BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH _____________________

Võ Thị Xuân Thúy

KHẢO SÁT SINH HOẠT VĂN HỌC DÂN GIAN CỦA

MỘT SỐ NHÓM CƯ DÂN PHÍA BẮC TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH _____________________

Võ Thị Xuân Thúy

KHẢO SÁT SINH HOẠT VĂN HỌC DÂN GIAN CỦA

MỘT SỐ NHÓM CƯ DÂN PHÍA BẮC TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH KIÊN GIANG

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số

: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HỒ QUỐC HÙNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn phòng công nghệ sau Đại học; Khoa Ngữ văn

Trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh; Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh

An Giang; Ban Giám Đốc Trung tâm giáo dục thường xuyên Huyện Tri Tôn đã tạo

điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này. Đặc biệt là tôi xin gởi lời tri ân

đến TS. Hồ Quốc Hùng, thầy đã hướng dẫn tận tình trong quá trình thực hiện đề tài.

Để hoàn thành một đề tài nghiên cứu khảo sát thực tế như thế này cũng nhờ sự cộng

tác giúp đỡ của chính quyền địa phương cùng những cư dân trên các địa bàn: Xã

Nam Thái Sơn ( Huyện Hòn Đất); Thị trấn Tân Hiệp (Huyện Tân Hiệp) và Thị trấn

Kiên Lương (Huyện Kiên Lương) của tỉnh Kiên Giang. Bên cạnh đó, tôi cũng xin

bày tỏ lòng cảm ơn đến gia đình, thầy cô, bạn bè và những người thân đã giúp đỡ

tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.

Trong bước đầu tập tễnh làm công việc nghiên cứu khoa học nên có lẽ luận văn

này sẽ còn nhiều chỗ sai sót nhất định. Kính mong được sự góp ý, xây dựng của các

thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp để chúng tôi có thêm nhiều kinh nghiệm cho những

lần nghiên cứu sau.

MỤC LỤC

0TLỜI CẢM ƠN0T ........................................................................................................................ 3

0TMỤC LỤC0T ............................................................................................................................. 4

0TMỞ ĐẦU0T ............................................................................................................................... 1

0TChương 1: QUÁ TRÌNH ĐỊNH CƯ CỦA CƯ DÂN PHÍA BẮC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG0T ........................................................................................................................ 6

0T1.1. Vài nét về địa bàn tỉnh Kiên Giang và quá trình định cư của cư dân phía Bắc trên địa

bàn tỉnh Kiên Giang0T ........................................................................................................... 6

0T1.1.1. Vài nét về địa bàn tỉnh Kiên Giang0T .................................................................... 6

0T1.1.2. Vài nét về quá trình định cư của cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang0T8

0T1.2. Đặc điểm của các nhóm cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang0T ................... 12

0T1.2.1. Đặc điểm của nhóm cư dân thứ nhất0T ................................................................ 12

0T1.2.2. Đặc điểm của nhóm cư dân thứ hai0T .................................................................. 15

0T1.2.3. Đặc điểm nhóm cư dân thứ ba0T .......................................................................... 17

0T1.3. Đặc điểm của cư dân bản địa trên địa bàn tỉnh Kiên Giang0T ...................................... 19

0TChương 2 : TÌNH HÌNH TƯ LIỆU0T ..................................................................................... 21

0T2.1. Nhóm tư liệu điền dã0T ................................................................................................. 21

0T2.1.1. Nhóm tư liệu từ việc điều tra phỏng vấn0T .......................................................... 21

0T2.1.2. Nhóm tư liệu từ việc điều tra bằng phiếu trắc nghiệm0T ..................................... 29

0T2.2. Nhóm tư liệu đã được sưu tầm, nghiên cứu lưu hành0T ............................................... 39

0T2.2.1. Nhóm tư liệu sưu tầm0T ....................................................................................... 39

0T2.2.2. Nhóm tư liệu đã được nghiên cứu, lưu hành0T .................................................... 40

0T2.3. Nhận xét tư liệu0T ......................................................................................................... 41

0T2.3.1. Nhận xét kết quả nhóm tư liệu điền dã0T ............................................................. 41

0T2.3.2. Nhận xét kết quả đối chiếu tư liệu0T .................................................................... 43

0TChương 3: ĐẶC THÙ TRONG SINH HOẠT VĂN HỌC DÂN GIAN CỦA CƯ DÂN PHÍA BẮC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG0T ........................................................... 47

0T3.1. Cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc trên địa bàn

tỉnh Kiên Giang0T ................................................................................................................ 47

0T3.1.1. Cơ cấu thể loại văn học dân gian trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang0T ....................................................................... 47

0T3.1.2. Cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian phổ biến0T ........................... 51

0T3.1.3. Cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian riêng của từng nhóm cư dân 0T .................................................................................................................................... 55

0T3.2. Những nét đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc trên địa

bàn tỉnh Kiên Giang0T ......................................................................................................... 59

0T3.2.1. Tâm thức trong sinh hoạt văn học dân gian0T ..................................................... 59

0T3.2.2. Sự giao thoa, ảnh hưởng trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc với cư dân bản địa0T ...................................................................................................... 62

0T3.3. Quy luật vận động trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phìa Bắc trên địa

bàn tỉnh Kiên Giang0T ......................................................................................................... 66

0T3.3.1. Quy luật vận động: Vùng ngoại biên bảo lưu văn hóa tốt hơn vùng trung tâm0T 67

0T3.3.2. Quy luật vận động: Thích nghi môi trường trong sinh hoạt văn học dân gian0T . 68

0TKẾT LUẬN0T .......................................................................................................................... 71

0TTÀI LIỆU THAM KHẢO0T ................................................................................................... 74

0TPHỤ LỤC0T ............................................................................................................................ 77

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trong những năm nửa đầu thế kỉ hai mươi đến nay, do nhiều nguyên nhân

khách quan hoặc chủ quan mà có nhiều đợt di cư của cư dân phía Bắc vào Nam. Dù

cho họ xuất thân từ tầng lớp nào đi chăng nữa thì khi đến vùng đất mới họ vẫn

mang theo những hành trang quý giá nhất về văn hóa vốn được hình thành từ bao

đời. Trong những thứ hành trang quý giá ấy, ắt hẵn không thể thiếu văn học dân

gian của quê hương mình. Chính vì vậy, sinh hoạt văn học dân gian trên vùng đất

mới chính là một biểu hiện của tâm thức những người li hương xa xứ. Trong những

dịp sinh hoạt văn học dân gian ấy, họ có dịp giao lưu văn hóa với văn học dân gian

của cư dân khác thuộc khối cộng cư.

Với mong muốn tìm hiểu đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân

phía Bắc trên vùng đất Nam Bộ, được sự gợi ý, hướng dẫn của thầy và sự động viên

giúp đỡ của gia đình, bạn bè, chúng tôi xin chọn vấn đề này làm đề tài cho luận văn.

Tuy nhiên, do khả năng có hạn nên trong quá trình khảo sát, chúng tôi chỉ chọn một

tỉnh tiêu biểu ở Nam Bộ có nhiều nhóm cư dân phía Bắc sống tập trung – đó là tỉnh

Kiên Giang. Thiết nghĩ, đây là một đề tài thú vị, mở ra hướng tiếp cận văn học dân

gian từ nguồn văn học dân gian sống thông qua thâm nhập môi trường thực tế đời

sống. Chính vì vậy, chúng tôi thống nhất chọn đề tài”Khảo sát sinh hoạt văn học

dân gian của một số nhóm cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang”làm đề

tài nghiên cứu cho luận văn.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.

Với đề tài này, chúng tôi thực hiện nhằm mục đích sau:

Thứ nhất, tìm ra những nét đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của các

nhóm cư dân phía Bắc ở Nam Bộ thông qua việc khảo sát một địa bàn cụ thế - tỉnh

Kiên Giang.

Thứ hai, luận văn góp phần khẳng định tính tích cực, hiệu quả của việc nghiên

cứu văn học dân gian bằng cách thức điền dã.

2

Từ những mục đích đã đề ra, chúng tôi cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, chúng tôi tiến hành tìm hiểu quá trình định cư của cư dân phía Bắc

trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Theo chúng tôi, cần thiết phải tìm hiểu điều này vì đặc

điểm môi trường vùng đất định cư sẽ là cơ sở vững chắc cho việc bảo tồn và phát

triển văn nghệ dân gian nói chung và văn học dân gian nói riêng.

Thứ hai, chúng tôi tiến hành ghi chép trung thực và xử lí những tư liệu do

người dân cung cấp về sinh hoạt văn học dân gian của họ trên địa bàn tỉnh Kiên

Giang, tiến hành phỏng vấn, phát phiếu điều tra để khảo sát tình hình sinh hoạt văn

học dân gian theo từng nhóm đối tượng cụ thể.

Thứ ba, từ những tư liệu khảo sát, chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu sinh

hoạt văn học dân gian của cư dân miền Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang với cư dân

bản địa (ở từ lâu đời). Từ đó, chúng tôi khái quát lên những quy luật vận động

trong sinh hoạt văn học dân gian từ vùng đất cố cựu lên vùng đất mới, rút ra những

nét đặc thù, thế mạnh, hạn chế trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía

Bắc cư trú trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

3. Lịch sử vấn đề

Chúng tôi nghĩ rằng đây là một đề tài mới và rất thú vị. Trong quá trình khảo

sát, chúng tôi rất tiếc chưa tìm được công trình nghiên cứu nào liên quan đến đề tài.

Chính vì vậy, để thực hiện đề tài theo mục đích và nhiệm vụ đề ra ở trên, chúng tôi

phải rất khó khăn để giải quyết cho tường tận. Kính mong quý thầy cô thông cảm.

4. Đóng góp của luận văn

Chúng tôi nhận thấy với việc khảo sát đề tài này, luận văn có những đóng góp sau:

Thứ nhất, thông qua việc xử lí tư liệu, luận văn đã tìm ra được những nét đặc

thù trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên

Giang, rút ra những quy luật vận động trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân

từ phía Bắc vào Nam.

Thứ hai, luận văn góp phần khẳng định tính tích cực, hiệu quả của việc nghiên

cứu sự vận động, sinh tồn của văn học dân gian bằng cách thức điền dã.

3

5. Phương pháp nghiên cứu

Ngoài các phương pháp chuyên ngành, chúng tôi chủ yếu sử dụng một số

phương pháp sau:

- Phương pháp điều tra xã hội học:

Với đề tài này, chúng tôi dùng phương pháp điều tra xã hội học ở hai cách:

Thứ nhất, điều tra dạng hỏi – đáp (hỏi và trả lời bằng miệng).

Thứ hai, điều tra dạng trắc nghiệm (lập phiếu điều tra theo từng nhóm đối

tượng cụ thể).

- Phương pháp so sánh, đối chiếu:

Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm so sánh đối chiếu sinh hoạt văn học

dân gian của cư dân miền Bắc trên địa bàn Kiên Giang với các tài liệu sưu tầm văn

học dân gian ở miền Bắc và sinh hoạt văn học dân gian của cư dân bản địa.

- Phương pháp thống kê:

Thống kê những tư liệu đã điều tra để tiến hành xử lí tư liệu.

- Phương pháp phân tích tổng hợp:

Phân tích những tư liệu điều tra, những kết quả rút ra từ việc so sánh, đối

chiếu để tổng hợp nên những nét đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của cư

dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Căn cứ vào đặc thù của đề tài nghiên cứu văn học dân gian thông qua con

đường điền dã trên một địa bàn cụ thể nên đối tượng nghiên cứu của đề tài là những

vấn đề liên quan đến sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc trên địa bàn

tỉnh Kiên Giang. Tuy nhiên, để tiện cho việc khảo sát, chúng tôi chỉ chọn những địa

bàn tiêu biểu trong tỉnh Kiên Giang có đông người miền Bắc sống tập trung. Cụ thể,

luận văn sẽ khảo sát trên ba huyện của tỉnh Kiên Giang, trong mỗi huyện, chúng tôi

sẽ chọn một xã hoặc thị trấn tiêu biểu. Như vậy, đối tượng nghiên cứu chính của đề

tài là: cư dân phía Bắc cư trú trên các khu vực thuộc xã Nam Thái Sơn (huyện Hòn

Đất); thị trấn Tân Hiệp (huyện Tân Hiệp) và thị trấn Kiên Lương (huyện Kiên

Lương) của tỉnh Kiên Giang. Để tiện cho việc nghiên cứu, chúng tôi xin tạm gọi cư

4

dân miền Bắc cư trú ở xã Nam Thái Sơn là nhóm một; cư dân miền Bắc cư trú ở thị

trấn Tân Hiệp là nhóm hai và cư dân miền Bắc cư trú ở thị trấn Kiên Lương là

nhóm ba. Cách gọi này chúng tôi sẽ dùng thống nhất trong luận văn.

Về phương diện phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chủ yếu đi vào khảo

sát những vấn đề liên quan đến sinh hoạt văn học dân gian đối với đối tượng nghiên

cứu đã nêu ở trên.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần phụ lục và danh mục tư liệu tham khảo, phần chính của luận văn

gồm có ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.

Trong đó phần nội dung là phần chính của luận văn gồm có ba chương:

Chương 1:Quá trình định cư của cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

1.1. Đặc điểm vùng đất định cư.

1.1.1.Điều kiện sinh sống.

1.1.2. Đặc điểm văn hóa xã hội

1.2. Đặc điểm của các nhóm cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

1.2.1. Đặc điểm của nhóm cư dân thứ nhất.

1.2.2. Đặc điểm của nhóm cư dân thứ hai..

1.2.3. Đặc điểm của nhóm cư dân thứ ba.

1.3. Đặc điểm của cư dân bản địa trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

. UChương 2U: Tình hình tư liệu

1. Nhóm tư liệu điền dã.

1.1.Tư liệu từ việc điều tra phỏng vấn.

1.2. Tư liệu từ việc điều tra trắc nghiệm.

2. Nhóm tư liệu đã được sưu tầm in ấn.

UChương 3U: Đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc

3. Nhận xét tư liệu.

trên địa Bàn tỉnh Kiên Giang.

3.1.Cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian.

3.1.1. Cơ cấu thể loại văn học dân gian.

5

3.1.2. Cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian phổ biến.

3.1.3. Cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian riêng của từng

nhóm cư dân.

3.2 . Những nét đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc

trên địa bàn tỉnh Kiên Giang trong sự đối sánh với sinh hoạt văn học dân

gian của cư dân bản địa.

3.2.1. Tâm thức trong sinh hoạt văn học dân gian.

3.2.2. Sự giao thoa, ảnh hưởng trong sinh hoạt văn học dân gian với cư dân

bản địa.

3.3. Quy luật vận động trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc

trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

3.3.1. Quy luật vận động vùng ngoại biên bảo lưu văn hóa tốt hơn vùng

trung tâm.

3.3.2. Quy luật vận động thích nghi môi trường.

6

Chương 1: QUÁ TRÌNH ĐỊNH CƯ CỦA CƯ DÂN PHÍA BẮC

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG

Ở chương này, chúng tôi tiến hành khảo sát sơ lược về vùng đất định cư và

những đặc điểm chính của cả ba nhóm đối tượng cư dân phía Bắc cư trú trên địa bàn

tỉnh Kiên Giang. Từ đó, chúng tôi tìm ra những điều kiện thuận lợi cũng như những

khó khăn của vùng đất định cư đối với sự phát triển văn học dân gian. Chúng tôi

nghĩ rằng tìm hiểu sinh hoạt văn học dân gian của một cộng đồng người là cần thiết

phải tìm hiểu rõ về những vấn đề liên quan đến đời sống của họ. Bởi vì chúng tôi

hiểu rằng sinh hoạt văn học dân gian là hoạt động mang tính cộng đồng, họ sử dụng

văn học dân gian hoặc chất liệu văn học dân gian có hoặc không có chủ ý ngay

trong đời sống sinh hoạt thường nhật. Thiết nghĩ, những nội dung này sẽ là những

tiền đề quan trọng chi phối sự hình thành và phát triển nền văn học dân gian ở địa

bàn tỉnh Kiên Giang nói chung và sinh hoạt văn học dân gian của các nhóm cư dân

miền Bắc di cư vào Nam trên địa bàn tỉnh Kiên Giang nói riêng.

1.1. Vài nét về địa bàn tỉnh Kiên Giang và quá trình định cư của cư dân phía

Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang

1.1.1. Vài nét về địa bàn tỉnh Kiên Giang

Kiên Giang là một tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam

nước ta. Trung tâm của tỉnh là thành phố Rạch Giá, cách thành phố Hồ Chí Minh

250 km về phía Tây. Tỉnh Kiên Giang tiếp giáp với tỉnh An Giang ở phía Đông Bắc,

thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang ở phía Đông, tỉnh Bạc Liêu ở phía Đông

Nam, tỉnh Cà Mau phía Nam, đặc biệt là phía Bắc giáp với nước Campuchia với

đường biên giới dài 54 km và Vịnh Thái Lan ở phía Tây với đường biển dài hơn 200

km. Tỉnh Kiên Giang có khoảng hơn 100 đảo lớn nhỏ ngoài biển vá có diện tích

2 tự nhiên là 6299 kmP

P với dân số 1683149 người (tính từ ngày 1/4/2009). Về địa giới

rừng ngập mặn vào loại nhiều nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Tỉnh có diện tích

hành chính, tỉnh Kiên Giang có một thành phố, một thị xã và mười ba huyện. Nhìn

chung, trong tất cả các địa bàn của tỉnh đều có ba thành phần dân tộc gồm Kinh,

7

Hoa và Khơ me. Trong số đó, người Kinh chiếm tỉ lệ đông nhất với một phần người

Kinh bản địa và một bộ phận rất đông người Bắc di cư vào Nam. Những người gốc

Bắc di cư này chủ yếu sống ở các địa bàn thuộc các huyện Hòn Đất, Tân Hiệp và

Kiên Lương của tỉnh Kiên Giang. Nhìn chung, những người dân trong khối cộng cư

này vẫn sống chan hòa, không phân biệt tôn giáo, dân tộc, người Bắc hay người

Nam. Họ luôn yêu thương, đoàn kết giúp đỡ, chia sẽ nhau trong việc phát triển sản

xuất, nâng cao đời sống cũng như trong sinh hoạt văn hóa cũng có sự giao lưu với

nhau. Chính điều này đã tạo nên nét đặc thù trong sinh hoạt văn hóa của địa bàn

này.

Về mặt lịch sử, Kiên Giang trước đây là một trấn hoang vu của phủ Sài Mạt

thuộc Chân Lạp xưa do Mạc Cửu, di thần nhà Minh- Trung Quốc, do không hàng

phục triều đình Mãn Thanh đã di cư đến mở mang, khai phá và phát triển làm cho

vùng đất này ngày càng trở nên trù phú hơn. Khoảng cuối thế kỉ mười bảy, đầu thế

kỉ mười tám, vua Cao Miên phong cho Mạc Cửu chức Ốc nha để cai quản vùng đất

này. Tuy nhiên do bị quân Xiêm thường xuyên quấy nhiểu mà nhà nước Cao Miên

không có đủ sức mạnh quân sự để bảo vệ, vì vậy, năm 1708, Mạc Cửu đã thần phục

chúa Nguyễn Phúc Chu để được bảo hộ nhưng vẫn giữ nguyên chức vụ. Từ lúc đó

trở đi, vùng đất này thuộc lãnh thổ của Việt Nam và có tên gọi Hà Tiên. Sau này,

con của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tích làm đô đốc cai trị và mở rộng thêm vùng đất

này. Đến đời Minh Mạng, 1832, Hà Tiên là một trong sáu tỉnh Nam kì. Đến năm

1876, Pháp chia Nam kì thành bốn khu vực hành chính lớn, mỗi khu vực hành chính

lại chia nhỏ thành các tiểu khu hay hạt tham biện thì tỉnh Hà Tiên lúc bấy giờ lại bị

chia thành hai hạt là Hà Tiên và Rạch Giá. Đến khoảng năm 1900, hai hạt tham biện

Hà Tiên và Rạch Giá lại đổi thành hai tỉnh Hà Tiên và Rạch Giá. Sau năm 1954, hai

tỉnh này nhập lại làm một với tên gọi là Kiên Giang như ngày nay.

Vốn là một tỉnh giàu tiềm năng về kinh tế lại được thiên nhiên ưu đãi với

nguồn tài nguyên khoáng sản dồi dào bao gồm hơn hai mươi núi đá vôi lớn nhỏ lại

thêm rừng vàng biển bạc nên đời sống của người dân Kiên Giang tương đối phát

triển. Cùng với sự phát triển ấy, đời sống văn hóa tinh thần của người dân Kiên

8

Giang cũng được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, như đã nói, đây là địa bàn có nhiều

thành phần dân tộc, tôn giáo đặc biệt là khu vực có rất đông người di cư gốc Bắc

sống tập trung nên trong sinh hoạt văn hóa vừa đa dạng vừa phức tạp. Ngoài sự tiếp

thu nền văn hóa mới trong khối cộng cư, mỗi dân tộc đều có những bản sắc riêng kể

cả những người dân di cư, khi đến vùng đất mới, họ vẫn mang theo và truyền cho

các thế hệ con cháu những gì thuộc về bản sắc văn hóa của quê hương mình. Người

Hoa ở Kiên Giang dù đã định cư rất lâu nhưng họ vẫn nói lưu loát tiếng mẹ đẻ và

những nghi thức lễ hội của họ đều được bảo tồn. Người Khơ me bản địa cũng thể

hiện bản sắc văn hóa dân tộc, tôn giáo của mình rất rõ trong sinh hoạt tập thể ở các

lễ hội chùa chiền. Người miền Bắc khi di cư vào Nam cũng thể hiện mình bằng

những nét văn hóa đặc sắc của quê hương qua những cân chuyện kể, những lời ru,

điệu hò câu hát quê mình...

1.1.2. Vài nét về quá trình định cư của cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh

Kiên Giang

Đối với đề tài này, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi những người gốc Bắc di cư

trong khoảng thời gian từ nửa đầu thế kỉ hai mươi đến nay. Như đã giới thiệu ở phần

mở đầu, từ khoảng nửa đầu thế kỉ hai mươi đến nay đã có rất nhiều đợt di cư của cư

dân phía Bắc vào Nam. Họ di cư với nhiều lí do, có thể là vì cuộc sống mưu sinh

cũng có thể vì lí do tôn giáo, chính trị hoặc nhiều lí do khác nữa, thế nhưng, hầu hết

những người miền Bắc di cư đến miền Nam nói chung, đến tỉnh Kiên Giang nói

riêng đều có điểm chung là cần cù, sáng tạo, chịu thương chịu khó. Qua khảo sát tư

liệu và thực tế, chúng tôi nhận thấy trong khoảng một thế kỉ trở lại đây có nhiều đợt

di cư từ Bắc vào Nam nhưng nhìn chung vẫn có ba đợt di cư được xem là quy mô

lớn. Đó là các đợt di cư vào các năm : 1941, từ 1954 đến 1956 và từ 1978 đến 1979.

Đợt di cư có thể xem là sớm nhất là đợt di cư năm 1941 của người miền Bắc

chủ yếu là ở vùng nông thôn. Vào năm 1940, báo chí miền Bắc có đăng một bài thơ

vận động nhân dân đi vào Nam, cụ thể là vùng Rạch Giá, Tri Tôn làm đồn điền.

Hiện nay, hầu hết người dân di cư vào Nam vẫn truyền lại cho con cháu nội dung

bài thơ như sau:

9

“Vốn nhà nông nghề mình từ trước

Việc cấy cày cả nước cùng theo

Bắc kì ruộng ít người nhiều

Cái điều nhân mãn là điều đáng lo

Miền Rạch Giá người thưa đất rộng

Bãi phù sa gần vũng Tri Tôn

Muôn ngàn mẫu ruộng bỏ không

Cỏ hoa vui mắt non sông nhiệm mầu

Nay muốn giúp dân nghèo cả nước

Chính phủ bèn mở cuộc di dân

Đưa người ra đó làm ăn

Riêng dân Nam, Thái dự phần được đi

Nhờ chính phủ thương vì rất mực

May áo quần lương thực cấp cho

Ruộng vườn, nhà cửa, trâu bò

Mười lăm mẫu ruộng riêng cho tư điền

Dịp may mắn tự nhiên mà gặp

Anh em nghèo xin chớ bỏ qua

Chữ rằng tứ hải vi gia

Ở đâu cũng đất nước nhà Việt Nam

Nên cố gắng ăn làm chăm chỉ

Chớ tin điều tà quỉ điêu ngoa

Những điều gian trá xấu xa

Đừng nên nghe vạy nữa mà mất khôn

Cát lấp mãi nên cồn mấy chốc

Đất vỡ dần thành thục có phen

Nền ta nếp cũ vẫn còn

Ngoảnh trông Tiền Hải, Kim Sơn thuở nào

Công tác thổ dồi dào khắp cõi

10

Cuộc hưng vong nối dõi tông đường

Một mai sở vững bền

Thành làng thành nước nổi lên cơ đồ...”

Đó là một nội dung vận động nhân dân hai tỉnh Nam Định và Thái Bình vào

vùng Tri Tôn lập nghiệp, thực ra đó là một hình thúc mộ phu của tay tư sản Belot...

Được chính quyền thực dân ủng hộ bằng một số chính sách cụ thể trong việc di dân,

Belot đã mộ được 750 gia đình của các huyện Tiền Hải, Kiến Xương, Thụy Anh,

Nghĩa Hưng, Xuân Thủy, Hải Hậu thuộc hai tỉnh Nam Định và Thái Bình vào làm

công cho hắn dưới hình thức chia đất cho dân khai hoang lập nghiệp. Như vậy, đến

ngày 27/10/1941, đã có 750 gia đình quê ở hai tỉnh Nam Định, Thái Bình vào định

cư trên vùng đất mới này cho đến ngày nay. Có thể xem đợt di cư này là cuộc di cư

thứ nhất và riêng có trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Đợt di cư thứ hai có thể xem là cuộc di cư vào Nam qui mô lớn nhất từ trước

đến nay. Qua khảo sát tài liệu, chúng tôi thấy rằng từ năm 1954 đến năm 1956, tổng

cộng có khoảng một triệu người gốc Bắc di cư vào Nam. Ngoài số đông là người

Kinh, trong đợt di cư này cũng có khoảng bốn mươi lăm ngàn người dân tộc thiểu

số Tây Bắc như Nùng, Thái, Mèo,... Trong đợt di cư này, đồng bào công giáo có

khoảng tám trăm ngàn người chiếm hơn hai phần ba số dân di cư. Trong số đó có rất

đông giáo dân thuộc các làng Bùi Chu và Phát Diệm thuộc tỉnh Ninh Bình và các

khu vực phụ cận. Như vậy, có thể nói lí do tôn giáo là lí do thứ nhất của những

người di cư đợt này. Có thể xem đợt di dân này là đợt di dân nhiều nhất trong lịch

sử của người gốc Bắc vào Nam. Khi vào Nam, đại bộ phận những cư dân này sống

tập trung theo khu vực, cũng có một số rất ít sống riêng lẽ hòa nhập cùng cộng đồng

người Nam bản địa hoặc các dân tộc khác. Qua tìm hiểu thực tế, chúng tôi thấy

rằng, những khu vực có đông người gốc Bắc di cư trong đợt này tập trung nhiều

nhất ở các địa bàn của tỉnh Đồng Nai và rất nhiều trong số đó tập trung ở một số địa

bàn thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, có địa bàn Tân Hiệp, tỉnh

Kiên Giang. Đây cũng là địa bàn nằm trong phạm vi khảo sát của đề tài.

11

Khác với đợt di dân năm 1941, đợt di dân này gồm nhiều thành phần rất phức

tạp, có cả những người trí thức và những người có xu hướng chính trị tiêu cực. Qua

khảo sát ở địa bàn Tân Hiệp và Kiên Lương của tỉnh Kiên Giang, chúng tôi thấy đa

số di dân vào Nam vì lí do chính trị trong đợt này hiện nay đã di cư sang Mỹ, nhất là

những người định cư ở địa bàn Kiên Lương của tỉnh Kiên Giang. Tuy nhiên, trong

phạm vi khảo sát của đề tài, chúng tôi xin phép không đề cập nhiều đến vấn đề lí do

chính trị hay tôn giáo của những người di cư đợt này. Thiết nghĩ, đó là vấn đề nhạy

cảm và cũng không cần thiết cho phần tiền đề để đi vào việc tìm hiểu sinh hoạt văn

học dân gian của họ.

Đợt di dân thứ ba là đợt di dân khoảng từ năm 1978 đến mùa hè năm 1979, khi

chiến tranh biên giới phía Bắc nước ta nổ ra, một số cư dân ở nhiều địa bàn miền

Bắc đã lần lượt di cư vào Nam. Hầu hết những người di dân trong đợt này là tránh

họa chiến tranh, một số khác vì lí do kinh tế khó khăn nên vào Nam lập nghiệp. Khi

vào Nam, họ định cư ở nhiều nơi, nhiều tỉnh ở miền Nam. Chính vì vậy, họ khác với

các đợt di dân trước, những người di dân trong đợt này có quê gốc ở nhiều tỉnh khác

nhau và ít sống tập trung thành khu vực như các nhóm di dân trước đó. Qua khảo

sát, chúng tôi nhận thấy ở tỉnh Kiên Giang duy chỉ có địa bàn Kiên Lương là có

nhóm cư dân này sống tập trung tương đối cao.

Ngoài ba đợt di cư nói trên, khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói chung và

tỉnh Kiên Giang nói riêng còn có nhiều đợt di cư khác với quy mô nhỏ lẻ. Những

nhóm cư dân này vào Nam nhiều nhất vào những năm tám mươi đến nay với nhiều

lí do nhưng nhiều nhất vẫn là đoàn tựu gia đình và mục đích kinh tế. Một nhóm

người dân gốc Bắc khác vào Nam cũng tương đối đông là những cán bộ công viên

chức chuyển công tác và bộ đội vào Nam sau 1975. Nhìn chung, trên địa bàn Kiên

Giang, những nhóm này định cư ở nhiều nơi nhưng nhiều nhất vẫn là các khu vực

thuộc các địa bàn nằm trong phạm vi khảo sát của đề tài này, đặc biệt chiếm tỉ lệ

cao nhất ở địa bàn huyện Kiên Lương.

12

1.2. Đặc điểm của các nhóm cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang

1.2.1. Đặc điểm của nhóm cư dân thứ nhất

1.2.1.1. Vài nét về lịch sử vùng đất Nam Thái Sơn

Là một xã thuộc huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang, Nam Thái Sơn có rất đông

người dân phía Bắc di cư. Về vị trí địa lí, xã Nam Thái Sơn nằm cặp theo kinh xáng

2

Tri Tôn về phía bờ bắc kinh xáng Rạch Giá-Hà Tiên. Xã có diện tích tự nhiên

Pvới dân số trên 3000 người. Phía Bắc giáp xã Vọng Thê và Cô Tô-tỉnh

154.960 kmP

An Giang, Nam giáp thị trấn Hòn Đất, Đông giáp xã Mỹ Hiệp Sơn-tỉnh Kiên Giang

và phía Tây giáp xã Bình Sơn-Kiên Giang.

Trước đây, vùng này là rừng rậm, đất thấp. Trải qua một thời gian dài với

nhiều biến đổi của thiên nhiên, nhất là thời kì”hải thoái”(biển lùi), lại thêm được

nước sông Cửu Long mang phù sa về bồi dần, cây tràm phát triển mạnh. Rừng xanh

tươi tốt nhưng gần như không có người ở. Cho đến khi Trấn Hà Tiên được thành lập

thì vùng đất này vẫn còn hoang vu, nhưng cư dân từ các vùng trên, phía An Giang,

cũng bắt đầu lần xuống khai hoang lập nghiệp.

Đến đầu thế kỉ XIX, dưới triều Nguyễn, khu vực này thuộc tổng Kiên Hảo,

huyện Kiên Giang, tỉnh Hà Tiên. Đến khi thực dân Pháp xâm chiếm miền Nam,

chúng chia Nam kì thành 6 tỉnh, trong đó tỉnh Rạch Giá gồm 6 quận: Châu Thành,

Giồng Riềng, Gò Quao, An Biên, Long Mỹ và Phước Long. Các làng Thổ Sơn, Sóc

Sơn, Mỹ Lâm đều thuộc quận Châu Thành. Địa giới của các làng bấy giờ rất rộng.

Làng Sóc Sơn kéo dài từ Sóc Xoài đến Bình Sơn, bao trùm cả Nam Thái Sơn ngày

nay.

Từ khoảng những năm 20 của thế kỉ XX, thực dân Pháp cho đào kênh Rạch

Giá-Hà Tiên và kênh Mốp Giăng (còn gọi là kênh Sóc Xoài-Ba Thê), kênh Tri Tôn

và kênh Tám Ngàn để phục vụ cho việc khai thác rừng tràm và phát triển nông

nghiệp. Bên cạnh đó, thời gian này, các đường giao thông nối liền Rạch Giá, Hà

Tiên và các vùng phụ cận còn được mở. Kênh Xáng Tri Tôn được đào từ Tri Tôn

(Xà Tón) thuộc tỉnh An Giang xuống Rạch Giá-Hà Tiên nên chỗ khu vực nối có địa

danh là Ngã Ba Tri Tôn. Thời gian này, nơi đây bắt đầu có dân cư người kinh và

13

người khmer bản địa tập trung về ở hình thành xóm Tri Tôn.

Khi kênh Tri Tôn hình thành, nhân dân các nơi kéo về khai hoang lập nghiệp,

nhất là dân vùng Xà Tón, Ba Thê, lấn dần từ phía An Giang xuống ở dọc theo kênh

xáng, mở đất làm ruộng hình thành những khu dân cư mới. Từ những năm 1930,

một số người hoạt động cách mạng ở các nơi khác bị chính quyền thực dân khủng

bố đã tìm về đây trú ngụ. Thế nhưng, vùng đất này có cư dân đông đúc, trù phú như

ngày nay phải kể đến những người di dân từ Bắc vào Nam.

1.2.1.2. Vài nét về lịch sử di dân của nhóm cư dân thứ nhất

Như đã giới thiệu ở phần trước, vào khoảng những năm 30, 40 của thế kỉ XX,

chính quyền thực dân cho phép số tư sản người Pháp và địa chủ người bản xứ đến

địa bàn xã Nam Thái Sơn ngày nay khai thác rừng tràm và mở các đồn điền trồng

lúa. Vùng đất Nam Thái Sơn ngày nay lúc bấy giờ thuộc làng Sóc Sơn được một tay

tư sản người Pháp tên Belot xin khai thác phần đất phía đông kinh xáng Tri Tôn. Tại

đây, ở hai bờ kênh xáng đã có một số người dân bản địa sinh sống nhưng rất thưa

thớt. Như đã nói ở phần trước, đến năm 1941, địa bàn này lại có thêm có 750 gia

đình quê ở hai tỉnh Nam Định, Thái Bình vào định cư trên vùng đất mới này cho đến

ngày nay.

Tính đến thời điểm khảo sát đề tài, người viết đã thống kê có khoảng hơn 2500

người dân trên địa bàn xã Nam Thái Sơn là người gốc Bắc, chiếm tỉ lệ trên 80 phần

trăm dân số trong toàn xã. Thời gian đầu, cộng đồng cư dân Nam Thái Sơn được

hình thành nhưng mối quan hệ giữa dân di cư mới đến và dân địa phương chưa gắn

bó chặt chẽ vì ai cũng phải lao động cật lực để mưu sinh. Khi cuộc sống dần ổn

định, quan hệ của họ càng ngày càng thân thiết qua trao đổi kinh nghiệm trong cuộc

sống, lao động sản xuất hay giao lưu văn hóa, không có sự phân biệt giữa dân mới

và dân cũ, người Bắc hay người Nam. Việc hình thành tên xã Nam Thái Sơn cũng

đã phần nào khẳng định mối quan hệ khắng khít của cộng đồng cư dân trong khối

cộng cư này (Nam Thái Sơn là tên ghép giữa dân di cư Nam Định, Thái Bình và cư

dân người kinh, khơ me thuộc làng Sóc Sơn bản địa).

14

1.2.1.3. Điều kiện sinh sống

Phần lớn những hộ gia đình di dân ở xã Nam Thái Sơn theo tập quán lao động

của ông cha là làm ruộng và chăn nuôi nông nghiệp. Tuy nhiên, có một bộ phận

người di dân đến đây lại chuyển sang làm nghề nắn lò đất. Đây là một nghề truyền

thống có trên một trăm năm nay của cư dân bản địa do tận dụng nguồn nguyên liệu

đất sét tự nhiên của địa phương. Thế nhưng, từ khi nhiều gia đình người Bắc di cư

chuyển sang nghề nắn lò thì nơi đây lại nhanh chóng trở thành làng nghề nổi tiếng

với tên gọi “Xóm lò đầu doi”. Tại đây, người dân di cư không chỉ nắn lò đất mà còn

chuyên sản xuất một số loại sản phẩm gia dụng như khuôn bánh, nồi, óng khói lò,...

Nhờ sự cần cù vốn có của số đông đồng bào di cư mà đời sống người dân ở Nam

Thái Sơn hiện nay đang dần khấm khá, phát triển hơn.

1.2.1.4. Về văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng

Hầu hết người dân di cư vào Nam Thái Sơn đều xuất phát từ gốc nông thôn

cùng khổ thuộc hai tỉnh Nam Định và Thái Bình. Chính vì vậy, khi đến vùng đất

mới, họ vẫn bảo tồn truyền thống tín ngưỡng, văn hóa của quê hương mình. Khi có

điều kiện thì họ lập tức xây dựng đền thờ những anh hùng dân tộc trên vùng đất

mới. Có lẽ, đó vừa là niềm tự hào đối với quê hương của họ vừa là chỗ dựa tinh thần

giúp họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Khảo sát trong toàn xã Nam

Thái Sơn có tổng cộng ba đền thờ đều là do những người Bắc di cư xây dựng, đó là

hai đền thờ các vị vua nhà Trần và đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.

Mặc dù qui mô các đền thờ có khác nhau nhưng lòng tôn kính của họ đối với các

bậc tiền nhân theo thời gian vẫn không suy giảm. Hàng năm, họ đều tổ chức các

nghi thức lễ hội rất long trọng với sự tham gia của đông đảo người dân di cư, trong

đó có cả người dân bản địa. Qua khảo sát thực tế, người viết nhận thấy phần lớn

người di cư nơi đây không theo tôn giáo nào cả. Họ thờ cúng tổ tiên ông bà, thổ địa,

thành hoàng và trong nhà đều có treo ảnh Bác Hồ. Một bộ phận rất ít người di dân là

tín đồ Công giáo và phật giáo. Và những người theo đạo phật này cũng có đôi chút

ảnh hưởng của đạo Phật giáo Hòa Hảo của người dân Nam Bộ và đạo phật của

người Khmer bản địa.

15

Hòa chung vào sự giao lưu tín ngưỡng là sự giao lưu văn hóa giữa những

người di dân và người bản địa. Trong những lễ hội, sinh hoạt văn hóa của người

miền Bắc di cư không bao giờ thiếu sự tham gia của những người bản địa, kể cả

người Khmer và người dân vùng phụ cận. Và tất nhiên trong các lễ hội, sinh hoạt

văn hóa của người dân bản địa cũng không thể thiếu sự tham gia nhiệt tình của

người dân di cư. Thoạt nhìn cứ tưởng trong khối cộng cư này có sự hòa trộn văn hóa

sâu sắc nhưng quan sát kĩ thì đó chỉ là sự giao lưu, tiếp thu những tinh hoa giữa các

vùng văn hóa với nhau. Đã hơn nửa thế kỉ vào Nam nhưng những người Bắc di cư

vẫn bảo ban cho con cháu mình giữ giọng nói của người con Nam-Thái, vẫn nhớ

không quên những lời ru, điệu hò câu hát và cả những câu truyện kể như là niềm tự

hào đối với quê hương xứ sở...

1.2.2. Đặc điểm của nhóm cư dân thứ hai

1.2.2.1. Vài nét về lịch sử vùng đất Tân Hiệp

Địa bàn Tân Hiệp của tỉnh Kiên Giang là địa bàn có rất đông người dân miền

Bắc theo đạo Công giáo di cư vào Nam. Huyện được thành lập năm 1957 trên cơ sở

tách ra từ quận Kiên Thành. Nơi đây có vị trí địa lí thuận lợi cho việc phát triển kinh

tế, văn hóa xã hội vì huyện nằm trên trục đường chính nối dài theo hướng thành phố

Rạch Gía đi thành phố Hồ Chí Minh. Huyện gồm chín xã và thị trấn trung tâm- thị

trấn Tân Hiệp, phía Bắc giáp huyện Thoại Sơn-tỉnh An Giang, phía Nam giáp huyện

Giồng Riềng- tỉnh Kiên Giang, phía Đông giáp huyện Vĩnh Thạnh- thành phố Cần

Thơ và phía Tây giáp thành phố Rạch Giá, huyện Châu Thành- tỉnh Kiên Giang.

Do giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu địa bàn có đông người

2

miền Bắc di cư nhất huyện, đó là thị trấn Tân Hiệp. Thị trấn Tân Hiệp có diện tích

Pvới dân số là 19.929 người. Thị trấn Tân Hiệp ra đời ngay

tự nhiên là 321.720 kmP

khi huyện thành lập và là khu vực trung tâm của huyện. Đây là địa bàn duy nhất ở

đồng bằng sông Cửu Long có đền thờ Quốc tổ Hùng Vương do những người di cư

từ miền Bắc vào Nam xây dựng từ năm 1957.

16

1.2.2.2. Vài nét về lịch sử di dân của nhóm cư dân thứ hai

Như đã nói ở phần trước, từ năm 1954 đến năm 1956 một bộ phận khá đông

người dân theo đạo Công giáo ở nhiều địa bàn miền Bắc di cư vào Nam. Chúng tôi

xin phép không đề cập đến vấn đề chính trị liên quan đến lịch sử di dân của nhóm

cư dân này. Qua khảo sát, chúng tôi thấy rằng khi di cư vào địa bàn tỉnh Kiên Giang

họ định cư tập trung nhiều nhất ở địa bàn Tân Hiệp của tỉnh Kiên Giang và một số

vùng phụ cận thuộc thành phố Cần Thơ. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng

tôi chỉ đề cập đến nhóm cư dân định cư trên vùng đất Tân Hiệp của tỉnh Kiên Giang.

Có thể thấy, phần lớn nhóm người di cư này là những người theo đạo và có trình độ

học vấn tương đối, kinh tế cũng không đến nỗi khó khăn cùng khổ (khác với nhóm

cư dân thứ nhất đã trình bày ở trên). Chính vì vậy, chỉ ba năm khi đến vùng đất mới

(tính đến thời điểm thành lập huyện Tân Hiệp), họ nhanh chóng biến vùng đất trũng

sâu của quận Kiên Thành xưa kia thành huyện Tân hiệp có sự phát triển về mọi mặt,

có nhiều kênh rạch chằng chịt, đặc biệt mang đậm dấu ấn, bản sắc văn hóa của

người miền Bắc.

1.2.2.3. Điều kiện sinh sống

Đây là địa bàn trung tâm và là khu vực thị tứ của huyện nên phần lớn người

dân ở đây sống dựa vào buôn bán, nuôi trồng thủy sản và các làng nghề thủ công

truyền thống. Một bộ phận khác chủ yếu tập trung vào lớp trẻ làm công nhân cho

các nhà máy chế biến nông sản ở địa phương và các khu vực lân cận. Hiện nay, địa

bàn này vẫn còn làng nghề truyền thống làm bánh đa rất phát triển thu hút hàng trăm

hộ gia đình tham gia. Đây là làng nghề truyền thống của người gốc Bắc, nó ra đời

ngay khi có mặt của người Bắc trên vùng đất này. Nhìn chung, tính đến thời điểm đề

tài, chúng tôi nhận thấy đời sống của người dân nơi đây, đặc biệt là người dân di cư

từ phía Bắc đều có đời sống tương đối ổn định.

1.2.2.4. Về văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng

Theo số liệu điều tra thống kê thì hiện nay toàn thị trấn Tân Hiệp có khoảng

hơn 70 phần trăm người gốc Bắc sinh sống. Phần còn lại gồm dân người kinh, người

Khmer bản địa và cả người gốc Hoa di cư. Như đã nói ở trên, chỉ khi người miền

17

Bắc di cư vào huyện này mới có và cùng lúc với quá trình thành lập địa bàn mới là

đền thờ Quốc tổ Hùng Vương được dựng lên. Nếu ở thành phố Hồ Chí Minh có đến

9 đền thờ Quốc tổ Hùng Vương thì ở đồng bằng sông Cửu Long duy nhất chỉ có ở

đây có đền thờ. Qua tìm hiểu thực tế, ngôi đền thờ này tọa lạc tại ấp Đông Bình, thị

trấn Tân Hiệp, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Năm 2005, đền đã được Nhà nước

công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Hàng năm, đến ngày 10 tháng 3 âm

lịch, những người dân quanh vùng dù là người Nam hay người Bắc đi đâu xa vẫn về

để bái vong linh tổ tiên. Không chỉ có vậy, nơi đây còn có vài đền thờ các vị thần

cũng do những người Bắc di cư xây dựng mang dáng dấp của những đền thờ ở quê

hương họ. Điều đó cho thấy ý thức về cội nguồn, truyền thống dân tộc rất mãnh liệt

của những người con xứ Bắc li hương và cả của người bản địa.

Như đã nói ở trên, đa số những người di dân miền Bắc vào đây là tín đồ của

đạo Công giáo cho nên ở huyện Tân Hiệp nói chung và thị trấn Tân Hiệp nói riêng

có rất nhiều nhà thờ Công giáo phục vụ cho việc tín ngưỡng của người dân nơi đây.

Hàng tuần vào ngày chúa nhật, những giáo dân nơi đây không phân biệt Bắc Nam

nô nức đi lễ. Trong những dịp lễ lớn như lễ Giáng sinh họ tổ chức rất long trọng,

hòa vào dòng người đi lễ có cả sự có mặt của các cư dân bản địa. Và trong những lễ

hội khác của người bản địa lại cũng có sự tham gia của những người Bắc di cư.

Chính trong những dịp như thế họ lại có điều kiện kết thân, trao đổi kinh nghiệm

làm ăn và cả giao lưu văn hóa trong những lần sinh hoạt mang tính tập thể của khối

cộng cư.

1.2.3. Đặc điểm nhóm cư dân thứ ba

1.2.3.1. Vài nét về lịch sử vùng đất Kiên Lương

Kiên Lương là một địa bàn thuộc trấn Hà Tiên xưa. Ngày 31 tháng 5 năm

1961, chính quyền Sài Gòn cho tách ra khỏi Hà Tiên để thành lập quận Kiên Lương

thuộc tỉnh Kiên Giang. Từ sau năm 1975, Kiên Lương lại được sát nhập vào huyện

Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Cho đến ngày 8 tháng 7 năm 1998, vùng đất này lại tách

khỏi Hà Tiên để thành lập huyện Kiên Lương cho đến ngày nay.

18

Xét về địa giới hành chính, huyện Kiên Lương bao gồm khu vực trung tâm là

thị trấn Kiên Lương và 9 xã. Huyện có vị trí khá thuận lợi về mọi mặt với phía Bắc

giáp huyện Tri Tôn-tỉnh An Giang, phía Nam giáp với biển, phía Đông giáp với

huyện Hòn Đất-tỉnh Kiên Giang và phía Tây giáp với huyện Hà Tiên - tỉnh Kiên

Giang. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ xin giới thiệu một số vấn đề

2 Thị trấn Kiên Lương có diện tích tự nhiên 191.060 kmP

P, với dân số là 85309

liên quan đến khu vực thị trấn Kiên Lương.

người. Đây là khu vực thị tứ trung tâm của huyện với nhiều cơ quan mới xây dựng

rất khang trang. Do địa bàn nằm trải dài trên trục đường chính nối liền thành phố

Rạch Giá với huyện Hà Tiên lại có núi có biển, dân cư đông đúc nên rất thuận lợi

cho việc phát triển kinh tế và văn hóa xã hội.

1.2.3.2. Vài nét về lịch sử di dân của nhóm cư dân thứ ba

So với hai địa bàn trước đó mà chúng tôi khảo sát, địa bàn này có thành phần

người gốc Bắc di cư chiếm tỉ lệ thấp hơn. Qua tìm hiểu thực tế địa bàn, chúng tôi

thấy rằng người gốc Bắc định cư ở thị trấn Kiên Lương có khoảng từ 50 đến 60

phần trăm. Thế nhưng, điều này cũng không trở ngại cho quá trình khảo sát đề tài vì

hầu hết những người gốc Bắc định cư ở đây sống tập trung thành khu vực.

1.2.3.3. Điều kiện sinh sống

Đây là khu vực trung tâm kinh tế, hành chính của huyện Kiên Lương và cũng

là vùng đất nằm trong địa bàn cư dân Nam Phố sung túc của trấn Hà Tiên xưa. Đây

là vùng đất được thiên nhiên ban cho nhiều tài nguyên quý giá, nhiều danh lam

thắng cảnh, ngư trường thuận lợi cho việc nuôi trồng hải sản. Nơi đây có nhiều núi

đá vôi là nguồn nguyên liệu dồi dào để sản xuất xi măng. Hiện nay, tại địa bàn thị

trấn Kiên Lương có nhà máy sản xuất xi măng Hà Tiên II, thu hút hàng ngàn lao

động địa phương với số đông là người gốc Bắc di cư.

Bên cạnh đó, đây là địa bàn dân cư giáp biển nên có một bộ phận cư dân, đặc

biệt là những cư dân gốc Bắc làm trong các ngành nghề liên quan đến kinh tế biển

như thủy thủ, công nhân trong các nhà máy chế biến hải sản, buôn bán thủy hải

19

sản,…Nhìn chung, về đời sống kinh tế, nhóm cư dân này có đời sống tương đối tốt

hơn.

1.2.3.4. Về văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng

So với hai nhóm cư dân trên, nhóm cư dân này có đời sống văn hóa, tôn giáo,

tín ngưỡng phức tạp hơn. Vì rằng, đây là địa bàn có nhiều tôn giáo với nhiều nét văn

hóa khác nhau. Mặc dù phức tạp nhưng với đời sống văn hóa, tín ngưỡng của nhóm

cư dân này rất phong phú. Nó thể hiện sự pha trộn, giao thoa văn hóa của cộng đồng

cư dân nơi đây.

Qua khảo sát, chúng tôi thấy rằng địa bàn này vừa có chùa của người Việt,

người Khơ me bản địa và cả những nhà thờ của đạo công giáo. Trong sự giao thoa

văn hóa đó, ắt hẵn sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến tình hình sinh hoạt văn hóa, văn học,

trong đó có văn học dân gian.

1.3. Đặc điểm của cư dân bản địa trên địa bàn tỉnh Kiên Giang

Kiên Giang là địa bàn tiêu biều cho Nam Bộ có khối cộng cư gồm nhiều dân

tộc cùng sinh sống, trong đó, nhiều nhất là người Kinh, người khơ me và người Hoa.

Mỗi dân tộc đều có đời sống tinh thần phong phú, nhất là văn hóa, văn học.

Do là địa bàn có nhiều dân tộc cùng sinh sống nên quá trình giao lưu văn hóa

sống động tạo nên nét đặc trưng riêng. Hiện tượng giao lưu văn hóa thể hiện trên

nhiều phương diện, dễ nhận biết nhất là hiện tượng song ngữ, đa ngữ trong vùng,

qua cách ăn mặc và nếp sống, ăn uống,…Đặc biệt là trong giao lưu văn hóa giữa các

dân tộc. Ở địa bàn này, sự gao lưu văn hóa thể hiện rõ nét trong các làn điệu dân ca.

Những câu hò, điệu lý, câu hát dân ca dù của dân tộc nào thì họ cũng xem như là sản

phẩm tinh thần của mình.

Như đã nói ở trên, Kiên Giang là vùng đất mới với nhiều dân tộc cộng cư đã

mở ra nhiều mối giao lưu văn hóa. Điều này nhận thấy rõ nhất trong văn học dân

gian mà chúng tôi sẽ khảo sát ở những chương sau. Có thể nói, nếu so với miền Bắc

thì ở miền Nam nói chung và Kiên Giang nói riêng có môi trường sinh hoạt văn hóa,

văn học dân gian không cố định. Những cư dân bản địa này có thể giao lưu văn hóa,

văn học ở mọi lúc, mọi nơi, có khi đan xen, lồng ghép trong các sinh hoạt khác.

20

Điều này vửa thể hiện sự phong phú trong đời sống tinh thần nhưng cũng không

kém phần phức tạp của những cư dân bản địa. Những cư dân bản địa này rất phóng

khoáng, vì thế khi có cư dân phía Bắc vào định cư thì họ hòa nhập nhanh chóng và

trở nên một cộng đồng cư dân đoàn kết cùng tương trợ nhau trong cuộc sống. Đây

chính là điều kiện thuận lợi cho quá trình sinh hoạt văn học dân gian mà chúng tôi

tiến hành khảo sát.

Tóm lại, Kiên Giang là địa bàn có điều kiện thuận lợi cho cả đời sống kinh tế

lẫn văn hóa tinh thần cho những người di cư. Và khi họ đến đây lại bắt gặp sự nhiệt

tình phóng khoáng của những cư dân bản địa. Chính vì vậy, việc lựa chọn này làm

vùng đất định cư là là một sự lựa chọn đúng đắn. Có lẽ, đây cũng là một trong

những lý do chúng tôi chọn vùng đất này làm địa bàn khảo sát luận văn.

Để cho quá trình khảo sát đi đúng hướng, chúng tôi xin tạm đưa ra một cách

hiểu về cụm từ”sinh hoạt văn học dân gian”. Theo chúng tôi sinh hoạt văn học dân

gian là một hoạt động mang tính tập thể, trong hoạt động ấy có sử dụng các thể loại

và nội dung của văn học dân gian theo những cách thức khác nhau gắn với môi

trường diễn xướng. Như vậy, cách hiểu này chúng tôi sẽ dùng thống nhất trong toàn

bộ quá trình khảo sát đề tài này.

21

Chương 2 : TÌNH HÌNH TƯ LIỆU

Dựa trên những cơ sở ban đầu về đối tượng nghiên cứu đã tìm hiểu ở chương

một, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực tế trên từng nhóm cư dân trên địa bàn về

những hình thức sinh hoạt văn học dân gian của họ. Việc khảo sát này được tiến

hành lần lượt trên từng nhóm cư dân trong khoản thời gian nhất định.

2.1. Nhóm tư liệu điền dã

“Điền dã”có nghĩa là vùng xa thành phố, là nơi tiến hành những cuộc điều tra,

khảo sát trong nghiên cứu khoa học [33; tr. 133]. Theo nghĩa này thì đây là nhóm tư

liệu mà chúng tôi thu thập được trong quá trình khảo sát thực tế ở cả ba nhóm cư

dân. Tuy nhiên, do điều kiện khó khăn nên trong quá trình đi điền dã, chúng tôi chỉ

chọn giới hạn một số lượng nhất định cư dân ở từng địa bàn. Sự chọn lựa này mang

tính ngẫu nhiên mà cũng là do bộ phận cư dân này đã nhiệt tình cộng tác, giúp đỡ

chúng tôi trong quá trình thực địa.

2.1.1. Nhóm tư liệu từ việc điều tra phỏng vấn

Cụm từ “điều tra phỏng vấn”mà chúng tôi dùng ở đây bao hàm cả việc phỏng

vấn, đối thoại trực tiếpvới từng đối tượng và cả việc quan sát họ sinh hoạt trong một

khoảng thời gian nhất định. Ở đây, chúng tôi chỉ xin mô tả lại những kết quả thu

được thật sự có ích, phục vụ cho việc nghiên cứu. Dựa vào kết quả khảo sát, chúng

tôi có thể thống kê các hình thức sing hoạt văn học dân gian của cư dân miền Bắc

trên địa bàn tỉnh Kiên Giang thành gồm:

- Câu lạc bộ hưu trí, người cao tuổi:

Để có thể ghi nhận tình hình sinh hoạt văn học dân gian ở đây, chúng tôi theo

chân các cụ đến quan sát các buổi sinh hoạt ở các câu lạc bộ. Chúng tôi nhận thấy

các tổ chức này sinh hoạt rất đều đặn từ một đến ba tháng một lần. Ngoài những nội

dung sinh hoạt thường kỳ là những cuộc trò chuyện, giao lưu văn nghệ, kể chuyện

rất sôi nổi. Đó cũng chính là sự giao lưu văn hóa giữa những người di cư và cư dân

22

bản địa và trong những lần giao lưu sinh hoạt như vậy thì không thể thiếu món ăn

tinh thần là những thể loại văn học dân gian của quê hương mỗi người.

Qua thống kê, chúng tôi ghi nhận ở cả ba địa bàn cư dân mà chúng tôi khảo sát

mỗi địa bàn đều có một câu lạc bộ hưu trí và một câu lạc bộ người cao tuổi sinh hoạt

rất đều đặn. Ở địa bàn thuộc nhóm cư dân thứ nhất, qua ba lần quan sát, chúng tôi

ghi nhận được khoản mười ba truyện dân gian (gồm ba truyền thuyết, chín truyện

cười); hai mươi tám bài ca dao – dân ca và một số thành ngữ được dùng thường

xuyên trong lời nói. Ở địa bàn thuộc nhóm cư dân thứ hai, chúng tôi ghi nhận được

mười sáu truyện dân gian (gồm hai truyền thuyết, hai truyện cổ tích và mười hai

truyện cười, truyện trạng); mười chín bài ca dao, dân ca; một số thành ngữ được

dùng thường xuyên trong lời nói và đặc biệt là có hai đoạn hát chèo (trong đó có

một đoạn chèo dân gian). Qua khảo sát, chúng tôi thấy rằng ở cả hai nhóm cư dân

này khi sử dụng văn học dân gian từ truyền thuyết đến ca dao lại dùng nhiều tác

phẩm chỉ nhiều địa danh khác nhau. Có thể dẫn ra một số trường hợp sau:

- “Bình Lãng rut kén ươm tơ

Chợ Trâu Quãng Nhất, bánh đa làng Vò”

- “Xanh mắt là chợ hàng Na

Mặn mà hàng muối ngọt hoa hàng đường”

- “Ngày một, ngày bảy chợ Lương

Hai, sáu Ninh Cường năm ,chín Đông Biên

Cồn Chàm mươi ,bốn là phiên

Ba, tám chợ Đền, thêm chợ Xã Trung

Hôm Đình buổi sáng họp đông

Nửa ngày Phe Sáu, bên sông chợ Cầu

Giáp Phương để sớm Chợ Dâu

Lẻ chợ Cồn Cốc, chẵn âu Đông Cường”

Nhắn ai là khách thông thương

Quần Anh lắm chợ ta buôn nhiều hàng”

- “Mồng một chơi cửa chơi nhà

23

Mồng hai chơi xóm, mồng ba chơi đình

Mồng bốn chơi chợ Quả Linh

Mồng năm chợ Trình mồng sáu Non Côi

Qua ngày mồng bảy nghỉ ngơi

Bước sang mồng tám đi chơi chợ Viềng

Chợ viềng một năm mới có một phiên

Cái nón em đội cũng tiền anh mua”

-”Hỡi cô thắt dãi lưng xanh

Có về Nam Định với anh thì về

Nam Định có bến đò chè

Có dinh Tổng Đốc, có nghề ươm tơ”

-”Quần Anh có tiếng từ xưa

Biển đình Phong Lạc, bia chùa Phú Lâm

Khách về khách vẫn hỏi thăm

Nước chè Cầu Ngói, tơ tằm Chợ Lương”

- “Bối Khê, Tiên Lữ, Chùa Thầy

Đẹp thì có đẹp chưa tày chùa Hương”.

- “Lắm ma chùa Bứa

Lắm dứa chùa Thành

Lắm chanh chùa Nãi

Lắm giải sông Bo

Lắm bò Đoan Túc”

- “Trên trời có đám mây xanh

Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng

Ước gì anh cưới được nàng

Hà Nội, Nam Định dọn hàng đưa dâu

Tĩnh Thanh cũng đóng trầu cau

Nghệ An thì phải thui trâu mỗ bò

Hưng Yên quạt nước hỏa lò

24

Thái Bình thì phải giả giò gói nem

Ninh Bình trải chiếu bưng măm

Hải Dương vót đũa, Phú Đông đúc nồi

Sơn Tây gánh đá nung vôi

Bắc Cạn thời phải thổi xôi nấu chè

Gia Định hầu điếu hàng xe

Phủ Đình thời phải chém tre bắt cầu

Anh mời mười tám nước chư hầu

Nước Tây, nước Tàu anh gởi tận nơi

Anh mời hai họ nhà trời

Ông Sấm, ông Sét, Thiên Lôi đứng đầu”

- “Thái Bình đang cơn gió thổi

Chiếc thuyền em trôi nổi khác thể cánh bèo

Ý làm sao anh không ra chống đỡ chèo

Anh hùng sao lại nằm queo trong thuyền”.

(Ông Lê Văn Nghệ - 69 tuổi – thuộc nhóm cư dân thứ hai)

- “Gọc Đồng, Gọc Đống nung vôi

Cao trai đóng Cối, buôn dui Hòa Đồng

Xá Thị thì bán giầu không

Cao Dương rèn sắt nên công nhất miền

Hạt Ngang chẻ nứa đan thuyền

Đông hồ làm bạc, giấy tiền đem tiêu

Xê hương là của Lai Triều

Đông Dương dung tép, dung siu kiếm tiền”….

Ở nhóm cư dân thứ ba, chúng tôi ghi nhận chỉ mới có một câu lạc bộ người cao

tuổi sinh hoạt thường kỳ mỗi tháng một lần. Tuy thời gian dành để sinh hoạt văn

học dân gian như ở các câu lạc bộ thuộc hai nhóm cư dân kể trên nhưng ở đây,

chúng tôi nhận thấy những tác phẩm văn học dân gian sử dụng đan xen rất nhiều tác

phẩm của cư dân bản địa. Chẳng hạn, những giai thoại, truyền thuyết về anh hùng

25

Nguyễn Trung Trực trong kháng chiến chống Pháp; về lịch sử hình thành đất Hà

Tiên,... và cả những bài ca dao của miền đất mới:

-”Ngó qua bên núi Tô Châu

Thấy cô gánh nước trên đấu giắt trâm”

Hay”Kênh Vĩnh Tế, biển Hà Tiên

Ghe xuồng xui ngược hai miền thông thương”.

Hay là câu hát đối đáp sau:

-”Đường từ Châu Đốc, Hà Tiên

Kinh nào chạy thẳng nối liền hai nơi

Đất nào lắm dốc nhiều đồi

Đèn nào cao nhất người người đều nghe

Sông nào tấp nập thuyền bè

Hồ nào với biển cặp kè bên nhau

Trai nào nổi tiếng anh hào

Anh mà đối đặn má đào em xin trao”.

-”Em ơi! Đường từ Châu Đốc – Hà Tiên

Có kinh Vĩnh Tế nối liền hai nơi

Đất Nam Vang lắm dốc nhiều đồi

Đèn cao Châu Đốc người người đều nghe

Sông Cửu Long tấp nập thuyền bè

Biển Hồ hai chữ cặp kè bên nhau

Trai Việt nam nổi tiếng anh hào

Anh đã đối đặng vậy má đào em trao đây”.

- Sinh hoạt hội đồng hương:

Một hoạt động tập thể khác cũng sinh hoạt có sử dụng văn học dân gian là các

hội đồng hương. Ở mỗi địa bàn cư dân khảo sát, chúng tôi đều nhận thấy có các hội

đồng hương hoạt động. Cụ thể, ở địa bàn thuộc nhóm cư dân thứ nhất có hai hội

đồng hương hoạt động đều đặn là “Hội đồng hương Nam Định” và “Hội đồng

26

hương Thái Bình”; địa bàn thuộc nhóm cư dân thứ hai cũng có hai hội đồng hương

hoạt động là: “Hội đồng hương Nam Định” và “Hội đồng hương Phú Thọ”.

Tuy có đến bốn hội đồng hương hoạt động nhưng chúng tôi nhận thấy ở địa

bàn thuộc nhóm cư dân thứ ba lại ít dành thời gian cho sinh hoạt văn học dân gian

hơn hai nhóm thứ nhất và thứ hai (Các hội đồng hương : Bắc Giang; Thái Bình;

Thanh Hóa). Mặc dù vậy, trong sinh hoạt văn học dân gian, những hội viên này

cũng lại sử dụng nhiều tác phẩm văn học địa phương, nhiều nhất là ca dao dân ca.

Chẳng hạn:

- “Muốn ăn cháo cá rau cần

Thì về Rạch Giá cho gần đường đi”.

-”Sông Giang Thành quanh co uốn khúc

Nước Giang Thành khi đục khi trong”....

Đặc biệt, nhiều hội viên còn thể hiện những câu ca dao liên quan đến nghề

nghiệp của họ. Chẳn hạn:

-”Ngó ra hòn Chảo sóng bổ lao xao

Thấy thuyền anh chạy như dao cắt lòng”.

-” Thẻ mực tuy cực mà vui

Ráng đầy khênh mực cho vui vợ chồng”...

Các hội đồng hương này tuy hoạt động không nhiều (mỗi năm chỉ sinh hoạt từ

ba đến bốn lần) nhưng phong phú, đa dạng hơn về đối tượng tham gia so với nhóm

trước. Chủ yếu sinh hoạt văn học dân gian diễn ra trong các giờ văn nghệ, vì vậy thể

loại văn học dân gian được sử dụng nhiều là: Chèo và ca dao – dân ca cùng một số

truyện cười.

- Sinh hoạt trong các lễ hội dân gian địa phương:

Khảo sát cả ba nhóm cư dân thuộc đối tượng nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy

có hai lễ hội ở địa bàn của nhóm cư dân thứ nhất và thứ hai có sử dụng văn học dân

gian, đó là lễ hội của đền thờ Đức Thánh Trần (Xã nam Thái Sơn – Hón Đất - Kiên

Giang) và lễ hội đền Hùng (Thị trấn Tân Hiệp – Tân Hiệp – Kiên Giang). Những lễ

hội này như chúng tôi đã giới thiệu qua ở phần chương một, lễ hội đền thờ Đức

27

Thành Trần diễn ra hàng năm vào ngày rằm tháng giêng âm lịch hàng năm và lễ hội

đền Hùng diễn ra hàng năm cũng vào mồng mười tháng ba âm lịch. Ở lễ hội này, tác

phẩm văn học dân gian gắn liền với môi trường diễn xướng – những truyền thuyết

về Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, về các vua nhà Trần được nhóm cư dân

thứ nhất sân khấu hóa thành những hoạt cảnh rất sinh động cũng như những truyền

thuyết về”con rồng cháu Tiên”và các vua Hùng cũng được nhóm cư dân thứ hai thể

hiện rất độc đáo. tuy nhiên, những hình thức sinh hoạt văn học dân gian này cũng

còn hạn chế về thời gian (mỗi năm chỉ sinh hoạt một lần) và đối tượng tham gia sinh

hoạt. Riêng địa bàn thuộc nhóm cư dân thứ ba, qua khảo sát, chúng tôi chưa ghi

nhận được hình thức sinh hoạt văn học dân gian này.

UHát ruU :

- Những hình thức sinh hoạt trong phạm vi gia đình:

Hình thức sinh hoạt này chủ yếu là do người phụ nữ thể hiện và thể loại sử

dụng chủ yếu là ca dao – dân ca và một số ít là chèo. Qua khảo sát cả ba nhóm cư

dân, chúng tôi nhận thấy những gia đình có trẻ nhỏ, hầu hết đều sử dụng hình thức

này. Ở nhóm cư dân thứ nhất, việc hát ru sử dụng văn học dân gian có phần nhiều

hơn hai nhóm còn lại. Trong khi đó nhóm cư dân thứ hai và thứ ba lại có sự đan xen

với các bài hát hiện đại nhiều hơn. Qua việc phỏng vấn, bước đầu chúng tôi thống

kê số trường hợp sử dụng văn học dân gian trong hát ru ở nhóm cư dân thứ nhất là

70%; nhóm thứ hai hơn 50%và nhóm thứ ba chỉ gần 40%. Tuy nhiên, ở hai nhóm

thứ hai và thứ ba, chúng tôi quan sát và thấy rằng họ có sử dụng đan xen nhiều bài

ca dao – dân ca của miền Nam. Chẳng hạn, các bài dân ca Nam bộ như: Lý Áo vá

quàng ; lý con sáo ; lý cái Mơn,… được sử dụng rất nhiều. Hoặc là một số bài ca

dao địa phương sau cũng được sử dụng rộng rãi:

- “Xứ đâu bằng xứ Cạnh Đền

Muỗi kêu như sáo thổi đĩa lội lềnh tựa bánh canh”.

- “Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc

Đất nào dốc bằng đất Nam Vang”.

Hay là

28

- “Thơm nào ngọt bằng thơm Tắc cậu

Dưa hấu nào đỏ bằng dưa hấu Mỹ Lâm

Chiếu Tà Niên anh dệt cho em nằm

Phải lương duyên chồng vợ thì ngàn năm anh cũng chờ”.

- “Đường Mong Thọ tuy dài mà hẹp

Gái Mong Thọ vừa đẹp vừa có duyên

Anh hùng gặp gái thuyền quyên

UKể chuyệnU:

Bơi đua hò hát nên duyên vợ chồng”.

Nếu như hình thức hát ru sử dụng chủ yếu là ca dao – dân ca thì hình thức kể

chuyện lại sử dụng chủ yếu lại là truyện dân gian. Qua khảo sát, chúng tôi thấy rằng

hình thức này do người lớn tuổi thực hiện (Ông – bà kể cho con cháu nghe) và

những thể loại sử dụng chủ yếu là : truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười và

truyện trạng. Theo thống kê hình thức kể chuyện diễn ra nhiều nhất ở nhóm thứ nhất

với 42/77 trướng hợp sử dụng. Trong khi đó, nhóm cư dân thứ hai là 23/71 trường

hợp và nhóm cư dân thứ ba số trường hợp sử dụng văn học dân gian bằng hình thức

kể chuyện là 7/68…

- Hình thức sinh hoạt trong phạm vi làng xóm :

Hình thức sinh hoạt phổ biến là trong liên hoan, tiệc tùng. Đây là hình thức

sinh hoạt không thường xuyên và cũng rất phức tạp nhưng cũng rất phong phú.

Chúng tôi nói như vậy bởi lẽ không phải có tiệc tùng, liên hoan là xuất hiện hình

thức sinh hoạt văn học dân gian và đối tượng tham gia ở đây cũng có sự đan xen

giữa cư dân di cư từ miền Bắc vào và cư dân bản địa. Vì vậy, khi khảo sát hình thức

sinh hoạt này, chúng tôi rất khó xác định trong số những người tham gia ai là người

di cư, ai là người bản địa. Hơn nữa, chúng tôi cũng không thể trực tiếp tham gia

những buổi sinh hoạt như thế này mà chỉ khảo sát thông qua hoạt động phỏng vấn,

tuy nhiên, thông qua phỏng vấn, chúng tôi thống kê ở nhóm cư dân thứ nhất cí

khoảng 30% những buổi sinh hoạt văn nghệ mang tính làng xã như thế này có sinh

29

hoạt văn học dân gian và tỷ lệ này giảm dần gần một nửa ở nhóm cư dân thứ hai và

nhóm cư dân thứ ba lại không được một nửa của nhóm thứ hai.

Về thể loại văn học dân gian sử dụng, ngoài các bài dân ca, những người tham

gia sinh hoạt chủ yếu là sử dụng thể loại ca dao, đặc biệt là ca dao trào phúng dưới

hình thức đọc hoặc ngâm. Chẳng hạn những câu ca dao sau:

- “Chưa giàu đã học làm sang

Leo thang nhiều nấc tuộc thang có ngày”.

- “Tiếng đồn cha mẹ anh hiền

Cắn cơm không bể căn tiền bể tươi”.

Hay:

- “Con gái nhà giàu như tàu chuối hột

Cửa đóng then cài có một đứa con”,....

Đối với những tác phẩm thuộc thể loại tự sự dân gian, họ lại rất hay kể chuyện

cười, truyện trạng. Đặc biệt là những mẫu chuyện về Bác Ba Phi của người bản địa

được ưu tiên nhiều nhất.

2.1.2. Nhóm tư liệu từ việc điều tra bằng phiếu trắc nghiệm

Để tiện cho việc khảo sát, sau khi thu phiếu điều tra trắc nghiệm trng từng

nhóm cư dân, chúng tôi dựa vào một số tiêu chí, đặc điểm để phân loại. Từ đó,

chúng tôi rút ra những đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của các nhóm cư

dân này ở chương sau. Trong điều kiện có thể chúng tôi tiến hành khảo sát với số

lượng người tham gia trả lời qua phiếu trắc nghiệm là 1310 người (trong đó nhóm

cư dân thứ nhất: 452 người; nhóm cư dân thứ hai: 427 người và nhóm cư dân thứ

ba: 426 người) theo từng tiêu chí đặc điểm cụ thể, chúng tôi thống kê kết quả như

sau:

30

2.1.2.1. Dựa vào đặc điểm lứa tuổi.

Phạm vi

Những thể loại văn học

Thường xuyên

Sử dụng không

Không sử dụng

khảo sát

dân gian sử dụng

sử dụng văn

thường xuyên

văn học dân

Thơ

Câu nói

Truyện

học dân gian

gian

văn học dân gian

Chèo

dân gian

dân gian

dân gian

Số

Số

Tỉ lệ

Số

Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

Tỉ lệ

lượng

lượng

(%)

lượng

Lứa

tuổi

Trên 60

13/38

34,2

22/38

57,9

3/38

7,9

25/38

65,8

25/38

65,8

25/38

65,8

4/38

10,5

tuổi

Từ

19

đến

60

161/323 49,8

113/323

35

46/323

14,2

212/323

65,6

184/323

57

234/323

72,4

1/323

0,3

tuổi

Từ 6 đến

24/91

26,4

13/91

14,3

54/91

59,3

27/91

29,7

15/91

16,5

29/91

31,9

0/91

0

18 tuổi

Nhóm cư dân thứ nhất :

31

Phạm vi

Thường xuyên

Sử dụng không

Không sử dụng

Những thể loại văn học

khảo sát

sử dụng văn học

thường xuyên văn

văn học dân gian

dân gian sử dụng

dân gian

học dân gian

Thơ

Câu nói

Truyện

Chèo

dân gian

dân gian

dân gian

Lứa

Số

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

Số

Tỉ

Số

Tỉ

Số

Tỉ

Số

Tỉ

tuổi

lượng

lệ

lượng

lệ

lượng

lệ

lượng

lệ

lượng

Trên

60

27/46

58,7

11/46

23,9

8/46

17,4

37/46

80,4

30/46

65,2

28/46

60,9 3/46

6,5

tuổi

Từ 19 đến

177/314 56,4

103/314

32,8

34/314

10,8 247/314 78,7 211/314 67,2 204/314 65

2/314 0,6

60 tuổi

Từ 6 đến 18

17/67

25,4

24/67

35,8

26/67

38,8

27/67

40,3

23/67

34,3

32/67

47,8 0/67

0

tuổi

Nhóm cư dân thứ hai :

32

1.2.1.3. Nhóm cư dân thứ ba

Những thể loại văn học Phạm vi Sử dụng Thường xuyên Không sử dụng dân gian sử dụng khảo sát không thường sử dụng văn văn học dân xuyên văn học Thơ Câu nói Truyện học dân gian gian Chèo Lứa dân gian dân gian dân gian dân gian

tuổi Số Số Số Tỉ Tỉ lệ Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ lượng lượng lượng lệ

Trên 60 7/36 19,4 11/36 30,6 18/36 50 14/36 38,9 11/36 30,6 13/36 36,1 1/36 2,8 tuổi

Từ 19

đến 60 102/307 33,2 38/307 12,4 167/307 54,4 103/307 33,6 102/307 33,2 123/307 40,1 0/307 0

tuổi

Từ 6 đến 5/83 6 7/83 8,4 71/83 85,5 10/83 12 4/83 4,8 6/83 7,2 0/83 0 18 tuổi

33

2.1.2.2. Dựa vào đặc điểm giới tính.

. Nhóm cư dân thứ nhất :

Phạm vi Sử dụng Những thể loại văn học Thường khảo sát không Không sử dân gian sử dụng xuyên sử thường dụng văn dụng văn học Thơ Câu nói Truyện xuyên văn học dân gian Chèo dân gian dân gian dân gian dân gian học dân gian

Số Tỉ Số Tỉ Số Tỉ Số Tỉ Số Tỉ Số Tỉ Số Tỉ lệ lượng lệ lượng lệ lượng lệ lượng lệ lượng lệ lượng lệ lượng Giới tính

Nam 97/216 45 77/216 35,6 42/216 19,4 103/216 47,7 121/216 56 140/216 64,8 1/216 0,5

Nữ 101/236 42,8 71/236 30,1 64/236 27,1 161/236 68,2 103/236 43,6 148/236 62,7 4/236 1,7

34

Nhóm cư dân thứ hai:

Phạm vi Những thể loại văn học Sử dụng Thường xuyên Không sử khảo sát dân gian sử dụng không thường sử dụng văn dụng văn học xuyên văn Thơ Câu nói Truyện học dân gian dân gian Chèo học dân gian dân gian dân gian dân gian

Số Số Số Tỉ Số lượng Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Giới tính lượng lượng lượng lệ

Nam 108/208 52 51/208 24,5 49/208 23,6 118/208 56,7 161/208 77,4 151/208 72,6 1/208 0,5

Nữ 113/219 51,6 87/219 39,7 19/219 8,7 193/219 88,1 103/219 47 113/219 51,6 4/219 1,8

35

Nhóm cư dân thứ ba:

Phạm vi Những thể loại văn học Sử dụng Thường xuyên sử Không sử khảo sát dân gian sử dụng không thường dụng văn học dân dụng văn học xuyên văn Thơ Câu nói Truyện gian dân gian Chèo học dân gian dân gian dân gian dân gian

Số Số Số Số Số Số Tỉ Số lượng Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Giới tính lượng lượng lượng lượng lượng lượng lệ

Nam 71/241 29,5 37/241 15,3 133/241 55,2 65/241 27 75/241 31,1 94/241 39 0/241 0

Nữ 43/185 23,2 19/185 10,3 123/185 66,5 62/185 33,5 52/185 28,1 42/185 22,7 1/185 0,5

36

2.1.2.3. Dựa vào đặc điểm nghề nghiệp

Những thể loại văn học

Phạm vi

Sử dụng không

Thường xuyên

Không sử dụng

dân gian sử dụng

khảo sát

thường xuyên

sử dụng văn

văn học dân

Thơ

Câu nói

Truyện

văn học dân gian

học dân gian

gian

Chèo

dân gian

dân gian

dân gian

Nghề

Số

Số

Số

Tỉ

Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

nghiệp

lượng

lượng

lượng

lệ

Nông

136/264 51,5 100/264

37,9 28/264

11,4 187/264

70,8 169/264

64

206/264

78

1/264

0,4

nghiệp

Công chức,

30/116

25,9 28/116

0,9

58/116

50

37/116

31,9 31/116

26,7 52/116

44,8 1/116

0,9

học sinh

Lao

động

32/72

44,4 20/72

27,8 20/72

27,8 40/72

55,6 24/72

33,3 30/72

41,7 3/72

4,2

khác

Nhóm cư dân thứ nhất :

37

Nhóm cư dân thứ hai:

Phạm vi Những thể loại văn học Thường Sử dụng Không sử khảo sát dân gian sử dụng xuyên sử không thường dụng văn học dụng văn học xuyên văn học Thơ Câu nói Truyện dân gian Chèo dân gian dân gian dân gian dân gian dân gian

Số Số Số Số Tỉ Nghề Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ lượng lượng lượng lượng lệ nghiệp

Nông 69/128 54 46/128 36 13/128 10,1 102/128 79,7 91/128 71,1 78,128 61 1/128 0,8 nghiệp

Công chức, 70/131 53,4 28/131 21,4 33/131 25,2 82/131 62,6 56/131 42,7 84/131 64,1 2/131 1,5 học sinh

Lao động 82/168 48,8 64/168 38,1 22/168 13,1 127/168 75,6 117/168 69,6 102/168 60,7 2/168 1,2 khác

38

Nhóm cư dân thứ ba :

Phạm vi Những thể loại văn học Thường Sử dụng Không sử dụng khảo sát dân gian sử dụng xuyên sử không thường văn học dân dụng văn học xuyên văn học Thơ Câu nói Truyện gian Chèo dân gian dân gian dân gian dân gian dân gian

Nghề Số Số Số Số Số Số Tỉ Tỉ lệ Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ nghiệp lượng lượng lượng lượng lượng lượng lệ

Nông 4/22 18,2 6/22 27,3 12/22 54,5 5/22 22,7 7/22 31,8 6/22 27,3 0/22 0 nghiệp

Công

chức, học 39/128 30,5 16/128 12,5 73/128 57 39/128 30,5 44/128 34,4 38/128 29,7 0/128 0

sinh

Lao động 71/276 25,7 34/276 12,3 171/276 62 83/276 30,1 76/276 27,5 98/276 35,5 1/276 0,4 khác

39

2.2. Nhóm tư liệu đã được sưu tầm, nghiên cứu lưu hành

Nhìn chung, ở nhóm tư liệu này, chúng tôi thu thập được vẫn còn hạn chế.

Như nói ở phần lịch sử vấn đề, hầu như người viết chưa tìm thấy công trình nghiên

cứu hoặc sưu tầm nào về sinh hoạt văn học dân gian của người Bắc vào Nam. Chính

vì vậy, chúng tôi chỉ có thể chọn lọc những tư liệu có liên quan đã được lưu hành và

một số tư liệu sưu tầm để phần nào đối chiếu với nhóm tư liệu điền dã.

2.2.1. Nhóm tư liệu sưu tầm

Nhóm tư liệu sưu tầm ở đây bao gồm những tư liệu đã được các tác giả sưu

tầm trong vài chục năm gần đây đã được lưu hành, xuất bản. Ở nhóm tư liệu này,

chúng tôi chia làm hai dạng: Tư liệu sưu tầm những tác phẩm văn học dân gian bản

địa (văn học dân gian của địa bàn tỉnh Kiên Giang và cà văn học dân gian của Nam

Bộ) và văn học dân gian miền Bắc (quê hương của những người di cư).

2.2.1.1. Tư liệu văn học dân gian bản địa

- Công trình sưu tầm của ba tác giả: Lư Nhất Vũ, Nguyễn Văn Hoa và Lê

Giang:”Dân ca Kiên Giang”. Tài liệu này, chúng tôi dùng để đối chiếu những bài

dân ca dùng trong hình thức hát ru của cả ba nhóm cư dân.

- Công trình sưu tầm: “Truyện cười Ba Phi” do Hoàng Chương sưu tầm. Tài

liệu này, chúng tôi dùng để đối chiếu chủ yếu trong sinh hoạt dưới hình thức kể

chuyện (phạm vi gia đình và phạm vi tập thể).

- Công trình sưu tầm của khoa Ngữ văn Trường Đại học Cần thơ”Văn học dân

gian Đồng bằng Sông Cửu Long”: Tài liệu này chúng tôi dùng để đối chiếu để tìm

ra một số bài ca dao của Đồng bằng Sông Cửu Long góp mặt trong những lần sinh

hoạt văn học dân gian của người Bắc di cư.

- Tài liệu sưu tầm “Truyện cổ Khơme Nam Bộ” của nhà nghiên cứu văn học

dân gian Huỳnh Ngọc Trảng: Chúng tôi sử dụng tài liệu này để đối chiếu các truyện

kể được sử dụng trong các hình thức sinh hoạt văn học dân gian của cả ba nhóm cư

dân để tìm sự ảnh hưởng, giao thoa trong sinh hoạt văn học dân gian với người Khơ

me bản địa.

40

Tuy vẫn còn hạn chế về mặt tài liệu những những tài liệu kể trên cũng phần

nào giúp chúng tôi hoàn thành được nhiệm vụ đã đề ra ở phần đầu củ luận văn. Từ

kết quả của sự đối chiếu này, chúng tôi làm cơ sở để rút ra quy luật vận động về sự

giao thoa văn hóa của khối cộng đồng dân cư trên địa bàn này ở chương sau.

2.2.1.2. Tư liệu văn học dân gian gốc Bắc

- Tư liệu sưu tầm “Văn học dân gian Thái Bình” của nhiều tác giả: Đây là công

trình sưu tầm, chọn lọc mang tính địa phương. Chúng tôi dùng tài liệu này để đối

chiếu lại những tác phẩm văn học dân gian mà nhữngcư dân có quê gốc ở tỉnh Thái

Bình hoặc lân cận thể hiện.

- Tư liệu “Truyền thuyết Việt Nam”: Chúng tôi dùng tư liệu này để đối chiếu

những truyền thuyết mà cả ba nhóm cư dân sử dụng trong quá trình sinh họa văn

học dân gian trên vùng đất định cư. Ở đây, chúng tôi nhận thấy phần lớn đó là

truyền thuyết lịch sử và truyền thuyết địa danh.

-“Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” gồm năm tập của Nguyễn Đổng Chi là tài

liệu chúng tôi dùng để đối chiếu những truyện cổ tích mà những cư dân này thể

hiện. Tư liệu này chúng tôi cũng dùng chủ yếu để đối chiếu trong hình thức sinh

hoạt kể chuyện trong phạm vi gia đình.

Nhìn chung, nhóm tư liệu này chúng tôi chủ yếu dùng để đối chiếu và kết quả

của sự đối chiếu này, chúng tôi cũng sẽ làm cơ sở để rút ra tâm thức về văn học dân

gian của những người di cư này.

2.2.2. Nhóm tư liệu đã được nghiên cứu, lưu hành

Nhóm tư liệu này bao gồm những công trình nghiên cứu đã được công bố, lưu

hành của một số tác giả, nhà nghiên cứu chuyên ngành. Chúng tôi sử dụng những tư

liệu này để làm rõ về cơ cấu từng thể loại để tìm ra mhững đặc thù về cơ cấu thể loại

trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân miền Bắc di cư trên địa bàn tỉnh Kiên

Giang.

- Tư liệu nghiên cứu đã được xuất bản, lưu hành “Truyền thuyết Việt Nam và

vấn đề thể loại” của Hồ Quốc Hùng: Chùng tôi sử dụng tư liệu này để phân tích,

làm rõ về cơ cấu thể loại truyền thuyết trong sinh hoạt văn học dân gian của cả ba

41

nhóm cư dân.

- Bài nghiên cứu của Trần Kim Liên: “Tính thống nhất và sắc thái riêng của

thể thơ lục bát trong ca dao ba miền Bắc, Trung, Nam” được đăng trên tạp chí Văn

hóa dân gian và công trình nghiên cứu “Thi pháp ca dao” của Nguyễn Xuân Kính.

Những tư liệu này ngoài việc dùng để làm rõ về cơ cấu thể loại ca dao, chúng tôi

còn sử dụng đối chiếu, góp phần tìm ra những đặc thù trong sinh hoạt văn học dân

gian của cả ba nhóm cư dân đối với thể loại ca dao

- Những công trình nghiên cứu in trong “Văn hóa vùng và phân vùng văn

hóa”do viện nghiên cứu văn hóa dân gian do Nguyễn Đức Thịnh chủ biên; Ở tài liệu

này, chúng tôi sử dụng chủ yêu phần nghiên cứu thuộc các chương hai: “vùng văn

hóa Đồng Bằng Bắc Bộ” và chương sáu: “Vùng văn hóa Nam Bộ”của phần thứ nhất

để làm cơ sở khảo sát ở chương một. Ngoài ra, chúng tôi cũng dùng chương hai của

phần thứ ba “Vùng truyền thuyết – diễn xướng” để làm cơ sở đối chiếu tư liệu ở

chương hai và chương ba.

- Tư liệu”Những vấn đề về thi pháp văn học dân gian”của Nguyễn Xuân Đức:

Chúng tôi cũng dùng tư liệu này làm cơ sở khi bàn đến các vấn đề về cơ cấu thể loại

cũng như việc đi sâu làm rõ một số tác phẩm văn học dân gian ở gốc độ thi pháp.

Tóm lại, những tư liệu mà chúng tôi nêu trên đây mặc dù vẫn còn hạn chế

nhưng chúng tôi sẽ cố gắng sử dụng sao cho hiệu quả nhất để có thể đối chiếu tìm ra

những vấn đề làm cơ sở để tìm hiểu chương ba: Đặc thù trong sinh hoạt văn học dân

gian của cư dân miền Bắc di cư vào Nam trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

2.3. Nhận xét tư liệu

Chúng tôi dành mục này để nhận xét các kết quả của việc khảo sát các nhóm tư

liệu. Thông qua đó, chúng tôi tiến hành bước đầu đối chiếu các nhóm tư liệu để làm

cơ sở cho việc khảo sát những nét đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của các

nhóm cư dân này ở chương ba.

2.3.1. Nhận xét kết quả nhóm tư liệu điền dã

Từ sự mô tả lại kết quả khảo sát trong quá trình điền dã, chúng tôi cũng rất khó

khi đưa ra những nhận xét hợp lý. Vì rằng, dù là nguồn tư liệu chính để khảo sát

42

nhưng nó rất phức tạp.

Như đã nói ở phần chương một, với đề tài này, chúng tôi tìm hiểu sinh hoạt

văn học dân gian gắn kết với môi trường diễn xướng, Chính vì vậy, những số liệu

mà chúng tôi đã dẫn là những số liệu thực tế ở thời điểm hiện tại gắn liền với từng

nhóm cư dân trên địa bàn. Dựa vào kết quả thống kê của cả hai loại điền dã, chúng

tôi đưa ra một số nhận xét bước đầu như sau:

Thứ nhất, về việc sử dụng văn học dân gian trong sinh hoạt hàng ngày, chúng

tôi nhận thấy nhóm cư dân thứ nhất và thứ hai dùng nhiều hơn nhóm cư dân thứ ba

rất rõ rệt. Kết quả của hai nhóm tư liệu điều tra phỏng vấn và trả lời trên phiếu trắc

nghiệm cho thấy gần như thống nhất với nhau về điều này.

Thứ hai, xét trên từng phương diện như đã khảo sát thì ở mỗi nhóm cũng có sự

khác nhau:

+ Về đặc điểm lứa tuổi: Chúng tôi nhận thấy ở cả ba nhóm cư dân đều cho

kết quả nhất quán rằng tuổi tác càng lớn thì sinh hoạt văn học dân gian càng nhiều

và ngược lại, tuổi càng ít thì sinh hoạt văn học dân gian cũng giảm dần. Không chỉ

có vậy, từ tư liệu khảo sát, chúng rôi nhận thấy tuổi tác càng lớn thì càng sử dụng

đa dạng các thể loại văn học dân gian. Đặc biệt ở thể loại chèo, rất ít được sử dụng

trong sinh hoạt văn học dân gian của cả ba nhóm cư dân và mật độ sử dụng cũng

giảm dần theo tuổi tác (Nhóm độ tuổi từ 6 đến 18 tuổi hầu như không sử dụng thể

loại này).

+ Xét về đặc điểm giới tính: Từ bảng thống kê cho thấy cả ba nhóm cư dân

thì nhũng cư dân có giới tính nam lại sinh hoạt văn học dân gian nhiều hơn. Tuy

nhiên, sự chênh lệch ở đây chiếm tỷ lệ không đáng kể (Ở nhóm thứ nhất tỷ lệ là:

45,9 % - 42,8% ; nhóm thứ hai tỷ lệ là : 52% - 51,6% và nhóm thứ ba tỷ lệ là

29,5% - 23,2%). Mặc khác, khảo sát việc sử dụng các thể loại văn học dân gian thì

chúng tôi nhận thấy nử lại sử dụng nhiều thơ dân gian và chèo hơn nam. Trong khi

đó từ bảng thống kê, chúng tôi nhận thấy ở thể loại truyện dân gian và câu nói thì

nam lại sử dụng nhiều hơn nữ.

43

+ Xét về đặc điểm nghề nghiệp: Về phương diện này nhóm cư dân thứ ba

cũng có tỷ lệ thấp hơn nhiều so với nhóm thứ nhất và thứ hai. Tỷ lệ này ở nhóm thứ

nhất và thứ hai gần như tương đương với nhau. Trong khi đó, xem xét kết quả thống

kê về sử dụng các thể loại văn học dân gian thì thấy rằng những người làm nông

nghiệp lại sử dụng nhiều thơ và câu nói dân gian. Trong khi đó, nhóm công chức,

học sinh lại dùng nhiều thể loại truyện dân gian hơn. Đặc biệt, kết quả thống kê cho

thấy những người thuộc nhóm những nghề nghiệp khác(ở đây, chúng tôi khảo sát

những người làm nghề buôn bán, công nhân, thợ thủ công, đi biển….) lại sử dụng

thể loại chèo nhiều hơn.

Thứ ba, trong sinh hoạt văn học dân gian, những cư dân mà chúng tôi khảo sát

hầu như sử dụng rất nhiều tác phẩm văn học dân gian có nêu địa danh cụ thể của

một địa phương nào đó gắn với một nét độc đáo nào đó. Loại này, chúng tôi thấy

rằng diễn ra nhiều nhất ở ca dao và truyền thuyết. Mặc khác, qua khảo sát chúng

tôi ghi nhận nét mới trong sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân thứ ba là đan

xen nhiều tác phẩm văn học địa phương bản địa. Cụ thể ở đây là căn cứ quan trọng

để tìm ra sự giao thoa trong văn hóa của khối cộng đồng dân cư mà chúng tôi sẽ tiến

hành làm rõ ở chương sau.

Thứ tư, trong quá trình điền dã, chúng tôi ghi nhận sự độc đáo việc sử dụng

truyền thuyết dân gian trong các lễ hội. Tuy nhiên, hình thức sinh hoạt này vẫn còn

hạn chế rất nhiều về số lượng và thời gian. Bên cạnh đó, thể loại chèo gần như rất ít

được sử dụng trong sinh hoạt, thậm chí như đã nói ở phần trên, nhóm những người

trẻ tuổi mà chúng tôi khảo sát hầu như không hề sử dụng thể loại này.

Tóm lại, ở những nhóm tư liệu điền dã, chúng tôi đã rút ra được một số nhận

xét bước đầu. Thiết nghĩ, những nhận xét này sẽ là cơ sở cho quá trình làm rõ vấn

đề trọng tâm ở chương ba.

2.3.2. Nhận xét kết quả đối chiếu tư liệu

Công việc đối chiếu tư liệu ở đây chính là quá trình chúng tôi đối chiếu nhóm

tư liệu điền dã với nhóm tư liệu siêu tầm, nghiên cứu trong điều kiện có thể. Ở đây,

chúng tôi chỉ xin đề cập đến vấn đề nội dung trong sinh hopạt văn học dân gian, chủ

44

yếu là tìm ra những nét khác biệt. Sau khi tiến hành đối chiếu, chúng tôi tìm ra một

số vấn đề sau:

- Thứ nhất, những tác phẩm văn học dân gian của những cư dân trong quá

trình sinh hoạt mà chúng tôi ghi nhận phần lớn là những tác phẩm văn học dân gian

có nguồn gốc từ miền Bắc. Tuy nhiên, những tác phẩm này càng ít dị bản đối với

người sử dụng là người đã có tuổi. Ở những người ít tuổi, khi họ sử dụng lại có một

số pha tạp từ ngữ, hình ảnh, chi tiết ,…có khi đó là những phương ngữ của người

miền Nam hoặc những hình ảnh, chi tiết trong ca dao Nam Bộ. Chẳng hạn, chúng

tôi ghi nhận những câu ca dao sau:

- “Đồn rằng chợ Nội vui thay

Bên đông có UmiểuU bên tây có chùa

Giữa chợ có UmiểuU thờ vua

Đôi bên nước chảy đò đưa em về”.

Ở bài ca dao này, chúng tôi đối chiếu với tư liệu sưu tầm “Văn học dân

gian Thái Bình” thì thấy rằng giữa bản tư liệu sưu tầm và tư liệu điền dã khác nhau

ở một từ: “miểu” và “miếu” (“miểu” là từ dùng của người miền Nam).

Hay là trong một bài ca dao quen thuộc được dùng trong hát ru:

“ UConU cò là Ucon Ucò quăm

Mày hay đánh vợ mày nằm với ai?

Có đánh thì đánh sớm mai,

Chớ đánh chập tối chẳng ai cho nằm”[ trang 120, ]

Qua đối chiếu, chúng tôi nhận thấy ở bài ca dao gốc không dùng từ”Con cò”mà

dùng từ”Cái cò”. Như vậy, ở tư liệu điền dã lại dùng theo kiểu người miền Nam

(Từ”Cái cò”của miền Bắc thành”Con cò”của miền Nam)….

Qua thống kê sơ bộ, chúng tôi nhận thấy số lượng tác phẩm sử dụng có hiện

tượng này tuy không nhiều nhưng cũng là một hiện tượng ghi nhận một biểu hiện

của sự giao thoa văn hóa của nhóm cư dân miền Bắc di cư vào vùng đất mới.

Thứ hai, chúng tôi ghi nhận qua kết quả khảo sát, những cư dân gốc Bắc ngoài

việc sử dụng văn học dân gian của vùng đất cố cựu thì có sử dụng nhiều nguồn văn

45

học dân gian của cư dân bản địa. Qua đối chiếu các nhóm tư liệu, chúng tôi nhận ra

một số tác phẩm văn học dân gian của địa bàn tỉnh Kiên Giang và các địa bàn lân

cận. Và như đã trình bày ở phần trước, những cư dân sử dụng nguồn văn học dân

gian này chủ yếu thuộc nhóm cư dân thứ ba (Nhóm cư dân chủ yếu di cư sau năm

1975). Như đã dẫn ở phần trước, ở thể loại ca dao – dân ca, số lượng tác phẩm dạng

này sử dụng trong sinh hoạt văn học dân gian được chúng tôi thống kê là phong phú

nhất. Ngoài ra, còn phải kể đến những thể loại tự sự dân gian được dùng khá nhiều

như : Truyền thuyết, truyện cười, truyện trạng…Chẳng hạn, trong đời sống sinh hoạt

văn học dân gian của những cư dân này vẫn thường sử dụng những truyền thuyết địa

phương Nam Bộ như: Truyền thuyết về bà Chúa Xứ núi Sam”,”Truyền thuyết về

Bảy Núi”hoặc vẫn lưu hành những truyền thuyết hình thành đất Hà Tiên, nhóm

truyền thuyết về người anh hùng Nguyễn Trung Trực,…

Ngoài truyền thuyết, nhóm truyện trạng cũng được sử dụng khá nhiều, nhất là

nhóm truyện trạng Ba Phi. Có thể nói, những tác phẩm này là sản phẩm tinh thần

độc đáo của người miền Nam. Thế nhưng, khi được đưa vào đời sống sinh hoạt văn

học dân gian, những người dân di cư này lại một lần nữa làm cho nó đi vào đời sống

tinh thần của cộng đồng cư dân mình.

Một vấn đề nữa khi nhận xét phần kết quả tư liệu đối chiếu, chúng tôi thấy

rằng vùng Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi của sân khấu dân gian, đặc biệt là nghệ

thuật hát chèo. Riêng tỉnh Thái Bình và Nam Định lại là cái nôi của nghệ thuật hát

chèo. Ca dao có câu:

“Hỡi cô thắt dãi lưng xanh

Có xem chèo Khuốc với anh thì về”.

Ngoài chèo làng Khuốc nỗi tiếng đã đi vào ca dao thì tỉnh Thái Bình còn có

các làng chèo khác như: Chèo Sáo Dền (Huyện Vũ Thư); Chèo Hà Xá (Huyện

Hưng Hà),… tỉnh Nam Định cũng có những làng chèo nổi tiếng như: Làng chèo

Đặng Xá (Huyện Mỹ Lộc); làng chèo Bồng Xuyên (huyện Ý Yên), làng chèo Phú

Văn Nam (Huyện Hải Hậu),… Thế nhưng xem xét tư liệu điền dã, thể loại này hầu

như đã mai một, ít được sư dụng, phát triển. Ở mỗi nhóm cư dân, chúng tôi chỉ khảo

46

sát được vào các trường hợp có sử dụng hát chèo trong sinh hoạt văn học dân gian,

chiếm tỷ lệ rất thấp so với các thể loại khác. Hơn nữa, như đã nói ở phần trước,

những trường hợp này chỉ có chủ yếu ở những người lớn tuổi.

Vấn đề thứ tư, phạm vi khảo sát của đề tài này là sinh hoạt về văn học dân

gian, tức là khảo sát văn học dân gian gắn liền với môi trường sống, môi trường diễn

xướng. Trên từng địa bàn khảo sátv, chúng tôi ghi nhận rằng mỗi nhóm cư dân đều

có những nét riêng trong việc diễn xướng các thể loại mà họ sử dụng, mặc dù các

thể loại văn học dân gian có sử dụng theo thống kê cũng chỉ dùng vơi những cách

thức phổ biến là hát (dùng trong hát ru, chèo), nói (lời nói hàng ngày) và kể (dùng

trong kể chuyện).Ở chương ba, chúng tôi sẽ đề cập vấn đề này một cách kĩ càng

hơn.

Tóm lại, trong chương này chúng tôi đã nêu lên kết quả của quá trình khảo sát

tư liệu và cả việc nhận xét các kết quả khảo sát trên cơ sở đối chiếu, so sánh. Trên

cơ sở những vấn đề về hình thức tư liệu đã nêu ở đây, chương ba của luận văn,

chúng tôi sẽ tiến hành giải quyết tường tận để làm rõ những vấn đề trọng tâm của

đề tài, hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra ở phần mở đầu.

47

Chương 3: ĐẶC THÙ TRONG SINH HOẠT VĂN HỌC DÂN GIAN

CỦA CƯ DÂN PHÍA BẮC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG

3.1. Cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc

trên địa bàn tỉnh Kiên Giang

Để có thể tìm ra những đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của cư

dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, dựa vào những tư liệu ở chương hai

chúng tôi tiến hành xem xét cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian của cả

ba nhóm cư dân. Trước hết, chúng tôi đi vào làm rõ về cơ cấu thể loại.

3.1.1. Cơ cấu thể loại văn học dân gian trong sinh hoạt văn học dân gian

của cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang

Nếu xét về cơ cấu thể loại văn học dân gian nói chung thì sinh hoạt văn học

dân gian của ba nhóm cư dân không thể hiện đủ các thể loại văn học dân gian mà

chỉ sử dụng chủ yếu một số thể loại thuộc các loại hình thơ ca dân gian, tự sự dân

gian, câu nói dân gian và sân khấudân gian. Trong đó, thơ ca dân gian chỉ sử dụng

thể loại ca dao (đi liền với dân ca), còn vè thì chúng tôi không ghi nhận được sự có

mặt của nó trong sinh hoạt văn học dân gian của cả ba nhóm cư dân. Như đã nêu ở

chương hai, những tác phẩm thuộc loại tự sự dân gian chỉ có mặt của thể loại truyền

thuyết; truyện cổ tích; truyện cười và truyện trạng (Chiếm số lượng lớn là truyền

thuyết và truyện trạng). Với câu nói dân gian, chúng tôi hầu như ghi nhận rất ít việc

sử dụng câu đố mà hầu hết loại này xuất hiện dưới dạng đan xen những tục ngữ,

thành ngữ trong lời nói sử dụng hàng ngày. Ở loại sân khấu dân gian, chúng tôi chỉ

thống kê được rất ít số lượng tác phẩm của thể loại chèo dân gian được sử dụng

trong sinh hoạt văn học dân gian. Với kết quả thống kê như vậy nên việc xác định

cơ cấu thể loại ở đây cũng gặp không ít khó khăn.

Trước hết, xem xét thể loại ca dao trong việc sử dụng thể loại này trong sinh

hoạt văn học dân gian của các nhóm cư dân thì có thể phân thành một số tiểu loại ca

dao nhất định như sau:

- Ca dao về quê hương đất nước:

48

Loại này bao gồm những bài ca dao nói về những vùng đất gắn liền với những

địa danh cụ thể của vùng đất cố cựu hoặc vùng đất định cư của các nhóm cư dân.

Những bài ca dao thuộc loại này chiếm số lượng tương đối nhiều. Chẳng hạn như

những bài sau:

- “Bối Khê, Tiên Lữ, Chùa Thầy

đẹp thì có đẹp chưa tày Chùa Hương”.

- “Quần Anh có tiếng từ xưa

Biển đình Phong Lạc,bia chùa Phú Lâm.

Khách về khách vẫn hỏi thăm

Nước chè Cầu Ngói, tơ tằm Chợ Lương”.

- “Non xanh nước biếc hữu tình

Lúa đồng bát ngát rung rinh bốn mùa

Đền Lăng thờ đức vua Lê

Ngắm nhìn núi Côi khác chi con rồng

Vờn thêm một dãi uốn cong

Kìa con thiên mã đang lồng về Nam

Một dòng nước nhỏ xanh lam

Một ngôi chùa nhỏ nằm ngang lưng đồi”.

(Ca dao miền Bắc)

Hay là:

“Ngó ra Vàm Cậu lù lù

Đông Hồ, Thị Vạn, Tô Châu, Rạch Dừa

Ngó ra Hòn Họ lưa thưa

Hòn Chong, Phụ Tử, trên bờ Tà Săng”.

(Ca dao miền Nam).

- Ca dao hài hước, trào phúng:

Loại ca dao này dùng nhiều trong các hình thức sinh hoạt tập thể đông người

như các câu lạc bộ, hội hè, liên hoan,… Chính vì vậy, đối tượng sử dụng loại ca dao

này rất phong phú, đặc biệt là những người còn trẻ. Có thể kể đến các bài sau:

49

- “Vua Lê ba cáu tàn vàng

Thấy gái đi đàng ngó ngó nom nom

Cô nào óng ả son son

Vua đóng củi hòm đem trẩy về kinh”.

(Ca dao miền Bắc)

Hay là:

-”Dĩa bằng than con tôm càng dựng đứng

Dĩa bằng sứ để đựng tôm he

Đạo vợ chồng em nói anh nghe

Biểu anh đừng cờ bạc rượu chè hư thân”.

(Ca dao miền Nam)

- Ca dao về các chợ, làng nghề:

Đây cũng là loại ca dao chỉ các địa danh liên quan đến các làng nghề hoặc

các chợ quen thuộc. Chẳng hạn những câu sau:

- “Dưa La, Cà Phúc Khánh

Tương Phương Tảo, gạo Lộc Điền”.

- “Liếu tiếu làng Kiếu bánh đa

Làng Hậu buôn Chát, làng Nha bán Trầu.

Làng Trung mồm mép lái Trâu

Nghe hát cô đầu mời đến làng Sóc”.

- “Xanh mắt là chợ hàng Na

Mặn mà hàng muối; ngọt hoa hàng đường”…

(Ca dao miền Bắc)

Hay là :

- “Thơm nào ngọt bằng thơm Tắc Cậu

Dưa hấu nào đỏ bằng dưa hấu Mỹ Lâm

Chiếu Tà Niên anh dệt cho em nằm

Phải lương duyên chồng vợ thì ngàn năm anh cũng chờ”.

(Ca dao miền nam).

50

Ngoài ba tiểu loại trên, chúng tôi còn ghi nhận một số bài ca dao chỉ dành cho

hình thức hát ru. Tuy nhiên, những bài ca dao thuộc dạng này chiếm số lượng rất ít.

Chẳng hạn như:

“Con tôi buồn ngủ buồn nghê

Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà

Nhà còn có một quả cà

Làm sao đủ miếng cơm và cho con

Khóc đòi quả thị méo trôn đầu mùa

Con thèm phẩm oản trên chùa

Thèm quả chuối ngự tiến vua của làng

Con thèm gạo Cốm làng Ngang

Con thèm ăn quả dưa gang làng Quài

Con thèm cá mát canh khoai

Con thèm xơ mít, thêm tai quả hồng

Con thèm đuôi cá vây bông

Thèm râu tôm rảo, thèm lòng bí đao.”

(Ca dao miền Bắc).

Hay là:

“Em tôi khát sữa bú tay

Ai cho bú thép ngày ngày mang ơn”….

(Ca dao miền Nam).

Như vậy, thể loại ca dao dùng trong sinh hoạt văn học dân gian của cả ba nhóm

cư dân nhìn chung được có bốn tiểu loại này tạo nên.

Xem xét những loại hình tự sự dân gian, trước hết phải kể đến truyền thuyết.

Hầu như những tác phẩm được dùng trong sinh hoạt văn học dân gian thuộc hai

dạng: Truyền thuyết địa danh và truyền thuyết lịch sử. Trong đó, truyền thuyết địa

danh được thể hiện trong sinh hoạt lại tập trung nhiều vào những tác phẩm thuộc

truyền thuyết Nam Bộ như: Truyền thuyết Bà Chúa Xứ Núi Sam; Sự tích Hòn Phụ

Tử; Truyền thuyết về Thạch Động,…loại truyền thuyết lịch sử thì có cả truyền

51

thuyết của miền Bắc (Truyền thuyết về Lê Lợi; Thánh Gióng ; chuỗi những truyền

thuyết về vua Hùng,…) và truyền thuyết Nam Bộ (Chuỗi truyền thuyết về Nguyễn

Trung Trực; Truyền thuyết về Thiên Hộ Vương; chuỗi truyền thuyết về Thoại Ngọc

Hầu ,…).

Đối với thể loại truyện cổ tích, chúng tôi chỉ ghi nhận chủ yếu loại truyện cổ

tích thần kỳ và một bộ phận nhỏ những truyện kết chuỗi thuộc truyện cổ tích sinh

hoạt (Chẳng hạn câu chuyện về”Chàng Ngốc”). Thể loại này được sử dụng trong

sinh hoạt văn học dân gian chỉ hạn chế dưới hình thức sinh hoạt kể chuyện trong

phạm vi gia đình.

Thể loại truyện cười cũng được dùng khá nhiều dưới dạng những truyện ngắn

chủ yếu thuộc loại truyện cười giải trí. Tuy nhiên, ở thể loại này, chúng tôi rất khó

để xác định chính xác nó có phải thuộc văn học dân gian hay không. Còn với loại

truyện trạng, như đã nói ở phần trước, chỉ có một bộ phận truyện Trạng Quỳnh,

Trạng Lợn,… được những cư dân này dùng để sinh hoạt mà chủ yếu là những nhóm

truyện thuộc chuỗi truyện Ba Phi (phần lớn là nhóm truyện đi rừng).

Ở loại hình câu nói dân gian, câu đố dân gian xuất hiện với số lượng rất ít. Tuy

nhiên, chúng tôi ghi nhận rất nhiều trường hợp đan xen tục ngữ, thành ngữ trong lời

nói sinh hoạt hàng ngày. Và những trường hợp này thường gặp nhất ở người đã có

tuổi. Sự đan xen này được xem là hiện tượng độc đáo của cư dân phía Bắc. Chính

vì vậy, trong sinh hoạt văn học dân gian, chính những người di cư phía Bắc này đã

mang từ vùng đất cố cựu đến vùng đất mới một sản phẩm tinh thần độc đáo, góp

phần làm cho văn hịc dân gian vùng đất định cư độc đáo hơn.

Như vậy, với những thể loại kể trên (với những tiểu loại, những dạng khác

nhau ở mỗi thể loại), có thể nói cơ cấu thể loại văn học dân gian của cư dân phía

Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang được tạo nên với sự độc đáo riêng. Vấn đề này,

chúng tôi sẽ làm rõ hơn ở những phần tiếp theo.

3.1.2. Cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian phổ biến

Dựa vào kết quả khảo sát tư liệu ở chương hai, chúng tôi tiến hành hệ thống lại

những cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian của các nhóm cư dân đất

52

Bắc trên vùng đất định cư. Ở đây, chúng tôi đi vào nội dung cụ thể những cách thức

và nội dung sinh hoạt văn học dân gian phổ biến chung của cả ba nhóm cư dân.

Trước hết chúng tôi hệ thống lại những cách thức sinh hoạt văn học dân gian

có chủ ý. Những cách thức này mang tính chủ động, bao gồm những cách thức sinh

hoạt có tổ chức riêng lẽ hoặc sinh hoạt lồng ghép các loại hình văn hóa, văn nghệ

khác đồng thời cũng bao gồm cả những cách thức sinh hoạt văn học dân gian trong

phạm vi gia đình. Những cách thức sinh hoạt này đều gắn kết chặt chẽ nội dung với

quá trình diễn xướng:

3.1.2.1. Những cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian phạm vi

làng xã

Từ kết quả thống kê ở chương hai, những cách thức sinh hoạt này mang tính

tập thể, cộng đồng hơn. Xét về cơ cấu thể loại văn học dân gian, cả ba nhóm cư dân

này đều sinh hoạt chủ yếu với các thể loại : ca dao; truyền thuyết ; truyện cười, tục

ngữ và chèo. Như vậy, ở mỗi thể loại, kết quả thống kê cho thấy mức độ sử dụng ở

mỗi nhóm cư dân là chưa đồng đều. Tuy nhiên, sinh hoạt cả ba nhóm cư dân đều

thể loại nêu trên chặt chẽ với diễn xướng.

Trong sinh hoạt văn học dân gian ở các câu lạc bộ, hội, chúng tôi ghi nhận

những cư dân ở cả ba nhóm đều sinh hoạt thể loại ca dao thông qua cách thức đọc

diễn cảm và ngân là chủ yếu. Ở những loại ca dao là lời của bài dân ca, họ lại thể

hiện chúng bằng giọng hát. Nội dung những bài ca dao mà họ sinh hoạt thường gắn

liền với những địa danh, đặc biệt là những địa danh quê hương của những cư dân

này. Đó có thể là một sự nhắc nhỡ, kí ức về vùng đất cố cựu mà họ còn lưu giữ khi

đến định cư trên vùng đất mới. Những câu ca dao như thế này chúng tôi đã nêu trích

dẫn ở phần tư liệu điền dã thuộc chương hai.

Đối với thể loại truyền thuyết, cả ba nhóm cư dân sinh hoạt trong các tổ chúc

này đều thể hiện bằng giọng kể. Những người sử dụng thể loại này vốn dĩ xuất thân

từ vùng đất trung tâm của những vùng truyền thuyết như: Vùng truyền thuyết Hùng

Vương; vùng truyền thuyết Hai Bà Trưng; Vùng truyền thuyết Thánh Bưng; Vùng

truyền thuyết Đức Thánh Trần;…Có thể thấy” sự lan truyền của truyền thuyết là

53

hiện tượng phổ biến khắp nơi cũng như sự lan truyền cổ tích. Nhưng do một số điều

kiện nhất định mà một truyền thuyết nào đó được thịnh hành tập trung trên một địa

bàn rộng hẹp khác nhau”[27; tr. 334]. Chính vì vậy, truyền thuyết luôn có sự vận

động không ngừng. Những người có quê gốc gần trung tâm truyền thuyết có lẽ sẽ có

cốt truyện gần với thần tích hơn những người khác. Chúng tôi ghi nhận một số

truyền thuyết trên được dùng trong sinh hoạt văn học dân gian theo cách này của cả

ba nhóm cư dân như: Nhóm truyền thuyết về Đức Thánh Trần và các tướng lĩnh của

ông trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông ở thế kỷ mười ba; Truyện về bà

Bát Nạn (tướng lĩnh của Hai Bà Trưng); truyện về Thánh Mẫu Liễu Hạnh; Truyền

thuyết Thánh Bưng – Lê Phựng Hiểu; truyện về Nguyễn Trãi – Nguyễn Thị

Lộ;…Một hiện tượng ghi nhận sự vận động của thể loại truyền thuyết cố cựu trên

vùng đất định cư là truyền thuyết về”Bà Chúa Xứ núi Sam”. Vấn đề chúng tôi sẽ

bàn kĩ ở mục tâm thức văn học dân gian ở phần sau.

Ở thể loại truyện cười, hầu hết là loại truyện cười thuộc thể loại truyện

cười giải trí với những mẫu truyện ngắn gọn, dễ sử dụng.Chính vì vậy, cả ba nhóm

cư dân đều rất thích dùng thể loại này để kể trong sinh hoạt văn học dân gian. Tuy

nhiên, do tính chất ngắn gọn và phong phú của nó nên sự trùng hợp nội dung các tác

phẩm truyện cười trong sinh hoạt, chúng tôi chua ghi nhận trường hợp nào. Chỉ có

điều, với thể loại này, chúng tôi rất khó để xác định đâu là tác phẩm văn học dân

gian và tác phẩm đó là tác phẩm của vùng miền nào.

Xem xét hai thể loại còn lại, chúng tôi nhận thấy trong lời nói giao tiếp hàng

ngày những cư dân thuộc cả ba nhóm di cư đều có sử dụng đan xen tục ngữ, thành

ngữ. Tuy nhiên, mỗi nhóm cư dân có mức độ đậm đặc khác nhau. Chẳng hạn, chúng

tôi ghi nhận một trường hợp của nhóm cư dân thứ nhất thông qua phỏng vấn, đối

thoại trực tiếp có đến tám thành ngữ, tục ngữ dùng trong một lần sử dụng:”Ăn đói

mặc rét”;”Chia ngọt sẻ bùi”;”Gần đất xa trời”;”Khỉ ho cò gáy”;”khỏe như

voi”;”Năm thì mười họa”;”Sinh cơ lập nghiệp”;”Vạn sự khởi đầu nan”;… Không

phong phú như câu nói dân gian, thể loại chèo lái được sử dụng rất hạn chế ở cả ba

nhóm cư dân mặc dù Thái Bình là cái nôi của nghệ thuật hát chèo. Và khi sử dụng,

54

thể loại này chỉ được sinh hoạt giới hạn ở một bộ phận người lớn tuổi. Tuy nhiên,

thể loại này cũng chưa được phát huy hết giá trị của nó khi sử dụng vì chỉ thể hiện

chúng bằng lời hát đơn thuần, không kèn, không trống, không diễn, không được gắn

với môi trường diễn xướng của một thể loại thuộc loại hình sân khấu dân gian.

3.1.2.2. Những cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian trong

phạm vi gia đình

Dựa vào kết quả khảo sát nhóm tư liệu điền dã ở chương hai, sinh hoạt văn học

dân gian trong phạm vi gia đình thể hiện dưới hai hình thức: Hát ru và kể chuyện.

- Hát ru:

Mặc dù mức độ sử dụng có khác nhau nhưng cả ba nhóm cư dân đều có sử

dụng hát ru. Hình thức này được thể hiện bằng lời hát hoặc bằng lời ru có kết hợp

âm điệu. Và những lời ru này khi sử dụng người ta dùng ca dao làm phần lời cho bài

hát. Bài hát ru cất lên không chỉ nhằm mục đích ru con, ru cháu nhanh chìm vào

giấc ngủ mà thông qua nó người ta có thể gởi gấm tâm trạng, nỗi niềm. Chính vì

vậy, nội dung của những câu ca dao dùng làm lời hát ru thường hàm chứa nhiều nỗi

nhớ, niềm thương dào dạt, trong đó chắc hẳn có cả nỗi nhớ về quê hương, xứ sở…

Do đó, những bài ca dao có công thức mở đầu”chiều chiều”,”gió đưa”rất hay sử

dụng. Chẳng hạn như:

“Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”.

Hay là:

“Gió đưa cây cải về trời

Rau răm ở lại chịu đời đắng cay”

Có khi đó là nỗi lòng của những người vợ, người mẹ chứa đầy hoàn cảnh :

“Gió đưa bụi chuối sau hè

Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ

Con thơ tay ẵm tay bồng

Tay bưng, tay bợ,tay cà muối tiêu”,…

55

Kết quả khảo sát cho thấy, người sử dụng hát ru ở cả nhóm cư dân đều sử dụng

rất phong phú các bài ca dao – dân ca, trong đó có một bộ phận không nhỏ là ca dao

– dân ca miền Nam như đã dẫn ở chương hai.

- Kể chuyện:

Cũng như với hát ru, mặc dù mức độ sử dụng không giống nhau nhưng cả ba

nhóm cư dân đều có sinh hoạt kể chuyện. Đây là hình thức sinh hoạt bằng cách kể

do một người kể cho một hoặc một số người nghe. Việc sử dụng hình thức kể là chủ

yếu làm cho loại hình tự sự dân gian đều được cả ba nhóm cư dân lựa chọn. Hình

thức sinh hoạt này không chỉ nhằm mục đích giải trí mà nó còn có chức năng giáo

dục rất cao của ông, bà, cha ,mẹ đối với con cháu mình. Điều này quy định nội dung

của truyện kể. Chính vì vậy, chúng tôi ghi nhận những thể loại tự sự dân gian được

cả ba nhóm cư dân sử dụng phổ biến như:

Truyền thuyết (Truyện kể về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng; Truyền thuyết về

Thánh Gióng ; truyền thuyết về Đức Thánh Trần và cuộc chiến chống quân Nguyên

Mông ở thế kỷ mười ba;…); Truyện cổ tích (Truyện”Tấm Cám”;”Cây Khế”;”Thạch

Sanh”;…) cùng một số mẫu truyện cười ngắn, truyện Trạng (Những mẫu kết chuỗi

của truyện Trạng Quỳnh; truyện Ba Phi,…).

Nhìn chung, cả ba nhóm cư dân đều có những cách thức sinh hoạt như đã nêu.

Tuy nhiên, từng cách thức ở từng nhóm lại có những nét riên biệt nhất định.

3.1.3. Cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian riêng của từng

nhóm cư dân

Những cách thức vả nội dung sinh hoạt văn học dân gian phổ biến chung cho

cả ba nhóm cư dân, chúng tôi đã trình bày ở trên. Ở đây, chúng tôi đi vào cụ thể để

tìm những nét khác biệt trong sinh hoạt văn học dân gian của từng nhóm cư dân dựa

vào kết quả khảo sát ở chương hai.

Nhóm cư dân thứ nhất:

Kết quả khảo sát cho thấy, trong tất cả các sinh hoạt văn học dân gian từ phạm

vi làng xã đến phạm vi gia đình, nhóm cư dân thứ nhất đều nổi trội về tỷ lệ sử dụng.

Tuy nhiên, xét về phương diện nội dung sinh hoạt, kết quả cho thấy, những cư dân ở

56

nhóm thứ nhất bảo tồn nguyên mẫu những tác phẩm văn học dân gian của miền Bắc

hơn hai nhóm còn lại. như đã trình bày ở chương một, phần lớn những cư dân thuộc

nhóm này di cư từ năm 1941, chủ yếu ở hai tỉnh Nam Định và Thái Bình. Đây là

cái nôi của vùng văn hóa Đồng bằng Bắc Bộ, trung tâm của những vùng truyền

thuyết, hát chèo nên hai thể loại này được nhóm cư dân thứ nhất bảo tồn đậm đặc

hơn, chiếm tỷ lệ sử dụng nhiều hơn. Đồng bằng Bắc Bộ cũng là nơi sản sinh thể loại

phong phú nhất, do đó ở thể loại này, nhóm cư dân này cũng phát huy rất tích cực

trong sinh hoạt văn học dân gian. Đặc biệt, với hình thức hát ru, nhóm này chiếm số

lượng 70% tỷ lệ sử dụng. Tuy nhiên, do đặc điểm nghề nghiệp phần lớn là nghề

nông nên những tác phẩm ca dao sử dụng trong văn học dân gian của nhóm cư dân

này bình dân hơn, đơn giản hơn, thường gắn liền với nghề nghiệp. Chẳng hạn như:

“Tháng giêng gà gáy cơm đèn

Chị em sắm sửa đồng tiền rong chơi

Tháng hai về đồng Yên Hòa

Tháng ba kiếm củi gánh ra chợ Dần

Tháng tư cắt lúa Tám Xuân

Tháng năm cắt rạ ngày ăn quan tiền

Tháng sáu lúa rãi thấp tho

Kiếm dăm ba thúng ăn cho nở nồi

Tháng bảy xối lúa rong chơi

Tháng tám cắt lúa bán nơi chợ Già

Tháng chín Phủ Khoái, Thanh Hà

Nghe đồn có lúa em ra kiếm tiền

Từ rày đã sang tháng mười

Đi đập lang sớm trông chơi vài sào

Tháng mười một mạ đã xanh sao

Trong bụng néo níu trở vào cấy chiêm,…”

Một điểm khác biệt nữa là nhóm cư dân này có sinh họat văn học dân gian

thông qua hình thức lễ hội. Như đã trình bày ở chương hai, ở trong lễ hội đền thờ

57

Đức Thánh Trần, truyền thuyết về cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông với

những nhân vật lịch sử được tái hiện thông qua những hoạt cảnh. Tuy mỗi năm chỉ

diễn ra một lần nhưng nó lại thể hiện tâm thức văn hóa rất mạnh của nhóm cư dân

này.

Nhóm cư dân thứ hai:

Trong cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân thứ

hai ngoài những điểm chung phổ biến, những cư dân này cũng có nhiều điểm tương

đồng với nhóm cư dân thứ nhất. Đó là sự tương đồng về thể loại sử dụng và chỉ kém

nhóm cư dân thứ nhất một chút về mức độ sử dụng. Tuy nhiên nhóm này vẫn có

những nét riêng nhất định.

Trước hết, với hình thức hát ru, nhóm cư dân này có sử dụng những bài ca dao

– dân ca trau chuốt hơn, có tính nghệ thuật hơn. Chẳng hạn như bài ca dao sau:

“Làng ta phong cảnh hữu tình

Dân cư giang khúc như hình con long.

Nhờ trời hạ kế sang đông

Làm nghề cày cấy vun trồng tốt tươi.

Vụ năm cho đến vụ mười

Trong làng kẻ gái người trai đua nghề.

Trời ra: gắng; trời lặng: về,

Ngày ngày, tháng tháng nghiệp nghề chuân chuyên”.

Hay là:

“Lửng lơ vầng quế soi thầm

Hương đưa bát ngát càng thêm bận lòng.

Dao vàng bỏ đẩy kim nhung

Biết rằng quân tử có dùng ta chăng?

Đèn tà thấp thoáng bóng trăng

Ai đem người ngọc thung thăng chốn này?”,…

Điểm khác biệt nữa trong sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân thứ hai

là trong các truyền thuyết được sử dụng thì những truyền thuyết có liên quan đến

58

phật giáo như những truyền thuyết về các vua Trần ít được lưu hành. Có thể giải

thích hiện tượng này do phần đông nhóm cư dân này theo đạo thiên chúa nên những

sinh hoạt tinh thần của họ không xen lẫn với các tôn giáo khác. Tuy nhiên,trong đức

tin của nhóm cư dân này ngoài tôn giáo mà họ tôn thờ, những cư dân này vẫn canh

cánh nỗi niềm hướng về quê cha đất tổ. Và lễ hội đền Hùng được tổ chúc hàng năm

là một minh chứng cho điều này. Ngoài những hoạt cảnh được sử dụng trong lễ hội,

chuỗi truyền thuyết về các vua Hùng được lư hành rộng rãi và đi vào đời sống sinh

hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân này như một lẽ tất yếu.

Nhóm cư dân thứ ba:

Có thể nói, trong ba nhóm cư dân mà chúng tôi khảo sát, đây là nhóm cư dân

có nhiều điểm khác biệt nhất. Sự khác biệt này chủ yếu là ở phần nội dung sinh

hoạt. Như đã trình bày ở phần nhận xét tư liệu của chương hai, nhóm cư dân này có

tỷ lệ sử dụng văn học dân gian trong sinh hoạt ít hơn nhiều so với các nhóm khác.

Không chỉ có vậy, trong sinh hoạt văn học dân gian của nhóm cư dân này lại có sự

đan xen rất nhiều với văn học dân gian địa phương. Điều này thể hiện cả từ những

sinh hoạt văn học dân gian thuộc phạm vi làng xã đến những sinh hoạt dân gian

thuộc phạm vi gia đình. Như đã dẫn ở chương hai, những bài ca dao – dân ca của

Kiên Giang và Nam Bộ được đồng hành cùng với những bài ca dao Bắc Bộ trong

sinh hoạt văn học dân gian. Ở hình thức hát ru, nhóm cư dân này chiếm tỷ lệ rất thấp

nhưng nội dung thể hiện rất phong phú, có sự đan xen với ca dao – dân ca Nam Bộ,

thậm chí có hiện tượng những bài ca dao Bắc Bộ có sự đan xen phương ngữ Nam

Bộ, đôi khi xuất hiện co giản trong các dòng ca dao. Sự co giản này vốn là điểm nổi

bật về hình thức của ca dao lục bát Nam Bộ. Chính vì vậy”Ca dao Nam Bộ sáng tác

thuần thể lục bát ít hơn ca dao nói chung, tỷ lệ lục bát chiếm 79,1%, thấp hơn ca

dao Bắc Bộ” [16; tr.66]. Chẳng hạn, những câu ca dao sau có ảnh hưởng cách giản

dòng linh hoạt của ca dao Nam Bộ:

“Điếu này em mua ở tận tỉnh Đông

Em nay là con gái má hồng tỉnh Nam”.

59

Cũng có hiện tượng tương tự như ở hình thức hát ru, ở hình thức kể chuyện và

các hình thức khác, ngoài những tác phẩm văn học dân gian thuộc thể loại truyền

thuyết, truyện cổ tích, truyện cười của miền Bắc, chúng tôi còn ghi nhận những

truyền thuyết của Nam Bộ được dùng đan xen như: Chuỗi truyền thuyết về Nguyễn

Trung Trực; truyền thuyết về Thoại Ngọc Hầu; Truyền thuyết về Bà Chúa Xứ núi

Sam,… Ngoài ra, ở nhóm cư dân này, họ còn đưa ra những truyện kể Ba Phi vào đời

sống sinh hoạt văn học dân gian của mình.

Nhìn chung, sinh hoạt văn học dân gian của nhóm thứ nhất và thứ nhất và thứ

hai ổn định hơn nhóm thứ ba trong cách thức và nội dung thể hiện. Tuy nhiên, qua

khảo sát, chúng tôi thấy rằng ở nhóm thứ ba có sự vận động trong sinh hoạt văn học

dân gian nhiều hơn, góp phần tạo nên những đặc thù trong sinh hoạt văn học dân

gian của cư dân phía Bắc trên địa bàn Kiên Giang nói riêng và phía Nam nói chung.

3.2. Những nét đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc

trên địa bàn tỉnh Kiên Giang

3.2.1. Tâm thức trong sinh hoạt văn học dân gian

Nam Bộ nói chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng là vùng đất mới được hình

thành trong đời sống cộng cư giữa người kinh ở miền Nam, người Hoa, người

Khơme bản địa và một bộ phận người Bắc di cư. Những người từ miền Bắc di cư

vào đây dù xuất thân từ tầng lớp nào đi nữa thì khi đến vùng đất mới họ vẫn mang

theo những hành trang quý giá nhất về văn hóa tín ngưỡng vốn được hình thành từ

bao đời cuả cha ông mình. Trong những thứ hành trang đó, sinh hoạt văn học dân

gian luôn thường trực trong tâm trí họ. Chính vì vậy, nó như là một biểu hiện của

tâm thức những người ly hương xa xứ. Từ kết quả khảo sát tư liệu, chúng tôi có thể

hệ thống lại và rút ra một số vấn đề được xem là tâm thức văn học dân gian trong

sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Trước hết, chúng tôi ghi nhận hiện tượng được xem là tâm thức trong sinh hoạt

văn học dân gian là việc các nhóm cư dân này đã đưa các thể loại văn học dân gian

trong đó nổi bật là ca dao. Như đã khảo sát ở trên, sự bảo tồn nguyên bản các tác

phẩm thuộc thể loại ca dao của nhóm cư dân thứ nhất là thứ hai chính là một biểu

60

hiện. nếu nhóm thứ nhất sinh hoạt ca dao với những bài ca dao mang tính đơn giản,

phổ biến thì nhóm thứ hai lại dùng những bài ca dao mang tính bác học hơn. Nếu

nhóm thứ nhất dùng nhiều bài ca dao thể hiện những địa danh nhắc đến làng nghề,

các chợ,… của vùng đất cố cựu thì nhóm quê hương đất nước với vẻ đẹp mượt mà

thơ mộng. Và tất cả những điều đó được thể hiện qua những bài ca dao nhuần

nhuyễn, trau chuốt trong thể lục bát truyền thống. Khi đọc, khi ngâm những bài này,

chăác hẳn người sử dụng và cả người nghe đều cảm nhận được sự thiêng liêng, trân

trọng. Điều đó lý giải vì sau đã xa quê hơn nửa thế kỷ ,trong số đó có những người

chỉ biết đến quê mình qua những kí ức của người thân nhưng họ vẫn cảm thấy tự

hào và thuộc lào lào những bài ca dao ấy.

Cùng với ca dao, tục ngữ thành ngữ cũng được dùng rất nhiều trong sinh hoạt

hàng ngày. Có thể xem đây là phương thức sinh hoạt đặc biệt, bởi lẽ nó đã thấm sâu

vào trong từng người, biến thành thói quen sử dụng không dự tính trước. Qua kết

quả khảo sát, tỷ lệ sử dụng dạng này trong sinh hoạt văn học dân gian đều khá cao ở

cả ba nhóm cư dân. Do vậy, việc sử dụng tục ngữ thành ngữ trong sinh hoạt văn học

dân gian có thể xem là một biểu hiện của tâm thức sinh hoạt văn học dân gian của

cư dân phía Bắc trên vùng đất mới.

Cùng với ca dao và tục ngữ - thành ngữ, truyền thuyết cũng là thể loại cũng có

những biểu hiện tâm thức văn học dân gian rất nhiều. Những cư dân xuất thân từ

những vùng truyền thuyết của Đồng bằng Bắc Bộ đã mang vào và truyền lại cho các

thế hệ con cháu những truyền thuyết của vùng đất cố cựu như những truyền thuyết

về các vua Hùng, những truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng; những

truyền thuyết về Đức Thánh Trần;… và biểu hiện rõ rệt nhất là thông qua các lễ

hội.”Thiên nhiên Bắc Bộ dù có sự chuyển đổi bốn mùa khắc nghiệt nhưng cuộc sống

lao động và văn hóa tinh thần của con người vẫn được đảm bảo. Những lễ hội mùa

xuân tưng bừng cùng những hội chùa, hội làng,… kéo dài từ tháng giêng sang hết

tháng hai. Ở đâu cũng có lễ hội,dường như điều đó đã giải tỏa tâm linh và những

thắc mắc tình cảm…”[16; Tr 65].

61

Như vậy, việc gắn chặt truyền thuyết với lễ hội, chúng ta sẽ hình thành nên một

hợp thể hết sức độc đáo bao gồm các truyền thuyết và các hình thức văn hóa tín

ngưỡng dân gian. Trong đó, truyền thuyết đóng vai trò làm người minh giải cho

hình thức sinh hoạt văn hóa và ngược lại những lễ hội ấy lại chính là minh chứng

cho truyền thuyết. Có như vậy những điều thuộc về quá khứ trong truyền thuyết

dường như sống trong đời sống thực tại của con người. Do đó, những lễ hội và

những truyền thuyết về các vua Hùng và những truyền thuyết về Đức Thánh Trần

được thể hiện trong các lễ hội cũng được xem như một biểu hiện của tâm thức sinh

hoạt văn học dân gian.

Một biểu hiện nữa cũng với thể loại truyền thuyết là hiện tượng thờ”mẫu”của

cư dân miền Bắc. Xem xét kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy hiện tượng này

không những không mất đi mà còn được tiếp tục phát huy. Có thể nói, họ rời quê

không những không quên đi nguồn gốc cũng được sinh ra từ bọc trứng của”Mẫu”Âu

Cơ, không quên những truyền thuyết về ba lần giáng thế cứu dân cùng những nghi

thức tín ngưỡng lễ hội trong cá đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở quê mình. Niềm tin

ấy càng mãnh liệt hơn, trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc giúp họ có thêm nghị

lực vượt qua khó khăn trong bước đường Nam Tiến. Vì vậy, những truyền thuyết

liên quan đến hiện tượng thờ”Mẫu”ở Nam Bộ được các nhóm cư dân thể hiện trong

sinh hoạt văn học dân gian như: Truyền thuyết về “Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam”(An

Giang); truyền thuyết về”Núi Bà Đen”(Bà Linh Sơn Thánh Mẫu ở Tây Ninh) và

truyền thuyết về Dinh Cô (Bà Rịa – Vũng Tàu),… cũng được xem như một sự thể

hiện tâm thức của mình trong sinh hoạt văn học dân gian. Vì rằng, những biểu hiện

của tâm thức trong sinh hoạt văn học dân gian theo hướng này cũng gần nghĩa với

sự kế thừa tín ngưỡng văn hóa. Ở đây, tín ngưỡng văn hóa và văn học dân gian điển

hình là thể loại truyền thuyết cùng song song tồn tại và phát triển.. Trong khi đó, kế

thùa lại là quy luật vận động của văn hóa, sự hiện diện của những truyền thuyết này

trong sinh hoạt văn học dân gian của các nhóm cư dân phía Bắc ở đây chính là kết

quả của quy luật vận động ấy.

62

Có thể thấy rằng, trong sinh hoạt văn học dân gian, những cư dân gốc Bắc này

sử dụng thể loại truyền thuyết theo cảm tính, do được truyền lại từ những người thân

trong gia đình. Chính vì vậy, họ sử dụng rất thoải mái mà không cần lưu ý đến

những thần tích còn lưu giữ ở vùng đất cố cựu. tâm thức văn học dân gian biểu hiện

ở tình cảm của những con người này đối với thể loại văn học dân gian của quê

hương mình. Với sự góp mặt của hai lễ hội gắn với truyền thuyết gốc Bắc, mặc dù

rất hạn chế, song, nó cũng góp phần làm sống lại kí ức của miền quê đất Bắc xưa

kia.

Qua kết quả khảo sát, chúng tôi thấy rằng, tâm thức sinh hoạt văn học dân gian

của các nhóm cư dân này không chỉ biểu hiện về phương diện thể loại mà còn biểu

hiện ở cách thức và nội dung thể hiện. Ở miền Bắc, sinh hoạt văn học dân gian

thường diễn ra ở các lễ hội, sân đình trong làng. Khi vào định cư ở vùng đất mới,

không có điều kiện để sinh hoạt không gian văn hóa thơ mộng như ở cố hương. Vì

vậy, những cách sinh hoạt lồng ghép trong các câu lạc bộ, các hội và cả hình thức

sinh hoạt hát ru, kể chuyện cùng với những khó khăn văn hóa nhất định trong các

hình thức sinh hoạt này cũng là những biểu hiện của tâm thức. Bởi lẽ, cái khó khăn

mới là cái đáng quý, đáng trân trọng.

Nhìn chung, tâm thức sinh hoạt văn học dân gian của các nhóm cư dân gốc Bắc

trên địa bàn tỉnh Kiên Giang rất đa dạng, phong phú, được biểu hiện không chỉ ở cơ

cấu thể loại mà còn biểu hiện ở cách thức, nội dung sinh hoạt. Chính vì vậy, có thể

xem những biểu hiện của tâm thức trong sinh hoạt văn học dân gian đã trình bày ở

trên là một nét đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của các nhóm cư dân mà

chúng tôi khảo sát.

3.2.2. Sự giao thoa, ảnh hưởng trong sinh hoạt văn học dân gian của cư

dân phía Bắc với cư dân bản địa

Như đã giới thiệu ở chương một, cư dân bản địa mà chúng tôi đề cập ở đây

chính là người kinh bản địa, người Khơme và người Hoa cùng sống trên địa bàn tỉnh

Kiên Giang và các địa bàn lân cận. Cũng như những cư dân miền Bắc di cư vào định

cư ở đây, những cư dân bản địa cũng có một đời sống sinh hoạt văn học dân gian rất

63

phong phú, là một biểu hiện rất độc đáo trong sinh hoạt văn học dân gian của Nam

Bộ. Qua khảo sát tư liệu, chúng tôi thấy rằng có sự ảnh hưởng, giao thao rất lớn giữa

sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc di cư vào đây với sinh hoạt văn học

dân gian rất nhiều. Điều này được thể hiện qua các phuông diện: Thể loại, cách thức

và nội dung sinh hoạt văn học dân gian.

Trước hết, xét về cơ cấu thể loại, chúng tôi thấy rằng trong sinh hoạt văn học

dân gian của ba nhóm cư dân khảo sát, nhất là nhóm thứ ba có sự ảnh hưởng giao

thoa rất lớn đối với cư dân bản địa. Trước hết, phương diện này được thể hiện trong

thể loại ca dao. Với thể loại này,”do yêu cầu phản ánh, thể hiện tình cảm cần lời ít

mà ý sâu, càng ngắn gọn càng dễ nhớ, dễ lưu truyền, phổ biến nên tính kiệm lời, cô

đọng, ngắn gọn là đặc điểm nôi bật trong nghệ thuật biểu hiện của ca dao”

[16; tr. 63]. Chính vì vậy, ca dao rất hay được thể hiện bă bằng thể thơ lục bát. theo

tác giả Trần Kim Liên thống kê trong”Kho tàng ca dao người Việt”, tỷ lệ thể thơ

lục bát trong ca dao là 87%. Như thế thì chắc chắn rằng con số này còn cao hơn với

ca dao Đồng bằng Bắc Bộ. Thế nhưng, xem xét tư liệu, chúng tôi nhận thấy ngoài

những bài dùng thể thơ lục bát rất chuẩn về thanh điệu, ngắt nhịp lại có một bộ phận

ca dao lục bát có kiểu ngắt nhịp khá táo bạo, tự do, phá vỡ sự nhàm chán bằng nhau

tuyệt đối. Sự phá cách này còn được thể hiện qua việc co hoặc giản tiếng trong hai

dòng lục và bát. Chẳng hạn như:

“Tôi than với mình hủy hủy hoài hoài

Biểu em đừng gá nghĩa với ai, để anh gá nghĩa lâu dài với anh”.

(Ca dao Nam Bộ)

Với thể loại truyền thuyết, sự giao thoa văn hóa này càng đậm nét hơn. Chẳng

hạn, chúng tôi có đề cập đến hiện tượng tâm thức thờ”Mẫu”thông qua việc sử dụng

các truyền thuyết như”Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam”;”Truyền thuyết về Linh Sơn

Thánh Mẫu”;”Truyền thuyết Dinh Cô”,… Đây cũng là một hiện tượng đồng thời

thể hiện sự giao thoa ảnh hưởng với cư dân bản địa. Khi đi vào khảo sát các truyền

thuyết kể trên, chúng tôi nhận thấy một mặt nó mang nét văn hóa tín ngưỡng người

Việt miền Bắc, văn hóa tâm linh của người Chăm ở miền Trung nhưng đồng thời lại

64

mang cả đặc trưng văn hóa tín ngưỡng của người Hoa di cư kết hợp với văn hóa

người Khơ me bản địa, chính điều kiện sống của các cư dân trong khối cộng cư đã

tạo nên những biến thể trong truyền thuyết cũng như trong văn hóa tín ngưỡng. Sự

hỗn dung văn hóa này biểu hiện rất rõ khi xem xét các truyền thuyết loại này.

Chẳng hạn, ở truyền thuyết”Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam”, qua khảo sát một số tư liệu

và thực tế chúng tôi nhận thấy có một số điểm cần lưu ý về nguồn gốc của tượng Bà

mà nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập. Có nhà nghiên cứu cho rằng tượng”Bà”xuất

phát từ văn hóa Óc Eo, chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Theo Sơn Nam”Tượng

của Bà là pho tượng phật đàn ông của người Khơme bị bỏ quên trên đỉnh núi Sam.

Người Việt đưa tượng vào miễu, điểm tô lại với nước sơn, trở thành đàn bà mặc áo

lụa, đeo dây chuyền. Và từ đó,”Bà chúa Xứ”là vị thần có quyền thế lớn nhất ở khu

vực ấy”.[18; tr. 149,150]. Tất nhiên việc tìm hiểu nguồn gốc của nó là công việc của

các nhà khảo cổ, chúng tôi chỉ dẫn ra đây xem như một tiền đề của sự pha trộn văn

hóa thông qua truyền thuyết. Trở lại ý kiến của Sơn Nam, chúng tôi chợt nghĩ đến

một vấn đề: nếu biểu tượng có hình dáng đàn ông mà họ xem là”Bà”thì phải chăng

tâm thức thờ mẫu mà chúng tôi đề cập càng được khẳng định hơn nữa?...

Một ảnh hưởng văn hóa nữa mà chúng tôi muốn nói đến ở đây là hiện tượng

những cư dân gốc Bắc đã đưa truyện kể Ba Phi vào trong sinh hoạt văn học dân gian

của mình. Loại này được xem là đặc sản tinh thần của người dân Đồng bằng Sông

Cửu Long, thế nhưng khi đưa vào sinh hoạt văn học dân gian của người gốc Bắc, nó

lại có diện mạo mới rất độc đáo. Truyện Ba Phi được kể bằng giọng địch ấm áp của

người gốc Bắc thì còn gì thú vị bằng.

Xét về phương diện cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian thì

chúng tôi cũng ghi nhận sự ảnh hưởng khá rõ. như đã nêu ở phần trước, người miền

Bắc thường sinh hoạt văn học dân gian trong không gian văn hóa làng như sân Đình

và họ rất chú trọng không gian này. Trong khi đó, những cư dân bản địa lại không

câu nệ không gian sinh hoạt, miễn là có tập thể người là có sinh hoạt. Như vậy, rõ

ràng những hình thức sinh hoạt như đã nêu của cả ba nhóm cư dân ở đây có ảnh

hưởng rất nhiều của cư dân bản địa.

65

Xem xét những bài hát ru mà các nhóm cư dân thể hiện trong sinh hoạt văn

học dân gian, đặc biệt là nhóm thứ ba thì rõ ràng có không ít bộ phận người sử dụng

mở đầu bằng công thức”ầu ơ dí dầu”quen thuộc của người bản địa. Hơn nữa, trong

số những tác phẩm ca dao – dân ca miền Bắc được sử dụng lại có không ít những

bài ca dao – dân ca của địa phương như:

“Chị Kèo bới tóc đuôi gà

Nắm tay chị lại hỏi nhà chị đâu

Nhà chị ở dưới đám dâu

Bước qua đám đậu, đầu cầu ngó qua

Ở dưới đám bắp trỗ cờ

Đám dưa trỗ nụ, đám cà trỗ bông”

Hay là:

“Má ơi đừng gã con xa

Để con bắt ốc hái rau má nhờ

Má ơi đừng đánh con hoài

Để con câu cá bằm xoài má ăn”…

Cũng có khi đó là những câu ca dao thể hiện mối quan hệ với người Khơ me,

người Hoa bản địa như:

“Rủ em xem hát dù kê

Em không ưng bụng anh về ngó lung”.

Hoặc :

“Sáng nay em đi chợ xã trong

Gặp ngay chú chệt hỏi đường về quê

Quê còn xa cách đường về

Ở lại đây cùng em đặng sớm tối về có nhau”.

Với những tác phẩm thuộc loại hình tự sự dân gian như truyện cổ tích, những

cư dân này có một sự giao thoa văn hóa khi đưa vào sinh hoạt văn học dân gian của

mình những câu chuyện kể kiểu như truyện”Thạch Sanh”. Hoặc cũng có khi họ

dùng những tác phẩm kiểu như”Dạ xoa Vương”thì người Khơ me bản địa nghĩ ngay

66

đến truyện kể”Riêm Kê”của mình với sự tương đồng trong cốt truyện. Trong sinh

hoạt văn học dân gian của mình, những cư dân gốc Bắc này đã không ngần ngại khi

đưa vào hàng loạt những truyện kể Bác Ba Phi hòa vàoq hệ thống những truyện

trạng của miền Bắc như: Trạng Quỳnh, Trạng Lợn,… để tạo nên một nét sinh hoạt

độc đáo trong sinh hoạt văn học dân gian nơi đây. Chính nét độc đáo này góp phần

tạo nên nét đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc trên địa

bàn tỉnh Kiên Giang trong sự gắn kết hai vùng văn hóa lớn: Vùng văn hóa Bắc Bộ

và vùng văn hóa Nam Bộ.

Tóm lại, từ những vấn đề đã trình bày có thể thấy rằng tâm thức trong sinh

hoạt văn học dân gian và sự ảnh hưởng giao thoa văn hóa mới cư dân bản địa là hai

nét đặc thù độc đáo trong sinh hoạt văn học dân gian của một số nhóm cư dân phía

Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Xem xét ở từng kết quả khảo sát, nét đặc thù này

còn được thể hiện ở những phương diện khác như: độ tuổi càng cao thì tâm thức

sinh hoạt văn học dân gian càng mạnh, hoặc là những người di cư trước sẽ bảo tồn

nguyên bản văn học dân gian hơn những người di cư sau,… Những vấn đề này,

chúng tôi sẽ làm rõ khi rút ra quy luật vận động trong sinh hoạt văn học dân gian

của các nhóm cư dân này.

3.3. Quy luật vận động trong sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phìa Bắc

trên địa bàn tỉnh Kiên Giang

Từ việc làm rõ những cách thức và nội dung cũng như việc phân tích những

đặc thù độc đáo trong sinh hoạt văn học dân gian của một số nhóm cư dân phía Bắc

trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, chúng tôi tiến hành rút ra những quy luật vận động của

nó. Thiết nghĩ, đây là việc làm cần thiết, vì rằng bấtb kì khảo sát vấn đề gì liên quan

đến đờiq sống thực tiễn của văn hóa, văn học đều có những quy luật vận động riêng

vốn có của nó. Chính những quy luật vận động này quy định khả năng sinh tồn và

phát triển trong sinh hoạt văn học dân gian của cộng đồng cư dân này trên vùng đất

định cư.

67

3.3.1. Quy luật vận động: Vùng ngoại biên bảo lưu văn hóa tốt hơn vùng

trung tâm

Có thể thấy cụ thể hơn quy luật vận động này khi xem xét về tâm thức trong

sinh hoạt văn học dân gian ở trên. Điều này cũng bởi tâm lý những người xa xứ, họ

luôn sống với những kí ức đẹp. Có như vậy, những điều thuộc về quá khứ trong

các tác phẩm văn học dân gian dường như sống lại trong đời sống thực tại của họ

thông qua sinh hoạt văn học dân gian. Nhiều khi, tâm thức trong sinh hoạt văn học

dân gian của những người di cư này còn mãnh kiệt hơn cả miền ngoài – vùng trung

tâm của các thể loại văn học dân gian như: ca dao, dân ca,truyền thuyết, chèo,… có

bao nỗi nhớ trong một đời người? Không ai có thể thống kê được nhưng có giàu tình

cảm, có xa cách thì mới nhớ lắm thương nhiều. Tuy họ xa quê đã lâu nhưng những

câu ca dao về quê hương đất nước luôn thường trực trong âtm trí họ, nhất là những

người có tuổi. Họ sử dụng và sử dụng nguyên mẫu những bài ca dao – dân ca và

xem như tài sản tinh thần của cộng đồng mình nơi xứ người. Thông qua những bài

ca dao như đã dẫn ở những phần trước, có thể thấy hình ảnh làng quê hiện lên thấp

thoáng, hữu tình, dân dã, mộc mạc đáng yêu. Ở vùng đất mới không có sân đình,

cây đa, giếng nước,… cũng không có một không gian sinh hoạt thơ mộng như ở

vùng đất cố cựu mà chỉ có một không gain sinh hoạt văn học dân gian theo kiểu

chấp vá với nhiều hình thức, hoạt động khác. Thế nhưng, trong điều kiện khó khăn

đó lại chính là động lực giúp những người di cư này bảo tồn vốn tài sản quý giá này.

Cho đến ngày nay, trên vùng đất này,những bài ca dao như”Tát nước đầu đình”vẫn

được những cư dân gốc Bắc sử dụng yêu thích. Đây là bài ca tỏ tình, là tiếng hát

giao duyên của anh trai cày sau lũy tre xanh thuở nào. Kí ức về làng quê xưa hiện về

thông qua bài ca, tri gái đã tình tự, đã giao duyên, đã hát ghẹo nhau nơi sân đình, nơi

giếng nước, nơi gốc đa, để rồi”Chín nhớ mười thương”, để rồi”Yêu nhau cởi áo cho

nhau – về nhà dối mẹ qua cầu gió bay”…

Bên cạnh đó, trong sinh hoạt văn học dân gian trên vùng đất mới, những cư

dân gốc Bắc vẫn còn bảo lưu rất tốt truyền thống sử dụng ca dao lục bát theo nhịp

chẵn, tru chuốt, nhuần nhuyễn,ít biến thể như:

68

“Mình về đường ấy bao xa

Hãy về Vân Cước với ta hỡi mình

Vân Cước có cầu đá xanh

Có sông tắm mát, có đình nghỉ ngơi

Tháng tư thì đi xem bơi

Tháng bảy xem rước mấy nơi vui bằng”

(Ca dao Thái Bình)

Hay là

“Em là con gái Phù Long

Quê em Cồn Vịt, lấy chồng vườn dâu

Dù đi buôn đâu bán đâu

Cũng về giữ đất trồng dâu nuôi tằm”

(Ca dao Nam Định)

Với các thể loại thuộc loại hình tự sự dân gian dù có ảnh hưởng văn hóa vùng

đất mới đến đâu thì những tác phẩm này vẫn giữ nguyên mẫu vốn có của nó. Vẫn

còn đó những truyền thuyết gắn với những nhân vật, sự kiện lịch sử mới nguyên như

trên vùng đất cố cựu của mấy mươi năm trước. Ngoài ra, có những dạng bảo lưu

văn hóa theo kiểu tâm thức như hiện tượng thờ”Mẫu”thông qua các truyền thuyết

Nam Bộ. Khi xem xét các truyền thuyết này, chúng tôi nhận thấy có sự hóa thân tâm

thức thờ”Mẫu”của người Việt ở miền Bắc vào truyền thống tín ngưỡng, lễ hội. Thế

nhưng, điều kiện sinh sống nơi đây không cho phép họ có nhiều lễ hội như ở miền

Bắc nên việc lưu hành nhóm truyền thuyết thờ”Mẫu”của Nam Bộ cũng xem như

một biểu hiện của việc bảo tồn văn hóa của những cư dân vùng ngoại biên này.

3.3.2. Quy luật vận động: Thích nghi môi trường trong sinh hoạt văn học

dân gian

Đây là quy luật vận động chủ yếu, thể hiện sự vận động, phát triển trong sinh

hoạt văn học dân gian của các nhóm cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Như đã trình bày ở mục trước về nét đặc thù về sự ảnh hưởng, giao thoa văn hóa

trong khối cộng cư, quy luật vận động thích nghi môi trường còn bao hàm cả việc

69

thích nghi trong sinh hoạt những tác phẩm văn học dân gian có nguồn gốc từ miền

Bắc trên địa bàn này. Kết quả khảo sát tư liệu cho thấy những tác phẩm mà các

nhóm cư dân sử dụng trong sinh hoạt văn học dân gian thuộc những thể loại nổi trội

của văn học dân gian miền Bắc Như: ca dao, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện

cười và đặc biệt là chèo. Ghi nhận trong cách thức và nội dung sinh hoạt văn học

dân gian của nhóm thứ nhất và thứ hai, chúng tôi thấy rằng dù vẫn bảo tồn nguyên

mẫu tác phẩm nhưng họ chuyển từ cách thức sinh hoạt thông qua không gian văn

hóa cây đa, giếng nướ, sân đình,…thành những cách thức sinh hoạt đan xen, chấp vá

thì cũng chứng tỏ sự vận động này nằm trong luật thích nghi môi trường.

Bên cạnh đó, quy luật thích nghi môi trường còn được thể hiện trong sự giao

thoa, ảnh hưởng văn hóa qua lại trong mối quan hệ với cư dân bản địa. Quy luật này

thể hiện rõ nét nhất ở nhóm cư dân thứ ba. Sự thích nghi này thể hiện ở việc sử dụng

ca dao Nam Bộ với sự táo bạo, phá cách, biến thể thơ lục bát,…; thể hiện trong việc

sử dụng những truyền thuyết của Nam Bộ có biểu hiện tính pha trộn văn hóa cao

như đã dẫn ở mục trên. Chẳng hạn, đem truyền thuyết”Miếu Bà Chúa Xứ núi

Sam”gắn với lễ hội để xem xét thì thấy rằng có rất nhiều sự pha trộn văn hóa. Ở

miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, ngoài các bàn thờ Hội Đồng, Tiền Hiền, Hậu Hiền; cạnh

tượng Bà Chúa Xứ, phía bên phải có thờ một tượng nữ thần nhỏ: bằng gỗ, gọi

là”Bàn thờ cô”; phía bên trái có một Linga bằng đá rất to, khoảng 1,2 m,gọi là”Bàn

thờ cậu”. Như vậy,ở đây có ảnh hưởng của văn hóa Chăm qua biểu tượng”Linga”và

văn hóa thờ Thủy Long Thánh Phi của người Hoa… Khi vào Nam, người miền Bắc

không có lễ hội Phủ Na, Phủ Giầy để thờ”Mẫu”Liễu Hạnh và lưu truyền những

truyền thuyết này thì họ lại càng tham gia lễ hội và lưu hành những truyền thuyết ấy

theo quy luật”nhập gia tùy tục”.

Có thể nói, chính điều kiện sống của các cư dân trong khối cộng cư đã tạo nên

những biến thể trong truyền thuyết cũng như trong tín ngưỡng. Và với việc chuỗi

những những truyện kể Ba Phi – một sản phẩm tinh thần độc đáo của cư dân bản địa

được đi vào đời sống sinh hoạt văn học dân gian của cư dân gốc Bắc cho thấy một

hiện tượng độc đáo, thể hiện rõ nét quy luật thích nghi môi trường. Đây không phải

70

là sự hỗn dung văn hóa mà ngược lại nó tạo nên một đời sống văn học dân gian

phong phú hơn.

Nếu phải lý giải cặn kẽ vì sau trong sinh hoạt văn học dân gian của các nhóm

cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang lại vận động và phát triển theo quy

luật này thì đó là một sự vận động theo phương thức tự nhiên. Cùng với quy luật vận

động vùng ngoại biên bảo lưu văn hóa tốt hơn vùng trung tâm, quy luật này trở

thành phương thức vận động chung cho sự sinh tồn và phát triển trong sinh hoạt văn

học dân gian của một số nhóm cư dân phía Bắc trên địa bàn Kiên Giang nói riêng và

khu vực Nam Bộ nói chung. Chính sự vận động theo các quy luật này trong sinh

hoạt văn học dân gian đã thể hiện sự đoàn kết, tương thân, tướng ái của con người

trên vùng đất đầy tiềm năng nhưng cũng lắm khắc nghiệt.

71

KẾT LUẬN

Trong phạm vi khảo sát một đề tài mang tính thực tiễn, chúng tôi không có

tham vọng giải quyết trọn vẹn hết mọi vấn đề một cách cặn kẽ hơn nữa mà chỉ xem

đây là bước đầu tập tễnh làm nghiên cứu khoa học. Trong quá trình thực hiện, người

viết đã rất khó khăn bởi lẽ, không có nhiều tư liệu để căn cứ vào khảo sát. Thông

qua quá trình nghiên cứu và trình bày nội dung thành những đề mục như thế, chúng

tôi xin đưa ra một số kết luận sau đây:

Thứ nhất, chúng tôi đã giới thiệu về vùng đất định cư cũng như về đặc điểm

của từng nhóm cư dân mà chúng tôi khảo sát. Bên cạnh đó, chúng tôi còn giới thiệu

sơ lược về thành phần cư dân bản địa gồm: cộng đồng người kinh ở miền Nam,

người Khơ me và người Hoa. Và để định hướng cho quá trình khảo sát, trong

chương này chúng tôi cũng đưa ra cách hiểu về”Sinh hoạt văn học dân gian”. Cách

hiểu này, chúng tôi dùng thống nhất trong luận văn.

Thứ hai, chúng tôi tiến hành khảo sát thực tế sinh hoạt văn học dân gian trong

các nhóm cư dân thuộc ba địa bàn khác nhau của tỉnh Kiên Giang. Qua khảo sát

bằng hai hình thức điều tra phỏng vấn và điều tra trắc nghiệm, chúng tôi tiến hành

thống kê các số liệu về tình hình sử dụng văn học dân gian, các thể loại sử dụng văn

học dân gian trong sinh hoạt theo ba tiêu chí : độ tuổi, giới tính và nghề nghiệp. Từ

kết quả khảo sát theo hướng trên, chúng tôi tiến hành nhận xét, đối chiếu kết quả đạt

được và nhận thấy rằng những cư dân thuộc nhóm thứ nhất và thứ hai sinh hoạt văn

học dân gian nhiều hơn nhóm thứ ba. Điều này cho chúng tôi kết luận: những nhóm

cư dân di cư lâu hơn thì sinh hoạt văn học dân gian nhiều hơn.

Thứ ba, qua kết quả khảo sát đối chiếu tư liệu, chúng tôi ghi nhận một số cách

thức sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Nhìn chung những cách sinh hoạt này còn đan xen với những sinh hoạt khác nhưng

nó cũng thể hiện tính chất phong phú trong đời sống tinh thần của những nhóm cư

72

dân này. Trong những cách thức sinh hoạt đó, đều có sự quy định về cơ cấu thể loại

và nội dung sinh hoạt. Qua khảo sát, chúng tôi ghi nhận các thể loại: ca dao; truyền

thuyết; truyện cổ tích, truyện cười, truyện trạng và chèo. Trong đó, nổi bật nhất là

hai thể loại ca dao và truyền thuyết.

Thứ tư, thông qua kết quả khảo sát tư liệu, chúng tôi đã tiến hành làm rõ về

cách thức và nội dung sinh hoạt văn học dân gian phổ biến cũng như của từng nhóm

cư dân. Ở đây, sự khác biệt trong cách sinh hoạt của cả ba nhóm cư dân không

nhiều. Tuy nhiên, xét về phương diện nội dung thì nhóm cư dân thứ ba lại có ảnh

hưởng nhiều trong sinh hoạt văn học dân gian với cư dân bản địa. Điều này cho

thấy, nếu sống trong từng địa bàn có càng nhiều người gốc Bắc thì việc bảo lưu văn

hóa càng mạnh hơn.

Thứ năm, từ những vấn đề đã khảo sát, chúng tôi tiến hành làm rõ những nét

đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian của ba nhóm cư dân phía Bắc trên địa bàn

tỉnh Kiên Giang. Đó là tâm thức văn học dân gian và sự ảnh hưởng, giao thoa văn

hóa trong sinh hoạt văn học dân gian. Thiết nghĩ, đây là hai nét đặc thù độc đáo, nó

thể hiện rõ nét từ cơ cấu thể loại đến nội dung và cách thức trong sinh hoạt văn học

dân gian của các nhóm cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Thứ sáu, từ những nét đặc thù trong sinh hoạt văn học dân gian, chúng tôi rút

ra quy luật vận động trong sinh hoạt văn học dân gian của các nhóm cư dân này. Đó

là quy luật vùng ngoại biên bảo lưu văn hóa tốt hơn vùng trung tâm và quy luật vận

động thích nghi môi trường. Chính hai quy luật vận động này đã định hướng tình

hình sinh hoạt văn học dân gian của cư dân phía Bắc trên vùng đất mới.

Ngoài những vấn đề đã nêu ở trên, thông qua đề tài này, chúng tôi có hai ý kiến

cần đề xuất:

Thứ nhất, để phát triển hơn nữa tình hình sinh hoạt văn học dân gian, cần có sự

định hướng, giúp đỡ của những nghệ nhân, những người có tuổi cho những thế hệ

sau, để họ có ý thức hơn nữa trong việc bảo tồn và gìn giữ truyền thống văn hóa quê

hương thông qua các hình thức sinh hoạt văn học dân gian.

73

Thứ hai, cần có một sự quan tâm hơn nữa trong việc đầu tư cho nghiên cứu cứu

khoa học theo hướng thực tiễn. Vì rằng, qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy

đây là một hướng nghiên cứu thú vị, thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến việc bảo tồn

nền văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay.

Do thời gian cũng như khả năng còn hạn chế nên đề tài này vẫn còn nhiều vấn

đề còn sai sót. Chúng tôi mong nhận được sự góp chân thành của quý thầy cô để

người viết có thêm nhiều kinh nghiệm cho những lần nghiên cứu sau.

74

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Chí Bền (1993), “Biến thiên một truyền thuyết”, Tạp chí “Văn hóa

nghệ thuật” số 5.

2. Nguyễn Chí Bền (2003), Văn hóa dân gian Việt Nam những phác thảo,nhà

xuất bản Văn hóa thông tin Hà Nội.

3. Nguyễn Đổng Chi (1974-1982), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập), Nhà

xuất bản Hà Nội.

4. Mai Ngọc Chừ (1989), “Vần nhịp, thanh điệu và sức mạnh biểu hiện ý nghĩa

của lục bát biến thể”, Tạp chí Văn hóa dân gian số 2.

5. Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện kể dân gian đọc bằng tupe và motif, Nhà xuất

bản Khoa học xã hội.

6. Cao Huy Đỉnh (1998), Bộ ba tác phẩm nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt một,

Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.

7. Nguyễn Xuân Đức (2003), Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, Nhà xuất

bản khoa học Hà Nội.

8. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn

học, Nhà xuất bản Giáo Dục.

9. Tạ Đức Hiền (2005), Bình luận, bình giảng tục ngữ ca dao Việt Nam, Nhà xuất

bản Hà Nội.

10. Trần Hoàng (1998), Văn học dân gian, Nhà xuất bản Giáo Dục.

11. Hồ Quốc Hùng (2003), Truyền thuyết Việt Nam và vấn đề thể loại, Nhà xuất

bản trẻ và hội nghiên cứu giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh.

12. Nguyễn Xuân Kính (1983), Ca dao Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học.

13. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (1995), Kho tàng ca dao người Việt, Nhà

xuất bản Văn hóa thông tin Hà Nội.

14. Vũ Ngọc Khánh (1998), Truyền thuyết Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

75

15. Trần Kim Liên (2003), “Tính thống nhất và sắc thái riêng của thể thơ lục bát

trong ca dao ba miền Bắc, Trung, Nam”, Tạp chí Văn hóa dân gian.

16. Trần Kim Liên (2003), “Tính thống nhất và sắc thái riêng của ca dao người

Việt dưới con mắt các nhà nghiên cứu”, Tạp chí Văn hóa dân gian.

17. Hoàng Minh (2005), Trao đổi về một bài dân ca Nam Bộ, Tạp chí Văn hóa dân

gian.

18. Sơn Nam (1985), Đồng bằng sông Cữu Long những nét sinh hoạt xưa, Nhà

xuất bản Văn Hóa.

19. Nhiều tác giả (1984), Ca dao dân ca Nam Bộ, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh.

20. Nhiều tác giả (1971), Truyền thống anh hùng dân tộc trong hai loại hình tự sự

dân gian Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học Hà Nội.

21. Nhiều tác giả-Sách bồi dưỡng thường xuyên giáo viên trung học phổ thông chu

kì 2004-2007 (2006), Sở GD và ĐT thành phố Hồ Chí Minh.

22. Nhiều tác giả-Sách bồi dưỡng thường xuyên chu kì 1997-2000 cho giáo viên

tiểu học (2000), Thi pháp văn học dân gian, Nhà xuất bản Giáo Dục.

23. Nhiều tác giả-Sách bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên chu kì 1997-2000,

Chuyên đề văn học dân gian và việc phân tích tác phẩm văn học dân gian

trong nhà trường, Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.

24. Lê Trường Phát (2000), Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học 10, Nhà xuất

bàn Giáo Dục.

25. Đỗ Lan Phương (2003), Sự vận động của hiện tượng thờ Chử Đồng Tử qua

phân tích hệ thống truyền thuyết, Tạp chí Văn hóa dân gian.

26. Vũ Quỳnh, Kiều Phú (1990), Lĩnh Nam chích quái, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.

27. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nhà

xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội.

28. Huỳnh Ngọc Trảng (1983), Truyện cổ Khơ Me Nam Bộ, Nhà xuất bản Văn hóa.

29. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân

gian, Nhà xuất bản Giáo Dục Hà Nội.

76

30. Phan Thị Yến Tuyết (2005), “Một số vấn đề về giảng dạy và nghiên cứu văn

hóa dân gian đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Văn hóa dân gian.

31. Viện văn học (1963), Ca dao Việt Nam trước cách mạng, Nhà xuất bản Văn

học, Hà Nội.

32. Lư Nhất Vũ, Nguyễn Văn Hoa, Lê Giang (1985), Dân ca Kiên Giang, Sở Văn

hóa thông tin Kiên Giang.

33. Viện ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Thống kê.

77

PHỤ LỤC

Mẫu phiếu điều tra trắc nghiệm tình hình sinh hoạt văn học dân gian các nhóm

cư dân phía Bắc trên địa bàn tỉnh Kiên Giang:

PHIẾU ĐIỀU TRA TÌNH HÌNH SINH HOẠT VĂN HỌC DÂN GIAN

1. Tên địa bàn :

2. Họ và tên:

3. Năm sinh

4. Nghề nghiệp

5. Giới tính:  Nam  Nữ

6. Tình hình sử dụng văn học dân gian:

 có sử dụng thường xuyên

 ít sử dụng

 không sử dụng

7. Loại hình (các thể loại) văn học dân gian sử dụng:

 Thơ dân gian (ca dao,vè)

 câu nói dân gian (tục ngữ, câu đố)

 Tự sự dân gian (Thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười,…)

 Sân khấu dân gian (chèo, tuồng,…)

8. Những tác phẩm văn học dân gian thường sử dụng:

(người điền phiếu ghi lại)

...............................................................................................................................

...............................................................................................................................

...............................................................................................................................

9. Ý kiến của người điền phiếu về tình hình sinh hoạt văn học dân gian ở địa

phương mình (nếu có).

......................................................................................................................

......................................................................................................................

......................................................................................................................