BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------
NGUYỄN THÀNH NGỌC BẢO
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------
NGUYỄN THÀNH NGỌC BẢO
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ HỒNG HÀ
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2008
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô và cán bộ của Phòng Khoa học công nghệ và
Sau Đại Học trường Đại học Sư Phạm TPHCM đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình học.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cán bộ của Thư viện trường Đại học Sư Phạm TPHCM
đã hỗ trợ tôi tận tình trong việc tìm kiếm tư liệu nghiên cứu để hoàn thành tốt luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả quý thầy cô đã nhiệt tình giảng dạy khóa 16 chuyên
ngành Văn học Việt Nam.
Tôi cũng vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình và bạn bè. Đó chính là
nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt tôi vô cùng tri ân sự hướng dẫn tận tình và theo dõi sát sao đầy tinh thần trách
nhiệm và lòng thương mến của Tiến sỹ Nguyễn Thị Hồng Hà trong suốt quá trình tôi
thực hiện luận văn này.
Cuối cùng tôi muốn gởi lời cảm ơn đến toàn bộ quý thầy cô của khoa Ngữ Văn trường
Đại học Sư Phạm TPHCM, những người có vai trò rất lớn trong suốt quá trình tôi theo
học tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
MỘT SỐ QUY ƯỚC CHUNG
- Tên tác phẩm trích dẫn và tên các nguồn trích dẫn khác chúng tôi in nghiêng, in
đậm và để trong dấu ngoặc kép. Trường hợp đã đặt tên tác phẩm và tên các
nguồn trích dẫn trong dấu ngoặc đơn thì chúng tôi không dùng thêm dấu ngoặc
kép.
- Khi liệt kê tên tác phẩm (đặt sau dấu hai chấm) chúng tôi in nghiêng và in đậm
tên tác phẩm (không để trong dấu ngoặc kép).
- Dẫn chứng lấy từ tác phẩm chúng tôi in nghiêng và để trong dấu ngoặc kép.
- Trường hợp trích dẫn những tài liệu đã được đánh số trong danh mục “Tài liệu
tham khảo” chúng tôi sẽ đặt thứ tự của tài liệu trong ngoặc vuông và khi cần có cả
số trang.
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa Lời cảm ơn Phần Dẫn nhập
01.Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1 02.Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 2 03.Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu ................................................... 8 04.Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 9 05.Đóng góp của luận văn ........................................................................... 10 06.Cấu trúc của luận văn ............................................................................. 10
Phần Nội dung Chương 1. Khái quát về Nguyễn Ngọc Tư và sự nghiệp sáng tác
1.1. Giới thiệu nhà văn Nguyễn Ngọc Tư ......................................................... 12 1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư .................................................. 16
Chương 2. Cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật
2.1. Cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ...................... 24 2.1.1. Cảm hứng về hiện thực đời sống Nam Bộ ...................................... 25 2.1.2. Cảm hứng về con người Nam Bộ .................................................... 35 2.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư51
2.2.1. Những nhân vật làm ruộng, làm vườn ............................................ 51 2.2.2. Những nhân vật sống kiếp thương hồ ............................................. 53 2.2.3. Những nhân vật làm nghề “xướng ca” ............................................ 55 2.2.4. Những nhân vật làm nghề chăn vịt chạy đồng ................................ 58 2.2.5. Nhân vật loài vật ............................................................................. 60
Chương 3. Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kiến tạo tình huống ............................ 63 3.1.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và chọn lọc chi tiết ...................... 63 3.1.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống ..................................................... 71 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................... 83 3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình ........................................................ 84 3.2.2. Nghệ thuật miêu tả và biểu hiện tâm lý nhân vật ............................ 89 3.3. Trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ......................................... 95 3.4. Ngôn ngữ và giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư .......................... 100 3.4.1. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ...................................... 100 3.4.2. Giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư .................................... 111 Phần Kết luận .................................................................................................... 121 Tài liệu tham khảo ............................................................................................ 123 Phụ lục ................................................................................................................. 129
1
DẪN NHẬP
01. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ Nam Bộ đang trên đường định hình phong
cách sáng tác. Những năm gần đây chị đã gặt hái được nhiều thành công ở thể loại
truyện ngắn, tiêu biểu là Giải I cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 với tập truyện
ngắn “Ngọn đèn không tắt” vào năm 2000. Do đó, trước tiên vì lòng yêu mến của bản
thân đối với văn chương của Nguyễn Ngọc Tư, cũng như đối với văn học đồng bằng
sông Cửu Long hiền hoà và nhân hậu, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài luận văn là
“Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” như chút tấm lòng của người con Nam Bộ
tâm huyết với văn chương của quê hương.
Như chúng ta đều biết, tìm hiểu đặc điểm của một hiện tượng “đang diễn ra”,
cụ thể là tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của một tác giả trẻ như Nguyễn Ngọc Tư, là
một công việc rất khó khăn. Bởi nó đòi hỏi người viết một thái độ đánh giá nghiêm túc,
bình tĩnh, vì thời gian sẽ là thuốc thử cho mọi giá trị, chứ không riêng đối với lĩnh vực
văn chương. Nếu vội vàng, võ đoán, hoặc để những thiên kiến, tình cảm cá nhân chi
phối sẽ rất dễ dẫn đến những kết luận sai lầm. Dẫu biết con đường sáng tác phía trước
của chị còn rất dài, và không có gì là nhất thành bất biến (nhất là trong lĩnh vực sáng
tác), nhưng chúng tôi cũng mạnh dạn căn cứ vào những tập truyện ngắn đã xuất bản
trong thời gian qua của Nguyễn Ngọc Tư để nghiên cứu, xem như bước đầu khảo sát
kết quả một chặng đường sáng tác của cây bút trẻ này.
Thời điểm chúng tôi tiến hành thực hiện luận văn này, Nguyễn Ngọc Tư đã có
trong tay hơn năm mươi truyện ngắn. Đây quả là một con số ấn tượng đối với một nhà
văn trẻ. Cuộc sống vốn luôn vận động không ngừng và đời sống văn học cũng không
nằm ngoài quy luật ấy. Bằng chứng là văn chương nước ta đang từng ngày từng giờ
khởi sắc với sự đóng góp đặc biệt mạnh mẽ của các nhà văn trẻ, trong đó có Nguyễn
Ngọc Tư. Vì lẽ đó, chúng tôi thiết nghĩ việc kịp thời tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
2
tác giả trẻ này là một công việc có ý nghĩa thực tiễn cao để bổ sung kịp thời cho công
tác phê bình-nghiên cứu văn học hiện nay một phong cách sáng tác đặc biệt mang đậm
dấu ấn Nam Bộ. Nghiên cứu truyện ngắn của chị một cách khoa học và có hệ thống
không chỉ có ý nghĩa đối với công việc nghiên cứu-phê bình văn học đơn thuần mà nó
còn có ý nghĩa đối với công tác nghiên cứu về văn hóa nông thôn Nam Bộ và ngôn ngữ
Nam Bộ.
Xét riêng trong lĩnh vực sáng tác, chúng ta nhận thấy kể từ những nhà văn lớp
trước như Sơn Nam, Trang Thế Hy, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Dạ Ngân…khu
vực Nam Bộ vẫn chưa có một nhà văn nào xuất hiện như là một “hiện tượng” của văn
học nước nhà như Nguyễn Ngọc Tư. Hiếm có nhà văn nào mới sáng tác mà đã sớm
khẳng định được vị trí, vùng sáng tác và phong cách sáng tác chuyên biệt như Nguyễn
Ngọc Tư. Từ nay chúng ta có Nguyễn Ngọc Tư, một nhà văn của nông thôn và nông
dân Nam Bộ, một nhà văn sáng tác bằng ngôn ngữ Nam Bộ rặt ròng để bản thân tác giả
và tác phẩm nghiễm nhiên trở thành “đặc sản miền Nam”. Như vậy, truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư rất đáng để chúng ta tìm hiểu dưới góc độ thưởng thức đơn thuần lẫn
soi sáng bằng con mắt của nhà nghiên cứu văn học. Lý do chúng tôi chọn đề tài này
không ngoài mục đích tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư dưới góc độ
truyền thống (như tìm hiểu về cảm hứng sáng tác, hệ thống nhân vật) và dưới góc độ
của thi pháp văn xuôi hiện đại (tìm hiểu đặc điểm thi pháp trần thuật và thi pháp ngôn
từ) để có cái nhìn thấu đáo và toàn diện hơn về truyện ngắn của chị.
02. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ có khối lượng tác phẩm xuất bản khá lớn
chỉ trong một thời gian ngắn. Đồng thời chị đã được trao tặng nhiều giải thưởng văn
học có uy tín cũng như nhận được nhiều sự yêu mến và kì vọng lớn lao từ độc giả. Do
đó, có lẽ không quá võ đoán khi khẳng định Nguyễn Ngọc Tư đã đạt được những thành
công nhất định trên con đường định hình một phong cách Nam Bộ đặc sắc trong sáng
tác. Thế nhưng, hiện tại công việc nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn của chị lại có vẻ
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
3
khá chậm chạp so với những bước tiến trong nghề nghiệp của nhà văn này. Hay nói
đúng hơn, theo sự tìm hiểu của người viết, chưa có một luận văn chính thức nào (cấp
Đại học hay Sau Đại học) nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Chính
vì vậy, chúng tôi lựa chọn tiếp cận phần “Lịch sử vấn đề” này dưới con mắt của lý
thuyết tiếp nhận, tức là thu thập và phân loại những ý kiến đánh giá của công chúng khi
tiếp cận truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư qua từng thời kì với những tập truyện khác
nhau.
Là một nhà văn được yêu mến không chỉ trong nước mà còn cả ở nước ngoài,
vì thế những bài viết tìm hiểu về truyện ngắn và tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư thường
xuyên được đăng tải trên các phương tiện truyền thông. Số lượng bài viết rất dồi dào
với những sắc thái tình cảm rất khác nhau, đặc biệt là với những phong cách và “cấp
độ” cũng khác nhau. Sở dĩ có hiện tượng này bởi vì người viết có thể là nhà nghiên
cứu, nhà phê bình văn học chuyên nghiệp hay đơn thuần chỉ là một độc giả yêu thích
văn chương, nên công tác sưu tầm của chúng tôi khá vất vả và phức tạp.
Xuất hiện lần đầu tiên với tập truyện “Ngọn đèn không tắt”, Nguyễn Ngọc Tư
ngay lập tức chiếm được cảm tình của đông đảo độc giả bằng một văn phong nhẹ
nhàng, một tấm lòng trong trẻo, một sự tài hoa mộc mạc đầy nắng gió phương Nam.
Từ sự hứng khởi ban đầu đó, người đọc tiếp tục chào đón những tập truyện khác của
chị như: Nước chảy mây trôi, Giao thừa và Cánh đồng bất tận với một sự thích thú
đặc biệt. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư hàm chứa một nghịch lý: đề tài sáng tác của
chị không mới (chỉ là những câu chuyện đời thường của những người nông dân bình dị
quê mùa), thế nhưng những câu chuyện đơn sơ mà hấp dẫn ấy vẫn lôi cuốn được người
đọc bởi cái nhìn nhân hậu, bởi nghĩa tình của một người viết trẻ vừa ngây thơ lại vừa
chín chắn, hiền lành đấy nhưng không kém phần bản lĩnh. Chính vì thế khi thu thập tài
liệu về Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy không có nhiều ý kiến không đồng tình
hay bác bỏ tài năng của chị.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
4
Những nhận định trái chiều về Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu xuất hiện khi truyện
ngắn “Cánh đồng bất tận” ra đời, kéo theo đó là nhiều ý kiến đánh giá, nhận xét khác
nhau về Nguyễn Ngọc Tư được đăng tải rộng rãi trên các báo tạo thành một “hiện
tượng văn học” đáng chú ý của năm 2005. Cũng có ý kiến trái chiều cho rằng đây chỉ
là một chiêu thức tiếp thị sách, một cách thức để đánh bóng tên tuổi của tác giả, chứ
thật sự “Cánh đồng bất tận” không giá trị đến mức để báo chí phải tốn hao giấy mực
đến như vậy. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận năm 2005 là một năm đánh dấu những
thành công vang dội của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư và cũng là một năm mà đời sống
văn học nước ta có nhiều khuấy động và khởi sắc đáng kể.
Mặc dù không đồng tình với ý kiến cho rằng truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”
là cái mốc đánh giá sự chuyển hướng sáng tác, là đỉnh cao khó vượt qua của Nguyễn
Ngọc Tư, nhưng chúng tôi vẫn phải thừa nhận từ khi tác phẩm này ra đời đã bắt đầu
xuất hiện nhiều luồng ý kiến khác nhau về cây bút này. Tựu trung là có hai luồng ý
kiến: Một bên ủng hộ lối viết dữ dội đến khốc liệt, ủng hộ việc khai thác và phản ánh
hiện thực một cách trần trụi và sát ván như thế, nghĩa là ủng hộ một Nguyễn Ngọc Tư
“mới”. Còn phía bên kia lại cảm thấy tiếc nuối vì chị đã đánh mất đi chất trong trẻo,
nhẹ nhàng, nhân hậu, ân tình của mình trong những sáng tác trước đó. Và từ sự kiện
này, bỗng dưng người ta bối rối khi muốn xếp chị đứng vào một kiểu loại nhà văn
chuyên sáng tác theo một phong cách nhất định nào đó.
Thế nhưng, chính tác giả cũng thừa nhận “Cánh đồng bất tận” cũng chỉ là việc
“xen canh”, một ngả rẽ bất ngờ để thử thách và làm mới bản thân. Có khác chăng chỉ là
Nguyễn Ngọc Tư đã chuyển điểm nhìn sáng tác quen thuộc của mình, để từ đó có thể
nhìn thấy những mặt đen tối, xấu xa, dữ dằn, khốc liệt của nông thôn Nam Bộ, trong đó
những người nông dân dốt nát, nghèo khổ vừa là nạn vừa là thủ phạm. Chính việc
chuyển đổi đột ngột giọng điệu này khiến những độc giả đã quá quen thuộc với lối viết
hiền lành, mộc mạc của Nguyễn Ngọc Tư bị sốc. Thế nhưng, theo dõi những tác phẩm
ra đời sau “Cánh đồng bất tận”, chúng tôi vẫn nhận thấy một Nguyễn Ngọc Tư của
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
5
nông thôn Nam Bộ hiền lành với những nỗi đau, nỗi buồn phảng phất, với những số
phận nhỏ bé thiệt thòi, với những mối tình lỡ làng, trắc trở muôn thuở, vẫn cái giọng
nhỏ nhẹ đó, có thể buồn hơn, bi quan hơn, tỉnh táo hơn nhưng vẫn là một giọng điệu
văn chương bình dân, hào sảng mà chỉ đất Nam Bộ mới sản sinh ra được.
Xem xét tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trên các báo, chúng
tôi nhận thấy có rất nhiều bài viết có giá trị khoa học ra đời bởi sự tâm huyết và tài
năng của người viết. Tiêu biểu nhất và sớm nhất có thể kể đến bài viết “Nguyễn Ngọc
Tư, đặc sản miền Nam” của GS.Trần Hữu Dũng. Ông đã xem xét truyện ngắn của chị
một cách tường tận và thấu đáo trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Trần
Hữu Dũng đặc biệt đề cao tài năng sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ của Nguyễn Ngọc Tư,
ông đánh giá đó là một cái riêng đặc sắc không thể trộn lẫn với bất kì nhà văn nào
khác, như là một “đặc sản miền Nam”. Bằng tất cả sự yêu mến chân thành, Trần Hữu
Dũng cũng không quên cảnh báo những nguy cơ có thể khiến tác giả trẻ này đi vào lối
mòn trong sáng tác bên cạnh sự nhìn nhận và tán thưởng tài năng của chị.
Huỳnh Công Tín với bài viết “Nguyễn Ngọc Tư, một nhà văn trẻ Nam Bộ”
trên trang web “Văn nghệ Sông Cửu Long” cũng dành cho Nguyễn Ngọc Tư những
lời khen tặng xứng đáng với tài năng của chị. Ông đánh giá cao khả năng xây dựng
những không gian Nam Bộ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư và thừa nhận:“Đặc
biệt, vùng đất và con người Nam Bộ trong các sáng tác của chị được dựng lại bằng
chính chất liệu của nó là ngôn từ và văn phong nhiều chất Nam Bộ của chị.”. Huỳnh
Công Tín cũng đánh giá cao khả năng miêu tả tâm lý người và vật hết sức sắc sảo của
Nguyễn Ngọc Tư. Công bằng với điều kiện và hoàn cảnh sáng tác của Nguyễn Ngọc
Tư, ông cũng yêu cầu chúng ta cần có cái nhìn thông cảm hơn khi những vấn đề chị
quan tâm còn nhỏ nhặt và chưa có tầm bao quát. Ông cũng khẳng định cái đáng quý
cần phải phát huy ở chị chính là chất Nam Bộ trong sáng tác.
Trên mục “Phê bình” của trang web “E-văn” ngày 14/06/2006 có đăng bài viết
của Trần Phỏng Diều với tựa đề “Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
6
Tư”. Với cách hiểu “đi tìm thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thực
chất là đi tìm những hình tượng văn học trong sáng tác của tác giả. Các hình tượng
văn học này cứ trở đi trở lại và trở thành một ám ảnh khôn nguôi, buộc người viết phải
thể hiện ra tác phẩm của mình.”, Trần Phỏng Diều đã chỉ ra thị hiếu thẩm mỹ trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thể hiện qua ba hình tượng: hình tượng người nghệ sĩ,
hình tượng người nông dân và hình tượng dòng sông. Sau khi phân tích vẻ đẹp của
từng hình tượng, anh cũng đánh giá rất cao văn phong mộc mạc, cách viết như nói của
Nguyễn Ngọc Tư. Theo anh, nếu chị đánh mất đi vùng thẩm mỹ này thì đồng thời cũng
làm mất đi rất nhiều giá trị thẩm mỹ trong tác phẩm của mình.
Chúng tôi cũng thu thập được hai bài viết tìm hiểu một số khía cạnh về không
gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là
bài viết “Không gian sông nước trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư” của Thụy
Khuê và bài viết “Thời gian huyền thoại trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của
Nguyễn Ngọc Tư” của Mai Hồng cùng được đăng trên trang web “Viet-studies”. Nhìn
chung Thụy Khuê thống nhất ý kiến cho rằng Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng được một
không gian Nam Bộ với ruộng đồng sông nước đặc sắc trong tác phẩm của mình, góp
phần to lớn vào việc phục vụ cho ý đồ nghệ thuật của tác giả. Việc chỉ ra kiểu thời gian
huyền thoại trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” cũng là một góc nhìn mới lạ của
Mai Hồng trong việc tìm hiểu về truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ở nước ta hiện nay.
Phạm Thái Lê với bài viết “Hình tượng con người cô đơn trong truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư” đăng trên “Tạp chí Văn nghệ quân đội” cũng là một bài viết
có giá trị khi chỉ ra “môtíp người nghệ sĩ cô đơn” thường thấy trong truyện ngắn của
chị trong hành trình đơn độc và vô vọng để đi tìm cái Đẹp ở đời, chấp nhận đánh đổi và
hy sinh, kể cả tình yêu và hạnh phúc, cuối cùng Phạm Thái Lê rút ra kết luận: “Cũng
đề cập đến nỗi cô đơn của con người nhưng chúng tôi nhận thấy quan niệm của
Nguyễn Ngọc Tư rất khác. Cô đơn luôn là nỗi đau, là bi kịch tinh thần lớn nhất của
con người. Nhưng đọc Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta cảm nhận rất rõ niềm cô đơn mà
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
7
không thấy sự bi quan tuyệt vọng. Nhân vật của chị tự ý thức về sự cô đơn. Họ chấp
nhận bởi họ tìm thấy trong nỗi đau ấy một lẽ sống. Và, từ trong nỗi đau ấy, họ vươn
lên, làm người. Cô đơn trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư là động lực của cái
Đẹp, cái Thiện.”
Điểm qua một số bài viết mang tính “học thuật” như thế để hiểu thêm về tình
hình nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tư ở nước ta hiện nay còn ít ỏi và chưa có hệ thống. Đa
phần các bài viết đều được đăng tải trên các báo, chưa có một công trình nghiên cứu
chính thức được in thành sách. Ngoài ra, đa phần các bài viết đều trên tinh thần giới
thiệu một tập truyện của chị vừa xuất bản, hay phê bình một truyện ngắn cụ thể nào đó.
Chiếm đa số trong những tài liệu chúng tôi thu thập được là những bài phỏng vấn
Nguyễn Ngọc Tư, những bài viết kể lại những kỉ niệm hay những lần gặp gỡ chị ở Cà
Mau. Chúng tôi nhận thấy có rất ít những bài phê bình truyện ngắn của chị trên bình
diện khái quát mà đa số tập trung vào truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”, nhưng những
bài viết ấy đa phần đều là khen chê một cách cảm tính, đa phần là những bài báo với tư
cáchtranh luận trên diễn đàn nhiều hơn là công trình nghiên cứu khoa học thật sự. Thế
nhưng, chúng tôi đánh giá rất cao những ý kiến đánh giá đúng đắn và chừng mực của
các nhà văn và nhà phê bình như Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Khắc Phê, Nguyên
Ngọc, Dạ Ngân…vì những ý kiến này đã giúp chúng tôi tỉnh táo và vững vàng hơn
trong việc nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Đề tài của luận văn này là tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của một tác giả trẻ, do
đó dĩ nhiên chưa thể có những công trình nghiên cứu dày dặn và thấu đáo để người viết
tham khảo. Các nguồn tư liệu chủ yếu được thu thập trên các trang web văn học như:
Viet-studies, E-văn, Vietnamnet, Văn nghệ Sông Cửu Long…, trên các tờ báo giấy
uy tín như: Văn nghệ, Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Người lao động, Tiền Phong, Công an
nhân dân…và chúng tôi còn tham khảo trên các diễn đàn văn học, blog cá nhân của
tác giả và những nhà văn, nhà nghiên cứu khác để có thêm tư liệu. Không thể nói tư
liệu về Nguyễn Ngọc Tư ít ỏi, nhưng trước sự đa dạng của các ý kiến cũng như các
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
8
nguồn tư liệu, chúng tôi buộc phải tỉnh táo và khách quan để “gạn đục khơi trong”, để
tìm ra những tư liệu, những bài viết có giá trị nhằm phục vụ tốt cho luận văn này.
03. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu
Trong nội dung của luận văn, chúng tôi sẽ dành ra một chương để tìm hiểu đôi nét
khái quát về tác giả Nguyễn Ngọc Tư và sự nghiệp sáng tác của chị. Sau đó, sẽ đi vào
tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trên các bình diện sau:
- Cảm hứng nghệ thuật
- Thế giới nhân vật
- Nghệ thuật dựng truyện
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Nghệ thuật trần thuật
- Ngôn ngữ và giọng điệu
Từ những nghiên cứu có tính chất cơ sở đó, chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra những
đóng góp của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trên các mặt nội dung tư tưởng (như cảm
hứng về thân phận con người và hiện thực của nông thôn Nam Bộ, thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư…) và hình thức nghệ thuật (như sự đặc sắc trong
nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ…)
Về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi khảo sát tất cả những truyện đã được xuất bản
của Nguyễn Ngọc Tư, gồm 6 tập truyện:
-Ngọn đèn không tắt, NXB Trẻ, 2000
-Biển người mênh mông, NXB Kim Đồng, 2003
-Giao thừa, NXB Trẻ, 2003
-Nước chảy mây trôi (tập truyện và ký), NXB Văn Nghệ, 2004
-Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Văn hóa, 2005
-Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, 2005
Thêm vào đó là những truyện chỉ mới được đăng trên trang web “Viet-studies” của
Trần Hữu Dũng (chưa xuất bản) như: Trò chơi quên nhớ, Sông dài con cá lội đâu,
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
9
Một chuyện hẹn hò, Vết chim trời, Núi lở, X-năm một ngàn chín trăm năm xưa, Núi
ở lại, Những cây sầu trên đỉnh Puvan.
04. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này người viết đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu như sau:
4.1. Phương pháp thống kê
Chúng tôi khảo sát các hiện tượng lặp lại ở một số các yếu tố thuộc về nội dung
và hình thức của tác phẩm. Sau đó, chúng tôi dựa vào tần số xuất hiện của các yếu tố
đó để hệ thống hoá và khái quát hóa lên thành những đặc điểm riêng và ổn định của
nhà văn.
Chúng tôi cũng sử dụng phương pháp này để thống kê những tính từ, động từ,
những cách thức diễn đạt theo kiểu ngôn ngữ Nam Bộ để phục vụ cho việc tìm hiểu về
ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
4.2. Phương pháp so sánh
Để thấy được phong cách riêng của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng như sự đóng
góp của Nguyễn Ngọc Tư cho nền văn học Việt Nam đương đại, trong quá trình nghiên
cứu người viết có tiến hành so sánh đối chiếu Nguyễn Ngọc Tư với một số cây bút
truyện ngắn khác như: Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Dạ Ngân, Kim
Lân, Tô Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu…ở từng vấn đề có liên quan để
thấy được những nét tương đồng và dị biệt, từ đó thấy rõ hơn đặc điểm truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư.
4.3. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Vận dụng phương pháp này, đầu tiên chúng tôi tiến hành khảo sát từng tác
phẩm, tập trung chú ý các yếu tố chính để nêu bật nội dung tư tưởng và hình thức nghệ
thuật của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Rồi từ đó, chúng tôi rút ra những nhận xét
chung, khái quát, tiêu biểu cho đặc điểm truyện ngắn của chị.
05. Đóng góp của luận văn
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
10
Luận văn này tập trung tìm hiểu “Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”,
nhằm mục đích bước đầu chỉ ra những đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư đối với nền văn
học Việt Nam hiện đại, đồng thời tìm hiểu sơ bộ để làm rõ hơn những nét đặc trưng
của phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Đặc biệt luận văn này sẽ giúp người đọc
thấy rõ hơn chất Nam Bộ đậm đặc trong ngôn ngữ văn chương Nguyễn Ngọc Tư.
Thực hiện luận văn này chúng tôi mong đóng góp một chút công sức cho công
tác nghiên cứu-phê bình Văn học Việt Nam hiện đại về cây bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư.
Hơn nữa, từ trước đến nay việc khảo sát và nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
chưa nhiều và chưa có hệ thống. Tính đến thời điểm luận văn này được tiến hành thì
chưa có một công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào về đề tài này ra đời. Do đó, chúng
tôi đã dụng công nghiên cứu để có thể bổ sung thêm một số nhận định xác đáng và có
giá trị bên cạnh những ý kiến đã có trước đây về vấn đề này.
06. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm ba phần chính: Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, phần Nội
dung được chia làm ba chương dựa trên nội dung nghiên cứu:
-Chương 1. Khái quát về Nguyễn Ngọc Tư và sự nghiệp sáng tác.
-Chương 2. Cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư.
-Chương 3. Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Luận văn này sở dĩ có cấu trúc ba chương như trên bởi mục đích của chúng tôi
là nhằm giải quyết vấn đề tìm hiểu những đặc điểm của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
một cách toàn diện và sâu sắc. Nhiệm vụ của chương 1 là cung cấp một cái nhìn tổng
quát về Nguyễn Ngọc Tư ở cả hai phương diện đời thường và văn chương. Đọc văn để
hiểu thêm về con người và biết người để thêm hiểu văn chương chính là mục đích mà
chương này hướng tới. Chương 2 là chương tập trung tìm hiểu hai nguồn cảm hứng lớn
trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là cảm hứng về hiện thực đời sống Nam Bộ và
cảm hứng về con người Nam Bộ để chúng ta có một cái nhìn bao quát về những vấn đề
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
11
mà Nguyễn Ngọc Tư trăn trở, trước mắt là cho quê hương làng xóm của chị, những
người thân yêu gần gũi với chị; rộng hơn nữa là những ưu tư về phận người, kiếp người
mà thoạt đọc vào chúng ta có thể thấy giản đơn, hơi buồn cười nhưng ngẫm nghĩ thì rất
sâu sắc và đáng trân trọng. Chương 3 là chương khảo sát toàn diện đặc điểm nghệ thuật
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư để thấy rõ phong cách sáng tác và nghệ thuật viết truyện
của chị.
Khảo sát truyện ngắn của chị từ hình thức nghệ thuật tới nội dung nghệ thuật
hay nói cách khác là từ phương diện sáng tác tới tác phẩm dưới góc độ thi pháp truyền
thống và thi pháp văn xuôi hiện đại, chúng tôi không mong muốn gì hơn là góp một
phần nhỏ của mình vào công việc hiện tại của giới nghiên cứu phê bình về nhà văn trẻ
nhiều triển vọng này.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
12
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NGUYỄN NGỌC TƯ VÀ
SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
1.1. Giới thiệu nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
1.1.1. Tiểu sử tác giả
Tác giả Nguyễn Ngọc Tư tên thật là Nguyễn Ngọc Tư, sinh năm 1976,
quê quán ở xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Hiện chị sống và làm việc
tại TP Cà Mau. Nguyễn Ngọc Tư cũng là Hội viên Hội Nhà Văn trẻ tuổi nhất hiện
nay. Chị từng đạt giải nhất cuộc thi "Văn học tuổi 20 lần thứ 2" của Nhà xuất bản
Trẻ, Hội nhà văn TP HCM, báo Tuổi Trẻ tổ chức năm 2000 với tập truyện "Ngọn
đèn không tắt" và Giải thưởng Văn học của Hội nhà văn Việt Nam năm 2001 cũng
với tập truyện này. Tập sách này đã được chọn in lại trong "Tủ sách Vàng" của
NXB Kim Đồng năm 2003. Nguyễn Ngọc Tư cũng đạt Giải 3 cuộc thi sáng tác
truyện ngắn 2003-2004 của báo Văn nghệ với truyện ngắn "Đau gì như thể...".
Năm năm qua, chị tiếp tục gây ngạc nhiên và đem lại nhiều thiện cảm cho bạn đọc
bằng giọng văn tưng tửng mà tình cảm của mình. Chị cũng là tác giả trẻ nhất có tên
trong tuyển tập truyện ngắn Việt Nam được dịch và in ở Mỹ, do đó chị đã vinh dự
được chọn lên hình chương trình “Người đương thời” năm 2005. Hiện tại nhiều
truyện ngắn của chị được dịch ra tiếng Nhật, tiếng Anh để giới thiệu với độc giả ở
nước ngoài.
Vốn là một học sinh giỏi văn của trường Phan Ngọc Hiển, nhưng Nguyễn
Ngọc Tư chưa bao giờ nghĩ mình sẽ trở thành một nhà văn. Những năm tháng sống
cùng với ông ngoại, sớm lao vào công cuộc mưu sinh (làm văn thư cho tạp chí Bán
đảo Cà Mau) có lẽ là một trong những duyên cớ khiến Nguyễn Ngọc Tư bước chân
vào lĩnh vực viết văn. “Đổi thay” là truyện ngắn đầu tay của nhà văn Nguyễn Ngọc
Tư, được đăng trên tạp chí Văn nghệ Cà Mau. Nhưng chị thật sự được độc giả cả
nước biết đến khi đoạt giải I cuộc thi “Văn học tuổi 20 lần thứ 2” của Hội Nhà văn
TP.HCM với tập truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt” (2000). Cũng từ đó nhiều tập
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
13
truyện của chị liên tục được độc giả trong và ngoài nước ủng hộ như: Nước chảy
mây trôi (2004), Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (2005), Giao thừa (đoạt một giải
thưởng của Hội Văn học-Nghệ thuật Việt Nam). Và đến tập truyện “Cánh đồng
bất tận” (2005) thì có thể nói Nguyễn Ngọc Tư đã thật sự khẳng định được tên tuổi
và tài năng của mình trên văn đàn của Việt Nam.
Bên cạnh đó, Nguyễn Ngọc Tư cũng xuất sắc trong mảng tạp văn khi cho
ra đời ngay sau tập truyện “Cánh đồng bất tận” một cuốn tạp văn “nặng ký” đầu
tiên có tên là “Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư” (2005) tập họp những bài viết của chị đã
đăng trên tạp chí “Thời báo kinh tế Sài Gòn”. Và năm 2007 vừa qua, chị lại cho ra
đời một tập tạp văn mới “Ngày mai của những ngày mai” được độc giả và giới
phê bình đánh giá tốt.
Có thể nói, chị là một trong những nhà văn trẻ viết khỏe và viết đều khi
chỉ trong vòng ba năm đã cho ra đời bốn tập truyện ngắn (không kể tạp văn). Điều
đó chứng tỏ chị là một nhà văn miệt mài lao động, miệt mài sống và tích lũy vốn
sống để nuôi dưỡng cảm hứng và năng lực sáng tác, chứ không chỉ nhờ vào năng
khiếu thiên bẩm. Qua chặng đường bảy năm cầm bút, tung hoành trên cả hai thể
loại truyện ngắn và tạp văn, Nguyễn Ngọc Tư đã phần nào khẳng định được vị trí
của mình trong đội ngũ những người sáng tác trẻ của cả nước, đã xác lập được một
phong cách sáng tác riêng biệt mang dấu ấn “Nguyễn Ngọc Tư”-một văn phong rặt
chất Nam Bộ hiền hòa, hào sảng vang bóng một thời nhưng vẫn hồn hậu nồng nàn
đến tận ngày nay.
1.1.2. Quan niệm sáng tác
Nguyễn Ngọc Tư có một quan niệm nhẹ nhàng nhưng không hề cẩu thả về
nghề văn của mình. Trả lời phỏng vấn trên báo Tuổi Trẻ ngày 4/12/2005 chị thổ lộ:
“…Còn sáng tác thì cứ lúc nào thấy xúc động, đủ cảm xúc, có suy nghĩ về cái mình
đã trải qua, có nhu cầu phải viết, nếu không viết chắc… tự tử mất thì Tư viết thôi.”
Viết văn đối với chị như là một nhu cầu bức bách, như đói ăn khát uống, nhưng nói
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
14
như vậy không có nghĩa là chị cẩu thả với cảm xúc và dễ dãi với nghề nghiệp. Trả
lời phỏng vấn trên báo Tiền Phong ngày 31/01/2006, Nguyễn Ngọc Tư hồn nhiên tự
nhận: “Tôi là một cây bút nghĩ thế nào, viết thế ấy, nghĩ sao viết vậy”. Như vậy, có
lẽ thời điểm này Nguyễn Ngọc Tư chưa định hình một thái độ chuyên nghiệp với
nghề, phần nhiều chị vẫn còn tựa vào cảm xúc là chính để sáng tác. Đến giai đoạn
sau này, Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu “phát ngôn” về nghề cũng như sáng tác với một
thái độ “chuyên nghiệp” hơn rất nhiều khi chị ý thức viết văn là “một lựa chọn khó,
đầy nhọc nhằn, nặng nề, dằn vặt” (“Tiền Phong”, 21/01/2006). Nguyễn Ngọc Tư
không cường điệu sứ mệnh văn chương như một sự cứu rỗi hay giải thoát, nhưng
chị cũng không coi đó là một cuộc dạo chơi. Có thể những điều chị viết ra mộc mạc
và nhẹ nhàng, nhưng để hoài thai ra nó thì người viết cũng phải lao tâm khổ tứ cho
đến khi kí thác được vào trang viết.
Cuộc sống viết văn của Nguyễn Ngọc Tư (trước lúc xảy ra sự kiện “Cánh
đồng bất tận”) có thể nói là khá êm đềm và xuôi chiều. Chị sáng tác theo kiểu “đi
chậm, dò dẫm để khẳng định phong cách”. Chính vì thế nhiều khi người ta cảm
thấy chị quá quen thuộc, những câu chuyện của chị na ná nhau, vẫn hay nhưng đã
bắt đầu nhàn nhạt. Âu đó cũng là một áp lực, bởi một nhà văn trẻ khi mới vào nghề
thường chịu áp lực là phải định hình cho mình một phong cách sáng tác riêng biệt,
nhưng đến khi xây dựng được một cái gì đó ổn định thì người đọc lại thấy nó không
còn mới mẻ nữa.
Nguyễn Ngọc Tư không hay có những tuyên ngôn to tát trong nghệ thuật,
với những lời lẽ khiêm nhường chị tiết lộ quan điểm của mình trong việc lựa đề tài
sáng tác như sau: “Tư chọn viết những gì mà người đi trước không viết thôi. Với
những gì người đi trước viết rồi, nếu mình đi lại con đường ấy, hoặc mình phải
tránh qua một bên, hoặc là mình phải vượt trội hơn. Nhưng vượt trội thì khó quá, ví
dụ như để vượt qua Vũ Trọng Phụng thì thôi…đi, Tư không tự làm khó mình mà
chọn cái mình làm được.”. Chúng tôi nghĩ “Cánh đồng bất tận” là một trường hợp
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
15
như thế. Tâm tư của những người nông dân, những vấn đề bức bách của nông thôn
Nam Bộ hiện nay chính là những đề tài nóng hổi mà chúng ta có thể nhìn thấy qua
lăng kính truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Nhân vật trong truyện ngắn của chị đa phần là nông dân, nhiều nhân vật đạt
tới mức điển hình (tiêu biểu như trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”), nhưng
chị vẫn khẳng định những nhân vật của mình không hề có nguyên mẫu ngoài đời,
phần lớn chị dùng sự quan sát và óc tưởng tượng của mình để sáng tạo nên nhân
vật. Và trong khi viết, chị cũng không nghĩ tới cái gọi là “trường hợp sáng tác” hay
tác phẩm của mình nhất thiết phải chuyển tải một nội dung tư tưởng nào to tát cả.
Chị dành sự suy nghĩ và xét đoán cho độc giả, do đó truyện ngắn của chị mang tính
gợi mở và chia sẻ nhiều hơn là kêu gọi và áp đặt.
Nhiều người cho rằng giọng văn của Nguyễn Ngọc Tư còn quá nhẹ nhàng và
yếu ớt, đôi khi tới mức nhẫn nhịn và cam chịu khi đề cập đến những vấn đề nóng
bỏng của xã hội. Để trả lời cho sự lo ngại này, chị khẳng khái bày tỏ:“Tôi không
quan tâm văn mình yếu hay mạnh, chỉ nghĩ, những trang viết này có làm mình xấu
hổ không, có đi vào lòng người không, có khiến người ta nhớ không?”. Thành thật
với cảm xúc của mình, theo chị đó chính là cầu nối diệu kì nhất để đến với trái tim
độc giả, bởi chính họ là người thẩm định một cách công bằng nhất những điều mà
nhà văn viết ra.
Nguyễn Ngọc Tư cũng khá dè dặt và thận trọng khi tuyên bố mình không cố
công tìm hiểu và có chủ ý viết lách chiều theo thị hiếu của độc giả, bởi chị không tự
tin là mình hiểu đúng độc giả muốn đọc cái gì nên tốt nhất là “đường ai nấy đi, nếu
gặp nhau là tốt”. Chị cũng rất trân trọng những ý kiến đóng góp của các nhà phê
bình, tuy nhiên chị cũng cảnh báo có rất nhiều sự suy diễn từ các nhà phê bình khi
họ rút ra những chân lý mà chị chưa bao giờ nghĩ đến khi cầm bút. Nhìn chung,
Nguyễn Ngọc Tư cố giữ cho mình một thái độ khách quan tương đối, một khoảng
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
16
cách nhất định với thị hiếu của độc giả và sự đánh giá của các nhà phê bình để bảo
vệ cho công việc sáng tác của mình.
Tóm lại, Nguyễn Ngọc Tư có một quan điểm khá hồn nhiên và nhẹ nhàng
về nghề nghiệp. Tuy vẫn nhận ra sự chuyên biệt của nghề viết so với những nghề
nghiệp khác, nhưng không vì thế mà chị sùng bái văn chương như cái gì cao cả hơn
cuộc sống. Chính vì thế mà truyện ngắn của Tư thấm đẫm sự hồn nhiên, chất phác.
Nhưng nếu chỉ có hồn nhiên thì Nguyễn Ngọc Tư đã không đứng vững cho đến bây
giờ. Ở chị sự hồn nhiên vô tư không có dây mơ rễ má với sự lạnh lùng, vô tâm. Văn
chương Nguyễn Ngọc Tư đau đáu ân tình và đầy trách nhiệm, trách nhiệm của công
dân với xã hội, trách nhiệm của đứa con với quê hương, trách nhiệm với gia đình,
với những người xa lạ mà thân quen với mình, nhưng chỉ có điều chúng được cất
lên bởi một giọng hồn nhiên, tưng tửng, nhẹ nhõm như không có gì, nhưng thật ra
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
đằng sau nó là cả một sự nghèn nghẹn và chua xót không thể thốt nên lời.
1.2.1. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Từ khi trình làng với tập truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt”-Giải I cuộc vận
động sáng tác “Văn học tuổi 20” năm 2000, Nguyễn Ngọc Tư đã đều đặn giới thiệu
với độc giả những tập truyện ngắn đặc sắc khác như:
-Biển người mênh mông, NXB Kim Đồng, 2003
-Giao thừa, NXB Trẻ, 2003
-Nước chảy mây trôi (tập truyện và ký), NXB Văn Nghệ, 2004
-Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Văn hóa, 2005
-Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, 2005
Ngoài ra, những truyện ngắn mới nhất của chị cũng thường xuyên được đăng
trên báo chí trong cả nước và được cập nhật liên tục trên trang web “Viet-studies”
của GS. Trần Hữu Dũng. Với số lượng tác phẩm khá lớn này chứng tỏ Nguyễn
Ngọc Tư là một cây bút trẻ, khoẻ và rất có nhiều tiềm năng.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
17
Để có được cái nhìn toàn diện và khách quan hơn về Nguyễn Ngọc Tư ở
mảng truyện ngắn, thiết nghĩ trước tiên chúng ta cần đặt chị vào môi trường văn
chương của khu vực đồng bằng sông Cửu Long để hiểu thêm về tình hình sáng tác,
cũng như đặc điểm chung của văn chương khu vực Nam Bộ, từ đó tìm ra những nét
tương đồng và khác biệt. Như chúng ta đã biết, đồng bằng sông Cửu Long là vùng
đất hội nhập của nhiều luồng văn hoá Đông-Tây khác nhau. Đọc truyện ngắn đồng
bằng sông Cửu Long, người ta dễ dàng nhận ra những nét độc đáo của tính cách
con người và bản sắc văn hóa đa dạng của một vùng đất. Nguyễn Ngọc Tư cũng
không ngoại lệ. Truyện ngắn của chị chính là bức tranh đời sống và tâm hồn của
con người Nam Bộ, là địa hạt mà chị chứng tỏ được khả năng bao quát và phát hiện
những góc khuất, những điều tưởng chừng như đơn giản nhưng hệ trọng đối với đời
sống con người. Và cũng như đa số các tác giả đồng bằng sông Cửu Long khác,
tính cách Nam Bộ chính là bản chất của các nhân vật của chị, đó là mẫu người lạc
quan, yêu đời, hành hiệp trượng nghĩa, nhân hậu, ân tình. Các tuyến nhân vật trong
những trang văn của Nguyễn Ngọc Tư và các tác giả đồng bằng khác đều được
phân chia rạch ròi chính nghĩa và phi nghĩa, thiện và ác, và các nhân vật cứ hành
động theo tinh thần ấy trong suốt chiều dài tác phẩm. Có thể nói đây chính là
nguyên nhân gây ra sự giản đơn, thô sơ trong việc xây dựng nhân vật của đa số tác
giả đồng bằng sông Cửu Long.
Trong tham luận đọc tại “Bàn tròn văn xuôi đồng bằng sông Cửu Long lần
thứ 1”, Võ Tấn Cường đã chỉ ra sự “đóng băng” trong việc miêu tả tâm lý, tính cách
nhân vật trong sáng tác của các tác giả đồng bằng. Đa số các nhân vật được xây
dựng còn đơn giản, một chiều, chưa bắt kịp được với cuộc sống phức tạp và khốc
liệt. Chúng tôi nhận thấy Nguyễn Ngọc Tư ít mắc phải khuyết điểm này bởi những
nhân vật của chị có thể không dữ dội nhưng đều có một đời sống tinh thần phong
phú, một nội tâm tinh tế. Thậm chí ở một vài truyện, Nguyễn Ngọc Tư đã làm nổi
bật được xung đột khốc liệt giữa cái thiện và cái ác, cái cao thượng và cái thấp hèn
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
18
trong nội tâm mỗi nhân vật (tiêu biểu là “Cánh đồng bất tận”). Tuy nhiên, có một
sự thật mà chúng ta cũng phải thừa nhận đó là truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nói
riêng và truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long nói chung chưa tạo dựng được
nhiều nhân vật điển hình có tầm nhìn rộng, có tầm vóc ngang bằng hoặc cao hơn
những nguyên mẫu trong cuộc sống. Còn đó rất nhiều truyện ngắn của chị mang
màu sắc bút ký, thiếu sự chiêm nghiệm và thăng hoa về cảm xúc, phong cách thể
hiện chưa thật chín và sắc.
Cũng như đa số các nhà văn đồng bằng sông Cửu Long khác, truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư thường được viết theo kiểu kể chuyện truyền thống, nhịp điệu và
mạch truyện khá chậm, thiếu độ căng và độ nén về mặt cấu trúc. Ngôn ngữ kể
chuyện còn pha tạp nhiều khẩu ngữ, thiếu sự gọt dũa cần thiết và sự lao động nghệ
thuật công phu để chắt lọc cái hay, cái đẹp của khẩu ngữ dân gian. Đọc truyện ngắn
của các tác giả đồng bằng (trong đó có Nguyễn Ngọc Tư), chúng ta cảm thấy hình
như họ ít chịu ảnh hưởng của các trường phái, trào lưu văn xuôi trên thế giới, gu
thẩm mỹ cũng như phong cách sáng tạo của họ ít chịu sự chi phối của những phát
kiến mới về truyện ngắn hiện đại. Đây chính là nguyên nhân khiến cho truyện ngắn
của họ chưa mang tầm vóc và hơi thở của thời đại, và truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
bị nhiều người đánh giá là “cũ”, không có những đóng góp cho nghệ thuật viết
truyện hiện đại. Có lẽ một sự cách tân về mặt bút pháp để hoà nhập vào trào lưu
sáng tác văn xuôi hiện đại của thế giới là yêu cầu cấp bách đối với những cây bút
đồng bằng nói chung và Nguyễn Ngọc Tư nói riêng.
Nhưng điều đáng quý nhất và cũng là điều làm nên đặc sắc truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư chính là việc chị đã thể hiện được cá tính và bản lĩnh Nam Bộ
trong sáng tác của mình. Chị đã sử dụng một cách thuần thục và điêu luyện ngôn
ngữ Nam Bộ, đã khai phá tận cùng, quyết liệt những giá trị văn hoá đặc trưng của
vùng đất “chín rồng”. Thậm chí, có thể nói, Nguyễn Ngọc Tư đã có công nâng ngôn
ngữ Nam Bộ lên tầm cao của ngôn ngữ văn hoá, ngôn ngữ văn học với những nét
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
19
đẹp đơn sơ nhưng lộng lẫy đến bất ngờ. Nhìn từ phương diện nghệ thuật, Nguyễn
Ngọc Tư đã sử dụng ngôn từ của phương ngữ Nam Bộ khá thành công, theo kiểu
phản ánh sinh động thực tại bằng cách dùng chất liệu ngôn từ của thực tại cần phản
ánh. Có thể thấy ngôn từ trong hầu hết truyện ngắn của chị, từ ngôn ngữ dẫn
chuyện đến ngôn ngữ nhân vật, nhất là ngôn ngữ nhân vật đều khá thuần chất Nam
Bộ. Theo thống kê của chúng tôi, số lượng từ ngữ Nam Bộ được sử dụng trong
truyện ngắn của chị là khá lớn và chính đặc điểm này đã tạo cho truyện ngắn của
chị một văn phong riêng biệt mang đậm dấu ấn cá nhân.
Tuy nhiên, cho đến nay Nguyễn Ngọc Tư vẫn chỉ dừng lại ở địa hạt truyện
ngắn và tạp văn, thêm nữa những vấn đề được đặt ra trong tác phẩm của chị thường
là những vấn đề gia đình, xã hội đương thời, gắn với không gian nhỏ hẹp của một
làng, xã, huyện nên chưa có được tầm vóc bao quát những vấn đề văn hóa, lịch sử,
xã hội…Đó cũng là lý do khiến nhiều người cho rằng Nguyễn Ngọc Tư chưa xứng
đáng đại diện cho văn học Nam Bộ. Công bằng mà nói, Nguyễn Ngọc Tư là người
trẻ mới cầm bút, lại sống ở địa bàn mà điều kiện giao lưu với tri thức sách vở còn
nhiều khó khăn trở ngại vậy mà chị đã cô đọng và khái quát được một vài vấn đề
gia đình, xã hội vào truyện ngắn của mình thì cũng là điều quá tốt. Điều đó chứng
tỏ chị cũng có một năng lực khái quát, năng lực cảm thụ nhất định. Theo sự quan
sát của chúng tôi, ở các truyện ngắn giai đoạn sau (cụ thể là từ tập truyện “Nước
chảy mây trôi” trở đi) thì những những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu có
chiều sâu nhận thức trí tuệ hơn, chị đã nhìn vấn đề một cách sâu xa hơn, tỉnh táo
hơn, và chính vì thế mà cũng bi quan hơn và chua chát hơn.
Xét trên bình diện lịch đại, Nguyễn Ngọc Tư là một trong số những nhà văn
trẻ ít ỏi còn tiếp nối và lưu giữ được hồn cốt Nam Bộ của các nhà văn cha ông từ
đầu thế kỉ 20. Đó là một điều đáng quý, tất nhiên cũng là một hạn chế về mặt
phương diện cách tân truyện ngắn ở tác giả trẻ này. Văn phong của Nguyễn Ngọc
Tư là sự tiếp nối văn phong Hồ Biểu Chánh từ đầu thế kỉ 20 với lối sử dụng ngôn
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
20
ngữ của dân chúng khu vực đồng bằng sông Cửu Long như là chất liệu sáng tác.
Câu văn của chị cũng giản dị, tự nhiên, bình dân như con người Nam Bộ bộc trực,
thẳng thắn, nói năng ít văn chương rào đón, với những cân văn cũng “trơn tuột như
lời nói” góp phần hình thành nên văn phong đặc biệt của Hồ Biểu Chánh.
Bàng bạc ở Nguyễn Ngọc Tư là sự yêu chuộng ý truyện hơn cốt truyện
giống như quan điểm sáng tác của Bình Nguyên Lộc :“những yếu tố tôi thai nghén
rồi viết thành tác phẩm không phải là cốt truyện mà là ý truyện. Cho nên tôi ít chú
ý đến những câu chuyện ly kỳ gay cấn mà chỉ nắm lấy những ý tưởng ngộ nghĩnh
trong những sự kiện.”
Gần gũi hơn, chúng ta thấy Nguyễn Ngọc Tư cũng xứng đáng là hậu duệ của
những Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng…với những thành công trong
việc xây dựng những nhân vật mang tính cách Nam Bộ điển hình. Đặc biệt ngôn
ngữ kể chuyện của chị mang đầy đủ những đặc trưng của phương ngữ Nam Bộ trên
các phương diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong cách diễn đạt với lối văn
Nam Bộ viết như nói, với những câu văn ngắn gọn mang tính đối thoại rất cao.
Cũng như tiền bối Sơn Nam, truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhắc tới hàng trăm địa
danh của khu vực đồng bằng sông Cửu Long hết sức gần gũi, thân thương gợi lên
hình ảnh một nông thôn Nam Bộ thuần phác, nhân hậu nhưng cũng rất nghĩa khí,
ngang tàng. Không hẹn mà gặp chúng ta thấy cô gái trẻ Nguyễn Ngọc Tư giống ông
già Trang Thế Hy một cách lạ lùng ở việc xác lập chỗ đứng của mình trong sáng
tác: “là người chăm chút đi tìm những cái đẹp nhỏ nhoi, lẩn khuất, bị bỏ quên,
hoặc ở trong những góc hẻo của cuộc đời, hoặc bị vùi trong bùn đất của nghèo
khốn” (Nguyên Ngọc), một công việc tưởng như đơn giản nhưng rất cần một tấm
lòng nhân ái, một sự nhạy cảm, tinh tế để có thể theo đuổi nó đến cùng.
Nguyễn Ngọc Tư từ khi xuất hiện cho đến nay vẫn được xếp vào đội ngũ
những nhà văn trẻ, những người mang trên vai trọng trách làm rạng danh cho nền
văn học nước nhà, những người đủ tài và lực để mang đến những luồng gió mới cho
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
21
văn chương trên cả phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Bằng những
truyện ngắn dung dị về đề tài nông thôn, thân phận và đời sống tình cảm của người
nông dân Nam Bộ thời hiện đại, chị đã đóng góp cho khuynh hướng văn học hiện
thực một cái nhìn hồn hậu, với lối viết chân tình, thẳng thắn nhưng lại cũng rất hồn
nhiên và nhẹ nhàng. Đóng góp lớn nhất của chị cho tới nay ở địa hạt truyện ngắn
chính là một văn phong Nam Bộ giản dị, thuần phác với sự điêu luyện trong việc sử
dụng chất liệu ngôn ngữ Nam Bộ như một ngôn ngữ văn học giàu giá trị biểu đạt và
ẩn chứa tiềm lực sáng tạo đến vô tận. Xin mượn lời của nhà văn Dạ Ngân để làm
sáng rõ thêm những đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư ở địa hạt truyện ngắn: “Nguyễn
Ngọc Tư giỏi ở chỗ cái tưởng không có gì mà Tư cũng viết được, lại viết rất có
duyên, rất nhân hậu. Đọc cái nào xong cũng phải nhoẻn cười sung sướng, sung
sướng mà lại ứa nước mắt, thấy nước mắt của mình cũng trong trẻo và đẹp đẽ, ấy
là cái đáng giá mà Tư cho người đọc hôm nay". (“Nguyễn Ngọc Tư-Điềm đạm mà
thấu đáo”, Tuổi trẻ ngày 22/04/2004).
1.2.2. Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư
Cuối tháng 12 năm 2005, Nhà xuất bản Trẻ phối hợp với Thời báo Kinh tế
Sài Gòn đã trình làng cuốn tạp văn đầu tiên của Nguyễn Ngọc Tư mang tên “Tạp
văn Nguyễn Ngọc Tư”, với mục đích giới thiệu một “món ăn” mới của tác giả trẻ
này, bên cạnh những thành công nhất định mà chị đã gặt hái được ở địa hạt truyện
ngắn. Quyển sách khá dày dặn với ba mươi lăm tạp văn thấm đẫm tình cảm của chị
với quê hương Cà Mau, với bạn bè, với ba má và chất chứa đầp ắp những kỷ niệm
tuổi thơ, những gì mộc mạc, nhỏ bé, nhưng hết sức thân thương và gắn bó với
mình. Bên cạnh những bài viết khá sắc sảo và tỉnh táo đôi khi có tính chất như một
bài phóng sự, Nguyễn Ngọc Tư cũng rất nhẹ nhàng, trầm tĩnh trong những bài viết
chở nặng những trăn trở, suy tư hết sức nghiêm túc của chị về cuộc đời, về lẽ sống
mà có lẽ không phải “người trẻ” nào cũng có thể trải nghiệm và nắm bắt được.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
22
Những trang tạp văn ấy không chỉ để giải trí mà còn để người miền khác
hiểu biết về đời sống của một vùng đất, và để cho chính những người sống ở vùng
đất đó kịp nhận ra được dù không đi đâu đất cũng hóa tâm hồn. Nhờ những tạp văn
của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta hiểu thêm về nỗi cực khổ vất vả của những người
nông dân, bám sát một cách nóng hổi những tâm tư tình cảm của họ, để biết thương
yêu, thông cảm cho những gian khổ của họ trong việc mưu sinh, để thêm khâm
phục và ngưỡng mộ tinh thần lạc quan, yêu đời, để sống vui và vượt lên hoàn cảnh
của họ. Và đằng sau những trang viết ấy, chúng ta dễ dàng nhận ra tấm lòng của
một người con Đất Mũi, tấm lòng của một công dân lúc nào cũng đau đáu với quê
hương.
Đến tạp văn “Ngày mai của những ngày mai”, chúng ta nhận thấy Nguyễn
Ngọc Tư đã trưởng thành hơn rất nhiều, giọng văn của chị đã bắt đầu mang nhiều
chất triết lý và suy ngẫm (Chân không, A Tép-Km ký sự, Ngày mai của những
ngày mai, Nhớ bèo mây, Của người của mình…). Thế nhưng vẫn thân quen đâu
đó là những hoài niệm ngọt ngào của một thời ấu thơ với mẹ, với ngoại, với chốn
quê nghèo thanh bình yêu dấu, với hình bóng bao nhiêu người thân thương đã từng
cưu mang và gắn bó với mình (Hạt gởi mùa sau, Mẹ, Ngồi buồn nhớ ngoại ta
xưa, Đất cháy…). Chị nhẹ nhàng đưa người đọc quay về một thời xa xưa, với
những kỷ niệm tinh khôi khi Tết đến (Khúc ba mươi), hay là một nỗi buồn rưng
rưng với kỉ niệm ngày “Đãi bạn” (tên một tạp văn) bất chợt ùa về. So với quyển
tạp văn trước, lần này Nguyễn Ngọc Tư thảng thốt và băn khoăn với quá nhiều câu
hỏi, quá nhiều vấn đề mà một cô gái hồn nhiên và vô tư như Tư buộc phải đối mặt
và suy ngẫm, chẳng hạn như vấn đề hạnh phúc (Láng giềng một thuở) hay thân
phận con người (Làm sông, Giữa bầy đàn…). Có thể nói, vị xót xa ngấm ngầm,
trầm buồn day dứt phần nào đã lấn át đi chất trong trẻo và hồn nhiên quen thuộc
của Nguyễn Ngọc Tư. Chỉ một điều duy nhất ở chị không hề thay đổi, ấy là một
giọng văn nhẹ nhàng, nữ tính, đầy trách nhiệm với yêu thương, viết như là để trả nợ
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
23
ân tình, viết như con tằm rút ruột nhả tơ, không mong bay qua mấy ngàn biển rộng
mà chỉ mong làm con chim nhỏ hót lên những nỗi âu lo và đau đớn của một kiếp
người.
Nếu so sánh với mảng truyện ngắn của tác giả này, chúng ta sẽ thấy có một
sự tương đồng về mặt bút pháp. Đó vẫn là giọng văn nhẹ nhàng, trầm tĩnh đôi lúc
như bông đùa, giễu cợt, thế nhưng khi viết về những vấn đề “nghiêm túc” thì lại hết
sức chân thành hay nói cách khác, Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn luôn biết tiết
chế và làm chủ ngòi bút của mình.
Cuối cùng, chúng tôi muốn nhắc lại một điều đã cũ nhưng thiết nghĩ vẫn còn
nguyên giá trị, ấy là “Văn chính là người”. Vậy thì “người” Cà Mau viết văn ấy sẽ
là người như thế nào khi chúng ta soi chiếu qua lăng kính văn chương? Đó là một
tấm lòng nhân hậu; một tâm hồn nhạy cảm, giàu yêu thương, trăn trở; một đôi mắt
tinh nhạy luôn “hướng ngoại” để nhìn rõ cuộc sống và con người xung quanh
nhưng cũng không quên “hướng nội” để chiêm nghiệm bản thân, để sống cho trọn
vẹn với những kỷ niệm, những tình cảm riêng tư quý giá của mình. Và chúng tôi
muốn vẽ chân dung Nguyễn Ngọc Tư qua vài nét chấm phá như thế.
Xuất hiện trên văn đàn một cách đầy ấn tượng với hương vị mặn mòi của
ruộng đồng Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư ngay lập tức làm ngỡ ngàng người đọc, lôi
cuốn họ vào một “vùng văn chương Nam Bộ” đặc sệt từ phương diện nội dung cho
tới ngôn ngữ sáng tác. Ban đầu có thể chỉ là sự ngạc nhiên trước vẻ đẹp giản dị, quê
mùa của những truyện ngắn nhẹ nhàng, dung dị, nhưng càng về sau chúng ta càng
nhận thấy ở cây bút trẻ này một sức sáng tạo mạnh mẽ, một nội lực được dồn nén
và biết cách bung tỏa một cách hợp lý và chừng mực. Tuy chưa dấn thân vào lĩnh
vực tiểu thuyết, nhưng có lẽ Nguyễn Ngọc Tư hoàn toàn có khả năng làm việc này
bởi một số truyện ngắn được đăng trong tập truyện gần đây nhất (“Cánh đồng bất
tận”) đã mang dáng dấp của một tiểu thuyết. Chúng ta có thể hy vọng những thành
công tiếp theo của Nguyễn Ngọc Tư ở thể loại này.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
24
CHƯƠNG 2. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
2.1. Cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ và mỗi nhà văn, nhà
thơ khi sáng tạo ra tác phẩm đều xuất phát từ một nguồn cảm xúc nhất định. Đó là
những trăn trở, dằn vặt, những rung động mãnh liệt của tác giả trước cuộc sống. Những
trạng thái, cảm xúc đó được gọi là cảm hứng, là nhân tố quyết định sự thành bại của tác
phẩm. Có lẽ, đối với Nguyễn Ngọc Tư, tình yêu đối với quê hương Nam Bộ, những
trăn trở về số phận và đời sống tình cảm của con người Nam Bộ là những nguồn cảm
hứng chủ đạo trong sáng tác của chị.
Như chúng ta đã biết, mỗi tác giả tài năng đều có một vùng sáng tác chuyên biệt
và để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc về sự tài hoa, uyên bác, cũng như tấm
lòng, tình cảm của mình đối với vùng đất ấy. Chẳng hạn, nhắc đến mảng sáng tác về đề
tài Tây Nguyên thì không thể không nhắc đến Nguyên Ngọc, hay nhắc đến thành phố
cảng Hải Phòng là chúng ta lại nhớ đến Nguyên Hồng, nhắc đến Hà Nội thì không thể
quên Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng…. Xuôi về phương Nam, vùng đất trẻ trung
của tổ quốc, chúng ta biết đến Sơn Nam-nhà Nam Bộ học, Trang Thế Hy-người được
Nguyên Ngọc mệnh danh là người hiền của văn học Nam Bộ, rồi Nguyễn Quang Sáng,
Dạ Ngân…và bây giờ chúng ta có Nguyễn Ngọc Tư. Nghĩa là chúng ta lại có thêm một
nhà văn trẻ đã mạnh dạn lựa chọn những tâm tình đối với mảnh đất Cà Mau cuối trời
Tổ quốc nói riêng và Nam Bộ nói chung làm nguồn cảm hứng chủ đạo cho những sáng
tác văn chương của mình.
Chúng tôi muốn nói thêm, Cà Mau vốn không phải là trung tâm văn chương
của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, mà lại là một nơi khá xa cách và heo hút với
các trung tâm văn chương trong cả nước, do đó cũng không thể đòi hỏi ở Nguyễn Ngọc
Tư những tác phẩm đề cập đến những vấn đề rộng lớn và xa lạ với hiện thực đời sống
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
25
và con người Nam Bộ. Chúng ta cần phải công bằng nhìn nhận chị đã có những đóng
góp tích cực của riêng mình, đã định hình được dấu ấn của mình trên văn đàn, đồng
thời mang trên vai tinh hoa của cả một vùng văn chương thấm đẫm phù sa châu thổ mà
chúng ta sẽ có dịp tìm hiểu kĩ trong luận văn này.
Khảo sát bốn mươi truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy có
hai nguồn cảm hứng chủ đạo xuyến suốt con đường văn chương của chị, ấy chính là
cảm hứng về hiện thực đời sống Nam Bộ và cảm hứng về con người Nam Bộ. Đất và
người hòa quyện vào nhau thành một, con người đau đớn và hạnh phúc trong sự gắn bó
và che chở của mảnh đất quê hương. Chúng ta thấy thấp thoáng trên trang viết của chị
là những điều bức xúc, những nỗi đớn đau và cả những nụ cười quê mùa e thẹn, những
giọt nước mắt ngân ngấn rưng rưng…Hết thảy những điều đó là đường dẫn cho chúng
ta tiếp cận trái tim của người nghệ sĩ miệt vườn, một người luôn đau đáu với quê
hương, một người sống và viết hết mình cho và vì những gì mình yêu thương và trân
trọng nhất.
2.1.1. Cảm hứng về hiện thực đời sống Nam Bộ
2.1.1.1. Hiện thực thiếu thốn của nông thôn Nam Bộ trên các lĩnh vực y tế,
giao thông, giáo dục…
Một trong những nỗi bức xúc nhất từ bao đời của khu vực đồng bằng sông Cửu
Long mà chúng ta đều biết ấy chính là vấn đề “dòng sông và những chiếc cầu”, đến độ
nó đã đi vào thơ ca xứ sở này như một đề tài “kinh điển”, chẳng hạn như:
“Vì sông nên phải lụy thuyền
Chứ như đường liền ai phải lụy ai?”
Những tưởng đó chỉ là vấn đề kinh tế, xã hội ở tầm vĩ mô, thế nhưng nó cũng
hàm chứa ý nghĩa nhân văn rất sâu sắc nếu như được nhìn nhận qua lăng kính của văn
học, cụ thể ở đây là trong truyện ngắn “Qua cầu nhớ người”. Nóng bỏng và bức xúc
lắm thay khi ở xã Đội Đỏ anh hùng mà lại không có cầu bắc qua sông Dài, một khúc
sông không rộng lắm, chỉ độ bốn mươi sáu cái sải. Và cái mơ ước đó chỉ được thực
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
26
hiện khi Hai Nhỏ cầm cố hết đất vườn để tự nguyện xây cầu. Tại sao chỉ có một cây
cầu nhỏ bắc qua một khúc sông nhỏ mà lại trở thành ước mơ xa vời như vậy với chừng
ấy con người ngay giữa thời hiện đại? Tại sao chính quyền địa phương không giải
quyết mà phải đợi cho đến khi những con người dám nghĩ dám làm, không toan tính
thiệt hơn như Hai Nhỏ, Năm Hiệp ra tay thì đôi bờ thương nhớ mới được nối liền.
“Qua cầu nhớ người” là nhớ cái ơn ấy, quý cái tình ấy, trọng cái chí khí ấy của những
người nông dân nghèo khổ nhưng hào hiệp.
“Thương quá rau răm” lại phản ánh một vấn đề thời sự khác ở nông thôn hiện
nay (nhất là những vùng sâu, vùng xa). Đó là tình trạng thiếu trầm trọng giáo viên, bác
sĩ, các dịch vụ y tế chăm sóc sức khoẻ tối thiểu cho cộng đồng dẫn đến nhiều cái chết
lãng nhách và thảm khốc của người dân. Xứ cù lao Mút Cà Tha thật nghèo và tội
nghiệp như câu khẩu hiệu viết trên tường trạm xá của ông Tư Mốt, nghe xé lòng như
một lời thề: “Cương quyết chỉ chết vì già”. Còn một điều đau lòng nữa là: “đám trẻ cù
lao đã được học hành nhưng chẳng đứa nào chịu quay về…” để cho xứ này mãi nghèo
đói và lạc hậu. Bởi thế, hễ ai đến đây đều được bà con rất quý, nhưng những người
thầy giáo và bác sĩ lần lượt đến rồi đi bởi họ không chịu nổi cái khổ, cái buồn dù trong
lòng không phải ai cũng muốn bội bạc. Mượn ý câu ca dao “Gió đưa cây cải về trời.
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay”, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ muốn ám chỉ sự ra đi
của người con trai về chốn thị thành bỏ lại sau lưng người con gái nhỏ tội nghiệp, mà
ẩn sau đó là tiếng than cho số phận “rau răm” nhiều thiệt thòi của những người dân
nghèo xứ cù lao. Họ dường như bị bỏ rơi, bị cô lập và hết lần này đến lần khác bị phụ
rẫy tình thương.
Thế nhưng, bức tranh đau lòng nhất về thảm cảnh nghèo khổ của nông thôn
Nam Bộ lại được mô tả ở một khía cạnh hết sức lạ lùng trong truyện ngắn “X-năm một
ngàn chín trăm năm xưa”. Hiện thực cuộc sống chen lẫn hiện thực tâm trạng, một
màu sắc u tối bao trùm lên những kiếp người nghèo khổ suốt đời ngụp lặn trong vũng
bùn của đời mình mà không thể thoát ra bởi một lẽ hết sức phi lý đó là: chính cái nghèo
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
27
lại là “cần câu cơm” của họ, lại được coi như là món quà của Thượng đế cần phải được
gìn giữ, nâng niu để kinh doanh. Nghèo mà phải “an bần lạc đạo” để làm vui lòng
khách du lịch, những con người đến đây để thưởng lãm nỗi đau khổ, nhục nhã của
người khác như một trò tiêu khiển thấp hèn.
Vấn đề đặt ra ở đây là cái việc kinh doanh du lịch này làm giàu cho ai? Tất
nhiên là không phải cho những người ở X, thậm chí nó còn làm khổ họ, đã đẩy họ rời
xa X, có khi bởi một lý do nghe thật buồn cười chẳng hạn như: “muốn trước lúc chết
trong nhà có cái tivi màu”. Còn những người ở lại thì đau đớn, uất hận, tủi hổ cho kiếp
sống của mình. Điều khiến người ta căm giận là ngay từ đầu, mục đích làm du lịch của
X đã lạ đời, không phải để khách tham quan phong cảnh, di tích lịch sử hay cái gì gì
đó…mà là để họ “bàng hoàng, ngây dại”, để họ “rơi tõm vào một vũng buồn, trong
vũng chứa một thứ bùn mát rượi và thơm ngọt mùi đồng bãi…”.
Truyện ngắn này đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh những con người đứng
đầu một địa phương vạch ra những chiến lược kinh doanh xa lạ và bất nhẫn đối với
thân phận con người, đang tâm dìm X trở lại thời thượng cổ, đày đọa những con người
nghèo khổ ấy ngập ngụa trong sự thiếu thốn về vật chất và tổn thương về tinh thần, dồn
đuổi những con người khốn khổ phải rời bỏ quê hương, làm méo mó tình cảm của con
người. Đừng để những ham muốn độc ác, hoang dại, hồn nhiên của con người trở nên
bình thường và được thỏa mãn một cách hợp pháp, đừng để những con người khốn khổ
ấy suốt đời phải chịu cảnh nhục nhã, cắn răng đem cái nghèo ra mua vui cho người để
kiếm miếng ăn. Đó chính là tiếng kêu cứu tuyệt vọng thiết tha của X.
Dẫu vẫn biết giống như bao miền quê khác trên đất nước Việt Nam, nông thôn
Nam Bộ còn đó rất nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết, còn đó nhiều mảnh đời đau
khổ và thiệt thòi cần chúng ta chia sẻ, thế nhưng góc nhìn của Nguyễn Ngọc Tư ở từng
truyện ngắn lại rất khác nhau, cách thức chị mổ xẻ và phân tích những vấn đề khác
nhau với những thái độ cũng rất khác nhau nên không hề gây cho người đọc cảm giác
nhàm chán hay trùng lắp.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
28
2.1.1.2. Môi trường sống của nông thôn Nam Bộ đang bị tàn phá nghiêm
trọng
Không phải đợi đến những năm 2000 này thì môi trường mới là vấn đề khiến
con người chúng ta quan tâm. Bà mẹ thiên nhiên đã kêu cứu từ lâu khi những đứa con
của mình ngày càng mạnh mẽ và thông minh hơn trong việc khai thác một cách vô tội
vạ những nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình. Dường
như con người hiện đại (nhất là những người trẻ tuổi) đã lãng quên bài học của cha ông
là phải biết sống gần gũi và thân thiện với thiên nhiên, bầu bạn với thiên nhiên như tri
âm tri kỷ:
“Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”
(Thú nhàn-Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Và cũng không phải ngẫu nhiên mà từ xa xưa người Việt lại có tín ngưỡng thờ
thần rừng, thần sông, thần suối, thần núi…Đó là một cách bày tỏ sự kính trọng và biết
ơn những thế lực siêu nhiên thần bí đã trợ lực cho công cuộc sinh tồn của con người.
Đó là thái độ sống ân tình của một dân tộc hòa hiếu và biết lẽ trời lẽ người. Thế nhưng,
dường như điều này ngày càng mai một trong tâm thức của con người hiện đại. Hình
như chúng ta ngày càng mạnh mẽ hơn, thông minh hơn nhưng cũng hung hãn và u tối
hơn biết chừng nào.
Là một con người nhạy cảm và biết quan sát tỉ mẩn cuộc sống xung quanh bằng
con mắt và trái tim của một người trong cuộc, Nguyễn Ngọc Tư đã viết một số truyện
ngắn và tạp văn để kêu cứu cho môi trường bằng ngòi bút lo âu đầy trách nhiệm của
một công dân chân chính. Không to tát mấy nhưng bà mẹ và đứa con trai nhỏ trong tạp
văn “Món nợ không thể đòi” đã cho chúng ta thấy được khi thì nỗi xót xa cho thân
phận những con rồng rồng, những con cá có bầu bị phơi ra hàng ngày giữa chợ; khi thì
là sự lo âu trước thái độ thản nhiên của người đời, sự im lặng đồng lõa vô tư trước cái
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
29
ác của họ, hay có khi là sự trăn trở và thông cảm cho bà con mình chỉ vì miếng cơm
manh áo mà từ lâu đã đối xử hết sức tàn tệ với thiên nhiên.
Có lẽ ý tưởng một ngọn núi có thể lở đến cụt ngọn chỉ trong vòng một buổi
chiều nghe có vẻ hoang đường, nhưng nó hoàn toàn có khả năng xảy ra với kỹ thuật gài
mìn phá đá tài tình của con người hiện đại. Hãy lắng nghe đoạn đối thoại sau đây của
đứa bé và ông nội nó, những con người biết lắng nghe thiên nhiên bằng một khả năng
vô cùng đặc biệt trong truyện ngắn “Núi lở”:
“- Nội ơi, núi lở rồi.
- Ờ, núi lở rồi, núi cũng giận, chứ sao?
- Chạy đi, nội. Con dẫn nội chạy nghen. Ở đây là chết đó.
- Ờ, chết cũng được, chớ sao?”
Và người ông, con chốt thí trong cuộc trốn chạy của đôi vợ chồng bất nhân,
cũng không hề muốn ra đi khi núi bắt đầu cơn giận dữ cuồng nộ đứt toác đầy đớn đau
của mình. Ông muốn sống chết với núi như một sự tạ tội cho lỗi lầm của những đứa
con. Chỉ có ông nội là người “sụp lạy trước miếu thờ thần núi trong khi những người
thợ ngăn ngôi nhà thành những căn buồng tối” và chỉ có cậu bé, người có thể “thông
hiểu tiếng nói của loài vật” là những con người chịu nhiều thiệt thòi và đau đớn nhất
trong cơn núi lở này bởi họ đã chết, vĩnh viễn chết, dù sau này thằng bé có còn sống trơ
trơ bên cạnh cha mẹ nó đi chăng nữa.
Nếu coi “núi lở” là có thật thì vấn đề được đặt ra ở đây là sự cảnh báo tình trạng
môi trường thiên nhiên đang bị tàn phá nghiêm trọng, bởi con người từ lâu đã không từ
bỏ bất cứ nguồn lợi nào để làm giàu cho mình, bất chấp hậu quả, thậm chí cả sinh
mạng. Vì thế vấn nạn môi trường nóng hổi này đòi hỏi chúng ta phải có thái độ cư xử
bạn bè với thiên nhiên, chung sống hòa hợp và gìn giữ cho nhau, như thằng bé ngây
thơ coi “nhà của nó là khoảng sân kia, là những con đường đầy hoa cỏ dại kia” thì con
người họa may mới có thể tránh khỏi những hiểm họa tương tự như núi lở giáng xuống
đầu mình và con cháu của mình.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
30
Tuy nhiên, tác phẩm đậm đặc nhất dấu vết của thiên nhiên Nam Bộ đang bị tàn
phá chính là những đoạn văn miêu tả những cánh đồng khắc nghiệt trải qua biết bao
mùa mưa nắng mà những người chăn vịt chạy đồng thường lưu lạc trong truyện ngắn
“Cánh đồng bất tận”. Ngay vào đầu tác phẩm, đập vào thị giác người đọc là những
màu sắc vàng úa, chết chóc đầy hiểm nguy và đe dọa của thiên nhiên: “Những cánh
đồng trở thành đô thị; những cánh đồng ngoa ngoắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang
mặn chát; những cánh đồng vắng bóng người, và lúa rày mọc hoang nhớ đau nhớ đớn
bàn chân xưa nghẽn trong bùn quánh giờ đang vất vơ kiếm sống ở thị thành. Những
cánh đồng đó, đã hất hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng
tôi bị thu hẹp dần.” Và rải rác đâu đó trong toàn bộ tác phẩm là hình ảnh một thiên
nhiên hung hãn, lúc nào cũng chực chờ gây tai họa cho con người: “Con kinh nhỏ nằm
vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn
dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng,
thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn.”. Không phải
vô tình mà Nguyễn Ngọc Tư thường mượn những cảnh tượng điêu tàn, hoang vắng của
thiên nhiên để dự báo những tai hoạ sắp xảy ra trong các tác phẩm của chị. Thiên nhiên
bị tàn phá trong “Cánh đồng bất tận” có thể được hiểu như một hình ảnh ẩn dụ, một
ẩn dụ nghệ thuật đầy đe dọa và ám ảnh.
2.1.1.3. Thái độ vô trách nhiệm và sự tha hóa của một số cán bộ lãnh đạo
Vấn đề chúng ta nêu ra ở đây là một thực trạng có thể diễn ra ở bất kì quốc gia
nào, không phân biệt thành thị hay nông thôn, bởi cái xấu xí, cái trì trệ của một bộ máy
lãnh đạo là điều không mấy hiếm hoi và xa lạ. Đặc biệt ở những vùng nông thôn xa
xôi, hẻo lánh, trình độ dân trí thấp, đời sống còn nghèo nàn lạc hậu thì nguy cơ này
càng dễ xảy ra. Riêng đối với khu vực đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của cả nước,
thì vấn đề mùa màng lúa thóc là vấn đề quan trọng bậc nhất và do đó cũng dễ gây nên
những tổn thương lớn nếu như nhà nước chưa có những chính sách hợp lý hoặc chưa
quan tâm đúng mức đến những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nông dân. “Lỡ
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
31
mùa” không chỉ là sự tiếc nuối một mùa lúa vuột qua tầm tay mà còn là nỗi đau của
một niềm hy vọng, một niềm tin nhỏ nhoi đã bị bóp nát bởi sự lạnh lùng, trễ nải của
một vị chủ tịch tỉnh. Có đáng không khi một buổi họp được đánh đổi bởi một vụ mùa?
Thảm trạng của những người dân Trảng Cò như một hồi chuông cảnh báo về
những tai họa có thể xảy ra của những người nông dân thời hiện đại ở vựa lúa lớn nhất
nước. Tự nhiên người dân đang yên ổn làm ăn thì nhà nước bắt nghỉ để lấy đất làm khu
du lịch sinh thái gì đó, người dân “ngơ ngác một chút, rồi buồn, tiếc như ai đó dứt
khúc ruột mình ra, nhưng tuyệt nhiên không cãi”. Vấn đề phát sinh ở đây là có ai quan
tâm đến ý kiến của những người dân tội nghiệp ấy không? Có ai lắng nghe tâm tư của
họ không, trước khi quyết định một vấn đề thiết thân đối với đời sống của họ? Rồi họ
sẽ sinh sống bằng cách nào nếu phải bỏ nghề trồng lúa tự bao đời? Tuyệt nhiên không
thấy ai đề cập đến.
Trong những truyện ngắn viết về sự tha hóa của con người nói chung chứ không
riêng gì của những “ông cán bộ”, Nguyễn Ngọc Tư đều bày tỏ thái độ bằng một giọng
điệu chua xót và đau đớn. Có thể đó là sự tiếc nuối cho người anh hùng một thời trong
chiến đấu đã không cưỡng lại được những viên đạn bọc đường mà sa vào vòng lao lý,
phụ rẫy tấm lòng và niềm tin của những người yêu thương mình như Tư Đờ trong
truyện ngắn “Nỗi buồn rất lạ”. Hay đó là tình huống một vị cán bộ xã đã thỏa thuận
“hợp đồng thân xác” với cô gái điếm để “cho qua” một đàn vịt khi đang truy quét quyết
liệt dịch cúm gia cầm trong truyện ngắn“Cánh đồng bất tận”. Hết thảy đều trần trụi,
chân thật, thậm chí nó còn thật hơn chính cuộc sống bởi sự phơi bày ở đây hàm chứa
một sự cảm thông cho hoàn cảnh của những “nạn nhân” thấp cổ bé họng, phải chống
chọi một mình trước những thế lực hắc ám mà ánh sáng công lý chắc còn lâu mới soi
rọi tới họ.
Dĩ nhiên những tình huống tha hoá, những cảnh ngộ oan trái nêu trên không
phải là tình hình phổ biến ở nông thôn Nam Bộ, đó chỉ là những khoảng tối nhỏ nhoi
trong đời sống thường nhật. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là chúng ta buông
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
32
tay để nó mặc nhiên tồn tại, bởi cái xấu, cái ác luôn tiềm tàng một sức mạnh khôn
lường. Những truyện ngắn mang tính thời sự tố cáo ấy của Nguyễn Ngọc Tư quả có
một sức nặng đáng kể để công phá vào những thành trì hết sức nhạy cảm này. Tỉnh táo
nhưng ân tình, nhẹ nhàng nhưng quyết liệt, ngòi bút của chị như một mũi khoan, qua
từng chặng viết đã đi sâu vào bản chất của vấn đề để người đọc thêm căn phẫn trước
cái xấu và biết trân trọng hơn công lý ở trên đời.
2.1.1.4. Lịch sử và vết thương chiến tranh vẫn còn in dấu trong tâm tư con
người Nam Bộ
Như chúng ta đều biết, chiếm số lượng lớn nhất trong bộ tổng tập lịch sử Việt
Nam là những trang ly loạn, bởi đất nước này phải gánh chịu số phận “sáng chắn bão
giông, chiều ngăn nắng lửa” (Đất nước) từ thuở khai sinh . Chiến tranh kéo dài dai
dẳng hằng bao thế kỉ, chiến tranh đi qua biết bao thế hệ, để lại nỗi đau thương và mất
mát cho biết bao con người.
Được sinh ra một năm sau ngày giải phóng, có thể nói Nguyễn Ngọc Tư là thế
hệ đầu tiên ở Việt Nam không biết đến khói lửa chiến tranh. Nhưng điều đó không có
nghĩa là chị không hề có chút khái niệm gì về nó, bởi gia đình Nguyễn Ngọc Tư là một
gia đình yêu nước, đã làm tròn nghĩa vụ của mình trong cuộc kháng chiến của dân tộc
nên ít nhiều tâm hồn của Nguyễn Ngọc Tư cũng được tắm tưới trong niềm kiêu hãnh
vinh quang đó. “Ngọn đèn không tắt” là một trong những truyện ngắn đầu tay tươi rói
tinh thần lạc quan và thể hiện một cái nhìn về lịch sử hết sức trong sáng và chân thành
của chị. Lịch sử không bao giờ bị lãng quên, bởi tuy cuộc khởi nghĩa đó xảy ra lâu lắm,
có người nhớ, người không, nhưng cái người không nhớ cũng nhớ được hai ngày:
Ngày thứ nhất là ngày giỗ chung của những người khởi nghĩa bị giặc bắn ngoài chợ,
ngày thứ hai là ngày xã tổ chức buổi lễ kỉ niệm đó một cách trang trọng. Tiếp bước ông
nội một cách tự nhiên, Tươi kể lại chuyện của nó, của ông nội, của những người xóm
Rạch Ruộng bằng lời của ba nó, ông nội nó, của lịch sử nhưng lời của nó có sức cuốn
hút khác người bởi có sự nhiệt huyết của tuổi trẻ, có sự mềm mại của một người con
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
33
gái. Hình ảnh nhân vật lịch sử là “thầy” trở nên gần gũi hơn, “con người” hơn qua lời
kể của con Tươi, đại diện cho tiếng nói và cái nhìn lịch sử của một thế hệ còn rất trẻ,
rất xa chiến tranh nhưng không hề mơ hồ hay ảo tưởng về nó.
Qua nhân vật Tươi, chúng ta thấy cái nhìn đối với lịch sử, nhân vật lịch sử của
Nguyễn Ngọc Tư thật nhẹ nhàng, thiên về những góc khuất đời tư, tình cảm, đầy nữ
tính. Cách nhìn nhận lịch sử ấy của chị trong trẻo và đầy niềm tin, nó hồn hiên và vững
bền như “ngọn đèn không tắt”, như lịch sử của dân tộc không bao giờ bị lãng quên.
“Ngọn đèn không tắt” thắp sáng trong ta một niềm tin vững chắc là lịch sử của
ông cha vẫn còn khiến những con người ngày nay xúc động và nâng niu. Những người
anh hùng ấy không chết cho đến chừng nào nhân dân vẫn còn nhớ đến họ. Lòng yêu
nước, tinh thần chiến đấu ấy đã và sẽ được di truyền cho các thế hệ cháu con như ngọn
hải đăng không bao giờ tắt, cháy hoài, cháy hoài để thực hiện trọng trách soi chiếu và
dẫn đường của mình.
Như một lẽ tất yếu trong một cuộc chiến tranh, dù là người thắng hay kẻ bại thì
bên nào cũng phải gánh chịu những đau thương, tổn thất. Những vết thương chiến
tranh ấy âm ỉ trong mỗi con người Việt Nam, trong mỗi gia đình Việt Nam và có thể
bất chợt, vô tình gây nên những bi kịch, những thương tổn dữ dội như trong truyện
ngắn “Vết chim trời”. Chiến tranh tưởng đã lùi xa bỗng trở về trong một buổi trưa
tháng Mười, trong cơn mơ của bà nội, trong những giọt nước mắt tức tưởi của nội,
trong cơn giận dữ đớn đau của nội: “Sao bây lại bắn Út Hơn của má?”. Và thế là ngay
khi người mẹ già cả, lú lẫn ấy thức dậy trong mình kí ức về cái chết của đứa con Út thì
lập tức làm chết trong hiện tại đứa con trưởng là thằng Hai. Rồi bà nhanh chóng quên
ngay chuyện này (hay có thể bà chôn nó trong lòng một cách vô thức), nhưng mãi mãi
cái buổi trưa ấy không trôi qua được. Nó đứng lại. Và đến hai tháng sau thì nhân vật
“thằng Hai” vẫn không sống lại được. Ông đau buồn, sợ hãi, hối hận xen lẫn hoang
mang: “Có khi nào mình bắn thằng Út không?”. Câu hỏi đó luôn dày vò và làm ông
héo hon, mặc dù ông vẫn ý thức rất rõ: “đôi khi người ta phải trả giá lớn dù chỉ mang
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
34
một lỗi lầm nhỏ”. Ông Hai sống triền miên trong sự chịu đựng, khắc khoải bởi ý nghĩ
cay đắng: “Có thật mình đã bắn đứa em ruột thịt của mình?”.
Và vết thương này “di truyền” sang cả thế hệ sau, sang nhân vật “tôi”, con ông
Hai và Vĩnh, con trai của chú Út, khi “tôi bị thằng Vĩnh day ngang, không đếm xỉa gì
nữa vì một cuộc chiến tranh không mắc mớ tới tôi, tới nó”. Vĩnh và “tôi” cùng đau đớn
vì câu nói của nội, vì một nỗi hoài nghi khủng khiếp trong lòng “ba tôi” và trong “tôi”,
là cả một trời thắc mắc vì đâu mà hai tiếng “anh em” được Vĩnh nhại lại một cách khô
khan như vậy?
Chiến tranh tưởng đã đi qua rất lâu và mất dấu nhưng dư chấn của nó trong tâm
hồn người Nam Bộ nói riêng và người Việt Nam nói chung còn ghê gớm, khi nhân vật
bà nội: “ngủ trưa, mặt nhiều khi cau lại, nhiều khi rên khẽ, dường như những cơn
chiêm bao đang tàn phá sự sống của bà”, hay cha nhân vật “tôi” với “gương mặt quắt
quay, bàn tay như những vụn xương khô, cứng quèo…” bởi ý nghĩ có phải mình đã bắn
em mình, còn hai đứa trẻ thì từ buổi trưa nghe được câu nói đó của nội chúng nó không
sao lại vui vẻ, hồn nhiên chơi đùa như những buổi trưa xưa. Như vậy, bằng cách riêng
của mình, chiến tranh không chỉ là chết chóc, là tàn phá mà nó còn có khả năng gây ám
ảnh, thậm chí làm tổn thương tâm hồn và tình cảm của con người. “Vết chim trời”
cũng đưa ra một lời cảnh báo đầy ẩn ý là quá khứ đau thương có thể đe dọa cuộc sống
hiện tại nên chúng ta cần phải có thái độ bao dung hơn với những con người trót lầm
đường lạc lối vì có thể họ không đáng bị trừng trị và trả giá nặng nề như thế.
Cũng là một truyện ngắn lấy cảm hứng từ những ám ảnh của cuộc chiến khốc
liệt đã qua nhưng “Chuyện vui điện ảnh” lại được Nguyễn Ngọc Tư khai thác ở một
khía cạnh khác: cười mà đau. Chuyện tưởng không có gì khi chú Sa hiền lành được hết
thảy bà con lối xóm yêu quý nhận lời đóng vai tên thiếu uý ác ôn trong một bộ phim.
Ban đầu bà con cả xóm ủng hộ giúp chú tập cho tròn vai nhưng tới khi phim được trình
chiếu thì bà con tẩy chay chú vì: “người ta quên chú Sa ở xóm Cựa Gà đi, còn lại
thằng Cón ác ôn”. Vậy là “Chuyện vui điện ảnh” rốt cuộc ra là chuyện buồn, là tai nạn
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
35
đớn đau của một diễn viên không chuyên tài năng, bởi chỉ vì cái bộ phim mắc dịch mà
chuyện tình duyên của chú bị ngăn trở, bị bà con lối xóm hiểu lầm. Phải chăng vì chú
Sa đóng vai ác quá hay hay là vì chiến tranh với bộ mặt hung ác, xấu xa vẫn chưa lùi
xa, vẫn ám ảnh khôn nguôi trong lòng những người dân Cựa Gà, cho nên khi nó hiển
hiện cụ thể qua vai diễn của chú Sa thì chú bỗng nhiên trở thành một biểu tượng dễ
cảm nhận nhất của cái ác và phải bị “vạ lây”.
Truyện ngắn này còn chứng tỏ một thực trạng: đa số người dân Việt Nam vẫn
còn bị bóng đen của chiến tranh ám ảnh nên họ đặc biệt nhạy cảm với cái ác, họ ngần
ngại và ác cảm với những người hiện thân của cái ác (dù chỉ là trong phim ảnh). Sự
phân định rạch ròi thiện và ác, tốt và xấu trong tư tưởng đã dẫn đến thái độ rạch ròi với
nó trong cuộc sống hàng ngày, mà riêng trường hợp này là ngây thơ và lầm lẫn, nhưng
nó cũng làm cho ít nhất một người bị tổn thương dẫu chẳng có lỗi lầm.
Hiện thực quê hương vốn là nguồn cảm hứng sáng tác phổ biến của nhiều tác
phẩm văn học bởi đó là tiếng nói cất lên từ trái tim, là tiếng vọng từ nơi yêu dấu nhất
của mỗi người nghệ sĩ và tùy vào “tạng” khác nhau của mỗi người nó sẽ chi phối đến
nội dung và giọng điệu của tác phẩm. Hiền lành và nhỏ nhẹ, ấy chính là cảm giác khi
chúng ta thoáng đọc qua những truyện ngắn viết về hiện thực Nam Bộ của Nguyễn
Ngọc Tư. Thế nhưng đọc kĩ tác phẩm chúng ta sẽ thấy ẩn đằng sau là một thái độ hết
sức quyết liệt, một trái tim vô cùng tinh tế để có thể cảm nhận sâu sắc từng ngóc ngách
nỗi đau của những vết thương tưởng đã lành kín miệng của con người, mà có lẽ chỉ có
những tác giả có tài và có tâm mới làm được và theo ý kiến của chúng tôi thì Nguyễn
Ngọc Tư là một trường hợp như thế.
2.1.2. Cảm hứng về con người Nam Bộ
Nguyễn Ngọc Tư viết nhiều và viết hay về quê hương và con người Nam Bộ ở
thời hiện đại (trong so sánh với Sơn Nam là thời cha ông đi khẩn hoang và thời kháng
chiến) như ca ngợi những truyền thống lịch sử tốt đẹp, những vẻ đẹp hiển hiện và tiềm
ẩn của con người Nam Bộ trong đời sống thường nhật. Chữ “tình” và chữ “lòng” là nét
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
36
đặc sắc trong tính cách của con người Nam Bộ (so với các vùng miền khác) và nói đến
tình cảm của con người Nam Bộ mà bỏ mất chữ “thương”, chữ “nghĩa” cũng là một sai
sót rất lớn.
2.1.2.1. Những con người có đời sống vật chất nghèo nàn
Là một người con của nông thôn Nam Bộ và không hề có chút mặc cảm về thân
phận nông dân của mình, Nguyễn Ngọc Tư công khai thổ lộ một thái độ yêu mến đến
mức có phần hơi thiên vị cho những con người một nắng hai sương gần gũi và thân
thương với mình. Đó chính là những con người Nam Bộ sống ở những vùng quê nghèo
nàn heo hút mà nói không ngoa là “khỉ ho cò gáy” như xứ Mút Cà Tha hay X chẳng
hạn, những tên xã, tên làng rất quê mùa, nôm na với những phận người cũng nhỏ nhoi,
mờ mịt như chính nơi chôn nhau cắt rún của họ.
“Thương quá rau răm” mở đầu bằng một đoạn văn miêu tả sự buồn thảm và
nghèo nàn của xứ Mút Cà Tha: “Cù lao Mút Cà Tha nằm gần cuối sông Dài, trên nó
một chút có một nhánh sông khác rẽ về phía mặt trời, rộn rịp được đoạn đó rồi thôi.
Mút Cà Tha nằm hiu hắt, lâu lâu mới thấy bóng dáng một con tàu lớ ngớ chạy vào rồi
lại tẻn tò quay ra vì lầm đường, vì không biết đằng sau cù lao, sông cụt. Ngó sông vắng
vẻ quá trời buồn, nhìn cảnh cù lao còn buồn hơn. Buồn từ mùi ổi chín phảng phất
trong vườn, từ giọng người ới lên một tiếng rồi bặt, dư âm còn thâm u trên các ngọn
cây, tiếng cạo cơm cháy xa vẳng trong nắng chiều... Từ mé rừng mắm chống lở đất
phía bên này, đi hết vườn cây này gặp được một căn nhà thì lại tiếp đến vườn cây trái
khác. Cuối cùng là bãi bồi, dây khoai lang bò xùm xòa phủ kín đất. Bóng người ẩn
hiện dọn cỏ dưới các gốc cây.”. Và con người ở đây cũng có thân phận u buồn không
kém gì quê xứ của họ: “Bên đường thấp thoáng nhiều nấm đất con con của những đứa
trẻ kiệt sức vì bị đẹn mà chỉ được rơ miệng bằng cỏ mực, những đứa trẻ bệnh sốt xuất
huyết chỉ chữa bằng cạo gió, uống nước mía lau, rễ tranh, những đứa trẻ mắc thương
hàn bị thủng ruột vì tự do chạy ra vườn ăn ổi chua, ổi chát... Những gò đất ấy đã cũ
mèm rồi, bây giờ người cù lao hiểu biết nhiều, nhưng vẫn còn chuyện rủi may, còn
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
37
người bị rắn độc cắn, chết trên đường ra bệnh viện huyện”. Những con người chịu
nhiều thiệt thòi ấy trả giá cho sự nghèo khổ, cho cái nơi sinh sống heo hút của mình
bằng chính mạng sống quý giá của họ. Những cái chết không đáng nhưng vẫn xảy ra
hàng ngày như một lẽ “tất nhiên” và “nhẹ nhàng” vì thiếu thuốc men, thiếu bác sĩ. Bởi
thế người cù lao mới cần, mới quý người thầy thuốc. Họ hết lòng níu kéo bằng tất cả
tình thương nhưng vẫn không giữ được chân người. Chẳng phải xứ cù lao bạc bẽo,
cũng chẳng phải những người tới đây bạc bẽo, mà chẳng qua là họ chưa đủ tình cảm và
lý tưởng để bám víu mảnh đất nghèo và buồn này, vẫn chưa có người hiểu được lời
tâm sự của ông Tư Mốt “… cái đất này cần mình”. Đúng là thương quá rau răm!
Cơ hồ không nói ra nhưng ai cũng hiểu vì sao người ta hay nói nghèo thì buồn,
buồn vì phải thấy người thân chịu cảnh đói rách, buồn vì nhiều khi chỉ vì nghèo mà bị
người ta khinh rẻ và cười cợt. Nhiều khi nghèo gây ra nỗi nhục khiến người ta chỉ
muốn chết như cha thằng Đậu trong truyện ngắn “X-năm một ngàn chín trăm năm
xưa” khi ông không hiểu nổi tại sao những người khách du lịch khi đến X lại háo hức
đến nỗi vui sướng ra mặt khi nhìn thấy những căn nhà tả tơi, những đồ vật cũ kĩ, những
lũ trẻ gầy nhom và đen đúa, những kiếp sống nghèo khổ đến mức không thể tin nổi, cứ
như là cái nghèo đạt đến mức gần như thời nguyên thủy của X lại có sức hấp dẫn người
ta kinh khủng vậy. Thấy du khách nhặt nhạnh những “đặc sản” của X để chụp hình lưu
niệm một cách say mê mà buồn: một chiếc mùng chi chít những miếng vá nhiều màu,
mấy cái đèn cóc lụn tim, chiếc giường ngủ ghép bằng thân tre chẻ hai, mắt tre dù đã
chuốt kỹ vẫn gù lên, lông chông, những căn nhà cột cặm gió thổi lá mục rơi lả tả, chiếc
ti vi đen trắng xài bình acquy làm thót tim bọn trẻ con khi vở cải lương vẫn còn dài mà
khung hình đã thu nhỏ lại vì thiếu điện, những cái cối xay bột bằng đá xám, những cái
vách buồng được đan bằng sậy giập… và trong mắt du khách thì hành động lột da ếch
mưu sinh của thằng Đậu trở nên man rợ lạ thường. Vậy là X không chỉ nghèo, buồn mà
còn nhục nhã và đớn đau, chung quy cũng vì cái nghèo mà ra cả.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
38
Truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” lại bày ra một thảm trạng nghèo nàn khác của
nông thôn Nam Bộ: Những cánh đồng thiếu nước khô cằn vì nhiễm mặn, thiếu mưa;
những xóm làng xác xơ, những con người tơi tả, những đàn vịt bệnh tật, những con
người vật vã và giãy giụa trên chính cánh đồng thân phận của mình với những nỗi lo
mùa màng thất bát, nỗi sợ những bữa treo nồi mùa giáp hạt… Như trên hành trình rong
ruổi của mình, cha con Nương đã ngang qua một nơi: “ở một xóm nhỏ bên bờ sông lớn
mênh mang. Mỉa mai, người ở đây lại không có nước để dùng (như chúng tôi đi trên
đất dằng dặc mà không có cục đất chọi chim). Người họ đầy ghẻ chóc, những đứa trẻ
gãi đến bật máu. Họ đi mua nước ngọt bằng xuồng chèo, nín thở để nước khỏi sánh ra
ngoài vì đường xa, nước mắc. Buổi chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm táp thứ
nước chua lét vì phèn, rồi xối lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau, rửa rau
xong dành rửa cá. Con nít ba tuổi đã biết quý nước, mắc lắm cũng ráng chạy ra vườn
đái vô chậu ớt, chậu hành (báo hại cây rụi lá). Ở đó, có người con trai bảo, “ước làm
sao trước lúc má tui chết, bà được tắm một bữa đã đời”. Lẽ dĩ nhiên những quang cảnh
hoang tàn như thế chỉ xui khiến người ta muốn ra đi để thoát khỏi vòng ám ảnh của sự
võ vàng tàn úa, để còn nuôi chút ước muốn được sống trên cõi đời này.
Nhưng Nam Bộ không chỉ có thân phận nông dân là khổ cực, những con người
mưu sinh bằng những phương cách khác cũng lam lũ và vất vả không kém những
người một nắng hai sương trên đồng, ví dụ như những người làm nghề bán bông như
Ông Chín, bán dưa hấu vào dịp Tết như Đậm trong truyện ngắn “Giao thừa” chẳng
hạn. Nó hé mở cho người đọc cuộc sống khó khăn, nhọc nhằn của những người trong
ruộng ra phố để bán buôn, một công việc vất vả nhưng đầy may rủi, dãi nắng dầm mưa
mà nguy cơ lỗ vốn lúc nào cũng chực chờ. Cảnh tượng những quầy hàng bán dưa, bán
bông trên bãi đất trống xác xơ thật đối lập với những tòa nhà cao đẹp, ngất ngưởng. Sự
đối nghịch hiển nhiên và dễ hiểu ấy khiến những người nông dân thấy tủi cho phận
nghèo của mình bởi một câu hỏi mông lung biết chừng nào mình mới được như vậy.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
39
Phải chăng khái niệm “đời như ý” chỉ đúng đối với những người giàu có tiền bạc,
thừa thãi vật chất? Phải chăng khi người ta nghèo thì người ta phải khổ, người ta phải
trả giá nhiều thứ, kể cả tình thương? Có lẽ điều này ban đầu không đúng với trường
hợp của chú Đời, một người mù nên phải ca cải lương, bán vé số để nuôi sống gia đình
gồm một người vợ nửa tỉnh nửa điên và hai đứa con gái nhỏ xinh xắn. Chú tin đời như
ý nên chú mới đặt tên hai đứa con là Như và Ý. Nhưng rồi đến một ngày không còn
khả năng lo lắng và bảo bọc cho những người phụ nữ mình yêu thương, chú Đời đành
phải chủ động sắp xếp một cuộc chia lìa. Như vậy, cuộc đời này đối với chú thật không
như ý. Đời nghèo rất khắc nghiệt và cay đắng bởi nó có khả năng tước đoạt và chia cắt
tình thương. Đến truyện ngắn này cách đặt vấn đề của Nguyễn Ngọc Tư về thân phận
con người, cụ thể là những con người thiếu thốn về vật chất, đã bắt đầu đi vào chiều
sâu của nó, đã động chạm đến cái phần cốt lõi nhất của kiếp nhân sinh: Có phải cái
nghèo chỉ làm tội tình thân xác con người hay nó còn là nguyên cớ gây ra những sự bẽ
bàng, đau đớn khác ?
Thân phận nghèo khổ của con người được Nguyễn Ngọc Tư nhìn nhận dưới rất
nhiều góc độ khác nhau, khi thì chị nhấn mạnh vào sự thiếu thốn vật chất đày đọa thân
xác con người, khi thì nhấn mạnh vào cái sự nhục nhã khi phải phơi bày sự nghèo khó
của mình ra giữa chợ người. Cái nhìn của Nguyễn Ngọc Tư ngẫm ra cũng không có gì
mới, bởi nghèo thì thường đi đôi với khổ, dẫu cũng lắm khi người ta sống nghèo mà
hạnh phúc, nhưng hiện thực của nông thôn Nam Bộ phơi bày trong những sáng tác của
chị khiến người ta phải giật mình chua xót mà xác quyết rằng con người không thể có
một thứ hạnh phúc mang màu sắc đày đọa như thế. Phải tìm cách thoát nghèo, phải cứu
những con người nghèo khổ ấy ra khỏi bóng đêm của sự thiếu thốn, phải cương quyết
không để vật chất hãm hại tình thương cũng như đe dọa nhân cách của con người.
2.1.2.2. Những con người khao khát tình thương
Sống trên đời, bên cạnh những nhu cầu tối thiểu về vật chất để tồn tại, con người
còn có một nhu cầu không kém phần quan trọng, đó là nhu cầu yêu thương và được
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
40
yêu thương để thấy mình không cô độc giữa “biển người mênh mông”, để những lúc
mỏi mệt trên đường đời ta vững tâm hơn vì biết có nơi để nương tựa, mà nơi nương tựa
vững vàng nhất, gần gũi nhất với mỗi chúng ta ấy chính là gia đình. Vì thế, quả là vô
cùng bất hạnh cho những ai có nhà mà không thể về, có người đáng lẽ phải yêu thương
mình mà mình lại không được thụ hưởng tình thương đó như nhân vật Lam trong
truyện ngắn “Trò chơi quên nhớ”, người lúc nào cũng trăn trở với câu hỏi “Sao lúc
nào tôi cũng phải trả giá để được yêu thương?”. Bi kịch của Lam là ở chỗ nếu muốn
được yêu thương (dù là giả dối, dù là ngắn ngủi) thì lúc nào Lam cũng phải trả giá. Ban
đầu Lam muốn thử trò chơi quên nhớ để vui nhưng rồi cô lại bị dính vào cái bẫy do
chính mình giăng ra bởi trò chơi đã giúp cô nhận ra sự lạt lẽo, thậm chí vui mừng của
một số người trước sự mất trí của mình, và cô chợt nhận ra mình liên kết với mọi người
bằng mối dây liên hệ thật lỏng lẻo. Và nếu giả dụ Lam mất trí nhớ thật thì trên đời sẽ
không có người nào thương Lam đến mức có thể dùng tình thương để đánh thức ký ức
trong cô, vậy nên Lam đành sung sướng với mớ kỷ niệm, với tình cảm cha con tưởng
tượng mà gã lừa đảo đã kỳ công tô vẽ cho cô (dẫu phải trả giá hơi đắt).
Chuyện của Lam cũng có nhiều nét tương đồng với “Chuyện của Điệp”. Điệp
cũng sống với ngoại từ lúc lọt lòng, mười tuổi cha Điệp đi không quay về, mười hai
tuổi má Điệp bỏ đi làm ăn xa rồi lấy chồng khác nên Điệp rất thờ ơ với má mỗi khi gặp
mặt coi như một cách hành hạ má, rồi má con Điệp dần dần lợt lạt, không có tình với
nhau. Rồi đến khi biết buồn vì phải xa bé Bơ (đứa nhỏ Điệp nhận làm con nuôi) thì
Điệp quyết tâm đi thăm má để coi má xa Điệp có buồn như Điệp xa bé Bơ không? Và
câu trả lời cho Điệp là giữa hai má con không có nhiều chuyện để nói với nhau, giữa
hai người luôn luôn có khoảng cách “làm như không có ruột ràng duyên dẻ nhau trong
đời”. Nhưng rồi Điệp cũng tha thứ cho má vì nó thương má và thương mình bao năm
qua đã vì oán giận mà làm cả hai má con phải đau khổ. Truyện ngắn này bàng bạc một
một nỗi buồn vì những người sống với nhau không trọn vẹn yêu thương, dẫu thương
nhau hết lòng mà nhiều khi không vượt qua được những ngăn cách vô hình và không
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
41
chỉ là “Chuyện của Điệp”, đây còn là chuyện của mỗi con người phải biết tha thứ để
yêu thương và đón nhận yêu thương.
Yêu thương vốn là thứ mong manh và không dễ tìm kiếm trên đời, nhất là đối với
những con người sống một cuộc đời bất thường và quay lưng với đồng loại. Chúng tôi
muốn nói đến “trường hợp” của hai đứa trẻ trong mối quan hệ với người cha và những
người xung quanh trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”. Nương và Điền, hai đứa trẻ
sống đời du mục, rong ruổi theo cha cùng với bầy vịt qua biết bao cánh đồng, qua bao
mùa mưa nắng với một nỗi thiếu thốn và thèm khát tình cảm con người đến cùng cực.
Lòng hận thù đàn bà đã thiêu đốt người cha, biến ông thành kẻ nhẫn tâm và vô tình
nhất trên đời, lũ trẻ không còn sự chở che, dù đi bên cạnh một người chúng gọi là cha,
hình như giữa họ chỉ có một mối liên hệ duy nhất là bầy vịt, là cái ăn, là chiếc ghe rách
nát. Lúc nào vây bọc xung quanh họ cũng là một sự im lặng đáng sợ, sự gờm gờm của
một cơn bão giận dữ và thù hằn sắp bùng nổ có khả năng giết chết cảm xúc của con
người một cách dai dẳng và ngấm ngầm.
Và dẫu có cố sức che giấu thì lũ trẻ cũng không thể đè nén được sự thèm khát tình
thương và mái ấm gia đình. Chúng khao khát một cuộc sống bình thường với những
sinh hoạt bình thường với một người cha bình thường. Chúng thèm được trồng cây,
chúng thèm được có nhà, thèm có người để thương để nhớ, nhưng đời sống của chúng
buộc chúng phải kiềm lòng không được yêu thương ai hết để khỏi phải ngậm ngùi lúc
dứt áo ra đi. Đè nén và che giấu cảm xúc là “công việc” hàng ngày của hai chị em
Nương, đó là một nỗi đau không thể chia sẻ với đồng loại nên chúng học cách yêu
thương đàn vịt để tạm quên nỗi buồn của cõi người. Như là một ẩn dụ tuyệt vời cho sự
cô đơn và thèm khát tình cảm của con người, Nguyễn Ngọc Tư đã để cho hai đứa trẻ
nghe được tiếng nói của bầy vịt và cảm nhận sự yêu thương vô tư của chúng dành cho
mình như một sự bù đắp bi đát chỉ càng làm chúng thêm đau khổ và tuyệt vọng .
Con người vốn là một sinh vật mang tính xã hội rất cao bởi chúng ta ý thức rất rõ
là mình sống chứ không phải tồn tại lắt lay và sống ở đây hàm ý là “sống với” chứ
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
42
không phải là “sống chỉ”. Vậy nên trong đời người nhiều khi có những mối quan hệ
không phải máu mủ ruột rà nhưng ta vẫn có thể yêu thương họ hết lòng bởi giữa biển
người mênh mông nhưng lạnh lùng họ đến bên ta như một chiếc phao cứu sinh giữa
giờ tuyệt vọng. Cũng vẫn là môtíp một đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi, sống với ngoại từ nhỏ
nhưng số phận của nhân vật Phi (“Biển người mênh mông”) bi đát hơn bởi anh là đứa
con không mong muốn của người mẹ, là kết quả của lần người mẹ bị cưỡng bức nên
không ai muốn nhìn thấy Phi trên đời, vì anh là hiện thân của nỗi đau, của nghiệp
chướng dù anh chẳng có lỗi lầm gì. Chỉ có bà ngoại là thương Phi, hiểu Phi. Rồi ngoại
mất, Phi cô độc lăn lộn giữa cuộc đời, anh sống không nề nếp, bê bối dáng hình, đem
lời ca tiếng hát làm cần câu cơm, có người trọng có người khinh, nhưng tuyệt nhiên
không ai quan tâm Phi sống ra sao, kể cả mẹ Phi. Cho đến khi gặp được ông Sáu Đèo,
Phi mới cảm nhận được ở ông già một tình cảm ấm áp, bởi ông già là người đầu tiên
thương và lo cho Phi như ngoại. Ông cũng là người trân trọng Phi như một người nghệ
sĩ và cuối cùng khi dứt áo ra đi ông đã tin tưởng giao cho anh “đứa con” của mình là
con bìm bịp đen thui có những tiếng kêu nghe buồn não ruột. Vậy là hai mảnh đời lưu
lạc ấy một lần gặp nhau rồi vội vã rời xa nhưng tình cảm giữa họ thì còn đọng lại mãi,
bởi vì dù sao giữa biển người mênh mông này họ cũng đã một lần cảm nhận được tình
cảm yêu thương và sự quan tâm đằm thắm của người khác dành cho mình.
Như một điều nghịch lý nhưng nó vẫn tồn tại giữa thời buổi hiện đại là con người
ngày càng trở nên thông minh, giàu có hơn nhưng họ càng ngày càng sống cô đơn và
buồn bã bởi họ xa rời đồng loại và lạnh lùng với những người thân yêu. Nguyễn Ngọc
Tư thông qua những truyện ngắn của mình muốn cảnh tỉnh chúng ta đừng nên lơ là
những mối quan hệ huyết thống, đừng vô trách nhiệm với tình thương, đừng vì những
oán giận nhỏ nhoi mà từ bỏ tình thâm, đừng để sa mạc hóa tâm hồn và tình cảm, đừng
để con người trở nên xa lạ và vô cảm với nhau như những cỗ máy. Đó là nỗi đau và
cũng là tiếng kêu cứu thiết tha cất lên từ lương tâm và trách nhiệm của một người cầm
bút có lương tri và trách nhiệm.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
43
2.1.2.3. Con người với những tình cảm đẹp đẽ
Tình cảm gia đình là loại tình cảm đẹp đẽ nhất của mỗi con người. Nếu văn
chương hay ưu ái dành cho người mẹ một vị thế đặc biệt như một biểu tượng của tình
thương vô bờ với những đứa con, thì truyện ngắn “Cải ơi” của Nguyễn Ngọc Tư lại
xây dựng một hình tượng người cha đi tìm con khá đặc biệt. Đó là câu chuyện cảm
động của ông Năm Nhỏ đi tìm con Cải (đứa con riêng của vợ) suốt mười hai năm trời,
lặn lội qua biết bao quê xứ mà vẫn không ra. Ông có nhà mà không thể về nên ông
quyết tâm phải kiếm cho bằng được con Cải, để nói cho nó biết nó là quan trọng chứ
đôi trâu dẫu có mất thì cũng chẳng đáng gì. Và cũng vì nghèo nên chỉ có hai tiếng “Cải
ơi” mà ông cũng không sao gởi tới con nhỏ được. Và không biết rồi đây giữa biển
người mênh mông ấy ông có tìm được con Cải hay không, để tình thương lại được đền
đáp, hay đành gởi thân nơi xứ người với niềm thương nhớ và nỗi oan thấu trời của
mình.
Thông thường trong văn chương nghệ thuật người ta hay lấy hình ảnh ngọn núi
cao lớn và đường bệ để ví với sự che chở vững chãi của người cha, thế nhưng Nguyễn
Ngọc Tư lại ẩn dụ người mẹ với hình ảnh “Núi ở lại” (tên truyện ngắn) trong một câu
chuyện hết sức cảm động ngỡ như không có gì để kể: Đám con ba đứa cùng nhau đưa
mẹ vào chùa xuất gia ở một thị trấn xa xôi buồn tẻ. Đứa nào cũng buồn nhưng dặn lòng
phải vui vẻ để má an tâm nương nhờ cửa Phật. Và thế là cuộc chia tay diễn tiến suôn sẻ
như mong đợi với khuôn mặt tỉnh bơ vui vẻ của những đứa con và sự bình thản của bà
mẹ, thế nhưng ai có biết đâu khi đám con vừa rời khỏi cổng chùa thì cả má và chúng
đều bật khóc nức nở, người thì khóc vì núi đã ra đi, vì mặt trời ngày hôm nay vĩnh viễn
lặn mất, kẻ thì khóc vì trót xuất gia mà lòng còn vương vấn chốn hồng trần, vì đau
buồn khi đám con rũ bỏ mình dễ dàng như trút đi một gánh nặng, như vừa nhổ được
“bụi cỏ ống cứng đầu”. Thật đau lòng khi con người sống ở trên đời nhiều khi vì yêu
thương mà lại làm đau chính mình và những người mình yêu thương nhất.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
44
Không chỉ chắc tay với những mối tình già, cô gái trẻ miệt Cà Mau này còn vô
cùng tinh nhạy với những những mối tình đơn phương đẹp đẽ và đằm thắm của những
người trẻ ở nông thôn. Trong những trường hợp như thế, cô thường để cho nhân vật
xưng “tôi” tự mình kể chuyện, tự mình đắm chìm trong dòng cảm xúc yêu thương và
người đọc sẽ nương theo đó mà có những cảm nhận của riêng mình. “Một mối tình” là
một truyện ngắn đặc sắc kiểu như thế, với hình ảnh một cô em vợ trót yêu thầm anh rể
và khát khao được bù đắp vào cái chỗ trống mà chị mình bỏ lại. Nguyễn Ngọc Tư hay
tuyệt trong việc miêu tả những mối tình quê tuy sâu nặng nhưng có thể chỉ vì một lý do
lãng xẹt nào đó mà họ mãi mãi không dám tỏ bày kiểu như vậy.
Trước khi truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” ra đời, có lần một phóng viên đã hỏi
Nguyễn Ngọc Tư tại sao trong các tác phẩm của mình chị ít viết về cái ác, cái xấu và
những điều chướng tai gai mắt nhan nhản trong xã hội hiện nay. Chị đã trả lời một cách
hết sức bình thản là tạng của mình chỉ phù hợp với những gì nhẹ nhàng, dung dị nhưng
lẩn khuất và khó khám phá trong nội tâm sâu thẳm của mỗi người. Nhưng theo chúng
tôi, có lẽ tâm hồn nhân hậu của cô gái trẻ nơi mũi đất xa xôi ấy tự cảm thấy ưa thích
hơn và dễ dàng hơn khi chấp bút viết về những con người tốt đẹp, về những điều tốt
lành nhỏ bé nhưng hết sức quý giá trong cuộc sống này bởi tình bạn, tình yêu, tình cảm
gia đình… là những điều hết sức quan trọng và luôn có giá trị vĩnh cửu đối với con
người và xã hội loài người.
2.1.2.4. Con người tha hoá
Có thể nói với truyện ngắn “Một trái tim khô”, gió đã bắt đầu thổi mạnh trên
những trang văn của Nguyễn Ngọc Tư, rồi biến thành một trận cuồng phong bất tận
trong “Cánh đồng bất tận”. Những trang văn của chị mất đi rất nhiều sự trong trẻo,
hồn nhiên và lạc quan kiểu như “Ngọn đèn không tắt”, hiện thực và con người dưới
mắt chị đã trở nên u tối và nhàu nhĩ hơn. Thế nhưng không phải vì vậy mà chúng ta vội
đánh giá tác giả này bi quan hơn, tiêu cực hơn mà chẳng qua khi người ta trưởng thành
hơn thì tầm nhìn dĩ nhiên bao quát hơn và cách nhìn nhận hiện thực cũng đa chiều và
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
45
khách quan hơn. Đọc những nhân vật tha hóa biểu trưng cho cái ác của Nguyễn Ngọc
Tư, chúng ta không khỏi giật mình vì sự “hồn nhiên” và đậm đặc hết sức của nó, đặc
biệt là ở truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”. Một người chồng bị vợ bỏ theo người đàn
ông khác nên điên cuồng trả thù đàn bà bằng những cuộc tình chóng vánh, bằng sự âu
yếm vồ vập rồi bỏ rơi cũng vội vàng không kém. Đó cũng là một người cha bị lòng hận
thù làm cho méo mó đến nỗi quên khuấy và thậm chí căm ghét những đứa con, đày đọa
chúng trong sự thiếu thốn vật chất và đói khát tình thương đến cùng cực; khiến chúng
dần xa lạ với thế giới con người, mặc dù lúc nào cũng nhung nhớ loài người. Chính sự
tha hóa của người cha đã làm ảnh hưởng đến cuộc đời của những đứa trẻ khi đứa con
trai đã phản kháng lại người cha bằng cách trút sạch những gì cha nó đã làm, bằng cách
“chối bỏ niềm vui trở thành một người đàn ông thực thụ”, và đứa con gái phải là người
gánh chịu tội lỗi thay cho người cha và chính ông cũng bị đày đọa khi phải tận mắt
chứng kiến con gái mình bị cưỡng hiếp (đau đớn hơn là trong lúc nguy cấp ấy nó đã
không nhớ tới ông như một vị cứu tinh). Người cha tha hoá và đáng lên án ấy từ lâu đã
không là bến bờ bình yên cho những đứa con, ông chỉ tồn tại bên chúng như một nỗi
ám ảnh, như một bản án được ràng buộc bởi máu mủ ruột rà, bởi những danh xưng cha
con rã rời và cay đắng.
Hiện thực trong “Cánh đồng bất tận”, hay nói cách khác, bức tranh của nông
thôn Nam Bộ lần này dưới ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư đã bị bóng đêm của cái ác
bao phủ dày đặc dường như không có lối ra. Day dứt, ám ảnh, bất an, ghê tởm xen lẫn
cảm thương, tuyệt vọng, giận dữ… là những cung bậc tình cảm mà chúng ta nếm trải
được khi lần theo dấu vết của mấy cha con qua từng cánh đồng, từng sự kiện đời sống
hiện ra chầm chậm nhưng đau đớn và dữ dội, như xoáy vào tận tâm can và tình cảm
của người đọc. Chúng ta thấy gì trên những cánh đồng ấy? Đó là những người đàn bà
làm đĩ bu theo cánh thợ gặt và những người nuôi vịt chạy đồng. Đó là những cánh
đồng ngày càng bị thu hẹp và tàn tạ, lúa chết khô khi mới trổ bông. Đó là những xóm
làng bên bờ sông lớn mênh mông mà không có nước để dùng, mà không có nước là
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
46
đồng nghĩa với đàn vịt bị đói vì không có thức ăn, đó là chưa kể nguy cơ bị tiêu diệt vì
dịch cúm gia cầm đã bắt đầu được loan báo. Thiên nhiên ngày càng trở nên hung dữ và
khốc liệt như con người ngày càng trở nên hung hãn và u tối, như người cha ngày càng
lao vào dữ dội hơn với những người đàn bà, như chị em Điền ngày càng trở nên tuyệt
vọng và “lạ lùng”, như người đàn bà bị người ta đánh ghen bằng cách đổ keo dán sắt
vào cửa mình của chị, hay như một người đàn bà khác hiến thân cho cán bộ xã để cứu
lấy đàn vịt của người đàn ông mà chị chạy theo nhưng rồi người đó vẫn dửng dưng,
chai đá…. Cả thiên nhiên lẫn con người ở truyện ngắn này đều trong thế tàn tạ một
cách ác liệt không thể cứu vãn. Dường như những con người này chỉ sống với nhau
bằng bản năng nguyên thủy của mình và vũ lực là biện pháp tối ưu để giải quyết mọi
vấn đề, thỏa mãn mọi dục vọng của họ.
Không đến nỗi dữ dội và khốc liệt như “Cánh đồng bất tận”, nhưng cái ác trong
truyện ngắn “Núi lở” cũng khiến chúng ta rùng mình kinh sợ sự toan tính phi nhân của
đứa con dâu và đứa con trai khi đang tâm bỏ lại người cha trong cơn núi lở để thoát
thân. “Núi lở” trong trường hợp này là một hình ảnh biểu tượng cho sự lở lói, tan vỡ
những giá trị đạo đức trong lòng người. Quả thật “núi lở” chỉ là một cái cớ để những
con người xấu xa bộc lộ bản chất ích kỉ, tham lam, tàn nhẫn… của mình. Truyện cũng
cảnh báo về những gia đình kì dị, méo mó, những mối quan hệ rã rời, lỏng lẻo của
những con người gọi nhau bằng cha con, chồng vợ…Đây còn là lời cảnh báo nguy cơ
tâm hồn trong sáng của trẻ thơ bị tàn phá bởi những ham muốn của người lớn.
Như có lần chúng tôi đã nhận định, Nguyễn Ngọc Tư là cây bút ít viết về sự bội
bạc của con người và truyện ngắn “Một trái tim khô” cũng là một truyện ngắn nằm
trong gia tài ít ỏi của chị viết về một tội ác ghê tởm: giết vợ để chiếm đoạt gia tài.
Chính sự nhẫn tâm của người chồng đã khiến người vợ gần như hóa điên, vì trong phút
chốc một tình yêu đẹp vượt qua mọi lời đàm tiếu để đơm hoa kết trái, một người chồng
hết mực yêu vợ bỗng biến mất như chưa từng có trên đời. Đối với Hậu, một cái chết
thật sự còn đỡ đau đớn hơn một trái tim chết khô vì sự bội phản.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
47
Điểm qua những nhân vật tha hóa, chúng ta dễ dàng nhận thấy cái ác luôn gây ra
hậu quả ghê gớm cho những người vô tội. Mầm mống của nó không ở đâu xa mà cội
nguồn chính là sự tham lam và ích kỉ của con người. Thật âu lo cho sự tung hoành của
cái ác nhưng không vì thế mà chúng ta tuyệt vọng bởi còn đó trong cuộc sống những
con người lương thiện và tử tế mà cuộc đời của họ như là một đối trọng để chống lại
những thế lực xấu xa đó.
2.1.2.5. Con người với những mối tình ngang trái, lặng thầm
Hạnh phúc, đó là niềm mơ ước và khát vọng vươn tới của cả nhân loại và có thể
nói cuộc đời của mỗi con người là cuộc hành trình vô tận để tìm kiếm nó. Như chúng ta
đều biết, yêu thương là điều mong manh nhất trên đời, nó dễ tan vỡ nhưng lại khó tỏ
bày như “tơ trời”, như “sương bay” và thậm chí còn mong manh hơn thế gấp cả trăm
lần. Nhưng không vì thế mà nhân loại ngàn đời xa lánh và trốn chạy tình yêu, mà có
trốn chạy cũng không được bởi “tình yêu đến trong đời không báo động” (Hoàng
Nhuận Cầm, “Viên xúc xắc mùa thu”). Tình yêu luôn hàm chứa sức công phá rất dữ
dội, như lời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Tình yêu như trái phá con tim mù lòa” (Trịnh
Công Sơn, “Tình sầu”). Tình yêu cũng là “khái niệm” khó định nghĩa và muôn hình
vạn trạng nhất của nhân loại: có tình yêu viên mãn, có tình yêu lỡ làng, có tình yêu
nồng nhiệt, có tình yêu lặng thầm, có tình sầu, tình nhớ, tình xa, tình gần, tình lãng
đãng khói sương, tình phôi pha, tình quên lãng…Quả thật “tình yêu là cái trục muôn
đời để thơ ca xoay quanh” và địa hạt này quả là mênh mông bất tận, là mảnh đất tươi
tốt để ươm mầm biết bao tác phẩm văn chương trác tuyệt.
Đồng tình với nhận xét của nhiều bài viết, chúng tôi cho rằng Nguyễn Ngọc Tư
là một cây bút trẻ rất có sở trường trong việc khai thác những mối tình già, những mối
tình vẫn còn ấm lửa của những con người “chiều chưa phai nắng” một cách rất duyên
dáng và tâm lý, đặc biệt những truyện ngắn của chị viết về những mối tình già ngang
trái để lại nhiều hệ lụy và ân hận như “Dòng nhớ” hay “Cái nhìn khắc khoải” thì có
thể nói không ngoa đó là những truyện ngắn xuất sắc hiện nay về đề tài này. Lấy cảm
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
48
hứng từ một đề tài khá cũ là những câu chuyện tình duyên lỡ làng ở nông thôn do sự
ngăn cấm của cha mẹ, Nguyễn Ngọc Tư đã có cái nhìn hết sức thẳng thắn về hiện trạng
hạnh phúc của những người trong cuộc: hai người đàn bà, người đàn ông và người
mẹ…trong truyện ngắn “Dòng nhớ”. Liệu họ có thật sự hạnh phúc và bình yên với sự
số phận éo le như thế hay tất cả họ đều đau khổ?
Nhân vật người vợ ý thức được mình sống bên cạnh một người chồng chu đáo, tử
tế nhưng không hoàn toàn thuộc về mình, xác thì bên cạnh mình mà hồn thì mải miết
trôi theo những dòng nước xa kia. Mãi mãi trách nhiệm vẫn không bù đắp được tình
yêu, mãi mãi tốt vẫn chỉ là một phẩm chất đáng trân trọng chứ không phải là tình yêu.
Chính vì thế lòng bà luôn luôn cay đắng, hậm hực khi nghĩ về một người đàn bà khác
đã chiếm giữ trái tim chồng mình khiến hạnh phúc của bà không sao trọn vẹn được.
Và đổi lại cho sự sum họp vui vầy của một gia đình là một người đàn bà vô tội bị
bỏ rơi với tình cảnh mất chồng, mất con, cô độc, nghèo nàn trên chiếc ghe cũ rách
nương theo con nước mà sống cho qua ngày đoạn tháng. Còn người đàn ông trong
chuyện tình tay ba kia cũng chả sung sướng gì khi ông phải sống triền miên trong sự
dày vò, vì đã bỏ lại người đàn bà mình thương bơ vơ giữa dòng. Chính tội lỗi tày trời
này đã khiến ông dằn vặt khôn nguôi và cam sống những ngày còn lại trong sự nhớ
nhung, khổ sở nhưng bất lực bởi gọng kiềm của người mẹ, nghĩa vụ với người vợ mới
và phải gánh vác cả gia đình trên vai. Mãi cho đến khi lú lẫn, ngày ngày ông vẫn chống
gậy ra sông để nhớ nhung, để khóc thương cho một mối tình oan trái, để âm thầm sám
hối tội lỗi của mình.
Và cả gia đình của “tôi” tuy ngày ngày vẫn sum vầy, đầy đủ, nhưng không ai cảm
thấy thật sự hạnh phúc vì luôn mơ hồ cảm thấy mình có lỗi với một người, thấy thiếu
thiếu một cái gì đó để có thể vui vầy trọn vẹn. Và người mẹ chia rẽ duyên con, người
gây áp lực buộc con mình phải từ bỏ người đàn bà mình thương cũng đâu sung sướng
gì khi đọc thấy sự oán trách âm thầm trong mắt người con dâu, sự đau khổ không che
giấu của đứa con trai và sự thiếu thốn tiếng cười trong cái gia đình đoàn tụ nhưng
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
49
không hạnh phúc. Đến cuối đời bà mới mơ hồ nhận ra mình đã phá hỏng cuộc đời của
nhiều người khi bất chợt day dứt: “Chẳng lẽ mình giống những bà già ác nghiệt trong
những tuồng cải lương hay sao?”. Quả thật “Dòng nhớ” là những thước phim xót xa
cho hoàn cảnh oan trái của ba con người nhân hậu, giàu lòng yêu thương nhưng phải
âm thầm chịu đựng một duyên phận lỡ làng, một cuộc đời không thanh thản và thiếu
vắng hạnh phúc mà lẽ ra họ xứng đáng được hưởng.
“Hiu hiu gió bấc” lại là một chuyện tình oan trái khác, một tình yêu lỡ làng của
anh Hết và chị Hoài. Mẹ anh Hết chết từ lúc sinh ra anh và cả xóm phải cho anh bú
thép (trong đó có má chị Hoài). Anh là người hết mực hiếu thảo, là người được cả xóm
nêu gương tốt “được, hiền, giỏi giang, chịu khó lại hiếu thảo”. Anh yêu chị Hoài
nhưng mẹ chị Hoài không chịu vì anh nghèo quá “thân sơ thất sở không một cục đất
chọi chim”. Bà sợ anh không lo cho chị Hoài được sung sướng nên bà đến gặp anh, bà
khóc, từ đó anh Hết tự nhiên mê chơi cờ tướng đến mức bê tha công việc, mất ăn mất
ngủ, thất điên bát đảo “quên đói, quên ướt, súng nổ cái đùng cũng coi như không nghe
thấy”. Tóm lại, anh Hết làm đủ mọi cách để chị Hoài chán ngán anh mà chịu nghe lời
mẹ đi lấy chồng, để anh trả món nợ sữa cho mẹ chị Hoài, và vì yêu chị mà anh gánh
luôn cho chị cả cái tiếng bạc tình. Cái ngày chị Hoài cưới anh vẫn điềm nhiên đánh cờ
mà nước mắt rơi xuống con tướng nghe cái cộp, anh kiên quyết không nhìn chị lần cuối
để chị yên tâm mà lấy chồng. Chính vì nghĩa cử đó mà chị Hảo thương anh Hết, bởi chị
hiểu “con người này nghĩa biết trọng mà tình cũng thâm” và chị quyết định: “Để có
được trái tim con người này, có chờ bao lâu cũng đáng”. Cũng là một chuyện tình
duyên lỡ làng nhưng cái đau đớn của nó không được Nguyễn Ngọc Tư miêu tả một
cách dữ dội mà chỉ “hiu hiu” thôi nhưng cũng khiến người ta lạnh thấu xương. Nguyễn
Ngọc Tư quả có sở trường thủ thỉ về những mối tình quê trắc trở có, âm thầm có, đau
đớn có, dữ dội có, chung tình có, bạc tình có…nhưng dẫu ở sắc thái nào chị cũng biết
cách pha vào đó một chút hương sắc riêng để tạo cho nó nét mộc mạc không lẫn vào
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
50
đâu được của cây bút đồng bằng, mà lần này là một tình huống “yêu nhau thì lại bằng
mười phụ nhau”.
Lặng thầm cũng là một nét duyên của những mối tình quê, bởi nhút nhát mà
không dám tỏ bày, hay bởi một tình huống trớ trêu nào đó mà đành đóng vai người đến
sau, thậm chí có khi phải quyết định ra đi để bảo toàn hạnh phúc cho người mình
thương yêu. “Nước chảy mây trôi” cũng là một câu chuyện tình yêu trái ngang và cảm
động của một cô gái trẻ tên Diệp, Diệp yêu thầy Nhiên nhưng thầy lại yêu mẹ Diệp nên
cô kêu tiếng ba thiêng liêng mà trong lòng yêu thầy đến không chịu nổi. Nhưng Diệp
không muốn phá rào bởi cô là đứa con hết mực yêu thương mẹ và cũng rất hiểu sự lựa
chọn tình yêu của thầy Nhiên nên cô quyết định đi xa để cho hạnh phúc của hai người
được trọn vẹn. Là một cô gái trẻ, mơ mộng và giàu cảm xúc nhưng Diệp cũng rất
trưởng thành trong suy nghĩ của mình khi cô nhận thức được: “nếu phải đi xa để
những điều tốt đẹp còn nguyên lành mãi thì cũng đáng lắm chứ”. Quả thật con người
không thể sống hồn nhiên trong cuộc đời này như “nước chảy mây trôi” mà chúng ta
phải can đảm đánh đổi và trả giá để có được hạnh phúc và bảo vệ hạnh phúc.
Muôn đời tình yêu đích thực đòi hỏi phải có lòng hy sinh. Yêu thương là loại tình
cảm vô tư, không nhất thiết phải được đền đáp xứng đáng, bởi đôi khi chỉ vì yêu
thương mà ta phải để cho người mình thương ra đi, phải cho họ tìm về bến bờ hạnh
phúc đích thực mà họ mong chờ, còn mình thì ở lại với mối tình âm thầm nhưng dữ dội
cùng với nỗi nhớ nhung, tiếc nuối. Đó là “Cái nhìn khắc khoải” của một ông già chăn
vịt chạy đồng dành cho người phụ nữ bất hạnh mà ông trót cưu mang. Một lần nữa,
Nguyễn Ngọc Tư viết về chuyện tình cảm của những người già sống cô đơn và khát
khao tình cảm, những con người biết rằng sống “cho ngon lành” là khó nhưng với họ
sống ngon lành, sống vì người khác lại cứ nhẹ nhàng như hơi thở.
Điểm qua một loạt các truyện ngắn được gợi hứng từ những vấn đề bức xúc của
hiện thực Nam Bộ và thân phận của con người Nam Bộ, chúng ta thấy cái nhìn của cây
bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư vừa rộng về diện lại vừa sâu về chất. Rộng và sâu bởi vì chị
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
51
không chỉ phản ánh đơn thuần những vấn đề tồn tại ở nông thôn Nam Bộ mà chị còn
chú ý vào tâm tư và tình cảm của những người nông dân Nam Bộ. Đó mới chính là
điều chị quan tâm và muốn gởi gắm tới độc giả, Nguyễn Ngọc Tư không muốn gởi tới
chúng ta những bức tranh phong cảnh đồng quê yên ả hay bão tố với tư cách những bài
phóng sự sinh động, dễ thương nhưng vô hồn, vô cảm. Và một điều nữa chúng tôi
muốn xác quyết là Nguyễn Ngọc Tư không hề ngây thơ trong việc nhìn nhận và đánh
giá hiện thực xã hội xung quanh mình, có thể chị chưa nhìn xa nhưng chị không hề ảo
tưởng với những gì mình viết. Ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư luôn tỉnh táo và đầy trách
nhiệm nhưng không phải với thái độ lên gân, cứng nhắc mà hết sức nhẹ nhàng, tinh tế,
nên dễ khơi dậy ở người đọc một sự cảm thông, chia sẻ .
2.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ Nam Bộ đang trên đường định hình phong
cách sáng tác. Những năm gần đây chị đã gặt hái được nhiều thành công trên địa hạt
truyện ngắn mà tiêu biểu là Giải I cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 với tập
truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt” và truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” như một
“hiện tượng văn học” của năm 2005. Vẫn còn quá sớm để đưa ra bất kì lời nhận xét
chắc chắn nào về bút lực cũng như phong cách nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư, nhưng
có một điều chúng tôi nhận thấy là chị đã xây dựng được trong truyện ngắn của mình
một thế giới nhân vật vô cùng phong phú, đa dạng. Thế giới nhân vật ấy là bóng dáng
của những con người sống ở nông thôn, họ có thể khác nhau về nghề nghiệp, nhưng có
một điểm chung là hết thảy họ đều nghèo, nghèo rớt mồng tơi và buồn, buồn rơi nước
mắt. Nguyễn Ngọc Tư đã đi vào tâm tư sâu kín của họ một cách nhẹ như không, âm
thầm chộp bắt những phút giây rất “người” của họ để yêu thương và đồng cảm với họ.
Đó chính là cái tâm của một người cầm bút mà từ những tác phẩm đầu tiên người ta có
thể cảm nhận được ở chị.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
52
2.2.1. Những nhân vật làm ruộng, làm vườn
Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất và giữ vị trí xuất khẩu gạo hàng đầu
của cả nước, cho nên nông dân là một lực lượng giữ vai trò chủ chốt làm nên sự thịnh
vượng và trù phù của vùng đất này. Tuy nhiên, trớ trêu thay, họ lại là những con người
chịu thiệt thòi bậc nhất, cực khổ bậc nhất. Thế nhưng, bức tranh đồng quê Nam Bộ
cũng không đến nỗi u ám như chúng tôi trăn trở, có thể người nông dân Nam Bộ tuy
còn nghèo nhưng họ vẫn bằng lòng với hoàn cảnh và vui sống trong chừng mực có thể.
Điều chúng tôi muốn nói ở đây là bên cạnh hiện thực nổi bật là bức tranh đời sống, còn
có bức tranh tâm trạng của con người, những người nông dân thật thà, chất phác với
những “vấn đề” hết sức riêng tư của mình mà nhiều khi vì thấp cổ bé họng nên mãi vẫn
không thốt ra được và đành cam phận thiệt thòi.
“Lỡ mùa” là một truyện ngắn phản ánh một thực trạng xã hội đáng báo động ở
miền Tây Nam Bộ: đó là thái độ dửng dưng, vô trách nhiệm của các cán bộ lãnh đạo
trước những vấn đề bức xúc của nông dân, cụ thể là vấn đề ruộng đất cho dân cày. Và
nước mắt ông Ba già đã chảy, nước mắt của con người cầm súng chiến đấu cả thời trai
trẻ, cả đời chỉ mơ có một miếng đất để trồng lúa, để có chỗ chôn thân. Ông là người
thương đất, gắn bó một đời với nghề làm lúa, dẫu biết nuôi tôm dễ làm giàu hơn mà
vẫn một mực thủy chung. Làm ruộng có mùa mà những người nông dân đã phải đợi ba
mùa, mệt mỏi chen lẫn hy vọng, cực khổ quá mới phải đùm túm lên tận tỉnh tìm kiếm
chủ tịch, mà cuối cùng vẫn “lỡ mùa”.
Những trang văn như hực lên bởi sức chịu đựng của con người có hạn. Người
dân đang yên ổn làm ăn thì nhà nước bắt nghỉ (làm khu du lịch sinh thái), dẫu có “ngơ
ngác một chút, rồi buồn, tiếc như ai đó dứt khúc ruột của mình ra, nhưng tuyệt nhiên
không cãi”. Có ai quan tâm hỏi ý kiến họ không? Lãnh đạo có lắng nghe tâm tư của
dân trước khi quyết định một vấn đề thiết thân đối với đời sống của họ không? Rồi đây
họ sẽ sinh sống bằng cách nào? Tuyệt nhiên không thấy ai đề cập đến. “Lỡ mùa” day
dứt người đọc cũng vì lẽ đó. “Thương quá rau răm” lại là một truyện ngắn phơi bày
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
53
một hiện thực khác của nông thôn Nam Bộ: nông thôn thiếu trầm trọng những dịch vụ
chăm sóc y tế tối thiểu, thiếu trầm trọng đội ngũ y bác sĩ, những người trí thức trẻ về
được một thời gian rồi cũng ra đi, những đứa trẻ lớn lên, đi học thành tài rồi thì không
muốn trở về vùng quê nghèo nữa.
Viết về đề tài nông thôn nhưng Nguyễn Ngọc Tư không chỉ chú tâm miêu tả
những người nông dân bên ruộng lúa bờ kinh mà chị còn đặt họ vào những môi trường
xa lạ và rộng lớn hơn, đó có thể là ở chợ, ở tỉnh, ở thành phố để làm bật lên sự lam lũ,
sự thua thiệt của người nhà quê so với người thành phố. Truyện ngắn “Giao thừa” hé
mở cho chúng ta cuộc sống khó khăn, nhọc nhằn của những người trong ruộng ra phố
bán dưa Tết, bán bông Tết. Cái việc bán buôn này đầy may rủi, dãi nắng dầm sương mà
nguy cơ lỗ vốn lúc nào cũng chực chờ. Cảnh những người bán dưa, bán bông trên bãi
đất trống xác xơ thật đối lập với những tòa nhà cao đẹp, ngất ngưởng. Nó khiến những
người nông dân phải tủi cho phận nghèo của mình, phải tự hỏi biết chừng nào mới
được như vậy mà buồn.
Cái nhìn của Nguyễn Ngọc Tư về người nông dân Nam Bộ mới lạ và phong phú
hơn rất nhiều so với những tác phẩm của các nhà văn tiền bối như Hồ Biểu Chánh, Phi
Vân, Sơn Nam…Đó là hình ảnh người nông dân trong những mối quan hệ rộng lớn
hơn cánh đồng của họ, nếp nhà của họ. Số phận của họ gắn chặt và chịu ảnh hưởng
trực tiếp bởi những vấn đề thời sự của xã hội. Và những người nông dân ấy trong mối
quan hệ với nhau cũng được Nguyễn Ngọc Tư ghi nhận dưới góc nhìn tinh tế hơn,
riêng tư hơn, mang ý nghĩa cá nhân nhiều hơn là đại diện cho giai cấp của mình. Nhẹ
nhàng nhưng quyết liệt, vô tư nhưng không vô tâm, ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư từ
những ngày đầu tiên đã chọn cho mình nơi chốn dụng võ là đồng đất quê hương với
những người nông dân một nắng hai sương thân quen và yêu dấu.
2.2.2. Những nhân vật sống kiếp thương hồ
“Thương hồ” là một “nghề nghiệp” đặc trưng của vùng sông nước Nam Bộ,
hiểu nôm na đó là những con người làm nghề buôn bán lặt vặt trên sông nước như bán
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
54
hàng bông, trái cây, đồ ăn thức uống, tạp hóa…Họ sống hẳn trên ghe và coi đó là nhà
của mình. Có người cũng có nhà trên bờ, còn lại phần lớn là những người nghèo không
có miếng đất cắm dùi, gia tài chỉ có chiếc ghe nhỏ vừa là nơi che mưa che nắng, vừa là
phương tiện để sinh nhai. Cực khổ, rày đây mai đó, dãi nắng dầm mưa nhưng những
khách thương hồ không mấy khi cảm thấy mình thiệt thòi, họ vẫn vui sống và tự hào về
cái “đạo” của mình:
“Đạo nào vui cho bằng đạo đi buôn
Xuống biển lên nguồn, gạo chợ nước sông”
Chỉ trong hai câu thơ mà gói gọn được hết cái thú vui hải hồ của những con
người thuộc bề sông nước này. Họ yêu sông bằng một mối tình đằm thắm kì lạ, tựa như
sông không chỉ là thiên nhiên, là môi trường sống của mình mà nó là một sinh thể có
linh hồn (như con sông Đuống “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”
của Hoàng Cầm). Vì lẽ đó mà nhân vật Giang trong truyện ngắn “Nhớ sông” dù đã có
chồng và ở hẳn trên bờ nhưng vẫn không sao quên được những năm tháng sống cùng
cha và em trên ghe, tuy cực khổ, chật chội nhưng ấm áp và vui vẻ. Vì vậy nên dứt khỏi
sông rồi thì Giang như người mất hồn, nó sống với chồng mà “lòng dạ nó ở đâu á”, hở
ra giờ nào là nó lại hối hả chèo đi, chèo khơi khơi vậy rồi tấp vào một bụi lá nào đó,
ngồi ở đó một chút rồi chèo về. Nhưng cuối cùng Giang phải vì cha mà bỏ sông, ông
Chín vì tương lai con cháu mà bỏ sông, vì yêu thương nhau mà họ tự nguyện từ bỏ điều
mình yêu thương. Cuộc sống thương hồ lênh đênh rày đây mai đó, chịu nhiều thiệt thòi
so với những người trên bờ nhưng nó cũng có cái thú vị riêng, những tâm tình riêng mà
chỉ những người trong cuộc mới thấu hiểu được.
Khác với “Nhớ sông”, các nhân vật nghĩ về sông như thể nó là ngôi nhà của
mình, nơi lưu giữ linh hồn và tình cảm của mình, những ký ức của nhân vật “tôi” về
người phụ nữ sống trên sông (vợ của cha mình) trong truyện ngắn “Dòng nhớ” lại gợi
lên cho người đọc một sự xót thương cho số phận lênh đênh, chìm nổi cay đắng của
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
55
một người đàn bà cô đơn, bị tước đoạt hạnh phúc một cách phũ phàng nhưng vẫn âm
thầm chịu đựng và bao dung cho lỗi lầm của người đàn ông mình yêu.
Phần giới thiệu về người đàn bà ở đầu truyện hé mở cho người đọc hoàn cảnh
chung của hàng trăm con người sống kiếp thương hồ (chứ không riêng gì ở chợ nổi 379
này): người tên Giang, ghe hàng bông, tóc dài, da ngăm ngăm, không đẹp không xấu,
có chồng rồi sau đó chồng bỏ lên bờ, có con nhưng chừng bảy tháng tuổi té sông chết,
từ đó một mình dưới ghe buôn bán. Rất nhiều những hoàn cảnh thương tâm, chìm nổi
như thế trong thế giới của những con người trót mang kiếp thương hồ. Rồi người đàn
bà ấy hiện lên rất hiền: “dì mặc chiếc áo cộc tay màu cau khô ở trong, khoác thêm
chiếc aó bà ba ở ngoài, mỏng te, nhiền mụn vá. Tóc đã bạc nhiều, lơ thơ vài cọng rủ
xuống mặt. Sương gió đã làm cho khuôn mặt dì đen sạm, nhăn nheo”.
Bằng một sự quan sát tinh tế và tấm lòng nhân hậu, Nguyễn Ngọc Tư đã vẽ nên
cho người đọc những chân dung tâm hồn sâu sắc và giàu cảm xúc của các nhân vật
“thương hồ”. Đa phần họ đều nghèo khó, thiệt thòi về những điều kiện sống so với
những con người trên bờ nhưng họ vẫn sống và yêu tha thiết dòng sông của mình như
ông Chín, như Giang… hay một đời gắn bó với sông như người đàn bà của cha nhân
vật “tôi”. Bởi vì họ biết thương, biết nhớ, nên những dòng sông tưởng như vô tình ấy
lúc nào cũng trôi chảy tràn trề, ăm ắp tình thương để vỗ về và cưu mang những phận
người trót mang kiếp lưu lạc hải hồ.
2.2.3. Những nhân vật làm nghề “xướng ca”
Những truyện ngắn mang đậm tính chất đồng quê của Nguyễn Ngọc Tư thường
bàng bạc một không gian văn hóa đậm chất Nam Bộ với những buổi đờn ca tài tử,
những buổi biểu diễn cải lương khắp hang cùng ngõ vắng vào những mùa khô, hay
những người hát rong lang thang với những bản vọng cổ buồn não ruột… Mỗi nhân vật
là một số phận, họ đã sống trọn với sân khấu bất chấp những bất hạnh đời tư. Có người
thành công, để đời với những vai diễn tài danh, có người thất bại phải giữa đường đứt
gánh, có người phải hy sinh cả tuổi thanh xuân, có người phải đánh đổi cả tình yêu và
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
56
hạnh phúc…nhưng tựu trung dưới ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư, họ là những người
nghệ sĩ thật “đẹp” với tất cả cái tài, cái tâm, cái tình của mình.
Như Điệp trong truyện ngắn “Chuyện của Điệp”, một con nhỏ có khuôn mặt
già chát, lớn rồi mà tướng tá vẫn nhỏ xíu nên chuyện bị đóng vai con nít, nhưng nó lại
là đứa rất biết suy nghĩ và có những tìm tòi nghiêm túc trong nghề diễn của mình. Bằng
sự chiêm nghiệm cuộc đời nó đã chỉ dạy cho bạn diễn cách đóng vai ác sao cho hay:
diễn ác không nhất thiết phải hùng hổ, bởi nhiều người ác ở đời có cái mặt tươi rói.
Nhờ biết nhìn đời bằng cặp mắt trầm tĩnh và sâu sắc, Điệp rút ra một “bài học” cho giới
nghệ sĩ: người nghệ sĩ nên tùy vào sức của mình, không nên đánh đổi tình thương để
lấy sự nghiệp, nếu mình cưỡng cầu những cái không phải là của mình thì mình sẽ
không hạnh phúc.
Không phải chỉ là một hai trường hợp cá biệt, phần lớn những nhân vật nghệ sĩ
trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư có rất nhiều lầm lạc, nông nổi, họ có thể không
coi trọng chuyện gia đình, vì yêu cầu nghề nghiệp mà phần lớn phải hy sinh tình cảm
riêng tư để sống trọn vai trên sân khấu. Chẳng hạn như chị Diệu trong truyện ngắn
“Làm má đâu có dễ” đã phải đánh đổi tình mẫu tử để có được sự nghiệp ca hát rực rỡ,
trong bộ ba quan hệ với má và với con, chị không vẹn được bề nào. Đứa con gái như
đòi lại món nợ chị đã vay của má khi chỉ tiếng “má” bình thường mà người nghệ sĩ ấy
nửa đời không một lần được con mình mở miệng kêu. Hay như đào Hồng cũng vì
nghiệp ca hát quá cực khổ mà đành đoạn gởi con cho người khác đến nỗi đứa con lớn
lên không thèm nhìn mặt mẹ.
Qua số phận bi ai của những người nghệ sĩ, ta thấy được mặt trái của nghề hát
thật bạc bẽo, lúc còn trẻ thì cực khổ rày đây mai đó, dãi nắng dầm sương với nghề mà
thù lao không được bao nhiêu, còn về già ai cũng bệnh tật, cô đơn, không nơi nương
tựa. Để sống với niềm đam mê của mình, nhân vật Phi trong “Biển người mênh
mông” đã bị gia đình ghẻ lạnh, phải chịu đựng sự cô đơn buồn tủi vì mang tiếng bôi
nhọ gia đình bằng cái nghề “xướng ca vô loài”; hay như Phương, hy sinh hạnh phúc cá
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
57
nhân (một cách cực đoan và lầm lạc) để nuôi tâm trạng diễn xuất, cuối cùng để vuột
mất người mình yêu thương suốt đời suốt kiếp chỉ vì một lời nói dối trong truyện ngắn
“Ngày đùa”.
Nghề hát tuy có nhiều bạc bẽo nhưng cái tình nghệ sĩ thì thật cao đẹp và đáng để
chúng ta trân trọng. Người nghệ sĩ thường là những người sống tình cảm, nhân ái, lúc
nào cũng khao khát được cống hiến lời ca tiếng hát của mình, họ coi đó là nguồn vui, là
lẽ sống cao cả của đời mình. Ca hát và sống đối với họ đều là nghệ thuật, nó không
tách rời nhau mà khăng khít như lời dạy của một nhân vật trong truyện ngắn “Chuyện
của Điệp”: “Con muốn diễn hay thì phải sống nhân ngãi trước đã. Mình sống có tình
đóng vai nào cũng dễ con à!”. Chữ “tình” chính là phẩm chất đặc biệt quan trọng của
những nhân vật nghệ sĩ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, như Diệu gạt bỏ đời đau
để sống trọn lòng trên sân khấu, như những người nghệ sĩ ở nhà “Buổi chiều” nghèo
túng, bệnh tật nhưng ai cũng khao khát được hát với đời cho đến sức tàn lực kiệt. Cũng
vì cái tình nghệ sĩ mà ông Chín Vũ đã lập ra nhà “Buổi chiều”, bỏ công tìm kiếm
những người nghệ sĩ già cả, không nơi nương tựa để dắt họ về đoàn tụ với nhau để
sống yên ổn lúc cuối đời.
Không như người đời vẫn thành kiến, cho rằng nghệ sĩ là những người bay
bướm, bạc tình, những nhân vật nghệ sĩ của Nguyễn Ngọc Tư lại được tô đậm ở khía
cạnh rất giàu tình thương và sống rất tình nghĩa, thủy chung (dẫu cũng không thiếu
những người bội bạc). Ví dụ như đào Hồng vì yêu kép Thường Khanh mà gánh bi kịch,
suốt đời chỉ mong một lần gặp lại người xưa nên gắng sống, gắng tươi nhưng đến khi
gặp rồi thì chính sự bạc bẽo của cố nhân đã làm bà suy sụp, khô kiệt ý chí để sống.
Hay như tình yêu tréo ngoeo giữa Sáu Tâm và đào Điệp (Điệp hơn Sáu Tâm cả
chục tuổi), cũng vì cứu Điệp khi sân khấu sập xuống mà Sáu Tâm bị thương đến nỗi
phải cưa chân, vĩnh viễn từ bỏ sân khấu. Rồi những năm sân khấu cải lương gặp khó
khăn, gánh bị rã, đào Điệp cũng phải bỏ nghề, chính Sáu Tâm đã dắt díu đào Điệp về
xóm Gò Mả, Sáu Tâm hàng ngày lang thang bán khăn ngoài đường để trang trải tiền
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
58
thuốc cho căn bệnh u não quái ác của đào Điệp. Cái tình giữa những con người với
nhau (bất kể họ có còn là nghệ sĩ hay không) thật đáng để chúng ta trân trọng.
Không biết có phải là vì “cùng một lứa bên trời lận đận” hay không mà Nguyễn
Ngọc Tư, một người trẻ viết văn, lại có thể có một cái nhìn vừa sâu sắc vừa nhân hậu
đối với những người nghệ sĩ miệt vườn đến vậy? Đằng sau vẻ rực rỡ và hào nhoáng,
các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư đã cho chúng ta thấy những khoảng tối trong tâm
hồn họ mà ánh đèn sân khấu không soi rọi tới được, chỉ có thể bằng cái tâm thì mới cởi
bỏ được từng lớp áo xiêm diêm dúa để thông cảm với những nhục nhằn, những lầm
lạc, nỗi niềm thầm kín của những con người suốt đời đem lời ca tiếng hát, nước mắt nụ
cười để mua vui cho thiên hạ, gạt bỏ đời đau để sống hết mình trên thánh đường sân
khấu mà không phải bao giờ cũng được bồi đền xứng đáng.
2.2.4. Những nhân vật làm nghề chăn vịt chạy đồng
Những nhân vật làm nghề chăn vịt chạy đồng xuất hiện trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư phần lớn như những nhân vật loại hình, với những nét tính cách
chung như lang thang, phiêu bạt giống ông già chăn vịt trong truyện ngắn “Cái nhìn
khắc khoải” vì “Đời ông là một cuộc đời lang bạt. Một cuộc sống trên đồng khơi”.
Những người chăn vịt cũng là những con người rất cô đơn vì sống một mình thì ai
cũng thấy buồn, huống chi là một mình giữa đồng không mông quạnh. Tình cảnh của
họ khiến những người bình thường nhiều lúc phải cằn nhằn: “Cha nội này sống thấy
rầu quá…”. Hay có khi họ đem lòng thán phục sức chịu đựng phi thường của những
người chăn vịt vì họ biết: “ngủ trên đồng buồn thê thiết lắm” (Một dòng xuôi mải
miết).
Còn một điểm chung nữa giữa những người chăn vịt nữa là nghèo, bởi nghèo
thì mới phải chọn cái nghề cực khổ, rày đây mai đó, nhiều rủi ro (vì đàn vịt có thể chết
vì dịch bất cứ lúc nào), nhưng hết thảy họ đều có tấm lòng rộng như đồng khơi, sẵn
sàng cưu mang giúp đỡ người khác khi khó khăn hoạn nạn.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
59
Riêng truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” lại xây dựng một gia đình chăn vịt
chạy đồng đặc biệt. Người cha chọn nghề này vì muốn lìa bỏ quê hương, để mải miết
chạy theo hành trình trả thù những người đàn bà mà không hay cũng đang hủy hoại
chính cuộc đời mình và hai đứa trẻ vô tội. Không như những người chăn vịt bình
thường trở về nhà khi hết mùa lúa chín, cha con Nương vẫn phải sống lang thang:
“Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng này đến cánh đồng khác. Đôi khi không hẳn
vì cuộc sống, chúng là cái cớ để chúng tôi sống đời du mục, tới những chỗ vắng người.
Ở đó, ít ai phát hiện ra sự khác thường của gia đình tôi, và ít hỏi cái câu, “Má mấy
đứa nhỏ đâu?”. Để cha phải buộc lòng nói “chết rồi!” và cười lạt khi nghe người nào
đó kêu lên : “Mèn ơi, tội hai đứa nhỏ hôn”. Công việc chăn vịt thăm thẳm qua biết bao
cánh đồng đối với họ như một hành trình nhọc nhằn và đau khổ để hành hạ chính bản
thân mình khi phải thường xuyên đối mặt với những cánh đồng lúa chết khô, những
dòng sông nhiễm phèn chua lè, nhiễm mặn mặn chát, thiếu nước, thiếu ăn, thiếu tình
thương, thiếu giao tiếp bình thường với loài người dần dần đã biến họ thành một “gia
đình” kì dị với một người cha gần như hóa điên vì thù hận đàn bà và những đứa trẻ
méo mó vì thiếu tình thương, vì thèm người và nhớ người. Đáng thương hơn còn bởi:
“Chị em tôi hết sức cố gắng để sự giận dữ, chán chường của mình không bùng cháy.
Chúng tôi cho vịt ăn thật xa trên đồng, vạ vật ở đó từ sáng tới chiều..” với hy vọng gió
sẽ làm lòng hai chị em nguội lại hay chí ít là thổi khô những giọt nước mắt sống trên
má thằng Điền nhưng vô vọng nên tụi nó đành sống chấp nhận sống triền miên trong
nỗi đọa đày cho đến ngày học được cách giao tiếp với nhau không phải bằng tiếng
người và nghe được tiếng nói của lũ vịt như một niềm an ủi nhỏ nhoi mà cuộc sống du
mục khắc nghiệt ban tặng.
Công cuộc mưu sinh và chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt cũng như sự dữ
dội, bất trắc của nghề chăn vịt trong truyện ngắn này khiến người đọc rùng mình, bởi
chỉ có thể trong một đêm bầy vịt cả trăm con lăn ra chết dịch hoặc bị tiêu diệt hàng
loạt vì dịch cúm gia cầm: “Họ rải vôi trên những hố chôn lớn bằng mấy khẩu đìa
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
60
cộng lại. Họ tọng những con vịt còn sống, còn giãy dụa, còn gào thét vào bao tải,
buộc miệng và quăng xuống đó”. Góp thêm vào bức tranh điêu tàn, u ám của những
ngày dịch cúm hoành hành đó có khi là một xác người: “Sáng sau, người ta tìm được
một người chăn vịt nằm sát mép hố, mắt chong chong ngó trời không chớp, miệng sủi
ra thứ bọt, trong vắt như bọt cua nhưng hôi nồng nặc. Chai thuốc trừ sâu lăn lóc
cạnh đó đã cạn tới giọt cuối cùng”. Đó là dấu chấm hết của một kiếp người khi nỗi
tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm và cái chết đối với họ là bất trắc sau cùng cho một đời
chăn vịt nhọc nhằn.
Cuộc sống của những người chăn vịt chạy đồng lần đầu tiên được Nguyễn Ngọc
Tư phơi bày một cách trần trụi và đậm đặc như vậy. Ngòi bút của chị đã vẽ ra những
bức tranh tăm tối chưa từng thấy của nông thôn Nam Bộ, khắc họa những con người
hình như chỉ sống bằng bản năng nguyên thủy của mình ngay giữa đồng loại ngay
giữa thời hiện đại. Có thể nói đến truyện ngắn này thì ngọn gió chướng xập xòe, hiền
lành thường thấy trên những trang văn đã vụt biến thành một trận cuồng phong dữ dội
trên “cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư.
2.2.5. Nhân vật loài vật
Nhân vật loài vật là một khám phá kì thú của chúng tôi khi thưởng thức truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư, bọn chúng có khi là “phát ngôn viên” tình cảm cho nhân vật
chính, có khi lại là phương tiện để chị xây dựng nên cốt truyện.
Loài vật thường xuất hiện trong truyện ngắn của chị là vịt. Có thể đó là một con
vịt thông minh, láu cá, hài hước như con Cộc trong “Cái nhìn khắc khoải” chuyên “lật
tẩy” tình cảm của ông già chăn vịt. Nó có thể được xem như nhân vật có tư tưởng, có
tình cảm, biết bộc lộ tâm trạng của mình như một con người. Nó cũng có tính cách
riêng như: chúa gây chuyện, khá cộc cằn, tư lự, nó cũng biết đổ quạu, biết trách móc,
biết nghinh mặt lên, biết đủng đỉnh quay đi…Chính nhờ con Cộc mà nội tâm của ông
già chăn vịt ở cuối truyện được hiện lên ở một khía cạnh khác hết sức tình cảm, trái
ngược với thái độ dửng dưng, bình thản ở bên ngoài của ông.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
61
Trường hợp thứ hai là con vịt mù biết nghe tiếng trái tim của con người trong
truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”. Thật chua xót khi không phải là đồng loại thấu hiểu
được nhau mà chính là một con vịt mù. Chính con vịt mù chứ không phải là một “con
người” nghe được tiếng trái tim của Nương và biết nó đang thút thít một cách yếu ớt:
“Nó chứ ai, giọng có khác, nhưng rõ ràng là tiếng trái tim nó. Quen lắm. Chập chờn,
thút thít, đòng đưa như sắp rụng…”.
Đến truyện ngắn “Một chuyện hẹn hò” thì con Cóc lại đóng vai trò dẫn truyện,
là quan sát viên cho “một chuyện hẹn hò” và cũng là “người” chứng kiến cái chết của
người đàn bà giữa đầm rộng trong cơn bão lớn. Cóc biết nói, biết suy nghĩ, biết đau,
biết khóc. Cóc cũng có kinh nghiệm trong chuyện tình yêu vì Cóc đã từng hẹn hò.
Không ai biết nguyên nhân cái chết của người đàn bà trừ Cóc. Cóc hiểu được sự yếu
đuối trong tình cảm của người phụ nữ, sự vô tâm của người đàn ông, sự tuyệt vọng khi
không thể trở về với con của chị, nỗi lo sợ cho danh dự (không phải của chị mà của đứa
con) khi người ta phát hiện mẹ nó dan díu với người đàn ông khác thay vì phải ở bên
nó để chống chọi với cơn bão tơi bời…
Cóc là người quan sát nhưng đồng thời cũng là một số phận bi thương đang nhìn
một số phận bi thương khác đang lặp lại cảnh đời của mình. Bằng cách này, Nguyễn
Ngọc Tư đã mượn lời Cóc để nói lên tâm trạng của người đàn bà một cách khách quan
nhưng cũng hết sức chủ quan. Đây là một biện pháp kể chuyện lạ mà nhân vật người kể
chuyện cũng lạ nốt.
Những nhân vật loài vật trong các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư thường có một
điểm chung là chúng đều là những con vật rất quen thuộc và gần gũi với đời sống con
người, chúng có thể nghe được tiếng người, thấu hiểu và đồng điệu với tâm tư, tình
cảm của con người như một đồng loại. Thậm chí đôi khi người đọc quên hẳn con Cộc
hay con Cóc vô danh nơi xó nhà là loài vật bởi chúng cũng có quá khứ buồn thương
hay cũng có “con mắt tinh đời” trong cách nhìn nhận và đánh giá sự việc và con người
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
62
xung quanh. Sắc sảo, tinh tế, nhạy cảm, hiểu biết và giàu lòng yêu thương, ấy chính là
những gì chúng ta cảm nhận được ở những người bạn đồng hành đáng tin cậy này.
Đến truyện ngắn “Núi lở” thì con vẹt biết nói không còn là một nhân vật đơn
thuần nữa mà nó đã trở thành một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư, bởi khi trải
qua biến cố dữ dội là núi lở thì con vẹt vĩnh viễn câm lặng, vĩnh viễn không nói được
và cũng như thằng bé nó vĩnh viễn không có kết thúc gây ám ảnh cho người đọc.
Quả thật các nhân vật loài vật đã tạo nên rất nhiều điều kì diệu khiến cho truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư có một sức hấp dẫn riêng. Chúng có thể góp phần vào việc
miêu tả nội tâm nhân vật “con người”, làm “người dẫn chuyện” tài tình, làm nên giọng
điệu hài hước cho tác phẩm và hơn thế nữa chúng góp phần làm phong phú thêm cho
thế giới nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư.
Là một người trẻ mới khởi nghiệp viết văn, sự nghiệp văn chương chưa thật sự
dày dặn, phong cách nghệ thuật chưa thật sự định hình cũng như phong độ chưa thật sự
ổn định, thế nhưng Nguyễn Ngọc Tư đã kịp ghi lại dấu ấn của mình trên văn đàn bằng
việc xây dựng trong các truyện ngắn của mình một thế giới nhân vật phong phú, đa
dạng mà kiểu nhân vật nào cũng đầy đặn và có những nét đặc sắc riêng. Thế giới nhân
vật ấy là khúc xạ của những con người bằng xương bằng thịt sống xung quanh chị,
những con người dù sinh sống nơi đồng ruộng hay chốn thị thành, dù làm bất cứ nghề
nghiệp nào cũng tỏa sáng một tính cách rộng rãi, nhân hậu, nghĩa khí rất đặc trưng của
con người Nam Bộ.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
63
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN NGUYỄN
NGỌC TƯ
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kiến tạo tình huống
3.1.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và chọn lọc chi tiết
3.1.1.1. Cốt truyện đơn giản
Cốt truyện hiểu theo nghĩa truyền thống là: “hệ thống sự kiện cụ thể được tổ
chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản quan
trọng nhất trong trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các lọai tự sự và
kịch” [18, tr.70-72]. Khi thực hiện luận văn này, bên cạnh việc nhìn nhận khái niệm cốt
truyện như cách hiểu trên, chúng tôi còn xem cốt truyện như là cái mà người đọc có thể
đem ra kể lại, là cái mà nhà văn kể ra (tức là có sự khác biệt với khái niệm “câu
chuyện” và “sự kể chuyện”). Từ cách hiểu đó, chúng tôi nhận thấy cốt truyện trong
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường đơn giản về sự kiện, ít gay cấn, ít mâu thuẫn
và ít có những xung đột xã hội gay gắt (trừ “Cánh đồng bất tận”).
Về phương diện kết cấu và quy mô về nội dung, cốt truyện của Nguyễn Ngọc
Tư thường là cốt truyện đơn tuyến, hệ thống sự kiện được kể đơn giản về số lượng và
rất gọn gàng, ít nhân vật và tính cách nhân vật thường được mô tả một cách rất tập
trung và cô đọng, nhiều khi chỉ là một lát cắt của cuộc sống được phản chiếu hay chỉ
một đoạn đời nào đó của nhân vật chính được quan tâm mà thôi. Qua khảo sát nhìn
chung có thể kết luận, đa số truyện ngắn của chị có cốt truyện khá mờ nhạt, nhiều
truyện có thể nói là không có cốt truyện (nó có thể chỉ là một nét tâm trạng, một tình
huống, một hoàn cảnh của nhân vật) và một số truyện ngắn của chị chịu sự thâm nhập
mạnh mẽ của một thể loại trữ tình là thơ mà chúng tôi tạm gọi đó là những truyện
ngắn-trữ tình hoá, tiêu biểu như các truyện ngắn: Cái nhìn khắc khoải, Một trái tim
khô, Một mối tình…
Như chúng ta đều biết, cốt truyện trong các truyện ngắn-trữ tình hoá tương đối
đơn giản, thậm chí có nhiều truyện gần như không có cốt truyện, không có những nhân
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
64
vật hành động sôi nổi hay những sự kiện nóng bỏng khiến người đọc nghẹt thở, chức
năng chủ yếu của nó là bộc lộ trạng thái tâm tưởng của nhân vật. Điều cốt lõi mà tác
giả quan tâm khi xây dựng một truyện ngắn theo kiểu trữ tình hoá là đi sâu khám phá
nội tâm nhân vật, thám hiểm những ngóc ngách tâm lý ẩn khuất, phơi bày ra ánh sáng
những xung đột nội tâm phức tạp của nhân vật, do đó cốt truyện có phần lỏng lẻo,
nhiều khi tạo cảm giác là thiếu lôgic, không có độ chặt cần thiết nhưng kì thật nó tuân
theo lôgic của cảm xúc. Gọi là “cốt truyện”, nhưng yếu tố “truyện” ở đây chịu sự xâm
nhập rất nhiều của yếu tố trữ tình, nó khát khao bộc bạch và giảm đi rất nhiều tính chất
đối thoại, nhiều khi cả tác giả và người đọc đều nhận thấy nhân vật muốn một mình với
những suy nghĩ và cảm xúc của mình. Truyện ngắn-trữ tình hoá cũng có “chuyện” để
kể nhưng đó là “chuyện” tâm lý, chuyện nội tâm của con người, cái sự ly kì và bí hiểm
của nó khác hẳn truyện trinh thám hay khoa học viễn tưởng. Nó khơi gợi sự cảm thông
chia sẻ, tác giả muốn “đánh” vào trái tim độc giả chứ không phải khối óc. Cốt truyện
trong truyện ngắn-trữ tình hoá nhiều khi miên man như một ngọn gió, một dòng sông,
cuốn người đọc vào dòng chảy tâm trạng bất tận với những “sự kiện nội tâm” của nhân
vật, mà nội tâm của con người thì chúng ta ai cũng biết nó bí hiểm và rậm rạp như một
cánh rừng. Ai mà biết được có những điều gì chờ đợi chúng ta ở phía trước khi bước
vào những truyện ngắn-trữ tình hóa mà cửa ải đầu tiên ai cũng phải khám phá chính là
“cốt truyện”.
Ở truyện ngắn “Cái nhìn khắc khoải”, nội tâm của ông già chăn vịt không
những được thể hiện qua những hành động, lời nói của ông già, nó còn gián tiếp bị “lật
tẩy” bởi con vịt tên “Cộc” rất thông minh và láu cá, người bạn thân thiết của ông.
Thoạt tiên, chúng ta thấy nội tâm ông già ấy cũng chẳng phức tạp gì ngoài một cuộc
sống cô đơn, rày đây mai đó qua những cánh đồng hun hút một mình. Sự kiện làm thay
đổi đời ông chính là quyết định cho người đàn bà xa lạ bị chồng ruồng bỏ về ở chung
trong nhà và trót đem lòng yêu thương chị.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
65
Nguyên tắc “chuyển hóa và lặp lại” đã được Nguyễn Ngọc Tư vận dụng triệt để
để tổ chức cốt truyện, nhất là ở đoạn miêu tả tâm trạng của ông già trong cái ngày
người phụ nữ đó ra đi. Sóng gió trong tâm hồn ông chính thức bắt đầu từ cái ngày ông
đành lòng báo cho chị tin tức của người chồng. Ông buồn nhiều, nhưng rồi cố bình
tâm. Rồi ông chấp nhận sự thật (vì nghe rõ tiếng tàu đò cập bến nào đó rất gần), nhưng
rồi ông lại mâu thuẫn với chính mình khi vừa muốn về nhà nhưng rồi lại phân vân sợ
“lỡ không còn ai”. Rồi đang đi ngon lành thì bỗng ngồi lại bồn chồn (như chờ ai quay
lại), rồi khi không nén nổi sự nhớ nhung, khi nghe tiếng lá khô mà cứ ngỡ bước chân ai
nên ông ngoái lại, nhìn về phía ngôi nhà bằng một cái nhìn khắc khoải. Chính sự
chuyển hóa tâm trạng đột ngột của ông già đã làm cho cốt truyện này hấp dẫn.
Cốt truyện “Một trái tim khô” cũng khá phức tạp, nhưng cái chính yếu ai cũng
nhận ra ấy chính là trạng thái chết ngoẻo trái tim của nhân vật Hậu bởi sự phản bội
nhẫn tâm của người chồng. Cái làm nên nét đặc sắc của truyện ngắn này chính là trạng
thái tình cảm của nhân vật Hậu liên tục có sự chuyển biến và lặp lại. Chi tiết “trái tim”
xuất hiện bốn lần trong tác phẩm làm nổi bật trạng thái tình cảm của Hậu. Lần một,
“trái tim” thấy “xa lạ, ghê tởm” trước người chồng, lần thứ hai nó vẫn lạnh ngắt dù
cho Hậu đang ở trong vòng tay ấm của người đàn ông tâm thần, lần thứ ba nó thấy tỉnh
bơ, “lặng như tờ” khi gặp lại người chồng, nhưng khi gặp Nhâm thì nó “nhót lên một
cái”, nó sống lại những nhịp đập mạnh mẽ, sung sướng pha chút ngạc nhiên. “Một trái
tim khô” gợi lên cho chúng ta một hành trình nội tâm của nhân vật, vượt qua nỗi đau
để cập bến bờ bình yên nhưng không thành, gợi chút gì xót xa, nuối tiếc cho nhân vật
và một thoáng tức giận, mỉa mai cho số phận trớ trêu lúc nào cũng chực chờ để đùa cợt
con người.
Trong chùm truyện chúng tôi đã chọn, truyện ngắn “Một mối tình” là truyện
mang nhiều dáng dấp và đặc điểm của kiểu truyện không có cốt truyện của Thạch Lam
nhất. Nó đơn giản đến mức chẳng có gì để kể ngoài một điều: Đây là một mối tình
thầm lặng mà dữ dội của nhân vật “tôi”, với khát khao cháy bỏng được làm vợ người
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
66
mình thương, được sống một cuộc đời đơn giản mà hạnh phúc trong căn nhà xưa cũ kĩ.
Những cái gọi là “sự kiện nội tâm” của nhân vật chủ yếu xoay quanh những tình cảm
của nhân vật “tôi” dành cho Trọng. Tâm lý nhân vật không phức tạp và cũng không có
sự chuyển biến dữ dội nên cốt truyện khá lỏng lẻo, nhưng nó có độ nén do hình ảnh căn
nhà xưa của Trọng được nhắc đi nhắc lại, được “nhớ dằn nhớ vặt” trong tâm thức của
nhân vật “tôi”. Dòng nội tâm của nhân vật cứ đều đặn trôi chảy và cuối cùng “tức nước
vỡ bờ” trước sự lạnh lùng đè nén của người đàn ông đành bất chợt tuôn ra không kiềm
chế nổi.
“Một chuyện hẹn hò” là truyện ngắn có chuyện để kể, thậm chí nhiều là đằng
khác: chuyện hẹn hò, chuyện ơ cá kho, chuyện cơn bão, chuyện tình của Cóc rồi
chuyện cái chết của một người mẹ ngoài đầm vì bão…, trong đó có chuyện người biết,
có chuyện chỉ có Cóc biết, chứng nhân duy nhất với vai trò là người dẫn chuyện tài
tình. Cũng có thể gọi đây là một truyện ngắn-trữ tình hóa bởi toàn bộ truyện ngắn hầu
như là những đoạn đối thoại, độc thoại nội tâm của nhân vật Cóc và những diễn biến
tâm trạng thay đổi nhanh như bão táp của người đàn bà. Cốt truyện là một chuỗi độc
thoại nội tâm của Cóc, từ khi người đàn bà và người đàn ông bắt đầu cuộc hẹn hò, rồi
biến cố xảy ra, rồi người đàn bà bất ngờ nhảy xuống đầm rộng bất chấp gió to, sóng
lớn và cơn bão phía trước. Tài năng của Nguyễn Ngọc Tư là ở chỗ nắm bắt tâm lý nhân
vật một cách tài tình, gần như đạt đến độ thấu cảm nhưng giọng kể vẫn đạt đến độ tỉnh
táo và lạnh lùng cần thiết.
Trở lại với nhận định cốt truyện của Nguyễn Ngọc Tư nhiều khi đơn giản chỉ là
một nét tâm trạng của nhân vật, nhưng dưới ngòi bút của chị nó đủ độ “dày” để làm
nên một truyện ngắn hoàn chỉnh và chất lượng. Thí dụ như có gì để kể trong truyện
ngắn “Giao thừa”, ngoài vài dòng giới thiệu ngắn gọn là có một cô tên là Đậm bán dưa
Tết ngoài phố có một đứa con vì lỡ lầm, cô được một người hàng xóm tên Quý chạy xe
lam giúp đỡ, rồi cả hai cùng trở về nhà trong đêm giao thừa và chính vào thời khắc
thiêng liêng đó Quý đã mạnh dạn bày tỏ tình cảm khi trong Đậm cũng đang dâng lên
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
67
một khao khát được ai đó yêu thương. Lượng thông tin cung cấp về cuộc đời của nhân
vật Đậm và gia thế của nhân vật Quý rất mờ nhạt, nổi bật trong toàn bộ truyện ngắn
này chính là “tâm trạng” và “cảm xúc” của từng nhân vật và của các nhân vật với nhau
qua từng thời điểm. Truyện tưởng như không có gì để kể mà hóa ra lại cho ta rất nhiều
điều thú vị nếu ta biết nương theo những diễn biến tình cảm của nhân vật mà tóm lấy
thần thái của câu chuyện nhẹ nhàng như một làn khói đốt đồng này.
3.1.1.2. Chi tiết hấp dẫn
Chi tiết nghệ thuật là:“Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm
xúc và tư tưởng […] tuỳ theo sự thể hiện cụ thể chi tiết nghệ thuật có khả năng thể
hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm hội
tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm…” [18, tr.41-42]. Nguyễn Ngọc Tư cũng là một
nhà văn rất tinh tế trong việc lựa chọn và sáng tạo chi tiết, do đó tuy những truyện của
chị thường chỉ xoay quanh cuộc sống sinh hoạt trong gia đình, làng xóm nhưng vẫn
không tạo cho người đọc cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Nét đặc trưng của truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư là trong những câu chuyện đời thường luôn có những “chi tiết phát
sáng” làm nên giá trị cho tác phẩm và chúng ta có thể xem những chi tiết như thế là
những chi tiết có tính nghệ thuật hàm chứa rất lớn cảm xúc và tư tưởng của tác giả.
Như truyện “Huệ lấy chồng”, rõ ràng là không có gì để nói ngoài chuyện Huệ lấy
chồng, tất nhiên, nhưng đến đoạn cuối chỉ nhờ vào một chi tiết mà người đọc nhận ra
Huệ không rắn rỏi như nó thể hiện khi ngay buổi sáng đám cưới nó lại tần ngần muốn
ghé nhà Thi để nói cho anh biết là nó quên anh thiệt rồi. Chỉ một chi tiết nhỏ xíu,
dường như là “tưng tửng” của nhân vật nhưng lại có sức mạnh “xoay chuyển” như thế.
Hay một chi tiết “phát sáng” khác trong truyện “Cái nhìn khắc khoải”, ấy
chính là khoảnh khắc ông lão khi đang quay lưng (vì sợ phải đối diện với sự thật là
người phụ nữ đó đã đi rồi) bỗng “ông không nén được mắc ngoái nhìn” vì nghe “Gió
lùa lao xao trên những tàu lá chuối. Tiếng lá khô vỡ giòn giống hệt bước chân ai vậy”.
Chính chi tiết đó đã “lật tẩy” ông già, phơi bày ra ánh sáng tình cảm yêu thương mà
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
68
ông đã ra sức che giấu đối với người phụ nữ. Chính “cái nhìn khắc khoải” đã tạo nên
thần thái của ông già và nội tâm của ông bộc lộ rõ ràng nhất, dữ dội nhất ngay trong
ánh nhìn yêu thương như mong chờ, như tuyệt vọng đó. Có lẽ đó cũng chính là lý do vì
sao Nguyễn Ngọc Tư chọn chi tiết này là tựa đề cho cả truyện ngắn.
Xem xét hơn bốn mươi truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta dễ dàng
phát hiện nhiều chi tiết đơn giản mà hết sức đắt giá bởi nó mang tính chất như là một
“biến cố” ác liệt góp phần làm biến đổi câu chuyện. Như chi tiết: “Trời ơi! Anh! Ai lấy
xuồng mình rồi. Mất hết rồi.” trong truyện ngắn “Một chuyện hẹn hò”, bởi từ sự cố đó
người đàn ông sẽ bộc lộ sự hời hợt, vô tâm của mình đối với người đàn bà, và cũng từ
chuyện xuồng trôi đâu mất mà người đàn bà sẽ liều mình trở về nhà, bất chấp cái chết,
để bảo toàn danh dự cho con. Hay chi tiết ánh dao loé lên trong đêm tối ở cua Bún Bò,
tuy không giết chết được Hậu, nhưng đã giết chết trái tim, tình yêu và hạnh phúc của
chị trong truyện “Một trái tim khô”.
Cũng có những chi tiết không có tác dụng làm biến đổi mạch truyện, nhưng nó
lại có tác dụng khắc họa tính cách, nội tâm và tình cảm của nhân vật. Nhân vật Phi
trong truyện ngắn “Biển người mênh mông” cảm nhận được ông Sáu Đèo là người
thương và lo cho mình thật sự chỉ bởi những chuyện hết sức nhỏ nhặt như nhắc chừng
Phi con cá bị mèo ăn vụng, nhắc Phi cắt tóc, nhắc Phi đừng uống rượu nhiều và trân
trọng anh như một người nghệ sĩ.
Có ý kiến cho rằng truyện ngắn “Lương” của Nguyễn Ngọc Tư mang rất nhiều
phẩm chất của điện ảnh khi chị bắt chụp ngoại hình của nhân vật Lương hết sức tài tình
chỉ bằng những nét miêu tả sắc, gọn, lạnh mà có thể làm nổi lên được tính cách thật sự
ẩn giấu đằng sau vẻ ngoài ngờ nghệch mà ai cũng cho là “khùng” của anh. Trong hàng
loạt những chi tiết được nêu ra hết sức dồn dập ngay từ những đoạn mở đầu, chúng tôi
đặc biệt chú ý chi tiết: “Lương khoái cặp mắt mất đoàn kết của mình lắm, người ta
nhìn anh biết, chứ anh mà nhìn lại, người ta tưởng anh ngó đâu đâu.”. Và cũng chỉ có
con mắt “lạ lùng” của một con người “lạ lùng” mới có thể khiến Lương không giống
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
69
như bao người đàn ông khác coi Bông là món đồ chơi, Lương nhìn “Bông là Bông, là
con gái, là người.”
Đôi khi, Nguyễn Ngọc Tư cũng gây ngạc nhiên cho người đọc khi che giấu tính
cách và tình cảm của nhân vật một cách tài tình, phải trải qua một sự kiện nào đó thì nó
mới được bộc lộ. Thí dụ như ông Mười trong truyện ngắn “Mối tình năm cũ” bị nhiều
người ác cảm và hiểu sai về ông bởi: “với cái tính lầm lì, lạnh lùng, ít nói, có nói cũng
chậm rãi, hưỡn đãi rất khó bộc bạch mình trước người của ông”. Nhưng cho đến khi
dì Thấm khóc nức nở, đầy đau đớn, quay quắt, rũ kiệt như “cọng rạ cuối nắng” trước
máy quay,“mọi người xúc động, hỉ mũi rột rẹt nhưng không ai bước ra dỗ cho dì nín”
thì ông Mười bỗng xuất hiện với cái khăn rằn lau nước mắt cho dì, ông không nói gì
hết duy “khuôn mặt bì sì của ông hơi dúm lại, dường như ông cũng đau lắm, xót lắm”.
Và thế là tất cả những ai có mặt trong buổi quay phim đó buộc phải suy nghĩ về “một
chiếc khăn, một bàn tay thô, một tấm lưng rộng” của ông như là một “pháo đài” vững
chắc bảo bọc cho dì Thấm.
Nguyễn Ngọc Tư cũng thật tinh tế khi phơi bày sự thèm khát tình thương và
nhung nhớ loài người của bọn trẻ sống đời du mục trong truyện “Cánh đồng bất tận”,
khi để chúng từng giờ từng phút thèm khát được trồng dù chỉ một cái cây, thèm có nhà,
thèm có ông nội để thương, thèm được vẫy tay chào mọi người trước lúc ra đi, thèm
được yêu thương và quyến luyến ai đó một cách thành thật, nhưng đời sống của tụi nó
lại buộc tụi nó không được yêu thương ai hết để khỏi phải ngậm ngùi lúc dứt áo ra đi.
Chị cũng rất tài tình trong việc sáng tạo và sắp đặt những chi tiết mang tính chất
dự báo một điều gì đó trong truyện ngắn của mình. Đơn cử như trong “Cánh đồng bất
tận”, sự trừng phạt dường như bắt đầu từ việc “thiên nhiên ngày càng trở nên hung dữ
hơn, khắc nghiệt hơn” với “Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như
tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn.”, hay sự bất thường của Điền,
những sấm chớp gầm gừ của trời đất, những cánh đồng cạn kiệt và mặn chát, rồi bệnh
cúm gia cầm tràn lan khắp đồng bằng…Tất cả như tất bật dựng nên một tấm phông nền
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
70
cho biến cố dữ dội của Nương lúc cuối truyện. Nguyễn Ngọc Tư cũng tuyệt vời trong
những đoạn tả quang cảnh trước cơn mưa ở một miền quê ven núi, dự báo trước được
cơn “Núi lở” qua hình ảnh: “một con gà trống tuyệt vọng tìm mồi trên sân, mỏ nó dội
vào đá nghe tê rần”, “con chó nằm gần đó sủa những tiếng rời”, hay “con nhồng nhảy
nhót hoang mang, dã dượi trong lồng”, và có rất nhiều gió làm cho “những nhánh
bằng lăng bị quăng quật làm bông bằng lăng bay tả tơi”…Tất cả đều gợi lên một điều
gì đó bất thường, dữ dội và khủng khiếp sắp xảy ra bởi sự thay đổi của các con vật và
cảnh vật gây cho con người một cảm giác bất an, một dự cảm mơ hồ chết chóc, đó
cũng là lý do vì sao “ánh mắt nói rằng thằng bé rất bồn chồn”. Và cuối cùng là núi lở.
Có một điều rất dễ nhận thấy, nếu phân chia theo quan điểm “truyền thống”,
“câu chuyện” trong đa số truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư được kể theo trình tự thời gian,
hoặc là theo diễn biến hay hồi ức tâm trạng của nhân vật, chứ ít khi có sự đảo lộn trình
tự kể chuyện hay “phân mảnh” câu chuyện một cách chủ tâm như cách viết hiện đại
vẫn làm. Chính vì thế có nhiều ý kiến cho rằng những “câu chuyện” của chị khá đơn
điệu, hiền lành, nhàn nhạt, quen quen…bởi nó không được kể bằng những phương
pháp mới mẻ có thể đánh lạc hướng độc giả hoặc gây sốc. Tuy nhiên, nên chăng chúng
ta cần có những nhận định công bằng và bình tĩnh hơn dành cho chị. Nếu hiểu nôm na
“cốt truyện” của một tác phẩm văn xuôi nói chung chính là việc “câu chuyện” của nó
được kể như thế nào, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra đối với Nguyễn Ngọc Tư, câu
chuyện sẽ diễn ra như là nó phải thế trong chính lôgic nội tại của mình. Hơn nữa,
những “chuyện” khiến chị quan tâm là những câu chuyện nông thôn giản dị, những số
phận mà dẫu có sóng gió gian truân thì họ vẫn cam chịu một cách bình thản, âm thầm
nên đâu có gì giật gân hay đáng để lập lờ che giấu. Cốt truyện Nguyễn Ngọc Tư hấp
dẫn ở chỗ nó gây ngạc nhiên chính bởi sự hồn nhiên, gây cảm giác lạ lẫm bởi chính sự
quen thuộc của mình.
Có thể nói không ngoa, chi tiết đắt giá là những mảng màu nhỏ làm nên bức
tranh đặc sắc là tác phẩm nếu nó được đặt đúng chỗ và hoàn thành tốt vai trò của mình.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
71
Riêng đối với truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, những truyện ngắn giản dị kể về những
câu chuyện cũng giản dị, thì sự đòi hỏi phải có những chi tiết đắt giá để làm bùng nổ
hoặc khắc họa nhân vật là một điều có ý nghĩa sống còn. Những chi tiết ấy đắt không
phải ở độ phức tạp hay lạ lẫm, mà giá trị ở chỗ đó là những hành động, những lời nói,
những dấu hiệu…hết sức bình thường nhưng lại có khả năng làm rúng động tâm hồn
chúng ta bởi sự xuất hiện đúng lúc, đúng chỗ, cứ như thể nếu thiếu đi những chi tiết đó
thì hồn vía của tác phẩm ít nhiều mất đi giá trị của mình.
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống
Tình huống truyện hiểu nôm na là một duyên cớ, một nguyên nhân nào đó mà
dựa vào đấy tác giả có thể triển khai câu chuyện của mình. Vì thế, khi lựa chọn được
một tình huống đặc sắc thì xem như tác giả đã có được một bộ khung lý tưởng để từ đó
triển khai toàn bộ tác phẩm của mình. Xem xét truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng
tôi nhận thấy bên cạnh tài năng khám phá những điều mới lạ từ những sự kiện đời
thường, khả năng mô tả tâm lý nhân vật một cách điêu luyện thì Nguyễn Ngọc Tư cũng
khá xuất sắc trong việc tạo ra những tình huống trớ trêu, những nút thắt bất ngờ.
Những tình huống trong truyện của chị thường không phải là những xung đột xã hội dữ
dội về mặt tính cách giữa các nhân vật, mà đó thường là những tình huống mang tính
chất gần gũi, đời thường nhưng khá trớ trêu và cay nghiệt.
3.1.2.1. Tình huống tâm lý
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy đa phần tình huống trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư là tình huống tâm trạng, mà Nguyễn Kiên gọi là những tình huống-
tâm lý, nghĩa là nhà văn thường đặt nhân vật của mình vào những va chạm mang tính
chất đời thường, những xung đột tình cảm mang tính chất riêng tư nhiều hơn là những
xung đột mang tầm vóc xã hội. Loại tình huống này thường gặp trong những truyện
ngắn tưởng như không có cốt truyện của Nguyễn Ngọc Tư, nghĩa là những truyện ngắn
không thu hút người đọc bởi cốt truyện mà ở chính sự phân tích tâm lý sâu sắc của nó,
ở giọng văn tâm tình gần như không có khoảng cách giữa nhân vật và người đọc. Tình
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
72
huống tâm lý trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư tương đối khó nhận diện bởi nó
thường được che giấu hoặc khá mờ nhạt, tuy nhiên đó lại chính là khối thuốc làm bùng
nổ cả câu chuyện. Ở một số truyện tiêu biểu như: “Nhà cổ”, “Cải ơi” hay “Nước chảy
mây trôi”... chúng ta thấy Nguyễn Ngọc Tư có lối tạo tình huống gần giống như Thạch
Lam trong những truyện ngắn xuất sắc như “Dưới bóng hoàng lan” hay “Gió lạnh
đầu mùa”... với những nhân vật có những diễn biến tâm lý hay sự chuyển hóa tâm
trạng hết sức tinh tế, nhẹ nhàng, giàu chất thơ. Và giá trị nghệ thuật của những truyện
ngắn kiểu như thế không chỉ là ở phần “chuyện”, mà còn ở cách khám phá và giải mã
thế giới tâm hồn hết sức vi diệu và bí ẩn của nhà văn trong tác phẩm.
Ý thức được vai trò quan trọng của tình huống đối với thể loại truyện ngắn, mà
theo nhà văn Nguyên Ngọc là “...thủ thuật chủ yếu của truyện ngắn là thủ thuật điểm
huyệt. Trên cơ thể con người cũng như trên cơ thể cuộc đời, có những huyệt điểm nào
đó, có thể làm rung động tất cả. Truyện ngắn nhằm vào đó. Truyện ngắn điểm huyệt
thực hiện bằng cách nắm bắt trúng những tình huống cho phép phơi bày cái chủ yếu
nhưng lại bị che giấu trong muôn mặt cuộc sống hằng ngày” (Nguyễn Minh Châu
(2000), Trang giấy trước đèn, NXB Văn học) nên chúng tôi tạm chia những tình
huống-tâm lý trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thành những kiểu như:
- Tình huống chối bỏ
- Tình huống đi tìm - Tình huống trò đùa (hay trò chơi)
- Tình huống “yêu thầm”
a. Tình huống chối bỏ
Chúng ta có thể tìm thấy tình huống chối bỏ trong những truyện ngắn như: Làm
má đâu có dễ,, Chuyện của Điệp, Duyên phận so le... Sự chối bỏ trong những truyện
ngắn này thường là tình huống một người mẹ vì một lý do nào đó như theo đuổi sự
nghiệp làm đào hát mà đành lòng bỏ con ở lại với ông bà. Như trong truyện ngắn “Làm
má đâu có dễ”, chị Diệu sau khi bôn ba nửa đời người để thực hiện giấc mơ làm đào
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
73
hát nổi tiếng đã quyết định về quê sau khi bất chợt nhận ra tuy đã thành công trên sân
khấu nhưng ngoài đời mình đã thất bại ê chề. Chỉ vì say mê nghiệp diễn mà chị phải trả
một cái giá quá đắt khi vừa có lỗi với má lại vừa có lỗi với con, bề nào cũng không trọn
vẹn. Có lẽ chị Diệu sẽ không bao giờ nhận ra được “thảm cảnh” trong quan hệ mẹ con
của mình nếu như không có cuộc trò chuyện với Thu Mỹ, chính cô bé đã khiến chị
quyết định: “về nhà để làm con của má, làm má của con”. Nguyễn Ngọc Tư thường
xây dựng trong truyện ngắn của mình những tình huống éo le kiểu như vậy, đào Hồng
trong truyện ngắn “Cuối mùa nhan sắc” cũng là một trường hợp tiêu biểu. Những
người phụ nữ trót say mê ca hát thường phải đánh đổi cả tình yêu và hạnh phúc của
mình cho sự nghiệp, vô tình biến mình thành nhân vật bị chối bỏ, nhân vật phải mất
nửa đời người mới cay đắng nhận ra: “làm má khó hơn làm nữ vương, nữ tướng
nhiều.”
“Duyên phận so le” lại xây dựng một tình huống éo le khác: Xuyến mới 17 tuổi
đã bỏ nhà theo người yêu, 18 tuổi bị phụ rẫy khi đã có một đứa con, đành cắn răng đem
cho vì sợ mình quá nghèo sẽ làm khổ đời nó. Nhưng bản năng làm mẹ lại không cho
phép Xuyến đoạn tuyệt hẳn với con mình. Cũng vì đứa con mà Xuyến cam chịu làm
nhân viên phục vụ nhà hàng để khách hôn hít, nắm tay; cam chịu nhìn Khởi, người
mình yêu, ôm hận ra đi; cam chịu nhìn anh Năm Già, người yêu mình, cũng lặng lẽ ra
đi nốt. Xuyến đã chối bỏ hạnh phúc của mình chỉ vì đứa con, hậu quả của sự nhẹ dạ
đầu đời. Câu chuyện được kể theo kiểu “nửa kín nửa hở” gây tò mò rất nhiều cho
người đọc cho đến khi sự thật được phơi bày một cách bất ngờ ở cuối truyện.
“Đời như ý” (tên một truyện ngắn) hay là không như ý? Câu trả lời nằm ở quyết
định ly tán gia đình của chú Đời chứ không đâu xa. Chẳng phải vì tin có chuyện “đời
như ý” nên chú mới đặt tên cho hai đứa con như thế? Có thể xem tình huống tan đàn sẻ
nghé của nhân vật Đời là minh chứng cho luận đề của tác giả “Đời không như ý”. Đó là
một sự lựa chọn nghiệt ngã vì lý do sinh tồn của một con người tật nguyền, luôn tin
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
74
tưởng vào cuộc đời và bản thân mình nhưng cuối cùng mới cay đắng nhận ra mình bất
lực trước quy luật khắc nghiệt đó.
Tóm lại, những tình huống chối bỏ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
không mấy gay gắt và kịch tính, nhưng đó chính là duyên cớ để tác giả thâm nhập vào
những diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật. Những chi tiết đặc sắc sẽ tạo nên những
tình huống éo le và từ đó phát sinh những đấu tranh nội tâm phức tạp của nhân vật, dẫn
tới những hành động bất ngờ thúc đẩy mạch truyện một cách hợp lý từ đầu đến cuối.
b. Tình huống đi tìm
Kiểu tình huống “đi tìm” cũng là một kiểu tình huống thường thấy trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Đặc điểm chung của kiểu tình huống này là nhân vật chính vô
tình đánh mất một tình cảm thiêng liêng nào đó, hay vì một nhu cầu bức bách nào đó
phải tìm gặp cho được một người nào đó, dù phải trả giá như thế nào. Xúc động nhất là
trường hợp của ông Năm Nhỏ trong truyện ngắn “Cải ơi”, bị mang tiếng oan là giết
con riêng của vợ, suốt 12 năm trời ông lặn lội khắp nơi, làm đủ thứ nghề, tìm đủ mọi
cách để nhắn tìm con (kể cả cố tình ăn trộm trâu để được lên truyền hình). “Cải ơi” là
tiếng kêu xé lòng của người cha đã cố gắng đến tuyệt vọng để một lần nhìn thấy mặt
con nhưng kết thúc truyện lại là một dấu chấm lửng. Đường về nào dành cho ông Năm
Nhỏ? Đó cũng chính là trăn trở của mỗi chúng ta khi dõi theo hành trình đi tìm của
nhân vật.
Nếu ông Năm Nhỏ bán kẹo kéo để rao tìm con thì ông Sáu Đèo trong truyện
ngắn “Biển người mênh mông” lại rong ruổi bán vé số khắp nơi, lang thang không
biết qua bao quê chốn để tìm vợ (người mà trong một phút nóng giận ông đã lỡ đánh
đập đuổi đi). Ông già sống triền miên trong nỗi ân hận và mong chờ một ngày “cổ” trở
lại. Để rồi trên hành trình tìm lại hạnh phúc ấy của mình ông gặp Phi, một người
thương ông chân thành. Nhưng câu chuyện bị bỏ lửng khi ông Sáu Đèo từ biệt Phi qua
nơi khác để tìm vợ. Tuổi thì già, đường thì xa, tăm hơi người vợ thì hun hút, mà biển
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
75
người thì mênh mông nên hành trình của ông Sáu Đèo càng trở nên tuyệt vọng hơn bao
giờ hết.
Khác với hai ông già đi tìm người thân trong hai truyện ngắn trên, ông Ba Già
trong truyện ngắn “Lỡ mùa” lại đi tìm ông Chủ tịch tỉnh hay nói đúng hơn là tìm ý
kiến của ông chủ tịch về vụ Trảng Cò có được làm ruộng trở lại hay không. Thoáng
nghe qua thì thật nực cười, bởi thường người ta nói đi tìm công lý, đi tìm người thất lạc
chứ mấy ai lại đi tìm quyền làm ruộng. Thế nhưng chính sự trớ trêu đó lại là “nét
duyên” cho tình huống đi tìm này. Những trang văn miêu tả tỉ mỉ hoàn cảnh đáng
thương của đoàn người Trảng Cò, cộng với chi tiết “Và cơn mưa tới” lúc gần sáng đã
vỡ oà trong nhân vật Ba Già một nỗi tuyệt vọng lớn lao, khiến ông không kiềm được
mà “bỗng dưng hức lên khóc ngon lành: Vậy là đất Trảng Cò trễ thêm một mùa nữa
rồi, mấy chú ơi.”. Có thể nói không ngoa truyện ngắn “Lỡ mùa” sở dĩ thành công
trước tiên là do tác giả đã lựa chọn được một tình huống thật khéo, nhập thân gần như
trọn vẹn vào tâm tư, nỗi niềm của những con người chốn ruộng đồng nên tạo được cho
người đọc một sự đồng cảm với những con người nhỏ bé, bị lãng quên bên lề cuộc
sống. Và cũng giống như bao cuộc hành trình khác, hành trình bắt kịp mùa lúa này
nhuốm rất nhiều màu sắc vô vọng, nếu không muốn nói là tuyệt vọng khi nó kết thúc
bằng một tiếng khóc tức tưởi .
c. Tình huống “yêu thầm”
Nhiều bài viết về truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đều cho rằng về mặt nội
dung, truyện ngắn của chị đa phần là những vấn đề hết sức gần gũi với cuộc sống đời
thường, đặc biệt là những mối tình nông thôn hiền lành, lặng thầm, trắc trở. Cô gái trẻ
miệt Cà Mau ấy rất có tài thâm nhập vào những góc khuất của những mối tình quê để
đau thật sâu với những nỗi buồn của họ. Những “trường hợp” lỡ làng trong truyện ngắn
của chị là những tình huống rất đỗi bình thường, dễ bị che lấp giữa bộn bề cuộc mưu
sinh, nếu như không có một tấm lòng và sự đồng cảm sâu sắc thì người ta rất khó nhận
ra. Những tình huống “yêu thầm” của chị đặc sắc không bởi những chi tiết gây sốc, giật
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
76
gân mà đặc sắc ở những dòng tâm trạng, độc thoại nội tâm. “Một mối tình” là một
truyện ngắn có kiểu tình huống tâm lý như thế. Dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi” trở
về nhà sau một mùa lưu diễn bắt đầu khi nhớ về thời thơ ấu lúc mới biết yêu Trọng.
Miên man theo những cảm xúc ấy là nỗi khát khao cháy bỏng trong lòng chỉ chực chảy
tràn ra thành lời mà sao vẫn nghẹn ngào của nhân vật “tôi. Chỉ có vậy, có thể không
đáng gọi là một tình huống truyện, nhưng đối với một tác giả giỏi nghề thì chỉ cần một
khoảnh khắc, một nét tâm trạng cũng là một duyên cớ để tác giả xây dựng nên tác
phẩm.
“Nhà cổ” cũng là truyện ngắn viết về hai mối tình câm, tình huống éo le ở đây
là hai anh em cùng để lòng thương một người con gái nhưng người em đã nín lặng ra đi
để anh mình được hạnh phúc, và một người con gái hàng xóm cũng thương thầm người
em từ lâu nhưng không nói, giả bộ đóng cho tròn vai một người em gái vô tư. Tất cả
những tình cảm thâm trầm và bền bỉ ấy gắn chặt với không gian là một căn nhà cổ, tuổi
thọ đã mấy trăm năm, cũ kĩ, rệu rã, không biết sẽ đổ sập ngày nào nhưng ai cũng muốn
níu giữ, nâng niu nó như một báu vật, cứ như nếu để nó mất đi thì không còn gì để níu
giữ tình cảm anh em, không còn gì để nói với nhau, không còn gì để ràng buộc nhau.
Nguyễn Ngọc Tư hay chú ý đến những tình huống người ta nhiều khi phải cắn
răng xa người mình thương vì chính tình yêu thương ta dành cho họ, vì chính tình yêu
đối với họ ta đành ngậm ngùi đóng vai diễn không mong muốn của đời mình. Những
nhân vật rơi vào những tình huống chẳng đặng đừng, muốn thương mà không thể
thương ấy trong những truyện ngắn của chị, đều chọn giải pháp ra đi. Như Diệp yêu
thầy Nhiên nhưng thầy lại yêu mẹ Diệp, vì thương mẹ, thương thầy nên Diệp muốn đi
xa bởi: “Nếu phải đi xa để những điều tốt đẹp còn nguyên lành mãi thì cũng đáng lắm
chứ”. Tình huống vì yêu mà ra đi trong truyện ngắn “Nước chảy mây trôi” này ngẫm
kĩ lại không “nước chảy mây trôi” chút nào bởi nhân vật rất ý thức trong việc lựa chọn
và trả giá để có được hạnh phúc và bảo vệ hạnh phúc cho những người mình yêu
thương.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
77
d. Tình huống trò đùa (hay “trò chơi”)
Nguyễn Ngọc Tư cũng rất khéo léo trong việc xây dựng tình huống “trò chơi”
trong các truyện ngắn của mình, tiêu biểu như truyện ngắn “Trò chơi quên nhớ” hay
“Ngày đùa” khiến người đọc phải cười ra nước mắt. Chẳng hạn như với truyện ngắn
“Ngày đùa”, người đọc không nghĩ mình đang dấn thân vào một tình huống nguy hiểm
cùng nhân vật bởi sự thật bối cảnh của câu chuyện đúng là ngày Cá Tháng Tư, ngày mà
người ta tha hồ đùa cợt, lừa dối nhau mà không bị trách cứ. Nhưng có ngờ đâu “ngày
đùa” của mọi người đã trở thành ngày chết của một người, ngày kết thúc của một tình
yêu kìm nén mười năm giữa hai người nghệ sĩ, hàng ngày vẫn đóng những vai yêu
nhau say đắm trên sàn diễn mà người đàn ông tiếc thay không dám yêu thật ngoài đời.
Đến khi sống thật với khao khát của mình thì lại vô tình giết chết người mình yêu bằng
một trò đùa quái ác. Phương đã vĩnh viễn mất đi cơ hội “nói thật” bởi anh đã đùa quá
nhiều trong những lúc mà con tim kêu gào những khát khao rất thật. Chính tình huống
trò đùa tai quái và “sự thành công tuyệt hảo” của nó đã tạo nên màu sắc bi kịch cho câu
chuyện tình yêu mà lẽ ra nó đã phải rất đẹp. Tình huống này từ đầu đã dự báo một
truyện ngắn kết thúc dở dang, không có hậu như đa phần những sáng tác khác của
Nguyễn Ngọc Tư.
Nhìn chung, đa phần truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư được xây dựng từ
những tình huống tâm lý, hay nói cách khác là lấy tâm trạng của các nhân vật làm tâm
điểm cho việc xây dựng tác phẩm của mình. Những tình huống tâm lý đặc sắc trong
một số truyện ngắn chứng tỏ Nguyễn Ngọc Tư rất tài tình trong việc phơi bày những
tình cảm che giấu của nhân vật, khám phá tính cách thật của họ, để cùng họ phiêu lưu
vào thế giới nội tâm sâu thẳm của mình. Và kiểu tình huống tâm lý này hấp dẫn người
đọc cũng bởi sự chậm rãi và nhẹ nhàng, không bộc phát, không nhiều xung đột gay gắt
của nó.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
78
3.1.2.2. Tình huống tượng trưng
Tình huống tượng trưng theo quan niệm của Bùi Việt Thắng là: “kiểu tình
huống trong đó cái ý nghĩa của hình tượng, sự bộc lộ chủ đề rất kín đáo, thậm chí có
khi bị phủ một lớp sương mờ huyễn hoặc. Theo nghĩa rộng thì tượng trưng là hình
tượng được biểu hiện ở bình diện ký hiệu, là ký hiệu chứa tính đa nghĩa của hình
tượng, phạm trù tượng trưng nhằm chỉ cái phần mà hình tượng vượt ra khỏi chính nó,
chỉ sự hiện diện của một nghĩa nào đó vừa hòa với hình tượng, vừa không đồng nhất
hoàn toàn với hình tượng.” [74]. Và cũng bởi đặc điểm này của hình tượng tượng
trưng nên việc tiếp cận nó không dễ chút nào, bởi “nghĩa của tượng trưng là cái không
thể giải mã chỉ bằng nỗ lực lý trí, nó đòi hỏi sự thâm nhập” [74]. Do vậy người đọc
muốn nhận ra tình huống tượng trưng đòi hỏi phải tiêu tốn rất nhiều năng lực cảm nhận
thì mới chạm đến được tầng ý nghĩa sâu xa của nó. Tình huống tượng trưng không phải
là loại tình huống tiêu biểu trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, tính đến nay
chúng tôi chỉ nhận thấy có hai truyện ngắn có chứa đựng tình huống kiểu này, đó là
truyện “Núi lở” và “Những cây sầu trên đỉnh Puvan”, với sự xuất hiện của hai hình
ảnh tượng trưng là núi lở và cây sầu có tên Latinh là Oghdgerygwbbvchfhgfdutvyt nở
hoa với “Những đóa hoa sầu đẹp đến nỗi đáng đánh đổi cả cuộc đời người để được
trông thấy chúng dù chỉ một lần” mang nhiền hàm nghĩa ngụ ngôn hiện đại. Nếu như
núi lở tượng trưng cho sự đổ vỡ những giá trị đạo đức, sự rạn nứt của những mối quan
hệ giữa người với người, thì hình tượng những cây sầu với những đóa hoa lạ kì chỉ nở
trong điều kiện khắc nghiệt và độc ác nhất đối với con người lại là nguyên cớ để một
người phải chết sau khi đã chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó, đã thỏa mãn những khao khát
chinh phục cái đẹp phi nhân của mình. Những cây sầu không giết người, nhưng việc nó
nở hoa là tai họa với con người (bởi cây sầu chỉ nở hoa sau khi nắng hạn kéo dài suốt
mười ba tháng), cái đẹp của nó được tạo nên từ sự chết chóc và bất hạnh. Phải chăng vì
là một con người ích kỉ và vô tâm với đồng loại nên sau khi chứng kiến được vẻ đẹp
tuyệt mỹ của những bông hoa sầu, Vĩnh đã bất chợt nhận ra sự trống rỗng và vô nghĩa
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
79
của đời mình. Những bông hoa sầu còn là hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp mang tính
hủy diệt, một vẻ đẹp chết chóc và thù địch với con người. Chọn tình huống một người
chinh phục được ước mơ, chứng kiến được vẻ đẹp của những bông hoa huyền thoại để
rồi không bao giờ trở về, Nguyễn Ngọc Tư muốn gởi gắm một thông điệp: con người
nếu sống không có tình thương, chỉ biết chạy theo những vẻ đẹp phù du, ích kỉ thì sớm
muộn gì cũng phải trả giá cho sai lầm của mình.
“Núi lở” là một câu chuyện kể về dự án làm phim nhưng phim phải kể về núi và
núi nhất định phải lở chỉ trong một buổi chiều, lở đến cụt ngọn. Nhưng tại sao lại phải
như vậy? Núi phải lở để phơi bày tất cả sự lở lói trong lòng người, sự lạnh lùng, nhẫn
tâm của con người trong giây phút quyết định giữa sống và chết, núi phải lở để thiên
nhiên lên tiếng bằng tất cả sự cuồng nộ của mình, núi phải lở để chúng ta biết được đâu
đó trên đời vẫn tồn tại những con người “đang rú lên mừng thoát nạn mà đã chết rồi”.
Trước hết, chúng ta cần nhìn nhận, “núi lở” trong truyện ngắn này là một tình huống kỳ
dị và có lẽ là không có thật, nó mang ý nghĩa ẩn dụ và tượng trưng nhiều hơn thực tế.
Chính tình huống mang nhiều màu sắc hoang đường này đã tạo nên một bầu không khí
đặc biệt cho truyện ngắn này, một chút kỳ bí, liêu trai, một chút ghê sợ và thấp thỏm.
Nó là một tình huống mở, gợi nhiều trăn trở cho người đọc khi khám phá các tầng ý
nghĩa của tác phẩm. Tình huống “núi lở” ở đây có thể xem như là một khối thuốc nổ
được giấu kín giữa câu chuyện, để rồi bất ngờ bộc phát buộc các nhân vật phải hành
động để phơi bày bản chất của mình.
Nhìn chung, kiểu tình huống tượng trưng không phải là “cánh tay thuận” của
Nguyễn Ngọc Tư trong việc kiến tạo truyện ngắn, ít nhiều những truyện ngắn có kiểu
tình huống này còn chưa giấu kín được ý đồ của tác giả đến cùng. Tuy nhiên, nét hấp
dẫn của nó chính là lớp sương mờ huyền ảo từ những hình ảnh biểu tượng lan tỏa ra
toàn bộ tác phẩm, với những nhân vật kì lạ với những hành động khó hiểu và bất ngờ
làm cho câu chuyện trở nên không thể đoán trước được. Đó cũng chính là ưu điểm của
kiểu tình huống tượng trưng.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
80
3.1.2.3. Tình huống thắt nút
Tình huống thắt nút trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư có thể hiểu như là
những tình huống khá căng thẳng do hàng loạt những sự kiện được tác giả tổ chức theo
kiểu tăng tiến mức độ nóng bỏng và ngày càng siết chặt vòng vây để giải quyết những
mâu thuẫn dồn dập và đan xiết đã được tác giả khéo léo dàn dựng. Tuy nhiên, những
tình huống thắt nút mà chúng tôi tìm hiểu (trừ “Cánh đồng bất tận”) đa phần không
phải là những xung đột xã hội gay gắt, đòi hỏi phải được giải quyết theo kiểu “một mất
một còn”, mà đó chỉ là những tình huống ứng xử tâm lý đời thường, được nhìn nhận
dưới góc độ cá nhân và sự “thắt nút” cũng được tác giả khai thác dưới khía cạnh đấu
tranh nội tâm của từng nhân vật hơn là sự mâu thuẫn giữa các tuyến nhân vật. “Mối
tình năm cũ” là một truyện ngắn có tình huống thắt nút theo kiểu như vậy. Thật ra
“mối tình năm cũ” chỉ là cái cớ để tác giả khai thác mối tình hiện tại của dì Thắm và
chồng sau là ông Mười. Thắt nút của câu chuyện nằm ở chỗ ông Mười không chịu cho
dì Thắm đi quay phim trong vai trò là người yêu của người anh hùng Nguyễn Thọ,
trong khi già trẻ trai gái trong xóm ai cũng hết lòng ủng hộ đoàn làm phim. Nỗi tức
giận của cả xã Hưng Mỹ lên đến đỉnh điểm khi đạo diễn Trần Hưng hai lần đến tận nhà
thuyết phục mà ông vẫn trơ trơ. Đến gần kết thúc truyện thì ý đồ của tác giả mới được
bộc lộ, việc gỡ nút không phải ở chỗ bộ phim cuối cùng cũng được quay xong mà là gỡ
được mối hiểu lầm bấy lâu nay về ông Mười. Những chi tiết như “một chiếc khăn, một
bàn tay thô, một tấm lưng rộng” ở phần kết thúc truyện rất đắt, khiến những ai có mặt
trong buổi quay phim ấy phải suy nghĩ về cách nhìn nhận một con người, nên chăng
tránh việc “trông mặt mà bắt hình dong”, hoặc để những thành kiến cá nhân đẩy mình
đi xa bản chất của vấn đề. Truyện được kể một cách nhởn nha như một tiểu thuyết
chương hồi với nghệ thuật che giấu và dồn nén chi tiết rất giỏi. Truyện ngắn này cũng
kết thúc thật khéo, gợi được nhiều nuối tiếc, bâng khuâng.
“Lương” hay còn có tên khác là “Bến đò xóm Miễu” cũng là một truyện ngắn
có tình huống thắt nút khá thú vị và bất ngờ. Ngay từ đầu truyện, Nguyễn Ngọc Tư đã
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
81
tập trung sức lực để dồn nén những chi tiết vẽ nên bức chân dung cuộc đời nhân vật
Lương, làm nghề chèo đò, mồ côi mồ cút, thiếu thốn tình thương, đã hơn ba mươi tuổi
rồi mà vẫn sống một mình. Rất ý thức mình vừa xấu lại vừa nghèo nên anh không “bày
đặt giận cuộc đời”, mà suốt ngày anh hệch miệng ra cười làm như vui, làm như không,
khó nắm bắt. Nên người ta không hiểu, người ta gọi anh là “Lương khùng” và Bông
cũng tưởng Lương như vậy. Rồi câu chuyện được đẩy lên đỉnh điểm khi Bông bị tai
nạn, cột sống của Bông bị tổn thương nặng, một nửa chi dưới bất toại nên chỉ còn có
Lương chờ Bông về mà thôi. Và bây giờ người ta lại có cớ để củng cố thêm lý do tại
sao Lương lại có tên là “Lương khùng” khi Lương dám cưới đứa con gái vừa tật
nguyền, vừa không có khả năng làm vợ, làm mẹ, lại là đứa từng bán bia ôm, lỡ lầm đủ
thứ. Người đọc thót tim theo từng động tác thắt rồi gỡ, rồi lại thắt chặt hơn, rồi lại gỡ ra
một cách thẳng thớm, bất ngờ “như chưa từng có cuộc chia ly”. Cái hay của truyện
ngắn này là ở chỗ tuy nó kết thúc “có hậu” nhưng vẫn không sáo, nó vẫn nằm trong
lôgic của truyện. Nếu tinh ý thì người đọc sẽ không ngạc nhiên trước sự lựa chọn của
Lương, bởi khi một người đã nhận ra được vẻ đẹp của sự hy sinh mà lại không can đảm
đón nhận nó thì quả là điều đáng tiếc. Câu chuyện không làm người đọc tiếc nuối như
thế.
“Cánh đồng bất tận” có thể được hiểu như là hành trình trả thù miệt mài và
trốn tránh cuộc đời của một người chồng bị phản bội, người cha quên mất mình có
những đứa con, kéo theo đó là hành trình bị đày ải của Nương và Điền, hai sinh linh
nhỏ bé và “duy nhất” trong cuộc truy đuổi mệt nhoài, để học cách sinh tồn giữa vòng
vây trần gian mù mịt và đầy bất trắc. Đắm mình vào trò chơi báo thù tàn nhẫn với biết
bao người đàn bà, người cha bắt đầu có dấu hiệu mệt mỏi thì chị, cô gái điếm bị người
ta đổ keo dán sắt vào cửa mình, xuất hiện như một sự thách thức, một hiểm họa, báo
hiệu một điều gì đó thật dữ dội và xáo trộn sắp xảy ra bên cạnh những cơn cuồng nộ dữ
dội của thiên nhiên ngày càng vây riết và truy đuổi họ. Người đàn bà nguy hiểm và
ham hố đó tìm đủ mọi cách chinh phục trái tim chai đá của người cha, còn đứa con trai
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
82
thì theo đuổi chị trong tuyệt vọng, vòng quay tình ái đó cứ thế xoay tròn đều đặn và
bức bối, chợt tan vỡ vào giây phút định mệnh khi chị quyết định đánh đổi thân xác để
cứu bầy vịt mà người đàn ông “độc ác mười” đó vẫn dửng dưng. Chị thua cuộc và ra
đi, Điền chạy theo chị. Vậy là chỉ còn lại hai cha con trên những cánh đồng và Nương
lờ mờ nhận ra món quà mà Điền để lại, người cha đã bắt đầu quan tâm đến Nương
nhưng muộn rồi. Không còn kịp để lấy lại những ánh mắt hận thù, không còn kịp để
ngăn chặn sự ra đời của những thằng mất dạy, hằn học nhìn đời và lúc nào cũng chực
chờ “đánh chết mẹ những thằng chăn vịt”, không còn kịp để lấp đầy những hố sâu
ngăn cách cha con từ bao nhiêu năm qua, không còn kịp cho một dự định dừng lại của
người cha…Tất cả đã muộn màng bởi Nương cảm nhận giờ báo thù đã đến, giờ khắc
mà quy luật nhân quả sẽ lộ diện với bộ mặt khắc nghiệt và nhẫn tâm. Không phải đợi
đến thời khắc Nương phải trả giá, người đọc đã lờ mờ nhận thấy một sự bất an lan tỏa
trong từng chi tiết nhỏ xoay quanh các nhân vật như là những đám mây đen đã tích đủ
điều kiện cần thiết tạo thành một cơn bão. Tuy kết thúc truyện có phần gắng gượng
nhưng vẫn không làm giảm giá trị một tình huống thắt nút và siết chặt vòng vây đặc
sắc của Nguyễn Ngọc Tư.
Xem xét một cách tổng quát, chúng tôi nhận thấy đa số truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư đều có những tình huống tâm lý với những nhân vật có đời sống nội tâm khá
phức tạp, lúc thì nhẹ nhàng, sâu lắng, lúc thì cồn cào, dữ dội khiến cho tác phẩm vừa
có nét duyên dáng của một bài thơ trữ tình vừa có sự dồn nén sự kiện của một thể loại
văn xuôi tự sự nhiều năng động và linh hoạt là truyện ngắn. Có thể nói không ngoa,
một truyện ngắn chọn được cho mình một tình huống thích hợp và đặc biệt nghĩa là nó
đã thành công một nửa, vấn đề còn lại là tác giả triển khai tình huống ấy như thế nào.
Chính vì sự chi phối của kiểu tình huống nhẹ nhàng, giàu màu sắc tâm lý mà những
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường có tính chất “phi cốt truyện”, cấu trúc truyện
thoạt nhìn lỏng lẻo bởi không có sự gắn kết rõ ràng giữa các chi tiết, tuy nhiên tác
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
83
phẩm vẫn hợp lý ở tầng mạch ngầm của nó, ở những mối liên kết bề sâu giữa các tuyến
nhân vật và sự kiện.
Cuối cùng, điều sâu sắc nhất mà chúng tôi đúc kết được khi xem xét tình huống
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là dẫu cho xây dựng tình huống tâm lý, tình huống tượng
trưng, tình huống thắt nút hay bất kì kiểu tình huống nào thì tài năng của chị vẫn là ở
chỗ đã chọn được cho mình những tình huống nhẹ nhàng nhưng có sức gợi lớn, có khả
năng đánh động sâu sắc vào tâm hồn của người đọc, là cái sườn chắc chắn để tác giả
triển khai toàn bộ tác phẩm.
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Cũng như tiểu thuyết, truyện ngắn sống bằng nhân vật, vì lẽ đó những truyện
ngắn thành công đều là những tác phẩm xây dựng được những nhân vật điển hình, để
lại dấu ấn riêng biệt về mặt tính cách và tâm lý. Có thể khẳng định việc xây dựng nhân
vật là vô cùng quan trọng đối với truyện ngắn, bởi đối với thể loại văn xuôi tự sự cỡ
nhỏ này, nhân vật giữ vai trò cấu tạo nên cốt truyện. Bởi truyện ngắn thường chỉ xoay
quanh một tình huống nào đó, “một chốc lát” (chữ dùng của Nguyễn Thành Long) nào
đó, phản ánh cuộc sống một cách trực diện theo cách bùng nổ từ nhân vật trung tâm, do
đó nhân vật của truyện ngắn phải là hạt nhân năng lượng để từ đó tác phẩm có thể bùng
nổ.
Theo một số nhà nghiên cứu, kiểu nhân vật văn học thành công cũng là một
trong những dấu hiệu cơ bản để nhận biết phong cách sáng tác của mỗi nhà văn. Như
Nam Cao nổi bật với kiểu nhân vật là trí thức và nông dân, hay Nguyễn Tuân đặc biệt
tài năng trong việc xây dựng kiểu nhân vật tài hoa tài tử như Huấn Cao hay Cụ Ấm...
trong tập truyện ngắn “Một thời vang bóng”. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, mỗi
nhà văn có thể xây dựng nhiều kiểu nhân vật khác nhau, với những mức độ thành công
khác nhau, tuy nhiên việc thành công rực rỡ ở một kiểu nhân vật nhất định nào đó là
chuyện không dễ dàng với bất kì nhà văn tài năng nào.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
84
Như chúng ta đã biết, truyện ngắn cần chi tiết để xây dựng cốt truyện, để tạo vẻ
sinh động cho tác phẩm và làm nên linh hồn của truyện ngắn, tuy nhiên chi tiết còn là
chất liệu để khắc họa ngoại hình và tính cách nhân vật. Do đó trong nghệ thuật xây
dựng nhân vật thì việc chọn cho được những chi tiết đặc sắc, thích hợp với từng kiểu
nhân vật là một yêu cầu mang tính sống còn.
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình
Như đã nhận xét ở phần trên, truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đa phần là những
truyện ngắn không có cốt truyện, giàu chất trữ tình, do đó các nhân vật của chị thường
không được chú trọng miêu tả về mặt ngoại hình, mà nếu có chăng thì nó cũng nhằm
mục đích phục vụ cho việc khám phá nội tâm và tính cách của nhân vật. Tuy nhiên, nói
như thế hoàn toàn không có nghĩa là Nguyễn Ngọc Tư coi nhẹ việc miêu tả ngoại hình
của nhân vật như một thủ pháp nghệ thuật, nguyên nhân của hiện tượng này là do các
nhân vật của chị thường có đời sống nội tâm phức tạp và chủ yếu “sống” bằng những
ký ức và hoài niệm. Thậm chí ở một vài truyện ngắn nhân vật hầu như đắm chìm trong
những trường đoạn độc thoại nội tâm sâu thẳm của chính bản thân mình.
Tuy nhiên như chúng ta đều biết, vẻ ngoài của một con người đôi khi cũng có
vai trò như là một dấu hiệu giúp chúng ta biết được bản chất bên trong của họ, thậm chí
những đặc điểm về nhân tướng còn là chìa khoá giúp ta đoán biết trước cuộc đời và số
phận của nhân vật, như ngày xưa cụ Nguyễn Du đã từng tiên đoán về cái sự “Hoa ghen
thua thắm, liễu hờn kém xanh” của Thúy Kiều. Và không ít các tác giả truyện ngắn tài
năng, như Nguyễn Công Hoan chẳng hạn, rất chú trọng việc tìm hiểu vẻ ngoài đặc
trưng của từng loại người trong xã hội để phục vụ cho việc xây dựng nhân vật được
chân thật, sống động, bởi mỗi ngành nghề, mỗi loại người trong xã hội đều chịu sự quy
định chung về mặt trang phục, cử chỉ, cách cư xử...phù hợp với đặc điểm nghề nghiệp
của mình. Trở lại vấn đề nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta thấy
đa phần là những nhân vật làm ruộng, làm vườn, chăn vịt, chèo đò, làm mướn...thậm
chí ngay cả khi làm khách thương hồ rong ruổi trên sông nước thì cái bản chất nông
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
85
dân thật thà, chất phác hầu như vẫn được lưu giữ nguyên vẹn trong họ. Từ đó, có thể
khái quát Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn của những người nông dân lam lũ miền Tây
Nam Bộ. Địa bàn sáng tác cũng như vốn hiểu biết của chị về con người Nam Bộ, đặc
biệt là người nông dân Nam Bộ dày dặn và thâm sâu một cách kì lạ, nên chị đã tạo nên
những hình tượng đặc sắc mang những dấu ấn cá nhân rất sâu đậm không thể lẫn lộn.
3.2.1.1. Những cái tên dân dã, hiền lành
Đặc điểm đầu tiên rất dễ nhận thấy là đa số các nhân vật nông dân trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư đều có những cái tên hết sức giản dị, nếu không muốn nói là
khá quê mùa. Những cái tên ấy thường đi kèm với thứ bậc của người đó trong gia đình,
chẳng hạn như ông Sáu Đèo, ông Ba Già, ông Chín Vũ, Hai Nhỏ, Năm Hiệp hay có khi
chỉ ngắn ngọn là ông Mười hay thằng Hai, thằng Út...Những nhân vật nữ thì thường
được ưu ái với những cái tên đẹp hơn, thường đó là tên của những loài hoa dân dã như
Huệ, Lan, Cải... hay Bông, Điệp, Xuyến, Nương, Hồng...Những cái tên rất bình
thường, hiền lành như dì Diệu, dì Thắm, chị Lành...Chỉ những nhân vật làm đào hát thì
mới có những cái tên mỹ miều hơn như Hồng Điệp, Hồng, Thu Mỹ...
Cũng có những nhân vật rất ấn tượng và đặc sắc nhưng không hề có tên, chẳng
hạn như ông già chăn vịt trong truyện ngắn “Cái nhìn khắc khoải” hay là là chị phụ
nữ trong truyện ngắn “Một chuyện hẹn hò”...Bởi dường như trong bối cảnh của câu
chuyện, những cái tên cụ thể không cần thiết khi họ hiện lên như là một điển hình cho
số phận và cuộc đời của của nhiều người khác có chung cảnh ngộ.
Nếu suy ngẫm một chút, chúng ta sẽ nhận thấy ở một vài truyện ngắn, cái tên
của nhân vật cũng nói lên được đôi điều ẩn giấu về họ, chẳng hạn như tên nhân vật
Lương (hay đi kèm với từ “khùng”) có thể được hiểu như là dấu hiệu ẩn của một tâm
hồn lương thiện mà người đời vô tâm lại lầm tưởng đó là sự ngờ nghệch. Hay trường
hợp tên của hai nhân vật Nương và Điền trong truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”
dường như gợi lên sự nhớ nhung về đất, về vườn, về ký ức tươi đẹp khi chúng vẫn còn
có nhà trên mặt đất, có cha có mẹ như đúng nghĩa của một gia đình.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
86
Đôi khi, những cái tên cũng mang một ý nghĩa quan trọng nào đó mà tác giả
không ngại ngần bộc lộ trong tác phẩm, như tên nhân vật San trong truyện ngắn “Làm
má đâu có dễ”, là tên của một nhân vật trong vở tuồng “San Hậu” mà người mẹ rất yêu
thích, gởi gắm hy vọng sẽ có thêm một đứa là Hậu nhưng bất thành. Hay nhân vật Hết
trong truyện ngắn “Hiu hiu gió bấc” là một cái tên gợi nhớ quá khứ đau buồn của cha
con anh: mẹ anh chết ngay khi sinh anh ra và cha anh vì quá tuyệt vọng nên mới đặt
cho anh một cái tên bi quan và yếm thế như vậy.
Tóm lại, cho dù là làm bất cứ việc gì, tính cách ra sao, số phận như thế nào thì
nhìn chung Nguyễn Ngọc Tư luôn chọn cho những nhân vật yêu quý của mình những
cái tên hiền lành, thô mộc như chính con người của họ, những cái tên có thể nói lên tất
cả những tâm tư sâu kín mà trải qua những va chạm hết sức đời thường sẽ dần bộc lộ
tính cách của họ.
3.2.1.2. Ngoại hình lam lũ, xấu xí
Đa số các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư thường là nông dân với ngoại hình xấu
xí, lam lũ như chính công việc vất vả của mình. Đó là ông già chăn vịt lang bạt, cô đơn
với hình ảnh: “Ông ngồi bệt trên bờ mẫu, khăn sọc cũ quấn đầu, nón vải nâu lốm đốm
mủ chuối. Ông ngó lũ vịt và vấn điếu thuốc châm lửa, phà khói lên trời.” (Cái nhìn
khắc khoải); là ông Ba Già với khuôn mặt khắc khổ, nhăn nhó, hai con mắt sâu hoắm,
trõm lơ vì mất ngủ, lo lắng chuyện lỡ mùa cùng với những ông già nông dân cũng khô
héo, nhăn nheo không kém, ngồi vật vạ trước cổng ủy ban chờ ông Chủ tịch trong
truyện ngắn “Lỡ mùa” khiến hình ảnh và số phận của những người nông dân hiện ra
càng thêm khốn khổ và tội nghiệp.
Nguyễn Ngọc Tư cũng rất tài tình trong việc xây dựng vẻ ngoài của những nhân
vật phụ nữ nghèo, cô độc, già cả và bệnh tật. Nhân vật người vợ trước của ba “tôi”
trong truyện ngắn “Dòng nhớ”, sống một cuộc đời buồn tẻ, héo hon, không chờ đợi gì
ở tương lai, nên chúng ta cũng không ngạc nhiên gì khi thấy bà hiện lên với dáng vẻ
gợi sự thương cảm: “Có thể vì người đàn bà của ba tôi hiện lên rất hiền, dì mặc chiếc
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
87
áo cộc tay màu cau khô ở trong, khoác thêm chiếc áo bà ba ở ngoài, mỏng te, nhiều
mụn vá. Tóc đã bạc nhiều, lơ thơ vài cọng rủ xuống mặt. Sương gió đã làm cho khuôn
mặt dì đen sạm, nhăn nheo”, khiến người phụ nữ vốn coi bà như tình địch cũng phải
chạnh lòng.
Lương là một nhân vật được Nguyễn Ngọc Tư dụng công miêu tả bằng thủ
pháp của điện ảnh, lúc thong thả, lúc dồn nén rất thành công. Tập trung phô bày chi tiết
dồn dập ngay từ đầu, nhân vật Lương chèo đò hiện lên trước mắt người đọc với vẻ
ngoài khá kì lạ, khùng khùng: “Lương xấu trai thiệt. Tướng Lương nhỏ xíu, teo héo.
Đầu to, tóc dày, cứng, cháy nắng. Một bên mắt lé xẹ. Ai cũng cười: “Cái thằng, mầy
chèo mà không ngó đằng trước, ngó đâu trật lất vậy?”. Lương không giận tựa như
không biết giận. Cái thân nhỏ mồ côi mồ cút, nghèo xác xơ mà bày đặt giận cuộc đời
thì làm sao sống nổi. Suốt ngày Lương hệch miệng ra cười, làm như vui, làm như
không, khó nắm bắt. Trông Lương như một người trí não chậm phát triển. Lương
khoái cặp mắt mất đoàn kết của mình lắm, người ta nhìn anh biết, chứ anh mà nhìn lại,
người ta tưởng anh ngó đâu đâu.” (Lương). Trong trường hợp đặc biệt này, vẻ bề
ngoài không còn là dấu hiệu dự báo hay đường dẫn cho người đọc tiếp cận bản chất và
tính cách của nhân vật, bởi những diễn biến tiếp theo của mạch truyện sẽ cho chúng ta
thấy đằng sau ngoại hình xấu xí, quê kệch đó là một tâm hồn trong sáng và nhân hậu,
biết phát hiện và nâng niu cái đẹp bị vùi dập trong cuộc đời.
Hay có khi tác giả đánh đố người đọc, che giấu sự thật về một nhân vật mà chỉ
khi kết thúc truyện người đọc mới vỡ lẽ trong sự xấu hổ muộn màng. Đó là nhân vật
ông Mười, chồng dì Thắm, bị người ta không ưa chỉ vì “mặt mày đen sì, không biết vui
hay buồn” (Mối tình năm cũ) và với một bàn tay thô, một tấm lưng rộng suốt ngày
ông chỉ biết im lặng làm lụng để nuôi vợ con. Nếu không có sự kiện vào cái ngày quay
phim đó thì mãi không ai biết ông Mười là một con người sống tình cảm và thương yêu
vợ con bằng một tình yêu hết sức vụng về và kín đáo như vậy.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
88
Nói đến thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, không thể bỏ qua
những nhân vật làm nghề ca hát, gọi nôm na là đào hát, bởi thế giới đó dưới ngòi bút
của chị luôn rực rỡ sắc màu, nhiều vinh quang nhưng cũng đầy cay đắng. Thế giới đó
gồm những con người suốt đời hy sinh cho nghệ thuật để rồi gánh chịu sự bẽ bàng của
thân phận, nhưng hết thảy họ đều là những con người hiền lành, tình nghĩa và yêu nghề
da diết. Chính vì thế, Nguyễn Ngọc Tư luôn dành những câu chữ nhẹ nhàng và tình
cảm nhất để làm rực sáng vẻ đẹp dịu dàng của họ trên sân khấu lẫn trong đời thường.
Đó là đào Điệp trong trí nhớ hồi nhỏ của San: “ San nhớ, cô đào thiệt hiền, dân dã, tan
buổi diễn để nguyên bộ áo dài nâu, cái đầu bới ngồi ăn cháo vịt.” (Bởi yêu thương),
hay đào Hồng trong cái nhìn yêu thương của ông Chín Vũ, người yêu bà từ cái nhìn
đầu tiên, từ thời bà còn xuân sắc “đẹp tới đứng tim người ta” cho đến khi tàn tạ: “Ông
Chín bàng hoàng nhận ra đào Hồng dù nhan sắc ngày xưa của bà không còn nữa, mặt
nhăn nhúm, nám đen, cái cổ cao ngày trước bây giờ gần như đổ gục vì gánh cái gánh
tâm tư mà cuộc đời chồng chất.” (Cuối mùa nhan sắc).
Tuy số lượng nhân vật lương thiện và hiền lành thường chiếm đa số trong các
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, nhưng điều đó không có nghĩa là chị không thành công
trong việc khắc họa những nhân vật phản diện xét từ phương diện ngoại hình. Cũng rất
khó nhận ra những nhân vật như vậy trong đời thực vì thường họ rất bảnh bao và
không có dấu hiệu đặc thù nào để nhận biết, chẳng hạn như nhân vật người chồng độc
ác thuê người giết vợ trong truyện ngắn “Một trái tim khô”, hay nhân vật Bảo trong
truyện ngắn “Ngổn ngang” và một số truyện ngắn khác. Duy chỉ có nhân vật người
cha trong truyện ngắn (mang dáng dấp của một tiểu thuyết dồn nén “Cánh đồng bất
tận”) là được Nguyễn Ngọc Tư có dụng công giới thiệu vẻ đẹp ngoại hình như một
món mồi hiệu nghiệm để hấp dẫn những phụ nữ nhẹ dạ. Vẻ đẹp đó có khi được nhìn
nhận gián tiếp qua lời khen của cô gái điếm được mấy cha con cứu thoát: “...chị ngó về
phía người đàn ông đang vồng lưng trong nắng sớm, chếnh choáng: “Ba mấy cưng
đẹp trai dễ sợ…” hoặc có lúc nó hiển hiện thông qua sự thèm khát của người phụ nữ
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
89
vắng chồng nhiều năm: “Cái sàn lãn sau nhà đã ba năm vắng bóng đàn ông. Một
chiều chúng tôi đến, xẻ mấy cây đố xong, cha ra đó tắm. Nước chảy re rắt trên khuôn
mặt lạnh lùng, nước mỏng tang tràn qua những thớ thịt đỏ au của cha tôi. Chị chợt
giật thót người, cài vội chiếc nút áo bung ra vì không chịu nổi đôi vú căng tức.”. Và
người cha đó “vào tuổi bốn mươi, quyến rũ từ cái cười, từ câu nói, ánh nhìn thăm
thẳm, ngọt ngào” đến “khuôn mặt chữ điền ngời ngợi” ấy che giấu trong mình một nỗi
đau sâu hoắm, vời vợi, lúc nào cũng ăm ắp mưu toan trả thù đàn bà. Tuy thuận tay
trong việc xây dựng những nhân vật giàu màu sắc tâm lý, chú trọng nhiều vào việc soi
sáng đời sống nội tâm, cũng như những diễn biến và xung đột tâm lý phức tạp của nhân
vật, nhưng qua những phân tích nêu trên chúng ta thấy ngoại hình nhân vật vẫn được
Nguyễn Ngọc Tư chăm chút như một đường dẫn của tính cách.
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả và biểu hiện tâm lý nhân vật
3.2.2.1. Khắc họa tâm lý qua những biểu hiện bên ngoài
Tâm lý con người muôn đời vẫn là điều bí ẩn và khó khám phá ngay cả đối với
chính bản thân mỗi người. Vì tính chất phức tạp đó nên các nhà văn khi miêu tả và
khắc họa tâm lý của nhân vật thường phải vận dụng rất nhiều thủ pháp: khi thì trực tiếp
miêu tả, khi thì gián tiếp miêu tả, có lúc mượn hành động để khắc họa tâm lý nhân vật,
có lúc dùng lời đối thoại hoặc độc thoại nội tâm để nhân vật tự mình bộc lộ những điều
tâm can nhất.
Khắc họa tâm lý qua những biểu hiện bên ngoài cũng là một trong những thủ
pháp tiêu biểu để khám phá tâm lý nhân vật. Như chúng ta đều biết, mỗi nhân vật cũng
như mỗi con người đều là một vũ trụ đầy bí ẩn đối với tha nhân, mỗi cá thể tồn tại là
một tiểu thế giới với tất cả sự phức tạp và bí ẩn khôn lường của nó. Vậy thì căn cứ vào
đâu chúng ta có thể đoán định được hoặc nắm bắt được phần nào những suy tư thầm
kín và chân thật của nhân vật? Loại trừ những biểu hiện bên ngoài với mục đích đánh
lừa người đọc của tác giả, những biểu hiện bên ngoài của đa số nhân vật trong truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư như: Chiều vắng, Huệ lấy chồng, Bởi yêu thương, Hiu
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
90
hiu gió bấc…đều là những dấu hiệu đáng tin để chúng ta hiểu thêm về tâm lý, tính
cách, có khi là mật mã để lý giải những hành động khó hiểu của nhân vật. Tiêu biểu
nhất cho kiểu khắc họa tâm lý này của chị là những nhân vật chính trong những truyện
ngắn có tình huống yêu thầm. Truyện ngắn “Cái nhìn khắc khoải” là một dẫn chứng
khá tiêu biểu cho luận điểm trên, bởi vì nhân vật ông già chăn vịt chủ tâm che giấu tình
cảm của mình nên người đọc khó lòng nhận ra tình cảm thật của ông nếu không nhờ
những biểu hiện bên ngoài khá vụng về được quan sát bởi con mắt tinh tường và
nghịch ngợm của con vịt Cộc.
Thông thường, người ta hay đánh giá và nhận xét người khác qua những biểu
hiện bên ngoài của họ như thái độ, lời nói, cách cư xử... Ở một phương diện nào đó,
nếu chúng ta không bộp chộp theo kiểu “Trông mặt mà bắt hình dong”, bình tĩnh khách
quan thu thập “tư liệu”, chúng ta sẽ thấy việc khắc họa tính cách nhân vật đòi hỏi rất
nhiều vốn liếng về những thứ tưởng chừng như rất “hình thức bên ngoài” như thế. Tuy
nhiên, đó lại là những tín hiệu uy tín để khám phá tâm lý thật của nhân vật, cái ẩn giấu
đằng sau chi phối hành động và tính cách nhân vật.
3.2.2.2. Biện pháp miêu tả trực tiếp tâm lý nhân vật
Biện pháp này được Nguyễn Ngọc Tư triệt để vận dụng trong những truyện
ngắn có khuynh hướng trữ tình hoá, tức là những truyện ngắn không nặng về sự kiện
và hành động, mà chủ yếu thiên về những diễn biến tâm lý tinh tế và phức tạp của nhân
vật. “Một trái tim khô” là một truyện ngắn hay được Nguyễn Ngọc Tư vận dụng triệt
để biện pháp miêu tả trực tiếp tâm lý nhân vật, cụ thể ở đây là diễn biến tâm lý của
nhân vật Hậu từ khi bị đâm ở cua Bún Bò. Chất liệu cơ bản xây dựng nên tâm lý của
nhân vật Hậu là những sự kiện nội tâm liên tục được chuyển hoá và lặp lại. Trạng thái
đầu tiên của Hậu sau khi bị đâm là: “vết thương lành nhưng Hậu mắc chứng trầm uất,
hoang tưởng, rối loạn tâm thần”, chị không thiết ăn uống, không nhận ra bất kì người
thân nào (kể cả chồng), vật vờ, dở sống dở chết. Thế rồi, bỗng dưng Hậu tỉnh queo như
chưa có chuyện gì xảy ra, nhưng vẫn không nhận ra chồng, chỉ mở miệng hỏi đúng một
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
91
câu: “Sao anh đành đoạn giết em?”. Trái tim là chi tiết đắt giá tượng trưng cho nhiệt
kế tâm lý của nhân vật Hậu. Có thể nói Hậu là kiểu nhân vật “bị phản bội” thường thấy
trong những truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, ví dụ như: Đau gì như thể, Cánh đồng
bất tận, Dòng nhớ…, nhưng nó được xây dựng với sắc thái dữ dội hơn và sắc sảo hơn
trong trường hợp này, khi nhân vật Hậu được xây dựng với chất liệu chủ yếu là những
sự kiện nội tâm, và cơ sở để cấu trúc nên nhân vật chính là những xung đột dữ dội và
trùng điệp để làm nổi bật hình tượng “một trái tim khô” của nhân vật.
Có thể nói nếu phải nhặt ra một truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư mà thoạt đọc
vào đã thấy đặc quánh nỗi buồn thì “X-năm một ngàn chín trăm năm xưa” là một ứng
cử viên sáng giá. Vì sao X buồn? Vì X là một xóm nghèo và “buồn thâm căn cố đế”
hay còn vì một nguyên nhân nào khác nữa? Có thể thấy hai “tuyến” nhân vật tiêu biểu
cho hai kiểu tâm trạng khi X bắt đầu làm du lịch. Tuyến thứ nhất đại diện cho những
người ở X là nhân vật “tôi” và “tía tôi”: “tiá tôi” “trở nên lầm lì ngay từ khi X đón lượt
khách đầu tiên” với câu nói “tao muốn chết quá”; còn “tôi” thì khó chịu và đau khổ
khi người ta nhìn anh như một thằng man rợ chỉ bởi anh lột da chuột đồng để mưu
sinh. Ngược lại với cha con của nhân vật “tôi”, là thái độ vui sướng, hớn hở, hồn nhiên
đến mức độc ác của những du khách, bởi họ nhấm nháp và thưởng lãm nỗi buồn khổ,
sự khó nghèo của đồng loại như một thứ đặc sản quý hiếm không thể tìm thấy ở chốn
thị thành. Các nhân vật đều không ngần ngại phô bày cảm xúc thật của mình. Hai thái
cực tâm lý ấy cùng hội tụ ở X, “vương quốc của nỗi buồn”. Nguyễn Ngọc Tư thật tài
tình khi đánh trúng vào tâm lý và suy nghĩ của từng loại người khác nhau khi đến X và
khắc họa những nét tâm lý trừu tượng ấy một cách thuyết phục.
Với truyện ngắn “Biển người mênh mông”, Nguyễn Ngọc Tư lại tiếp cận nhân
vật Phi từ góc nhìn của một người trẻ tuổi nhưng không hời hợt, ngược lại khá tinh tế
trong cách nhìn nhận cuộc sống và trong quan hệ với những người xung quanh. Bằng
giọng văn thân mật đầy cảm thông và những lời văn nửa trực tiếp gần như có sự hoà
nhập nguyên vẹn với cảm xúc của nhân vật, những dòng tâm trạng của nhân vật Phi có
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
92
điểm tựa để tuôn chảy một cách tự nhiên: “Phi chợt tỉnh, bàng hoàng, đó là lúc anh
đang mơ màng nghe tiếng mưa long tong trên mái nhà, Phi đang thèm ai đó kêu mình
thức dậy”, hay những lúc: “Phi vừa ngủ dậy, đứng lặng, lắng nghe tiếng bìm bịp buồn
buồn xa vời vợi trong ánh nắng chiều, Phi nhớ triền dừa nước xanh miết ở trước nhà
ngoại mình, nhớ đứt ruột”. Những khoảnh khắc Phi “chợt tỉnh, bàng hoàng”, khi
“thấy” lòng mình, khi nhận ra mình khao khát điều gì, ấy chính là cầu nối dẫn chúng ta
vào tâm hồn và tính cách nhân vật.
Ưu điểm của biện pháp miêu tả trực tiếp tâm lý nhân vật là người đọc có thể tiếp
cận trực tiếp và chân xác thế giới nội tâm phức tạp của nhân vật, có thể hồi hộp theo
dõi những bước ngoặt trong tâm lý nhân vật. Thế nhưng, ngay trong những điểm mạnh
ấy đã hàm chứa những điều đáng lo ngại, vì nếu sử dụng “quá liều”, đôi khi nhân vật
trở nên trần trụi trước mắt của độc giả đến mức không còn khả năng gây hứng thú hay
bất ngờ. Do đó, để đạt được thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật, nhà văn
phải linh hoạt vận dụng nhiều biện pháp khác nhau với những liều lượng khác nhau
cho từng kiểu nhân vật và ý đồ nghệ thuật khác nhau.
3.2.2.3. Độc thoại nội tâm của nhân vật
Độc thoại nội tâm là hình thức tự sự đã xuất hiện từ kịch cổ đại, nhất là trong
kịch Shakespeare và biểu hiện cực đoan nhất của nó trong tiểu thuyết thế kỉ 20 là hình
thức “dòng ý thức”. Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” thì độc thoại nội tâm là: “lời
phát ngôn của nhân vật nói với mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lý nội tâm, mô
phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó”
[18, tr.87-88] . Đây là một hình thức rất hiệu quả để nhà văn thâm nhập vào thế giới
nội tâm của nhân vật một cách tự nhiên, hầu như không có khoảng cách giữa nhân vật
và người kể chuyện. Độc thoại nội tâm còn là hình thức nhà văn sử dụng để nhân vật tự
phơi bày những suy nghĩ thầm kín, những xung đột nội tâm bí ẩn và riêng tư. Hình
thức độc thoại nội tâm của nhân vật thường xuất hiện trong những truyện ngắn có
khuynh hướng trữ tình hoá của Nguyễn Ngọc Tư, với kiểu nhân vật suy tư, mộng mơ,
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
93
hoài niệm nhiều hơn là hành động để giải quyết xung đột. Thậm chí có khi cả một
truyện ngắn là một dòng suy tưởng về quá khứ, những cao trào thăng hoa của cảm xúc
và quá trình đấu tranh tâm lý dữ dội để vượt thoát những ngại ngùng của nhân vật để
bày tỏ tình cảm chôn giấu của mình. Đó cũng là tình huống của nhân vật “tôi” trong
truyện ngắn “Một mối tình” với những cung bậc tình cảm nhẹ nhàng, đằm thắm nhưng
cũng không kém phần dữ dội và say đắm dành cho người anh rể. Và tất cả những nỗi
niềm tâm sự ấy chỉ diễn ra trong âm thầm, bao trùm cả không gian vẫn là một sự lặng
im ngột ngạt bởi yêu thương bị đè nén, yêu thương bị chối từ, chỉ có nhân vật “tôi” tự
đối thoại, chất vấn với chính cảm xúc của mình. Hình thức độc thoại nội tâm trong
trường hợp này đã giúp chúng ta du hành vào thế giới cảm xúc của nhân vật, để sống
thật với từng hơi thở, với từng nỗi khát khao tủi hờn của cô.
“Cánh đồng bất tận” là câu chuyện hoàn toàn được kể từ nhân vật xưng “tôi”,
thậm chí cả những đoạn đối thoại cũng được lọc qua ngôn ngữ của nhân vật này, vì thế
cả tác phẩm như một chuỗi tâm trạng triền miên của nhân vật “tôi” miên man qua từng
cánh đồng với biết bao ký ức và sự kiện dữ dội. Có thể nói, những cảm xúc của nhân
vật “tôi” được lồng ghép vào quá trình kể lại những biến cố của gia đình mình với cô
gái điếm, rồi tâm trạng của “tôi” khi chứng kiến sự xáo trộn của “gia đình” từ khi có
“chị”, sự thay đổi của Điền và cuối cùng là sự thay đổi của người cha, dấu hiệu của
một sự báo ứng mơ hồ sắp xảy ra mà ngay cả nhân vật “tôi” cũng không thể hiểu nổi.
Cam chịu tình trạng thiếu thốn tình thương và bị bỏ mặc một thời gian dài khiến nhân
vật “tôi” hầu như không có nhu cầu đối thoại và giao tiếp với người bình thường, mà
dẫu cho có thèm khát và cố gắng hòa nhập đến mấy thì người khác (và cả chính bản
thân nhân vật “tôi”) cũng cảm thấy mình không giống người bình thường. Từ mặc cảm
bất lực đó, nhân vật “tôi” cùng với Điền gần như quên hẳn ngôn ngữ con người và hai
chị em tồn tại trên đời với tư cách như hai đồng loại hiểu được tâm trạng của nhau, cho
đến khi phát hiện ra mình có thể giao tiếp bằng ngôn ngữ của vịt. Chính vì thế, ngay cả
ở những đoạn đối thoại giữa nhân vật “tôi” và Sương thì tính chất độc thoại rất đậm
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
94
đặc, nó chậm rãi và ngắt quãng, như thể nói ra là một nhu cầu tự thân của nhân vật, chứ
không phải là một hình thức trao đổi thông tin với người khác.
Bằng một thứ ngôn ngữ giàu cảm giác, di chuyển điểm nhìn trần thuật sang
nhân vật, chú trọng vào những cảm xúc nội tâm sâu thẳm của nhân vật, truyện ngắn
này không hề có tham vọng thu hút người đọc bằng một cốt truyện giàu sự kiện mang
tính hành động mà chính những diễn biến tâm lý, những cung bậc tình cảm như: nhung
nhớ, xót xa, căm hờn, đau đớn… của nhân vật đã chạm đến sự đồng cảm sâu sắc về sự
tồn tại cô độc của mỗi con người giữa cuộc đời, về sự ác nghiệt của vòng quay nhân
quả, sự oan oan tương báo mang tính quy luật không thể trốn chạy được của mỗi kiếp
nhân sinh. Có thể nói truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”, nếu nhìn từ góc độ nghệ thuật
miêu tả tâm lý, chúng ta sẽ thấy chất liệu cơ bản để xây dựng tác phẩm chính là những
dòng độc thoại nội tâm trầm buồn, day dứt, bất tận của chính nhân vật “tôi”. Dù khi
sống lại những ký ức đớn đau trong quá khứ hay ngay khi đối diện với tai họa trước
mắt, nhân vật này dường như cũng không sống với thời gian thực tại, với con người
thực tại, mà lúc nào cũng trong tâm thế quay về ẩn náu trong sự cô đơn và bơ vơ từ lâu
đã thành một thói quen của chính mình. Độc thoại nội tâm đối với nhân vật này có vai
trò như một nhu cầu sống còn, như một hình thức giao tiếp duy nhất để nhắc nhớ mình
còn là một con người, với những cảm giác rất thật, rất sâu về chính mình và thế giới
xung quanh.
Không đắm chìm quá sâu trong dòng độc thoại nội tâm bất tận như nhân vật
Nương, rải rác trong những truyện ngắn khác, tâm lý của các nhân vật thường được bộc
lộ tại một thời điểm bất chợt nào đó, vì một duyên cớ nào đó mà con người có cơ hội
sống lại những ký ức tận cùng đau khổ của mình. Chẳng hạn như nhân vật ông già điên
trong truyện “Sông dài con cá lội đâu”, người con lầm lạc của xóm Phố, một ngày gặp
thằng Bầu, bỗng nhớ lại những hồi ức khủng khiếp về cuộc chiến tranh hồi nẳm. Đan
xen vào những lời thú tội là tình cảm cháy lòng đối với người yêu, với xóm Phố ngày
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
95
xưa của một con người sống cô độc, suốt đời héo hắt vì lỗi lầm của chính mình nên
không dám trở về xóm Phố dù vô vàn thương nhớ.
Nhìn chung trong quá trình sáng tác, Nguyễn Ngọc Tư đã vận dụng một cách
linh hoạt và thuần thục rất nhiều thủ pháp nghệ thuật để xây dựng nên những nhân vật
có tính chất như một hình tượng tiêu biểu cho một kiểu nhân vật đặc trưng nào đó. Ví
dụ như những nhân vật nông dân với những đặc điểm tâm lý và tính cách nổi bật trong
các truyện ngắn: Cái nhìn khắc khoải, Lỡ mùa…Chị cũng rất thành công trong việc
khắc họa tâm lý và tình cảm của những người phụ nữ nghèo khổ, có số phận thiệt thòi,
tình duyên lận đận như nhân vật người vợ trước của cha nhân vật “tôi” trong truyện
ngắn “Dòng nhớ”, hay người phụ nữ trong truyện ngắn “Một chuyện hẹn hò”…Tùy
vào từng tình huống truyện, cũng như những đặc điểm cần khắc họa của từng nhân vật,
Nguyễn Ngọc Tư sẽ chú trọng khắc họa ngoại hình để làm nổi bật tâm lý, hay chị sẽ sử
dụng thủ pháp độc thoại nội tâm để thâm nhập dễ dàng vào thế giới tâm hồn bí ẩn và
phức tạp của nhân vật. Và lẽ dĩ nhiên với dung lượng nhỏ bé của mình, một truyện
ngắn chỉ cần xây dựng được một nhân vật “có thần” thì có thể xem như đó là một
truyện ngắn thành công. Chúng tôi nhận thấy Nguyễn Ngọc Tư có nhiều truyện ngắn
đạt được yêu cầu tưởng như dễ mà khó ấy.
3.3. Trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Tự sự học vốn là một nhánh của Thi pháp học hiện đại, hiểu theo nghĩa rộng nó
chuyên nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề có liên quan. Tự sự học
phân biệt rõ giữa “kể cái gì” và “kể như thế nào”, tức là có sự phân biệt giữa khái niệm
“câu chuyện” và “cốt truyện”, từ đó làm nổi bật vai trò chủ thể trong trần thuật (tức là
vai trò của người kể chuyện).
Theo Trần Đình Sử thì “người trần thuật là kẻ được sáng tạo ra để mang lời kể.
Và hành vi trần thuật là hành vi của người trần thuật đó mà sản phẩm là văn bản tự
sự” [70]. Tự sự học cũng chỉ ra sự khác biệt giữa người trần thuật ở “ngôi thứ nhất” và
“ngôi thứ ba” và vai trò của ngôi kể là ở chỗ tạo thành tiếng nói, giọng điệu cho tác
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
96
phẩm. Điều quan trọng của trần thuật còn là kể theo điểm nhìn nào, theo nghĩa đó lý
thuyết “Tự sự học” lần đầu tiên làm rõ tầm quan trọng của người trần thuật hàm ẩn vì
“nó cho người ta thấy người trần thuật đã can dự vào tiến trình tự sự như thế nào, từ
hình thức đến bình luận” [70]. Vì vai trò quan trọng đó, vấn đề người kể chuyện đã trở
thành một trong những vấn đề trung tâm của Thi pháp văn xuôi hiện đại với những nhà
nghiên cứu lỗi lạc như: N.Friedman, Iu.Lotman, Tz.Todorov, G. Genette…
Tham khảo bài viết: “Về khái niệm “Truyện kể ở ngôi thứ ba” và “người kể
chuyện ở ngôi thứ ba”” [70, tr.134-145] của TS. Lí luận ngôn ngữ học Nguyễn Thị
Thu Thủy, chúng tôi đã nhận thức rõ sự khác biệt giữa hai khái niệm “người tiêu điểm
hóa” và “người kể chuyện”. Theo đó “Người tiêu điểm hóa là người thể hiện quan
điểm, đánh giá của nhân vật về thế giới nhân vật, sự kiện trong tác phẩm-người mà
qua những hành động, cảm nhận, suy nghĩ-làm điểm tựa cho người kể chuyện thực
hiện hành vi kể”; còn “Người kể chuyện là người thực hiện hành vi kể, ghi lại những gì
mà nhân vật thấy, nhận vật nghĩ…”. Bài viết cũng làm rõ khái niệm “người kể chuyện
hiển ngôn” và “người kể chuyện hàm ẩn”.
Vận dụng những hiểu biết về “Tự sự học”, với tư liệu khảo sát (có chọn lọc)
gồm 40 truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy có 10 truyện có người kể
chuyện hiển ngôn và 30 truyện có người kể chuyện hàm ẩn. Trong đó ở những truyện
có NKC hiển ngôn thì kiểu NKC xưng “tôi” kể theo điểm nhìn của chính mình chiếm
ưu thế hơn (8 truyện) còn kiểu NKC xưng “tôi” đóng vai trò dẫn chuyện chỉ xuất hiện
trong 2 truyện.
3.3.1. Người kể chuyện hiển ngôn
3.3.1.1 Người kể chuyện xưng “tôi” kể theo điểm nhìn của chính mình:
5. Vết chim trời 6. X-năm một ngàn chín trăm năm xưa 7. Một mối tình 8. Một dòng xuôi mải miết
1. Nỗi buồn rất lạ 2. Dòng nhớ 3. Nhà cổ 4. Cánh đồng bất tận
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
97
3.3.1.2 Người kể chuyện xưng “tôi” đóng vai trò dẫn truyện:
-Cái nhìn khắc khoải
-Núi lở
3.3.2. Người kể chuyện hàm ẩn
3.3.2.1 Người kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn của chính mình:
11. Lương 12. Chuyện vui điện ảnh 13. Núi ở lại 14. Biển người mênh mông 15. Thương quá rau răm 16. Cải ơi 17. Hiu hiu gió bấc 18. Duyên phận so le 19. Nhớ sông 20. Ngày đã qua 1. Qua cầu nhớ người 2. Ngày đùa 3. Đau gì như thể 4. Làm mẹ 5. Giao thừa 6. Bởi yêu thương 7. Lỡ mùa 8. Huệ lấy chồng 9. Mối tình năm cũ 10. Đời như ý
3.3.2.2 Người kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn của nhân vật:
1. Sông dài con cá lội đâu 2. Chuyện của Điệp 3. Người năm cũ 4. Một chuyện hẹn hò 5. Làm má đâu có dễ 6. Một trái tim khô 7. Trò chơi quên nhớ 8. Ngọn đèn không tắt 9. Cuối mùa nhan sắc 10. Nước chảy mây trôi
Như số liệu đã nêu, chúng ta thấy Nguyễn Ngọc Tư có xu hướng thiên về xây
dựng kiểu NKC hàm ẩn trong những truyện ngắn của mình. Thống kê 30 truyện ngắn
còn lại, chúng tôi nhận thấy có 20 truyện ngắn có kiểu NKC hàm ẩn kể theo điểm nhìn
của chính mình và 10 truyện ngắn có kiểu NKC hàm ẩn kể theo điểm nhìn của nhân
vật. Những con số này càng củng cố cho nhận xét Nguyễn Ngọc Tư thiên về lối trần
thuật truyền thống trong truyện ngắn. Chị thường kể lại những nỗi u hoài trầm lặng,
những sự nhẫn nhịn cam chịu, những nỗi đời long đong lận đận của người nông dân
Nam Bộ với giọng điệu thấm đẫm tinh thần sông nước, ruộng đồng đã có từ thời Bình
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
98
Nguyên Lộc, cho tới Sơn Nam và chị là thế hệ thứ ba (tuy có nhạt hơn nhưng rõ ràng là
có sự kế thừa và sáng tạo để đem lại cho người đọc những nguồn cảm xúc mới).
Lại nói thêm về “Điểm nhìn trần thuật” (khái niệm dùng để chỉ vị trí của người
kể trong tương quan với nhân vật), chúng ta thấy trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư,
điểm nhìn zéro chiếm ưu thế hơn điểm nhìn nội quan. Điểm nhìn zéro là điểm nhìn bên
trên, trong đó NKC là người biết hết mọi chuyện của nhân vật. NKC không những biết
nhân vật làm gì, nói gì mà còn biết đời sống nội tâm, động cơ sâu xa của chính những
nhân vật đó. Với điểm nhìn zéro, nhân vật không thể che giấu điều gì đối với NKC,
NKC biết về nhân vật nhiều hơn nhân vật biết về bản thân mình.
Còn điểm nhìn nội quan là điểm nhìn mà người kể chuyện chỉ kể những điều
nhân vật biết và thấy, NKC trùng với vị trí của nhân vật trung tâm trong tác phẩm.
NKC biết về nhân vật như chính bản thân nhân vật biết về nó. Hai kiểu điểm nhìn nghệ
thuật này có thể đan cài một cách hài hòa với nhau trong cùng một truyện ngắn.
Cũng chính vì đa số NKC trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư có điểm nhìn
zéro nên các nhà phê bình mới nhận xét nghệ thuật viết truyện của Nguyễn Ngọc Tư
còn “cũ”, chưa có gì mới mẻ so với cách viết của lớp nhà văn đi trước như Nguyễn
Công Hoan, Ngô Tất Tố…, mà nếu xét riêng ở dòng văn học Nam Bộ thì chị cũng
chưa khác gì mấy so với Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng, Dạ
Ngân…Quả thật, truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư hay hay nhưng nó còn buồn lặng và
đơn điệu quá. Chính vì có nhiều truyện ngắn có kiểu NKC hàm ẩn kể theo điểm nhìn
của chính mình, mà đó lại là điểm nhìn zéro (người kể chuyện > nhân vật) nên chúng ta
thấy truyện ngắn của chị thiếu đi sự đa dạng trong giọng điệu, nói nôm na là nó “đơn
âm”, nó thiếu đi sự đối thoại giữa các nhân vật cũng như sự đan xen của các điểm nhìn
khác nhau (mà đặc điểm này theo Vương Trí Nhàn có nguyên nhân từ kiểu tư duy tự sự
của người Việt Nam).
Gần đây có ý kiến cho rằng Nguyễn Ngọc Tư không có đóng góp gì mới cho
nghệ thuật viết truyện ở phương diện trần thuật, bởi lối viết của chị không khác gì so
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
99
với kiểu viết hiện thực có từ thời của Bình Nguyên Lộc và trào lưu văn học phản ánh
hiện thực được khởi xướng từ năm 1983. Để hiểu rõ vấn đề này chúng ta cần phân biệt
sự khác biệt sâu xa giữa hai lối văn Bắc và văn Nam: người Bắc thì viết văn còn người
Nam thì kể chuyện, lẽ dĩ nhiên là phải kể như thế nào đó mới trở thành “văn” chứ
không thể tùy tiện. Nguyễn Ngọc Tư cũng như Bình Nguyên Lộc hay Sơn Nam, viết
văn giống như nói chính là do truyền thống văn học có từ xa xưa của vùng đất phương
Nam này. Dĩ nhiên Nguyễn Ngọc Tư vẫn là một nhà văn trẻ, thời gian sẽ thực hiện vai
trò là thuốc thử trên những tác phẩm của chị, tuy nhiên điều chúng tôi muốn lưu ý ở
đây là có thể đề tài về nông thôn và nông dân của chị là cũ, cách viết của chị là không
mới, nhưng cái đã đọng lại trong thời gian vừa qua, cái làm nên chất men say cho tác
phẩm của chị chính là cái tâm của người viết, cái nhìn phát hiện mới mẻ với những vấn
đề tưởng như đã cũ. Không phải cứ hễ cách tân, hiện đại hóa là tốt, là hay, còn truyền
thống là cũ kĩ, nhàm chán. Cái mới của Nguyễn Ngọc Tư là nhìn cái cũ với con mắt
mới, nhưng kể lại chúng bằng cái giọng điệu cũ thân quen, gần gũi với lối văn nói của
truyền thống văn học miền Nam. Xin mượn ý kiến của Trần Hữu Dũng trong bài viết
“Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền Nam” để kết luận vấn đề: “Một cái “bệnh” của
những người viết trẻ bây giờ là mặc cảm (hay đua đòi) phải dùng một bút pháp mới,
mô tả xã hội tân thời (thường được xem như đồng nghĩa với lối sống thị thành), đôi khi
phải làm ra vẻ biết nhiều, học rộng. Nguyễn Ngọc Tư không cần “làm dáng” kiểu ấy.
Cái mới trong văn Nguyễn Ngọc Tư chính là cái cũ, cái lạ ở cô là tài khui mở những
sinh hoạt thân thuộc trước mắt. Nguyễn Ngọc Tư không “vén màn” cho người đọc thấy
cái chưa từng thấy, cô không dẫn dắt ta khám phá những ngõ ngách của nội tâm mà ta
chưa từng biết (một điều cũng rất cần, nhưng để những nhà văn khác). Cô chỉ đưa ra
một tấm gương rất trong, thật sáng, để chúng ta nhìn thấy những sinh hoạt, tình tự rất
thường. Và qua đó, lạ thay, như một tiếng đàn cộng hưởng, ta khám phá cái phong phú
của chính đời ta.”
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
100
Hiện thực cuộc sống, hiện thực tâm trạng chính là cái sườn tạo nên giọng kể của
Nguyễn Ngọc Tư. Chính việc chọn lựa được một giọng thật ăn khớp với câu chuyện
sắp kể, một giọng thật tự nhiên hòa điệu được với bối cảnh, tình huống truyện và đối
thoại của nhân vật đã làm nên sự thành công của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Tóm lại, xét theo quan điểm của Tự sự học (nhấn mạnh vai trò của chủ thể trần
thuật hay nói cách khác là người kể chuyện trong tác phẩm), ở truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư, kiểu người kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn của chính mình chiếm ưu
thế nổi bật nhất. Người kể chuyện dường như đứng ở vị thế cao hơn nhân vật, biết hết
nhân vật nghĩ gì và làm gì, vì thế câu chuyện dễ trở nên đơn điệu và nhàm chán (đó
cũng là nhược điểm của lối viết văn truyền thống). Tuy nhiên, Nguyễn Ngọc Tư lại vận
dụng chính cái “nhược” (nếu non tay ấy) thành cái “ưu” (nếu chắc tay và giỏi tung
hứng) để chinh phục người đọc. Vậy thì rốt cuộc cái cuốn hút độc giả ở Nguyễn Ngọc
Tư là gì khi đề tài của chị không mới, cách kể chuyện cũng không mới? Phải chăng
chính cái lối kể chuyện “không mới”, đầy tính truyền thống, nhưng tinh tế và đa chiều
ấy, đã khơi mở một nguồn cảm hứng trong trẻo và mới lạ cho người đọc khi tiếp cận
tác phẩm.
3.4. Ngôn ngữ và giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.4.1. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Như đã trình bày ở chương giới thiệu khái quát, truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
rặt ròng một ngôn ngữ Nam Bộ. Nếu so với những sáng tác của Hồ Biểu Chánh hồi đầu
thế kỉ 20, hay những tập truyện ngắn giai đoạn sau này của Sơn Nam, ngôn ngữ truyện
Nguyễn Ngọc Tư không còn nhiều những từ ngữ mang phong vị xưa cũ khá khó hiểu
mà đã tươi mới hơn rất nhiều, tuy nhiên nó vẫn lưu giữ được cái thần thái của ngôn
ngữ miệt vườn. Điều này cũng dễ hiểu vì Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút trẻ, ra đời và
sáng tác khi ngôn ngữ Nam Bộ đã thoát xác khỏi giai đoạn hoài thai và thô mộc của cái
gọi là “phương ngữ Nam Bộ” để “trưởng thành” hơn và bắt đầu có những đóng góp
đáng kể vào kho tàng ngôn ngữ chung của Việt Nam. Hơn nữa “Văn minh miệt vườn”
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
101
trải qua hơn 300 năm phát triển và giao lưu với nhiều ngôn ngữ từ những nền văn hoá
khác nhau đã tự điều chỉnh và sáng tạo từ trong lòng của nó những cái hay, cái mới, để
một mặt làm giàu thêm vốn liếng cho mình, mặt khác gọt dũa những gì còn thô mộc và
xù xì để nó ngày càng sáng rõ hơn, uyển chuyển hơn. Ở đây chúng tôi muốn đề cập đến
sự giao lưu với văn hoá Trung Hoa, Chăm, Khơme từ hồi cha ông ta mới khẩn hoang
khu vực này cho đến hồi đầu thế kỉ 19 khi có sự giao lưu với văn hoá phương Tây (cụ
thể là Pháp), thể hiện qua hiện tượng nhiều từ ngữ và thậm chí là thành ngữ, tục ngữ,
ca dao, điệu hát, câu hò, hay địa danh của người Việt xứ này có những từ dạng phiên
âm hay nói trại ra từ tiếng Khơme, tiếng Tàu hay tiếng Pháp. Đây cũng là nguyên nhân
khiến cho ngôn ngữ Nam Bộ đa dạng về màu sắc văn hoá và ngữ điệu. Ngôn ngữ non
trẻ này từ trong bản chất đã chứng tỏ được sự uyển chuyển và mềm mại để dung nạp
nhiều yếu tố ngoại lai, làm mạnh mẽ thêm nội lực sẵn có của mình.
Một vài đặc điểm khác của ngôn ngữ Nam Bộ mà nhiều nhà nghiên cứu hay đề
cập đến là tính chất giàu hình ảnh, tính chất rút ngọn, tính hài hước… Thế nhưng, điều
dễ nhận thấy nhất là ngôn ngữ Nam Bộ là một thứ ngôn ngữ đậm tính chất mộc mạc,
giản dị, dân dã, thậm chí có khi thô kệch, quê mùa, bởi nó là sản phẩm của một vùng
đất trẻ, chưa có bề dày văn hoá, với những con người phải vật lộn với cuộc mưu sinh là
chính nên không có thời giờ dụng công gọt dũa lời ăn tiếng nói cho đến đầu đến đũa.
Ăn nói đối với người Nam Bộ chỉ cốt sao cho dễ hiểu, ngắn gọn, đầy đủ thông tin chứ
họ không chuộng sự vòng vo, réo rắt. “Ăn to nói lớn” chính là nét nổi bật trong tính
cách của người Nam Bộ có sự ảnh hưởng quan trọng đến ngôn ngữ giao tiếp và ngôn
ngữ văn chương của họ.
Như chúng ta đã biết, tài năng và phong cách của nhà văn bộc lộ chủ yếu qua
cách vận dụng từ vựng vào tác phẩm đúng chỗ, đúng mục đích, nếu lạm dụng màu mè
thì tác phẩm sẽ trở nên khó hiểu đối với người đọc ở những vùng miền khác. Có thể
nói sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ để sáng tác là một sự lựa chọn vừa ý thức vừa như một
đòi hỏi tất yếu đối với Nguyễn Ngọc Tư. Thêm nữa, tình hình chung hiện nay là ngôn
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
102
ngữ giữa các vùng miền có sự giao lưu rất mạnh mẽ, dẫn tới hiện tượng nhiều tác phẩm
được tạo nên từ thứ ngôn ngữ “hợp chủng quốc”, không rõ rệt về “phong vị ngôn ngữ”,
nên sự lựa chọn “đứng về một hướng” của Nguyễn Ngọc Tư là một hành động dũng
cảm và táo bạo, đã thổi vào đời sống văn chương nước ta một luồng gió tuy quê mùa,
đậm đặc hương vị phù sa đất Mũi, nhưng lại cũng rất mới lạ, làm hả lòng hả dạ cả
những người đọc khó tính nhất.
Căn cứ vào số lượng tác phẩm đã xuất bản cũng như những đóng góp đã được
công nhận của chị, có thể rút ra nhận xét sở trường của Nguyễn Ngọc Tư là sáng tác
bằng ngôn ngữ Nam Bộ, tiếp nối truyền thống có từ Hồ Biểu Chánh, đến Sơn Nam,
Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Dạ Ngân…Đó là truyền thống viết văn như nói, không
cầu kì, trau chuốt làm mất đi sự góc cạnh và sức sống tươi rói của chữ nghĩa. Đặc biệt
ở Nguyễn Ngọc Tư, ngôn ngữ kể chuyện cũng như ngôn ngữ nhân vật đều mang đầy
đủ những đặc trưng của ngôn ngữ Nam Bộ trên các phương diện như: ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp và cả phong cách diễn đạt. Và để vận dụng được một khối lượng lớn từ ngữ
Nam Bộ, cũng như tìm được những lối diễn đạt sao cho đúng với ngôn ngữ giao tiếp
của người Nam Bộ, theo chúng tôi, bên cạnh khả năng trời phú thì Nguyễn Ngọc Tư
phải tìm tòi và nghiên cứu rất nhiều. Bởi thoạt nhìn thì văn phong Nam Bộ là một lối
văn đơn giản, dễ hiểu, nhưng không hề có nghĩa là tùy tiện và dễ dãi. Viết như nói
không dễ, không phải cứ ghi âm một cuộc nói chuyện là thành ngôn ngữ đối thoại mà
nó đòi hỏi rất nhiều sự dụng công gọt dũa của chính người viết.
Có lẽ cho đến nay, Trần Hữu Dũng là người có những nhận xét sâu sắc nhất về
“nồng độ phương ngữ miền Nam” cũng như biệt tài sử dụng nó trong truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư: “Từ vựng của Nguyễn Ngọc Tư không quý phái hay độc sáng (như
của Mai Ninh chẳng hạn) nhưng, đối nghịch, đó là một từ vựng dân dã, lấy thẳng từ
cuộc sống chung quanh. Sự phong phú của phương ngữ trong tác phẩm của Nguyễn
Ngọc Tư là tích tụ của một thính giác tinh nhạy và trọn vẹn: nghe và nhớ…”, hay sự
sắc sảo và tinh anh khi ông khi phát hiện: “Song, nhìn kỹ, sự hấp dẫn của truyện
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
103
Nguyễn Ngọc Tư không phải ở kho từ vựng miền Nam dồi dào của cô, nhưng ở chỗ sử
dụng phương ngữ tối đa và đúng chỗ vào những câu chuyện thật “miền Nam”…”. Để
cuối cùng, sau khi xem xét kĩ lưỡng về nhiều phương diện khác của truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư, Trần Hữu Dũng đã rút ra một kết luận ngắn gọn và chính xác như
một sự định tính: “Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền Nam”.
Thông thường khi tìm hiểu về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của một tác giả,
người ta thường xem xét các phương diện như cách sử dụng từ ngữ để gọi tên sự vật,
hiện tượng hay cách xưng hô…cùng cách diễn đạt, cách nói năng, cách kể chuyện…mà
tác giả chọn lựa trong tác phẩm của mình. Với số lượng truyện ngắn khá đáng kể mà
chúng tôi đã lựa chọn để tìm hiểu (40 truyện), chúng tôi tin rằng “không gian lấy mẫu”
như thế là vừa đủ để thấy được sở trường sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ của cây bút này.
3.4.1.1. Từ ngữ chỉ địa hình, sản vật Nam Bộ
Như một lẽ tất nhiên, khi nhắc đến đồng bằng sông Cửu Long người ta nghĩ
ngay đến sông nước, kênh rạch chằng chịt, kéo theo đó là biết bao sự vật, hiện tượng
liên quan đến sông, đến nước như: mùa nước nổi, ghe xuồng, sản vật cây trái, chợ nổi,
bến đò, khách thương hồ…cũng như những gì liên quan mật thiết tới đồng ruộng như:
lúa má, vịt chạy đồng, mùa màng…Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư cũng không ngoại
lệ. Cũng như nhiều bài viết đã đề cập, truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư dường như là cả
“bộ từ điển” những từ ngữ chỉ các sự vật, hiện tượng liên quan đến sông nước và miệt
vườn Nam Bộ, đậm đặc từ tên gọi của truyện đến từng chi tiết hay ngôn ngữ đối thoại
của nhân vật như: bình bát, bông súng, bông trang, cà ràng, cây còng, cây tra, chợ nổi,
dừa nước, đất nẻ, hàng bông, kinh, lồng đèn, lức dại, mồng gà, nước bò, nước kém,
nước rong, ô rô, rạch, rẫy khóm, sao nhái, thương hồ… Hay có thể đơn cử một vài
truyện ngắn mà từ nội dung đến hình thức đều thấm đẫm không khí của miền sông
nước phương Nam như: Dòng nhớ, Nhớ sông, Thương quá rau răm…
Nguyễn Ngọc Tư, bằng tất cả sự dung dị và chân tình của một “người nhà quê
viết văn”, đã dẫn dắt người đọc bước vào một thế giới mới đầy màu sắc, nơi đó ngôn
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
104
ngữ không chỉ đơn thuần là công cụ để con người gọi tên sự vật, mà nó đã vượt thoát
khỏi chức năng đó để làm một nhịp cầu tình cảm, để mỗi sự vật, hiện tượng được gọi
tên đều hàm chứa trong nó biết bao tình cảm, lòng tự hào của người sử dụng.
Không gian trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư cũng là một không gian Nam
Bộ điển hình với những từ chỉ địa danh mà đọc vào người ta thấy ngay chất thật thà,
quê kiểng của người Nam Bộ. Những địa danh ấy thường gắn liền với tính chất của
“địa hình địa vật” như vàm, kinh, rạch, xẻo, tắc…như: vàm Cỏ Xước, kinh Thợ Rèn,
Kinh Mười Hai, Rạch Ruộng, rạch Ô Môi, Xẻo Mê, Gò Cây Quao, Mũi So Le…Đó là
chưa kể những tên đất, tên vùng trong các truyện ngắn của chị cũng đậm chất Nam Bộ
như: xóm Rạch, xóm Miễu, xóm Gò Mả, chợ Ba Bảy Chín, đồng Trảng Cò, Đất Cháy,
Mút Cà Tha, hẻm Cựa Gà...Hay bên cạnh những dòng sông, bến đò, miễu ông Tà, kinh
rạch chằng chịt ấy là không gian sống của biết bao loại cây mà chỉ Nam Bộ mới có,
những loại cây với những tên gọi hết sức lạ lùng, khó hiểu với đa số người đọc như:
mắm, đước, bần, choại, ô rô, tra… đặc trưng của vùng đất nhiễm phèn, nhiễm mặn
quanh năm, những loại cây chịu mặn dẻo dai, những chiến binh lấn biển hàng đầu qua
hằng mấy trăm năm. Phải chăng những chuyện tình dang dở, những tình cảm đơn
phương lặng thầm, những câu chuyện tình duyên lỡ làng trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư phải được đặt vào những không gian thấm đẫm chất Nam Bộ, phải được diễn
đạt bằng thứ ngôn ngữ hiền lành, mộc mạc như thế thì mới bật lên được cái hồn, mới
gợi lên được sức sống mãnh liệt của đất và người Nam Bộ.
Không sang trọng như hoa hồng, hoa huệ, nhưng một chùm bông điên điển hay
bông tra vàng rực cũng đưa tiễn được cô dâu, cũng làm rộn ràng một đám cưới: “Sáng
sau, Giang mặc áo dài từ dưới ghe bước lên, ông thợ chụp ảnh chụp được một pô đẹp
ơi là đẹp, đẹp nhất là quanh Giang mớ bông tra vàng rụng tơi bời lừng lững như hàng
trăm cái chuông.”. Và thời gian, đối với những người sống lưu lạc trên sông như
Giang, đôi khi có thể được cảm nhận một cách lạ kì: “Giang lấy chồng hôm mười chín
tháng hai, khi dọc những triền sông, trên những đám chùm gọng, những rặng ráng...
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
105
loài chùm gởi tơ hồng phủ lên một màu vàng óng, rồi chi chít những bông hoa trắng
con con như hột tấm mẳn” (Nhớ sông). Quả là một không gian chỉ tìm thấy được trên
sông nước Nam Bộ.
Cây cỏ xứ này cũng là một kho tàng chất liệu vô tận cho sáng tác nghệ thuật của
Nguyễn Ngọc Tư, khiến chị có những liên tưởng vô cùng độc đáo và thú vị như: “Từ
hồi nào muốn soi kiếng phải lấy tay vẹt mớ râu tóc ra như người ta vẹt bụi ô rô.” (Biển
người mênh mông), hay “Vì đám con ra về vội vàng, hí hửng như vừa nhổ được bụi cỏ
ống cứng đầu…” (Núi ở lại). Chất Nam Bộ trong truyện ngắn của chị còn lan tỏa bởi
những loại trái lạ lùng, gieo thương nhớ cho những người con Nam Bộ xa xứ, chẳng
hạn như trái giác nấu canh chua, thứ trái mọc hoang mọc dại quanh năm nơi bờ mương
mép nước nhưng vẫn khiến người ta “thèm quá chừng” (Một mốt tình).
Nắng gió phương Nam cũng bàng bạc trong những truyện ngắn của chị, với
những hiện tượng như gió chướng, gió bấc, gió mùa, “những cơn gió Đông mắc dịch”
(Duyên phận so le)…Nguyễn Ngọc Tư hay nhắc đến gió như “Hiu hiu gió bấc”-
những mùa gió chị Hảo chờ anh Hết quên được người xưa, hay “Gió, rất nhiều ngọn
gió mồ côi, lẻ loi líu ríu chạy qua” trong truyện ngắn “Lỡ mùa”.
Nhưng có thể nói những trang văn xuất sắc nhất của Nguyễn Ngọc Tư là những
trang viết về dòng sông và cánh đồng, mà Trần Phỏng Diều gọi là thị hiếu thẩm mỹ
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Đặc biệt khi một dòng sông trở thành “dòng nhớ”,
được nhìn bằng lăng kính của sự hoài niệm và tiếc nuối, thì nó hình như lại được khoác
thêm một vẻ trầm mặc u hoài: “Sông cách nhà một cái bến dài chẻ ngang đám dừa
nước. Nếu không vướng tầm mắt vào đám ô rô mọc lởm chởm chồm từ mé lá lên,
không vướng mấy bụi ráng, bụi lức dại có thể thấy lồng lộng một khúc sông. Đêm sáng
trăng, ngồi trên nhà có thể thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng. Ban đêm, con sông
trước nhà tôi không ngủ, nó thức theo những chiếc tàu rầm rì trảy qua, theo tiếng mái
chèo quẩy chách bụp rất đều. Dài từ ngã ba Vàm đến đây, nước chảy êm, khuất gió,
những chiếc ghe đi đêm hay đậu lại, nghỉ ngơi.” (Dòng nhớ). Và rất nhiều người Nam
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
106
Bộ gắn đời mình với đời sông, vui buồn sướng khổ với sông, sông có khi là nhà có khi
là mồ, là không gian sinh sống thân yêu của họ, như cha con Giang trong truyện ngắn
“Nhớ sông”.
Cánh đồng là một không gian quan trọng thứ hai bên cạnh không gian sông
nước trong các sáng tác của chị. Nhưng thảng hoặc chị mới nhắc đến những cánh đồng
lúa, tới mùa màng, tới việc nhà nông trong truyện ngắn (chúng tôi hồ nghi rằng chị “để
dành” cho mảng tạp văn), Nguyễn Ngọc Tư thường đặt những cánh đồng trong mối
quan hệ với những câu chuyện về những người chăn vịt, để nói về những nỗi cô đơn
của họ khi sống một mình giữa đồng khơi, hay sự vất vả, bấp bênh của những kiếp
sống lang bạt đó đây theo nhu cầu của bầy vịt như: “Một cánh đồng miên viễn với gió
lắt lay những khói nắng héo xèo, một nhúm mây rất mỏng và rời rạc bay tha thểu trên
cao. Đường chân trời mờ mờ xa ngái. Một vài gò mả loang lổ dưới chòm trâm bầu.
Tiếng chim kêu nhỏ từng giọt thiu thỉu. Mùi rạ mới quyện với bùn tanh tanh. Bầy vịt
rúc đầu vào nách, ngủ ơ hờ dưới bóng cây tra treo từng chùm bông vàng tuyệt vọng
lay như những chiếc chuông câm.”. Hay những dòng miêu tả khá dữ dội của chị khi
viết về “cánh đồng Bất Tận”: “Những cánh đồng trở thành đô thị; những cánh đồng
ngoa ngoắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn chát; những cánh đồng vắng bóng
người, và lúa rày mọc hoang nhớ đau nhớ đớn bàn chân xưa nghẽn trong bùn quánh
giờ đang vất vơ kiếm sống ở thị thành. Những cánh đồng đó, đã hất hủi cây lúa (và
gián tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi bị thu hẹp dần.” (Cánh đồng bất
tận).
3.4.1.2. Từ ngữ chỉ trạng thái, hành động theo kiểu Nam Bộ
Ở phần tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng nhân vật, chúng tôi có nhận xét đa phần
các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư thiên về suy nghĩ, trầm tư hơn là hành động, chính
vì thế truyện ngắn của chị rất giàu có những từ ngữ chỉ tính chất, mức độ của tình cảm
theo cách nói của người Nam Bộ. Nó đậm đặc phong vị của ca dao, tục ngữ, nồng nàn
hơi thở của những tâm hồn Nam Bộ hào sảng, chất phác. Đặc sắc nhất là những từ ngữ
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
107
diễn tả trạng thái và mức độ của tình cảm trong những trường đoạn độc thoại nội tâm
của nhân vật như: bằn bặt, bịnh, buồn hiu, cà chớn, chảnh, đong đưa, giả bộ, lãng xẹt,
lừ lừ, im re, ngộ, trớt he, xỉn, xửng vửng, gấp rãi...
Tính từ chỉ mức độ, trạng thái tình cảm của các nhân vật cũng như tính chất của
sự vật hiện tượng, theo chúng tôi, là một đóng góp xuất sắc và có giá trị của Nguyễn
Ngọc Tư, góp phần phổ biến ngôn ngữ Nam Bộ ra khỏi “văn giới” phía Nam, cũng như
là nguồn tư liệu nghiên cứu phong phú cho các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ Nam Bộ.
Không chỉ chiếm số lượng áp đảo so với động từ chỉ hành động hay trạng thái tình
cảm, các tính từ dùng để miêu tả sự vật, hiện tượng trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư còn mang một ý vị đặc sắc riêng. Đó là những tính từ láy và tượng thanh như: long
tong, lỏn tỏn, lóc cóc, lọc cọc, tè tè, chách bụp, tinh tang, lẹt xẹt, lụp cụp…, hay giàu
tính tượng hình như: cong vênh, tròn dình, chom hom, thù lù, xơ rơ, quặt quẹo…
Theo thống kê dựa trên 40 truyện ngắn, chúng tôi nhận thấy những tính từ chỉ
trạng thái tình cảm của con người không chỉ chiếm ưu thế về số lượng, mà còn nổi bật
hơn bởi hiện tượng tính từ láy chiếm đa số, vì vậy nó có khả năng to lớn trong việc bộc
lộ thế giới nội tâm của nhân vật (Chúng tôi sẽ đính kèm bảng thống kê những tính từ
mang màu sắc Nam Bộ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ở phần Phụ lục).
Về phương diện sử dụng nhiều động từ mang sắc thái Nam Bộ rõ rệt, Nguyễn
Ngọc Tư tỏ ra là một “truyền nhân” của những Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Trang Thế
Hy…Nhiều động từ phải được vận dụng vào những trường hợp cụ thể thì người đọc
mới có thể hiểu được như: hụ hợ, đưa hơi, chém vè, ỷ y…Nếu là những động từ chỉ
hành động của nhân vật thì nó thường ngắn, mạnh, gọn kiểu như: đụt, tạt, ụp, dộng,
táp, tề, róc…như tính cách vốn mạnh mẽ và dứt khoát của người Nam Bộ.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
108
Bảng thống kê động từ mang màu sắc Nam Bộ trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư:
Động từ mang màu sắc Nam Bộ
càm ràm, na, nách, cự, đụt, biểu, nắm nuối, ngó, cặm, ngoi quẫy, quá giang, quơ,
lượm, mần ăn, khoái, dừng, xà quần, rầu, xúc, quở, lai rai, tụt, lội, tiếp, lòn, xài, đổ
quạu, coi kiếng, làm lơ, ực, chựng (lại), lò mò, rang, lia lia, mằn mằn, rầy, so cựa,
xẹt, ngán, tạt, ụp, chắc mẳm, giạt, lánh, day day, nghiêng nghiêng ngó ngó, hối, hụ
hợ, giả đò, te te, cuốn (đồ), rượt, dộng, quớt, ghịt (dây), đưa hơi, hủ hỉ, lẫy, nán,
ngoắc, lườm lườm, táp, tưng tiu, ừ hử, nắm níu, trộ (lên), tề, róc, lội, cản, dong,
dỏng (lỗ tai), quờ, hức, suốt (lúa), ỷ y, ngán, chém vè, xổ, giả đò, thường,…
3.4.1.3. Diễn đạt kiểu Nam Bộ trong lối kể chuyện
Biểu hiện đầu tiên của lối diễn đạt kiểu Nam Bộ trong truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư là các nhân vật của chị xưng hô với nhau bằng những từ mang sắc thái Nam
Bộ như: tía, má, bây, (cái) thằng, cổ, qua, cưng, con, chú em, chú em mày, chú mày,
hai đứa mình, con mẻ, thằng chả, tui, ổng, bả,….Và họ gọi tên nhau theo kiểu thứ tự
kết hợp với tên riêng như: Sáu Đèo, Chín Vũ, Hai Nhỏ, Năm Hiệp…Đây là cách xưng
hô mộc mạc, bình dân, nhưng không vì thế mà kém phần lễ nghĩa, rất đặc trưng cho
tính cách cởi mở, không câu nệ của những lưu dân Nam Bộ từ buổi đầu khai phá vùng
đất mới, với tư tưởng “bốn bể đều là anh em” nên không ngần ngại kết thân với nhau
ngay từ buổi đầu gặp gỡ, “qua” cũng như “chú em mày” đều là những kẻ lạc loài nên
phải biết nương nhau mà sống. Vì lẽ đó, những nhân vật trong truyện ngắn của chị từ
nếp nghĩ cho đến cách đối nhân xử thế đều thấm đẫm cái tình, cái nghĩa đơn sơ nhưng
bền chặt, mộc mạc, gần gụi, thiệt thà, không biết tô vẽ lời ăn tiếng nói, chỉ biết đem cái
tình ra mà đối đãi với nhau.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
109
Xét trên bình diện ngôn ngữ học, truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư có rất nhiều từ
biến âm và biến âm có rút gọn như: bi nhiêu, hổng dè, thí mồ…Hiện tượng này có
nguyên nhân từ tính “làm biếng” của người Nam Bộ, thích nói sao cho gọn, cho nhanh,
miễn hiểu ý nhau là được, không thích dài dòng, trau chuốt. Vì lẽ đó, người Nam Bộ
hay bị những vùng miền khác đánh giá là ăn nói cục mịch, ngắn ngủn, không có đầu có
đuôi.
Bên cạnh đó, những tình thái từ có màu sắc Nam Bộ như: hen, nghen, í ẹ…cũng
làm đậm thêm chất Nam Bộ trong truyện ngắn của cây viết trẻ này. Tuy nhiên, Nguyễn
Ngọc Tư cũng rất biết tiết chế ngòi bút của mình bằng cách sử dụng có chừng mực,
không lạm dụng những từ ngữ, những cách diễn đạt mang sắc thái địa phương gây khó
khăn cho độc giả cả nước.
Cũng có thể kể đến những thành công nhất định của Nguyễn Ngọc Tư trong
việc vận dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ, hay dễ hiểu hơn là những cách nói đặc trưng
của người Nam Bộ trong những tình huống nhất định nào đó, thí dụ như hễ ngạc nhiên
là phải thốt lên: “Trời đất quỷ thần ơi”, hay đau đớn thì phải “thấy ông bà ông vải”…
Qua giao tiếp hàng bao thế hệ những cách nói ấy trở thành những “mẫu” được sử dụng
rộng rãi, và Nguyễn Ngọc Tư đã mang nó vào truyện của mình một cách hết sức tự
nhiên. Ở một số truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tư khéo léo lồng vào đấy một câu ca dao
nào đấy, phù hợp với tình huống truyện để làm nổi bật hơn chủ đề, cũng như tăng
cường sức gợi cho người đọc. Trường hợp này có thể kể đến những truyện ngắn như
“Thương quá rau răm” với câu ca dao: “Gió đưa cây cải về trời. Rau răm ở lại chịu
lời đắng cay”, còn “Người năm cũ” thì lại bồi hồi, hối tiếc bởi duyên phận lỡ làng:
“Đường dài ngựa chạy biệt tăm. Người thương có nghĩa trăm năm cũng về”. Có khi
chị lấy ngay ý của một câu ca dao hay tên một bài lý để đặt cho truyện ngắn của mình:
Sông dài con cá lội đâu, Thương quá rau răm, Lý con sáo sang sông…
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
110
Bảng thống kê một số cách nói kiểu Nam Bộ trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư:
Một số kiểu diễn đạt mang màu sắc Nam Bộ
nín thinh nín thít, tỉnh bơ ba khía, chết ngoẻo cù nèo, tằng lăng tíu líu, bù non bù
nước, trợn tròng trợn trạc, héo queo héo quắt, cà tịch cà tang, rủ rỉ rù rì, cằn nhằn
cử nhử, lạt nhách lạt nhểu, trống hơ trống hốc, coi giò coi cẳng, cà lơ phất phơ,
lửng ta lửng tửng, sụm bà chè, vô phương, ác chiến, già câng già cấc, già cóc
thùng thiếc, cà xịch cà xang, cà núp cà ló, xúm xa xúm xít, ngắt nga ngắt ngẻo, thì
thà thì thụt, xơ bơ xấc bấc,…
Tóm lại, ngôn ngữ là chất liệu để nhà văn sáng tác, nhưng cách thức sử dụng
ngôn ngữ lại là yếu tố quyết định phong cách của nhà văn. Với những gì đã trình bày
sau khi tiến hành khảo sát tính từ, động từ, cách diễn đạt…trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư, chúng ta có thể kết luận ngôn từ của chị đậm chất Nam Bộ, đặc sắc về chất
lượng, phong phú về số lượng và trên hết là nó được tác giả vận dụng linh hoạt, thích
hợp với từng tình huống và nhân vật khác nhau nên chúng càng có cơ hội phát huy
thêm giá trị của mình.
3.4.1.4. Đặc điểm câu văn trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Câu văn của Nguyễn Ngọc Tư cũng ngắn gọn và mộc mạc như lời ăn tiếng nói
hàng ngày của con người Nam Bộ. Nó thường có kết cấu một chủ vị đơn giản và chị
hay có kiểu mở ngoặc giữa chừng trong một câu để giải thích thêm cho độc giả những
điều cần thiết và thú vị như: “Chị quê Cây Khô, lỡ thời, thương thằng (xin lỗi!) thợ gặt
miệt Bình An đổ xuống. Không biết gốc gác, cội nguồn người ta mà thương gì ác nhơn
vậy không biết. Làm vợ thợ gặt, sống đời thợ gặt. Chị ngồi vấn vạt áo: "Ai cũng nói em
ngu, cực cỡ nào em cũng chịu, miễn là mình thương người ta". Vậy mà thằng đó (xin
lỗi!) tệ thiệt, làm ít, nhậu nhiều.” (Cái nhìn khắc khoải) hay một số câu khác
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
111
như:“Chị nhảy xổm ra, la oai oái, sau lại cười (mà con mắt đung đưa phía cha) “mai
mốt mấy con vịt quỷ này sẽ khoái chị, mấy hồi…”; “Mỉa mai, người ở đây lại không có
nước để dùng (như chúng tôi đi trên đất dằng dặc mà không có cục đất chọi chim”;
“Người đàn ông cười hề hề, thề “Tôi nói láo cô Hai cho xe đụng chết ngắc” (Ngay lập
tức, Điền thì thầm, “thằng chả ở dưới ghe kiếm đâu ra chiếc xe, nói dóc…”, và bằng
cái vẻ ác cảm lạ lùng, thằng Điền biểu tôi nhìn khuôn mặt và tấm lưng trần chi chít
những nốt ruồi của ông ta, bảo “Tại hồi đó má ổng mới sanh ổng ra quên lấy lồng bàn
đậy, nên ruồi bu tùm lum”)…trong truyện “Cánh đồng bất tận”.
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư cũng xen rất nhiều câu hỏi giữa những lời kể
chuyện để tạo cớ cho một sự lý giải có thể không cần thiết về mặt sự kiện nhưng
chuyển tải sự hài hước độc đáo của người kể chuyện.
Truyện ngắn của chị cũng có rất nhiều câu văn bắt đầu bằng liên kết từ “Và”,
“Rồi”, “Thế là”, “Bỗng dưng”… bởi đa số các truyện ngắn đều được trần thuật theo
thời gian tuyến tính của sự kiện, hoặc chiều dài diễn biến tâm trạng của nhân vật.
Nhìn chung, Nguyễn Ngọc Tư không có nhiều sáng tạo đặc sắc trong việc kiến
tạo câu văn. Có thể nói câu văn của chị gọn ghẽ và xinh xắn, nhiều câu tươi rói hơi thở
của lời ăn tiếng nói hàng ngày. Đôi chỗ, bằng cách ngắt bởi những dấu ngoặc đơn, chị
đã mang đến được nhiều sự thích thú, bất ngờ cho người đọc. Viết như nói, tưởng dễ
mà khó, cũng như việc tạo ra những câu văn ngắn gọn, dứt khoát nhưng vẫn chuyển tải
được hết những gì mình muốn nói cũng là dấu hiệu chứng tỏ bản lĩnh của cây bút trẻ
này.
3.4.2. Giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Ngôn ngữ là một trong những yếu tố góp phần tạo nên giọng điệu của tác phẩm
văn xuôi, bên cạnh những yếu tố khác như cú pháp, nhịp điệu, cách diễn đạt…Đi tìm
giọng điệu trong văn xuôi, chúng ta có thể đứng trên hai bình diện. Ở bình diện vi mô
(tức là ngôn ngữ của người kể chuyện), chúng ta thấy hiện lên trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư một lối kể chuyện hấp dẫn, tự nhiên, hóm hỉnh với lối dẫn chuyện
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
112
hồn nhiên, tựa như không còn khoảng cách giữa người kể chuyện và nhân vật, người
kể chuyện và độc giả.
Chúng tôi cho rằng nghệ thuật kể chuyện đặc biệt khó ở chỗ phải vào đầu như
thế nào cho trơn tru và kết thúc như thế nào (có thể gọn ghẽ, có thể bỏ lửng) để tạo
được dư ba cảm xúc cho người đọc. Nguyễn Ngọc Tư đã làm được điều đó trong
truyện ngắn của mình, với việc mở đầu câu chuyện bằng cách đi trực tiếp vào vấn đề
và cách kết thúc truyện bằng những câu kết nhẹ như gió, nhưng buộc người đọc phải
thẫn thờ suy ngẫm. Tiêu biểu cho nhận định này là truyện ngắn “Lương”. Ngay vào
phần mào đầu, Nguyễn Ngọc Tư đã tập trung ngòi bút để dồn nén ngồn ngộn những chi
tiết về ngoại hình, về tính cách, về cuộc đời, về nghề nghiệp… Cuối cùng, để làm bật
lên hình ảnh một “Lương khùng” khác người, khác người nên mới bị gọi là khùng với
tất cả sự hồn nhiên đến mức tội nghiệp, hiền lành đến mức cù lần của mình. Có ai biết
đâu đằng sau cái ngoại hình dị hợm, lạ đời đó ẩn chứa một tâm hồn thánh thiện và một
trái tim yêu đầy đam mê với người con gái lỡ lầm. Câu kết truyện ngắn này thoạt nhìn
vào có vẻ khá lạnh lùng, khách quan, cứ như là lời giải thích địa danh: “Nên bên kia
chợ người ta gọi bến này là bến Đậu Đỏ, bên này bờ xóm Miễu, người ta kêu bến
“Lương khùng”. Thế nhưng, người đọc không cần tinh ý lắm cũng dễ dàng nhận ra đó
là một kết thúc cần phải có, bởi nó đã được “chuẩn bị” ngay từ những dòng phác họa
đầu tiên về nhân vật ngộ nghĩnh này.
Nếu phải liệt kê những câu kết nhẹ như gió thoảng giàu giá trị nghệ thuật của
Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi e rằng đó sẽ là một công việc nặng nhọc, bởi kết thúc lửng
lơ, gợi nhiều dư âm và buộc người đọc phải suy ngẫm, day dứt, thậm chí muốn “phản
hồi” chính là sở trường của chị đã được bộc lộ từ những truyện ngắn đầu tiên của mình.
Có những lời kết gợi sự tiếc nuối như: “Cả ba người quay lưng lại với nhau, bưng mặt
khóc, thương cho tuổi thanh xuân đã qua mất rồi.” (Chiều vắng), hay “Từ đấy, ông
già Sáu Đèo chưa một lần trở lại. Từ đấy, giữa biển người mênh mông, Phi gặp biết
bao nhiêu gương mặt, cùng cười đùa với họ, hát cho họ nghe, cùng chạm ly uống đến
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
113
say... Nhưng không ai nhắc Phi cắt tóc đi, đàn ông đàn ang ai để tóc dài. Biển người
thì mênh mông vậy…” (Biển người mênh mông). Có những câu kết lại gợi sự thương
cảm và ray rứt cho người đọc như: “Và Ba Già, trưởng đoàn Trảng Cò, ông già có
gương mặt khắc khổ, nhăn nhó nhất, mạnh giỏi nhất, ăn nói văn vẻ trơn tru nhất bỗng
dưng hức lên, khóc ngon lành: Vậy là đất Trảng Cò trễ thêm một mùa nữa rồi, mấy chú
ơi.” (Lỡ mùa,) và có đôi khi đó là những đoạn kết dài, dòng nào chữ nào cũng đầy sự
kìm nén để không vỡ òa trong nước mắt: “Những buổi trưa tháng mười mờ, lợt lại
quay về trên khu phố nhà tôi […] Cha cũng chẳng ngó ngàng gì hoa nắng, lặng lẽ ngồi
đánh máy một cái đơn tranh chấp đất đai của khách hàng, gương mặt quắt quay, bàn
tay như những vụn xương khô, cứng quèo bởi ý nghĩ, có thật mình đã bắn đứa em ruột
thịt của mình? Bà nội ngủ trưa, mặt nhiều khi cau lại, nhiều khi rên khẽ, dường như
những cơn chiêm bao đang tàn phá sự sống của bà […] (Vết chim trời).
Cũng có khi Nguyễn Ngọc Tư kết thúc truyện ngắn bằng một câu hỏi, như là
một sự hoài nghi, để tạo sự bất ngờ cho tác phẩm. Chúng ta hãy thử xem xét truyện
ngắn “Cái nhìn khắc khoải” với nhân vật “tôi” giữ vai trò người kể chuyện, kể về câu
chuyện của một ông già, với cách gọi hết sức khách quan là “ông”, mãi cho đến cuối
cùng nhân vật Khoa mới ngờ ngợ: "Mầy đang kể về ba mầy, phải không?" .
Cũng có những câu kết chắc nịch mà lại hàm chứa nỗi hoang mang hơn cả một
một câu hỏi thường tình, chẳng hạn như câu kết truyện ngắn “Núi lở” của nhân vật
“tôi”: “Thằng bé ấy đúng là vẫn chưa có kết thúc” như một lời dặm làm “tăng trọng
lượng” cho điều thảng thốt sau cùng của Vĩnh: “Riêng thằng bé không có kết thúc”.
Chúng tôi đặc biệt chú ý đến kiểu kết thúc “đối thoại” của Nguyễn Ngọc Tư, khi
chị để cho nhân vật dường như không chỉ độc thoại với chính nội tâm ngổn ngang của
mình, mà dường như hướng tới sự chia sẻ với cả độc giả tất cả những nỗi niềm bối rối
thầm kín nhất, như nhân vật “tôi” trong truyện ngắn “Một mối tình”: “Mà, trời ơi,
Trọng ác với tôi chi vậy, sao bắt tôi phải kìm lòng không được để nói ra, nhìn tôi mà
không hiểu à?”, hay một câu hỏi buông lửng, nửa như tỉnh táo nửa như điên khùng của
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
114
nhân vật Huệ: “Nó muốn chạy vô xóm, tới nhà Thi, gặp anh và nói cho anh hay rằng
nó hết thương Thi rồi, nó quên anh, quên thiệt. Nhưng nói để làm gì, ta ?”. Tình huống
này là nhân vật bối rối hay chính tác giả cũng bối rối, bởi có những điều cuộc sống tự
mình quyết định theo một lý lẽ riêng mà con người không thể can thiệp, thậm chí
không thể hiểu được.
Nói tóm lại, về mặt giọng điệu, những truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư dù là
kết thức gọn ghẽ hay bỏ lửng lơ thì đều tạo cho người đọc những dư ba cảm xúc rất
đẹp đẽ. Người đọc có thể chênh chao một cách bất chợt trước sự lỡ làng của những mối
tình hay sự kết thúc trong bất lực của những ước mơ đời tan vỡ, hay có khi là tự xem
xét lại chính cách sống của bản thân mình, soi chiếu lại mình trước những bi kịch của
người khác. Một truyện ngắn hay là một dòng chảy không bao giờ kết thúc hay bị giới
hạn bởi những bến bờ, và xét dưới góc độ tiếp nhận, có thể nói với mỗi người khi tiếp
cận tác phẩm sẽ hấp thu được những dạng năng lượng khác nhau từ cùng một dòng
nước. Kể chuyện kiểu như thế, vừa mơ màng vừa mang phong vị cổ tích, khiến người
đọc không sao dứt ra được. Cái hay của Nguyễn Ngọc Tư là ở chỗ đó.
Xét trên bình diện vĩ mô (tức là giọng điệu chung của cả tác phẩm), chúng ta
thấy truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư có một giọng điệu nhẹ nhàng, đằm thắm và sâu
lắng. Giọng văn ấy không chỉ thể hiện ở lối kể chuyện chậm rãi, thong dong mà còn thể
hiện ở cả ngôn ngữ của nhân vật, ở những đoạn miêu tả nội tâm của nhân vật. Văn
Nguyễn Ngọc Tư giàu cảm xúc vì những nhân vật của chị thiên về cảm nhận hơn hành
động, nhân vật thích chìm đắm trong cảm xúc, trong thế giới tinh thần của mình hơn là
hành động hướng ra bên ngoài. Ở đặc điểm này chúng ta thấy truyện ngắn của chị có
nhiều điểm tương đồng với Thạch Lam. Nhân vật trong đa số truyện ngắn của chị
không tranh cãi chan chát để tìm ra chân lý cuộc sống, cũng không manh động, liều
lĩnh để giành lấy quyền lợi cho mình, họ thường nhẫn nhịn chịu đựng những thiệt thòi
trong cuộc sống một cách trầm tĩnh đáng ngạc nhiên. Những đặc điểm ấy trong tính
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
115
cách và tâm lý nhân vật đã góp phần tạo nên âm điệu trầm lắng và buồn bã cho giọng
điệu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Bên cạnh đó, không gian nghệ thuật mà Nguyễn Ngọc Tư xây dựng thường là
những làng quê yên tĩnh, heo hút và u buồn nên cũng không thể gợi lên chút gì sôi
động, ồn ào. Đó có thể là một xứ cù lao nghèo và buồn đến rợn ngợp nên dẫu tình
người có ấm áp đến mấy cũng không giữ được chân người: “Cù lao Mút Cà Tha nằm
gần cuối sông Dài, trên nó một chút có một nhánh sông khác rẽ về phía mặt trời, rộn
rịp được đoạn đó rồi thôi. Mút Cà Tha nằm hiu hắt, lâu lâu mới thấy bóng dáng một
con tàu lớ ngớ chạy vào rồi lại tẻn tò quay ra vì lầm đường, vì không biết đằng sau cù
lao, sông cụt. Ngó sông vắng vẻ quá trời buồn, nhìn cảnh cù lao còn buồn hơn. Buồn
từ mùi ổi chín phảng phất trong vườn, từ giọng người ới lên một tiếng rồi bặt, dư âm
còn thâm u trên các ngọn cây, tiếng cạo cơm cháy xa vẳng trong nắng chiều... Từ mé
rừng mắm chống lở đất phía bên này, đi hết vườn cây này gặp được một căn nhà thì lại
tiếp đến vườn cây trái khác. Cuối cùng là bãi bồi, dây khoai lang bò xùm xòa phủ kín
đất. Bóng người ẩn hiện dọn cỏ dưới các gốc cây…” (Thương quá rau răm), hay có
thể đó là một xóm nghèo và buồn hiu hắt tựa như chưa thoát ra được thời kì tiền sử:
“Rúc vào nách một con sông gầy gò chảy cắt qua đồng, X như một đứa trẻ tuyệt vọng
níu tìm vú mẹ. Dọc triền sông, cỏ kết dày, từ trên bờ thò xuống nước như đất đang gục
đầu gội tóc, những cây bần gie xa khỏi mé sông, những cây sộp rũ rượi xoã chùm rễ
nâu, những thân cau lẻ loi đâm thẳng lên trời, vài tiếng gà nhói lên xa xa… tất cả
những thứ đó làm cho vẻ mặt của X buồn thiu. Những chiều phai, nhìn ra sông thấy lục
bình trôi, lơ phơ mấy cái bông lục bình quá thì, cũng phai như chiều. Ngó ra sau nhà
thấy một vạt đồng trũng sâu, ngoi lên mặt nước những bông lúa thưa thớt, xanh xao.
Vườn cũ có vài cây vú sữa, mù u rụng trái đầy mặt đất, mấy bụi tre bụi trúc vút lên trời
một chòm xanh ngắt …” (X-năm một ngàn chín trăm năm xưa,) và dĩ nhiên những
con người ở X cũng sống một cuộc đời “lạ lùng” rất nhiều so với đồng loại. Không
gian đó, hòa quyện với tâm tư của những con người như được vẽ trên cái nền u ám đó
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
116
khiến câu chuyện mãi không cất lên được một âm điệu vui vẻ, như quy luật tài tình mà
cụ Nguyễn từ mấy trăm năm đã nhận ra: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Không gian nghệ thuật ấy tưởng là tĩnh lặng và đơn điệu, nhưng nó cất giữ trong mình
biết bao số phận, biết bao những vui buồn sướng khổ của kiếp nhân sinh. Không bề
bộn, bon chen, ồn ào như phố thị, nhưng đó cũng là nơi chốn đi về của từng đấy con
người nhà quê chất phác thật thà với tất cả những đau đáu riêng tây của mình.
Thời gian nghệ thuật chủ yếu trong truyện ngắn của chị là thời gian tâm trạng,
thời gian mang tính hồi ức, đưa người đọc quay về với dĩ vãng, quá khứ của nhân vật.
Chúng ta hay bắt gặp kiểu thời gian quá khứ trong rất nhiều truyện ngắn của chị: Ngọn
đèn không tắt, Mối tình năm cũ, Sông dài con cá lội đâu, Dòng nhớ, Duyên phận so
le, Vết chim trời…Dường như hồi ức, ngoái nhìn và mơ tưởng quá khứ là sở trường
của cây bút trẻ tuổi nhưng sớm già dặn trong suy nghĩ này. Đó có thể là quá khứ của
một dân tộc, một vùng đất, một gia tộc hoặc đơn giản chỉ là lịch sử của một đời người,
một lát cắt mỏng manh tại một giai đoạn hay một biến cố nào đó, có thể là tình cũ,
người cũ, vết thương cũ, hận thù cũ…Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư cũng rất phổ
biến kiểu “thời gian tâm trạng” “Ba thu dọn lại một ngày dài ghê”. Có khi đó là sự kìm
nén dữ dội của tâm trạng khiến thời gian vật lý dường như đông đặc như trong các
truyện ngắn: Cái nhìn khắc khoải, Một mối tình…, có khi nó được kéo dãn ra một
cách chậm rãi, thủng thẳng đến âu lo như truyện: Núi lở, Núi ở lại, Một chuyện hẹn
hò, Lỡ mùa…Thời gian vật lý không được coi trọng, nhường chỗ cho những diễn biến
nội tâm của nhân vật, sự kiện có thể bị xáo trộn thứ tự trước sau, quá khứ đan xen hiện
tại, hiện tại mong ngóng tới tương lai…Chính vì kiểu thời gian tâm lý này mà chất trữ
tình trong truyện ngắn của chị rất đậm, chất trữ tình toát lên từ nội tâm hồi cố nhân vật,
và vì thế mà ảnh hưởng tới giọng điệu của cả tác phẩm.
Về mặt bút pháp, Nguyễn Ngọc Tư hay sử dụng biện pháp so sánh (ít khi dùng
biện pháp nghệ thuật ước lệ, tượng trưng), không vòng vo mà thường đi vào miêu tả
một cách trực tiếp, chân thực cuộc sống và thế giới tự nhiên xung quanh. Vì thế, lối
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
117
viết của chị tự nhiên như nói, rất hóm hỉnh, có duyên kiểu như: “Từ hồi nào muốn soi
kiếng phải lấy tay vẹt mớ râu tóc ra như người ta vẹt bụi ô rô.”, hay cách ví von nỗi
buồn nghe mà buồn đứt ruột: “nỗi buồn như cái ao, càng đào càng sâu, ai ác làm gì.”
(Biển người mênh mông). Hóm hỉnh mà không quá đà đến mức cay nghiệt, rất nhiều
vấn đề trừu tượng tưởng như rất khó nắm bắt và bộc bạch vậy mà Nguyễn Ngọc Tư lại
có cách làm cho nó gọn hơ cũng bởi cái giọng điệu cà rỡn và những so sánh ngồ ngộ
rất gần gũi và dễ hiểu như thế.
Khảo sát bốn mươi truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi tạm phân loại
truyện ngắn của chị theo những kiểu “giọng” như sau:
3.4.2.1. Giọng thủ thỉ, tâm tình
Đây là giọng điệu chủ đạo trong những sáng tác thời kì đầu của Nguyễn Ngọc
Tư, tiêu biểu là tập truyện “Ngọn đèn không tắt”, sau đó là “Giao thừa”, với những
truyện ngắn xuất sắc như: Ngọn đèn không tắt, Cái nhìn khắc khoải, Một mối
tình…Những truyện ngắn này hồn nhiên kể lại những câu chuyện đời, chuyện người
một cách chậm rãi. Giọng kể nhẹ nhàng, từ tốn, đề tài câu chuyện cũng nhỏ bé và giản
đơn. Có cảm giác người ta nghe kể không phải để nắm bắt sự kiện, mà để cảm nhận
đằng sau những câu chuyện ấy là những tâm tình gì. Thường gặp kiểu giọng điệu này
nhất trong những truyện ngắn kể về những mối tình ngang trái, mối tình thầm lặng, mối
tình xưa cũ. Tuy nhiên, kể chuyện với giọng điệu hiền lành và thủ thỉ như thế mà bị
kéo dãn quá dài hay với nồng độ quá đậm thì cũng rất dễ gây ra sự nhàm chán cho
người đọc, vài truyện ngắn của chị đã mắc phải nhược điểm này.
3.4.2.2. Giọng hài hước, tưng tửng
Nguyễn Ngọc Tư có nhiều truyện ngắn thành công mang giọng điệu hài hước,
có phần tưng tửng của một cô gái trẻ ương bướng và lém lỉnh, có thể kể đến những
truyện tiêu biểu như: Chuyện vui điện ảnh, Lương, Đời như ý, Trò chơi quên nhớ,
Một trái tim khô…Giọng điệu này thường gặp trong những truyện ngắn xoay quanh
những mảnh đời nhỏ bé, những số phận bình thường với những khát vọng cũng bình
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
118
thường những vẫn không được toại nguyện. Nhưng họ không biết phải trách ai, phải đổ
lỗi cho cái gì, chỉ biết chua xót ngậm ngùi chịu đựng, vì biết nếu có phản kháng đi
chăng nữa rồi thì cũng sẽ rơi tõm vào cái quy luật khắc nghiệt của cuộc sống. Hài hước
trong trường hợp này không phải vì vui vẻ, tưng tửng nhiều khi không phải vì điên
khùng, mà đó cũng là cách phản kháng nhẹ nhàng trước những bất công, ngang trái của
cuộc sống.
3.4.2.3. Giọng buồn bã, hiu hiu, đượm đượm
Có nhiều ý kiến cho rằng văn của Nguyễn Ngọc Tư già dặn so với lứa tuổi của
chị, khá “rộng” và “xa” so với tâm hồn và suy nghĩ của một cô gái trẻ. Chất trầm tư
biểu hiện khá rõ trong những truyện ngắn mà “người lớn” đóng vai trò là nhân vật
chính với những tình cảnh hết sức éo le như: Dòng nhớ, Biển người mênh mông,
Cuối mùa nhan sắc, Sông dài con cá lội đâu…Buồn lắm cho những mối tình dang dở
mà không thể cứu vãn nhưng không vì thế mà đau thương chất ngất, những gì chúng ta
cảm nhận trên trang viết là cái chất đằm đằm, lặng mà sâu, im mà mạnh của dòng chảy
tâm trạng. Tình cảm của những người già ấy trong truyện của chị như ánh nắng của
buổi hoàng hôn sắp tắt thấy hiu hắt, võ vàng là vậy, nhưng khi nó loé lên một lần cuối
để biến sâu vào đêm thì chúng ta mới cảm nhận được hết sự dữ dội của nó.
Chất “buồn bã hiu hiu” này còn được bắt gặp trong những cô gái với “Duyên
phận so le” hay “Hiu hiu gió bấc” hoặc “Thương quá rau răm”…Tuy mức độ
“buồn” có khác nhau nhưng tựu trung là buồn tình, vì tình phụ, tình phai, tình thầm hay
tình lỡ…Có khi tác giả mạnh dạn kêu gọi nhân vật hãy khóc đi (Nhà cổ), hoặc lẳng
lặng kể lại với giọng điệu cố tỏ vẻ khách quan, nhưng tình thật lại kìm nén, đau đáu
ngăn không để rơi ra một tiếng thở dài. Đọc nhiều truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư,
ta mới thấy đồng cảm với nỗi niềm của Xuân Diệu “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi
buồn”. Không phải là sự tiết chế cố tình, ngay cả khi tác giả cố tình phơi ra “nỗi buồn”
thì chúng ta vẫn thấy đó là một nỗi buồn dịu nhẹ, một vết thương có thể nông hay sâu
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
119
nhưng bề mặt của nó không bao giờ là một sự lở lói thái quá, chính vì vậy nó mới tạo
nên một “giọng” buồn bã hiu hiu, đượm đượm.
3.4.2.4. Giọng triết lý bình dân
Không đậm nét như những “giọng” khác, nhưng thảng hoặc chúng ta vẫn nhận
ra giọng “triết lý bình dân” này ở Nguyễn Ngọc Tư. Đó là khi chúng ta nhận thấy bóng
dáng của tiền nhân Hồ Biểu Chánh ở cô gái trẻ này. “Bình dân” ở đây nghĩa là những
“triết lý” ấy rất dễ hiểu và gần gũi với cuộc sống của con người, gần đến mức nhiều khi
không ta nhận thức được và lắm lúc tuy dễ hiểu mà cả đời cũng không hiểu nổi. Thí dụ
như: “Anh Năm về, thất vọng, nghẹn ngào hỏi má, chân tình mà không chắc chắn,
không lâu bền sao má, không đáng để được đền đáp sao má. Má vuốt tóc con trai,
không nói gì hết, má suy nghĩ. Có nên nói hay không lời xưa rày má thường dạy thằng
con trai lớn, rằng sống trên đời, thấy phải thì làm, mà làm cũng đừng nghĩ sẽ được đáp
đền xứng đáng, vì có những thứ quý giá lắm, chẳng gì bù đắp được đâu.” (Qua cầu
nhớ người), hay đơn giản chỉ là: “Bởi cha biết đôi khi ta phải trả giá lớn dù chỉ mang
một lỗi lầm nhỏ” (Vết chim trời).
Cũng như những tác giả trẻ khác, vấn đề mà Nguyễn Ngọc Tư hay băn khoăn
trong những sáng tác của mình ấy chính là lẽ sống ở đời, cách sống ở đời: “Đâu nè,
đâu phải muốn là làm, cũng phải suy nghĩ đắn đo dữ lắm. Coi lại, làm gì có chuyện
con người được sống hồn nhiên như nước chảy mây trôi ? Phải chọn lựa và trả giá
tính đâu làm nghệ thuật là giống như xây cái nhà lầu, sức mình bao nhiêu thì xây
bấy nhiêu, để thành công mà đánh đổi nhiều như vậy thì tội nghiệp cho nghệ sĩ
biết bao.” (Chuyện của Điệp), vấn đề phải “trả giá” của con người khi đánh cuộc
chứ.” (Nước chảy mây trôi) ,vấn đề lựa chọn giữa vinh quang và hạnh phúc: “Điệp
với lòng tham trong truyện ngắn “Núi lở” … Rất nhiều những trăn trở lớn lao nhưng
được Nguyễn Ngọc Tư diễn đạt và “hoá giải” một cách hết sức giản dị và vô cùng
thực tế.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
120
Xem xét một cách tổng quát, chúng ta thấy truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư có sự
đa dạng trong giọng điệu như đã trình bày ở trên, nhưng nổi bật nhất vẫn là giọng kể
chuyện, tâm tình buồn buồn, thủ thỉ, nhẹ nhàng, mơ màng quá khứ, hoài niệm dĩ vãng
của lịch sử, của quê hương, của những số phận cá nhân nhỏ nhoi nhưng không hề bị
khuất lấp và lãng quên.
Giáo sư Trần Hữu Dũng trong bài viết “Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền Nam”,
khi nhận xét về giọng văn của Nguyễn Ngọc Tư, đã có chút lo ngại bên cạnh việc đánh
giá cao những thành tựu chị đạt được khi bước đầu định hình cho mình một phong cách
sáng tác riêng biệt: “Quả là Nguyễn Ngọc Tư có tài thiên phú, cô viết rất nhanh, rất
khoẻ (trong vòng ba năm đã ra bốn tập truyện ngắn). Nhưng cái đáng lo là chỗ đó.
Người ta bắt đầu thấy quá quen thuộc với truyện của cô. Chúng na ná như nhau, và dù
rằng mỗi truyện vẫn đáng đọc, vẫn cho người đọc những giờ phút thú vị, nhưng sao ấy,
chúng không còn để lại cái ấn tượng sâu đậm của những truyện mấy năm đầu. Đến lúc
nào đó, nhà văn không thể chỉ sử dụng cái thiên bẩm của mình. Nhà văn phải đổ mồ
hôi, xót con mắt, lã ngón tay (hay cho độc giả cảm tưởng ấy). Sự quanh quẩn trong
những không gian, hoàn cảnh quen thuộc có thể là cái chớp đèn vàng (nhưng chưa đỏ)
trên con đường văn chương của Nguyễn Ngọc Tư.”. Chúng tôi cũng cho rằng đây là
một ý kiến rất xác đáng. Tất nhiên đó cũng chính là dấu hiệu để nhận ra Nguyễn Ngọc
Tư, nhưng theo dòng thời gian và sự từng trải hơn ở cả phương diện cuộc sống và nghề
nghiệp, chúng ta có quyền hy vọng ở chị một điều gì đó mới mẻ hơn, sâu lắng hơn, có
thể buồn dữ dội chứ không hiu hiu, hoặc có thể ngang tàng, nổi loạn như “Cánh đồng
bất tận”, nhưng nó vẫn sẽ là giọng điệu của chính chị: vô tư nhưng không vô tâm, chấp
nhận chứ không cam chịu, già dặn nhưng không dạy đời. Văn Nguyễn Ngọc Tư dễ
khiến người đọc đồng cảm chính là vì vậy. Những vấn đề chị đề cập không to tát và xa
lạ, nó gần gũi nhưng lại được tâm tình bằng một giọng điệu có thể khơi gợi sự cảm
thông, khiến người ta dễ dàng cởi mở lòng mình vì tìm thấy “câu chuyện đời mình”.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
121
KẾT LUẬN
1. Mục đích chính của luận văn là tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư, tuy nhiên nhằm làm rõ thêm cho vấn đề đang nghiên cứu, chúng tôi cũng tìm hiểu
một cách khái lược về cuộc sống, quan niệm văn chương và tất cả những truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư đã được xuất bản cho tới thời điểm luận văn này được tiến hành.
Có thể nói, đây là một nhà văn trẻ có cuộc sống bình dị, quan niệm văn chương đơn
giản nhưng nghiêm túc. Sáng tác đều tay và thành công trên cả hai thể loại là truyện
ngắn và tạp văn, Nguyễn Ngọc Tư đang từng bước khẳng định vị trí của mình trên văn
đàn bằng những tác phẩm giàu giá trị hiện thực và xã hội, mang màu sắc và hơi hướng
đặc trưng của đất và người Nam Bộ. Đóng góp lớn nhất của chị cho tới thời điểm này,
theo chúng tôi, đó là văn phong Nam Bộ với sự độc đáo trong việc sử dụng ngôn ngữ
Nam Bộ như là một chất liệu đặc biệt để sáng tác văn chương.
2. Sau khi tìm hiểu một cách hệ thống cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy cây bút này có nhiệt huyết
dẫn dắt người đọc đi qua từng cánh đồng, từng phận người với tư cách một người trong
cuộc, một thân phận thiết tha chia sẻ và đồng cảm với những thân phận khác bất hạnh
hơn mình. Dẫu còn đó trên trang văn rất nhiều nỗi đau, rất nhiều nỗi bức xúc vì thiếu
thốn, vì nghèo nàn, thậm chí vì quê mùa mà không chạm đến được hạnh phúc nhưng
đâu đó chúng ta vẫn thấy được những nụ cười hạnh phúc, những ánh nhìn yêu thương,
những tình cảm ấm áp của những con người nhân hậu chốn đồng bằng dành cho nhau,
dìu dắt nhau qua những cơn bão tố cuộc đời với một tinh thần ham sống, lạc quan, dẫu
biết cuộc đời còn đó nhiều giông tố và đe dọa nhưng vẫn muốn sống và hễ sống là phải
sống cho “ngon lành”. Đó cũng chính là tâm hồn và khí phách từ bao đời của con
người và quê hương Nam Bộ.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
122
3. Từ việc phân tích những thủ pháp nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng
trong truyện ngắn của mình, chúng tôi nhận thấy Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn có biệt
tài trong việc miêu tả tâm lý nhân vật, và chị đã thành công trong việc xác lập cho
truyện ngắn của mình một văn phong Nam Bộ điển hình, một phong cách sáng tác độc
đáo mang “văn hiệu” Nguyễn Ngọc Tư không thể lẫn lộn. Đóng góp lớn nhất hiện nay
của chị trong lĩnh vực văn chương là một giọng văn hiền lành, nhân hậu, đầy tinh thần
trách nhiệm của một công dân với xã hội, của một con người biết sống nhiệt huyết và
tận tụy với người cũng như với mình. Tinh tế nhưng không quá sắc sảo, hồn nhiên
nhưng không vô tâm, Nguyễn Ngọc Tư bằng những truyện ngắn nhỏ bé của mình đã
góp phần đánh động lương tâm xã hội, thanh lọc tâm hồn của chúng ta bằng những
chuỗi khóc cười, buồn bã bi ai cùng với những số phận, những cuộc đời thấp thoáng
đằng sau trang viết.
4. Dĩ nhiên Nguyễn Ngọc Tư vẫn còn đó những nhược điểm trong nghệ thuật
viết truyện, cũng như người đọc bắt đầu cảm giác có sự sáo mòn trong hệ thống đề tài
của chị trên cả hai thể loại truyện ngắn và tạp văn, thế nhưng chúng tôi tin rằng bằng sự
vững vàng và sáng suốt, chị sẽ biết cách thay đổi để làm mới văn chương của mình.
Nam Bộ là một mảnh đất màu mỡ, là một tiểu vùng văn hoá đa dạng để Nguyễn Ngọc
Tư có thể duy trì hoạt động khai thác cho đến tận cùng con đường văn chương. Vấn đề
quan trọng là Nguyễn Ngọc Tư có làm chủ được kho tàng ngôn ngữ Nam Bộ giàu có
ấy hay không, có biết cách vận dụng nó một cách sáng tạo hay không để hình thành
cho mình một phong cách đặc sắc, một bản lĩnh sáng tạo mới. Bằng những thành công
đã đạt được, chúng ta tin rằng Nguyễn Ngọc Tư sẽ còn tiến xa hơn trên con đường văn
chương của mình.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
123
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách và Tạp chí:
1. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, NXB Tác phẩm mới, HN.
2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia HN.
3. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí
4. Trần Hoà Bình - Lê Duy - Văn Giá (1999), Bình văn, NXB Giáo Dục, HN.
5. Nam Chi (1996), Người nông dân trong truyện ngắn miền Nam, Tạp chí văn học
văn học số 9.
6. Nam Cao (1986), Truyện ngắn chọn lọc, Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh,
số 3.
7. Nguyễn Minh Châu (1999), Tuyển tập truyện ngắn, NXB Văn học, HN.
8. Lê Tư Chỉ (1996), Để phân tích một tác phẩm truyện ngắn, NXB Trẻ.
9. Vũ Khắc Chương (2000), Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm Nam Cao, NXB
HN.
10. Chu Xuân Diên (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB ĐHQG, HN.
11. Nguyễn Văn Dân (Biên dịch và giới thiệu) (1991), Văn học - Nghệ thuật và sự
Văn học, HN.
12. Đăng Dung - Nguyễn Cương (chủ biên) (1990), Các vấn đề của Khoa học văn
tiếp nhận, Viện thông tin khoa học xã hội, HN.
13. Trần Thanh Địch, (1998), Tìm hiểu truyện ngắn, NXB Tác phẩm mới, HN.
14. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học.
15. Hà Minh Đức (chủ biên) (2002), Lý luận văn học, NXB GD, HN.
16. Đoàn Giỏi (2002), Đất rừng phương Nam, NXB Văn hoá thông tin, HN.
học, NXB KHXH, HN.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
124
17. Nguyễn Hải Hà –Lê Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong
18. Lê Bá Hán -Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn
văn xuôi Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, Chương trình KX.07, HN.
19. Nguyễn Văn Hạnh (1966), “Suy nghĩ về truyện ngắn”, Tạp chí văn học số 7.
20. Nguyễn Văn Hạnh (1979), Suy nghĩ về văn học, NXB GD, HN.
21. Nguyễn Văn Hạnh -Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học - Vấn đề và
học, NXBGD, HN.
22. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Văn học -Học văn, Trường Cao đẳng Sư phạm
suy nghĩ, NXB GD, TPHCM.
23. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Năm bài giảng về thể loại, NXB GD, HN.
24. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, HN.
25. Nguyễn Công Hoan (1997), Hỏi chuyện các nhà văn, NXB Tác phẩm mới, HN.
26. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB GD, HN.
27. Tô Hoài (1977), Sổ tay viết văn, NXB Tác phẩm mới, HN.
28. Tô Hoài (2001), O chuột, NXB Văn nghệ TPHCM.
29. Trang Thế Hy (1964), Nắng đẹp miền quê ngoại, Sài Gòn.
30. M.B.Kharapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của
TPHCM, Trường viết văn Nguyễn Du.
31. M.B.Kharapchenco (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực con người, NXB
văn học, NXB Tác phẩm mới, HN.
32. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp,
Khoa học xã hội, HN.
33. Nguyễn Khải (2003), Nghề văn cũng lắm công phu, NXB Trẻ.
34. Phùng Ngọc Kiếm (1998), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945-1975,
NXB GD, TPHCM.
NXB ĐHQG, HN.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
125
35. Lê Đình Kỵ (1984), Cơ sở lí luận văn học, NXB Đại học và Trung học chuyên
36. Lã Duy Lan (2001), Văn xuôi viết về nông thôn - tiến trình và đổi mới, NXB
nghiệp, HN.
37. Phong Lê (chủ biên) (1990), Văn học và hiện thực, NXB KHXH, HN.
38. Phương Lựu - Trần Đình Sử - Nguyễn Xuân Nam – Lê Ngọc Trà – Lã Khắc
KHXH.
39. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học, NXB ĐHSP,
Hòa –Thành Thế Thái Bình (2002), Lý luận văn học, NXB GD, HN.
40. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
HN.
41. Trần Đồng Minh (1994), Tiếng nói tri âm, NXB Trẻ.
42. Sơn Nam (1967), Nói về miền Nam, NXB Lá Bối, Sài Gòn.
43. Sơn Nam (1984), Đất Gia Định xưa, NXB TPHCM.
44. Sơn Nam (1992), Văn minh miệt vườn, NXB Văn hóa, TPHCM.
45. Sơn Nam (1993), Hương rừng Cà Mau, tập 1, NXB Trẻ, TPHCM.
46. Sơn Nam (1994), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, NXB Văn nghệ, TPHCM.
47. Sơn Nam (1999), Hương rừng Cà Mau, tập 2, NXB Trẻ, TPHCM.
48. Sơn Nam (2001), Hương rừng Cà Mau, tập 3, NXB Trẻ, TPHCM.
49. Dạ Ngân (1990), Con chó và vụ ly hôn, NXB Hội nhà văn.
50. Dạ Ngân (1995), Dạ Ngân truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn học.
51. Dạ Ngân (2008), Nước nguồn xuôi mãi, NXB Phụ nữ.
52. Phùng Quý Nhâm (1991), Thẩm định văn học, NXB Văn nghệ, TPHCM.
53. Phùng Quý Nhâm – Lâm Vinh (1994), Tiếp cận văn học, ĐHSP TPHCM
54. Phùng Quý Nhâm (2000), “Cái nhìn của nhân vật”, Tạp chí văn học số 10.
55. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, NXB Văn nghệ, TPHCM.
NXB GD, HN.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
126
56. Bùi Mạnh Nhị (1980), Hò Nam Bộ và cuộc sống người dân ở phương Nam tổ
57. Nhiều tác giả (1984), Từ điển văn học, NXB KHXH, HN.
58. Nhiều tác giả (1995), Phê bình văn học, NXB Văn nghệ.
59. Nhiều tác giả (1996), Tuyển tập Kim Lân, NXB Văn học, HN.
60. Nguyễn Phúc (2004), Văn học sáng tạo và thẩm định, NXB KHXH, HN.
61. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, NXB Hội nhà văn, TPHCM.
62. Thạch Phương - Hồ Lê (1992), Văn hoá dân gian người Việt ở Nam Bộ, NXB
quốc, Văn nghệ TPHCM (133) 08/08.
63. M. Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB GD, HN.
64. Phạm Quang (1985), Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Cửu Long, NXB Mũi Cà
KHXH, HN.
65. Trần Quang (1965), Con người miền Nam, Tạp chí văn học số 4, HN.
66. Vũ Tiến Quỳnh (biên soạn) (1994), Phê bình lí luận văn học (Anh Đức, Nguyễn
Mau.
67. Nguyễn Quang Sáng (1996), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Hội nhà văn.
68. Trần Đình Sử (1996), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và đào
Quang Sáng, Sơn Nam), NXB Văn nghệ, TPHCM.
69. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, NXB Hội nhà văn, HN.
70. Trần Đình Sử (chủ biên) (2003), Tự sự học, NXB ĐHSP, HN.
71. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, NXB Trẻ, TPHCM.
72. Vũ Thăng (2001), Một vài đặc điểm thi pháp truyện Nam Cao, NXB Quân đội
tạo - Vụ Giáo viên, HN.
73. Bùi Việt Thắng (1994), “Vấn đề tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh
nhân dân, HN.
74. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể
Châu”, Tạp chí văn học số 2.
loại, NXB ĐHQG, HN.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
127
75. Nguyễn Quang Thắng (2001), Tuyển tập Bình Nguyên Lộc, Tập 1, NXB Văn
76. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn
học, TPHCM.
77. Nguyễn Phương Thảo (1994), Văn hoá dân gian Nam Bộ - Những phác thảo,
xuôi”, Tạp chí văn học số 2.
78. Nguyễn Thành Thi (1999), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam, NXBGD.
79. Nguyễn Huy Thiệp (2003), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, NXB Trẻ.
80. Nguyễn Ngọc Tư (2000), Ngọn đèn không tắt, NXB Trẻ.
81. Nguyễn Ngọc Tư (2003), Biển người mênh mông, NXB Kim Đồng.
82. Nguyễn Ngọc Tư (2003), Giao thừa, NXB Trẻ.
83. Nguyễn Ngọc Tư (2004), Nước chảy mây trôi, NXB Văn nghệ.
84. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Văn hóa.
85. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ.
86. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ-Thời báo Kinh tế
NXB GD, HN.
87. Nguyễn Ngọc Tư (2007), Ngày mai của những ngày mai, NXB Phụ nữ.
88. Phùng Văn Tửu (1996), “Một phương diện của truyện ngắn”, Tạp chí văn học
Sài Gòn.
89. Phi Vân (2003), Đồng quê, NXB Văn học, TPHCM.
số 2.
Website:
1. http://www.hobieuchanh.com/
2. http://nguyenhuythiep.free.fr/
3. http://dangannga.googlepages.com/
4. http://trangthehy.googlepages.com/
5. http://lylan.mutman.googlepages.com/home
6. http://www.viet-studies.info/
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
128
7. http://ngngtu.blogspot.com/
8. http://www.evan.com.vn/News/Home/
9. http://www.vannghesongcuulong.org.vn/
10. http://vnexpress.net/Vietnam/Home/
11. http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx
12. http://www.thanhnien.com.vn/news/default.aspx
13. http://vietnamnet.vn/
14. http://songcuulong.com/
15. http://www.vienvanhoc.org.vn/
16. http://vnthuquan.net/
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
129
PHỤ LỤC Tính từ chỉ trạng thái của con người
Tính từ chỉ tính chất của sự vật, hiện tượng long tong, quắt quằn quặt, cườm cườm, chỏng chơ, bù xù, xi cà que, tỏn tỏn, te te, đầm đầm, bảnh, chừng chừng, chạng vạng, lùng nhùng, lóc cóc, mắc dịch, lom lom, ráo lơ, lạt nhách, hẹp te, binh binh, trổng không, cong vênh, nhóc, bời bời, nèo nẹo, mềm xèo, cùi cụi, tròn dình, chom hom, lổn nhổn, lùm lùm, ngọt xớt, tươi rói, rần rần, lỉnh lảng, thù lù, y thinh, y chang, bậy, sồn sồn, chằm chằm, dột te, thông thống, mắc toi, sùi sụt, tè tè, lọc cọc, mốc meo, chèm bẹp, nhểu nhão, lòng thong, rờn rờn, mỏng te, chách bụp, chủm, loằn ngoằn, láp giáp, thúi ủm, khơi khơi, tùm lum, trớt quớt, bời rời, lủm củm, ứ hự, tém tẻ, lom đom, phập phều, trõm lơ, rúc rắc, riu riu, lòng khòng, hơn hớn, lững đững, gọn hơ, mê miết, tinh tang, ngộ, lửng tửng, lòe xòe, oặt quẹo, lủ khủ, cụt ngủn, kìn kìn, khao khao, sỏi, tèm nhèm, thùm thùm, lẹt xẹt, điếc đát, ướt nhẹp, lụp cụp, tạch tè, rẻ rề, ong ỏng, rình rang, ngược ngạo, láng o, nghễu nghện, rối nùi, non nhuốt, ú na ú nần, cưng, lẫm đẫm, sập sận, teo héo, bộn, lều phều, nhỏ nhẫm, lé xẹ, lục cục lòn còn, tròm trèm, huỡn đãi, nhơ nhởn, bùm xùm, nèo nẹo, quặt quẹo, xơ rơ, khọm rọm, lủm đủm, hơ hỏng,… lông bông, đủng đỉnh, xấp xãi, thắc thỏm, thê thiết, thẹn thùa, buồn xo, lãng xẹt, lựng khựng, lượng sượng, chẩng hẩng, chong chong, chưng hửng, lãng, ngờ ngợ, te tái, tưng tưng, mát dây, cun cút, ngoi ngóp, trèo trẹo, đểnh đoảng, vén khéo, cạn ráo, trù trừ, lăng xăng, nín thinh, nhộn nhạo, quang quẻ, lợt lạt, mắc cỡ, dớn dác, cắc cớ, leo lẻo, ngần ngừ, phừng phừng, bằn bặt, hể hả, đủng đa đủng đỉnh, vùng vằng, nguầy nguậy, kẹt, rành, quạu quọ, dằn dỗi, sương sương, tài khôn, lơ láo, xởi lởi, khật khừng, tở phở, rầu, hụp hửi, vung vinh, cù bơ cù bất, rúm ró, lử lả, luýnh quýnh, nôn nả, trợn trạo, khờ ịt, xinh xẻo, lật bật, lẩm đẩm, hào hển, cắc củm, xênh xang, lanh, láu cá, chù ụ, hịch hụi, nằng nặc, chèo queo, rỗi rãi, lùi lũi, rề rà, lúp xúp, cà tưng, tha thểu, chao chát, lu bù, trầy trật, tẩn mẩn, lụ khụ, hịch hạc, thao láo, trùng trình, lít chít, cù lần, lu bu, khật khờ, lặt lè, mủ mỉ, bì sì, chèo queo, hào hển, lúc cúc, nhát hít, tha thểu, cụm nụm, xìu co, lồm cồm, thò lỏ, xăng xái, nhấm nhẳn, bệu bạo, bịu xịu, cắc cớ, câu mâu, lơn tơn, chao ngáo, tở mở, xửng vửng, khọm rọm, phều phào, tong tả, chùng chình, bầy hầy, lôi thôi, bê bối, lừ đừ, hỉ hả, lạch bạch, hì hụi, lon ton,…
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
130
TÓM TẮT LUẬN VĂN
DẪN NHẬP
03. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ Nam Bộ đang trên đường định hình
phong cách sáng tác. Những năm gần đây chị đã gặt hái được nhiều thành công ở thể
loại truyện ngắn, tiêu biểu là Giải I cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 với tập
truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt” vào năm 2000. Do đó, trước tiên vì lòng yêu mến
của bản thân đối với văn chương của Nguyễn Ngọc Tư, cũng như đối với văn học đồng
bằng sông Cửu Long hiền hoà và nhân hậu, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài luận
văn là “Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” như chút tấm lòng của người con
Nam Bộ tâm huyết với văn chương của quê hương.
Thời điểm chúng tôi tiến hành thực hiện luận văn này, Nguyễn Ngọc Tư đã có
trong tay hơn năm mươi truyện ngắn. Đây quả là một con số ấn tượng đối với một nhà
văn trẻ. Vì lẽ đó, chúng tôi thiết nghĩ việc kịp thời tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của
tác giả trẻ này là một công việc có ý nghĩa thực tiễn cao để bổ sung kịp thời cho công
tác phê bình-nghiên cứu văn học hiện nay một phong cách sáng tác đặc biệt mang đậm
dấu ấn Nam Bộ. Nghiên cứu truyện ngắn của chị một cách khoa học và có hệ thống
không chỉ có ý nghĩa đối với công việc nghiên cứu-phê bình văn học đơn thuần mà nó
còn có ý nghĩa đối với công tác nghiên cứu về văn hóa nông thôn Nam Bộ và ngôn ngữ
Nam Bộ.
04. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn trẻ có khối lượng tác phẩm xuất bản khá lớn
chỉ trong một thời gian ngắn. Đồng thời chị đã được trao tặng nhiều giải thưởng văn
học có uy tín cũng như nhận được nhiều sự yêu mến và kì vọng lớn lao từ độc giả. Do
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
131
đó, có lẽ không quá võ đoán khi khẳng định Nguyễn Ngọc Tư đã đạt được những thành
công nhất định trên con đường định hình một phong cách Nam Bộ đặc sắc trong sáng
tác. Thế nhưng, hiện tại công việc nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn của chị lại có vẻ
khá chậm chạp so với những bước tiến trong nghề nghiệp của nhà văn này. Chính vì
vậy, chúng tôi lựa chọn tiếp cận phần “Lịch sử vấn đề” này dưới con mắt của lý thuyết
tiếp nhận, tức là thu thập và phân loại những ý kiến đánh giá của công chúng khi tiếp
cận truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư qua từng thời kì với những tập truyện khác
nhau.
Xuất hiện lần đầu tiên với tập truyện “Ngọn đèn không tắt”, Nguyễn Ngọc Tư
ngay lập tức chiếm được cảm tình của đông đảo độc giả bằng một văn phong nhẹ
nhàng, một tấm lòng trong trẻo, một sự tài hoa mộc mạc đầy nắng gió phương Nam.
Từ sự hứng khởi ban đầu đó, người đọc tiếp tục chào đón những tập truyện khác của
chị như: Nước chảy mây trôi, Giao thừa và Cánh đồng bất tận… với một sự thích thú
đặc biệt. Chính vì thế khi thu thập tài liệu về Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy
không có nhiều ý kiến không đồng tình hay bác bỏ tài năng của chị. Những nhận định
trái chiều về Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu xuất hiện khi truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”
ra đời, kéo theo đó là nhiều ý kiến đánh giá, nhận xét khác nhau về Nguyễn Ngọc Tư
được đăng tải rộng rãi trên các báo tạo thành một “hiện tượng văn học” đáng chú ý của
năm 2005.
Xem xét tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trên các báo, chúng
tôi nhận thấy có rất nhiều bài viết có giá trị khoa học và thể hiện được sự tâm huyết và
tài năng của người viết. Tiêu biểu nhất và sớm nhất có thể kể đến bài viết “Nguyễn
Ngọc Tư, đặc sản miền Nam” (Viet-studies) của GS.Trần Hữu Dũng. Nhìn chung tình
hình nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tư ở nước ta hiện nay còn ít ỏi và chưa có hệ thống. Đa
phần các bài viết đều được đăng tải trên các báo, chưa có một công trình nghiên cứu
chính thức được in thành sách. Ngoài ra, đa phần các bài viết đều trên tinh thần giới
thiệu một tập truyện của chị vừa xuất bản, hay phê bình một truyện ngắn cụ thể nào đó.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
132
Điều này cũng dễ hiểu vì đề tài của luận văn này là tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của
một tác giả trẻ, do đó dĩ nhiên chưa thể có những công trình nghiên cứu dày dặn và
thấu đáo để người viết tham khảo. Các nguồn tư liệu chủ yếu được thu thập trên các
trang web văn học như: Viet-studies, E-văn, Vietnamnet, Văn nghệ Sông Cửu
Long…, trên các tờ báo giấy uy tín như: Văn nghệ, Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Người lao
động, Tiền Phong, Công an nhân dân…và chúng tôi còn tham khảo trên các diễn đàn
văn học, blog cá nhân của tác giả và những nhà văn, nhà nghiên cứu khác để có thêm
tư liệu. Không thể nói tư liệu về Nguyễn Ngọc Tư ít ỏi, nhưng trước sự đa dạng của các
ý kiến cũng như các nguồn tư liệu, chúng tôi buộc phải tỉnh táo và khách quan để “gạn
đục khơi trong”, để tìm ra những tư liệu, những bài viết có giá trị nhằm phục vụ tốt cho
luận văn này.
03. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu
Trong nội dung của luận văn, chúng tôi sẽ dành ra một chương để tìm hiểu đôi
nét khái quát về tác giả Nguyễn Ngọc Tư và sự nghiệp sáng tác của chị. Sau đó, sẽ đi
vào tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trên các bình diện sau:
- Cảm hứng nghệ thuật
- Thế giới nhân vật
- Nghệ thuật dựng truyện
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Nghệ thuật trần thuật
- Ngôn ngữ và giọng điệu
Từ những nghiên cứu có tính chất cơ sở đó, chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra những
đóng góp của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trên các mặt nội dung tư tưởng (như cảm
hứng về thân phận con người và hiện thực của nông thôn Nam Bộ, thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư…) và hình thức nghệ thuật (như sự đặc sắc trong
nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ…)
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
133
Về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi khảo sát tất cả những truyện đã được xuất bản
của Nguyễn Ngọc Tư, gồm 6 tập truyện:
-Ngọn đèn không tắt, NXB Trẻ, 2000
-Biển người mênh mông, NXB Kim Đồng, 2003
-Giao thừa, NXB Trẻ, 2003
-Nước chảy mây trôi (tập truyện và ký), NXB Văn Nghệ, 2004
-Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Văn hóa, 2005
-Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, 2005
Thêm vào đó là những truyện chỉ mới được đăng trên trang web “Viet-studies” của
Trần Hữu Dũng (chưa xuất bản) như: Trò chơi quên nhớ, Sông dài con cá lội đâu, Vết
chim trời, Núi lở, X-năm một ngàn chín trăm năm xưa, Núi ở lại.
04. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này người viết đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như sau:
-Phương pháp thống kê
-Phương pháp so sánh
-Phương pháp phân tích và tổng hợp
Bên cạnh đó người viết cũng cố gắng hết sức vận dụng những kiến thức Thi
pháp học của thể loại văn xuôi tự sự (đặc biệt là Tự sự học) vào công việc nghiên cứu
nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ngõ hầu có thể đóng góp một
chút không khí mới mẻ cho tình hình nghiên cứu văn học nói chung và nghiên cứu
truyện ngắn nói riêng hiện nay.
05. Đóng góp của luận văn
Luận văn này tập trung tìm hiểu “Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”,
nhằm mục đích bước đầu chỉ ra những đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư đối với nền văn
học Việt Nam hiện đại, đồng thời tìm hiểu sơ bộ để làm rõ hơn những nét đặc trưng
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
134
của phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Đặc biệt luận văn này sẽ giúp người đọc
thấy rõ hơn chất Nam Bộ đậm đặc trong ngôn ngữ văn chương Nguyễn Ngọc Tư.
Thực hiện luận văn này chúng tôi mong đóng góp một chút công sức cho công
tác nghiên cứu-phê bình Văn học Việt Nam hiện đại về cây bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư.
Hơn nữa, từ trước đến nay việc khảo sát và nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
chưa nhiều và chưa có hệ thống. Tính đến thời điểm luận văn này được tiến hành thì
chưa có một công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào về đề tài này ra đời. Do đó, chúng
tôi đã dụng công nghiên cứu để có thể bổ sung thêm một số nhận định xác đáng và có
giá trị bên cạnh những ý kiến đã có trước đây về vấn đề này.
06. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm ba phần chính: Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, phần Nội
dung được chia làm ba chương dựa trên nội dung nghiên cứu:
-Chương 1. Khái quát về Nguyễn Ngọc Tư và sự nghiệp sáng tác.
-Chương 2. Cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư.
-Chương 3. Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
135
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NGUYỄN NGỌC TƯ VÀ
SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
1.1. Giới thiệu nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
1.1.2. Tiểu sử tác giả
Tác giả Nguyễn Ngọc Tư tên thật là Nguyễn Ngọc Tư, sinh năm 1976, quê quán
ở xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Hiện chị sống và làm việc tại TP Cà
Mau. Nguyễn Ngọc Tư cũng là Hội viên Hội Nhà Văn trẻ tuổi nhất hiện nay. Chị từng
đạt giải nhất cuộc thi "Văn học tuổi 20 lần thứ 2" của Nhà xuất bản Trẻ, Hội nhà văn
TP HCM, báo Tuổi Trẻ tổ chức năm 2000 với tập truyện "Ngọn đèn không tắt" và
Giải thưởng Văn học của Hội nhà văn Việt Nam năm 2001 cũng với tập truyện này.
Nguyễn Ngọc Tư là một trong những nhà văn trẻ viết khỏe và viết đều khi chỉ
trong vòng ba năm đã cho ra đời bốn tập truyện ngắn (không kể tạp văn). Điều đó
chứng tỏ chị là một nhà văn miệt mài lao động, miệt mài sống và tích lũy vốn sống để
nuôi dưỡng cảm hứng và năng lực sáng tác, chứ không chỉ nhờ vào năng khiếu thiên
bẩm. Qua chặng đường bảy năm cầm bút, tung hoành trên cả hai thể loại truyện ngắn
và tạp văn, Nguyễn Ngọc Tư đã phần nào khẳng định được vị trí của mình trong đội
ngũ những người sáng tác trẻ của cả nước, đã xác lập được một phong cách sáng tác
riêng biệt mang dấu ấn “Nguyễn Ngọc Tư”-một văn phong rặt chất Nam Bộ hiền hòa,
hào sảng vang bóng một thời nhưng vẫn hồn hậu nồng nàn đến tận ngày nay.
1.1.3. Quan niệm sáng tác
Nguyễn Ngọc Tư có một quan điểm khá hồn nhiên và nhẹ nhàng về nghề
nghiệp. Tuy vẫn nhận ra sự chuyên biệt của nghề viết so với những nghề nghiệp khác,
nhưng không vì thế mà chị sùng bái văn chương như cái gì cao cả hơn cuộc sống.
Chính vì thế mà truyện ngắn của Tư thấm đẫm sự hồn nhiên, chất phác. Nhưng nếu chỉ
có hồn nhiên thì Nguyễn Ngọc Tư đã không đứng vững cho đến bây giờ. Ở chị sự hồn
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
136
nhiên vô tư không có dây mơ rễ má với sự lạnh lùng, vô tâm. Văn chương Nguyễn
Ngọc Tư đau đáu ân tình và đầy trách nhiệm, trách nhiệm của công dân với xã hội,
trách nhiệm của đứa con với quê hương, trách nhiệm với gia đình, với những người xa
lạ mà thân quen với mình, nhưng chỉ có điều chúng được cất lên bởi một giọng hồn
nhiên, tưng tửng, nhẹ nhõm như không có gì, nhưng thật ra đằng sau nó là cả một sự
nghèn nghẹn và chua xót không thể thốt nên lời.
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
1.2.1. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Ngọc Tư từ khi xuất hiện cho đến nay vẫn được xếp vào đội ngũ những
nhà văn trẻ, những người mang trên vai trọng trách làm rạng danh cho nền văn học
nước nhà, những người đủ tài và lực để mang đến những luồng gió mới cho văn
chương trên cả phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Bằng những truyện
ngắn dung dị về đề tài nông thôn, thân phận và đời sống tình cảm của người nông dân
Nam Bộ thời hiện đại, chị đã đóng góp cho khuynh hướng văn học hiện thực một cái
nhìn hồn hậu, với lối viết chân tình, thẳng thắn nhưng lại cũng rất hồn nhiên và nhẹ
nhàng. Đóng góp lớn nhất của chị cho tới nay ở địa hạt truyện ngắn chính là một văn
phong Nam Bộ giản dị, thuần phác với sự điêu luyện trong việc sử dụng chất liệu ngôn
ngữ Nam Bộ như một ngôn ngữ văn học giàu giá trị biểu đạt và ẩn chứa tiềm lực sáng
tạo đến vô tận.
1.2.2. Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư
Cuối tháng 12 năm 2005, Nhà xuất bản Trẻ phối hợp với Thời báo Kinh tế
Sài Gòn đã trình làng cuốn tạp văn đầu tiên của Nguyễn Ngọc Tư mang tên “Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư”. Quyển sách khá dày dặn với ba mươi lăm tạp văn thấm đẫm tình
cảm của chị với quê hương Cà Mau, với bạn bè, với ba má và chất chứa đầp ắp những
kỷ niệm tuổi thơ, những gì mộc mạc, nhỏ bé, nhưng hết sức thân thương và gắn bó
với mình. Đến tạp văn “Ngày mai của những ngày mai”, chúng ta nhận thấy Nguyễn
Ngọc Tư đã trưởng thành hơn rất nhiều, giọng văn của chị đã bắt đầu mang nhiều chất
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
137
triết lý và suy ngẫm. Nếu so sánh với mảng truyện ngắn của tác giả này, chúng ta sẽ
thấy có một sự tương đồng về mặt bút pháp. Đó vẫn là giọng văn nhẹ nhàng, trầm tĩnh
đôi lúc như bông đùa, giễu cợt, thế nhưng khi viết về những vấn đề “nghiêm túc” thì
lại hết sức chân thành hay nói cách khác, Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn luôn biết
tiết chế và làm chủ ngòi bút của mình.
CHƯƠNG 2. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
2.1. Cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2.1.1. Cảm hứng về hiện thực đời sống Nam Bộ
Có thể nói Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn của những tình tự nông thôn, những
sáng tác của chị là bức tranh những vấn đề bức xúc của nông thôn Nam Bộ bởi chị là
một trong số ít ỏi những nhà văn hiện nay có khả năng bao quát và phát hiện những
góc khuất của đời sống nông thôn, những điều tưởng như đơn giản nhưng quan trọng
trong cuộc sống con người Nam Bộ. Nguyễn Ngọc Tư như nói hộ cho những người
nông dân bằng chính “giọng” của họ về hiện thực đời sống nghèo nàn, thiếu thốn của
mình, những thương tổn tình cảm của mình mà hoàn cảnh đã góp phần gây ra.
2.1.1.1. Hiện thực thiếu thốn của nông thôn Nam Bộ ở các lĩnh vực y tế, giao
thông, giáo dục
2.1.1.2. Môi trường sống của nông thôn Nam Bộ đang bị tàn phá nghiêm trọng
2.1.1.3. Thái độ vô trách nhiệm và sự tha hoá của một số cán bộ lãnh đạo
2.1.1.4. Lịch sử và vết thương chiến tranh vẫn còn in dấu trong tâm tư con
người Nam Bộ
2.1.2. Cảm hứng về con người Nam Bộ
Nguyễn Ngọc Tư viết nhiều và viết hay về quê hương và con người Nam Bộ ở
thời hiện đại (trong so sánh với Sơn Nam là thời cha ông đi khẩn hoang và thời kháng
chiến) như ca ngợi những truyền thống lịch sử tốt đẹp, những vẻ đẹp hiển hiện và tiềm
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
138
ẩn của con người Nam Bộ trong đời sống thường nhật, trong cách cư xử với nhau. Chữ
“tình” và chữ “lòng” là nét đặc sắc trong tính cách của con người Nam Bộ (so với các
vùng miền khác) và nói đến tình cảm của con người Nam Bộ mà bỏ mất chữ “thương”,
chữ “nghĩa” cũng là một sai sót rất lớn.
2.1.2.1. Những con người có đời sống vật chất nghèo nàn
2.1.2.2. Những con người khao khát tình thương
2.1.2.3. Con người với những tình cảm đẹp
2.1.2.4. Con người tha hoá
2.1.2.5. Con người với những mối tình ngang trái, lặng thầm
Điểm qua một loạt các truyện ngắn được gợi hứng từ những vấn đề bức xúc của
hiện thực Nam Bộ và thân phận của con người Nam Bộ, chúng ta thấy cái nhìn của cây
bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư vừa rộng về diện lại vừa sâu về chất. Rộng và sâu bởi vì chị
không chỉ phản ánh đơn thuần những vấn đề tồn tại ở nông thôn Nam Bộ mà chị còn
chú ý vào tâm tư và tình cảm của những người nông dân Nam Bộ. Đó mới chính là
điều chị quan tâm và muốn gởi gắm tới độc giả, Nguyễn Ngọc Tư không muốn gởi tới
chúng ta những bức tranh phong cảnh đồng quê yên ả hay bão tố với tư cách những bài
phóng sự sinh động, dễ thương nhưng vô hồn, vô cảm. Và một điều nữa chúng tôi
muốn xác quyết là Nguyễn Ngọc Tư không hề ngây thơ trong việc nhìn nhận và đánh
giá hiện thực xã hội xung quanh mình, có thể chị chưa nhìn xa nhưng chị không hề ảo
tưởng với những gì mình viết. Ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư luôn tỉnh táo và đầy trách
nhiệm nhưng không phải với thái độ lên gân, cứng nhắc mà hết sức nhẹ nhàng, tinh tế,
nên dễ khơi dậy ở người đọc một sự cảm thông, chia sẻ.
2.2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
2.2.1. Những nhân vật làm ruộng, làm vườn
Cái nhìn của Nguyễn Ngọc Tư về người nông dân Nam Bộ mới lạ và phong phú
hơn rất nhiều so với những tác phẩm của các nhà văn tiền bối như Hồ Biểu Chánh, Phi
Vân, Sơn Nam…Đó là hình ảnh người nông dân trong những mối quan hệ rộng lớn
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
139
hơn cánh đồng của họ, nếp nhà của họ. Số phận của họ gắn chặt và chịu ảnh hưởng
trực tiếp bởi những vấn đề thời sự của xã hội. Và những người nông dân ấy trong mối
quan hệ với nhau cũng được Nguyễn Ngọc Tư ghi nhận dưới góc nhìn tinh tế hơn,
riêng tư hơn, mang ý nghĩa cá nhân nhiều hơn là đại diện cho giai cấp của mình. Nhẹ
nhàng nhưng quyết liệt, vô tư nhưng không vô tâm, ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư từ
những ngày đầu tiên đã chọn cho mình một nơi chốn để dụng võ đó chính là đồng đất
quê hương của chị với những người nông dân một nắng hai sương quen thuộc và yêu
dấu.
2.2.2. Những nhân vật sống kiếp thương hồ
Bằng một sự quan sát tinh tế và tấm lòng nhân hậu, Nguyễn Ngọc Tư đã vẽ nên
cho người đọc những bức chân dung tâm hồn sâu sắc và giàu cảm xúc của các nhân vật
sống kiếp thương hồ. Đa phần họ đều nghèo khó, thiệt thòi về những điều kiện sống so
với những con người trên bờ nhưng họ vẫn sống và yêu tha thiết dòng sông của mình
như Ông Chín, Giang (Nhớ sông)… hay một đời gắn bó với sông như người đàn bà vợ
của cha nhân vật “tôi” (Dòng nhớ). Bởi vì họ biết thương, biết nhớ nên những dòng
sông trôi chảy miên man như vô tình ấy cũng không phụ lòng mà lúc nào cũng chảy
tràn, ăm ắp tình thương để vỗ về và cưu mang những phận người trót mang kiếp sống
lưu lạc hải hồ.
2.2.3. Những nhân vật làm nghề “xướng ca”
Không biết có phải là vì “cùng một lứa bên trời lận đận” hay không mà Nguyễn
Ngọc Tư, một người trẻ viết văn, lại có thể có một cái nhìn vừa sâu sắc vừa nhân hậu
đối với những người nghệ sĩ miệt vườn đến vậy? Đằng sau vẻ rực rỡ và hào nhoáng,
các nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư đã cho chúng ta thấy những khoảng tối trong tâm
hồn họ mà ánh đèn sân khấu không soi rọi tới được, chỉ có thể bằng cái tâm thì mới cởi
bỏ được từng lớp xiêm áo diêm dúa để thông cảm với những nhục nhằn, những hy
sinh, những lầm lạc, nỗi niềm thầm kín của những con người suốt đời đem lời ca tiếng
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
140
hát, nước mắt nụ cười của mình để mua vui cho thiên hạ, gạt bỏ đời đau để sống hết
mình trên thánh đường sân khấu mà không phải ai cũng được bồi đền xứng đáng.
2.2.4. Những nhân vật làm nghề chăn vịt chạy đồng
Những nhân vật làm nghề chăn vịt chạy đồng xuất hiện trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư phần lớn như những nhân vật loại hình với những nét tính cách
chung như lang thang, phiêu bạt giống ông già chăn vịt trong truyện ngắn “Cái nhìn
khắc khoải” hay nhân vật Sáng trong “Một dòng xuôi mải miết”. Những người chăn
vịt đồng thời cũng là những con người rất cô đơn, không ai bầu bạn, vì sống một mình
thì ai cũng buồn hết huống chi là một mình giữa đồng không mông quạnh. Còn một
điểm chung nữa giữa họ là nghèo, nghèo thì mới phải chọn cái nghề cực khổ, rày đây
mai đó, không ổn định, nhiều rủi ro này (đàn vịt có thể chết vì dịch bất cứ lúc nào)
nhưng hết thảy họ đều có tấm lòng rộng như đồng khơi, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ
người khác khi hoạn nạn, khó khăn.
Riêng truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” lại xây dựng một gia đình chăn vịt
chạy đồng đặc biệt. Qua đó cuộc sống của những người chăn vịt chạy đồng được
Nguyễn Ngọc Tư phơi bày một cách trần trụi và đậm đặc, ngòi bút của chị đã vẽ ra
những bức tranh tăm tối chưa từng thấy của nông thôn Nam Bộ, khắc họa những con
người hình như chỉ sống bằng bản năng nguyên thủy của mình với đồng loại ngay giữa
thời hiện đại.
2.2.5. Nhân vật loài vật
Nhân vật loài vật là một khám phá kì thú của chúng tôi khi thưởng thức truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư, bọn chúng có khi là “phát ngôn viên” tình cảm cho nhân vật
chính, có khi lại là phương tiện để chị xây dựng nên cốt truyện của mình. Các nhân vật
ấy có thể là vịt hay cóc, những con vật hết sức gần gũi với cuộc sống của con người.
Có thể nói với ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư, những nhân vật loài vật ấy đã góp
phần đắc lực vào việc miêu tả nội tâm của nhân vật “con người”, đảm nhiệm xuất sắc
vai trò của “người dẫn chuyện” tài tình, làm nên giọng điệu hài hước cho tác phẩm và
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
141
hơn thế nữa chúng góp phần làm phong phú thêm cho thế giới nhân vật “con người”
của chúng ta.
Là một người trẻ mới khởi nghiệp viết văn, sự nghiệp văn chương chưa thật sự
dày dặn, phong cách nghệ thuật chưa thật sự định hình cũng như phong độ chưa thật sự
ổn định, thế nhưng Nguyễn Ngọc Tư đã kịp ghi lại dấu ấn của mình trên văn đàn bằng
việc xây dựng trong các truyện ngắn của mình một thế giới nhân vật phong phú, đa
dạng mà kiểu nhân vật nào cũng đầy đặn và có những nét đặc sắc riêng. Thế giới nhân
vật ấy là khúc xạ của những con người bằng xương bằng thịt sống xung quanh chị,
những con người dù sinh sống nơi đồng ruộng hay chốn thị thành, dù làm bất cứ nghề
nghiệp nào cũng tỏa sáng một tính cách rộng rãi, nhân hậu, nghĩa khí rất đặc trưng của
con người Nam Bộ.
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN NGUYỄN
NGỌC TƯ
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kiến tạo tình huống
3.1.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và chọn lọc chi tiết
3.1.1.1. Cốt truyện đơn giản
Về phương diện kết cấu và quy mô về nội dung, cốt truyện của Nguyễn Ngọc
Tư thường là cốt truyện đơn tuyến, hệ thống sự kiện được kể đơn giản về số lượng và
rất gọn gàng, ít nhân vật và tính cách nhân vật thường được mô tả một cách rất tập
trung và cô đọng, nhiều khi chỉ là một lát cắt của cuộc sống được phản chiếu hay chỉ
một đoạn đời nào đó của nhân vật chính được quan tâm mà thôi. Qua khảo sát nhìn
chung có thể kết luận, đa số truyện ngắn của chị có cốt truyện khá mờ nhạt, nhiều
truyện có thể nói là không có cốt truyện (nó có thể chỉ là một nét tâm trạng, một tình
huống, một hoàn cảnh của nhân vật) và một số truyện ngắn của chị chịu sự thâm nhập
mạnh mẽ của một thể loại trữ tình là thơ mà chúng tôi tạm gọi đó là những truyện ngắn
trữ tình hoá.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
142
3.1.1.2. Chi tiết hấp dẫn
Nguyễn Ngọc Tư cũng là một nhà văn rất tinh tế trong việc lựa chọn và sáng tạo
chi tiết, do đó tuy những truyện của chị thường chỉ xoay quanh cuộc sống sinh hoạt
trong gia đình, làng xóm nhưng vẫn không tạo cho người đọc cảm giác đơn điệu, nhàm
chán. Nét đặc trưng của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là trong những câu chuyện đời
thường luôn có những “chi tiết phát sáng” làm nên giá trị cho tác phẩm và chúng ta có
thể xem những chi tiết như thế là những chi tiết có tính nghệ thuật hàm chứa rất lớn
cảm xúc và tư tưởng của tác giả.
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống
Tình huống truyện hiểu nôm na là một duyên cớ, một nguyên nhân nào đó mà
dựa vào đấy tác giả có thể triển khai câu chuyện của mình. Vì thế, khi lựa chọn được
một tình huống đặc sắc thì xem như tác giả đã có được một bộ khung lý tưởng để từ đó
triển khai toàn bộ tác phẩm của mình. Xem xét truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng
tôi nhận thấy bên cạnh tài năng khám phá những điều mới lạ từ những sự kiện đời
thường, khả năng mô tả tâm lý nhân vật một cách điêu luyện thì Nguyễn Ngọc Tư cũng
khá xuất sắc trong việc tạo ra những tình huống trớ trêu, những nút thắt bất ngờ.
Những tình huống trong truyện của chị thường không phải là những xung đột xã hội dữ
dội về mặt tính cách giữa các nhân vật, mà đó thường là những tình huống mang tính
chất gần gũi, đời thường nhưng khá trớ trêu và cay nghiệt.
3.1.2.1. Tình huống tâm lý
Chúng tôi tạm chia những tình huống-tâm lý trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư thành những kiểu như:
- Tình huống chối bỏ
- Tình huống đi tìm - Tình huống trò đùa (hay trò chơi)
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
143
- Tình huống “yêu thầm”
Nhiều bài viết về truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đều cho rằng về mặt nội
dung, truyện ngắn của chị đa phần là những vấn đề hết sức gần gũi với cuộc sống đời
thường, đặc biệt là những mối tình nông thôn hiền lành, lặng thầm, trắc trở. Cô gái trẻ
miệt Cà Mau ấy rất có tài thâm nhập vào những góc khuất của những mối tình quê để
đau thật sâu với những nỗi buồn của họ. Những “trường hợp” lỡ làng trong truyện ngắn
của chị là những tình huống rất đỗi bình thường, dễ bị che lấp giữa bộn bề cuộc mưu
sinh, nếu như không có một tấm lòng và sự đồng cảm sâu sắc thì người ta rất khó nhận
ra. Những tình huống “yêu thầm” của chị đặc sắc không bởi những chi tiết gây sốc, giật
gân mà đặc sắc ở những dòng tâm trạng, độc thoại nội tâm. “Một mối tình” là một
truyện ngắn có kiểu tình huống tâm lý như thế. Dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi” trở
về nhà sau một mùa lưu diễn bắt đầu khi nhớ về thời thơ ấu lúc mới biết yêu Trọng.
Miên man theo những cảm xúc ấy là nỗi khát khao cháy bỏng trong lòng chỉ chực chảy
tràn ra thành lời mà sao vẫn nghẹn ngào của nhân vật “tôi. Chỉ có vậy, có thể không
đáng gọi là một tình huống truyện, nhưng đối với một tác giả giỏi nghề thì chỉ cần một
khoảnh khắc, một nét tâm trạng cũng là một duyên cớ để tác giả xây dựng nên tác
phẩm.
Nhìn chung, đa phần truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư được xây dựng từ
những tình huống tâm lý, hay nói cách khác là lấy tâm trạng của các nhân vật làm tâm
điểm cho việc xây dựng tác phẩm của mình. Những tình huống tâm lý đặc sắc trong
một số truyện ngắn chứng tỏ Nguyễn Ngọc Tư rất tài tình trong việc phơi bày những
tình cảm che giấu của nhân vật, khám phá tính cách thật của họ, để cùng họ phiêu lưu
vào thế giới nội tâm sâu thẳm của mình. Và kiểu tình huống tâm lý này hấp dẫn người
đọc cũng bởi sự chậm rãi và nhẹ nhàng, không bộc phát, không nhiều xung đột gay gắt
của nó.
3.1.2.2. Tình huống tượng trưng
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
144
“Núi lở” là một câu chuyện kể về dự án làm phim nhưng phim phải kể về núi và
núi nhất định phải lở chỉ trong một buổi chiều, lở đến cụt ngọn. Nhưng tại sao lại phải
như vậy? Núi phải lở để phơi bày tất cả sự lở lói trong lòng người, sự lạnh lùng, nhẫn
tâm của con người trong giây phút quyết định giữa sống và chết, núi phải lở để thiên
nhiên lên tiếng bằng tất cả sự cuồng nộ của mình, núi phải lở để chúng ta biết được đâu
đó trên đời vẫn tồn tại những con người “đang rú lên mừng thoát nạn mà đã chết rồi”.
Trước hết, chúng ta cần nhìn nhận, “núi lở” trong truyện ngắn này là một tình huống kỳ
dị và có lẽ là không có thật, nó mang ý nghĩa ẩn dụ và tượng trưng nhiều hơn thực tế.
Chính tình huống mang nhiều màu sắc hoang đường này đã tạo nên một bầu không khí
đặc biệt cho truyện ngắn này, một chút kỳ bí, liêu trai, một chút ghê sợ và thấp thỏm.
Nó là một tình huống mở, gợi nhiều trăn trở cho người đọc khi khám phá các tầng ý
nghĩa của tác phẩm. Tình huống “núi lở” ở đây có thể xem như là một khối thuốc nổ
được giấu kín giữa câu chuyện, để rồi bất ngờ bộc phát buộc các nhân vật phải hành
động để phơi bày bản chất của mình.
Nhìn chung, kiểu tình huống tượng trưng không phải là “cánh tay thuận” của
Nguyễn Ngọc Tư trong việc kiến tạo truyện ngắn, ít nhiều những truyện ngắn có kiểu
tình huống này còn chưa giấu kín được ý đồ của tác giả đến cùng. Tuy nhiên, nét hấp
dẫn của nó chính là lớp sương mờ huyền ảo từ những hình ảnh biểu tượng lan tỏa ra
toàn bộ tác phẩm, với những nhân vật kì lạ với những hành động khó hiểu và bất ngờ
làm cho câu chuyện trở nên không thể đoán trước được. Đó cũng chính là ưu điểm của
kiểu tình huống tượng trưng.
3.1.2.3. Tình huống thắt nút
Tình huống thắt nút trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư có thể hiểu như là
những tình huống khá căng thẳng do hàng loạt những sự kiện được tác giả tổ chức theo
kiểu tăng tiến mức độ nóng bỏng và ngày càng siết chặt vòng vây để giải quyết những
mâu thuẫn dồn dập và đan xiết đã được tác giả khéo léo dàn dựng. Tuy nhiên, những
tình huống thắt nút mà chúng tôi tìm hiểu (trừ “Cánh đồng bất tận”) đa phần không
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
145
phải là những xung đột xã hội gay gắt, đòi hỏi phải được giải quyết theo kiểu “một mất
một còn”, mà đó chỉ là những tình huống ứng xử tâm lý đời thường, được nhìn nhận
dưới góc độ cá nhân và sự “thắt nút” cũng được tác giả khai thác dưới khía cạnh đấu
tranh nội tâm của từng nhân vật hơn là sự mâu thuẫn giữa các tuyến nhân vật.
“Cánh đồng bất tận” có thể được hiểu như là hành trình trả thù miệt mài và
trốn tránh cuộc đời của một người chồng bị phản bội, người cha quên mất mình có
những đứa con, kéo theo đó là hành trình bị đày ải của Nương và Điền, hai sinh linh
nhỏ bé và “duy nhất” trong cuộc truy đuổi mệt nhoài, để học cách sinh tồn giữa vòng
vây trần gian mù mịt và đầy bất trắc. Đắm mình vào trò chơi báo thù tàn nhẫn với biết
bao người đàn bà, người cha bắt đầu có dấu hiệu mệt mỏi thì chị, cô gái điếm bị người
ta đổ keo dán sắt vào cửa mình, xuất hiện như một sự thách thức, một hiểm họa, báo
hiệu một điều gì đó thật dữ dội và xáo trộn sắp xảy ra bên cạnh những cơn cuồng nộ dữ
dội của thiên nhiên ngày càng vây riết và truy đuổi họ. Người đàn bà nguy hiểm và
ham hố đó tìm đủ mọi cách chinh phục trái tim chai đá của người cha, còn đứa con trai
thì theo đuổi chị trong tuyệt vọng, vòng quay tình ái đó cứ thế xoay tròn đều đặn và
bức bối, chợt tan vỡ vào giây phút định mệnh khi chị quyết định đánh đổi thân xác để
cứu bầy vịt mà người đàn ông “độc ác mười” đó vẫn dửng dưng. Chị thua cuộc và ra
đi, Điền chạy theo chị. Vậy là chỉ còn lại hai cha con trên những cánh đồng và Nương
lờ mờ nhận ra món quà mà Điền để lại, người cha đã bắt đầu quan tâm đến Nương
nhưng muộn rồi. Không còn kịp để lấy lại những ánh mắt hận thù, không còn kịp để
ngăn chặn sự ra đời của những thằng mất dạy, hằn học nhìn đời và lúc nào cũng chực
chờ “đánh chết mẹ những thằng chăn vịt”, không còn kịp để lấp đầy những hố sâu
ngăn cách cha con từ bao nhiêu năm qua, không còn kịp cho một dự định dừng lại của
người cha…Tất cả đã muộn màng bởi Nương cảm nhận giờ báo thù đã đến, giờ khắc
mà quy luật nhân quả sẽ lộ diện với bộ mặt khắc nghiệt và nhẫn tâm. Không phải đợi
đến thời khắc Nương phải trả giá, người đọc đã lờ mờ nhận thấy một sự bất an lan tỏa
trong từng chi tiết nhỏ xoay quanh các nhân vật như là những đám mây đen đã tích đủ
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
146
điều kiện cần thiết tạo thành một cơn bão. Tuy kết thúc truyện có phần gắng gượng
nhưng vẫn không làm giảm giá trị một tình huống thắt nút và siết chặt vòng vây đặc
sắc của Nguyễn Ngọc Tư.
Điều sâu sắc nhất mà chúng tôi đúc kết được khi xem xét tình huống truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư là dẫu cho xây dựng tình huống tâm lý, tình huống tượng trưng,
tình huống thắt nút hay bất kì kiểu tình huống nào thì tài năng của chị vẫn là ở chỗ đã
chọn được cho mình những tình huống nhẹ nhàng nhưng có sức gợi lớn, có khả năng
đánh động sâu sắc vào tâm hồn của người đọc, là cái sườn chắc chắn để tác giả triển
khai toàn bộ tác phẩm.
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình
3.2.1.1. Những cái tên dân dã, hiền lành
3.2.1.2. Ngoại hình lam lũ, xấu xí
Nguyễn Ngọc Tư ít chú trọng miêu tả ngoại hình nhân vật với mục đích khắc
họa tính cách mà thiên về giới thiệu hoàn cảnh hoặc nghề nghiệp của nhân vật để
hướng người đọc tới chủ đề tác phẩm. Đối với truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thì ngoại
hình của nhân vật thường thống nhất với tính cách nhân vật, nó thường là đường dẫn để
người đọc tiếp cận thế giới nội tâm của nhân vật.
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả và biểu hiện tâm lý nhân vật
3.2.2.1. Khắc họa tâm lý qua những biểu hiện bên ngoài
3.2.2.2. Biện pháp miêu tả trực tiếp tâm lý nhân vật
3.2.2.3. Độc thoại nội tâm của nhân vật
Nguyễn Ngọc Tư rất chú trọng việc xây dựng tâm trạng của nhân vật, đôi khi
chỉ bằng một chi tiết nhỏ như ánh nhìn, nụ cười, những cử chỉ vu vơ thôi là chị đã
khiến người đọc thấy được sự dồn nén và che giấu tâm trạng thật sự của nhân vật.
Nhiều khi tâm lý nhân vật còn được miêu tả bằng những lời nói (trái với lòng mình)
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
147
hay một thái độ đối nghịch hoàn toàn với nội tâm (sẽ bị lật tẩy bởi một nhân vật khác
hay một bởi hành động nào đó tiếp theo).
3.3. Trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Tự sự học vốn là một nhánh của Thi pháp học hiện đại, hiểu theo nghĩa rộng nó
chuyên nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề có liên quan. Tự sự học
phân biệt rõ giữa “kể cái gì” và “kể như thế nào”, tức là có sự phân biệt giữa khái niệm
“câu chuyện” và “cốt truyện”, từ đó làm nổi bật vai trò chủ thể trong trần thuật (tức là
vai trò của người kể chuyện).
Tham khảo bài viết: Về khái niệm “Truyện kể ở ngôi thứ ba” và “người kể
chuyện ở ngôi thứ ba” [70, tr.134-145] của TS.Lí luận ngôn ngữ học Nguyễn Thị Thu
Thủy chúng tôi đã nhận thức rõ sự khác biệt giữa hai khái niệm “người tiêu điểm hóa”
và “người kể chuyện”. Theo đó “Người tiêu điểm hóa là người thể hiện quan điểm,
đánh giá của nhân vật về thế giới nhân vật, sự kiện trong tác phẩm-người mà qua
những hành động, cảm nhận, suy nghĩ-làm điểm tựa cho người kể chuyện thực hiện
hành vi kể”; còn “Người kể chuyện là người thực hiện hành vi kể, ghi lại những gì mà
nhân vật thấy, nhận vật nghĩ…”. Bài viết cũng làm rõ khái niệm “người kể chuyện
hiển ngôn” và “người kể chuyện hàm ẩn”. Vận dụng những hiểu biết đó vào việc tìm
hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi sẽ khảo sát
những kiểu người kể chuyện (NKC) như sau:
3.3.1. Người kể chuyện hiển ngôn
3.3.1.1 Người kể chuyện xưng “tôi” kể theo điểm nhìn của chính mình
3.3.1.2 Người kể chuyện xưng “tôi” đóng vai trò dẫn truyện
3.3.2. Người kể chuyện hàm ẩn
3.3.2.1 Người kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn của chính mình
3.3.2.2 Người kể chuyện hàm ẩn kể theo điểm nhìn của nhân vật
Vận dụng những hiểu biết về “Tự sự học”, với tư liệu khảo sát (có chọn lọc)
gồm 40 truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy có 10 truyện có người kể
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
148
chuyện hiển ngôn và 30 truyện có người kể chuyện hàm ẩn. Trong đó ở những truyện
có NKC hiển ngôn thì kiểu NKC xưng “tôi” kể theo điểm nhìn của chính mình chiếm
ưu thế hơn (8 truyện) còn kiểu NKC xưng “tôi” đóng vai trò dẫn chuyện chỉ xuất hiện
trong 2 truyện. Như số liệu đã nêu, chúng ta thấy Nguyễn Ngọc Tư có xu hướng thiên
về xây dựng kiểu NKC hàm ẩn trong những truyện ngắn của mình. Thống kê 30 truyện
ngắn còn lại, chúng tôi nhận thấy có 20 truyện ngắn có kiểu NKC hàm ẩn kể theo điểm
nhìn của chính mình và 10 truyện ngắn có kiểu NKC hàm ẩn kể theo điểm nhìn của
nhân vật. Những con số này càng củng cố cho nhận xét Nguyễn Ngọc Tư thiên về lối
trần thuật truyền thống trong truyện ngắn.
3.4. Ngôn ngữ và giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.4.1. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
3.4.1.1. Từ ngữ chỉ địa hình, sản vật Nam Bộ
3.4.1.2. Từ ngữ chỉ trạng thái, hành động theo kiểu Nam Bộ
3.4.1.3. Diễn đạt kiểu Nam Bộ trong lối kể chuyện
3.4.1.4. Đặc điểm câu văn trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Căn cứ vào số lượng tác phẩm đã xuất bản cũng như những đóng góp đã được
công nhận của chị, có thể rút ra nhận xét sở trường của Nguyễn Ngọc Tư là sáng tác
bằng ngôn ngữ Nam Bộ, tiếp nối truyền thống có từ Hồ Biểu Chánh, đến Sơn Nam,
Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Dạ Ngân…Đó là truyền thống viết văn như nói,
không cầu kì, trau chuốt làm mất đi sự góc cạnh và sức sống tươi rói của chữ nghĩa.
Đặc biệt ở Nguyễn Ngọc Tư, ngôn ngữ kể chuyện cũng như ngôn ngữ nhân vật đều
mang đầy đủ những đặc trưng của ngôn ngữ Nam Bộ trên các phương diện như: ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp và cả phong cách diễn đạt.
3.4.2. Giọng điệu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Ngôn ngữ là một trong những yếu tố góp phần tạo nên giọng điệu của tác phẩm
văn xuôi, bên cạnh những yếu tố khác như cú pháp, nhịp điệu, cách diễn đạt…Đi tìm
giọng điệu trong văn xuôi, chúng ta có thể đứng trên hai bình diện. Ở bình diện vi mô
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
149
(tức là ngôn ngữ của người kể chuyện), chúng ta thấy hiện lên trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư một lối kể chuyện hấp dẫn, tự nhiên, hóm hỉnh với lối dẫn chuyện
hồn nhiên, tựa như không còn khoảng cách giữa người kể chuyện và nhân vật, người
kể chuyện và độc giả.
Xét trên bình diện vĩ mô (tức là giọng điệu chung của cả tác phẩm), chúng ta
thấy truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư có một giọng điệu nhẹ nhàng, đằm thắm và sâu
lắng. Giọng văn ấy không chỉ thể hiện ở lối kể chuyện chậm rãi, thong dong mà còn thể
hiện ở cả ngôn ngữ của nhân vật, ở những đoạn miêu tả nội tâm của nhân vật. Văn
Nguyễn Ngọc Tư giàu cảm xúc vì những nhân vật của chị thiên về cảm nhận hơn hành
động, nhân vật thích chìm đắm trong cảm xúc, trong thế giới tinh thần của mình hơn là
hành động hướng ra bên ngoài.
Khảo sát bốn mươi truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi tạm phân loại
truyện ngắn của chị theo những kiểu “giọng” như sau:
3.4.2.1. Giọng thủ thỉ, tâm tình
3.4.2.2. Giọng hài hước, tưng tửng
3.4.2.3. Giọng buồn bã, hiu hiu, đượm đượm
3.4.2.4. Giọng triết lý bình dân
Xem xét một cách tổng quát, chúng tôi nhận thấy truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
có sự đa dạng trong giọng điệu như đã trình bày ở trên, nhưng nổi bật nhất vẫn là giọng
kể chuyện, tâm tình buồn buồn, thủ thỉ, nhẹ nhàng, mơ màng quá khứ, hoài niệm dĩ
vãng của lịch sử, của quê hương, của những số phận cá nhân nhỏ nhoi nhưng không hề
bị khuất lấp và lãng quên. Văn Nguyễn Ngọc Tư dễ khiến người đọc đồng cảm chính
vì những vấn đề chị đề cập không to tát và xa lạ, nó gần gũi nhưng lại được tâm tình
bằng một giọng điệu có thể khơi gợi sự cảm thông, khiến người ta dễ dàng cởi mở lòng
mình.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
150
KẾT LUẬN
1. Mục đích chính của luận văn là tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư, tuy nhiên nhằm làm rõ thêm cho vấn đề đang nghiên cứu, chúng tôi cũng tìm hiểu
một cách khái lược về cuộc sống, quan niệm văn chương và những truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư đã được xuất bản cho tới thời điểm luận văn này được tiến hành. Có
thể nói, đây là một nhà văn trẻ có cuộc sống bình dị, quan niệm văn chương đơn giản
nhưng nghiêm túc. Sáng tác đều tay và thành công trên cả hai thể loại là truyện ngắn và
tạp văn, Nguyễn Ngọc Tư đang từng bước khẳng định vị trí của mình trên văn đàn
bằng những tác phẩm giàu giá trị hiện thực và xã hội, mang màu sắc và hơi hướng đặc
trưng của đất và người Nam Bộ. Đóng góp lớn nhất của chị cho tới thời điểm này, theo
chúng tôi, đó là văn phong Nam Bộ với sự độc đáo trong việc sử dụng ngôn ngữ Nam
Bộ như là một chất liệu đặc biệt để sáng tác văn chương.
2. Sau khi tìm hiểu một cách hệ thống cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy cây bút này có nhiệt huyết
dẫn dắt người đọc đi qua từng cánh đồng, từng phận người với tư cách một người trong
cuộc, một thân phận thiết tha chia sẻ và đồng cảm với những thân phận khác bất hạnh
hơn mình. Dẫu còn đó trên trang văn rất nhiều nỗi đau, rất nhiều nỗi bức xúc vì thiếu
thốn, vì nghèo nàn, thậm chí vì quê mùa mà không chạm đến được hạnh phúc nhưng
đâu đó chúng ta vẫn thấy được những nụ cười hạnh phúc, những ánh nhìn yêu thương,
những tình cảm ấm áp của những con người nhân hậu chốn đồng bằng dành cho nhau,
dìu dắt nhau qua những cơn bão tố cuộc đời với một tinh thần ham sống, lạc quan, dẫu
biết cuộc đời còn đó nhiều giông tố và đe dọa nhưng vẫn muốn sống và hễ sống là phải
sống cho “ngon lành”. Đó cũng chính là tâm hồn và khí phách từ bao đời của con
người và quê hương Nam Bộ.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
151
3. Từ việc phân tích những thủ pháp nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng
trong truyện ngắn của mình, chúng tôi nhận thấy Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn có biệt
tài trong việc miêu tả tâm lý nhân vật, và chị đã thành công trong việc xác lập cho
truyện ngắn của mình một văn phong Nam Bộ điển hình, một phong cách sáng tác độc
đáo mang “văn hiệu” Nguyễn Ngọc Tư không thể lẫn lộn. Đóng góp lớn nhất hiện nay
của chị trong lĩnh vực văn chương là một giọng văn hiền lành, nhân hậu, đầy tinh thần
trách nhiệm của một công dân với xã hội, của một con người biết sống nhiệt huyết và
tận tụy với người cũng như với mình. Tinh tế nhưng không quá sắc sảo, hồn nhiên
nhưng không vô tâm, Nguyễn Ngọc Tư bằng những truyện ngắn nhỏ bé của mình đã
góp phần đánh động lương tâm xã hội, thanh lọc tâm hồn của chúng ta bằng những
chuỗi khóc cười, buồn bã bi ai cùng với những số phận, những cuộc đời thấp thoáng
đằng sau trang viết.
4. Dĩ nhiên tác giả Nguyễn Ngọc Tư vẫn còn đó những nhược điểm trong nghệ
thuật viết truyện, cũng như người đọc bắt đầu cảm giác có sự sáo mòn trong hệ thống
đề tài của chị trên cả hai thể loại truyện ngắn và tạp văn, thế nhưng chúng tôi tin rằng
bằng sự vững vàng và sáng suốt, chị sẽ biết cách thay đổi để làm mới văn chương của
mình. Nam Bộ là một mảnh đất màu mỡ, là một tiểu vùng văn hoá đa dạng để Nguyễn
Ngọc Tư có thể duy trì hoạt động khai thác cho đến tận cùng con đường văn chương.
Vấn đề quan trọng là Nguyễn Ngọc Tư có làm chủ được kho tàng ngôn ngữ Nam Bộ
giàu có ấy hay không, có biết cách vận dụng nó một cách sáng tạo hay không để hình
thành cho mình một phong cách đặc sắc, một bản lĩnh sáng tạo mới. Bằng những thành
công đã đạt được, chúng ta tin rằng Nguyễn Ngọc Tư sẽ còn tiến xa hơn trên con
đường văn chương của mình.
Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Thành Ngọc Bảo
152
Học viên: NGUYỄN THÀNH NGỌC BẢO
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Tên đề tài luận văn: ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ HỒNG HÀ