quân

sự Hải Phòng xét xử các vụ án xảy ra tại thành phố Hải Phòng và các tỉnh Hải

Dương, Kiến An, Quảng Yên, Hải Ninh; Toà án quân sự tỉnh Thái Nguyên

xét xử các vụ án xảy ra tại tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn,

Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La; Toà án quân

sự Ninh Bình xét xử các vụ án xảy ra tại tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam,

Thái Bình; Toà án quân sự Vinh xét xử các vụ án xảy ra tại tỉnh Quảng Trị,

Thừa Thiên, Quảng Nam (kể cả Đà Nẵng); Toà án quân sự Quảng Ngãi xét

xử các vụ án xảy ra tại các tỉnh Trung Bộ ở phía Nam tỉnh Quảng Nam; Toà

án quân sự Sài Gòn xét xử các vụ án xảy ra tại thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn

và tỉnh Gia Định, Tân Bình, Tây Ninh, Biên Hoà, Bà Rịa, Ô Cấp, Gò Công,

Tân An, Côn Đảo; Toà án quân sự Mỹ Tho xét xử các vụ án xảy ra tại các

tỉnh khác thuộc Nam Bộ [12].

Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số

40

13/SL về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán. Đây là Sắc lệnh đầu

tiên quy định một cách đầy đủ tổ chức giải quyết các tranh chấp, xử phạt các

việc vi cảnh ở cơ sở cũng như tổ chức các Toà án và quy định tiêu chuẩn,

nhiệm vụ, quyền hạn của các ngạch Thẩm phán.

Theo Sắc lệnh này thì hệ thống Tòa án nước ta có: các Tòa án thượng

thẩm ở cấp kỳ, ở mỗi kỳ có một Tòa thượng thẩm (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam

kỳ). Các Tòa án đệ nhị cấp ở các tỉnh và các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và

Sài Gòn - Chợ Lớn. Các Tòa án sơ cấp ở huyện, quận, châu, phủ. Ngoài ra, ở

các xã có Ban Tư pháp xã do ban thường vụ của Uỷ ban hành chính xã đảm

nhiệm. Như vậy, theo Sắc lệnh số 13/SL thì đã có Tòa án cấp huyện (Tòa án

sơ cấp ở huyện, quận, châu, phủ). Đối với Tòa án sơ cấp ở mỗi quận (phủ,

huyện, châu) có một Toà án sơ cấp, quản hạt là địa hạt quận. Nếu cần, một

Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể thay đổi quản hạt được. Tuỳ theo

sự quan trọng, các Toà án sơ cấp sẽ chia ra làm bốn hạng do Nghị định của

Bộ trưởng Bộ Tư pháp ấn định. Về tổ chức, Toà án sơ cấp gồm có một Thẩm

phán, một lục sự . Về hoạt động xét xử thì mỗi tuần lễ ít ra phải có hai phiên

toà công khai, một phiên hộ và một phiên hình. Tại phiên toà, Thẩm phán xét

xử một mình, lục sự giữ bút ký, lập biên bản án từ. Thẩm phán sơ cấp có thể

ngày nào cũng xử kiện, dù là ngày chủ nhật hay là ngày lễ cũng được. Lại có

thể, nếu cần đến, mở phiên tòa ngoài trụ sở ngoài Toà án, ở các nơi xa cách

Toà. Thời điểm này đã có quy định về xét xử lưu động. Về ngạch Thẩm phán,

Sắc lệnh quy định có hai ngạch Thẩm phán đó là ngạch sơ cấp và ngạch đệ

nhị cấp, Thẩm phán sơ cấp làm việc ở Toà sơ cấp, Thẩm phán đệ nhị cấp làm

việc ở các Toà đệ nhị cấp và Toà thượng thẩm. Ngạch Thẩm phán sơ cấp

gồm: Hạng ngoại, hạng nhất, hạng nhì, hạng ba, hạng tư, hạng năm. Thẩm

phán hạng ngoại, chức việc là Chánh tòa sơ cấp các thành phố to, Thẩm phán

hạng nhất là Chánh tòa sơ cấp hạng nhất, Thẩm phán hạng nhì là Chánh toà

41

sơ cấp hạng nhì, Thẩm phán hạng ba là Chánh tòa sơ cấp hạng ba, Thẩm phán

hạng tư là Chánh tòa sơ cấp hạng tư, Thẩm phán hạng năm là Thẩm phán tập

sự [13].

Tuy nhiên, do những khó khăn khách quan trong những ngày mới giành

chính quyền, việc xây dựng hệ thống Toà án theo Sắc lệnh 13/SL chưa thực

hiện được đầy đủ ở các địa phương trong toàn quốc, do đó Chính phủ đã banh

hành Sắc lệnh số 22-B ngày 18/12/1946 quy định những nơi chưa có Toà án

thì Uỷ ban hành chính sẽ kiêm việc tư pháp. Uỷ ban hành chính tỉnh có quyền

hạn như Toà án đệ nhị cấp; Uỷ ban hành chính phủ, huyện, châu có quyền hạn

như Toà án sơ cấp.

Ngày 17/4/1946 Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 51 ấn định thẩm

quyền các Toà án và sự phân công giữa các thành viên trong Toà án.

Theo quy định của Sắc lệnh này thì Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền như

sau: Về hình sự, Toà án sơ cấp có quyền xử chung thẩm những án phạt bạc từ

0,5 đồng đến 9 đồng, những án xử bồi thường từ 150 đồng trở xuống do

nguyên cáo bị thiệt hại trong một vụ vi cảnh thỉnh cầu trong đơn khiếu, hay

chậm nhất lúc việc vi cảnh đem ra phiên toà xử; có quyền xử sơ thẩm những án

phạt giam từ 01 ngày đến 05 ngày, những án xử bồi thường quá 150 đồng hoặc

những việc xin bồi thường quá số tiền ấy, mà nguyên đơn thỉnh cầu trong đơn

khiếu hay chậm nhất, lúc việc vi cảnh đem ra phiên toà xử. Về dân sự và

thương sự, Toà án sơ cấp có quyền xử chung thẩm những việc kiện dân sự,

thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định không quá 150 đồng,

những việc kiện về các khoản lệ phí đã phát sinh ra trước Toà án ấy không cứ

giá ngạch nào; Sơ thẩm những việc dân sự hay thương sự về động sản mà giá

ngạch do nguyên đơn định trên 150 đồng, nhưng dưới 450 đồng [14].

Để nâng cao hiệu lực tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói

chung, TAND nói riêng, trên cơ sở kế thừa quy định của các sắc lệnh đã ban

42

hành, ngày 09/11/1946 Quốc hội đã ban hành Hiến pháp đầu tiên của nước ta.

Theo Hiến pháp năm 1946 thì hệ thống Tòa án nước ta gồm có: Tòa án

tối cao, các Tòa án phúc thẩm, các Tòa án đệ nhị cấp, các Tòa án sơ cấp. Các

Tòa án này được tổ chức theo cấp xét xử chứ không tổ chức theo đơn vị hành

chính – lãnh thổ như sau này. Theo Hiến pháp năm 1946 thì Tòa án được tổ

chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau: nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán,

các Thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm; khi xét xử việc hình thì phải có

các phụ thẩm nhân dân tham gia; khi xét xử các Thẩm phán chỉ tuân theo

pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp; các phiên tòa đều công

khai, trừ trường hợp đặc biệt; bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật

sư; Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước Tòa án [44].

Tuy nhiên, do sự xâm lược của thực dân Pháp, toàn quốc kháng chiến,

nên hệ thống Toà án chưa tổ chức được theo Hiến pháp năm 1946. Sau ngày

19/12/1946, nhân dân cả nước bước vào thời kỳ kháng chiến trường kỳ gian

khổ chống thực dân Pháp và bảo vệ chính quyền cách mạng. Để củng cố và

tăng cường kỷ luật trong quân đội nhân dân, ngày 16/12/1947 Chủ tịch Chính

phủ ban hành Sắc lệnh số 19/SL tổ chức Tòa án binh trên toàn cõi Việt Nam.

Ngày 05/7/1947, Chủ tịch Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 59/SL về thành lập

Tòa án binh khu trung ương. “Các Tòa án binh có thẩm quyền xét xử những

quân nhân phạm tội hoặc những người khác phạm tội mà gây thiệt hại cho

quân đội” [16]. Ngày 26/5/1948, Chủ tịch Chính phủ tiếp tục ban hành Sắc

lệnh số 185/SL ấn định thẩm quyền các Toà án sơ cấp và đệ nhị cấp theo

hướng tăng thẩm quyền cho các Toà án này hơn so với Sắc lệnh số 51 ngày

17/4/1946.

Theo quy định của Sắc lệnh số 185/SL Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền:

Về hình sự, các Toà án sơ cấp có quyền xử chung thẩm những án vi cảnh phạt

bạc từ 5 đồng đến 30 đồng, những việc đòi bồi thường từ 300 đồng trở xuống,

43

do nguyên cáo bị thiệt hại trong một vụ vi cảnh thỉnh cầu trong đơn khiếu hay

chậm nhất lúc việc vi cảnh đem ra phiên toà xử, những việc đòi bồi thường

quá 300 đồng mà nguyên đơn thỉnh cầu trong đơn khiếu hay ở phiên toà. Về

dân sự và thương sự, xét xử chung thẩm những việc kiện về động sản mà giá

ngạch do nguyên đơn định không quá 300 đồng, những việc kiện về các

khoản lệ phí đã phát định ra trước Toà án ấy, không cứ giá ngạch nào; xét xử

sơ thẩm những việc kiện về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định trên

300 đồng nhưng không quá 1500 đồng, những việc liên can đến hộ tịch (việc

xin khai sinh, tử, giá thú quá hạn, xin sửa chữa giấy khai sinh, tử, giá thú,...).

Nếu vì tình thế chiến tranh, việc giao thông gián đoạn, mà một Toà án sơ cấp

bị mất liên lạc với Toà án đệ nhị cấp, thì Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến huyện

và Thẩm phán sơ cấp sẽ ra quyết định nhận định tình thế ấy và báo cáo ngay

lên tỉnh để Uỷ ban Kháng chiến tỉnh và Biện lý Toà án đệ nhị cấp chuẩn y.

Trong trường hợp mất liên lạc có quyết định nhận định, thì Toà án sơ cấp có

thẩm quyền đặc biệt sau đây: Về phương diện tư pháp công an, Thẩm phán sơ

cấp có quyền sau khi hỏi ý kiến Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến huyện, quyết

định giam cứu bị can đến 45 ngày nếu là việc tiểu hình hoặc đến 4 tháng nếu

là việc đại hình. Hạn giam cứu ấy không thể gia thêm được. Khi hết hạn, tự

nhiên bị can phải được tha ngay. Nếu Toà án sơ cấp lại liên lạc được với Toà

án đệ nhị cấp, thì Thẩm phán sơ cấp phải báo cáo ngay lên ông Biện lý để ông

này quyết định về việc giam cứu. Các án xử sơ thẩm của Toà án sơ cấp về

hình sự (án phạt giam, án xử các việc đòi bồi thường trên 300 đồng) sẽ tạm thi

hành mặc dầu có sự kháng cáo của bị can hay của dân sự nguyên cáo. Về dân

sự, Thẩm phán sơ cấp có quyền ra mệnh lệnh quyết định các phương pháp

bảo thủ khẩn cấp, không có giới hạn nào. Khi Toà án sơ cấp lại liên lạc được

với Toà án đệ nhị cấp, thì Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến huyện và Thẩm phán

sơ cấp ra quyết nghị nhận định tình thế ấy. Khi ấy, thẩm quyền đặc biệt của

44

Toà án sơ cấp sẽ hết. Các việc mà Thẩm phán sơ cấp đã làm trong tình thế

mất liên lạc, phải báo cáo lên Toà án đệ nhị cấp để chuẩn y. Các án sơ thẩm

về hình sự sẽ không tạm thi hành nữa, trong khi chờ đợi Toà án cấp trên xét

xử việc kháng cáo [17].

Trong giai đoạn này, để nâng cao chất lượng xét xử, nhà nước đã tiến

hành công cuộc cải cách tư pháp, theo đó đã ban hành những quy định pháp

luật cụ thể về cải cách tổ chức bộ máy Tòa án.

Theo Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước quy định để

xử việc hình và việc hộ, Toà án sơ cấp và Toà án đệ nhị cấp gồm một Thẩm

phán và hai Hội thẩm, Hội đồng phúc án gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm

nhân dân. Hội thẩm nhân dân có quyền xem hồ sơ và biểu quyết. Hội thẩm

nhân dân được hưởng đặc quyền tài phán như các Thẩm phán và lương bổng

như các uỷ viên Uỷ ban Kháng chiến hành chính cấp tương đương. Nhiệm kỳ

của Hội thẩm nhân dân là một năm. Theo Sắc lệnh này có những quy định

mới về Thẩm quyền của Tòa án sơ cấp về hòa giải: Tòa án sơ cấp họp thành

Hội đồng hoà giải để thử hoà giải tất cả các vụ kiện về dân sự và thương sự,

kể cả các việc xin ly dị, trừ những vụ kiện mà theo luật pháp đương sự không

có quyền điều đình [18].

Về việc bổ nhiệm Thẩm phán, trong thời kỳ này do điều kiện khách

quan nhất định nên Sắc lệnh số 158/SL ngày 17/11/1950 đã quy định đưa cán

bộ công nông có thành tích và có kinh nghiệm vào làm Thẩm phán mà không

đòi hỏi phải có bằng cấp về luật học nhằm tăng cường cho các TAND một đội

ngũ cán bộ có quan điểm lập trường cách mạng trong công tác, làm nòng cốt

để xây dựng các Tòa án trở thành những Tòa án thực sự của nhân dân [19].

2.1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980

Ngày 31/12/1959, Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ 11 đã thông qua Hiến

pháp mới của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhằm đáp ứng nhiệm vụ cách

45

mạng trong giai đoạn mới là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu

tranh thống nhất nước nhà. Hiến pháp năm 1959 đã xác định lại vị trí, chức

năng của TAND và Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước, theo đó

hai hệ thống cơ quan này không thuộc Hội đồng Chính phủ mà trực tiếp chịu

trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà

nước cao nhất. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã

thông qua Luật Tổ chức TAND ngày 14/7/1960, Uỷ ban thường vụ Quốc hội

đã thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của TAND tối cao và tổ

chức của các TAND địa phương.

Theo quy định tại văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì TAND gồm

có: TAND tối cao, TAND địa phương và Tòa án quân sự. TAND địa phương

gồm có: TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính

tương đương; TAND huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành

chính tương đương; TAND ở các khu vực tự trị [37], [45].

Về chức năng, các TAND là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam

dân chủ cộng hoà. Về nhiệm vụ thì mục đích của việc xét xử là bảo vệ chế độ

dân chủ nhân dân, trật tự xã hội, tài sản công cộng và quyền lợi hợp pháp của

nhân dân, góp phần bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà được

tiến hành thắng lợi. Về nguyên tắc hoạt động, mọi công dân đều bình đẳng

trước pháp luật, không phân biệt nam nữ, dân tộc, nòi giống, tôn giáo, tín

ngưỡng, địa vị xã hội và thành phần xã hội; khi xét xử, TAND có quyền độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật; các TAND thực hành chế độ Thẩm phán bầu;

việc xét xử tại các TAND đều công khai, trừ trường hợp đặc biệt mà TAND

xét thấy cần xử kín để giữ gìn bí mật nhà nước hoặc giữ gìn đạo đức xã hội;

quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm; TAND bảo đảm cho công dân

thuộc các dân tộc thiểu số có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình

46

trước Toà án, khi cần thiết TAND phải chỉ định người phiên dịch để bảo đảm

thực hiện quyền đó; TAND thực hành chế độ hai cấp xét xử; khi xét xử, Hội

thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán; TAND thực hành chế độ xét xử

tập thể và quyết định theo đa số.

Về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện có thể khái quát như

sau: TAND cấp huyện là một cấp Tòa án trong hệ thống TAND được tổ chức

từ trung ương đến địa phương phù hợp với điều kiện và đặc thù của chế độ

chính trị ở nước ta. TAND cấp huyện gồm có Chánh án và Thẩm phán, nếu

cần thiết thì có Phó Chánh án. Về thẩm quyền xử sơ thẩm những vụ án hình

sự và dân sự do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của các TAND huyện,

thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương, hoà giải

những vụ tranh chấp về dân sự, phân xử những việc hình sự nhỏ không phải

mở phiên toà và hướng dẫn công tác hoà giải ở xã và khu phố. Từ năm 1961

TAND tối cao có nhiệm vụ quản lý các TAND địa phương”. Tuy nhiên, trong

giai đoạn này việc quản lý các TAND địa phương là song trùng trực thuộc,

bởi vì TAND tối cao chủ yếu quản lý về công tác sắp xếp bộ máy làm việc, số

lượng biên chế, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn tổng biên chế

của các TAND địa phương, quản lý về công tác xét xử, trong khi đó UBND

địa phương quản lý và cấp kinh phí hoạt động cũng như sắp xếp nhân sự

(Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán do HĐND cùng cấp bầu).

2.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992

Ngày 18/12/1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

khoá VI, kỳ họp thứ 7, đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam. Các quy

định của Hiến pháp năm 1980 về TAND tiếp tục được kế thừa và phát triển từ

các quy định của Hiến pháp năm 1959 về tổ chức và hoạt động của TAND.

Các quy định của Hiến pháp năm 1980 về tổ chức và hoạt động của TAND

được cụ thể hoá bằng Luật Tổ chức TAND, được Quốc hội nước Cộng hoà xã

47

hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 3/7/1981 và được sửa đổi, bổ sung

theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức TAND, được Quốc hội nước Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 22/12/1988. Theo quy định tại

văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì về cơ bản, tổ chức và hoạt động của

TAND nói chung, của TAND cấp huyện nói riêng không khác so với tổ chức

Tòa án theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Tuy nhiên, thẩm quyền xét xử, các

nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức TAND

năm 1981 và Luật Tổ chức TAND năm 1981 được sửa đổi, bổ sung năm 1988

có một số điểm mới.

Thứ nhất, về nhiệm kỳ của Thẩm phán: nhiệm kỳ Thẩm phán theo Luật

Tổ chức TAND năm 1960 được quy định trong thời hạn nhất định còn trong

Luật Tổ chức TAND năm 1981 thì nhiệm kỳ của Thẩm phán tính theo nhiệm

kỳ của cơ quan bầu ra là HĐND. Thứ hai, về tổ chức của TAND cấp huyện:

TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có Chánh án, một hoặc hai

Phó Chánh án, các Thẩm phán và các Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án,

Chấp hành viên và tuỳ theo yêu cầu công tác, có các chuyên viên pháp lý giúp

việc. Thứ ba, về thẩm quyền xét xử: sơ thẩm những vụ án hình sự về những

tội phạm theo quy định tại Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự, sơ thẩm những

vụ án dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình và những vụ án khác do pháp

luật quy định, trừ những việc mà đương sự là người nước ngoài hoặc là người

Việt Nam ở nước ngoài [37], [38].

Theo Luật Tổ chức TAND năm 1981, Bộ Tư pháp có thẩm quyền quản

lý các Tòa án địa phương, tuy vậy việc các Tòa án địa phương thuộc thẩm

quyền quản lý của Bộ Tư pháp cũng chỉ ở việc Bộ Tư pháp trình Ủy ban

thường vụ Quốc hội tổng biên chế, quy định biên chế cho từng Tòa án địa

phương, còn về kinh phí hoạt động của Tòa án địa phương thì vẫn do ngân

sách địa phương cấp và HĐND cùng cấp vẫn là cơ quan bầu ra các chức danh

48

Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. TAND tối cao thực

hiện việc hướng dẫn xét xử, đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật trong

phạm vi toàn quốc đối với hoạt động xét xử của các TAND.

2.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002

Đường lối đổi mới mọi mặt về đời sống xã hội do Đại hội lần thứ VI

của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã tạo tiền đề cho việc nghiên cứu,

xây dựng Hiến pháp năm 1992. Trước những yêu cầu thực hiện công cuộc đổi

mới, mô hình tổ chức TAND theo Hiến pháp năm 1980 quản lý nhà nước theo

cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp không còn phù hợp. Vì vậy, kế thừa

các quy định của Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 đã có những quy

định thể hiện sự đổi mới trong tổ chức và hoạt động của TAND. Trên cơ sở

Hiến pháp năm 1992, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức TAND ngày

06/10/1992 và được sửa đổi, bổ sung theo các Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật Tổ chức TAND, được Quốc hội thông qua ngày 28/12/1993 và

ngày 28/10/1995. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Tổ

chức Toà án quân sự ngày 19/4/1993 và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm

TAND ngày 14/5/1993. Theo các văn bản pháp luật này thì tổ chức và hoạt

động của TAND đã được kiện toàn và đổi mới một bước cơ bản. Nhìn chung

nhiều quy định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt động của TAND

được kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1980.

Tuy nhiên một số quy định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt

động của các cơ quan tư pháp nói chung và của TAND nói riêng đã thể hiện rõ

nét đổi mới các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan này; cụ thể:

Thứ nhất, về tổ chức, TAND cấp huyện tiếp tục được khẳng định là

một cấp Tòa án trong hệ thống TAND. Cơ cấu tổ chức của TAND huyện,

quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có Chánh án, một hoặc hai Phó Chánh án,

các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án. Hoạt động của TAND

49

cấp huyện do Chánh án TAND cấp huyện lãnh đạo, Chánh án TAND cấp

huyện có nhiệm vụ và quyền hạn là tổ chức công tác xét xử, báo cáo công tác

xét xử của Toà án trước HĐND cùng cấp và với Toà án cấp trên trực tiếp.

Thứ hai, về thẩm quyền xét xử, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố

thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố

tụng.

Thứ ba, về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, điểm mới của Hiến pháp

năm 1992 quy định về TAND là chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và

nhiệm kỳ của Thẩm phán được thay thế cho chế độ bầu cử Thẩm phán theo

quy định của Hiến pháp năm 1980 [46], [47]. Lần đầu tiên trong lịch sử lập

pháp của nước ta, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành một văn bản

pháp luật riêng biệt về Thẩm phán và Hội thẩm TAND. Pháp lệnh Thẩm phán

và Hội thẩm TAND đã quy định cụ thể tiêu chuẩn của Thẩm phán, Hội thẩm

Toà án ở mỗi cấp; nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, Hội thẩm Toà án;

quy định cụ thể về tiêu chuẩn Thẩm phán. Đồng thời, để bảo đảm cho việc bổ

nhiệm Thẩm phán đúng và có chất lượng, Pháp lệnh quy định về việc thành

lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án các cấp. Chế độ đãi ngộ đối với

Thẩm phán đã có một bước cải cách trong chế độ tiền lương thể hiện sự đánh

giá lao động xét xử là một loại lao động quan trọng, cần được sự ưu đãi của

nhà nước. Thứ tư, cơ sở vật chất, phương tiện, điều kiện làm việc của TAND

đã được chú trọng và được nâng cao lên một bước. Công tác đào tạo mới và

đào tạo lại cán bộ, công tác ở các Toà án đã được quan tâm, chú trọng và đẩy

mạnh hơn trước.

2.1.5. Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2013

Để cụ thể hoá các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về xây dựng

và hoàn thiện bộ máy nhà nước cũng như những yêu cầu về đổi mới tổ chức

và hoạt động của TAND đã được đề ra trong các Nghị quyết, Văn kiện của

50

Đảng, đặc biệt là trong Văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX

của Đảng và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị

“Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Ngày

02/4/2002, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật Tổ chức

TAND mới thay thế Luật Tổ chức TAND năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung

theo các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức TAND năm

1993 và năm 1995. Theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2002, cơ cấu

tổ chức, hoạt động của TAND cấp huyện có những bước đổi mới và được quy

định cụ thể hơn nhằm đáp ứng yêu cầu xét xử.

Thứ nhất, về tổ chức, theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm

2002, cơ cấu tổ chức của TAND cấp huyện gồm có Chánh án, một hoặc hai

Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án và bộ máy

giúp việc. Thứ hai, về thẩm quyền xét xử, TAND huyện, quận, thị xã, thành

phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp

luật tố tụng. Thứ ba, về hoạt động của TAND cấp huyện, Luật Tổ chức

TAND năm 2002 tiếp tục quy định cụ thể về các nguyên tắc xét xử có Hội

thẩm nhân dân tham gia. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số; Tòa án xét

xử công khai, trừ trường hợp cần xét xử kín để giữ gìn bí mật nhà nước, thuần

phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của các đương sự theo yêu cầu

chính đáng của họ; Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình

đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo,

thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang

nhân dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều

bình đẳng trước pháp luật; Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; Tòa án bảo đảm cho những

người tham gia tố tụng quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước

51

Tòa án. Về nguyên tắc xét xử, Tòa án thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử;

bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo

quy định của pháp luật tố tụng; bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng

cáo, kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy định thì có hiệu lực pháp

luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án

phải được xét xử phúc thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp

luật; đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát

hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo trình

tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của pháp luật. Thứ tư, về Thẩm

phán và Hội thẩm nhân dân, theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm

2002, Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002, Pháp lệnh về

Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì

Thẩm phán gồm có: Thẩm phán TAND tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm

phán sơ cấp. Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật

để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm

quyền của Tòa án. Hội thẩm gồm có: Hội thẩm nhân dân TAND tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương, Hội thẩm nhân dân TAND huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Hội thẩm nhân dân), Hội thẩm quân nhân

Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự

khu vực (gọi chung là Hội thẩm quân nhân) [40], [63], [64].

Như vậy, nghiên cứu các quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2002

có thể nhận thấy một số điểm mới cơ bản sau đây: Thứ nhất, bổ sung quy định

về chế độ hai cấp xét xử. Theo quy định này bản án, quyết định sơ thẩm của

Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp

xét xử phúc thẩm. Thứ hai, TAND tối cao quản lý các TAND địa phương và

các Tòa án quân sự về tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ với HĐND địa phương

và Bộ Quốc phòng. Thứ ba, bổ sung một số nhiệm vụ và quyền hạn mới của

52

Chánh án TAND tối cao về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó

Chánh án, Thẩm phán các TAND địa phương. Thứ tư, bổ sung quy định về sự

giám sát của nhân dân đối với Thẩm phán, Hội thẩm; quy định về mối quan

hệ giữa Thẩm phán, Hội thẩm với các cơ quan, tổ chức và công dân và bổ

sung quy định về thành phần của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, mối quan

hệ giữa Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán với Chánh án TAND tối cao trong

việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các TAND địa phương.

2.2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn

tỉnh Quảng Ngãi

2.2.1. Tình hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

huyện

2.2.1.1. Tình hình tổ chức

Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Duyên Hải Nam Trung

Bộ có đường bờ biển Quảng Ngãi, được tái lập trên cơ sở tách tỉnh Nghĩa

Bình thành 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định năm 1989. Khi tách ra, tỉnh

Quảng Ngãi có 10 đơn vị hành chính gồm thị xã Quảng Ngãi và 9 huyện: Ba

Tơ, Bình Sơn, Đức Phổ, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn

Tịnh, Trà Bồng. Ngày 01 tháng 01 năm 1993, huyện đảo Lý Sơn được thành

lập. Năm 1994, tiếp tục thành lập huyện Sơn Tây trên cơ sở tách ra từ

huyện Sơn Hà. Ngày 01 tháng 12 năm 2003, Chính phủ đã ban hành Nghị

định số 145/2003/NĐ-CP về việc thành lập huyện Tây Trà trên cơ sở tách ra

từ huyện Trà Bồng. Ngày 26 tháng 8 năm 2005, thị xã Quảng Ngãi được nâng

lên thành phố Quảng Ngãi theo Nghị định 112/2005/NĐ-CP của Chính phủ.

Ngày 12 tháng 12 năm 2013, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số

123/NQ-CP điều chỉnh địa giới hành chính huyện Sơn Tịnh, huyện Tư

Nghĩa để mở rộng địa giới hành chính thành phố Quảng Ngãi và thành

lập phường Trương Quang Trọng thuộc thành phố Quảng Ngãi. Hiện nay tỉnh

53

Quảng Ngãi có 01 thành phố trực thuộc và 13 huyện, trong đó có 01 huyện

đảo, 01 huyện trung du, 05 huyện đồng bằng, 06 huyện miền núi, mỗi huyện,

thành phố đều có TAND cấp huyện trực thuộc TAND tỉnh Quảng Ngãi.

Các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hầu hết đều có cơ

cấu tổ chức bao gồm lãnh đạo là 01 Chánh án, 01 Phó Chánh án, các Thẩm

phán sơ cấp, các Thư ký Tòa án, công chức khác và người lao động. Theo

Luật Tổ chức TAND năm 2014 thì TAND cấp huyện có thể có các Tòa

chuyên trách như Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành

niên, Tòa xử lý hành chính nhưng hiện nay chưa có TAND cấp huyện nào

trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có các Tòa chuyên trách này. Vì vậy, trong cơ

cấu tổ chức cũng không có các Chánh tòa chuyên trách. Hiện tại TAND tỉnh

Quảng Ngãi đã đề nghị thành lập các Tòa án chuyên trách tại các TAND nhân

dân cấp huyện trong tỉnh có đủ điều kiện theo quy định của Luật Tổ chức

TAND năm 2014 và văn bản hướng dẫn, với cơ cấu tổ chức ở mỗi Tòa đều có

Chánh tòa, Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thư ký Tòa án.

Tùy từng TAND cấp huyện có sự phân công số lượng nhân sự khác

nhau để phù hợp và tương ứng với số lượng vụ việc mà từng đơn vị phải giải

quyết, qua từng năm từ năm 2012 – 2016 số lượng nhân sự của từng đơn vị

TAND cấp huyện có sự thay đổi nhưng không nhiều, phần lớn là biến động

nhân sự từ quyết định biệt phái từ đơn vị TAND tỉnh về các TAND cấp huyện

hoặc từ TAND huyện này sang TAND huyện khác. Hiện nay, trên địa bàn

tỉnh Quảng Ngãi đơn vị có số lượng vụ việc phải giải quyết cao nhất là TAND

thành phố Quảng Ngãi và cũng là đơn vị có số lượng nhân sự đông nhất với

29 người, trong đó có 03 Thẩm phán trung cấp, 06 Thẩm phán sơ cấp, 13 Thư

ký Tòa án và 03 công chức và 04 người lao động; huyện có số lượng án phải

giải quyết thấp nhất là huyện đảo Lý Sơn có số lượng nhân sự thấp nhất với

06 người, trong đó có 02 Thẩm phán sơ cấp, 02 Thư ký Tòa án, 01 công chức,

54

01 người lao động. Các TAND cấp huyện khác tùy theo số lượng vụ việc giải

quyết và tình hình địa phương mà có số lượng công chức khác nhau:

+ TAND huyện Bình Sơn: 16 người, trong đó 04 Thẩm phán sơ cấp, 08

Thư ký Tòa án, 02 công chức, 02 người lao động.

+ TAND huyện Sơn Tịnh: 13 người, trong đó 01 Thẩm phán trung cấp,

03 Thẩm phán sơ cấp, 05 Thư ký Tòa án, 02 công chức, 02 người lao động.

+ TAND huyện Tư Nghĩa: 13 người, trong đó 01 Thẩm phán trung cấp,

03 Thẩm phán sơ cấp, 05 Thư ký Tòa án, 02 công chức, 02 người lao động.

+ TAND huyện Mộ Đức: 11 người, trong đó 02 Thẩm phán trung cấp,

01 Thẩm phán sơ cấp, 05 Thư ký Tòa án, 01 công chức, 02 người lao động.

+ TAND huyện Đức Phổ: 15 người, trong đó 01 Thẩm phán trung cấp,

04 Thẩm phán sơ cấp, 06 Thư ký Tòa án, 02 công chức, 02 người lao động.

+ TAND huyện Nghĩa Hành: 12 người, trong đó 01 Thẩm phán trung

cấp, 04 Thẩm phán sơ cấp, 04 Thư ký Tòa án, 01 công chức, 02 người lao

động.

+ TAND huyện Ba Tơ: 08 người, trong đó 01 Thẩm phán trung cấp, 01

Thẩm phán sơ cấp, 04 Thư ký Tòa án, 01 công chức, 01 người lao động.

+ TAND huyện Sơn Hà: 11 người, trong đó 03 Thẩm phán sơ cấp, 06

Thư ký Tòa án, 01 công chức, 01 người lao động.

+ TAND huyện Sơn Tây: 07 người, trong đó 02 Thẩm phán sơ cấp, 03

Thư ký Tòa án, 01 công chức, 01 người lao động.

+ TAND huyện Trà Bồng: 08 người, trong đó 03 Thẩm phán sơ cấp, 03

Thư ký Tòa án, 01 công chức, 01 người lao động.

+ TAND huyện Tây Trà: 06 người, trong đó 02 Thẩm phán sơ cấp, 02

Thư ký Tòa án, 01 công chức, 01 người lao động.

+ TAND huyện Minh Long: 06 người, trong đó 02 Thẩm phán sơ cấp,

02 Thư ký Tòa án, 01 công chức, 01 người lao động.

55

Về Hội thẩm nhân dân, trên cơ sở đề xuất nhu cầu về số lượng, cơ cấu

thành phần Hội thẩm của TAND cấp huyện, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam cùng cấp lựa chọn và giới thiệu người đủ tiêu chuẩn theo quy định pháp

luật để Hội đồng nhân dân (HĐND) cùng cấp bầu Hội thẩm nhân dân. Cùng

với Thẩm phán và Thư ký Tòa án, Hội thẩm khi được phân công tham gia giải

quyết, xét xử vụ án, thì Hội thẩm được xác định là một trong những người

tiến hành tố tụng tại Tòa án. Nguồn của các Hội thẩm nhân dân ở TAND cấp

huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay thường là công chức, viên chức

của các cơ quan nhà nước hoặc đương chức hoặc đã về hưu, do Mặt trận Tổ

quốc lựa chọn và giới thiệu. Số lượng Hội thẩm nhân dân tại TAND cấp

huyện tùy thuộc vào số lượng án của từng TAND cấp huyện. Trên địa bàn

tỉnh Quảng Ngãi, TAND thành phố Quảng Ngãi có số lượng Hội thẩm nhân

dân nhiều nhất với 30 Hội thẩm, TAND huyện Lý Sơn có số lượng Hội thẩm

nhân dân ít nhất với 13 Hội thẩm.

2.2.1.2. Tình hình hoạt động

Các TAND cấp huyện hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập

thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách do Chánh án trực tiếp điều hành. Chánh án,

Phó Chánh án chịu trách nhiệm cá nhân về lĩnh vực công tác được phân công.

Trong đó Chánh án TAND cấp huyện là người đứng đầu cơ quan, chịu trách

nhiệm quản lý, điều hành chung, hoạt động theo chức năng quy định tại Luật

tổ chức TAND và Quyết định số 1138/QĐ- TCCB, ngày 22/8/2008 của

Chánh án TAND tối cao về phân cấp quản lý cán bộ TAND địa phương. Phó

Chánh án giúp việc cho Chánh án trên cơ sở sự phân công của Chánh án. Phó

Chánh án theo dõi, điều hành một số lĩnh vực công tác được phân công phụ

trách và chịu trách nhiệm trước Chánh án về những hoạt động thuộc phạm vi

của mình quản lý. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án, Phó Chánh án, các

Thẩm phán, các Thư ký Tòa án, công chức khác và người lao động được quy

56

định cụ thể trong Luật tổ chức TAND năm 2014, Bộ luật tố tụng dân sự năm

2015, Luật tố tụng hành chính năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và

các văn bản quy phạm pháp luật do TAND tối cao ban hành cũng như quy

định trong Quy chế làm việc của từng đơn vị phù hợp với tình hình thực tế

của từng địa phương.

Nhìn chung, ngoài các văn bản quy phạm pháp luật quy định về trách

nhiệm, quyền hạn của lãnh đạo, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, công chức khác

và người lao động thì Quy chế làm việc của hầu hết các TAND cấp huyện

trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi quy định cụ thể như sau:

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án: Chánh án có nhiệm vụ tổ chức

công tác xét xử và các công tác khác theo quy định của pháp luật, quản lý

công tác tổ chức cán bộ và trực tiếp quản lý điều hành ngân sách nhà nước;

báo cáo công tác của Tòa án trước HĐND cùng cấp và với TAND cấp trên.

- Nhiệm vụ, quyền hạn của Phó Chánh án: Phó Chánh án giúp việc cho

Chánh án làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án. Khi Chánh án vắng

mặt, Phó Chánh án được Chánh án ủy quyền thay mặt lãnh đạo giải quyết

công việc của cơ quan và chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được

giao. Khi giải quyết công việc được phân công, có những vấn đề phức tạp,

vướng mắc thì báo với Chánh án để cùng tập thể lãnh đạo, trao đổi và giải

quyết.

- Về trách nhiệm của lãnh đạo (gồm Chánh án, Phó Chánh án): Đề xuất

với các cấp lãnh đạo về quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm đối với cán bộ, công

chức trong cơ quan trước mắt và lâu dài; xây dựng kế hoạch chương trình

công tác của đơn vị và phân công cán bộ, công chức thực hiện các nhiệm vụ

công tác đã đề ra của hệ thống Tòa án; tuân thủ sự phân công của Tòa án cấp

trên, của Thường vụ Huyện ủy và HĐND cấp huyện về công tác tổ chức, xây

dựng hệ thống, đồng thời quan hệ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp

57

và các ngành liên quan để phục vụ cho yêu cầu nhiệm vụ của mình; báo cáo

tình hình, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao và các mặt công tác của đơn

vị với ngành cấp trên và địa phương.

- Về trách nhiệm của Thẩm phán: Từng Thẩm phán chủ động xây dựng

kế hoạch công tác và giải quyết án được giao. Phải chịu trách nhiệm cá nhân

đối với án do mình giải quyết để án quá hạn luật định mà không có lý do;

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa xét xử các loại án phải nêu cao tinh thần trách

nhiệm, nghiên cứu nắm vững nội dung và tình tiết vụ án, bảo đảm xét xử

đúng pháp luật; phải điều khiển việc tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải

cách tư pháp; Thẩm phán có trách nhiệm quản lý, điều hành và giao công việc

cụ thể cho Thư ký Tòa án được phân công làm việc với mình.

- Về trách nhiệm của Thư ký Tòa án: Thư ký Tòa án thực hiện công

việc theo sự phân công của Thẩm phán đối với nhiệm vụ được giao. Giúp

Thẩm phán lập các thủ tục trong quá trình giải quyết vụ án, từ khi nhận đơn

cho đến khi kết thúc vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, trong khi thực

hiện nhiệm vụ phải bảo đảm tính khách quan, trung thực, chính xác và chịu

trách nhiệm về công việc mình làm. Thực hiện đầy đủ trách nhiệm của Thư

ký Tòa án đối với các công việc trước, trong và sau phiên tòa xét xử.

- Về trách nhiệm của Văn phòng

+ Văn thư: Tất cả các công văn đến phải được vào sổ và trình lãnh đạo

để xử lý. Phát công văn, giấy báo… phải kịp thời (ngay trong ngày) nếu thất

lạc hoặc mất công văn… phải chịu trách nhiệm. Lưu trữ các loại văn bản phải

khoa học, ngăn nắp và bảo mật.

+ Lưu trữ hồ sơ: Tất cả hồ sơ án, sau khi có hiệu lực pháp luật, từng bộ

phận phải hoàn chỉnh hồ sơ, bút lục chuyển sang lưu trữ theo quy định hàng

năm. Công chức làm công tác lưu trữ phải lập sổ, phiếu để quản lý theo dõi

đúng quy trình của công tác lưu trữ, nghiêm chỉnh chấp hành chế độ bảo mật.

58

Tất cả công chức trong và ngoài cơ quan mượn hồ sơ lưu trữ phải có ý kiến

phê duyệt của Chánh án.

+ Kế toán: Phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện chức

năng, nhiêm vụ của mình, quản lý kinh phí chặt chẽ, thu, chi các loại phải

đúng, đủ, kịp thời, chứng từ hợp lệ đảm bảo theo luật định. Lập hệ thống sổ

sách kế toán và sổ theo dõi tài sản cố định đầy đủ, chính xác đảm bảo cho

việc quyết toán hàng năm theo quy định của hệ thống. Báo cáo kinh tế tài

chính công khai hàng quý cho cán bộ, công chức trong cơ quan biết.

+ Thủ quỹ: Lập sổ theo dõi quản lý tiền mặt, rút tiền, chi và cho tạm

ứng kịp thời nhưng phải đảm bảo nguyên tắc tài chính về thu, chi; tiền quỹ

không được mang về nhà riêng, nếu để xảy ra thâm hụt, mất mát mà không có

lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm và bồi thường.

Hoạt động dựa trên cơ cấu tổ chức được phân bổ, TAND cấp huyện

trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã đạt được nhiều kết quả đáng kể trong điều

kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bên cạnh đó, trong

quá trình hoạt động TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn nhiều

tồn tại, hạn chế cũng như vướng mắc, khó khăn cần khắc phục, nhằm bảo đảm

hoạt động của mình để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền

XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

2.2.2. Đánh giá về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Quảng Ngãi là một tỉnh thuộc Trung trung bộ, điều kiện kinh tế còn

nhiều khó khăn, cùng với sự phát triển của Khu kinh tế mở Dung Quất và nhà

máy lọc dầu Dung Quất đã mở ra bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế, du lịch

hòa nhập với sự phát triển kinh tế của đất nước, quốc tế. Trong bối cảnh đó,

tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh tuy được kiềm chế nhưng còn diễn biến

59

phức tạp, số lượng các vụ việc dân sự, hành chính mà TAND cấp huyện phải

thụ lý, giải quyết có xu hướng gia tăng và ngày càng phức tạp về tính chất,

thêm đó thẩm quyền của TAND cấp huyện ngày càng được mở rộng. Trong

giai đoạn năm 2012 – 2016 số lượng các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia

đình, kinh doanh thương mại, hành chính, lao động thuộc thẩm quyền giải

quyết của TAND cấp huyện không ngừng tăng lên, tạo áp lực không nhỏ cho

hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Mặc dù nhiệm

vụ đặt ra đối với các TAND cấp huyện ngày càng nặng nề, song với sự quan

tâm, lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của các cấp ủy Đảng, của TAND tối cao,

TAND tỉnh Quảng Ngãi, TAND cấp huyện đã nỗ lực vượt qua khó khăn, đẩy

nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng xét xử các loại án, cũng như các việc khác

thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện.

2.2.2.1. Những kết quả đạt được về tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp huyện

- Những kết quả đạt được về tổ chức

Đội ngũ công chức tại các TAND cấp huyện tương đối đồng đều về

trình độ chuyên môn, hầu hết có trình độ cử nhân luật chính quy, 16 công

chức có trình độ thạc sĩ luật, 42 công chức có trình độ cao cấp lý luận chính

trị và trình độ chuyên môn ngày càng được nâng cao đáp ứng yêu cầu phục vụ

công tác tại các đơn vị. Công tác luân chuyển, điều động, biệt phái nhằm nâng

cao năng lực của cán bộ, công chức cũng như phù hợp với tình hình của từng

TAND cấp huyện được thực hiện hiệu quả. Trong 5 năm từ năm 2012 đến

năm 2016 các TAND cấp huyện đều có công chức được luân chuyển, điều

động, biệt phái, cũng như có sự bổ nhiệm mới chức danh lãnh đạo Chánh án,

Phó Chánh án trong trường hợp bị khuyết để kịp thời phục vụ yêu cầu công

tác tại đơn vị. Hầu hết Chánh án các TAND cấp huyện đều trúng vào HĐND

cùng cấp.

60

Số lượng công chức được phân bổ tại TAND cấp huyện được dựa trên

số lượng án mà từng đơn vị phải giải quyết hàng năm, TAND thành phố

Quảng Ngãi có số lượng vụ việc hàng năm phải giải quyết cao nhất tỉnh. Vì

vậy, số lượng nhân sự ở đơn vị này cũng cao nhất tỉnh. TAND huyện Tây Trà,

TAND huyện đảo Lý Sơn là đơn vị có số lượng án thấp nhất, nên có số lượng

công chức ít nhất tỉnh nhưng vẫn có đầy đủ các chức danh quản lý như Chánh

án, Phó chánh án cũng như các vị trí khác gồm Thẩm phán, Thư ký Tòa án, kế

toán, văn phòng.

Hội thẩm nhân dân của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

do HĐND cùng cấp bầu, nhiệm kỳ của Hội thẩm theo nhiệm của HĐND cùng

cấp bầu ra. Khi chuẩn bị bầu cử HĐND cấp huyện, TAND cấp huyện phối

hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam cấp huyện để giới thiệu nhân sự

bầu Hội thẩm nhân dân cấp huyện đúng quy định. Sau khi có kết quả bầu Hội

thẩm, Chánh án TAND cấp huyện phối hợp với HĐND, Thường trực Ủy ban

Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam cấp huyện chỉ đạo bầu trưởng, phó đoàn Hội

thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân tham gia trong tất cả các phiên tòa xét xử

của TAND cấp huyện, góp phần quan trọng trong việc hạn chế số lượng án có

vi phạm pháp luật dẫn đến hủy, sửa, đồng thời thể hiện tính nhân đạo khi ban

hành phán quyết, đảm bảo bản án, quyết định được ban hành vừa đảm bảo

tuân thủ quy định pháp luật, vừa có tinh thần nhân đạo, “có lý có tình”.

Tổ chức của các TAND cấp huyện ngày càng phù hợp hơn với tình

hình của từng TAND cấp huyện, điều này đã góp phần đảm bảo chất lượng

hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

- Những kết quả đạt được về hoạt động

Theo thống kê của Văn phòng TAND tỉnh Quảng Ngãi thì từ năm 2012

đến năm 2016 số lượng giải quyết án của các TAND cấp huyện trên địa bàn

tỉnh Quảng Ngãi có xu hướng tăng lên. Cụ thể:

61

+ Năm 2012 TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã giải

quyết 2643 vụ việc trên số án thụ lý 3063 vụ việc đạt tỷ lệ 86,29%, cụ thể: xét

xử 678 vụ án hình sự với 1322 bị cáo, trong đó một số TAND cấp huyện đạt

tỷ lệ án giải quyết trên số án thụ lý 100% như Nghĩa Hành, Lý Sơn, Sơn Hà,

Sơn Tây, Tây Trà, Trà Bồng, Minh Long; 671 vụ việc dân sự, 1201 vụ việc

hôn nhân và gia đình, 86 vụ án kinh doanh thương mại, 05 vụ án hành chính,

02 vụ án lao động. Trong đó số vụ án hòa giải thành 1046 vụ việc/1960 vụ

việc (đạt tỷ lệ 53,37%), đạt tỷ lệ cao ở một số TAND cấp huyện như Minh

Long 100%, Trà Bồng 70%, Lý Sơn 72%, Ba Tơ 66%. TAND cấp huyện có

số lượng án được giải quyết nhiều nhất là TAND thành phố Quảng Ngãi với

541 vụ việc, trong đó xét xử 110 vụ án hình sự/206 bị cáo, giải quyết 211 vụ

việc dân sự, 169 vụ việc hôn nhân và gia đình, 49 vụ án kinh doanh thương

mại, 02 vụ án lao động. TAND cấp huyện có số lượng án thấp nhất là TAND

huyện Tây Trà với 12 vụ việc, trong đó xét xử 07 vụ án hình sự/15 bị cáo, giải

quyết 02 vụ việc dân sự, 03 vụ việc hôn nhân và gia đình.

+ Năm 2013 TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã giải

quyết 2788 vụ việc trên số án thụ lý 2997 vụ việc đạt tỷ lệ 93,03%, cụ thể: xét

xử 501 vụ án hình sự với 933 bị cáo, trong đó một số TAND cấp huyện đạt tỷ

lệ án giải quyết trên số án thụ lý 100% như Ba Tơ, Minh Long, Đức Phổ; giải

quyết 992 vụ việc dân sự, 1122 vụ việc hôn nhân và gia đình, 145 vụ án kinh

doanh thương mại, 18 vụ án hành chính, 10 vụ án lao động. Trong đó số vụ án

hòa giải thành 1236 vụ việc/2269 vụ việc (đạt tỷ lệ 54,47%), đạt tỷ lệ cao ở

một số TAND cấp huyện như Minh Long, Lý Sơn, Nghĩa Hành. TAND cấp

huyện có số lượng án được giải quyết nhiều nhất là TAND thành phố Quảng

Ngãi với 784 vụ việc, trong đó xét xử 141 vụ án hình sự/292 bị cáo, giải quyết

365 vụ việc dân sự, 198 vụ việc hôn nhân và gia đình, 75 vụ án kinh doanh

thương mại, 05 vụ án lao động. TAND cấp huyện có số lượng án thấp nhất là

62

TAND huyện Tây Trà với 08 vụ việc, trong đó xét xử 05 vụ án hình sự/9 bị

cáo, giải quyết 02 vụ việc dân sự, 01 vụ việc hôn nhân và gia đình.

+ Năm 2014 TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã giải

quyết 3098 vụ việc trên số án thụ lý 3309 vụ việc đạt tỷ lệ 93,62%, cụ thể: xét

xử 690 vụ án hình sự/1356 bị cáo, trong đó một số TAND cấp huyện đạt tỷ lệ

án giải quyết trên số án thụ lý 100% như Nghĩa Hành, Tây Trà, Tư Nghĩa;

giải quyết 906 vụ việc dân sự, 1319 vụ việc hôn nhân và gia đình, 138 vụ án

kinh doanh thương mại, 35 vụ án hành chính, 10 vụ án lao động. Trong đó số

vụ án hòa giải thành 1286 vụ việc/2373 vụ việc (đạt tỷ lệ 54,19%), đạt tỷ lệ

cao ở một số TAND cấp huyện như Minh Long, Lý Sơn, Nghĩa Hành. TAND

cấp huyện có số lượng án được giải quyết nhiều nhất là TAND thành phố

Quảng Ngãi với 638 vụ việc, trong đó xét xử 121 vụ án hình sự/258 bị cáo,

giải quyết 203 vụ việc dân sự, 244 vụ việc hôn nhân và gia đình, 59 vụ án

kinh doanh thương mại, 04 vụ án lao động, 07 vụ án hành chính. TAND cấp

huyện có số lượng án thấp nhất là TAND huyện Tây Trà với 15 vụ việc, trong

đó xét xử 13 vụ án hình sự/14 bị cáo, 02 vụ việc hôn nhân và gia đình.

+ Năm 2015 TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã giải

quyết 2950 vụ việc trên số án thụ lý 3166 vụ việc đạt tỷ lệ 93,18%, cụ thể xét

xử 608 vụ án hình sự/1193 bị cáo, trong đó một số TAND cấp huyện đạt tỷ lệ

án giải quyết trên số án thụ lý 100% như Ba Tơ, Sơn Hà, Tư Nghĩa; giải quyết

694 vụ việc dân sự, 1438 vụ việc hôn nhân và gia đình, 165 vụ án kinh doanh

thương mại, 27 vụ án hành chính, 18 vụ án lao động. Trong đó số vụ án hòa

giải thành 1267 vụ việc/2315 vụ việc (đạt tỷ lệ 54,73%), đạt tỷ lệ cao ở một số

TAND cấp huyện như Ba Tơ, thành phố Quảng Ngãi, Nghĩa Hành. TAND

cấp huyện có số lượng án được giải quyết nhiều nhất là thành phố Quảng

Ngãi với 855 vụ việc, trong đó xét xử 163 vụ án hình sự/280 bị cáo, giải quyết

221 vụ việc dân sự, 375 vụ việc hôn nhân và gia đình, 76 vụ án kinh doanh

63

thương mại, 10 vụ án lao động, 10 vụ án hành chính. TAND cấp huyện có số

lượng án thấp nhất là TAND huyện Tây Trà với 21 vụ việc, trong đó xét xử

09 vụ án hình sự/31 bị cáo, 04 vụ việc dân sự, 08 vụ việc hôn nhân và gia

đình.

+ Năm 2016 TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã giải

quyết 3070 vụ việc trên số án thụ lý 3145 vụ việc đạt 97,62%, cụ thể: xét xử

479 vụ án hình sự/864 bị cáo, trong đó một số TAND cấp huyện đạt tỷ lệ án

giải quyết trên số án thụ lý 100% như Minh Long, Tư Nghĩa, Mộ Đức; giải

quyết 894 vụ việc dân sự, 1528 vụ việc hôn nhân và gia đình, 139 vụ án kinh

doanh thương mại, 04 vụ án hành chính, 26 vụ án lao động. Trong đó số vụ án

hòa giải thành 1403 vụ việc/2587 vụ việc (đạt tỷ lệ 54,23%), trong đó đạt tỷ lệ

cao ở một số TAND cấp huyện như Ba Tơ, thành phố Quảng Ngãi, Nghĩa

Hành. TAND cấp huyện có số lượng án được giải quyết nhiều nhất là TAND

thành phố Quảng Ngãi với 1028 vụ việc, trong đó xét xử 165 vụ án hình

sự/276 bị cáo, giải quyết 351 vụ việc dân sự, 408 vụ việc hôn nhân và gia

đình, 81 vụ án kinh doanh thương mại, 19 vụ án lao động, 04 vụ án hành

chính. TAND cấp huyện có số lượng án thấp nhất là TAND huyện Tây Trà

với 15 vụ việc, trong đó xét xử 02 vụ án hình sự/06 bị cáo, 08 vụ việc dân sự,

05 vụ việc hôn nhân và gia đình. Ngoài ra, trong năm 2016, TAND cấp huyện

có công tác khác gồm: giải quyết việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính

tại TAND (năm 2016 có 11 việc hành chính), ra quyết định thi hành án.

Qua số liệu thống kê trên cho thấy số lượng vụ việc trong các lĩnh vực

thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi có xu hướng tăng lên theo từng năm, việc tăng này có thể do nhiều

nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan, như sự phát triển của Khu kinh tế

mở Dung Quất, các khu công nghiệp lớn tập trung dân cư, người lao động

trong nhiều mối quan hệ phức tạp, mâu thuẫn gia tăng dẫn đến số lượng tội

64

phạm về tệ nạn xã hội như cờ bạc, mại dâm, ma túy ngày càng nhiều. Mặt

khác, đất đai ngày càng có giá trị, việc đền bù tái định cư tại một số địa

phương có xây dựng công trình kinh tế, đường xá như đường bờ đê sông Trà

Khúc, đường cao tốc liên tỉnh… dẫn đến tranh chấp về đất đai tăng. Thêm

nữa, số lượng các cặp vợ chồng trẻ kết hôn sớm, thiếu kỹ năng sống, mâu

thuẫn gia đình, ngoại tình… dẫn đến không thể chung sống với nhau và quyết

định gởi đơn đến Tòa án yêu cầu giải quyết ly hôn. Số lượng vụ việc phải giải

quyết tại TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi tăng nhanh nhất là

TAND thành phố Quảng Ngãi, bởi đây là địa phương trung tâm kinh tế -

chính trị - xã hội của cả tỉnh, tập trung dân cư đông. Một số huyện miền núi,

hải đảo có số lượng dân cư ít, trình độ dân trí thấp, đời sống người dân còn

nhiều khó khăn như Tây Trà, Trà Bồng, Minh Long, Lý Sơn có số lượng vụ

việc do TAND cấp huyện giải quyết ít.

Kết quả đạt được của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

đã được ghi nhận trong phong trào thi đua khen thưởng, nhiều cá nhân, đơn vị

đã được tặng thưởng giấy khen của Chánh án TAND tỉnh, bằng khen của

Chánh án TAND tối cao, khen thưởng cấp nhà nước do Thủ tướng Chính phủ

tặng thưởng.

Nhìn chung, TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã thực

hiện tốt hoạt động của mình trên cơ sở cơ cấu tổ chức đã được phân bổ góp

phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phát triển kinh tế của

tỉnh Quảng Ngãi; hoạt động xét xử về cơ bản tuân thủ đúng quy định của

pháp luật, chất lượng giải quyết các vụ việc ngày càng được nâng cao trên cơ

sở pháp luật, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của cá nhân, tổ chức trong xã

hội, đảm bảo tính công bằng nhưng vẫn có tinh thần nhân đạo khi ban hành

các phán quyết, đóng góp tích cực vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền

XHCN ở nước ta.

65

2.2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế về tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp huyện

- Một số tồn tại, hạn chế về tổ chức

+ TAND cấp huyện được tổ chức ở đơn vị hành chính cấp huyện, số

lượng các vụ việc phải giải quyết của từng Tòa án là khác nhau, có nơi nhiều,

có nơi ít, phụ thuộc vào đặc điểm dân số, địa lý, mức độ phát triển kinh tế - xã

hội, số lượng tội phạm xảy ra trên từng địa bàn. Trên thực tế, tại địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi, thành phố Quảng Ngãi là đơn vị luôn phải giải quyết, xét xử số

lượng lớn các vụ việc và còn tiếp tục tăng lên (mỗi Thẩm phán giải quyết, xét

xử trên 100 vụ việc mỗi năm). Trong khi đó, TAND cấp huyện ở khu vực

miền núi, hải đảo lại có số lượng vụ việc thấp (giải quyết, xét xử 15 vụ việc

các loại mỗi năm), dẫn đến công chức ở nơi có số lượng vụ việc ít thì không

có kinh nghiệm công tác, còn công chức ở nơi có số lượng án nhiều thì lại

phải kham số lượng công việc quá tải nên đang tạo ra những trở ngại, khó

khăn trong việc kiện toàn, nâng cao năng lực và bảo đảm chất lượng hoạt

động xét xử của các Tòa án. Số lượng công chức của mỗi tỉnh được TAND tối

cao phân bố dựa trên số lượng vụ việc, nhưng ở các huyện miền núi, hải đảo

có số lượng vụ việc ít thì vẫn phải phân bổ số lượng công chức đủ cơ cấu lãnh

đạo, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, công chức kế toán, công chức văn phòng. Vì

vậy, một số TAND huyện khác thì phải gánh thêm số lượng án của những

TAND huyện này trong tỉnh. Hơn nữa, việc luân chuyển, điều động, biệt phái

công chức từ TAND huyện này đến TAND huyện khác làm xáo trộn sự phối

hợp trong mối quan hệ công tác đối với công chức trong đơn vị, với các công

chức trong các cơ quan, ban ngành có liên quan, điều này cũng ảnh hưởng đến

chất lượng hoạt động của một số TAND cấp huyện.

+ Hiện nay chế độ lương, phụ cấp cho Thẩm phán, Thư ký TAND nói

chung, cũng như TAND cấp huyện nói riêng còn thấp, gần bằng với chế độ

66

lương, phụ cấp của cán bộ, công chức các cơ quan hành chính khác. Trong

khi đó, TAND là cơ quan đặc thù, độc lập với hệ thống các cơ quan hành

chính khác, có nhiệm vụ đặc thù là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và

lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; chức năng xét xử, xử phạt các đối

tượng phạm tội nên rất dễ gây ra thù hằn đối với một số đối tượng, mà chế độ

lương, phụ cấp không phù hợp rất dễ dẫn tới sa ngã.

+ Trang thiết bị, cơ sở vật chất của TAND cấp huyện còn hạn chế, một

số trụ sở TAND cấp huyện đã xuống cấp, phòng xét xử cũng như phòng làm

việc của Thẩm phán, Thư ký Tòa án còn thiếu trang thiết bị phục vụ cho công

tác, làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của đơn vị. Một số công chức

được điều động, biệt phái đến đơn vị TAND cấp huyện xa nhà nhưng không

được bố trí nơi ở, nhiều trường hợp phải ở lại trong chính phòng làm việc, rất

bất tiện cho sinh hoạt.

+ Ảnh hưởng từ mối quan hệ chỉ đạo, tác động của các chủ thể như cấp

ủy Đảng, HĐND, UBND cùng cấp. Sự chỉ đạo của Đảng mà trực tiếp là cấp

ủy trong giải quyết án là không thể phủ nhận trong thực tế tại các TAND cấp

huyện, nhất là đối với các vụ án phức tạp, ảnh hưởng đến an ninh trật tự và dư

luận tại địa phương. Tuy nhiên, phán quyết của Hội đồng xét xử, đặc biệt là

Thẩm phán không thể không chịu tác động từ sự chỉ đạo này, dẫn đến có thể

ảnh hưởng đến việc đưa ra phán quyết vô tư, khách quan khi giải quyết án.

Đối với sự giám sát của HĐND cấp huyện, TAND cấp huyện phải báo cáo và

trả lời chất vấn trước HĐND cấp huyện về hoạt động của mình, Đoàn Hội

thẩm nhân dân báo cáo về công tác Hội thẩm. Việc giám sát này cũng tạo áp

lực cho TAND cấp huyện, ảnh hưởng đến quá trình giải quyết án của TAND.

Mặt khác, TAND còn chịu ảnh hưởng bởi cơ quan quản lý hành chính tại địa

phương, cụ thể là UBND cấp huyện mặc dù về nguyên tắc TAND độc lập với

67

cơ quan hành chính tại địa phương. Bởi đây là cơ quan hỗ trợ, tạo điều kiện

về kinh phí, trụ sở và các điều kiện vật chất khác cho TAND cấp huyện, cũng

là cơ quan quản lý về hành chính tại nơi TAND có trụ sở. TAND cấp huyện

trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi giải quyết nhiều vụ việc liên quan đến UBND

cấp huyện, nhất là các vụ án hành chính có người bị kiện là UBND hoặc Chủ

tịch UBND, nhưng trên thực tế rất khó xem các chủ thể này giống như đương

sự bình thường trong các vụ án khác. Quy định của Luật tố tụng hành chính

năm 2015 đã thay đổi về thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính có

người bị kiện là UBND hoặc Chủ tịch UBND cấp huyện nhằm khắc phục

vướng mắc này nhưng còn một số vụ án đã được thụ lý trước thời điểm Luật

này có hiệu lực vẫn do TAND cấp huyện giải quyết. Như vậy, ảnh hưởng của

cấp ủy, HĐND, UBND cấp huyện đến nguyên tắc độc lập của Thẩm phán, có

thể tác động tích cực hoặc tiêu cực tới việc TAND cấp huyện có đưa ra được

phán quyết công bằng, đúng quy định pháp luật hay không.

- Một số tồn tại, hạn chế về hoạt động

+ Về năng lực của Thẩm phán, Thư ký Tòa án vẫn còn nhiều hạn chế.

Thực tế cho thấy hiện nay tại địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, TAND cấp huyện có

tổng cộng có 50 Thẩm phán, 69 Thư ký Tòa án. Trong giai đoạn hiện nay có

sự thay đổi một loạt các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải

quyết các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự và các việc khác

thuộc thẩm quyền của Tòa án được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm

2015, Bộ luật dân sự năm 2015, Luật tố tụng hành chính năm 2015, Luật thi

hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp

luật năm 2015... Trong đó, có nhiều quy định thay đổi so với văn bản luật đã

được thay thế ảnh hưởng đến trình tự tố tụng và nội dung quá trình giải quyết

các vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện, việc cập nhật

và nắm rõ những quy định pháp luật này để áp dụng trong quá trình giải quyết

68

án là điều vô cùng quan trọng trong quá trình công tác của Thẩm phán. Nhưng

do nhiều nguyên nhân như tuổi cao, năng lực còn hạn chế, không được va

chạm án nhiều dẫn đến một số Thẩm phán không cập nhật và áp dụng kịp các

quy định pháp luật mới này. Các Thẩm phán phần lớn đều có trình độ chuyên

môn là cử nhân luật nhưng một số là hệ tại chức, lại lớn tuổi thì mức độ cập

nhật sự thay đổi của các văn bản quy phạm pháp luật của các Thẩm phán này

còn nhiều hạn chế. Mặt khác, sự hạn chế của trình độ chuyên môn của một số

Thẩm phán còn thể hiện qua việc có bản án, quyết định do TAND cấp huyện

ban hành còn sai lỗi chính tả, không đúng quy định pháp luật, câu chữ khó

hiểu hoặc có thể hiểu nhiều nghĩa dẫn đến bản án, quyết định bị hủy, sửa. Một

số Thư ký Tòa án vì nhiều lý do chưa được tham gia lớp nghiệp vụ xét xử

cũng như chưa được bổ nhiệm Thẩm phán nhưng tuổi đã cao vẫn còn phải

thực hiện những nhiệm vụ của Thư ký Tòa án cũng là khó khăn cho bản thân

họ và làm hạn chế chất lượng hoạt động của TAND cấp huyện. Những điểm

hạn chế trên ảnh hưởng đến quá trình giải quyết án tại TAND cấp huyện khi

xét xử, cũng như trình tự tố tụng không đúng quy định pháp luật hiện hành,

ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cũng như tinh thần

tuân thủ pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

+ Hội thẩm nhân dân có vai trò quan trọng trong hoạt động của Tòa án

nói chung và TAND cấp huyện nói riêng khi mà Hội thẩm chiếm tỷ lệ lớn về

mặt số lượng trong Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, có sự chênh lệch về trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ xét xử của Hội thẩm so với Thẩm phán khi tham gia

xét xử. Cơ cấu Hội thẩm thường là các đồng chí lãnh đạo các cơ quan, tổ

chức, các hội đoàn thể địa phương, cán bộ hưu trí không được đào tạo về

chuyên môn, nghiệp vụ xét xử, kiến thức pháp luật và không phải đáp ứng các

điều kiện chặt chẽ về trình độ chuyên môn như Thẩm phán. Các quy định về

tiêu chuẩn của Hội thẩm còn rất chung chung và khác xa so với những tiêu

69

chuẩn đặt ra đối với Thẩm phán, đó là “có kiến thức pháp luật”. Nguyên tắc

xét xử tập thể, quyết định theo đa số thì càng đòi hỏi ở Hội thẩm nhiều hơn về

kiến thức chuyên môn. Thực tế hiện nay, trình độ chuyên môn của đội ngũ

Hội thẩm nhân dân ở các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

không đồng đều và chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn về chuyên môn

nghiệp vụ xét xử. Mặt khác, đội ngũ Hội thẩm nhân dân do đang giữ chức vụ

quan trọng tại đơn vị công tác nên thường xuyên có công việc, nhiều trường

hợp khó sắp xếp được thời gian theo lịch xét xử của TAND cấp huyện, trong

khi đó phiên tòa muốn diễn ra bắt buộc phải đầy đủ thành phần. Vì vậy, có

một số phiên tòa không thể diễn ra hoặc phải thay thế Hội thẩm vì Hội thẩm

được phân công tham gia xét xử có công tác đột xuất. Thêm nữa, chế độ đối

với Hội thẩm có được cải thiện hơn trước nhưng cũng còn nhiều hạn chế như

tiền bồi dưỡng cho Hội thẩm nhân dân khi nghiên cứu hồ sơ và xét xử còn

thấp 90.000 đồng/ngày; một số vị Hội thẩm nhân dân ở xa, khi tham gia

nghiên cứu hồ sơ không có thêm kinh phí xăng xe. Mặt khác, trách nhiệm của

Hội thẩm được pháp luật quy định rõ, nhưng thực tiễn trong quá trình xét xử,

nếu oan, sai, án bị hủy, sửa, thì chỉ có Thẩm phán chịu trách nhiệm, Hội thẩm

thường chỉ không được xét khen thưởng. Hội thẩm chủ yếu là còn đương

chức, công việc bận, cho nên ít nhận tham gia nghiên cứu, xét xử, cũng như

công tác nghiên cứu hồ sơ thường bị xem nhẹ.

+ Pháp luật trong lĩnh vực tư pháp chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ, các

Bộ luật, Luật mới đã có hiệu lực thi hành trong một thời gian khá dài mà chưa

có văn bản hướng dẫn thi hành đối với những vấn đề sửa đổi, bổ sung gây ra

nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động TAND cấp huyện. Bởi có nhiều văn

bản pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, có nhiều vấn đề về tố tụng chưa có

văn bản quy phạm hướng dẫn nên trong những vụ án cụ thể, Thẩm phán khó

xác định làm thế nào mới đúng quy định pháp luật.

70

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2 của luận văn, tác giả đã khái quát về tổ chức và hoạt

động của TAND cấp huyện từ năm 1945 đến năm 2013 và phân tích thực

trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá số liệu thực tế thu thập được. Qua

phân tích, tác giả đã chỉ ra những kết quả đạt được, bên cạnh đó cũng chỉ ra

một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân hạn chế về tổ chức và hoạt động của

TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

Từ những kết quả phân tích ở chương này sẽ là cơ sở để đưa ra giải

pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của TAND

cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

71

Chương 3

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC,

BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI

3.1. Quan điểm về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp

huyện đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam

Đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước

quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp

thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền tự do dân chủ

và lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn ngừa mọi sự tùy tiện lạm quyền từ

phía cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, ngăn ngừa

hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm chất lượng hoạt

động của nhà nước. Tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức

Đảng đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật. TAND các cấp

nói chung, TAND cấp huyện nói riêng giữ vị trí quan trọng chủ chốt góp phần

vào việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Trong lịch sử, TAND đã trải qua những cuộc cải cách và đổi mới về tổ chức

và phương thức hoạt động để đáp ứng nhiệm vụ ngày càng nặng nề trong việc

bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Dù là ở giai đoạn

nào TAND cấp huyện cũng giữ vai trò là cơ quan xét định, đưa ra những phán

quyết để bảo vệ lợi ích mà xã hội đề cao, buộc các chủ thể khác phải nghiêm

chỉnh chấp hành. Trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam hiện nay, để nâng chất lượng hoạt động xét xử, việc

đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND nói chung, TAND cấp huyện nói

riêng cần bám sát các quan điểm, mục tiêu xây dựng và hoàn thiện nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam thể hiện trong các văn kiện quan trọng của

72

Đảng Cộng sản Việt Nam thời gian gần đây, tiêu biểu tại Nghị quyết 08-

NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác

tư pháp trong thời gian tới nhấn mạnh: “Giữ vững bản chất của Nhà nước ta

là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”

[3], được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của

Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và đã được thể chế

hóa trong Hiến pháp năm 2013.

3.1.1. Về quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị

về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ: “Tăng quyền hạn, trách

nhiệm tố tụng của điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán để họ chủ động

thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trong hoạt động

tố tụng” [5], đã khẳng định sự cần thiết phải tăng quyền hạn, trách nhiệm của

người có nhiệm vụ quan trọng trong việc đưa ra phán quyết xét định các vụ

việc thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện. Tăng quyền hạn

nhằm nâng cao tính độc lập trong quá trình công tác, nhất là trong hoạt động

tố tụng cũng nhằm để Thẩm phán ít bị ảnh hưởng từ các chủ thể khác, phán

quyết đưa ra mang tính công bằng, đúng pháp luật. Nhưng tăng quyền hạn của

Thẩm phán phải đi cùng với tăng trách nhiệm, đó là trách nhiệm thực hiện

chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước, trách nhiệm bằng năng lực của

bản thân, bản lĩnh nghề nghiệp thực hiện nhiệm vụ của mình một cách công

tâm, không bị bất cứ lợi ích nào chi phối, xét định bất cứ vấn đề gì cũng dựa

trên cơ sở các chế định của pháp luật, bảo vệ các lợi ích mà pháp luật bảo vệ,

trừng trị nghiêm khắc đối với các hành vi xâm phạm các giá trị này, góp phần

vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bên cạnh việc

tăng quyền hạn, nhiệm vụ của Thẩm phán để nâng cao tính độc lập của họ

trong hoạt động của chính Thẩm phán nói riêng và của TAND cấp huyện nói

73

chung thì cũng cần có cơ chế giám sát phù hợp nhằm tránh việc lợi dụng

quyền hạn của mình để thu lợi ích cá nhân.

3.1.2. Về thẩm quyền xét xử và công tác nhân sự

TAND cấp huyện là cơ quan xét xử và thực hiện quyền tư pháp với số

lượng giải quyết sơ thẩm các vụ việc dân sự, vụ án hình sự, hành chính, nhiều

nhất tại địa phương. Vì vậy, vai trò quan trọng trong việc đổi mới tổ chức và

hoạt động của TAND cấp huyện còn được nêu trong nhiều văn kiện của

Đảng. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 nhấn mạnh: “khẩn

trương chuẩn bị tốt điều kiện để thực hiện việc tăng thẩm quyền xét xử cho

Toà án cấp huyện”, “tăng cường cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các cơ quan

tư pháp ở Trung ương và địa phương; chú trọng đề bạt số cán bộ có quan

điểm chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, đã được đào tạo cơ bản và

kinh nghiệm trong thực tiễn công tác đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo các cơ

quan tư pháp. Thực hiện luân chuyển cán bộ tư pháp giữa các cấp và các địa

phương, đồng thời xây dựng chế độ, chính sách phù hợp để thực hiện việc

luân chuyển đó. Rà soát lại đội ngũ cán bộ tư pháp để xây dựng đội ngũ cán

bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh; xác định lại biên chế cho phù hợp với yêu

cầu, nhiệm vụ, tuỳ từng nơi, từng đơn vị nếu do nhiệm vụ đòi hỏi thì cần tăng

biên chế hợp lý để đủ sức hoàn thành nhiệm vụ” [3], cho thấy sự chú trọng

cần thiết đối với công tác tổ chức cán bộ ngành tư pháp nói chung và TAND

nói riêng. Đây là quan điểm vô cùng đúng đắn của Đảng và nhà nước ta trong

quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bởi cán bộ, công

chức của hệ thống TAND trong quyền hạn của mình đóng vai trò giải quyết

các vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND, góp phần trong việc nhân danh nhà

nước đưa ra phán quyết trong khi thực hiện nhiệm vụ: “ngăn ngừa có hiệu

quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các

tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ

74

chức; bảo vệ trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng dân chủ, quyền, lợi ích

hợp pháp của tổ chức và công dân” [3].

3.1.3. Về điều kiện cơ sở vật chất

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị

cũng nêu rõ: “Nhà nước bảo đảm điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp

phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước”,

“Từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang,

hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều

tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, công tác xét xử, công tác giám định tư

pháp. Khẩn trương trong một vài năm xây xong trụ sở làm việc các cơ quan

tư pháp cấp huyện; nâng cấp các nhà tạm giam theo đề án đã được Chính

phủ phê duyệt. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của

các cơ quan tư pháp” [5]. Đây là những công việc cụ thể cần được thực hiện

đối với các cơ quan tư pháp nói chung và TAND cấp huyện nói riêng, bởi

điều kiện vật chất là điều kiện vô cùng quan trọng trong hoạt động của các

đơn vị.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong đổi mới tổ chức và hoạt động của

TAND cấp huyện đã được đề ra và vẫn trong quá trình thực hiện, cho thấy

chất lượng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện đóng vai trò vô cùng

quan trọng trong việc xây dựng và cũng cố nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam, cần được cụ thể hóa bằng các chính sách, pháp luật của nhà nước.

Trong đó, Đảng nhấn mạnh việc sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định hợp

lý thẩm quyền của TAND cấp huyện. Đồng thời, quan điểm của Đảng về đổi

mới tổ chức, hoạt động của TAND trong các văn kiện nêu trên, cho thấy

đường lối lãnh đạo của Đảng đối với TAND trong thời kỳ đổi mới là hoàn

toàn nhất quán, có sự kế thừa và phát triển từng bước. Đảng luôn quan tâm

chỉ đạo nhằm kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức TAND, giới thiệu những

75

cán bộ, công chức có năng lực, trình độ chuyên môn cao và phẩm chất chính

trị vững vàng cho hệ thống Toà án; phát hiện và xử lý kỷ luật nghiêm minh

đối với những cán bộ, đảng viên có sai phạm công tác trong hệ thống Toà án.

Đảng lãnh đạo Tòa án thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật

thông qua việc thường xuyên nghe báo cáo tổng hợp tình hình công tác của

TAND, để có cơ sở tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp với hoạt động xét

xử của Toà án. Đảng luôn xác định cải cách tổ chức và hoạt động của hệ

thống TAND là thể hiện tập trung của cải cách tư pháp, nhưng cải cách

TAND phải tiến hành đồng bộ với việc cải cách cơ quan điều tra, viện kiểm

sát và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp khác.

3.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức, bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân

dân cấp huyện đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp

huyện

3.2.1.1. Thành lập các Tòa chuyên trách

Quy định về thành lập Tòa chuyên trách TAND cấp huyện được quy

định tại Luật Tổ chức TAND năm 2014, Thông tư 01/2016/TT-CA ngày 21

tháng 01 năm 2016 của TAND tối cao.

Theo đó, Tòa chuyên trách tại TAND cấp huyện được thành lập nếu có

đủ điều kiện sau: Số lượng vụ việc mà Tòa án thụ lý, giải quyết thuộc thẩm

quyền của Tòa chuyên trách theo quy định tại Điều 3 Thông tư này phải từ 50

vụ/năm trở lên; có biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án đáp

ứng được yêu cầu tổ chức Tòa chuyên trách. Trường hợp tại Tòa án không

đáp ứng đủ điều kiện tổ chức Tòa chuyên trách trên thì không tổ chức Tòa

chuyên trách nhưng phải bố trí Thẩm phán chuyên trách để giải quyết. TAND

có thể có các Tòa chuyên trách gồm Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và

76

người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính [50].

Việc thành lập Tòa chuyên trách, Thẩm phán chuyên trách cấp huyện

sẽ giúp nâng cao chất lượng trong việc giải quyết các vụ việc thuộc thẩm

quyền của TAND cấp huyện, đảm bảo chuyên môn hóa việc giải quyết, xét xử

của Tòa án theo từng lĩnh vực xét xử nhằm nâng cao chất lượng giải quyết,

xét xử các loại vụ việc; các Thẩm phán, Thư ký Tòa án nghiên cứu chuyên

sâu hơn về lĩnh vực mình công tác, xử lý hiệu quả, đúng pháp luật hơn đối với

các vụ việc thuộc lĩnh vực chuyên môn.

Thẩm quyền của các Tòa chuyên trách như sau:

- Tòa hình sự: Xét xử các vụ án hình sự, trừ các vụ án hình sự thuộc

thẩm quyền giải quyết của Tòa gia đình và người chưa thành niên; xem xét,

quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND trong trường

hợp tại Tòa án đó không tổ chức Tòa xử lý hành chính, trừ trường hợp việc

xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính thuộc thẩm

quyền giải quyết của Tòa gia đình và người chưa thành niên.

- Tòa dân sự: Giải quyết các vụ việc dân sự; giải quyết các vụ việc kinh

doanh thương mại, phá sản, lao động, hành chính trong trường hợp tại Tòa án

đó không tổ chức Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính.

- Tòa kinh tế: Giải quyết các vụ việc kinh doanh thương mại, phá sản.

- Tòa hành chính: Giải quyết các vụ án hành chính.

- Tòa lao động: Giải quyết các vụ việc lao động.

- Tòa gia đình và người chưa thành niên giải quyết các vụ việc như sau:

Các vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc các vụ án hình

sự mà bị cáo là người đã đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị hại là người dưới

18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện

sống, học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như những người

dưới 18 tuổi khác; Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành

77

chính tại TAND đối với người chưa thành niên; Các vụ việc hôn nhân gia

đình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Tòa xử lý hành chính: Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử

lý hành chính tại TAND, trừ những việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa

gia đình và người chưa thành niên [50].

Thực tế, trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có một số TAND huyện đáp ứng

đủ điều kiên thành lập Tòa chuyên trách các lĩnh vực khi có số án từng lĩnh

vực từ 50 vụ/năm trở lên như Bình Sơn, Đức Phổ, Mộ Đức, Sơn Hà, Sơn

Tịnh, thành phố Quảng Ngãi, Trà Bồng, Tư Nghĩa. Nhưng hiện nay việc tổ

chức thành lập các Tòa chuyên trách chưa được thực hiện ở bất kỳ đơn vị

TAND huyện nào. TAND tỉnh Quảng Ngãi cần có kế hoạch triển khai thực

hiện việc thành lập Tòa chuyên trách ở TAND cấp huyện trong địa bàn tỉnh

mà trước hết là ở TAND thành phố Quảng Ngãi, nơi có số lượng án trên các

lĩnh vực nhiều nhất, đối với các TAND cấp huyện khác không đủ điều kiện

thành lập Tòa chuyên trách thì bố trí Thẩm phán chuyên trách. Nếu thực hiện

được thành lập Tòa chuyên trách, Thẩm phán chuyên trách sẽ tạo điều kiện

cho TAND cấp huyện thực hiện tốt hơn hoạt động của mình, nâng cao trình

độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán, Thư ký Tòa án trong lĩnh vực

chuyên trách, ban hành những bản án, quyết định đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

3.2.1.2. Thành lập bộ phận tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn

Tiếp dân và xử lý đơn là khâu quan trọng trong quá trình Tòa án giải

quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của mình (kể cả vụ án hình sự trong

trường hợp có các đơn kiếu nại, thay đổi biện pháp ngăn chặn, cho phép gặp

mặt bị cáo). Vì vậy, nếu TAND cấp huyện làm tốt khâu này sẽ bảo đảm chất

lượng hoạt động của Tòa án.

Trên cả nước, hiện nay có nhiều TAND địa phương đã thành lập bộ

78

phận hành chính tư pháp chịu trách nhiệm tiếp dân tại Tòa án, tiếp nhận và xử

lý đơn, tiếp nhận và xử lý công văn, giấy tờ ở Tòa án. Đối với cán bộ thực

hiện theo đúng quy chế tiếp dân, có vào sổ, ghi chép, theo dõi việc giải quyết

khiếu nại trong hệ thống Tòa án đúng theo trình tự, thủ tục quy định. Hàng

ngày đều báo cáo tình hình tiếp công dân cho Chánh án giải quyết những yêu

cầu bức xúc của người dân. Từ việc nhận trực tiếp hoặc từ khâu văn thư, bộ

phận Hành chính tư pháp nhận đơn tổng hợp và xử lý. Trường hợp Chánh án

bận công tác sẽ ủy nhiệm cho Phó Chánh án xử lý thay. Đối với đơn khởi

kiện: Trường hợp đủ điều kiện thụ lý thì ra Thông báo yêu cầu nộp tiền tạm

ứng án phí để thụ lý, trường hợp chưa đủ điều kiện thụ lý thì ra Thông báo

yêu cầu sửa đổi, bổ sung, trường hợp không đủ điều kiện khởi kiện thì ra

Thông báo trả đơn khởi kiện trình Chánh án giải quyết. Đối với đơn khiếu

nại: Thuộc thẩm quyền giải quyết của bộ phận nào thì trình Chánh án chuyển

đến bộ phận có thẩm quyền đó để giải quyết. Do vậy, hoạt động tiếp nhận và

xử lý đơn ở Tòa án đảm bảo đúng quy trình, thủ tục tố tụng; hạn chế tối đa

tình trạng giải quyết chậm, hay giải quyết quá hạn các đơn được Tòa án tiếp

nhận.

Các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nên áp dụng việc

thành lập bộ phận tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn thuộc Văn phòng, có cơ

cấu gồm Thẩm phán và công chức khác; đối với TAND cấp huyện có số

lượng vụ việc phải giải quyết không nhiều thì bố trí người ở bộ phận này.

Như vậy, hoạt động này được thực hiện theo quy trình khép kín, xử lý đơn

khởi kiện, đơn khiếu nại của người dân với thời gian ngắn nhất, không vi

phạm quy định về thời hạn của pháp luật tố tụng. Đồng thời nâng cao năng

lực của cán bộ chuyên trách bộ phận này, tránh tình trạng gây khó khăn, phiền

hà cho người dân, hoặc thụ lý khi chưa đủ điều kiện khởi kiện, thụ lý sai, dẫn

đến thụ lý tràn lan các vụ việc và từ đó dẫn đến tình trạng án tồn đọng quá

79

hạn.

3.2.1.3. Đầu tư kinh phí phù hợp

- Trang bị cơ sở vật chất hiện đại để bảo đảm hoạt động của TAND cấp

huyện

Trong các Nghị quyết chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp đều nhấn

mạnh việc đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp nói chung và cho hệ

thống TAND nói riêng nhằm bảo đảm chất lượng xét xử. Việc bảo đảm các

vấn đề liên quan đến hoạt động, nhất là bảo đảm tài chính cho Tòa án phải

nhất thiết được thực hiện thông qua một cơ chế độc lập để hệ thống Tòa án

tập trung thực hiện đúng đắn, hiệu quả nhất các hoạt động chuyên môn. Cũng

trên tinh thần đó cần phải đầu tư xây dựng đầy đủ trụ sở cho TAND cấp

huyện, trang thiết bị hiện đại, thực sự có tính biểu tượng của quyền lực tư

pháp, là “công đường” của nhà nước. Hội trường xét xử của TAND cấp

huyện, phải có nét đặc thù không thể lẫn lộn với trụ sở của các cơ quan nhà

nước khác. Trụ sở của TAND cấp huyện cần đầy đủ các phòng chức năng:

Hội trường xét xử, phòng nghị án, phòng lấy lời khai của đương sự, phòng

làm việc cho Thẩm phán, Thư ký Tòa án… Hội trường xét xử cần đảm bảo về

diện tích và được bài trí sắp xếp theo quy định: Khu vực làm việc của Hội

đồng xét xử, Kiểm sát viên, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác

được bố trí riêng biệt, hợp lý; nhân dân đến tham dự phiên toà được bố trí ghế

ngồi theo nhu cầu xét xử của từng TAND cấp huyện. Hệ thống trang thiết bị

kỹ thuật của các Tòa án cũng cần được trang bị hiện đại, áp dụng công nghệ

thông tin tiên tiến để cập nhật thông tin, thống kê và công bố thông tin ra công

chúng, bảo đảm tính chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch.

- Chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và các chức

danh khác trong TAND cấp huyện

Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh nhà nước đưa ra phán

80

quyết quyết định đến quyền nhân thân, quyền con người, ảnh hưởng đến lợi

ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Để đảm

bảo thực hiện quyền tư pháp, Tòa án phải độc lập xét xử và ngược lại Tòa án

phải xét xử độc lập mới thực hiện đúng đắn quyền tư pháp mà nhân dân đã

giao phó, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN vững mạnh. Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân và các chức danh khác trong TAND cấp huyện thực

hiện chức năng, nhiệm vụ của TAND cấp huyện góp phần quan trọng trong

việc giải quyết, xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện,

trừng trị nghiêm minh các hành vi phạm tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Hiện nay mức tiền lương và

phụ cấp của Thẩm phán, công chức khác trong hệ thống TAND nói chung và

của Thẩm phán, công chức khác trong hệ thống TAND cấp huyện nói riêng so

với mức tiền lương của công chức bình thường ở các cơ quan khác chênh lệch

không bao nhiêu, còn thấp, không tương xứng với công việc phải thực hiện.

Chế độ hỗ trợ cho Hội thẩm nhân dân khi nghiên cứu hồ sơ và xét xử còn thấp

90.000 đồng/ngày, một số Hội thẩm nhân dân ở xa, khi tham gia nghiên cứu

hồ sơ không có thêm kinh phí xăng xe.

Từ năm 2004 đến nay, chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với

Thẩm phán và công chức Tòa án đã được cải thiện, tuy nhiên vẫn còn nhiều

vấn đề bất cập, chưa phù hợp với tính chất đặc thù của Tòa án. Mức lương

của Thẩm phán và cán bộ, công chức Tòa án gần giống như mức lương của

cán bộ, công chức hành chính nhà nước. Thẩm phán TAND cấp huyện (Thẩm

phán sơ cấp) có 9 bậc lương, trong đó bậc khởi điểm (bậc 1) có hệ số là 2,34

và bậc cuối cùng (bậc 8) có hệ số là 4,98; khoảng cách giữa các bậc liền kề là

0,33, giống như các ngạch: Chuyên viên, Kiểm tra viên, Thanh tra viên, Kiểm

tra viên hải quan, Kiểm soát viên thuế…Các ngạch Thư ký Tòa án, chuyên

viên và các chức danh công chức khác công tác trong cơ quan Tòa án được

81

xếp lương như các ngạch công chức có cùng trình độ đào tạo trong các cơ

quan hành chính nhà nước. Ngoài ra, được hưởng thêm các phụ cấp đặc thù:

phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thâm niên nghề, bồi dưỡng phiên tòa. Tuy

nhiên, Thẩm phán Tòa án cấp huyện lại được xếp hệ số lương, nhóm ngạch

chức danh ngang bằng với Thư ký Tòa án, chuyên viên và kế toán viên. Mức

phụ cấp trách nhiệm nghề hiện nay đối với Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư

ký Tòa án chưa phù hợp với vị trí, vai trò, trách nhiệm, tính chất lao động

phức tạp, nặng nhọc và đặc thù của các chức danh tư pháp trong hệ thống Tòa

án. Cấp huyện xét xử, giải quyết hầu hết các vụ án trong hệ thống Tòa án,

chịu áp lực nặng nề nhất trong công tác xét xử. Nhiều cán bộ, công chức Tòa

án cấp huyện phải làm thêm ngày thứ 7 trong tuần vẫn không giải quyết kịp

công việc do khối lượng án ngày càng gia tăng, tính chất ngày càng phức tạp.

Nhiều cán bộ, công chức Tòa án suốt nhiều năm không nghỉ phép hoặc chỉ

nghỉ tranh thủ nhưng chưa có kinh phí để thanh toán chế độ không nghỉ phép

do yêu cầu công việc. Trên cơ sở trách nhiệm nặng nề được giao, cần có

chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với Thẩm phán và chức

danh khác trong Tòa án để họ yên tâm công tác và tăng khả năng tự vệ phòng,

chống tiêu cực trong hoạt động xét xử. Cụ thể, cần xây dựng thang bảng

lương riêng đối với Thẩm phán và các công chức có chức danh khác trong hệ

thống TAND nói chung và TAND cấp huyện nói riêng, từng bậc của thang

bảng lương phụ thuộc vào vị trí và thời gian công tác của từng người, bậc

lương tương đương với bậc lương của các ngành công an, quân đội để họ yên

tâm cống hiến cho nghề, trách tình trạng vì khó khăn về kinh tế dẫn đến thoái

hóa về đạo đức, ảnh hưởng đến tính khách quan trong các phán quyết đưa ra.

Bên cạnh đó, cũng cần tăng mức phụ cấp cho Hội thẩm nhân dân để phù hợp

với nhiệm vụ được giao và để họ yên tâm công tác.

Vì vậy, cần có chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân

82

và các chức danh khác trong TAND cấp huyện đảm bảo hoạt động xét xử độc

lập, thực hiện đúng đắn quyền tư pháp theo hiến định, góp phần xây dựng nền

tư pháp trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại, bảo vệ công lý đáp ứng

yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.

3.2.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện

3.2.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp lý vững

chắc cho hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện

TAND nói chung và TAND cấp huyện nói riêng có cơ cấu tổ chức về

nhân sự và thực hiện hoạt động công tác của mình về tố tụng và nội dung dựa

trên các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, có hiệu lực thi hành.

Pháp luật cũng là yếu tố vô cùng quan trọng trong điều kiện xây dựng nhà

nước pháp quyền XHCN, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam hội nhập với

thế giới. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam từ những năm đổi mới

trở lại đây đã có sự phát triển mạnh mẽ, với nhiều thành tựu to lớn. Nhiều

Bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng

hoàn chỉnh hơn để nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, công tác phổ

biến và giáo dục pháp luật ngày càng được tăng cường đáng kể. Bên cạnh

những thành tựu đạt được, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng đã và đang

bộc lộ những khiếm khuyết, trong đó có vấn đề thiếu tính thống nhất trong

pháp luật cũng như việc chưa dự liệu được nhiều tình huống thực tiễn. Đây

cũng là vấn đề gây rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp

luật khi giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện.

Công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi phải có một

hệ thống pháp luật khoa học, đồng bộ, thống nhất và dự liệu được cơ bản

những quan hệ pháp luật có thể phát sinh trong xã hội. Ngay từ giai đoạn soạn

thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mà trước hết là các đạo luật,

pháp lệnh, tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật

83

đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải được bảo đảm.

Đây phải được coi là một nguyên tắc, một yêu cầu quan trọng trong quy trình

lập pháp, lập quy. Bởi lẽ, việc chỉnh lý những sai sót, những mâu thuẫn của

các dự án, dự thảo đang trong giai đoạn soạn thảo sẽ dễ dàng hơn. Hơn nữa,

việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp

luật sẽ hạn chế tối đa khả năng gây thiệt hại cho nhà nước và xã hội, xâm

phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân do việc cho ra đời những văn

bản quy phạm pháp luật mâu thuẫn lẫn nhau. Đồng thời, các nhà làm luật cần

nghiên cứu, tham khảo các văn bản pháp luật của các nước phát triển trên thế

giới, lấy ý kiến nhân dân để có thể dự liệu được cơ bản những quan hệ pháp

luật có thể phát sinh trong xã hội.

Luật tổ chức TAND, các luật tố tụng hiện hành cũng đã ghi nhận

nguyên tắc độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Nhưng các quy định

đó còn hạn chế về phạm vi, mức độ và tính chất, chưa thể hiện hết nội hàm sự

độc lập của Tòa án và của cá nhân Thẩm phán. Vì vậy, cần có sự thể chế hóa

nguyên tắc độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân để nâng cao hơn nữa

chất lượng hoạt động của TAND cấp huyện. Mặt khác, cần hoàn thiện các

quy định để nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán như quy định về kỷ luật,

quy định về bãi miễn khi Thẩm phán vi phạm phẩm chất đạo đức hoặc năng

lực xét xử yếu, kém. Bởi vì, pháp luật quy định người Thẩm phán độc lập

trong xét xử thì họ cũng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những phán quyết

của mình.

3.2.2.2. Nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, thái độ, đạo đức nghề

nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và các chức danh khác trong Tòa án nhân dân

cấp huyện

Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật

này được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử. Thẩm phán là

84

thành phần chủ yếu trong đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống TAND nói

chung và TAND cấp huyện nói riêng, có vai trò chủ yếu trong việc thực hiện

chức năng, nhiệm vụ của Tòa án; có vai trò quyết định trong toàn bộ hoạt

động tố tụng tại Tòa án. Các vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND có được

giải quyết, xét xử kịp thời, đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền

và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức hay không thì ngoài Thẩm phán,

TAND cấp huyện còn có Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên thi hành án và các

công chức khác. Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có được bảo vệ hay

không, việc xét xử của Tòa án có góp phần vào việc răn đe, phòng ngừa các

hành vi vi phạm pháp luật và có tác dụng trong việc tuyên truyền, giáo dục

pháp luật trong nhân dân hay không, phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên

môn, kỹ năng, thái độ, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và các

chức danh khác trong hệ thống TAND.

Trong những năm qua TAND rất chú trọng tới công tác xây dựng đội

ngũ cán bộ, công chức đảm bảo về chất lượng cũng như số lượng, đáp ứng

yêu cầu nhiệm vụ chính trị của hệ thống Tòa án và của các địa phương. Đội

ngũ cán bộ, công chức của hệ thống TAND về cơ bản đã giữ vững và phát

huy được bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, gắn bó

với nhân dân. Nhưng bên cạnh đó một số đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu

về năng lực chuyên môn, thoái hóa về phẩm chất đạo đức; ngân sách của nhà

nước dành cho hoạt động và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hệ thống

TAND còn hạn hẹp. Trong khi đó các quan hệ kinh tế, dân sự, lao động...

ngày càng đa dạng, phức tạp, nhất là những quan hệ có liên quan đến yếu tố

nước ngoài. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ những quan hệ đó đòi

hỏi Thẩm phán phải có trình độ chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ cao. Do

vậy, ngay từ bây giờ phải chăm lo xây dựng đội ngũ Thẩm phán ngày càng

vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, ngang tầm nhiệm vụ trong

85

tình hình mới. Cần kiên quyết hơn nữa trong việc rà soát lại đội ngũ Thẩm

phán và các chức danh khác đấu tranh và xử lý kiên quyết với những hành vi

vi phạm pháp luật của Thẩm phán, làm cho đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án

ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của nhân dân.

Để có được đội ngũ Thẩm phán giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có bản

lĩnh nghề nghiệp cần có cơ sở đào tạo tốt, để tạo điều kiện trang bị mặt bằng

kiến thức chung về chuyên môn, nghiệp vụ cho Thẩm phán, trước hết là

nguồn bổ nhiệm Thẩm phán. Hiện nay đã có thể thực hiện được điều này, Bộ

Chính trị đã đồng ý giao cho TAND tối cao thực hiện việc đào tạo nghiệp vụ

xét xử cho cán bộ, công chức của hệ thống Tòa án, tiến tới đào tạo cử nhân

chuyên ngành và đào tạo bậc trên đại học. Đây chính là tiền đề quan trọng để

hệ thống TAND từng bước nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh

nghiệm xét xử, bản lĩnh chính trị cho đội ngũ Thẩm phán. Bên cạnh đó,

TAND tối cao đã triển khai thực hiện Đề án nâng cao năng lực và quy mô của

Trường cán bộ Tòa án, trong đó tập trung củng cố Hội đồng Trường, tăng

cường đội ngũ giảng viên, đầu tư cơ sở vật chất, các trang thiết bị cho Trường

và nghiên cứu đổi mới giáo trình, tài liệu, phương pháp giảng dạy để đáp ứng

yêu cầu công tác đào tạo, tập huấn cán bộ trong tình hình hiện nay; đồng thời

xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hệ thống TAND

đến năm 2020 với nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp

vụ, trình độ quản lý, kỹ năng thực hiện công tác dân vận, ngoại ngữ, tin học.

Mặt khác, Chánh án TAND tỉnh Quảng Ngãi thường xuyên tổ chức các lớp

bồi dưỡng, tập huấn theo định kỳ hoặc đột xuất về chuyên môn nghiệp vụ cho

các cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ, công

chức cần tự nổ lực nghiên cứu, học hỏi các tài liệu, trao đổi chuyên môn,

nghiệp vụ, rèn luyện bản lĩnh nghề nghiệp để hoàn thành tốt nhiệm vụ công

tác được giao.

86

Để nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm trong

công tác cho cán bộ, công chức Tòa án các cấp, nhất là đội ngũ Thẩm phán,

cần tăng cường giáo dục về chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án

như quán triệt kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật

của nhà nước, xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế về tăng cường kỷ luật

công vụ, thực hiện thanh tra, kiểm tra gắn với thực hiện chế độ khen thưởng,

kỷ luật; tăng cường công tác quản lý cán bộ, công chức để phát hiện, ngăn

chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm của tập thể, cá nhân.

Trình độ chuyên môn, kỹ năng, thái độ, đạo đức nghề nghiệp của đội

ngũ Thẩm phán và các chức danh khác trong TAND cấp huyện được tốt thì

chất lượng trong hoạt động của TAND sẽ được nâng cao, góp phần bảo đảm

an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong điều kiện xây dựng nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.

3.2.2.3. Nâng cao năng lực của Hội thẩm nhân dân

Để quá trình xét xử vụ án được công bằng, đúng người, đúng tội, người

tham gia tố tụng được thể hiện ý kiến của mình trong quá trình xét xử, thì một

trong những nguyên tắc quan trọng là phiên tòa ở Tòa án cấp sơ thẩm đều

phải có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Tại các phiên tòa sơ thẩm, số

lượng Hội thẩm nhân dân trong thành phần Hội đồng xét xử đều nhiều hơn số

lượng Thẩm phán, khi quyết định những vấn đề trong bản án các thành viên

Hội đồng xét xử biểu quyết và quyết định theo đa số. Qua đó, chúng ta thấy

được vai trò của Hội thẩm nhân dân khi xét hỏi tại phiên tòa, cũng như trong

quá trình nghị án là hết sức quan trọng. Vấn đề này đã được quy định rất chặt

chẽ trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật

tố tụng dân sự năm 2015.

Qua quá trình đánh giá chất lượng xét xử của Hội thẩm nhân dân tại các

TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, bên cạnh những ưu điểm còn

87

có một số hạn chế, vướng mắc nhất định như Hội thẩm nhân dân tham gia xét

xử nhưng chưa phát huy hết vai trò của mình, Hội thẩm nhân dân ít tham gia

nghiên cứu hồ sơ vụ án, chưa hiểu kỹ được nội dung vụ án, dễ dẫn đến khi xét

xử đưa ra phán quyết không đúng với thực tế nội dung vụ án, không đảm bảo

được quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.

Hội thẩm mặc dù có trình độ chuyên môn riêng nhưng còn hạn chế về

trình độ pháp lý. Cơ quan có liên quan cần phối hợp tốt hơn với TAND cấp

huyện trong công tác tập huấn, bồi dưỡng cho Hội thẩm, đặc biệt là tập huấn

các văn bản pháp luật hoặc văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật mới; tổ

chức rút kinh nghiệm trong xét xử một số loại vụ án đặc thù. Hằng năm, cần

quan tâm đầu tư kinh phí để bồi dưỡng nâng cao trình độ pháp lý cho đội ngũ

Hội thẩm. Ngoài ra, cần phải có cơ chế trách nhiệm đối với Hội thẩm khi

tham gia xét xử, cùng ban hành các bản án, quyết định để Hội thẩm phát huy

hết năng lực và trách nhiệm của mình. Nếu Hội thẩm nào có nhiều bản án bị

hủy, sửa, vi phạm các vấn đề đạo đức nghề nghiệp hoặc thiếu tinh thần trách

nhiệm đối với hoạt động xét xử thì cần xem xét có các hình thức miễn nhiệm, bãi

nhiệm và các chế tài xử lý khác.

Trong điều kiện nhà nước ta đang xây dựng và hoàn thiện nhà nước

pháp quyền XHCN, thì vấn đề nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án nhất là

quá trình áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án cấp huyện cần

được quan tâm. Hội thẩm nhân dân khi tham gia các phiên tòa phải thể hiện rõ

vai trò và trách nhiệm của mình, vì vậy cần có giải pháp để nâng cao chất

lượng Hội thẩm, đồng thời chính bản thân Hội thẩm cũng cần thấy rõ trách

nhiệm của mình trong vấn đề nâng cao năng lực xét xử của bản thân.

3.3. Kiến nghị, đề xuất

3.3.1. Đối với Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh

TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay đang gặp khó

88

khăn lớn về mặt nhân lực, bởi có TAND cấp huyện thì số lượng vụ việc hàng

năm phải giải quyết rất ít như TAND huyện Lý Sơn, Sơn Tây, Tây Trà, Trà

Bồng với tổng số lượng vụ việc phải giải quyết trên tất cả các lĩnh vực từng

năm chưa đến 50 vụ việc, tức là giải quyết của mỗi Thẩm phán, Thư ký Tòa

án có khi chưa tới 10 vụ/năm (TAND Tây Trà mỗi Thẩm phán giải quyết

trung bình 7,5 vụ việc/năm trong năm 2016) nhưng vẫn được phân bổ số

lượng nhân sự đầy đủ các chức danh quản lý Chánh án, Phó chánh án và

Thẩm phán, Thư ký Tòa án, chức danh khác làm nhiệm vụ kế toán, văn

phòng. Ở những TAND cấp huyện này Thẩm phán, Thư ký Tòa án sẽ khó có

cơ hội nâng cao kinh nghiệm chuyên môn, rèn luyện năng lực khi có quá ít vụ

việc để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong khi đó, ở một số

TAND cấp huyện khác thì số lượng vụ việc phải giải quyết hàng năm lớn,

mỗi Thẩm phán, Thư ký Tòa án giải quyết số lượng vụ việc lên đến hơn 115

vụ việc/năm như TAND thành phố Quảng Ngãi, Bình Sơn thì lại gánh số

lượng công việc quá tải. Để giải quyết số lượng công việc nhiều như vậy,

Thẩm phán, Thư ký Tòa án nhiều khi phải làm thêm ngoài giờ hành chính,

thậm chí làm cả vào ngày nghĩ như thứ 7, chủ nhật nhưng không được hưởng

chế độ phù hợp. Vì vậy, TAND tối cao, TAND cấp tỉnh cần phân bổ số lượng

Thẩm phán, Thư ký Tòa án hợp lý, theo số lượng án của từng TAND cấp

huyện nhưng trừ các chức danh quản lý ra. Đồng thời, có sự biệt phái, luân

chuyển cán bộ, công chức giữa các TAND cấp huyện để cán bộ, công chức có

điều kiện tiếp xúc, va chạm giải quyết các vụ việc với nhiều đặc điểm khác

nhau theo điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội của từng địa phương, qua đó trau

dồi thêm kiến thức xã hội, kinh nghiệm nghề nghiệp.

Việc tổ chức các Tòa chuyên trách ở các TAND huyện trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi có đủ điều kiện theo quy định tại Thông tư số 01/2016/TT-CA

ngày 21 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao về quy định việc tổ

89

chức các Tòa chuyên trách tại Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và

tương đương là cần thiết. Chánh án TAND tỉnh Quảng Ngãi căn cứ vào các

điều kiện tổ chức Tòa chuyên trách, rà soát, đánh giá nhu cầu tổ chức Tòa

chuyên trách tại các TAND huyện trên địa bàn, rà soát về biên chế Thẩm

phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án hiện có, xây dựng hồ sơ đề nghị tổ chức

Tòa chuyên trách tại các TAND huyện gửi cho TAND tối cao xem xét, quyết

định. Trong đề án tổ chức Tòa chuyên trách tại các TAND huyện, TAND tỉnh

Quảng Ngãi cần nêu rõ sự cần thiết tổ chức Tòa chuyên trách, cơ sở của việc

đề xuất, số lượng Tòa chuyên trách cần tổ chức, tên các Tòa chuyên trách, cơ

cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, phương án tổ chức nhân sự và đề xuất về

biên chế Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án của từng Tòa chuyên

trách.

Việc nâng cao năng lực xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân của

TAND cấp huyện tại địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cũng cần được TAND cấp trên

quan tâm, trước mắt là nguồn bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp. Đồng thời, có kế

hoạch và thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn theo định kỳ hoặc

đột xuất về chuyên môn nghiệp vụ cho các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân để

phán xét của TAND cấp huyện công bằng, đúng pháp luật đảm bảo công lý

được thực thi; đồng thời xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế về tăng

cường kỷ luật, kỷ cương công vụ, thực hiện thanh tra, kiểm tra gắn với thực

hiện chế độ khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động của TAND cấp huyện.

TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cũng cần được TAND

tối cao, TAND tỉnh Quảng Ngãi quan tâm xây mới hoặc tu sửa đối với trụ sở

những TAND cấp huyện đã xuống cấp trầm trọng, trang bị cơ sở vật chất,

thiết bị kỹ thuật cần cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ giải quyết, xét

xử những vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện.

90

Thừa phát lại là chế định đang được thực hiện thí điểm ở một số địa

phương, tiêu biểu là thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, người có các tiêu

chuẩn, được nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để làm các công việc liên quan

đến hoạt động của Tòa án là tống đạt theo yêu cầu của Tòa án. Tống đạt là

hoạt động quan trọng ảnh hưởng đến tính hợp pháp trong quá trình giải quyết

các vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện, nhưng hoạt động này

chiếm rất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến thời gian làm các công việc chuyên

môn khác và tiến độ giải quyết án. Vì vậy, TAND tối cao, TAND tỉnh quảng

Ngãi cần quan tâm hơn đến vấn đề này, có thể áp dụng tại một số TAND cấp

huyện có nhiều công việc, số lượng án nhiều. Nếu áp dụng chế định này,

Thẩm phán và Thư ký Tòa án có thời gian để nghiên cứu chuyên môn và thực

hiện các công việc khác.

TAND tối cao cần xây dựng kế hoạch về cải thiện chế độ tiền lương,

phụ cấp đối với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án để phù hợp

với chức năng, nhiệm vụ đặc trưng mà họ phải thực hiện. Cụ thể, xây dựng

thang bảng lương riêng của cán bộ, công chức hệ thống TAND đề nghị Quốc

hội thông qua nhằm cải thiện đời sống của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,

Thư ký Tòa án, tránh những hành vi suy thoái đạo đức của cán bộ, công chức

Tòa án nói chung và TAND cấp huyện nói riêng. Ngoài ra, quy định chế độ

bảo đảm an ninh đối với Thẩm phán và gia đình họ trong trường hợp thi hành

công vụ cũng là vấn đề TAND tối cao cần quan tâm để Thẩm phán an tâm

công tác.

3.3.2. Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện

TAND cấp huyện là cơ quan giải quyết sơ thẩm hầu hết các vụ việc

thuộc thẩm quyền của Tòa án. Vì vậy, chính bản thân cán bộ, công chức

TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần có những nỗ lực để bảo

đảm chất lượng của hoạt động xét xử trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp

91

quyền XHCN Việt Nam hiện nay, cụ thể:

Lãnh đạo TAND cấp huyện cần đề nghị TAND cấp trên bố trí số lượng

nhân sự hợp lý, phù hợp với số lượng vụ việc phải quyết để bảo đảm hoạt

động của đơn vị.

Thẩm phán, Thư ký Tòa án và các công chức có chức danh khác của

TAND cấp huyện cần nhận thức được vai trò của việc bảo đảm tổ chức và

hoạt động của TAND cấp huyện trong điều kiên xây dựng nhà nước pháp

quyền XHCN hiện nay. Họ cần hiểu rõ công việc giải quyết, xét xử nhằm

thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,

bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của tổ chức, cá nhân. Khi nhận thức được trách nhiệm của mình thì công chức

Toa án mới thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ xét xử và thực hiện quyền tư

pháp được trao.

Lãnh đạo TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần tạo điều

kiện để Thẩm phán, Thư ký Toà án, Hội thẩm nhân dân đơn vị mình nâng cao

năng lực, tạo điều kiện tối đa về cơ sở vật chất, tài liệu, trang thiết bị kỹ thuật

để hỗ trợ cho quá trình công tác nhằm giúp họ phát huy tối đa năng lực, bản

lĩnh nghề nghiệp của mình trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của

TAND cấp huyện. Đồng thời, tạo điều kiện về thời gian để Thẩm phán, Thư

ký Tòa án tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, nghiên cứu tài liệu để phục

vụ cho quá trình công tác.

TAND cấp huyện cần triển khai và tổ chức thực hiện chủ trương của

Đảng, văn bản pháp luật mới, tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh tới

toàn công chức trong đơn vị. Bên cạnh đó, TAND cấp huyện cần có cơ chế

giám sát, kiểm tra quá trình thực hiện công việc của công chức trong đơn vị

mình để kịp thời phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật của công chức

trong đơn vị. Mặt khác, TAND cấp huyện cần có chế độ khen thưởng phù hợp

92

đối với những cá nhân có thành tích vượt bậc.

TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay hầu hết đều

hoạt động theo cơ chế mọi hướng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền

đều có ý kiến của Chánh án hoặc cấp ủy TAND cấp huyện đó, điều này ảnh

hưởng tới nguyên tắc độc lập của Thẩm phán, Hội đồng xét xử được quy định

tại Hiến pháp và Luật Tổ chức TAND. TAND cấp huyện cần khắc phục cơ

chế hoạt động này. Theo đó, mọi quyết định về việc giải quyết vụ việc đã giao

cho Thẩm phán đều do Thẩm phán độc lập giải quyết, mọi bản án, quyết định

tại phiên tòa đều do Hội đồng xét xử quyết định, không có bất kỳ một tác

động nào có thể ảnh hưởng đến quyết định của Hội đồng xét xử. Có như vậy,

việc xét xử theo quy định pháp luật mới được thực hiện một cách triệt để, như

tinh thần của các Nghị quyết của Đảng và đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà

nước pháp quyền XHCN của nước ta.

TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần nghiên cứu thành

lập bộ phận chuyên trách tiếp dân, tiếp nhận và xử lý đơn nhằm bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của người dân và thực hiện việc tiếp nhận xử lý đơn theo

quy định của pháp luật. Bởi trong thực tiễn việc tiếp nhận, xử lý đơn tại các

TAND cấp huyện thường được tiến hành sơ sài, không thực hiện đúng quy

định tố tụng về trình tự và thời gian tố tụng, gây phiền hà và bức xúc cho

người dân. Nếu bộ phận chuyên trách này được thành lập và thực hiện đúng

các quy định tố tụng sẽ thuận lợi cho việc nộp đơn của công dân; giúp TAND

thụ lý đúng vụ việc tránh trường hợp thụ lý không đúng quy định dẫn đến việc

giải quyết án tồn đọng, kéo dài.

Chánh án của các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần

chuẩn bị nhân lực, vật lực cho việc thành lập các Tòa chuyên trách nếu đủ

điều kiện theo quy định. Ngay từ bây giờ, Chánh án TAND cấp huyện xem

xét, phân công án cho Thẩm phán theo hướng chuyên trách để thuận lợi cho

93

việc nghiên cứu tài liệu, văn bản pháp luật chặt chẽ, để đến khi Tòa chuyên

trách chính thức được tổ chức, TAND cấp huyện sẽ không bị động.

Lãnh đạo của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần phối

hợp với cơ quan, đơn vị có công chức, viên chức là Hội thẩm nhân dân của

Tòa án mình để đề nghị các cơ quan, đơn vị này tạo điều kiện cho Hội thẩm

có thời gian nghiên cứu hồ sơ và tham gia xét xử, tránh trường hợp vì thực

hiện nhiệm vụ công tác tại đơn vị mà không thể nghiên cứu hồ sơ được, ảnh

hưởng đến chất lượng trong quá trình xét xử, hoặc không tham gia xét xử

được ảnh hưởng đến hoạt động của TAND cấp huyện.

94

Tiểu kết chương 3

Từ kết quả phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của

TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ở chương 2, trong chương

này, tác giả nêu quan điểm về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện đáp

ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và đề xuất một

số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức và bảo đảm hoạt động của

TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi như: tiếp tục hoàn thiện hệ

thống pháp luật; thành lập các Tòa chuyên trách; thành lập bộ phận tiếp dân,

tiếp nhận và xử lý đơn; nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, thái độ, đạo

đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và các chức danh khác trong TAND

cấp huyện; nâng cao năng lực của Hội thẩm; trang bị cơ sở vật chất hiện đại;

tăng chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác

trong TAND cấp huyện. Đây là những giải pháp có mối quan hệ mật thiết với

nhau, đòi hỏi phải thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất. Thông qua đó, tác

giả mong muốn chất lượng hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi được nâng lên, đáp ứng nguyện vọng của người dân.

95

KẾT LUẬN

Nhà nước pháp quyền XHCN đã, đang và tiếp tục được xây dựng, hoàn

thiện ở nước ta. Điều này đã được thể chế hóa trong văn bản pháp luật có hiệu

lực cao nhất là Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Hiến

pháp năm 2013. Các cơ quan thực hiện quyền tư pháp đóng vai trò hết sức

quan trọng và cần thiết trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN

Việt Nam, trong đó có hệ thống Tòa án nói chung, TAND cấp huyện nói

riêng. Cùng với quyền hạn, nhiệm vụ của mình TAND cần có cơ cấu tổ chức

và phương thức hoạt động phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu trong điều kiện xây

dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Hiện nay, tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi còn nhiều hạn chế, vướng mắc phải khắc phục, do đó cần được

các cấp ủy Đảng và nhà nước quan tâm nhằm bảo đảm chất lượng hoạt động

của TAND cấp huyện trong việc giải quyết số lượng án ngày càng tăng. Đó là

những hạn chế về văn bản pháp luật, về biên chế công chức, về phương thức

hoạt động, năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm trong quá trình giải quyết công

việc, về cơ sở vật chất, về áp dụng công nghệ thông tin trong công việc, về

kinh phí hoạt động... Điều này đã thúc đẩy cần có các giải pháp đồng bộ để

giải quyết triệt để các vấn đề trên. Trong đó, trọng tâm là hoạt động của

TAND cấp huyện thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong điều kiện xây dựng và

hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Và để thực hiện tốt các

nhiệm vụ trên, công chức của TAND cấp huyện cần nhận thức rõ quyền hạn,

trách nhiệm để thực hiện tốt nhiệm vụ chung của TAND. Trên cơ sở quyền

hạn, trách nhiệm đó, công chức TAND cấp huyện khi thực hiện công việc

phải khách quan, công tâm, đáp ứng được nguyện vọng của Đảng, nhà nước

96

và Nhân dân. Chỉ khi TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có

những công chức có năng lực chuyên môn cao, có bản lĩnh chính trị vững

vàng thì mới có thể đưa ra những phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, TAND cấp huyện

trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi phải tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thách

thức trong quá trình hoạt động của mình khi mà tình hình kinh tế - xã hội trên

địa bàn ngày càng chuyển biến phức tạp. Khi điều kiện chưa khắc phục những

hạn chế, vướng mắc trong hoạt động, TAND cấp huyện cần tự mình quán triệt

và đề xuất những giải pháp thiết thực lên cấp có thẩm quyền xem xét, giải

quyết, giúp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để chất lượng hoạt động xét

xử ngày càng được nâng cao, xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng, nhà nước

và nhân dân, là nơi thực hiện công lý trong xã hội, góp phần quan trọng trong

quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

97

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79 - KL/TW ngày 28/7/2010 về Đề

án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và cơ

quan điều tra theo Nghị quyết 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

2. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về tiếp

tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ

Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

3. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về

“một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”.

4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 về

Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt nam đến

năm 2010, định hướng năm 2020.

5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ- TW ngày 02/06/2005 về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

6. Bộ trưởng Bộ Tư pháp (1946), Sắc lệnh số 22B-SL ngày 18 tháng

02 năm 1946 để quyền tư pháp cho Uỷ ban hành chính ở những nơi

chưa đặt được Tòa án biệt lập.

7. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (2008), Quyết định số 1138/QĐ-

TCCB ngày 22 tháng 8 năm 2008 về phân cấp quản lý cán bộ Tòa

án nhân dân địa phương.

8. Chính phủ (2003), Nghị định số 145/2003/NĐ-CP ngày 01 tháng 12

năm 2003 về việc thành lập huyện Tây Trà; mở rộng thị trấn, thành

lập xã và đổi tên xã thuộc các huyện Bình Sơn, Lý Sơn, tỉnh Quảng

Ngãi.

9. Chính phủ (2005), Nghị định 112/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 8

năm 2005 về việc thành lập thành phố Quảng Ngãi thuộc tỉnh

Quảng Ngãi.

10. Chính phủ (2013), Nghị quyết số 123/NQ-CP ngày 12 tháng 12

năm 2013 về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Sơn Tịnh,

huyện Tư Nghĩa để mở rộng địa giới hành chính thành phố Quảng

Ngãi và thành lập phường Trương Quang Trọng thuộc thành phố

Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.

11. Chủ tịch Chính phủ lâm thời (1945), Sắc lệnh số 33C ngày 13

tháng 9 năm 1945.

12. Chủ tịch Chính phủ lâm thời (1945), Sắc lệnh số 37/SL ngày 25

tháng 9 năm 1945 về việc ấn định địa phương thẩm quyền của các

Tòa án quân sự.

13. Chủ tịch Chính phủ (1946), Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 01 năm

1946.

14. Chủ tịch Chính phủ (1946), Sắc lệnh số 51 ngày 17 tháng 4 năm

1946.

15. Chủ tịch Chính phủ (1947), Sắc lệnh số 19/SL ngày 16 tháng 02

năm 1947.

16. Chủ tịch Chính phủ (1947), Sắc lệnh số 59/SL ngày 05 tháng 7 năm

1947.

17. Chủ tịch Chính phủ (1948), Sắc lệnh số 185/SL ngày 26 tháng 5

năm 1948.

18. Chủ tịch nước (1950), Sắc lệnh số 85/SL ngày 22 tháng 5 năm

1950.

19. Chủ tịch nước (1950), Sắc lệnh số 158/SL ngày 17 tháng 11 năm

1950.

20. Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp, Nxb.

Công an nhân dân, Hà Nội.

21. Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Lí luận Nhà nước và pháp

luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

23. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Lý

luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Lý luận chính trị, Hà

Nội.

24. Học viện Hành chính Quốc gia (2007), Giáo trình Lý luận chung

về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

25. Huy Khiên (2016), Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong những năm đổi mới, Tạp chí điện

tử Cộng sản điện tử, (ngày 15/8/2016).

26. Nguyễn Huyền Ly (2012), Vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp

quyền Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia

Hà Nội.

27. Nguyễn Thanh Tuấn (2015), Đảm bảo công lý trong thể chế pháp

quyền, Tạp chí điện tử Tổ chức Nhà nước, (24/3/2015).

28. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb. Chính trị Quốc gia –

sự thật, Hà Nội.

29. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

30. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

31. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung

năm 2009, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

32. Quốc hội (2013), Luật đất đai, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

33. Quốc hội (1988), Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Tòa án nhân

dân năm 1981, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

34. Quốc hội (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất

đai năm 2003, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

35. Quốc hội (1993), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 1992, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

36. Quốc hội (1995), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 1993, Nxb.

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

37. Quốc hội (1960), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

38. Quốc hội (1981), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

39. Quốc hội (1992), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

40. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

41. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị

Quốc gia – sự thật, Hà Nội.

42. Quốc hội (2010), Luật tố tụng hành chính, Nxb. Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

43. Quốc hội (2015), Luật tố tụng hành chính, Nxb. Chính trị Quốc gia

– sự thật, Hà Nội.

44. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

45. Quốc hội (1959), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

46. Quốc hội (1980), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

47. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

48. Quốc hội (2001), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, Nxb. Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

49. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

50. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Thông tư 01/2016/TT-CA ngày 21

tháng 01 năm 2016 quy định việc tổ chức các Tòa chuyên trách tại

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án

nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.

51. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2012), Báo cáo tổng kết của Toà

án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.

52. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2013), Báo cáo tổng kết của Toà

án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.

53. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2014), Báo cáo tổng kết của Toà

án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.

54. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2015), Báo cáo tổng kết của Toà

án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.

55. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2016), Báo cáo tổng kết của Toà

án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.

56. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 41/2012/QĐ-TTG ngày

05 tháng 10 năm 2012 về chế độ bồi dưỡng với người tham gia

phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự.

57. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Lí luận Nhà nước

và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

58. Trương Hòa Bình (2014), Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân, tương xứng với chức năng, nhiệm

vụ: Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, Báo điện tử Công lý,

(05/4/2014).

59. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2014), Nghị quyết số

719/2014/UBTVQH 13 ngày 06 tháng 01 năm 2014 hướng dẫn thực

hiện khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28/11/2013

của Quốc hội quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

60. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1961), Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ

chức của Tòa án nhân dân tối cao và tổ chức các Tòa án nhân dân

địa phương, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

61. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân

sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

62. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội

thẩm Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

63. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Thẩm phán và Hội

thẩm Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

64. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2011), Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung

một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân

dân năm 2002, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.