
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
...........................................
NGUYỄN THỊ MƠ
YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG TIỂU THUYẾT HỒ
ANH THÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Lê Quang Hƣng
Hà Nội, 12/2013

Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái
1
Nguyễn Thị Mơ – Cao học Văn K55
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong đời sống văn học nhân loại hiện nay, thể loại tiểu thuyết vẫn giữ vai
trò chủ công. Nó thường được xem là cái “máy cái”, là “cột sống của nền văn
học hiện đại”, và đặc biệt, thể loại nàycó vai trò “quyết định căn cốt của diện
mạo văn học” như một nhà nghiên cứu đã nhận xét: “Trong những khúc ngoặt
của đời sống, thường thì truyện ngắn đáp trả nhạy bén hơn trong các thể loại
văn xuôi…nhưng tạo nên những chấn động trong cao trào văn học thì phải là
tiểu thuyết” [60, tr.182]. Do đó, để xem xét, đánh giá một nền văn học hay
một giai đoạn văn học, người ta thường xem xét trước những thành tựu của
thể loại tiểu thuyết trong nền văn học, giai đoạn văn học ấy.
Sau 1975, đặc biệt là sau 1986, nền văn học Việt Nam đứng trước yêu cầu
phải đổi mới và thực sự đã có nhiều chuyển biến tích cực trong đời sống văn
học, toàn diện cả về lí luận, phê bình, sáng tác lẫn thói quen tiếp nhận. Cùng
với các thể loại văn học khác, tiểu thuyết cũng không ngừng vận động để tự
làm mới mình, đáp ứng yêu cầu mới của thời đại, của đời sống văn học và của
đông đảo độc giả đương đại. Lúc này, yếu tố kì ảo xuất hiện như một phương
tiện quan trọng giúp nhà văn thoát khỏi sự lệ thuộc vào hiện thực giản đơn,
phản ánh hiện thực đa chiều, phức tạp, bất khả giải. Yếu tố kì ảo xuất hiện
trong nhiều sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh,
Phạm Hải Vân, Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Ngô Tự Lập, Võ Thị Hảo...Điều
đó đã góp phần tạo ra xu hướng cách tân trong nền văn xuôi Việt Nam đương
đại. Các nhà văn đã mang vào văn học hơi thở của cuộc sống và con người
hiện đại. Để làm được điều đó, trước hết họ phải tự làm mới chính mình.Cùng
với quan niệm mới mẻ về hiện thực là một văn phong táo bạo, những sáng tác
đậm chất kì ảo xuất hiện ngày càng nhiều trong đời sống văn học hiện nay.
Yếu tố kì ảo cũng chính là một trong những gam màu chủ đạo làm nên bức
tranh đầy mê hoặc và lôi cuốn trong những sáng tác của nhà văn hiện đại.

Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái
2
Nguyễn Thị Mơ – Cao học Văn K55
Là một cây bút của văn học đương đại, Hồ Anh Thái cũng không nằm
ngoài quỹ đạo của sự tìm tòi đổi mới trên. Yếu tố kì ảo phủ lên văn chương
Hồ Anh Thái một bầu không khí siêu thực, hư ảo, huyền hồ vừa độc đáo vừa
quyến rũ. Đây cũng là một yếu tố quan trọng làm nên thành công cho những
sáng tác của ông. Xuất phát từ sự ấn tượng trước một văn phong mới lạ, độc
đáo của một nhà văn có tài, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Yếu tố kì ảo
trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái” làm đối tượng nghiên cứu với hi vọng đóng
góp một phần nhỏ vào việc tìm hiểu các sáng tác của Hồ Anh Thái. Chúng tôi
cũng hi vọng qua một hiện tượng cụ thể để có một cái nhìn toàn diện hơn về
văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay.
2. Lịch sử vấn đề
Hồ Anh Thái sinh ngày 18 tháng 10 năm 1960 tại Hà Nội, nguyên
quán Nghệ An, theo học bậc Đại học ngành Quan hệ Quốc tế. Sau khi tốt
nghiệp, ông tham gia viết báo và làm công tác ngoại giao ở nhiều quốc gia Âu
- Mỹ, đặc biệt là Ấn Độ. Hiện nay, ông là Tiến sĩ ngành Văn hóa phương
Đông, công tác tại Bộ Ngoại giao Việt Nam.
Hồ Anh Thái thành danh khá sớm. 17 tuổi, bước vào làng văn với truyện
ngắn Bụi phấn gây ấn tượng cho những người biên tập bởi sự từng trải, vốn
hiểu biết trong tác phẩm; 24 tuổi, đoạt giải thưởng văn xuôi 1983 - 1984 của
báo Văn nghệ với truyện ngắn Chàng trai ở bến đợi xe, 26 tuổi, nhận giải
thưởng văn xuôi 1986 – 1990 của Hội Nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết
Người và xe chạy dưới ánh trăng,… Tiểu thuyết Trong sương hồng hiện ra
(1987), Người đàn bà trên đảo (1988), tập truyện Mảnh vỡ của đàn ông
(1993),… là những tiếng vang ông tạo được tiếp liền sau đó. Từ năm 2000
cho đến nay, Hồ Anh Thái không ngừng làm mới mình bằng phong cách khác
so với quãng thời gian trước, và tiếp tục gây dư luận bằng rất nhiềutiểu
thuyết, tập truyện ngắn, tản văn: Tự sự 265 ngày (2001), Cõi người rung

Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái
3
Nguyễn Thị Mơ – Cao học Văn K55
chuông tận thế (2002), Bốn lối vào nhà cười (2004), Mười lẻ một đêm (2006),
Đức Phật, nàng Sivitri và tôi (2007), Namaskar! Xin chào Ấn Độ (2008),
Hướng nào Hà Nội cũng sông (2009), SBC là săn bắt chuột (2011), Dấu về
gió xóa (2012), Người bên này trời bên ấy (2013)…Hồ Anh Thái là một cây
bút khá “đều tay” và bút lực dồi dào với gần 30tiểu thuyết và tập truyện ngắn
đã xuất bản. Tác phẩm của ông, từ rất sớm, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và
giới thiệu bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, cả châu Á, châu Âu, châu Mỹ..., tái
hiện nhiều kiếp người, cảnh người trong nhiều thời điểm và tình huống để qua
đó nói lên cảm nhận sâu sắc về nhân sinh. Hơn nữa, Hồ Anh Thái là người có
nhiều tìm tòi, cách tân thể loại nhằm tạo sự phù hợp, hiệu quả theo cảm quan
của mình.
Sự xuất hiện của yếu tố kì ảo trong văn học Việt Nam từ sau năm 1975 nói
chung và trong những sáng tác của Hồ Anh Thái nói riêng đã thu hút được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, tuy vậy, vẫn chưa có nhiều công trình
chuyên khảo nào, mà chủ yếu rải rác trên các bài báo, tạp chí và một số Luận
án, Luận văn tốt nghiệp. Phần lớn các công trình đều tập trung chú ý đến vị
trí, vai trò của yếu tố kì ảo trong tổ chức nghệ thuật của tác phẩm cũng như
hiệu quả nhận thức và sức mạnh thẩm mĩ của nó.Trước hết là loạt ý kiến đề
cập về yếu tố kì ảo trong văn xuôi nước ta từ sau năm 1975. Những ý kiến
này tuy không trực tiếp nghiên cứu tác phẩm Hồ Anh Thái nhưng ít nhiều có
liên quan tới vấn đề mà chúng tôi khảo sát.
Trong bài viết Tìm hiểu các dạng truyện kì ảo trong văn học trung đại và
cận đại Đông Tây, nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi từ việc đi tìm “khái niệm
truyện kì ảo” trong văn học phương Tây đến “truyện kì ảo Trung Hoa” (chí
quái, truyền kỳ, chí dị), đã đặt ra mục tiêu “xác lập diện mạo “tryện truyền kì
trong văn học cổ cận đại Việt Nam” [16, tr.170].Ông đặc biệt chú ý đến văn
học Trung Quốc, bởi với tư cách là văn hóa kiến tạo vùng, văn học nói chung

Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái
4
Nguyễn Thị Mơ – Cao học Văn K55
và truyện kì ảo Trung Quốc nói riêng đã để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học
Viễn Đông và Việt Nam. Ông đã có lý khi cho rằng quan điểm tiếp cận các
dòng truyện kì ảo phương Tây sẽ “đóng góp cho ta những kinh nghiệm bổ ích
để tiếp cận và phân loại truyện kì ảo Việt Nam” [16, tr.172]. Tuy vậy, dung
lượng của một bài nghiên cứu đã không cho phép tác giả đủ điều kiện để hoàn
thành trọn vẹn mục tiêu đặt ra bởi trọng tâm của bài viết hầu như dành cho
việc vẽ lại lược đồ truyện kì ảo thế giới, truyện kì ảo Việt Nam với Nguyễn
Dữ, Thế Lữ, Đỗ Huy Nhiệm chỉ là những nét vẽ phác thảo. Dù sao, bài viết
cũng cung cấp cho chúng tôi những cứ liệu đáng quý để dựng lại và chỉ ra
những nét tương đồng và dị biệt của yếu tố kì ảo trong văn học Việt nam
đương đại đặt trong mối quan hệ với vă học kì ảo truyền thống cũng như
truyện kì ảo thế giới.
Cũng trong công trình Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học[16], TS.Vũ
Thanh có bài Dư ba truyện truyền kỳ, chí dị trong văn học Việt Nam hiện đại.
Tác giả đã tìm ra “dấu vết” của yếu tố “kì” trong văn học Việt Nam đầu thế
kỷ XX đến từ sự hợp lưu của hai dòng truyền thống và hiện đại, Đông và Tây,
và sự trở lại của nó sau năm 1975 ở các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp,
Phạm Thị Hoài. Nhà nghiên cứu đã tập trung tái hiện diện mạo truyện kì ảo
giai đoạn đầu thế kỉ còn giai đoạn sau này chưa được đầu tư tương xứng.
Trong bài viết khác, Những biến đổi của yếu tố kỳ và thực trong truyện
ngắn truyền kỳ Việt Nam, Vũ Thanh đã cho rằng: “Cái kì vốn là một phạm trù
của mỹ học Trung Hoa cổ, là đặc thù tư duy một giai đoạn lịch sử. Những tác
phẩm nổi tiếng nhất của văn học Viễn Đông đều chứa đựng trong nó những
yếu tố kì lạ” [72, tr.13]. Tác giả khẳng định yếu tố “kì” trong vai trò một
phương thức nghệ thuật: “Trong truyện truyền kì các tác giả sử dụng yếu tố kì
không phải chỉ với chức năng là vỏ bọc, che đậy dụng ý sâu xa của nhà văn
mà còn với tư cách là một bút pháp nghệ thuật mang tính đặc trưng của thể

