ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGÔ THU HƯƠNG
THỂ LOẠI TRUYỆN NÔM TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGÔ THU HƯƠNG
THỂ LOẠI TRUYỆN NÔM TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Dương Thu Hằng
THÁI NGUYÊN - 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn: “Thể loại truyện Nôm trong chương
trình Ngữ văn phổ thông” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
cứ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2019
Tác giả luận văn
Ngô Thu Hương
ii
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất của mình, em xin bày tỏ lòng kính trọng
và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Dương Thu Hằng, người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban Giám hiệu, khoa
Báo chí - Truyền thông và văn học, trường Đại học Khoa học - Đại học Thái
Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong quá trình học tập và
nghiên cứu luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu trường THPT Đại Từ và các
đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn bạn bè và những người thân đã động viên và
nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2019
Tác giả luận văn
Ngô Thu Hương
iii
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... ii
MỤC LỤC ......................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ...................................................................... v
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................ 6
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 7
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 8
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 8
7. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 8
NỘI DUNG ...................................................................................................... 10
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI ................................................................................................... 10
1.1. Một số vấn đề chung về thể loại truyện Nôm .......................................... 10
1.1.1. Khái niệm truyện Nôm .......................................................................... 10
1.1.2. Phân loại truyện Nôm............................................................................ 11
1.1.3. Đặc điểm cơ bản của truyện Nôm ......................................................... 13
1.1.4. Vị trí, vai trò của thể loại truyện Nôm trong nền văn học dân tộc ....... 18
1.2. Truyện Kiều của Nguyễn Du và một số trích đoạn Truyện Kiều trong
chương trình phổ thông ........................................................................... 19
1.2.1. Những đặc điểm cơ bản về tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du ..... 19
1.2.2. Các trích đoạn Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn phổ thông
hiện hành ............................................................................................... 25
1.3. Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu và một số trích đoạn
Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu trong chương trình........ 26
1.3.1. Những đặc điểm cơ bản về Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu . 26
1.3.2. Các trích đoạn Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu trong
chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành ........................................... 30
iv
Chương 2. THỂ LOẠI TRUYỆN NÔM TRONG CHƯƠNG TRÌNH SÁCH
GIÁO KHOA NGỮ VĂN PHỔ THÔNG HIỆN HÀNH .................................. 33
2. 1. Những tri thức cơ bản về thể loại truyện Nôm được giảng dạy trong
chương trình SGK Ngữ văn phổ thông hiện hành .................................. 33
2.1.1. Tri thức về Truyện Kiều ........................................................................ 33
2.1.2. Tri thức về Truyện Lục Vân Tiên .......................................................... 36
2.2. Khảo sát thực trạng dạy - học thể loại truyện Nôm trong chương trình
Ngữ văn tại nhà trường phổ thông hiện nay ........................................... 39
2.2.1. Mục đích khảo sát ................................................................................. 39
2.2.2. Đối tượng và địa bàn khảo sát ............................................................... 40
2.2.3. Nội dung và cách thức khảo sát ............................................................ 40
2.3. Kết quả điều tra thực trạng ....................................................................... 41
2.3.1. Kết quả trắc nghiệm khách quan và kết quả khảo sát tự luận - một số
ý kiến luận giải, đề xuất tiêu biểu ......................................................... 41
2.3.2. Một số nhận xét ..................................................................................... 41
Chương 3. PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH PHẦN THỂ LOẠI TRUYỆN
NÔM TRONG CHƯƠNG TRÌNH SGK NGỮ VĂN PHỔ THÔNG MỚI ...... 52
3.1. Điều chỉnh hệ thống tri thức về truyện Nôm trong chương trình SGK
ngữ văn phổ thông ................................................................................... 53
3.1.1. Tồn tại ................................................................................................... 53
3.1.2. Đề xuất .................................................................................................. 55
3.2. Dạy học thể loại truyện Nôm trong chương trình ngữ văn phổ thông
theo chủ đề .............................................................................................. 59
3.2.1. Chủ đề đạo lý ........................................................................................ 60
3.2.2. Chủ đề tình yêu ..................................................................................... 72
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 83
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 88
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 104
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nội dung được viết tắt
GV Giáo viên
HS Học sinh
NXB Nhà xuất bản
PGS TS Phó giáo sư tiến sĩ
SGK Sách giáo khoa
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học trung đại Việt Nam được hình thành, phát triển trong một thời
gian dài (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX) và đã để lại những thành tựu rực rỡ,
tự hào cho nền văn học nước nhà. Từ chỗ tiếp thu và ảnh hưởng sâu sắc văn
hóa, văn học Trung Hoa, ông cha ta đã dần tạo nên diện mạo riêng cho nền
văn học dân tộc: những sáng tác văn học bằng chữ Nôm xuất hiện từ khoảng
thế kỉ XIII, đến thế kỉ XV- XVI và đã có những tác giả văn học chữ Nôm nổi
tiếng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm; những thể loại văn học của dân
tộc xuất hiện như Ngâm khúc, Truyện Nôm, Hát nói. Trong những thể loại
văn học được viết bằng ngôn ngữ dân tộc của nền văn học trung đại Việt
Nam, truyện Nôm là một thể loại đạt được nhiều thành tựu rực rỡ nhất, để lại
dấu ấn sâu sắc nhất, được đông đảo quần chúng nhân dân yêu thích và là đỉnh
cao sự phát triển văn học trung đại Việt Nam suốt 10 thế kỷ. Cho đến hôm
nay, những tác phẩm truyện Nôm như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu… vẫn luôn khẳng định sức sống lâu
bền và là niềm tự hào của người Việt Nam.
Trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông, việc lựa chọn những thể loại
văn học, các tác giả, tác phẩm giảng dạy cho học sinh (HS) có rất nhiều tiêu
chí đưa ra đòi hỏi các nhà biên soạn sách phải trăn trở hướng tới để đáp ứng
được mục tiêu giáo dục đạo đức, nhân cách, trí tuệ… cho các em một cách
phù hợp nhất với từng lớp học, cấp học. Và trong số những thể loại được chọn
đưa vào chương trình phổ thông môn Ngữ văn không khi nào thiếu vắng
truyện Nôm. Những đoạn trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu đã được đưa vào chương trình môn
Ngữ văn ở cả bậc trung học cơ sở (THCS) và bậc trung học phổ thông
(THPT). Đó là minh chứng cho thấy, thể loại truyện Nôm có một vị trí rất
quan trọng trong chương trình giáo dục ở phổ thông.
2
Theo Nghị quyết 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, một yêu cầu
mới đặt ra là phải đổi mới căn bản, toàn diện chương trình giáo dục theo định
hướng phát triển năng lực người học. Trong môn Ngữ văn, điều cần được
quan tâm và nhìn nhận đúng đắn hơn là không chỉ chú trọng dạy cái gì cho
HS mà cần phải chú ý tới việc tổ chức các hoạt động dạy học hợp lý, hiệu quả
để phát huy tốt nhất năng lực của người học. Đối với các tác phẩm văn học
trung đại, khoảng cách về thời gian và cả về văn hóa với HS phổ thông là khá
xa, nếu chỉ chú trọng dạy cái gì từ văn bản HS sẽ luôn cảm thấy khó hiểu,
không hứng thú với bài học và hiệu quả dạy học sẽ khó đạt như mong muốn.
Phải làm sao cho văn học gần với đời sống hơn, định hướng cho các em thấy
được mối liên hệ giữa văn học với đời sống để môn ngữ văn trở nên thực sự
cần thiết và có hiệu quả với tất cả HS phổ thông là điều quan tâm suy nghĩ
của rất nhiều người. Là giáo viên (GV) dạy môn Ngữ văn ở phổ thông, trước
những yêu cầu mới của giáo dục hiện nay, chúng tôi luôn trăn trở suy nghĩ:
dạy những gì và dạy như thế nào để tác phẩm văn học trung đại nói chung,
các đoạn trích trong những truyện thơ Nôm nổi tiếng của dân tộc nói riêng
(Truyện Kiều, Truyện Lục Vân Tiên) được HS đón nhận một cách hào hứng
trong giờ học, để có thể phát huy một cách tốt nhất năng lực của các em và
đồng thời định hướng cho HS có được những suy ngẫm, trải nghiệm riêng sau
tiết học về cách sống, cách ứng xử với bản thân, với mọi người và môi trường
xung quanh một cách đúng đắn, hợp lý nhất. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn đề
xuất nghiên cứu đề tài: Thể loại truyện Nôm trong chương trình ngữ văn
phổ thông với mong muốn góp thêm góc nhìn mới về thể loại truyện Nôm
trong hành trình tiếp nhận và để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học môn
Ngữ văn ở nhà trường phổ thông hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Với ý thức dân tộc sâu sắc, bằng tài năng sáng tạo tuyệt vời, ông cha ta
đã sáng tạo ra chữ Nôm và cùng với đó là thể loại văn học viết bằng chữ
3
Nôm. Cho đến nay có thể tự hào khẳng định truyện thơ Nôm có sức hấp dẫn,
sức sống bền lâu trong lòng độc giả và là đỉnh cao của sự phát triển văn học
trung đại Việt Nam. Để phổ biến rộng rãi trong nhân dân, cuối thế kỉ XIX,
một số truyện Nôm đã được phiên âm ra chữ quốc ngữ như Truyện Kiều,
Phan Trần, Truyện Lục Vân Tiên. Khi nghề in ấn phát triển vào đầu thế kỉ
XX, truyện Nôm được in, xuất bản ở một số thành phố lớn như Sài Gòn, Hải
Phòng, Hà Nội. Và cho đến nay, truyện Nôm vẫn luôn thu hút được sự quan
tâm đặc biệt của công chúng. Với giá trị sâu sắc về nhiều mặt, truyện Nôm
luôn được giới nghiên cứu quan tâm, viết nên nhiều công trình khám phá về
thể loại văn học đặc biệt này. Được biết đến nhiều nhất là những công trình
nghiên cứu như: Kiều Thu Hoạch trong luận án PTS KH Ngữ văn “Truyện
Nôm bình dân của người Việt, lịch sử hình thành và bản chất thể loại”, Đặng
Thanh Lê với cuốn “Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm”. Với sự đam mê
nghiên cứu của mình về thể loại truyện này, Kiều Thu Hoạch đã tiếp tục xuất
bản cuốn “Thi pháp truyện Nôm”. Ngoài ra còn có rất nhiều các bài viết đăng
trên các báo, tạp chí văn học thể hiện sự quan tâm tìm tòi, nghiên cứu rất sâu
sắc về thể loại truyện Nôm như: “Nhân vật phụ nữ qua một số truyện Nôm”
của Đặng Thanh Lê, “Thể loại truyện Nôm và sự phát triển của thể loại văn
học trung đại Việt Nam” của Đoàn Thị Giang.
Trong những công trình nghiên cứu về truyện Nôm kể trên, các tác giả
đã đi sâu tìm hiểu về những vấn đề như nguồn gốc, nội dung, nghệ thuật, vị
trí…của thể loại này. Đặc biệt trong cuốn “Truyện Nôm nguồn gốc bản chất
và thể loại”, tác giả Kiều Thu Hoạch đã tập trung nghiên cứu chủ yếu vào vấn
đề thể loại, đi sâu tìm hiểu nguồn gốc, quá trình hình thành phát triển thể loại,
qua đó chỉ ra giá trị sâu sắc của truyện Nôm: “Xu hướng chung của truyện
Nôm là đề cao trung, hiếu, tiết nghĩa, nhưng trong đa số truyện Nôm, nhất là
truyện Nôm nguồn gốc ở truyện dân gian thì đó là thứ trung, hiếu, tiết, nghĩa
theo quan điểm dân gian” [7, tr22].
4
Những công trình nghiên cứu bề thế, có giá trị kể trên là những tài liệu
quý báu, tạo cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu những tác phẩm truyện
Nôm của nền văn học trung đại Việt Nam.
Trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông, truyện thơ Nôm luôn có một
vị trí xứng đáng, được chọn dạy trong nhiều tiết học ở lớp 9, 10 và bài đọc
thêm ở lớp 11. Với giá trị đặc biệt về nội dung và nghệ thuật, truyện Nôm
thực sự có vai trò quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ từ nếp cảm, nếp
nghĩ đến đạo đức, nhân cách, lối sống, cách hành xử… trong cuộc sống của
các em. Đến với truyện Nôm, HS còn có thể biết được những hình thức nghệ
thuật đậm đà bản sắc dân tộc Việt. Hai tác giả tiêu biểu của thể loại truyện
Nôm bác học được chọn dạy trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông là
Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu - những tác gia văn học lớn của dân tộc.
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu và viết nên những cuốn
sách, những công trình phục vụ cho việc tìm hiểu những tác phẩm truyện
Nôm trong chương trình ngữ văn nhưng chủ yếu là tìm hiểu riêng từng tác
phẩm, từng đoạn trích, hay một khía cạnh của truyện Nôm trong chương trình
như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ… Vấn đề thể loại truyện Nôm trong
chương trình phổ thông chưa được nhìn nhận một cách hệ thống và toàn diện.
Trong cuốn “Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc
nhìn thể loại”, Lã Nhâm Thìn đã đem đến cho người đọc cách nhìn thiết thực
đối với việc nghiên cứu, giảng dạy văn học từ góc nhìn thể loại. Chương V
của cuốn sách đã đề cập đến đặc điểm và phương pháp phân tích truyện thơ,
những định hướng khi phân tích một số đoạn trích trong truyện thơ: “Truyện
được kể bằng thơ nên đặc điểm nổi bật nhất của truyện Nôm là sự kết hợp
giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình” [25, tr238]. Hay “Truyện Nôm bác học
một mặt khẳng định lễ giáo phong kiến, mặt khác lại đề cao tình yêu tự do,
khát vọng giải phóng tình cảm. Có những tác phẩm đề cập tới những vấn đề
đạo đức nhân sinh và xã hội sâu sắc như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện
5
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Truyện Nôm bác học thường rất chau
chuốt về nghệ thuật” [25, tr238].
Với kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du, bên cạnh những đặc điểm
chung của truyện thơ Nôm còn có những sáng tạo đặc biệt của tác giả. Đặng
Thanh Lê trong cuốn sách “Giảng văn Truyện Kiều” đã thể hiện những
nghiên cứu sâu sắc về việc tìm hiểu và giảng dạy Truyện Kiều. Tác giả đã
trình bày quan điểm về phân tích Truyện Kiều theo hướng tiếp cận thi pháp
học và ngôn ngữ học. “Việc phân tích những đặc điểm trong thi pháp Truyện
Kiều cần được đặt trong mối quan hệ giữa ba “cấp độ” thi pháp: thi pháp tác
phẩm tự sự, thi pháp cổ điển và thi pháp Truyện Kiều. Nhìn nhận như vậy,
chúng ta có thể khám phá được những nét chung và nét riêng truyền thống
cộng đồng và cá tính sáng tạo, đó là quy luật phát triển của văn học cũng như
một cơ sở tạo nên thiên tài Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều” [11, tr12].
Khi phân tích ngôn ngữ Truyện Kiều, Đặng Thanh Lê cũng lưu ý hai điều, đó
là: “phải chú trọng đến hiệu quả thông tin tối ưu hơn là tối đa” [11, tr12].
“Những đoạn thơ đã được chọn lọc trích giảng là những đoạn thơ ưu tú…
những từ ngữ, tứ thơ hay nhất thuộc hệ thống từ ngữ dân tộc và những điển
cố, thi liệu, từ ngữ Hán đã được sử dụng hết sức sáng tạo” [11, tr13].
Tác giả cuốn sách “Bình giải 10 đoạn trích trong Truyện Kiều”, Trương
Xuân Tiếu đã đem đến những định hướng hữu ích khi tìm hiểu một số đoạn
trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Với mỗi đoạn trích cần tìm hiểu, tác
giả đều giới thiệu về đoạn trích tương ứng trong Kim Vân Kiều truyện, giải
thích những thành ngữ tiếng Việt, những điển cố văn học Trung Quốc được
Nguyễn Du sử dụng trong đoạn trích ấy. Từ đó tạo cơ sở để tìm hiểu vị trí, bố
cục và phân tích giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn trích.
Trong chương trình ngữ văn phổ thông hiện hành, Truyện Lục Vân Tiên
của Nguyễn Đình Chiểu được dạy học ở chương trình Ngữ văn lớp 9 và
chương trình Ngữ văn nâng cao lớp 11. Với Truyện Lục Vân Tiên, người dân
miền Nam ai cũng mến yêu, say mê thưởng thức. Tác phẩm này được các nhà
6
nghiên cứu dày công tìm hiểu thể hiện qua rất nhiều bài viết trong cuốn sách.
Giáo sư Nguyễn Đình Chú đã nhận xét: “Về thể loại truyện thơ, Lục Vân Tiên
của Đồ Chiểu đáng xếp vào hàng thứ hai sau Truyện Kiều của Nguyễn Du, sự
sáng tạo nghệ thuật ở sức sống, ở khả năng phô-cờ-lo-ri-dê (dân gian hóa)
của nó” [24, tr581]. Trong bài viết “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng
trong bầu trời văn nghệ dân tộc”, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng
định: “Cho nên các nhân vật của Lục Vân Tiên: Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga,
Tiểu đồng… là những người đáng quý, đáng yêu, trọng nghĩa, khinh tài, trước
sau một lòng, mặc dầu khổ cực, gian nguy, quyết phấn đấu vì nghĩa lớn. Họ
là những nhân vật của một thuở đã qua, điều đó không cần phải nói. Nhưng
họ là những con người có ruột gan, xương thịt. Họ sống trong một xã hội
cũng như biết bao xã hội từ xưa đến nay, có người tốt, kẻ xấu, người ngay, kẻ
gian, có nhiều đau khổ, bất công - họ đã đấu tranh không khoan nhượng
chống mọi gian dối bất công và họ đã thắng. Họ là những tấm gương dũng
cảm. Vì những lẽ đó họ gần gũi chúng ta và câu chuyện của họ làm chúng ta
xúc động và thích thú” [ 20, tr27].
Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu thể loại truyện Nôm nói chung và những
truyện Nôm nổi tiếng như đã kể trên được đưa vào chương trình Ngữ văn phổ
thông hiện hành, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu đã có những kết quả
tìm hiểu bề thế, có ý nghĩa và ảnh hưởng sâu sắc. Tiếp thu kết quả nghiên cứu
của những bậc tiền bối, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài Thể loại truyện
Nôm trong chương trình Ngữ văn phổ thông nhằm có cái nhìn hệ thống hơn
về những truyện Nôm được đưa vào chương trình giảng dạy, và đó cũng là
cách để đưa văn học gần gũi với đời sống hơn góp phần bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa dân tộc qua những tác phẩm có giá trị đặc biệt trong nền văn
học trung đại Việt Nam.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thể loại truyện Nôm trong chương trình Ngữ văn phổ thông, đặc biệt là
7
những đoạn trích trong chương trình sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn hiện hành.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Góp phần làm rõ thêm giá trị của thể loại truyện thơ Nôm, đặc biệt là
các đoạn trích trong chương trình SGK Ngữ văn phổ thông hiện hành.
- Góp phần phát triển chương trình SGK Ngữ văn phổ thông theo định
hướng của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (ban hành kèm
theo thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo) đồng thời cung cấp thêm tri thức nhằm nâng cao chất
lượng dạy học môn Ngữ văn ở phổ thông, làm cho tác phẩm văn học trung đại
trở nên gần gũi và được các em HS yêu mến, trân trọng và định hướng tốt hơn
cho sự phát triển nhân cách người học hiện nay.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề liên quan đến thể loại truyện Nôm, đặc biệt là
truyện Nôm của hai tác giả được dạy học trong chương trình phổ thông:
Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu.
- Thống kê các đoạn trích thuộc thể loại truyện Nôm có trong chương
trình phổ thông để từ đó tìm hiểu sâu sắc giá trị nội dung, nghệ thuật và đề
xuất hướng phát triển chương trình phù hợp nhằm phát huy năng lực người
học, đưa văn học gần với đời sống hơn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi vận dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu sau để thực
hiện luận văn:
- Phương pháp khảo sát, thống kê: Phương pháp này được sử dụng với
mục đích thống kê các đoạn trích thuộc tác phẩm truyện thơ Nôm được dạy
và học trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông.
8
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Sử dụng phương pháp này nhằm tìm
hiểu những tài liệu về truyện Nôm, về việc dạy- học truyện Nôm trong
chương trình phổ thông với những thuận lợi, khó khăn, cái được, chưa được
để từ đó phân tích để thấy được những những nét đặc trưng riêng của thể loại,
nhằm đưa ra những hướng phù hợp về cách tiếp cận những đoạn trích truyện
Nôm trong chương trình, góp phần đưa văn học gần với đời sống hơn.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Để thấy được sự hấp dẫn của thể
loại truyện Nôm trong chương trình, trong đề tài này chúng tôi có vận dụng
phương pháp nghiên cứu liên ngành, kết hợp khai thác tri thức văn học với
các tri thức thuộc các ngành khác nhau như văn hóa, lịch sử, xã hội…
5. Phạm vi nghiên cứu
- Thể loại truyện thơ Nôm;
- Các trích đoạn thuộc thể loại truyện thơ Nôm được dạy trong chương
trình SGK Ngữ văn phổ thông hiện hành;
- Các công trình nghiên cứu có liên quan.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, phần Nội dung đề
tài được triển khai gồm 3 chương chính:
Chương 1: Những vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài
Chương 2: Thể loại truyện Nôm trong chương trình SGK Ngữ văn phổ
thông hiện hành.
Chương 3: Phát triển chương trình phần thể loại truyện Nôm trong SGK
Ngữ văn phổ thông mới.
7. Đóng góp của luận văn
- Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về thể loại truyện Nôm trong
chương trình Ngữ văn phổ thông một cách hệ thống và toàn diện. Trên cơ sở
phân tích đặc điểm của thể loại truyện Nôm trong chương trình SGK Ngữ văn
9
hiện hành và khảo sát thực trạng dạy học thể loại truyện Nôm ở nhà trường phổ
thông, đề tài đề xuất hướng phát triển chương trình phần thể loại truyện Nôm
trong chương trình SGK Ngữ văn phổ thông mới. Qua đó, góp phần làm rõ mối
quan hệ của các tác phẩm văn học trung đại trong giáo dục nhân cách HS nói
riêng và trong đời sống văn hóa xã hội hiện nay nói chung. Kết quả nghiên cứu
của đề tài sẽ góp thêm một tiếng nói nhằm bảo tồn, sống lại giá trị của thể loại
truyện Nôm, giúp các em HS phổ thông thêm hứng thú tiếp nhận các tác phẩm
thuộc thể loại truyện Nôm trong thời kỳ văn học trung đại Việt Nam.
- Góp thêm một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc học tập, nghiên cứu
về truyện Nôm, đặc biệt là truyện Nôm của hai tác giả tiêu biểu trong nền văn
học Việt Nam là Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu.
10
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Một số vấn đề chung về thể loại truyện Nôm
1.1.1. Khái niệm truyện Nôm
Truyện Nôm là một thể loại đặc sắc của nền văn học trung đại Việt Nam
thể hiện đậm nét ý thức và tài năng sáng tạo của ông cha ta. Cho đến nay đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học về truyện Nôm. Các nhà nghiên
cứu đã đưa ra những khái niệm khác nhau về thể loại truyện Nôm trên cơ sở
căn cứ vào thể thơ, ngôn ngữ và phương pháp sáng tác. Cuốn Từ điển thuật
ngữ văn học, mục Truyện Nôm có giới thiệu ngắn gọn như sau: “Truyện Nôm
là thể loại tự sự bằng thơ dài rất tiêu biểu cho văn học cổ điển Việt Nam, nở
rộ vào cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, do viết bằng tiếng Việt, ghi bằng chữ
Nôm nên được gọi là truyện Nôm” [5, tr.372].
Tìm hiểu các truyện Nôm của nước ta hiện còn, xét về thể thơ, chúng ta
thấy có tác phẩm viết bằng thể thơ lục bát, có tác phẩm viết bằng thể thơ Đường
luật. Song tiêu biểu hơn cả là loại truyện Nôm viết bằng thể thơ lục bát.
Truyện Nôm được xem xét là thể loại tự sự bằng thơ dài nhưng nó có
những đặc trưng riêng biệt để phân biệt với những thể loại văn học khác.
Trong mục Truyện thơ Nôm và Truyện Kiều, cuốn Thi pháp Truyện Kiều,
Trần Đình Sử đã chỉ rõ sự khác biệt giữa truyện thơ Nôm với sử thi, cổ tích,
tiểu thuyết hiện đại. Giáo sư (GS) Trần Đình Sử cho rằng: “Cho đến trước
Truyện Kiều của Nguyễn Du, thể loại truyện Nôm đã hình thành từ nhu cầu
diễn ca, diễn Nôm để sáng tác thành một thể loại tự sự dân tộc. Truyện Nôm
là một thể loại có nội dung thế sự, đời tư, không phải thể loại sử thi như diễn
ca lịch sử. Khác với cổ tích, truyện Nôm là hình thức tự sự hướng tới khắc
11
họa hình ảnh của chủ thể con người với đời sống nội tâm, ý nghĩ, lời nói, tư
tưởng. Nhưng khác với tiểu thuyết hiện đại, truyện Nôm là thể loại “truyện
vừa” trung đại, chỉ kể các sự tích và nhân vật trong quan hệ nhân quả sít sao,
chặt chẽ, có hậu. Truyện Nôm nói chung chưa biết đến các chi tiết “thừa”, nó
chưa cho ta biết về vô thức và trạng thái thế giới bao la xung quanh con
người và sự việc”[21, tr.102].
Qua sự tìm hiểu, nghiên cứu sâu sắc của mình, các nhà nghiên cứu đã
đưa ra những khái niệm về thể loại truyện Nôm. Mỗi nhà nghiên cứu sẽ có
cách diễn đạt riêng, song tựu chung lại chúng tôi khái quát về thể loại này như
sau: Truyện Nôm là loại hình tự sự bằng thơ, chủ yếu sử dụng thể thơ lục bát,
dùng chữ Nôm làm văn tự. Mỗi tác phẩm truyện Nôm đều có cốt truyện hoàn
chỉnh, được tạo nên bởi các sự kiện, tình tiết, biến cố, xoay quanh cuộc đời,
số phận của nhân vật chính. Việc sử dụng thể thơ lục bát truyền thống và
ngôn ngữ dân tộc là chữ Nôm, truyện Nôm đã khẳng định dấu ấn riêng của
nền văn học nước nhà, bước đầu thoát khỏi ảnh hưởng nặng nề của văn học
Trung Quốc.
1.1.2. Phân loại truyện Nôm
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, truyện Nôm là thể loại có số lượng
tác phẩm khá đồ sộ. Được hình thành từ khoảng thế kỉ XVI, XVII, phát triển nở
rộ vào khoảng cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, chịu sự ảnh hưởng của những
hoàn cảnh xã hội khác nhau trong một khoảng thời gian rất dài, việc phân loại
truyện Nôm không đơn giản. Bằng căn cứ có cơ sở khoa học, các nhà nghiên
cứu đã đưa ra những cách phân loại truyện Nôm khác nhau như sau:
Dựa vào nguồn gốc và thể tài, có 3 loại truyện Nôm: Thứ nhất, loại lấy
đề tài từ các truyện cổ dân gian như truyện Tấm Cám, truyện Trương Chi,
Thạch Sanh; Thứ hai, loại lấy đề tài, cốt truyện từ văn học Trung Quốc như
truyện Hoa Tiên; Thứ ba, loại lấy đề tài, cốt truyện từ những sáng tác chữ Hán
hoặc những sự tích có thật ở Việt Nam như Tống Trân Cúc Hoa.
12
Dựa vào mối quan hệ với tác giả, có thể chia truyện Nôm thành hai loại
là truyện Nôm hữu danh và truyện Nôm khuyết danh.
Dựa vào nội dung và hình thức sáng tác, truyện Nôm được chia thành
hai loại là truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học.
Dựa vào nội dung và thể tài, có thể chia truyện Nôm thành các loại: loại
có tính chất lễ nghi, tôn giáo, loại truyện lãng mạn, loại truyện thế sự, loại
truyện lịch sử, loại truyện luân lí đạo đức.
Mỗi cách phân loại truyện Nôm như đã thống kê trên đều có những ưu
điểm và tồn tại nhất định, chỉ mang tính tương đối, không có cách phân loại
nào là tuyệt đối hợp lý. Song có thể thấy, phân chia truyện Nôm thành hai loại
là truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học là phương án được nhiều nhà
nghiên cứu đồng thuận. Bởi cách phận loại này đã bám khá sát vào đặc điểm
nội dung và hình thức nghệ thuật của các tác phẩm truyện Nôm.
Truyện Nôm bình dân hầu hết không có tên tác giả. Song, người ta có
thể phỏng đoán tác giả của nó là những nho sĩ bình dân bởi căn cứ vào trình
độ học vấn, trình độ tu dưỡng nghệ thuật, căn cứ vào cách nhìn nhận các vấn
đề nhân sinh và xã hội được thể hiện trong tác phẩm. Cốt truyện trong các
truyện Nôm bình dân thường dựa theo những câu chuyện cổ dân gian Việt
Nam. Truyện Nôm bình dân sáng tác để kể là chính, được lưu truyền trong
dân gian trước khi được in ra thành văn bản. Chính vì vậy, trong truyện Nôm
bình dân, cách sử dụng ngôn ngữ, cách diễn đạt rất bình dị, dễ hiểu, gần với
lời ăn tiếng nói của nhân dân lao động, thể hiện tâm tư, tình cảm, quan niệm,
và cả những ước mơ, khát vọng của nhân dân. Truyện Nôm bình dân rất gần
với truyện dân gian nhưng không phải là truyện dân gian. Về một mặt nào đó,
có thể nói, truyện Nôm bình dân là chiếc cầu nối liền giữa văn học dân gian
với truyện Nôm bác học. Những truyện Nôm bình dân được phổ biến rộng rãi
13
trong dân gian là: Thạch Sanh, Tống Trân - Cúc Hoa, Lý Công, Tấm Cám,
Thoại Khanh - Châu Tuấn…
Truyện Nôm bác học phần lớn là có tên tác giả, chỉ có một số ít tác phẩm
là khuyết danh. Tác giả của truyện Nôm bác học là những người thuộc giai
cấp phong kiến quý tộc, trình độ học vấn uyên bác, có quá trình rèn luyện và
trình tu dưỡng nghệ thuật. Khác với truyện Nôm bình dân, cốt truyện trong
những truyện Nôm bác học chủ yếu mượn từ văn học cổ Trung Quốc, chỉ một
số rất ít là được hư cấu. Truyện Nôm bác học được sáng tác theo phương thức
của văn học thành văn, chủ yếu là để đọc nên các tác giả khá cầu kì, tinh tế
trong cách diễn đạt, sử dụng nhiều điển tích, điển cố, ngôn ngữ trau chuốt,
giàu hình ảnh, đạt đến trình độ nghệ thuật cao. Các tác phẩm truyện Nôm bác
học tiêu biểu có thể kể đến là Hoa tiên kí của Nguyễn Huy Tự, Sơ kính tân
trang của Phạm Thái, kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân
Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
Qua sự phân loại như trên, ta có thể khẳng định, thể loại truyện Nôm đã
thể hiện được những đặc trưng riêng và để lại dấu ấn đặc biệt trong nền văn
học trung đại Việt Nam. Những tác phẩm truyện Nôm thời trung đại đã góp
phần quan trọng tạo nên sức sống, giá trị, bản sắc của văn học dân tộc Việt
Nam trong mọi thời kì.
1.1.3. Đặc điểm cơ bản của truyện Nôm
1.1.3.1. Đặc điểm về nội dung
Tìm hiểu đặc điểm cơ bản về nội dung của truyện Nôm, chúng tôi xem
xét chủ yếu ở hai phương diện là đề tài và chủ đề tác phẩm.
Về đề tài trong các tác phẩm truyện Nôm, có thể thấy sự ảnh hưởng sâu
sắc nguồn đề tài từ các sáng tác dân gian và sự tiếp thu ảnh hưởng của văn học
nước ngoài mà chủ yếu là của văn học Trung Quốc. Vì vậy, nguồn gốc đề tài
cốt truyện của truyện Nôm thường được chia thành ba nhóm cơ bản như sau:
14
Thứ nhất, truyện Nôm lấy nguồn đề tài từ các truyện cổ dân gian như:
Thạch Sanh, Tống Trân - Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa, Thoại Khanh -
Châu Tuấn…
Thứ hai, truyện Nôm lấy nguồn đề tài từ các tác phẩm của văn học Trung
Quốc như trường hợp tác phẩm Truyện Kiều, Phan Trần, Nhị Độ Mai…
Nhưng ở những tác phẩm truyện Nôm này luôn thể hiện được cá tính và tài
năng sáng tạo tuyệt vời của tác giả khiến cho tác phẩm mang vẻ đẹp của tâm
hồn con người Việt Nam, phản ánh hiện thực xã hội đương thời và phù hợp
với quan niệm thẩm mĩ của nhân dân ta.
Thứ ba, các tác phẩm truyện Nôm có nguồn đề tài từ hiện thực đời sống,
xã hội. Đến với tác phẩm Ông Ninh cổ truyện và Chúa Thao cổ truyện, người
đọc sẽ dễ dàng nhận ra hiện thực về cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn và cuộc
chiến tranh Trịnh - Mạc được đề cập đến ở đó. Ba truyện Nôm của Nguyễn
Đình Chiểu cũng thuộc nhóm nguồn đề tài này. Số lượng các truyện Nôm có
nguồn đề tài này không nhiều nhưng các tác phẩm đó đã đặt ra những vấn đề
quan trọng, góp phần tạo nên diện mạo của thể loại truyện Nôm Việt Nam
thời trung đại.
Từ những nguồn đề tài nêu trên, truyện thơ Nôm chủ yếu tập trung
phản ánh hai chủ đề chính: Chủ đề giải phóng tình yêu đôi lứa và chủ đề đấu
tranh cho công lí xã hội.
Về chủ đề giải phóng tình yêu đôi lứa, có thể khẳng định đây là chủ đề
nổi bật trong các truyện thơ Nôm bác học nổi tiếng như Sơ kính tân trang,
Truyện Kiều. Trong các truyện này, các cặp đôi yêu nhau thường là những bậc
tài tử- giai nhân. Họ đến với nhau bằng tình cảm tự nhiên, chân thành và đắm
say của tuổi trẻ. Trong hoàn cảnh lễ giáo phong kiến khắt khe và nhiều thế lực
cản trở khác, tình yêu của những cặp đôi đó gặp rất nhiều trắc trở, éo le và thử
15
thách khắc nghiệt. Song đến cuối tác phẩm, họ vẫn đón nhận được những kết
thúc đẹp, được nên duyên vợ chồng hoặc hưởng hạnh phúc tương đối trọn
vẹn. Có được điều đó là nhờ sự giúp đỡ ít nhiều của các lực lượng thần kì
hoặc tiến bộ.
Về chủ đề đấu tranh cho công lí xã hội, đây là chủ đề nổi bật trong các
truyện thơ Nôm bình dân như Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống Trân - Cúc Hoa,
Thoại Khanh- Châu Tuấn… Chủ đề này cũng được phản ánh trong một số
truyện Nôm bác học như Truyện Kiều, Truyện Lục Vân Tiên. Các truyện này
thường kết thúc có hậu nhờ sự giúp sức của các lực lượng thần kì, nghĩa hiệp,
nhằm thỏa mãn mơ ước của người xưa về một xã hội công bằng, tốt đẹp. Như
vậy, bên cạnh chủ đề chính là đấu tranh cho công lí xã hội, truyện Nôm còn
phản ánh những vấn đề rộng lớn như tố cáo các thế lực phong kiến tàn nhẫn
chà đạp lên quyền sống của những người dân lương thiện; lên tiếng bênh vực
con người, đặc biệt là những người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi, bất công
trong xã hội nặng nề về tư tưởng trọng nam khinh nữ; ca ngợi những phẩm
chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam như chịu thương chịu khó, nhân hậu,
thủy chung…
Khi hoàn cảnh xã hội Việt Nam đã có sự thay đổi do sự xâm lăng của
thực dân Pháp, đó cũng là khi truyện Nôm đã phát triển và thể hiện rõ đặc
điểm thể loại. Với những ưu thế về thể loại, ngôn ngữ, tác phẩm truyện Nôm
đã tích cực phát huy thế mạnh của mình để phản ánh những vấn đề lớn lao
của đất nước, dân tộc. Những người trí thức phong kiến tiến bộ đã gắn tình
cảm, tình yêu của mình với cuộc sống lầm than, cơ cực của người dân đất
nước mất chủ quyền để phản ánh sâu sắc chủ đề yêu nước, thương dân trong
tác phẩm truyện Nôm của mình.
Như vậy, xét về nội dung, truyện Nôm với nguồn đề tài phong phú đã
phản ánh những chủ đề mang ý nghĩa xã hội rộng lớn, sâu sắc. Dù với bất kì
đề tài nào, truyện Nôm luôn lên tiếng bảo vệ, bênh vực những người dân lao
16
động, nói lên tâm tư, nguyện vọng và ước mơ chính đáng của họ về một xã
hội công bằng, về những kết thúc đẹp của cuộc đời con người sau biết bao tai
ương, sóng gió. Cho đến nay, đọc truyện Nôm chúng ta vẫn luôn cảm thấy
xúc động và thấm thía bởi những triết lí nhân sinh sâu sắc mà các tác giả đã
gửi gắm trong tác phẩm.
1.1.3.2. Đặc điểm về nghệ thuật
Tìm hiểu về nghệ thuật truyện Nôm, có nhiều vấn đề được đặt ra, song
với khuôn khổ của luận văn, chúng tôi xem xét đến 3 vấn đề cơ bản là kết cấu,
nhân vật và ngôn ngữ.
Về kết cấu, truyện Nôm thường có kết cấu theo mô hình chung là: Gặp
gỡ (hội ngộ) - Tai biến (lưu lạc) - Đoàn tụ (Đoàn viên). Trong 3 phần trên, tùy
vào chủ đề của tác phẩm mà phần nào sẽ chiếm dung lượng nhiều nhất.
Thông thường, đối với truyện Nôm phản ánh chủ đề giải phóng tình yêu, phần
“gặp gỡ” thường được nhấn mạnh. Tác giả dành nhiều trang viết để đi sâu
miêu tả và ca ngợi tình yêu tự do, say đắm của đôi bạn trẻ tài tử - giai nhân.
Còn với những truyện Nôm phản ánh chủ đề dấu tranh cho công lí xã hội thì
phần thứ hai là “tai biến” được chú trọng và phản ánh khá sâu sắc. Ở đó, nhân
vật chính gặp rất nhiều khó khăn, trắc trở, thậm chí thử thách khốc liệt tưởng
như khó có thể chịu đựng và vượt qua được. Bằng ý chí, nghị lực của bản
thân và sự giúp sức của các lực lượng thần kì, tiến bộ, họ đã vượt qua tai
ương, sóng gió đó để đến với kết thúc tốt đẹp. Dù đề cập đến chủ đề nào, kết
cấu tác phẩm triển khai theo hướng nào thì các truyện Nôm đều hướng tới
một kiểu kết thúc là: kết thúc có hậu. Song cũng có những tác phẩm, kết thúc
có hậu chỉ là bề ngoài, phản ánh khát vọng cao đẹp của người dân, còn thực
chất bên trong đầy bi kịch và đẫm nước mắt (ví như kết thúc Truyện Kiều),
thể hiện sự bế tắc, bất lực của tác giả trước thời cuộc đen tối.
Về nhân vật, do dung lượng tác phẩm khá dài và phản ánh những vấn đề
xã hội rộng lớn nên truyện Nôm đã xây dựng được số lượng nhân vật khá
17
nhiều. Nhân vật trong truyện Nôm thường bao gồm hai tuyến là nhân vật
chính diện (những người tốt bụng, hiền lành) và nhân vật phản diện (những kẻ
có tâm địa xấu, độc ác). Có trường hợp đặc biệt, ở những truyện Nôm bác học
của những nhà văn kiệt xuất như Truyện Kiều của Nguyễn Du, bên cạnh
những nhân vật chính diện, phản diện, tác giả đã rất thành công trong việc xây
dựng nhân vật lưỡng diện. Nhân vật lưỡng diện là những nhân vật mà ở con
người đó vừa có những biểu hiện tốt, có khi trong những hoàn cảnh đặc biệt
họ lại có những biểu hiện chưa tốt và ngược lại, những người chủ yếu có
những biểu hiện xấu, ác, nhưng có những khi họ lại có những biểu hiện nhân
từ. Ở những truyện Nôm không đặt ra vấn đề đấu tranh giai cấp hay đấu tranh
tư tưởng như truyện Hoa Tiên, Mai đình mộng kí sẽ không có nhân vật phản
diện. Trong truyện Nôm còn có một loại hình nhân vật đặc biệt nữa là loại
nhân vật chức năng, nhân vật này giữ vai trò phụ trợ cho nhân vật chính, thúc
đẩy sự phát triển của cốt truyện. Đó là những nhân vật như nàng hầu, người
dẫn đường, thầy bói,…Đôi khi, họ cũng đương đầu với thế lực cường quyền
để ảo vệ cho chủ, bảo vệ cho công lí. Nhân vật trong truyện Nôm thường
được xây dựng theo môtip: chàng trai xuất thân nghèo, vất vả học hành sau
thành đạt và rất chung tình; cô gái con nhà giàu có, ngoan hiền, nết na, đảm
đang, hiếu thảo… Đặc biệt có một số ít nhân vật trong truyện Nôm được xây
dựng đa chiều, sinh động, có tính cách riêng, đời sống nội tâm phong phú,
điển hình là nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Trong
truyện Nôm, ngoại hình nhân vật được tác giả chú ý miêu tả, song nhìn chung
vẫn mang tính ước lệ. Ở một số nhân vật trong truyện Nôm nổi tiếng của
những cây bút tài hoa, ngoại hình nhân vật cũng đã thể hiện được nét riêng,
góp phần biểu hiện tính cách, số phận. Các nhân vật được khắc họa chủ yếu
thông qua ngôn ngữ đối thoại. Trong một số truyện Nôm bác học, nhân vật
còn được khắc họa tài hoa qua những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hoặc miêu tả
trực tiếp tâm trạng, tâm lí nhân vật, qua ngôn ngữ độc thoại.
18
Về ngôn ngữ, truyện Nôm được sáng tác bằng văn tự là chữ Nôm. Đến
với các văn bản truyện Nôm, người đọc được tiếp xúc với một hệ thông ngôn
ngữ vô cùng sinh động, phong phú. Ngôn ngữ được sử dụng trong truyện
Nôm gồm cả ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học. Ngôn ngữ bác học là
ngôn ngữ được chau chuốt, gọt rũa theo lối ước lệ tượng trưng, sử dụng điển
tích, điển cố, thi liệu, văn liệu của Trung Quốc, … Ngôn ngữ bình dân là lời ăn
tiếng nói giản dị, mộc mạc, dễ hiểu, có phần nôm na rườm rà, gần với lối nói của
quần chúng nhân dân. Những thành ngữ, khẩu ngữ, phương ngữ và cả những từ
ngữ địa phương đều thuộc ngôn ngữ bình dân. Trong truyện Nôm, ngôn ngữ
bình dân và ngôn ngữ bác học đều phát huy thế mạnh một cách hiệu quả tạo nên
sức hấp dẫn của tác phẩm. Nếu ngôn ngữ bình dân mang tính cụ thể, chi tiết,
thuận lợi cho mọi tầng lớp nhân dân có thể tiếp thu thì ngôn ngữ bác học lại
mang vẻ đẹp tao nhã, trang trọng, thể hiện học vấn uyên thâm của tác giả. Tùy
từng loại truyện Nôm mà việc sử dụng ngôn ngữ bình dân hay ngôn ngữ bác học
chiếm tỉ lệ nhiều hơn. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một minh chứng cho sự
kết hợp tài hoa trong việc sử dụng cả hai loại ngôn ngữ trên.
1.1.4. Vị trí, vai trò của thể loại truyện Nôm trong nền văn học dân tộc
Nền văn học trung đại Việt Nam đã trải qua nhiều thế kỉ tồn tại, phát
triển với nhiều thành tựu rực rỡ. Bên cạnh việc tiếp thu những ảnh hưởng của
văn hóa, văn học Trung Hoa, văn học nước nhà cũng đã thể hiện được những
nét bản sắc riêng mang tính dân tộc đậm nét. Từ chỗ sử dụng chữ Hán và
những thể loại văn học vay mượn của Trung Quốc, ông cha ta đã sáng tạo ra
chữ viết riêng của dân tộc mình là chữ Nôm. Cùng với sự xuất hiện của chữ
Nôm là có sự ra đời của các tác phẩm văn học viết bằng chữ Nôm như phú
Nôm, Đường luật Nôm, đối Nôm…Và điều kì diệu đặc biệt hơn cả là đã có
những thể loại viết bằng chữ Nôm của riêng nền văn học dân tộc ta như
truyện Nôm, ngâm khúc, hát nói. Trong đó, truyện Nôm với những nét đặc
sắc riêng về nội dung và nghệ thuật như đã trình bày trên là một thể loại văn
19
học lớn, có giá trị bền lâu của nền văn học nước nhà. Việc sử dụng chữ Nôm
và thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, truyện Nôm có sức lan tỏa sâu
rộng trong tình yêu và niềm đam mê của đông đảo nhân dân. Từ tầng lớp trí
thức đến những người bình dân họ đều có thể chiêm nghiệm và thưởng thức
truyện Nôm theo những cách khác nhau của riêng mình.Với số lượng tác
phẩm lớn, có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới,
truyện Nôm đã khẳng định được vị trí đặc biệt của thể loại này trong nền văn
học nước nhà.
1.2. Truyện Kiều của Nguyễn Du và một số trích đoạn Truyện Kiều trong
chương trình phổ thông
1.2.1. Những đặc điểm cơ bản về tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du
Nguyễn Du (1765-1820) là một thiên tài văn học, danh nhân văn hóa,
người có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của văn học Việt Nam. Tác
phẩm văn học của Nguyễn Du gồm cả sáng tác bằng chữ Hán và sáng tác
bằng chữ Nôm. Khi nhắc đến những tác phẩm văn học viết bằng chữ Nôm
của ông, người đọc không thể không nhắc đến tác phẩm Văn tế thập loại
chúng sinh và kiệt tác Truyện Kiều. Nếu xem truyện Nôm là một thành tựu kì
diệu mang bản sắc riêng của nền văn học trung đại Việt Nam thì Truyện Kiều
của Nguyễn Du chính là tác phẩm kết tinh mọi nét đặc sắc, tinh hoa của thể
loại, của cả một thời kì văn học và của cả nền văn học Việt Nam. Bởi đến với
Truyện Kiều, người đọc sẽ thấy tất cả những đặc trưng của thể loại truyện
Nôm và sự tài hoa, điêu luyện riêng của ngòi bút Nguyễn Du.
Truyện Kiều được viết bằng chữ Nôm, sử dụng thể thơ lục bát thuần
dân tộc. Tác phẩm gồm 3254 câu thơ lục bát, vừa mang yếu tố tự sự vừa thể
hiện chất trữ tình sâu đậm. Dựa vào tiểu thuyết chương hồi Kim Vân Kiều
truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (cốt truyện Trung Quốc), Nguyễn Du đã viết
nên Truyện Kiều. Nhưng Truyện Kiều của Nguyễn Du không phải là sự
chuyển đổi từ một tiểu thuyết chương hồi sang thể thơ lục bát, mà ở đó đã
20
chứng minh được sự sáng tạo tài tình tuyệt vời của ngòi bút Nguyễn Du. Rất
nhiều những đoạn thông tục hay tàn bạo trong Kim Vân Kiều truyện được
Nguyễn Du cắt bỏ đi trong Truyện Kiều. Ông thêm vào tác phẩm của mình
những đoạn tả tình, tả cảnh đặc sắc… Đến với Truyện Kiều, người đọc sẽ thực
sự được thuyết phục bởi tài năng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Du. Đó là
một số những sáng tạo nổi bật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Kim Vân
Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân không phải là tác phẩm nổi tiếng ở
Trung Quốc, nhưng Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác văn học,
được nhân dân Việt Nam yêu thích, say mê, bạn bè thế giới tìm đọc và biết
đến, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Hai chủ đề thường gặp ở truyện Nôm là chủ đề về đấu tranh cho công
lý xã hội và chủ đề về giải phóng tình yêu đôi lứa đều được phản ánh sâu sắc,
xúc động trong Truyện Kiều. Dưới ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo của
Nguyễn Du, người đọc thực sự thấm thía những điều trông thấy trong hiện
thực thời đó mà ngay từ những lời thơ mở đầu tác phẩm nhà thơ đã bộc bạch
chân thành:
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Giá trị nhân đạo ấy cũng chính là nội dung xuyên suốt của văn học
Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX.
Kết cấu tác phẩm được triển khai theo lối kết cấu phổ biến trong các
truyện Nôm gồm 3 phần: Gặp gỡ - tai biến- đoàn tụ. Trong đó, phần tai biến
được triển khai với dung lượng nhiều nhất trong tác phẩm, xoay quanh vô vàn
những trái ngang, trớ trêu đến cùng cực của cuộc đời nhân vật chính Thúy
kiều: “Thoắt mua về, thoắt bán đi/ Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”.
Những tưởng Thúy Kiều sẽ được hưởng hạnh phúc sau bao sóng gió kể từ khi
gặp được người anh hùng Từ Hải nhưng nàng lại bị Hồ Tôn Hiến lừa, Từ Hải
21
bị chết trận. Kiều bị ép gả cho tên thổ quan, đau khổ cùng cực, nàng đã nhảy
xuống sông Tiền Đường tự vẫn. Nhờ sự may mắn được cứu với bởi sư Giác
Duyên, Kiều đã thoát nạn và được trở về đoàn tụ bên gia đình. Song, nếu các
truyện Nôm khác, nhân vật chính sau bao sóng gió thường được đón nhận kết
thúc có hậu, được đoàn tụ hạnh phúc bên người yêu. Trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du, tác giả cũng xây dựng một kết thúc có hậu. Nhân vật chính Thúy
Kiều sau bao trắc trở, tai ương của 15 năm lưu lạc đã được đoàn tụ bên gia
đình. Nhưng trong mối quan hệ với chàng Kim Trọng - mối tình đầu tươi đẹp
ngày xưa mà Kiều vẫn luôn nhớ đến -Thúy Kiều đã không nối lại duyên xưa,
mặc dù mọi người trong gia đình hết lòng vun đắp, nàng đã quyết định từ chối
để “đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ”.
Về nhân vật trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã xây dựng được một hệ
thống nhân vật đông đảo, có nhân vật chính diện (Thuý Kiều, Thúy Vân, Kim
Trọng, Từ Hải, sư Giác Duyên...), có nhân vật phản diện (Mã Giám Sinh, Sở
Khanh, Tú Bà, Hồ Tôn Hiến…), có nhân vật được xem là lưỡng diện (Thúc
Sinh, Hoạn Thư). Đặc biệt, bằng tất cả tài năng và tâm huyết của mình, nhân
vật Thúy Kiều được Nguyễn Du xây dựng rất thành công trong tác phẩm. Cốt
truyện xoay quanh cuộc đời chìm nổi của người con gái tài sắc Thúy Kiều
trong suốt 15 năm lưu lạc kể từ khi đồng ý bán mình chuộc cha, theo chân Mã
Giám Sinh ra đi đến khi gieo mình xuống sông Tiền Đường tự vẫn và được sư
Giác Duyên cứu. Nhân vật Thúy Kiều được hiện lên rất rõ qua ngòi bút miêu
tả của Nguyễn Du từ ngoại hình đến thế giới nội tâm, qua ngôn ngữ đối thoại,
độc thoại. Nguyễn Du đặt nhân vật vào trong một xã hội giống như xã hội ông
đang sống để theo dõi, chứng kiến và cất lên tiếng nói đòi quyền sống chính
đáng cho con người và cụ thể là người phụ nữ:
Đau đớn thay, phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
22
Đến với Truyện Kiều, người đọc thực sự bị thuyết phục bởi tài năng sử
dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Du. Tác giả đã rất thành công trong việc
sử dụng cả ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học. Khi miêu tả nhân vật
chính diện, Nguyễn Du thường sử dụng nhiều từ Hán Việt để tạo sắc thái
trang trọng. Hình ảnh chàng Kim Trọng trong lần đầu gặp gỡ với nàng Thúy
Kiều được Nguyễn Du miêu tả thật với thật nhiều cảm mến:
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu bậc tài danh,
Văn chương nết đất thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa.
Rất nhiều những từ Hán Việt trong đoạn thơ đã góp phần quan trọng
tạo nên sắc thái trang trọng khi giới thiệu về Kim Trọng. Nhưng khi miêu tả
bộ mặt thật của những nhân vật phản diện, tác giả lại thường sử dụng những
từ thuần Việt. Hình ảnh Mã Giám Sinh khi đi hỏi vợ nhưng lại hiện lên đầy vẻ
khinh bỉ:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Từ láy thuần Việt “nhẵn nhụi” khiến ta hình dung ra đó thực là một kẻ
giả tạo. Và tư thế ngồi của hắn được Nguyễn Du miêu tả thật đắc địa:
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.
Với từ “tót”, tác giả đã chỉ rõ được hành động, tư thế của một kẻ rất
mất lịch sự trong một hoàn cảnh rất cần nghiêm túc, lịch sư là đi hỏi vợ.
Đặc biệt, những đoạn thơ tả cảnh, tả tình trong Truyện Kiều đã thực sự
cho thấy khả năng sử dụng tiếng Việt phong phú, chính xác và tài hoa của
23
thiên tài Nguyễn Du. Chỉ với một cặp câu thơ lục bát mà Nguyễn Du miêu tả
được cả một sự chuyển đổi kì diệu của bốn mùa trong năm:
Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
Nỗi buồn của con người vốn vô hình vô lượng vậy mà bằng ngôn từ tài
hoa của mình, Nguyễn Du như đong đếm được tâm trạng ấy:
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.
Có thể khẳng định, trải qua bao đổi thay của thời đại, của cuộc sống
nhưng từ khi ra đời đến nay, tác phẩm Truyện Kiều -đỉnh cao của thể loại
truyện Nôm- vẫn giữ nguyên giá trị, là niềm đam mê niềm yêu thích của biết
bao người dân Việt Nam. Truyện Kiều có vị trí đặc biệt trong đời sống văn
hóa, văn học của nước ta. Độc giả trí thức có thể ngâm, vịnh Kiều, thẩm bình
về các vấn đề, các nhân vật trong tác phẩm. Và cho đến nay, không biết các
nhà nghiên cứu đã dành biết bao tâm sức để tìm hiểu về tác phẩm mà vẫn coi
là chưa đủ. Tầng lớp bình dân ai cũng thuộc ít nhất một số câu Kiều, các cụ
xưa có thể thuộc lòng cả tác phẩm rồi kể lại cho con cháu nghe, dùng cả
những câu Kiều để vận vào những hoàn cảnh tương đồng trong cuộc sống. Có
người còn cầm cuốn Truyện Kiều để bói Kiều. Người ta xem Truyện Kiều như
một cuốn chân kinh gói trọn cả cõi đời trần thế. Học giả Phạm Quỳnh khẳng
định “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn. Tiếng ta còn thì nước ta còn”. Điều đó
cho thấy tác phẩm đã bắt rễ sâu trong tâm hồn người dân nước Việt, trở thành
một phần gắn bó không thể thiếu trong đời sống tinh thần của nhân dân ta.
Trong chương trình giáo dục phổ thông từ trước tới nay, Truyện Kiều
luôn được xem là một tác phẩm quan trọng, được dành nhiều thời gian cho
HS tìm hiểu. HS và GV đều hào hứng, say mê tìm hiểu về Truyện Kiều. Song
24
hiệu quả tiếp thu văn bản của HS còn chưa đồng đều, chưa thực sự hiểu hết
được được hết giá trị của các đoạn trích trong quá trình học bài.
Trong chương trình SGK sắp tới, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một
lựa chọn tối ưu. Truyện Kiều được coi là một trong sáu tác phẩm có vị trí đặc
biệt, bắt buộc dạy học trong nhà trường (cùng với Nam quốc sơn hà (tương
truyền của Lý Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô
đại cáo của Nguyễn Trãi, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu,
Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh). Sở dĩ có sự lựa chọn cho chương
trình ngữ văn như vậy là bởi những lí do sau:
Một là kiệt tác của đại thi hào dân tộc có vị trí đặc biệt trong đời sống
văn hóa, tinh thần của người Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định
với giá trị nhân văn sâu sắc, Truyện Kiều - “khúc Nam âm tuyệt xướng” kết
tinh bản sắc Việt, hồn cốt Việt…
Hai là, Truyện Kiều được viết bằng thể loại truyện Nôm - đỉnh cao của
thể loại dân tộc với sức cuốn hút mãnh liệt với độc giả trong và ngoài nước
ngay từ khi mới ra đời.
Ba là, Truyện Kiều mang nhiều giá trị văn hóa truyền thống quý báu của
dân tộc, đặc biệt là giá trị văn hóa ứng xử vừa mang tinh thần đạo lý phương
Đông, vừa thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc mà hiện đại. Vì vậy, tác phẩm
này có khả năng đáp ứng tốt nhất trong việc “ giáo dục học sinh những giá trị
cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát triển ở học sinh
những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, nhân ái, vị tha” [1, tr.3].
Tuy nhiên, việc triển khai lựa chọn đoạn trích, bố trí nội dung phù hợp
với từng cấp học như thế nào để tác phẩm đáp ứng được yêu cầu của Chương
trình Ngữ văn phổ thông mới lại là điều không đơn giản đối với người biên
soạn chương trình, SGK và đặc biệt là đối với đội ngũ GV dạy Ngữ văn phổ
thông hiện nay.
25
1.2.2. Các trích đoạn Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn phổ thông
hiện hành
Theo thống kê của chúng tôi, các đoạn trích trong tác phẩm Truyện
Kiều được đưa vào trong SGK Ngữ văn phổ thông hiện hành cũng có số
lượng đáng kể và có sự đa dạng về nội dung. Cụ thể như sau:
BẢNG 1: BẢNG THỐNG KÊ CÁC TRÍCH ĐOẠN TRUYỆN KIỀU
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG HIỆN HÀNH
STT Sách giáo Tên đoạn trích Phân phối
chương trình khoa
Truyện Kiều của Nguyễn Du 1 tiết 1
Chị em Thúy Kiều 1 tiết- đọc văn 2
Ngữ văn Cảnh ngày xuân 1 tiết- đọc văn 3 9, tập 1 Kiều ở lầu Ngưng Bích 2 tiết- đọc văn 4
Thúy Kiều báo ân, báo oán Giảm tải- HS tự học ở nhà 5
Truyện Kiều- 1 tiết 6
Phần một: Tác giả
Ngữ văn Trao duyên 2 tiết- đọc văn 7
10, tập 2 Chí khí anh hùng 2 tiết- đọc văn 8
Thề nguyền 1 tiết- đọc thêm 9
Nỗi thương mình 10
So với tổng số các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong SGK có
57 tác phẩm/trích đoạn thì 08 trích đoạn Truyện Kiều chiếm 14% tổng số tác
phẩm/trích đoạn về văn học trung đại Việt Nam được học trong Chương trình
Ngữ văn phổ thông hiện hành. Điều đó cho thấy Truyện Kiều có một vị trí rất
quan trọng trong chương trình Ngữ văn phổ thông. Mỗi đoạn trích được đưa
26
vào giảng dạy lại gắn liền với một sự kiện trong cuộc đời nàng Kiều. Các
đoạn trích Truyện Kiều trong SGK giữa cấp THCS và THPT không được sắp
xếp trình tự theo các biến cố, bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật mà người
biên soạn sách giáo khoa dựa vào mức độ dễ, khó, độ dài ngắn, trình độ, tâm
lí lứa tuổi học trò để phân bố các đoạn trích cho phù hợp.
1.3. Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu và một số trích đoạn
Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu trong chương trình
1.3.1. Những đặc điểm cơ bản về Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là nhà nho yêu nước tiêu biểu ở nước
ta giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu từng trải qua
những cơn gia biến và quốc biến hãi hùng. Song, vượt qua số phận đau
thương, ông luôn là tấm gương sáng ngời về nghị lực, khí tiết và lòng yêu
nước thương dân. Trong một Đồ Chiểu có ba con người đáng kính: một thầy
giáo luôn coi trọng việc dạy người cao hơn dạy chữ, một thầy thuốc lấy việc
chăm lo sức khoẻ cho người dân làm y đức và một nhà văn luôn coi trọng
chức năng giáo huấn của văn học. Tuy sáng tác văn chương không phải là
toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu nhưng những tác phẩm văn
chương đồ sộ của ông đủ đứng thành một sự nghiệp riêng. Nguyễn Đình
Chiểu viết văn sau khi bị mù, những sáng tác của ông chủ yếu nhờ người vợ
ghi chép lại. Hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu được sáng tác
bằng chữ Nôm. Tác phẩm của ông gồm các thể loại: truyện Nôm, thơ Đường
luật, các bài hịch, văn tế. Riêng về truyện Nôm, Nguyễn Đình Chiểu có đến 3
tác phẩm: Truyện Lục Vân Tiên (dài 2082 câu), Dương Từ-Hà Mậu (dài 3456
câu), Ngư Tiều y thuật vấn đáp (dài 3642 câu). Văn chương Đồ Chiểu không
có loại thuần túy giải sầu. Văn chương của ông nhằm thực hiện mục đích cao
cả là chiến đấu bảo vệ đạo đức của nhân dân và quyền lợi của Tổ quốc.
Truyện Lục Vân Tiên là truyện thơ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình
Chiểu được sáng tác khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, trước khi thực
27
dân Pháp xâm lược nước ta. Tác phẩm xoay quanh câu chuyện về chàng Lục
Vân Tiên hiếu thảo, thông minh, tài giỏi và nàng Kiều Nguyệt Nga xinh đẹp,
chung thủy. Trải qua rất nhiều những thử thách, gian khổ, nhờ ý chí, nghị lực
phi thường và sự giúp đỡ, cưu mang của những người tốt, cuối cùng Lục Vân
Tiên và Kiều Nguyệt Nga đã được hưởng hạnh phúc trọn vẹn bên nhau,
những kẻ xấu luôn tìm cách hãm hại họ đều bị trừng trị.
Ngay từ những câu mở đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu đã viết:
Trước đèn xem truyện Tây Minh
Gẫm cười hai chữ nhơn tình éo le.
Ngỡ rằng tác phẩm dựa vào một truyện Tây Minh nào đó của văn học
Trung Quốc. Nhưng theo tìm hiểu của giới nghiên cứu, trong kho tàng văn
học Trung Quốc không thấy có truyện Tây Minh. Truyện Lục Vân Tiên là
truyện Nôm mang tính tự truyện của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Những tình
tiết, biến cố trong tác phẩm cũng gần giống với cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu:
chàng trai nghèo đi học, đi thi, đến trường thi nghe tin mẹ mất liền bỏ thi về
chịu tang mẹ, bị hỏng cả hai mắt, bị gia đình nhà người yêu bội ước… Song
tác phẩm không hoàn toàn là sự ghi chép lại câu chuyện cuộc đời Nguyễn
Đình Chiểu vì ngoài nhân vật Lục Vân Tiên có nhiều nét trong cuộc đời giống
cuộc đời thực của tác giả, các nhân vật còn lại đều là hư cấu. Qua truyện Nôm
này, Nguyễn Đình Chiểu tập trung lên án những thói gian tà lộng hành trong
đời sống xã hội: những kẻ có tâm địa đen tối, sống tráo trở, bội bạc, tàn nhẫn
như gia đình Võ Thể Loan, lòng dạ hiểm ác của Trịnh Hâm, thói dâm ô vô sỉ
của Bùi Kiệm. Đồng thời, Nguyễn Đình Chiểu đặc biệt đề cao, ca ngợi các
mặt đạo đức tốt đẹp của con người qua những tấm gương sáng như: Lục Vân
Tiên hiếu thảo, trọng nghĩa khinh tài, phò đời giúp nước, đối nhân xử thế đều
theo quan điểm đạo đức của nhân dân; nàng Kiều Nguyệt Nga luôn nhất mực
coi trọng, đề cao ân nghĩa ở đời, Hớn Minh nghĩa khí, chính trực, Tử Trực
bộc trực, chân thành. Đặc biệt người tốt được Nguyễn Đình Chiểu ngợi ca
28
trong Truyện Lục Vân Tiên là còn những nhân vật không có tên. Tác giả gọi
tên họ bằng tên nghề nghiệp: Ông ngư, ông tiều, ông quán, tiểu đồng. Họ là
những người dân lao động bình thường, lương thiện trong xã hội, nghèo khổ
nhưng sẵn lòng thương người, sẵn sàng làm việc quên mình vì nghĩa, “Ngư
rằng lòng lão chẳng mơ/ Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”. Tất cả những
nhân vật ấy được xây dựng trong tác phẩm đều thể hiện quan niệm đạo đức
tốt đẹp mà Nguyễn Đình Chiểu học tập từ dân gian: ở hiền gặp lành, ác giả
ác báo. Đó cũng chính là đạo lý, là ước mơ của nhân dân về một xã hội công
bằng, tốt đẹp. Trong tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên, vấn đề đạo lý còn được
thể hiện ở nhiều mối quan hệ như cha con, chồng vợ, thầy trò, bè bạn. Tác giả
đã đặt ra những vấn đề xử thế rất gần gũi trong gia đình, ngoài xã hội, nói
chung là các mối quan hệ giữa con người với con người.
Về kết cấu tác phẩm, Truyện Lục Vân Tiên thể hiện lối kết cấu truyền
thống của thể loại truyện Nôm: Câu chuyện được kể theo trình tự thời gian,
mở đầu giới thiệu về nhân vật Lục Vân Tiên, tiếp theo là những biến cố xoay
quanh cuộc đời nhân vật, nhờ sự giúp đỡ của người tốt và cuối cùng Vân Tiên
được hưởng hạnh phúc bên Kiều Nguyệt Nga. Với kiểu kết cấu đó, rất thuận
lợi cho tác giả xây dựng các tuyến nhân vật đối lập: Hớn Minh - Trịnh Hâm,
Tử Trực - Bùi Kiệm, Kiều Nguyệt Nga - cha con Võ Thể Loan.
Một điều đặc biệt ở truyện Nôm bác học này là ở phương thức sáng tác
và lưu truyền -truyện chủ yếu được kể. Do Nguyễn Đình Chiểu sống gần gũi
với nhân dân và sáng tác tác phẩm trong hoàn cảnh mù lòa nên ông phải đọc
nhờ người khác ghi chép lại. Đây cũng chính là nét riêng tạo nên những ưu
điểm và tồn tại riêng của truyện. Xét về cách xây dựng nhân vật trong tác
phẩm, nhân vật trong Truyện Lục Vân Tiên có một số nét đặc trưng riêng biệt,
do chủ yếu dùng để kể nên các nhân vật được miêu tả, thể hiện chủ yếu thông
qua ngoại hình và hành động. Vì vậy mà trong Truyện Lục Vân Tiên, nội tâm
nhân vật ít được chú ý khắc họa. Điều này khác với Truyện Kiều của Nguyễn
29
Du. Một trong những lí do khiến Truyện Lục Vân Tiên được nhân dân Nam
Bộ yêu mến và say sưa nghe kể là bởi tính cách con người Nam Bộ thể hiện
rất rõ qua các nhân vật. Đó là những con người thẳn thắn, nghĩa hiệp, dứt
khoát, rõ ràng, không hề toan tính thiệt hơn khi làm việc nghĩa, yêu ghét rõ
ràng, phân minh.
Tác phẩm được sáng tác trong điều kiện mù lòa và Truyện Lục Vân Tiên
chủ yếu đến với nhân dân thông qua hình thức kể nên ngôn ngữ trong truyện
thường giản dị, nôm na, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân Nam
Bộ. Trong truyện Nôm này, Nguyễn Đình Chiểu rất ít dùng những điển tích,
điển cố, những từ ngữ cầu kì, hoa mĩ. Tác giả sử dụng nhiều lối nói trong dân
gian, cách diễn đạt dễ hiểu, nghe xong là hiểu ngay, hiểu được là nhớ ngay. Vì
vậy, những hạn chế về ngôn ngữ trong tác phẩm như đôi chỗ dùng từ còn thô
vụng, hay gieo vần ép… thường được nhiều bạn đọc cảm thông.
Với những giá trị đặc biệt của tác phẩm, Truyện Lục Vân Tiên có vị trí vô
cùng quan trọng trong đời sống văn hóa của nhân dân Nam Bộ ngay từ khi mới
ra đời. Truyện Nôm này được lưu truyền rộng rãi dưới nhiều hình thức sinh
hoạt văn hóa dân gian như “kể thơ”, “nói thơ Vân Tiên”, “hát Vân Tiên” ở
khắp các tỉnh Nam kì và Nam Trung Kì. Mọi người dân Nam Bộ đều say mê
và hào hứng với tác phẩm, họ có thể tìm thấy hình bóng của mình trong những
nhân vật của Truyện Lục Vân Tiên, soi vào đó như tấm gương răn mình vậy.
Trước những đổi thay mạnh mẽ của thời đại, vẫn còn những giá trị
muôn đời không thể thay đổi, đó là những phẩm chất đạo đức làm người đáng
quý như đạo nghĩa, hiếu thảo, thủy chung, lòng yêu thương, …Truyện Lục
Vân Tiên chính là bài ca ca ngợi những tấm gương đạo đức nhân nghĩa ở đời.
Việc chú trọng giáo dục cho học sinh những bài học làm người quý giá đó
thông qua Truyện Lục Vân Tiên là thực sự cần thiết và có ý nghĩa.
Các đoạn trích Truyện Lục Vân Tiên trong chương trình ngữ văn phổ
thông hiện hành chiếm một vị trí nhất định. Nhưng do sự điều chỉnh về thời
30
lượng trong môn học với số tiết theo quy định của môn Ngữ văn ở mỗi lớp
nên số giờ học Truyện Lục Vân Tiên không được nhiều. Số lượng các đoạn
trích trong tác phẩm này trong chương trình còn khiêm tốn. Để nâng cao hiệu
quả dạy học văn ở trường phổ thông, nhằm phát huy thế mạnh của môn văn
trong việc giáo dục thế hệ trẻ bởi “văn học là nhân học”, và làm sao Truyện
Lục Vân Tiên vẫn luôn có được sức sống bền lâu trong lòng nhân dân ta, việc
biên soạn chương trình SGK môn Ngữ văn mới, lựa chọn những đoạn trích
nào trong Truyện Lục Vân Tiên là một vấn đề cần được các nhà soạn sách và
những người làm công tác giáo dục quan tâm đúng mức.
1.3.2. Các trích đoạn Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu trong
chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành
Theo thống kê của chúng tôi, các đoạn trích trong tác phẩm Truyện Lục
Vân Tiên được đưa vào chương trình SGK Ngữ văn phổ thông hiện hành cũng
có số lượng nhất định và hướng tới một số nội dung quan trọng. Cụ thể như sau:
BẢNG 2: BẢNG THỐNG KÊ CÁC TRÍCH ĐOẠN TRUYỆN LỤC VÂN
TIÊN TRONG CHƯƠNG TRÌNH SGK NGỮ VĂN PHỔ THÔNG
HIỆN HÀNH
TT Tên đoạn trích Sách giáo khoa Phân phối chương trình
Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga 2 tiết
1 Ngữ văn 9, tập 1 2 Lục Vân Tiên gặp nạn Giảm tải- không học
1 tiết 3 Tác giả Nguyễn Đình Chiểu (chương trình nâng cao)
Ngữ văn 11, tập 1 Lẽ ghét thương 4
- Chương trình cơ bản không học - giảm tải. - Chương trình nâng cao đọc thêm 1 tiết
31
Truyện Lục Vân Tiên là một truyện Nôm có giá trị đặc biệt trong nền
văn học trung đại Việt Nam. Với những ý nghĩa đặc biệt như đã trình bày
trên, việc đưa các trích đoạn trong Truyện Lục Vân Tiên vào giảng dạy trong
chương trình Ngữ văn ở phổ thông là thực sự cần thiết. Nhưng do khuôn khổ
của chương trình mà số lượng đoạn trích và thời lượng cho dạy học tác phẩm
này chưa nhiều.
Tiểu kết chương 1
Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu một số vấn đề lí luận về thể loại truyện
Nôm chúng tôi nhận thấy: Truyện Nôm là thể loại văn học thể hiện tinh thần
dân tộc sâu sắc, sử dụng chữ Nôm và thể thơ lục bát truyền thống. Truyện Nôm
dễ thuộc, dễ nhớ, thể hiện tâm tư, tình cảm của quần chúng nhân dân một cách
chân thực nên tác phẩm có sức cuốn hút và sức sống bền lâu trong lòng độc
giả. Thể loại văn học này hình thành và phát triển trong một thời gian khá dài
từ thế kỉ XVI đến hết thế kỉ XX. Truyện Nôm được chia thành hai loại cơ bản
là truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học. Với một thời gian hình thành
và phát triển qua 4 thể kỉ trong những điều kiện lịch sử, xã hội và văn hóa khác
nhau, truyện Nôm đã thể hiện được những nét riêng biệt về thể loại, hình thành
những đặc điểm riêng về thi pháp truyện Nôm.
Cùng với việc tìm hiểu về cơ sở lí luận, chúng tôi nghiên cứu tình hình
thực tiễn về thể loại truyện Nôm trong chương trình ngữ văn phổ thông.
Truyện Kiều của Nguyễn Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình
Chiểu là hai tác phẩm truyện Nôm được đưa vào giảng dạy trong chương
trình Ngữ văn phổ thông. Hai tác phẩm của hai tác giả, hai vùng miền khác
nhau với những nét đặc sắc riêng về nội dung và nghệ thuật. Nếu như
Truyện Kiều của Nguyễn Du chủ yếu để đọc, ngâm ngợi thì Truyện Lục Vân
Tiên của Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu tồn tại dưới hình thức kể. Trong đời
sống nhân dân, hai truyện Nôm trên đều có sức cuốn hút hấp dẫn đặc biệt và
có sức sống bền lâu. Song thực tế tiếp nhận của HS với mỗi tác phẩm lại
chưa được như mong muốn, hiệu quả chưa cao. Trước những yêu cầu của
đổi mới giáo dục hiện nay, trong chương trình SGK Ngữ văn phổ thông mới
32
cần xem xét lựa chọn những đoạn trích nào cho phù hợp và phát huy được
hiệu quả giáo dục, cũng như tiếp tục khơi dậy sức sống của hai truyện Nôm
nổi tiếng trên là điều mà các nhà soạn sách và những người làm công tác
giáo dục quan tâm.
Những tiền đề lí luận và thực tiễn như trên là cơ sở cần thiết, quan
trọng để chúng tôi tiến hành nghiên cứu, triển khai những chương tiếp theo
của đề tài.
33
Chương 2
THỂ LOẠI TRUYỆN NÔM TRONG CHƯƠNG TRÌNH SÁCH GIÁO
KHOA NGỮ VĂN PHỔ THÔNG HIỆN HÀNH
2. 1. Những tri thức cơ bản về thể loại truyện Nôm được giảng dạy trong
chương trình SGK Ngữ văn phổ thông hiện hành
2.1.1. Tri thức về Truyện Kiều
Trong chương trình SGK Ngữ văn ở phổ thông hiện hành, tác phẩm
Truyện Kiều có một vị trí vô cùng quan trọng, được giảng dạy ở cả lớp 9 và
lớp 10. Với mỗi lớp học đó, trước khi học các đoạn trích tiêu biểu được chọn
dạy trong chương trình, SGK đều có một bài khái quát. Sách ngữ văn lớp 9
hiện hành, tập 1, có bài khái quát “Truyện Kiều của Nguyễn Du”. Ở bài học
này, SGK, sách chuẩn kiến thức, kĩ năng có những định hướng cơ bản về thể
loại truyện Nôm nhằm giúp HS nhận diện và hiểu được đây là loại truyện viết
bằng chữ Nôm, chủ yếu viết bằng thể thơ lục bát. Truyện Nôm bình dân hầu
hết là không có tên tác giả; truyện Nôm bác học phần nhiều có tên tác giả. Cốt
truyện trong truyện Nôm bác học thường được mượn từ tác phẩm văn học
Trung Quốc hoặc do tác giả sáng tạo ra. Thể loại truyện Nôm được phát triển
mạnh mẽ ở nửa cuối thế kỉ XVIII và thế kỉ XIX. Đây là những kiến thức rất
cơ bản về thể loại dành cho HS khi tìm hiểu về tác phẩm truyện Nôm tiêu
biểu nhất trong nền văn học dân tộc là Truyện Kiều. Song vấn đề cần bàn là ở
chỗ: Tại sao truyện Nôm lại phát triển mạnh ở giai đoạn nửa cuối thế kỉ
XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX? Truyện Nôm phản ánh những nội dung gì và có
những nét đặc sắc về nghệ thuật như thế nào thì SGK Ngữ văn lớp 9 hiện
hành chưa đề cập tới. Vì kiến thức về truyện Nôm mới chỉ được đưa vào rất
ngắn gọn ở phần chú thích của bài khái quát.
Giới thiệu về Truyện Kiều, SGK Ngữ văn và sách chuẩn kiến thức, kĩ
năng văn lớp 9 hiện hành hướng tới những nội dung cơ bản nhằm định hướng
cho HS tiếp cận tác phẩm. Tác phẩm của Nguyễn Du được sáng tác dựa theo
34
cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng phần sáng
tạo của Nguyễn Du rất đặc biệt. Cốt truyện được tóm tắt theo 3 phần: gặp gỡ
và đính ước, gia biến và lưu lạc, đoàn tụ. Trên cơ sở đó, HS tìm hiểu được
giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Tri thức về nội dung tác phẩm
theo định hướng của chuẩn kiến thức, kĩ năng, HS cần nắm được giá trị hiện
thực và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Về hình thức của tác phẩm,
Nguyễn Du có nhiều sáng tạo trong nghệ thuật kể chuyện, sử dụng ngôn ngữ,
miêu tả thiên nhiên, khắc họa hình tượng nhân vật... Trong SGK Ngữ văn lớp
10, bài giới thiệu về tác gia Nguyễn Du có đề cập đến những tri thức rất khái
quát về Truyện Kiều và những nội dung đó được định hướng cụ thể hơn trong
sách chuẩn kiến thức kĩ năng. Theo hướng dẫn thực hiện của sách chuẩn kiến
thức, kĩ năng Ngữ văn lớp 10, phần về Truyện Kiều, cần chỉ rõ nguồn gốc cốt
truyện và nhấn mạnh, Truyện Kiều không phải là một tác phẩm vay mượn của
văn học Trung Quốc đơn thuần mà là một sáng tạo của Nguyễn Du để tạo ra
một tác phẩm văn chương bất hủ. Sáng tạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
thể hiện ở 2 phương diện là nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, từ câu
chuyện tình trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn
Du đã tạo nên một “khúc ca đứt ruột”, nhấn vào nỗi đau bạc mệnh và gửi gắm
những xúc cảm của nhà thơ trước “những điều trông thấy”. Sáng tạo về nghệ
thuật trong Truyện Kiều thể hiện ở việc Nguyễn Du đã lược bỏ các tình tiết
mưu mẹo, về báo oán... trong Kim Vân Kiều truyện và thêm vào tác phẩm của
mình những đoạn tả cảnh, tả tình đặc sắc và thành công đặc biệt trong miêu tả
nội tâm nhân vật. Trong bài học về Truyện Kiều, HS lớp 10 cần hướng tới
hiểu được nội dung tư tưởng của Truyện Kiều (theo như định hướng về tri
thức của sách chuẩn kiến thức, kĩ năng): Truyện Kiều là tiếng khóc cho số
phận con người và là lời tố cáo mạnh mẽ, đanh thép đối với xã hội tàn bạo lúc
bấy giờ, qua đó thể hiện ước mơ về tự do và công lí của người xưa. Về nghệ
thuật của tác phẩm, sách hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng cũng
35
yêu cầu HS cần phải nắm được những nội dung như đã học ở lớp 9: nghệ
thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ.
Hệ thống tri thức về tác phẩm Truyện Kiều HS cần lĩnh hội được ở
chương trình Ngữ văn lớp 9, lớp 10 là rất cần thiết và cơ bản. Nhưng có điều
bất cập là ở cả hai lớp của 2 cấp học đều có bài khái quát về Nguyễn Du và
Truyện Kiều, dẫn đến một sự trùng lặp nhất định. Những trăn trở đó sẽ giúp
chúng tôi đề xuất ý kiến về phát triển chương trình SGK phổ thông, phần về
Truyện Kiều ở chương sau.
Các đoạn trích trong Truyện Kiều như đã thống kê ở chương 1 của luận
văn, phần THCS lớp 9 học 4 bài, gồm: Chị em Thúy Kiều, Cảnh ngày xuân,
Kiều ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều báo ân báo oán. Chương trình Ngữ văn
THPT, lớp 10 học 4 bài: Trao duyên, Nỗi thương mình, Chí khí anh hùng, Thề
nguyền. Đây là những đoạn trích tiêu biểu, đặc sắc của tác phẩm Truyện Kiều
được các nhà soạn sách lựa chọn đưa vào chương trình. Tìm hiểu các đoạn
trích này, HS có được những tri thức cơ bản về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm. Về nội dung, các đoạn trích trên hướng tới thể hiện cảm hứng ngợi ca
của Nguyễn Du trong Truyện Kiều: Ca ngợi vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà của Thúy
Kiều, vẻ đẹp phúc hậu, đầy đặn của nàng Thúy Vân; Ca ngợi tài năng của con
người như tài cầm, kì, thi, họa của Kiều; Vẻ đẹp của khí phách anh hùng qua
hình tượng nhân vật Từ Hải; Vẻ đẹp đạo đức, nhân cách con người; Vẻ đẹp
tâm hồn, tình yêu thiên nhiên, ... Đồng thời, tiếng nói nhân đạo của tác phẩm
cũng được thể hiện rất sâu sắc qua các đoạn trích trên: Thương xót cho cái
đẹp bị đày đọa, vùi dập, con người tài, sắc như Kiều không được hưởng hạnh
phúc... Qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán, Chí khí anh hùng, HS đồng
cảm được khát vọng của nhân vật về một xã hội công bằng, có những người
anh hùng sẵn sàng dang tay cứu nhân dẹp loạn... Với tất cả 8 bài học về đoạn
trích trong Truyện Kiều như trên ở cả hai cấp học, các em HS có được những
36
tri thức cần thiết về tác phẩm, có được tình yêu, sự đồng cảm với Nguyễn Du
và Truyện Kiều.
Về nghệ thuật, các đoạn trích Truyện Kiều trong SGK ngữ văn lớp 9, lớp
10 hiện hành đã thể hiện rõ được sự tài hoa của Nguyễn Du. Đó là nghệ thuật
kể chuyện khéo léo, tài tình với sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố tự sự và yếu tố
trữ tình. Các đoạn trích ở lớp 9 đã thể hiện sự thành công của Nguyễn Du
trong nghệ thuật tả cảnh, tả người, tả tình, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Các
đoạn trích ở lớp 10 thể hiện rất sâu sắc, tài hoa nghệ thuật miêu tả nội tâm
nhân vật với những giằng xé trong tâm hồn để nhân vật hiện lên rất gần gũi
với chúng ta. Ở bất kì đoạn trích nào về Truyện Kiều trong chương trình HS
cũng đều cảm nhận được sự tài hoa của Nguyễn Du khi sử dụng kết hợp hài
hòa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học.
Với số lượng đoạn trích như vậy khi học về Truyện Kiều, với thời lượng
của chương trình dành cho Truyện Kiều ở các lớp khá đảm bảo, để cung cấp
cho HS những tri thức về Truyện Kiều như trên là đầy đủ, toàn diện và sâu sắc.
Nhưng với yêu cầu của giáo dục trong tình hình mới, dạy học nhằm hướng tới
phát huy năng lực cho người học, cần phải có cách nhìn nhận lại để những tri
thức bài học về Truyện Kiều thực sự hữu ích với các em HS, vừa giúp nâng cao
tri thức, vừa hoàn thành nhân cách cho học trò tuổi mới lớn. Từ việc nghiên
cứu, tìm hiểu thực tế về tri thức Truyện Kiều trong chương trình SGK Ngữ văn
phổ thông hiện hành, chúng tôi có cơ sở để đưa ra những đề xuất về phát triển
chương trình phần thể loại truyện Nôm ở chương 3.
2.1.2. Tri thức về Truyện Lục Vân Tiên
Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu được giảng dạy và học tập
trong chương trình SGK Ngữ văn lớp 9 và lớp 11. Ở SGK lớp 9, giới thiệu về
Truyện Lục Vân Tiên, tác giả soạn sách đã cung cấp những tri thức cơ bản về
thời gian sáng tác tác phẩm khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ, được lưu
37
truyền chủ yếu bằng hình thức kể, hát, nói thơ Vân Tiên. Vì vậy có nhiều văn
bản khác nhau về tác phẩm này. Phần tóm tắt tác phẩm đã cho HS thấy được
cuộc đời vất vả, nhiều trắc trở của chàng nho sinh nghèo Lục Vân Tiên, dù bị
nhiều kẻ xấu hãm hại nhưng chàng luôn được những người tốt giúp đỡ. Cuối
cùng, Vân Tiên được sum vầy hạnh phúc bên nàng Kiều Nguyệt Nga. Trong
bài khái quát về Nguyễn Đình Chiểu ở SGK Ngữ văn nâng cao lớp 11, ngoài
những nội dung giới thiệu cuộc đời nhà thơ còn có phần giới thiệu về giá trị
nội dung Truyện Lục Vân Tiên. Tác phẩm chủ yếu hướng tới ca ngợi phẩm
chất sáng ngời của nhân vật chính Vân Tiên, một người con hiếu thảo, một
nam nhi có lí tưởng, có tài văn võ, trung thành với bạn bè. Bên cạnh đó tác
phẩm còn hướng tới ca ngợi những tấm gương đạo đức nhân nghĩa như: Kiều
Nguyệt Nga với tấm lòng ơn nghĩa không phai, Tiểu đồng trung thành, Hớn
Minh, Tử Trực ngay thẳng, ông Ngư, ông Tiều, ông Quán chính trực, tốt
bụng... Những kẻ bất nhân, phi nghĩa, lòng dạ hiểm ác như Trịnh Hâm, Bùi
Kiệm, cha con Võ Thể Loan bị lên án, kết tội. Về nghệ thuật của Truyện Lục
Vân Tiên chỉ được giới thiệu chung cùng với phần giới thiệu về nghệ thuật thơ
văn Nguyễn Đình Chiểu. Với một truyện Nôm nổi tiếng và có sức sống bền
lâu trong đời sống nhân dân Nam Bộ như Truyện Lục Vân Tiên, đang được
giảng dạy và học tập trong chương trình phổ thông hiện hành, giới thiệu
những nội dung như vậy theo đánh giá của chúng tôi là còn chưa đầy đủ và
tản mát. Có lẽ đây cũng là một lí do khiến cho nhiều GV và HS chưa thực sự
yêu mến tác phẩm vì chưa có một hệ thống kiến thức đầy đủ và thực sự sáng
tỏ về bài học Truyện Lục Vân Tiên trong chương trình. Đây là một thực tế và
căn cứ để chúng tôi đề xuất ý kiến về phát triển chương trình ở chương sau.
Các đoạn trích Truyện Lục Vân Tiên được học trong chương trình gồm
có hai đoạn ở lớp 9 là Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên gặp
nạn. Lớp 11 có đoạn Lẽ ghét thương. Tri thức về nội dung của những đoạn
trích này đều hướng tới những giá trị đặc sắc của tác phẩm. Qua đoạn trích
38
Lục Vân Tiên gặp nạn, HS thấy được đạo lí nhân nghĩa ở hình tượng nhân
vật Lục Vân Tiên thể hiện bằng hành động dũng cảm đánh cướp cứu người,
tấm lòng chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, từ tâm “làm ơn há dễ
trông người trả ơn”. Đạo lí nhân nghĩa còn được thể hiện qua nhân vật Kiều
Nguyệt Nga, một lòng tri ân người đã cứu mình. Đoạn trích Lục Vân Tiên
gặp nạn lại thể hiện một khía cạnh khác của tác phẩm là vạch trần âm mưu,
lòng dạ hiểm ác của Trịnh Hâm nhằm làm hại Vân Tiên. Người tốt sẽ luôn
được giúp đỡ, Vân Tiên đã được ông Ngư cứu bằng tất cả tấm lòng nghĩa
hiệp của một người dân lao động bình thường. Trong Truyện Lục Vân Tiên ít
nhiều có tính chất tự truyện. Đoạn trích Lẽ ghét thương là một minh chứng
cho điều đó. Qua đoạn trích, nhân vật ông Quán đã thẳng thắn bày tỏ lẽ ghét
và lẽ thương ở đời. Tất cả những kẻ nào làm hại đến dân đều bị ông Quán
“ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm”. Ông thương những người tài giỏi
nhưng cuộc đời lận đận, nhiều sóng gió, kém may mắn. Như vậy, những
đoạn trích về Truyện Lục Vân Tiên trong chương trình SGK Ngữ văn hiện
hành đã thể hiện khá sâu sắc, đầy đủ những phương diện quan trọng, nổi bật
của tác phẩm.
Về nghệ thuật, các đoạn trích Truyện Lục Vân Tiên trong chương trình
phổ thông đã thể hiện được những nét thành công nổi bật của tác phẩm. Đó là
nghệ thuật khắc họa nhân vật qua lời nói, cử chỉ, hành động. Ngôn ngữ bình
dân và ngôn ngữ bác học được sử dụng kết hợp hài hòa, đặc biệt là cách nói
giản dị, gần với lời nói thường của người dân Nam Bộ, mang sắc thái Nam Bộ
đậm nét.
Vấn đề đặt ra trong đổi mới giáo dục là làm thế nào để dạy học Truyện
Lục Vân Tiên, những bài học đạo đức làm người mà Nguyễn Đình Chiểu
hướng tới độc giả và sắc thái Nam Bộ đậm nét của tác phẩm đến với người
học một cách giản dị, tự nhiên, có tác dụng nhất. Trong danh mục văn bản gợi
ý lựa chọn ở lớp 8 và lớp 9 của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ
39
văn (Ban hành kèm theo thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm
2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) có Truyện Lục Vân Tiên. Nếu
tiếp tục được chọn dạy tác phẩm này trong chương trình Ngữ văn, chúng tôi
thiết nghĩ cần phải có sự điều chỉnh phát triển chương trình một cách hợp lí
hơn: Học chính hay hướng dẫn tự học? Xây dựng bài học trong chương trình
như nào để việc tiếp cận Truyện Lục Vân Tiên thực sự có hiệu quả, tác dụng
nhất đối với việc nâng cao tri thức và giáo dục nhân cách cho người học. Điều
này chúng tôi sẽ có những kiến giải ở chương sau.
2.2. Khảo sát thực trạng dạy - học thể loại truyện Nôm trong chương
trình Ngữ văn tại nhà trường phổ thông hiện nay
2.2.1. Mục đích khảo sát
Đổi mới, nâng cao chất lượng dạy học là vấn đề cấp thiết của toàn
ngành giáo dục hiện nay. Trước sự phát triển, đổi thay nhanh chóng của thời
đại mới, giáo dục phổ thông cũng cần được đổi mới cho phù hợp. Một số nỗ
lực của ngành đó là đổi mới cách kiểm tra, đánh giá, đổi mới phương pháp
dạy học, sử dụng những phương tiện, kĩ thuật dạy học hiện đại kết hợp với
phương tiện, phương pháp dạy học truyền thống. Song thực tế dạy học lại nảy
sinh vấn đề bất cập đó là khi thay đổi cách ra đề, kiểm tra, đánh giá, phương
pháp dạy học nhưng chương trình và SGK chưa thay đổi. Đây là một khó
khăn không nhỏ cho đội ngũ GV hiện nay và cả các em HS trong quá trình
dạy - học. Môn Ngữ văn cũng vậy, muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả của
môn học, một trong những vấn đề cần quan tâm hàng đầu là đổi mới chương
trình, SGK Ngữ văn phổ thông cho phù hợp với tình hình mới. Vì vậy, việc
khảo sát thực trạng dạy- học thể loại truyện Nôm trong chương trình Ngữ văn
tại nhà trường phổ thông hiện nay sẽ giúp cho việc nắm bắt đúng thực tế dạy
học ở một khía cạnh nội dung môn Ngữ văn. Trên cơ sở đó, tìm hiểu, nắm bắt
được thái độ, nguyện vọng của người dạy và người học khi dạy học thể loại
truyện Nôm trong chương trình Ngữ văn phổ thông. Từ thực tế tìm hiểu thực
40
trạng dạy học thể loại truyện Nôm ở trường phổ thông, chúng tôi có căn cứ để
đưa ra những nhận xét, đánh giá và đề xuất đối với việc đổi mới chương trình
SGK trong thời gian sắp tới đối với phần về truyện Nôm thời trung đại.
2.2.2. Đối tượng và địa bàn khảo sát
Đối tượng khảo sát chúng tôi hướng đến là các em HS lớp 9, 10, 11 và
GV dạy Ngữ văn ở một số trường THCS, THPT. Về phía HS, ở những lớp
học này, các em đều đã được học hai truyện Nôm là Truyện Kiều và Truyện
Lục Vân Tiên. Khi tìm hiểu thực tế dạy học truyện Nôm trong chương trình
Ngữ văn phổ thông với đối tượng HS như trên chúng tôi sẽ thu về được
những ý kiến phản ánh thực tế. Đối với GV, chúng tôi khảo sát các thầy cô
dạy Ngữ văn ở phổ thông, không phân biệt lớp dạy. Vì các thầy cô đều đã
hoặc đang dạy chương trình Ngữ văn ở các lớp, các khối, đều nắm bắt rõ thực
tế ở trường mình, lớp mình đã dạy.
Về địa bàn khảo sát, chúng tôi tiến hành khảo sát ở 12 trường của huyện
Đại Từ và thành phố Thái Nguyên. Do chưa có điều kiện thời gian để khảo sát
ở các tỉnh thành khác nhau, nhưng với số lượng các trường như vậy, chúng tôi
cũng nắm bắt được tình tình dạy học truyện Nôm ở nhiều địa bàn khác nhau
trong tỉnh Thái Nguyên: trường thành phố, trường chuyên, trường ở miền núi,
trường nội trú, và một số trường ở huyện Đại Từ mà điều kiện học tập của HS
còn có những khó khăn nhất định. Trên cơ sở đó, chúng tôi có thể đưa ra những
nhận định về tình hình thực tế dạy học truyện Nôm ở phổ thông.
2.2.3. Nội dung và cách thức khảo sát
Trong khuôn khổ có hạn của đề tài, chúng tôi thực hiện khảo sát với 361
HS THCS, 435 HS THPT, 48 GV THCS, 45 GV THPT. Người được hỏi sẽ
điền câu trả lời vào mẫu phiếu có sẵn, nêu sự đánh giá, ý kiến nhận xét và đề
xuất của mình (nếu có) về hai truyện Nôm là Truyện Kiều và Truyện Lục Vân
Tiên trong chương trình Ngữ văn phổ thông.
41
Chúng tôi thiết kế 4 mẫu phiếu khảo sát dành cho GV và HS:1 mẫu
phiếu dành cho HS THCS, 1 mẫu phiếu dành cho HS THPT, 1 mẫu phiếu
dành cho GV THCS và 1 mẫu phiếu dành cho GV THPT (xem phần phụ lục
1,2,3,4). Nội dung phiếu khảo sát hướng đến các vấn đề như hứng thú
dạy/học, nội dung, thời lượng, phương pháp dạy/ học, hiệu quả giờ dạy/học,
chương trình SGK, đề xuất, kiến nghị của người học/người dạy đối với phần
về thể loại truyện Nôm trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông.
2.3. Kết quả điều tra thực trạng
2.3.1. Kết quả trắc nghiệm khách quan và kết quả khảo sát tự luận - một số
ý kiến luận giải, đề xuất tiêu biểu
2.3.1.1. Kết quả khảo sát phiếu dành cho GV THCS và GV THPT
Bằng các phiếu khảo sát số 1 và phiếu khảo sát số 2, chúng tôi tiến hành
tìm hiểu thực tế về thể loại truyện Nôm trong chương trình Ngữ văn phổ
thông hiện hành với đối tượng là GV Ngữ văn đang trực tiếp giảng dạy ở một
số trường phổ thông trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Qua tìm hiểu, thống kê,
chúng tôi thu được kết quả khảo sát như sau:
(XEM PHỤ LỤC 5)
2.3.1.2. Kết quả khảo sát phiếu dành cho HS THCS và HS THPT
Bằng các phiếu khảo sát số 3 và phiếu khảo sát số 4, chúng tôi tiến hành
tìm hiểu thực tế về thể loại truyện Nôm trong chương trình Ngữ văn phổ
thông hiện hành với đối tượng là HS đang học lớp 9, lớp 10 và lớp 11 ở một
số trường phổ thông trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Qua tìm hiểu, thống kê,
chúng tôi thu được kết quả khảo sát như sau:
(XEM PHỤ LỤC 6)
2.3.2. Một số nhận xét
Trên cơ sở tìm hiểu thực tế dạy học thể loại truyện Nôm trong chương
trình Ngữ văn ở trường phổ thông, thông qua kết quả khảo sát bằng 4 mẫu
42
phiếu dành cho 93 GV dạy Văn, 796 HS cấp THCS và cấp THPT ở 12 trường
trên địa bàn thành phố Thái Nguyên và huyện Đại Từ, chúng tôi nhận thấy
một số bất cập như sau:
Thứ nhất, về các đoạn trích trong Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên
được chọn dạy trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông đều được các thầy cô
giáo dạy bộ môn Ngữ văn và các em HS đánh giá là đặc sắc về nội dung tư
tưởng và giá trị nghệ thuật. Qua thống kê phiếu khảo sát của chúng tôi, có
34/48 (tỉ lệ 70.8%) thầy cô dạy THCS và 24/45 (53.3%) thầy cô dạy THPT
cho rằng các đoạn trích truyện thơ Nôm trong chương trình Ngữ văn ở phổ
thông đặc sắc, có giá trị. Số thầy cô đánh giá các đoạn trích được dạy là bình
thường chiếm một tỉ lệ nhỏ (8%-14%). Không có thầy cô nào đánh giá các
đoạn trích truyện Nôm được dạy là không hay (0%). Tuy nhiên, có 6/48
(12.5%) thầy cô dạy THCS và 7/45 (15.6) thầy cô dạy THPT đánh giá là chỉ
có một số đoạn trích đặc sắc. Điều này cũng dễ hiểu vì xuất phát từ thực tế
dạy học, không phải bất kì một đoạn trích truyện Nôm nào trong chương trình
các em cũng hào hứng đón nhận và hợp tác tìm hiểu bài và do tâm lí GV,
không phải thầy cô nào cũng cảm thấy tất cả các đoạn trích đó đều hay.
Nhưng kết quả tìm hiểu của chúng tôi cho thấy, hơn nửa GV được hỏi đều
cho rằng các đoạn trích truyện Nôm trong chương trình đặc sắc về nội dung
và nghệ thuật và đó là ý kiến đa số. Qua phiếu khảo sát HS, khi được hỏi các
em cảm nhận như thế nào về 2 tác phẩm truyện Nôm trong chương trình Ngữ
văn phổ thông, số đông các em cho rằng tác phẩm Truyện Kiều và Truyện Lục
Vân Tiên thú vị, hấp dẫn (183/361 (50.7%) HS THCS và 212/435 (48.7) HS
THPT). Khoảng 40.4% -> 41.8% HS cho rằng hai tác phẩm đó bình thường.
Vì nhiều lí do chủ quan, khách quan khác nhau nên tỉ lệ HS phổ thông chưa
có nhiều cảm xúc với truyện Nôm trong chương trình Ngữ văn còn khá phổ
biến. Số các em HS cho rằng tác phẩm không hấp dẫn, tẻ nhạt là rất ít (5.7% -
> 6.4%). Với phiếu dành cho HS khi hỏi về vấn đề này, chúng tôi thu được
43
một số ý kiến khác như: “Truyện Kiều hấp dẫn, Truyện Lục Vân Tiên không
hấp dẫn”, “Em thích Truyện Kiều nhiều hơn”, “hai tác phẩm đó đều thú vị,
hấp dẫn nhưng em chưa hiểu hết được”. Đó là những ý kiến của các thầy cô
giáo thực tế đang giảng dạy và các em HS đã học xong các đoạn trích truyện
Nôm trong chương trình. Nghĩa là các đoạn trích rất hay, đặc sắc nhưng để
HS hứng thú với bài học về truyện Nôm và thực sự hiểu bài là điều rất khó
khăn. Bởi muốn cho các em hiểu được giá trị của mỗi đoạn trích một cách sâu
sắc cần có thời gian hợp lí và phải thực sự phù hợp với đặc điểm tâm lí, nhận
thức của HS phổ thông. Với thời lượng 45 phút cho 1 tiết học ở phổ thông,
GV cần tổ chức cho HS tìm hiểu vị trí đoạn trích, đọc và chú giải kĩ rồi mới
định hướng cho các em tìm hiểu giá trị đoạn trích. Có những đoạn trích rất
hay nhưng khó và dài như Kiều báo ân báo oán, Trao duyên, Nỗi thương
mình, chỉ được học trong 1-2 tiết, thậm chí là đọc thêm. Truyện Lục Vân Tiên
được học rất ít. Lớp 9 các em học 2 tiết đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều
Nguyệt Nga, đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn đã chuyển thành bài giảm tải.
Lớp 11, đoạn trích Lẽ ghét thương trong chương trình cơ bản đã giảm tải, chỉ
đọc thêm 1 tiết ở chương trình nâng cao. Với thực tế đó chúng tôi nhận thấy
hiệu quả dạy học tác phẩm Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên hiện nay
chưa cao. Vậy nên có em HS bộc lộ suy nghĩ thực của mình là “Truyện Kiều
hấp dẫn, Truyện Lục Vân Tiên không hấp dẫn”. Đó là điều rất đáng tiếc khi
dạy học hai truyện Nôm nổi tiếng của nền văn học dân tộc trong chương trình
ngữ văn phổ thông hiện nay.
Thứ hai, xét về phía HS, qua khảo sát thực tế, khi được hỏi về niềm yêu
thích của các em dành cho hai tác phẩm truyện Nôm trong chương trình, chỉ
một số ít HS trả lời không thích, tỉ lệ từ 6% -> 8.9%. Rất nhiều em HS có
niềm yêu thích với truyện Nôm, 126/361 em HS THCS (tỉ lệ 34.9%) và
144/435 HS THPT (tỉ lệ 33.1%) trả lời là rất thích Truyện Kiều và Truyện Lục
44
Vân Tiên. Đa phần HS trả lời cảm thấy bình thường với 2 tác phẩm này (tỉ lệ
56.2% -> 60.9%).
Theo yêu cầu của GV, để thuận lợi cho việc học bài ở trên lớp đối với
các giờ đọc hiểu văn bản nói chung, các tiết dạy về truyện Nôm nói riêng, các
em HS đều phải soạn bài trước khi đến lớp. Từ kết quả khảo sát, chúng tôi
nhận thấy, hầu hết HS có soạn bài (65.7% -> 69.5%), chỉ có rất ít em là không
soạn bài bao giờ. Có lẽ đó là những HS ý thức học tập chưa tốt, không chăm
học ở các môn, không riêng gì môn Ngữ văn. Điều muốn lưu ý là chất lượng
soạn bài của HS. Khi tìm hiểu về hệ thống câu hỏi trong SGK nhằm định
hướng cho HS soạn bài, phần lớn các em được hỏi nhận định là có câu khó,
có câu dễ (khoảng 88%). Đây cũng là một trở ngại cho những em HS chưa
yêu thích hoặc học yếu bộ môn Ngữ văn khi soạn bài, nhất là đối với những
bài học về truyện Nôm.
Từ niềm yêu thích với 2 truyện Nôm trong chương trình, sự chuẩn bị bài
của hầu hết các em HS, khi hỏi về hứng thú học tập trong giờ học về Truyện
Kiều và Truyện Lục vân Tiên, chúng tôi nhận được kết quả có 170/361 (tỉ lệ
47.1%) HS THCS và 151/435 (tỉ lệ 34.7%) HS THPT trả lời rất thích học các
tiết học đó. Có được hứng thú ấy, theo các em là do tác phẩm hay, mang giá
trị nhân đạo và nhân văn sâu sắc, thể hiện khát vọng công bằng trong xã hội,
lời thơ hay, dạy ta những bài học sống quý báu, nhân vật trong tác phẩm tạo
cho các em có hứng thú tìm hiểu, GV dạy hay, dễ hiểu... Như vậy, có thể nhận
thấy, yếu tố văn bản tác phẩm và người dạy có vai trò rất quan trọng tạo nên
sự hứng thú cho HS trong giờ Ngữ văn nói chung, giờ học về truyện Nôm nói
riêng. Khoảng 50% HS được hỏi có thái độ bình thường với giờ học về truyện
Nôm và các em lí giải là do tác phẩm khó, các em chưa hiểu bài sâu sắc.
Khoảng 6% ->8% HS, một tỉ lệ nhỏ cho rằng không thích giờ học về truyện
Nôm là do bài dài, từ khó hiểu, tác phẩm nói về xã hội xưa không phù hợp với
các em hiện nay, các em thích học tác phẩm văn học hiện đại hơn… Một
45
trong những nguyên nhân dẫn đến thực tế như vậy ở một số ít em là do chất
lượng giờ dạy học về truyện Nôm chưa cao và bản thân các em đó chưa nỗ
lực trong học tập.
Khi hỏi về mức độ sôi nổi, hào hứng của giờ học về truyện Nôm, chúng
tôi nhận thấy chỉ có khoảng 24.4% -> 27.7% HS nhận định là giờ học sôi nổi,
57.6% -> 68% HS cho rằng bình thường và 7.6 -> 14.7% cho rằng lớp học
trầm. Không khí lớp học sôi nổi hay trầm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
văn bản có dễ hay khó tiếp cận, trình độ của HS, sự định hướng tìm hiểu của
thầy cô trong giờ học. Và nhận định về sự định hướng của GV trong giờ học
về truyện Nôm, có 166/361 (tỉ lệ 46%) HS THCS và 164/435 (tỉ lệ 37.7%) HS
THPT cho ý kiến là thầy cô định hướng tiếp nhận hấp dẫn, dễ hiểu. Số các em
cho rằng thầy cô định hướng đôi chỗ còn khó hiểu chiếm tỉ lệ tương đối nhiều
(44.6% -> 56.1%). Chỉ một số ít em cảm thấy thầy cô dạy khó hiểu, chưa thực
sự hấp dẫn (6.2% -> 9.4%).
Khi hỏi các em về sự chủ động, sáng tạo trong việc tìm hiểu nội dung tác
phẩm truyện Nôm, phần lớn các em thích điều này, có 271/361 (tỉ lệ 75.1%)
HS THCS và 323/435 (tỉ lệ 74.3%) HS THPT trả lời là thích chủ động, sáng
tạo khi tìm hiểu truyện Nôm trong chương trình phổ thông. Có rất nhiều sự lí
giải của các em cho điều này: hiệu quả của việc tự học là rất tốt, các em sẽ
nhớ bài lâu hơn, được sáng tạo trong học tập, hứng thú với bài học hơn, làm
cho không khí giờ học sôi nổi hơn, HS sẽ có thêm sự hiểu biết về hoàn cảnh
xã hội, về tác phẩm hơn… Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho
chất lượng giờ học về truyện Nôm được tốt hơn và là tín hiệu rất khả quan khi
HS học về truyện Nôm trong chương trình phổ thông. Số HS không thích chủ
động tìm hiểu về truyện Nôm chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ (khoảng 25%). Theo sự giải
thích của những em HS này, lí do chủ yếu là các em ngại học môn văn, thấy
tác phẩm khó, thích học văn học hiện đại hơn.
46
Cùng với quá trình khảo sát bằng phiếu, chúng tôi tiến hành kiểm tra,
đánh giá việc tiếp nhận bài của HS qua bài kiểm tra trên lớp. Kết quả cho thấy
các em có hiểu bài nhưng mức độ vận dụng kiến thức còn chưa thật tốt. HS
mới chỉ hiểu được các đoạn trích trong truyện thơ Nôm ở một mức độ nhất
định, chưa có được hiệu quả như mong muốn.
Từ kết quả như đã phân tích qua khảo sát phía HS về thực tế học 2
truyện thơ Nôm trong chương trình Ngữ văn phổ thông, chúng tôi có nhận
định như sau: HS được hỏi đều yêu thích tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn
Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, có hứng thú khi tìm
hiểu bài học về đoạn trích trong hai truyện Nôm này. Hầu hết các em đều
soạn bài trước khi đến lớp, sôi nổi tham gia các hoạt động học trong giờ,
thích sự chủ động, sáng tạo trong việc tìm hiểu đoạn trích truyện Nôm được
học. Song khi được hỏi về hiệu quả tiếp nhận các đoạn trích Truyện Kiều và
Truyện Lục Vân Tiên trong và sau giờ học, các em HS trên địa bàn khảo sát
cho rằng các đoạn trích hay nhưng khó và chưa tìm thấy nhiều ý nghĩa gắn
với đời sống hiện đại. Qua việc kiểm tra, đánh giá, chúng tôi nhận thấy phần
nhiều có hiểu bài nhưng mức độ hiểu biết còn chưa thực sự sâu sắc, một số
bài làm của các em chỉ hiểu được “3 phần nổi” của “tảng băng chìm” trong
nội dung bài học.
Thứ ba, về phía GV dạy ngữ văn phổ thông hiện nay, qua thống kê các
phiếu khảo sát dành cho 93 GV ở hai cấp học là THCS và THPT của 12
trường trên địa bàn thành phố Thái Nguyên và huyện Đại Từ, chúng tôi thu
được kết quả như sau: có 18/48 (tỉ lệ 37.5%) GV THCS và 26/45 (tỉ lệ 57.8%)
GV THPT cảm thấy hứng thú khi dạy các tác phẩm truyện Nôm trong chương
trình. Sự hứng thú giảng dạy của GV đối với giờ học phụ thuộc vào nhiểu yếu
tố, trong đó phải kể đến nội dung bài và tâm lí đón nhận cũng như học tập của
HS. Không phải GV nào cũng có thể hiểu thực sự sâu sắc hai tác phẩm truyện
Nôm trong chương trình, nhất là những GV trẻ, chưa trải qua các kì thi GV
47
giỏi hay tham gia bồi dưỡng HS giỏi hàng năm để có được độ “dày” về kiến
thức. Và về phía HS, nếu các em không sôi nổi học, lớp học trầm cũng làm
ảnh hưởng đến tâm lí dạy học của GV trong giờ. Có 26/48 (54.2%) GV THCS
và 18/45 (40%) GV THPT trả lời có hứng thú giảng dạy tùy từng tác phẩm
truyện Nôm. Với kết quả này, chúng tôi hiểu rằng, các thầy cô thực sự cảm
thấy hứng thú khi dạy Truyện Kiều, còn Truyện Lục Vân Tiên chỉ có ít thầy cô
có hứng thú giảng dạy. Điều này cũng dễ hiểu vì sự bố trí của chương trình,
về số tiết theo quy định và số đoạn trích Truyện Lục Vân Tiên đưa vào giảng
dạy ở chương trình phổ thông còn rất ít so với tác phẩm Truyện Kiều và thực
tế khi thi rất ít khi thi vào tác phẩm này của Nguyễn Đình Chiểu nên Truyện
Lục Vân Tiên bị coi nhẹ hơn. Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, không có
thầy cô nào trả lời là không hứng thú khi giảng dạy hai tác phẩm truyện
Nôm trong chương trình. Như vậy, dù có sự “thiên vị” cho tác phẩm Truyện
Kiều, nhưng cả hai truyện thơ Nôm đó đều có vị trí nhất định trong tình yêu,
niềm đam mê, hứng thú giảng dạy của GV phổ thông. Khi được hỏi về tầm
quan trọng của hai truyện Nôm trong chương trình, trên 80% thầy cô đều
khẳng định rất quan trọng. Sự quan trọng của thể loại truyện Nôm trong
chương trình theo nhận định của những thầy cô dạy văn ở phổ thông không
chỉ ở vấn đề là tác phẩm có trong nội dung ôn thi không, mà điều quan trọng
ở giá trị đặc biệt của tác phẩm, ở những bài học làm người quý giá mà
Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiều đã gửi đến độc giả thông qua Truyện Kiều,
Truyện Lục Vân Tiên.
Với trình độ kiến thức vững vàng, các thầy cô ở phổ thông khi dạy học
truyện Nôm đều rất chú ý đến việc làm rõ đặc trưng thể loại. Từ các phiếu
khảo sát chúng tôi thống kê được, có từ 95.6% đến 98% thầy cô chú ý đến
việc làm rõ đặc trưng thể loại khi dạy truyện Nôm, không có thầy cô nào có ý
kiến ngược lại. Và để nâng cao chất lượng giờ dạy về thể loại truyện Nôm,
các thầy cô đều rất chú ý đến việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực. Có
48
29/48 (tỉ lệ 60.4%) GV THCS và 35/45 (tỉ lệ 77.8%) GV THPT trả lời là
thường xuyên sử dụng phương pháp dạy học tích cực khi dạy truyện Nôm.
Với những khó khăn nhất định về tâm lí cũng như trình độ tiếp nhận tác phẩm
văn học trung đại nói chung, tác phẩm truyện Nôm nói riêng của HS trong
chương trình Ngữ văn phổ thông, phần lớn GV với sự chỉ đạo sát sao của
ngành nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng dạy học đều tích cực đổi mới
phương pháp dạy học. Chỉ có một số GV trả lời là ít sử dụng phương pháp
dạy học tích cực:19/48 (tỉ lệ 39.6%) GV THCS và 10/45 (tỉ lệ 22.2%) GV
THPT. Thực tế này có nhiều nguyên nhân. Có thể do quan điểm của GV, lo
tác phẩm khó tiếp nhận với HS nên đã làm thay các phần việc cảm thụ cho
các em khi dạy học trên lớp, các em chỉ việc lĩnh hội đủ kiến thức thầy cô
truyền đạt. Cũng có thể do đối tượng HS, thầy cô có nỗ lực trong việc áp dụng
phương pháp dạy học tích cực nhưng các trò ở trường miền núi trình độ tiếp
thu và sự hưởng ứng còn nhiều hạn chế nên GV đành trở về với phương pháp
dạy học truyền thống.
Trong quá trình dạy truyện Nôm ở phổ thông, GV cũng gặp rất nhiều
khó khăn. Từ kết quả tìm hiểu HS qua phiếu khảo sát, chúng tôi nhận thấy,
việc các em cảm thấy khó, chưa thực sự hứng thú khi tìm hiểu về truyện Nôm,
thích học tác phẩm văn học hiện đại hơn, nhất là đối tượng HS ở những vùng
miền núi, xa trung tâm như ở các xã Vạn Thọ, Văn Yên, La Bằng của huyện
Đại Từ, …là những khó khăn trước nhất GV phải đối diện và tìm cách khắc
phục. Về phía thầy cô trực tiếp tham gia giảng dạy ở phổ thông, khi được hỏi
thầy cô cảm nhận như nào khi dạy các đoạn trích thuộc thể loại truyện Nôm
trong chương trình phổ thông có rất ít phiếu cho câu trả lời là dễ truyền đạt (từ
15.6% đến 22.9%). Bởi nếu tác phẩm truyện Nôm được xem là dễ truyền đạt,
chắc chắn thầy cô giáo phải có trình độ hiểu biết thật sâu sắc, phương pháp dạy
học thật tốt và đối tượng HS cũng phải thật sự xuất sắc thì thầy cô mới thực
hiện được ý tưởng dạy học của mình. Nhất là đối với tác phẩm Truyện Kiều
49
vốn có từ rất lâu trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông, có rất nhiều nguồn
tài liệu giảng dạy hay và được các thầy cô rất yêu thích. Nhiều GV THCS
(19/48, tỉ lệ 39.6%) cho rằng khó truyền đạt khi dạy các đoạn trích truyện Nôm,
GV THPT tỉ lệ này ít hơn (6/45, tỉ lệ 13.3%). Thực tế này cho thấy, đối với đối
tượng HS THCS, các em còn nhỏ tuổi, nên việc truyền đạt, giảng dạy tác phẩm
truyện Nôm cho các em là không dễ dàng. Với đối tượng HS bậc THPT sẽ có
phần thuận lợi hơn cho GV. Phần lớn các thầy cô dạy THPT đều cho rằng, các
đoạn trích truyện Nôm trong chương trình phổ thông vừa dễ, vừa khó truyền
đạt (32/45, tỉ lệ 71.1%). Kết quả này xuất phát từ chính những nguyên nhân
chủ quan và khách quan như đã phân tích trên.
Bên cạnh việc dùng phiếu khảo sát, chúng tôi sử dụng phương pháp hỏi
chuyên gia (trao đổi, hỏi ý kiến của một số giảng viên trường Đại học, chuyên
viên môn Ngữ văn, các bạn đồng nghiệp) để trực tiếp tìm hiểu thực tế về
những khó khăn của GV khi dạy học Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên
trong chương trình Ngữ văn phổ thông. Chúng tôi đã nhận được những ý kiến
phản ánh như sau: Tác phẩm dài, HS không được đọc cả tác phẩm nên khi
học đoạn trích, các em khó hình dung, đoạn trích trong chương trình dài, khó
so với trình độ tiếp nhận của HS trong một thời gian hạn chế là 1-2 tiết học
cho mỗi đoạn trích. Do hoàn cảnh lịch sử, quan niệm xã hội, thẩm mĩ thời nay
đã có nhiều thay đổi nên khi tiếp nhận tác phẩm truyện Nôm HS chưa thực sự
hứng thú. Hơn nữa, sự tài hoa điêu luyện trong nghệ thuật, sự sâu sắc đặc biệt
trong nội dung đoạn trích Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên được dạy học
ở phổ thông, HS chưa đủ khả năng tưởng tượng và nhận thức một cách đầy
đủ. Ví dụ đoạn trích Trao duyên, Nỗi thương mình, Lẽ ghét thương là những
đoạn rất hay và cũng rất khó tiếp nhận với HS. Mặt khác, trước yêu cầu đổi
mới phương pháp dạy học hiện nay, dạy học theo định hướng phát triển năng
lực HS, HS cũng gặp rất nhiều khó khăn vì nội dung bài học trong SGK
không còn thực sự phù hợp ở các phần: mục tiêu bài học, câu hỏi hướng dẫn
50
học bài, hệ thống bài tập luyện tập. Điều đó khiến cho HS gặp khó khăn khi
chuẩn bị bài ở nhà và cho thầy cô khi tổ chức hoạt động học ở trên lớp.
Tiểu kết chương 2
Qua khảo sát thể loại truyện Nôm trong chương trình SGK Ngữ văn phổ
thông hiện hành ở hai khía cạnh là nội dung tri thức về truyện Nôm và khảo
sát về việc dạy - học truyện Nôm, chúng tôi nhận thấy:
Về nội dung tri thức truyện Nôm ở hai tác phẩm Truyện Kiều và Truyện
Lục Vân Tiên qua bài khái quát và các đoạn trích học theo yêu cầu của SGK
và chuẩn kiến thức kĩ năng là khá đầy đủ, toàn diện. Những nội dung cơ bản
và đặc sắc nghệ thuật của truyện Nôm nói chung và được thể hiện qua hai tác
phẩm Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên nói riêng đều đã được chương
trình lưu ý tới. Song để có một chương trình xuyên suốt, xâu chuỗi hợp lí kiến
thức từ thể loại truyện Nôm đến giá trị nội dung, nghệ thuật của Truyện Kiều,
Truyện Lục Vân Tiên là cả một vấn đề phải nghiên cứu và xem xét lại để tránh
tình trạng HS phải học nhiều bài mà kiến thức còn lại trong các em chưa có là
bao và tình yêu với văn chương với 2 truyện Nôm nổi tiếng của nền văn học
dân tộc còn mờ nhạt mau trôi qua.
Về thực tế dạy học thể loại truyện Nôm trong chương trình phổ thông
hiện hành, qua khảo sát với đối tượng là GV và HS của bậc THCS và THPT
với 4 loại phiếu, chúng tôi đã nhận được kết quả phản ánh bằng các câu trả lời
trắc nghiệm và những ý kiến nhận xét, lí giải phù hợp với tình hình thực tế
dạy học hiện nay.
Hai truyện Nôm và các đoạn trích của tác phẩm trong chương trình Ngữ
văn phổ thông được thầy cô và các em HS nhận định là quan trọng, hay, được
cả thầy và trò đều yêu thích. Song để lĩnh hội được hết giá trị của các trích
đoạn truyện Nôm trong chương trình đặt ra là những khó khăn nhất định đòi
hỏi cần giải quyết để nâng cao chất lượng, hiệu quả khi dạy và học thể loại
truyện Nôm ở phổ thông.
51
Đối với HS, với thực tế học tập như hiện nay, các em phải học nhiều
môn học và xu hướng phân ban đã thể hiện khá rõ từ lớp 9, lớp 10. Ban khoa
học xã hội chưa cuốn hút được nhiều em tham gia lựa chọn. Việc tạo hứng thú
và nâng cao chất lượng học tập môn ngữ văn cho HS phổ thông khi học thể
loại truyện Nôm ở phổ thông gặp những khó khăn nhất định như đã khảo sát ở
trên và đòi hỏi có giải pháp hợp lí. Bởi 2 truyện Nôm có sức sống và sự lan
tỏa sâu rộng trong lòng nhân dân Việt Nam như Truyện Kiều và Truyện Lục
Vân Tiên luôn cần được nhân lên, thấm sâu trong tâm hồn mọi thế hệ người
dân mà trước hết là cần định hướng và gieo vào tâm hồn thế hệ trẻ tình yêu
đối với hai tác phẩm đó ngay từ khi đang ngồi trên ghế nhà trường.
Đối với GV, qua thực tế khảo sát chúng tôi nhận thấy, các thầy cô đều
khẳng định tầm quan trọng của thể loại truyện Nôm trong chương trình, yêu
thích tác phẩm, nỗ lực sử dụng phương pháp dạy học tích cực song hiệu quả
tiếp nhận của HS chưa thực sự được như mong muốn. Nhiều khó khăn đặt ra
cho thầy cô cần tháo gỡ để thể loại truyện Nôm thực sự có ý nghĩa và vai trò
đặc biệt trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông. Điều đó nhất định sẽ góp
được tiếng nói quan trọng trong việc giữ gìn, bảo lưu những giá trị quý báu
của nền văn học nước nhà với hai tác phẩm nổi tiếng là Truyện Kiều và
Truyện Lục Vân Tiên.
Trên cơ sở khảo sát và nhận định về thực tế dạy, học thể loại truyện Nôm
trong chương trình ngữ văn phổ thông như trên, chúng tôi có được những căn
cứ khoa học khi đưa ra đề xuất về phát triển chương trình phần thể loại truyện
Nôm trong chương trình SGK ngữ văn phổ thông mới ở chương 3.
52
Chương 3
PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH PHẦN THỂ LOẠI TRUYỆN NÔM
TRONG CHƯƠNG TRÌNH SGK NGỮ VĂN PHỔ THÔNG MỚI
Phát triển chương trình giáo dục là quá trình điều chỉnh, bổ sung, cập
nhật, làm mới toàn bộ hoặc một số thành tố của chương trình giáo dục, bảo
đảm khả năng phát triển và ổn định tương đối của chương trình giáo dục đã
có, nhằm làm cho việc triển khai chương trình theo mục tiêu giáo dục đặt
ra đạt được hiệu quả tốt nhất, phù hợp với đặc điểm, nhu cầu phát triển của
xã hội và phát triển của cá nhân HS. Phát triển chương trình bao gồm xây
dựng chương trình, đánh giá, chỉnh sửa và hoàn thiện chương trình. Mục
đích của việc phát triển chương trình là nhằm khắc phục những hạn chế của
SGK hiện hành, góp phần nâng cao chất lương dạy học, hoạt động giáo dục
ở trường phổ thông; bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học, góp phần
chuẩn bị cơ sở lí luận, thực tiễn đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ
thông sau năm 2015. Có nhiều cách tiếp cận phát triển chương trình như
tiếp cận mục tiêu, tiếp cận nội dung, tiếp cận năng lực. Mỗi cách tiếp cận
chương trình đó có những ưu thế riêng. Giáo dục Việt Nam đang chuyển
mình từ định hướng nội dung sang định hướng phát triển năng lực người
học. Phát triển chương trình môn Ngữ văn cũng theo hướng ấy. Xuất phát
từ thực tế tìm hiểu chương trình SGK phổ thông môn Ngữ văn phần truyện
Nôm và thực tế dạy học thể loại này trong nhà trường phổ thông, nhằm đáp
ứng yêu cầu của giáo dục trong tình hình mới, trong đề tài nghiên cứu này,
chúng tôi lựa chọn định hướng phát triển chương trình theo cách tiếp cận
năng lực để đưa ra đề xuất của mình về thể loại truyện Nôm trong chương
trình SGK ngữ văn phổ thông mới.
53
3.1. Điều chỉnh hệ thống tri thức về truyện Nôm trong chương trình SGK
ngữ văn phổ thông
3.1.1. Tồn tại
Truyện Nôm được đánh giá là đỉnh cao của sự phát triển nền văn học
trung đại Việt Nam. Nhằm giúp HS thấy được giá trị đặc biệt của truyện
Nôm, những người làm chương trình và người dạy cần cung cấp cho các em
lượng tri thức toàn diện, đầy đủ về thể loại. Trên cơ sở đó, HS có thể thấu
hiểu, trân trọng, yêu mến hai truyện Nôm nổi tiếng của dân tộc là Truyện Kiều
và Truyện Lục Vân Tiên. Song, thực tế tìm hiểu chương trình SGK Ngữ văn
phổ thông hiện hành, qua khảo sát ở chương 2, chúng tôi nhận thấy, tri thức
về truyện Nôm còn chưa được thể hiện đầy đủ và sâu sắc. Giới thiệu về truyện
Nôm chỉ là phần chú thích nhỏ trong SGK ngữ văn lớp 9, tập 1. Nội dung chú
thích đó chưa giới thiệu được nổi bật giá trị về nội dung và đặc sắc nghệ thuật
của thể loại truyện Nôm.
Tri thức về Truyện Kiều được trình bày ở 2 bài học khái quát giới thiệu
về tác giả Nguyễn Du trong SGK Ngữ văn lớp 9 và SGK ngữ văn lớp 10. Như
vậy, sự phân bố nội dung của bài học có sự lặp lại. Tất nhiên, sự lặp lại khi
giới thiệu về Truyện Kiều không phải là hoàn toàn trùng khít. Nhưng điều đó
tất sẽ gây khó khăn cho HS khi tiếp nhận tác phẩm, học bài sau sẽ dễ quên bài
trước hoặc mỗi sách lớp 9, lớp 10 giới thiệu một bài nhưng xét riêng lẻ thì nội
dung ấy chưa thực sự sâu sắc, toàn diện và có hệ thống để thể hiện sự xuyên
suốt của chương trình từ bậc THCS đến THPT.
Trong xu thế đổi mới của giáo dục hiện nay, dạy học theo định hướng
phát triển năng lực được mọi người rất quan tâm. Truyện Kiều và các đoạn
trích được học đóng vai trò rất quan trọng trong dạy học đào tạo năng lực đối
với học sinh. Khi nói đến năng lực văn học là ta hình dung được đó là khả
năng đọc hiểu được những gì người khác viết và khả năng nói, viết cho người
khác hiểu. Và sức mạnh của năng lực văn học nói chung là năng lực người,
54
hiểu người và đồng cảm với con người, năng lực cảm nhận thẩm mĩ. Chính vì
vậy, với đối tượng là HS lớp 9, lớp 10, với đặc điểm tâm lí lứa tuổi của tuổi
mới lớn, với những sở thích riêng của lứa tuổi này và mức độ nhận thức các
vấn đề xã hội còn chưa sâu sắc, toàn diện, những đoạn trích được đưa vào học
trong chương trình SGK Ngữ văn phổ thông hiện nay có đoạn chưa thực sự
phù hợp (ví dụ như đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán, Nỗi thương mình).
Tri thức khái quát về Truyện Lục Vân Tiên được thể hiện trong hai cuốn
SGK lớp 9, tập 1 và lớp 11, tập 1. SGK lớp 9 giới thiệu tóm tắt tác phẩm,
SGK lớp 11 giới thiệu Truyện Lục Vân Tiên cùng với bài học về sáng tác của
Nguyễn Đình Chiểu. Như vậy có thể thấy, nội dung giới thiệu về Truyện Lục
Vân Tiên ở 2 cuốn SGK của 2 cấp học còn tản mát, chưa tập trung. Khi định
hướng HS tìm hiểu về Truyện Lục Vân Tiên, cần hướng HS vào vấn đề chính
là tư tưởng toát ra từ câu chuyện: đề cao nhân nghĩa, ca ngợi những con người
sẵn sàng vì nghĩa và phê phán những kẻ bất nhân phi nghĩa, thể hiện triết lí “ở
hiền gặp lành”, “ác giả ác báo” của nhân dân. Đây cũng là những điều tốt đẹp,
chân chính mà nhân dân ở mọi thời đại đều ủng hộ và hướng đến, không chỉ
riêng thời Nguyễn Đình Chiểu. Tiếc rằng phần nội dung tri thức SGK Ngữ
văn phổ thông hiện hành chưa chú trọng đến nội dung đó. Đây là một bất cập
của chương trình SGK hiện hành.
Các đoạn trích của Truyện Lục Vân Tiên trong chương trình SGK phổ
thông hiện hành ít hơn rất nhiều so với các đoạn trích Truyện Kiều. SGK lớp 9
có hai đoạn, SGK lớp 11 có một đoạn. Sự phân bố các đoạn trích Truyện Lục
Vân Tiên như vậy còn rời rạc. Điều đó khiến cho sự lắng đọng về tri thức trong
HS về Truyện Lục Vân Tiên ở lớp 9 còn chưa sâu sắc, và đến gần hai năm sau
học trò mới tiếp tục tìm hiểu về tác phẩm này qua một bài đọc thêm “Lẽ ghét
thương”. Một tác phẩm văn học lớn và có ý nghĩa giáo dục nhân văn trong HS
như vậy nhưng chưa được chú trọng tìm hiểu nhiều trong chương trình phổ
thông hiện hành, quả thực là một điều đáng tiếc. Điều đó sẽ dẫn đến thực trạng
55
nhìn “cây” nhưng không thấy “rừng”, không biết “rừng” biểu hiện rõ về “cây”.
Chừng ấy đoạn trích chưa thực sự đủ để HS cảm thấy hứng thú và yêu mến,
thấu hiểu được giá trị đặc biệt của Truyện Lục Vân Tiên. Vậy nên Truyện Lục
Vân Tiên dần bị “mai một” đi trong tình yêu và sự say mê của học trò hiện nay.
Chúng tôi thiết nghĩ, chương trình SGK cần có một sự cân nhắc để tính nhiều
đến sự phù hợp, hiệu quả tiếp nhận tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên và bồi đắp
tình yêu văn học trong các em qua truyện Nôm đặc sắc này. Cần đặt đoạn trích
học trong tác phẩm như thế nào để người học không bị hoài nghi về nhân vật,
về ý đồ sáng tác và tài năng ngôn ngữ của tác giả, để Truyện Lục Vân Tiên thực
sự sống trong tình yêu và sự ngưỡng mộ của nhân dân.
3.1.2. Đề xuất
Trên cơ sở tìm hiểu về phát triển chương trình giáo dục phổ thông theo
hướng tiếp cận năng lực và việc tìm hiểu thực tế chương trình, thực tế dạy học
thể loại truyện Nôm ở phổ thông, chúng tôi xin đưa ra những đề xuất như sau:
Cần có bài khái quát về thể loại truyện Nôm trong chương trình SGK
phổ thông nhằm giúp HS có được những tri thức cơ bản nhất về thể loại như
khái niệm, phân loại, đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của truyện Nôm.
Trên cơ sở đó, HS căn cứ vào đặc trưng thể loại truyện Nôm để tìm hiểu hai
tác phẩm tiêu biểu là Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên. Bởi những kiến
thức về thể loại là rất cần thiết, có tác dụng “soi đường” cho học trò đi tìm
hiểu về những tác phẩm cụ thể. HS căn cứ vào đó có thể thấy những nét đặc
trưng chung về thể loại và tìm hiểu, khám phá, trân trọng những sáng tạo,
thành công của tác giả ở tác phẩm của mình.
Bài khái quát về mỗi tác phẩm Truyện Kiều, Truyện Lục Vân Tiên nên
tập trung ở một bài, bố trí ở một lớp, một cấp học. Bài học cuối cùng liên
quan đến Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn phổ thông mới sẽ là bài
“Tác gia Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều”. Và bài học cuối cùng liên quan
56
đến tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên trong chương trình Ngữ văn phổ thông
mới sẽ là bài “Tác gia Nguyễn Đình Chiểu và Truyện Lục Vân Tiên”. Nếu
dành cho nội dung này từ 2 đến 3 tiết học, bài học sẽ có vai trò tổng hợp, quy
nạp tất cả những tri thức, những ấn tượng về tác giả, tác phẩm, nhân vật, sự
kiện, ngôn ngữ, hình ảnh,…thành một hệ thống tri thức vững chắc. Điều này
phù hợp với định hướng dạy học tiếp cận năng lực của người học. Sau cả một
quá trình thâm nhập tác phẩm, tích lũy về Truyện Kiều, Truyện Lục Vân Tiên,
người học hoàn toàn làm chủ kiến thức mình có được theo tầm đón nhận của
cá nhân, tránh tình trạng dạy bài tác giả trước mang tính áp đặt, “mớm cung”
cho người học trong suốt quá trình tiếp nhận tác phẩm.
Cần lựa chọn các đoạn trích trong Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên
phù hợp với trình độ nhận thức và đặc điểm tâm lí lứa tuổi HS lớp 9,10,11 để
phát huy tốt nhất năng lực của các em. Truyện Kiều là một trong 6 tác phẩm
bắt buộc học trong chương trình SGK ngữ văn phổ thông mới, vì vậy cần
được dạy kĩ, dạy sâu tác phẩm này. Cần lựa chọn một số đoạn trích Truyện
Kiều cho chương trình mới phù hợp, tăng thêm thời lượng cho phần dạy về
Truyện Kiều để tránh tình trạng HS học rồi mà vẫn chưa hiểu đoạn trích đó
hoặc hiểu mơ hồ rồi sẽ quên ngay. Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm được đưa
vào mục tác phẩm được lựa chọn dạy trong chương trình mới. Trên cơ sở
những kiến thức cơ bản đã có về truyện Nôm và tác phẩm Truyện Lục Vân
Tiên ở bài khái quát, các đoạn trích trong Truyện Lục Vân Tiên có thể đưa vào
các bài đọc thêm hoặc tự học có hướng dẫn để các em tự tìm hiểu, chiếm lĩnh
tác phẩm, GV định hướng, thẩm định, đánh giá lại kết quả tự học của học trò.
Bởi từ việc hình thành cho HS năng lực tìm hiểu về truyện Nôm và một
trường hợp tiêu biểu là Truyện Kiều, HS thực sự có khả năng để tự học một
truyện Nôm khác là Truyện Lục Vân Tiên.
57
Các câu thơ, trích đoạn được lựa chọn trong phần đọc văn về tác phẩm
Truyện Kiều, đọc thêm về tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên cần tiếp tục được triển
khai như một ngữ liệu quan trọng xuyên môn tiếng Việt, làm văn,… để tác phẩm
được trở đi trở lại nhiều lần trong chương trình đào tạo, để lời hay ý đẹp, giá trị
văn hóa tốt đẹp của người Việt được thấm sâu, ngấm bền vào tâm trí học trò.
Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu thực tế, chúng tôi xin được đề xuất các
đoạn trích Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên trong chương trình SGK Ngữ
văn phổ thông mới như sau:
BẢNG 3: ĐỀ XUẤT CÁC ĐOẠN TRÍCH TRUYỆN KIỀU VÀ TRUYỆN LỤC
VÂN TIÊN TRONG CHƯƠNG TRÌNH SGK NGỮ VĂN PHỔ THÔNG MỚI
STT Tác phẩm Đoạn trích Số tiết
Bài khái quát: Thể loại truyện Nôm 2 1
1 2 Truyện Kiều
1 3 Hình thức học Học chính khóa Học chính khóa
1 4
1 5
2 6
2 7
1 8
1 9
1 10 Chị em Thúy Kiều (Đã có trong SGK Ngữ văn 9 hiện hành) Cảnh ngày xuân (Đã có trong SGK Ngữ văn 9 hiện hành) Kiều gặp gỡ Kim Trọng (Bổ sung mới) Mã Giám Sinh mua Kiều (Đã có trong SGK Ngữ văn 9 hiện hành) Trao duyên (Đã có trong SGK Ngữ văn 10 hiện hành) Kiều ở lầu Ngưng Bích (Đã có trong SGK Ngữ văn 9 hiện hành) Thề nguyền (Đã có trong SGK Ngữ văn 10 hiện hành) Kim Trọng trở lại vườn Thúy (Bổ sung mới) Nỗi thương mình (Đã có trong SGK Ngữ văn 10 hiện hành)
58
1 11
1 12
1 13
Kiều gặp Từ Hải (Bổ sung mới) Thúy Kiều báo ân báo oán (Đã có trong SGK Ngữ văn 9 hiện hành) Chí khí anh hùng (Đã có trong SGK Ngữ văn 10 hiện hành) Kim-Kiều tái hợp (Bổ sung mới) 1 14
Bài khái quát: Tác gia Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều 2 15
16
Học chính khóa Đọc thêm (Tự học có hướng dẫn) Truyện Lục Vân Tiên 17
3
18
19
Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga (Đã có trong SGK Ngữ văn 9 hiện hành) Lục Vân Tiên gặp nạn (Đã có trong SGK Ngữ văn 9 hiện hành) Lẽ ghét thương (Đã có trong SGK Ngữ văn 11 hiện hành) Đoạn về nhân vật Võ Thể Loan - trước và sau khi Lục Vân Tiên gặp nạn. (Bổ sung mới)
Bài khái quát: Tác gia Nguyễn Đình Chiểu và Truyện Lục Vân Tiên 2 20
Học chính khóa
Ở bảng đề xuất các đoạn trích Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên
trong chương trình SGK Ngữ văn phổ thông mới, bên cạnh những đoạn trích
đã có trong chương trình SGK Ngữ văn hiện hành, chúng tôi đề xuất thêm 04
đoạn mới thuộc tác phẩm Truyện Kiều và 01 đoạn mới thuộc Truyện Lục Vân
Tiên. Những đoạn trích đề xuất bổ sung mới như đã trình bày ở bảng 3 đều là
những đoạn rất đặc sắc trong 2 tác phẩm truyện Nôm. Khi HS đã được học
bài khái quát về thể loại truyện Nôm, các em có được định hướng để tìm hiểu
về tác phẩm. Việc tìm hiểu thêm các đoạn trích trong Truyện Nôm trên không
nhất thiết chỉ là việc học trên lớp mà gồm cả việc tự học ở nhà có sự định
hướng của GV.
59
3.2. Dạy học thể loại truyện Nôm trong chương trình ngữ văn phổ thông
theo chủ đề
Dạy học theo chủ đề là hình thức tìm tòi những khái niệm, tư tưởng, đơn
vị kiến thức, nội dung bài học, chủ đề,... có sự giao thoa, tương đồng lẫn
nhau, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến
trong môn học hoặc các hợp phần của môn học đó (tức là con đường tích hợp
những nội dung từ một số đơn vị, bài học, môn học có liên hệ với nhau) làm
thành nội dung học trong một chủ đề có ý nghĩa cao hơn, thực tế hơn, nhờ đó
HS có thể tự hoạt động nhiều hơn để tìm ra kiến thức và vận dụng vào thực
tiễn. Dạy học theo chủ đề không phải là một mô hình hoàn toàn mới mà có sự
kết hợp giữa cách dạy học truyền thống và hiện đại, GV không chỉ dạy học
bằng truyền thụ kiến thức mà chủ yếu hướng dẫn HS tự lực tìm kiếm thông
tin, sử dụng kiến thức vào giải quyết các nhiệm vụ có ý nghĩa thực tiễn. Thay
thế cho lớp học truyền thống với đặc trưng là những bài học ngắn, cô lập,
những hoạt động mà GV giữ vai trò trung tâm, dạy học theo chủ đề hướng tới
những nội dung học tập có tính tổng quát, liên quan đến nhiều lĩnh vực, tập
trung vào HS và nội dung tích hợp với những vấn đề, những bài tập thực hành
gắn với thực tiễn.
Dạy học theo chủ đề ở bậc trung học có ý nghĩa đặc biệt trong việc tăng
cường kiến thức, làm cho kiến thức thực tế và đời sống có mối liên hệ gần
gũi, trở nên hấp dẫn hơn. Hay nói cách khác, dạy học theo chủ đề ở bậc trung
học là việc “thổi hơi thở” của cuộc sống vào những kiến thức cổ điển, nâng
cao chất lượng “cuộc sống thật” của bài học.
Với môn Ngữ văn, dạy học theo chủ đề thực sự có ý nghĩa, giúp HS
hứng thú với bài học hơn và làm cho kiến thức văn học đến với HS dễ dàng
hơn, hấp dẫn hơn, có độ thấm sâu, ngấm bền trong tâm trí các em hơn. Bởi
“văn học là nhân học”, học văn chính là học làm người. Hai tác phẩm truyện
Nôm trong chương trình là Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên, nếu được tổ
60
chức dạy học theo chủ đề thì sẽ thực sự hiệu quả và hấp dẫn. Qua quá trình
nghiên cứu và tìm hiểu thực tế về thể loại truyện Nôm trong chương trình
Ngữ văn phổ thông, chúng tôi nhận thấy nên dạy học Truyện Kiều và Truyện
Lục Vân Tiên theo chủ đề bài học như sau:
3.2.1. Chủ đề đạo lý
3.2.1.1. Cơ sở hình thành chủ đề
Đạo lý hay nguyên lý đạo đức là đạo làm người, những lẽ phải hợp với
khuôn phép, đạo đức ở đời. Truyền thống đạo lý thường được nhân dân Việt
Nam từ ngàn đời nay đề cao, trân trọng và thực hiện trong đời sống là: Trung,
hiếu, tiết, nghĩa. Trong hai truyện Nôm là Truyện Kiều và Truyện Lục Vân
Tiên, truyền thống đạo lý đó luôn được các tác giả chú ý khi xây dựng nhân
vật với thái độ rõ ràng: yêu mến, đề cao chính nghĩa và lên án, phê phán, đấu
tranh chống lại những con người sống bất nhân, phi nghĩa. Khi dạy học phần
thể loại truyện Nôm, chúng tôi thiết nghĩ, đối với các em HS phổ thông,
không nên đòi hỏi những yêu cầu quá cao về những tư tưởng sâu xa hay nghệ
thuật uyên bác, trừu tượng mà nên hướng các em tới chủ đề đạo lí được thể
hiện qua các đoạn trích được học trong mỗi tác phẩm truyện Nôm.
Chủ đề đạo lí được thể hiện rất rõ qua các đoạn trích truyện Nôm trong
phần đề xuất chương trình Ngữ văn phổ thông mới (đã trình bày ở mục 3.1.2).
Chúng tôi lựa chọn dạy học theo chủ đề đạo lí ở một số trích đoạn truyện
Nôm trong chương trình Ngữ văn lớp 9 như sau:
- Với Truyện Kiều, chủ đề đạo lí được tìm hiểu ở lớp 9 qua các đoạn
trích như Cảnh ngày xuân, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Mã Giám sinh mua Kiều,
Thúy Kiều báo ân báo oán.
- Với Truyện Lục Vân Tiên, chủ đề đạo lí cũng được tìm hiểu ở lớp 9 qua
các đoạn trích như đã đề xuất được trình bày ở mục 3.1.2.
61
Cơ sở để chúng tôi lựa chọn dạy học các đoạn trích Truyện Nôm như
trên theo chủ đề đạo lí ở chương trình Ngữ văn lớp 9 là bởi những lí do sau:
Thứ nhất, các đoạn trích nêu trên thể hiện rất đặc sắc, ý nghĩa chủ đề đạo
lí - một nội dung quan trọng trong hai truyện Nôm được giảng dạy trong
chương trình phổ thông. Với đoạn trích Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều-
Nguyễn Du), tác giả không chỉ đem đến cho bạn đọc cảm nhận được vẻ đẹp
tươi của thiên nhiên mùa xuân và sự rộn ràng của lòng người khi xuân về mà
ở đó, người đọc còn cảm nhận được nét đẹp trong đạo lí “uống nước nhớ
nguồn” của dân tộc. Đó là truyền thống nhớ về tổ tiên, về những người đã
khuất, thể hiện lòng biết ơn thành kính đối với thế hệ ông cha qua tục lệ đi tảo
mộ ngày xuân. Cho đến bây giờ, trong xã hội hiện đại này chúng ta vẫn còn
duy trì nét đẹp của truyền thống đạo đức “uống nước nhớ nguồn” ấy nhưng
còn ít em HS nhận thức được điều này. Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng
Bích, nếu người dạy và người học cùng hướng đến khám phá chủ đề đạo lí
nhiều hơn, chắc rằng “độ ngấm” trong tâm trí học trò về Truyện Kiều sẽ sâu sắc
hơn. Thúy Kiều trong hoàn cảnh vô cùng cô đơn, khổ đau của những ngày đầu
tiên lưu lạc tha hương, chia lìa với mối tình đầu, ở chốn xa xôi mời mịt “chân
trời góc bể bơ vơ”, nàng không chỉ buồn, tự thương cho chính mình mà vẫn
khôn nguôi nỗi day dứt khi nghĩ về người yêu, lo cho cha mẹ - người con gái
“hiếu-nghĩa đủ đường”. Qua đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều, mặt trái của
đạo lí được thể hiện rõ ở những cách cư xử mất lịch sự, vô văn hóa của anh
chàng “quá niên trạc ngoại tứ tuần/Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” đi
hỏi vợ mà đâu cần lễ nghi, lịch sự, đâu cần ứng xử văn hóa. Thông qua lời nói,
cử chỉ của hắn, các em sẽ đánh giá được đó là người “vô văn hóa”: cách trả lời
cộc lốc, hành động“ghế trên ngồi tót sỗ sàng”. Đoạn trích Thúy Kiều báo ân
báo oán mang đến cho học trò những bài học đạo lí tuyệt vời ở đời thông qua
cách ứng xử nhân nghĩa của nàng Kiều với Thúc Sinh, Hoạn Thư. Kiều tỏ lòng
biết ơn Thúc Sinh, người năm xưa đã cứu nàng ra khỏi lầu xanh nhơ nhớp của
62
Tú Bà và lấy nàng làm vợ lẽ. Là người con gái có ý thức sâu sắc về nhân phẩm,
bị ép phải tiếp khách làng chơi, Thúy Kiều đã toan chọn cái chết để kết liễu
cuộc đời mình còn hơn chịu cảnh sống ô nhục. Song trước những âm mưu xảo
quyệt của mụ chủ chứa lầu xanh là Tú Bà, Kiều đã bị Sở Khanh lừa, bị Tú Bà
buộc phải tiếp khách. Tưởng rằng cuộc đời nàng mãi bị chìm đắm trong vũng
bùn ô nhục ấy, nhưng tại đây, Kiều đã gặp Thúc Sinh, là khách là chơi. Thúc
Sinh đã sẵn sàng chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh và bí mật chung sống với Kiều
như vợ lẽ. Đó là ơn nghĩa mà Thúy Kiều không thể nào quên với Thúc Sinh. Vì
vậy, để tạ lòng biết ơn chàng Thúc Sinh, trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân
báo oán, Kiều dành tặng Thúc Sinh:
“Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.”
Truyện Kiều của Nguyễn Du được xem là tác phẩm “hiểu đời”. Qua
đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán, ta thấu hiểu được sự sắc sảo, khôn
ngoan rất mực của Hoạn Thư. Người Việt Nam ta có câu:
Ớt nào là ớt chẳng cay,
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
(ca dao)
Đó như là một điều tất yếu không thể phủ nhận. Hoạn Thư thanh minh về
sự ghen tuông của mình trong quá khứ với Thúy Kiều bằng một lí do mà bất cứ
một người phụ nữ nào cũng cần thấu hiểu thừa nhận sự thật trong lòng mình:
Rằng tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Hoạn Thư đã khéo nhắc lại ân nghĩa với Kiều năm xưa:
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
63
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng riêng những kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai.
Hoạn Thư mở ra cơ hội cho nàng chạy trốn cho Kiều mà không cho
người đuổi theo bắt nàng. Về tình cảm dành cho Kiều, Hoạn thư bày tỏ lòng
kính yêu Kiều, nhưng không vì thế mà một người phụ nữ lại dễ dàng nhường
chồng mình cho người khác. Thúy Kiều vốn là người thông minh, sâu sắc,
luôn biết nghĩ cho mọi người, trước sự giãi bày của Hoạn Thư về hoàn cảnh,
tấm lòng mình, Kiều hoàn toàn bị thuyết phục. Dẫu sao trong mối quan hệ với
Thúc Sinh, dù là ngẫu nhiên, Kiều cũng thấy mình là người có lỗi với Hoạn
Thư. Vì thế, lẽ nào lại ứng xử tàn nhẫn với người vẫn còn chút lòng tốt giúp
mình. Kiều đã tha bổng cho Hoạn Thư. Kiều thật cao thượng, vị tha. Cách
ứng xử nhân nghĩa của nàng Kiều như vậy thật đáng trân trọng, nể phục. Như
vậy, các đoạn trích trong Truyện Kiều đều thể hiện rất hay đạo lí tốt đẹp của
con người trong cuộc đời như đã nêu ra ở trên. Lĩnh hội và học tập được
những điều đó trong tác phẩm Truyện Kiều qua các bài học quả là thực sự có
ý nghĩa đối với việc hình thành và giáo dục nhân cách cho các em HS.
Với Truyện Lục Vân Tiên nếu chủ đề đạo lí được HS tìm hiểu sâu kĩ và
hiệu quả sẽ thực sự có giá trị để vừa nâng cao tri thức, vừa hình thành nhân
cách cho HS mới lớn. Từ 3 đoạn trích trong Truyện Lục Vân Tiên được học,
qua quá trình tự tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức của HS cùng những định
hướng nhất định của GV, các em sẽ có được tình cảm tất yếu về lẽ thiện - ác
trên đời, đó là lòng yêu chính, ghét tà và tự rút ra được những bài học đạo lí
cho bản thân. Trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, chàng trai
họ Lục khi thấy nàng Kiều Nguyệt Nga gặp bọn cướp Phong Lai sẵn sàng “bẻ
cây làm gậy nhằm làng xông vô”. Đó là một hành động nghĩa hiệp, dũng cảm,
sẵn sàng giúp đỡ người bị nạn mà không hề toan tính thiệt hơn. Kiều Nguyệt
Nga trước đó không hề có mối quan hệ quen biết với Vân Tiên. Khi thấy
64
người bị nạn, Lục Vân Tiên cũng không biết đó là ai. Nhưng chàng sẵn sàng
xông vào đánh cướp với tấm lòng nghĩa hiệp đầy trân trọng, vì:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Hơn thế, khi xông vào đánh bọn cướp Phong Lai đông đảo, đầy hung
hãn, Vân Tiên không hề có vũ khí, chàng liền “Bẻ cây làm gậy nhằm làng
xông vô”. Chàng không quản nguy hiểm đến tính mạng mình để trừ cướp, cứu
người bị hại. Hành động dũng cảm làm việc nhân nghĩa ấy của Vân Tiên thật
xúc động và đáng được ngợi ca, học tập biết bao. Không chỉ vậy, sau khi dẹp
xong bọn cướp, nghe tiếng than khóc trong xe, chàng Vân Tiên tới lại gần ân
cần hỏi han, nhưng vẫn không quên nhắc nhở người con gái ngồi trong xe:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai.
Nàng Nguyệt Nga tỏ lòng cảm tạ trang anh hùng đã không quản ngại
giúp mình, Lục Vân Tiên đã bày tỏ chân tình quan điểm về hành động đánh
cướp vừa qua:
Vân Tiên nghe nói liền cười:
“Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì”.
Từ những hành động, cử chỉ, lời nói, quan niệm sống đáng trân trọng đó
của chàng Vân Tiên, HS sẽ cảm thấy yêu mến, nể phục và học tập tấm gương
đạo đức ấy. Thấu hiểu được hành động anh hùng, nghĩa hiệp của Vân Tiên ắt
hẳn các em sẽ sớm hiểu được sự cần thiết biết mấy của tình yêu thương, sẻ
chia, giúp đỡ giữa người với người trong cuộc sống, đặc biệt là trong lúc nguy
nan, chớ nên lạnh lùng vô cảm mà vô tình trở thành tàn nhẫn. Qua cách xử sự
65
của nàng Kiều Nguyệt Nga khi được Vân Tiên cứu giúp, các em sẽ cảm mến
sự hiền hậu, nết na, ân tình ở người con gái xinh đẹp ấy. Nếu Vân Tiên sẵn
sàng “làm ơn há dễ trong người trả ơn” thì nàng Kiều Nguyệt Nga lại là biểu
tượng cho con người luôn biết ơn và chịu ơn. Suốt cả cuộc đời mình, nàng
Kiều Nguyệt Nga luôn mang theo ân nghĩa của chàng Lục vân Tiên đã không
quản ngại cả mạng sống để cứu mình. Truyền thống biết tri ân vốn là một nét
đẹp đạo lí của người Việt Nam ta. Ông cha ta quan niệm:
Giúp ai nhiều ít nên quên,
Phiền ai một chút để bên dạ này.
(ca dao)
Nàng Kiều Nguyệt Nga chính là một mẫu người sống ân nghĩa mà
Nguyễn Đình Chiểu đã rất mực đề cao trong tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên.
Giữa Vân Tiên và Nguyệt Nga không có một lời ước hẹn tình yêu. Nhưng ân
nghĩa với Vân Tiên làm sao Nguyệt Nga có thể quên được. Lục Vân Tiên
không quản tính mạng mình để cứu Kiều Nguyệt Nga. Vì thế, nàng nguyệt
Nga sẵn sàng lấy cả cuộc đời mình để tri ân chàng Vân Tiên. Từ đoạn trích
này, các em sẽ nhận thức được một cách cư xử đạo đức thấm đẫm ân tình ấy
của người con gái đẹp người, đẹp nết Kiều Nguyệt Nga. Cách hành xử của
Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga qua đoạn trích này hoàn toàn phù hợp với
truyền thống đạo lí nhân nghĩa của dân tộc ta, đó cũng là điều mà các em HS
cần học tập và luôn ý thức cho mình trong cuộc sống. Không chỉ có Lục Vân
Tiên, Kiều Nguyệt Nga, nhân vật ông Ngư trong Truyện Lục Vân Tiên được
người đời biết đến là một người dân lao động nghèo khổ nhưng tấm lòng yêu
thương, giúp đỡ mọi người ở ông thật đáng kính phục. Đoạn trích Lục Vân
Tiên gặp nạn sẽ cho các em HS thấy được lòng tốt thực tâm của ông Ngư:
thấy Vân Tiên - người không hề quen biết bị nạn ngã xuống sông được giao
long dìu vào bờ, ông sẵn sàng cứu vớt, giục vợ con nhóm lửa sưởi ấm cứu
66
Vân Tiên. Biết được hoàn cảnh của chàng, ông đã mời chàng ở lại cùng gia
đình mình và bày tỏ quan điểm khi Vân Tiên tỏ ý biết ơn:
“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn”.
Như vậy, qua hai nhân vật Lục Vân Tiên và ông Ngư, với hai hoàn cảnh
cứu người đặc biệt đó, các em HS sẽ nhận thấy được, người tốt có tấm lòng
nhân ái luôn ở xung quanh chúng ta, hãy luôn tôn trọng mọi người và hãy biết
ơn tới những người đã không quản ngại, không đắn đo hơn thiệt để giúp đỡ ta.
Và khi gặp người bị nạn hãy đừng toan tính, sẵn sàng giúp đỡ trong những
điều kiện có thể làm được. Biết đâu rằng, hôm nay ta làm được việc thiện cho
người đời, mai này nếu không may ta gặp nạn, sẽ có người tốt sẵn sàng giúp
đỡ ta. Ở hiền ắt sẽ gặp lành - như hoàn cảnh của chàng Vân Tiên vậy: Vân
Tiên cứu giúp Kiều Nguyệt Nga hoàn toàn vô tư, không trông chờ trả ơn, cho
đến một ngày, Vân Tiên bị gặp nạn, không hề có mối quan hệ trước đó, dù
nghèo khó nhưng ông Ngư sẵn sàng giúp đỡ và cưu mang chàng lúc sa cơ lỡ
vận. Người dân Nam Bộ không chỉ hào hiệp, tốt bụng mà sống rất bộc trực,
thẳng thắn. Nhân vật ông Quán là một minh chứng cho điều đó. Trong đoạn
trích Lẽ ghét thương, ông Quán không ngần ngại bày tỏ quan điểm yêu - ghét
rõ ràng, phân minh của mình. Đã ghét thì ông “ghét cay ghét đắng ghét vào
tận tâm” những kẻ làm nhân dân làm than, khốn khổ. Ông thương những
người tài giỏi mà số phận hẩm hiu, lỡ dở, có tài mà không được trọng dụng.
Lẽ ghét và lẽ thương của ông Quán đều có chung một nguồn cội là xuất phát
từ lợi ích, hạnh phúc của dân. Tìm hiểu đoạn trích này, các em ắt sẽ đồng tình
với quan điểm sống đó của ông Quán. Ở đời, không gì thanh thản và thoải
mái khi được sống thật là chính mình, các em hãy biết học tập từ nhân vật ông
Quán bởi lẽ ghét và lẽ thương đó. Bên cạnh những con người đạo đức, nhân
nghĩa mà Nguyễn Đình Chiểu rất mực ngợi ca, ông còn lên án, phê phán, ghét
cay ghét đắng, thậm chí gọi bọn người độc ác, tráo trở là cầm thú. Như vậy,
với Truyện Lục Vân Tiên, chương trình nên hướng tới những nội dung nhằm
dạy học theo chủ đề đạo lý. Đây là một trong những vấn đề quan trọng và và
67
cũng là thành công đặc biệt về nội dung tư tưởng của tác phẩm này. Bởi lẽ,
Truyện Lục Vân Tiên được xem là bài ca ca ngợi những tấm gương đạo đức
nhân nghĩa ở đời. Không chỉ nâng cao nhận thức văn học cho các em mà
những bài học đạo lí ấy sẽ đến với HS một cách giản dị, tự nhiên, góp phần
quan trọng vào việc hình thành năng lực và nhân cách cho học trò hiện nay.
Dạy học nhằm phát huy năng lực cho học trò không chỉ quan tâm đến
dạy như thế nào (phương pháp), mà trước hết cần chọn lựa dạy cái gì (nội
dung) cho phù hợp để mang lại hiệu quả thiết thực và giúp học trò yêu môn
học hơn. Dạy học truyện Nôm theo chủ đề đạo lí là một lựa chọn hợp lí và
thực sự có ý nghĩa.
Thứ hai, HS lớp 9, bậc THCS là lứa tuổi mới lớn đang định hình rõ về
đạo đức, nhân cách. Vấn đề giáo dục đạo lí rất quan trọng, những bài học môn
Ngữ văn không chỉ mang đến cho học trò tình yêu văn học, yêu ngôn ngữ dân
tộc, bồi đắp tâm hồn và tình cảm đẹp cho các em mà còn mang đến cho học
trò những bài học trong cách đối nhân xử thế ở cuộc đời sao cho nghĩa tình,
phải đạo là điều rất cần thiết.
3.2.1.2. Thời lượng dạy học theo chủ đề
Chủ đề đạo lí trong hai truyện Nôm là Truyện Kiều và Truyện Lục Vân
Tiên dự kiến được dạy vào học kì 1 của chương trình Ngữ văn lớp 9 với số
tiết như sau:
BẢNG 4: DỰ KIẾN CÁC ĐOẠN TRÍCH TRUYỆN KIỀU DẠY HỌC THEO
CHỦ ĐỀ ĐẠO LÍ
Đoạn trích trong Truyện Kiều (Nguyễn Du) Số tiết
Cảnh ngày xuân 1
Kiều ở lầu Ngưng Bích 2
Mã Giám Sinh mua Kiều 1
Thúy Kiều báo ân báo oán 1
Chủ đề đạo lí
68
BẢNG 5: DỰ KIẾN CÁC ĐOẠN TRÍCH TRUYỆN LỤC VÂN TIÊN DẠY
HỌC THEO CHỦ ĐỀ ĐẠO LÍ
Đoạn trích trong Truyện Lục Vân Tiên Số tiết
(Nguyễn Đình Chiểu)
Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga 1
1 Lục Vân Tiên gặp nạn
1 Lẽ ghét thương
Chủ đề đạo lí
3.2.1.3. Nội dung chủ đề
* Mục tiêu:
Về kiến thức:
- Khẳng định vẻ đẹp đạo lí trong phẩm chất đạo đức của mỗi con người
và lối sống, ứng xử được thể hiện qua các nhân vật trong các đoạn trích
truyện Nôm được học.
- Tìm hiểu những nét đặc sắc về nghệ thuật, sự sáng tạo tài hoa của tác
giả ở mỗi đoạn trích truyện Nôm được học góp phần thể hiện rõ chủ đề đạo lí.
Về kĩ năng:
- Hình thành, rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu truyện Nôm theo đặc trưng thể
loại;
- Kĩ năng nhận diện và phân tích vẻ đẹp đạo lí được thể hiện qua hình
tượng thơ trong từng đoạn trích, kĩ năng trình bày các nội dung để làm rõ chủ
đề bài học.
- Kĩ năng nhận diện và phân tích các biện pháp nghệ thuật được thể hiện
qua các đoạn trích.
Về thái độ:
69
Luôn trân trọng, đề cao những truyền thống đạo lí tốt đẹp của ông cha ta
được thể hiện qua những đoạn trích truyện Nôm được học.
Có ý thức giữ gìn, phát huy những truyền thống đạo lí tốt đẹp đó, biết
rung cảm và hướng thiện, góp phần phát triển những nét đẹp đạo lí của dân
tộc xây dựng một môi trường thân thiện, hài hòa tốt đẹp và nhân văn trong xã
hội hiện tại.
Yêu mến, say mê học các tác phẩm văn học thể hiện đậm đà bản sắc dân
tộc như thể loại truyện Nôm.
Về năng lực cần đạt:
Hình thành và phát triển năng lực tự học: huy động kiến thức về văn hóa,
văn học, về tác phẩm Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên, hiểu biết về thực
tiễn đời sống ... để tìm hiểu về chủ đề đạo lí trong các đoạn trích truyện Nôm
được học.
Năng lực hợp tác, giải quyết vấn đề;
Năng lực thưởng thức văn học và cảm thụ thẩm mĩ;
Năng lực tự quản bản thân.
* Bảng 6: Bảng mô tả mức độ nhận thức và hệ thống câu hỏi, bài tập
theo chủ đề
Mức độ Vận dụng Vận dụng Đơn Nhận biết Thông hiểu thấp cao vị kiến thức
Nhớ được vị Xác định đoạn Vận dụng Biết tự đọc 1. Tìm hiểu trí đoạn trích đó có ý hiểu biết về và khám chung về trích. nghĩa gì trong tác giả, tác phá các đoạn trích cuộc đời nhân phẩm, thể loại đoạn trích
70
Mức độ Vận dụng Vận dụng Đơn Nhận biết Thông hiểu thấp cao vị kiến thức
vật, trong việc để lí giải cách khác trong
thể hiện chủ đề phân chia tác phẩm
tư tưởng. được bố cục và các tác
và có những phẩm khác
cảm nhận ban cùng thể
đầu về giá trị loại.
nội dung,
nghệ thuật
đoạn trích.
-Nêu được Tìm những từ Thẩm bình Tổng hợp,
nội dung ngữ, hình ảnh, được ý nghĩa khái quát,
chính của chi tiết thể hiện của những chi chứng
đoạn trích. nội dung các tác tiết, hình ảnh, minh chủ
-Nhận ra vẻ phẩm. từ ngữ đặc sắc đề thể hiện
đẹp đạo lí - Giải thích trong đoạn trong các
được thể được ý nghĩa trích. tác phẩm.
2. Tìm hiểu hiện như thế của từ ngữ. - Nêu được ấn -Có những
nội dung nào qua cách So sánh với các tượng của cá khám phá,
thể hiện của tình huống ứng nhân về nét sáng tạo
nhân vật ở xử khác của đặc sắc về giá riêng trong
đoạn trích nhân vật trong trị nội dung cách đánh
đó. tác phẩm và so đoạn trích. giá, cảm
sánh với các - Khái quát nhận về
nhân vật khác được ý nghĩa nội dung
về phẩm chất của hình tượng tác phẩm.
71
Mức độ Vận dụng Vận dụng Đơn Nhận biết Thông hiểu thấp cao vị kiến thức
đạo đức đó. trong đoạn
trích đó.
Chỉ ra nét Giá trị của các So sánh sự Vận dụng
đặc sắc nghệ biện pháp nghệ giống và khác tri thức đọc
thuật trong thuật trong việc nhau về nét hiểu trong
đoạn trích. thể hiện chủ đề thành công bài học để
tư tưởng đoạn trong nghệ tạo nên
trích. thuật ở đoạn những giá
trích so với trị sống của 3. Nghệ thuật các đoạn trích bản thân từ
khác trong tác những bài
phẩm và so học đạo lí
với các tác mà bản thân
phẩm khác thấm nhuần
cùng thể loại. được từ tác
phẩm.
Khẳng định Chỉ ra biểu hiện Liên hệ bản Đánh giá,
chủ đề đạo lí của chủ đề đạo thân về những phản biện,
luôn có giá lí ở các nhận vật vẻ đẹp đạo lí nhận định
trị ở mọi thời khác, các đoạn mà em có một số ý 4. Liên hệ, mở đại. trích khác trong được và đang kiến, biểu rộng tác phẩm và ở học tập rèn hiện trái
những tác phẩm luyện những với luân
khác cùng thời đạo đức như thường đạo
hặc khác thời, thế nào. lí đang tồn
72
Mức độ Vận dụng Vận dụng Đơn Nhận biết Thông hiểu thấp cao vị kiến thức
văn học trong tại trong xã
nước và nước hội ta ngày
ngoài, ở đời nay.
sống thực hàng
ngày.
Bảng 7: Hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá chủ đề
Năng lực, STT Câu hỏi/ bài tập Mức độ phẩm chất
Năng lực phát Nhận diện những vẻ đẹp đạo lí trong mỗi Nhận biết 1 hiện vấn đề đoạn trích truyện Nôm được học là gì?
Những vẻ đẹp đạo lí được thể hiện trong Năng lực tổng 2 những đoạn trích truyện Nôm như thế Thông hiểu hợp kiến thức nào?
Phân tích mỗi đoạn trích truyện Nôm được Cảm thụ văn
3 học để làm rõ chủ đề đạo lí được thể hiện Vận dụng thấp học, đánh giá
vấn đề qua đó?
Liên hệ, mở rộng chủ đề đạo lí thể hiện
trong tác phẩm truyện Nôm được học, trong Năng lực giải Vận dụng cao 4 các tác phẩm văn học khác và trong thực tế quyết vấn đề
đời sống như thế nào?
3.2.2. Chủ đề tình yêu
3.2.2.1. Cơ sở hình thành chủ đề
Chủ đề tình yêu được thể hiện rất rõ qua nhiều đoạn trích Truyện Kiều
trong phần đề xuất chương trình Ngữ văn phổ thông mới (đã trình bày ở mục
73
3.1.2). Chúng tôi lựa chọn dạy học theo chủ đề tình yêu ở một số trích đoạn
Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn lớp 10 như sau: Kiều gặp gỡ Kim
Trọng, Trao duyên, Thề nguyền, Kim Trọng trở lại vườn Thúy, Nỗi thương
mình, Kiều gặp Từ Hải, Chí khí anh hùng, Kim Kiều tái hợp.
Chúng tôi lựa chọn dạy học các đoạn trích truyện Nôm như trên theo
chủ đề tình yêu ở chương trình Ngữ văn phổ thông mới ở lớp 10 là bởi
những lí do sau:
Với hai truyện Nôm trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành là
Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên, có thể nhận thấy, nếu Truyện Vân Tiên
nghiêng về chủ đề đạo lí hơn, thì trong Truyện Kiều, chủ đề tình yêu được tác
giả Nguyễn Du khai thác rất sâu sắc, hấp dẫn và xúc động. Chủ đề tình yêu
trong Truyện Lục Vân Tiên cũng có được đề cập tới, nhưng tình yêu theo cách
nhìn nhận của Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với nghĩa. Theo nghiên cứu của
chúng tôi, với lứa tuổi HS lớp 10 của bậc THPT nên chọn các ngữ liệu là các
câu thơ hay, các đoạn trích thuộc chủ đề tình yêu để đưa vào chương trình,
đặc biệt là các đoạn trích trong Truyện Kiều. Đi sâu vào chủ đề tình yêu lứa
đôi trong Truyện Kiều với tất cả các cung bậc cảm xúc cũng như các nét văn
hóa ứng xử đẹp/vừa truyền thống vừa hiện đại trong tình yêu Thúy Kiều -
Kim Trọng, Thúy Kiều - Từ Hải, sẽ có hiệu quả không nhỏ trong việc định
hướng tình cảm, giáo dục giới tính cho HS ở lớp đầu của bậc THPT. Ở độ tuổi
này, các em bắt đầu có những rung động đầu đời với bạn khác giới, định hướng
cho HS cái nhìn đúng đắn, lành mạnh, trong sáng về tình yêu qua kiệt tác
Truyện Kiều là điều có ý nghĩa rất tích cực.Từ trước tới nay, khi nói về Truyện
Kiều, ta vẫn thường thay đề cập đến giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo. Nhưng
có một điều làm nên nét riêng cho tác phẩm, khiến Truyện Kiều mãi là niềm
say mê, hấp dẫn của độc giả muôn đời, đó là chủ đề tình yêu được đề cập khá
sâu sắc trong tác phẩm. Tình yêu trong Truyện Kiều vừa mang nét đẹp truyền
thống vừa mang yếu tố hiện đại. Chính vì vậy, khi tìm hiểu Truyện Kiều, đối
với đối tượng là HS mới lớn, ở bậc THPT, các em bắt đầu có những rung động
74
trong tình cảm với bạn khác giới, muốn được khám phá về tình yêu nên dạy
chủ đề tình yêu trong truyện Nôm này các em sẽ hứng thú, tiếp thu bài hiệu quả
và sẽ có những tác động giáo dục tốt cho các em trong cách nhìn nhận, cách
hành xử nhân văn. Mối tình đầu trong sáng, đẹp đẽ của nhân vật Thúy Kiều
trong cuộc đời là tình yêu với chàng Kim Trọng. Tìm hiểu các đoạn trích nói về
tình yêu của cặp tài tử - giai nhân Kim-Kiều, các em sẽ nhận thấy những đồng
cảm sâu sắc và trân trọng về một tình yêu chân thành say đắm, hoàn toàn đi
theo tiếng gọi của trái tim yêu đương. Đây là nét hiện đại khi đề cập đến tình
yêu trong một tác phẩm văn học trung đại như Truyện Kiều. Bởi theo quan
niệm phong kiến, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Nhưng tình yêu Kim Trọng -
Thúy Kiều không theo sự sắp đặt đó. Dẫu là lần đầu gặp gỡ nhưng:
Người quốc sắc, kẻ thiên tài
Tình trong như đã mặt ngoài còn e.
Từ sự chân thành say đắm của tình yêu đó, họ luôn dành cho nhau những
tình cảm nhớ mong và khao khát gặp gỡ. Đến với đoạn trích Thề nguyền, ta
lại càng bất ngờ và cũng dễ dàng thấu hiểu cho bước chân chủ động “Xăm
xăm băng lối vườn khuya một mình” của Kiều sang nhà Kim Trọng. Trong
một không gian lãng mạn, ngập tràn ánh trăng, trong sự say đắm tình yêu của
Kim - Kiều, họ đã thề nguyền về một tình yêu chung thủy:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Thật trân trọng và ngưỡng mộ biết mấy tình yêu nồng nàn, lãng mạn đó.
Dù yêu nhau say đắm, trong bối cảnh đêm khuya chỉ có chàng và nàng, nhưng
Kim Trọng và Thúy Kiều luôn giữ được sự trong sáng, khuôn phép. Đến với
những đoạn trích đó trong Truyện Kiều, các em không chỉ xúc động, trân
trọng trước một mối tình đẹp mà còn học tập được ở đó rất nhiều: sự chân
thành, say đắm và đặc biệt là luôn biết giới hạn. Kim Trọng sau khi gặp gỡ
Thúy Kiều trong buổi lễ tảo mộ đầu xuân đã tìm cách thuê trọ học gần nhà
75
Thúy Kiều. Và khi bố mẹ đi vắng, trong đêm trăng sáng, Thúy Kiều là người
chủ động sang nhà Kim Trọng. Điều đó cho thấy tình cảm yêu đương rất đẹp,
đắm say của chàng Kim và nàng Kiều. Bối cảnh không gian, thời gian lãng
mạn, phù hợp với cuộc gặp gỡ thề nguyền của tình yêu đôi lứa. Nhưng khi
Kim Trọng “xem ra ong bướm có chiều lả lơi” thì Thúy Kiều lại rất biết rõ
ranh giới, giới hạn chừng mực của tình yêu. Chính vì vậy, bao năm lưu lạc
của Kiều, bao năm đợi chờ của chàng Kim, khi gặp lại nhau, họ vẫn luôn giữ
được sự trân trọng như xưa, hơn xưa. Nếu tình yêu giữa chàng Kim Trọng và
nàng Thúy Kiều là mối tình đầu lãng mạn, để lại nhiều vương vấn trong suốt
cuộc đời Kiều, thì mối tình giữa Thúy Kiều và Từ Hải sau này trong quãng
đời lưu lạc truân chuyên của Kiều lại được xem là một mối tình của ước mơ,
lí tưởng. Sự gặp gỡ giữa Thúy Kiều và Từ Hải được xem là cuộc gặp gỡ của
“trai anh hùng” với “gái thuyền quyên”. Họ đã trở thành tri kỉ của nhau.
Những tháng ngày sống bên Từ Hải, Kiều được hưởng hạnh phúc ấm êm. Từ
không chỉ mang lại tình yêu, sự yên bình cho Kiều mà còn giúp Kiều báo ân
báo oán - điều mà người ta tưởng như chỉ có thể thực hiện ở thế giới bên kia
trong tưởng tượng mà thôi. Tìm hiểu về mối tình Từ Hải - Thúy Kiều khiến
cho các em có niềm tin hơn vào cuộc sống, cuộc đời đâu chỉ là những đắng
cay, đến một lúc nào đó, duyên trời sẽ cho ta gặp được người tình như mong
ước- như cuộc gặp gỡ giữa Kiều và Từ Hải. Và người con trai, trong tình yêu,
hãy biết luôn che chở và đem lại sự bình yên, hạnh phúc cho người yêu của
mình. Đó là những điều thực sự thấm thía mà HS sẽ cảm nhận được khi tìm
hiểu và khám phá về mối tình ấy. Truyện Kiều khép lại, nhưng những dấu ấn
đẹp về chủ đề tình yêu sẽ còn mãi trong cảm xúc, suy nghĩ và chiêm nghiệm
của các học trò sau khi học xong tác phẩm.
3.2.2.2. Thời lượng dạy học theo chủ đề
Chủ đề tình yêu trong Truyện Kiều dự kiến được dạy vào học kì 2 của
chương trình Ngữ văn lớp 10 với số tiết như sau:
76
Bảng 8: Bảng dự kiến các đoạn trích về chủ đề tình yêu trong Truyện
Kiều ở chương trình Ngữ văn lớp 10
Đoạn trích trong Truyện Kiều (Nguyễn Du) Số tiết
Kiều gặp gỡ Kim Trọng 1
Trao duyên 2
Thề nguyền 1
Kim Trọng trở lại vườn Thúy 1
Nỗi thương mình 1
Kiều gặp Từ Hải 1
Chí khí anh hùng 1
Kim- Kiều tái hợp 1
Chủ đề tình yêu
3.2.2.3. Nội dung chủ đề
* Mục tiêu:
Về kiến thức:
- Cảm nhận được những cung bậc cảm xúc, tình cảm yêu đương chân
thành, cách ứng xử cao đẹp vừa mang nét đẹp truyền thống, vừa mang nét đẹp
hiện đại trong tình yêu qua các đoạn trích trong Truyện Kiều được học.
- Tìm hiểu những nét đặc sắc về nghệ thuật, sự sáng tạo tài hoa của tác
giả ở mỗi đoạn trích trong Truyện Kiều được học góp phần thể hiện rõ chủ đề
tình yêu.
Về kĩ năng:
- Hình thành, rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu truyện Nôm theo đặc trưng thể
loại;
- Kĩ năng nhận diện và phân tích những nét đẹp trong tình yêu được thể
hiện các đoạn trích, kĩ năng trình bày các nội dung để làm rõ chủ đề bài học.
77
- Kĩ năng nhận diện và phân tích các biện pháp nghệ thuật được thể hiện
qua các đoạn trích.
Về thái độ:
Trân trọng những cảm xúc, tình cảm yêu đương chân thành, tôn trọng
người mình yêu.
Có thái độ đúng mực và nghiêm túc trong tình yêu.
Yêu mến, say mê học các tác phẩm văn học thể hiện đậm đà bản sắc dân
tộc và các tác phẩm thuộc thể loại truyện Nôm là một minh chứng.
Về năng lực cần đạt:
Hình thành và phát triển năng lực tự học: huy động kiến thức về văn hóa,
văn học, về thể loại truyện Nôm, tác phẩm Truyện Kiều hiểu biết về thực tiễn
đời sống... để tìm hiểu về chủ đề tình yêu trong các đoạn trích Truyện Kiều
được học.
Năng lực hợp tác, giải quyết vấn đề;
Năng lực thưởng thức văn học và cảm thụ thẩm mĩ;
Năng lực tự quản bản thân.
* Bảng 9: Bảng mô tả mức độ nhận thức và hệ thống câu hỏi, bài tập theo
chủ đề
Mức độ Vận dụng Vận dụng Đơn Nhận biết Thông hiểu thấp cao vị kiến thức
Nhớ được vị Xác định Vận dụng hiểu Biết tự đọc 1. Tìm hiểu trí đoạn đoạn trích đó biết về tác giả, và khám chung về đoạn trích. có ý nghĩa gì tác phẩm, thể phá các trích trong cuộc loại để lí giải đoạn trích
78
Mức độ Vận dụng Vận dụng Đơn Nhận biết Thông hiểu thấp cao vị kiến thức
đời nhân vật, cách phân chia khác trong
trong việc thể được bố cục và tác phẩm
hiện chủ đề có những cảm và các tác
tình yêu của nhận ban đầu phẩm khác
tác phẩm. về giá trị nội cùng thể
dung, nghệ loại.
thuật đoạn trích.
-Nêu được Tìm những từ Thẩm bình Tổng hợp,
nội dung ngữ, hình được ý nghĩa khái quát,
chính của ảnh, chi tiết của những chi chứng
đoạn trích. thể hiện nội tiết, hình ảnh, minh chủ
-Nhận ra vẻ dung các tác từ ngữ đặc sắc đề thể hiện
đẹp tình yêu phẩm. trong đoạn trong các
được thể - Giải thích trích. tác phẩm.
hiện như thế được ý nghĩa - Nêu được ấn - Có những
2. Tìm hiểu nội nào qua đoạn của từ ngữ. tượng của cá khám phá,
dung trích đó. -Lí giải về nhân về nét sáng tạo
tâm trạng, đặc sắc về giá riêng trong
cách hành xử trị nội dung cách đánh
của nhân vật đoạn trích. giá, cảm
Thúy Kiều - Khái quát nhận về nội
hay Từ Hải được ý nghĩa dung tác
hay Kim vẻ đẹp tình phẩm.
Trọng trong yêu được thể
tình yêu. hiện trong
79
Mức độ Vận dụng Vận dụng Đơn Nhận biết Thông hiểu thấp cao vị kiến thức
So sánh nội đoạn trích đó.
dung đoạn
trích này với
các đoạn trích
khác trong tác
phẩm cũng đề
cập đến chủ
đề tình yêu.
Chỉ ra nét Giá trị của So sánh sự Vận dụng
đặc sắc nghệ các biện pháp giống và khác tri thức đọc
thuật trong nghệ thuật nhau về nét hiểu trong
đoạn trích. trong việc thể thành công bài học để
hiện chủ đề trong nghệ tạo nên
tình yêu ở thuật ở đoạn những giá
3. Nghệ thuật đoạn trích đó. trích so với trị sống cho
các đoạn trích bản thân
khác trong tác trong tình
phẩm và so yêu mà HS
với các tác thấm nhuần
phẩm khác được từ tác
cùng thể loại. phẩm.
Khẳng định Chỉ ra biểu Liên hệ bản Đánh giá, 4. Liên hệ, mở chủ đề tình hiện của chủ thân (nếu có), phản biện, rộng yêu luôn là đề tình yêu với cuộc sống nhận định
80
Mức độ Vận dụng Vận dụng Đơn Nhận biết Thông hiểu thấp cao vị kiến thức
một chủ đề qua các đoạn xung quanh một số ý
hấp dẫn, trích khác về những vẻ kiến, biểu
luôn mới, có trong tác đẹp tình yêu hiện sai
giá trị ở mọi phẩm và ở mà em có lầm về tình
thời đại. những tác được và đang yêu đang
phẩm khác hướng tới như tồn tại
cùng thời hặc thế nào. trong xã
hội ta ngày khác thời, văn
nay. học trong
nước và nước
ngoài, ở đời
sống thực
hàng ngày.
Bảng 10: Hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá chủ đề:
Năng lực, STT Câu hỏi/ bài tập Mức độ phẩm chất
Vẻ đẹp trong tình yêu được thể hiện ở Năng lực phát 1 những khía cạnh nào qua các đoạn trích Nhận biết hiện vấn đề trong Truyện Kiều được học?
Yếu tố truyền thống và hiện đại trong
tình yêu được thể hiện như thế nào qua Năng lực tổng Thông hiểu 2 các đoạn trích trong tác phẩm Truyện hợp kiến thức
Kiều được học?
3 Phân tích mỗi đoạn trích Truyện Kiều Vận dụng thấp Cảm thụ văn
81
được học để làm rõ chủ đề đạo lí được học, đánh giá
thể hiện qua đó? vấn đề
Liên hệ, mở rộng chủ đề tình yêu thể
hiện trong tác phẩm Truyện Kiều được Năng lực giải 4 Vận dụng cao học, trong các tác phẩm văn học khác và quyết vấn đề
trong thực tế đời sống như thế nào
Tiểu kết chương 3
Từ sự nghiên cứu, tìm hiểu những cơ sở lí luận liên quan đến đề tài, hệ
thống tri thức của thể loại truyện Nôm trong chương trình SGK Ngữ văn phổ
thông và thực tế dạy học, chúng tôi nhận thấy một số bất cập như đã trình bày
ở chương 2. Nhằm thực hiện đổi mới giáo dục trong tình hình mới, nâng cao
chất lượng và hiệu quả dạy học văn trong nhà trường phổ thông, chúng tôi
mạnh dạn đưa ra những đề xuất của mình về phát triển chương trình phần thể
loại truyện Nôm nhằm góp một tiếng nói thiết thực cho những đổi mới sắp tới
của chương trình môn Ngữ văn. Trong chương 3 của đề tài, chúng tôi đề xuất
2 vấn đề đó là điều chỉnh hệ thống tri thức về truyện Nôm trong chương trình
SGK Ngữ văn phổ thông mới và dạy học truyện Nôm theo chủ đề. Hai chủ đề
nổi bật chúng tôi hướng đến đề xuất cho dạy học thể loại truyện Nôm là chủ
đề đạo lí và chủ đề tình yêu. Trước những yêu cầu của đổi mới giáo dục trong
tình hình mới, dạy học hướng tới phát triển năng lực người học, môn Ngữ văn
cũng cần có những thay đổi cần thiết. Qua nghiên cứu về thể loại truyện Nôm
trong chương trình Ngữ văn phổ thông, chúng tôi nhận thấy, vấn đề cần đổi
mới trước hết là điều chỉnh hệ thống tri thức về thể loại truyện Nôm trong
chương trình SGK Ngữ văn phổ thông sao cho hợp lí, khoa học hơn và thuận
lợi hơn cho GV và HS trong quá trình giảng dạy, học tập. Đồng thời với việc
đổi mới về tri thức đó là đổi mới trong cách thức tổ chức dạy học. Dạy học
theo chủ đề hiện nay là một vấn đề được nhiều người quan tâm. Đây là một
hình thức dạy học có sự kết hợp sử dụng giữa phương pháp truyền thống và
82
các phương pháp, kĩ thuật dạy học hiện đại. Khi dạy học thể loại truyện Nôm
theo hai chủ đề như đã đề xuất trên sẽ tránh tình trạng kiến thức tản mạn, học
trước quên sau của học trò, giúp cho những nội dung kiến thức bài học đến
với học trò một cách tự nhiên, thuyết phục và phát huy tốt được tác dụng giáo
dục đạo đức, nhân cách cho HS phổ thông. Tất nhiên, không có một hình thức
dạy học nào là tối ưu, bởi không phải chỉ hai truyện Nôm trong chương trình
mới có chủ đề đạo lí và chủ đề tình yêu. Và trong hai truyện Nôm đó, tác giả
còn đề cập đến những vấn đề khác nữa chứ không phải chỉ có hai chủ đề này.
Việc phân chia bài học để dạy học theo chủ đề như vậy cũng chỉ mang tính
tương đối. Do điều kiện thời gian có hạn, trong đề tài này, chúng tôi mạnh
dạn đưa ra những đề xuất nhằm phát triển chương trình Ngữ văn phổ thông
mới phần thể loại truyện Nôm, chưa có điều kiện thiết kế thể nghiệm và thực
nghiệm. Những hạn chế thiếu sót đó chúng tôi sẽ tiếp tục khắc phục trong
những công trình nghiên cứu tiếp theo.
83
KẾT LUẬN
Truyện Nôm là một thể loại văn học in đậm dấu ấn sáng tạo của ông cha
ta và tạo nên bản sắc riêng của nền văn học Việt Nam thời trung đại. Nói đến
truyện Nôm bác học, chúng ta không thể không nhắc tới hai tác giả nổi tiếng
đó là Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu. Nếu như Truyện Kiều của Nguyễn
Du được xem là một kiệt tác thì Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
là một tác phẩm luôn in sâu trong tâm trí, tình yêu của những người dân Nam
Bộ. Tìm hiểu về nền văn học Việt Nam, chúng ta không thể không biết đến
hai tác phẩm truyện Nôm đặc biệt này. Sau những lần cải cách, đổi mới
chương trình môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông, hai truyện Nôm là
Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên vẫn luôn có một vị trí quan trọng trong
chương trình. Trong dự thảo chương trình Ngữ văn phổ thông mới, có 6 tác
phẩm bắt buộc đưa vào chương trình, trong đó có Truyện Kiều.
Với tình yêu, niềm đam mê tìm hiểu Truyện Kiều và Truyện Lục Vân
Tiên, là một GV dạy môn Ngữ văn đã trải qua thực tế nhiều năm trong nghề
dạy học, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Thể loại truyện Nôm trong chương
trình Ngữ văn phổ thông” nhằm có cái nhìn sâu sắc hơn về một thể loại quan
trọng trong môn học Ngữ văn và đưa ra những đề xuất phù hợp với định
hướng đổi mới giáo dục trong thời gian tới.
Nhằm tạo tiền đề vững chắc cho quá trình nghiên cứu, ở chương 1,
chúng tôi đi tìm hiểu những cơ sở lí luận làm nền tảng cho việc nghiên cứu về
thể loại truyện Nôm trong chương trình Ngữ văn phổ thông. Muốn có hiểu
biết sâu sắc về những truyện Nôm nổi tiếng như Truyện Kiều, Truyện Lục Vân
Tiên, cần có cái nhìn khái quát, hệ thống về thể loại truyện Nôm, khái niệm,
phân loại và những nét nổi bật về nội dung, nghệ thuật của thể loại này. Bởi
những kiến thức cơ bản ấy sẽ có tác dụng “soi đường” để hiểu được nét đặc
sắc thể loại và những sáng tạo của các tác giả trong những tác phẩm cụ thể.
Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên là hai truyện Nôm bác học, mỗi tác
84
phẩm để lại một dấu ấn riêng không phai mờ trong tâm trí bạn đọc. Truyện
Kiều của Nguyễn Du từ khi ra đời đến nay có biết bao công trình nghiên cứu
bề thế, uyên bác, nhưng để dạy học Truyện Kiều cho học trò phổ thông, cần
có cái nhìn khái quát và giản dị, thiết thực, gần gũi nhất để tác phẩm dễ dàng
đến với nhận thức và trái tim học trò. Chúng tôi đã nghiên cứu chỉ ra những
đặc điểm cơ bản tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, chỉ ra đặc điểm của
truyện Nôm thể hiện trong tác phẩm và những sáng tạo tài hoa của tác giả.
Truyện Kiều là một tác phẩm có số lượng đoạn trích được chọn dạy khá nhiều
trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành. Mỗi đoạn trích là sự thể
hiện những phương diện đặc sắc về nội dung và nghệ thuật tác phẩm. Nhưng
để nâng cao chất lượng và hiệu quả khi dạy Truyện Kiều, đặc biệt trong bối
cảnh xã hội hiện đại và trước những yêu cầu của đổi mới giáo dục trong tình
hình mới là cả một vấn đề không đơn giản. Bên cạnh Truyện Kiều của
Nguyễn Du, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu cũng là một tác
phẩm truyện Nôm được chọn dạy trong chương trình phổ thông hiện hành. Có
thể nói, cho đến nay những lời thơ giản dị, gần gũi của tác phẩm và những bài
học đạo đức, nhân nghĩa ở đời mà Truyện Lục Vân Tiên mang đến cho chúng
ta vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Chúng tôi cũng đã tìm hiểu, nêu ra những đặc
điểm về Truyện Lục Vân Tiên và các đoạn trích trong SGK Ngữ văn phổ
thông hiện hành. So với Truyện Kiều, các đoạn trích Truyện Lục Vân Tiên đưa
vào chương tình phổ thông để tìm hiểu có ít hơn nhưng giá trị, ý nghĩa và sức
hấp dẫn của những đoạn trích ấy rất đáng ghi nhận.
Trên cơ sở nền tảng những vấn đề về thể loại và tác phẩm, trong chương
2 của đề tài, chúng tôi tìm hiểu thực tế tri thức về thể loại truyện Nôm trong
chương trình Ngữ văn hiện hành và thực trạng dạy học hai tác phẩm thuộc thể
thể loại này là Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên. SGK phổ thông hiện
hành rất chú trọng đến hệ thống tri thức về thể loại và tác phẩm truyện Nôm
cho HS, thể hiện ở số lượng các bài học, các đoạn trích trong hai tác phẩm
85
hiện có ở chương trình khá nhiều, có sức khái quát cao về giá trị nội dung tư
tưởng, nghệ thuật của tác phẩm. Nhưng để thực sự làm cho văn học gắn với
đời sống, để những tri thức về truyện Nôm thấm, ngấm trong học trò sâu bền
hơn, có tác động tốt đến sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ, đó là vấn đề
cần xem xét thấu đáo hơn trong chương trình Ngữ văn sắp tới. Thực tế dạy và
học thể loại truyện Nôm cho thấy, các em chưa thực sự say mê khi tìm hiểu
những tác phẩm thuộc văn học trung đại, Truyện Kiều và Truyện lục Vân Tiên
rất gần gũi với chúng ta nhưng các em chưa hào hứng với những giờ học về
hai tác phẩm này. Có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan tạo nên điều đó,
nhưng chúng tôi thiết nghĩ, điều quan trong đầu tiên cần xem xét đó là sự đổi
mới về chương trình SGK phổ thông. Trong hai tác phẩm truyện Nôm này,
Truyện Lục Vân Tiên ít được các em yêu thích hơn. Một trong những nguyên
nhân là do chương trình học tác phẩm này ít hơn so với Truyện Kiều, hơn nữa,
tiếp xúc, tìm hiểu với Truyện Lục Vân Tiên các em chưa hướng tới những
điều quan trọng của tác phẩm - truyện được thể hiện chủ yếu dưới hình thức
kể, nói chuyện Vân Tiên, tác phẩm thể hiện sâu sắc sự hiểu đời, răn đời về
đạo đức, nhân nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu.
Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lí luận liên quan đến đề tài và thực tế về thể
loại truyện Nôm trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành, chúng tôi
mạnh dạn đưa ra những đề xuất về phát triển chương trình theo định hướng
năng lực - ở phạm vi thể loại này. Đó là sự cần thiết phải điều chỉnh hệ thống
tri thức về thể loại truyện Nôm trong chương trình SGK phổ thông sao cho
khoa học và hợp lý nhất, tránh tình trạng trùng lặp ở lớp trước, lớp sau. Muốn
cho hiệu quả tiếp nhận thể loại truyện Nôm được nâng cao trong các em HS,
cần chọn lựa lại các ngữ liệu phù hợp hơn với đặc điểm tâm lí và trình độ tiếp
nhận của HS phổ thông. Dạy học theo chủ đề cũng là một vấn đề hiện nay rất
được quan tâm nhằm phát huy tốt nhất năng lực người học. Khi dạy về hai tác
phẩm này, qua nghiên cứu, chúng tôi mạnh dạn đề xuất ý kiến nên dạy theo
86
chủ đề. Đó là chủ đề đạo lý và chủ đề tình yêu. Bởi đây là những khía cạnh rất
thành công và hấp dẫn của mỗi tác phẩm. Thay vì tìm hiểu những vấn đề tâm
lí phức tạp, những điển cố, điển tích xa xưa trong tác phẩm, nên chăng chúng
ta hướng tới việc học làm người, bồi đắp cho tâm hồn học trò đang độ tuổi
định hình và phát triển đạo đức những điều quý giá, ý nghĩa nhất trong đời
sống tình cảm con người, trong hành trang bồi đắp nhân cách, hướng thiện
cho các em.
Chúng tôi hi vọng rằng, với kết quả nghiên cứu trên đây sẽ giúp ích cho
bản thân và đồng nghiệp có những cách nhìn nhận sâu sắc hơn về một thể loại
văn học trong chương trình Ngữ văn. Hơn thế, những đề xuất của chúng tôi
mong được hiện thực hóa trong chương trình Ngữ văn sắp tới để góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học phần thể loại truyện Nôm nói riêng và
môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông nói chung.
87
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN VĂN
1. Dương Thu Hằng, Ngô Thu Hương (2019), "Truyện Kiều - tác
phẩm bắt buộc trong chương trình Ngữ văn phổ thông mới: một số
trao đổi", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, phê bình và lịch sử văn học,
04/2019, tr. 137-143.
88
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục Phổ thông - Môn
Ngữ văn, H, 2018.
2. Nguyễn Đình Chiểu, Truyện Lục Vân Tiên (1975), NXB Đại học và
trung học chuyên nghiệp.
3. Nguyễn Du (2005), Truyện Kiều, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
4. Phan Cự Đệ (2009), Văn học Việt Nam 1900 - 1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (2009), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
7. Kiều Thu Hoạch (1992), Truyện Nôm nguồn gốc và bản chất thể loại,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
8. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ
XX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
9. Nguyễn Quang Huy (2015), Nghiên cứu truyện Nôm bác học trên chiều
lịch đại - những cách tiếp cận và hướng đến đọc khác, Tạp chí Đại học
Sài Gòn (số7).
10. Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
11. Đặng Thanh Lê (2001), Giảng văn Truyện Kiều, NXB Giáo dục.
12. Nguyễn Lộc (2009), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu
thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Phương Lựu (1988), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Phương Lựu (2002), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học
trung đại Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
15. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
89
16. Nguyễn Đăng Na (2010), Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học sư
phạm, Hà Nội.
17. Nguyễn Quang Ngọc (2010), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
18. Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong “Truyện
Kiều”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam hình thức và
thể loại, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
20. Nguyễn Huy Quát (2001), Để hiểu thêm về Đồ Chiểu, Yên Đổ, Tú
Xương, NXB Thanh niên, Hà Nội.
21. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Trần Đình Sử (2002), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23. Trần Ngọc Thêm (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Nguyễn Ngọc Thiện (Tuyển chọn và giới thiệu, 1999), Nguyễn Đình
Chiểu về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục.
25. Lã Nhâm Thìn (2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam
từ góc nhìn thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. Trần Nho Thìn (2008), Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Trương Xuân Tiếu (2003), Bình giải 10 đoạn trích trong Truyện Kiều,
NXB Giáo dục.
28. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học Trung đại Việt Nam, Nxb khoa
học xã hội, Hà Nội.
29. Trần Ngọc Vương và nhiều tác giả (2007), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X
- XIX, những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Phạm Thu Yến (Biên soạn), (2001), Văn học trung đại, những công trình.
90
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
PHIẾU KHẢO SÁT SỐ 1 (Dành cho giáo viên THCS)
Thầy (cô) vui lòng trả lời những câu hỏi về vấn đề sau đây bằng cách
khoanh tròn vào ý mà mình chọn hoặc viết vào phần để trống.
Câu 1: Thầy/cô có hứng thú khi dạy các tác phẩm truyện Nôm trong chương
trình Ngữ văn THCS không?
A. Rất hứng thú
B. Tùy từng tác phẩm.
C. Bình thường
D. Không hứng thú.
Câu 2: Theo thầy/cô, hai tác phẩm truyện Nôm là Truyện Kiều của Nguyễn
Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu trong chương trình Ngữ
văn THCS có quan trọng không?
A. Rất quan trọng
B. Chỉ tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là quan trọng
C. Không thực sự quan trọng.
Câu 3:Theo thầy/cô, các đoạn trích truyện thơ Nôm trong chương trình Ngữ
văn THCS đã thực sự đặc sắc về nội dung và nghệ thuật chưa?
A. Đặc sắc
B. Bình thường
C. Chưa đặc sắc
D. Chỉ có một số trích đoạn đặc sắc.
Câu 4:Theo thầy/cô, thời lượng dành cho giảng dạy truyện Nôm trong
chương trình Ngữ văn lớp 9 là 7 tiết (trong đó có 1 tiết dạy về tác giả Nguyễn
Du) đã phù hợp chưa?
A. Phù hợp
B. Còn ít
C. Nhiều.
91
Câu 5: Theo thầy/cô, sự phân bố các đoạn trích truyện Nôm trong chương
trình Ngữ văn THCS và THPT hiện hành đã hợp lý chưa? Vì sao?
A. Hợp lý
B. Chưa hợp lý.
Vì………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………….…
……………………………………………………………………………….
Câu 6: Theo thầy/cô, phần kết quả cần đạt trong sách giáo khoa ở những bài
học về truyện Nôm có còn phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học
hiện nay không? Vì sao?
A. Phù hợp
B. Chưa phù hợp, cần điều chỉnh.
Vì……………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………
Câu 7: Thầy/cô có nhận xét gì về hệ thống câu hỏi phần hướng dẫn học bài
ở những bài học về truyện Nôm trong sách giáo khoa? Vì sao?
A. Đầy đủ, hợp lý
B. Chưa đầy đủ, chưa phù hợp với thực tế dạy học hiện nay.
Vì………………………………………………………………….……………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Câu 8: Theo thầy/cô hệ thống bài tập luyện tập trong sách giáo khoa ở
những bài học về truyện Nôm đã giúp học sinh làm chủ được kiến thức chưa?
Vì sao?
A. Có
B. Không.
Vì………….……………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
92
…………………………………………………………………………………
Câu 9: Theo thầy/cô, các đoạn trích trong truyện Nôm được đưa vào chương
trình đã hoàn toàn hợp lý chưa?
A. Hợp lý
B. Chưa hợp lý.
Ý kiến khác:
…………………………………………………………………………………
………………….………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Câu 10: Thầy/cô có sử dụng phương pháp dạy học tích cực vào giờ dạy học
truyện Nôm trong chương trình không?
A. Thường xuyên
B. Ít sử dụng
C. Không sử dụng.
Câu 11: Thầy/cô có cảm nhận như thế nào khi dạy các đoạn trích trong tác
phẩm truyện Nôm trong chương trình ngữ văn hiện hành? Vì sao?
A. Khó truyền đạt
B. Dễ truyền đạt
C. Vừa dễ, vừa khó truyền đạt.
Vì………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Câu 12: Theo thầy/cô, phương pháp dạy học tích cực theo định hướng đổi
mới giáo dục nhằm phát triển năng lực người học có phù hợp khi dạy tác
phẩm truyện Nôm không? Vì sao?
A. Phù hợp
B. Không phù hợp
93
Vì……………………………………………………………………...............
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Câu 13: Khi dạy học truyện Nôm, thầy/cô có chú ý đến việc làm rõ đặc trưng
thể loại không?
A. Có
B. Đôi khi
C. Không
Câu 14: Khi dạy học truyện Nôm trong chương trình ngữ văn THCS, thầy/cô
thường gặp khó khăn gì? Vì sao?
Khó khăn khi dạy truyện Nôm:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Vì:………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Câu 15: Thầy/cô có đề xuất gì về hệ thống các đoạn trích truyện Nôm trong
chương trình nhằm nâng cao chất lượng dạy học văn trong nhà trường?(Thêm
đoạn trích/ Thay đoạn trích/ Điều chỉnh cách phân bố?)
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
94
PHỤ LỤC 2
PHIẾU KHẢO SÁT SỐ 2 (Dành cho giáo viên THPT)
Thầy (cô) vui lòng trả lời những câu hỏi về vấn đề sau đây bằng cách
khoanh tròn vào ý mà mình chọn hoặc viết vào phần để trống.
Câu 1: Thầy/cô có hứng thú khi dạy các tác phẩm truyện Nôm trong chương
trình Ngữ văn THPT không?
A. Rất hứng thú
B. Tùy từng tác phẩm.
C. Bình thường
D. Không hứng thú.
Câu 2: Theo thầy/cô, hai tác phẩm truyện Nôm là Truyện Kiều của Nguyễn
Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu trong chương trình Ngữ
văn THPT có quan trọng không?
A. Rất quan trọng
B. Chỉ tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là quan trọng
C. Không thực sự quan trọng.
Câu 3: Theo thầy/cô, các đoạn trích truyện thơ Nôm trong chương trình Ngữ
văn THPT đã thực sự đặc sắc về nội dung và nghệ thuật chưa?
A. Đặc sắc
B. Bình thường
C. Chưa đặc sắc
D. Chỉ có một số trích đoạn đặc sắc.
Câu 4: Theo thầy/cô, thời lượng dành cho giảng dạy Truyện Kiều trong
chương trình Ngữ văn lớp 10 là 6 tiết (trong đó có 1 tiết dạy về tác giả
Nguyễn Du) và 1 tiết đọc thêm đoạn trích Lẽ ghét thương (trích Truyện Lục
Vân Tiên) trong chương trình ngữ văn nâng cao lớp 11 đã phù hợp chưa?
A. Phù hợp
B. Còn ít
95
C. Nhiều.
Câu 5: Theo Thầy/cô, sự phân bố các đoạn trích truyện Nôm trong chương
trình Ngữ văn THCS và THPT như vậy đã hợp lý chưa? Vì sao?
A. Hợp lý
B. Chưa hợp lý.
Vì………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………….…
………………………………………………………………………………...
Câu 6: Theo thầy/cô, phần kết quả cần đạt trong sách giáo khoa ở những bài
học về truyện Nôm có còn phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học
hiện nay không? Vì sao?
A. Phù hợp
B. Chưa phù hợp, cần điều chỉnh.
Vì………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Câu 7: Thầy/cô có nhận xét gì về hệ thống câu hỏi phần hướng dẫn học bài
ở những bài học về truyện Nôm trong sách giáo khoa? Vì sao?
A. Đầy đủ, hợp lý
B. Chưa đầy đủ, chưa phù hợp với thực tế dạy học hiện nay.
Vì……………………………………………………………………................
…………………………………………………………………………………
Câu 8: Thầy/cô nhận thấy hệ thống bài tập luyện tập trong sách giáo khoa ở
những bài học về truyện Nôm đã giúp học sinh làm chủ được kiến thức chưa?
Vì sao?
A. Có
B. Không.
Vì………….……………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
96
…………………………………………………………………………………
Câu 9: Theo thầy/cô, các đoạn trích trong truyện Nôm được đưa vào chương
trình đã hoàn toàn hợp lý chưa?
A. Hợp lý
B. Chưa hợp lý.
Ý kiến khác:
…………………………………………………………………………………
………………….………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Câu 10: Thầy/cô có sử dụng phương pháp dạy học tích cực vào giờ dạy học
truyện Nôm trong chương trình không?
A. Thường xuyên
B. Ít sử dụng
C. Không sử dụng.
Câu 11: Thầy/cô có cảm nhận như thế nào khi dạy các đoạn trích trong tác
phẩm truyện Nôm trong chương trình ngữ văn hiện hành?Vì sao?
A. Khó truyền đạt
B. Dễ truyền đạt
C. Vừa dễ, vừa khó truyền đạt.
Vì………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Câu 12: Theo thầy/cô, phương pháp dạy học tích cực theo định hướng đổi
mới giáo dục nhằm phát triển năng lực người học có phù hợp khi dạy tác
phẩm truyện Nôm không? Vì sao?
A. Phù hợp
B. Không phù hợp
97
Vì………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Câu 13: Khi dạy học truyện Nôm,Thầy/cô có chú ý đến việc làm rõ đặc trưng
thể loại không?
A. Có
B. Đôi khi
C. Không
Câu 14: Khi dạy học truyện Nôm trong chương trình ngữ văn THPT, thầy/cô
thường gặp khó khăn gì? Vì sao?
Khó khăn khi dạy truyện Nôm:
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
Vì………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Câu 15: Thầy/cô có đề xuất gì về hệ thống các đoạn trích truyện Nôm trong
chương trình nhằm nâng cao chất lượng dạy học văn trong nhà trường?(Thêm
đoạn trích/ Thay đoạn trích/ Điều chỉnh cách phân bố?)
………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
98
PHỤ LỤC 3
PHIẾU KHẢO SÁT SỐ 3 (Dành cho học sinh THCS)
Khoanh tròn vào ý kiến của em hoặc điền vào phần còn trống.
Câu 1: Em có yêu thích 2 tác phẩm truyện Nôm (Truyện Kiều của Nguyễn
Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) trong chương trình Ngữ
văn lớp 9 không?
A. Không thích
B. Bình thường
C. Rất thích
Câu 2: Em có soạn bài trước khi đến lớp không?
A. Thường xuyên.
B. Thỉnh thoảng.
C. Rất ít khi.
D. Không soạn bài bao giờ.
Câu 3: Những câu hỏi hướng dẫn đọc hiểu văn bản trong sách giáo khoa có
dễ trả lời đối với em không?
A. Rất dễ
B. Có câu khó, có câu dễ
C. Rất khó.
Câu 4: Em cảm nhận như thế nào về 2 tác phẩm truyện Nôm (Truyện Kiều
của Nguyễn Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) trong
chương trình Ngữ văn lớp 9?
A. Thú vị, hấp dẫn
B. Bình thường
C. Không hấp dẫn, tẻ nhạt.
Ý kiến khác:…………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
99
Câu 5: Em có thích học các tiết văn học về đoạn trích trong 2 tác phẩm
truyện Nôm (Truyện Kiều của Nguyễn Du và Truyện Lục Vân Tiên của
Nguyễn Đình Chiểu) thuộc chương trình Ngữ văn lớp 9 không? Tại sao?
A. Rất thích
B. Bình thường
C. Không thích
Lý do:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Câu 6: Cảm nhận của em về nội dung 2 tác phẩm truyện Nôm (Truyện Kiều
của Nguyễn Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) trong
chương trình Ngữ văn lớp 9 hiện nay?
A. Rất hay
B. Hay nhưng khó tiếp nhận
C. Rất khó hiểu.
Câu 7: Trong những giờ học tìm hiểu về tác phẩm truyện Nôm trên lớp có sôi
nổi không?
A. Rất sôi nổi
B. Bình thường
C. Lớp học trầm.
Câu 8: Em có cảm nhận như thế nào về hệ thống bài tập trong sách giáo
khoa ở bài học về mỗi đoạn trích của tác phẩm truyện Nôm?
A. Rất khó
B. Bình thường
C. Dễ.
100
Câu 9: Em muốn tăng hay giảm số lượng các đoạn trích trong tác phẩm
truyện Nôm trong chương trình ngữ văn lớp 9 hiện nay? Lí do?
A. Tăng lên.
B. Giảm đi.
C. Không thay đổi.
Lí do……………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Câu 10: Cảm nhận của em về cách định hướng tiếp nhận của thầy/cô trong
bài học về truyện Nôm?
A. Hấp dẫn, dễ hiểu
B. Đôi chỗ còn khó hiểu
C. Khó hiểu, chưa thực sự hấp dẫn.
Câu 11: Mong muốn của em về cách giảng dạy tác phẩm truyện Nôm của các
thầy cô trong chương trình Ngữ văn?
A. Giữ nguyên phương pháp dạy học truyền thống.
B. Đổi mới, sử dụng nhiều phương pháp, phương tiện hiện đại hơn.
C. Kết hợp sử dụng phương pháp dạy học truyền thống và phương
pháp, kĩ thuật dạy học tích cực.
Câu 12: Em có thích được chủ động, sáng tạo hơn trong việc tìm hiểu nội
dung tác phẩm truyện Nôm trong chương trình Ngữ văn THCS không (soạn
bài, tìm hiểu mở rộng,…)? Vì sao?
A. Có
B. Không
Vì ……………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………..
101
PHỤ LỤC 4
PHIẾU KHẢO SÁT SỐ 4 (Dành cho học sinh THPT)
Khoanh tròn vào ý kiến của em hoặc điền vào phần còn trống.
Câu 1: Em có yêu thích 2 tác phẩm truyện Nôm (Truyện Kiều của Nguyễn
Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) trong chương trình Ngữ
văn THPT không?
A. Không thích
B. Bình thường
C. Rất thích
Câu 2: Em có soạn bài trước khi đến lớp không?
A. Thường xuyên.
B. Thỉnh thoảng.
C. Rất ít khi.
D. Không soạn bài bao giờ.
Câu 3: Những câu hỏi hướng dẫn đọc hiểu văn bản trong sách giáo khoa có
dễ trả lời đối với em không?
A. Rất dễ
B. Có câu khó, có câu dễ
C. Rất khó.
Câu 4: Em cảm nhận như thế nào về 2 tác phẩm truyện Nôm (Truyện Kiều
của Nguyễn Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) trong
chương trình Ngữ văn THPT?
A. Thú vị, hấp dẫn
B. Bình thường
C. Không hấp dẫn, tẻ nhạt.
Ý kiến khác:…………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………….
………………………………………………………………………………….
102
Câu 5: Em có thích học các tiết văn học về đoạn trích trong 2 tác phẩm
truyện Nôm (Truyện Kiều của Nguyễn Du và Truyện Lục Vân Tiên của
Nguyễn Đình Chiểu) thuộc chương trình Ngữ văn THPT không? Tại sao?
A. Rất thích
B. Bình thường
C. Không thích
Lý do:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Câu 6: Cảm nhận của em về nội dung 2 tác phẩm truyện Nôm (Truyện Kiều
của Nguyễn Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) trong
chương trình Ngữ văn THPT hiện nay?
A. Rất hay
B. Hay nhưng khó tiếp nhận
C. Rất khó hiểu.
Câu 7: Trong những giờ học tìm hiểu về tác phẩm truyện Nôm trên lớp có sôi
nổi không?
A. Rất sôi nổi
B. Bình thường
C. Lớp học trầm.
Câu 8:Em có cảm nhận như thế nào về hệ thống bài tập trong sách giáo
khoa ở bài học về mỗi đoạn trích của tác phẩm truyện Nôm?
A. Rất khó
B. Bình thường
C. Dễ.
Câu 9: Em muốn tăng hay giảm số lượng các đoạn trích trong tác phẩm
truyện Nôm trong chương trình ngữ văn THPT hiện nay? Lí do?
A. Tăng lên.
B. Giảm đi.
103
C. Không thay đổi.
Lí do
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Câu 10: Cảm nhận của em về cách định hướng tiếp nhận của thầy/cô trong
bài học về truyện Nôm?
A. Hấp dẫn, dễ hiểu
B. Đôi chỗ còn khó hiểu
C. Khó hiểu, chưa thực sự hấp dẫn.
Câu 11: Mong muốn của em về cách giảng dạy tác phẩm truyện Nôm của các
thầy cô trong chương trình Ngữ văn?
A. Giữ nguyên phương pháp dạy học truyền thống.
B. Đổi mới, sử dụng nhiều phương tiện hiện đại hơn.
C. Kết hợp sử dụng phương pháp dạy học truyền thống và phương
pháp, kĩ thuật dạy học tích cực.
Câu 12: Em có thích được chủ động, sáng tạo hơn trong việc tìm hiểu nội
dung tác phẩm truyện Nôm trong chương trình Ngữ văn THPT không (soạn
bài, tìm hiểu mở rộng,…)? Vì sao?
A. Có
B. Không
Vì ……………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………………...
104
PHỤ LỤC 5
KẾT QUẢ KHẢO SÁT PHIẾU DÀNH CHO GV THCS VÀ GV THPT
Kết quả khảo sát GV THPT (45 phiếu) Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Kết quả khảo sát GV THCS (48 phiếu) Số lượng 18 Tỉ lệ % 37.5 Số lượng 26 Tỉ lệ % 57.8 A. Rất hứng thú
26 54.2 18 40 B. Tùy từng tác phẩm.
1 4 8.3 1 2.2 C. Bình thường
0 0 0 0 Thầy/cô có hứng thú khi dạy các tác phẩm truyện Nôm trong chương trình văn Ngữ THCS/THPT không?
quan 39 81.3 36 80 D. Không hứng thú. A. Rất trọng
8 16.7 9 20
B. Chỉ tác phẩm Truyện Kiều của là Nguyễn Du quan trọng 2
thực
C. Không sự quan trọng.
1 2 0 0
quan
Theo thầy/cô, hai tác phẩm truyện là Truyện Nôm Kiều của Nguyễn Du và Truyện Lục của Vân Tiên Đình Nguyễn trong Chiểu chương trình Ngữ văn THCS/THPT trọng có không?
A. Đặc sắc 34 70.8 24 53.3
B. Bình thường 16.7 14 31.1 8
3 C. Chưa đặc sắc 0 0 0 0
12.5 7 15.6 6 Theo thầy/cô, các đoạn trích truyện thơ Nôm trong chương trình Ngữ văn THCS/THPT đã thực sự đặc sắc về nội dung và nghệ thuật chưa? D. Chỉ có một số trích đoạn đặc sắc.
105
Kết quả khảo sát GV THPT (45 phiếu) Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Kết quả khảo sát GV THCS (48 phiếu) Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
A. Phù hợp 39 81.3 27 60
B. Còn ít 6 12.5 17 37.8
Theo thầy/cô, thời lượng dành cho giảng dạy truyện Nôm trong chương trình Ngữ văn lớp 9 là 7 tiết (trong đó có 1 tiết tác giả dạy về Nguyễn Du) đã phù hợp chưa? (GIÁO VIÊN THCS)
4
3 6.2 1 2.2 C. Nhiều
Theo thầy/cô, thời lượng dành cho giảng dạy Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn lớp 10 là 6 tiết (trong đó có 1 tiết dạy về tác giả Nguyễn Du) và 1 tiết đọc thêm đoạn trích Lẽ ghét thương (trích Truyện Lục Vân Tiên) trong chương trình ngữ văn nâng cao lớp 11 đã phù hợp chưa?
VIÊN
(GIÁO THPT)
106
Kết quả khảo sát GV THPT (45 phiếu) Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Kết quả khảo sát GV THCS (48 phiếu) Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
A. Hợp lý 47 98 35 77.8 Vì:
* Theo ý kiến của GV THCS:
- Đã chọn được những đoạn trích tiêu biểu của tác phẩm để dạy.
Theo thầy/cô, sự phân bố các đoạn trích truyện Nôm trong chương trình Ngữ văn THCS và THPT hiện hành đã hợp lý chưa? Vì sao?
- Phù hợp với trình độ HS và dung lượng cho môn văn.
- Sau khi học xong chương trình ngữ văn, HS cơ bản nắm được các kiến thức về các truyện Nôm đã học.
- Phân chia đoạn, bố cục theo nội dung dầy đủ, phù hợp. 5 * Theo ý kiến của GV THPT:
Đã chọn được những đoạn trích tiêu biểu của tác phẩm để dạy.
1 2 10 22.2 B. Chưa hợp lý Vì:
* Theo ý kiến của GV THCS:
- Trong chương trình Ngữ văn lớp 9, phần nội dung và thời lượng dành cho Truyện Kiều còn ít.
* Theo ý kiến của GV THPT:
- Khả năng ngôn ngữ và sự hiểu biết của HS còn hạn chế nên học đoạn trích “Nỗi thương mình” các em khó tiếp cận.
107
Kết quả khảo sát GV THPT (45 phiếu) Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Kết quả khảo sát GV THCS (48 phiếu) Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
- Bài học về truyện Nôm còn nặng kiến thức so với trình độ tiếp nhận của HS.
A. Phù hợp 39 81.3 24 53.3 Vì:
* Theo ý kiến của GV THCS và GV THPT:
- Đảm bảo yêu cầu về kiến thức, kĩ năng.
- Đưa ra được các giá trị nội dung, nghệ thuật của các trích đoạn.
Theo thầy/cô, phần kết quả cần đạt sách trong giáo khoa ở những bài học về truyện Nôm có còn phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay không? Vì sao? 9 18.7 21 46.7 B. Chưa phù hợp, cần điều chỉnh.
Vì:
6 * Theo ý kiến của GV THCS:
- Cần hướng đến mục tiêu rèn luyện thái độ và phát triển năng lực cho HS.
- Còn nặng về lĩnh hội kiến thức và vấn đề vận dụng phương pháp dạy học còn chưa được chú trọng.
- Phương pháp dạy học mới cần điều chỉnh phần kết quả cần đạt để hướng tới rèn luyện kĩ năng nhiều hơn.
* Theo ý kiến của GV THPT:
- Nhiều GV THPT có ý kiến luận giải giống ý kiến của GV THCS như trên.
108
Kết quả khảo sát GV THPT (45 phiếu) Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Kết quả khảo sát GV THCS (48 phiếu) Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
- Kết quả cần đạt cần hướng tới phát triển năng lực HS theo yêu cầu của giáo dục hiện nay.
- Cần đưa ra các yêu cầu về rèn luyện kĩ năng đọc hiểu, cảm thụ.
- Phần Kết quả cần đạt chỉ chú trọng đến nội dung và nghệ thuật của đoạn trích, chưa hướng văn học đến cuộc sống.
- Mục kết quả cần đạt còn mang tính định hướng. hạn chế sự cảm nhận sáng tạo của HS.
A. Đầy đủ, hợp lý 39 81.3 23 51.1
Vì:
* Theo ý kiến của GV THCS và GV THPT:
về
Đã định hướng, gợi mở cho HS tìm hiểu được về nội dung, nghệ thuật đoạn trích. Thầy/cô có nhận xét gì về hệ thống câu hỏi phần hướng dẫn học bài ở những bài học truyện Nôm trong SGK? Vì sao?
7
9 18.7 22 48.9 B. Chưa đầy đủ, chưa phù hợp với thực tế dạy học hiện nay.
Vì:
* Theo ý kiến của GV THCS:
- Cần có những dạng câu hỏi vận dụng.
- Cần có những câu hỏi hướng tới phát huy năng lực của HS nhiều hơn.
109
Kết quả khảo sát GV THPT (45 phiếu) Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Kết quả khảo sát GV THCS (48 phiếu) Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
- Cần có thêm câu hỏi để nâng cao sự tìm tòi, mở rộng của HS.
* Theo ý kiến của GV THPT:
- Trình tự các câu hỏi chưa hợp lý, gây khó hiểu đối với HS.
- Câu hỏi cần chi tiết, cụ thế hơn và có định hướng.
- Nếu chỉ dựa vào những câu hỏi phần hướng dẫn học bài thì chưa thể khai thác hết được nội dung bài học.
- Nhiều câu hỏi khó, chưa có tính liên hệ thực tế.
A. Có 42 87.5 20 44.4 Vì:
* Theo ý kiến của GV THCS và GV THPT: Câu hỏi đã bao quát được nội dung của toàn bộ bài học để giúp học sinh vận dụng được kiến thức của bài.
B. Không 6 12.5 25 55.6 8 Theo thầy/cô hệ thống bài tập trong luyện tập sách giáo khoa ở những bài học về truyện Nôm đã giúp HS làm chủ thức được kiến chưa? Vì sao? Vì:
*Theo ý kiến của GV THCS:
- Cần có thêm bài tập theo các mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng và vận dụng cao để đánh giá năng lực HS cho phù hợp.
- Còn ít câu hỏi, chưa có câu hỏi gợi mở.
- Cần hướng tới trình độ HS hiện nay và các
110
Kết quả khảo sát GV THPT (45 phiếu) Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Kết quả khảo sát GV THCS (48 phiếu) Số lượng Tỉ lệ % Tỉ lệ %
Số lượng phương tiện hỗ trợ tìm kiếm thông tin khác.
* Theo ý kiến của Gv THPT: nhiều GV THPT có ý kiến luận giải giống GV THCS như đã trình bày ở trên và bổ sung thêm những ý kiến sau:
- Hệ thống bài tập cần định hướng nội dung đáp ứng được.
- Bài tập khó, chỉ phù hợp với HS giỏi.
- Bài tập ít gắn với hoàn cảnh xã hội hiện tại.
- Bài tập thiếu tính thực tế.
A. Hợp lý 43 89.6 24 53.3
B. Chưa hợp lý 5 10.4 21 46.7
9
Ý kiến khác: 0 0 0 0
Theo thầy/cô, các đoạn trong trích truyện Nôm được đưa vào chương trình đã hoàn toàn hợp lý chưa?
có 29 60.4 35 77.8 A. Thường xuyên
B. Ít sử dụng 19 39.6 10 22.2 10
0 0 0 0 C. Không sử dụng Thầy/cô sử dụng phương pháp dạy học tích cực vào giờ dạy học truyện Nôm trong chương trình không?
A. Khó truyền đạt 11 19 39.6 6 13.3
Vì: Thầy/cô có cảm nhận như thế nào khi dạy các đoạn tác trong trích
111
Kết quả khảo sát GV THPT (45 phiếu) Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Kết quả khảo sát GV THCS (48 phiếu) Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
*Theo ý kiến của GV THCS: phần nhiều ngôn ngữ trong văn bản trừu tượng và khó hiểu.
phẩm truyện Nôm trong chương trình ngữ hiện văn hành? Vì sao?
*Theo ý kiến của GV THPT: Các tác phẩm được sáng tác cách ngày nay khá lâu, bối cảnh xã hội, tư tưởng đã thay đổi nên HS khó tiếp thu, khó chấp nhận nội dung mà đoạn trích/tác phẩm đề cập tới.
B. Dễ truyền đạt 11 22.9 7 15.6 Vì:
Theo ý kiến của GV THCS và GV THPT: Tác phẩm rất hay, GV có nhiều hứng thú dạy Truyện Nôm, đặc biệt là Truyện Kiều.
C. Vừa dễ, vừa khó truyền đạt. 18 37.5 32 71.1
Vì:
Theo ý kiến của nhiều GV THCS và THPT:
- HS hiện nay ngại tìm hiểu tác phẩm văn học trung đại, nhất là những tác phẩm có dung lượng dài nên giáo viên có thích dạy nhưng HS lại không thích học.
- Tác phẩm hay nhưng thời gian tìm hiểu trên lớp lại ít nên khó truyền đạt hết ý tưởng cho HS.
- Các truyện Nôm có nội dung phản ánh đời sống xã hội rộng, nhiều từ ngữ khó hiểu cần giải thích kĩ nên thời gian trên lớp quá ít, khó truyền đạt hết cho HS.
112
Kết quả khảo sát GV THPT (45 phiếu) Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Kết quả khảo sát GV THCS (48 phiếu) Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
- Với HS không yêu thích bộ môn Ngữ văn và học yếu thì khó truyền đạt nội dung bài cho các em.
A. Phù hợp 45 93.8 42 93.3 Vì:
*Theo ý kiến của GV THCS và GV THPT:
- GV là người định hướng để HS chủ động lĩnh hội kiến thức.
- Phương pháp dạy học tích cực theo hướng đổi mới giáo dục nhằm phát triển tốt năng lực cho HS.
Theo thầy/cô, phương pháp dạy học tích cực theo định hướng đổi dục giáo mới nhằm phát triển năng lực người học có phù hợp khi dạy tác phẩm Nôm truyện không? - Phương pháp dạy học tích cực giúp HS hứng thú với bài học hơn. 12
Vì sao?
- Trong mỗi tác phẩm truyện Nôm vẫn luôn hướng tới rèn luyện cho HS những kĩ năng nhất định.
- Phương pháp dạy học tích cực nhằm luyện cho Hs những năng lực cần thiết của con người thời hiện đại như năng lực đọc hiểu, đọc sáng tạo, năng lực hợp tác.
B. Không phù hợp 3 6.2 3 6.7
Vì:
*Theo ý kiến của GV THCS và GV THPT: Đặc điểm của truyện Nôm có nhiều từ cũ, hình ảnh, khung cảnh khác xa với thế hệ HS ngày nay nên Gv cần giảng giải cho HS theo phương pháp truyền thống.
113
Kết quả khảo sát GV THPT (45 phiếu) Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Tỉ lệ % Tỉ lệ %
A. Có Kết quả khảo sát GV THCS (48 phiếu) Số lượng 47 98 Số lượng 43 95.6 dạy
B. Đôi khi 4.4 1 2 2
13
C. Không 0 0 0 0
học Khi Nôm, truyện thầy/cô có chú ý đến việc làm rõ đặc trưng thể loại không?
*Theo ý kiến của GV THCS:
- HS không dễ tiếp nhận được những nội dung tác phẩm ngay vì có nhiều điển tích, điển cố, nhiều từ Hán Việt. Nhiều ý kiến cho rằng, truyện Nôm sử dụng nhiều từ cổ xa lạ, khó hiểu với HS hiện nay.
học dạy Khi truyện Nôm trong chương trình ngữ THCS, văn thầy/cô thường gặp khó khăn gì? Vì sao?
- HS lười suy ngẫm đọc và suy ngẫm về tác phẩm, với thời lượng tìm hiểu tác phẩm trên lớp còn ít do quy định của chương trình nên giáo viên khó thực hiện được nội dung giảng dạy như mong muốn.
14 - Tài liệu tham khảo dành cho dạy phổ thông về tác phẩm truyện Nôm còn ít vì đề thi ít ra về truyện Nôm.
- Không khí lịch sử, xã hội thời trung đại học sinh khó hình dung được nhanh.
- Do hoàn cảnh lịch sử, quan niệm đạo đức, quan điểm thẩm mĩ thời nay đã thay đổi nhiều nên học sinh gặp khó khăn khi tìm hiểu về truyện Nôm.
- HS THCS tuổi còn nhỏ nên cảm nhận về tác phẩm Truyện Kiều chưa đầy đủ, sâu sắc.
- HS khó hiểu bài khi sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, miêu tả nội tâm nhân vật.
114
Kết quả khảo sát GV THPT (45 phiếu) Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Kết quả khảo sát GV THCS (48 phiếu) Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
- HS không có điều kiện đọc cả tác phẩm Truyện Kiều và Truyện Lục Vân Tiên nên khó hình dung hết được khi tìm hiểu riêng một số đoạn trích.
- Vốn hiểu biết về Hán Nôm của người học còn “mỏng” nên người dạy gặp nhiểu khó khăn khi dạy truyện Nôm.
*Theo ý kiến của GV THPT:
Nhiều GV THPT có ý kiến giống như Gv THCS như đã trình bày ở trên. Một số GV THPT có nêu thêm ý kiến:
- Các đoạn trích thường dài, ý nghĩa phong phú, sâu sắc nhưng thời lượng còn hạn chế.
- Quan điểm, hệ tư tưởng phong kiến trong tác phẩm truyện Nôm nhiều chỗ không còn phù hợp với HS hiện nay nên các em không đồng cảm hết.
- Truyện thơ dài nên HS khó ghi nhớ hết.
* Theo ý kiến của GV THCS:
- Nên điều chỉnh cách phân bố thời lượng, số lượng đoạn trích phù hợp, có thể thay đổi một số đoạn trích trong sách giáo khoa.
15
- Thay đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” bằng đoạn trích khác.
- Lựa chọn lại đoạn trích để phù hợp hơn với đối tượng học sinh lớp 9.
* Theo ý kiến của GV THPT:
có đề Thầy/cô xuất gì về hệ thống các đoạn trích truyện Nôm trong chương trình nhằm nâng cao lượng dạy chất học văn trong nhà trường?(Thêm đoạn trích/ Thay đoạn trích/ Điều chỉnh cách phân
115
Kết quả khảo sát GV THPT (45 phiếu) Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Kết quả khảo sát GV THCS (48 phiếu) Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
bố?)
- Có thể thay một số đoạn trích khác trong mỗi tác phẩm truyện Nôm cho phù hợp hơn.
- Tăng thời lượng cho phần dạy về truyện Nôm.
- Điều chỉnh phân bố giữa bài đọc thêm và chính khóa.
- Thay đoạn trích “Nỗi thương mình” bằng đoạn trích khác về chủ đề tình yêu học sinh sẽ hứng thú hơn.
- Thêm một số đoạn trích về chủ đề đạo đức phù hợp với HS hiện nay nhằm giáo dục cho các em những bài học đạo đức làm người cần thiết.
- Thêm bài khái quát về Truyện Nôm thời trung dại để dạy các đoạn trích dễ dàng, thuận lợi hơn.
- Tăng thời gian học cho 2 tác phẩm này.
- Điều chỉnh theo hướng dạy học tích hợp: tích hợp ngang, tích hợp dọc, tích hợp liên môn để dạy 2 truyện Nôm này hiệu quả hơn.
- Kết hợp dạy truyện Nôm với hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp để tạo hứng thú học tập cho học sinh về thể loại này hơn.
- Dung lượng đoạn trích của bài học cần vừa phải, không nên quá dài khiến giờ học kém hiệu quả.
116
PHỤ LỤC 6
KẾT QUẢ KHẢO SÁT PHIẾU DÀNH CHO HS THCS VÀ HS THPT
Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Số lượng Số lượng Kết quả khảo sát HS THCS (361 phiếu) Tỉ lệ % Kết quả khảo sát HS THPT (435 phiếu) Tỉ lệ %
A. Không thích
32 8.9 26 6
B. Bình thường 203 56.2 265 60.9
1
126 34.9 144 33.1 C. Rất thích
Em có yêu thích 2 tác phẩm truyện Nôm (Truyện Kiều của Nguyễn Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) trong chương trình Ngữ văn lớp 9 không? Em có yêu thích 2 tác phẩm truyện Nôm (Truyện Kiều của Nguyễn Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) trong chương trình Ngữ văn THPT không? A. Thường xuyên 251 69.5 286 65.7
Em có soạn bài B. Thỉnh thoảng 78 21.6 120 27.6
trước khi đến lớp C. Rất ít khi 19 5.3 15 3.4 2 không? D. Không soạn bài 13 3.6 14 3.3 bao giờ
Những câu hỏi hướng A. Rất dễ 21 5.8 20 4.6
dẫn đọc hiểu văn bản B. Có câu khó, có 3 317 87.8 386 88.7 trong sách giáo khoa câu dễ
117
Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Số lượng Số lượng Kết quả khảo sát HS THCS (361 phiếu) Tỉ lệ % Kết quả khảo sát HS THPT (435 phiếu) Tỉ lệ %
có dễ trả lời đối với C. Rất khó 23 6.4 29 6.7 em không?
212 182 183 146 48.7 41.8 50.7 40.4
23 25 5.7 6.4
9 16 3.6 2.5
4
A. Thú vị, hấp dẫn B. Bình thường C. Không hấp dẫn, tẻ nhạt. Ý kiến khác: *HS THCS: - Truyện Kiều hấp dẫn, Truyện Lục Vân Tiên không hấp dẫn. - Em thích Truyện Kiều nhiều hơn. * HS THPT: - Truyện Kiều mang lại cho em nhiều cảm xúc hơn Truyện Lục Vân Tiên. - Em chưa đọc hết 2 tác phẩm truyện Nôm đó bao giờ. - Hai tác phẩm đó đều thú vị, hấp dẫn nhưng em chưa hiểu hết được.
170 47.1 151 34.7
5
Em cảm nhận như thế nào về 2 tác phẩm truyện Nôm (Truyện Kiều của Nguyễn Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) trong trình Ngữ chương văn lớp 9? Em cảm nhận như thế nào về 2 tác phẩm truyện Nôm (Truyện Kiều của Nguyễn Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) trong chương trình Ngữ văn THPT? Em có thích học các tiết văn học về đoạn trích tác trong 2 phẩm truyện Nôm (Truyện Kiều của Nguyễn Du và Truyện Lục Vân A. Rất thích Vì:
118
Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Số lượng Số lượng Kết quả khảo sát HS THCS (361 phiếu) Tỉ lệ % Kết quả khảo sát HS THPT (435 phiếu) Tỉ lệ %
Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) thuộc chương trình Ngữ văn lớp 9 không? Tại sao? ------------------------- Em có thích học các tiết văn học về đoạn trích tác trong 2 phẩm truyện Nôm (Truyện Kiều của và Nguyễn Du Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) thuộc chương trình Ngữ văn THPT không? Tại sao? 58.9 44.6 161 256
8.3 6.4 30 28 *Theo ý kiến của HS THCS: - Giáo viên dạy hay, dễ hiểu. - Tác phẩm hay, giá trị nhân đạo và nhân văn sâu sắc. - Lời thơ hay dễ đi vào lòng người. - Tác phẩm lên án sự bất công của xã hội lúc bấy giờ, thể hiện khát vọng vươn tới lẽ công bằng. - Truyện Nôm rất hay, dạy ta được nhiều kiến thức sâu sắc, bài học đạo lý làm người. - Em có hứng thú khi tìm hiểu về các nhân vật trong Truyện Kiều. *Theo ý kiến của HS THPT: - Các giờ học về 2 tác phẩm này rất thú vị, cách dạy của GV rất hấp dẫn. - Giá trị nội dung và nghệ thuật của 2 tác phẩm truyện Nôm này rất đặc sắc. - Lời thơ của tác phẩm rất hay và 2 truyện Nôm này để lại cho em nhiều bài học sống quý báu. B. Bình thường Vì: *Nhiều HS THCS cho rằng: nội dung không mấy đặc sắc. * Theo ý kiến của HS THPT: - Các tác phẩm này hơi khó: khó học thuộc, khó phân tích. - Em chưa hiểu bài sâu nên thấy bình thường. C.Không thích Vì:
119
Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Số lượng Số lượng Kết quả khảo sát HS THCS (361 phiếu) Tỉ lệ % Kết quả khảo sát HS THPT (435 phiếu) Tỉ lệ %
56.2 39.8 203 173
35.5 53.8 234 128
*Theo ý kiến của HS THCS: - Tác phẩm nói về xã hội xưa. - Đây là hai tác phẩm dùng nhiều từ ngữ xưa, trừu tượng, khó hiểu, khó thuộc. - Học về hai tác phẩm này khó. - Bài dài quá. - Câu hỏi học bài khó trả lời. - Nội dung nhiều chỗ khó hiểu, trừu tượng. * Theo ý kiến của HS THPT: - Các tác phẩm này chưa thực sự hứng thú đối với em. - Em chỉ thích học các tác phẩm văn học hiện đại, không thích học tác phẩm văn học trung đại. - Tác phẩm đó không phù hợp với chúng em hiện nay. - Vì em học kém môn văn nên em thấy rất khó hiểu và buồn ngủ khi học các đoạn trích của 2 truyện Nôm này. A. Rất hay B. Hay nhưng khó tiếp nhận C. Rất khó hiểu 6
30 8.3 28 6.4
Cảm nhận của em về nội dung 2 tác phẩm truyện Nôm (Truyện Kiều của Nguyễn Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) trong chương trình Ngữ văn lớp 9 hiện nay?
120
Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Số lượng Số lượng Kết quả khảo sát HS THCS (361 phiếu) Tỉ lệ % Kết quả khảo sát HS THPT (435 phiếu) Tỉ lệ %
100 208 27.7 57.6 106 296 24.4 68 7 A. Rất sôi nổi B. Bình thường C. Lớp học trầm 53 14.7 33 7.6
56 281 15.5 77.8 101 318 23.2 73.1
A. Rất khó B. Bình thường C. Dễ
8
24 6.7 16 3.7
A. Tăng lên 101 28 49 11.3
9
Cảm nhận của em về nội dung 2 tác phẩm truyện Nôm (Truyện Kiều của Nguyễn Du và Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) trong trình Ngữ chương văn THPT hiện nay? Trong những giờ học tìm hiểu về tác phẩm truyện Nôm trên lớp có sôi nổi không? Em có cảm nhận như thế nào về hệ thống bài tập trong sách giáo khoa ở bài học về mỗi đoạn trích của tác phẩm truyện Nôm? Em muốn tăng hay giảm số lượng các đoạn trích trong tác phẩm truyện Nôm trong chương trình ngữ văn lớp 9 hiện nay? Lí do?
Vì: * Theo ý kiến của HS THCS: - Em muốn học nhiều các đoạn trích hơn, kĩ hơn. - Em muốn tìm hiểu thêm về truyện Nôm và văn học trung đại. * Theo ý kiến của HS THPT: - Em muốn hiểu thêm những đoạn trích thú vị
121
Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Số lượng Số lượng Kết quả khảo sát HS THPT (435 phiếu) Tỉ lệ %
219 113 50.3 31.3
Em muốn tăng hay giảm số lượng các đoạn trích trong tác phẩm truyện Nôm trong chương trình ngữ văn lớp THPT hiện nay? Lí do?
40.7 38.4 147 167
37.7 164 46
44.6 56.1 161 244
10
9.4 6.2 27 34 Kết quả khảo sát HS THCS (361 phiếu) Tỉ lệ % khác nữa trong 2 truyện Nôm đó. B.Giảm đi Vì: *Theo ý kiến của HS THCS: em thấy tác phẩm khó quá, không muốn học nhiều. *Theo ý kiến của HS THPT: - Học nhiều các đoạn trích trong tác phẩm truyện Nôm sẽ cảm thấy nhàm chán. - Em muốn giảm số lượng tác phẩm văn học trung đại, thay vào đó là học tác phẩm văn học hiện đại. C. Không thay đổi Vì: *Theo ý kiến của HS THCS: Học như vậy là đủ, không thừa, không thiếu. * Theo ý kiến của HS THPT: Em thấy học số lượng các đoạn trích truyện Nôm như vậy là vừa phải. 166 A. Hấp dẫn, dễ hiểu B. Đôi chỗ còn khó hiểu C. Khó hiểu, chưa thực sự hấp dẫn.
38 10.5 49 11.3
11
103 28.5 114 26.2 Cảm nhận của em về cách định hướng tiếp của nhận trong bài thầy/cô học về truyện Nôm? Mong muốn của em về cách giảng dạy tác phẩm truyện Nôm của các thầy A. Giữ nguyên phương pháp dạy học truyền thống B. Đổi mới, sử dụng nhiều phương
122
Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Số lượng Số lượng Kết quả khảo sát HS THCS (361 phiếu) Tỉ lệ % Kết quả khảo sát HS THPT (435 phiếu) Tỉ lệ %
trong chương
cô trình Ngữ văn?
61 272 220 62.5 thống
323 271 74.3 75.1
Em có thích được chủ động, sáng tạo hơn trong việc tìm hiểu nội dung tác truyện Nôm phẩm trình trong chương văn Ngữ THCS/THPT không (soạn bài, tìm hiểu mở rộng,…)? Vì sao?
12
pháp, phương tiện hiện đại hơn C. Kết hợp sử dụng phương pháp dạy học truyền và phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực. A. Có Vì: *Theo ý kiến của HS THCS: - Em muốn tìm hiểu thêm về truyện Nôm cho có thêm hiểu biết. - Chủ động tìm hiểu nội dung tác phẩm sẽ giúp em dễ hiểu bài hơn. - Em muốn chủ động tìm hiểu để hiểu hơn về xã hội xưa. - Em sẽ hiểu rõ hơn, sáng tạo hơn. - Khi chủ động, sáng tạo tìm hiểu về truyện Nôm em sẽ dễ nhớ và dễ hiểu bài hơn, phát huy được khả năng tự học và sáng tạo của chúng em. *Theo ý kiến của HS THPT: - Chủ động, sáng tạo hơn trong việc tìm hiểu tác phẩm truyện Nôm sẽ tạo ra cách học mới, thú vị. - Em muốn tìm hiểu thêm về sự phong phú của nền văn học Việt Nam. - Em sẽ hứng thú hơn với bài học và nhớ bài lâu hơn. - Chủ động, sáng tạo trong việc học tác phẩm truyện Nôm sẽ giúp em có thêm cơ hội mở mang tầm hiểu biết, rèn luyện khả năng sáng tạo trong
123
Câu Nội dung khảo sát Phương án lựa chọn
Số lượng Số lượng Kết quả khảo sát HS THCS (361 phiếu) Tỉ lệ % Kết quả khảo sát HS THPT (435 phiếu) Tỉ lệ %
90 112 25.7 24.9
suy nghĩ. - Tạo được không khí giờ học sôi nổi, hấp dẫn. B. Không Vì: *Theo ý kiến của HS THCS: - Em không có thời gian. - Em thấy tác phẩm khó nên không chủ động, sáng tạo tìm hiểu được. - Em ngại học môn văn. * Theo ý kiến của HS THPT: - Em chỉ thích học văn học Việt Nam hiện đại. - Có nhiều vấn đề khó quá em không thể tự tìm hiểu được.
Thái Nguyên ngày tháng 6 năm 2019
Học viên
Ngô Thu Hương