BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ---------- Trần Huỳnh Nhị
ĐẶC TRƯNG TRUYỆN NGẮN
JHUMPA LAHIRI
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ---------- Trần Huỳnh Nhị
ĐẶC TRƯNG TRUYỆN NGẮN
JHUMPA LAHIRI
Chuyên ngành: Văn học Nước ngoài Mã số: 60 22 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THÚY
Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
LỜI CẢM ƠN -------
Tôi xin chân thành cảm ơn:
Cô hướng dẫn luận văn: Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Thúy
Giáo sư Lưu Đức Trung
Các thầy cô tổ Văn học Nước ngoài, các thầy cô Khoa Ngữ Văn
Phòng Sau Đại học và Công nghệ Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ
Chí Minh
Gia đình và bạn bè
đã tận tình góp ý, giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn này.
Tp Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 10 năm 2011
Người viết luận văn
Trần Huỳnh Nhị
Lớp Cao học Văn học nước ngoài K19
2TLỜI CẢM ƠN2T ................................................................................................... 3
2TMỞ ĐẦU2T 5
2TChương một : JHUMPA LAHIRI VÀ NỀN VĂN HỌC ẤN ĐỘ VIẾT BẰNG TIẾNG
ANH2T ......................................................................................................................... 12
2T1.1. Jhumpa Lahiri – đứa con của ba lục địa2T .............................................................. 12 2T1.2. Jhumpa Lahiri – nhà văn của những người Ấn Độ tha hương2T .............................. 16 2T1.3. Jhumpa Lahiri – người góp công đưa nền văn học Ấn Độ đương đại ra thế giới2T 22 2TChương hai : HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT DI CƯ TRONG TRUYỆN NGẮN JHUMPA
LAHIRI2T .................................................................................................................... 29
2T2.1. Vấn đề di cư2T .......................................................................................................... 29 2T2.2. Nhân vật di cư trong văn chương di dân2T ............................................................... 32 2T2.3. Hình tượng nhân vật di cư trong truyện ngắn Jhumpa Lahiri2T ............................... 36
2TChương ba : HÌNH TƯỢNG KHÔNG GIAN DI CƯ TRONG TRUYỆN
NGẮN JHUMPA LAHIRI2T ......................................................... 64
2T3.1. Khái niệm không gian nghệ thuật2T ......................................................................... 64 2T3.2. Các dạng thức không gian trong truyện ngắn Jhumpa Lahiri2T ............................... 65
2TKẾT LUẬN2T 84
2TTÀI LIỆU THAM KHẢO2T ............................................................................... 85
2TPHỤ LỤC2T 91
2TVẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ TRUYỀN THỐNG2T ......................................................... 96 2TNicholas Gipe2T .............................................................................................................. 96
2TKẾT LUẬN2T 113
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Là một trong những nền văn hóa lâu đời nhất của nhân loại, Ấn Độ sở
hữu một nền văn học giàu có và rực rỡ. Với bề dày hơn 3500 năm, hành trình văn
học Ấn Độ, từ văn học Veda đến văn học hiện đại, đã tự khẳng định vị thế của mình
trên văn đàn thế giới. Sử thi Mahabharata, Ramayana; kịch thơ Shakuntala; truyện
thơ Hồ truyền kì Rama và Thơ Dâng giải Nobel 1913 đã trở thành di sản văn học
thế giới. Truyền thống văn hóa - văn học dân tộc đã nuôi dưỡng niềm tự hào mãnh
liệt trong lòng mỗi người dân Ấn Độ qua bao thế hệ và đồng thời đem đến cho độc
giả thế giới sự hiểu biết, lòng ngưỡng mộ một nền văn học giàu sức sống, đậm đà
bản sắc.
1.2. Tiếp nối truyền thống vẻ vang, văn học đương đại Ấn Độ được vinh
danh trên văn đàn thế giới nhờ những đóng góp tích cực của các nhà văn trẻ viết
bằng tiếng Anh như: Dhan Gopal Mukerji (Giải thưởng Văn học Mỹ), Nirad C.
Chaudhuri, P. Lal, R.K. Narayan, Mulk Raj Anand (Giải thưởng Sahitya Akademi),
Salman Rushdie (Giải Man Booker, 1981), Bharati Mukherjee (Giải National Book
Critics Circle, 1998), Arundhati Roy (Giải Man Booker, 1997), Vidiadhar
Surajprasad Naipaul 0T(Nobel văn chương, 2001), 0TKiran Desai (Giải Man Booker,
2006), Aravind Adiga (Giải Man Booker, 2008), Jhumpa Lahiri (Giải Pulitzer, 2000
và Giải Frank O’Connor, 2008)…
1.3. Trong số các nhà văn đương đại viết bằng tiếng Anh, Jhumpa Lahiri là
một hiện tượng đặc biệt. Cô xuất hiện và làm cho độc giả bất ngờ trước những giải
thưởng danh giá, chỉ với hai tuyển tập truyện ngắn Người dịch bệnh (Interpreter of
Maladies) và Vùng đất lạ (Unaccustomed Earth): Giải O.Henry (1999), giải
Pen/Hemingway (1999), giải Pulitzer (2000), giải Frank O’Connor (2008). Bằng
những sáng tạo nghệ thuật, Lahiri điềm tĩnh chọn hướng đi cho riêng mình. Thế giới
nghệ thuật của cô vừa quen vừa lạ, vừa cổ điển lại vừa tân kỳ, vừa có vẻ giản đơn
mà lại biến hóa thâm sâu… Nó góp phần tạo nên một thế giới nghệ thuật nối dài từ
Đông sang Tây, giúp người đọc nhập cảm sâu hơn vào đời sống của những người
tha hương, về Ấn Độ hiện đại qua cảm nhận của những người Ấn Độ di trú ở những
vùng đất lạ. Đây là lí do để chúng tôi tiếp cận với những đặc trưng nghệ thuật
truyện ngắn Jhumpa Lahiri.
1.4. “Văn học Ấn Độ ở Việt Nam” là hướng nghiên cứu và tiếp nhận quan
trọng ở nước ta trong những năm đầu thế kỉ XX. Cùng xu hướng tiếp cận, nghiên
cứu văn học đương đại của thế giới và để minh chứng cho sự tiếp nối truyền thống
của văn học Ấn Độ qua các thời kì, đề tài luận văn sẽ tiếp cận với thể loại truyện
ngắn viết bằng tiếng Anh của văn học đương đại Ấn Độ, với mong muốn đem đến
một cái nhìn toàn diện hơn cho việc nghiên cứu văn học Ấn Độ ở Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2. 1. Tài liệu tiếng Việt
Jhumpa Lahiri là nhà văn mới nổi. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu về cô
ở Việt Nam còn rất khiêm tốn. Các tài liệu tiếng Việt chủ yếu là những bài giới
thiệu khái quát về cuộc đời tác giả, tóm tắt nội dung và nêu chủ đề tác phẩm:
- Trong bài viết Người đưa nền văn học Ấn Độ đương đại ra thế giới (Tạp chí
văn chương da màu, ngày 05/05/2008), Dạ Lan Hương đã khái quát tình hình phát
triển của nền văn học Ấn Độ đương đại nói chung và nền văn học Ấn Độ viết bằng
tiếng Anh nói riêng. Từ sự khái quát này, tác giả khẳng định vị trí của nhà văn trẻ
Jhumpa Lahiri trên văn đàn đương đại, đồng thời giới thiệu chủ đề, tóm tắt nội dung
tuyển tập truyện ngắn Người dịch bệnh và tiểu thuyết Hoán danh.
- Đào Trung Đạo trong mục điểm sách: Jhumpa Lahiri - Unaccustomed Earth
(2Thttp://www.gio-o.com2T) đã khẳng định tập truyện Unaccustomed Earth là tác phẩm
văn chương toàn cầu vì đã đi vào phản ánh một cách chân thực và sâu sắc cuộc sống
của những người có thân phận “công dân toàn cầu”.
- Trong bài viết Vùng đất lạ (2Thttp://tintuc.xalo.vn2T, ngày 02/4/2010), Thanh Hoa
đã dựa theo bài viết Con cháu Mỹ quốc của Siesl Schillinger (Nguyễn Viết Minh
Thanh chuyển ngữ), nhận xét khái quát về nghệ thuật xây dựng nhân vật của
Jhumpa Lahiri trong tuyển tập Vùng đất lạ. Điểm nổi bật trong cách xây dựng nhân
vật của Jhumpa Lahiri là cô không tìm cách kiểm soát các nhân vật mà để họ trưởng
thành một cách tự nhiên. Bằng cách đó, cô tạo điều kiện cho người đọc có cơ hội
đồng hành cùng với các nhân vật của mình.
- Trong bài báo Nhà văn nữ Jhumpa Lahiri – Sự đáp xuống của sao chổi
(2Thttp://www.baocantho.com.vn2T, ngày 19/7/2008), Duyên Khánh đã dựa trên bài viết
Người đưa nền văn học Ấn Độ đương đại ra thế giới của tác giả Dạ Lan Hương
ghi nhận lại một số thông tin về cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác của Jhumpa
Lahiri.
- Tiểu Yến trong bài viết Văn học Ấn dưới con mắt nữ giới
(2Thttp://www.baodanang.vn2T, ngày 11/10/2008) đã tổng hợp một số đóng góp quan
trọng của các nhà văn nữ Ấn Độ, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Jhumpa
Lahiri.
2.2. Tài liệu tiếng Anh
Các nhà nghiên cứu, phê bình trên thế giới tiếp cận truyện ngắn Jhumpa Lahiri
trên cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật.
Khi khai thác nội dung, các nhà nghiên cứu chủ yếu nhìn truyện ngắn Jhumpa
Lahiri từ góc độ văn hóa. Đó là những bài viết quan tâm đến vấn đề hội nhập và ý
thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của những người Ấn Độ di cư:
- Liesl Schillinger trong bài phê bình American Children (The New York
Times) được Nguyễn Viết Minh Thanh chuyển ngữ với tựa đề Con cháu Mỹ quốc
(Tạp chí văn chương da màu ngày 06/4/2008) đã có những nhận định sâu sắc về
cuộc sống của thế hệ thứ hai trong gia đình người Ấn di dân trong truyện ngắn của
Jhumpa Lahiri – thế hệ tiềm ẩn mầm mống nổi loạn. Họ là minh chứng cho sự hoài
nghi của Jhumpa Lahiri đối với biện luận của Nathaniel Hawthorne về sự tồn tại
của con người trên những vùng đất lạ: Vận mệnh con người có lẽ sẽ khá hơn nếu họ
có thể bám rễ, chôn gốc vào một vùng đất không quen thuộc.
- Trong bài viết Food as Metaphor in Jhumpa Lahiri’s Interpreter of Maladies
(Thức ăn như phép ẩn dụ trong Người dịch bệnh của Jhumpa Lahiri)
(2Thttp://www.hinduism.about.com2T), Choubey Asha tập trung khai thác ý nghĩa của
biểu tượng thực phẩm trong truyện ngắn Jhumpa Lahiri. Thực phẩm được nhà văn
sử dụng như là một phương tiện để thể hiện tình cảm và bản sắc của cộng đồng Ấn
Độ lưu vong.
- Bài viết Themes of Marriage and Tradition (Chủ đề hôn nhân và truyền
thống) (2Thttp://voices.cla.umn.edu2T0T),0T Gipe Nicholas đề cập đến mối quan hệ giữa hôn
nhân và truyền thống trong các câu chuyện của Jhumpa Lahiri. Tác giả chỉ rõ:
“Tình yêu và truyền thống luôn ở trung tâm truyện”. Mọi biểu hiện của nó trong
truyện chính là những thử nghiệm của Jhumpa về cách thức để tìm được hạnh phúc
0T- Culture and Immigration, America and Post-America in Lahiri’s The
trong cuộc đời.
Intrerpreter of Maladies (Văn hóa và nhập cư, nước Mỹ và hậu nước Mỹ) của
Hassan Rouhvand (0T2Thttp://faculty.k.su.edu2T0T) là một bài viết phong phú, khai thác khá
0TMở đầu bài viết, tác giả giới thiệu khái quát về cuộc đời Jhumpa Lahiri và khẳng
sâu những vấn đề nội dung của tập truyện:
định giá trị to lớn của tuyển tập đầu tay Interpreter of Maladies. Bài viết còn đề cập
đến vấn đề “Tự do dân chủ Mỹ” (American Liberal Democracy) theo cách nhìn của
John Fonte trong To possess the National Consciousness of America (Để chiếm hữu
ý thức dân tộc Mỹ) và vấn đề nhập cư (immigration), vấn đề đồng hóa
(assimilation) và giao thoa văn hóa (acculturation) ở Mỹ. Từ các vấn đề được phân
tích, Hassan Rouhvand đi đến kết luận Người dịch bệnh là tiếng nói của những
người đang đứng giữa hai nền văn hóa, đang ra sức đấu tranh để tồn tại, để được
0T - Michiko Kakutani trong bài Wonder Bread and curry: Mingling Cultures,
công nhận: họ là ai?
ConFlicted Hearts (Bánh mì và Cà ri: những giá trị văn hóa trộn lẫn, những tình
cảm mâu thuẫn) (The New York Times, ngày 06/8/1999, 0T2Thttp://topics.nytimes.com2T0T)
đã phân tích sâu sắc nội tâm các nhân vật trong tuyển tập Unaccustomed Earth:
“Các nhân vật của Lahiri đứng giữa hai đất nước, hai nền văn hóa và không thuộc
về cả hai”. Theo Kakutani nhận định từ tác phẩm của Jhumpa Lahiri, nếu như các
bậc cha mẹ mong muốn đem đến cho các con của họ “Giấc mơ nước Mỹ”
(American Dream) thì những đứa con của họ lại trở nên nhạy cảm khi lớn lên trước
những thử thách bí ẩn của nước Mỹ. Chúng dễ dàng thâm nhập cả hai nền văn hóa
nhưng hoàn toàn không có cảm giác cả hai là nhà. Từ sự phân tích của mình,
Kakutani khẳng định tài năng của Jhumpa Lahiri “Một nghệ sĩ tuyệt vời”.
Những bài nghiên cứu về nghệ thuật truyện ngắn Jhumpa Lahiri mà chúng tôi
thu thập được không nhiều, chủ yếu bàn về cách kể chuyện vừa truyền thống vừa
hiện đại của nhà văn Mỹ gốc Ấn.
- Bài viết Unaccustomed Earth của nhà văn Vanessa Gebbie
(2Thttp://www.theshortreview.com2T) bước đầu nhận xét về nghệ thuật kể chuyện của
Jhumpa Lahiri. Đó là lối kể chuyện tuy đơn giản nhưng vô cùng tinh tế và lắng
đọng, Jhumpa Lahiri liên tục chuyển đổi các điểm nhìn để nhân vật tự bộc lộ, câu
chuyện tự phát triển theo logic riêng của nó. Gebbie viết: “Đó là sự tĩnh lặng đặc
trưng cho cách viết của Lahiri. Bạn không thể tìm đâu những chỗ ngoặt quanh co,
sự châm biếm chua cay hoặc những thủ thuật của tác giả. Những câu chuyện hoàn
toàn giản dị mộc mạc. Lời văn cũng giản dị mộc mạc như vậy”.
2TLev Grossman2T với bài Jhumpa Lahiri: The quiet Laureate
-
(2Thttp://www.time.com2T, ngày 08/5/2008) đã nhận định về nghệ thuật kể chuyện của
Jhumpa Lahiri: “Các truyện của Lahiri từ tốn, chậm và tĩnh lặng, thuộc lối viết của
thế kỉ XIX. Nó không mua chuộc bạn bằng sự hài hước hay cốt truyện quanh co
hoặc bằng sự đánh bóng ngôn ngữ” và “Cô bước lùi về phía xa, tách khỏi mọi việc
đang diễn ra, thoát khỏi mọi việc, vì thế nhân vật và sự việc trong truyện có thể tồn
tại đúng như ở ngoài đời: phức tạp, nhập nhằng và không thể lý giải”.
Những nét phát thảo về lịch sử vấn đề cho thấy truyện ngắn Jhumpa Lahiri vẫn
đang là một ẩn số thú vị chờ đợi sự khám phá của giới nghiên cứu. Những tài liệu
lượt thuật nêu trên, mặc dù không nhiều nhưng đã tạo được nền tảng ban đầu giúp
chúng tôi đi vào tìm hiểu, nghiên cứu một cách hệ thống và tổng thể phong cách
nghệ thuật truyện ngắn Jhumpa Lahiri.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Jhumpa Lahiri chủ yếu sáng tác và thành công ở thể loại truyện ngắn. Các tuyển
tập truyện ngắn của cô đã xuất bản được đánh giá là những tác phẩm thể hiện “tính
chuyên nghiệp bậc thầy của một nhà văn đang ở đỉnh điểm tài năng” (đánh giá của
The New York Times). Đề tài luận văn của chúng tôi tập trung khai thác những nét
đặc trưng trong sáng tác của Jhumpa Lahiri trên hai phương diện: hình tượng nhân
vật và hình tượng không gian.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là hai tuyển tập truyện ngắn của Jhumpa Lahiri đã được
dịch và phát hành tại Việt Nam.
- Người dịch bệnh (Interpreter of Maladies), dịch giả Đặng Tuyết Anh và Ngân
xuyên, Nhà xuất bản Lao Động, 2004.
- Vùng đất lạ (Unaccustomed Earth) dịch giả Lại Thu Trinh, Nhà xuất bản Văn
hóa Sài Gòn, 2009.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi chủ yếu tiếp cận với hai bản dịch này,
đồng thời đối chiếu với nguyên tác bằng tiếng Anh. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng
khảo sát thêm tiểu thuyết The namesake (Hoán danh) để có cái nhìn toàn diện và
thống nhất hơn về tư tưởng nghệ thuật của Jhumpa Lahiri.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp văn hóa học: văn hóa và nhập cư là hai vấn đề trung tâm trong
toàn bộ các câu chuyện của Jhumpa Lahiri. Vì vậy, việc nghiên cứu không thể tách
rời những yếu tố văn hóa đã hình thành nên nhân dạng và tư cách của nhà văn.
Chúng tôi xem đây là phương pháp quan trọng, bên cạnh phương pháp loại hình,
trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
- Phương pháp loại hình: dựa vào đặc trưng của thể loại truyện ngắn hư cấu để
triển khai nội dung của đề tài.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để phân
tích từng truyện ngắn cụ thể nhằm khái quát những nét đặc trưng trong truyện ngắn
của Jhumpa Lahiri.
- Phương pháp so sánh: phương pháp này được chúng tôi vận dụng để đối chiếu
hình tượng người Ấn Độ di trú trong truyện ngắn của Lahiri với một vài hình tượng
người di trú của một số tác giả khác trong nền Văn học Mỹ hiện đại. Đây sẽ là
những căn cứ để chúng tôi khẳng định ý nghĩa của hình tượng nhân vật.
5. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm ba phần chính: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
- Ba chương nội dung của luận văn hướng đến giải quyết những vấn đề sau đây:
Chương một giới thiệu khái quát về tác giả trong mối quan hệ mật thiết với sự
phát triển của nền văn học Ấn Độ đương đại viết bằng tiếng Anh.
Chương hai và chương ba phân tích hai vấn đề cơ bản tạo nên nét đặc trưng
trong phong cách truyện ngắn của Jhumpa Lahiri. Hai vấn đề đó là: Hình tượng
nhân vật người di cư và hình tượng không gian di cư trong truyện ngắn Jhumpa
Lahiri.
- Phần kết luận. Trong phần này, chúng tôi sẽ tổng hợp và đánh giá những vấn
đề đã trình bày trong các chương và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo trong các
công trình nghiên cứu sau này.
6. Đóng góp của luận văn
Ý nghĩa khoa học: Đề tài luận văn: Đặc trưng truyện ngắn của Jhumpa Lahiri
sẽ góp phần nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Jhumpa Lahiri, nhà văn nữ
nổi danh của văn học đương đại Ấn Độ.
Ý nghĩa thực tiễn: Hiện nay, tên tuổi Jhumpa Lahiri còn khá xa lạ với độc giả
Việt Nam. Vì vậy, công trình nghiên cứu này sẽ góp phần đưa Jhumpa Lahiri đến
gần hơn với độc giả và giới nghiên cứu Việt Nam, đồng thời cung cấp cái nhìn mới
về một hiện tượng văn chương đặc biệt: “Văn chương di dân” mà Lahiri là một
trong những đại diện xuất sắc.
Chương một : JHUMPA LAHIRI VÀ NỀN VĂN HỌC ẤN ĐỘ VIẾT BẰNG TIẾNG ANH
1.1. Jhumpa Lahiri – đứa con của ba lục địa
Jhumpa Lahiri sinh ngày 11 tháng 7 năm 1967 tại London, trong một gia đình
người Ấn gốc Bengal di cư (Bengali Indian immigrants). Mặc dù sinh ra ở vùng Bắc
Âu, nhưng vẻ đẹp của Jhumpa Lahiri vẫn rất đặc trưng Ấn Độ: khuôn mặt đầy đặn,
phúc hậu, đôi mắt đen huyền, sâu thẳm. Vẻ bề ngoài ấy có phần xa lạ với những cư
dân xứ sở sương mù. Tuy nhiên, khi chưa kịp lớn để nhận thức sự khác biệt của bản
thân với thế giới xung quanh, cô bé hai tuổi Jhumpa đã phải theo bước viễn du của
cha mẹ chuyển đến tiểu bang Rhode Island – Hoa Kỳ. Tại đây, cha của Jhumpa làm
việc cho thư viện trường đại học Rhode Island. Jhumpa đã dần trở thành công dân
Mỹ. Cô tốt nghiệp THPT ở trường Kingstown High School, tốt nghiệp cử nhân văn
chương của trường Barnard College năm 1989, cao học văn chương và tiến sĩ ngành
Renaissance Studies tại Boston University. Năm 2001, Lahiri kết hôn với Alberto
Vourvoulias-Bush, tổng biên tập của báo Time Latin America. Hiện tại, cô là Phó
chủ tịch Hội văn bút Mỹ, sống cùng chồng và hai con ở New York.
Có thể nói, Jhumpa Lahiri là đứa con của ba lục địa, Ấn Độ là quê cha mẹ,
Anh Quốc là nơi sinh và Hoa Kỳ là nơi định cư lâu dài. Ba quốc gia này đại diện
cho hai khu vực văn hóa khác biệt và có thể nói là đối lập nhau: Ấn Độ đại diện cho
văn hóa phương Đông hướng nội, duy linh, duy cảm và Anh Quốc, Hoa Kỳ đại diện
cho văn hóa phương Tây hướng ngoại, duy lí. Ý thức về sự khác nhau giữa văn hóa
Đông – Tây từ lâu đã được mặc định. Sự tranh chấp mỗi khi va chạm là nỗi ám ảnh
của hầu hết những người da màu định cư ở các nước phương Tây. Và đây cũng là
nguyên nhân làm nảy sinh ở họ một đời sống tinh thần phức tạp với nhiều xúc cảm
và ràng buộc.
Mối ràng buộc đầu tiên gắn kết Jhumpa với Ấn Độ. Đây là quê hương của cha
mẹ cô, là nơi ấn định trong nhận thức của họ về sở cứ tồn tại. Nên, dù sống ở nước
ngoài trên ba mươi năm, cha mẹ Jhumpa vẫn không thể coi một nơi nào là “nhà”
ngoài Ấn Độ. Họ áp đặt tâm thế ấy lên con cái, buộc chúng phải yêu tất cả mọi thứ
thuộc về Ấn Độ như: trang phục, thức ăn, tôn giáo, ngôn ngữ… bất chấp sự bất hợp
lí và khó hòa đồng với thực tại. Vì vậy, mặc dù không trực tiếp trải nghiệm cuộc
sống trên đất Ấn nhưng dưới sự giáo dục nghiêm khắc của gia đình, Jhumpa đã
sống như một người Ấn Độ đích thực trên đất Mỹ.
Từ nhỏ, Jhumpa đã bị ám ảnh bởi hai tiếng “Ấn Độ”. Nó khiến cô thường xuyên
phải đối mặt với nghịch cảnh, thường xuyên bị ép buộc làm những điều ngoài ý
muốn: “Ở nhà, tôi theo phong tục của cha mẹ, nói tiếng Bengali, ăn cơm với các
ngón tay của mình. Sự thật này dường như là một phần bí mật trong cuộc sống của
tôi, và tôi đau khổ che giấu chúng với các bạn người Mỹ” [71]. Nhưng mọi cố gắng
che giấu sự khác biệt của Jhumpa đều không có kết quả, vì nó hiện lên rõ ràng qua
cái tên, dáng vẻ bên ngoài và cung cách sinh hoạt, khiến cho cô luôn cảm thấy ngại
ngùng: “Tôi luôn thấy ngại ngùng vì cái tên của mình, cảm thấy như mình là
nguyên nhân khiến cho mọi người thắc mắc”. Cảm giác này càng nặng nề hơn khi
cô cùng cha mẹ về thăm Ấn Độ: “Tôi đã trải qua quá nhiều những buổi tối ở khách
sạn trong những thành phố Châu Á, lãng phí thời gian xem ti vi mà tôi không hiểu
đang nói về điều gì… Những lúc ấy mẹ tôi tỏ ra rất buồn phiền” [66].
Jhumpa đã không có tuổi thơ bình thường như bao đứa trẻ người Mỹ khác. Đời
sống tinh thần của cô luôn chịu áp lực từ hai phía: trong gia đình (cha mẹ muốn con
gái là người Ấn Độ) và ngoài xã hội (cộng đồng da trắng buộc cô giống người Mỹ):
“trung thành với quá khứ và hòa nhập vào hiện tại, xem chúng ngang hàng như hai
từ của hai bên dấu gạch nối: Ấn – Mỹ (Indian – American)” [71]. Sau này, Jhumpa
đã giải thích rằng, sở dĩ cô luôn nghĩ mình là người Ấn Độ không phải vì thường
xuyên được đưa về Ấn Độ hay do gen di truyền mà vì sự kiên định của cha mẹ cô.
Họ luôn nói rằng cô không phải là người Mỹ, rằng không có gì khó khăn khi cô cố
gắng vượt qua điều này. Từ những quy định bảo thủ này, Jhumpa chua xót rút ra bài
học: “một cộng một không bằng hai mà bằng không”; “Những xung đột trong bản
thân cô cộng hưởng lại và triệt tiêu lẫn nhau” [71].
Khi Jhumpa Lahiri lớn lên, những ám ảnh này dần dần được xem xét lại bằng
những suy nghĩ chín chắn. Cô vẫn thường trực cái cảm giác mình là người Ấn Độ,
mặc dù không còn bị áp đặt nữa: “Bản thân tôi thường nghĩ về cội nguồn rất nhiều.
Các nhà văn thường có xu hướng đào sâu vào cội rễ cũng như can đảm đương đầu
với những lộn xộn của cuộc sống hiện tại. Tôi đoán và hy vọng các con mình sẽ biết
quan tâm đến tương lai cũng như quá khứ gia đình, đồng thời biết chấp nhận và tôn
trọng những giá trị truyền thống” [58].
Hai tiếng “Ấn Độ” là động lực thôi thúc Jhumpa quay trở về, thực hiện cuộc
hành trình tìm kiếm, khám phá cội nguồn như một sự tri ân sâu sắc: “Tôi cảm ơn Ấn
Độ với sự nỗ lực của cha mẹ tôi. Tôi tin rằng tôi luôn luôn thiếu quyền lực mà hai
con người ấy có được từ Ấn Độ. Nhưng miễn họ còn sống là họ sẽ bảo vệ tôi khỏi
cảm giác như một kẻ mạo danh” [71].
Jhumpa Lahiri đã đi qua mọi nẻo đường Ấn Độ. Cô quan tâm, lo ngại về sự ảnh
hưởng của chủ nghĩa thực dân lên xứ sở này. Nó gợi mối trăn trở về thân phận của
những người da màu khi phải đối diện với người da trắng. Dù là “chủ” (trên quê
hương) hay là “khách” (trên xứ người), người da màu vẫn bị xem là hạ đẳng, nhất
là đối với những dân tộc đã từng chịu sự nô dịch của người da trắng như Ấn Độ:
“Tác động tai hại nhất của thực dân hóa không phải là thuộc địa bị biến thành nô
lệ và đất nước của ông bị khai thác các nguồn tài nguyên, con người và khoáng sản
– mặc dù chỉ việc đó cũng đủ tồi tệ, mà ở chỗ đời sống tinh thần của ông bị thương
tổn đến mức không còn chút tự tin nào và phải gánh chịu phức cảm tự ti sâu sắc mà
ông mang theo thậm chí đến ngày hôm nay khi đã là công dân của một đất nước tự
do. Dù tự do, ông vẫn tin rằng người da trắng là ưu đẳng và đề cao người da trắng
là đương nhiên trong mọi việc, ở mọi nơi” [16, tr. 69]. Jhumpa đã có sự đồng cảm
đối với tất cả người Ấn Độ tha hương từ những cảm nghiệm về chính cuộc đời
mình. Sự liên hệ này phù hợp với quy luật “lá rụng về cội”, “nước chảy về nguồn”
theo quan niệm của người phương Đông. Đây là cơ sở để chúng ta hiểu vì sao
Jhumpa luôn dành tình cảm thiêng liêng đối với vùng đất mà bản thân cô chưa từng
sinh sống.
Tuy nhiên, sự ràng buộc họ hàng với Ấn Độ không đủ làm nên cái gọi là “nhà”
(home) trong tâm thức của nhà văn Mỹ gốc Ấn, Jhumpa giải thích: “Tôi không lớn
lên ở đó và không thuộc về nơi đó. Chúng tôi luôn về thăm nhưng chúng tôi không
có nhà. Chúng tôi đã cố bấu víu vào một thế giới đã không hoàn toàn là của mình”
[68]. Trên thực tế, phần lớn cuộc sống của Jhumpa diễn ra ở Hoa Kỳ. Và tất nhiên,
cô có tình cảm sâu nặng đối với đất nước này – một thiên đường cho những người
nhập cư: “Tôi không sinh ra ở đây nhưng cuộc sống của tôi ở đây”; “Cha mẹ tôi
không bao giờ coi đây là nhà nhưng tôi và chồng tôi coi nước Mỹ chính là quê
hương mình” [58]. Việc nảy sinh tình cảm đối với “nơi ta ở” phù hợp với logic
phát triển tâm lí của các thế hệ con cháu như Jhumpa, khi mà quê hương thứ nhất
chỉ tồn tại bằng sự nhắc nhở của ông bà, cha mẹ.
Nhưng nói như thế không có nghĩa là Jhumpa Lahiri không trăn trở về tư cách
công dân Mỹ của mình. Mặc dù hiến pháp của Hoa Kỳ công nhận quyền bình đẳng
của con người nhưng tư tưởng kì thị của cộng đồng người da trắng đối với người da
màu vẫn tồn tại. Đó là nguyên nhân khiến cho Jhumpa từ trong sâu thẳm tâm hồn
vẫn cảm thấy là “người ngoài cuộc”, luôn băn khoăn đi tìm lời giải đáp cho câu
hỏi: “Ta thuộc về đâu?”.
Mức độ “chiếm hữu” của Ấn Độ và Hoa Kỳ đối với Jhumpa Lahiri là ngang
nhau. Mỗi bên đều có điểm mạnh và điểm yếu riêng và Jhumpa đã biết cách kết hợp
để dung hòa. Bài toán ngày xưa nay được giải bằng một đáp số khác, thay vì “một
cộng một bằng không” thì bây giờ “một cộng một là hai” và “con số hai trong
công việc của tôi và trong sự tồn tại hàng ngày của tôi. Các giá trị truyền thống ở
hai bên dấu gạch ngang ngự trong tôi như anh em ruột, mặc dù đôi khi có sự tranh
chấp” [71].
Con người luôn có nhu cầu khẳng định bản sắc riêng, nhất là khi đứng trước một
đối tượng “khác mình”. Tuy nhiên, nếu họ bị đặt vào tình thế “nước đôi” thì mọi
cố gắng để phân biệt đều vô vọng. Với Jhumpa, bản ngã được cấu thành bởi các yếu
tố truyền thống thuộc hai nền văn hóa khác nhau: Ấn và Mỹ. Điều này đã dẫn đến
một nghịch lí: khi ở Ấn Độ người ta luôn xem cô là người Mỹ còn ở Mỹ, cô được
coi là người Ấn thuần chủng. Vậy thì cô thuộc về nơi nào? Jhumpa đã trả lời câu
hỏi này trong cuộc trao đổi ở Calcutta vào tháng 01 năm 2001 như sau: “Không đất
nước nào là tổ quốc của tôi. Tôi luôn tìm thấy bản ngã của mình trong cảnh tha
hương hay bất cứ nơi nào tôi đã đi qua” [68]. Ý thức về trạng thái “không nhà”
(homelessness) là kết quả của những lần vượt đại dương, những lần thay đổi chỗ ở,
những lúc học tập miệt mài, những khi căng thẳng vì bị phân biệt đối xử. Và đó
chính là “sự mất mát”. Một sự mất mát không thể bù đắp vì chủ thể không còn tư
cách “chính danh” trên bất kỳ lãnh địa nào. Linda Lê (nhà văn người Pháp gốc
Việt) gọi chủ thể ấy là “người vô xứ”. Jhumpa Lahiri cũng đã gián tiếp thừa nhận
rằng cô là một “người vô xứ”.
1.2. Jhumpa Lahiri – nhà văn của những người Ấn Độ tha hương
Jhumpa Lahiri đến với văn chương là một cách để giải phóng bản thân khỏi
tình trạng nhập nhằng khi đứng giữa hai thế giới. Cô cảm thấy mình như một cái
cây được cấy ghép, sống dai dẳng nơi đất lạ. Mọi sự cố gắng của cô là để không bị
xếp vào bất kỳ danh mục nào, để tâm hồn trôi bồng bềnh vô định giữa trời Đông và
trời Tây. Trong một chừng mực nào đó, với Jhumpa, viết là phương pháp tốt nhất để
xoa dịu những cảm xúc nóng rát vì nghịch cảnh, là tìm một chốn bình yên để thỏa
sức bộc lộ mà không cần dè chừng bị tập kích hay bị phản bội. Cô thường nói rằng:
viết văn là lối thoát duy nhất cho tình trạng sống của mình, một kiếp sống có quá
nhiều những điều nan giải, không thể dứt bỏ, không thể lãng quên, không thể làm
ngơ và cũng không thể che giấu – kiếp sống của kẻ tha hương. Vì vậy, những trang
viết cũng chính là hành trình nhà văn tìm kiếm bản ngã của mình, là chuyến “ra
khơi” để “đứng xa và nhìn vào cuộc đời mình”.
Tác phẩm của Jhumpa Lahiri tập trung khai thác cuộc sống của những người
Ấn nhập cư thuộc thế hệ thứ nhất và thứ hai, những người luôn thường trực cái cảm
giác là một người lạ mặt vừa bị thương hại vừa được kính trọng, những người luôn
tìm cách đặt tên cho mình – những cái tên kép, những tên gọi ghép đôi ghép ba
bằng những gạch nối như một nỗ lực tột cùng để khẳng định nhân dạng và bản sắc
đặc thù của mình. Hầu hết họ đều thoát thai từ “bản ngã lưu vong”. Nhà văn
thường viết về những điều anh ta biết, hơn thế, Jhumpa Lahiri viết những điều mà
cô đang sống.
Tập truyện đầu tay, Người dịch bệnh (The Interpreter of Maladies), gồm chín
truyện đem đến cho độc giả những kinh nghiệm vừa quen thuộc vừa xa lạ về người
Ấn Độ, thường là người Bengal sống tại Ấn hoặc đã di cư đến Hoa Kỳ. Tập truyện
đã cung cấp những chi tiết phong phú về đời sống của người Ấn cũng như các giá
trị văn hóa, phong tục của họ.
- Chuyện nhất thời (A temporary matter) kể về đôi vợ chồng người Mỹ gốc
Ấn. Cuộc hôn nhân của hai người đang ở thời kì bế tắc sau cái chết của đứa con
chưa kịp chào đời. Họ nhận được thông báo rằng khu phố sẽ mất điện mỗi đêm.
Việc mất điện, một cái cớ nhất thời lại tạo nên những chuyển biến quan trọng trong
mối quan hệ của họ.
- Khi bác Pirzada đến ăn tối (Mr. Pirzada came to dine) là câu chuyện về mối
quan hệ giữa một gia đình người Bengal và một gia đình người Bangladesh trên đất
Mỹ. Lilia, cô con gái người Mỹ gốc Ấn rất ngạc nhiên vì sự tiếp đãi nồng hậu của
cha mẹ mình dành cho bác Pirzada. Tất cả họ hướng về cuộc xung đột giữa hai dân
tộc và quan trọng hơn là sự an toàn của vợ và con bác Pirzada. Sự có mặt của bác
Pirzada đã để lại nỗi nhớ trong lòng Lilia, khiến em nảy sinh tình cảm với một nơi
xa lạ bên kia bờ đại dương.
- Người dịch bệnh (The Interpreter of Maladies) xoay quanh cuộc gặp gỡ giữa
một hướng dẫn viên du lịch người Ấn Độ với một gia đình người Mỹ gốc Ấn về
thăm quê hương. Cuộc gặp gỡ ấy đã để lại dấu ấn khó phai từ cả hai phía. Gia đình
người Mỹ gốc Ấn cảm thấy vô cùng thú vị về cái nghề “dịch bệnh” của ông Kapasi,
và ngược lại ông Kapasi bị hấp dẫn bởi sự ngây thơ, tự nhiên của người phụ nữ gốc
Ấn đã được Mỹ hóa. Kết thúc câu chuyện, bí mật về đứa con riêng được phơi bày
trong sự nhìn nhận vấn đề theo hai hướng hoàn toàn trái ngược nhau từ phía ông
Kapasi và người phụ nữ ấy.
- Ngôi nhà của cô Sen (Mrs. Sen’s) tái hiện hình ảnh cô Sen – một người phụ
nữ Ấn Độ có tình cảm sâu nặng với quê nhà và không thể nào hòa nhập được với
cuộc sống nơi xứ lạ, nơi chồng cô là giáo sư của trường đại học.
- Người gác cổng chân chính (A real Durwan) kể về Boori Ma, một người dân
tị nạn, mất hết của cải, lìa xa gia đình, xin ngủ dưới chân cầu thang của một chung
cư nghèo nàn và vô tình trở thành người gác cổng. Bà bị đuổi khỏi chung cư sau khi
ở đây xảy ra vụ mất trộm.
- Ngôi nhà được ban phước (The Blessed House) là câu chuyện về đôi vợ
chồng trẻ người Mỹ gốc Ấn đang cố gắng hòa nhập với nhau sau khi dọn đến ngôi
nhà mới chứa đầy những đồ dùng của đạo Thiên chúa.
- Căn bệnh của Bibi Haldar (The treatment of Bibi Haldar) đưa người đọc đến
vùng nông thôn thuộc Calcutta trăn trở cùng với căn bệnh của Bibi Haldar. Bibi
Haldar và tất cả mọi người xung quanh tin rằng căn bệnh ấy sẽ được chữa khỏi sau
khi cô kết hôn.
- Gợi tình (Sexy) kể về cô gái người Mỹ gốc Ấn đem lòng yêu một người đàn
ông Bengal đã có gia đình. Tình cảm chân thành của cô được đáp lại bằng sự bạc
bẽo của người đàn ông ấy.
- Lục địa thứ ba, lục địa cuối cùng (The third and the final continent) là câu
chuyện của một người đàn ông Ấn Độ nhập cư, rời quê hương tìm kiếm tương lai
tươi sáng ở những chân trời xa lạ: ban đầu là ở Anh, sau đó đến Hoa Kỳ. Ông có ấn
tượng đặc biệt với bà chủ nhà trọ tên Croft, đã ngoài 100 tuổi. Bà Croft tỏ ra rất hài
lòng khi gặp vợ ông, một người phụ nữ Ấn dịu dàng trong chiếc áo sari.
Tập truyện Vùng đất lạ (Unaccustomed Earth) có hai phần, phần đầu gồm năm
truyện và phần thứ hai là ba truyện liên hoàn. Chủ đề quyển sách không mới, vẫn là
nỗi buồn lìa xứ, kinh nghiệm chuyển đổi nơi sống khi bỏ quê nhà lại phía sau lưng.
- Nhân vật chính của Vùng đất lạ là Ruma. Cô là luật sư gốc Bengal, đã bỏ
nghề để theo chồng con về sống tại một thành phố xa xôi ở vùng Seattle (thuộc
bang Washington State). Trong thời gian chờ sinh đứa con thứ hai, Ruma sống với
những hồi ức về cuộc đời của mẹ, một cuộc đời chỉ biết đến trách nhiệm chăm nom
con cái và chu tất việc nhà. Cô đau khổ và tuyệt vọng nhận thấy cuộc sống của mình
cũng đang diễn ra như thế. Vì vậy, khi cha cô từ Pennsylvania về thăm, tuy lo sợ về
những xáo trộn có thể xảy ra, nhưng cô vẫn ngỏ lời mời ông về sống cùng gia đình
mình. Cha cô không đồng ý và khuyên Ruma đi làm trở lại. Ông muốn cô có cuộc
sống khác với vợ của ông trước đây. Khoảng cách giữa hai cha con được rút ngắn
thông qua mối liên hệ cảm động giữa cha cô và đứa con trai của cô. Ông dạy nó làm
vườn, trồng cây, nói những điều bâng quơ nhưng đầy ý nghĩa về cuộc đời một
người vô xứ. Kết thúc câu chuyện, ông chào tạm biệt Ruma, tiếp tục cuộc hành trình
của mình để được gặp lại người phụ nữ mà ông quý mến.
- Địa Ngục - Thiên Đường (Hell – Heaven), nhân vật tự sự là một phụ nữ
người Mỹ gốc Bengal đã kể lại niềm đam mê cháy bỏng của mẹ cô khi còn trẻ. Bà
ấy đã dành tất cả nỗi đam mê đó cho anh sinh viên bậc cao học gần nhà. Nhưng
cuối cùng, bà phải hy sinh tất cả vì bổn phận. Sau này, khi thất bại trong tình yêu,
cô buồn bã tự hỏi tại sao trước đây mình không suy nghĩ sâu xa về cuộc đời của me.
- Lựa chọn nơi cư trú (A choice of Accommodations) xoay quanh việc lựa
chọn nơi ở của vợ chồng Amit và Megan. Amit là người Bengal, còn Megan là
người Mỹ. Họ đã gửi bọn trẻ cho bà ngoại trông nom để đi dự lễ cưới của một
người bạn cũ ở Langford. Chuyến đi này đồng thời là kỳ nghỉ ngắn dành riêng cho
hai người, là dịp để cả hai nhìn lại chính mình sau bao năm chung sống.
- Điều tốt đẹp duy nhất (Only goodness) là câu chuyện về một người chị tên
Sudha tìm cách nói chuyện với cha mẹ về đứa em trai nghiện rượu do sống không
hạnh phúc; cô thấy được trách nhiệm của cha mẹ trong những hành vi mù quáng,
không nhìn nhận những ảnh hưởng xấu lây lan trong môi trường sống nơi định cư.
Theo cô, cha mẹ đã nhầm lẫn khi phóng chiếu những kinh nghiệm khổ đau đã trải
qua ở quê cũ để cho rằng con cái sẽ được miễn nhiễm khi tới vùng đất mới.
- Việc không của riêng ai (Nobody’s Business) kể lại mối tình đơn phương của
anh chàng sinh viên cao học người Mỹ đối với người bạn gái chung phòng gốc
Bengal. Cô ấy không dành cho anh nhiều tình cảm và từ chối tất cả những lời cầu
hôn của những chàng độc thân đồng hương để dấn thân vào cuộc tình với một sử
gia gốc Ai Cập ích kỷ, điên khùng.
Ba truyện liên hoàn trong phần hai tập sách Hema và Kaushik (Hema and
Kaushik) kể lại chuyện tình của Hema và Kaushik. Họ biết nhau khi còn nhỏ và
không gặp lại trong một thời gian dài vì gia đình thay đổi chỗ ở. Đến khi trưởng
thành, hai người tình cờ gặp lại và yêu nhau. Nhưng tình yêu ấy không đưa đến một
cuộc hôn nhân mà để lại trong lòng mỗi người nỗi đau không nguôi ngoai.
Truyện thứ nhất có tựa đề Một lần trong đời (Once in a lifetime). Gia đình
Kaushik đang ở Cambridge lại đột ngột quyết định trở vế Ấn Đô. Bảy năm sau, họ
quay lại sống ở Massachusett, việc này khiến cha mẹ Hema hết sức băn khoăn. Khi
đó, Hema 13 tuổi, Kaushik thì 16. Hema và Kaushik thân thiết với nhau khi gia đình
Kaushik đến tạm trú nhà Hema ở Boston, chờ tìm được nhà riêng.
Truyện thứ hai Cuối Năm (Year’s End) kể về cuộc sống của Kaushik sau cái
chết của mẹ. Nỗi nhớ mẹ khiến anh không thể chấp nhận việc cha anh tái giá với
một phụ nữ có hai đứa con riêng và chỉ bằng nửa tuổi của ông. Học xong, để quên
đi quá khứ, anh chọn nghề phóng viên chụp hình, dấn thân vào chiến trường, những
điểm nóng trên thế giới xa tắp ngoài mép địa cầu.
Truyện thứ ba Trôi dạt vào bờ (Going Ashore) kể lại cuộc gặp gỡ giữa Hema
và Kaushik ở Rome. Lúc này, Hema đã là một giáo sư cổ ngữ La tinh ở đại học
Wellesley. Sau cuộc tình tuyệt vọng, cô chấp nhận lấy một người chồng Ấn Độ theo
sự sắp xếp của cha mẹ. Gặp lại Kaushik, kỉ niệm quay về, Hema cuồng nhiệt trong
vòng tay yêu thương của anh. Kaushik yêu Hema nhưng lại không từ bỏ kiếp sống
phiêu bạt. Họ chia tay nhau trong tiếc nuối. Đám cưới Hema vẫn tiến hành theo dự
định và sau đó cô được báo tin rằng có một mẩu cáo phó nhỏ được đăng trên tờ The
New York Times. Trong khi âm thầm để tang cho cái chết của anh, cô cảm nhận
được sự tồn tại mạnh mẽ của một sinh linh bé nhỏ trong cơ thể mình.
Ngoài hai tập truyện ngắn được tóm tắt ở trên, Jhumpa Lahiri còn có một tiểu
thuyết với nhan đề The Namesake (Hoán danh). Tác phẩm kể về một gia đình di dân
trên đất Mỹ. Gogol, nhân vật chính của truyện luôn tỏ ra bất mãn với cái tên mà
người cha đã đặt cho mình. Cậu ghét cái tên, ghét cả Ấn Độ, luôn cố gắng sống sao
cho giống với phong cách của một người Mỹ. Cuối cùng, trải qua bao nhiêu thất bại
trong cuộc sống, qua cái chết của cha, qua những chuyến về thăm Ấn Độ, cậu đau
đớn nhận ra rằng, con người chỉ tồn tại và hạnh phúc khi xác định được mình là ai;
khi dung hoà được những nét văn hóa khác biệt và khi biết trân trọng cả quá khứ lẫn
hiện tại.
Chủ đề trong các tập truyện của Jhumpa Lahiri khá thống nhất: kinh nghiệm
của người Mỹ gốc Ấn (Indian – American) và trong một chừng mực nào đó nó là
kinh nghiệm của chính tác giả. Jhumpa Lahiri đã tự bạch: “Khi lần đầu tiên viết, tôi
không ý thức được rằng chủ đề của tôi là kinh nghiệm của người Mỹ gốc Ấn. Điều
đã thu hút tôi đến với nghề là mong muốn phá bỏ ranh giới giữa hai thế giới tôi đã
cư ngụ, trộn lẫn chúng vào nhau trên trang viết, bù đắp vào những điều tôi không
đủ can đảm làm, hoặc không được phép làm trong cuộc sống” [71]. Đọc truyện
ngắn Jhumpa, độc giả luôn có cảm giác đang sống cùng với cộng đồng người Ấn
với nếp sống, nếp nghĩ hết sức đặc trưng. Có điều, những đặc trưng ấy không còn
mang màu sắc huyền bí, linh thiêng, trầm mặc như thuở nào mà rất đỗi đời thường,
đậm đặc dư vị của thời đại mới.
Trong số các nhà văn gốc Ấn đang sống ở nước ngoài, Jhumpa Lahiri không
phải là người duy nhất viết về đề tài người Ấn nhập cư. Nhưng có thể nói, dưới ngòi
bút “ảo thuật” của Jhumpa, những góc khuất tâm hồn của những người đang trong
tình trạng “lưỡng cư” được mở phơi. Nó cho chúng ta những suy nghiệm quý báu
về quá trình tìm lại, lưu giữ văn hóa bản sắc dân tộc của những người tha hương
trên thế giới chứ không riêng gì Ấn Độ.
Ngôn ngữ mà nhà văn sử dụng để sáng tác cũng là một vấn đề được nhiều người
quan tâm, bởi nó là tín hiệu thể hiện bản sắc văn hóa đặc thù của một dân tộc, như
Kafka (nhà văn gốc Do Thái) từng nói: “ngôn ngữ là tiếng thở vang vang của quê
hương” [52]. Vì vậy, hầu hết các nhà văn lưu vong đều có chung niềm trăn trở khi
quyết định gắn bó với một ngôn ngữ xa lạ không phải là tiếng mẹ đẻ của mình. Họ
cảm thấy mất mát như một kẻ đã đem bán bóng của mình: “Viết trong một ngôn
ngữ không phải là ngôn ngữ của mình đồng nghĩa với việc làm tình với một thây
ma” [52].
Đối với Jhumpa Lahiri, vấn đề ngôn ngữ có vẻ nhẹ nhàng hơn. Tiếng Anh là
ngôn ngữ mà nhà văn lựa chọn để sáng tác. Cô giải thích: “Tôi nói tiếng Bengali với
các con, tuy nhiên tôi thiếu trình độ để dạy chúng đọc hay viết ngôn ngữ ấy” nhưng
“tôi có thể nói và hiểu tiếng Anh đến mức không còn có sự phân biệt như bất kỳ
người Mỹ nào” [71].
1.3. Jhumpa Lahiri – người góp công đưa nền văn học Ấn Độ đương đại ra thế giới
Jhumpa Lahiri được cả hai nền văn học thừa nhận: Văn học Mỹ (nơi định cư)
và văn học Ấn Độ (nguyên quán). Cho nên có thể tiếp cận tác phẩm của nhà văn
này theo hai hướng: Một là, nền văn học Mỹ trong sự tương quan với quá trình hình
thành, phát triển của bộ phận văn học những người nhập cư (Literature of
Immigration) đã có lịch sử trên 100 năm nay trên đất Mỹ; hai là, nền văn học Ấn Độ
trong sự tương quan với quá trình hình thành và phát triển của bộ phận văn học Ấn
Độ viết bằng tiếng Anh (Indian English Literature) được hình thành từ vài thập kỉ
trước khi Ấn Độ giành độc lập. Chúng tôi chọn hướng nghiên cứu thứ hai vì hai lý
do như sau:
Thứ nhất, những trang viết của Jhumpa thấm đẫm chất Ấn Độ.
Thứ hai, Jhumpa Lahiri không phải là nhà văn gốc Ấn duy nhất sống ở nước
ngoài và viết văn bằng tiếng Anh. Bởi, ở Ấn Độ, văn chương tiếng Anh được công
nhận chính thức, tồn tại ngang hàng với các bộ phận văn học viết bằng những ngôn
ngữ bản địa khác. Dòng văn học này sở hữu một lực lượng sáng tác hùng hậu gồm
các văn nhân, thi nhân thông thạo tiếng Anh sống ở Ấn Độ và nước ngoài. Việc xếp
Jhumpa vào đội ngũ này sẽ góp phần quan trọng giúp người viết nắm bắt được
khuynh hướng phát triển mới của văn học Ấn Độ – nền văn học có truyền thống lâu
đời cùng với những đóng góp to lớn của nó trong kho tàng văn học thế giới.
1.3.1. Sự hình thành dòng văn học Ấn viết bằng tiếng Anh
Văn học Ấn Độ viết bằng tiếng Anh (Indian English Literature) có thể tạm gọi
là văn học Ấn – Anh (Indo – Anglian Literature). Đội ngũ nhà văn phân thành hai
nhóm. Một nhóm gồm những người đang sinh sống tại Ấn Độ và sử dụng tiếng Anh
như một ngôn ngữ chính thức bên cạnh các phương ngữ khác. Nhóm còn lại là
những nhà văn gốc Ấn đang sống và làm việc ở nước ngoài (nhiều nhất là ở Anh,
Canada và Hoa Kỳ) vì nhiều lí do khác nhau. So với các nền văn học viết bằng tiếng
Ấn Độ bản xứ như: Hindi, Bengali, Tamil, Assames, Urdu… thì văn học Ấn – Anh
ra đời muộn màng hơn nhiều. Song, nền văn học trẻ tuổi này lại lớn mạnh không
ngừng và đang tạo lập uy tín trên khắp thế giới. Đây được xem là một hiện tượng
đặc biệt trong tiến trình lịch sử trên 3500 năm của văn học Ấn Độ.
Khi tìm hiểu về nền văn học Ấn – Anh, không ít người đã đặt ra câu hỏi: Tại
sao ở Ấn Độ lại tồn tại dòng văn chương viết bằng tiếng Anh, ngôn ngữ của quốc
gia đô hộ Ấn Độ trên 80 năm? Từ khởi thủy, Ấn Độ đã sở hữu một tiềm lực đặc
biệt. Cho nên tất cả đều có thể “khả hữu” đối với xứ sở này, trường hợp vừa nêu
trên cũng không ngoại lệ. Tiềm lực đặc biệt mà chúng tôi đề cập đến là điều mà cố
thủ tướng Nehru và nhà sử học phương Tây Samul Hungtington đã khẳng định:
“Một ước mơ thống nhất nào đó đã thường trực trong tâm trí Ấn Độ kể từ buổi đầu
của nền văn minh. Sự thống nhất đó không phải từ bên ngoài áp đặt vào, không
phải là sự tiêu chuẩn hóa những thứ ngoại lai hoặc thậm chí các niềm tin. Nó là
một cái gì sâu sắc hơn, và trong lòng nó là một đức bao dung rộng lớn nhất về niềm
tin và tập quán, và mọi sự khác biệt đều được chấp nhận, thậm chí được khuyến
khích” [21, tr. 89]. Như vậy, khả năng chấp nhận và thu nạp mọi sự khác biệt theo
cách riêng của mình đã khiến cho mọi thứ thuộc về Ấn Độ đều đa dạng và phức tạp,
kể cả văn chương. Nếu như các dân tộc khác có một nền văn học thống nhất thì ở
Ấn Độ lại tồn tại nhiều nền văn học tương ứng với nhiều ngôn ngữ khác nhau, trong
đó có bộ phận văn học Ấn – Anh.
Văn học Ấn – Anh được hình thành trong quá trình Ấn Độ tiếp xúc với văn
hóa phương Tây, chủ yếu là văn hóa Anh, kể từ khi người Anh có mặt và đặt ách đô
hộ lên xứ sở này (từ 1858 đến 1947). Đây là cuộc tiếp xúc mà giới cầm quyền Anh
không hề mong muốn vì họ sợ ảnh hưởng của nó sẽ làm Ấn Độ thay đổi theo chiều
hướng tiến bộ. Tuy nhiên, bất chấp mưu đồ phản động của giới cầm quyền Anh, văn
hóa phương Tây vẫn vào được xứ Ấn thông qua các nhà giáo dục, Đông phương
học và các nhà truyền giáo người Anh tiến bộ. Quyết tâm của lực lượng này kết hợp
với những người Ấn tràn đầy nhiệt huyết thời bấy giờ đã phần nào làm thất bại âm
mưu của giới cầm quyền Anh. Nền giáo dục Anh được phổ biến và tiếng Anh được
dạy ở một số trường dòng, trường đại học tại Ấn Độ. Trí thức Ấn Độ, đặc biệt là
giới văn nghệ sĩ, say mê trước những điều mới mẻ mà họ khám phá được từ nền
giáo dục Anh. Họ hăng say học tiếng Anh, đọc sách của người Anh, rồi dần dần sử
dụng tiếng Anh để sáng tác văn học. Với sự cố gắng của họ, văn học Ấn Độ được
thức tỉnh và bước vào quá trình hiện đại hóa. Những hình mẫu mới về tư tưởng và
hình thức nghệ thuật phương Tây đã thôi thúc giới cầm bút Ấn Độ thời bấy giờ
mạnh dạn “vứt bỏ sự tự mãn thiển cận đối với cái chính thống, lòng mộ đạo ủy mị
và sự bợ đỡ của quá khứ” [ 7T54] 7Tđể từng bước xây dựng một nền văn học mới, trẻ
trung năng động và hiện đại. Tiếng Anh lúc này không còn là tiếng nói của kẻ xâm
lược nữa mà là tiếng nói của thời đại mới. Việc người Ấn Độ học tiếng Anh, nói
tiếng Anh và viết tiếng Anh được xem như là một biểu hiện của tinh thần đổi mới,
cởi mở, của tư tưởng tiến bộ. Và nếu như chủ nghĩa dân tộc trên thế giới cho phép
tồn tại tiếng Anh của người Mỹ, tiếng Anh của người Úc thì không có gì trở ngại
cho sự xuất hiện tiếng Anh của người Ấn Độ: “Anh văn đã loanh quanh đâu đó ở
Ấn Độ từ nhiều thế kỷ. Người Ấn đã lấy nó làm thành ngôn ngữ của mình, giống
như người Mỹ hay người Úc đã làm” [57].
Như vậy, với sự xuất hiện của các tác phẩm văn chương viết bằng tiếng Anh,
văn học Ấn Độ dễ dàng vượt qua rào cản về ngôn ngữ để đến với độc giả trên toàn
thế giới. Mặc dù được viết bằng tiếng Anh nhưng hầu hết các tác phẩm ấy đều thấm
đẫm chất Ấn Độ, góp phần tạo nên một thứ tiếng Anh mới, sinh động, khác lạ –
tiếng Anh của người Ấn – một trong những ngôn ngữ chính thức được chính phủ
Ấn Độ công nhận và là phương tiện giao tiếp của không dưới 30 triệu cư dân Ấn
Độ.
1.3.2. Jhumpa Lahiri và những đóng góp của dòng văn học Ấn viết
bằng tiếng Anh
Trong tiến trình phát triển của văn học Ấn Độ từ khởi thủy đến hiện đại, mỗi
thời kì đều đạt đ ược những thành tựu đặc sắc được ghi nhận qua từng thể loại và
ngôn ngữ đặc trưng:
Văn học Veda được viết bằng ngôn ngữ Sanskrit, nổi tiếng với hai bộ sử thi
Ramayana, Mahabharata và vở kịch thơ Shakuntala của Kalidasa.
Văn chương trung cổ phát triển trên nền tảng của một số ngôn ngữ bản xứ như:
Telugu, Tamil, Kannada, Malayalam (ở khu vực phía Nam Ấn), Hindi (ở trung và
bắc Ấn), Bengali (ở bắc Ấn)… Nổi tiếng nhất có thể kể đến Goswami Tulsidas –
nhà thơ Hindi vĩ đại thế kỉ XVI.
Giai đoạn cận hiện đại, nhờ tiếp xúc với văn hóa phương Tây, văn học viết
bằng tiếng bản xứ không ngừng lớn mạnh với những đại diện xuất sắc như:
Rabindranath Tagore – nhà thơ đoạt giải Nobel năm 1913 với tập Thơ Dâng viết
bằng tiếng Anh; Prem Chand – ông hoàng tiểu thuyết Hindi; Vivekananda – cha đẻ
của truyện ngắn Urdu; Mirza Asadullad Baig Khan – nhà thơ Urdu vĩ đại thế kỉ
XIX; Muhammad Iqbal – nhà thơ Hồi giáo xuất sắc nhất thế kỉ XX…
Những năm gần đây, văn học Ấn Độ đạt được nhiều thành tựu nổi bật nhờ
những đóng góp tích cực của thế hệ các nhà văn trẻ viết bằng tiếng Anh.
Cuốn sách tiếng Anh đầu tiên
Cuốn sách tiếng Anh đầu tiên được viết bởi Sake Dean Mohamet – một nhà
văn Anh gốc Ấn có nhan đề Những chuyến đi của Mohamet (Travels of Dean
Mohamet) xuất bản năm 1793 tại Anh. Cấu trúc của nó bước đầu chịu ảnh hưởng
của loại hình tiểu thuyết của phương Tây.
Bộ ba Mulk Raj Anand, R.K. Narayan và Raja Rao
Mulk Raj Anand (1905), người sáng lập Hội các nhà văn tiến bộ Ấn Độ, giải
thưởng hòa bình quốc tế 1953, tiểu thuyết và truyện ngắn của ông giàu tính hiện
thực và hướng về đời sống của người lao động cùng khổ. Tiểu thuyết Những kẻ
cùng đinh (1935) được đánh giá là một trong những tác phẩm đánh dấu bước trưởng
thành của thể loại tiểu thuyết.
R.K. Narayan (1906), một nhà văn viết bằng tiếng Anh nổi tiếng của thế kỉ
XX. Tác phẩm của ông tập trung đả kích tầng lớp tiểu tư sản đầu óc hẹp hòi, hãnh
tiến và quan tâm đến đời sống cùng cực của những người nghèo khổ. Swamy và các
bạn (1935) là tiểu thuyết tiêu biểu nhất của ông.
Raja Rao là nhà văn mang tính tiên phong và thành công nhất trong ba người.
Ông được coi là tiểu thuyết gia quan trọng nhất viết bằng tiếng Anh tại Ấn Độ lúc
bấy giờ vì đã thành công trong việc chuyển đổi hình thức của tiểu thuyết phương
Tây, làm cho nó phù hợp với các vấn đề xã hội Ấn Độ. Bốn tác phẩm nổi tiếng của
ông là Kathapura (1938), Con bò của những người trên chiến lũy (1947), Con rắn
hổ mang và sợi dây thừng (1960), Con mèo và Shakespeare (1965)…
Bộ ba Mulk Raj Anand, R.K. Narayan và Raja Rao được coi là những người
đặt nền móng cho mảng văn học Ấn Độ viết bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, tác phẩm
của họ chưa đủ sức tạo nên những dấu ấn độc đáo và ngang tầm R. Tagore hay
Prem Chand.
Các tiểu thuyết gia được giải thưởng Man Booker
Giải Man Booker (Man Booker Prize), tên đầy đủ là Giải thưởng văn học
Man Booker (Man Booker Prize for Fiction), đôi khi còn được gọi tắt là Giải
Booker (Booker Prize) là 2Tgiải thưởng văn học2T được trao hàng năm cho thể loại tiểu
2TKhối Thịnh vượng chung Anh2T hay công dân 2TCộng hòa Ireland2T.
thuyết dài hay nhất viết bằng 2Ttiếng Anh2T. Tác giả của nó là công dân quốc gia thuộc
Năm 1981, nhà văn Anh gốc Ấn Salman Rushdie đã đoạt giải thưởng Booker
danh giá với tác phẩm Midnight’s Children (tạm dịch Những đứa trẻ sinh ra lúc nửa
đêm). Tác phẩm là bức tranh sống động về đất nước Ấn Độ sau ngày giành được
độc lập, với khuynh hướng sáng tác mới: chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Năm 1993,
tiểu thuyết này tiếp tục nhận được giải thưởng Booker of Booker và được tạp chí uy
tín Time liệt kê trong danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh xuất sắc nhất kể từ năm
1923.
Nhà văn Ấn Độ thứ hai được trao tặng giải Booker năm 1997 là Arundhati
Roy với tác phẩm The God of Small Things (Chúa trời của những chuyện vụn vặt).
Đây là quyển tiểu thuyết đầu tay và cũng là tác phẩm duy nhất của nữ nhà văn này.
Tác phẩm mang đậm màu sắc chính trị, biểu lộ những sắc thái thú vị về đời sống
của cộng đồng người Syria Cơ Đốc giáo tại Kerala thông qua thủ pháp đảo lộn trật
tự thời gian. Cuốn sách được các nhà xuất bản mua bản quyền với giá một triệu đô
la Mỹ và cho đến nay tác phẩm đã được dịch ra 27 thứ tiếng.
Giải Booker năm 2006 thuộc về nhà văn Ấn Độ Kiran Desai với tiểu thuyết
The Inheritance of Loss (Di sản của mất mát). Tác phẩm được Hội đồng trao giải
đánh giá cao vì tính nhân bản của nó: “là một tiểu thuyết tuyệt vời thấm đẫm hơi thở
và sự uyên thâm của con người, vừa nhẹ nhàng hài hước vừa phản ánh chính xác
hiện thực chính trị”, “một tiểu thuyết toàn cầu hóa dành cho một thế giới toàn cầu
hóa” [47].
Năm 2008, giải Booker vinh danh tiểu thuyết gia Ấn Độ: Aravind Adiga với
tác phẩm đầu tay White tiger (Cọp trắng). Tác phẩm đã nhận được những lời khen
nồng nhiệt từ giới phê bình cho đến độc giả: “Adiga là một Gorky toàn cầu, một
Kipling hiện đại đã trưởng thành và trưởng thành bạo liệt” [1, tr. 13], “anh bước
vào văn đàn trong bộ chiến giáp và sẵn sàng chinh phục. Chúng ta hãy cúi mình
trước anh ấy” [1, tr. 1].
Cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Ấn Độ
Trong lịch sử văn học Ấn Độ, truyện ngắn xuất hiện ở giai đoạn cận hiện đại,
thường được viết bởi những nhà văn đã nổi tiếng ở một thể loại khác như: Thánh thi
Tagore, Ông hoàng tiểu thuyết Prem Chand, bộ ba Mulk Raj Anand, R.K. Narayan
và Raja Rao…Số lượng truyện thành công của những tác giả này thật sự không
nhiều. Do đó, truyện ngắn Ấn Độ ít được độc giả trên thế giới biết đến. Trong
những năm gần đây, có một nhà văn đã làm thay đổi số phận truyện ngắn Ấn Độ.
Nhà văn mà chúng tôi muốn nói đến chính là Jhumpa Lahiri.
Jhumpa Lahiri không phải là nhà văn đương đại duy nhất viết truyện ngắn.
Bên cạnh cô còn có một số tên tuổi khác như: Vikram Chandra, Chitra Banerjee
Divakaruni, Farrukh Dhondy… Trong số họ, cùng viết về đề tài di cư có nữ nhà văn
Chitra Banerjee Divakaruni. Divakaruni cũng là nhà văn Mỹ gốc Ấn. Cô có một tập
truyện ngắn gồm 11 truyện với nhan đề Arranged Marriage (tập truyện đạt giải
American Book Award in 1995) tập trung thể hiện hình ảnh người phụ nữ đến từ
Ấn Độ và bị kẹp giữa hai thế giới. Divakaruni còn là một nhà thơ. Do đó, truyện của
cô giàu nhịp điệu. Nhịp điệu kết hợp với yếu tố siêu thực tạo sức quyến rũ cho
truyện của Divakaruni.
Khác với Divakaruni, Jhumpa Lahiri chủ yếu dồn tâm lực vào thể loại truyện
ngắn. Truyện của cô nhẹ nhàng, tĩnh lặng thuộc lối viết của thế kỉ XIX, không mua
chuộc người đọc bằng ngôn ngữ lắc léo hay cốt truyện quanh co mà bằng lối văn
cực kỳ tinh tế, sự diễn giải tế nhị những hoạt động phức tạp của trái tim. Nó đưa
người đọc bước vào thế giới của những người nhập cư Ấn Độ, thế giới của: “chị em
gái, anh, em trai, cha mẹ, con gái, con trai, bạn bè và tình nhân” để cùng san sẻ với
họ những vui sướng, khổ đau trong cuộc sống đầy phức tạp này. Với hai tập truyện
ngắn Người dịch bệnh và Vùng đất lạ, Jhumpa Lahiri trở thành nhà văn Ấn Độ đầu
tiên giành được những giải thưởng danh giá của thế giới ở thể loại truyện ngắn: giải
Pulitzer năm 2002, giải O.Henry, giải Pen/Hemingway, giải Frank O’Connor (giải
thưởng cao nhất dành cho thể loại truyện ngắn) năm 2008. Cô được xem là người
tiên phong tạo nên bước ngoặt đối với sự phát triển của nền văn học trẻ, là người đã
góp phần đưa văn học Ấn Độ đến với độc giả toàn cầu.
Chương hai : HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT DI CƯ TRONG TRUYỆN NGẮN JHUMPA LAHIRI 2.1. Vấn đề di cư
2.1.1. Khái niệm di cư
Khái niệm di cư có mối quan hệ nghĩa với một số từ: di cư, di trú (migtate),
nhập cư (immigrate), tị nạn (refuge), lưu vong (diaspora/exile). Về cơ bản, các khái
niệm vừa nêu đều thể hiện chung nội dung: sự di chuyển chỗ ở, có khác chăng chỉ là
ở cách thức di chuyển và sắc thái biểu cảm mà thôi. “Di trú”, “di cư”, “nhập cư”
đều chỉ hành động đến ở một miền hay một nước khác để sinh sống (trong đó từ
nhập cư nói trong quan hệ với nơi đến). Những từ này mang ý nghĩa khái quát và
trung hòa về sắc thái biểu cảm. Trong khi đó, “tị nạn” và “lưu vong” là hai từ mang
đậm sắc thái biểu cảm, chỉ tình trạng sống xa hẳn quê hương do nghèo đói, chiến
tranh hoặc do không có điều kiện và cơ sở để sống và hoạt động trong nước.
Trong suốt quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đồng thời sử dụng các từ
ngữ trên theo nghĩa chung nhất nhằm tránh lặp từ, không có chủ ý xác định sự khác
2.1.2. Vấn đề di cư trong lịch sử nhân loại
biệt của các khái niệm.
Có thể nói, di cư là một hiện tượng tự nhiên và thậm chí là một trong những
cách thức tồn tại của loài người từ thời nguyên thủy. Trong lịch sử nhân loại, di cư
khởi sự từ khi loài người biết giành đất và lấn đất của nhau khiến cả một tập thể
phải rời bỏ quê cha đất tổ của mình để trôi dạt đến những miền đất khác. Di cư vì
vậy không phải là một hay một số hiện tượng cá biệt gắn liền với một cộng
đồng nào nhất định mà là một hiện tượng phổ quát diễn ra trên toàn cầu.
Theo sự ghi nhận của Samuel Hungtington trong cuốn Sự va chạm của các nền
văn minh thì trong các thế kỷ trước đây, sự khác nhau về tốc độ tăng trưởng, điều
kiện kinh tế và chính sách của chính phủ đã tạo ra những cuộc di dân lớn của các bộ
lạc người Hy Lạp, Do Thái, Đức, Na Uy, Thổ, Nga, Trung Quốc và các dân tộc
khác. Tuy nhiên, khoảng thời gian từ thế kỷ XV đầu thế kỷ XX, làn sóng di dân
mạnh mẽ nhất thuộc về những người châu Âu. Sau thành công của những cuộc phát
kiến địa lý, họ đã thực hiện những cuộc di dân với quy mô lớn đến các miền đất
châu Á, châu Mỹ và châu Úc.
Làn sóng di dân sang châu Mỹ của người châu Âu được xem là mạnh mẽ nhất.
Nó được thực hiện trước tiên bởi người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Đấy là đội
quân xâm lược và các quan chức được phái đến vùng đất mới, các nhà kinh doanh
buôn bán ồ ạt đổ đến làm ăn, tranh giành thị trường, dân di thực kéo nhau đến khai
phá đất đai lập nghiệp, các giáo sĩ thực hiện “mở rộng nước Chúa” đến các thuộc
địa… Tiếp sau đó, di dân từ Anh, Pháp cũng kéo đến Bắc Mỹ. Đến đầu thế kỷ
XVII, Bắc Mỹ trở thành thuộc địa của Anh với số dân khoảng 1,3 triệu người.
Ngoài ra, trong những luồng di dân của người châu Âu còn có sự hiện diện của
những người da đen Phi châu. Họ sinh sống ở Tây và Trung Phi, bị bắt làm nô lệ và
bị đem đến Bắc Mỹ từ năm 1609 đến 1807 suốt trong thời kỳ buôn bán nô lệ xuyên
Đại Tây Dương. Và tất nhiên, di dân trở thành động cơ lịch sử thúc đẩy sự thành lập
quốc gia cũng như tạo ra bản sắc đặc thù cho các quốc gia thuộc châu lục mới này.
Một điều dễ nhận thấy là những cuộc di dân của người châu Âu chủ yếu diễn
ra dưới hình thức những cuộc chạy đua xâm lược. Họ đã chinh phục và có những
lúc xóa sổ các dân tộc khác, khai phá và tạo dựng những miền dân cư ít dày đặc
hơn. Sự xuất khẩu người này có lẽ là một đường hướng quan trọng nhất trong sự nổi
lên của phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XX.
Cuối thế kỷ XX, nhân loại đã chứng kiến một làn sóng nhập cư khác và thậm
chí còn lớn hơn diễn ra theo chiều hướng ngược lại. Năm 1990, số lượng dân nhập
cư hợp pháp trên thế giới đã lên tới 100 triệu người, số dân tị nạn là 19 triệu và dân
nhập cư bất hợp pháp cũng ít nhất là 10 triệu người. Phần lớn dân nhập cư và tị nạn
cuối thế kỷ XX đều chuyển từ một xã hội ngoài phương Tây sang một xã hội khác.
Mỹ vẫn là nước đứng đầu về số người nhập cư với 42,8 triệu người trong năm 2010,
chiếm khoảng 20% số người nhập cư trên toàn thế giới. Tiếp đến là một số quốc gia
khác như: Nga, Đức, Arập Xêút, Canada, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Ấn Độ và
Ucraina.
Dân nhập cư có mức độ sinh đẻ cao và do đó sẽ chiếm phần lớn sự tăng trưởng
dân số trong tương lai ở các xã hội phương Tây. Kết quả là, người phương Tây lo sợ
rằng họ ngày nay đang bị xâm chiếm không phải bởi xe tăng và quân đội mà là bởi
những người nhập cư, những người nói ngôn ngữ khác, thờ cúng các vị thần khác,
thuộc về các nền văn hóa khác và họ sợ rằng những người đó sẽ lấy mất công việc
của họ, chiếm đất của họ, sử dụng hệ thống phúc lợi và đe dọa phong cách sống của
họ.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, thời đại của chúng ta ngày nay là thời đại di
dân. Càng ngày càng có nhiều người sống với thân phận công dân toàn cầu. Theo
đó, tính chất giải lãnh thổ hóa (giải lãnh thổ là “sự đánh mất mối quan hệ tự nhiên
giữa văn hoá và lãnh thổ địa lý cũng như xã hội, văn hóa không nhất thiết gắn liền
với một vùng đất nhất định nào” [55]) trở nên phổ biến trong văn học, biên giới văn
chương bị xóa mờ: “vượt qua tất cả những biên giới như quyền lực, quốc gia,
chủng tộc, ý thức hệ, bản sắc dân tộc, tôn giáo, xã hội, chính trị v.v… để mọi người
bất kỳ từ một lãnh thổ nào, từ một xã hội nào, nhất là những xã hội còn bị quyền lực
2.1.3. Vấn đề di cư của người Ấn Độ
áp chế, từ một nền văn hóa riêng nào... đều có thể đến họp mặt” [43].
Ấn Độ vốn có lịch sử lâu đời về di cư. Ngay từ thời cổ đại, cư dân của nền văn
minh sông Ấn – người Dravidia – đã di chuyển về phía nam do sự xâm lấn của
người Aryan. Xét đến cùng, người Aryan không thuần túy là những kẻ xâm lược mà
chỉ là dân di trú. Họ thuộc các bộ tộc Ấn – Âu (Indo-European) từ Trung Á, Iran,
Scandinavia hoặc Nga vào miền Bắc Ấn vào năm 2000 trước CN: “Họ còn thô lỗ
quá, không biết giả nhân giả nghĩa tuyên bố rằng cai trị Ấn Độ để khai hóa. Họ chỉ
muốn chiếm được đất cày, nhiều đồng cỏ cho bò, ngựa, và khi ra trận họ hò hét
không phải để đề cao tinh thần dân tộc, quốc gia gì cả, mà chỉ để hô hào nhau
chiếm cho được nhiều bò” [10, tr. 38].
Tiếp theo sự xâm nhập của người Aryan, Ấn Độ tiếp tục chứng kiến sự có mặt
của người Ba Tư (VI trước CN), Hy Lạp (IV trước CN), Ả Rập (711), Thổ Nhĩ Kỳ
(1206), Mông Cổ (1526), Anh (1858). Đây có thể xem là những cuộc di cư từ bên
ngoài vào Ấn Độ. Những cuộc di cư này một mặt làm cho xã hội Ấn Độ ngày càng
đa dạng và phức tạp, mặt khác tạo nên những cuộc di dân lớn trong lịch sử Ấn Độ.
Làn sóng di dân thứ nhất diễn ra trên tiểu lục địa Ấn Độ khi Pakistan tuyên bố độc
lập. Những người theo đạo Hindu và Sikh từ Pakistan về Ấn Độ và những người
theo đạo Hồi từ Ấn Độ kéo sang Pakistan. Nó gây ra những cuộc tàn sát đẫm máu.
Làn sóng di dân thứ hai hướng đến các nước Âu – Mỹ. Từ những năm 60, nhiều
người Ấn đã chấp nhận rời bỏ quê hương để đi tìm tương lai tươi sáng ở các nước
có nền kinh tế phát triển như Anh và Hoa Kỳ. Đa số họ ra đi vì nhận thấy rằng Âu –
Mỹ gắn liền với “triển vọng” còn Ấn Độ hiện tại là “vực thẳm”. Điểm đến đầu tiên
của nhiều người Ấn Độ là Anh quốc. Họ nhập cư với tư cách “cựu thuộc địa” vào
“cựu mẫu quốc”. Đất nước thứ hai có sức thu hút mạnh mẽ đối với đông đảo người
Ấn Độ là Hoa Kỳ. 0TTheo bản phúc trình mới nhất We The People: Asian in The
United States đăng tải trên Nhật Báo Los Angeles Times0T, người nhập cư gốc Ấn
đến Hoa Kỳ nhiều hơn bất kỳ cộng đồng nào khác từ năm 2000 đến 2005. Năm
2000 có khoảng 1,7 triệu người mang quốc tịch Mỹ, đến năm 2005 con số này là 2,3
triệu người. Đây là cộng đồng đã xuất hiện trên bảng thống kê Hoa Kỳ như một
cộng đồng thành công nhất trong số những cộng đồng thiểu số gốc châu Á.
Có thể nói, di cư là một trong những yếu tố tác động lớn đến sự phát triển của
xã hội Ấn Độ. Nếu như trước đây, với tư cách là điểm đến của các dân tộc từ bên
ngoài, Ấn Độ đã hình thành cho mình một nền văn học hướng nội đa dạng, mang
đậm màu sắc linh thiêng, huyền bí thì trong thời gian gần đây, với tư cách ngược
lại, Ấn Độ đã góp phần cùng với các dân tộc khác tạo nên một hiện tượng văn học
độc đáo: văn chương di dân.
2.2. Nhân vật di cư trong văn chương di dân
Trên văn đàn thế giới, văn chương di dân đã xuất hiện ở Âu – Mỹ từ trên 100
năm nay, đồng hành cùng những cung bậc cảm xúc, khát vọng, trăn trở của các nhà
văn sống lưu vong ở nước ngoài. Trong thế lưỡng cư, tất cả họ (các nhà văn lưu
vong) dồn đẩy những trải nghiệm xương máu của mình thăng hoa thành tác phẩm
với các nhân vật mang hình hài vóc dáng của bản thân, của các thành viên trong
cộng đồng lưu vong. Trong bối cảnh ấy, kiểu nhân vật người di cư được hình
thành và ngày càng chiếm giữ vai trò trung tâm của văn học đương đại:
“Trong thế kỷ lang thang như thế kỷ chúng ta đang sống, chính những người
di dân hay lưu vong mới là những hình ảnh trung tâm trong sinh hoạt văn học: kinh
nghiệm bị đứt lìa với gốc rễ, với mọi người chung quanh và phải hóa thân thành
một cái khác của họ là những ẩn dụ hữu ích nhất để mô tả tính chất lẫn lộn và đầy
mâu thuẫn của thế giới hậu hiện đại” [56].
Kiểu nhân vật người di cư có những đặc điểm độc đáo:
“Một trong những nét độc đáo của văn chương di dân là nhân vật không còn
mang bản chất thuần nhất về chủng tộc hay văn hóa mà là những con người đi lại
giữa những biên giới chủng tộc, văn hóa. Quan niệm mới này nhằm xóa bỏ quan
niệm tôn giáo triết lý trong triết học cổ điển cho rằng con người có một bản chất,
và quan niệm triết lý hiện sinh của Sartre cho rằng sự hiện hữu có trước yếu tính.
Văn chương vô xứ đưa ra chân dung nhân vật đi trên lộ trình biến động không
ngừng nghỉ giữa hai cực tôi và hắn. Khuôn mặt ấy không là một thực thể được đúc
đầy mà là một thực thể càng ngày càng hao mòn cạn kiệt” [44].
Trên thực tế, văn chương di dân không chỉ tồn tại giới hạn ở xứ Âu – Mỹ mà hầu
như ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Nên, việc đưa ra một bản tổng kết về quá
trình hình thành và phát triển của văn học di dân, về kiểu nhân vật người di cư là
một điều khó đạt được. Trong phần tiểu mục này, chúng tôi chỉ trình bày những
hiểu biết của mình về kiểu nhân vật người di cư trong tác phẩm của các nhà văn di
dân có tên tuổi ở Hoa Kỳ – đất nước điển hình cho nền văn hóa văn học đa chủng
tộc.
Văn chương di dân của người Mỹ gốc Phi
Văn chương di dân ở Mỹ được mở đường bằng những đóng góp tích cực của
người Mỹ Da Đen. Từ thế kỷ XVIII đã xuất hiện nhà văn người Mỹ gốc Phi viết
những tác phẩm thể hiện nỗi khắc khoải nô lệ của chính bản thân mình và của đồng
bào mình như: Olaudah, Jupiter Hammon, Harriet Jacob (1818-1896), Harriet
Wilson (1807-1870), Booker T. Washington (1856-1915), Dubois (1868-1963),
Ralph W.Ellíon (1914-1994), Toni Morrison (1931)… Màu da và tiếng nói đầy bi
thương của họ đã làm cho văn học Mỹ đậm đà hơn và nhân bản hơn.
Văn chương di dân của người Mỹ gốc Latinh
Sự xuất hiện của những tác giả gốc Nam Mỹ cũng góp phần làm phong phú
nền văn học Mỹ. Nhà văn Mỹ gốc Cuba: Oscar Hijuelos đoạt giải Pulitzer với cuốn
The Mambo Kings Play Songs of Love (Các ông vua Mambo chơi nhạc tình yêu –
1989). Tiểu thuyết của ông tập trung khám phá cuộc sống của các gia đình di dân
Cuba tại Mỹ trong những năm 1940 với tâm trạng hoang mang vì không tìm thấy
cuộc sống và tính cách của riêng mình. Nhà văn người Mỹ gốc Mexico: Sandra
Cisneros, qua việc tiếp cận và tìm hiểu di sản Chicana-Mexico, cô viết về những
xung đột liên quan đến sự phân chia “lòng trung thành văn hóa”, cảm giác tha hóa
và sự nghèo đói của những di dân Mexico ở Mỹ. So với các dân tộc khác, ý thức
chống đối đồng hóa với vùng đất mới của họ diễn ra mạnh mẽ hơn rất nhiều.
Văn chương di dân của người Mỹ gốc Do Thái
Các nhà văn người Mỹ gốc Do Thái đem đến cho văn học Mỹ những hình
tượng nhân vật ấn tượng. Hơn bất cứ dân tộc nào, người Do Thái phải chịu đựng
một lịch sử bị đàn áp và thảm sát trên nhiều vùng đất khác nhau. Họ phải rời quê
hương và tản mác khắp nơi mang theo nỗi đau nhức nhối và khát vọng hồi hương
mãnh liệt. Vì vậy, viết văn đối với các nhà văn gốc Do Thái không chỉ để giữ gìn sự
nhạy bén và sâu sắc của tâm hồn hay để khám phá hiện hữu mà còn để chống lại sự
diệt vong của người Do Thái và ngôn ngữ của họ. Isaac Bashevis Singer là nhà văn
điển hình cho tư tưởng đó. Định cư ở Mỹ nhưng ông viết văn bằng tiếng Yiddish
(ngôn ngữ của người Do Thái ở Trung và Đông Âu) và được trao giải Nobel văn
chương năm 1978. Nhân vật chính trong các tác phẩm của ông là người Do Thái
sống lưu đày trong trạng thái gần như điên loạn. Đó là nhân vật Jacob trong tiểu
thuyết Người nô lệ, vì không muốn quên tiếng Yiddish nên nói liên tục như một
người điên. Tác giả 3TSaul Bellow cũng có cách xây dựng nhân vật tương tự như vậy.
Nhân vật chính của ông luôn luôn ở trong tâm trạng bất ổn giống như các nhân vật
của Dostoyevsky hay Kafka. Như vậy, có thể nói rằng kiểu nhân vật tâm thần trở
thành nét riêng của các nhà văn gốc Do Thái.
Văn chương di dân của người Mỹ gốc Châu Á
Đại diện cho mảng văn chương này là các nhà văn gốc Hoa và gốc Ấn, tiêu
biểu như: Tần Ái Mỹ (Trung Quốc), Cao Hành Kiện (Trung Quốc – Nobel văn
chương năm 2000), Hà Tân (Trung Quốc – giải National Book và Pen/Hemingway),
Kiran Desai (Ấn Độ – giải Man Booker), Jhumpa Lahiri (Ấn Độ – giải Pulitzer và
giải O’Connor)…
Chủ đề trong tác phẩm của các nhà văn gốc Hoa tập trung phản ánh cuộc sống
tầng lớp lao động nhập cư người Hoa ở Mỹ, xa lạ giữa những người lạ, được tái
sinh nhưng không tan chảy và luôn luôn cố gắng để hòa nhập. Cộng đồng người
Hoa nhập cư có khả năng sinh tồn cao nhất thế giới bởi trong bất cứ hoàn cảnh nào
truyền thống văn hóa, tiếng mẹ đẻ luôn là cứu cánh của họ.
Các nhà văn di dân Ấn Độ cũng tập trung khai thác chính cuộc sống của họ
trong cuộc đấu tranh vừa bảo tồn những di sản của dân tộc vừa hòa nhập với cuộc
sống ở xứ xa. Đặc trưng văn hóa Ấn Độ thể hiện trong cách nhận thức về thân phận
khi họ đối diện với người da trắng. Phức cảm tự ti luôn đeo bám họ và trở thành
nguyên nhân của thái độ sống bảo thủ, của những bi kịch số phận.
Tóm lại, mặc dù được xem là dòng văn học nhỏ/phụ (minor literature) (chữ
dùng của Kafka), tồn tại với tư cách ngoại vi, song, văn học di dân đang từng bước
chiếm giữ vị trí trung tâm trong nền văn học Mỹ nói riêng và văn đàn thế giới nói
chung vì sự tương hợp của nó với xu hướng toàn cầu hóa. Và kiểu nhân vật di cư trở
thành hình mẫu của con người hậu hiện đại, luôn luôn hiện hữu với tâm thế lưu
vong: “không còn tự đồng nhất mình với bất cứ một niềm tin hay một ý thức hệ nào,
hơn nữa, sẵn sàng chấp nhận sống trong một thế giới đa trung tâm, lai ghép và bất
định, ở đó, mọi ranh giới và biên giới đều bị xoá nhoà” [56].
2.3. Hình tượng nhân vật di cư trong truyện ngắn Jhumpa Lahiri
2.3.1. Nhân vật di cư – thế hệ thứ nhất
Thế hệ thứ nhất là những người đã được sinh ra và trưởng thành ở Ấn Độ, sau
vì hoàn cảnh: học tập, việc làm (đối với người đàn ông); theo chồng (đối với người
phụ nữ) chuyển đến định cư ở các nước Âu – Mỹ. Ra đi khi bản sắc đã được xác lập
và hoàn thiện, quá trình hội nhập trên xứ tạm dung của thế hệ thứ nhất diễn ra khó
khăn và phức tạp. Không ở vào hoàn cảnh ấy nhưng Jhumpa Lahiri thấu hiểu như
thể cô đã trực tiếp trải nghiệm nó. Truyện của cô là những khoắc khoải rung lên
2.3.1.1. Giấc mơ Mỹ (American Dream)
những giai điệu cuộc đời của thế hệ thứ nhất.
Giấc mơ Mỹ là khái niệm lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà văn James
Truslow Adams trong cuốn Thiên hùng ca Mỹ (The Epic of America) xuất bản năm
1913: “Giấc mơ Mỹ là giấc mơ của một vùng đất ở đó cuộc sống đáng tốt đẹp hơn,
giàu có hơn và đầy đủ hơn cho mọi người. Ở đó mỗi người có cơ hội theo khả năng
2Tchâu Âu2T diễn giải đầy đủ, và cũng thật khó khăn cho tất cả chính chúng ta, những
hoặc thành tựu của mình. Đấy là một giấc mơ khó khăn cho tầng lớp thượng lưu
người càng ngày ngờ vực và không tin tưởng vào nó. Nó không phải là một giấc mơ
về các loại xe hơi hay đơn thuần là tiền lương cao, nhưng là một giấc mơ về trật tự
xã hội mà trong đó mọi đàn ông và đàn bà sẽ có thể đạt được tầm vóc đầy đủ cái
khả năng bẩm sinh của mình, và được những người khác công nhận họ vì những gì
của chính họ, không phân biệt môi trường hoàn cảnh sinh ra hay địa vị ngẫu nhiên
của họ” [50].
Với các nhân vật trong hai tập truyện của Jhumpa, Giấc mơ Mỹ thể hiện
khát vọng đổi đời của những người trí thức Ấn Độ. Khi nhận thấy hoàn cảnh bất
ổn ở quê nhà “đứng trên mái nhà chứng kiến những cuộc biểu tình, nổi loạn, hay
giấu hàng xóm trong bể nước để họ không bị bắn” [17, tr. 45]; điều kiện học tập
hạn chế “học bài dưới đèn dầu khi mất điện, áp lực, các kỳ thi triền miên” [17, tr.
45]; cơ hội tìm việc làm phù hợp với năng lực xa vời, cơ hội làm giàu càng khó thực
hiện, họ đã rời bỏ Ấn Độ để tiến về hướng Tây, quyết chí lập thân ở nước ngoài.
Các nhân vật bắt đầu cuộc hành trình hiện thực hóa Giấc mơ Mỹ của mình từ
con số không: không nhà cửa, không bạc tiền, không người thân thích… Họ phải trú
thân ở những nơi rẻ tiền: “buồng vệ sinh lạnh lẽo” [17, tr. 250], “căn bếp bé tí tẹo
có thể ám mùi bất cứ món gì được nấu, phòng ngủ ảm đạm, ánh sáng ban ngày
chẳng thể nào xuyên qua được” [18, tr. 36]. Đây là sự đón tiếp đầy cam go của
miền đất hứa đối với hầu hết dân di cư, rèn đúc cho họ: “tinh thần của người được
sống sót” [18, tr. 82], “chẳng có chướng ngại vật nào là không thể vượt qua” [17,
tr. 286]. Chấp nhận thử thách là phương sách tồn tại của những người di cư. Song
song đó, họ miệt mài học tập, nghiên cứu để sở hữu trong tay những tấm bằng: bằng
Tiến sĩ ngành Sinh hóa, bác sĩ, kỹ sư… và tìm cho mình việc làm với mức thu nhập
cao. Jhumpa Lahiri miêu tả sự thành công của họ trên nhiều phương diện khác
nhau: công việc, nhà cửa, con cái… Sanjeev (Ngôi nhà được ban phước) làm việc
cho Connecticut với chức vụ phó giám đốc: “Ở tuổi ba mươi ba anh đã có thư ký
riêng, có một tá người làm việc dưới quyền, những người luôn vui vẻ cung cấp cho
anh bất cứ thông tin nào anh cần” [17, tr. 196]. Trước khi kết hôn anh tìm được
một ngôi nhà ưng ý ở một nơi có hệ thống trường học tốt: “Ngôi nhà với cầu thang
uốn cong trang nhã, lan can bằng sắt, ván ốp chân tường màu tối, một nhà tắm
nắng nhìn ra những bụi đỗ quyên, có hai lò sưởi, một gara chứa đủ hai xe ô tô và
một phòng áp mái” [17, tr. 208]. Nhân vật Tôi (Lục địa thứ ba, lục địa cuối cùng)
làm việc ở thư viện của Học viện công nghệ Massachusetts: “với mức lương hậu
hĩnh đủ chu cấp cho một gia đình” [17, tr. 251]. Ngôi nhà của ông cách Boston 20
dặm: “trong ngôi nhà của chúng tôi, có phòng cho khách, có mảnh vườn cho chúng
tôi trồng khoai tây. Giờ đây chúng tôi là công dân Mỹ có thể có phúc lợi xã hội.
Chúng tôi có cậu con trai học trường Harvard” [17, tr. 284]. Cha Ruma (Vùng đất
lạ) làm việc ở công ty Dược phẩm. Ông sống cùng vợ và hai con trong: “ngôi nhà
lớn mà ông đã mua ở khu ngoại ô có những cây liễu trong sân sau, có phòng riêng
cho mỗi đứa con và một tầng hầm chất đầy các món đồ chơi của chúng” [18, tr. 36].
Cha Usha (Địa ngục – thiên đường) làm việc như một chuyên viên nghiên cứu tại
Mass Genneral. Cả gia đình ông sống trong: “một căn hộ nằm trong khu nhà ốp ván
màu nâu ở Ashburton Place” [18, tr. 77].
Việc đạt thành Giấc mơ Mỹ của thế hệ thứ nhất đã khẳng định sức mạnh và
vai trò của giáo dục đối với quá trình lập thân của những người di cư. Phải
chăng đây chính là kinh nghiệm mà Jhumpa muốn chia sẻ với những ai đang sống
trong tình trạng không nhà, đang loay hoay tìm đường đến cổng mặt trời của miền
đất hứa?
Cuộc hành trình biến ước ước mơ thành hiện thực của những người Ấn Độ di
cư luôn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thử thách. Và thành công không phải là
kết quả duy nhất. Có không ít trường hợp đã thất bại. Một vài người trong số đó,
quyết định trở lại quê hương: Cha mẹ Amit (Lựa chọn nơi cư trú) quyết định quay
về Ấn Độ vì cho rằng con trai họ không phát triển được ở trường Y Khoa Harvard;
cha mẹ Kaushik (Một lần trong đời) sau 12 năm bám trụ trên đất Mỹ cũng quyết
định dọn mọi thứ quay trở về Ấn Độ, từ bỏ cuộc đấu tranh mà họ đã lao vào. Số
khác thì sống bên lề nước Mỹ, đối diện với một cái án chung thân vì là người nước
ngoài. Thất bại ở cả hai nơi khiến cho cuộc sống của họ rơi vào bế tắc không lối
thoát. Họ phiêu bạt khắp nơi để mong tìm ra một trú xứ cho mình.
Bên cạnh việc thực hiện Giấc mơ Mỹ cho chính mình, các bậc cha mẹ Ấn Độ
còn thực hiện giấc mơ ấy cho con cái. Họ sắp đặt đường tiến thân cho con: chọn
trường học danh tiếng, chọn ngành học có nhiều cơ hội và không chấp nhận bất cứ
sự lệch hướng nào, để yên tâm rằng con cái có thể làm rạng danh cho cha mẹ. Cha
Ruma (Vùng đất lạ) thích con gái học ngành sinh vật hơn lịch sử nên đã hết lời
thuyết phục con gái và né tránh các khoản chi phí của cô ở trường luật. Cha mẹ
Amit (Lựa chọn nơi cư trú) đã thu xếp chuyện trường lớp cho anh mà không cần
biết anh có đồng ý hay không. Còn cha mẹ Sudha (Điều tốt đẹp duy nhất) cũng ra
sức sắp đặt việc học hành của con cái: “Khi Sudha 14 tuổi, cha cô đã viết cho
trường Y khoa Harvard, yêu cầu gởi cho ông một đơn xin nhập học và đặt nó lên
bàn cô” [18, tr. 161]. Bằng cách này, các bậc cha mẹ nuôi hy vọng có thể xây đắp
một bức tường thành truyền thống vững chắc để con cái mình tựa vào mà tiến thẳng
vào xã hội Mỹ, miễn trừ khỏi những cực khổ và bất công mà họ đã để lại phía sau
Ấn Độ. Đây là vấn đề có tính hai mặt mà biểu hiện của nó là sự thành tài hoặc hư
hỏng của thế hệ con cái.
2.3.1.2. Hôn nhân sắp đặt (arranged marriage)
Hôn nhân do cha mẹ sắp đặt là phong tục truyền thống của Ấn Độ. Khi con cái
đến tuổi lập gia đình, các bậc cha mẹ tiến hành thu xếp hôn nhân. Hiện tượng này
được phản ánh khá rõ nét trong truyện ngắn Jhumpa Lahiri. Mỗi cuộc hôn nhân có
một kiểu dáng riêng, nhưng cơ bản đều là những cuộc hôn nhân không có tình
yêu, nền tảng của nó là những quy định về bổn phận đã tồn tại ở Ấn Độ suốt
mấy nghìn năm qua.
Nhân vật xưng tôi (Lục địa thứ ba, lục địa cuối cùng) chấp nhận một cuộc hôn
nhân do anh trai và chị dâu sắp đặt ở tuổi ba mươi sáu với thái độ: “không phản đối
mà cũng chẳng nhiệt tình”, xem đây là “nghĩa vụ phải làm, cũng như tất cả người
đàn ông phải làm” [17, tr. 262]. Vì vậy, ông tiếp nhận những thông tin về người
bạn đời một cách hờ hững, không tỏ ra vui mừng khi người ta bảo cô có tài nấu
nướng, thêu thùa, hay thất vọng khi biết cô không được khả ái cho lắm. Đối với
ông, tất cả đã được sắp đặt đâu vào đấy, ông cứ theo đó mà thực hiện.
Cha Ruma (Vùng đất lạ) xem hôn nhân đồng nghĩa với phép cộng sinh, là sự
kiện để bản thân ông có được người đồng hành trong cuộc đời. Và tất nhiên, giữa
ông và vợ thiếu vắng tình yêu lãng mạn. Ông chưa từng yêu vợ trong suốt gần 40
năm chung sống. Ông thừa nhận rằng: “Bà Bagchi đã yêu chồng mình hai năm
nhiều hơn ông đã yêu vợ ông trong vòng 40 năm” [18, tr. 38].
Cuộc hôn nhân của cha mẹ Usha (Địa ngục – thiên đường) cũng được sắp đặt.
Trước đó, họ là những người xa lạ với nhau. Cha Usha cưới vợ chỉ để xoa dịu cha
mẹ ông. Chính vì vậy, Usha nhận thấy bản thân mình tồn tại như là: “bằng chứng
cuộc hôn nhân của cha mẹ cô, một kết quả được giả định của cuộc sống mà mẹ cô
đã được nuôi dạy để đi đến đó” [18, tr. 84].
Hôn nhân của cha mẹ Sudha (Điều tốt đẹp duy nhất) là “một thực tế phức tạp,
chẳng phải là hạnh phúc mà cũng không phải là không hạnh phúc. Nó thiếu vắng
cảm xúc mạnh mẽ ở cả hai cực” [18, tr. 171]
Chúng ta biết rằng, hôn nhân là sự kết hợp của các cá nhân về mặt tình cảm,
thông thường là tình yêu. Thế nhưng, tình yêu lại là yếu tố thiếu vắng trong hôn
nhân của các nhân vật trong truyện. Đây là một nghịch lý mà ngay chính bản thân
Jhumpa Lahiri cũng thắc mắc khi chứng kiến đời sống hôn nhân của cha mẹ. Họ cư
xử như những người xa lạ, không ôm hôn hay cầm tay, không nồng nhiệt, cởi mở,
không dễ dàng bày tỏ niềm hạnh phúc với nhau và đôi khi còn xảy ra cãi vã. Thế
nhưng, họ chưa bao giờ nghĩ tới chuyện ly dị, vì theo họ: Hôn nhân chính là nơi
thực hiện các nghĩa vụ của con người. Đời sống gia đình là sự lao động vất vả
chứ không phải là môi trường lãng mạn của tình yêu.
Hôn nhân sắp đặt chi phối rất lớn đến thái độ cư xử của hai vợ chồng. Người
đàn ông thường tỏ ra lạnh lùng và tàn nhẫn. Nhân vật tôi (Lục địa thứ ba, lục địa
cuối cùng) chẳng mảy may động lòng trước lời lẽ chân thành của vợ trong bức thư:
“tôi chờ đợi cô như chờ đợi tháng tiếp theo hay mùa tiếp theo – một cái gì đó không
tránh khỏi nhưng ở thời điểm hiện tại thì không có nghĩa lí gì” [17, tr. 274]. Cha
Ruma (Vùng đất lạ) thản nhiên để vợ chờ cơm chiều đến tận chín giờ tối hay bỏ
ngoài tai lời đề nghị đi du lịch của bà. Ông xem đó chỉ là ý nghĩ bất thình lình, vì
trong tất cả những năm sống bên nhau, họ chưa hề bao giờ đi nghỉ, thậm chí ông
cũng không hiện diện khi vợ ông qua đời hay nhỏ lấy một giọt lệ khóc thương bà.
Cha Usha (Địa ngục – thiên đường) lại là một người tình lặng lẽ và cô độc: “tồn tại
trong chiếc vỏ sò của mình, không thích vượt quá giới hạn, cũng không có lòng
thèm khát” [18, tr. 82]. Thay vì ghen tị và ngờ vực về những đợt viếng thăm đều
đặn của Pranad thì ông lại thầm biết ơn Pranad đã giúp ông giải thoát tinh thần trách
nhiệm mà ông cảm thấy phải chịu vì đã buộc vợ rời xa Ấn Độ. Ông đã giả lơ trước
nỗi nhớ nhà của bà, thậm chí còn gợi ý: “Nếu em không thấy vui thì hãy quay về
Calcutta đi” [18, tr. 95]. Ông xác định rõ ràng rằng việc sống chia cách như thế
chẳng tác động gì đến ông theo cách này hay cách khác.
Trong khi đó, người phụ nữ Ấn Độ đặt trọn niềm tin vào cuộc nhân do cha
mẹ sắp đặt. Trong tình thế “không hề được nuôi dạy để sống một mình” [18, tr.
37], họ xem người đàn ông là chỗ dựa vững chắc cả về vật chất lẫn tinh thần, dành
cả cuộc đời phục vụ cho chồng, chăm sóc tận tình cho con cái: nấu ăn, dọn dẹp, pha
trà, đem bánh kem mời khách… Thế nhưng, sự đảm đang chịu đựng của họ không
phải lúc nào cũng được đáp đền bằng một cuộc sống hạnh phúc. Cô Sen ngày ngày
dùng hết thời gian của mình để dọn dẹp, lau chùi, nấu nướng cho chồng nhưng
chẳng bao giờ nhận được một lời nói ngọt ngào hay một cử chỉ âu yếm. Mẹ Ruma
cả cuộc đời ôm nỗi oán hận vì những nhu cầu bị chồng cố tình lãng quên. Mẹ Usha
khao khát được chia sẻ đến mức ngoại tình trong tư tưởng với đứa em nuôi của
chồng. Tất cả họ là những người vợ, người mẹ tội nghiệp, giao vận mệnh của
mình cho một người xa lạ, nỗ lực vun đắp tình cảm và thuyết phục mình rằng
đây là cuộc sống mà họ chắc chắn phải trải qua. Nó giống như định mệnh đã
được hóa công an bài.
Có thể thấy rằng, các cuộc hôn nhân của thế hệ thứ nhất đa phần tuy không đổ
vỡ về mặt hình thức nhưng lại kéo dài tẻ nhạt và mệt mỏi. Để giải quyết tình thế
này, Jhumpa đề xuất hai lối thoát:
Thứ nhất: cái chết của một trong hai người. Đây là hoàn cảnh của cha mẹ
Ruma. Mẹ cô đã ra đi như một điều giả định trong suy nghĩ của cha cô: “Cái chết
của mẹ cô làm ông thấy nhẹ nhàng hơn, trái ngược hẳn với những gì nó gây ra cho
cô” [18, tr. 8]. Ông vẫn thường nghĩ về bà nhưng đó không phải là nỗi nhớ xuất
phát từ tình yêu mà vì một niềm day dứt đeo mang. Ông day dứt vì đã cư xử lạnh
lùng với bà trong suốt mấy mươi năm chung sống.
Thứ hai: giải pháp thời gian. Tình cảm vợ chồng dần dần được vun đắp dựa
trên nền tảng các giá trị truyền thống. Nhân vật tôi cảm thấy gần gũi hơn với Mala
sau lời khen tặng ngọt ngào của bà Croft: “Cô là một quý bà đích thực” [17, tr.
283]. Và cũng từ giây phút ấy, họ có cảm tình với nhau, cùng nhau khám phá cuộc
sống, đi dạo, rồi khám phá: “khoái lạc và sự an ủi trong vòng tay nhau” [17, tr.
284]. Mối quan hệ giữa cha mẹ Usha cũng được cải thiện theo thời gian. Trái tim
tan nát của mẹ cô được hàn gắn lại, khi đến tuổi già, bà và cha cô lại đâm ra thích
nhau, tình cảm nồng ấm biểu hiện qua: “cách đùa cợt thầm lặng, sự đoàn kết, mối
quan tâm lẫn nhau khi một trong hai người ngã bệnh” [18, tr. 101].
Tóm lại, thông qua những câu chuyện cảm động, Jhumpa đã đề xuất phương
cách giải mã được ẩn số hạnh phúc trong các cuộc hôn nhân của những người Ấn
Độ di cư: quá khứ + hiện tại = hạnh phúc. Hạnh phúc có được khi bản thân biết hòa
nhập với hiện tại nhưng đồng thời không quên đi quá khứ của mình.
2.3.1.3. Cảm thức lưu vong
Hoài cảm
Trú ngụ trên những vùng đất xa lạ, phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thử
thách do những khác biệt về chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, văn hóa…mang lại,
những người Ấn Độ lưu vong thường có xu hướng nhớ về quá khứ. Bằng những
ký ức về quá khứ, họ tìm kiếm nguồn dinh dưỡng cho những tâm hồn đang đói khát
tình cảm “Ký ức đóng một vai trò đặc biệt quan trọng đối với người lưu vong.
Không có ai sống mà không cần ký ức. Nhưng có lẽ không ai cần ký ức và bị ám
ảnh bởi ký ức một cách day dứt cho bằng người lưu vong: ký ức không những là tài
sản mà còn là bầu khí quyển trong đó người lưu vong tồn tại, hơn nữa là điều kiện
mang tính bản thể luận để người lưu vong trở thành lưu vong” [56].
Các nhân vật của Jhumpa chưa bao giờ thôi nghĩ về quá khứ. Nhà là hình ảnh
gợi nhớ sâu sắc nhất. Nhà trong tâm thức của cô Sen (Ngôi nhà của cô Sen) không
chỉ gắn với gia đình mà còn gắn với xứ sở Bengal, với ngôi nhà chung Ấn Độ – nơi
mà: “chỉ cần hơi cao giọng lên một chút hay biểu lộ bất cứ sự đau khổ hay vui
mừng nào là tất cả hàng xóm láng giềng kéo đến chia sẻ và giúp đỡ chuẩn bị” [17,
tr. 167]. Để nguôi ngoai nỗi nhớ, cô đọc đi đọc lại những bức thư gởi từ gia đình
hoặc tìm mua cho kỳ được những con cá biển – thực phẩm quan trọng nhất của xứ
Bengal. Đối với những người như cô Sen – những người chưa đạt được sự cân
bằng giữa Ấn Độ và Mỹ thì ký ức trở thành cứu cánh cho tình thế của họ, việc tái
hiện ký ức về quê nhà sẽ giúp họ tìm thấy niềm vui, niềm an ủi tinh thần to lớn
trước áp lực phải hòa nhập với một nền văn hóa mới.
Người Ấn Độ thường có xu hướng đi tìm đồng hương để mong có người
đồng hành trong cuộc hành trình đưa tâm trí vượt đại dương tìm về với ký ức. Cha
mẹ Lilia (Khi bác Pirzada đến ăn tối): “thường dò ngón tay theo những hàng tên họ
trong danh sách trường đại học, khoanh tròn những họ tên quen thuộc với vùng đất
của họ. Cũng theo cách đó, họ phát hiện ra bác Pirzada, gọi điện cho bác, mời bác
đến nhà ăn tối” [17, tr. 42]. Pranad (Địa ngục – thiên đường) lang thang trên đường
phố, nỗ lực tìm những dấu vết quen thuộc và đã đường đột đi theo một người phụ
nữ mặc áo sari, thú nhận với bà rằng: “đã không được ăn một bữa cơm Bengali cho
đúng cách trong vòng ba tháng” [18, tr. 77]. Từ đó, ông thường xuyên lui tới nhà
bà, nhanh chóng trở thành một thành viên của gia đình. Nó cứu vớt ông khỏi cú sốc
tàn nhẫn trong những tháng đầu tiên đến Mỹ, tiếp thêm cho ông nghị lực để đeo
đuổi ước mơ của mình.
Khi gặp đồng hương, những người Ấn Độ di cư thường tỏ ra rất vui mừng như
gặp được người thân của mình. Họ sẵn sàng giúp đỡ và chia sẻ với nhau cả về
phương diện vật chất lẫn tinh thần. Mẹ của Hema và Kaushik (Một lần trong đời)
tình cờ gặp nhau trong công viên, mối thân tình nhanh chóng được thiết lập. Trong
khi các ông bố đi làm thì họ ngồi với nhau suốt cả ngày trò chuyện về cuộc sống nơi
quê nhà hay cùng đi mua sắm, cùng than phiền về các ông chồng, cùng nấu nướng
và chia sẻ những món ăn. Những khác biệt về gia cảnh khi còn ở quê nhà giờ đây
không là gì cả khi họ ở Cambridge, nơi cả hai đều đơn độc như nhau: “Với việc sử
dụng phổ biến từ đồng hương, những người lưu vong nỗ lực tạo nên một quê nhà
tưởng tượng, nơi mọi người chia sẻ với nhau một quá khứ chung và một ký ức
chung” [56].
Đối với những người ly hương, việc ngoái đầu nhìn lại là cái thường tình vì nó
giúp duy trì một ký ức tập thể về quê gốc. Ký ức trở thành quê hương. Và tất nhiên,
nó chứa đựng cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Có người ra đi mang theo bên mình những
kỉ niệm đẹp (như trường hợp của cô Sen). Song, cũng có người bị ký ức buồn ám
ảnh – ký ức về cảnh sống nghèo khổ, bất ổn, về lối sống lạc hậu, bảo thủ. Họ nghĩ
nhiều về nó nhưng không hề mong muốn quay trở lại (như trường hợp của mẹ Lilia,
cha Ruma, mẹ Usha…). Tuy nhiên, dù quá khứ vui hay buồn thì các nhân vật của
Jhumpa vẫn duy trì mối liên kết với nó như một mắc xích của đời mình: “Nỗi nhớ
nhung một quá khứ xa xôi nào đó trở thành nguyên tắc chính trên đó mọi hình ảnh
và cảm xúc được chọn lọc và kết hợp” [56].
Cảm thức lạc loài
Bên cạnh nỗi nhớ nhà, các nhân vật của Jhumpa còn thường xuyên cảm thấy
lạc loài, bơ vơ do bị sống tách khỏi người thân thích và cộng đồng. Cảm thức ấy
nảy sinh khi các nhân vật ý thức được sự khác biệt giữa bản thân với môi sinh và
chủ động tách mình ra khỏi hoàn cảnh xung quanh để sống với di sản của quê nhà.
Lạc loài trong gia đình
Trong truyện ngắn của Jhumpa, cảm thức này chủ yếu nảy sinh ở các nhân vật
nữ. Đó là tình trạng người phụ nữ bị chồng và các con cô lập vì những điều khác
biệt. Trong xã hội Ấn Độ, người phụ nữ gắn liền với công việc nội trợ trong gia
đình, trong khi chồng con của họ thì làm việc và học tập ở bên ngoài. Hoàn cảnh ấy
tạo nên khoảng cách. Cô Sen (Ngôi nhà của cô Sen) luôn luôn đối mặt với sự cô
đơn vì chú Sen bận rộn với công việc giảng dạy ở trường đại học. Cô muốn đi ra
ngoài mua cá nhưng lại không biết lái xe. Chú Sen thường tỏ ra phiền lòng hơn là
thông cảm cho khổ tâm đó. Nhận trông nom một đứa trẻ là tất cả những gì cô có thể
làm để khỏa lấp những buổi chiều trống vắng. Mẹ Usha (Địa ngục – thiên đường)
cũng bị chồng, con cô lập một cách tàn nhẫn. Bà có một cuộc sống buồn chán,
không làm việc, cả ngày giết thời gian bằng những vở kịch rẻ tiền. Chồng và con
gái xem đó là khuyết điểm của bà và không hề cảm thấy có trách nhiệm gì với tình
trạng ấy. Thậm chí họ có thể chấp nhận cả việc bà quay về Calcutta nếu bà cảm thấy
cô đơn. Mẹ Ruma (Vùng đất lạ) thì suốt ngày bận bịu với việc nhà, chờ đợi bữa
cơm cuối ngày để gia đình có dịp ngồi với nhau. Nhưng bà thường xuyên thất vọng
vì các con không sẵn lòng chờ và chồng thì thích thú với công việc làm vườn hơn là
việc phải đối diện với bà.
Bằng cách miêu tả sự cô đơn lạc lõng của những người phụ nữ trong gia đình,
Jhumpa một mặt nêu ra những hạn chế của bản thân các nhân vật trong xã hội hiện
đại, mặt khác thay họ lên tiếng đả phá tính chất gia trưởng hay phụ quyền để người
phụ nữ được đối xử bình đẳng hơn, có cơ hội được đáp ứng những nhu cầu mà bản
năng đòi hỏi.
Lạc loài giữa cộng đồng
Định cư ở một môi trường xa lạ (không phải quê hương) giữa những con người
xa lạ (không cùng chủng tộc), nhân vật của Jhumpa trở thành những kẻ bên lề, nhận
thấy cuộc sống nước Mỹ tiềm ẩn những điều mà họ không thể lý giải và không hòa
nhập được.
Cha mẹ Lilia (Khi bác Pirzada đến ăn tối) thường kêu ca chuyện: “bác sĩ
không đến tận nhà khám bệnh, hàng xóm không bao giờ đến nhà nhau chơi” [17, tr.
41]. Ông Pirzada thì vặn vẹo: “Cám ơn là cái gì vậy? Cô gái ở ngân hàng cám ơn
tôi, người thu tiền trong cửa hàng cám ơn tôi, thủ thư cám ơn tôi khi tôi trả những
cuốn sách đã quá hạn, người trực tổng đài quốc tế cám ơn tôi trong lúc cố gắng nối
máy cho tôi về Dacca mà không được. Nếu người ta chôn tôi ở đất nước này thì
chắc cả ở lễ tang tôi người ta cũng cám ơn tôi mất” [17, tr. 50] .
Cô Sen (Ngôi nhà của cô Sen) thì “thỉnh thoảng không ngủ được vì nơi đây (ở
Mỹ) yên tĩnh quá” [17, tr. 166]. Nhiều lúc cô muốn phá tan sự yên tĩnh đó bằng
cách “hét lên thật to xem liệu có ai đến không” [17, tr. 167]. Cô xác định tất cả
những gì thân thuộc đều ở bên kia đại dương. Còn trên đất Mỹ, cô không có gì cả.
Cô xa lạ với lối sống Mỹ: hàng xóm láng giềng mạnh ai nấy sống; trẻ con bị để ở
nhà một mình; xe buýt không cho mang cá lên, lái xe thì ngồi bên trái…trong khi
người Mỹ xem việc cô mặc sari, đi chân trần, ăn cá tươi là hết sức kỳ quặc. Sự
không ăn nhập gì với nhau theo kiểu ấy khiến cô Sen đau khổ và khó chịu vô cùng.
Trong Lục địa thứ ba, lục địa cuối cùng, Jhumpa dành một đoạn kể một câu
chuyện nhỏ về người phụ nữ Ấn Độ:
Cô ta mặc sari và đẩy xe nôi. Đầu buông lơi của sari gần như chạm đất. Một
phụ nữ Mỹ dắt theo một con chó đen nhỏ bị buộc xích đi gần cô ta. Bỗng dưng con
chó sủa. Người phụ nữ Ấn Độ run rẩy, dừng lại trên lối đi, và lúc đó con chó nhảy
lên cắn đầu buông lơi của chiếc sari. Người phụ nữ Mỹ mắng con chó, hình như xin
lỗi rồi nhanh chóng bỏ đi, để lại người phụ nữ Ấn Độ một mình giữa đường, sửa
sang chiếc sari và dỗ dành đứa trẻ đang khóc [17, tr. 275].
Câu chuyện làm bận lòng tất cả chúng ta. Người phụ nữ Ấn đã khiến con chó
sủa vì nó nhận thấy cô không giống với mọi người xung quanh. Cô như một sinh vật
lạ lạc giữa đại lộ Massachusetts.
Nhân vật Chitra (Cuối năm) bị cô lập trong ngôi nhà ở gần đại dương với lối
kiến trúc theo trường phái hiện đại. Vì vậy, cha Kaushik phải bán ngôi nhà ấy và
dọn đến một ngôi nhà truyền thống hơn trong vùng phụ cận Boston, ở đó có những
người Bengal khác và một tiệm tạp phẩm Ấn Độ trong thị trấn.
Lạc loài trên đất khách là lẽ thường tình. Lạc loài trên chính quê hương của
mình mới là điều đáng nói. Đó là tình trạng của cha mẹ Kaushik. Sống như những
người nhập cư tại Mỹ, họ luôn có cảm giác bị xa lánh nên đã quay về Ấn Độ.
Nhưng khi về Ấn Độ, “Bombay đã làm họ Mỹ hóa hơn là Cambridge”. Thế là họ
tiếp tục bị xa lánh ở chính nơi chôn nhau cắt rốn, bởi những người cùng gốc gác cội
nguồn.
Hội nhập và ý thức về bản sắc
Bên trong bất kỳ người nhập cư nào cũng có sự hiện tồn của hai thế giới: một
là quê cha đất tổ, một là vùng đất mưu sinh. Kết nối với bên này để bảo vệ bản sắc
và kết nối với bên kia để cộng sinh với bộ tộc mà họ là thành viên. Các nhân vật của
Jhumpa cứ thế mà bơi trải để tìm ra hướng sống cho mình. Tất nhiên, quá trình này
diễn ra đầy cam go và phức tạp.
Cha của Ruma (Vùng đất lạ) tiêu biểu cho hình ảnh người Ấn Độ nhập cư đã
hòa nhập hoàn toàn với chốn tạm dung. Ông từ bỏ tất cả mọi thứ ở Ấn Độ để đến
Mỹ sống và làm việc. Cả cuộc đời ông gắn với công việc “Từ năm 16 tuổi, ta đã
luôn làm việc” [18, tr. 48], đến khi về hưu “cũng không để mình ngồi không” [18,
tr. 48]. Sau khi vợ qua đời, ông đi du lịch khắp nơi để nhận thức lại cuộc sống, tự do
làm những điều mình muốn, không thích bị ràng buộc hay là gánh nặng cho bất kỳ
ai. Ông đã khuyên Ruma đi làm trở lại vì không muốn cô giống như mẹ của mình.
Ông bình thản khước từ lời đề nghị sống chung của Ruma để nhanh chóng gặp được
bà Bagchi – người phụ nữ mà ông yêu thích. Văn hóa đề cao con người cá nhân của
nước Mỹ đã thấm vào con người ông một cách tự nhiên theo thời gian và tuổi tác:
“ông càng trông giống người Mỹ. Với mái tóc bạc và làn da sáng, ông có thể hòa
nhập dễ dàng bất cứ nơi đâu” [18, tr. 15]. Ở ông, dấu vết Ấn Độ đã nhạt nhòa, tồn
tại trong ông như là những hành động bản năng hơn là hành động được điều khiển
bởi ý thức bản sắc. Vì vậy, nếu như nhiều người chọn con đường trở về Ấn Độ sau
khi nghỉ hưu thì ông lại chọn con đường đi du lịch. Cuộc sống rày đây mai đó mới
thỏa mãn được bản ngã vô xứ của ông. Việc ông cải tạo lại khu vườn bỏ không của
Ruma và dạy Akash – đứa cháu ngoại trồng cây tiềm ẩn bao ý nghĩa. Phải chăng
khu vườn ấy là nước Mỹ và những hạt giống kia chính là ông và các thế hệ con
cháu? Hạt vẫn nảy mầm tức là con người ta có thể sống và phát triển ở bất cứ nơi
nào nếu biết học cách để thích nghi.
Mối liên kết giữa hội nhập và ý thức bản sắc được thể hiện một cách sâu sắc
trong Lục địa thứ ba lục địa cuối cùng – một câu chuyện mang đậm tính tự truyện.
Nó tương đồng chặt chẽ với lịch sử gia đình của Jhumpa Lahiri: một người cha làm
việc ở thư viện, một người mẹ tỉ mỉ tôn trọng các giá trị truyền thống Ấn Độ bất kể
khoảng cách không gian và thời gian. Tất cả mọi người trong gia đình Lahiri là các
nhân vật trong câu chuyện. Cha cô là người kể chuyện. Mẹ cô hiện lên qua hai hình
ảnh người phụ nữ: Mala và bà Croft. Lahiri chính là con gái của bà Croft, Helen và
con trai của người kể chuyện.
Người kể chuyện rời Ấn Độ đến Anh quốc để học tập và lập thân. Tại đây, ông
không đơn độc học cách thích nghi với cuộc sống mới mà sống trong: “một ngôi
nhà toàn những người Bengal độc thân không một xu dính túi” [17, tr. 250] –
những người hiểu rõ gốc gác của ông, giúp ông tránh được cái cảm giác bị ném vào
một thế giới hoàn toàn xa lạ. Ông tích cực giữ nguyên vẹn bản sắc văn hóa của
mình bằng món cà ri trứng vào những ngày cuối tuần.
Cuộc sống ở Mỹ diễn ra tương tự như vậy, mặc dù giờ đây ông đã sáp nhập
vào nền văn hóa mới. Ông sống với di sản của hai nền văn hóa. Bữa ăn đầu tiên tại
Mỹ với bát, thìa (dụng cụ ăn của người Tây), sữa, bánh bột ngũ cốc (thức ăn quen
thuộc của Ấn Độ) là một hình ảnh có tính hai mặt, một mặt nhượng bộ cách sống
Mỹ, mặt khác phù hợp với niềm tin tôn giáo của quê hương. Ông tìm thấy niềm an
ủi trong phong tục của quá khứ, sử dụng nó để xây dựng ngôi nhà cho bản thân và
vợ của ông ở Boston.
Mala và bà Croft là hai mảnh trong con người nhị phân của mẹ Jhumpa Lahiri.
Trong tình cảnh một mình đi đến một thế giới xa lạ với người chồng chỉ biết đến
trong năm ngày, cả hai đối mặt với hoàn cảnh bằng một quyết tâm kiên định để
không bao giờ từ bỏ các giá trị đã nuôi dưỡng họ. Truyền thống là “hằng số” duy
nhất trong cuộc sống của họ, tồn tại ổn định vượt qua không gian, thời gian. Họ
phấn đấu trở thành người “phụ nữ hoàn hảo” với tài năng vượt trội. Mala có thể nấu
ăn, đan, thêu, vẽ phác thảo tranh phong cảnh, đọc thơ Tagore… Còn bà Croft thì
biết đàn piano, ăn mặc khiêm tốn. Ngoài việc cố gắng sống theo lý tưởng của mình,
Mala và bà Croft còn lo lắng về việc con cái sau này sẽ đánh mất di sản truyền
thống.
Trong truyện Khi bác Pirzada đến ăn tối, cha Lilia làm giảng viên chính thức
ở một trường đại học, còn mẹ là người thu tiền ở ngân hàng thay vì ở nhà như nhiều
người phụ nữ Ấn Độ khác. Họ chăm chỉ làm việc, cho phép con gái vui chơi và
sống tự lập theo kiểu Mỹ. Tuy vậy, họ vẫn giữ chất Ấn Độ của mình thông qua
những bữa ăn mời bác Pirzada, nếu bữa tối này họ cùng ăn xoài ngâm, tối tối cùng
ăn cơm bốc tay, nhai hạt thìa là sau bữa ăn cho dễ tiêu, khi tráng miệng thì nhúng
những chiếc bánh quy rẻ tiền vào cốc chè thì bữa tối khác họ ăn bánh nhân quả băm
với thịt nướng cùng tương ớt, rau mùi hay đậu lăng với hành xào, đậu xanh nấu
nước dừa, cá nấu với nho khô và sữa chua. Những bữa ăn như thế làm ấm lòng bác
Pirzada, thỏa mãn thói quen ăn uống của gia đình và có thể cho đứa con gái biết về
văn hóa của vùng đất bên kia bờ đại dương mà cha mẹ em gọi là quê hương. Lilia từ
chỗ bất ngờ trước cách đối xử tử tế của cha mẹ dành cho bác Pirzada, em bắt đầu có
cảm giác thân quen với cái nơi chỉ có thể nhìn thấy qua bản đồ.
Tương tự như thế với trường hợp cha mẹ Hema (Một lần trong đời). Họ rời Ấn
Độ vào năm 1962 và gắn bó với nước Mỹ như những người nhập cư. Cha cô học
tập và chiến đấu với các kỳ thi trong khi mẹ ở nhà lo chu toàn mọi việc. Theo thời
gian, họ trở thành những công dân Mỹ, có công việc, có nhà cửa và có khả năng
giúp đỡ những người đồng hương của mình. Mẹ Hema yêu thích phim ảnh phương
Tây đến nỗi: “có thể nhớ từng cảnh một những trang phục Audrey Hepburn trong
bất kỳ bộ phim nào đã chiếu” [18, tr. 290]. Tuy nhiên, họ vẫn sống với những thói
quen văn hóa Ấn Độ: chiêu đãi bạn bè vào cuối tuần bằng những bữa ăn được chuẩn
bị công phu, tỉ mỉ; trang trí ngôi nhà theo phong cách Ấn với những cái gối cho bộ
sofa màu vàng cam rực rỡ, hay cái mền màu nâu vàng nhạt trên giường ngủ….
Như vậy, theo cách nhìn nhận của Jhumpa, người nhập cư hội nhập thành
công khi nào họ đạt được sự cân bằng giữa hai thế giới, tức là vừa hòa mình vào
hiện tại (nước Mỹ) nhưng đồng thời không quên đi quá khứ của mình (Ấn Độ). Quá
khứ và hiện tại tồn tại trong họ như hai vế của một phương trình. Mọi sự chênh lệch
đều dẫn đến bi kịch.
Nhân vật cô Sen (Ngôi nhà của cô Sen) là một ví dụ cho sự chênh lệch đó. Sự
gắn bó bền bỉ với văn hóa Bengal đã biến cô thành một người lập dị và thụ động
trên vùng đất lạ. Hàng ngày, cô Sen ngồi trên sàn nhà cắt rau cải theo cách cô đã
làm ở Ấn Độ cùng với con dao mà cô đã sử dụng ở đó. Cô từ chối sử dụng con dao
của phương Tây. Cô mang theo từ Ấn Độ một con dao rất đặc biệt: “được tạo thành
giống như mũi một con thuyền của người Viking” [17, tr. 164] dùng cho việc cắt
thái các thành phần thực phẩm. Con dao được gọi là “bonti” theo tiếng Bengali và
tồn tại trong ký ức cô Sen như biểu tượng trung tâm cho cộng đồng người phụ
nữ Ấn Độ.
Tóm lại, mặc dù không đứng vào vị trí của thế hệ thứ nhất nhưng Jhumpa
Lahiri đã viết về họ như thể một người trong cuộc. Những điều cô viết về họ giải
đáp cho câu hỏi mà mọi cộng đồng lưu vong đều quan tâm: “chúng ta là ai?”,
“chúng ta thuộc về nơi nào?”.
2.3.2. Nhân vật di cư – thế hệ con cháu Mỹ quốc
2.3.2.1. Sự Mỹ hóa (Americanization) và khoảng cách thế hệ (Generation Gap)
Sự Mỹ hóa (Americanization) là quá trình một người nhập cư vào Mỹ và trở
thành người Mỹ, chia sẻ những giá trị Mỹ, tín ngưỡng, phong tục và được đồng hóa
vào xã hội Mỹ.
Khoảng cách thế hệ (Generation Gap) là sự khác biệt về thái độ giữa những
người ở thế hệ khác nhau. Bao gồm: khác biệt quan điểm, khác biệt tuổi tác, khác
biệt tâm lí, hành động và ứng xử.
Thế hệ con cháu của những người Ấn Độ di cư là hình tượng trung tâm trong
truyện của Jhumpa Lahiri. Tuy cha mẹ là người Ấn Độ nhưng vì được sinh ra ở Mỹ,
được nuôi dưỡng bằng các giá trị văn hóa Mỹ nên dường như tất cả họ đều được
Mỹ hóa. Ở họ, dấu ấn quê hương bản quán khá nhạt nhòa và thay vào đó là cách
sống, cách nghĩ như những đứa trẻ Mỹ thực thụ. Trong khi cha mẹ họ cố gắng lưu
giữ phong tục tập quán của dân tộc thì họ lại tìm cách né tránh và ra sức che giấu
cội nguồn của mình. Khoảng cách và sự khác biệt ngày càng trở nên quyết liệt. Nó
không còn giới hạn ở những sự khác biệt đơn thuần mà là sự khác biệt giữa hai nền
văn hóa Đông Tây.
Trong tuyển tập Người dịch bệnh, Jhumpa chủ yếu viết về thế hệ đã bị Mỹ
hóa hoàn toàn/đồng hóa với cuộc sống của nước Mỹ.
Ông bà Das (Người dịch bệnh) tuy vóc dáng là người Ấn Độ nhưng lại ăn mặc,
nói năng, ứng xử như người ngoại quốc, ông Das: “trông sạch sẽ, tươm tất, đội mũ
lưỡi trai màu xanh ngọc, mặc quần ngắn, áo sơ mi, đi giày đế mềm” [17, tr. 70], bà
Das: “mặc một chiếc váy kẻ ô vuông màu trắng đỏ phủ tới đầu gối, khoác một chiếc
áo cánh vừa khít người may theo kiểu áo lót đàn ông”, “Tóc cắt chỉ dài hơn tóc
chồng một chút để xõa sang một bên” [17, tr. 72]. Ông Kapasi bị thu hút và trở
thành hướng dẫn viên cho gia đình của họ. Đây là một cuộc hội ngộ thú vị do tác
giả cố tình sắp đặt. Một bên là ông Kapasi – người hướng dẫn viên đại diện cho văn
hóa Ấn Độ, bên kia là một gia đình người Mỹ gốc Ấn – những người đã được Mỹ
hóa hoàn toàn. Họ đồng hành cùng nhau và bộc lộ sự khác biệt văn hóa qua hàng
loạt những tình huống bất ngờ.
- Tình huống 1: Ông Kapasi chập hai lòng bàn tay lại với nhau để chào, nhưng
ông Das lại xiết chặt tay như kiểu người Mỹ, thành ra ông Kapasi phải chìa khuỷu
tay của mình ra bắt.
- Tình huống 2: Ông Das hỏi con gái: “Mina (tên vợ ông) đâu rồi?”. Ông
Kapasi ngạc nhiên khi nghe ông Das gọi trống không tên vợ với con gái.
- Tình huống 3: Ông bà Das để mặc bọn trẻ làm những điều chúng muốn, ông
thì xem sách du lịch, bà thì mài các ngón tay. Ông Kapasi nghĩ cả nhà họ cứ như là
anh chị em ruột. Ông bà Das xử sự như là ông anh và cô em gái chứ không phải cặp
bố mẹ. Dường như họ trông nom bọn trẻ chỉ mới một ngày.
- Tình huống 4: Bà Das tiết lộ bí mật về đứa con riêng, về những đau khổ buồn
chán suốt tám năm che giấu bí mật ấy với ông Kapasi và nhờ ông giúp đỡ. Bà nghĩ
tình trạng ấy là triệu chứng của một căn bệnh và mong muốn ông Kapasi diễn giải.
Đáp lại, ông Kapasi đã chất vấn bà bằng một câu hỏi thẳng thắn: “Có thật bà thấy
đau khổ hay đó là một tội lỗi?” [17, tr. 98].
Sự xa lạ với di sản Ấn Độ của ông bà Das, nhất là bà Das cứ tăng dần theo các
tình huống cùng với diễn biến thái độ của ông Kapasi. Đến cuối cùng, sau câu hỏi
của ông, bà Das tuyên bố: “Nơi này khiến tôi khiếp đảm” [17, tr. 101]. Lời tuyên bố
ấy đã kết thúc tất cả. Di sản Ấn Độ như mảnh giấy ghi địa chỉ của ông Kapasi bay
khỏi túi rơm của bà Das rồi theo gió quyện vào cành cây chỗ bầy khỉ đang trịnh
trọng ngồi xem cảnh tượng diễn ra dưới đất.
Gợi tình lại là một câu chuyện khác – chuyện cô gái người Mỹ gốc Ấn bị bội
bạc tình yêu. Cô ấy tên là Miranda, tuy dáng vẻ và tên Ấn Độ nhưng Miranda đã
được Mỹ hóa hoàn toàn. Cô không biết gì về Ấn Độ cho đến khi quen Dev – một
người đàn ông Bengal đã có gia đình. Dev chỉ cho cô biên giới xứ Bengal, nói tiếng
Bengali và ăn món ăn Ấn Độ. Anh ta đã tán tỉnh cô theo kiểu mà cô chưa từng biết:
“Dev là người đầu tiên luôn trả tiền mọi thứ, giữ cửa cho cô đi, mang đến cho cô bó
hoa to đến mức cô phải chia ra cắm vào sáu chiếc cốc, là người đầu tiên thì thầm
tên cô trong lúc làm tình…” [17, tr. 129]. Chính sự thiếu hiểu biết về văn hóa cội
nguồn đã đẩy Miranda vào cuộc tình mà theo quan niệm Á Đông nó được xem là tội
lỗi.
Nhân vật Twinkle trong Ngôi nhà được ban phước cũng chẳng còn chút dấu
vết Ấn Độ nào. Cô cắt tóc ngắn, hút thuốc, kêu ca đồ ăn Ấn Độ chán, ghét cay ghét
đắng việc đập tỏi, gọt vỏ gừng, không thể sử dụng máy cắt trộn và chẳng bao giờ
vào bếp… Trong khi anh chồng Ấn Độ thấy những đồ vật Thiên chúa trông thật ngu
xuẩn, chẳng hề mang tính thiêng liêng thì cô lại tỏ ra yêu thích chúng: “cảm thấy
khổ sở vô cùng nếu vứt chúng đi” [17, tr. 197].
Mỹ hóa là để hòa nhập với cuộc sống hiện tại, là để tránh những cái nhìn soi
mói của cư dân bản xứ. Nhưng như thế không có nghĩa là thế hệ con cháu Mỹ quốc
sẽ có được một cuộc sống thoải mái và hạnh phúc. Trái lại, việc đánh mất di sản
nguồn cội đã làm rạn nứt các mối quan hệ trong gia đình những người Ấn Độ nhập
cư. Vấn đề này được Jhumpa Lahiri phản ánh rõ nét trong tập truyện thứ hai: Vùng
đất lạ
Trong Vùng đất lạ, tác giả viết về những va chạm giữa hai thế hệ, những bất
hòa và thỏa hiệp, những giới hạn mà bản thân mỗi nhân vật nhận thức. Ruma – một
nữ luật sư trẻ – theo chồng về sống ở một nơi xa lạ, chuẩn bị chào đón sự ra đời của
đứa con thứ hai. Cha cô sắp xếp một chuyến viếng thăm. Cuộc gặp gỡ này khơi sâu
những nỗi niềm thầm lặng, những khuất lấp mà cả hai người muốn né tránh cả trong
quá khứ, hiện tại lẫn tương lai.
Ruma nhớ lại thời niên thiếu khi mẹ vẫn còn hiện diện trong đời sống của cô.
Cô thường xuyên tranh cãi với cha mẹ, quyết tâm học ngành luật thay vì ngành sinh
học theo ý cha, giữ bí mật với cha mẹ về mối quan hệ với những người đàn ông Mỹ,
mạnh bạo chống lại cha mẹ để kết hôn với một người Mỹ, thậm chí đính hôn trước
khi được cha mẹ đồng ý… Ruma luôn cảm thấy xa lạ với cha mẹ, xa lạ với những
chiếc áo sari của mẹ, với tiếng Bengali mà cô bị ép buộc phải nói, với việc mẹ cô từ
chối đặt đứa trẻ vào trong nôi, cứ luôn nâng niu nó hàng giờ trong tay bà. Thế
nhưng sau khi lập gia đình và nhất là sau cái chết của mẹ, Ruma đã sống cuộc đời
gần giống như bà: ở nhà chăm sóc con cái, sống đơn độc không bạn bè ở một nơi xa
lạ… Những gì trước đây Ruma né tránh, chối bỏ thì bây giờ trở thành cuộc
sống của cô. Ruma và mẹ là hai thế hệ có chung một số phận nên: “nhiều lần Ruma
cảm thấy gần gũi với mẹ cô trong cái chết hơn là khi bà còn sống, một sự thân mật
nảy sinh thật đơn giản trong suy nghĩ quá thường xuyên về bà, nỗi nhớ thương bà”
[18, tr. 34]. Nghịch lý này phải chăng chính là sự trỗi dậy của bản sắc trước sức
chi phối của yếu tố ngoại lai mà bản thân Ruma không kiểm soát được? Trước
đây, mẹ là người lưu giữ bản sắc và bảo vệ Ruma khỏi cảm giác là kẻ mạo danh.
Mất bà, lòng cô tràn ngập mất mát. Đó không chỉ là sự mất mát người thân mà còn
là sự mất mát một phần di sản Ấn Độ cấu thành nên con người cô: “Mẹ cô đã đi đâu
rồi trong khi cuộc sống vẫn tồn tại dai dẳng, trong khi Ruma vẫn còn cần bà biết
bao để giải thích vô số điều” [18, tr. 74] . Chuyến đến thăm của cha đã khơi gợi
những điều mà bấy lâu Ruma đè nén trong lòng. Cô bị giằng xé giữa việc sống
chung với cha hay tự do tạo lập gia đình riêng; giữa việc tự lực kiếm tiền hay sống
phụ thuộc vào Adam; giữa việc dạy Akash theo lối sống Mỹ hay Ấn Độ; giữa việc
chấp nhận hay oán hận việc cha cô yêu một người phụ nữ khác ngoài mẹ cô… Và
quyết định cuối cùng của cô là đề nghị cha ở lại, cô sẽ ở nhà chăm sóc con cái, sẽ
dạy Akash nói tiếng Bengali: “con người của Ruma bị ảnh hưởng bởi những tọa độ
của hoàn cầu thì ít mà chính ra từ những nguyên tắc chỉ đạo của ý chí. Dầu rằng
nàng sinh ra trên đất Hoa Kỳ nhưng Ruma mang trong lòng những cảm xúc riêng
tư. Vậy thì những thay đổi nào mới thật sự liên hệ tới sự thay đổi nơi an cư? Lahiri
dường như muốn hỏi: Đâu là những giới hạn?” [57].
Trong Địa ngục – thiên đường, sự Mỹ hóa đã làm gia tăng khoảng cách giữa
Usha và mẹ cô, khiến cô chẳng hiểu gì về nỗi nhớ nhà cùng nỗi khổ đau của bà khi
dành tình yêu cho Pranad – đứa em nuôi của cha cô. Usha yêu thích tất cả những gì
thuộc về cô bạn gái của chú Pranad: cặp mắt xám, chiếc áo choàng poncho, chiếc
váy ngắn, đôi sandal… cùng với những món quà mà cha mẹ cô không có tiền hoặc
chẳng có hứng thú mua như: truyện cổ tích của Grimm với những bức tranh minh
họa trên các trang giấy lụa dày, những con búp bê bằng gỗ có mái tóc chải theo thời
trang làm bằng sợi gai. Usha ngưỡng mộ tình cảm nồng nhiệt, cởi mở, niềm hạnh
phúc dễ dàng bày tỏ của họ. Usha luôn phiền lòng và cảm thấy bị mẹ kiềm kẹp và
trói chặt: “Tôi bắt đầu giữ bí mật với bà, lẩn tránh bà với sự giúp đỡ của bạn bè.
Tôi bảo với bà rằng tôi ngủ lại nhà một người bạn trong khi thực sự tôi đi dự tiệc,
uống bia và để bọn con trai hôn tôi, vuốt ve mơn trớn bộ ngực tôi và ép bộ phận
sinh dục cưng cứng của chúng lên phần hông tôi khi chúng tôi nằm sờ soạng nhau
trên ghế sofa hay băng sau trong xe hơi” [18, tr. 95]. Dần dần Usha trở nên tàn
nhẫn, kết hợp với cha cô để cô lập mẹ: “Tôi bắt đầu có những cách ứng xử thích
hợp từ cha tôi để đối xử với bà, cô lập bà một cách đáng ngờ. Tôi cũng học cách
rền rĩ lại với bà, bảo rằng bà không thỏa đáng, rằng bà chẳng biết gì về tôi, và điều
rõ ràng với cả hai chúng tôi là tôi không cần bà nữa” [18, tr. 95]. Văn hóa Mỹ đã
kéo những trẻ như Usha rời xa vòng tay yêu thương của mẹ. Chúng bước vào đời
bằng một tâm hồn lạnh lùng, sành sỏi và có thể tự do quyết định tương lai của mình
0TTuy nhiên, dù tỏ ra không hòa hợp với cách sống, cách nghĩ của cha mẹ nhưng
bất chấp việc cha mẹ có đồng ý hay không.
những đứa trẻ nhập cư vẫn cảm nhận được tất cả những mong ước của cha mẹ. Họ
học trong các trường đại học nổi tiếng, tốt nghiệp đại học, cao học, tiến sĩ, kết hôn
với những người xuất thân trong một gia đình người Bengal tử tế. Họ vừa thoát khỏi
sự kiểm soát của cha mẹ, đồng thời vừa làm sứ giả nối kết cha mẹ với cái thế giới
0TSudha (Điều tốt đẹp duy nhất) là một thí dụ. Cô là người: “phải giải thích cho
mà họ chẳng bao giờ thân thiết được.
cha cô rằng ông phải gom hết lá cây vào trong túi chứ không kéo lê chúng đi bằng
cái cào vào trong khu rừng nhiệt đới đối diện, là người gọi bộ phận sửa chữa tại
Lachmere để bảo dưỡng các món đồ gia dụng” [18, tr.172], là người có thể thấu
hiểu việc cha mẹ tách rời Ấn Độ là: “một nỗi đau, cứ phồng lên xẹp xuống như căn
bệnh ung thư” [18, tr. 172], là người thu gom những đợt bán hạ giá đồ chơi để tìm
ra đủ loại đồ chơi thích hợp cho cậu em trai nhỏ: vựa lúa Fisher Price barn, những
chiếc xe tải Tonka, đồ chơi Speak and Say tạo ra các loại âm thanh của súc vật; cô
đọc cho cậu nghe những quyển sách như Peter Rabbit và Frog and Toad và nói với
cha mẹ cô gắn những vòi phun nước trên bãi cỏ để cậu chạy quanh suốt mùa hè…
Khi những đứa trẻ người Mỹ gốc Ấn trưởng thành trong môi trường mới,
chúng mang trong người mầm mống nổi dậy vì chịu quá nhiều áp lực: cha mẹ kéo
chúng về quá khứ trong khi bản thân chúng muốn tiến lên phía trước; nước Mỹ kéo
chúng về phía Tây trong khi văn hóa dân tộc muốn chúng nhìn về Đông; sự cần
thiết của việc kết hôn kéo chúng ra ngoài trong khi nhu cầu sống đúng với cảm xúc
của mình kéo chúng vào trong. Nổi dậy chính là giải pháp để chúng thoát khỏi tình
thế ấy. Rahul (Điều tốt đẹp duy nhất) đã hành động như thế. Cậu chán ngán sự độc
tài vô lý của cha, sự bảo ban nâng niu của mẹ. Cậu sống mà không cần quan tâm
đến bất kỳ điều gì: sự kỳ vọng và đau khổ của cha mẹ, cũng như tương lai và hạnh
phúc của chính mình. Cậu tự ý làm mọi việc: tự ý uống rượu, tự ý bỏ học và đăng
ký học một trường khác, tự ý chọn vợ và rời bỏ gia đình… Cậu trở thành một người
nghiện rượu, sống vất vưởng bằng những công việc tạm bợ. Sudha và Rahul là hai
chị em, tuy nhiên, họ lại hoàn toàn đối lập nhau. Họ như hai hạt giống cùng loại
được ném ra trên cùng một mảnh đất nhưng lại nảy mầm thành hai cây khác nhau.
Các mối quan hệ gia đình cũng vì thế mà rạn nứt không thể nào cứu vãn được.
Trong Hema và Kaushik, nhân vật Hema được xây dựng theo một chiều hướng
khác. Cô là một đứa trẻ tiếp nhận tốt cả hai nền văn hóa Mỹ và Bengal. Cô luôn
trải nghiệm bản thân trong sự phân tách bản ngã thành từng mảnh. Với văn
hóa Mỹ, cô luôn tranh đấu để được ngủ phòng riêng, ngạc nhiên khi mẹ bảo rằng:
“đã ngủ trên cùng một cái giường với cùng cha mẹ mình cho đến ngày bà lấy chồng
và rằng điều này hoàn toàn bình thường” [18, tr. 287]. Mặt khác, cô lại sống với
những ký ức về gia đình người bạn Ấn Độ của cha mẹ, luôn cảm nhận sự hiện diện
của Kaushik trong cuộc đời mình. Còn Kaushik, mặc dù là một thiếu niên Mỹ hóa
điển hình, nhưng tâm hồn anh luôn hướng về cội nguồn. Điều trăn trở này khiến anh
luôn cảm thấy mất mát, cô đơn và lạc lõng khôn cùng trong thế giới hiện đại. Anh
sinh ra ở Mỹ, có thời gian cùng cha mẹ quay về Ấn Độ sinh sống, sau đó phải quay
lại Mỹ vì mẹ bị bệnh ung thư. Rồi mẹ anh qua đời, cha anh cưới một cô vợ người
Ấn Độ... Tất cả những sự kiện ấy thúc đẩy Kaushik đến với nghề nhiếp ảnh, lang
thang khắp các chiến trường để săn tin: “anh trôi giạt khắp quả địa cầu mà chẳng
có mối dây liên hệ nào có ý nghĩa” [18, tr. 386]. Anh sống cuộc đời lang bạt chẳng
bao giờ phó thác mình vào những nơi chốn anh đã sống qua, chẳng bao giờ biến
chúng thành nơi trú ẩn. Đây là một cuộc chạy trốn để tránh đối mặt với nỗi đau xé
ruột rằng mẹ đã chết, xương cốt của bà đã tan vào đại dương vô tận; rằng cha đã tìm
cách xóa đi hình bóng vợ để chia sẻ ngôi nhà với người đàn bà khác; rằng anh chỉ
có một mình, đơn độc, chán nản. Thế nhưng tất cả là ngụy biện vì anh không quên
được bất cứ điều gì và vì những người xung quanh luôn nhớ: “với tư cách là một
phóng viên nhiếp ảnh, dòng dõi lai lịch của anh không liên quan gì đến việc đó. Tuy
nhiên, ở Rome cũng như tất cả các nơi khác ở châu Âu, anh luôn được xem là người
Ấn Độ ngay từ đầu” [18, tr. 391].
Tóm lại, nếu coi đây là lời biện giải nếu con người được nẩy mầm trên đất
mới, sẽ cứng cỏi và thăng hoa hơn thì truyện của Jhumpa đã không chỉ chuyển tải
thông điệp đơn giản như thế. Bởi theo cô, con người trở nên tốt hay xấu không hoàn
toàn phụ thuộc vào nơi họ sống mà phụ thuộc vào chính bản thân họ.
2.3.2.2. Bi kịch tình yêu và hôn nhân
Xoay quanh vấn đề tình yêu, hôn nhân, Jhumpa đã dựng nên những câu
chuyện về sự rạn nứt trong gia đình, niềm đam mê bị bóp nghẹt hay những mối tình
định mệnh, những cuộc chia tay đẫm lệ…
Chuyện nhất thời viết về cuộc hôn nhân bế tắc giữa Shoba và Shukuma. Hôn
nhân của họ là kết quả của một tình yêu lãng mạn thời hiện đại. Thế nhưng, hạnh
phúc mất dần từ khi Shukuma thất nghiệp và kết thúc thật sự sau cái chết của đứa
con chưa kịp chào đời. Shoba không còn tỉ mỉ nấu nướng, không còn dự trữ thức ăn
như ngày nào nữa. Hai vợ chồng tự phục vụ các bữa ăn để tránh mặt nhau.
Shukuma mang đĩa thức ăn của mình vào phòng làm việc, để cho thức ăn nguội
lạnh trên bàn trước khi cẩu thả cho vào miệng, còn Shoba thì mang đĩa thức ăn của
mình vào phòng khách, vừa ăn vừa xem ti vi.
Điện lực sửa đường dây, một chuyện nhất thời, lại trở thành chiếc cầu nối cho
mối quan hệ lỏng lẻo của họ. Mọi hoạt động bình thường bị gián đoạn. Họ có dịp
ngồi lại với nhau, chơi trò chơi nói thật hay nói đúng hơn là họ thú tội với nhau –
những cái nhỏ nhặt mà họ đã làm thương tổn nhau và thương tổn chính bản
thân mình. Shukuma nói về chuyện anh gian dối trong kỳ thi, về chuyện có lần anh
đã cắt bức ảnh một phụ nữ trong cuốn tạp chí và giữ nó trong cuốn sách của anh
suốt một tuần, về chuyện anh đã đổi thành tiền chiếc áo vét mà Shoba tặng nhân kỉ
niệm ngày cưới. Còn Shoba thì thú nhận rằng cô đã tránh mặt khi mẹ chồng viếng
thăm bằng cách đi chơi với một người đàn ông khác, rằng cô đã không nhắc nhở
anh khi ở trên cằm anh có dính một tí đồ ăn trong lúc nói chuyện với trưởng khoa,
rằng cô không thích bài thơ mà Shukuma đã làm đăng trên một tạp chí văn học…
Điều thú nhận sau cùng của Shoba là cô đã tìm được một căn hộ riêng cho mình, kết
thúc những ngày tháng nặng nề; còn của Shukuma là anh đã xin với bác sĩ được gặp
mặt đứa con, ôm ắp nó vào lòng để vơi niềm đau khổ, rằng anh đã giấu Shoba điều
này vì anh còn yêu cô, tôn trọng những điều cô muốn che giấu. Trớ trêu thay, cho
đến khi quyết định xa nhau, họ mới chợt nhận ra giá trị của lòng chân thành trong
cuộc hành trình kiếm tìm hạnh phúc.
Là nền tảng của hôn nhân, xưa nay tình yêu được xem là loại cảm xúc mạnh
mẽ nhất, tự do nhất. Nó vượt qua mọi rào cản của màu da, chủng tộc, tôn giáo, tuổi
tác, địa vị… Thế nhưng, dưới sự chi phối của chế độ tập cấp, người Ấn Độ bị buộc
phải kết hôn với người cùng đẳng cấp. Tư tưởng này cắm rễ trong nhận thức của
người Ấn Độ, ngay cả khi họ sống giữa xã hội phương Tây phóng khoáng, tự do. Vì
vậy, khi yêu hay kết hôn, thế hệ con cháu của người Ấn nhập cư phải tuân theo một
quy tắc bất di bất dịch do cha mẹ đặt ra. Đó là phải kết hôn đồng chủng, tức là
phải lấy người Ấn Độ, rằng như thế mới đảm bảo một cuộc hôn nhân bền vững,
bằng ngược lại (tức là lấy người Mỹ) thì tất yếu dẫn đến ly dị. Jhumpa Lahiri đã thử
nghiệm điều này theo cách riêng của mình qua hai tập truyện.
Trong Người dịch bệnh, ông bà Das yêu nhau nhờ vào sự sắp xếp của hai bên
gia đình và kết hôn khi đang học đại học. Hôn nhân khiến bà Das bị cô lập, không
có bạn thân, không có ai đáng tin cậy để thổ lộ tâm sự, để chia sẻ những ý nghĩ
thoáng qua hay nỗi lo âu. Bà thấm nhuần văn hóa Mỹ nhưng lại có cuộc sống của
người vợ, người mẹ Ấn Độ. Những đam mê bị bóp nghẹt vì sự vô tâm của chồng, vì
“suốt ngày ở nhà với con giữa đóng đồ chơi vướng víu” [17, tr. 95]. Cảm giác bực
bội rã rời và uất tức đẩy bà đến với người đàn ông xa lạ rồi sinh ra Bobby. Bí mật
này khiến bà mệt mỏi và đau khổ suốt tám năm. Bà trở thành một người: “chẳng
yêu chồng, cũng chẳng yêu con cái, người đã mất lòng yêu cuộc sống” [17, tr. 97].
Trái ngược với bà Das, Miranda (Gợi tình) yêu một người đàn ông đã có gia
đình, hơn nữa còn bị anh ta lừa dối. Cô nhận ra sự lừa dối ấy sau lần đối mặt với
tình huống dở khóc dở cười. Đó là khi Rohin – con trai chị họ của Laxmi khen ngợi
cô bằng từ “gợi tình”, điều mà Dev hay thì thầm bên tai cô và cô tưởng rằng từ ngữ
ấy chỉ của riêng Dev dành tặng cô, song nó lại là tiếng nói chung của những người
đàn ông phụ bạc – như bố của Rohin. Miranda hình dung trong đầu cảnh tượng
những cuộc cãi vã, rồi nhớ lại tiếng thì thầm ấm áp của Dev. Cô khóc thật nhiều và
đau đớn nhận ra rằng không thể kéo dài cuộc tình này vì như thế là: “không công
bằng với cô, với vợ anh, rằng họ, cả hai người, xứng đáng với những điều tốt đẹp
hơn” [17, tr. 158].
Dường như, việc trưởng thành trên những vùng đất lạ đã khiến cho cuộc sống
của thế hệ con cháu Mỹ quốc trở nên phức tạp và khó đoán định, nhất là trong tình
yêu và hôn nhân, thậm chí những rắc rối nhỏ nhặt mà người bình thường đều có
thể tránh được cũng có thể trở thành bi kịch đối với họ. Câu chuyện về đôi vợ
chồng trẻ Sanjeev và Twinkle (Ngôi nhà được ban phước) là một thí dụ. Họ quen
biết nhờ sự sắp xếp của cha mẹ hai bên, rồi yêu nhau và kết hôn. Họ tìm mua được
căn nhà để xây tổ ấm. Vậy mà vì sự hiện diện của các vật dụng Thiên chúa giáo
trong căn nhà mới mua đã làm họ trở nên xa cách. Sanjeev hoài nghi tình yêu dành
cho Twinkle, thấy tiếc: “những bức ảnh mẹ vẫn hay gởi cho anh từ Calcutta chụp
những cô dâu anh có thể lựa chọn, những người biết múa hát, may vá và thêm gia
vị vào món đậu lăng mà không cần xem sách dạy nấu ăn” [17, tr. 210]. Sự kết hợp
giữa một người đàn ông Ấn Độ truyền thống như Sanjeev với một phụ nữ gốc Ấn
đã bị Mỹ hóa như Twinkle đã làm nảy sinh bao điều bất ổn trong cuộc sống của họ.
Họ không thể hiểu và cảm thông khi đang cùng chung sống dưới một mái nhà.
Có thể thấy, hôn nhân đồng chủng chưa chắc đem lại hạnh phúc cho những
người Ấn Độ. Điều này hướng chúng ta đến với cuộc thử nghiệm thứ hai của
Jhumpa trong những cuộc hôn nhân dị chủng.
Ruma (Vùng đất lạ) đã tranh đấu đến cùng để được kết hôn với Adam – một
người đàn ông Mỹ. Cô bác bỏ cách suy luận của mẹ rằng: “anh sẽ ly dị, rằng sau
cùng anh sẽ muốn có một cô gái Mỹ, rằng cô sẽ xấu hổ về chính mình, về việc là
người Ấn Độ” [18, tr. 33]. Cô và Adam sống với nhau đầm ấm và hạnh phúc. Song,
đôi lúc Ruma lại ưa thích sự cô đơn và cảm thấy rằng việc Adam thường có mặt ở
nhà sẽ làm cho quan hệ của họ tồi tệ hơn. Phải chăng đó chính là khoảng cách vô
hình trong tình yêu dị chủng mà Jhumpa Lahiri đã tinh tế nhận ra từ những quan
sát thực tế của bản thân mình?
Với Lựa chọn nơi cư trú, Jhumpa tiếp tục kể về cuộc hôn nhân giữa anh chàng
Ấn Độ Amit với cô gái Mỹ Megan. Amit yêu Megan vì những điều mà cha mẹ anh
không thể chấp nhận: gương mặt không trang điểm, mái tóc nâu uốn lượn, đôi mắt
nhạy bén ẩn sau cặp kính, chiều cao một mét bảy và sự cứng cỏi của một người lớn
hơn anh năm tuổi. Anh đã bỏ ngoài tai những lời ngăn cản quyết liệt của cha mẹ để
lấy Megan. Sau hôn nhân, với công việc ít bận rộn hơn, anh đã thay vợ làm việc nhà
và chăm sóc con cái. Cuộc sống có vẻ như đạt được cái mà người ta gọi là hạnh
phúc. Tuy nhiên, trong thâm tâm Amit vẫn chất chứa bao phiền muộn về việc các
con anh không có mối liên hệ nào với đất nước và con người Ấn Độ, rằng Megan đã
quá ham mê công việc xã hội, cô không phải là con người của gia đình: “Anh cảm
thấy có cùng nỗi tức giận vẫn chụp lấy anh sau khi anh dọn dẹp nhà bếp, tắm rửa
cho Maya và Monika rồi đặt chúng vào giường ngủ, xem truyền hình một mình, biết
rằng anh đã trông các con suốt một ngày nữa, rằng Megan lại không thuộc về một
phần của ngày đó. Cô sống trong căn hộ, cô ngủ trong giường anh, trái tim cô
không thuộc về ai ngoài anh và những đứa con gái, ấy vậy mà rất nhiều lần anh
cảm thấy đơn côi và nhiều lần anh đã ghét Megan” [18, tr. 143].
Ba truyện liên hoàn ở cuối tuyển tập kể về một cuộc tình định mệnh giữa
Hema và Kaushik. Gốc gác Ấn Độ tạo cơ hội cho họ biết nhau, rồi cách xa, rồi gặp
lại, rồi yêu nhau, rồi vĩnh viễn mất nhau trong tiếc nuối âm thầm.
Về phía Hema, lúc 6 tuổi, cô đã được gặp Kaushik, gắn kết với anh bằng
những món đồ mà mẹ anh để lại. Hema đã tiếp nhận những thứ ấy hết sức miễn
cưỡng vì thấy chúng thật xấu xí, thậm chí ghét chúng đến nỗi ghét luôn cả chủ nhân
của chúng. Đến năm 16 tuổi, Kaushik tiếp tục hiện diện trong cuộc đời của Hema
theo một cách thức khác. Cô đón cả nhà anh đến ở nhờ, nhường căn phòng của
mình cho anh, theo anh vào khu rừng bên cạnh, được anh nói cho biết về căn bệnh
của mẹ anh, rằng bà sắp chết và cô đã khóc, trở nên “xấu xí” trước mặt anh. Đến
năm 37 tuổi, sau bao năm miệt mài học tập, sau cuộc tình chẳng đi đến đâu với
Julian, sau khi chấp nhận một đám cưới do gia đình hai bên thu xếp với Navin, cô
gặp lại anh. Cô ngã ngay vào vòng tay anh như thể cô thuộc về anh tự thuở nào.
Nhưng cô lại từ chối lời đề nghị tha thiết của anh:
- Đi với anh nhé!
- Quá muộn rồi, Kaushik
Bởi “cô không thể từ bỏ cuộc đời cô, không thể đi với anh theo cách ấy, rằng
cô không kỳ vọng có anh, không muốn thử làm thay đổi anh, không muốn một ngày
kia cô sẽ bị kết án vì đã dìm anh xuống” [18, tr. 408]. Quyết định của Hema làm
cho Kaushik chìm sâu vào bi kịch đời mình. Không có Hema bên cạnh, anh lại một
lần nữa mất phương hướng (như lần mẹ anh qua đời). Hema và mẹ anh là hiện thân
của quá khứ đồng thời cũng là tương lai của anh: “người có hiểu biết nào đó về quá
khứ của anh và cũng là người đàn bà duy nhất anh muốn duy trì mối liên lạc” [18,
tr. 412]. Anh cảm thấy mình mất tất cả. Anh tìm về với biển, nơi cất giữ xương cốt
của mẹ, để bà thấy rằng anh không sợ hãi, và rồi anh để mình trôi đi, kết thúc khúc
Ballad bằng những ca từ đong đầy tiếc nuối, bi thương…
Như vậy, trong tình yêu và hôn nhân, Jhumpa Lahiri không cổ vũ hay chê
trách bất kỳ dạng thức kết hợp nào. Đồng chủng hay dị chủng cũng đều ẩn chứa
hạnh phúc và bất hạnh. Ẩn số hạnh phúc nằm ngay trong mỗi người: nó sẽ được giải
mã khi họ biết lựa chọn và chấp nhận.
2.3.3. Diễn ngôn người vô xứ
Truyện của Jhumpa phản ánh sự nhận thức về thân phận người di cư. Ngòi bút
của tác giả vượt qua mặc cảm tha hương, sự kì thị chủng tộc để khám phá những ẩn
chứa sâu kín của thân phận Người. Cho nên, diễn ngôn trong truyện của Jhumpa
Lahiri không chỉ là tiếng nói của riêng người Ấn Độ tha hương mà còn là tiếng nói
2.3.3.1. Vô sở cứ
chung của những người vô xứ.
Bản sắc bao giờ cũng gắn liền với một nơi chốn nhất định – cái nơi được gọi là
nhà hoặc quê nhà. Tuy nhiên đối với người vô xứ, việc định vị nhà hay quê nhà trở
thành một bài toán khó. Cái nơi chốn của nhà có thể là ở mọi nơi hay không ở đâu
cả (everywhere and nowhere). Không gian sống của họ là phi hạn định. Nó nằm
giữa hoặc vượt qua mọi biên giới rào cản. Các nhân vật trong truyện của Jhumpa
luôn ở trong tình thế ấy, luôn gắn liền với sự thay đổi chốn ở: từ Ấn Độ qua Anh
Quốc đến Hoa Kỳ và ngược lại, thậm chí còn nhiều hơn. Cha mẹ Amit (Lựa chọn
nơi cư trú) bắt đầu từ Ấn Độ, rồi đến Hoa Kỳ, sau chuyển về Ấn Độ, sau đó lại trở
lại Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ, họ chuyển từ Boston đến Houston, sau lại chuyển đến
Lausanne, Thụy Sĩ. Họ cứ đi lại giữa các quốc gia, đi qua những biên giới, những
giới hạn để tìm chỗ an cư.
Ngoài mục tiêu an cư, có những nhân vật thực hiện những chuyến đi vì thấy
mình không thể gắn bó hay ràng buộc ở bất kỳ nơi nào. Những chuyến đi sẽ giải
phóng họ khỏi áp lực và trách nhiệm như trường hợp của Cha Ruma (Vùng đất lạ).
Ông đi du lịch khắp nơi vì: “không muốn là một phần của gia đình khác, một phần
của khối hỗn độn, của những bực bội, những đòi hỏi sức lực phải có cho nó. Ông
không muốn sống bên lề cuộc đời con gái ông, trong bóng mát cuộc hôn nhân của
cô. Ông không muốn sống lại một lần nữa trong căn nhà to lớn, tràn ngập đồ đạc
qua nhiều năm tháng” [18, tr. 67]. Còn với Kaushik (Cuối năm, Trôi giạt vào bờ),
những chuyến đi giúp anh quên đi nỗi đau riêng. Anh đi mà không bận tâm lấy một
cái bản đồ, không cầu mong có ai đó làm bầu bạn, ý thức rằng: “chẳng có gì tồn tại
trong một thời gian dài”, “không ai trên cõi đời này biết tôi đang ở đâu, không ai
có đủ khả năng tiếp cận tôi. Nó giống như tình trạng chết” [18, tr. 366]. Anh muốn
những chuyến đi của mình khác với những lần gia đình anh dọn nhà, rằng: “trong
vòng mười phút anh có thể sẵn sàng trên đường đi đến bất kỳ nơi nào trên thế giới,
bất cứ nơi đâu anh hạ cánh, chẳng hình thành gắn bó và ràng buộc” [18, tr. 391].
Như vậy, người vô xứ trong quan hệ với trú xứ, là người “vô sở cứ”, những
chuyến đi của họ nhằm xác định: “mình không có một nơi chốn, không đặt mình vào
một truyền thống nào”. [45].
2.3.3.2. Bản sắc kép
Các nhân vật của Jhumpa thường được định danh bằng một cụm từ có gạch
nối: Indian-American (Người Mỹ gốc Ấn). Cụm từ này thể hiện bản sắc kép ở họ.
Nói họ là người Mỹ cũng đúng, là người Ấn Độ cũng không sai. Có điều, ở đâu họ
cũng chỉ giống người bản xứ một nửa, tức là ở đâu cũng có thể được chấp nhận hay
loại trừ. Điều đáng nói ở đây là hai di sản trong một bản ngã có mối quan hệ nghịch
chiều, có nghĩa là khi không sống ở Ấn Độ, các nhân vật cảm thấy mình là người
Ấn Độ hơn cả, còn khi sống ở quê nhà thì con người châu Âu, châu Mĩ trong họ lại
trỗi dậy mạnh mẽ. Thế nên một nửa họ là người tự do, nửa kia là kẻ lưu đày: “Ở
người Mỹ gốc Ấn có một sự ngăn cách riêng biệt khi nó đi đến biểu hiện ý niệm về
quê nhà. Đâu là quê hương? Nó không thể là nước Mỹ khi chúng ta là người Ấn Độ,
luôn luôn cảm thấy không được chấp nhận, sẽ luôn có một điều gì đó làm chúng ta
khác với mọi người. Và nó cũng không phải là Ấn Độ khi chúng ta sống cuộc sống
của người Mỹ. Chúng ta nằm giữa và kết hợp hai nền văn hóa khác nhau, các giá
trị bị pha loãng từ hai phía, không bao giờ có sự hiện diện mạnh mẽ trong cả hai.
Người Mỹ nhìn bạn là một người khác vì bạn có làn da nâu. Người Ấn Độ tự hỏi về
diện mạo bên ngoài của bạn, một hỗn hợp không thích hợp của da nâu và giọng
Mỹ. Vì vậy, chúng ta thuộc về nơi nào? Chúng ta luôn cam chịu sống trong sự
không chắc chắn của các dân tộc lai ghép” [65].
Jhumpa Lahiri thể hiện bản sắc kép ở những người Ấn Độ nhập cư trên nhiều
phương diện: tên gọi ghép đôi (Miranda – một phần tên cô là tên Ấn Độ; Rahul –
có thể tự giới thiệu mình là Raoul; Sangeeta – có thể gọi là Sang…); thức ăn kết
hợp (nhân dừa trong chiếc bánh Nice; bánh mì sandwich có cà ri khoai tây…);
ngôn ngữ kép (tiếng Anh của người Ấn)… Ở mỗi phương diện, tác giả lột tả một
cách tỉ mỉ những khía cạnh khuất lấp, những mâu thuẫn nội tâm của nhân vật để độc
giả thấu hiểu tại sao họ có thể bơi trải giữa một bên là sự phai mòn văn hóa cội
nguồn và một bên là sự tiếp biến văn hoá Âu – Mỹ.
2.3.3.3. Triết lí “một cộng một bằng hai”
Những người vô xứ thường bị đè nặng bởi cảm giác bị phân mảnh bản sắc, làm
họ bị kéo theo hai hướng ngược nhau. Để thoát khỏi tình trạng lấp lửng văn hóa, họ
nhận thấy rằng cần phải nhặt những mảnh phân tán, cố gắng kết hợp chúng lại với
nhau theo bất kỳ phương cách nào có thể để tạo ra một danh tính gắn kết, tức là
sống theo triết lí “một cộng một bằng hai”. Lahiri giải thích: “Các giá trị truyền
thống ở hai bên dấu gạch ngang ngự trong tôi như anh em ruột, mặc dù, thỉnh
thoảng vẫn có sự đối chọi nhau. Nhưng giống như anh em, chúng quen thuộc với
nhau, tha thứ và hòa quyện vào nhau. Khi còn nhỏ tôi tìm cách hoàn thiện bản thân
và vì vậy đã phủ nhận nhu cầu của chính mình trong việc nhận dạng bản thân. Khi
trưởng thành, tôi chấp nhận rằng, sự giáo dục của hai nền văn hóa là một điều
phong phú nhưng không hoàn hảo” [71]. Jhumpa Lahiri đã khẳng định sức mạnh
của cách sống này trong Lục địa thứ ba, lục địa cuối cùng. Sự thành công của nhân
vật trong truyện cho chúng ta một kinh nghiệm quý báu rằng nhà ở đâu không quan
trọng, cái cốt lõi là chúng ta có một ý thức mạnh mẽ, biết bản thân và nguồn gốc
của bản thân. Đó là cách chúng ta sẽ đạt được tuổi thọ trăm năm như bà Croft. Đó là
cách chúng ta tồn tại trên cả ba châu lục như người kể chuyện, như Lahiri và gia
đình cô.
Tóm lại, trong bối cảnh toàn cầu hóa, người vô xứ với tính chất vượt biên,
xuyên chủng tộc, xuyên quốc gia trở thành hình ảnh phổ quát của con người hiện
đại. Hành trình sống của họ giúp chúng ta nhận ra một chân lí: Nơi ta cảm thấy
gần gũi, gắn bó không nhất thiết là nơi chôn nhau cắt rốn mà là nơi ta hình
thành bản ngã của mình. Nơi chốn đó có thể không có trên bản đồ.
Chương ba : HÌNH TƯỢNG KHÔNG GIAN DI CƯ TRONG TRUYỆN NGẮN JHUMPA LAHIRI
3.1. Khái niệm không gian nghệ thuật
Không gian là một phạm trù triết học chỉ hình thức tồn tại của vật chất, của thế
giới. Không có gì tồn tại ngoài không gian và thời gian.
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê định nghĩa: “Không gian là khoảng
không bao la trùm lên tất cả sự vật hiện tượng xung quanh đời sống con người” [22,
tr. 633].
Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới viết: Không gian là biểu tượng chung
của môi trường, ở bên ngoài hay bên trong, mà bất kỳ một sinh thể nào, cá thể hay
tập thể đều hoạt động trong đó. Không gian gắn không tách rời với thời gian, vừa
là nơi chứa đựng những gì có thể xảy ra – theo ý nghĩa nào đó, nó tượng trưng cho
trạng thái hỗn mang của các gốc nguồn – vừa là nơi chứa đựng những gì đã thực
hiện – khi đó nó tượng trưng cho vũ trụ, cho thế giới đã được tổ chức [5, tr. 486].
Không gian nghệ thuật là khái niệm của thi pháp học. Trong Tuyển tập Trần
Đình Sử, Trần Đình Sử định nghĩa: “không gian nghệ thuật chỉ hình thức tồn tại
của thế giới nghệ thuật, là sự mô hình hoá thế giới của tác giả. Không gian nghệ
thuật trong tác phẩm mang tính biểu trưng và quan niệm” [28, tr. 120]. Do đó,
thông qua việc tìm hiểu không gian nghệ thuật, chúng ta có thể hiểu được quan
niệm thẩm mĩ, trình độ tư duy cũng như tâm lí sáng tạo của con người ở những thời
điểm và địa điểm mà tác phẩm ra đời.
Trần Đình Sử còn khẳng định: “không có hình tượng nghệ thuật nào không có
không gian, không có một nhân vật nào không nào không có một nền cảnh nào đó”,
và “không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con
người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống” [28, tr. 88 - 89]. Như vậy,
không gian nghệ thuật là phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật,
trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời sống “mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật”.
Tóm lại, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật.
Không gian nghệ thuật không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học,
các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy những quan niệm về thế giới, chiều sâu
cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để
khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ
thuật. Vì vậy không thể tách hình tượng ra khỏi không gian mà nó tồn tại.
3.2. Các dạng thức không gian trong truyện ngắn Jhumpa Lahiri
3.2.1. Không gian quê nhà (home-country)
Viết về quê nhà từ bên ngoài, nhà văn di dân có một lợi thế nhất định. Họ viết
bằng một bản ngã vừa đa tạp, vừa thành phần. Đa tạp trong tiếp nhận và thực
hành nhiều giá trị văn hóa khác nhau, thành phần khi so sánh với dân bản xứ hay
người cùng giống nòi trong nước. Vì là kẻ vừa ở trong, vừa ở ngoài quê hương nên
diễn ngôn của nhà văn di dân có khả năng dung chứa được những dị biệt đa dạng.
Khi nói tới quê nhà là liên hệ đến: chỗ ở (shelter), môi trường nuôi dưỡng
(nurture) và sự bảo bọc (protection). Quê nhà luôn gắn liền với chủ thể (subject),
với nỗi ham muốn dù được thỏa mãn hay bị chối từ của từng người trong những
hoàn cảnh khác nhau. Đặc biệt, quê nhà có ý nghĩa sâu sắc đối với những ai mất
nhà, không có nhà và xa nhà. Hiểu như vậy, chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi
những nhà văn hiện đang sống trên quê hương của mình đã không bị dằn vặt quay
quắt về vấn đề này như là các nhà văn di dân.
Với mục tiêu viết là một cuộc viễn du về với cội nguồn, Jhumpa Lahiri đã tái
hiện lại không gian quê nhà Ấn Độ với đủ gam màu sáng tối, với mọi thời điểm từ
quá khứ đến hiện tại, với đủ âm điệu buồn vui, có cả bình yên lẫn bất ổn, cả những
điều đáng khâm phục lẫn chê trách. Dưới đây, chúng tôi dựa vào phương thức tái
hiện để tiến hành phân loại không gian quê nhà trong tác phẩm của nhà văn trẻ này.
3.2.1.1. Không gian quê nhà trong ký ức
Nổi lên trong truyện ngắn Jhumpa Lahiri là không gian quê nhà đã mất, còn
chăng chỉ là dư vị thấp thoáng không thể xóa nhòa trong tâm trí các nhân vật. Đó là
nơi thế hệ thứ nhất được sinh ra và lớn lên, là nơi mà từ đó họ ra đi để tìm chốn
dừng chân mới. Đối với cô Sen (Ngôi nhà của cô Sen), nơi đó chính là vùng đất
Bengal giàu truyền thống – nơi sinh sống của những người lao động chất phác, nhân
hậu, luôn coi trọng tình làng nghĩa xóm, sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ nhau những lúc
vui buồn, và cũng là nơi nổi tiếng với đặc sản cá tươi. Ăn cá trở thành thói quen văn
hóa của họ: “Ở Ấn Độ bữa sáng người ta ăn cá, món họ ăn cuối cùng trước khi đi
ngủ cũng là cá, cá cũng là bữa ăn nhẹ sau khi từ trường về. Họ ăn đuôi, ăn trứng,
thậm chí ăn cả đầu. Cá có ở bất cứ chợ nào, vào bất cứ giờ nào, suốt từ sớm tinh
mơ cho tới nửa đêm” [17, tr. 177]. Cô Sen nhớ tất cả những điều đó và mong muốn
được chia sẻ nó với mọi người để phần nào vơi đi nỗi nhớ quê hương.
Ở nhiều trường hợp khác, quê nhà trong ký ức của những người di dân gắn liền
với hình ảnh ngôi nhà che nắng, che mưa. Những người xuất thân từ gia đình giàu
có thì nhớ về những ngôi nhà, căn hộ xinh đẹp với “những cây dâm bụt và bụi hồng
nở hoa trên mái nhà” [18, tr. 293] ở mặt tiền, gần tuyến xe điện, xe buýt. Ở đó, họ
được sống sung sướng, được học ở trường nội trú, được đi nghỉ hè trên những vùng
đồi núi. Tuy nhiên, bức tranh quê nhà Ấn Độ không chỉ dừng lại ở những gam màu
sáng đó mà còn có không ít những sắc màu buồn hiện lên qua hình ảnh những căn
hộ chật hẹp và cáu bẩn, những cái nhà xí “chẳng có gì hơn là một phần nền nhô lên
có cái lỗ” [18, tr. 81], hay những căn phòng chẳng hề có lấy nổi một bức tranh treo
tường. Song, dù giàu sang hay nghèo hèn, những ngôi nhà Ấn Độ vẫn có điểm
chung đáng nhớ: “những con thạch sùng bám vào tường vào mỗi buổi tối, thụt ra
thụt vào những chụp đèn huỳnh quang, những con gián khổng lồ cứ đứng nhìn
người ta tắm” [18, tr. 293].
Một điều làm cho người đọc cảm thấy chạnh lòng khi bước vào thế giới nghệ
thuật của Jhumpa Lahiri là tác giả thường xuyên khắc họa không gian quê nhà bị
ám ảnh bởi cái chết – cái chết của đồng bào vì chiến tranh và cái chết của người
thân vì bệnh tật.
Chiến tranh, nổi loạn, những đợt giới nghiêm hay biểu tình là những hình ảnh
thường thấy ở Ấn Độ. Nó là nguyên nhân khiến cho nhiều người bỏ quê nhà ra đi để
tìm con đường sống cho mình. Cha mẹ Lilia (Khi bác Pirzada đến ăn tối), cha mẹ
Amit (Lựa chọn nơi cư trú) đã hành động như thế để con cái có cuộc sống tốt đẹp
hơn. Nhưng không vì thế mà họ quên đi những ám ảnh về chiến tranh trong tâm trí.
Họ vẫn thường xuyên nghĩ về cảnh: “ăn uống theo khẩu phần” hay “giấu hàng
xóm trong bể nước để họ không bị bắn chết” [17, tr. 45]. Không gian quê nhà trở
thành không gian bị xa lánh, biểu hiện tâm thế nửa vời của những người Ấn Độ
lưu vong. Họ không quên cội nguồn nhưng không hề có ý định quay lại.
Ở trường hợp thứ hai, các nhân vật bị mất người thân do bệnh tật thường nghĩ
đến ngôi nhà đã từng gắn bó với người ấy. Nhân vật tôi (Lục địa thứ ba, lục địa
cuối cùng) nhớ đến căn phòng nơi mẹ trút hơi thở sau cùng. Nơi ấy lưu giữ lối sống
phụ thuộc của bà vào người chồng. Sau khi ông qua đời, bà đã phát điên, đã cởi trần
truồng đi đến tận bến xe và còn nghịch cả phân của mình. Những điều này làm ông
đau đớn. Qua bao nhiêu năm, ông vẫn nghĩ về căn phòng bị bỏ trống của mẹ. Không
gian trống là hiện thân của mất mát. Đối với những người di cư, mất người thân
đồng nghĩa với mất đi sợi dây nối kết họ với cội nguồn. Kaushik (Cuối năm) là một
thí dụ điển hình nhất. Calcutta là nơi lưu giữ nguyên vẹn những gì thuộc về người
mẹ quá cố của anh. Đó là căn nhà nơi mẹ từng là một thiếu nữ: “làm rơi rớt các
loại kem bôi và phấn đánh trên bàn trang điểm”, là nơi bà tồn tại qua: “tấm ảnh có
kích cỡ to hơn người thực được quấn một vòng hoa huệ trắng”. Những lúc nghĩ về
nơi ấy, anh rất buồn, cảm giác giống như thả rớt một cái neo xuống người. Sự ra đi
của bà đã làm anh mất thăng bằng trong cuộc sống.
Tóm lại, với thân phận lưu vong, những người di cư xem như đã đánh mất quê
hương mặc dù nơi chốn ấy luôn là ám ảnh day dứt đối với họ. Nó một mặt biểu hiện
trạng thái yếu đuối của tâm hồn, mặt khác cho thấy tinh thần dân tộc khi con người
thể nghiệm độ căng giữa hai nền văn hóa.
3.2.1.2. Không gian quê nhà qua phương tiện truyền thông
Trong xã hội hiện đại, phương tiện truyền thông (ti vi, internet, sách…) phát
triển mạnh mẽ. Điều này dẫn đến sự hình thành một dạng thức không gian đặc biệt:
không gian rỗng, nơi sự tương tác giữa người và người vẫn có thể được tiến hành
mà không cần sự hiện diện mặt-đối-mặt trên cùng một địa điểm. Đây là một trong
những hình tượng không gian độc đáo được khắc họa trong truyện ngắn Jhumpa
Lahiri (chủ yếu là truyện Khi bác Pirzada đến ăn tối). Thông qua chúng, tác giả đưa
độc giả về lại quê nhà, buồn vui với những cảnh đời ở bên kia bờ đại dương.
Trong truyện, chiếc ti vi với chương trình thời sự giúp cả nhà Lilia và bác
Pirzada nắm bắt tình hình nội chiến đang diễn ra tại Ấn Độ. Tối tối họ dùng bữa và
dán mắt vào chiếc ti vi. Hình ảnh quê nhà cứ thế hiện lên “Vào tháng ba Dacca bị
quân đội Pakistan bao vây, thả bom và xâm chiếm. Giáo viên bị đẩy ra đường và bị
bắn giết, phụ nữ bị lôi vào các nhà kho và bị hãm hiếp” [17, tr. 40]. Xem ti vi trở
thành thói quen và nhu cầu không thể thiếu đối với các thành viên trong gia đình.
Cứ đến tối là họ chờ bản tin thời sự lúc sáu giờ rưỡi. Qua màn ảnh nhỏ, họ nhìn thấy
xe tăng trườn qua những con phố bụi bặm, những tòa nhà đổ nát, nơi những người
Đông Pakistan đến ẩn náu, tìm kiếm sự bình yên bên kia biên giới Ấn Độ, những
con thuyền với những cánh buồm hình cánh quạt trên những dòng sông rộng màu
nâu, một trường đại học xung quanh có chướng ngại vật, những tòa soạn báo chí bị
đốt cháy. Những hình ảnh trên kênh truyền hình được phát đi qua nửa vòng trái đất
làm bận lòng những người con tha hương: bác Pirzada “có một vẻ bất động, bình
tĩnh nhưng hết sức cảnh giác, như thể ai đó chỉ dẫn bác tới một địa điểm xa lạ” [17,
tr. 52], Lilia “lòng thắt lại, lo lắng không biết liệu vợ và bảy cô con gái có trong
đám đông trôi nổi, la hét thoáng qua trên màn hình ti vi” [17, tr. 53]. Lilia dần dần
hình thành tình cảm với những vùng đất mà cha mẹ em và bác Pirzada gọi là quê
hương. Nó thôi thúc em chăm chú nhìn vào tấm bản đồ, dõi theo ngón tay của bố,
qua Đại Tây Dương, qua châu Âu, qua Địa Trung Hải, Trung Đông và cuối cùng tới
vùng đất rộng màu vàng cam, nơi: “có lần mẹ nói trông giống như người phụ nữ
mặc sari đang dang cánh tay trái ra. Những thành phố khác nhau được khoanh
tròn. Những đường nối chúng lại chỉ ra những chuyến đi của cha mẹ. Nơi họ sinh
ra, Calcutta được đánh dấu bằng một ngôi sao nhỏ” [17, tr. 44] và quyết tâm tìm
đến cuốn sách: Pakistan: đất nước và con người trong thư viện. Cuốn sách cung cấp
cho em hình ảnh “sông hồ, cánh đồng lúa, mùa mưa ở Dacca và việc sản xuất đay”
[17, tr. 56].
Tình cảm đối với quê hương xứ sở đã được Jhumpa thể hiện thông qua việc
các nhân vật tìm kiếm hình ảnh quê nhà qua ti vi, sách và bản đồ. Ngồi bên ngoài
quan sát, theo dõi, tất cả họ đều hành động như thể là một người duy nhất, chia sẻ
với nhau một bữa cơm duy nhất, một cơ thể duy nhất, một sự im lặng duy nhất, một
nỗi sợ duy nhất. Sự thống nhất ấy khẳng định mối liên kết thiêng liêng giữa họ với
nhau và với cội nguồn của mình.
3.2.1.3. Không gian quê nhà qua ống kính
Đất nước và con người Ấn Độ có lần đã xuất hiện trực tiếp trong truyện Người
dịch bệnh. Đây là câu chuyện kể lại chuyến về thăm quê hương của gia đình ông
Das – một gia đình người Mỹ gốc Ấn. Họ đã thuê một chiếc xe để thực hiện cuộc
hành trình đến tham quan Đền Mặt Trời ở Konarak. Những tưởng rằng khi trực tiếp
đến thăm, các nhân vật sẽ có cơ hội thâm nhập sâu hơn vào di sản Ấn Độ vốn tồn tại
mờ nhạt trong tâm trí họ. Thế nhưng, Jhumpa đã phá bỏ suy luận đó bằng cách cho
tất cả các nhân vật nhìn qua ống kính: ống kính máy ảnh, kính râm, cửa kính
xe, kính chiếu hậu…
Ngồi trong chiếc xe du lịch cửa kính không cuộn xuống, cả nhà ông Das
quan sát cảnh vật hai bên đường. Cậu con trai nhỏ, Bobby thích thú nhìn cây mọc
ven đường, Ronny hét váng lên khi nhìn thấy lũ khỉ tụ tập trên các cành cây. Ông
Das luôn đeo chiếc máy ảnh có “ống kính to khác thường” và liên tục đặt mắt vào
đó quan sát. Ông giơ máy chụp “một người đàn ông chân trần, đầu vấn chiếc khăn
bẩn, ngồi trên nóc chiếc xe chở bao tải lúa do hai con bò kéo. Cả người và vật đều
hốc hác” [17, tr.77]. Hiện thực cuộc sống nghèo khổ đang diễn ra trước mắt ông,
song hình ảnh ấy gây cho ông niềm hứng thú lưu giữ nhiều hơn là sự thương cảm.
Đền Mặt Trời là một trong bảy kì quan của Ấn Độ được Unessco công nhận là
di sản văn hóa thế giới. Chuyến tham quan của gia đình ông Das có ý nghĩa như
một cuộc về nguồn. Nhưng khi đến trước ngôi đền, cả nhà ông lại ngồi trên xe quan
sát nó. Trong điều kiện tầm nhìn bị che chắn, họ nhận biết đặc điểm của ngôi đền:
làm bằng sa thạch, là một khối kim tự tháp hình cỗ xe ngựa… Và Ronny đưa ra lời
nhận xét đầu tiên: “Nó trông giống như sa mạc” [17, tr. 86]. Bước xuống xe, ông
Das cầm ngay chiếc máy ảnh chụp những tấm ảnh bên cạnh cặp sư tử ở bậc tam
cấp, chiếc bánh xe của cỗ ngựa cao hơn đầu người, những trụ ngạch chạm những
hình người khỏa thân đang làm tình đủ các tư thế khác nhau… Ông dự định dùng
những tấm ảnh này làm bưu thiếp Noel năm nay.
Khác với chồng, bà Das cảm nhận thế giới bằng sắc nâu hồng của cái kính
râm. Bà luôn đeo cái kính râm che kín mắt. Từ góc độ này bà nhìn bầu trời qua cửa
sổ, ngắm một đám mây gần như trong suốt trôi nhanh ở trước một đám mây khác,
nhìn con khỉ đang chuyền qua chuyền lại cái que, cảm thấy mọi thứ trước mắt chẳng
có gì đáng bận tâm. Trong suốt câu chuyện, bà chỉ bị thu hút bởi “hình các cặp tình
nhân giao hoan, đàn voi đang đi, những nữ nhạc công để ngực trần đánh trống hai
mặt” và “bà đẩy chiếc kính lên một lúc, sau đó lại đeo vào” rồi mở lời khen “khéo
quá” trước bức tượng thần Surya [17, tr. 87].
Dường như mọi lời nhận xét của các nhân vật về những gì họ trông thấy
đều xuất phát từ một cái nhìn gián cách. Theo cách triển khai của Jhumpa Lahiri
thì kính là biểu tượng cho cái nhìn gián cách, khúc xạ giữa các nhân vật với cuộc
sống và con người xung quanh họ. Cách nhìn ấy làm cho nhận thức của họ về
những di sản của quê nhà trở nên méo mó, biến dạng.
3.2.1.4. Tái thiết không gian quê nhà trên đất khách
Người Ấn Độ luôn có ý thức giữ gìn bản sắc của mình. Cho nên dù đi đâu, làm
gì họ vẫn tìm cách tái thiết không gian quê nhà trên đất khách. Những ngôi nhà của
người Ấn Độ di cư trong truyện ngắn của Jhumpa Lahiri chính là hình ảnh thu nhỏ
của xã hội Ấn Độ với cách bài trí sắp xếp theo phong cách Ấn, những kiểu ăn mặc,
thói quen ăn uống và những mối quan hệ được hình thành theo chế ước của xã hội
Ấn Độ.
Sắc màu truyền thống trong ngôi nhà của người Ấn Độ di cư
Ấn Độ nổi tiếng là một trong những quốc gia yêu thích màu sắc rực rỡ nhất
trên thế giới. Sở thích ấy được thể hiện rõ nét qua việc lựa chọn tông màu vàng cho
các vật dụng trong nhà: từ “chiếc ghế bành bọc vải hoa màu vàng trong phòng
khách” [17, tr. 14] đến “những cái gối màu cam rực rỡ trên ghế sô pha” hay “cái
mền màu nâu vàng nhạt trong phòng ngủ” [18, tr. 288]. Giữa xã hội phương Tây
chuộng sắc trắng tinh khôi, chủ nhân của những ngôi nhà ấy phải đối mặt với một
nghịch lí: duy trì màu sắc rực rỡ trong nhà là lập dị với thế giới xung quanh, nhưng
nếu thay đổi để giống với thế giới xung quanh thì lại lập dị với chính gốc gác của
mình. Vì vậy, Shoba (Chuyện nhất thời) luôn bận tâm chuyện chiếc ghế bành bọc
vải hoa sặc sỡ màu vàng đối chọi với tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ màu xanh; mẹ Hema
(Một lần trong đời) đã thay đổi tấm khăn trải giường màu trắng hồng bằng cái mền
màu nâu vàng khi đón bạn đồng hương. Từ cổ chí kim, nhân loại mặc nhiên công
nhận sự khu biệt giữa hai nền văn hóa Đông Tây. Và Jhumpa Lahiri đã thể nghiệm
điều này một cách nhẹ nhàng, tinh tế qua màu sắc.
Sari – trang phục quê hương
Sari là trang phục truyền thống của người phụ nữ Ấn Độ. Khi khoác lên mình
chiếc áo sari, người phụ nữ Ấn Độ thể hiện được vẻ đẹp rất duyên dáng và huyền bí.
Lịch sử ghi lại, sari lần đầu tiên được nhắc đến trong sử thi của Ấn Độ, và được
xem là một di sản nghệ thuật có 5.000 năm tuổi.
Sari là một mảnh vải khổ 1,2m, dài từ 5 đến 5,5 mét. Tuy chỉ đơn giản là một
tấm vải, nhưng qua bàn tay khéo léo của những cô gái Nam Á, tấm vải này được vắt
lên người và trở thành một bộ trang phục đầy nữ tính và quyến rũ. Điểm duyên dáng
của bộ Sari chính là những nếp gấp dọc theo chân, làn vải mềm ôm lấy thân hình và
tà pallu buông rơi sau lưng người phụ nữ. Chất liệu và họa tiết trên bộ Sari quyết
định đáng kể diện mạo của người mặc. Quấn Sari là cả một nghệ thuật. Có rất nhiều
cách quấn sari, tùy vào từng vùng và tùy vào những dịp khác nhau mà kiểu quấn
sari có biến cách. Tuy nhiên, kiểu phổ biến nhất là kiểu quấn choàng pallu qua vai
trái. Trong các buổi lễ tôn giáo, thay vì được buông tự do qua vai trái thì pallu
thường được các cô gái choàng qua đầu.
Sari có thể có nhiều màu sắc khác nhau. Trước đây, phụ nữ Ấn Độ thường chỉ
mặc áo sari một màu. Xã hội ngày càng phát triển, màu sắc của sari ngày càng trở
nên đa dạng, óng ánh và đường nét trang trí tinh xảo, tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ.
Chất liệu may một bộ Sari thường là silk (lụa), georgette, faux hay chiffon.
Trong xã hội hiện đại, nhiều ý kiến cho rằng áo sari không tiện dụng. Tuy
nhiên, áo sari không hề vắng bóng trong đời sống hàng ngày của người Ấn Độ.
Trong truyện ngắn của Jhumpa Lahiri, thói quen mặc sari vẫn được người phụ nữ
Ấn Độ duy trì thậm chí ngay khi họ đang sống giữa xã hội phương Tây năng động.
Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, hình ảnh chiếc áo sari xuất hiện trên 20 lần
trong các truyện như: Ngôi nhà của cô Sen, Lục địa thứ ba, lục địa cuối cùng, Vùng
đất lạ, Điều tốt đẹp duy nhất và Một lần trong đời.
Đối tượng mặc áo sari là những người phụ nữ Ấn Độ thuộc thế hệ thứ nhất. Bộ
sưu tập áo sari là hành trang quan trọng của họ khi rời khỏi quê hương. Cô
Sen (Ngôi nhà của cô Sen) có đầy những chiếc sari trong tủ quần áo với đủ loại
màu, mẹ Ruma (Vùng đất lạ) có hai trăm mười tám bộ sari. Mặc áo sari là nhu cầu
không thể thiếu của người phụ nữ Ấn Độ, là cách họ phô diễn vẻ đẹp của mình. Vì
vậy, cô Sen đã mặc “một chiếc sari lấp lánh màu trắng có đường họa tiết là những
cánh hoa cong màu vàng cam” để tiếp chuyện với mẹ Eliot; Mala “biến vào phòng
tắm, thay một chiếc sari lụa mới” để đi dạo cùng chồng; mẹ Usha cũng “thay những
bộ sari mới” khi Pranad đến chơi… Có thể nói, áo sari tượng trưng cho di sản của
quá khứ mà người phụ nữ Ấn Độ muốn lưu giữ và muốn trao lại cho con cái. Tuy
nhiên, đối với thế hệ con cháu, áo sari chỉ có ý nghĩa như vật kỉ niệm mà thôi.
Bengali – tiếng nói quê hương
Các thành viên trong những gia đình người Mỹ gốc Ấn thường sử dụng tiếng
Bengali để giao tiếp với nhau. Việc làm này có ý nghĩa tinh thần to lớn, tạo nên mối
liên hệ ràng buộc với nơi chôn nhau cắt rốn, nơi người ta sinh ra và lớn lên. Khi
nhận được thư gửi từ quê nhà, cô Sen (Ngôi nhà của cô Sen) lập tức gọi điện thoại
nói chuyện với chú Sen bằng tiếng Bengali. Cả nhà Lilia (Khi bác Pirzada đến ăn
tối) nói chuyện với nhau bằng tiếng Bengali khi cùng ăn tối với bác Pirzada. Mẹ
Ruma (Vùng đất lạ) đã rất nghiêm khắc trau dồi vốn kiến thức tiếng Bengali cho
Ruma “nhiều đến mức Ruma chẳng bao giờ dám nói chuyện với bà bằng tiếng Anh”
[18, tr. 16]. Và mặc dù không hòa nhập được với ngôn ngữ của cha mẹ, Ruma vẫn
“cố gắng chắp nhặt từ ngữ để nói chuyện với bà dì hay ông cậu gọi điện từ
Calcutta” [18, tr. 16], cố gắng dạy cho đứa con trai vốn kiến thức tiếng Bengali.
Cha Ruma đến thăm con gái cũng tìm cách dạy cháu ngoại nói tiếng Bengali. Mẹ
Usha (Địa ngục – thiên đường) cũng nói chuyện với con gái bằng tiếng Bengali,
nhờ vậy mà Pranad nhận ra đồng hương và có mặt trong cuộc đời của bà. Mẹ Hema
(Một lần trong đời) vẫn kiên trì nói bằng tiếng Bengali bất chấp việc Kaushik trả lời
với bà bằng tiếng Anh.
Tóm lại, những người di cư Ấn Độ đã bất chấp cái nhìn soi mói của cư dân bản
địa, thiết lập nên không gian sống tương thức với bản sắc, qua đó, tạo cho mình
điểm tựa tinh thần để hiện thực hóa ước mơ an cư trên những vùng đất lạ.
Không gian nhà bếp
Có thể nói, nhà bếp là hình tượng không gian độc đáo nhất trong truyện ngắn
Jhumpa Lahiri. Theo quan niệm của người phương Đông, nhà bếp nắm giữ sự thịnh
suy trong gia đình vì nó liên quan trực tiếp đến thực phẩm – nguồn sống của con
người. Vì vậy, khi xây dựng không gian nhà bếp, Jhumpa Lahiri tập trung vào thực
phẩm và triển khai nó như là một biểu tượng bao chứa nội hàm ý nghĩa phong phú.
Thông qua những vật dụng chứa đựng thực phẩm, cách chế biến món ăn và
hành động ăn uống, nhà văn thể hiện ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của
những người Ấn Độ lưu vong, song song đó còn thể hiện tâm tư, tình cảm và mức
độ hạnh phúc của họ trong đời sống hôn nhân gia đình.
Chúng ta biết rằng, bản sắc văn hóa của một dân tộc tồn tại trong ba hoạt động
chính của con người: ăn, mặc, ở. Nhưng câu hỏi về “bản sắc Ấn Độ” của người Ấn
Độ chỉ đạt đến độ sâu sắc khi họ ở nước ngoài, thậm chí có người đã cho rằng làm
người Ấn Độ ở nước ngoài dễ hơn là ở Ấn Độ. Vì khi đó, họ đã vượt qua tính địa
phương về ngôn ngữ, tôn giáo để đi đến cái phổ quát hơn của việc là một người Ấn
Độ. Phạm trù “Ấn Độ” không bị tranh cãi ở nước ngoài như là ở Ấn Độ. Đây có lẽ
là điều đáng chú ý hơn cả, khi người ta xem xét “bản sắc Ấn Độ” của cộng đồng
người Ấn Độ lưu vong thì không như các khái niệm hiển nhiên, hoặc thậm chí hữu
hình như đặc trưng riêng biệt của người Trung Quốc trong cộng đồng người Trung
Quốc lưu vong hay đặc trưng Hồi giáo của người Ả Rập lưu vong. Tiếng Hindi
không ràng buộc với những người Ấn Độ lưu vong theo kiểu tiếng Trung Quốc nắm
giữ cộng đồng người Trung Quốc lưu vong và Ấn Độ giáo cũng không tạo trong
cộng đồng người Ấn lưu vong một vai trò có thể so sánh được với đạo Hồi. Vì vậy,
đối với những người Ấn Độ lưu vong, thực phẩm là yếu tố quan trọng hàng đầu làm
nên sự thống nhất để nhận dạng bản sắc của họ.
Có rất nhiều điểm chung trong cách Jhumpa miêu tả nhà bếp và cách nấu
nướng của những người Ấn Độ lưu vong. Tủ đồ ăn và các giá bếp thường đầy ắp
thực phẩm dự trữ, đa phần là do những người phụ nữ trong gia đình tự chế biến
như: những lọ dầu ô liu, dầu ngô, lọ ớt ướp với lá hương thảo, chai tương ớt, lọ bột
cà chua, bột mận…Vật dụng đựng gia vị thường là những chai lọ thô sơ: “cái đĩa
bằng thép không rỉ đựng một hủ muối bình thường, lọ dưa muối, xoài muối cay,
chanh muối ngọt, nắp đậy của những lọ đó đã mất, nhãn dán của chúng bị dính vết
dơ, những cái muỗng dính chặt bên trong lớp dầu ở những chai lọ đó” [18, tr. 326].
Các bữa ăn thì luôn được chuẩn bị tỉ mỉ, thừa mứa. Shoba (Chuyện nhất thời)
thường nấu những bữa ăn mà trước đấy cô đã mất nửa ngày để chuẩn bị; cô Sen
(Ngôi nhà của cô Sen) hàng giờ ngồi trên giấy báo thái các thứ chỉ để nấu bữa tối
cho cô và chú Sen; mẹ Ruma (Vùng đất lạ): “chẳng bao giờ làm tắt điều gì cả” [18,
tr. 28] để nấu những bữa cơm theo đúng nghi thức mà các ông bà vẫn ăn ở Ấn Độ.
Đây là việc làm duy nhất bà có thể làm để ghi điểm với người chồng khó tính của
mình.
Các món ăn truyền thống Ấn Độ tỏa hương trên từng trang viết của Jhumpa
Lahiri. Theo sự thống kê của chúng tôi, có trên 52 món ăn xuất hiện trong các câu
chuyện, trong đó, nhiều nhất là cà ri (cà ri trứng, cà ri cá thu, cà ri khoai tây, cà ri
thịt cừu…), cơm (cơm nấu với gà và vỏ hạnh, cơm trộn Pullao…) và món dal. Tỏa
ra từ các món ăn là những mùi vị đặc trưng được tạo nên bởi: hạt thìa là, dầu mù tạt,
rau bina, tỏi, gừng, rau quế, hạt mùi tây… Hương vị món ăn hay chính là hương vị
quê nhà đậm đà và sâu lắng, kết hợp với thói quen ăn cơm bốc tay, nó biểu trưng
cho ý thức dân tộc đang ngự trị trong tâm hồn của những người Ấn Độ nhập cư.
Bên cạnh việc thể hiện ý thức giữ gìn bản sắc dân tộc, không gian nhà bếp còn
là nơi Jhumpa Lahiri giúp người đọc khám phá những góc khuất trong tâm hồn của
các nhân vật.
Trong Chuyện nhất thời, những ngày hạnh phúc của Shoba được đánh dấu
bằng hình ảnh nhà bếp ngập tràn các nguyên vật liệu, bằng việc Shoba cứ mua thêm
đồ ăn mãi, nấu những bữa ăn chiêu đãi bạn bè. Khi quan hệ vợ chồng rạn nứt,
Shoba không màn đến việc nấu nướng. Hai vợ chồng tự phục vụ các bữa ăn của
mình.
Trong Vùng đất lạ, mối liên kết duy nhất giữa cha mẹ Ruma là: “khu vườn
trồng tỉa các thứ mà bà thích nấu nướng: cà chua, cà tím, zucchini, khổ qua, ớt đỏ
và những luống rau spina mỏng manh” [18, tr. 22], là chiếc bánh Nice nhân dừa bà
làm cho ông mỗi buổi sáng, là những bữa ăn mà qua đó ông đánh giá bà là một đầu
bếp tuyệt vời. Ngoài những thứ đó, ông chẳng có gì liên kết với bà. Sau này, khi bà
qua đời, ông đến thăm Ruma và trồng các thứ trong khu vườn để tưởng nhớ đến bà.
Còn với Ruma, khi nấu những món ăn Ấn Độ cho Adam, cô mới ý thức được tư
cách là một người vợ theo cách thức của mẹ. Cô thương nhớ và thán phục bà – một
điều không bao giờ xảy ra khi bà còn sống. Cô còn dùng thức ăn để gợi nhớ về mẹ
trong đầu của Akash: “Con từng ăn món ăn do bà ngoại nấu đó; bà vẫn từng nấu
tất cả những món ăn này” [18, tr. 30]. Tình cảm giữa các thành viên trong gia đình
Ruma phần lớn được thể hiện qua thái độ của họ qua thức ăn. Họ dùng thức ăn để
hòa giải, để tưởng nhớ, để ràng buộc và để níu giữ lấy nhau trên những vùng
đất xa lạ.
Trong Địa ngục – thiên đường, trước khi gặp gỡ Pranad, mẹ Usha thường ngồi
với cái ví trên đùi, loay hoay tìm cách thoát ra khỏi căn hộ mà bà đã trải qua cả
ngày trong đó. Nhưng từ khi Pranad xuất hiện với tình trạng luôn luôn đói thì: “bà
luôn ở trong bếp, cuộn những cục bột làm món bánh chiên mà bà chỉ làm vào ngày
chủ nhật. Những đợt đến thăm của Pranad là tất cả những điều bà mong ngóng
suốt cả ngày” [18, tr. 79]. Việc Pranad nhồi nhét tất cả những món bà nấu đem đến
cho bà niềm hạnh phúc to lớn. Đó là cách bà giữ Pranad cho riêng mình, để ông phụ
thuộc vào bà theo kiểu cha Usha không bao giờ có được trong suốt cuộc hôn nhân
của hai người.
Trong Việc không của riêng ai, sự thờ ơ của Sang đối với anh bạn cùng nhà trọ
tên Paul được thể hiện qua việc cô bỏ mặc thức ăn trong tủ lạnh ở căn nhà thuê:
“món sữa chua đóng một lớp màng màu xanh lá cây, tỏa ra tiếng kêu gớm ghiếc khi
Sang mở cái nắp” [18, tr. 234]. Trong khi đó, cô lại xuất hiện ở cửa hàng tạp phẩm
nhỏ với cái giỏ chất cao những món thực phẩm mà cô chẳng bao giờ đem về nhà
“những cái túi lưới màu tím đựng hẹ tây, pho mai sữa dê dưới dạng dầu, thịt gói
trong giấy gói” [18, tr. 234]. Cô đến nhà và nấu ăn cho Farouk.
Trong Cuối năm, ký ức về mẹ trong tâm thức của Kaushik cũng gắn liền với
nhà bếp và thực phẩm: “khoảng không gian này vẫn còn lưu giữ sự hiện diện của
bà nhiều hơn bất kỳ chỗ nào trong ngôi nhà [18, tr. 331]. Anh nhớ hình ảnh mẹ tưới
nước cho những cây nhện xanh màu ngọc bích, nhớ đôi tay mẹ trên vòi nước ở bể
rửa bát và cả hình dáng thon thả của bà tì vào cái quầy bếp. Anh yêu thích cái nhà
bếp theo lối kiến trúc của chủ nghĩa tân thời với cái bàn ăn cocktail hình bầu dục có
lớp kính trên bề mặt, một cái bàn ăn làm bằng sợi thủy tinh màu. Anh nhớ mẹ nhiều
khi ngồi vào bàn ăn. Thức ăn gọi ký ức tràn về. Anh nhớ cái vỉ nướng gắn bên trong
bếp khi mẹ làm món kebad, nhớ lời than phiền vui nhộn của bà về món luchi, nhớ
cả lời dạy của bà phải nói “rất ngon” sau khi ăn ở nhà người khác… Càng nhớ mẹ,
Kaushik càng cảm thấy khó chịu khi đối diện với người mẹ kế với cách sống của
một người Ấn Độ điển hình.
Nhìn tổng thể, Jhumpa Lahiri đã dùng không gian nhà bếp làm bức phong nền
để phát họa bức chân dung về người phụ nữ Ấn Độ. Nấu nướng là công việc của họ,
thậm chí là cuộc sống của họ.
Thông qua nấu nướng họ vun đắp tình mẹ con, nghĩa vợ chồng, tạo
không khí hạnh phúc trong gia đình. Bên cạnh đó, họ còn dùng thức ăn để
nhắc nhở bản thân gìn giữ bản sắc, để giáo dục con cái nhớ cội thương
nguồn và để thiết lập tình đồng hương trên đất khách.
3.2.2. Không gian tha hương
Jhumpa Lahiri là nhà văn của những người không có chốn ở ổn định. Bằng
kinh nghiệm của người dân vô xứ, cô viết nên những câu chuyện. Mỗi nhân vật mặc
dù có hoàn cảnh, tính cách, suy nghĩ khác nhau nhưng cùng chung một vấn đề phải
đối mặt khi bỏ lại quê nhà ở phía sau lưng. Đó là việc phải thường xuyên thay đổi
chỗ ở, thường xuyên rơi vào tâm thế chông chênh vô định, không biết mình sẽ đi về
đâu, gặp gỡ ai và sẽ sống như thế nào. Hoàn cảnh xung quanh luôn xa lạ và buộc họ
phải tự tìm những lí do để gắn kết đời mình với nơi chốn ấy bên cạnh sự gắn bó
thiêng liêng với quê cha đất tổ.
Trong hai tuyển tập truyện ngắn, Jhumpa Lahiri luôn dõi theo bước chân của
những người di trú, chia sẻ với họ cảm giác chật chội, cô đơn trong những nhà trọ,
căn hộ nghèo khổ, thiếu thốn. Cô còn đồng hành cùng với họ trong những chuyến đi
dài từ quốc gia này sang quốc gia khác để hiểu rằng: “Bản chất con người chẳng
năng động thì có khác gì hơn củ khoai tây được trồng đi trồng lại trong nhiều thế
hệ trên cùng một vùng đất bạc màu” [18].
3.2.2.1. Không gian nhà trọ
Khi vừa đặt chân lên xứ người, chỗ ở luôn là mối bận tâm hàng đầu của tất cả
những người di cư. Một vài trường hợp liên hệ xin tá túc với bà con hoặc bạn bè
thân thiết (như truyện Một lần trong đời). Song, điều đó chỉ có ý nghĩa tạm thời.
Sau một thời gian, họ vẫn phải tìm cho mình một căn nhà để trả tự do cho bà con,
bạn bè và cho chính bản thân họ. Còn lại, tất cả đều phải trải nghiệm mùi nhà trọ.
Thông thường, mùi vị đó hết sức cay đắng.
Trong tình cảnh vừa thiếu tiền, vừa lạ nước lạ cái, những người di dân buộc
lòng tìm đến những chỗ trọ rẻ tiền với không gian chật chội, bẩn thỉu. Nhân vật
Tôi (Lục địa thứ ba, lục địa cuối cùng) đại diện cho lớp người rời Ấn Độ để học tập
và lập thân ở nước ngoài, sau ba lần thay đổi nhà trọ mới có được ngôi nhà riêng tử
tế cho mình. Ở London, ông sống trong: “ngôi nhà toàn những người Bengal độc
thân không một xu dính túi, ba bốn người một phòng, dùng chung một buồng vệ
sinh lạnh lẽo duy nhất” [17, tr. 250]. Sau đó ông đến Mỹ làm việc, thời gian đầu
cũng trú thân ở một nơi rẻ tiền: “Trong phòng kê một giường đơn, một chiếc bàn. Ô
cửa sổ trần trụi nhìn ra đại lộ Massachusets là nguồn cung cấp không khí duy nhất
trong căn phòng ngột ngạt, tiếng động không thể nào chịu nổi” [17, tr. 253]. Ông
cảm thấy đầu óc rối bời, cái cảm giác ấy thấm sâu vào tận xương tủy như thể ông
cảm nhận âm thanh đều đều giận dữ của con tàu SS Moma (con tàu chở ông rời
khỏi Ấn Độ). Nhưng ở đây không có boong tàu để lẫn tránh, không có đại dương
xanh lấp lánh để tâm hồn ông xúc động, không có những ngọn gió nhẹ làm khuôn
mặt ông dịu lại và cũng không có ai để ông chuyện trò. Ông cảm thấy mệt mỏi,
trống vắng, chỉ còn một cách vượt qua tình thế ấy là ngồi vào bàn và nghĩ về công
việc – mục tiêu duy nhất của những lần vượt đại dương.
Cha của Ruma (Vùng đất lạ) khi đến thăm ngôi nhà rộng rãi, sang trọng của
Ruma đã nhớ lại căn hộ nhỏ ở Garden City, New Jersey. Đó là một căn hộ tổ hợp ở
tầng mười bốn với: “cái tủ âm tường được cải tạo thành căn phòng dành cho trẻ
em, căn bếp bé tí tẹo có thể ám mùi bất kỳ món gì được nấu, phòng ngủ ảm đạm,
ánh sáng ban ngày chẳng bao giờ xuyên qua được và vợ ông phải phơi các bộ sari
của bà từng chiếc một trên thanh treo màn ở cái ban công nhỏ hẹp” [18, tr. 36].
Nơi ở như thế khiến ông luôn lo lắng cho sự an toàn của gia đình. Tuy nhiên, không
còn một sự lựa chọn khác vì vào thời điểm đó ông còn đang học lấy bằng Tiến sĩ
ngành sinh hóa, điều tốt nhất mà ông có thể làm được.
Cô sinh viên người Ấn Độ tên Sangeeta Biswas (Việc không của riêng ai)
cũng niếm trải mùi “nhà trọ” cùng với hai người bạn đồng hành khác là Paul và
Heather. Căn nhà hai tầng chỉ có duy nhất cái cầu thang bằng gỗ màu sáng với lớp
nước bóng của rượu cô nhắc là món đồ xinh đẹp nhất trong ngôi nhà. Nó hứa hẹn
giả tạo cho những thứ ở trên: “những cái tủ màu nâu xấu xí trong nhà bếp, nhà tắm
ẩm mốc bị mất nhiều viên gạch, căn phòng khách với cái cửa màu hồng tróc sơn và
cái ghế dài mềm oặt bẩn thỉu cùng cái ghế papasan màu vàng” [18, tr. 223].
Sangeeta chẳng quan tâm đến những khuyết điểm của căn nhà vì trên thực tế cô
cũng chẳng có gì để đóng góp thêm vào đó, không có những chậu hoa hay các món
đồ gia dụng, chẳng có gì cho nhà bếp ngoài một cái cây treo yếu ớt xòe những chiếc
lá hình trái tim màu vàng. Bạn trai của cô trêu ghẹo và cấm cô mua quá nhiều thứ
để cho việc dọn đi sẽ dễ dàng hơn.
Chủ nhân của những ngôi nhà trọ ấy còn đáng sợ hơn. Họ thường là người dân
bản xứ luôn tỏ ra ác cảm với dân di cư da màu. Trong Điều tốt đẹp duy nhất, cha mẹ
Sudha kể lại rằng: “các chỗ cho thuê nhà vào thập niên sáu mươi ở Luân Đôn nói
CHỈ DÀNH CHO NGƯỜI DA TRẮNG” [18, tr. 168]. Bà chủ nhà trọ người Anh đã
đuổi cha mẹ Sudha ra khỏi nhà khi mẹ cô mang thai. Sự kết hợp vừa là người Ấn
Độ vừa mang thai đã giới hạn cha mẹ cô. Nếu không có ông chủ nhà người Bengal
tốt bụng mở cửa cho họ thuê hai phòng thì chắc rằng mẹ của Sudha đã được gửi về
lại Ấn Độ để sinh con. Vì bị khinh rẻ như thế nên sau khi chuyển đến sống ở Hoa
Kỳ, cha mẹ Sudha không đem theo bất kỳ chứng cớ nào về những năm tháng sống ở
London. Họ rời bỏ với quyết tâm không bao giờ quay trở lại. Họ không muốn nhớ
đến cái nơi đã đem đến cho họ bao đắng cay tủi nhục.
Trong Địa ngục – thiên đường, Pranad thuê căn phòng trên gác xép của một
góa phụ có hai đứa con nhỏ. Bà ta đã quy định: “chỉ được quyền sử dụng nhà bếp
vào những giờ cụ thể trong ngày và phải luôn luôn lau chùi sạch sẽ bếp lò với
Windex và miếng bọt biển” [18, tr. 78]. Điều đó quá khủng khiếp. Nó khiến Pranad
vào một ngày cuối tuần đóng gói các túi xác của mình bỏ đi Logan, chuẩn bị từ bỏ
cơ hội mà ông đã làm việc cả cuộc đời cho nó.
Đối mặt với chuyện thuê nhà, những người di cư thường xoa dịu mình bằng lí
lẽ của những người được sống sót rằng: “cuộc sống luôn phong phú với những hồng
ân và điềm gở” [18, tr. 168]. Họ tin rằng nơi cuối đường vẫn còn những tia nắng ấm
áp. Niềm tin ấy là chân lí. Vì ở những vùng đất lạ vẫn có ông chủ tốt bụng cho cha
mẹ Sudha thuê phòng với giá rẻ; vẫn có một gia đình tốt bụng chào đón Pranad đến
dùng bữa cơm và sẵn sàng mở cửa cho ông bất cứ lúc nào; vẫn có căn phòng cho
thuê trong một ngôi nhà ở trên đường phố yên tĩnh, gần trường đại học chỉ với 8 đô
la một tuần. Đây chính là những điểm tựa giúp những người di trú đứng vững hơn
trước sức xô đẩy của cuộc sống nơi xứ người.
Có thể nói, nhà trọ là không gian thử thách. Ý chí, nghị lực, niềm tin của
những người di trú được hun đúc, tôi luyện từ môi trường này. Những ai có thể vượt
qua cũng chính là những người đạt được những thành công nhất định trong cuộc
sống. Và họ thường nghĩ về những ngày tháng cơ cực như một bước ngoặt của cuộc
đời. Nó cho họ những kinh nghiệm xương máu để hiểu ra chân lí sống khi rời quê
hương rằng: “có thể sống được ở ba lục địa thì chẳng có chướng ngại vật nào mà
không thể vượt qua” [17, tr. 286].
Nếu mở rộng chiều kích liên tưởng, chúng ta sẽ thấy được ý đồ nghệ thuật của
tác giả khi xây dựng không gian nhà trọ. Cuộc đời của người di trú gắn liền với nhà
trọ. Không gian nhà trọ không chỉ gắn với căn phòng hay căn nhà được thuê mà còn
gắn với cái xứ sở mà người di trú đang sinh sống. Suy cho cùng, đất khách quê
người chính là nhà trọ rộng lớn. Người di trú tồn tại trong đó như những chủ nhân
giả danh theo hợp đồng. Và cái giá phải trả cho cái tư cách giả danh ấy không phải
là ít, vì phía sau họ, những người dân bản xứ, những chủ nhân chính thức có thể đẩy
họ ra khỏi ngôi nhà ấy bất cứ lúc nào.
3.2.2.2. Không gian địa danh, di tích
Viết về những thế giới xa lạ là sở trường của Jhumpa Lahiri. Điều đó giải thích
vì sao truyện của cô đầy ắp không gian địa danh di tích các quốc gia khác nhau. Một
mặt, nó tạo phong nền cho sự xuất hiện của nhân vật người di cư, mặt khác giúp tác
giả phá bỏ tính hạn hẹp về không gian trong truyện ngắn truyền thống, mở ra cho
truyện ngắn trường nhìn rộng lớn hơn.
Không gian nước Mỹ đóng vai quan trọng trong hầu hết các câu chuyện. Nó
thường gắn với tên các tiểu bang như: New York, Massachusets (Boston,
Cambridge), New Jersey, Texas (Houston), Pennsylvania, Washington (Seattle); tên
các trường Đại học, các viện nghiên cứu như: trường Đại học Harvard, viện công
nghệ Massachusets, Đại học Boston… Những cái tên này cũng gắn bó mật thiết với
cuộc sống của tác giả. Vì vậy nó hiện lên thật trung thực và sinh động. Khi đọc
truyện, chúng ta có thể hình dung ra nhịp sống ở Hợp chủng quốc thông qua những
hình ảnh được tác giả miêu tả khá chi tiết: Đại lộ Massachusets với tiếng còi ô tô
ầm ĩ kéo dài hết đợt này đến đợt khác, còi báo nhấp nháy liên tục báo hiệu những ca
cấp cứu, những đoàn xe buýt ầm ĩ lao qua; khu Harvard Coop với những vật dụng
nhà bếp được giảm giá; vùng ngoại ô Seattle với sự đắt đỏ của giá xăng, rặng núi
Olympic với những chóp đỉnh phủ đầy tuyết như thể bị chắn ngang bởi những đám
mây cuồn cuộn trôi dạt. Nhịp sống ở nước Mỹ diễn ra vội vã: “đừng mong đợi có
những khoảng thời gian rãnh rỗi” [17, tr. 252] . Con người luôn cảm thấy cần phải
đạt đến đỉnh cao giống như sự kiện hai người Mỹ đặt chân lên mặt trăng. Trên vùng
đất này, những người nhập cư hi vọng có thể xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp hơn.
Cuộc hành trình đi tìm tương lai của những người Ấn Độ di cư không là một
đường bay thẳng tắp từ Ấn Độ đến Mỹ. Họ di chuyển liên tục qua nhiều quốc gia.
Theo đó, Jhumpa đã mở ra không gian toàn cầu trong tác phẩm của mình. Loại
không gian này hiện lên qua những tấm hình mà Kaushik chụp được. Chúng ghi
nhận những điều kinh khủng đã xảy ra trên khắp các châu lục. Salvador hiện lên
với: “núi lửa lờ mờ ở phía tây thủ đô, những tòa nhà lỗ chỗ vết đạn và nứt ra làm
đôi vì trận động đất” [18, tr. 382]. Vùng duyên hải Israel với hình ảnh: “vụ đánh
bom tiền sảnh đại tiệc ở một khách sạn” [18, tr. 381]. Iraq với: “những bức hình
chụp mười chín cái quan tài chứa thân xác những người lính được khiêng qua đại
hí trường” [18, tr. 381]. Có những bức chụp: “đường phố và làng mạc bụi bặm, chợ
búa, nhà cửa cùng các quầy hàng, những quang cảnh khô cằn, hình ảnh về con
người” [18, tr. 389]. Những tấm ảnh phản ánh nhu cầu nối kết của Kaushik với
người lạ, cũng như sự sẵn sàng của người lạ muốn kết nối với anh. Công việc của
anh phụ thuộc hoàn toàn vào cuộc sống hiện tại và những điều sẽ đến. Điều đó cho
thấy tính thời sự của những hình ảnh mà anh đã chụp. Nó là hình ảnh của cuộc
sống hiện tại và phần nào mang tính chất dự báo tương lai.
Ngoài ra, những trang viết của Jhumpa còn đưa người đọc đồng hành cùng
cuộc hành trình tìm kiếm quá khứ của Hema để khám phá không gian văn hóa của
nước Ý, nơi xuất phát của nhiều nền văn hóa châu Âu. Thành phố Rome vào tháng
Mười một lá cây đều rơi rụng xuống, những đống màu đồng chồng chất hai bên bờ
sông Tiber. Phế tích Portico với những cây cột được mạ bao quanh bằng những giàn
giáo đã bị ăn mòn hết, phần kiến trúc trên tường thật hùng vĩ với khoanh gỗ quan
trọng đã biến mất. Thị trấn Volterra hiu quạnh đơn sơ do người Etruscan tạo ra. Bảo
tàng Guarnacci Etruscan với hàng trăm bình đựng tro cốt, trong đó người cổ đại ở
Volterra đã chứa tro cốt những người chết. Thông qua cuộc hành trình tìm kiếm quá
khứ của Hema, Jhumpa Lahiri như muốn khẳng định vai trò của quá khứ đối với
cuộc sống hiện tại. Nó là cơ sở, là cội nguồn để chúng ta dựa vào lý giải những gì
đang diễn ra xung quanh mình.
Jhumpa Lahiri phản đã phân tích những vấn đề do xã hội hiện đại đặt ra qua
nhận thức của các nhân vật về không gian và sự thể nghiệm về chuyển đổi không
gian. Cuộc viễn du từ Ấn Độ sang Anh rồi đến Mỹ của người kể chuyện (Lục địa
thứ ba, lục địa cuối cùng) cho ông kinh nghiệm làm thế nào để tồn tại và thành công
trên những vùng đất xa lạ. Những chuyến đi du lịch châu Âu là cách để cha Ruma
(Vùng đất lạ) giải phóng bản thân khỏi cuộc sống đơn độc khi vợ qua đời: “Được đi
du lịch một mình, chỉ cần trình ra một cái va li duy nhất để kiểm tra mới tự do làm
sao” [18, tr. 11]. Sự di chuyển từ New York về vùng ngoại ô Seattle khiến Ruma
(Vùng đất lạ) trở nên đơn độc hơn. Cô chẳng thấy có mối liên kết với bất kì ai và
cảm thấy bất thường nếu ở thời điểm này trong cuộc đời còn tạo mối quan hệ với
những người xa lạ. Tương tự như vậy, trong nhiều năm trôi giạt khắp quả địa cầu,
Kaushik cảm thấy chẳng có mối liên hệ nào có ý nghĩa. Với máy chụp hình trong
tay, anh phụ thuộc vào thế giới vật chất và thấy mình hữu dụng “ý thức được rằng
anh đã làm điều gì đó giảm nhẹ tội ác” [18, tr. 384] và không ngừng thể nghiệm về
cội nguồn: “Với tư cách là một phóng viên nhiếp ảnh, dòng dõi lai lịch của anh
không liên quan gì đến việc đó. Tuy nhiên, ở Rome hay ở tất cả nơi khác ở châu Âu,
anh luôn được xem là người Ấn Độ ngay từ đầu” [18, tr. 391].
Trong sự trải nghiệm về sự chuyển đổi không gian, các nhân vật của Jhumpa
dường như có chung ý thức về không gian ở giữa. Đây là một không gian đặc biệt
dành cho những người lưu vong. Nó hiện tồn ở giữa các quốc gia và các nền văn
hoá, giữa đây và đó, giữa quá khứ và hiện tại. Nó ở trên cái gạch nối thường được
sử dụng để định danh căn cước của người lưu vong trong tiếng Anh: Indian-
American, ở trên những đường nối chỉ ra các chuyến bay từ Ấn Độ đến các quốc gia
khác trên bản đồ. Nhưng cái không gian ở giữa và cái gạch nối ấy không phải là cái
gì nhất thành bất biến. Biên giới của nó không ngừng được vẽ đi vẽ lại tùy theo điều
kiện lịch sử và văn hoá của từng cộng đồng, từng thế hệ, thậm chí, từng cá nhân.
Với một số người, đó là một không gian mở, nơi họ tha hồ nhảy nhót, tiến hay lùi
tuỳ thích với một ý thức kép, vừa ở trong lại vừa ở ngoài. Tuy nhiên, với tuyệt đại
đa số, đặc biệt với thế hệ thứ nhất, ở giữa hay ở trên cái mẩu gạch nối nho nhỏ ấy là
không ở đâu cả, là bị phi lãnh thổ hoá (deterritorialised) , là thuộc về một cộng đồng
thuần tuý tưởng tượng. Theo Benedict Anderson, quốc gia nào cũng chỉ là một
“cộng đồng tưởng tượng” (imagined community), nơi mọi người dù không hề quen
biết nhau vẫn chia sẻ với nhau một số ý niệm chung về nguồn gốc và về quá khứ.
KẾT LUẬN
1. Jhumpa Lahiri là nữ nhà văn gốc Ấn đã gặt hái thành công trên văn đàn Mỹ
đương đại. Hai tập truyện ngắn Người dịch bệnh và Vùng đất lạ kết tinh những trải
nghiệm của nhà văn trong cuộc hành trình từ Đông sang Tây, góp phần tạo nên diện
mạo cho một bộ phận của văn học đương đại: văn chương di dân. Truyện ngắn
Jhumpa Lahira đã đánh thức truyền thống “nhìn vào kính chiếu hậu để tìm những
tầm cao” khi tiếp cận văn học Ấn Độ và hướng độc giả nhìn về phía trước.
2. Nhân vật di cư là sáng tạo nghệ thuật của Jhumpa Lahiri. Họ là người phát
ngôn cho tình trạng sống “ở giữa” của cộng đồng Ấn Độ lưu vong, luôn mong
muốn tìm lại nguồn gốc bị mất và nhanh chóng thu nhận những giá trị văn hóa hải
ngoại để thích nghi tồn tại. Sự khác biệt đặc trưng của nhân vật di cư so với nhân
vật của văn học trong nước chính là ở “bản ngã hòa trộn Đông Tây”. Với bản ngã
hòa trộn ấy, nhân vật di cư trở thành hình ảnh đại diện cho con người hiện đại trên
hành trình tìm kiếm những kế sách để tồn tại trong một thời đại nhiều biến động.
3. Không gian di cư là hình tượng nghệ thuật đặc trưng của truyện ngắn
Jhumpa Lahiri. Thông qua những thể nghiệm về sự chuyển đổi không gian, thể
nghiệm về độ căng giữa hai nền văn hóa, nhà văn gửi đến người đọc những thông
điệp nhẹ nhàng mà sâu sắc về cách nhìn nhận cuộc sống. Con người dù ở bất cứ
đâu cũng nhớ về nguồn cội, nơi ấy cho ta cảm xúc ràng buộc nhất. Và cũng từ đó
mà suy ngẫm một điều, quê cha đất Tổ chính là nơi ta sống với con người thật của
mình.
4. Truyện ngắn Jhumpa Lahiri thành công ở nhiều phương diện nghệ thuật.
Nhưng trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi mới chỉ tiếp cận ở hai vấn
đề: nhân vật và không gian. Hứa hẹn ở những công trình nghiên cứu khác, chúng tôi
sẽ tiếp tục khám phá các đặc trưng nghệ thuật khác của truyện ngắn Jhumpa như :
nghệ thuật kể chuyện, hình tượng thời gian, hệ thống biểu tượng, ngôn ngữ trần
thuật…để hoàn chỉnh một phong cách, một gương mặt nữ nhà văn Ấn Độ đương
đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
Sách tham khảo:
1. Aravind Adiga (2009), Cọp trắng (Thi Trúc dịch), Nhà xuất bản trẻ.
2. Paul – Bruton (1993), Ấn Độ huyền bí, Nxb Văn học.
3. Lê Huy Bắc (2005), Truyện ngắn – Lí luận tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo
dục.
4. Lê Huy Bắc (2004), Truyện ngắn: nguồn gốc và khái niệm, Tạp chí nghiên
cứu văn học số 5.
5. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1996), Từ điển biểu tượng văn hóa thế
giới, (Nhiều người dịch, Phạm Vĩnh Cư chủ biên), Nxb Đà Nẵng.
6. Lê Đình Cúc (2007), Lịch sử văn học Mỹ, Nxb Giáo dục.
7. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa
Học Xã Hội.
8. Nguyễn Văn Dân (2004), Tiếp cận văn học bằng văn hóa học, Tạp chí
nghiên cứu văn học số 11.
9. Kiran Desai (2008), Di sản của mất mát (Nham Hoa dịch), Nxb Hội nhà văn.
10. Will Durant (1996), Lịch sử văn minh Ấn Độ, (Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb
Văn hóa Hà Nội.
11. Nguyễn Đức Đàn (1998), Tư tưởng triết học và đời sống văn hóa, văn học
Ấn Độ, Nxb Văn học Hà Nội.
12. Nguyễn Tấn Đắc (2000), Văn hóa Ấn Độ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2006), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
14. Trần Kiết Hùng (chủ biên), Phạm Thế Châu (2007), Xã hội và nền văn hóa
Mỹ, Nxb Văn Hóa Thông Tin.
15. Samuel Hungtington (2005), Sự va chạm của các nền văn minh (Nguyễn
Phương Sửu, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Phương Nam, Lưu Ánh Tuyết
dịch), Nxb Lao Động.
16. Viney Kirpal (2008), Nghiên cứu so sánh văn học ở Ấn Độ, Tạp chí nghiên
cứu văn học số 8.
17. Jhumpa Lahiri (2004), Tuyển tập truyện ngắn Người dịch bệnh, (Đặng Tuyết
Anh, Ngân Xuyên dịch), Nxb Lao Động Hà Nội.
18. Jhumpa Lahiri (2009), Tuyển tập truyện ngắnVùng đất lạ, (Lại Thu Trinh
dịch), Nxb Văn hóa Sài Gòn.
19. Nguyễn Thị Mai Liên (2008), Dấu ấn phương Tây trong văn học Ấn Độ cận
– hiện đại, Tạp chí nghiên cứu văn học số 8.
20. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ
Chí Minh.
21. J. Nehru (1990), Phát hiện Ấn Độ, tập 1, tập 2, tập 3 (Phạm Thủy Ba, Lê
Ngọc, Hoàng Túy và Nguyễn Tâm dịch), Nxb Văn học Hà Nội.
22. Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
23. Cao Xuân Phổ - Trần Thị Lý (1997), Ấn Độ xưa và nay, Nxb Khoa học xã
hội Hà Nội.
24. G.N. Pôxpêlôp (chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, (Trần Đình
Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch), Nxb Giáo dục.
25. Hữu Sơn – Phương Chi (2008), Nghiên cứu, giới thiệu văn học Ấn Độ trên
tạp chí nghiên cứu văn học (1960 – 2008), Tạp chí nghiên cứu văn học số 8.
26. Trần Đình Sử (chủ biên) (2007), Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử
(phần 1), Nxb Đại học Sư Phạm.
27. Trần Đình Sử (chủ biên) (2008), Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử
(phần 2), Nxb Đại học Sư Phạm.
28. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập Trần Đình Sử, tập 2, Nxb Giáo Dục.
29. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn – Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn
thể loại, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
30. Hồ Anh Thái (2008), Ấn Độ đa dạng mà thống nhất, Tạp chí nghiên cứu văn
học số 8.
31. Nguyễn Đăng Thục (1991), Lịch sử triết học phương Đông (tập 3), NXB
Thành phố Hồ Chi Minh.
32. Nguyễn Thị Bích Thúy (2008), Văn học Ấn Độ ở Việt Nam, Tạp chí nghiên
cứu văn học số 8.
33. Lộc Phương Thủy (chủ biên) (2007), Lí luận – Phê bình văn học thế giới thế
kỉ XX (tập 2), Nxb Giáo dục.
34. Tzvetan Todorov (2008), Thi pháp văn xuôi, (Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm
dịch), Nxb Đại học Sư Phạm.
35. Alain Touraine (2003), Phê phán tính hiện đại (Huyền Giang dịch), Nxb Thế
giới.
36. Lê Ngọc Trà, Phùng Quý Nhâm (1997), Lý luận văn học, Đại Học Quốc Gia
TP. HCM – Trường Đại Học Sư Phạm.
37. Lưu Đức Trung (2007), Văn học Ấn Độ, NXB Giáo dục.
38. Lưu Đức Trung – Phan Thu Hiền (2000), Hợp tuyển văn học Ấn Độ, Nxb
Giáo dục.
39. Lưu Đức Trung (tuyển chọn) (1996), Tuyển tập truyện ngắn hiện đại Ấn Độ,
Nhà xuất bản Trẻ.
40. Võ Xuân Vinh (2008), Tổng quan kinh tế Ấn Độ những năm đầu thế kỉ XXI,
Tạp chí nghiên cứu văn học số 8.
41. R.Wellek và A. Warren (2009), Lý luận văn học, (Nguyễn Mạnh Cường
dịch), Nxb Văn học.
Bài viết trên internet:
2TUhttp://evan.vnexpress.netU2T
truyện ngắn (Hà Linh dịch), 42. William Boyd (17/5/2008), Lược sử
43. Đào Trung Đạo, Jhumpa Lahiri “Unaccustomed earth” (Đất này chẳng
quen), 2TUhttp://www.gio-o.comU2T
2TUhttp://www.gio-o.comU2T
44. Đào Trung Đạo, Kiran Desai và tiểu thuyết Di sản của mất mát,
2TUhttp://www.gio-o.comU2T
45. Đào Trung Đạo, Nhà/quê nhà trong văn chương vô xứ Việt Nam,
2TUhttp://songviet.comU2T
46. Đào Trung Đạo, Văn chương Di dân – Viết về quê hương từ bên ngoài,
47. Thanh Huyền (15/9/2010), Kiran Desai không thích 'thời trang trong văn
học', 2TUhttp://evan.vnexpress.netU2T
48. Dạ Lan Hương (05/05/2008), Người đưa nền văn học Ấn Độ đương đại ra
thế giới 2TUhttp://phongdiep.netU2T
49. Duyên Khánh (19/7/2008), Nhà văn nữ Jhumpa Lahiri – “Sự đáp xuống của
sao chổi” 2TUhttp://www.baocantho.com.vnU2T
50. Giấc mơ Mỹ, Uhttp://vi.wikipedia.org
2TUhttp://www.idr.edu.vnU2T
51. Krishna Kripalani (16/5/2010), Quá trình hiện đại hóa văn học Ấn Độ,
52. Linda Le (1999), Văn chương vô xứ (Đào Trung Đạo dịch), 2TUhttp://www.gio-
o.comU2T
53. M.C (23/10/2006), Cộng đồng gốc Ấn nở rộ ở Mỹ, 2TUhttp://vietbao.vnU2T
2TUhttp://archive.damau.orgU2T
54. Thế Quân (03/5/2008), Ngôn ngữ: Nan đề của nền văn chương Ấn Độ,
2TUhttp://www.tienve.orgU2T
55. Nguyễn Hưng Quốc, Giải lãnh thổ hóa trong văn học Việt Nam,
2TUhttp://www.tienve.orgU2T
trù mỹ học, 56. Nguyễn Hưng Quốc, Lưu vong như một phạm
57. Liesl Schillinger (06/4/2008), Con cháu Mỹ quốc (American Children)
2TUhttp://archive.damau.orgU2T
(Nguyễn Viết Minh Thanh chuyển ngữ), Tạp chí văn chương da màu,
58. Dottino Suzanne, Jhumpa Lahiri “Trí tưởng tượng đôi khi chậm như rùa”,
(Thanh Huyền dịch), 2TUhttp://evan.vnexpress.netU2T
59. Hồ Anh Thái (11/02/2010), Hiện tượng văn xuôi Ấn Độ: cuộc đối thoại giữa
hai đại thụ, 2TUhttp://nguoidaibieu.com.vnU2T
60. Thanh Trúc (13/10/2006), Kiran Desai: Tôi viết từ sự uyên bác và lòng nhân
từ của mẹ, Uhttp://vietbao.vn
2TUhttp://www.nguoidaibieu.com.vnU2T
61. Quỳnh Trung (27/8/2007), Văn chương Ấn Độ với phương Tây,
2TUhttp://www.baodanang.vnU2T
(11/10/2008), Văn học Ấn dưới con mắt nữ giới, 62. Tiểu Yến
Tài liệu tiếng Anh:
63. Choubey Asha (2001), Food as Metaphor in Jhumpa Lahiri’s Interpreter of
Maladies, http://www.postcolonialweb.org
64. Vanessa Gebbie, Unaccustomed Earth, 2TUhttp://www.theshortreview.comU2T
65. Atina George (30/7/2008), The third and the final continent by Jhumpa
Lahiri, Uhttp://www.helium.com
2TUhttp://www.greatbooksguide.comU2T
Gioia, Unaccustomed Earth by Jhumpa Lahiri, 66. Ted
2TUhttp://www.time.comU2T
Jhumpa Lahiri: The quiet Laureate ngày, 67. 2TLev Grossman2T,
0T2TUhttp://www.postcolonialweb.orgU2T
Jakie, Eric Quinn, Jhumpa Lahiri: A Brief Biography, 68. 0TLarge
69. 0TMichiko Kakutani, Wonder Bread and curry: Mingling Cultures, ConFlicted
Hearts, The New York Times, 0T2TUhttp://topics.nytimes.comU2T
70. Jhumpa Lahiri (1999), Interpreter of Maladies, 2TUhttp://books.google.com.vnU2T
71. Jhumpa Lahiri (2006), My two lives, 2TUhttp://www.thedailybeast.comU2T
72. Jhumpa Lahiri (2008), Unaccustomed Earth, Alfred A. Knopf, Publisher,
New York
2TUhttp://www.indidstar,comU2T
73. Amy Mccurdy (1999), Jhumpa Lahiri’s Interpreter of Maladies stories,
74. Gipe Nicholas, Themes of Marriage and Tradition, Boston: Houghton
Mifflin, 1999, 2TUhttp://voices.cla.umn.eduU2T
75. 0THassan Rouhvand, Culture and Immigration, America and Post-America in
Lahiri’s The Intrerpreter of Maladies, 0T2TUhttp://faculty.k.su.eduU2T
76. C. J. Wallia (1999), Interpreter of Maladies, 2TUhttp://www.indidstar,comU2T
PHỤ LỤC
Ở phần này, chúng tôi dịch và giới thiệu một số bài viết về tác giả và tác phẩm
của Jhumpa Lahiri.
JHUMPA LAHIRI: TÓM TẮT TIỂU SỬ
Jacki Large và Erin Quinn
Năm 1967, Jhumpa Lahiri được sinh ra ở London, cha mẹ là người Bengal.
Lahiri theo gia đình đến Rhode Island khi còn bé. Lahiri đã học ở Barnard College,
tốt nghiệp cử nhân Ngữ văn Anh và sau đó theo học tại Boston University. Đây là
nơi Lahiri lấy bằng thạc sĩ ngành Creative Writing và Comparative Studies về văn
học nghệ thuật và tiến sĩ ngành Renaissance Studies. Lahiri từng có thời gian giảng
dạy môn Creative Writing ở trường đại học Boston và trường Rhode Island School
of Design.
Lahiri có cái nhìn bao quát về Ấn Độ và đã trải nghiệm những ảnh hưởng của
chủ nghĩa thực dân tại đây như thể trải nghiệm cuộc sống lưu vong. Cô cảm thấy
ràng buộc mạnh mẽ với quê hương của cha mẹ giống như với Hoa Kỳ và Anh quốc.
Lớn lên trong sự ràng buộc với ba đất nước đã tạo ở Jhumpa cái cảm giác “không
nhà” và “sự bất lực để cảm thấy được chấp nhận”. Lahiri giải thích đây là di sản
của cha mẹ ràng buộc với Ấn Độ: “thật khó để cha mẹ tôi nghĩ về một nơi khác là
nhà, thậm chí sau khi đã sống ở nước ngoài khoảng 30 năm thì Ấn Độ vẫn là nhà
của họ. Chúng tôi đã luôn nhìn lại vì tôi chưa bao giờ hoàn toàn cảm thấy nơi đây
là nhà. Không có ai ở nơi đây, trên khắp đất nước này, nơi chúng tôi được cảm
thông. Ấn Độ là một gia đình lớn khác của chúng tôi, cho chúng tôi tình cảm họ
hàng”. Mối liên hệ họ hàng với Ấn Độ chưa đủ làm nên Ấn Độ “quê nhà” trong
Lahiri, “Tôi không lớn lên ở đó, tôi không là một phần của cuộc sống ấy. Chúng tôi
luôn viếng thăm nhưng chúng tôi không có nhà. Chúng tôi đã bấu víu vào một thế
giới không hoàn toàn thuộc về mình”.
Lahiri là con gái của một người quản lí thư viện và một giáo viên, tiềm ẩn tố
chất sáng tạo của một nhà văn. Lahiri nhớ lại một điều cần thiết để viết một cách dễ
dàng trong 10 năm và cô luôn xem văn chương như là một lối thoát cho những cảm
xúc của mình. “Khi tôi viết, tôi cảm thấy cần phải mô phỏng. Tôi bắt đầu viết, với
các nhân vật, tôi chỉ quan sát và tạo cảm giác bên ngoài sự tham gia. Tôi không
liên quan gì. Tôi như một người ngoài cuộc”.
Tại buổi trao đổi ở Calcutta tháng 01 năm 2001, Lahiri miêu tả sự thiếu vắng
về quyền sở hữu của bản thân: “Không quốc gia nào là quê hương của tôi. Tôi luôn
cảm thấy bản ngã của mình trong cảnh tha hương hay bất cứ nơi nào tôi đã đi qua,
đó là nguyên nhân tôi bị lôi cuốn vào để viết về cuộc sống của những kẻ lưu vong”.
Ý tưởng về cuộc sống lưu vong tồn tại xuyên suốt quyển sách đoạt giải Pulitzer
Người dịch bệnh.
Quyển sách thể hiện một cách thống nhất về cộng đồng người Ấn Độ. Tập
truyện gồm 9 truyện kể về người Ấn Độ di dân thuộc thế hệ thứ nhất và thứ hai, một
vài câu chuyện liên quan đến sự khác biệt giữa những nhóm người ở Ấn Độ. Còn lại
tập trung vào sự khác biệt của các mối quan hệ, sự liên hệ và sự mất mát về nhân
dạng trong cộng đồng người Ấn. Bất kể các câu chuyện diễn ra ở đâu, các nhân vật
luôn tranh đấu với cùng một cảm giác về sự lưu vong và đấu tranh giữa hai thế giới
mà họ bị lôi kéo. Các câu chuyện luôn giải quyết những thay đổi về nòi giống, bản
năng và tư cách công dân trong cộng đồng người Ấn. Cho dù các nhân vật là một
người đàn bà không nhà từ Ấn Độ hay một sinh viên đang học tập tại Hoa Kỳ thì tất
cả họ đều bị ảnh hưởng bởi sự chuyển đổi chỗ ở.
Lahiri chiến thắng nhiều giải thưởng với tập truyện Người dịch bệnh. Những
giải thưởng đó bao gồm cả giải Pulitzer danh giá năm 2000, giải The
Transatlantic Review của Henfield Foundation, giải The Louisiana Review cho
truyện ngắn hư cấu, giải O. Henry cho truyện ngắn xuất sắc của Mỹ, giải
Pen/Hemingway, giải The New Yorker Debut of the Year và giải The American
Academy of Arts and Latters. Lahiri cũng nhận sự đề bạc cho giải LA Times
Book. Cô đã xuất bản ba truyện trên The New Yorker, xuất bản tác phẩm trên Agni,
Epoch, The Louisville Review, Harvard Review và The Story Quarterly. Lahiri hiện
đang sống ở New York với chồng và con. Lahiri đã phát hành quyển tiểu thuyết đầu
tiên vào tháng 9 năm 2003. Quyển tiểu thuyết có nhan đề The Namesake và nó tiếp
tục kể về những thử thách của một cặp vợ chồng mới cưới đã di dân tới Cambridge,
0TNguồn: 0T2TUhttp://www.postcolonialweb.orgU2T
Massachusetts từ Calcutta.
HAI CUỘC ĐỜI CỦA TÔI
Jhumpa Lahiri
Ngày 06 tháng 3 năm 2006
Tôi đã sống ở Hoa Kỳ gần 37 năm và trong tương lai cũng sẽ tiếp tục sống ở
đất nước này. Vì vậy, ngoại trừ hai năm đầu tiên của tôi ở London, Ấn – Mỹ được
xem là hằng số định rõ tính chất con người tôi. Ở mức độ nhỏ hơn là mối quan hệ
của tôi với từng giai đoạn cụ thể. Khi tôi lớn lên ở Rhode Island trong những năm
70, tôi nhận thấy mình không phải là người Ấn Độ, cũng không phải là người Mỹ.
Giống như nhiều người nhập cư, tôi cảm thấy áp lực lớn bởi hai điều: trung thành
với thế giới cũ và thông thạo thế giới mới, chấp nhận hai thế giới ở hai bên dấu gạch
nối. Nhìn lại, tôi thấy đây là trường hợp bình thường. Nhưng lúc đó, nhận thức của
một đứa trẻ khiến tôi cảm thấy thiếu vắng ở cả hai đầu, bị đưa đẩy như con thoi theo
hai chiều chẳng có liên hệ gì với nhau.
Ở nhà, tôi theo cách ăn mặc của cha mẹ, nói tiếng Bengali, ăn cơm với các
ngón tay của mình. Những việc bình thường này dường như là một phần bí mật,
một lối sống hoàn toàn xa lạ và tôi đau khổ che giấu chúng với các bạn người Mỹ.
Đối với cha mẹ tôi, nhà của chúng tôi không ở Rhode Island mà ở Calcutta, nơi họ
được sinh ra và lớn lên. Tôi nhận thức được những điều họ đã sống – bài hát Nazrul
mà họ nghe đi nghe lại, gia đình mà họ nhớ, quần áo mà mẹ tôi mặc không thể mua
ở bất cứ cửa hàng nào – nó quý giá và vô giá như một loại tiền tệ lỗi thời.
Tôi cũng bước vào một thế giới mà cha mẹ tôi ít hiểu biết hay kiểm soát:
trường học, sách vở, âm nhạc, truyền hình, những thứ này thấm vào và trở thành
một khía cạnh cơ bản của tôi. Tôi nói tiếng Anh không có sự phân biệt, thấu hiểu nó
theo cách mà cha mẹ tôi không làm được, và chưa có dấu hiệu nào cho thấy rằng tôi
không phải là người Mỹ bên cạnh cái tên khá đặc biệt và dáng vẻ bên ngoài của tôi,
tôi không đến trường dòng vào ngày chủ nhật, không biết làm thế nào để trượt băng
và đồng thời biến mất về Ấn Độ trong nhiều tháng. Nhiều bạn tự hào được gọi là
người Mỹ gốc Ailen hoặc người Mỹ gốc Ý. Họ tự hào vì không chỉ họ là những thế
hệ đã xa cách với tình trạng bị làm nhục thường xuyên của người nhập cư mà còn vì
đối với cội nguồn họ đã chôn sâu vào lòng đất, trong khi cội nguồn của tôi vẫn còn
phức tạp và mới nguyên. Theo cha mẹ tôi, tôi không phải là người Mỹ, và cũng
không có gì khó khăn khi tôi cố gắng cho điều này. Tôi cảm thấy bị thất bại trong
lời tuyên bố của họ, một sự hiểu lầm và dần dần trở thành thách thức. Trong bài học
số học đầu tiên của tôi, một cộng với một không bằng hai mà bằng không, những
xung đột trong bản thân tôi luôn luôn triệt tiêu lẫn nhau.
Lần đầu tiên cầm bút sáng tác, tôi không ý thức được rằng chủ đề của tôi là
kinh nghiệm của người Mỹ gốc Ấn. Điều khiến tôi đến với nghề là mong muốn phá
bỏ ranh giới hai thế giới tôi đã cư ngụ để trộn lẫn chúng vào nhau trên trang viết,
điều mà tôi không đủ can đảm hoặc trưởng thành để cho phép mình thực hiện trong
cuộc sống. Cuốn sách đầu tiên của tôi được xuất bản năm 1999, xoay quanh nó, trên
đỉnh của thế kỷ mới, thuật ngữ “Ấn – Mỹ” đã trở thành một phần trong vốn từ vựng
của đất nước này. Tôi đã thường nghe nói về nó như vậy, những ngày này, nếu được
hỏi về hoàn cảnh của mình, tôi sử dụng thuật ngữ này cho chính tôi, thật ngạc nhiên
khi tôi nói ra mà không cần phải giải thích gì thêm cả. Điều khác biệt trong cuộc
sống đầu đời của tôi khi không có cách để miêu tả về mình, điều duy nhất tôi có thể
làm là giải thích một cách vụng về và vô ích.
Ở tuổi trung niên, tôi chấp nhận một cộng một bằng hai cả trong công việc và
trong cuộc sống hằng ngày của tôi. Các giá trị truyền thống ở hai bên dấu gạch
ngang ngự trong tôi như anh em ruột, thỉnh thoảng vẫn có mâu thuẫn. Nhưng giống
như anh em, chúng quen thuộc với nhau, tha thứ và hòa quyện vào nhau. Cách đây
năm năm, khi chồng tôi và tôi kết hôn với nhau ở Calcutta, chúng tôi đã mời những
người bạn – những người chưa từng đến Ấn Độ, và họ thích thú với nơi chốn mà tôi
đã tránh nhắc đến hồi còn nhỏ, sợ hãi những điều mọi người có thể nói đến. Xung
quanh bạn bè không phải người Ấn Độ, tôi không còn thấy cần thiết phải giấu một
thực tế là tôi nói một ngôn ngữ khác. Tôi nói tiếng Bengali với các con tôi mặc dù
tôi thiếu trình độ để dạy chúng đọc hay viết. Khi còn nhỏ tôi tìm cách hoàn thiện
bản thân và vì vậy đã phủ nhận nhu cầu của chính mình trong việc nhận dạng bản
thân. Khi trưởng thành, tôi chấp nhận rằng, sự giáo dục của hai nền văn hóa là một
điều phong phú nhưng không hoàn hảo.
Trong khi tôi là người Mỹ nhờ vào thực tế là tôi đã lớn lên trên đất nước này,
tôi là người Ấn Độ nhờ vào sự nỗ lực của hai cá nhân. Tôi có cảm giác mình là
người Ấn Độ không vì thời gian tôi trải qua ở Ấn Độ hay vì cấu trúc di truyền của
tôi mà vì sự hiện diện kiên định của cha mẹ tôi trong cuộc sống. Họ hiện diện ba
tiếng đồng hồ ở nhà, tôi nói chuyện với họ hàng ngày. Mọi việc sẽ thay đổi một khi
họ mất đi. Họ tất nhiên sẽ mang theo mọi thứ - những cuộc nói chuyện bằng một
ngôn ngữ khác, sự nhận thức về những khó khăn khi là người ngoại quốc. Không có
họ, sự hướng dẫn đi-về trong cuộc sống của gia đình tôi, theo cả nghĩa đen và nghĩa
bóng, sẽ đi dần đến sự tĩnh lặng. Nơi nương tựa sẽ mất đi, và sợi dây liên hệ sẽ bị
cắt đứt.
Tôi đã luôn luôn tin rằng tôi thiếu quyền lực mà cha mẹ tôi mang theo trong tư
cách là người Ấn Độ. Nhưng miễn là họ còn sống thì họ sẽ bảo vệ tôi khỏi cảm giác
là một kẻ mạo danh. Những gì họ đã đi qua không chỉ đánh dấu sự mất mát của
người đã tạo ra tôi mà còn đánh dấu sự mất mát của một cuộc sống khác thường.
Cuộc hành trình của người nhập cư, không cách nào đi đến thỏa mãn cuối cùng,
được dựa trên xuất phát điểm thiếu thốn, nhưng nó đảm bảo cho các thế hệ tiếp theo
cảm giác tới nơi và thuận lợi. Từng ngày trôi qua, bản chất Mỹ trong con người tôi
tăng dần, tuy nhiên nó luôn tồn tại đồng thời với di sản Ấn Độ. Điều này được đề
cập đến trong một tiểu thuyết mà trong đó tôi tiếp tục giải thích thuật ngữ “Ấn –
Mỹ”, sự tính toán chuyển đổi phương trình với mọi câu trả lời có thể tìm thấy.
Nguồn: 2TUhttp://www.thedailybeast.comU2T
VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ TRUYỀN THỐNG
Nicholas Gipe
Những câu chuyện trong bộ sưu tập của Jhumpa Lahiri: Người dịch bệnh0T có
sự 0Tkhác biệt trong cách tiếp cận vì chúng gắn liền với cùng một chủ đề và ý tưởng.
Mỗi câu chuyện liên quan đến những người gốc Ấn trong nhiều vai trò và hoàn
cảnh khác nhau. Một số nhân vật đang sống ở Ấn Độ, số khác là người Ấn Độ nhập
cư đang sinh sống tại Hoa Kỳ. Họ giống như chính bản thân Lahiri, đều là những
đứa trẻ được sinh ra ở nước ngoài, bị giằng xé giữa việc đang là người Ấn Độ hay
đang là người Mỹ, và đó là cuộc xung đột tạo nên hầu hết các câu chuyện. Câu
chuyện tiêu đề Người dịch bệnh kể về một gia đình người Mỹ gốc Ấn khi về thăm
Ấn Độ, họ xa lạ với những di sản văn hóa của đất nước mình. Tên truyện thích hợp
cho việc sau này Lahiri đặt tên cho bộ sưu tập của mình, bởi có thể làm nổi bật
khoảng cách đối với di sản văn hóa Ấn Độ của những người di cư.
Sinh ra ở London, Jhumpa Lahiri lớn lên chủ yếu ở Rhode Island. Cô đã học
tại Barnard College, nơi mà cô nhận bằng Cử nhân Ngữ văn Anh, và Đại học
Boston, nơi cô lấy được bằng Thạc sĩ ngành Creative Writing, và tiến sĩ tại
Renaissance Studies. Bên cạnh Người dịch bệnh0T,0T cô còn xuất bản một cuốn tiểu
thuyết, Hoán danh0T.0T
Hai vấn đề xuất hiện thường xuyên trong 0TNgười dịch bệnh là 0Thôn nhân và mối
quan hệ giữa các nhân vật người Ấn với tổ tiên của họ. Những vấn đề này, trong
hình thức này hay hình thức khác, nó tồn tại xuyên suốt trong các câu chuyện.
Chúng ta nhận thấy các cuộc hôn nhân trong mỗi câu chuyện có những nét riêng.
Trong Chuyện nhất thời, tác giả kể về những ngày cuối cùng của vợ chồng Shoba
và Shukumar. Mối quan hệ của họ đã bị sứt mẻ kể từ sau cái chết của đứa con chưa
kịp chào đời. Trong Gợi tình, nhân vật chính, một phụ nữ da trắng có tên là
Miranda, ngoại tình với người đàn ông đã có gia đình từ Ấn Độ tên là Dev, trong
khi người bạn đồng nghiệp dành nhiều thời gian nói điện thoại tại nơi làm việc an ủi
người chị họ. Chồng của chị ta phải lòng một người đàn bà da trắng.
1TSự bội bạc nảy sinh phức tạp hơn trong Người dịch bệnh. Trong câu chuyện
này, ông bà Das – một cặp vợ chồng người Mỹ gốc Ấn về thăm Ấn Độ cùng với các
con. Ông Kapasi, người hướng dẫn viên, chú ý nhiều đến bà Das. Mặc dù sự phản
bội thực sự không diễn ra giữa họ. Nhân lúc chỉ có hai người, bà Das đã tiết lộ với
ông rằng ông Das không phải là cha của một trong hai đứa con trai, một thực tế mà
1TKhông phải tất cả các cuộc hôn nhân trong tập truyện đều đổ vỡ. Truyện Khi
bà chưa từng tiết lộ với ai trước đây.
bác Pirzada đến ăn tối xoay quanh khao khát của ông Pirzada muốn biết tin tức về
vợ con – những người mà ông lo sợ họ có thể chết ở Pakistan. Câu chuyện cuối
cùng trong tập truyện Lục địa thứ ba, lục địa cuối cùng là câu chuyện về một người
đàn ông Ấn Độ đến định cư ở Boston sau khi học đại học ở Anh. Trước khi đến Mỹ,
ông trở về Ấn Độ để kết hôn với người phụ nữ mà ông chưa bao giờ gặp trong một
cuộc hôn nhân được sắp đặt trước. Ông chờ cô ấy ở Boston 6 tuần. Sau đó, họ bắt
đầu sống chung với nhau. Ở trang cuối của truyện, nhìn lại khoảng thời gian qua
1TCâu chuyện cuối cùng cung cấp mối liên hệ giữa hôn nhân và những mối quan
ông ngạc nhiên nói: “đã có lúc nào đó chúng tôi là người xa lạ với nhau”.
hệ gắn bó của các nhân vật với đất nước Ấn Độ. Câu chuyện cuối cùng này là câu
chuyện duy nhất đề cập đến việc sắp đặt hôn nhân, và nó cũng là câu chuyện cho
chúng ta thấy kết quả hạnh phúc trong hôn nhân. Chúng ta không biết các cuộc hôn
nhân khác có được sắp đặt hay không, chỉ biết rằng đa phần họ không được sinh ra
ở Ấn Độ. Người kể chuyện và vợ của ông gắn chặt với cuộc sống ở Mỹ nhưng đồng
thời cũng gắn chặt với những di sản Ấn Độ của họ nhiều hơn phần lớn các nhân vật
khác trong tập truyện. Đó là cội nguồn của hạnh phúc và thành công của họ. Nó
thích hợp để Lahiri đặt ở cuối sách bởi vì sự thành công của người đã đi qua 3 châu
lục cho chúng ta một ví dụ về một kết quả tích cực của việc mạo hiểm di chuyển
đến một đất nước mới. Người kể chuyện sử dụng điều này cho hy vọng về tương lai
của đứa con: “Mỗi khi nó chán nản, tôi lại nói với nó rằng nếu tôi có thể sống được
ở ba châu lục thì chẳng có chướng ngại vật nào mà nó không thể vượt qua”.
Xuyên suốt những câu chuyện trong Người dịch bệnh0T,0T Lahiri cho chúng ta
thấy các nhân vật có mâu thuẫn với chính mình và với nhau. Một số câu chuyện có
kết thúc hạnh phúc, số khác thì không. Chúng ta thấy các nhân vật như ông bà Das -
những người có khoảng cách quá lớn đối với các di sản Ấn Độ đến nỗi họ cần một
hướng dẫn viên, và chúng ta thấy Bà Sen, người ngồi trên sàn nhà của mình mỗi
ngày, cắt rau giống như cách cô ấy đã làm ở Ấn Độ, với con dao mà cô đã sử dụng
ở Ấn Độ. Tình yêu và truyền thống luôn luôn ở trung tâm các câu chuyện. Các nhân
vật tìm thấy hạnh phúc là những người có thể gắn chặt với hoàn cảnh hiện tại , đồng
thời không quên đi nguồn gốc Ấn Độ của mình.
0TĐIỀU KỲ DIỆU TRONG SỰ KẾT HỢP BÁNH MÌ VÀ CÀ RI: NHỮNG GIÁ
Nguồn: 2TUhttp://voices.cla.umn.eduU2T
0TMichiko Kakutani
0TNhân vật trong truyện của Jhumpa Lahiri là những người Ấn Độ di dân cùng thế
TRỊ VĂN HÓA TRỘN LẪN, NHỮNG TÌNH CẢM MÂU THUẪN
hệ con cháu của họ - những người sống tha hương, đứng giữa hai đất nước, hai nền
văn hóa và không thuộc về cả hai. Họ vừa phải chấp nhận những nghi lễ, phong tục
của quê nhà vừa không hoàn toàn đồng hóa vào văn hóa Mỹ. Các bậc cha mẹ người
Ấn mong muốn “giấc mơ Mỹ” cho các con của họ: trường học danh tiếng, một
công việc uy tín, một ngôi nhà rộng rãi ở ngoại ô. Tuy nhiên, họ lại thận trọng với
những cạm bẫy của cuộc sống trên vùng đất lạ, bị cách ly bởi rào cản ngôn ngữ và
thói quen. Các con của họ thường là những người ngoài cuộc nhạy cảm: lớn lên
trong sự thử thách bí ẩn của nước Mỹ và những người bà con thân thuộc ở Ấn Độ,
họ thông thạo cả hai nền văn hóa Mỹ và Bengal nhưng lại không xem cả hai là nhà.
0TNhư đã thể hiện trong tuyển tập chiến thắng giải Pulitzer Người dịch bệnh và
Họ luôn trải nghiệm bản thân trong sự phân tách bản ngã thành từng mảnh.
tiểu thuyết Hoán danh, Lahiri viết về những người Ấn di cư trong Vùng đất lạ bằng
sự hiểu biết sâu sắc về những tình cảm đối lập mâu thuẫn trong họ, việc sử dụng
văn phong ngắn gọn, cách nhìn các chi tiết để gợi lên cuộc sống hàng ngày của họ
với độ chính xác lạ thường: mùi kinh tởm của dừa trong bánh Nice mà người vợ
làm cho chồng vào mỗi buổi sáng; sự kỳ quái của bánh mì sandwich nhuộm màu
xanh với cà ri mà người mẹ Bengal làm cho con gái của bà xấu hổ khi mang đến
trường. Ý thức về sự mất mát thổi vào các câu chuyện. Jhumpa nhận thức sâu sắc về
hậu quả của thời gian và cái chết, những hiểu biết về sự kết giao muộn màng đòi hỏi
0TCác nhân vật dường như được đặt trong các mối liên hệ được thỏa mãn với
người chồng cưới vợ, cha mẹ và các con, người yêu và những người bạn.
những tình thế im lặng và vô vọng. Trong một vài trường hợp, đây là kết quả của
một cuộc hôn nhân được sắp xếp, nó không bao giờ kết thúc; những trường hợp
khác, nó đơn giản là một sự kiện xảy ra, nếu không để truyền đạt tình cảm thì để
0TTrong Điều tốt đẹp duy nhất, Sudha, người đang làm việc với bằng thạc sĩ thứ
nắm bắt một điều gì, trong một thời điểm, cho điều mà họ muốn.
hai tại trường Kinh tế London, lấy làm lạ trước sự “thiếu tình yêu” trong cuộc hôn
nhân của cha mẹ cô: “không hạnh phúc mà cũng không phải không hạnh phúc”,
thiếu cả sự đau khổ và nhiệt tình. Cô kết hôn với một người đàn ông Anh trong tình
0TTrong Địa ngục – thiên đường, người kể chuyện kể lại chi tiết về cuộc hôn nhân
trạng không thích hợp để kể với anh ta bí mật của gia đình.
lạnh lẽo của cha mẹ cô và tình yêu tha thiết của mẹ với một nghiên cứu sinh gốc
Bengal, một người bạn của gia đình, người đã cho mẹ cô “một niềm hạnh phúc rõ
0TTrong Lựa chọn nơi cư trú, Amit nhận thấy “điều sâu sắc nhất” trong cuộc sống
ràng mà bà chưa từng cảm nhận được”.
của anh - sự ra đời của những đứa con gái - đã xảy ra và nghỉ ngơi chỉ là “một phần
tiếp thêm của mọi việc”. Thêm nữa, anh sẽ đến một nơi vắng vẻ - một cuộc hành
trình trong công viên, một chuyến đi bằng xe điện ngầm - điều gì thích thú nhất, chỉ
một điều rằng, thậm chí thoáng qua, sự trải qua những điều bị giới hạn hay giữ lại
0TNhư đối với Ruma, nhân vật chính của câu chuyện chủ đề, cô nhận thấy suốt
một điều đúng mực.
cuộc viếng thăm của cha, họ ít khi nói về những vấn đề quan trọng, họ không nói về
mẹ cô hoặc em trai cô, họ cũng không bàn đến việc cô có thai và cuộc hôn nhân của
cô hoặc mối quan hệ mới của cha cô với một người đàn bà ông đã gặp trong kỳ
nghỉ. Đây đã là chuyện đã hằn sâu trong ký ức cô: “Vì một lý do nào đó, cô đã lo sợ
rằng sự khác nhau trong quan niệm sẽ làm sứt mẻ mối liên kết mỏng manh đang tồn
tại giữa họ”. Hôn nhân của cô, Ruma nhận thấy nó cứng nhắc quá: cô nhận thức
thêm rằng, cô và chồng cô, Adam, là “người khác biệt, sống với những điều khác
biệt”, và cô chắc chắn sẽ được làm nhẹ bớt khi Adam rời nhà trong những lần đi
0TNhiều đứa trẻ di dân trong truyện của Lahiri nhận thức sâu sắc những mong ước
công tác.
của các bậc cha mẹ; rằng họ vào nhóm các trường đại học nổi tiếng, học thạc sĩ
hoặc tốt nghiệp đại học, kết hôn với những người xuất thân trong một gia đình
Bengal tử tế. Khéo léo giải thích phương trình cảm xúc trong những gia đình của
các nhân vật, Lahiri thể hiện cách thức mà một số đứa trẻ này bước ra bên ngoài,
thậm chí bất chấp ước mơ của cha mẹ họ. Nhưng cô cũng thể hiện sự ám ảnh còn
giữ nguyên bởi gánh nặng từ những giấc mơ của gia đình họ và sự nhận thức về vai
0TCha mẹ của họ dường như kiệt sức khi đương đầu với những khó khăn của việc
trò của họ trong trong các thế hệ đang được Mỹ hóa.
tồn tại trên một thế giới xa lạ. Họ thực tế một cách lập dị và không đa cảm – về hôn
nhân, công việc, sự thử thách của cuộc sống hàng ngày. Những đứa trẻ được sinh ra
ở Mỹ thì, đồng thời, có thêm sự lãng mạn về khả năng tìm kiếm tình yêu chân thật
và những công việc thỏa mãn và cũng hoài nghi hơn về con đường đi của con người
trong cuộc sống. Thông thường sự cộng hưởng trong vai trò người khôn khéo hoặc
người gắn kết, họ quen với tư cách người trung gian hòa giải giữa cha mẹ với những
0TSudha là một thí dụ, thu gom những đợt bán hạ giá đồ chơi để tìm ra đủ loại đồ
người anh em đã bị Mỹ hóa.
chơi thích hợp cho cậu em trai nhỏ - “vựa lúa Fisher Price barn, những chiếc xe tải
Tonka, đồ chơi Speak and Say tạo ra các loại âm thanh của súc vật”; cô đọc cho
cậu nghe những quyển sách như “Peter Rabbit” và “Frog and Toad” và “nói với
cha mẹ cô gắn những vòi phun nước trên bãi cỏ để cậu chạy quanh suốt mùa hè”.
0TBa truyện liên hoàn cuối cùng kể về một cô gái và chàng trai người Mỹ gốc
Bengal, cuộc sống chồng chéo của hai người làm nên khúc Balat thương tâm về tình
yêu, sự mất mát và cái chết. Hema và Kaushik biết nhau thời niên thiếu, khi gia
đình Kaushik đến ở với cha mẹ Hema trong khi chờ tìm nhà ở ngoại ô Boston.
Hema thầm ấp ủ một niềm say mê với Kaushik, nhưng anh ta hoàn toàn không biết
những trò đùa của cô và bị ám ảnh bởi sự hao mòn sức khỏe của mẹ anh. Nỗi đau
khổ của anh càng lớn sau cái chết của bà và anh giận dữ trước việc tái hôn vội vàng
của người cha. Nó đẩy anh vào nghề phóng viên chụp ảnh, trải qua phần lớn thời
0THema, trong lúc ấy trở thành một giáo sư, một học giả tiếng Latin, sau một thời
gian với những những cuộc chiến tranh ở những miền đất xa xôi của quả địa cầu.
gian dài, không hạnh phúc với tình yêu bốc đồng, quyết định chọn một cuộc hôn
nhân truyền thống được sắp đặt, mặc dù cô hiểu rõ “cái chết” của dự định kết hợp
này, cô cố gắng thuyết phục bản thân rằng mối quan hệ đó sẽ cho cô cuộc sống với
cảm giác chắc chắn và ổn định. Song, đi ngược lại tất cả, Hema và Kaushik gặp lại
nhau ở Rome - vào buổi tối trước khi Hema khởi hành về cho đám cưới của cô - và
lau vào một tình yêu mãnh liệt tha thiết. Tuy nhiên, câu chuyện tình yêu không kết
0TTrong bàn tay của một nhà văn kém tài, đó là một kết thúc có thể được xem là
thúc bằng niềm vui hạnh phúc mà bằng niềm đau âm thầm vì những cơ hội bị bỏ lỡ.
cường điệu hoặc dối trá, tuy nhiên với sự thể hiện của Jhumpa, nó chiếm hữu sức
mạnh ám ảnh của bi kịch - một chứng cứ rõ ràng cho sự hiểu biết thâm sâu của một
nghệ sĩ tuyệt vời.
Nguồn: 2TUhttp://topics.nytimes.comU2T
VĂN HÓA VÀ NHẬP CƯ, NƯỚC MỸ VÀ HẬU NƯỚC MỸ TRONG
NGƯỜI DỊCH BỆNH CỦA LAHIRI
Hassan Rouhvand
Bài báo này là bài nghiên cứu về sự phân đôi văn hóa của nước Mỹ và Hậu
nước Mỹ liên quan đến vấn đề nhập cư, trong lý thuyết và trong thực tế, để cắt
nghĩa, như Francis Fukuyama quan sát, sự tồn tại các lỗ trống trong các học thuyết
của những người sáng lập nước Mỹ là do họ thiếu hiểu biết về bản sắc của cộng
đồng người nhập cư vì đã chú ý đến họ theo hướng đồng hóa và giao thoa văn hóa.
Thách thức đang gia tăng, chủ yếu là qua việc áp dụng quan điểm lý thuyết của
Fukuyama, Jhon Fonte, Robert Bach và Alliennikoft hướng tới những gì đang bị đe
dọa ngày nay ở nước Mỹ như một xã hội đa văn hóa và như một đất nước nhập cư
xuyên quốc gia.
Trên thực tế, tôi sẽ theo dõi các mô hình của sự phân đôi để hỏi và trả lời câu
hỏi: “Động lực nào thúc đẩy sự có mặt của những hình ảnh địa lý văn hóa Nam Á
và vấn đề nhập cư của họ bên trong hoặc bên ngoài nước Mỹ trong tác phẩm của
Lahiri?”. Tôi cũng muốn lập luận rằng, Lahiri bây giờ được chú ý như một nhà văn
nhập cư hàng đầu đã thể hiện trong bộ sưu tập của cô những phương pháp thích hợp
mà tôi đưa ra tranh luận để làm suy yếu quyền công dân Mỹ trong ý nghĩa truyền
thống. Nó sẽ được minh họa bằng các nhân vật trung thành với nền văn hóa cội
nguồn. Tôi sẽ cố gắng chỉ ra rằng, Jhumpa Lahiri là thành viên của thế hệ người
nhập cư thứ hai, trong mặt ưu việt, với ý thức tập thể hơn là ý thức cá nhân và
những đặc quyền, cô đồng cảm với lịch sử đa dạng của nước Mỹ hơn là với truyền
thống lịch sử đồng nhất của nó.
Tôi sẽ cố gắng để minh họa và kết luận rằng dường như không thể nhắc tới
Hoa Kỳ mà không có sự công nhận chính thức của bản sắc văn hóa tập thể đa dạng
của người mới đến, vì thế, không thể chấp nhận giải pháp truyền thống đối với việc
nhập cư như là một phương tiện để nhập tịch và đồng hóa vào văn hóa nước Mỹ.
GIỚI THIỆU
Jhumpa Lahiri được sinh ra ở London nước Anh năm 1969, cha mẹ cô là
người Ấn Độ. Cô lớn lên ở Rhode Island – nơi cha cô làm việc cho thư viện và mẹ
là giáo viên. Lahiri lấy bằng cử nhân Ngữ văn Anh tại trường Barnard College,
bằng thạc sĩ ngành Creative Studies và bằng tiến sĩ ngành Renaissance Studies từ
trường Đại học Boston.
Tuyển tập đầu tay của cô Người dịch bệnh đã giành được nhiều giải thưởng,
trong đó bao gồm cả giải Pulitzer cho thể loại truyện hư cấu năm 2000. Tác phẩm
thứ hai có nhan đề Hoán danh, là quyển tiểu thuyết đầu tiên của cô, trong nhiều
tuần nằm trong danh sách bán chạy nhất trên New York Times. Cùng với giải
Pulitzer năm 2000, cô còn nhận các giải thưởng khác: giải Pen/Hemingway, giải O.
Henry, giải tác phẩm đầu tay hay nhất trong năm của The New Yorker và giải
Addion Metcalf của viện Văn học Nghệ thuật Mỹ.
Chín câu chuyện trong tuyển tập Người dịch bệnh cung cấp cho người đọc
những kinh nghiệm phong phú vừa quen thuộc vừa xa lạ. Toàn bộ tập truyện tập
trung nói về những người Ấn Độ Nam Á, thường là người Bengal đang sống ở Ấn
Độ hoặc sau đó di cư đến sống ở Mỹ. Những chi tiết miêu tả phong phú về cuộc
sống của người Ấn Độ, các giá trị văn hóa và phong tục cùng những thói quen trong
gia đình như thức ăn và cách nấu ăn cung cấp nền tảng quan trọng trong nhiều câu
chuyện, có thể là xa lạ với người đọc, đặc biệt là với người Mỹ, phong cách và
những vấn đề trong tập truyện đạt đến trình độ khái quát cao, hấp dẫn và cảm động.
Hầu hết các câu chuyện được dệt nên từ cái nhìn của một người đang đứng
giữa hai nền văn hóa. Các nhân vật là người tị nạn ở nước ngoài đang loay hoay tìm
hướng đi ở một quốc gia, chủ yếu là ở Mỹ, để tạo nên những cơ hội hoặc một chốn
ở như: Chuyện nhất thời, Lục địa thứ ba và lục địa cuối cùng, Ngôi nhà của cô Sen,
Khi bác Pirzada đến ăn tối và Ngôi nhà được ban phước. Mối ràng buộc với châu Á
có thể mạnh hoặc yếu nhưng tất cả họ dường như đều bị ám ảnh. Việc sống giữa hai
nền văn hóa góp phần tạo nên một địa tầng phức tạp cho các tình huống và các mối
quan hệ.
Câu chuyện đầu tiên trong tuyển tập Chuyện nhất thời kể về đôi vợ chồng trẻ
có cuộc hôn nhân đã đi đến bế tắc sau cái chết của đứa con chưa chào đời. Họ nhận
được thông báo từ công ty điện lực rằng khu phố của họ sẽ bị cắt điện mỗi buổi tối
trong năm ngày tới. Cúp điện đã tạo nên một số thay đổi trong mối quan hệ giữa hai
người.
Khi bác Pirzada đến ăn tối là câu chuyện về mối quan hệ giữa một gia đình
người Bengal và một người Bangladesh – ông Pirzada. Lilia, cô con gái người Mỹ
gốc Ấn xúc động trước lòng tốt của cha mẹ cô dành cho ông Pirzada – người có mối
lo ngại cho sự an toàn của gia đình và đã trở về nước giữa lúc cuộc nội chiến bùng
nổ.
Người dịch bệnh kể về đôi vợ chồng người Mỹ gốc Ấn đến Ấn Độ với ba đứa
con. Hướng dẫn viên của họ cũng đồng thời là người phiên dịch bệnh trạng cho các
bệnh nhân người nước ngoài tại một phòng mạch. Trong cuộc nói chuyện thân mật
giữa bà Das và người hướng dẫn viên, bà thú nhận rằng một trong hai đứa con trai
là kết quả của cuộc ái ân giữa bà và người bạn của chồng. Người hướng dẫn viên
đặt mình vào tình thế khó xử khi buộc miệng hỏi: “Bà Das, có thật bà thấy đau khổ
hay đó là một tội lỗi?”
Vợ của một giáo sư, cô Sen trong Ngôi nhà của cô Sen phải học lái xe để cô có
thể tiếp tục công việc của mình như một người giữ trẻ. Điều này giúp cô cải thiện
cuộc sống mới ở Mỹ và giết thời gian khi chồng cô luôn luôn bận rộn. Công việc
của cô phản chiếu nỗi sợ hãi, thất vọng, cô đơn và nỗi nhớ nhà.
Câu chuyện thứ năm, Người gác cổng chân chính là câu chuyện về Boori Ma,
một người quét dọn cầu thang của một chung cư cũ kỹ ở Calcutta, người bị trục
xuất sau khi xảy ra phân vùng. Bà nói đi nói lại về tai ương của mình và sự khốn
khổ mà bà chưa từng gánh chịu trước đây. Cuối cùng các cư dân ném Boori Ma ra
đường sau vụ tình nghi mất trộm.
Ngôi nhà được ban phước là câu chuyện về đôi vợ chồng người châu Á vừa
bước vào cuộc sống hôn nhân. Họ bắt gặp nhiều vật dụng của tín đồ Thiên chúa
giáo của người chủ nhà cũ bỏ lại. Twinkle, người vợ, rất vui mừng về việc tìm kiếm
các đối tượng này nhưng Sanjeev thì không mấy thích thú. Các vật dụng Thiên chúa
đem đến sự mâu thuẫn giữa hai người đồng thời cũng đưa đến sự hòa giải vào cuối
truyện.
Căn bệnh của Bibi Halder là câu chuyện về một cô gái Ấn Độ sống ở Calcutta.
Cô rất ngây thơ và tin rằng hôn nhân là một phương thuốc cho tất cả các căn bệnh.
Câu chuyện kể về việc mọi người giúp cô tìm một người chồng và làm thế nào để
cuối cùng cô được chữa khỏi bệnh.
Gợi tình là câu chuyện về cô gái người Mỹ gốc Ấn – Miranda – đã trao tình
yêu cho một người đàn ông Bengal đã có gia đình vô trách nhiệm. Cô cố gắng thích
nghi với văn hóa Bengal, ăn thức ăn Ấn Độ, xem phim Ấn Độ và đến cuối truyện cô
nhận ra sự phức tạp và vô nghĩa của mối quan hệ này.
Và cuối cùng, Lục địa thứ ba và lục địa cuối cùng là câu chuyện về một người
Ấn di cư đắm mình trong sự hồi tưởng về những tuần đầu tiên của ông ở Mỹ 30
năm về trước. Ông được sắp xếp một cuộc hôn nhân nhưng phải đến Mỹ ngay sau
khi kết hôn nên không thể làm quen với vợ. Trong khi đó, ông thuê một căn phòng
thuộc sở hữu của một người góa phụ cao tuổi. Khi vợ ông đến Mỹ, bà Croft gọi cô
là một phụ nữ hoàn hảo. Nhận xét này đã gợi lên một sự cảm thông và tình yêu
trong ông dành cho vợ mình.
Tác phẩm không chỉ làm rung động trái tim của những người đang cảm thấy bị
xa lánh và cô đơn ở nước ngoài mà còn làm rung động với tất cả những ai am hiểu
về văn hóa Ấn Độ
QUAN ĐIỂM TRUYỀN THỐNG, “TỰ DO DÂN CHỦ MỸ”
Điều mà Jhon Fonte trong bài viết “Để chiếm hữu ý thức dân tộc Mỹ” thảo
luận về phương pháp tiếp cận truyền thống đối với vấn đề nhập cư là sự đồng hóa
vào một dân tộc với quyền được hưởng trên đất đai của người khác “nguyên tắc cơ
bản của tự do, dân chủ, quyền công dân bình đẵng và quyền lợi cá nhân được thể
hiện trong những văn bản (của nước Mỹ) nhằm chống đối với những quyền dân tộc
đang có và nguồn gốc tôn giáo”. Ông chấp nhận hai giới hạn để nói thêm về hướng
giải quyết của Hoa Kỳ đối với vấn đề di dân, đồng hóa và sự tiếp biến văn hóa. Ông
gọi chúng là “sự đồng hóa ái quốc” và “đạo lí đúng theo hiến pháp Hoa Kỳ”.
Với “sự đồng hóa ái quốc” ông cho rằng “những người nhập cư về cơ bản
chấp nhận những nguyên tắc công dân Mỹ và những di sản Mỹ như là của họ”.
Điều này hướng tới những thủ tục Mỹ hóa đòi hỏi những người mới đến hòa nhập
vào nền văn hóa, trang phục, chuẩn mực và pháp luật của đất nước họ đến để làm
thành một dân tộc, vì vậy nó đi ngược lại với một xã hội đa văn hóa thông qua sự
nhập tịch bằng việc nói tiếng Anh và biết về lịch sử để bảo đảm quyền công của họ,
tự do và quyền bình đẵng. Tuy nhiên, với làn sóng nhập cư trong thập niên 60 và 70
đã có một cái nhìn mới về vấn đề nhập cư từ quan điểm đa nguyên và đa văn hóa.
VẤN ĐỀ THỬ THÁCH: NƯỚC MỸ XUYÊN QUỐC GIA HAY HẬU
NƯỚC MỸ
Theo cách nổi lên của cấu trúc nước Mỹ xuyên quốc gia hay hậu nước Mỹ của
Hợp chủng quốc, quan điểm về sự đồng hóa của những người nhập cư trong một
dân tộc bị bác bỏ và một “sự thành lập liên bang quốc tế của kiều dân” được kêu
gọi. Điều này sẽ dẫn đến kết quả “không còn là một dân tộc mà là một liên dân tộc,
một sự đan kết qua lại với những đất nước khác nhau”. Ý kiến quay trở lại với nước
Mỹ như một đất nước của “một dân tộc”.
Allienikoff trong bài viết của mình tuyên bố rằng “nước Mỹ là một khế ước
dưới sự thương lượng không ngừng”, Jhon Fonte mở rộng điều này “sự thương
lượng của khế ước Mỹ” và đồng tình với Allienikoff đi đến khẳng định “các nhóm
dân tộc có liên hệ qua lại sẽ nổi lên như một phần tử của một dân tộc”.
Robert Bach cũng vậy, như một người đề xướng về nước Mỹ xuyên quốc gia,
tin rằng “vấn đề của nước Mỹ ngày nay có thể không là vấn đề đa dạng mà là vấn
đề đồng nhất”. Vì thế, việc mải mê nghiên cứu những quan điểm đề xuất gần đây
của các viện nghiên cứu và các học giả về địa lý con người, văn hóa và nhập cư, sự
đồng hóa sẽ xuất hiện như là thêm một vấn đề hơn là một giải pháp để nhận dạng
các cuộc đấu tranh trong một xã hội đa văn hóa.
Vì nó là điều hiển nhiên từ những lập luận đầy thách thức, các giả định của
giới thượng lưu ngày nay là xoay quanh “tính ưu việt của nhóm văn hóa vượt lên
tính cá nhân đơn lẻ, nhóm người tán thành chế độ bầu cử theo tỷ lệ như một mục
tiêu xã hội” với các nhóm thiểu số không có nghĩa vụ phù hợp với các nền văn hóa
được cho là đã có ở đó.
Tập truyện Người dịch bệnh của Jhumpa Lahiri mô tả thách thức văn hóa liên
quan đến vấn đề đồng hóa và sự thích nghi trên một đất nước nhập cư nhưng khó
giải quyết hơn về các khái niệm khi mà Ấn Độ với tất cả sự đa dạng của văn hóa và
truyền thống là sự thúc đẩy người đọc trong cố gắng để tiên đoán: họ là ai.
NƯỚC MỸ VÀ HẬU NƯỚC MỸ TRONG NGƯỜI DỊCH BỆNH
Chín câu chuyện trong tuyển tập được xây dựng trên cái nền văn hóa Ấn Độ.
Các nhân vật trong truyện bị chi phối bởi văn hóa Ấn Độ dưới hình thức này hay
hình thức khác. Ba truyện diễn ra ở Ấn Độ và sáu truyện còn lại liên quan tới cuộc
sống của những người Ấn Độ nhập cư ở Mỹ.
Câu chuyện chủ đề Người dịch bệnh đem lại cho chúng ta hình ảnh về một gia
đình người Mỹ gốc Ấn đang trong chuyến về thăm Ấn Độ, họ như là những người
xa lạ với nền văn hóa và di sản cội nguồn. Ông bà Das quá xa lạ với những di sản
của Ấn Độ đến mức cần một hướng dẫn viên du lịch. Bà Das hiện lên trong sự cân
bằng và thích nghi tuyệt đối với cuộc sống Mỹ, cũng như với các con của bà. Cách
ăn mặc và cách thưởng thức thức ăn của bà chẳng khác gì một người nước ngoài,
cách bà tránh xa thức uống vì e ngại nó mất vệ sinh tiêu biểu cho mức độ đồng hóa
nghiêng về phong cách sống của người Mỹ.
Một câu chuyện khác, Lục địa thứ ba và lục địa cuối cùng hoặc Khi bác
Pirzada đến ăn tối thể hiện hình ảnh những người vợ di dân tìm thấy sự cân bằng
giữa Bengal và Mỹ. Cô Sen, mặc dù khập khiễng và chậm chạp, mất nhiều thời gian
cho cuộc hành trình hòa nhập với vùng đất mới nhưng cuối cùng cũng nguôi dần và
có sự tương đồng với những người phụ nữ người Mỹ gốc Ấn kia trong sự cân bằng.
Trong Ngôi nhà được ban phước, Twinkle với niềm vui thích và say mê sắp xếp các
biểu tượng Thiên chúa như là một người Mỹ mộ đạo và các giá trị văn hóa trên lò
sưởi.
Ngoài ra, trong Lục địa thứ ba và lục địa cuối cùng có một mối quan hệ được
phát triển giữa bà Croft, bà lão người Mỹ với một người Ấn Độ cần định cư ở đó.
Trong truyện này, nhân vật chính sẽ học được cách chấp nhận tật riêng của người
phụ nữ người Mỹ ấy, vượt qua giai đoạn làm quen với nó, ông đi đến chấp nhận, và
khi thiếu vắng ông đã nhớ về nó như là biểu hiện bình thường của cuộc sống.
Đến thời điểm này, có thể xem như quan điểm của những người đề xuất ý
tưởng về nhập cư và đồng hóa đã cho thấy sự đúng đắn và đã đạt được hiệu quả. Nó
có thể được hình dung qua sự thành công của các thế hệ người nhập cư theo cách
thức của họ hội nhập vào nước Mỹ, ý thức Mỹ và bản sắc văn hóa mới đang ngày
càng có uy thế và có trọng lượng.
Tuy nhiên, đó có vẻ như là một sự chuyển vế phương trình đơn giản. Để tiếp
tục giải thích sự tạo ra thế hệ con lai Ấn – Mỹ thúc đẩy chúng tôi, theo hướng tranh
luận gay gắt, Samuel Huntington đặt cho những người nhập cư câu hỏi: “Chúng ta
là ai?”. Câu trả lời có thể được tìm thấy trong cộng đồng người Ấn Độ trong tác
phẩm của Lahiri đang đấu tranh hoặc đang xoay sở với tình trạng bị cô lập, sự ngăn
cách, sự quá độ, trạng thái không nhà, sự tạp giao văn hóa, bản sắc và sự đồng hóa.
Bản thân Lahiri là một người Mỹ gốc Ấn, trong một cuộc phỏng vấn bày tỏ ý
kiến về những trải nghiệm của mình, cô nói:
Khi lớn lên ở Rhode Island vào thập niên 70, tôi cảm thấy mình không phải
người Ấn Độ cũng không phải người Mỹ. Giống như nhiều đứa trẻ di dân, tôi cảm
thấy bị áp lực mạnh từ hai phía, trung thành với thế giới cũ và thông thạo thế giới
mới, bằng lòng với cả hai bên của dấu gạch nối. Nhìn lại, tôi thấy đây là trường
hợp bình thường. Nhưng với nhận thức của một đứa trẻ, tôi cảm thấy bị cắt giảm ở
cả hai đầu, bị đưa đẩy như con thoi theo hai chiều chẳng có liên hệ gì với nhau. Ở
nhà, tôi theo trang phục của cha mẹ, nói tiếng Bengali, ăn cơm và dal với các ngón
tay. Những sự việc bình thường thường này dường như là một phần bí mật, một lối
sống hoàn toàn xa lạ và tôi đau khổ che giấu chúng với các bạn người Mỹ.
Tuyển tập truyện ngắn Người dịch bệnh theo cách thức như vậy, trôi bồng
bềnh giữa hai đất nước Ấn Độ và Hoa Kỳ. Trong các câu chuyện về những người
nhập cư, Lahiri đã khéo léo xem xét những phản ứng với sự thay đổi văn hóa,
những ràng buộc để giữ chặt con người với quê hương xứ sở, gia đình trói buộc
điều đó kéo chúng ta vào những điều mà đôi khi theo chiều hướng trái ngược hoàn
toàn. Tác phẩm không chỉ làm rung động trái tim của những người đang cảm thấy bị
xa lánh và cô đơn ở nước ngoài mà còn làm rung động với tất cả những ai am hiểu
về văn hóa Ấn Độ. Thức ăn là một ví dụ. Nó kêu gọi sự thừa nhận, sự thừa nhận ấy
không giới hạn ở cá nhân mà cho cả một cộng đồng. Nó như một phép ẩn dụ vừa
thực hiện chức năng kết nối vừa có nhiệm vụ tách biệt cộng đồng này với cộng
đồng khác.
Thức ăn là sản phẩm của một vùng đất. Thức ăn là văn hóa đối với những
người nhập cư thỏa mãn như một phần quan trọng trong bản sắc văn hóa của họ.
Khi đi từ quê nhà, thức ăn từ những người dân xứ ấy mang lại nhiều niềm vui như
nghe được giọng nói của mẹ ở nước ngoài. Thức ăn tạo nên một đường liên kết, nó
đem lại cảm giác thân quen trên một thế giới xa lạ.
Để đối mặt với cảm giác lưu vong, bị xa lánh, thiếu vắng cảm giác gần gũi và
sự liên lạc, nỗi đau buồn xé ruột, dấu ấn về nỗi nhục nhã, nỗi đau về sự tiếp biến
văn hóa, “phương thức triển khai mà Lahiri để hết tâm trí vào là thêm vào những
loại thức ăn khác nhau”. Thức ăn trở thành động lực thúc đẩy sự cân bằng nhóm,
tộc người thiểu số khi đi ngược lại với nguyện vọng thích nghi theo xu hướng văn
hóa chủ đạo ở vùng đất định cư.
Chuyện nhất thời tập trung chủ yếu vào sự xa cách trong một gia đình nhỏ
người Ấn Độ mà thức ăn như là một nhân tố để ràng buộc. Lahiri miêu tả những
ngày hạnh phúc của gia đình nhỏ này qua việc kiểm kê tỉ mỉ các loại thức ăn mà
phần lớn phụ thuộc vào văn hóa:
Phòng để thức ăn luôn là kho dự trữ với sự bổ sung những chai dầu ô liu và
ngũ cốc, tùy thuộc họ nấu món Ấn Độ hay món Ý. Đã có những hộp mì trong tất cả
các trạng thái và màu sắc, có khóa kéo những bao chứa gạo, đầy đủ sườn cừu và dê
từ người hàng thịt Hồi giáo ở Haymarket, được băm nhỏ và làm đóng băng vô tận
trong các túi nhựa.
Nhưng ngược lại trong Chuyện nhất thời thực phẩm đem lại nhận thức thuộc
về nhau của hai vợ chồng thì trong truyện tiếp theo Khi bác Pirzada đến ăn tối thực
phẩm trở thành một chút dấu vết từ quê nhà. Làm thức ăn không chỉ đáp ứng một
phần nhu cầu cuộc sống nơi quê nhà cho ông Pirzada mà còn đáp ứng như một sự
ràng buộc mạnh mẽ giữa các nhân vật chính – ông Pirzada và gia đình của Lilia.
Ông Pirzada đến từ Dacca trong khi cha mẹ Lilia ở Ấn Độ. Nhưng thức ăn mà họ
nêm cũng như thói quen ăn uống đưa đến một ràng buộc của sự giống nhau:
“Họ cùng ăn xoài ngâm, cùng ăn cơm tối bốc tay. Giống như cha mẹ tôi, bác
Pirzada cởi giày trước khi bước vào phòng, nhai hạt thìa là sau bữa ăn cho dễ tiêu,
không uống rượu, khi tráng miệng thì nhúng những chiếc bánh quy rẻ tiền vào cốc
nước chè”.
Ở đây, không chỉ thức ăn mà cả thói quen ăn uống cũng là cơ sở của sự đồng
cảm. Những loại thức ăn mà người Ấn Độ cũng như người Pakistan thường dùng
thiết lập sự hòa hợp tất cả cộng đồng Ấn – Pakistan và là chỗ dựa cho họ trên một
đất nước mà các thành phần dân cư trú không biết hoặc không sẵn lòng biết họ là ai.
Cô Sen là một phụ nữ Bengal điển hình mà cá là nguồn thức ăn cơ bản. Sự
xuất hiện của cá tại các cửa hàng địa phương được đón chào như một mẩu tin tức từ
gia đình và cô luôn luôn mong muốn nắm giữ nó để nấu ăn phục vụ cho chú Sen.
Bất cứ khi nào cá đến tại các cửa hàng địa phương là cô quấy rầy chồng mình vận
chuyển nó từ cửa hàng về nhà cho cô. Nếu chú Sen bận việc thì cô đón xe buýt đến
để lấy cá, nhưng cô không hưởng trọn vẹn niềm vui vì hành khách khó chịu với mùi
tanh. “Cá trở thành chủ đề của truyện. Sự tồn tại của cô Sen trên đất khách xoay
quanh loại thực phẩm này”. Nó cho cô cảm giác gần gũi với người dân xứ mình và
rằng nó hoàn toàn vắng mặt trong xã hội Mỹ.
Câu chuyện cuối cùng trong tuyển tập, Lục địa thứ ba và lục địa cuối cùng kể
về sự ra đi và từng bước bắt đầu cuộc sống nơi xứ lạ của một trí thức Bengal. Anh
ta theo đuổi nền giáo dục ở Anh và sau đó nhận công việc ở Mỹ. Thích nghi với lối
sống của ba lục địa, anh và vợ anh thành công trong việc duy trì bản sắc văn hóa cội
nguồn. Thậm chí ở Mỹ, anh vẫn cảm nhận sự khác biệt giữa mùi cơm tỏa ra trong
nhà với mùi cơm tỏa ra từ một căn hộ. Một đĩa cơm được chế biến với “tỏi tươi và
gừng trên bếp lò” làm nên một bữa ăn thừa mứa. Không chỉ thức ăn mà thói quen
ăn uống cũng trở nên quý giá vì nó đem lại cảm giác được gắn liền với quê hương
xứ sở. Ăn cơm bốc tay đem lại niềm vui mà không có cái thìa hay cái nĩa nào có thể
thay thế được. Con trai họ học đại học Harvard cũng sẽ thừa hưởng thói quen ăn
cơm bốc tay này. Thói quen này là đặc ân lớn đối với những người Ấn Độ sống ở
nước ngoài. “Ở Ấn Độ, phần lớn các nhân vật có thể nói tiếng Anh nhưng thức ăn
Anh không là phần thiết yếu trong khẩu phần ăn của người Ấn hoặc của những
người sống ở nước ngoài”.
Đây là “những cuộc sống lưu vong”, như bản thân Lahiri quan sát, và đây là
“sự xác định và xác định lại về người Mỹ gốc Ấn lưu vong” trong sự biệt lập. Tình
yêu, truyền thống và vấn đề bản sắc luôn tồn tại trong sâu thẳm các câu chuyện và
trong các nhân vật. “Những người tìm thấy được hạnh phúc là những người có thể
nắm chặt hoàn cảnh hiện tại của họ đồng thời không bỏ quên nguồn gốc Ấn Độ”.
Chúng tôi xem xét về nhân vật cô Sen hàng ngày ngồi trên sàn nhà cắt rau cải theo
cách cô đã làm ở Ấn Độ cùng với con dao mà cô đã sử dụng ở đó.
Sự gắn bó bền vững với bản sắc Bengal của cô là quá rõ ràng qua việc cô thậm
chí không sử dụng con dao của phương Tây. Cô mang theo từ Ấn Độ một con dao
rất đặc biệt “được tạo thành giống như mũi một con thuyền của người Viking” được
dùng cho việc cắt thái các thành phần thực phẩm. Con dao được gọi là “bonti”
trong tiếng Bengali không chỉ là một dụng cụ, mà nó tồn tại trong ký ức cô Sen như
“biểu tượng trung tâm cho cộng đồng người phụ nữ Ấn Độ”. Nếu bonti tượng trưng
cho bản sắc Bengal của cô Sen thì sự bực tức với chiếc xe tượng trưng cho sự thất
bại để tiến đến một người Mỹ gốc Bengal thành công. Ashutosh Dubey chỉ ra rằng
“sự kiên quyết chối từ của cô Sen với việc học lái xe có thể được xem như là bản
năng của sự chống đối với những giới hạn được sai khiến của thế giới mới này”.
“Được nuôi dưỡng trong một nền văn hóa mà ở đó cô có thể tin tưởng vào một tài
xế lái xe, cô Sen không có được kĩ năng tự chủ của một người Mỹ khi lái xe”. “Để
tìm đến với cá, cô phải gọi chồng mình trong lúc đang làm việc và dỗ ngọt ông đi ra
cửa hàng để mua được cá tươi”.
Mặc dù trong các câu chuyện khác của tuyển tập, chúng tôi được tiếp cận với
một số phụ nữ nhập cư như trong Người dịch bệnh và trong Lục địa thứ ba và lục
địa cuối cùng, tuy nhiên họ là những người có thể tìm thấy sự cân bằng giữa Bengal
và Hoa Kỳ. Cô Sen, ngay từ đầu xác định nhà của cô ở Calcutta: “Mọi thứ đều ở
đó… Ở đây không có gì cả”. Nó nói lên trạng thái tâm lí của cô không dẫn đến sự
thích nghi và đồng hóa. Câu chuyện như bức tranh về người phụ nữ nhập cư trong
những năm đầu sống nơi xứ lạ. Tuy nhiên, có một điều đáng suy ngẫm: truyện này
không được viết bởi một người nhập cư thuộc thế hệ đầu tiên mà bởi Jhumpa
Lahiri, một thành viên của thế hệ thứ hai, và là một học giả, người được đòi hỏi
phải, ở một mức độ cao, đắm mình vào nền văn hóa Mỹ bao gồm cả giáo dục và
cuộc sống. Điều đáng nói là cô vẫn chưa là một phần của nước Mỹ như những
người sáng lập đất nước ấy từng nghĩ.
Tập truyện của Lahiri vừa lặp lại bản sắc chính trị truyền thống của vấn đề
nhập cư vừa phản ánh bản sắc chính trị hiện đại của các chỗ trống trong kết cấu lý
thuyết về Hậu nước Mỹ với việc giữ nguyên vị trí và ý nghĩa của các nhóm người.
Trong khi những người trước đây chính trị hóa bản sắc của người nhập cư: tự do cá
nhân với toàn bộ xã hội dân chủ trên giả định về nguyên tắc số đông, những người
định cư gần đây hiểu tự do cá nhân trong nhóm văn hóa, tôn giáo và dân tộc để bảo
vệ bản sắc tự do của họ trong bối cảnh đa văn hóa. Như John Fonte lập luận, khi
đọc bài viết của Francis Fukuyama Tạp chí Dân chủ (2006) “ngày nay chủ nghĩa
đa văn hóa được hiểu không như là sự khoan dung của tính đa dạng trong văn hóa
[để định giá cá nhân] mà như sự đòi hỏi cấp bách về sự công nhận hợp pháp của
nhóm chủng tộc, tôn giáo hoặc văn hóa”. Cho nên, mặc dù độc giả của Người dịch
bệnh bị dao động giữa sự cân bằng và mất cân bằng của những người nhập cư, họ
vẫn được cung cấp những hình ảnh điển hình với các nhân vật người Ấn Độ.
KẾT LUẬN
Bài viết này nhằm hướng đến những thách thức đặt ra cho những đất nước của
người nhập cư, đặc biệt là Hoa Kỳ, nơi mà ngày nay với sự nổi lên của bản sắc
chính trị mới cho đến khi sự xung đột văn hóa được quan tâm. Bài nghiên cứu chủ
yếu xoáy vào những người vùng Nam Á, người Ấn Độ và người Bengal nhập cư
đang trong trạng thái cân bằng hoặc đang đấu tranh để có được, và như vậy, sự đối
kháng mà họ thể hiện là kết quả của việc thay đổi chỗ ở. Bài viết được dự định để
minh họa cho các ngữ liệu của cuốn sách, Người dịch bệnh, bao gồm những câu
chuyện được đặt cả bên trong và bên ngoài nước Mỹ, là ngôi nhà của những người
đang đòi sự công nhận văn hóa của một vùng địa lí. Bản thân Lahiri cùng với các
nhân vật của cô quan tâm đến tình trạng bị chối bỏ, bị cô lập, lưu vong, đồng hóa và
sự chống đối. Tất cả biểu hiện cho câu hỏi về sự công nhận họ là ai. Điều này hóa
ra là những thách thức lớn đối với những đất nước như Hoa Kỳ. Đó là, nếu “xã hội
của họ không xác nhận theo nguyên tắc tự do [liên quan đến việc công nhận sự nổi
lên bản sắc các nhóm], họ có thể bị thách thức bởi những người nhập cư chắc chắn
hơn việc xác định họ là ai”.
Nguồn: 2TUhttp://faculty.k.su.eduU2T

